VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ THANH DUNG

KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ

KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ THANH DUNG

KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT, TỐ GIÁC, TIN

BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC

TIỄN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số:8380104

TIẾN SĨ BÙI THỊ HẠNH

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

Hoàng Thị Thanh Dung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5

3.1. Mục đích .................................................................................................. 5

3.2. Nhiệm vụ ................................................................................................. 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 6

4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 6

4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .......................... 6

5.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 6

5.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ....................................................................... 7

6.1. Ý nghĩa lý luận ........................................................................................ 7

6.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN,

GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM .......................................... 8

VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ ................................................................................ 8

1.1. Khái niệm ................................................................................................ 8

1.1.1. Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ............ 8

1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố ......................................................................... 11

1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ........................................................ 13

1.3. Mối quan hệ giữa kiểm sát với thực hành quyền công tố trong giai đoạn

giải quyết nguồn tin về tội phạm ................................................................... 17

1.4. Nội dung kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố ....................................................................................... 20

1.4.1. Kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố ................................................................................................ 21

1.4.2. Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,kiến nghị

khởi tố ................................................................................................ 26

1.4.3. Kiểm sát kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố ........................................................................................ 31

Tiểu kết chương I ............................................................................................. 34

Chương 2. THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT ..... 35

TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, ............................................... 35

TỈNH THANH HÓA ........................................................................................ 35

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện

Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ........................................................................... 35

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh

Hóa ............................................................................................................ 35

2.1.2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh

Thanh Hóa ................................................................................................. 37

2.1.3. Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa

từ năm 2015 đến 2019 ............................................................................... 38

2.2. Thực trạng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố ở Viện kiển sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh

Thanh Hóa .................................................................................................... 40

2.2.1. Kết quả và nguyên nhân trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .......................................... 40

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .......................................... 50

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 60

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM

SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM

VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .................... 61

HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA ..................................................... 61

3.1. Quan điểm về nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ......................................... 61

3.2. Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát

nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ................................................ 64

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và tổ chức hướng dẫn thi hành các

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động kiểm sát

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .... 64

3.2.2. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm

của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ............................................................ 67

3.2.3. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho ngành

Kiểm sát nhân dân,đồng thời hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán

bộ, Kiểm sát viên ....................................................................................... 69

3.2.4. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ .................................................... 70

3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan

điều tra và các chủ thể khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .......................................... 71

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 74

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự :

CQĐT Cơ quan điều tra :

ĐTV : Điều tra viên

KSV Kiểm sát viên :

VKS : Viện kiểm sát

VKSND Viện kiểm sát nhân dân :

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 2.1 Số liệu thống kê của VKSND huyện Thọ Xuân từ năm 2015-2019 ... 41

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, đất

nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Kinh tế ngày

càng phát triển, chính trị, văn hóa và xã hội ngày một ổn định, đời sống của

nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, kinh tế phát triển kéo theo

những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, những năm gần đâytình hình

tội phạm có xu hướng gia tăng, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về an ninh,

chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Thọ Xuân là một huyện lớn của tỉnh Thanh Hóa, có vị trí tiếp giáp với

nhiều huyện khác trong tỉnh và là khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền

núi của Thanh Hóa. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi để các đối tượng lợi

dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Trong những năm gần đây, số vụ án

mới được khởi tố hàng năm trên địa bàn huyện Thọ Xuân có chiều hướng gia

tăng, tính chất các vụ án ngày càng phức tạp. Phương thức, thủ đoạn phạm tội

không những tinh vi, xảo quyệt hơn mà tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã

hội cũng ngày càng lớn hơn. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng

gây khó khăn thách thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử nói riêng, trong đấu tranh phòng chống tội

phạm nói chung.

Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là

giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là giai đoạn có ý

nghĩa vô cùng quan trọng vì nếu thực hiện không tốt các chức năng, nhiệm vụ

thì nguy cơ có thể dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm và những hậu quả đó không

thể khắc phục được ở các giai đoạn tố tụng sau này. Vì vậy, đây là giai đoạn có

ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng hình sự nhưng cũng là giai đoạn vô cùng

khó khăn, nhạy cảm.

1

Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngành Kiểm sát nhân dân nói chung,

VKSND huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa nói riêng luôn dành tất cả những

nguồn lực tốt nhất cho các công tác thực hiện chức năng trong giai đoạn giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Vì vậy, trong những

năm qua, hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm

và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Thọ Xuân đã đạt được những thành quả

nhất định, góp phần vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án này có

căn cứ, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội; góp phần

đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động trên đây còn có một số

hạn chế dẫn đến một số vụ việc còn vi phạm thời hạn giải quyết; việc xác minh

nguồn tin tội phạm của cơ quan có thẩm quyền đôi khi chưa tích cực và triệt

để, dẫn đến việc xử lý chậm, chất lượng chưa cao; việc quản lý tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố ở một số KSV còn yếu, chưa kịp thời, còn thụ

động, lúng túng về phương pháp. Trong khi đó, chưa có công trình khoa học

nào nghiên cứu trực tiếp về hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn

tin về tội phạm trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Vì vậy, để tiếp tục nâng cao chất

lượng, hiệu quả kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố thì việc nghiên cứu về vấn đề này có ý nghĩa cấp thiết, nhằm

làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra giải pháp cơ bản

để nâng cao hiệu quả công tác này trên địa bàn huyện Thọ Xuân.

Từ những lý do nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài“Kiểm sát việc tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn

huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa”làm luận văn Thạc sĩ luật học để góp phần

giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2

Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về vấn

đề kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị

khởi tố nói chung đã được triển khai sâu rộng và đã thu hút được sự quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và các cán bộ làm thực tiễn.

Tiêu biểu là các công trình sau đây:

- Nguyễn Phúc Long: “Áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Cơ quan

điều tra cùng cấp ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, Học viện chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, năm 2011;

- Nguyễn Văn Vĩnh: “Tiếp nhận, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang”,

Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2013;

- Đặng Đình Vang: “Cơ sở lý luận và thực tiễn trong kiểm sát giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn thạc sỹ luật, Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2015;

- Nguyễn Quốc Hưng: “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và thực tiễn công tác trên địa bàn thị xã Phổ Yên,

tỉnh Thái Nguyên”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016;

- Nguyễn Đoàn Dũng: “Trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm theo pháp luật tố tụng hình sự Viiệt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây

Ninh”, Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2017;

- Bùi Mạnh Cường: “Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng,

hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, tháng 01/2011;

3

- Lê Minh Long: “Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong

giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm giết người”,

Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2012;

- Một số bài học kinh nghiệm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công

tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố -

VKSND tối cao (Cổng thông tin điện tử VKSND tối cao);

- Lê Ra: “Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm”, Tạp chí Kiểm

sát, tháng 7/2014;

- Trương Văn Chung: “Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc trong

việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm

sát, tháng 5/2015;

- “Những bất cập trong hoạt động kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội

phạm và kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí kiểm sát, năm 2016;

- Bùi Mạnh Cường: “Những vấn đề cơ bản về thực hành quyền công tố,

kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát, số

19/2017.

- Lưu Xuân Sang (2017) “Quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng

trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và

kiểm sát hoạt động này ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện”, Tạp chí Kiểm

sát, số 19.

- Nguyễn Tiến Long (2017) “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, Tạp chí Kiểm sát, số 19.

- Nguyễn Đăng Khoa (2017) “Kết quả và một số kinh nghiệm trong kiểm

sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tại tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí Kiểm

sát, số 19.

4

- Nguyễn Văn Hòa (2017) “Làm tốt nhiệm vụ tham mưu với cấp ủy, tăng

cường sự lãnh đạo đối với việc xử lý, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, số 19.

- Trương Văn Chung (2017) “Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc

trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí

Kiểm sát, số 10.

Các công trình nói trên đều nghiên cứu vấn đề giải quyết hoặc thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy

nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về kiểm sát giải quyết tố

giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Vì

vậy, kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên là tài liệu tham khảo có giá

trị cho tác giả khi nghiên cứu đề tài này, cung cấp những luận chứng quan trọng

để tác giả tiếp tục nghiên cứu trên ở một địa bàn cụ thể như huyện Thọ Xuân,

tỉnh Thanh Hóa.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, luận văn nghiên

cứu một số giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng công tác này trên địa

bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ

Với mục đích trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

- Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của VKSND.

- Thứ hai, làm rõ một số vấn đề về thực trạng kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở huyện Thọ Xuân,

tỉnh Thanh Hóa trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trong đó tập trung

5

phân tích làm rõ những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những ưu

điểm và hạn chế đó.

- Thứ ba, đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng

hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn và giải pháp nâng

cao hiệu quả hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND cấp huyện.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND huyện Thọ Xuân trong 05

năm từ 2015 đến 2019; dựa trên các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, những

văn bản hướng dẫn khác có liên quan và các quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm

sát.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng

và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận

văn sử dụng tổng hợp các phương pháp cụ thể, như: Thống kê số liệu, khảo sát

thực tế, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt

6

coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm giải quyết mục đích, nhiệm vụ

nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống ở

cấp độ luận văn thạc sĩ luật học những vấn đề lý luận về kiểm sát tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND, góp

phần làm phong phú thêm tri thức, lý luận về pháp luật hình sự và tố tụng hình

sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là công trình có giá trị tham khảo trong việc nâng cao chất

lượng hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

vàkiến nghị khởi tốở VKSNDhuyện Thọ Xuân theo yêu cầu cải cách tư pháp.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng vào việc nâng cao kỹ năng

nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ cho cán bộ, KSV ngành Kiểm sát nhân dân,

làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo

luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của

luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Chương 2: Thực trạng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở Viện kiểm sát nhân dânhuyện Thọ Xuân,

tỉnh Thanh Hóa.

7

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở Viện

kiểm sát nhân dânhuyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI

QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM

VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ

1.1. Khái niệm

1.1.1. Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là giai đoạn

đầu tiên của quá trình tố tụng, tạo tiền đề cho việc giải quyết vụ án hình sự

trong những giai đoạn tiếp theo. Sở dĩ như vậy là vì, kết quả giải quyết nguồn

tin về tội phạm là căn cứ để có thể khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.

Khi tiến hành khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền phải xác định được

có căn cứ để khởi tố, đó là dấu hiệu tội phạm“Chỉ được khởi tố vụ án hình sự

khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm” (Điều 143 BLTTHS 2015). Dấu hiệu tội

8

phạm được xác định dựa trên các cơ sở sau: tố giác của cá nhân; tin báo của cơ

quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị

khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực

tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú. Như vậy, tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nguồn chủ yếu và quan trọng cung cấp

căn cứ để khởi tố vụ án, để từ đó có thể tiếp tục tiến hành hàng loạt các hoạt

động tố tụng để giải quyết vụ án như điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì ý nghĩa

như vậy nên khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố lần đầu

tiên được luật hóa một cách rõ ràng, đầy đủ tại Điều 144 BLTTHS 2015.

Theo Khoản 1 Điều 144 BLTTHS 2015 thì: “Tố giác về tội phạm là việc

cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm

quyền”.Theo khái niệm này, tố giác có chủ thể cung cấp là cá nhân, đối tượng

là hành vi có dấu hiệu tội phạm và trên cơ sở cá nhân đó phát hiện, tố cáo. Chủ

thể tiếp nhận tố giác có thể là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc

một cơ quan, tổ chức bất kỳ.

Như vậy, việc tố giác có thể được thực hiện với CQĐT, VKS, Tòa án

hoặc với các cơ quan, tổ chức khác. Như vậy, không chỉ riêng CQĐT, VKS hay

Tòa án mới có thẩm quyền tiếp nhận tố giác về tội phạm mà còn có cả “các cơ

quan khác” và “tổ chức”. Về hình thức, tố giác có thể thực hiện bằng lời nói

hoặc bằng văn bản, trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại. Trường hợp người bị hại

trình báo về sự việc phạm tội liên quan đến họ cũng được coi là tố giác của

công dân.

Cùng với tố giác tội phạm điều luật cũng quy định: “Tin báo về tội phạm

là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông

báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện

thông tin đại chúng”.Phương tiện thông tin đại chúng là các phương tiện được

9

sử dụng để truyền đạt thông tin một cách rộng rãi, có khả năng đưa thông tin

tới đông đảo người dân như: báo in, tạp chí, truyền hình, internet...

Như vậy, tố giác và tin báo về tội phạm đều giống nhau về nội dung và

bản chất khi đối tượng hướng đến là hành vi hoặc vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

Chúng chỉ khác nhau về chủ thể cung cấp và về cách thức phát hiện hành vi, vụ

việc. Nếu tố giác được cung cấp bởi cá nhân thì tin báo ngoài cá nhân còn được

cung cấp bởi cơ quan, tổ chức hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng.

Về cách thức phát hiện, chủ thể tố giác là người trực tiếp phát hiện hoặc nhận

thức về hành vi, vụ việc còn chủ thể của tin báo về tội phạm tiếp cận sự việc

một cách gián tiếp.

Kiến nghị khởi tố được quy định tại Khoản 3 của Điều 144 BLTTHS như

sau: “Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng

văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm”.

Những thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm có được do cơ quan, tổ chức

phát hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình như qua thanh tra, kiểm

tra hoặc tiến hành các hoạt động nghiệp vụ. Quy định về kiến nghị khởi tố chặt

chẽ hơn quy định về tố giác, tin báo về tội phạm. Kiến nghị khởi tố phải được

lập dưới hình thức văn bản. Cơ quan kiến nghị khởi tố phải gửi kèm theo kiến

nghị này các chứng cứ, tài liệu liên quan. Phạm vi chủ thể tiếp nhận kiến nghị

khởi tố cũng hẹp so với tố giác, tin báo về tội phạm, đó là cơ quan kiến nghị

khởi tố phải gửi kiến nghị cho CQĐT, VKS có thẩm quyền xử lý vụ việc.

Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong phát hiện tội

phạm, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhà nước khuyến khích và tạo điều

kiện thuận lợi để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện trách nhiệm này. Tuy

nhiên, nếu tố giác, tin báo về tội phạm sai sự thật do cố ý thì người báo tin phải

chịu trách nhiệm. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, người báo tin sai sự

10

thật có thể phải chịu trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm hành chính hoặc trách

nhiệm hình sự.

Như vậy, khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố lần

đầu tiên được quy định một cách rõ ràng, cụ thể, đầy đủ, tạo sự thống nhất trong

việc áp dụng pháp luật ngay từ khi tiếp nhận, nâng cao chất lượng công tác

kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

của VKSND. Khái niệm này trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng,

đây là những thông tin ban đầu về tội phạm, là căn cứ để CQĐT tiến hành hoạt

động kiểm tra, xác minh tính có căn cứ và hợp pháp của tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố; từ đó có thể áp dụng các biện pháp tố tụng đúng hướng,

đảm bảo đúng quy định của pháp luật trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử vụ án hình sự.

1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố

Kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng mà Nhà nước trao cho hệ

thống cơ quan VKSND. Đây là chức năng đặc thù của VKS cùng với chức năng

thực hành quyền công tố tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để VKS thực hiện tốt

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần đảm bảo

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ

- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì

“kiểm sát” có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà

nước. Theo từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc

gia chỉ đạo biên soạn, thì “kiểm sát” là hoạt động của VKSND nhằm kiểm tra,

giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước.

11

Với cách giải thích khái niệm “kiểm sát” của hai cuốn từ điển trên thì

kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và kiểm tra. Hoạt động

giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị giám sát và

khi cần thiết sử dụng các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu người, cơ

quan có hành vi vi phạm phải khắc phục các vi phạm đó. Kiểm tra là xem xét,

đánh giá hoạt động của con người, cơ quan bị kiểm tra [6, tr.18].

Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù với quyền năng kiểm sát và

phương thức kiểm sát riêng biệt. Chủ thể duy nhất thực hiện chức năng kiểm

sát theo Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự đó là VKSND. Hoạt động kiểm

sát của VKS khác hoạt động kiểm tra, giám sát đơn thuần của các chủ thể khác

ở chỗ, pháp luật cho phép chỉ VKS mới có quyền thực hiện một số quyền năng,

một số biện pháp tác động đặc thù nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật nghiêm

ngặt trong các lĩnh vực thuộc phạm vi kiểm sát. Chính các quyền này cũng đồng

thời là nghĩa vụ của VKSND, từ đó tạo nên sự khác biệt về phương thức thực

hiện hoạt động mà các chủ thể kiểm tra, giám sát thông thường khác không có.

Tại Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã đưa ra khái niệm

về kiểm sát hoạt động tư pháp như sau: "Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt

động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,

quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực

hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết

vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương

mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt

động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật."

Từ những phân tích như trên và từ khái niệm về kiểm sát hoạt động tư

pháp có thể hiểu rằng“Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền hạn theo

12

luật định thuộc nội dung chức năng kiểm sát để kiểm sát tính hợp pháp của các

hành vi, quyết định của cơ quan, ngườicó thẩm quyền tiến hành tố tụng và

người tham gia tố tụng trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm đảm bảo các hoạt động đó được thực hiện

đúng pháp luật”.

1.2. Đặc điểm, ý nghĩacủa kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

- Về chủ thể:

Chủ thể có quyền kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố chỉ có thể là VKS. Hiến pháp năm 2013 và Luật

tổ chức VKSND năm 2014 quy định, VKSND là cơ quan có chức năng kiểm

sát các hoạt động tư pháp.Chức năng này của VKS được kế thừa từ Hiến pháp

1959, ghi nhận VKSND là hệ thống cơ quan nhà nước và cụ thể hóa bằng Luật

tổ chức VKSND năm 1960. Trải qua nhiều thời kỳ, chức năng này của VKSND

ngày càng khẳng định được vai trò và vị trí của mình. Điều 107 Hiến pháp năm

2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp”. Đồng thời Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy

định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vì vậy,

kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố là hoạt động riêngcó của VKS, góp phần làm nên vị thế của VKS trong

hệ thống các cơ quan tư pháp.

- Về đối tượng:

Theo cách hiểu chung nhất, đối tượng của một hoạt động nhất định là

những gì mà hoạt động đó tác động đến nhằm đạt được mục đích, yêu cầu cụ

thể đặt ra. Mục đích của hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố là nhằm đảm bảo việc phát hiện và xử lý kịp thời,

13

nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô

tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, đối tượng của kiểm sát

việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là sự

tuân thủ pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra, những người có thẩm quyền và người tham gia tố tụng trong

việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .

Sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể nêu trên chính là sự tuân thủ pháp

luật trong việc ban hành các quyết định tố tụng, thực hiện các hành vi tố tụng

trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố. Sự tuân thủ pháp luật này thể hiện ở thẩm quyền, thủ tục, hình thức, trình tự

ban hành...Việc tuân thủ pháp luật ở đây không chỉ là tuân theo Hiến pháp, Luật

tổ chức VKSND, Bộ luật hình sự, BLTTHS, các văn bản pháp luật khác mà

còn áp dụng đúng các văn bản dưới luật có liên quan như Nghị quyết của Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên tịch và các văn bản

hướng dẫn thi hành khác.

- Về phạm vi:

Theo nghĩa thông thường, phạm vi là giới hạn về không gian hoặc thời

gian của một hoạt động, một sự việc hoặc hiện tượng. Phạm vi của kiểm sát

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được hiểu

là giới hạn hoạt động mà ở đó VKSND thực hiện các quyền năng thuộc phạm

trù kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố.

Về thời gian, phạm vi công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nằm trong phạm vi công tác kiểm sát điều

tra vụ án hình sự. Trước đây, BLTTHS năm 2003 quy định VKS chỉ thực hiện

hoạt động “kiểm sát” việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT,

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà không có

14

kiểm sát việc tiếp nhận. Để khắc phục tình trạng trên, BLTTHS năm 2015 đã

quy định công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố bắt đầu từ khi CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố và kết thúc khi ra quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố vụ án

hình sự, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố, gửi và thông báo kết quả giải quyết theo luật định. Đây chính

là phạm vi của công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố, cũng là giai đoạn mà công tác kiểm sát được xác định một

cách cụ thể. Có thể nói đây là bước chuyển căn bản trong quy định của pháp

luật về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,

góp phần quan trọng vào việc chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm.

Về không gian, công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện trong phạm vi gắn liền với các hoạt

động tố tụng của chủ thể có thẩm quyền theo luật định liên quan đến việc tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đó là các

hoạt động kiểm sát quá trình kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm,

kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin tội phạm của CQĐT, cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,…

Việc nhận thức đúng đắn đối tượng, phạm vi của kiểm sát tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa quan trọng cả

về lý luận và thực tiễn. Chỉ trên cơ sở xác định một cách đúng đắn phạm vi của

khâu công tác này, KSV mới có thể thực hiện được một cách đầy đủ các biện

pháp nghiệp vụ, các nhiệm vụ, quyền hạn luật định để nâng cao chất lượng,

hiệu quả kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố.

-Về phương thức kiểm sát:

15

Khi thực hiện kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố, VKS có nhiệm vụ đảm bảo cho mọi tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, tiến hành xác

minh và ra văn bản giải quyết đúng thời hạn BLTTHS quy định, nhằm thực

hiện mục tiêu mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời.

Để đạt được mục tiêu đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình,

VKSND có thể thực hiện bằng các hình thức thực hiện quyền kiến nghị, yêu

cầu. Quyền kiến nghị được VKS áp dụng khi CQĐT, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có sự vi phạm trong tiếp nhận hoặc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là những vi phạm

không làm ảnh hưởng đếnkết quả giải quyết vụ việc, không ảnh hưởng nghiêm

trọng đến quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Với những vi phạm này, VKSND kiến

nghị trực tiếp để CQĐT có biện pháp khắc phục kịp thời. Nếu các vi phạm được

lặp lại nhiều lần và trở thành hệ thống, VKS phải lập thành bản kiến nghị để

chuyển cho CQĐT đề nghị chấm dứt tình trạng đó.

Quyền yêu cầu được VKSND áp dụng trong trường hợp khi phát hiện

việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không đầy đủ, vi phạm pháp

luật như yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra thực hiện các hoạt động: tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết

định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật; kiểm tra việc tiếp

nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông báo kết quả cho VKS; cung

cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về

tội phạm;khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm; yêu cầu

thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra; yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc

giải quyết nguồn tin về tội phạm.

16

Ngoài ra, quyền yêu cầu còn được VKS thực hiện trong trường hợp

CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không

gửi kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho VKS

cùng cấp. Trong trường hợp VKS nhận được khiếu nại của cá nhân, cơ quan,

tổ chức về việc CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra không thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố mà họ đã cung cấp hoặc không thực hiện các biện pháp bảo vệ

người tố giác như luật định thì quyền yêu cầu cũng được VKS áp dụng.

Như vậy, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,

kiến nghị khởi tố là hoạt động của VKSND để kiểm sát việc tuân thủ pháp luật

của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Hoạt

động kiểm sát của VKS nhằm kịp thời phát hiện, loại trừ vi phạm pháp luật

trong các hành vi, quyết định tố tụng của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, bảo đảm hoạt động này được thực

hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn theo quy định của BLTTHS.

Qua quá trình kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến

nghị khởi tố, VKS sẽ nắm được CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra đã tiến hành xác minh và giải quyết nguồn tin như

thế nào, làm cơ sở cho việc kiểm sát khởi tố hoặc không khởi tố vụ án được

chính xác và thuận lợi.

1.3. Mối quan hệ giữa kiểm sát với thực hành quyền công tố trong giai

đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm

Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức năng

của VKSND được pháp luật quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013. Từđiển

Luật học giải thích quyền công tố là “quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm

17

hình sự đối với người phạm tội”[22, tr.270]. Quyền buộc tội của Nhà nước đối

với người phạm tội thể hiện ở quyền của Nhà nước áp dụng các biện pháp cần

thiết để tìm ra người phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

đó ra trước Tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Ở nước

ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho VKSND thực hiện và chỉ được thực

hiện trong tố tụng hình sự.

Tại Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã đưa ra khái niệm

về thực hành quyền công tố như sau: "Thực hành quyền công tố là hoạt động

của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội

của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự".

Trên cơ sở khái niệm về thực hành quyền công tố đã được quy định tại

Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014 như đã nêu ở trên, thì có thể hiểu

rằng “Thực hành quyền công tố trong việcgiải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng thuộc nội

dung quyền công tố được quy định trong BLTTHS để tìm ra người phạm tội,

pháp nhân thương mại phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội trong quá trình giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.”

Theo Điều 159 BLTTHS, khi thực hành quyền công tố trong việc giải

quyết nguồn tin về tội phạm, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

“1. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác

hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về

tội phạm theo quy định của Bộ luật này.

18

2. Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có

thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện.

3. Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự.

4. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự.

5. Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

trong các trường hợp do Bộ luật này quy định.

6. Hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết

định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin

về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra,

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

7. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công

tố theo quy định của Bộ luật này nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan

người vô tội.”

Có thể thấy rằng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp

trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ, gắn

bó hữu cơ và biện chứng với nhau, hoạt động này làm tiền đề cho hoạt động

kia và ngược lại kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt

động kia. Nếu làm tốt chức năng kiểm sát sẽ tạo cơ sở thuận lợi cho chức năng

thực hành quyền công tốnhư bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định

áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp

luật của CQĐT một cách có căn cứ, đúng pháp luật và ngược lại thực hành

quyền công tố tốt sẽ hỗ trợ cho hoạt động kiểm sát như tạo điều kiện cho hoạt

động kiểm sát tiếp cận các biện pháp điều tra nhằm duy trì pháp luật, phát hiện,

khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng. Để thực hiện tốt quyền công tố chẳng

hạn như đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền

19

giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện được chính xác và đầy đủ đòi hỏi

phải kiểm sát chặt chẽ việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết

nguồn tin về tội phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra. Và ngược lại, trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát

thấy rằng các tình tiết của vụ việc còn nhiều mâu thuẫn hoặc chưa sáng tỏ, chưa

đủ căn cứ để kết thúc việc giải quyết nguồn tin tội phạm thì VKS đề ra yêu cầu

kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về

tội phạm thực hiện.

Nhưvậy, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết

nguồn tin về tội phạm phải được tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau nhằm

đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được

tiếp nhận đầy đủ, kiểm tra, xác minh, xử lý kịp thời; không để lọt tội phạm và

người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ,

chính xác, kịp thời, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong công tác

này phải được phát hiện, khắc phục và xử lý nghiêm minh.

1.4. Nội dung kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố

Theo Điều 160, nhiệm vụ quyền hạn của VKS trong việc tiếp nhận và

kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố bao gồm:

“1. Tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do

cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến, tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu

thú và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.

2. Kiểm sát việc tiếp nhận, trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác

minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra,

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc

20

tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải

quyết nguồn tin về tội phạm.

3. Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không

đầy đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động:

a) Tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về

tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật;

b) Kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông báo

kết quả cho Viện kiểm sát;

c) Cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết

nguồn tin về tội phạm;

d) Khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm;

đ) Yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra.

4. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm.

5. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc giải quyết

nguồn tin về tội phạm.

6. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này.”

Căn cứ đó, nội dung của kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố gồm có các hoạt động sau đây:

1.4.1. Kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

1.4.1.1. Kiểm sát chủ thể tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố

Theo Điều 145 BLTTHS, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm: CQĐT, VKS tiếp nhận tố giác,

21

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác,

tin báo về tội phạm.

Như vậy, có sự phân biệt giữa trách nhiệm của cơ quan nhà nước là cơ

quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS) và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước

khác trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

CQĐT, VKS là các cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng chính trong việc

tiếp nhận, giải quyết nguồn tin tội phạm. Do đó, hai cơ quan này có trách nhiệm

tiếp nhận tất cả nguồn tin tội phạm. Trong khi đó, để kịp thời phát hiện và xử

lý tội phạm, cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi thẩm quyền của mìnhcũng có

trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm [1, tr.142]. Như vậy, thẩm

quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định

trong BLTTHS 2015 đã mở rộng hơn so với BLTTHS 2003. Việc quy định đa

dạng các cơ quan, tổ chức như trên tạo thành một mạng lưới tiếp nhận và giải

quyết nguồn tin về tội phạm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tố giác

và báo tin, kịp thời phát hiện, ngăn chặn tội phạm, hạn chế tình trạng bỏ lọt tội

phạm và như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh, phòng chống

tội phạm hiện nay.

Theo Điều 146 BLTTHS, khi cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác,

báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì CQĐT, VKS, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền phải lập biên bản

tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận; có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc

tiếp nhận. Nếu tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ

bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì phải ghi vào sổ

tiếp nhận.

Khi phát hiện tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không thuộc

thẩm quyền giải quyết của mình thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra, VKS có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin

22

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận

cho CQĐT có thẩm quyền.

Công an phường, thị trấn, Đồn công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác,

tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ

và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên

quan cho CQĐT có thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác,

tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay

tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho CQĐT

có thẩm quyền. Quy định trên đã phúc đáp được yêu cầu của thực tiễn bởi công

an cấp cơ sở thường là nơi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm đầu tiên; đảm

bảo giải quyết đúng đắn, nhanh chóng, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và

sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc phát hiện và đấu tranh phòng,

chống tội phạm.

Các cơ quan, tổ chức khác sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm

thì chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có thể

báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho CQĐT nhưng sau đó

phải thể hiện bằng văn bản.

Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, CQĐT,

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm

thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho VKS cùng cấp hoặc VKS có

thẩm quyền trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố.

Như vậy, ngoài trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ tin báo, tố giác tội phạm và

kiến nghị khởi tố và chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền thì VKSND có

nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin

23

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đảm bảo việc tiếp nhận đó là đúng về chủ

thể theo quy định của pháp luật.

1.4.1.2. Kiểm sát trình tự, thủ tục tiếp nhận

KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, phân loại của cơ quan có thẩm

quyền điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Hàng

tuần hoặc theo định kỳ, KSV yêu cầu CQĐT cùng cấp thông báo đầy đủ cho

VKS các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà CQĐT đã tiếp

nhận được, đồng thời phối hợp để phân loại, xử lý kịp thời. Sau khi nhận được

thông báo định kỳ bằng văn bản của CQĐT về tình hình tiếp nhận các tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cán bộ, KSV luôn cập nhật và đối

chiếu với sổ thụ lý của VKS để kịp thời phát hiện việc phân loại, thụ lý của

CQĐT chính xác hay chưa. Trường hợp việc phân loại chưa chính xác, thì KSV

cần kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để trao đổi với CQĐT khắc

phục.

Quá trình kiểm sát việc tiếp nhận, phân loại, kiểm tra, xác minh tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà thấy việc tiếp nhận không đúng thẩm

quyền, KSV phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có văn bản

yêu cầu cơ quan đã tiếp nhận, đang tiến hành kiểm tra, xác minh chuyển đến

cơ quan có thẩm quyền giải quyết; đồng thời thông báo đến VKS có thẩm quyền

để thực hiện việc kiểm sát.

Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì Điều 150 BLTTHS quy định thẩm quyền

giải quyết như sau:

“1. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp

thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ

24

quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát

có thẩm quyền giải quyết.

2. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp tỉnh, giữa các Cơ quan điều tra

quân sự cấp quân khu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân

sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp huyện thuộc các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Cơ quan điều tra

quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi đầu tiên tiếp nhận tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố giải quyết.

3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều

tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối

cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết.”

Ngoài ra, VKS có thể tiến hành kiểm sát trực tiếp tại CQĐT, cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo Điều 13 Luật tổ

chức VKSND năm 2014 thì VKS có quyền trực tiếp kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại CQĐT.Khi tiến

hành kiểm sát trực tiếp, chọn nội dung kiểm sát, căn cứ vào các quy định của

pháp luật để ban hành quyết định trực tiếp kiểm sát, đồng thời lập kế hoạch

kiểm sát trực tiếp. Kế hoạch do KSV lập và trình cho Lãnh đạo Viện duyệt và

chỉ đạo.Sau khi có Quyết định và kế hoạch kiểm sát trực tiếp được Lãnh đạo

Viện ký, tổ chức thực hiện như sau:Công bố quyết định kiểm sát trực tiếp việc

tiếp nhận, giải quyết, tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;yêu cầu

Cơ quan Cảnh sát điều tra báo cáo việc tiếp nhận, giải quyết, tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố;kiểm tra sổ sách tiếp nhận, thụ lý, theo dõi kết

25

quả giải quyết, các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như: về tổ

chức tiếp nhận, mở sổ sách tiếp nhận; việc theo dõi, quản lý, ghi chép sổ sách;

về chất lượng phân loại thụ lý; yêu cầu cung cấp các hồ sơ tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố do CQĐT đang thụ lý, giải quyết để kiểm tra việc

lập hồ sơ xác minh các nội dung: Trong việc chấp hành quy định các biện pháp

tiến hành; trong việc chấp hành thời hạn giải quyết; trong việc chấp hành quy

định về quan hệ phối hợp với VKS. Sau khi kết thúc việc kiểm tra, đoàn kiểm

sát tổng hợp những nội dung đã kiểm sát để ban hành kết luận, tập hợp những

vi phạm phát hiện qua trực tiếp kiểm sát để ban hành văn bản kiến nghị khắc

phục, sửa chữa.

1.4.2. Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,kiến nghị khởi tố

- Kiểm sát quyết định phân công Phó thủ trưởng CQĐT, cấp phó cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, ĐTV, cán bộ điều tra.

Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQĐT, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành phân loại, xác minh

sơ bộ ban đầu. Nếu nguồn tin thuộc thẩm quyền giải quyết thì trong thời hạn

03 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

thuộc thẩm quyền giải quyết, Thủ trưởng CQĐT, cấp trưởng cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản 2 Điều 35

BLTTHS năm 2015trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, phân công ĐTV, Cán bộ điều tra

thuộc quyền thụ lý, giải quyết hoặc ra Quyết định phân công Phó Thủ trưởng

CQĐT, cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra tổ chức, chỉ đạo thụ lý, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho VKS cùng

cấp hoặc VKS có thẩm quyền. Nếu thấy có vi phạm trong việc phân công Thủ

trưởng, phó thủ trưởng CQĐT và ĐTV có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì KSV phải báo cáo lãnh đạo để yêu cầu

26

CQĐT xử lý, trường hợp cần thiết có thể yêu cầu thay đổi người tiến hành tố

tụng nếu có căn cứ theo luật định.

Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận

đã rõ về dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì CQĐT,

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra Quyết định

khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS

năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố. Nếu CQĐT chưa ra quyết định khởi tố thì VKS

yêu cầu ra ngay quyết định này.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân

công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, Cơ

quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện trưởng

VKS trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân

công KSV, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ

chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho

CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra

Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

- Kiểm sát việc kiểm tra, xác minh:

Trong quá trình kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố, KSV phải luôn kiểm sát chặt chẽ hoạt động kiểm tra, xác

minh và giải quyết của ĐTV để bảo đảm kết quả giải quyết và yêu cầu xác minh

được thực hiện đầy đủ, khách quan và đúng quy định của pháp luật. Trong quá

trình kiểm sát, KSV luôn kiểm sát chặt chẽ hoạt động giải quyết của ĐTV trong

việc áp dụng các biện pháp xác minh để làm rõ thông tin như: Lấy lời khai, thu

giữ tài liệu vật chứng, khám nghiệm hiện trường, giám định, định giá tài

27

sản…từ đó xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, người nào thực

hiện hành vi phạm tội và tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội đó

gây ra như thế nào. Việc kiểm sát các hoạt động kiểm tra xác minh được thực

hiện bằng các phương thức trực tiếp kiểm sát hoặc kiểm sát gián tiếp tùy từng

trường hợp. Ví dụ: có thể trực tiếp kiểm sát đối với hoạt động khám nghiệm

hiện trường, lấy lời khai,…

Trong trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã hết

thời hạn giải quyết mà chưa đủ căn cứ, quyết định việc khởi tố hay không khởi

tố vụ án hình sự, CQĐT thông báo bằng văn bản cho VKS biết để thống nhất

quan điểm giải quyết. Qua đó, KSV đã phối hợp cùng ĐTV nghiên cứu kết quả

xác minh và báo cáo lãnh đạo hai ngành để cùng thống nhất quan điểm giải

quyết vụ việc hoặc thống nhất nội dung cần yêu cầu tiếp tục xác minh. Trước

khi kết thúc việc giải quyết, ra quyết định cuối cùng, KSV yêu cầu CQĐT gửi

hồ sơ xác minh cùng văn bản thể hiện quan điểm của mình đến VKS. KSV

nghiên cứu hồ sơ và báo cáo đề xuất quan điểm giải quyết bằng văn bản và

tham mưu cho lãnh đạo Viện ban hành văn bản trả lời cho CQĐT.

- Kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố.

Theo Khoản 1 Điều 10 Quy chế tạm thời thực hành quyền công tố, kiểm

sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:

“Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ việc của Điều tra viên,

Cán bộ Điều tra, bảo đảm các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình

kiểm tra, xác minh phải được thống kê đầy đủ và đưa vào hồ sơ vụ việc.

Đối với hồ sơ vụ việc gửi Viện kiểm sát để kiểm sát theo thẩm quyền,

Kiểm sát viên phải trích cứu đầy đủ nội dung vụ việc, sao chụp tài liệu cần thiết

và lưu hồ sơ kiểm sát.”

28

Trong mỗi loại hồ sơ có: Văn bản thể hiện nguồn tố giác, tin báo về tội

phạm hoặc kiến nghị khởi tố (như đơn khiếu nại, tố cáo; văn bản tiếp nhận tố

giác, tin báo về tội phạm; văn bản kiến nghị khởi tố… ); thông báo về việc tiếp

nhận nguồn tin về tội phạm của CQĐT; Quyết định chuyển tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố để giải quyết theo thẩm quyền (đối với các tố

giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố do nơi khác chuyển đến); Quyết

định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố;

Quyết định phân công kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc

kiến nghị khởi tố; Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của

CQĐT; thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị

khởi tố; văn bản đề xuất quan điểm của KSV được phân công kiểm sát việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố; văn bản thống nhất

hoặc không thống nhất quan điểm của Lãnh đạo VKS đối với kết quả giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của CQĐT; biên bản khám

nghiệm hiện trường hoặc xác định hiện trường và sơ đồ hiện trường; biên bản

khám phương tiện có liên quan; Quyết định trưng cầu giám định và Kết luận

giám định; văn bản trả lời của Cơ quan có thẩm quyền giải đáp một số vướng

mắc do CQĐT yêu cầu trả lời. Ngoài ra, còn có các tài liệu, chứng cứ khác được

thu thập trong hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố. Như vậy, khi kiểm sát hồ sơ này, KSV phải đảm bảo để việc lập hồ sơ của

cơ quan có thẩm quyền được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

- Kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi

tố.

Theo Điều 147 BLTTHS, thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố là 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố.Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc

29

kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại

nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể

kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm

tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng VKS cùng

cấp hoặc Viện trưởng VKS có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không

quá 02 tháng.Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh

theo quy định, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra phải có văn bản đề nghị VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền gia

hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.

Như vậy, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo

về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong

phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định

việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn này được tính từ ngày

nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, nghĩa là ngày ghi

trong biên bản tiếp nhận hoặc sổ thụ lý của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cho đến khi CQĐT, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố, không khởi

tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố.

Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi

tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm

thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng

không quá 02 tháng. Hiện chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn như thế nào là

“sự việc có nhiều tình tiết phức tạp” song có thể hiểu đó là những trường hợp

mà vụ việc có nội dung diễn biến phức tạp, có sự liên quan đến nhiều người

hoặc xảy ra trong một thời gian dài…Cũng có thể là trường hợp mà với những

30

thông tin thu được ban đầu qua tin báo, tố giác, CQĐT chưa thể kết luận ngay

có hay không có dấu hiệu tội phạm hoặc các tình tiết mô tả qua việc thu thập

thông tin đòi hỏi CQĐT phải dựa vào những kiến thức chuyên môn nhất định

mới có thể kết luận chính xác về bản chất của sự việc bị tố giác. Tuy nhiên, dù

có phức tạp hay không thì trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền khi nhận

được tố giác, tin báo về tội phạm vẫn phải khẩn trương kiểm tra, xác minh để

quyết định việc khởi tố vụ án, không khởi tố vụ án, tạm đình chỉ việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội, mặt khác còn thu thập được những thông tin cần

thiết ban đầu phục vụ cho công tác điều tra sau này.

Chính vì vậy, KSV cần kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố để đảm bảo việc giải quyết được nhanh chóng,

kịp thời, đúng quy định pháp luật và cần phải xem xét thời hạn trong những

trường hợp cụ thể. Nếu thông tin về tội phạm đã rõ ràng thì KSV yêu cầu CQĐT

ra quyết định giải quyết ngay không cần chờ hết thời hạn 20 ngày. Trong các

trường hợp phức tạp hơn thì cần xem xét về thời hạn và việc gia hạn thời hạn

giải quyết sao cho phù hợp.

1.4.3. Kiểm sát quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố

Khoản 1 Điều 147 BLTTHS quy định:

“Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các

quyết định:

a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

31

c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố.”

- Trong mọi trường hợp khi kết thúc thời hạn giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra đều phải ra một trong ba quyết định nói trên. Vì vậy,

đầu tiên KSV cần xem xét hết thời hạn giải quyết, cơ quan có thẩm quyền có

ra một trong ba quyết định tố tụng trên đây không. Nếu không banhành thì KSV

phải báo cáo lãnh đạo Viện yêu cầu CQĐT ra ngay một trong số các quyết định

tố tụng đó.

- Kiểm sát quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố.Khi hết thời hạn quy định tại Điều 147 của BLTTHS,

cơ quan có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:

+ Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài

tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;

+Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan

trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng

chưa có kết quả.

Khi kiểm sát tạm đình chỉ việcgiải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tốđối với các trường hợp nêu trên, KSV phải kiểm sát chặt chẽ

để việc tạm đình chỉ phải thỏa mãn căn cứ cụ thể theo quy định tại Điều 148

BLTTHS. Trong quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố phải nêu rõ căn cứ, lý do.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ kèm

theo tài liệu liên quan đến VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền để kiểm sát

32

và gửi quyết định tạm đình chỉ đó cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo

tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Nếu xác định việc ra quyết định tạm đình chỉ là có căn cứ và hợp pháp

thì KSV báo cáo với Lãnh đạo VKS và vào sổ thụ lý để quản lý, theo dõi riêng.

Nếu thấy quyết định tạm đình chỉ không có căn cứ thì KSV báo cáo với lãnh

đạo VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và yêu cầu phục hồi giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để tiếp tục giải quyết theo quy định của

pháp luật.

- Kiểm sát việc gửi quyết định tố tụng sau khi kết thúc quá trình giải

quyết của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra: Cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải gửi kết quả giải quyết cho VKS

cùng cấp, thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị

khởi tố biết theo quy định tại Điều 148, Điều 154, Điều 158 BLTTHS 2015.

Việc gửi quyết định giải quyết cho VKS phải thực hiện trong thời hạn 24 giờ;

việc thông báo kết quả cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội

phạm và kiến nghị khởi tố phải trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày kết thúc việc

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

33

Tiểu kết chương I

Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là

hoạt động mở đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm phát hiện hành

vi phạm tội. Trên cơ sở tiếp nhận tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, cơ quan có

thẩm quyền xác định có dấu hiệu tội phạm hay không để quyết định việc khởi

tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trách nhiệm của VKS trong công tác này

là kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố, bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị

khởi tố của CQĐT đúng pháp luật, đầy đủ; bảo đảm mọi tội phạm đều được

phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý.

Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận

chung và quy định của pháp luật về kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của VKSND. Tác giả đã nêu ra được khái

niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa của kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Phân tích các quy định của

34

BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác kiểm sát

việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận trong chương 1 là cơ sở để

đánh giá thực trạng và luận giải, đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất

lượng kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Chương 2

THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT

TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐCỦA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN,

TỈNH THANH HÓA

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân

huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh

Hóa

Về vị trí địa lý, dân cư,huyện Thọ Xuân nằm phía tây của tỉnh Thanh Hóa

có diện tích 295,885 km²,dân số năm 2009 là 233.752 người. Phía đông giáp

huyện Thiệu Hóa, phía đông nam và phía nam giáp huyện Triệu Sơn, phía tây

nam giáp huyện Thường Xuân, phía tây bắc giáp huyện Ngọc Lặc, phía đông

bắc giáp huyện Yên Định. Thọ Xuân nằm ở cửa ngõ nối liền giữa miền đồng

bằng với trung du, miền núi của tỉnh Thanh Hóa, có dòng sông Chu - con sông

35

lớn thứ hai của tỉnh Thanh Hóa chảy qua, có sân bay Thọ Xuân với năng lực

vận tải khoảng 4 triệu hành khách mỗi năm và hiện đang hoàn thiện để trở thành

sân bay quốc tế; có đường quốc lộ 47 và đường Hồ Chí Minh chạy qua, giao

thông khá thuận tiện vì từ Thọ Xuân có thể đi tắt qua Triệu Sơn, Như Xuân để

vào Nghệ An hoặc sang nước bạn Lào và đi các tỉnh phía bắc như Hòa Bình,

Hà Nội (theo tuyến đường Hồ Chí Minh) [16, tr.35].

Về hành chính,huyện Thọ Xuân có 41 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm:

38 xã và 3 thị trấn [16, tr.36].

Về kinh tế, từ năm 2013 đến nay, tốc độ phát triển kinh tế của huyện Thọ

Xuân phát triển nhanh, năm sau cao hơn năm trước, tốc độ phát triển kinh tế

hàng năm đạt 11,2%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công

nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2014 tỷ trọng

công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm tỷ lệ 23,5 %, tỷ trọng nông nghiệp đạt

76,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2014 đạt 35 triệu đồng/ người [16,

tr.38].

Về tình hình an ninh chính trị, trong những năm qua dưới sự lãnh đạo

của Đảng bộ huyện, sự nỗ lực của các cấp các ngành đặc biệt là các cơ quan tư

pháp và của toàn thể quần chúng nhân dân, tình hình an ninh, chính trị trên địa

bàn huyện Thọ Xuân luôn được giữ vững, không để xảy ra những vấn đề đột

xuất, bất ngờ. Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển kinh tế các vấn đề về an

ninh chính trị cũng nảy sinh như việc thu hồi đất để xây dựng các nhà máy, xí

nghiệp, khu dân cư trên địa bàn đã xuất hiện tình trạng khiếu kiện kéo dài và

khiếu kiện đông người; vi phạm của chính quyền một số xã trong việc xây dựng

nông thôn mới cũng gây bức xúc trong quần chúng nhân dân; đặc biệt là hoạt

động của một số đạo trái phép trên địa bàn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến an

ninh, chính trị tại địa phương.

36

Về trật tự xã hội, Thọ Xuân là một trong những địa bàn khá phức tạp về

trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, là nơi tập trung nhiều đối tượng hình

sự, côn đồ, tệ nạn ma túy, cờ bạc, trộm cắp, mại dâm... hàng năm trung bình ở

huyện Thọ Xuân xảy ra hơn 100 vụ án hình sự. Như vậy, có thể nói rằng tình

hình kinh tế, xã hội và an ninh trật tự trên địa bàn huyện Thọ Xuân không chỉ

tác động đến sự phát triển chung mà còn có tác động đến tình hình tội phạm

xảy ra trên địa bàn huyện.

2.1.2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh

Thanh Hóa

VKSND huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa là cơ quan tư pháp ở địa

phương nằm trong tổ chức bộ máy của ngành kiểm sát nhân dân. Tính đến thời

điểm tháng 12 năm 2019, biên chế của VKSND huyện Thọ Xuân có 12người

và 02 nhân viên hợp đồng trong đó có 07KSV;trình độ Thạc sĩ 01 người, đang

học cao học 02 người, các cán bộ còn lại bao gồm chuyên viên, kiểm tra viên

và KSV đều là cử nhân luật. Tất cả các KSV đều được phân công làm công tác

kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố.

Về cơ sở vật chất,trụ sở đơn vị được xây dựng từ đầu những năm 1990

của thế kỷ trước hiện nay đã xuống cấp trầm trọng; hiện nay đơn vị chưa được

cấp xe ô tô phục vụ cho việc đi lại, vì vậy khi thực hiện công tác khám nghiệm

hiện trường, khám nghiệm tử thi và các công tác khác các KSV phải sử dụng

xe mô tô của cá nhân, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc

cũng như có thể gặp nguy hiểm trong trường hợp thời tiết mưa bão hoặc đêm

tối.

Tuy vậy, trong những năm vừa qua, các thế hệ cán bộ, KSV VKSND

huyện Thọ Xuân luôn phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành mọi

nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Hầu hết cán bộ, KSV đều

37

có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm cao đối

với công việc được giao. Đây chính là động lực và cũng là cơ sở để VKSND

huyện Thọ Xuân thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.

2.1.3. Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa

từ năm 2015 đến 2019

Theo số liệu thống kê được cung cấp từ bộ phận báo cáo thống kê tội

phạm của VKSND huyện Thọ Xuân từ năm 2015 đến năm 2019CQĐT cùng

cấp đã khởi tố 454 vụ/661 bị can. Trong đó:

- Năm 2015, tình hình tội phạm giảm cả số vụ và số bị can so với cùng

kỳ. Đã phát hiện và khởi tố mới 84 vụ/103 bị can (giảm 13 vụ/62 bị can). Một

số loại tội giảm so với cùng kỳ như: Tội đánh bạc 04 vụ/21 bị can (giảm 13

vụ/66 bị can), tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường

bộ 04 vụ/04 bị can (giảm 02 vụ/02 bị can). Bên cạnh đó thì có một số loại tội

tăng so với cùng kỳ như: Cố ý gây thương tích 16 vụ/18 bị can (tăng 09 vụ/10

bị can); giao cấu trẻ em 02 vụ/02 bị can (tăng 01 vụ/01 bị can).

- Năm 2016, tình hình tội phạm tăng cả số vụ và số bị can so với cùng

kỳ. Đã phát hiện và khởi tố mới 89 vụ/143 bị can (tăng 06 vụ/40 bị can). Một

số loại tội tăng so với cùng kỳ như: Tội đánh bạc 13 vụ/71 bị can (tăng 09 vụ/50

bị can), tội mua bán trái phép chất ma túy 13 vụ/16 bị can (tăng 05 vụ/06 bị

can), tội cố ý gây thương tích 15 vụ/16 bị can (tăng 01 vụ/01 bị can). Bên cạnh

đó có một số loại tội giảm so với cùng kỳ như: Trộm cắp tài sản 25 vụ/16 bị

can (giảm 10 vụ/07 bị can), tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ 03 vụ/03 bị can (giảm 01 vụ/01 bị can).

- Năm 2017, tình hình tội phạm tăng về số vụ và giảm về số bị can so với

cùng kỳ 2016. Đã phát hiện và khởi tố mới 90 vụ/122 bị can (tăng 01 vụ và

giảm 21 bị can). Một số loại tội tăng so với cùng kỳ như: Tội cướp tài sản 04

vụ/04 bị can (tăng 03 vụ/03 bị can); tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

38

17 vụ/19 bị can (tăng 06 vụ/05 bị can); tội chống người thi hành công vụ 01

vụ/01 bị can (tăng 01 vụ/01 bị can); tội vi phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ 02 vụ/02 bị can (tăng 02 vụ/02 bị can). Bên cạnh đó

thì có một số loại tội giảm so với cùng kỳ như: Tội đánh bạc 09 vụ/54 bị can

(giảm 06 vụ/14 bị can); tội cố ý gây thương tích 13 vụ/13 bị can (giảm 02 vụ/02

bị can).

- Năm 2018, tình hình tội phạm xảy ra tăng cả về số vụ và số bị can so

với cùng kỳ 2017.Đã phát hiện và khởi tố mới 93 vụ/134 bị can (tăng 03 vụ, 12

bị can). Một số loại tội tăng so với cùng kì như: tội cố ý gây thương tích: 28 vụ

(tăng 15 vụ); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 04 vụ (tăng 02 vụ); Tội gây rối trật

tự công cộng 03 vụ (tăng 03 vụ). Một số loại tội giảm so với cùng kỳ như: tội

Mua bán trái, tàng trữ trái phép chất ma túy: 16 vụ (giảm 02 vụ); Cướp tài sản

0 vụ (giảm 03 vụ).

- Năm 2019, tình hình tội phạm xảy ra tăng về số vụ và số bị can so với

cùng kỳ năm 2018. Đã phát hiện và khởi tố mới 98 vụ/159 bị can (tăng 05 vụ/

21 bị can). Một số loại tội phạm tăng so với cùng kì năm 2018 như: Tội trộm

cắp tài sản (tăng 12 vụ/ 15 bị can); Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người

khác phạm tội mà có (Tăng 01 vụ/03 bị can); Tội Làm giả con dấu, tài liệu của

cơ quan, tổ chức (Tăng 02 vụ/ 05 bị can); Tội Vi phạm các quy định về điều

khiển phương tiện giao thông đường bộ (Tăng 04 vụ/ 04 bị can) Tội hủy hoại

tài sản (Tăng 03 vụ/ 07 bị can); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (tăng

02 vụ/ 08 bị can). Tuy nhiên một số loại tội phạm giảm so với cùng kỳ như: Tội

cố ý gây thương tích (giảm 10 vụ); Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Giảm 03

vụ/ 03 bị can); Tội Cướp giật tài sản (Giảm 01 vụ/01 bị can).

Các tội phạm tăng chủ yếu là nhóm tội phạm về trật tự, an toàn xã hội,

tội phạm về ma túy, tội phạm xâm phạm sở hữu.Một số loại tội phạm có xu

hướng giảm nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm và thủ đoạn phạm tội ngày

39

càng tinh vi,xảo quyệt. Số tội phạm do người chưa thành niên thực hiện có xu

hướng gia tăng, có vụ mang tính bạo lực cao. Tình hình tội phạm vẫn diễn biến

phức tạp, các vụ án có tính chất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,

trật tự, an toàn xã hội vẫn xảy ra nhiều. Đáng chú ý trên địa bàn huyện xuất

hiện tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với nhiều bị can, nhiều đối tượng

ở nhiều địa phương khác nhau tham gia, một số tội phạm ít phổ biến nhưng đã

xảy ra như hành vi giả mạo cấp bậc, chức vụ để chiếm đoạt tài sản.

Tình trạng trên đây do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu vẫn là do ý thức

chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế; số khác là do sự

buông lỏng, thiếu quản lý của gia đình, xã hội. Bên cạnh đó một phần còn bị

tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ xã hội, môi trường sống.

2.2. Thực trạng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố ở Viện kiển sát nhân dân huyện Thọ Xuân,

tỉnh Thanh Hóa

2.2.1. Kết quả và nguyên nhân trong kiểm sát việctiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

2.2.1.1. Kết quả kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố

Trong thời gian qua, VKSND huyện Thọ Xuân thực hiện tốt chức năng

nhiệm vụ của mình, đã tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp nhận, kiểm sát tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thực tế đã quản

lý, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết của CQĐT, cơ quan được giao một số

nhiệm vụ điều tra tổng số 580 tố giác, tin báo tội phạm, trong đó đã khởi tố 235

vụ án. Tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố bình quân

trong 05 năm qua đạt 91,36%, qua đó tạo sự chuyển biến về nhận thức cũng

như nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tiếp nhận và kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Bảng 2.1 Số liệu thống kê của VKSND huyện Thọ Xuân

40

từ năm 2015-2019

Kết quả phân loại giải quyết

STT Năm Cũ Mới Còn lại Tỷ lệ

Tạm đình chỉ Tổng số tin Khởi tố vụ án Không khởi tố vụ án Chuyển nơi khác

02 08 1 2015 123 09 114 61 38 02 93%

18 10 2 2016 109 08 101 46 35 0 90,8%

12 11 3 2017 114 10 104 43 48 0 90,4%

07 10 4 2018 104 11 92 42 44 01 90,3%

5 2019 130 10 119 43 70 05 02 10 92,3%

Nguồn:Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân (2019), Báo cáo tổng kết từ

năm 2015 đến năm 2019, phương hướng nhiệm vụ năm 2020, Thanh Hóa

Kết quả kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố hàng năm trong các năm từ 2015 đến năm 2019 như sau:

- Năm 2015, đã quản lý 123 tố giác, tin báo về tội phạm, trong đó số cũ:

09, số mới là 114. Đã xử lý 115 tin, đạt tỷ lệ 93%, trong đó: khởi tố hình sự: 61

tin; không khởi tố: 38 tin; tạm dừng: 14 tin; chuyển nơi khác: 02 tin. Còn lại:

08 tin (đều trong hạn luật định).

Tham gia khám nghiệm hiện trường 50 vụ, khám nghiệm tử thi 22 trường

hợp (tham gia khám nghiệm 100%). Không có trường hợp nào CQĐT không

thông báo cho VKS.Tiến hành kiểm sát trực tiếp về giải quyết tin báo, tố giác

tội phạm tại CQĐT Công an huyện Thọ Xuân và ban hành 01 kết luận và 01

kiến nghị yêu cầu khắc phục những thiếu sót. Kiến nghị được CQĐT tiếp thu,

sửa chữa.

- Năm 2016, đã quản lý 109 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố, trong đó số cũ là 08 tin, số mới là 101 tin. Đã xử lý 99 tin, đạt tỷ lệ

41

90,8% (đạt chỉ tiêu đề ra). Trong đó: Khởi tố hình sự 46 tin; không khởi tố: 35

tin; tạm dừng: 18 tin. Còn lại: 10 tin (đều trong hạn luật định).

Tham gia khám nghiệm hiện trường 46 vụ việc (tai nạn giao thông: 12,

hủy hoại tài sản: 04, trộm cắp tài sản: 13, gây thương tích: 08, chết không rõ

nguyên nhân: 09); tham gia khám nghiệm tử thi: 20 (tử thi trong các vụ tai nạn

giao thông: 10, chết không rõ nguyên nhân: 09, tai nạn lao động: 01).

Tiến hành kiểm sát trực tiếp về việc tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác

tội phạm tại CQĐT Công an huyện Thọ Xuân 01 lần, ban hành 01 kết luận,

kiến nghị khắc phục những thiếu sót. Kiến nghị đã được CQĐT tiếp thu, sửa

chữa.

- Năm 2017, đã quản lý 114 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố, trong đó số cũ là 10 tin, số mới là 103 tin. Đã xử lý: 103 tin, đạt tỷ lệ:

90,4% (đạt chỉ tiêu đề ra). Trong đó: khởi tố hình sự 43 tin; không khởi tố: 48

tin; tạm dừng: 12 tin. Còn lại: 11 tin (đều trong hạn luật định).

Tham gia kiểm sát khám nghiệm hiện trường 45 vụ việc (tai nạn giao

thông: 16, các vụ hủy hoại tài sản: 04, trộm cắp tài sản: 12, gây thương tích:

07, hiếp dâm: 01, chết không rõ nguyên nhân: 03, chết do tai nạn lao động: 02);

tham gia kiểm sát khám nghiệm tử thi: 17 (các tử thi trong các vụ tai nạn giao

thông: 12, chết không rõ nguyên nhân: 03, tai nạn lao động: 02).

Tiến hành kiểm sát trực tiếp về việc tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác

tội phạm tại CQĐT Công an huyện Thọ Xuân 01 lần, ban hành 01 kết luận,

kiến nghị khắc phục những thiếu sót. Kiến nghị đã được CQĐT tiếp thu, sửa

chữa.

- Năm 2018, đã quản lý 104 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố, trong đó số cũ là 11 tin, phục hồi: 01 tin, số mới là 92 tin. Đã giải quyết:

94 tin (đạt 90,3%). Trong đó: khởi tố hình sự: 42 tin, không khởi tố: 44 tin, tạm

đình chi: 07 tin, chuyển tỉnh: 01 tin. Còn lại: 10 tin (đều trong hạn luật

42

định).Tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường 43 vụ việc; kiểm sát

khám nghiệm tử thi: 17 tử thi. Tiến hành trực tiếp kiểm sát về việc tiếp nhận,

giải quyết tin báo, tố giác tội phạm tại CQĐT Công an huyện Thọ Xuân 01 lần,

ban hành 01 kết luận, kiến nghị yêu cầu khắc phục những thiếu sót như: chậm

gửi quyết định phân công Điều tra viên, Quyết định giải quyết tin báo cùng hồ

sơ, Quyết định trưng cầu giám định, kết luận định giá, kết luận giám định…đến

VKS. Kiến nghị đã được CQĐT tiếp thu, sửa chữa.

-Năm 2019, đã quản lý 130 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố, trong đó số cũ là 10 tin, phục hồi: 01 tin, số mới là 119 tin. Đã giải quyết:

120 tin (đạt 92,3% - vượt chỉ tiêu ngành đề ra). Trong đó: Khởi tố hình sự: 43

tin; không khởi tố: 70 tin; tạm đình chỉ: 05 tin; chuyển nơi khác: 02 tin. Còn

lại: 10 tin (đều trong hạn luật định). Tham gia kiểm sát khám nghiệm hiện

trường 126 vụ việc; tham gia khám nghiệm tử thi 32 tử thi. Tiến hành

kiểm sát trực tiếp về việc tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác tội phạm tại

CQĐT Công an huyện Thọ Xuân 02 lần, ban hành 02 kết luận, kiến nghị yêu

cầu khắc phục những vi phạm. Kiến nghị đã được CQĐT tiếp thu, sửa chữa.

VKSND huyện Thọ Xuân luôn xác định công tác kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một nội dung

quan trọng mang tính đột phá trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác của từng

năm. Đơn vị đều phân công KSV có năng lực giúp Viện trưởng trong hoạt động

quản lý, nắm bắt thông tin, phân loại xử lý tin của CQĐT hàng ngày, để kịp

thời vào sổ thụ lý, theo dõi việc giải quyết tin. Đơn vị cũng mở hòm thư tố giác

tội phạm, công khai số điện thoại, phân công cán bộ trực 24/24 giờ để tiếp nhận,

phân loại tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và chuyển đến CQĐT

có thẩm quyền để thụ lý.

- Về kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố:

43

Định kỳ theo quy định, hàng tuần, tháng, quý, 6 tháng KSV phối hợp với

ĐTV nắm kết quả tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố. Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm đều vào sổ quản lý,

theo dõi đầy đủ, số liệu được cập nhật hàng ngày, ghi chép rõ ràng các thông

tin ngày, tháng nhận, nội dung tin báo, kết quả giải quyết.Trường hợp việc phân

loại chưa chính xác thì KSV kịp thời trao đổi với CQĐT để có biện pháp khắc

phục. Trong công tác tiếp nhận, KSV đã phối hợp với ĐTV đánh giá, phân loại

thông tin tội phạm chính xác và kịp thời, bảo đảm mọi hành vi vi phạm, phạm

tội, người phạm tội đều được phát hiện, tiếp nhận và xử lý đúng pháp luật.

Thông qua công tác kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS phát hiện vi phạm

chủ yếu của CQĐT trong giai đoạn này là về chế độ thông tin báo cáo việc tiếp

nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an huyện Thọ Xuân chưa thông báo cho VKS đầy đủ, thường xuyên.

- Về kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố:

+ Về kiểm sát lập hồ sơ: Đơn vị đãchú trọng xây dựng hồ sơ kiểm sát,

các hồ sơ cơ bản đều được trích cứu đầy đủ, có yêu cầu xác minh theo đúng

quy định của ngành. KSV được phân công đã xem xét đầy đủ, toàn diện các

chứng cứ xác định tội phạm, tính chất mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội

gây ra, vận dụng đúng quy định của pháp luật để đề xuất quan điểm tham mưu

cho lãnh đạo xử lý vụ việc nhanh chóng và chính xác. Sự phối hợp giữa các

đơn vị kiểm sát trong đơn vị nhất là đơn vị kiểm sát khiếu tố theo quy định của

ngành được tăng cường.

Việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã được VKSND huyện Thọ Xuân chú

trọng và đề cao đúng mức. Trong nhiều trường hợp, khi có tố giác, tin báo về

tội phạm phát sinh, KSV đã chủ động tiếp cận tài liệu mà CQĐT mới thu thập

44

được để qua đó phân tích, đánh giá chứng cứ và bàn với ĐTV hướng giải quyết

đối với tin báo để báo cáo Lãnh đạo Viện chỉ đạo ngay từ ban đầu, trường hợp

có nhiều tình tiết phức tạp thì trao đổi với ĐTV tham mưu cho Lãnh đạo họp

liên ngành để bàn bạc và đề ra hướng giải quyết đúng quy định của pháp luật.

Đơn cử như sau khi khám nghiệm hiện trường KSV cùng với ĐTV cùng nghiên

cứu tài liệu, đánh giá chứng cứ, xem xét việc bắt khẩn cấp đối tượng nghi

vấn…Do vậy, ngay từ khi có tin báo tội phạm phát sinh, KSV đã nắm chắc nội

dung vụ án và định được hướng xử lý. Qua đó tạo sự chủ động trong quá trình

kiểm sát giai đoạn tiếp theo, góp phần quan trọng trong việc chống oan, sai, bỏ

lọt tội phạm.

+ Về kiểm sát hoạt động kiểm tra xác minh: KSV đã kiểm sát chặt chẽ

các hoạt động kiểm tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố của CQĐT để làm rõ thông tin như: Lấy lời khai, thu giữ tài liệu vật chứng,

khám nghiệm hiện trường, giám định, định giá tài sản, từ đó xác định có hay

không có hành vi tội phạm xảy ra, người nào thực hiện hành vi phạm tội và tính

chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra như thế nào. Thông qua

những tài liệu đã xác minh, được kiểm chứng để có căn cứ việc khởi tố là đúng

người, đúng tội; không làm oan, sai và không bỏ lọt tội phạm.

Từ quá trình kiểm sát đó, VKS đã phát hiện được một số vi phạm của

CQĐT và ban hành kiến nghị khắc phục, cụ thể như sau:

(+) Phân công ĐTV, cán bộ điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố chưa kịp thời.Chẳng hạn như vụ cố ý gây thương tích

xảy ra tại thôn Đại Đồng, xã Xuân Thiên, huyện Thọ Xuân ngày 29/01/2019,

tiếp nhận tin ngày 28/02/2019 đến ngày 21/3/2019 ra Quyết định phân công

Điều tra viên và thông báo cho VKS; tin Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản xảy ra ngày 23/7/2018 tại khu 3, thị trấn Sao Vàng, huyện Thọ Xuân, tiếp

nhận ngày 02/12/2018 đến ngày 28/02/2019 ra Quyết định phân công Điều tra

45

viên và thông báo cho Viện kiểm sát; vụ Cố ý gây thương tích xảy ra tại thôn

4, xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân ngày 12/02/2019, tiếp nhận ngày 08/4/2019

đến ngày 13/4/2019 ra Quyết định phân công và ngày 16/4/2019 gửi thông báo

tiếp nhận cho Viện kiểm sát; vụ tai nạn giao thông xảy ra tại xã Xuân Thiên,

huyện Thọ Xuân ngày 14/01/2019, tiếp nhận ngày 18/4/2019 đến ngày

04/5/2019 Quyết định phân công Điều tra viên và thông báo cho Viện kiểm sát;

(+) Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường Điều tra viên không thông

báo cho VKS cùng cấp để cử KSV tham gia ví dụ: vụ cố ý gây thương tích xảy

ra tại đường Quốc lộ 47B đoạn qua cổng Trường THPT Lê Hoàn thuộc xã Xuân

Lai, huyện Thọ Xuân ngày 03/12/2018; vụ cố ý gây thương tích xảy ra tại xã

Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân ngày 17/02/2019. Đã vi phạm khoản 2 Điều 201

BLTTHS " Trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên phải

thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về thời gian, địa điểm tiến hành

khám nghiệm để cử Kiểm sát viên kiểm sát khám nghiệm hiện trường..."

(+) Quá trình giải quyết tin khi ra Yêu cầu định giá, Quyết định trưng

cầu giám định và nhận Kết luận định giá, Kết luận giám định CQĐT không gửi

văn bản Yêu cầu, Quyết định và Kết luận đó cho VKS theo quy định ví dụ tin

Trương Văn Mạnh tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 01/4/2018 và tin Lê

Ngọc Quỳnh, ở xã Xuân Bái mất trộm 01 điện thoại di động Iphone 5S ngày

30/3/2018.

- Về kiểm sát kết quả giải quyết tố giác, tin báo tội phạm,kiến nghị khởi

tố:

VKS luôn kiểm sát chặt chẽ kết quả giải quyết của CQĐT. Sau khi nhận

thông báo kết quả giải quyết, tất cả các vụ việc đều được VKS gửi lại văn bản

thể hiện quan điểm của mình cho CQĐT theo đúng quy định. Nhờ đó, VKS đã

phát hiện và kiến nghị khắc phục đối với một số vi phạm về kết quả giải quyết

46

nguồn tin về tội phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra, cụ thểnhư sau:

+ Kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố, CQĐT chậm gửi kết quả giải quyết cùng hồ sơ, các tài liệu có liên quan cho

VKS, không ra văn bản thông báo kết quả việc giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị

khởi tố. Cụ thể: Tin Lừa đảo chiếm đọat tài sản xảy ra khoảng tháng 6/2016

tại thôn 1, xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân ra Quyết định tạm đình chỉ giải

quyết nguồn tin nhưng CQĐT không ra văn bản thông báo kết quả giải quyết

tin báo cho cá nhân đã báo tin về tội phạm; tin cố ý làm hư hỏng tài sản xảy ra

tại thị trấn Thọ Xuân ngày 21/02/2019 (ra Quyết định không khởi tố vụ án hình

sự) nhưng CQĐT chậm gửi quyết định không khởi tố vụ án hình sự cùng hồ sơ

cho VKS.Tin Đánh bạc xảy ra tại khu 3, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân

ngày 08/01/2019, Công an thị trấn Lam Sơn và Đồn Công an Mục Sơn chuyển

tin nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thọ Xuân không thông

báo kết quả giải quyết đến hai cơ quan trên.

+ Không ra Quyết định xử lý vật chứng và không xử lý vật chứng khi kết

thúc thời hạn giải quyết đã ra Quyết định Không khởi tố vụ án hình sự, cụ thể:

Tin Cố ý gây thương tích tại đoạn đường 506 thuộc thôn Yên Lược, xã Thọ

Minh ngày 16/12/2018, tại Bản kết thúc kiểm tra xác minh nguồn tin nêu về

phần vật chứng: 01 con dao dạng dao gọt hoa quả dài 22,5cm, cán dài 10,5cm

và 01 chiếc gậy bằng kim loại dài 63cm tiến hành tiêu hủy; Tin Cố ý gây thương

tích tại thôn Trung Thành, xã Xuân Hòa ngày 14/12/2018, tại Bản kết thúc kiểm

tra xác minh nguồn tin nêu về phần vật chứng: 01 thanh kim loại đặc màu sáng

dạng dụng cụ móc lốp dài 55cm, rộng 2cm, một bên đầu nhọn, một bên đầu dẹt

cần tịch thu tiêu hủy nhưng trên hồ sơ đều chưa thể hiện việc tiêu hủy số vật

chứng này.

47

Như v ậy, trong 6 năm (2015-2019), VKSND huyện Thọ Xuân đã ban

hành được 10văn bản kiến nghị yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm trong quá

trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và

đều được CQĐT tiếp thu, khắc phục vi phạm kịp thời.

2.2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong kiểm sát

tiếpnhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Đạt được những kết quả tích cực như trên trong kiểm sát giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là do những nguyên nhân chủ

yếu sau:

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tập thể Lãnh đạo viện, KSV và cán bộ

trong đơn vị đã quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị

liên quan đến công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố.Thực hiện tốt Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày

02/01/2002 của Bộ chính trị về việc thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Chỉ thị số 48/CT-TW ngày

22/10/2010 của Bộ chính trị yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp nâng

cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm

minh mọi hành vi vi phạm pháp luật; quán triệt và thực hiện nghiêm túc chỉ đạo

của Viện trưởng VKSND tối cao về việc xác định “Kiểm sát chặt chẽ việc tiếp

nhận, phân loại, quản lý, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố đảm bảo không oan, không bỏ lọt tội phạm, chính xác, kịp thời” là

nhiệm vụ trọng tâm đột phá của Ngành. Lãnh đạo, cán bộ, KSV của VKSND

huyện Thọ Xuân luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, tích cực trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ.

48

- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo VKS và lãnh đạo CQĐT trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ.Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sâu sát có sự

phối hợp chặt chẽ giữa VKS với cơ quan hữu quan trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ là nguyên nhân quan trọng giúp VKSND huyện Thọ Xuân đạt được

những kết quả tích cực như trên. Hàng tuần, hàng tháng hoặc khi cần thiết, Lãnh

đạo CQĐT và VKS họp bàn xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm có vướng

mắc để bàn biện pháp giải quyết. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp, do có sự trao đổi thống nhất giữa CQĐT và

VKS về hướng xử lý nên hạn chế được nhiều tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố tồn động, kéo dài. VKS đã chủ động phối hợp CQĐT ký ban hành

quy chế phối hợp trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố, nhằm tạo “cơ sở pháp lý” thuận lợi cho việc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan.

- Công tác đào tạo, nâng cao nghiệp vụ kiểm sát đã được quan tâm và

đầu tư.Nhận thức được tầm quan trọng công tác đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ

cán bộ, KSV ngành kiểm sát, trong những năm qua đã có sự thay đổi mạnh mẽ

về nội dung và chất lượng đào tạo nghiệp vụ. Hàng năm VKSND tối cao đều

tổ chức lớp tập huấn về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố tại trường Đại học Kiểm sát Hà Nội; tổ chức hội nghị tập huấn trực

tuyến về công tác này.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, KSV của đơn vị đều có phẩm chất chính trị

vững vàng, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, được đào tạo chính

quy, có tinh thần, trách nhiệm trong công tác, đã cơ bản đáp ứng yêu cầu theo

tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm

trong tình hình mới.

Nguyên nhân thứ tư là: công tác thỉnh thị liên ngành cấp trên được chú

trọng và thực hiện kịp thời.

49

Qua công tác thỉnh thị, mọi khó khăn vướng mắc từ thực tiễn công tác

của VKS địa phương đã được VKSND tỉnh Thanh Hóa cũng như VKSND tối

cao hướng dẫn, giải đáp kịp thời. Từ đó, VKSND huyện Thọ Xuân rút kinh

nghiệm đối với những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn giải quyết án, hạn chế

những sai sót, vi phạm có thể dẫn đến oan sai, lọt tội, đạt được chỉ tiêu theo quy

định của ngành.

- Nhận được sự quan tâm, sâu sát, kịp thời của cấp ủy Đảng cơ sở và

VKSND tối cao. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và công cuộc đấu tranh

phòng chống tội phạm, công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố của VKS luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo

kịp thời, sâu sát của Cấp ủy Đảng. Hoạt động này không chỉ thúc đẩy việc đề

cao trách nhiệm của mỗi cơ quan trong công tác phòng, chống tội phạm mà còn

định hướng, tạo sự phối hợp chặt chẽ, sự nhận thức thống nhất giữa VKS,

CQĐT, Tòa án và các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết các vụ việc

phức tạp, nhạy cảm.

Trong những năm qua VKSND tối cao đã quan tâm chỉ đạo các đơn vị

chức năng tiến hành rà soát, kiến nghị bổ sung mức kinh phí đối với ngành

Kiểm sát; thực hiện nhiều đề án về tăng cường thực hiện đầu tư cơ sở vật chất,

phương tiện, trụ sở làm việc cho ngành theo những nhiệm vụ cải cách tư

pháp.Việc thực hiện đề án tin học hoá quản lý nhà nước trong ngành Kiểm sát

nhân dân được đơn vị chú trọng; đơn vị đã lắp đặt và đưa vào sử dụng tốt hệ

thống truyền hình trực tuyến. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, sự

cố gắng của ngành Kiểm sát trong việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị. Qua đó chất lượng công tác kiểm sát giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đạt hiệu quả cao.

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

50

2.2.2.1. Tồn tại, hạn chế trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thông qua công tác kiểm sát hàng

năm còn cho thấy thực tiễn bộc lộ một số hạn chế như sau:

- Trong kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố, hoạt động kiểm sát hiện nay chưa đảm bảo quản lý đầy đủ số tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố được tiếp nhận.Các KSV chưa mở rộng việc nắm

nguồn tin, chủ yếu nắm từ CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

số hoạt động điều tra còn các nguồn khác như phương tiện thông tin đại chúng;

tin báo, tố giác về tội phạm ngay từ địa bàn xã, thị trấn hay các cơ quan trên địa

bàn huyện như thuế, thanh tra, quản lý thị trường…chưa được khai thác hiệu

quả.

Tố giác và tin báo tội phạm do CQĐT Công an huyện Thọ Xuân thụ lý

chưa phản ánh một cách khách quan về tình hình tội phạm diễn ra hằng năm.

Vẫn còn tồn tại tình trạng CQĐT không thụ lý đầy đủ, còn để ngoài sổ sách thụ

lý những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhất là những tin báo

về tội phạm không rõ đối tượng gây án như trộm cắp, tham nhũng, tai nạn giao

thông, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm

hư hỏng tài sản,…Nếu như CQĐT không thông báo, trao đổi đầy đủ thì VKS

không thể cập nhật số tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được tiếp

nhận trên thực tế. Chính việc thụ động trong việc nắm nguồn tin cũng như diễn

biến tình hình tội phạm đã gây khó khăn cho KSV trong việc kiểm sát tiếp nhận

tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Mặt khác, có nhiều vụ việc có dấu hiệu phạm tội rõ ràng nhưng Công an

các xã, thị trấn tự lập hồ sơ xử lý hoặc để lại không chuyển lên CQĐT để các

bên thỏa thuận dân sự hoặc ra quyết định giải quyết (xử phạt hành chính) sai

quy định (hành chính hóa, dân sự hóa các hành vi có dấu hiệu tội phạm) dẫn

51

đến việc bỏ lọt tội phạm., đến khi việc hòa giải không thành thì Công an các

xã, thị trấn mới báo cáo lên Công an cấp huyện để giải quyết. Do vậy, khi tố

giác, tin báo về tội phạm được chuyển đến Công an huyện thì đã qua một thời

gian nhất định, điều này gây khó khăn và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xác

minh tố giác, tin báo về tội phạm. Như vậy, giai đoạn Công an cấp xã tiếp nhận,

xác minh sơ bộ ban đầu đến trước khi chuyển tố giác, tin báo về tội phạm đến

CQĐT, VKS không thực hiện được quyền kiểm sát tư pháp nên việc nắm và

quản lý tố giác, tin báo trên thực tế bị hạn chế.

- Trong kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố, KSV còn thụ động, chưa có sự phối hợp sâu sát với ĐTV.Quá trình

kiểm sát chưa phát hiện được thiếu sót, vi phạm của CQĐT và ĐTV để yêu cầu

khắc phục.Nhiều vụ khi gần hết thời hạn giải quyết hoặc khi lãnh đạo yêu cầu

KSV mới trao đổi với ĐTV để nắm tình hình hoặc đề ra văn bản yêu cầu thông

báo kết quả giải quyết. Hoạt động kiểm sát một số vụ việc còn mang tính hình

thức, bị động, chỉ dừng lại ở việc nắm số liệu và kết quả giải quyết. Hoạt động

kiểm sát chủ yếu thông qua kiểm sát việc khám nghiệm, kiểm sát việc bắt giữ,

nghiên cứu hồ sơ phức tạp do CQĐT chuyển đến để trao đổi, thống nhất đường

lối giải quyết.

Một số vụ việc, CQĐT không tổ chức khám nghiệm hiện trường, hoặc

có tổ chức khám nghiệm nhưng không thông báo cho VKS biết để thực hiện

kiểm sát nên không đảm bảo thủ tục pháp lý có nhiều thiếu sót làm mất đi những

dấu vết, vật chứng mang dấu vết tội phạm sau này không thể khắc phục được.

Tuy vậy, VKScũng chưa kịp thời yêu cầu CQĐT tiến hành khám nghiệm hiện

trường và chưa thực hiện triệt để quyền kiến nghị để CQĐT chấm dứt vi phạm.

- Trong kiểm sát kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố, VKS chưa thực hiện triệt để quyền kiến nghị để CQĐT rút kinh

nghiệm, khắc phục vi phạm, chấm dứt tình trạng vi phạm đối với một số vụ

52

việc CQĐT không ra thông báo hoặc có ra nhưng không gửi hoặc gửi chậm kết

quả giải quyết cho VKS, các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tin. Chính vì

vậy, vi phạm về việc gửi và thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT vẫn còn lặp lại trong một số vụ việc về

sau.

2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Thứ nhất, các quy định của pháp luậtliên quan đến giải quyết tố giác, tin

báo và kiến nghị khởi tố vẫn còn bất cập. BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung

thêm một số điểm mới về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố. Tuy vậy, quá trình áp dụng thực tiễn vẫn gặp một số những khó

khăn như sau:

- Giai đoạn công an cấp xã tiếp nhận, xác minh sơ bộ ban đầu đến trước

khi chuyển tố giác, tin báo về tội phạm đến CQĐT, VKS không thực hiện được

quyền kiểm sát vì đây không phải là đối tượng của kiểm sát hoạt động tư pháp.

Tại khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 2015 không chỉ quy định cụ thể cơ

quan có trách nhiệm tiếp nhận mà còn quy định về trách nhiệm của cơ quan có

thẩm quyền không được từ chối tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến

nghị khởi tố. Việc này góp phần đảm bảo tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị

khởi tố được tiếp nhận, giải quyết đầy đủ, kịp thời. Khoản 3 Điều 146 BLTTHS

năm 2015 quy định trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của Công

an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an (gọi chung là Công an cấp xã). Quy định

này một mặt tăng thẩm quyền cho Công an phường, thị trấn trong công tác tiếp

nhận và xác minh sơ bộ ban đầu đối với tin báo, tố giác tội phạm, đồng thời

nhằm phân loại kịp thời, chính xác ngay từ đầu các nguồn tin, khắc phục tình

trạng tồn đọng, kéo dài.

53

Tuy nhiên, căn cứ vào các Điều 34, Điều 163 và Điều 164 BLTTHS năm

2015 thì Công an cấp xã không phải là cơ quan tiến hành tố tụng do không phải

là cơ quan điều tra hay cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra. Do vậy, các hoạt động như lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai, thu giữ

vật chứng…không phải là hoạt động điều tra, đây là các hoạt động xác minh sơ

bộ ban đầu. Như vậy, giai đoạn Công an cấp xã tiếp nhận, xác minh sơ bộ ban

đầu đến trước khi chuyển tố giác, tin báo về tội phạm đến CQĐT, VKS không

thực hiện được quyền kiểm sát tư pháp. Đây là thời điểm và nút thắt dễ dẫn đến

bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan, sai.

- Chưa quy định về việc xử lý đối với việc áp dụng biện pháp dẫn giải

đối với người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định

trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất

khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

BLTTHS có đề cập đến vấn đềdẫn giải người bị hại trong trường hợp họ

từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách

quan. Đây là một biện pháp cưỡng chế hoàn toàn mới nhằm khắc phục những

trường hợp mà người bị hại từ chối việc giám định gây khó khăn trong quá trình

giải quyết án hình sự cũng như hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên,

trong quá trình thực hiện quy định mới này cũng gặp những khó khăn nhất định

ví dụ như tố giác về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác hay hành vi vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường

bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, lúc đầu khi

vụ việc mới xảy ra người tố giác (thường là bị hại hoặc đại diện) rất bức xúc,

thể hiện kiên quyết trong yêu cầu xử lý, nhưng sau khi CQĐT thụ lý xác minh,

trưng cầu giám định thì bị hại hoặc đại diện hợp pháp từ chối, trốn tránh giám

định (do nhiều lý do như được bồi thường thỏa đáng, lo sợ…). Khi bị áp dụng

54

biện pháp dẫn giải thì bị hại không chấp hành hoặc bỏ trốn. Do quá trình xác

minh không giám định được nên CQĐT không đủ căn cứ để ra quyết định khởi

tố vụ án hình sự và trong những trường hợp này thường phải ra quyết định

không khởi tố vụ án hình sự, từ đó dẫn đến việc giải quyết tố giác, tin báo tội

phạm bị kéo dài và có khả năng bỏ lọt tội phạm.

- CQĐT có được thực hiện các hoạt động như: Thực nghiệm điều tra,

nhận dạng… trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị

khởi tố hay không, hiện chưa quy định cụ thể.

-Đối với trường hợp không biết rõ đối tượng đang ở đâu hoặc chưa xác

định được đối tượng nhưng đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố thì BLTTHS chưa quy định CQĐT, cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có được ra quyết định tạm

đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hay

không.

Bên cạnh đó, CQĐT tạm dừng việc giải quyết một số tố giác, tin báo về

tội phạm theo quy định tại thông tư liên tịch số 06/2013 ngày 02/8/2013, nhưng

khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thì việc giải quyết những tố giác, tin báo

về tội phạm bị tạm dừng chưa có quy định cụ thể. Theo điều 149 BLTTHS năm

2015 không có quy định về việc phục hồi các tố giác, tin báo về tội phạm đang

tạm dừng giải quyết mà chỉ được phục hồi những tố giác, tin báo về tội phạm

đang tạm đình chỉ.

-BLTTHS chưa quy định cụ thể thời hạn VKS phải giải quyết tranh chấp

về thẩm quyền trong những trường hợp cụ thể.Theo quy định củaBLTTHS năm

2015, VKS có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, điều 150 BLTTHS

năm 2015 chưa quy định cụ thể thời hạn VKS phải giải quyết tranh chấp về

55

thẩm quyền trong những trường hợp được quy định tại các Khoản 1,2,3 của

điều luật này.

Thứ hai, năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm của

một bộ phận KSV còn hạn chế nhất định. Một số KSV chưa hiểu sâu và đầy đủ

các quy phạm pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, các quy phạm có liên quan,

các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và chưa cập nhật những văn bản quy

phạm pháp luật mới. Một số cán bộ trẻ mới ra trường, chưa có kinh nghiệm

công tác nên trình độ về chuyên mô nghiệp vụ chưa cao. Bên cạnh đó, có KSV

còn thụ động trong công việc hoặc có tư tưởng né tránh ngại va chạm dẫn đến

có những sai phạm trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố của ĐTV nhưng KSV không kịp thời yêu cầu khắc

phục vi phạm.

Thêm vào đó, một số cán bộ còn chậm đổi mới về nhận thức nên chưa

đáp ứng được với sự chuyển biến của xã hội và sự thay đổi của pháp luật. Mặt

trái của nền kinh tế thị trường và sự phát triển của xã hội là tình hình tội phạm

ngày càng chuyển biến phức tạp. Các tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm

xâm phạm đến các quan hệ gia đình, thuần phong mỹ tục của dân tộc ngày càng

gia tăng. Nhiều thủ đoạn phạm tội mới cũng xuất hiện như các thủ đoạn về trộm

cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng ngày càng tinh vi… Điều đó đòi

hỏi người tiến hành tố tụng phải kịp thời trang bị cho mình những kiến thức

pháp lý cũng như kiến thức xã hội cần thiết.

Ở một số cán bộ, KSV tinh thần trách nhiệm với công việc còn chưa cao

nên việc nghiên cứu hồ sơ về tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố còn qua loa,

đại khái, phụ thuộc nhiều vào kết quả xác minh của CQĐT, việc thu thập đánh

giá chứng cứ, đánh giá tính chất, mức độ vụ án thiếu toàn diện, thiếu khách

quan, không sát thực tế, do đó không thể phát hiện những thiếu sót, vi phạm,

mâu thuẫn của CQĐT để yêu cầu bổ sung và khắc phục kịp thời.

56

Thứ ba, cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị phục vụ cho hoạt

động của VKSND huyện Thọ Xuân còn nhiều khó khăn; chế độ đãi ngộ đối với

KSV chưa cao so với đặc thù của KSV là phải thường xuyên trực nghiệp vụ,

tham gia khám nghiệm hiện trường dẫn đến một số KSV còn chưa yên tâm

công tác nên hiệu quả chất lượng công việc chưa cao.

Trong những năm gần đây, VKSND các cấp nói chung và VKSND huyện

Thọ Xuân nói riêng tuy đã được nâng cấp, xây dựng trụ sở mới, trang bị thêm

các trang thiết bị phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ như máy in, máy tính,

máy photocopy…Tuy nhiên, việc đầu tư kinh phí vẫn còn hạn hẹp, chưa tương

xứng với chức năng, nhiệm vụ của ngành nên điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật

nhìn chung là yếu và thiếu chưa đủ tiên tiến để đáp ứng được yêu cầu của cuộc

đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như là đảm bảo việc đẩy mạnh áp dụng

công nghệ thông tin vào các khâu công tác.Chẳng hạn như tại địa phương, các

KSV vẫn phải sử dụng chung máy vi tính hay máy photocopy thì chất lượng

hoạt động không cao…Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc.

Trụ sở VKSND huyện Thọ Xuân do xây dựng đã lâu nên đã xuống cấp trầm

trọng, đã xảy ra hiện tượng dột, nát; nhà công vụ cũng ít được quan tâm sửa

chữa nên đã hư hỏng nghiêm trọng. Hiện tại VKSND huyện Thọ Xuân vẫn

chưa được cấp ô tô để phục vụ công tác nên mỗi khi đi khám nghiệm hiện

trường các KSV thường phải đi nhờ xe ô tô của CQĐT hoặc đi xe máy ảnh

hưởng không nhỏ đến công tác chuyên môn và an toàn đối với cá nhân, có

trường hợp KSV đi khám nghiệm hiện trường vào buổi tối và trời mưa bằng xe

máy đã bị tai nạn giao thông.

Thứ tư, công tác tổ chức cán bộ còn chưa thực sự hợp lý. Trong những

năm qua công tác tổ chức cán bộ của VKSND huyện Thọ Xuân đã đạt được

nhiều kết quả tích cực, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ cả về chất và lượng góp

phần thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nói chung

57

và hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố nói riêng. Tuy nhiên công tác tổ chức cán bộ còn có những hạn

chế nhất định như: số lượng biên chế của VKSND huyện Thọ Xuân hiện tại

vẫn còn thiếu so với chỉ tiêu của ngành cấp trên phân bổ (toàn đơn vị có 12 biên

chế trong khi chỉ tiêu phân bổ là 14 biên chế); các KSV chủ yếu là KSV trẻ,

kinh nghiệm công tác và kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế gây khó khăn không

nhỏ đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong khi đó còn

có một bộ phận KSV năng lực còn hạn chế không đáp ứng được yêu cầu của

cải tư pháp hiện nay.

Thứ năm, mối quan hệ giữa VKS với CQĐT và các chủ thể khác chưa

thực sự hiệu quả. Trong những năm qua, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT

ngày càng được củng cố, hoàn thiện, góp phần quan trọng vào công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm. Mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong

việc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố tuy đã có Quy chế phối hợp liên ngành nhưng việc triển khai chưa

triệt để và vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định. Một số ĐTV chưa thực

hiện nghiêm túc, chậm hoặc không thực hiện yêu cầu xác minh của KSV.Vẫn

còn một số trường hợp VKS không sử dụng quyền chế ước của mình, giữ thái

độ né tránh, nể nang, không kiên quyết bảo vệ quan điểm nên không phát huy

được vị trí, vai trò của VKS trong thực hành quyền công tố và kiểm sát tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa VKS với các chủ thể khác liên quan như

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, thanh tra,

quản lý thị trường, thuế, công an xã, thị trấn, đồn công an…trong quá trình tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng chưa

thực sự được chú trọng khiến cho quá trình tác nghiệp còn gặp không ít khó

khăn. Thêm vào đó, các cơ quan này chưa thật sự quan tâm, sử dụng thẩm

58

quyền của mình để thực hiện một số hoạt động điều tra ban đầu theo luật

định.Lãnh đạo liên ngành VKS và các cơ quan như: Thanh tra, Thuế…, chưa

xây dựng được Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, do đó sự phối hợp trong thời gian qua

chưa được chặt chẽ, kết quả chưa cao. Số tố giác, tin báo về tội phạm ở một số

ngành còn chưa quản lý được cụ thể.

59

Tiểu kết chương 2

Ở chương 2, tác giả đã nghiên cứu những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh

tế - xã hội, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến công tác kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Qua nghiên cứu hoạt

động thực tiễn trong công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố từ giai đoạn 2015 đến 2019, thực trạng công tác

kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố, qua đó đánh giá những kết quả đạt được và nguyên nhân của những kết

quả đó. Từ đó tìm ra những hạn chế của công tác này, những nguyên nhân dẫn

đến hạn chế. Để đạt được những kết quả như trên là do có sự lãnh đạo của

Đảng; có sự phối hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo VKS và lãnh đạo các cơ quan hữu

quan; được sự quan tâm kịp thời của cấp ủy Đảng cơ sở trong hoạt động kiểm

sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Bên

cạnh đó, VKSND huyện Thọ Xuân luôn quan tâm sâu sát đến vấn đề đào tạo,

nâng cao chất lượng nghiệp vụ cán bộ, KSV đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định trong

công tác này, những nguyên nhân cơ bản đó là: sự vướng mắc của các quy định

pháp luật;năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm của KSV còn

chưa cao;cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị phục vụ cho hoạt động

của VKSND huyện Thọ Xuân còn nhiều khó khăn, chế độ đãi ngộ đối với KSV

chưa phù hợp; công tác tổ chức cán bộ còn chưa hợp lý; mối quan hệ giữa VKS

với CQĐT và các chủ thể khác chưa thực sự hiệu quả. Qua nghiên cứu thực

trạng trên, tác giả đưa ra những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

60

chất lượngkiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

của VKSND huyện Thọ Xuân ở Chương 3 của Luận văn

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT

VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM

VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

3.1. Quan điểm về nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

- Nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải quán triệt quan điểm của Đảng về

đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp hiện nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà

nước và xã hội. Các quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng, chống tội phạm,

chính sách hình sự và cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện của

Đảng tại các kỳ Đại hội X, XI, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của

Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới;

Nghị quyết 49-NQTW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của

Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm.

Quán triệt đầy đủ tư tưởng, nắm vững quan điểm và thực hiện đúng

đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước là một yêu

cầu khách quan bắt buộc trong hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS. Để làm tốt công tác này,

lãnh đạo VKSND huyện Thọ Xuân luôn quán triệt tới toàn thể cán bộ, KSV

tuyệt đối tuân thủ pháp luật trong công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Muốn nâng cao chất lượng kiểm

61

sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

đòi hỏi KSV phải nắm vững các yêu cầu của Đảng đối với ngành Kiểm sát

trong tiến trình cải cách hiện nay, thấu hiểu các qui định của pháp luật có liên

quan. Có như vậy, khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố, KSV mới thấy rõ hết vai trò và trách nhiệm của

mình, mới linh họat và tự tin khi đưa ra các quyết định tố tụng. Các quyết định

tố tụng của KSV mới bảo đảm tính có căn cứ, tính hợp pháp và phù hợp với

tình hình, đặc điểm của địa phương, đáp ứng yêu cầu chính trị và đường lối đổi

mới chung của đất nước. KSV sẽ không thể thực hiện tốt chức năng, không thể

nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố, nếu trong nhận thức và áp dụng pháp luật không

quán triệt đầy đủ, thấu đáo quan điểm đổi mới của Đảng, pháp luật của nhà

nước.

Dưới sự chỉ đạo của cấp Uỷ địa phương, VKSND huyện Thọ Xuân đã

phối hợp với Tòa án nhân dân huyện và Phòng tư pháp huyện thường xuyên tổ

chức việc tuyên truyền pháp luật đặc biệt là vận động, tuyên truyền quần chúng

nhân dân, đề cao tinh thần của quần chúng nhân dân trong việc tố giác tội phạm

giúp cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt được kết quả cao.

-Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, góp phần

không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

VKS thực hiện công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm bảo đảm mọi tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, kiểm tra, xác minh,

xử lý kịp thời; từ đó góp phần không để lọt tội phạm và người phạm tội, không

làm oan người vô tội. Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng

62

pháp luật; những vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện,

khắc phục và xử lý nghiêm minh. Vì vậy khi thực hiện nhiệm vụ KSV phải

luôn vô tư, khách quan, tuân thủ triệt để năm điều Bác Hồ dạy đối với cán bộ

ngành kiểm sát: " Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn".

Để thực hiện điều đó, KSV phải luôn tích cực, chủ động trong công việc, đánh

giá toàn diện cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội đối với người bị buộc

tội; tuân thủ triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong Hiến pháp

cũng như BLTTHS.

-Bảo đảm mọi hoạt động của VKS, KSV khi kiểm sát tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiến hành minh bạch,

có cơ chế giám sát hiệu quả.

Trong thời gian qua ở một số địa phương đã có hiện tượng cán bộ, KSV

vi phạm pháp luật trong khi kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của ngành

Kiểm sát nhân dân. Nguyên nhân là do thiếu sự kiểm tra, giám sát của cán bộ

lãnh đạo, của các cơ quan dân cử hoặc vì mục đích tư lợi, nên đã cố ý làm sai

lệch hồ sơ vụ việc. Chính vì vậy việc công khai, minh bạch và tăng cường cơ

chế giám sát đối với hoạt động này là rất quan trọng. Công khai, minh bạch ở

đây là việc KSV phải thường xuyên báo cáo với cấp trên về quá trình giải quyết

vụ án, về những tình tiết phát sinh trong vụ án. Bên cạnh đó thì việc tăng cường

cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử như Hội đồng nhân dân hay Mặt trận

tổ quốc cũng rất cần thiết nhằm đảm bảo sự khách quan, đúng pháp luật.

-Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố phải đáp ứng các yêu cầu về cải cách tư pháp.

Kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố phải gắn với yêu cầu về cải cách tư pháp, bám sát với nội dung về cải

cách tư pháp theo Nghị quết 48 và Nghị quyết 49 của Bộ chính trị. Để thực hiện

63

vấn đề này trước hết phải nắm vững những quy định mới trong Hiến pháp 2013,

Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS 2015, BLHS năm 2015 sửa đổi bổ

sung năm 2017. Tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức của VKSND các cấp đặc biệt

là VKSND cấp huyện; đồng thời tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ KSV, KTV.

3.2. Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát

nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa

3.2.1.Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và tổ chức hướng dẫn thi hành các quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động kiểm sát tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

BLTTHS 2015 có nhiều điểm mới, sửa đổi, bổ sung một cách căn bản và

toàn diện các quy định liên quan đến hoạt động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố so với BLTTHS 2003 như đã

quy định về khái niệm tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố; nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS trong quá trình kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố…Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả áp dụng

pháp luật cần có văn bản hướng dẫn, làm rõ những quy định có liên quan sau

đây:

- Cần bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong quá trình

kiểm sát việc tiếp nhận, xác minh sơ bộ ban đầu tố giác, tin báo về tội phạm

của Công an cấp xã nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, xác minh sơ bộ ban đầu đó

phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật, không

để lọt tội phạm và người phạm tội. Có thể sửa đổi nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS trong việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin tội phạm tại Khoản 2 Điều

160 BLTTHS 2015 theo hướng: “Kiểm sát việc tiếp nhận, trực tiếp kiểm sát,

kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội

64

phạm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra;kiểm sát việc tiếp nhận, kiểm tra xác minh sơ bộ ban đầu tố

giác, tin báo về tội phạm của Công an cấp xã;kiểm sát việc tạm đình chỉ việc

giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin

về tội phạm.”

- Hướng dẫn xử lý đối với các trường hợpngười bị hạitrốn tránh việc dẫn

giải khi họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do

trở ngại khách quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng quy định

mới này trên thực tiễn.

Bên cạnh đó cần quy định cụ thể khi hết thời hạn giải quyết nguồn tin,

CQĐT đã thực hiện dẫn giải bị hại đi giám định nhưng vì bị hại không có mặt

ở địa phương hoặc trốn tránh việc dẫn giải nên không thể thực hiện việc giám

định được thì CQĐT phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin

hay quyết định không khởi tố vụ án.

- Bổ sung thêm về các hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố như thực nghiệm điều tra, nhận dạng, nhận biết

giọng nói… trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố.

Hiện nay, các hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố được quy định tại Khoản 3 Điều 147 BLTTHS như sau:

“Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan

có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:

a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;

b) Khám nghiệm hiện trường;

c) Khám nghiệm tử thi;

65

d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.”

Trong thực tế khi giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi

tố đặc biệt là các tin báo về tai nạn giao thông cần phải thực nghiệm điều tra để

xác định được hành vi của các bên liên quan đến tai nạn hoặc các tố giác về lừa

đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng cần nhận dạng người (qua

ảnh) để xác định người bị tố giác, người liên quan có đúng là người đã thực

hiện hành vi vi phạm hay không để có căn cứ xem xét xử lý. Nhưng tại Khoản

3 Điều 147 BLTTHS thì ngoài các hoạt động đã nêu, CQĐT có được thực hiện

các hoạt động như: Thực nghiệm điều tra, nhận dạng… trong quá trình giải

quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố hay không thì chưa quy

định cụ thể. Chính vì vậy, cần bổ sung quy định về việc cơ quan có thẩm quyền

tiến hành các hoạt động như thực nghiệm điều tra, nhận dạng…trong quá trình

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

- Bổ sung căn cứ khi chưa xác định được đối tượng hoặc không biết rõ

đối tượng đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố làm căn cứtạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh đó cần hướng dẫn cụ thể về việc phục

hồi các tố giác, tin báo về tội phạm đang tạm dừng giải quyết.Sở dĩ như vậy là

vì, Điều 148 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định CQĐT, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định tạm đình chỉ việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các

trường hợp:

“a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài

tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;

b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan

trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng

chưa có kết quả.”

66

Trên thực tế vẫn còn một số vướng mắc liên quan đến quy định này,

điển hình là đối với một số tố giác, tin báo về tội phạm, sau khi tiến hành xác

minh tố giác tin báo về tội phạm (lấy lời khai bị hại, xác minh hiện trường...)

nhưng CQĐT có thẩm quyền không lấy được lời khai của đối tượng (do đối

tượng bỏ trốn, chưa xác định được đối tượng...) do đó chưa làm sáng tỏ được

có dấu hiệu tội phạm hay không (không thuộc quy định tại điểm a, b khoản 1

điều 148 BLTTHS năm 2015). Khi hết thời thời hạn giải quyết tố giác tin báo

về tội phạm, CQĐT có thẩm quyền không có căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết

tố giác tin báo về tội phạm. Vì vậy đối với những tố giác, tin báo về tội phạm

này cần cho phép cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khi căn cứ không còn

(ví dụ: lấy được lời khai,…) sẽ phục hồi để tiếp tục giải quyết.

- Quy định cụ thể thời hạn VKS phải giải quyết tranh chấp về thẩm quyền

trong những trường hợp tại các Khoản 1,2,3 Điều 150 BLTTHS nhằm tăng

cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

trong việc giải quyết nguồn tin tội phạm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của người tham gia tố tụng và các hoạt động tố tụng tiếp theo được thực hiện

nhanh chóng, kịp thời, chính xác và hiệu quả.

3.2.2.Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm của

đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên

Con người luôn là chủ thể đóng vai trò trung tâm của mọi hoạt động

trong xã hội. Vì thế, để nâng cao chất lượng kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì việc nâng cao năng lực trình độ

chuyên môn nghiệp vụ của KSV là giải pháp then chốt, quyết định. KSV là chủ

thể tiến hành tố tụng nên cần phải giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,

linh hoạt, sáng tạo, trách nhiệm trong thực hiện công việc được giao.

67

Để nâng cao năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì trước hết cần

chú trọng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Hiện nay,

phương thức đào tạo còn nghiêng khá nhiều về mặt lý thuyết mà chưa đẩy mạnh

kỹ năng thực hành. Vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cần phải đổi

mới nội dung chương trình theo hướng tăng cường đào tạo, rèn luyện kỹ năng

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, kiểm sát tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng. Các

KSV cần được đào tạo chuyên sâu theo các chuyên đề trực tiếp phục vụ nhu

cầu công việc thực tế. Chẳng hạn như chuyên đề kỹ năng kiểm sát khám nghiệm

hiện trường, kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật đối với một số loại tội phạm tham nhũng, giết người, ma túy, tội phạm là

người chưa thành niên, tội phạm mới nảy sinh ở nước ta trong những năm gần

đây như tội phạm sử dụng thủ đoạn phạm tội qua mạng Internet, tội phạm ngân

hàng, trộm cước viễn thông, rửa tiền…Công tác đào tạo KSV phải được đổi

mới theo hướng gắn kỹ năng thực hành, áp dụng những phương pháp đào tạo

tiên tiến, cần cập nhật liên tục các kiến thức mới về pháp luật, chính trị, kinh

tế-xã hội và kiến thức về hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật;

nghiên cứu tổng kết thực tiễn, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập

nảy sinh từ thực tiễn; tham gia xây dựng pháp luật, chú trọng việc tập huấn và

tổng kết chuyên đề. Và điều không thể thiếu là KSV phải tích cực trong việc tự

học, tự đọc là chính, thường xuyên củng cố lại lý luận và tăng cường trao đổi

nghiệp vụ trong quá trình thực hiện công tác chuyên môn. Đồng thời, mỗi KSV

phải tự mình thường xuyên cập nhật các tri thức khoa học khác cần thiết cho

công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố nhất là đối với các tội phạm mới trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường,

chứng khoán, tin học.

68

Việc nâng cao trình độ nghiệp vụ là đòi hỏi có tính thường xuyên, liên

tục đối với cán bộ tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ, KSV nói riêng, đây

còn là đòi hỏi của quá trình cải cách tư pháp. Việc thường xuyên, liên tục nâng

cao kiến thức nghiệp vụ sẽ giúp cho KSV được tiếp cận và nắm bắt kịp thời sự

phát triển của xã hội, tình hình tội phạm cũng như những điểm mới của pháp

luật, không bị lạc hậu, trì trệ về nhận thức, năng động, linh hoạt, sáng tạo hơn

trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Ngoài ra, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng để có đội

ngũ cán bộ, KSV: "Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp

luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm"; thực hiện tốt 05 điều Bác

Hồ dạy đối với cán bộ ngành KSND: "Công minh, chính trực, khách quan, thận

trọng, khiêm tốn". Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ

cán bộ, KSV, công tác này phải được tiến hành một cách thường xuyên trong

đơn vị gắn với cuộc vận động: "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh" và nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong đội ngũ

đảng viên và công chức. Việc giáo dục chính trị, tư tưởng phải gắn liền với việc

đề cao trách nhiệm của mỗi đảng viên - KSV trong đơn vị, xây dựng ý thức

thượng tôn pháp luật, không ngừng học hỏi và trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ

và đạo đức, bản lĩnh chính trị.

3.2.3. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho ngành

Kiểm sát nhân dân,đồng thời hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ,

Kiểm sát viên

Để đảm bảo điều kiện thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp thì việc tăng cường trang bị phương tiện kỹ thuật, giao

thông liên lạc cho VKS các cấp là cần thiết. Cần trang bị hệ thống phương tiện,

69

máy tính nối mạng, máy fax để phục vụ hoạt động cập nhật, lưu giữ, quản lý

và khai thác thông tin tội phạm; thực hiện chế độ thông tin báo cáo nhanh

chóng, kịp thời, ít tốn nhân lực. Việc xây dựng, mua sắm trang thiết bị cơ sở

vật chất cần thực hiện cơ chế đấu thầu công khai, giao quyền giám sát cho đơn

vị thụ hưởng để đảm bảo tránh thất thoát, lãng phí. Bên cạnh đó, Nhà nước

cần có giải pháp quan tâm thỏa đáng cải thiện hơn nữa chế độ tiền lương và

phụ cấp đối với cán bộ, KSV. Đây là giải pháp phù hợp với chủ trương cải

cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 là: “Có chế độ, chính sách tiền

lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp”. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa X cũng đã chỉ rõ: “Tăng

lương hoặc tăng mức ưu đãi nghề nghiệp và cải thiện điều kiện làm việc cho

các ngành…Kiểm sát, Tòa án và một số ngành dễ phát sinh tham nhũng”.

Ngoài ra, cần có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh

thần đối với những cán bộ kiểm sát có nhiều thành tích xuất sắc trong công

tác.

Tóm lại, trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần tăng cường đầu tư

cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho VKS và hoàn thiện chế độ chính sách

đối với cán bộ, KSV nhằm động viên, tạo điều kiện để họ gắn bó với ngành,

yên tâm công tác, có trách nhiệm hơn với công việc, hạn chế được sự cám dỗ

về vật chất, không bị các thế lực bên ngoài mua chuộc, cũng như thu hút được

nhiều nhân tài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành Kiểm sát.

3.2.4. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ

Để khắc phục những hạn chế thiếu sót của công tác tổ chức cán bộ đã chỉ

ra trong chương 2 của luận văn, theo chúng tôi cần phải tập trung thực hiện các

giải pháp sau đây:

70

Một là, phải kiện toàn bộ máy của VKSND huyện Thọ Xuân, trước hết

cần quán triệt sâu sắc Luật tổ chức VKSND năm 2014. VKSND tỉnh Thanh

Hóa cần có sự bổ sung biên chế kịp thời cho VKSND huyện Thọ Xuân, đặc

biệt là KSV có năng lực và kinh nghiệm. Thực hiện việc phân công theo các

khâu công tác nghiệp vụđể lựa chọn được KSV đúng với sở trường, năng lực

công tác. Đối với các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố phức tạp,

cần phân công KSV có trình độ và năng lực để thụ lý, giải quyết.

Hai là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, KSV phải đảm bảo cả về số

lượng lẫn chất lượng, có năng lực thực tiễn cao. Luôn tạo ra không khí thi đua

để cán bộ, KSV phát huy năng lực, sáng tạo trong công tác. Thường xuyên tổ

chức các cuộc thi viết cáo trạng, viết luận tội và phiên tòa giả định để các bộ,

KSV có dịp trau dồi kiến thức, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Thực hiện việc

khen thưởng đối với những KSV đạt được kết quả cao trong công tác, đồng thời

cũng thực hiện việc phê bình hoặc kỷ luật đối với KSV vi phạm kỷ luật công

vụ và quy chế nghiệp vụ.

Ba là, đổi mới cơ bản trong công tác thi tuyển công chức và trong việc

thi tuyển KSV các ngạch. Việc thi tuyển phải diễn ra công khai, minh bạch,

tuyệt đối không có sự gian lận trong thi cử để chọn ra những người có trình độ

và năng lực. Công tác luân chuyển cán bộ phải phù hợp với nhu cầu thực tế của

từng đơn vị, phù hợp với năng lực công tác cũng như điều kiện, hoàn cảnh gia

đình của người được luân chuyển.

3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan

điều tra và các chủ thể khác trongkiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Để đổi mới mối quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT và các chủ thể

khác, trước hết phải tạo ra được sự nhận thức đúng đắn từ phía VKS, CQĐT và

các chủ thể khác có liên quan. Các chủ thể này tuy có chức năng và nhiệm vụ

71

khác nhau nhưng đều có trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm, vì vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Bên cạnh đó, cần phải có

nhận thức đúng đắn, đầy đủ tầm quan trọng của quan hệ phối hợp giữa VKSND,

CQĐT và các chủ thể khác trong giải quyết án hình sự nói chung và trong quá

trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói

riêng, coi mối quan hệ phối hợp giữa VKSND với CQĐT là nhân tố hàng đầu,

không thể thiếu, quyết định chất lượng, hiệu quả. Từ đó, tăng cường phát triển

mối quan hệ phối hợp, làm cho quan hệ phối hợp trở nên chặt chẽ, gắn bó trên

cơ sở chức năng nhiệm vụ mỗi ngành.

Hơn nữa, cần phải có nhận thức rằng mối quan hệ chế ước giữa VKS với

CQĐT theo quy định của pháp luật là mối quan hệ dựa trên chức năng của hai

cơ quan, chính sự chế ước này tạo điều kiện để mỗi cơ quan thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình và hoàn thành nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự

chứ không phải VKS cản trở CQĐT. Do vậy, việc sử dụng đúng đắn, linh hoạt

hai yếu tố phối hợp và chế ước giữa CQĐT và VKS trong quá trình tiến hành

tố tụng hình sự sẽ góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, đồng bộ trong quá trình

đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực tế cho thấy, ở các địa phương, nếu như

VKS có mối quan hệ tốt với CQĐT và các chủ thể khác thì việc giải quyết các

vụ án rất nhanh chóng, hiệu quả. Ngược lại, nếu như mối quan hệ giữa VKS

với CQĐT và các chủ thể khác không tốt thì việc phát hiện, điều tra và xử lý

tội phạm thường gặp nhiều khó khăn, trì trệ.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phối hợp trên, Lãnh đạo

VKSND huyện Thọ Xuân và Lãnh đạo CQĐT đã tăng cường công tác phối

hợp, trao đổi giữa hai ngành theo đúng quy chế phối hợp liên ngành đã được

thống nhất trước đó. Lãnh đạo hai ngành đã tổ chức các cuộc họp liên ngành để

bàn thống nhất quan điểm giải quyết đối với một số tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị phức tạp, kéo dài thời hạn giải quyết.Thông qua công tác phối hợp

72

tốt giữa liên ngành, nên đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài,

đồng thời, qua việc cập nhật thường xuyên, liên tục của KSV đã kiểm sát chặt

chẽ số vụ việc tiếp nhận, phân loại thụ lý của CQĐT, hạn chế số vụ việc vi

phạm thời hạn giải quyết và chấn chỉnh kịp thời đối với ĐTV không để hoạt

động điều tra trong thời gian dài, đồng thời hạn chế án phải trả hồ sơ để điều

tra bổ sung khi đã khởi tố hoặc giải quyết đúng thời hạn các trường hợp có

khiếu nại khi ban hành quyết định không khởi tố vụ án.Tuy nhiên, công tác

phối hợp thể hiện qua các cuộc họp liên ngành chưa được tổ chức thường xuyên

theo định kỳ mà chỉ được thực hiện khi gặp phải khó khăn, vướng mắc cần phải

tháo gỡ. Do đó, trong thời gian tới Lãnh đạo VKSND huyện Thọ Xuân cần chú

trọng hơn nữa đến công tác họp liên ngành, tránh tình trạng chờ đến khi CQĐT

đề nghị hoặc có những khó khăn, vướng mắc mới tổ chức họp. Có như vậy mới

kịp thời nắm bắt được các quá trình xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm của CQĐT để phát hiện vi phạm và kiến nghị kịp thời, qua đó cũng tránh

tình trạng bị động trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Bên cạnh sự phối hợp giữa lãnh đạo hai ngành thì mối quan hệ phối hợp

giữa KSV và ĐTV thụ lý xác minh tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi

tố là hết sức cần thiết và quan trọng. Quan hệ phối hợp này được thực hiện ngay

từ khâu tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm, khám nghiệm hiện trường, thu thập

thông tin, dấu vết tội phạm để từ đó thống nhất nội dung điều tra, xác minh và

hướng giải quyết đối với tin báo, tố giác về tội phạm.Các KSV phải chủ động

trong quan hệ phối hợp, đặc biệt với CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra. KSV và ĐTV cần chủ động trao đổi kế

hoạch xác minh, đánh giá tình hình kết quả tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về

tội phạm và thống nhất hướng giải quyết đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức

tạp, nghiêm trọng để báo cáo lãnh đạo quyết định. Tăng cường công tác kiểm

73

tra việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tại CQĐT cùng cấp, phối hợp

liên ngành kiểm tra, tổ chức hội nghị sơ kết, rút kinh nghiệm, nâng cao chất

lượng công tác này.

Để VKS thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm trong công tác này thì giải

pháp mang tính hiệu quả thực tiễn cao đó chính là VKS chủ trì tổ chức ký các

Quy chế phối hợp với các ngành hữu quan, như: Quy chế phối hợp giữa VKS

và cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra; Quy chế phối hợp giữa VKS và Công an các xã, phường, thị trấn trong

nắm, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; Quy chế phối hợp giữa VKS và các

cơ quan chức năng có liên quan như Thanh tra, cơ quan thuế, quản lý thị

trường..., ngoài ra, VKS chủ trì tổ chức ký Quy chế phối hợp với CQĐT để giải

quyết các tố giác, tin báo cụ thể như phối hợp tiếp nhận, giải quyết các vụ tai

nạn giao thông đường bộ; Quy chế phối hợp giải quyết các tin báo, tố giác về

hành vi gây thương tích... những Quy chế phối hợp này sẽ là cơ sở tăng cường

phối hợp, giải quyết những khó khăn, vướng mắc giữa các cơ quan.

Tiểu kết chương 3

Qua kết quả phân tích thực trạng hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gắn với thực trạng hoạt

động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh

Hóatrong giai đoạn 2015 đến 2019, những kết quả đã đạt được, những hạn chế

cùng nguyên nhân, luận văn đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm nâng

cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Thọ Xuân, đáp ứng yêu cầu của

74

cải cách tư pháp hiện nay. Các giải pháp tập trung vào hoàn thiện quy định pháp

luật; nâng cao năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm của đội

ngũ cán bộ, KSV; quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho

ngành Kiểm sát nhân dân ,đồng thời hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán

bộ, KSV; đổi mới công tác tổ chức cán bộ; tăng cường mối quan hệ phối hợp

với cơ quan hữu quan đặc biệt CQĐT. Những giải pháp này phải tiến hành một

cách đồng bộ và thường xuyên; không quá đề cao giải pháp này mà xem nhẹ

giải pháp kia.

KẾT LUẬN

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện nay thì tình hình tội

phạm diễn biến ngày càng phức tạp về cả tính chất và mức độ của hành vi phạm

tội. Kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi

tố giữ vai trò rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm và

tội phạm. Bởi đây là giai đoạn đầu tiên để các cơ quan có thẩm quyền xác định

có tội phạm hay không, từ đó quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình

sự. Để hoạt động trên diễn ra một cách có hiệu quả thì vai trò của VKS trong

75

việc kiểm sát hoạt động trên là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, nơi nào VKS

thực hiện tốt công tác này thì nơi đó các công tác thực hành quyền công tố,

kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử tiến hành thuận lợi, hạn chế tối đa tình trạng

oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung, tác giả phân tích những khái niệm,

đặc điểm cũng như trình tự, thủ tục kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tạo tiền đề để đánh giá thực trạng kiểm sát

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tác giả

nghiên cứu thực tiễn công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn từ năm

2015 đến năm 2019 và trình bày toàn bộ kết quả khảo sát công tác kiểm sát việc

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trên cơ sở số liệu do bộ phận

thống kê tội phạm và công nghệ thông tin của VKSND huyện Thọ Xuân, tỉnh

Thanh Hóa cung cấp. Qua đó, tác giả nhận thấy rằng: các tố giác, tin báo về tội

phạm sau khi tiếp nhận, thụ lý đã được phân loại, giải quyết kịp thời, tỷ lệ giải

quyết đạt cao, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử,

đảm bảo không để xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội phạm, tỷ lệ án trả để điều tra bổ

sung giảm thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu ngành đặt ra, công tác phối hợp liên

ngành được duy trì, mang lại hiệu quả cao, tạo tiền đề cho sự tham gia sâu rộng,

đầy đủ của KSV ngay từ giai đoạn thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết tố

giác tin báo về tội phạm… Mặc dù vậy, do những nguyên nhân khách quan,

chủ quan, từ việc hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, bất cập trong mô hình tổ

chức, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật cho đến trình độ, năng lực của một số

cán bộ, ĐTV, KSV còn chưa đồng đều và những thiếu sót trong quan hệ phối

hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nên các hoạt động trên còn bộc lộ những

hạn chế nhất định, số lượng tin báo đã được tiếp nhận giải quyết chưa phản ánh

đúng với thực tế diễn biến của tình hình tội phạm trên địa bàn, chưa đáp ứng

76

được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tác giả cũng đã

đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm sát

hoạt động tư pháp trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố. Tác giả đã đưa ra năm giải pháp cụ thể để làm tốt khâu

công tác này.

Để nghiên cứu và hoàn thiện luận văn: “Kiểm sát việctiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Thọ

Xuân,tỉnh Thanh Hóa” tác giả đã cố gắng sưu tầm tài liệu, tìm tòi nghiên cứu,

vận dụng lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và hoàn thành

luận văn không tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy tác giả rất mong được sự

đóng góp ý kiến của các thầy, các cô để luận văn được hoàn thiện hơn trong

thời gian sắp tới. Tác giả hi vọng những kết quả mà Luận văn đã đạt được sẽ

đóng góp tích cực cho công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND huyện Thọ Xuân nói riêng và

toàn ngành Kiểm sát nhân dân nói chung ngày càng có chất lượng và hiệu quả;

bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện và xử lý kịp thời; không làm

oan người vô tội; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn Biên - Đinh Thế Hưng (2017) Bình luận khoa học Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015, Nxb Thế giới, Hà Nội.

2. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển

nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-

77

BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02/08/2013 hướng dẫn thi hành

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành ngày 02/08/2013, Hà Nội.

3. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển

nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017)Thông tư liên tịch số

01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN quy định việc phối hợp giữa các

cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố, ban hành ngày ngày 29/12/2017, Hà Nội.

4. Bùi Mạnh Cường (2011) “Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất

lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, số tháng 01/2011, tr.5-10.

5. Bùi Mạnh Cường (2017) “Những vấn đề cơ bản về thực hành quyền công

tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát, số

19/2017, tr.10-14.

6. Cao Việt Cường (2013)Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhândân

(trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ

Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

7. Trương Văn Chung (2015) “Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc

trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí

Kiểm sát, số tháng 5/2015, tr.9-15.

8. Trương Văn Chung (2017) “Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc

trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí

Kiểm sát, số 10, tr.24-27.

78

9. Lương Thị Thùy Dung (2017) “Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, số 19, tr.49-53.

10. Mai Văn Dũng (2017) “Kết quả và kinh nghiệm trong công tác kiểm sát

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương”, Tạp chí Kiểm sát, số 19, tr.38-42.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà

Nội.

13. Nguyễn Đình Đức (2017) “Kinh nghiệm trong kiểm sát việc giải quyết tố

giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan Kiểm lâm, Bộ đội biên

phòng”, Tạp chí Kiểm sát, số 19, tr.30-37.

14. Bùi Thị Hạnh (2005) Công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về

tội phạm, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, Đề tài

khoa học cấp khoa, Trường Cao đẳng kiểm sát.

15. Nguyễn Văn Hòa (2017) “Làm tốt nhiệm vụ tham mưu với cấp ủy, tăng

cường sự lãnh đạo đối với việc xử lý, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát, số 19, tr.43-48.

16. Huyện Thọ Xuân (2014), Đất và người Thọ Xuân, Nxb Thanh Hóa, Thanh

Hoá.

17. Nguyễn Quốc Hưng (2016) Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thực tiễn công tác trên địa bàn thị xã Phổ

Yên, tỉnh Thái Nguyên”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

79

18. Nguyễn Đăng Khoa (2017) “Kết quả và một số kinh nghiệm trong kiểm

sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tại tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí Kiểm

sát, số 19, tr.26-29.

19. Lê Minh Long (2012) “Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong

giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm giết người”,

Tạp chí Kiểm sát, số tháng 4/2012, tr.8-14.

20. Nguyễn Phúc Long (2011) Áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với

Cơ quan điều tra cùng cấp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Học viện chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh.

21. Nguyễn Tiến Long (2017) “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công

tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, Tạp chí Kiểm sát, số 19, tr.21-25.

22. Nhà xuất bản từ điển bách khoa phổ thông (1999), Từ điển luật học, tr.270.

23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003) Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.

24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) Hiến pháp

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà Nội.

26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015) Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.

27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017) Bộ luật hình

sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, Hà Nội.

28. Lê Ra (2014) “Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm”, Tạp chí

Kiểm sát, số tháng 7/2014, tr.4-8.

80

29. Lưu Xuân Sang (2017) “Quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng

trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và

kiểm sát hoạt động này ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện”, Tạp chí Kiểm

sát, số 19, tr.54-61.

30. Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ - Trung tâm khoa học xã

hội và nhân văn Quốc gia, Từ điển tiếng Việt, năm 2000, Hà Nội.

31. Đặng Đình Vang (2015) Cơ sở lý luận và thực tiễn trong kiểm sát giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ luật, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

32. Nguyễn Văn Vĩnh (2013) Tiếp nhận, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc

Giang, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

33. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2015) Báo

cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2015, Thanh Hóa.

34. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2016) Báo

cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2016, Thanh Hóa.

35. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2017) Báo

cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2017, Thanh Hóa.

36. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2018) Báo

cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2018, Thanh Hóa.

37. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2019) Báo

cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2019, Thanh Hóa.

38. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2019) Báo

cáo tổng kết từ năm 2015 đến năm 2019, phương hướng nhiệm vụ năm 2020,

Thanh Hóa.

81

39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018) Quy chế tạm thời công tác thực

hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 169 ngày

02/5/2018), ban hành ngày 02/5/2018, Hà Nội.

82