ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHAN THU HẰNG

KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH (1994 - 2012)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHAN THU HẰNG

KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH (1994 - 2012)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2015

Tác giả luận văn

Phan Thu Hằng

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

i http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cám ơn tất cả các thầy cô giáo trong

Khoa Lịch sử, đặc biệt là những thầy cô giáo chuyên ngành Lịch sử Việt Nam,

những ngƣời đã giảng dạy và động viên tôi trong suốt hai năm học vừa qua

giúp tôi hoàn thành nghiên cứu và hoàn thiện nghiên cứu đề tài.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy,

ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.

Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè tôi, những

ngƣời đã luôn ở cạnh tôi trong những lúc khó khăn nhất và giúp tôi có đƣợc

thành quả ngày hôm nay.

Thái Nguyên, tháng 08 năm 2015

Tác giả luận văn

Phan Thu Hằng

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ii http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii

MỤC LỤC ......................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................ iv

DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. v

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ ............................................................... vi

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 3

3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ................................ 5

4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................... 6

5. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 7

6. Bố cục của luận văn ........................................................................................ 7

Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN

ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ......................................................... 8

1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................................ 8

1.2. Điều kiện dân cƣ - xã hội ........................................................................... 13

1.3. Điều kiện kinh tế ........................................................................................ 19

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................. 21

Chƣơng 2. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN ĐẢO VÂN

ĐỒN GIAI ĐOẠN 1994 - 2012 ...................................................................... 23

2.1. Chủ trƣơng phát triển kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn ........................ 23

2.2. Sự phát triển của kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn ................................ 29

2.2.1. Khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản ........................................ 29

2.2.2. Du lịch biển, đảo ................................................................................. 44

2.2.3. Mạng lƣới giao thông và hệ thống cảng biển ..................................... 66

Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................. 69

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iii http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chƣơng 3. TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ BIỂN ĐẾN KINH TẾ, XÃ

HỘI HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH ............................... 71

3.1. Tác động về kinh tế .................................................................................... 71

3.1.1. Thúc đấy sự phát triển của các ngành kinh tế khác ............................ 72

3.1.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện đảo ........................ 75

3.2. Tác động về xã hội ..................................................................................... 76

3.2.1. Góp phần xóa đói giảm nghèo ............................................................ 76

3.2.2. Góp phần làm thay đổi diện mạo của huyện đảo ................................ 78

3.2.3. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập ............. 79

Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................. 82

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 87

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iv http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Mã lực - thƣớc đo công suất động cơ CV

HĐND Hội đồng nhân dân

HTX Hợp tác xã

NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

SX Sản xuất

UBND Ủy ban nhân dân

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iv http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Năng suất khai thác hải sản huyện Vân Đồn giai đoạn

2006 - 2010 ........................................................................... 33

Bảng 2.2. Sản lƣợng khai thác hải sản huyện Vân Đồn năm 2012 .............. 34

Bảng 2.3. Diện tích, sản lƣợng nuôi trồng hải sản huyện Vân Đồn giai

đoạn 2006 - 2012 ......................................................................... 39

Bảng 2.4. Cơ sở sản xuất con giống thuỷ sản năm 2010 .............................. 42

Bảng 2.5. Thực trạng cơ sở lƣu trú tại huyện Vân Đồn 2004 -2008 ............ 56

Bảng 2.6. Một số chƣơng trình du lịch đang đƣợc các công ty Du lịch

chào bán đến Vân Đồn ................................................................. 61

Bảng 2.7. Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn giai đoạn

2004-2009 ..................................................................................... 63

Bảng 2.8. Hiện trạng khách du lịch nội địa đến Vân Đồn giai đoạn

2004-2009 ..................................................................................... 64

Bảng 3.1. Bảng thống kê so sánh một số chỉ tiêu phát triển kinh tế ............. 74

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

v http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ninh ............................................ 9

Hình 1.2. Bản đồ hành chính huyện Vân Đồn - Quảng Ninh .................... 17

Hình 2.1. Sơ đồ vị trí và mối liên hệ vùng ................................................ 27

Hình 2.2. Sơ đồ cấu trúc phát triển không gian vùng ................................ 28

Hình 2.3. Bản đồ các điểm du lịch tỉnh Quảng Ninh ................................ 49

Biểu đồ 3.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa huyện Vân Đồn giai

đoạn 2008 - 2012 ....................................................................... 80

Biểu đồ 3.2. Thu ngân sách từ XNK trên địa bàn Vân Đồn - Quảng

Ninh giai đoạn 2007 - 2013 ....................................................... 81

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

vi http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy, biển và kinh tế biển có vị trí

đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có biển trong quá trình phát triển,

là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Hiện nay, trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109 triệu km 2, biển

đƣợc các nƣớc xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lý

theo công ƣớc quốc tế. Các quốc gia có biển trên thế giới đã và đang xúc

tiến xây dựng chiến lƣợc cũng nhƣ các kế hoạch hành động khai thác biển,

khai thác vùng ven bờ hải đảo một cách mạnh mẽ. Việt Nam là một quốc gia ven biển, vùng biển rộng 1 triệu km2, bờ biển dài 3.260 km trải dài ở cả

3 hƣớng Đông, Nam và Tây Nam, có những ƣu thế và vị trí chiến lƣợc đặc

biệt quan trọng đối với khu vực và trên thế giới, có một tài nguyên biển khá

phong phú và đa dạng, là điều kiện thuận lợi thúc đẩy kinh tế biển phát

triển, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên từ biển, phục vụ cho quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Nằm ở vùng Vịnh Bắc Bộ, gồm 2 quần đảo lớn là Kế Bào và Vân Hải

với hơn 600 hòn đảo lớn, nhỏ thuộc Bái Tử Long, bao bọc một phần vùng mỏ

Hồng Gai, huyện đảo Vân Đồn có vị trí rất quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc

phòng - an ninh của tỉnh Quảng Ninh và khu vực Đông Bắc của Tổ quốc. Hơn

15 năm thành lập (ngày 23-3-1994 Chính phủ ra quyết định đổi tên huyện

Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn và tách 2 xã: Cô Tô, Thanh Lân thành lập

huyện Cô Tô), nhất là từ khi đƣợc Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng Khu

kinh tế - xã hội Vân Đồn (31-5-2006) thành khu vực kinh tế chiến lƣợc và địa

bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh vùng Bắc Bộ, Đảng bộ, chính quyền

và nhân dân của huyện đã chủ động khắc phục khó khăn, giành đƣợc kết quả

quan trọng trong khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển, kết hợp

1

phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng quốc phòng - an ninh. Với diện tích rộng hơn 2.000 km2, Vân Đồn có những điểm khác biệt rất lớn so với 14 khu

kinh tế ven biển khác của cả nƣớc, điều kiện giao thông thuận lợi cả đƣờng bộ,

hàng không, đƣờng biển. Đây là vùng nằm gọn trong khu vực hợp tác “hai

hành lang, một vành đai” kinh tế Việt - Trung; hợp tác liên vùng Vịnh Bắc Bộ

mở rộng, là cầu nối giữa ASEAN - Trung Quốc. Khu kinh tế Vân Đồn cũng

nằm gọn trong Vịnh Bái Tử Long, gắn kết với kỳ quan thiên nhiên thế giới -

Vịnh Hạ Long. Cùng với đó là những giá trị về tài nguyên thiên nhiên, cảnh

quan, sinh thái, vùng biển rộng với hơn 600 đảo đá và đất là điều kiện để Vân

Đồn có cơ hội phát triển kinh tế biển.

Từ đó đến năm 2020, huyện Vân Đồn tiếp tục quán triệt và thực hiện

chủ trƣơng của Chính phủ về đầu tƣ phát triển Khu kinh tế tổng hợp Vân

Đồn (du lịch sinh thái chất lƣợng cao, gắn với nuôi trồng, chế biến đặc hải

sản) thành khu kinh tế chiến lƣợc khu vực Bắc Bộ và cả nƣớc (với vị trí là

trung tâm phát triển ra biển và giao thƣơng quốc tế). Tuy vậy, Vân Đồn vẫn

còn đối mặt với những khó khăn, hạn chế nhƣ: Kinh tế phát triển chƣa bền

vững, chƣa đánh thức hết tiểm năng và thế mạnh của kinh tế biển phục vụ cho

quá trình phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng; chƣa thật hợp lý

về cơ cấu ngành nghề; Trình độ kỹ thuật nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy

sản còn hạn chế; vẫn là huyện nghèo; một số vấn đề bức xúc về xã hội chƣa

đƣợc giải quyết kịp thời. Do vậy, huyện đảo cần quản lý, khai thác hiệu quả

tiềm năng thế mạnh của kinh tế biển, để kinh tế biển trở thành ngành kinh tế

mũi nhọn, cần phải đánh giá thực trạng kinh tế biển để có những giải pháp kịp

thời thúc đẩy kinh tế biển Vân Đồn.

Từ những phân tích trên đây, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Kinh tế biển ở

huyện đảo Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh (1994-2012)” làm đề tài luận văn thạc

sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/5/1993, Bộ Chính

trị đã ra Nghị quyết 03-NQ/TƢ về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển

trong những năm trƣớc mắt - trong đó khẳng định phải đẩy mạnh phát triển

kinh tế biển đi đôi với việc tăng cƣờng khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích

quốc gia. Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành chỉ thị số 20-CT/TƢ đẩy

mạnh phát triển kinh tế biển theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ

quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ tƣ Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng

khóa X đã thông qua Nghị quyết về Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020,

phấn đấu đƣa nƣớc ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, đảm

bảo vững chắc chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó, còn có những thông tin, bài

viết đề cập đến kinh tế biển:

Đầu tiên là cuốn“Thương cảng Vân Đồn” của tác giả Đỗ Văn Ninh,

Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội (2001) đƣợc biên soạn và lấy nội dung cơ

bản từ “Huyện đảo Vân Đồn”. Sách đã giới thiệu một bề dày lịch sử đáng

kính của Vân Đồn, giàu, đẹp, anh hùng. Đồng thời trình bày rất rõ về những

thiên niên kỷ tiền sử của Vân Đồn qua hai di tích tiêu biểu là hang Soi Nhụ và

hang Hà Giắt; khái quát về nền văn hóa Hạ Long và đặc biệt, sách đã giành

một phần lớn viết về thƣơng cảng Vân Đồn, từ vị trí địa lí đến những bến xƣa

nhộn nhịp thuyền bè.

Tiếp theo là bộ sách “Địa chí Quảng Ninh” của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân

dân tỉnh Quảng Ninh (Hà Nôi, 2002) gồm 3 tập. Tập 1 giới thiệu về địa lí hành

chính, vị trí, giới hạn, diện tích, lƣợc chí các huyện, thị xã, thành phố trong

tỉnh; Địa hình - địa mạo, địa chất - khoáng sản, thổ nhƣỡng, khí hậu, thủy văn,

thực vật, động vật ở Quảng Ninh; dân cƣ, dân số và dân tộc; tiền sử - sơ sử

Quảng Ninh. Tập 2 giới thiệu về tổ chức chính trị, xã hội, đô thị ở Quảng Ninh;

tổng quan về kinh tế Quảng Ninh, công nghiệp và thủ công nghiệp, nông

3

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch, thƣơng mại và dịch vụ, tài chính ngân

hàng, giao thong vận tải, bƣu chính viễn thông. Tập 3 giới thiệu về các di tích,

danh thắng ở Quảng Ninh; khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật, giáo dục,

phong tục tập quán của các dân tộc Quảng Ninh; tín ngƣỡng tôn giáo, y tế, thể

dục thể thao Quảng Ninh. Trong bộ sách này ít nhiều có nói đến Vân Đồn và

hoạt động kinh tế biển ở Vân Đồn.

Cuốn “Kinh tế biển Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập” của

Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2012 đã tập hợp những đề

xuất cụ thể trong việc khơi dậy tiềm năng kinh tế biển của nƣớc ta, sớm đƣa

nƣớc ta giành vị trí xứng đáng của một quốc gia biển trong cộng đồng quốc tế.

Bài viết "Hiệu quả của chương trình kinh tế biển đảo" của tác giả Quang

Huy đăng trên Báo Quảng Ninh năm 2006 khái quát những kết quả mà huyện

Vân Đồn đã đạt đƣợc qua 10 năm thực hiện chƣơng trình kinh tế biển đảo trên

tất cả các lĩnh vực. Từ đó, khẳng định đây là những kết quả to lớn của nhân dân

các dân tộc huyện đảo, góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Tiếp nữa là luận văn “Kinh tế biển ở Trà Vinh” của tác giả Dƣơng Văn

Hồng (Luận văn thạc sỹ kinh tế, năm 2008) đã trình bày khái quát lí luận về

kinh tế biển và những nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế biển. Phân tích

thực trạng kinh tế biển ở Trà Vinh, từ đó xác định phƣơng hƣớng và giải pháp

phát triển kinh tế biển ở Trà Vinh.

Luận văn “Kinh tế biển Sóc Trăng” của tác giả Nguyễn Văn Bon (Luận

văn thạc sỹ kinh tế, năm 2008) đã đè xuất những quan điểm, phƣơng hƣớng,

giải pháp phát huy tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển ở Sóc Trăng trên cơ

sở những hoạt động thực tiễn của kinh tế biển ở địa phƣơng.

Ở Quảng Ninh, đến nay, đã có một số bài báo đăng trên Báo Quảng Ninh

và báo Quảng Ninh điện tử, Báo mới.com viết về kinh tế biển, nhƣ: “Kinh tế

biển Quảng Ninh có sự tăng trưởng tích cực” (Hoàng Nhất Thống - 01/6/2012); “Phát

triển kinh tế biển: Lợi thế từ khu kinh tế Vân Đồn” (Ngọc Lan -16/05/2012);

4

“Khu kinh tế Vân Đồn - Đòn bẩy thu hút các nhà đầu tư” - Báo Quảng Ninh số

5129 (28/1/2002); “Vân Đồn - Tiềm năng đang được đánh thức” - Báo Quảng

Ninh số 5459 (08/7/2003); “Phát triển kinh tế biển đảo Vân Đồn- Khởi động và

tạo đà” - Báo Quảng Ninh số 5796 (09/8/2004).... Các bài báo tập trung làm rõ

quá trình phát huy nội lực, thu hút ngoại lực đầu tƣ vào khu kinh tế Vân Đồn để

khi thác tối đa tiềm năng và lợi thế của biển, vùng ven biển và hải đảo, góp

phần tạo thêm thế và lực mới để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Vân Đồn.

Nhƣ vậy, trong thời gian qua, không ít đề tài nghiên cứu kinh tế biển ở

nhiều khía cạnh khác nhau nhƣng cho đến nay chƣa có một công trình khoa học

nào nghiên cứu mô ̣t cách hê ̣ thống toàn diê ̣n về kinh tế biển ở Vân Đồn . Chính vì vậy, tác giả đã quyết định lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu của

mình. Để hoàn thành đƣơ ̣c đề tài này , các công trình nghiên cứu tr ên là tài liê ̣u quý giá để tác giả tham khảo và có một góc nhìn sâu sắc , toàn diện vấn đề mà

mình nghiên cứu.

3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những điều kiện để phát triển kinh tế biển,

tình hình hoạt động kinh tế biển ở huyện đảoVân Đồn giai đoạn 1994 - 2012

(từ khi thành lập huyện đến nay) và đánh giá chung về tình hình phát triển kinh

tế biển cũng nhƣ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn giới hạn trong huyện đảo Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh. Từ

năm 1994 - thành lập huyện đảo Vân Đồn (ngày 23-3-1994 Chính phủ ra quyết

định đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn và tách 2 xã: Cô Tô, Thanh

Lân thành lập huyện Cô Tô) - đến năm 2012 - sau 5 năm thực hiện chiến lƣợc

biển Việt Nam (Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lƣợc biển

Việt Nam đến năm 2020” đƣợc thông qua tại Hội nghị lần thứ tƣ ban Chấp

hành Trung ƣơng Đảng khoá X).

5

3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu những điều kiện để phát triển kinh tế biển ở Vân Đồn, Quảng

Ninh. Làm rõ thực tế hoạt động kinh tế biển ở huyện đảoVân Đồn giai đoạn

1994 - 2012, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình kinh tế biển sau khi có

quyết định của Chính phủ phê duyệt Đề án „„Phát triển kinh tế - xã hội khu kinh

tế Vân Đồn - Quảng Ninh‟‟. Qua đó, đánh giá những tác động của kinh tế biển

đến đời sống kinh tế - xã hội huyện đảo Vân Đồn.

3.4. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở những nguồn tài liệu thu thập đƣợc, đề tài mong muốn làm

nổi bật các hoạt động kinh tế biển chủ đạo ở Vân Đồn trong giai đoạn từ 1994

đến 2012, góp phần nêu cao ý thức xây dựng quê hƣơng cho thế hệ trẻ tỉnh

Quảng Ninh, đóng góp thêm nguồn tƣ liệu phục vụ cho giảng dạy, học tập và

nghiên cứu lịch sử địa phƣơng.

4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu

Để thực hiện đề tài này, tác giả dựa vào những nguồn tài liệu chủ yếu sau:.

Các văn kiện, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nƣớc của các cấp ủy

Đảng, báo cáo tổng kết công tác hằng năm của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Đảng

bộ huyện Vân Đồn.

Nguồn bảng, biểu thống kê của các phòng, ban liên quan nhƣ: phòng lƣu

trữ, khai thác nuôi trồng thủy hải sản, phòng văn hóa thông tin....

Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các tài liệu thành văn đã công bố trên các

tạp chí, báo Trung ƣơng và địa phƣơng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp với phƣơng pháp logic là

chủ yếu. Bằng phƣơng pháp lịch sử, thông qua các nguồn tƣ liệu, tác giả khái

quát đầy đủ các điều kiện phát triển kinh tế biển ở Vân Đồn, tình hình các hoạt

động kinh tế biển chủ đạo ở Vân Đồn trong giai đoạn từ 1994 đến 2012. Từ

đó, thấy đƣợc xu hƣớng phát triển của kinh tế biển Vân Đồn sau khi có chủ

6

trƣơng và chính sách thu hút đầu tƣ. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số

phƣơng pháp khác nhƣ so sánh (so sánh giữa các năm, các giai đoạn để thấy

đƣợc sự phát triển của kinh tế biển nói riêng và kinh tế của huyện Vân Đồn nói

chung), điều tra thực địa, thống kê xã hội học, liên ngành (địa lí, kinh tế, lịch

sử). Phƣơng pháp phân tích, đánh giá tổng hợp: Trên cơ sở tài liệu thực địa, các

tài liệu từ sách báo và nhiều nguồn khác để rút ra những nhận định, đánh giá,

tiểu kết, kết luận.

5. Đóng góp của luận văn

Làm rõ những điều kiện về tự nhiên, dân cƣ, xã hội để phát triển kinh tế biển

ở Vân Đồn; Khái quát thực trạng tình hình hoạt động kinh tế biển, đặc biệt là

những hoạt động kinh tế biển chủ đạo ở huyện đảo Vân Đồn giai đoạn 1994 -

2012; Đánh giá những thành tựu, hạn chế của kinh tế biển Vân Đồn giai đoạn

1994 - 2012 và nguyên nhân của nó, từ đó thấy đƣợc tác động của kinh tế biển

tới tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện đảo.

Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham mƣu của

Huyện ủy, UBND huyện Vân Đồn, các cơ quan hữu trách, các trƣờng học, cơ

sở đào tạo khi tìm hiểu về kinh tế biển.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Điều kiện phát triển kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn tỉnh

Quảng Ninh.

Chƣơng 2: Hoạt động kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn giai đoạn

1994 - 2012.

Chƣơng 3: Tác động của kinh tế biển tới đời sống kinh tế, xã hội huyện

đảo Vân Đồn.

7

Chƣơng 1

ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH

1.1. Điều kiện tự nhiên

Với quy mô diện tích khoảng 2.171 km2 trong đó diện tích đất tự nhiên 551 km2, chiếm 9,3% diện tích toàn tỉnh Quảng Ninh, diện tích vùng biển rộng 1.620 km2, Vân Đồn có những điểm khác biệt rất lớn so với 14 khu kinh tế ven

biển của cả nƣớc, điều kiện giao thông thuận lợi cả đƣờng bộ, hàng không,

đƣờng biển. Cùng với đó là những giá trị về tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan,

sinh thái, vùng biển rộng với hơn 600 đảo đá và đất là điều kiện để Vân Đồn có

cơ hội phát triển công nghiệp giải trí và kinh tế biển.

Vân Đồn là một huyện đảo miền núi nằm ở vị trí tiền tiêu phía Đông Bắc

của tổ quốc, phía Đông Nam của tỉnh Quảng Ninh, đƣợc hợp thành từ hai quần

đảo Cái Bầu và Vân Hải. Phía Bắc giáp với vùng biển thuộc hai huyện Tiên

Yên và Quảng Hà. Phía Tây giáp thị xã Cẩm Phả, ngăn cách nhau bởi lạch biển

Cửa Ông và sông Voi Lớn. Phía Đông giáp với vùng biển thuộc huyện Cô Tô

và phía Nam giáp với vịnh Hạ Long, vùng biển Cát Bà- Hải Phòng. Huyện Vân Đồn nằm trong khung tọa độ địa lý sau: 20o40' - 21o16' Vĩ độ Bắc; 107o15' - 108o00 Kinh độ Đông. Đảo lớn nhất là Cái Bầu với 17.212ha gồm thị trấn Cái

Rồng và 6 xã, trƣớc có tên là Kế Bào, ở phía Tây Bắc huyện nằm kề cận đất

liền lục địa, cách đất liền bởi lạch biển Cửa Ông và sông Voi Lớn. Trong địa

phận xã Vạn Yên còn có đảo Chàng Ngo cũng tƣơng đối lớn. Huyện lỵ là thị

trấn Cái Rồng nằm trên đảo Cái Bầu. Tuyến đảo Vân Hải nằm ở phía Đông

Nam của huyện, gồm các đảo lớn nhƣ: Trà Bàn, Cao Lô, Cảnh Tƣớc, Đông

Chén, Thẻ Vàng, Ngọc Vừng…và một loạt các đảo nhỏ khác, thành một vành

đai che chắn ngoài khơi vịnh Bái Tử Long. Diện tích đất đai xã Bản Sen chiếm

nửa già diện tích của đảo Trà Bàn, đảo lớn thứ hai trong huyện, cùng với đảo

Đông Chén và các đảo nhỏ lân cận khác [7, tr.3].

8

Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ninh

Nguồn: Trung tâm lưu trữ - Sở Tài nguyên & Môi trường Quảng Ninh

Vân Đồn nằm trên tuyến đƣờng hàng hải quốc tế sôi động của khu vực, ở

điểm giữa của tuyến đƣờng biển Hạ Long - Móng Cái thông thƣơng với các địa

phƣơng trong nƣớc qua Quốc lộ 18A, 4B và thông qua đƣờng biển đến với thế

giới. Nếu đi theo đƣờng biển từ cảng Vạn Hoa hoặc cảng biển phía Bắc đảo Cái

Bầu sẽ đến các cảng của đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 200 hải lý, Hồng

Kông 580 hải lý và Singapore 1.300 hải lý, đây là khoảng cách mà các doanh

9

nghiệp lữ hành coi là lý tƣởng để mở các tour du lịch đƣờng biển quốc tế. Vân

Đồn là một huyện đảo có nhiều lợi thế về giao thông đƣờng biển, hàng không

và đƣờng bộ. Đặc biệt, Vân Đồn là điểm giao thoa của hành lang kinh tế: một

vành đai kinh tế Việt - Trung và hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, vùng

kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) [34, tr.2]. Đây

có thể nói là những lợi thế vƣợt trội và khác biệt của huyện đảo này. Đặc biệt

với điều kiện vị trí địa lý và sự phong phú về tài nguyên biển đảo đã tạo cho

Vân Đồn nhiều điều kiện lý tƣởng cho phát triển công nghiệp giải trí và các

loại hình du lịch chất lƣợng cao. Đây chính là yếu tố cốt lõi để Vân Đồn trở

thành trung tâm du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch sinh thái biển đảo lớn có đủ sức

cạnh tranh trong nƣớc, khu vực và quốc tế.

Vân Đồn là huyện có địa hình đồi núi - hải đảo đa dạng, phân dị mạnh.

có rừng, có biển, có đảo đá, đảo đất. Chính những kiểu địa hình ấy đã tạo cho

cảnh quan thiên nhiên Vân Đồn có những nét đặc trƣng, hấp dẫn đặc biệt. Hình

thái chủ yếu của địa hình khu vực Vân Đồn là đồi núi thấp và đảo đá với diện

tích khoảng 41.530 ha, chiếm 70% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện. Một

phần nhỏ diện tích có kiểu địa hình đồng bằng ven biển chiếm 1,5% tổng diện

tích toàn huyện. Nhƣ vậy, kiểu địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích trên

các xã đảo và ven bờ, địa hình đồng bằng chỉ là những dải nhỏ hẹp ven bờ trải

dài từ bến phà Tài Xá tới xã Hạ Long.Vân Đồn có ít sông ngòi, núi có nhiều

nhƣng không cao, mà chủ yếu là núi đá vôi. Các đảo lớn gần đất liền có núi cao

trên 300m, các đảo nhỏ và xã chỉ có núi cao dƣới 200m. Núi Nàng Tiên ở đảo

Trà Bản (Bản Sen) cao 450m, núi Vạn Hoa ở đảo Cái Bầu cao 397m. Địa hình

thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Độ cao trung bình là 40m so với mặt biển; độ dốc trung bình 250, ít bằng phẳng và thƣờng bị chia cắt. Hệ thống đảo

ở các khu vực Vân Đồn hầu hết nằm trong đới địa chất duyên hải Bắc Bộ,

hƣớng cấu trúc kiến tạo Đông Bắc - Tây Nam, song song với bờ biển của đất

liền. Vân Đồn là một huyện đảo đƣợc tạo bởi trên 600 hòn đảo lớn nhỏ nằm

10

trong vịnh Bái Tử Long thơ mộng, bên cạnh vịnh Hạ Long đã 2 lần đƣợc

UNESCO công nhận là di sản thế giới về giá trị cảnh quan và địa hình địa mạo.

Vân Đồn vừa có núi đá, vừa có núi đất, trên là rừng, dƣới là biển, có bãi cát

trắng mịn độ thoải lớn đó là những bãi tắm đẹp: Bãi Dài, Minh Châu, Sơn Hào

Quan Lạn, Ngọc Vừng ... nằm rải rác trên khắp các đảo.

Xen vào đó là những khu rừng nguyên sinh quý hiếm nhƣ: rừng Bãi

Dài, rừng trâm Minh Châu, rừng Ba Mùn, cùng với đó là rất nhiều di tích lịch

sử, văn hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển của cộng đồng dân cƣ…

Đây chính là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng để Vân Đồn xây dựng các

sản phẩm du lịch đặc trƣng. Không chỉ có biển, đảo, Vân Đồn còn có một thế

giới động thực vật hết sức phong phú. Vân Đồn có thềm lục địa rộng lớn khoảng 1.600km2 nằm trong vịnh Bái Tử Long, có nhiều vũng, vịnh, bãi triều

và rừng ngập mặn tạo nên nguồn hải sản khá phong phú cả về số lƣợng và

chủng loại. Theo thống kê của các ngành chức năng, Vân Đồn hiện có hệ

động vật thủy sinh khá phong phú với 51 loài động vật phù du, 132 loài động

vật thủy sản có giá trị cao nhƣ: sá sùng, cầu gai, bào ngƣ, hải sâm, trai ngọc…

Khả năng cho phép khai thác hàng năm từ 10 -15 ngàn tấn: Trong đó cá nổi

cho phép khai thác từ 7 - 9 ngàn tấn/năm.

Các loại động vật quý hiếm khác cũng rất phong phú với nhiều loài nhƣ :

báo lửa, cầy hƣơng, rái cá, khỉ vàng, tắc kè và nhiều cây dƣợc liệu quý nhƣ: ba

kích, ngũ da bì, đằng đằng... Cùng với đó, san hô và rạn san hô ở vùng này tuy

chƣa tới mức độ phong phú nhƣ một số vùng khác ở nƣớc ta, do những nguyên

nhân địa chất biển, hải văn và môi trƣờng liên quan, nhƣng vẫn có những đặc

điểm riêng. Khảo sát sơ bộ cho thấy trong vùng có 66 loài san hô đá, 13 loài

san hô sừng và thân mềm… Thềm đảo phía Nam gần Cửa Đối - Quan Lạn là

nơi tập trung san hô sau phía Bắc và Đông Bắc. Tại khu vực hƣớng chính đông

của đảo Ba Mùn cũng là khu vực tập trung san hô với trên 30 loài. Ốc cũng rất

phong phú, đặc biệt một số loài ốc có giá trị cao, chỉ có nhiều ở vùng này nhƣ

11

ốc sao, ốc hƣơng, ốc đá, ốc đế... Huyện có hàng nghìn ha rừng với các loại gỗ

quý nhƣ thiết đinh, lát hoa, kim giao, thông tre, táu mật, lim xanh... Với sự đa

dạng và phong phú của các loài động, thực vật, đặc biệt với những khu rừng

nguyên sinh nhiệt đới vẫn còn đƣợc bảo tồn nguyên vẹn trong Vƣờn Quốc gia

Bái Tử Long chính là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên quan trọng để phát

triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng trên địa bàn. Trong số các

danh lam, di tích, nổi bật của Vân Đồn có thể kể đến là khu rừng nguyên sinh

trên đảo Ba Mùn. Hệ sinh thái ở đây vô cùng phong phú và đa dạng với hơn

700 loài động vật bậc cao, hơn 2.000 loài thực vật. Gần đây, lƣợng khách đến

tham quan đảo Ba Mùn ngày một đông, chủ yếu là các đoàn khách thích du lịch

mạo hiểm, khám phá những nét độc đáo, hoang sơ riêng có của thiên nhiên,

rừng núi vịnh Bái Tử Long [7, tr.3].

Ở Vân Đồn, khả năng bãi bồi, bãi triều ven biển có thể khoanh nuôi

trồng thuỷ sản rất lớn: 10.696 ha, tập trung ở các bãi sú vẹt và cát pha bùn trên

đảo Cái Bầu. Nguồn lợi từ biển này là nguồn thu lớn và tạo cơ sở cho Vân Đồn

phát triển thế mạnh kinh tế biển với nghề nuôi trồng thủy hải sản. Thêm vào đó,

chạy dọc suốt bờ biển các xã đảo Quan Lạn, Minh Châu là những bãi cát trắng

dài tới hàng chục km. Đây là nguồn nguyên liệu làm thủy tinh cung cấp cho

hầu hết các nhà máy sản xuất kính ở miền Bắc nƣớc ta do Công ty Cổ phần

Viglacera Vân Hải khai thác. Bởi vậy, Vân Đồn còn đƣợc mệnh danh là một

trong những “vƣơng quốc” cát trắng ở Việt Nam.

Nằm trong vùng vịnh Bái Tử Long, bên cạnh vịnh Hạ Long, Vân Đồn có

tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa. Trong lòng các

núi đá vôi ở Vân Đồn ẩn chứa nhiều hang động kỳ vĩ, có ý nghĩa lịch sử nhƣ:

hang Nhà Trò, hang Hà Giắt, Soi Nhụ và nhiều động đá đẹp nhƣ Thông Thiên

trên núi Phất Cờ, với hệ thống thạch đá và nhũ đá rất đẹp song còn nguyên sơ

vì chƣa có sự tác động của bàn tay con ngƣời. Ngoài ra trong các hang động

này còn chứa đựng cả những giá trị lớn lao về lịch sử, tại một số hang động đã

12

tìm thấy nhiều di chỉ, hiện vật thuộc nền văn hóa Hạ Long. Ven chân các đảo

có nhiều vũng, bãi gian triều đất bùn hoặc nhiều bãi cát hẹp, bãi đá do xô trƣợt

từ núi xuống hoặc nổi tự nhiên, một số bãi đá gốc chân đảo rộng từ 30m đến

70m ngập chiều theo chu kỳ. Một số vùng rộng vừa có bãi bùn, vừa có bãi cát,

bãi đá,vừa có chỗ sâu, cảnh quan đẹp, thuận lơi leo trú tàu thuyền, diện tích

hàng trăm hecta nhƣ vùng Cái Quýt, vũng Ổ Lợn (đảo Ba Mùn), bãi cát dài

hàng cây số ở bán đảo Minh Châu - Cửa Đối - Hòn Trụi trên đảo Quan Lạn.

Thế giới động thực vật cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong

hoạt động du lịch. Ngày nay khi mức sống của con ngƣời đƣợc nâng cao, áp

lực của công việc, sự ô nhiễm môi trƣờng sống ngày càng tăng lên, ngƣời ta

càng muốn đƣợc trở về với thiên nhiên. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

thuận lợi, Vân Đồn không chỉ có biển, đảo mà còn có một thế giới động thực

vật hết sức phong phú. Có thể nói Vân Đồn là nơi chứa đựng sự đa dạng sinh

học vào loại bậc nhất khu vực Hạ Long. Với sự đa dạng phong phú của các loài

động thực vật đặc biệt với những khu rừng nguyên sinh nhiệt đới vẫn còn đƣợc

bảo tồn nguyên vẹn trong vƣờn quốc gia, đây chính là nguồn tài nguyên du lịch

tự nhiên quan trọng để phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng

nhƣ du lịch sinh thái, du lịch tìm hiểu tự nhiên.

1.2. Điều kiện dân cƣ - xã hội

Vân Đồn đƣợc biết đến là vùng đất có lịch sử lâu đời, ngay từ thời tiền

sử con ngƣời đã có mặt và sinh sống ở nơi đây. Trải qua bao thăng trầm của

lịch sử những dấu ấn của ngƣời xƣa vẫn còn để lại qua các di chỉ khảo cổ học

quan trọng. Di chỉ khảo cổ ở đây có mật độ đậm đặc. Hang Soi Nhụ là một di

chỉ thuộc trung kỳ đồ đá mới, trƣớc cả văn hóa Hạ Long. Tại thôn Ðá Bạc xã

Minh Châu có di chỉ mộ cổ thời Hán. Con ngƣời đã có mặt trên các đảo của

huyện Vân Đồn từ rất sớm. Theo thời gian những cƣ dân ấy vẫn gắn bó với

mảnh đất này để xây dựng và phát triển. Lịch sử đã ghi nhận nơi đây đã từng có

những thời kỳ kinh tế, thƣơng mại phát triển rực rỡ mà sự ra đời và phát triển

13

thƣơng cảng Vân Đồn là một ví dụ. Vì vậy, đến nay Vân Đồn vẫn còn gìn giữ

đƣợc một hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hết sức phong phú,

đây cũng là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng cho phát triển du lịch [23, tr.2].

Các đảo trong khu vực Vân Đồn còn lƣu giữ các giá trị văn hóa thuộc

nền văn hóa Hạ Long. Cuối năm 1937 nhà khảo cổ học Thụy Điển An-Đéc-

Xen và hai chị em nhà khảo cổ học ngƣời Pháp M.Co-Li-Na đã đi điền giã

nhiều tháng đến các bãi biển, hang động trên các đảo Ngọc Vừng, Cống Đông,

Cống Tây, Thoi Giếng, Soi Nhụ...Họ đã phát hiện ra nhiều hiện vật công cụ

bằng đá của ngƣời nguyên thủy nhƣ: bàn mài, chày nghiền, mảnh tƣớc, vòng

tay...Từ đó tới nay các nhà khoa học Việt Nam tiếp tục khảo cổ khai quật và đã

phát hiện thêm nhiều di chỉ khảo cổ trong khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử

Long có giá trị. Năm 1968 các nhà khảo cổ đó phát hiện ra hang Soi Nhụ tìm

thấy vại sành, vỏ hà ốc có niên đại cách đây 4000 năm. Các nhà khảo cổ học

Việt Nam và thế giới đã gọi các di chỉ này thuộc nền văn hóa Hạ Long có niên

đại cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm.

Vân Đồn là nơi dân cƣ sinh sống khá đông đúc trong đó có nhiều ngƣời

bản địa. Qua quá trình sinh sống ở đây họ đã sống tạo ra nhiều giá trị văn hóa

mang tính địa vực nhƣ: canh tác lúa nƣớc trên đất dốc, đánh bắt chế biến thủy

hải sản, sử dụng tài nguyên rừng, phong tục tập quán ăn sóng, nói gió. Cùng

với sự chịu thƣơng, chịu khó lao động, phẩm chất chất phác của cƣ dân biển đã

hình thành và bảo tồn tới ngày nay nhiều lễ hội và các hình thức nghệ thuật

biểu diễn truyền thống nhƣ hội đình Quan Lạn với các trò chơi dân gian mang

văn hóa biển nhƣ tế thần biển, đua thuyền và hò biển.

Tên Vân Ðồn có nguồn gốc từ tên núi Vân (núi có mây phủ) ở làng Vân

(nay thuộc xã Quan Lạn) nằm trong tuyến đảo ngoài Vân Hải. Do ở cửa ngõ

của vùng quần đảo hiểm yếu, nên theo sử sách, năm 980 ở đây đã có đồn Vân,

trấn giữ vùng biển Đông Bắc, của quân đội nhà Tiền Lê . Sang triều Lý năm

14

1149 vua Lý Anh Tông chính thức lập trang Vân Ðồn, đồng thời Vân Đồn trở

thành thƣơng cảng đầu tiên của Đại Việt trong giao thƣơng với các nƣớc trong

khu vực Đông Á và Thế giới nhƣ: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan,

Inđônêsia… Thƣơng cảng Vân Đồn thịnh vƣợng suốt 3 triều đại là: Lý -

Trần, Hậu Lê (Lê sơ) rồi suy thoái và bị lãng quên vào thời nhà Mạc.

Di tích Thƣơng cảng Vân Đồn còn lại vừa chứa đựng dấu ấn của nhà

Trần về chiến công chống quân Nguyên lại vừa có dấu ấn về giao thƣơng, buôn

bán. Trận Vân Đồn năm 1288 trên dòng sông Mang (Quan Lạn) gắn liền với

tên tuổi của danh tƣớng Trần Khánh Dƣ. Dƣới sự chỉ huy của ông, quân dân

nhà Trần đã đánh tan đoàn thuyền lƣơng của Trƣơng Văn Hổ, góp phần quan

trọng vào chiến thắng chung của trận Bạch Đằng năm 1288. Sau khi Thƣơng

cảng Vân Đồn đƣợc hình thành từ thời Lý (1149), đến thời Trần đã phát triển

tới hƣng thịnh. Các bến thuyền cổ trung chuyển hàng hoá gồm hƣơng liệu, gốm

sứ, lâm thổ sản hình thành dọc ven sông Bạch Đằng, Cửa Lục cho tới các đảo

Cống Đông, Quan Lạn. Tại đảo Cống Đông (nay là xã Thắng Lợi), các nhà

khảo cổ đã tìm thấy dấu tích của nhiều công trình kiến trúc Phật giáo quy mô

thời Trần nhƣ chùa, tháp, nhiều di vật bia đá, lan can, chân kê cột... Đây là

những minh chứng rõ nhất cho sự phát triển phồn thịnh về thƣơng mại dƣới

triều nhà Trần [19, tr.2].

Trong quá trình lịch sử phát triển, Vân Đồn đã nhiều lần thay tên, có lúc

gọi là huyện và cũng có lúc gọi là châu. Cách mạng tháng 8 - 1945 thành công,

huyện Vân Đồn thuộc Châu Cẩm Phả, bao gồm: Thị xã Cẩm Phả và huyện Vân

Đồn ngày nay.

Ngày 19 - 7 - 1946, Bộ nội vụ ra nghị định số 269-NV/NĐ tạm lập lại

tỉnh Quảng Yên và khu đặc biệt Hòn Gai, ủy ban hành chính khu Đặc Biệt, chịu

quyền điều khiển, kiểm soát trực tiếp của ủy ban hành chính Bắc Bộ. Khu Đặc

Biệt Hòn Gai gồm: Cẩm Phả bến, Cẩm Phả mỏ, Hà Tu, Hà Lầm, Hòn Gai, Bãi

Cháy và Châu Cẩm Phả (gồm đảo Cái Bầu và phố Ba Chẽ).

15

Ngày 9 - 7 - 1947, Bộ nội vụ quốc phòng ra quyết định số 99- NV/QP

chuyển các phủ huyện Kinh Môn, Nam Sách, Chí Linh (thuộc tỉnh Hải

Dƣơng); Thủy Nguyên thuộc tỉnh Kiến An và khu Đặc Biệt Hòn Gai thuộc

quyền điều khiển của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Yên sáp nhập đặc khu

Hòn Gai với tỉnh Quảng Yên thành liên tỉnh Quảng Hồng, đảo Cái Bầu thuộc

liên tỉnh Quảng Hồng.

Đến tháng 12 năm 1948, Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa quyết định thành lập huyện Cẩm Phả (đƣợc tách ra khỏi thị xã Cẩm Phả).

Ngày 6 - 3 - 1957, Uỷ ban hành chính Hồng Quảng ra quyết định số 336-

TCCB chia xã Vân Hải thành 4 xã: Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Minh

Châu. Ngày 12 - 12 - 1957 Uỷ ban hành chính khu Hồng Quảng ra quyết định

số 622-TCCB thành lập xã Vạn Hoa. Ngày 16 - 7 - 1964, Bộ nội vụ ra quyết

định số 198-NV, sáp nhập xã Cô Tô và xã Thanh Lân vào huyện Cẩm Phả.

Ngày 16 - 9 - 1966, Hội đồng Chính Phủ ra quyết định số 185-CP, sáp nhập xã

Thắng Lợi thuộc thị xã Cẩm Phả vào huyện Cẩm Phả. Ngày 16 - 1 - 1979 Hội

đồng chính phủ ra quyết định số 17-CP giải thể xã Văn Châu sáp nhập vào xã

Cộng Hòa, chuyển đất đai dân xã Cộng Hòa về thị xã Cẩm Phả, sáp nhập xã

Cộng Hòa của huyện Cẩm Phả vào thị xã Cẩm Phả.Ngày 10 - 9 - 1981, Hội

đồng Bộ Trƣởng ra quyết định số 63-HĐBT, giải thể xã Tân Hải, sáp nhập vào

xã Ngọc Vừng, giải thể xã Ngọc Hà sát nhập vào xã Đông Xá và xã Hạ Long,

thành lập thị trấn Cái Rồng huỵên Cẩm Phả. Ngày 16 - 4 -1988, Hội đồng Bộ

Trƣởng ra quyết định số 6HĐBT hợp nhất xã Vạn Yên và xã Vạn Hoa thành xã

Vạn Yên. Đến ngày 23 tháng 3 năm 1994, chính phủ ra quyết định số 28/CP,

tách hai xã Cô Tô và Thanh Lân của huyện Cẩm Phả để thành lập huyện Cô Tô.

Đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn.

Hiện nay, Vân Đồn có 12 đơn vị hành chính gồm thị trấn Cái Rồng và 11

xã: 6 xã trên đảo Cái Bầu và các đảo nhỏ trong vùng biển phụ cận đảo Cái Bầu,

ở phía Tây Bắc của huyện là các xã: Đông Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đoàn Kết,

16

Đài Xuyên, Vạn Yên. 5 xã thuộc tuyến đảo Vạn Yên vòng ra ngoài khơi ôm lấy

rìa phía đông của vịnh Bải Tử Long là các xã: Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc

Vừng, Bản Sen, Thắng Lợi.

Hình 1.2. Bản đồ hành chính huyện Vân Đồn - Quảng Ninh

Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Vân Đồn

Năm 2007, số dân huyện Vân Đồn khoảng gần 4 vạn ngƣời, chiếm 4%

dân số tỉnh Quảng Ninh. Thành phần dân tộc khá đa dạng, gồm 8 dân tộc sinh

sống trên các vùng đồi núi, đồng bằng ven biển và các đảo. Dân tộc Kinh chiếm

tỷ lệ khá cao: 86,6%, ngƣời Sán Dìu 10%, ngƣời Hoa 1,5%, ngƣời Dao 1,3%,

ngƣời Sán Chỉ, ngƣời Tày... Đại đa số dân sống ở vùng nông thôn chiếm

81,82%, bình quân 4,7 ngƣời/hộ. Dân đô thị chiếm 18,18% trung bình 4,1

17

ngƣời /hộ. Số ngƣời trong độ tuổi lao động (18-60) chiếm 40,3% dân số huyện.

Số lao động trong ngành Nông-Lâm-Ngƣ nghiệp chiếm 87%. Trong số này, lao

động trong ngành thuỷ sản chiếm 26%, công nghiệp và xây dựng chiếm 6,4%,

thƣơng mại và dịch vụ chiếm 6,6%. Về mức sống, năm 2007 GDP bình quân

đầu ngƣời của huyện đạt 7,2 triệu đồng, bằng 58% mức bình quân của tỉnh và

65% mức bình quân cả nƣớc. Tỷ lệ nghèo đói cao, tổng số hộ nghèo theo tiếu

chí của Nhà nƣớc là 1.102 hộ, chiếm tỷ lệ 14,6%.

Các hoạt động văn hoá thể thao diễn ra khá sôi nổi ở các xã gần trung tâm

huyện nhƣ: Thị trấn Cái Rồng, Hạ Long, Đông Xá. Hiện nay các xã này đều có sân

bóng đá, bóng chuyền và phong trào thể thao phát triển. Ngoài ra, tại thị trấn Cái

Rồng còn có một nhà văn hoá, một rạp chiếu phim ngoài trời, 1thƣ viện công cộng.

Tuy vậy tại các xã xa trung tâm và xã thuộc các đảo nhỏ, hoạt động văn hoá thể

thao phát triển chậm do thiếu cơ sở vật chất kĩ thuật và kinh tế khó khăn.

Lễ hội truyền thống hàng năm trên địa bàn huyện và địa phƣơng lân cận

có lễ hội đình Quan Lạn và lễ hội đền Cửa Ông tƣởng nhớ công lao các vị

tƣớng đời Trần chống quân xâm lƣợc Nguyên-Mông. Lễ hội đình Quan

Lạn:(còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn), là hội làng của ngƣời dân xã đảo Quan

Lạn, một hòn đảo ở khu trung tâm thƣơng cảng Vân Đồn. Lễ hội đƣợc tổ chức

vào ngày 18 tháng 6 (âm lịch) hàng năm nhƣng hội kéo dài từ ngày 10 đến hết

ngày 20 tháng 6. Lễ hội đình Quan Lạn vừa kỷ niệm chiến thắng giặc Nguyên

Mông năm 1288 và chiến công của Trần Khánh Dƣ, một danh tƣớng của nhà

Trần, vừa là ngày hội cầu đƣợc mùa của cƣ dân vùng biển. Hội đƣợc tổ chức

trên bến đình, nơi có đình Quan Lạn, một ngôi đình cổ trong số ít những ngôi

đình còn giữ đƣợc cho đến ngày nay. Trong các năm gần đây, lễ hội đình làng

Quan Lạn đã đƣợc UBND huyện Vân Đồn quan tâm tổ chức long trọng, với ý

nghĩa là một lễ hội truyền thống, gắn việc giáo dục phát triển văn hoá truyền

thống với việc phát triển công tác du lịch trên địa bàn huyện.

18

Hệ thống cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế của Vân Đồn cũng đƣợc sự

quan tâm đầu tƣ cao. Trong 2 năm, 2007-2008, ngành giáo dục của huyện đƣợc

năm 2007, huyện đƣa vào sử dụng cơ sở khám chữa bệnh của bệnh viện Đa khoa

Vân Đồn với 100 giƣờng bệnh. Năm 2008, huyện có 7 trạm y tế đạt chuẩn quốc

gia; hiện đã có hai trung tâm điều trị trên địa bàn huyện đó là Bệnh viện Vân Đồn

(80 giƣờng bệnh) tại thị trấn Cái Rồng và phân viện tại xã Quan Lạn (15 giƣờng

bệnh), ngoài ra còn có các trạm y tế tại 12 xã và thị trấn trong huyện. Hiệu suất

đầu tƣ hơn 19 tỷ đồng. Toàn huyện đã có 5/12 xã có trƣờng học cao tầng. Từ

sử dụng giƣờng bệnh không đều, trong khi ở bệnh viện trung tâm y tế huyện

quá tải thì ở các trạm y tế xã hiệu suất sử dụng thấp. Đến nay toàn huyện có 15

bác sỹ (tỷ lệ 2.000 dân/ 1 bác sỹ) và 27 y sỹ (tỷ lệ 1.500 dân/1 y sỹ), có

8/12trạm y tế xã có bác sỹ (đạt 66,7%), 12/12 trạm y tế xã có y sĩ sản nhi.

1.3. Điều kiện kinh tế

Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế trên địa bàn huyện vân đồn là: nền kinh

tế của huyện về cơ bản vẫn là nền kinh tế nông-lâm-ngƣ nghiệp; kinh tế hàng

hóa chƣa phát triển. Hiện nay cơ cấu kinh tế của huyện đã có sự chuyển dịch

theo hƣớng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, du lịch và thuỷ sản, giảm tỷ trọng

các ngành nông, lâm nghiệp. Bên cạnh đó kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên

tƣơng đối nhanh so với kinh tế quốc doanh. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ

sản đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện, đặc biệt sản xuất chế

biến thuỷ sản. Ngành công nghiệp-xây dựng chiếm tỷ trọng nhỏ nhất.

Sản xuất nông nghiệp ở huyện đảo tiến tới sản xuất tập trung, nhân

rộng phát triển các loại giống mới thay thế các loại giống cũ có năng suất

thấp, sản lƣợng lƣơng thực hàng năm của huyện đều đạt và vƣợt kế hoạch.

Đất nông nghiệp của toàn huyện 1.242 ha trong đó: đất trồng lúa khoảng 600

ha, và gần 100 ha cây ăn quả. Đất canh tác chủ yếu tập trung ở các xã: Đoàn

Kết, Bình Dân, Đông Xá. Cơ cấu cây trồng khá đa dạng: ngô, lạc, khoai, sắn,

rau…Ngƣời nông dân chủ yếu tập trung vào hai mùa vụ chính: vụ hè thu và

19

vụ đông xuân. Ngoài diện tích đất canh tác, có hàng ngàn ha đất trống đồi

trọc và bãi biển có thể cải tạo để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và nuôi

trồng hải sản [15, tr.3].

Kinh tế biển, một lĩnh vực lợi thế tiềm năng của địa phƣơng đang đƣợc

phát huy mạnh. Vùng biển vủa huyện có nhiều chủng loại hải sản quý: tôm he,

các mực, sá sùng, ngọc trai, bào ngƣ,… Nghề khai thác hải sản có từ lâu đời,

song chủ yếu là đánh bắt trong lồng bè và ven bờ. Huyện đã thực hiện thành

công việc nuôi trồng các loại thủy hải sản có giá trị kinh tế cao nhƣ ngọc trai, tu

hài, hàu,... đem lại nguồn lợi kinh tế lớn, đồng thời tạo ra việc làm cho ngƣời

dân địa phƣơng, nâng cao chất lƣợng cuộc sống. Bên cạnh đó, nuôi nhuyễn thể

phát triển mạnh góp phần quan trọng trong việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, môi

trƣờng huyện. Toàn huyện có 1.479 tàu thuyền khai thác thuỷ sản, trong đó có

471 tàu công suất máy từ 90 CV trở lên. Tổng sản lƣợng thuỷ sản các năm đều

đạt và vƣợt kế hoạch: năm 2007 đạt 256 tỷ đồng; năm 2008 đạt 330 tỷ

đồng...Ngoài ra, Vân Đồn còn đẩy mạnh các hoạt động quản lý, khai thác, bảo

vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản; các hoạt động về quốc phòng - an ninh,

tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc về kinh tế biển...

Vân Đồn có hàng ngàn ha rừng, hàng năm cung cấp gỗ cho ngành khai

thác than của tỉnh và làm đồ gia dụng. Rừng có nhiều cây dƣợc liệu quý: Ba

Kích, Đằng Đằng…và một số sinh vật có giá trị kinh tế cao: Tắc Kè, Khỉ

vàng…Công nghiệp khai khoáng gồm: than đá đƣợc khai thác từ thời pháp

thuộc, ở mỏ than Kế Bào. Trữ lƣợng hiện còn khoảng 107 triệu tấn. Mỏ quặng

sắt Cái Bầu có trữ lƣợng lớn khoảng 145.000 tấn. Mỏ cát trắng Vân Hải có trữ

lƣợng trên 13triệu tấn, hiện đang khai thác với sản lƣợng 20.000 tấn/năm. Vàng

sa khoáng và vàng trong đới quặng sắt có ở đảo Cái Bầu. Tiểu thủ công nghiệp

trên địa bàn huyện có các nghề đóng thuyền, sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ

mộc, chế biến hải sản.

20

Có thể nói rằng, thiên nhiên ƣu đãi cho vùng đất này nhiều tiềm năng,

thế mạnh và những điều kiện thuận lợi tạo điều kiện phát triển nền kinh tế đa

thành phần, góp phần vào sự phát triển kinh tế huyện Vân Đồn nói riêng và của

tỉnh Quảng Ninh nói chung. Khu kinh tế Vân Đồn đƣợc Chính phủ phê duyệt từ

năm 2007 và hiện đang triển khai xây dựng các cơ sở hạ tầng. Theo quy hoạch

đây sẽ là một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lƣợng cao và dịch vụ cao

cấp. Đồng thời là trung tâm hàng không, đầu mối giao thƣơng quốc tế, một

trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế ở Vân Đồn nói

riêng và Quảng Ninh nói chung.

Tiểu kết chƣơng 1

Là một trong những huyện đảo lớn nhất Việt Nam, Vân Đồn có nhiều lợi

thế, tiềm năng để phát triển kinh tế biển đảo. Là một vùng biển nằm trên Vịnh Bái

Tử Long, Vân Đồn tập hợp nhiều hệ sinh thái điển hình, có nhiều loại hải sản có

giá trị kinh tế cao và quí hiếm. Các rạn San hô ven đảo là nơi phân bố của các loài

hải sản có giá trị kinh tế nhƣ cá song, cầu gai, tôm, bàn mai, hải sâm và các loài

nhuyễn thể hai mảnh vỏ, các rạn san hô là nơi quần cƣ của trai ngọc, bào ngƣ, vẹm

xanh, hầu. Rừng ngập mặn là nơi phân bố của cua, ngán, ghẹ. Đặc biệt vùng bãi

triều của xã Minh Châu, Quan Lạn là nơi phân bố của loài hải sản đặc biệt quí

hiếm đó là Sá Sùng. Đây là một loài hải sản có giá trị kinh tế cao chủ yếu phân bố

trên vùng biển khu vực này. Sự đa dạng của các hệ sinh thái nơi đây không chỉ là

lợi thế để phát triển ngành thuy sản mà còn là điều kiện thuận tiện để phát triển du

lịch. Mặt nữa, thực vật ngập mặn ở Bái Tử Long còn tham gia vào hệ sinh thái

rừng mƣa nhiệt đới, điều hoà khí hậu, tham gia kiến tạo bảo vệ cảnh quan ven bờ,

chống xói mòn, hạn chế bão gió, bảo vệ đê ven biển... Đặc biệt, rừng ngập mặn

góp phần làm sạch môi trƣờng do có thể làm giảm hàm lƣợng kim loại nặng có

trong nƣớc thải nội địa đổ ra vùng cửa sông, ven biển, đồng thời giữ gìn sự cân

bằng sinh thái tự nhiên cho những vùng đất bị ngập nƣớc. Rừng ngập mặn giống

nhƣ một ngân hàng gien giống của các giống loài thuỷ sản, một nhà máy lọc chất

thải, ngăn chặn những ô nhiễm môi trƣờng biển do rác thải, nƣớc thải ven bờ xả ra

21

biển. Vì vậy, môi trƣờng tự nhiên của Vân Đồn hiện ít bị ô nhiễm do chất thải của

các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp và sinh hoạt. Đây là điều kiện hết

sức thuận lợi cho phát triển kinh tế biển [21, tr.3].

Tiềm năng diện tích mặt nƣớc, bãi triều rộng lớn, các thông số khí hậu, thuỷ

văn, hải văn tƣơng đối thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản biển. Biên độ thuỷ

triều lớn nên khả năng trao đổi nƣớc giữa các khu vực nuôi trồng thuỷ sản và nguồn

nƣớc mặn từ biển vào tƣơng đối dễ dàng, thuận tiện cho việc lấy nƣớc vào ra các đầm

nuôi. Cùng với đó là nguồn lao động địa phƣơng dồi dào và ngƣời dân có nguyện

vọng phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm cải thiện đời sống nâng cao thu nhập. Sản

phẩm nuôi trồng thuỷ sản sẽ phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của khách du lịch, góp

phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển, đặc biệt là sau khi Quy hoạch chung xây dựng

khu kinh tế đƣợc phê duyệt Du lịch tại khu kinh tế Vân Đồn sẽ phát triển mạnh. Mặt

khác do địa bàn giáp với Trung Quốc, rất thuận tiện cho việc xuất khẩu sang Trung

Quốc, một thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản lớn.

Mặc dù các yếu tố khí tƣợng hải văn rất thuận lợi nhƣng khu vực biển

Vân Đồn có độ sâu thấp (5-10 m) chỉ phù hợp với kỹ thuật nuôi lồng bè đơn

giản. Địa hình phân cắt mạnh, độ dốc của sông suối lớn, trong mùa mƣa nƣớc

dồn về nhanh và đột ngột dễ gây vỡ ao đầm nuôi. Mùa đông chịu ảnh hƣởng

của gió mùa đông bắc, nhiệt độ hạ thấp đột ngột, kéo dài ảnh hƣởng đến tốc độ

tăng trƣởng của đối tƣợng nuôi.

Đa số các xã trong huyện đảo Vân Đồn là xã nghèo nên rất thiếu vốn đầu

tƣ cho nuôi trồng thủy sản. Những xã có tiềm năng về địa lý, tự nhiên để nuôi

trồng thuỷ sản lớn thì ngƣời dân lại nghèo không có khả năng và năng lực tài

chính đầu tƣ phát triển, ngƣợc lại những xã có kinh tế khá hơn thì lại thiếu diện

tích nuôi trồng (nhƣ Thị trấn Cái Rồng). Ngoài ra, nguồn cung cấp con giống

không ổn định, chất lƣợng con giống chƣa kiểm soát đƣợc, chƣa chủ động đƣợc

nguồn con giống thích hợp với thời vụ nuôi. Cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần

nghề cá đặc biệt phục vụ cho nuôi trồng thủy sản nhƣ đê, cống, điện, đƣờng

còn thiếu và không đồng bộ. Đây là những khó khăn ảnh hƣởng lớn đến ngành

thủy sản nói riêng và kinh tế của huyện đảo nói chung.

22

Chƣơng 2

HOẠT ĐỘNG KINH TẾ BIỂN Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN

GIAI ĐOẠN 1994 - 2012

2.1. Chủ trƣơng phát triển kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn

Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trƣớc, tình hình kinh tế huyện

Vân Đồn đã có những chuyển biến, song việc khai thác tiềm năng ở địa

phƣơng còn nhiều hạn chế. Giao thông đi lại khó khăn, từ huyện đi các xã đảo

chủ yếu là tàu thuyền nhỏ, các xã đảo không có đƣờng, bến cập tàu, giao

thông trên đảo Cái Bầu chủ yếu là đƣờng miền núi, điện thắp sáng mới có ở 7

xã và 1 thị trấn, nông - lâm - ngƣ nghiệp sản xuất chƣa vững chắc, năng suất

lao động thấp, sản xuất còn manh mún chƣa mang tính hàng hóa, chất lƣợng

sản phẩm chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời tiêu dùng...., đời sống của

ngƣời lao động còn nhiều bấp bênh.

Trƣớc thực trạng này, Đảng bộ chính quyền huyện đã xây dựng Nghị

quyết về chƣơng trình kinh tế biển đảo, tập trung vào các ngành có thế mạnh

nhƣ thủy sản, đề ra những biện pháp cụ thể và những bƣớc đi thích hợp. Hàng

năm huyện rà soát lại các mục tiêu, chƣơng trình đã thực hiện đồng thời xây

dựng, hoàn chỉnh các dự án, đề án, tranh thủ các cấp, các ngành, tổ chức đầu tƣ

vào các mục tiêu chƣơng trình nên đã khai thác và sử dụng tốt các nguồn vốn

đầu tƣ, tạo đà cho sự tăng trƣởng kinh tế của huyện. Thế mạnh của huyện là

khai thác lợi thế của biển đảo, vậy nên, Đảng bộ huyện Vân Đồn đã triển khai

thực hiện tốt chủ trƣơng của Trung ƣơng và chƣơng trình của tỉnh Quảng Ninh

về phát triển kinh tế biển đảo theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập

trung mọi nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho việc phát

triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng mà mũi nhọn là ngành thuỷ

sản và phát triển du lịch… Đối với ngành thuỷ sản, huyện tập trung vào các

lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề theo

23

hƣớng phát triển khai thác, đánh bắt cá tuyến khơi. Tăng cƣờng đầu tƣ về số

lƣợng và chất lƣợng tàu thuyền, các phƣơng tiện đánh bắt theo chƣơng trình

đánh bắt xa bờ. Đồng thời hiện đại hoá trang thiết bị nghề cá và kỹ thuật sơ chế

sản phẩm cho lực lƣợng đánh bắt xa bờ. Về du lịch, vùng vịnh Bái Tử Long

xinh đẹp với hơn 600 hòn đảo lớn nhỏ đang cùng với vịnh Hạ Long tạo nên vẻ

đẹp kỳ vĩ và nên thơ của vùng biển phía Đông Bắc Tổ quốc [15, tr.3].

Tỉnh Quảng Ninh đã xác định, Vân Đồn là một trong bốn trung tâm du

lịch của tỉnh, là huyện có nhiều đảo và mỗi đảo đều có những bãi tắm lý tƣởng

cho du khách. Ngành thuỷ sản cùng với ngành Du lịch đang từng bƣớc trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện đảo với mức đầu tƣ cơ sở vật chất và

nguồn nhân lực ngày càng cao theo xu thế hội nhập và toàn cầu hoá. Tiềm năng

kinh tế ở Vân Đồn là rất lớn. Thời gian qua huyện đã và đang khai thác các

tiềm năng thế mạnh đó theo hƣớng phát triển toàn diện bao gồm: du lịch biển,

thƣơng mại - dịch vụ du lịch, khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản, giao thông

vận tải biển. Trong định hƣớng phát triển kinh tế giai đoạn 2000 - 2010, Đảng

bộ và chính quyền huyện Vân Đồn xác định kinh tế biển là ngành kinh tế mũi

nhọn của huyện đảo. Nhằm từng bƣớc khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển

theo hƣớng bền vững, từ khi thực hiện Nghị định 161/2003/NĐ-CP, huyện Vân

Đồn đã hoạch định những đƣờng lối phát triển thông qua các nghị quyết

chuyên đề để lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế một cách toàn diện. Để đạt

đƣợc điều đó, huyện đã tập trung vào những vấn đề sau:

Trƣớc hết, huyện chủ động tranh thủ các nguồn vốn đầu tƣ để đẩy mạnh

xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó, ƣu tiên các công trình thiết thực nhất đối

với công tác đảm bảo an sinh xã hội. Huyện đã đầu tƣ nhiều tỷ đồng mỗi năm

để từng bƣớc hoàn thiện điện lƣới, đƣờng sá, bến cảng, trƣờng học, cơ sở khám

chữa bệnh trên tuyến đảo. Đến nay, nhiều công trình đã hoàn thành và đƣa vào

sử dụng đang phát huy hiệu quả tích cực. Các tuyến đƣờng bê tông xuyên đảo

Ngọc Vừng, Quan Lạn, cảng cập tàu, công trình thuỷ lợi... trên các xã đảo đang

từng ngày tạo diện mạo mới cho địa phƣơng.

24

Tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện chƣơng trình kinh tế biển đảo (1992 -

2002) để đánh giá lại những việc đã làm đƣợc, những việc chƣa làm đƣợc, tìm

ra những nguyên nhân, rút ra những bài học để định hƣớng tiếp tục thực hiện

đúng chƣơng trình kinh tế biển đến năm 2010.

Nâng cao nhận thức về biển và kinh tế biển thật sâu rộng trong cán bộ

nhân dân. Đầu tƣ tăng số lƣợng, chất lƣợng tàu thuyền và các phƣơng tiện khai

thác, đánh bắt theo đúng chƣơng trình đánh bắt xa bờ. Hiện đại hoá trang thiết

bị nghề cá, phát triển công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm cho lực lƣợng

đánh bắt xa bờ. Xây dựng và phát triển đội ngũ tàu từ 100 đến 120 chiếc, có

công suất từ 90 CV trở lên để khai thác vùng biển khơi, kết hợp với việc bảo vệ

an ninh quốc phòng trên tuyến biển. Tổ chức tốt hơn nữa khâu dịch vụ cho

nghề cá ở chợ cá trên biển tại Hạ Mai, Cửa Đối - xã Minh Châu và cảng Cái

Rồng, đồng thời có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp làm dịch

vụ cho nghề cá. Vân Đồn là một trong những huyện có tiềm năng nuôi trồng

thuỷ sản ven biển lớn nhất của tỉnh Quảng Ninh với hơn 1.000 ha diện tích mặt

nƣớc và bãi triều có thể nuôi mặn, lợ và hàng vạn ha mặt nƣớc ở các vũng,

vịnh, áng tƣơng đối kín gió có thể nuôi cá lồng bè.

Từng bƣớc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới

vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chế biến theo hƣớng sản xuất hàng hóa, đáp

ứng nhu cầu thực phẩm thuỷ sản của địa phƣơng, trong nƣớc và xuất

khẩu. Quan tâm và chú trọng đầu tƣ, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là các công

trình văn hoá xã hội trên các tuyến đảo để ổn định đời sống dân cƣ. Đẩy mạnh

phát triển ngành “Công nghiệp không khói” “Du lịch dịch vụ biển” [36,

tr.2]. Vân Đồn trở thành trung tâm kinh tế miền Đông tỉnh Quảng Ninh và

vùng đồng bằng sông Hồng và là một trong những cửa ngõ giao thƣơng Quốc

tế quan trọng của vùng Đông Bắc của Tổ quốc; có vị trí quốc phòng, an ninh

quan trong phía Bắc Việt Nam. Do vậy, đề án “Phát triển kinh tế - xã hội Khu

25

kinh tế tổng hợp Vân Đồn”, Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt năm 2006, mục tiêu

là: Phát triển khu kinh tế Vân Đồn trở thành một trung tâm du lịch sinh thái

biển - đảo chất lƣợng cao, trung tâm hàng không quốc tế, trung tâm dịch vụ cao

cấp và là đầu mối giao thƣơng quốc tế; đóng góp lớn vào tăng trƣởng kinh tế,

phát triển bền vững cho Quảng Ninh; bảo đảm an ninh - quốc phòng, trật tự an

toàn xã hội, góp phần giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Sau

đó, khu kinh tế ven biển Vân Đồn đƣợc thành lập theo Quyết định số

120/2007/QĐ-TTg ngày 26/7/2007 của Thủ tƣớng Chính phủ. Ngày 19/8/2009,

Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 1296/QĐ-TTg về phê duyệt

Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm

2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Với diện tích rộng hơn 2.000 km2, Vân Đồn có những điểm khác biệt rất

lớn so với 14 khu kinh tế ven biển của cả nƣớc, điều kiện giao thông thuận lợi

cả đƣờng bộ, hàng không, đƣờng biển. Cùng với đó là những giá trị về tài

nguyên thiên nhiên, cảnh quan, sinh thái, vùng biển rộng với hơn 600 đảo đá và

đất là điều kiện để Vân Đồn có cơ hội phát triển công nghiệp giải trí và kinh tế

biển. Theo quy hoạch đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt, đặc khu kinh tế

Vân Đồn sẽ trở thành khu kinh tế tổng hợp và du lịch biển đảo chất lƣợng cao

với tổng diện tích tƣơng đƣơng với quốc đảo Xin-ga-po. Hiện, tỉnh Quảng Ninh

đã lập quy hoạch và chuẩn bị cơ sở hạ tầng thiết yếu cho khu kinh tế Vân Đồn

trong tƣơng lai nhằm phát huy và khai thác tốt nhất tiềm năng du lịch to lớn,

đặc sắc của vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long, tạo động lực để phát triển,

đồng thời chủ động khai thác lợi thế trong hợp tác phát triển dọc vành đai kinh

tế ven biển Việt Nam - Trung Quốc. Có thể thấy định hƣớng và mục tiêu phát

triển của ĐKKT Vân Đồn có sự khác biệt, không phá vỡ quy hoạch với các khu

kinh tế liền kề, mà góp phần liên kết thúc đẩy phát triển khu kinh tế cửa khẩu

Móng Cái, Hải Hà và Đình Vũ - Cát Hải.

26

Tỉnh Quảng Ninh đang nỗ lực, quyết tâm và kỳ vọng vào Vân Đồn sẽ trở

thành đặc khu kinh tế trọng điểm trong vùng đồng bằng sông Hồng, đồng thời

có sức lan tỏa mạnh tới toàn vùng và là điểm trung chuyển chiến lƣợc từ khu

vực Đông Á xuống Đông-Nam Á, cầu nối ASEAN - Trung Quốc, nằm trong

khu vực hợp tác "Hai hành lang, một vành đai" kinh tế Việt - Trung, hành lang

kinh tế Nam Ninh - Xin-ga-po và khu vực hợp tác liên vùng Vịnh Bắc Bộ mở

rộng, đặc biệt là trong chiến lƣợc phát triển vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc

Bộ, trục tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và trong chuỗi

đô thị quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng. Hƣớng đến xây dựng thành

công mô hình đặc khu kinh tế, tỉnh Quảng Ninh kỳ vọng sẽ tạo ra bƣớc đột phá

trong việc thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc mà không phải

trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nƣớc.

Hình 2.1. Sơ đồ vị trí và mối liên hệ vùng

Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ninh

27

Hình 2.2. Sơ đồ cấu trúc phát triển không gian vùng

Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ninh

Theo cấu trúc phát triển không gian vùng trong Dự án “Quy hoạch

xây dựng vùng tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và

ngoài 2050” của Sở xây dựng tỉnh Quảng Ninh, huyện Vân Đồn nằm trong

vành đai cảnh quan và du lịch biển, thuộc tiểu vùng khu kinh tế Vân Đồn

và huyện đảo Cô Tô.

28

Từ năm 1993 đến 2003, mỗi năm trên 80% tổng số vốn vay và vốn tài

trợ ngân sách đƣợc tập trung đầu tƣ vào các ngành kinh tế mũi nhọn của

huyện. Ngoài ra hệ thống dịch vụ phục vụ sản xuất nghề cá cũng đƣợc hình

thành và phát triển, chủ yếu là các tƣ nhân nhƣ các cơ sở đóng tàu thuyền,

cụm cơ khí, sản xuất đá lạnh, cung ứng vật tƣ, nhiên liệu, ngƣ lƣới cụ, ché

biến tôm cá và thuốc phòng dịch bệnh cho tôm cá. Hệ thống giao thông thủy,

bộ cơ bản hoàn thành với tổng vốn đầu tƣ hàng trăm tỉ đồng. Đến 2003, toàn

huyện xây dựng đƣợc 5 bến cập tàu, các phƣơng tiện thủy, vận tải hành khách

đƣợc khép kín trong ngày với chất lƣợng ngày một tốt hơn, các đƣờng liên

thôn liên xã đƣợc nâng cấp, mở rộng khang trang, tạo điều kiện cho bà con đi

lại thuận lợi. Nhân dân trên đảo yên tâm bám đất bám đảo, không bỏ vào đất

liền nhƣ những năm trƣớc. Hệ thống thông tin liên lạc đƣợc đầu tƣ nâng cấp,

những năm 1990 huyện có rất ít máy điện thoại gia đình thì đến những năm

2000, điện thoại đa phổ biến, các chƣơng trình phát thanh truyền hình đã đáp

ứng đƣợc nhu cầu cho nhân dân huyện đảo. Phát huy thế mạnh về điều kiện tự

nhiên, huyện đã lập kế hoạch chi tiết các khu du lịch, tôn tạo một số di tích

văn hóa nhƣ đình Quan Lạn, đền Cặp Tiên... để khuyến khích các tổ chức cá

nhân đầu tƣ phát triển du lịch trên địa bàn.

2.2. Sự phát triển của kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn

2.2.1. Khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản

2.2.1.1. Nguồn lợi thủy hải sản

Vùng biển huyện Vân Đồn nằm trong vùng biển tỉnh Quảng Ninh và

giáp vùng biển vịnh Bắc Bộ; rất đa dạng về địa hình, chất đáy; có nhiều hệ sinh

thái đặc trƣng của vùng biển nhiệt đới gồm hệ sinh thái rừng ngập mặn, vùng

bãi triều, vùng rạn san hô, vùng thảm cỏ rong biển… Vì vậy vùng biển huyện

vân Đồn rất đa dạng về các giống loài hải sản. Theo số liệu điều tra của viện

nghiên cứu hải sản Hải Phòng phối hợp với sở Thuỷ sản Quảng Ninh năm

(1998-1999), trên vùng biển Quảng Ninh giàu về tiềm năng, phong phú về

29

thành phần giống loài với 173 loài hải sản chiếm 25,3%, thuộc 117 giống trong

73 họ chiếm 51% so với tiềm năng nguồn lợi hải sản có trong vịnh Bắc bộ;

trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao nhƣ: cá thu, nhụ, song, gáy, nọi,

hồng, mực ống, mực nang, tôm các loại, sá sùng, hải sâm, bào ngƣ, gà ghim...

Trữ lƣợng khai thác ƣớc tính khoảng 82.000 tấn; trong đó trữ lƣợng khai thác

xa bờ là 44.000 tấn, khai thác gần bờ là 38.000 tấn [6, tr.5].

Đối với vùng biển huyện Vân Đồn nằm trong vùng biển Quảng Ninh,

nên hầu hết các giống loài hải sản đều có đầy đủ thành phần giống loài nhƣ ở

vùng biển Quảng ninh; Đặc biệt trữ lƣợng khai thác nguồn lợi sá sùng ở vùng

bãi triều xã Minh Châu, Quan Lạn, Đông Xá nhiều hơn ở các vùng biển địa

phƣơng khác trong vùng biển Quảng Ninh; ƣớc tính trữ lƣợng khai thác hàng

năm khoảng trên 100 tấn tƣơi.

Đối với các loài cá biển: Đƣợc chia thành ba nhóm: cá tầng nổi, cá

tầng đáy, cá ran san hô. Nhìn chung chu kỳ sống của chúng là trong các mùa

của năm nhƣ: Nhóm cá nổi là đối tƣợng khai thác của nghề lƣới chài chụp kết

hợp ánh sáng, lƣới vây, lƣới te xiệp, đăng đọn, lƣới chắn vùng ven bờ; Chúng

thƣờng sống gần bờ, tập trung chủ yếu ở các khu vực nƣớc nông vùng gần bãi

triều, tuổi thọ ngắn, nhƣng sức sinh sản rất lớn và thƣờng tập trung thành đàn

nhƣ: cá trích, cá cơm, cá nục, cá mòi, cá nẹp… Và xuất hiện tại ngƣ trƣờng

Năm Đầu, Soi Đen, Đảo Nét… Thời gian xuất hiện quanh năm, tập trung vào

các tháng 2-5 và tháng 10-12; Ngoài ra còn có một số loài cá nổi lớn nhƣ: cá

xƣớc bè, cá ngừ, cá thu, cá nục, cá nhám, cá quẩn, cá chim… loài cá này có

kích thƣớc lớn hoặc vừa, sống ở vùng nƣớc khá sâu, thƣờng tập trung thành

đàn và có sự di chuyển đi xa, chỉ vào gần bờ khi sinh sản và kiếm ăn, thƣờng

xuất hiện ở ngƣ trƣờng từ Sậu Đông đến Ba Mùn(Minh Châu), Quan Lạn,

Thƣợng Hạ Mai đến Năm Đầu Ngọc Vừng. Nhóm cá đáy và gần đáy là đối

tƣợng khai thác của nghề lƣới kéo, giã cào, lƣới rê, câu. Các loại cá này

thƣờng xuyên cƣ trú và sinh sản, sinh trƣởng vùng các rạn san hô, rạn cồn đá,

30

quanh chân các núi đá vùng ven khơi, ven bờ nhƣ: cá song, hồng, tráp, mối,

phèn, dò, mó, khế, thác, gáy và xuất hiện quanh năm, nhƣng tập trung vào các

tháng 2,3,4,5,6… trên các ngƣ trƣờng vùng biển huyện Vân Đồn, Bái Tử

Long, vịnh Hạ Long. Đặc biệt đối với giống cá song, hồng, dò. Hàng năm,

ngƣ dân dùng các loại ngƣ cụ khai thác nhƣ lƣới rê, lờ, bóng, lồng, lƣới chắn,

để khai thác hàng triệu con giống cá song nhỏ để phục vụ cho ngƣ dân phát

triển nuôi cá biển bằng lồng bè.

Đối với các loài giáp xác là đối tƣợng khai thác chính của các nghề lƣới

kéo tôm, lƣới giã cào, lƣới rê mực, lƣới ghẹ nhƣ: Tôm thẻ, tôm sú, tôm sắt, tôm

bạc, tôm he chân trắng, bề bề. Loại hải sản này thƣờng sống ở vùng đáy và gần

đáy, nơi vùng nƣớc nông gần bờ,có độ mặn không lớn trên vùng biển Vân Đồn,

có nhiều loài sống trong vùng rạn san hô nhƣ: tôm hùm (rồng), ghẹ, cù kỳ,

cua…là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao; Nhƣng một số có nguy cơ cạn kiệt

nhƣ: tôm hùm, tôm he nhật bản. Hiện nay một số loài tôm đã đợc nuôi trong ao

đầm và bằng lồng bè nhƣ: tôm sú, tôm he chân trắng, tôm hùm.

Đối với các loài nhuyễn thể là đối tƣợng khai thác chính của các loại

nghề lƣới rê mực, chài chụp kết hợp ánh sáng, bóng mực, câu mực, nghề cào,

bớt, vớt. Chúng bao gồm nhóm nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ,

nhuyễn thể có vỏ chân bụng, nhóm bò sát, thú biển và các loài hải sản khác.

Loài nhuyễn thể chân đầu: Bao gồm mực ống, mực nang, mực tuộc (bạch

tuộc), mực lá, mực sim, sứa và mực tuộc đốm trắng(ruốc nhện), ruốc bãi…

Chúng xuất hiện nhiều ở ngƣ trƣờng từ Sậu Đông đến Thƣợng Hạ Mai và Năm

Đầu thuộc xã Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng… Đồng thời đây cũng là nơi

sinh trƣởng, nơi sinh sản,bãi đẻ của mực nang, mực ống. Loài nhuyễn thể hai

mảnh vỏ: Là đối tƣợng khai thác của nghề cào bới, bắt bằng tay; là nhóm động

vật thuỷ sản có độ đa dạng sinh học phong phú. Chúng thƣờng sống sinh trƣ-

ởng và sinh sản rất nhiều ở những ngƣ trƣờng trên vùng biển Vân Đồn, Quảng

Ninh có chất đáy đa dạng nhƣ: cát, cát bùn, sởi nhỏ, san hô, bãi đá ngầm, rừng

ngập mặn, chân núi đá… đó là các loài: sò lông, con phi, ngao, vạng, ngán,

31

nghêu,vọm, trai ngọc, hầu biển, điệp, tu hài, dòm(don), vẹm xanh, quéo, bàn

mai. Loài nhuyễn thể có vỏ chân bụng: là đối tƣợng khai thác chính của các

nghề bắt bằng tay, lƣới rê, lặn… Chúng gồm các loài ốc đá, ốc màu, ốc đĩa đen,

ốc nón, ốc nhẩy, ốc hƣơng, ốc côn, ốc tù và, ốc gai và bào ngƣ (ốc cảng chín lỗ)

sinh trƣởng và sinh sản quanh năm trên vùng biển Vân Đồn.

Đối với một số loài hải sản khác: Bao gồm sá sùng, sâu đất (bông thùa)

thuộc họ giun biển, cầu gai (gà ghim), hải sâm….Chúng là loài sinh vật đặc

hữu trong hệ sinh thái vùng bãi triều chƣơng cát, rừng ngập mặn… phân bố ở

các vùng ven biển: Minh Châu, Quan Lạn, Đông xá, Đoàn Kết, Bình Dân, Đài

Xuyên, Vạn Yên.

Phát huy tiềm năng thế mạnh về biển, Vân Đồn lấy việc nuôi trồng và

khai thác thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Với điều kiện tự nhiên

thuận lợi nằm trong vùng vịnh, sóng gió ít, độ mặn trong nƣớc biển thấp, ngƣời

dân Vân Đồn mạnh dạn nuôi nhiều loại nhƣ ghẹ, ốc nhảy, cá, tôm và giờ là tu

hài và hàu [6, tr.5].

2.2.1.2. Năng suất, sản lượng khai thác thủy sản

Đối với ngành thủy sản, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Vân Đồn đã

có nghị quyết về phát triển toàn diện ngành thủy sản giai đoạn 2002 - 2005.

Trong đó, đặc biệt chú trọng đến việc đầu tƣ hiện đại hóa các đội tàu thuyền

đánh cá xa bờ, chuyển giao diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi

trồng thủy sản, mở rộng thị trƣờng tiêu thụ thủy hải sản trong nƣớc và nƣớc

ngoài xây dựng hệ thống dịch vụ hậu cần nhƣ bến, cảng cá, đóng, sữa chữa tàu

thuyền, cung ứng vật tƣ nhiên liệu, sản xuất tôm cá giống, dịch vụ cung ứng

thức ăn, thuốc phòng trừ dịch bệnhđáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu phát triển

thủy sản. Giai đoạn 2005 - 2010, giá trị sản xuất thủy sản 5 năm đạt trên 2.500

tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân 13,8%/năm. Sản lƣợng khai thác hải sản năm

2010 đạt 12.007 tấn, trong đó sản lƣợng khai thác sứa đạt 3.500 tấn, sản lƣợng

khai thác hải sản xa bờ đạt 6.898 tấn. Năm 2010, tổng sản lƣợng khai thác hải

sản tăng so với năm 2006 là trên 71,11% [26, tr.4].

32

Phƣơng tiện đánh bắt thủy sản chủ yếu là tàu thuyền, nếu nhƣ năm 1993,

toàn huyện mới có 696 phƣơng tiện đánh bắt thì đến 2003 đã có 837 phƣơng

tiện với tổng công suất hơn 32.000CV, trong đó hơn 100 tàu đánh bắt xa bờ, 60

tàu thu mua trên các ngƣ trƣờng có công suất từ 72 đến 405CV đƣợc trang bị

ngƣ cụ khá đồng bộ, hiện đại. Năm 2010 nghề khai thác thuỷ sản đƣợc phát

triển ổn định, nhất là nghề khai thác thuỷ sản xa bờ. Đến tháng 12/2010 toàn

huyện có 1786 tàu với tổng công suất máy là: 50.000 CV. Về cơ cấu nghề

nghiệp, năm 2010 toàn huyện có 55 tàu có công suất máy 40 CV làm nghề chài

chụp kết hợp ánh sáng; có 4 tàu công suất máy 600 CV làm nghề lƣới kéo giã,

có 450 tàu có công suất máy từ 30 CV đến dƣới 90 CV làm nghề lƣới rê trôi;

lƣới rê cố định và câu ở tuyến nửa lộng, nửa khơi; có 6 tàu công suất máy 90

CV làm nghề lƣới rê trôi đánh cá da; có 1077 tàu công suất máy từ 6 CV đến

dƣới 30 CV làm nghề lƣới ven bờ (lƣới đục, lƣới đối,câu, lƣới ghẹ.....). Tạo

viêc làm cho 5376 lao động làm nghề khai thác thuỷ sản, trong đó lao động làm

nghề khai thác thuỷ sản xa bờ và tuyến nửa lộng nửa khơi là 2460 lao động;

Cấp phát đƣợc 62 máy thu trực canh cho ngƣ dân có tàu cá ở các xã: Hạ Long,

Đông Xá, thị trấn Cái Rồng, Thắng Lợi, Minh Châu, Ngọc Vừng.

Bảng 2.1. Năng suất khai thác hải sản huyện Vân Đồn

giai đoạn 2006 - 2010

Tiêu chí Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010

Tổng sản lƣợng Tấn 6.900 9.150 10.100 10.550 12.007

Tổng công suất CV 44.716 45.116 45.000 49.105 50.000

Năng suất Tấn/CV 0,15 0,2 0,22 0,22 0,24

(Nguồn: Tổng hợp tài liệu từ huyện vân Đồn)

Việc phát triển nghề đánh bắt thuỷ sản cũng đƣợc huyện đặc biệt quan

tâm thông qua việc tạo điều kiện cho ngƣ dân vay vốn để đóng mới, sửa chữa,

nâng cấp phƣơng tiện, từng bƣớc vƣơn ra khơi để đánh bắt… Đến năm 2012,

33

tổng số tàu thuyền là 1.670 chiếc, trong đó tàu công suất 90 CV trở lên là 62

chiếc. Tổng số lao động trong ngành thủy sản năm 2012 là 7.354 ngƣời, trong

đó lao động khai thác là 5.132 ngƣời, lao động nuôi trồng 1.922 ngƣời, lao

động chế biến dịch vụ là 300 ngƣời [23, tr.6]. Với phƣơng châm: “bám biển dài

ngày, đánh cá quanh năm”, các đội tàu của huyện thƣờng xuyên khai thác theo

từng luồng, tuyến phù hợp, nên sản lƣợng khai thác hải sản hàng năm đều tăng

từ 10 đến 15%. Năm 1995 huyện khai thác đƣợc 1.870 tấn, năm 2002 khai thác

đƣợc 5.450 tấn. Cuộc sống của bà con nghề cá từng bƣớc đƣợc nâng lên với

mức thu nhập từ 1,2 đến 1,5 triệu đồng/ngƣời/tháng. Nghề khai thác hải sản của

huyện thu hút gần 6.000 lao động tham gia trực tiếp và hàng ngàn lao động phụ

trợ khác. Làm ăn đƣợc, bà con nghề cá huyện đảo dành một phần thu nhập đầu

tƣ sắm lƣới mới, sửa chữa phƣơng tiện và trả một phần vốn vay. Nhiều tàu cá

xa bờ có thu nhập cao nhƣ tàu của HTX thủy sản Vân Đồn, một số tàu cá của tổ

hợp nghề cá Nam Hải (Minh Châu).

Bảng 2.2. Sản lƣợng khai thác hải sản huyện Vân Đồn năm 2012

Đơn vị Sản lƣợng khai thác

Cá Tấn 12.320

Tôm Tấn 380

Mực Tấn 650

Nhuyễn thể Tấn 200

Hải sản khác Tấn 1.050

Tấn 14.600 Tổng sản lƣợng khai thác

(Nguồn: Phòng NN&PTNT huyện vân Đồn)

2.2.1.3. Diện tích, sản lượng nuôi trồng thủy sản

Vùng biển Vân Đồn đƣợc thiên nhiên ƣu đãi có nhiều đảo xen kẽ, tạo

nên những áng tùng, vụng ít chịu ảnh hƣởng của gió bão, có độ sâu trung bình

từ 7 - 15m, nhiệt độ ổn định, độ mặn phù hợp từ 25 đến 28 phần nghìn, nƣớc

chƣa bị ô nhiễm, có nhiều dòng thủy lƣu rất thích hợp để nuôi trồng thuỷ sản

34

[34, tr.4]. Không chỉ dừng lại ở những nguồn lợi sẵn có, trong những

năm qua, nuôi trồng thuỷ sản tại Vân Đồn đã có những bƣớc phát triển mạnh

mẽ, diện tích, năng suất, sản lƣợng nuôi trồng thuỷ sản không ngừng tăng qua

các năm. Cùng với việc phát triển khai thác, diện tích nuôi trồng thuỷ sản ngày

càng đƣợc mở rộng. Năm 1993, diện tích nuôi trồng trong toàn huyện mới chỉ

có 100 ha, cuối năm 2002 đã tăng lên 645 ha và đến năm 2012 là 3.000 ha.

Trong đó đặc biệt chú trọng vào việc nuôi các loại có giá trị kinh tế cao nhƣ:

nuôi trai cấy ngọc, các loài nhuyễn thể, các loài cá song, giò, nhụ.

Hình thức nuôi

Nuôi ao, đầm chủ yếu ở các xã trên đảo Cái Bầu nhƣ Bình Dân, Đài

Xuyên, Đông Xá… Đối tƣợng nuôi chủ yếu là các loài cá đặc biệt là cá vƣợc

mắt đỏ, cá rô phi và tôm nƣớc lợ. Trƣớc đây, nuôi ao, đầm đặc biệt là nuôi tôm

đƣợc đầu tƣ phát triển bằng công nghệ nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến,

thâm canh và bán thâm canh. Tuy nhiên do tình hình dịch bệnh liên tiếp nên

hiện nay diện tích nuôi ao, đầm đặc biệt là ao, đầm nuôi tôm giảm đi đáng kể,

rất nhiều diện tích ao đầm bỏ hoang hoặc để nuôi thả tự nhiên để đánh bắt cộng

đồng nhƣ ở xã Đoàn Kết. Một số diện tích ao, đầm nuôi tôm chuyển sang nuôi

cá hoặc bị thu hồi chuyển mục đích sử dụng khác nhƣ ở xã Đông Xá, Hạ Long.

Nuôi rào chắn chủ yếu dùng để nuôi cá nƣớc mặn. Tuy nhiên hình thức này

chƣa đƣợc nuôi phổ biến ở các xã. Nuôi lồng bè áp dụng với các loài cá biển

nhƣ cá song, vƣợc, tráp và nhuyễn thể nhƣ tu hài. Hiện tại hình thức này khá

phổ biến đối với nuôi cá lồng bè nhƣ ở các xã Thắng Lợi, Hạ Long, Đông Xá,

Bản Sen. Nuôi giàn treo áp dụng chủ yếu đối với nuôi trai cấy ngọc. Hiện tại có

3 Công ty nuôi trai đạt hiệu quả trên địa bàn là Công ty nuôi Trai cấy Ngọc

Phƣơng Đông, công ty Taiheiyo Shinju Việt Nam ở xã Bản Sen và Công ty

Biển Ngọc tại xã Thắng Lợi; Nuôi dây treo, khay treo, lồng treo áp dụng với

nuôi hàu và tu hài. Tuy nhiên hình thức nuôi hàu chủ yếu hiện nay là nuôi dây

35

treo. Ngƣời dân thƣờng kết hợp treo dây trên các bè nuôi tu hài hoặc cá lồng

bè. Nuôi chƣơng bãi áp dụng đối với nuôi nhuyễn thể nhƣ ngao, nghêu, sò

huyết… Nhƣng đối tƣợng nuôi này không phổ biến ở Vân Đồn. Nuôi lồng thả

đáy là hình thức nuôi khá phổ biến đặc biệt là đối với nuôi tu hài. Mô hình này

mang lại hiệu quả kinh tế cao và đang phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các xã đảo

và xã ven biển.

Đối tượng nuôi

Với tiềm năng lớn về nuôi biển đối tƣợng nuôi chủ yếu ở khu kinh tê

Vân Đồn là nhuyễn thể và cá lồng bè. Nuôi nhuyễn thể chủ yếu là tu hài, hầu,

các loài ốc và trai ngọc. Cá lồng bè: cá vƣợc, cá song, cá tráp, cá hồng, cá

thác….Ốc: ốc đá, ốc màu, ốc hƣơng. Các đối tƣợng khác: hải sâm, bào ngƣ, sâu

đất, vạng đen. Đặc biệt, trong những năm gần đây, nghề nuôi nhuyễn thể nhƣ:

tu hài, ốc đá, ốc màu, hàu, ốc nhảy, ốc đẻ đen, ốc hƣơng, ngao hoa… phát triển

khá mạnh, thu hút đƣợc nhiều doanh nghiệp, ngƣời dân tham gia vào lĩnh vực

này. Với những ƣu điểm dễ nuôi, vốn đầu tƣ ít, giá trị kinh tế cao. Ngoài con

giống, ngƣời nuôi không phải đầu tƣ chi phí thức ăn. Bởi thức ăn của chúng có

sẵn trong tự nhiên chủ yếu là các loài tảo biển mà các loài tảo biển này phát

triển ở vùng biển Vân Đồn với mật độ cao, đa dạng về chủng loại và giống loài,

đây là lý do chính để nhuyễn thể nhanh chóng đƣợc nhiều hộ gia đình chọn

nuôi. Nghề nuôi nhuyễn thể trên địa bàn huyện là một nghề phát triển cả về quy

mô và diện tích. Đơn cử nhƣ nuôi ngao hoa có nguồn gốc từ Đài Loan. Nhận

thấy, ngao hoa có sức sống bền bỉ, chịu đƣợc mƣa rét, thời gian thu hoạch

ngắn, chỉ bằng một nửa so với nuôi tu hài (từ 10 tháng đến 1 năm), không kén

đất sống, lại có đầu ra xuất khẩu hết sức rộng mở, giá ngao hoa cũng đƣợc bán

tƣơng đối cao nên đã thu hút đƣợc đông đảo ngƣời dân tham gia nuôi trồng.

Đến nay, ngao hoa đã đƣợc nhân rộng ra các xã nhƣ: Ngọc Vừng, Đông Xá,

Thắng Lợi, Quan Lạn… [48, tr.3].

36

Nghề nuôi tôm sú vùng bãi triều ở Vân Đồn đã có từ năm 1994 và là

huyện đầu tiên của tỉnh đƣa tôm vào nuôi thí điểm có sự đầu tƣ của dự án

NGO, nhƣng do chƣa có kinh nghiệm nên chƣa mang lại hiệu quả. Đến năm

2000, một số hộ ngƣ dân đã mạnh dạn đầu tƣ nuôi tôm theo mô hình quảng

canh cải tiến và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản của Vân Đồn hiện nay, nghề cá lồng

bè đang đƣợc quan tâm đầu tƣ và phát triển mạnh. Đây cũng là nghề đang phát

huy đƣợc lợi thế, nghề này bắt đầu xuất hiện từ năm 1996, phát triển với quy

mô nhỏ tại một số hộ gia đình ở thị trấn Cái Rồng, nhƣng đến nay đã phát triển

thành phong trào trong toàn huyện với 4.500 ô lồng tập trung ở các xã Thắng

Lợi, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Bản Sen, Đông Xá và thị trấn Cái Rồng. Nhiều dự

án nuôi cá lồng bè đƣợc thực hiện triển khai, với tổng số vốn vay hàng tỷ đồng

từ Quỹ quốc gia hỗ trợ giải quyết việc làm và một số nguồn vốn khác, mang lại

hiệu quả kinh tế rõ rệt [23, tr.6]. Nhờ vậy, các chủ dự án và các hộ nuôi thu

nhập trung bình đạt 15 - 16 triệu đồng/hộ/năm, đời sống của ngƣ dân cũng theo

đó mà đƣợc nâng lên. Nhằm tạo điều kiện cho các mũi nhọn kinh tế phát triển,

huyện đã động viên mọi tầng lớp nhân dân phát huy cao độ nội lực, tranh thủ

có hiệu lực và hiệu quả các nguồn ngoại lực đầu tƣ cơ sở hạ tầng, nhất là

đƣờng, trƣờng, trạm, phƣơng tiện đi lại, cơ sở vui chơi giải trí,… bảo đảm cho

mọi ngƣời dân đƣợc chăm sóc sức khoẻ, ốm đau đƣợc khám chữa bệnh kịp

thời, các cháu đến lớp vào trƣờng đúng độ tuổi với yêu cầu dạy và học chất

lƣợng toàn diện ngày càng cao, để đào tạo cho thế hệ tƣơng lai đủ tài lực làm

chủ vùng biển đảo Đông Bắc của Việt Nam yêu dấu [8, tr.3].

Đặc biệt, vài năm trở lại đây, huyện đã có cơ chế thu hút các doanh

nghiệp đầu tƣ vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn. Nhờ đó đã tạo sự

đa dạng về sản phẩm nuôi trồng, thiết thực tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho

nhân dân. Ngày càng có nhiều hộ đầu tƣ vào nuôi trồng tu hài, hàu Thái Bình

Dƣơng với sản lƣợng hàng trăm tấn/năm.

37

Vùng biển Vân Đồn còn là trung tâm nuôi trai cấy ngọc lớn nhất cả

nƣớc. Nghề nuôi cấy Ngọc trai ra đời cách đây khoảng 40 năm. Huyện đảo Vân

Ðồn có diện tích các bãi triều ngập nƣớc là 10.969 ha, cùng hàng vạn ha đất có

mặt nƣớc tại các vụng, tùng, vịnh… ẩn khuất trong trùng điệp núi đá, núi đất

thuộc vịnh Bái Tử Long với khí hậu, môi sinh rất thuận lợi cho việc nuôi trai

cấy ngọc, tạo nên một vùng nuôi cấy ngọc trai rất lớn ở Vân Ðồn. Nơi đây tập

trung tới bốn loài trai ngọc có giá trị, gồm trai Mã Thị, trai Vỏ Dày, trai Cánh

Dài và loài Jamson. Ðây là những loài trai ngọc rất quí và có giá trị xuất khẩu

cao. Ngày xƣa, nghề nuôi trai, cấy ngọc đƣợc làm theo phƣơng pháp thủ công.

Lồng nuôi trai, cấy ngọc đƣợc treo lên đầu sào tre, số lƣợng ít, hiệu quả kinh tế

không cao. Ngày nay nhờ áp dụng kĩ thuật nuôi trai lồng bè với phao dây theo

phƣơng pháp khoa học kĩ thuật tiên tiến nhƣ treo lồng ở độ sâu không quá 2,5m

để khi triều rút, lồng nuôi không đƣợc nổi lên mặt nƣớc biển hoặc không đƣợc

chạm đáy, loài khác sẽ ăn trai hoặc con trai sẽ hớp phải bùn… Một phƣơng

pháp nữa cũng đƣợc áp dụng, đó là ghép bè thành giàn bằng các cây tre dài và

thẳng, diện tích vài trăm mét vuông/khu, mỗi lồng cách nhau 0,5m. Những bè

nuôi nhƣ vậy có thể nuôi trai theo nhiều lứa tuổi, việc di chuyển chăm sóc trai

cũng dễ dàng hơn. Năm 1992, công ty Phƣơng Đông đầu tƣ 90 ha mặt nƣớc

nuôi trai lấy ngọc, sau khi nuôi thử nghiệm, năm 1995 công ty cho nuôi 8 triệu

con trai. Đến năm 2002, bình quân mỗi năm thu nhập 1,4 triệu viên ngọc, xấp

xỉ 200 kg ngọc trai với các kích cỡ từ 0,7 đến 0,8 cm/ viên [15, tr.4].

Sáu tháng đầu năm 2003, nuôi trai ngọc trên địa bàn huyện đạt 30 triệu

con, cho thu khoảng 500 kg ngọc trai,đến năm 2012 có 5 Công ty nuôi trai cấy

ngọc (2 công ty 100% vốn của nƣớc ngoài) đã giải quyết việc làm cho hơn

1.000 lao động trên địa bàn huyện. Sản lƣợng nuôi trai nguyên liệu đạt 28 triệu

con/năm, nuôi cấy từ 15-16 triệu con, đạt tỷ lệ ngọc từ 20-25%. Bên cạnh đó,

huyện đang tiếp tục thực hiện bảo vệ và khoanh nuôi các loài hải sản quý hiếm

nhƣ bào ngƣ, sá sùng… trên các bãi triều ven biển ở Quan Lạn, Minh Châu,

Ngọc Vừng và Cái Bầu [48, tr.3].

38

Từ việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản đã mang lại nguồn thu không

nhỏ cho các hộ gia đình trên địa bàn huyện, đồng thời góp phần quan trọng vào

việc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phƣơng. Đến năm 2003, huyện

có 647 ha ao đầm nuôi tôm cá mặn lợ,1.400 lồng nuôi cá biển, 340 ha mặt nƣớc

nuôi trai ngọc và hàng trăm ha bãi triều đƣợc tận dụng để nuôi nhuyễn thể hai

vỏ. Huyện có diện tích bãi triều, chƣơng cát rộng lớn mỗi năm thu hút hàng

ngàn ngƣời ra khai thác sá sùng, ốc hƣơng... thu nhập mỗi ngày từ 50 đến 70

ngàn đồng/ngƣời. Theo báo cáo kinh tế - xã hội năm 2009 và kế hoạch 2010

của khu kinh tế huyện Vân Đồn. Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2009

là 2.900 ha, với trên 500 hộ nuôi và 20 doanh nghiệp, chủ yếu tập trung nuôi tu

hài, hàu biển góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhiều lao động

tại địa phƣơng. Tổng sản lƣợng nuôi trồng thủy sản năm 2009 là 3.700 tấn.

Bảng 2.3. Diện tích, sản lƣợng nuôi trồng hải sản huyện Vân Đồn

giai đoạn 2006 - 2012

Năm

Sản lƣợng, diện tích 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

130 140 100 100

950 100 800 50 50 300 52 50 65 100 500 1.118 300 70 500 347 106 534

388 388 200 137

700 700 700 1.000 70 100 70 800 70

Sản lượng Nuôi mặn lợ Tôm Nhuyễn thể Hải sản khác Cá nƣớc ngọt Cá lồng bè Diện tích Nuôi mặn lợ Tôm Nhuyễn thể Hải sản khác Cá nƣớc ngọt Cá lồng bè

Đơn vị 1.300 1.202 2.095 3.700 3.782 5.110 4.780 Tấn 852 1.495 2.517 3.142 4.540 4.030 Tấn Tấn 100 80 Tấn 702 1.345 2.365 2.665 4.100 3.050 Tấn 900 50 Tấn 70 50 680 300 Tấn 1.943 2.200 2.500 2.900 2.969 3.100 3.000 Ha 1.888 2.130 2.430 2.830 2.869 3.030 2.930 Ha Ha 388 150 300 Ha 800 1.042 1.342 1.830 1.732 2.030 1.830 Ha 750 700 Ha 70 70 55 Lồng 4.228 4.578 4.500 4.728 5.000 4.783 4.000 (Nguồn: Phòng NN&PTNT huyện Vân Đồn)

39

Nghề nuôi trồng thủy sản ở Vân Đồn đƣợc duy trì và phát triển. Tổng

diện tích nuôi trồng năm 2012 là 3.000 ha = 93,75% kế hoạch, giảm 3,23%

(100 ha) so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm diện tích nuôi trồng là do dịch

bệnh tu hài do virút Pekinsus spp gây ra, cá giò chết hàng loạt chƣa rõ nguyên

nhân đã gây thiệt hại lớn cho các hộ nuôi, nhiều hộ nuôi bỏ nghề hoặc giảm

diện tích nuôi, dẫn đến diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2012 giảm so với

năm trƣớc và không đạt so với kế hoạch.

Theo thống kê năm 2012, tổng giá trị thiệt hại lên đến trên 200 tỷ đồng,

điều này đã gây ảnh hƣởng lớn đến cuộc sống ngƣời dân. Các cấp chính quyền

và ngƣời dân địa phƣơng đã và đang tìm cách tháo gỡ những bất cập trong nghề

nuôi trồng thủy sản ở đây. Khó khăn của ngƣời nuôi tu hài ở Vân Đồn là việc

khó xác định nguồn dịch bệnh của tu hài và kỹ thuật nuôi tu hài để đạt đƣợc

chất lƣợng cao. Từ con số hàng nghìn ha mặt nƣớc nuôi trồng tu hài, đến nay

trên địa bàn huyện chỉ còn khoảng vài chục ha đƣợc các hộ dân đang nuôi thăm

dò trở lại… Biết là khó khăn nhƣng ngƣời dân không bỏ nghề, bởi biển Vân

Đồn vẫn đem lại cho họ nguồn thu nhập dồi dào.

Chính vì thế những ngƣời làm nghề nuôi trồng thủy sản trên biển Vân

Đồn vẫn tiếp tục công việc này. Để nghề nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tiếp

tục phát triển ổn định, ngay khi có kết quả xét nghiệm dịch bệnh của ngành

chức năng, huyện Vân Đồn đã khuyến cáo bà con nông dân và các doanh

nghiệp tạm thời dừng nuôi tu hài một thời gian, từng bƣớc chuyển sang nuôi

một số đối tƣợng mới nhƣ nghêu, ngao, ốc… và nuôi cá lồng bè thay thế cho tu

hài. Đến nay, với sự chỉ đạo tích cực của địa phƣơng và ngành chức năng,

nhiều hộ gia đình đã chuyển dần sang một số đối tƣợng nuôi mới và đã bƣớc

đầu tạo sự ổn định cho nghề nuôi trồng thuỷ sản nơi đây.

40

Với việc nuôi trồng thì cái vƣớng lớn nhất đối với ngƣ dân Vân Đồn là

nguồn giống chƣa đƣợc kiểm tra chất lƣợng một cách thƣờng xuyên, chặt chẽ

trƣớc khi nhập về địa bàn nuôi thả, dẫn đến nguy cơ về dịch bệnh có thể xảy ra

bất cứ lúc nào. Những năm đƣợc mùa, đầu ra của sản phẩm nhiều thì ngƣ dân

thƣờng bị tƣ thƣơng ép giá… Với quyết tâm vƣơn lên từ biển, làm giàu từ biển,

Huyện uỷ Vân Đồn đã tập trung chỉ đạo rà soát và quy hoạch các vùng nuôi

trồng thuỷ sản; huy động nguồn vốn trong dân, kết hợp với tạo điều kiện cho

ngƣ dân có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn khác để mở rộng quy mô nuôi trồng;

đẩy mạnh công tác khuyến ngƣ. Ngƣ dân trên địa bàn ngày càng mạnh dạn đầu

tƣ vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản phù hợp với đặc thù khí hậu, nguồn nƣớc ở

địa phƣơng, nên đã tạo ra sự đa dạng về sản phẩm, tạo việc làm, nâng cao thu

nhập, góp phần đẩy nhanh xoá đói, giảm nghèo.

Nguồn thức ăn

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 20 cơ sở kinh doanh thuốc thú y và

đại lý thức ăn nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở Móng Cái và Yên Hƣng.

Hiện tại khu kinh tế Vân Đồn chƣa có đại lý và cơ sở thức ăn, thuốc thú y thuỷ

sản. Một số cơ sở nuôi tôm hiện nay sử dụng thức ăn chủ yếu là loại thức ăn

tổng hợp và một phần là thức ăn đƣợc sản xuất từ Trung Quốc.

Sản xuất con giống thuỷ sản

Có hai nguồn chủ yếu. Nguồn lấy vào hoặc thu gom từ tự nhiên đối với

tôm, cá và nhuyễn thể. Nguồn giống nhân tạo chủ yếu là cá biển và trai ngọc.

Trong đó, giống nuôi trồng thủy sản nƣớc ngọt chủ yếu là các đối tƣợng cá

nƣớc ngọt nhƣ rô phi, trắm, mè, trôi, chép lai. Giống nuôi trồng thủy sản mặn,

lợ chủ yếu là các giống tôm, cá nƣớc lợ (cá song, cá tráp, cá rô phi, cá vƣợc),

nhuyễn thể (tu hài, hầu, ngao, nghêu, sò huyết). Nuôi lồng bè gồm các loài cá

nhƣ cá song, cá hồng, cá tráp, cá sủ chấm. Năm 2010, trên địa bàn khu kinh tế

có 5 trại sản xuất giống gồm:

41

Bảng 2.4: Cơ sở sản xuất con giống thuỷ sản năm 2010

TT Đơn vị Địa điểm Giống SX

1 Trung tâm giống thuỷ sảnVân Đồn xã Hạ Long Nhuyễn thể

2 Công ty ĐTPTSX Hạ Long xã Thắng Lợi Nhuyễn thể, tôm

3 Công ty TNHH Đỗ Tờ xã Bản Sen Nhuyễn thể

4 Công ty TNHH Quan Minh xã Quan Lạn Nhuyễn thể

5 Công ty Cổ phần NTTS Hạ Long xã Đông Xá Nhuyễn thể, tôm

(Nguồn: Phòng NN&PTNT huyện Vân Đồn)

Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất giống chƣa sử dụng hiệu quả và phát huy

hết năng lực cũng nhƣ không đáp ứng đƣợc nhu cầu con giống tại địa phƣơng.

Theo báo cáo của phòng kinh tế nông nghiệp huyện, số lƣợng giống thả năm

2009 của toàn khu kinh tế Vân Đồn là 154,3 triệu con. Trong đó số giống sản

xuất đƣợc trên địa bàn khu kinh tế là 30 triệu con giống nhuyễn thể. Toàn bộ

giống tôm, cá và nhuyễn thể còn lại phải nhập từ bên ngoài. Nhƣ vậy, trong

tƣơng lai để đáp ứng đƣợc lƣợng giống đảm bảo chất lƣợng đáp ứng đủ cho

nhu cầu giống toàn khu kinh tế đòi hỏi việc cần thiết phải đầu tƣ khoa học công

nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất cho các trại giống hiện có.

2.2.1.4. Chế biến và tiêu thụ sản phẩm

Chế biến sản phẩm thuỷ sản

Chế biến thuỷ sản nội địa có Công ty chế biến thuỷ sản Cái Rồng (xã

Đông Xá) chủ yếu là sản xuất chế biến nƣớc mắm có công suất trên 01 triệu

lít/năm. Ngoài ra còn có nhiều cơ sở tập thể và hộ gia đình làm nghề kinh

doanh chế biến sản phẩm hải sản đƣợc đầu tƣ phát triển có hiệu quả trên địa

bàn huyện nhƣ: nghề chế biến tôm, cá, sá sùng khô, nƣớc mắm, chế biến sứa,

có công suất hàng trăm tấn hải sản khô, tập trung ở các địa phƣơng: xã Minh

Châu, Quan Lạn, Đông Xá, Hạ Long, thị trấn Cái Rồng. Chế biến các sản phẩm

thuỷ sản tiêu thụ nội địa ở khu kinh tế mang tính thủ công, quy mô nhỏ với các

sản phẩm truyền thống nhƣ: cá khô, tôm khô, mực khô. Toàn huyện còn có

42

trên 40 xƣởng thu mua và chế biến sứa đƣợc xây dựng ở một số xã đảo nhƣ: xã

Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng, Thắng Lợi, Vạn Yên… Các cơ sở dịch vụ

phục vụ cho sản xuất khai thác, nuôi trồng thuỷ sản đƣợc phát triển mở rộng

nhƣ: sản suất nƣớc đá, cung ứng ngƣ lƣới cụ, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền,

đại lý thu mua hải sản tập trung ở thị trấn Cái Rồng, Hạ Long, Đông Xá, Minh

Châu, Quan Lạn.

Tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản

Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản đƣợc thu hoạch từ khai thác và

nuôi trồng thuỷ sản của ngƣ dân trên địa bàn huyện, tập trung chủ yếu là thị

trƣờng Trung Quốc, chợ cá trên biển ở Cô tô và các tàu thu mua trên biển;

ngoài ra còn có thị trƣờng tiêu thụ nội địa trong nƣớc và ở địa phƣơng. Hàng

năm có khoảng trên 60% sản phẩm thuỷ sản (tập trung sản phẩm khai thác xa

bờ) đƣợc tiêu thụ trên thị trƣờng Trung Quốc. Các sản phẩm đông lạnh nội địa

chủ yếu do các nhà máy chế biến thuỷ sản trong tỉnh cung cấp ra thị trƣờng.

Hiện nay, do đời sống ngày một nâng cao nên sức mua ngày một tăng góp phần

nâng cao tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm đông lạnh nội địa. Một số sản phẩm đông

lạnh chủ yếu nhƣ: mực phi lê, cá phi lê, tôm đông lạnh.

2.2.1.5. Dịch vụ hậu cần thuỷ sản

Đóng mới và sửa tàu thuyền nghề cá

Đến nay toàn huyện có 21 cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền nghề cá;

trong đó có 01 công ty TNHH và 1 Hợp tác xã tập trung ở xã Hạ Long, thị trấn

Cái Rồng, xã Đông Xá, xã Thắng Lợi, xã Quan Lạn, xã Minh Châu có công

suất đóng mới và sửa chữa hàng trăm tàu cá có công suất máy 90CV [8, tr.3].

Cảng cá, bến cá

Huyện Vân Đồn chƣa có cảng cá riêng biệt, chỉ có bến cá chung với cảng

dân sinh ở hầu hết các địa phƣơng xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Công suất

thu mua sản phẩm hải sản qua bến cá hàng năm ƣớc tính khoảng trên 10 tấn;

Riêng bến cá ở cảng Cái Rồng ƣớc đạt trên 100 tấn/năm. Ngoài ra tại các bến

43

cá còn có các dịch vụ hậu cần tập trung ở cảng Cái Rồng nhƣ: sản xuất nƣớc

đá, cung ứng vật tƣ ngƣ lƣới cụ, sửa chữa cơ khí, máy thuỷ, các đại lý thu mua

hải sản, cung ứng dầu diêzen….cũng đƣợc phát triển phục vụ cho ngƣ dân làm

nghề khai thác và nuôi trồng hải sản trên địa bàn.

Khu neo đậu tàu phòng tránh gió bão

Trên vùng biển Vân Đồn, Quảng ninh có từ 2-4 cơn bão và trên 10 đợt

gió mùa Đông bắc xuất hiện; Cho nên việc bố trí các khu neo đậu tàu cá cho

ngƣ dân là việc làm cần thiết đƣợc các cấp các ngành từ tỉnh đến huyện, xã

quan tâm; cụ thể là trong nhiều năm qua để bảo đảm cho tàu cá của ngƣ dân đỗ

bến đƣợc an toàn khi có gió bão xẩy ra, huyện đã bố trí các khu neo đậu tàu cá

cụ thể nhƣ: Khu vực bến Xà Kẹp thuộc xã Hạ Long có sức chứa từ 50 - 100

tàu. Khu vực bến cảng Cái Rồng có sức chứa từ 200 - 400 tàu. Khu vực bến

Hồng Vân, Cây quýt Ba Mùn có sức chứa từ 300 - 500 tàu. Ngoài ra còn bố trí

ở các bến đỗ tàu nhƣ Cái Làng, Tân Phong, Yến Hải (xã Quan Lạn), bến Cống

Yên (xã Ngọc Vừng), khu Áng Giã, cảng Thắng Lợi (xã Thắng Lợi) có sức

chứa từ 50 - 100 tàu/01 bến.

Nhìn chung cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá của huyện hiện nay chƣa đáp

ứng đƣợc với nhu cầu phát triển sản xuất của ngành thuỷ sản nhất là về xây

dựng cảng, bến cá của huyện chƣa đƣợc đồng bộ; Đặc biệt là ở cảng, bến cá

trung tâm huyện ở thị trấn Cái Rồng, tàu cá còn đỗ lẫn với tàu khác, không

đƣợc cập cảng, không có chỗ để sửa chữa, bảo dƣỡng tàu thuyền.

2.2.2. Du lịch biển, đảo

Năm 2006, theo Quyết định 786/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ phê

duyệt đề án “Phát triển kinh tế - xã hội khu kinh tế Vân Đồn”, tỉnh Quảng Ninh

đã xác định phát triển du lịch sinh thái biển đảo chất lƣợng cao, gắn với nhiều

sản phẩm du lịch độc đáo, phong phú và hấp dẫn. Với vị trí thuận lợi nằm trong

vịnh Bái Tử Long và liền kề với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Vân

Đồn hội tụ nhiều ƣu thế để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch biển đảo. Ngày

44

19/8/2009, Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng khu

kinh tế Vân Đồn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó phát triển

Khu kinh tế Vân Đồn trở thành khu du lịch sinh thái biển đảo chất lƣợng cao và

phát triển du lịch là hoạt động chính để phát triển các ngành kinh tế - xã hội

khác. Bên cạnh thế mạnh về thủy sản, du lịch cũng đang từng bƣớc trở thành

một mũi nhọn trong phát triển kinh tế của Vân Đồn. Để thúc đẩy lĩnh vực này

phát triển, bên cạnh việc đầu tƣ, nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng phát

triển du lịch, huyện Vân Đồn đã có nhiều giải pháp thúc đẩy du lịch, trong đó

quan tâm đến đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm du lịch.

2.2.2.1. Một số điểm du lịch biển, đảo tiêu biểu ở Vân Đồn

Các di tích thời tiền sử

Hang Soi Nhụ: Nằm trên đảo Soi Nhụ thuộc xã Hạ Long huyện Vân

Đồn nằm cách thị trấn Cái Rồng khoảng 4km về phía Bắc. Đây là một trong

những di chỉ khảo cổ học quan trọng của văn hóa Hạ Long. Năm 1938 lần đầu

tiên hang động này đƣợc phát hiện bởi hai nhà khảo cổ học ngƣời Pháp. Với

những di chỉ khảo cổ tìm đƣợc bao gồm các tàn tích thức ăn, công cụ lao động,

đồ gốm...có thể khẳng định đây là một trong những ngôi nhà cổ của các cƣ dân

văn hóa Hạ Long. Theo kết quả phân tích cacbon C14 các nhà khảo cổ đã đƣa

ra niên đại cách ngày nay khoảng trên 14000 năm, điều này chứng tỏ hàng ngàn

năm trƣớc mảnh đất này đó có cƣ dân sinh sống. Hang Soi Nhụ căn nhà cổ nhất

của các cƣ dân văn hóa Hạ Long đã và sẽ là một trong những điểm tham quan

nghiên cứu quan trọng của du lịch Vân Đồn cũng nhƣ của du lịch Quảng Ninh.

Hang Hà Giắt: Hà Giắt là một thôn thuộc xã Đoàn Kết thuộc huyện Vân

Đồn. Địa danh Hà Giắt có từ lâu đời do những ngƣời Việt gốc Hoa đặt tên với

ý nghĩa là nhất, là một. Năm 1937 các nhà khảo cổ học ngƣời Pháp đã tới đây

điều tra khai quật họ đã phiên âm Hà Giắt thành Hayart để gọi những bộ sƣu

tập hiện vật ở đây. Sƣu tập Hayart hiện nay còn đƣợc lƣu giữ tại bảo tàng lịch

sử Việt Nam. Hà Giắt là một trong những địa điểm khảo cổ học quan trọng của

45

văn hóa Hạ Long. Bộ sƣu tập hiện vật ở hang Hà Giắt hiện nay còn khoảng 70

hiện vật. Toàn bộ là đồ đẽo và công cụ có dấu vết sử dụng không qua chế tác.

Hầu hết đồ đá trong bộ sƣu tập này đều làm bằng cuội grannít, đá có hạt thô lẫn

trong những tinh thể trắng, vỏ cuội xù xì đã bị nƣớc phong hóa. Đây là đặc

điểm chung của vùng biển Hạ Long. Về niên đại, di chỉ Hà Giắt có niên đại

cách ngày nay khoảng 14000 năm vào khoảng trung kỳ đá mới, qua đây có thể

thấy rằng ngƣời Hà Giắt và ngƣời Soi Nhụ cũng chung sống ở một thời kỳ mà

các nhà khảo cổ học gọi chung thời kì này là văn hóa Soi Nhụ.

Di chỉ Ngọc Vừng: Cách đây 5000 năm ngƣời nguyên thủy thuộc thời

đại đá mới đã đến đây cƣ trú. Ngày nay dân cƣ địa phƣơng trong lúc làm vƣờn

thƣờng bắt gặp rìu đá, bôn đá vừa có vai vừa có nấc, chì lƣới, bàn mài có rãnh,

hòn kê là những di sản của ngƣời nguyên thủy đã sinh sống ở Ngọc Vừng. Vào

những năm 30 của thế kỷ XX, từ một ngƣời chủ lò thủy tinh trong vùng đã phát

hiện ra các di chỉ đá mới Ngọc Vừng, các học giả khảo cổ Pháp đã tìm đến hòn

đảo này. Căn cứ vào hình dáng độc đáo của những hiện vật thu lƣợn đƣợc trên

đảo, họ đặt tên di chỉ đồ đá ở đây là “Nền văn hóa Danh-Dô- La”.

Các di tích lịch sử, văn hóa

Đình Quan Lạn: Là một công trình kiến trúc cổ có quy mô lớn và bậc

nhất nhì hiện có ở Quảng Ninh. Đình đƣợc xây vào thời Lê khoảng thế kỷ 17

tại bến Cái Làng - một trung tâm thƣơng cảng Vân Đồn xƣa, gồm 9 gian và

đƣợc dựng công phu bằng gỗ mần lái - loại gỗ chỉ có trên đảo đá Ba Mùn, Vân

Đồn. Hoa văn của đình đƣợc chạm khắc tỉ mỉ, công phu, với những đƣờng nét

tinh tế và chau chuốt, trải qua mấy trăm năm, những cây cột gỗ mần lái vẫn còn

nguyên vẹn, không hề bị mối mọt. Điều khiến du khách ngạc nhiên nhất có lẽ là

sự hiện diện của những chạm khắc rồng tinh xảo. Hình ảnh rồng có mặt ở khắp

mọi nơi trong đình từ mái, góc đao, ba mặt của đầu bẩy, đầu dƣ, trên cửa võng,

xà, kèo… với đủ dạng thức: rồng luồn trong chớp lửa, rồng cuộn trong mây,

rồng trên cuốn thƣ, rồng chầu mặt nguyệt… và thậm chí có những đầu bẩy có

đến 9 con rồng hòa quyện. Đến thời Nguyễn nhân dân chuyển sang đất Quan

46

Lạn để sinh sống thì đình cũng đƣợc chuyển theo và rút bớt đi còn 7 gian, lúc

đầu đình đƣợc xây theo kiểu chữ “công”, gồm 5 gian 2 chái tiền đƣờng, 3 gian

ống muống và một gian 2 chái hậu cung. Sau đó đƣợc rời về xóm Thái Hòa rồi

xóm Nam, cuối cùng rời về xóm Đoài và đƣợc thu gọn nhƣ ngày nay. Đình

Quan Lạn xây dựng để thờ thành Hoàng Làng và các vị Tiên Công có công

khai lập ấp, lập lên xã Quan Lạn ngày nay và Trần Khánh Dƣ ngƣời có công

lớn trong trận chỉ huy đánh tan đoàn quân lƣơng của Trƣơng Văn Hổ ở Vân

Đồn, Cửa Lục góp phần quan trọng vào trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288

nên đã đƣợc nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng của làng. Hiện nay còn lƣu giữ

đƣợc ở đình là tƣợng Trần Khánh Dƣ, 18 sắc phong của triều Nguyễn phong

cho Trần Khánh Dƣ, long ngai, khám thờ, cửa võng, hoành phi, câu đối.

Chùa Quan Lạn nằm ngay bên trái đình Quan Lạn có tên chữ là Vân

Quan tự. Tên Vân Quan đã thể hiện mối quan hệ giữa thƣơng cảng Vân Đồn và

xã Quan Lạn ngày nay. Hiện nay chùa còn lƣu giữ đầy đủ tƣợng phật có giá trị

điêu khắc của thời Nguyễn, hoành phi, câu đối, sắc phong của vua Thành Thái

(1889) phong cho mẫu Liễu Hạnh và nhiều đồ tự khác bằng đồng và gỗ có giá

trị. Chùa Lấm nằm trên sƣờn phía Tây đối diện với năm bến thuyền cổ dƣới

chân đảo Cống Đông. Nghè Trần Khánh Dư nằm ở xóm Thái Hòa xã Quan Lạn

thờ phó tƣớng Trần Khánh Dƣ. Nghè đƣợc xây theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian

tiền đƣờng và 2 gian hậu cung. Nghè Trần Khánh Dƣ và đình Quan Lạn có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Nghè là nơi thờ chính Trần Khánh Dƣ, đình là nơi

làm lễ tế thành hoàng Trần Khánh Dƣ trong mỗi dịp lễ hội.

Các di tích Bến thuyền cổ

Bến Cống Đông trên đảo Cổng Đông - xã Thắng Lợi. Phía đông và phía

tây của đảo là một khoảng dài hơn 10km là một bến thuyền cổ dài nhất trong

các bến bãi. Bến này có bảy vụng to nhỏ ăn sâu vào đảo trở thành bến đỗ an

toàn và tiện lợi. Hiện vật ở đây có số lƣợng nhiều và phong phú trong tất cả các

bến. Trong số đó gốm men nâu thời Trần, gốm men ngọc Trung Quốc thời

Nguyên và gốm thời Mạc.

47

Bến Cái Làng ở xã Quan Lạn. Suốt bờ vịnh phía Đông, một khoảng dài

tới 200m có rất nhiều mảnh đồ gốm các loại thuộc nhiều thời khác nhau. Ngƣời

dân ở đây còn tìm thấy nhiều chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và một số tiền

đồng thời Đƣờng. Trên núi còn có nhiều dấu tích nền nhà và một nền đình cổ,

một giếng cổ.

Bến Cống Cái ở bờ tây đảo Vân Hải, nay thuộc xã Quan Lạn. Cửa vùng

mở ra một con sông do đảo Vân Hải và núi Man chạy song song ngăn một dải

nƣớc tạo thành. Bến này cách bến Cái Làng khoảng 2km, nƣớc sâu, kín gió

thuận lợi cho thuyền bè neo đậu. Suốt bờ Bắc một dải dài hơn 100m là nơi tích

tụ rất nhiều mảnh gốm các loại giống nhƣ ở Cái Làng.

Bến Con Quy thuộc xã Minh Châu. Tại địa điểm này ngƣời ta cũng tìm

thấy rất nhiều mảnh gốm nhƣ vò, hũ, các chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và tiền

đồng Trung Quốc từ thời Đƣờng - Tống và tiền Việt các thời Lý, Trần, Lê mà

nhiều hơn cả là tiền Tây Sơn.

Bến Cái Cổng gồm hai vụng đƣợc gọi là Cổng Ông (phía Bắc) và Cổng

Bà (phía Nam) thuộc đảo Trà Bản. Tại khu vực này cũng tìm thấy nhiều mảnh

đồ gốm các thời Lý, Trần, Lê. Đặc biệt ngƣời ta tìm thấy một cây đèn nến bằng

gốm, có men màu trắng ngà, rạn, phong cách Hán.

Bến Cống Yên, Cống Hẹp ở phía tây của đảo Ngọc Vừng. Tại đây cũng

tìm thấy nhiều mảnh gốm trên dải bờ biển kéo dài hàng trăm một.

Các điểm du lịch

Đảo Quan Lạn trải dài theo hƣớng đông tây, từ chân dãy núi Vân Đồn tới núi Gót có diện tích 11km2, chạy dọc suốt theo hai bên đảo là những bãi cát

dài tới hàng chục km, với nƣớc biển xanh trong nhƣ ngọc. Tất cả các bãi biển ở

Quan Lạn đều đẹp và vẫn còn tƣơng đối nguyên sơ. Đây chính là điểm thu hút

chính của đảo. Quan Lạn có 3 bãi tắm là bãi Quan Lạn, đi tiếp khoảng 4 km là

bãi Sơn Hào, tiếp 8 km nữa là bãi Minh Châu. Cả ba bãi biển đều đẹp nhƣ nhau

với bờ biển dài và những triền cát trắng mịn. Đình Quan Lạn đƣợc xây dựng từ

thời hậu Lê, đây không chỉ là một ngôi đình đẹp mà còn rất thiêng liêng trong

tâm thức ngƣời dân trên đảo.

48

Hình 2.3. Bản đồ các điểm du lịch tỉnh Quảng Ninh

Nguồn: Trung tâm lưu trữ - Sở Văn hóa thể thao và du lịch Quảng Ninh

Bãi Dài nằm bên bờ vịnh Bái Tử Long xinh đẹp, dài gần 2km, với bờ

biển thoai thoải cát trắng và làn nƣớc trong vắt có thể nhìn thấu tận đáy. Còn

nhớ cách đây hơn chục năm về trƣớc, khu vực Bãi Dài còn là một vùng đất

hoang sơ, cỏ cây mọc um tùm. Vậy mà chỉ trong vòng hơn 10 năm cải tạo, xây

dựng trên cơ sở tôn trọng vẻ đẹp tự nhiên sẵn có, những nhà đầu tƣ đã làm cho

vùng đất hoang vu này trở thành một khu du lịch sinh thái hấp dẫn. Đến nay dù

đã đƣợc đƣa vào khai thác, nhƣng Bãi Dài vẫn không bị mất đi vẻ yên tĩnh vốn

49

có của nó. Hiện Bãi Dài chia làm hai khu du lịch theo hai phong cách khác

nhau: Khu Hợp Lực Mai Quyền kết hợp giữa lối kiến trúc cổ xƣa và hiện đại.

Các khu dịch vụ khách sạn chia thành nhiều khu khác nhau. Khu vực khách sạn

trên đồi cao đƣợc xây dựng hoành tráng. Ở đây du khách có thể phóng tầm nhìn

ra xa, bao quát toàn bộ khung cảnh phía trƣớc là biển. Còn khu du lịch sinh thái

Việt Mỹ dựa vào chân núi với những dãy nhà sàn liên hoàn và những bãi cỏ

rộng, rặng phi lao xanh rì. Ở đây có một cảng nhỏ để đón khách du lịch ra

thƣởng thức đặc sản tƣơi sống trên nhà bè.

Thương cảng Vân Đồn là cảng ngoại thƣơng đầu tiên của Việt Nam

đƣợc thành lập vào năm 1149 và đã tồn tại, phát triển qua các thời kỳ nhà Trần,

Lê. Dấu tích về quy mô to lớn của thƣơng cảng Vân Đồn ngày nay còn lại rải

rác ở Cống Đông , Cống Hẹp , Cống Yên , Quan Lạn , Minh Châu ... Sau khi

Thƣơng cảng Vân Đồn đƣợc hình thành từ thời Lý đến thời Trần đã phát triển

tới hƣng thịnh. Di tích thƣơng cảng cổ Vân Đồn đã đƣợc xếp hạng di tích quốc

gia . Nhiều hiện vật đã đƣợc tìm thấy tại nhiều điểm trên các xã đảo thuộc

huyện Vân Đồn, trong đó có một trung tâm chính tại Cái Làng thuộc xã Quan

Lạn. Các bến thuyền cổ trung chuyển hàng hoá gồm hƣơng liệu, gốm sứ, lâm

thổ sản hình thành dọc ven sông Bạch Đằng, Cửa Lục cho tới các đảo Cống

Đông, Quan Lạn. Tại đảo Cống Đông (nay là xã Thắng Lợi), các nhà khảo cổ

đã tìm thấy dấu tích của nhiều công trình kiến trúc Phật giáo quy mô thời Trần

nhƣ chùa, tháp, nhiều di vật bia đá, lan can, chân kê cột... Đây là những minh

chứng rõ nhất cho sự phát triển phồn thịnh về thƣơng mại dƣới triều nhà Trần.

Di tích Thƣơng cảng Vân Đồn vừa chứa đựng dấu ấn của nhà Trần về chiến

công chống ngoại xâm lại vừa có dấu ấn về giao thƣơng, buôn bán [31, tr.18].

Vườn quốc gia Bái Tử Long: Với tổng diện tích 15.783 ha, trong đó

diện tích rừng và đất rừng là 6.125 ha với hơn 40 hòn đảo lớn nhỏ và 9.650ha

diện tích mặt nƣớc biển, vụng áng, bãi triều ngập nƣớc. Trong đó khu sinh thái

đảo Ba Mùn, xã Minh Châu là vùng lõi của vƣờn quốc gia. Các loài động thực

50

vật sinh sống trong vƣờn rừng và vùng biển tại khu vực Vƣờn Quốc gia Bái Tử

Long rất phong phú, quý hiếm, có giá trị cao về bảo tồn nguồn gen. Theo khảo

sát Vƣờn Quốc gia có trên 178 loài thực vật thuỷ sinh 119 loài cá, 132 loài động

vật không xƣơng sống, 106 loài san hô trú ngụ, sinh trƣởng tại vùng biển, bãi

triều, vụng áng và hàng chục loài chim săn mồi đặc hữu nhƣ: diều hâu Miến

Điện, chim ƣng Nhật Bản, diều hâu đen, chích chòe lửa, bìm bịp lớn, đớp ruồi

Hải Nam... Cấu tạo địa chất của Vƣờn quốc gia Bái Tử Long bao gồm những

đảo đất nằm xen kẽ với đảo đá nhƣ: Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu

Nam, Sậu Động, Đông Ma, Hòn Chính, Lò Hố, Máng Hà Nam, Máng Hà Bắc,

Di To, Chầy Cháy, Đá Ẩy, Soi Nhụ, có những dãy núi đá vôi vây quanh những

thung lũng rộng lớn tạo thành những thung áng tạo ra môi trƣờng sống phong

phú của nhiều loại động thực vật khác nhau. Nổi bật là Thung áng Hang Dơi

nằm ở khu vực Cái Lim, thuộc đảo Trà Ngọ Lớn, đây là khu rừng ngập mặn rộng

khoảng 10ha, địa hình của thung áng Hang Dơi là không trực tiếp tiếp xúc với

nƣớc biển. Nƣớc biển chảy qua những hang ngầm hay những khe hốc đá, cộng

với nƣớc ngọt chảy trên sƣờn núi xuống tạo ra sự đa dạng của các loài động thực

vật. Ở đây có nhiều loài sinh sống nhƣ ếch, nhái, rắn, xen kẽ với những loài nƣớc

mặn nhƣ tôm, ngán, sam... Nằm ở phía cuối rừng ngập mặn này là Hang Dơi,

đây là nơi trú ngụ của hàng ngàn con dơi. Hiện tại Hang Dơi còn là nơi cƣ trú

cho nhiều loài động vật nhƣ dái cá, cầy, cáo. Đặc biệt là loài khỉ xuất hiện khá

nhiều, bao gồm giống khỉ ức trắng lông vàng sống tồn tại tự nhiên ở đây.

Đây còn là khu bảo tồn về cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn văn hóa lịch sử với

các di chỉ khảo cổ nhƣ hang Soi Nhụ nơi phát hiện sự tồn tại của ngƣời Việt cổ cách

đây khoảng 14 nghìn năm với dấu tích một thƣơng cảng Vân Đồn sầm uất trƣớc

đây. Nằm trong quần thể Vƣờn quốc gia Bái Tử Long có xã Minh Châu, nơi sở hữu

bãi biển tự nhiên cát trắng mịn dài khoảng 2 km đƣợc đánh giá là một trong những

bãi biển đẹp nhất Vịnh Bắc Bộ. Phía trên bãi biển là khu rừng tràm nguyên sinh trải

dài trên diện tích 14 ha rất phù hợp với phát triển du lịch sinh thái.

51

Mặc dù tổng diện tích không lớn nhƣng vƣờn quốc gia Bái Tử Long có

đủ 3 hệ sinh thái cơ bản: rừng trên cạn, đất ngập nƣớc và biển, với diện tích đủ

lớn cho các khu hệ động, thực vật rừng- biển sinh sôi, phát triển. Tới đây, du

khách sẽ đƣợc chiêm ngƣỡng những dãy đảo chạy dài hai bên lạch biển, những

cánh rừng nhiệt đới nhấp nhô tầng tán phủ kín trên sƣờn núi, và các hang động

khổng lồ trong lòng núi đá vôi và những động thực vật quý hiếm đƣợc ghi

trong sách đỏ Việt Nam 2007.

Chùa Cái Bầu: Chùa ở gần khu du lịch Bãi Dài nổi tiếng với vẻ đẹp

hoang sơ bên bờ Vịnh Bái Tử Long. Với vị trí lƣng tựa núi, mặt hƣớng ra biển,

đây có lẽ là một trong những ngôi chùa có vị trí đẹp nhất trong hệ thống chùa

của Việt Nam. Đây còn là Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm, một trong hai thiền

viện Phật giáo của Quảng Ninh. Chùa Cái Bầu mang dấu ấn, dấu tích giống các

ngôi chùa cổ về cả kiến trúc, trang trí, phù điêu, hoa văn trang trí… đang dần

trở thành một điểm du lịch tâm linh đối với du khách thập phƣơng. Chùa Cái

Bầu - Thiền viện Trúc lâm Giác tâm đƣợc đánh giá là một công trình văn hoá

tâm linh có kiến trúc và cảnh quan đẹp. Chùa đƣợc xây dựng trên núi cao

khang trang, thoáng mát. Phong cảnh nơi đây thật sơn thuỷ hữu tình, tất cả

những công trình kiến trúc xây dựng xung quanh chùa đều đƣợc bố trí khá tinh

tế, hài hoà với cảnh trí xung quanh từ những con đƣờng, bậc thang, những ngôi

nhà lá, vƣờn cây… tất cả đều rất hài hoà.

Vân Đồn không chỉ nổi tiếng bởi bãi biển trong, sạch, đẹp, mà du khách

còn bị thu hút bởi những cảnh quan thiên nhiên thơ mộng cũng nhƣ những ngôi

chùa, ngôi đền mang đậm tính tâm linh của con ngƣời nơi đây. Các hệ sinh thái

rừng nhiệt đới trên các đảo, hệ sinh thái rừng ngập mặn và các rạn san hô thuộc

Vƣờn quốc gia Bái Tử Long có sức hấp dẫn lớn. Với những thế mạnh về tiềm

năng du lịch, có thể nói trong những năm gần đây hoạt động du lịch trên huyện

đảo Vân Đồn đã có nhiều khởi sắc, ngày càng thu hút lƣợng khách trong và

ngoài nƣớc đến tham quan. Vân Đồn đã và đang trên đƣờng để thực sự trở

thành một trong bốn trung tâm du lịch trọng điểm của Quảng Ninh [36, tr.3].

52

2.2.2.2. Thực trạng về phát triển du lịch biển, đảo Vân Đồn

Từ trƣớc đến nay, nói đến du lịch ở Quảng Ninh, mọi ngƣời đều nghĩ đến

Vịnh Hạ Long - di sản thiên nhiên thế giới, ít ai biết rằng Vân Đồn nằm trong

Vịnh Bái Tử Long thuộc phía Đông Bắc Tổ quốc có vùng biển bao la với hơn

600 hòn đảo lớn nhỏ, có trên 90% là rừng nguyên sinh với mức độ đa dạng sinh

học cao nhất. Cùng với Hạ Long, Bái Tử Long là nơi giao duyên giữa đất trời

và biển cả, lục địa và đại dƣơng, là tác phẩm thành công nhất mà đất trời tạo

nên trong những phút hứng khởi đầy sang tạo của mình. Mọi ngƣời mới biết

đến hệ thống hang động Soi Nhụ, Hòn Chén… trong số rất nhiều hang động

vẫn còn mang những nét tinh khôi của một thời hồng hoang.

Hạ tầng phục vụ du lịch

Trƣớc kia, khi nhắc đến huyện đảo Vân Đồn, ngƣời ta thƣờng hình dung

ra một vùng đảo hoang vắng, những làng chài xơ xác, chỉ có nắng, gió và cát

trắng, không phải là một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách, thì nay, đến với Vân

Đồn, du khách sẽ không khỏi bất ngờ, ngay cả với những ngƣời đã từng đến đây.

Không còn cảnh phải đợi phà cả buổi nhƣ những năm trƣớc. Giờ đây, con phà

Tài Xá, đƣờng giao thông nối Vân Đồn với thị xã Cẩm Phả, đã đƣợc thay bằng

cây cầu hoành tráng. Những con đƣờng liên xã đƣợc thay bằng đƣờng bê tông

rộng rãi, bến tàu tại các đảo cũng đƣợc đầu tƣ, xây dựng mới, mở rộng, các tuyến

xe khách liên tỉnh, liên huyện cũng hoạt động liên tục, giúp đời sống nhân dân

địa phƣơng đƣợc nâng cao hơn và đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của khách du

lịch [25, tr.5]. Những năm qua, thực hiện chủ trƣơng của trung ƣơng, của tỉnh,

huyện đã xây dựng chƣơng trình phát triển kinh tế biển đảo nhằm mục đích khai

thác mọi tiềm năng, lợi thế. Nhiều doanh nghiệp đƣợc cấp phép đầu tƣ vào lĩnh

vực du lịch dịch vụ với tổng số vốn đầu tƣ hàng trăm tỉ đồng.

Về cơ sở hạ tầng, năm 2002 Vân Đồn đã đầu tƣ 70,6 tỉ đồng cho hơn một

trăm dự án xây dựng cơ bản. Các tuyến đƣờng liên xã, liên thôn của Vân Đồn

đã đƣợc xây dựng. Các tuyến đƣờng giao thông huyết mạch nhƣ Quan Lạn -

53

Minh Châu, Bản Sen, đƣờng 334 đã cơ bản đƣợc thông thoáng, đặc biệt là xây

dựng cầu Vân Đồn nối liền hải đảo và đất liền, cầu Vân Tiên nối liền với Tiên

Yên. Các con đƣờng xuyên đảo tại các xã đảo đều đã đƣợc bê tông hoá; bến

cập tàu tại các xã đảo cũng đƣợc đầu tƣ xây dựng tạo điều kiện đi lại thuận lợi

cho ngƣời dân cũng nhƣ phát triển du lịch. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp

đã đầu tƣ, mở các chuyến tàu cao tốc phục vụ ngƣời dân địa phƣơng và du

khách đi đến tuyến các xã đảo nhƣ Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng đáp ứng

đƣợc nhu cầu của du khách. Chƣơng trình đổi đất lấy hạ tầng đƣợc triển khai

thuận lợi và hiệu quả.

Có thể nói, mục tiêu trở thành khu du lịch cao cấp mang đẳng cấp quốc

tế cũng đang dần đƣợc hiện hữu bởi sự quan tâm của tỉnh cũng nhƣ các bộ,

ngành trung ƣơng thời gian qua. Đặc biệt, sau Hội nghị xúc tiến đầu tƣ Quảng

Ninh năm 2012, Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu tỉnh ƣu tiên phát triển

kinh tế biển, du lịch sinh thái, biển đảo chất lƣợng cao và khu vui chơi giải trí

phức hợp quy mô lớn tại Vân Đồn. Đây đƣợc xem là dự án quan trọng trong

những năm tới, với quy mô dự kiến lên tới hơn 4 tỷ USD, diện tích 2.000 ha tại

xã Vạn Yên. Điểm nhấn của khu du lịch này là khu casino đẳng cấp quốc tế và

sân bay đạt chuẩn quốc tế, có công suất 2 triệu hành khách, 10.000 tấn hàng

hoá/năm, khả năng tiếp nhận các loại máy bay lớn nhƣ Airbus A320, Boeing

777… Song song với đó, dự án đƣờng từ khu tái định cƣ xã Vạn Yên đến khu

công viên phức hợp phía Đông đảo Cái Bầu cũng đƣợc các nhà thầu huy động

tối đa nhân lực, phƣơng tiện máy móc để tổ chức thi công đồng loạt đảm bảo

tiến độ đề ra [25, tr.2]. Những năm qua, du lịch Vân Đồn đã từng bƣớc khẳng

định vai trò, vị trí trong nền kinh tế của huyện, góp phần nâng cao đời sống

nhân dân trên địa bàn huyện. Hệ thống cơ sở hạ tầng nhƣ đƣờng bộ, bến cảng,

điện lƣới đã đƣợc nâng cấp, mở rộng.

54

Hiện nay, Vân Đồn đang khai thác một số loại hình du lịch nhƣ: Du lịch

văn hoá, tâm linh, du lịch nghỉ dƣỡng, mua sắm... tại các khu Bãi Dài, cảng Cái

Rồng, bến cảng Vạn Hoa, đền Cặp Tiên, chùa Cái Bầu; tham quan cảnh quan,

hang động, nghiên cứu các giá trị hệ sinh thái biển, rừng kết hợp vui chơi giải

trí, thể thao, tắm biển, lễ hội, di tích lịch sử văn hoá tại các xã Ngọc Vừng,

Quan Lạn, Minh Châu, Bản Sen, Thắng Lợi, Vƣờn Quốc gia Bái Tử Long.

Để có đƣợc một ngành du lịch phát triển, thời gian qua Vân Đồn đã xác

định, đề ra và thực hiện kế hoạch với những bƣớc đi phù hợp đó là: Nắm vững

khai thác có hiệu quả những điều kiện tự nhiên, phát triển hệ thống các điểm vui

chơi, nghỉ mát, bãi tắm một cách hoàn thiện, đầu tƣ mua sắm những phƣơng tiện

đón trả khách hiện đại, thành lập các doanh nghiệp du lịch đủ mạnh để có thể

đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, nâng cấp xây dựng các cơ sở lƣu trú, dịch vụ

du lịch và vui chơi giải trí, tạo ra những sản phẩm du lịch đa dạng, đa chủng loại

[23, tr.3]. Đến nay, nhiều công trình tại các địa điểm, các tuyến du lịch của Vân

Đồn đã và đang đƣợc gấp rút hoàn thiện nhƣ khu du lịch liên hiệp ăn uống giải

trí ở khu Bãi Dài của công ty Việt - Mỹ, công ty Hợp lực Mai Quyền gồm nhiều

biệt thự hồ bơi, khách sạn đã hoàn thành và đƣa vào sử dụng.

Sau khi Thủ tƣớng Chính phủ có quyết định thành lập Khu kinh tế Vân

Đồn, phát triển du lịch sinh thái biển - đảo chất lƣợng cao và vui chơi giải trí

chất lƣợng cao với nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, phong phú, hấp dẫn đã ra

đời; hàng loạt các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc đã tìm đến mảnh đất này để

tìm kiếm cơ hội đầu tƣ vào lĩnh vực phát triển du lịch. Dự án du lịch đầu tiên

sau khi Vân Đồn trở thành khu kinh tế là Dự án xây dựng quần thể khách sạn 5

sao, khu nghỉ dƣỡng cao cấp tại khu vực Ao Tiên (xã Hạ Long) và sân gôn của

Công ty TNHH Liên doanh 167 - Việt Nam. Dự án này đƣợc xây dựng trên

tổng diện tích 301 ha đất với tổng số vốn đầu tƣ 112 triệu USD.

55

Theo thống kê của phòng kinh tế huyện Vân Đồn các cơ sở lƣu trú trên

địa bàn huyện đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2004 toàn huyện có 28 cơ sở với

tổng số phòng là 330 trong đó 12 cơ sở đƣợc xếp hạng. Năm 2005 toàn huyện

có 35 cơ sở với tổng số phòng là 381 trong đó 21 cơ sở đƣợc xếp hạng. Năm

2006 toàn huyện có 40 đơn vị kinh doanh cơ sở lƣu trú với 424 phòng, trong đó

23/40 cơ sở đƣợc xếp hạng đạt 62,5% số phòng đạt tiêu chuẩn là 278/424

chiếm 65%. Năm 2007 trên địa bàn huyện đã có 42 cơ sở lƣu trú với tổng số

phòng là 551, trong đó có 25 cơ sở đã đƣợc phân loại, xếp hạng theo quyết định

của sở du lịch đạt 50%. Số phòng đạt tiêu chuẩn tối thiểu là 329 đạt 59,7%.

Năm 2008 trên địa bàn huyện có 46 cơ sở lƣu trú với tổng số phòng là 602

phòng, trong đó có 26 cơ sở đã đƣợc phân hạng.

Bảng 2.5. Thực trạng cơ sở lƣu trú tại huyện Vân Đồn 2004 -2008

Năm Tổng số cơ sở lƣu trú Tổng số cơ sở lƣu trú đƣợc xếp hạng Tổng số buồng phòng

2004 28 12 Tổng số buồng phòng đạt tiêu chuẩn 211 330

2005 35 21 254 381

2006 40 23 278 424

2007 42 25 329 551

2008 46 26 367 602

(Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn)

Trong số các cơ sở lƣu trú thì có tới gần 50% là chƣa đƣợc xếp hạng, các

cơ sở này chủ yếu là các nhà nghỉ bình dân. Công suất sử dụng buồng còn thấp,

bình quân đạt 48%. Nguyên nhân khách quan là do đặc thù của ngành du lịch

mang tính thời vụ nên khi vào mùa cao điểm số lƣợng khách du lịch tăng lên, vì

vậy số lƣợng chất lƣợng phòng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu gia tăng đột biến

này (một số cơ sở lƣu trú còn chƣa đƣợc trang bị hệ thống điều hòa không khí).

Ở các đảo ngoài khơi Vân Đồn nhƣ Quan Lạn, Ngọc Vừng một số nhà dân vẫn

cho khách ở theo dạng “home stay” tức là ngủ tại nhà và hầu hết các cơ sở này

56

do không đăng ký kinh doanh nên rất khó khăn trong việc thống kê. Do chƣa có

quy hoạch chi tiết, nên các cơ sở lƣu trú đƣợc xây dựng một cách tự phát,

không đồng bộ. Các cơ sở này chủ yếu có quy mô nhỏ, vừa là nhà ở vừa tận

dụng kinh doanh, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu các điều kiện của một cơ sở

kinh doanh du lịch nhƣ: vấn đề về vệ sinh, an toàn...Các cơ sở lƣu trú hầu hết

chỉ tập trung ở khu vực thị trấn Cái Rồng, Bãi Dài và trên đảo Quan Lạn. Theo

thống kê riêng ở khu vực thị trấn Cái Rồng và khu vực Bãi Dài trên đảo Cái

Bầu tập chung tới 29 cơ sở. Trên đảo Quan Lạn là 10 cơ sở. Số còn lại tập

chung ở các khu vực khác. Tại Bãi Dài năm 2000 tập đoàn ATI (Ameircan

Technologies In - công ty công nghệ Việt Mỹ) đã tiến hành quy hoạch xây

dựng ở đây một khu du lịch sinh thái kết hợp với nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra

cũng trên đảo Cái Bầu nhiều dự án đầu tƣ du lịch lớn khác cũng đang đƣợc

triển khai nhƣ các dự án của xí nghiệp hợp lực Mai Quyền, công ty du lịch sinh

thái Vân Hải, dự án xây dựng quần thể khách sạn 5 sao...

Trên đảo Ngọc Vừng trƣớc đây mới chỉ có duy nhất hai cơ sở lƣu trú cho

khách du lịch, trong đó đã đƣa vào khai thác với số lƣợng là 5 phòng ngủ và

một nhà sàn có sức chứa khoảng 40 du khách ngủ tập trung, chất lƣợng tiêu

chuẩn thì còn quá thấp kém và tạm bợ. Đến nay, một số cơ sở khác là dự án xây

dựng khu nghỉ dƣỡng cao cấp của công ty xây dựng Sumeco Sông Đà Hạ Long

thì còn đang trong quá trình xây dựng, dự kiến sẽ đƣa vào khai thác đón khách

vào cuối năm 2011 với hơn 20 buồng ngủ cùng với hệ thống nhà sàn và khu

nhà hàng liên hoàn. Cũng trên đảo Ngọc cùng với hệ thống nhà sàn và khu nhà

hàng liên hoàn. Cũng trên đảo Ngọc Vừng còn nhiều dự án du lịch sinh thái với

tổng diện tích hàng trăm ha nhƣ của các đơn vị: Công ty xây dựng Sông Đà,

Công ty xuất nhập khẩu Hà Nội...đang hứa hẹn một trung tâm du lịch lớn ra

đời. Tuy nhiên do chƣa có một bản quy hoạch tổng thể chính thức về không

gian phát triển du lịch Vân Đồn nên các dự án hầu hết vẫn chƣa đƣợc cấp phép

xây dựng vì thế trong giai đoạn hiện tại Ngọc Vừng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc

yêu cầu về lƣu trú cho khách du lịch.

57

Trên địa bàn toàn huyện năm 2012 có 98 cơ sở lƣu trú với 1.230 buồng,

trong đó tại tuyến đảo có 575 buồng (chiếm 48%); công suất sử dụng phòng

trung bình 40%, 30 nhà hàng trên đất liền và 15 nhà hàng trên biển; 18 tàu cao

tốc từ 26 - 50 chỗ ngồi, bƣớc đầu đáp ứng đƣợc nhu cầu đi lại của du khách.

Năm 2012, tổng doanh thu từ các dịch vụ cơ sở lƣu trú, dịch vụ ăn uống và

phƣơng tiện vận chuyển đạt 350 tỷ đồng (tăng gấp 1,3 lần so với năm 2011).

Về công tác vận chuyển

Hệ thống các đơn vị vận chuyển khách chủ yếu mới là để phục vụ dân

sinh hầu hết chƣa đủ tiêu chuẩn để phục vụ khách du lịch. Năm 2007 tuyến xe

buýt số 01 nối liền trung tâm du lịch Bãi Cháy với khu du lịch Bãi Dài đi vào

hoạt động tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc đƣa đón, thu hút du khách

giữa trung tâm du lịch lớn nhất Quảng Ninh về với Vân Đồn. Ngoài ra các

phƣơng tiện vận chuyển khác nhƣ các tuyến xe liên tỉnh, các hãng taxi, tàu ra

các tuyến đảo cũng đã thực hiện tốt hơn. Việc đảm bảo an toàn, chất lƣợng dịch

vụ cho du khách, số lƣợng, số chuyến đƣợc đƣa vào sử dụng cũng không ngừng

đƣợc tăng lên. Toàn huyện hiện có 5 hãng taxi với trên 40 xe, mỗi ngày có 50

chuyến xe tốc hành vận chuyển khách từ Vân Đồn đi các nơi, 5 chuyến xe chất

lƣợng cao liên tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đáp ứng nhu cầu đi lại của

nhân dân và khách du lịch.

Ngoài các phƣơng tiện vận chuyển khách trên bộ nhƣ ôtô, taxi, Vân Đồn

còn có một đội tàu phuc vụ du lịch chuyên chở khách thăm quan khu vực vịnh

Bãi Tử Long và thăm quan các đảo. Trƣớc đây việc vận chuyển khách ra các

đảo và về dự lễ hội Quan Lạn chủ yếu là các tàu địa phƣơng hoặc tàu của ngƣ

dân. Đến nay trên địa bàn huyện Vân Đồn đã có các doanh nghiệp khai thác

hoạt động vận chuyển khách du lịch bằng đƣờng thủy, đƣờng bộ nhƣ công ty

Tân Phong, Hoàng Quân, Quang Vinh, Đạt Hùng, Quang Minh với tổng số tàu

là 32 chiếc [33, tr.2].

58

Tuy nhiên về chất lƣợng vận chuyển thì vẫn còn nhiều bất cập, các vấn

đề về an toàn, sức chứa hầu nhƣ chƣa đƣợc chính quyền địa phƣơng kiểm tra,

giám sát. Do chƣa có một quy hoạch cụ thể về bến bãi đón trả khách nên ở Vân

Đồn các tàu du lịch thƣờng ra khơi tại các địa điểm là bến đỗ của các doanh

nghiệp và do vậy sự quản lý của chính quyền là hết sức khó khăn.

Một vấn đề nữa về phƣơng tiện vận chuyển khách ở Vân Đồn đó là hệ

thống các phƣơng tiện vận chuyển khách trên đảo. Do đặc thù về vị trí, hầu hết

các khu vực có điều kiện tự nhiên phong phú hấp dẫn khách du lịch lại nằm ở

xa đất liền trên các đảo lớn nên việc di chuyển tại các điểm thăm quan trên đảo

là hết sức khó khăn. Hiện nay, du khách đến với các đảo nhƣ đảo Quan Lạn,

Ngọc Vừng đều phải di chuyển trên các phƣơng tiện vận chuyển mà ngƣời dân

địa phƣơng vẫn quen gọi là xe lam hay xe túc túc (một loại xe mô tô 3 bánh

đƣợc đóng thùng đằng sau, có thể trở đƣợc 6-8 ngƣời). Về vấn đề an toàn của

các phƣơng tiện này thì hầu nhƣ chƣa đƣợc chính quyền địa phƣơng quan tâm.

Chẳng hạn số ngƣời đƣợc trở thực tế so với số lƣợng theo đăng ký, thông

thƣờng các xe này đều trở quá số ngƣời theo quy định, thậm trí vào mùa cao

điểm, đông khách thăm quan các xe này còn trở gấp đôi so với đăng ký. Điều

này dễ gây ra sự mất an toàn cho du khách mà một khi có sự cố xảy ra thì vấn

đề y tế rất khó khăn. Ngoài ra các phƣơng tiện này chủ yếu sử dụng nguyên liệu

là xăng nên ít nhiều là nguyên nhân gây ra tiếng ồn và khói bụi. Trên một

không gian hẹp của đảo, việc xuất hiện cùng lúc nhiều phƣơng tiện sẽ làm phá

vỡ không gian vốn yên tĩnh, thơ mộng trên đảo.

Sản phẩm du lịch và thị trường khách

Các sản phẩm du lịch chủ yếu đang đƣợc khai thác hiện nay là du lịch

sinh thái, du lịch văn hóa và du lịch tham quan nghỉ dƣỡng biển. Với lợi thế về

tài nguyên tự nhiên phong phú bao gồm các khu vực tự nhiên còn hoang sơ rất

thích hợp cho việc tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái tham quan, tìm hiểu,

nghiên cứu, nâng cao nhận thức và kiến thức về tài nguyên, môi trƣờng, sinh

59

thái (trên các đảo và khu vực ven biển). Hiện nay loại hình này đã đƣợc một số

công ty lữ hành tổ chức cho khách đến các điểm du lịch trên đảo Quan Lạn, Ba

Mùn. Các loại hình đi theo loại hình du lịch này chủ yếu là khách phƣơng tây

nhƣ Pháp, Anh, Thụy Điển. Theo đánh giá của các du khách thì môi trƣờng tự

nhiên ở một số điểm đến trên các đảo còn tƣơng đối hoang sơ trong lành, hệ

động thực vật hết sức phong phú. Tuy nhiên phần đông ý kiến cũng cho rằng cơ

sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và nhận thức của ngƣời dân còn yếu kém.

Muốn phát triển loại hình du lịch này đòi hỏi sự đồng thuận hơn nữa từ phía

chính quyền địa phƣơng, doanh nghiệp và ngƣời dân.

Các loại hình du lịch văn hóa cũng đƣợc phát triển ở Vân Đồn từ lâu.

Với lịch sử phát triển lâu dài, trong quá khứ Vân Đồn đã từng là thƣơng cảng

buôn bán sầm uất một thời. Ngoài ra Vân Đồn còn là cái nôi của nền văn hóa

Hạ Long đã từng phát triển trong quá khứ. Du khách tham gia loại hình du lịch

văn hóa chủ yếu là thăm quan, nghiên cứu những di tích lịch sử, văn hóa, khảo

cổ (với những dấu tích về tiến hóa cộng đồng con ngƣời, về giao lƣu văn hóa

trong vùng, về lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, về các hoạt động kinh tế -xã hội

qua các thời đại). Các điểm đến thƣờng đƣợc du khách lựa chọn là đình Quan

Lạn, chùa Quan Lạn, di chỉ khảo cổ hang Soi Nhụ, di chỉ Ngọc Vừng, Nghè

Trần Khánh Dƣ. Hiện trạng môi trƣờng (không khí, nƣớc ngọt trên các đảo,

biển, hệ sinh thái) trên các đảo khu vực Vân Đồn hầu nhƣ chƣa có dấu hiệu ô

nhiễm là những điều kiện hết sức thuận lợi cho việc tổ chức loại hình du lịch

thăm quan, nghỉ dƣỡng biển. Du khách đến với Vân Đồn theo loại hình du lịch

này chủ yếu là ngƣời Việt Nam. Khi đƣợc hỏi lý do tại sao lại chọn Vân Đồn

điểm đến thăm quan, nghỉ ngơi hầu hết các câu trả lời đều cho rằng Vân Đồn

còn nhiều lợi thế về cảch quan tự nhiên, có đảo núi, có bãi tắm, thiên nhiên còn

tƣơng đối hoang sơ, mặt khác các địa điểm nghỉ dƣỡng của Vân Đồn lại nằm xa

khu dân cƣ vì vậy tạo cho du khách cảm giác yên tĩnh, thƣ giãn. Đến với Vân

Đồn du khách nhƣ đƣợc sống trong một thế giới khác tránh đi mọi ồn ào, ô

nhiễm nơi đô thị.

60

Hiện tại cả du khách Việt Nam và Quốc Tế muốn đi du lịch Vân Đồn có

thể đặt tour qua các công ty du lịch. Ngoài ra cũng có rất nhiều du khách thích

du lịch theo kiểu tự do. Các chƣơng trình du lịch đến Vân Đồn đƣợc rất nhiều

công ty du lịch chào bán trong đó có cả các công ty lữ hành trên địa bàn tỉnh và

các công ty lữ hành ở các địa phƣơng khác.

Bảng 2.6. Một số chƣơng trình du lịch đang đƣợc các công ty

Du lịch chào bán đến Vân Đồn

TT Tên công ty Chƣơng trình

Hà Nội - Vịnh Bái Tử Long - Vân Đồn - Hạ 1 Công ty du lịch Hải Nam Long (2 ngày 1 đêm)

Hà Nội - Vân Đồn -Vịnh Bái Tử Long - 2 Công ty du lịch Anhtour Đảo Quan Lạn - Hà Nội (3 ngày 2 đêm)

Hà Nội - Vịnh Hạ Long - Đảo Quan Lạn -

3 Công ty du lịch Vietravel Vịnh Bái Tử Long - Vân Đồn - Hà Nội

(5 ngày 4 đêm)

(Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn)

Hầu hết các công ty du lịch chào bán các chƣơng trình du lịch đến

Vân Đồn đều có văn phòng ở Hà Nội. Ngoài ra cũng có một số các công ty

lữ hành ở Quảng Ninh nhƣ công ty du lịch Quảng Ninh, công ty du lịch và

dịch vụ Hòn Gai, công ty du lịch và thƣơng mại Entity, công ty du lịch Lạc

Việt. Cũng chào bán các chƣơng trình du lịch đến Vân Đồn. Tuy vậy, điều

dễ nhận thấy là hầu hết các chƣơng trình đƣợc chào bán na ná giống nhau

(phần do nhu cầu từ phía du khách phần do các công ty này sao chép lẫn

nhau), có những chƣơng trình đƣợc thiết kế đến thẳng Vân Đồn, có những

chƣơng trình kết hợp cả thăm quan Hạ Long và một số điểm đến khác trong

cùng một chƣơng trình du lịch.

61

Du lịch biển Vân Đồn ngày càng phát triển, với lƣợng khách du lịch

ngày một tăng. Mỗi năm, Vân Đồn đón khoảng trên 250 nghìn lƣợt khách đến

tham quan du lịch. Năm 2008, Vân Đồn đón 260 nghìn lƣợt khách. Nếu nhƣ

trƣớc đây, khách du lịch chủ yếu vẫn là khách thăm thân, tham quan lễ hội v.v..

với thời gian ngắn, nhỏ, lẻ thì mấy năm gần đây Vân Đồn đã đón đƣợc các

đoàn khách đi theo tour, tuyến, với khoảng thời gian lƣu trú lâu hơn. Khách du

lịch không chỉ dừng lại các điểm tham quan trên khu vực đảo Cái Bầu mà các

tuyến đảo nhƣ Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng cũng đang là những điểm

đến hấp dẫn của du khách.

Số lƣợng khách du lịch đến Vân Đồn tham quan, nghỉ dƣỡng tăng hàng

năm, tập trung đông vào mùa hè ở các xã đảo; mùa xuân ở các khu vực có di

tích văn hóa, lịch sử. Lƣợng khách du lịch đến Vân Đồn ngày càng tăng. Năm

2010 là 410.000 lƣợt (khách quốc tế là 5.500 lƣợt), đến năm 2012 là 546.000

lƣợt (khách quốc tế là 12.000 lƣợt), tăng 13% so với năm 2011. Tổng thu ngân

sách Nhà nƣớc trên địa bàn giai đoạn 2006 - 2012, tăng 2,5 lần so với giai

đoạn trƣớc; năm 2012 đạt 66 tỷ, tăng 55% so với kế hoạch tỉnh giao. Công tác

thu, chi ngân sách đƣợc quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Mặc dù hàng năm đón một lƣợng lớn các du khách quốc tế so với một

vài địa phƣơng khác trong tỉnh Quảng Ninh nhƣ Hạ Long, Móng Cái. Nhƣng

qua điều tra cho thấy thị trƣờng khách du lịch quốc tế đến với Vân Đồn tƣơng

đối đa dạng bao gồm cả du khách mang quốc tịch Châu Âu, Trung Quốc, Đài

Loan, Nhật Bản, Châu Mỹ... Theo thống kê của phòng kinh tế huyện Vân Đồn

năm 2004 tổng số lƣợng khách du lịch đến với Vân Đồn đạt 132.044 lƣợt trong

đó khách du lịch quốc tế là 798 lƣợt. Năm 2009 tổng số lƣợt khách du lịch đạt

346.000 lƣợt. Trong đó khách quốc tế là 3002 lƣợt. Hiện trạng khách du lịch

quốc tế đến Vân Đồn đƣợc trình bày qua bảng sau:

62

Bảng 2.7. Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn

giai đoạn 2004-2009

(Đơn vị tính: Lượt)

Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009

132044 198067 241000 276000 311000 346000 Tổng số

Trong đó

Khách quốc tế 798 1120 1671 2119 2567 3002

Tốc độ tăng trƣởng (%) 40,3 49,1 26,8 27,9 26,8

(Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn)

Khách quốc tế vẫn chiếm con số ít ỏi trong tổng số lƣợng khách đến

với khum vực này. Trong 4 năm trở lại đây, tốc độ tăng trƣởng trung bình

đạt của khách quốc tế đạt 38.7%, mặc dù khách quốc tế đến với Vân Đồn

năm sau tăng hơn năm trƣớc, tuy nhiên con số này còn khá khiêm tốn so với

khách du lịch quốc tế đến với Quảng Ninh. Số ngày lƣu trú bình quân của

khách quốc tế ở Vân Đồn còn rất thấp, từ 1,5 - 2 ngày. Đối với khách du lịch

nội địa thời gian lƣu trú còn thấp hơn từ 1 - 1,5 ngày. Thời gian lƣu trú cho

chúng ta thấy rõ chất lƣợng phục vụ du lịch, thời gian lƣu trú ngắn có nghĩa

là các dịch vụ còn nghèo nàn, tuyến điểm thăm quan ít, không có điểm mới

cho nên không kéo dài đƣợc thời gian lƣu trú. Khách quốc tế đến với Vân

Đồn vào hầu hết các khoảng thời gian trong năm nhƣng tập trung đông hơn

cả là vào khoảng từ tháng 9 đến hết tháng 12.

Có thể thấy rằng du lịch Vân Đồn đã có sức hấp dẫn với rất nhiều đối

tƣợng khách quốc tế khác nhau đến từ rất nhiều quốc gia trên thế giới. Điều

đó chứng tỏ tiềm năng du lịch Vân Đồn là rất lớn, vấn đề là làm sao khai

thác đƣợc tiềm năng đó, đồng thời cũng có những giải pháp thực sự tích cực

để thu hút du khách.

63

Bảng 2.8. Hiện trạng khách du lịch nội địa đến Vân Đồn

giai đoạn 2004-2009

(Đơn vị tính: Lượt)

Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009

132044 198067 241000 276000 312000 376000 Tổng số

Trong đó

Khách nội địa 131246 196947 239329 273881 280000 301000

Tốc độ tăng trƣởng (%) 50,0 21,5 14,4 15,0 15,5

(Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn)

Qua bảng 2.8 cho thấy, năm 2004 tổng số lƣợng khách nội địa đến Vân

Đồn đạt 131246 lƣợt đến 2009 con số này đã tăng lên 301000 lƣợt. Tốc độ tăng

trƣởng bình quân giai đoạn 2004-2009 là 28,6% tuy nhiên tốc độ tăng trƣởng

lại không đều qua các năm. Nếu nhƣ giai đoạn 2004-2005 tốc độ tăng trƣởng

khách đạt tới 50%/năm thì đến giai đoạn 2006-2007 giảm xuống chỉ còn

14%/năm, giai đoạn 2007-2009 tăng lên 15%/năm. Điều này đƣợc lý giải bởi

nhiều nguyên nhân trong đó các nguyên nhân tăng trƣởng chủ yếu nhất là:

Năm 2003 cơ sở hạ tầng của Vân Đồn đƣợc nâng cấp lên một bƣớc, cụ

thể là việc khánh thành cầu Vân Đồn 1, 2, 3 và trải nhựa tuyến đƣờng 334 từ

bến phà Tài Xá cũ về trung tâm thị trấn, đây là điều kiện hết sức thuận lợi giúp

cho việc đi lại của du khách khi đến với Vân Đồn, rút đi khoảng cách giữa đất

liền và huyện đảo sau nhiều năm cách trở.

Địa bàn du lịch đƣợc mở rộng, các danh lam, thắng cảnh đƣợc tôn tạo,

nâng cấp, hệ thống các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch đƣợc quan tâm

đầu tƣ phát triển... đã tạo lên những chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên giai đoạn

2007 tốc độ tăng trƣởng du khách giảm đi là do nhiều nguyên nhân. Do chƣa

thực sự có những chuyển biến tích cực cả về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du

lịch, các sản phẩm du lịch vẫn còn nghèo nàn không có sự đột phá để tạo ra các

64

sản phẩm mới hấp dẫn hơn. Công tác tuyên truyền quảng bá không đƣợc chú

trọng hầu nhƣ chỉ đƣợc giới thiệu một chút thông qua các chƣơng trình giới

thiệu về du lịch của sở du lịch Quảng Ninh, chƣa có một động thái nào từ phía

chính quyền Vân Đồn. Từ cuối năm 2005 tình hình thời tiết diễn biến phức tạp,

hạn hán trong nƣớc kéo dài gây thiếu điện, đó ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế

và dịch vụ du lịch.Đầu tƣ cơ sở hạ tầng chƣa đồng bộ các tuyến giao thông trên

đảo nhiều nơi còn chƣa hoàn thành, các xã đảo chƣa có hệ thống điện sáng,

điện thoại, nƣớc sinh hoạt còn thiếu. Nhiều dự án đầu tƣ du lịch triển khai còn

chậm. Chƣa có các khu vực vui chơi giải trí để thu hút du khách, các điểm di

tích văn hóa và danh lam thắng cảnh chƣa đƣợc đƣa vào khai thác, trùng tu bảo

vệ. Đội ngũ cán bộ và lao động làm trong ngành du lịch chƣa đáp ứng đƣợc nhu

cầu về chuyên môn nghiệp vụ.

Khách du lịch nội địa đến Vân Đồn chủ yếu tập chung vào mùa hè và

chủ yếu vẫn là khách thăm thân, thăm quan, lễ hội. Số lƣợng khách tập trung

không đều tại các điểm du lịch. Chẳng hạn nhƣ khu vực Bãi Dài, Quan Lạn

tập chung tới 80% lƣợng khách còn lại ở các khu vực khác nhƣ Ngọc Vừng,

Ba Mùn lƣợng khách đến đây rất ít. Khách du lịch đến đây chủ yếu từ các

tỉnh phía Bắc, nhiều nhất là các du khách trong tỉnh và từ một số tỉnh lân cận

giáp gianh với Quảng Ninh.

Với những tiềm năng thế mạnh của mình, Vân Đồn hoàn toàn có thể biến

du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Hoạt động du lịch ở Vân Đồn đã

có những bƣớc phát triển mới. Doanh thu từ hoạt động du lịch không ngừng

đƣợc tăng lên, cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của các địa

phƣơng đƣợc cải thiện đáng kể, ngày càng xuất hiện nhiều hơn các dự án đầu

tƣ về du lịch. Lao động trong ngành du lịch cũng không ngừng tăng lên. Ngành

du lịch đó mang lại lợi ích xã hội không nhỏ, tạo thêm nhiều công an việc làm,

làm khởi sắc bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện. Ngành du lịch đã có những

đóng góp thiết thực làm cho Vân Đồn ngày càng trở lên giàu đẹp hơn.

65

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một thực tế là những đầu tƣ cho du lịch tại

huyện đảo này thời gian qua còn chƣa xứng tầm với những tiềm năng thế mạnh

mà địa phƣơng đang có. Bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, du lịch Vân Đồn

vẫn còn tồn tại một số khó khăn, bất cập nhƣ: Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật

phục vụ du lịch tuy đó đƣợc cải thiện nhiều nhƣng thực tế vẫn chƣa đáp ứng

đƣợc nhu cầu của du khách về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Sản phẩm du lịch còn

nghèo nàn không thể hiện đƣợc bản sắc đặc trƣng độc đáo của tài nguyên du

lịch Vân Đồn. Đội ngũ lao động trong ngành du lịch tuy đó đƣợc củng cố tăng

cƣờng song số lƣợng vẫn còn quá ít, vẫn rất thiếu những các bộ quản lý có trình

độ chuyên môn. Công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch còn hạn chế

chƣa theo kịp nhu cầu phát triển chung của ngành. Các doanh nghiệp du lịch

Vân Đồn nhìn chung quy mô còn nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế, thiếu sự

liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp. Đó là những khó khăn mà huyện đảo

mong muốn cùng với những nhà đầu tƣ cải thiện trong thời gian tới.

2.2.3. Mạng lưới giao thông và hệ thống cảng biển

2.2.3.1. Mạng lưới giao thông

Mạng lƣới giao thông trên địa bàn huyện Vân Đồn trong những năm qua

bƣớc đầu đƣợc đầu tƣ cả trên bộ lẫn dƣới biển, nhất là nâng cấp các bến cảng

và các tuyến đƣờng giao thông liên thôn. Nhờ vốn của chƣơng trình biển Đông

hải đảo, phƣơng tiện giao thông ở các đảo xa đã đƣợc nâng cấp. Ngày 1-1-

2005, ngày đầu tiên của năm mới, tại bờ Tây của huyện đảo Vân Đồn, cụm cầu

vƣợt biển đã chính thức nối thông huyện đảo Vân Đồn với đất liền. Đây là một

dự án trọng điểm của tỉnh Quảng Ninh nhằm hoàn thiện mạng lƣới giao thông

đƣờng bộ với một huyện đảo đầy tiềm năng về kinh tế, du lịch, quốc phòng.

Hệ thống đƣờng bộ từ quốc lộ 18A tại Cửa Ông, qua cầu Vân Đồn 7 km

là đến trung tâm huyện Vân Đồn. Đƣờng giao thông trong nội bộ huyện bao

gồm: Đƣờng tỉnh lộ 334 đoạn Tài Xá - Vạn Hoa dài 30 km; Đoạn Cái Rồng -

Đài Xuyên 17 km; Đƣờng trên đảo Quan Lạn - Minh Châu dài 12 km; Đƣờng

66

trên đảo Trà Bản (bao gồm: Minh Châu, Bản Sen, Quan Lạn) dài 12,8km;

Đƣờng trên đảo Ngọc Vừng dài 8,5 km; Đƣờng trên đảo Thắng Lợi dài 4km

[15, tr.5]. Năm 2007 Tuyến xe buýt Bãi Cháy - Vân đồn đã đƣợc đƣa vào hoạt

động tạo điều kiện cho du khách đến tham quan Bái Tử Long sau khi tham

quan vịnh Hạ Long và ngƣợc lại.

Hệ thống giao thông đƣờng thuỷ phục vụ công tác vận tải thuỷ, nhu cầu

dân sinh, khách du lịch tuyến giao thông thuỷ nối liền 05 xã đảo với thị trấn Cái

Rồng: Quan Lạn; Minh Châu; Ngọc Vừng; Thắng Lợi; Bản Sen. Năm 2009

tuyến tầu cao tốc Cái Rồng đi Quan Lạn của Công ty cổ phần du lịch quốc tế

Phúc Thịnh đã đi vào hoạt động với lịch trình 4 chuyến cả đi lẫn về, thời gian

chạy tàu là 45phút/1chuyến. so với tàu khách thông thƣờng giảm đƣợc 2/3 thời

gian chạy tàu. Cảng Cái Rồng có thể cho xà lan, tàu thuyền tải trọng hàng trăm

tấn ra vào dễ dàng, đồng thời là đầu mối giao thông qua lại giữa các đảo. Cảng

Vạn Hoa đây là cảng quân sự tới đây sẽ đƣợc đầu tƣ xây dựng nâng cấp phục

vụ cho hoạt động an ninh quốc phòng và bảo vệ bờ biển khu vực Vân Đồn và

vùng biển tỉnh Quảng Ninh [33, tr.4].

Giao thông đƣờng thủy có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo giao lƣu,

đi lại của nhân dân năm xã ngoài đảo (đảo xa nhất cách trung tâm huyện

khoảng 30km), lƣu thông hàng hóa và học hành, khám chữa bệnh và sinh hoạt

của dân cƣ. Hiện có bến cảng Cái Rồng có thể tiếp nhận tàu trọng tải trên 500

tấn các bến cập tàu nhỏ ở các xã Quan Lạn, Minh Châu, Thắng Lợi, Ngọc

Vừng. Bến cảng Bản Sen đang đƣợc xây dựng.

2.2.3.2. Thương cảng Vân Đồn

Thƣơng cảng Vân Đồn là một trong những cảng biển ngoại thƣơng lớn

nhất và có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam, trong giao thƣơng với các nƣớc khu

vực Đông Á và thế giới nhƣ: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan,

Indonesia... Thƣơng cảng Vân Đồn đƣợc thành lập vào năm 1149 thời nhà Lý

(Đại Định năm thứ 10) để đáp ứng nhu cầu trao đổi, buôn bán sản vật với các

67

thƣơng nhân nƣớc ngoài và thịnh vƣợng suốt 3 triều đại: Lý - Trần - Hậu Lê

(Lê sơ). Trong quá trình hình thành và phát triển, cảng Vân Đồn đã trở thành

một hệ thống bao gồm các bến thuyền ở những vụng biển kín gió thuộc các hải

đảo của vùng biển Đông Bắc Việt Nam. Các địa danh Cống Đông - Cống Tây,

Cái Làng, Cống Cái, Con Quy, Cái Cống, Cống Yên, Cống Hẹp nay thuộc các

xã đảo Thắng Lợi, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng… vẫn còn lƣu danh của

một thời giao thƣơng buôn bán sầm uất.

Bến đầu tiên của cảng Vân Đồn là Cái Làng nằm sát dƣới chân núi Man

thuộc đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, gồm 2 thôn Vân Sơn và Liễu Mai. Khu

vực trung tâm đƣợc dùng để buôn bán các loại hàng hoá quý nhƣ ngà voi, ngọc

trai, đồ gốm.... Nơi đây là một địa danh, một bến cảng đƣợc coi là “Bến cảng

chính”, “Cảng trung tâm” của thƣơng cảng Vân Đồn. Cùng với Cái Làng còn

có bến Cống Cái thuộc thôn Sơn Hào, xã Quan Lạn. Cống Cái còn có tên gọi là

“Vụng Cống Cái” hay “Cái Cây Đa”. Cửa vụng đƣợc mở ra do đảo Vân Hải và

hòn núi Man chạy song song ngăn một dải nƣớc tạo thành. Nơi đây có một

không gian tƣơng đối rộng và bằng phẳng, rất thuận lợi cho việc buôn bán, định

cƣ. Phía Bắc đảo Vân Hải có đảo Con Quy và ở đây cũng có bến Con Quy, nay

thuộc địa phận xã Minh Châu. Bến này nằm gần một đồn binh thời Nguyễn.

Ven bờ có nhiều lon sành, hũ sành, vò sành, bát đĩa và tiền đồng thời Lý, Trần,

Lê. Bến Con Quy là bến tốt nhất, có thể tránh sóng gió và là một bến quan

trọng trong sự phồn vinh của thƣơng cảng Vân Đồn.

Cùng với hệ thống di tích cảng cổ ở khu vực Con Quy, Sơn Hào, Cái

Làng, phía tây nam Vân Hải có đảo Ngọc Vừng. Đây là một địa điểm giao

thƣơng khá quan trọng trong hệ thống thƣơng cảng Vân Đồn xƣa. Vào thời

hƣng thịnh của thƣơng cảng Vân Đồn, Ngọc Vừng cũng dự nhập tƣơng đối

mạnh mẽ với hoạt động chung của thƣơng cảng mà tiêu biểu là diễn ra ở khu

vực Cống Yên và Cống Hẹp. Trong hệ thống thƣơng cảng Vân Đồn, địa điểm

Cống Đông, Cống Tây, nay thuộc địa phận xã Thắng Lợi đƣợc đặc biệt chú ý.

68

Khu vực này là trung tâm quan trọng nhất của thƣơng cảng Vân Đồn thời Lý-

Trần. Cƣ dân trong vùng có câu “Cống Đông thập bát xã”. Đảo Cống Đông và

Cống Tây là những đảo lớn nằm trong vịnh Bái Tử Long và khu thƣơng cảng

Vân Đồn xƣa. Nằm song song theo hƣớng tây - bắc, đông - nam có một dải

nƣớc nhƣ một vụng biển khá rộng và sâu ở giữa. Vụng biển rất kín gió do đƣợc

các đảo che chắn. Đây là địa điểm rất thuận lợi cho việc đỗ thuyền và vận

chuyển hàng hóa lên xuống. Từ đây có thể liên hệ thuận lợi với đất liền và cƣ

dân vùng Cái Làng, Quan Lạn, Ngọc Vừng cùng các đảo xa khác. Số lƣợng

gốm sành, sứ và gốm men tìm thấy ở Cống Tây, Cống Đông cho thấy nơi đây

là một trong những trung tâm quan trọng của thƣơng cảng Vân Đồn và bắt đầu

phát triển từ thế kỷ thứ 12-13, phồn thịnh trong các thế kỷ 15-16 và hoạt động

liên tục cho đến thế kỷ 17-18.

Ngoài các bến cảng trên biển, hệ thống thƣơng cảng Vân Đồn xƣa có

mối liên hệ mật thiết với các trung tâm kinh tế nội địa và hệ thống các cảng

trong đất liền nhƣ: bến Cái Cổng (đảo Cái Bàn), bến Đƣợng Hạc, Hòn Ráu…

(huyện Yên Hƣng), bến Gạo Rang, bến Bang, bến Đâm Gạo (huyện Hoành

Bồ), bến Vạn Ninh (thị xã Móng Cái)…. Các bến này là những điểm tập kết,

trung chuyển hàng hóa từ các trung tâm sản xuất ra hệ thống cảng biển.

Tiểu kết chƣơng 2

Kinh tế biển Vân Đồn đã có truyền thống từ lâu đời, bắt đầu từ triều Lý.

Kinh tế biển gắn với thƣơng mại đã một thời rất hƣng thịnh tại thƣơng cảng

Vân Đồn - nay là Khu kinh tế Vân Đồn. Những hoạt động phát triển kinh tế -

xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia từ biển cũng đã đƣợc các vua của triều

Trần quan tâm đặc biệt.

Với lợi thế vƣợt trội nằm trên hai hành lang kinh tế (Côn Minh - Lào Cai

- Hà Nội - Quảng Ninh; Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng) và vành

đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ trong hợp tác phát triển giữa Việt Nam -

69

Trung Quốc (Hải Phòng - Khu công nghiệp dịch vụ đầm Nhà Mạc-thành phố

Hạ Long-Khu kinh tế Vân Đồn - Khu công nghiệp cảng biển Hải Hà - thành

phố cửa khẩu quốc tế Móng Cái). Chính vì vậy, Thủ tƣớng Chính phủ đã phê

duyệt quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030 tại Quyết định 1296 ngày 19/8/2009.

Kể từ đó cho đến nay, Khu kinh tế Vân Đồn đã có bƣớc phát triển khá

toàn diện, với tổng sản phẩm đạt trên 2.492 tỷ đồng, tốc độ tăng trƣởng bình

quân 5 năm (2007-2011) là 16,8% mỗi năm. Tổng vốn đầu tƣ cho toàn xã hội

1.400 tỷ đồng, tăng bình quân 22% năm.

Gần 10 năm từ ngày ý tƣởng xây dựng Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn

đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ ủng hộ bằng Quyết định 786/2006 về phê duyệt Đề

án phát triển kinh tế - xã hội Khu kinh tế Vân Đồn và Quyết định 120/2007 về

thành lập Khu kinh tế ven biển Vân Đồn, huyện đảo Vân Đồn đã có nhiều khởi

sắc. Tổng giá trị sản xuất năm 2012 ƣớc đạt 1.079,6 tỷ đồng, tăng 15,6%, đạt

89,14% (kế hoạch 17,5%). Giá tri sản xuất ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp năm

2012 ƣớc đạt 464,2 tỷ đồng, tốc độ tăng 11%, đạt 70,51% kế hoạch (kế hoạch

15,6%). Giá trị sản xuất ngành công nghiệp, xây dựng năm 2012 ƣớc đạt 321 tỷ

đồng, tốc độ tăng 18,6% (vƣợt 0,6% so với kế hoạch). Giá trị sản xuất ngành

dịch vụ: 295 tỷ đồng, tốc độ tăng 20,4% (vƣợt 0,4% so với kế hoạch).

Biển Vân Đồn rộng và có nhiều loại hải sản, tài nguyên khoáng sản quý,

có vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế và phòng thủ đất nƣớc. Tiến

ra biển và làm chủ biển khơi là khát vọng hàng ngàn đời mà ông cha chúng ta

đã từng làm, ngày nay tiến ra biển là xu thế thế giới. Theo đó, các hoạt động

kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn đã và đang ngày càng phát triển với ngành

kinh tế mũi nhọn là khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và du lịch.

70

Chƣơng 3

TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ BIỂN ĐẾN KINH TẾ, XÃ HỘI

HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH

3.1. Tác động về kinh tế

Vân Đồn (Quảng Ninh) là trung tâm kinh tế miền đông tỉnh Quảng Ninh

và vùng đồng bằng sông Hồng, là một trong những cửa ngõ giao thƣơng Quốc

tế quan trọng của vùng Đông Bắc của Tổ quốc; có vị trí quốc phòng, an ninh

quan trong phía Bắc Việt Nam. Ngày 19/8/2009, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban

hành Quyết định số: 1296/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng

Khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm

2030, đã tạo điều kiện thuận lợi để huyện đảo Vân Đồn phát triển. Theo đó,

Vân Đồn là khu kinh tế tổng hợp đƣợc vận hành theo quy chế riêng nhằm phục

vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh và vùng Duyên hải

Bắc bộ; Trung tâm du tịch biển đảo chất lƣợng cao, dịch vụ vui chơi giải trí cao

cấp vùng Bắc Bộ, đảo Hải Nam và các thành phố phía Đông Trung Quốc; Là

đầu mối giao thƣơng quốc tế, động lực chính để phát triển vùng kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ, đầu tƣ hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội hiện đại, đồng

bộ gắn với bảo vệ môi trƣờng và phát triển bền vững, đảm bảo an ninh, quốc

phòng khu vực Đông Bắc của Tổ quốc.

Nằm giữa hai đầu mối kinh tế Hạ Long- Móng Cái, Vân Đồn đƣợc xác

định là trung tâm và động lực phát triển kinh tế - văn hoá của khu vực Đông

Quảng Ninh. Nghị quyết Hội nghị TW IV (khoá X năm 2007) về "Chiến lƣợc

biển Việt Nam đến năm 2020”. Theo đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và

huyện cũng đã ban hành Chƣơng trình hành động thực hiện Nghị quyết TW IV.

Sau hai năm thực hiện, kinh tế - xã hội vùng biển Vân Đồn đạt nhiều thành tựu

quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

71

3.1.1. Thúc đấy sự phát triển của các ngành kinh tế khác

Triển khai thực hiện chủ trƣơng phát triển kinh tế biển, những năm qua

huyện Vân Đồn đã và đang tiếp tục thu hút nguồn lực đầu tƣ. Hiện Khu kinh tế

Vân Đồn đang có trên 79 dự án đầu tƣ với tổng số vốn đầu tƣ đăng ký đạt 9.800

tỷ đồng. Ngoài ra, trên địa bàn còn có 161 doanh nghiệp dân doanh đang hoạt

động có tổng vốn đầu tƣ đăng ký 1.368 tỷ đồng. Đặc biệt, khu kinh tế này đang

đƣợc triển khai nghiên cứu lập quy hoạch chi tiết 9 phân khu chức năng. Đến

nay, công tác khảo sát phục vụ lập quy hoạch phân khu của 4 khu chức năng

quan trọng là Khu đô thị Cái Rồng 2.200ha; Khu đô thị Đoàn Kết 4.400ha; Khu

công viên phức hợp phía Đông đảo Cái Bầu 2.000ha; Khu đô thị và cảng phía

Bắc đảo Cái Bầu 2.000ha đã hoàn thành. Đồng thời, huyện đảo cũng đã hoàn

thành 10 đồ án quy hoạch chi tiết các khu chức năng khác [8, tr.3].

Theo báo cáo tổng kết năm 2012 của Ủy ban nhân dân huyện Vân Đồn,

tổng sản lƣợng thủy sản ƣớc đạt 18.730 tấn = 93,6% kế hoạch, giảm 0,03% so

với cùng kỳ. Trong đó, sản lƣợng khai thác ƣớc đạt 14.600 tấn = 12,3% kế

hoạch, vƣợt 10,94% so với cùng kỳ năm trƣớc, sản lƣợng nuôi trồng ƣớc đạt

4.130 tấn = 59% kế hoạch, giảm 26,5% so với cùng kỳ. Nghề nuôi trồng thủy

sản đƣợc duy trì và phát triển. Tổng diện tích nuôi trồng là 3.000 ha = 93,75%

kế hoạch, giảm 3,23% (100 ha) so với cùng kỳ. Năm 2012, tổng số tàu thuyền

khai thác, làm dịch vụ thủy sản trên địa bàn huyện là 1.670 chiếc, trong đó có

62 chiếc có công suất trên 90CV = 77,5% kế hoạch, giảm 09 chiếc so với năm

2011. Nguyên nhân số lƣơng tàu có công suất trên 90CV giảm là do nghề khai

thác đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn, làm ăn không có lãi nên một số chủ

tàu đã bán phƣơng tiện và chuyển nghề.

Cơ sở hạ tầng du lịch tiếp tục đƣợc đầu tƣ nâng cấp, từng bƣớc đáp ứng

nhu cầu của du khách. Toàn huyện có 98 cơ sở lƣu trú với 1.230 phòng nghỉ,

tăng 02 cơ sở lƣu trú, 20 phòng so với năm 2011, công suất sử dụng phòng

trung bình đạt 40%, tăng 2% so với cùng kỳ. Lƣợng khách du lịch đến địa bàn

huyện năm 2012 ƣớc đạt 540.000 lƣợt, tăng 13% so với cùng kỳ.

72

Từ việc phát triển du lịch ngày càng mạnh và đúng hƣớng đã thúc đẩy

ngành dịch vụ - thƣơng mại cùng đồng hành phát triển, mô hình đô thị hóa

nông thôn ngày càng đƣợc mở rộng kéo theo hàng loạt nhu cầu đời sống, sinh

hoạt và an sinh xã hội, đòi hỏi huyện phải tăng cƣờng mở rộng thị trƣờng. Từ

đó, các cơ sở kinh doanh, các doanh nghiệp phục vụ nổi lên khắp các khu vực

từ đô thị đến các cơ sở ven biển mang lại ngồn lợi kinh tế lớn và đang trở

thành ngành kinh tế hàng đầu trong cơ cấu phát triển kinh tế của địa phƣơng.

Chỉ tính riêng năm 2012, ngành dịch vụ- thƣơng mại đã đóng gốp vào ngân

sách nhà nƣớc hơn 20 tỷ đồng. Xác đinh phát triển kinh tế biển với mũi nhọn

là ngành thủy sản đã tạo cơ hội cho công nghiệp chế biến và công nghiệp đóng

tàu có điều kiện củng cố và song song phát triển, tuy rằng hai ngành công

nghiệp này đều ở xuất phát điểm thấp nhƣng đến nay đã có chỗ đứng vững,

đóng góp lớn trong tốc độ tăng trƣởng kinh tế chung toàn huyện. Với vị trí hết

sức quan trọng của khu vực đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Bắc Tổ quốc,

Vân Đồn đang từng bƣớc đẩy mạnh hệ thống giao thông vận tải đƣờng bộ,

đƣờng thủy và dự án đƣờng không nhằm phục vụ du lịch, giao thƣơng giữa các

vùng và chuyên chở hàng hóa phục vụ cho các ngành kinh tế khác góp phần

đắc lực trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của huyện và của tỉnh.

Vân Đồn đã và đang từng bƣớc áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến

đƣa vào sử dụng, khai thác kinh tế biển. Chính vì vậy, đã tăng năng suất, hiệu

quả kinh tế, không ngừng nâng cao hiệu quả chất lƣợng của sản phẩm. Mặt

khác, nâng cao trình độ khoa học công nghệ góp phần đáng kể vào hiện đại hóa

quá trình sản xuất và đƣa giống mới có giá trị kinh tế cao vào canh tác đại trà;

đẩy mạnh việc giao diện tích đất, diện tích mặt nƣớc cho các hộ, đồng thời thực

hiện tốt chƣơng trình hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ nghèo vay vốn sản xuất, mở

rộng mô hình nuôi trồng thuỷ sản vừa và nhỏ theo quy mô hộ gia đình.

73

Chính nhờ những chính sách mà nhân dân vùng biển nói riêng, nhân dân

trong huyện nói chung đã nâng cao đời sống, từ đó đã từng bƣớc nhận thức

đƣợc vai trò to lớn của kinh tế biển. Mặt khác, trình độ của các cán bộ quản lý

trong lĩnh vực kinh tế biển, doanh nghiệp, ngƣời lao động trong kinh tế biển

đƣợc nâng cao, hiểu rõ khai thác nguồn lợi từ biển phải đi đôi với bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên mà từ chính sách kinh tế biển đƣa lại. Nhờ đó, hiệu quả

kinh tế từ các ngành kinh tế biển càng đƣợc nâng cao. Việc đầu tƣ kết cấu hạ

tầng ngày càng đồng bộ đã tạo cho Vân Đồn sức bật mới để vƣơn lên phát triển

kinh tế nói chung, kinh tế du lịch nói riêng.

Bảng 3.1. Bảng thống kê so sánh một số chỉ tiêu phát triển kinh tế

Chỉ tiêu kinh tế 1994 2006 2010 2012

Tổng sản lƣợng thủy sản(tấn) 3.620 10.015 16.800 18.730

Giá trị sản xuất theo ngành(tỉ đồng):

- Nông, Lâm, Ngƣ nghiệp 260 349,2 409 464,2

- Công nghiệp-Xây dựng 180 250 300 321

- Dịch vụ- Du lịch 50 180 290 295

Tổng thu ngân sách (tỉ đồng) 32 40,201 47,6 55,118

Thu nhập bình quân(USD/năm) 200 497,69 955 1.060

(Nguồn: văn phòng UBND huyện Vân Đồn)

Trong phát triển kinh tế thì tốc độ tăng trƣởng bình quân giai đoạn 2010-

2012 của huyện là 16.5%/năm. Tổng thu ngân sách từ 32 tỉ đồng (năm 1994)

tăng lên hơn 55 tỉ đồng (năm 2012). Thu nhập bình quân đầu ngƣời cũng từ đó

mà tăng nhanh. Nhƣ vậy, vốn đầu tƣ là cơ sở tạo ra vốn sản xuất, góp phần vào

việc tăng năng suất lao động, tăng giá trị sản phẩm của các ngành kinh tế, thúc

đẩy sự phát triển kinh tế nói chung.

74

3.1.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện đảo

Cơ cấu sử dụng vốn là điều kiện quan trọng tác động vào việc chuyển

dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lƣợc phát triển kinh tế xã

hội của huyện đảo trong từng thời kỳ. Thực tế, sau một thời gian thực hiện

chiến lƣợc phát triển kinh tế biển, cơ cấu kinh tế củaVân Đồn chuyển dịch

theo hƣớng tích cực, phát huy lợi thế của địa bàn. Đó là, tỷ trọng công nghiệp

tăng từ 24,4% (năm 2006) lên 29,7% (năm 2012); du lịch, dịch vụ tăng từ

20,8% (năm 2006) lên 27,3% (năm 2012); nông - lâm - ngƣ nghiệp giảm từ

54,8% (năm 2006) xuống còn 43% (năm 2012). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

đã tác động tích cức đến phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn huyện, nhờ

vậy: kinh tế của huyện tăng trƣởng liên tục với tốc độ cao, bình quân

16,8%/năm (giai đoạn 2007-2011) cao hơn bình quân chung của tỉnh Quảng

Ninh và của cả nƣớc. Đời sống của đại bộ phận nhân dân đƣợc nâng lên, thu

nhập bình quân đầu ngƣời đạt 14,2 triệu đồng năm 2009 , tăng 2,14 lần so với

năm 2005, nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo.

Ngành Thuỷ sản tiếp tục khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ

cấu kinh tế của huyện. Tổng sản lƣợng thủy sản tăng nhanh, tốc độ tăng bình

quân 2007 - 2011 là 13,8%. Tu hài và hàu biển Thái Bình Dƣơng là 2 đối tƣợng nuôi mang lại kinh tế cao, đƣợc ngƣời dân huyện đảo Vân Đồn quan tâm nhiều

nhất. Nhờ nuôi tu hài, nhiều hộ dân ở các xã tuyến đảo nhƣ Bản Sen, Ngọc

Vừng, Thắng Lợi đã thoát nghèo, vƣơn lên làm giàu . Đặc biệt , thời gian gần

đây, loài nhuyễn thể đang đuợc các hộ dân ở huyện Vân Đồn đầu tƣ nuôi nhiều

là hàu Thái Bình Dƣơng . Năm 2008, tổng giá trị thu về từ nghề nuôi hàu trên địa bàn huyện đạt hơn 20 tỷ đồng. Đến năm 2010, con số nà y lên đến con số

trên 100 tỷ đồng. Những kết quả này cho thấy, việc nuôi các loài nhuyễn thể tại

huyện đảo Vân Đồn đang từng bƣớc khẳng định thế mạnh, là ngành mũi nhọn

của huyện đảo. Chuyển dịch từ khai thác thủy sản ven bờ kém hiệu quả sang

nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi nhuyễn thể là một xu thế tất yếu trên lộ

75

trình phát triển kinh tế của huyện Vân Đồn. Đối với cơ cấu ngành, đầu tƣ vào

ngành nào dù vốn đầu tƣ nhiều hay ít,việc sử dụng vốn đầu tƣ cao hay thấp đều

ảnh hƣởng đến trình độ phát triển của ngành, từ đó làm dịch chuyển cơ cấu

ngành. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần từ 12,82% năm 2010 xuống còn 5,53% năm

2012 (theo tiêu chí mới). Thu nhập bình quân đầu ngƣời năm 2012 đạt 1.060

USD/năm (giá hiện hành), tăng 2,6 lần so với năm 2006.

3.2. Tác động về xã hội

3.2.1. Góp phần xóa đói giảm nghèo

Trong những năm qua khai thác tiềm năng thế mạnh từ biển, đã thu hút

đƣợc nguồn nhân lực từ vùng ven biển và các địa phƣơng phục vụ trực tiếp cho

phát triển kinh tế biển, đã góp phần vào xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần nhân dân vùng ven biển, đặc biệt ngành thuỷ sản và du lịch

đã đóng một vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, giải quyết đƣợc nhiều công ăn

việc làm, tăng thêm thu nhập cho nhân dân, thu về nhiều ngoại tệ ngày càng

cao cho huyện. Đối với các ngành kinh tế biển luôn cần đạt tốc độ tăng trƣởng

bình quân, đặc biệt là những khâu đột phá theo lĩnh vực ngành kinh tế có thế

mạnh của huyện. Trong đó các ngành kinh tế biển đƣợc xác định có các chính

sách đầu tƣ thích hợp để kinh tế biển phát triển xứng đáng với tiềm năng.

Những năm qua có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành, địa phƣơng

cho phát triển kinh tế biển, ven biển. Một mặt, huyện đề nghị tỉnh đầu tƣ xây

dựng trung tâm sản xuất giống nhuyễn thể chất lƣợng cao, hệ thống dịch vụ hậu

cần thuỷ sản phát triển bền vững, đồng thời bố trí nguồn vốn vay ƣu đãi hỗ trợ

ngƣ dân phát triển sản xuất. Mặt khác, huyện đã chỉ đạo các cơ quan chuyên

môn từng bƣớc nghiên cứu, rà soát và quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản

theo từng khu vực; huy động nguồn vốn tích luỹ trong dân, kết hợp với tạo điều

kiện cho ngƣ dân có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn để mở rộng quy mô nuôi

trồng... Cùng với đó, vài năm trở lại đây, huyện đã có cơ chế thông thoáng hơn

76

nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tƣ vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản trên địa

bàn. Nghề nuôi tu hài mới đƣợc thực hiện thí điểm trên địa bàn huyện mấy năm

trở lại đây, nhƣng đến nay đã trở thành phong trào xóa nghèo, làm giàu ở Vân

Đồn. Với những ƣu điểm dễ nuôi, vốn đầu tƣ ít, khả năng rủi ro thấp, giá trị

kinh tế cao, tu hài đã nhanh chóng đƣợc nhiều hộ gia đình chọn nuôi. Sản

lƣợng nuôi trồng thủy sản năm 2008 đạt 2.070 tấn, trong đó tu hài đạt 400 tấn

ƣớc tính giá trị thu từ nghề nuôi trồng tu hài trên 50 tỷ đồng. Giá tu hài thƣơng

phẩm cuối năm 2008 là 160-180.000đ/kg. Số lƣợng thả nuôi năm 2008, 2009

cho thu hoạch cuối năm 2009 đầu 2010 ƣớc đạt 800 - 1000 tấn, ƣớc giá trị sản

lƣợng từ nuôi tu hài trên 100 tỷ đồng. Nhờ nuôi tu hài mà đến nay nhiều hộ dân

ở các xã tuyến đảo đã thoát nghèo, nhiều hộ đã vƣơn lên làm giàu. Hiện nay,

trên địa bàn huyện Vân Đồn có hơn 10 công ty và 450 hộ gia đình đầu tƣ nuôi

tu hài, với tổng số vốn đầu tƣ khoảng 200 tỷ đồng. Thu nhập từ nuôi tu hài của

các hộ gia đình mỗi năm từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng chiếm 10% khoảng 50 hộ;

hộ gia đình thu nhập từ 100 - 500 triệu đồng chiếm khoảng 30% có đến 120 hộ

và 280 hộ có thu nhập dƣới mức 100 triệu đồng/năm. Thông qua cách làm này,

đến nay, ngƣ dân trên địa bàn ngày càng mạnh dạn đầu tƣ vào lĩnh vực nuôi

trồng thuỷ sản phù hợp với đặc thù khí hậu, nguồn nƣớc ở địa phƣơng mình,

nên không chỉ tạo ra sự đa dạng về sản phẩm mà còn thiết thực tạo việc làm,

nâng cao thu nhập cho lao động dôi dƣ, góp phần đẩy nhanh tiến độ giảm

nghèo của huyện. Nếu nhƣ năm 2005, tổng sản lƣợng thuỷ sản của cả huyện

mới đạt ở mức 7.800 tấn, thì đến hết năm 2010 và 3 tháng đầu năm 2011, tổng

sản lƣợng thuỷ sản là gần 18.000 tấn, tổng giá trị thành phẩm đạt trên 1.100 tỷ

đồng, góp phần tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo của địa phƣơng. Từ một

huyện có 19% số hộ nghèo vào năm 2005, đến nay giảm xuống còn 4,92%.

Nhƣ vậy, kinh tế biển đã có những bƣớc đột phá, góp phần vào sự phát triển

chung của xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng.

77

3.2.2. Góp phần làm thay đổi diện mạo của huyện đảo

Từ khi thực hiện Nghị định 161/2003/NĐ-CP, huyện Vân Đồn đã hoạch

định những đƣờng lối phát triển thông qua các nghị quyết chuyên đề để lãnh

đạo phát triển kinh tế một cách toàn diện nhằm từng bƣớc khai thác tiềm

năng, lợi thế của mình. Chủ động tranh thủ các nguồn vốn đầu tƣ để đẩy mạnh

xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển gắn liền với ƣu tiên

đầu tƣ các công trình thiết thực nhất đối với công tác đảm bảo an sinh xã hội

nhƣ hoàn thiện điện lƣới, đƣờng sá, bến cảng... Với chủ trƣơng xây dựng các

khu thƣơng mại gắn với sân bay và các điểm đô thị. Hình thành chợ trên biển

ở phía Cửa Ông và đảo Thắng Lợi. Các thành tố hạt nhân gồm có: xây dựng

khu du lịch chất lƣợng cao ở Cái Rồng và Quan Lạn, sân bay ở Đoàn Kết,

cảng cá và cơ sở phục vụ nghề cá ở khu vực Cửa Ông, các dịch vụ tài chính,

ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, y tế, chung cƣ hiện đại.... Gắn với chƣơng

trình, đề án xây dựng Nông thôn mới, huyện chủ động tranh thủ các nguồn

vốn đầu tƣ để đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó, ƣu tiên các công

trình thiết thực nhất đối với công tác đảm bảo an sinh xã hội. Huyện đã đầu tƣ

nhiều tỷ đồng mỗi năm để từng bƣớc hoàn thiện điện lƣới, đƣờng sá, bến

cảng, trƣờng học, cơ sở khám chữa bệnh trên tuyến đảo. Đến nay, nhiều công

trình đã hoàn thành và đƣa vào sử dụng đang phát huy hiệu quả tích cực. Các

tuyến đƣờng bê tông xuyên đảo Ngọc Vừng, Quan Lạn, cảng cập tàu, công

trình thuỷ lợi... trên các xã đảo đang từng ngày tạo diện mạo mới cho địa

phƣơng. Trong 2 năm qua, bên cạnh các dự án đƣờng giao thông liên xã, liên

thôn do Nhà nƣớc đầu tƣ 100% kinh phí, huyện đã vận động nhân dân các xã

tham gia hiến đất, mở đƣờng; đóng góp tiền của, ngày công, xi măng... Theo

báo cáo tình hình kinh tế xã hội 4 tháng đầu năm 2012 của Ủy ban nhân dân

huyện Vân Đồn, tổng số vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản đã giải ngân là 23,251

tỷ đồng; khối lƣợng thực hiện vốn đầu tƣ ngân sách tháng 4/2012 ƣớc đạt

21,19 tỷ đồng, tính chung 4 tháng ƣớc thực hiện đạt 28,058 tỷ đồng, đạt 25%

78

so với kế hoạch vốn. Huyện đã hoàn thành thủ tục đầu tƣ một số công trình

thuộc chƣơng trình xây dựng nông thôn mới, các công trình thiết yếu phục vụ

nhu cầu dân sinh nhƣ: sửa chữa, nâng cấp đƣờng thôn Đài Chuối, nâng cấp

đƣờng EC khu 8 thị trấn Cái Rồng, xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình

Dân, trụ sở công an xã Minh Châu, Bản Sen, Ngọc Vừng; sửa chữa, nâng cấp

đê Cái Tặc xã Ngọc Vừng, hồ chứa nƣớc Cái Xuôi, tuyến đƣờng Điền Xá -

Bản Sen, hồ chứa nƣớc Ký Vầy xã Đài Xuyên… Tính đến nay, toàn huyện đã

có 35/72 nhà văn hoá thôn bản đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 48,5%; 18/27 trƣờng đạt

chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất, chiếm tỷ lệ 66,7%; 11/11 trạm y tế xã đạt

chuẩn; trên 70% ngƣời dân đƣợc sử dụng nƣớc hợp vệ sinh.... Từ một huyện

đảo nghèo, đời sống kinh tế khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế, giờ đây

Vân Đồn đã có những bƣớc tiến dài trên chặng đƣờng phát triển mới bằng

việc đánh thức tiềm năng và lợi thế. Với những động thái tích cực nêu trên,

chắc chắn Khu kinh tế Vân Đồn sẽ sớm phát huy đƣợc những ƣu thế riêng sẵn

có để phát triển bền vững. Vùng đảo vốn tĩnh lặng, hẻo lánh xƣa kia, nay đã

khởi sắc mau chóng, trở thành vùng kinh tế sôi động.

3.2.3. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập

Với chính sách thu hút vốn đầu tƣ để phát triển kinh tế biển nói riêng và

kinh tế toàn huyện nói chung, các công trình hạ tầng thiết yếu nhƣ tuyến đƣờng

trục chính nối các khu chức năng chính của khu kinh tế Vân Đồn; dự án nâng

cấp tuyến đƣờng xuyên đảo Ngọc Vừng; dự án đƣa hệ thống lƣới điện quốc gia

ra các xã đảo; dự án đƣờng từ khu Đông Xá và Khu công nghiệp chế biến thủy

sản; dự án đƣờng từ cảng Hòn 2 đến thôn Tân Lập và một số dự án hạ tầng

khác sẽ đƣợc huy động tổng hợp các nguồn ODA, FDI, ngân sách Nhà nƣớc,

trái phiếu Chính phủ và nhiều hình thức đầu tƣ để xây dựng hoàn chỉnh.

Hệ thống đô thị và kết cấu hạ tầng có bƣớc phát triển mạnh mẽ tạo động

lực để khu kinh tế tổng hợp đƣợc hình thành và bắt đầu phát triển, quốc phòng -

an ninh đƣợc giữ vững. Thƣơng cảng Vân Đồn, bến cảng Cái Rồng, Vạn Hoa

79

cùng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật: đƣờng giao thông, điện, cấp thoát nƣớc,

công nghệ thông tin, viễn thông là điều kiện thuận lợi cho kinh tế biển Vân

Đồn, hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng đƣợc mở rộng

Với những nỗ lực cải cách, thu hút đầu tƣ, tạo thuận lợi tối đa cho xuất

nhập khẩu, trong những năm qua, hoạt động thƣơng mại của huyện Vân Đồn đã

đạt đƣợc những kết quả tích cực. Số liệu từ phòng kinh tế huyện Vân Đồn, hoạt

động xuất nhập khẩu của huyện luôn trong xu hƣớng tăng qua các năm. Nếu

nhƣ năm 2008 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn đạt 8,3 tỷ USD; năm

2009: 6,6 tỷ USD; năm 2010 đạt 10 tỷ USD; năm 2011: 12,6 tỷ USD; năm

2012 đạt gần 9 tỷ USD và 7 tháng đầu năm 2013 đạt trên 5.635 tỷ USD.

Đơn vị: tỷ USD

Biểu đồ 3.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa

huyện Vân Đồn giai đoạn 2008 - 2012

(Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn)

Hoạt động xuất nhập khẩu đã đem về nguồn thu lớn cho ngân sách huyện

đảo. Theo phòng kinh tế huyện Vân Đồn, số thu ngân sách từ xuất nhập khẩu

trên địa bàn đạt trung bình trên 2.000 tỷ đồng/năm. Năm 2012, trong tổng thu

ngân sách thực hiện của huyện là 29.473 tỷ đồng thì riêng số thu từ thuế xuất

80

nhập khẩu đã đạt 16.500 tỷ đồng. Nửa đầu năm 2013, tổng thu ngân sách nhà

nƣớc trên địa bàn ƣớc đạt 14.288 tỷ đồng thì thuế xuất nhập khẩu cũng đã đóng

góp 7.485 tỷ đồng.

Đơn vị: nghìn tỷ USD

Biểu đồ 3.2. Thu ngân sách từ XNK trên địa bàn Vân Đồn- Quảng Ninh

giai đoạn 2007 - 2013

(Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn)

Thông qua hiệu quả thu ngân sách, hoạt động thƣơng mại đã tác động

tích cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Số liệu từ Ban Quản

lý khu kinh tế Vân Đồn cho hay, thƣơng mại dịch vụ đã đóng góp gần 40%

GDP của huyện hàng năm. Nhƣ vậy, vận hội mới đang mở ra không chỉ cho

riêng Vân Đồn mà còn cho Quảng Ninh và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện sẽ tranh thủ thời cơ,

phát huy nội lực, năng động sáng tạo, chủ động tạo ra bƣớc đột phá, phát triển

nhanh kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh công tác quy

hoạch, đào tạo bồi dƣỡng, bố trí sử dụng cán bộ, nâng cao trình độ dân trí, đào

tạo nhân lực.

81

Tiểu kết chƣơng 3

Hoạt động kinh tế biển đã có những tác động mạnh mẽ đến tình hình

kinh tế, xã hội ở huyện đảo Vân Đồn. Về kinh tế, kinh tế biển đảm bảo tốc độ

tăng trƣởng bình quân hàng năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hƣớng tích

cực, phát huy lợi thế của địa bàn. Thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn đầu tƣ để tăng

cƣờng hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế phát triển, đồng

thời mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Về xã hội, kinh tế biển đã góp phần vào

xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân vùng ven

biển, đặc biệt ngành thuỷ sản và du lịch đã đóng một vai trò là ngành kinh tế

mũi nhọn, giải quyết đƣợc nhiều công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho

nhân dân, thu về nhiều ngoại tệ ngày càng cao cho huyện. Kinh tế biển phát

triển gắn liền với việc đảm bảo an ninh, quốc phòng, góp phần thúc đẩy sự phát

triển chung của toàn huyện đảo.

Để thực hiện thành công mục tiêu kinh tế biển, thì những yếu tố tác động

từ bên trong và bên ngoài, trên cơ sở lý luận khoa học cùng với thực tiễn, luận

văn đề xuất một số giải pháp mang tính chất chung có tính chất hỗ trợ cho kinh

tế nói chung và kinh tế biển nói riêng đó là: giải pháp về vốn, khoa học - công

nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, giải pháp về thị trƣờng và dự

báo thị trƣờng ... đặc biệt là đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục sâu rộng,

có hệ thống trong nhân dân nhằm nâng cao và tạo sự chuyển biến thực sự trong

ý thức của tất cả các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò

chiến lƣợc của biển. Để những giải pháp đó mang tính khả thi, cần phải có một

số điều khoản thực thi nhất định.

82

KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu về Kinh tế biển ở huyện đảo Vân Đồn tỉnh Quảng

Ninh (1994-2012), tác giả rút ra một số kết luận sau:

1. Vân Đồn có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển. Nằm

trên đƣờng quốc lộ 18A từ Hà Nội đi Móng Cái, cách cửa khẩu quốc tế Móng

Cái trên 100km, Vân Đồn là một huyện đảo có nhiều lợi thế về giao thông

đƣờng biển, hàng không và đƣờng bộ. Đặc biệt, Vân Đồn là điểm giao thoa của

hành lang kinh tế: một vành đai kinh tế Việt - Trung và hành lang kinh tế Nam

Ninh - Singapore, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng -

Quảng Ninh). Đây có thể nói là những lợi thế vƣợt trội và khác biệt của huyện

đảo này. Vùng biển huyện Vân Đồn nằm trong vùng biển tỉnh Quảng ninh và

giáp vùng biển vịnh Bắc Bộ; rất đa dạng về địa hình, chất đáy; có nhiều hệ sinh

thái đặc trƣng của vùng biển nhiệt đới gồm hệ sinh thái rừng ngập mặn, vùng

bãi triều, vùng rạn san hô, vùng thảm cỏ rong biển…..Vì vậy vùng biển huyện

vân Đồn rất đa dạng về các giống loài hải sản, là điều kiện rất thuận lợi để phát

triển ngành khai thác và nuôi trồng thủy hải sản. Nằm trong vùng vịnh Bái Tử

Long, bên cạnh vịnh Hạ Long, Vân Đồn có tiềm năng rất lớn để phát triển du

lịch sinh thái, du lịch văn hóa. Vân Đồn có nhiều kì quan, đảo đá, hang động có

ý nghĩa lịch sử nhƣ: hang Nhà Trò, hang Hà Giắt, Soi Nhụ.... và nhiều động đá

đẹp nhƣ động Thông Thiên trên núi Phất Cờ, có vƣờn quốc gia Bái Tử Long....

Vân Đồn còn đƣợc thiên nhiên ƣu đãi cho nhiều bãi tắm đẹp, cát mịn, nƣớc sâu,

sóng lớn nằm thoải ra biển theo hình cánh cung, tạo thành các bãi tắm lí tƣởng.

2. Kinh tế biển, một lĩnh vực lợi thế tiềm năng của địa phƣơng đang

đƣợc phát huy mạnh, nhất là từ sau khi thành lập huyện (1994). Đặc biệt, từ sau

khi Đề án phát triển kinh tế - xã hội Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn đƣợc Thủ

tƣớng Chính Phủ phê duyệt (2006) cùng với việc cầu Vân Tiên dự kiến khởi

83

công.... là lợi thế thu hút các nhà đầu tƣ đến với Vân Đồn, tạo động lực thúc

đẩy các ngành, các thành phần kinh tế của địa phƣơng phát triển bền vững. Tại

khu kinh tế Vân Đồn hiện đã và đang triển khai 22 dự án hạ tầng kỹ thuật với

tổng mức đầu tƣ 4.587 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tƣ hạ tầng khu kinh tế đã cân

đối cho các dự án đến năm 2012 là 597 tỷ đồng. Thế mạnh của huyện là khai

thác lợi thế của biển đảo, vậy nên, Đảng bộ huyện Vân Đồn đã triển khai thực

hiện tốt chủ trƣơng của Trung ƣơng và chƣơng trình của tỉnh Quảng Ninh về

phát triển kinh tế biển đảo theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung

mọi nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho việc phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng mà mũi nhọn là ngành thuỷ sản

và phát triển du lịch.

3. Từ một huyện đảo nghèo, đời sống kinh tế khó khăn, trình độ dân trí

còn hạn chế, giờ đây Vân Đồn đã có những bƣớc tiến dài trên chặng đƣờng

phát triển mới bằng việc đánh thức tiềm năng và lợi thế. Phát triển ngành kinh

tế mũi nhọn là thủy sản và du lịch, tranh thủ các nguồn vốn đầu tƣ để đẩy mạnh

xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó, ƣu tiên các công trình thiết thực nhất đối

với công tác đảm bảo an sinh xã hội. Hệ thống đô thị và kết cấu hạ tầng có

bƣớc phát triển mạnh mẽ tạo động lực để khu kinh tế tổng hợp đƣợc hình thành

và bắt đầu phát triển, quốc phòng - an ninh đƣợc giữ vững.

4. Mặc dù kinh tế biển đóng một vai trò quan trọng trong chiến lƣợc

phát triển kinh tế của Vân Đồn, song phát triển kinh tế biển chƣa thật sự

tƣơng xứng với tiềm năng, thế mạnh của huyện, hiệu quả đƣa lại còn thấp;

quy mô còn nhỏ bé, vận tải hàng hải chƣa phát triển, du lịch biển mới bƣớc

đầu khởi sắc. Lợi thế về tự nhiên chƣa đƣợc khai thác một cách triệt để, chủ

yếu chỉ tập trung ở ngành nuôi trồng thuỷ sản và du lịch; các hoạt động kinh

tế biển khác nhƣ khai thác hải sản xa bờ, công nghiệp đóng tàu, vận tải biển,

84

cảng biển, phát triển rừng ngập mặn, nghề muối và các hoạt động dịch vụ

khai thác liên quan đến biển, ven biển còn phát triển chậm và đầu tƣ chƣa

đúng mức. Có thể nói, kinh tế biển của Vân Đồn quy mô phát triển còn nhỏ,

cơ sở hạ tầng, trình độ lực lƣợng sản xuất tham gia vào hoạt động kinh tế

biển còn yếu. Cơ cấu các ngành kinh tế biển chƣa đồng đều, thiếu đồng bộ ít

có sự liên kết của các ngành trong kinh tế biển.

5. Để thực hiện thành công phát triển kinh tế biển, Vân Đồn cần nâng

cao hơn nữa nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vị trí, vai trò to lớn của kinh

tế biển trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng

bảo vệ chủ quyền quốc gia. Ban hành các chính sách kích cầu để khuyến khích

các thành phần đầu tƣ vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát

triển kinh tế biển. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn đầu tƣ. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tƣ từ nhiều nguồn trong và

ngoài nƣớc để phát triển những ngành mũi nhọn, tạo điều kiện cho nền kinh tế

phát triển. Ban hành chính sách hỗ trợ các ngành, doanh nghiệp trực tiếp tham

gia vào các thành phần kinh tế biển, cung cấp các dịch vụ thông tin về thị

trƣờng, các dịch vụ hạ tầng khác. Xây dựng chƣơng trình và đa dạng hoá hình

thức đào tạo phù hợp với từng đối tƣợng và định hƣớng phát triển kinh tế - xã

hội vùng biển, ven biển, bao gồm chƣơng trình đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ

công nhân kỹ thuật, lao động quản lý, đội ngũ doanh nhân.

Tóm lại, với tiềm năng giàu có về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên,

văn hóa du lịch, Vân Đồn có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế biển đảo. .

Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện đảo không ngừng chú trọng

và phát huy lợi thế từ biển để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo

an ninh quốc phòng. Huyện đã và đang từng bƣớc áp dụng khoa học, công nghệ

tiên tiến đƣa vào sử dụng, khai thác kinh tế biển. Chính vì vậy, kinh tế biển ở

85

Vân Đồn đã có bƣớc phát triển đáng kể, cơ cấu ngành nghề đang có sự thay đổi

tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng từ biển cho

quá trình tăng trƣởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

cho nhân dân trong huyện, đóng góp cho sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu.

Tăng năng suất, hiệu quả kinh tế, không ngừng nâng cao chất lƣợng của sản

phẩm. Việc thu hút đầu tƣ, triển khai các dự án, khai thác tối đa tiềm năng và

lợi thế của biển, vùng ven biển và hải đảo đã góp phần tạo thêm thế và lực mới

để huyện đảo Vân Đồn phát triển kinh tế bển nói riêng và kinh tế - xã hội nói

chung, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Và, để kinh tế biển phát triển một

cách bền vững, đặc biệt là du lịch và thuỷ sản cần phải có những giải pháp

mang tính chất khả thi, toàn diện và bền vững.

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo đánh giá tổng kết hoạt động kinh tế - xã hội của UBND huyện

Vân Đồn qua các năm 2006.

2. Báo cáo đánh giá tổng kết hoạt động kinh tế - xã hội của UBND huyện

Vân Đồn qua các năm 2010.

3. Báo cáo đánh giá tổng kết hoạt động kinh tế - xã hội của UBND huyện

Vân Đồn qua các năm 2011.

4. Báo cáo đánh giá tổng kết hoạt động kinh tế - xã hội của UBND huyện

Vân Đồn qua các năm 2012.

5. Phạm Thái Cảnh (2002), “Khu kinh tế Vân Đồn - Đòn bẩy thu hút các

nhà đầu tƣ”, Báo Quảng Ninh số 5129.

6. Phạm Thái Cảnh (2002), “Thủy sản - Con đƣờng làm giàu của Vân

Đồn”, Báo Quảng Ninh số 5240+5241.

7. Nguyễn Xuân Cƣờng (2003), “Vân Đồn - Tiềm năng đang đƣợc đánh

thức”, Báo Quảng Ninh số 5459.

8. Văn Du (2012), “Khu kinh tế Vân Đồn - Từng bƣớc hiện thực hóa quy

hoạch”, Báo Quảng Ninh số 8285.

9. Nguyễn Văn Đọc (2005), “Vân Đồn - Vùng kinh tế sôi động”, Báo Quảng

Ninh số 5978.

10. Nguyễn Hằng (2004), “Tạo đà cho bƣớc chuyển mình toàn diện”, Báo

Quảng Ninh số 5780.

11. Thu Hằng (2006), “Ngành thủy sản Vân Đồn - Mở rộng đối tƣợng nuôi

tạo hƣớng phát triển bền vững”, Báo Quảng Ninh số 6293(20/3/2006)

12. Nguyễn Quang Huy (2003), “Vân Đồn - Hiệu quả của chƣơng trình kinh

tế biển đảo”, Báo Quảng Ninh, số 5430..

13. Lan Hƣơng (2006), “Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hƣớng bền

vững”, Báo Quảng Ninh số 6304.

87

14. Lan Hƣơng (2006), “UBND bàn kế hoạch phát triển kinh tế tổng hợp

Vân Đồn”, Báo Quảng Ninh số 6316.

15. Lan Hƣơng (2006), “Viên ngọc sáng ở biển Vân”, Báo Quảng Ninh số 6466.

16. Tuấn Hƣơng (2006), “Phát triển kinh tế - xã hội biển đảo theo hƣớng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Báo Quảng Ninh số 6518.

17. Nguyễn Trọng Khang (2002), “Biển ngọc Vân Đồn”, Báo Quảng Ninh

số 5282.

18. Nguyễn Trọng Khang (2004), “Phát triển kinh tế biển đảo Vân Đồn-

Khởi động và tạo đà”, Báo Quảng Ninh số 5796 (09/8/2004).

19. Trọng Khang (2006), “Thƣơng cảng xƣa - Quan Lạn nay”, Báo Quảng Ninh

số 6390.

20. Đỗ Khánh (2005), “Bãi Dài - Điểm du lịch còn vắng bóng du khách”,

Báo Quảng Ninh số 6035 (18/5/2005).

21. Ngọc Lan (2006), “Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn”, Báo Quảng Ninh

số 6322.

22. Ngọc Lan (2012), “Khu kinh tế Vân Đồn - Trung tâm động lực vùng

kinh tế ven biển”, Báo Quảng Ninh số 8092.

23. Nguyễn Lâm (2005), “Để Vân Đồn trở thành trung tâm du lịch hấp dẫn”,

Báo Quảng Ninh số 6040.

24. Quang Minh (2012), “Vân Đồn - Đánh thức tiềm năng kinh tế biển”, Báo

Quảng Ninh số 8095+8096+8097+8098(Xuân Nhâm Thìn 2012).

25. Quế Minh (2006), “Diện mạo mới Vân Đồn”, Báo Quảng Ninh số 6388.

26. Quế Minh (2012), “Khẳng định thế mạnh nuôi trồng thủy sản”, Báo

Quảng Ninh số 8077.

27. Minh Nguyệt (2006), “Cần khôi phục nghề làm nƣớc mắm thủ công ở

Vân Đồn”, Báo Quảng Ninh số 6475.

28. Minh Nguyệt (2012), “Khu kinh tế Vân Đồn - Đòn bẩy thu hút các nhà

đầu tƣ”, Báo Quảng Ninh số 8121.

88

29. Đỗ Văn Ninh (1973), Tìm lại dấu vết Vân Đồn lịch sử, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

30. Đỗ Văn Ninh (1997), Huyện đảo Vân Đồn, UBND huyện Vân Đồn.

31. Đỗ Văn Ninh (2001), Thương cảng Vân Đồn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

32. Trần Minh (2006), “Diện mạo của Vân Đồn sẽ hoàn toàn khác”, Báo

Quảng Ninh số 6268.

33. Trƣờng Quân (2012), “Lƣợng khách tàu biển ở Quảng Ninh sẽ tăng

mạnh”, Báo Quảng Ninh số 8085.

34. Nguyễn Mai Sơn (2001), “Vân Đồn - Biển đảo và du lịch”, Báo Quảng Ninh

cuối tuần số 27.

35. Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ninh - Ban quản lý di tích danh thắng: Lý

lịch di tích Thương cảng Vân Đồn - Bến Cái Làng, H.2003.

36. Phƣơng Ngọc Thạch (2005), “Kinh tế, xã hội tuyến biển đảo - Đã có

bƣớc phát triển cả về chất và lƣợng”, Báo Quảng Ninh số 6031.

37. Vũ Công Thành (2006), “Nghề đào Sá Sùng ở Quan Lạn”, Báo Quảng

Ninh, số 6366,

38. Vũ Công Thành (2006), “Bản Sen - Vân Đồn, phát triển nuôi trồng thủy

sản”, Báo Quảng Ninh, số 6385.

39. Vũ Công Thành (2006), “Vân Đồn đẩy mạnh phát triển kinh tế”, Báo

Quảng Ninh, số 6434.

40. Vũ Công Thành (2006), “Vân Đồn - Nỗi băn khoăn trƣớc vận hội mới”,

Báo Quảng Ninh số 6495.

41. Nguyễn Thái (2002), “Du lịch Vân Đồn - Cô bé lọ lem đang trở thành

nàng công chúa”, Báo Quảng Ninh, số 5294.

42. Nguyễn Ngọc Thọ (2004), “Cần có giải pháp tháo gỡ khó khăn để đẩy

mạnh nuôi trồng và đánh bắt thủy sản”, Báo Quảng Ninh số 5779.

43. Nguyễn Trang (2003), “Vân Đồn đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản”, Báo

Quảng Ninh số 5458.

89

44. Hiểu Trân (2006), “Du lịch Vân Đồn cất cánh”, Báo Quảng Ninh, số 6430.

45. Dƣơng Trƣờng (2006), “Xã Thắng Lợi huyện Vân Đồn tập trung phát

triển nuôi trồng đánh bắt thủy sản”, Báo Quảng Ninh số 6453.

46. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2002), Địa chí tỉnh Quảng

Ninh, NXB Thế giới mới, Hà Nội.

47. Hữu Việt (2005), “Vân Đồn tạo bƣớc đột phá phát triển kinh tế thủy

sản”, Báo Quảng Ninh số 6006.

48. Trần Ngọc Xuân (2012), “Nuôi nhuyễn thể - Thế mạnh thủy sản Quảng

Ninh”, Báo Quảng Ninh, số 8088

90

PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TIỀM NĂNG, LỢI THẾ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH BIỂN CỦA VÂN ĐỒN - QUẢNG NINH

Vân Đồn mộng mơ trong mây Vẻ đẹp quyến rũ của đảo Quan Lạn

Bãi Quan Lạn

Ảnh: Trí Dũng -TTXVN

Chùa Cái Bầu - Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm

Ảnh: tác giả chụp

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TIỀM NĂNG, LỢI THẾ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH BIỂN CỦA VÂN ĐỒN - QUẢNG NINH

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khảo sát thực địa “Khu Hành chính - Kinh tế đặc biệt Vân Đồn”.

Ảnh: Trí Dũng - TTXVN Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khảo sát thực địa “Khu Hành chính - Kinh tế đặc biệt Vân Đồn”

Phối cảnh khu kinh tế Vân Đồn

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thị sát khu kinh tế Vân Đồn

(Nguồn: quangninh.gov.vn)

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở VÂN ĐỒN - QUẢNG NINH

Khách du lịch thăm Chùa Cái Bầu - Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm

Ảnh: tác giả chụp Xe tuktuk - phương tiện di chuyển chính của du khách trên các xã đảo Quan Lạn, Minh Châu

Ảnh: Việt Cường - TTXVN

Du khách khám phá vẻ đẹp hoang sơ của Quan Lạn

Ảnh: Trọng Chính - TTXVN

Những ngôi nhà nghỉ dưỡng thanh bình của Vân Hải Viglacera Resort trên đảo Quan Lạn

Ảnh: Việt Cường - TTXVN

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC, NUÔI TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN THỦY HẢI SẢN Ở VÂN ĐỒN - QUẢNG NINH

Hải sản đánh bắt ở biển Vân Đồn

Công ty Taiheiyo Shinju Viet Nam của Nhật Bản đầu tư phát triển nghề nuôi trai lấy ngọc tại Vân Đồn

Ảnh: Trọng Chính - TTXVN

Nuôi trồng thủy hải sản

Ảnh: Việt Cường - TTXVN

Tôm đánh bắt về cảng Cái Rồng

Ảnh: Hồng Kỳ - TTXVN