T R Ư Ơ N G H Ồ N G P H Ú C
N G À N H
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG HỒNG PHÚC KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ì
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ì
L U Ậ T H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự
K H Ó A
I
HÀ NỘI, năm 2020
X / 2 0 1 8
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG HỒNG PHÚC
KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi – Trương Hồng Phúc - xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn này là trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trương Hồng Phúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 8
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN
TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ ............................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ....................................................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ ...................................................................... 16
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ
ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC........................... 23
2.1. Quy định về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ ........................................................................................... 23
2.2. Tổng quan về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức ...................................... 34
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh .............................................. 48
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM
GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC .......... 62
3.1.Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến kiểm sát khám nghiệm hiện
trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ .................... 62
3.2. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành; phân công, bố trí cán bộ thực hiện hoạt
động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ.................................................................................................. 67
3.3. Nâng cao nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ và kiện toàn đội ngũ Kiểm sát viên
tại Viện kiểm sát nhân dân địa phương đảm bảo yêu cầu công tác .......................... 69
3.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ
hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ ............................................................................................ 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- BLHS : Bộ luật hình sự
- BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
- CQĐT : Cơ quan điều tra
- ĐTV : Điều tra viên
- HTVA : Hiện trường vụ án
- KNHT : Khám nghiệm hiện trường
- KSV : Kiểm sát viên
- Nxb : Nhà xuất bản
- TGGTĐB : Tham gia giao thông đường bộ
- TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
- TNGTĐB : Tai nạn giao thông đường bộ
- VAHS : Vụ án hình sự
- VKS : Viện kiểm sát
- VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
- Bảng 2.1: Số vụ TNGT có dấu hiệu tội phạm Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM (Năm
2015 – Năm 2019);
- Bảng 2.2: Số liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức,
TP.HCM (Năm 2015 – Năm 2019);
- Bảng 2.3: Kết quả kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM (Năm
2015 – Năm 2019);
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm sát KNHT là hoạt động thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các cấp
trong quá trình giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền trong KNHT. Hiệu quả của hoạt động này có ý nghĩa
quan trọng trong công tác giải quyết VAHS bởi thông qua hoạt động này VKSND sẽ
phát hiện những thiếu sót, vi phạm xảy ra trong khi tiến hành hoạt động điều tra tại
hiện trường để yêu cầu bổ sung, khắc phục, góp phần hạn chế oan, sai trong tố tụng
hình sự. Ý nghĩa quan trọng của hoạt động này càng được thể hiện rõ hơn trong thực
tiễn giải quyết các vụ án Vi phạm Quy định về TGGTĐB, một trong những loại án
xảy ra phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước. Bởi, với tính chất dễ bị xáo trộn của
hiện trường vụ án Vi phạm Quy định về TGGTĐB, những sai sót, hạn chế trong hoạt
động KNHT trước đó nếu không được phát hiện kịp thời sẽ rất khó khăn, thậm chí
không thể bổ sung, khắc phục được. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, gây kéo dài thời gian giải quyết nhiều vụ án
Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng ở nhiều địa phương trên cả nước, trong đó
có quận Thủ Đức, TP.HCM.
Nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc - TP.HCM, quận Thủ Đức có hệ thống
giao thông đường bộ khá đa dạng với nhiều tuyến đường quốc lộ, nội thị, phục vụ
nhu cầu đi lại, thông thương của nhân dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển mọi mặt
của địa phương. Bên cạnh những giá trị tích cực đó, thực tiễn 5 năm qua còn cho thấy,
Quận Thủ Đức là địa bàn có số vụ TNGT đường bộ khá nhiều, đáng chú ý là các vụ
TNGT đường bộ có hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng với khoảng 117 vụ/năm.
Những vụ TNGT này đều được tiếp nhận, giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định
bằng nhiều hoạt động khác nhau, trong đó không thể thiếu hoạt động KNHT và hoạt
động kiểm sát KNHT của cơ quan có thẩm quyền. Thống kê cho thấy, trong 5 năm
qua, Cơ quan điều tra và Cảnh sát giao thông Công an quận Thủ Đức đã khám nghiệm
1
tổng số 585 hiện trường vụ TNGTĐB có hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
trong đó có 60 vụ có quyết định khởi tố vụ án hình sự, tất cả đều là án Vi phạm quy
định về TGGTĐB. Việc KNHT các vụ, việc trên đều có sự tham gia kiểm sát KNHT
của VKSND quận Thủ Đức ngay từ ban đầu, đảm bảo hoạt động KNHT được thực
hiện một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác, góp phần giải quyết hiệu quả các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB xảy ra trên địa bàn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, có lúc, có nơi hoạt động kiểm sát KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB vẫn còn những hạn chế nhất định, xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả về nhận thức lý luận, pháp lý cũng như điều kiện
đặc thù của địa phương, đòi hỏi cần có những giải pháp phù hợp để nâng cao hơn nữa
chất lượng, hiệu quả của hoạt động này, từ đó góp phần vào việc giải quyết hiệu quả
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB xảy ra trên thực tế.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Kiểm sát khám nghiệm hiện
trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, từ thực tiễn quận
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh” một cách hệ thống, cả về mặt lý luận và thực tiễn,
đề xuất những giải pháp hữu ích góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt
động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, xảy ra trên địa bàn
quận Thủ Đức, TP.HCM và tại các địa phương khác trên cả nước là đáp ứng được
yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vi phạm quy định về TGGTĐB là tội phạm xảy ra phổ biến ở hầu hết các địa
phương và hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án về tội phạm này được VKSND các
cấp, đặc biệt là các VKSND cấp huyện thường xuyên thực hiện do phân cấp về thẩm
quyền. Chính vì thế, đây là đề tài được quan tâm nghiên cứu ở nhiều công trình, bài
viết khoa học điển hình như:
- Sách chuyên khảo:
+ “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra” do Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp phát hành vào năm 2008. Với
phạm vi nghiên cứu bao quát về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
2
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của VKSND các cấp, công trình này đã có
những nội dung phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của hoạt động kiểm sát KNHT
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung. Hoạt động kiểm sát KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng cũng như các loại án khác không được
nghiên cứu cụ thể.
+ “Sổ tay Kiểm sát viên hình sự -Tập 1”, được VKSNDTC phát hành năm
2006. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa
có ý nghĩa về mặt thực tiễn sâu sắc, là cẩm nang, là nguồn tài liệu có tác dụng tham
khảo trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói
riêng của Kiểm sát viên các cấp, trong đó bao gồm việc tiến hành hoạt động kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB. Ngoài những chỉ dẫn cách thức
tiến hành hoạt động kiểm sát HNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB một
cách khái quát, quyển sách này không phân tích, làm rõ kết quả, hạn chế của hoạt
động này trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự trong thực tiễn.
- Luận văn Luật học:
+ “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong hoạt động kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường bộ”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học của Bùi Thị Hồng Anh năm 2010. Luận văn đã nghiên cứu về mặt
lý luận và thực tiễn vai trò của VKSND trong hoạt động kiểm sát KNHT các vụ
TNGTĐB tại địa bàn thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường vai
trò của VKSND đối với hoạt động này trong thời gian tới.
+ “Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ
thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Tuyên, Học viện khoa
học xã hội năm 2018. Luận văn đã tập trung nghiên cứu công tác kiểm sát điều tra
các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của
VKSND ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 2013 đến năm 2017, đánh giá những kết quả đã đạt
được, nguyên nhân của những kết quả đã đạt được và những mặt còn tồn tại, hạn chế,
đề xuất giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
3
sát điều tra đối với loại tội phạm này ở tỉnh Lạng Sơn.
Trong hai Luận văn trên, những nội dung nghiên cứu về kiểm sát KNHT các
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB chưa thật sự sâu sắc và đầy đủ. Các quy định
pháp luật có liên quan về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cũng như quy trình nghiệp vụ
của KSV khi tiến hành hoạt động này trên thực tế chưa được làm rõ.
- Bài viết khoa học:
+ “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường
trong các vụ tai nạn giao thông” của tác giả Tạ Thanh Bình được đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 13 (7/2011). Thông qua việc phân tích, làm rõ những hạn chế, vướng
mắc và nguyên nhân trong thực tiễn kiểm sát KNHT trong các vụ tai nạn giao thông
đường bộ, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát KNHT đối với các vụ tai nạn giao thông đường bộ nói chung, bao gồm cả
các vụ án hình sự và các vụ việc không có quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- “Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành khám nghiệm hiện trường các vụ
tai nạn giao thông đường bộ xảy ra vào ban đêm” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn
đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 16/2017. Nội dung bài viết chia sẻ kinh nghiệm quý
báu khi tiến hành khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy
ra vào ban đêm mà không nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn
hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Như vậy, có thể thấy rằng, kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB đã được quan tâm nghiên cứu với những phạm vi và mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, hiện chưa có công trình, bài viết khoa học nào nghiên cứu khảo sát về thực
tiễn hoạt động kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn
quận Thủ Đức trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Chính vì thế, Luận văn
này không trùng lặp với bất kỳ công trình, bài viết khoa học nào khác đã được công
bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
4
hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài này là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như cơ sở pháp lý về hiện trường,
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB;
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý của công tác kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB;
- Khảo sát thực trạng, đánh giá hoạt động kiểm sát việc KNHT vụ án Vi phạm
Vi phạm quy định về TGGTĐB từ đó thấy được những ưu điểm, những mặt tích cực,
những vướng mắc, hạn chế để đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực trạng công tác kiểm sát
KNHT các vụ án về tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực trạng hoạt
động kiểm sát việc KNHT các vụ án về tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB (bao
gồm tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB quy định tại Điều 260 BLHS năm
2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS hiện hành) và tội phạm Vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại điều 202 Bộ
luật hình sự 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009) (Sau đây được gọi chung là tội
phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.)
- Về không gian: Địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học duy vật biện chứng Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà
5
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về công tác kiểm sát được
thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả sử dụngcác phương pháp nghiên cứu
cụ thể như sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ quá trình
nghiên cứu đề thực hiện các nhiệm vụ và đạt được mụcđích nghiêncứu đề ra.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình đối chiếu, so sánh số liệu
thực tiễn liên quan đến kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB để
đánh giá được tình hình có liên quan. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng
để dối sánh quy định của pháp luật có liên quan đến kiểm sát KNHT với việc thực
hiện hoạt động này trên thực tế để nhận định, đánh giá những kết quả, hạn chế trong
kiểm sát KNHT các vụ án này ở phạm vi thời gian, không gian nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm thống kê số lượng các vụ TNGT,
số liệu khởi tố vụ án, khởi tố bị can, số liệu kiểm sát KNHT các vụ án này và các số
liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn được sử dụng nhằm làm rõ thực trạng áp
dụng, đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân trong kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên
địa bàn thuộc phạm vi nghiên cứu để đưa ra các giải pháp phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:Kết quả nghiên cứu của Luận văn này góp phần hoàn thiện
lý luận về kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB BPTG.
- Ý nghĩa thực tiễn:Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể giúp cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền tham khảo để vận dụng vào việc xây dựng, áp dụng pháp luật về
kiểm sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng, cũng như cân nhắc, thực hiện những giải pháp được đề cập trong
Luận văn để góp phần nâng cao hiệu quả kiểm sát KNHT trong các vụ án này. Ngoài
ra, Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập và nghiên
6
cứu về kiểm sát KNHT.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung của Luận văn được trình bày bố cục trong ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về khám nghiệm hiện trường và kiểm sát
khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ;
Chương 2: Quy định về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ và thực tiễn trên địa bàn quận Thủ Đức;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát khám nghiệm
hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn
7
quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ
án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
1.1.1.1. Khái niệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Tham gia giao thông đường bộ là hoạt động thuộc về nhu cầu của đa số người
dân. Việc tuân thủ các quy định về tham gia giao thông không chỉ là đòi hỏi của Nhà
nước đối với mỗi cá nhân nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội mà còn góp phần hạn
chế những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra về người và tài sản. Theo đó, hành vi vi
phạm pháp luật về tham gia giao thông đường bộ tùy theo tính chất, mức độ nguy
hiểm sẽ bị áp dụng các biện pháp xử lý tương ứng. Trong trường hợp, hành vi đó thỏa
mãn các yếu tố cấu thành của tội phạm được quy định trong BLHS thì việc xử lý hành
vi đó phải thực hiện theo các quy định về tố tụng hình sự và hình sự hiện hành, cụ thể
là tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm
2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS hiện hành). Tội phạm này trước đây
được quy định quy định tại điều 202 Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi, bổ sung năm
2009 và Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 với tên gọi là tội Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Sự thay đổi tên tội danh từ tội “Vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” trong các BLHS trước đây
thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” trong BLHS hiện
hành là phù hợp với quy định của Luật giao thông đường bộ, đồng thời bao quát được
các loại chủ thể vi phạm quy định do Luật giao thông đường bộ điều chỉnh có thể trở
8
thành chủ thể của tội phạm này. Những chủ thể đó bao gồm: người điều khiển phương
tiện giao thông và những chủ thể TGGTĐB khác như: người sử dụng phương tiện
TGGTĐB; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ.
Tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB được hiểu là hành vi của người có
năng lực trách nhiệm hình sự, được thực hiện với lỗi vô ý, xâm phạm đến an toàn
giao thông và phải bị xử lý hình sự. Theo quy định của BLHS hiện hành, tội phạm Vi
phạm quy định về TGGTĐB có những yếu tố cấu thành cụ thể như sau:
- Khách thể của tội phạm này là an toàn công cộng trong lĩnh vực giao thông
đường bộ. Trật tự đó nhằm đảm bảo an toàn giao thông vận tải, đảm bảo cho hoạt
động vận tải đường bộ được thông suốt, được tiến hành bình thường, và bảo vệ an
toàn tính mạng, sức khỏe của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức
và tài sản của công dân.
- Mặt khách quan của tội phạm này bao gồm hành vi, hậu quả và mối quan hệ
nhân quả, cụ thể:
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ. Hành vi tham gia giao thông đường bộ bao gồm: Điều khiển,
sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; điều khiển, dẫn dắt súc vật; đi
bộ trên đường bộ. Hành vi đó vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
được quy định tại Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn của các cơ
quan có thẩm quyền.
Hậu quả: Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác.
Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm quy định về TGGTĐB là nguyên nhân
gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác.
- Chủ thể của tội phạm này là người tham gia giao thông đường bộ, bao
gồm: người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ;
người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ (Khoản 22 Điều 3 Luật
Giao thông đường bộ năm 2008). Người đó có khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi, từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục đích. Trong
9
đó, khi nghiên cứu về tội phạm quy định về TGGTĐB, yếu tố động cơ, mục đích
trong mặt chủ quan không được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Riêng yếu tố lỗi
của người phạm tội này được xác định là lỗi vô ý. Người phạm tội này có thể có lỗi
vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. Nói cách khác, người phạm tội tuy thấy trước
hành vi vi phạm quy định về TGGTĐB của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc
người phạm tội không thấy trước hành vi vi phạm quy định về TGGTĐB của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước
hậu quả đó.
Những phân tích nêu trên cho thấy, tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB
là một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS có những đặc điểm riêng phân biệt
với vi phạm pháp luật và các tội phạm khác.
Hiện trường trong vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng và hiện
trường VAHS nói chung chưa được quy định cụ thể trong BLTTHS. Tuy nhiên, trong
khoa học điều tra hình sự - ngành khoa học liên quan chặt chẽ với tố tụng hình sự -
đã xác định khái niệm về “hiện trường” như sau: “Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát
hiện vụ việc mang tính hình sự” [49, tr.56]. Nơi xảy ra vụ việc mang tính hình sự
được hiểu là không gian, địa điểm đã xảy ra hành vi của con người làm phương hại
đến khách thể được luật hình sự bảo vệ. Tại nơi đó tồn tại những dấu vết, vật chứng
quan trọng nếu được phát hiện, khai thác tốt sẽ là cơ sở để tái hiện toàn bộ vụ việc đã
xảy ra. Nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự được hiểu là không gian, địa điểm
phát hiện những dấu vết, vật chứng, tử thi… phản ánh có vụ việc mang tính hình sự
đã xảy ra. Dấu vết, vật chứng, thông tin tài liệu tồn tại ở nơi này phản ánh các đối
tượng vật chất tham gia trong quá trình xảy ra vụ việc nên có ý nghĩa đối với hoạt
động điều tra.
Ngoài ra, khoa học điều tra hình sự cũng xác định rõ: “Vụ việc mang tính hình
sự là khái niệm dùng để chỉ những vụ việc mà khi xảy ra đã xâm phạm đến những
khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Do đó, vụ việc mang tính hình sự xảy ra bao
hàm cả những vụ án, những vụ tai nạn, những vụ tệ nạn xã hội” [49, tr.223]. Nói cách
10
khác, trong vụ việc mang tính hình sự có thể có hoặc không có tội phạm xảy ra.
Như vậy, theo lý luận khoa học điều tra hình sự, hiện trường là nơi xảy ra, nơi
phát hiện những vụ việc xâm phạm đến những khách thể được Luật hình sự bảo vệ
mà chưa xác định được là có có tội phạm xảy ra trong vụ việc đó hay không. Tùy
từng trường hợp, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án hình sự đối với vụ việc đó thông qua việc phát hiện, thu giữ, đánh giá những dấu
vết, phản ánh tại hiện trường. Lý luận này phù hợp với trình tự tố tụng hình sự, đặc
biệt là trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi
tố và giai đoạn điều tra VAHS.
Dựa vào khái niệm hiện trường trong khoa học điều tra hình sự và trình tự tố
tụng giải quyết VAHS, có thể nhận thức được rằng: Hiện trường VAHS là nơi xảy ra,
nơi phát hiện vụ án hình sự. Theo đó, hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
được hiểu là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Tương tự như các sự việc, hiện tượng khách quan khác, một hành vi phạm tội
Vi phạm quy định về TGGTĐB xảy ra sẽ tạo ra sự tác động lẫn nhau giữa các đối
tượng vật chất tồn tại trong không gian, địa điểm cụ thể, làm xuất hiện những dạng
phản ánh vật chất mà khoa học điều tra gọi là dấu vết hình sự. Những dấu vết hình sự
đó có đặc điểm là: “xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, thể hiện đặc điểm của
chúng trên các vật chất khác, tồn tại ở dạng vật thể và các chất cụ thể, biến đổi vật
chất vốn có. Dù hình thức tồn tại nào, phản ánh vậy chất cũng có thể được con người
tri giác trực tiếp như cầm cắm, sờ, mó, cân, đong , đo, đếm, quan sát hình dạng, kích
thước, màu sắc...”[49, tr.223]. Do đó, để điều tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội
Vi phạm quy định về TGGTĐB, cơ quan và người có thẩm quyền không thể không
tiến hành các hoạt động điều tra tại hiện trường bởi mọi vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB đều có hiện trường và tại hiện trường của vụ án luôn tồn tại những phản
ánh vật chất có liên quan trực tiếp đến tội phạm và người phạm tội, đó là những dấu
vết hình sự.
Thực tiễn cho thấy, tại hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
thường xuất hiện các dấu vết hình sự như: Dấu vết phanh, dấu vết máu, dấu vết vân
11
lốp xe, các loại dấu vết khác như: mảnh vỡ, bùn đất, sơn, kính, gỉ sắt, chất lỏng, hàng
hoá, vật liệu, vết cày xước trên đường... Thông thường, dấu vết hình sự nói chung
xuất hiện ở nơi diễn ra hành vi của chủ thể tác động, bao gồm: Địa điểm chuân bị tội
phạm, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội và địa điểm che dấu tội phạm. Riêng đối
với dấu vết hình sự của tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB thì chỉ tồn tại ở nơi
tội phạm được thực hiện hoặc nơi che giấu tội phạm (nơi phát hiện tội phạm) bởi tội
phạm này không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Mỗi dấu vết hình sự đều chứa đựng những lượng thông tin nhất định phản ánh
diễn biến, bản chất của vụ án. Do đó, việc phát hiện, thu thập, đánh giá dấu vết hình
sự thông qua hoạt động điều tra tại hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
để phục vụ điều tra, làm rõ bản chất vụ việc là điều hết sức cần thiết.
1.1.1.2. Đặc điểm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Với bản chất là là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB, hiện trường trong các vụ án này có những đặc điểm sau:
- Hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là khoảng không gian, địa
điểm cụ thể, nơi đã diễn ra hành vi phạm tội Vi phạm quy định về TGGTĐB hoặc là
khoảng không gian, địa điểm cụ thể nơi đã phát hiện vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB.
Hiện trường nơi diễn ra hành vi phạm tội Vi phạm quy định về TGGTĐB là
khoảng không gian, địa điểm cụ thể trực tiếp diễn ra hành vi phạm tội và chịu sự tác
động của các đối tượng vật chất khác liên quan đến vụ án đó. Khoảng không gian, địa
điểm đó nằm trên trục đường giao thông đường bộ, có thể là đường quốc lộ, đường
tỉnh lộ, đường liên huyện hoặc liên xã…
Hiện trường nơi phát hiện vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là khoảng
không gian, địa điểm nơi phát hiện dấu vết, vật chứng, tử thi… phản ánh vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB đã xảy ra. Hiện trường đó có thể là nơi người phạm tội
thực hiện các hành vi che giấu tội phạm (che giấu tử thi, phương tiện giao thông của
12
người bị hại...), thường xảy ra trong trường hợp vụ án không có người làm chứng.
- Hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB chứa đựng hệ thống những
dấu vết, vật chứng liên quan đến vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB. Hệ thống dấu
vết, vật chứng này phản ánh đối tượng TGGTĐB và sự tác động của các đối tượng
này vào nhau và vào hiện trường.
- Hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB thường không nguyên vẹn
do các hoạt động cứu chữa người, tài sản và tác động của các yếu tố thời tiết, sự lưu
thông của người, động vật, các phương tiện giao thông khác...Vì thế, việc phát hiện,
lưu giữ dấu vết tại hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB gặp rất nhiều
khó khăn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
1.1.2.1. Khái niệm khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ
Mối quan hệ giữa dấu vết hình sự và hiện trường vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB như đã phân tích cho thấy rằng: KNHT là hoạt động điều tra quan trọng
được tiến hành trong tất cả các vụ án có hiện trường, đặc biệt là các vụ án Vi phạm
quy định về TGGTĐB. Các nghiên cứu về KNHT đều chỉ ra rằng: Bản chất của hoạt
động KNHT là một hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, do chủ thể có thẩm quyền
tiến hành nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện trường; phát hiện, thu thập, đánh
giá các dấu vết, vật chứng, các tin tức, tài liệu liên quan tại hiện trường phục vụ cho
điều tra, xử lý tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Thống nhất với nhận thức về KNHT nêu trên, kết hợp với những hiểu biết về
hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, tác giả cho rằng KNHT vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB được hiểu như sau:
Khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động
điều tra hình sự do chủ thể có thẩm quyền tiến hành trong quá trình giải quyết các
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện trường;
phát hiện, thu thập, đánh giá các dấu vết, vật chứng, các tin tức, tài liệu có liên quan
13
tại hiện trường, phục vụ cho việc khởi tố, điều tra tội phạm và người phạm tội.
1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
Là hoạt động điều tra được thực hiện trong quá trình giải quyết các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB, KNHT có những đặc điểm sau đây:
- Khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động
điều tra được thực hiện trên cơ sở quy định chung của BLTTHS và các văn bản quy
pháp phạm luật có liên quan về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động
KNHT nói chung.
Hoạt động KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nhằm phát hiện,
thu thập, nghiên cứu đánh giá các dấu vết, vật chứng cũng như những thông tin vật
chất khác có trên hiện trường, phục vụ cho công tác điều tra, khám phá vụ án và phát
hiện xử lý người phạm tội Vi phạm quy định về TGGTĐB. Thông qua dấu vết, vật
chứng để lại ở hiện trường, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành mã hóa thông tin
để xác định rõ: đối tượng đã vi phạm quy định nào về TGGTĐB, mức độ lỗi của các
bên (lỗi trực tiếp, hỗn hợp lỗi), nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội.
Các chứng cứ thu được từ dấu vết, vật chứng thu được tại hiện trường là một trong
những cơ sở quan trọng để quyết định việc Khởi tố vụ án hình sự Vi phạm quy định
về TGGTĐB, làm rõ tội phạm và người phạm tội. Những sai sót trong hoạt động
KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB thường rất khó khắc phục, vì tính đặc
thù của hiện trường các vụ án này rất dễ bị biến đổi, tác động bởi nhiều yếu tố khách
quan khác nhau. Những dấu vết, vật chứng bị bỏ sót, không thu thập được sẽ bị mất
mát hoặc biến dạng, phân hủy khó hoặc không thể phục hồi được, dẫn đến việc lập
kế hoạch điều tra, định hướng điều tra thiếu chuẩn xác, gây khó khăn cho hoạt động
điều tra tội phạm.
- Hoạt động KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB được tiến hành bởi
những chủ thể có thẩm quyền và có thể có sự tham dự của các chủ thể khác. Mỗi chủ
thể đó có vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn riêng, cụ thể như sau:
+ Chủ thể tham gia KNHT bao gồm: Người chủ trì, lực lượng cán bộ chuyên
14
môn, KSV, người chứng kiến và người tham dự (nếu cần thiết), cụ thể:
Người chủ trì KNHT là người có chức danh tư pháp (Điều tra viên) được cơ
quan có thẩm quyền (CQĐT) phân công, có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, điều hành
việc KNHT, chịu trách nhiệm chính về hoạt động KNHT.
Lực lượng cán bộ chuyên môn bao gồm: Cán bộ Kỹ thuật hình sự, Cảnh sát
giao thông… Những chủ thể này trực tiếp tiến hành các thao tác chuyên môn, nghiệp
vụ để phát hiện, thu thập các dấu vết, vật chứng tại hiện trường, phát hiện, thu thập
dấu vết, vật chứng; chụp ảnh hiện trường; vẽ sơ đồ hiện trường; lập biên bản khám
nghiệm hiện trường...
KSV của VKSND có thẩm quyền thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các chủ thể nêu trên trong quá trình KNHT.
Người chứng kiến việc KNHT là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động KNHT, có trách nhiệm xác nhận
nội dung, kết quả công việc mà người có thẩm quyền đã tiến hành trong khi mình có
mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Sự có mặt của
người chứng kiến trong khi KNHT là bắt buộc.
+ Chủ thể tham dự KNHT có thể là nhà chuyên môn, người phiên dịch, người
có liên quan đến vụ án như bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng. Những
người này tham dự việc khám nghiệm khi Cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy cần
thiết. Sự có mặt của những người này không phải là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo tính
hợp pháp cho hoạt động KNHT.
Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể tham gia KNHT được điều chỉnh
bởi BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến KNHT, trong đó
bao gồm các văn bản hướng dẫn về quy trình chuyên môn, nghiệp vụ trong KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB do các cơ quan hữu quan ban hành.
- Kết quả của hoạt động KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là
Biên bản KNHT.
Biên bản KNHT là tài liệu pháp lý, ghi nhận tình hình thực tế khách quan ở
hiện trường và kết quả KNHT bằng hình thức mô tả. Nội dung biên bản KNHT phải
15
đầy đủ, chính xác, khách quan và toàn diện, phù hợp với các tài liệu khác như sơ đồ
hiện trường, bản ảnh hiện trường, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu thu được tại
hiện trường. Biên bản KNHT được coi nguồn là chứng cứ chỉ khi được xác lập theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
- Các chứng cứ thu được từ hoạt động KNHT có thể giúp nhận định có hay
không dấu hiệu tội phạm, làm cơ sở ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án và
căn cứ để chứng minh tội phạm cho quá trình điều tra sau này.
Với bản chất cùng những đặc điểm nêu trên, có thể khẳng định rằng KNHT là
một trong những hoạt động điều tra quan trọng trong quá trình giải quyết từng vụ án.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định rằng: Hoạt động KNHT là
xuất phát điểm của mọi hoạt động điều tra, khám phá vụ án sau này. Với ý nghĩa đó,
Luật Tố tụng hình sự quy định trách nhiệm của CQĐT phải thông báo trước cho VKS
biết về việc khám nghiệm và trách nhiệm của KSV là phải có mặt tại nơi khám nghiệm
để kiểm sát việc KNHT nói chung và hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Khái niệm kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, với nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, VKSND thực hiện
hai chức năng Hiến định là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Mặc dù đây là hai chức năng riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ mật thiết và thống
nhất với nhau, cụ thể như sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để
16
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Trong khi đó, kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt
động của VKSND nhằm kiểm tra, giám sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp ở các lĩnh vực khác nhau, nhằm
đảm bảo hoạt động tư pháp được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ,
chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải
được phát hiện nhằm khắc phục và xử lý nghiêm minh. Trong lĩnh vực hình sự, VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân từ khi tiếp nhận tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
cho đến khi thi hành án hình sự
Có thể thấy rằng, kết quả giải quyết VAHS phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng,
hiệu quả của các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền,
đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Mọi hành vi, quyết định tố
tụng trái pháp luật, không được thực hiện, ban hành một cách thận trọng, kịp thời đều
có thể dẫn đến khả năng gây oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Nói cách khác, kết quả của các
hành vi, quyết định tố tụng chính là những điều kiện cho thực hành quyền công tố có
hiệu quả và ngược lại. Do đó, nếu hoạt động kiểm sát không kịp thời phát hiện những
vi phạm, thiếu sót trong hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
để kịp thời khắc phục thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát. Chính vì thế, trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, Viện kiểm sát không thể tách rời hoạt động thực hành quyền công tố với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách
độc lập mà hai chức năng đó phải thực hiện song trùng và có sự tác động tương hỗ
lẫn nhau, nhằm đảm bảo việc giải quyết VAHS được tiến hành một cách kịp thời,
đúng pháp luật. Điều này phù hợp với quy định tại Điều 20 BLTTHS, đó là: “Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi
hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải
17
được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.”.
Những nhận thức về kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố
cũng như mối quan hệ giữa hai chức năng, hoạt động của Viên kiểm sát nêu trên là
yếu tố quan trọng giúp nghiên cứu một cách sâu sắc hơn về bản chất hoạt động kiểm
sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ nói riêng. Theo đó, với vai trò là hoạt động điều tra được có quan,
người có thẩm quyền tiến hành trong quá trình giải quyết VAHS có hiện trường. Hoạt
động KNHT được kiểm sát bởi VKSND các cấp theo thẩm quyền. Hoạt động này
nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, góp phần đảm
bảo cho hoạt động KNHT được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ,
chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình KNHT phải được
phát hiện nhằm khắc phục và xử lý nghiêm minh. Hoạt động kiểm sát KNHT được
quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 201 BLTTHS hiện hành.
Từ nhận thức chung về hoạt động kiểm sát KNHT, có thể hiểu khái quát về
kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB như sau:
Kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động của VKSND
các cấp theo thẩm quyền nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, trong
đó VKSND sử dụng những quyền năng do pháp luật quy định để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB nhằm đảm bảo cho hoạt động KNHT được tiến
hành một cách kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong quá trình KNHT được phát hiện nhằm khắc phục và
xử lý nghiêm minh.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Là một hoạt động nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
quá trình giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, kiểm sát KNHT các
18
vụ án này có những đặc điểm sau:
- Kiểm sát việc KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động tố
tụng, đồng thời là hoạt động nghiệp vụ của VKSND các cấp nhằm thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB.
Là hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB, kiểm sát KNHT được quy định cụ thể trong BLTTHS về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục tiến hành. Hoạt động này là bắt buộc để đảm bảo tính hợp pháp của hoạt
động KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Là hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của VKSND các cấp, kiểm sát
KNHTđược thực hiện theo quy chế hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân
dân về các mặt: Chỉ đạo, điều hành, quy trình, xử lý vi phạm.
- Đối tượng của kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là
là việc tuân theo pháp luậtcủa các chủ thể tiến hành, tham gia, tham dự vào hoạt động
KNHT bao gồm: Thành viên Hội đồng khám nghiệm, người chứng kiến, người tham
dự KNHT, lực lượng bảo vệ hiện trường.
- Kiểm sát KNHT được xác định bởi phạm vi về thời gian và nội dung cụ thể:
Về thời gian, kiểm sát KNHT bắt đầu từ khi nhận được tin báo về vụ TNGT có dấu
hiệu của tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB xảy ra cần khám nghiệm đến khi
kết thúc việc khám nghiệm, hoàn thiện việc KNHT thông qua và ký biên bản khám
nghiệm của những người tiến hành và tham gia khám nghiệm. Về nội dung, kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là kiểm sát thành phần Hội đồng
KNHT, tư cách pháp lý của các thành viên trong Hội đồng KNHT, người chứng kiến,
người tham gia KNHT, việc thực hiện trình tự, thủ tục liên quan đến KNHT, việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể trong Hội đồng KNHT, những người
tham gia KNHT, lực lượng bảo vệ hiện trường; việc lập biên bản KNHT, hình thức
và nội dung biên bản KNHT.
- Kiểm sát việc KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB được tiến hành
19
đồng thời cùng với hoạt động KNHT ban đầu đối với các vụ TNGT có dấu hiệu của
tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB (ngay cả trước khi có Quyết định khởi tố
vụ án hình sự ) và hoạt động KNHT sau khi có Quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Mục đích của kiểm sát việc KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là
kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm trong hành vi, quyết định của các chủ thể
có thẩm quyền trong hoạt động KNHT để yêu cầu khắc phục kịp thời. Qua đó, hoạt
động này góp phần không để lọt tội phạm cũng như không làm oan sai, nâng cao hiệu
quả của công tác điều tra, phòng chống tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.
- Chủ thể trực tiếp tiến hành kiểm sát KNHT là KSV được phân công. Trong
quá trình tiến hành hoạt động này, KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể theo
quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên
quan. Quyền hạn của KSV trong kiểm sát KNHT phải được tôn trọng và thực hiện.
- Kiểm sát KNHT có ý nghĩa quan trọng, góp phần đảm bảo việc thực hiện vai
trò của VKSND trong quá trình giải quyết vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
Ý nghĩa quan trọng của kiểm sát KNHT trong các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa việc thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết VAHS
của VKSND, cụ thể là: VKSND các cấp thực hiện hai chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết VAHS nói chung và
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng trên cơ sở những nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể ở từng giai đoạn tố tụng theo quy định pháp luật. Đặc biệt, ở giai đoạn
khởi tố, điều tra VAHS, việc thực hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND thể hiện vai trò quan trọng, xuyên suốt quá
trình giải quyết VAHS. Việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
ở giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS nói chung và kiểm sát KNHT nói riêng thuộc hai
phạm trù khác nhưng Việc thực hiện hai chức năng này trong quá trình giải quyết
VAHS có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều nằm trong một thể thống nhất biện
chứng, đan xen nhau, có tác dụng hỗ trợ tác động qua lại lẫn nhau, đảm bảo việc thực
hiện vai trò của VKSND trong từng giai đoạn giải quyết VAHS cụ thể. Mục đích của
20
hoạt động thực hành quyền công tố là nhằm chứng minh tội phạm và xác định người
phạm tội; mục đích của hoạt động kiểm sát là bảo đảm các hoạt động tư pháp trong
quá trình giải quyết VAHS được đầy đủ, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp có hiệu quả sẽ là điều kiện để bảo đảm cho hoạt động
thực hành quyền công tố của VKS được đúng đắn và ngược lại.
Là một trong những hoạt động nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, hoạt
động kiểm sát KNHT cũng có mối quan hệ biện chứng với việc thực hiện chức năng
công tác thực hành quyền công tố của VKSND các cấp trong quá trình giải quyết các
vụ án cụ thể. Theo đó, nếu hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB được thực hiện tốt, kịp thời phát hiện các hành vi, quyết định vi phạm pháp
luật của cơ quan, cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động KNHT để yêu cầu khắc
phục, sửa chữa. Nếu KSV không kiểm sát chặt chẽ quá trình KNHT dễ dẫn đến hậu
quả như: không phát hiện và xử lý kịp thời những sai lầm, những vi phạm tố tụng của
CQĐT; việc thu thập những dấu vết, vật chứng của vụ án không được bảo đảm một
cách đầy đủ toàn diện, khách quan hoặc những dấu vết, vật chứng đã được phát hiện
nhưng không được thu thập, bảo quản theo các quy trình, quy định của pháp luật dẫn
đến công tác điều tra, khám phá vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả. Ngoài
ra, trong quá trình kiểm sát KNHT, nếu phát hiện những dấu vết, vật chứng quan
trọng chưa được phát hiện, thu thập thì KSV có quyền đề ra yêu cầu đối với Điều tra
viên chủ trì cuộc khám nghiệm đó. Yêu cầu của KSV trong trường hợp này được coi
là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra VAHS theo quy định tại Khoản 6 Điều 165 BLTTHS hiện
hành. Kết quả KNHT thể hiện trong Biên bản KNHT là một trong những cơ sở đánh
giá chứng cứ quan trọng mà dựa vào đó VKSND thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đối với việc giải quyết vụ án
hình sự được quy định tại Điều 165 BLTTHS.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB là hoạt động có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo được vai trò của VKSND
21
trong quá trình giải quyết vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, góp phần hoàn thành
nhiệm vụ của VKSND đó là: Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm
giam, bị hạn chế quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự do, danh dự
và nhân phẩm một cách trái pháp luật; không để lọt tội phạm và không làm oan người
vô tội, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải đúng pháp luật
và có căn cứ, việc giải quyết VAHS được tiến hành một cách khách quan, toàn diện,
chính xác và đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết
VAHS được phát hiện và khắc phục kịp thời.
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 của Luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận liên quan
đến hoạt động kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB bao gồm: Khái
niệm, đặc điểm của hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB; Khái niệm,
đặc điểm KNHT vụ án VPQĐ về TGGTĐB; khái niệm, đặc điểm kiểm sát KNHT vụ
án VPQĐ về TGGTĐB. Những kết quả nghiên cứu trên là nền tảng lý luận để Luận
văn có thể thựcc hiện nhiệm vụ tiếp theo trong công trình khoa học này, đó là nghiên
cứu về các Quy định về kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB và
22
thực tiễn trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy định về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
Hoạt động kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng và
hoạt động kiểm sát KNHT các VAHS nói chung được điều chỉnh bởi BLTTHS, Luật
Tổ chức VKSND năm 2014 và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ có liên
quan đến công tác kiểm sát KNHT của ngành Kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, để đảm
bảo hiệu quả của công tác này, tùy theo điều kiện đặc thù của từng địa phương mà
các cơ quan có thẩm quyền ở từng địa phương có thể ban hành những văn bản liên
ngành thống nhất về quan hệ phối hợp trong việc thực hiện hoạt động này trên thực
tiễn. Theo đó, kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB được quy định
cụ thể như sau:
2.1.1. Quy định về trách nhiệm và phân cấp thẩm quyền kiểm sát khám nghiệm
hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS, trong quá trình giải quyết VAHS nói
chung và vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân có
trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự, cụ thể: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp
luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi
phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
23
Theo đó, VKSND có trách nhiệm kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB, kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong KNHT, góp phần bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội,
không làm oan người vô tội.
Căn cứ vào quy định của BLTTHS hiện hành thì thẩm quyền kiểm sát KNHT
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB của VKSND các cấp được xác định theo thẩm
quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và phân cấp thẩm quyền theo lãnh
thổ được quy định trong BLTTHS. Cụ thể, theo quy định tại Điều 239 và Điều 268,
269, Điều 272 BLTTHS hiện hành, thẩm quyền kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy
định về TGGTĐB của VKSND các cấp được xác định như sau:
VKSND cấp huyện có thẩm quyền kiểm sát KNHT những vụ án Vi phạm quy
định về TGGTĐB mà tội phạm trong vụ án là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và
rất nghiêm trọng (tương ứng với cấu thành tội phạm được quy định tại Khoản 1, 2,3
Điều 260 BLHS hiện hành), trừ những trường hợp thuộc thẩm quyền của VKSND
cấp tỉnh. Đó là các trường hợp cụ thể sau: Vụ án có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước
ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; vụ án hình sự có nhiều tình
tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều
cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, KSV, ĐTV, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
Ngoài ra, thẩm quyền kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB của các VKS quân sự còn được xác định theo các quy định của BLTTHS
liên quan đến thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của VKS quân
sự các cấp theo quy định tại Điều 239, 272 BLTTHS hiện hành. Cụ thể, thẩm quyền
kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB được xác định căn cứ địa
bàn thiết quân luật nơi xảy ra tội phạm và trong trường hợp vụ án mà bị cáo là quân
nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong
24
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân,
tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân
trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp
đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân; vụ án mà liên quan đến bí mật quân sự
hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại
ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian
tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại
đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại
quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi kiểm sát khám nghiệm hiện
trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Là một hoạt động nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
quá trình giải quyết vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB ở giai đoạn khởi tố, điều
tra, VKSND các cấp thực hiện việc kiểm sát KNHT thông qua hoạt động nghiệp vụ
của KSV được phân công.
Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 42 BLTTHS hiện hành, khi được
phân công nhiệm vụ, KSV phải “trực tiếp kiểm sát khám nghiệm hiện trường”. Quy
định này được hiểu là, KSV nào được sự phân công của lãnh đạo VKS thì phải tự
mình thực hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn
theo quy định pháp luật mà không được ủy quyền cho người khác làm thay.
Để đảm bảo hành lang pháp lý đảm bảo sự tôn trọng của các chủ thế khác đối
với hoạt động kiểm sát KNHT của KSV, đồng thời đảm bảo trách nhiệm của KSV
trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, đảm bảo hoạt động KNHT được tiến hành
một cách kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật, pháp
luật quy định KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong KNHT nói chung
và trong KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Những nhiệm
vụ, quyền hạn này được xác định trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các
cấp khi giải quyết vụ án hình sự theo thẩm quyền.
Căn cứ quy định tại Điều 166 BLTTHS và Điều 4, Điều 15 Luật Tổ chức
25
VKSND năm 2014 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát điều tra vụ án
hình sự, khi được phân công kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB, KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc KNHT về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục KNHT.
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này, KSV tiến hành kiểm sát tư cách pháp lý
của các chủ thể tiến hành KNHT trên cơ sở Quyết định thành lập Hội đồng khám
nghiệm, bảo đảm những người tham gia KNHT có tư cách pháp lý và đầy đủ thành
phần theo quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong
quá trình khám nghiệm hiện trường, KSV phải theo dõi sát các thao tác KNHT của
ĐTV và các thành viên của Hội đồng khám nghiệm để yêu cầu thực hiện đúng thủ
tục tố tụng, phương pháp khám nghiệm trong việc vẽ sơ đồ, chụp ảnh, mô tả hiện
trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ
vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, những đồ vật mẫu vật tài liệu cần thu giữ, bảo
quản nguyên trạng để phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ. KSV
kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản KNHT và các tài liệu liên quan
khác so với thực tế hiện trường, diễn biến quá trình KNHT, để bảo đảm chính xác,
khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, KSV còn kiểm
sát tính hợp pháp của các biên bản KNHT về biểu mẫu, các nội dung được ghi nhận
trong biên bản KNHT, sơ đồ hiện trường và các biên bản thu giữ, đồ vật tài liệu tại
hiện trường, việc ký tên của các chủ thể tham gia KNHT theo yêu cầu tố tụng; kiểm
sát tính hợp pháp của việc niêm phong, thu giữ dấu vết, vật chứng tại hiện trường.
- Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng trong quá
trình KNHT; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý
nghiêm minh người chứng kiến khi có vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
Trong quá trình tiến hành hoạt động KNHT, ngoài các chủ thể là Điều tra viên
– chủ trì khám nghiệm, lực lượng tham gia khám nghiệm thì hoạt động KNHT còn
có sự tham gia bắt buộc của người chứng kiến và có thể có sự tham gia của bị can,
người bào chữa, bị hại, người làm chứng, người có chuyên môn. Theo đó, trong phạm
26
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ
thể này trong quá trình khám nghiệm đảm bảo tư cách pháp lý và việc thực hiện quyền
và nhiệm vụ của họ tương ứng với quy định pháp luật. Trong trường hợp phát hiện vi
phạm pháp luật trong hoạt động KNHT của những người này thì KSV có quyền yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có biện pháp xử lý nghiêm
minh đối với những người tham gia tố tụng có vi phạm trong hoạt động KNHT.
- Yêu cầu CQĐT cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc cần KNHT
để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc KNHT khi cần thiết.
- Khi phát hiện việc KNHT có vi phạm pháp luật thì yêu cầu Cơ quan điều tra,
thực hiện các hoạt động: Tiến hành hoạt động KNHT đúng pháp luật; Kiểm tra việc
điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; Cung cấp tài liệu liên quan đến hành
vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc KNHT.
- Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong KNHT.
- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh
Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
- Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc kiểm sát điều tra vụ án hình
sự theo quy định của BLTTHS.
Để đảm bảo việc thực hiện vai trò của VKSND trong việc giải quyết đối với
từng vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB cụ thể, ngoài việc thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn thuộc về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nêu trên, trong quá
trình kiểm sát KNHT nếu KSV phát hiện những sai, sót của các thành viên tham gia
KNHT hoặc những dấu vết, vật chứng quan trọng chưa được phát hiện, thu thập trong
quá trình kiểm sát KNHT, KSV căn cứ quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định tại
Điều 165 BLTTHS hiện hành để thực hiện các hoạt động: Yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều
tra thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật hoặc dữ liệu điện tử có
27
liên quan đến vụ việc khám nghiệm; lập biên bản KNHT, vẽ sơ đồ hiện trường theo
quy định của pháp luật; Đề ra các yêu cầu cho ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên
môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y thu thập, làm rõ các
dấu vết thương tích, giải phẫu tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận về
nguyên nhân chết của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công tác truy nguyên hình sự
và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án không quả tang; Yêu cầu ĐTV, cán
bộ điều tra, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên
pháp y xác định chính xác phạm vi hiện trường, hiện trường còn nguyên vẹn hay đã
bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và công cụ, phương tiện phạm
tội. Phát hiện, mô tả, thu thập đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu vết liên quan
đến tội phạm và người phạm tội tại hiện trường. Trong trường hợp cần thiết, KSV có
thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc KNHT.
2.1.3. Quy định nghiệp vụ của ngành Kiểm sát về kiểm sát khám nghiệm hiện
trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Để thống nhất thực hiện hoạt động kiểm sát KNHT các VAHS nói chung và
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, Viện trưởng VKSND đã ban
hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về công tác kiểm sát KNHT như: Quy chế về
công tác kiểm sát KNHT, kiểm sát khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, việc
tiến hành giám định (Ban hành kèm theo Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ngày
17/10/2014. Sau đây gọi tắt là Quy chế 421); Quy chế tạm thời về công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực
hiện điều tra và giám định (Ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày
02 tháng 5 năm 2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Các văn bản
này quy định rõ về các vấn đề về phạm vi, mục đích công tác kiểm sát KNHT; nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV khi kiểm sát việc KNHT; việc tiếp nhận, xử
lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến KNHT; thẩm quyền thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT; trách nhiệm của VKS khi kiểm sát việc
KNHT; Nhiệm vụ của KSV trước, trong và khi kết thúc KNHT; pháthiện và xử lý vi
phạm trong KNHT, cụ thể như sau:
28
Một là, khi nhận được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo VKS phải cử KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT
đối với tất cả các vụ việc mà cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành khám nghiệm
theo quy định của pháp luật.
Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ TNGT gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng,
các vụ án mà người phạm tội là nhân sỹ trí thức, các chức sắc tôn giáo, người có uy
tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm
hoặc các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS
phải trực tiếp cùng KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT. Trường hợp
cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS cấp dưới đề nghị VKS cấp trên
phân công KSV cùng tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT.
Hai là, trước khi KNHT, KSV phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu ĐTV, cán
bộ Điều tra thông báo nội dung, diễn biến ban đầu của sự việc xảy ra để tham gia ý
kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm; chủ động yêu cầu ĐTV,cán bộ Điều tra tiến
hành KNHT, bảo đảm đúng quy định pháp luật.
Ba là, trong quá trình KNHT, KSV phải phối hợp với ĐTV, cán bộ Điều tra,
người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự KNHT, bảo đảm
khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. KSV kiểm sát việc lấy lời khai những người
biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc đối
tượng có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, KSV phải yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều
tra lấy ngay lời khai và ghi âm lời khai của họ.
KSV phải chủ động nắm tình hình về hiện trường qua thông báo của ĐTV, cán
bộ điều tra, thông tin do người dân xung quanh khu vực hiện trường cung cấp; hoặc
tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để đánh giá tình trạng hiện trường còn nguyên
vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy do các yếu tố con người,
thời tiết, động vật qua lại hoặc các yếu tố khách quan khác; xác định phạm vi cần
khám nghiệm và những loại dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần
được xem xét, thu giữ để yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra thực hiện.
Trong quá trình kiểm sát KNHT, KSV phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động
29
khám nghiệm, yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn thực hiện đúng
trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện
trường theo quy định của pháp luật; yêu cầu biên bản KNHT phải được lập, sơ đồ
hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.KSV phải ghi chép đầy đủ, chính
xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài
liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm tra với biên bản
và sơ đồ KNHT. Trường hợp cần thiết, KSV có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô
tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy
lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết
việc. Các tài liệu này được lưu vào hồ sơ kiểm sát. KSV đề ra yêu cầu khám nghiệm
trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật hình thành dấu vết để có thể phát hiện, xác
định được loại dấu vết; dấu vết hình thành đúng hay trái với quy luật thông thường,
sự mâu thuẫn giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử để kịp thời
yêu cầu thu thập đầy đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng các dấu vết hoặc làm
thay đổi tình trạng hiện trường. Xác định có hay không việc tạo hiện trường giả sau
khi gây án. KSV phối hợp với ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn phân tích,
đánh giá các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại
hiện trường để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu
giữ dấu vết được đầy đủ, chính xác, phục vụ công tác truy tìm vật chứng, truy bắt
người thực hiện hành vi phạm tội.
Nếu thấy việc KNHT chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 BLTTHS
thì KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục.
Trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì KSV yêu cầu ghi ý kiến
của KSV vào biên bản khám nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS.
Những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ phải được
bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong theo quy định của pháp luật, bảo đảm
phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ giải quyết vụ án. KSV phối hợp
cùng ĐTV, cán bộ Điều tra phân tích, đánh giá đúng kết quả KNHT; xem xét quyết
định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm
30
bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ
liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho
công tác điều tra, giải quyết vụ án.
KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra quán triệt những người tham gia KNHT
giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối không được tiết lộ, gây khó khăn cho
công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Bốn là, sau khi kết thúc việc KNHT, KSV phải ghi thông tin vào sổ thụ lý
khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm với lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo VKS về kết quả KNHT, những yêu cầu của KSV không được
ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
(nếu có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến chỉ đạo.
KSV phải dự thảo ngay báo cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
gửi VKS cấp trên theo quy định của ngành Kiểm sát nhân dân.
Năm là, KSV phải kịp thời phát hiện, mở sổ theo dõi, tổng hợp vi phạm pháp
luật trong hoạt động KNHT của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, ĐTV, cán bộ điều
tra để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS yêu cầu Thủ trưởng,
Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra xử lý nghiêm minh cán bộ vi phạm pháp
luật. Nếu vi phạm có dấu hiệu tội phạm, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS yêu cầu Cơ
quan có thẩm quyền điều tra khởi tố VAHS; nếu có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp thì báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao, lãnh đạo VKS quân sự trung ương
để chỉ đạo CQĐTVKSND tối cao, CQĐTVKS quân sự trung ương xem xét, giải quyết
theo thẩm quyền.
Quá trình kiểm sát việc KNHT, KSV có trách nhiệm tổng hợp các vi phạm
pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thuộc Cơ quan có thẩm quyền điều tra và người tham gia tố tụng, báo cáo, đề xuất
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS ra văn bản kiến nghị, yêu cầu khắc phục theo quy định
của BLTTHS.
2.1.4. Quy định về mối quan hệ phối hợp trong hoạt động kiểm sát khám
nghiệm hiện vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
31
Quá trình trao đổi thông tin và tiến hành các công việc thuộc chức trách, nhiệm
vụ của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung
và trong KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng luôn làm phát sinh
mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể có thẩm quyền và có liên quan. Việc ban hành
quy định cụ thể làm hành lang pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ này là cần thiết để
đảm bảo tính hiệu quả cho hoạt động KNHT cũng như hoạt động kiểm sát KNHT.
Trong ngành Kiểm sát nhân dân, để thống nhất trách nhiệm cũng như mối
quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, cá nhân khi kiểm sát việc KNHT nói chung và
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, Điều 10 Quy chế nghiệp
vụ ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 5 năm 2018 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định rõ: Trong trường hợp vụ việc
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu, khi có yêu cầu thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện,
Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có dấu vết tội phạm có
trách nhiệm phân công KSV phối hợp, tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường. Theo đó, đối với các vụ TNGT có hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng xảy ra hoặc vụ TNGT phức tạp, người gây tai nạn là nhân sỹ trí thức,
các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được
dư luận xã hội đặc biệt quan tâm hoặc các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết thì
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS phải trực tiếp cùng KSV thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc KNHT. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS
cấp dưới đề nghị VKS cấp trên phân công KSV cùng tham gia thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc KNHT.
Đối với ngành Công an, căn cứ vào quy định của BLTTHS, Bộ Công an đã
ban hành Thông tư số 76/TT-BCA ngày 22/11/2011 quy định trách nhiệm của từng
lực lượng đối với hoạt động giải quyết các vụ TNGT trong đó quy định Cảnh sát giao
thông, Cơ quan điều tra có trách nhiệm phối hợp với VKS trong việc giải quyết các
vụ TNGT đường bộ nói chung và các vụ việc có dấu hiệu của tội phạm Vi phạm quy
định về TGGTĐB nói riêng, cụ thể:
32
Đối với vụ việc có người chết tại hiện trường: CQĐT cấp huyện nơi xảy ra vụ
tai nạn có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Cảnh sát giao thông có mặt ngay tại hiện
trường để tiến hành điều tra, giải quyết vụ TNGT có người chết tại hiện trường; các
vụ TNGT gây hậu quả từ nghiêm trọng trở lên; thông báo cho VKSND cùng cấp để
kiểm sát việc điều tra theo quy định của pháp luật, trong đó có hoạt động kiểm sát
KNHT. Quy định này được áp dụng trong giai đoạn giải quyết ban đầu với các vụ
TNGTcó người chết, trong đó có những vụ, việc có thể có hoặc không có dấu hiệu
tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Đối với vụ việc không có người chết: Lực lượng CSGT địa bàn nơi xảy ra
vụviệc có trách nhiệm tiến hành KNHT, khám nghiệm phương tiện, lấy lời khai người
điều khiển phương tiện, người làm chứng, thu thập tài liệu có liên quan về vụ tai nạn
giao thông. Trong quá trình giải quyết nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì lực
lượng Cảnh sát giao thông chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công
an cấp huyện thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Như vậy, có thể thấy rằng trách nhiệm của các lực lượng trong Công an nhân
dân đối với việc giải quyết ban đầu đối với các vụ TNGTnói chung và các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB nói riêng là rất quan trọng. Trong đó, ở những phạm vi,
mức độ nhất định, lực lượng Cảnh sát giao thông, CQĐT cấp huyện với VKSND cùng
cấp có mối quan hệ phối hợp nhất định trong KNHT các vụ TNGTnói chung và trong
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Mối quan hệ phối hợp đó
được thể hiện qua các hoạt động cụ thể như: Lực lượng cảnh sát giao thông bảo vệ
hiện trường không để xảy ra xáo trộn cho đến khi việc KNHT, kiểm sát KNHT được
tiến hành; CQĐT Công an cấp huyện thực hiện việc “thông báo cho VKSND cùng
cấp biết” để VKS cấp huyện kịp thời có mặt để kiểm sát KNHT...
Ngoài ra, giữa liên ngành các cơ quan Bộ Công an, VKSND tối cao... cũng
thống nhất ban hành quy định về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong giải
quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói
riêng, trong đó Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP
ngày 19/10/2018 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và viện kiểm sát trong việc thực
33
hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nêu rõ: “1... Kiểm sát viên có thể đề
ra yêu cầu điều tra bằng lời nói trong quá trình trực tiếp kiểm sát các hoạt động khám
nghiệm hiện trường,... 2. Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công điều tra vụ
án phải thực hiện yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết, Điều tra
viên, Cán bộ điều tra có thể trao đổi với Kiểm sát viên để làm rõ những nội dung của
yêu cầu điều tra. Trường hợp có nội dung yêu cầu điều tra mà Điều tra viên, Cán bộ
điều tra không nhất trí, thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra báo cáo Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát để thống nhất về nội dung yêu cầu điều tra. Trường hợp CQĐT không
thực hiện yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát hoặc đã tiến hành các hoạt động điều
tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được yêu cầu điều tra của
Viện kiểm sát thì CQĐT phải nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra.”
Theo các quy định trên thì trong quá trình kiểm sát KNHT, KSV có quyền đề
ra yêu cầu đối với ĐTV trong việc thu thập các dấu vết, vật chứng hoặc yêu cầu ĐTV
yêu cầu các thành viên tham gia KNHT khắc phục ngay những sai sót xảy ra trong
quá trình khám nghiệm.
Những quy định nêu trên là căn cứ pháp lý để các cơ quan, lực lượng, người
có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết, đồng thời là căn cứ để các chủ thể
thực hiện hoạt động phối hợp trong quá trình KNHT. Có thể nói, việc thực hiện tốt
mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng, cơ quan này góp phần quan trọng vào kết
quả hoạt động KNHT, hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án hình sự nói chung và các
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng của VKSND các cấp ở các địa phương
trong đó có quận Thủ Đức, TP.HCM.
2.2. Tổng quan về kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Tình hình tội phạm Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
Ở cửa ngõ phía Đông Bắc của TP.HCM, địa bàn quận Thủ Đức có nhiều tuyến
đường huyết mạch như quốc lộ 13, quốc lộ 1K, Xa lộ Hà Nội và nhiều tuyến đường
34
nội thị đáp ứng nhu cầu thông thương, đi lại của nhân dân, góp phần quan trọng trong
vấn đề an sinh xã hội và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Trong xu
thế phát triển đó, hệ thống hạ tầng giao thông vận tải của quận Thủ Đức ngày càng
có nhiều chuyển biến tích cực với nhiều tuyến đường giao thông, cầu vượt được xây
dựng, tu bổ, lưu lượng phương tiện và người tham gia giao thông tăng cao. Tuy nhiên,
đi đôi với sự phát triển hoạt động giao thông vận tải thì tình hình TNGT đường bộ
trên địa bàn quận Thủ Đức trong thời gian gần đây tuy có giảm về số vụ nhưng vẫn
có chiều hướng diễn biến phức tạp. Số người chết và bị thương vẫn ở mức cao, ảnh
hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Số liệu thống kê của Cơ quan điều tra Công an Quận Thủ Đức cho thấy, trong
thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, cơ quan này đã thụ lý tổng số 585 vụ TNGT
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng đã xảy ra trên địa bàn trong đó có 91 vụ có người chết
và 494 vụ gây tổn hại đến sức khỏe của người khác từ 31% trở lên hoặc gây thiệt hại
về tài sản có giá trị từ 70 triệu trở lên, có 60 trường hợp có Quyết định khởi tố VAHS
để điều tra, làm rõ. Các số liệu thống kê cụ thể về các vụ TNGTĐB xảy ra trên địa
bàn quận Thủ Đức, TP.HCM có dấu hiệu của tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB
trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 được thể hiện tại Bảng phụ lục dưới đây:
Thời gian
Bảng 2.1. Số vụ tai nạn giao thông có dấu hiệu tội phạm Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM (Năm 2015 - Năm 2019) Tỷ lệ số vụ Số vụ TNGT có TNGT có QĐKT/tổng Quyết định số vụ TNGT khởi tố về hậu quả tội xâm nghiêm trọng phạm an trở lên toàn GTĐB 8,8% 11 10,5% 14 9,6% 10 7,4% 7 14,3% 18 10,26% 60 Số vụ TNGT hậu quả nghiêm trọng trở lên/ Số vụ TNGT có người chết tại hiện trường 125/ 23 133/ 10 104/ 12 94/ 20 129/ 26 585/91 Tỷ lệ số vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB/ tổng số vụ án GTĐB 100% 100% 100% 100% 100% 100% Số QĐKT vụ án về tội Vi phạm Quy định về TGGTĐB 11 14 10 7 18 60
35
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nguồn: Công an Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
Số liệu thống kê nêu trên cho thấy: Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019, số vụ TNGT có hậu quả nghiêm trọng trở lên xảy ra trên địa bàn quận Thủ Đức
TNGT được cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hàng năm khá cao,
chiếm tỷ lệ từ 7,4% đến 14,3% tổng số; trong đó 100% số vụ khởi tố về tội Vi phạm
quy định về TGGTĐB. Như vậy, tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB là tội phạm
chiếm ưu thế tuyệt đối trong nhóm tội phạm về tội xâm phạm an toàn GTĐB trên địa
bàn quận Thủ Đức.
Để đánh giá chính xác hơn tính hình tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB
trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM, Luận văn đã nghiên cứu một vài số liệu khác
có liên quan, cụ thể:
Theo báo cáo tổng kết của Công an quận Thủ Đức, số khởi tố vụ án, khởi tố
bị can về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận
Thủ Đức, TP.HCM trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 cụ thể như sau:
Bảng 2.2. Số liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM (Năm 2015 - Năm 2019)
Năm Tổng số vụ án/bị can
Án trật tự - an toàn xã hội
Án vi phạm quy định về TGGT ĐB
Tỷ lệ tăng/giảm số vụ án/bị can phạm tội Vi quy phạm định về TGGTĐB hàng năm 100% Tỷ lệ (%) án Vi phạm quy định về TGGTĐB so với án trật tự- an toàn xã hội 6,7%/4,5% Tỷ lệ (%) Vi án phạm quy định về TGGTĐB so với tổng số vụ án/bị can 1,9%/1,9% 2015 593/582 165/242 11/11
2016 609/684 143/266 14/14 127,3% 9,8%/5,3% 2,3%/2,0%
2017 507/392 127/157 10/10 90,9% 7,9%/6,7% 2,0%/2,6%
2018 512/445 123/211 7/7 63,6% 5,7%/3,3% 1,4%/1,6%
138/216 18/18 163,6% 13,0%/8,3% 3,6%/4,0%
2019 506/447 Nguồn: Công an Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
36
Với số vụ án và số bị can bị xét xử về tội Vi phạm quy định về TGGTĐB năm
2015 là 100% (11 bị cáo/11 vụ) thì có thể thấy số vụ án và số bị can bị khởi tố về tội
phạm này có diễn biến như sau: Số vụ án có sự tăng, giảm hằng năm không đều, trong
đó năm 2017 là năm có số vụ án và số bị cáo phạm tội này thấp nhất với (7 bị cáo/7vụ
chiếm tỷ lệ 63,6% số vụ, số bị cáo; năm 2019 có số vụ án nhiều nhất 18 bị cáo/18 vụ
chiếm tỷ lệ 163,6%. Có sự gia tăng đột biến về số vụ án và bị cáo phạm tội này trong
2 năm gần đây, với số vụ án, số bị cáo năm 2019 tăng gấp 3,1 lần so với năm 2018.
Số liệu thống kê của Công an quận Thủ Đức cũng cho thấy: Trong tổng số 60
bị can, độ tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất là từ 18 đến 30 tuổi là 33 bị can (chiếm tỷ lệ 55%),
từ 30 đến 70 tuổi là 26 bị can (chiếm tỷ lệ 43,3%), có 01 bị can là người chưa thành
niên từ 16 đến dưới 18 tuổi (chiếm tỷ lệ 1,7%); Về giới tính: Bị can giới tính nam là
59 (chiếm tỷ lệ 98,3%), bị can giới tính nữ là 01 (chiếm 1,7%); Về dân tộc: Có 59 bị
can là dân tộc Kinh (chiếm tỷ lệ 98,3%), có 01 bị can là dân tộc thiểu số (chiếm 1,7%).
Phương tiện gây tai nạn nhiều nhất là xe moto (chiếm 65%). Địa bàn xảy ra các vụ
án nhiều nhất là tuyến Quốc lộ 13, 1K, Kha Vạn Cân, Phạm Văn Đồng…
Các số liệu nêu trên cho thấy phần nào những diễn biến rất phức tạp của tình
hình tội phạm và hiệu quả phòng ngừa tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB trên
địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM trong thời gian 5 năm vừa qua. Báo cáo tổng kết
hàng năm của Công an quận Thủ Đức xác định: Nguyên nhân gây ra các vụ TNGT
này phần lớn là do người tham gia giao thông vi phạm các quy định về tham gia giao
thông như: đi không đúng phần đường, làn đường; chạy quá tốc độ; tránh, vượt không
đúng quy định; điều khiển phương tiện giao thông trong tình trạng đã sử dụng rượu
bia, có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc sử dụng các chất kích thích mạnh
khác mà pháp luật cấm, ngủ gật… Các hành vi vi phạm của người tham gia giao thông
cũng rất đa dạng như: điều khiển phương tiện giao thông phóng nhanh, vượt ẩu, lạng
lách, đánh võng, chở quá số người quy định, đi vào đường cấm, đường ngược chiều,
vượt đèn đỏ… Ngoài ra, các vụ TNGT còn có một phần nguyên nhân do hạ tầng giao
thông còn nhiều bất cập, công tác quản lý Nhà nước về an toàn giao thông chưa có
biện pháp đủ mạnh, chưa mang tính kiên quyết, đồng bộ; một số phương tiện không
37
đảm bảo tình trạng kỹ thuật nhưng vẫn được lưu hành…
Để phòng, ngừa tội phạm này, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn quận
Thủ Đức đã tiến hành nhiều biện pháp, hoạt động khác nhau trong đó KNHT là hoạt
động quan trọng được thực hiện ngay khi nhận được tin báo về vụ TNGT để làm căn
cứ ban hành Quyết định khởi tố VAHS cũng như góp phần làm rõ tính chất, mức độ
lỗi của người phạm tội. Để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật các chủ thể tham gia KNHT
và các chủ thể có liên quan, công tác kiểm sát KNHT của VKSND quận Thủ Đức đã
được tổ chức thực hiện với những kết quả nhất định, góp phần đảm bảo hiệu quả giải
quyết các vụ án này trên thực tế.
2.2.2. Kết quả kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.2.1. Kết quả thực hiện việc phân cấp thẩm quyền kiểm sát khám nghiệm
hiện trường vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB theo thẩm quyền, VKSND quận Thủ Đức đã phân
công KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay từ khi
tiếp nhận thông tin từ CQĐT Công an quận Thủ Đức.
Kết quả thống kê cho thấy, trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019,
VKSND quận Thủ Đức, TP.HCM đã cử KSV tiến hành 99 lượt kiểm sát KNHT các
các vụ TNGT đường bộ có hậu quả nghiêm trọng trở lên. Số liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.3. Kết quả kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM
(Năm 2015 - Năm 2019)
Năm Hiện trường TNGT Lượt kiểm sát KNHT vụ Quyết định về
có hậu quả nghiêm TNGT có hậu quả nghiêm việc khởi tố
trọng trở lên trọng trở lên VAHS
Có Không có Có người Không có Quyết Không
người người chết chết tại hiện người chết tại định khởi tố
chết trường hiện trường khởi tố
38
2015 23 102 23 1 11 114
2016 10 123 10 2 14 119
2017 12 92 12 2 10 94
2018 20 74 20 2 7 87
2019 26 103 26 1 18 111
Tổng 91 494 91 8 60 525
Nguồn: VKSND quận Thủ Đức, TP.HCM
Như vậy, trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, theo thẩm quyền, VKS
Quận Thủ Đức đã kiểm sát KHNT 91 vụ TNGT có người chết tại hiện trường, chiếm
100% số vụ TNGT có người chết, trong đó có 32 vụ có Quyết định khởi tố vụ án
(chiếm 53,3% tổng số vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB). Các trường hợp này
đều được Kiểm sát viên VKSND quận Thủ Đức kiểm sát KNHT theo thông báo của
Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức.
Ngoài 91 hiện trường được kiểm sát KNHT ngay từ ban đầu nêu trên, VKSND
quận Thủ Đúc chỉ kiểm sát KNHT của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ
Đức đối với 8 hiện trường vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trong thời gian từ
năm 2015 đến năm 2019. Đây là 8/494 trường hợp TNGTĐB không có người chết
tại hiện trường và được Cảnh sát giao thông quận Thủ Đức thụ lý, KNHT ban đầu.
Cả 8 trường hợp này người bị hại chết sau thời gian điều trị và được chuyển cho Cơ
quan điều tra thụ lý. Cơ quan này đã tiến hành KNHT lại 8 hiện trường này để thu
thập các chứng cứ cần thiết cho việc chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Đối với 486 trường hợp TNGTĐB không có người chết tại hiện trường, Cảnh
sát giao thông quận Thủ Đức tiến hành thụ lý, KNHT ban đầu, tuy nhiên sau khi có
kết quả định giá tài sản trên 70 triệu đồng hoặc kết quả giám định tỷ lệ thương tật trên
31%, vụ việc cũng được chuyển cho CQĐT quận Thủ Đức thụ lý điều tra theo thẩm
quyền. Do kết quả thu được từ kết quả KNHT ban đầu đã đầy đủ, CQĐT Công an
quận Thủ Đức không tiến hành KNHT lại đối với các trường hợp này và đã ban hành
Quyết định khởi tố vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB đối với 20/486 trường hợp.
39
Các báo cáo công tác hàng năm của VKSND quận Thủ Đức cho thấy, 5 năm
qua trên địa bàn quận Thủ Đức không xảy ra vụ TNGT nào thuộc thẩm quyền giải
quyết của VKSND TP.HCM và của VKS quân sự các cấp.
2.2.2.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi kiểm
sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Khi được phân công, các KSV của VKSND quận Thủ Đức thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn cụ thể trong quá trình kiểm sát KNHT các vụ TNGT nói chung và hiện
trường các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng theo quy định của
BLTTHS, cụ thể:
- Hoạt động KNHT trong các vụ tai nạn giao thông có người chết đều được
KSV kiểm sát về thẩm quyền, trình tự, thủ tục KNHT theo sự phân công của lãnh đạo
VKSND quận Thủ Đức. Thống kê kết quả hoạt động kiểm sát KNHT trong các vụ,
việc này cho thấy 100% vụ, việc này đều được KNHT đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
tục luật định.
- Theo số liệu thống kê về công tác kiểm sát KNHT của VKSND quận Thủ
Đức, trong đó có 60/60 cuộc KNHT có sự tham gia của người chứng kiến, 32/60 vụ
có sự tham gia của người làm chứng, 8vụ/60 vụ có sự tham gia của bị can, 02/60 vụ
có sự tham gia của người bào chữa khi tiến hành KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB. Kết quả kiểm sát cho thấy, khi tham gia KNHT, những người chứng
kiến và bị can thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định, không có hành vi
gây khó khăn, cản trở, khiếu nại đối với hoạt động khám nghiệm. Do không phát hiện
vi phạm của những người tham gia tố tụng khi KNHT nên trong 5 năm qua, không
có KSV nào yêu cầu, kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tham gia
tố tụng vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
- 100% KSV được phân công kiểm sát KNHT trong 60 vụ tham gia đều yêu
cầu Cơ quan điều tra, những người tham gia bảo vệ hiện trường, người làm chứng
cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc cần KNHT để kiểm sát việc tuân
40
theo pháp luật trong việc KNHT khi cần thiết.
- Khi phát hiện những sai sót trong quá trình KNHT của Điều tra viên, lực
lượng tham gia khám nghiệm, các KSV đều chủ động yêu cầu Điều tra viên, cán bộ
kỹ thuật hình sự tiến hành hoạt động KNHT đúng pháp luật;
- Thông qua hoạt động kiểm sát đối với việc khám nghiệm 60 hiện trường vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB, các KSV đã ban hành 5 kiến nghị yêu cầu Cơ
quan điều tra khắc phục vi phạm trong KNHT về việc không ghi chép đầy đủ các nội
dung cần thiết theo biểu mẫu tố tụng trong quá trình KNHT, chậm thông báo về thời
gian, địa điểm tổ chức KNHT.
Trong 5 năm qua, không có trường hợp nào KSV đề nghị Lãnh đạo Viện yêu
cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm
minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT; không
ban hành kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
Kết quả kiểm sát KNHT đã góp phần quan trọng vào quá trình giải quyết nhiều
vụ, việc liên quan đến việc giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB của
VKSND quận Thủ Đức trong việc ban hành các quyết định tố tụng và đề ra các yêu
cầu cần thiết trong giải quyết từng vụ, việc cụ thể. Theo đó, hoạt động này đã góp
phần vào việc giải quyết đối với 585 tin báo liên quan đến tội phạm Vi phạm quy định
về TGGTĐB, trong đó có 525 trường hợp có Quyết định không khởi tố vụ án và
không có khiếu nại đối với Quyết định không khởi tố vụ án, 60 trường hợp có Quyết
định khởi tố vụ án [35].
Thông qua việc kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB
ngay từ ban đầu khi nhận được thông báo của CQĐT công an quận Thủ Đức về các
vụ TNGT có nguời chết, VKSND quận Thủ Đức đã kiểm sát việc giải quyết tin báo
về tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB với tỷ lệ 100% (585/585 vụ), giải quyết
100% vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB (60/60 vụ) theo thẩm quyền.
Có thể nói, các số liệu cụ thể nêu trên đã phần nào cho thấy những đóng góp
quan trọng của hoạt động kiểm sát KNHT trong quá trình giải quyết các vụ án Vi
41
phạm quy định về TGGTĐB.
Ngoài ra, những đóng góp quan trọng của hoạt động kiểm sát KNHT đối với
việc giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ Đức
trong 5 năm qua còn được phản ánh sâu sắc trong từng trường hợp cụ thể, điển hình
như các vụ án sau:
- Vụ án thứ nhất:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/12/2017, Trần Thanh H điều khiển xe mô tô
biển số 72E1-527.18 phía sau chở cháu Nguyễn Phú T lưu thông trên đường Kha Vạn
Cân hướng từ cầu Gò Dưa về hướng Quốc lộ 13. Khỉ đến trước trụ đèn số A204
đường Kha Vạn Cân, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức do cháu T làm rơi
chiếc dép trên đường Kha Vạn Cân nên Trần Thanh H điều khiển xe quay lại về hướng
cầu Gò Dưa (lưu thông sai phần đường), đã để cần số xe mô tô biển số 72E1-527.18
đụng vào phía trước bên trái sàn để chân trước xe mô tô biển số 54X9-0564 do ông
Nguyễn Thanh H điều khiển lưu thông trên đường Kha Vạn Cân hướng từ cầu Gò
Dưa về hướng Quốc lộ 13. Hậu quả, ông Nguyễn Thanh H bị thương nặng được đưa
đi Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức cấp cứu sau đó chuyển đến Bệnh viện nhân
dân Gia Đinh, đến 07 giờ 35 phút ngày 23/12/2017 ông H tử vong.
Kết quả KNHT vụ án này xác định: Hiện trường vụ tai nạn được Công an
phường Hiệp Bình Chánh bảo vệ. Đoạn xảy ra TNGT mặt đường Kha Vạn Cân được
trải nhựa bằng phẳng, giữa đường có kẻ vạch sơn màu trắng phân tuyến không liên
tục phân chia làm 02 làn xe lưu thông cùng chiều nhau từ hướng cầu Gò Dưa về
hướng Quốc lộ 13; làn xe thứ 1 sát lề phải dành cho xe đạp, xe mô tô 2, 3 bánh có
chiều rộng là 3m00 và làn xe thứ 2 dành cho xe mô tô, xe ô tô 30 chỗ và xe ô tô dưới
3,5 tấn có chiều rộng là 3m50. Chọn mép lề phải đường Kha Vạn Cân theo chiều từ
cầu Gò Dưa về hướng Quốc lộ 13 làm lề chuẩn để đo, vẽ và khám nghiệm hiện trường.
Chọn trụ đèn số A204 đặt trên lề chuẩn làm điểm cố định. Sau tai nạn hiện trường để
lại xe mô tô biển số 54X9-0564, xe mô tô biển số 72E1- 527.18, vết cày của xe mô
tô biển số 54X9-0564, vết cày của xe mô tô biển số 72E1-527.18, vết máu.
Các phương tiện, dấu vết có vị trí như sau: Trụ đèn số A204 (điểm 1 trên sơ
42
đồ hiện trường) đặt trên lề phải, từ trụ đèn đo ra lề phải là 01m00. Xe mô tô biển số
54X9-0564 (điểm 2 trên sơ đồ hiện trường) ngã về bên phải, phần đầu xe quay hướng
lề phải chếch về hướng cầu Gò Dưa, phần đuôi xe quay hướng ngược lại, tâm trục
bánh trước xe mô tô đo vào lề phải là 4m30, tâm trục bánh sau xe mô tô đo vào lề
phải là 5m10 và đo đến trụ đèn số A204 có số đo là 18m70. Vị trí vết máu (điểm 3
trên sơ đồ trên sơ đồ hiện trường) trên mặt đường có kích thước 1m30 x 0m30, tâm
vết máu đo vào lề phải là 4m20 và đo đến tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 54X9-
0564 là 1m60. Vết cày xe mô tô biển số 54X9-0564 (điểm 4 trên sơ đồ hiện trường)
dài 9m30, chiều hướng vết cày từ hướng cầu G kéo dài đến giá đỡ gác chân sau bên
phải xe mô tô biển số 54X9-0564, đầu vết cày đo vào lề là 5m70. Vết cày xe mô tô
biển số 72E1-527.18 (điểm 5 trên sơ đồ hiện trường) dài 0m90, chiều hướng vết cày
từ hướng Quốc lộ 13 kéo dài đến gác chân trước bên phải xe mô tô biển số 72E1-
527.18, đầu vết cày đo vào lề là 6m50. Xe mô tô biển số 72E1-527.18 (điểm 6 trên
sơ đồ hiện trường) ngã về bên phải, phần đầu xe quay hướng lề phải chếch về hướng
cầu Gò Dưa, phần đuôi xe quay hướng ngược lại, tâm trục bánh trước xe mô tô đo
vào lề phải là 6m00, tâm trục bánh sau xe mô tô đo vào lề phải là 6m80 và đo đến
tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 54X9-0564 có số đo là 10m90.
Căn cứ vào nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, TAND
quận Thủ Đức đã tuyên bố bị cáo Trần Thanh H phạm “Tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ” được quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS
năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009. (Bản án số: 249/2018/HS-ST, Ngày:
25/9/2018).
Vụ án này xảy ra trên đoạn đường giao thông nội thị, vào thời điểm có nhiều
phương tiện lưu thông. Do đó, nếu không kịp thời thu thập đầy đủ dấu vết quan trọng
ngay từ khi KNHT ban đầu thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ gặp nhiều khó khăn trong
việc bổ sung, củng cố chứng cứ để giải quyết vụ án một cách chính xác. Ý thức được
điều đó, KSV được phân công đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp
khi trực tiếp tham gia kiểm sát KNHT qua đó kịp thời đề ra yêu cầu về việc thu thập
dấu vết quan trọng, đó là vết cày xe mô tô biển số 54X9-0564 (điểm 4 trên sơ đồ hiện
43
trường) và vết cày xe mô tô biển số 72E1-527.18 (điểm 5 trên sơ đồ hiện trường). Hai
vết cày này phù hợp với dấu vết của điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện theo
Kết luận giám định dấu vết va chạm số 558/C54B ngày 29/01/2018 của Phân viện
Khoa học hình sự (C54B) Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm Bộ công an tại
TP.HCM. Đây chính là hai dấu vết quan trọng mà thông qua việc đánh giá các dấu
vết đó, cơ quan có thẩm quyền có đủ căn cứ để xác định tính chất, mức độ lỗi của
người phạm tội, làm cơ sở để định tội và quyết định hình phạt phù hợp với bị cáo
Trần Thanh H.
- Vụ án thứ hai:
Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 25/5/2016, Lê Anh H điều khiển xe mô tô biển
số 59X2-729.46 lưu thông trên đường Linh Trung hướng từ đường Lê Văn Chí về
hướng đường Kha Vạn Cân. Khi đến trước nhà số 11, đường Linh Trung, khu phố 2,
phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Lê Anh H phát hiện phía trước có xe mô tô biển
số 51X8-8349 do anh Hồ Tuấn T điều khiển lưu thông phía trước cùng chiều đang có
chiều hướng rẽ trái sang đường. Do trời tối và không quan sát kỹ, bị cáo đã tăng ga,
điều khiển xe mô tô vượt bên trái xe anh T không đảm bảo khoảng cách an toàn nên
va chạm với xe mô tô biển số 51X8- 8349 do anh Hồ Tuấn T điều khiển, làm anh T
và H ngã xuống đường chấn thương sọ não và tử vong.
Trong quá trình kiểm sát KNHT đối với vụ án này, KSV đã yêu cầu lực lượng
tham gia khám nghiệm thu thập đầy đủ các dấu vết cày để lại mặt đường cũng như
dấu vết để lại trên hai phương tiện để có thể đánh giá chính xác lỗi của các bên tham
gia giao thông. Từ yêu cầu của KSV, lực lượng KNHT đã kịp thời tiến hành các hoạt
động nghiệp vụ cần thiết, qua đó đã đánh giá được đúng diễn biến vụ việc và xác định
được lỗi của các bên để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lê Anh H.
Theo đó, lỗi của Lê Anh H đó là không quan sát, không đảm bảo khoảng cách an toàn
giữa hai xe khi vượt lên phần đường đang lưu thông cùng chiều. Ngoài ra, hậu quả
xảy ra còn do một phần lỗi của nạn nhân Hồ Tuấn T, khi anh T điều khiển xe chuyển
hướng sang trái nhưng thiếu quan sát, việc chuyển hướng gây cản trở giao thông, vi
phạm Điều 15 Luật giao thông đường bộ. Với hành vi nêu trên đã có đủ căn cứ pháp
44
lý kết luận bị cáo Lê Anh H đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ”, được qui định tại Điểm b Khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình
sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ
luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Lê Anh H 02 năm tù (Bản án sơ thẩm số
55/2018/HSST ngày 21/3/2018 của TAND Quận ThủĐức, TP.HCM).
Sau đó, Lê Anh H đã có kháng cáo xin được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc
thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội do bị cáo gây ra cũng như
một số tình tiết giảm nhẹ khác để xem xét sửa bản ánh sơ thẩm số 55/2018/HSST
ngày 21/3/2018 của TAND Quận Thủ Đức, TP.HCM và tuyên phạt bị cáo Lê Anh H
với mức án hai năm tù cho hưởng án treo (Bản án số: 247/2018/HSPT, Ngày:
18/6/2018). Một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án cấp phúc thẩm quyết định
như trên đó là việc xem xét đến yếu tố “lỗi hỗn hợp” đã được làm rõ trong quá trình
KNHT vụ án theo yêu cầu của KSV đã trực tiếp kiểm sát KNHT.
Có thể nói, những ví dụ điển hình trên đây là một minh chứng cụ thể cho thấy
những đóng góp quan trọng của hoạt động kiểm sát KNHT đối với việc giải quyết
vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn Quận Thủ Đức, TP.HCM trong
thời gian qua.
2.2.2.3. Kết quả việc thực hiện quy định nghiệp vụ về kiểm sát khám nghiệm
hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Kiểm
sát viên
Trong quá trình giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, Lãnh
đạo VKSND và các KSV quận Thủ Đức được phân công kiểm sát KNHT căn cứ vào
quy định pháp luật TTHS, Quy chế nghiệp vụ về công tác kiểm sát KNHT do VKSND
tối cao ban hành để thực hiện việc kiểm sát KNHT đối với từng vụ việc cụ thể. Thực
tiễn kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ
Đức trong 5 năm qua cho thấy, quy trình kiểm sát KNHT các vụ án này được tiến
hành cụ thể như sau:
- Trước khi KNHT, KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra thông báo nội dung,
45
diễn biến ban đầu của sự việc, kiểm tra thành phần Hội đồng khám nghiệm, tư cách
pháp lý của các thành viên Hội đồng khám nghiệm, người tham dự hoạt động khám
nghiệm và yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra tiến hành KNHT, bảo đảm đúng quy định.
KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra quán triệt những người tham gia KNHT giữ bí
mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối không được tiết lộ, gây khó khăn cho công
tác Điều tra, giải quyết vụ án.
- Trong quá trình KNHT, KSV phối hợp với ĐTV, cán bộ Điều tra, người có
chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự KNHT, bảo đảm khách quan,
toàn diện và đúng pháp luật.
KSV quan sát, theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên Hội đồng
khám nghiệm trong việc vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường,
thu thập, niêm phong các dấu vết, vật chứng thu được tại hiện trường,việc lập biên
bản KNHT.
KSV tiến hành ghi chép về các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng,
đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm tra với
biên bản và sơ đồ KNHT. Trường hợp cần thiết, một số KSV sử dụng điện thoại cá
nhân để chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ
vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị
hại, người làm chứng và những người biết việc.
KSV phối hợp với ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn phân tích, đánh
giá các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện
trường để đặt ra các giả thuyết Điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ
dấu vết được đầy đủ, chính xác, phục vụ công tác truy tìm vật chứng, truy bắt người
thực hiện hành vi phạm tội.
Nếu thấy việc KNHT chưa đầy đủ, vi phạm quy định pháp luật thì KSV yêu
cầu ĐTV, cán bộ điều tra, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục; trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì yêu cầu cán bộ ghi ý kiến của KSV
vào biên bản KNHT và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS.
- Sau khi kết thúc việc KNHT, KSV phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám
46
nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm với lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo VKS về kết quả KNHT, những yêu cầu của KSV không được ĐTV, cán
bộ Điều tra, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ (nếu có),
cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến chỉ đạo. KSV xây dựng
dự thảo báo cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kiểm sát về kết quả
KNHT.
- Thông qua các cuộc kiểm sát KNHT, các KSV ghi chép vào sổ theo dõi, tổng
hợp vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT của Cơ quan có thẩm quyền điều tra,
ĐTV, cán bộ điều tra để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS
yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra xử lý nghiêm minh
ĐTV, cán bộ Điều tra vi phạm pháp luật.
2.2.2.4. Kết quả việc thực hiện quan hệ phối hợptrong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Thực tiễn kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa
bàn quận Thủ Đức trong 5 năm qua cho thấy, không có trường hợp nào Lãnh đạo
VKS quận Thủ Đức trực tiếp cùng KSV tiến hành kiểm sát việc KNHT bởi tất cả các
vụ án này đều không thuộc trường hợp có hậu quả nghiêm trọng hoặc người gây tai
nạn là nhân sỹ trí thức, các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít
người, các vụ án được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, cũng không có
trường hợp nào lãnh đạo VKSND quận Thủ Đức đề nghị VKS cấp trên phân công
KSV cùng tham gia kiểm sát việc KNHT đối với các vụ TNGT xảy ra trên địa bàn.
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB theo thẩm quyền, VKSND quận Thủ Đức thực hiện mối quan hệ phối
hợp với các cơ quan hữu quan trên cơ sở quy định pháp luật, cụ thể:
- Khi nhận được thông báo của Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức về vụ
TNGT có người chết, Lãnh đạo VKS cử KSV tiến hành kiểm sát KNHT theo quy
định của pháp luật. KSV có thể chủ động chuẩn bị phương tiện cần thiết để tham gia
việc kiểm sát KNHT theo thông báo của Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm tiến
hành KNHT hoặc cũng có thể Cơ quan điều tra sẽ phối hợp đến đón KSV để tham
47
gia hoạt động kiểm sát KNHT.
- Trong quá trình kiểm sát KNHT, KSV được phân công và các cá nhân thuộc
các cơ quan hữu quan như Điều tra viên, Cảnh sát giao thông, cán bộ Kỹ thuật tham
gia khám nghiệm còn duy trì mối quan hệ phối hợp thông qua các hoạt động cụ thể
như: Cung cấp thông tin về vụ TNGT, trao đổi về phương pháp cách thức tiến hành
hoạt động khám nghiệm, khắc phục những sai, sót về trình tự, thủ tục, cách thức
KNHT… Ngoài ra, căn cứ vào Thông tư liên tịch 04/2018, trong quá trình kiểm sát
KNHT, KSV có quyền đề ra yêu cầu đối với ĐTV trong việc thu thập các dấu vết, vật
chứng hoặc yêu cầu ĐTV yêu cầu các thành viên tham gia KNHT khắc phục ngay
những sai sót xảy ra trong quá trình KNHT từng vụ án cụ thể.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn cho thấy, hoạt động kiểm sát
KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ Đức vẫn còn
những hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác giải quyết
các VAHS ở địa phương này.
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chếtrong kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Những hạn chế trong công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh
Một là,hạn chế về nhận thức, năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của
Kiểm sát viên trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
Một số KSV do không nắm được tình hình ban đầu về diễn biến sự việc nên
trong quá trình KNHT còn lúng túng, bị động, không xác định được phạm vi, trình tự
tiến hành công việc, những vật chứng, dấu vết cần thu giữ tại hiện trường… nên đã
không thực hiện được đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình trong quá trình kiểm
sát việc KNHT.
Có lúc, một số KSV chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa thực hiện đầy
48
đủ các hoạt động nghiệp vụ trong khi kiểm sát KNHT theo quy chế nghiệp vụ như
không kịp thời ghi chép, báo cáo kết quả kiểm sát khám nghiệm cho lãnh đạo Viện..,.
Một số KSV do không được đào tạo bài bản về kỹ năng phát hiện, ghi nhận, thu giữ,
bảo quản dấu vết, vật chứng nên không phát hiện được vi phạm, thiếu sót của ĐTV
và các thành viên tham gia khám nghiệm hoặc có phát hiện được vi phạm nhưng do
nể nang nên không đấu tranh yêu cầu khắc phục vi phạm, ảnh hưởng đến hoạt động
điều tra phá án sau này…
Hai là, hạn chế về mối quan hệ phối hợp trong đơn ngành VKS và giữa VKS,
CQĐT và các cơ quan chuyên môn khác trong công tác KNHT
Thực tiễn cho thấy, trong công tác phối hợp giữa các cá nhân, đơn vị nghiệp
vụ ở VKS quận Thủ Đức khi giải quyết vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói
chung và trong việc kiểm sát KNHT các vụ TNGT theo thẩm quyền nói riêng có lúc
chưa thật sự chặt chẽ, nhịp nhàng thể hiện rõ trong việc phân công, phối hợp kiểm sát
KNHT và việc thực hiện chế độ báo cáo lãnh đạo VKS khi có vướng mắc và trước
khi kết thúc hoạt động KNHT.
Ngoài ra, trong quan hệ phối hợp giữa VKSND quận Thủ Đức với CQĐT
Công an quận Thủ Đức và các Cơ quan chuyên môn khác trong một số trường hợp
chưa được tốt, nên có nhiều trường hợp vụ việc không được báo kịp thời cho VKS
phân công KSV tiến hành kiểm sát KNHT hoặc có thông báo nhưng chậm nên nhiều
khi đến hiện trường thì vụ, việc đã được khám nghiệm xong hoặc đang tiến hành.
KSV không thể kiểm sát đầy đủ hoạt động KNHT ngay từ ban đầu nên không phát
hiện được những sai, sót trong KNHT đã xảy ra trước khi KSV có mặt. Ngược lại,
Có trường hợp KSV trực nghiệp vụ đã được CQĐT thông báo trước thời gian, địa
điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông để chuẩn bị tham gia khám nghiệm hiện trường
nhưng do KSV còn chậm trễ nên làm mất thời gian của ĐTV và các thành viên khác
của Hội đồng khám nghiệm cũng như lực lượng bảo vệ hiện trường dẫn đến trường
hợp hiện trường bị xáo trộn do người và phương tiện lưu thông qua lại; có trường
hợp ĐTV và các thành viên Hội đồng khám nghiệm lo sợ dấu vết bị mất, hiện trường
có nguy cơ bị xáo trộn do KSV chưa đến hiện trường nên ĐTV và các thành viên Hội
49
đồng khám nghiệm đã tiến hành khám nghiệm mà không có mặt KSV, đến
khi KSV đến hiện trường thì chỉ ký vào biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ
hiện trường cho đúng thủ tục thành phần dẫn đến việc KSV không thể nắm bắt kịp
thời, đầy đủ thông tin vụ tai nạn và không kiểm sát được đầy đủ hoạt động KNHT
của ĐTV và các thành viên khác của Hội đồng khám nghiệm.
Một số trường hợp, KSV đã phát hiện được vi phạm trong khi khám nghiệm
của ĐTV và Giám định viên về trình tự, thủ tục, biên bản KNHT, không sử dụng
phương tiện, công cụ hỗ trợ để làm tốt công tác khám nghiệm , bỏ sót những dấu vết,
vật chứng của vụ án... nhưng không kịp thời yêu cầu ĐTV khắc phục, bổ sung mà dễ
dãi, đồng tình với việc làm của ĐTV nên đã ký vào biên bản. Từ đó, dẫn việc nhận
định, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị can không chính xác, xác
định sai tội danh. Điển hình như vụ án sau:
Vào khoảng 13 giờ 20 phút, ngày 13/5/2016, Nguyễn Văn K điều khiển xe mô
tô 03 bánh biển số 61S2-5920 chở 01 (một) máy trộn bê tông, lưu thông trên Quốc
lội 13 hướng từ cầu Bình Lợi về hướng cầu vượt Bình Phước. Khi lưu thông trước
cửa nhà số 61S1-5920 Quốc lộ 13, khu phố 3, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ
Đức, TP.HCM. Nguyễn Văn K thấy phía trước có biển báo cấm đi ngược chiều nhưng
K không chấp hành chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ mà vẫn điều khiển xe
mô tô 03 bánh chuyển hướng từ phải qua trái lưu thông vào làn đường ngược chiều,
lưu thông sai phần đường để bên phải thùng xe mô tô 03 bánh biển số 61S2-5920
đụng bên phải xe mô tô biển số 51X9-4329 do anh Nguyễn Văn T điều khiển lưu
thông hướng từ cầu vượt B1 về hướng cầu B (lưu thông không đúng làn đường). Sau
va chạm, xe mô tô biển số 51X9-4329 và anh T ngã cày về phía trước đụng vào xe ô
tô tải (chưa rõ biển số và người điều khiển) lưu thông trên Quốc lộ 13 hướng từ cầu
Bình Lợi về hướng cầu vượt Bình Phước (lưu thông đúng phần đường). Hậu quả: anh
T được đưa đi cấp cứu. Đến 23 giờ 20 phút ngày 13/5/2016 anh T tử vong, xe mô tô
biển số 51X9-4329 bị hư hỏng. Kết quả KNHT xác định:
Hiện trường sau tai nạn được Công an phường Hiệp Bình Phước bảo vệ, đoạn
đường nơi xảy ra tai nạn được trải nhựa phẳng, không bị giới hạn tầm nhìn, có dải
50
phân cách bê thông cố định phân chia 02 dòng phương tiện lưu thông ngược chiều
nhau. Nơi xảy ra tai nạn là phía trước nhà số 61S1-5920 Quốc lộ 13, khu phố 3,
phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP.HCM, nằm trên khoảng trống không có
dải phân cách bê tông cố định giữa 02 đầu dải phân cách và thuộc làn đường theo
hướng từ ngã tư Bình Phước về cầu Bình Lợi, đầu 02 dải phân cách có đặt biển báo
cấm đi ngược chiều và biển hiệu lệnh báo hướng lưu thông phải vòng chướng ngại
vật. Chiều lưu thông từ cầu vượt Bình Phước về hướng cầu Bình Lợi được chia thành
03 làn xe lưu thông cùng chiều nhau, mỗi làn đường được kẻ vạch sơn màu trắng
không liên tục; làn thứ nhất sát dãy phân cách bê tông cố định dành cho xe ô tô, xe ô
tô khách, xe ô tô tải rộng 3,5 mét; làn thứ hai (giữa) dành cho xe ô tô, xe ô tô khách
dưới 25 chỗ ngồi, xe mô tô rộng 3 mét; làn thứ ba (trong cùng) dành cho xe mô tô
02 và 03 bánh rộng 2,5 mét. Chọn lề phải Quốc lộ 13 hướng từ cầu vượt Bình Phước
về hướng cầu Bình Lợi làm lề chuẩn để đo. Chọn trụ điện 174 đặt trên lề chuẩn làm
điểm cố định. Sau tai nạn hiện trường để lại: Xe mô tô 03 bánh biển số 61S2-5920,
xe mô tô biển số 51X9-4329; 02 vết cày của xe mô tô 51X9-4329; vị trí vết máu.
Xe mô tô biển số 51X9-4329 ngã bên trái nằm dọc trên mặt đường, đầu xe
hướng về phía cầu vượt Bình Phước, đuôi xe hướng về cầu Bình Lợi, tâm bánh trước
và tâm trục bánh sau đo vào lề chuẩn 11,5 mét, trục bánh trước xe mô tô đo đến trụ
điện số 174 là 17,5 mét.
Xe mô tô 03 bánh biển số 61S2-5920 đỗ xéo trên mặt đường, đầu xe mô tô 03
bánh hướng về phía cầu vượt Bình Phước chếch qua lề chuẩn, đuôi xe mô tô 03 bánh
hướng ngược lại. Tâm trục bánh trước xe mô tô 03 bánh đo vào lề chuẩn 4,4 mét, tâm
trục bánh sau bên trái đo vào lề chuẩn 4,1 mét, tâm trục bánh sau bên phải đo đến vết
cày thứ I 2,8 mét.
Vết cày thứ I để lại trên mặt đường hướng từ cầu vượt Bình Phước về hướng
cầu Bình Lợi dài 26,6 mét, đầu vết cày thứ I đo vào lề chuẩn 6,9 mét, đo đến điểm
đầu dải phân cách nơi đặt trụ biển báo cấm lưu thông ngược chiều và biển hiệu lệnh
báo hướng lưu thông phải vòng chướng ngại vật (vị trí số 07) 7,4 mét, điểm cuối vết
cày thứ I đo vào lề chuẩn là 11,3 mét.
51
Vết cày thứ II để lại trên mặt đường hướng từ cầu vượt Bình Lợi về hướng cầu
vượt Bình Phước, đầu vết cày thứ II là điểm cuối vết cày thứ I, vết cày thứ II được
kéo dài từ hướng cầu Bình Lợi đến đầu bên trái chân chống đứng của xe mô tô biển
số 51X9-4329 để lại trên mặt đường kích thước 6,3 m x 0,55 m.
Vết máu để lại trên mặt đường có kích thước 0,2 m x 0,2 m, tâm vết máu đo
vào lề chuẩn là 12,8m và đo đến trục bánh sau xe mô tô biển số 51X9-4329 là 1,3m
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 676/TT.16 ngày 13/6/2016 của
Trung tâm pháp y Thành phố H xác định nguyên nhân chết của Nguyễn Văn T là do
đa chấn thương/ có Ethanol trong máu với nồng độ thấp.
Trong vụ án này, kết quả KNHT ban đầu đã không xác định được nhữngdấu
vết quan trọng để đánh giá được điểm va chạm và cơ chế hình thành dấu vết tại hiện
trường nên không có căn cứ để xác định chính xác lỗi của các bên tham gia giao
thông. Tuy nhiên, KSV đã không kịp thời phát hiện để để ra yêu cầu ngay trong quá
trình kiểm sát KNHT ban đầu, dẫn đến tiến độ giải quyết vụ án kéo dài. Quá trình
giải quyết vụ án này đã CQTHTT quận Thủ Đức đã phải trưng cầu giám định với
những dấu vết được phát hiện, thu thập sau khi kết thúc hoạt động KNHT ban đầu.
Cụ thể, tại bản kết luận giám định số: 1914/C54B ngày 10/6/2016 của Phân viện Khoa
học hình sự tại TP.HCM kết luận: Dấu vết trượt xước bên phải xe mô tô biển số 51X9-
4329 (trượt xước bám chất màu xanh và màu trắng mặt ngoài đầu tay phanh và đầu
bọc tay lái; trượt xước, nứt vỡ bám chất màu xanh mặt ngoài bên phải ốp nhựa cổ xe;
trượt bám chất màu đen dạng vân lốp mặt ngoài phía dưới ốp kim loại bảo vệ pô xe)
có chiều từ trước về sau, từ trái sang phải phù hợp với dấu vết bên phải xe mô tô 03
bánh biển số 61S2-5920 (trượt mất chất màu trắng và màu sanh, bám chất màu đen
mặt ngoài thùng xe; trượt xước mặt ngoài bên phải bánh sau) có chiều từ trước về
sau, dấu vết trên bánh xe có chiều từ mặt lăn vào tâm bánh, ngược chiều quay tiến
của xe. Trên cơ sở cơ chế hình thành dấu vết và hồ sơ vụ TNGT nêu trên, xác định:
Phía trước bên phải xe mô tô biển số 51X9-4329 và bên phải xe mô tô 03 bánh biển
số 61S2-5920 là vị trí va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện; Vị trí va chạm giữa hai
phương tiện nằm trên làn đường thứ 03 (tính từ lề phải), Quốc lộ 13 theo hướng từ
52
cầu vượt Bình Phước đi cầu Bình Lợi; xe mô tô 03 bánh biển số 61S2-5920 chuyển
động theo chiều ngược lại; Dấu vết trượt, cong biến dạng mặt ngoài phía sau pô xe
mô tô biển số 51X9-4329 có đặc điểm không đủ yếu tố giám định; Ngoài va chạm
với xe mô tô 03 bánh biển số 61S2-5920, xe mô tô biển số 51X9-4329 còn va chạm
với phương tiện khác.
Đến ngày 07/8/2017, Nguyễn Văn K bị TAND quận Thủ Đức đưa ra xét xử về
tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản
1 Điều 202 của BLHS năm 2009 và bị tuyên phạt mức án 01 (một) năm tù cho hưởng
án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án (Bản án số:
245/2017/HSST, Ngày: 07/8/2017).
Thực tiễn tại quận Thủ Đức cho thấy, có trường hợp trước khi tiến hành KNHT,
ĐTV chưa chủ động cung cấp thông tin cần thiết để phục vụ cho việc khám nghiệm
của KSV, từ đó dẫn đến có vụ việc không được tiến hành khám nghiệm chặt chẽ, bỏ
sót chứng cứ cần thu thập, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.
Một số vụ TNGT xảy ra chưa chết người thì chỉ có lực lượng CSGT tham gia
khám nghiệm, nhưng về sau nạn nhân chết, CQĐT vào cuộc khám nghiệm tử thi và
KNHT lại, có thông báo VKS tham gia. Do không được đào tạo bài bản về công tác
KNHT nên khi thực hiện đo đạc, chụp ảnh... của cảnh sát giao thông có lúc, có nơi
thiếu chính xác; hoặc lấy điểm mốc chưa chuẩn, thu thập dấu vết hiện trường chưa
đầy đủ và biên bản khám nghiệm hiện trường, khám phương tiện tham gia giao thông
gây tai nạn ban đầu theo quy định của BLTTHS là chưa đúng hoặc bỏ sót những dấu
viết như: Vết xước trên đường, trên xe hoặc vết trầy tróc để lại trên hiện trường gây
tai nạn. Sau khi có người bị thương dẫn đến chết, lúc này CQĐT mới hợp thức hóa
bằng cách mời đầy đủ thành phần (ĐTV, KSV, người làm chứng, lái xe, chủ xe…)
tham gia đo đạc lại, dựng lại hiện trường; điều này cho thấy độ chính xác không cao,
không đầy đủ như ban đầu, dẫn đến khó xử lý sau này như xác định lỗi của các bên,
nhất là những vụ va chạm giữa đường… hay dấu vết để lại không rõ nét do cán bộ
lập biên bản ban đầu thu thập, ghi chép không đủ, dễ dẫn đến sai, sót trong quá trình
53
giải quyết vụ án.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác kiểm sát khám nghiệm
hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn
quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
Một là, hệ thống các văn bản pháp luật liên ngành và đơn ngành các cấp liên
quan đến kiểm sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB ở các cấp chưa được ban hành một cách đầy dủ, kịp thời
Bộ luật tố tụng hình sự là văn bản pháp lý quan trọng, là cơ sở cho việc xác
định thẩm quyền, thực hiện các trình tự, thủ tục liên quan đến việc giải quyết vụ án
hình sự nói chung và các hoạt động điều tra nói riêng, trong đó có hoạt động KNHT
cũng như KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB. Để thống nhất việc áp
dụng các quy định của BLTTHS có liên quan đến hoạt động điều tra này, các cơ quan
có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật đơn ngành, liên ngành và
các quy chế nghiệp vụ liên quan phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành nhằm
bảo đảm tính thống nhất, phù hợp và khả thi trong thực tiễn tổ chức áp dụng. Theo
đó, trong phạm vi thẩm quyền, từ sau khi BLTTHS năm 2015 được ban hành, VKSND
tối cao đã phối hợp và độc lập ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt
động KNHT, kiểm sát KNHT như: Thông tư số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP
ngày 19/10/2018 về quan hệ phối hợp giữa CQĐTvà viện kiểm sát trong việc thực
hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 ban hành Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc khởi tố, điều tra, truy tố; Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 ban
hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định (sau đây gọi tắt
là Quy chế tạm thời 170)...Tuy nhiên, cho đến nay, sau hơn 2 năm tổ chức thực hiện,
VKSND tối cao vẫn chưa ban hành quy chế chính thức về công tác kiểm sát KNHT
nói chung thay thế cho Quy chế tạm thời 170 nêu trên. Trong khi đó, bên cạnh những
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của KSV khi kiểm sát KNHT nói
54
chung thì Quy chế tạm thời 170 này chưa có nội dung quy định về phương thức tiến
hành kiểm sát KNHT nói chung để hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát KNHT cho KSV
thuộc VKSND các cấp.
Ngoài ra, VKSNDTC và VKSND các địa phương nói chung, VKSND quận
Thủ Đức nói riêng cũng chưa nghiên cứu, xây dựng quy trình kiểm sát KNHT các vụ
TNGTĐB có người chết nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB nói riêng dẫn đến việc các KSV khi thực hiện các hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ khi kiểm sát KNHT các vụ, việc này nhiều lúc, nhiều nơi chưa thống
nhất, chưa đảm bảo được yêu cầu công tác kiểm sát trên thực tế.
Bên cạnh đó, liên ngành các cơ quan trung ương và các cơ quan hữu quan trên
địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM cũng chưa chủ động ban hành quy chế trong việc
giải quyết án xâm phạm an toàn giao thông đường bộ nói chung và các vụ án Vi phạm
quy định về TGGTĐB nói riêng thay thế cho các văn bản không còn phù hợp với các
văn bản Luật mới có hiệu lực. Do đó, có lúc việc thực hiện quan hệ phối hợp giữa các
cơ quan này còn lúng túng và thiếu thống nhất, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm sát
KNHT các vụ án xảy ra tại địa phương.
Hai là, hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, phân công, bố trí
cán bộ kiểm sát KNHT các vụ TNGTĐB có người chết và các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB của Viện kiểm sát địa phương
Thực tiễn công tác giải quyết vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB ở địa
phương cho thấy, có lúc, có việc Lãnh đạo các đơn vị chưa thận trọng, cân nhắc khi
phân công Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Lãnh đạo một số đơn vị “khoán trắng” cho Kiểm sát viên, chưa
làm hết trách nhiệm, không kiểm tra chặt chẽ Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và Quy chế nghiệp vụ; không
chỉ đạo xử lý kịp thời các vướng mắc trong quá trình Kiểm sát viên thực hiện nhiệm
vụ. Bên cạnh đó, Lãnh đạoVKS thiếu sâu sát, chỉ căn cứ vào báo cáo của Kiểm sát
viên, không trực tiếp kiểm tra tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ nên không phát hiện được
những thiếu sót trong quá trình kiểm sát KNHT để chỉ đạo khắc phục.
55
Lãnh đạo VKS địa phương có lúc chưa thực quan tâm bố trí cán bộ phụ trách
các công tác, các vụ án phù hợp với năng lực, sở trường từng người, chưa phân công
người hướng dẫn, giúp đỡ phù hợp đối với cán bộ còn thiếu kinh nghiệm. Có lúc,
Lãnh đạo VKS địa phương chưa thường xuyên quan tâm, kiểm tra thường xuyên đối
với nhận thức của cán bộ cấp dưới về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan mình trong quá trình giải quyết VAHS nói chung và các vụ án Vi phạm quy định
về TGGT đường bộ nói riêng.
Ngoài ra, một số Lãnh đạo chưa kiên quyết trong xử lý cán bộ vi phạm nên
dẫn đến tâm lý chủ quan, lơ là cho cán bộ dưới quyền. Ngược lại, một số cán bộ thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao, nhiệt huyết, trách nhiệm với công việc thì lại chưa được
các cấp lãnh đạo quan tâm, động viên đúng mức nên dần phát sinh tâm lý chán nản
nên chất lượng công tác dần dần bị kéo giảm đi.
Ba là, nguồn nhân lực của Viện kiểm sát và các cơ quan hữu quan chưa đáp
ứng được yêu cầu công tác cả về số lượng và chất lượng
Tình hình tội phạmVi phạm quy định về TGGT trên địa bàn quận Thủ Đức
trong thời gian gần đây cho thấy những diễn biến phức tạp với mức tăng đột biến
trong năm 2019 so với các năm trước đó. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ giải quyết
các vụ án hình sự trên địa bàn phải đảm bảo cả về số lượng và cả chất lượng. Trong
khi đó, lực lượng cán bộ, KSV của VKSND quận Thủ Đức còn thiếu, đội ngũ cán bộ
có chức danh tư pháp KSV được bổ nhiệm chưa đủ đáp ứng được yêu cầu của công
việc trong tình hình mới. Nhìn chung trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của các
cán bộ này chưa đồng đều nên chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao đôi lúc chưa
cao, việc nghiên cứu các căn cứ pháp lý về tố tụng và khoa học điều tra hình sự để áp
dụng vào thực tiễn khâu công tác nghiệp vụ còn hạn chế, chưa sâu nên chất lượng,
hiệu quả hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án
Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng còn ở mức độ nhất định. Một số cán bộ còn
thiếu tinh thần trách nhiệm, lơ là sa sút về phẩm chất đạo đức… Có lúc, có nơi, một
cán bộ phải giải quyết cùng lúc nhiều vụ án. Điều này làm cho KSV được phân công
đôi lúc bị quá tải trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
56
Số ít KSV còn chưa nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ về vị trí, chức năng
của VKSND, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong quá trình kiểm sát việc KNHT của
mình. Do nhận thức chưa đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của mình nên khi kiểm
sát việc khám nghiệm, một số KSV hầu như không thực hiện hoạt động tác nghiệp
nào tại hiện trường, chỉ thụ động “chứng kiến” việc khám nghiệm của ĐTV và các
thành viên đoàn khám nghiệm và ký xác nhận vào biên bản khám nghiệm. Có lúc,
KSV tham gia luôn cả vào công tác khám nghiệm như đo đạc kích cỡ, cầm thước tỷ
lệ để ĐTV chụp ảnh hiện trường.
Thực tiễn cho thấy, 100%KSV chưa được đào tạo chuyên môn sâu về kiến
thức khoa học về kỹ thuật hình sự, đa số KSV chưa tham gia tập huấn, bồi dưỡng về
kỹ năng kiểm sát KNHT nói chung và KNHT các vụ TNGT đường bộ nói riêng do
đó có lúc còn lúng túng khi nhận nhiệm vụ kiểm sát KNHT các vụ TNGT, chưa đáp
ứng được những yêu cầu về nghiệp vụ trong công tác đặt ra. Nhìn chung, đội ngũ này
tiến hành hoạt động KNHT chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn trong công tác,
nhưng kinh nghiệm của các KSV lại không đồng đều.Một số KSV thiếu tinh thần
trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ được phân công, còn ngại khó, ngại khổ
trong công tác, sợ bẩn, làm qua loa đại khái hoặc cả nể, né tránh, ngại va chạm mất
lòng... Tình trạng này dẫn đến hệ quả cụ thể là một số trường hợp KSV không phát
hiện được những thiếu sót, những vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT, không
kiên quyết yêu cầu Điều tra viên chủ trì KNHT, các thành viên của Hội đồng khám
nghiệm khắc phục ngay những sai sót trong quá trình KNHT, làm ảnh hưởng đến hiệu
quả giải quyết một số vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên thực tế.
Ngoài ra, một số KSV chưa nhận thức đầy đủ, rõ ràng về vai trò, ý nghĩa của
hoạt động kiểm sát KNHT, chưa thật sự thấu hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa
hoạt động kiểm sát KNHT và hoạt động thực hành quyền công tố trong quá trình giải
quyết VAHS nói chung và vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Chính vì
hạn chế về nhận thức đó đã tác động đến thái độ, tinh thần trách nhiệm của một số
KSV khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, những hạn chế về nguồn nhân lực của các cơ quan hữu quan như
57
Cảnh sát giao thông, Cơ quan điều tra, Kỹ thuật hình sự, Cảnh sát khu vực của Công
an quận Thủ Đức cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả
công tác kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn. Thực
tiễn cho thấy một số cán bộ thuộc các lực lượng, cơ quan này còn chưa được đào tạo,
bồi dưỡng về hoạt động KNHT các vụ TNGT nói chung và các vụ việc có dấu hiệu
tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng nên không nhận thức được đầy đủ
nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng như việc thực hiện mối quan hệ phối hợp với
các cơ quan hữu quan khi thụ lý tin báo và tổ chức tiến hành KNHT, đặc biệt là với
VKSND địa phương.Một số cán bộ chưa được nắm vững các quy trình nghiệp vụ liên
quan, chưa đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ TNGT nên không thực
hiện đúng thẩm quyền, trình tự giải quyết đối với từng vụ việc cụ thể, đặc biệt trong
việc tiến hành KNHT theo thẩm quyền, bảo vệ hiện trường, cung cấp thông tin sơ bộ
về vụ việc cho VKS và thực hiện các yêu cầu của VKS trong KNHT…. Có lúc, có
nơi, một số cán bộ còn mang nặng tâm lý “quyền anh, quyền tôi” trong quá trình tiến
hành quy trình, thủ tục và các hoạt động cần thiết trong KNHT nên không thể hiện
tinh thần hợp tác trong việc thực hiện KNHT với các cá nhân, đơn vị, VKS và KSV
được phân công nhiệm vụ trong KNHT các vụ TNGT có người chết và các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB xảy ra trên địa bàn quận Thủ Đức.
Bốn là,hạn chế về trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm sát KNHT
Hiện nay, trang thiết bị, phương tiện cần thiết cho hoạt động kiểm sát KNHT
cho VKSND các cấp nói chung và VKSND quận Thủ Đức nói riêng còn hạn chế và
lạc hậu. Các KSV khi được phân công thực hiện kiểm sát KNHT các vụ TNGT trên
địa bàn quận đều không được trang bị đầy đủ công cụ, phương tiện cần thiết để kịp
thời đến hiện trường cho kịp thời gian quy định; không được trang bị những công cụ
hỗ trợ như: máy ảnh, máy ghi âm, ghi hình, các dụng cụ đo, vẽ... Do đó, KSV chỉ
kiểm sát đơn giản bằng mắt hoặc thủ công. Trong thực tế, nếu KSV không ghi chép
tỷ mỷ khó có cơ sở vững chắc để so sánh và đối chiếu sau này, hoặc nếu phát hiện
việc làm không đúng cũng không có cơ sở, không có căn cứ chứng minh, đối chiếu.
Việc ghi chép của KSV cũng không thể bao quát toàn diện hết được. Đây cũng là một
58
trong những vấn đề quan trọng đặt ra đối với Ngành trong việc đầu tư trang thiết bị
đầy đủ trong công tác cho KSV khi tiến hành kiểm sát điều tra tại hiện trường.
Năm là, chế độ, chính sách, khen thưởng, kỷ luật đối với KSV trong việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm sát KNHT nói chung và KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB còn hạn chế
Việc kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với KSV để xảy ra vi phạm trong kiểm
sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB có lúcchỉ mang tính hình thức, chưa
nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá, đặc biệt là chỉ ra các nguyên nhân chủ quan để có
biện pháp xử lý nghiêm khắc. Qua kiểm điểm các sai, sót trong quá trình kiểm sát
KNHT đối với một số vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB đều xác định nguyên
nhân vi phạm chủ yếu là do nhận thức, đánh giá việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật
chứng chưa đầy đủ, vì vậy chỉ kiểm điểm ở mức độ rút kinh nghiệm và khiển trách,
do đó chưa đảm bảo tính răn đe và tác động đến ý thức của Lãnh đạo, KSV trong quá
trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Ngược lại, đối với những KSV có chuyên môn tốt, tinh thần trách nhiệm cao
trong quá trình kiểm sát KNHT chưa được quan tâm đúng mức (không có hình thức
khen thưởng đối với cá nhân theo từng nội dung công tác kiểm sát KNHT). Trong khi
đó, chế độ chính sách, bồi dưỡng cho cán bộ KSV tham gia kiểm sát KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB còn thấp, còn rườm rà về thủ tục, chưa đủ để động
viên cán bộ Kiểm sát khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Có thể nói rằng, những hạn chế về chế độ chính sách khen thưởng, kỷ luật đối
với KSV nêu trên là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
hoạt động kiểm sát KNHT các VAHS nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng của VKSND quận Thủ Đức.
Sáu là, hạn chế trong quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong
KNHT các vụ tai nạn giao thông có người chết và hiện trường các vụ án Vi phạm quy
định về TGTGĐB
Hiện trường là nơi tồn tại rất nhiều dấu vết, vật chứng và những dấu vết, vật
chứng đó có vai trò quan trọng trong việc điều tra giải quyết các vụ án về TGGTĐB.
59
Tuy nhiên, hiện trường trong các vụ án này chịu rất nhiều ảnh hưởng tác động từ con
người, môi trường. Việc tổ chức bảo vệ hiện trường được thực hiện một cách nghiêm
túc, kịp thời sẽ góp phần đảm bảo dấu vết vật chứng không bị phá hủy, đảm bảo cho
việc phát hiện, khai thác được thông tin thu được tại hiện trường. Do đó, có thể khẳng
định rằng: Hiệu quả của hoạt động KNHT cũng như hoạt động kiểm sát KNHT bị ảnh
hưởng đáng kể bởi hiệu quả hoạt động bảo vệ hiện trường.
Tuy nhiên, trên thực tế các vụ Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn
quận Thủ Đức trong thời gian qua thì công tác bảo vệ hiện trường chưa thực hiện tốt,
chưa triệt để, còn tình trạng cán bộ bảo vệ hiện trường, người dân hiếu kỳ đi lại, dẫm
đạp lên các dấu vết tại hiện trường. Đến khi Hội đồng KNHT tiến hành các hoạt động
khám nghiệm thì nhiều dấu vết quan trọng đã bị xáo trộn, biến đổi, ảnh hưởng đến
việc phát hiện, thu thập, khai thác các dấu vết, vật chứng liên quan đến vụ án, làm
ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng của hoạt động KNHT và kiểm sát KNHT.
Như vậy, có thể thấy rằng, những hạn chế trong kiểm sát KNHT các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ Đức thời gian qua xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc khắc phục những nguyên nhân của những hạn
chế trên là đòi hỏi bức thiết của thực tế nhằm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng
hoạt động này qua đó góp phầnnâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án Vi phạm quy
định về TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ Đức nói riêng và các địa phương trên cả
nước nói chung trong thời gian tới.
Tiểu kết Chương 2
Bộ luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật do đơn ngành, liên ngành
các cơ quan VKS, BCA, BQP... đã có những quy định cụ thể về các nội dung liên
quan đến hoạt động KNHT, kiểm sát KNHT các vụ án nói chung và các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Đây chính là cơ sở cho các cơ quan có thẩm
quyền trong đó có VKSND các cấp áp dụng vào quá trình giải quyết các VAHS.
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của Luận văn đã trình bày, phân tích những
quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm
60
quy định về TGGTĐB. Theo đó, nội dung các quy định về kiểm sát điều tra gồm thẩm
quyền, quy trình kiểm sát KNHT và quan hệ phối hợp giữa VKSND và các cơ quan
hữu quan. Trên cơ sở nhận thức pháp luật đó, Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh
giá thực trạng tổ chức thực hiện hoạt động kiểm sát KNHT án Vi phạm quy định về
TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ Đức. Kết quả nghiên cứu cho cho thấy rằng hoạt
động này đã có những đóng góp quan trọng vào hoạt động giải quyết các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt
động này còn cho thấy những hạn chế, vướng mắc nhất định, xuất phát từ những
nguyên nhân khác nhau, cần sớm được khắc phục.
Những nhận thức toàn diện về pháp luật và thực trạng được trình bày tại
Chương 2 của Luận văn chính là cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả hoạt động kiểm sát KNHT, qua đó để góp phần nâng cao chất lượng
61
giải quyết các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trong thời gian tới.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến kiểm sát khám nghiệm
hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác kiểm sát
khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ của đơn ngành Kiểm sát
Kiểm sát KNHT vừa là hoạt động tố tụng vừa là hoạt động chuyên môn, nghiệp
vụ của KSV thuộc VKSND các cấp. Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
này đòi hỏi việc tổ chức thực hiện của KSV cần phải tuân thủ một cách nghiêm túc
và thống nhất theo quy định pháp luật và các quy chế nghiệp vụ cụ thể. Theo tác giả,
để làm căn cứ pháp lý, quy chuẩn nghiệp vụ thống nhất trong toàn ngành Kiểm sát
khi kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng và kiểm sát
KNHT nói chung, VKSND tối cao cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật có liên quan, với những biện pháp cụ thể như sau:
Một là, nhanh chóng ban hành quy chế chính thức về công tác kiểm sát KNHT
thay thế cho Quy chế tạm thời 170
Để kịp thời đáp ứng đòi hỏi thực tiễn giải quyết án hình sự nói chung và án Vi
phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, trong thời gian tới VKSND tối cao cần sớm
ban hành Quy chế chính thức về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
KNHT, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định. Trong đó, Quy chế
chính thức cần tiếp tục ghi nhận các quy định hợp lý trước đây của Quy chế tạm thời
170 bao gồm: Phạm vi, đối tượng, mục đích công tác; Giải thích từ ngữ; Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của KSV; Tiếp nhận, xử lý, giải quyết tin báo tố giác tội
62
phạm liên quan đến KNHT, thẩm quyền; phát hiện và xử lý vi phạm liên quan đến
KNHT và kiểm sát KNHT.
Bên cạnh đó, Quy chế chính thức cần bổ sung nội dung quy định về phương
thức kiểm sát KNHT nói chung, trong đó xác định rõ các phương pháp, cách thức
tiến hành hoạt động kiểm sát KNHT thay cho các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của KSV ở các giai đoạn trước, trong và sau khi kiểm sát KNHT được nêu tại Chương
II Quy chế tạm thời 170 trước đây.
Hai là, ban hành quy trình kiểm sát KNHT nói chung trong đó có nội dung
lưu ý đối với KSV khi kiểm sát KNHT các vụ TNGTĐB
Để làm quy chuẩn nghiệp vụ cho KSV thuộc VKSND các cấp tiến hành kiểm
sát KNHT nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng theo thẩm
quyền, VKSND tối cao cần ban hành quy trình kiểm sát KNHT nói chung bao gồm
các hoạt động cụ thể của KSV ở từng giai đoạn như sau:
- Các hoạt động kiểm sát ở giai đoạn chuẩn bị KNHT .
+ Phân công KSV tham gia KNHT : Lãnh đạo VKS phải nắm được năng lực,
kinh nghiệm, sở trường của từng KSV và loại hiện trường, tính chất quan trọng, phức
tạp của công tác KNHT từng vụ án cụ thể để phân công KSV tham gia KNHT cho
phù hợp. Về nguyên tắc, kiểm sát việc KNHT phải là KSV của cấp kiểm sát đó, không
được cử cán bộ kiểm sát không có chức danh pháp lý. Cán bộ kiểm sát chỉ là người
giúp việc cho KSV tham gia khám nghiệm. Đối với các vụ giết người không quả tang,
các vụ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thì lãnh đạo VKS phải trực tiếp tham gia khám
nghiệm.
+ Trước khi CQĐT xuống hiện trường, nếu việc KNHT và khám nghiệm tử
thi trùng nhau, thì KSV phải kiểm tra xem đã có quyết định thành lập Hội đồng khám
nghiệm hay chưa, thẩm quyền của người ký quyết định thành lập và thành phần tham
gia Hội đồng khám nghiệm đã đầy đủ và đúng pháp luật chưa. Sở dĩ phải lưu ý những
vấn đề trên, vì trong thực tế CQĐT thường có thiếu sót, nhưkhông phân công ĐTV
mà chỉ cử cán bộ điều tra, chiến sĩ cảnh sát không đủ tư cách pháp lý tham gia Hội
đồng khám nghiệm; không mời nhà chuyên môn tham gia Hội đồng trong trường hợp
63
cần phải có. Nếu gặp những trường hợp nhưvậy, KSV phải yêu cầu CQĐT khắc phục
ngay trước khi tiến hành khám nghiệm. + KSV phải chủ động yêu cầu CQĐT hoặc
gặp gỡ chính quyền địa phương... để nắm một số thông tin cần thiết ban đầu, nhưai
phát hiện ra hiện trường và phát hiện trong hoàn cảnh nào, vị trí, tình trạng hiện
trường có gì bị xáo trộn không, tình trạng nạn nhân, nếu có; công tác bảo vệ hiện
trường đã được bố trí như thế nào và các thông tin ban đầu khác về vụ việc xảy ra...
Trên cơ sở đó, KSV tham gia ý kiến với CQĐT trong việc chuẩn bị khám nghiệm (bố
trí lực lượng, phương tiện, những vấn đề cần giữ bí mật...).
- Các hoạt động của KSV tại hiện trường.
+ Khi đã đến hiện trường, KSV lưu ý CQĐT kiểm tra lại công tác bảo vệ hiện
trường, hỏi xem trong quá trình bảo vệ hiện trường có bị xáo trộn không. Để bảo đảm
việc khám nghiệm được khách quan, KSV phải yêu cầu CQĐT tìm người chứng kiến
cho cuộc khám nghiệm. Căn cứ vào tình trạng của hiện trường, KSV trao đổi với
CQĐT về việc có nên để cho người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội hoặc bị
can, người bị hại, người làm chứng… tham dự việc khám nghiệm hay không...
+ KSV quan sát hiện trường để tham gia ý kiến vào kế hoạch, phương pháp
khám nghiệm, vào việc xác định phạm vi cần khám nghiệm, hướng ra vào hiện trường
của thủ phạm và những loại dấu vết có thể có tại hiện trường. ví dụ nên khám nghiệm
từ nơi nào trước, áp dụng phương pháp hình xoáy tròn ốc hay phương pháp khám
nghiệm theo vòng tròn đồng tâm, hay áp dụng nhiều phương pháp khác nhau… tuỳ
theo đặc điểm của từng loại hiện trường, đặc điểm phân bố đồ vật có trên hiện trường,
không gian của hiện trường, phương tiện, kĩ thuật cần sử dụng và phương pháp phát
hiện, thu giữ, bảo quản dấu vết, vật chứng.
+ Trong quá trình KNHT, KSV phải theo dõi sát các thao tác nghiệp vụ của
ĐTV, cán bộ kỹ thuật hình sự để yêu cầu thực hiện đúng thủ tục tố tụng, phương pháp
khám nghiệm trong việc vẽ sơ đồ, chụp ảnh, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô
hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan
đến vụ án, những đồ vật mẫu vật tài liệu cần thu giữ, bảo quản nguyên trạng để phục
vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ. KSV có nhiệm vụ không chỉ đảm
64
bảo công tác khám nghiệm được tiến hành đúng thủ tục tố tụng, mà còn phải đảm bảo
tính nghiệp vụ cao của hoạt động đó để phát hiện, thu giữ, đánh giá đầy đủ, chính xác
dấu vết vật chứng cần thiết cho công tác điều tra và giải quyết vụ án sau này.
Trong quá trình KNHT và kiểm sát KNHT, giữa ĐTV và KSV cần tích cực
nghiên cứu, trao đổi và dựa trên dấu vết, vật chứng đã thu lượm được để đặt ra các
giả thuyết, tình huống đã xảy ra để tìm kiếm các dấu vết khác…
Ngoài ra, với tính chất đặc thù của hiện trường các vụ TNGTĐB nói chung và
hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, quy trình nghiệp vụ
này cần có nội dung lưu ý đối với KSV khi kiểm sát KNHT loại này, đó là: Đối với
hiện trường vụ tai nạn giao thông khi kiểm sát KNHT , KSV cần chú ý những yếu tố
liên quan đến việc xác định lỗi của các bên tham gia giao thông, như dấu vết để lại
trên hiện trường do từng phương tiện hoặc nạn nhân để lại các yếu tố liên quan đến
phần đường, tốc độ, loại đường (đường có dải phân cách hay không có dải phân cách,
dải phân cách cố định hay không cố định, đường trong hay ngoài đô thị...); đặc điểm
đoạn đường xảy ra tai nạn (đường phẳng hay gồ ghề, trơn trượt, độ dốc, độ nghiêng,
đường thẳng hay đường vòng, có bị hạn chế về tầm nhìn không…); nơi xảy ra tai nạn
có đường giao nhau không, có biển báo hiệu giao thông gì không, hai bên đường có
khu dân cư đông người không, điểm va chạm đầu tiên ở đâu... Tất cả những yếu tố
này có liên quan đến việc xác định người tham gia giao thông có lỗi hay không. Có
thể nói, đối với loại án tai nạn giao thông đường bộ, thì việc đánh giá chứng cứ để
giải quyết vụ việc tuỳ thuộc phần lớn vào biên bản KNHT và sơ đồ hiện trường.
Ba là, ban hành biểu mẫu đánh giá việc thực hiện quy trình kiểm sát KNHT
của KSV các cấp
VKSND tối cao cần nghiên cứu, ban hành biểu mẫu “Phiếu theo dõi, đánh giá
việc thực hiện quy trình kiểm sát KNHT” trên cơ sở quy chế kiểm sát KNHt và quy
trình kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB đã nêu. Trong nội
dung của Phiếu đánh giá này cần liệt kê các công việc cần thiết phải tiến hành trong
quá trình kiểm sát KNHT và nội dung tự đánh giá của KSV về việc thực hiện từng
công việc đó. Đối với những việc đã thực hiện, KSV sẽ đánh dấu xác nhận kết quả.
65
Theo đó, trong quá trình kiểm sát KNHT, KSV có thể tự rà soát, đánh giá việc thực
hiện quy trình kiểm sát để bổ sung, khắc phục những sai, sót trong quy trình kiểm sát
KNHT nói chung và kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng.
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên ngành hữu quan các cấp liên quan
đến công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ
Hoạt động KNHT và kiểm sát KNHT nói chung và các vụ án Vi phạm quy
định về TGGTĐB nói riêng là hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều ngành chức
năng, đặc biệt là Công an và VKSND các cấp. Hoạt động này chỉ đạt được hiệu quả
cao nhất khi có sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất giữa các cá nhân, đơn vị, cơ quan
hữu quan. Theo đó, việc ban hành các văn bản phối hợp liên ngành về hoạt động
KNHT và kiểm sát KNHT ở cấp trung ương cũng như địa phương trong bối cảnh các
đạo luật mới được ban hành (BLTTHS, BLHS năm 2015) là đòi hỏi thực tiễn mang
tính cấp thiết.
Để đáp ứng được đòi hỏi trên, trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền
cần nghiên cứu, ban hành các văn bản liên ngành như sau:
- Ở cấp trung ương, VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ quốc phòng, TAND tối
cao cần ban hành Thông tư liên tịch về giải quyết án xâm phạm trật tự an toàn giao
thông thay thế cho Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-
VKSNDTC-TANDTC ban hành ngày 28/8/2013 trước đây.
- Ở địa phương, VKSND, Công an các tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh cần ban
hành quy chế phối hợp trong giải quyết các vụ TNGTĐB nói chung và các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Trong các quy chế phối hợp cần nêu rõ trách
nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong việc tiếp nhận, xử lý, trao đổi thông tin, kết quả
giải quyết vụ việc theo thẩm quyền và thời hạn việc thực hiện các hoạt động phối hợp
cần thiết giữa các cơ quan đó. Tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm của từng địa phương
mà nội dung mối quan hệ phối hợp có thể khác nhau, tuy nhiên vẫn đảm bảo tính phù
hợp với các văn bản Luật hiện hành và thực tiễn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm tại từng địa phương.
66
Việc thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời các biện pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy
định về TGGTĐB nêu trên sẽ đảm bảo việc áp dụng thống nhất quy định pháp luật
có liên quan đối với từng ngành và liên ngành, qua đó đóng góp quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án này trên thực tế.
3.2. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành; phân công, bố trí cán bộ thực hiện
hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
3.2.1. Đề cao vai trò, trách nhiệm quản lý, kiểm tra, chỉ đạo hoạt động nghiệp
vụ, bố trí cán bộ của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong công tác giải
quyết án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Đểhoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên
địa bàn quận Thủ Đức trong 5 năm vừa qua đạt được những kết quả như đã phân tích
tại Chương 2 của đề tài này, không thể bỏ qua vai trò quan trọng của Lãnh đạo
VKSND địa phương trong công tác quản lý, kiểm tra, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp
vụ. Theo đó, Lãnh đạo đơn vị càng thể hiện tốt chức trách của mình bao nhiêu thì kết
quả các hoạt động nghiệp vụ của KSV cấp dưới nói chung và hoạt động kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng càng đạt hiệu quả cao bấy
nhiêu. Chính vì thế, để nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới, bên cạnh
việc tiếp tục phát huy những ưu điểm trong công tác đã đạt được, Lãnh đạo VKSND
địa phương cần quan tâm đến những biện pháp cụ thể sau đây:
Một là, trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các
vụ án hình sự nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐBnói riêng, Lãnh
đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải nêu cao trách nhiệm, đặc biệt là người đứng
đầu. Viện trưởng VKSND các cấp cần phải áp dụng các biện pháp quản lý, chỉ đạo,
điều hành một cách quyết liệt để khắc phục các hạn chế, tồn tại trong hoạt động nghiệp
vụ; phải quán triệt và thực hiện đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ quy định trong
BLTTHS, Quy chế nghiệp vụ của ngành và các chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối
cao việc thực hiện các yêu cầu nghiệp vụ cần lưu ý những kinh nghiệm thực tế đối
67
với loại tội phạm này.
Hai là, Lãnh đạo các đơn vị VKSND cấp huyện, cấp tỉnh phải chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên trong việc đề ra yêu cầu
điều tra và kiểm sát việc thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng trong các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB. Lãnh đạo VKSND các cấp phải chỉ đạo công việc một
cách quyết liệt và thực sự thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình đối với công việc,
phải khách quan khi xem xét ý kiến đề xuất của KSV,nhất là các ý kiến trái với quan
điểm của Lãnh đạo đơn vị.
Ba là, Lãnh đạo các đơn vị kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện quy trình kiểm sát
KNHT của KSV. Bên cạnh đó,Lãnh đạo VKS địa phương cần có sự chỉ đạo thường
xuyên, bám sát với hoạt động tại hiện trường của KSV, kiểm tra việc thực hiện công
việc của KSV được phân công, bố trí phương tiện, điều kiện thuận lợi để KSV đến
hiện trường nhanh, đảm bảo công tác kiểm sát đạt hiệu quả. KSV phải báo cáo thường
xuyên để nhận được sự chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo VKS, sau cuộc khám nghiệm
KSV phải có trách nhiệm báo cáo chi tiết, tỷ mỷ tiến trình và kết quả cuộc khám
nghiệm cho lãnh đạo Viện trực tiếp của mình biết.
3.2.2. Đổi mới trong việc phân công, bố trí cán bộ phù hợp năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ
Trên cơ sở đánh giá cán bộ, Lãnh đạo VKSND cần ưu tiên sắp xếp, bố trí KSV
có trình độ, năng lực chuyên môn và khả năng phù hợp làm nhiệm vụ kiểm sát KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, đặc biệt là kiểm sát KNHT các vụ TNGT
có người chết. Đó phải là những KSV bản lĩnh, sắc sảo, có phương pháp và khả năng
quan sát hiện trường, suy luận, phân tích, tổng hợp, đánh giá chứng cứ tốt; nắm chắc
quy định pháp luật về thu thập, bảo quản dấu vết, vật chứng, am hiểu về khoa học
điều tra hình sự, linh hoạt trong giao tiếp, ứng xử. Ngoài ra, Lãnh đạo KSV các cấp
có thể bố trí thêm một cán bộ, KSV chưa có kinh nghiệm đi cùng để học hỏi kinh
nghiệm của KSV trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ kiểm sát KNHT.
Những cán bộ, KSV đã được đào tạo, có kinh nghiệm về giải quyết án về giao
thông đường bộ cần được phân công phụ trách hoạt động kiểm sát KNHT các vụ
68
TNGT có người chết ngay từ ban đầu và phối hợp tham gia kiểm sát KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGT khởi tố muộn do người bị nạn chết sau đó hoặc chờ
kết quả giám định tài sản bị thiệt hại.
3.3. Nâng cao nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ và kiện toàn đội ngũ Kiểm sát
viên tại Viện kiểm sát nhân dân địa phương đảm bảo yêu cầu công tác giải quyết
các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Để nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ đối với cách mạng và công
cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước, Bác Hồ từng nói“Cán bộ là gốc của mọi công việc”
[48]. Theo đó, hiệu quả của bất kỳ công việc gì đều xuất phát từ nền tảng chất lượng
của đội ngũ cán bộ thực hiện. Hiệu quả của hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi
phạm quy định về TGGTĐB cũng không ngoại lệ. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu
quả kiểm sát KNHT các vụ án này trong thời gian tới, đội ngũ cán bộ, KSV của
VKSND các địa phương cần từng bước kiện toàn cả về số lượng và chất lượng, thông
qua những biện pháp như sau:
3.3.1. Nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Kiểm
sát viên về kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
Năng lực chuyên môn nghiệp vụ trong đó bao gồm cả nghiệp vụ kiểm sát và
các kiến thức về khoa học kỹ thuật hình sự và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ KSV
làm công tác kiểm sát KNHT luôn luôn là yếu tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả
của công tác này. Vì vậy, không thể nâng cao chất lượng công tác kiểm sát KNHT
nếu không chú ý đến việc nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, nhận thức và
tinh thần trách nhiệm của đội ngũ ĐTV, KSV làm công tác này. Việc nâng cao năng
lực chuyên môn nghiệp vụ, nhận thức và tinh thần trách nhiệm của KSV khi thực hiện
kiểm sát KNHT cần phải được thể hiện trong thực tiễn công tác hàng ngày với tinh
thần cụ thể sau:
- Mỗi KSV nhận thức một cách cụ thể, rõ ràng về vai trò, ý nghĩa của hoạt
động kiểm sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng, làm nền tảng định hướng cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm sát
69
KNHT khi được phân công. Theo đó, cán bộ, KSV cần nhận thức được rằng: Hoạt
động kiểm sát KNHT có mối quan hệ biện chứng, mật thiết với việc thực hiện chức
năng công tác thực hành quyền công tố của VKSND các cấp trong quá trình giải quyết
các vụ án cụ thể. Theo đó, hoạt động kiểm sát KNHT được thực hiện tốt, kịp thời phát
hiện các hành vi, quyết định vi phạm pháp luật của cơ quan, cá nhân, tổ chức có liên
quan đến hoạt động KNHT để yêu cầu khắc phục, sửa chữa sẽ ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả giải quyết VAHS. Nếu KSV không kiểm sát chặt chẽ quá trình KNHT sẽ dễ
dẫn đến những khó khăn, bế tắc cho quá trình giải quyết VAHS, thậm chí để xảy ra
oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
- Mỗi KSV cần quán triệt, nghiêm túc thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND, quy trình và các hoạt động nghiệp
vụ theo quy chế ngành Kiểm sát.
Kết quả của công tác kiểm sát KNHT có vai trò quan trọng trong quá trình
điều tra các vụ án hình sự. Kết quả của hoạt động này phụ thuộc rất nhiều vào năng
lực, khả năng cảm nhận, tư duy của KSV khi thực hiện nhiệm vụ được phân công.
Tuy nhiên, công việc kiểm sát KNHT trong từng vụ việc chỉ có thể tiến hành một lần
và không thể làm lại do tính chất dễ biến đổi của hiện trường. Do đó, việc nâng cao
năng lực của KSV trở thành một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng
cao hiệu quả của công tác kiểm sát KNHT trong các VAHS nói chung và các vụ án
Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Để nâng cao năng lực, trách nhiệm của
KSV đối với hoạt động kiểm sát KNHT nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB nói riêng, có thể áp dụng các biện pháp cụ thể sau:
Một là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ, Kiểm sát viên
Để hoạt động kiểm sát KNHT được tốt thì các KSV cũng phải nắm được những
kiến thức và am hiểu về các hoạt động điều tra tại hiện trường. Theo đó, hai đơn vị
đào tạo của ngành Kiểm sát là Trường Đại học kiểm sát Hà Nội và Trường đào tạo,
bồi dưỡng nghiêp vụ kiểm sát thành phố Hồ Chí Minh cần chú trọng hơn nữa đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về khoa học điều tra hình sự và kỹ năng kiểm
70
sát KNHT. Theo đó, các biện pháp cụ thể cần được quan tâm, thực hiện đó là: Đầu tư
thỏa đáng cho khoa Tội phạm học và Điều tra tội phạm của trường, cả về con người
là đội ngũ cán bộ, giảng viên và cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công
tác đào tạo nói chung và hoạt động kiểm sát KNHT nói riêng; Đầu tư xây dựng giáo
trình, mời giảng viên có kinh nghiệm, trình độ để đào tạo chuyên sâu các kỹ năng
kiểm sát KNHT; khám nghiệm tử thi; kỹ năng đề ra yêu cầu điều tra; xây dựng chương
trình bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức khoa học điều tra nói chung và đối với tội
phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng; Thường xuyên mở các lớp tập huấn,
bồi dưỡng ngắn hạn về công tác KNHT cho đội ngũ cán bộ của VKSND các cấp, đặc
biệt là các cán bộ có chức danh KSV. VKSND tối cao cần tổ chức thường xuyên các
cuộc hội thảo theo chuyên đề về công tác kiểm sát KNHT, khám nghiệm tử thi đối
với từng nhóm tội danh và để tạo điều kiện cho các VKSND địa phương học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau, tìm biện pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc ở từng địa
phương.
Ngoài ra, công tác tự đào tạo tại đơn vị, việc tự đào tạo của từng cá nhân cán
bộ, KSV cũng cần được quan tâm, chú ý hơn. VKS các địa phương cần lựa chọn, xây
dựng hồ sơ kiểm sát các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB điển hình được xem
là các vụ án mẫu để cán bộ, KSV học tập rút kinh nghiệm; chú trọng công tác tổng
kết thực tiễn, xây dựng chuyên đề rút kinh nghiệm để tổ chức những lớp tập huấn
chuyên đề hoặc bồi dưỡng chuyên sâu nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cho cán bộ
KSV để phục vụ yêu cầu công tác; tổ chức sinh hoạt nghiệp vụ khi có Thông báo rút
kinh nghiệm qua những vụ án khi cấp trên hủy, sửa hoặc những vấn đề cần rút kinh
nghiệm thông qua vụ án cụ thể đã giải quyết nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc
thu thập bảo quản dấu vết, vật chứng nói chung và công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB.
Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, Kiểm sát viên cần tự bổ sung kiến thức cho mình về
KNHT và kiểm sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB nói riêng, qua đó từng bước nâng cao hơn nữa kiến thức, kỹ năng, kinh
71
nghiệm nghề nghiệp trong giải quyết VAHS.
Hai là, tăng cường trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, đơn vị và cán
bộ, KSV.
Thực tiễn giải quyết án hình sự nói chung và án Vi phạm quy định về TGGTĐB
nói riêng ở từng địa phương, đơn vị rất đa dạng, phong phú. Do đó, việc tăng cường
trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, đơn vị trong giải quyết loại án này góp
phần hạn chế những sai phạm, hạn chế có thể xảy ra trong hoạt động kiểm sát KNHT,
khám nghiệm tử thi, qua đó nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc giải quyết loại án này. Các hoạt động trao đổi kinh nghiệm có thể thực hiện
thông qua việc đăng tải các thông tin hoạt động nghiệp vụ của VKS các địa phương,
hoặc có thể thông qua việc tổ chức các buổi hội thảo trong từng địa phương, từng cấp,
ngành về giải quyết án giao thông có sự tham gia của nhiều thành phần, từ đó các
thông tin, kinh nghiệm, khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết án giao thông
nói chung, trong hoạt động kiểm sát KNHT nói riêng được trao đổi và được chia sẻ
giữa các đơn vị, các ngành, các cấp.
Ba là, áp dụng chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật kịp thời, phù hợp với
KSV trực tiếp làm công tác kiểm sát KNHT
Mặc dù việc thực hiện chế độ, chính sách đối với KSV trực tiếp tham gia kiểm
sát KNHT đã được quan tâm hơn trước; tuy nhiên với đặc thù và điều kiện của hoạt
động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, đòi hỏi chế độ chính
sách đãi ngộ đặc biệt hơn để động viên cán bộ thực hiện hết trách nhiệm của mình.
Do đó, Lãnh đạo VKSND tối cao cần quan tâm đến chính sách phụ cấp đặc thù (phụ
cấp độc hại) cho KSV làm nhiệm vụ kiểm sát KNHT, kiểm sát khám nghiệm tử thi
trong các vụ án hình sự nói chung và án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng.
Ngoài ra, lãnh đạo các cơ quan đơn vị cần quan tâm hơn nữa đến công tác khen
thưởng, kỷ luật cán bộ. Theo đó, đối với những cá nhân có trách nhiệm, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao cần được lãnh đạo quan tâm, động viên kịp thời, đúng mức.
Đối với những trường hợp cá biệt, có vi phạm trong thực hiện nhiệm vụ, Lãnh đạo
đơn vị cần nghiêm khắc xử lý, rút kinh nghiệm trong bộ phận và đơn vị. Đối với
72
những vi phạm có dấu hiệu tội phạm, lãnh đạo cán đơn vị cần thận trọng xem xét,
đánh giá tính chất vụ việc, đồng thời nghiêm túc thu thập các chứng cứ, tài liệu cụ
thể để báo cáo và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm theo pháp luật.
3.3.2. Tăng cường, bổ sung biên chế cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp, đặc
biệt là biên chế cán bộ có chức danh Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện
Hiệu quả, chất lượng hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB nói riêng và các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ khác luôn phụ thuộc
vào chất lượng cán bộ. Tuy nhiên, thực trạng nguồn nhân lực của VKSND các cấp,
đặc biệt là VKSND cấp huyện trên địa bàn quận Thủ Đức đã cho thấy, một trong
những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động kiểm sát KNHT trong các vụ
án này là đội ngũ cán bộ, KSV hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Vì vậy,
để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát KNHT, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
được giao, trước mắt, VKSND tối cao cần nhanh chóng bổ sung biên chế, kiện toàn
tổ chức của VKSND các cấp, đặc biệt là VKSND cấp huyện. Việc bổ sung biên chế
cán bộ, KSV có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: Tổ chức thi
tuyển công chức, biên chức (ưu tiên tuyển chọn những người được đào tạo đúng
chuyên ngành Luật hay Điều tra tội phạm); thực hiện việc sắp xếp, bố trí luân chuyển,
điều động cán bộ, KSV đúng với vị trí việc làm để sử dụng hiệu quả hơn… VKSND
cấp huyện còn chưa được bố trí đủ biên chế và số lượng cán bộ có chức danh KSV
cần chủ động kiến nghị với các VKSND tối cao để được bổ sung thêm nhân sự.
Cùng với việc tăng cường nhân lực cho VKSND các cấp, việc nâng cao chất
lượng cán bộ, KSV trước hết là phải đảm bảo được chất lượng “đầu vào”. Do đó, việc
xét tuyển, thi tuyển công chức ngành Kiểm sát nhân dân phải thực hiện nghiêm túc,
bảo đảm tuyển dụng đúng cán bộ theo tiêu chuẩn, yêu cầu đối với từng vị trí việc làm.
Như vậy, để nâng cao nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên và
kiện toàn đội ngũ cán bộ, KSV của VKSND các địa phương có thể được thực hiện
bằng nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó, mỗi biện pháp đều có tác động riêng đến
số lượng cũng như chất lượng của đội ngũ cán bộ trước yêu cầu thực tiễn đấu tranh
73
phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB nói
riêng. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu về kiện toàn đội ngũ cán bộ, VKSND các
cấp không chỉ dựa trên việc thực hiện một hay một số các giải pháp nêu trên một cách
gấp rút, vội vàng. Những biện pháp này cần được nghiên cứu và tổ chức thực hiện
một cách đồng bộ, nhịp nhàng, phù hợp với điều kiện thực tiễn trong giai đoạn khác
nhau.
3.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết
bị phục vụ hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
3.4.1. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong
công tác khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB là hoạt động liên
quan đến nhiều cơ quan, lực lượng, cá nhân khác nhau. Mối quan hệ phối hợp giữa
các chủ thể này càng chặt chẽ, nhịp nhàng, linh hoạt thì càng đảm bảo hiệu quả kiểm
sát KNHT trên thực tế. Do đó ,theo tác giả, trong thời gian tới, trong thời gian tới,
mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể cần được quan tâm, tăng cường hơn không
chỉ trong phạm vi đơn ngành Kiểm sát mà còn mở rộng ở mối quan hệ với các ngành
chức năng khác, cụ thể như sau:
Trước hết,VKSND các cấp cần quan tâm, đổi mới hoạt động nghiệp vụ của
KSV khi tiến hành kiểm sát KNHT bởi KSV trực tiếp tham gia kiểm sát KNHT là
người thiết lập quan hệ phối hợp với ĐTV, cán bộ kỹ thuật hình sự, chuyên gia ngay
trong quá trình KNHT. Theo đó, trong quá trình tiến hành kiểm sát KNHT, KSV phải
vừa thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ĐTV, Giám định viên và
những người tham gia tố tụng tại hiện trường vừa có sự phối hợp trong việc đưa ra
những ý kiến góp ý vào thủ tục, trình tự và phương pháp khám nghiệm, phát hiện, thu
thập dấu vết, vật chứng, đề ra yêu cầu đối với ĐTV, Giám định viên, Kỹ thuật viên
tiến hành những biện pháp nghiệp vụ để xác minh, thu thập những tình tiết có liên
74
quan đến vụ án.
Ngoài ra, một số biện pháp cụ thể dưới đây cũng cần được thực hiện nhằm
nâng cao hiệu quả kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, đó là:
- Các đơn vị kiểm sát thông qua họp liên ngành, họp giao ban với CQĐT cùng
cấp, cần bàn bạc, thống nhất các quy định về việc cung cấp thông tin cần thiết, đảm
bảo tất cả các vụ việc trước khi tiến hành KNHT đều được CQĐT thông báo kịp thời
cho VKS và VKS có đủ thời gian tham gia kiểm sát KNHT.
- Các cơ quan, lực lượng hữu quan như Cơ quan điều tra, Cảnh sát giao thông,
Kỹ thuật hình sự cần quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và ý thức, tinh thần trách nhiệm trong khi tiến hành các hoạt động
KNHT và quan hệ phối hợp với VKSND trong KNHT. Đặc biệt, trong thời gian tới
Bộ công an cần nhanh chóng ban hành quy định chính thức thay thế cho Thông tư số
76/2011-BCA ngày 22/11/2011 đã không còn phù hợp với quy định pháp luật hiện
hành, trong đó quy định rõ trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát giao thông trong việc
KNHT các vụ TNGT không có người chết và chưa xác định được hậu quả cụ thể cũng
như quan hệ phối hợp với CQĐT và VKSND trong trường hợp cần thiết.
3.4.2. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác kiểm
sát khám nghiệm hiện trường
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định
về TGGTĐB, không thể bỏ qua việc khắc phục những hạn chế về cơ sở, vật chất,
trang thiết bị phục vụ hoạt động này của VKSND các cấp. Theo đó, trong thời gian
tới, Lãnh đạo VKSND cần quan tâm nhiều hơn nữa đến môi trường làm việc, điều
kiện làm việc, cơ chế làm việc đề công việc được tiến hành có hiệu quả, tạo sự hưng
phấn, hăng say làm việc đối với cán bộ, KSV trong cơ quan. Các biện pháp cụ thể
cần được tiến hành đó là:
- Lãnh đạo VKS địa phương cần quan tâm đầu tư những trang thiết bị phục vụ
cho công tác kiểm sát KNHT như: khẩu trang, găng tay, mũ... đảm bảo tránh hiện
tượng lây lan, truyền nhiễm bệnh tật có thể xảy ra trong quá trình kiểm sát KNHT.
- VKSNDTC cần trang bị đầy đủ, đồng bộ các phương tiện kỹ thuật cần thiết
75
phục vụ cho hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường của VKS các địa phương như:
máy chụp ảnh; máy quay camera, máy ghi âm, ghi hình, đèn chiếu... giúp KSV ghi
nhận lại quá trình KNHT để sau này làm cơ sở đối chiếu, so sánh với những tài liệu
CQĐTchuyển sang, đảm bảo tính đúng đắn, sự tin cậy của những chứng cứ, tài liệu
đó. Ngoài ra, VKSNDTC cũng cần trang bị phương tiện giao thông đi lại, phương
tiện liên lạc giúp KSV nhanh chóng, kịp thời có mặt ngay tại hiện trường vụ việc
khám nghiệm để tiến hành những phần công việc của mình theo quy định của pháp
luật, không để hiện tượng đến muộn, đến khi đã kết thúc cuộc khám nghiệm hoặc
phải đi nhờ Cơ quan điều tra, không chủ động, độc lập trong công việc.
Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp này sẽ góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả, chất lượng kiểm sát KNHT nói chung và kiểm sát KNHT các vụ
án Vi phạm quy định về TGGTĐB trong thời gian tới không chỉ trên địa bàn quận
Thủ Đức mà còn ở các địa phương khác trên cả nước.
Tiểu kết Chương 3
Từ kết quả phân tích thực trạng hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm
quy định về TGGTĐB trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM, Luận văn đã đưa những
giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án này.
Các nhóm giải pháp được để xuất bao gồm: Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
có liên quan; Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành; phân công, bố trí cán bộ; Kiện
toàn đội ngũ cán bộ của VKSND địa phương đặc biệt là VKSND cấp huyện; Tăng
cường mối quan hệ phối hợp trong hoạt động KNHT và tăng cường đầu tư cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị phục vụ hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án
Vi phạm quy định về TGGTĐB. Việc thực hiện một cách đồng bộ những nhóm giải
pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB không chỉ ở địa bàn quận Thủ Đức,
TP.HCM mà còn có thể áp dụng ở các địa phương khác trên cả nước, qua đó qua đó
gớp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm Vi phạm quy định về TGGTĐB
76
trong thời gian tới .
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, tình hình tội phạm nói chung, tội phạm vi phạm quy
định về TGGTĐB nói riêng trên địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM có nhiều diễn biến
phức tạp. Việc giải quyết các vụ án này vẫn còn những hạn chế nhất định có liên quan
đến hiệu quả của hoạt động kiểm sát KNHT ngay từ khi tiếp nhận tin báo. Vì vậy,
việc nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát KNHT
trong các vụ án này có ý nghĩa rất thiết thực đối với công tác giải quyết các VAHS
của VKSND quận Thủ Đức, TP.HCM.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực trạng
về hoạt động kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB trên địa bàn
quận Thủ Đức, TP.HCM từ năm 2015 đến năm 2019, Luận văn đã thống nhất nhận
thức về một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động kiểm sát KNHT, đánh giá
những kết quả, hạn chế trong thực tiễn tổ chức, tiến hành hoạt động kiểm sát KNHT
các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB và nguyên nhân. Từ đó, Luận văn đã đề
xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB từ thực tiễn quận Thủ Đức,
TP.HCM.
Những kết quả nghiên cứu nêu trên có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo cán bộ, KSV, phục vụ công tác
nghiên cứu hoàn thiện pháp luật; góp phần nâng cao vai trò của Viện KSND trong
việc xử lý loại tội phạm này.
Những kết quả đã đạt được trong Luận văn này phần nào cho thấy được sự nỗ
lực, cố gắng của bản thân tác giả; sự giúp đỡ của các thầy cô, các nhà khoa học, các
đồng nghiệp trong ngành Kiểm sát và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tâm của PGS.TS
Nguyễn Thị Phương Hoa. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu và khả năng của bản
thân còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học và các đồng nghiệp để
77
luận văn được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban biên tập tạp chí Kiểm sát (2012) “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”,
Tạp chí Kiểm sát, sốchuyên đề, tr.01-50;
2. Nguyễn Thanh Bình (2011) “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
khám nghiệm hiện trường trong các vụ tai nạn giao thông”, Tạp chí Kiểm sát, số
13, tr.36-41;
3. Bộ Chính trị (2000) Chỉ thị số 53-CT/TW về một số công việc cấp bách của các
cơ quan tư pháp cần thực hiện, ban hành ngày 21/3/2000, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/10/2002, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban
hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị (2010) Kết luận số 79-KL/TW về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, ban hành ngày 28/7/2010, Hà Nội.
8. Bộ Công an (2011) Thông tư số 76/2011-BCA quy định phân công trách nhiệm
và quan hệ phối hợp trong công tác điều tra, giải quyết tai nạn giao thông của
lực lượng cảnh sát nhân dân, ban hành ngày 22/11/2011, Hà Nội.
9. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013)Thông tư liên tịch số 06/TTLT hướng
dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành ngày 2/8/2013, Hà Nội.
10. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
78
thôn - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) Thông tư liên tịch số 01/TTLT hướng
dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành ngày 29/12/2017, Hà Nội.
11. Bộ Giao thông vận tải (2009)Thông tư số 13/2009/TT-BGTVT quy định về tốc độ
và khoảng cách của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường
bộ, ban hành ngày 17/7/2009, Hà Nội.
12. Công an quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (2015-2019), Số liệu thống kê
liên quan đến án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa
bàn, TP.HCM.
13. Ngô Văn Đọn (Chủ biên) (2004) Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp
và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công
tác kiểm sát hình sự, Đề tài khoa học cấp Bộ, VKSND tối cao;
14. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006)Nghị quyết số 01/2006/NQ-
HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số Điều của Bộ luật hình sự, ban hành
ngày 12/5/2006, Hà Nội.
15. Nguyễn Danh Hưng (2007) “Một số tồn tại và giải pháp nâng cao chất lượng
kiểm sát việc khám nghiệm hiện trừơng”, Tạp chí Kiểm sát, số 10, Tr.24-30.
16. Cao Thị Oanh (2010) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
17. Đinh Văn Quế (2005) Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật Hình sự, phần các
tội phạm – Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông, Nxb Tổng hợp,
Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003)Bộ luật tố tụng hình
sự, ban hành ngày 26/11/2013, Hà Nội.
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008) Luật giao thông
đường bộ Việt Nam, ban hành ngày 13/11/2008, Hà Nội.
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009) Bộ luật hình sự, Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, ban hành ngày
79
19/6/2009, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014) Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân,ban hành ngày 24/11/2014, Hà Nội;
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015)Bộ luật hình sự, ban
hành ngày 27/11/2015, Hà Nội;
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017)Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội;
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015) Bộ luật tố tụng hình
sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.
26. Lê Hữu Thể (2003) Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, VKSND tối cao;
27. Lê Hữu Thể chủ biên (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
28. Nguyễn Quang Tuấn (2016) Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh, Luận văn
thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội;
29. Nguyễn Minh Tuấn (2017) “Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành khám nghiệm
hiện trường các vụ TNGTĐB xảy ra vào ban đêm”, Tạp chí Kiểm sát, số 16, tr.
47-52;
30. Nguyễn Văn Tuyên (2018) Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa
học xã hội, Hà Nội.
31. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2011) “Kiểm sát khám nghiệm hiện trường và một số giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường
của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Nghề luật, số1, tr.15-19;
32. Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (2016) Báo cáo chuyên đề “Án
hình sự do Viện kiểm sát truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội hoặc hủy
80
để điều tra, xét xử lại thuộc các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam”,TP.HCM;
33. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008) Quyết địnhsố 07/2008/QĐ-VKSTC về ban
hành Quy chế Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự, ban hành ngày 02/01/2008,Hà Nội.
34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 ban hành Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, ban hành ngày 29/12/2017, Hà Nội.
35. Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (2015-2018)
Thống kê khởi tố, truy tố, xét xử vụ án hình sự 2015- 2019, TP.HCM.
36. Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (2015-2018),
Báo cáo tổng kết công tác năm 2015- 2019, TP.HCM.
37. Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (2015-2019),
30 hồ sơ Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình
sự liên quan đến vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ,
TP.HCM.
38. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo chuyên đề
“Nâng cáo chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm an toàn giao thông đường bộ tại Thành phố Hồ
Chí Minh”, TP.HCM.
39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014) Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ban hành
Quy chế về công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thực nghiệm điều tra, việc tiến hành giám định, ban hành ngày 17/10/2014, Hà
Nội;
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018) Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ban hành
Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định, ban hành
ngày 02/25/2018, Hà Nội;
41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2005) Thông tư
81
số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện
kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, ban hành ngày 07/9/2005, Hà Nội;
42. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng (2008) Thông tư
liên tích số 01/2008/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT
và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS, ban hành
ngày 20/10/2008, Hà Nội.
43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006) Sổ tay Kiểm sát viên hình sự Việt Nam,
ban hành năm 2006, Hà Nội.
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2018) Thông tư số
04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm
sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, ban hành
ngày 19/10/2018, Hà Nội;
45. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013)Giáo trình luật hình sự Việt Nam -Phần các tội
phạm, Nxb Tư pháp Hà Nội;
46. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013) Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
47. X.Y.Z - Hồ Chí Minh (1947) Sửa đổi lối làm việc, Nxb Sự thật, Hà Nội;
48. Nguyễn Thị Yến (2015) Hoạt động điều tra khám nghiệm hiện trường trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Đại học Quốc gia Hà Nội;
49. Nguyễn Xuân Yêm tổng chủ biên (2000) Khoa học hình sự Việt Nam – Tập 2:
Kỹ thuật hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội;
50. Nguyễn Xuân Yêm tổng chủ biên (2000) Khoa học hình sự Việt Nam – Tập 3:
82
Chiến thuật hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.