ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU HÀ
SỬ DỤNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ
CHẤT LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT,
KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU HÀ
SỬ DỤNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ
CHẤT LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT,
KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Song
MÃ SỐ: 60.34.04.12
Hà Nội, 2015
1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU .................................................................. 5
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 6 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 7 3. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................. 9 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 9 5. Mẫu khảo sát ............................................................................................ 10 6. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 10 7. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 10 8. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 10 9. Kết cấu của Luận văn .............................................................................. 11
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ KIỂM SOÁT CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG ......................................................................... 12 1.1. Hệ khái niệm ......................................................................................... 12 1.1.1. Khái niệm thiết chế tài chính ......................................................... 12 1.1.2. Hiệu quả quản lý của thiết chế tài chính ....................................... 13 1.1.3. Điều kiện áp dụng thiết chế tài chính............................................. 13 1.1.4. Khái niệm về chất lượng hàng hóa ................................................ 14 1.1.5. Đặc điểm của chất lượng hàng hóa ............................................... 17 1.1.6. Vai trò của chất lượng hàng hóa ...................................................... 19 1.2. Các lý thuyết về quản lý chất lượng ..................................................... 20 1.2.1. Khái niệm về quản lý ...................................................................... 20 1.2.2. Khái niệm về quản lý chất lượng ................................................... 21 1.2.3. Các trường phái quản lý chất lượng .............................................. 28 1.2.4. Các nguyên tắc quản lý chất lượng ................................................ 29
1.3. Vai trò của các thiết chế tài chính trong việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng ......................................................................... 31 1.3.1. Vai trò bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong quản lý chất lượng .. 321 1.3.2. Vai trò ngăn ngừa vi phạm ............................................................. 32 1.3.3. Vai trò thúc đẩy bảo đảm chất lượng ............................................. 32 Kết luận chương 1 ........................................................................................... 33
CHƢƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................... 34 2.1. Tình hình quản lý chất lượng ở Việt Nam hiện nay ............................. 34 2.1.1. Khái quát chung về quản lý chất lượng ở Việt Nam ...................... 34 2.1.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa .......... 35 2.1.3. Hoạt động tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp chất lượng tại Việt Nam........................................................................................................... 41
2
2.2. Thực trạng công bố chất lượng cho hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................................................................................ 48 2.2.1. Sự phân công trên địa bàn và hoạt động của Chi cục Tiêu chuẩn, Đo lường, Chất lượng Hà Nội .................................................................. 48 2.2.2. Điều tra về hiệu quả quản lý chất lượng sau công bố tại Sở Khoa học và Công nghệ ..................................................................................... 51 2.2.3. Điều tra, khảo sát doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội về xây dựng và công bố tiêu chuẩn ............................................................... 53
2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế kết quả quản lý nhà nước sau công bố chất lượng ....................................................................... 55 2.3.1. Những tồn tại và hạn chế ............................................................... 55 2.3.2. Các nguyên nhân ............................................................................ 58 Kết luận chương 2 ........................................................................................... 62
CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT, KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................... 64 3.1. Xây dựng thiết chế tài chính đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa có chất lượng không phù hợp với bản công bố ................. 64 3.1.1. Xây dựng thiết chế tăng cường mức xử phạt về tài chính đối với doanh nghiệp vi phạm .............................................................................. 64 3.1.2. Thiết chế tài chính về khen thưởng, khuyến khích đối với người tiêu dùng .......................................................................................................... 65 3.2. Điều kiện để thực hiện thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố ............................................................ 65 3.2.1. Điều kiện đối với doanh nghiệp ..................................................... 65 3.2.2. Điều kiện đối với chính sách quản lý nhà nước ............................. 66
3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý chất lượng hàng hóa sau công chất lượng trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ............................................................................................................ 67 3.3.1. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan ................ 67 3.3.2. Tăng cường năng lực tổ chức thực thi pháp luật và năng lực phối hợp trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố .............................. 67 3.3.3. Tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước .................................................................................................................. 69 3.3.4. Kiện toàn bộ máy Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng thành phố Hà Nội ............................................................................................... 70 3.3.5. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa bằng các công cụ, biện pháp cần thiết ........................................................................................... 72 Kết luận chương 3 ........................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 79
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Ngọc Song – Vụ
trưởng Vụ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ - Người hướng dẫn khoa học,
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành Luận văn này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy - Cô tại Khoa Khoa học Quản lý -
Đại học KHXHNV đã tận tình giảng dạy và truyền đạt kiến thức, phương
pháp luận, kỹ năng, kinh nghiệm… trong suốt thời gian học tập tại Khoa.
Xin trân trọng cảm ơn Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Sở
Khoa học và Công nghệ thành phố Hà Nội, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng thành phố Hà Nội, các cơ quan quản lý, các chuyên gia... đã hợp
tác, tiếp đón, cung cấp thông tin số liệu và tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình điều tra, phỏng vấn phục vụ nghiên cứu.
Xin chân thành cám ơn các anh chị lớp Cao học Khóa QH-2012-X, về
sự giúp đỡ, hỗ trợ và động viên trong học tập.
Mặc dù đã nỗ lực và cố gắng rất nhiều nhưng do thời gian và năng lực
của bản thân còn hạn chế nên Luận văn còn những thiếu sót nhất định. Kính
mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ bảo của Thầy - Cô để Luận văn có thể
hoàn thiện hơn nữa.
Xin trân trọng cảm ơn./.
4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1: Quan điểm về chất lượng…………………………………...trang 17
Bảng 1.2: So sánh quản lý chất lượng truyền thống và đương đại tổ
chức……………………………………………………………………trang 23
Bảng 2.1: Vai trò của quản lý chất lượng…………………………..…trang 46
Bảng 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công
bố………………………………………………………………………trang 51
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian gần đây, thị trường và hoạt động thương mại ở nước ta đã có
những bước phát triển tích cực, hàng hoá ngày càng đa dạng, phong phú, chất
lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân. Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng hàng hoá, việc kiểm tra, kiểm
soát, chấp hành các quy định về bảo đảm chất lượng hàng hoá sản xuất và lưu
thông trên thị trường chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động quản lý còn
nhiều bất cập và hiệu quả quản lý còn hạn chế. Hiện tượng buôn bán hàng giả,
hàng kém chất lượng ngày càng có chiều hướng gia tăng, thậm chí có lúc, có
nơi tình hình trở nên nghiêm trọng không những gây thiệt hại về quyền lợi,
thậm chí làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của người tiêu dùng, mà còn làm suy
giảm uy tín và lợi ích kinh tế của những người kinh doanh chân chính, trung
thực, đồng thời gây hậu quả xấu tới sản xuất, đời sống và sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế, xã hội ở nước ta.
Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết thuộc về quản lý nhà nước.
Các Bộ, Ngành và địa phương được giao trách nhiệm quản lý chất lượng hàng
hoá chưa nhận thức một cách đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình trong
việc tổ chức và phối hợp hoạt động nhằm thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
việc quản lý chất lượng đối với hàng hóa sản xuất và lưu thông trên địa bàn.
Những nội dung quy định hiện hành về chất lượng hàng hoá của Nhà
nước hoặc không theo kịp yêu cầu và đòi hỏi của phương thức quản lý tự
công bố tiêu chuẩn chất lượng, công bố phù hợp quy chuẩn, chứng nhận phù
hợp tiêu chuẩn, chứng nhận phù hợp quy chuẩn của doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hoặc chậm được điều chỉnh, bổ sung, thay thế cho phù hợp với
đặc điểm, yêu cầu của phương thức mới.
Bộ máy tổ chức và lực lượng làm công tác kiểm tra, kiểm soát về chất
lượng hàng hoá trong sản xuất và trong khâu lưu thông ở địa phương, ngay ở
thành phố Hà Nội còn thiếu và yếu, hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng
6
được yêu cầu và đòi hỏi của quản lý chất lượng sau công bố chất lượng của sự
phát triển hàng hoá và thị trường trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Một nguyên nhân chủ yếu nữa thuộc về các tổ chức doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trong quá trình hội nhập, hình thức quản lý chất
lượng đã có sự thay đổi căn bản từ bắt buộc đăng ký chất lượng sang tự
nguyện công bố chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh nhưng nhận thức, trách nhiệm, được quản lý và tham gia
vào quá trình quản lý còn rất hạn chế, có phần đối phó, né tránh.
Là một cán bộ đang công tác tại một cơ quan nhà nước thuộc thành phố
Hà Nội quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tôi nhận thấy việc quản lý
chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng ở địa phương chưa thực sự đạt
hiệu quả. Chính vì vậy trong phạm vi luận văn Thạc sĩ, tôi đã tiến hành
nghiên cứu với đề tài “Sử dụng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả
quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội” nhằm góp
phần khắc phục tình trạng yếu kém về quản lý chất lượng hàng hoá sau công
bố, để sớm đưa hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung, công tác quản lý
chất lượng hàng hoá nói riêng vào nền nếp, đúng pháp luật, góp phần thúc
đẩy và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Hà Nội nói
riêng và cả nước nói chung.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý
nhà nước về chất lượng hàng hóa sau khi công bố chất lượng, có thể nhận
thấy chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này.
Cuốn Quản lý chất lượng sản phẩm của Đặng Đức Dũng (chủ biên),
NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 đã trình bày lý thuyết cơ bản về quản
lý chất lượng sản phẩm, đảm bảo chất lượng, cải tiến và nâng cao chất lượng
sản phẩm, giảm chi phí trong sản xuất. Các tác giả cũng đề xuất việc áp dụng
các phương pháp thống kê trong quản lý chất lượng sản phẩm.
7
Tác giả Hà Duyên Tư trong cuốn sách Quản lý chất lượng trong công
nghiệp thực phẩm, NXB. Khoa học và Kỹ thuật, 2006 phân tích các kiến thức
cơ bản về chất lượng thực phẩm, nội dung các hoạt động quản lý và kiểm tra
chất lượng, kĩ thuật lấy mẫu, kĩ thuật kiểm tra thống kê trong sản xuất, xử lý
thống kê số liệu và công tác tiêu chuẩn hoá.
Tác giả Nguyễn Mạnh Dũng trong cuốn Quản lý chất lượng sản phẩm
và vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến nông lâm sản, NXB. Nông
nghiệp, 2008 đã đánh giá thực trạng nông sản chế biến trong thời kì hội nhập
kinh tế quốc tế, chất lượng và quản lý chất lượng nông sản chế biến và một số
giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến
nông sản thực phẩm.
Tác giả Bùi Hồng Đăng trong bài viết Xây dựng mô hình quản lý chất
lượng phù hợp trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu tại
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 130 (tháng 4 năm 2008) đã đề xuất
các nội dung về áp dụng mô hình quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ với định hướng tập trung là áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất
lượng ISO và quản lý chất lượng toàn diện (TQM).
Giáo trình Quản lý chất lượng của tác giả Ngô Phúc Hạnh, NXB. Khoa
học và Kỹ thuật, 2011 đã trình bày các nội dung về chất lượng sản phẩm và
dịch vụ, khách hàng và thị trường sản phẩm, chi phí chất lượng và năng suất,
quản lý chất lượng trong các tổ chức và hệ thống quản lý chất lượng, các
phương pháp, kỹ thuật quản lý chất lượng...
Đi sâu nghiên cứu về thiết chế kiểm soát chất lượng hàng hóa, gần đây,
tác giả Phan Thanh Thôi đã nghiên cứu đề tài “Tăng cường các thiết chế kiểm
soát chất lượng hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh”. Ở đề tài này, tác giả cũng đã nêu ra được những tồn tại, hạn chế
trong việc quản lý chất lượng hàng hóa và cũng đã đưa ra được một số giải
pháp để kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng.
Tuy nhiên các giải pháp đó chưa thực sự rõ ràng, cụ thể và phạm vi nghiên
cứu chỉ giới hạn trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
8
Đối với Hà Nội, đây cũng là một vấn đề cần được quan tâm, cần được
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện vì Hà Nội là trung tâm kinh tế của
cả nước, có số lượng lớn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và số lượng
hàng hóa lưu thông rất lớn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có
một công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về chất
lượng hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn thành phố Hà
Nội, và đặc biệt là sử dụng thiết chế để nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng
hàng hóa
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý chất lượng hàng hóa, hiệu
quả quản lý
- Mục tiêu chung: Xây dựng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả
quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm kiếm các nguyên nhân gây ra hạn chế hiệu lực, hiệu quả của
quản lý chất lượng hàng hóa nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm hàng
hóa sau công bố chất lượng nói riêng;
+ Phân tích những nguyên nhân cơ bản làm cho công tác quản lý nhà
nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chưa đạt hiệu quả cao;
+ Phân tích các nguyên nhân từ phía tổ chức doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh;
+ Xây dựng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng
hàng hóa sau công bố chất lượng của các tổ chức doanh nghiệp.
4. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Tập trung nghiên cứu công tác quản lý chất lượng hàng
hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội
+ Về không gian: Địa bàn thành phố Hà Nội
+ Về thời gian: Từ năm 2009 đến nay.
9
5. Mẫu khảo sát
Đề tài được khảo sát trực tiếp tại:
- Các cơ quản quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa;
- Các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng: Quản lý thị trường, Thanh tra;
- Các chuyên gia, cán bộ, thanh tra thuộc Sở Khoa học và công nghệ
Hà Nội;
- Khoảng 40 cơ sở sản xuất, cửa hàng kinh doanh trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thiết chế tài chính cần phải được xây dựng như thế nào để nâng cao
hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội?
- Liệu xây dựng thiết chế tài chính có thể làm đổi mới công tác quản lý
nhà nước về chất lượng hàng hóa không?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Thiết chế tài chính cần phải được xây dựng dựa trên tư tưởng là đưa
ra các hình thức xử phạt về mặt tài chính nhằm ngăn chặn hiện tượng sản
xuất, kinh doanh hàng hóa có chất lượng không phù hợp với bản công bố.
- Việc xây dựng thiết chế tài chính có thể làm đổi mới và nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng
8. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu và thu thập thông tin qua khảo cứu tài liệu:
Phương pháp nghiên cứu này được sử dụng cho chương 1 và một phần nội
dung chương 2. Tác giả nghiên cứu các công trình nghiên cứu đã có về quản
lý chất lượng hàng hóa sau công bố, các thiết chế kinh tế, tài chính, xã hội
nhằm quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố; các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hóa, xử lý
vi phạm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa…;
10
- Phương pháp điều tra qua phiếu trưng cầu ý kiến và xử lý dữ liệu:
Phương pháp nghiên cứu này được sử dụng trong nghiên cứu chương 2 của
luận văn. Đối tượng khảo sát là cán bộ, công chức đang làm công tác quản lý
nhà nước về chất lượng hàng hóa và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phương pháp nghiên
cứu nhằm thu thập thông tin đánh giá về việc xử lý vi phạm chất lượng hàng
hóa sau công bố, kết quả áp dụng các thiết chế tài trong xử lý vi phạm tiêu
chuẩn chất lượng hàng hóa sau công bố; mức độ thực hiện công bố chất
lượng, tuân thủ các quy định về công bố chất lượng hàng hóa sau công bố của
các doanh nghiệp.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này nhằm thu thập ý kiến
đánh giá của các chuyên gia về thiết chế tài chính đã và đang được áp dụng,
các đề xuất về đổi mới thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát
chất lượng hàng hóa sau công bố.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1 - Cơ sở lý luận của việc hình thành thiết chế tài chính để
kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng.
Chương 2 - Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về chất
lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3 - Xây dựng thiết chế tài chính để nâng cao hiệu quả quản lý
chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trong các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội.
11
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH
ĐỂ KIỂM SOÁT CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ
CHẤT LƢỢNG
1.1. Hệ khái niệm
1.1.1. Khái niệm thiết chế tài chính
Thiết chế xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và hệ thống
giám sát mọi hoạt động của xã hội. Nhờ các thiết chế xã hội mà các quan hệ xã
hội kết hợp lại với nhau, đảm bảo cho các cộng đồng hoạt động nhịp nhàng. Về
mặt tổ chức, thiết chế xã hội là hệ thống các cơ quan quyền lực, các đại diện
cho cộng đồng, đảm bảo những hoạt động đáp ứng những nhu cầu khác nhau
của cộng đồng và cá nhân. Ngoài việc giám sát của các hệ thống tổ chức, còn
có hệ thống giám sát không mang những hình thức có tổ chức. Đó là phong tục,
tập quán, dư luận, luôn luôn đánh giá và điều chỉnh hành vi của các thành viên
trong cộng đồng xã hội. Các thiết chế xã hội đều có nhiệm vụ: đáp ứng các loại
nhu cầu khác nhau của cộng đồng và của các thành viên, điều chỉnh hoạt động
của các bộ phận trong cộng đồng và của các thành viên, kết hợp hài hoà các bộ
phận, đảm bảo sự ổn định của cộng đồng. Có nhiều loại thiết chế khác nhau:
+ Thiết chế kinh tế, tài chính bao gồm những thiết chế liên quan đến việc
sản xuất và phân phối của cải, điều chỉnh sự lưu thông tiền tệ, tổ chức và phân
công lao động xã hội.
+ Thiết chế chính trị là những thiết chế như chính phủ, quốc hội, các
đảng phái và tổ chức chính trị ...
+ Thiết chế tinh thần là những thiết chế liên quan đến các hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, tôn giáo.
+ Thiết chế giao tiếp công cộng bao gồm tất cả các khuôn mẫu và
phương thức hành vi trong sự giao tiếp công cộng.
Các mối quan hệ xã hội giữa người với người đều kinh qua những thiết
chế. Những thiết chế này đều có tính độc lập tương đối so với các quan hệ xã
12
hội ấy. Thiết chế thường có tính chất lạc hậu hơn so với các biến đổi của các
quan hệ xã hội. Việc cải biến và thay đổi các thiết chế xã hội liên quan trực tiếp
đến quản lí xã hội và các chính sách xã hội.
Thiết chế tài chính là một trong các thiết chế xã hội. Thiết chế tài chính
có thể được hiểu là tổng thể các quy định và tổ chức về tài chính nhằm giám sát
hoạt động của đời sống xã hội, góp phần bảo đảm sự vận hành bình thường của
đời sống xã hội.
1.1.2. Hiệu quả quản lý của thiết chế tài chính
Trong hoạt động quản lý, các chủ thể quản lý có thể sử dụng các thiết
chế quản ý khác nhau. So với những thiết chế quản lý khác, thiết chế tài chính
có những điểm ưu trội trên một số phương diện.
Thứ nhất, thiết chế tài chính tác động trực tiếp vào lợi ích của đối tượng
quản lý. Với việc sử dụng thiết chế tài chính, chủ thể quản lý có thể khuyến
khích các đối tượng quản lý thực hiện theo định hướng mà chủ thể quản lý
mong đợi. Mặt khác, thông qua thiết chế này, có thể tác động đến lợi ích vật
chất, làm giảm lợi ích vật chất, doanh thu của đối tượng quản lý khi chủ thể
quản lý áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm, yêu cầu khắc phục hậu quả.
Thứ hai, thiết chế tài chính có tác động ngăn ngừa, tạo ra áp lực phải
tuân thủ các quy định đã được đặt ra. Vì thiết chế tài chính tác động đến lợi
ích của các chủ thể, vì vậy, sự tác động của thiết chế này tạo ra áp lực phải
tuân thủ. Nếu đi ngược lại các quy định của thiết chế tài chính, đối tượng sẽ
chịu thiệt hại về mặt kinh tế. Thiết chế tài chính là thiết chế có tác dụng ngăn
ngừa, đề phòng vi phạm. Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp thuyết phục,
vận động thì thiết chế tài chính có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm
kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm pháp chế. Có thể khẳng định: không có cưỡng
chế, không sử dụng thiết chế tài chính thì không có trật tự, quyền và lợi ích
của nhà nước cũng như của mỗi cá nhân, tổ chức bị xâm phạm.
1.1.3. Điều kiện áp dụng thiết chế tài chính
Để áp dụng thiết chế tài chính hiệu quả, các quy định về thiết chế tài
chính cần phù hợp với yêu cầu kiểm soát chất lượng hàng hóa, có tính thực
13
tiễn và bao quát được các khía cạnh của quản lý chất lượng hàng hóa. Trong
triển khai thực hiện các thiết chế tài chính, vấn đề căn bản là cần có sự phối
hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quy định các loại hình sản
phẩm, hàng hóa cần phải công bố chất lượng, hoạt động kiểm tra, giám sát và
xử lý các vi phạm về chất lượng hàng hóa sau công bố. Việc quản lý chất
lượng hàng hóa sau công bố liên quan đến nhiều chủ thể quản lý khác nhau.
Nếu thiếu sự phối hợp hiệp đồng giữa các chủ thể này thì các thiết chế tài
chính khó đi vào thực tiễn hoặc chỉ áp dụng đơn lẻ đối với một số ít hàng hóa,
một số ít doanh nghiệp sản xuất mà không tạo nên một thiết chế hiệu quả
trong kiểm soát chất lượng hàng hóa.
1.1.4. Khái niệm về chất lượng hàng hóa
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói
nhiều các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao",...
Mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm
thúc đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Tuy nhiên, chất lượng là một phạm trù phức tạp, một vấn đề gây nhiều tranh
cãi, vì vậy, định nghĩa về chất lượng có những khác biệt tùy theo đối tượng sử
dụng, tùy theo thời gian và cách tiếp cận.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, chất lượng là mức độ, thước
đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính
hữu ích của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm.
Chất lượng theo quan niệm thông thường được hiểu là tốt và tuyệt với
của sản phẩm. Quan niệm này mang tính trừu tượng vì chất lượng hàng hóa,
sản phẩm không thể xác định một cách chính xác, đầy đủ và như nhau trong
cảm nhận của các nhóm đối tượng.
Chất lượng theo quan niệm của nhà sản xuất là sự đáp ứng và phù hợp
của sản phẩm, dịch vụ với một tập hợp các yêu cầu, quy cách được xác định
trước. Chất lượng được hiểu là tổng hợp những tính chất đặc trưng của sản
phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn các yêu cầu định trước cho nó trong điều
kiện kinh tế, xã hội nhất định.
14
Chất lượng hướng theo thị trường, trong nền kinh tế thị trường, khi mô
tả chất lượng sản phẩm, hàng hóa, người ta nêu bật bản chất mà người sản
xuất người tiêu dùng gặp nhau: yêu cầu sử dụng cao và giá trị phù hợp. Có rất
nhiều định nghĩa chất lượng được các tác giả nêu ra:
- Theo Tổ chức kiểm tra chất lượng châu Âu (European organization
for quality control): chất lượng là mức độ phù hợp của sản phẩm đối với yêu
cầu của người tiêu dùng;
- Theo tiêu chuẩn của Australia (AS1057-1985) thì "Chất lượng là sự
phù hợp với mục đích".
- Theo một số chuyên gia quản lý chất lượng nổi tiếng thì: chất lượng là
mức độ dự đoán trước tính đồng đều để tin cậy, tại mức chi phí thấp và thị
trường chấp nhận (W.E. Deming); Chất lượng là những đặc tính cơ bản của
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ đáp ứng được mong đợi của khách hàng (A.Feigenbaun); Chất lượng
là sự thỏa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất (Ishikawa).
Theo quan điểm chất lượng hướng theo công nghệ thì chất lượng sản
phẩm là “tổng tính chất đặc trưng của sản phẩm thể hiện ở mức độ thỏa mãn
những yêu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kỹ thuật,
kinh tế, xã hội”.
Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm có khả
năng thỏa mãn được những nhu cầu phù hợp công dụng của sản phẩm đó,
chất lượng sản phẩm là sự phù hợp các tiêu chuẩn hoặc quy định kỹ thuật.
Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa ISO
9000:1994 (TCVN 5814-1994) thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều
nước chấp nhận định nghĩa này: "Chất lượng là một tập hợp các tính chất và
đặc trưng của sản phẩm tạo ra cho nó khả năng thỏa mãn nhu cầu đã được nêu
ra hoặc còn tiềm ẩn".
Qua các định nghĩa trên ta có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng
sản phẩm hàng hoá sau đây:
15
+ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể
hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm.
+ Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu
cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục.
+ Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem
xét sản phẩm thỏa mãn tới mức nào của người tiêu dùng.
Ở nước ta, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá (Luật số
05/2007/QH12) cũng chỉ rõ: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là mức độ của
các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công
bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Chất lượng hàng hóa thể hiện khả năng hàng hóa đáp ứng nhu cầu nhất
định của con người. Nói cách khác, chất lượng hàng hóa là thước đo mức độ
có ích của giá trị sử dụng. Chất lượng hàng hóa được xác định theo mục đích
sử dụng cụ thể, theo nhu cầu của đối tượng sử dụng. Chất lượng hàng hóa
không cố định mà phụ thuộc vào điều kiện sản xuất và sử dụng nhất định.
Cùng với phát triển của sản xuất, những tiến bộ khoa học, công nghệ và xu
hướng phát triển của xã hội, chất lượng hàng hóa cũng luôn luôn biến đổi,
không ngừng nâng cao, đạt yêu cầu toàn diện hơn, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu
của người tiêu dùng.
Chất lượng hàng hóa không chỉ đơn thuần là bảo đảm những tính chất
về mặt kỹ thuật mà còn mang cả nội dung kinh tế. Người ta có thể sử dụng
nguyên liệu quý, hiếm, dùng phương pháp công nghệ tiên tiến để sản xuất
những hàng hóa khá hoàn hảo, song như vậy làm cho chi phí sản xuất quá
lớn, giá thành quá cao, sản xuất sẽ không có lãi và cũng không thể kinh doanh
được. Người tiêu dùng không thể bỏ ra số tiền quá lớn để mua thứ hàng hóa
đó vì sự tăng thêm về chất lượng không tương ứng với số tiền bỏ thêm ra. Vì
vậy, để hàng hóa sản xuất ra tiêu thụ được nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu
người tiêu dùng và kích thích được sản xuất phát triển thì không thể yêu cầu
một chất lượng với bất kỳ giá nào mà phải là một chất lượng kinh tế nhất
định, đảm bảo đáp ứng được những yêu cầu sử dụng nhất định và chi phí xã
16
hội ít nhất. Do đó, chất lượng hàng hóa là tổng hợp các tính chất đặc trưng
kinh tế, kỹ thuật tạo nên giá trị sử dụng làm cho hàng hóa có khả năng thỏa
mãn nhu cầu xã hội trong những điều kiện sản xuất và sử dụng nhất định.
Có thể phân hóa khái niệm về chất lượng theo các quan điểm như sau:
Bảng 1.1. Quan điểm về chất lƣợng
Theo quan điểm
Theo quan điểm mới
Theo quan điểm tổng hợp
truyền thống
Đặc tính sản phẩm, dịch vụ đáp ứng yêu cầu khách hàng Thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng Thỏa mãn yêu cầu giá thành hợp lý và thời gian giao nhận tốt
1.1.5. Đặc điểm của chất lượng hàng hóa
Từ những khái niệm nêu trên, chất lượng hàng hóa có những đặc điểm
cơ bản sau:
- Do chất lượng được đo bằng mức độ thỏa mãn nhu cầu thông qua một
tập hợp các chỉ tiêu, do vậy, một sản phẩm, vì một lý do nào đó mà có chỉ tiêu
quy định không đạt yêu cầu, bởi vậy, không được thị trường chấp nhận, bị coi
là không có chất lượng, cho dù sản phẩm đó có giá trị sử dụng và ngay cả khi
sản phẩm đã được chế tạo từ công nghệ có thể hiện đại hay giá trị của một số
chỉ tiêu chất lượng có thể là rất cao. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở
để các nhà quản lý, các nhà sản xuất đưa ra những chính sách, chiến lược chất
lượng sản phẩm và kinh doanh của mình.
- Yêu cầu có thể là nhu cầu, đó là những đặc tính không thể thiếu đối
với khách hàng hay các bên quan tâm về sản phẩm được cung cấp, những
cũng có thể là mong đợi, nếu đáp ứng được sẽ đem lại tính cạnh tranh cao đối
với sản phẩm, ví dụ như hình thức bên ngoài của sản phẩm, thái độ phục vụ,
cung cấp dịch vụ, như vậy, có thể phân chia chất lượng thành hai loại: “chất
lượng phải có” “ứng với đáp ứng nhu cầu” và “chất lượng hấp dẫn” “ứng với
đáp ứng mong đợi”. Tuy nhiên, do sự thay đổi điều kiện sống nên nhiều đặc
17
tính trong một thời kỳ được coi là mong đợi nhưng ở thời kỳ sau đó được coi
là nhu cầu.
- Người kinh doanh không chỉ phải đáp ứng nhu cầu của khách hàng
mà muốn tồn tại, phát triển phải lưu ý đến các bên quan tâm khác, ví dụ như
yêu cầu về pháp luật, tập quán hay văn hóa, sinh hoạt của cộng đồng xã hội và
thị trường vươn tới.
- Do chất lượng được đo bằng sự thỏa mãn nhu cầu mà nhu cầu luôn
biến động nên chất lượng cũng biến đổi theo thời gian, không gian và điều
kiện sử dụng.
- Khi đánh giá chất lượng một sản phẩm, ta phải xem xét đặc tính chất
lượng là đặc tính của đối tượng có liên quan đến những yêu cầu cụ thể. Với
cùng một chủng loại sản phẩm, các yêu cầu này khác nhau tùy theo điều kiện
cụ thể.
- Yêu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, các tiêu
chuẩn nhưng cũng có thể yêu cầu không mô tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể
cảm nhận chung hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá trình sử dụng.
- Chất lượng không chỉ dùng cho sản phẩm mà cần hiểu là áp dụng cho
thực thể như sản phẩm, một hoạt động, một quá trình, một hệ thống.
- Chất lượng luôn có tính chủ quan và mang tính khách quan. Nó phản
ánh tương tác giữa sản phẩm, con người (người tiêu dùng) và xã hội. Cần hiểu
nghĩa rộng chất lượng tổng hợp bao gồm thỏa mãn yêu cầu, giá cả dịch vụ
bán hàng và sau giao hàng.
Khi nói đến chất lượng không thể không nói đến khái niệm cấp chất
lượng. Cấp chất lượng là chủng loại hay thứ hạng của các yêu cầu chất lượng
khác nhau đối với sản phầm, hàng hóa, quy trình hay hệ thống có cùng chức
năng sử dụng.
- Chất lượng hàng hóa có thể chia thành nhiều loại khác nhau:
+ Chất lượng thiết kế: là giá trị đem lại thông qua các chỉ tiêu đặc trưng
của sản phẩm, hàng hóa được phác thảo qua văn bản để tổ chức sản xuất;
18
+ Chất lượng công bố: là chất lượng được cơ quan có thẩm quyền phê
chuẩn hoặc chấp nhận, trong đó các quy định mức chất lượng cần có của sản
phẩm, hàng hóa đạt được. Mặt khác, cơ quan có thầm quyền quản lý căn cứ
tiêu chuẩn đã công bố (tiêu chuẩn cơ sở, tiêu chuẩn Việt Nam, quy chuẩn Việt
Nam, quy chuẩn địa phương, tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế) để
kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
+ Chất lượng thực tế là chất lượng đạt được ở sản phẩm, hàng hóa qua
thử nghiệm tại thời điểm cụ thể, việc kiểm tra chất lượng thực tế nhằm loại bỏ
sản phẩm không đạt tiêu chuẩn, kiểm soát mức độ thỏa mãn yêu cầu hoặc
đánh giá chất lượng còn lại sử dụng;
+ Chất lượng tối ưu là chất lượng đạt mức hợp lý nhất trong điều kiện
sản xuất và kinh tế-xã hội nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng
trong điều kiện cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.
1.1.6. Vai trò của chất lượng hàng hóa
Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản
phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con
người, động thực vật, tài sản, môi trường… Bảo đảm chất lượng sản phẩm,
hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với người tiêu dùng, người sản
xuất mà còn cả với nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và
lợi ích quốc gia
Chất lượng sản phẩm là chính sách do doanh nghiệp thực hiện các
chiến lược Marketing tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm của doanh
nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường từ đó làm cơ sở cho
sự tồn tại và phát triển bền lâu của doanh nghiệp. Nhờ phát triển chất lượng
đã giúp tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm tài nguyên và giảm thiểu ô nhiễm
môi trường.
Hiện nay, cuộc cạnh tranh toàn cầu đã, đang và sẽ trở nên ngày càng
mạnh mẽ với qui mô và phạm vi ngày càng lớn. Sự phát triển của khoa học và
công nghệ cho phép các nhà sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu khách hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Tình hình trên đã
19
khiến cho chất lượng trở thành yếu tố cạnh tranh, trở thành yếu tố quyết định
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng.
Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo
cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng
suất lao động. Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín hàng hóa
nước ta trên thị trường thế giới mà còn tạo điều kiện tăng cường thu nhập
ngoại tệ cho đất nước.
Bên cạnh đó đảm bảo chất lượng hàng hoá, chống hàng giả, hàng nhái,
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chống hàng lậu không đảm bảo chất
lượng, không rõ nguồn gốc, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng Việt Nam.
1.2. Các lý thuyết về quản lý chất lƣợng
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một hoạt động được hình thành từ khi xã hội loài người xuất
hiện, con người có sự hợp tác với nhau hoặc cùng nhau hoạt động với những
mục đích chung nào đó. Ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần
đến quản lý, dù nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm chính thức, nhóm không chính
thức và bất kể nội dung hoạt động nhóm là gì. Từ xa xưa, con người đã biết
sử dụng hoạt động quản lý vào việc tổ chức các hoạt động của mình. Ở Phương
Đông, Khổng Tử đã đề cao xác định rõ vai trò cá nhân của người làm công tác
quản lý - đặc biệt ông đã để lại một câu khá lý thú cho những người làm quản
lý "Bất tại kỳ vị bất mưu kỳ chính" (không ở vào địa vị ấy đừng nên bàn chuyện
của nơi ấy). Vào thời Trung Hoa cổ đại, bốn chức năng cơ bản của quản lý đã
được xác định. Đó là kế hoạch hoá, tổ chức, tác động và kiểm tra.
Tuy tư tưởng và quan điểm về quản lý đã có cách đây 2500 năm, nhưng
cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc vận động theo khoa học mới
xuất hiện. Người khởi xướng cuộc vận động này là Frederich Winslow Taylor
(1856 - 1915). Năm 1911, Winslow Taylor đã cho xuất bản cuốn sách "Các
nguyên tắc quản lý theo khoa học". Ông đã cho rằng: "Quản lý là cải tạo mối
20
quan hệ giữa người với người, giữa người với máy móc" và "Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương
pháp tốt nhất, rẻ nhất" [8, tr. 13].
Từ góc độ xã hội học về quản lý C.Mác viết: "Tất cả mọi lao động trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều
cũng cần tìm đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và
thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ
thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sĩ độc
tấu vĩ cầm tự mình điểu khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng" [2, tr. 21].
Ngày nay, khái niệm về quản lý được định nghĩa rõ ràng hơn:
Theo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là
khách thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến” [17].
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức [8, tr. 1].
Theo cuốn giáo trình quản lý hành chính nhà nước của Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, quản lý được xem như là “sự kết hợp giữa tri thức
và lao động” [16].
Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân
hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
1.2.2. Khái niệm về quản lý chất lượng
Trong ISO 9000, quản lý chất lượng được định nghĩa là các hoạt động
nhằm định hướng/hoạch định và kiểm soát về chất lượng của một tổ chức
(ISO 9000:2005). Thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm/hoạt động về bản
chất là tìm câu trả lời cho bốn câu hỏi lớn. Thứ nhất, “Các chuẩn mực/yêu cầu
mà một sản phẩm hay hoạt động cần đạt được là gì?”. Kết quả của câu hỏi
21
này là một đa giác chất lượng (tiêu chuẩn) với mỗi đỉnh là một yêu cầu mà
sản phẩm/hoạt động cần đạt được. Câu hỏi thứ hai là “Làm thế nào để đạt
được các chuẩn mực/yêu cầu đã xác định với sản phẩm/hoạt động?”. Với câu
hỏi này, đơn vị tìm câu trả lời cho những câu hỏi nhỏ hơn trong mô hình 5W
+1H như tại sao phải thực hiện các hoạt động (Why), các công việc nào cần
được tiến hành (What), ai tiến hành (Who), vào bao giờ (When), ở đâu
(Where) và sẽ được thực hiện như thế nào (How). Các công cụ như phân tích
quá trình cải tiến theo vòng tròn P-D-C-A (hoạch định, thực hiện, kiểm tra và
điều chỉnh) và nguyên tắc coi trọng phòng ngừa hơn khắc phục có thể giúp
các đơn vị đã và đang áp dụng ISO 9000 trả lời được câu hỏi thứ hai này. Thứ
ba, “Làm thế nào để biết được sản phẩm/hoạt động đạt được các chuẩn mực
đã đề ra đến đâu?”. Câu hỏi này yêu cầu đơn vị phải thiết lập được một hệ
thống các “chốt kiểm soát” với sản phẩm/dịch vụ mà mình cung cấp cũng như
những hoạt động được thực hiện. Câu hỏi thứ tư cần lời giải trong quản lý
chất lượng là “Làm thế nào để kết quả thực hiện các chuẩn mực chất lượng
của sản phẩm/hoạt động được cải thiện?”.
Trả lời câu hỏi này giúp đơn vị thiết lập được một cơ chế cải tiến liên
tục với chất lượng sản phẩm và chất lượng hoạt động dựa trên các bước theo
dõi, phân tích, đánh giá và xác định cơ hội cải tiến, xác định và thực hiện các
biện pháp cải tiến, và theo dõi đánh giá kết quả cải tiến cũng như thực hiện
các điều chỉnh cần thiết cho hoạt động cải tiến.
22
Bảng 1.2. So sánh quản lý chất lƣợng truyền thống và đƣơng đại tại tổ chức
Đặc điểm QLCL truyền thống QLCL đƣơng đại
Tính chất
Chất lượng là vấn đề công nghệ, sản xuất đơn thuần
Chất lượng là vấn đề tổng hợp (kinh tế, kỹ thuật – xã hội) là bộ phận gắn kết quản lý doanh nghiệp
Vấn đề tác nghiệp Vấn đề chiến lược và tác nghiệp Phạm vi
Thực hiện ở mọi cấp Cấp quản lý Cấp phân xưởng, khu vực
sản xuất + Cấp công ty
+ Cấp phân xưởng, phòng, ban
+ Tự quản
Mục tiêu
Ngắn hạn, lợi nhuận cao nhất Kết hợp dài và ngắn hạn, thỏa mãn nhu cầu kinh tế cao nhất
Sản phẩm cuối cùng Sản phẩm
Tất cả sản phẩm và dịch vụ bao gồm nội bộ và tiêu thụ bên ngoài
Hoạch định, kiểm soát, cải tiến Chức năng Kiểm tra, kiểm soát
Đi thẳng vào vấn đề riêng biệt Đặt trong mối quan hệ của toàn hệ thống Cách xem xét vấn đề
+ Áp đặt
Khắc phục, tìm nguyên nhân, phòng ngừa Biện pháp giải quyết + Thưởng, phạt
Bằng sự hài lòng của khách hàng
Theo tiêu chí, chỉ tiêu thiết kế Đánh giá chất lượng
(Nguồn: Giáo trình Quản lý chất lượng trong các tổ chức của GS.TS.
Nguyễn Đình Phan – Đại học Kinh tế quốc dân)
Đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng được thực hiện chủ yếu ở
hai cấp độ chính là nhà nước và doanh nghiệp. Xét về đối tượng, đối tượng của
quản lý chất lượng chính là các sản phẩm của tổ chức, trong đó bao gồm hàng
hóa, dịch vụ hoặc quá trình. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét vai trò của quản lý
chất lượng ở cấp nhà nước và cấp doanh nghiệp đối với hàng hóa, dịch vụ và
quá trình trong hành trình Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
23
1.2.2.1. Quản lý nhà nước về chất lượng
Trước hết phải thấy rằng quản lý nhà nước về chất lượng là hoạt động
tổng hợp mang tính kỹ thuật, kinh tế và xã hội, có mục tiêu, biến đổi theo thời
gian và thông qua các cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức.
Mục tiêu quản lý chất lượng của Nhà nước Việt Nam là “để đảm bảo
nâng cao chất lượng hàng hóa, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu
dùng, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ môi
trường, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực quản lý
nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác kỹ thuật, kinh tế và thương
mại quốc tế” (Pháp lệnh Chất lượng Hàng hóa 1999).
Để thực hiện những mục tiêu nói trên, các biện pháp sau đây được tiến
hành: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa; Kiểm tra và
chứng nhận chất lượng hàng hóa, áp dụng và chứng nhận hệ thống quản lý
chất lượng; công nhận năng lực kỹ thuật và quản lý của các tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực chất lượng; thanh tra và xử lý các vi phạm về chất lượng.
Những biện pháp quản lý của nhà nước về chất lượng này được thể hiện trong
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng. Điều đó phù hợp với xu
hướng chung của quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Nếu so sánh các quy định pháp luật của Việt Nam đối với chất lượng
hàng hóa hiện nay, kể cả Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật mới được
ban hành chúng ta thấy rằng phần lớn các nguyên tắc và yêu cầu của Hiệp
định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) và Hiệp định Áp dụng các
biện pháp vệ sinh động và thực vật đã được đáp ứng. Tuy nhiên, cũng cần
phải chỉ ra một thực tế là đâu đó cũng còn có những sự không đồng bộ trong
các quy định có liên quan giữa các cơ quan khác nhau, trong các biện pháp
khác nhau được áp dụng mà nguyên nhân không phải từ phía chủ quan các cơ
quan muốn áp đặt sự không đồng bộ đó để cản trở thương mại trong nước và
với nước ngoài, mà do những yếu tố lịch sử và đặc biệt yếu tố về nguồn lực
(nhân lực và vật lực).
24
Trong số các biện pháp quản lý chất lượng nêu trong Luật Tiêu chuẩn
và Quy chuẩn kỹ thuật, biện pháp người sản xuất kinh doanh công bố hàng
hóa, dịch vụ do mình sản xuất hoặc cung cấp phù hợp với tiêu chuẩn hoặc quy
chuẩn kỹ thuật. Đây là một trong các bài bản quản lý được tổ chức tiêu chuẩn
hóa quốc tế đưa ra và khuyến khích các quốc gia áp dụng. Có thể nói Việt
Nam là một nước tiên phong trong khu vực ASEAN áp dụng một cách rộng
rãi. Việc áp dụng phương thức này sẽ làm giảm bớt sự can thiệp không cần
thiết của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian cho doanh nghiệp và
sản phẩm sẽ rẻ hơn, nhanh đến với người tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, cũng phải
thấy rằng để thực hiện phương thức này, Nhà nước đã đặt niềm tin rất lớn vào
các doanh nghiệp khi thể hiện trách nhiệm xã hội của mình đối với chất lượng
hàng hóa, dịch vụ mình làm ra hay cung cấp, bên cạnh đó đòi hỏi người tiêu
dùng phải nâng cao nhận thức để hiểu được các quyền hợp pháp và trách
nhiệm công dân của mình đối với vấn đề chất lượng sản phẩm trong quá trình
mua và sử dụng chúng.
Biện pháp quản lý chất lượng khác cũng được Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật đề cập như chứng nhận sự phù hợp của hàng hóa, dịch vụ hoặc
quá trình với tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật, công nhận năng lực của các
tổ chức hoạt động trong hoạt động kiểm tra, giám định và chứng nhận chất
lượng sản phẩm hoặc quá trình/ hệ thống quản lý chất lượng, việc thừa nhận
lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm
nhằm thuận lợi hóa thương mại. Những biện pháp được hài hòa ở mức độ cao
với các tiêu chuẩn hoặc/và khuyến nghị của các tổ chức quốc tế có liên quan
như ISO, IEC, ITU, CODEX và cả OIE, IPPC.
1.2.2.2. Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp
Hoạt động quản lý chất lượng trong doanh nghiệp về nguyên lý khác
với hoạt động quản lý của nhà nước đối với chất lượng. Điều này là do tính
chất tổ chức của cơ quan nhà nước và của doanh nghiệp rất khác nhau vì
những mục tiêu khác nhau.
25
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ là kết quả của quá trình chịu
sự tác động của nhiều yếu tố liên quan. Muốn đạt được chất lượng mong
muốn phải quản lý đúng đắn các yếu tố này. Quản lý chất lượng trong doanh
nghiệp là cần thiết với loại hình, quy mô doanh nghiệp. Trước hết, quản lý
chất lượng doanh nghiệp là sự định hướng về mục tiêu, chính sách chất lượng,
mục tiêu chất lượng. Doanh nghiệp cần xác định và triển khai áp dụng các Hệ
thống quản lý chất lượng, các công cụ cải tiến và kiểm soát mọi hoạt động
ảnh hưởng đến chất lượng nhằm thỏa mãn yêu cầu khách hàng.
A. Định hướng, kiểm soát chất lượng và đảm bảo chất lượng
Việc định hướng và kiểm soát chất lượng gồm những hoạt động nào:
1/ Chính sách và mục tiêu chất lượng. Đó là ý đồ và định hướng của
doanh nghiệp liên quan đến chất lượng trên cơ sở nhu cầu của khách hàng,
khả năng thỏa mãn của doanh nghiệp và điều kiện tổ chức thực hiện.
2/ Hoạch định chất lượng là một phần của quản lý chất lượng, tập trung
vào mục tiêu và quy định các quá trình tác nghiệp và nguồn lực để thực hiện
mục tiêu chất lượng.
3/ Kiểm soát chất lượng. Ngay từ thập niên thứ 3 của thế kỷ XX, người
ta đã bắt đầu chú trọng đến quá trình tạo ra sản phẩm, chứ không đợi đến
khâu cuối cùng mới tiến hành sàng lọc, phân loại chúng. Kiểm soát chất
lượng (Quality control) ra đời và ngày càng hoàn thiện đồng hành cùng lịch
sử phát triển nền sản xuất hàng hóa.
Trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu chất lượng thường
tập trung kiểm soát 5 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất
lượng. Đó là:
- Kiểm soát con người thực hiện (men);
- Kiểm soát phương pháp và quá trình sản xuất (methods);
- Kiểm soát nguyên vật liệu (materials);
- Kiểm soát và bảo dưỡng thiết bị (machines);
- Kiểm soát thông tin (information).
26
Quy tắc 4M+I nêu trên mang đặc trưng của lực lượng sản xuất còn xét
về quan hệ sản xuất thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn phụ thuộc vào các
yếu tố khác như nhu cầu của nền kinh tế, sự phát triển của khoa học và công
nghệ, cơ chế quản lý và hiệu lực của cơ chế quản lý, các yếu tố phong tục,
văn hóa.
Cần hiểu đầy đủ hơn, theo quan điểm của ISO 9000:2000 kiểm soát
chất lượng là một phần của quản lý chất lượng, là quá trình điều khiển các
hoạt động tác nghiệp thông qua những kỹ thuật, phương tiện, phương pháp
tác nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng. Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm soát chất
lượng là:
- Tổ chức các hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng theo yêu cầu;
- Đánh giá việc thực hiện chất lượng trong thực tế của tổ chức;
- So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch, công bố để phát hiện các sai lệch;
- Tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm khắc phục những sai lệch và
xử lý đảm bảo yêu cầu, đồng thời kiểm soát chất lượng là một phần yếu tố
chính của đảm bảo chất lượng.
4/ Đảm bảo và cải tiến chất lượng là một phần của quản lý chất lượng,
khẳng định với khách hàng về khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa đang
tiến tới thỏa mãn hơn.
B. Nhiều hệ thống quản lý được doanh nghiệp lựa chọn áp dụng Tiêu
chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000. Bộ tiêu chuẩn quốc
tế ISO 9000 với phiên bản ISO 9000:2000. Năm 2008, một phiên bản mới là
ISO 9000: 2008 đã thịnh hành đến nay.
Đây cũng là hệ quả tất yếu quá trình quản lý chất lượng của thế giới
trước tác động của quá trình toàn cầu hóa nói chung và tự do hóa thương mại
đang ngày càng sâu rộng. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể áp dụng các hệ thống
quản lý tùy theo yêu cầu và sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất.
- Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với
mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở
mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho
27
hoạt động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và
huy động sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục
tiêu chất lượng đã đặt ra.
Nhiều các hệ thống quản lý khác cũng đang được các doanh nghiệp
Việt Nam xem xét áp dụng, như ISO 14001 – hệ thống quản lý môi trường,
HACCP – Hệ thống Phân tích các nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu
trong lĩnh vực nông sản thực phẩm, GMP – Quy chế thực hành sản xuất tốt
trong lĩnh vực dược và thực phẩm, OHSAS 18001 – Hệ thống quản lý an toàn
và sức khỏe nghề nghiệp, SA 8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội và các hệ
thống quản lý chất lượng tích hợp hoặc đặc thù như ISO 22000 Hệ thống
quản lý an toàn thực phẩm (food chain), ISO/TS 29001 Công nghiệp dầu khí
và hóa dầu - Hệ thống quản lý chất lượng trong các ngành công nghiệp đặc
thù - yêu cầu đối với các tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch vụ.
Sự liệt kê các hệ thống quản lý chất lượng nêu trên cũng phản ảnh sự
phát triển của hoạt động quản lý chất lượng trên phạm vi thế giới diễn ra
trong hàng thế kỷ qua, thông qua sự thay đổi tư duy của các nhà quản lý chất
lượng trong tiến trình phát triển kinh tế, thương mại, khoa học và công nghệ
của thế giới.
1.2.3. Các trường phái quản lý chất lượng
Trên thế giới có hai trường phái quản lý chất lượng:
- Trường phái thứ nhất: Quản lý chất lượng dựa trên cơ sở tiêu chuẩn
hóa (Standard-based quality management). Trường hợp này chịu ảnh hưởng
của học thuyết Taylor về chuyên môn hóa, hợp lý hóa sản xuất để tạo ra năng
suất cao. Trường phái này đã phát triển mạnh mẽ, làm cơ sở cho chuyên môn
hóa hợp tác sản xuất không chỉ trong phạm vi một quốc gia và phát triển
mạnh cả trong các khu vực và ngày nay là toàn thế giới. Người ta chỉ có thể
đánh giá và thừa nhận lẫn nhau trên cơ sở các tiêu chuẩn. Đó có thể là các tiêu
chuẩn kỹ thuật, phương pháp hay tiêu chuẩn về hệ thống quản lý.
- Trường phái thứ hai: Quản lý chất lượng không xem nhẹ tiêu chuẩn
hóa nhưng đặt trọng tâm vào việc phát huy nội lực (Endogeous capacity-
28
based quality management). Trường phái này chịu ảnh hưởng học thuyết
Deming mà đỉnh cao là quản lý chất lượng toàn diện (total quality
management-TQM). Theo trường phái này, người ta tìm cách làm con người
ý thức tối đa vài trò, trách nhiệm với chất lượng sản phẩm, phát huy mọi sáng
kiến luôn luôn cải tiến để làm tốt hơn quy định và nhằm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng tăng của người tiêu dùng và xã hội.
Hai trường phái này không hề mâu thuẫn với nhau mà còn hỗ trợ cho
nhau để cả hai cùng mang lại hiệu quả cho việc áp dụng và quản lý.
1.2.4. Các nguyên tắc quản lý chất lượng
Quản lý chất lượng đã được áp dụng trong mọi ngành công nghiệp,
không chỉ trong sản xuất mà còn trong mọi lĩnh vực, trong mọi loại hình công
ty từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ, cho dù có tham gia vào thị trường quốc tế
hay không. Quản lý chất lượng đảm bảo cho doanh nghiệp làm đúng những
việc phải làm và những việc quan trọng. Nếu các doanh nghiệp muốn làm
chủ thị trường nội địa và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, phải tìm hiểu và
triển khai áp dụng các nguyên tắc về quản lý chất lượng hiệu quả.
1.2.4.1. Các nguyên tắc quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
- Nguyên tắc 1. Định hướng bởi khách hàng
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu
các nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, để không chỉ đáp ứng mà
còn phấn đấu vượt cao hơn sự mong đợi của họ.
- Nguyên tắc 2. Sự lãnh đạo
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối
của doanh nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong
doanh nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục
tiêu của doanh nghiệp.
- Nguyên tắc 3. Sự tham gia của mọi người
Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự
tham gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho
doanh nghiệp.
29
- Nguyên tắc 4. Quan điểm quá trình
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và
các hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.
- Nguyên tắc 5: Tính hệ thống
Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên
quan lẫn nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
- Nguyên tắc 6. Cải tiến liên tục
Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi
doanh nghiệp. Muốn có được khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao
nhất, doanh nghiệp phải liên tục cải tiến.
- Nguyên tắc 7. Quyết định dựa trên sự kiện
Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh
doanh muốn có hiệu quả phải được xây đựng dựa trên việc phân tích dữ liệu
và thông tin.
- Nguyên tắc 8. Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng
Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau, và mối quan hệ
tương hỗ cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
1.2.4.2. Nguyên tắc quản lý chất lượng của Việt Nam
Hiện nay, việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thực hiện
căn cứ theo quy định tại Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa (Luật số
05/2007/QH12); Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản
phẩm, hàng hóa và các văn bản hướng dẫn
Ðiều 5, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam năm 2007 xác
định nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá đã quy định như sau:
- Cơ sở quản lý chất lượng: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản
lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Căn
cứ vào khả năng gây mất an toàn, sản phẩm, hàng hoá được quản lý như sau:
30
+ Sản phẩm, hàng hoá nhóm 1 (sản phẩm, hàng hóa không có khả năng
gây mất an toàn) được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản
xuất công bố áp dụng;
+ Sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 (sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây
mất an toàn) được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương
ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do
người sản xuất công bố áp dụng.
- Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản
xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản,
môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, hàng hoá Việt Nam.
- Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của
pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải
bảo đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hoá
và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng
hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.
Việc phân công trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
cho các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực được quy định tại Điều 69, Điều 70 của
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Điều 31, Điều 32 Nghị định số
132/2008/NĐ-CP.
1.3. Vai trò của các thiết chế tài chính trong việc quản lý chất
lƣợng hàng hóa sau công bố chất lƣợng
Quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quy trình quản lý chất lượng. Hiệu quả của hoạt động này
bảo đảm sự đồng nhất về chất lượng trước, trong và sau công bố chất lượng,
đảm bảo quyền lợi của người sử dụng hàng hóa. Để quản lý chất lượng hàng
hóa sau công bố, các chủ thể quản lý chất lượng có thể sử dụng các công cụ,
31
thiết chế khác nhau, trong đó thiết chế tài chính có vai trò đáng chú ý trên
nhiều phương diện.
1.3.1. Vai trò bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong quản lý chất lượng
Bên cạnh hoạt động giáo dục, vận động, các thiết chế tài chính góp
phần bảo đảm các quy định pháp luật về quản lý chất lượng được tuân thủ đầy
đủ trong thực tiễn. Việc tuân thủ các quy định này vừa bảo đảm tính pháp chế,
hiệu lực của pháp luật vừa bảo đảm quyền lợi của các đối tượng người tiêu
dùng. Tình trạng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng diễn ra một phần vì
thiếu các thiết chế tài chính hoặc việc thực hiện các thiết chế tài chính trong
quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố còn chưa hiệu quả. Các thiết chế tài
chính là công cụ hỗ trợ cho việc bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong việc bảo
đảm chất lượng hàng hóa.
1.3.2. Vai trò ngăn ngừa vi phạm
Thiết chế tài chính là công cụ ngăn ngừa vi phạm các quy định về chất
lượng hàng hóa. Thiết chế tài chính tác động vào lợi ích của các chủ thể sản
xuất. Các chủ thể sản xuất với mục tiêu bảo đảm lợi ích của chính mình cần
phải tuân thủ các quy định về bảo đảm chất lượng sau công bố. Thiết chế tài
chính tạo ra áp lực tuân thủ pháp luật của các chủ thể sản xuất. Việc ngăn
ngừa vi phạm các quy định về quản lý chất lượng hàng hóa có ý nghĩa quan
trọng tạo nên sự tự giác trong thực hiện pháp luật, khẳng định hiệu lực quản
lý chất lượng hàng hóa.
1.3.3. Vai trò thúc đẩy bảo đảm chất lượng
Việc sử dụng các thiết chế như xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chất lượng hàng hóa không phải với mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách.
Điều quan trọng là cần bảo đảm chất lượng hàng hóa được duy trì. Thiết chế tài
chính là công cụ góp phần thúc đẩy các hoạt động bảo đảm chất lượng, bảo đảm
các cơ sở sản xuất duy trì chất lượng hàng hóa trong quá trình sản xuất, khắc
phục tình trạng chất lượng hàng hóa suy giảm sau khi công bố chất lượng.
32
* Kết luận Chƣơng 1
Chương 1 đã khái quát một số vấn đề lý luận về việc hình thành thiết
tài chính để kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng. Trong
Chương 1 các khái niệm có ý nghĩa công cụ của luận văn đã được luận giải.
Khái niệm thiết chế tài chính và hiệu quả của thiết chế tài chính được luận
giải gắn liền với yêu cầu kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất
lượng. Khái niệm chất lượng hàng hóa đã được hệ thống hóa từ các quan
niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm này với trọng tâm là khả năng đáp
ứng được mong đợi của khách hàng. Vấn đề quản lý chất lượng cũng được
tiếp cận với hai góc độ quản lý nhà nước về chất lượng và quản lý chất lượng
trong nội bộ doanh nghiệp. Quản lý nhà nước về chất lượng được thể hiện ở
vai trò tạo lập các thiết chế nhằm bảo đảm các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm, hàng hóa có chất lượng. Hoạt động quản lý chất lượng
của các doanh nghiệp gắn liền với các hoạt động định hướng, kiểm soát, bảo
đảm chất lượng. Trong hoạt động kiểm soát chất lượng hàng hóa, các doanh
nghiệp thường tập trung vào năm yếu tố: kiểm soát con người thực hiện; kiểm
soát phương pháp và quy trình sản xuất; kiểm soát nguyên vật liệu; kiểm soát
và bảo dưỡng thiết bị; kiểm soát thông tin. Đồng thời, trong Chương 1, vai trò
của thiết chế tài chính trong việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố
cũng được chỉ ra trên các phương diện về bảo đảm pháp chế, kỷ cương trong
quản lý chất lượng, vai trò ngăn ngừa vi phạm và là công cụ thúc đẩy đảm
bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
33
CHƢƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT LƢỢNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tình hình quản lý chất lƣợng ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái quát chung về quản lý chất lượng ở Việt Nam
Trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề chất
lượng được đề cao, được coi là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, trong thực tế, hàng hóa sản xuất ra theo kế hoạch định sẵn, dù tốt hay
xấu đều được tiêu thụ, phân phối, người sản xuất không lo đầu vào và đầu ra.
Việc quản lý chất lượng tại các doanh nghiệp được các phòng kiểm tra chất
lượng sản phẩm thực hiện với nhiệm vụ là phân loại các sản phẩm đạt yêu cầu
chất lượng hay phế phẩm.
Ngày nay, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng với quá trình
mở cửa và hội nhập kinh tế, sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt đã không còn chỗ
đứng cho những sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng. Trước sức
ép của hàng nhập ngoại và của người tiêu dùng trong nước, buộc các nhà kinh
doanh cũng như các nhà quản lý không còn con đường nào khác là phải coi
trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng. Chất lượng cũng là nhân tố cơ
bản để giải quyết sự tồn tại hay tiêu vong của một tổ chức và đó là sự hưng
thịnh hay suy vong của một nền kinh tế.
Trong thập niên cuối thể kỷ XX, Việt Nam thực sự đổi mới cả về tư
duy, nhận thức lẫn hành động, nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước. Biểu hiện cụ thể là một loạt các chính sách quản
lý, trong đó có những văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến chất
lượng được ban hành, thay thế cho những văn bản không còn phù hợp. Cả cơ
quan quản lý nhà nước, nhà sản xuất, kinh doanh đều có cải tiến bước đầu về
kiểm soát chất lượng, nhằm tạo ra bước chuyển biến, cải thiện tình hình yếu
kém về chất lượng và quản lý chất lượng.
34
Trong những năm gần đây, chúng ta đã có nhiều cố gắng trong lĩnh
vực quản lý chất lượng, các tổ chức đã chú trọng hơn trong việc nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam đã từng bước
chiếm lĩnh được thị trường, được người tiêu dùng trong nước cũng như tiêu
dùng nước ngoài chấp nhận, một số mặt hàng như cà phê, chè, hạt điều, gạo,
cao su, hàng thủy sản… đạt giá trị xuất khẩu cao. Với xu hướng tự do thương
mại trên thế giới và việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, chúng ta chỉ có một
con đường duy nhất để giải quyết bài toán tồn tại và phát triển là phải nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
2.1.2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện
thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản
phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu
đó nên liên tục những năm gần đây, nhiều nước đã ban hành các đạo luật
chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Để quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hoá, nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng
hàng hoá năm 1990 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999) với gần một trăm
văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chất lượng
chưa thống nhất và đồng bộ, đang ngày tỏ ra bất cập với yêu cầu quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hoá trong tình hình mới. Trong những năm gần đây,
pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta không ngừng được hoàn
thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối
cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.. Để nâng cao
hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 (có hiệu lực từ 01/1/2007). Ngày 21
tháng 11 năm 2007, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật
35
chất lượng sản phẩm, hàng hoá (số 05/2007/QH12), có hiệu lực từ ngày 01
tháng 7 năm 2008.
Bên cạnh Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là hệ thống các văn bản
hướng dẫn thi hành được các cơ quan chức năng ban hành để hướng dẫn áp
dụng Luật chất lượng sản phẩm vào thực tiễn. Đó là:
- Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá;
- Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật ngày 29/6/2006;
- Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật;
- Nghị định số 67/2009/NĐ-CP ngày 3/8/2009 của Chính phủ Sửa đổi
một số điều của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP và Nghị định số
132/2008/NĐ-CP;
- Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn
hàng hóa;
- Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN ngày 06 tháng 4 năm 2007 hướng
dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 8
năm 2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá;
- Thông tư số 14/2007/TT-BKHCN ngày 25 tháng 7 năm 2007 bổ sung
Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN ngày 06/4/2007 của Bộ Khoa học và Công
nghệ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày
30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá;
- Nghị định 80/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng
sản phẩm, hàng hóa;
- Thông tư số 19/2014/TT-BKHCN ngày 01/7/2014 hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo
lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
36
- Thông tư số 16/2012/TT-BKHCN ngày 27/8/2012 của Bộ Khoa học
và Công nghệ quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm trong
sản xuất thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;
- Thông tư số 26/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học
và Công nghệ quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa lưu
thông trên thị trường;
- Thông tư số 27/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học
và Công nghệ quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập
khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;
- Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học
và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương
thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
- Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/3/2009 Quy định Danh
mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản
lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;
- Thông tư số 21/2007/TT-BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học
và Công nghệ hướng dẫn về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn;
- Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu
cầu, trình tự, thủ tục đăng ký lĩnh vực hoạt động đánh giá sự phù hợp;
- Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu
cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp;
- Thông tư số 11/2009/TT-BKHCN ngày 6/5/2009 Quy định về Giải
thưởng Chất lượng Quốc gia;
- Thông tư số 19/2009/TT-BKHCN ngày 30/6/2009 Quy định các biện
pháp quản lý chất lượng đối với sản phẩm, hàng hoá cần tăng cường quản lý
trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường
- Thông tư số 22/2009/TT-BKHCN ngày 30/9/2009 Hướng dẫn trình
tự, thủ tục đăng ký sản phẩm mới có khả năng gây mất an toàn thuộc trách
nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ;
37
- Thông tư số 06/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Quy định về chứng
nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm chuyên ngành công nghệ
thông tin và truyền thông;
- Thông tư số 07/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Ban hành Danh
mục sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông bắt buộc
phải chứng nhận và công bố hợp quy;
- Thông tư số 19/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 Ban hành Danh mục
sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý
của Bộ Công thương;
- Thông tư số 03/2010/TT-BLĐTBXH ngày 19/1/2010 Ban hành Danh
mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 và hướng dẫn trình tự, thủ tục và nội dung
kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất...;
- Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 15/4/2010 của Thủ tướng Chính
phủ Ban hành Quy chế phối hợp kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Ngoài ra, một còn một số quy định khác được quy định rải rác ở một số
luật có liên quan như Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Bộ luật dân sự, Luật
thương mại...
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là đạo luật đầu tiên trong lịch sử
lập pháp Việt Nam quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên
quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng
hóa. Luật áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản
phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng
sản phẩm, hàng hoá tại Việt Nam. Theo quy định của Luật, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá
phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan; hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất
lượng sản phẩm, hàng hoá là công trình xây dựng, dịch vụ, hàng hoá đã qua
sử dụng không thuộc diện phải kiểm định; sản phẩm, hàng hoá chuyên phục
vụ quốc phòng, an ninh và sản phẩm, hàng hoá đặc thù khác phải tuân thủ các
38
nguyên tắc chung của Luật này và được điều chỉnh cụ thể bằng văn bản pháp
luật khác.
Về danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 của các Bộ quản lý
chuyên ngành lĩnh vực
1. Bộ Khoa học và Công nghệ
- Xăng – Nhiên liệu điezen;
- Khí dầu mỏ hóa lỏng;
- Mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy;
- Các sản phẩm điện tử (quản lý về an toàn);
- Nhiên liệu sinh học gốc;
- Đồ chơi trẻ em;
- Thép làm cốt bê tông;
- Tương thích điện tử (EMC) đối với thiết bị điện, điện tử gia dụng.
2. Bộ Công thương
- Hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp;
- Máy, thiết bị công nghiệp có khả năng gây mất an toàn;
- Sản phẩm công nghiệp tiêu dùng (bếp ga và phụ kiện).
3. Bộ Thông tin và Truyền thông
- Thiết bị đầu cuối;
- Thiết bị vô tuyến điện;
- Thiết bị mạng;
- Thiết bị công nghệ thông tin.
4. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội
- Các loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ;
- Các công trình vui chơi công cộng;
- Phương tiện bảo vệ cá nhân.
5. Bộ Y tế
- Thuốc thành phẩm, vắc xin, sinh phẩm điều trị;
- Nguyên liệu làm thuốc, dược liệu, tá dược, bao bì tiếp xúc trực tiếp
với thuốc;
39
- Hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng, y tế;
- Vị thuốc đông y có độc tính;
- Thiết bị y học cổ truyền.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Giống cây trồng nông nghiệp;
- Giống cây trồng lâm nghiệp;
- Giống vật nuôi trên cạn;
- Giống thủy sản;
- Sản phẩm chăn nuôi;
- Mẫu động vật, thực vật hoang dã;
- Sản phẩm lâm sản;
- Thuốc bảo vệ thực vật;
- Thuốc thú y;
- Phân bón;
- Thức ăn chăn nuôi;
- Chế phẩm sinh học;
- Phụ gia hóa chất trong nông nghiệp;
- Công trình thủy lợi;
- Đê điều;
- Dụng cụ đánh bắt thủy sản.
7. Bộ Giao thông – Vận tải
- Phương tiện, trang thiết bị chuyên ngành cho GTVT;
- Kết cấu hạ tầng giao thông;
- Dịch vụ trong lĩnh vực GTVT.
8. Bộ Công an
- Các trang thiết bị Phòng cháy, chữa cháy;
- Trang thiết bị kỹ thuật;
- Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
9. Bộ Tài nguyên – Môi trường
- Tài nguyên, khoáng sản;
40
- Khí tượng, thủy văn;
- Đo đạc bản đồ;
- Dịch vụ trong lĩnh vực thuộc Tài nguyên, Môi trường.
10. Bộ xây dựng
- Vật liệu xây dựng.
2.1.3. Hoạt động tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp chất lượng tại
Việt Nam
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đang diễn ra những
thay đổi to lớn theo xu thế toàn cầu hóa. Đó là quá trình không thể đảo ngược,
đặc biệt trong điều kiện khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Các quốc gia có thể có các đối sách khác nhau để khắc phục và
hạn chế các tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa nhưng nhất định phải tham gia
vào quá trình này.
Là một nước đang phát triển nằm trong khu vực kinh tế năng động và
có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực
vượt bậc để nhanh chóng hội nhập quốc tế với các nước trong khu vực và thế
giới. Điều này càng thể hiện rõ sau khi Việt Nam gia nhập tổ Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN) cùng với sự tham gia Khu vực thương mại tự
do của khối ASEAN (AFTA), trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn
Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ký Hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Để không ngừng đảm bảo và nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
trên thị trường quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới… Hoạt động tiêu chuẩn chất lượng trở thành công cụ quan trọng, hữu
hiệu và cấp bách hơn bao giờ hết.
a. Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật ở Việt Nam
- Tiêu chuẩn là văn bản quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản
lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá
trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội nhằm
41
nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ
chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng bao gồm tiêu chuẩn
quốc gia (ký hiệu là TCVN) và tiêu chuẩn cơ sở (ký hiệu là TCCS).
- Quy chuẩn kỹ thuật là văn bản quy định về mức giới hạn của đặc tính
kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi
trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế-xã hội phải tuân thủ để
đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi
trường, bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và
các yêu cầu thiết yếu khác.
Quy chuẩn kỹ thuật là văn bản quy định đặc tính của sản phẩm hoặc
các quá trình và phương pháp sản xuất có liên quan để sản phẩm, quá trình
bao gồm các điều khoản hành chính thích hợp mà việc tuân thủ là bắt buộc
theo WTO và Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (tiếng Anh là
Agreement on techinical barries to trade, viết tắt là TBT); do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng bao
gồm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy chuẩn kỹ thuật địa phương.
Những quy chuẩn kỹ thuật (Technical regulations), tiêu chuẩn
(Standards) là những biện pháp kỹ thuật có thể trở thành rào cản cho sản xuất
thương mại song phương, khu vực và quốc tế. Việc hài hòa tiêu chuẩn khu
vực, quốc tế là làm cho tiêu chuẩn quốc gia các nước ngày càng xích lại gần
nhau hơn trên cơ sở lấy tiêu chuẩn quốc tế làm gốc nhằm mục tiêu “một tiêu
chuẩn, một thử nghiệm” được chấp nhận ở mọi nơi.
b. Đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
- Chứng nhận chất lượng: lĩnh vực hoạt động được tiến hành ở các
nước xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam được triển khai cho đến năm 1991,
nhằm so sánh mức chất lượng của sản phẩm cần đánh giá với mẫu chuẩn,
thông qua các tiêu chuẩn, mẫu sản phẩm cụ thể, tài liệu pháp quy-kỹ thuật…
để cấp giấy chứng nhận chất lượng và dấu chất lượng nhà nước cho những
sản phẩm có chất lượng đạt yêu cầu và có biện pháp xử lý đối với sản phẩm
42
chất lượng kém. Cơ sở pháp lý để tiến hành công tác chứng nhận chất lượng ở
Việt Nam là Nghị định 62-CP ngày 12/4/1976 của Hội đồng Chính phủ.
Hình thức của dấu chất lượng nhà nước được quy định trong Tiêu
chuẩn quốc gia 2844-79. Tính đến ngày 30.6.1991, đã có 810 giấy chứng
nhận chất lượng được cấp cho gần 1000 lượt sản phẩm của 280 cơ sở sản xuất
Việt Nam. Từ 1.7.1991, công tác chứng nhận chất lượng ngừng hoạt động để
chuyển sang hình thức chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn.
- Chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn: Ở Việt Nam, công tác chứng nhận
phù hợp tiêu chuẩn được đề cập đến trong chương IV của Pháp lệnh Chất
lượng hàng hóa (1991) và Trong Nghị định 327 (1991). Chứng nhận phù hợp
tiêu chuẩn được tiến hành theo hai hình thức: chứng nhận bắt buộc (với chứng
nhận phù hợp tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng) và chứng nhận tự nguyện (với
chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng). Tổng cục Tiêu chuẩn đo
lường chất lượng là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận, dấu phù hợp
Chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn cho hàng hóa, cho hệ thống bảo đảm chất
lượng và cấp giấy chứng nhận cho “phòng thử nghiệm được công nhận”. Cho
đến ngày 30.6.1993 đã có 139 sản phẩm quạt điện và xe đạp của gần 60 cơ sở
sản xuất trong nước được cấp dấu chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn về an toàn.
- Đánh giá sự phù hợp: từ khi có Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật và Nghị định, Thông tư hướng dẫn hoạt động này mới có sự chuyển
biến về chất và tuân thủ hài hòa với quy định của tổ chức quốc tế về các thủ
tục và vấn đề có liên quan.
+ Về hình thức đánh giá: có 3 hình thức đánh giá
Hình thức 1: do tổ chức đánh giá sự phù hợp thực hiện hoặc tổ chức cá
nhân công bố phù hợp tự thực hiện.
Hình thức 2: đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn được thực hiện tự
nguyện theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân dưới hình thức thử nghiệm, giám
định, chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy.
Hình thức 3: đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn được thực hiện bắt
buộc theo yêu cầu quản lý nhà nước dưới hình thức thử nghiệm, giám định,
chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy.
43
+ Dấu hợp chuẩn, hợp quy được cấp cho sản phẩm, hàng hóa sau khi
sản phẩm, hàng hóa này được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy. Các thông tin,
quảng bá và dấu về hợp chuẩn, hợp quy thường được gắn trên hàng hóa, hoặc
trên bao bì, nhãn hàng hóa hoặc tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa
Đến nay, công tác chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn đã thực
hiện được hơn 500 doanh nghiệp với hơn 100 chủng loại sản phẩm. Tuy
nhiên, hoạt động này cũng còn hạn chế vì số doanh nghiệp tham gia và ngay
cả tiêu chuẩn sản phẩm, hàng hóa để chứng nhận còn hạn chế.
Tình hình chứng nhận hợp quy, thử nghiệm đối với một số mặt hàng
thuộc trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng mới được triển khai.
Các nhóm sản phẩm có khả năng gây mất an toàn (hàng hóa nhóm 2), tại thời
điểm hiện tại có các nhóm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, đó là: Khí dầu mỏ
hóa lỏng; Mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy; Các sản phẩm điện tử
(quản lý về an toàn ); Nhiên liệu sinh học gốc; Đồ chơi trẻ em; Thép làm cốt
bê tông; Tương thích điện tử (EMC) đối với thiết bị điện, điện tử gia dụng. Để
tiến hành hoạt động này, một số văn bản đã được Bộ Khoa học và Công nghệ
ban hành như quy trình lấy mẫu, phương pháp thử mẫu đại diện, tổ chức các
khóa đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ bảo quản, thiết bị đo lường
(do Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng các tỉnh thực hiện), phương pháp
đánh giá, chứng nhận phù hợp quy chuẩn và công bố sự phù hợp.
Theo số liệu tháng 6/2009, có 64 doanh nghiệp mũ bảo hiểm (60 doanh
nghiệp sản xuất, 4 doanh nghiệp nhập khẩu) đã được cấp giấy chứng nhận
phù hợp tiêu chuẩn quốc gia-QCVN 2:2008/BKHCN với 308 kiểu loại mũ.
Còn đối với xăng và nhiên liệu Diezen thì chứng nhận hợp quy theo VN
1:2007/BKHCN và các doanh nghiệp phải thực hiện chứng nhận hợp quy từ
ngày 27/8/2007, Thông tư số 01/2009/TT-KHCN ngày 20 tháng 3 năm 2009
quy định Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc
trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ. Hoạt động chứng nhận
xăng và nhiên liệu Diezen đang được bắt đầu thực hiện. Tuy nhiên, việc
44
chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy cho sản phẩm, hàng hóa ở các bộ, ngày khác
quản lý còn nhiều bất cập và kết quả thực hiện được chưa nhiều.
c. Áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến
Có thể nói hệ thống quản lý quản lý chất lượng được đưa vào Việt Nam
trong bối cảnh:
- Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta không có kinh nghiệm
về nhận thức và quản lý về chất lượng trong cơ chế mới;
- Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã, chúng ta mất đi một thị
trường xuất khẩu hàng hóa chủ yếu;
- Áp lực của hội nhập quốc tế, nhu cầu tìm kiếm thị trường xuất khẩu
đòi hỏi các chứng chỉ hệ thống chất lượng như hệ thống quản lý chất lượng
ISO 9000; hệ thống quản lý môi trường ISO 14000; phân tích mối nguy và
kiểm soát tới hạn (tiếng Anh: Hazard Analysis and Critical Control Points,
viết tắt là HACCP); thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practices,
viết tắt là GMP); tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 ( Social
Accountability) tùy theo yêu cầu thị trường xuất khẩu và loại doanh nghiệp.
Do quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta đã trở thành thành viên của các
tổ chức khu vực và quốc tế đòi hỏi chúng ta phải nâng cao năng lực mọi hoạt
động của đời sống xã hội, đặc biệt là sự công nhận quốc tế về các lĩnh vực
trong đó có bao hàm cả việc thừa nhận chứng chỉ về các hệ thống quản lý chất
lượng tiên tiến như ISO 9000, HACCP, TQM, SA 8000… làm cơ sở cho các
doanh nghiệp Việt Nam vượt qua rào cản TBT để làm chủ thị trường trong
nước và vươn tới chiếm lĩnh thị trường ngoài nước.
Đến nay, Việt Nam đã có hơn 6000 doanh nghiệp, tổ chức được chứng
nhận và cấp chứng chỉ ISO 9001, về HACCP có gần 500 doanh nghiệp. So
với thế giới, những con số này còn khá khiêm tốn (riêng ISO 9001:2008 có
hơn 1 triệu chứng chỉ được cấp cho các doanh nghiệp, tổ chức ở 170 quốc gia,
nền kinh tế.
45
Các hệ thống quản lý chất lượng xây dựng và áp dụng, kết quả mang lại
nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, tổ chức. Theo một điều tra đánh giá tỷ lệ các
lợi ích của việc áp dụng ISO 9000 ở các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều
đánh giá cao về vai trò của hệ thống quản lý chất lượng.
Bảng 2.1. Vai trò của quản lý chất lƣợng
TRONG DOANH NGHIỆP Tỷ lệ (%)
Quản lý doanh nghiệp tốt hơn 33.4
Nhận thức chất lượng tường tận hơn 25.8
Văn hoá doanh nghiệp theo hướng nhân văn hơn 15
Gia tăng hiệu quả tác nghiệp 9
Cải tiến thông tin giao tiếp giữa các bộ phận 7.3
Giảm phế phẩm, chi phí làm lại 6.3
Các lợi ích khác 1.3
NGOÀI DOANH NGHIỆP Tỷ lệ (%)
Tăng thụ cảm chất lượng 33.5
Cải tiến việc thỏa mãn khách hàng 26.6
Gia tăng vị thế cạnh tranh 21.5
Giảm thiểu bảo dưỡng, bảo hành 8.5
Gia tăng thị phần 4.5
Các lợi ích khác 1.6
Ở mỗi doanh nghiệp, tùy theo chất lượng hệ thống quản lý chất lượng
được thiết kế, vận hành, cải tiến và đặc biệt sự phấn đấu đạt mục tiêu chất lượng
ở từng giai đoạn… mà các lợi ích và tỷ lệ giữa các lợi ích sẽ thay đổi rõ rệt.
Nhìn lại các hoạt động chủ yếu trên, đặc biệt là sự phấn đấu trong thời
gian vừa qua, có thể tựu trung lại một số điểm cơ bản như sau:
- Nhận thức về chất lượng được nâng cao một bước quan trọng, hình
thành phong trào chất lượng, đặc biệt quan trọng là nhận thức của các nhà
lãnh đạo, quản lý về chất lượng được nâng cao, có ý nghĩa quyết định đến
46
việc phát triển phong trào chất lượng. Nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã có
chương trình hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, hệ
thống quản lý môi trường, tham gia giải thưởng chất lượng Việt Nam.
- Hệ thống pháp luật về chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn và cơ sở vật
chất kỹ thuật được cải tiến;
- Triển khai thành công việc áp dụng các hệ thống, công cụ quản lý
chất lượng tiên tiến và chứng nhận;
- Bước đầu tổ chức tốt hoạt động đánh giá chứng nhận phù hợp tiêu
chuẩn, quy chuẩn cho sản phẩm, hàng hóa;
- Bức tranh tổng thể chất lượng sản phẩm, hàng hóa Việt Nam được cải
thiện rõ rệt: Thực trạng chất lượng sản phẩm, hàng hóa các ngành chủ yếu của
nền kinh tế như điện, điện tử, cơ khí, luyện kim, giao thông vận tải, công nghệ
thông tin, nông sản thực phẩm, thủy điện… đã được cải thiện đáng kể. Hàng
hóa dồi dào, đa dạng về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã, bao bì ngày một hấp
dẫn hơn, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Một số mặt hàng sản
xuất trong nước đã cạnh tranh được với các hàng hóa nhập ngoại. Nhiều sản
phẩm, hàng hóa có mức chất lượng ngang với sản phẩm cùng loại của nhiều
nước trong khu vực và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, kể
cả những thị trường khó tính như EU, Nhật, Mỹ.
Tuy nhiên, hệ thống văn bản và việc chỉ đạo kiểm soát chất lượng sản
phẩm hàng hóa sau công bố của doanh nghiêp còn chưa cụ thể nên việc quản
lý doanh nghiệp (dù gián tiếp) và kiểm soát chất lượng hàng hóa của nhiều
bộ, ngành còn nhiều bất cập, đặc biệt là trên thị trường phân phối chưa được
quan tâm đúng mức với các công cụ quản lý hiệu quả.
d. Về các thiết chế tài chính trong kiểm soát chất lượng hàng hóa sau
công bố
Về thiết chế tài chính trong kiểm soát chất lượng hàng hóa, Nghị định
80/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản
phẩm, hàng hoá. Có thể nói, Nghị định đã bao quát đầy đủ và toàn diện các
47
hành vi vi phạm trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm,
hàng hoá; xác định đúng đối tượng, xử lý kịp thời, triệt để các hành vi vi
phạm. Nghị định này tạo cơ sở pháp lý, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công
tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm góp phần vào việc tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
2.2. Thực trạng công bố chất lƣợng cho hàng hóa trên địa bàn
thành phố Hà Nội
2.2.1. Sự phân công trên địa bàn và hoạt động của Chi cục Tiêu
chuẩn, Đo lường, Chất lượng Hà Nội
Cùng với sự phát triển về kinh tế-xã hội trong những năm vừa qua,
hàng hóa được đưa ra thị trường ngày càng đa dạng. Tuy nhiên điều đáng nói
ở đây là trên thị trường, sản phẩm do các nhà sản xuất khác nhau, đưa ra
nhiều khi có mức giá và mức chất lượng không đồng bộ, thậm chí tỷ lệ
nghịch; thông tin về hàng hóa không chính xác. Đặc biệt nạn hàng giả, hàng
kém chất lượng chẳng những làm thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn đe dọa
tới an toàn, sức khỏe của mỗi người và hiệu quả sản xuất của nhiều doanh
nghiệp. Từ thực trạng trên, vai trò quản lý Nhà nước đối với chất lượng hàng
hóa ngày càng quan trọng và là một vấn đề lớn cần phải quan tâm.
Để đẩy mạnh hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, phù
hợp với xu thế hội nhập. Luật Quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật đã được ban
hành với nhiều nội dung trong đó có nội dung quan trọng đó là qui định các tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh (các doanh nghiệp) phải thực hiện việc
công bố tiêu chuẩn chất lượng. Đây là một phương thức mới về quản lý chất
lượng hàng hóa đã và đang được triển khai áp dụng ở nước ta nhằm nâng cao
trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh trước người tiêu dùng đối với
chất lượng sản phẩm.
Theo phương thức này, doanh nghiệp là chủ thể trong việc công bố tiêu
chuẩn chất lượng hàng hóa, đồng thời doanh nghiệp cũng phải tự chịu trách
nhiệm về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa do mình công bố. Để có thể công bố
tiêu chuẩn theo qui định, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn cơ sở hoặc
48
chấp nhận tiêu chuẩn khác (tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn Quốc tế, tiêu
chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài) làm cơ sở cho việc sản xuất, kinh doanh
hàng hóa của mình. Song việc công bố này chỉ được thực hiện khi các bản
công bố tiêu chuẩn chất lượng được Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng
(TCĐLCL) thuộc Sở Khoa học và Công nghệ, các sở quản lý chuyên ngành
(theo phân công tại Nghị định 179/2004/NĐ-CP ngày 21-10-2004 của Chính
phủ qui định quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa) thẩm định,
xem xét về tính phù hợp của tiêu chuẩn với các qui định của Nhà nước.
So với hình thức đăng ký chất lượng hàng hóa trước đây thì thủ tục
công bố tiêu chuẩn chất lượng được thực hiện đơn giản hơn. Doanh nghiệp có
quyền chủ động trong sản xuất, kinh doanh, có quyền lựa chọn áp dụng các
tiêu chuẩn phù hợp với mình. Song, hình thức công bố tiêu chuẩn cũng đòi
hỏi doanh nghiệp phải có nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm trước người
tiêu dùng, phải bảo đảm hàng hóa đạt tiêu chuẩn chất lượng đã công bố, phải
thường xuyên kiểm tra chất lượng hàng hóa và chịu trách nhiệm về chất
lượng hàng hóa do mình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cũng
phải bảo đảm trung thực, chính xác trong việc thông tin, quảng cáo về chất
lượng hàng hóa của mình, phải đảm bảo hàng hóa có nhãn ghi đúng theo
Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hóa
như: Ghi rõ tiêu chuẩn, đặc tính, công dụng, hạn sử dụng và các nội dung
khác theo qui định của pháp luật; công bố điều kiện, thời hạn, địa điểm bảo
hành và hướng dẫn sử dụng cho khách hàng. Những thông tin này là kênh
thông tin trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, đồng thời đây cũng là
cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng tiến hành việc kiểm tra,
thanh tra sau công bố.
Theo qui định của Bộ Khoa học và Công nghệ thì doanh nghiệp thực
hiện thủ tục công bố tiêu chuẩn chất lượng bằng việc gửi bản công bố (theo
mẫu) kèm theo bản sao tiêu chuẩn áp dụng cho Chi cục TCĐLCL (nơi doanh
nghiệp đặt trụ sở chính). Đối với hàng hóa đặc thù thuộc phạm vi quản lý chất
lượng của Bộ quản lý chuyên ngành (theo phân công tại Nghị định
49
179/2004/NĐ-CP ngày 21-10-2004 của Chính phủ) thì doanh nghiệp phải gửi
thêm một bộ hồ sơ đến cơ quan quản lý chất lượng hàng hóa chuyên ngành ở
địa phương. Chi cục TCĐLCL cũng như các sở quản lý chuyên ngành về chất
lượng theo phân công, có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ công bố, kiểm tra tính
phù hợp của tiêu chuẩn mà doanh nghiệp áp dụng với các qui định của Nhà
nước. Sau 10 ngày tiếp nhận hồ sơ, nếu cơ quan quản lý chất lượng không có
ý kiến gì, thì các thủ tục để thực hiện việc công bố tiêu chuẩn của doanh
nghiệp được coi là hợp lệ.
Ở thành phố Hà Nội, sau khi có Luật Quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật
và các văn bản hướng dẫn về công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng
hóa. Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng đã tổ chức nhiều hội nghị tập
huấn các quy định mới của pháp luật. Đồng thời xây dựng kế hoạch tổ chức,
triển khai và hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện việc công bố tiêu chuẩn
chất lượng hàng hóa. Đến nay đã có hơn 1.200 doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố được hướng dẫn và phổ biến về các điều kiện, thủ tục công bố tiêu chuẩn
chất lượng. Các doanh nghiệp này hiện đã xác định được các tiêu chuẩn tương
ứng để kiểm tra, thử nghiệm đánh giá sản phẩm hàng hóa của mình theo các
tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn Quốc tế, tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn cơ
sở... và tiến hành việc tự công bố theo qui định. Đến nay, Chi cục Tiêu chuẩn
đo lường chất lượng đã thẩm định và tiếp nhận chính thức 287 hồ sơ công bố
tiêu chuẩn chất lượng của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Thành phố Hà Nội là thành phố kinh tế trọng điểm và hàng đầu của
vùng Đồng bằng sông Hồng. Hà Nội đã ban hành các sản phẩm chủ lực của
thành phố. Đó là: Máy công cụ, động cơ diezen, xe máy, động cơ điện, máy
biến thế, quạt điện dân dụng, xe ô tô, xe đạp hoàn chỉnh, hàng điện tử, ...,
thuốc lá bao,... thành phẩm, quần áo dệt kim, quần áo may sẵn, giấy bìa các
loại, phân hóa học, thuốc ống các loại, thuốc viên các loại, xà phòng các loại,
sứ vệ sinh, gạch xây, gạch lát các loại.
Trên thực tế, vấn đề công bố tiêu chuẩn chất lượng vẫn còn tình trạng
có những đối tượng thuộc diện phải công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng
50
không thực hiện. Nhiều đối tượng đã công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng
sản phẩm, hàng hóa mà họ đưa ra thị trường không đạt mức chất lượng đã
công bố. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các sản phẩm đặc thù không
gửi hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng về Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng. Việc tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ công bố còn có mảng trống, nhiều
sở quản lý chuyên ngành về chất lượng chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực
này. Đặc biệt, việc kiểm tra, thanh tra chất lượng hàng hóa sau công bố chưa
được thực hiện thường xuyên và chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ
quan quản lý chuyên ngành về chất lượng hàng hóa trên địa bàn tỉnh.
2.2.2. Điều tra về hiệu quả quản lý chất lượng sau công bố tại Sở
Khoa học và Công nghệ
Để đánh giá về hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố, tác
giả luận văn đã tiến hành khảo sát ý kiến của 50 cán bộ, công chức của Chi
cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng, Sở Khoa học và Công nghệ, Chi cục
Quản lý thị trường và thanh tra trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả khảo
sát cho thấy, cán bộ, công chức đều khẳng định việc quản lý chất lượng hàng
hóa sau công bố là một hoạt động rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng
hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố
được thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng chưa được thực hiện có
hiệu quả. Có tới 70% cán bộ, công chức được khảo sát cho rằng việc quản lý
chất lượng hàng sau công bố được thực hiện chưa tốt trong khi mức đánh giá
là tốt và trung bình lần lượt chỉ là 12% và 16%. Điều này cho thấy, bản thân
cán bộ, công chức đều nhận thức được rằng việc quản lý chất lượng hàng hóa
sau công bố hiện nay còn nhiều bất cập.
Bảng 2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về chất lƣợng hàng hóa sau công bố
Đánh giá về quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố Tốt Trung bình Chưa tốt Không ý kiến
Kết quả sau xử lý điều tra khảo sát 12% 16% 70% 2%
Nguồn: Dữ liệu khảo sát
51
Kết quả khảo sát cho thấy, số lượng cơ sở được kiểm tra, số mặt hàng,
số lô hàng được kiểm tra hằng năm có tăng nhưng còn rất hạn chế, chỉ chiếm
khoảng 2,5% số cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm hàng hóa. Công tác xử
lý vi phạm còn hạn chế về hình thức và mức độ xử lý. Việc phối hợp trong xử
lý vi phạm mặc dù đã có Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg nhưng triển khai
thực hiện còn chưa chặt chẽ, nhất là trong việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm
cho cơ quan có thẩm quyền xử lý. Mặc dù được đầu tư một số trang thiết bị
kiểm tra nhanh và hàng năm Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng được
cấp một khoản kinh phí cho hoạt động đặc thù nhưng so với yêu cầu công tác
kiểm tra hiện nay, nguồn kinh phí này vẫn chưa thực sự bảo đảm. Việc quản
lý chất lượng hàng hóa sau công bố vẫn phải hàng ngày đối mặt với tình trạng
thiếu các trang thiết bị kiểm tra, sàng lọc, phát hiện nhanh dấu hiệu vi phạm
chất lượng, thiếu các kinh phí hoạt động đặc thù phục vụ kiểm tra như mua
mẫu, thử nghiệm, thông tin, tuyên truyền, hội thảo về công tác kiểm tra chất
lượng sản phẩm, hàng hóa…
Đi tìm hiểu nguyên nhân của việc quản lý chất lượng hàng hóa sau
công bố chưa hiệu quả, theo cán bộ, công chức được khảo sát, nguyên nhân
này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Trước hết là
số lượng hàng hóa ngày càng đa dạng. Các cơ sở sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội thuộc diện phải công bố chất
lượng có số lượng rất lớn. Với lực lượng cán bộ, công chức hiện tại, việc
quản lý chất lượng sau công bố gặp nhiều khó khăn. Năng lực của một bộ
phận cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa
còn hạn chế, chưa nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin, xử lý thông tin về
chất lượng hàng hóa trên thị trường. Bên cạnh đó là ý thức của các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều hạn chế. Việc tuân thủ yêu
cầu về chất lượng hàng hóa sau công bố vẫn chưa được chú ý đúng mức. Tình
trạng chất lượng hàng hóa khi công bố với sau công bố có sự khác biệt. Trong
khi đó, cơ quan kiểm tra không có đủ nhân lực và kinh phí để thường xuyên
kiểm tra hàng hóa trong sản xuất cũng như trên thị trường dẫn đến hoạt động
52
thanh tra, kiểm tra chất lượng hàng hóa sau công bố chưa được thực hiện
thường xuyên, hiệu quả. Đồng thời, một nguyên nhân quan trọng khác là các
quy định về quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố còn nhiều hạn chế như
chế tài xử lý vi phạm hành chính chất lượng hàng hóa sau công bố. Văn bản
quy phạm pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chất
lượng còn bất cập, hạn chế về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của
lực lượng kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
2.2.3. Điều tra, khảo sát doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội về xây dựng và công bố tiêu chuẩn
Từ năm 2001 đến nay, quản lý chất lượng đặc biệt quản lý doanh
nghiệp về chất lượng đã có sự thay đổi căn bản. Các doanh nghiệp, các cơ sở
sản xuất không phải đăng ký chất lượng ở cơ quan có thẩm quyền mà chỉ tự
công bố tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm, hàng hóa ở cơ quan quản lý chất
lượng. Tiếp theo, các văn bản mới được ban hành và nhất là khi Luật Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật có hiệu lực (1/1/2007) thể hiện nội dung đổi mới
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo xu hướng hội nhập và mở cửa.
Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của mình. Dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn nước ngoài
và tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn cơ sở hoặc Quy chuẩn
kỹ thuật của các Bộ, ngành, tổ chức tự công bố chất lượng cho sản phẩm,
hàng hóa của đơn vị. Công bố chất lượng theo tiêu chuẩn là công bố tự
nguyện. Công bố chất lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật là công bố bắt buộc.
53
2.2.3.1. Công bố tiêu chuẩn, công bố sự phù hợp của người sản xuất,
nhập khẩu và bán hàng.
Theo Luật định, người sản xuất, nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ
bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hóa hoặc tài liệu kèm theo.
Người sản xuất gửi thông báo sự phù hợp với tiêu chuẩn (công bố hợp
chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (công bố hợp quy).
Doanh nghiệp sản xuất phải thực hiện các yêu cầu về quản lý chất
lượng trong sản xuất để sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng,
quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Người nhập khẩu phải lựa chọn tổ chức giám định lô hàng hóa để
chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy và sử dụng dấu hợp chuẩn, hợp quy, chịu
trách nhiệm về chất lượng và ghi nhãn hàng hóa mà họ nhập khẩu.
Đối với người kinh doanh, bán hàng phải quyết định cách thức kiểm tra
hàng hóa để bảo đảm hàng hóa đã được đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn hoặc
quy chuẩn kỹ thuật và chịu trách nhiệm về hàng hóa lưu thông.
2.2.3.2. Điều tra, khảo sát doanh nghiệp về xây dựng và công bố tiêu chuẩn
Tuy nhiên, do khả năng và ý thức tự giác hạn chế, do trình độ dân trí và
tôn trọng pháp luật chưa đáp ứng nên trong thời gian qua hoạt động kiểm soát
chất lượng sản phẩm, hàng hóa sau công bố gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực trạng nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ở Hà Nội
không hoặc chưa xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm, hàng hóa được sản
xuất, kinh doanh ở nhiều cửa hàng kinh doanh không rõ nguồn gốc, không có
tiêu chuẩn công bố được áp dụng. Luận văn đã tổ chức tiến hành khảo sát 40
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, cửa hàng kinh doanh.
Kết quả điều tra cho thấy, hàng hóa không có tiêu chuẩn chất lượng vào
lưu thông dù kiểm tra được cũng không thể kết luận về chất lượng, hàng hóa
không rõ nguồn gốc dù kiểm tra được cũng không thể xử lý. Sản phẩm, hàng
hóa có công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng không công khai, minh bạch,
khó khăn cho quản lý. Doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa phải công bố
chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật nhưng thực tế thì doanh nghiệp không
biết hoặc không thực hiện. Doanh nghiệp bắt buộc công bố không đáp ứng
54
theo tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đây là đối tượng phải tuân thủ để bảo
đảm an toàn, vệ sinh sức khỏe con người, bảo vệ động vật, thực vật và môi
trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng.
2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế kết quả quản
lý nhà nƣớc sau công bố chất lƣợng
2.3.1. Những tồn tại và hạn chế
Việc quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng
trong những năm gần đây đã ngày càng được chú ý. Bên cạnh những kết quả
đã đạt được thì việc quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố chất
lượng còn không ít những hạn chế. Luận văn hệ thống thành 4 điểm như sau:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật còn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước sau công bố chất
lượng. Với một số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành
nhưng phạm vi và mức độ điều chỉnh về lĩnh vực chất lượng hàng hóa, sản
phẩm vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Các văn bản quy phạm pháp luật quản lý
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa tương đồng
giữa các lĩnh vực. Một số ngành hàng chưa có đủ hệ thống văn bản để quản lý
toàn bộ chuỗi sản xuất. Ví dụ như trong lĩnh vực quản lý chất lượng mũ bảo
hiểm, theo quy định hiện hành, các loại mũ có kiểu dáng giống mũ bảo hiểm
không phải tuân thủ các quy định về quy chuẩn kỹ thuật của mũ bảo hiểm.
Các loại mũ này không phải chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy phù hợp
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, không gắn dấu hợp quy CR. Vì vậy, không thể
áp dụng Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 để xử phạt
vi phạm hành chính trong sản xuất, kinh doanh loại mũ này. Sự thiếu đồng
bộ, thiếu tính kết nối giữa các quy định về quản lý chất lượng dẫn đến việc xử
lý vi phạm chất lượng hàng hóa khó thực hiện.
Các chế tài xử lý vi phạm về chất lượng hàng hóa chưa đầy đủ, chưa có
chế tài bắt buộc các cơ sở sản xuất phải áp dụng và thực hiện các quy chuẩn
bắt buộc về điều kiện đảm bảo chất lượng hàng hóa cũng như chế tài đình chỉ
hoạt động đối với cơ sở không đáp ứng yêu cầu.
55
Việc công bố chất lượng hàng hóa của doanh nghiệp có được thực hiện
hay không, công bố bao nhiêu phần trăm vẫn còn là một vấn đề chưa thống kê
được và việc giải quyết hiệu quả vẫn còn bỏ ngỏ. Chất lượng khi công bố, lưu
thông hàng hóa sau công bố, bảo đảm chất lượng hay không vẫn là một bài
toán nan giải và chưa có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể về nội dung và
mắt xích của chuỗi quản lý này.
Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý chất lượng hàng hóa sau
công bố vẫn còn nhiều bất cập. Bộ máy tổ chức quản lý chất lượng hàng hóa
ở cấp trung ương đã được hình thành nhưng ở địa phương còn chưa đồng bộ.
Hình thái tổ chức chưa bảo đảm thẩm quyền và nguồn lực triển khai nhiệm
vụ. Hệ thống thanh tra chuyên ngành về chất lượng hàng hóa chưa hình thành
đầy đủ gây khó khăn cho hoạt động quản lý.
Việc phân công chưa có sự thống nhất về lợi ích giữa việc hoạch định
chính sách, thực hiện chính sách và giám sát kết quả. Các cơ quan quản lý về
chất lượng hàng hóa cùng lúc vừa chịu trách nhiệm xây dựng tiêu chuẩn, thực
hiện và giám sát thực hiện tiêu chuẩn, từ đó, dẫn đến trình trạng che đậy hoặc
không báo cáo kịp thời những vấn đề bất cập do không muốn bộc lộ những
yếu kém trong triển khai và thực hiện tiêu chuẩn.
Phân cấp quản lý giữa các cấp trong hệ thống còn có điểm cần làm rõ
để thuận lợi cho việc thực hiện; một số lĩnh vực chưa phân cấp mạnh cho địa
phương. Quản lý là quá trình bao gồm nhiều hoạt động nhằm huy động các
nguồn lực để đạt được mục tiêu. Quan hệ phối hợp giữa trung ương và địa
phương; giữa các tổ chức và đơn vị quản lý chất lượng hàng hóa là khâu mấu
chốt trong triển khai các chương trình kiểm soát, giám sát và thực hiện các
hoạt động phân cấp quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa nhưng thực tiễn
đang là mối quan hệ lỏng lẻo và yếu nhất trong toàn bộ chuỗi quan hệ quản lý
hiện có.
Thứ ba, thiếu nguồn lực quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố. Về
nhân lực, lực lượng cán bộ chuyên trách quản lý chất lượng hàng hóa còn
mỏng, ở nhiều đơn vị chủ yếu là kiêm nhiệm. Chưa có hệ thống tiêu chuẩn
56
chức danh làm căn cứ tuyển dụng, đào tạo chuẩn hóa đội ngũ cán bộ. Việc
triển khai đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về chất lượng hàng hóa
hiện nay chủ yếu mang tính tự phát, chưa tập trung, thường dựa trên lợi ích và
đề xuất của địa phương, từ đó hạn chế trong việc sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực cũng như gây khó khăn cho tài trợ quốc tế đối với hoạt động hỗ trợ
đào tạo. Cán bộ Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng Hà Nội là một ví dụ
về sự thiếu và yếu, không được cập nhật và đào tạo để đáp ứng các hoạt động
và đổi mới của lĩnh vực hội nhập này. Chưa có hệ thống đào tạo chuyên
ngành về quản lý chất lượng.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu tư, cơ sở vật chất phục vụ cho
quản lý chất lượng hàng hóa còn thiếu. Diện tích làm việc, diện tích phòng
kiểm nghiệm, trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ về cả danh
mục thiết bị và công suất. Đây vẫn là một hạn chế của Chi cục, Sở Khoa học
và Công nghệ thành phố Hà Nội cũng như ở hầu hết các đơn vị được đảm
trách nhiệm vụ quản lý chất lượng hàng hóa. Việc đầu tư cho nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa còn hạn
chế. Việc tiếp cận các công nghệ mới chưa kịp thời và đón đầu do hạn chế về
kinh phí đầu tư.
Thứ tư, về thông tin, truyền thông, đào tạo và tập huấn các văn bản quy
phạm pháp luật, các tiêu chuẩn và quy chuẩn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng là hoạt động nghiệp vụ và kỹ thuật có
tính đổi mới và cập nhật khá liên tục. Do đó, công tác thông tin, tuyên truyền,
đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ kỹ thuật và phương pháp tiếp cận, triển khai
vào thực tế từng ngành, từng địa phương có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy
nhiên, hoạt động này còn khá hạn chế và chưa được chú ý thực hiện trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật, việc thông báo, phổ biến tiêu chuẩn quốc gia thông qua tổ chức, phổ
biến, hướng dẫn áp dụng là công việc của Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ,
cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động này
57
được thực hiện rất hạn hẹp và chưa có nhiều đổi mới về phương pháp, cách
thức triển khai.
2.3.2. Các nguyên nhân
2.3.2.1. Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý nhà nước
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn
chuỗi sản xuất, còn để trống hoặc đôi khi chồng chéo hoặc chưa thiết thực với
kiểm soát chất lượng sau công bố. Cơ chế chính sách và phân công, phân cấp
giữa các bộ, ngành và địa phương vẫn còn có điểm bất cập, chồng chéo, gây
khó khăn cho việc thực hiện. Đây là nguyên nhân sâu xa và kéo dài;
- Năng lực tổ chức thực thi pháp luật các cơ quan pháp luật của cơ quan
quản lý chất lượng ở cả trung ương và địa phương còn có những hạn chế nhất
định. Hệ thống tổ chức chưa đồng bộ, đặc biệt ở các cấp địa phương, chưa hệ
thống thanh tra chuyên ngành chất lượng hàng hóa. Hoạt động thanh tra, kiểm
tra và chế tài xử lý chưa đủ răn đe đối tượng vi phạm. Phân công quản lý còn
gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Việc phân cấp chưa phát huy hết
vai trò của các cơ quan chức năng địa phương. Nguồn nhân lực còn thiếu và
yếu, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và kỹ thuật thiếu tính dài hạn
và bài bản. Cơ sở dữ liệu và thông tin phục vụ hoạt động quản lý, điều hành
còn nặng về hành chính, thiếu tính cập nhật, chính xác và đầy đủ.
- Thiếu quy hoạch tổng thể dẫn đến lãng phí trong đầu tư và vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu quản lý. Cơ chế tài chính đối với đơn vị quản lý nhà
nước chưa tạo điều kiện để các đơn vị chủ động kinh phí triển khai nhiệm vụ
được giao và triển khai các biện pháp ứng phó kịp thời khi có vấn đề phát
sinh về chất lượng hàng hóa. Kinh phí cho hoạt động các cơ quan quản lý, đặc
biệt là cơ quan địa phương còn hạn chế. Hoạt động đầu tư và cơ chế tài chính
chưa tương xứng về cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật…
- Nhận thức các cấp quản lý về tính cấp thiết, tầm quan trọng và
phương pháp luận về quản lý hàng hóa còn ở mức độ khác nhau, chưa nhất
quán và nhìn chung chưa cao. Dẫn đến việc triển khai các cơ chế, chính sách,
58
chương trình quản lý chưa quyết liệt cũng như hạn chế trong việc quy hoạch,
đầu tư tài chính và nguồn nhân lực;
- Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện Nghị
định số 80/2013/NĐ-CP còn nhiều hạn chế. Các cơ quan cấp giấp phép đăng
ký kinh doanh như Sở Kế hoạch và Đầu tư vẫn chưa thông tin kịp thời cho
bên Sở Khoa học và Công nghiệp (đặc biệt là Chi cục Tiêu chuẩn đo lường
chất lượng) về thông tin của các doanh nghiệp đăng ký cho nên Chi cục Tiêu
chuẩn đô lường chất lượng chưa có thông tin hoặc không có thông tin kịp thời
về doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa phải công bố chất lượng hay không
công bố chất lượng. Do vậy, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng ngay từ
đầu trong kiểm soát chất lượng hàng hóa trước, trong và sau công bố vẫn là
điểm nghẽn trong kiểm soát chất lượng;
- Một thực trạng đáng lưu ý là lâu nay các cơ quan quản lý nhà nước đi
kiểm tra thường chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp cũ, ít
vi phạm, chưa tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này dẫn đến
hiệu quả việc áp dụng thiết chế tài chính trong kiểm soát chất lượng hàng hóa
sau công bố còn chưa có tính toàn diện và tạo dấu ấn đậm nét trong quản lý,
kiểm soát chất lượng hàng hóa;
- Chưa tận dụng và phát huy tổng thể các nguồn nội lực và ngoại lực
cho hoạt động đảm bảo chất lượng hàng hóa. Chưa có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các nhà tài trợ quốc tế cũng như chưa thu hút tối đa các nguồn lực xã
hội, sự tham gia của các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể, hội nghề nghiệp và
các thành phần ngoài nhà nước;
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu, quảng bá về các hệ thống
quản lý chất lượng nói chung, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các
sản phẩm, hàng hóa còn yếu và hiệu quả thấp.
Từ những phương diện trên, có thể nhận thấy, hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố vẫn còn nhiều bất cập. Trong
điều kiện, các cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ rất đa
dạng, phong phú và không ngừng biến động, các cơ quan quản lý nhà nước
59
chưa có văn bản và cơ chế quản lý kịp thời, chặt chẽ đưa đến hệ lụy là các cơ
sở sản xuất có thể có đủ điều kiện sản xuất nhưng vẫn không bảo đảm chất
lượng sản phẩm, hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp không hoặc chậm công bố
chất lượng hàng hóa. Việc bảo đảm chất lượng sau công bố càng gặp nhiều
khó khăn khi trong lưu thông, phân phối, tình trạng xử lý các vi phạm về chất
lượng hàng hóa còn hiệu quả thấp.
Với một địa bàn tập trung nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh như Hà
Nội, vấn đề bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước vẫn còn đang là một bài toán
khó. Vấn đề hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố càng nan giải
hơn. Việc đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau
công bố cần đưa ra những tiêu chí cụ thể như tỷ lệ doanh nghiệp được quản
lý, tỷ lệ doanh nghiệp vi phạm và bị xử lý vi phạm hành chính, tỷ lệ doanh
nghiệp được hỗ trợ về đào tạo và kinh phí để áp dụng các hệ thống quản lý
chất lượng hàng hóa tiên tiến, tỷ lệ doanh nghiệp và số sản phẩm, hàng hóa
được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy, tỷ lệ doanh nghiệp công bố tiêu chuẩn
cho chất lượng hàng hóa có hiệu quả mang lại cho doanh nghiệp, cho ngành
và địa phương, cho người tiêu dùng từ hiệu lực, hiệu quả quản lý… cần được
xem xét một cách hệ thống và đầy đủ.
Với chương trình cải cách và rà soát các thủ tục hành chính, các cấp,
ngành tiêu chuẩn đo lường chất lượng và cụ thể các văn bản pháp quy về quản
lý chất lượng, kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố sẽ giảm bớt những
thủ tục phiền hà, không cần thiết và tập trung vào các văn bản còn thiếu, yếu
để đẩy mạnh hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau
công bố.
2.3.2.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa nhận thức đầy
đủ về công bố chất lượng và giá trị của quản lý chất lượng.
Công bố là thủ tục đánh giá chất lượng đầu tiên mà người cung cấp
đảm bảo dưới dạng văn bản rằng một đối tượng nào đó phù hợp với tiêu
chuẩn chất lượng yêu cầu. Người cung cấp có thể là nhà sản xuất, phân phối,
60
nhập khẩu hay tổ chức dịch vụ. Hoạt động tự công bố nhằm mục đích chứng
tỏ sản phẩm, hàng hóa cung cấp là phù hợp với văn bản đã xác định và nói rõ
chủ thể chịu trách nhiệm sự phù hợp này. Cách thức công bố áp dụng cho cả
trường hợp tự nguyện (theo tiêu chuẩn nào đó) hoặc bắt buộc (theo quy chuẩn
kỹ thuật).
Tự công bố sự phù hợp chất lượng, sự phù hợp với thông lệ quản lý
chất lượng quốc tế (tất nhiên cũng phù hợp với các văn bản quy phạm pháp
luật của Việt Nam). Nhưng nhược điểm của cách thức này là thiếu sự thuyết
phục trong điều kiện sản xuất và dân trí tự giác thực tế hiện tại chưa đáp ứng,
nếu không có quy định rõ ràng về trách nhiệm pháp lý thì sẽ bị lạm dụng để
lừa gạt người tiêu dùng và cả cơ quan quản lý nhà nước. Ở Hà Nội, vấn đề
này còn khá nghiêm trọng và phổ biến hơn là doanh nghiệp không tự công bố
chất lượng dù tình trạng không công bố trật lượng vẫn cò khá nhiều. Đây là
vấn đề mà kiểm soát sau công bố của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn
cần nắm bắt để khắc phục.
Bên cạnh đó, hoạt động quản lý chất lượng phải gắn liền, lồng ghép
trong các hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Vì chất lượng là sự sống còn
của doanh nghiệp mà quản lý chất lượng mới giúp doanh nghiệp bảo đảm và
cải tiến chất lượng hàng hóa của mình, bảo đảm khả năng cạnh tranh trên thị
trường của thành phố, trong nước và ngoài nước. Doanh nghiệp cần ý thức
đầy đủ về vấn đề này và cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện, có sự hỗ
trợ cần thiết về nhận thức, kiến thức và cả về kinh phí giúp doanh nghiệp có
được hệ thống quản lý chất lượng, các phương pháp và công cụ quản lý chất
lượng hàng hóa hữu hiệu và khả năng tự kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng
hóa sau công bố.
Một vấn đề là các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở Hà
Nội phần lớn là các tổ chức nhỏ và vừa. Vì vậy, họ cần được và phải được
nâng cao trách nhiệm về sản phẩm hàng hóa do họ cung cấp trước xã hội và
cộng đồng.
61
2.3.2.3. Nguyên nhân từ phía người tiêu dùng
Về cơ bản, người tiêu dùng chưa biết tự bảo vệ mình và hơn thế họ có
vai trò để phát triển doanh nghiệp. Các văn bản pháp luật (Luật Chất lượng
sản phẩm, hàng hóa, Luật An toàn thực phẩm, Luật Đo lường, Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản pháp quy dưới Luật) đã quy định
trách nhiệm của các các doanh nhiệp, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ phải bảo đảm tiêu chuẩn đo lường chất lượng, phải
cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về hàng hóa, trách nhiệm bảo hành
và bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Mọi quyền và lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật. Người
tiêu dùng không nên bỏ qua khi mua phải hàng hóa không phù hợp với công
bố chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật hoặc không có tiêu chuẩn chất lượng,
không công bố tiêu chuẩn chất lượng. Họ có quyền được khiếu nại, được giải
quyết khiếu nại và đền bù, được bảo vệ quyền lợi chính đáng. Làm như vậy,
học còn giúp cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển đúng đắn.
Người tiêu dùng cần chung tay cùng cộng đồng xã hội để các sản phẩm, hàng
hóa không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và doanh nghiệp không thực hiện
đúng quy định về pháp luật, của quản lý chất lượng sẽ không còn có chỗ đứng
trong xã hội. Như vậy, người tiêu dùng vừa bảo vệ được mình vừa thông thái
giúp cho sản xuất, kinh doanh phát triển đúng yêu cầu của xã hội.
* Kết luận Chƣơng 2
Chương 2 của luận văn đã đánh giá những kết quả đạt được và những
mặt còn hạn chế trong hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố
chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Có thể nói, hoạt động quản lý chất
lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có
những chuyển biến tích trong những năm gần đây. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém. Số lượng các cơ sở sản xuất, số mặt hàng, số lô hàng
được kiểm tra hằng năm có tăng nhưng còn khá khiêm tốn. Việc xử lý vi
phạm còn hạn chế về hình thức và mức độ xử lý. Cơ chế phối hợp trong việc
kiểm tra, xử lý vi phạm chất lượng hàng hóa sau công bố chưa được thực hiện
hiệu quả. Tình trạng doanh nghiệp phải công bố chất lượng hàng hóa nhưng
62
không thực hiện công bố vẫn còn diễn ra tương đối phổ biến. Luận giải
nguyên nhân của những hạn chế này, bên cạnh các nguyên nhân về nguồn lực
thực hiện, đội ngũ cán bộ, công chức số lượng và chất lượng còn hạn chế,
khung thể chế, chính sách về quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất
lượng chưa hoàn thiện thì một nguyên nhân cơ bản là thiếu các thiết chế về tài
chính đủ mạnh để xử lý có tính chất răn đe, phòng ngừa vi phạm về chất
lượng hàng hóa. Luận văn cũng nhấn mạnh đến các nguyên nhân từ phía các
cơ sở sản xuất, doanh nghiệp và chính bản thân người tiêu dùng trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
63
CHƢƠNG 3
XÂY DỰNG THIẾT CHẾ TÀI CHÍNH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG HÀNG HÓA SAU CÔNG BỐ CHẤT
LƢỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT, KINH DOANH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Xây dựng thiết chế tài chính đối với các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh hàng hóa có chất lƣợng không phù hợp với bản công bố
3.1.1. Xây dựng thiết chế tăng cường mức xử phạt về tài chính đối
với doanh nghiệp vi phạm
3.1.1.1. Đối với các doanh nghiệp sản xuất
Việc xây dựng thiết chế tăng cường xử phạt về tài chính đối với doanh
nghiệp sản xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc góp phần bảo đảm
chất lượng hàng hóa sau công bố. Các thiết chế xử phạt về tài chính đối với
chất lượng hàng hóa không phù hợp với bản công bố cần tập trung vào các
nội dung:
- Vi phạm quy định về hợp chuẩn: thực hiện mức phạt tiền đối với hành
vi vi phạm về công bố hợp chuẩn, dấu hợp chuẩn hoặc sản phẩm có chất
lượng không phù hợp với tiêu chuẩn được công bố;
- Vi phạm về quy định về hợp quy;
- Vi phạm liên quan đến hợp chuẩn, hợp quy.
Chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chất lượng hàng hóa
cần phải có sự tăng mức xử phạt và cần có sự tính toán trong mức xử phạt liên
quan đến doanh thu, lợi nhuận từ việc vi phạm quy định bảo đảm chất lượng
hàng hóa sau công bố. Mức xử phạt cần phải thực sự có tính răn để doanh
nghiệp không muốn vi phạm, không dám vi phạm và thiết chế giám sát để
doanh nghiệp khó có thể vi phạm.
3.1.1.2. Đối với các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh
Thực hiện xử phạt vi phạm hành chính với các doanh nghiệp, cá nhân
kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng, có chất lượng
64
không phù hợp với bản công bố. Thiết chế xử phạt tài chính cần được xây
dựng bảo đảm có tính răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm của các doanh
nghiệp, cá nhân trong buôn bán, kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa, khắc
phục tình trạng doanh nghiệp, cá nhân vì lợi ích cá nhân mà kinh doanh các
sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng. Thiết chế tài chính xử phạt vi phạm đối
với doanh nghiệp kinh doanh cần tập trung xử lý các hành vi:
- Lưu thông hàng hóa không bảo đảm chất lượng so với công bố mặc
dù có đầy đủ cơ sở để đánh giá hàng hóa đó không bảo đảm chất lượng;
- Che dấu thông tin về hàng hóa không bảo đảm chất lượng so với công bố.
3.1.2. Thiết chế tài chính về khen thưởng, khuyến khích đối với
người tiêu dùng
Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích người tiêu dùng có tiếng nói về
chất lượng hàng hóa không phù hợp với bản công bố. Cần phải tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về quyền và lợi ích chính đáng của
mình và khẳng định pháp luật của nhà nước luôn bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bảo
đảm chất lượng hàng hóa sau công bố. Nếu người tiêu dùng không lên tiếng,
không có ý kiến phản hồi thì cơ quan quản lý nhà nước sẽ không có đầy đủ
thông tin về tình trạng chất lượng hàng hóa không đảm bảo sau công bố bởi lẽ
số lượng cơ sở sản xuất lớn, các sản phẩm, hàng hóa rất đa dạng và phong
phú. Nhà nước có thể thực hiện cơ chế khen thưởng về vật chất và tinh thần
với những người tiêu dùng có những phản hồi chính xác về chất lượng hàng
hóa không phù hợp với bản công bố nhằm động viên sự tham gia của người
tiêu dùng vào quá trình quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau công bố.
3.2. Điều kiện để thực hiện thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố
3.2.1. Điều kiện đối với doanh nghiệp
Để thực hiện các thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
chất lượng sau công bố, cơ quan nhà nước cần thực hiện tốt công tác thông
tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về bảo đảm chất
65
lượng hàng hóa sau công bố, về mức xử phạt vi phạm hành chính trong
trường hợp vi phạm chất lượng sau công bố. Cần phải bảo đảm các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh nhận thức được đầy đủ về mức độ xử phạt
vi phạm khi vi phạm quy định về chất lượng hàng hóa sau công bố.
3.2.2. Điều kiện đối với chính sách quản lý nhà nước
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ
công tác quản lý, kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Rà
soát các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu
chuẩn đo lường chất lượng, bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
cho lực lượng kiểm soát viên chất lượng, bổ sung hành vi và mức phạt cho
phù hợp với thực tiễn và quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa
lưu thông trên thị trường, hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm trong quá trình sản
xuất. Trong đó, chú trọng hoạt động kiểm tra thường xuyên và kiểm tra đột
xuất của các cơ quan kiểm tra. Tổ chức tổng kiểm tra, thanh ta theo chuyên
đề, từng nhóm hoặc loại hàng hóa…;
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phối hợp kiểm tra chất lượng
hàng hóa giữa cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa với cơ quan
thanh tra chuyên ngành, quản lý thị trường, hải quan, công an… thực hiện tốt
Quy chế phối hợp kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa ban hành theo
Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ;
- Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, bổ
sung và tăng cường nhân lực có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu kiểm tra chất
lượng sản phẩm, hàng hóa cho Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Đầu
tư trang thiết bị thử nghiệm nhanh cho các cơ quan quản lý chất lượng hàng
hóa. Tăng cường kinh phí cho hoạt động kiểm tra của các cơ quan kiểm tra.
Tăng cường đào tạo, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm tra
chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho cơ quan quản kiểm tra chất lượng sản
phẩm, hàng hóa.
66
3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý chất
lƣợng hàng hóa sau công chất lƣợng trong các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh
3.3.1. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
- Rà soát tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật liên quan
đến chất lượng hàng hóa sau công bố trái với quy định của Luật Tiêu chuẩn
và Quy chuẩn kỹ thuật để hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung;
- Tập trung phân tích, xác định các tiêu chuẩn quốc gia cần ưu tiên.
Hoàn thiện việc chuyển đổi các tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành bắt
buộc thành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
- Hoàn thiện phương pháp luận và thể chế hóa các quy trình, kiểm soát
chất lượng hàng hóa, đặc biệt là kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố
trong toàn bộ chuỗi sản xuất và cung cấp sản phẩm hàng hóa;
- Đối với thành phố Hà Nội, cần bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật về tăng cường kiểm soát sau công bố tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật
trong lưu thông, cụ thể về quy định xử phạt vi phạm hành chính về tiêu chuẩn
chất lượng trên cơ sở Nghị định số 80/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
3.3.2. Tăng cường năng lực tổ chức thực thi pháp luật và năng lực
phối hợp trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố
- Cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị thực thi pháp luật về
quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa cần thấu hiểu cơ sở hoạt động quản lý
chất lượng sau công bố:
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa chỉ rõ: Kiểm tra nhà nước về chất
lượng sản phẩm, hàng hóa là việc cơ quan Nhà nước xem xét, đánh giá lại
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ đã được
đánh giá chất lượng bởi các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoặc đã áp dụng các
biện pháp quản lý chất lượng khác của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh (khoản 15, Điều 13);
67
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp và cơ chế phối
hợp các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa từ trung
ương tới địa phương;
- Tổ chức lực lượng thanh tra chuyên ngành chất lượng hàng hóa và kiểm
soát viên chất lượng ở các Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng cấp tỉnh;
- Giao nhiệm vụ quản lý chất lượng hàng hóa cho Ủy ban nhân dân cấp
huyện, phát triển đội ngũ cộng tác viên để triển khai hoạt động tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, giám sát bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
- Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý chất lượng cho chính
quyền địa phương. Tiếp tục phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong
quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, các cơ quan quản lý nhà nước ở trung
ương chỉ tập trung xây dựng chính sách quản lý vĩ mô, thanh tra, kiểm tra và
giải quyết các vấn đề đối ngoại, giải quyết các rào cản của thị trường.
- Cần thiết ban hành “Quy định phân công trách nhiệm quản lý nhà
nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, hàng hóa
trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Công việc này giao cho Sở Khoa học và
Công nghệ Hà Nội chủ trì thực hiện. Quy định có các nội dung chính như sau:
+ Nội dung quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm
hàng hóa;
+ Phân công trách nhiệm với đầu mối là Sở Khoa học và Công nghệ mà
Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng thành phố là đơn vị trực tiếp giúp Sở
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiêu chuẩn chất lượng, chịu trách
nhiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực này và là cơ quan kiểm tra
chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn. Đây là đơn vị hướng dẫn các
doanh nghiệp. Cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện công bố tiêu chuẩn áp
dụng, tổ chức tiếp nhận và quản lý bản công bố hợp chuẩn đối với sản phẩm,
hàng hóa trên địa bàn và công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa chịu sự
quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội;
+ Phân công trách nhiệm đối với Sở, ngành, quận, huyện, thị xã;
68
+ Làm rõ các loại sản phẩm, hàng hóa đặc thù và phân công quản lý
nhà nước về từng loại sản phẩm hàng hóa này;
+ Trách nhiệm các tổ chức quản lý nhà nước về tiêu chuẩn - chất lượng.
3.3.3. Tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước
3.3.3.1. Nâng cao năng lực của các đơn vị sự nghiệp phục vụ quản lý
nhà nước
- Xây dựng lại mạng lưới các tổ chức đánh giá sự phù hợp (tổ chức thử
nghiệm, tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận, tổ chức kiểm định) và phân
cấp các phòng kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa thuộc các ngành, đặc biệt là
Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng theo cấp độ tương ứng với nhiệm
vụ được phân cấp;
- Tăng cường năng lực và sự phối hợp của các đơn vị kiểm nghiệm, thử
nghiệm của các chi cục đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ phục vụ quản lý nhà
nước và dịch vụ sự nghiệp công trên địa bàn thành phố nhằm tận dụng tối đa
năng lực thiết bị, tránh sự đầu tư trùng lắp, lãng phí;
- Xây dựng hệ thống phòng kiểm nghiệm, thử nghiệm quốc gia về chất
lượng hàng hóa thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng trên cơ sở
các phòng kiểm nghiệm hiện có của các trung tâm khu vực.
3.3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực
- Đảm bảo có đủ biên chế cho các cơ quan quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa để hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Các tỉnh,
thành phố căn cứ vào dân số, địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội và thực tế sản
xuất kinh doanh để định mức biên chế phù hợp;
- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực về quản
lý chất lượng hàng hóa đồng bộ trên cơ sở khảo sát, đánh giá, tập hợp nhu cầu
đào tạo ngắn hạn và dài hạn đối với từng lĩnh vực và chuyên ngành từ trung
ương đến địa phương;
69
- Đẩy mạnh đào tạo chuyên môn nghiệp vụ quản lý chất lượng, đào tạo
chuyên ngành quản lý chất lượng cho cán bộ quản lý và kỹ thuật cấp trung
ương và địa phương tại các trung tâm, trường cao đẳng, đại học.
3.3.3.3. Đầu tư nâng cấp
Mở rộng trụ sở làm việc, bổ sung cơ sở vật chất kỹ thuật và phòng
kiểm nghiệm của các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa từ trung
ương từ địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3.3.4. Kiện toàn bộ máy Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng
thành phố Hà Nội
Thông tư liên tịch số 05/2008/TTLT-BKHCN-BNV ngày 18 tháng 6
năm 2008 của Bộ Khoa học và công nghệ và Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên
môn về khoa học và công nghệ thuộc Ủy ban nhân dân thành phố. Thông tư
liên tịch số 14/2009/TTLT-BKHCN-BNV ngày 28 tháng 5 năm 2009 của Bộ
Khoa học và công nghệ và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Từ thực trạng bộ máy của Chi cục Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng chưa đủ sức đảm đương các nhiệm vụ được giao
và quá tải về công việc, theo quy định và hướng dẫn của trung ương và của
thành phố, việc kiện toàn tổ chức của Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng
thành phố Hà Nội là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy
mạnh các hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, góp phần tích cực vào
phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Đặc biệt là việc kiểm soát chất lượng
hàng hóa trên địa bàn thành phố. Luận văn đề xuất đề án kiện toàn bộ máy
của Chi cục như sau:
- Về mục tiêu:
+ Mục tiêu tổng quát: kiện toàn tổ chức bộ máy của Chi cục tiêu chuẩn
đo lường chất lượng, bảo đảm quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất
lượng có hiệu lực, hiệu quả;
70
+ Mục tiêu cụ thể: sắp xếp, xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy tinh gọn,
chức trách rành mạch giữa quản lý nhà nước và sự nghiệp công lập, tạo điều
kiện để đơn vị sự nghiệp công lập chủ động trong việc tổ chức thực hiện
nhiệm vụ hỗ trợ cho công tác quản lý, phù hợp theo tinh thần Thông tư liên
tịch số 14/2009/TTLT-BKHCN-BNV.
- Các phòng chức năng
Xuất phát từ các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, Chi cục
được bổ sung thêm một số nhiệm vụ mới như sau:
1) Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng được giao thêm nhiệm vụ
tổ chức phổ biến áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật địa
phương. Tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu
chuẩn nước ngoài; hướng dẫn xây dựng tiêu chuẩn cơ sở đối với các tổ chức
và cá nhân trên địa bàn.
2) Tổ chức, quản lý, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh thực hiện công bố tiêu chuẩn, áp dụng tiêu chuẩn cơ sở đối với các
hàng hóa, dịch vụ, quá trình và môi trường theo phân công, phân cấp của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
3) Tiếp nhận bản công bố hợp chuẩn của tổ chức, cá nhân đăng ký hoạt
động sản xuất, kinh doanh tại địa phương; tiếp nhận bản công bố hợp quy trong
lĩnh vực được phân công và tổng hợp báo cáo UBND thành phố và Bộ Khoa
học và Công nghệ về hoạt động công bố hợp chuẩn, hợp quy trên địa bàn.
4) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, tổ chức thực hiện kiểm
tra về nhãn hàng hóa, chất lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông, hàng hóa xuất
khẩu, hàng hóa nhập khẩu theo phân công, phân cấp hoặc ủy quyền của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
5) Tổ chức triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến vào
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương theo phân cấp
hoặc theo ủy quyền của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ;
6) Quản lý và tổ chức thực hiện hoạt động dịch vụ kỹ thuật về tiêu
chuẩn, đo lường chất lựng sản phẩm hàng hóa.
71
Đối với việc quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố, Chi cục Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng thành phố Hà Nội cần bổ sung thêm phòng và
chuyên viên như sau:
+ Phòng kiểm tra chất lượng hàng hóa:
Nhiệm vụ: tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa và ghi nhãn
hàng hóa lưu thông trên thị trường và hàng hóa và hàng hóa xuất, nhập khẩu.
Phối hợp với các ngành liên quan thực hiện thanh tra chuyên ngành về tiêu
chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Lập kế hoạch, báo cáo về việc kiểm tra
và tổng hợp báo cáo về kiểm tra hàng hóa của địa phương. Đây là một nhiệm
vụ quan trọng đã được quy định trong Nghị định 132/2008/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng
sản phẩm, hàng hóa.
+ 02 chuyên viên phụ trách và hướng dẫn việc thực hiện công bố tiêu
chuẩn chất lượng hàng hóa, tiếp nhận công bố hợp chuẩn, hợp quy.
3.3.5. Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa bằng các công cụ,
biện pháp cần thiết
3.3.5.1. Đối với cơ sở sản xuất, doanh nghiệp
Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất cần chủ động ngăn ngừa sản phẩm
không phù hợp với tiêu chuẩn. Các biện pháp cần thực hiện là:
- Kiểm soát sản phẩm theo quá trình;
- Chứng nhận sản phẩm hàng hóa phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật và công bố sản phẩm, hàng hóa hợp chuẩn, hợp quy;
- Tăng cường quản lý chất lượng trong sản xuất theo hệ thống quản lý
chất lượng tiên tiến quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, ISO 22000 (quản lý an
toàn thực phẩm cho doanh nghiệp chế biến thực phẩm).
3.3.5.2. Đối với quản lý nhà nước
Thực hiện kiểm tra về chất lượng hàng hóa khi có căn cứ hàng hóa lưu
thông trên thị trường không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng. Kiểm tra về chất lượng sản phẩm, hàng hóa sau
công bố. Nghị định số 80/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành
72
chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa
quy định về công bố tiêu chuẩn áp dụng và mức xử phạt. Điều 17. Vi phạm
quy định về công bố tiêu chuẩn áp dụng, Điều 18. Vi phạm quy định về hợp
chuẩn; Điều 19. Vi phạm quy định về hợp quy, Điều 20. Vi phạm về chất
lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, Điều 21. Vi phạm quy định về hoạt
động đánh giá sự phù hợp, Điều 22. Vi phạm quy định về hoạt động đào tạo,
tư vấn trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
Điều 23. Vi phạm quy định về hoạt động công nhận, Điều 24. Hành vi giả
mạo liên quan đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm,
hàng hóa. Đây là những chế tài xử lý nhằm hạn chế tình trạng vi phạm chất
lượng hàng hóa sau công bố.
Để tăng cường hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu
thông trên địa bàn thành phố. Cần phải tăng cường quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa ngay từ khâu sản xuất, tại các cơ sở kinh doanh nơi phát
nguồn hàng chính. Đặc biệt là cần rà soát lại hoạt động công bố tiêu chuẩn
chất lượng tại các cơ quan đã được phân công quản lý chuyên ngành về chất
lượng hàng hóa. Cần thiết ban hành qui chế phối kết hợp giữa các sở quản lý
chuyên ngành về chất lượng trong việc thực hiện công bố tiêu chuẩn chất
lượng, phối hợp thanh tra, kiểm tra sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị
trường. Đồng thời có qui định để cụ thể hóa việc phân công trách nhiệm quản
lý Nhà nước của các sở, ngành về chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo đặc thù
của địa phương. Đẩy mạnh hoạt động thanh kiểm tra sau công bố tiêu chuẩn
chất lượng. Toàn bộ các hoạt động này nhằm đưa sản xuất, kinh doanh hàng
hóa vào nên nếp để khi sản phẩm sản xuất, lưu thông ra thị trường luôn đảm
bảo chất lượng, giảm thiểu các hành vi gian lận, hàng kém chất lượng, góp
phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
* Kết luận Chƣơng 3
Chương 3 của luận văn đề xuất việc xây dựng hệ thống thiết chế tài
chính nhằm quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố. Thiết chế tài chính này
được áp dụng với doanh nghiệp sản xuất và cá nhân, doanh nghiệp lưu thông
73
hàng hóa trên thị trường. Thiết chế tài chính ở đây không chỉ là xử lý vi phạm
về chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng mà còn bao gồm cả thiết chế
tài chính về khen thưởng, khuyến khích trong lĩnh vực này. Để các thiết chế
tài chính đi vào thực tiễn, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý chất lượng hàng hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
phối hợp trong thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm chất lượng hàng hóa và đẩy
mạnh hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa. Một điều kiện quan trọng khác
chính là nhận thức của các doanh nghiệp về bảo đảm chất lượng hàng hóa sau
công bố chất lượng. Chương 3 cũng đề cập đến hệ thống các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng trên các phương diện về
thể chế, tổ chức bộ máy, năng lực kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hóa.
Những giải pháp này nhằm góp phần bảo đảm thiết chế tài chính phát huy hiệu
lực, hiệu quả trong kiểm soát chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng.
74
KẾT LUẬN
Chất lượng và cạnh tranh là những yếu tố quyết định sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong thế kỷ XXI. Quản lý chất
lượng được nhiều quốc gia và nền kinh tế chú trọng từ thập niên 70 của thế kỷ
trước và ngày càng được quan tâm đầy đủ hơn, được coi là một phận không
thể tách rời của hoạt động quản lý doanh nghiệp. Kiểm soát chất lượng là một
phần của quản lý chất lượng, là những hoạt động và kỹ thuật tác nghiệp nhằm
đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã ngày càng chú ý đến quản lý
chất lượng hàng hóa thông qua phát triển hệ thống chất lượng ở các doanh
nghiệp, tổ chức, coi đối tượng quản lý là hệ thống chất lượng. Trong khi đó
đối tượng quản lý, kiểm soát là sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp. Từ khi
có thay đổi căn bản từ bắt buộc sản phẩm, hàng hóa phải đăng ký chất lượng
ở cơ quan quản lý sang tự nguyện công bố hoặc công bố bắt buộc (đối với sản
phẩm hàng hóa có liên quan trực tiếp đến vệ sinh an toàn, sức khỏe của con
người) thì hoạt động kiểm soát chất lượng sau công bố không có chỉ đạo riêng
biệt nào, hoạt động càng trở nên kém hiệu quả. Hàng hóa không công bố chất
lượng, hàng kém chất lượng, hàng giả, hàng nhập khẩu không rõ nguồn gốc
và chất lượng hạn chế tràn lan trên thị trường. Chính vì vậy, cần phải đổi mới
các hoạt động trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố bằng thiết chế
quản lý phù hợp, trong đó, việc sử dụng thiết chế tài chính trong quản lý chất
lượng hàng hóa sau công bố là cách tiếp cận phù hợp. Thiết chế tài chính có
vai trò thúc đẩy hoạt động bảo đảm chất lượng, bảo đảm kỷ cương trong quản
lý chất lượng hóa sau công bố. Đề tài luận văn “Sử dụng thiết chế tài chính
để nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố chất lượng
trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội”
đã được tiến hành để quan tâm giải quyết vấn đề nêu trên.
Các kết quả chủ yếu của luận văn đạt được:
75
1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý chất lượng hàng hóa sau
công bố, vai trò, hiệu quả của thiết chế tài chính trong quản lý chất lượng
hàng hóa sau công bố.
2. Trình bày khái quát hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa trên
phạm vi cả nước và trên địa bàn thành phố Hà Nội, đánh giá kết quản lý chất
lượng hàng hóa sau công bố trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Luận văn phân tích những nguyên nhân dẫn đến hiện trạng quản lý
chất lượng hàng hóa sau công bố chưa hiệu quả trong đó nhấn mạnh đến việc
thiếu thiết chế tài chính xử lý đủ mạnh, đủ sức răn đe, bảo đảm kỷ cương
trong quản lý chất lượng hàng hóa.
4. Luận văn đề xuất thiết chế tài chính trong xử phạt vi phạm chất
lượng hàng hóa sau công bố, đồng thời đưa ra điều kiện, giải pháp nhằm phát
huy vai trò của thiết chế này trong quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố.
Với điều kiện năng lực và trình độ nghiên cứu của bản thân còn nhiều
hạn chế, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình
thức. Luận văn như một khởi đầu trong việc phân tích, đánh giá, góp ý và
khuyến nghị về hoạt động quản lý chất lượng hàng sau công bố ở thành phố
Hà Nội nhằm tháo gỡ, tạo sự chuyển biến nhất định về hoạt động này.
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Tú An, Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và
thực tiễn tại Việt Nam.
2. Đặng Quốc Bảo (2003), Phát triển nhà trường: Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 21.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2006), Quyết định số 26/2006/QĐ-
BKHCN về việc ban hành quy định về tổ chức thực hiện việc kiểm tra chất
lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường trong nước và xuất khẩu,
nhập khẩu.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Quyết định số 24/2007/QĐ-
BKHCN về việc ban hành quy định chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp
quy và công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 27/2012/TT-BKHCN
ngày 12/12/2012 quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập
khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
6. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 26/2012/TT-
BKHCN ngày 12/12/2012 quy định việc kiểm tra nhà nước về chất lượng
hàng hóa lưu thông trên thị trường.
7. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012), Thông tư số 28/2012/TT-
BKHCN ngày 12/12/2012 quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy
và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
8. Bộ Khoa học và Công nghệ (2009), Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN
ngày 20/3/2009 quy định Danh mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất
an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
9. Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Nội vụ (2009), Thông tư liên tịch
số 14/2009/TTlT-BKHCN-BNV về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Sở
Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
77
10. Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1998), Đại Cương về
quản lý, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr. 11, 13.
11. Chính phủ (2007), Nghị định 127/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8
năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật.
12. Chính phủ (2008), Nghị định số 55/2008/NĐ-CP Quy định chi tiết
thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
13. Chính phủ, Nghị định 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm,
hàng hóa.
14. Chính phủ (2012), Nghị định số 80/2013/NĐ-CP quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng
sản phẩm, hàng hóa.
15. Cục Quản lý Đo lường chất lượng (2009), Tài liệu tập huấn nghiệp
vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa.
16. Học viện Chính trị Quốc gia (1998), Giáo trình quản lý hành chính
nhà nước, tập II, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
17. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Tài liệu bồi dưỡng về quản
lý hành chính nhà nước chương trình chuyên viên phần II: Hành chính nhà
nước và công nghệ hành chính, Hà Nội, tr. 7.
18. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về lý luận
quản lý giáo dục, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo trung ương 1,
Hà Nội.
19. Quốc hội 12 (2007), Luật Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
20. Quốc hội 11 (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.
21. Phan Thanh Thôi, Tăng cường các thiết chế kiểm soát chất lượng
hàng hóa sau công bố tiêu chuẩn chất lượng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Luận
văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, 2010.
78
PHỤ LỤC
MẪU PHIẾU KHẢO SÁT
Phần giới thiệu
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa sau
công bố, chúng tôi đang nghiên cứu đề tài “Sử dụng thiết chế tài chính để
nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng hàng hóa sau công bố trong các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Trong quá trình
thực hiện đề tài, chúng tôi rất mong muốn được tham khảo ý kiến của ông/bà
về các nội dung liên quan đến đề tài. Sự hợp tác và đóng góp của ông/bà có ý
nghĩa rất quan trọng để thực hiện nghiên cứu này. Không có ý kiến nào được
đưa ra là “đúng” hay “sai”, xin ông/bà đưa ra ý kiến của mình bằng việc đánh
dấu X vào ô thích hợp theo lựa chọn của ông/bà. Tất cả các ý kiến trả lời đều
có giá trị đối với nghiên cứu của chúng tôi. Những thông tin đánh giá và ý
kiến trả lời trong bảng khảo sát chỉ được sử dụng trong nghiên cứu này và
được giữ kính danh tính.
Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
79
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ NGƢỜI TRẢ LỜI PHỎNG VẤN
1. Họ và tên ..................................................................................................
2. Tuổi ………………………………………………………………………
3. Số năm kinh nghiệm trong vị trí chuyên môn (kể cả ở cơ quan
khác) ……
4. Số năm kinh nghiệm trong vị trí chuyên môn (ở cơ quan hiện
nay) ……
5. Vị trí chuyên môn ……………………………………………………….
6. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn Nơi cấp bằng
Việt Nam Nƣớc
ngoài
THPT/THCS
Trung cấp / Cao đẳng
Đại học
Cao học
Tiến sĩ
Khác (đề nghị ghi cụ thể):……………………
80
PHẦN BẢNG HỎI DÀNH CHO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC
Câu 1. Theo ông/bà, việc quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố
có ý nghĩa nhƣ thế nào đối với việc bảo đảm chất lƣợng hàng hóa trên thị
trƣờng?
Rất quan trọng
Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng
Không có ý kiến
Câu 2. Theo ông/bà, việc quản lý chất lƣợng hàng hóa trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong những năm gần đây nhƣ thế nào?
Tốt
Trung bình
Chưa tốt
Không có ý kiến
Câu 3. Theo ông/bà, việc quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố
trên địa bàn thành phố Hà Nội đang gặp những khó khăn gì?
Khó khăn trong phối hợp xử lý vi phạm
Khó khăn về trang thiết bị phục vụ kiểm tra, sàng lọc, phát hiện vi
phạm
Khó khăn về nhân lực
Khó khăn về kinh phí hoạt động
Khó khăn khác (ghi rõ):………………………………………………
Câu 4. Theo ông/bà, nguyên nhân vì sao hoạt động quản lý chất
lƣợng hàng hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay chƣa hiệu quả?
Số lượng hàng hóa sản xuất đa dạng
Số lượng doanh nghiệp phải công bố chất lượng quá lớn
Số lượng cán bộ, công chức còn hạn chế
Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức hạn chế
Ý thức của doanh nghiệp còn thấp
81
Kinh phí phục vụ kiểm tra, thanh tra chất lượng hạn hẹp
Chế tài xử lý vi phạm bất cập (về thẩm quyền, mức xử phạt)
Câu 5. Theo ông/bà có cần tăng cƣờng sử dụng thiết chế tài chính
trong quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Không có ý kiến
Câu 6. Theo ông/bà, các thiết chế tài chính nào cần phải xây dựng?
Thiết chế xử phạt về tài chính đối với doanh nghiệp vi phạm
Thiết chế về khen thưởng, khuyến khích người tiêu dùng
Thiết chế tài chính khác:………………………………………………..
Câu 7. Theo ông/bà, để sử dụng hiệu quả thiết chế tài chính trong
quản lý chất lƣợng hàng hóa sau công bố, cần có những điều kiện nào?
Năng lực của cơ quan quản lý
Năng lực của cán bộ, công chức
Khung thể chế, chính sách
Năng lực phối hợp liên ngành
Nhận thức của doanh nghiệp
Sự ủng hộ người tiêu dùng, xã hội
Ngƣời trả lời
82
PHẦN BẢNG HỎI DÀNH CHO DOANH NGHIỆP
Câu 1. Xin ông/bà cho biết loại hình doanh nghiệp của ông/bà?
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
Công ty TNHH 1 thành viên
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Câu 2. Doanh nghiệp ông/bà đƣợc xếp loại quy mô nhƣ thế nào?
Doanh nghiệp lớn
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cơ sở sản xuất
Cửa hàng kinh doanh
Câu 3. Các sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp là gỉ? (ghi rõ):…
………………………………………………………………………................
Câu 4. Doanh nghiệp ông/bà có áp dụng hay xây dựng, công bố tiêu
chuẩn sản phẩm, hàng hóa không?
Có (chuyển sang câu 12) Không (chuyển sang câu 10)
Câu 5. Lý do doanh nghiệp ông/bà áp dụng hoặc xây dựng công bố
tiêu chuẩn chất lƣợng?
Sự cần thiết từ doanh nghiệp
Bắt buộc của cơ quan quản lý
Nhu cầu thị trường
Thấy doanh nghiệp khác áp dụng
Tạo uy tín, thương hiệu
Khác (ghi rõ):……………………………………………………………
Câu 6. Lý do doanh nghiệp ông/bà chƣa công bố tiêu chuẩn chất
lƣợng?
Chưa nhận thức được đầy đủ về tiêu chuẩn
Chưa thấy cần thiết của thị trường
83
Chưa có nguồn lực để thực hiện
Không biết quy trình thực hiện
Không biết cần phải thực hiện
Khác (ghi rõ):………………………………………………………
Câu 7. Theo ông/bà, việc kiểm tra chất lƣợng hàng hóa sau công bố
hiện nay có đƣợc thực hiện thƣờng xuyên không?
Rất thường xuyên
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không thường xuyên
Không có ý kiến
Câu 8. Việc kiểm tra chất lƣợng hàng hóa sau công bố hiện nay
đƣợc thực hiện nhƣ thế nào?
Đột xuất
Định kỳ
Kết hợp định kỳ và đột xuất
Không có ý kiến
Câu 9. Theo ông/bà, việc kiểm tra chất lƣợng hàng hóa sau công bố
có phát hiện đƣợc kịp thời hàng hóa không bảo đảm chất lƣợng không?
Phát hiện thường xuyên
Phát hiện thỉnh thoảng
Không phát hiện được
Không có ý kiến
Câu 10. Với doanh nghiệp vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau công
bố, ông/bà đánh giá nhƣ thế nào về mức xử lý vi phạm ?
Xử phạt cao
Xử phạt thấp
Xử phạt hợp lý
Không có ý kiến
84
Câu 11. Doanh nghiệp ông/bà có nhu cầu về thông liên quan đến xử
lý vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau công bố không?
Không
Có
Câu 12. Trong trƣờng hợp cần thông tin, ông bà tìm kiếm thông tin
về xử lý vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau công bố ở nguồn nào?
Internet
Tạp chí chuyên ngành
Cơ quan quản lý
Gọi điện trực tiếp đến cơ quan chức năng
Đến thư viện
Nguồn khác:…………………………………………………
Câu 13. Theo ông/bà, việc xử lý vi phạm chất lƣợng hàng hóa sau
công bố nếu đƣợc thực hiện tốt sẽ đem lại những tác dụng gì?
Nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp
Tạo nguồn thu ngân sách
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa trên thị trường
Ý kiến khác:………………………………………………………
Ngƣời trả lời
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
85