ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HÀ

SỬ DỤNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ

CHẤT LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT,

KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội, 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HÀ

SỬ DỤNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ

CHẤT LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT,

KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Song

MÃ SỐ: 60.34.04.12

Hà Nội, 2015

1

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU .................................................................. 5

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 6 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 7 3. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................. 9 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 9 5. Mẫu khảo sát ............................................................................................ 10 6. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 10 7. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 10 8. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 10 9. Kết cấu của Luận văn .............................................................................. 11

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ KIỂM SOÁT CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG ......................................................................... 12 1.1. Hệ khái niệm ......................................................................................... 12 1.1.1. Khái niệm thiết chế tài chính ......................................................... 12 1.1.2. Hiệu quả quản lý của thiết chế tài chính ....................................... 13 1.1.3. Điều kiện áp dụng thiết chế tài chính............................................. 13 1.1.4. Khái niệm về chất lượng hàng hóa ................................................ 14 1.1.5. Đặc điểm của chất lượng hàng hóa ............................................... 17 1.1.6. Vai trò của chất lượng hàng hóa ...................................................... 19 1.2. Các lý thuyết về quản lý chất lượng ..................................................... 20 1.2.1. Khái niệm về quản lý ...................................................................... 20 1.2.2. Khái niệm về quản lý chất lượng ................................................... 21 1.2.3. Các trường phái quản lý chất lượng .............................................. 28 1.2.4. Các nguyên tắc quản lý chất lượng ................................................ 29

1.3. Vai trò của các thiết chế tài chính trong việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng ......................................................................... 31 1.3.1. Vai trò bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong quản lý chất lượng .. 321 1.3.2. Vai trò ngăn ngừa vi phạm ............................................................. 32 1.3.3. Vai trò thúc đẩy bảo đảm chất lượng ............................................. 32 Kết luận chương 1 ........................................................................................... 33

CHƢƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................... 34 2.1. Tình hình quản lý chất lượng ở Việt Nam hiện nay ............................. 34 2.1.1. Khái quát chung về quản lý chất lượng ở Việt Nam ...................... 34 2.1.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa .......... 35 2.1.3. Hoạt động tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp chất lượng tại Việt Nam........................................................................................................... 41

2

2.2. Thực trạng công bố chất lượng cho hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................................................................................ 48 2.2.1. Sự phân công trên địa bàn và hoạt động của Chi cục Tiêu chuẩn, Đo lường, Chất lượng Hà Nội .................................................................. 48 2.2.2. Điều tra về hiệu quả quản lý chất lượng sau công bố tại Sở Khoa học và Công nghệ ..................................................................................... 51 2.2.3. Điều tra, khảo sát doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội về xây dựng và công bố tiêu chuẩn ............................................................... 53

2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế kết quả quản lý nhà nước sau công bố chất lượng ....................................................................... 55 2.3.1. Những tồn tại và hạn chế ............................................................... 55 2.3.2. Các nguyên nhân ............................................................................ 58 Kết luận chương 2 ........................................................................................... 62

CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT, KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................... 64 3.1. Xây dựng thiết chế tài chính đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa có chất lượng không phù hợp với bản công bố ................. 64 3.1.1. Xây dựng thiết chế tăng cường mức xử phạt về tài chính đối với doanh nghiệp vi phạm .............................................................................. 64 3.1.2. Thiết chế tài chính về khen thưởng, khuyến khích đối với người tiêu dùng .......................................................................................................... 65 3.2. Điều kiện để thực hiện thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố ............................................................ 65 3.2.1. Điều kiện đối với doanh nghiệp ..................................................... 65 3.2.2. Điều kiện đối với chính sách quản lý nhà nước ............................. 66

3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý chất lượng hàng hóa sau công chất lượng trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ............................................................................................................ 67 3.3.1. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan ................ 67 3.3.2. Tăng cường năng lực tổ chức thực thi pháp luật và năng lực phối hợp trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố .............................. 67 3.3.3. Tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước .................................................................................................................. 69 3.3.4. Kiện toàn bộ máy Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng thành phố Hà Nội ............................................................................................... 70 3.3.5. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa bằng các công cụ, biện pháp cần thiết ........................................................................................... 72 Kết luận chương 3 ........................................................................................... 73

KẾT LUẬN .................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 79

3

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Ngọc Song – Vụ

trưởng Vụ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ - Người hướng dẫn khoa học,

đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành Luận văn này.

Xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy - Cô tại Khoa Khoa học Quản lý -

Đại học KHXHNV đã tận tình giảng dạy và truyền đạt kiến thức, phương

pháp luận, kỹ năng, kinh nghiệm… trong suốt thời gian học tập tại Khoa.

Xin trân trọng cảm ơn Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Sở

Khoa học và Công nghệ thành phố Hà Nội, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường

Chất lượng thành phố Hà Nội, các cơ quan quản lý, các chuyên gia... đã hợp

tác, tiếp đón, cung cấp thông tin số liệu và tạo điều kiện thuận lợi trong quá

trình điều tra, phỏng vấn phục vụ nghiên cứu.

Xin chân thành cám ơn các anh chị lớp Cao học Khóa QH-2012-X, về

sự giúp đỡ, hỗ trợ và động viên trong học tập.

Mặc dù đã nỗ lực và cố gắng rất nhiều nhưng do thời gian và năng lực

của bản thân còn hạn chế nên Luận văn còn những thiếu sót nhất định. Kính

mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ bảo của Thầy - Cô để Luận văn có thể

hoàn thiện hơn nữa.

Xin trân trọng cảm ơn./.

4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1: Quan điểm về chất lượng…………………………………...trang 17

Bảng 1.2: So sánh quản lý chất lượng truyền thống và đương đại tổ

chức……………………………………………………………………trang 23

Bảng 2.1: Vai trò của quản lý chất lượng…………………………..…trang 46

Bảng 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công

bố………………………………………………………………………trang 51

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thời gian gần đây, thị trường và hoạt động thương mại ở nước ta đã có

những bước phát triển tích cực, hàng hoá ngày càng đa dạng, phong phú, chất

lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân

dân. Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng hàng hoá, việc kiểm tra, kiểm

soát, chấp hành các quy định về bảo đảm chất lượng hàng hoá sản xuất và lưu

thông trên thị trường chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động quản lý còn

nhiều bất cập và hiệu quả quản lý còn hạn chế. Hiện tượng buôn bán hàng giả,

hàng kém chất lượng ngày càng có chiều hướng gia tăng, thậm chí có lúc, có

nơi tình hình trở nên nghiêm trọng không những gây thiệt hại về quyền lợi,

thậm chí làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của người tiêu dùng, mà còn làm suy

giảm uy tín và lợi ích kinh tế của những người kinh doanh chân chính, trung

thực, đồng thời gây hậu quả xấu tới sản xuất, đời sống và sự phát triển lành

mạnh của nền kinh tế, xã hội ở nước ta.

Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết thuộc về quản lý nhà nước.

Các Bộ, Ngành và địa phương được giao trách nhiệm quản lý chất lượng hàng

hoá chưa nhận thức một cách đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình trong

việc tổ chức và phối hợp hoạt động nhằm thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả

việc quản lý chất lượng đối với hàng hóa sản xuất và lưu thông trên địa bàn.

Những nội dung quy định hiện hành về chất lượng hàng hoá của Nhà

nước hoặc không theo kịp yêu cầu và đòi hỏi của phương thức quản lý tự

công bố tiêu chuẩn chất lượng, công bố phù hợp quy chuẩn, chứng nhận phù

hợp tiêu chuẩn, chứng nhận phù hợp quy chuẩn của doanh nghiệp sản xuất

kinh doanh hoặc chậm được điều chỉnh, bổ sung, thay thế cho phù hợp với

đặc điểm, yêu cầu của phương thức mới.

Bộ máy tổ chức và lực lượng làm công tác kiểm tra, kiểm soát về chất

lượng hàng hoá trong sản xuất và trong khâu lưu thông ở địa phương, ngay ở

thành phố Hà Nội còn thiếu và yếu, hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng

6

được yêu cầu và đòi hỏi của quản lý chất lượng sau công bố chất lượng của sự

phát triển hàng hoá và thị trường trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.

Một nguyên nhân chủ yếu nữa thuộc về các tổ chức doanh nghiệp sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trong quá trình hội nhập, hình thức quản lý chất

lượng đã có sự thay đổi căn bản từ bắt buộc đăng ký chất lượng sang tự

nguyện công bố chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp

sản xuất kinh doanh nhưng nhận thức, trách nhiệm, được quản lý và tham gia

vào quá trình quản lý còn rất hạn chế, có phần đối phó, né tránh.

Là một cán bộ đang công tác tại một cơ quan nhà nước thuộc thành phố

Hà Nội quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tôi nhận thấy việc quản lý

chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng ở địa phương chưa thực sự đạt

hiệu quả. Chính vì vậy trong phạm vi luận văn Thạc sĩ, tôi đã tiến hành

nghiên cứu với đề tài “Sử dụng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả

quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh

nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội” nhằm góp

phần khắc phục tình trạng yếu kém về quản lý chất lượng hàng hoá sau công

bố, để sớm đưa hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung, công tác quản lý

chất lượng hàng hoá nói riêng vào nền nếp, đúng pháp luật, góp phần thúc

đẩy và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Hà Nội nói

riêng và cả nước nói chung.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý

nhà nước về chất lượng hàng hóa sau khi công bố chất lượng, có thể nhận

thấy chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này.

Cuốn Quản lý chất lượng sản phẩm của Đặng Đức Dũng (chủ biên),

NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 đã trình bày lý thuyết cơ bản về quản

lý chất lượng sản phẩm, đảm bảo chất lượng, cải tiến và nâng cao chất lượng

sản phẩm, giảm chi phí trong sản xuất. Các tác giả cũng đề xuất việc áp dụng

các phương pháp thống kê trong quản lý chất lượng sản phẩm.

7

Tác giả Hà Duyên Tư trong cuốn sách Quản lý chất lượng trong công

nghiệp thực phẩm, NXB. Khoa học và Kỹ thuật, 2006 phân tích các kiến thức

cơ bản về chất lượng thực phẩm, nội dung các hoạt động quản lý và kiểm tra

chất lượng, kĩ thuật lấy mẫu, kĩ thuật kiểm tra thống kê trong sản xuất, xử lý

thống kê số liệu và công tác tiêu chuẩn hoá.

Tác giả Nguyễn Mạnh Dũng trong cuốn Quản lý chất lượng sản phẩm

và vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến nông lâm sản, NXB. Nông

nghiệp, 2008 đã đánh giá thực trạng nông sản chế biến trong thời kì hội nhập

kinh tế quốc tế, chất lượng và quản lý chất lượng nông sản chế biến và một số

giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến

nông sản thực phẩm.

Tác giả Bùi Hồng Đăng trong bài viết Xây dựng mô hình quản lý chất

lượng phù hợp trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu tại

Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 130 (tháng 4 năm 2008) đã đề xuất

các nội dung về áp dụng mô hình quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp

vừa và nhỏ với định hướng tập trung là áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất

lượng ISO và quản lý chất lượng toàn diện (TQM).

Giáo trình Quản lý chất lượng của tác giả Ngô Phúc Hạnh, NXB. Khoa

học và Kỹ thuật, 2011 đã trình bày các nội dung về chất lượng sản phẩm và

dịch vụ, khách hàng và thị trường sản phẩm, chi phí chất lượng và năng suất,

quản lý chất lượng trong các tổ chức và hệ thống quản lý chất lượng, các

phương pháp, kỹ thuật quản lý chất lượng...

Đi sâu nghiên cứu về thiết chế kiểm soát chất lượng hàng hóa, gần đây,

tác giả Phan Thanh Thôi đã nghiên cứu đề tài “Tăng cường các thiết chế kiểm

soát chất lượng hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn tỉnh

Tây Ninh”. Ở đề tài này, tác giả cũng đã nêu ra được những tồn tại, hạn chế

trong việc quản lý chất lượng hàng hóa và cũng đã đưa ra được một số giải

pháp để kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng.

Tuy nhiên các giải pháp đó chưa thực sự rõ ràng, cụ thể và phạm vi nghiên

cứu chỉ giới hạn trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

8

Đối với Hà Nội, đây cũng là một vấn đề cần được quan tâm, cần được

nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện vì Hà Nội là trung tâm kinh tế của

cả nước, có số lượng lớn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và số lượng

hàng hóa lưu thông rất lớn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có

một công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về chất

lượng hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn thành phố Hà

Nội, và đặc biệt là sử dụng thiết chế để nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng

hàng hóa

3. Mục tiêu nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý chất lượng hàng hóa, hiệu

quả quản lý

- Mục tiêu chung: Xây dựng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả

quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh nghiệp

sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Tìm kiếm các nguyên nhân gây ra hạn chế hiệu lực, hiệu quả của

quản lý chất lượng hàng hóa nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm hàng

hóa sau công bố chất lượng nói riêng;

+ Phân tích những nguyên nhân cơ bản làm cho công tác quản lý nhà

nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chưa đạt hiệu quả cao;

+ Phân tích các nguyên nhân từ phía tổ chức doanh nghiệp sản xuất,

kinh doanh;

+ Xây dựng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng

hàng hóa sau công bố chất lượng của các tổ chức doanh nghiệp.

4. Phạm vi nghiên cứu

+ Về nội dung: Tập trung nghiên cứu công tác quản lý chất lượng hàng

hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội

+ Về không gian: Địa bàn thành phố Hà Nội

+ Về thời gian: Từ năm 2009 đến nay.

9

5. Mẫu khảo sát

Đề tài được khảo sát trực tiếp tại:

- Các cơ quản quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa;

- Các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm hành chính trong

lĩnh vực Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng: Quản lý thị trường, Thanh tra;

- Các chuyên gia, cán bộ, thanh tra thuộc Sở Khoa học và công nghệ

Hà Nội;

- Khoảng 40 cơ sở sản xuất, cửa hàng kinh doanh trên địa bàn thành

phố Hà Nội.

6. Câu hỏi nghiên cứu

- Thiết chế tài chính cần phải được xây dựng như thế nào để nâng cao

hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh

nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội?

- Liệu xây dựng thiết chế tài chính có thể làm đổi mới công tác quản lý

nhà nước về chất lượng hàng hóa không?

7. Giả thuyết nghiên cứu

- Thiết chế tài chính cần phải được xây dựng dựa trên tư tưởng là đưa

ra các hình thức xử phạt về mặt tài chính nhằm ngăn chặn hiện tượng sản

xuất, kinh doanh hàng hóa có chất lượng không phù hợp với bản công bố.

- Việc xây dựng thiết chế tài chính có thể làm đổi mới và nâng cao hiệu

quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng

8. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Phương pháp nghiên cứu và thu thập thông tin qua khảo cứu tài liệu:

Phương pháp nghiên cứu này được sử dụng cho chương 1 và một phần nội

dung chương 2. Tác giả nghiên cứu các công trình nghiên cứu đã có về quản

lý chất lượng hàng hóa sau công bố, các thiết chế kinh tế, tài chính, xã hội

nhằm quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố; các văn bản quy

phạm pháp luật liên quan đến quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hóa, xử lý

vi phạm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa…;

10

- Phương pháp điều tra qua phiếu trưng cầu ý kiến và xử lý dữ liệu:

Phương pháp nghiên cứu này được sử dụng trong nghiên cứu chương 2 của

luận văn. Đối tượng khảo sát là cán bộ, công chức đang làm công tác quản lý

nhà nước về chất lượng hàng hóa và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh

các sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phương pháp nghiên

cứu nhằm thu thập thông tin đánh giá về việc xử lý vi phạm chất lượng hàng

hóa sau công bố, kết quả áp dụng các thiết chế tài trong xử lý vi phạm tiêu

chuẩn chất lượng hàng hóa sau công bố; mức độ thực hiện công bố chất

lượng, tuân thủ các quy định về công bố chất lượng hàng hóa sau công bố của

các doanh nghiệp.

- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này nhằm thu thập ý kiến

đánh giá của các chuyên gia về thiết chế tài chính đã và đang được áp dụng,

các đề xuất về đổi mới thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát

chất lượng hàng hóa sau công bố.

9. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:

Chương 1 - Cơ sở lý luận của việc hình thành thiết chế tài chính để

kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng.

Chương 2 - Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về chất

lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Chương 3 - Xây dựng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả quản lý

chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh nghiệp sản xuất,

kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội.

11

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH

ĐỂ KIỂM SOÁT CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ

CHẤT LƢỢNG

1.1. Hệ khái niệm

1.1.1. Khái niệm thiết chế tài chính

Thiết chế xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và hệ thống

giám sát mọi hoạt động của xã hội. Nhờ các thiết chế xã hội mà các quan hệ xã

hội kết hợp lại với nhau, đảm bảo cho các cộng đồng hoạt động nhịp nhàng. Về

mặt tổ chức, thiết chế xã hội là hệ thống các cơ quan quyền lực, các đại diện

cho cộng đồng, đảm bảo những hoạt động đáp ứng những nhu cầu khác nhau

của cộng đồng và cá nhân. Ngoài việc giám sát của các hệ thống tổ chức, còn

có hệ thống giám sát không mang những hình thức có tổ chức. Đó là phong tục,

tập quán, dư luận, luôn luôn đánh giá và điều chỉnh hành vi của các thành viên

trong cộng đồng xã hội. Các thiết chế xã hội đều có nhiệm vụ: đáp ứng các loại

nhu cầu khác nhau của cộng đồng và của các thành viên, điều chỉnh hoạt động

của các bộ phận trong cộng đồng và của các thành viên, kết hợp hài hoà các bộ

phận, đảm bảo sự ổn định của cộng đồng. Có nhiều loại thiết chế khác nhau:

+ Thiết chế kinh tế, tài chính bao gồm những thiết chế liên quan đến việc

sản xuất và phân phối của cải, điều chỉnh sự lưu thông tiền tệ, tổ chức và phân

công lao động xã hội.

+ Thiết chế chính trị là những thiết chế như chính phủ, quốc hội, các

đảng phái và tổ chức chính trị ...

+ Thiết chế tinh thần là những thiết chế liên quan đến các hoạt động văn

hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, tôn giáo.

+ Thiết chế giao tiếp công cộng bao gồm tất cả các khuôn mẫu và

phương thức hành vi trong sự giao tiếp công cộng.

Các mối quan hệ xã hội giữa người với người đều kinh qua những thiết

chế. Những thiết chế này đều có tính độc lập tương đối so với các quan hệ xã

12

hội ấy. Thiết chế thường có tính chất lạc hậu hơn so với các biến đổi của các

quan hệ xã hội. Việc cải biến và thay đổi các thiết chế xã hội liên quan trực tiếp

đến quản lí xã hội và các chính sách xã hội.

Thiết chế tài chính là một trong các thiết chế xã hội. Thiết chế tài chính

có thể được hiểu là tổng thể các quy định và tổ chức về tài chính nhằm giám sát

hoạt động của đời sống xã hội, góp phần bảo đảm sự vận hành bình thường của

đời sống xã hội.

1.1.2. Hiệu quả quản lý của thiết chế tài chính

Trong hoạt động quản lý, các chủ thể quản lý có thể sử dụng các thiết

chế quản ý khác nhau. So với những thiết chế quản lý khác, thiết chế tài chính

có những điểm ưu trội trên một số phương diện.

Thứ nhất, thiết chế tài chính tác động trực tiếp vào lợi ích của đối tượng

quản lý. Với việc sử dụng thiết chế tài chính, chủ thể quản lý có thể khuyến

khích các đối tượng quản lý thực hiện theo định hướng mà chủ thể quản lý

mong đợi. Mặt khác, thông qua thiết chế này, có thể tác động đến lợi ích vật

chất, làm giảm lợi ích vật chất, doanh thu của đối tượng quản lý khi chủ thể

quản lý áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm, yêu cầu khắc phục hậu quả.

Thứ hai, thiết chế tài chính có tác động ngăn ngừa, tạo ra áp lực phải

tuân thủ các quy định đã được đặt ra. Vì thiết chế tài chính tác động đến lợi

ích của các chủ thể, vì vậy, sự tác động của thiết chế này tạo ra áp lực phải

tuân thủ. Nếu đi ngược lại các quy định của thiết chế tài chính, đối tượng sẽ

chịu thiệt hại về mặt kinh tế. Thiết chế tài chính là thiết chế có tác dụng ngăn

ngừa, đề phòng vi phạm. Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp thuyết phục,

vận động thì thiết chế tài chính có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm

kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm pháp chế. Có thể khẳng định: không có cưỡng

chế, không sử dụng thiết chế tài chính thì không có trật tự, quyền và lợi ích

của nhà nước cũng như của mỗi cá nhân, tổ chức bị xâm phạm.

1.1.3. Điều kiện áp dụng thiết chế tài chính

Để áp dụng thiết chế tài chính hiệu quả, các quy định về thiết chế tài

chính cần phù hợp với yêu cầu kiểm soát chất lượng hàng hóa, có tính thực

13

tiễn và bao quát được các khía cạnh của quản lý chất lượng hàng hóa. Trong

triển khai thực hiện các thiết chế tài chính, vấn đề căn bản là cần có sự phối

hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quy định các loại hình sản

phẩm, hàng hóa cần phải công bố chất lượng, hoạt động kiểm tra, giám sát và

xử lý các vi phạm về chất lượng hàng hóa sau công bố. Việc quản lý chất

lượng hàng hóa sau công bố liên quan đến nhiều chủ thể quản lý khác nhau.

Nếu thiếu sự phối hợp hiệp đồng giữa các chủ thể này thì các thiết chế tài

chính khó đi vào thực tiễn hoặc chỉ áp dụng đơn lẻ đối với một số ít hàng hóa,

một số ít doanh nghiệp sản xuất mà không tạo nên một thiết chế hiệu quả

trong kiểm soát chất lượng hàng hóa.

1.1.4. Khái niệm về chất lượng hàng hóa

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói

nhiều các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao",...

Mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm

thúc đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.

Tuy nhiên, chất lượng là một phạm trù phức tạp, một vấn đề gây nhiều tranh

cãi, vì vậy, định nghĩa về chất lượng có những khác biệt tùy theo đối tượng sử

dụng, tùy theo thời gian và cách tiếp cận.

Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, chất lượng là mức độ, thước

đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính

hữu ích của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm.

Chất lượng theo quan niệm thông thường được hiểu là tốt và tuyệt với

của sản phẩm. Quan niệm này mang tính trừu tượng vì chất lượng hàng hóa,

sản phẩm không thể xác định một cách chính xác, đầy đủ và như nhau trong

cảm nhận của các nhóm đối tượng.

Chất lượng theo quan niệm của nhà sản xuất là sự đáp ứng và phù hợp

của sản phẩm, dịch vụ với một tập hợp các yêu cầu, quy cách được xác định

trước. Chất lượng được hiểu là tổng hợp những tính chất đặc trưng của sản

phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn các yêu cầu định trước cho nó trong điều

kiện kinh tế, xã hội nhất định.

14

Chất lượng hướng theo thị trường, trong nền kinh tế thị trường, khi mô

tả chất lượng sản phẩm, hàng hóa, người ta nêu bật bản chất mà người sản

xuất người tiêu dùng gặp nhau: yêu cầu sử dụng cao và giá trị phù hợp. Có rất

nhiều định nghĩa chất lượng được các tác giả nêu ra:

- Theo Tổ chức kiểm tra chất lượng châu Âu (European organization

for quality control): chất lượng là mức độ phù hợp của sản phẩm đối với yêu

cầu của người tiêu dùng;

- Theo tiêu chuẩn của Australia (AS1057-1985) thì "Chất lượng là sự

phù hợp với mục đích".

- Theo một số chuyên gia quản lý chất lượng nổi tiếng thì: chất lượng là

mức độ dự đoán trước tính đồng đều để tin cậy, tại mức chi phí thấp và thị

trường chấp nhận (W.E. Deming); Chất lượng là những đặc tính cơ bản của

sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm, hàng hóa,

dịch vụ đáp ứng được mong đợi của khách hàng (A.Feigenbaun); Chất lượng

là sự thỏa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất (Ishikawa).

Theo quan điểm chất lượng hướng theo công nghệ thì chất lượng sản

phẩm là “tổng tính chất đặc trưng của sản phẩm thể hiện ở mức độ thỏa mãn

những yêu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kỹ thuật,

kinh tế, xã hội”.

Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm có khả

năng thỏa mãn được những nhu cầu phù hợp công dụng của sản phẩm đó,

chất lượng sản phẩm là sự phù hợp các tiêu chuẩn hoặc quy định kỹ thuật.

Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa ISO

9000:1994 (TCVN 5814-1994) thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều

nước chấp nhận định nghĩa này: "Chất lượng là một tập hợp các tính chất và

đặc trưng của sản phẩm tạo ra cho nó khả năng thỏa mãn nhu cầu đã được nêu

ra hoặc còn tiềm ẩn".

Qua các định nghĩa trên ta có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng

sản phẩm hàng hoá sau đây:

15

+ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể

hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm.

+ Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu

cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục.

+ Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem

xét sản phẩm thỏa mãn tới mức nào của người tiêu dùng.

Ở nước ta, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá (Luật số

05/2007/QH12) cũng chỉ rõ: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là mức độ của

các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công

bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.

Chất lượng hàng hóa thể hiện khả năng hàng hóa đáp ứng nhu cầu nhất

định của con người. Nói cách khác, chất lượng hàng hóa là thước đo mức độ

có ích của giá trị sử dụng. Chất lượng hàng hóa được xác định theo mục đích

sử dụng cụ thể, theo nhu cầu của đối tượng sử dụng. Chất lượng hàng hóa

không cố định mà phụ thuộc vào điều kiện sản xuất và sử dụng nhất định.

Cùng với phát triển của sản xuất, những tiến bộ khoa học, công nghệ và xu

hướng phát triển của xã hội, chất lượng hàng hóa cũng luôn luôn biến đổi,

không ngừng nâng cao, đạt yêu cầu toàn diện hơn, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu

của người tiêu dùng.

Chất lượng hàng hóa không chỉ đơn thuần là bảo đảm những tính chất

về mặt kỹ thuật mà còn mang cả nội dung kinh tế. Người ta có thể sử dụng

nguyên liệu quý, hiếm, dùng phương pháp công nghệ tiên tiến để sản xuất

những hàng hóa khá hoàn hảo, song như vậy làm cho chi phí sản xuất quá

lớn, giá thành quá cao, sản xuất sẽ không có lãi và cũng không thể kinh doanh

được. Người tiêu dùng không thể bỏ ra số tiền quá lớn để mua thứ hàng hóa

đó vì sự tăng thêm về chất lượng không tương ứng với số tiền bỏ thêm ra. Vì

vậy, để hàng hóa sản xuất ra tiêu thụ được nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu

người tiêu dùng và kích thích được sản xuất phát triển thì không thể yêu cầu

một chất lượng với bất kỳ giá nào mà phải là một chất lượng kinh tế nhất

định, đảm bảo đáp ứng được những yêu cầu sử dụng nhất định và chi phí xã

16

hội ít nhất. Do đó, chất lượng hàng hóa là tổng hợp các tính chất đặc trưng

kinh tế, kỹ thuật tạo nên giá trị sử dụng làm cho hàng hóa có khả năng thỏa

mãn nhu cầu xã hội trong những điều kiện sản xuất và sử dụng nhất định.

Có thể phân hóa khái niệm về chất lượng theo các quan điểm như sau:

Bảng 1.1. Quan điểm về chất lƣợng

Theo quan điểm

Theo quan điểm mới

Theo quan điểm tổng hợp

truyền thống

Đặc tính sản phẩm, dịch vụ đáp ứng yêu cầu khách hàng Thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng Thỏa mãn yêu cầu giá thành hợp lý và thời gian giao nhận tốt

1.1.5. Đặc điểm của chất lượng hàng hóa

Từ những khái niệm nêu trên, chất lượng hàng hóa có những đặc điểm

cơ bản sau:

- Do chất lượng được đo bằng mức độ thỏa mãn nhu cầu thông qua một

tập hợp các chỉ tiêu, do vậy, một sản phẩm, vì một lý do nào đó mà có chỉ tiêu

quy định không đạt yêu cầu, bởi vậy, không được thị trường chấp nhận, bị coi

là không có chất lượng, cho dù sản phẩm đó có giá trị sử dụng và ngay cả khi

sản phẩm đã được chế tạo từ công nghệ có thể hiện đại hay giá trị của một số

chỉ tiêu chất lượng có thể là rất cao. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở

để các nhà quản lý, các nhà sản xuất đưa ra những chính sách, chiến lược chất

lượng sản phẩm và kinh doanh của mình.

- Yêu cầu có thể là nhu cầu, đó là những đặc tính không thể thiếu đối

với khách hàng hay các bên quan tâm về sản phẩm được cung cấp, những

cũng có thể là mong đợi, nếu đáp ứng được sẽ đem lại tính cạnh tranh cao đối

với sản phẩm, ví dụ như hình thức bên ngoài của sản phẩm, thái độ phục vụ,

cung cấp dịch vụ, như vậy, có thể phân chia chất lượng thành hai loại: “chất

lượng phải có” “ứng với đáp ứng nhu cầu” và “chất lượng hấp dẫn” “ứng với

đáp ứng mong đợi”. Tuy nhiên, do sự thay đổi điều kiện sống nên nhiều đặc

17

tính trong một thời kỳ được coi là mong đợi nhưng ở thời kỳ sau đó được coi

là nhu cầu.

- Người kinh doanh không chỉ phải đáp ứng nhu cầu của khách hàng

mà muốn tồn tại, phát triển phải lưu ý đến các bên quan tâm khác, ví dụ như

yêu cầu về pháp luật, tập quán hay văn hóa, sinh hoạt của cộng đồng xã hội và

thị trường vươn tới.

- Do chất lượng được đo bằng sự thỏa mãn nhu cầu mà nhu cầu luôn

biến động nên chất lượng cũng biến đổi theo thời gian, không gian và điều

kiện sử dụng.

- Khi đánh giá chất lượng một sản phẩm, ta phải xem xét đặc tính chất

lượng là đặc tính của đối tượng có liên quan đến những yêu cầu cụ thể. Với

cùng một chủng loại sản phẩm, các yêu cầu này khác nhau tùy theo điều kiện

cụ thể.

- Yêu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, các tiêu

chuẩn nhưng cũng có thể yêu cầu không mô tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể

cảm nhận chung hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá trình sử dụng.

- Chất lượng không chỉ dùng cho sản phẩm mà cần hiểu là áp dụng cho

thực thể như sản phẩm, một hoạt động, một quá trình, một hệ thống.

- Chất lượng luôn có tính chủ quan và mang tính khách quan. Nó phản

ánh tương tác giữa sản phẩm, con người (người tiêu dùng) và xã hội. Cần hiểu

nghĩa rộng chất lượng tổng hợp bao gồm thỏa mãn yêu cầu, giá cả dịch vụ

bán hàng và sau giao hàng.

Khi nói đến chất lượng không thể không nói đến khái niệm cấp chất

lượng. Cấp chất lượng là chủng loại hay thứ hạng của các yêu cầu chất lượng

khác nhau đối với sản phầm, hàng hóa, quy trình hay hệ thống có cùng chức

năng sử dụng.

- Chất lượng hàng hóa có thể chia thành nhiều loại khác nhau:

+ Chất lượng thiết kế: là giá trị đem lại thông qua các chỉ tiêu đặc trưng

của sản phẩm, hàng hóa được phác thảo qua văn bản để tổ chức sản xuất;

18

+ Chất lượng công bố: là chất lượng được cơ quan có thẩm quyền phê

chuẩn hoặc chấp nhận, trong đó các quy định mức chất lượng cần có của sản

phẩm, hàng hóa đạt được. Mặt khác, cơ quan có thầm quyền quản lý căn cứ

tiêu chuẩn đã công bố (tiêu chuẩn cơ sở, tiêu chuẩn Việt Nam, quy chuẩn Việt

Nam, quy chuẩn địa phương, tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế) để

kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng hóa;

+ Chất lượng thực tế là chất lượng đạt được ở sản phẩm, hàng hóa qua

thử nghiệm tại thời điểm cụ thể, việc kiểm tra chất lượng thực tế nhằm loại bỏ

sản phẩm không đạt tiêu chuẩn, kiểm soát mức độ thỏa mãn yêu cầu hoặc

đánh giá chất lượng còn lại sử dụng;

+ Chất lượng tối ưu là chất lượng đạt mức hợp lý nhất trong điều kiện

sản xuất và kinh tế-xã hội nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng

trong điều kiện cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.

1.1.6. Vai trò của chất lượng hàng hóa

Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản

phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con

người, động thực vật, tài sản, môi trường… Bảo đảm chất lượng sản phẩm,

hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với người tiêu dùng, người sản

xuất mà còn cả với nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và

lợi ích quốc gia

Chất lượng sản phẩm là chính sách do doanh nghiệp thực hiện các

chiến lược Marketing tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm của doanh

nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường từ đó làm cơ sở cho

sự tồn tại và phát triển bền lâu của doanh nghiệp. Nhờ phát triển chất lượng

đã giúp tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm tài nguyên và giảm thiểu ô nhiễm

môi trường.

Hiện nay, cuộc cạnh tranh toàn cầu đã, đang và sẽ trở nên ngày càng

mạnh mẽ với qui mô và phạm vi ngày càng lớn. Sự phát triển của khoa học và

công nghệ cho phép các nhà sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày

càng cao nhu cầu khách hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Tình hình trên đã

19

khiến cho chất lượng trở thành yếu tố cạnh tranh, trở thành yếu tố quyết định

sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng.

Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo

cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng

suất lao động. Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín hàng hóa

nước ta trên thị trường thế giới mà còn tạo điều kiện tăng cường thu nhập

ngoại tệ cho đất nước.

Bên cạnh đó đảm bảo chất lượng hàng hoá, chống hàng giả, hàng nhái,

bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chống hàng lậu không đảm bảo chất

lượng, không rõ nguồn gốc, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi

của người tiêu dùng Việt Nam.

1.2. Các lý thuyết về quản lý chất lƣợng

1.2.1. Khái niệm về quản lý

Quản lý là một hoạt động được hình thành từ khi xã hội loài người xuất

hiện, con người có sự hợp tác với nhau hoặc cùng nhau hoạt động với những

mục đích chung nào đó. Ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần

đến quản lý, dù nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm chính thức, nhóm không chính

thức và bất kể nội dung hoạt động nhóm là gì. Từ xa xưa, con người đã biết

sử dụng hoạt động quản lý vào việc tổ chức các hoạt động của mình. Ở Phương

Đông, Khổng Tử đã đề cao xác định rõ vai trò cá nhân của người làm công tác

quản lý - đặc biệt ông đã để lại một câu khá lý thú cho những người làm quản

lý "Bất tại kỳ vị bất mưu kỳ chính" (không ở vào địa vị ấy đừng nên bàn chuyện

của nơi ấy). Vào thời Trung Hoa cổ đại, bốn chức năng cơ bản của quản lý đã

được xác định. Đó là kế hoạch hoá, tổ chức, tác động và kiểm tra.

Tuy tư tưởng và quan điểm về quản lý đã có cách đây 2500 năm, nhưng

cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc vận động theo khoa học mới

xuất hiện. Người khởi xướng cuộc vận động này là Frederich Winslow Taylor

(1856 - 1915). Năm 1911, Winslow Taylor đã cho xuất bản cuốn sách "Các

nguyên tắc quản lý theo khoa học". Ông đã cho rằng: "Quản lý là cải tạo mối

20

quan hệ giữa người với người, giữa người với máy móc" và "Quản lý là nghệ

thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương

pháp tốt nhất, rẻ nhất" [8, tr. 13].

Từ góc độ xã hội học về quản lý C.Mác viết: "Tất cả mọi lao động trực

tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều

cũng cần tìm đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và

thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ

thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sĩ độc

tấu vĩ cầm tự mình điểu khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có

nhạc trưởng" [2, tr. 21].

Ngày nay, khái niệm về quản lý được định nghĩa rõ ràng hơn:

Theo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là tác động có mục đích, có kế

hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là

khách thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến” [17].

Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý là

tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến

khách thể (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận

hành và đạt được mục đích của tổ chức [8, tr. 1].

Theo cuốn giáo trình quản lý hành chính nhà nước của Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, quản lý được xem như là “sự kết hợp giữa tri thức

và lao động” [16].

Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý

nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân

hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.

1.2.2. Khái niệm về quản lý chất lượng

Trong ISO 9000, quản lý chất lượng được định nghĩa là các hoạt động

nhằm định hướng/hoạch định và kiểm soát về chất lượng của một tổ chức

(ISO 9000:2005). Thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm/hoạt động về bản

chất là tìm câu trả lời cho bốn câu hỏi lớn. Thứ nhất, “Các chuẩn mực/yêu cầu

mà một sản phẩm hay hoạt động cần đạt được là gì?”. Kết quả của câu hỏi

21

này là một đa giác chất lượng (tiêu chuẩn) với mỗi đỉnh là một yêu cầu mà

sản phẩm/hoạt động cần đạt được. Câu hỏi thứ hai là “Làm thế nào để đạt

được các chuẩn mực/yêu cầu đã xác định với sản phẩm/hoạt động?”. Với câu

hỏi này, đơn vị tìm câu trả lời cho những câu hỏi nhỏ hơn trong mô hình 5W

+1H như tại sao phải thực hiện các hoạt động (Why), các công việc nào cần

được tiến hành (What), ai tiến hành (Who), vào bao giờ (When), ở đâu

(Where) và sẽ được thực hiện như thế nào (How). Các công cụ như phân tích

quá trình cải tiến theo vòng tròn P-D-C-A (hoạch định, thực hiện, kiểm tra và

điều chỉnh) và nguyên tắc coi trọng phòng ngừa hơn khắc phục có thể giúp

các đơn vị đã và đang áp dụng ISO 9000 trả lời được câu hỏi thứ hai này. Thứ

ba, “Làm thế nào để biết được sản phẩm/hoạt động đạt được các chuẩn mực

đã đề ra đến đâu?”. Câu hỏi này yêu cầu đơn vị phải thiết lập được một hệ

thống các “chốt kiểm soát” với sản phẩm/dịch vụ mà mình cung cấp cũng như

những hoạt động được thực hiện. Câu hỏi thứ tư cần lời giải trong quản lý

chất lượng là “Làm thế nào để kết quả thực hiện các chuẩn mực chất lượng

của sản phẩm/hoạt động được cải thiện?”.

Trả lời câu hỏi này giúp đơn vị thiết lập được một cơ chế cải tiến liên

tục với chất lượng sản phẩm và chất lượng hoạt động dựa trên các bước theo

dõi, phân tích, đánh giá và xác định cơ hội cải tiến, xác định và thực hiện các

biện pháp cải tiến, và theo dõi đánh giá kết quả cải tiến cũng như thực hiện

các điều chỉnh cần thiết cho hoạt động cải tiến.

22

Bảng 1.2. So sánh quản lý chất lƣợng truyền thống và đƣơng đại tại tổ chức

Đặc điểm QLCL truyền thống QLCL đƣơng đại

Tính chất

Chất lượng là vấn đề công nghệ, sản xuất đơn thuần

Chất lượng là vấn đề tổng hợp (kinh tế, kỹ thuật – xã hội) là bộ phận gắn kết quản lý doanh nghiệp

Vấn đề tác nghiệp Vấn đề chiến lược và tác nghiệp Phạm vi

Thực hiện ở mọi cấp Cấp quản lý Cấp phân xưởng, khu vực

sản xuất + Cấp công ty

+ Cấp phân xưởng, phòng, ban

+ Tự quản

Mục tiêu

Ngắn hạn, lợi nhuận cao nhất Kết hợp dài và ngắn hạn, thỏa mãn nhu cầu kinh tế cao nhất

Sản phẩm cuối cùng Sản phẩm

Tất cả sản phẩm và dịch vụ bao gồm nội bộ và tiêu thụ bên ngoài

Hoạch định, kiểm soát, cải tiến Chức năng Kiểm tra, kiểm soát

Đi thẳng vào vấn đề riêng biệt Đặt trong mối quan hệ của toàn hệ thống Cách xem xét vấn đề

+ Áp đặt

Khắc phục, tìm nguyên nhân, phòng ngừa Biện pháp giải quyết + Thưởng, phạt

Bằng sự hài lòng của khách hàng

Theo tiêu chí, chỉ tiêu thiết kế Đánh giá chất lượng

(Nguồn: Giáo trình Quản lý chất lượng trong các tổ chức của GS.TS.

Nguyễn Đình Phan – Đại học Kinh tế quốc dân)

Đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng được thực hiện chủ yếu ở

hai cấp độ chính là nhà nước và doanh nghiệp. Xét về đối tượng, đối tượng của

quản lý chất lượng chính là các sản phẩm của tổ chức, trong đó bao gồm hàng

hóa, dịch vụ hoặc quá trình. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét vai trò của quản lý

chất lượng ở cấp nhà nước và cấp doanh nghiệp đối với hàng hóa, dịch vụ và

quá trình trong hành trình Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.

23

1.2.2.1. Quản lý nhà nước về chất lượng

Trước hết phải thấy rằng quản lý nhà nước về chất lượng là hoạt động

tổng hợp mang tính kỹ thuật, kinh tế và xã hội, có mục tiêu, biến đổi theo thời

gian và thông qua các cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức.

Mục tiêu quản lý chất lượng của Nhà nước Việt Nam là “để đảm bảo

nâng cao chất lượng hàng hóa, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu

dùng, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ môi

trường, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực quản lý

nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác kỹ thuật, kinh tế và thương

mại quốc tế” (Pháp lệnh Chất lượng Hàng hóa 1999).

Để thực hiện những mục tiêu nói trên, các biện pháp sau đây được tiến

hành: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa; Kiểm tra và

chứng nhận chất lượng hàng hóa, áp dụng và chứng nhận hệ thống quản lý

chất lượng; công nhận năng lực kỹ thuật và quản lý của các tổ chức hoạt động

trong lĩnh vực chất lượng; thanh tra và xử lý các vi phạm về chất lượng.

Những biện pháp quản lý của nhà nước về chất lượng này được thể hiện trong

hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng. Điều đó phù hợp với xu

hướng chung của quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Nếu so sánh các quy định pháp luật của Việt Nam đối với chất lượng

hàng hóa hiện nay, kể cả Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật mới được

ban hành chúng ta thấy rằng phần lớn các nguyên tắc và yêu cầu của Hiệp

định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) và Hiệp định Áp dụng các

biện pháp vệ sinh động và thực vật đã được đáp ứng. Tuy nhiên, cũng cần

phải chỉ ra một thực tế là đâu đó cũng còn có những sự không đồng bộ trong

các quy định có liên quan giữa các cơ quan khác nhau, trong các biện pháp

khác nhau được áp dụng mà nguyên nhân không phải từ phía chủ quan các cơ

quan muốn áp đặt sự không đồng bộ đó để cản trở thương mại trong nước và

với nước ngoài, mà do những yếu tố lịch sử và đặc biệt yếu tố về nguồn lực

(nhân lực và vật lực).

24

Trong số các biện pháp quản lý chất lượng nêu trong Luật Tiêu chuẩn

và Quy chuẩn kỹ thuật, biện pháp người sản xuất kinh doanh công bố hàng

hóa, dịch vụ do mình sản xuất hoặc cung cấp phù hợp với tiêu chuẩn hoặc quy

chuẩn kỹ thuật. Đây là một trong các bài bản quản lý được tổ chức tiêu chuẩn

hóa quốc tế đưa ra và khuyến khích các quốc gia áp dụng. Có thể nói Việt

Nam là một nước tiên phong trong khu vực ASEAN áp dụng một cách rộng

rãi. Việc áp dụng phương thức này sẽ làm giảm bớt sự can thiệp không cần

thiết của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp và như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian cho doanh nghiệp và

sản phẩm sẽ rẻ hơn, nhanh đến với người tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, cũng phải

thấy rằng để thực hiện phương thức này, Nhà nước đã đặt niềm tin rất lớn vào

các doanh nghiệp khi thể hiện trách nhiệm xã hội của mình đối với chất lượng

hàng hóa, dịch vụ mình làm ra hay cung cấp, bên cạnh đó đòi hỏi người tiêu

dùng phải nâng cao nhận thức để hiểu được các quyền hợp pháp và trách

nhiệm công dân của mình đối với vấn đề chất lượng sản phẩm trong quá trình

mua và sử dụng chúng.

Biện pháp quản lý chất lượng khác cũng được Luật Tiêu chuẩn và Quy

chuẩn kỹ thuật đề cập như chứng nhận sự phù hợp của hàng hóa, dịch vụ hoặc

quá trình với tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật, công nhận năng lực của các

tổ chức hoạt động trong hoạt động kiểm tra, giám định và chứng nhận chất

lượng sản phẩm hoặc quá trình/ hệ thống quản lý chất lượng, việc thừa nhận

lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm

nhằm thuận lợi hóa thương mại. Những biện pháp được hài hòa ở mức độ cao

với các tiêu chuẩn hoặc/và khuyến nghị của các tổ chức quốc tế có liên quan

như ISO, IEC, ITU, CODEX và cả OIE, IPPC.

1.2.2.2. Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp

Hoạt động quản lý chất lượng trong doanh nghiệp về nguyên lý khác

với hoạt động quản lý của nhà nước đối với chất lượng. Điều này là do tính

chất tổ chức của cơ quan nhà nước và của doanh nghiệp rất khác nhau vì

những mục tiêu khác nhau.

25

Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ là kết quả của quá trình chịu

sự tác động của nhiều yếu tố liên quan. Muốn đạt được chất lượng mong

muốn phải quản lý đúng đắn các yếu tố này. Quản lý chất lượng trong doanh

nghiệp là cần thiết với loại hình, quy mô doanh nghiệp. Trước hết, quản lý

chất lượng doanh nghiệp là sự định hướng về mục tiêu, chính sách chất lượng,

mục tiêu chất lượng. Doanh nghiệp cần xác định và triển khai áp dụng các Hệ

thống quản lý chất lượng, các công cụ cải tiến và kiểm soát mọi hoạt động

ảnh hưởng đến chất lượng nhằm thỏa mãn yêu cầu khách hàng.

A. Định hướng, kiểm soát chất lượng và đảm bảo chất lượng

Việc định hướng và kiểm soát chất lượng gồm những hoạt động nào:

1/ Chính sách và mục tiêu chất lượng. Đó là ý đồ và định hướng của

doanh nghiệp liên quan đến chất lượng trên cơ sở nhu cầu của khách hàng,

khả năng thỏa mãn của doanh nghiệp và điều kiện tổ chức thực hiện.

2/ Hoạch định chất lượng là một phần của quản lý chất lượng, tập trung

vào mục tiêu và quy định các quá trình tác nghiệp và nguồn lực để thực hiện

mục tiêu chất lượng.

3/ Kiểm soát chất lượng. Ngay từ thập niên thứ 3 của thế kỷ XX, người

ta đã bắt đầu chú trọng đến quá trình tạo ra sản phẩm, chứ không đợi đến

khâu cuối cùng mới tiến hành sàng lọc, phân loại chúng. Kiểm soát chất

lượng (Quality control) ra đời và ngày càng hoàn thiện đồng hành cùng lịch

sử phát triển nền sản xuất hàng hóa.

Trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu chất lượng thường

tập trung kiểm soát 5 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất

lượng. Đó là:

- Kiểm soát con người thực hiện (men);

- Kiểm soát phương pháp và quá trình sản xuất (methods);

- Kiểm soát nguyên vật liệu (materials);

- Kiểm soát và bảo dưỡng thiết bị (machines);

- Kiểm soát thông tin (information).

26

Quy tắc 4M+I nêu trên mang đặc trưng của lực lượng sản xuất còn xét

về quan hệ sản xuất thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn phụ thuộc vào các

yếu tố khác như nhu cầu của nền kinh tế, sự phát triển của khoa học và công

nghệ, cơ chế quản lý và hiệu lực của cơ chế quản lý, các yếu tố phong tục,

văn hóa.

Cần hiểu đầy đủ hơn, theo quan điểm của ISO 9000:2000 kiểm soát

chất lượng là một phần của quản lý chất lượng, là quá trình điều khiển các

hoạt động tác nghiệp thông qua những kỹ thuật, phương tiện, phương pháp

tác nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng. Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm soát chất

lượng là:

- Tổ chức các hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng theo yêu cầu;

- Đánh giá việc thực hiện chất lượng trong thực tế của tổ chức;

- So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch, công bố để phát hiện các sai lệch;

- Tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm khắc phục những sai lệch và

xử lý đảm bảo yêu cầu, đồng thời kiểm soát chất lượng là một phần yếu tố

chính của đảm bảo chất lượng.

4/ Đảm bảo và cải tiến chất lượng là một phần của quản lý chất lượng,

khẳng định với khách hàng về khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa đang

tiến tới thỏa mãn hơn.

B. Nhiều hệ thống quản lý được doanh nghiệp lựa chọn áp dụng Tiêu

chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000. Bộ tiêu chuẩn quốc

tế ISO 9000 với phiên bản ISO 9000:2000. Năm 2008, một phiên bản mới là

ISO 9000: 2008 đã thịnh hành đến nay.

Đây cũng là hệ quả tất yếu quá trình quản lý chất lượng của thế giới

trước tác động của quá trình toàn cầu hóa nói chung và tự do hóa thương mại

đang ngày càng sâu rộng. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể áp dụng các hệ thống

quản lý tùy theo yêu cầu và sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất.

- Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với

mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở

mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho

27

hoạt động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và

huy động sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục

tiêu chất lượng đã đặt ra.

Nhiều các hệ thống quản lý khác cũng đang được các doanh nghiệp

Việt Nam xem xét áp dụng, như ISO 14001 – hệ thống quản lý môi trường,

HACCP – Hệ thống Phân tích các nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu

trong lĩnh vực nông sản thực phẩm, GMP – Quy chế thực hành sản xuất tốt

trong lĩnh vực dược và thực phẩm, OHSAS 18001 – Hệ thống quản lý an toàn

và sức khỏe nghề nghiệp, SA 8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội và các hệ

thống quản lý chất lượng tích hợp hoặc đặc thù như ISO 22000 Hệ thống

quản lý an toàn thực phẩm (food chain), ISO/TS 29001 Công nghiệp dầu khí

và hóa dầu - Hệ thống quản lý chất lượng trong các ngành công nghiệp đặc

thù - yêu cầu đối với các tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch vụ.

Sự liệt kê các hệ thống quản lý chất lượng nêu trên cũng phản ảnh sự

phát triển của hoạt động quản lý chất lượng trên phạm vi thế giới diễn ra

trong hàng thế kỷ qua, thông qua sự thay đổi tư duy của các nhà quản lý chất

lượng trong tiến trình phát triển kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ

của thế giới.

1.2.3. Các trường phái quản lý chất lượng

Trên thế giới có hai trường phái quản lý chất lượng:

- Trường phái thứ nhất: Quản lý chất lượng dựa trên cơ sở tiêu chuẩn

hóa (Standard-based quality management). Trường hợp này chịu ảnh hưởng

của học thuyết Taylor về chuyên môn hóa, hợp lý hóa sản xuất để tạo ra năng

suất cao. Trường phái này đã phát triển mạnh mẽ, làm cơ sở cho chuyên môn

hóa hợp tác sản xuất không chỉ trong phạm vi một quốc gia và phát triển

mạnh cả trong các khu vực và ngày nay là toàn thế giới. Người ta chỉ có thể

đánh giá và thừa nhận lẫn nhau trên cơ sở các tiêu chuẩn. Đó có thể là các tiêu

chuẩn kỹ thuật, phương pháp hay tiêu chuẩn về hệ thống quản lý.

- Trường phái thứ hai: Quản lý chất lượng không xem nhẹ tiêu chuẩn

hóa nhưng đặt trọng tâm vào việc phát huy nội lực (Endogeous capacity-

28

based quality management). Trường phái này chịu ảnh hưởng học thuyết

Deming mà đỉnh cao là quản lý chất lượng toàn diện (total quality

management-TQM). Theo trường phái này, người ta tìm cách làm con người

ý thức tối đa vài trò, trách nhiệm với chất lượng sản phẩm, phát huy mọi sáng

kiến luôn luôn cải tiến để làm tốt hơn quy định và nhằm thỏa mãn nhu cầu

ngày càng tăng của người tiêu dùng và xã hội.

Hai trường phái này không hề mâu thuẫn với nhau mà còn hỗ trợ cho

nhau để cả hai cùng mang lại hiệu quả cho việc áp dụng và quản lý.

1.2.4. Các nguyên tắc quản lý chất lượng

Quản lý chất lượng đã được áp dụng trong mọi ngành công nghiệp,

không chỉ trong sản xuất mà còn trong mọi lĩnh vực, trong mọi loại hình công

ty từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ, cho dù có tham gia vào thị trường quốc tế

hay không. Quản lý chất lượng đảm bảo cho doanh nghiệp làm đúng những

việc phải làm và những việc quan trọng. Nếu các doanh nghiệp muốn làm

chủ thị trường nội địa và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, phải tìm hiểu và

triển khai áp dụng các nguyên tắc về quản lý chất lượng hiệu quả.

1.2.4.1. Các nguyên tắc quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO

- Nguyên tắc 1. Định hướng bởi khách hàng

Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu

các nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, để không chỉ đáp ứng mà

còn phấn đấu vượt cao hơn sự mong đợi của họ.

- Nguyên tắc 2. Sự lãnh đạo

Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối

của doanh nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong

doanh nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục

tiêu của doanh nghiệp.

- Nguyên tắc 3. Sự tham gia của mọi người

Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự

tham gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho

doanh nghiệp.

29

- Nguyên tắc 4. Quan điểm quá trình

Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và

các hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.

- Nguyên tắc 5: Tính hệ thống

Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên

quan lẫn nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.

- Nguyên tắc 6. Cải tiến liên tục

Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi

doanh nghiệp. Muốn có được khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao

nhất, doanh nghiệp phải liên tục cải tiến.

- Nguyên tắc 7. Quyết định dựa trên sự kiện

Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh

doanh muốn có hiệu quả phải được xây đựng dựa trên việc phân tích dữ liệu

và thông tin.

- Nguyên tắc 8. Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng

Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau, và mối quan hệ

tương hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.

1.2.4.2. Nguyên tắc quản lý chất lượng của Việt Nam

Hiện nay, việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thực hiện

căn cứ theo quy định tại Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa (Luật số

05/2007/QH12); Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008

của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản

phẩm, hàng hóa và các văn bản hướng dẫn

Ðiều 5, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam năm 2007 xác

định nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá đã quy định như sau:

- Cơ sở quản lý chất lượng: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản

lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Căn

cứ vào khả năng gây mất an toàn, sản phẩm, hàng hoá được quản lý như sau:

30

+ Sản phẩm, hàng hoá nhóm 1 (sản phẩm, hàng hóa không có khả năng

gây mất an toàn) được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản

xuất công bố áp dụng;

+ Sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 (sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây

mất an toàn) được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương

ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do

người sản xuất công bố áp dụng.

- Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản

xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản,

môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản

phẩm, hàng hoá Việt Nam.

- Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm

của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của

pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.

Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải

bảo đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hoá

và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng

hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.

Việc phân công trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa

cho các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực được quy định tại Điều 69, Điều 70 của

Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Điều 31, Điều 32 Nghị định số

132/2008/NĐ-CP.

1.3. Vai trò của các thiết chế tài chính trong việc quản lý chất

lƣợng hàng hóa sau công bố chất lƣợng

Quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng có vai trò đặc biệt

quan trọng trong quy trình quản lý chất lượng. Hiệu quả của hoạt động này

bảo đảm sự đồng nhất về chất lượng trước, trong và sau công bố chất lượng,

đảm bảo quyền lợi của người sử dụng hàng hóa. Để quản lý chất lượng hàng

hóa sau công bố, các chủ thể quản lý chất lượng có thể sử dụng các công cụ,

31

thiết chế khác nhau, trong đó thiết chế tài chính có vai trò đáng chú ý trên

nhiều phương diện.

1.3.1. Vai trò bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong quản lý chất lượng

Bên cạnh hoạt động giáo dục, vận động, các thiết chế tài chính góp

phần bảo đảm các quy định pháp luật về quản lý chất lượng được tuân thủ đầy

đủ trong thực tiễn. Việc tuân thủ các quy định này vừa bảo đảm tính pháp chế,

hiệu lực của pháp luật vừa bảo đảm quyền lợi của các đối tượng người tiêu

dùng. Tình trạng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng diễn ra một phần vì

thiếu các thiết chế tài chính hoặc việc thực hiện các thiết chế tài chính trong

quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố còn chưa hiệu quả. Các thiết chế tài

chính là công cụ hỗ trợ cho việc bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong việc bảo

đảm chất lượng hàng hóa.

1.3.2. Vai trò ngăn ngừa vi phạm

Thiết chế tài chính là công cụ ngăn ngừa vi phạm các quy định về chất

lượng hàng hóa. Thiết chế tài chính tác động vào lợi ích của các chủ thể sản

xuất. Các chủ thể sản xuất với mục tiêu bảo đảm lợi ích của chính mình cần

phải tuân thủ các quy định về bảo đảm chất lượng sau công bố. Thiết chế tài

chính tạo ra áp lực tuân thủ pháp luật của các chủ thể sản xuất. Việc ngăn

ngừa vi phạm các quy định về quản lý chất lượng hàng hóa có ý nghĩa quan

trọng tạo nên sự tự giác trong thực hiện pháp luật, khẳng định hiệu lực quản

lý chất lượng hàng hóa.

1.3.3. Vai trò thúc đẩy bảo đảm chất lượng

Việc sử dụng các thiết chế như xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

chất lượng hàng hóa không phải với mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách.

Điều quan trọng là cần bảo đảm chất lượng hàng hóa được duy trì. Thiết chế tài

chính là công cụ góp phần thúc đẩy các hoạt động bảo đảm chất lượng, bảo đảm

các cơ sở sản xuất duy trì chất lượng hàng hóa trong quá trình sản xuất, khắc

phục tình trạng chất lượng hàng hóa suy giảm sau khi công bố chất lượng.

32

* Kết luận Chƣơng 1

Chương 1 đã khái quát một số vấn đề lý luận về việc hình thành thiết

tài chính để kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng. Trong

Chương 1 các khái niệm có ý nghĩa công cụ của luận văn đã được luận giải.

Khái niệm thiết chế tài chính và hiệu quả của thiết chế tài chính được luận

giải gắn liền với yêu cầu kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất

lượng. Khái niệm chất lượng hàng hóa đã được hệ thống hóa từ các quan

niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm này với trọng tâm là khả năng đáp

ứng được mong đợi của khách hàng. Vấn đề quản lý chất lượng cũng được

tiếp cận với hai góc độ quản lý nhà nước về chất lượng và quản lý chất lượng

trong nội bộ doanh nghiệp. Quản lý nhà nước về chất lượng được thể hiện ở

vai trò tạo lập các thiết chế nhằm bảo đảm các doanh nghiệp sản xuất, kinh

doanh các sản phẩm, hàng hóa có chất lượng. Hoạt động quản lý chất lượng

của các doanh nghiệp gắn liền với các hoạt động định hướng, kiểm soát, bảo

đảm chất lượng. Trong hoạt động kiểm soát chất lượng hàng hóa, các doanh

nghiệp thường tập trung vào năm yếu tố: kiểm soát con người thực hiện; kiểm

soát phương pháp và quy trình sản xuất; kiểm soát nguyên vật liệu; kiểm soát

và bảo dưỡng thiết bị; kiểm soát thông tin. Đồng thời, trong Chương 1, vai trò

của thiết chế tài chính trong việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố

cũng được chỉ ra trên các phương diện về bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong

quản lý chất lượng, vai trò ngăn ngừa vi phạm và là công cụ thúc đẩy đảm

bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

33

CHƢƠNG 2

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

VỀ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Tình hình quản lý chất lƣợng ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Khái quát chung về quản lý chất lượng ở Việt Nam

Trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề chất

lượng được đề cao, được coi là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế. Tuy

nhiên, trong thực tế, hàng hóa sản xuất ra theo kế hoạch định sẵn, dù tốt hay

xấu đều được tiêu thụ, phân phối, người sản xuất không lo đầu vào và đầu ra.

Việc quản lý chất lượng tại các doanh nghiệp được các phòng kiểm tra chất

lượng sản phẩm thực hiện với nhiệm vụ là phân loại các sản phẩm đạt yêu cầu

chất lượng hay phế phẩm.

Ngày nay, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng với quá trình

mở cửa và hội nhập kinh tế, sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt đã không còn chỗ

đứng cho những sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng. Trước sức

ép của hàng nhập ngoại và của người tiêu dùng trong nước, buộc các nhà kinh

doanh cũng như các nhà quản lý không còn con đường nào khác là phải coi

trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng. Chất lượng cũng là nhân tố cơ

bản để giải quyết sự tồn tại hay tiêu vong của một tổ chức và đó là sự hưng

thịnh hay suy vong của một nền kinh tế.

Trong thập niên cuối thể kỷ XX, Việt Nam thực sự đổi mới cả về tư

duy, nhận thức lẫn hành động, nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường

có sự quản lý của nhà nước. Biểu hiện cụ thể là một loạt các chính sách quản

lý, trong đó có những văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến chất

lượng được ban hành, thay thế cho những văn bản không còn phù hợp. Cả cơ

quan quản lý nhà nước, nhà sản xuất, kinh doanh đều có cải tiến bước đầu về

kiểm soát chất lượng, nhằm tạo ra bước chuyển biến, cải thiện tình hình yếu

kém về chất lượng và quản lý chất lượng.

34

Trong những năm gần đây, chúng ta đã có nhiều cố gắng trong lĩnh

vực quản lý chất lượng, các tổ chức đã chú trọng hơn trong việc nâng cao

năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam đã từng bước

chiếm lĩnh được thị trường, được người tiêu dùng trong nước cũng như tiêu

dùng nước ngoài chấp nhận, một số mặt hàng như cà phê, chè, hạt điều, gạo,

cao su, hàng thủy sản… đạt giá trị xuất khẩu cao. Với xu hướng tự do thương

mại trên thế giới và việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, chúng ta chỉ có một

con đường duy nhất để giải quyết bài toán tồn tại và phát triển là phải nâng

cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

2.1.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện

thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản

phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu

đó nên liên tục những năm gần đây, nhiều nước đã ban hành các đạo luật

chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Để quản lý chất

lượng sản phẩm, hàng hoá, nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng

hàng hoá năm 1990 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999) với gần một trăm

văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chất lượng

chưa thống nhất và đồng bộ, đang ngày tỏ ra bất cập với yêu cầu quản lý chất

lượng sản phẩm, hàng hoá trong tình hình mới. Trong những năm gần đây,

pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta không ngừng được hoàn

thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối

cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.. Để nâng cao

hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội về chất lượng sản

phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu

chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 (có hiệu lực từ 01/1/2007). Ngày 21

tháng 11 năm 2007, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật

35

chất lượng sản phẩm, hàng hoá (số 05/2007/QH12), có hiệu lực từ ngày 01

tháng 7 năm 2008.

Bên cạnh Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là hệ thống các văn bản

hướng dẫn thi hành được các cơ quan chức năng ban hành để hướng dẫn áp

dụng Luật chất lượng sản phẩm vào thực tiễn. Đó là:

- Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá;

- Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật ngày 29/6/2006;

- Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật;

- Nghị định số 67/2009/NĐ-CP ngày 3/8/2009 của Chính phủ Sửa đổi

một số điều của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP và Nghị định số

132/2008/NĐ-CP;

- Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn

hàng hóa;

- Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN ngày 06 tháng 4 năm 2007 hướng

dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 8

năm 2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá;

- Thông tư số 14/2007/TT-BKHCN ngày 25 tháng 7 năm 2007 bổ sung

Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN ngày 06/4/2007 của Bộ Khoa học và Công

nghệ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày

30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá;

- Nghị định 80/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 quy định về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng

sản phẩm, hàng hóa;

- Thông tư số 19/2014/TT-BKHCN ngày 01/7/2014 hướng dẫn thực

hiện một số điều của Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính

phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo

lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa;

36

- Thông tư số 16/2012/TT-BKHCN ngày 27/8/2012 của Bộ Khoa học

và Công nghệ quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm trong

sản xuất thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;

- Thông tư số 26/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học

và Công nghệ quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa lưu

thông trên thị trường;

- Thông tư số 27/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học

và Công nghệ quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập

khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;

- Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học

và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương

thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;

- Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/3/2009 Quy định Danh

mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản

lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;

- Thông tư số 21/2007/TT-BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học

và Công nghệ hướng dẫn về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn;

- Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu

cầu, trình tự, thủ tục đăng ký lĩnh vực hoạt động đánh giá sự phù hợp;

- Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu

cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp;

- Thông tư số 11/2009/TT-BKHCN ngày 6/5/2009 Quy định về Giải

thưởng Chất lượng Quốc gia;

- Thông tư số 19/2009/TT-BKHCN ngày 30/6/2009 Quy định các biện

pháp quản lý chất lượng đối với sản phẩm, hàng hoá cần tăng cường quản lý

trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường

- Thông tư số 22/2009/TT-BKHCN ngày 30/9/2009 Hướng dẫn trình

tự, thủ tục đăng ký sản phẩm mới có khả năng gây mất an toàn thuộc trách

nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;

37

- Thông tư số 06/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Quy định về chứng

nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm chuyên ngành công nghệ

thông tin và truyền thông;

- Thông tư số 07/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Ban hành Danh

mục sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông bắt buộc

phải chứng nhận và công bố hợp quy;

- Thông tư số 19/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 Ban hành Danh mục

sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý

của Bộ Công thương;

- Thông tư số 03/2010/TT-BLĐTBXH ngày 19/1/2010 Ban hành Danh

mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 và hướng dẫn trình tự, thủ tục và nội dung

kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất...;

- Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 15/4/2010 của Thủ tướng Chính

phủ Ban hành Quy chế phối hợp kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Ngoài ra, một còn một số quy định khác được quy định rải rác ở một số

luật có liên quan như Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Bộ luật dân sự, Luật

thương mại...

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là đạo luật đầu tiên trong lịch sử

lập pháp Việt Nam quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản

xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên

quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng

hóa. Luật áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản

phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng

sản phẩm, hàng hoá tại Việt Nam. Theo quy định của Luật, hoạt động sản

xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá

phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có

liên quan; hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất

lượng sản phẩm, hàng hoá là công trình xây dựng, dịch vụ, hàng hoá đã qua

sử dụng không thuộc diện phải kiểm định; sản phẩm, hàng hoá chuyên phục

vụ quốc phòng, an ninh và sản phẩm, hàng hoá đặc thù khác phải tuân thủ các

38

nguyên tắc chung của Luật này và được điều chỉnh cụ thể bằng văn bản pháp

luật khác.

Về danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 của các Bộ quản lý

chuyên ngành lĩnh vực

1. Bộ Khoa học và Công nghệ

- Xăng – Nhiên liệu điezen;

- Khí dầu mỏ hóa lỏng;

- Mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy;

- Các sản phẩm điện tử (quản lý về an toàn);

- Nhiên liệu sinh học gốc;

- Đồ chơi trẻ em;

- Thép làm cốt bê tông;

- Tương thích điện tử (EMC) đối với thiết bị điện, điện tử gia dụng.

2. Bộ Công thương

- Hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp;

- Máy, thiết bị công nghiệp có khả năng gây mất an toàn;

- Sản phẩm công nghiệp tiêu dùng (bếp ga và phụ kiện).

3. Bộ Thông tin và Truyền thông

- Thiết bị đầu cuối;

- Thiết bị vô tuyến điện;

- Thiết bị mạng;

- Thiết bị công nghệ thông tin.

4. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội

- Các loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ;

- Các công trình vui chơi công cộng;

- Phương tiện bảo vệ cá nhân.

5. Bộ Y tế

- Thuốc thành phẩm, vắc xin, sinh phẩm điều trị;

- Nguyên liệu làm thuốc, dược liệu, tá dược, bao bì tiếp xúc trực tiếp

với thuốc;

39

- Hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng, y tế;

- Vị thuốc đông y có độc tính;

- Thiết bị y học cổ truyền.

6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

- Giống cây trồng nông nghiệp;

- Giống cây trồng lâm nghiệp;

- Giống vật nuôi trên cạn;

- Giống thủy sản;

- Sản phẩm chăn nuôi;

- Mẫu động vật, thực vật hoang dã;

- Sản phẩm lâm sản;

- Thuốc bảo vệ thực vật;

- Thuốc thú y;

- Phân bón;

- Thức ăn chăn nuôi;

- Chế phẩm sinh học;

- Phụ gia hóa chất trong nông nghiệp;

- Công trình thủy lợi;

- Đê điều;

- Dụng cụ đánh bắt thủy sản.

7. Bộ Giao thông – Vận tải

- Phương tiện, trang thiết bị chuyên ngành cho GTVT;

- Kết cấu hạ tầng giao thông;

- Dịch vụ trong lĩnh vực GTVT.

8. Bộ Công an

- Các trang thiết bị Phòng cháy, chữa cháy;

- Trang thiết bị kỹ thuật;

- Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.

9. Bộ Tài nguyên – Môi trường

- Tài nguyên, khoáng sản;

40

- Khí tượng, thủy văn;

- Đo đạc bản đồ;

- Dịch vụ trong lĩnh vực thuộc Tài nguyên, Môi trường.

10. Bộ xây dựng

- Vật liệu xây dựng.

2.1.3. Hoạt động tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp chất lượng tại

Việt Nam

Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đang diễn ra những

thay đổi to lớn theo xu thế toàn cầu hóa. Đó là quá trình không thể đảo ngược,

đặc biệt trong điều kiện khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản

xuất trực tiếp. Các quốc gia có thể có các đối sách khác nhau để khắc phục và

hạn chế các tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa nhưng nhất định phải tham gia

vào quá trình này.

Là một nước đang phát triển nằm trong khu vực kinh tế năng động và

có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực

vượt bậc để nhanh chóng hội nhập quốc tế với các nước trong khu vực và thế

giới. Điều này càng thể hiện rõ sau khi Việt Nam gia nhập tổ Hiệp hội các

nước Đông Nam Á (ASEAN) cùng với sự tham gia Khu vực thương mại tự

do của khối ASEAN (AFTA), trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn

Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ký Hiệp định thương mại

song phương với Hoa Kỳ và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Để không ngừng đảm bảo và nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu

quả sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam

trên thị trường quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế

giới… Hoạt động tiêu chuẩn chất lượng trở thành công cụ quan trọng, hữu

hiệu và cấp bách hơn bao giờ hết.

a. Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật ở Việt Nam

- Tiêu chuẩn là văn bản quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản

lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá

trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội nhằm

41

nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ

chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng bao gồm tiêu chuẩn

quốc gia (ký hiệu là TCVN) và tiêu chuẩn cơ sở (ký hiệu là TCCS).

- Quy chuẩn kỹ thuật là văn bản quy định về mức giới hạn của đặc tính

kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi

trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội phải tuân thủ để

đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi

trường, bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và

các yêu cầu thiết yếu khác.

Quy chuẩn kỹ thuật là văn bản quy định đặc tính của sản phẩm hoặc

các quá trình và phương pháp sản xuất có liên quan để sản phẩm, quá trình

bao gồm các điều khoản hành chính thích hợp mà việc tuân thủ là bắt buộc

theo WTO và Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (tiếng Anh là

Agreement on techinical barries to trade, viết tắt là TBT); do cơ quan nhà

nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng bao

gồm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật địa phương.

Những quy chuẩn kỹ thuật (Technical regulations), tiêu chuẩn

(Standards) là những biện pháp kỹ thuật có thể trở thành rào cản cho sản xuất

thương mại song phương, khu vực và quốc tế. Việc hài hòa tiêu chuẩn khu

vực, quốc tế là làm cho tiêu chuẩn quốc gia các nước ngày càng xích lại gần

nhau hơn trên cơ sở lấy tiêu chuẩn quốc tế làm gốc nhằm mục tiêu “một tiêu

chuẩn, một thử nghiệm” được chấp nhận ở mọi nơi.

b. Đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật

- Chứng nhận chất lượng: lĩnh vực hoạt động được tiến hành ở các

nước xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam được triển khai cho đến năm 1991,

nhằm so sánh mức chất lượng của sản phẩm cần đánh giá với mẫu chuẩn,

thông qua các tiêu chuẩn, mẫu sản phẩm cụ thể, tài liệu pháp quy-kỹ thuật…

để cấp giấy chứng nhận chất lượng và dấu chất lượng nhà nước cho những

sản phẩm có chất lượng đạt yêu cầu và có biện pháp xử lý đối với sản phẩm

42

chất lượng kém. Cơ sở pháp lý để tiến hành công tác chứng nhận chất lượng ở

Việt Nam là Nghị định 62-CP ngày 12/4/1976 của Hội đồng Chính phủ.

Hình thức của dấu chất lượng nhà nước được quy định trong Tiêu

chuẩn quốc gia 2844-79. Tính đến ngày 30.6.1991, đã có 810 giấy chứng

nhận chất lượng được cấp cho gần 1000 lượt sản phẩm của 280 cơ sở sản xuất

Việt Nam. Từ 1.7.1991, công tác chứng nhận chất lượng ngừng hoạt động để

chuyển sang hình thức chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn.

- Chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn: Ở Việt Nam, công tác chứng nhận

phù hợp tiêu chuẩn được đề cập đến trong chương IV của Pháp lệnh Chất

lượng hàng hóa (1991) và Trong Nghị định 327 (1991). Chứng nhận phù hợp

tiêu chuẩn được tiến hành theo hai hình thức: chứng nhận bắt buộc (với chứng

nhận phù hợp tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng) và chứng nhận tự nguyện (với

chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng). Tổng cục Tiêu chuẩn đo

lường chất lượng là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận, dấu phù hợp

Chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn cho hàng hóa, cho hệ thống bảo đảm chất

lượng và cấp giấy chứng nhận cho “phòng thử nghiệm được công nhận”. Cho

đến ngày 30.6.1993 đã có 139 sản phẩm quạt điện và xe đạp của gần 60 cơ sở

sản xuất trong nước được cấp dấu chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn về an toàn.

- Đánh giá sự phù hợp: từ khi có Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ

thuật và Nghị định, Thông tư hướng dẫn hoạt động này mới có sự chuyển

biến về chất và tuân thủ hài hòa với quy định của tổ chức quốc tế về các thủ

tục và vấn đề có liên quan.

+ Về hình thức đánh giá: có 3 hình thức đánh giá

Hình thức 1: do tổ chức đánh giá sự phù hợp thực hiện hoặc tổ chức cá

nhân công bố phù hợp tự thực hiện.

Hình thức 2: đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn được thực hiện tự

nguyện theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân dưới hình thức thử nghiệm, giám

định, chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy.

Hình thức 3: đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn được thực hiện bắt

buộc theo yêu cầu quản lý nhà nước dưới hình thức thử nghiệm, giám định,

chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy.

43

+ Dấu hợp chuẩn, hợp quy được cấp cho sản phẩm, hàng hóa sau khi

sản phẩm, hàng hóa này được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy. Các thông tin,

quảng bá và dấu về hợp chuẩn, hợp quy thường được gắn trên hàng hóa, hoặc

trên bao bì, nhãn hàng hóa hoặc tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa

Đến nay, công tác chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn đã thực

hiện được hơn 500 doanh nghiệp với hơn 100 chủng loại sản phẩm. Tuy

nhiên, hoạt động này cũng còn hạn chế vì số doanh nghiệp tham gia và ngay

cả tiêu chuẩn sản phẩm, hàng hóa để chứng nhận còn hạn chế.

Tình hình chứng nhận hợp quy, thử nghiệm đối với một số mặt hàng

thuộc trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng mới được triển khai.

Các nhóm sản phẩm có khả năng gây mất an toàn (hàng hóa nhóm 2), tại thời

điểm hiện tại có các nhóm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, đó là: Khí dầu mỏ

hóa lỏng; Mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy; Các sản phẩm điện tử

(quản lý về an toàn ); Nhiên liệu sinh học gốc; Đồ chơi trẻ em; Thép làm cốt

bê tông; Tương thích điện tử (EMC) đối với thiết bị điện, điện tử gia dụng. Để

tiến hành hoạt động này, một số văn bản đã được Bộ Khoa học và Công nghệ

ban hành như quy trình lấy mẫu, phương pháp thử mẫu đại diện, tổ chức các

khóa đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ bảo quản, thiết bị đo lường

(do Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng các tỉnh thực hiện), phương pháp

đánh giá, chứng nhận phù hợp quy chuẩn và công bố sự phù hợp.

Theo số liệu tháng 6/2009, có 64 doanh nghiệp mũ bảo hiểm (60 doanh

nghiệp sản xuất, 4 doanh nghiệp nhập khẩu) đã được cấp giấy chứng nhận

phù hợp tiêu chuẩn quốc gia-QCVN 2:2008/BKHCN với 308 kiểu loại mũ.

Còn đối với xăng và nhiên liệu Diezen thì chứng nhận hợp quy theo VN

1:2007/BKHCN và các doanh nghiệp phải thực hiện chứng nhận hợp quy từ

ngày 27/8/2007, Thông tư số 01/2009/TT-KHCN ngày 20 tháng 3 năm 2009

quy định Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc

trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ. Hoạt động chứng nhận

xăng và nhiên liệu Diezen đang được bắt đầu thực hiện. Tuy nhiên, việc

44

chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy cho sản phẩm, hàng hóa ở các bộ, ngày khác

quản lý còn nhiều bất cập và kết quả thực hiện được chưa nhiều.

c. Áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến

Có thể nói hệ thống quản lý quản lý chất lượng được đưa vào Việt Nam

trong bối cảnh:

- Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế tập trung, bao cấp

sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta không có kinh nghiệm

về nhận thức và quản lý về chất lượng trong cơ chế mới;

- Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã, chúng ta mất đi một thị

trường xuất khẩu hàng hóa chủ yếu;

- Áp lực của hội nhập quốc tế, nhu cầu tìm kiếm thị trường xuất khẩu

đòi hỏi các chứng chỉ hệ thống chất lượng như hệ thống quản lý chất lượng

ISO 9000; hệ thống quản lý môi trường ISO 14000; phân tích mối nguy và

kiểm soát tới hạn (tiếng Anh: Hazard Analysis and Critical Control Points,

viết tắt là HACCP); thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practices,

viết tắt là GMP); tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 ( Social

Accountability) tùy theo yêu cầu thị trường xuất khẩu và loại doanh nghiệp.

Do quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta đã trở thành thành viên của các

tổ chức khu vực và quốc tế đòi hỏi chúng ta phải nâng cao năng lực mọi hoạt

động của đời sống xã hội, đặc biệt là sự công nhận quốc tế về các lĩnh vực

trong đó có bao hàm cả việc thừa nhận chứng chỉ về các hệ thống quản lý chất

lượng tiên tiến như ISO 9000, HACCP, TQM, SA 8000… làm cơ sở cho các

doanh nghiệp Việt Nam vượt qua rào cản TBT để làm chủ thị trường trong

nước và vươn tới chiếm lĩnh thị trường ngoài nước.

Đến nay, Việt Nam đã có hơn 6000 doanh nghiệp, tổ chức được chứng

nhận và cấp chứng chỉ ISO 9001, về HACCP có gần 500 doanh nghiệp. So

với thế giới, những con số này còn khá khiêm tốn (riêng ISO 9001:2008 có

hơn 1 triệu chứng chỉ được cấp cho các doanh nghiệp, tổ chức ở 170 quốc gia,

nền kinh tế.

45

Các hệ thống quản lý chất lượng xây dựng và áp dụng, kết quả mang lại

nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, tổ chức. Theo một điều tra đánh giá tỷ lệ các

lợi ích của việc áp dụng ISO 9000 ở các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều

đánh giá cao về vai trò của hệ thống quản lý chất lượng.

Bảng 2.1. Vai trò của quản lý chất lƣợng

TRONG DOANH NGHIỆP Tỷ lệ (%)

Quản lý doanh nghiệp tốt hơn 33.4

Nhận thức chất lượng tường tận hơn 25.8

Văn hoá doanh nghiệp theo hướng nhân văn hơn 15

Gia tăng hiệu quả tác nghiệp 9

Cải tiến thông tin giao tiếp giữa các bộ phận 7.3

Giảm phế phẩm, chi phí làm lại 6.3

Các lợi ích khác 1.3

NGOÀI DOANH NGHIỆP Tỷ lệ (%)

Tăng thụ cảm chất lượng 33.5

Cải tiến việc thỏa mãn khách hàng 26.6

Gia tăng vị thế cạnh tranh 21.5

Giảm thiểu bảo dưỡng, bảo hành 8.5

Gia tăng thị phần 4.5

Các lợi ích khác 1.6

Ở mỗi doanh nghiệp, tùy theo chất lượng hệ thống quản lý chất lượng

được thiết kế, vận hành, cải tiến và đặc biệt sự phấn đấu đạt mục tiêu chất lượng

ở từng giai đoạn… mà các lợi ích và tỷ lệ giữa các lợi ích sẽ thay đổi rõ rệt.

Nhìn lại các hoạt động chủ yếu trên, đặc biệt là sự phấn đấu trong thời

gian vừa qua, có thể tựu trung lại một số điểm cơ bản như sau:

- Nhận thức về chất lượng được nâng cao một bước quan trọng, hình

thành phong trào chất lượng, đặc biệt quan trọng là nhận thức của các nhà

lãnh đạo, quản lý về chất lượng được nâng cao, có ý nghĩa quyết định đến

46

việc phát triển phong trào chất lượng. Nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã có

chương trình hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, hệ

thống quản lý môi trường, tham gia giải thưởng chất lượng Việt Nam.

- Hệ thống pháp luật về chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn và cơ sở vật

chất kỹ thuật được cải tiến;

- Triển khai thành công việc áp dụng các hệ thống, công cụ quản lý

chất lượng tiên tiến và chứng nhận;

- Bước đầu tổ chức tốt hoạt động đánh giá chứng nhận phù hợp tiêu

chuẩn, quy chuẩn cho sản phẩm, hàng hóa;

- Bức tranh tổng thể chất lượng sản phẩm, hàng hóa Việt Nam được cải

thiện rõ rệt: Thực trạng chất lượng sản phẩm, hàng hóa các ngành chủ yếu của

nền kinh tế như điện, điện tử, cơ khí, luyện kim, giao thông vận tải, công nghệ

thông tin, nông sản thực phẩm, thủy điện… đã được cải thiện đáng kể. Hàng

hóa dồi dào, đa dạng về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã, bao bì ngày một hấp

dẫn hơn, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Một số mặt hàng sản

xuất trong nước đã cạnh tranh được với các hàng hóa nhập ngoại. Nhiều sản

phẩm, hàng hóa có mức chất lượng ngang với sản phẩm cùng loại của nhiều

nước trong khu vực và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, kể

cả những thị trường khó tính như EU, Nhật, Mỹ.

Tuy nhiên, hệ thống văn bản và việc chỉ đạo kiểm soát chất lượng sản

phẩm hàng hóa sau công bố của doanh nghiêp còn chưa cụ thể nên việc quản

lý doanh nghiệp (dù gián tiếp) và kiểm soát chất lượng hàng hóa của nhiều

bộ, ngành còn nhiều bất cập, đặc biệt là trên thị trường phân phối chưa được

quan tâm đúng mức với các công cụ quản lý hiệu quả.

d. Về các thiết chế tài chính trong kiểm soát chất lượng hàng hóa sau

công bố

Về thiết chế tài chính trong kiểm soát chất lượng hàng hóa, Nghị định

80/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản

phẩm, hàng hoá. Có thể nói, Nghị định đã bao quát đầy đủ và toàn diện các

47

hành vi vi phạm trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm,

hàng hoá; xác định đúng đối tượng, xử lý kịp thời, triệt để các hành vi vi

phạm. Nghị định này tạo cơ sở pháp lý, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công

tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm góp phần vào việc tăng cường hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

2.2. Thực trạng công bố chất lƣợng cho hàng hóa trên địa bàn

thành phố Hà Nội

2.2.1. Sự phân công trên địa bàn và hoạt động của Chi cục Tiêu

chuẩn, Đo lường, Chất lượng Hà Nội

Cùng với sự phát triển về kinh tế-xã hội trong những năm vừa qua,

hàng hóa được đưa ra thị trường ngày càng đa dạng. Tuy nhiên điều đáng nói

ở đây là trên thị trường, sản phẩm do các nhà sản xuất khác nhau, đưa ra

nhiều khi có mức giá và mức chất lượng không đồng bộ, thậm chí tỷ lệ

nghịch; thông tin về hàng hóa không chính xác. Đặc biệt nạn hàng giả, hàng

kém chất lượng chẳng những làm thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn đe dọa

tới an toàn, sức khỏe của mỗi người và hiệu quả sản xuất của nhiều doanh

nghiệp. Từ thực trạng trên, vai trò quản lý Nhà nước đối với chất lượng hàng

hóa ngày càng quan trọng và là một vấn đề lớn cần phải quan tâm.

Để đẩy mạnh hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, phù

hợp với xu thế hội nhập. Luật Quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật đã được ban

hành với nhiều nội dung trong đó có nội dung quan trọng đó là qui định các tổ

chức, cá nhân sản xuất kinh doanh (các doanh nghiệp) phải thực hiện việc

công bố tiêu chuẩn chất lượng. Đây là một phương thức mới về quản lý chất

lượng hàng hóa đã và đang được triển khai áp dụng ở nước ta nhằm nâng cao

trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh trước người tiêu dùng đối với

chất lượng sản phẩm.

Theo phương thức này, doanh nghiệp là chủ thể trong việc công bố tiêu

chuẩn chất lượng hàng hóa, đồng thời doanh nghiệp cũng phải tự chịu trách

nhiệm về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa do mình công bố. Để có thể công bố

tiêu chuẩn theo qui định, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn cơ sở hoặc

48

chấp nhận tiêu chuẩn khác (tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn Quốc tế, tiêu

chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài) làm cơ sở cho việc sản xuất, kinh doanh

hàng hóa của mình. Song việc công bố này chỉ được thực hiện khi các bản

công bố tiêu chuẩn chất lượng được Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng

(TCĐLCL) thuộc Sở Khoa học và Công nghệ, các sở quản lý chuyên ngành

(theo phân công tại Nghị định 179/2004/NĐ-CP ngày 21-10-2004 của Chính

phủ qui định quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa) thẩm định,

xem xét về tính phù hợp của tiêu chuẩn với các qui định của Nhà nước.

So với hình thức đăng ký chất lượng hàng hóa trước đây thì thủ tục

công bố tiêu chuẩn chất lượng được thực hiện đơn giản hơn. Doanh nghiệp có

quyền chủ động trong sản xuất, kinh doanh, có quyền lựa chọn áp dụng các

tiêu chuẩn phù hợp với mình. Song, hình thức công bố tiêu chuẩn cũng đòi

hỏi doanh nghiệp phải có nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm trước người

tiêu dùng, phải bảo đảm hàng hóa đạt tiêu chuẩn chất lượng đã công bố, phải

thường xuyên kiểm tra chất lượng hàng hóa và chịu trách nhiệm về chất

lượng hàng hóa do mình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cũng

phải bảo đảm trung thực, chính xác trong việc thông tin, quảng cáo về chất

lượng hàng hóa của mình, phải đảm bảo hàng hóa có nhãn ghi đúng theo

Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hóa

như: Ghi rõ tiêu chuẩn, đặc tính, công dụng, hạn sử dụng và các nội dung

khác theo qui định của pháp luật; công bố điều kiện, thời hạn, địa điểm bảo

hành và hướng dẫn sử dụng cho khách hàng. Những thông tin này là kênh

thông tin trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, đồng thời đây cũng là

cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng tiến hành việc kiểm tra,

thanh tra sau công bố.

Theo qui định của Bộ Khoa học và Công nghệ thì doanh nghiệp thực

hiện thủ tục công bố tiêu chuẩn chất lượng bằng việc gửi bản công bố (theo

mẫu) kèm theo bản sao tiêu chuẩn áp dụng cho Chi cục TCĐLCL (nơi doanh

nghiệp đặt trụ sở chính). Đối với hàng hóa đặc thù thuộc phạm vi quản lý chất

lượng của Bộ quản lý chuyên ngành (theo phân công tại Nghị định

49

179/2004/NĐ-CP ngày 21-10-2004 của Chính phủ) thì doanh nghiệp phải gửi

thêm một bộ hồ sơ đến cơ quan quản lý chất lượng hàng hóa chuyên ngành ở

địa phương. Chi cục TCĐLCL cũng như các sở quản lý chuyên ngành về chất

lượng theo phân công, có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ công bố, kiểm tra tính

phù hợp của tiêu chuẩn mà doanh nghiệp áp dụng với các qui định của Nhà

nước. Sau 10 ngày tiếp nhận hồ sơ, nếu cơ quan quản lý chất lượng không có

ý kiến gì, thì các thủ tục để thực hiện việc công bố tiêu chuẩn của doanh

nghiệp được coi là hợp lệ.

Ở thành phố Hà Nội, sau khi có Luật Quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật

và các văn bản hướng dẫn về công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng

hóa. Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng đã tổ chức nhiều hội nghị tập

huấn các quy định mới của pháp luật. Đồng thời xây dựng kế hoạch tổ chức,

triển khai và hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện việc công bố tiêu chuẩn

chất lượng hàng hóa. Đến nay đã có hơn 1.200 doanh nghiệp trên địa bàn thành

phố được hướng dẫn và phổ biến về các điều kiện, thủ tục công bố tiêu chuẩn

chất lượng. Các doanh nghiệp này hiện đã xác định được các tiêu chuẩn tương

ứng để kiểm tra, thử nghiệm đánh giá sản phẩm hàng hóa của mình theo các

tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn Quốc tế, tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn cơ

sở... và tiến hành việc tự công bố theo qui định. Đến nay, Chi cục Tiêu chuẩn

đo lường chất lượng đã thẩm định và tiếp nhận chính thức 287 hồ sơ công bố

tiêu chuẩn chất lượng của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Thành phố Hà Nội là thành phố kinh tế trọng điểm và hàng đầu của

vùng Đồng bằng sông Hồng. Hà Nội đã ban hành các sản phẩm chủ lực của

thành phố. Đó là: Máy công cụ, động cơ diezen, xe máy, động cơ điện, máy

biến thế, quạt điện dân dụng, xe ô tô, xe đạp hoàn chỉnh, hàng điện tử, ...,

thuốc lá bao,... thành phẩm, quần áo dệt kim, quần áo may sẵn, giấy bìa các

loại, phân hóa học, thuốc ống các loại, thuốc viên các loại, xà phòng các loại,

sứ vệ sinh, gạch xây, gạch lát các loại.

Trên thực tế, vấn đề công bố tiêu chuẩn chất lượng vẫn còn tình trạng

có những đối tượng thuộc diện phải công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng

50

không thực hiện. Nhiều đối tượng đã công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng

sản phẩm, hàng hóa mà họ đưa ra thị trường không đạt mức chất lượng đã

công bố. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các sản phẩm đặc thù không

gửi hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng về Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường

Chất lượng. Việc tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ công bố còn có mảng trống, nhiều

sở quản lý chuyên ngành về chất lượng chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực

này. Đặc biệt, việc kiểm tra, thanh tra chất lượng hàng hóa sau công bố chưa

được thực hiện thường xuyên và chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ

quan quản lý chuyên ngành về chất lượng hàng hóa trên địa bàn tỉnh.

2.2.2. Điều tra về hiệu quả quản lý chất lượng sau công bố tại Sở

Khoa học và Công nghệ

Để đánh giá về hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố, tác

giả luận văn đã tiến hành khảo sát ý kiến của 50 cán bộ, công chức của Chi

cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng, Sở Khoa học và Công nghệ, Chi cục

Quản lý thị trường và thanh tra trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả khảo

sát cho thấy, cán bộ, công chức đều khẳng định việc quản lý chất lượng hàng

hóa sau công bố là một hoạt động rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng

hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố

được thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng chưa được thực hiện có

hiệu quả. Có tới 70% cán bộ, công chức được khảo sát cho rằng việc quản lý

chất lượng hàng sau công bố được thực hiện chưa tốt trong khi mức đánh giá

là tốt và trung bình lần lượt chỉ là 12% và 16%. Điều này cho thấy, bản thân

cán bộ, công chức đều nhận thức được rằng việc quản lý chất lượng hàng hóa

sau công bố hiện nay còn nhiều bất cập.

Bảng 2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về chất lƣợng hàng hóa sau công bố

Đánh giá về quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố Tốt Trung bình Chưa tốt Không ý kiến

Kết quả sau xử lý điều tra khảo sát 12% 16% 70% 2%

Nguồn: Dữ liệu khảo sát

51

Kết quả khảo sát cho thấy, số lượng cơ sở được kiểm tra, số mặt hàng,

số lô hàng được kiểm tra hằng năm có tăng nhưng còn rất hạn chế, chỉ chiếm

khoảng 2,5% số cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm hàng hóa. Công tác xử

lý vi phạm còn hạn chế về hình thức và mức độ xử lý. Việc phối hợp trong xử

lý vi phạm mặc dù đã có Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg nhưng triển khai

thực hiện còn chưa chặt chẽ, nhất là trong việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm

cho cơ quan có thẩm quyền xử lý. Mặc dù được đầu tư một số trang thiết bị

kiểm tra nhanh và hàng năm Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng được

cấp một khoản kinh phí cho hoạt động đặc thù nhưng so với yêu cầu công tác

kiểm tra hiện nay, nguồn kinh phí này vẫn chưa thực sự bảo đảm. Việc quản

lý chất lượng hàng hóa sau công bố vẫn phải hàng ngày đối mặt với tình trạng

thiếu các trang thiết bị kiểm tra, sàng lọc, phát hiện nhanh dấu hiệu vi phạm

chất lượng, thiếu các kinh phí hoạt động đặc thù phục vụ kiểm tra như mua

mẫu, thử nghiệm, thông tin, tuyên truyền, hội thảo về công tác kiểm tra chất

lượng sản phẩm, hàng hóa…

Đi tìm hiểu nguyên nhân của việc quản lý chất lượng hàng hóa sau

công bố chưa hiệu quả, theo cán bộ, công chức được khảo sát, nguyên nhân

này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Trước hết là

số lượng hàng hóa ngày càng đa dạng. Các cơ sở sản xuất kinh doanh, các

doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội thuộc diện phải công bố chất

lượng có số lượng rất lớn. Với lực lượng cán bộ, công chức hiện tại, việc

quản lý chất lượng sau công bố gặp nhiều khó khăn. Năng lực của một bộ

phận cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa

còn hạn chế, chưa nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin, xử lý thông tin về

chất lượng hàng hóa trên thị trường. Bên cạnh đó là ý thức của các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều hạn chế. Việc tuân thủ yêu

cầu về chất lượng hàng hóa sau công bố vẫn chưa được chú ý đúng mức. Tình

trạng chất lượng hàng hóa khi công bố với sau công bố có sự khác biệt. Trong

khi đó, cơ quan kiểm tra không có đủ nhân lực và kinh phí để thường xuyên

kiểm tra hàng hóa trong sản xuất cũng như trên thị trường dẫn đến hoạt động

52

thanh tra, kiểm tra chất lượng hàng hóa sau công bố chưa được thực hiện

thường xuyên, hiệu quả. Đồng thời, một nguyên nhân quan trọng khác là các

quy định về quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố còn nhiều hạn chế như

chế tài xử lý vi phạm hành chính chất lượng hàng hóa sau công bố. Văn bản

quy phạm pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chất

lượng còn bất cập, hạn chế về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của

lực lượng kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

2.2.3. Điều tra, khảo sát doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà

Nội về xây dựng và công bố tiêu chuẩn

Từ năm 2001 đến nay, quản lý chất lượng đặc biệt quản lý doanh

nghiệp về chất lượng đã có sự thay đổi căn bản. Các doanh nghiệp, các cơ sở

sản xuất không phải đăng ký chất lượng ở cơ quan có thẩm quyền mà chỉ tự

công bố tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm, hàng hóa ở cơ quan quản lý chất

lượng. Tiếp theo, các văn bản mới được ban hành và nhất là khi Luật Tiêu

chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật có hiệu lực (1/1/2007) thể hiện nội dung đổi mới

Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo xu hướng hội nhập và mở cửa.

Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản

phẩm, hàng hóa của mình. Dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn nước ngoài

và tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn cơ sở hoặc Quy chuẩn

kỹ thuật của các Bộ, ngành, tổ chức tự công bố chất lượng cho sản phẩm,

hàng hóa của đơn vị. Công bố chất lượng theo tiêu chuẩn là công bố tự

nguyện. Công bố chất lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật là công bố bắt buộc.

53

2.2.3.1. Công bố tiêu chuẩn, công bố sự phù hợp của người sản xuất,

nhập khẩu và bán hàng.

Theo Luật định, người sản xuất, nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ

bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hóa hoặc tài liệu kèm theo.

Người sản xuất gửi thông báo sự phù hợp với tiêu chuẩn (công bố hợp

chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (công bố hợp quy).

Doanh nghiệp sản xuất phải thực hiện các yêu cầu về quản lý chất

lượng trong sản xuất để sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng,

quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.

Người nhập khẩu phải lựa chọn tổ chức giám định lô hàng hóa để

chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy và sử dụng dấu hợp chuẩn, hợp quy, chịu

trách nhiệm về chất lượng và ghi nhãn hàng hóa mà họ nhập khẩu.

Đối với người kinh doanh, bán hàng phải quyết định cách thức kiểm tra

hàng hóa để bảo đảm hàng hóa đã được đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn hoặc

quy chuẩn kỹ thuật và chịu trách nhiệm về hàng hóa lưu thông.

2.2.3.2. Điều tra, khảo sát doanh nghiệp về xây dựng và công bố tiêu chuẩn

Tuy nhiên, do khả năng và ý thức tự giác hạn chế, do trình độ dân trí và

tôn trọng pháp luật chưa đáp ứng nên trong thời gian qua hoạt động kiểm soát

chất lượng sản phẩm, hàng hóa sau công bố gặp nhiều khó khăn.

Xuất phát từ thực trạng nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ở Hà Nội

không hoặc chưa xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm, hàng hóa được sản

xuất, kinh doanh ở nhiều cửa hàng kinh doanh không rõ nguồn gốc, không có

tiêu chuẩn công bố được áp dụng. Luận văn đã tổ chức tiến hành khảo sát 40

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, cửa hàng kinh doanh.

Kết quả điều tra cho thấy, hàng hóa không có tiêu chuẩn chất lượng vào

lưu thông dù kiểm tra được cũng không thể kết luận về chất lượng, hàng hóa

không rõ nguồn gốc dù kiểm tra được cũng không thể xử lý. Sản phẩm, hàng

hóa có công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng không công khai, minh bạch,

khó khăn cho quản lý. Doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa phải công bố

chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật nhưng thực tế thì doanh nghiệp không

biết hoặc không thực hiện. Doanh nghiệp bắt buộc công bố không đáp ứng

54

theo tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đây là đối tượng phải tuân thủ để bảo

đảm an toàn, vệ sinh sức khỏe con người, bảo vệ động vật, thực vật và môi

trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng.

2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế kết quả quản

lý nhà nƣớc sau công bố chất lƣợng

2.3.1. Những tồn tại và hạn chế

Việc quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng

trong những năm gần đây đã ngày càng được chú ý. Bên cạnh những kết quả

đã đạt được thì việc quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chất

lượng còn không ít những hạn chế. Luận văn hệ thống thành 4 điểm như sau:

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn và quy

chuẩn kỹ thuật còn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước sau công bố chất

lượng. Với một số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành

nhưng phạm vi và mức độ điều chỉnh về lĩnh vực chất lượng hàng hóa, sản

phẩm vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Các văn bản quy phạm pháp luật quản lý

chất lượng sản phẩm, hàng hóa, còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa tương đồng

giữa các lĩnh vực. Một số ngành hàng chưa có đủ hệ thống văn bản để quản lý

toàn bộ chuỗi sản xuất. Ví dụ như trong lĩnh vực quản lý chất lượng mũ bảo

hiểm, theo quy định hiện hành, các loại mũ có kiểu dáng giống mũ bảo hiểm

không phải tuân thủ các quy định về quy chuẩn kỹ thuật của mũ bảo hiểm.

Các loại mũ này không phải chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy phù hợp

quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, không gắn dấu hợp quy CR. Vì vậy, không thể

áp dụng Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 để xử phạt

vi phạm hành chính trong sản xuất, kinh doanh loại mũ này. Sự thiếu đồng

bộ, thiếu tính kết nối giữa các quy định về quản lý chất lượng dẫn đến việc xử

lý vi phạm chất lượng hàng hóa khó thực hiện.

Các chế tài xử lý vi phạm về chất lượng hàng hóa chưa đầy đủ, chưa có

chế tài bắt buộc các cơ sở sản xuất phải áp dụng và thực hiện các quy chuẩn

bắt buộc về điều kiện đảm bảo chất lượng hàng hóa cũng như chế tài đình chỉ

hoạt động đối với cơ sở không đáp ứng yêu cầu.

55

Việc công bố chất lượng hàng hóa của doanh nghiệp có được thực hiện

hay không, công bố bao nhiêu phần trăm vẫn còn là một vấn đề chưa thống kê

được và việc giải quyết hiệu quả vẫn còn bỏ ngỏ. Chất lượng khi công bố, lưu

thông hàng hóa sau công bố, bảo đảm chất lượng hay không vẫn là một bài

toán nan giải và chưa có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể về nội dung và

mắt xích của chuỗi quản lý này.

Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý chất lượng hàng hóa sau

công bố vẫn còn nhiều bất cập. Bộ máy tổ chức quản lý chất lượng hàng hóa

ở cấp trung ương đã được hình thành nhưng ở địa phương còn chưa đồng bộ.

Hình thái tổ chức chưa bảo đảm thẩm quyền và nguồn lực triển khai nhiệm

vụ. Hệ thống thanh tra chuyên ngành về chất lượng hàng hóa chưa hình thành

đầy đủ gây khó khăn cho hoạt động quản lý.

Việc phân công chưa có sự thống nhất về lợi ích giữa việc hoạch định

chính sách, thực hiện chính sách và giám sát kết quả. Các cơ quan quản lý về

chất lượng hàng hóa cùng lúc vừa chịu trách nhiệm xây dựng tiêu chuẩn, thực

hiện và giám sát thực hiện tiêu chuẩn, từ đó, dẫn đến trình trạng che đậy hoặc

không báo cáo kịp thời những vấn đề bất cập do không muốn bộc lộ những

yếu kém trong triển khai và thực hiện tiêu chuẩn.

Phân cấp quản lý giữa các cấp trong hệ thống còn có điểm cần làm rõ

để thuận lợi cho việc thực hiện; một số lĩnh vực chưa phân cấp mạnh cho địa

phương. Quản lý là quá trình bao gồm nhiều hoạt động nhằm huy động các

nguồn lực để đạt được mục tiêu. Quan hệ phối hợp giữa trung ương và địa

phương; giữa các tổ chức và đơn vị quản lý chất lượng hàng hóa là khâu mấu

chốt trong triển khai các chương trình kiểm soát, giám sát và thực hiện các

hoạt động phân cấp quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa nhưng thực tiễn

đang là mối quan hệ lỏng lẻo và yếu nhất trong toàn bộ chuỗi quan hệ quản lý

hiện có.

Thứ ba, thiếu nguồn lực quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố. Về

nhân lực, lực lượng cán bộ chuyên trách quản lý chất lượng hàng hóa còn

mỏng, ở nhiều đơn vị chủ yếu là kiêm nhiệm. Chưa có hệ thống tiêu chuẩn

56

chức danh làm căn cứ tuyển dụng, đào tạo chuẩn hóa đội ngũ cán bộ. Việc

triển khai đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về chất lượng hàng hóa

hiện nay chủ yếu mang tính tự phát, chưa tập trung, thường dựa trên lợi ích và

đề xuất của địa phương, từ đó hạn chế trong việc sử dụng hiệu quả nguồn

nhân lực cũng như gây khó khăn cho tài trợ quốc tế đối với hoạt động hỗ trợ

đào tạo. Cán bộ Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng Hà Nội là một ví dụ

về sự thiếu và yếu, không được cập nhật và đào tạo để đáp ứng các hoạt động

và đổi mới của lĩnh vực hội nhập này. Chưa có hệ thống đào tạo chuyên

ngành về quản lý chất lượng.

Về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu tư, cơ sở vật chất phục vụ cho

quản lý chất lượng hàng hóa còn thiếu. Diện tích làm việc, diện tích phòng

kiểm nghiệm, trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ về cả danh

mục thiết bị và công suất. Đây vẫn là một hạn chế của Chi cục, Sở Khoa học

và Công nghệ thành phố Hà Nội cũng như ở hầu hết các đơn vị được đảm

trách nhiệm vụ quản lý chất lượng hàng hóa. Việc đầu tư cho nghiên cứu cơ

bản, nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa còn hạn

chế. Việc tiếp cận các công nghệ mới chưa kịp thời và đón đầu do hạn chế về

kinh phí đầu tư.

Thứ tư, về thông tin, truyền thông, đào tạo và tập huấn các văn bản quy

phạm pháp luật, các tiêu chuẩn và quy chuẩn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng là hoạt động nghiệp vụ và kỹ thuật có

tính đổi mới và cập nhật khá liên tục. Do đó, công tác thông tin, tuyên truyền,

đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ kỹ thuật và phương pháp tiếp cận, triển khai

vào thực tế từng ngành, từng địa phương có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy

nhiên, hoạt động này còn khá hạn chế và chưa được chú ý thực hiện trên địa

bàn thành phố Hà Nội. Theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ

thuật, việc thông báo, phổ biến tiêu chuẩn quốc gia thông qua tổ chức, phổ

biến, hướng dẫn áp dụng là công việc của Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ,

cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động này

57

được thực hiện rất hạn hẹp và chưa có nhiều đổi mới về phương pháp, cách

thức triển khai.

2.3.2. Các nguyên nhân

2.3.2.1. Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý nhà nước

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn

chuỗi sản xuất, còn để trống hoặc đôi khi chồng chéo hoặc chưa thiết thực với

kiểm soát chất lượng sau công bố. Cơ chế chính sách và phân công, phân cấp

giữa các bộ, ngành và địa phương vẫn còn có điểm bất cập, chồng chéo, gây

khó khăn cho việc thực hiện. Đây là nguyên nhân sâu xa và kéo dài;

- Năng lực tổ chức thực thi pháp luật các cơ quan pháp luật của cơ quan

quản lý chất lượng ở cả trung ương và địa phương còn có những hạn chế nhất

định. Hệ thống tổ chức chưa đồng bộ, đặc biệt ở các cấp địa phương, chưa hệ

thống thanh tra chuyên ngành chất lượng hàng hóa. Hoạt động thanh tra, kiểm

tra và chế tài xử lý chưa đủ răn đe đối tượng vi phạm. Phân công quản lý còn

gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Việc phân cấp chưa phát huy hết

vai trò của các cơ quan chức năng địa phương. Nguồn nhân lực còn thiếu và

yếu, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và kỹ thuật thiếu tính dài hạn

và bài bản. Cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ hoạt động quản lý, điều hành

còn nặng về hành chính, thiếu tính cập nhật, chính xác và đầy đủ.

- Thiếu quy hoạch tổng thể dẫn đến lãng phí trong đầu tư và vẫn chưa

đáp ứng được yêu cầu quản lý. Cơ chế tài chính đối với đơn vị quản lý nhà

nước chưa tạo điều kiện để các đơn vị chủ động kinh phí triển khai nhiệm vụ

được giao và triển khai các biện pháp ứng phó kịp thời khi có vấn đề phát

sinh về chất lượng hàng hóa. Kinh phí cho hoạt động các cơ quan quản lý, đặc

biệt là cơ quan địa phương còn hạn chế. Hoạt động đầu tư và cơ chế tài chính

chưa tương xứng về cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật…

- Nhận thức các cấp quản lý về tính cấp thiết, tầm quan trọng và

phương pháp luận về quản lý hàng hóa còn ở mức độ khác nhau, chưa nhất

quán và nhìn chung chưa cao. Dẫn đến việc triển khai các cơ chế, chính sách,

58

chương trình quản lý chưa quyết liệt cũng như hạn chế trong việc quy hoạch,

đầu tư tài chính và nguồn nhân lực;

- Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện Nghị

định số 80/2013/NĐ-CP còn nhiều hạn chế. Các cơ quan cấp giấp phép đăng

ký kinh doanh như Sở Kế hoạch và Đầu tư vẫn chưa thông tin kịp thời cho

bên Sở Khoa học và Công nghiệp (đặc biệt là Chi cục Tiêu chuẩn đo lường

chất lượng) về thông tin của các doanh nghiệp đăng ký cho nên Chi cục Tiêu

chuẩn đô lường chất lượng chưa có thông tin hoặc không có thông tin kịp thời

về doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa phải công bố chất lượng hay không

công bố chất lượng. Do vậy, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng ngay từ

đầu trong kiểm soát chất lượng hàng hóa trước, trong và sau công bố vẫn là

điểm nghẽn trong kiểm soát chất lượng;

- Một thực trạng đáng lưu ý là lâu nay các cơ quan quản lý nhà nước đi

kiểm tra thường chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp cũ, ít

vi phạm, chưa tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này dẫn đến

hiệu quả việc áp dụng thiết chế tài chính trong kiểm soát chất lượng hàng hóa

sau công bố còn chưa có tính toàn diện và tạo dấu ấn đậm nét trong quản lý,

kiểm soát chất lượng hàng hóa;

- Chưa tận dụng và phát huy tổng thể các nguồn nội lực và ngoại lực

cho hoạt động đảm bảo chất lượng hàng hóa. Chưa có sự phối hợp nhịp nhàng

giữa các nhà tài trợ quốc tế cũng như chưa thu hút tối đa các nguồn lực xã

hội, sự tham gia của các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể, hội nghề nghiệp và

các thành phần ngoài nhà nước;

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu, quảng bá về các hệ thống

quản lý chất lượng nói chung, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các

sản phẩm, hàng hóa còn yếu và hiệu quả thấp.

Từ những phương diện trên, có thể nhận thấy, hiệu lực, hiệu quả quản

lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố vẫn còn nhiều bất cập. Trong

điều kiện, các cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ rất đa

dạng, phong phú và không ngừng biến động, các cơ quan quản lý nhà nước

59

chưa có văn bản và cơ chế quản lý kịp thời, chặt chẽ đưa đến hệ lụy là các cơ

sở sản xuất có thể có đủ điều kiện sản xuất nhưng vẫn không bảo đảm chất

lượng sản phẩm, hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp không hoặc chậm công bố

chất lượng hàng hóa. Việc bảo đảm chất lượng sau công bố càng gặp nhiều

khó khăn khi trong lưu thông, phân phối, tình trạng xử lý các vi phạm về chất

lượng hàng hóa còn hiệu quả thấp.

Với một địa bàn tập trung nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh như Hà

Nội, vấn đề bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước vẫn còn đang là một bài toán

khó. Vấn đề hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố càng nan giải

hơn. Việc đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau

công bố cần đưa ra những tiêu chí cụ thể như tỷ lệ doanh nghiệp được quản

lý, tỷ lệ doanh nghiệp vi phạm và bị xử lý vi phạm hành chính, tỷ lệ doanh

nghiệp được hỗ trợ về đào tạo và kinh phí để áp dụng các hệ thống quản lý

chất lượng hàng hóa tiên tiến, tỷ lệ doanh nghiệp và số sản phẩm, hàng hóa

được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy, tỷ lệ doanh nghiệp công bố tiêu chuẩn

cho chất lượng hàng hóa có hiệu quả mang lại cho doanh nghiệp, cho ngành

và địa phương, cho người tiêu dùng từ hiệu lực, hiệu quả quản lý… cần được

xem xét một cách hệ thống và đầy đủ.

Với chương trình cải cách và rà soát các thủ tục hành chính, các cấp,

ngành tiêu chuẩn đo lường chất lượng và cụ thể các văn bản pháp quy về quản

lý chất lượng, kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố sẽ giảm bớt những

thủ tục phiền hà, không cần thiết và tập trung vào các văn bản còn thiếu, yếu

để đẩy mạnh hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau

công bố.

2.3.2.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp

Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa nhận thức đầy

đủ về công bố chất lượng và giá trị của quản lý chất lượng.

Công bố là thủ tục đánh giá chất lượng đầu tiên mà người cung cấp

đảm bảo dưới dạng văn bản rằng một đối tượng nào đó phù hợp với tiêu

chuẩn chất lượng yêu cầu. Người cung cấp có thể là nhà sản xuất, phân phối,

60

nhập khẩu hay tổ chức dịch vụ. Hoạt động tự công bố nhằm mục đích chứng

tỏ sản phẩm, hàng hóa cung cấp là phù hợp với văn bản đã xác định và nói rõ

chủ thể chịu trách nhiệm sự phù hợp này. Cách thức công bố áp dụng cho cả

trường hợp tự nguyện (theo tiêu chuẩn nào đó) hoặc bắt buộc (theo quy chuẩn

kỹ thuật).

Tự công bố sự phù hợp chất lượng, sự phù hợp với thông lệ quản lý

chất lượng quốc tế (tất nhiên cũng phù hợp với các văn bản quy phạm pháp

luật của Việt Nam). Nhưng nhược điểm của cách thức này là thiếu sự thuyết

phục trong điều kiện sản xuất và dân trí tự giác thực tế hiện tại chưa đáp ứng,

nếu không có quy định rõ ràng về trách nhiệm pháp lý thì sẽ bị lạm dụng để

lừa gạt người tiêu dùng và cả cơ quan quản lý nhà nước. Ở Hà Nội, vấn đề

này còn khá nghiêm trọng và phổ biến hơn là doanh nghiệp không tự công bố

chất lượng dù tình trạng không công bố trật lượng vẫn cò khá nhiều. Đây là

vấn đề mà kiểm soát sau công bố của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn

cần nắm bắt để khắc phục.

Bên cạnh đó, hoạt động quản lý chất lượng phải gắn liền, lồng ghép

trong các hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Vì chất lượng là sự sống còn

của doanh nghiệp mà quản lý chất lượng mới giúp doanh nghiệp bảo đảm và

cải tiến chất lượng hàng hóa của mình, bảo đảm khả năng cạnh tranh trên thị

trường của thành phố, trong nước và ngoài nước. Doanh nghiệp cần ý thức

đầy đủ về vấn đề này và cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện, có sự hỗ

trợ cần thiết về nhận thức, kiến thức và cả về kinh phí giúp doanh nghiệp có

được hệ thống quản lý chất lượng, các phương pháp và công cụ quản lý chất

lượng hàng hóa hữu hiệu và khả năng tự kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng

hóa sau công bố.

Một vấn đề là các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở Hà

Nội phần lớn là các tổ chức nhỏ và vừa. Vì vậy, họ cần được và phải được

nâng cao trách nhiệm về sản phẩm hàng hóa do họ cung cấp trước xã hội và

cộng đồng.

61

2.3.2.3. Nguyên nhân từ phía người tiêu dùng

Về cơ bản, người tiêu dùng chưa biết tự bảo vệ mình và hơn thế họ có

vai trò để phát triển doanh nghiệp. Các văn bản pháp luật (Luật Chất lượng

sản phẩm, hàng hóa, Luật An toàn thực phẩm, Luật Đo lường, Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản pháp quy dưới Luật) đã quy định

trách nhiệm của các các doanh nhiệp, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh hàng hóa, dịch vụ phải bảo đảm tiêu chuẩn đo lường chất lượng, phải

cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về hàng hóa, trách nhiệm bảo hành

và bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Mọi quyền và lợi ích hợp pháp của

người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật. Người

tiêu dùng không nên bỏ qua khi mua phải hàng hóa không phù hợp với công

bố chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật hoặc không có tiêu chuẩn chất lượng,

không công bố tiêu chuẩn chất lượng. Họ có quyền được khiếu nại, được giải

quyết khiếu nại và đền bù, được bảo vệ quyền lợi chính đáng. Làm như vậy,

học còn giúp cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển đúng đắn.

Người tiêu dùng cần chung tay cùng cộng đồng xã hội để các sản phẩm, hàng

hóa không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và doanh nghiệp không thực hiện

đúng quy định về pháp luật, của quản lý chất lượng sẽ không còn có chỗ đứng

trong xã hội. Như vậy, người tiêu dùng vừa bảo vệ được mình vừa thông thái

giúp cho sản xuất, kinh doanh phát triển đúng yêu cầu của xã hội.

* Kết luận Chƣơng 2

Chương 2 của luận văn đã đánh giá những kết quả đạt được và những

mặt còn hạn chế trong hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố

chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Có thể nói, hoạt động quản lý chất

lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có

những chuyển biến tích trong những năm gần đây. Tuy nhiên, trên thực tế,

việc quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng vẫn còn

nhiều hạn chế, yếu kém. Số lượng các cơ sở sản xuất, số mặt hàng, số lô hàng

được kiểm tra hằng năm có tăng nhưng còn khá khiêm tốn. Việc xử lý vi

phạm còn hạn chế về hình thức và mức độ xử lý. Cơ chế phối hợp trong việc

kiểm tra, xử lý vi phạm chất lượng hàng hóa sau công bố chưa được thực hiện

hiệu quả. Tình trạng doanh nghiệp phải công bố chất lượng hàng hóa nhưng

62

không thực hiện công bố vẫn còn diễn ra tương đối phổ biến. Luận giải

nguyên nhân của những hạn chế này, bên cạnh các nguyên nhân về nguồn lực

thực hiện, đội ngũ cán bộ, công chức số lượng và chất lượng còn hạn chế,

khung thể chế, chính sách về quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất

lượng chưa hoàn thiện thì một nguyên nhân cơ bản là thiếu các thiết chế về tài

chính đủ mạnh để xử lý có tính chất răn đe, phòng ngừa vi phạm về chất

lượng hàng hóa. Luận văn cũng nhấn mạnh đến các nguyên nhân từ phía các

cơ sở sản xuất, doanh nghiệp và chính bản thân người tiêu dùng trong việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

63

CHƢƠNG 3

XÂY DỰNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT

LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT, KINH DOANH

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Xây dựng thiết chế tài chính đối với các doanh nghiệp sản xuất,

kinh doanh hàng hóa có chất lƣợng không phù hợp với bản công bố

3.1.1. Xây dựng thiết chế tăng cường mức xử phạt về tài chính đối

với doanh nghiệp vi phạm

3.1.1.1. Đối với các doanh nghiệp sản xuất

Việc xây dựng thiết chế tăng cường xử phạt về tài chính đối với doanh

nghiệp sản xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc góp phần bảo đảm

chất lượng hàng hóa sau công bố. Các thiết chế xử phạt về tài chính đối với

chất lượng hàng hóa không phù hợp với bản công bố cần tập trung vào các

nội dung:

- Vi phạm quy định về hợp chuẩn: thực hiện mức phạt tiền đối với hành

vi vi phạm về công bố hợp chuẩn, dấu hợp chuẩn hoặc sản phẩm có chất

lượng không phù hợp với tiêu chuẩn được công bố;

- Vi phạm về quy định về hợp quy;

- Vi phạm liên quan đến hợp chuẩn, hợp quy.

Chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chất lượng hàng hóa

cần phải có sự tăng mức xử phạt và cần có sự tính toán trong mức xử phạt liên

quan đến doanh thu, lợi nhuận từ việc vi phạm quy định bảo đảm chất lượng

hàng hóa sau công bố. Mức xử phạt cần phải thực sự có tính răn để doanh

nghiệp không muốn vi phạm, không dám vi phạm và thiết chế giám sát để

doanh nghiệp khó có thể vi phạm.

3.1.1.2. Đối với các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh

Thực hiện xử phạt vi phạm hành chính với các doanh nghiệp, cá nhân

kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng, có chất lượng

64

không phù hợp với bản công bố. Thiết chế xử phạt tài chính cần được xây

dựng bảo đảm có tính răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm của các doanh

nghiệp, cá nhân trong buôn bán, kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa, khắc

phục tình trạng doanh nghiệp, cá nhân vì lợi ích cá nhân mà kinh doanh các

sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng. Thiết chế tài chính xử phạt vi phạm đối

với doanh nghiệp kinh doanh cần tập trung xử lý các hành vi:

- Lưu thông hàng hóa không bảo đảm chất lượng so với công bố mặc

dù có đầy đủ cơ sở để đánh giá hàng hóa đó không bảo đảm chất lượng;

- Che dấu thông tin về hàng hóa không bảo đảm chất lượng so với công bố.

3.1.2. Thiết chế tài chính về khen thưởng, khuyến khích đối với

người tiêu dùng

Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích người tiêu dùng có tiếng nói về

chất lượng hàng hóa không phù hợp với bản công bố. Cần phải tuyên truyền,

nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về quyền và lợi ích chính đáng của

mình và khẳng định pháp luật của nhà nước luôn bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng của người tiêu dùng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bảo

đảm chất lượng hàng hóa sau công bố. Nếu người tiêu dùng không lên tiếng,

không có ý kiến phản hồi thì cơ quan quản lý nhà nước sẽ không có đầy đủ

thông tin về tình trạng chất lượng hàng hóa không đảm bảo sau công bố bởi lẽ

số lượng cơ sở sản xuất lớn, các sản phẩm, hàng hóa rất đa dạng và phong

phú. Nhà nước có thể thực hiện cơ chế khen thưởng về vật chất và tinh thần

với những người tiêu dùng có những phản hồi chính xác về chất lượng hàng

hóa không phù hợp với bản công bố nhằm động viên sự tham gia của người

tiêu dùng vào quá trình quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố.

3.2. Điều kiện để thực hiện thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu

quả quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố

3.2.1. Điều kiện đối với doanh nghiệp

Để thực hiện các thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý

chất lượng sau công bố, cơ quan nhà nước cần thực hiện tốt công tác thông

tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về bảo đảm chất

65

lượng hàng hóa sau công bố, về mức xử phạt vi phạm hành chính trong

trường hợp vi phạm chất lượng sau công bố. Cần phải bảo đảm các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh nhận thức được đầy đủ về mức độ xử phạt

vi phạm khi vi phạm quy định về chất lượng hàng hóa sau công bố.

3.2.2. Điều kiện đối với chính sách quản lý nhà nước

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ

công tác quản lý, kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Rà

soát các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu

chuẩn đo lường chất lượng, bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

cho lực lượng kiểm soát viên chất lượng, bổ sung hành vi và mức phạt cho

phù hợp với thực tiễn và quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa;

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa

lưu thông trên thị trường, hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm trong quá trình sản

xuất. Trong đó, chú trọng hoạt động kiểm tra thường xuyên và kiểm tra đột

xuất của các cơ quan kiểm tra. Tổ chức tổng kiểm tra, thanh ta theo chuyên

đề, từng nhóm hoặc loại hàng hóa…;

- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phối hợp kiểm tra chất lượng

hàng hóa giữa cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa với cơ quan

thanh tra chuyên ngành, quản lý thị trường, hải quan, công an… thực hiện tốt

Quy chế phối hợp kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa ban hành theo

Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng

Chính phủ;

- Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, bổ

sung và tăng cường nhân lực có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu kiểm tra chất

lượng sản phẩm, hàng hóa cho Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Đầu

tư trang thiết bị thử nghiệm nhanh cho các cơ quan quản lý chất lượng hàng

hóa. Tăng cường kinh phí cho hoạt động kiểm tra của các cơ quan kiểm tra.

Tăng cường đào tạo, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm tra

chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho cơ quan quản kiểm tra chất lượng sản

phẩm, hàng hóa.

66

3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý chất

lƣợng hàng hóa sau công chất lƣợng trong các doanh nghiệp sản xuất và

kinh doanh

3.3.1. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan

- Rà soát tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật liên quan

đến chất lượng hàng hóa sau công bố trái với quy định của Luật Tiêu chuẩn

và Quy chuẩn kỹ thuật để hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung;

- Tập trung phân tích, xác định các tiêu chuẩn quốc gia cần ưu tiên.

Hoàn thiện việc chuyển đổi các tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành bắt

buộc thành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

- Hoàn thiện phương pháp luận và thể chế hóa các quy trình, kiểm soát

chất lượng hàng hóa, đặc biệt là kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố

trong toàn bộ chuỗi sản xuất và cung cấp sản phẩm hàng hóa;

- Đối với thành phố Hà Nội, cần bổ sung các văn bản quy phạm pháp

luật về tăng cường kiểm soát sau công bố tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật

trong lưu thông, cụ thể về quy định xử phạt vi phạm hành chính về tiêu chuẩn

chất lượng trên cơ sở Nghị định số 80/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

3.3.2. Tăng cường năng lực tổ chức thực thi pháp luật và năng lực

phối hợp trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố

- Cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị thực thi pháp luật về

quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa cần thấu hiểu cơ sở hoạt động quản lý

chất lượng sau công bố:

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa chỉ rõ: Kiểm tra nhà nước về chất

lượng sản phẩm, hàng hóa là việc cơ quan Nhà nước xem xét, đánh giá lại

chất lượng sản phẩm, hàng hóa, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ đã được

đánh giá chất lượng bởi các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoặc đã áp dụng các

biện pháp quản lý chất lượng khác của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh (khoản 15, Điều 13);

67

- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp và cơ chế phối

hợp các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa từ trung

ương tới địa phương;

- Tổ chức lực lượng thanh tra chuyên ngành chất lượng hàng hóa và kiểm

soát viên chất lượng ở các Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng cấp tỉnh;

- Giao nhiệm vụ quản lý chất lượng hàng hóa cho Ủy ban nhân dân cấp

huyện, phát triển đội ngũ cộng tác viên để triển khai hoạt động tuyên truyền,

giáo dục pháp luật, giám sát bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa;

- Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý chất lượng cho chính

quyền địa phương. Tiếp tục phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong

quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, các cơ quan quản lý nhà nước ở trung

ương chỉ tập trung xây dựng chính sách quản lý vĩ mô, thanh tra, kiểm tra và

giải quyết các vấn đề đối ngoại, giải quyết các rào cản của thị trường.

- Cần thiết ban hành “Quy định phân công trách nhiệm quản lý nhà

nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, hàng hóa

trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Công việc này giao cho Sở Khoa học và

Công nghệ Hà Nội chủ trì thực hiện. Quy định có các nội dung chính như sau:

+ Nội dung quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm

hàng hóa;

+ Phân công trách nhiệm với đầu mối là Sở Khoa học và Công nghệ mà

Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng thành phố là đơn vị trực tiếp giúp Sở

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiêu chuẩn chất lượng, chịu trách

nhiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực này và là cơ quan kiểm tra

chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn. Đây là đơn vị hướng dẫn các

doanh nghiệp. Cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện công bố tiêu chuẩn áp

dụng, tổ chức tiếp nhận và quản lý bản công bố hợp chuẩn đối với sản phẩm,

hàng hóa trên địa bàn và công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa chịu sự

quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội;

+ Phân công trách nhiệm đối với Sở, ngành, quận, huyện, thị xã;

68

+ Làm rõ các loại sản phẩm, hàng hóa đặc thù và phân công quản lý

nhà nước về từng loại sản phẩm hàng hóa này;

+ Trách nhiệm các tổ chức quản lý nhà nước về tiêu chuẩn - chất lượng.

3.3.3. Tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý

nhà nước

3.3.3.1. Nâng cao năng lực của các đơn vị sự nghiệp phục vụ quản lý

nhà nước

- Xây dựng lại mạng lưới các tổ chức đánh giá sự phù hợp (tổ chức thử

nghiệm, tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận, tổ chức kiểm định) và phân

cấp các phòng kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa thuộc các ngành, đặc biệt là

Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng theo cấp độ tương ứng với nhiệm

vụ được phân cấp;

- Tăng cường năng lực và sự phối hợp của các đơn vị kiểm nghiệm, thử

nghiệm của các chi cục đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ phục vụ quản lý nhà

nước và dịch vụ sự nghiệp công trên địa bàn thành phố nhằm tận dụng tối đa

năng lực thiết bị, tránh sự đầu tư trùng lắp, lãng phí;

- Xây dựng hệ thống phòng kiểm nghiệm, thử nghiệm quốc gia về chất

lượng hàng hóa thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng trên cơ sở

các phòng kiểm nghiệm hiện có của các trung tâm khu vực.

3.3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực

- Đảm bảo có đủ biên chế cho các cơ quan quản lý chất lượng sản

phẩm, hàng hóa để hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Các tỉnh,

thành phố căn cứ vào dân số, địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội và thực tế sản

xuất kinh doanh để định mức biên chế phù hợp;

- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực về quản

lý chất lượng hàng hóa đồng bộ trên cơ sở khảo sát, đánh giá, tập hợp nhu cầu

đào tạo ngắn hạn và dài hạn đối với từng lĩnh vực và chuyên ngành từ trung

ương đến địa phương;

69

- Đẩy mạnh đào tạo chuyên môn nghiệp vụ quản lý chất lượng, đào tạo

chuyên ngành quản lý chất lượng cho cán bộ quản lý và kỹ thuật cấp trung

ương và địa phương tại các trung tâm, trường cao đẳng, đại học.

3.3.3.3. Đầu tư nâng cấp

Mở rộng trụ sở làm việc, bổ sung cơ sở vật chất kỹ thuật và phòng

kiểm nghiệm của các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa từ trung

ương từ địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

3.3.4. Kiện toàn bộ máy Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng

thành phố Hà Nội

Thông tư liên tịch số 05/2008/TTLT-BKHCN-BNV ngày 18 tháng 6

năm 2008 của Bộ Khoa học và công nghệ và Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên

môn về khoa học và công nghệ thuộc Ủy ban nhân dân thành phố. Thông tư

liên tịch số 14/2009/TTLT-BKHCN-BNV ngày 28 tháng 5 năm 2009 của Bộ

Khoa học và công nghệ và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng các tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương. Từ thực trạng bộ máy của Chi cục Tiêu

chuẩn đo lường chất lượng chưa đủ sức đảm đương các nhiệm vụ được giao

và quá tải về công việc, theo quy định và hướng dẫn của trung ương và của

thành phố, việc kiện toàn tổ chức của Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng

thành phố Hà Nội là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy

mạnh các hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, góp phần tích cực vào

phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Đặc biệt là việc kiểm soát chất lượng

hàng hóa trên địa bàn thành phố. Luận văn đề xuất đề án kiện toàn bộ máy

của Chi cục như sau:

- Về mục tiêu:

+ Mục tiêu tổng quát: kiện toàn tổ chức bộ máy của Chi cục tiêu chuẩn

đo lường chất lượng, bảo đảm quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất

lượng có hiệu lực, hiệu quả;

70

+ Mục tiêu cụ thể: sắp xếp, xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy tinh gọn,

chức trách rành mạch giữa quản lý nhà nước và sự nghiệp công lập, tạo điều

kiện để đơn vị sự nghiệp công lập chủ động trong việc tổ chức thực hiện

nhiệm vụ hỗ trợ cho công tác quản lý, phù hợp theo tinh thần Thông tư liên

tịch số 14/2009/TTLT-BKHCN-BNV.

- Các phòng chức năng

Xuất phát từ các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, Chi cục

được bổ sung thêm một số nhiệm vụ mới như sau:

1) Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng được giao thêm nhiệm vụ

tổ chức phổ biến áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật địa

phương. Tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu

chuẩn nước ngoài; hướng dẫn xây dựng tiêu chuẩn cơ sở đối với các tổ chức

và cá nhân trên địa bàn.

2) Tổ chức, quản lý, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh thực hiện công bố tiêu chuẩn, áp dụng tiêu chuẩn cơ sở đối với các

hàng hóa, dịch vụ, quá trình và môi trường theo phân công, phân cấp của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.

3) Tiếp nhận bản công bố hợp chuẩn của tổ chức, cá nhân đăng ký hoạt

động sản xuất, kinh doanh tại địa phương; tiếp nhận bản công bố hợp quy trong

lĩnh vực được phân công và tổng hợp báo cáo UBND thành phố và Bộ Khoa

học và Công nghệ về hoạt động công bố hợp chuẩn, hợp quy trên địa bàn.

4) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, tổ chức thực hiện kiểm

tra về nhãn hàng hóa, chất lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông, hàng hóa xuất

khẩu, hàng hóa nhập khẩu theo phân công, phân cấp hoặc ủy quyền của các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

5) Tổ chức triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến vào

hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương theo phân cấp

hoặc theo ủy quyền của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ;

6) Quản lý và tổ chức thực hiện hoạt động dịch vụ kỹ thuật về tiêu

chuẩn, đo lường chất lựng sản phẩm hàng hóa.

71

Đối với việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố, Chi cục Tiêu

chuẩn Đo lường Chất lượng thành phố Hà Nội cần bổ sung thêm phòng và

chuyên viên như sau:

+ Phòng kiểm tra chất lượng hàng hóa:

Nhiệm vụ: tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa và ghi nhãn

hàng hóa lưu thông trên thị trường và hàng hóa và hàng hóa xuất, nhập khẩu.

Phối hợp với các ngành liên quan thực hiện thanh tra chuyên ngành về tiêu

chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Lập kế hoạch, báo cáo về việc kiểm tra

và tổng hợp báo cáo về kiểm tra hàng hóa của địa phương. Đây là một nhiệm

vụ quan trọng đã được quy định trong Nghị định 132/2008/NĐ-CP ngày 31

tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng

sản phẩm, hàng hóa.

+ 02 chuyên viên phụ trách và hướng dẫn việc thực hiện công bố tiêu

chuẩn chất lượng hàng hóa, tiếp nhận công bố hợp chuẩn, hợp quy.

3.3.5. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa bằng các công cụ,

biện pháp cần thiết

3.3.5.1. Đối với cơ sở sản xuất, doanh nghiệp

Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cần chủ động ngăn ngừa sản phẩm

không phù hợp với tiêu chuẩn. Các biện pháp cần thực hiện là:

- Kiểm soát sản phẩm theo quá trình;

- Chứng nhận sản phẩm hàng hóa phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ

thuật và công bố sản phẩm, hàng hóa hợp chuẩn, hợp quy;

- Tăng cường quản lý chất lượng trong sản xuất theo hệ thống quản lý

chất lượng tiên tiến quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, ISO 22000 (quản lý an

toàn thực phẩm cho doanh nghiệp chế biến thực phẩm).

3.3.5.2. Đối với quản lý nhà nước

Thực hiện kiểm tra về chất lượng hàng hóa khi có căn cứ hàng hóa lưu

thông trên thị trường không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng quy

chuẩn kỹ thuật tương ứng. Kiểm tra về chất lượng sản phẩm, hàng hóa sau

công bố. Nghị định số 80/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành

72

chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa

quy định về công bố tiêu chuẩn áp dụng và mức xử phạt. Điều 17. Vi phạm

quy định về công bố tiêu chuẩn áp dụng, Điều 18. Vi phạm quy định về hợp

chuẩn; Điều 19. Vi phạm quy định về hợp quy, Điều 20. Vi phạm về chất

lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, Điều 21. Vi phạm quy định về hoạt

động đánh giá sự phù hợp, Điều 22. Vi phạm quy định về hoạt động đào tạo,

tư vấn trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng,

Điều 23. Vi phạm quy định về hoạt động công nhận, Điều 24. Hành vi giả

mạo liên quan đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm,

hàng hóa. Đây là những chế tài xử lý nhằm hạn chế tình trạng vi phạm chất

lượng hàng hóa sau công bố.

Để tăng cường hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu

thông trên địa bàn thành phố. Cần phải tăng cường quản lý chất lượng sản

phẩm, hàng hóa ngay từ khâu sản xuất, tại các cơ sở kinh doanh nơi phát

nguồn hàng chính. Đặc biệt là cần rà soát lại hoạt động công bố tiêu chuẩn

chất lượng tại các cơ quan đã được phân công quản lý chuyên ngành về chất

lượng hàng hóa. Cần thiết ban hành qui chế phối kết hợp giữa các sở quản lý

chuyên ngành về chất lượng trong việc thực hiện công bố tiêu chuẩn chất

lượng, phối hợp thanh tra, kiểm tra sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị

trường. Đồng thời có qui định để cụ thể hóa việc phân công trách nhiệm quản

lý Nhà nước của các sở, ngành về chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo đặc thù

của địa phương. Đẩy mạnh hoạt động thanh kiểm tra sau công bố tiêu chuẩn

chất lượng. Toàn bộ các hoạt động này nhằm đưa sản xuất, kinh doanh hàng

hóa vào nên nếp để khi sản phẩm sản xuất, lưu thông ra thị trường luôn đảm

bảo chất lượng, giảm thiểu các hành vi gian lận, hàng kém chất lượng, góp

phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

* Kết luận Chƣơng 3

Chương 3 của luận văn đề xuất việc xây dựng hệ thống thiết chế tài

chính nhằm quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố. Thiết chế tài chính này

được áp dụng với doanh nghiệp sản xuất và cá nhân, doanh nghiệp lưu thông

73

hàng hóa trên thị trường. Thiết chế tài chính ở đây không chỉ là xử lý vi phạm

về chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng mà còn bao gồm cả thiết chế

tài chính về khen thưởng, khuyến khích trong lĩnh vực này. Để các thiết chế

tài chính đi vào thực tiễn, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật về quản lý chất lượng hàng hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác

phối hợp trong thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm chất lượng hàng hóa và đẩy

mạnh hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa. Một điều kiện quan trọng khác

chính là nhận thức của các doanh nghiệp về bảo đảm chất lượng hàng hóa sau

công bố chất lượng. Chương 3 cũng đề cập đến hệ thống các giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trên các phương diện về

thể chế, tổ chức bộ máy, năng lực kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hóa.

Những giải pháp này nhằm góp phần bảo đảm thiết chế tài chính phát huy hiệu

lực, hiệu quả trong kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng.

74

KẾT LUẬN

Chất lượng và cạnh tranh là những yếu tố quyết định sự phát triển bền

vững của doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong thế kỷ XXI. Quản lý chất

lượng được nhiều quốc gia và nền kinh tế chú trọng từ thập niên 70 của thế kỷ

trước và ngày càng được quan tâm đầy đủ hơn, được coi là một phận không

thể tách rời của hoạt động quản lý doanh nghiệp. Kiểm soát chất lượng là một

phần của quản lý chất lượng, là những hoạt động và kỹ thuật tác nghiệp nhằm

đáp ứng các yêu cầu chất lượng.

Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã ngày càng chú ý đến quản lý

chất lượng hàng hóa thông qua phát triển hệ thống chất lượng ở các doanh

nghiệp, tổ chức, coi đối tượng quản lý là hệ thống chất lượng. Trong khi đó

đối tượng quản lý, kiểm soát là sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp. Từ khi

có thay đổi căn bản từ bắt buộc sản phẩm, hàng hóa phải đăng ký chất lượng

ở cơ quan quản lý sang tự nguyện công bố hoặc công bố bắt buộc (đối với sản

phẩm hàng hóa có liên quan trực tiếp đến vệ sinh an toàn, sức khỏe của con

người) thì hoạt động kiểm soát chất lượng sau công bố không có chỉ đạo riêng

biệt nào, hoạt động càng trở nên kém hiệu quả. Hàng hóa không công bố chất

lượng, hàng kém chất lượng, hàng giả, hàng nhập khẩu không rõ nguồn gốc

và chất lượng hạn chế tràn lan trên thị trường. Chính vì vậy, cần phải đổi mới

các hoạt động trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố bằng thiết chế

quản lý phù hợp, trong đó, việc sử dụng thiết chế tài chính trong quản lý chất

lượng hàng hóa sau công bố là cách tiếp cận phù hợp. Thiết chế tài chính có

vai trò thúc đẩy hoạt động bảo đảm chất lượng, bảo đảm kỷ cương trong quản

lý chất lượng hóa sau công bố. Đề tài luận văn “Sử dụng thiết chế tài chính

để nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng

trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội”

đã được tiến hành để quan tâm giải quyết vấn đề nêu trên.

Các kết quả chủ yếu của luận văn đạt được:

75

1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý chất lượng hàng hóa sau

công bố, vai trò, hiệu quả của thiết chế tài chính trong quản lý chất lượng

hàng hóa sau công bố.

2. Trình bày khái quát hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa trên

phạm vi cả nước và trên địa bàn thành phố Hà Nội, đánh giá kết quản lý chất

lượng hàng hóa sau công bố trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3. Luận văn phân tích những nguyên nhân dẫn đến hiện trạng quản lý

chất lượng hàng hóa sau công bố chưa hiệu quả trong đó nhấn mạnh đến việc

thiếu thiết chế tài chính xử lý đủ mạnh, đủ sức răn đe, bảo đảm kỷ cương

trong quản lý chất lượng hàng hóa.

4. Luận văn đề xuất thiết chế tài chính trong xử phạt vi phạm chất

lượng hàng hóa sau công bố, đồng thời đưa ra điều kiện, giải pháp nhằm phát

huy vai trò của thiết chế này trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố.

Với điều kiện năng lực và trình độ nghiên cứu của bản thân còn nhiều

hạn chế, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình

thức. Luận văn như một khởi đầu trong việc phân tích, đánh giá, góp ý và

khuyến nghị về hoạt động quản lý chất lượng hàng sau công bố ở thành phố

Hà Nội nhằm tháo gỡ, tạo sự chuyển biến nhất định về hoạt động này.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Tú An, Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và

thực tiễn tại Việt Nam.

2. Đặng Quốc Bảo (2003), Phát triển nhà trường: Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 21.

3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2006), Quyết định số 26/2006/QĐ-

BKHCN về việc ban hành quy định về tổ chức thực hiện việc kiểm tra chất

lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường trong nước và xuất khẩu,

nhập khẩu.

4. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Quyết định số 24/2007/QĐ-

BKHCN về việc ban hành quy định chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp

quy và công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy.

5. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 27/2012/TT-BKHCN

ngày 12/12/2012 quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập

khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.

6. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 26/2012/TT-

BKHCN ngày 12/12/2012 quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng

hàng hóa lưu thông trên thị trường.

7. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 28/2012/TT-

BKHCN ngày 12/12/2012 quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy

và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

8. Bộ Khoa học và Công nghệ (2009), Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN

ngày 20/3/2009 quy định Danh mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất

an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.

9. Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nội vụ (2009), Thông tư liên tịch

số 14/2009/TTlT-BKHCN-BNV về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Sở

Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

77

10. Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1998), Đại Cương về

quản lý, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr. 11, 13.

11. Chính phủ (2007), Nghị định 127/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8

năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy

chuẩn kỹ thuật.

12. Chính phủ (2008), Nghị định số 55/2008/NĐ-CP Quy định chi tiết

thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

13. Chính phủ, Nghị định 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm

2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm,

hàng hóa.

14. Chính phủ (2012), Nghị định số 80/2013/NĐ-CP quy định về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng

sản phẩm, hàng hóa.

15. Cục Quản lý Đo lường chất lượng (2009), Tài liệu tập huấn nghiệp

vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa.

16. Học viện Chính trị Quốc gia (1998), Giáo trình quản lý hành chính

nhà nước, tập II, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

17. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Tài liệu bồi dưỡng về quản

lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên phần II: Hành chính nhà

nước và công nghệ hành chính, Hà Nội, tr. 7.

18. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về lý luận

quản lý giáo dục, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo trung ương 1,

Hà Nội.

19. Quốc hội 12 (2007), Luật Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá.

20. Quốc hội 11 (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.

21. Phan Thanh Thôi, Tăng cường các thiết chế kiểm soát chất lượng

hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Luận

văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, 2010.

78

PHỤ LỤC

MẪU PHIẾU KHẢO SÁT

Phần giới thiệu

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau

công bố, chúng tôi đang nghiên cứu đề tài “Sử dụng thiết chế tài chính để

nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố trong các doanh

nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Trong quá trình

thực hiện đề tài, chúng tôi rất mong muốn được tham khảo ý kiến của ông/bà

về các nội dung liên quan đến đề tài. Sự hợp tác và đóng góp của ông/bà có ý

nghĩa rất quan trọng để thực hiện nghiên cứu này. Không có ý kiến nào được

đưa ra là “đúng” hay “sai”, xin ông/bà đưa ra ý kiến của mình bằng việc đánh

dấu X vào ô thích hợp theo lựa chọn của ông/bà. Tất cả các ý kiến trả lời đều

có giá trị đối với nghiên cứu của chúng tôi. Những thông tin đánh giá và ý

kiến trả lời trong bảng khảo sát chỉ được sử dụng trong nghiên cứu này và

được giữ kính danh tính.

Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

79

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ NGƢỜI TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

1. Họ và tên ..................................................................................................

2. Tuổi ………………………………………………………………………

3. Số năm kinh nghiệm trong vị trí chuyên môn (kể cả ở cơ quan

khác) ……

4. Số năm kinh nghiệm trong vị trí chuyên môn (ở cơ quan hiện

nay) ……

5. Vị trí chuyên môn ……………………………………………………….

6. Trình độ học vấn

Trình độ học vấn Nơi cấp bằng

Việt Nam Nƣớc

ngoài

THPT/THCS  

Trung cấp / Cao đẳng  

Đại học  

Cao học  

Tiến sĩ  

Khác (đề nghị ghi cụ thể):……………………  

80

PHẦN BẢNG HỎI DÀNH CHO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC

Câu 1. Theo ông/bà, việc quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố

có ý nghĩa nhƣ thế nào đối với việc bảo đảm chất lƣợng hàng hóa trên thị

trƣờng?

Rất quan trọng 

Quan trọng 

Bình thường 

Không quan trọng 

Không có ý kiến 

Câu 2. Theo ông/bà, việc quản lý chất lƣợng hàng hóa trên địa bàn

thành phố Hà Nội trong những năm gần đây nhƣ thế nào?

Tốt 

Trung bình 

Chưa tốt 

Không có ý kiến 

Câu 3. Theo ông/bà, việc quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố

trên địa bàn thành phố Hà Nội đang gặp những khó khăn gì?

Khó khăn trong phối hợp xử lý vi phạm 

Khó khăn về trang thiết bị phục vụ kiểm tra, sàng lọc, phát hiện vi

phạm 

Khó khăn về nhân lực 

Khó khăn về kinh phí hoạt động 

Khó khăn khác (ghi rõ):………………………………………………

Câu 4. Theo ông/bà, nguyên nhân vì sao hoạt động quản lý chất

lƣợng hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay chƣa hiệu quả?

Số lượng hàng hóa sản xuất đa dạng 

Số lượng doanh nghiệp phải công bố chất lượng quá lớn 

Số lượng cán bộ, công chức còn hạn chế 

Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức hạn chế 

Ý thức của doanh nghiệp còn thấp 

81

Kinh phí phục vụ kiểm tra, thanh tra chất lượng hạn hẹp 

Chế tài xử lý vi phạm bất cập (về thẩm quyền, mức xử phạt) 

Câu 5. Theo ông/bà có cần tăng cƣờng sử dụng thiết chế tài chính

trong quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố?

Rất cần thiết 

Cần thiết 

Không cần thiết 

Không có ý kiến 

Câu 6. Theo ông/bà, các thiết chế tài chính nào cần phải xây dựng?

Thiết chế xử phạt về tài chính đối với doanh nghiệp vi phạm 

Thiết chế về khen thưởng, khuyến khích người tiêu dùng 

Thiết chế tài chính khác:………………………………………………..

Câu 7. Theo ông/bà, để sử dụng hiệu quả thiết chế tài chính trong

quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố, cần có những điều kiện nào?

Năng lực của cơ quan quản lý 

Năng lực của cán bộ, công chức 

Khung thể chế, chính sách 

Năng lực phối hợp liên ngành 

Nhận thức của doanh nghiệp 

Sự ủng hộ người tiêu dùng, xã hội 

Ngƣời trả lời

82

PHẦN BẢNG HỎI DÀNH CHO DOANH NGHIỆP

Câu 1. Xin ông/bà cho biết loại hình doanh nghiệp của ông/bà?

 Doanh nghiệp nhà nước

 Doanh nghiệp tư nhân

 Công ty TNHH

 Công ty cổ phần

 Công ty TNHH 1 thành viên

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 

Câu 2. Doanh nghiệp ông/bà đƣợc xếp loại quy mô nhƣ thế nào?

 Doanh nghiệp lớn

 Doanh nghiệp vừa và nhỏ

 Cơ sở sản xuất

 Cửa hàng kinh doanh

Câu 3. Các sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp là gỉ? (ghi rõ):…

………………………………………………………………………................

Câu 4. Doanh nghiệp ông/bà có áp dụng hay xây dựng, công bố tiêu

chuẩn sản phẩm, hàng hóa không?

Có  (chuyển sang câu 12) Không  (chuyển sang câu 10)

Câu 5. Lý do doanh nghiệp ông/bà áp dụng hoặc xây dựng công bố

tiêu chuẩn chất lƣợng?

 Sự cần thiết từ doanh nghiệp

 Bắt buộc của cơ quan quản lý

 Nhu cầu thị trường

Thấy doanh nghiệp khác áp dụng 

 Tạo uy tín, thương hiệu

Khác (ghi rõ):……………………………………………………………

Câu 6. Lý do doanh nghiệp ông/bà chƣa công bố tiêu chuẩn chất

lƣợng?

Chưa nhận thức được đầy đủ về tiêu chuẩn 

Chưa thấy cần thiết của thị trường 

83

Chưa có nguồn lực để thực hiện 

Không biết quy trình thực hiện 

Không biết cần phải thực hiện 

Khác (ghi rõ):………………………………………………………

Câu 7. Theo ông/bà, việc kiểm tra chất lƣợng hàng hóa sau công bố

hiện nay có đƣợc thực hiện thƣờng xuyên không?

Rất thường xuyên 

Thường xuyên 

Thỉnh thoảng 

Không thường xuyên 

Không có ý kiến 

Câu 8. Việc kiểm tra chất lƣợng hàng hóa sau công bố hiện nay

đƣợc thực hiện nhƣ thế nào?

Đột xuất 

Định kỳ 

Kết hợp định kỳ và đột xuất 

Không có ý kiến 

Câu 9. Theo ông/bà, việc kiểm tra chất lƣợng hàng hóa sau công bố

có phát hiện đƣợc kịp thời hàng hóa không bảo đảm chất lƣợng không?

Phát hiện thường xuyên 

Phát hiện thỉnh thoảng 

Không phát hiện được 

Không có ý kiến 

Câu 10. Với doanh nghiệp vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau công

bố, ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về mức xử lý vi phạm ?

 Xử phạt cao

 Xử phạt thấp

 Xử phạt hợp lý

 Không có ý kiến

84

Câu 11. Doanh nghiệp ông/bà có nhu cầu về thông liên quan đến xử

lý vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau công bố không?

Không

Có 

Câu 12. Trong trƣờng hợp cần thông tin, ông bà tìm kiếm thông tin

về xử lý vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau công bố ở nguồn nào?

Internet 

Tạp chí chuyên ngành 

Cơ quan quản lý 

Gọi điện trực tiếp đến cơ quan chức năng 

Đến thư viện 

Nguồn khác:…………………………………………………

Câu 13. Theo ông/bà, việc xử lý vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau

công bố nếu đƣợc thực hiện tốt sẽ đem lại những tác dụng gì?

Nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp 

Tạo nguồn thu ngân sách 

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 

 Góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa trên thị trường

Ý kiến khác:………………………………………………………

Ngƣời trả lời

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

85