ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------------------

VĂN HỒNG HẠNH

CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO

AN NINH LƢƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

Hà nội – 2017

i

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------------------

VĂN HỒNG HẠNH

CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO

AN NINH LƢƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VĂN DŨNG

Hà nội – 2017

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và đƣợc sự

hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Phạm Văn Dũng. Các nội dung nghiên cứu

và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu sử dụng phân tích

trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Ngoài

ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá, số liệu nghiên cứu của

các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc rõ ràng.

Học viên

Văn Hồng Hạnh

i

LỜI CẢM ƠN

Thời gian học tập tại trƣờng Đại học Kinh tế - ĐHQGHN trong 4 năm

học Đại học và 2 năm học chƣơng trình thạc sỹ vừa qua đã giúp bản thân

em tích lũy đƣợc rất nhiều kiến thức, giúp cho em có đƣợc cơ sở lý thuyết

và tƣ duy logic trong học tập nói riêng và trong giải quyết các công việc

nói chung.

Trân trọng cảm ơn PGS.TS Phạm Văn Dũng đã tận tình hƣớng dẫn,

cung cấp cho em những định hƣớng tìm hiểu kiến thức giúp em thực hiện

luận văn này. Cảm ơn các thầy cô trong Khoa Kinh tế Chính trị, trƣờng

Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đã tạo những điều kiện tốt nhất và có những

góp ý quý giá giúp em hoàn thành luận văn.

Với điều kiện thời gian cũng nhƣ kinh nghiệm còn hạn chế của một học

viên, luận văn này không thể tránh đƣợc những thiếu sót. Em rất mong tiếp

tục nhận đƣợc sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có điều

kiện bổ sung, nâng cao kiến thức của mình, phục vụ tốt hơn trong công tác

thực tế sau này.

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT ...................................................... vi

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................. viii

DANH MỤC HÌNH VẼ ................................................................................... ix

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 10

CHƢƠNG 1..................................................................................................... 14

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ .......... 14

THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO AN NINH LƢƠNG THỰC... 14

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................. 14

1.2. Cơ sở lý luận về chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực ....................... 18

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 18

1.2.2. Sự cần thiết của chính sách đảm bảo ANLT ................................... 21

1.2.3. Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT và các chính sách bộ phận 22

1.2.4. Tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ANLT quốc gia ................... 23

1.2.5. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chính sách đảm bảo ANLT quốc gia .... 26

1.2.6. Các tiêu chí đánh giá chính sách đảm bảo ANLT ............................. 29

1.3. Chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực của một số quốc gia và bài học

cho Việt Nam .................................................................................................. 31

1.3.1. Chính sách đảm bảo ANLT của một số quốc gia .............................. 31

iii

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ......................................... 40

CHƢƠNG 2

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................... 42

2.1. Các phƣơng pháp thu thập tình hình, số liệu ........................................... 42

2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể ........................................................ 43

CHƢƠNG 3

CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO AN NINH LƢƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM

VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ............................................. 44

3.1. Tổng quan các chính sách về đảm bảo ANLT của Việt Nam................. 44

3.1.1. Nhóm chính sách về đảm bảo khả năng cung ứng lƣơng thực .......... 49

3.1.2. Nhóm chính sách nhằm tăng cƣờng khả năng tiếp cận lƣơng thực ... 55

3.1.3. Nhóm chính sách tăng cƣờng vệ sinh an toàn thực phẩm ................. 66

3.1.4. Nhóm biện pháp đối phó khi xảy ra khủng hoảng lƣơng thực. ......... 67

3.2.Tình hình tổ chức thực hiện chính sách .................................................... 68

3.2.1. Bộ máy thực hiện chính sách ............................................................. 68

3.2.2. Các nguồn lực tài chính thực hiện chính sách ................................... 70

3.2.3. Triển khai chính sách trong thực tế ................................................... 71

3.2.4. Thanh kiểm tra, tổng kết, điều chỉnh chính sách. .............................. 73

3.3. Đánh giá chính sách đảm bảo ANLT ở Việt Nam ................................... 74

3.3.1. Tính phù hợp của chính sách ............................................................. 74

3.3.2. Tính hiệu lực của chính sách ............................................................. 77

3.3.3. Tính hiệu quả của chính sách ............................................................. 80

3.3.4. Tính công bằng của chính sách .......................................................... 84

3.3.5. Tính minh bạch của chính sách .......................................................... 84

iv

3.3.6. Tính hệ thống của chính sách ............................................................ 85

3.3.7. Tính khả thi của chính sách ............................................................... 86

CHƢƠNG 4

NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VÀ ..................... 89

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ....................................................... 89

4.1. Dự báo các nhân tố mới ảnh hƣởng đến chính sách đảm bảo ANLT của

Việt Nam ......................................................................................................... 89

4.1.1. Tác động của biến đổi khí hậu ........................................................... 89

4.1.2. Tác động của quy hoạch sử dụng đất ................................................. 90

4.1.3. Ảnh hƣởng của trình độ sản xuất đến sản lƣợng lƣơng thực ............. 92

4.1.4. Thƣơng mại toàn cầu ......................................................................... 92

4.1.5. Xu hƣớng dịch chuyển lao động trong nền kinh tế ............................ 93

4.1.6. Ảnh hƣởng cầu lƣơng thực ................................................................ 93

4.2. Một số khuyến nghị chính sách................................................................ 95

KẾT LUẬN ................................................................................................... 100

v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

STT Ký hiệu viết tắt Nội dung viết tắt

ACIAR Trung tâm nghiên cứu quốc gia Australia 1

ANLT An ninh lƣơng thực 2

UNDP Chƣơng trình phát triển Liên hợp quốc 3

GFSI Global Food Security Index 4

HTX Hợp tác xã 5

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế 6

FAO Tổ chức Nông lƣơng thế giới 7

GS.TS Giáo sƣ - Tiến sỹ 8

UBND Ủy ban nhân dân 9

NN&PTNT Nông nghiệp & Phát triển nông thôn 10

Ha héc – ta 11

USDA Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ 12

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Bảng Nội dung Trang

3.1 Diện tích, sản lƣợng lƣơng thực có hạt 37 1.

3.2 Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 1998 – 2015 46 2.

3.3 46 3.

Cơ cấu chi tiêu dùng lƣơng thực, thực phẩm chia theo thành thị, nông thôn

3.4 48 4.

Số lƣợng, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo ngành kinh tế

3.5 50 5.

Số lƣợng và tỷ trọng lao động chia theo khu vực kinh tế giai đoạn 2005 – 2015

3.6 64 6.

Thu nhập bình quân/tháng của lao động làm công ăn lƣơng chia theo ngành kinh tế năm 2015

3.7 67 6.

Tóm tắt câu trả lời về tiếp cận/ hiểu biết và đƣợc hỗ trợ giá

3.8 68 7. Tóm tắt câu trả lời về tiếp cận/ hiểu biết và

đƣợc hỗ trợ tín dụng

3.9 69 8.

Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu của Nghị quyết 63

4.1 82 9.

Nhu cầu tiêu dùng gạo và các lƣơng thực khác

vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

STT Biểu đồ Nội dung Trang

1. 3.1 Sự thay đổi về số lƣợng và tỷ trọng lao động 52

nông nghiệp trong ngành kinh tế

viii

DANH MỤC HÌNH VẼ

STT Hình Nội dung Trang

1. 3.1 Kênh phân phối gạo trên thị trƣờng Đồng bằng 55

sông Cửu Long

ix

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lƣơng thực là nhu cầu cơ bản của con ngƣời, việc đảm bảo an ninh

lƣơng thực sẽ đáp ứng hai bậc nhu cầu cơ bản nhất của con ngƣời là: nhu cầu

về sinh lý và nhu cầu an toàn. Đây cũng là tiền đề đảm bảo về sự ổn định mặt

xã hội, phục vụ phát triển kinh tế đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

An ninh lƣơng thực (ANLT) là một bộ phận cấu thành an ninh phi

truyền thống mà đƣợc cả thế giới quan tâm trong bối cảnh hiện nay cùng với

các khía cạnh an ninh con ngƣời khác. Các cuộc tranh luận về ANLT đã liên

tục xảy ra kể từ khi những tổ chức thế giới đƣợc hình thành từ sau Chiến

tranh thế giới I năm 1930. Sự quan tâm về đảm bảo ANLT đƣợc mọi quốc gia

và các tổ chức thế giới thể hiện trong các nghiên cứu và báo cáo theo dõi

thƣờng xuyên.

Việt Nam đƣợc đánh giá là một nƣớc đông dân do vậy nhu cầu về

lƣơng thực của chúng ta rất lớn. Dân số Việt Nam năm 2015 là 91,7 triệu

ngƣời (Tổng cục thống kê, 2016), nếu tiếp tục duy trì tốc độ tăng dân số nhƣ

hiện nay, mỗi năm chúng ta sẽ có thêm hơn một triệu ngƣời và đây chính là

áp lực đối với việc đảm bảo đủ lƣơng thực đáp ứng nhu cầu cho ngƣời dân.

Là một nƣớc nông nghiệp lâu đời, nhờ điều kiện tự nhiên về vị trí địa lý

và khí hậu thuận lợi đã giúp chúng ta phát triển nền nông nghiệp từ rất sớm.

Hơn 30 năm Đổi mới cho thấy, Việt Nam không những có khả năng đảm bảo

nhu cầu lƣơng thực trong nƣớc, mà còn có năng lực xuất khẩu lƣơng thực rất

đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu chúng ta còn những hạn chế

nhƣ an ninh lƣơng thực còn thiếu bền vững, chênh lệch về tiếp cận lƣơng thực

giữa các vùng và các nhóm xã hội lớn; chƣa có biện pháp ứng phó hiệu quả

với tác động từ biến đổi khí hậu và các cú sốc của thị trƣờng, vệ sinh an toàn

thực phẩm không đƣợc đảm bảo...

10

Xét trong tổng thể kinh tế - xã hội, cũng cần có những nhìn nhận lại

ảnh hƣởng của việc duy trì nguồn lực về đất đai, nhân lực, ngân sách nhà

nƣớc cho sản xuất lúa gạo nói riêng và lƣơng thực nói chung đối với phát

triển kinh tế vĩ mô. Việc dồn các nguồn lực chính sách cho sản xuất lƣơng

thực nhƣ hiện nay liệu có cần thiết và có đạt hiệu quả xét về mặt chi phí – lợi

ích hay không? Ngoài đảm bảo mục tiêu về an ninh lƣơng thực thì mục tiêu

về mặt kinh tế - xã hội khác có đạt đƣợc hay không, có ảnh hƣởng đến sự phát

triển vĩ mô của đất nƣớc hay không? Liệu các phƣơng án chính sách đƣa ra có

đảm bảo công bằng trong tiếp cận cũng nhƣ trong thụ hƣởng thành quả đối

với các nhóm đối tƣợng khác nhau?

Những vấn đề này đòi hỏi chúng ta cần có sự thẳng thắn nhìn nhận,

đánh giá lại chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam sau thời

gian thực hiện và chỉ ra những cơ hội, thách thức đối với việc duy trì chính

sách trong bối cảnh mới. Việc đánh giá sẽ cho chúng ta có cái nhìn rõ ràng

hơn, giúp trả lời câu hỏi cần phải có những điều chỉnh ra sao đối với chính

sách đảm bảo ANLT của Việt Nam hiện nay.

Xuất phát từ những lý do này, tác giả chọn đề tài “Chính sách đảm bảo

an ninh lƣơng thực của Việt Nam” để làm luận văn cao học chuyên ngành

Kinh tế chính trị.

Câu hỏi nghiên cứu của luận văn: Những hạn chế, bất cập trong

chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực ở Việt Nam hiện nay là gì? Nhà nƣớc

ta cần phải làm gì và làm nhƣ thế nào để khắc phục hạn chế của chính sách và

tổ chức thực thi chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực trong giai đoạn 2017

– 2025, tầm nhìn 2035?

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

*Mục đích nghiên cứu

Phân tích thực trạng chính sách và triển khai tổ chức thực hiện chính

sách đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam hiện nay; chỉ ra những thành

11

tựu, hạn chế của lĩnh vực này; đƣa ra kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn

thiện chính sách và tổ chức thực thi chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực

của Việt Nam trong bối cảnh mới.

*Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc các mục đích nghiên cứu trên, đòi hỏi thực hiện các nhiệm

vụ nghiên cứu sau:

- Hệ thống hóa các lý luận về an ninh lƣơng thực và chính sách đảm

bảo an ninh lƣơng thực.

- Làm rõ thực trạng chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực ở Việt Nam

hiện nay; những thành tựu và hạn chế của chính sách và tổ chức thực thi

chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực.

- Đánh giá chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam dựa trên các tiêu

chí phân tích một chính sách kinh tế - xã hội.

- Chỉ ra những nhân tố ảnh hƣởng tới chính sách an ninh lƣơng thực

quốc gia trong giai đoạn tới cụ thể 2017 – 2025, tầm nhìn 2035 và đề xuất

một số định hƣớng, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách trong thời gian tới.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam

- Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: nƣớc Việt Nam

Về thời gian nghiên cứu:

Nghiên cứu đánh giá tổng quan thực trạng chính sách đảm bảo an ninh

lƣơng thực của Việt Nam từ sau Đổi mới năm 1986 đến nay phân theo các

giai đoạn của nền kinh tế. Tác giả tập trung đánh giá vào giai đoạn từ sau năm

2009 khi có Nghị quyết số 63 của Chính phủ về đảm bảo ANLT ra đời đến

12

nay. Từ phân tích các giai đoạn trên, tác giả đƣa ra một số khuyến nghị chính

sách cho giai đoạn 2017 – 2025, tầm nhìn 2035.

Về nội dung nghiên cứu: Luận văn phân tích tổng hợp các chính sách

nhằm thực hiện các mục tiêu đảm bảo ANLT quốc gia. Chủ thể quản lý là các

cơ quan nhà nƣớc có nhiệm vụ thực thi các văn bản chính sách.

4. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 04 chƣơng

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về

chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực.

Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu.

Chƣơng 3: Chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực của Việt Nam và tình

hình thực hiện chính sách.

Chƣơng 4: Những định hƣớng hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện

chính sách.

13

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ

THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO AN NINH LƢƠNG THỰC

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay, vấn đề an ninh lƣơng thực (ANLT) không còn xa lạ mà là

mối quan tâm chung của các quốc gia và các tổ chức trên thế giới. Kể từ khi

xuất hiện lần đầu tiên trong Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1986 có

nhan đề “Poverty and Hunger, Issues and Options for Food Security in

Developing Countries”, khái niệm này đã dần đƣợc hoàn thiện bởi các tổ

chức thế giới nhƣ UNDP, FAO và đƣợc đƣa vào mục tiêu phát triển của các

quốc gia. Do sự cấp thiết của nó, ANLT đƣợc nhiều tác giả trên thế giới và

Việt Nam quan tâm nghiên cứu.

Trong tài liệu chuyên khảo của Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp thế

giới Australia (ACIAR) có loạt bài báo nghiên cứu của các nhóm tác giả

thuộc ACIAR và Việt Nam về các chính sách an ninh lƣơng thực của Việt

Nam. Điển hình nhƣ bài viết “Policy principles for food security” của

Elizabeth Petersen (2017) đã phân tích và đề xuất 10 nguyên tắc chính sách

để đảm bảo ANLT một cách có hiệu quả. 10 nguyên tắc chính sách đƣợc tác

giả này đƣa ra dựa trên sự tổng hợp các nghiên cứu về những nguyên nhân

gây mất ANLT. Mỗi nguyên tắc đồng thời ảnh hƣởng đến sự sẵn có, khả năng

tiếp cận và khả năng đảm bảo dinh dƣỡng của lƣơng thực thực phẩm. Đáng

chú ý nguyên tắc số 10 đƣợc tác giả đƣa ra là: “Mỗi mục tiêu/mục đích chính

sách chỉ nên có duy nhất một công cụ chính sách”. Điều này nhằm hạn chế

việc xung đột giữa các chính sách và giảm chi phí thông tin và chi phí quản

lý. Tuy nhiên nghiên cứu còn chƣa phân tích rõ lý do của tác giả khi lựa chọn

ra các nguyên tắc này.

Tác giả Elizabeth Petersen còn có một bài viết “Comparison of food

security policies in Vietnam, Indonesia and Australia” (2017) nhằm so sánh

14

sự khác nhau về quan điểm và mục tiêu của các chính sách đảm bảo ANLT

của hai quốc gia Indonesia và Australia là đại diện cho 2 nƣớc có mức độ

ANLT hoàn toàn khác nhau và đƣa ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bài

viết đã so sánh mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT của hai chính phủ,

chỉ ra rằng mục tiêu chính của Indonesia theo đuổi là sự tự chủ về lƣơng thực

còn ở Australia là đẩy mạnh phát triển thị trƣờng và giúp cho ngƣời nông dân

gia tăng thu nhập. Qua phân tích sự hiệu quả về đảm bảo ANLT của hai quốc

gia này tác giả đƣa ra khuyến nghị Việt Nam tập trung và loại cây trồng thế

mạnh và thúc đẩy thƣơng mại.

Bài báo “Overview of Vietnam‟s food security policies” của các tác giả

Vu Hoang Yen, Nguyen Hong Nhung và Tran Anh Dung (2017) thuộc Bộ kế

hoạch và đầu tƣ Việt Nam đã đƣa ra cái nhìn tổng quan về 5 nhóm chính sách

đảm bảo ANLT. Phân loại các nhóm chính sách dựa trên năm nhóm nguồn

lực cho phát triển nông nghiệp mà các chính sách hƣớng đến: đất đai, cơ sở hạ

tầng và khoa học kỹ thuật, nhân lực, chính sách hỗ trợ địa phƣơng, hệ thống

phân phối lƣơng thực. Nghiên cứu này đã cho một cái nhìn tổng quan về 5

nhóm chính sách đảm bảo ANLT theo trình tự thời gian ban hành nhƣng mới

ở dạng liệt kê thông thƣờng chứ chƣa đi đánh giá nội dung và hiệu quả các

chính sách.

Nhóm tác giả Elizabeth Petersen, Vu Hoang Yen, David Vanzetti

(2017) có một nghiên cứu chung mang tựa đề “Evaluation of Vietnam‟s food

security policies” nhằm đánh giá chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam

dựa trên 10 nguyên tắc của tác giả Elizabeth Petersen đã đề xuất trong bài

“Policy principles for food security” (2017). Phân tích này chỉ ra những mặt

không tuân thủ 10 nguyên tắc kể trên trong hệ thống chính sách đảm bảo

ANLT của Việt Nam.

Nghiên cứu “Stakeholder perceptions on the development and

effectiveness of food security policies in Vietnam” của nhóm tác giả Tran

15

Cong Thang, Vu Huy Phuc và Elizabeth Petersen (2017) lại đánh giá sự nhận

thức của đối tƣợng chính sách và các bên liên quan về chính sách đảm bảo

ANLT của Việt Nam nhằm đánh giá mức độ hiệu lực của chính sách đối với

nhóm đối tƣợng của nó. Và cũng đƣa ra đánh giá về mức điểm mạnh, điểm

yếu của các chính sách đảm bảo ANLT theo nguyên tắc trên.

Nhóm nghiên cứu thuộc tổ chức Action Aid (2016) đã thực hiện nghiên

cứu “Nông nghiệp Bền vững và ANLT - Đường nào cho Việt Nam?”. Đáng

chú ý nghiên cứu này đã thực hiện loạt khảo sát, thống kê nhằm thu thập dữ

liệu sơ cấp liên quan sử đụng đất, thu nhập của nông hộ, tình trạng cơ giới

hóa và nhận biết của nông dân với chính sách. Từ đó đƣa ra những so sánh sự

tƣơng đồng về mặt chính sách nông nghiệp và ANLT giữa Việt Nam và Ấn

Độ, chỉ ra những thách thức trong thời gian tới.

Các tác giả trong nƣớc cũng quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực này thể

hiện qua nhiều công trình nghiên cứu khác. Tác giả Trần Hồng Hạnh (2009)

với bài viết “Tổng quan về ANLT” đã tổng hợp các khái niệm ANLT theo các

tổ chức thế giới. Tác giả này còn đƣa ra góc nhìn về sự liên quan giữa ANLT

với nghèo đói, liên hệ thực trạng ở Việt Nam và Lào.

Tác giả Trần Mạnh Tảo (2014) với bài báo “ANLT thế giới và những

hàm ý cho Việt Nam” đã nghiên cứu về thực trạng ANLT trên thế giới dựa

trên những khía cạnh về tính sẵn có, tính ổn định và khả năng tiếp cận đối với

nguồn lƣơng thực trên toàn cầu. Qua đó, tác giả dự báo một số nhân tố tác

động đến ANLT toàn cầu trong tƣơng lai và gợi ý một số hàm ý chính sách

cho Việt Nam.

Trên góc độ nghiên cứu vùng, tác giả Nguyễn Kim Hồng và Nguyễn

Thị Bé Ba (2011) đã có nghiên cứu “An ninh lương thực vùng Đồng bằng

sông Cửu Long” về mức độ đảm bảo ANLT cấp vùng tại vùng Đồng bằng

sông Cửu Long – vùng sản xuất lúa gạo lớn nhất Việt Nam dự báo đến năm

2050 và khả năng thực hiện nhiệm vụ đảm bảo ANLT cho cả nƣớc.

16

Tác giả Nguyễn Văn Sánh (2009) có nghiên cứu “ANLT quốc gia: nhìn

từ khía cạnh nông dân trồng lúa và giải pháp liên kết vùng và tham gia „4

nhà‟ tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” đƣa ra đánh giá của tác giả về sự

liên quan giữa đảm bảo thu nhập của ngƣời nông dân trồng lúa với mục tiêu

đảm bảo ANLT quốc gia. Nghiên cứu này cũng đƣa ra giải pháp về việc liên

kết vùng, liên kết Nhà nƣớc – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông

nhằm đảm bảo ANLT dựa trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho ngƣời nông dân tại

Đồng bằng sông Cửu Long.

Điển hình cho nghiên cứu về ANLT cho địa phƣơng thuộc nhóm vùng

sâu, vùng xa, nhóm dân số có hoàn cảnh khó khăn có bài báo của nhóm tác

giả Nguyễn Viết Đăng, Lƣu Văn Duy và Mạc Văn Vững (2014) tựa đề

“ANLT của các hộ nghèo ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình: thực trạng và

giải pháp”. Nghiên cứu này đi sâu phân tích về khả năng đảm bảo ANLT của

nhóm hộ nghèo ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình dựa trên đặc điểm về địa

hình và tập quán sinh hoạt của đồng bào tại khu vực này và đề xuất một số

giải pháp nhằm cải thiện tình trạng. Nghiên cứu này đã chỉ ra một số nguyên

nhân khách quan về đặc điểm địa lý và cả chủ quan về mặt nhân khẩu học dẫn

đến không đảm bảo ANLT của nhóm đối tƣợng này.

Các nghiên cứu trên của các tác giả đã cho cái nhìn về ANLT Việt Nam

nói chung và một số góc nhìn đối với chính sách đảm bảo ANLT. Ở một số

nghiên cứu của các tác giả khác về nông nghiệp hoặc ANLT quốc tế cũng đã

đan xen một số nhận định nhỏ liên quan đến gợi ý chính sách đảm bảo ANLT

cho Việt Nam. Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế quốc tế của tác giả

Trần Hữu Đồng (2016) có tên “ANLT của Nam Phi và Algeria: Nghiên cứu

so sánh và gợi mở chính sách cho Việt Nam” đã nghiên cứu thực trạng ANLT

ở quốc gia Algeria – một quốc gia nghèo đói, nông nghiệp kém phát triển và

đƣa ra đƣa ra một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam.

17

Cũng nhìn nhận theo góc độ Kinh tế quốc tế về vấn đề ANLT còn có

luận văn thạc sỹ của tác giả Lê Anh Thực (2012) “ANLT của Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghiên cứu này đánh giá thực trạng

ANLT của Việt Nam giai đoạn 1998 đến 2012 và đƣa ra nhận định khái quát

các nhân tố ảnh hƣởng đến ANLT Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Nghiên cứu đã chỉ ra đƣợc một số quan điểm định hƣớng của Nhà nƣớc đối

với việc đảm bảo ANLT nhƣng chƣa đi sâu phân tích chính sách.

Ngoài ra còn có các báo cáo định kỳ của các tổ chức Thế giới nhƣ WB,

UNDP, FAO… thống kê tình hình liên quan đến nông nghiệp, ANLT của thế

giới và Việt Nam. Tuy nhiên, chƣa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích về

chính sách của Việt Nam về đảm bảo ANLT trong giai đoạn từ 1986 đến nay

trên góc độ Kinh tế chính trị và đƣa ra nhận định cho giai đoạn 2017 – 2025.

Do vậy, luận văn của tác giả sẽ đóng góp kết quả ở một góc độ nghiên cứu

mới nhằm làm rõ hơn vấn đề này.

1.2. Cơ sở lý luận về chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. An ninh lương thực

Khái niệm về ANLT đã đƣợc hình thành từ lâu trên thế giới và đƣợc

đƣa ra bởi các tổ chức và cá nhân khác nhau, đƣợc bổ sung dần các khía cạnh

về đảm bảo ANLT qua các năm.

Trong Hội nghị lƣơng thực thế giới 1974 của Liên Hợp quốc tại Rome,

khái niệm an ninh lƣơng thực đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp là “sự sẵn có của

nguồn cung lƣơng thực thế giới ở mọi lúc nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng

tăng trong điều kiện biến đổi về sản xuất và giá cả lúa gạo”.

Năm 1986, World Bank đƣa ra khái niệm: An ninh lƣơng thực là khả

năng tiếp cận của con ngƣời trong mọi lúc để có đủ lƣơng thực, nhằm đảm

bảo cho hoạt động và sức khỏe.

18

Tại Hội nghị Thƣợng đỉnh Lƣơng thực Thế giới (WFS), dƣới sự bảo trợ

của Tổ chức Nông lƣơng Liên hợp quốc (FAO) năm 1996 đã đƣa ra khái

niệm về an ninh lƣơng thực: “An ninh lƣơng thực là trạng thái mà ở đó tất cả

mọi ngƣời, tại mọi thời điểm, đều có sự tiếp cận cả về mặt vật chất và kinh tế

đối với nguồn lƣơng thực đầy đủ, an toàn và đủ dinh dƣỡng, đáp ứng chế độ

ăn uống và thị hiếu lƣơng thực của mình, đảm bảo một cuộc sống năng động

và khỏe mạnh” và đƣợc thống nhất sử dụng trong Báo cáo về tình hình mất an

ninh lƣơng thực năm 2001 của tổ chức này.

Các khái niệm trên cho thấy sự phát triển trong nhận thức về an ninh

lƣơng thực và các điều kiện cần có để đảm bảo ANLT. Với khái niệm đƣợc

FAO đƣa ra năm 1996 ta có thể khái quát bốn điều kiện cần có để đảm bảo có

an ninh lƣơng thực ở cấp độ quốc gia nhƣ sau:

Thứ nhất, sự sẵn có của nguồn lƣơng thực: Nguồn lƣơng thực phải có

sẵn tại mọi thời điểm đủ để cung cấp cho số lƣợng dân số ngày càng tăng của

đất nƣớc và phù hợp với sự thay đổi chế độ ăn uống.

Thứ hai, sự tiếp cận đối với nguồn lƣơng thực: sự tiếp cận phải dễ dàng

về cả mặt vật chất và kinh tế đối với mọi ngƣời dân. Có nghĩa là, thu nhập của

dân cƣ tại một thời điểm phải đảm bảo cho họ dễ dàng mua lƣơng thực tại

mức giá ở thời điểm đó và có điều kiện dễ dàng để mua lƣơng thực. Những

hạn chế về mặt vật chất nhƣ: khoảng cách địa lý, hệ thống vận tải, phân phối

lƣơng thực không là trở ngại cho việc tiếp cận nguồn lƣơng thực cho ngƣời

dân.

Thứ ba, sự ổn định của nguồn cung lƣơng thực: nguồn cung lƣơng thực

phải ổn định về số lƣợng và mức giá trong một khoảng thời gian đủ dài.

Không có sự thay đổi bất ngờ về mức giá hay biến động về số lƣợng gây nên

những xáo trộn thị trƣờng lƣơng thực gây khó khăn cho ngƣời dân.

19

Thứ tư, sự an toàn và chất lƣợng của lƣơng thực: nguồn lƣơng thực

đƣợc cung ứng phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, để đảm bảo dinh

dƣỡng, sức khỏe cho ngƣời tiêu dùng lƣơng thực.

Để đánh giá mức độ đảm bảo ANLT ở các quốc gia, tổ chức nghiên

cứu độc lập The Economist Intelligent Unit đã đƣa ra Chỉ số ANLT toàn cầu

(Global Food Security Index – GFSI). Đây là một chỉ số đáng tin cậy đƣợc

công nhận trên toàn thế giới. Hàng năm các quốc gia trên thế giới đƣợc đánh

giá mức độ đảm bảo ANLT theo thang điểm 100 và xếp hạng từ trên xuống

dƣới theo tình hình đảm bảo ANLT quốc gia.

ANLT là một trong bảy thành tố của “an ninh con ngƣời” bao gồm: an

ninh kinh tế, an ninh lƣơng thực, an ninh y tế, an ninh môi trƣờng, an ninh cá

nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Khái niệm này lấy con ngƣời

làm trung tâm, mỗi khía cạnh đề cập đến một nhu cầu cơ bản của con ngƣời.

Sáu thành tố còn lại của an ninh con ngƣời đề cập đến khả năng bảo vệ con

ngƣời trƣớc những tác nhân từ bên ngoài và các mối đe dọa về: môi trƣờng,

dịch bệnh, thiếu thốn kinh tế, an toàn cá nhân, cá nhân trong cộng đồng. Khái

niệm ANLT đề cập đến nhu cầu ăn uống của con ngƣời – nhu cầu cơ bản

nhất. Mối đe dọa mà khái niệm này nhắc đến bao gồm cả về nguồn cung

lƣơng thực, hệ thống phân phối hiệu quả và khả năng tiếp cận lƣơng thực

thông qua trao đổi, mua bán. (UN, 2009).

1.2.1.2. Khái niệm chính sách đảm bảo ANLT

Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tƣ tƣởng, các giải

pháp và công cụ mà nhà nƣớc sử dụng để tác động lên các đối tƣợng (khách

thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định.

Chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực là tổng thể các quan điểm, tƣ

tƣởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nƣớc sử dụng để đảm bảo an ninh

lƣơng thực cho toàn thể cƣ dân của đất nƣớc.

20

Các chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực hiện nay chúng ta có thể

thấy thƣờng đƣợc thể hiện thông qua các Nghị quyết của Đảng và Chính phủ,

các Nghị định, Kế hoạch, Chiến lƣợc, Thông tƣ… có nội dung nhằm đảm bảo

ANLT trên các góc độ khác nhau.

1.2.2. Sự cần thiết của chính sách đảm bảo ANLT

Mỗi chính sách công đều là công cụ quản lý hoặc công cụ phục vụ của

Nhà nƣớc đối với xã hội. Chính sách đảm bảo ANLT là một chính sách nhằm

điều chỉnh việc đảm bảo quyền lợi cơ bản của con ngƣời về lƣơng thực, thực

phẩm. Trong nền kinh tế, các nguồn lực là khan hiếm và các chủ thể phải

cạnh tranh nhau nhằm tranh giành quyền sử dụng tối đa các nguồn lực. Cơ

chế kinh tế thị trƣờng có những mặt ƣu việt nhƣng cũng tồn tại những khuyết

tật của nó. Ba trong số các khuyết tật của cơ chế thị trƣờng là thông tin không

hoàn hảo, bất bình đẳng trong phân phối, khủng hoảng kinh tế đều là nguy cơ

đe dọa dẫn đến mất ANLT cho mỗi quốc gia.

Lƣơng thực là loại vật chất cơ bản đảm bảo sự tồn tại, dinh dƣỡng và

sức khỏe cho con ngƣời để đảm bảo hoạt động bình thƣờng. Tuy nhiên, trong

nền kinh tế thị trƣờng, vì các khuyết tật nêu trên, không phải ngƣời dân nào

cũng có cơ hội tiếp cận một cách dễ dàng và đầy đủ với nguồn lƣơng thực vì

các lí do chủ yếu là thiếu thốn nguồn cung, khả năng tài chính và khoảng cách

địa lý. Trong khi nhu cầu về lƣơng thực là nhu cầu cơ bản nhất trong các nhu

cầu của con ngƣời. Việc thiếu lƣơng thực có thể dễ đến các nguy cơ nhƣ xung

đột, mâu thuẫn xã hội, suy thoái giống nòi, thiếu thể lực dẫn đến chất lƣợng

nguồn nhân lực kém làm suy yếu nền kinh tế. Do vậy, chính sách đảm bảo

ANLT là một chính sách quan trọng và cần thiết cần đƣợc nghiên cứu thực

hiện nghiêm túc. Chính sách đảm bảo ANLT hợp lý sẽ điều chỉnh việc sử

dụng các nguồn lực một cách hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu kinh tế vĩ mô

vừa đảm bảo các mục tiêu về xã hội, môi trƣờng hƣớng đến sự phát triển bền

vững của quốc gia.

21

1.2.3. Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT và các chính sách bộ phận

1.2.3.1. Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT

Mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT đƣợc phát triển dựa trên mục

tiêu chung về đảm bảo ANLT: đảm bảo khả năng tiếp cận dễ dàng, tại mọi

thời điểm đối với nguồn lƣơng thực an toàn cho ngƣời dân Việt Nam. Do đó,

mục tiêu của chính sách đảm bảo ANLT sẽ bao gồm:

- Đảm bảo nguồn cung lương thực: Đảm bảo khả năng cung ứng lƣơng

thực đáp ứng nhu cầu về ăn uống hoặc phục vụ sản xuất

- Đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực cho người dân: đảm bảo mọi

ngƣời tại mọi thời điểm đều có khả năng tiếp cận về cả vật lý và tài

chính đối với nguồn lƣơng thực. Mục tiêu này nhằm đảm bảo mọi ngƣời

dân không bị hạn chế về mặt khoảng cách địa lý, năng lực hành vi, mức

thu nhập.

- Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tính an toàn, vệ sinh của lương thực:

lƣơng thực nhằm phục vụ ăn uống phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực

phẩm, việc tiêu thụ không gây ngộ độc hoặc làm suy giảm sức khỏe con

ngƣời.

Những nội dung chính trên sẽ đƣợc thể chế hóa thành các văn bản chính

sách cụ thể nhằm điều chỉnh các mục tiêu nhất định gồm:

1.2.3.2. Các chính sách bộ phận

- Chính sách quy hoạch diện tích gieo trồng cây lương thực: Nhằm lựa

chọn và duy trì cho tƣơng lai diện tích đất cho mục đích trồng cây lƣơng

thực.

- Chính sách nâng cao trình độ khoa học - công nghệ trong sản xuất

lương thực: Nhằm cải tiến về mặt công cụ lao động giúp nâng cao năng

suất, chất lƣợng sản phẩm lƣơng thực, thực phẩm.

- Chính sách tăng cường khả năng tiếp cận lương thực của người dân:

gia tăng khả năng tiếp cận nhƣ thu hẹp khoảng cách địa lý, giảm chi phí

22

giao dịch, chi phí đi lại trong mua bán lƣơng thực, tăng thu nhập cho

ngƣời dân…

- Chính sách đảm bảo vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm: đảm bảo

lƣơng thực dành cho ăn uống là có lợi cho sức khỏe con ngƣời.

- Chính sách dự trữ và xuất khẩu lương thực: nhằm dự trữ lƣơng thực dƣ

thừa cho sản xuất nhằm đối phó khi mất mùa, mở rộng thị trƣờng ra

nƣớc ngoài nhằm tiêu thụ lƣợng sản phẩm dƣ thừa.

- Chính sách đối phó khi xảy ra khủng hoảng lương thực: các biện pháp

tạm thời và khẩn cấp giúp giải quyết nhanh chóng khủng hoảng lƣơng

thực, ổn định kinh tế - xã hội khỏi những cú sốc của thị trƣờng.

1.2.4. Tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ANLT quốc gia

1.2.4.1. Xây dựng bộ máy

Bất cứ chính sách nào cũng cần có bộ máy tổ chức thực hiện thì mới

phát huy đƣợc tác dụng trong thực tế. Thành công của một chính sách kinh tế

- xã hội phụ thuộc rất nhiều vào năng lực hoạt động của bộ máy và cán bộ

thực hiện chính sách. Thông thƣờng, các cơ quan trong bộ máy hành pháp sẽ

gánh trách nhiệm chính trong thực hiện chính sách công. Nếu bộ máy thực

hiện chính sách quan liêu, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả, nếu các cán

bộ công chức thiếu năng lực, trách nhiệm và trong sạch thì việc thực hiện

chính sách sẽ khó khăn, bóp méo các mục tiêu của chính sách hoặc thực hiện

sai chính sách.

1.2.4.2. Triển khai thực hiện chính sách đảm bảo ANLT quốc gia

Sau khi các kênh thông tin đƣợc thiết lập, cơ quan thực hiện chính sách

cần sử dụng các kênh này để phổ biến chính sách. Những thông tin về chính

sách phải đƣợc phổ biến không chỉ đến các đối tƣợng của chính sách, những

ngƣời thực thi chính sách, mà cả những thành phần có liên quan: các cơ quan

phối hợp thực hiện chính sách, các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa

phƣơng…

23

Những thông tin cần thiết phục vụ cho việc thực hiện chính sách bao

gồm: văn bản chính sách, các quy định của pháp luật liên quan đến chính sách

và thực thi chính sách; các quyết định thành lập bộ máy thực hiện chính sách

và bổ nhiệm các cá nhân chịu trách nhiệm; tiêu chuẩn, chế độ dành cho những

ngƣời tham gia thực hiện chính sách; phân bổ các nguồn lực cho thực hiện

chính sách... Những thông tin về quá trình thực hiện chính sách, kể cả những

vấn đề phát sinh cũng cần đƣợc cung cấp cho những ngƣời tham gia thực hiện

chính sách.

Thực chất thực hiện chính sách là tiến hành triển khai các giải pháp

thực hiện mục tiêu của chính sách. Việc thực hiện các giải pháp chính sách

liên quan đến bộ phận nào thì những ngƣời có trách nhiệm phải giao nhiệm vụ

cụ thể cho các cá nhân và bộ phận đó. Để thực hiện đƣợc các nhiệm vụ đƣợc

giao, các cá nhân và bộ phận phải đƣợc giao các nguồn lực cần thiết: tài liệu,

tiền, xe cộ, các phƣơng tiện vật chất khác...

Cần lƣu ý, việc giao nhiệm vụ cho các cá nhân, bộ phận và các nguồn

lực cần thiết đi kèm phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Đồng thời,

phải tính đến yêu cầu sử dụng các nguồn lực hiệu quả. Tuy nhiên, những quy

định của pháp luật không phải khi nào cũng phù hợp với thực tế. Vì vậy, việc

kiến nghị sửa đổi những quy định của pháp luật không còn phù hợp là cần

thiết.

1.2.4.3. Thanh tra, kiểm tra

Để đánh giá đúng việc thực hiện chính sách, những ngƣời chịu trách

nhiệm cần phải kiểm tra trên thực địa. Việc kiểm tra cần đƣợc thực hiện

thƣờng xuyên, không cần thông báo trƣớc. Việc trao đổi tình hình với các cán

bộ tham gia thực hiện chính sách trên thực địa, với các đối tƣợng chịu sự tác

động của chính sách cần đƣợc thực hiện công khai, thiết thực. Tuy nhiên, việc

trao đổi trực tiếp của những ngƣời chịu trách nhiệm thực hiện chính sách có

24

nhiều ƣu điểm nhƣng không phải lúc nào cũng đầy đủ, chính xác. Do đó, việc

kiểm tra thực địa cần phải kết hợp với các kênh thông tin khác.

Phân tích tình hình thực hiện chính sách của cơ quan thực hiện chính

sách là cần thiết nhƣng chƣa đủ vì nó mang nặng tính chủ quan của các nhà

quản lý. Vì vậy, cần phải tổ chức trao đổi, đánh giá việc thực hiện chính sách.

Thành phần tham gia trao đổi bao gồm cơ quan thực hiện chính sách, các cơ

quan phối hợp, các chuyên gia… và đặc biệt là các đối tƣợng chịu sự tác động

của chính sách.

Trong hoặc sau giai đoạn tổ chức thực thi chính sách, nội dung trao đổi,

đánh giá việc thực hiện chính sách là xem xét, đánh giá kết quả hoạt động của

các cơ quan tổ chức thực thi chính sách và các tác động chính sách nhằm

hoàn thiện hoạt động của bộ máy tổ chức thực thi chính sách, phát hiện những

bất cập của chính sách.

1.2.4.4. Đánh giá, điều chỉnh và tổng kết chính sách

Sau quá trình thực hiện chính sách, toàn bộ những ƣu, nhƣợc điểm của

chính sách và tổ chức thực hiện chính sách đƣợc bộc lộ. Hoạt động đánh giá

chính sách cho phép các nhà hoạch định, các cơ quan có thẩm quyền quyết

định thông qua và ban hành chính sách, các cơ quan tổ chức thực hiện chính

sách có cơ sở điều chỉnh, hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chính

sách trong chu trình mới.

Qua đánh giá chính sách và tổ chức thực hiện chính sách có thể phát

hiện những ƣu nhƣợc điểm trong bản thân chính sách hoặc trong quá trình

thực hiện. Khi đó cần phải tiến hành điều chỉnh chính sách. Việc điều chỉnh

chính sách có thể diễn ra ở một số nội dung hoặc ở tất cả các giai đoạn của

quá trình chính sách, dẫn đến có nhiều loại điều chỉnh khác nhau đối với một

chính sách. Chẳng hạn có thể điều chỉnh mục tiêu chính sách, điều chỉnh các

giải pháp chính sách, điều chỉnh về tổ chức thực hiện chính sách, ngƣời chịu

trách nhiệm chính...

25

Tổng kết chính sách là đánh giá toàn bộ chu trình chính sách: từ hoạch

định và thể chế hóa chính sách; triển khai, thực hiện chính sách và điều chỉnh

chính sách. Việc tổng kết phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Đánh giá đƣợc ƣu điểm của chính sách, trên tất cả các phƣơng diện:

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trƣờng… Các ƣu điểm này sẽ đƣợc đo

lƣờng bằng các tiêu chí: tính phù hợp, tính hệ thống, tính hiệu lực, hiệu quả

của chính sách…

- Đánh giá đầy đủ các nhƣợc điểm của chính sách. Để đánh giá các

nhƣợc điểm của chính sách và việc tổ chức thực hiện chính sách, cần xem xét

kỹ chi phí, thời gian thực hiện chính sách; những mâu thuẫn xã hội nảy sinh

khi thực hiện chính sách; những tiêu cực xảy ra trong quá trình thực hiện

chính sách...

- Các nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hƣởng đến thực hiện chính

sách. Xác định đúng những nhân tố khách quan và chủ quan để làm rõ nguyên

nhân của các ƣu điểm, nhƣợc điểm của chính sách và việc tổ chức thực hiện

chính sách nhằm rút kinh nghiệm cho chu trình chính sách tiếp theo.

1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đảm bảo ANLT quốc gia

Đối với mỗi chính sách khi ban hành đều có những tác động nhất định

đến xã hội và chịu sự ảnh hƣởng của một số nhân tố khác, có thể chia làm 2

loại: nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.

Nhân tố chủ quan ảnh hƣởng đến chính sách bao gồm:

- Chất lượng nhân lực tham gia hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm

tra, giám sát chính sách. Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ

chức thực thi chính sách. Nguồn nhân lực chủ yếu là các cán bộ, công chức và

nhân viên đang hoạt động tại các cơ quan của Nhà nƣớc về nông nghiệp đóng

vai trò trực tiếp tham gia dự thảo chính sách, tổ chức thực hiện chính sách.

Năng lực cán bộ thƣờng đƣợc đo bằng đạo đức công vụ, trình độ đào đào tạo

chuyên môn, năng lực thực tế, năng lực tổ chức… Nếu năng lực của đội ngũ

26

cán bộ tốt các mục tiêu chính sách sẽ đạt đƣợc, chính sách đƣợc thực thi một

cách có hiệu quả; quá trình giám sát, kiểm tra chính sách đƣợc thực hiện

khách quan nên sẽ kịp thời điều chỉnh chính sách phù hợp.

- Nguồn lực tài chính: Nguồn tài chính chủ yếu cung cấp cho chính

sách đảm bảo ANLT chủ yếu từ ngân sách nhà nƣớc thu từ thuế. Ngoài ra còn

có một phần từ các viện trợ phát triển chính thức từ một số quốc gia và tổ

chức thế giới. Nguồn ngân sách lớn là cơ sở để Nhà nƣớc có các biện pháp

chính sách phù hợp và có điều kiện thực hiện các biện pháp hỗ trợ các đối

tƣợng cao hơn. Ví dụ nguồn ngân sách của chính phủ Mỹ rất lớn là cơ sở để

nƣớc này thực hiện các chính sách cho vay vốn đầu tƣ thiết bị công nghệ cao

đối với ngƣời nông dân tạo hiệu quả sản xuất cao một cách nhanh chóng, tạo

ra năng suất cao và chất lƣợng sản phẩm ƣu việt.

- Tính chất của vấn đề chính sách ANLT: các chính sách đảm bảo

ANLT nhằm giải quyết các vấn đề khác nhau trong việc đảm bảo ANLT.

Những vấn đề mang tính chất lâu dài nhƣ nâng cao nguồn nhân lực trong

nông nghiệp hay cải thiện cơ sở hạ tầng đòi hỏi thời gian thực hiện lâu dài,

lƣợng vốn lớn. Những vấn đề mang tính chất cấp bách nhƣ cứu trợ lƣơng thực

cho các vùng xảy ra thiên tai lại đòi hỏi việc thực thi chính sách nhanh chóng,

huy động gấp các nguồn lực sẵn có. Nhƣ vậy, tính chất của vấn đề chính sách

đảm bảo ANLT là một nhân tố tác động đến quá trình ban hành và tổ chức

thực thi một chính sách.

Nhân tố khách quan ảnh hƣởng đến chính sách đảm bảo ANLT gồm:

- Cơ chế thị trường: Cơ chế kinh tế này cho phép mở rộng quy mô huy

động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho sản xuất và chế biến

lƣơng thực, từ đó đảm bảo nguồn cung lƣơng thực và cơ hội tiếp cận lƣơng

thực cho ngƣời dân. Tuy nhiên, cơ chế thị trƣờng cũng có không ít khuyết tật,

ảnh hƣởng xấu đến an ninh lƣơng thực. Trong cơ chế thị trƣờng, theo đuổi lợi

nhuận làm cho vệ sinh an toàn lƣơng thực, thực phẩm có thể không đƣợc đảm

27

bảo; cung - cầu lƣơng thực thƣờng xuyên mất cân đối… từ đó đe dọa an ninh

lƣơng thực.

- Môi trường kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế: đây là những nhân

tố thuộc về tình hình kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất, quan hệ kinh tế - chính

trị trong nƣớc và quốc tế. Nếu tình hình kinh tế - xã hội trong nƣớc và quốc tế

ổn định sẽ thuận lợi cho việc dự báo, hoạch định chính sách phù hợp và thuận

lợi cho quá trình thực thi chính sách. Nếu các yếu tố này bất ổn ví dụ nhƣ xảy

ra chiến tranh, bao vây cấm vận về kinh tế, sẽ dẫn đến việc thực thi chính

sách đảm bảo ANLT gặp nhiều khó khăn.

- Mối quan hệ giữa các chủ thể thực thi chính sách và đối tượng chính

sách: nếu một chính sách đảm bảo ANLT đƣợc đƣa ra đồng thuận với lợi ích

của các đối tƣợng mà nó tác động thì hiệu quả chính sách đƣợc tăng lên.

Ngƣợc lại, khi chính sách đƣa ra là tác động có lợi lên đối tƣợng này nhƣng

gây thiệt hại cho đối tƣợng khác sẽ dẫn đến mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ

thể và sẽ tạo ra trở lực tác động đến hiệu quả chính sách. Ví dụ việc miễn

thủy lợi phí, miễn thuế cho nông dân sẽ có lợi cho nông dân nhƣng lại ảnh

hƣởng đến nguồn thu ngân sách và gây sự phản đối của các nhóm ngành nghề

khác không đƣợc miễn thuế.

- Nhóm lợi ích: tập hợp các đối tƣợng có chung lợi ích càng đƣợc tổ

chức khăng khít càng tạo ra tiềm lực lớn và sẽ có tác động đến việc thực thi

chính sách, làm kết quả hoạch định chính sách có lợi cho đối tƣợng này. Ví

dụ hiệp hội các doanh nghiệp chế biến lƣơng thực là một nhóm lợi ích lớn, có

tiếng nói, có tác động mạnh mẽ lên chính sách, đòi hỏi đảm bảo quyền lợi cho

họ. Những ngƣời nông dân canh tác nhỏ lẻ cũng có lợi ích nhƣng không tổ

chức thành nhóm và thƣờng có ít tiếng nói, không có khả năng tham gia vào

hoạch định chính sách và thƣờng trở nên yếu thế trong việc đòi hỏi quyền lợi.

Do vậy cả trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách thƣờng nghiêng

28

theo hƣớng có lợi hơn cho nhóm lợi ích lớn, các chính sách bảo vệ quyền lợi

cho các nhóm này thƣờng đƣợc thực hiện có hiệu quả hơn.

- Tính chất địa lý, khí hậu, đất đai riêng có của mỗi quốc gia: đây là

nhóm yếu tố có tác động rất lớn đến nông nghiệp nói chung và đảm bảo

ANLT. Địa lý thuận lợi dẫn đến giao thông dễ dàng và các yếu tố sản xuất và

sản phẩm đầu ra đƣợc di chuyển dễ dàng giữa các địa phƣơng. Khí hậu ôn

hòa, đất đai màu mỡ sẽ là các yếu tố thuận lợi và giúp giảm chi phí trong sản

xuất lƣơng thực. Do đó, các yếu tố này cũng tác động nhằm nâng cao hiệu

quả hoặc kìm hãm các chính sách đảm bảo ANLT của mỗi quốc gia.

1.2.6. Các tiêu chí đánh giá chính sách đảm bảo ANLT

Tiêu chí 1: Tính phù hợp của chính sách

Là đánh giá sự phù hợp giữa chính sách đƣợc đƣa ra so với vấn đề của

chính sách cần giải quyết, sự phù hợp của chính sách trong đảm bảo các mục

tiêu vĩ mô.

Tiêu chí 2: Tính hiệu lực của chính sách

Hiệu lực của một quyết định quản lý công là kết quả đạt đƣợc trong

việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức. Nhƣ thế, tính hiệu lực bao gồm hai

phần: mức độ tuân thủ thực hiện các quy định và kết quả đạt đƣợc. Hiệu lực

có thể diễn đạt là khả năng tác động của một chính sách vào đối tƣợng mà nó

điều chỉnh. Một chính sách đƣa ra đƣợc các đối tƣợng mà nó điều chỉnh tuân

thủ thực hiện ta gọi là chính sách phát huy hiệu lực. Ngƣợc lại, khi chính sách

đƣa ra không tác động đƣợc đến các đối tƣợng mà nó hƣớng đến, các đối

tƣợng không biết về chính sách, hoặc không tuân thủ việc thực hiện chính

sách ta nói chính sách không có hiệu lực.

Tiêu chí 3: Tính hiệu quả của chính sách

Để đánh giá tính hiệu quả chính sách cần dựa trên đánh giá: chính sách

có đạt đƣợc mục tiêu theo từng giai đoạn cụ thể hay không; chính sách có duy

29

trì đƣợc sự phát triển bền vững hay không, và chính sách có thích ứng đƣợc

với sự thay đổi của môi trƣờng hay không. Đây là một tiêu chí khó đánh giá

do việc thu thập dữ liệu qua các giai đoạn thời gian gặp nhiều khó khan, đòi

hỏi quan sát chính sách khoảng thời gian dài. Trong khuôn khổ nghiên cứu

này, tác giả chỉ phân tích hiệu quả chính sách dựa trên việc nhìn nhận việc đạt

đƣợc mục tiêu tính đến thời điểm hiện tại.

Tiêu chí 4: Tính công bằng của chính sách

Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách,

Nhà nƣớc thực hiện đƣợc việc phân phối lại các nguồn lực hoặc thành quả

giữa các tầng lớp dân cƣ, đồng thời trợ giúp đƣợc cho các đối tƣợng dễ bị tổn

thƣơng nhằm khắc phục đƣợc bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận giữa các nhóm

xã hội. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các

chi phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch

định, thực thi chính sách và các nhóm đối tƣợng liên quan đến chính sách.

Chính sách hợp lý cần phân chia các nhóm đối tƣợng khác nhau để

thực hiện đối xử nhằm đảm bảo công bằng cả theo chiều ngang (giữa những

nhóm đối tƣợng nhƣ nhau) và công bằng theo chiều dọc (giữa những nhóm

đối tƣợng khác nhau).

Tiêu chí 5: Tính minh bạch của chính sách

Tính minh bạch của chính sách chỉ đƣợc đảm bảo khi: Quá trình ban

hành và tổ chức thực hiện quyết định phải tuân thủ theo đúng các quy định

của pháp luật. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các phƣơng tiện thông

tin đại chúng. Các thông tin liên quan đến chính sách và thực thi chính sách

đƣợc công bố công khai, dễ tiếp cận đối với những đối tƣợng điều chỉnh trong

các chính sách đó.

Tiêu chí 6: Tính hệ thống của chính sách

30

Tính hệ thống của chính sách đƣợc hiểu là sự thống nhất của bản than

chính sách đảm bảo ANLT với các chính sách khác. Việc thực hiện chính

sách này không làm cản trở việc đạt đƣợc mục tiêu của chính sách và đều

hƣớng tới mục tiêu chung của nền kinh tế vĩ mô.

Tính hệ thống của chính sách còn thể hiện ở sự thống nhất giữa nội

dung và hình thức thể hiện của chính sách: giữa mục tiêu chính sách với biện

pháp chính sách, giữa giải pháp với các công cụ quản lý chính sách.

Tiêu chí 7: Tính khả thi của chính sách

Khả thi là khả năng có thể thực hiện đƣợc. Tính khả thi của chính sách

là khả năng mà chính sách đó có thể đƣợc thực hiện trong thực tế. Để đảm

bảo một chính sách là khả thi cần đƣợc nhìn nhận về cả khả năng tài chính,

khả năng của nhân lực và khả thi trong tình hình thực tế của quốc gia. Đặc

điểm này rất quan trọng vì nếu chính sách đƣa ra là hay và có ý nghĩa nhƣng

không khả thi thì cũng không thực hiện đƣợc.

1.3. Chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực của một số quốc gia và bài

học cho Việt Nam

1.3.1. Chính sách đảm bảo ANLT của một số quốc gia

1.3.1.1. Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia có sản lƣợng lƣơng thực đầu ra hàng đầu thế

giới với 621,4 triệu tấn (2015). Tuy vậy, chỉ số GFSI của Trung Quốc năm

2016 chỉ là 65,5 điểm, xếp thứ 42/113 quốc gia trên thế giới về mức độ đảm

bảo ANLT. Trung Quốc thƣờng xuyên đối mặt với nguy cơ mất an ninh

lƣơng thực khi diện tích đất có thể canh tác của nƣớc này chỉ chiếm khoảng

8% diện tích canh tác toàn thế giới nhƣng phải nuôi sống số dân gần 1,4 tỷ

ngƣời chiếm 20% dân số thế giới. Có thể khái quát chính sách an ninh lƣơng

thực của Trung Quốc nhằm 3 mục tiêu lớn sau: một là Tránh quá phụ thuộc

vào thị trƣờng bên ngoài; hai là Tránh những cú sốc lớn cho thị trƣờng lƣơng

thực, thực phẩm; ba là Tránh những bất ổn xã hội vì thiếu lƣơng thực do thu

31

nhập thấp. (Y. J.Zhang, S. Z. Gu, 2009). Theo đó, các chính sách Trung Quốc

tập trung vào việc sản xuất tự túc và dự trữ lƣơng thực, ổn định giá lƣơng

thực trên thị trƣờng. Theo đó, Trung Quốc có các chính sách tập trung cho

phát triển sản xuất nông nghiệp.

Về chính sách đất đai cho nông nghiệp, trƣớc cải cách mở cửa năm

1978, và trƣớc khi Hiến pháp năm 1982 của nƣớc này ra đời, nhà nƣớc hoàn

toàn nắm quyền sở hữu và thực hiện quyền sử dụng đất đai bằng mệnh lệnh

hành chính. Luật đất đai của nƣớc này đã liên tục đƣợc sửa đổi qua các năm

theo hƣớng đƣa đất đai vào quan hệ thị trƣờng nhƣng chỉ ở phần đất đô thị.

Quyền phán quyết cao nhất về đất đai vẫn thuộc về nhà nƣớc, việc chuyển đổi

từ đất nông nghiệp sang đất đô thị đều thực hiện qua cƣỡng chế, thu hồi nên

nông dân mất đất không nhận đƣợc sự bồi thƣờng thỏa đáng đồng thời đánh

mất tƣ liệu sản xuất. Đất đai sau khi thu hồi từ nông dân chuyển thành đất đô

thị sẽ đƣợc cấp cho cá nhân, tổ chức nhằm mục đích kinh doanh. Điều này tạo

nên chênh lệch cơ hội rất lớn giữa hai đối tƣợng này và là nguồn gốc sinh ra

bất ổn xã hội. Việc chính quyền địa phƣơng đƣợc phép điều chỉnh quỹ đất

đƣợc phép chuyển nhƣợng (đất nông nghiệp khi chuyển thành đất đô thị sẽ

đƣợc phép chuyển nhƣợng) đã kích thích các địa phƣơng tăng cƣờng trƣng

thu diện tích đất nông nghiệp nhằm tăng ngân sách địa phƣơng. (Nguyễn

Minh Hoàn, 2013)

Để đối phó với tình trạng đất nông nghiệp bị chuyển đổi ồ ạt do những

lạm dụng cơ chế quản lý dẫn đến nguy cơ mất an ninh lƣơng thực, năm 1995

chính phủ Trung Quốc đã ban hành các luật bảo vệ ruộng đất cơ bản (loại đất

chỉ dùng để canh tác lƣơng thực, thực phẩm) nhằm cố định diện tích canh tác

ở các tỉnh mức 80%. Từ năm 2002 đến nay nƣớc này đã liên tục đƣa ra những

chính sách mới nhằm tăng cƣờng minh bạch trong thu hồi, chuyển đổi đất đai,

bảo vệ quyền lợi cho ngƣời nông dân, bảo vệ diện tích canh tác nhằm đảm

bảo an ninh lƣơng thực. Chính sách đất đai mới của Trung Quốc nhằm chú

32

trọng khuyến nông và tăng quyền cho nông dân. Theo đó, thời hạn quyền sử

dụng đất đƣợc tăng lên 70 năm thay vì 20-30 năm nhƣ trƣớc kia; nông dân

đƣợc quyền trao đổi, sang nhƣợng không hạn chế quyền sử dụng đất nông

nghiệp mà họ đang đƣợc hƣởng cho nông dân khác hoặc cho doanh nghiệp

miễn là không chuyển đổi mục đích sử dụng. Nông dân cũng sẽ đƣợc thế

chấp, cầm cố quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng hoặc góp vốn vào

công ty nông nghiệp. Việc nông dân đƣợc phép chuyển nhƣợng quyền sử

dụng đất đã tạo điều kiện cho sự ra đời của các nông trại quy mô lớn, thuận

lợi hơn trong áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. (Nguyễn Minh Hoàn,

2013).

Quá trình công nghiệp hóa của Trung Quốc diễn ra mạnh mẽ, tăng

trƣởng quá nóng cũng đã gây nên nhiều hệ lụy cho ANLT của nƣớc này. Diện

tích canh tác của Trung Quốc suy giảm mạnh do ô nhiễm nguồn đất, bởi kim

loại nặng, khan hiếm nƣớc tƣới do biến đổi khí hậu và sa mạc hóa nhanh

chóng đe dọa đến sản xuất nông nghiệp của nƣớc này. Bên cạnh sự khan hiếm

nƣớc do quá trình sa mạc hóa thì diện tích đất canh tác hiện nay của Trung

Quốc còn bị đe dọa nghiêm trọng bởi ô nhiễm kim loại nặng và thuốc trừ sâu.

Chất thải từ công nghiệp không qua xử lý đƣợc xả ra môi trƣờng mang theo

nguồn kim loại nặng (Thủy ngân, Cadimi, Chì, Mangan…) sẽ dẫn đến suy

giảm hệ sinh vật trong đất và khả năng sinh trƣởng của cây trồng. Tác hại của

việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan cũng mang đến tồn dƣ thuốc trong

đất và ảnh hƣởng đến cả sản lƣợng lƣơng thực lẫn an toàn thực phẩm ở nƣớc

này. Những nguy cơ mà Trung Quốc đang phải đối mặt hiện nay là những bất

cập do chính sách đất đai và những chính sách chú trọng tăng trƣởng nhanh

nhƣng thiếu bền vững của nƣớc này mang lại. (Maclean, et al., 2016)

Nhận thức đƣợc các nguy cơ đe dọa ANLT trong tƣơng lai và cần phải

chuyển sang nền nông nghiệp bền vững, chính phủ Trung Quốc đã có những

chính sách nhằm chú trọng vào phát triển khoa học công nghệ cho nông

33

nghiệp, chính phủ Trung Quốc tập trung phát triển các khu nông nghiệp công

nghệ cao, các công nghệ đƣợc ghép nối trong một quy trình liên tục khép kín.

Nhân rộng các mô hình đạt hiệu quả về kinh tế và là nơi hợp tác giữa Nhà

khoa học – Nhà nƣớc – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông lấy doanh nghiệp đóng

vai trò chủ đạo. Tăng nhanh số lƣợng nhà khoa học và các công trình nghiên

cứu Trung Quốc bằng việc mua bản quyền các phát minh, sáng chế và thu hút

các nhà khoa học khắp thế giới về nƣớc này làm việc. Ngoài ra chính phủ còn

hỗ trợ mạnh cho các doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài đầu tƣ vào lĩnh

vực nông nghiệp. Tháng 9 năm 2016 Trung Quốc công bố khoản đầu tƣ 450

tỷ đô la cho đến năm 2020 nhằm hiện đại hóa nông nghiệp. Khoản đầu tƣ này

đƣợc dùng để hỗ trợ lãi suất ƣu đãi, đƣa ra các sản phẩm tài chính ƣu đãi cho

nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp. (Lê Xuân Cử, 2015)

Từ năm 2014, nhận thức đƣợc rằng canh tác lúa gạo dần trở nên khó

khăn và tốn kém về mặt nƣớc tƣới do vậy chính phủ Trung Quốc đã kêu gọi

ngƣời dân chuyển sang dùng khoai tây nhƣ một loại lƣơng thực thay cho lúa

gạo. Với lí do khoai tây sử dụng ít nƣớc tƣới tiêu hơn nên phù hợp với các

vùng đất phía bắc Trung Quốc thƣờng xuyên phải đối mặt với nguy cơ hạn

hán. Việc chuyển cơ cấu canh tác và tiêu dùng lƣơng thực sang khoai tây thay

vì lúa gạo sẽ giúp nƣớc này hạn chế sản lƣợng nhập khẩu gạo, tiết kiệm ngoại

tệ và giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung thế giới nhằm tăng khả năng đảm

bảo an ninh lƣơng thực.(China Daily)

1.3.1.2. Nhật Bản

Nhật Bản là một nƣớc nghèo tài nguyên, thƣờng xuyên phải gánh chịu

thiên tai nên nếu xét về điều kiện tự nhiên thì Nhật Bản không có lợi thế cho

phát triển nông nghiệp. Diện tích đất canh tác của Nhật Bản chỉ 1.628 ngàn ha

(bằng 1/5 diện tích gieo trồng lúa của Việt Nam). Dân số của Nhật Bản năm

2015 là khoảng 127,1 triệu ngƣời cao hơn 1,38 lần dân số Việt Nam (91,7

triệu ngƣời năm 2015). Trong đó, chỉ có 3% dân số Nhật Bản tham gia sản

34

xuất nông nghiệp nói chung. Nhằm đảm bảo ANLT cho quốc gia, Nhật Bản

rất chú trọng vào phát triển khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh thâm canh. Các

chính sách mà chính phủ đƣa ra nhằm tăng cƣờng sử dụng phân hóa học trong

giai đoạn trƣớc đây và hiện nay chuyển sang sử dụng các biện pháp sinh học;

hoàn thiện công tác quản lý và kỹ thuật tƣới tiêu; lai tạo và đƣa vào sử dụng

đại trà những giống kháng bệnh, sâu rầy và chịu rét... Do vậy, mặc dù các

điều kiện tự nhiên bất lợi cho sản xuất, chỉ 3% dân số lao động trong lĩnh vực

nông nghiệp nhƣng Nhật Bản vẫn duy trì đƣợc khả năng cung cấp lƣơng thực

trong nƣớc. Chỉ số GFSI của Nhật Bản năm 2016 là 75,9 điểm, xếp thứ

22/113 quốc gia trên thế giới (EIU, 2016).

Mặc dù có lực lƣợng lao động trong nông nghiệp và diện tích canh tác

thấp hơn nhiều so với Việt Nam, nhƣng sản lƣợng lúa gạo của Nhật Bản vẫn

ở mức cao, đặc biệt năng suất bình quân cao hơn Việt Nam. Điều này có thể

giải thích nhờ các chính sách khuyến khích việc ứng dụng các tiến bộ khoa

học kỹ thuật vào trong sản xuất. Các nhà khoa học Nhật Bản làm việc nhƣ

nông dân thực thụ, kết hợp với máy móc nhƣ máy be bờ, máy gieo hạt, hệ

thống phun nƣớc tự động, hệ thống nhà kính và chiếu sáng tự động…

Trong thời kỳ trƣớc đây, để duy trì sản lƣợng lƣơng thực ở mức nhất

định, chính phủ nƣớc này đã áp dụng chính sách bảo hộ mạnh mẽ đối với

ngành nông nghiệp. Bằng việc duy trì giá lƣơng thực trong nƣớc cao bằng các

biện pháp thuế quan và phi thuế quan, Nhật Bản đã tạo ra hàng rào đối với các

hàng hóa từ nƣớc ngoài, đảm bảo thu nhập cho các hộ sản xuất nông nghiệp

trong nƣớc cân bằng với các hộ sản xuất phi nông nghiệp, Nhật Bản đã hạn

chế đƣợc tình trạng nông dân bỏ đất, bỏ nghề nông nhằm đảm bảo duy trì khả

năng tự chủ về mặt cung lƣơng thực cho quốc gia, hạn chế bị động trƣớc các

cú sốc về khủng hoảng lƣơng thực (Phạm Quý Long, 2008). Tuy nhiên, một

tác động ngƣợc chiều từ chính sách này là tạo ra mặt bằng giá lƣơng thực rất

cao tại Nhật Bản, điều này phần nào làm khả năng tiếp cận lƣơng thực của số

35

dân có thu nhập thấp bị giảm đi. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, Nhật Bản

dần phải dỡ bỏ các rào cản thƣơng mại đối với các hàng hóa nông sản từ thế

giới.

Để duy trì, bảo vệ những vùng đất tốt dùng cho mục đích nông nghiệp,

năm 1969 Nhật Bản đã ban hành Luật Cải tạo và phát triển những vùng đất có

khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1970, Luật Đất đai nông

nghiệp và Luật Hợp tác xã nông nghiệp đƣợc sửa đổi bổ sung đã nối rộng

quyền hạn cho thuê, phát canh đất sản xuất nông nghiệp cũng nhƣ quyền quản

lý cho các tập đoàn và các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp. Năm 1975, Nhật

Bản đƣa việc đảm bảo an ninh lƣơng thực vào chính sách phát triển nông

nghiệp toàn diện nhằm đảm bảo về mặt an toàn lƣơng thực, chính sách giá cả,

phúc lợi cho nông dân. (Phan Trọng An, 2009)

Trong quá trình phát triển nông nghiệp Nhật Bản cũng gặp phải những

khó khăn do già hóa dân số thiếu hụt lao động trẻ, số ngƣời lao động từ 30-50

tuổi chỉ 10%, số ngƣời từ 65-75 tuổi chiếm đến 60%. Để thu hút nhân lực trẻ

tham gia trong lĩnh vực này, Nhật Bản đã có những chính sách nhằm hỗ trợ

khởi nghiệp nhƣ: hỗ trợ tài chính cho ngƣời theo học ngành nông nghiệp, hỗ

trợ tài chính cho khởi nghiệp nông nghiệp, hỗ trợ cho vay vốn đầu tƣ máy

móc, hỗ trợ chi phí học tập đối với các doanh nhân nông nghiệp muốn nâng

cao trình độ. Một nguồn bổ sung lao động khác cho nông nghiệp Nhật Bản là

từ lao động từ nƣớc ngoài chủ yếu làm các công việc chân tay thông qua nhập

khẩu lao động chính thức hoặc du học sinh làm thêm đến từ các quốc gia

khác. (Nguyễn Hồng Thu, 2009).

Có thể nhận thấy bài học thành công của nông nghiệp Nhật Bản bắt

nguồn từ những đánh giá đúng đắn của các nhà lãnh đạo Nhật Bản, nhìn nhận

rõ ràng về điểm yếu và thế mạnh của đất nƣớc để đƣa ra các chính sách phù

hợp. Nhằm hạn chế các điểm yếu về địa lý, tự nhiên và số lƣợng lao động

Nhật Bản đã đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản

36

xuất. nhằm tăng năng suất và chất lƣợng sản phẩm. Ngoài ra còn sử dụng

đồng bộ các chính sách nhằm hỗ trợ nông dân, nông nghiệp phát triển.

1.3.1.3. Thái Lan

Để đảm bảo mục tiêu ANLT quốc gia, Thái Lan rất coi trọng công tác

khuyến nông, mỗi năm chính phủ dành ngân sách 150 triệu đô la cho khuyến

nông, trung bình là 6 triệu đồng/hộ (ở Việt Nam là 50 ngàn đồng/hộ/năm).

Các cơ quan làm công tác khuyến nông đƣợc tổ chức chặt chẽ, công tác

khuyến nông đƣợc thực hiện một cách kiên trì và gắn chặt với ngƣời nông

dân. Nhằm nâng cao nhận thức cho ngƣời dân, chính phủ cũng tổ chức các

lớp tập huấn kỹ thuật có hiệu quả thu hút nhiều ngƣời tham gia.

Chính phủ Thái Lan thực hiện các chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp

mạnh mẽ Nhƣ: ƣu đãi về vốn và tăng cƣờng bảo hiểm cho ngƣời nông dân,

bãi bỏ thuế nông nghiệp đƣợc bãi bỏ, hỗ trợ các chƣơng trình tiếp thị, tìm

kiếm địa chỉ xuất khẩu những sản phẩm sau thu hoạch và chế biến (Trần Việt

Dũng, 2015). Nhằm hỗ trợ cải thiện thu nhập cho ngƣời nông dân, Thái Lan

đã áp dụng chính sách trợ giá nông sản. Năm 2011, chính phủ Thái Lan mua

gạo thơm với giá 6.500bath/tấn cao hơn giá thị trƣờng là 5.000-5.200bath/tấn,

mua thóc với giá 1.800bath/tấn cao hơn 50% so với giá thị trƣờng ngoài ra

còn ƣu đãi mua phân bón giá thấp, miễn cƣớc vận chuyển phân bón, cung cấp

các giống mới năng suất cao, ƣu đãi vay vốn lãi suất thấp từ ngân hàng nông

nghiệp. Tuy nhiên, chính sách này không phải lúc nào cũng có hiệu quả mà

còn gây nhiều tranh cãi do nguồn tài chính cho trợ cấp này từ ngân sách nhà

nƣớc mà thiếu sự tính toán kỹ lƣỡng, việc đƣa ra trợ cấp không đúng thời

điểm đã làm cho ngân sách nƣớc này thiệt hại lớn đến 4,46 tỷ đô la từ năm

2011-2014 (Theo ƣớc tính của IMF). Một bất cập của các chính sách này là

đối tƣợng đƣợc nhận trợ giá của chính phủ phải có diện tích canh tác lớn, do

vậy chỉ những ngƣời dân có lƣợng đất đai quy mô lớn mới đƣợc hƣởng lợi

37

chính sách, số ngƣời nông dân thực sự nghèo khó thì không do vậy không đạt

đƣợc mục tiêu giảm nghèo.

Thái Lan còn chú trọng đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật

trong: cải tạo đất, lai tạo các giống chống hạn, chống sâu bệnh, sử dụng phân

bón vi sinh, hữu cơ… Việc cơ giới hóa sản xuất đƣợc chú trọng đƣa vào đan

xen giữa lối canh tác truyền thống và sử dụng máy móc. (Trần Việt Dũng,

2015)

1.3.1.4. Mỹ

Mỹ là cƣờng quốc số một thế giới về kinh tế, nông nghiệp chỉ chiếm

2% trong GDP của Mỹ nhƣng là nền nông nghiệp phát triển hàng đầu thế

giới, chỉ số GFSI của nƣớc này liên tục đứng số 1 thế giới với mức điểm trung

bình trên 86 điểm (EUI, 2016). Theo các tiêu chí của chỉ số GFSI quốc gia

này có 17 thế mạnh và không có thách thức trong tƣơng lai gần về đảm bảo ANLT quốc gia. Diện tích tự nhiên của Mỹ là 9,4 triệu km2 rộng thứ ba thế

giới và dân số hơn 300 triệu ngƣời. Sự thành công trong nông nghiệp của Mỹ

là tổng hòa nhiều yếu tố, tuy nhiên có thể đúc rút các yếu tố nổi bật nhƣ cơ

chế chính sách hợp lý, khoa học kỹ thuật và con ngƣời.

Luật pháp Mỹ bảo hộ mạnh mẽ các quyền sở hữu tƣ nhân trong đó có

quyền ở hữu ruộng đất.Quyền sở hữu ruộng đất đƣợc bảo vệ chính là động lực

to lớn nhất giúp thúc đẩy tƣ nhân đầu tƣ phát triển trên mảnh đất đó. Nông

dân Mỹ đƣợc tự do lựa chọn phƣơng thức sản xuất trên đất nông nghiệp của

mình. Các hộ nông nghiệp sở hữu diện tích ruộng đất rất lớn, sản xuất theo

hình thức trang trại, đặc biệt với quy mô khổng lồ nếu là các doanh nghiệp

nông nghiệp. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tính đến tháng

02/2014, cả nƣớc Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại, trung bình mỗi trang trại

có diện tích 174 héc ta (USDA, 2014). Để khuyến khích việc khai hoang, mở

rộng diện tích sản xuất, chính phủ Mỹ đã ban hành Luật đất đai năm 1862 quy

định phát không đất đai cho cá nhân nào làm việc trên các mảnh đất trống ở

38

miền tây nƣớc Mỹ, cơ chế này cộng với sự màu mỡ vốn có đã khiến vùng này

trở thành khu vực tập trung chăn nuôi, trồng trọt quy mô lớn nhất thế giới.

Chính phủ Mỹ cũng sớm nhận ra tầm quan trọng của nông nghiệp và an ninh

lƣơng thực và thể chế hóa nó thành Đạo luật điều tiết nông nghiệp năm 1933,

Đạo luật về an ninh lƣơng thực 1970, các Đạo luật này đã sửa đổi, bổ sung

cho phù hợp tình hình trong các năm tiếp theo. Theo đó, chính phủ thực hiện

hỗ trợ cho ngƣời nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp bằng các biện pháp

bảo hộ nhƣ các hình thức trợ giá, cho vay ƣu đãi… Sau này, khi cơ chế thị

trƣờng đã vận hành hiệu quả, chính phủ Mỹ giảm dần can thiệp mà để thị

trƣờng tự điều tiết. Từ sau năm 1990, các chính sách nông nghiệp tập trung

vào đầu tƣ dự trữ lƣơng thực quốc gia, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi

trƣờng, nghiên cứu khoa học nông nghiệp, công nghệ thông tin, dự báo thời

tiết... để đảm bảo phục vụ hiệu quả thị trƣờng nông sản và nông nghiệp quốc

gia. (Hurt, 2002)

Về nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ, Mỹ là nƣớc đứng hàng

đầu thế giới cộng thêm quyền sở hữu tƣ nhân gắn với lợi ích tƣ nhân trở thành

động lực mạnh mẽ cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học kĩ thuật.

Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyên môn hóa cao đƣợc áp dụng trong

mọi lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ cơ giới hóa, tự động hóa trong

sản xuất rất cao, ngƣời nông dân rất ít phải lao động chân tay mà sử dụng các

thiết bị máy móc; nghiên cứu phát triển giống cây trồng, sử dụng phân bón

hóa học, thuốc bảo vệ thực vật nhằm thu đƣợc năng suất cao nhất. Theo Bộ

Nông nghiệp Mỹ, lƣợng tiêu thụ phân bón hàng năm đạt mức cao nhất 24

triệu tấn vào năm 1983, cho đến năm 2011 là 22 triệu tấn (USDA, 2011). Với

diện tích khổng lồ của mỗi trang trại nên việc chuyên môn hóa cao độ là cần

thiết và ngƣợc lại cũng là động lực thúc đẩy sản xuất. Ví dụ nhƣ việc thu

hoạch đƣợc giao cho các đội chuyên thu hoạch với các máy móc hiện đại,

việc thụ phấn cho hoa đƣợc cung cấp bởi những ngƣời chuyên nuôi ong

chuyên nghiệp, việc phun thuốc trừ sâu đƣợc thực hiện bởi các phi công nông

39

nghiệp, theo dõi sức khỏe của vật nuôi bằng hệ thống máy tính… Trong mỗi

trang trại, đều có các máy tự động hóa trong việc đo nhiệt độ, lƣợng ẩm và

căn cứ trên các số liệu về nhu cầu của cây trồng các hệ thống tƣới nƣớc, quạt

thông gió, máy làm ẩm sẽ đƣợc tự động kích hoạt cung cấp cho đầy đủ với

nhu cầu đã đƣợc nghiên cứu một cách khoa học của cây trồng, vật nuôi.

Để nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật hiệu quả đòi hỏi trình độ

của chính ngƣời nông dân tham gia sản xuất cao. Nông dân Mỹ có khả năng

sử dụng máy móc rất thành thạo, nhiều ngƣời có trình độ học vấn cao và có

chuyên môn sâu. Ngoài ra, để có thể nghiên cứu và áp dụng khoa học kỹ thuật

mọi mặt trong sản xuất nhƣ hiện nay, ngƣời nông dân Mỹ cần sự hỗ trợ rất

lớn từ chính phủ. Hệ thống máy móc hiện đại đi cùng chi phí đầu tƣ lớn, các

nông hộ không thể đủ khả năng tài chính đầu tƣ toàn bộ. Là một quốc gia giàu

có với chính phủ thông minh, Mỹ cung cấp các nguồn tài chính hỗ trợ cho

nông dân khổng lồ, năm 2005 chính phủ Mỹ hỗ trợ 41 tỷ đô la (bằng 16%

doanh thu nông nghiệp), từ năm 1995 đến 2010 hỗ trợ nông dân trồng bông

32,9 tỷ đô la (Theo USDA). Tháng 2 năm 2014, Mỹ ban hành Đạo luật nông

nghiệp, chi 956 tỷ đô la cho việc thực thi các chính sách nông nghiệp trong 10

năm từ 2014 đến 2024. Bộ nông nghiệp Mỹ (USDA) đƣa ra và đảm bảo các

khoản vay cho các chủ trang trại mới khởi sự, các khoản vay khẩn cấp, chính

nhờ nguồn vay này mà các hộ nông nghiệp có thể nhanh chóng chuyển đổi

thành các trang trại quy mô lớn, các doanh nghiệp nông nghiệp. Nguồn vốn

này sẽ đƣợc cho vay ƣu đãi đối với các hộ gia đình, doanh nghiệp đầu tƣ máy

móc sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả. Chính điều này đã góp phần

đẩy nhanh quá trình cơ giới hóa, tự động hóa…trong sản xuất nông nghiệp.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

Qua đánh giá sự phát triển nông nghiệp của một số quốc gia trên, Việt

Nam có thể nhìn ra một số bài học trong xây dựng chính sách đảm bảo

ANLT:

40

Thứ nhất, cần có định hƣớng chính sách lâu dài, nhất quán, căn cứ trên

tình hình thực tế và tƣơng lai của đất nƣớc đảm bảo tính khoa học và khả thi.

Chính sách cần chú trọng vào hoàn thiện khả năng cung ứng lƣơng thực dựa

trên tăng năng suất sản xuất lƣơng thực (chứ không phải diện tích hay nhân

lực) và tăng khả năng tiếp cận lƣơng thực, thực phẩm bằng cách đảm bảo thu

nhập của ngƣời dân. Sự khan hiếm của các nguồn lực không cho phép gia

tăng mãi mãi diện tích sản xuất hay nguồn lao động. Kinh nghiệm của các

nƣớc nói trên đều cho thấy việc đầu tƣ vào tăng năng suất lao động sẽ vừa

giúp tạo đƣợc nguồn cung lớn vừa đảm bảo dịch chuyển đƣợc các nguồn lực

cho các ngành công nghiệp, dịch vụ.

Thứ hai, việc hoàn thiện kinh tế thị trƣờng là cần thiết. Khi các yếu tố

đầu vào và đầu ra đƣợc hình thành đầy đủ, hệ thống thông tin tốt thì thị

trƣờng sẽ phản ánh đúng cung – cầu và dẫn dắt các quyết định đầu tƣ đúng

đắn, các nguồn lực đầu tƣ đƣợc tự do di chuyển đến nơi có hiệu quả nhất và

chọn lọc đƣợc các chủ thể đầu tƣ tốt nhất cho lĩnh vực nông nghiệp và sản

xuất lƣơng thực. Các nƣớc đảm bảo ANLT và có nền nông nghiệp phát triển

nhất nhƣ Mỹ, Nhật là các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển ở mức cao.

Các chủ thể đƣợc tự do lựa chọn phƣơng án sản xuất, các yếu tố sản xuất

đƣợc di chuyển tự do tạo nên sự linh hoạt và mang lại hiệu quả cao hơn trong

sản xuất lƣơng thực.

Thứ ba, đất đai là nguồn tài nguyên quan trọng và là yếu tố quan trọng

hàng đầu cho sản xuất lƣơng thực hiện nay. Chính sách hạn điền đã ngăn trở

tích tụ và tập trung đất đai, dẫn đến những khó khăn trong áp dụng khoa học

kỹ thuật và đầu tƣ sản xuất quy mô lớn. Quyền sử dụng đất đai linh hoạt cũng

cần đƣợc coi trọng nhằm chuyển đất đai về tập trung trong các hộ sản xuất,

các doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả. Cùng với định hƣớng công nghiệp hóa

– hiện đại hóa của Việt Nam thì yêu cầu này càng trở nên cần thiết.

41

Thứ tư, là tăng cƣờng đầu tƣ cho nghiên cứu, áp dụng khoa học kỹ

thuật trong sản xuất. Đặc điểm chung dẫn đến thành công ở tất cả các quốc

gia trên là đều chú trọng đầu tƣ vào phát triển khoa học kỹ thuật trong sản

xuất. Khi yếu tố đất đai và nhân lực là có hạn thì sự phát triển về khoa học

công nghệ đƣợc coi là vô hạn và dẫn đến tăng nhanh năng suất, chất lƣợng

sản phẩm; cây trồng, vật nuôi có khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên

tốt, mang lại giá trị kinh tế cho ngƣời sản xuất. Chúng ta là nƣớc đi sau, để

đẩy nhanh tốc độ phát triển thì bên cạnh đầu tƣ cho nghiên cứu mới thì quan

trọng hơn cần đẩy nhanh tốc độ tiếp thu, chuyển giao công nghệ. Tiếp thu tốt

các thành quả từ các nƣớc đi trƣớc cũng đã là sự thành công lớn giúp cải thiện

nông nghiệp Việt Nam.

Cuối cùng, để có đƣợc chính phủ thông minh, doanh nghiệp giỏi và

những ngƣời nông dân thành thạo chuyên môn kỹ thuật thì cần nhất là phát

triển lực lƣợng sản xuất, chú trọng vào giáo dục đào tạo. Bên cạnh đào tạo

theo chiều sâu nâng cao năng lực cho ngƣời sản xuất thì trƣớc mắt cần xây

dựng các lớp đào tạo ngắn hạn chất lƣợng cao, phổ biến kiến thức nông

nghiệp đối với ngƣời nông dân kịp thời, có định hƣớng, có hiệu quả.

CHƢƠNG 2

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Các phƣơng pháp thu thập tình hình, số liệu

Số liệu thứ cấp đƣợc thu thập từ các tài liệu hiện có về tình hình an

ninh lƣơng thực của Việt Nam, các chính sách nông nghiệp và các chính sách

an ninh lƣơng thực. Thực hiện rà soát các số liệu đã đƣợc công bố về chính

42

sách an ninh lƣơng thực tại Việt Nam. Cụ thể là các công tin liên quan đến

nông nghiệp, nông thôn, nông dân, tình hình sản xuất và tiêu thụ các loại

nông sản lƣơng thực…trong các báo cáo, nghiên cứu của các nhà nghiên cứu

và Tổng cục thống kê, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn và một số tổ

chức thế giới công bố báo cáo.

Một nguồn số liệu thứ cấp khác là từ các nghiên cứu của các tác giả về

an ninh lƣơng thực và chính sách an ninh lƣơng thực. Tác giả sử dụng các số

liệu từ kết quả nghiên cứu của các tác giả khác, đặc biệt là các kết quả điều

tra, khảo sát.

Các nguồn số liệu đƣợc tác giả lựa chọn để phân tích là những số liệu

nguồn chính thống, mang tính học thuật cao, có giá trị nghiên cứu, có hàm

lƣợng khoa học. Không sử dụng các nguồn tài liệu không rõ ràng, hạn chế sử

dụng nguồn báo chí không chuyên ngành chỉ mang tính thông tin.

2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể

Luận văn sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: sử dụng phƣơng pháp

duy vật biện chứng để nhìn nhận vấn đề, tổng hợp - phân tích, so sánh,

phƣơng pháp logic lịch sử để đánh giá chính sách đảm bảo ANLT của Việt

Nam trong thời gian nghiên cứu luận văn.

Trong Chƣơng 1 tác giả sử dụng chủ yếu phƣơng pháp tổng hợp, phân

tích, hệ thống hóa lý thuyết nhằm hệ thống hóa khung lý luận về ANLT theo

quan điểm của các tác giả và các tổ chức thế giới đƣa ra. Phƣơng pháp tổng

hợp phân tích còn đƣợc sử dụng trong việc thu thập các nghiên cứu đã có

nhằm tìm hiểu về kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong xây dựng

và thực thi chính sách đảm bảo ANLT. Qua đó, kết hợp với phƣơng pháp

phân tích logic, tác giả chỉ ra kinh nghiệm tích cực và cả kinh nghiệm tiêu cực

cần tránh của các nƣớc khác khi áp dụng vào Việt Nam. Phƣơng pháp nghiên

43

cứu tài liệu đƣợc tác giả sử dụng để tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về lĩnh vực

cùng đề tài, không mất thời gian lặp lại các nghiên cứu đã có trƣớc.

Trong Chƣơng 3, nói về các chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam

và đánh giá chính sách dựa trên các tiêu chí. Tác giả sử dụng phƣơng pháp

thống kê mô tả nhằm tổng hợp các chính sách mà Đảng và Chính phủ Việt

Nam đƣa ra trong giai đoạn từ 1986 đến nay.

Để cân nhắc lựa chọn các tiêu chí phù hợp với việc đánh giá chính sách

đảm bảo ANLT của Việt Nam tác giả đã sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu

các tài liệu nhằm tìm ra phƣơng án tốt nhất đối với đánh giá chính sách này.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chuyên ngành về phân tích chính sách và

ANLT, tác giả đã chọn ra đƣợc 7 tiêu chí dành riêng đối với phân tích chính

sách đảm bảo ANLT của Việt Nam.

Trong Chƣơng 4, đây là chƣơng đòi hỏi dự báo tác động của bối cảnh

kinh tế - xã hội trong tƣơng lai tác động lên chính sách. Phƣơng pháp đƣợc sử

dụng chủ yếu là phân tích và logic lịch sử. Nhờ đó, tác giả có thể dựa vào các

số liệu sẵn có về quá khứ thực thi chính sách và tình hình hiện tại, sử dụng

các phân tích dự báo của các nguồn tài liệu đáng tin cậy và dự báo bối cảnh

mới trong giai đoạn 2017 – 2025 và tầm nhìn đến 2035.

Nhằm đƣa ra những khuyến nghị phù hợp đối với Việt Nam để hoàn

thiện chính sách, tác giả sử dụng phƣơng pháp phân tích, logic, duy vật biện

chứng nhằm khẳng định sự cần thiết phải thay đổi trong tổ chức thực hiện và

kiểm tra, giám sát chính sách cho phù hợp tình hình mới.

CHƢƠNG 3

CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO AN NINH LƢƠNG THỰC CỦA VIỆT NAM VÀ

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

3.1. Tổng quan các chính sách về đảm bảo ANLT của Việt Nam

44

Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn từ lâu đã là mối quan tâm lớn

của Đảng và chính phủ. Phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm phục vụ đời

sống và phục vụ các ngành sản xuất khác đã đƣợc chúng ta nhấn mạnh trong

các đƣờng lối chỉ đạo của chúng ta qua các thời kỳ. Tuy nhiên, trƣớc đây,

chúng ta chú trọng cho phát triển nông nghiệp chung, ý niệm về an ninh

lƣơng thực của Việt Nam còn khá ít ỏi. Trong khuôn khổ nghiên cứu này chỉ

tập trung phân tích các chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực ở Việt Nam từ

sau Đổi mới năm 1986 đến nay.

Giai đoạn sau khi đất nƣớc thống nhất từ 1976 – 1986 là giai đoạn

những sai lầm của phƣơng thức quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung bị đẩy

lên cao nhất. Sản xuất tập thể làm cho quyền lợi và trách nhiệm của ngƣời sản

xuất không còn gắn chặt với nhau. Nông dân không còn thiết tha với ruộng

đất do công sức lao động và thành quả sản xuất bị tách rời, sản xuất theo kiểu

đối phó, năng suất lúa năm sau tuột hơn năm trƣớc. Nạn đói diễn ra thƣờng

xuyên.Chế độ phân phối theo ngày công lao động và phân chia sản phẩm

cứng ngắc theo tem phiếu định lƣợng của nhà nƣớc đã góp phần làm nƣớc ta

đi vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Giai đoạn này đã xuất hiện mầm

mống đầu tiên của “khoán hộ” (bắt đầu lần đầu tiên vào năm 1960 ở Vĩnh

Phú) mở đƣờng cho việc tƣ nhân hóa sản xuất, giao quyền tự chủ sản xuất cho

các đơn vị hộ nông dân và đƣợc khẳng định chính thức bằng Chỉ thị 100-

CT/TW năm 1981. Chỉ thị này đã giúp giải phóng sức sản xuất, gắn lao động

với kết quả cuối cùng và đƣa nông nghiệp dần phát triển. Sản lƣợng lƣơng

thực giai đoạn 1981 – 1985 bình quân đạt 17 triệu tấn, thu nhập bình quân

hàng năm tăng 6,4%.

Giai đoạn 1986 – 1993: Bƣớc vào quá trình Đổi mới, Đại hội Đảng lần

thứ VI năm 1986 đã công nhận cơ chế quản lý tập trung không còn phù hợp.

Tháng tƣ năm 1988, Nghị quyết 10/1988/NQ-TW về đổi mới quản lý nông

nghiệp hay còn gọi là “Khoán 10” đã chuyển trọng tâm của nông nghiệp và

45

phát triển nông thôn từ các hợp tác xã sang hộ nông dân. Chính sách này đã

góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất tƣ nhân. Ngƣời nông dân đƣợc

gắn chặt quyền lợi với công sức sản xuất của mình nên sản lƣợng lƣơng thực

gia tăng nhanh chóng. Một loạt các cải cách về giá và mở cửa thị trƣờng tạo

điều kiện phát triển ngành nông nghiệp, sản lƣợng lƣơng thực tăng trƣởng

vƣợt bậc. Năm 1987 và năm 1988 chúng ta từng phải nhập khẩu hơn 460.000

tấn lƣơng thực để đáp ứng nhu cầu trong nƣớc thì đến năm 1989 Việt Nam

lần đầu tiên trở thành nƣớc xuất khẩu gạo với 1,37 triệu tấn (Theo Hiệp hội

lƣơng thực Việt Nam). Luật Đất đai đƣợc ra đời năm 1993 và chính thức có

hiệu lực năm 1994, giao quyền cho hộ nông dân sử dụng, hộ nông dân có

quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng

đất. Luật này đã tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần. Sản lƣợng lƣơng thực không chỉ đủ đáp ứng nhu cầu trong nƣớc mà còn

dƣ thừa cho xuất khẩu, đây là cơ sở quan trọng nhằm phân bổ lại cơ cấu cây

trồng, vật nuôi và thực hiện chuyên canh theo lợi thế từng địa phƣơng.

Giai đoạn 1993 – 2000: Trong giai đoạn này, các chính sách đƣợc đƣa

ra có trọng tâm là khuyến khích mở rộng sản xuất nông nghiệp. Việc bãi bỏ

các hợp tác xã đã tạo ra những khoảng trống, đòi hỏi phải có những mô hình

khác nhằm cung cấp dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, dẫn đến thành lập hệ thống

khuyến nông quốc gia và các cơ sở tín dụng của nông dân. Các rào cản

thƣơng mại cũng đƣợc dỡ bở dần, nông dân cũng không còn phải nộp nghĩa

vụ cho nhà nƣớc theo hạn ngạch.

Giai đoạn 2000 đến nay: Các chính sách của nhà nƣớc đã hƣớng tập

trung hơn vào việc nâng cao năng suất, chất lƣợng, giá trị sản xuất nông sản

nói chung và sản xuất lƣơng thực nói riêng. Giai đoạn này có sự ban hành của

hai nghị quyết quan trọng trong nông nghiệp và sản xuất lƣơng thực. Nghị

quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng

về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết nhằm định hƣớng xây dựng

46

nền nông nghiệp hiện đại, tăng cƣờng cơ sở hạ tầng cho nông thôn và cải

thiện đời sống của ngƣời nông dân. Năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị

quyết số 63/2009/NQ-CP nhằm đảm bảo ANLT quốc gia bằng cách đảm bảo

về khả năng cung cấp đầy đủ lƣơng thực đặc biệt là gạo, đây là văn bản chính

sách đầu tiên cho mục tiêu này.

Nhờ thực hiện các biện pháp chính sách về đảm bảo ANLT, giai đoạn

từ 1986 đến nay, chúng ta liên tục thu đƣợc những kết quả tốt về nông nghiệp

nói chung và ANLT nói riêng.

Bảng 3.1: Diện tích, sản lƣợng lƣơng thực có hạt

Năm

Tổng Diện tích (Nghìn ha )

Diện tích Lúa (Nghìn ha )

Diện tích Ngô (Nghìn ha )

Tổng Sản lƣợng (Nghìn tấn )

Sản lƣợng Lúa (Nghìn tấn )

Sản lƣợng Ngô (Nghìn tấn )

1990

6.477

6.043

432

19.898

19.225

671

1991

6.753

6.303

448

20.296

19.622

672

1992

6.956

6.475

478

22.343

21.590

748

1993

7.058

6.559

497

23.721

22.837

882

1994

7.136

6.599

535

24.674

23.528

1.144

1995

7.324

6.766

557

26.143

24.964

1.177

1996

7.621

7.004

615

27.936

26.397

1.537

1997

7.768

7.100

663

29.183

27.524

1.651

1998

8.016

7.363

650

30.759

29.146

1.612

1999

8.349

7.654

692

33.150

31.394

1.753

2000

8.399

7.666

730

34.539

32.530

2.006

2001

8.225

7.493

730

34.273

32.108

2.162

2002

8.323

7.504

816

36.961

34.447

2.511

2003

8.367

7.452

913

37.707

34.569

3.136

2004

8.438

7.445

991

39.581

36.149

3.431

2005

8.383

7.329

1.053

39.622

35.833

3.787

2006

8.360

7.325

1.033

39.706

35.850

3.855

2007

8.305

7.207

1.096

40.247

35.943

4.303

47

2008

8.542

7.400

1.140

43.305

38.730

4.573

2009

8.527

7.437

1.089

43.323

38.950

4.372

2010

8.616

7.489

1.126

44.632

40.006

4.626

2011

8.778

7.655

1.121

47.236

42.399

4.836

2012

8.919

7.761

1.157

48.713

43.738

4.974

2013

9.074

7.903

1.170

49.232

44.039

5.191

2014

8.996

7.816

1.179

50.179

44.975

5.202

9.015

7.835

1.179

50.498

45.216

5.281

Sơ bộ 2015

Nguồn: Tổng cục thống kê

Về tổng diện tích canh tác lƣơng thực có xu hƣớng tăng lên, từ 6.477

nghìn ha năm 1990 lên 8.438 nghìn ha năm 2004 và lên 8.996 năm 2014 (tăng

thêm 2.519 ha từ năm 1990 đến 2014). Diện tích canh tác lúa tăng từ 6.043 ha

năm 1990 lên 7.816 năm 2014 (tăng 1.773 nghìn ha), diện tích canh tác ngô

tăng từ 432 nghìn năm 1990 lên 1.179 (tăng 747 nghìn ha). Sản lƣợng lƣơng

thực chung cũng tăng thêm 30.281 nghìn tấn từ 19.898 nghìn tấn vào năm

1990 lên 50.179 nghìn tấn vào năm 2014, riêng sản lƣợng lúa tăng 25.750

nghìn tấn (gấp 2,34 lần năm 1990).

Việc đảm bảo ANLT quốc gia đƣợc thực hiện chủ yếu thông qua việc

phát triển ngành nông nghiệp sản xuất lƣơng thực và việc phân phối lƣơng

thực đến tay ngƣời dân thông qua các chính sách bộ phận. Mục tiêu của các

chính sách bộ phận này đƣợc đƣa ra trong một số văn bản, kế hoạch. Mỗi

chính sách bộ phận đều đƣa ra các mục tiêu và hành động cụ thể để đạt đƣợc

mục tiêu này. Nếu xét theo yêu cầu việc đảm bảo ANLT là nhằm “đảm bảo

mọi ngƣời, trong mọi thời điểm đều có thể tiếp dận dễ dàng với nguồn lƣơng

thực an toàn nhằm đảm bảo sống và sinh hoạt bình thƣờng thì có thể phân loại

các chính sách dành cho ANLT là gồm các nhóm chính sách sau:

(1) Nhóm chính sách về đảm bảo khả năng cung ứng lƣơng thực gồm:

- Chính sách Quy hoạch đất đai, diện tích, chủng loại gieo trồng cây

lƣơng thực;

48

- Chính sách hỗ trợ sản xuất lƣơng thực.

(2) Nhóm chính sách nhằm tăng cƣờng khả năng tiếp cận lƣơng thực gồm:

- Chính sách lao động - việc làm, tăng thu nhập;

- Các chính sách hỗ trợ, trợ cấp lƣơng thực và trợ cấp thu nhập.

- Xây dựng kênh phân phối lƣơng thực.

(3) Nhóm chính sách tăng cƣờng vệ sinh an toàn thực phẩm.

(4) Các chính sách đối phó khi xảy ra khủng hoảng lƣơng thực.

3.1.1. Nhóm chính sách về đảm bảo khả năng cung ứng lương thực

3.1.1.1. Chính sách quy hoạch đất đai, diện tích, chủng loại gieo trồng cây

lương thực

Trong nông nghiệp, có thể nói đất là yếu tố quan trọng hàng đầu do đó

rất đƣợc sự quan tâm của chính phủ Việt Nam. Nội dung cơ bản của chính

sách đất nông nghiệp của Nhà nƣớc Việt Nam hiện nay thể hiện qua chế độ sở

hữu đất nông nghiệp, chính sách giá đất của Nhà nƣớc, chính sách tích tụ và

tập trung đất nông nghiệp, chính sách thuế đất nông nghiệp và chính sách bồi

thƣờng khi thu hồi đất nông nghiệp. Chế độ sở hữu đất đai của Việt Nam chia

ra làm quyền sở hữu và quyền sử dụng. Quyền sở hữu đất thuộc về Nhà nƣớc

(đại diện cho toàn dân). Nhà nƣớc vừa đóng vai trò cơ quan quản lý hành

chính công đối với đất đai, vừa đóng vai trò chủ sở hữu đất, có quyền quyết

định thu hồi quyền sử dụng đất của nông dân, chuyển mục đích sử dụng đất

nông nghiệp và giao đất nông nghiệp đã đƣợc chuyển mục đích sử dụng cho

tổ chức và cá nhân không phải là nông dân, quy định giá thu hồi đất nông

nghiệp. Quyền sử dụng đất nông nghiệp thuộc về ngƣời nông dân nhƣng chỉ

giới hạn trong việc sử dụng đất cho mục đích nông nghiệp, ngƣời nông dân

không đƣợc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất sang lĩnh vực khác. Mục tiêu

của các chính này này nhằm đảm bảo việc sử dụng hợp lý và quản lý đất đai

nói chung. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhà nƣớc ban hành các quy định về

quy hoạch sử dụng nguồn đất. Có thể kể đến các văn bản sau:

49

Luật Đất đai: Thời kỳ sau năm 1986, Luật đất đai đƣợc ban hành lần

đầu tiên năm 1987 xác định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nƣớc

thống nhất quản lý. Nhà nƣớc giao đất cho các nông trƣờng, lâm trƣờng, xí

nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và cá

nhân để sử dụng ổn định, lâu dài”. Năm 1993, Luật Đất đai mới thay thế cho

Luật Đất đai năm 1987 quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử

dụng đất thuộc về ngƣời sử dụng đất”. Năm 2003, Luật Đất đai 1993 đƣợc

thay thế bằng Luật Đất đai 2003, kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm

1993 và mở rộng hơn quyền cho ngƣời sử dụng đất nông nghiệp là hộ gia

đình và cá nhân gồm các vấn đề nhƣ thời hạn sử dụng đất đối với đất nông

nghiệp trồng cây hàng năm là 20 năm, đối với đất trồng cây lâu năm là 50

năm; hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm

muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 3 héc ta đối với mỗi loại đất.

Hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá

10 héc ta đối với các xã, phƣờng, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta

đối với các xã, phƣờng, thị trấn ở trung du, miền núi. Trƣờng hợp hộ gia đình,

cá nhân đƣợc giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất nuôi

trồng thủy sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao đất không quá 5 héc

ta. Luật cũng mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia

đình, cá nhân đáp ứng yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp

theo hƣớng hiện đại phù hợp với đƣờng lối phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ với diện tích lớn hơn (không quá 10 lần

hạn mức giao đất nông nghiệp). Luật quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu

hồi đất, bồi thƣờng, hỗ trợ tái định cƣ bảo đảm một cách công khai, minh

bạch và quyền lợi của ngƣời có đất thu hồi, đồng thời khắc phục một cách có

hiệu quả những trƣờng hợp thu hồi đất mà không đƣa vào sử dụng, gây lãng

phí, trong khi nông dân lại không có đất để sản xuất. Luật này cũng quy định

những trƣờng hợp đƣợc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất

phi nông nghiệp tại Điều 36, theo đó, khi chuyển đất nông nghiệp sang đất phi

50

nông nghiệp phải xin phép cơ quan có thẩm quyền và thực hiện nghĩa vụ tài

chính với Nhà nƣớc. Đối với các đất trồng cây nông nghiệp hàng năm mà

không đƣợc sử dụng trong thời gian từ 12 tháng trở lên sẽ bị thu hồi theo Điều

38 của Luật Đất đai 2013.

Năm 1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993

về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình sử dụng ổn định, lâu dài vào

mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định này đã xác định các vùng đất đƣợc

giao cho mục đích sản xuất nông nghiệp, thời hạn và diện tích giao. Tháng 10

năm 2001, chính phủ ban hành Nghị định số 68/2001/NĐ-CP nội dung nêu

các quy định về thẩm quyền và các căn cứ việc lập quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất.

Quốc hội khóa 13 đã ra Nghị quyết số 17/2011/QH13 ngày 22/11/2011

về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm

(2011-2015) cấp quốc gia. Theo đó, đến năm 2020, diện tích đất nông nghiệp

cả nƣớc là 26,732 triệu ha, diện tích đất trồng lúa là 3,812 triệu ha (14,26%),

diện tích đất chuyên trồng lúa nƣớc 2 vụ trở lên là 3,222 triệu ha (12,1%).

Năm 2012, ban hành Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 02/02/2012 của

Thủ tƣớng chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất

ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Theo đó, đến năm

2020, Đất sản xuất nông nghiệp năm 2020 là 9,59 triệu ha, trong đó đất lúa

3,812 triệu ha. Nhƣ vậy giữa 2 văn bản quy hoạch đất đai của Quốc hội và

Chính phủ đã có những sự khác nhau khi xác định tổng diện tích đất nông

nghiệp là khác nhau nhƣng diện tích trồng lúa vẫn bằng nhau.

Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về chiến lƣợc phát triển

bền vững giai đoạn 2011-2020 đƣa việc đảm bảo ANLT vào định hƣớng ƣu

tiên: “Đảm bảo an ninh lƣơng thực trên cơ sở bảo vệ 3,8 triệu hecta diện tích

đất lúa, đảm bảo nguồn cung lƣơng thực, nhu cầu dinh dƣỡng và khả năng

tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân”.

51

Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 quy định về quản lý, sử

dụng đất trồng lúa tại các vùng trồng lúa trên cả nƣớc, nghị định này cũng

nhắc đến điều kiện và thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa.

Ngoài ra, nghị định còn nhắc đến mức hỗ trợ tiền mặt nhằm bảo vệ và phát

triển diện tích đất trồng lúa: Hỗ trợ 500.000 đồng/ha/năm đối với tổ chức, hộ

gia đình, cá nhân sản xuất lúa trên đất chuyên trồng lúa nƣớc và 100.000

đồng/ha/năm trên đất lúa khác trừ đất lúa nƣơng tự mở rộng không theo quy

hoạch. Đối với các trƣờng hợp thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh hoặc với các

trƣờng hợp khai hoang, cải tạo đất sử dụng đất nhằm mục đích canh tác nông

nghiệp Nghị định này cũng đƣa ra mức hỗ trợ trên tỷ lệ chi phí bỏ ra.

Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 23/12/2009 về bảo đảm an ninh lƣơng thực

quốc gia đã đƣa quy hoạch đất lúa và lƣơng thực khác vào nhiệm vụ, giải

pháp chủ yếu cần thực hiện: “Đến năm 2020, bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha

để có sản lƣợng 41 - 43 triệu tấn lúa đáp ứng tổng nhu cầu tiêu dùng trong

nƣớc và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm; tăng diện tích trồng ngô lên

1,3 triệu ha, sản lƣợng 7,5 triệu tấn; diện tích trồng cây ăn quả 1,2 triệu ha,

sản lƣợng 12 triệu tấn; rau các loại 1,2 triệu ha, sản lƣợng 20 triệu tấn”.

Năm 2015, Chính phủ tiếp tục đƣa ra Nghị định số 35/2015/NĐ-CP

ngày 13/4/2015 về quản lý, sử dụng đất trồng lúa thay thế Nghị định

số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 về quản lý và sử dụng đất trồng lúa và có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015. Nghị định 35/2015/NĐ-CP có sự thay

đổi về mức hỗ trợ so với Nghị định 42/2012/NĐ-CP. Cụ thể: nâng mức hỗ trợ

từ 500.000 đồng lên hỗ trợ 1.000.000 đồng/ha/năm đối với đất chuyên trồng

lúa nƣớc và từ 100.000 đồng lên hỗ trợ 500.000 đồng/ha/năm đối với đất

trồng lúa khác, trừ đất lúa nƣơng đƣợc mở rộng tự phát không theo quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa. Đối với trƣờng hợp đất khai hoang,

theo Nghị định trƣớc đây sẽ hỗ trợ theo tỷ lệ chi phí mà tổ chức, cá nhân, hộ

gia đình đã bỏ ra thì theo Nghị định mới sẽ hỗ trợ tiền mặt 10.000.000

52

đồng/ha đất trồng lúa, hỗ trợ 5000.000 đồng/ha đối với đất trồng lúa nƣớc

đƣợc cải tạo từ đất trồng lúa 1 vụ hoặc đất nông nghiêp khác.

Trọng tâm chung của các chính sách kể trên là đảm bảo sử dụng đất

trồng lƣơng thực theo định hƣớng chính phủ mà chủ yếu là lúa nhằm đảm bảo

khả năng tự cung lƣơng thực. Mục tiêu các chính sách đặt ra là giữ 3,8 triệu

ha đất trồng lúa để đảm bảo sản lƣợng 41 đến 32 triệu tấn lúa đáp ứng yêu cầu

trong nƣớc và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm ngoài ra tăng diện tích và

sản lƣợng các cây lƣơng thực khác và rau màu. Luật Đất đai cũng quy định

trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc bảo vệ diện tích đất nông

nghiệp bằng quy định: khi nông dân muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất

thì phải xin phép cấp có thẩm quyền. Điều này góp phần kiểm soát quá trình

đô thị hóa. Một số nội dung chính trong chính sách này nhƣ: hạn chế tối đa

việc chuyển đất chuyên trồng lúa nƣớc sang sử dụng vào các mục đích phi

nông nghiệp trừ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích

công cộng và phải đƣợc phê duyệt. Đƣa ra phƣơng án hỗ trợ, khuyến khích

việc khai hoang, bảo vệ và phát triển đất trồng lúa. Hỗ trợ nông dân khi lúa bị

hƣ hỏng bởi dịch bệnh tự nhiên, hỗ trợ cho việc khai hoang, cải tạo đất lúa.

3.1.1.2. Chính sách hỗ trợ sản xuất lương thực

Nhằm duy trì lƣợng cung lƣơng thực nhất thiết đòi hỏi phải tăng cƣờng

trình độ sản xuất và áp dụng khoa học kỹ thuật. Hiện nay, Việt Nam định

hƣớng sản xuất lƣơng thực không những nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

trong nƣớc và xuất khẩu. Do vậy, nhóm chính sách này hƣớng đến mục tiêu

tăng cƣờng trình độ sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh cơ giới

hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa.

Điển hình cho nhóm chính sách này là các chính sách nhằm phát triển

cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm các hệ thống thủy lợi, hệ

thống đƣờng bộ, đầu tƣ cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Một số văn

bản chính sách về cơ sở hạ tầng nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói

53

riêng là: Pháp lệnh số 32/2001/PL-UBTVQH10 ngày 04/04/2001 về khai thác

và bảo vệ công trình thủy lợi; Quyết định số 1590/QĐ-TTg ngày 09/10/2009

về phê duyệt chiến lƣợc phát triển thủy lợi Việt Nam. Các chính sách này

nhằm tăng cƣờng hệ thống thủy lợi điều tiết lƣợng nƣớc, củng cố đê điều,

phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất nói chung. Chƣơng trình mục tiêu Quốc

gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020 đƣợc Chính phủ phê

duyệt cũng đƣa vào nội dung Phát triển cơ sở hạ tầng tại Nội dung số 02:

Hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng. Đến năm 2020, có 77% số xã đạt

chuẩn tiêu chí số 3 về thủy lợi.

Hệ thống khuyến nông đƣợc tổ chức từ Trung ƣơng đến địa phƣơng có

chức năng hƣớng dẫn kỹ thuật, tổ chức các lớp bồi dƣỡng, tập huấn về chuyển

giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, kiến thức sản

xuất an toàn, hợp tác xã nông nghiệp… Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là các

hoạt động khuyến nông đƣợc thực hiện bởi các trung tâm khuyến nông, cán

bộ khuyến nông ở các cấp. Các lớp đào tạo ngắn hạn nhằm tập huấn kỹ năng

cho ngƣời nông dân đƣợc tổ chức thƣờng xuyên và định kỳ theo kế hoạch của

các địa phƣơng. Các tài liệu, thông tin về sản xuất nông nghiệp đƣợc cung cấp

về các xã, phƣờng, đƣợc phổ biến cho ngƣời nông dân thông qua hội nông

dân và các hợp tác xã. Hiện tại, tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ƣơng đã có Trung tâm khuyến nông hoặc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến

ngƣ.

Trong giai đoạn 1992 – 2008, Chƣơng trình khuyến nông sản xuất lúa

lai F1 đã hƣớng dẫn, chuyển giao công nghệ sản xuất hạt lai thông qua mô

hình cho nông dân ở 26 tỉnh thành phố, diện tích lúa lai F1 tăng từ 173ha

(năm 1992) lên 1.500ha những năm 2006-2008, năng suất hạt giống từ

300kg/ha (1992) lên 2.500kg/ha những năm 2000. Giá thành hạt giống trong

nƣớc bằng 60% so với giống nhập khẩu, tự túc đƣợc khoảng 25% nhu cầu hạt

giống lúa lai.

54

Giai đoạn này cũng triển khai song song Chƣơng trình phát triển lúa lai

thƣơng phẩm đƣợc triển khai rộng khắp các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên.

Năng suất bình quân đạt 65 tạ/ha, cá biệt có nơi đạt 100 tạ/ha cao hơn lúa

thuần khoảng 10-15 tạ/ha.

Từ năm 1997, chƣơng trình khuyến nông phát triển lúa chất lƣợng tập

trung vào Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long cho đến nay

đã mở rộng ra tất cả các vùng nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu thụ gạo có chất

lƣợng ngày càng cao trong nƣớc và phục vụ xuất khẩu.

Chƣơng trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ hỗ trợ chuyển đổi

một phần diện tích lúa hiệu quả thấp sang trồng lƣơng thực, rau màu khác nhƣ

ngô, lạc, đậu tƣơng…hoặc chuyển đổi các mùa vụ phù hợp để có năng suất và

hiệu quả kinh tế cao hơn, giảm trừ dịch bệnh.

Chƣơng trình phát triển các cây lƣơng thực khác nhƣ Chƣơng trình phát

triển ngô lại đã nâng năng suất ngô từ 21,1 tạ/ha (năm 1995) lên gần 40 tạ/ha

(năm 2008). Chƣơng trình này đã góp phần hoàn thành sớm 3 năm mục tiêu 1

triệu ha ngô, sản lƣợng 4 triệu tấn (kế hoạch đến 2010).

3.1.2. Nhóm chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận lương thực

3.1.2.1. Chính sách lao động – việc làm, tăng thu nhập

Trong những năm qua, thu nhập đầu ngƣời của Việt Nam đã liên tục

đƣợc tăng lên giúp cải thiện về khă năng tiếp cận lƣơng thực. Tỷ lệ đói nghèo

và suy dinh dƣỡng của Việt Nam đã giảm đi. Theo UNDP, Việt Nam đã hoàn

thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói

vào năm 2002, sớm 13 năm so với mục tiêu đề ra.

Bảng 3.2: Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 1998 – 2015 (Đơn vị tính: %)

1998 2002 2004 2006 2008 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Cả nƣớc 37,4 28,9

18,1

15,5

13,4

14,2

12,6

11,1

9,8

8,4

7

9

6,6

8,6

7,7

6,7

6,9

5,1

4,3

3,7

3

2,5

Thành thị

Năm

55

44,9 35,6

21,2

18

16,1

17,4

15,9

14,1

12,7

10,8

9,2

Nông thôn

Nguồn: Tổng cục thống kê

Trong giai đoạn 1998 – 2015, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã liên tục

giảm, từ 37,4% vào năm 1998 xuống chỉ còn 7,0% vào năm 2015. Đối với

khu vực nông thôn tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 44,9% năm 1998 xuống còn

9,2% vào năm 2015.

Bảng 3.3: Cơ cấu chi tiêu dùng lƣơng thực, thực phẩm chia theo

thành thị, nông thôn. (Tính theo mức giá hiện hành).

Tiêu dùng gạo/tháng (Đơn vị: %)

Chung

Thành thị

Nông thôn

2002

25.30

14.8

31.4

2004

22.20

13

26

2006

20.70

12.6

28

2008

22.70

14.7

31.4

2010

15.70

10

19.7

2012

14.20

9.5

17.4

2014

12.70

8.6

15.8

Lƣơng thực khác (quy ra gạo)/tháng (Đơn vị: %)

Chung

Thành thị

Nông thôn

2002

2.80

2.6

2.9

2004

2.80

2.6

2.9

2006

2.80

2.6

2.9

2008

2.80

2.6

2.9

2010

2.80

2.6

2.9

2012

2.80

2.6

2.9

2014

2.80

2.6

2.9

Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014

– Tổng cục Thống kê

56

Tỷ trọng chi tiêu dành cho tiêu dùng thực phẩm trong tổng chi tiêu của

hộ gia đình cũng có những khả quan. Tỷ trọng chi tiêu gạo giảm từ 25,3%

năm 2002 xuống còn 12,7% năm 2014. Tỷ trọng mức chi tiêu lƣơng thực

trong tổng mức chi tiêu của hộ gia đình chính là một chỉ tiêu phản ánh quan

trọng của khả năng đảm bảo an ninh lƣơng thực, chỉ số này càng thấp thì an

ninh lƣơng thực càng cao. Điều này cho thấy, mức độ đảm bảo về ANLT của

ngƣời dân ngày càng đƣợc tăng lên. Các chính sách về tạo việc làm tăng thu

nhập, xóa đói – giảm nghèo đã góp phần mang lại hiệu quả này. Một số chính

sách đƣợc thực hiện trong thời gian qua nhƣ:

- Nghị quyết số Số: 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về Chƣơng trình

hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo

- Chiến lƣợc việc làm giai đoạn 2011-2020.

- Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2011-2015

- Nghị định số 61/2015/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ

quốc gia về việc làm.

- Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.

- Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (gọi tắt là

Đề án 1956).

Nhóm chính sách này thƣờng nằm trong nhóm chính sách chung về lao

động – việc làm của mỗi quốc gia có mục tiêu duy trì cơ cấu lao động phù

hợp nhằm phát triển kinh tế. Đối với mục tiêu đảm bảo an ninh lƣơng thực,

các chính sách lao động sẽ giải quyết các vấn đề về số lƣợng và chất lƣợng

của lực lƣợng lao động cho sản xuất lƣơng thực do đó sẽ liên quan các chính

sách về dân số, dịch chuyển lao động và đào tạo tay nghề cho lao động sản

xuất nông nghiệp. Mặt khác, các chính sách này giúp tạo ra việc làm, tăng thu

nhập cho ngƣời dân. Khả năng tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân tăng lên khi

thu nhập của họ gia tăng do khi thu nhập cao, mức giá lƣơng thực trở nên rẻ

đi tƣơng đối. Xu hƣớng hiện đại hóa đòi hỏi giảm dần tỷ trọng lao động trong

57

nông nghiệp chuyển- sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Do đó, chúng ta

cần phải đẩy nhanh quá trình dịch chuyển lao động này ra khỏi ngành nông

nghiệp. Tuy nhiên, để mục tiêu đảm bảo an ninh lƣơng thực vẫn đƣợc đảm

bảo ngay cả khi lao động trong ngành chỉ còn dƣới 20% thì đòi hỏi phải có

chính sách nhằm đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao năng lực, năng suất lao động

cho lực lƣợng này. Theo Báo cáo Điều tra lao động việc làm năm 2013 thì tỷ

lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo năm 2013 ở khu vực nông thôn chỉ

đạt 11,2% so với 33,7% ở khu vực đô thị. Hầu hết lao động nông thôn không

có trình độ chuyên môn kỹ thuật (chiếm 88,5%) so với 66,1% ở khu vực đô

thị.

Bảng 3.4: Số lƣợng, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong

nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo ngành kinh tế (*)

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Sơ bộ 2015

14,8

14,6

15,4

16,6

17,9

18,2

19,9

Tỷ lệ tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nƣớc (%)

lệ LĐ

3,9

2,4

2,7

3,0

3,5

3,6

4,2

Tỷ Nông lâm nghiệp, nghiệp và thủy sản đã qua đào tạo (%)

24.605,9 24.279,0 24.362,9 24.357,2 24.399,3 24.408,7 23.450,9

Số lƣợng LĐ ngành nông, lâm, thủy sản (nghìn ngƣời)

47.743,6 49.048,5 50.352,0 51.422,4 52.207,8 52.744,5 52.886,6

Số lƣợng LĐ cả nƣớc(nghìn ngƣời)

58

959,6

582,7

657,8

730,7

854,0

878,7

984,9

Số lƣợng LĐ ngành nông, lâm, thủy sản đã qua đào tạo(nghìn ngƣời)

7.066,1

7.161,1

7.754,2

8.536,1

9.345,2

9.599,5

10.524,4

Số lƣợng LĐ cả nƣớc đã qua đào tạo(nghìn ngƣời)

(*) Số lượng lao động cả nước và của ngành nông, lâm, thủy sản đã qua đào tạo được tác giả tính toán dựa trên số liệu về tổng số lao động và tỷ lệ lao động qua đào tạo của Tổng cục thống kê.

Theo số liệu trên, số lƣợng lao động đã qua đào tạo của nhà nƣớc đã

tăng lên đáng kể, từ 7.066,1 nghìn ngƣời năm 2009 lên 10.524,4 nghìn ngƣời

năm 2015. Nhƣng lao động đã qua đào tạo của ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp

chỉ tăng từ 959,6 năm 2009 lên 984,9 năm 2015 (tăng 25,3 ngàn ngƣời).

Chúng ta đã có một số chính sách nhằm tăng cƣờng đào tạo đối với lao

động nông, lâm ngƣ nghiệp nhƣ:Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá X về nông nghiệp,

nông dân, nông thôn. Theo đó, đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông

thôn hoá là: “Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản

xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận

con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung

đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành

chƣơng trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực,

đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt

việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề”. Để thực hiện chủ trƣơng này, Chính

phủ đã ban hành Quyết định Số: 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 Phê duyệt

Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” nhằm mục tiêu

tăng cƣờng đào tạo cho lao động nông thôn, góp phần nâng cao trình độ của

59

đối tƣợng này và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng hiện đại. Mục tiêu

cơ bản của Đề án là phấn đấu đào tạo nghề bình quân khoảng 1 triệu lao động

nông thôn/năm; nâng cao chất lƣợng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc

làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao

động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn. Nguồn lực của Đề án không chỉ tập trung hỗ trợ cho

ngƣời học nghề mà còn đầu tƣ nâng cấp cơ sở vật chất mạng lƣới các cơ sở

đào tạo nghề, chăm lo đội ngũ giảng viên, phát triển các trung tâm hƣớng

nghiệp, giới thiệu việc làm.

Cùng với định hƣớng công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam là

sự dịch chuyển của lao động giữa các ngành nghề theo xu hƣớng này: Giảm

dần tỷ trọng lao động lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp và tăng tỷ trọng trong

lĩnh vực Dịch vụ.

Bảng 3.5: Số lƣợng và tỷ trọng lao động chia theo khu vực kinh tế

giai đoạn 2005 – 2015.

Năm

Tổng số

Dịch vụ

Công nghiệp và xây dựng

Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Nghìn người

Số lượng (nghìn người)

Tỷ trọng (%)

Số lượng (nghìn người)

Tỷ trọng (%)

Số lượng (nghìn người)

Tỷ trọng (%)

2005

42.774,9 23.563,2

55,1

7.524

17,6

1.1687,7

27,3

2007

45.208,0 23.931,5

52,9

8.565,3

18,9

12.711,2

28,1

2008

46.460,8 24.303,4

52,3

8.985,5

19,3

13.171,9

28,4

2009

47.743,6 24.605,9

51,5

9.561,6

20,0

13.576,1

28,4

2010

49.048,5 24.279,0

49,5

10.277,0

21,0

14.492,5

29,5

2011

50.352,0 24.362,9

48,4

10.718,8

21,3

15.270,3

30,3

2012

51.422,4 24.357,2

47,4

10.896,4

21,2

16.168,8

31,4

2013

52.207,8 24.399,3

46,7

11.086,0

21,2

16.722,6

32,0

2014

52.744,5 24.408,7

46,3

11.229,1

21,3

17.106,7

32,4

60

52.886,6 23.450,9

44,3

12.080,4

22,8

17.355,3

32,8

Ƣớc tính 2015

Nguồn: Theo Báo cáo năng suất lao động của Việt Nam: Thực trạng và

giải pháp năm 2016 của Tổng cục thống kê

Xét về mặt số lƣợng: lao động trong các ngành kinh tế đều tăng lên,

điều này có thể giải thích do sự gia tăng dân số Việt Nam dẫn đến số lƣợng

lao động từ 15 tuổi tăng lên. Xét riêng ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp: sau 10

năm từ 2004 đến 2014 lao động ngành này tăng thêm là 845,5 nghìn ngƣời

nhƣng tỷ trọng lao động trong giai đoạn này lại giảm đi từ mức chiếm 55,1%

tổng số lao động xuống còn 44,3% lao động làm việc trong ngành nông

nghiệp. Điều này có thể phản ánh một phần sự gia tăng của dân số, của tổng

số lao động giai đoạn này không tƣơng đƣơng với mức gia tăng lao động

riêng từng ngành nghĩa là đã có sự dịch chuyển lao động từ ngành nông, lâm,

ngƣ nghiệp sang các ngành khác.

Biểu đồ sau biểu diễn sự thay đổi của số lƣợng lao động trong ngành

nông, lâm, ngƣ nghiệp qua các năm. Mức thay đổi đƣợc tính bằng hiệu số lao

động năm sau và năm trƣớc. Có thể thấy trong giai đoạn 2005 – 2009, số

lƣợng lao động trong nông nghiệp liên tục tăng qua các năm, giảm mạnh

trong giai đoạn 2010 – 2011 sau đó tăng lên nhƣng chậm chạp giai đoạn 2011

– 2014, đặc biệt dự báo lao động nông nghiệp giảm mạnh trong năm 2015

2016. Xét về cơ cấu lao động sẽ thấy có sự suy giảm liên tục về tỷ trọng lao

động nông, lâm, ngƣ nghiệp trong cả giai đoạn 2005 – 2015.

Biểu đồ 3.1: Sự thay đổi về số lƣợng và tỷ trọng lao động nông

nghiệp trong ngành kinh tế

61

Tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm, ngƣ nghiệp của Việt Nam

có xu hƣớng giảm đi từ 62,2% vào năm 2000 xuống còn 49,5% vào năm 2010

và xuống 46,3% vào năm 2014. Trong khi tỷ trọng lao động trong 2 khu vực

còn lại tăng lên qua các năm. Dự kiến xu hƣớng này sẽ còn tiếp tục mạnh mẽ

khi nền kinh tế ngày càng phát triển. Điều này đồng nghĩa với việc có một số

lƣợng lớn lao động rời khởi lĩnh vực nông nghiệp, không còn tham gia sản

62

xuất lƣơng thực. Đây là hiện tƣợng tất yếu và phù hợp với định hƣớng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang hƣớng đến nhƣng lại làm giảm lực

lƣợng lao động sản xuất lƣơng thực. Trên thực tế, không phải quốc gia nào có

lực lƣợng lao động trong nông nghiệp đông đảo cũng đảm bảo an ninh lƣơng

thực tốt hơn các nƣớc có ít lao động tham gia lĩnh vực này. Sản lƣợng lƣơng

thực đạt đƣợc còn phụ thuộc vào diện tích canh tác và năng suất lao động.

3.1.2.2. Các chính sách hỗ trợ, trợ cấp lương thực và trợ cấp thu nhập

Những biện pháp này chủ yếu đƣợc chính phủ đƣa ra sử dụng đối với

các khu vực miền núi có giao thông khó khăn với đối tƣợng là hộ nghèo, hộ

cận nghèo, các khu vực bị thiên tai khó tiếp cận nguồn lƣơng thực. Hỗ trợ

lƣơng thực trong chính sách trợ giúp xã hội đƣợc quy định tại Điều 12 Nghị

định 136/2013/NĐ-CP quy định về chính sách trợ giúp xã hội. Theo đó, quy

định cụ thể về mức hỗ trợ lƣơng thực, trƣờng hợp đƣợc xét hỗ trợ. Đối tƣợng

đƣợc xét cấp hỗ trợ là hộ gia đình thiếu đói trong và sau thiên tai, hỏa hoạn,

mất mùa, giáp hạt hoặc lý do bất khả kháng khác. Nhƣ vậy, những chỉ đạo

chính sách này đƣợc sử dụng không thƣờng xuyên mà căn cứ vào tình hình

thực tế. Thông thƣờng, các tỉnh xảy ra thiên tai, mất mùa…sẽ căn cứ tình hình

địa phƣơng để đề xuất lên chính phủ xin hỗ trợ gạo cho ngƣời dân. Chính phủ

căn cứ trên đề xuất của địa phƣơng quyết định mức trợ cấp phân bổ gạo cho

địa phƣơng.

Ngoài ra, đối tƣợng thƣờng xuyên hơn của chính sách này là các đối

tƣợng ngƣời trong danh sách nghèo, cận nghèo của các địa phƣơng với những

mức hỗ trợ khác nhau. Hiện nay, hỗ trợ của Nhà nƣớc cho đối tƣợng này

thƣờng đƣợc quy ra tiền mặt, hỗ trợ trực tiếp hàng tháng cho các đối tƣợng,

mức hỗ trợ đƣợc tính toán dựa trên nhu cầu chi tiêu tối thiểu của con ngƣời

bao gồm lƣơng thực thực phẩm và dịch vụ sinh hoạt.

3.1.2.3. Xây dựng kênh phân phối lương thực

63

Để việc tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân một cách dễ dàng đòi hỏi

cần có hệ thống phân phối lƣơng thực nhƣ: hệ thống đƣờng sá phát triển cho

sự thuận tiện trong giao thông, các cửa hàng bán lƣơng thực, chợ, siêu thị. Cải

cách thƣơng mại định hƣớng thị trƣờng đƣợc bắt đầu vào năm 1986, tiếp theo

đó là một loạt cải cách thƣơng mại vào những năm 1990 – 2000. Năm 1998,

Chính phủ ra Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 về việc bãi bỏ

giấy phép thƣơng mại. Nghị định này quy định tất cả các doanh nghiệp trong

nƣớc đƣợc phép tự do buôn bán hàng hóa trừ những doanh nghiệp bị cấm

hoặc chịu sự quản lý đặc biệt.

Hiện nay, nhiệm vụ về cân đối cung cầu lƣơng thực nhất là cho thị

trƣờng trong nƣớc đƣợc giao trách nhiệm chính cho hai Tổng công ty lƣơng

thực, đó là Tổng công ty lƣơng thực Miền Bắc và Tổng công ty lƣơng thực

Miền Nam. Tuy nhiên, thƣơng lái gạo và các hộ bán lẻ tƣ nhân lại giữa vai trò

quan trọng trong việc cung cấp gạo cho ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên, hệ thống

kênh phân phối này đƣợc hình thành một cách tự phát, chƣa đƣợc tổ chức một

cách chặt chẽ, thiếu sự liên kết giữa các thành viên. (Lƣu Thanh Đức Hải,

2005). Theo nghiên cứu của tác giả Lƣu Thanh Đức Hải về hệ thống phân

phối gạo ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đƣợc thể hiện dƣới đây: hệ

thống bán lẻ tƣ nhân phân phối tới 28,8% lƣợng gạo sản xuất phục vụ tiêu thụ

trong nƣớc, 14,2% là qua các công ty lƣơng thực nhà nƣớc, 0,3% thông qua

hệ thống bán sỉ tƣ nhân, 56,7% lƣợng gạo sản xuất đƣợc dùng cho xuất khẩu.

64

Hình 3.1: Kênh phân phối gạo trên thị trƣờng ĐBSCL

Nguồn: Nghiên cứu của tác giả Lưu Thanh Đức Hải: Chi phí

marketing và hệ thống phân phối lúa gạo của Đồng bằng sông Cửu Long

Đối với thị trƣờng lƣơng thực trong nƣớc, ngƣời dân tại các tỉnh miền

đồng bằng thƣờng có khả năng tiếp cận lƣơng thực dễ dàng. Các tỉnh miền

núi và Tây Nguyên do điều kiện khó khăn về đƣờng xá nên hệ thống chợ

phân bố lẻ tẻ, số lƣợng ít, hàng hóa ít đa dạng, ngƣời dân chủ yếu sử dụng

lƣơng thực do gia đình tự sản xuất. Mức độ ổn định về nguồn cung lƣơng

thực phụ thuộc vào khả năng bảo quản, tích trữ lƣơng thực của các hộ dân,

tình hình thời tiết, dịch bệnh. (Nguyễn Viết Đăng và cộng sự, 2014).

Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn

2016 – 2020 của Chính phủ phê duyệt ngày 16/8/2016 đã đƣa nội dung về xây

dựng chợ dân sinh vào Nội dung số 06: Hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn,

cơ sở hạ tầng thƣơng mại nông thôn theo quy hoạch, phù hợp với nhu cầu của

65

ngƣời dân. Nguồn ngân sách cho việc xây dựng hệ thống chợ này đƣợc lấy từ

ngân sách Trung ƣơng và địa phƣơng là chủ yếu.

3.1.3. Nhóm chính sách tăng cường vệ sinh an toàn thực phẩm

Trong đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung và đối với lƣơng

thực nói riêng, từ Trung ƣơng đến cấp địa phƣơng Việt Nam đã có nhiều

chính sách điều chỉnh. Theo (Tran Cong Thang, Dinh Thi Bao Linh, 2015),

nhóm chính sách của Trung ƣơng đối với lĩnh vực này đƣợc chia ra nhƣ sau:

- Các chính sách để thực hiện Luật An toàn thực phẩm: nhƣ Luật An toàn

thực phẩm đƣợc ban hành năm 2010. Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ban

hành năm 2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn

thực phẩm.

- Chính sách về tổ chức, kiểm tra, giám sát quy trình vệ sinh an toàn thực

phẩm.

- Chính sách tăng cƣờng sản xuất và phát triển thị trƣờng đối với thực

phẩm an toàn

Đối với mặt hàng lƣơng thực cụ thể là gạo, ngô, khoai, sắn, nguy cơ mất

an toàn vệ sinh thực phẩm lƣợng chủ yếu tồn dƣ thuốc bảo vệ thực phẩm

trong sản phẩm. Trƣớc đây, chúng ta chú trọng vào gia tăng sản lƣợng lƣơng

thực, theo đuổi mục tiêu đứng trong số 3 nƣớc xuất khẩu gạo lớn nhất thế

giới. Chính sách đƣa ra là chủ trƣơng cho nông dân độc canh 3 vụ lúa. Khi

độc canh đến 3 vụ lúa/năm sẽ làm cạn kiệt dinh dƣỡng trong đất đai, dẫn đến

nông dân phải sử dụng nhiều phân bón hơn trong sản xuất khiến cho sâu bệnh

nhiều. Sâu bệnh nhiều thì việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật lại tràn lan làm

cho chất lƣợng lúa gạo càng khó kiểm soát. Chính vì vậy, theo các số liệu

đƣợc công bố: trong 4 tháng đầu năm 2016 đã có 95 container (tƣơng đƣơng

hơn 1.700 tấn) gạo xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị trả về, chủ yếu là gạo thơm

jasmine, gạo tấm jasmine, gạo lứt và gạo trắng chất lƣợng cao. Tính từ năm

66

2012 đến tháng 8/2016 thì đã có tới 412 container với gần 10.000 tấn gạo của

16 doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trƣờng này bị trả về. Lí do

các lô gạo xuất khẩu này bị trả về là do tồn dƣ của 8 hoạt chất vƣợt mức cho

phép (các hoạt chất này có mặt trong thuốc bảo vệ thực vật chống các bệnh

rầy nâu, đạo ôn, sâu đục thân…). Trƣớc đó, các lô gạo xuất sang thị trƣờng

Nhật Bản cũng nhiều lần bị trả về tuy nhiên số liệu cụ thể không đƣợc công

bố. Các lô gạo bị trả về không đƣợc tiêu hủy ngay mà đƣợc các doanh nghiệp

xuất khẩu mang lại về trong nƣớc. Nếu theo đúng quy trình số gạo này phải

đƣợc mang kiểm định lại xem có đủ với tiêu chuẩn trong nƣớc hay không,

nếu đủ sẽ đƣợc mang tiêu thụ trong nƣớc, nếu không bắt buộc phải tiêu hủy.

Tuy nhiên, theo nhận định của GS.TS Võ Tòng Xuân thì quy trình này lỏng

lẻo dễ gây những lỗ hổng để doanh nghiệp tuồn số hàng này ra tiêu thụ nội

địa gây nguy cơ mất an toàn cho ngƣời tiêu dùng trong nƣớc.

Xảy ra tình trạng này một phần do nguyên nhân thông tin Nhà nƣớc

cung cấp cho ngƣời dân về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật còn thấp, không

hiệu quả, trình độ tiếp cận thông tin của nông dân còn hạn chế. Đa phần việc

sử dụng thuốc của ngƣời dân do tự phát, không đúng liều lƣợng quy định,

nhiều khi không cần thiết vẫn phun xịt thuốc. Nhiều loại thuốc bảo vệ thực

vật trên thế giới đã cấm nhƣng Việt Nam vẫn cho phép sử dụng. Khi xảy ra

dịch bệnh thiếu sự can thiệp kịp thời của cơ quan chức năng.

3.1.4. Nhóm biện pháp đối phó khi xảy ra khủng hoảng lương thực.

Đây là các chính sách đƣợc đƣa ra trong điều kiện nguy cơ mất an ninh

lƣơng thực tăng cao, mục tiêu là nhanh chóng chặn đứng tình trạng mất an

ninh về lƣơng thực. Nguy cơ mất an ninh lƣơng thực xảy ra cấp bách khi: mất

mùa, biến đổi khí hậu, năng lực sản xuất nội địa đột ngột suy giảm mà không

có nguồn cung nhập khẩu thay thế.

Nhằm đối phó tình trạng đột ngột giảm nguồn cung lƣơng thực gây nên

những hoảng loạn trên thị trƣờng. Nhà nƣớc có chủ trƣơng xây dựng hệ thống

67

kho lƣu trữ nông sản, Chính sách về xây dựng kho dự trữ lúa gạo nhƣ Quyết

định số 3242/QĐ-BNN-CB ngày 02/12/2010 về phê duyệt quy hoạch hệ

thống dự trữ 4 triệu tấn lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long. Các kho dự trữ này

chịu trách nhiệm trong việc thu mua lƣơng thực của nông dân trong trƣờng

hợp sản lƣợng lúa gạo tăng làm giảm giá bán. Các kho sẽ thu mua lại lƣơng

thực do đó làm giảm cung trên thị trƣờng và đẩy giá lƣơng thực lên giúp đảm

bảo lợi nhuận cho ngƣời nông dân. Khi tình trạng mất mùa xảy ra, lƣợng cung

lƣơng thực trên thị trƣờng giảm xuống dẫn đến giá lƣơng thực tăng cao, khả

năng tiếp cận lƣơng thực của những hộ có thu nhập thấp dần bị đe dọa, các

kho dự trữ lại có nhiệm vụ xả kho giúp ổn định nguồn cung trên thị trƣờng.

Trong trƣờng hợp xảy ra nguy cơ mất an ninh lƣơng thực chúng ta sẽ

phải lựa chọn ƣu tiên cho việc đảm bảo ANLT trong nƣớc chứ không phải

mục tiêu xuất khẩu. Chính vì vậy, khi tình huống này xảy ra nhƣ vào năm

2008, chính phủ sẽ đƣa ra quyết định hủy các hợp đồng xuất khẩu lƣơng thực.

3.2.Tình hình tổ chức thực hiện chính sách

3.2.1. Bộ máy thực hiện chính sách

Theo Nghị quyết 63/NQ-CP về Đảm bảo ANLT quốc gia: Bộ NN &

PTNT có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành, UBND các tỉnh thành phố

trực thuộc trung ƣơng tổ chức các hoạt động cụ thể, hƣớng dẫn lập kế hoạch

thực hiện, hƣớng dẫn kiểm tra, giám sát. Nhƣ vậy việc điều hành thực hiện và

hƣớng dẫn thực hiện đều do Bộ NN & PTNT chủ trì. Hiện tại, các chính sách

của chúng ta đang đƣợc giao cho các Bộ thực hiện các nhiệm vụ thuộc chức

năng mình. Tuy nhiên, thiếu một cơ chế điều hành chung, thiếu cơ chế phối

hợp dẫn đến việc chồng chéo nhiệm vụ nhƣng phân tách quyền hạn và không

huy động đƣợc các bộ, ban, ngành khác vào thực hiện. Chính sách đảm bảo

ANLT đòi hỏi không những đảm về khả năng đảm bảo cung lƣơng thực, mà

còn về khả năng phân phối, trình độ lực lƣợng sản xuất, thu hút đầu tƣ, hỗ trợ

của nhà nƣớc…do đó đòi hỏi sự phối hợp của rất nhiều bộ ngành khác nhau.

68

Theo Nghị quyết 63 ban hành năm 2009 giao Bộ Nội vụ nghiên cứu đề xuất

việc thành lập Ủy ban ANLT quốc gia do một Phó Thủ tƣởng đứng đầu

nhƣng đến hiện nay năm 2017 chúng ta vẫn chƣa có Ủy ban này. Việc kiểm

tra, giám sát thực hiện chính sách cũng đƣợc giao cho Bộ NN & PTNT hƣớng

dẫn thực hiện là không hợp lý, không đảm bảo tính khách quan cho việc kiểm

tra, giám sát. Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách chƣa chú ý đến

các nguồn lực (con ngƣời, kinh phí, điều kiện vật chất, thời gian) để thực hiện

chính sách.Theo quy trình hiện nay, Kế hoạch đƣợc dự thảo bởi một bộ phận

chuyên môn mà thiếu sự bàn bạc, thống nhất giữa các bộ phận khác nhau.

Dẫn đến đƣa ra Kế hoạch không phù hợp khả năng thực tiễn (về số lƣợng

ngƣời thực thi, chi phí thực hiện, thời gian các bƣớc trong quy trình thực

hiện…). Tồn tại tình trạng cố tình xây dựng chính sách theo hƣớng có lợi cho

Đặc biệt là khâu phân công, phối hợp thực hiện chính sách chƣa hợp

bộ phận của mình làm méo mó công cụ và mục tiêu chính sách.

lý, còn biểu hiện của tính cục bộ, không đề cao trách nhiệm, tinh thần phối kết

hợp giữa các cơ quan hữu quan trong tổ chức thực hiện chính sách. Biểu hiện

của tính cục bộ nhƣ đẩy việc, đẩy trách nhiệm cho cơ quan khác, không lấy

việc hoàn thành nhiệm vụ chung thành mục tiêu phấn đấu mà chỉ chú ý đến

lợi ích khi xây dựng và thực thi chính sách. Thiếu cơ chế phối hợp cũng dẫn

đến thiếu cơ chế xử lý đối với các trƣờng hợp thiếu ý thức trách nhiệm trong

phối hợp thực thi nhiệm vụ. Đối với nhiệm vụ đảm bảo ANLT, việc thiếu cơ

quan thƣờng trực và ngƣời có quyền hạn đứng đầu cũng dẫn đến việc xử lý vi

phạm trở nên khó khăn khi không Bộ, ngành nào nhận trách nhiệm về phía

mình, thiếu kiểm tra, giám sát, thiếu xử lý nghiêm dẫn đến hiệu quả thực thi

chính sách không đạt đƣợc.

Ví dụ việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của chúng ta chịu sự

quản lý của ba Bộ: Bộ NN & PTNT, Bộ Y tế, Bộ Công thƣơng, xử lý vi phạm

vệ sinh an toàn thực phẩm thậm chí cần thêm Bộ Công an. Nhƣng trên thực tế

69

sự phối hợp này bộc lộ những bất cập, thiếu hiệu quả, dẫn đến tình hình vệ

sinh an toàn thực phẩm không kiểm soát đƣợc nhƣ hiện nay.

Về nhân lực thực hiện chính sách: việc thực hiện chính sách đƣợc giao

cho các cán bộ, công chức công tác trong các cơ quan nhà nƣớc tại các bộ,

ngành liên quan. Hiện nay, cơ chế chuyển tuyển dụng không minh bạch cộng

với chế độ lƣơng, thƣởng thấp là một rào cản cho việc tuyển dụng và giữ các

cán bộ có chất lƣợng cao. Việc thực hiện một chính sách thành công hay

không phụ thuộc lớn vào chất lƣợng của đội ngũ thực thi. Hiện nay, chất

lƣợng năng lực cán bộ, công chức nhìn chung còn thấp, thái độ trong thực thi

công vụ của một bộ phận cán bộ còn thiếu khách quan, không tích cực dẫn

đến chính sách thực hiện bị méo mó, mục tiêu chính sách là không đạt đƣợc.

Công tác đào tạo bổ sung năng lực cho cán bộ chƣa thực hiện thƣờng xuyên

và có hiệu quả.

3.2.2. Các nguồn lực tài chính thực hiện chính sách

Nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách đƣợc lấy từ ngân sách

nhà nƣớc, nguồn vốn tín dụng, vốn doanh nghiệp và một phần nhỏ từ cộng

đồng dân cƣ. Giai đoạn 2006 – 2008, bình quân vốn đầu tƣ cho nông nghiệp,

nông thôn là 48.858 tỷ đồng/năm, trong đó 45,2% là từ nguồn vốn ngân sách

nhà nƣớc và trái phiếu chính phủ.

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân,

nông thôn thể hiện chủ trƣơng tăng cƣờng phát triển cho lĩnh vực này. Chính

phủ đã ban hành các Nghị định 41/2010/NĐ-CP, Nghị định 61/2010/NĐ-CP

nhằm khuyến khích đầu tƣ vào nông nghiệp, nông thôn. Tổng vốn đầu tƣ cho

nông nghiệp đƣợc tăng lên 90.006 tỷ đồng vào năm 2009, 94.754 tỷ đồng vào

năm 2010, 100.615 tỷ đồng vào năm 2011. Nguồn vốn này đƣợc chi cho phát

triển sản xuất nông nghiệp là 153.548 tỷ đồng, chi cho xóa đói giảm nghèo ở

nông thôn là 279.240 tỷ đồng. (Vƣơng Đình Huệ, 2013)

70

Nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này đƣợc mở rộng và tăng cƣờng. Giai

đoạn 2006 – 2011 tổng giá trị vốn ODA đƣợc ký kết là 26,897 tỷ USD, trong

đó 94% là vốn vay ƣu đãi. (Vƣơng Đình Huệ, 2013)

3.2.3. Triển khai chính sách trong thực tế

Các chính sách đảm bảo ANLT đƣợc triển khai theo ngành dọc từ

Trung ƣơng đến ban, ngành, các địa phƣơng. Việc triển khai thực hiện theo

đƣờng công văn và thông qua một số hội nghị quán triệt thực hiện. Tuy nhiên,

việc triển khai thực hiện chính sách hiện nay còn phụ thuộc nhiều vào trình độ

của cán bộ. Trình độ cán bộ dẫn đến các cách hiểu khác nhau đối với chính

sách, trong quá trình thực hiện chính sách lại dẫn đến những vƣớng mắc, điều

chỉnh việc thực hiện.

Hiện nay, việc xây dựng chính sách và kiểm tra thực hiện đƣợc giao

trách nhiệm chính cho Bộ NN & PTNT. Ở cấp tỉnh có các Sở NN&PTNT là

cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Các sở này chịu trách nhiệm thực thi

chính sách ở mỗi địa phƣơng cấp tỉnh và chịu chỉ đạo chuyên môn của Bộ

NN&PTNT. Đối với cấp huyện có Phòng NN&PTNT chịu trách nhiệm về

thực thi chính sách ở cấp huyện. Đối với các thị xã, quận của các tỉnh, thành

phố thì trách nhiệm này đƣợc giao cho Phòng Kinh tế. Đối với cấp xã,

phƣờng, không có cơ quan chuyên môn thực thi về lĩnh vực nông nghiệp mà

UBND xã, phƣờng chịu trách nhiệm thực thi từng nhiệm vụ cụ thể do cấp trên

(mà trực tiếp là Phòng NN&PTNT huyện, phòng Kinh tế quận) chỉ đạo.

Nhằm thực hiện mục tiêu về đảm bảo ANLT theo Nghị quyết 63 cần

đồng thời thực hiện các nhiệm vụ về quy hoạch và bảo vệ đất lúa, tăng thu

nhập cho ngƣời nông dân, tăng khả năng tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân,

đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm… Quá trình triển khai văn bản từ cấp

Trung ƣơng đến địa phƣơng thực hiện qua nhiều bƣớc nhƣng hầu hết không

do cán bộ chuyên môn hƣớng dẫn thực hiện mà thông thƣờng do ngƣời đứng

đầu các địa phƣơng mà cụ thể là Chủ tịch, Phó Chủ tịch các tỉnh, huyện, xã

71

triển khai tại các hội nghị quán triệt. Tại các hội nghị này, đối tƣợng đƣợc

tham dự là ngƣời đứng đầu các ban, ngành liên quan, ngƣời đứng đầu các địa

phƣơng cấp dƣới. Sau hội nghị các đối tƣợng này tiếp tục thực hiện việc triển

khai nội dung chính sách tại cơ quan mình. Vấn đề thực hiện xảy ra ở khâu

này, khi ngƣời đứng đầu các địa phƣơng có thể không đƣợc đào tạo, không

thuộc chuyên môn trong lĩnh vực của chính sách mà cụ thể ở đây là đảm bảo

ANLT. Do đó, thông tin mà các cá nhân nắm đƣợc qua các hội nghị có thể

không đầy đủ. Việc truyền tải thực thi tại cơ quan của họ một lần nữa làm thất

thoát các thông tin. Điều này góp phần dẫn đến việc thực hiện các mục tiêu

chính sách không đạt nhƣ mong muốn.

Ngoài cách triển khai bằng các hội nghị quán triệt, các văn bản chính

sách còn đƣợc triển khai bằng đƣờng công văn, thông qua việc gửi văn bản

chỉ đạo cho cấp dƣới, các cơ quan cấp trên chỉ đạo việc thực thi bằng các kế

hoạch, thông báo, công văn… So với cách triển khai thực hiện bằng các hội

nghị, cách này sẽ mang đến sự thất thoát thông tin lớn hơn nữa.

Đối với bƣớc đƣa chính sách vào thực hiện trong thực tế. Các đối tƣợng

đƣợc giao thực hiện chính sách rất đa dạng về cả nhiệm vụ, chức năng và cả

trình độ, thái độ trong thực thi công vụ. Với các sở, phòng NN & PTNT, các

văn bản chính sách đƣợc giao dự thảo bởi các cán bộ ít nhất đƣợc đào tạo về

chuyên ngành nông nghiệp. Tuy nhiên ở UBND các tỉnh, huyện, xã đang tồn

tại thực trạng việc dự thảo các văn bản nhƣ kế hoạch thực hiện, chƣơng trình

công tác, công văn chỉ đạo…hoặc thực thi trong thực tế còn đƣợc giao cho bộ

phận văn phòng hoặc các cán bộ kiêm nhiệm thực hiện. Sự không đảm bảo về

mặt chuyên môn, không ý thức rõ nhiệm vụ cần làm, không yêu cầu gắn chặt

trách nhiệm với hiệu quả công việc dễ dẫn đến việc thực thi các chính sách

không đảm bảo mục tiêu đề ra.

72

3.2.4. Thanh kiểm tra, tổng kết, điều chỉnh chính sách.

Việc tổ chức kiểm tra việc thực hiện chính sách nông nghiệp và ANLT

đƣợc tổ chức định kỳ hoặc đột xuất theo kế hoạch công bố trƣớc. Bộ NN &

PTNT chịu trách nhiệm hƣớng dẫn việc kiểm tra này.

Hiện nay, phƣơng thức kiểm tra chủ yếu vẫn theo quy trình:

(1) Thông báo kế hoạch kiểm tra cho các đơn vị đƣợc kiểm tra

(2) Đơn vị đƣợc kiểm tra chuẩn bị báo cáo

(3) Tại buổi kiểm tra đơn vị kiểm tra sẽ nghe đơn vị đƣợc kiểm tra báo

cáo tình hình và đƣa ra kết luận đánh giá trực tiếp tại hội nghị kiểm tra.

(4) Đơn vị kiểm tra gửi kết luận kiểm tra và yêu cầu các nhiệm vụ cần

thực hiện đến đơn vị kiểm tra bằng văn bản.

Việc đánh giá chủ yếu vẫn dựa trên các nguồn số liệu do đơn vị đƣợc

kiểm tra cung cấp. Số cuộc kiểm tra đột xuất còn ít, kiểm tra tại thực địa còn

hạn chế. Kết quả cuộc kiểm tra hầu hết không đƣợc công khai mà chỉ đƣợc

gửi đến các đơn vị bị kiểm tra cùng với kết luận kiểm tra. Kiểm điểm sai sót

còn mang tính hình thức chứ chƣa đi vào thực chất.

Các số liệu về thực hiện chính sách đảm bảo ANLT không đƣợc công

bố đầy đủ, công khai rộng rãi. Các số liệu đƣợc cung cấp còn rời rạc, không

mang tính hệ thống nên khó khăn cho sự so sánh, đánh giá kết quả thực hiện

qua các năm. Hiện tại, số cuộc điều tra khảo sát thu thập số liệu thực tế của

chúng ta còn hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực đảm bảo ANLT do kinh phí hạn

hẹp, số liệu và trình độ cán bộ thống kê còn yếu. Số liệu thu thập đƣợc còn

mang tính thực tế không cao khi thu thập bởi các báo cáo của cấp dƣới đối với

cấp trên. Do đó, thƣờng tồn tại tình trạng số liệu không chân thực và khó nắm

bắt. Các cơ chế giám sát chéo giữa các cơ quan và giữa ngƣời dân đối với cơ

quan nhà nƣớc cũng chƣa đƣợc thực thi có hiệu quả.

73

3.3. Đánh giá chính sách đảm bảo ANLT ở Việt Nam

Những năm qua, chính sách nông nghiệp nói chung và chính sách

ANLT đã đạt đƣợc những thành tựu trong việc nâng cao sản lƣợng, chất

lƣợng nông sản giúp nâng cao khả năng tiếp cận lƣơng thực của ngƣời dân,

xóa đói giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nông sản ngày càng lớn. Tuy

nhiên, bên cạnh những thành tựu cũng tồn tại nhiều hạn chế nhƣ: tình trạng

thiếu lƣơng thực vẫn còn tồn tại tại một số nhóm dân cƣ tại một số thời điểm;

chênh lệch khả năng tiếp cận lƣơng thực giữa các nhóm dân cƣ khác nhau; vệ

sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo; khả năng đối phó với các cú sốc từ

thị trƣờng không đƣợc đảm bảo… Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ

quan dẫn đến những hạn chế này. Ngoài những nguyên nhân khách quan nhƣ

khí hậu, địa lý, nhận thức của ngƣời dân…còn có những nguyên nhân chủ

quan nằm ở sự không hợp lý của bản thân chính sách. Để nhìn nhận những

hạn chế và nguyên nhân này ta phân tích chính sách đảm bảo ANLT dựa trên

7 tiêu chí phân tích một chính sách kinh tế - xã hội.

3.3.1. Tính phù hợp của chính sách

Tác giả nhìn nhận sự phù hợp của chính sách căn cứ trên tình hình thực

tế của Việt Nam, trong mối tƣơng quan giữa chính sách đảm bảo ANLT với

các mục tiêu bảo đảm vĩ mô khác của đất nƣớc.

Nghị quyết 63/NQ-CP đã đƣa mục tiêu đảm bảo diện tích lúa là 3,8

triệu ha cho đến năm 2020. Việc thực hiện quy hoạch này đƣợc giao cho các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xây dựng. Điều này có thể dẫn đến

nguy cơ không phù hợp, khi các tỉnh theo đuổi mục tiêu định hƣớng CNH –

HĐH, các phần đất ƣu tiên sẽ đƣợc dành cho phát triển các khu công nghiệp,

khu du lịch, thƣơng mại, dịch vụ. Phần diện tích còn lại cho canh tác nông

nghiệp có thể là vùng đất có chất đất xấu, không phù hợp trồng lƣơng thực,

giao thông không thuận tiện. Mặt khác, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật có

nguy cơ làm phá vỡ hệ thống thủy lợi – điều rất cần thiết cho sản xuất nông

74

nghiệp. Hơn nữa, việc quy hoạch độc lập của các tỉnh, thành sẽ dẫn đến mục

tiêu giữ tổng diện tích đất lúa có thể không đạt đƣợc.

Việc thực hiện quy hoạch thiếu những cơ chế thực thi phù hợp khi

đƣợc thực hiện bằng biện pháp hành chính, yêu cầu các địa phƣơng giữ vững

diện tích đất lúa. Nền kinh tế của chúng ta đang xây dựng chịu sự điều chỉnh

của cơ chế thị trƣờng, các chủ thể sản xuất phải đƣợc tự do lựa chọn quyết

định sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất nhƣ thế nào? Việc thực thi

quy hoạch mang tính chất hành chính là không phù hợp. Để khuyến khích các

hộ nông dân giữ vững trồng lúa cần tạo cho họ thấy đƣợc việc trồng lúa là

mang lại hiệu quả kinh tế bằng hoặc cao hơn so với các lựa chọn kinh tế khác.

Hiện nay, mức thu nhập của hộ nông dân quá thấp, tất yếu dẫn đến việc

chuyển không trồng lƣơng thực sang hoạt động các ngành nghề khác. Việc

quy hoạch giữ đất lúa nếu có đạt đƣợc cũng sẽ xảy ra tình trạng nông dân giữ

nguyên đất, không canh tác lƣơng thực mà làm các ngành nghề khác mang lại

hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiện trạng này chúng ta có thể thấy nhiều nhất tại

các địa phƣơng có khu công nghiệp, các nhà máy sản xuất, ngƣời dân chuyển

sang công nhân làm thuê tại các khu công nghiệp. Mức thu nhập từ công việc

này đảm bảo cho họ cuộc sống cao hơn so với lƣơng thực.

Bảng 3.6: Thu nhập bình quân/tháng của lao động làm công ăn lƣơng

chia theo ngành kinh tế năm 2015

Mức lƣơng trung bình (Nghìn đồng)

Ngành kinh tế

Nông, lâm, thủy sản

3129

Khai khoáng

6218

Công nghiệp chế biến, chế tạo

4588

SX và phân phối điện, khí đốt, hơi nƣớc và điều hoà không khí

6340

Cung cấp nƣớc, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nƣớc thải

4781

Xây dựng

4372

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác

4729

75

Vận tải kho bãi

5932

Dịch vụ lƣu trú và ăn uống

3858

Thông tin và truyền thông

6661

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

7301

Hoạt động kinh doanh bất động sản

6017

Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

6464

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

5231

Hoạt động của ĐCS, tổ chức CT-XH, QLNN, ANQP, BĐXH bắt buộc

5158

Giáo dục và đào tạo

5701

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

5498

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

4441

Hoạt động dịch vụ khác

3609

2937

Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình

6319

Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế (*)

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm 2015 – Tổng cục thống kê

Nhìn vào bảng số liệu chúng ta có thể thấy thu nhập của lao động làm

công ăn lƣơng trong nhóm ngành Nông, lâm, ngƣ nghiệp là thấp nhấp trong

toàn nền kinh tế. Trung bình chỉ đạt 3.129.000 đồng. Đối với các hộ nông dân

tự canh tác trên đất của mình, mức thu nhập từ sản xuất lúa còn thấp hơn nữa.

Theo „Báo cáo Ai được hưởng lợi khi giá gạo tăng cao‟ do Viện Chính sách

và Chiến lƣợc Phát triển Nông nghiệp, Nông thôn (IPSARD) cùng Tổ chức

Oxfam tại Việt Nam công bố năm 2013, số liệu ƣớc tính thu nhập trung bình

từ trồng lúa của các hộ tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng có lợi thế

sản xuất lúa tốt nhất cả nƣớc, cũng mới chỉ đạt 535.000 đồng/ngƣời/tháng. Vì

vậy, các hộ sản xuất lúa với quy mô nhỏ (dƣới 2ha) không thể sống dựa vào

thu nhập từ trồng lúa.

Trong khi đó, mức hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với nông dân là rất thấp.

Theo nghị định số Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012:

+) Hỗ trợ 500.000 đồng/ha/năm cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản

xuất lúa trên đất chuyên trồng lúa nƣớc;

76

+) Hỗ trợ 100.000 đồng/ha/năm cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản

xuất lúa trên đất lúa khác trừ đất lúa nƣơng đƣợc mở rộng tự phát không theo

quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa.

Mức hỗ trợ này đƣợc chuyển trực tiếp cho ngƣời nông dân. Đây là lần đầu

tiên kinh phí hỗ trợ đƣợc trả trực tiếp cho ngƣời dân. Tuy nhiên, mức hỗ trợ

này còn quá thấp. Trung bình diện tích canh tác ở Đồng bằng sông Cửu Long

là 0,87ha/hộ, ở khu vực Đồng bằng sông Hồng diện tích này còn thấp hơn

nữa. Nhƣ vậy mức hỗ trợ mỗi hộ nhận đƣợc hàng năm chƣa đến 500.000

đồng, không đủ bù đắp chi phí kinh tế phải bỏ ra để lựa chọn trồng lúa thay vì

làm ngành nghề khác.

Theo Nghị định số: 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 có hiệu lực thi

hành từ 01/7/2015 (thay thế Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012),

nâng mức hỗ trợ của ngân sách Trung ƣơng đối dành cho đất chuyên trồng lúa

nƣớc là 1 triệu đồng/ha. Tuy nhiên khoản hỗ trợ này không đƣợc trả trực tiếp

cho ngƣời dân nhƣ Nghị định 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 quy định mà

đƣợc chuyển vào ngân sách địa phƣơng nhằm chi cho cải tạo đất đai, thủy

lợi… Thay đổi phƣơng thức hỗ trợ này lại đặt ra vấn đề về hiệu quả sử dụng

nguồn vốn ngân sách.

Do vậy, thực chất việc hỗ trợ cho ngƣời dân trồng lúa bằng các

phƣơng án nhƣ trên là không đủ sức mạnh về mặt kinh tế. Mức hỗ trợ quá

thấp gần nhƣ không đáng kể này không thể đủ sức cố định sự lựa chọn của

các chủ thể kinh tế vào trong lĩnh vực này.

3.3.2. Tính hiệu lực của chính sách

Một ví dụ thể hiện hiệu lực kém của các chính sách đảm bảo ANLT của

Việt Nam là các chính sách hỗ trợ nông dân thông qua hỗ trợ thủy lợi phí,

thuế đất, hỗ trợ ngƣời sản xuất lúa hằng năm, hỗ trợ khai hoang cải tạo đất

trồng lúa… Do các chi phí này không đƣợc tính vào chi phí sản xuất trực tiếp,

đã kéo giá thành sản xuất lúa xuống thấp. Mặc dù điều này mang lại lợi ích

77

cho ngƣời tiêu dùng lúa gạo Việt Nam khi tăng cƣờng khả năng tiếp cận

lƣơng thực của họ. Tuy nhiên, giá lúa gạo xuất khẩu của chúng ta cũng thấp.

Việt Nam càng xuất khẩu gạo nhiều khiến lƣợng cung trên thị trƣờng lúa gạo

thế giới xuống thấp thì ngƣời bị thiệt hại đầu tiên chính là ngƣời sản xuất lúa.

Và toàn bộ chi phí hỗ trợ cho nông dân của chúng ta chuyển sang cho những

ngƣời tiêu dùng nƣớc ngoài vì họ đƣợc hƣởng lợi do giá gạo rẻ. Nhƣ vậy,

mục tiêu nhằm hỗ trợ của chính sách không đạt đúng đối tƣợng mà chính sách

điều chỉnh dẫn đến hiệu lực chính sách là thấp.

Theo nghiên cứu của (Action Aid, 2016) đƣợc trình bày ở bảng sau

Bảng 3.7 Tóm tắt câu trả lời về tiếp cận/ hiểu biết và đƣợc hỗ trợ giá (%)

Tỉnh Tiếp Hỗ trợ giá Thông tin về Trợ cấp

cận/hiểu biết đƣợc nhận trợ cấp nhận đƣợc

về Hỗ trợ giá trong năm trong năm

ngoái ngoái

0,00 52,86 78,57 12,85 Cao Bằng

1,43 14,29 35,71 18,57 Đắk Lăk

78,57 67,17 54,28 14,28 Hà Giang

43,66 4,23 22,53 0,00 Vĩnh Long

Bình Quân 47,33 18,15 47,69 11,39

Nguồn: Báo cáo Nông nghiệp bền vững và ANLT: Con đường nào cho

Việt Nam? Chủ nhiệm nghiên cứu bởi Action Aid, CIEM và một số tác giả

thuộc Đại học Jawaharlal Nehru, Ấn Độ.

Số liệu trên cho thấy mức độ hiểu biết, tiếp cận thông tin về các biện

pháp hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với nông hộ còn thấp và có sự khác nhau nhiều

78

giữa các tỉnh và mức hỗ trợ thực tế nhận đƣợc còn thấp hơn nữa. Đối với Cao

Bằng có tỷ lệ ngƣời dân hiểu biết về Chính sách hỗ trợ giá của Nhà nƣớc là

52,84% nhƣng mức hỗ trợ nhận đƣợc là 0%. Mức trợ cấp mà các nông hộ tại

tỉnh này nhận đƣợc là 12,85% dù tỷ lệ tiếp cận thông tin về chính sách này đạt

78,57%. Bình quân tỷ lệ hiểu biết của ngƣời dân đối với các chính sách hỗ trợ

giá và trợ cấp ở mức trên 47% nhƣng tỷ lệ nhận đƣợc hỗ trợ thực tế chỉ lần

lƣợt ở mức 18,15% và 11,39%.

Bảng 3.8: Tóm tắt câu trả lời về tiếp cận/hiểu biết về hỗ trợ tín dụng (%)

Tỉnh Tiếp Hỗ trợ tín Hiểu Mục đích sử

cận/hiểu biết dụng đƣợc biết/tiếp cận dụng (năm

về Tín dụng nhận trong về các hỗ trợ trƣớc)

năm trƣớc khác

Cao Bằng 94,29 9,43 52,86 12,86

Đắk Lăk 91,43 81,43 15,71 12,86

Hà Giang 75,71 52,86 10,00 22,86

Vĩnh Long 55,71 37,14 11,43 17,14

Bình Quân 96,44 65,77 22,42 16,37

Nguồn: Báo cáo Nông nghiệp bền vững và ANLT: Con đường nào cho

Việt Nam? Chủ nhiệm nghiên cứu bởi Action Aid, CIEM và một số tác giả

thuộc Đại học Jawaharlal Nehru, Ấn Độ.

Số liệu trên cho thấy mức độ hiểu biết, tiếp cận thông tin về các biện

pháp hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với nông hộ còn thấp và có sự khác nhau nhiều

giữa các tỉnh và mức hỗ trợ thực tế nhận đƣợc còn thấp hơn nữa. Đối với Cao

Bằng có tỷ lệ ngƣời dân hiểu biết về Chính sách hỗ trợ tín dụng của Nhà nƣớc

là 94,29% nhƣng mức hỗ trợ nhận đƣợc là 9,43%. Bình quân tỷ lệ hiểu biết

79

của ngƣời dân đối với chính sách tí dụng hỗ trợ tín dụng và và hỗ trợ khác lần

lƣợt ở mức 96,44% và 22,42% nhƣng tỷ lệ nhận đƣợc hỗ trợ thực tế chỉ lần

lƣợt ở mức 65,77% và 16,37%. Điều này có thể phản ánh một thực tế hiện

nay là khả năng tiếp cận chính sách của các nhóm đối tƣợng mà chính sách

điều chỉnh còn thấp. Qua đó, phản ảnh về mặt hiệu lực chính sách đảm bảo

ANLT của Việt Nam còn chƣa cao khi tác động điều chỉnh các nhóm đối

tƣợng của nó còn ở mức thấp.

3.3.3. Tính hiệu quả của chính sách

Để đánh giá hiệu quả của một chính sách đòi hỏi thời gian để chính

sách phát huy hiệu quả và đủ thời gian thu thập dữ liệu mà chính sách mang

lại, so sánh với mục tiêu ban đầu mà chính sách đề ra và chi phí đƣợc phân

bổ. Đối với các tác động về mặt xã hội, rất khó để lƣợng hóa các tác động

này, việc đánh giá mang tính định tính chủ quan. Nghị quyết số 63 về đảm

bảo ANLT quốc gia có mục tiêu hoàn thành đến năm 2020, do vậy chúng ta

chƣa đủ dữ liệu đánh giá hiệu quả tất cả các mặt của chính sách này. Tác giả

thực hiện so sánh giữa chính sách này và kết quả thực thi ở thời điểm hiện tại

thể hiện ở bảng sau nhằm đánh giá sơ bộ mức độ hoàn thành các chỉ tiêu:

Bảng 3.9: Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu của Nghị quyết 63

Đánh giá Mức độ thực hiện Thời điểm xét số liệu kết quả Nguồn số liệu Mục tiêu đề ra KQ tham chiếu

Đạt Tháng 1/2017 Sản lƣợng lƣơng thực cao hơn nhu cầu tiêu thụ của dân số -

UNDP

Đạt 2002 Chấm dứt tình trạng thiếu đói -

Đạt Nâng cao chất lƣợng bữa ăn -

80

OXFARM

Nông dân sản xuất lúa có lãi bình quân trên 30% so với giá thành sản xuất Không đạt 10%

Tổng cục thống kê

7,835

Bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha Đạt triệu ha

50,498

Tổng cục thống kê

Sản lƣợng lƣơng thực 41-43 triệu tấn triệu tấn Đạt Sơ bộ 2015

6,575 triệu tấn

Tổng cục thống kê

Xuất khẩu 4 gạo/năm triệu tấn Đạt Sơ bộ 2015

1,179

Tổng cục thống kê

Diện tích trồng ngô đạt 1,3 triệu ha triệu ha Chƣa đạt Sơ bộ 2015

Tổng cục thống kê

5,21

Chƣa đạt Sản lƣợng ngô 7,5 triệu tấn triệu tấn Sơ bộ 2015

Tổng cục thống kê

0.833

triệu ha Chƣa đạt Diện tích trồng cây ăn quả đạt 1,2 triệu ha 2012

Sản lƣợng cây ăn quả 12 triệu tấn Không có số liệu -

Rau các loại 1,2 triệu ha - Không có số liệu

Sản lƣợng rau 20 triệu tấn - Không có số liệu

Sản lƣợng các loại cây màu tăng trên 30% Không có số liệu -

4,806

Bộ NN&PTNT

0,723

Bộ NN&PTNT

triệu tấn

Thịt hơi các loại đạt 8 triệu tấn triệu tấn Chƣa đạt Cuối năm 2015

Sữa tƣơi 1 triệu tấn Chƣa đạt Cuối năm 2015

8,9

Bộ NN&PTNT

tỷ quả Trứng gia cầm 14 tỷ quả Chƣa đạt Cuối năm 2015

81

3,026

Bộ NN&PTNT

triệu tấn

sản lƣợng khai thác thủy sản 2,4 triệu tấn Đạt Cuối năm 2015

3,533

Bộ NN&PTNT

Báo cáo tổng điều tra dinh dƣỡng 2009 – 2010

Sản lƣợng nuôi trồng thủy sản 4 triệu tấn triệu tấn Chƣa đạt Cuối năm 2015

Viện dinh dƣỡng Việt Nam

Mức tiêu thụ calo 2.600 - 2.700 Kcalo/ngƣời 1925,4 ± 587 Kcalo/ngƣời Chƣa đạt 2010

Tỷ lệ suy dinh dƣỡng trẻ em <5% 14,1% Chƣa đạt 2015

Cơ cấu và chất lƣợng tiêu dùng

dùng gạo còn

Báo cáo khảo sát mức sống dân cƣ 2014

Tiêu 100kg/năm 144 kg/năm 2014 Chƣa đạt

thịt các loại

Báo cáo khảo sát mức sống dân cƣ 2015

Tiêu dùng 45kg/năm 15,36 kg/năm Chƣa đạt 2014

Báo cáo khảo sát mức sống dân cƣ 2016

loại

Tiêu dùng cá các 30kg/năm 16,68 kg/năm Chƣa đạt 2014

loại

Báo cáo khảo sát mức sống dân cƣ 2017

Tiêu dùng quả các 50kg/năm 10,2 kg/năm 2014 Chƣa đạt

Báo cáo khảo sát mức sống dân cƣ 2018

loại

Tiêu dùng rau các 120kg/năm 22,92 kg/năm Chƣa đạt 2014

82

Báo cáo khảo sát mức sống dân cƣ 2019

0,56 kg/ngƣời/

Tiêu dùng sữa gấp 2 lần (0.5kg/ngƣời/tháng) Chƣa đạt 2014 tháng

Toàn bộ nông sản, lƣơng thực tiêu thụ đạt vệ sinh ATTP Không đạt 2016 Liên tục xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm, phát hiện thực phẩm bẩn

Khả năng tiếp cận Lƣơng thực

Báo cáo tổng điều tra dinh dƣỡng 2009 - 2010 Tỷ lệ hộ gia đình có lúc thiếu ăn là 6,6% Đến năm 2012: 100% ngƣời dân ở mọi nơi, mọi lúc có đủ lƣơng thực Không đạt 2010

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các Báo cáo thống kê của Tổng cục

thống kê, UNDP, OXFARM, Viện dinh dưỡng Việt Nam, Bộ NN&PTNT.

Bảng trên so sánh mức độ hoàn thành các mục tiêu đƣợc đƣa ra trong

Nghị quyết 63 về đảm bảo ANLT, Nghị quyết này thời gian hoàn thành mục

tiêu vào năm 2020, tầm nhìn 2030. Tính đến thời điểm thu thập các số liệu,

đa số các mục tiêu đƣợc đƣa ra chƣa đƣợc hoàn thành. Và qua bảng so sánh

trên, có thể đánh giá một số mục tiêu về khả năng cung ứng các loại lƣơng

thực khác cây lúa, mức tiêu thụ lƣơng thực, thực phẩm; vệ sinh an toàn thực

phẩm là khó thực hiện so với tình hình thực tế của nền nông nghiệp Việt Nam

vào năm 2009 – thời điểm đƣa ra Nghị quyết.

Để đánh giá tính hiệu quả của chính sách cần thêm nhiều dữ liệu và

thời gian đánh giá chính sách. Trong khuôn khổ luận văn này tác giả tạm thời

chƣa đi sâu phân tích tính hiệu quả của chính sách đảm bảo ANLT.

83

3.3.4. Tính công bằng của chính sách

Chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất đối với đảm bảo cung lƣơng thực

là nông dân, tuy nhiên hiện nay họ đang là đối tƣợng chịu sự bất công bằng

trong chính sách đảm bảo ANLT.

- Theo Luật đất đai và Nghị định về bảo vệ đất trồng lúa, Nông dân

đƣợc giữ đất theo thời hạn 20 năm, đƣợc phép trao đổi và chuyển nhƣợng đất

nhƣng lại không đƣợc phép quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang

trồng các loại khác và sang mục đích phi nông nghiệp. Điều này kìm hãm

ngƣời nông dân trong hoàn cảnh nghèo dai dẳng (Phạm Duy Nghĩa, Malcolm

F. McPherson, 2010).

- Khi đất nông nghiệp thuộc diện phải thu hồi bắt buộc, số tiền đền bù

mà nông dân nhận đƣợc dựa trên các quy định của nhà nƣớc, trên thực tế số

tiền này rất thấp, ngƣời nông dân bị mất tƣ liệu sản xuất và không có khả

năng tìm kiếm các công việc tốt do hầu hết chƣa qua đào tạo.

- Không một nhóm đối tƣợng nào ngoài nông dân phải hy sinh lợi ích

kinh tế vì không đƣuọc tự do lựa chọn phƣơng án sản xuất kinh doanh.

Nhƣ vậy, để đảm bảo ANLT cho toàn bộ quốc gia, chính sách đã hy

sinh lợi ích của nhóm nông dân mà không có biện pháp đền bù thỏa đáng.

3.3.5. Tính minh bạch của chính sách

Hiện nay các thông tin về quy hoạch đất đai và thu chi ngân sách cho

đảm bảo ANLT đƣợc công bố còn hạn chế, khó tiếp cận đối với ngƣời dân.

Nguồn thông tin về ANLT đƣợc công bố chủ yếu bởi Tổng cục thống kê và

website của Bộ NN & PTNT chủ yếu là các số liệu mang tính vĩ mô. Các số

liệu đƣợc công bố trên cổng thông tin điện tử của chính phủ và chính quyền

các tỉnh, huyện, xã là hạn chế, chậm trễ, thông tin công bố đƣợc tổ chức

không theo trình tự thời gian theo hƣớng có thể so sánh dễ dàng. Đặc biệt, số

liệu chi ngân sách nhà nƣớc cho hỗ trợ các địa phƣơng còn thiếu minh bạch

và thiếu giải trình số liệu.

84

3.3.6. Tính hệ thống của chính sách

Chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam nằm trong hệ thống tổng thể

về phát triển con ngƣời Việt Nam. Các chính sách bộ phận nhƣ phát triển

nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, hỗ trợ công tác khuyến nông, đào tạo

nâng cao năng lực, tập huấn kỹ năng cho nông dân thống nhất với định hƣớng

phát triển của đất nƣớc. Các chính sách về tăng cƣờng hạ tầng nông thôn,

thủy lợi cho nông thôn thống nhất với mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng cho

nền kinh tế.

Tuy nhiên, để đạt đƣợc mục tiêu duy trì lƣợng cung lƣơng thực chính

phủ lựa chọn giải pháp cố định diện tích lúa bằng những biện pháp hành

chính nhằm hạn chế việc chuyển mục đích sử dụng đất từ trồng lúa sang các

hình thức canh tác khác. Điều này gây mâu thuẫn giữa lợi ích của chủ thể

kinh tế là ngƣời nông dân. Bằng các biện pháp hành chính, chính sách đảm

bảo ANLT đã cố định yếu tố sản xuất là đất đai tại một số địa phƣơng làm

hạn chế sự tự do di chuyển các nguồn lực, tự do quyết định quá trình sản xuất

của chủ thể kinh tế là ngƣời nông dân.

Luật đất đai 2013 cũng quy định về hạn mức giao đất nông nghiệp cho

mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp là: “không quá 03 ha

cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng khu vực Đông

Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; không quá 02 ha cho mỗi loại đất

thuộc tỉnh thành khác. Điều này làm ngăn trở khả năng tích tụ đất đai cho sản

xuất nông nghiệp theo hƣớng hiện đại hóa. Việc áp dụng các máy móc, áp

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất đòi hỏi canh tác ở quy mô

tập trung rất cao. Do yếu tố lịch sử để lại sau cải cách ruộng đất, các cánh

đồng của chúng ta bị chia nhỏ, manh mún, một hộ gia đình có thể sở hữu rất

nhiều mảnh ruộng nhƣng những mảnh ruộng này nhỏ, phân bố xa nhau, rất

khó khăn cho việc canh tác.

85

Việc đƣa mục tiêu: xuất khẩu 4 triệu tấn gạo/năm vào mục tiêu đảm

bảo ANLT quốc gia là không phù hợp. Việc gia tăng sản lƣợng xuất khẩu gạo

không có tác dụng đối với đảm bảo ANLT quốc gia, hay đúng hơn đây là đảm

bảo ANLT quốc tế. Nên việc đƣa mục tiêu bộ phận này vào là mâu thuẫn với

mục tiêu chung về ANLT quốc gia.

3.3.7. Tính khả thi của chính sách

Một số bất cập ảnh hƣởng đến tính khả thi trong thực hiện chính sách

và nguyên nhân của các bất cập có thể kể đến nhƣ:

- Đối với điều kiện về khoảng cách địa lý, cơ sở hạ tầng các vùng nông

thôn và vùng sâu vùng xa, đối tƣợng đồng bào dân tộc thiểu số sẽ khó tiếp cận

với nguồn cung lƣơng thực trong mọi lúc. Đối với các tỉnh vùng sâu vùng xa,

đồng bào canh tác lƣơng thực theo hình thức phát canh, làm rẫy, ruộng bậc

thang, kỹ thuật canh tác còn hết sức đơn giản, một bộ phận ngƣời dân thiếu ý

thức vƣơn lên dẫn đến năng suất lƣơng thực không cao. Hệ thống cơ sở hạ

tầng, đƣờng sá chƣa phát triển, chợ nhỏ lẻ, xa khu dân cƣ dẫn đến việc mua –

bán lƣơng thực khó khăn và khả năng tiếp cận lƣơng thực của 100% dân số

mọi lúc mọi nơi là khó khả thi trong điều kiện hiện nay.

- Trong hoạch định chính sách về ANLT Việt Nam xác định trọng tâm

là cây lúa nƣớc. Tuy nhiên, cần nhìn nhận khách quan rằng, nông nghiệp lúa

nƣớc là một ngành tiêu tốn quá nhiều tài nguyên nƣớc. Cây lúa cần 400 – 450

đơn vị nƣớc để tạo đƣợc 1 đơn vị thân lá và cần 300-350 đơn vị nƣớc để tạo

một đơn vị hạt. Trong điều kiện tƣơng lai khó khăn về nƣớc tƣới do tranh

chấp nguồn tài nguyên nƣớc giữa các nƣớc lƣu vực sông Mekong và ảnh

hƣởng mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, chúng ta sẽ mất dần lợi thế về nguồn tài

nguyên nƣớc dồi dào và trở nên bất lợi thế trong sản xuất lúa nƣớc. Việc tăng

sản lƣợng lƣơng thực trong khi giá thành gạo của Việt Nam thấp lại dẫn đến

thu nhập của ngƣời nông dân càng giảm đi. Do vậy, trong tƣơng lai cây lúa có

thể không còn là loại cây ƣu thế của Việt Nam

86

- Việc giữ cố định diện tích lúa theo mục tiêu đề ra đƣợc chính phủ

đƣợc thực hiện đơn thuần bằng các biện pháp hành chính không tạo ra động

lực kinh tế cho ngƣời sản xuất thực hiện. Do vậy tất yếu dẫn đến việc chuyển

đổi diện tích trồng lúa sang loại cây khác hoặc sang mục đích phi nông

nghiệp, hoặc gây ra hiện tƣợng bỏ hoang đất lúa. Điều này không hiệu quả về

kinh tế và gây lãng phí nguồn lực.

- Các ý tƣởng hoạch định chính sách đƣợc đề xuất, và dự thảo chính

sách chủ yếu do cơ quan nhà nƣớc (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND tỉnh,

thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên

mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phƣơng do mình quản lý mà

không tính tới tổng thể chung. Quy hoạch vùng sản xuất lúa hiện nay đƣợc

giao cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (Theo Nghị quyết 63).

Điều này sẽ làm nảy sinh tình trạng UBND các tỉnh này vì mong muốn hoàn

thành các chỉ tiêu về công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng mà sẵn sàng

lựa chọn những vùng đất tốt, màu mỡ dành cho việc phát triển công nghiệp và

du lịch, chứ không lựa chọn sản xuất lƣơng thực.

- Quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến tham

gia của các đối tƣợng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu

có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chƣa thể hiện tính chủ

động. Các chủ trƣơng đƣợc công khai nhƣ Quy hoạch sử dụng đất, Hỗ trợ

ngƣời nghèo, Hỗ trợ nông dân không đƣợc đƣa ra lấy ý kiến hoặc tổ chức các

buổi lấy ý kiến thiếu hiệu quả. Mặc dù trong quy trình công bố quy hoạch tại

trụ sở UBND các phƣờng, xã đòi hỏi tổ chức các hội nghị lấy ý kiến của dân

cƣ về quy hoạch nhƣng việc thu hút sự tham gia của ngƣời dân đạt hiệu quả

không cao, việc ghi nhận các ý kiến đóng góp này chƣa đƣợc thực hiện

nghiêm túc. Việc tham gia ý kiến một cách hời hợt, thiếu khoa học, thiếu

chính kiến của các hộ dân cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến tình trạng

không có tiếng nói của ngƣời dân tham gia vào các quy hoạch sử dụng đất.

87

Điều này dẫn đến thiếu sự đồng thuận trong thực thi chính sách và làm giảm

tính khả thi.

88

CHƢƠNG 4

NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VÀ

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

4.1. Dự báo các nhân tố mới ảnh hƣởng đến chính sách đảm bảo ANLT của Việt Nam

4.1.1. Tác động của biến đổi khí hậu

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có các điều kiện

thuận lợi cho sản xuất lúa nƣớc nhƣng cũng chịu ảnh hƣởng từ thiên tai nhƣ

bão, lũ lụt, triều cƣờng gây thiệt hại mùa màng, khó khăn cho công tác ứng

cứu và khả năng tiếp cận lƣơng thực của một bộ phận dân cƣ. Hiện nay, biến

đổi khí hậu làm cho tác động các các hiện tƣợng thời tiết tiêu cực lên nông

nghiệp ngày càng rõ ràng, thời gian thất thƣờng và với cƣờng độ lớn hơn.

Những tác động trực tiếp mà hiện tƣợng biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra ảnh

hƣởng đến nông nghiệp gồm: nhiệt độ trái đất nóng lên, tần suất bão, lũ tăng

và diễn biến bất thƣờng. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng tan ở hai cực

dẫn đến nƣớc biển dâng lên, thêm nhiều vùng đất ven biển của Việt Nam

ngập mặn, hiện tƣợng xói lở đất đã làm giảm đáng kể diện tích canh tác.

Nƣớc ta có 3.260 km đƣờng bờ biển, với 2 đồng bằng lớn đều giáp biển. Theo

Ngân hàng thế giới đánh giá: Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc gia chịu ảnh

hƣởng lớn nhất do biến đổi khí hậu, tổ chức này cũng dự báo khi mực nƣớc biển dâng lên 1m sẽ có khoảng 12.300 km2 tƣơng đƣơng 32% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập trong nƣớc biển trong đó có gần 10.000 m2 đất

canh tác lúa.

Các hiện tƣợng thời tiết tiêu cực diễn biến bất thƣờng còn khiến cho

công tác dự báo khí tƣợng của chúng ta gặp khó khăn. Trƣớc đây, qua lịch sử

hàng ngàn nằm chúng ta dần xây dựng đƣợc kinh nghiệm sản xuất dựa trên

các diện tƣợng thời tiết. Thì nay, khí hậu biến đổi cũng dẫn đến tình hình

thiên tai phức tạp hơn. Nông dân Việt nam vẫn thực hiện canh tác theo kinh

89

nghiệm nên khi có hiện tƣợng thời tiết bất thƣờng không theo dự báo dễ khiến

ngƣời dân thành thế bị động. Điều này làm ảnh hƣớng kế hoạch gieo trồng và

thu hoạch nông sản. Hiện nay, việc dự báo khí hậu, thời tiết đã đƣợc hỗ trợ

bởi các phƣơng tiện máy móc hiện đại, tuy nhiên việc dự báo của chúng ta

còn chung chung nhằm phục vụ sinh hoạt của ngƣời dân, chƣa gắn chặt với

sản xuất nông nghiệp.

Đối với nền nông nghiệp nói chung, biến đổi khí hậu còn làm thay đổi

tính thích hợp của nền sản xuất nông nghiệp với cơ cấu khí hậu. Ngày này,

cƣờng độ lạnh trong mùa đông đang giảm dần đi, thời gian nắng nóng kéo dài

hơn và với cƣờng độ mạh hơn, điều này làm giảm sự phụ hợp giữa cơ cấu các

loại cây, con trên các vùng sinh thái đã đƣợc hình thành lâu đời và làm biến

dạng nền nông nghiệp cổ truyền. Đối với canh tác lƣơng thực chúng ta có thể

thấy rõ, mùa đông ngắn hơn, mùa hè đến sớm và bão, lũ lụt cũng đến sớm

hơn, làm cho nếp gieo trồng và thu hoạch của ngƣời nông dân phải thay đổi.

Ngƣời nông dân phải lựa chọn hoặc gieo trồng sớm hơn khi thời tiết chƣa

thuận lợi, hoặc phải thu hoạch non, thu hoạch gấp để tránh đợt mƣa lũ về

sớm. Mùa khô kéo dài hơn đồng nghĩa với việc hạn hán và xâm nhập mặn

tăng cao và nhiều khó khăn cho công tác thủy lợi. Khả năng tiêu thoát nƣớc ra

biển giảm đi rõ rệt, mực nƣớc các sông dâng lên, đỉnh lũ tăng thêm, đe dọa

đến các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao ở các tỉnh phía

Nam. Nhu cầu tiêu nƣớc và cấp nƣớc gia tăng vƣợt khả năng đáp ứng của

nhiều hệ thống thủy lợi. Mặt khác, dòng chảy lũ gia tăng có khả năng vƣợt

quá các thông số thiết kế hồ, đập, tác động tới an toàn hồ đập và quản lý tài

nguyên nƣớc…

4.1.2. Tác động của quy hoạch sử dụng đất

Một nhân tố ảnh hƣởng đến diện tích canh tác nông nghiệp khác là quy

hoạch sử dụng đất. Quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất diễn ra phổ

biến ở các địa phƣơng với 4 loại hình chủ yếu gồm: chuyển đổi đất lâm

90

nghiệp sang nông nghiệp tập trung ở khu vực miền núi phía Bắc và Tây

Nguyên; chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất đô thị, khu công nghiệp tập

trung ở vùng đồng bằng, khu vực ven đô; chuyển đổi đất rừng ngập mặn sang

nuôi trồng thủy sản và chuyển đổi đất trống, đồi núi trọc sang trồng rừng. Xu

hƣớng chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất đô thị và khu công nghiệp và xu

hƣớng chủ đạo phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

Do địa hình thuận lợi dân số chủ yếu tập trung ở các vùng đồng bằng

kéo theo các nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng công nghiệp hóa, đô

thị hóa cũng tập trung ở khu vực này. Để phát triển kinh tế, các địa phƣơng

đều sẵn sàng dành những khu vực đất tốt nhất nhằm thu hút đầu tƣ. Do vậy,

phần đất màu mỡ cho canh tác bị thu hẹp nhanh chóng. Kết quả thống kê đất

đai đến năm 2006 cho thấy, diện tích đất lúa cả nƣớc là 4.130.945 ha, giảm

10.810 ha so với năm 2006, giảm 34.332 ha so với năm 2005, mức độ giảm

thực tế bằng 1,46 lần so với kế hoạch giảm diện tích đất trồng lúa.Theo số

liệu của Tổng cục Quản lý đất, Bộ Tài nguyên Môi trƣờng, bình quân mỗi

năm đất nông nghiệp giảm gần 100 nghìn ha, năm 2007 giảm 120 nghìn ha.

Theo Luật Đất đai 2003, quy hoạch sử dụng đất của cấp hành chính nào

thì do UBND cấp đó xây dựng, cơ quan tài nguyên và môi trƣờng của cấp

trên trực tiếp thẩm định, Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét chấp thuận và

trình UBND cấp trên trực tiếp thông qua và cấp đó có trách nhiệm tổ chức

thực hiện. Quy hoạch sử dụng đất của cả nƣớc do Chính phủ xây dựng trình

Quốc hội xem xét và quyết định. Do vậy, quy hoạch sử dụng đất của các địa

phƣơng vẫn do địa phƣơng đƣợc phép quyết định. Điều này vô hình chung

dẫn đến sự thiếu thống nhất trong quy hoạch đất nông nghiệp chung của cả

nƣớc. Các địa phƣơng vì mục tiêu phát triển kinh tế nhanh chóng đã tăng

cƣờng mở cửa cho đầu tƣ công nghiệp, dịch vụ, sử dụng những vùng đất

thuận lợi nhất của địa phƣơng mình cấp cho các dự án công nghiệp, dịch vụ.

91

Những khu vực đất thuận lợi này bao gồm cả những vùng màu mỡ cho canh

tác nông nghiệp.

Trong thời gian tới, chúng ta vẫn ƣu tiên phát triển công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nên xu hƣớng này sẽ còn tồn tại. Đòi hỏi phải có sự điều chỉnh

chung từ Trung ƣơng, nghiên cứu kĩ lƣỡng khu vực nào thuận lợi nhất, có lợi

thế nhất cho sản xuất nông nghiệp mà ít thuận lợi cho công nghiệp, dịch vụ,

vùng đất nào cần đƣợc bảo tồn tuyệt đối cho sản xuất lƣơng thực.

4.1.3. Ảnh hưởng của trình độ sản xuất đến sản lượng lương thực

Trong nông nghiệp, các nhân tố về nhân lực, đất đai là hữu hạn và

không thể thay đổi nhanh chóng trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, yếu tố giúp

tăng không giới hạn năng suất lao động chính là khoa học kỹ thuật. Cách

mạng khoa học kỹ thuật đã đƣa sản xuất nông nghiệp lên trình độ cao. Từ

việc cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, đến điện khí hóa, hóa học hóa, tự động

hóa…đã giúp năng suất tăng lên nhanh chóng. Công tác nghiên cứu áp dụng

các tiến bộ khoa học kỹ thuật của Việt Nam thời gian gần đây đã có những

bƣớc tiến. Thị trƣờng khoa học công nghệ của Việt Nam dần đƣợc hình thành

tạo điều kiện cho việc tiếp thu, trao đổi thành quả nghiên cứu vào sản xuất.

4.1.4. Thương mại toàn cầu

Ngoài tự cung trong nƣớc, Việt Nam còn có nguồn cung lƣơng thực

thông qua nhập khẩu. Với xu thế hiện nay, khi thu nhập của ngƣời dân Việt

Nam tăng, chất lƣợng sản phẩm càng trở nên yếu tố quan trọng. Với sự phát

triển của thƣơng mại quốc tế và sự gia tăng trong thị yếu tiêu dùng dẫn đến

ngày càng nhiều nông sản đƣợc nhập khẩu vào Việt Nam. Nhập khẩu gạo của

Việt Nam chủ yếu từ Campuchia và một lƣợng gạo nếp nhỏ từ Lào, gạo Nhật

Bản. Niên vụ 2014/2015 Việt Nam nhập khẩu 400.000 tấn gạo, niên vụ

2015/2016 là 500.000 tấn gạo từ Campuchia.

Gia tăng nhập khẩu mang đến hai mặt tác động. Một mặt điều này làm

bổ sung nguồn cung gạo, giảm áp lực đối với tự cung trong nƣớc. Nhƣng mặt

92

khác, khi lúa gạo các nƣớc khác đƣợc nhập khẩu vào Việt Nam, với sự vƣợt

trội về chất lƣợng sẽ dẫn đến xu hƣớng tiêu dùng của ngƣời dân chuyển sang

tiêu dùng mặt hàng này của nƣớc ngoài. Do vậy, làm cầu đối với gạo Việt

Nam giảm đi, giá của mặt hàng này giảm xuống sẽ làm tăng khả năng tiếp cận

lƣơng thực đầy đủ hơn của một bộ phận ngƣời dân có thu nhập thấp. Tuy

nhiên, giá giảm làm ảnh hƣởng đến thu nhập của ngƣời nông dân trực tiếp

trồng lúa gạo.

4.1.5. Xu hướng dịch chuyển lao động trong nền kinh tế

Xu hƣớng giảm lao động nông nghiệp diễn ra cùng xu hƣớng công

nghiệp hóa ở Việt Nam. Hơn nữa, lực lƣợng lao động trong nông nghiệp

chuyển sang lĩnh vực khác chủ yếu là lao động trẻ, khỏe điều này dẫn đến lao

động thiếu hụt trong thời gian ngắn. Trong thời gian dài sẽ không có lao động

kế cận. Cùng với xu hƣớng giảm lao động là xu hƣớng phân công lại lao động

theo hƣớng chuyên môn hóa. Trƣớc đây lao động nông nghiệp chủ yếu từ

chính các hộ nông dân. Hiện nay, xu hƣớng này trở thành phân công lao động

chuyên môn. Các khâu của quá trình sản xuất lƣơng thực đƣợc phân công cho

các lao động lành nghề thông qua thuê mƣớn. Điều này có mặt tích cực là làm

cho năng suất lao động tăng lên và chi phí nhân công giảm xuống.

4.1.6. Ảnh hưởng cầu lương thực

Theo Tổng cục Thống kê, đến hết năm 2016, quy mô dân số nƣớc ta ở

vào khoảng 91,7 triệu ngƣời. Kết quả điều tra giữa kỳ dân số và kế hoạch hóa

gia đình năm 2014 giai đoạn 2011-2015 cho thấy tỷ lệ tăng dân số hàng năm

là 1,06‰, năm 2015 là 1,07‰ (Niên giám thống kê, 2015).

Theo Báo cáo của (Tổng cục Thống kê, Quỹ dân số liên hợp quốc,

2016) đƣa ra ba phƣơng án dự báo về mức tăng dân số Việt Nam: phƣơng án

mức sinh thấp, phƣơng án mức sinh trung bình và phƣơng án mức sinh cao.

Theo đó, đến 2024, theo phƣơng án mức sinh trung bình dân số Việt Nam là

99,305 triệu ngừoi, theo phƣơng án mức sinh thấp là 98,55 triệu ngƣời, theo

93

phƣơng án mức sinh cao là 99,79 triệu ngƣời. Nhƣ vậy, dự tính đến năm

2025, với phƣơng án mức sinh cao, dân số nƣớc ta sẽ là 99,79 triệu ngƣời.

Nhu cầu tiêu thụ lƣơng thực của ngƣời dân có xu hƣớng biến đổi ngƣợc

lại. Khi thu nhập tăng, mức tiêu thụ gạo bình quân đầu ngƣời dự kiến sẽ giảm

do ngƣời tiêu dùng thay thế gạo bằng thực phẩm chất lƣợng cao có chứa

nhiều đạm và vitamin.

Bảng 4.1: Nhu cầu tiêu dùng gạo và các lƣơng thực khác

làm thực phẩm của ngƣời Việt Nam

Tiêu dùng gạo/tháng

Chung

Thành thị

Nông thôn

Năm

Kg/tháng

Kg/năm

Kg/tháng

Kg/năm

Kg/tháng

Kg/năm

2002

114,72

12,78

153,36

12,03

144,36

9,56

2004

109,92

12,87

154,44

11,96

143,52

9,16

2006

105,12

12,34

148,08

11,38

136,56

8,76

2008

103,68

11,93

143,16

11,02

132,24

8,64

2010

90,36

10,58

126,96

9,68

116,16

7,53

2012

91,8

10,48

125,76

9,64

115,68

7,65

2014

87

9,79

117,48

9,00

108,00

7,25

Lƣơng thực khác (quy ra gạo)/tháng

Chung

Thành thị

Nông thôn

Năm

Kg/tháng

Kg/năm

Kg/tháng

Kg/năm

Kg/tháng

Kg/năm

2002

14,28

1,41

16,92

1,36

16,32

1,19

2004

14,4

0,94

11,28

1,00

12,00

1,2

2006

14,04

0,98

11,76

1,03

12,36

1,17

2008

13,44

0,85

10,2

0,93

11,16

1,12

2010

13,8

1,02

12,24

1,06

12,72

1,15

2012

12,48

0,98

11,76

1,00

12,00

1,04

2014

12,12

0,93

11,16

0,96

11,52

1,01

Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014

94

Theo Kết quả khảo sát trên cho thấy, nhu cầu tiêu thụ lƣơng thực nói

chung của Việt Nam có xu hƣớng giảm đi. Từ mức 144kg gạo/ngƣời/năm vào

năm 2002 xuống còn 108kg/ngƣời/năm vào năm 2014. Đối với các loại lƣơng

thực khác cũng có mức tiêu thụ giảm, từ mức 16,32kg/ngƣời/năm vào năm

2002 xuống còn 11,52kg/ngƣời/năm vào năm 2014. Nhu cầu tiêu thụ lƣơng

thực sẽ giảm dần theo sự tăng lên của mức thu nhập, do vậy với triển vọng

tăng trƣởng của kinh tế Việt Nam xu hƣớng này sẽ còn tiếp diễn trong thời

gian tới. Mức giảm tiêu thụ gạo trong giai đoạn 2002 - 2014 trung bình

khoảng 3kg/năm. Tác giả dự báo xu hƣớng này còn duy trì, ƣớc tính đến năm

2020, mức tiêu thụ gạo của ngƣời Việt Nam sẽ chỉ còn từ 90 –

95kg/ngƣời/năm. Kết hợp giữa dân số và mức tiêu thụ lƣơng thực ta có thể

ƣớc tính tổng nhu cầu tiêu thụ gạo cho ăn uống đến năm 2020 của Việt Nam

sẽ vào khoảng 8.820 – 9.310 triệu tấn/năm. Năng lực sản xuất của chúng ta

năm 2015 là 50,5 triệu tấn gạo. Nhƣ vậy, sản lƣợng gạo đang vƣợt xa so với

nhu cầu tiêu thụ gạo làm lƣơng thực cho dân số Việt Nam.

Lƣơng thực còn đƣợc sử dụng phục vụ các ngành khác nhƣ làm đầu

vào sản xuất của ngành công nghiệp và chăn nuôi. Tuy nhu cầu tiêu thụ lúa

gạo của con ngƣời giảm đi nhƣng nhu cầu tiêu thụ thịt tăng lên.

Sản lƣợng lƣơng thực đƣợc dùng trong ngành công nghiệp chế biến thực

phẩm là khoảng 6 triệu tấn một năm và sẽ tăng thêm từ 50.000 đến 100.000

tấn mỗi năm. Nhƣ vậy, ƣớc tính đến năm 2020, cùng với sự gia tăng nhu cầu

tiêu thụ thịt thì nhu cầu dùng lƣơng thực cho lƣơng thực cũng tăng lên ƣớc

khoảng 6,5 triệu tấn/năm. Do vậy, nếu tiếp tục duy trì sản xuất nhƣ hiện nay

chúng ta cơ bản không phải lo lắng về nguồn cung lƣơng thực cho tiêu dùng

trong nƣớc và có thể định hƣớng lại việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ

trồng lúa sang các mục đích khác.

4.2. Một số khuyến nghị chính sách

95

Trên thực tế, trong giai đoạn từ 1986 đến nay sự chỉ đạo về phát triển

nông nghiệp ở nƣớc ta đã đạt đƣợc một số thành tựu quan trọng, giúp Việt

Nam thoát khỏi nƣớc nghèo đói và bƣớc đầu đảm bảo đáp ứng nhu cầu lƣơng

thực, thực phẩm cho ngƣời dân. Trong thời gian tới, để hoàn thiện chính sách

đảm bảo ANLT của Việt Nam chúng ta theo hƣớng khoa học và phù hợp với

thực tiễn, tác giả xin có một số đề xuất nhƣ sau:

* Về quan điểm hoạch định chính sách:

Cần xem xét quan điểm về lấy tự túc lƣơng thực làm phƣơng pháp đảm

bảo ANLT quốc gia có còn phù hợp hay không? Vấn đề chọn phát triển lúa

nƣớc làm thế mạnh để ƣu tiên phát triển, dùng các biện pháp hành chính bảo

vệ diện tích gieo trồng loại cây này có mang lại hiệu quả nhất về mặt kinh tế

hay không. Quan điểm chính sách cần xác định vừa phải đảm bảo ANLT

quốc gia vừa đảm bảo quyền lợi cho ngƣời sản xuất và căn cứ trên năng lực

thực tế của quốc gia. Để đảm bảo ANLT cho con ngƣời không nên chỉ quá

chú trọng vào việc giữ gìn và phát triển cây lúa. Việc chuyển cơ cấu gieo

trồng sang lƣơng thực màu nhƣ ngô, khoai, sắn đã và đang chứng tỏ hiệu quả

kinh tế cao hơn cây lúa. Chủ trƣơng độc canh 2 – 3 vụ lúa/năm đã phát sinh

những tác hại rõ ràng về gia tăng chi phí sản xuất và làm giảm chất lƣợng sản

phẩm. Do vậy, chúng ta nên có những nhìn nhận đánh giá lại hiệu quả của

quan điểm chính sách này và có sự thay đổi cho phù hợp tình hình hiện nay.

Qua các phân tích kể trên, có thể thấy vấn đề lớn nhất đối với khả năng

đảm bảo ANLT của Việt Nam không phải là lƣợng cung về sản phẩm lƣơng

thực mà là đảm bảo khả năng tiếp cận của một số bộ phận dân cƣ và yếu tố

chất lƣợng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm. Cần chú trọng vấn đề này

trong hoạch định chính sách để tập trung giải quyết theo hƣớng hiệu quả kinh

tế cao nhất và đảm bảo lợi ích công bằng cho ngƣời nông dân trồng lúa so với

các chủ thể kinh tế khác.

96

Ngoài ra, trong hoạch định chính sách để đảm bảo sự khoa học, sự phù

hợp thực tế của chính sách cần thu nhận ý kiến đóng góp của các đối tƣợng

của chính sách và đội ngũ các nhà khoa học. Việc thu nhận ý kiến đóng góp

của các đối tƣợng này cũng góp phần tạo sự đồng thuận trong quá trình thực

thi chính sách khi chính sách đƣợc ban hành.

Tác giả đề xuất một số chỉnh sửa cụ thể đối với văn bản chính sách

“Nghị quyết 63/NQ-CP của Chính phủ năm 2009 về đảm bảo ANLT”. Cần

định hình lại tính thiếu công bằng của của chính sách đảm bảo ANLT hiện

nay nằm ở việc: vì mục tiêu đảm bảo ANLT chúng ta bỏ qua lợi ích của

ngƣời nông dân khi cố định ngƣời nông dân vào trồng lúa, mà sự hy sinh lợi

ích này không đƣợc đền bù một cách thỏa đáng.

Do đó, cần chỉnh sửa lại phần Quan điểm của Nghị quyết này nhƣ sau:

Nên gộp ý 1 và ý 5 trong mục Quan điểm của Nghị quyết trở thành: “Vấn đề

ANLT quốc gia phải nằm trong chiến lƣợc tổng thể phát triển kinh tế xã hội,

việc đảm bảo ANLT quốc gia vừa phải gắn chặt với đảm bảo quyền lợi cho

ngƣời sản xuất vừa căn cứ trên năng lực thực tế của quốc gia. Chú trọng hoàn

thiện khả năng cung ứng lƣơng thực dựa trên việc nâng cao năng lực sản xuất,

tăng khả năng tiếp cận lƣơng thực dựa trên nâng cao thu nhập của ngƣời

dân".

Bỏ cụm từ “giải quyết hài hòa giữa mục tiêu cung ứng trong nƣớc và

khả năng xuất khẩu” do đây là Nghị quyết về đảm bảo ANLT quốc gia nên

không đƣa mục tiêu xuất khẩu vào.

* Về tổ chức thực hiện chính sách: cần nhanh chóng thành lập Ủy ban

ANLT quốc gia theo nhƣ mục tiêu Nghị quyết 63 đã đƣa ra. Ủy ban ANLT

quốc gia do một phó thủ tƣớng đứng đầu, chịu trách nhiệm chỉ đạo chung các

bộ, ban, ngành trong việc thực hiện các mục tiêu chung về chính sách đảm

bảo ANLT. Đảm bảo sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan này nhanh

chóng, trơn tru trong các vấn đề liên ngành tránh hiện tƣợng vừa chồng chéo

97

nhiệm vụ vừa thiếu sự phối hợp giữa các bên liên quan. Cần xây dựng cơ chế

phối hợp hoạt động giữa các bộ, ban, ngành trong thực thi chính sách, trong

đó quy định xử lý nghiêm khắc đối với các trƣờng hợp thiếu ý thức trách

nhiệm trong thực thi chính sách gây thiệt hại cho đất nƣớc.

* Phát triển yếu tố nhân lực: Đây là khuyến nghị chung cho tất cả các

chính sách của Việt Nam hiện nay, cần nâng cao chất lƣợng nhân lực làm

công tác hoạch định, thực thi chính sách. Mỗi chính sách đƣa ra có sức ảnh

hƣởng rộng lớn và quyết định sự phát triển của đất nƣớc. Do vậy, hoạch định

thực thi chính sách cần đƣợc giao cho những nhân lực có trình độ cao, có tinh

thần trách nhiệm. Việc tuyển chọn nhân lực cho lĩnh vực này và tăng cƣờng

đào tạo bổ sung kiến thức là cần thiết. Mạnh dạn lọc bỏ những nhân sự yếu

kém về năng lực, ý thức, thái độ công vụ.

Nguồn nhân lực cho phát triển sản xuất là vô cùng quan trọng. Chúng

ta cần phát triển về đào tạo nhân lực trình độ cao cho lĩnh vực nông nghiệp,

đây là lực lƣợng có khả năng nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ

thuật vào trong sản xuất. Đối với lực lƣợng lao động nông nghiệp hiện tại cần

bổ sung kĩ thuật sản xuất thông qua các lớp tập huấn chất lƣợng cao.

* Minh bạch hóa thông tin: các thông tin về quy hoạch và phân bổ, sử

dụng ngân sách nhà nƣớc đối với lĩnh vực đảm bảo ANLT cần đƣợc thông tin

rộng rãi, kịp thời và dễ tiếp cận đối với ngƣời dân. Qua đó, việc kiểm tra,

giám sát đối với thực hiện chính sách sẽ dễ dàng hơn giúp dễ dàng trong phát

hiện nhƣợc điểm góp ý và chỉnh sửa chính sách.

Để theo dõi hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nƣớc cần thiết phải

xây dựng hệ thống thông tin minh bạch, dễ tiếp cận đối với các đối tƣợng

chính sách, các nhà nghiên cứu và các cơ quan quản lý khác. Xây dựng trang

web quốc gia về ANLT là cần thiết, việc xây dựng nội dung cần dựa trên học

hỏi kinh nghiệm những đất nƣớc có hệ thống thông tin nông nghiệp thành

công nhƣ Hoa Kỳ, Ấn Độ…Số và lƣợng thông tin cần đầy đủ trên các mặt,

98

các lĩnh vực đảm bảo ANLT, cập nhật nhanh, xây dựng có hệ thống, đảm bảo

thuận tiện cho so sánh, liên hệ giữa các số liệu.

99

KẾT LUẬN

Kinh tế thị trƣờng có vai trò to lớn trong đáp ứng nhu cầu lƣơng thực của

ngƣời dân. Tuy nhiên, kinh tế thị trƣờng cũng có không ít khuyết tật. Do đó,

sự can thiệp của nhà nƣớc, trong đó có Chính sách đảm bảo an ninh lƣơng

thực là hết sức cần thiết.

Trong những năm vừa qua, chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực của

Việt Nam đã góp phần quan trọng làm tăng nhanh nguồn cung lƣơng thực,

mở rộng cơ hội tiếp cận lƣơng thực cho ngƣời dân… Nhờ đó, an ninh lƣơng

thực ở Việt Nam về cơ bản đƣợc đảm bảo. Tuy nhiên, chính sách đảm bảo an

ninh lƣơng thực vẫn còn không ít bất cập: chất lƣợng, vệ sinh, an toàn lƣơng

thực chƣa cao; hiệu quả trong cây lƣơng thực còn thấp… từ đó ảnh hƣởng

không tốt đến cả ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng…

Bối cảnh mới đòi hỏi Việt Nam vẫn phải tiếp tục thực hiện chính sách

đảm bảo an ninh lƣơng thực. Với kinh nghiệm mấy chục năm vừa qua, với sự

nỗ lực của Chính phủ kiến tạo và liêm chính, của dân và vì dân, chắc chắn

rằng, Chính sách đảm bảo an ninh lƣơng thực sẽ ngày càng hoàn thiện hơn,

việc thực thi sẽ hiệu lực và hiệu quả hơn.

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Action Aid, 2016. Nông nghiệp Bền vững và ANLT - Đường nào cho

Việt Nam?[pdf] Hà Nội.

2. Trần Thị Minh Châu và nhóm tác giả, 2005. Chính sách đất nông

nghiệp ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp. Đề tài khoa học

cấp Bộ 2004 – 2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

3. Đỗ Kim Chung và Kim Thị Dung , 2012. Chính sách đất đai phát triển

"tam nông": Thực trạng và những vấn đề đặt ra. Tạp chí tài chính, số

tháng 8 năm 2012.

4. Nguyễn Viết Đăng và cộng sự, 2014. An ninh lƣơng thực của các hộ

nghèo ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình: Thực trạng và giải pháp.

Trường Đại học Nông nghiệp: Tạp chí Khoa học và Phát triển, Số 12,

tháng 12 năm 2014, trang 821-828.

5. Trần Hữu Đồng, 2016. An ninh lương thực của Nam Phi và Algeria,

Nghiên cứu so sánh và gợi mở chính sách cho Việt Nam. Luận văn thạc

sỹ, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

6. Lƣu Thanh Đức Hải, 2005. Chi phí marketing và hệ thống phân phối

lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long. Trường ĐH Cần Thơ: Tạp chí

Nghiên cứu khoa học, số 3 năm 2005, trang 138-147.

7. Nguyễn Minh Hoàn, 2013. Sự thay đổi chính sách "Từ quốc hữu hóa

đến thị trƣờng hóa" đất đai ở Trung Quốc. Tạp chí Trường cao đẳng

công nghệ Thủ Đức, số tháng 6 năm 2013, trang 89-93.

8. Trần Tiến Khai, 2010. Chính sách xuất khẩu gạo của Việt Nam và các

vấn đề cần điều chỉnh. Kỷ yếu Hội thảo Khoa Học Xã Hội và Phát

Triển Bền Vững Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, trang 2-6.

101

9. Nguyễn Hồng Thu, 2009. Chính sách tam nông của Nhật Bản - Bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10

năm 2009.

10. Lê Anh Thực, 2012. An ninh lương thực của Việt Nam trong bối cảnh

hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn thạc sỹ, Trƣờng Đại học Kinh tế -

ĐHQGHN.

11. Tổng cục thống kê, 2016. Niên giám thống kê 2015. Hà Nội: NXB

Thống kê.

12. Tổng cục Thống kê, 2017. Báo cáo Điều tra lao động việc làm 2016.

Hà Nội: NXB Thống kê.

13. Tổng cục Thống kê và Quỹ dân số liên hợp quốc, 2016. Dự báo dân số

Việt Nam 2014 - 2049. Hà Nội: NXB Thông tấn.

14. Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Trung

ƣơng, 2016. Báo cáo sơ bộ Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông

nghiệp và thủy sản 2016. Hà Nội: NXB Thống kê.

15. Trung tâm khuyến nông quốc gia, 2015. Báo cáo Kết quả hoạt động

khuyến nông 2011 - 2015 và định hướng giai đoạn 2016 - 2020.

Tài liệu tiếng Anh

1. Hurt, R. D. (2002). American Agriculture a Brief story. (R. D. Hurt,

Ed.) West Lafayette, Indiana: Purdue University Press.

2. Maclean, R., Young, A., Chosson, A., Mason, A., & Lindmeier, K,

2016. Food security in China: Exploring the substainability challenges.

3. Orden, D., & Parrlberg, R. a, 1999. Policy reform in american

agriculture analysis and prognosis. London: Chicago and London.

4. Petersen, E, 2017. Comparison of food security policies in Vietnam,

Indonesia and Australia. 26-37. Canberra: ACIAR.

102

5. Petersen, E, 2017. The principles for food security. Vietnam food

security policy review, p38-44. Canberra, Australia: ACIAR.

6. Petersen. E, et al. (2017, March 01). Evaluation of Vietnam‟s food

security policies. Vietnam food security policy review, 74-93. (E.

Petersen, Ed.) Canberra, Autralia: ACIAR.

7. World Bank, 1986. Poverty and Hunger, Issues and Options for Food

Security. Washington, D.C.

8. Tran Cong Thang, et al, 2017. Stakeholder perceptions on the

development and effectiveness of food security policies in Vietnam.

Canberra: ACIAR.

9. UN, 2009. Human security in theory and practice. New York.

10. R.Douglas Hurt's, 2002. American Agriculture a Brief story (2nd ed.).

West Lafayette, Indiana: Purdue University Press.

11. Vu Hoang Yen, et al, 2017. Overview of Vietnam‟s food security

policies. 44-67. Canberra: ACIAR.

12. Y. J.Zhang, S. Z. Gu, 2009. Food security in China. Regional

sustainable development: China, 1, 192-211.

Tài liệu Internet

1. Trần Việt Dũng, 2015. Một số chính sách của Chính phủ Thái Lan đối

với nông dân và tham chiếu kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Cộng

sản điện tử. Địa chỉ < http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/nong-

nghiep-nong-thon/2015/33399/Mot-so-chinh-sach-cua-Chinh-phu-

Thai-Lan-doi-voi-nong.aspx> [Truy cập: 17 tháng 2 năm 2017]

2. Lê Xuân Cử, 2015. Một số chính sách của Trung Quốc đôi với nông

dân và tham chiếu kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện

tử. Địa chỉ:http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-

103

su-kien/2015/36104/Mot-so-chinh-sach-cua-Trung-Quoc-doi-voi-nong-

dan-va.aspx. [Truy cập: 12 tháng 3 năm 2017]

3. Nguyễn Trọng Tuấn, 2010. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt

Nam.

Địa chỉ: < http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-

KH-CN/Kinh-nghiem-quan-ly-dat-dai-cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-va-

van-de-doi-voi-Viet-Nam-35616.html> [Truy cập: 16 tháng 10 năm 2016]

4. Phạm Duy Nghĩa và Malcolm F. McPherson, 2010. Bài kiến nghị chính

sách chung: Sửa đổi Luật đất đai Việt Nam: Tạo sự đối xử bình đẳng

cho những người nắm quyền sử dụng đất ở nông thôn [pdf] Địa chỉ:

_Brief_on_land_VN_final.pdf> [Truy cập: 17 tháng 2 năm 2017]

16. Vƣơng Đình Huệ, 2013, Nâng cao hiệu quả đầu tƣ công cho nông

nghiệp, nông dân và nông thôn, Tạp chỉ Cộng sản điện tử. Địa chỉ

thon/2013/21330/Nang-cao-hieu-qua-dau-tu-cong-cho-nong-nghiep-

nong-dan.aspx >[Truy cập: 03 tháng 2 năm 2017]

17. Tran Cong Thang and Dinh Thi Bao Linh, 2015. Food and Fertilizer

Technology Center for the Asia and Pacific region. Avalable at: <

http://ap.fftc.agnet.org >. [Accessed 13 February 2017]

104