BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HÀ THỊ THỦY NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐẾN Ý KIẾN KIỂM TOÁN ĐỐI VỚI BCTC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC LĨNH VỰC XÂY DỰNG VÀ BẤT ĐỘNG SẢN ĐƯỢC NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HÀ THỊ THỦY NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐẾN Ý KIẾN KIỂM TOÁN ĐỐI VỚI BCTC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC LĨNH VỰC XÂY DỰNG VÀ BẤT ĐỘNG SẢN ĐƯỢC NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010
Chuyên ngành : : Mã số
Kế toán 60340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS Phạm Văn Dược
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao
chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin
được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu
tham khảo của luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 9 năm 2013
Tác giả
Hà Thị Thủy
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
1 PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................ 1
2 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU...................................................................................... 1
3 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................ 1
4 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................. 2
5 5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ....................................... 2
6 6. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 2
7 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
8 1.1 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÃ THỰC HIỆN Ở NƯỚC NGOÀI ............. 4
9 1.2 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÃ THỰC HIỆN Ở TRONG NƯỚC ............ 6
10 Kết luận chương 1 .......................................................................................................... 8
11 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
2.1 BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA BCTC .............................................. 9
2.1.1 Khái niệm báo cáo tài chính .................................................................................. 9
2.1.2 Vai trò của báo cáo tài chính ................................................................................. 9
2.2 KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ Ý KIẾN CỦA KIỂM TOÁN
VIÊN ............................................................................................................................ 10
2.2.1 Kiểm toán báo cáo tài chính ................................................................................ 10
2.2.2 Ý kiến của kiểm toán viên ................................................................................... 11
2.2.3 Các dạng ý kiến kiểm toán .................................................................................. 11
2.2.3.1 Theo quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành ........................ 11
2.2.3.2. Theo quy định củachuẩn mực kiểm toán quốc tế ............................................ 12
2.2.3.3 Đổi mới của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam theo chuẩn mực kiểm toán
quốc tế về ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính ..................................... 13
2.3 TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC XÂY DỰNG VÀ BĐS TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2008-2010 ........................................................................................... 16
2.3.1 Đặc điểm lĩnh vực xây dựng và BĐS làm cơ sở cho việc chọn biến nghiên
cứu ................................................................................................................................ 16
2.3.2 Ảnh hưởng của các chính sách ban hành đến thị trường xây dựng và BĐS
giai đoạn 2008 - 2010 ................................................................................................... 18
Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 21
12 CHƯƠNG 3: GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.1 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU .............................................................................. 22
3.1.1 Lựa chọn các biến đưa vào mô hình ................................................................... 22
3.1.2 Đặt giả thuyết nghiên cứu cho các biến .............................................................. 23
3.1.2.1 Biến phân tích cơ cấu tài chính ........................................................................ 23
3.1.2.2 Biến phân tích tính thanh khoản ...................................................................... 24
3.1.2.3 Biến phân tích khả năng sinh lời ...................................................................... 25
3.1.2.4 Biến phân tích khả năng hoạt động ................................................................. 26
3.1.2.5 Biến quy mô công ty ......................................................................................... 27
3.1.2.6 Biến kích cỡ công ty kiểm toán ........................................................................ 28
3.1.2.7 Biến ý kiến kiểm toán năm trước ...................................................................... 29
3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................... 31
3.2.1 Chọn mẫu công ty nghiên cứu ............................................................................ 31
3.2.2 Phương pháp kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc ... 33
3.2.3 Phương pháp hồi quy Binary logistic .................................................................. 33
Kết luận chương 3 ........................................................................................................ 36
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU.
4.1 CÁC BƯỚC NGHIÊN CỨU ................................................................................. 37
4.1.1 Kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc ........................ 37
4.1.1.1 Kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập định tính và biến phụ thuộc ...... 37
4.1.1.2 Kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập định lượng và biến phụ thuộc .. 42
4.1.2 Sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic cho các biến được chọn ................... 46
4.1.2.1 Xây dựng mô hình hồi quy và giải thích ý nghĩa của các hệ số ....................... 46
4.1.2.2 Đánh giá độ phù hợp của mô hình .................................................................. 47
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................... 47
4.2.1 Kết quả mô hình hồi quy Binary Logistic với các biến được chọn ban đầu ....... 47
4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Binary Logistic với các biến còn lại .......................... 50
Kết luận chương 4 ........................................................................................................ 54
13 CHƯƠNG 5: TÓM TẮT NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CHO MỤC ĐÍCH DỰ BÁO, HẠN CHẾ VÀ
ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
5.1 TÓM TẮT NGHIÊN CỨU .................................................................................... 55
5.2 THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 56
5.3 ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CHO MỤC ĐÍCH DỰ BÁO ......................................... 60
5.4 NHỮNG HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP
THEO ........................................................................................................................... 63
5.4.1 Hạn chế của nghiên cứu ...................................................................................... 63
5.4.2 Đề xuất cho hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................ 65
Kết luận chương 5 ........................................................................................................ 67
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCTC : Báo cáo tài chính
BĐS : Bất động sản
CAR : Hệ số an toàn vốn
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
HNX : Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HSX : Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
ICOR : Hệ số sử dụng vốn
LNTT : Lợi nhuận trước thuế
LNST : Lợi nhuận sau thuế
OTC : Thị trường chứng khoán phi tập trung
: Ý kiến kiểm toán năm trước (biến độc lập) T1
: Công ty kiểm toán T2
: Quy mô công ty được kiểm toán T3
: Tỷ số đòn bảy tài chính T4
: Tỷ số thanh toán hiện hành T5
: Tỷ số thanh toán nhanh T6
: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu T7
: Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu T8
: Tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên doanh thu T9
T10 : Tỷ số doanh thu trên tổng tài sản
T11 : Tỷ số vòng quay hàng tồn kho
VSA : Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Y : Ý kiến kiểm toán năm trước (biến phụ thuộc)
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Các trường hợp được liệt kê vào loại ý kiến không phải là ý kiến
chấp nhận toàn phần ................................................................................ 15
Bảng 3.1: Các biến độc lập là biến phi tài chính được sử sụng trong nghiên
cứu ........................................................................................................... 30
Bảng 3.2: Các biến độc lập là các tỷ số tài chính được sử dụng trong nghiên
cứu ........................................................................................................... 30
Bảng 4.1: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán theo biến ý kiến kiểm toán năm
trước ........................................................................................................ 38
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định chi bình phương theo biến ý kiến kiểm toán năm
trước ........................................................................................................ 39
Bảng 4.3: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán theo biến công ty kiểm toán ............... 40
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định chi bình phương đối với biến công ty kiểm toán ...... 40
Bảng 4.5: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán theo biến quy mô công ty được
kiểm toán ................................................................................................. 41
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định chi bình phương đối với biến quy mô công ty
được kiểm toán ........................................................................................ 42
Bảng 4.7: Kết quả thống kê mô tả đối với các tỷ số tài chính theo kiểm định
Mann-Whitney ........................................................................................ 43
Bảng 4.8: Bảng so sánh trị trung bình của các tỷ số tài chính giữa hai nhóm ý
kiến kiểm toán theo kiểm định Mann-Whitney....................................... 44
Bảng 4.9 : Kết quả kiểm định Mann-Whitney về mức ý nghĩa của các tỷ số tài
chính ........................................................................................................ 45
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định chi bình phương về đội phù hợp của mô hình .......... 48
Bảng 4.11: Kết quả kiểm định độ phù hợp tổng quát của mô hình theo đại
lượng -2LL .............................................................................................. 48
Bảng 4.12: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán được dự đoán từ mô hình ................... 48
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy tổng thể ...... 49
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định chi bình phương về độ phù hợp của mô hình với
các biến còn lại ........................................................................................ 50
Bảng 4.15: Kết quả độ phù hợp tổng quát của mô hình theo đại lượng -2LL ........... 50
Bảng 4.16: Bảng phân loại ý kiến kiếm toán được dự đoán từ mô hình ................... 51
Bảng 4.17: Kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy tổng thể ...... 51
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mặc dù các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến việc xây dựng mô hình dự
đoán ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính đã khá phổ biến ở một số nước,
các nhân tố được đưa vào nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến ý kiến kiểm toán ngày
càng được mở rộng để cho ra những kết quả dự đoán chính xác hơn. Tuy nhiên
những mô hình được nghiên cứu để dùng riêng cho các doanh nghiệp thuộc một
lĩnh vực hoạt động cụ thể, như lĩnh vực xây dựng và BĐS thì hầu như chưa có nhiều
mà chỉ dừng lại ở mô hình chung cho tất cả doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực hoạt
động (một số nghiên cứu đã loại trừ các doanh nghiệp thộc lĩnh vực tài chính, ngân
hàng do những đặc thù riêng của nó). Chính vì lý do trên mà nghiên cứu này quyết
định chọn đối tượng là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản
tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010 để xây dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán
dành riêng cho lĩnh vực này.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Tìm ra được một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc hình thành loại ý kiến
kiểm toán đối với BCTC của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất
động sản.
Xây dựng được mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính
của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản được niêm yết
tại Việt Nam dựa trên các nhân tố đã được chọn.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến không phải
là ý kiến chấp nhận toàn phần trên báo cáo tài chính. Các nhân tố ảnh
hưởng đến ý kiến kiểm toán (bao gồm các yếu tố tài chính và các yếu tố
phi tài chính)
2
Phạm vi nghiên cứu: Các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và bất
động sản được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn
2008– 2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được kết quả nghiên cứu theo mục tiêu đề ra, đề tài đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Sử dụng phương pháp kiểm định phi tham số Mann-Whitney và phương
pháp Chi - bình phương để kiểm tra mối liên hệ giữa các biến độc lập và biến
phụ thuộc.
Áp dụng phương pháp phân tích hồi quy Binary logistic để đưa ra mô
hình dự đoán ý kiến kiểm toán.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Ý nghĩa khoa học: Tính mới trong nghiên cứu này được thể hiện ở chỗ đã sử
dụng các kỹ thuật phân tích thống kê trong mô hình hồi quy Binary Logistic để xây
dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán dùng riêng cho lĩnh vực xây dựng và bất
động sản, qua đó giúp kiểm toán viên có thêm công cụ hỗ trợ trong việc đưa ra ý
kiến kiểm toán.
Ý nghĩa thực tiễn: Sau khi nghiên cứu này được hoàn thành thì sản phẩm của
nghiên cứu đạt được là mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính của
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản. Như vậy các kiểm toán
viên có thể vận dụng kết quả từ nghiên cứu này để ứng dụng trong thực tế công việc
của mình, qua đó có thể hỗ trợ hiệu quả cho các kiểm toán viên trong việc đưa ra ý
kiến một cách chính xác và kịp thời hơn.
6. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tiếp cận hướng nghiên cứu gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Chương này tập trung vào việc
trình bày các nghiên cứu liên quan đã được thực hiện ở trong nước và ngoài nước,
qua đó là cơ sở cho đề tài này tiếp tục nghiên cứu và phát triển những yếu tố mới
3
Chương 2: Cơ sở lý luận của nghiên cứu. Chương này tập trung trình bày tổng
quan về các lý thuyết nền tảng và các công trình nghiên cứu có liên quan. Nội dung
chương này bao gồm: tổng quan về kiểm toán và ý kiến kiểm toán; khái niệm và vai
trò của báo cáo tài chính, các nghiên cứu trước đó đã thực hiện có liên quan đến đề
tài nghiên cứu.
Chương 3: Xây dựng giả thuyết và phương pháp nghiên cứu. Chương này tập
trung trình bày việc chọn các biến đưa vào mô hình nghiên cứu và đặt giả thuyết
ban đầu cho các biến. Ngoài ra chương này còn trình bày về việc chọn mẫu công ty
nghiên cứu và lựa chọn phương pháp nghiên cứu sẽ sử dụng cụ thể trong chương
tiếp theo.
Chương 4: Thực trạng quy trình nghiên cứu và kết quả nghiên cứu. Chương này
sẽ mô tả chi tiết quy trình nghiên cứu của đề tài, bắt đầu từ việc kiểm định mối
tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc cho đến khi phân tích số liệu
bằng phương pháp nghiên cứu được chọn và cuối cùng là đưa ra kết quả nghiên cứu
cụ thể.
Chương 5: Tóm tắt nghiên cứu, thảo luận kết quả nghiên cứu, ứng dụng mô
hình nghiên cứu cho mục đích dự báo, hạn chế và đề xuất cho hướng nghiên cứu
tiếp theo. Chương này sẽ tóm tắt lại các vấn đề chính của đề tài nghiên cứu, căn cứ
vào kết quả nghiên cứu đạt được, tác giả sẽ trình bày một số ứng dụng của mô hình
dự đoán trong thực tế một số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nghiên cứu. Ngoài ra
chương này sẽ nêu tóm tắt những hạn chế nếu có của đề tài và từ những hạn chế tồn
tại (nếu có) sẽ đề xuất những hướng nghiên cứu tiếp theo trên nền tảng của đề tài đã
được thực hiện.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÃ THỰC HIỆN Ở NƯỚC NGOÀI
Để chuẩn bị cho bước nghiên cứu tiếp theo của đề tài này liên quan đến việc
chọn biến và đặt giả thuyết nghiên cứu. Bài báo cáo xin được trình bày tóm tắt các
biến được sử dụng trong các nghiên cứu trước đó cũng như các kết quả đạt được, từ
đó sẽ làm nền tảng và cơ sở cho nghiên cứu này thực hiện. Do có rất nhiều các
nghiên cứu nước ngoài đã được thực hiện liên quan đến việc xây dựng mô hình dự
đoán ý kiến kiểm toán, do vậy mà trong phần này chỉ có thể tóm tắt một số nghiên
cứu chính mà tác giả cảm thấy gần gũi với nội dung nghiên cứu của mình. Trình tự
trình bày các nghiên cứu này sẽ được sắp xếp theo thứ tự thời gian từ trước đến sau.
Cụ thể gồm:
Nghiên cứu đầu tiên có thể kể đến là của Mutchler (1985). Ông đã sử dụng
phương pháp phân tích biệt số để dự đoán ý kiến kiểm toán về giả định hoạt động
liên tục. Các biến tài chính được sử dụng trong nghiên cứu của ông bao gồm 6 tỷ số
tài chính được sắp xếp theo từng nhóm đó là: (1)Tỷ số dòng tiền/tổng nợ phải
trả;(2) tỷ số tài sản ngắn hạn/nợ ngắn hạn; (3)tỷ số tài sản thuần/tổng nợ phải trả;
(4)tỷ số nợ dài hạn trên tổng tài sản; (5) tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản; (6) tỷ số lợi
nhuận trước thuế/doanh thu thuần. Ngoài việc sử dụng biến tỷ số tài chính, nghiên
cứu của Mutchler còn sử dụng một số biến phi tài chính để đưa vào nghiên cứu của
mình, đó là biến thông tin tốt và thông tin xấu, biến ý kiến kiểm toán năm trước.
Kết quả nghiên cứu được Mutchler đưa ra là biến tỷ số tài chính và biến ý kiến kiểm
toán năm trước có khả năng dự đoán cao nhất với tỷ lệ dự đoán đúng là 89.9% đối
với mẫu ban đầu (gồm 238 công ty) và tỷ lệ này sau đó đã giảm xuống còn 83% đối
với mẫu chỉ gồm các công ty nhận được ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn
phần năm đầu tiên. Đối với biến tỷ số tài chính kết hợp với biến biểu hiện thông tin
tốt và thông tin xấu thì mô hình của Mutchler có khả năng đoán đúng 80.2%.
Mutchler (1986) tiếp tục nghiên cứu về mô hình này với số biến được mở
5
rộng thêm, bao gồm biến về quy mô công ty và biến về loại công ty kiểm toán, cụ
thể trong nghiên cứu này, Mutchler đã phân loại công ty kiểm toán thành hai loại là
Big Eight và Non Big Eight. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, những công ty
nhỏ có tình hình tài chính sa sút thì các công ty kiểm toán không phải là Big Eight
thường không đưa ra ý kiến về giả định hoạt động liên tục.
Tiếp theo, Dopuch và cộng sự (1987) đã nghiên cứu mô hình sử dụng phương
pháp xác suất căn cứ vào biến tài chính và biến thị trường để dự đoán kiểm toán
viên có đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần hay không. Các biến tài chính được đưa
vào phân tích trong nghiên cứu này bao gồm: (1)Biến sự thay đổi tổng nợ/sự thay
đổi tổng tài sản; (2)sự thay đổi tổng phải thu/sự thay đổi tổng tài sản; (3)sự thay đổi
hàng tồn kho/sự thay đổi tổng tài sản;(4) biến giá trị sổ sách của tổng tài sản; (5)
biến lãi,lỗ năm hiện tại. Các biến thị trường được sử dụng trong nghiên cứu của
Dopuch và các cộng sự bao gồm: (1) thời gian niêm yết; (2) sự thay đổi chỉ số beta;
(3) sự thay đổi của độ lệch giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận; (4) sự thay đổi lợi
nhuận công ty trừ đi lợi nhuận trung bình ngành. Kết quả cuối cùng của nghiên cứu
cho thấy biến quan trọng nhất trong việc dự đoán ý kiến kiểm toán theo mô hình sác
xuất là biến giả lợi nhuận của doanh nghiệp năm hiện tại, biến sự thay đổi lợi nhuận
công ty trừ đi lợi nhuận trung bình ngành và biến tỷ số tài chính tổng nợ trên tổng
tài sản.
Keasy et al (1988) đã phát hiện ra rằng, khẳ năng một công ty nhận được được
báo cáo kiểm toán có ý kiến dạng không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần lớn hơn
đáng kể nếu công ty đó được các công ty kiểm toán lớn thực hiện, công ty đó có ít
ban điều hành, có các khoản vay được đảm bảo, và có sự chậm trễ giữa báo cáo
kiểm toán được phát hành so với năm tài chính kết thúc.
Spathis và các cộng sự (2003) đã tiến hành cuộc thử nghiệm mở rộng bằng
việc kết hợp giữa các thông tin tài chính và phi tài chính có thể được sử dụng để
tăng cường khả năng phân biệt giữa việc phát hành báo cáo kiểm toán với ý kiến
chấp nhận toàn phần hay ý kiến không phải là chấp nhận toàn phần. Phương pháp
nghiên cứu được Spathis và các cộng sự sử dụng là phương pháp phân loại
UTADIS sau đó ông đã sử dụng kết quả của phương pháp nghiên cứu này để so
6
sánh với kết quả của mô hình phân tích đa biến khác như phương pháp hồi quy
tuyến tính. Nghiên cứu của ông đã chỉ ra rằng biến tài chính có khả năng phân biệt
ý kiến kiểm toán cao nhất là tỷ số lợi nhuận/tổng tài sản; doanh thu/tổng tài sản và
vốn lưu chuyển/tổng tài sản. Biến phi tài chính có khả năng phân biệt ý kiến kiểm
toán đó là thông tin về vụ kiện tụng của doanh nghiệp. Kết quả của sự so sánh giữa
các phương pháp nghiên cứu cho thấy rằng, phương pháp phân loại UTADIS có khả
năng dự đoán cao nhất với tỷ lệ đoán đúng 80%.
Đến năm 2006, Caramanis và spathis đã tiếp tục phát triển mô hình dự đoán ý
kiến kiểm toán gồm bốn biến tỷ số tài chính và một số biến phi tài chính mới gồm
đặc điểm của công ty kiểm toán và công ty khách hàng. Spathis và cộng sự tiếp tục
sử dụng phương pháp phân tích Logistic regerssion để nghiên cứu kết quả dự đoán
khi thêm một số biến mới, sau đó so sánh kết quả này với phương pháp sử dụng T-
Test và chi bình phương để kiểm định mối tương quan giữa các biến độc lập và ý
kiến kiểm toán. Kết quả là trong các biến được chọn đưa vào mô hình thì biến có
khả năng dự đoán tốt nhất ý kiến kiểm toán là lợi nhuận hoạt động/tổng tài sản; tài
sản ngắn hạn/nợ ngắn hạn với xác suất dự đoán đúng của mô hình xấp xỉ 90%.
1.2 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÃ THỰC HIỆN TRONG NƯỚC
Do lĩnh vực nghiên cứu thực nghiệm vẫn chưa được thực hiện phổ biến tại
Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực kiểm toán. Chính vì vậy mà các nghiên cứu
liên quan đến đề tài này trong nước vẫn còn hạn chế về số lượng. Cụ thể là trong
nước, chỉ có đề tài mới liên quan đến lĩnh vực này và được thực hiện vào năm 2012
do học viên cao học kinh tế khóa 19 Nguyễn thiên Tú hoàn thành với tên đề tài là
nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ giữa ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính
của các công ty niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010 và tỷ số tài chính,
nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích biệt số với 8 tỷ số tài chính thuộc 5
nhóm tỷ số gồm, nhóm tỷ số phân tích về khả năng thanh toán; khả năng sinh lời;
khả năng hoạt động; phân tích cơ cấu tài chính và cuối cùng là nhóm tỷ số phân tích
sự phát triển về quy mô. Kết quả của nghiên cứu là có 4 tỷ số tài chính có khả năng
dự đoán công ty đó sẽ nhận được ý kiến kiểm toán dạng nào, cụ thể là tỷ số thể hiện
sự phát triển về quy mô, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và khả năng hoạt
7
động của công ty. Trong 4 tỷ số này thì có 2 tỷ số có đóng góp quan trọng nhất cho
mô hình dự đoán là tỷ số phản ánh khả năng hoạt động và tỷ số phản ánh khả năng
thanh toán.
Ngoài những nghiên cứu đã được kể trên còn có rất nhiều các nghiên cứu nước
ngoài liên quan cũng đã được tiến hành để tìm hiểu mức độ dự đoán của các nhân tố
đến dạng ý kiến kiểm toán. Một số nghiên cứu khác liên quan đó là, Nghiên cứu của
Pasiouras và các cộng sự (2006) với phương pháp phân tích UTADIS và phương
pháp hierarchical MHDIS. Kết quả của phương pháp phân tích này đã đưa ra được
một mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán với tỷ lệ đoán đúng đạt được là 70%, trong
đó phương pháp nghiên cứu UTADIS đã chỉ ra được biến có đóng góp nhiều nhất
vào mô hình dự đoán là biến ROA, còn phương pháp phân tích MHDIS đã chỉ ra
hai biến có khả năng dự đoán cao nhất là biến ROA và biến tỷ số thanh toán. Đến
năm 2007, Gaganis và các cộng sự lại tiếp tục nghiên cứu mô hình dự đoán dựa vào
các biến tỷ số tài chính được xắp xếp theo từng mặt tình hình tài chính như: khả
năng thanh toán, khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính, sự phát triển về quy mô và
hai biến phi tài chính. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là hệ số
“láng giềng gần nhất K” (nearest neighbor), phân tích biệt số và phân tích hồi quy.
Kết quả của nghiên cứu là khả năng dự đoán của mô hình “láng giềng gần nhất K”
có khả năng dự đoán cao nhất với xác suất đoán đúng là 70% trong khi hai phương
pháp còn lại thì tỷ lệ đự đoán đúng giảm xuống còn 60%.
8
Kết luận chương 1
Với lý do là tại Việt Nam, các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến việc
xây dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán còn chưa nhiều, đặc biệt là các mô
hình dự đoán áp dụng riêng cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất
động sản. Chính vì vậy mà nghiên cứu này đã lựa chọn các doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực xây dựng và bất động sản làm đối tượng nghiên cứu để qua đó có thể xây dựng
được mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán báo cáo tài chính dành riêng cho các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực này. Việc lựa chọn đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản trong giai đoạn 2008-2010
một phần là do lĩnh vực này đã có những biến động khá lớn trong giai đoạn 2008-
2010, và đây cũng là lĩnh vực có tác động lớn đến sự phát triển của nền kinh tế nói
chung. Với phương pháp nghiên cứu được sử dụng là mô hình hồi quy Binary
Logistic, hy vọng rằng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán theo phương pháp này sẽ
trở thành công cụ hỗ trợ hiệu quả cho kiểm toán viên trong việc đưa ra ý kiến kiểm
toán.
9
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
2.1 BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.1.1 Khái niệm báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính (financial statements), Là hệ thống báo cáo được lập theo
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông
tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị. (Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
200)
Hệ thống báo cáo tài chính bao gồm: bảng cân đối kế toán dùng để báo cáo
về tình hình tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn của doanh nghiệp hiện có tại một thời
điểm cụ thể. Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp thông tin
về tình hình doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một kỳ
kế toán. Bản báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp thông tin về tình hình thu,
chi tiền từ các hoạt động và cuối cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính dùng
để trình bày chi tiết các nội dung cần phải làm rõ trong doanh nghiệp kèm theo
những thông tin phi tài chính quan trọng có liên quan đến hoạt động của doanh
nghiệp.
Ngoài bốn báo cáo chủ yếu trên còn có báo có về sự thay đổi vốn chủ sở
hữu. Tuy nhiên ở Việt Nam thì báo cáo về sự thay đổi vốn chủ sở hữu đã được trình
bày kết hợp trong bản thuyết minh báo cáo tài chính.
2.1.2 Vai trò của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính được lập nhằm mục đích cung cấp thông tin về tình hình
tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng
nhu cầu cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế
(chuẩn mực kế toán số 21-Trình bày BCTC)
Đối với doanh nghiệp: BCTC cung cấp các thông tin hữu ích cho việc đưa ra
các quyết định quản lý đúng đắn, các cổ đông có thể sử dụng BCTC để theo dõi tình
hình quản lý vốn đầu tư, các nhà quản lý có thể dựa vào thông tin tài chính cung cấp
để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý. Ngoài ra BCTC còn phản ánh được bộ mặt
10
tài chính của doanh nghiệp, qua đó nếu bộ mặt tài chính tốt sẽ góp phần giúp doanh
nghiệp huy động vốn đầu tư dễ dàng.
Đối với nhà đầu tư: BCTC giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp
cận thông tin về tình hình hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp một
cách dễ dàng. BCTC cho phép các nhà đầu tư đánh giá về khả năng phát triển của
doanh nghiệp để đưa ra các quyết định đầu tư hiệu quả.
Đối với các cơ quan chức năng: BCTC giúp các cơ quan chức năng nắm bắt
được tình hình biến động của nền kinh tế thông qua các bức tranh tài chính của các
doanh nghiệp được cung cấp, qua đó có các biện pháp quản lý thị trường kịp thời
cũng như có các chính sách thích hợp để hỗ trợ cũng như xử lý các doanh nghiệp
trong từng tình huống cụ thể được phản ánh trên BCTC được cung cấp.
Mặc dù mỗi nhóm đối tượng khác nhau sử dụng BCTC để phục vụ cho các
mục đích khác nhau. Tuy nhiên tất cả các nhóm đối tượng này đều có một nhu cầu
chung là muốn được cung cấp các BCTC phản ánh các thông tin một cách minh
bạch, trung thực và hợp lý. Để có được những BCTC có độ tin cậy cao, đặc biệt là
BCTC được cung cấp bởi các doanh nghiệp niêm yết thì không thể không cần đến
sự tham gia của các công ty kiểm toán trong việc đưa ra ý kiến xác nhận về tính
trung thực và hợp lý cũng như sự tuân thủ các quy định và chuẩn mực hiện hành
của các BCTC được cung cấp.
2.2 KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ Ý KIẾN CỦA KIỂM TOÁN VIÊN.
2.2.1 Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là quá trình các kiểm toán viên và công ty kiểm
toán tiến hành kiểm tra, xác nhận về tính trung thực, hợp lý và tính tuân thủ các quy
định của chuẩn mực đối với các số liệu kế toán được trình bày trên báo cáo tài chính
của các đơn vị được kiểm toán.
Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công
ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng, báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở
tuân thủ các quy định của chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hay không? Có
tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu hay không? Ngoài ra mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp
11
cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng
cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
200)
2.2.2 Ý kiến của kiểm toán viên
Ý kiến của kiểm toán viên là kết quả tổng hợp cuối cùng của cuộc kiểm toán,
được kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán nhằm xác nhận về tính trung
thực và hợp lý cũng như tính tuân thủ chuẩn mực và các quy định pháp luật của các
báo cáo tài chính, tuy nhiên ý kiến của kiểm toán viên chỉ cung cấp cho người sử
dụng một sự đảm bảo hợp lý mà không phải sự đảm bảo tuyệt đối.
Ý kiến của kiểm toán viên làm tăng thêm sự tin cậy của báo cáo tài chính,
nhưng người sử dụng báo cáo tài chính không thể cho rằng ý kiến của kiểm toán
viên là sự đảm bảo về khả năng tồn tại của doanh nghiệp trong tương lai cũng như
hiệu quả và hiệu lực điều hành của bộ máy quản lý (Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 200)
2.2.3 Các dạng ý kiến kiểm toán
2.2.3.1 Theo quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành
Tại điều 34 của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 (1999) quy định, kiểm
toán viên sau khi kiểm toán thì có thể đưa ra một trong các loại ý kiến về báo cáo tài
chính như sau:
Ý kiến chấp nhận toàn phần
Ý kiến chấp nhận từng phần;
Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến);
Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược).
Ý kiến chấp nhận toàn phần: được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và
công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu tính hình tài chính của đơn vị được kiểm toán và phù hợp với
chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành. Ý kiến chấp nhận toàn phần
không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có
sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số -
700, 1999)
12
Ý kiến chấp nhận từng phần: được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và
công ty kiểm toán cho rằng, báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên
các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố tùy thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên nêu ra trong báo cáo kiểm
toán (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số - 700, 1999)
Ý kiến từ chối (không thể đưa ra ý kiến): được đưa ra trong trường hợp hậu quả
của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan
đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập
đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về báo cáo tài
chính (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số-700, 1999)
Ý kiến không chấp nhận (ý kiến trái ngược):được đưa ra trong trường hợp các
vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số
lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận
từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo
tài chính (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số - 700, 1999)
Ngoài ý kiến được trình bày trong báo cáo kiểm toán thì kiểm toán viên có thể
trình bày thêm những đoạn nhấn mạnh, hoặc những đoạn giải thích nhằm làm sáng
tỏ một vài yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính nhưng không
làm thay đổi ý kiến kiểm toán.
2.2.3.2 Theo quy định của chuẩn mực kiểm toán quốc tế
Căn cứ theo ISA-700, Ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính bao gồm hai dạng
chính, cụ thể là:
Ý kiến chấp nhận toàn phần (Unqualified opinion)
Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (Qualified opinion)
Ý kiến chấp nhận toàn phần (Unqualified opinion): được trình bày trong trường
hợp, báo cáo tài chính không chứa đựng các sai sót trọng yếu, việc trình bày báo
cáo tài chính là trung thực và hợp lý, tuân thủ các quy định liên quan. Ngoài ra ý
kiến chấp nhận toàn phần còn có thể bao gồm đoạn nhấn mạnh để làm sáng tỏ một
số vấn đề nhưng không ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên.
13
Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (Qualified opinion): được trình
bày trong trường hợp, báo cáo tài chính được kiểm toán có chứa đựng các sai sót
trọng yếu, hoặc kiểm toán viên bị giới hạn về phạm vi kiểm toán và sự giới hạn này
ảnh hưởng trọng yếu đến kết quả kiểm toán, hoặc có những bất đồng về những vấn
đề quan trọng giữa kiểm toán viên và người quản lý đơn vị được kiểm toán làm ảnh
hưởng đến kết quả kiểm toán.
Như vậy, Nếu so sánh với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam thì dạng ý kiến
không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (Qualified opinion) được quy định trong
ISA700 là sự bao gồm tổng hợp của ba dạng ý kiến kiểm toán còn lại được quy định
trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700, đó là ý kiến chấp nhận từng phần; ý
kiến từ chối và ý kiến không chấp nhận.
2.2.3.3 Đổi mới của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam theo chuẩn mực kiểm toán
Quốc tế về ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính.
Để tiến tới sự hòa hợp với chuẩn mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam luôn cố gắng cập nhật, sửa đổi và bổ sung kịp thời hơn. Những nỗ
lực của Việt Nam trong việc sửa đổi và bổ sung các chuẩn mực kiểm toán mới được
thể hiện qua 37 chuẩn mực kiểm toán mới đã được ban hành vào 06/12/2012 và sẽ
chính thức được áp dụng bắt đầu từ 1/1/2014. Trong số đó có ba chuẩn mực liên
quan đến ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính là:
VSA 700 – “Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về báo cáo
tài chính”
VSA 705 – “Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần”
VSA 706 – “Đoạn nhấn mạnh vấn đề và vấn đề khác trong báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính”
Những điểm mới trong các chuẩn mực mới ban hành về ý kiến kiểm toán đối với
báo cáo tài chính so với chuẩn mực cũ thể hiện ở chỗ:
Theo VSA 700 –“Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính” ban hành năm 1999
quy định có 4 loại ý kiến kiểm toán: (Đoạn 34, VSA 700 ban hành năm 1999)
- Ý kiến chấp nhận toàn phần
- Ý kiến chấp nhận từng phần (hoặc ý kiến ngoại trừ)
14
- Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến)
- Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược)
Theo VSA 700 mới đã phân loại ý kiến kiểm toán thành hai loại, đó là:
- Ý kiến chấp nhận toàn phần
- Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (Ý kiến sửa đổi)
Ý kiến chấp nhận toàn phần: trong VSA 700 (ban hành năm 1999, đoạn 37) thì
ý kiến chấp nhận toàn phần có thể bao gồm một đoạn nhận xét (hoặc nhấn mạnh) để
làm rõ một số yếu tố đã được trình bày trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, VSA 700
mới không quy định và hướng dẫn về “Đoạn nhấn mạnh” trong báo cáo kiểm toán.
“Đoạn nhấn mạnh” được quy định và hướng dẫn trong một chuẩn mực kiểm toán
mới, VSA 706 - “Đoạn nhấn mạnh hoặc đoạn khác trong báo cáo kiểm toán”.
Theo VSA 706 quy định và hướng dẫn rằng “đoạn nhấn mạnh” có thể bao
gồm trong báo cáo kiểm toán cho dù ý kiến kiểm toán là “Ý kiến chấp nhận toàn
phần” hoặc “Ý kiến không chấp nhận toàn phần”. Và “đoạn nhấn mạnh” không ảnh
hưởng tới ý kiến kiểm toán trong báo cáo kiểm toán.
Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần: được quy định và hướng dẫn
trong một chuẩn mực kiểm toán khác, VSA 705 - “Ý kiến kiểm toán không phải là
ý kiến chấp nhận toàn phần”. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705, kiểm
toán viên phải đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo
kiểm toán nếu thuộc một trong hai trường hợp.
Dựa trên bằng chứng kiểm toán thu thập được, kiểm toán viên kết luận rằng
báo cáo tài chính xét trên phương diện tổng thể còn chứa đựng sai sót trọng
yếu; hoặc
Kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp
để đưa ra kết luận rằng báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể
không còn chứa đựng sai sót trọng yếu.
Theo đoạn A1, VSA 705 hướng dẫn các loại ý kiến không phải là ý kiến chấp
nhận toàn phần, đánh giá của kiểm toán viên về bản chất của vấn đề dẫn tới việc
15
kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần, ảnh
hưởng lan tỏa hoặc ảnh hưởng nếu có của vấn đề lên báo cáo tài chính cũng như tác
động của vấn đề đến loại ý kiến đã được đưa ra.
Bảng 2.1: Các trường hợp được liệt kê vào loại ý kiến không phải là ý kiến
chấp nhận toàn phần
Tính chất của vấn đề dẫn Đánh giá của kiểm toán viên về ảnh
tới ý kiến sửa đổi (không phải hưởng lan tỏa hoặc ảnh hưởng nếu có lên
là ý kiến chấp nhận toàn phần) báo cáo tài chính
Trọng yếu nhưng Trọng yếu và có
không có ảnh hưởng ảnh hưởng lan
lan tỏa tỏa
Báo cáo tài chính có sai sót trọng Ý kiến chấp nhận Ý kiến trái ngược
yếu từng phần
Không có khả năng thu thập Ý kiến chấp nhận Ý kiến từ chối
được đầy đủ các bằng chứng từng phần
kiểm toán thích hợp
Như vậy, với sự điều chỉnh từ 4 dạng ý kiến kiểm toán (chuẩn mực kiểm toán
số 700, ban hành năm 1999) sang thành 2 dạnh ý kiến kiểm toán (chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam mới số 700; 705; 706) thì đây chính là một minh chứng cho sự cố
gắng của những người làm luật trong công cuộc đưa chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam ngày càng tiến gần đến chuẩn mực kiểm toán quốc tế.
Căn cứ vào các dạng ý kiến kiểm toán trong chuẩn mực kiểm toán mới dự thảo
và sắp ban hành. Các ý kiến kiểm toán được sử dụng trong nghiên cứu này cũng bao
gồm 2 loại là ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận
toàn phần. Như vậy tất cả các công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản
thuộc giai đoạn nghiên cứu từ năm 2008 đến năm 2010 nhận được ý kiến kiểm toán
về báo cáo tài chính mà thuộc 1 trong 3 dạng là ý kiến chấp nhận từng phần; ý kiến
16
từ chối và ý kiến không chấp nhận sẽ được gọi chung thành 1 dạng ý kiến là ý kiến
không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong nghiên cứu này.
2.3 TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC XÂY DỰNG VÀ BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010
Để chuẩn bị cho việc kiểm toán và đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài
chính, các kiểm toán viên cần phải có sự tìm hiểu ban đầu về đặc điểm lĩnh vực hoạt
động kinh doanh của khách hàng, những khó khăn cũng như thách thức mà khách
hàng đang gặp phải để có thể thiết kế những thủ tục kiểm toán thích hợp nhất. Do
phạm vi của nghiên cứu này chỉ đề cập đến các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây
dựng và BĐS trong giai đoạn 2008 – 2010 nên trước khi đi vào phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán, nghiên cứu xin đề cập đến một số đặc điểm nổi
bật của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS tại Việt Nam thuộc giai
đoạn 2008-2010 qua đó sẽ làm rõ một số nhân tố tác động lớn đến các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực này.
2.3.1 Đặc điểm lĩnh vực xây dựng và bất động sản làm cơ sở cho việc chọn biến
nghiên cứu.
Thứ nhất, Lĩnh vực xây dựng và bất động sản (BĐS) là một trong những ngành
có biến động cùng chiều với nền kinh tế. Chu kỳ kinh tế là một trong những yếu tố
quan trọng tác động lên hoạt động của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực. Thực tế cho thấy,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, lĩnh vực xây dựng đã không ngừng
tăng trưởng qua các năm. Đặc biệt trong khoảng từ 10 năm trở lại đây (ngoại trừ
giai đoạn suy thoái cuối năm 2008 đến đầu năm 2009). Tốc độc tăng trưởng bình
quân của ngành xây dựng đã vượt qua tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
BĐS luôn là lĩnh vực thu hút vốn đầu tư khi nền kinh tế ở cuối giai đoạn suy thoái
nhằm tạo nền tảng cho một giai đoạn tăng trưởng mới, như vậy sau một giai đoạn
suy thoái, lĩnh vực BĐS dự kiến sẽ là một trong các ngành có điều kiện thuận lợi để
phát triển nhanh chóng trong thời kỳ mới. Từ đặc điểm này cho ta thấy, tùy thuộc
vào từng thời kỳ biến động của kinh tế là khó khăn hay thuận lợi mà sẽ tác động
đến các chỉ tiêu trên BCTC của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này, điều này sẽ là
17
cơ sở để kiểm toán viên lưu ý đến việc lựa chọn các chỉ tiêu trên BCTC bị tác động
của thời kỳ tương ứng mà phân tích và đưa ra ý kiến kiểm toán thích hợp.
Thứ hai, Sự thay đổi cấu trúc kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại
hóa có ảnh hưởng tích cực tới lĩnh vực xây dựng – BĐS. Đặc điểm này được thể
hiện thông qua các khía cạnh sau:
Cùng với sự chuyển dịch của cấu trúc kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-
hiện đại hóa, nhu cầu xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ tăng lên
không ngừng.
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng tiếp tục đòi hỏi sự đầu tư cho
lĩnh vực xây dựng và BĐS.
Sự chuyển dịch lao động từ khu vực kinh tế nông nghiệp mang lại nguồn
nhân lực lớn cho lĩnh vực công nghiệp nói chung cũng như lĩnh vực xây
dựng – BĐS nói riêng. Như vậy có thể thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Việt Nam chính là tiền đề cho lĩnh vực xây dựng – BĐS phát
triển.
Qua đặc điểm này cho ta thấy xuất phát từ những thuận lợi nêu trên đã
làm cho lĩnh vực xây dựng và BĐS phát triển nhanh chóng trong những năm
qua. Tuy nhiên cũng vì sự phát triển quá nhanh và không có lộ trình cụ thể mà
bong bóng BĐS xuất hiện vào cuối năm 2008 đã làm ảnh hưởng rất lớn tới các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này. Chính vì vậy mà giai đoạn này các kiểm toán
viên cũng cần lưu ý đặc biệt về một số chỉ tiêu trình bày trên BCTC của các
doanh nghiệp BĐS để phát hiện và ngăn chặn những gian lận xảy ra qua đó đưa
ra ý kiến kiểm toán thích hợp nhất.
Thứ ba, Tiềm lực vốn của các doanh nghiệp trong ngành còn khiêm tốn:
Theo ước tính, số vốn đầu tư vào BĐS của Việt Nam có tới 60% là vốn vay
ngân hàng. Việc phụ thuộc khá lớn vào vốn ngân hàng không chỉ tiềm ẩn rủi ro
lãi suất mà còn khiến doanh nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng khi chính sách tiền tệ
có nhiều biến động. Đặc điểm này chính là lý do để nghiên cứu này lựa chọn
biến tỷ số đòn bảy nợ để nghiên cứu tác động đối với ý kiến kiểm toán.
18
Thứ tư, Hiệu quả đầu tư thấp: Nếu lấy chỉ sổ ICOR để đánh giá chất lượng
đầu tư nói chung, có thể thấy hiệu quả sử dụng đầu tư và sử dụng vốn của Việt Nam
còn thấp. Chỉ số ICOR của Việt Nam tăng khá nhanh và cao hơn nhiều so với các
quốc gia trên thế giới và trong khu vực. Vì lĩnh vực xây dựng và BĐS đòi hỏi số
vốn đầu tư lớn trong khi hiệu quả đầu tư chưa cao, điều này có thể làm cơ sở để các
doanh nghiệp thực hiện các kỹ thuận gian lận BCTC để thuận lợi cho việc huy động
vốn. Đặc điểm này chính là cơ sở để nghiên cứu này lựa chọn các tỷ số phản ảnh
khả năng sinh lời làm biến tác động đến ý kiến kiểm toán.
Thứ năm, Nguồn cung có dấu hiệu vượt quá cầu trong một số phân khúc thị
trường: Với lợi suất cao, một số dự án đầu tư BĐS đang tập trung và phân khúc thị
trường trung cấp và cao cấp. Tuy nhiên “nhà ở thực sự” với thị trường này không
cao. Thực tế sau thời gian sốt, phân khúc thị trường chung cư cao cấp ở TP.HCM và
Hà Nội đang có dấu hiệu chững lại. Đây cũng là một trong những lý do mà nghiên
cứu đã lựa chọn biến tỷ số vòng quay hàng tồn kho trong giai đoạn này để nghiên
cứu tác động đến ý kiến kiểm toán.
Như vậy, căn cứ vào những điểm mạnh và điểm yếu của thị trường xây dựng
và BĐS tại Việt Nam tính đến năm 2010, chúng ta cũng có thể thấy được những
khó khăn vẫn còn rất nhiều. Trong những khó khăn còn tồn tại, có những doanh
nghiệp tìm cách đối phó bằng những chính sách kinh doanh thiết thực, tuy nhiên có
những doanh nghiệp lại tìm cách gian lận để làm đẹp báo cáo tài chính nhằm thu
hút vốn từ những nhà đầu tư. Chính vì vậy mà căn cứ vào những khó khăn đang tồn
tại trong lĩnh vực này, các kiểm toán viên cần phải lưu ý đến những gian lận có thể
tác động đến loại đối tượng kế toán trên báo cáo tài chính, qua đó có thể đưa ra ý
kiến kiểm toán hợp lý nhất đối với từng doanh nghiệp cụ thể. (Nguồn từ trang báo
Wall Stress-Chứng khoán phố wall)
2.3.2 Ảnh hưởng của các chính sách ban hành đến thị trường xây dựng và BĐS
giai đoạn 2008-2010
Như chúng ta đã biết, BĐS là nguồn tài sản có giá trị của mỗi quốc gia, thị
trường BĐS biến động sẽ ảnh hưởng tới hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội. Do
19
đó, các vấn đề về BĐS cần phải có sự điều chỉnh, chi phối của hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam, thị trường BĐS mới dừng ở giai đoạn đang phát
triển, như vậy trong giai đoạn này, thị trường BĐS còn chịu tác động rất lớn từ
những chính sách của nhà nước. Để quản lý thị trường BĐS đi vào nề nếp thì trong
giai đoạn 2008-2010, các Bộ, Ban ngành liên quan đã ban hành một số văn bản
pháp luật chi phối tới hoạt động của lĩnh vực này. Như vậy các kiểm toán viên cũng
cần phải quan tâm đến sự tác động của các chính sách ban hành đến lĩnh vực này để
đánh giá những ảnh hưởng của chúng đến các chỉ tiêu trên BCTC, qua đó sẽ chọn
lựa những chỉ tiêu trên BCTC có xu hướng xuất hiện gian lận để phân tích và đưa ra
ý kiến kiểm toán phù hợp. Một số chính sách nổi bật tác động đến lĩnh vực xây
dựng và BĐS thuộc giai đoạn này bao gồm:
Đầu tiên phải kể đến Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12 được Quốc Hội khóa VII,
kỳ họp thứ 3 ban hành ngày 3/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân người
nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Có thể nói Nghị quyết này được đưa
ra đã góp phần khơi thông thị trường bất động sản dành cho người nước ngoài, qua
đó giúp cho các doanh nghiệp xây dựng và bất động sản tại Việt Nam sẽ có thêm
nhiều cơ hội để mở rộng và hội nhập với thế giới, thúc đẩy lĩnh vực này ngày càng
phát triển.
Kế đến là quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ban
hành ngày 12/12/2008 về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. Với sự ra đời của
quyết định này thì các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản sẽ có
thêm nhiều cơ hội kinh doanh vì từ đó các sản phẩm nhà ở cho người nghèo và
người thu nhập thấp sẽ phát triển, qua đó thúc đẩy thị trường vật liệu xây dựng phát
triển và cuối cùng là tạo được nhiều cơ hội cho người nghèo được sở hữu nhà ở của
riêng mình bằng các chính sách ưu đãi về lãi suất và nguồn vốn vay.
Đến năm 2009, việc ban hành Nghị quyết số 18/2009/NQ-CP ngày 20/4/2009
của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho
học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu
công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; Quyết định số
65/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành một số cơ
20
chế, chính sách phát triển nhà ở cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Việc ra đời của các Nghị định và thông tư này đã
có ý nghĩa rất lớn đối với lĩnh vực xây dựng và bất động sản, vì cơ hội cho các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này sẽ được mở rộng đối với phân khúc nhà ở cho sinh
viên, học sinh và công nhân lao động.
Đến năm 2010, để tiếp tục tháo gỡ những khó khăn cho lĩnh vực xây dựng và
bất động sản, đồng thời quản lý chặt chẽ hơn những lỗ hổng còn tồn tại của lĩnh vực
này, các cơ quan chức năng liên quan tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đồng
thời ban hành nhiều văn bản mới liên quan tới lĩnh vực này, Một trong những văn
bản quan trọng được ban hành trong năm 2010 đó là:
Nghị định 71/2010/NĐ-CP: Có hiệu lực kể từ ngày 8/8/2010 – được coi là
điểm nóng của thị trường BĐS năm 2010. Nghị định quy định chi tiết và cụ thể hơn
các hình thức huy động vốn BĐS, đây được xem là một bước tháo gỡ nút thắt
những khó khăn về vốn cho doanh nghiệp BĐS. Điểm tích cực của nghị định 71 là
sẽ giúp nhà đầu tư phát triển nguồn vốn, tăng vốn một cách lành mạnh và minh
bạch. Đồng thời, để tham gia thị trường BĐS, cả chủ đầu tư và các công ty thứ cấp
phải có kế hoạch và năng lực tài chính nhất định. Nghị định 71 có hiệu lực sẽ làm
nên cuộc thanh lọc trên thị trường BĐS, chỉ những doanh nghiệp có năng lực và
chuyên nghiệp thì mới có thể tồn tại.
Thông tư 13/2010/TT-NHNN: Có hiệu lực từ ngày 1/10/2010. TT quy định
nâng hệ số rủi ro của các khoản vay BĐS lên đến 250% (trước đây là 100%), cùng
với đó hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng tăng lên 9% sẽ dẫn đến việc vay
vốn mua nhà khó khăn hơn. Tuy nhiên nhìn theo hướng tích cực, thông tư 13 sẽ
giúp hệ thống ngân hàng bảo đảm được an toàn vốn và ổn định hơn trong trường
hợp có biến động không tích cực từ kinh tế vĩ mô. Tóm lại, trong ngắn hạn, thị
trường BĐS có thể gặp nhiều khó khăn vì dòng vốn bị thắt chặt theo thông tư 13,
đồng thời vẫn đang thích ứng dần với nghị định 71. Tuy nhiên về dài hạn, cả hai
chính sách này đều nhằm mục đích hướng thị trường BĐS phát triển bền vững và
ổn định hơn, giúp thanh lọc thị trường và loại khỏi cuộc chơi những doanh nghiệp
không có tính chuyên nghiệp cao và năng lực tài chính thấp kém.
21
Kết luận chương 2:
Vì mỗi một lĩnh vực hoạt động thì có những đặc thù riêng tác động đến các đối
tượng kế toán được thể hiện trong báo cáo tài chính, các kiểm toán viên không chỉ
cần phải thực hiện các thủ tục kiểm toán chung, giống nhau cho tất cả các doanh
nghiệp mà còn phải có những hiểu biết về đặc điểm lĩnh vực hoạt động của khách
hàng, qua đó có những lưu ý đối với những đối tượng kế toán đặc thù của lĩnh vực
đó để tập trung kiểm toán kỹ hơn. Dựa vào một số đặc điểm khác nhau giữa các
doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau, Nghiên cứu này tiếp tục kế
thừa những thành quả đạt được của các nghiên cứu trước để đi sâu xây dựng mô
hình dự đoán ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính dành riêng cho các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS tại Việt Nam, một lĩnh vực có nhiều biến
động thăng trằm và vẫn chưa thoát khỏi khó khăn của nên kinh tế.
Để chuẩn bị cho các bước phân tích tiếp theo với các số liệu thực tế thu thập
được thì việc đưa ra các lý thuyết tổng quan đóng vai trò nền tảng và là cơ sở lý
luận ban đầu, làm điểm xuất phát cho nghiên cứu tiếp tục thực hiện. Đây chính là
nền tảng và là định hướng để chúng ta tiếp tục đi vào xây dựng các giả thuyết, mô
hình và phương pháp nghiên cứu phù hợp.
22
CHƯƠNG 3
GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
3.1.1 Lựa chọn các biến đưa vào mô hình.
Có rất nhiều nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến việc hình thành ý kiến kiểm
toán. Trong các nhân tố này thì có những nhân tố đã được sử dụng trong các nghiên
cứu trước đó như: Muchler (1985) đã sử dụng biến gồm 6 tỷ số tài chính phản ánh
về tính thanh khoản; khả năng hoạt động; khả năng sinh lời…để đưa vào phân tích
mô hình, ngoài ra biến phi tài chính cũng được Muchler sử dụng trong nghiên cứu
gồm biến giả các thông tin tốt và thông tin xấu, biến ý kiến kiểm toán năm trước.
Trong nghiên cứu tiếp theo của mình vào năm 1986, Muchler tiếp tục mở rộng biến
nghiên cứu trong mô hình dự đoán gồm biến quy mô doanh nghiệp và biến loại
công ty kiểm toán. Dopuch và các cộng sự (1987) cũng đã kết hợp cả biến tài chính
và biến thị trường như, thời gian niêm yết, sự thay đổi hệ số beta, giá trị thặng
dư….để xây dựng mô hình dự đoán. Hughes và sankar (1997) còn nghiên cứu thêm
ảnh hưởng của biến giả bị kiện tụng đến ý kiến kiểm toán. Ngoài ra còn rất nhiều
các nghiên cứu khác có sử dụng một số biến mới trong phân tích để xây dựng mô
hình dự đoán như Laitinen (1988); Reynolds và Francis (2001)…(Nguyễn Thiên Tú,
2012)
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của cả biến
tài chính và biến phi tài chính đến việc hình thành ý kiến kiểm toán đối với báo cáo
tài chính của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS được niêm yết.
Các biến được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm biến tài chính là các tỷ số tài
chính phản ánh cơ cấu tài chính; tính thanh khoản; khả năng sinh lời; khả năng hoạt
động và các biến phi tài chính gồm: Quy mô công ty; kích cỡ công ty kiểm toán và
ý kiến kiểm toán năm trước. Việc lựa chọn các biến này đưa vào mô hình dựa trên
các cơ sở sau:
23
Thứ nhất, Các biến này được sử dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu
trước đó và một số biến được chứng minh là có ảnh hưởng đến việc hình thành loại
ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính.
Thứ hai, Các biến này có thể được đo lường và thu thập dễ dàng dựa trên báo
cáo tài chính đã được kiểm toán và báo cáo kiểm toán của các doanh nghiệp niêm
yết.
Thứ ba, Các biến tài chính được chọn một phần phản ánh được đặc thù của
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS đó là, vốn đầu tư lớn; tỷ lệ nợ
cao; số vòng quay của hàng tồn kho chậm hơn so với các doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực khác.
3.1.2 Đặt giả thuyết nghiên cứu cho các biến
3.1.2.1Biến phân tích cơ cấu tài chính
Cơ cấu tài chính của một doanh nghiệp phản ánh việc doanh nghiệp sử dụng
chủ yếu là vốn vay hay vốn chủ sở hữu để tài trợ cho các hoạt động. Nếu doanh
nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho hoạt động của mình thì có nghĩa doanh nghiệp
đang sử dụng đòn bảy tài chính. Một doanh nghiệp có tỷ số đòn bảy tài chính cao
đồng nghĩa với việc nếu sử dụng vốn vay hiệu quả thì sẽ đẩy lợi nhuận doanh
nghiệp tăng cao, ngược lại doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro tài chính lớn nếu vốn vay
không được sử dụng hiệu quả. Một số nghiên cứu trước đây cũng đã sử dụng tỷ số
đòn bảy tài chính để đưa vào mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán (Muchler-1985;
Muchler-1986; Goodman và các cộng sự; Zmijewski-1984...). Trong nghiên cứu
này, biến được chọn để phân tích ảnh hưởng của cơ cấu tài chính đến ý kiến kiểm
toán là tỷ số tổng nợ phải trả/tổng tài sản. Việc lựa chọn tỷ số này dựa trên cơ sở
sau:
Tỷ số này đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đó và được chứng
minh là có tác động đến ý kiến kiểm toán; Gaganis và các cộng sự (2007) đã chỉ ra
rằng, các công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần thường có tỷ lệ tự tài trợ cao;
Muchler (1985) đã sử dụng tỷ số nợ phải trả/tổng tài sản kết hợp với một số tỷ số tài
chính khác cho ra kết quả dự đoán ý kiến kiểm toán với xác suất đúng là 82%;
24
Dopuch và cộng sự (1987) đã chỉ ra rằng, tỷ số nợ phải trả/tổng tài sản là một trong
những tỷ số có đóng góp quan trọng nhất cho mô hình dự đoán.
Trong nghiên cứu này, biến độc lập được chọn là tổng nợ phải trả/tổng tài
sản được kỳ vọng sẽ có mối quan hệ nghịch chiều với ý kiến chấp nhận toàn phần.
Từ đây ta có thể đặt giả thiết cho biến này như sau:
H1: Các doanh nghiệp sử dụng nợ càng cao thì khả năng nhận ý kiến chấp
nhận toàn phần càng thấp.
Số liệu dùng để tính toán tỷ số này là dựa trên chỉ tiêu tổng nợ phải trả và chỉ
tiêu tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán đã được kiểm toán của các doanh nghiệp
xây dựng và BĐS trong giai đoạn 2008-2010.
3.1.2.2 Biến phân tích tính thanh khoản
Tính thanh khoản của một doanh nghiệp phản ánh khả năng thanh toán của
doanh nghiệp trong ngắn hạn; trong dài hạn hoặc khả năng thanh toán nhanh của
doanh nghiệp đó, tùy thuộc vào chỉ tiêu được sử dụng để tính toán. Một số nghiên
cứu trước đây cũng đã sử dụng tỷ số tài chính phản ánh tính thanh khoản để nghiên
cứu mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán như: Muchler (1985; 1986); Spathis và các
cộng sự (2003); Goodman và các cộng sự. Dựa trên cơ sở của những nghiên cứu
trước đó về các biến này, Nghiên cứu này quyết định lựa chọn hai tỷ số phản ánh
tính thanh khoản làm biến độc lập để đưa vào mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán đó
là: tỷ số thanh toán nhanh, tỷ số thanh toán hiện hành. (Nguyễn Thiên Tú, 2012)
Việc lựa chọn các tỷ số này làm biến độc lập được dựa trên cơ sở sau:
Thứ nhất: Trong nhiều tỷ số phản ánh tính thanh khoản thì các tỷ số này đã
được các nghiên cứu trước đó sử dụng khá phổ biến (Muchler-1985; 1986; Spathis
và các cộng sự -2003). Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, các tỷ số phản ánh tính
thanh khoản đều có ảnh hưởng đến việc hình thành ý kiến kiểm toán.
Thứ hai: Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS thì trị
giá tài sản là hàng tồn kho chiếm tỷ trọng khá lớn, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế
khó khăn thì tài sản là hàng tồn kho càng tăng cao, chính vì vậy nên tỷ số thanh toán
hiện hành của các doanh nghiệp này nếu cao là do có tính đến giá trị của hàng tồn
kho trong tổng tài sản, nhưng các kiểm toán viên cần phải tính thêm tỷ số thanh
25
toán nhanh sau khi đã loại trừ giá trị hàng tồn kho để đánh giá đúng khả năng thanh
toán của công ty trước khi đưa ra ý kiến.
Căn cứ vào kết quả của các nghiên cứu trước đó. Tỷ số tính thanh khoản
được kỳ vọng có mối quan hệ cùng chiều với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần.
Từ đó ta có thể đặt giả thuyết như sau:
H2: Các doanh nghiệp có tính thanh khoản càng cao thì khả năng nhận
được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần càng cao.
Số liệu dùng làm căn cứ tính các tỷ số thanh toán hiện hành và tỷ số thanh
toán nhanh được lấy từ các chỉ tiêu: Tài sản ngắn hạn, nợ phải trả ngắn hạn, trị giá
hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán đã được kiểm toán trong giai đoạn 2008-
2010.
3.1.2.3 Biến phân tích khả năng sinh lời
Các tỷ số phản ánh khả năng sinh lời cũng là một trong những biến được sử
dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu trước đó (Muchler-1985; 1986; Spathis và
cộng sự-2003; Goodman và cộng sự…) một trong số những tỷ số tài chính phản ánh
khả năng sinh lời được các nghiên cứu này sử dụng là: Lợi nhuận sau thuế/tổng tài
sản; thu nhập thuần trước thuế/doanh thu thuần; lãi ròng/doanh thu thuần; lợi nhuận
trước thuế và lãi vay/Tổng tài sản. (Nguyễn Thiên Tú, 2012). Trong nghiên cứu
này, tỷ số được chọn làm biến độc lập là tỷ số lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần
và tỷ số lợi nhuận trước thuế/doanh thu thuần và tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi
vay (Ebit)/doanh thu thuần. Việc chọn biến dựa trên các cơ sở sau:
Thứ nhất: Một trong các tỷ số này là tỷ số lợi nhuận trước thuế/tổng doanh
thu thuần đã được các nghiên cứu trước đó sử dụng và chứng minh có ảnh hưởng
đến ý kiến kiểm toán báo cáo tài chính (Pinches và cộng sự -1973; Spathis và cộng
sự-2003; Gaganis và cộng sự -2007; Mutchler – 1986)
Thứ hai: Lý do để nghiên cứu này sử dụng tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi
vay/doanh thu thuần và tỷ số lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần là vì trong quá
trình phân tích mối liên hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc, một số biến
độc lập sẽ bị loại trừ ra do không có khả năng phân biệt ý kiến kiểm toán, mặt khác
trong quá trình phân tích sẽ xảy ra hiện tượng cộng tuyến giữa các biến độc lập nên
26
nghiên cứu này muốn chọn thêm hai biến phân tích khả năng sinh lời để trong quá
trình phân tích, một số biến bị loại ra và tác giả có thể chọn được một biến tốt nhất.
Căn cứ vào các kết quả từ các nghiên cứu trước đó. Biến tỷ số phản ánh khả
năng sinh lợi được kỳ vọng là có quan hệ cùng chiều với ý kiến kiểm toán chấp
nhận toàn phần. Từ đó ta có thể đặt giả thuyết như sau:
H3: Các doanh nghiệp có khả năng sinh lời càng cao thì khả năng nhận
được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần càng cao.
Căn cứ để tính các tỷ số này là dựa vào các chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế và
lãi vay; chi tiêu lợi nhuận sau thuế và chỉ tiêu doanh thu thuần trên bảng báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh đã được kiểm toán trong giai đoạn 2008-2010.
3.1.2.4 Biến phân tích khả năng hoạt động
Các nghiên cứu trước đây đã sử dụng một số tỷ số tài chính thuộc nhóm phân
tích khả năng hoạt động của doanh nghiệp để đưa vào mô hình dự đoán ý kiến kiểm
toán báo cáo tài chính, các tỷ số thường được sử dụng là: Doanh thu/tổng tài sản
(Spathis và cộng sự-2003); doanh thu/hàng tồn kho; số vòng quay của hàng tồn kho
.Nghiên cứu này sử dụng hai tỷ số là: tỷ số tổng doanh thu/tổng tài sản và số vòng
quay của hàng tồn kho để làm biến độc lập đưa vào nghiên cứu. Việc lựa chọn này
là dựa trên cơ sở:
Thứ nhất: Tỷ số tổng doanh thu/tổng tài sản đã được Spathis và cộng sự
(2003) chứng minh là có đóng góp quan trọng cho mô hình dự đoán ý kiến kiểm
toán, trong khi đó thì tỷ số phải thu/doanh thu và tỷ số phải thu trên hàng tồn kho ít
ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán.
Thứ hai: Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS thì trị giá tài
sản phần lớn là trị giá hàng tồn kho, do hàng tồn kho của các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực này thường có giá trị lớn nên nếu không quản lý hiệu quả hàng tồn kho, tức
hàng tồn kho không quay vòng nhanh sẽ dẫn đến bị ứ đọng vốn, làm tăng thời gian
chi trả lãi vay dẫn đến hoạt động kém hiệu quả.
Căn cứ vào kết quả từ những nghiên cứu trước đó. Biến tỷ số tổng doanh
thu/tổng tài sản được kỳ vọng là có quan hệ cùng chiều với ý kiến kiểm toán chấp
nhận toàn phần. Từ đây ta có thể đặt ra giả thuyết như sau:
27
H4: Các doanh nghiệp có tỷ số tổng doanh thu/tổng tài sản càng cao, số
vòng quay của hàng tồn kho càng cao thì khả năng nhận được ý kiến kiểm toán
chấp nhận toàn phần sẽ càng tăng.
Căn cứ dùng để tính tỷ số này là dựa trên chỉ tiêu tổng doanh thu trên bảng
báo cáo kết quả kinh doanh và chỉ tiêu tổng tài sản, chỉ tiêu hàng tồn kho trên bảng
cân đối kế toán đã được kiểm toán trong giai đoạn 2008-2010.
3.1.2.5 Biến quy mô công ty
Biến quy mô công ty đã được Muchler sử dụng như một biến phi tài chính để
xây dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán liên quan đến vấn đề giả định hoạt
động liên tục. Kết quả là Muchler (1986) đã chỉ ra hai lý do liên quan đến quy mô
công ty đó là, Thứ nhất: các công ty nhận được ý kiến kiểm toán có liên quan đến
vấn đề giả định hoạt động liên tục thì trung bình có kích cỡ nhỏ hơn các công ty
nhận được ý kiến kiểm toán không liên quan đến giả định hoạt động liên tục; thứ
hai: Các công ty được kiểm toán bởi Non-Big Eight thì trung bình có kích cỡ nhỏ
hơn các công ty được kiểm toán bởi Big-eight.
Để đánh giá quy mô công ty, các nhà nghiên cứu có thể dựa vào các chỉ tiêu
độc lập hoặc kết hợp các chỉ tiêu phụ thuộc như là: Tổng tài sản; tổng doanh thu; số
lượng cổ phần; vốn chủ sở hữu. Vì mỗi biến được chọn đều đại diện cho một khía
cạnh khác nhau của biến quy mô nên việc đánh giá quy mô doanh nghiệp dựa trên
biến phụ thuộc nào là hoàn toàn dựa trên chủ đích của người nghiên cứu.
Dựa vào kết quả của các nghiên cứu trước có sử dụng biến quy mô công ty.
Biến này được kỳ vọng sẽ có quan hệ cùng chiều với ý kiến kiểm toán chấp nhận
toàn phần. Từ đây chúng ta có thể đưa ra giả thuyết như sau:
H5: Các công ty có quy mô lớn thì khả năng năng nhận ý kiến kiểm toán
chấp nhận toàn phần cao hơn các công ty có quy mô nhỏ và vừa.
Theo NĐ 56/2009/NĐ-CP, căn cứ vào quy mô tổng nguồn vốn tương đương
với tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp hoặc căn cứ vào số lao
động bình quân năm để phân loại doanh nghiệp nhỏ, vừa, trong đó căn cứ để ưu tiên
phân loại là dựa vào tổng nguồn vốn hoặc tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán.
28
Theo đó doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có tổng tài sản đạt từ 20 tỷ đồng đến
100 tỷ đồng hoặc có số lao động từ 200 đến 300 người.
Nghiên cứu này quyết định dựa vào tiêu chí tổng tài sản trên bảng cân đối kế
toán để phân loại doanh nghiệp thành hai nhóm; nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn
gồm các doanh nghiệp có tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán vào cuối năm đạt
trên 100 tỷ đồng trở lên; ngược lại là nhóm doanh nghiệp thuộc quy mô nhỏ và vừa.
Việc phân loại quy mô dựa trên tổng tài sản cũng đã được thực hiện trong nghiên
cứu của Horrigan (1966).
Do biến quy mô công ty kiểm toán là biến định danh, vì vậy để có thể phân
tích thống kê, các biến này sẽ được chuyển thành các biến giả định lượng bằng việc
mã hóa. Trong đó, biến doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ được mã hóa là 1; các
doanh nghiệp thuộc nhóm quy mô nhỏ và vừa sẽ được mã hóa là 0.
3.1.2.6 Biến kích cỡ công ty kiểm toán
Theo nghiên cứu của Muchler (1986), ông đã phân loại công ty kiểm toán
thành hai dạng là công ty Big Eight và non-Big eight. Kết quả trong nghiên cứu của
ông cho thấy biến kích cỡ công ty kiểm toán có ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán về
khả năng hoạt động liên tục đối với báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm
yết. Reynolds và Francis (2001) cũng đã chỉ ra rằng các kiểm toán viên của công ty
kiểm toán Big Five thường có tính độc lập cao hơn các kiểm toán viên của công ty
kiểm toán Non- Big five trong việc đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến
chấp nhận từng phần. Điều này có thể do các công ty kiểm toán lớn sợ ảnh hưởng
đến uy tín nghề nghiệp và do họ nhận các khoản phí kiểm toán cao hơn nên họ sẽ
phải thực hiện kiểm toán kỹ hơn và thận trọng hơn, trong khi các công ty kiểm toán
nhỏ do bị áp lực mất khách hàng và sự cạnh tranh bởi các doanh nghiệp khác nên họ
dễ dàng phát hành ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần hơn.
H6: Các doanh nghiệp được kiểm toán bởi Big4 thì khả năng nhận được ý
kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần thấp hơn các doanh nghiệp được kiểm toán bởi
Non Big4.
Các nghiên cứu trước đây phân loại công ty kiểm toán thành nhiều dạng là
Big Eight và Non-Big eight như trong nghiên cứu của Muchler (1986); Big Five và
29
Non-Big Five như trong nghiên cứu của Reynolds và Francis (2001). Trong nghiên
cứu này, các công ty kiểm toán sẽ được chia thành hai nhóm là nhóm công ty kiểm
toán Big4 và nhóm còn lại là các công ty kiểm toán không phải là Big4 (NonBig4).
Việc phân nhóm dựa vào tiêu chí này đã được sử dụng ở khá nhiều nghiên cứu
trước đó.
Do biến loại công ty kiểm toán là biến định danh nên để phân tích thống kê,
biến định danh cần phải được chuyển thành biến giả bằng việc mã hóa lại thành
dạng số. Trong nghiên cứu này, nhóm công ty kiểm toán Big4 sẽ được mã hóa là 1,
ngược lại các công ty NonBig4 sẽ được mà hóa là 0.
3.1.2.7 Biến ý kiến kiểm toán năm trước
Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng ý kiến kiểm toán năm trước
có ảnh hưởng đến kết quả hình thành ý kiến kiểm toán năm hiện tại. Cụ thể là trong
nghiên cứu của Muchler (1985) đã chỉ ra rằng các công ty đã nhận được ý kiến
kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong năm đầu tiên do liên
quan đến vấn đề hoạt động liên tục thì cũng có nhiều khả năng nhận được ý kiến
tương tự cho năm hiện tại. Với mô hình chỉ sử dụng tỷ số tài chính thì xác suất đoán
đúng khoảng 83%, tuy nhiên nếu kết hợp với biến ý kiến kiểm toán năm trước thì
khả năng đoán đúng của mô hình lên đến 90%. Trong nghiên cứu này thì biến ý
kiến kiểm toán năm trước được mong đợi cũng có quan hệ cùng chiều với biến ý
kiến kiểm toán năm hiện tại. Vì vậy giả thuyết được đưa ra là:
H7: Các công ty nhận được ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận
toàn phần ở năm trước thì khả năng cũng sẽ nhận được ý kiến kiểm toán tương tự
trong năm hiện tại.
Do biến ý kiến kiểm toán năm trước là biến định danh, vì vậy để có thể phân
tích thống kê, nghiên cứu này mã hóa các dạnh thể hiện của ý kiến kiểm toán bằng
các con số cụ thể. Căn cứ theo ISA 700 và VSA 700 sửa đổi thì ý kiến kiểm toán có
hai loại trong đó, Loại ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần sẽ được mã hóa là 1,
ngược lại loại ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần sẽ được mã hóa là 0.
Tóm lại các biến được lựa chọn đưa vào mô hình này bao gồm:
30
Biến phụ thuộc là: “ý kiến kiểm toán”, đây là biến phụ thuộc dạng nhị phân
tức là chỉ có hai biểu hiện, mỗi biểu hiện được mã hóa bằng một con số cụ thể như:
ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần được mã hóa là 1, biến ý kiến chấp nhận từng
phần được mã hóa là 0.
Biến độc lập được lựa chọn đưa vào phân tích gồm hai nhóm là: nhóm biến
phi tài chính và một nhóm biến gồm các tỷ số tài chính. Cụ thể là:
Bảng 3.1 Các biến độc lập là biến phi tài chính được sử dụng trong
nghiên cứu:
Ký hiệu biến Tên biến độc lập
T1 Ý kiến kiểm toán năm trước
T2 Công ty kiểm toán
T3 Quy mô công ty được kiểm toán
Bảng 3.2 Các biến độc lập là các tỷ số tài chính được sử dụng trong
nghiên cứu
Nhóm biến Biến độc lập
1.Phân tích cơ
cấu tài chính
2. Phân tích
khả năng
thanh toán
3.Phân tích
khả năng sinh
lời
31
4.Phân tích
khả năng hoạt
động
3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1 Chọn mẫu công ty nghiên cứu.
Do mục đích của nghiên cứu này là mong muốn xây dựng mô hình dự đoán
ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây
dựng và bất động sản được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai
đoạn 2008 – 2010. Chính vì vậy mà mẫu công ty được chọn đưa vào nghiên cứu
này là tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và BĐS có niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (bao gồm sàn chứng khoán HNX; HSX;
sàn Upcom và sàn OTC) trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010. Việc chọn
mẫu công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngoài việc đáp ứng mục
tiêu của đề tài, còn có lý do là dễ dàng trong việc thu thập số liệu. Vì các công ty
niêm yết, theo yêu cầu phải cung cấp công khai thông tin về tình hình tài chính trên
trang web chứng khoán cũng như trên trang web của công ty.
Ngoài việc chọn các công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS được niêm yết
để dùng làm số liệu phân tích thì việc chọn giai đoạn của nghiên cứu là 2008-2010
mà không phải là giai đoạn khác vì một số lý do là:
Thứ nhất: Các doanh nghiệp được niêm yết trong giai đoạn này thì phần lớn
đã công bố các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, như vậy thì số liệu thu thập sẽ
đầy đủ và có độ tin cậy cao.
Thứ hai: Mục đích của nghiên cứu là xây dựng được mô hình dự đoán ý kiến
kiểm toán đối với báo cáo tài chính. Ý nghĩa quan trọng của mô hình dự đoán là nó
có thể dùng để dự đoán về ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính trong các giai
đoạn khác nhau căn cứ vào kết quả đạt được. Chính vì vậy mà việc lấy số liệu phân
tích trong giai đoạn 2008-2010 thì kết quả mô hình đạt được vẫn có ý nghĩa dự đoán
cho các giai đoạn khác.
32
Thứ ba: Do số liệu tài chính của từng công ty trong từng năm là các biến độc
lập được sử dụng trong phân tích nên việc lấy số liệu trong giai đoạn năm 2008-
2010 hay số liệu trong giai đoạn khác cũng không ảnh hưởng đến kết quả tổng thể
của nghiên cứu.
Căn cứ vào dữ liệu công bố trên website của các doanh nghiệp kết hợp với
thông tin tổng hợp về các doanh nghiệp được cung cấp trên trang điện tử
http://cafef.vn vào ngày 06/04/2013. Tổng số doanh nghiệp niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam gồm có 1.211 doanh nghiệp trong đó có 280 doanh nghiệp
niêm yết thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS. Cụ thể, sàn HSX có 332 doanh nghiệp
niêm yết trong đó có 100 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS. Sàn HNX
có 412 doanh nghiệp niêm yết, trong đó có 177 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây
dựng và BĐS; sàn Upcom có 144 doanh nghiệp niêm yết, trong đó có 2 doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS và cuối cùng là sàn OTC có 323 công ty
niêm yết trong đó có 1 công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS.
Trong tổng số 280 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS được niêm
yết trên các sàn thì có 42 công ty bị loại, nguyên nhân là do một số công ty có thông
tin tài chính được công bố trên các trang website nhưng lại gặp lỗi update và một số
thì có cung cấp báo cáo tài chính được kiểm toán nhưng không liên tục trong hai
năm, như vậy các công ty này sẽ không đáp ứng được các tiêu chuẩn của nghiên
cứu nên sẽ bị loại. Trong số các công ty còn lại gồm 238 công ty thì có 58 công ty
cung cấp báo cáo tài chính trong suốt 3 năm hoặc 2 năm liên tiếp thiếu độ tin cậy do
không có dấu mộc của công ty kiểm toán và các cơ quan chức năng căn cứ trên
kênh thu thập thông tin của nghiên cứu này công bố. Như vậy 58 công ty trên tiếp
tục bị loại bỏ ra khỏi nghiên cứu và chỉ còn lại 180 công ty thỏa mãn điều kiện. Để
tiến hành phân tích và xử lý số liệu, nghiên cứu tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên
gồm 133 ý kiến kiểm toán từ tổng thể gồm 180 công ty thỏa mãn điều kiện, trong
133 ý kiến kiểm toán được đưa vào mô hình dự đoán thì có 30 ý kiến kiểm toán
chấp nhận từng phần và 103 ý kiến chấp nhận toàn phần. So sánh với mẫu dùng để
phân tích trong các nghiên cứu trước đó ta thấy, có những mô hình nghiên cứu sử
dụng mẫu trên 100 công ty như Mutchler (1985) dùng một mẫu phân tích ban đầu
33
gồm 238 công ty và một mẫu kiểm tra gồm 84 công ty. Tuy nhiên có những nghiên
cứu sử dụng mẫu dưới 100 công ty như nghiên cứu của Spathis và các cộng sự
(2003) mẫu được chọn ngẫu nhiên đưa vào nghiên cứu gồm 76 công ty của hy lạp.
Như vậy mẫu được chọn trong nghiên cứu này cũng đã được coi là đủ lớn để có thể
đại diện cho tổng thể.
Để hiểu rõ hơn về quy trình nghiên cứu và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu.
Phần tiếp theo xin được trình bày đặc điểm của phương pháp nghiên cứu được sử
dụng trong bài báo cáo này.
3.2.2 Phương pháp kiểm định mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ
thuộc.
Trước khi đi vào xây dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán của các công
ty xây dựng và bất động sản bằng phương pháp hồi quy Binary Logistic thì bước
đầu tiên cần thực hiện là phải kiểm định mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến
phụ thuộc. Qua việc kiểm định mối liên hệ này, nghiên cứu sẽ chọn được những
biến độc lập thực sự có ý nghĩa để đưa vào mô hình.
Do các biến độc lập được sử dụng trong mô hình gồm hai nhóm, một là
nhóm biến phi tài chính và hai là nhóm biến gồm các tỷ số tài chính, chính vì vậy
mà nghiên cứu này lựa chọn hai phương pháp kiểm định là kiểm định Chi bình
phương áp dụng cho các biến độc lập định tính và kiểm định phi tham số Mann-
Whitney áp dụng cho các biến độc lập là các tỷ số tài chính. Lý do nghiên cứu này
không sử dụng phương pháp kiểm định tham số là vì kiểm định tham số đòi hỏi
phải thỏa mãn những điều kiện khắt khe về phân phối chuẩn, trong khi đó các tỷ số
tài chính được chứng minh là không có phân phối chuẩn. Cụ thể về quy trình cũng
như kết quả đạt được trong việc kiểm định của từng phương pháp sẽ được trình bày
trong chương tiếp theo.
3.2.3 Phương pháp hồi quy Binary Logistic
Có rất nhiều các phương pháp nghiên cứu khác nhau đã được sử dụng trong
các nghiên cứu trước đó để xây dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán đối với báo
cáo tài chính, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm tùy thuộc
vào các biến được chọn đưa vào nghiên cứu và đặc điểm thể hiện của các biến.
34
Cụ thể về các phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng trước đó như:
Phương pháp phân tích biệt số trong nghiên cứu của Mutchler (1985); phương pháp
phân loại đa tiêu chí UTADIS, phương pháp phân tích biệt số và phương pháp Logit
trong nghiên cứu của Spthis và các cộng sự (2003). Trong nghiên cứu của mình
Spathis và các cộng sự đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau bao
gồm cả phương pháp thống kê hiện đại và phương pháp thống kê truyền thống để
xây dựng mô hình dự đoán, sau đó kết quả của từng phương pháp nghiên cứu đã
được đem so sánh với nhau để đưa ra phương pháp có khả năng dự đoán cao nhất.
Kết quả cho thấy phương pháp phân loại đa tiêu chi UATDIS có khả năng dự đoán
cao hơn các phương pháp thống kê truyền thống.
Mặc dù một số nghiên cứu trước đó đã chứng minh phương pháp thống kê
hiện đại có khả năng dự đoán cao hơn phương pháp thống kê truyền thống; Spathis
(2003); Zonpounidis & Doumpos (1999); Tuy nhiên do những yêu cầu khá khắt khe
của phương pháp thống kê hiện đại mà đòi hỏi cần phải đầu tư rất nhiều thời gian
trong việc chọn mẫu cũng như phân tích, ngoài ra tùy thuộc vào đặc điểm của các
biến độc lập cũng như biến phụ thuộc được sử dụng trong nghiên cứu mới có thể
lựa chọn phương pháp nghiên cứu thích hợp.
Theo mô hình phân tích Binary Logistic đòi hỏi biến phụ thuộc phải là biến
định tính và chỉ có hai biểu hiện, ngoài ra các biến độc lập có thể là biến định tính
hoặc định lượng. Xét thấy những yêu cầu của mô hình phân tích Binary Logistic
đều được thỏa mãn bởi các biến được sử dụng trong phân tích này. Chính vì vậy
phương pháp thống kê truyền thống, cụ thể là phương pháp nghiên cứu hồi quy
Binary Logistic sẽ được sử dụng với mong muốn sẽ đạt được những kết quả có ý
nghĩa.
Để sử dụng phương pháp hồi quy Binary Logistic cho ra kết quả hợp lý thì
phương pháp này đòi hỏi chúng ta phải thực hiện một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: Hồi quy Logistic đòi hỏi ta phải đánh giá độ phù hợp của mô hình
dựa trên chỉ tiêu -2LL (-2 log likelihood). Chỉ tiêu này sẽ được phần mềm SPSS tự
tính toán căn cứ vào số liệu đưa vào sau đó dựa trên nguyên tắc -2LL càng nhỏ thì
càng hiển thị độ phù hợp cao.
35
Thứ hai: Hồi quy Binary Logistic đòi hỏi phải kiểm định giả thuyết hệ số hồi
quy khác không. Đại lượng Wald chi Square được sử dụng trong phương pháp này
để kiểm định ý nghĩa thống kê của các hệ số hồi quy tổng thể
Thứ ba: Theo phương pháp hồi quy Binary Logistic thì tổ hợp liên hệ tuyến
tính của toàn bộ các hệ số trong mô hình, ngoại trừ hằng số cũng phải được kiểm
định xem có thực sự có ý nghĩa trong việc giải thích cho biến phụ thuộc hay không.
Để kiểm định ý nghĩa của các hệ số hồi quy thì mô hình này sử dụng kiểm định Chi
bình phương để đưa ra kết luận cuối cùng.
36
Kết luận chương 3
Dựa trên cơ sở của những nghiên cứu trước đó, nghiên cứu này quyết định
lựa chọn 3 biến phi tài chính và 8 tỷ số tà chính làm biến độc lập để phân tích ảnh
hưởng của chúng đến việc hình thành loại ý kiến kiểm toán.
Nghiên cứu này bước đầu tiếp cận với phương pháp thực nghiệm để xây
dựng mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán, vì vậy phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung
vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và BĐS do những đặc tính riêng của
nó. Để hiểu rõ hơn về quy trình nghiên cứu của phương pháp phân tích hồi quy
Binary Logistic và ý nghĩa kết quả đạt được từ phương pháp này, Chương tiếp theo
sẽ mô tả lại cụ thể về cách thức thực hiện cũng như kết quả nghiên cứu.
37
CHƯƠNG 4
THỰC TRẠNG QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU
4.1 CÁC BƯỚC NGHIÊN CỨU
4.1.1 Kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc
Để tìm ra được những biến độc lập có khả năng phân biệt tốt ý kiến kiểm
toán thì trước khi đi tìm mô hình dự đoán chúng ta sẽ phải đi kiểm định mối liên hệ
giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc, qua đó sẽ loại bỏ những biến độc lập nào
không có khả năng dự đoán tốt ý kiến kiểm toán và đồng thời sẽ chọn được những
biến độc lập tốt nhất còn lại đưa vào mô hình.
Do các biến độc lập được sử dụng trong nghiên cứu gồm hai nhóm là nhóm
biến phi tài chính và nhóm các tỷ số tài chính nên để tiến hành kiểm định mối liên
hệ giữa biến độc lập với biến phụ thuộc, nghiên cứu sẽ sử dụng hai phương pháp
kiểm định tương ứng. Cụ thể là, đối với nhóm biến độc lập là biến định tính thì
nghiên cứu này sẽ sử dụng phương pháp kiểm định chi bình phương để kiểm định
mối liên hệ với biến phụ thuộc. Còn để kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập
là các tỷ số tài chính với biến phụ thuộc thì nghiên cứu sẽ thực hiện kiểm định phi
tham số Mann-Whitney.
4.1.1.1 Kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập định tính và biến phụ thuộc
Để kiểm định mối liên hệ giữa các biến định danh – định danh hoặc định
danh – thứ bậc thì phương pháp phổ biến nhất thường được sử dụng là kiểm định
chi – bình phương, ngoài phương pháp này thì còn có một số phương pháp khác
cũng có thể được sử dụng đó là kiểm định bằng đại lượng Lambda, Cremar V hay
phương pháp hệ số liên hợp (Coefficient of contigency) do Person đề xuất. Tuy
nhiên căn cứ vào độ phù hợp của các biến với những yêu cầu của phương pháp
kiểm định chi – bình phương nên nghiên cứu này sẽ chọn phương pháp kiểm định
chi bình phương để thực hiện.
Căn cứ vào bảng 4.1 và bảng 4.2 thể hiện kết quả kiểm định chi bình phương
giữa biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1) với biến phụ thuộc (Y) ta thấy ý kiến
38
kiểm toán chấp nhận từng phần được dự đoán đúng tới 66,7% và ý kiến kiểm toán
chấp nhận toàn phần được dự đoán đúng 95,7%. Mặt khác bảng 4.2 thể hiện mức ý
nghĩa Sig = 0.000 nhỏ hơn rất nhiều so với mức ý nghĩa có thể chấp nhận được là
0.05 nên ta hoàn toàn có thể bác bỏ giả thiết H0 là không có mối quan hệ nào giữa ý
kiến kiểm toán năm nay với biến ký kiến kiểm toán năm trước, Kết quả kiểm định
trên đã cho ta thấy, những công ty nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần trong năm
trước đó thì rất có thể sẽ nhận được ý kiến tương tự trong năm hiện tại, kết quả này
trùng với kết quả đạt được trong nghiên cứu của Mutcher 1985. Như vậy biến ý
kiến kiểm toán năm trước (T1) tiếp tục sẽ được chọn đưa vào mô hình nghiên cứu
tiếp theo.
Bảng 4.1: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán theo biến ý kiến kiểm toán năm
trước
Ý kiến kiểm toán
năm trước
Không
chấp Chấp
nhận nhận
toàn toàn Tổng
phần phần cộng
Ý kiến Không chấp nhận toàn Số lượng 26 4 30
Kiểm toán phần Phần trăm 66.7% 4.3% 22.6%
Chấp nhận toàn phần Số lượng 13 90 103
Phần trăm 33.3% 95.7% 77.4%
Tổng cộng Số lượng 39 94 133
Phần trăm 100.0% 100.0% 100.0%
39
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định chi bình phương đối với biến ý kiến kiểm toán
năm trước
Asymp. Sig. Exact Sig. Exact Sig.
Value Df (2-sided) (2-sided) (1-sided)
Pearson Chi-Square 61.463a 1 .000
57.942 1 .000 Continuity Correctionb
Likelihood Ratio 59.275 1 .000
Fisher's Exact Test .000 .000
Linear-by-Linear 61.001 1 .000 Association
N of Valid Casesb 133
Căn cứ vào kết quả kiểm định chi – bình phương giữa biến độc lập là công ty
kiểm toán (T2) và biến phụ thuộc được thể hiện trong bảng 4.3 và 4.4 ta thấy, Công
ty kiểm toán Big4 trong 31 trường hợp đưa ra ý kiến thì có 1 trường hợp là ý kiến
chấp nhận từng phần chiếm tỷ lệ là 3.2%, còn lại 30 trường hợp là ý kiến chấp nhận
toàn phần, tương ứng với tỷ lệ là 96,8%. Còn đối với công ty kiểm toán Nonbig4 thì
ngược lại, tỷ lệ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần và ý kiến chấp nhận toàn phần
trong tổng số ý kiến đưa ra lần lượt là 28.4% và 71.6%. Ngoài ra bảng 4.4 cho thấy
mức ý nghĩa Sig của tất cả các đại lượng kiểm định đều nhỏ hơn rất nhiều so với
mức chấp nhận được là 0.05. Như vậy ta có thể hoàn toàn bác bỏ giả thuyết Ho là
không có mối liên hệ nào giữa biến công ty kiểm toán và biến phụ thuộc. Điều này
có nghĩa là trong trường hợp mẫu của nghiên cứu này thì những công ty kiểm toán
Big4 thì thường đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần nhiều hơn là các công
ty kiểm toán Nonbig4. Từ đây ta có căn cứ để lựa chọn tiếp tục biến công ty kiểm
toán để nghiên cứu trong mô hình tiếp theo.
40
Bảng 4.3: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán theo biến công ty kiểm toán
Biến công ty kiểm
toán
Công ty Công ty Tổng
Nonbig4 Big4 cộng
Ý kiến Không chấp nhận toàn Số lượng 29 1 30
Kiểm toán phần Phần trăm 28.4% 3.2% 22.6%
Chấp nhận toàn phần Số lượng 73 30 103
Phần trăm 71.6% 96.8% 77.4%
Tổng cộng Số lượng 102 31 133
Phần trăm 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định chi bình phương đối với biến công ty kiểm toán
Asymp. Sig. Exact Sig. Exact Sig.
Value Df (2-sided) (2-sided) (1-sided)
Pearson Chi-Square 8.647a 1 .003
7.264 1 .007 Continuity Correctionb
Likelihood Ratio 11.387 1 .001
Fisher's Exact Test .003 .001
Linear-by-Linear 8.582 1 .003 Association
N of Valid Casesb 133
Căn cứ vào kết quả kiểm định chi bình phương giữa biến quy mô công ty
được kiểm toán (T3) và biến phụ thuộc được thể hiện trong bảng 4.5 và 4.6 ta thấy
trong tổng số ý kiến kiểm toán mà các công ty nhỏ nhận được thì ý kiến kiểm toán
chấp nhận toàn phần chiếm 90%; trong khi đó thì đối với các công ty lớn, trong
41
tổng số ý kiến kiểm toán nhận được thì ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần chiếm
tỷ lệ 76.4%. Điều này có nghĩa là các công ty nhỏ có khả năng nhận được ý kiến
kiểm toán chấp nhận toàn phần nhiều hơn các công ty lớn, Kết quả này cũng trùng
với kết quả phân tích trong nghiên cứu của Mutcher 1986. Tuy nhiên căn cứ vào
bảng 4.6 thì mức ý nghĩa Sig trong kiểm định này là 0.334 lớn hơn rất nhiều so với
mức ý nghĩa có thể chấp nhận được là 0.05. Như vậy ta không có đủ cơ sở để bác
bỏ giả thuyết H0 là không có mối liên hệ nào giữa biến quy mô công ty được kiểm
toán (T3) và biến ý kiến kiến kiểm toán năm hiện tại (Y). Căn cứ vào kết quả kiểm
định thì biến độc lập quy mô công ty được kiểm toán (T3) sẽ bị loại ra khỏi mô hình
dự đoán tiếp theo.
Bảng 4.5: Bảng phân loại ý kiến kiểm toán theo biến quy mô công ty được
kiểm toán
Quy mô công ty
Công ty
vừa và Công ty Tổng
nhỏ lớn cộng
Ý kiến Không chấp nhận toàn Số lượng 1 29 30
Kiểm toán phần Phần trăm 10.0% 23.6% 22.6%
Chấp nhận toàn phần Số lượng 9 94 103
Phần trăm 90.0% 76.4% 77.4%
Tổng cộng Số lượng 10 123 133
Phần trăm 100.0% 100.0% 100.0%
42
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định chi bình phương đối với biến quy mô công ty
được kiểm toán
Asymp. Sig. Exact Sig. Exact Sig.
Value df (2-sided) (2-sided) (1-sided)
Pearson Chi-Square .976a 1 .323
Continuity Correctionb .353 1 .552
Likelihood Ratio 1.150 1 .283
Fisher's Exact Test .455 .293
Linear-by-Linear .969 1 .325 Association
N of Valid Casesb 133
4.1.1.2 Kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập định lượng với biến phụ thuộc.
Để kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập là các tỷ số tài chính với biến
phụ thuộc là ý kiến kiểm toán, nghiên cứu này sẽ sử dụng phương pháp kiểm định
phi tham số Mann-Whitney. Lý do lựa chọn phương pháp kiểm định phi tham số
này là vì:
Thứ nhất: Phương pháp kiểm định này không đỏi hỏi các giả định khắt khe
về tiêu chuẩn của mẫu được chọn là phải có phân phối chuẩn như trong yêu cầu của
các phương pháp kiểm định tham số khác,
Thứ hai: Kiểm định Mann-Whitney chỉ đòi hỏi mẫu là ngẫu nhiên và các giá
trị có thể sắp xếp được theo thứ tự, như vậy do các biến mà nghiên cứu này đang
xét là các tỷ số tài chính nên việc sắp xếp theo thứ tự thỏa mãn được yêu cầu đề ra
của phương pháp này.
Thứ ba: Phương pháp này có thể kiểm định giả thuyết về sự bằng nhau của
trung bình hai mẫu độc lập, điều này phù hợp với mong muốn của nghiên cứu này
là đang muốn kiểm tra xem trị trung bình của các tỷ số tài chính giữa hai nhóm ý
kiến kiểm toán có gì khác nhau hay không.
43
Phương pháp kiểm định Mann-Whitney được thực hiện bằng cách các quan
sát từ các mẫu được kết hợp với nhau và xếp hạng từ giá trị nhỏ nhất đến giá trị lớn
nhất. Những trường hợp đồng hạng thì sẽ được thay thế bằng hạng trung bình. Kết
quả kiểm định Mann-Whitney được thể hiện trong bảng từ 4.7 đến 4.9
Bảng 4.7 cho ta thấy kết quả của một số đại lượng thống kê mô tả của các tỷ
số tài chính như số quan sát được thực hiện trong nghiên cứu, giá trị lớn nhất, giá trị
nhỏ nhất và giá trị trung bình của từng tỷ số tài chính, đồng thời bảng này còn cho
biết độ lệch chuẩn của các tỷ số tài chính.
Bảng 4.7 Kết quả thống kê mô tả của các tỷ số tài chính
Giá trị
Số quan trung Độ lệch Giá trị Gía trị
sát bình chuẩn nhỏ nhất lớn nhất
T4 133 .5632 .18290 .06 .96
T5 133 1.7214 .96844 .22 6.04
T6 133 .9792 .63644 .16 5.12
T7 133 .2010 .36811 .00 3.22
T8 133 .2431 .45798 -.20 4.00
T9 133 .3621 1.02853 -.20 11.13
T10 133 .6593 .56027 .00 4.02
T11 133 13.4937 70.67462 .00 765.16
Y 133 .77 .420 0 1
Kết quả bảng 4.8 thể hiện hạng trung bình của từng tỷ số tài chính giữa hai
nhóm ý kiến kiểm toán. Căn cứ vào bảng kết quả này ta thấy có 5 tỷ số tài chính có
sự khác biệt lớn nhất về giá trị trung bình giữa hai nhóm ý kiến kiểm toán đó là: tỷ
số đòn bảy nợ (T4); tỷ số thanh toán nhanh (T6); tỷ số lợi nhuân sau thuế trên doanh
thu (T7); tỷ số lợi nhuận trước thuế trên doanh thu (T8) và cuối cùng là tỷ lệ lợi
nhuận trước thuế và lãi vay trên doanh thu (T9).
44
Tiếp tục căn cứ vào bảng 4.9 thể hiện giá trị thống kê Chi – bình phương cho
kiểm định Mann-Whitney ta thấy 5 tỷ số tài chính có sự khác biệt nhiều nhất về giá
trị trung bình giữa hai nhóm ý kiến kiểm toán là T4; T6; T7; T8 và T9 như đã thể
hiện trong bảng 4.8 cũng đồng thời là 5 tỷ số tài chính có mức ý nghĩa quan sát nhỏ
nhất và nhỏ hơn mức ý nghĩa quan sát tối đa chấp nhận được là 0.05. Như vậy ta có
thể hoàn toàn bác bỏ giả thuyết H0 là không có sự khác biệt nào về giá trị trung bình
của các tỷ số tài chính này giữa hai nhóm ý kiến kiểm toán. Điều này đồng nghĩa
với việc 5 tỷ số tài chính này có khả năng phân biệt được ý kiến kiểm toán nên ta
tiếp tục lựa chọn các tỷ số này để đưa vào mô hình dự đoán tiếp theo.
Như vậy căn cứ vào kết quả thể hiện trên bảng 4.9 thì các tỷ số như: tỷ số
thanh toán hiện hành (T5); tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (T10) và tỷ số vòng
quay hàng tồn kho (T11) do có mức ý nghĩa quan sát Sig lớn hơn rất nhiều so với
0.05 nên đều bị loại ra khỏi mô hình dự đoán tiếp theo.
Bảng 4.8 bảng so sánh trị trung bình của các tỷ số tài
chính giữa hai nhóm ý kiến kiểm toán
Hạng trung
Ý kiến kiểm toán Số quan sát bình
T4 Không chấp nhận toàn phần 30 102.33
Chấp nhận toàn phần 103 56.71
Tổng cộng 133
T5 Không chấp nhận toàn phần 30 69.97
Chấp nhận toàn phần 103 66.14
Tổng cộng 133
T6 Không chấp nhận toàn phần 30 33.77
Chấp nhận toàn phần 103 76.68
Tổng cộng 133
T7 Không chấp nhận toàn phần 30 41.60
45
Chấp nhận toàn phần 103 74.40
Tổng cộng 133
T8 Không chấp nhận toàn phần 30 52.53
Chấp nhận toàn phần 103 71.21
Tổng cộng 133
T9 Không chấp nhận toàn phần 30 52.77
Chấp nhận toàn phần 103 71.15
Tổng cộng 133
T10 Không chấp nhận toàn phần 30 66.53
Chấp nhận toàn phần 103 67.14
Tổng cộng 133
T11 Không chấp nhận toàn phần 30 60.20
Chấp nhận toàn phần 103 68.98
Tổng cộng 133
Bảng 4.9: Bảng kết quả kiểm định Mann – Whitney
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
Mann-
485.000 1.456E3 548.000 783.000 1.111E3 1.118E3 1.531E3 1.341E3
Whitney U
Wilcoxon W 5.841E3 6.812E3 1.013E3 1.248E3 1.576E3 1.583E3 1.996E3 1.806E3
Z
-5.706
-.479
-5.367
-4.102
-2.336
-2.299
-.075
-1.098
Asymp. Sig.
.000
.632
.000
.000
.019
.022
.940
.272
(2-tailed)
Tóm lại: Kết quả của việc kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập định
tính và biến phụ thuộc bằng kiểm định Chi – bình phương, nghiên cứu đã chọn
được hai biến độc lập định tính là: Biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1) và biến
công ty kiểm toán (T2) có khả năng dự đoán ý kiến kiểm toán. Trong khi đó, với
46
kiểm định Mann-Whitneyvề mối liên hệ giữa các biến độc lập là các tỷ số tài chính
với biến phụ thuộc thì kết quả có 5 tỷ số tài chính được tiếp tục chọn đưa vào mô
hình dự đoán ý kiến kiểm toán đó là: tỷ số đòn bảy tài chính (T4); tỷ số thanh toán
nhanh (T6); tỷ số Lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (T7); tỷ số lợi nhuận trước thuế
trên doanh thu (T8) và tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên doanh thu (T9). Tất
cả các biến được chọn này sẽ được đưa vào mô hình dự đoán Binary Logistic để xử
lý với mong muốn cuối cùng sẽ tìm ra được những biến có khả năng dự đoán ý kiến
kiểm toán một cách tốt nhất.
4.1.2 Sử dụng mô hình hồi quy Binary Logistic cho các biến được chọn.
4.1.2.1 Xây dựng mô hình hồi quy và giải thích ý nghĩa các hệ số
Căn cứ vào các biến độc lập có khả năng dự đoán ý kiển kiểm toán đã được
lựa chọn ở trên, nghiên cứu tiếp tục sử dụng mô hình hồi quy Bianry Logistic để xử
lý các biến được chọn để cho ra mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán. Ta có mô hình
hàm Binary Logistic có dạng như sau:
Trong đó:
Pi : Là xác xuất xảy ra sự kiện y =1 (tức là xác xuất nhận ý kiến chấp nhận toàn
phần)
Bi : Là hệ số ước lượng cho biến độc lập thứ i
T1 : Biến ý kiến kiểm toán năm trước
T2 : Biến công ty kiểm toán
T4 : Biến tỷ số đòn bảy tài chính
T6: Biến tỷ số khả năng thanh toán nhanh
T7: Biến tỷ suất LNST trên doanh thu
T8: Biến tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu
T9: Biến tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên doanh thu
Hệ số Bi trong phương trình hồi quy trên thể hiện ý nghĩa là khi biến Ti tăng
lên 1 đơn vị thì log của tỷ lệ (Pi/1-Pi) sẽ tăng lên tương ứng với Bi đơn vị. Ngoài ra
nếu hệ số Bi mang dấu dương thì tương ứng với việc các biến độc lập Ti sẽ làm tăng
47
khả năng y nhận giá trị bằng 1, tức là làm tăng khả năng nhận ý kiến kiểm toán chấp
nhận toàn phần trong khi nếu Bi mang dấu âm thì sẽ làm giảm khả năng này.
4.1.2.2 Đánh giá độ phù hợp của mô hình
Độ phù hợp tổng quát của mô hình hồi quy Binary Logistic được dựa trên chỉ
tiêu -2LL (2 log likelihood) theo nguyên tắc giá trị của -2LL càng nhỏ thì càng thể
hiện độ phù hợp cao của mô hình, giá trị nhỏ nhất của -2LL là 0 (tức là không có sai
số) khi đó mô hình sẽ có độ phù hợp hoàn hảo. Ở đây chỉ tiêu -2LL sẽ được SPSS
tự tính toán và thể hiện trong bảng kết quả kiểm định.
Ngoài việc đựa vào chỉ tiêu -2LL để đánh giá về mức độ phù hợp của mô
hình thì còn có thể dựa vào bảng phân loại các giá trị dự đoán được SPSS đưa ra,
bảng này sẽ so sánh số trị số thực và số trị số dự đoán cho từng biểu hiện và tính ra
được tỷ lệ dự đoán đúng cho từng sự kiện, qua đó chúng ta có thể đánh giá được mô
hình có khả năng dự đoán tốt đến đâu.
Mô hình hồi quy Binary Logistic không những đòi hỏi về độ phù hợp tổng
quát của mô hình mà còn yêu cầu kiểm định các hệ số Bi phải khác không. Vì nếu
tất cả các hệ số Bi đều bằng 0 thì điều này có nghĩa là xác suất để nhận ý kiến chấp
nhận từng phần hay chấp nhận toàn phần là như nhau, lúc đó mô hình sẽ không còn
ý nghĩa về mặt thống kê. Như vậy để kiểm định ý nghĩa thống kê của các hệ số hồi
quy tổng thể thì mô hình Binary Logistic tiến hành sử dụng đại lượng Wald
Chisquare.
4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.2.1 Kết quả mô hình Binary Logistic với các biến được chọn ban đầu.
Căn cứ vào bảy biến độc lập được chọn qua kết quả kiểm định mối liên hệ
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc kể trên. Nghiên cứu tiến hành đưa toàn bộ
bảy biến này vào xử lý trong mô hình Binary Logistic. Kết quả về khả năng dự đoán
ý kiến kiểm toán của các biến này bằng mô hình Binary Logistic đã được thể hiện
trong các bảng từ 4.10 đến 3.13.
48
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định Chi- bình
phương về đồ phù hợp của mô hình
Chi-square df Sig.
Step 1 Step 95.512 7 .000
Block 95.512 7 .000
Model 95.512 7 .000
Bảng 4.11: Kết quả kiểm định độ phù hợp
tổng quát của mô hình theo đại lượng -2LL
-2 Log Cox & Snell Nagelkerke
Step likelihood R Square R Square
1 46.495a .512 .781
Kết quả kiểm định giả thuyết về độ phù hợp tổng quát ở bảng 4.10 có mức ý
nghĩa Sig.=0,000 nên ta hoàn toàn có thể bác bỏ giả thuyết H0: B1 = B2 = B3 = B4 =
B5 = B6 = B7 =0, điều này đồng nghĩa với việc tổng hợp liên hệ tuyến tính của toàn
bộ các hệ số trong mô hình, ngoại trừ hằng số là thực sự có ý nghĩa trong việc giải
thích cho biến phụ thuộc là ý kiến kiểm toán.
Bảng 4.11 ở trên cho thấy giá trị của -2LL = 46,495 không cao lắm, điều này
thể hiện một độ phù hợp khá tốt của mô hình tổng thể.
Bảng 4.12: bảng phân loại ý kiến kiểm toán được dự đoán từ mô hình
Bảng dự đoán
Ý kiến kiểm toán Phần trăm Mô tả quan sát Không chấp Chấp dự đoán nhận toàn nhận toàn đúng phần phần
Ý kiến Không chấp nhận toàn phần 26 4 86.7
49
4 Kiểm Chấp nhận toàn phần 99 96.1
toán Tổng phần trăm dự đoán 94.0
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số
hồi quy tổng thể
B S.E. Wald df Sig. Exp(B)
T1 3.614 .830 18.935 1 .000 37.099
T2 1.788 1.728 1.071 .301 5.979 1
T4 -5.889 2.772 4.514 .034 .003 1
T6 1.756 1.342 1.712 .191 5.789 1
T7 60.520 26.561 5.192 .023 1.922E26 1
T8 -44.165 20.099 4.828 .028 .000 1
T9 .710 1.543 .212 .646 2.033 1
1 Constant .793 2.329 .116 .733 2.211
Căn cứ vào mức độ chính xác của dự báo được thể hiện trong bảng phân loại
ý kiến kiểm toán (bảng 4.12) cho thấy: Có 30 trường hợp nhận ý kiến chấp nhận
từng phần thì mô hình này dự đoán đúng 26 trường hợp tương ứng với tỷ lệ đoán
đúng đạt 86,7%. Còn với 103 trường hợp nhận ý kiến chấp nhận toàn phần thì mô
hình này dự đoán đúng 99 trường hợp, đạt tỷ lệ đoán đúng là 96,1%. Từ kết quả của
bảng này ta thấy tỷ lệ đoán đúng bình quân của bảy biến độc lập được kết hợp trong
mô hình này đạt 94%.
Mặc dù bảng 4.12 thể hiện một tỷ lệ dự đoán đúng rất cao, tuy nhiên căn cứ
vào bảng 4.13 thể hiện kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy
tổng thể tương ứng với bảy biến được chọn thì ta thấy có ba biến là: biến công ty
kiểm toán (T2); Biến tỷ số khả năng thanh toán nhanh (T6) và biến lợi nhuận trước
thuế và lãi vay (T9) có mức ý nghĩa Sig. lớn hơn 0,05. Như vậy theo kiểm định
Wald thì ba hệ số hồi quy tương ứng với ba biến T2; T6 và T9 không có ý nghĩa về
mặt thống kê. Để mô hình dự đoán có thể sử dụng tốt thì các biến độc lập này sẽ bị
50
loại ra khỏi mô hình. Như vậy lúc này mô hình dự đoán chỉ còn lại bốn biến tương
ứng được tiếp tục sử dụng đó là: Biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1); biến tỷ số
đòn bảy nợ (T4); biến tỷ suất LNST trên doanh thu (T7) và biến tỷ suất LNTT trên
doanh thu (T8).
4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Bianary Logistic với các biến còn lại
Dựa trên kết quả của bốn biến còn lại có các hệ số hồi quy tổng thể thỏa mãn
được mức ý nghĩa Sig. nhỏ hơn 0.05. Nghiên cứu tiếp tục chọn ra các biến này để
chạy lại mô hình hồi quy Binary Logistic với mong muốn tất cả các biến được chọn
sẽ đáp ứng đầy đủ các điều kiện của mô hình hồi quy để có thể đưa ra được một mô
hình dự đoán tốt nhất. Kết quả thực hiện lại của mô hình hồi quy Binary Logistic
đối với bốn biến còn lại được thể hiện trong các bảng từ 4.14 đến bảng 4.17
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định Chi- bình
phương về đồ phù hợp của mô hình
Chi-square Df Sig.
Step 1 Step 91.682 4 .000
Block 91.682 4 .000
Model 91.682 4 .000
Bảng 4.15: Kết quả kiểm định độ phù hợp
tổng quát của mô hình theo đại lượng -2LL
-2 Log Cox & Snell Nagelkerke
Step likelihood R Square R Square
1 50.325a .498 .759
Căn cứ vào kết quả kiểm định giả thuyết về độ phù hợp tổng quát ở bảng
4.14 có mức ý nghĩa sig.= 0,000 nên ta hoàn toàn có thể bác bỏ giả thuyết H0 là các
hệ số hồi quy bằng nhau và bằng 0. Hay nói cách khác bảng kết quả này cho thấy
mô hình có độ phù hợp tổng quát cao.
51
Căn cứ vào giá trị của chỉ tiêu -2LL thể hiện trong bảng 4.15 ta thấy có sự
điều chỉnh so với kết quả ban đầu với bảy biến độc lập. Khi chỉ còn bốn biến độc
lập trong mô hình thì giá trị của chỉ tiêu -2LL đã điều chỉnh từ mức 46,495 lên mức
50,325. Tuy nhiên giá trị này không cao lắm nên vẫn thể hiện được một độ phù hợp
khá tốt với mô hình tổng thể.
Bảng 4.16: bảng phân loại ý kiến kiểm toán được dự đoán từ mô hình
Kết quả dự đoán
Ý kiến kiểm toán Phần trăm Bảng mô tả Không chấp dự đoán Chấp nhận nhận toàn đúng toàn phần phần
Ý kiến Chấp nhận từng phần 26 4 86.7
kiểm Chấp nhận toàn phần 4 99 96.1 toán
Tổng phần trăm dự đoán 94.0
Bảng 4.17: Kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy
tổng thể
B S.E. Wald df Sig. Exp(B)
Step 1a T1 3.867 .801 23.308 1 .000 47.821
T4 -7.428 2.466 9.076 .003 .001 1
T7 54.532 25.276 4.655 .031 4.818E23 1
T8 -38.166 18.877 4.088 .043 .000 1
Constant 3.184 1.619 3.868 .049 24.139 1
Nhìn vào kết quả phản ánh mức độ chính xác của dự báo thể hiện trong bảng
4.16 ta thấy, Số lượng trường hợp dự đoán đúng và tỷ lệ dự đoán đúng đối với từng
52
loại ý kiến kiểm toán không hề thay đổi so với khi có bảy biến độc lập trong mô
hình. Điều này cho thấy các biến trước đây bị loại ra khỏi mô hình là T2; T6 và T9
không có đóng góp gì vào tỷ lệ dự đoán đúng. Chính vì vậy mà mặc dù có các biến
này hay không có thì tỷ lệ dự đoán đúng của mô hình vẫn dữ nguyên. Tuy nhiên do
các hệ số tương quan của các biến này có mức ý nghĩa Sig. lớn hơn 0,05 nên các
biến này buộc phải loại ra khỏi mô hinh.
Kết quả kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy tổng thể của bốn
biến được chọn đều có mức ý nghĩa Sig. nhỏ hơn 0,05 nên ta hoàn toàn yên tâm bác
bỏ giả thuyết H0 là hệ số hồi quy của các biến độc lập bằng không.
Như vậy các hệ số hồi quy của bốn biến độc lập còn lại có ý nghĩa về mặt
thống kê và mô hình của chúng ta sử dụng tốt căn cứ vào kết quả kiểm định về độ
phù hợp tổng quát của mô hình. Từ các hệ số hồi quy này ta viết được phương trình
sau:
4.2.3 Diễn dịch ý nghĩa của các hệ số hồi quy
Căn cứ vào phương trình hồi quy đã xác định ở trên ta thấy có hai biến độc
lập có tác động cùng chiều với khả năng nhận ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần
đó là: biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1) và biến Tỷ suất LNST trên doanh thu
(T7). Cụ thể là tác động biên của biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1) lên khả
năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần xác định với xác xuất ban đầu = 0,5 thì tác
động này bằng 0,5(1-0,5)x3,867 = 0,967 lần, còn biến tỷ suất LNST trên doanh thu
(T7) thì có tác động biên lên khả năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần là 0,5(1-
0,5)x54,532 = 13,633.
Ngoài hai biến độc lập có tác động cùng chiều lên khả năng nhận ý kiến chấp
nhận toàn phần thì còn hai biến có khả năng tác động lên ý kiến kiểm toán chấp
nhận toàn phần nhưng là tác động ngược chiều, đó là biến tỷ số đòn bảy tài chính
(T4) và biến tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu (T8), trong đó tác động biên
của biến T4 lên khả năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần là 0,5(1-0,5)x7,428 =
53
1,857 và tác động biên của biến T7 lên khả năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần
là 0,5(1-0,5)x38,166 = 9,542.
Như vậy căn cứ vào hệ số tương quan của từng biến độc lập trong mô hình
hồi quy ta thấy biến có ảnh hưởng mạnh nhất lên khả năng nhận ý kiển kiểm toán
chấp nhận toàn phần là biến tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (T7); trong
khi đó biến làm giảm khả năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần lớn nhất là biến tỷ
suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu (T8) do có hệ số tương quan âm.
54
Kết luận chương 4
Với mong muốn có thể đưa ra được một mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán
cho các công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp kiểm định phi
tham số Chi – bình phương và kiểm định Mann-Whitney và bước đầu đã chọn được
7 biến độc lập có khả năng phân biệt ý kiến kiểm toán một cách có ý nghĩa. Sau khi
đưa các biến được chọn để xử lý trong mô hình hồi quy Binary Logistic thì tiếp tục
có ba biến bị loại bỏ để còn lại cuối cùng là có 4 biến độc lập có khả năng đóng góp
vào mô hình dự đoán. Căn cứ vào kết quả của mô hình dự đoán ta có thể đưa ra kết
luận là:
Thứ nhất: Công ty nào mà năm trước đó nhận được ý kiến chấp nhận toàn
phần thì khả năng trong năm hiện tại cũng sẽ nhận được ý kiến tương tự.
Thứ hai: Công ty nào sử dụng nợ càng cao, tức tỷ số đòn bảy tài chính càng
cao thì khả năng nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần càng thấp
Thứ ba: Công ty nào có tỷ suất LNST trên doanh thu càng cao thì khả năng
nhận ý kiến chấp nhận toàn phần càng cao.
Thứ tư: Công ty nào mà có tỷ suất LNTT trên doanh thu càng cao thì khả
năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần sẽ càng thấp.
Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa vận dụng của mô hình dự đoán cũng như ý nghĩa
của các kết quả đạt được trong mô hình, chương tiếp theo sẽ thảo luận cụ thể hơn về
nội dung này.
55
CHƯƠNG 5
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CHO MỤC ĐÍCH DỰ BÁO, HẠN
CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
5.1 TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Với tổng thể ban đầu gồm 280 công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động
sản được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2008-
2010, sau quá trình loại bỏ những công ty không đủ tiêu chuẩn để nghiên cứu do
không công bố hoặc công bố thiếu báo cáo tài chính của một số năm trong giai đoạn
nghiên cứu, ngoài ra một số công ty mặc dù công bố đầy đủ báo cáo tài chính trong
giai đoạn từ năm 2008-2010 tuy nhiên thông tin thiếu độ tin cậy do không có dấu
mộc của cơ quan kiểm toán cũng như của sở chứng khoán. Cuối cùng nghiên cứu đã
chọn ngẫu nhiên một mẫu gồm 133 quan sát tương ứng với 133 ý kiến kiểm toán từ
tổng thể, trong đó bao gồm 30 ý kiến kiểm toán chấp nhận từng phần và 103 ý kiến
kiểm toán chấp nhận toàn phần.
Các biến được chọn để đưa vào nghiên cứu được chia làm hai nhóm bao gồm
nhóm biến phi tài chính có ba biến là: biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1) và biến
công ty kiểm toán (T2) và biến quy mô công ty được kiểm toán (T3). Các biến
thuộc nhóm thứ hai là các tỷ số tài chính, nghiên cứu này bước đầu chọn 8 tỷ số tài
chính để đưa vào mô hình dự đoán bao gồm: biến tỷ số đòn bảy tài chính (T4); biến
tỷ số khả năng thanh toán hiện hành (T5); biến tỷ số khả năng thanh toán nhanh
(T6); biến tỷ suất LNST trên doanh thu (T7); biến tỷ suất LNTT trên doanh thu
(T8); biến tỷ suất LNTT và lãi vay trên doanh thu (T9); biến tỷ suất sinh lợi trên
tổng tài sản (T10) và biến vòng quay hàng tồn kho (T11).
Bước đầu tiên của quy trình nghiên cứu là phải kiểm định xem những biến
độc lập nào có mối liên hệ trong việc dự đoán được biến phụ thuộc. Để thực hiện
được bước này thì nghiên cứu đã sử dụng hai phương pháp kiểm định tương ứng,
trong đó phương pháp kiểm định Chi – bình phương được dùng để kiểm định cho
các biến độc lập là biến phi tài chính và phương pháp kiểm định phi tham số Mann-
56
Whitney được dùng để kiểm định mối liên hệ giữa biến phụ thuộc với các biến độc
lập là các tỷ số tài chính. Kết quả của quá trình kiểm định theo phương pháp Chi -
bình phương là đã chọn ra được hai biến phi tài chính có mối liên hệ với biến phụ
thuộc đó là biến: ý kiến kiểm toán năm trước (T1) và biến công ty kiểm toàn (T2),
trong khi đó thì kiểm định phi tham số Mann-Whitney lại cho ra kết quả gồm 5 biến
là các tỷ số tài chính thực sự có mối quan hệ với ý kiến kiểm toán bao gồm: biến tỷ
số đòn bảy nợ (T4); biến tỷ số khả năng thanh toán nhanh (T6); biến tỷ số LNST
trên doanh thu (T7); biến tỷ số LNTT trên doanh thu (T8) và biến tỷ số LNTT và lãi
vay trên doanh thu (T9)
Sau khi đã lựa chọn được 7 biến độc lập từ 11 biến độc lập ban đầu để chạy
trong mô hình hồi quy Binary Logistic thì kết quả của việc chạy lần thứ nhất của
mô hình hồi quy Binary là có 3 biến tiếp tục bị loại ra khỏi mô hình do có mức ý
nghĩa Sig. không đáp ứng được tiêu chuẩn thống kê của phương pháp này, ba biến
bị loại bao gồm: biến công ty kiểm toán (T2); biến tỷ số khả năng thanh toán nhanh
(T6) và biến tỷ suất LNTT và lãi vay trên doanh thu (T9) . Cuối cùng, với việc chạy
lại mô hình Binary Logistic với bốn biến độc lập còn lại thì kết quả đạt được là cả
bốn biến T1; T4; T7 và T8 đều có khả năng dự đoán ý kiển kiểm toán với xác xuất
dự báo đúng của mô hình đạt trung bình là 94,%. Trong các biến có khả năng dự
đoán đúng ý kiến kiểm toán thì biến T7 là tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu
có tác động mạnh nhất đến khả năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần, trong khi đó
biến T8 là tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu thì lại có tác động ngược
chiều với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần.
5.2 THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Những kết quả nghiên cứu cần thảo luận trong phần này đó là: Các biến bị
loại ra khỏi mô hình nghiên cứu và các biến thực sự có khả năng dự đoán ý kiến
kiểm toán trong mô hình. Việc giải thích kết quả cho các biến này sẽ được xét theo
từng nhóm biến đó là nhóm biến tài chính và nhóm biến phi tài chính.
Thứ nhất: Đối với nhóm biến phi tài chính, ban đầu theo kết quả kiểm định
Chi – bình phương về mối quan hệ giữa các biến độc lập định tính và biến phụ
57
thuộc ta thấy có một biến không có khả năng phân biệt ý kiến kiểm toán là biến quy
mô công ty được kiểm toán. Điều này có thể được giải thích là do nghiên cứu này
chỉ sử dụng công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản, do đặc thù của các
công ty này là tài sản khá lớn nên việc căn cứ vào mức độ tài sản để phân biệt quy
mô công ty dẫn đến việc hầu hết các công ty thuộc lĩnh vực này là các công ty lớn,
ngoài ra thì yếu tố quy mô công ty thường không có tính quyết định rằng công ty đó
hoạt động tốt hay không tốt; có gian lận hay không có gian lận vì nó còn chịu tác
động của nhiều yếu tố khác như năng lực của ban lãnh đạo, trình độ chuyên môn
của kế toán, điều kiện hoàn cảnh kinh tế…. Do đó khi kiểm toán, các kiểm toán
viên thường ít căn cứ vào yếu tố này trong việc lựa chọn đưa ra ý kiến kiểm toán.
Sau khi chạy mô hình Binary Logistic cho hai biến phi tài chính còn lại là
biến ý kiến kiểm toán năm trước (T1) và biến công ty kiểm toán (T2) thì cuối cùng
chỉ còn biến T1 được giữ lại trong mô hình để dự đoán ý kiến kiểm toán. Kết quả
này hoàn toàn trùng hợp với kết quả trong nghiên cứu của Mutcher (1986) và một
số nghiên cứu khác. Việc biến này có khả năng dự đoán ý kiến kiểm toán được giải
thích là do khi thực hiện kiểm toán trong năm hiện tại thì các kiểm toán viên thường
căn cứ vào hồ sơ kiểm toán và kết quả kiểm toán năm trước làm cơ sở để đưa ra
những nhận xét trong năm hiện tại. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, Kiểm toán viên chỉ có
thể dựa vào ý kiến kiểm toán năm trước để đưa ra ý kiến kiểm toán trong năm hiện
tại khi điều kiện hoàn cảnh kinh tế nói chung cũng như cơ cấu tổ chức quản lý của
công ty trong hai năm có sự tương đồng mà không có sự thay đổi quá lớn, vì nếu
tình hình kinh tế có biến động lớn như suy thoái kinh tế thì những áp lực về tài
chính của năm hiện tại có thể dẫn đến việc công ty sẽ gian lận báo cáo tài chính để
thu hút vốn từ các nhà đầu tư.
Đối với biến công ty kiểm toán (T2) thì ban đầu theo kết quả kiểm định Chi-
bình phương cho thấy biến này có mối liên hệ với ý kiến kiểm toán, tuy nhiên kết
quả cuối cùng theo phương pháp hồi quy Binary Logistic thì biến này lại bị loại ra
khỏi mô hình. Điều này có thể được giải thích là do kiểm định chi bình phương là
loại kiểm định phi tham số nên mức độ chính xác không cao và không phản ánh
được độ mạnh của biến này đối với biến phụ thuộc, ngoài ra thì việc kiểm toán viên
58
của một công ty kiểm toán dù là Big4 hay Nonbig4 thì cũng cần phải thực hiện các
quy trình và thủ tục kiểm toán cơ bản và đều phải tuân theo các quy định chung của
chuẩn mực kiểm toán. Điều quan trọng là phải dựa vào chính những vấn đề tồn tại
của công ty được kiểm toán để đưa ra ý kiến chứ không phải dựa vào công ty kiểm
toán đó là Big4 hay Nonbig4.
Thứ hai: đối với nhóm biến gồm các tỷ số tài chính, kết quả cuối cùng cho
thấy có 5 tỷ số tài chính bị loại ra khỏi mô hình nghiên cứu đó là biến T5; T6; thuộc
nhóm tỷ số phân tích về tính thanh khoản; biến T9 thuộc nhóm phân tích khả năng
sinh lời và biến T10; T11 thuộc nhóm biến phân tích khả năng hoạt động.
Xét các biến bị loại thuộc nhóm biến phân tích tính thanh khoản ta thấy, cả
ba biến thuộc nhóm này đều không có khả năng phân biệt ý kiến kiểm toán một
cách có ý nghĩa. Giải thích cho vấn đề này có một số nguyên nhân sau. Thứ nhất,
Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản thường có nhu cầu về
vốn lớn, các sản phẩm xây dựng thường có thời gian dài hơn so với sản phẩm thuộc
các lĩnh vực khác, do đó thường các công ty này đi vay dài hạn hoặc nhận các
khoản ứng trước dài hạn của khách hàng sau đó mới bàn giao sản phẩm, do đó kế
toán thường ít tập trung vào khả năng thanh toán ngắn hạn của các doanh nghiệp
này so với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác. Thứ hai, Các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực xây dựng và bất động sản thì giá trị tài sản ngắn hạn phần lớn nằm trong
hàng tồn kho, đó là giá trị sản phẩm hoặc giá trị các công trình dở dang, đặc biệt là
trong giai đoạn 2008-2010 là giai đoạn suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực này làm ăn gặp nhiều khó khăn, số lượng sản phẩm không bán được làm
cho hàng tồn kho tăng cao, điều này làm cho các tỷ số phản ánh tính thanh khoản
của công ty tăng mà không phản ánh giá trị thực. Chính vì điều này mà các biến
thuộc nhóm phân tích tính thanh khoản ít được kế toán viên lấy làm cơ sở để đưa ra
ý kiến kiểm toán.
Đối với biến tỷ suất Lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên doanh thu (T9) bị
loại ra khỏi mô hình dự đoán có thể là do, tỷ số này cao chưa hẳn đã phản ánh công
ty có khả năng sinh lời tốt, vì chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế và lãi vay cao có thể do
sự tác động của yếu tố chi phí lãi vay chưa được trừ ra, nhất là đối với các doanh
59
nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản, do nhu cầu về vốn đầu tư lớn nên
số tiền đi vay cũng nhiều dẫn đến chi phí lãi vay cao. Chính vì điều này mà kiểm
toán viên có thể ít sử dụng tỷ số này để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán.
Các biến còn lại bị loại bỏ ra khỏi mô hình dự đoán là biến T10 và T11 thuộc
nhóm biến phân tích về khả năng hoạt động của công ty. Việc các biến này không
có đóng góp cho việc dự đoán ý kiến kiểm toán có thể là do, một doanh nghiệp có
tỷ số phản ánh khả năng hoạt động tốt còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thời
cơ, chính sách điều hành của ban quản trị và các tỷ số này có thể bị thay đổi tuy
theo điều kiện kinh tế nói chung tác động. Ngoài ra tỷ số này cũng rất dễ bị các
doanh nghiệp đánh bóng bằng các thủ thuật gian lận khác nhau tác động đến các chỉ
tiêu liên quan trên báo cáo tài chính. Chính vì vậy mà việc một doanh nghiệp có khả
năng hoạt động tốt chưa hẳn sẽ nhận được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần
như giả thuyết đã đưa ra ban đầu.
Phần cuối cùng cần bàn luận ở đây là các tỷ số được chọn vào mô hình và có
khả năng phân biệt được ý kiến kiểm toán một cách có ý nghĩa. Trong ba tỷ số được
chọn thì tỷ số lợi nhuận sau thuế trên doanh thu có tác động mạnh nhất tới khả năng
nhận ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với giả
thuyết ban đầu là các doanh nghiệp có tỷ suất sinh lời càng cao thì khả năng nhận
được ý kiến chấp nhận toàn phần càng cao. Vì điều quan trọng nhất của một doanh
nghiệp và cũng là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư quan tâm đó là khă năng sinh lời của
một doanh nghiệp. Đặc biệt trong bối cảnh tất cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
này gặp đều gặp khó khăn thì việc một doanh nghiệp vẫn duy trì được khả năng
sinh lời cao cho thấy được những mặt tích cực từ việc quản lý đến việc tổ chức thực
hiện sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên kế toán cũng cần phải xem xét kỹ lưỡng đến
những thủ thuật gian lận có thể được các doanh nghiệp sử dụng cho các tỷ số này,
chỉ khi nào kiểm toán viên thấy rằng không có các gian lận nào được thực hiện làm
tăng biến T7 thì việc sử dụng độ lớn của tỷ số này để đưa ra ý kiến chấp nhận toàn
phần mới có ý nghĩa.
Trong các tỷ số được chọn có khả năng phân biệt được ý kiến kiểm toán thì
có một tỷ số mà kết quả mô hình đưa ra có tính trái ngược với kết quả kiểm định
60
cũng như giả thuyết ban đầu. Đó là biến tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu
(T8). Kết quả kiểm định Mann-Whitney cho thấy, trị trung bình của tỷ số này đối
với nhóm ý kiến chấp nhận toàn phần cao hơn so với trị trung bình của tỷ số đối với
nhóm ý kiến chấp nhận từng phần. Tuy nhiên, theo mô hình Binary Logistic thì biến
này có hệ số tương quan là (-38,166), hệ số tương quan mang dấu âm phản ánh biến
này có tác động ngược chiều đến ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần, điều này có
thể do một số nguyên nhân sau. Thứ nhất, kiểm định Mann-Whitney là kiểm định
phi tham số nên mức độ chính xác không cao như kiểm định có tham số, chính vì
vậy mà khi biến này được đưa vào mô hình hồi quy Binary Logistic thì kết quả có
sự thay đổi. Thứ hai, trong giai đoạn 2008-2010 là thời kỳ khó khăn của nền kinh tế
trong đó các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản bị thiệt hại khá
lớn, những áp lực về tài chính khi nền kinh tế nói chung gặp khó khăn sẽ làm tăng
khả năng gian lận để làm đẹp báo cáo tài chính, trong đó tỷ số lợi nhuận trước thuế
trên doanh thu lại là một trong những yếu tố được nhà đầu tư quan tâm nhiều, chính
vì vậy trong bổi cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn mà những công ty có tỷ số này
cao thì chưa hẳn các kiểm toán viên có thể dựa vào đó để đưa ra ý kiến kiểm toán
chấp nhận toàn phần mà đôi khi còn làm tăng nghi vấn của kiểm toán viên về các
gian lận có thể xảy ra xoay quanh các chỉ tiêu thuộc tỷ số này, qua đó các kiểm toán
viên có thể xem xét để đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần nếu phát hiện các gian lận
thuộc tỷ số này làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính. Thứ ba, Việc biến
LNTT trên doanh thu có tác động ngược chiều so với biến LNST trên doanh thu đến
ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần có thể là do ảnh hưởng của yếu tố thuế thu
nhập doanh nghiệp tác động. Chỉ tiêu LNST trên doanh thu phản ánh nghĩa vụ đã
nộp thuế của doanh nghiệp, việc doanh nghiệp nộp thuế không đúng sẽ ảnh hưởng
đến trách nhiệm pháp lý và bộ mặt hoạt động kinh doanh nên các doanh nghiệp sẽ
phải thận trọng hơn khi trình bày chỉ tiêu này. Chính vì vậy mà có thể kiểm toán
viên sẽ tin tưởng vào chỉ tiêu LNST để đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần nhiều
hơn là tin tưởng vào chỉ tiêu LNTT trên doanh thu.
61
5.3 ỨNG DỤNG CỦA MÔ HÌNH CHO MỤC ĐÍCH DỰ BÁO
Trên cơ sở mục đích của nghiên cứu là muốn xây dựng một mô hình có thể
dự đoán ý kiến kiểm toán của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất
động sản dựa trên một số thông tin về các biến tài chính và phi tài chính, qua đó
giúp cho các kiểm toán viên có thêm công cụ hỗ trợ trong việc quyết định đưa ra ý
kiến chính xác nhất về báo cáo tài chính. Trong suốt quá trình thu thập, phân tích và
xử lý dữ liệu, kết quả là nghiên cứu đạt được một mô hình dự báo hồi quy Binary
Logistic với 4 biến độc lập có khả năng dự đoán ý kiển kiểm toán, mô hình dự đoán
ý kiến kiểm toán có dạng sau:
Để làm đúng tinh thần của một cuộc nghiên cứu thực nghiệm là sản phẩm tạo
ra phải mang tính ứng dụng trong thực tế, căn cứ vào kết quả của mô hình dự đoán
đạt được, nghiên cứu sẽ lựa chọn ngẫu nhiên hai công ty trong danh sách những
công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản được niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2008-2010 và có dấu mộc đầy đủ trong báo cáo
tài chính cũng như báo cáo kiểm toán để kiểm định về khả năng dự đoán của mô
hình này.
VD1: Trong trường hợp đầu tiên chúng ra sẽ thử khả năng dự đoán của mô
hình với số liệu được lấy từ một công ty mà kết quả là năm trước đó nhận được ý
kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần. Công ty được chọn là công ty cổ phần xây lắp
và phát triển dịch vụ bưu điện Quảng Nam có mã chứng khoán là QCC được niêm
yết trên sàn giao dịch chứng khoán HNX. Trong năm 2008 công ty này được công
ty kiểm toán và kế toán AAC kiểm toán báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến chấp
nhận toàn phần, trong khi đó năm 2009 các tỷ số tài chính đã được kiểm toán trên
báo cáo tài chính của công ty này thể hiện như sau:T4 = 0.53; T7 = 0.04; T8 = 0.05,
thay giá trị của các biến này vào mô hình dự đoán ta có:
Hay xác xuất để nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần của công ty này là:
62
−
+
−
x
x
x
x
+ 3,184 3,867 1 7,428 0,53 54,532 0,04 38,166 0,05
=
96,7%
−
−
+
x
x
x
x
+ 3,184 3,867 1 7,428 0,53 54,532 0,04 38,166 0,05
e +
e
1
29,58 + 1 29,58
P(Y=1) = =
Mô hình Binary Logistic cho biết khả năng công ty này nhận được ý kiến
chấp nhận toàn phần là 96,7%. Đối chiếu với ý kiến kiểm toán mà thực tế công ty
này đã nhận được trong năm 2009 từ công ty kiểm toán AAC thì ta thấy đúng là
công ty này đã nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần. Tuy nhiên cần lưu ý rằng
nếu lúc này kế toán viên của công ty AAC chưa đưa ra ý kiến kiểm toán cho báo
cáo tài chính năm 2009 mà muốn dựa vào tỷ lệ dự đoán của mô hình này để đưa ra
quyết định thì kiểm toán viên chỉ nên coi tỷ lệ dự đoán từ mô hình này là một trong
những công cụ hỗ trợ cho việc đưa ra ý kiến chứ không nên coi nó là yếu tố mang
tính chất quyết định 100%, vì thực chất đây chỉ là mô hình đoán mà tỷ lệ dự đoán
này chỉ có khả năng đoán đúng 96,7%.
VD2: Tại ứng dụng này chúng ta xét một trường hợp ngược lại đó là một
công ty mà năm trước đó nhận ý kiến chấp nhận từng phần để kiểm tra xem khả
năng nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần trong năm hiện tại là cao hay thấp.
Công ty được xét là công ty Xây dựng và phát trển đô thị tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có
mã chứng khoán là UDC được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán HSX, trong
năm 2008 và 2009 công ty này đều được kiểm toán bởi công ty TNHH dịch vụ tư
vấn tài chính kế toán và kiểm toán ASC, trong đó năm 2008 công ty này nhận được
ý kiến chấp nhận từng phần tức T1 =0; các tỷ số tài chính trong mô hình tương ứng
của công ty này năm 2009 đạt được là: T4 = 0.58; T7 = 0.04; T8 = 0.07. Thay các giá
trị này vào mô hình dự đoán ta có:
−
+
−
+ 3,184 3,867 0 7,428 0,58 54,532 0,04 38,166 0,07
x
x
x
x
=
=
P(Y=1) =
16,6%
−
−
+
+ 3,184 3,867 0 7,428 0,58 54,532 0,04 38,166 0,07
x
x
x
x
e +
1
e
0,199 + 1 0,199
Hay xác xuất để nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần của công ty này là:
Như vậy căn cứ vào kết quả ứng dụng trong trường hợp một công ty nhận
được ý kiến chấp nhận từng phần trong năm trước thì với xác xuất công ty này nhận
được ý kiến chấp nhận toàn phần trong năm hiện tại chỉ đạt 16,6% hay nói cách
khác mô hình này cho biết nếu công ty này nhận ý kiến chấp nhận từng phần trong
63
năm trước đó thì sẽ có đến 83,4% công ty này sẽ phải nhận ý kiến kiểm toán chấp
nhận từng phần trong năm hiện tại. Tuy nhiên vẫn phải lưu ý lại rằng đây mới chỉ là
khả năng nhận ý kiến chấp nhận toàn phần dự đoán nên kế toán cần phải sử dụng
kết hợp với nhiều bằng chứng khác thu thập từ quá trình kiểm toán để đưa ra ý kiến
cuối cùng.
Mặc dù qua các kết quả ứng dụng mô hình dự đoán cho các doanh nghiệp cụ
thể ở trên đều đạt được kết quả như mong muốn nhưng nghiên cứu này vẫn muốn
lưu ý về vấn đề liên quan đến mối tương quan giữa lợi ích từ việc sử dụng mô hình
dự đoán và chi phí thực hiện trong từng cuộc kiểm toán. Như chúng ta đã biết thì
trong các thủ tục cần thực hiện của một cuộc kiểm toán thì thủ tục áp dụng các kỹ
thuật phân tích thường tốn nhiều thời gian và công sức nhất đối với các kiểm toán
viên, trong khi đó thì khả năng dự đoán ý kiến kiểm toán của mô hình là 94% nên
các kiểm toán viên cũng cân phải cân nhắc và đánh giá về quan hệ giữa lợi ích đạt
được và chi phí bỏ ra để có thể quyết định có nên áp dụng mô hình dự đoán hay
không.
5.4 NHỮNG HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP
THEO.
5.4.1 Hạn chế của nghiên cứu
Do mới bước đầu làm quen với lĩnh vực nghiên cứu thực nghiệm nên đề tài
không tránh khỏi những mặt hạn chế có thể tác động đến kết quả của nghiên cứu.
Những hạn chế này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất: Hạn chế do việc chọn mẫu nghiên cứu, do thời gian nghiên cứu
không cho phép nên đề tài chỉ có thể tiến hành nghiên cứu đối với các đối tượng là
công ty thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản được niêm yết trên thị trường
chứng khoán, còn các công ty cũng thộc lĩnh vực này nhưng chưa được niêm yết thì
lại chưa được đề cập trong mẫu nghiên cứu này. Mặc dù tỷ lệ mẫu có thể đảm bảo
được tính đại diện nhưng kết quả dự đoán ý kiến kiểm toán trong mô hình này cũng
chỉ có tính ướng dụng cao đối với các doanh nghiệp được niêm yết mà thôi.
Thứ hai: Hạn chế trong việc chọn biến độc lập ban đầu đưa vào nghiên cứu,
Mặc dù việc lựa chọn các biến độc lập ban đầu để đưa vào nghiên cứu bao gồm cả
64
hai nhóm là nhóm biến phi tài chính và nhóm các tỷ số tài chính và các biến này
đều được tham khảo từ nhiều nghiên cứu khác trước đó, tuy nhiên trong các nghiên
cứu trước đó thì còn rất nhiều biến độc lập khác được sử dụng, chính vì vậy mà việc
lựa chọn các biến độc lập đưa vào nghiên cứu này vẫn còn mang tính chất chủ quan
của người nghiên cứu. Chính vì sự lựa chọn còn mang tính chất chủ quan nên đôi
khi sẽ dẫn đến kết quả là có những biến thực sự có đóng góp cho mô hình dự đoán
thì có thể lại bị bỏ sót, trong khi đó lại có những biến thực sự không có đóng góp gì
trong mô hình dự đoán thì lại được chọn, điều này sẽ làm loãng kết quả nghiên cứu
ban đầu và phải tiến hành chạy lại mô hình sau khi đã loại bỏ bớt đi một số biến.
Thứ ba: Hạn chế trong việc lựa chọn phương pháp kiểm định mối liên hệ
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. Cả hai phương pháp kiểm định được sử
dụng trong nghiên cứu này đều là kiểm định phi tham số. Mặc dù thực tế cho thấy
phương pháp kiểm định Chi – bình phương được sử dụng phổ biến nhất trong kiểm
định mối liên hệ giữa hai biến định danh- định danh hoặc định danh – thứ bậc, tuy
nhiên nó lại không phản ánh được độ mạnh của mối liên hệ đó. Trong khi đó
phương pháp kiểm định Mann-Whitney cũng không cho ra kết quả chính xác và
phản ánh được độ mạnh như những kiểm định tham số khác vì nó không đòi hỏi bất
kỳ giả định khắt khe nào về phân phối chuẩn của tổng thể. Tuy cả hai phương pháp
kiểm định sử dụng trong nghiên cứu này đều không hiệu quả bằng phương pháp
kiểm định có tham số nhưng kết quả mà nó đưa ra vẫn nằm trong độ tin cậy có thể
ứng dụng tốt, mặt khác vì thời gian nghiên cứu có giới hạn, mà các kiểm định khác
thì lại đòi hỏi những tiêu chuẩn khắt khe cần phải xử lý mất nhiều thời gian mới có
thể thực hiện được nên nghiên cứu vẫn quyết định sử dụng hai phương pháp kiểm
định phi tham số.
Thứ tư: Hạn chế trong việc lựa chọn phương pháp xây dựng mô hình dự
đoán, ở đây tác giả không có ý nói rằng phương pháp nghiên cứu trong đề tài này là
không phù hợp mà hạn chế muốn bàn luận trong phần này là so với các mô hình dự
đoán nếu được nghiên cứu theo các phương pháp khác có thể kết quả của nghiên
cứu theo phương pháp này sẽ không được chính xác bằng. Vì còn rất nhiều phương
pháp nghiên cứu theo kỹ thuật xử lý hiện đại hơn, sử dụng các phần mềm thống kê
65
khác mà có thể cho ra được các kết quả tốt hơn ví dụ phương pháp phân loại
UTADIS và MHDIS được sử dụng bởi Zopounidis năm 2006. Tuy một số phương
pháp nghiên cứu khác được chứng minh là có kết quả tốt hơn nhưng lại mất rất
nhiều thời gian trong quá trình xử lý số liệu cũng như phải đáp ứng các giả định
khắt khe khó thực hiện. Trong phạm vi về thời gian không cho phép nên nghiên cứu
vẫn quyết định lựa chọn phương pháp Binary Logistic để xây dựng mô hình dự
đoán.
Thứ năm: hạn chế liên quan đến việc sử dụng phương tiện thu thập dữ liệu
đưa vào nghiên cứu: Mặc dù có nhiều trang web khác nhau cung cấp các thông tin
về báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên các sàn giao dịch chứng
khoán như trang web của ủy ban chứng khoán nhà nước; trang Cafef.vn hay trang
stockbiz.vn…nhưng đề tài này lại chọn trang web Cafef.vn để thu thập toàn bộ dữ
liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, trong quá trình thu thập dữ liệu từ trang web này
vẫn có một số công ty do lỗi update hoặc cung cấp những báo cáo tài chính không
có độ tin cậy cao như thiếu mộc đỏ thì nghiên cứu có kết hợp với trang web khác
như Stockbiz.vn để thu thập thêm, nhưng việc thu thập này vẫn không đáp ứng
được toàn bộ 100% yêu cầu chất lượng thông tin đề ra đề ra. Xuất phát từ việc có
nhiều phương tiện khác nhau trong việc hỗ trợ thu thập thông tin phục vụ nghiên
cứu nên có thể việc đưa ra quyết định lựa chọn trang Web này sẽ không có độ tin
cậy cao hơn so với việc sử dụng trang Web khác qua đó sẽ làm ảnh hưởng một phần
đến kết quả nghiên cứu.
5.4.2 Đề xuất cho hướng nghiên cứu tiếp theo
Từ những hạn chế đã được nêu ở phần trên mà đề tài này vì những lý do về
thời gian cũng như bước đầu làm quen với lĩnh vực nghiên cứu thực nghiệm nên
chưa thể khắc phục được. Tuy nhiên, những hạn chế này lại mở ra những cơ hội
mới cho những đề tài nghiên cứu trong tương lai khi người thực hiện muốn tiếp tục
đi sâu vào mảng nghiên cứu này với mong muốn khắc phục những hạn chế đề ra.
Dựa trên những hạn chế này, nghiên cứu xin mạnh dạn đề xuất một số hướng
nghiên mới cho tương lai như sau:
66
Thứ nhất: Các nghiên cứu trong tương lai có thể lựa chọn thêm các biến độc
lập là biến tài chính và phi tài chính mà chưa được nghiên cứu này sử dụng như:
biến quy mô hội đồng quản trị; biến trình độ ban lãnh đạo của doanh nghiệp được
kiểm toán; biến vòng quay các khoản phải thu; biến tỷ lệ hàng tồn kho trên tổng tài
sản….bằng cách này có thể phát hiện được thêm những biến mới thực sự có đóng
góp quan trọng trong mô hình dự đoán.
Thứ hai: Các nghiên cứu trong tương lai có thể sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khác tuy phức tạp hơn nhưng lại có độ chính xác cao hơn như: phương
pháp phân tích biệt số; phương pháp phân loại đa tiêu chí UTADIS; phương pháp
hồi quy tuyến tính bội….hoặc các nghiên cứu trong tương lai có thể sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp khác nhau cho cùng một mẫu sau đó sao sánh kết quả dự
đoán chính xác của từng phương pháp để cuối cùng có thể lựa chọn được các
phương pháp chính xác nhất.
Thứ ba: Các nghiên cứu trong tương lai nên có những chuẩn bị tốt về thời
gian thực hiện để có thể kết hợp nhiều kênh thu thập thông tin khác nhau, ví du thu
thập thông tin về báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên trang web của ủy
ban chứng khoán hoặc trang web của sở giao dịch chứng khoán, qua đó sẽ làm tăng
chất lượng thông tin thu thập cũng như cải thiện được kết quả nghiên cứu.
67
Kết luận chương 5
Sau quá trình chọn mẫu nghiên cứu, lựa chọn phương pháp nghiên cứu cũng
như lựa chọn các biến độc lập đưa vào mô hình, trải qua quá trình kiểm định và
phân tích lại thì cuối cùng nghiên cứu đã xây dựng được mô hình dự đoán ý kiến
kiểm toán với bốn biến được cho là có đóng góp vào khả năng dự đoán của mô
hình. Mặc dù có một số biến khác đã bị loại ra khỏi mô hình dự đoán nhưng không
có nghĩa là kiểm toán viên sẽ không xét đến chúng khi thực hiện kiểm toán, vì trong
những điều kiện hoàn cảnh kinh tế có thay đổi thì một số biến bị loại lại có thể có
ảnh hưởng đến việc quyết định đưa ra loại ý kiến kiểm toán, ngoài ra kiểm toán viên
cũng cần phải lưu ý rằng mô hình dự đoán được đưa ra từ nghiên cứu này chỉ đóng
vai trò là một trong những công cụ hỗ trợ của kiểm toán viên chứ không phải là
mang tính chất quyết định để kiểm toán viên chỉ cần dựa vào đó để đưa ra ý kiến
kiểm toán, vì kết quả của mô hình dự đoán vẫn còn bị ảnh hưởng bởi một số hạn
chế được tìm thấy từ nghiên cứu này. Hy vọng rằng các nghiên cứu trong tương lai
có thể khắc phục được những hạn chế nêu trên để đạt được kết quả dự đoán tốt hơn.
68
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với mức độ hội nhập kinh tế khá sâu
rộng giữa các quốc gia trên thế giới thì việc minh bạch cũng như tính trung thực,
hợp lý và tính đáng tin cậy của các thông tin tài chính được cung cấp là hết sức
quan trọng và là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Chính vì tầm
quan trọng của các thông tin tài chính được cung cấp mà các kiểm toán viên phải
càng trở nên thận trọng hơn trong việc đưa ra ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài
chính. Với mục đích nghiên cứu các nhân tố có ảnh hưởng đến việc hình thành ý
kiến kiểm toán, qua đó xây dựng một mô hình dự đoán ý kiến kiểm toán dành riêng
cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng và bất động sản. Hy vọng rằng kết
quả đưa ra từ nghiên cứu này sẽ là một công cụ hỗ trợ hiệu quả cho kiểm toán viên
trong quá trình kiểm toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ tài chính (1999), Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700, Báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính.
2. Bộ Tài chính (1999), Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200, Mục tiêu và
nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính.
3. Bộ tài chính (2003), Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21, Trình bày báo cáo
tài chính.
4. Bộ Tài Chính (2012), Thông tư số 214/2012/TT-BTC, Thông tư ban hành hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
5. Bộ xây dựng (2009), Thông tư số 13/2009/TT-BXD của Bộ xây dựng, hướng
dẫn về việc cho thuê, quản lý, vận hành nhà ở sinh viên và nhà công nhân
khi công nghiệp.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Nghị định 56/2009/NĐ-CP, Nghị định trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
7. Chính phủ (2009), Nghị quyết 18/2009/NQ-CP của Chính phủ, về một số cơ
chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các
cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập
trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị.
8. Chính phủ (2010), Nghị định 71/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật nhà ở.
9. Chu đức Tuấn và nhóm phân tích, “ngành bất động sản”, Theo tờ Wall
stress-chứng khoán phố Wall,
cập: 10 tháng 4 năm 2013]
10. Cổng thông tin, dữ liệu tài chính, chứng khoán,
năm 2013]
11. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán mới, nâng cao năng lực hiệu quả quản lý
kinh tế,
92&item_id=93579588&p_details=1.>[ Ngày truy cập: 9 tháng 04 năm 2013] 12. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, Nhà xuất bản Hồng Đức. 13. Nguyễn Thiên Tú (2012), Nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ giữa ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính của các công ty niêm yết tại Việt Nam trong gian đoạn 2006-2010 và tỷ số tài chính, Luận văn thạc sỹ kinh tế. 14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư 13/2010/TT-NHNN của ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn của các tổ chức tín dụng. 15. Phùng Thị Yến, Phân tích tài chính đối với doanh nghiệp xây dựng và bất động sản, doanh-nghiep-bat-dong-san/24053.tctc> [ Ngày truy cập: 10 tháng 04 năm 2013] 16. Quốc hội (2008), Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12 của Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 3, Về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân người nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam. 17. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. 18. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định 65/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. 19. Web: kiemtoanvatuvan, tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kiểm toán số700, Tiếng Anh 1. Atman E – I, (1968), Financial Ratios, Discriminant Analysis and the Predictation of Corporate Bankruptcy, Journal of Finance, Vol. 23, No.4: 580 – 609. 2. Caramanis C and Spathis Ch (2006), Auditee and audit firm characteristics as determinants of audit qualifications Evidence from the Athens stock exchange, Managerial Auditing Journal Vol. 21 No. 9: 905 – 920. 3. Christine V. Zavgren (1983), The prediction of corporate failure: The State of the art. Journal of accuonting literature, pp 1-38. 4. Dr.Barbara Goodman, Daniel N. Braunstein, Dr.Alan Reintein, Explaining auditor’s Going concern Decision, Assessing Management’s Capability, Journal of Applied Business Reseach, pp.3-11. 5. Dopuch N, Holthausen R – W and Leftwich R – W (1987), Predicting audit qualifications with financial and market variables, The Accounting Review 62(3): 431 – 453. 6. Gaganis C, Pasiouras F, Spathis Ch and Zopounidis C (2007), A comparision of nearest neighbours, discriminant and logit models for auditing decisions, Intelligent Systems in Accounting, Finance and Management 15(1 – 2): 23- 40. 7. Horrigan J (1966), The determination of long-term credit standing with financial ratios, Journal of Accounting Research 4: 44-62. 8. Hughes and Sankar (1997), The impact of litigation risk on discretionary disclosure. Working paper, UCLA 9. International standard on auditing 810 (2009), Engagements to Report on Summary financial statements. 10. John Stephen Grice, Bankruptcy Prediction Models and Going concern Audit Opinion Before and After SAS No.59 11. Mutchler J – F (1985), A multivariate analysis of the auditor’s going – concern opinion decision, Journal of Accounting Research 23(2): 668 – 682. 12. Mutchler J – F (1986), Empirical evidence regarding the auditor’s Going- concern opinion decision, Auditing: A Journal of Practice & Theory 6(1): 148 – 163. 13. Pasiouras F, Gaganis C and Zopounidis C (2007), Multicriteria decision support methodologies for auditing decisions, The case of qualified audit reports in the UK, European Journal of Operational Research 180: 1317 – 1330. 14. Pinches, G.E and K.A. Mingo (1973), A Multivariate Analysis of industrial Bond Rating, Journal of finance, pp.1-18 15. Spathis C (2003), Audit qualification, firm litigation, and financial information: an empirical analysis in Greece, International Journal of Auditing, 7(1): 71 – 85. 16. Spathis C, Doumpos M and Zopounidis C (2003), Using client performance measures to identify pre-engagement factors associated with qualified audit reports in Greece, The International Journal of Accounting, 38(3): 441 – 465. 17. Reynolds, J.K and Francis, I.R (2001), Does Size matter? The influence of large clients on office-level auditor reporting decisions, Journal of accounting and economics, 30, 375-400. 18. William H.Beaver (1966), “Financial Ratios as Predictors of Failure”, Empirical Reseach in Accouting: Selected Studies, Supplement to Journal of Accounting Reseach, pp. 71-110. 19. Zmijewsky, M.E (1984), “Methodological issues Related to the Estimation of Financial Distress Prediction Models”, Journal of Accounting Reseach Supplement, pp.59-86 Danh sách các quan sát được sử dụng trong mẫu nghiên cứu NĂM MÃ STT TÊN CÔNG TY KIỂM Ý KIẾN KIỂM TOÁN CK TOÁN 1 BCC Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 2008 Không chấp nhận toàn phần 2 BCE Công ty Cổ phần Xây dựng và Giao thông Bình Dương 2008 Chấp nhận toàn phần 3 BCI Công ty Cô phần Đầu tư Xây dựng Bình Chánh 2008 Chấp nhận toàn phần 4 BT6 Công ty Cổ phần BeTon6 2008 Không chấp nhận toàn phần 5 CCI Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Công nghiệp - Thương mại Củ Chi 2008 Không chấp nhận toàn phần 6 CDC Công ty Cổ phần Chương Dương 2008 Chấp nhận toàn phần 7 CTD Công ty Cổ phần Xây dựng Cotec 2008 Không chấp nhận toàn phần 8 CTI Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Cường Thuận IDICO 2008 Chấp nhận toàn phần 9 D2D Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp Số 2 2008 Chấp nhận toàn phần 10 DCC Công ty Cổ phần Xây dựng Công nghiệp DESCON 2008 Không chấp nhận toàn phần 11 DRH Công ty cổ phần Đầu tư Căn nhà Mơ ước 2008 Chấp nhận toàn phần 12 HBC Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 2008 Không chấp nhận toàn phần 13 HDC Công ty Cổ phần Phát triển nhà Bà Rịa-Vũng Tàu 2008 Chấp nhận toàn phần 14 HDG Công ty Cổ phần Tập đoàn Hà Đô 2008 Chấp nhận toàn phần 15 LGL Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang 2008 Chấp nhận toàn phần 16 LHG Công ty Cổ phần Long Hậu 2008 Chấp nhận toàn phần 17 NTL Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm 2008 Không chấp nhận toàn phần 18 NVT Công ty Cổ phần Bất động sản Du lịch Ninh Vân Bay 2008 Chấp nhận toàn phần 19 QCC Công ty Cổ phần Xây lắp và Phát triển Dịch vụ Bưu điện Quảng Nam 2008 Chấp nhận toàn phần 2008 Chấp nhận toàn phần 20 QNC Công ty Cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh 2008 Chấp nhận toàn phần 21 S96 Công ty Cổ phần Sông Đà 9.06 2008 Chấp nhận toàn phần 22 TCR Công ty Cổ phần Công nghiệp Gốm sứ Taicera 2008 Chấp nhận toàn phần 23 VC7 Công ty Cổ phần Xây dựng số 7 2008 Chấp nhận toàn phần 24 VIC Tập đoàn Vingroup - Công ty Cổ phần 2008 Chấp nhận toàn phần 25 VPH Công ty Cổ phần Vạn Phát Hưng 2008 Không chấp nhận toàn phần 26 VPL Công ty Cổ phần Vinpearl 27 HQC Công ty cổ phần Tư vấn-Thương mại-Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân 2008 Không chấp nhận toàn phần 28 LM7 Công ty Cổ phần Lilama 7 2008 Không chấp nhận toàn phần 29 PVL Công ty Cổ phần Vinpearl 2008 Không chấp nhận toàn phần 30 PXM Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Miền Trung 2008 Chấp nhận toàn phần 31 PXT Công ty Cổ phần Xây lắp Đường ống Bể chứa Dầu khí 2008 Chấp nhận toàn phần 32 SCR Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín 2008 Không chấp nhận toàn phần 33 TV1 Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1 2008 Không chấp nhận toàn phần 34 UDC Công ty Cổ phần Phát triển và Xây dựng Đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 2008 Không chấp nhận toàn phần 35 VES Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng điện Mê Ca Vneco 2008 Chấp nhận toàn phần 36 YBC Công ty Cổ phần Xi măng và Khoáng sản Yên Bái 2008 Chấp nhận toàn phần 37 GMX Công ty cổ phần Gạch Ngói Gốm Xây dựng Mỹ Xuân 2008 Chấp nhận toàn phần 38 KSB Công ty Cổ phần Khoáng sản và Xây dựng Bình Dương 2008 Chấp nhận toàn phần 39 KHA Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Khánh Hội 2008 Không chấp nhận toàn phần 40 MDG Công ty Cổ phần miền Đông 2008 Chấp nhận toàn phần 41 NVN Công ty Cổ phần Nhà Việt Nam 2008 Chấp nhận toàn phần 42 PDR Công ty cổ phần Phát triển Bất động sản Phát Đạt 2008 Chấp nhận toàn phần 43 BCC Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 2009 Không chấp nhận toàn phần 44 BCE Công ty Cổ phần Xây dựng và Giao thông Bình Dương 2009 Chấp nhận toàn phần CLG Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Nhà đất COTEC 2009 Không chấp nhận toàn phần 45 CTD Công ty Cổ phần Xây dựng Cotec 2009 Chấp nhận toàn phần 46 DCC Công ty Cổ phần Xây dựng Công nghiệp DESCON 2009 Chấp nhận toàn phần 47 DRH Công ty cổ phần Đầu tư Căn nhà Mơ ước 2009 Chấp nhận toàn phần 48 HAS Công ty Cổ phần HACISCO 2009 Chấp nhận toàn phần 49 HDC Công ty Cổ phần Phát triển nhà Bà Rịa-Vũng Tàu 2009 Chấp nhận toàn phần 50 HDG Công ty Cổ phần Tập đoàn Hà Đô 2009 Chấp nhận toàn phần 51 HMC Công ty Cổ phần Kim khí Thành phố Hồ Chí Minh 2009 Không chấp nhận toàn phần 52 ITA Công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo 2009 Chấp nhận toàn phần 53 LGL Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang 2009 Chấp nhận toàn phần 54 55 MCG Công ty Cổ phần Cơ điện và Xây dựng Việt Nam 2009 Chấp nhận toàn phần 56 MCO Công ty Cổ phần MCO Việt Nam 2009 Không chấp nhận toàn phần 57 MCV Công ty Cổ phần Cavico Việt Nam Khai thác Mỏ và Xây dựng 2009 Không chấp nhận toàn phần NVT Công ty Cổ phần Bất động sản Du lịch Ninh Vân Bay 2009 Chấp nhận toàn phần 58 QCC Công ty Cổ phần Xây lắp và Phát triển Dịch vụ Bưu điện Quảng Nam 2009 Chấp nhận toàn phần 59 QNC Công ty Cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh 2009 Chấp nhận toàn phần 60 VE9 Công ty Cổ phần Đầu tư và xây dựng VNECO 9 2009 Chấp nhận toàn phần 61 VIC Tập đoàn Vingroup - Công ty Cổ phần 62 2009 Chấp nhận toàn phần VPH Công ty Cổ phần Vạn Phát Hưng 63 2009 Chấp nhận toàn phần VPL Công ty Cổ phần Vinpearl 64 2009 Chấp nhận toàn phần CNT Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Vật tư 2009 Không chấp nhận toàn phần 65 LM7 Công ty Cổ phần Lilama 7 66 2009 Chấp nhận toàn phần PTL Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng và Đô thị Dầu khí PVC 67 2009 Chấp nhận toàn phần PVL Công ty cổ phần Địa ốc Dầu khí 68 2009 Chấp nhận toàn phần VCG Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam 69 2009 Chấp nhận toàn phần 70 UDC Công ty Cổ phần Phát triển và Xây dựng Đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 2009 Không chấp nhận toàn phần YBC Công ty Cổ phần Xi măng và Khoáng sản Yên Bái 71 2009 Chấp nhận toàn phần DAG Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 72 2009 Chấp nhận toàn phần GMX Công ty cổ phần Gạch Ngói Gốm Xây dựng Mỹ Xuân 73 2009 Chấp nhận toàn phần LCG Công ty Cổ phần LICOGI 16 74 2009 Chấp nhận toàn phần KAC Công ty Cổ phần Đầu tư Địa ốc Khang An 75 2009 Chấp nhận toàn phần 76 MDG Công ty Cổ phần miền Đông 2009 Chấp nhận toàn phần NVN Công ty Cổ phần Nhà Việt Nam 77 2009 Không chấp nhận toàn phần L61 Công ty Cổ phần Lilama 69-1 78 2009 Chấp nhận toàn phần 79 PPI Công ty Cổ phần Phát triển Hạ tầng và Bất động sản Thái Bình Dương 2009 Chấp nhận toàn phần 80 KTT Công ty cổ phần Đầu tư Thiết bị và Xây lắp điện Thiên Trường 2009 Chấp nhận toàn phần 81 BCE Công ty Cổ phần Xây dựng và Giao thông Bình Dương 2010 Chấp nhận toàn phần 82 BCI Công ty Cô phần Đầu tư Xây dựng Bình Chánh 2010 Chấp nhận toàn phần 83 BTS Công ty cổ phần Xi măng Vicem Bút Sơn 2010 Chấp nhận toàn phần 84 CDC Công ty Cổ phần Chương Dương 2010 Chấp nhận toàn phần 85 CTD Công ty Cổ phần Xây dựng Cotec 2010 Chấp nhận toàn phần 86 D2D Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp Số 2 2010 Chấp nhận toàn phần 87 DRH Công ty cổ phần Đầu tư Căn nhà Mơ ước 2010 Chấp nhận toàn phần 88 DXV Công ty Cổ phần VICEM Vật liệu Xây dựng Đà Nẵng 2010 Không chấp nhận toàn phần 89 HAS Công ty Cổ phần HACISCO 2010 Không chấp nhận toàn phần 90 HBC Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình 2010 Chấp nhận toàn phần 91 HCC Công ty Cổ phần Bê tông Hoà Cầm - Intimex 2010 Không chấp nhận toàn phần 92 HMC Công ty Cổ phần Kim khí Thành phố Hồ Chí Minh 2010 Không chấp nhận toàn phần 93 KBC Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc-CTCP 2010 Chấp nhận toàn phần 94 L10 Công ty Cổ phần Lilama 10 2010 Chấp nhận toàn phần 95 LGL Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang 2010 Chấp nhận toàn phần 96 LHG Công ty Cổ phần Long Hậu 2010 Chấp nhận toàn phần 97 MCG Công ty Cổ phần Cơ điện và Xây dựng Việt Nam 2010 Chấp nhận toàn phần 98 MCO Công ty Cổ phần MCO Việt Nam 2010 Chấp nhận toàn phần 99 MCV Công ty Cổ phần Cavico Việt Nam Khai thác Mỏ và Xây dựng 2010 Không chấp nhận toàn phần 100 NAV Công ty Cổ phần Nam Việt 2010 Chấp nhận toàn phần 101 NNC Công ty Cổ phần Đá Núi Nhỏ 2010 Chấp nhận toàn phần 102 NTL Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm 2010 Chấp nhận toàn phần 103 NTP Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền Phong 2010 Chấp nhận toàn phần 104 NVT Công ty Cổ phần Bất động sản Du lịch Ninh Vân Bay 2010 Chấp nhận toàn phần 105 QNC Công ty Cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh 2010 Chấp nhận toàn phần 106 S55 Công ty Cổ phần Sông Đà 5.05 2010 Chấp nhận toàn phần 107 SAM Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Sacom 2010 Chấp nhận toàn phần 108 SDE Công ty cổ phần Kỹ thuật Điện Sông Đà 2010 Chấp nhận toàn phần 109 SIS Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và Khu Công nghiệp Sông Đà 2010 Chấp nhận toàn phần 110 SNG Công ty Cổ phần Sông Đà 10.1 2010 Chấp nhận toàn phần 111 VC7 Công ty Cổ phần Xây dựng số 7 2010 Chấp nhận toàn phần 112 VIC Tập đoàn Vingroup - Công ty Cổ phần 2010 Chấp nhận toàn phần 113 CVN Công ty cổ phần Vinam 2010 Chấp nhận toàn phần 114 HQC Công ty cổ phần Tư vấn-Thương mại-Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân 2010 Không chấp nhận toàn phần 115 LM7 Công ty Cổ phần Lilama 7 2010 Chấp nhận toàn phần 116 PTL Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng và Đô thị Dầu khí PVC 2010 Chấp nhận toàn phần 117 PXT Công ty Cổ phần Xây lắp Đường ống Bể chứa Dầu khí 2010 Chấp nhận toàn phần 118 SCR Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín 2010 Chấp nhận toàn phần 119 SZL Công ty cổ phần Sonadezi Long Thành 2010 Chấp nhận toàn phần 120 TV1 Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1 2010 Chấp nhận toàn phần 121 VCG Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam 2010 Chấp nhận toàn phần 122 VES Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng điện Mê Ca Vneco 2010 Chấp nhận toàn phần 123 YBC Công ty Cổ phần Xi măng và Khoáng sản Yên Bái 2010 Chấp nhận toàn phần 124 DAG Công ty Cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á 2010 Chấp nhận toàn phần 125 KSB Công ty Cổ phần Khoáng sản và Xây dựng Bình Dương 2010 Chấp nhận toàn phần 126 CLG Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Nhà đất COTEC 2010 Chấp nhận toàn phần 127 KAC Công ty Cổ phần Đầu tư Địa ốc Khang An 2010 Chấp nhận toàn phần 128 KHA Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Khánh Hội 2010 Chấp nhận toàn phần 129 MDG Công ty Cổ phần miền Đông 2010 Chấp nhận toàn phần 130 NVN Công ty Cổ phần Nhà Việt Nam 2010 Không chấp nhận toàn phần 131 L61 Công ty Cổ phần Lilama 69-1 2010 Chấp nhận toàn phần 132 PPI Công ty Cổ phần Phát triển Hạ tầng và Bất động sản Thái Bình Dương 2010 Chấp nhận toàn phần 133 KTT Công ty cổ phần Đầu tư Thiết bị và Xây lắp điện Thiên Trường 2010 Chấp nhận toàn phầnPHỤ LỤC