BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH …………………….

NGUYỄN HOÀI BẢO NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁN CÂN TÀI KHOÁ VÀ TÀI KHOẢN VÃNG LAI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA MỞ RỘNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH …………………….

NGUYỄN HOÀI BẢO NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁN CÂN TÀI KHOÁ VÀ TÀI KHOẢN VÃNG LAI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA MỞ RỘNG Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – ngân hàng Mã ngành: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ với đề tài “ Nghiên cứu mối quan hệ giữa cán cân tài khoá và tài khoản vãng lai ở Việt Nam và một số quốc gia mở rộng” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo.

Luận văn là kết quả nghiên cứu độc lập, không sao chép từ bất kỳ tác phẩm nào khác. Các số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, được lấy từ các nguồn hợp pháp và đáng tin cậy. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về nội dung mà tôi đã trình bày trong luận văn này.

TP. Hồ Chí Minh, Ngày 01 tháng 10 năm 2014

Nguyễn Hoài Bảo

1

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH

Tóm tắt .......................................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU CHUNG .......................................................................................... 2

1.1 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................................... 4

1.2 Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................................. 4

1.3 Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................ 4

1.4 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................ 4

1.5 Cấu trúc luận văn .................................................................................................................... 5

CHƯƠNG 2 – KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁN CÂN NGÂN SÁCH VÀ TÀI KHOẢN VÃNG LAI ............. 6

2.1 Khung lý thuyết ...................................................................................................................... 6

2.1.1 Biện luận lý thuyết về cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai.......................................... 6

2.1.1.1 Chính sách tài khoá .......................................................................................................... 6

2.1.1.2 Tài khoản vãng lai ............................................................................................................ 7

2.1.1.3 Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ............................................ 8

2.1.2 Các lập luận về giả thuyết “thâm hụt kép” ........................................................................ 10

2.1.2.1 Lý thuyết Mundell – Fleming .......................................................................................... 10

2.1.2.2 Lý thuyết của Keynes ...................................................................................................... 13

2.1.3 Lý luận về giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu” ......................................................... 14

2.1.4 Biện luận về giả thuyết cân bằng của Ricardo ................................................................... 15

2.1.5 Lý giải về mối quan hệ nhân quả hai chiều ....................................................................... 16

2.2 Các kết quả nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai................................................................................................................................................. 17

2

2.2.1 Các nghiên cứu cho thấy thâm hụt ngân sách sẽ gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai – giả thuyết “thâm hụt kép” ........................................................................................................... 17

2.2.2 Các kết quả nghiên cứu cho rằng thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách – giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu” ......................................................................... 21

2.2.3 Các nghiên cứu đưa đến kết luận rằng không có mối quan hệ nào giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai – giả thuyết cân bằng Ricardo .......................................................... 25

2.2.4 Một số nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ................................................................................................................... 27

CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................................... 32

3.1 Mô hình nghiên cứu .............................................................................................................. 32

3.2 Phương pháp kiểm định theo Toda – Yamamoto (1995) ..................................................... 34

3.3 Dữ liệu nghiên cứu................................................................................................................ 37

3.3.1 Dữ liệu Việt Nam ............................................................................................................... 37

3.3.2 Dữ liệu nước ngoài ............................................................................................................ 38

CHƯƠNG 4 - NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 39

4.1 Kiểm định tính dừng các biến ............................................................................................... 39

4.2 Kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp truyền thống ............................................ 41

4.3 Kiểm định phi nhân quả Granger theo Toda – Yamamoto (1995) ....................................... 43

4.4 Phân tích kết quả kiểm định .................................................................................................. 50

4.5 Mở rộng kiểm định thực nghiệm ở một số quốc gia............................................................. 54

CHƯƠNG 5 – KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................... 58

Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ..................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC A

PHỤ LỤC B

PHỤ LỤC C

PHỤ LỤC D

PHỤ LỤC E

PHỤ LỤC F

PHỤ LỤC G

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tiếng Việt:

NSNN: Ngân sách nhà nước

NHNN: Ngân hàng nhà nước

Tiếng Anh:

FDI: Foreign Direct Investment

GDP: Gross Domestic Product

GNP: Gross National Product

ODA: Official Development Aid

ASEAN: Asia South – East Association of Nations

USD: United State Dollar

OECD: Organization for Economic Cooperation and Development

OLS: Ordinary Least Square

VECM: Vector Error Correction Model

VAR: Vector Autoregression

EMU: Europe Monetary Union

EU: Europe Union

2SLS: Two Stages Least Square

MWALD: Modified Wald

IMF: International Monetary Fund

IFS: International Financial Statistics

GFS: Goverment Financial Statistics.

DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 : Tóm tắt kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về mối quan hệ giữa

cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai…………………………………………28

Bảng 4.1 : Kết quả kiểm định ADF đối với các biến……………………………………..39

Bảng 4.2 : Kết quả kiểm định Phillips – Perron (PP) cho các biến…………………….....40

Bảng 4.3 : Kết quả kiểm định KPSS cho các biến……………………………………......40

Bảng 4.4 : Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu cho kiểm định Granger truyền thống…………41

Bảng 4.5 : Kết quả kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp truyền thống……….42

Bảng 4.6 : Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu (p) cho các biến trong mô hình VAR…………44

Bảng 4.7 : Kết quả kiểm định Modified Wald Test theo Toda – Yamamoto (1995)…......45

Bảng 4.8 : Kết quả kiểm định tính dừng các biến………………………………………...57

Bảng 4.9 : Tóm tắt kết quả kiểm định thực nghiệm mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và

cán cân tài khoản vãng lai ở một số quốc gia……………………………………….........59

DANH MỤC HÌNH Hình 1.1 : Thâm hụt ngân sách, thâm hụt tài khoản vãng lai Việt Nam giai đoạn 1991 – 2013………………………………………………………………………………………02

Hình 2.1 : Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai………….……….10

Hình 2.2 : Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai theo mô hình Mundell – Fleming (1962)………………………………………………………….11

Hình 4.1 : Kết quả ước lược mô hình VAR(4) cho cặp biến cán cân ngân sách (GB_VN) và cán cân tài khoản vãng lai (CA_VN)…………………………………………………….46

Hình 4.2 : Kết quả ước lược mô hình VAR(4) cho cặp biến cán cân ngân sách (GB_VN) và cán cân thương mại (TB_VN)………………………………………………………........50

1

Tóm tắt

Nghiên cứu này thực hiện kiểm định thực nghiệm mối quan hệ giữa cán cân ngân

sách và tài khoản vãng lai ở Việt Nam, dữ liệu được thu thập theo quý trong giai đoạn 1996

– 2013. Bằng việc sử dụng kiểm định nhân quả Granger theo cách truyền thống và chủ yếu

là phương pháp kiểm định phi nhân quả theo Toda – Yamamoto (1995), chúng tôi không tìm

thấy bằng chứng về sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả giữa cán cân ngân sách và cán

cân tài khoản vãng lai Việt Nam, kể cả một chiều lẫn hai chiều. Kết quả này ủng hộ giả

thuyết cân bằng Ricardo. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mở rộng kiểm định thực nghiệm ở

một số quốc gia và đã tìm thấy những bằng chứng khác nhau về mối quan hệ nhân quả giữa

cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai, góp phần làm rõ thêm các giả thuyết đã và

đang được tranh luận gay gắt trong giới nghiên cứu.

2

CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU CHUNG

Cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai ở Việt Nam trong khoảng hai thập

niên gần đây đã liên tục ở trạng thái thâm hụt trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

Thâm hụt ngân sách kéo dài và có xu hướng ngày càng gia tăng qua các năm, có thời điểm

đạt mức cao nhất là 7% GDP vào năm 2009. Các cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm

1997 và thế giới năm 2008 đã làm cho nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, tốc độ

tăng trưởng kinh tế giảm, đã buộc Chính phủ phải thực hiện nhiều chính sách linh hoạt khác

nhau để kích thích kinh tế, như đẩy mạnh các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng, tăng

mức bội chi, tăng lương tối thiểu, cải cách thể chế kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường,

mở cửa thu hút vốn đầu tư và thúc đẩy thương mại quốc tế. Tình hình thâm hụt ngân sách

dai dẳng đã ít nhiều tác động đến kinh tế vĩ mô trong nước, đặc biệt góp phần gia tăng gánh

nặng nợ công (tỷ lệ nợ công của Việt Nam đã đạt mức xấp xỉ 55% GDP vào năm 2013). Bên

cạnh đó, ngoại trừ trạng thái thặng dư ở mức nhỏ từ năm 2011 đến nay, cán cân tài khoản

vãng lai Việt Nam cũng trải qua một khoảng thời gian dài bị thâm hụt, đáng chú ý là giai

đoạn 1993 – 1996 và 2007 – 2008 với mức thâm hụt vượt 10% GDP. Sự suy giảm kéo dài

của tài khoản vãng lai thời gian qua đã tác động không nhỏ đến dự trữ ngoại hối quốc gia.

Hình 1.1 : Thâm hụt ngân sách, thâm hụt tài khoản vãng lai Việt Nam

giai đoạn 1991 – 2013

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3

Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua cũng tồn tại những vấn đề lớn cần giải

quyết, đó là nguy cơ lạm phát cao luôn tiềm ẩn, hệ thống ngân hàng yếu kém và đáng chú ý

là thâm hụt ngân sách, tài khoản vãng lai kéo dài. Xu thế tự do hóa thương mại khi Việt

Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO vào đầu năm

2007, cùng với sự khủng hoảng và bất ổn của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây

đã tác động mạnh mẽ đến thị trường xuất nhập khẩu. Tình trạng nhập siêu và thâm hụt

thương mại ở Việt Nam kéo dài nhiều năm qua đúng là vấn đề đáng lo ngại. Hầu hết các nhà

nghiên cứu đều cho rằng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn và liên tục là nguyên nhân của sự

mất cân bằng kinh tế vĩ mô, và điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình kinh tế dài

hạn. Điều đáng lưu ý là thâm hụt ngân sách ở Việt Nam các năm qua luôn xuất hiện đồng

thời với thâm hụt tài khoản vãng lai, thâm hụt thương mại (có thể thấy rõ điều này qua hình

1.1). Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai có thể chia thành 4 dạng.

Thứ nhất là thâm hụt ngân sách sẽ gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai, được gọi là giả thuyết

“thâm hụt kép” (theo mô hình Mundel – Fleming và Keynes), xuất hiện lần đầu ở Hoa Kỳ

vào những năm 1980. Thứ hai là thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ gây ra thâm hụt ngân sách,

gọi là giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu” (theo Summers, 1988). Thứ ba là có mối quan

hệ nhân quả hai chiều giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai. Và cuối cùng là giả

thuyết cân bằng Ricardo cho rằng cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai là độc lập nhau.

Từ thực tế vừa nêu, có một vấn đề cần quan tâm rằng: liệu việc thâm hụt ngân sách

và thâm hụt tài khoản vãng lai ở Việt Nam xảy ra đồng thời trong thời gian qua chỉ là một

hiện tượng mang tính ngẫu nhiên, hay bởi do có tồn tại một mối quan hệ nhân quả giữa cán

cân ngân sách và tài khoản vãng lai? Và việc làm rõ bản chất của mối quan hệ này cũng là

vấn đề cần nghiên cứu, tìm hiểu.

Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu mối quan hệ giữa cán cân tài khoá và tài

khoản vãng lai ở Việt Nam và một số quốc gia mở rộng” làm Luận văn tốt nghiệp với mục

tiêu đưa ra các bằng chứng thực nghiệm về bản chất của mối quan hệ giữa cán cân ngân

sách và tài khoản vãng lai ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thông qua việc mở rộng nghiên cứu ở

một số quốc gia, chúng tôi cũng nhằm đóng góp thêm những bằng chứng thực nghiệm đối

4

với các giả thuyết về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai vốn dĩ đã và

đang được tranh luận sôi nổi trong giới nghiên cứu.

1.1 Mục tiêu nghiên cứu

Tìm ra các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài

khoản vãng lai ở Việt Nam. Đồng thời, xem xét vai trò tác động của yếu tố thu nhập và

chuyển giao vãng lai đối với mối quan hệ này.

1.2 Câu hỏi nghiên cứu

 Liệu có hay không sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả giữa cán cân ngân sách và tài

khoản vãng lai ở Việt Nam?

 Vấn đề thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai cùng hiện diện ở Việt Nam

thời gian qua chỉ là hiện tượng mang tính ngẫu nhiên hay bởi do mối quan hệ nhân quả

giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai gây ra?

 Yếu tố thu nhập và chuyển giao vãng lai có tác động đáng kể đến mối quan hệ giữa tài

khoản vãng lai và cán cân ngân sách ở Việt Nam hay không?

1.3 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp tìm kiếm, tổng hợp, sắp xếp và phân tích các số liệu thứ

cấp, các lý thuyết cơ bản và các nghiên cứu trước, cùng với việc ứng dụng phương pháp

kiểm định nhân quả Granger truyền thống và trọng tâm là phương pháp tiếp cận theo Toda -

Yamamoto (1995) để đối chiếu các kết quả và đưa ra bằng chứng thực nghiệm.

1.4 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu và kiểm định thực nghiệm sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả

giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-2013. Đồng

thời, mở rộng kiểm định tương tự ở một số quốc gia đã và đang phát triển, nhằm cung cấp

thêm bằng chứng thực nghiệm về các giả thuyết đang được tranh luận liên quan đến mối

quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai.

5

1.5 Cấu trúc luận văn

Luận văn có kết cấu bao gồm 5 chương. Theo đó, Chương 1 sẽ giới thiệu tổng quát về

vấn đề, mục tiêu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Chương 2 trình bày tổng quan về

kết quả của các nghiên cứu trước đây. Chương 3 sẽ bàn luận chi tiết về phương pháp nghiên

cứu chính và số liệu sử dụng cho việc kiểm định. Nội dung và kết quả nghiên cứu sẽ được

trình bày và phân tích trong Chương 4. Và cuối cùng là Chương 5 – Kết luận chung.

6

CHƯƠNG 2 – KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁN CÂN NGÂN SÁCH VÀ TÀI KHOẢN VÃNG LAI

2.1 Khung lý thuyết

2.1.1 Biện luận lý thuyết về cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai

2.1.1.1 Chính sách tài khoá

Chính sách tài khóa (CSTK) là chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên định

hướng phát triển của nền kinh tế, mục tiêu điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế ở mức sản

lượng mục tiêu (Yp) thông qua hệ thống các giải pháp gồm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu

của Chính phủ.

Chính sách tài khóa, trong ngắn hạn, điều tiết sản lượng thực tế, lạm phát, thất nghiệp

nhằm ổn định kinh tế. Trong dài hạn, chính sách tài khóa điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thúc

đẩy tăng trưởng lâu dài, bền vững.

Chính sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối với hoạt động

kinh tế. Tùy vào thực trạng của nền kinh tế và mục tiêu điều tiết, Chính phủ sẽ sử dụng các

chính sách tài khóa khác nhau:

- Chính sách tài khóa trung lập là chính sách cân bằng ngân sách, khi đó G = T, (trong đó

G: chi tiêu ngân sách Chính phủ, T: thu ngân sách, chủ yếu từ thuế), chi tiêu của Chính

phủ hoàn toàn được cung cấp bởi nguồn thu từ thuế và nhìn chung có ảnh hưởng trung

tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế.

- Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, Chính phủ có thể áp dụng chính sách tài khóa

mở rộng thông qua việc tăng cường chi tiêu hoặc giảm thuế hoặc kết hợp cả hai (tăng G,

giảm T). Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nặng nề (G>T) hơn hoặc thặng dư ngân

sách ít hơn.

- Ngược lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện tượng tăng trưởng nóng,

7

Chính phủ có thể thắt chặt chính sách tài khoá bằng việc giảm chi tiêu và tăng thuế, có

thể làm cải thiện cán cân ngân sách, gia tăng thặng dư, giảm thâm hụt.

2.1.1.2 Tài khoản vãng lai

Đối với hầu hết các quốc gia, ngoài cán cân tài khoản tài chính, tài khoản vốn, dự trữ

ngoại hối, bộ phận quan trọng nhất của cán cân thanh toán là tài khoản vãng lai (còn gọi là

cán cân vãng lai). Tài khoản vãng lai của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng

hóa, dịch vụ và chuyển giao thu nhập giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài

nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú

ngoài nước được ghi vào bên "nợ". Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư

trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có". Thặng dư tài khoản vãng

lai xảy ra khi bên “có” lớn hơn bên “nợ”.

Cán cân tài khoản vãng lai bao gồm:

- Cán cân thương mại hàng hóa: ghi lại các giao dịch về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa

của một quốc gia. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần

quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài

sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có

thể chiếm tỷ lệ lớn. Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và

xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên

tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.

- Cán cân dịch vụ: ghi chép lại các giao dịch về vận tải, du lịch, và các dịch vụ khác của

một quốc gia.

- Cán cân thu nhập: ghi chép những khoản thu nhập của người lao động như kiều hối, thu

nhập từ đầu tư.

- Cán cân chuyển khoản: bao gồm những khoản viện trợ không hoàn lại, giá trị của những

khoản quà tặng, và các chuyển giao khác bằng tiền và hiện vật cho mục đích tiêu dùng

8

của người cư trú và không cư trú.

Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận thuộc khu vực công hay tư nhân đều được gộp

chung vào trong tính toán này.

Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết

kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập khẩu nhiều

hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế

trong tìm kiếm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững.

2.1.1.3 Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai

Qua các nghiên cứu lý thuyết lẫn thực nghiệm về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách

và cán cân tài khoản vãng lai ở nhiều nước trên thế giới, có thể có 4 dạng mối quan hệ khác

nhau như sau:

- Mối quan hệ nhân quả một chiều từ thâm hụt ngân sách đến thâm hụt cán cân vãng lai,

nghĩa là một sự tăng (giảm) trong thâm hụt ngân sách quốc gia sẽ làm trầm trọng (cải

thiện) thâm hụt cán cân vãng lai. Đây được gọi là giả thuyết “thâm hụt kép”. Có 2 mô

hình giải thích cho mối quan hệ này: theo mô hình Mundell – Flaming, sự gia tăng trong

thâm hụt ngân sách gây ra một áp lực lên lãi suất, và lãi suất sẽ tác động đến dòng vốn

chảy vào, từ đó sẽ tạo sức ép tăng giá đồng nội tệ, cuối cùng dẫn đến sự gia tăng trong

thâm hụt tài khoản vãng lai. Lý thuyết thứ hai giải thích cho giả thuyết thâm hụt kép là lý

thuyết hấp thụ Keynes, cho rằng sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách sẽ gây ra sự hấp

thụ trong nước và do đó tăng nhập khẩu, gây ra sự xấu đi trong cán cân vãng lai.

- Mối quan hệ nhân quả theo chiều ngược lại từ thâm hụt cán cân vãng lai đến thâm hụt

ngân sách, còn gọi là giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu”. Điều này xảy ra khi sự

suy thoái trong tài khoản vãng lai như là tín hiệu của sự chậm lại trong tăng trưởng kinh

tế, và chính phủ sẽ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để kích thích nền kinh tế, do đó dẫn đến

sự gia tăng thâm hụt ngân sách. Điều này đặc biệt đúng đối với các nền kinh tế nhỏ, mở,

đang phát triển phụ thuộc lớn vào dòng vốn đầu tư nước ngoài (đầu tư trực tiếp hoặc gián

9

tiếp nước ngoài) để tài trợ cho sự phát triển kinh tế. Nói cách khác, ngân sách quốc gia sẽ

bị ảnh hưởng bởi dòng vốn chảy vào lớn hoặc thông qua tích luỹ nợ và điều này cuối

cùng sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách.

- Mối quan hệ nhân quả hai chiều có thể tồn tại giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài

khoản vãng lai. Trong khi thâm hụt ngân sách có thể gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai,

sự tồn tại của thông tin phản hồi có thể tạo ra mối quan hệ nhân quả trong cả hai chiều.

Mối quan hệ nhân quả này thông qua hai kênh: một cách trực tiếp giữa thâm hụt ngân

sách và thâm hụt tài khoản vãng lai và một cách gián tiếp thông qua lãi suất và tỷ giá hối

đoái.

- Cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai không liên quan nhau. Thâm hụt ngân

sách không gây ra bất kỳ sự thay đổi nào về lãi suất và tỷ giá hối đoái, do đó không ảnh

hưởng đến sự mất cân bằng tài khoản vãng lai, hay có thể nói thâm hụt ngân sách và

thâm hụt tài khoản vãng lai là độc lập nhau. Đây được gọi là giả thuyết cân bằng

Ricardian. Điều này có thể được hiểu rằng sự sụt giảm tiết kiệm khu vực công do thâm

hụt ngân sách sẽ được bù đắp bởi sự gia tăng tương ứng trong tiết kiệm tư nhân. Nghĩa là

người tiêu dùng tin rằng sự cắt giảm thuế hoặc tăng chi tiêu của chính phủ hôm nay mà

kết quả là thâm hụt tài khoá sẽ dẫn đến sự gia tăng thuế trong tương lai để phục vụ nợ

công; do đó, họ sẽ tăng tiết kiệm hôm nay để chi trả tiền thuế trong tương lai.

10

Hình 2.1 : Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai

Thâm hụt ngân sách (BD) và Thâm hụt tài khoản vãng lai (CAD)

BD  CAD

BD  CAD

BD <-> CAD

BD X CAD

Giả thuyết “thâm hụt kép”

Giả thuyết cân bằng Ricardian

Giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu”

Mối quan hệ nhân quả hai chiều

Nguồn: Jui-Chuan Chang và Zao-Zhou Hsu (2009)

2.1.2 Các lập luận về giả thuyết “thâm hụt kép”

Giả thuyết thâm hụt kép cho rằng thâm hụt ngân sách sẽ gây ra thâm hụt tài khoản

vãng lai. Có thể giải thích điều này thông qua hai lập luận, đó là lý thuyết Mundell-Fleming

và lý thuyết hấp thụ của Keynes.

2.1.2.1 Lý thuyết Mundell – Fleming

Theo lý thuyết này, một sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng lãi suất nội

địa, do đó tác động đến dòng vốn chảy vào, gây sức ép tăng giá đồng nội tệ. Cuối cùng,

đồng nội tệ tăng giá sẽ dẫn đến sự gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai (do nhập khẩu tăng).

11

Mô hình Mundell – Fleming có thể được dùng để phân tích một cách rõ ràng mối

quan hệ năng động trong ngắn hạn giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai

đối với nền kinh tế mở, hoạt động dưới cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt. Hình 2.2 diễn tả lý

thuyết Mundell – Fleming.

Hình 2.2 : Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai theo

mô hình Mundell – Fleming (1962).

Nguồn: Dominick Salvatore (2006)

Đường IS biểu diễn các kết hợp khác nhau của lãi suất (r) và thu nhập quốc gia (Y)

mà khi đó thị trường hàng hoá cân bằng. Hệ số gốc âm của đường IS cho thấy rằng lãi suất

thấp hơn sẽ dẫn đến mức đầu tư cao hơn và liên đới đến mức thu nhập quốc qia cao hơn.

Đường LM thể hiện sự cân bằng trong thị trường tiền tệ. Đường BP diễn tả các kết hợp khác

nhau của r và Y mà tại đó, cán cân thanh toán của quốc gia đạt trạng thái cân bằng với một

mức tỷ giá hối đoái cho trước. Cán cân thanh toán cân bằng khi một mức thâm hụt thương

mại sẽ được bù đắp bởi một dòng vốn vào tương ứng. Đường BP dốc lên bởi vì lãi suất cao

12

hơn sẽ thu hút dòng vốn vào nhiều hơn (hoặc dòng vốn chảy ra ít hơn) và phải được bù lại

với mức nhập khẩu và thu nhập quốc gia cao hơn để đảm bảo cán cân thanh toán cân bằng.

Ở phía bên trái của đường BP, quốc gia có cán cân thanh toán thặng dư và trái lại ở phía bên

phải thể hiện cán cân thanh toán thâm hụt. Một sự giảm giá hoặc sự định giá thấp đồng nội

tệ sẽ làm đường BP dịch chuyển xuống vì cán cân thương mại được cải thiện, và vì thế một

mức lãi suất thấp hơn và dòng vốn vào nhỏ hơn (hoặc dòng vốn ra lớn hơn) được đòi hỏi để

giữ cho cán cân thanh toán cân bằng. Mặt khác, một sự tăng giá hoặc định giá cao đồng nội

tệ sẽ làm đường BP dịch chuyển lên trên.

Hình trên cho thấy ban đầu quốc gia có sự cân bằng trong thị trường hàng hoá, thị

trường tiền tệ và cán cân thanh toán tại điểm E, là giao điểm của cả 3 đường IS, LM và BP.

Giả định rằng mức cân bằng của thu nhập quốc gia (Y) tại điểm E là dưới mức toàn dụng lao

động và quốc gia sử dụng chính sách tài khoá mở rộng để giảm thất nghiệp. Chính sách tài

khoá mở rộng (điều mà có thể dẫn đến sự gia tăng thâm hụt ngân sách của quốc gia) sẽ làm

đường IS dịch chuyển sang phải thành IS’ cắt đường LM tại E’, kết quả tạo ra mức thu nhập

quốc gia (Y’) và lãi suất cao hơn (r’). Do điểm E’ nằm phía trên đường BP, nên quốc gia có

sự thặng dư bên ngoài nhờ dòng vốn ngoại chảy vào dưới tác động của lãi suất tăng. Điều

này đã gây ra sự tăng giá của đồng nội tệ, làm dịch chuyển đường BP lên trên thành đường

BP’. Sự tăng giá của đồng nội tệ sẽ làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai của quốc gia, làm

đường IS’ dịch chuyển xuống trở lại đến IS’’. Đồng nội tệ tăng giá cũng sẽ làm giảm giá

nhập khẩu (tính bằng đồng nội tệ) và mức giá chung của quốc gia. Với mức giá nội địa thấp

hơn và mức cung tiền cố định, đường LM sẽ dịch sang phải đến LM’ (bằng với một sự gia

tăng trong cung tiền danh nghĩa). Điểm cân bằng cuối cùng là E’’, là giao điểm của 3 đường

IS’’, LM’ và BP’, theo đó xác định lãi suất cân bằng là r’’ và mức thu nhập quốc gia cân

bằng là Y’’.

Cần lưu ý rằng lãi suất trong nước đầu tiên tăng từ r đến r’ và sau đó giảm ngược lại

xuống r’’. Điều này dẫn đến một sự tăng giá đồng nội tệ (khi r tăng lên r’), tiếp đó lại sụt

giảm một phần khi r’ giảm xuống thành r’’. Hình 3.2 cũng thể hiện rõ khoảng tăng giá ròng

của đồng nội tệ. Vì vậy, thâm hụt ngân sách lớn hơn sẽ gắn liền với một dòng vốn vào lớn

13

hơn và thâm hụt tài khoản vãng lai cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, mối quan hệ này cũng phụ

thuộc vào một số giả định lý thuyết. Vì vậy, tiến trình động từ thâm hụt ngân sách dẫn đến

lãi suất tăng, gây sức ép tăng giá đồng nội tệ và cuối cùng gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai

dường như dựa trên phân tích lý thuyết hoàn toàn. Trong thực tế hiện nay, tất nhiên tiến

trình này có thể không đúng và sẽ có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng trong điều kiện

bình thường chúng tôi kỳ vọng lập luận trên đây được chấp nhận.

2.1.2.2 Lý thuyết của Keynes

Theo Keynes, ông cho rằng một sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách (có thể do giảm

thuế hay tăng chi tiêu chính phủ) sẽ làm tăng sức cầu nội địa, từ đó nhu cầu nhập khẩu gia

tăng và tác động xấu đến cán cân vãng lai.

Theo lập luận tài khoản quốc gia, thu nhập quốc gia đối với một nền kinh tế mở được

xác định như sau:

Y = C + I + G + X – M (1)

Trong đó, Y là thu nhập quốc dân, C là tiêu dùng tư nhân, I là đầu tư của khu vực tư

nhân, G là chi tiêu chính phủ, X là xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ và M là nhập khẩu hàng

hoá và dịch vụ.

Từ phương trình (1), tài khoản vãng lai (CA) có thể được định nghĩa bằng sự chênh

lệch giữa xuất khẩu (X) và nhập khẩu (M), có thể được viết lại là:

CA = Y – (C + I + G) (2)

Với ( C + I + G) được xác định là chi tiêu nội địa của nền kinh tế, bao gồm chi tiêu

của khu vực tư nhân và khu vực công. Trong một nền kinh tế đóng, không có thương mại

quốc tế và chu chuyển vốn, tiết kiệm (S) bằng đầu tư (I): S = I. Tuy nhiên, trong một nền

kinh tế mở, tiết kiệm (S) có thể được định nghĩa là:

S = I + CA (3)

14

Từ phương trình (3), chúng ta biết rằng trong một nền kinh tế mở, một quốc gia có

thể tìm kiếm nguồn vốn cả trong nước và quốc tế để phục vụ các các nhu cầu chi tiêu và đầu

tư. Tiết kiệm quốc gia có thể được chia thành tiết kiệm tư nhân (Sp) và tiết kiệm Chính phủ

(Sg). Theo đó:

Sp = Y - T – C (4)

Sg = T – G (5)

Trong đó, T là doanh thu thuế của Chính phủ. Sau đó, chúng ta thế phương trình (4)

và (5) vào phương trình (3) và có được kết quả như sau:

Sp = I + CA – Sg (6)

Hay

Sp = I + CA + (G – T) (7)

Hay

CA = Sp – I – BD (8)

Phương trình (8) cho thấy rằng sự gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ gây ra một sự gia

tăng tương tự trong thâm hụt tài khoản vãng lai, nếu tiết kiệm và đầu tư tư nhân giữ nguyên

hoăc không thay đổi nhiều. Điều này ủng hộ quan điểm của Keynes.

2.1.3 Lý luận về giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu”

Giả thuyết này cho rằng có mối quan hệ nhân quả một chiều từ thâm hụt tài khoản

vãng lai đến thâm hụt ngân sách thông qua cơ thế thông tin phản hồi. Nghĩa là một sự thâm

hụt tài khoản vãng lai hàm ý sự suy giảm tăng trưởng kinh tế nội địa (do giảm xuất khẩu,

tăng nhập khẩu); vì vậy, chính phủ sẽ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để hỗ trợ và kích thích

nền kinh tế, điều này sẽ làm suy giảm cán cân ngân sách, thậm chí có thể dẫn đến thâm hụt.

15

Có thể giải thích rõ hơn mối quan hệ này theo hai lập luận sau. Thứ nhất, một dòng

vốn vào sẽ gây sức ép tăng giá đồng nội tệ, và làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai. Mặt

khác, một cú sốc ngoại sinh ví dụ như cú sốc thị hiếu người tiêu dùng có thể dẫn đến sự sụt

giảm xuất khẩu hoặc sự gia tăng nhập khẩu. Sự suy giảm trong cán cân tài khoản vãng lai

phản ánh sự thay thế sản xuất nội địa bằng hàng nhập khẩu (vì rẻ hơn một cách tương đối),

điều này sẽ tác động tiêu cực đến sản lượng trong nước, dẫn đến sự sụt giảm doanh thu thuế

và từ đó có thể gây ra thâm hụt ngân sách. Thứ hai, chính phủ có thể đưa ra những khuyến

khích tài khoá nhằm cố gắng giảm nhẹ tác động của thâm hụt tài khoản vãng lai đến sản

lượng nội địa. Trong trường hợp này, thâm hụt tài khoản vãng lai gây ra một sự suy giảm

kinh tế, mà theo đó có thể làm gia tăng chi tiêu chính phủ và giảm doanh thu thuế. Điều này

hàm ý rằng thâm hụt ngân sách chính phủ không xác định thâm hụt vãng lai; mà trái lại, có

một mối quan hệ nhân quả theo chiều ngược lại từ cán cân tài khoản vãng lai đến thâm hụt

ngân sách.

2.1.4 Biện luận về giả thuyết cân bằng của Ricardo

Theo Ricardo, không tồn tại mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài

khoản vãng lai. Một sự cắt giảm thuế hoặc tăng chi tiêu (có thể làm gia tăng thâm hụt ngân

sách) sẽ không có tác động đến tiết kiệm quốc gia (xem Barro, 1989). Sự sụt giảm của tiết

kiệm khu vực công do thâm hụt ngân sách gia tăng sẽ được bù đắp hoàn toàn bởi sự gia tăng

tương ứng của tiết kiệm tư nhân. Lý giải cho điều này là vì người dân nghĩ rằng sự cắt giảm

thuế gây ra thâm hụt ngân sách hôm nay sẽ dẫn đến sự gia tăng thuế trong tương lai để phục

vụ nợ công, nên họ sẽ tăng tiết kiệm để trả cho gánh nặng thuế gia tăng trong tương lai.

Lý thuyết cân bằng Ricardo đặt vấn đề về khả năng tác động đến tổng cầu và cuối

cùng là tai khoản vãng lai của các quyết định tài trợ ngân sách của chính phủ. Lý thuyết cho

rằng, với một mức chi tiêu chính phủ đã định, sự thay thế nợ cho thuế sẽ không có tác động

đến tổng cầu lẫn lãi suất. Giải thích cho lập luận này như sau. Trong tình thế hạn hẹp của

ngân sách chính phủ, với một mức chi tiêu không đổi, một sự cắt giảm thuế hiện tại hàm ý

rằng sẽ có một sự gia tăng thuế trong tương lai. Vì vậy, do sự vay mượn của chính phủ chỉ là

trì hoãn thuế đến tương lai, nên người tiêu dùng, đồng thời cũng là người trả thuế, hoàn toàn

16

dự đoán được sự gia tăng thuế tương lai, sẽ không quan tâm đến sự cắt giảm thuế hiện tại, và

kết quả là gia tăng thu nhập khả dụng. Bởi thế, nhưng quyết định ngân sách tạm thời của

người tiêu dùng sẽ không thay đổi dưới các quyết định tài trợ thâm hụt của chính phủ; và

như vậy, khía cạnh tiêu dùng không bị ảnh hưởng: toàn bộ sự gia tăng trong thu nhập khả

dụng tạo ra từ sự cắt giảm thuế đều được người tiêu dùng tiết kiệm.

Dưới giả thuyết cân bằng Riccardo, người tiêu dùng phản ứng với sự cắt giảm thuế

bằng sự gia tăng tiết kiệm. Sự gia tăng tiết kiệm này được dùng để mua trái phiếu chính phủ

được phát hành mới, đảm bảo cho người tiêu dùng có nguồn tiền để trả khoản thuế gia tăng

trong tương lai. Vì vậy, chính do tiết kiệm tư nhân gia tăng tương ứng bằng với mức thâm

hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia không bị ảnh hưởng; theo đó lãi suất cũng không thay đổi.

Hơn nữa, trong một nền kinh tế mở, thâm hụt ngân sách không tác động đến cán cân tài

khoản vãng lai vì sự gia tăng trong tiết kiệm tư nhân đủ để tránh nhu cầu tài trợ bên ngoài.

Do vậy, thâm hụt ngân sách không kích thích dòng vốn vào cũng như làm suy giảm cán cân

tài khoản vãng lai. Theo cách này, nợ công không ảnh hưởng đến tài sản khu vực tư nhân;

hay nói cách khác, người tiêu dùng không xem trái phiếu chính phủ như tài sản ròng. Bởi

thế, với một mức chi tiêu đã định, nếu được tài trợ bởi nợ hoặc thuế thì thời điểm của thuế

không có tác động đến tiêu dùng tư nhân.

2.1.5 Lý giải về mối quan hệ nhân quả hai chiều

Theo giả thuyết này, giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai có mối

quan hệ nhân quả hai chiều. Nếu như một sự thâm hụt ngân sách sẽ gây áp lực tăng lãi suất

nội địa, từ đó làm động nội tệ tăng giá theo và dẫn đến sự xấu đi trong tài khoản vãng lai; thì

trái lại, một sự thâm hụt tài khoản vãng lai cho thấy sự giảm sút của nền kinh tế, và chính

phủ sẽ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để kích thích kinh tế, có thể gây ra sự gia tăng trong

thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, sự sụt giảm doanh thu thuế do sự thu hẹp sản xuất nội địa

(do tăng nhập khẩu, điều dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai) cũng có thể làm xấu đi cán

cân ngân sách.

17

Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách Chính phủ và cán cân tài khoản vãng lai là một

vấn đề rất được chú ý của các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu trong nhiều

thập kỷ qua. Và đã có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện ở hầu hết các quốc

gia trên thế giới, đưa đến những kết quả khác nhau. Nhưng tựu chung lại, tất cả đều lần lượt

hỗ trợ cho bốn giả thuyết về mối quan hệ nhân quả giữa hai cán cân đang được xem xét. Thứ

nhất là chỉ hiện diện mối quan hệ nhân quả một chiều từ cán cân ngân sách đến cán cân tài

khoản vãng lai, còn gọi là giả thuyết “thâm hụt kép”. Thứ hai là chỉ tồn tại mối quan hệ nhân

quả theo chiều ngược lại từ cán cân tài khoản vãng lai đến cán cân ngân sách, được gọi là

giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu”. Thứ ba là giả thuyết cân bằng Ricardo với lập luận

cho rằng cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai là độc lập nhau. Và cuối cùng là

giả thuyết về mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hai cán cân.

2.2 Các kết quả nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai

2.2.1 Các nghiên cứu cho thấy thâm hụt ngân sách sẽ gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai – giả thuyết “thâm hụt kép”

Theo giả thuyết này, một sự gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến sự suy giảm

trong cán cân tài khoản vãng lai thông qua việc tác động làm tăng lãi suất nội địa và giá trị

đồng nội tệ. Đây là lập luận theo mô hình Mundell – Fleming. Còn theo Keynes, một sự gia

tăng trong thâm hụt ngân sách sẽ gây ra sự hấp thụ trong nước và do đó tăng nhập khẩu, và

cuối cùng làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai.

John D. Abell (1990) đã dùng chuỗi dữ liệu thời gian đa biến để kiểm định mối quan

hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở Mỹ trong giai đoạn 1979 – 1985. Với

việc sử dụng mô hình tự hồi quy vectơ (VAR), kỹ thuật kiểm định nhân quả Granger và các

hàm phản ứng xung, tác giả đã đưa ra các kết quả thực nghiệm cho rằng, thâm hụt ngân sách

sẽ dẫn đến thâm hụt thương mại một cách gián tiếp thông qua cơ chế lãi suất và tỷ giá hối

đoái. Cụ thể, trong điều kiện tiết kiệm tư nhân trong nước ở mức cố định, khi thâm hụt ngân

sách Mỹ gia tăng sẽ tạo áp lực làm tăng lãi suất (vì chính phủ sẽ đi vay nợ để bù đắp thâm

hụt ngân sách), tiếp đó dòng vốn bên ngoài sẽ có xu hướng chảy vào trong nước, tạo sức ép

18

tăng giá đồng đô la (nội tệ). Và điều này sẽ tác động xấu đến cán cân thương mại, thậm chí

dẫn đến thâm hụt thương mại. Theo đó, trong mô hình nghiên cứu của mình, bên cạnh biến

thâm hụt ngân sách, cán cân thương mại, tác giả còn đưa vào thêm các biến tỷ giá, lãi suất

và lạm phát nhằm phân tích tác động của chúng đến cán cân thương mại. Trên cơ sở các kết

quả nghiên cứu, tác giả đưa ra kiến nghị rằng có thể điều chỉnh giảm thâm hụt ngân sách để

cải thiện cán cân thương mại.

Trong một nghiên cứu khác, Giovanni Piersanti (2000) đã đặt vấn đề liệu rằng thâm

hụt tài khoản vãng lai có quan hệ với thâm hụt ngân sách kỳ vọng hay không, và đã thực

hiện nghiên cứu thực nghiệm đối với hầu hết các nước thuộc khối OECD (ngoại trừ Thỗ Nhĩ

Kỳ, Thuỵ Sĩ, Bồ Đào Nha, Iceland, Bỉ, New Zealand và một vài quốc gia mới gia nhập vì

vấn đề hạn chế về số liệu). Đầu tiên, ông đã sử dụng mô hình cân bằng tổng quát tối ưu để

diễn tả mối quan hệ lý thuyết giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. Tiếp

đó, ông ta ước lượng phương trình kinh tế lượng dựa trên mô hình kỳ vọng tương lai, mở

rộng các nghiên cứu dựa trên phân tích thông thường trước đó. Nghiên cứu này sử dụng các

biến cán cân ngân sách, cán cân tài khoản vãng lai (đo lường theo tỷ lệ % trên GDP) trong

thời kỳ 1970 – 1997. Và kết quả đưa đến bằng chứng thực nghiệm khá thuyết phục về tác

động cùng chiều của thâm hụt ngân sách kỳ vọng đối với thâm hụt tài khoản vãng lai ở các

nước khối OECD. Điều này hỗ trợ cho giả thuyết “thâm hụt kép”. Bên cạnh đó, Piersanti

cũng đã thực hiện kiểm định nhân quả Granger và kiểm định Sim trong nghiên cứu này. Kết

quả cho thấy có hiện diện mối quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài

khoản vãng lai ở 5 nước trong nhóm G7 và 7 trong số 10 nước khác thuộc OECD.

Tương tự, Salvatore (2006) khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm mối giữa thâm hụt

ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai ở các nước thuộc nhóm G7 đã tìm thấy bằng chứng

rất thuyết phục hỗ trợ cho giả thuyết thâm hụt kép. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu trong thời kỳ

1973 – 2005. Ngoài biến cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách (được tính theo

phần trăm của GNP), ông đã đưa thêm vào mô hình biến tăng trưởng GNP thực của quốc gia

được nghiên cứu và biến tăng trưởng GNP thực của phần còn lại thế giới. Vì ông lập luận

rằng khi kinh tế trong nước tăng trưởng sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng

19

làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai; còn nếu kinh tế thế giới tăng trưởng cao sẽ làm tăng

nhu cầu đối với hàng hoá xuất khẩu của quốc gia này và sẽ tác động tích cực đến cán cân tài

khoản vãng lai. Với việc xây dựng mô hình hồi quy đa biến đơn giản (trong đó, biến phụ

thuộc là cán cân tài khoản vãng lai và có xét đến độ trễ của biến cán cân ngân sách) và sử

dụng phương pháp OLS, Salvatore đã cho thấy rằng: thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến thâm

hụt tài khoản vãng lai với độ trễ một năm. Bằng chứng thực nghiệm về điều này được tìm

thấy ở hầu hết các quốc gia công nghiệp quan trọng nhất như Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Ý,

Canada.

Ở một khía cạnh khác, trong nghiên cứu vào năm 2008 về giả thuyết thâm hụt kép ở

Hy Lạp giai đoạn 1960-2007, Panagiotis cùng các tác giả đã có một hướng nghiên cứu mới

khi tập trung phân tích tính dai dẳng của thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách. Với

suy luận rằng, nếu các biến xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ cân bằng dài hạn thì sẽ

tồn tại tính dai dẳng của thâm hụt thương mai, và tương tự đối với thâm hụt ngân sách. Ông

đã dùng kiểm định Trace – Johansen kết hợp với việc ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số

vector (VECM) để phát hiện mối quan hệ đồng liên kết và phân tích mối quan hệ dài hạn

giữa các biến. Đặc biệt, ông còn sử dụng phương pháp phân tích của Quinto (1995) để kiểm

tra tính dai dẳng của thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách. Kết quả thực nghiệm cho

thấy chỉ có tính dai dẳng yếu ở cả hai loại thâm hụt được nghiên cứu. Kiểm định nhân quả

Granger cũng được tác giả thực hiện và nhận thấy có mối quan hệ nhân quả trong ngắn hạn

từ thu ngân sách đến chi tiêu ngân sách, không có mối quan hệ theo chiều ngược lại. Và

cũng không có bằng chứng nào về mối quan hệ nhân quả ngắn hạn giữa hai biến xuất khẩu

và nhập khẩu. Tuy nhiên, nghiên cứu lại tìm thấy bằng chứng về giả thuyết thâm hụt kép

trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Nghĩa là, có một mối quan hệ nhân quả từ thâm hụt ngân sách

đến thâm hụt thương mại ở Hy Lạp, hiện diện cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Một cách tiếp cận khác nữa về giả thuyết thâm hụt kép được thực hiện bởi Lau và các

tác giả (2006) bằng việc sử dụng dữ liệu bảng để kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger ở

các nước SEACEN (bao gồm Malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc,

Myanmar, Nepan, Sri Lanka và Philippin). Các biến được kiểm định là thâm hụt tài khoản

20

vãng lai, thâm hụt ngân sách (tính theo phần trăm của GDP danh nghĩa), tỷ giá hối đoái danh

nghĩa và lãi suất ngắn hạn, với kỳ quan sát theo năm từ 1980 – 2001. Để xem xét đến vài trò

của hai biến tài chính (lãi suất và tỷ giá hối đoái) như là cầu nối giữa thâm hụt ngân sách và

thâm hụt tài khoản vãng lai, tác giả đã chủ động đưa vào nghiên cứu này để phân tích ảnh

hưởng của chúng đến mối quan hệ giữa hai loại thâm hụt. Sử dụng phương pháp kiểm định

đồng liên kết được phát triển bởi Pedroni (1999) kết hợp với kiểm định nhân quả Granger

dựa trên mô hình VAR bảng năng động, các ông đã đưa ra những kết luận quan trọng. Thứ

nhất là lãi suất, tỷ giá hối đoái và thâm hụt ngân sách đóng vai trò quan trọng trong việc giải

thích cán cân tài khoản vãng lai. Thứ hai, có hiện diện mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa

hai loại thâm hụt (phương pháp tiếp cận theo Toda-Yamamoto, 1995 cũng được thực hiện và

đã cho thấy bằng chứng tương tự); trong đó, thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tài khoản

vãng lai theo cả hai kênh trực tiếp và gián tiếp (thông qua lãi suất và tỷ giá hối đoái như mô

hình lý thuyết của Mundell - Fleming). Và cuối cùng, kết quả thực nghiệm cũng cho thấy tỷ

giá hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến tài khoản vãng lai ở các quốc gia châu Á này.

Cũng sử dụng dữ liệu bảng, Afonso và Rault (2009) đã một lần nữa đưa ra bằng

chứng thực nghiệm về giả thuyết thâm hụt kép ở các nước thuộc Liên minh châu Âu như

Cộng hoà Séc, Phần Lan, Italia, Hungary, Ba Lan,…trong giai đoạn 1970-2007. Các tác giả

đã dùng cách tiếp cận dữ liệu bảng của Konya (2006) dựa trên mô hình tự hồi quy vector

(VAR) song biến (bao gồm cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách) và 3 biến (bao

gồm thêm biến tỷ giá hối đoái thực hiệu lực) để phân tích mối quan hệ nhân quả giữa hai

loại thâm hụt. Và kết quả cho thấy sự hiện diện mối quan hệ nhân quả Granger một chiều từ

cán cân ngân sách chính phủ đến cán cân tài khoản vãng lai ở phần lớn các quốc gia châu

Âu, bất kể đối với mô hình song biến hay 3 biến được xem xét. Điều đó cho thấy, việc có

hiện diện biến tỷ giá hối đoái thực hiệu lực trong mô hình hay không cũng không ảnh hưởng

đến kết quả kiểm định nhân quả. Hay nói cách khác, tỷ giá hối đoái thực hiệu lực không có

tác động nhiều đến mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai. Kết

luận này có vẻ mâu thuẫn với một số nghiên cứu trước đó.

21

Còn đối với nghiên cứu của Cavallo (2005), ông phân chia chi tiêu chính phủ thành

hai loại: chi tiêu cho hàng hoá cuối cùng và chi tiêu cho tiền lương, tiền công. Trên cơ sở đó,

ông phân tích tác động của từng loại đến cán cân tài khoản vãng lai và so sánh kết quả lẫn

nhau. Nghiên cứu được hiện ở Mỹ trong giai đoạn 1948 – 2000, chủ yếu dựa trên phân tích

biểu đồ, số liệu quá khứ và sử dụng mô hình nền kinh tế 2 quốc gia gồm chủ nhà và nước

ngoài. Kết quả phân tích cho thấy một sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ cho hàng hoá

cuối cùng sẽ tạo ra một sự suy giảm đáng kể trong tài khoản vãng lai, trong khi sự gia tăng

trong chi tiêu chính phủ cho tiền công, tiền lương có tác động ít hơn (cụ thể nếu chi tiêu cho

tiền công, tiền lương tăng 1% GDP thì chỉ gây ra sự suy giảm 0.05% GDP trong cán cân tài

khoản vãng lai). Điều này hàm ý rằng, mối quan hệ nhân quả từ cán cân ngân sách đến cán

cân tài khoản vãng lai (giả thuyết thâm hụt kép) có thể bị khuếch đại nếu phần lớn chi tiêu

của chính phủ đều dành cho hàng hoá cuối cùng. Hay nói cách khác, nó sẽ chịu ảnh hưởng

bởi cơ cấu chi tiêu của chính phủ.

Erceg và các tác giả (2005) khi nghiên cứu tác động của các cú sốc tài khoá đến cán

cân thương mại của Mỹ cũng đã tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ nhân quả (dù là yếu)

của thâm hụt tài khoá đối với cán cân thương mại. Cụ thể, khi thâm hụt tài khoá tăng 1%

GDP thì sẽ làm cán cân thương mại sụt giảm khoảng gần 0.2% GDP.Tuy nhiên, áp lực lên

cán cân thương mại được gây ra do chính sách tài khoá mở rộng có thể bị bù trừ bằng sự kết

hợp của sản lượng tăng lên và/hoặc sự sụt giảm trong tiêu dùng và đầu tư tư nhân. Ở khía

cạnh khác, các tác giả đã kiểm định tác động của hai loại cú sốc tài khoá riêng biệt là sự gia

tăng trong chi tiêu chỉnh phủ và sự sụt giảm trong tỷ lệ thuế thu nhập đến cán cân thương

mại của Mỹ, và đều cho thấy sự hiện diện tính nhân quả.

2.2.2 Các kết quả nghiên cứu cho rằng thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách – giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu”

Giả thuyết này cho rằng một sự suy giảm trong cán cân tài khoản vãng sẽ dẫn đến sự

sụt giảm trong cán cân ngân sách. Một sự gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai phản ánh sự

suy giảm tăng trưởng kinh tế; vì thế, chính phủ sẽ gia tăng chi tiêu để vực dậy nền kinh tế và

có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách. Chẳng hạn, một đất nước trải qua một cuộc khủng hoảng

22

tài chính hoặc khủng hoảng cán cân thanh toán do thâm hụt tài khoản vãng lai quá mức có

thể đối mặt với tình huống mà lượng lớn quỹ công được bơm vào để phục hồi ngành tài

chính đang gặp khó khăn, cải thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, nhằm chặn đứng cuộc

suy thoái, vực dậy nền kinh tế. Ví dụ, thâm hụt tài khoá tại Hàn Quốc có thể được phép tăng

đáng kể cho mục đích hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh mạng lưới an toàn xã hội

sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Theo Summer (1988), mối quan hệ nhân

quả đảo ngược từ thâm hụt tài khoản vãng lai đến thâm hụt ngân sách được gọi là “ tài

khoản vãng lai mục tiêu”. Ông cho rằng điều chỉnh cán cân bên ngoài có thể dẫn đến sự thay

đổi trong cán cân ngân sách.

Trong một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2011, Sofia Kalou và Suzanna-Maria

Paleologou đã dùng mô hình hiệu chỉnh sai số vector (VECM) để xác định mối quan hệ

nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai ở Hy Lạp trong thời kỳ

1960 – 2007. Ngoài hai biến chủ đạo là thâm hụt ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai

(tính theo phần trăm trên GDP), các ông đưa thêm các biến kinh tế vĩ mô như lãi suất ngắn

hạn, tỷ giá danh nghĩa vào mô hình vì cho rằng các biến này có tác động đáng kể đến mối

quan hệ nhân quả đang được kiểm định. Bên cạnh đó, các điểm gãy cấu trúc có thể xảy ra

trong chuỗi dữ liệu cũng được xem xét khi kiểm định nghiệm đơn vị để tránh bị sai lệch. Kết

quả thực nghiệm cho thấy sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả cùng chiều từ thâm hụt tài

khoản vãng lai đến thâm hụt ngân sách. Điều này hỗ trợ cho giả thuyết tài khoản vãng lai

mục tiêu. Ở một khía cạnh khác, kết quả nghiên cứu này hàm ý rằng ở các nền kinh nhỏ của

Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) như Hy Lạp, sự phát triển nội địa không chỉ chịu tác động

bởi cán cân bên ngoài, mà còn bị ảnh hưởng một cách tương tự bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô

khác.

Còn đối với Khalid và Guan (1998), hai ông đã sử dụng chuỗi thời gian với mẫu lựa

chọn bao gồm cả những nước phát triển và đang phát triển có mức thâm hụt ngân sách và

thâm hụt tài khoản vãng lai cao cho nghiên cứu của mình để có được sự so sánh giữa các

quốc gia. Các nước đã phát triển bao gồm Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Úc, còn các nước đang

phát triển là Ấn Độ, Indonesia, Parkistant, Ai Cập và Mexico. Nghiên cứu này có hai mục

23

đích chính. Thứ nhất là kiểm định sự hiện diện của mối quan hệ dài hạn (đồng liên kết) giữa

thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai bằng phương pháp Engle - Granger Test

và Johansen - Trace Test. Thứ hai là kiểm định sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả giữa

thâm hụt ngân sách và thâm hụt vãng lai bằng Granger Causality Test dựa trên mô hình

VAR. Và kết quả thực nghiệm cho thấy rằng, có hiện diện mối quan hệ dài hạn giữa thâm

hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai ở 4 trong số nhóm 5 nước đang phát triển được

kiểm định. Trong khi đó, không nước phát triển nào trong mẫu có hiện diện mối quan hệ

này. Kết quả từ kiểm định nhân quả Granger cho thấy có mối quan hệ nhân quả từ thâm hụt

tài khoản vãng lai đến thâm hụt ngân sách ở Indonesia và Pakistant, trong khi có mối quan

hệ nhân quả theo chiều ngược lại ở Ai Cập và Mexico. Đối với các nước phát triển, không

tồn tại mối quan hệ nhân quả nào giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt vãng lai ở Mỹ và Úc,

nhưng có bằng chứng yếu về mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa thâm hụt ngân sách và

thâm hụt tài khoản vãng lai ở Canada.

Ở một nghiên cứu khác, Anoruo và Ramchander (1998) phân tích chuỗi thời gian đa

biến bao gồm thâm hụt tài khoá, thâm hụt thương mại, lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn

ngắn, tỷ giá hối đoái, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và lạm phát. Mẫu được lựa chọn gồm 5

quốc gia Đông và Nam Á là Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia và Philippine trong thời

kỳ 1957 – 1993. Mô hình VAR được ước lượng làm nền tảng để kiểm định mối quan hệ

nhân quả Granger. Kết quả cho thấy hiện diện mối quan hệ nhân quả từ thâm hụt thương mại

đến thâm hụt tài khoá (không có mối quan hệ theo chiều ngược lại) ở hầu hết các nước trong

mẫu. Ngoại trừ trường hợp Malaysia có có mối quan hệ hai chiều. Kết quả này đã củng cố

thêm bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ cho giả thuyết tài khoản vãng lai mục tiêu. Mặt khác,

nghiên cứu này cũng đã cho thấy rằng vẫn có một số biến kinh tế vĩ mô tác động đến thâm

hụt thương mại và thâm hụt tài khoá, nên cũng sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ nhân quả giữa

hai loại thâm hụt này.

Trong khi đó, Chul-Hwan Kim and Donggeun Kim (2007) đã sử dụng kiểm định

Wald có điều chỉnh theo phương pháp Toda-Yamamoto (1995) để kiểm định xem liệu thâm

hụt ngân sách tăng cao có dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai trầm trọng hơn ở Hàn Quốc.

24

Dữ liệu được thu thập theo năm từ 1970 – 2003; ngoài biến cán cân ngân sách và cán cân tài

khoản vãng lai (tính theo phần trăm trên GDP), tác giả đưa thêm biến tỷ giá hối đoái vào mô

hình. Điểm khác biệt của nghiên cứu này so với các nghiên cứu trước đó là dùng phương

pháp kiểm định phi nhân quả Granger được đề xuất bởi Toda và Yamamoto (1995) dựa trên

mô hình VAR khuyếch trương. Điểm gãy cấu trúc trong dữ liệu cũng được xem xét để tránh

bị sai lệch khi kiểm định tính dừng các biến. Kết quả thực nghiệm cho thấy bằng chứng

mạnh mẽ về sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả từ cán cân tài khoản vãng lai đến cán

cân ngân sách, tuy nhiên mối quan hệ theo chiều ngược lại thì không tồn tại. Ở khía cạnh

khác, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến cả cán cân

ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai. Nếu như việc tỷ giá tác động đến tài khoản vãng lai

được lý giải bởi các cơ sở lý thuyết một cách thuyết phục, thì thật khó để giải thích cho sự

tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân ngân sách.

Để làm rõ mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai trong

thực nghiệm, Marinheiro (2006) cũng đã tiến hành kiểm định các giả thuyết liên quan đến

mối quan hệ này như giả thuyết cân bằng của Ricardian, giả thuyết thâm hụt kép (vì hai lý

thuyết này phủ định lẫn nhau). Ông cũng đã đưa ra những biện luận lý thuyết khá vững chắc

về các giả thuyết này và lựa chọn Ai Cập để kiểm định thực nghiệm. Bằng phương pháp

nhận diện mối quan hệ đồng liên kết với công cụ Johansen-Trace Test và kiểm định nhân

quả Granger dựa trên mô hình hiệu chỉnh sai số vector (VECM), Marinheiro cho thấy rằng

không có bằng chứng thuyết phục về sự hiện diện của giả thuyết cân bằng Ricardian, nghĩa

là sự giảm thuế của chính phủ (điều mà có thể gây ra thâm hụt ngân sách) sẽ tác động làm

tăng tiêu dùng tư nhân và có thể ảnh hưởng xấu đến tài khoản vãng lai (thông qua việc làm

tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu). Tuy nhiên, đối với giả thuyết thâm hụt kép, kết quả

cho thấy có mối quan hệ dài hạn yếu giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng

lai. Và đáng chú ý là chỉ hiện diện mối quan hệ nhân quả Granger từ thâm hụt tài khoản

vãng lai đến thâm hụt ngân sách, nhưng không có bằng chứng về mối quan hệ theo chiều

ngược lại. Nghĩa là, một sự gia tăng trong thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ dẫn đến dự gia tăng

trong thâm hụt ngân sách. Điều này một lần nữa đã hỗ trợ cho giả thuyết tài khoản vãng lai

mục tiêu.

25

2.2.3 Các nghiên cứu đưa đến kết luận rằng không có mối quan hệ nào giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai – giả thuyết cân bằng Ricardo

Theo giả thuyết cân bằng Ricardo, không tồn tại bất kỳ mối quan hệ nhân quả nào

giữa cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai. Một sự gia tăng trong thâm hụt ngân

sách sẽ không gây ảnh hưởng đến lãi suất nội địa, tỷ giá hối đoái và do đó cũng không tác

động đến cán cân tài khoản vãng lai.

Trong một nghiên cứu thực nghiệm với quy mô lớn gồm 20 nước phát triển và đang

phát triển vào năm 2002, Kouassi và các tác giả không tìm thấy bằng chứng nào về mối

quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai ở hầu hết các nước

phát triển trong mẫu (Úc, Áo, Canada, Pháp, Ý, Hà Lan, Newzealand, Thuỵ Điển, Anh và

Mỹ). Theo đó, các ông đã thực hiện kiểm định phi nhân quả Granger dựa trên nền tảng mô

hình VAR khuyếch trương được phát triển bởi Toda – Yamamoto (1995) đối với hai biến

thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. Kết quả thực nghiệm cho thấy ngoại trừ

bằng chứng về mối quan hệ nhân quả một chiều từ thâm hụt ngân sách đến thâm hụt tài

khoản vãng lai ở Israel, mối quan hệ nhân quả một chiều từ thâm hụt tài khoản vãng lai đến

thâm hụt ngân sách ở Hàn Quốc và mối quan hệ nhân quả hai chiều ở Thái Lan, hầu hết các

nước đang phát triển còn lại đều không có bằng chứng thuyết phục về sự hiện diện của mối

quan hệ nhân quả. Kết quả tương tự đối với các nước phát triển khi chỉ tìm thấy mối quan hệ

nhân quả một chiều từ thâm hụt tài khoản vãng lai sang thâm hụt ngân sách ở Ý. Ở một khía

cạnh khác, các kết quả nghiên cứu này cũng hàm ý rằng, các nền kinh tế có độ mở càng lớn

thì các yếu tố bên trong sẽ chịu tác động nhiều bởi cán cân bên ngoài (cán cân thanh toán,

cán cân tài khoản vãng lai). Và rất cần thiết để xem xét đến các biến kinh tế vĩ mô khác như

đầu tư và tiết kiệm tư nhân, tỷ giá hối đoái, lạm phát,… khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa

thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai.

Tương tự, Papadogonas và Stournaras (2006) cũng đã khẳng định rằng những biến

đổi trong cán cân ngân sách có tác động rất nhỏ đến cán cân tài khoản vãng lai khi thực hiện

nghiên cứu thực nghiệm về giả thuyết thâm hụt kép ở 15 quốc gia thuộc Liên minh châu Âu

(EU). Theo đó, nghiên cứu cho thấy những thay đổi trong cán cân ngân sách chính phủ sẽ

26

dẫn đến một thay đổi tương ứng theo chiều ngược lại trong chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu

tư tư nhân, vì thế sẽ không ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai (do tiết kiệm quốc gia

vẫn không đổi nên không ảnh hưởng đến lãi suất nội địa). Chính vì vậy, không thể điều

chỉnh cán cân tài khoản vãng lai bằng việc tác động vào cán cân ngân sách. Ở khía cạnh

khác, khi các tác giả sử dụng mô hình được đề xuất bởi Blanchard và Giavazzi (2002) để xác

định các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai ở Hy Lạp, đã cho thấy bên cạnh

biến cán cân ngân sách, không thể bỏ qua tác động của các biến hội nhập kinh tế - tài chính

như chênh lệch tốc độ tăng trưởng giữa Hy Lạp và các nước OECD, chênh lệch lãi suất

trong và ngoài nước. Tóm lại, kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này cho thấy rằng cán

cân ngân sách không phải là công cụ đủ mạnh để gây ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng

lai.

Khi nghiên cứu về thâm hụt kép ở Tây Ban Nha, Garcia và Ramajo (2004) đã đưa

đến bằng chứng thực nghiệm cho thấy thâm hụt ngân sách không hề có tác động làm tăng lãi

suất danh nghĩa dài hạn. Các tác giả sử dụng dữ liệu năm từ 1964-2000 với phương pháp

ước lượng bình phương bé nhất hai giai đoạn (2SLS) dựa trên mô hình tuyến tính đa biến

bao gồm biến phụ thuộc là lãi suất danh nghĩa dài hạn, các biến độc lập là thâm hụt ngân

sách, chi tiêu chính phủ, cung tiền thực và lạm phát kỳ vọng. Kết quả hồi quy và kiểm định

cho thấy hệ số của biến thâm hụt ngân sách không có ý nghĩa thống kê. Nghĩa là biến này

không có tác động đến lãi suất. Theo lập luận của tác giả, điều này có thể ảnh hưởng làm suy

giảm mối quan hệ nhân quả từ thâm hụt ngân sách đến thâm hụt tài khoản vãng lai.

Cũng với mục tiêu nghiên cứu tác động của thâm hụt ngân sách chính phủ liên bang

đến lãi suất ngắn hạn (được đo lường bằng lãi suất tín phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng),

Douglag McMillin (1986) đã dùng kiểm định nhân quả Granger đa biến với chuỗi dữ liệu

theo quý của Mỹ trong kỳ 1957 – 1984 để tiến hành phân tích thực nghiệm. Bên cạnh đó,

ông cũng kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô khác đến lãi suất ngắn hạn bao

gồm sản lượng thực, lạm phát, tăng trưởng cung tiền, biến động lãi suất và cú sốc từ phía

cung. Và kết quả cho thấy thâm hụt ngân sách không có mối quan hệ nhân quả Granger với

lãi suất. Đây có thể xem là kết luận hỗ trợ cho giả thuyết cân bằng Ricardo cho rằng thâm

27

hụt ngân sách sẽ không tác động đến lãi suất, từ đó sẽ không gây áp lực lên tỷ giá hối đoái

và làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai.

Paul Evans (1987) cũng đưa đến kết luận tương tự trong một nghiên cứu cho trường

hợp của Canada, Pháp, Đức, Nhật, Anh, Mỹ. Ông đã tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho

rằng không có mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lãi suất danh nghĩa ở tất cả 6 nước

được nghiên cứu trong mẫu. Nghĩa là thâm hụt ngân sách sẽ không gây sức ép lên lãi suất vì

tiết kiệm tư nhân sẽ tăng (các hộ gia đình gia tăng tiết kiệm vì nghĩ rằng chính phủ sẽ tăng

thuế trong tương lai để bù đắp cho thâm hụt ngân sách) và làm tiết kiệm quốc gia không thay

đổi. Khi đó, thâm hụt ngân sách cũng sẽ không thể gây tác động xấu đến cán cân tài khoản

vãng lai. Đây chính là lập luận theo giả thuyết cân bằng Ricardo.

2.2.4 Một số nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai

Giả thuyết này cho rằng có tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa cán cân ngân

sách và cán cân tài khoản vãng lai. Nghĩa là bất kỳ sự thay đổi trong cán cân này sẽ dẫn đến

sự thay đổi trong cán cân kia và ngược lại. Một số ít các nghiên cứu thực nghiệm trước đây

đã minh chứng cho giả thuyết này.

Tiêu biểu là nghiên cứu của M. Faizul Islam (1998) ở Brazil. Theo đó, ông đã kiểm

định thực nghiệm mối quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại

trong thời kỳ 1973 – 1991, dữ liệu được thu thập theo quý. Với việc sử dụng kiểm định nhân

quả Granger, Islam đã tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ nhân quả hai chiều

giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại.

Trong một nghiên cứu thực nghiệm khác của Brahim Mansouri (1998) về mối quan

hệ giữa thâm hụt tài khoá và biến động của cán cân tài khoản vãng lai ở Moroccan, ông đã

đưa ra kết luận về mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hai thâm hụt tài khoá và thâm hụt tài

khoản vãng lai. Theo đó, Mansouri đã sử dụng phương pháp kiểm định đồng liên kết Engle -

Granger và ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) để phân tích mối quan hệ giữa các

biến. Kết quả cho thấy có mối quan hệ nhân quả cả trong ngắn hạn và dài hạn giữa hai cán

28

cân đang được xem xét. Điều này hoàn toàn khác so với các nghiên cứu cùng chủ đề trước

đây.

Bảng 2.1 : Tóm tắt kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về mối quan hệ

giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai

Kết quả hỗ trợ giả thuyết “thâm hụt kép”

Tác giả (năm) Quốc gia Thời kỳ Phương pháp

Biến nghiên cứu

Mỹ Mô hình VAR 1979 – 1985 BD, CAD, IR,

John D. Abell (1990) EXC

Mỹ BD, CAD

Pemberton (1990)

Small simultaneous- equation model

Tallman (1993) Mỹ 1961 - 1989 BD, CAD, EXC

Five-variable VAR model

Piersanti (2000) OECD 1990 – 1997 BD, CAD

Granger Causality Test

Mỹ BD, CAD

Malindretos (2001) Granger causality test.

Francis (2002) Mỹ BD, CAD

Error correction models

Chang (2004) Taiwan BD, CAD

Granger causality test

Cavallo (2005) Mỹ 1948 - 2000 GEXP, CAD Graph analysis

29

Erceg (2005) Mỹ BD, TD

The open economy DGE model.

Nhóm G7 1973 - 2005

Salvatore (2006) BD, CAD, RGNP Mô hình hồi quy đa biến

Lau (2006) 1980 – 2001 BD, CAD, EXC,

Nhóm SEACEN IR

Toda – Yamamoto test (1995)

Hy Lạp 1960 - 2007 BD, TD Mô hình VECM

Panagiotis (2008)

Nhóm EU

Afonso và Rault (2009) 1970 – 2007 BD, CAD, EXC Bootstrap panel Granger-causality

Kết quả hỗ trợ giả thuyết “tài khoản vãng lai mục tiêu”

BD, CAD

Khalid và Guan (1998) Ai Cập, Mexico Granger causality test

1957 - 1993

BD, TD, IR, EXC, GDP, INF Granger causality test

Anoruo và Ramchander (1998)

Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin

Ai Cập 1974 - 1989 BD, CAD

Marinheiro (2006) Granger causality test

Kim (2007) Hàn Quốc 1970 - 2003 BD, CAD

Phương pháp Toda – Yamamoto (1995)

30

Hy Lạp Mô hình VECM 1960 - 2007 BD, CAD, EXC,

Paleologou (2011) IR

Kết quả hỗ trợ giả thuyết cân bằng Ricardian

Mỹ 1957 - 1984 BD, IR

McMillin (1986) Granger causality test

Lee (1990) Mỹ BD, CAD

Uncontrained VAR model

BD, CAD

Phương pháp Toda – Yamamoto (1995) Kouassi (2002) Mỹ, Úc, Áo, Canada, Pháp, Hà Lan, Anh, Thuỵ Điển

Tây Ban Nha 1964 - 2000

Garcia và Ramajo (2004) GEXP, BD, RM, EINF Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến

Singapore BD, CAD

Kalyoncu (2007) Granger causality test

Kết quả hỗ trợ cho giả thuyết mối quan hệ nhân quả hai chiều

Islam (1998) Brazil 1973 - 1991 BD, CAD

Granger causality test

Moroccan BD, CAD

Mansouri (1998)

Phương pháp Engle – Granger và mô hình VECM

Hàn Quốc BD, CAD

Kalyoncu (2007) Granger causality test

31

Chú thích:

BD: biến thâm hụt ngân sách

CAD: biến thâm hụt tài khoản vãng lai.

TD: biến thâm hụt thương mại.

IR: biến lãi suất.

EXC: biến tỷ giá hối đoái.

RGNP: biến tăng trưởng GNP thực.

GDP: biến Tổng sản phẩm quốc nội.

INF: biến lạm phát

GEXP: biến chi tiêu chính phủ.

RM: biến cung tiền thực

EINF: biến lạm phát kỳ vọng

Nhóm OECD: ngoại trừ Thỗ Nhĩ Kỳ, Thuỵ Sĩ, Bồ Đào Nha, Iceland, Bỉ, New Zealand

Nhóm G7: bao gồm Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Ý và Canada.

Nhóm SEACEN: bao gồm Malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Myanmar,

Nepan, Sri Lanka và Philippin.

32

CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Mô hình nghiên cứu

Theo Granger (1969), tương lai không thể tạo ra hiện tại hoặc quá khứ. Nếu một sự

kiện Y xảy ra sau sự kiện X, thì Y không thể tạo ra X. Vì vậy, điều cần quan tâm là liệu X

có gây ra Y không. Đối với các chuỗi dữ liệu thời gian, Granger cho rằng nếu Xt gây ra Yt

thì giá trị hiện tại của Yt có thể được dự báo tốt hơn bằng việc dựa trên giá trị quá khứ của

Xt, bên cạnh các thông tin quá khứ của chính Yt.

Điều kiện để chuỗi thời gian Xt có nhân quả đến chuỗi thời gian Yt có thể được diễn

đạt như sau:

µ(y/y,x) < µ(y/y) (1)

Trong đó, µ(y/y,x) là sai số trung bình của Y khi được dự báo dựa trên giá trị quá khứ

của cả X và Y. Còn µ(y/y) là sai số trung bình của Y khi được dự báo chỉ dựa vào giá trị quá

khứ của Y.

Tương tự, Yt có nhân quả đến Xt nếu:

µ(x/x,y) < µ(x/x) (2)

Nếu cả (1) và (2) xảy ra đồng thời thì sẽ tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa Xt và

Yt.

Về bản chất, kiểm định nhân quả Granger dựa trên hệ phương trình như sau:

Yt = a0 + a1Yt-1 + …+ apYt-p + b1Xt-1 + …+ bpXt-p + ut (3)

Xt = c0 + c1Xt-1 + …+ cpXt-p + d1Yt-1 + …+ dpYt-p + vt (4)

Phương trình (3) chỉ ra rằng giá trị hiện tại của Y có thể được dự báo bởi giá trị quá

khứ của cả X và Y. Phương trình (4) cho thấy điều tương tự là giá trị hiện tại của X có thể

33

được dự báo bởi thông tin quá khứ của cả Y và X. Và có 4 dạng kết quả có thể xảy ra như

sau:

 Mối quan hệ nhân quả một chiều từ X đến Y nếu:

b1 = … = bp ≠ 0 và d1 = … = dp = 0

 Mối quan hệ nhân quả một chiều từ Y đến X nếu:

b1 = … = bp = 0 và d1 = … = dp ≠ 0

 Mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa X và Y nếu:

b1 = … = bp ≠ 0 và d1 = … = dp ≠ 0

 X và Y độc lập nhau nếu:

b1 = … = bp = 0 và d1 = … = dp = 0

Dựa trên cơ sở trên, chúng tôi xây dựng mô hình diễn tả mối quan hệ nhân quả

Granger giữa cán cân ngân sách (GB) lần lượt với cán cân tài khoản vãng lai (CA) và cán

cân thương mại (TB) như sau:

 Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai:

GBt = a0 + a1GBt-1 + …+ apGBt-p + b1CAt-1 + …+ bpCAt-p + ut (5)

CAt = c0 + c1CAt-1 + …+ cpCAt-p + d1GBt-1 + …+ dpGBt-p + vt (6)

 Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và cán cân thương mại:

GBt = a0 + a1GBt-1 + …+ apGBt-p + b1TBt-1 + …+ bpTBt-p + ut (7)

TBt = c0 + c1TBt-1 + …+ cpTBt-p + d1GBt-1 + …+ dpGBt-p + vt (8)

Dựa theo mô hình này, chúng tôi sẽ thực hiện kiểm định thực nghiệm mối quan hệ

nhân quả Granger giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai/cán cân thương mại bằng

34

phương pháp truyền thống và trọng tâm là phương pháp tiếp cận theo Toda –Yamamoto

(1995) để đối chiếu và đưa ra kết luận nghiên cứu.

3.2 Phương pháp kiểm định theo Toda – Yamamoto (1995)

Nhiều nhà kinh tế học thường áp dụng kiểm định nhân quả Granger (1969) để kiểm

định mối quan hệ nhân quả giữa các biến, nhưng phương pháp này thường rất nhạy cảm với

các đặc điểm kỹ thuật của mô hình như việc lựa chọn độ trễ và đặc tính dừng của dữ liệu.

Nếu hệ thống các biến trong mô hình VAR có đồng liên kết, kiểm định nhân quả Granger có

thể được thực hiện dựa trên việc ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số vector (VECM); trái

lại, kiểm định Granger phải được thực hiện dựa trên mô hình VAR của các biến sai phân

(nếu các chuỗi dữ liệu không dừng).

Nói cách khác, theo Granger (1988), khi các biến có đồng liên kết, thành phần hiệu

chỉnh sai số tương ứng phải được bao gồm trong hệ thống mô hình. Bằng cách này có thể

tránh những sai lệch và thiếu sót quan trọng; khi đó, kiểm định F truyền thống cho tính nhân

quả Granger cũng không có giá trị, nghĩa là giá trị thống kê kiểm định sẽ không theo phân

phối vốn có của nó khi các biến không dừng hoặc có đồng liên kết. Ở một khía cạnh khác,

nếu các biến không có cùng bậc liên kết (không dừng cùng bậc) thì mô hình VECM không

thể được áp dụng. Hơn nữa, các sai lệch trước khi kiểm định trong mô hình VECM có thể

xảy ra, đặc biệt đối với các mẫu hạn chế. Vì vậy, có thể thấy kiểm định nhân quả dựa theo

mô hình VECM khá cồng kềnh và khá nhạy cảm đối với giá trị của các tham số trong trường

hợp mẫu nhỏ. Mặt khác, kết quả lại phụ thuộc hoàn toàn vào việc kiểm định tính dừng và

đồng liên kết ban đầu.

Một cách để khắc phục vấn đề này là xây dựng mô hình VAR mà trong đó các biến

đều ở dạng gốc (không lấy sai phân, dù các biến là không dừng). Toda và Yamamoto (1995)

đã đề xuất kiểm định Wald có điều chỉnh (MWALD) để kiểm định phi nhân quả Granger,

cho phép thực hiện kiểm định tính nhân quả vốn có theo mô hình VAR với các biến ở dạng

gốc (level), dù chúng không dừng hoặc có đồng liên kết cùng bậc hay khác bậc. Kỹ thuật

này áp đặt giới hạn tuyến tính (phi tuyến) đối với các tham số của mô hình VAR mà không

35

cần phải kiểm định đồng liên kết ban đầu. Vì thế, việc dùng kiểm định MWALD sẽ là phù

hợp nếu nghiên cứu chủ yếu chỉ quan tâm đến việc kiểm định ý nghĩa thống kê các hệ số, mà

không đặt nặng việc kiểm định sự hiện diện của nghiệm đơn vị hay quan hệ đồng liên kết.

Cần chú ý rằng kiểm định MWALD đòi hỏi độ trễ tối ưu được lựa chọn phải vượt quá bậc

liên kết.

Hơn nữa, kỹ thuật Toda – Yamamoto (1995) hấp dẫn hơn không chỉ vì kiểm định

MWALD đơn giản hơn về mặt tính toán so với kiểm định F truyền thống khi kiểm định phi

nhân quả Granger, mà còn vì kiểm định MWALD có hiệu suất mẫu hữu hạn dựa trên tiến

trình kiểm định kích thước và hiệu suất. Zabata và Rambaldi (1997) cho rằng kiểm định

MWALD thì tốt hơn so với cả kiểm định LR của Mosconi và Giannini (1992) và kiểm định

Wald của Toda và Phillips (1993,1994) với mẫu từ 50 quan sát trở lên.

Dựa theo những lập luận trên, chúng tôi lựa chọn kiểm định MWALD theo Toda –

Yamamoto (1995) để kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa cán cân ngân sách và cán cân tài

khoản vãng lai trong nghiên cứu này. Và dưới đây là mô tả chi tiết các bước thực hiện kiểm

định trong nghiên cứu của chúng tôi dựa trên phương pháp Toda – Yamamoto (1995):

 Bước 1: Kiểm định tính dừng của từng chuỗi thời gian để xác định bậc liên kết của chúng.

Các phương pháp sử dụng bao gồm kiểm định ADF, PP với giả thiết H0 là không dừng

và kiểm định KPSS với giả thiết H0 là dừng. Cả 3 kiểm định được sử dụng đồng thời để

đối chiếu, so sánh và đưa đến kết luận thống nhất.

 Bước 2: Xác định bậc liên kết (dmax) cao nhất cho nhóm các biến cần kiểm định. Ví dụ

trường hợp có 2 chuỗi thời gian; trong đó, một chuỗi là I(1) và chuỗi còn lại là I(2) thì

dmax = 2. Nếu một chuỗi là I(0) và chuỗi kia là I(1) thì dmax =1.

 Bước 3: Ước lượng mô hình VAR trên dữ liệu gốc (in level), bất kể bậc liên kết của các

chuỗi thời gian cần kiểm định. Nhất thiết không được lấy sai phân của các biến, dù cho

kết quả kiểm định tính dừng ở bước 1 là như thế nào đi chăng nữa.

36

 Bước 4: Xác định độ trễ tối ưu (k) cho các biến trong mô hình VAR, sử dụng các phương

pháp lựa chọn độ trễ truyền thống (như dựa AIC, SIC, LR,….).

 Bước 5: Đảm bảo rằng mô hình VAR được ước lượng là tốt. Sử dụng Vòng tròn đơn vị

(Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial), kiểm định tính dừng phần dư

(residuals). Độ trễ (k) có thể được điều chỉnh để tìm ra mô hình VAR tốt.

 Bước 6: Xây dựng lại mô hình VAR bằng việc đưa thêm vào mỗi phương trình dmax độ trễ

đối với mỗi biến. Lúc này độ trễ của mô hình VAR là (k+dmax).

 Bước 7: Thực hiện kiểm định phi nhân quả Granger như sau: dùng kiểm định Wald để

kiểm định giả thiết: các hệ số của các biến CA trong phương trình GB tương ứng với k

độ trễ đầu tiên đồng thời bằng 0. Sau đó, kiểm định tương tự đối với hệ số của các biến

độ trễ của GB trong phương trình CA, của TB trong phương trình GB và của GB trong

phương trình TB.

Cần chú ý rằng, không bao gồm hệ số của các biến độ trễ được đưa thêm vào mô hình

(ở bước 6) khi thực hiện kiểm định Wald, vì các biến này chỉ là điều kiện để đảm bảo cho

tính tiệm cận của phân phối chi bình phương trong kiểm định Wald.

 Bước 8: Dựa vào kết quả kiểm định, nếu giả thiết H0 bị bác bỏ thì hàm ý sự loại bỏ tính

phi nhân quả Granger. Nghĩa là thừa nhận sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả

Granger.

37

3.3 Dữ liệu nghiên cứu

3.3.1 Dữ liệu Việt Nam

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian được thu thập theo quý, từ quý 1 năm

1996 đến quý 4 năm 2013. Như vậy, sẽ có tổng cộng 72 quan sát trong mẫu nghiên cứu.

Dữ liệu được thu thập từ các nguồn cụ thể sau:

Số liệu về cán cân ngân sách được thu thập từ báo cáo quyết toán ngân sách Nhà

nước của Bộ tài chính Việt Nam và Tổng cục thống kê Việt Nam, thể hiện bằng đồng VND.

Cán cân ngân sách bao gồm ngân sách của chính quyền Trung ương và địa phương.

Số liệu về cán cân tài khoản vãng lai, cán cân thương mại, tổng sản phẩm quốc nội

(GDP) được lấy từ nguồn IMF (cụ thể là Thống kê tài chính quốc tế - IFS). Trong đó, GDP

được tính theo VND, còn cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thương mại được tính bằng

USD. Cán cân thương tại ở đây bao gồm cán cân thương mại hàng hoá và dịch vụ.

Để thống nhất trong việc tính toán, tất cả dữ liệu trong nghiên cứu này đều được quy

đổi thành VND theo tỷ giá USD/VND bình quân cùng kỳ.

Giải thích các biến

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các biến trong mô hình kiểm định cụ

thể như sau:

 Biến cán cân ngân sách Việt Nam: ký hiệu là GB_VN

 Biến cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam: ký hiệu là CA_VN

 Biến cán cân thương mại Việt Nam: ký hiệu là TB_VN.

Tất cả các biến đều được tính theo tỷ lệ phần trăm trên GDP cùng kỳ.

38

3.3.2 Dữ liệu nước ngoài

Nghiên cứu sử dụng chuỗi thời gian được thu thập theo quý trong giai đoạn 2000 –

2013, với 56 quan sát. Các quốc qua được lựa chọn vào mẫu bao gồm Mỹ, Đức, Canada đại

diện cho nhóm nước phát triển và Brazil, Peru, Bungary đại diện cho nhóm nước đang phát

triển. Tất cả dữ liệu đều được thu thập từ Quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Theo đó, số liệu cán cân

ngân sách và GDP được lấy từ nguồn Thống kê tài chính quốc tế (IFS) và Thống kê tài

chính Chính phủ (GFS). Số liệu cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thương mại lấy từ

nguồn BOP (Balance of Payment). Tất cả các biến đều được tính theo tỷ lệ phần trăm trên

GDP cùng kỳ. Giải thích chi tiết các biến của từng quốc gia được trình bày ở Phụ lục A.

39

CHƯƠNG 4 - NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng lần lượt kiểm định thực nghiệm mối quan hệ

giữa hai cặp biến: cán cân ngân sách (GB_VN) và cán cân tài khoản vãng lai (CA_VN) ; cán

cân ngân sách (GB_VN) và cán cân thương mại (TB_VN), để xem liệu rằng có sự khác biệt

trong kết quả kiểm định hay không. Mục đích của việc này là để xem xét vai trò tác động

của yếu tố thu nhập và chuyển giao vãng lai (chênh lệch giữa cán cân tài khoản vãng lai và

cán cân thương mại) đối với mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai.

4.1 Kiểm định tính dừng các biến

Vì các chuỗi thời gian trong kinh tế - tài chính thường không dừng, do đó chúng tôi

tiến hành kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu được đưa vào mô hình, và đồng thời để

xác định bậc liên kết của từng biến trước khi thực hiện kiểm định theo phương pháp Toda –

Yamamoto (1995). Để làm việc này, chúng tôi dựa vào 3 phương pháp phổ biến là ADF, PP

và KPSS. Trước tiên, kiểm định nghiệm đơn vị ADF (Augmented Dickey – Fuller, 1979)

được thực hiện cho từng biến, với giả thuyết H0: chuỗi số liệu có nghiệm đơn vị (không

dừng). Nếu giá trị p-value < mức ý nghĩa thì bác bỏ giả thuyết H0 , tức là chuỗi dừng. Khi

chuỗi số liệu không dừng, chúng tôi tiếp tục kiểm định ở các bậc sai phân để xác định kiểu

chuỗi dữ liệu, là I(0), I(1), hay I(2),... Kết quả kiểm định ADF trên Eview được trình bày ở

Bảng 4.1.

Bảng 4.1 : Kết quả kiểm định ADF đối với các biến

ADF – TEST

Bậc gốc (Level) Sai phân bậc 1 Kiểu chuỗi

Biến t-statistic Prob.* t-statistic Prob.*

GB_VN -2.297597 0.1757 -14.51536 0.0001 I(1)

CA_VN -1.775712 0.3892 -12.14020 0.0001 I(1)

TB_VN -1.669647 0.4418 -10.03142 0.0001 I(1)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

40

Dưa trên tiêu chuẩn ADF được áp dụng, ta thấy các biến cán cân ngân sách

(GB_VN), tài khoản vãng lai (CA_VN) và cán cân thương mại (TB_VN) đều không dừng vì

p-value đều lớn hơn mức ý nghĩa 10%. Tuy nhiên, tất cả 3 biến này đều dừng khi chúng tôi

tiếp tục lấy sai phân bậc 1 để kiểm định.

Tiếp đó, chúng tôi cũng thực hiện kiểm định Phillips – Perron, 1988 (PP) và

Kwiatkowski – Phillips – Shin, 1992 (KPSS) cho từng biến để đối chiếu kết quả.

Bảng 4.2 : Kết quả kiểm định Phillips – Perron (PP) cho các biến

PP – TEST

Bậc gốc(Level) Sai phân bậc 1 Kiểu chuỗi

Biến t-statistic Prob.* t-statistic Prob.*

GB_VN -8.634274 0.0000 I(0)

CA_VN -5.103715 0.0001 I(0)

TB_VN -4.073456 0.0019 I(0)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

Bảng 4.3 : Kết quả kiểm định KPSS cho các biến

KWIATKOWSKI - PHILLIPS - SHIN TEST (KPSS)

Biến LM statistic Kiểu chuỗi

GB_VN 0.257847*** I(1)

CA_VN 0.130978 I(0)

TB_VN 0.136747 I(0)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

41

*, **, *** lần lượt biểu thị cho mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%

Kiểm định PP đưa đến kết luận cả 3 biến đều thuộc loại chuỗi dừng I(0) vì p-value

nhỏ hơn mức ý nghĩa 10%. Trong khi đó, kiểm định KPSS cho thấy rằng, biến cán cân ngân

sách (GB_VN) là I(1), tức là dừng ở sai phân bậc 1; còn hai biến tài khoản vãng lai

(CA_VN) và cán cân thương mại (TB_VN) thuộc loại chuỗi I(0).

Từ kết quả kiểm định theo 3 phương pháp trên, chúng tôi đưa đến kết luận thống nhất

rằng: biến GB_VN là kiểu chuỗi I(1), biến CA_VN và TB_VN là kiểu chuỗi I(0). Kết quả

này sẽ là nền tảng để thực hiện các bước kiểm định tiếp theo trong nghiên cứu của chúng tôi.

4.2 Kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp truyền thống

Phương pháp kiểm định Granger truyền thống đòi hỏi các biến đầu vào phải dừng,

nên chúng tôi thực hiện kiểm định dựa trên sai phân của các biến (nếu không dừng). Trước

khi kiểm định, chúng tôi tiến hành lựa chọn độ trễ tối ưu dựa theo các tiêu chí LR, FPE,

AIC, SC và HQ. Kết quả xác định độ trễ tối ưu được trình bày trong bảng 4.4.

Bảng 4.4 : Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu cho kiểm định Granger truyền thống

LỰA CHỌN ĐỘ TRỄ CHO KIỂM ĐỊNH NHÂN QUẢ

Cặp biến LR FPE AIC SC HQ

D(GB_VN) và CA_VN 3 3 3 3 3

D(GB_VN) và TB_VN 3 3 3 3 3

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

Kết quả kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp truyền thống được xác định

dựa theo thống kê F và giá trị p-value tương ứng. Theo kết quả được thể hiện trong Bảng

4.5, có tồn tại mối quan hệ nhân quả một chiều từ cán cân tài khoản vãng lai/cán cân thương

mại đến cán cân ngân sách ở độ trễ là 3 quý, với mức ý nghĩa 10%. Hay nói cách khác,

42

những biến động hiện tại của cán cân ngân sách có thể được giải thích tốt hơn bởi việc dựa

trên sự kết hợp thông tin biến động quá khứ của chính nó và những thay đổi của cán cân tài

khoản vãng lai/cán cân thương mại trước đó 3 quý. Nói cách khác, việc dự báo biến động

cán cân ngân sách trong tương lai sẽ chính xác hơn nếu xem xét đến các biến động hiện tại

và quá khứ của cán cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại, thay vì chỉ dựa vào thông tin

quá khứ của chính nó.

Bảng 4.5 : Kết quả kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp truyền thống

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 1996Q1 2013Q4

Lags Prob. Giả thuyết H0

Số quan sát F- Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách

CA_VN does not Granger Cause DGB_VN 2.45636 0.0715

68 3 DGB_VN does not Granger Cause CA_VN 0.51483 0.6736

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

TB_VN does not Granger Cause DGB_VN 2.75912 0.0498

68 3 DGB_VN does not Granger Cause TB_VN 0.08122 0.9700

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview. Mức ý nghĩa: 10%

43

4.3 Kiểm định phi nhân quả Granger theo Toda – Yamamoto (1995)

Lựa chọn phương pháp:

Hầu hết các nghiên cứu trước về mối quan hệ nhân quả thường sử dụng hai phương

pháp phổ biến. Thứ nhất là kiểm định nhân quả Granger truyền thống (kiểm định F) dựa trên

việc ước lượng mô hình VAR. Tuy nhiên, theo phương pháp này, các biến phải lấy sai phân

nếu không dừng; điều này sẽ làm cho giá trị thống kê kiểm định F không còn tin cậy nếu

như các biến có đồng liên kết. Thứ hai là ước lượng mô hình VECM nếu các biến có đồng

liên kết, do vậy phải thực hiện kiểm định đồng liên kết trước đó. Điều này làm phức tạp

thêm quy trình kiểm định, đặc biệt là mô hình VECM chỉ áp dụng được khi các biến có cùng

bậc liên kết. Và phương pháp tiếp cận nhân quả theo Toda-Yamamoto (1995) sẽ khắc phục

được các hạn chế vừa nêu bằng việc không lấy sai phân các biến trong mô hình VAR và đưa

thêm các biến độ trễ. Hơn nữa, kết quả kiểm định tính dừng cho thấy các biến nghiên cứu

trong trường hợp Việt Nam không có cùng bậc liên kết (GB_VN là I(1), CA_VN là I(0),

TB_VN là I(0)), nên việc lựa chọn phương pháp tiếp cận theo Toda-Yamamoto (1995) là

phù hợp để nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng

lai/cán cân thương mại ở Việt Nam.

Kết quả kiểm định:

Như chúng tôi đã mô tả trong phần phương pháp luận nghiên cứu, phương pháp kiểm

định phi nhân quả Granger theo Toda - Yamamoto (1995) dựa trên việc ước lượng mô hình

VAR in level, tức là các biến đầu vào đều ở dạng gốc (level), không lấy sai phân dù là

không dừng. Điều này có thể trái với các nghiên cứu thông thường sử dụng mô hình VAR

(đòi hỏi dữ liệu đầu vào phải dừng). Tuy nhiên, có thể lý giải cho vấn đề này rằng việc ước

lượng mô hình VAR trong phương pháp Toda – Yamamoto (1995) chỉ nhằm mục đích thực

hiện kiểm định phi nhân quả Granger, bằng việc sử dụng Modified Wald Test. Dưới đây là

cụ thể các bước mà chúng tôi thực hiện để kiểm định phi nhân quả theo phương pháp Toda –

Yamamoto (1995) đối với trường hợp Việt Nam.

44

Đầu tiên, kết quả kiểm định tính dừng cho thấy các biến GB_VN, CA_VN và

TB_VN đều là I(1) nên có thể xác định bậc liên kết cao nhất trong từng trường hợp kiểm

định nhân quả: (GB_VN, CA_VN) và (GB_VN, TB_VN) đều là dmax = 1.

Độ trễ tối ưu (p) của các biến trong mô hình VAR được lựa chọn dựa vào các tiêu chí

quen thuộc như LR, FPE, AIC, SC và HQ. Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu (p) được trình bày

trong Bảng 4.6.

Bảng 4.6 : Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu (p) cho các biến trong mô hình VAR.

LỰA CHỌN ĐỘ TRỄ CHO KIỂM ĐỊNH NHÂN QUẢ

Cặp biến LR FPE AIC SC HQ

GB_VN và CA_VN 4 4 4 0 4

GB_VN và TB_VN 4 4 4 1 4

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

Theo đó, độ trễ tối ưu được lựa chọn cho mô hình VAR với cặp biến GB_VN và

CA_VN là p = 4. Đối với mô hình VAR với cặp biến GB_VN và TB_VN, có 2 độ trễ tối ưu

được lựa chọn là 1 và 4. Độ trễ 1 không được áp dụng vì theo Toda-Yamamoto (1995), độ

trễ được lựa chọn phải vượt quá bậc liên kết cao nhất của các biến (p>dmax). Hơn nữa, để

đảm bảo mô hình VAR được ước lượng là tốt (VAR is well specified), không còn hiện

tượng tương quan chuỗi trong phần dư, chúng tôi gia tăng độ trễ đến 5 đối với từng cặp biến

được kiểm định.

Bước tiếp theo, chúng tôi xây dựng lại mô hình VAR và cộng thêm dmax độ trễ vào

mỗi biến trong mỗi phương trình (ở đây dmax = 1). Cụ thể như sau:

45

 Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai VAR(p + dmax):

GBt = a0 + a1GBt-1 + …+ a5GBt-5 + a6GBt-6 + b1CAt-1 + …+ b5CAt-5 + b6CAt-6 + ut

CAt = c0 + c1CAt-1 + …+ c5CAt-5 + c6CAt-6 + d1GBt-1 + …+ d5GBt-5 + d6GBt-6 + vt

 Mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và cán cân thương mại VAR(p + dmax):

GBt = a0 + a1GBt-1 + …+ a5GBt-5 + a6GBt-6 + b1TBt-1 + …+ b5TBt-5 + b6TBt-6 + ut

TBt = c0 + c1TBt-1 + …+ c5TBt-5 + c6TBt-6 + d1GBt-1 + …+ d5GBt-5 + d6GBt-6 + vt

Tiếp đó, sử dụng kiểm định Wald (standard Wald test) để kiểm định các giả thiết sau:

 H0: b0 = b1 = … = b5 = 0, nghĩa là không tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger từ cán

cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại đến cán cân ngân sách.

 H0: d0 = d1 = … = d5 = 0, nghĩa là không tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger từ cán

cân ngân sách đến cán cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại.

Cần chú ý rằng chỉ thực hiện kiểm định Wald đối với hệ số của các biến ứng với p =

5 độ trễ đầu tiên, không bao gồm hệ số của biến độ trễ thứ 6, vì biến này chỉ nhằm mục đích

đảm bảo cho thống kê kiểm định Wald theo đúng phân phối tiệm cận chi bình phương dưới

giả thiết không là không có mối quan hệ nhân quả Granger (usual asymptotic chi-square null

distribution).

Kết quả kiểm định Wald từ EVIEW được trình bày trong Bảng 4.7. Nếu p-value <

mức ý nghĩa (10%) thì bác bỏ giả thiết H0, nghĩa là có mối quan hệ nhân quả Granger. Và

ngược lại thì chấp nhận giả thiết H0, tức là không tồn tại mối quan hệ nhân quả.

46

Bảng 4.7 : Kết quả kiểm định Modified Wald Test theo Toda – Yamamoto (1995)

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 1996Q1 2013Q4

Số quan Chi-sq df Prob.

sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

Biến phụ thuộc: GB_VN

CA_VN 6.793815 5 0.2365

67 Biến phụ thuộc: CA_VN

GB_VN 5.128356 5 0.4004

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_VN

TB_VN 7.018955 5 0.2192

67 Biến phụ thuộc: TB_VN

GB_VN 4.542269 4 0.4742

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW. Mức ý nghĩa 10%.

47

Theo đó, ta thấy các p-value (prob.) đều lớn hơn mức ý nghĩa 10% nên không thể bác

bỏ giả thiết H0, nghĩa là không tìm thấy mối quan hệ nhân quả Granger giữa cán cân ngân

sách và cán cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại, kể cả một chiều lẫn hai chiều.

Kết quả ước lượng mô hình VAR cho việc thực hiện kiểm định Modifield Wald Test

theo phương pháp Toda – Yamamoto (1995) được trình bày trong các hình dưới đây.

Hình 4.1 : Kết quả ước lược mô hình VAR(5) cho cặp biến cán cân ngân sách (GB_VN)

và cán cân tài khoản vãng lai (CA_VN)

GB_VN(-1) GB_VN(-2) GB_VN(-3) GB_VN(-4) GB_VN(-5) CA_VN(-1) CA_VN(-2) CA_VN(-3) CA_VN(-4) CA_VN(-5) C R-squared Adj. R-squared Sum sq. resids S.E. equation F-statistic Log likelihood GB_VN -0.065801 [-0.48792] 0.027413 [ 0.28207] 0.030438 [ 0.31642] 0.661072 [ 6.94124] 0.042899 [ 0.32715] -0.063187 [-1.75617] -0.044060 [-1.13259] 0.027605 [ 0.70732] -0.002534 [-0.06507] 0.016647 [ 0.46476] -0.016259 [-2.24110] 0.504743 0.416305 0.022147 0.019887 5.707272 173.4258 CA_VN 0.298114 [ 0.61802] 0.024381 [ 0.07014] 0.556061 [ 1.61606] 0.382806 [ 1.12373] -0.555833 [-1.18509] 0.409150 [ 3.17922] 0.215465 [ 1.54846] -0.055266 [-0.39589] -0.129956 [-0.93306] 0.181102 [ 1.41355] 0.025904 [ 0.99821] 0.315648 0.193443 0.283344 0.071132 2.582926 88.03498

48

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

Hình 4.2 : Kết quả ước lược mô hình VAR(5) cho cặp biến cán cân ngân sách (GB_VN)

và cán cân thương mại (TB_VN)

GB_VN(-1) GB_VN(-2) GB_VN(-3) GB_VN(-4) GB_VN(-5) TB_VN(-1) TB_VN(-2) TB_VN(-3) GB_VN -0.049846 [-0.36885] 0.029139 [ 0.30029] 0.053927 [ 0.56446] 0.658373 [ 6.91104] 0.023443 [ 0.17918] -0.056525 [-1.54022] -0.043451 [-1.01588] 0.050133 [ 1.16820] TB_VN 0.594877 [ 1.27033] 0.103871 [ 0.30891] 0.433862 [ 1.31055] 0.213600 [ 0.64706] -0.506468 [-1.11714] 0.606311 [ 4.76773] 0.078134 [ 0.52718] -0.048178 [-0.32398]

49

TB_VN(-4) TB_VN(-5) C R-squared Adj. R-squared Sum sq. resids S.E. equation F-statistic Log likelihood -0.024331 [-0.56250] 0.023201 [ 0.62658] -0.016869 [-2.25505] 0.506518 0.418396 0.022067 0.019851 5.747927 173.5460 -0.156627 [-1.04497] 0.253585 [ 1.97638] 0.025872 [ 0.99805] 0.451226 0.353231 0.264973 0.068787 4.604566 90.28054

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

Để đảm bảo mô hình VAR được ước lượng là tốt, ngoài việc sử dụng vòng tròn đơn

vị (Inverse Root of AR Characteristic Polynomial) với kết quả thuyết phục như trên, chúng

tôi đã kiểm định vấn đề tương quan chuỗi trong các phần dư (Residual) của từng phương

trình trong mô hình VAR.

50

4.4 Phân tích kết quả kiểm định

Chúng ta thấy rằng có sự khác biệt trong kết quả giữa phương pháp kiểm định nhân

quả Granger truyền thống và phương pháp của Toda – Yamamoto (1995). Cụ thể là phương

pháp kiểm định nhân quả Granger truyền thống dựa trên thống kê F đã tìm ra bằng chứng về

mối quan hệ nhân quả một chiều từ cán cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại đến cán

cân ngân sách Việt Nam với độ trễ là 3. Trong khi đó, kết quả từ phương pháp kiểm định phi

nhân quả Granger của Toda – Yamamoto (1995) không tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện

của mối quan hệ nhân quả đối với cả hai trường hợp là: giữa cán cân ngân sách và cán cân

tài khoản vãng lai, giữa cán cân ngân sách và cán cân thương mại.

Dựa trên những lập luận trong việc lựa chọn phương pháp kiểm định ở trên, nghiên

cứu của chúng tôi sẽ dựa theo kết quả từ phương pháp Toda-Yamamoto (1995). Theo đó, kết

quả nghiên cứu cho thấy không tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger giữa cán cân ngân

sách và cán cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại ở Việt Nam (kể cả mối quan hệ nhân

quả một chiều hay hai chiều). Kết luận này dường như ủng hộ cho giả thuyết cân bằng

Ricardo (cho rằng cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai là độc lập nhau). Theo quan điểm

của chúng tôi, có thể đưa ra một số cơ sở để giải thích cho kết luận này cũng như tình trạng

thâm hụt kéo dài của cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai Việt Nam một cách tương đối

như sau:

 Bởi do cơ chế lãi suất ở Việt Nam chưa thực sự thả nổi nên thâm hụt ngân sách không

làm thay đổi lãi suất nội địa; hơn nữa, các chính sách kiểm soát vốn và quản lý tỷ giá còn

khá nghiêm ngặt cũng phần nào hạn chế tác động của những thay đổi trong lãi suất (dưới

ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách) đến tỷ giá, và cuối cùng là tài khoản vãng lai.

 Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thời gian được tạo ra bởi do nhiều yếu tố. Nhưng chủ

yếu là do sự yếu kém trong công tác quản lý nguồn thu thuế, dẫn đến thất thu; cùng với

nhu cầu chi tiêu và đầu tư công khá cao trong xu thế hội nhập, khi mà vai trò của Chính

phủ là rất quan trọng trong việc điều hành và thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững

trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Mặt khác, tính kém hiệu quả của chi tiêu

51

ngân sách thời gian qua, gây lãng phí nguồn ngân quỹ cũng góp phần gây ra thâm hụt

ngân sách ở Việt Nam.

 Vì Việt Nam là nước đang phát triển với năng lực sản xuất và trình độ công nghệ còn thấp

nên nhu cầu nhập khẩu đối với các hàng hoá, máy móc thiết bị cơ bản còn cao, vẫn còn

phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng trong nước. Hơn

nữa, chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam chưa cao đã tác

động không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu. Tất cả các yếu tố này đã làm thâm hụt cán cân

thương mại nói riêng và tài khoản vãng lai nói chung ở Việt Nam.

 Những biến động kinh tế thế giới thời gian qua với trọng tâm là cuộc khủng hoảng tài

chính châu Á năm 1997 và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 với những hệ luỵ

của nó đã gây ảnh hưởng xấu đến cán cân ngân sách cũng như cán cân thương mại và tài

khoản vãng lai Việt Nam.

Để có một cái nhìn tổng quát và sự so sánh tương đối giữa trường hợp Việt Nam với

các nước trên thế giới, chúng tôi trở lại các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về mối quan

hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở các quốc gia khác, cũng sử dụng phương

pháp kiểm định phi nhân quả Toda – Yamamoto (1995). Cụ thể, nếu như Kouassi (2002) đã

đưa ra bằng chứng ủng hộ giả thuyết cân bằng Ricardo, khi cho rằng không tồn tại mối quan

hệ nhân quả Granger giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở Mỹ, Úc, Áo, Canada,

Pháp, Hà Lan, Anh và Thuỵ Điển; thì Lau (2006) khi nghiên cứu cho trường hợp Malaysia,

Singapore, Thái Lan, Indonesia, Myanmar, Nepan, Sri Lanka và Philippin lại đưa đến kết

luận ủng hộ giả thuyết “thâm hụt kép”, tức là có mối quan hệ nhân quả một chiều từ thâm

hụt ngân sách đến thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại

Hàn Quốc được thực hiện bởi Kim (2007) thì lại hỗ trợ cho giả thuyết tài khoản vãng lai

mục tiêu, nghĩa là có sự hiện diện của mối quan hệ nhân quả một chiều từ cán cân tài khoản

vãng lai đến cán cân ngân sách.

Thêm nữa, với việc sử dụng các phương pháp tiếp cận nhân quả khác nhau và trong

những giai đoạn khác nhau, đã đưa đến những bằng chứng đa dạng và thậm chí là mâu thuẫn

52

nhau về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai của một quốc gia. Cụ thể,

nếu như Kouassi (2002) sử dụng phương pháp Toda – Yamamoto (1995) đã tìm thấy bằng

chứng ủng hộ giả thuyết cân bằng Ricardo ở Mỹ; thì Abell (1990, sử dụng mô hình VAR,

thời kỳ 1979-1985), Pemberton (1990, sử dụng hệ phương trình đồng thời), Tallman (1993,

sử dụng mô hình VAR 5 biến), Cavallo (2005, sử dụng phương pháp phân tích biểu đồ, kỳ

1948 - 2000), Erceg (2005, sử dụng mô hình DGE nền kinh tế mở) đã đưa đến kết luận ủng

hộ giả thuyết “thâm hụt kép” ở nước này. Cũng là trường hợp của Mỹ, nhưng McMillin

(1986, sử dụng Granger Causality Test, kỳ 1957 - 1984) và Lee (1990, sử dụng mô hình

VAR) lại chứng minh sự tồn tại của giả thuyết cân bằng Ricardo. Tương tự cho trường hợp

Hàn Quốc, trong khi Kim (2007) sử dụng phương pháp Toda – Yamamoto (1995) cho thấy

sự ủng hộ đối với giả thuyết tài khoản vãng lai mục tiêu, thì Kalyoncu (2007, sử dụng

Granger Causality Test) lại tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả hai

chiều giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai. Còn đối với Singapore, nếu như Lau

(2006) dùng phương pháp Toda – Yamamoto (1995), kỳ 1980 – 2001 đưa đến kết luận ủng

hộ giả thuyết “thâm hụt kép”, thì Kalyoncu (2007, sử dụng Granger Causality Test) lại tìm

thấy bằng chứng về giả thuyết cân bằng Ricardo. Trường hợp Hy Lạp cũng vậy, khi mà

Panagiotis (2008, sử dụng mô hình VECM hai biến, kỳ 1960 – 2007) ủng hộ giả thuyết

“thâm hụt kép”, thì Paleologou (2011, sử dụng mô hình VECM 4 biến, 1960 – 2007) lại đưa

đến kết luận hỗ trợ giả thuyết “ tài khoản vãng lai mục tiêu”.

Ngoài ra, nghiên cứu của Chang (2004) ở Đài Loan và Rault (2009) ở Liên minh

châu Âu (EU) cũng cho thấy kết quả hỗ trợ giả thuyết “thâm hụt kép”. Trong khi đó, giả

thuyết tài khoản vãng lai mục tiêu thì được ủng hộ trong nghiên cứu của Khalid (1998) ở Ai

Cập, Mexico và Ramchander (1998) ở Ấn Độ, Indonesia, Philippin, Malaysia. Tại Tây Ban

Nha, giả thuyết cân bằng Ricardo cũng được ủng hộ khi nghiên cứu thực nghiệm của Garcia

và Ramajo (2004) không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ nhân quả nào giữa cán cân

ngân sách và tài khoản vãng lai. Một số ít trường hợp được tìm thấy có sự hiện diện của mối

quan hệ nhân quả hai chiều là ở Braxin theo kết quả nghiên cứu của Islam (1998) và

Moroccan theo Mansouri (1998).

53

Tóm lại, nghiên cứu thực nghiệm của chúng tôi về mối quan hệ giữa cán cân ngân

sách và cán cân tài khoản vãng lai ở Việt Nam đưa đến các kết luận sau:

Thứ nhất, không tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger giữa cán cân ngân sách và cán

cân tài khoản vãng lai/cán cân thương mại ở Việt Nam. Điều này hàm ý rằng, không thể tác

động đến cán cân ngân sách để nhằm tạo ra sự thay đổi trong cán cân tài khoản vãng lai hoặc

ngược lại. Hay nói cách khác, không thể dự báo biến động của cán cân tài khoản vãng lai

bằng việc dựa vào những thay đổi trong hiện tại và quá khứ của cán cân ngân sách, và ngược

lại.

Thứ hai, không có sự khác biệt trong kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa

hai cặp biến: cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai; cán cân ngân sách và cán cân thương

mại. Điều này hàm ý rằng các khoản thu nhập và chuyển giao vãng lai (chênh lệch giữa cán

cân tài khoản vãng lai và cán cân thương mại) có tác động không đáng kể đến mối quan hệ

giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở Việt Nam trong giai đoạn được nghiên cứu.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về mối

quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai, vấn đề đã và đang được giới nghiên

cứu quan tâm và tranh luận gay gắt vì nhiều quan điểm chưa thống nhất. Cụ thể, kết quả

thực nghiệm ở Việt Nam ủng hộ cho giả thuyết cân bằng Ricardo.

54

4.5 Mở rộng kiểm định thực nghiệm ở một số quốc gia

Như đã phân tích ở trên, khi nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa cán cân

ngân sách và tài khoản vãng lai, với việc sử dụng các phương pháp kinh tế lượng khác nhau

và trong những giai đoạn nghiên cứu khác nhau thì sẽ đưa đến những kết quả khác nhau, dù

có thể được thực hiện ở cùng một quốc gia. Do vậy, càng nhiều nghiên cứu thực nghiệm ở

các quốc gia được thực hiện, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, sẽ cung cấp càng nhiều

bằng chứng mới, góp phần làm rõ và giảm bớt các tranh luận vốn đã và đang rất gay gắt về

mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và cán cân tài khoản vãng lai của một quốc gia.

Chính vì thế, trong nghiên cứu này, chúng tôi lần lượt tiến hành kiểm định thực

nghiệm mở rộng ở một số quốc gia trên thế giới trong giai đoạn 2000 – 2013. Các quốc gia

được lựa chọn bao gồm 3 đại diện cho nhóm nước phát triển là Mỹ, Đức, Canada và 3 đại

diện cho nhóm nước đang phát triển là Braxin, Bungary và Peru. Bằng phương pháp kiểm

định nhân quả Granger truyền thống và phương pháp tiếp cân theo Toda – Yamamoto

(1995), chúng tôi đã tìm thấy các bằng chứng thực nghiệm khác nhau về mối quan hệ giữa

cán cân ngân sách và các cân tài khoản vãng lai ở các quốc gia được xem xét, thông qua các

kết quả chi tiết bên dưới.

Bảng 4.8 : Kết quả kiểm định tính dừng các biến

KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH TÍNH DỪNG

Biến ADF KPSS Loại chuỗi PP

GB_US I(1) I(1) I(1) I(1)

CA_US I(1) I(1) I(1) I(1)

TB_US I(1) I(1) I(0) I(1)

GB_GE I(0) I(0) I(1) I(0)

55

I(1) I(1) CA_GE I(1) I(1)

I(1) I(1) TB_GE I(0) I(1)

I(0) I(1) GB_CAD I(1) I(1)

I(1) I(1) CA_CAD I(0) I(1)

I(1) I(1) TB_CAD I(0) I(1)

I(0) I(0) GB_BU I(1) I(0)

I(0) I(0) CA_BU I(1) I(0)

I(0) I(0) TB_BU I(1) I(0)

I(0) I(1) GB_BRA I(0) I(0)

I(1) I(0) CA_BRA I(0) I(0)

I(1) I(1) TB_BRA I(0) I(1)

I(0) I(1) GB_PER I(1) I(1)

I(0) I(0) CA_PER I(1) I(0)

I(1) I(1) TB_PER I(1) I(1)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Eview

Nhìn chung, theo kết quả kiểm định, cả hai phương pháp: kiểm định nhân quả

Granger theo cách truyền thống và kiểm định của Toda – Yamamoto (1995) đều đưa đến kết

quả thống nhất, ngoại trừ một vài trường hợp có sự khác biệt như ở Mỹ và Peru. Kết luận

cuối cùng của chúng tôi dựa trên kết quả thực nghiệm từ phương pháp Toda – Yamamoto

(1995), đã đưa ra những bằng chứng ủng hộ các giả thuyết về mối quan hệ giữa cán cân

56

ngân sách và tài khoản vãng lai như đã biện giải ở Chương 2. Điều này góp phần làm rõ

thêm các giả thuyết vốn đã và đang được tranh luận gay gắt trong giới nghiên cứu. Tóm tắt

và phân tích kết quả được chúng tôi trình bày trong Bảng 4.9 dưới đây. Chi tiết kết quả kiểm

định của từng quốc gia được mô tả trong phần Phụ lục.

Bảng 4.9 : Tóm tắt kết quả kiểm định thực nghiệm mối quan hệ giữa cán cân ngân

sách và tài khoản vãng lai ở một số quốc gia

Quốc gia Granger Causality Test Kết luận Phương pháp Toda –Yamamoto (1995)

Vai trò của yếu tố chuyển giao vãng lai(*)

CA  GB Mỹ x

Không có quan hệ nhân quả Ủng hộ giả thuyết cân bằng Ricardo

Canada Không có quan x

hệ nhân quả Không có quan hệ nhân quả Ủng hộ giả thuyết cân bằng Ricardo

CA <-> GB CA <-> GB Đức

Ủng hộ giả thuyết mối quan hệ nhân quả hai chiều

CA <-> GB CA <-> GB Braxin

Ủng hộ giả thuyết mối quan hệ nhân quả hai chiều

CA <-> GB CA <-> GB Bungary

x Ủng hộ giả thuyết mối quan hệ nhân quả hai chiều

GB  CA GB  CA x Peru

Ủng hộ giả thuyết “thâm hụt kép”

Nguồn: Tổng hợp của tác giả. Mức ý nghĩa: 10%

57

Chú thích:

GB: ký kiệu biểu thị biến cán cân ngân sách.

CA: ký hiệu biểu thị biến tài khoản vãng lai.

(*): Nếu có sự khác nhau trong kết quả kiểm định nhân quả giữa hai cặp biến: (GB, CA) và

(GB, TB), nghĩa là yếu tố chuyển giao vãng lai (chênh lệch giữa tài khoản vãng lai và cán

cân thương mại) sẽ có tác động đáng kể đến mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài

khoản vãng lai (chọn dấu “x”).

58

CHƯƠNG 5 – KẾT LUẬN CHUNG

Trong nghiên cứu này, chúng tôi chủ yếu muốn kiểm định thực nghiệm mối quan hệ

giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở Việt Nam, nhằm đưa ra các bằng chứng và

kết luận tin cậy. Chúng tôi cũng kiểm định tách riêng mối quan hệ giữa cán cân thương mại

và cán cân ngân sách để xem xét vai trò tác động của yếu tố chuyển giao vãng lai (chênh

lệch giữa tài khoản vãng lai và cán cân thương mại) đối với mối quan hệ giữa tài khoản vãng

lai và cán cân ngân sách. Bằng việc sử dụng kiểm định nhân quả Granger theo cách truyền

thống và chủ yếu là phương pháp tiếp cận theo Toda – Yamamoto (1995), chúng tôi đã đưa

ra bằng chứng cho thấy không có tồn tại mối quan hệ nhân quả nào giữa cán cân ngân sách

và tài khoản vãng lai/cán cân thương mại ở Việt Nam. Nghĩa là chúng độc lập nhau; và yếu

tố chuyển giao vãng lai cũng không có tác động đáng kể đến mối quan hệ giữa cán cân ngân

sách và tài khoản vãng lai Việt Nam. Như vậy, các nhà làm chính sách và điều hành kinh tế

không thể tác động vào cán cân ngân sách để nhằm tạo ra những thay đổi trong cán cân tài

khoản vãng lai và ngược lại. Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này ủng hộ giả thuyết cân

bằng Ricardo, một trong bốn giả thuyết về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản

vãng lai, bên cạnh giả thuyết thâm hụt kép, giả thuyết tài khoản vãng lai mục tiêu và giả

thuyết về mối quan hệ nhân quả hai chiều. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành mở rộng

kiểm định thực nghiệm vấn đề tương tự ở một số quốc gia bao gồm Mỹ, Đức, Canada,

Braxin, Bungary và Peru, nhằm cung cấp thêm các bằng chứng để góp phần làm rõ các giả

thuyết vốn đã và đang được tranh luận gay gắt về mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài

khoản vãng lai. Theo đó, chúng tôi tìm thấy bằng chứng ủng hộ giả thuyết cân bằng Ricardo

đối với trường hợp của Mỹ và Canada; trong khi đó, mối quan hệ nhân quả hai chiều được

tìm thấy ở Đức, Braxin và Bungary. Còn đối với trường hợp Peru, giả thuyết “thâm hụt kép”

được ủng hộ với bằng chứng khá thuyết phục. Nhìn chung, các nghiên cứu về mối quan hệ

giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai với những phương pháp tiếp cận khác nhau và

được thực hiện trong những giai đoạn khác nhau sẽ đưa đến những kết luận khác nhau, thâm

chí là mâu thuẫn nhau, dù đối với cùng một quốc gia. Vì vậy, kết quả nghiên cứu này ngoài

59

việc đưa đến những kết luận quan trọng hỗ trợ công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam,

còn đóng góp thêm những bằng chứng thực nghiệm tin cậy cho các giả thuyết về mối quan

hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai vẫn còn nhiều mâu thuẫn và đang được các

nhà nghiên cứu trên thế giới đặc biệt quan tâm.

Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo

Nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và

cán cân tài khoản vãng lai nhằm tìm ra bằng chứng thực nghiệm về bản chất của mối quan

hệ này. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa xét đến tác động của các điểm gãy cấu trúc đại diện

cho các cú sốc kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước đối với cán cân ngân sách cũng như tài

khoản vãng lai trong thời kỳ nghiên cứu. Các cú sốc này có thể làm thay đổi một phần hoặc

hoàn toàn mối quan hệ giữa cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai ở các quốc gia. Chính vì

vậy, các nghiên cứu tiếp theo cần lưu ý đến các điểm gãy cấu trúc có thể xảy ra trong dữ liệu

để giúp việc phân tích, kiểm định được khách quan và toàn diện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

Hoàng Ngọc Nhậm và các tác giả (2008), “Giáo trình kinh tế lượng”, Nhà xuất bản thống kê.

Sử Đình Thành và các tác giả (2008), “Nhập môn tài chính tiền tệ”, Nhà xuất bản lao động xã hội.

Trần Ngọc Thơ và các tác giả (2011), “Tài chính quốc tế”, Nhà xuất bản Tài chính, TP.HCM.

Tiếng Anh

Abell, J.D. (1990), “Twin deficits during the 1980s: an empirical investigation”, Journal of Macroeconomics 12, 81-96

Anoruo, E., Ramchander, S. (1998), “Current account and fiscal deficits: evidence from five developing economics of Asia”, Journal of Asian Economics 9, 487-501.

Baharumshah, A.Z., Lau,E., Khalid, A.M. (2006), “Testing twin deficits hypothesis using VARs and variance decomposition”, Journal of the Asia Pacific Economy 11, 331-354.

Bernardina Algieri (2013), “An empirical analysis of the nexus between external balance and government budget balance: The case of the GIIPS countries”, Economic Systems 37, 233-253

Cavallo, M.(2005), “Government consumption expenditures and the current account”, FRBSF Working Paper No.03, San Francisco, CA.

Enders. W., Lee,B.S. (1990), “Current account and budget deficits: twin or distant cousin?”, Review of Economics and Statistic 72, 373-381.

Erceg, C.J., Guerrieri,L., Gust, C. (2005), “Expansionary fiscal shocks and trade deficit”, International Finance Discussion Paper 825, Federal Reserve Board, Washington, DC.

Feldstein, M., Horioka, C. (1980), “Domestic saving and international capital flows”, Economic Journal 90, 314-329.

Garcia, A., Ramajo, J. (2004), “Budget deficit and interest rates: empirical evidence for Spain”, Applied Economics Letters 11, 715-718.

Granger, C.W.J. (1969), “Investigating causal relationships by econometric models and cross-spectral model”, Econometrica 37, 424-438.

Islam, M.F. (1998), “Brazil’s twin deficits: an empirical examination”, Atlantic Economic Journal 26, 121-128.

Kalou, S., Paleologou, S.M. (2011), “The twin deficits hypothesis: revisiting an EMU country”, Journal of Policy Modeling 34, 230-241.

Kalyoncu, H. (2007), “Budget and current account deficits in Asian countries”, Empirical Economics Letters 6, 101-108.

Khalid, A.M., Guan, T.W. (1999), “Causality tests of budget and current account deficits: cross-country comparision”, Empirical Economics 24, 389-402.

Kim, C.H., Kim, D. (2006), “Does Korea have twin deficits?”, Applied Economics Letters 13, 675-680.

Kouassi, E., Mougoue, M., Kymn, K.O. (2004), “Causality tests of the relationship between the twin deficits”, Empirical Economics 29, 503-525.

Kwiatkowski, D., Phillips, P.C.B., Schmidt, P., Shin, Y. (1992), “Testing the null hypothesis of stationary against the alternative of a unit root: how sure are we that economic time series have a unit root?”, Journal of Econometrics 54, 159-178.

Lau, E., Baharumshah, A.Z., (2006), “Twin deficits hypothesis in SEACEN countries: a panel data analysis of relationships between public budget and current account deficits”, Applied Econometrics and International Development 6, 213-226.

Marinheiro, C.F (2001), “Ricardian equivalence: an empirical application to the Portuguese economy”, CES Discussion Paper 01-12, Leuven.

Marinheiro, C.F (2008), “Ricardian equivalence, twin deficits, and the Feldstein-Horioka puzzle in Egypt”, Journal of Policy Modeling 30, 1041-1056.

Pantelidis, P., Trachanas, E., Athanasenas, A., Katrakilidis, C., (2009), “On the dynamics of the Greek twin deficits: empirical evidence over the period 1960–2007”, International Journal of Economic Sciences and Applied Research 2, 9–32.

Papadogonas, T., Stournaras, Y.(2006), “Twin deficits and financial integration in EU member-states”, Journal of Policy Modeling 28, 595–602.

Piersanti, G. (2000), “Current account dynamics and expected future budget deficits: some international evidence”, Journal of International Money and Finance 19, 255–271.

Rault, C., Afonso, A. (2009), “Bootstrap panel Granger-causality between government budget and external deficits for the EU”, Economic Bulletin 29, 1027–1034.

Salvatore, D. (2006), “Twin deficits in the G-7 countries and global structural imbalances”, Journal of Policy Modeling 28, 701–712.

Toda, H.Y., Yamamoto, T. (1995), “Statistical inference in vector auto regressions with possibly integrated processes”, Journal of Econometrics 66, 225–250.

Vamvoukas, G.A. (1999), “The twin deficits phenomenon: evidence from Greece”, Applied Economics 31, 1093–1100.

PHỤ LỤC A

Diễn giải ký hiệu các biến trong nghiên cứu ở các quốc gia

Diễn giải Biến

Cán cân ngân sách Mỹ GB_US

Cán cân tài khoản vãng lai Mỹ CA_US

Cán cân thương mại Mỹ TB_US

Cán cân ngân sách Đức GB_GE

Cán cân tài khoản vãng lai Đức CA_GE

Cán cân thương mại Đức TB_GE

GB_CAD Cán cân ngân sách Canada

CA_CAD Cán cân tài khoản vãng lai Canada

TB_CAD Cán cân thương mại Canada

Cán cân ngân sách Bungary GB_BU

Cán cân tài khoản vãng lai Bungary CA_BU

Cán cân thương mại Bungary TB_BU

GB_BRA Cán cân ngân sách Braxin

CA_BRA Cán cân tài khoản vãng lai Braxin

Cán cân thương mại Braxin TB_BRA

Cán cân ngân sách Peru GB_PER

Cán cân tài khoản vãng lai Peru CA_PER

Cán cân thương mại Peru TB_PER

Tất cả các biến đều tính theo tỷ lệ % của GDP cùng kỳ

Nguồn: Tác giả

PHỤ LỤC B

CHI TIẾT KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỰC NGHIỆM Ở MỸ

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Lags F- Prob. Giả thuyết H0

sát Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

DCA_US does not Granger Cause DGB_US 2.66986 0.0795

53 2 DGB_US does not Granger Cause DCA_US 1.96172 0.1517

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

DTB_US does not Granger Cause DGB_US 2.06369 0.1381

53 2 DGB_US does not Granger Cause DTB_US 2.64923 0.0810

DTB_US does not Granger Cause DGB_US 1.02595 0.4051

51 4 DGB_US does not Granger Cause DTB_US 1.47863 0.2258

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Chi-sq df Prob.

Số quan sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_US

CA_US 5.963829 3 0.1134

53 Biến phụ thuộc: CA_US

GB_US 5.046929 3 0.1684

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_US

TB_US 4.619968 3 0.2018

53 Biến phụ thuộc: TB_US

GB_US 6.835432 3 0.0773

Biến phụ thuộc: GB_US

TB_US 3.588391 5 0.6101

51 Biến phụ thuộc: TB_US

GB_US 4.817553 5 0.4385

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

PHỤ LỤC C

CHI TIẾT KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỰC NGHIỆM Ở CANADA

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Lags F- Prob. Giả thuyết H0

sát Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

DCA_CAD does not Granger Cause DGB_CAD 1.41651 0.2452

51 4 DGB_CAD does not Granger Cause DCA_CAD 1.85451 0.1364

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

DTB_CAD does not Granger Cause DGB_CAD 1.51624 0.2148

51 4 DGB_CAD does not Granger Cause DTB_CAD 2.53149 0.0544

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Chi-sq df Prob.

sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

Biến phụ thuộc: GB_CAD

CA_CAD 8.287839 5 0.1411

51 Biến phụ thuộc: CA_CAD

GB_CAD 6.855362 5 0.2316

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_CAD

TB_CAD 7.669536 5 0.1754

51 Biến phụ thuộc: TB_CAD

GB_CAD 10.06098 5 0.0735

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

PHỤ LỤC D

CHI TIẾT KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỰC NGHIỆM Ở ĐỨC

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Lags F- Prob. Giả thuyết H0

sát Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

DCA_GE does not Granger Cause GB_GE 16.8265 0.0000

53 2 GB_GE does not Granger Cause DCA_GE 15.1222 0.0000

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

DTB_GE does not Granger Cause GB_GE 11.2229 0.0001

53 2 GB_GE does not Granger Cause DTB_GE 8.88696 0.0005

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Chi-sq df Prob.

Số quan sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_GE

CA_GE 41.42365 3 0.0000

53 Biến phụ thuộc: CA_GE

GB_GE 31.65976 3 0.0000

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_GE

TB_GE 30.60551 3 0.0000

53 Biến phụ thuộc: TB_GE

GB_GE 13.26583 3 0.0041

Biến phụ thuộc: GB_GE

TB_GE 19.40878 5 0.0016

51 Biến phụ thuộc: TB_GE

GB_GE 2.877594 5 0.7189

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

PHỤ LỤC E

CHI TIẾT KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỰC NGHIỆM Ở BRAXIN

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 2001Q1 2013Q4

Lags Prob. Giả thuyết H0

Số quan sát F- Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách

CA_BRA does not Granger Cause GB_BRA 4.86987 0.0054

49 3 GB_BRA does not Granger Cause CA_BRA 3.51899 0.0231

CA_BRA does not Granger Cause GB_BRA 5.48085 0.0008

47 5 GB_BRA does not Granger Cause CA_BRA 2.11058 0.0866

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

DTB_BRA does not Granger Cause GB_BRA 7.94877 0.0070

50 1 GB_BRA does not Granger Cause DTB_BRA 0.94015 0.3372

DTB_BRA does not Granger Cause GB_BRA 4.21845 0.0064

47 4 GB_BRA does not Granger Cause DTB_BRA 1.66775 0.1776

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Chi-sq df Prob.

Số quan sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_BRA

14.60961 3 CA_BRA 0.0022

49 Biến phụ thuộc: CA_BRA

10.55698 3 GB_BRA 0.0144

Biến phụ thuộc: GB_BRA

27.40424 5 CA_BRA 0.0000

47 Biến phụ thuộc: CA_BRA

10.55290 5 GB_BRA 0.0610

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_BRA

26.04718 5 TB_BRA 0.0001

47 Biến phụ thuộc: TB_BRA

13.10130 5 GB_BRA 0.0224

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

PHỤ LỤC F

CHI TIẾT KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỰC NGHIỆM Ở BUNGARY

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Lags F- Prob. Giả thuyết H0

sát Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

CA_BU does not Granger Cause GB_BU 4.18303 0.0038

51 5 GB_BU does not Granger Cause CA_BU 2.70797 0.0337

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

TB_BU does not Granger Cause GB_BU 3.10814 0.0183

51 5 GB_BU does not Granger Cause TB_BU 0.74608 0.5937

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Chi-sq df Prob.

sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

Biến phụ thuộc: GB_BU

CA_BU 20.91515 5 0.0008

51 Biến phụ thuộc: CA_BU

GB_BU 13.53986 5 0.0188

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_BU

TB_BU 15.54070 5 0.0083

51 Biến phụ thuộc: TB_BU

GB_BU 3.730403 5 0.5888

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

PHỤ LỤC G

CHI TIẾT KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỰC NGHIỆM Ở PERU

GRANGER CAUSALITY TESTS

Mẫu: 2000Q1 2012Q4

Số quan Lags F- Prob. Giả thuyết H0

sát Statictic

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

CA_PER does not Granger Cause DGB_PER 0.99104 0.4065

48 3 DGB_PER does not Granger Cause CA_PER 3.12247 0.0361

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

DTB_PER does not Granger Cause DGB_PER 1.16458 0.3349

48 3 DGB_PER does not Granger Cause DTB_PER 2.20667 0.1018

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW

TODA – YAMAMOTO: MODIFIED WALD TESTS

Mẫu: 2000Q1 2013Q4

Số quan Chi-sq df Prob.

sát

Cán cân tài khoản vãng lai và cán cân ngân

sách

Biến phụ thuộc: GB_PER

CA_PER 3.560695 4 0.4687

48 Biến phụ thuộc: CA_PER

GB_PER 10.30485 4 0.0356

Cán cân thương mại và cán cân ngân sách

Biến phụ thuộc: GB_PER

TB_PER 8.884336 4 0.0641

48 Biến phụ thuộc: TB_PER

GB_PER 6.838730 4 0.1447

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ EVIEW