BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ NGỌC THUẬN
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÂN CẤP CHI Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh, 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ NGỌC THUẬN
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÂN CẤP CHI Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
Tp. Hồ Chí Minh, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các thông
tin, số liệu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng, cụ thể. Kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Học viên
Bùi Thị Ngọc Thuận
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .................................................................. - 1 -
1. Đặt vấn đề nghiên cứu ........................................................................................ - 1 -
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài ........................ - 2 -
2.1 Các nghiên cứu ngoài nước .......................................................................... - 2 -
2.2 Các nghiên cứu trong nước ........................................................................... - 3 -
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... - 5 -
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu ................................................................. - 5 -
4.1 Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... - 5 -
4.1.1 Phạm vi không gian ................................................................................ - 5 -
4.1.2 Phạm vi thời gian .................................................................................... - 5 -
4.2 Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. - 6 -
4.2.1 Dữ liệu .................................................................................................... - 6 -
4.2.2 Mô hình nghiên cứu ............................................................................... - 6 -
5. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................... - 7 -
6. Kết cấu của báo cáo nghiên cứu ......................................................................... - 8 - CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾ T VÀ TỔ NG QUAN NGHIÊN CỨ U ........ - 9 -
2.1 Cơ sở lý thuyết ................................................................................................. - 9 -
2.1.1 Khái niệm phân cấp ................................................................................... - 9 -
2.1.2 Nội dung phân cấp ..................................................................................... - 9 -
2.1.3 Khái niệm chuyển giao ngân sách ........................................................... - 10 -
2.1.4 Đặc điểm của chuyển giao ngân sách nhà nước giữa trung ương và địa
phương .............................................................................................................. - 12 -
2.1.5 Phân cấp tài khóa và tăng trưởng kinh tế................................................. - 13 -
2.2 Các bằng chứng thực nghiệm ......................................................................... - 13 -
2.2.1 Sự phụ thuộc giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp tài khóa ........... - 13 -
2.2.1.1 Mối tương quan nghịch biến ............................................................. - 14 -
2.2.1.2 Mối tương quan đồng biến ................................................................ - 14 -
2.2.2. Sự phát triển kinh tế và phân cấp tài khóa .............................................. - 15 -
2.2.2.1 Sự phát triển kinh tế tương quan âm với phân cấp tài khóa .............. - 16 -
2.2.2.2 Sự phát triển kinh tế tương quan dương với phân cấp tài khóa ........ - 17 -
2.2.3 Quy mô dân số đồng biến và mật độ dân số nghịch biến với phân cấp tài
khóa ................................................................................................................... - 19 -
2.2.4 Mở rộng thương mại và phân cấp tài khóa .............................................. - 19 -
2.2.5 FDI và phân cấp tài khóa ......................................................................... - 20 -
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. - 21 -
3.1 Định nghĩa các biến ........................................................................................ - 21 -
3.1.1 Biến phụ thuộc ......................................................................................... - 21 -
3.1.2 Biến độc lập ............................................................................................. - 22 -
3.2 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ - 24 -
3.2.1 Phương pháp hồi quy ............................................................................... - 24 -
3.2.2 Các kiểm định mô hình ............................................................................ - 26 -
3.2.2.1 Hiện tượng đa cộng tuyến ................................................................. - 26 -
3.2.2.2. Hiện tượng phương sai thay đổi ....................................................... - 27 -
3.2.2.3. Hiện tượng tự tương quan ................................................................ - 27 -
3.2.2.4. Hiện tượng nội sinh .......................................................................... - 28 -
3.3 Phương pháp hồi quy GMM .......................................................................... - 28 -
3.3.1 Tại sao không OLS, trường hợp GMM ? ............................................. - 28 -
3.3.2 Thủ tục ước lượng GMM và kiểm định cơ bản.................................... - 30 -
3.3.3 Tính chất của phương pháp ước lượng GMM. ..................................... - 32 -
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... - 33 -
4.1 Phân tích thống kê mô tả ................................................................................ - 34 -
4.2 Kiểm định sự tương quan và đa cộng tuyến ................................................... - 35 -
4.2.1 Ma trận tương quan đơn tuyến tính giữa các cặp biến ............................ - 35 -
4.2.2 Kiểm định đa cộng tuyến ......................................................................... - 37 -
4.3 Kiểm định lựa chọn mô hình Pooled và mô hình dữ liệu bảng FEM ............ - 37 -
4.4 Kiểm định lựa chọn mô hình Pooled và mô hình dữ liệu bảng REM ............ - 38 -
4.5 Kiểm định lựa chọn mô hình FEM và mô hình dữ liệu bảng REM ............... - 39 -
4.6 Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi phần dư trên dữ liê ̣u bảng - Greene
(2000) ................................................................................................................... - 39 -
4.7 Kiểm định hiện tượng tự tương quan phần dư trên dữ liê ̣u bảng– Wooldridge
(2002) và Drukker (2003) .................................................................................... - 40 -
4.8 Phân tích kết quả hồi quy FEM, REM, FGLS ............................................... - 41 -
4.9 Phân tích kết quả hồi quy GMM .................................................................... - 44 -
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN .................................................................................. - 47 -
5.1 Kết luận chung .............................................................................................. - 47 -
5.2 Gợi ý chính sách ............................................................................................ - 49 -
5.3 Hạn chế đề tài ................................................................................................ - 54 -
5.4 Hướng mở rộng đề tài ................................................................................... - 54 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
PHỤ LỤC 5
PHỤ LỤC 6
PHỤ LỤC 7
PHỤ LỤC 8
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3. 1 Thống kê mô tả các biến định lượng trong mô hình hồi quy .............. - 23 -
Bảng 4. 1 Thống kê mô tả giữa các biến trong mô hình ...................................... - 34 -
Bảng 4. 2 Kết quả ma trận tương quan ................................................................ - 36 -
Bảng 4. 3 Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai .... - 37 -
Bảng 4. 4 Kết quả kiểm định lựa chọn Pooled và FEM ....................................... - 38 -
Bảng 4. 5 Kết quả kiểm định lựa chọn Pooled và REM ...................................... - 38 -
Bảng 4. 6 Kết quả kiểm định lựa chọn FEM và REM ......................................... - 39 -
Bảng 4. 7 Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi mô hình ................................... - 40 -
Bảng 4. 8 Kết quả kiểm tra tự tương quan mô hình ............................................. - 41 -
Bảng 4. 9 Kết quả hồi quy mô hình ..................................................................... - 42 -
Bảng 4. 10 Kết quả hồi quy mô hình đối chiếu – GMM...................................... - 45 -
- 1 -
Chương 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Phân cấp tài khoá có nghĩa là chuyển sức mạnh của chính quyền cấp trên tới
chính quyền cấp dưới, là một phần trong nhóm giải pháp cải cách khu vực công, tăng
tính cạnh tranh của các chính quyền cấp dưới trong việc cung cấp hàng hoá dịch vụ
công và thoát khỏi tình trạng tăng trưởng kinh tế chậm (Bahl and Linn, 1992 và Bird
and Wallich, 1993). Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào việc chuyển giao
quyền lực trong khu vực công (Tiebout, 1956; Oates, 2005). Hoặc nghiên cứu về tác
động của phân cấp tài khóa lên tăng trưởng kinh tế dài hạn. Tuy nhiên các tác nhân
tác động đến sự phân cấp tài khóa vẫn còn ít được nghiên cứu.
Dựa vào nghiên cứu của Alfred M. Wu và Wen Wang năm 2013 về các yếu tố
tác động đến phân cấp chi tiêu ở các cấp dưới tỉnh ở Trung Quốc. Cũng như đánh giá
thấy giữa Việt Nam và Trung Quốc có một số điểm tương đồng về phân cấp tài khóa
như phân chia thành ngân sách trung ương và ngân sách địa phương trong đó ngân
sách trung ương nắm vai trò chủ đạo, đảm bảo những khoản chi lớn, có ảnh hưởng
lan tỏa đến địa phương, còn chính quyền địa phương thực hiện các dịch vụ công chỉ
đem lại lợi ích cho địa phương đó, không lan tỏa đến các địa phương khác.
Mặt khác từ sau khi Việt Nam thực hiện Luật Ngân sách năm 2002 (có hiệu
lực từ 1/1/2004). Phân cấp tài khóa ở Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể
như nâng cao tính chủ động, tích cực cũng như trách nhiệm của chính quyền địa
phương hơn trước. Nhưng thực tế tác động của sự chuyển giao nguồn lực từ ngân
sách trung ương đến ngân sách địa phương đến phân cấp tài khóa như thế nào vẫn
còn là một câu hỏi bỏ ngỏ, cũng là một vấn đề rất đáng để nghiên cứu tìm hiểu. Bởi
lẽ, nếu mọi nguồn thu của chính quyền địa phương đều dưới dạng chuyển giao tài
chính từ chính quyền trung ương thì trên thực tế chính quyền trung ương là người
quyết định ngân sách của địa phương, làm suy yếu bản chất của sự phân cấp tài khóa.
- 2 -
Trên cơ sở đó, bài nghiên cứu này đã đưa ra ý tưởng về mô hình nghiên cứu
đánh giá các yếu tố tác động đến phân cấp chi tiêu ở cấp địa phương của Việt Nam.
Trong đó xem xét tác động của sự lệ thuộc chuyển giao, phát triển kinh tế, quy mô và
mật độ dân số, độ mở thương mại và FDI đến phân cấp chi tiêu như thế nào. Ngoài
ra, cơ cấu ngành công nghiệp và kinh tế ở một tỉnh có thể có ảnh hưởng tiềm năng
đến các mô hình chi tiêu của địa phương. Các vấn đề này sẽ được giải thích rõ ràng
hơn ở phần mô hình.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
2.1 Các nghiên cứu ngoài nước
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào việc chuyển giao quyền lực
trong khu vực công (Tiebout, 1956; Oates, 2005). Hoặc tác động của phân cấp tài
khóa trong quản trị công (Prud’homme, 1995; Rodden và Wibbels, 2002; Uchimura
và Jutting, 2009). Đặc biệt có rất nhiều các nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa
phân cấp tài khóa với tăng trưởng kinh tế dài hạn. Khả năng tác động của mức độ
phân cấp tài khoá đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển cũng được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Một số nghiên cứu điển hình như: Davoodi, Xie,
Zhou (1995) , Zhang và Zhou (1997, 1998), Davoodi và Zhou (1998), Woller và
Phillips (1998), Lin và Liu (2000)... Theo các nghiên cứu của Zhang và Zhou (1997)
và Lin và Liu (2000), phân cấp tài khoá có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh
tế lần lượt tại Ấn Độ và Trung Quốc. Trong khi nhiều nghiên cứu khác cho kết quả
là sự phân cấp tài khoá làm chậm tốc độ tăng trưởng, ví dụ như Zhang và Zhou (1998)
đối với Trung Quốc, Davoodi, Xie, Zhou (1995) đối với Mĩ và Davoodi và Zhou
(1998) đối với mẫu nghiên cứu bao gồm các nước phát triển và đang phát triển.
Những tác động của sự chuyển giao ngân sách từ chính quyền liên bang (hay
chính quyền trung ương) đến chính quyền địa phương lên chi tiêu địa phương đã được
tìm hiểu một cách rộng rãi qua các nghiên cứu học thuật như hiệu ứng giấy bẫy ruồi.
Tuy nhiên đây chỉ là các nghiên cứu lý thuyết, dựa trên các giả định ( ví dụ như cử tri
trung dung). Về nghiên cứu thực nghiệm, Freikman và Plekhanov vào năm 2009, khi
nghiên cứu mối quan hệ giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp tài khóa các khu
- 3 -
vực ở Nga, đã đưa ra nhận định khi các điều khác không đổi thì ở các khu vực có sự
lệ thuộc chuyển giao càng cao thì sự phân cấp tài khóa sẽ càng thấp. Tức những khu
vực dựa nhiều vào chuyển giao của liên bang có xu hướng có hệ thống tài chính tập
trung hơn.
Năm 2013, Alfred M. Wu và Wen Wang đã đặt ra một vấn đề mới, đó là các
nhân tố nào tác động lên các quyết định phân cấp chi tiêu ở Trung Quốc. Sau khi làm
các nghiên cứu thực nghiệm, tác giả không chỉ đưa ra những kết luận về những nhân
tố tác động lên phân cấp chi mà còn đưa ra các lập luận giải thích cho mối quan hệ
âm giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu ở Trung Quốc. Dựa trên dữ liệu
ở mức độ cấp tỉnh, địa khu và huyện ở Trung Quốc, nghiên cứu của Wu và Wang đã
tạo ra một kết quả thực nghiệm giúp xác định các yếu tố quyết định phân cấp chi tiêu
của Trung Quốc cũng như các nước đang phát triển. Như vậy, nghiên cứu các yếu tố
tác động lên phân cấp chi tiêu là lĩnh vực hết sức mới mẻ để đào sâu tìm hiểu và phân
tích.
2.2 Các nghiên cứu trong nước
Hiện nay trong nước cũng đã có rất nhiều những nghiên cứu liên quan đến
phân cấp tài khóa. Liên quan đến vấn đề thể chế trong phân cấp tài khóa, Bùi Đường
Nghiêu (2006) đã phân tích những vấn đề lí luận cơ bản về điều hòa ngân sách; thực
trạng cơ chế điều hòa ngân sách Việt Nam; kinh nghiệm quốc tế và những giải pháp
hoàn thiện cơ chế điều hòa ngân sách nhà nước Việt Nam. Lê Chi Mai (2006) cũng
đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về phân cấp ngân sách - bao gồm cả thẩm
quyền quyết định ngân sách và thẩm quyền quản lý ngân sách; các giải pháp nhằm
tăng cường phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương ở nước ta. Các nghiên
cứu này nói chung đều đưa ra kết luận ủng hộ quá trình phân cấp tài khóa ở Việt Nam,
có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các kết quả thực nghiệm đã minh chứng sự tồn tại mối quan hệ giữa
phân cấp tài khóa và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chiều hướng tác động của phân
cấp tài khóa lên tăng trưởng kinh tế có thể âm (-) hoặc dương (+) tùy theo bộ dữ liệu
- 4 -
của nghiên cứu thực nghiệm. Nguyễn Phi Lân (2009) với số liệu thu thập được ở 61
tỉnh thành của Việt Nam chỉ ra rằng phân cấp tài khoá có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế tại các địa phương ở Việt Nam.
Nguyễn Khắc Minh (2008) từ số liệu mảng cho 34 tỉnh thành của Việt Nam
trong giai đoạn 2000 – 2005 cùng với phương pháp tiếp cận tham số (dựa trên hàm
sản xuất ngẫu nhiên) và phương pháp tiếp cận phi tham số (dựa trên DEA) đã chỉ ra
tính phi hiệu quả trong chi tiêu công tồn tại trong cả chi tiêu công và đầu tư công
hàng năm.
Cũng nhằm mục đích xem xét mối quan hệ giữa cơ cấu chi ngân sách và tăng
trưởng kinh tế Phạm Thế Anh (2008b) đã dùng số liệu thu thập được từ 61 tỉnh thành
ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005. Tác giả chia chi đầu tư và thường xuyên
thành năm ngành khác nhau, kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu ứng tích cực hơn của
các khoản chi đầu tư so với chi thường xuyên trong một số ngành và ngược lại chi
thường xuyên có tác động tích cực hơn đối với chi đầu tư trong một số ngành khác.
Hoàng Thị Chinh Thon và cộng sự (2010) đã đánh giá, phân tích tác động của
chi tiêu cấp tỉnh và cấp huyện đến tăng trưởng của địa phương. Kết quả hồi quy được
cho thấy nguồn chi cho đầu tư cấp huyện cần được tăng cường, trong khi chi tiêu đầu
tư cấp tỉnh nên giảm để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Mai Đình Lâm (2012) với dữ liệu nghiên cứu giai đoạn 1990 – 2011, bằng
phương pháp kiểm định OLS nghiên cứu phát hiện: (i) chi tiêu địa phương tổng thể
có tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế; (ii) xét về cơ cấu, chi đầu tư địa phương
có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế, nhưng lại chưa tìm thấy tác động của chi
thường xuyên địa phương; (iii) phân cấp nguồn thu địa phương tác động tích cực tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên chưa tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa giữa chuyển giao tài
khóa của trung ương cho địa phương với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, độ mở thương
mại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, trong khi tác động của lạm phát và lực
lượng lao động không có ý nghĩa.
- 5 -
Có thể nhận thấy ở Việt Nam, một nghiên cứu riêng lẻ nhân tố nào tác động
lên sự thay đổi trong phân cấp chi tiêu là chưa được thực hiện.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này sẽ tìm hiểu sự thay đổi trong phân cấp chi tiêu giữa các
cấp dưới tỉnh của Việt Nam. Từ đó đưa ra câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu : tác
nhân nào dẫn đến sự thay đổi trong phân cấp chi tiêu cấp địa phương ở Việt Nam?
Trên cơ sở đó, mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là xác định sự lệ thuộc chuyển
giao, phát triển kinh tế, mật độ dân số, độ mở thương mại, và FDI có tác động như
thế nào đến phân cấp chi địa phương của Việt Nam. Dựa trên kết quả phân tích cố
gắng đưa ra những gợi ý chính sách cải thiện hệ thống phân cấp chi của Việt Nam.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phạm vi nghiên cứu
4.1.1 Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu những tác nhân có thể tác động làm thay đổi phân cấp chi
tiêu ở 63 tỉnh thành của Việt Nam. Tuy rằng tính đến nay, Việt Nam có 64 tỉnh thành
nhưng do những thay đổi trong quá trình phát triển đất nước như nhập tách tỉnh. Cuối
năm 2003 đầu 2004 thì Lai Châu tách thành Lai Châu và Điện Biên; Đắc Lắc tách
thành Đắc Lắc và Đắc Nông; Cần Thơ tách thành Cần Thơ và Hậu Giang. Cho nên
không có dữ liệu các tỉnh Điện Biên, Đắc Nông, Hậu Giang năm 2002 và 2003. Ngoài
ra năm 2008, Hà Tây sáp nhập với Hà Nội cho nên tỉnh Hà Tây không được lựa chọn
vào mẫu nghiên cứu.
4.1.2 Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu những tác nhân có thể tác động làm thay đổi phân cấp chi
tiêu ở Việt Nam từ năm 2002 đến 2012. Tức từ khi Việt Nam bắt đầu áp dụng Luật
Ngân Sách.
- 6 -
4.2 Phương pháp nghiên cứu
4.2.1 Dữ liệu
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp, phân tích số liệu của 63 Tỉnh thành
thuộc Việt nam với cỡ mẫu là 693 quan sát trong thời gian từ năm 2002-2012. Đề tài
lấy dữ liệu về phân cấp chi tiêu, số liệu về sự lệ thuộc chuyển giao, phát triển kinh tế,
quy mô và mật độ dân số, độ mở thương mại và FDI trong các báo cáo hàng năm của
Tổng cục Thống kê và Bộ Tài Chính.
4.2.2 Mô hình nghiên cứu
Đề tài dựa vào mô hình nghiên cứu trước đó của Alfred M. Wu và Wen Wang
(2013), nghiên cứu các yếu tố quyết định đến phân cấp chi ở các cấp dưới tỉnh của
Trung Quốc. Mô hình nghiên cứu thực nghiệm bao gồm các biến độc lập và biến phụ
thuộc sau:
Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc – biến phân cấp tài khóa được đo lường bởi tỷ lệ chi tiêu công
dưới tỉnh với tỷ lệ chi tiêu công toàn tỉnh và dưới tỉnh.
Biến độc lập
Sự lệ thuộc chuyển giao: biến này cho chúng ta thấy mức độ chi
tiêu của tỉnh được tài trợ bởi nguồn ngân sách trung ương. Tử số của biến
là chuyển giao từ trung ương đến tỉnh, bao gồm cả các cấp dưới tỉnh. Mẫu
của biến là tổng chi tiêu của các cấp chính quyền địa phương trong một tỉnh.
Phát triển kinh tế được đo lường bởi GDP bình quân đầu người
ở cấp tỉnh.
Mật độ dân số được đo bằng số lượng dân cư trên mỗi km vuông
diện tích đất ở một tỉnh nhất định.
Độ mở của thương mại được đo bằng tỉ lệ xuất nhập khẩu so với
GDP của tỉnh.
- 7 -
FDI biểu thị khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một
tỷ lệ trong GDP của tỉnh.
Ngoài ra cơ cấu ngành công nghiệp và kinh tế ở mỗi tỉnh cũng
có thể ảnh hưởng tiềm năng đến mô hình chi tiêu của địa phương.
Trong phương pháp thực hiện hồi quy cho mô hình này, tác giả sẽ lần lượt tiếp
cận các mô hình từ đơn giản đến phức tạp, với mục đích là khắc phục các khuyến
khuyết kiểm định của mô hình hồi quy. Đầu tiên tác giả sử dụng phương pháp thống
kê mô tả để có cái nhìn toàn diện về dữ liệu, phát hiện những quan sát sai khác trong
cỡ mẫu.
Sau đó tác giả kiểm định lựa chọn mô hình Pooled OLS, mô hình hồi quy dữ
liệu bảng hiệu ứng tác động cố định (Fixed effect – FEM) hay hồi quy dữ liệu bảng
hiệu ứng tác động ngẫu nhiên (Random effect – REM) phù hợp với mẫu nghiên cứu
của mô hình. Tuy nhiên FEM, REM không thể kiểm soát được hiện tượng phương
sai thay đổi và tự tương quan. Do đó để phát hiện các khiếm khuyết dữ liệu mẫu tác
giả tiến hành kiểm định Greene (2000), Wooldridge (2002) và Drukker (2003). Tác
giả cũng sử dụng phương pháp kiểm soát hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương
quan trên FGLS. Cuối cùng, tác giả tiến hành hồi quy đối chiếu mở rộng GMM để
giải quyết cả hiện tượng tự tương quan, phương sai thay đổi và nội sinh trong hồi
quy.
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài thực hiện nghiên cứu thực nghiệm đánh giá các yếu tố nào tác động lên
phân cấp chi ở Việt Nam trên bộ dữ liệu thứ cấp, phân tích số liệu của 63 tỉnh thành
thuộc Việt Nam với cỡ mẫu là 693 quan sát trong thời gian từ năm 2002-2012. Có
thể nhận thấy ở Việt Nam, một nghiên cứu riêng lẻ nhân tố nào tác động lên sự thay
đổi trong phân cấp chi tiêu là chưa được thực hiện. Do đó, đề tài đã góp phần đưa ra
những bằng chứng mới về những tác động của sự lệ thuộc chuyển giao, phát triển
kinh tế, mật độ dân số, độ mở cửa thương mại và FDI đến phân cấp chi tiêu của Việt
Nam.
- 8 -
6. Kết cấu của báo cáo nghiên cứu
Nội dung chính của luận văn bao gồm 5 chương, được trình bày cụ thể theo
trình tự sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài
Trong chương này, tác giả sẽ làm rõ lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu, các vấn đề cần nghiên cứu đồng thời giới thiệu tổng quan về phương
pháp nghiên cứu và ý nghĩa khi thực hiện đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu
Trong chương này, tác giả sẽ tổng hợp cơ sở lý luận khoa học, những nghiên
cứu thực nghiệm trên thế giới về những yếu tố tác động đến phân cấp chi.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tiến hành phân tích thực nghiệm bằng cách sử dụng một bộ dữ liệu
bảng với 693 mẫu quan sát từ 63 tỉnh thành của Việt Nam từ năm 2002 đến năm
2012. Trình bày phương pháp nghiên cứu được sử dung để tiếp cận, xây dựng cũng
như đánh giá các khái niệm nghiên cứu và kiểm nghiệm lý thuyết trong mô hình.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Trong chương này, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các
yếu tố tác động đến phân cấp chi ở Việt Nam. Trên cơ sở đó phân tích mức độ ảnh
hưởng ra sao, tác động như thế nào của các biến trong mô hình; đồng thời thảo luận
các kết quả thực nghiệm nhận được.
Chương 5: Kết luận
Ở chương này, tác giả tổng kết lại các vấn đề nghiên cứu, kết luận lại kết quả
thực nghiệm từ mô hình nghiên cứu, nêu lên những hạn chế của đề tài và hướng mở
rộng đề tài.
- 9 -
Chương 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾ T VÀ TỔ NG QUAN
NGHIÊN CỨ U
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Khái niệm phân cấp
Theo định nghĩa từ Wikipedia, phân cấp là tiến trình phân chia quản lý, với
mục tiêu làm cho hoạt động điều hành nhà nước gần gũi hơn với công chúng. Cách
tiếp cận khác từ Ngân hàng thế giới Work bank, phân cấp là việc chính quyền cấp
cao chuyển giao nhiều quyền lực hành chính hơn cho chính quyền cấp dưới. Cách
tiếp cận này cũng là hàm ý đề cập đến phân quyền của Washington DC: USAID
(5/2000): Phân cấp là tiến trình chuyển giao quyền lực cho chính quyền địa phương
được lập ra do bầu cử. Một cách tổng thể,
Phân cấp là việc tái cấu trúc về thẩm quyền nhằm tạo lập một cơ chế cùng
chịu trách nhiệm giữa các cơ quan ở các cấp trung ương, khu vực và địa phương, phù
hợp với các nguyên tắc về quản lý, từ đó tăng cường chất lượng và hiệu quả của cơ
chế quản lý tổng thể, trong khi đồng thời tăng cường quyền lực và năng lực của các
cấp địa phương” (Worldwide, 2002)
2.1.2 Nội dung phân cấp
Theo một số chuyên gia, phân cấp thể hiện ở các phương diện chính là: phân cấp
quản lý về chính trị; phân cấp quản lý về hành chính; phân cấp tài khóa; phân cấp quản
lý về kinh tế.
Phân cấp quản lý về chính trị là việc chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ
chính trị từ chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương. Tác động của quá
trình này là làm cho chính quyền địa phương mạnh lên, đồng thời cho phép người dân,
các nhóm chính trị tham gia và có ảnh hưởng nhiều hơn vào tiến trình xây dựng, thực
thi chính sách của Nhà nước ở trung ương cũng như địa phương. Phân cấp quản lý về
chính trị thường (nhưng không luôn luôn) gắn với chính thể đại diện. Tuy nhiên, quá
trình phân cấp quản lý về chính trị thường đòi hỏi phải có những cải tổ về hiến pháp
- 10 -
hoặc thể chế.
Phân cấp quản lý về hành chính là việc phân bổ lại thẩm quyền, trách nhiệm và
nguồn ngân sách cho việc bảo đảm các dịch vụ công giữa các cấp chính quyền của quốc
gia. Nó thể hiện ở việc chuyển giao quyền và trách nhiệm thực hiện các chức năng công
cộng (bao gồm cả việc xây dựng kế hoạch, quản lý và chi tiêu) từ chính quyền cấp trên
cho chính quyền cấp dưới. Phân cấp quản lý về hành chính thể hiện ở ba cấp độ chính
đã đề cập là: phi tập trung hóa/tản quyền; ủy quyền; phân cấp quản lý. Trong đó, phi tập
trung hóa/tản quyền được xem là cấp độ thấp nhất của decentralization.
Phân cấp tài khóa là sự phân bổ trách nhiệm quản lý và nguồn ngân sách giữa
các cấp chính quyền. Phân cấp quản lý về ngân sách thể hiện dưới nhiều dạng, bao gồm:
tự chủ tài chính hay tự hạnh toán kinh doanh; chính quyền trung ương và địa phương
cùng làm; cho phép chính quyền địa phương được đặt ra một số khoản thuế, lệ phí hoặc
hưởng toàn bộ hay một phần các khoản thu từ thuế, lệ phí... ở địa phương; chuyển một
phần khoản thu từ thuế mà chính quyền trung ương thu được cho chính quyền địa
phương; bảo lãnh hoặc cho chính quyền địa phương vay…
Phân cấp quản lý về kinh tế được hiểu là việc chuyển giao quyền điều hành,
quyết định hoạt động kinh doanh từ các cơ quan công quyền sang khối tư nhân. Thông
thường, việc này gắn với quá trình tự do hóa kinh tế nền kinh tế thị trường, phá bỏ cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp.
2.1.3 Khái niệm chuyển giao ngân sách
Chuyển giao ngân sách là việc vận hành cấp ngân sách từ trung ương cho các
cấp ngân sách địa phương dựa trên các tiêu chí và phương pháp tính toán nhất định
nhằm đảm bảo mỗi cấp ngân sách địa phương có đủ nguồn tài chính để thực hiện hiệu
quả các chức năng, nhiệm vụ được phân giao, giảm thiểu những bất bình đẳng về tài
chính giữa các đơn vị hành chính hoặc để đạt được những mục tiêu quốc gia nhất
định.
- 11 -
Chuyển giao ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền từ lâu đã là một
công cụ quan trọng của tài chính công ở hầu hết các nước. Đây là vấn đề quan trọng
trong quá trình phân cấp, vì thông qua số lượng, quy mô và cơ cấu chuyển giao giữa
các cấp ngân sách, có thể đánh giá mức độ độc lập và quyền tự chủ của ngân sách
mỗi cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước.
Nhìn chung, chuyển giao được sử dụng để đảm bảo nguồn thu phù hợp tương
đối với nhu cầu chi tiêu của các cấp chính quyền địa phương, đồng thời nhằm thúc
đẩy sự phát triển quốc gia, đạt được mục tiêu khu vực chẳng hạn như cân bằng ngang,
cân bằng dọc và để tạo ra một liên minh kinh tế chung.
Chuyển giao ngân sách tài trợ cho khoảng 60% chi tiêu địa phương ở các nước
đang phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi và khoảng một phần ba chi phí ở
các nước thành viên OECD (29% ở các nước Bắc Âu, 46% ở các nước còn lại).
Chuyển giao tài chính giữa các cấp chính quyền là một công cụ quan trọng của
tài chính công ở hầu hết các nước vì:
Thứ nhất, chính quyền trung ương có lợi thế hơn các chính quyền địa phương
trong việc nâng cao nguồn thu, vì quy mô thu lớn hơn, thẩm quyền thu lớn hơn và
chế tài xử lý các vi phạm dưới góc độ trung ương cũng lớn hơn. Tuy nhiên, các chính
quyền địa phương có lợi thế trong việc cung cấp nhiều loại dịch vụ công cộng, bởi sự
“gần” dân hơn, sâu sát với dân hơn, hiểu được nhu cầu của dân và đáp ứng các dịch
vụ dễ dàng hơn.
Thứ hai, sự chênh lệch đáng kể trong việc nâng cao năng lực thu tồn tại ở các
cấp chính quyền. Nếu các cấp chính quyền địa phương dựa hoàn toàn vào nguồn lực
của địa phương, thì khu vực giàu có có thể chi tiêu đáng kể hơn cho các dịch vụ công
cộng so với các khu vực có thu nhập thấp.
Thứ ba, sử dụng nguồn lực từ trung ương để đảm bảo các ưu tiên quốc gia cơ
bản sẽ được đáp ứng tại các chính quyền địa phương.Thông qua việc cung cấp các
dịch vụ ưu tiên điển hình là y tế, giáo dục, đường giao thông, nước sạch và các dịch
vụ khác có thể góp phần thực hiện công bằng xã hội và hỗ trợ xóa đói giảm nghèo.
- 12 -
Vì vậy, việc thực hiện cơ chế chuyển giao tài chính nhằm tăng cường hiệu quả
các nguồn lực cả ở chính quyền trung ương và địa phương là rất cần thiết.
2.1.4 Đặc điểm của chuyển giao ngân sách nhà nước giữa trung ương và địa
phương
Thứ nhất, chuyển giao ngân sách nhà nước giữa trung ương và các địa phương
khác nhau có sự khác biệt. Bởi vì, số bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu ở các
địa phương phụ thuộc vào tình hình ngân sách, kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Thứ hai, chính quyền trung ương thực hiện việc chuyển giao tới chính quyền
địa phương một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các chính quyền trung gian.
Mức chuyển giao có thể được xác định theo số tuyệt đối hoặc tương đối. Số bổ sung
cân đối từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương được xác định theo nguyên
tắc xác định số chênh lệch giữa số chi và nguồn thu ngân sách cấp dưới (bao gồm
khoản thu ngân sách hưởng 100% và khoản thu được hưởng theo tỷ lệ phần trăm từ
khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương). Điều này
dẫn đến các địa phương khác nhau sẽ cần có một khoản bổ sung khác nhau. Bổ sung
có mục tiêu nhằm hỗ trợ ngân sách cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chính sách do cấp
trên ban hành, mức hỗ trợ cụ thể được xác định trên cơ sở khả năng cân đối của ngân
sách và nhiệm vụ yêu cầu. Nguồn chuyển giao được lấy chủ yếu từ nguồn ngân sách
trung ương.
Thứ ba, chuyển giao ngân sách có thể được thực hiện theo nhu cầu thực tế
hoặc áp dụng công thức. Thường chuyển giao vô điều kiện theo nhu cầu thực tế phát
sinh của địa phương, với mục đích giảm sự mất cân đối thu chi. Điều này không
khuyến khích các địa phương nỗ lực thu thuế, thậm chí tạo sự ỷ lại và phụ thuộc vào
trung ương. Chuyển giao có mục tiêu sử dụng công thức đảm bảo tính công khai minh
bạch và phải tính đến những khác biệt giữa các địa phương về nguồn lực, nhu cầu chi
tiêu và khuyến khích địa phương phải nỗ lực nâng cao nguồn thu của mình.
Thứ tư, chuyển giao ngân sách gồm chuyển giao ngân sách không điều kiện,
có điều kiện, điều chuyển ngân sách ngang bằng hóa và cấp bổ sung ngân sách.
- 13 -
2.1.5 Phân cấp tài khóa và tăng trưởng kinh tế
Các học thuyết kinh tế cơ bản trước đây đều cho rằng phân cấp tài khóa sẽ
tăng cường hiệu quả phát triển kinh tế. Phần lớn dựa trên các nghiên cứu sau này và
tranh luận của Oates (1972), nếu như các hàng hóa không mang tính chất quốc gia,
thì dường như chính quyền địa phương có hiệu quả hơn trong việc phân phối và cung
ứng hàng hóa đó. Về nguyên tắc, các chính sách xây dựng để cung cấp các cơ sở hạ
tầng và thậm chí cả con người rất nhạy cảm với điều kiện đặc thù có thể sẽ hiệu quả
hơn trong việc khuyến khích phát triển kinh tế so với các chính sách chung của chính
phủ bỏ qua nhu cầu địa phương. Vô hình chung, điều này đồng nghĩa với việc sự phân
cấp của chính phủ làm tăng trưởng kinh tế như một lý thuyết ngầm không chính
thức.Điều này được khẳng định dựa trên nền tảng: nhiệm vụ chi của chính quyền địa
phương có thể đáp ứng được các sở thích và nhu cầu đa dạng của địa phương, và vì
vậy đảm bảo tính hiệu quả trong phân bổ nguồn lực (Oates, 1972; Tiebout, 1956).
Mặc dù vậy, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về vấn đề phân
cấp và tăng trưởng kinh tế lại cho ra các kết quả không thống nhất. Quan điểm nào là
đúng tùy thuộc vào chính sách của mỗi quốc gia. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về
vấn đề này trong phần tiếp theo khi xem xét các bài nghiên cứu định lượng cụ thể.
2.2 Các bằng chứng thực nghiệm
2.2.1 Sự phụ thuộc giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp tài khóa
Những tác động của sự chuyển giao ngân sách từ chính quyền liên bang (hay
chính quyền trung ương ở các nước như Trung Quốc) đến chính quyền địa phương
lên chi tiêu địa phương đã được tìm hiểu một cách rộng rãi (ví dụ như hiệu ứng giấy
bẫy ruồi (flypaper); xem Bailey và Connolly (1998)). Tuy nhiên, phần lớn lý thuyết
đều gắn liền với các giả thiết và giả định (chẳng hạn giả thiết cử tri trung dung)…
Tác động của sự chuyển giao từ nơi có quyền lực cao hơn đối với sự phân cấp tài
khóa vẫn chưa được tìm hiểu rộng rãi.
Ở một vài nước, chính quyền quốc gia không thể chuyển trợ cấp cho chính
quyền cơ sở nhưng có thể thông qua các chính quyền trung gian theo Hiến Pháp
(Hernández-Trillo và Jarillo-Rabling, 2008). Mặc dù điều này không nằm trong thế
- 14 -
chế nhưng Chính phủ đã dần chấp nhận một hệ thống (không chính thức) trong thực
tế. Nghĩa là, trợ cấp trung ương đi qua chính quyền tỉnh trước khi đến chính quyền
thành phố trực thuộc tỉnh và huyện.
Có một rủi ro là chính quyền tỉnh có thể giữ lại những chuyển giao liên chính
phủ này cho lợi ích riêng của họ. Do đó, mối quan hệ giữa sự lệ thuộc chuyển giao
và phân cấp có thể cùng chiều hay ngược chiều, phụ thuộc vào vai trò và chức năng
của chính quyền trung gian nơi có trách nhiệm chuyển giao trợ cấp trung ương đến
chính quyền địa phương.
2.2.1.1 Mối tương quan nghịch biến
Giả định về mối quan hệ ngược chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự phân
cấp tài khóa được xác định trong nghiên cứu ở Nga. Freikman và Plekhanov (2009)
nhận thấy rằng khi các điều khác không đổi thì ở các khu vực lệ thuộc chuyển giao
có khuynh hướng phân cấp tài khóa cao hơn. Khi dòng trợ cấp từ trung tâm qua chính
quyền khu vực, có thể họ sẽ sử dụng các chuyển giao này hơn là phân phối cho các
cấp chính quyền thấp hơn. Khi kiểm soát tất cả các yếu tố khu vực khác, sự lệthuộc
chuyển giao càng cao thì sự phân cấp tài khóa càng thấp.
Năm 2013, Alfred M. Wu và Wen Wang đã đặt ra một vấn đề mới, đó là các
nhân tố nào tác động lên các quyết định phân cấp chi tiêu ở Trung Quốc. Sau khi làm
các nghiên cứu thực nghiệm, tác giả không chỉ đưa ra những kết luận về những nhân
tố tác động lên phân cấp chi mà còn đưa ra các lập luận giải thích cho mối quan hệ
âm giữa sự lệ thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu ở Trung Quốc. Dựa trên dữ liệu
ở mức độ cấp tỉnh, địa khu và huyện ở Trung Quốc, nghiên cứu của Wu và Wang đã
tạo ra một kết quả thực nghiệm giúp xác định các yếu tố quyết định phân cấp chi tiêu
của Trung Quốc cũng như các nước đang phát triển.
2.2.1.2 Mối tương quan đồng biến
Tuy nhiên, bằng chứng xuyên quốc gia cho thấy nhiều sự chuyển giao tài khóa
có khuynh hướng khuyến khích chi tiêu địa phương nhiều hơn do sức ép ngân sách
mềm gia tăng (Bodman và Hodge, 2010; Letelier, 2005). Do đó, sự lệ thuộc chuyển
- 15 -
giao càng lớn thì sự phân cấp tài khóa càng cao. Một sự suy luận khác cũng bổ trợ
cho mối quan hệ cùng chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự phân cấp tài khóa.
Khi các chuyển giao trung gian được cung cấp từng phần để bù đắp cho chính quyền
địa phương thực hiện các nhiệm vụ từ trung ương, việc mở rộng chuyển giao cho
chính quyền địa phương nghĩa là chính quyền địa phương chịu nhiều trách nhiệm chi
trả hơn; theo đó phần chi tiêu địa phương sẽ gia tăng. Tóm lại, mối quan hệ cùng
chiều giữa sự lệ thuộc chuyển giao và sự phân cấp tài khóa được thực hiện trong các
nghiên cứu xuyên quốc gia ở các nước phát triển (Kee, 1977; Letelier, 2005).
Trong kết luận cuối cùng Kee (1977) nhận xét rằng mối quan hệ tương quan
dương giữa các mức độ phân cấp quản lý và chuyển giao ngân sách của chính phủ.
Sự chuyển giao chính quyền trung ương không tăng cũng không giảm những nỗ lực
thu thuế của địa phương; tức là, quỹ trung ương là không phải là nguồn bổ sung hay
thay thế cho nỗ lực thu thuế của địa phương. Nhưng tác động của chúng trên cả hai
phân cấp chi tiêu và những chuyển giao của chính quyền là tương quan dương. Nói
chung, việc phân chia tối ưu, các trách nhiệm tài khóa của đất nước phụ thuộc rất lớn
vào vai trò chuyển giao.
2.2.2. Sự phát triển kinh tế và phân cấp tài khóa
Có hai luồng ý kiến trái ngược nhau liên quan đến vai trò của sự phát triển
kinh tế đối với sự phân cấp tài khóa. Một mặt, sự phát triển kinh tế có kỳ vọng dương
đối với sự phân cấp tài khóa. Phần lớn các dịch vụ công căn bản đều được cung cấp
bởi chính quyền địa phương ở các nước như Trung Quốc. Một vài ý kiến cho rằng
chi tiêu ở cấp địa phương gia tăng như là một sự cung ứng các hàng hóa công cơ bản
sẽ trở nên đắt hơn khi các công dân giàu có hơn đòi hỏi các dịch vụ công đa dạng và
đắt đỏ hơn (Martinez-Vazquez và McNab, 2003; Tanzi, 2000; Wheare, 1964). Mặt
khác, phát triển kinh tế có quan hệ ngược chiều với sự phân cấp tài khóa. Theo
Letelier (2005), khi có sự gia tăng đáng kể sẽ dẫn tới tái phân phối lại thu nhập khi
một địa phương hay quốc gia trở nên giàu có hơn; do đó, sự phối hợp và đầu tư trung
ương sẽ dần dần được đòi hỏi nhiều hơn. Chi tiêu ở cấp chính quyền cao hơn sẽ tăng
- 16 -
trưởng nhanh hơn so với các cấp thấp hơn.
2.2.2.1 Sự phát triển kinh tế tương quan âm với phân cấp tài khóa
Trong khi nhiều nghiên cứu khác cho kết quả là sự phân cấp tài khoá làm chậm
tốc độ tăng trưởng. Zhang, Tao và Zou Heng-fu (1998) nghiên cứu chính quyền trung
ương và địa phương đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Trung Quốc kể từ khi cải
cách bắt đầu vào cuối năm 1970. Tác giả thấy rằng phân cấp chi tiêu chính phủ có
liên quan với tăng trưởng kinh tế thấp hơn trong mười lăm năm qua. Kết quả mang ý
nghĩa mạnh mẽ này trong các kỳ thực nghiệm đi ngược lại lý luận rằng phân cấp tài
chính thường làm tăng trưởng kinh tế địa phương.
Davoodi và Zou (1998) đối với mẫu nghiên cứu bao gồm 46 nước phát triển
và đang phát triển từ 1970-1989 và phương pháp OLS. Với các yếu tố khác của tăng
trưởng, tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều đối với các nước đang phát triển và
thế giới. Dù vậy tác giả cũng kết luận rằng không có tương quan với mẫu dữ liệu của
các nước đang phát triển.
Woller và Phillips (1998) nghiên cứu về mối tương quan giữa phân cấp tài
khóa và các sự phát triển kinh tế của các quốc gia kém phát triển. Dù kết quả không
có ý nghĩa đối với toàn bộ mẫu dữ liệu từ 1974-1991 nhưng tác giả đã tìm thấy mối
tương quan nghịch đối với các quốc gia này.
Như Davoodi, Xie, Zou (1999) xây dựng một mô hình đơn giản xem xét sự
tăng trưởng nội sinh với chi tiêu của các cấp chính quyền khác nhau với kinh tế Hoa
Kỳ trong giai đoạn 1984-1994. (Có 3 cấp chính quyền được phân tích bao gồm Liên
bang, bang và chính quyền địa phương). Kết quả cho thấy phân cấp chi giữa liên bang
và địa phương làm tối đa hóa tăng trưởng. Hàm ý của nghiên cứu này cho thấy rằng
sự phân cấp hơn nữa trong việc chi tiêu công có thể gây hại cho sự phát triển của
quốc gia.
Behnisch, Buttner và Stegarescu (2002) cũng cố thêm lập luận của Davoodi,
Xie, Zou (1999). Họ khẳng định giảm phân cấp tài khóa hay tăng chi tiêu của chính
quyền liên bang có tác động tích cực lên năng suất tổng hợp của nền kinh tế Đức ở
- 17 -
giai đoạn 1950- 1990.
Nguyễn Khắc Minh (2008) từ số liệu mảng cho 34 tỉnh thành của Việt Nam
trong giai đoạn 2000 – 2005 cùng với phương pháp tiếp cận tham số (dựa trên hàm
sản xuất ngẫu nhiên) và phương pháp tiếp cận phi tham số (dựa trên DEA) đã chỉ ra
tính phi hiệu quả trong chi tiêu công tồn tại trong cả chi tiêu công và đầu tư công
hàng năm.
Nghiên cứu gần đây tìm thấy nhiều bằng chứng về các tác động khác nhau của
sự phát triển kinh tế ở các nước phát triển và đang phát triển (Bodman và Hodge,
2010) nghĩa là có mối quan hệ cùng chiều ở các nước có thu nhập cao trong OCED
và mối quan hệ ngược chiều ở các nước có thu nhập trung bình và thu nhập thấp.
Đối với quốc gia đang phát triển, trong mô hình phân tích từng phần, Phillip
và Isah (2012) phát hiện phân cấp tài khóa tác động tiêu cực lên tăng trưởng của
Nigeria.
2.2.2.2 Sự phát triển kinh tế tương quan dương với phân cấp tài khóa
Nghiên cứu ban đầu về vấn đề này cho thấy thu nhập bình quân đầu người có
tác động cùng chiều đáng kể đến sự phân cấp tài khóa. Kết quả nghiên cứu của Kee
(1977) dựa trên hồi quy chéo giữa 64 nước từ năm 1968. Kết quả có ý nghĩa thống
kê đối với các quốc gia phát triển.
Zhang và Zou (1998) xem xét dữ liệu bảng của 23 nước OECD từ 1972-2005
thấy rằng phân cấp chi tiêu tác động bất lợi tới tăng trưởng kinh tế trong khi việc phân
cấp nguồn thu có liên quan đến thúc đẩy tăng trưởng cao hơn. Kể từ khi các nước
OECD chi tiêu nhiều hơn đáng kể so với doanh thu được phân cấp, điều này là phù
hợp với Oates (1972) giả thuyết cho rằng để tăng tối đa hiệu quả đòi hỏi một liên hệ
chặt chẽ giữa chi tiêu và phân cấp nguồn thu.
Nghiên cứu của Lin và Liu (2000) khám phá ra tác động của phân cấp tài khóa
đến tăng trưởng bằng cách sử dụng dữ liệu bảng ở chính quyền cấp tỉnh của Trung
Quốc. Họ đã sử dụng dữ liệu trong 23 năm từ 1970 - 1993. Hai ông kết luận rằng
- 18 -
phân cấp tài khóa có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu
cũng chỉ ra ảnh hưởng quan trọng của sự cải cách trong khu vực nông thôn, sự tích
lũy vốn và sự phát triển của các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế.
Tương tự, Thiessen (2000) tìm thấy một mối tương quan dương giữa phân cấp
tài khóa và tăng trưởng đối với 17 nước Tây Âu, từ 1975 tới 1995. Kết luận tương
đồng được nhận định bởi Stansel, D. (2005) khi nghiên cứu Mỹ.
Atsushi IIMI (2004), tiến hành phân tích dữ liệu ở 51 quốc gia, bao gồm 7
nước có thu nhập thấp, 10 nước có thu nhập trung bình thấp, 12 nước có thu nhập
trên mức trung bình và 22 nước có thu nhập cao trong giai đoạn 1997 - 2001, nghiên
cứu cho thấy có tác động tích cực giữa phân cấp tài khóa tới mức tăng trong thu nhập
bình quân đầu người.
Một nghiên cứu khác của Feltenstein và Iwata (2005) ủng hộ lý thuyết phân
cấp tài khóa dựa vào phát hiện tác động tích cực của phân cấp tài khóa lên tăng trưởng
của Trung Quốc trong giai đoạn hậu chiến.
Nguyễn Phi Lân (2009) xem xét bộ dữ liệu gồm 64 tỉnh thành phố của Việt
Nam trong hai giai đoạn riêng biệt 1997 - 2001 và 2002 - 2007.Và kết luận rằng trong
giai đoạn 1997 - 2001, biến phân cấp quản lý chi thường xuyên và chi đầu tư xây
dựng cơ bản tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế địa phương với mức ý nghĩa
thống kê là 1%. Còn giai đoạn 2002 - 2007, phân cấp chi đầu tư có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế địa phương, còn chi thường xuyên thì có tác động ngược lại.
Tương tự, Muhammad Zahir Faridi (2011) đã sử dụng dữ liệu tổng thể dạng
chuỗi thời gian về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa chính quyền trung ương
và địa phương trong giai đoạn 1972 - 2009 để xem xét tác động của phân cấp tài khóa
đến tăng trưởng kinh tế, phương pháp được sử dụng để ước lượng là OLS. Kết quả
tìm thấy phân cấp tài khóa có tác động quan trọng và tích cực đến tăng trưởng kinh
tế ở nước đang phát triển như Pakistan.
- 19 -
Mai Đình Lâm (2012) với dữ liệu nghiên cứu giai đoạn 1990 – 2011, bằng
phương pháp kiểm định OLS nghiên cứu phát hiện: (i) chi tiêu địa phương tổng thể
có tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế; (ii) xét về cơ cấu, chi đầu tư địa phương
có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế, nhưng lại chưa tìm thấy tác động của chi
thường xuyên địa phương; (iii) phân cấp nguồn thu địa phương tác động tích cực tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên chưa tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa giữa chuyển giao tài
khóa của trung ương cho địa phương với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, độ mở thương
mại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, trong khi tác động của lạm phát và lực
lượng lao động không có ý nghĩa.
2.2.3 Quy mô dân số đồng biến và mật độ dân số nghịch biến với phân cấp tài
khóa
Litvack và Oates (1971) cho rằng sự tắc nghẽn xã hội sẽ gia tăng khi quy mô
dân số tăng lên. Với điều kiện là chính quyền địa phương cung cấp phần lớn dịch vụ
công cho công dân, chi phí tắc nghẽn tăng lên sẽ làm tăng phần chi tiêu địa phương
trong tổng chi tiêu chính quyền (Bodman và Hodge, 2010). Mật độ dân số càng cao
thì chi phí dịch vụ công thấp hơn do có sự gia tăng việc hoàn lại mức độ các khoản
dịch vụ công. Mật độ dân số thấp gia tăng chi phí dịch vụ với điều kiện các yếu tố
khác cố định.
Các nghiên cứu trước đều chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô dân số
với sự phân cấp tài khóa và mối quan hệ ngược chiều giữa mật độ dân số và sự phân
cấp tài khóa (Kee, 1977; Cerniglia, 2003; Freinkman và Plekhanov, 2005; Bodman
và Hodge, 2010).
Alfred M. Wu và Wen Wang (2013) cũng tìm thấy kết luận tương quan âm
như các nghiên cứu khác. Tác giả chỉ ra rằng với ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 1%
gia tăng trong mật độ làm biến phụ thuộc đại diện phân cấp tài khóa giảm 0.32%.
2.2.4 Mở rộng thương mại và phân cấp tài khóa
So với thu nhập và quy mô dân số thì cả yếu tố mở rộng thương mại ít được
chú ý trong các lý thuyết. Một vài nghiên cứu (Rodrik, 1998; Kimakova, 2009) cho
thấy nền kinh tế định hướng theo thị trường bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ nền kinh
- 20 -
tế bên ngoài; do đó sự hợp tác kinh tế giữa các chính quyền trung ương trở nên cấp
bách ở nền kinh tế mở. Hội nhập trên thị trường thế giới cải thiện sự phân cấp tài
khóa khi tất cả các điều khác được giữ nguyên không đổi (Garrett và Rodden, 2003;
Stegarescu, D., 2004; Stegarescu, 2009).
Trong khi đó các nghiên cứu của Philip Bodman, Katherine Ford, Tom Gole,
Andrew Hodge (2009) lại cho kết quả ngược lại. Một sự gia tăng trong mở rộng
thương mại làm hạn chế chính sách phân cấp tài khóa. Đây cũng là kết quả mô hình
hồi quy trong nghiên cứu của Cristian F Sepulveda, Jorge Martinez-Vazquez (2010).
2.2.5 FDI và phân cấp tài khóa
Mối quan hệ giữa mở rộng ngoại thương với sự phân cấp tài khóa được kiểm
tra rộng rãi với dữ liệu xuyên quốc gia. Giả sử FDI đại diện cho sự mở cửa của một
nền kinh tế. Vậy điều gì sẽ là sự tác động của cả mở rộng kinh tế và ngoại thương đến
phân cấp tài khóa trong một quốc gia? Một học thuyết xác nhận rằng cả mở rộng
ngoại thương và FDI có thể được dùng để cải thiện việc quản lý tốt hơn (Malesky,
2004; Wu và Lin, 2012). Người nước ngoài, đặc biệt là người ở các nước phát triển
mua hàng hóa và đầu tư vào các nước đang phát triển, sẽ thúc đẩy các chính phủ tiếp
nhận đầu tư cải thiện dịch vụ công của họ hoặc làm “rò rỉ” những gợi ý của chính
sách công dự định cho thương mại và đầu tư. Khi quản lý tài khóa được sử dụng như
là một công cụ hiệu quả để cải hiện quản lý công ở nhiều nước công nghiệp, giả định
kỳ vọng của tác giả là sự gia tăng FDI có thể làm tăng phân cấp tài khóa ở các nước
đang phát thông qua mô phỏng và khuếch tán chính sách.
Qichun He, Meng Sun (2004) đã tìm thấy mối tương quan dương như kỳ vọng
khi nghiên cứu Trung Quốc trong giai đoạn 1995-2002. Ngược lại Alfred M. Wu và
Wen Wang (2013) tìm thấy một mối tương quan âm trong nghiên cứu của mình. Kết
luận này tương tự như Yong Wang (2007), quá nhiều phân cấp tài khóa có thể làm
tổn thương các chính sách khuyến khích của chính phủ dẫn tới việc phong tỏa FDI và
ngược lại.
- 21 -
Chương 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tác giả tiến hành phân tích thực nghiệm bằng cách sử dụng một bộ dữ liệu
bảng với 693 mẫu quan sát từ 63 tỉnh thành của Việt Nam từ năm 2002 đến năm
2012. Dữ liệu được sử dụng trong phân tích này được lấy từ Bảng trích yếu thống kê
tài khóa cho tất cả các tỉnh, thành phố và quận huyện, Niên giám tổng mục thống kê.
3.1 Định nghĩa các biến
Dựa vào tổng quan tài liệu ở phần trước, tác giả thiết lập mô hình nghiên cứu
thực nghiệm bao gồm các biến phụ thuộc và các biến độc lập trong phân tích này.
3.1.1 Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc- biến phân cấp tài khóa được đo lường bởi tỷ lệ chi tiêu công
dưới tỉnh trong tổng số chi tiêu công ở toàn bộ tỉnh và dưới tỉnh. Điều này nghĩa là
các chi tiêu của thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, xã trong một tỉnh được tổng hợp lại
và sau đó con số này được chia cho tổng số chi tiêu chính phủ trên toàn bộ tỉnh và
dưới tỉnh. Đo lường phân cấp tài khóa là một thách thức lớn, thu hút phần lớn các
cuộc tranh luận học thuật (Yeung, 2009). Bởi vì việc phân cấp tài khóa là đa chiều,
nên một biến duy nhất khó có thể nắm bắt hết các động thái phân công quyền lực từ
chính phủ. Nhận thức được sự không hoàn hảo khi đo lường phân cấp tài khóa bằng
tỷ lệ chi tiêu, tuy nhiên tác giả có một số lý do mạnh mẽ để sử dụng phân cấp tài khóa
dưới tỉnh là biến phụ thuộc. Đầu tiên, các phép đo phân cấp tài khóa có xu hướng khó
giải quyết hơn trong các nghiên cứu xuyên quốc gia bởi vì bối cảnh lịch sử và pháp
lý của tài chính công là rất khác nhau giữa các nước khác nhau (Stegarescu, 2005).
Việc so sánh trong phạm vi quốc gia dù sao cũng có thể tránh được vấn đề này. Mặc
dù mức độ phân cấp chi tiêu khác nhau giữa các tỉnh, và các giai đoạn nhưng việc
phân cấp thường được điều chỉnh bởi cùng một bộ khung pháp lý. Thứ hai, các lỗi đo
lường phân cấp tài khóa khá rắc rối trong các mô hình mà biến phân cấp được sử
dụng như là một biến độc lập. Phân cấp tài khóa được sử dụng như là một biến phụ
thuộc gây ra ít lo ngại hơn (Stegarescu, 2005). Tác giả hướng đến sự thay đổi về mặt
chi tiêu và cho rằng phần chi tiêu ở cấp dưới tỉnh có thể đại diện hiệu quả cho phân
- 22 -
cấp tài khóa ở địa phương. Bởi vì chi tiêu công đại diện cho sự tham gia của chính
phủ trong xã hội, dữ liệu chi tiêu này cho thấy những giải thích về sự thay đổi trong
chính quyền địa phương. Do đó các gợi ý chính sách được rút ra từ điều này sẽ trở
nên hấp dẫn.
3.1.2 Biến độc lập
Sự lệ thuộc chuyển giao đề cập đến mức độ chi tiêu của tỉnh được tài trợ bởi
sự chuyển giao từ trung ương. Tử số của biến là chuyển giao trung ương đến tỉnh,
bao gồm cả các cấp tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh, huyện, xã, trong khi mẫu đề cập
đến tổng chi tiêu của bốn cấp chính quyền trong một tỉnh ở Việt Nam. Đây là số tiền
chuyển giao của trung ương cho tất cả các cấp trong phạm vi tỉnh chia cho tổng chi
tiêu của các cấp trong tỉnh. Phát triển kinh tế được đo lường bởi GDP thực tế bình
quân đầu người ở cấp tỉnh. Mật độ dân số được đo bằng số lượng dân cư trên mỗi km
vuông diện tích đất ở một tỉnh nhất định (tính theo logarit tự nhiên). Mở cửa thương
mại được đo như tỷ lệ nhập khẩu cộng với xuất khẩu trên tổng GDP của tỉnh. FDI
biểu thị khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một tỷ lệ trong GDP của tỉnh.
Ngoài ra, cơ cấu ngành công nghiệp và kinh tế ở một tỉnh có thể có ảnh hưởng tiềm
năng đến các mô hình chi tiêu của địa phương. Trong một số mô hình, chúng ta thêm
việc làm ở các doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu kinh tế như là biến điều khiển để cải
thiện sự vững mạnh của các mô hình thực nghiệm. Việc làm ở doanh nghiệp nhà nước
đề cập đến số lượng nhân viên doanh nghiệp nhà nước như là một tỷ lệ của tổng dân
số. Cơ cấu kinh tế được đo lường như khối lượng của khu vực thứ cấp trong GDP của
địa phương. Bảng 3.1 trình bày số liệu thống kê mô tả của tất cả các biến được sử
dụng trong phân tích thực nghiệm này.
- 23 -
Bảng 3. 1 Thống kê mô tả các biến định lượng trong mô hình hồi quy
Biến cụ Biến Mô tả Đo lường Nguồn thể
Y là biến phụ Tỷ lệ chi tiêu dưới Niên giám Y
tỉnh trên tổng chi tổng cục thuộc, phân
tiêu tỉnh và dưới thống kê cấp tài khóa
tỉnh bằng tỷ trọng
của chi tiêu
dưới tỉnh trong
tổng chi tiêu
địa phương
cho tỉnh i trong
năm t.
X X là một ma Sự lệ Tỷ lệ chuyển giao Niên giám
trận của các thuộc tài khóa Trung tổng cục
biến độc lập chuyển ương trên tổng chi thống kê
chính của giao tiêu tỉnh và dưới
chúng ta, bao tỉnh
gồm cả sự lệ Phát triển GDP thực bình Niên giám
thuộc chuyển kinh tế quân đầu người tổng cục
giao, phát triển (theo Logarit tự thống kê
kinh tế, mật độ nhiên)
dân số, sự cởi Mật độ Cư dân trên 1 Km Niên giám mở thương mại dân số vuông (theo tổng cục và FDI Logarit tự nhiên) thống kê
- 24 -
Tỷ lệ FDI Tỷ lệ FDI trong Niên giám
GDP tổng cục trong
thống kê GDP
Tỷ lệ Tỷ lệ của xuất Niên giám
thương nhập khẩu trong tổng cục
mại trong GDP thống kê
GDP
Nguồn: Tác giả tự thống kê
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp hồi quy
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về tham nhũng thường sử dụng phương
pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất (OLS) với dữ liệu gộp của các quốc gia. Phương
pháp OLS sử dụng dữ liệu chéo gộp các quốc gia có thể giải quyết tất cả các dữ liệu
như thể chỉ có một điểm thời gian duy nhất. Mô hình được đưa ra:
Yi,t= α+ βXi,t + ɛi,t (1)
Mô hình theo phương trình (1) không quan tâm đến bất kỳ sự khác biệt tồn tại
giữa các tỉnh hay những tác động theo thời gian. Bởi vì, các yếu tố ảnh hưởng có thể
còn là do yếu tố nội tại của tỉnh thành đang xét như văn hóa, nhân viên, mức độ
khoảng sản, khí hậu… việc xử lý dữ liệu của các tỉnh thành như nhau, không có sự
khác biệt (trên mô hình dữ liệu không gian hoặc mô hình Pooled) sẽ gây ra sự sai
lệch, do giả định bỏ qua sự không đồng nhất giữa các tỉnh.
Hầu hết, các nghiên cứu thực nghiệm gần đây khi nghiên cứu về các quốc gia
thường sử dụng phương pháp dữ liệu bảng để kiểm soát và loại bỏ những đặc điểm
tác động khác biệt của các quốc gia, không quan sát được.
Theo Baltagi (2008), thực hiện nghiên cứu dữ liệu bảng đạt được 6 ưu điểm
sau: dữ liệu bảng liên hệ đến các quốc gia theo thời gian, nên chắc chắn có tính không
đồng nhất trong các quốc gia này. Các kỹ thuật ước lượng dựa trên dữ liệu bảng có
thể tính đến tính không đồng nhất đó một cách rõ ràng bằng cách bao gồm biến chuyên
- 25 -
biệt theo quốc gia; kết hợp chuỗi thời gian của các quan sát chéo, dữ liệu bảng cho
chúng ta “dữ liệu chứa nhiều thông tin hữu ích hơn, tính biến thiên nhiều hơn, ít hiện
tượng đa cộng tuyến giữa các biến hơn, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả cao hơn”;
nghiên cứu quan sát lập đi lập lại của các đơn vị chéo, dữ liệu bảng phù hợp hơn cho
việc nghiên cứu sự động thái thay đổi theo thời gian của các đơn vị chéo này; có thể
phát hiện và đo lường tốt hơn các tác động mà người ta không thể quan sát được trong
dữ liệu chuỗi thời gian hay dữ liệu chéo thuần túy; có thể nghiên cứu các mô hình hành
vi phức tạp hơn; cung cấp dữ liệu đối với vài nghìn đơn vị, dữ liệu bảng có thể giảm
đến mức thấp nhất hiện tượng chệch có thể xảy ra nếu chúng ta gộp các quốc gia.
Thay thế cho mô hình theo phương trình (1) là mô hình có hệ số chặn α là khác
nhau giữa các tỉnh:
Yi,t= αi + βXi,t + ɛi,t (2)
Các "đặc điểm khác biệt không quan sát được" được biểu hiện bởi các hằng số
αi khác nhau giữa các tỉnh.
Mô hình dữ liệu bảng trong phương trình (2) xem xét đặc điểm riêng của các
tỉnh và kỹ thuật ước lượng tập trung sử dụng các thông tin có sẵn về sự khác biệt
trong biến thiên có thể quan sát được thông qua phương pháp biến giả. Bài nghiên
cứu xác định sự khác biệt tự nhiên và chỉ rõ mô hình dựa trên các kiểm định thống kê
lựa chọn giữa mô hình OLS (pooled regression) và mô hình đặc trưng dữ liệu bảng
(mô hình yếu tố cố định - fixed effect regression, mô hình yếu tố ngẫu nhiên - random
effect regression). Sau đó, lựa chọn mô hình thực sự phù hợp với đặc điểm dữ liệu
mẫu nghiên cứu.
Giả sử rằng có một dữ liệu bảng chứa thông tin liên quan đến khoảng thời gian
t (t=1,2,…,T) và một số lượng i như là các tỉnh…(i=1,2,…,n), mô hình có K biến
hoặc biến hồi quy. Hãy xem xét một mô hình có hệ số chặn thay đổi theo các tỉnh…
nhưng nó không đổi theo thời gian và độ dốc là không đổi đối với các tỉnh… và theo
thời gian:
- 26 -
Yi,t= αi + ∑βk Xkit + ɛi,t (3)
Để ước lượng mô hình này chúng ta có thể đặt giả định về hệ số chặn :
αi = τ + vi (4)
Điều này có nghĩa rằng có một phần hệ số chặn theo thời gian không đổi cho
tất cả các tỉnh… (τ) và một phần hệ số chặn sẽ thay đổi cho mỗi tỉnh… (vi). Dựa vào
phương trình (4), có hai loại mô hình được thảo luận: mô hình tác động cố định và
mô hình tác động ngẫu nhiên. Trong mô hình tác động cố định, vi là một tham số cố
định và Xkit và vi tương quan. Trong khi đó, trong một mô hình tác động ngẫu nhiên,
vi là một biến ngẫu nhiên và Xkit và vi là không tương quan. Mô hình hiệu ứng cố định
có thể được ước tính bởi mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất biến giả (LSDV),
trong đó các tác động trong mô hình và giữa các mô hình có hiệu lực. Mô hình tác
động ngẫu nhiên được ước tính bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát
(GLS) và phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi (FGLS). Khi cấu trúc
dữ liệu tồn tại phương sai thay đổi, phương pháp GLS được sử dụng Greence (2000).
Nếu chưa biết, FGLS được sử dụng.
Để kiểm soát vấn đề nội sinh giữa các nhân tố biến độc lập và biến phụ thuộc
- tác động ngược - thường tồn tại trong các học thuyết kinh tế. Tác giả sử dụng phương
pháp GMM, đề xuất trên dữ liệu bảng Arellano và Bond (1991) với kiểm soát hồi quy
hai bước.
3.2.2 Các kiểm định mô hình
3.2.2.1 Hiện tượng đa cộng tuyến
Hiện tượng đa cộng tuyến là hiện tượng tương quan giữa các biến độc lập (các
biến giải thích) với nhau. Hiện tượng đa cộng tuyến có thể phân ra hai loại: đa cộng
tuyến hoàn hảo và đa cộng tuyến không hoàn hảo.
Trong quá trình hồi quy, kết quả hồi quy có hệ số xác định R2 cao nhưng tỷ số
t thấp, tương quan cặp giữa các biến giải thích cao, xét tương quan riêng, hồi quy phụ
thấy có tồn tại hiện tượng tương quan giữa các biến độc lập thì mô hình đã vi phạm
- 27 -
giả thiết hồi quy - hiện tượng đa cộng tuyến.
Hiện tượng đa cộng tuyến sẽ dẫn đến một số hậu quả như: phương sai và hiệp
phương sai của các ước lượng OLS lớn, khoảng tin cậy rộng lớn, tỷ số t mất ý nghĩa,
hệ số xác định cao nhưng tỷ số t mất ý nghĩa, các ước lượng OLS và sai số chuẩn trở
nên rất nhạy với những thay đổi trong số liệu,dấu của các ước lượng của các hệ số
hồi quy có thể sai lệch, thêm vào hay bớt đi các biến cộng tuyến với các biến khác thì
hệ số của các biến còn lại có thể thay đổi rất lớn và thay đổi cả dấu của chúng.
Tác giả sử dụng hệ số tương quan giữa các biến độc lập và nhân tử phóng đại
phương sai để kiểm định đa cộng tuyến. Theo Baltagi (2008), hệ số tương quan lớn
hơn 0.8, nhân tử phóng đại phương sai lớn hơn 10 thì tồn tại đa cộng tuyến nghiêm
trọng.
3.2.2.2. Hiện tượng phương sai thay đổi
Hiện tượng phương sai thay đổi là hiện tượng các yếu tố nhiễu ui xuất hiện
trong hàm hồi quy có phương sai thay đổi (homoscedasticity, còn gọi là phương sai
có điều kiện thay đổi); tức là các yếu tố nhiễu ui không đồng nhất phương sai.
Trong quá trình hồi quy, tác giả sẽ tập trung xem xét lại bản chất của vấn đề
nghiên cứu, đồ thị phần dư và dùng một số kiểm định Goldfeld-Quandt, Breusch-
Pagan, White, Park trên OLS và phương pháp Greene (2000) trên dữ liệu bảng để
kiểm tra xem mô hình đã vi phạm giả thiết hồi quy - hiện tượng phương sai thay đổi.
Hiện tượng phương sai thay đổi sẽ dẫn đến một số hậu quả như: các ước lượng
OLS vẫn là không chệch nhưng không còn hiệu quả nữa, ước lượng của các phương
sai sẽ bị chệch, như vậy sẽ làm mất hiệu lực của kiểm định hệ số hồi quy.
3.2.2.3. Hiện tượng tự tương quan
Tự tương quan có thể hiểu là sự tương quan giữa các thành phần của chuỗi
quan sát được sắp xếp theo thứ tự thời gian hoặc không gian.
- 28 -
Để kiểm tra xem mô hình đã vi phạm giả thiết hồi quy - hiện tượng tự tương
quan. Trong quá trình hồi quy, tác giả sẽ dùng phương pháp đồ thị và kiểm định d
(Durbin-Watson) để phát hiện tượng tự tương quan trong mô hình hồi quy OLS
(pooled regression). Ở khía cạnh kiểm tra phương sai thay đổi dữ liệu bảng, tác giả
sử dụng kiểm định được đề xuất bởi Wooldrige (2002) và Drukker (2003).
Hiện tượng tự tương quan sẽ dẫn đến một số hậu quả như: uớc lượng OLS vẫn
là ước lượng tuyến tính không chệch, nhưng không là ước lượng hiệu quả nữa;
phương sai các ước lượng OLS là bị chệch, đôi khi quá thấp so với phương sai thực
và sai số tiêu chuẩn, dẫn đến phóng đại tỷ số t; các kiểm định t và F không đáng tin
cậy; công thức thông thường để tính phương sai của sai số là ước lượng chệch của
phương sai thực và trong một số trường hợp dường như ước lượng thấp của phương
sai thực; có thể hệ số xác định không đáng tin cậy và dường như là nhận giá trị ước
lượng cao; các phương sai và số tiêu chuẩn của dự đoán không có hiệu quả.
3.2.2.4. Hiện tượng nội sinh
Hiện tượng nội sinh xảy ra khi giả thiết về sự không tương quan giữa biến
độc lập và sai số bị vi phạm. Biến độc lập trong mô hình vừa đóng vai trò là biến
ngoại sinh (do tác động đến Y) vừa là biến nội sinh (do bị sai số tác động).
Để phát hiện vi phạm giả thiết hồi quy - hiện tượng nội sinh, tác giả sẽ sử dùng
kiểm định phương pháp Hansen - Sargan để kiểm tra sự phù hợp của việc thay thế
biến nội sinh bởi biến công cụ.
3.3 Phương pháp hồi quy GMM
3.3.1 Tại sao không OLS, trường hợp GMM ?
Phương pháp ước lượng bình phương bé nhất (OLS) là phương pháp được
dùng rất phổ biến trong lĩnh vực kinh tế lượng. Ưu điểm của phương pháp này không
quá phức tạp nhưng hiệu quả. Với một số giả thiết ban đầu, phương pháp này sẽ dễ
dàng xác định các giá trị ước lượng hiệu quả, không chệch và vững.
- 29 -
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về chuỗi dữ liệu thời gian, có nhiều chuỗi vi phạm
một hoặc một số giả định của OLS. Khi đó, các ước lượng thu được sẽ bị bóp méo,
mất tính vững và sẽ là sai lầm nếu sử dụng chúng để phân tích. Một trong những dạng
vi phạm giả định phổ biến là hiện tượng nội sinh, một trường hợp khi hệ số ước lượng
(hoặc biến) tương quan với phần dư.
Phương pháp cơ bản trong trường hợp các biến độc lập tương quan với phần
dư là ước lượng một phương trình có dùng các biến công cụ (Instrumental Variables
– hồi quy IV). Ý tưởng của phương pháp hồi quy này là tìm một bộ biến, được gọi là
biến công cụ, thõa mãn cả hai điều kiện: (1) tương quan với các biến giải thích trong
phương trình và (2) không tương quan với phần dư. Những biến công cụ như vậy
được dùng để loại vỏ sự tương quan giữa các biến giải thích và phần dư.
Có nhiều phương pháp hồi quy dựa trên nền tảng của hồi quy IV như phương
pháp Bình phương bé nhất hai giai đoạn (2SLS), phương pháp Maximum Likelihood
trong điều kiện giới hạn thông tin (LIML), phương pháp ước lượng Moment tổng
quát (GMM).
Làm thế nào để một hồi quy IV ước lượng ra hệ số với sự tham gia của biến
công cụ?
Xem xét mô hình đơn giản sau:
𝑦𝑖 = 𝛽𝑥𝑖 + €𝑖
Trong đó: i là quan sát thứ i, yi là biến phụ thuộc, xi là biến độc lập, €𝑖 là phần
dư của mô hình. Khi đó hệ số ước lượng 𝛽 sẽ được xác định như sau:
= 𝛽𝑂𝐿𝑆 = 𝑥′𝑦 𝑥′𝑥 𝑥′(𝛽𝑥 + €) 𝑥′𝑥
Với x, y, € là các ma trận cột × 1. Nếu x và € không tương quan với nhau thì
𝛽̂ ước lượng được là vững và không chệch.Tuy nhiên nếu điều ngược lại xảy ra, hệ
số ước lượng sẽ bị chệch và không vững, mô hình không còn hiệu quả, tác động của
- 30 -
biến x lên biến y không đáng tin cậy.
Một biến công cụ z, tương quan với biến giải thích xnhưng không tương quan
với phần dư € sẽ được đưa vào mô hình, phương pháp hồi quy IV sử dụng biến giả
đó để xác định hệ số ước lượng như sau:
= 𝛽𝐼𝑉 = 𝑧′𝑦 𝑧′𝑥 𝑧′(𝛽𝑥 + €) 𝑧′𝑥
Vì biến z không tương quan với € nên hệ số ước lượng là vững và không
chệch. Phương pháp này có thể tổng quát lên với một mô hình nhiều biến. Ta gọi X
là ma trận𝑛×K các biến giải thích, Z là ma trận 𝑛×L các biến công cụ với K là số
lượng biếngiải thích, L là số lượng biến công cụ và n là số quan sát của mỗi biến. Khi
đó phươngpháp IV có thể được dùng để ước lượng mô hình và hệ số ước lượng sẽ
được xác định như sau:
̂ = (𝑍′𝑋)−1𝑍′𝑌 𝛽𝐼𝑉
Điều kiện để xác định được giá trị ước lượng là L ≥ K
3.3.2 Thủ tục ước lượng GMM và kiểm định cơ bản
Phần trên đã cố gắng trình bày một cách đơn giản, có thể hiểu được vai trò của
biến công cụ trong hồi quy IV. Tuy nhiên, cách thực hiện tính toán của các phương
pháp hồi quy IV là rất phức tạp, GMM là phương pháp hiệu quả, ưu việt hơn cả nên
cũng khá phức tạp.GMM được Lars Peter Hansen trình bày lần đầu tiên vào năm
1982 trong bài viết “Large Sample Properties of Generalized Methods of Moments
Estimators” Econometrica, Vol. 50, page 1029-1054.
Như đã đề cập ở phần trên, để ước lượng được hệ số β, chúng ta cần một bộ L
vector các biến công cụ (trong ước lượng GMM còn được gọi là các điều kiện
moment) và số lượng biến công cụ phải không ít hơn số biến giải thích trong mô hình
(L ≥ K).
Điều kiện để một biến được chọn là biến công cụ là nó không được tương quan với
- 31 -
phần dư, điều này có nghĩa là:
𝐸(𝑍𝑡𝑢𝑡(𝛽)) = 0
Ý tưởng chủ đạo của phương pháp GMM là thay thế giá trị các biến công cụ
bằng giá trị trung bình của mẫu:
𝐸(𝑍𝑡𝑢𝑡(𝛽)) = 𝑍′𝑢𝑡(𝛽) = 0 1 𝑇 1 𝑇 ∑ 𝑍𝑡𝑢𝑡(𝛽) = 𝑡
và đi tìm Vector β thõa mãn phương trình trên.
Khi số lượng điều kiện moment lớn hơn số biến trong mô hình (L>K) thì
phương trình không thể xác định một nghiệm chính xác duy nhất (có nhiều nghiệm
có thể thõa mãn phương trình). Khi đó mô hình được gọi là overidentified. Trong
trường hợp đó, chúng ta phải thực hiện tính toán lại nhằm xác định giá trị β làm cho
điều kiện moment 𝐸(𝑍𝑡𝑢𝑡(𝛽)) “gần” bằng 0 nhất có thể, khái niệm “gần” được hiểu
−1𝑍′𝑢(𝛽)
là khoảng cách với giá trị 0 là nhỏ nhất, khoảng cách đó được xác định như sau:
𝐽(𝛽, 𝑊𝑡̂ ) = 𝑢(𝛽)′𝑍. 𝑊𝑡 1 𝑇
Ma trận ngẫu nhiên, cân xứng và không âm 𝑊𝑡̂ (kích thước L x L) được gọi là ma trận trọng số vì nó thể hiện mức đóng góp của các điều kiện moment khác nhau
vào khoảng cách J. Phương pháp ước lượng GMM sẽ xác định giá trị ước lượng β để
khoảng cách J là nhỏ nhất.
Kiểm định quan trọng nhất của phương pháp ước lượng GMM là kiểm định
Overidentifying Restrictions (Overidentifying Restrictions Test) hay còn gọi là kiểm
định Sargent (Sargent Test) hoặc kiểm định J (J – Test). Đây là kiểm định cần thiết
trong trường hợp số biến công cụ nhiều hơn số biến trong mô hình. Ý tưởng của kiểm
định là xem xét biến công cụ có tương quan với phần dư của mô hình không. Nếu câu
trả lời là không, khi đó biến công cụ là nội sinh, thì biến công cụ được chọn là phù
hợp và mô hình sử dụng biến đó để ước lượng cũng phù hợp. Kiểm định Sargent sử
dụng thống kê J (J – statistic) nhằm kiểm định giả thiết H0 - biến công cụ là nội sinh,
- 32 -
mô hình phù hợp. Thống kê J tuân theo phân phối Chi bình phương và được trình bày
trên bảng kết quả ước lượng của phần mềm thống kê cùng với giá trị p – value tương
ứng của nó.
3.3.3 Tính chất của phương pháp ước lượng GMM.
Khi số lượng mẫu phù hợp giá trị β ước lượng được sẽ vững, khi đó giá trị ước
lượng được sẽ càng gần với giá trị thực của nó. Ước lượng GMM sẽ cho ra các giá trị
ước lượng tuân theo phân phối chuẩn, đây là thuộc tính rất quan trọng vì đó là cơ sở
để chúng ta xây dựng giá trị dự đoán ở các độ tin cậy (confidence bands) và thực hiện
các kiểm định khác. Phương pháp GMM cũng cho ra kết quả là các giá trị ước lượng
hiệu quả, nghĩa là giá trị phương sai trong mô hình ước lượng là nhỏ nhất.
- 33 -
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 3 đã trình bày phương pháp nghiên cứu được sử dung để tiếp cận,
xây dựng cũng như đánh giá các khái niệm nghiên cứu và kiểm nghiệm lý thuyết trong
mô hình. Chương 4 cũng đưa ra cách đo lường những biến được phân tích trong mô
hình. Nội dung sẽ tập trung trình bày kết quả nghiên cứu thu được từ quá trình phân
tích số liệu của 63 tỉnh thành thuộc Việt nam với cỡ mẫu là 693 quan sát trong thời
gian từ năm 2002-2012.
Những điểm ưu thế của dữ liệu bảng (panel data) so với dữ liệu theo chuỗi thời
gian và không gian (time series), theo Baltagi (2008), liên quan đến các cá nhân,
doanh nghiệp, v.v… theo thời gian, nên nhất định phải có tính không đồng nhất (sự
khác biệt) trong các đơn vị này. Ước lượng dữ liệu bảng có thể chính thức xem xét
đến tính khác biệt đó bằng cách xem xét các biến số có tính đặc thù theo từng cá nhân,
được trình bày ngay sau đây. Ta sử dụng thuật ngữ cá nhân theo ý nghĩa chung bao
gồm các đơn vị vi mô như các cá nhân, các doanh nghiệp... Thông qua kết hợp các
chuỗi theo thời gian của các quan sát theo không gian, dữ liệu bảng cung cấp “những
dữ liệu có nhiều thông tin hơn, đa dạng hơn, ít đa cộng tuyến hơn giữa các biến số,
có nhiều bậc tự do và hiệu quả hơn.
Qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại, dữ liệu bảng phù hợp để
nghiên cứu tính động của sự thay đổi. Tình trạng thất nghiệp, luân chuyển công việc,
và tính lưu chuyển lao động sẽ được nghiên cứu tốt hơn với dữ liệu bảng. Dữ liệu
bảng có thể phát hiện và đo lường tốt hơn những ảnh hưởng mà không thể quan sát
trong dữ liệu chuỗi thời gian thuần túy hay dữ liệu chéo theo không gian thuần túy.
Dữ liệu bảng giúp ta nghiên cứu những mô hình hành vi phức tạp hơn. Ví dụ, các
hiện tượng như lợi thế kinh tế theo qui mô và thay đổi kỹ thuật có thể được xem xét
thông qua dữ liệu bảng tốt hơn so với dữ liệu theo chuỗi thời gian thuần túy hay theo
không gian thuần túy. Bằng cách thu thập những số liệu có sẵn cho vài nghìn đơn vị,
dữ liệu bảng có thể tối thiểu hóa sự thiên lệch có thể xảy ra nếu ta tổng hợp các cá
nhân hay các doanh nghiệp thành số liệu tổng. Nói ngắn gọn, dữ liệu bảng có thể giúp
ta phân tích thực nghiệm theo những cách thức mà không chắc có thể đạt được nếu
- 34 -
ta chỉ sử dụng các dữ liệu theo chuỗi thời gian hay không gian thuần túy.
4.1 Phân tích thống kê mô tả
Thống kê mô tả giúp tác giả có cái nhìn toàn diện về dữ liệu, phát hiện những
quan sát sai khác trong cỡ mẫu, kết quả được trình bày theo bảng thống kê mô tả
trong bảng 4.1. Kết quả chỉ ra phạm vi, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của các
biến được sử dụng trong nghiên cứu của các biến độc lập và phụ thuộc.
Bảng 4. 1 Thống kê mô tả giữa các biến trong mô hình
Biến Mẫu Trung Độ lệch GT nhỏ GT lớn
bình chuẩn nhất nhất
pctk 693 0.282407 0.157436 0.007752 0.730566
ltcg 693 0.399359 0.216606 0.009604 1.477991
ptkt 693 7.038506 0.350114 5.969918 8.430913
matdo 693 2.442756 0.43943 1.531479 3.564193
fdi 693 0.242291 1.055402 0 17.59429
open 693 0.696138 1.046187 0.001916 9.363819
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 1)
Kết quả thống kê mô tả ở bảng 4.1, biến pctk có độ biến động trong khoảng
từ giá trị 0.0077521 tới giá trị 0.7305661 với giá trị trung bình của cỡ mẫu 0.2824069,
ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là 0.157436.
Biến ltcg có độ biến động trong khoảng từ giá trị 0.0096039 tới giá trị
1.477991 với giá trị trung bình của cỡ mẫu 0.3993587, ứng với độ lệch chuẩn của
mẫu là 0.216606.
- 35 -
Biến ptkt có độ biến động trong khoảng từ giá trị 5.969918 tới giá trị 8.430913
với giá trị trung bình của cỡ mẫu 7.038506, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là
0.350114.
Biến matdo có độ biến động trong khoảng từ giá trị 1.531479 tới giá trị
3.564193 với giá trị trung bình của cỡ mẫu 2.442756, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu
là 0.43943.
Biến fdi có độ biến động trong khoảng từ giá trị 0 tới giá trị 17.59429 với giá
trị trung bình của cỡ mẫu 0.2422907, ứng với độ lệch chuẩn của mẫu là 1.055402.
Biến open có độ biến động trong khoảng từ giá trị 0.0019157 tới giá trị
9.363819 với giá trị trung bình của cỡ mẫu 0.6961377, ứng với độ lệch chuẩn của
mẫu là 1.046187.
Thống kê mô tả ở các biến trong mô hình theo bảng 4.1 cho thấy các biến có
độ lệch chuẩn không chênh lệch quá lớn so với giá trị trung bình. Nhìn chung dữ liệu
trong mô hình đa phần là đồng đều và tương xứng. Phạm vi mẫu trong bài nghiên cứu
là 693 quan sát, cỡ mẫu này được chấp nhận để thực hiện hồi quy trong thống kê.
Phần dữ liệu đầu vào trong nghiên cứu tương đối phù hợp để hồi quy.
4.2 Kiểm định sự tương quan và đa cộng tuyến
4.2.1 Ma trận tương quan đơn tuyến tính giữa các cặp biến
Hệ số tương quan dùng để chỉ mối quan hệ giữa các biến trong mô hình. Dựa
vào kết quả ma trận tương quan, tác giả sẽ phân tích mối tương quan giữa các biến
phụ thuộc với các biến độc lập trong mô hình và mối tương quan giữa các biến độc
lập với nhau.
- 36 -
pctk
ltcg
ptkt
Matdo
fdi
open
1.000
pctk
-0.136
1.000
ltcg
-0.030
-0.542
1.000
ptkt
matdo
0.111
-0.572
0.354
1.000
-0.007
-0.059
0.082
0.060
1.000
fdi
0.033
-0.514
0.392
0.344
0.134
1.000
open
Bảng 4. 2 Kết quả ma trận tương quan
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 2)
Kết quả phân tích ma trận tự tương quan giữa các biến trong mô hình theo
bảng 4.2 cho thấy, không tồn tại các hệ số tự tương quan cặp giữa các biến độc lập
lớn hơn 0.8 nên do đó không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến giữa các cặp biến độc
lập trong mô hình.
Kết luận: Không tồn tại tại hiện tượng đa cộng tuyến với tiêu chuẩn tương
quan cặp tuyến tính.
- 37 -
4.2.2 Kiểm định đa cộng tuyến
Bảng 4. 3 Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai
Biến VIF 1/VIF
ltcg 2.07 0.483624
matdo 1.5 0.667291
ptkt 1.46 0.685667
open 1.42 0.706002
fdi 1.02 0.979677
Trung bình VIF 1.49
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 3)
Dựa vào bảng 4.3 kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại
phương sai, cho thấy trung bình VIF của các biến trong mô hình bằng 1.49 nhỏ hơn
10. Đồng thời không có VIF của biến độc lập nào vượt quá 10.
Kết luận: Với tiêu chuẩn nhân tử phóng đại phương sai VIF, mô hình không
tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến.
4.3 Kiểm định lựa chọn mô hình Pooled và mô hình dữ liệu bảng FEM
Giả định các quan sát giữa các Công ty, các năm không tìm thấy sự khác biệt,
mô hình Pooled phù hợp với dữ liệu. Khi dữ liệu mẫu tồn tại sự khác biệt các Công
ty, dữ liệu bảng FEM phù hợp với mẫu nghiên cứu hơn.
Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định lựa chọn mô hình Pooled và mô hình
dữ liệu bảng FEM.
Giải thuyết Ho: Mô hình Pooled phù hợp với mẫu nghiên cứu
- 38 -
Giả thuyết H1: Mô hình FEM phù hợp với mẫu nghiên cứu.
Bảng 4. 4 Kết quả kiểm định lựa chọn Pooled và FEM
Thố ng kê F p-value
6.26 0.000
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 4)
Kiểm định cho p-value bằng 0.0000 nhỏ hơn 0.05, đủ cơ sở bác bỏ giả thuyết
H0.Vậy mô hình FEM phù hợp với dữ liệu mẫu hơn mô hình Pooled.
Tác giả sử dụng mô hình dữ liệu ở bảng 4.4 làm kết qủa nghiên cứu.
4.4 Kiểm định lựa chọn mô hình Pooled và mô hình dữ liệu bảng REM
Tác giả tiếp tục kiểm định Breusch, T. S. và A. R. Pagan. (1980) lựa chọn mô
hình Pooled và REM với giả thuyết như sau:
H0: Mô hình Pooled phù hợp dữ liệu mẫu hơn REM
H1: Mô hình REM phù hợp dữ liệu mẫu hơn Pooled
Bảng 4. 5 Kết quả kiểm định lựa chọn Pooled và REM
Chi bình Phương (χ2) p-value
335.58 0.000
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 4)
- 39 -
Kiểm định cho p-value của 2 mô hình đều bằng 0.000 nhỏ 0.05, đủ cơ sở để
bác bỏ giả thuyết H0.Vậy mô hình REM phù hợp với dữ liệu mẫu hơn mô hình Pooled.
Tác giả sử dụng mô hình dữ liệu ở bảng 4.5 làm kết qủa nghiên cứu.
4.5 Kiểm định lựa chọn mô hình FEM và mô hình dữ liệu bảng REM
Tác giả tiếp tục kiểm định Hausman lựa chọn mô hình REM với giả thuyết
như sau:
H0: Mô hình REM phù hợp dữ liệu mẫu hơn FEM
H1: Mô hình FEM phù hợp dữ liệu mẫu hơn REM
Bảng 4. 6 Kết quả kiểm định lựa chọn FEM và REM
Chi bình Phương (χ2) p-value
8.41 0.1352
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 4)
Kiểm định cho p-value của mô hình là 0.1352 lớn hơn 0.05, nên chưa đủ cơ
sở để bác bỏ giả thuyết H0.Vậy mô hình REM hiệu ứng cố định phù hợp với dữ liệu
mẫu hơn mô hình FEM.
Tác giả sử dụng mô hình dữ liệu ở bảng 4.6 làm kết quả cho đề tài nghiên cứu.
4.6 Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi phần dư trên dữ liê ̣u bả ng -
Greene (2000)
Hiê ̣n tươ ̣ng phương sai thay đổ i có thể ảnh hưở ng đến chất lượng hiệu quả củ a ướ c lươ ̣ng các tham số mô hình, làm giảm thiểu hoặc mất đi độ tin câ ̣y củ a kiểm đi ̣nh hê ̣ số . Tác giả tiến hành kiểm định phương sai sai số thay đổi bằng phương pháp kiểm
định Greene (2000) với giả thuyết như sau:
- 40 -
Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tượng phương sai thay đổi
Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi
Bảng 4. 7 Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi mô hình
Chi bình Phương (χ2) p-value
8347.73 0.000
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 5)
Từ bảng 4.7, kết quả kiểm định Greene (2000) bằng phần mềm Stata cho thấy
kết quả với p-value bằng 0.0000 < α = 0.05. Suy ra đủ cơ sở để bác bỏ giả thuyết Ho
ở mức ý nghĩa 5%, cho thấy tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình.
Kết luận: Tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình ở mức ý nghĩa
5%.
4.7 Kiểm định hiện tượng tự tương quan phần dư trên dữ liê ̣u bả ng– Wooldridge
(2002) và Drukker (2003)
Hiê ̣n tươ ̣ng tự tương quan phần dư có thể ảnh hưở ng đến chất lượng hiệu quả củ a ướ c lươ ̣ng các tham số mô hình, làm giảm thiểu hoặc mất đi độ tin câ ̣y kiểm đi ̣nh hê ̣ số . Để kiểm tra hiện tượng tự tương quan, tác giả sử dụng phương pháp
Wooldridge (2002) và Drukker (2003) và đặt giả thuyết kiểm định như sau:
Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan bậc 1
Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan bậc 1
- 41 -
Bảng 4. 8 Kết quả kiểm tra tự tương quan mô hình
Chi bình Phương (χ2) p-value
11.829 0.0010
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 6)
Kết quả kiểm định bằng phần mềm Stata cho kết quả ở bảng 4.8 cho kết quả
với p-value là 0.0010 nhỏ hơn α = 0.05. Suy ra, đủ cơ sở để bác bỏ giả thuyết H0 ở
mức ý nghĩa 5% cho thấy tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 1 trong mô hình.
Kết luận: Có tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 1 trong mô hình với mức ý
nghĩa 5%.
4.8 Phân tích kết quả hồi quy FEM, REM và FGLS
Trong phương pháp thực hiện hồi quy cho mô hình này, tác giả sẽ lần lượt tiếp
cận các mô hình từ đơn giản đến phức tạp, với mục đích là khắc phục các khuyến
khuyết kiểm định của mô hình hồi quy. Bắt đầu với các mô hình hồi quy dữ liệu bảng
hiệu ứng tác động cố định (Fixed effect – FEM), hồi quy dữ liệu bảng hiệu ứng tác
động ngẫu nhiên (Random effect – REM).
Tuy nhiên FEM và REM không kiểm soát được hiện tượng phương sai thay
đổi và tự tương quan, dẫn tới việc sử dụng mô hình FGLS, Green (2000) (Feasible
Generalized Least Squares). Tác giả cũng sử dụng phương pháp kiểm soát hiện tượng
phương sai thay đổi và tự tương quan trên FGLS nhằm khắc phục các khiếm khuyết
dữ liệu mẫu đã được phát hiện bởi kiểm định Greene (2000), Wooldridge (2002) và
Drukker (2003).
- 42 -
Bảng 4. 9 Kết quả hồi quy mô hình
(1) (2) (3)
FEM REM FGLS
ltcg -0.163*** -0.161*** -0.0816**
(-3.21) (-3.61) (-2.22)
ptkt -0.0167 -0.0318* -0.0734***
(-0.87) (-1.72) (-3.35)
matdo -0.213 0.00973 0.0447**
(-1.40) (0.32) (2.28)
fdi -0.00323 -0.00283 -0.00854***
(-0.65) (-0.58) (-2.69)
open -0.0224* -0.0150 0.00238
(-1.96) (-1.64) (0.28)
_cons 1.001*** 0.558*** 0.705***
(2.69) (3.65) (4.39)
N 693 693 693
*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 7)
Ở bảng 4.9 các mô hình 1, 2, 3 đều cho kết quả tương đồng giữa một số biến
với nhau và đồng nhất. Kết quả hồi quy ở bảng 4.9 cho thấy biến ltcg, ptkt, fdi và
open có tác động ngược chiều tới biến phụ thuộc có ý nghĩa thống kê trong 3 mô hình
FEM, REM và FGLS. Trong khi ở chiều hướng ngược lại biến matdo lại tác động
cùng chiều tới biến phụ thuộc. Từ dữ liệu khảo sát qua kết quả thực nghiệm hầu hết
- 43 -
các biến trong mô hình đều mang ý nghĩa thống kê.
Xét phần biến độc lập ltcg, thì kết quả thu được cho thấy ở cả ba mô hình đều
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% và 5%, chiều tác động đối với biến phụ thuộc
là chiều âm, tức một sự gia tăng (suy giảm) của biến độc lập ltcg - sự lệ thuộc chuyển
giao (đại điện cho mức độ chi tiêu của tỉnh được tài trợ bởi nguồn ngân sách trung
ương) sẽ làm giảm (thúc đẩy) biến phụ thuộc là biến phân cấp tài khóa (đại diện cho
tỷ lệ chi tiêu công dưới tỉnh so với tỷ lệ chi công toàn tỉnh và dưới tỉnh).
Phần lớn lý thuyết đều gắn liền với các giả thiết và giả định (chẳng hạn giả
thiết cử tri trung dung)… Tác động của sự chuyển giao từ nơi có quyền lực cao hơn
đối với sự phân cấp tài khóa vẫn chưa được tìm hiểu rộng rãi. Mối quan hệ giữa sự lệ
thuộc chuyển giao và phân cấp có thể cùng chiều hay ngược chiều, phụ thuộc vào vai
trò và chức năng của chính quyền trung gian nơi có trách nhiệm chuyển giao trợ cấp
trung ương đến chính quyền địa phương.
Kết quả hồi quy về mối tương quan nghịch biến giữa lệ thuộc chuyển giao và
phân cấp tài khóa của bài nghiên cứu ủng hộ thêm kết quả giả định trong nghiên cứu
ở Nga của Freikman và Plekhanov (2009), và nghiên cứu tại Trung Quốc của Alfred
M. Wu và Wen Wang (2013). Khi các điều khác không đổi thì ở các khu vực lệ thuộc
chuyển giao có khuynh hướng phân cấp tài khóa cao hơn. Khi dòng trợ cấp từ trung
tâm qua chính quyền khu vực, có thể họ sẽ sử dụng các chuyển giao này hơn là phân
phối cho các cấp chính quyền thấp hơn. Khi kiểm soát tất cả các yếu tố khu vực khác,
sự lệ thuộc chuyển giao càng cao thì sự phân cấp tài khóa càng thấp.
Xét phần biến độc lập open, kết quả tương quan âm và có ý nghĩa thống kê
10% chỉ với mô hình FEM. Điều này có nghĩa là một sự gia tăng trong độ mở thương
mại sẽ làm giảm sự phân cấp tài khóa và ngược lại.
So với các biến độc lập khá thì các yếu tố mở rộng thương mại ít được chú ý
trong các lý thuyết. Trong khi đó các nghiên cứu của Philip Bodman, Katherine Ford,
Tom Gole, Andrew Hodge (2009) lại cho kết quả tương đồng. Một sự gia tăng trong
mở rộng thương mại làm hạn chế chính sách phân cấp tài khóa. Đây cũng là kết quả
- 44 -
mô hình hồi quy trong nghiên cứu của Cristian F Sepulveda, Jorge Martinez-Vazquez
(2010).
Xét biến độc lập fdi, hệ số co giãn là -0.00854 có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Điều này có nghĩa là một sự gia tăng trong phân cấp tài khóa làm hạn chế FDI của
một quốc gia và ngược lại. Điều này dường như ủng hộ cho nghiên cứu của Alfred
M. Wu và Wen Wang (2013) khi hai ông tìm thấy một mối tương quan âm trong
nghiên cứu của mình. Kết luận này tương tự như Yong Wang (2007), quá nhiều phân
cấp tài khóa có thể làm tổn thương các chính sách khuyến khích của chính phủ dẫn
tới việc phong tỏa FDI và ngược lại.
Tóm lại, các mô hình hồi quy tìm ra được tác động của các biến độc lập có ý
nghĩa thống kê trong mẫu dữ liệu được khảo sát. Giai đoạn từ 2002 – 2012 chỉ ra rằng
sự lệ thuộc chuyển giao hay nói các khác là mức độ chi tiêu của tỉnh có tác động
ngược ngược chiều tới việc phân cấp tài khóa ở Việt Nam.
4.9 Phân tích phương pháp hồi quy GMM
Việc mở rộng hồi quy GMM là sự cần thiết để so sánh và đối chiếu với các
mô hình hồi quy ở mục 4.8. Do những ưu điểm mà phương pháp GMM mang lại,
theo kết quả nghiên cứu của Arellano và Bond (1991), phương pháp hồi quy GMM
là một giải pháp mang tính hiệu quả để ước lượng hồi quy mô hình trong trường hợp
mô hình vừa có hiện tượng phương sai thay đổi, tự tương quan và nội sinh. Mô hình
của Arellano và Bond kiểm soát được hiện tượng tự tương quan giữa phần dư, hiện
tượng phương sai thay đổi cũng như nội sinh trong hồi quy. Phương pháp GMM có
ước lượng vững và hiệu quả đã được trình bày ở chương 3.
- 45 -
Bảng 4. 10 Kết quả hồi quy mô hình GMM
(1)
pctk
ltcg -0.557***
(-2.90)
ptkt -0.138***
(-3.71)
matdo -0.0546
(-1.48)
fdi -0.0210
(-1.35)
open -0.0248**
(-2.36)
_cons 1.634***
(3.84)
AR(1) 0.000
AR(2) 0.904
Sargan 0.415
N 693
*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Phần mềm Stata trên số liệu tác giả thu thập với
cỡ mẫu gồm 693 quan sát của 63 tỉnh thành ở Việt Nam trong giai đoạn 2002 – 2012
(Phụ lục 8)
- 46 -
Kết quả thu được từ mô hình hồi quy theo phương pháp GMM, chỉ số Sargan
– p value là 0.415 lớn hơn 0.05, với giả thuyết H0: Số biến công cụ trong mô hình hồi
quy là phù hợp, ngược lại giả thuyết vô hiệu H1: Số biến công cụ trong mô hình là
không phù hợp, điều này cho biết chưa đủ cơ sở để bác bỏ giả thuyết H0. Tức kết quả
test kiểm định Sargan trong mô hình là đủ và phù hợp cho nghiên cứu. Tương tự kết
quả kiểm định AR(1), AR(2) về tự tương quan sai phân bậc 1 của chuỗi sai số trong
hai mô hình đều hợp lệ. Do đó kết quả thu được từ mô hình GMM có độ tin cậy.
Kết quả hồi quy GMM có ý nghĩa thống kê, phương pháp này khắc phục những
nhược điểm mà so với 2 mô hình FEM, REM. Kiểm soát được hiện tượng biến nội
sinh trong mô hình so với mô hình FGLS. Các biến độc lập bao gồm: ltcg, ptkt, open
đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa từ 5% - 1%.
- 47 -
Chương 5. KẾT LUẬN
5.1 Kết luận chung
Bài nghiên cứu phân tích số liệu của 63 tỉnh thành thuộc Việt nam với cỡ mẫu
là 693 quan sát trong thời gian từ năm 2002-2012. Bằng mô hình GMM, với ý nghĩa
thống kê ở mức ý nghĩa 1%, một sự gia tăng trong lệ thuộc chuyển giao làm giảm
phân cấp tài khóa và ngược lại. Ngoài ra, bài nghiên cứu xác nhận rằng việc nhà nước
tăng cường phân cấp chi không khuyến khích cho sự phát triển kinh tế địa phương.
Tương tự, việc mở rộng thương mại sẽ làm giảm phân cấp tài khóa và ngược lại. Đối
với biến độc lập mật độ dân số, kết quả định lượng của mô hình hồi quy tương quan
âm không có ý nghĩa thống kê. Cuối cùng, bài nghiên cứu không tìm thấy mối tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa FDI và phân cấp chi.
Xét phần biến độc lập ltcg, thì kết có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%,
chiều tác động đối với biến phụ thuộc là chiều âm. Kết quả này tương tự như kết quả
nghiên cứu của Freikman và Plekhanov (2009) ở nền kinh tế Nga, và nghiên cứu ở
Trung Quốc của Alfred M. Wu và Wen Wang (2013). Mối quan hệ ngược chiều giữa
sự phụ thuộc chuyển giao và phân cấp chi tiêu cho thấy rằng từ chính quyền trung
gian - chính quyền cấp tỉnh - có thể "giữ lại" bổ sung từ Trung Uơng cho lợi ích riêng.
Tác giả nghi ngờ rằng, ở một số vùng, số bổ sung từ Trung Ương có thể đã bị rò rỉ và
chưa được sử dụng cho các mục đích như đã dự tính. Các nghiên cứu trước ở Trung
Quốc và Nga cũng đã xác nhận vấn đề này sẽ xảy ra ở các nước đang phát triển.
Xét phần biến độc lập ptkt, 3 mô hình FEM, REM và FGLS đều cho ra độ co
giãn âm. Tuy nhiên, kết quả định lượng của mô hình FEM không có ý nghĩa thống
kê. Chỉ có 2 mô hình REM, FGLS và mô hình GMM tìm thấy được bằng chứng của
biến ptkt có bằng chứng mang ý nghĩa thống kê, chiều tác động là âm và có ý nghĩa
ở mức 10% cho phương pháp REM và 1% cho GMM, FGLS. Hàm ý việc phát triển
kinh tế địa phương không ủng hộ cho sự phân cấp tài khóa.
- 48 -
Đã có những quan điểm lý thuyết khác về tác động ngược chiều của phân cấp
tài khóa đến tăng trưởng. Theo Prud’homme (1995) và Tanzi (1996), nếu các giả định
của phân cấp tài khóa như: (i) phân cấp nguồn thu tương xứng với nhiệm vụ chi; (ii)
năng lực và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương không được thỏa mãn,
thì kết quả của phân cấp tài khóa có thể gây phương hại đến tăng trưởng kinh tế và
tính hiệu quả. Martinez và McNab (2001) còn cho rằng phân cấp về tài khóa có thể
khuyến khích sự bất ổn của kinh tế vĩ mô, do đó sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng
kinh tế, bởi vì phân cấp tài khóa có thể làm giảm chi tiêu và các loại thuế của chính
phủ trung ương dùng để hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế.
Trong khi nhiều nghiên cứu khác cho kết quả là sự phân cấp tài khoá làm chậm
tốc độ tăng trưởng. Như nghiên cứu của Zhang, Tao và Zou Heng-fu (1998), nghiên
cứu chính quyền trung ương và địa phương đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Trung Quốc kể từ khi cải cách bắt đầu vào cuối năm 1970. Tác giả thấy rằng phân
cấp chi tiêu chính phủ có liên quan với tăng trưởng kinh tế thấp hơn trong mười lăm
năm qua. Woller và Phillips (1998) nghiên cứu về mối tương quan giữa phân cấp tài
khóa và các sự phát triển kinh tế của các quốc gia kém phát triển. Dù kết quả không
có ý nghĩa đối với toàn bộ mẫu dữ liệu từ 1974-1991 nhưng tác giả đã tìm thấy mối
tương quan nghịch đối với các quốc gia này. Hay Davoodi, Xie, Zou (1999) xây dựng
một mô hình đơn giản xem xét sự tăng trưởng nội sinh với chi tiêu của các cấp chính
quyền khác nhau với kinh tế Hoa Kỳ trong giai đoạn 1984-1994 (Có 3 cấp chính
quyền được phân tích bao gồm Liên bang, bang và chính quyền địa phương). Kết quả
cho thấy phân cấp chi giữa liên bang và địa phương làm tối đa hóa tăng trưởng. Hàm
ý của nghiên cứu này cho thấy rằng rằng sự phân cấp hơn nữa trong việc chi tiêu công
có thể gây hại cho sự phát triển của quốc gia. Các nghiên cứu khác của Behnisch,
Buttner và Stegarescu (2002), Phillip và Isah (2012) cũng phát hiện phân cấp tài khóa
tác động tiêu cực lên tăng trưởng của quốc gia.
Các đề tài nghiên cứu ở trong nước về mối tương quan giữa phân cấp tài khóa
và phát triển kinh tế như nghiên cứu Nguyễn Phi Lân (2009) kết luận rằng trong giai
đoạn 1997 - 2001, biến phân cấp quản lý chi thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ
bản tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế địa phương với mức ý nghĩa thống kê
- 49 -
là 1%. Còn giai đoạn 2002 - 2007, phân cấp chi đầu tư có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế địa phương, còn chi thường xuyên thì có tác động ngược lại. Nguyễn
Khắc Minh (2008) từ cùng với phương pháp tiếp cận tham số (dựa trên hàm sản xuất
ngẫu nhiên) và phương pháp tiếp cận phi tham số (dựa trên DEA) đã chỉ ra tính phi
hiệu quả trong chi tiêu công tồn tại trong cả chi tiêu công và đầu tư công hàng năm.
Hoàng Thị Chinh Thon và cộng sự (2010) cho rằng nguồn chi cho đầu tư cấp huyện
cần được tăng cường, trong khi chi tiêu đầu tư cấp tỉnh nên giảm để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của địa phương.
Xét phần biến độc lập open, với việc tương quan âm và có ý nghĩa ở mức 5%.
Như trên, kết quả này bổ trợ thêm cho các nghiên cứu trước của Philip Bodman,
Katherine Ford, Tom Gole, Andrew Hodge (2009), Cristian F Sepulveda, Jorge
Martinez-Vazquez (2010). Điều này có nghĩa là một sự gia tăng trong độ mở thương
mại sẽ làm giảm sự phân cấp tài khóa và ngược lại.
Cuối cùng, đối với biến độc lập matdo, kết quả định lượng của mô hình hồi
quy chỉ xuất hiện xu hướng không có ý nghĩa thống kê. Ta có thể thấy rằng, mật độ
dân số càng cao thì chi phí dịch vụ công thấp hơn do có sự gia tăng việc hoàn lại mức
độ các khoản dịch vụ công. Mật độ dân số thấp gia tăng chi phí dịch vụ với điều kiện
các yếu tố khác cố định. Các nghiên cứu trước đều chỉ ra mối quan hệ cùng chiều
giữa quy mô dân số với sự phân cấp tài khóa và mối quan hệ ngược chiều giữa mật
độ dân số và sự phân cấp tài khóa (Kee, 1977; Cerniglia, 2003; Freinkman và
Plekhanov, 2005; Bodman và Hodge, 2010).
5.2 Gợi ý chính sách
Kể từ lúc Chính phủ Việt Nam thực hiện Đổi Mới kinh tế 1986, các cải cách
chính sách tài khóa diễn ra mạnh mẽ tới ủy ban nhân dân các cấp tại 63 tỉnh thành
trong cả nước. Cụ thể cấp tỉnh-thành, cấp quận-huyện, và cấp phường-xã. Quốc Hội
và Chính phủ ban hành Luật Ngân sách năm 1996 như là bước đi đầu tiên trong phân
cấp quản lý tài khóa của Việt Nam. Bước đi này tạo tiền đề cho ủy ban nhân dân các
cấp tự chủ trong các hoạt động thu chi của mình. Dù vậy, các tổ chức và nhà nghiên
- 50 -
cứu vẫn cho rằng việc phân cấp quản lý tài khóa tại nước ta vẫn diễn ra không được
nhanh chóng như mong đợi và trong khuôn khổ, nó vẫn còn rất khiêm tốn. Chính vì
thế, Luật Ngân sách Nhà nước 2002 được Quốc Hội thông qua thay thế cho Luật
Ngân sách 1996 với mục tiêu tăng cường phân cấp tài khóa và tạo nhiều quyền hạn
trong quản lý chi tiêu tại chính quyền các cấp địa phương. Dù vậy, cho tới hiện tại,
sau 14 năm, tác động của việc phân cấp quản lý tài khóa tại các tỉnh thành trong cả
nước với tăng trưởng kinh tế địa phương đã được xem xét, còn mối tương quan chính
sách giữa lệ thuộc chuyển giao và phân cấp tài khóa vẫn còn hạn chế.
Từ kết quả của bài nghiên cứu và một số các nghiên cứu khác trên thế giới, tác
giả đề xuất một số biện pháp như sau:
Thứ nhất, ta có thể nhận thấy hệ thống ngân sách Việt Nam hiện nay mang
tính lồng ghép, giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương; ngân sách địa
phương lại lồng ghép ngân sách các cấp chính quyền. Dẫn đến tình trạng trùng lắp,
chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp ngân sách; hạn chế tính độc lập
của từng cấp ngân sách; làm cho quy trình ngân sách phức tạp và kéo dài, việc lập dự
toán, tổng hợp dự toán cũng như quyết toán ở mỗi cấp bị lệ thuộc vào cấp dưới và
việc quyết định dự toán ở cấp dưới mang tính hình thức vì phụ thuộc vào quyết định
dự toán của cấp trên.
Cho nên tác giả kiến nghị cần nghiên cứu bãi bỏ mô hình ngân sách địa phương
lồng ghép hiện nay vì mô hình này thường dẫn đến việc lạm quyền của cấp trên trong
việc điều hành ngân sách. Trong trường hợp giữ lại mô hình này thì cần được tiếp tục
hoàn thiện bằng việc tăng cường nguồn thu cho ngân sách huyện và xã cũng như đề
ra các nguyên tắc nhằm phân định rõ ràng nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp
ngân sách địa phương. Do đó, Bộ Tài chính cần ban hành hướng dẫn cụ thể về nguyên
tắc, cách thức phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách địa
phương nhằm đảm bảo có sự thống nhất trong phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi tại
địa phương để hạn chế tình trạng tùy tiện phân chia như hiện nay, từ đó tăng cường
- 51 -
ý nghĩa phân cấp ngân sách và khả năng tự cân đối cho ngân sách cấp huyện và xã.
Thứ hai, giải quyết tình trạng bất bình đẳng giữa các địa phương trong thu
Ngân sách nhà nước : Quy mô thu ngân sách nhà nước trên địa bàn các tỉnh, thành
phố có sự chênh lệch rất lớn, theo thống kê của Bộ Tài chính, địa phương cao nhất
(Tp. Hồ Chí Minh) có số thu cao hơn 164 lần so với địa phương thấp nhất (Bắc Kạn).
Điều này cho thấy năng lực tài khóa giữa các địa phương rất khác nhau, cần có giải
pháp để tránh tình trạng bất bình đẳng theo chiều ngang. Hơn nữa, hiện Việt Nam
đang áp dụng duy nhất nguyên tắc nguồn gốc (doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh ở
đâu thì khoản nộp Ngân sách nhà nước được phân cho địa phương đó) khi xác định
các khoản thu phân chia giữa Trung ương và địa phương càng làm tăng sự bất bình
đẳng giữa các địa phương trong thu Ngân sách nhà nước.
Hiện tại, Đông Nam Bộ đang là khu vực có tổng thu ngân sách trên địa bàn
lớn nhất. Đây cũng là khu vực có 4/6 tỉnh thành phải điều tiết nguồn thu phân chia về
ngân sách trung ương. Trong đó, Tp. Hồ Chí Minh là địa phương đang dẫn đầu cả
nước về thu ngân sách cũng như đóng góp vào ngân sách quốc gia. Tiếp theo sau là
Hà Nội và Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng và Quảng Ninh. Tuy nhiên, nếu tính tỷ lệ
giữ lại ngân sách địa phương đối với nguồn thu phân chia giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương thì Tp. Hồ Chí Minh được giữ lại thấp nhất, tiếp sau là Bình
Dương, Hà Nội.... Thực tế đối với những tỉnh thành phố trọng điểm như Tp. Hồ Chí
Minh với tỷ lệ giữ lại ngân sách địa phương là 30% như hiện nay, nguồn thu không
đáp ứng được nhiệm vụ chi. Do đó, không thể phát huy tiềm năng và lợi thế của vùng
kinh tế trọng điểm quốc gia nhằm có thể cạnh tranh quốc tế.
Từ thực tế trên, tác giả kiến nghị cần kiên định chủ trương tăng cường tính tự
chủ của ngân sách địa phương bằng cách tăng dần các nguồn thu cho địa phương. Ví
dụ như đối với các thành phố trọng điểm như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình
Dương... nên được tăng gấp đôi ngân sách so với hiện nay để có thể đáp ứng nhiệm
vụ chi, đảm bảo được nhiệm vụ phát triển kinh tế địa phương. Thực tiễn phân cấp
ngân sách ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước phát triển cho thấy, việc phi tập
trung hóa bằng cách tăng cường khả năng thu và chi cho ngân sách cấp dưới đem lại
- 52 -
nhiều hiệu quả tích cực và hoàn toàn không làm xói mòn sự ổn định của ngân sách.
Với mô hình thiết kế các nguồn thu như hiện nay, thực tế đã cho thấy hầu hết các địa
phương không thể tự cân đối được, điều đó cho thấy cần có những khảo sát, đánh giá
cụ thể để đưa ra phương thức mới hoặc cơ cấu lại các nguồn thu sao cho trong từ 5
đến 10 năm tới sẽ có từ 50% đến 60% số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể
cân đối được nguồn thu đáp ứng nhiệm vụ chi.
Mặt khác, để tăng tỷ lệ thu ngân sách, các địa phương đã tập trung khai thác
các nguồn thu được phân chia 100% cho Ngân sách địa phương. Vì các sắc thuế đều
do Trung ương quyết định cả về thuế suất, cơ sở tính thuế nên không gian cho việc
thực hiện sự tự chủ của địa phương là hết sức hạn chế. Do vậy, các địa phương buộc
phải tìm kiếm tăng nguồn thu qua việc tăng thu từ đất đai – một loại nguồn thu được
phân cấp hoàn toàn cho địa phương. Tuy nhiên, thị trường bất động sản lại rất khác
biệt giữa các địa phương. Theo chính sách về đất đai hiện hành thì đất đai là nguồn
tài nguyên quý giá thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước là chủ sở hữu, do đó nguồn
thu từ đất đai cần được điều tiết chung cho cả nước chứ không nên dành riêng cho
địa phương vì giá trị của chúng rất khác nhau giữa các địa phương. Ở một số địa
phương như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng, nguồn thu từ đất, đặc biệt là từ
đấu giá quyền sử dụng đất là khá lớn, trong khi đó những địa phương khác thì ngược
lại. Nếu tiếp tục để nguồn thu này là nguồn thu 100% của ngân sách địa phương, thì
chỉ có một số ít các tỉnh, thành phố được hưởng lợi một cách tự nhiên, trong khi ngân
sách trung ương không thể điều tiết được một phần nguồn lợi này cho những địa
phương khác. Mặt khác, vì được hưởng lợi tự nhiên nên càng khuyến khích các địa
phương này tiếp tục đẩy mạnh đấu giá đất, mở rộng các dự án bất chấp hiệu quả, thậm
chí sẵn sàng đấu giá với mức giá thấp hơn so với mặt bằng chung của thị trường bất
động sản để nhanh chóng có nguồn vốn đầu tư, dẫn đến lãng phí nguồn tài nguyên
đất đai. Do đó cần quy định nguồn thu từ đấu giá đất là nguồn thu phân chia giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để đảm bảo điều tiết nguồn lực từ đất
đai một cách hài hòa giữa các địa phương.
- 53 -
Thứ ba, mở rộng quyền tự chủ của địa phương trong quyết định chi tiêu nhằm
đảm bảo tính chủ động của chính quyền cấp tỉnh trong việc phân cấp nhiệm vụ chi
cho các cấp ngân sách trực thuộc (huyện, xã) theo quy định của Luật NSNN năm
2002. Việc mở rộng quyền tự chủ của địa phương trong các quyết định chi tiêu sẽ dựa
trên nguyên tắc chi tiêu được thực hiện ở cấp chính quyền nào trực tiếp cung ứng dịch
vụ công có hiệu quả nhất. Tránh tình trạng cùng một nhiệm vụ chi được phân ra cho
quá nhiều cấp mà không có sự xác định ranh giới rõ ràng, dẫn đến chỗ không quy
được trách nhiệm giải trình và sự chồng chéo, đùn đẩy giữa các cấp chính quyền. Từ
đó, tác giả kiến nghị Luật NSNN sửa đổi theo hướng bỏ các quy định giao nhiệm vụ
chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông
đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi công cộng cho thị xã, thành phố thuộc
tỉnh. Bên cạnh đó, xóa bỏ quy định khống chế các tỷ lệ cứng đối với chi cho lĩnh vực
giáo dục - đào tạo, môi trường… để tạo sự linh hoạt trong điều hành ngân sách, thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Thứ tư, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa sự phụ thuộc chuyển
giao và phân cấp chi tiêu cho thấy rằng từ chính quyền trung gian - chính quyền cấp
tỉnh - có thể "giữ lại" bổ sung từ Trung Ương cho lợi ích riêng. Tác giả nghi ngờ rằng,
ở một số vùng, số bổ sung từ Trung Ương có thể đã bị rò rỉ và chưa được sử dụng
cho các mục đích như đã dự tính. Từ đó cho thấy rằng nghiên cứu một cơ chế giám
sát chính quyền trung gian có thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ được phân hay
không là bắt buộc, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Quan trọng
hơn là cần tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính ở cấp địa
phương, thực hiện nghiêm kỷ luật tài khóa: Việc đẩy mạnh phân cấp quản lý ngân
sách chỉ có thể đạt được mục tiêu mong muốn nếu được gắn liền với việc tăng cường
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính ở cấp địa phương. Tăng cường
tính minh bạch, công khai trong quản lý ngân sách ở các cấp chính quyền, đồng thời
tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo
đảm tính hiệu quả của quản lý ngân sách. Tăng cường trách nhiệm giải trình của mỗi
cấp chính quyền trong quản lý ngân sách không chỉ với cấp trên mà trước hết là với
- 54 -
trước hội đồng nhân dân và người dân ở địa phương đó.
Thứ năm, một nguyên nhân nữa gây ra việc kém hiệu quả của phân cấp tài
khóa là sự yếu kém trong hệ thống giáo dục và đào tạo của các quốc gia. Chính phủ
cần tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho hoạt động giáo dục và đào tạo, chìa khóa để
từng bước loại bỏ những nhân tố làm tổn hại tới sự phát triển của đất nước. Treisman
(2007) kết luận rằng ở những quốc gia có trình độ dân trí cao do người nhân dân có
có khả năng tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
Nhà nước và của cán bộ, công chức. Ngoài ra, hệ thống giáo dục và đào tạo hoạt động
tốt sẽ giúp đào tạo ra những người cán bộ, công chức có năng lực, trình độ chuyên
môn, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm đối với công việc, đối với nhân dân
và xã hội.
5.3 Hạn chế đề tài
Bên cạnh các vấn đề được nghiên cứu ở trên, luận văn này còn tồn tại một số
hạn chế như sau:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của phân cấp tài khóa và lệ thuộc
chuyển giao, rất hạn chế nên chưa có điều kiện so sánh sâu hơn các kết quả thực
nghiệm. Việc so sánh với kết quả thực nghiệm về vấn đề này với các nghiên cứu thế
giới thì vẫn còn nhiều hạn chế vì đặc điểm và tính chất chính sách của các nước khác
nhau là không giống nhau nên việc so sánh với các kết quả này chỉ mang tính đối
chiếu chứ chưa giải thích hết bản chất của vấn đề đặt ra.
Thứ hai, đề tài nghiên cứu trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Cần có những
số năm đủ dài để mở rộng quan sát trước và sau khung hoảng kinh tế trong mối quan
hệ giữa quy các biến nghiên cứu.
5.4 Hướng mở rộng đề tài
Trong tương lai khi những dữ liệu hoàn chỉnh và số kỳ nghiên cứu đủ lớn,
hướng nghiên cứu tiếp tục được hoàn thiện và bổ sung khi được tăng cỡ mẫu. Do đó,
bài nghiên cứu sẽ tiếp tục hoàn thiện về mặt dữ liệu, kỳ quan sát và bổ sung việc cần
- 55 -
phải xem xét đến sự chênh lệch khác biệt giữa các quốc gia. Về phương pháp định
lượng, bài nghiên cứu nghiên cứu trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, có thể kiểm
tra thêm về tác động của khủng hoảng kinh tế đến mối quan hệ giữa các yếu tố nghiên
cứu. Các mô hình nghiên cứu khác biệt trong sự khác biệt (Different in Different),
mô hình hồi quy ngưỡng Threshold có thể được xem xét thực hiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bùi Đường Nghiêu và cộng sự, 2006. Điều hoà ngân sách giữa trung ương và
địa phương. Nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
2. Hoàng Thị Chinh Thon và cgt, 2010. Tác động của chi tiêu công tới tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách. Đại học Kinh
tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Chi Mai, 2006. Phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương: thực trạng
và giải pháp. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
4. Mai Đình Lâm, 2012. Tác động của phân cấp tài khóa đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam. Luận văn Tiến Sĩ
5. Mai Đình Lâm, 2012. Tác động của phân cấp tài khóa đến tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội, Trung tâm thông tin
và dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia. Bộ kế hoạch và Đầu tư, số tháng 4.
6. Nguyễn Khắc Minh và cgt, 2008. Tăng trưởng chuyển đổi cơ cấu và chính sách
kinh tế ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. NXB Khoa học và kỹ thuật, trang 41-70.
7. Nguyễn Phi Lân, 2009. Phân cấp quản lý tài khóa và tăng trưởng kinh tế địa
phương tại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
8. Phạm Thế Anh, 2008. Phân tích cơ cấu chi tiêu của Chính phủ và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách. Đại học Kinh
tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Quốc hội, 1996 và 2002. Luật ngân sách nhà nước. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia.
10. Sử Đình Thành - Mai Đình Lâm, 2012. Phân cấp chi ngân sách và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 263, tháng 9.
11. Tổng cục Thống kê, 2002 - 2012. Niên giám thống kê. Hà Nội: Nhà xuất bản
Thống kê.
Tiếng Anh
12. Baltagi, B. (2008). Econometric analysis of panel data. John Wiley and Sons.
13. Bahl, R. W., and Linn, J. F. (1992). Urban public finance in developing
countries. The World Bank.
14. Bailey, S. J., and Connolly, S. (1998). The flypaper effect: Identifying areas for
further research. Public Choice, 95(3-4), 335-361.
15. Bird, R., and Wallich, C. (1993). Fiscal decentralization and intergovernmental
relations in transition economics: Toward a systematic framework of analysis
(No. 1122). The World Bank.
16. Bodman, P., and Hodge, A. (2010). What Drives Fiscal Decentralisation?
Further Assessing the Role of Income. Fiscal Studies, 31(3), 373-404
17. Bodman, P., Ford, K., Gole, T., and Hodge, A. (2009). What Drives Fiscal
Decentralisation? (No. 3009). School of Economics, University of Queensland,
Australia.
18. Cerniglia, F. (2003). Decentralization in the public sector: quantitative aspects
in federal and unitary countries. Journal of Policy Modeling, 25(8), 749-776.
19. Faridi, M. Z. (2011). Contribution of fiscal decentralization to economic growth:
Evidence from Pakistan. Pakistan Journal of Social Sciences (PJSS), 31(1), 1-
13.
20. Feltenstein, A., and Iwata, S. (2005). Decentralization and macroeconomic
performance in China: regional autonomy has its costs. Journal of Development
Economics, 76(2), 481-501.
21. Freinkman, L., and Plekhanov, A. (2005). What determines the extent of fiscal
decentralization? The Russian Paradox. The Russian Paradox (September
2005). World Bank Policy Research Working Paper, (3710).
22. Freinkman, L., and Plekhanov, A. (2009). Fiscal decentralization in rentier
regions: evidence from Russia. World Development, 37(2), 503-512.
23. Garrett, G., and Rodden, J. (2003). Globalization and fiscal decentralization.
Governance in a global economy: Political authority in transition, 87-109.
24. He, Q., Sun, M., and Zou, H. F. (2013). Financial deregulation, absorptive
capability, technology diffusion and growth: Evidence from Chinese panel data.
Journal of Applied Economics, 16(2), 275-302.
25. Hernandez-Trillo, F., and Jarillo-Rabling, B. (2008). Is local beautiful? Fiscal
decentralization in Mexico. World Development, 36(9), 1547-1558.
26. Iimi, A. (2004). Banking sector reforms in Pakistan: economies of scale and
scope, and cost complementarities. Journal of Asian Economics, 15(3), 507-528.
27. Kee, W. S. (1977). Fiscal decentralization and economic development. Public
Finance Review, 5(1), 79-97.
28. Kimakova, A. (2009). Government size and openness revisited: the case of
financial globalization. Kyklos, 62(3), 394-406.
29. Letelier, L. (2005). Explaining fiscal decentralization. Public Finance
Review,33(2), 155-183.
30. Lin, J. Y., and Liu, Z. (2000). Fiscal decentralization and economic growth in
China. Economic Development and Cultural Change, 49(1), 1–21.
31. Litvack, J. M., and Oates, W. E. (1970). Group size and the output of public
goods: Theory and application to state-local finance in the United States. Public
Finance= Finances publiques, 25(1), 42-62.
32. Malesky, E. I. (2004). Push, Pull, and Reinforcing: The Channels of FDI
influence on. Beyond Hanoi: local government in Vietnam, 285.
33. Martinez-Vazquez, J., and McNab, R. M. (2003). Fiscal decentralization and
economic growth. World development, 31(9), 1597-1616.
34. Martinez-Vazquez, J., and Qiao, B. (2011). Assessing the assignment of
expenditure responsibilities. China’s Local Public Finance in Transition.
Cambridge, MA: Lincoln Institute of Land Policy.
35. Martinez-Vazquez, J., Qiao, B., and Zhang, L. (2008). The role of provincial
policies in fiscal equalization outcomes in China. China Review, 135-167.
36. Oates, W. E. (1972). Fiscal federalism. Books.
37. Oates, W. E. (2005). Toward a second-generation theory of fiscal federalism.
International tax and public finance, 12(4), 349-373.
38. Prud'Homme, R. (1995). The dangers of decentralization. The world bank
research observer, 10(2), 201-220.
39. Rodden, J., and Wibbels, E. (2002). Beyond the fiction of federalism:
Macroeconomic management in multitiered systems. World Politics, 54(04),
494-531.
40. Rodrik, D. (1998). Why do open economies have bigger governments?. Journal
of Political Economy, 106(5), 997–1032.
41. Stansel, D. (2005). Local decentralization and local economic growth: A cross-
sectional examination of US metropolitan areas. Journal of Urban
Economics,57(1), 55-72.
42. Stegarescu, D. (2005). Public Sector Decentralisation: Measurement Concepts
and Recent International Trends. Fiscal studies, 26(3), 301-333.
43. Stegarescu, D. (2009). The effects of economic and political integration on fiscal
decentralization: evidence from OECD countries. Canadian Journal of
Economics/Revue canadienne d'économique, 42(2), 694-718.
44. Stegarescu, D., Büttner, T., and Behnisch, A. (2002). Public Sector
Centralization and Productivity Growth: Reviewing the German
Experience (No. 02-03). ZEW Discussion Papers.
45. Tanzi, V. (2000). On fiscal federalism: issues to worry about. Conference Notes.
In Conference on Fiscal Decentralization, IMF, Fiscal Affairs Department,
Washington DC.
46. Tiebout, C. M. (1956). A pure theory of local expenditures. The journal of
political economy, 416-424.
47. Uchimura, H., and Jütting, J. P. (2009). Fiscal decentralization, Chinese style:
good for health outcomes?. World Development, 37(12), 1926-1934.
48. Wheare, K. C. (1964). Federal government. London: Oxford University Press.
49. Woller, G. M., and Phillips, K. (1998). Fiscal decentralisation and IDC
economic growth: An empirical investigation. The journal of development
studies, 34(4), 139-148.
50. Wu, A. M. (2010). Civil service pay arrears at county level in China: Causes
and implications (Doctoral dissertation, City University of Hong Kong).
51. Wu, A. M., and Wang, W. (2013). Determinants of expenditure decentralization:
evidence from China. World Development, 46, 176-184.
52. Xie, D., Zou, H. F., and Davoodi, H. (1999). Fiscal decentralization and
economic growth in the United States. Journal of Urban Economics, 45(2), 228-
239.
53. Zhang, T., and Zou, H. F. (1998). Fiscal decentralization, public spending, and
economic growth in China. Journal of public economics, 67(2), 221-240.
PHỤ LỤC 1
THỐNG KÊ MÔ TẢ
PHỤ LỤC 2
MA TRẬN TƯƠNG QUAN
PHỤ LỤC 3
NHÂN TỬ PHÓNG ĐẠI PHƯƠNG SAI VIF
PHỤ LỤC 4
KIỂM ĐỊNH LỰA CHỌN MÔ HÌNH
Kiểm định Pooled FEM
Kiểm định Pooled REM
Kiểm định REM FEM
PHỤ LỤC 5
KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI THAY ĐỔI
PHỤ LỤC 6
TỰ TƯƠNG QUAN
Phụ lục 7
KẾT QUẢ HỒI QUY
FEM
REM
FGLS
PHỤ LỤC 8
HỒI QUY ĐỐI CHIẾU ROBUSTNESS CHECK- GMM