ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -------------------------- LÊ THỊ THU HÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------------------ LÊ THỊ THU HÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở BẮC NINH Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐÀO THỊ BÍCH THỦY

1 APEC

Asia- Pacific Economic

Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –

Cooperation Forum

Thái Bình Dương

2 ASEAN

Association of Southeast

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á

Asian Nations

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

3 CNH -

HĐH

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

4 FDI

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

5 GDP

Gross National Product

Tổng sản phẩm quốc dân

6 GNP

Giá trị sản xuất

7 GTSX

International Monetary Fund Quĩ Tiền tệ Quốc tế

8

IMF

Incremental Capital - Output

Hệ số sản lượng vốn tăng thêm

9

ICOR

Ratio

10 KCN

Khu công nghiệp

11 KTTĐ

Kinh tế trọng điểm

12 NICs

Newly Industrialized

Các nước công nghiệp mới

Countries

13 NNL

Nguồn nhân lực

14 ODA

Official Development

Hỗ trợ phát triển chính thức

Assistance

15 XDCB

Xây dựng cơ bản

16 WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

17 WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Tên bảng chương 2 Trang

Bảng 2.1

Cơ cấu GDP các ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh từ 1997-

43

2008

Bảng 2.2

Tốc độ tăng trưởng GTSX giai đoạn 1997-2008 theo các

44

ngành kinh tế (Theo giá so sánh 1994)

Bảng 2.3

Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ

48

1997-2008

Bảng 2.4

Tình hình chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông

49

nghiệp từ 1997-2008

Thùc tr¹ng chuyÓn dÞch c¬ cÊu gieo trång tõ 1997-2008

50

Bảng 2.5

KÕt qu¶ ch¨n nu«i cña tØnh B¾c Ninh tõ 1997-2008

53

Bảng 2.6

Bảng 2.7

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp -

55

xây dựng từ 1997-2008

Bảng 2.8

Đóng góp của một số ngành dịch vụ chủ chốt vào GDP giai

59

đoạn 1997-2008

C¬ cÊu lao ®éng cña tØnh B¾c Ninh trong c¸c ngµnh kinh tÕ

65

Bảng 2.9

B¶ng 2.10

Tr×nh ®é lao ®éng trong c¸c ngµnh kinh tÕ cña tØnh B¾c

67

Ninh

Tªn b¶ng ch ¬ng 3

Bảng 3.1

Dự kiến chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến năm

82

2015 và 2020 của tỉnh Bắc Ninh

Tên biểu đồ chương 2

Biểu đồ 2.1 Cơ cấu GDP phân theo ba ngành kinh tế

44

Biểu đồ 2.2 Cơ cấu lao động theo ba ngành kinh tế

66

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng biểu Mở đầu

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1

1.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu ngành kinh tế 1

1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế 1

1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế 2

1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 6

1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu 6

ngành kinh tế

1.2.2. Những chỉ tiêu và nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành 10

kinh tế

1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại một số địa phương 18

ở nước ta giai đoạn từ 1997 đến nay

1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Hưng Yên 19

1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Vĩnh Phúc 23

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh 28

tế ở tỉnh Bắc Ninh

29 Kết luận chương 1

Chương 2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở 30

tỉnh Bắc Ninh

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 30

ở Bắc Ninh

2.1.1. Vị trí địa lý 30

2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và dân số 31

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 35

2.1.4. Vai trò của Nhà nước, nhu cầu của thị trường trong từng giai đoạn 37

phát triển

2.1.5. Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hoá, khu vực 39

hoá

2.2. Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ 42

năm 1997 đến nay

2.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và 47

dịch vụ

2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ 47

sản

2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng 55

2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ 58

2.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động 64

2.4.1. Về cơ cấu lao động theo ba ngành kinh tế 64

2.4.2. Về chất lượng nguồn nhân lực 67

2.5. Đánh giá chung sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh 68

2.5.1. Những thành tựu 68

2.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân 70

Kết luận chương 2 72

Chương 3. Quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình 74

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm

tới

3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến chuyển dịch cơ cấu 74

ngành kinh tế ở Bắc Ninh

3.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế 74

3.1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới 77

3.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh 79

3.2.1. Các quan điểm phát triển 79

3.2.2. Các mục tiêu phát triển 79

3.3. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh 85

3.3.1. Các giải pháp vĩ mô thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 85

3.3.2. Giải pháp phát triển từng ngành 95

Kết luận chương 3 103

Kết luận 105

Danh mục tài liệu tham khảo 107

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, đất nước ta bước

vào thời kỳ đổi mới toàn diện để phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta

đang phát triển với ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, để thực

hiện quá trình CNH - HĐH đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong

những vấn đề quan trọng hàng đầu, trong đó đặc biệt chú trọng tới vùng

KTTĐ của đất nước.

Bắc Ninh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng

KTTĐ Bắc Bộ: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có vị trí thuận lợi để phát

triển kinh tế. Cũng như các tỉnh khác trong cả nước, Bắc Ninh đã và đang nỗ

lực thực hiện theo đường lối của Đảng: tiến hành CNH - HĐH nông nghiệp

nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Xuất phát điểm là một tỉnh thuần nông, có cơ cấu ngành kinh tế không

cân đối, ngành công nghiệp thấp kém, do đó thực hiện công cuộc hiện đại hoá

nông nghiệp nông thôn là một vấn đề hết sức khó khăn đối với Bắc Ninh.

Ngay từ thời kỳ đầu tái lập (01/01/1997), Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra kế

hoạch chính sách phát triển kinh tế gắn với chuyển dịch mạnh cơ cấu ngành

kinh tế, phấn đấu đưa Bắc Ninh thoát ra khỏi tình trạng thấp kém.

Đến nay, Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả đáng kể trong lĩnh vực

kinh tế - xã hội: GDP liên tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng

hướng: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm, tăng tương ứng tỷ trọng công

nghiệp và dịch vụ, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.

Có được thành tựu như vậy là do Bắc Ninh đã xác định được một

hướng đi phù hợp, hoà nhập được với tinh thần chung của cả nước cũng như

xu thế phát triển của thế giới, xây dựng được một cơ cấu ngành kinh tế hợp

lý, tận dụng được ưu thế riêng của tỉnh để phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ

một số mặt yếu kém như: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa xứng với lợi thế của

tỉnh, GDP bình quân đầu người chưa cao, thu hút vốn đầu tư bên ngoài vào

chưa mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng dịch vụ trong GDP

đạt thấp.

Do vậy, tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngành kinh tế để phát huy lợi thế so

sánh của Bắc Ninh là một vấn đề hết sức cấp bách, phù hợp với tinh thần Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ X; với chính sách phát triển kinh tế của tỉnh và

trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay. Chính vì lẽ đó, tác giả

chọn “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh” làm đề tài của luận văn

Thạc sỹ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu:

Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở các cấp độ khác

nhau về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh đã được

công bố. Cụ thể là:

“Bắc Ninh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001-

2005” của Nguyễn Hữu Thành, (2005) - tạp chí Nông nghiệp và phát triển

nông thôn, số 17, tr. 8-12. Trong bài này, tác giả đã phân tích thực trạng

chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2001 - 2005, đánh

giá thành công và hạn chế, sau đó đưa ra giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu ngành này trong những năm tới. Vì phạm vi của bài viết chỉ dừng lại ở

ngành nông nghiệp, phạm vi thời gian trong một giai đoạn ngắn nên chưa

phản ánh được rõ nét bức tranh về các ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.

“Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh từ 1986-2005 và một số

giải pháp, kiến nghị” - Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học: Chuyển dịch cơ

cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh từ 1986-2005 của tác giả Ngô Văn Tuệ - Cục

Thống kê Bắc Ninh.

“Động thái kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh 1997 - 2005”, Nxb Thống kê

(2006). Qua đó, những số liệu về các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh đã

được phân tích và tập hợp một cách hệ thống và khá đầy đủ, vấn đề chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 1997 - 2005 cũng được khái quát qua tài

liệu này. Tuy nhiên, phạm vi thời gian chỉ tính đến năm 2005 nên đến nay

công trình này không còn phù hợp để phản ánh thực trạng chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.

“Nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc Ninh trên đường đổi mới”

của Trần Văn Tuý (Chủ biên), Nxb Thống kê (2008). Tuy không đề cập sâu

về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhưng cuốn sách này được ví như một

kho thông tin về nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc Ninh rất đồ sộ và

phong phú. Nó giúp người đọc hình dung phần nào về sự chuyển dịch cơ cấu

ngành nông nghiệp và định hướng phát triển ngành này sau hơn 10 năm tái

lập tỉnh.

Bên cạnh đó, còn một số tài liệu về Bắc Ninh như: Báo cáo thực hiện

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Báo cáo thực hiện kế hoạch

5 năm 2001 - 2005 của Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh; bài viết của tác giả

Nguyễn Thế Thảo, (2003), “Bắc Ninh: Thành tựu đột phá và triển vọng đến

năm 2010” - Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 8, tr. 22-24; (2002), “Bắc Ninh và

5 giải pháp thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”

- Tạp chí Nông thôn mới, số 1+2, tr. 64-65.

Những nghiên cứu trên vì mục đích và yêu cầu khác nhau nên nhìn

chung chưa thoả đáng để phản ánh một cách có hệ thống về chuyển dịch cơ

cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay. Trong quá trình hội

nhập nền kinh tế thế giới hiện nay, Bắc Ninh định hướng phát triển kinh tế

theo hướng CNH - HĐH thì liệu sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với tốc

độ như các giai đoạn trước có còn phù hợp không? Đây là một trong những

câu hỏi đặt ra cho đề tài “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh

từ năm 1997 đến nay và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh trong những năm tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế.

- Phân tích chuyển dịch cơ cấu ngành và chuyển dịch trong nội bộ

ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay.

- Từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc

Ninh

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh.

+ Về thời gian: Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh

Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2008.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình nghiên cứu, kết hợp cùng các

phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, lôgic, xử lý các

nguồn số liệu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.

Đồng thời, luận văn cũng tham khảo các công trình nghiên cứu đã được

công bố, kế thừa kết quả để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.

6. Dự kiến đóng góp của luận văn:

- Trình bày một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế.

- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc

Ninh.

- Làm rõ những nhân tố tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh: quá trình xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp

lý và tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới.

7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu

tham khảo, luận văn gồm có 3 chương.

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế.

- Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh.

- Chương 3: Quan điểm và giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh trong những năm tới

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU

NGÀNH KINH TẾ

1.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu ngành kinh tế

1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế

Khái niệm cơ cấu kinh tế được định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào

cách tiếp cận, nghiên cứu. Khi tìm hiểu về cơ cấu kinh tế, cần làm rõ khái

niệm về cơ cấu.

Cơ cấu là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ

cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống. Biểu hiện sự thống nhất của

các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ

mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một

thuộc tính của sự vật, hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật,

hiện tượng [25, tr. 269 - 270]. Bởi vậy khi nghiên cứu về cơ cấu của một đối

tượng nào đó cần phải tiếp cận một cách hệ thống đối với nó.

Cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ

thống phức tạp, có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp

thành của chúng. Nếu đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ

thống có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố

của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, tương tác qua lại

cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế -

xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Do vậy,

cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã

hội.

Theo lý luận kinh tế chính trị, khi phân tích quá trình phân công lao

động xã hội, Các Mác đã nhấn mạnh: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ

1

những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của

các lực lượng sản xuất vật chất”[5, tr. 7]. Đó là tính thống nhất giữa lực lượng

sản xuất và quan hệ sản xuất trong khái niệm cơ cấu kinh tế, là kết quả của sự

phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất

và kiến trúc thượng tầng.

Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: “Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân

là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: Các

lĩnh vực (sản xuất, trao đổi, tiêu dùng), các ngành (công nghiệp, nông nghiệp,

dịch vụ), các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, cá thể) hay các vùng

kinh tế.[19, tr. 21].

Nhìn chung, có thể hiểu một cách đơn giản cơ cấu kinh tế là tổng thể

các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia.

Trong quá trình vận động của nền kinh tế, chúng có quan hệ tương tác lẫn

nhau về số lượng, tỷ trọng và cùng hướng vào những mục tiêu đã xác định.

Nền kinh tế quốc dân dưới góc độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại

cơ cấu khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển

kinh tế. Trên bình diện vĩ mô, có các loại cơ cấu kinh tế cơ bản là cơ cấu

vùng, lãnh thổ; cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế.

1.1.2. Cơ cấu ngành kinh tế

1.1.2.1. Khái niệm

Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp ngành kinh tế được hình thành trên các

tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau

phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất xã hội.

Biểu thị cơ cấu ngành kinh tế bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong

hệ thống nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu vùng, lãnh thổ được hình thành bởi

việc bố trí không gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ

2

cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng

phát triển kinh tế, gắn liền với sự hình thành phân bố dân cư trên lãnh thổ để

phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Trong khi đó,

cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở

hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành

phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu

vùng, lãnh thổ trong quá trình phát triển.

Trong ba loại cơ cấu trên của cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế là

biểu hiện quan trọng nhất và đặc trưng nhất. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh

tế cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, vai trò của từng ngành trong phát

triển kinh tế-xã hội, căn cứ vào điều kiện thực tế để phát triển chúng. Thay

đổi nhanh chóng và mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của nền kinh tế

nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác.

Một số đặc trưng của cơ cấu ngành kinh tế bao gồm: bị chi phối bởi các

quy trình kỹ thuật, công nghệ và yêu cầu thị trường; bị ràng buộc bởi tính hệ

thống và yêu cầu cân đối (hay ở chừng mực nào đó là yêu cầu đồng bộ); đan

xen tính hiện đại và tính lạc hậu; bị chi phối bởi các yếu tố chính trị, xã hội.

Để xem xét số lượng các ngành tạo nên nền kinh tế và chất lượng các

mối quan hệ giữa chúng với nhau ra sao, người ta thường chia nền kinh tế

thành các nhóm ngành để quan sát. Theo quan điểm của tác giả Ngô Doãn

Vịnh, về mặt định lượng, cơ cấu ngành kinh tế bao gồm số ngành kinh tế và

tỷ trọng trong mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế quốc dân; về mặt định

tính, cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành kinh tế và vị trí của

mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong mối quan hệ giữa các ngành

kinh tế thường biểu hiện hai mối quan hệ chủ yếu, gồm: ngành có mối quan

hệ trực tiếp, trong đó có các ngành quan hệ ngược chiều, các ngành quan hệ

3

xuôi chiều và ngành quan hệ gián tiếp.[29, tr.99-100].

Cơ cấu ngành kinh tế hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội

và chuyên môn hoá sản xuất. Do đó, nó phản ánh phần nào trình độ sản xuất

và phân công lao động xã hội của một quốc gia.

Nghiên cứu các loại cơ cấu kinh tế nhằm tìm ra cách thức duy trì tính

hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao nguồn lực có

hạn của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn

bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh chóng nhất, có hiệu quả nhất.

1.1.2.2. Phân loại cơ cấu ngành kinh tế

Có nhiều cách phân loại các ngành hợp thành trong cơ cấu ngành kinh

tế. Tuy nhiên, căn cứ vào phân ngành của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có

thể nhìn nhận nền kinh tế nước ta là tổng hòa của ba nhóm ngành sau:

Nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp (ngành nông nghiệp), gồm các ngành

trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; Nhóm ngành công nghiệp và xây

dựng (ngành công nghiệp), gồm các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp

khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu,

ngành xây dựng; Nhóm ngành dịch vụ gồm các ngành thương mại, du lịch, giao

thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu điện và các ngành dịch vụ khác.

Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phương thức, công nghệ sản xuất:

nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việc phân chia cơ cấu kinh tế thành hai nhóm

ngành này để quan sát trình độ của cơ cấu, yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự tăng

trưởng kinh tế. Khi phân tích theo hai nhóm ngành này, chúng ta cần quan sát

phương thức, công nghệ tạo ra sản phẩm. Khi nhóm ngành phi nông nghiệp càng

phát triển và chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng phát triển ở trình độ cao.

Nhóm ngành nông nghiệp gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp;

nhóm ngành phi nông nghiệp gồm các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Đối với các nước đang phát triển thì việc xem xét cơ cấu ngành kinh tế theo kiểu

4

này có ý nghĩa to lớn. Việc chuyển dân cư nông thôn sang sống tại các đô thị và

chuyển lao động nông nghiệp sang làm việc trong các khu vực phi nông nghiệp là

vấn đề có tính quy luật tiến tới sự hiện đại; sự chuyển động này đến một mức đô

nào đó thì nền kinh tế được coi là phát triển. Ở các nước đang phát triển, các

ngành nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; khi đó công nghệ

của nền kinh tế không cao.[30, tr.100].

Căn cứ vào phương thức sản xuất, người ta còn chia các ngành thành hai

nhóm sau đây:

- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp theo quy mô. Tức là, cơ cấu giữa doanh

nghiệp quy mô nhỏ, vừa và doanh nghiệp quy mô lớn. Trong điều kiện kinh tế thị

trường, doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng nhạy nhanh, kịp thời với những biến động

kinh tế trong một quốc gia hay trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ đó, có thể giảm

thiểu tổn thất cho đầu tư và cho sản xuất. Mặt khác, một vấn đề quan trọng cần

chú ý trong bối cảnh toàn cầu hoá là luôn tồn tại sự cạnh tranh khốc liệt. Những

tập đoàn kinh tế lớn mạnh có điều kiện cạnh tranh tốt hơn. Vì thế, bên cạnh việc

khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần đặc biệt chú ý tạo dựng

những tập đoàn kinh tế lớn.

- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp có công nghệ trình độ cao với các doanh

nghiệp có công nghệ trình độ trung bình. Dù hiển nhiên những doanh nghiệp có

công nghệ cao sẽ quyết định sự phát triển của cơ cấu kinh tế, nhưng trong khi lao

động cần việc làm có số lượng lớn và lực lượng lao động có chất lượng không cao

thì việc phát triển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động vô cùng cần thiết. Nó

không chỉ góp phần giải quyết việc làm mà còn có ý nghĩa toàn dụng lao động để

tăng trưởng kinh tế.

Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm

ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ.

Việc phân chia cơ cấu kinh tế theo hai nhóm ngành này nhằm nghiên cứu về mức

5

độ hài hoà giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình CNH-HĐH

nền kinh tế không thể không quan sát quan hệ giữa hai khối ngành này. Dịch vụ

phát triển được coi như làm “trơn tru” các quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu khu

vực sản xuất phát triển mà khu vực dịch vụ không phát triển thì sản xuất cũng sẽ

bị ngưng trệ. Sự hài hoà giữa hai khối ngành này là rất cần thiết. Nếu xét theo

hành vi tăng trưởng (hành vi tham gia tăng trưởng) thì các ngành sản xuất ra các

sản phẩm dịch vụ có quan hệ khăng khít với nhau theo một tương quan nhất định.

Đặc trưng tiêu biểu nhất là các ngành dịch vụ phải tăng nhanh hơn các ngành sản

xuất vật chất. [30, tr.101].

Khi xem xét cơ cấu ngành kinh tế, chúng ta cũng phải chú ý đến tỷ trọng

hay mức đóng góp của các sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế, cũng như của các

sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng chất xám cao. Nếu như các

sản phẩm này chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng tốt và ngược lại. Một

nền kinh tế được xem là phát triển phải có các ngành chế tạo chiếm tỷ trọng lớn

trong GDP (trên 30%). Mặt khác, phải chú ý đến cơ cấu nội bộ của các ngành

kinh tế. Tính hợp lý trong nội bộ của các ngành và cơ cấu ngành kinh tế sẽ đảm

bảo tính hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế.

Nghiên cứu cơ cấu giữa hai nhóm ngành sản xuất vật chất và khối sản xuất

sản phẩm dịch vụ nhằm phát huy toàn diện, đầy đủ quan hệ giữa chúng làm cho

nền kinh tế có sức mạnh tổng hợp, phát triển cân đối, hài hoà giữa các mặt, giữa

đầu vào và đầu ra. Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân luôn vận động và phát triển,

việc phân tích và đưa ra hướng điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế thích hợp trong

quá trình đổi mới và thực hiện CNH - HĐH là vấn đề hết sức cần thiết.

1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế

6

1.2.1.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Quá trình phát triển kinh tế, đồng thời cũng là quá trình làm thay đổi cơ

cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu ngành kinh tế) cả về tỷ lệ, số lượng và chất

lượng. Sự ổn định của cơ cấu kinh tế chỉ là tương đối, nó thường xuyên ở

trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi ấy phụ thuộc vào cả

những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, như: điều kiện tự nhiên,

khoa học công nghệ, trình độ phân công lao động xã hội, sự liên kết hợp tác

kinh tế và nhân tố chủ quan của nhà nước… Trong đó có nhân tố quan trọng

và dễ dàng nhìn nhận thấy đó là quá trình chuyên môn hoá trong phạm vi

quốc gia và mở rộng chuyên môn hoá quốc tế, thay đổi công nghệ, tiến bộ kỹ

thuật. Chuyên môn hoá mở đường cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng

công nghệ tiên tiến, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng suất lao động xã hội.

Bên cạnh đó, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ lại thúc đẩy quá trình

chuyên môn hoá. Điều đó làm cho tỷ trọng các ngành truyền thống giảm đi, tỷ

trọng các ngành dịch vụ kỹ thuật mới tăng lên nhanh chóng và dần dần chiếm

ưu thế. Phân công lao động và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát

triển sâu sắc tạo ra những tiền đề cho việc phát triển các yếu tố sản xuất. Và

ngược lại, việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất lại thúc đẩy quá trình

phát triển, tăng trưởng kinh tế và do vậy làm sâu sắc thêm quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế.[27, tr.13-14].

Thực chất của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự phát

triển không đồng đều giữa các ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc

độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có

tốc độ phát triển thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các ngành có cùng một

tốc độ tăng trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Do vậy có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi cả

7

về vị trí, vai trò, số lượng và chất lượng của các yếu tố, bộ phận hợp thành

các ngành kinh tế đã có sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh

tế và xã hội của một nước.

Mục tiêu của sự chuyển dịch là đạt được sự hài hòa, hợp lý giữa các bộ

phận trong một chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế quốc dân hay của khu

vực nào đó. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh được sự tác động của

quy luật khách quan và phù hợp với các quy luật phát triển khách quan đó.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật ấy, người ta phân tích và đánh giá

những xu thế phát triển để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu có hiệu lực nhất

trong từng điều kiện cụ thể.

Ngày nay, kinh tế học phát triển coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một

trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự

khẳng định này là bước tiến quan trọng trong lí luận nhận thức và tư duy

chính sách kinh tế. Thực tế, những quốc gia đạt mức độ tăng trưởng kinh tế

cao nhưng cơ cấu của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách

rời giữa khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp

lạc hậu; vì vậy, khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn

không chia sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.

Trong quá trình phát triển, tỉ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ

trong GDP tăng, nhất là công nghiệp chế biến trong khi tỉ trọng của nông

nghiệp trong GDP giảm. Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mức độ

thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu

vực có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn

và thay thế những khu vực sản xuất kinh doanh có năng suất lao động và giá

trị gia tăng thấp. Đặc biệt, một vài thập kỉ gần đây, sự phát triển của khu vực

dịch vụ được xem là một trong những đặc trưng mới của xu hướng phát triển

thế giới nên cách tiếp cận vấn đề cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu trong quá trình

8

phát triển nền kinh tế có những thay đổi.

Tuy nhiên, phải lưu ý đến tính khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh

tế mang tính qui luật thông qua các xu hướng dưới đây:

- Xu hướng chuyển dịch cơ cấu của kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng

hóa, tức là từ một nền kinh tế có kết cấu giản đơn sang nền kinh tế có mối

quan hệ phức tạp và ở một trình độ cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện

nay, việc tận dụng, khai thác lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối, tranh thủ sự

phân công lao động quốc tế để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng này

được nhiều quốc gia chọn lựa.

- Xu hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất và lao động trong công nghiệp

và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Nguyên nhân là do chi tiêu cho

các loại hàng hóa thiết yếu sẽ giảm khi thu nhập tăng. Do vậy, nhu cầu về sản

phẩm công nghiệp và dịch vụ sẽ phát triển nhanh hơn nhu cầu về sản phẩm

nông nghiệp. Mặt khác, do đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi và đất

canh tác có tác hại nên nông nghiệp phát triển chậm hơn công nghiệp và dịch vụ.

- Xu hướng đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

của con người luôn tịnh tiến cùng với thu nhập. Chính quy luật thị trường và

lợi ích là động lực tác động đến sản xuất, làm cho sản xuất phát triển nhanh

theo xu hướng đa dạng hóa sản phẩm.

Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với sự biến đổi không

ngừng của các yếu tố, bộ phận và những quan hệ hợp thành của nền kinh tế

quốc dân. Nó là một quá trình tất yếu của một quốc gia, đặc biệt là sự phát

triển trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu hiện nay.

1.2.1.2. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế do yêu cầu của CNH-HĐH. Đảng ta

đã xác định: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các

hoạt động kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử

9

dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện và phương pháp

tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Đối với nước ta đó là một

quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nhằm cải biến một xã

hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình

thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản

chất của chế độ mới".[15].

Trong điều kiện nước ta, ngành nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn

trong GDP, GDP bình quân đầu người còn thấp so với trung bình của thế giới.

Để thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển, việc tiến hành CNH-HĐH đất

nước là vấn đề quan trọng hàng đầu. Theo một chuyên gia kinh tế của Ngân

hàng thế giới - Tatyana P.Soubbotina: “Công nghiệp hoá là giai đoạn phát

triển kinh tế của một nước, trong đó công nghiệp tăng trưởng nhanh hơn nông

nghiệp và dần dần đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”.[44]. Vì thế, vai trò

hết sức to lớn của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là nhằm khai thác và sử

dụng có hiệu quả nguồn lực để tìm ra các ngành kinh tế mũi nhọn, thiết lập

mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngành kinh tế trong tổng thể nền kinh tế để tạo

đà cùng nhau phát triển.

Ngày nay, xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh

mẽ, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giúp các quốc gia có thể phát huy được

lợi thế so sánh của mình, có điều kiện tiếp thu trình độ khoa học - công nghệ

tiên tiến nhằm nâng cao tính hiệu quả và mở rộng hơn quan hệ hợp tác kinh

tế quốc tế trên mọi lĩnh vực.

1.2.2. Những chỉ tiêu và nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế

1.2.2.1. Những chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỷ lệ

giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Khi đánh giá quá trình chuyển

10

dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như

phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối

tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không

chú ý tới những đặc điểm riêng của mỗi loại cơ cấu kinh tế (và cả cơ cấu kinh

tế theo lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế…). Những chỉ tiêu phản ánh

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm:

Cơ cấu GDP

Một trong những thước đo khái quát nhất để đo lường, đánh giá về tốc

độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế đó

là chỉ tiêu GDP. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định nhưng trong khoa

học kinh tế hiện đại, chỉ tiêu này vẫn được sử dụng khá phổ biến.

Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GDP giữa

các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu

hướng vận động và mức độ thành công của công nghiệp hóa. Tỷ lệ phần trăm

GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là

một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình

chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình đổi mới nền kinh

tế và thực hiện công nghiệp hóa, mối tương quan này có xu hướng chung là

khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp

(công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học

công nghệ hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng

cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.

Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô và cơ cấu các thành phần kinh tế,

một chỉ số kinh tế khác cũng thường được sử dụng cơ cấu GNP chỉ ở chỗ, chỉ

tiêu GNP chỉ phần giá trị tăng thêm hàng năm được sản xuất ra thuộc sở hữu

của một nền kinh tế, còn GDP thì ở trong nền kinh tế đó. Tuy nhiên, sự ưa

dùng cơ cấu GDP đối với những nền kinh tế đang phát triển, đang công

11

nghiệp hóa không phải bởi nhìn chung quy mô GDP ở đây thường lớn hơn

GNP (do phần FDI ở đây thường lớn hơn là đầu tư của họ ra nước ngoài),

điều quan trọng là ở chỗ quy mô GDP phản ánh rõ hơn những khía cạnh khác

nhau của môi trường kinh doanh và đặc biệt là cùng với cơ cấu GDP, cơ cấu

lao động của nền kinh tế cũng được phản ánh rõ ràng hơn.

Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế

trong quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, việc phân tích cơ

cấu các ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông

thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ

hiện đại hóa của nền kinh tế.

Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế

Trong quá trình đổi mới nền kinh tế và thực hiện CNH - HĐH, sự

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được đánh giá qua một chỉ tiêu rất quan

trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bố như

thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế học đánh giá rất

cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế, vì ở

góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới là chỉ tiêu phản

ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế-xã hội của quá trình CNH

- HĐH. Bởi vì công nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải

chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công nghiệp, mà là

cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh vực công nghiệp

(hiện nay, công nghiệp và dịch vụ dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại), phải

là quá trình CNH - HĐH đời sống xã hội con người, trong đó, cơ sở quan

trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp

chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc

trong nền kinh tế.

Cơ cấu lao động phân theo ngành sở dĩ được các nhà kinh tế học đánh

12

giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức

độ chuyển biến xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh

hưởng bởi các nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong khi tỷ trọng

lao động phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công nghiệp) còn chiếm

tỷ trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Lý

giải cho hiện tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình trạng “méo mó” về

giá cả, nhất là trong những trường hợp có sự chênh lệch giá cánh kéo lớn giữa

sản phẩm công nghiệp và dịch vụ so với sản phẩm nông nghiệp. Vì thế, cơ

cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi khi không phản ánh đúng thực trạng

chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.

Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động thậm chí còn được

một số kinh tế gia xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ thành

công của quá trình công nghiệp hóa trong nghiên cứu so sánh giữa các nền

kinh tế. Chẳng hạn, Iungho Yoo (KDI School of Public Policy and

Management, Korea) đã so sánh thời kỳ công nghiệp hóa giữa các nước dựa

trên một tiêu chí duy nhất là coi trọng lao động nông nghiệp chiếm 50% tổng

lao động xã hội và kết thúc khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 20%

tổng lao động xã hội.

Có thể còn có những tranh luận về điểm khởi đầu và điểm kết thúc của

quá trình công nghiệp theo quan điểm này, nhưng cách tiếp cận ở đây là đã

xuất phát từ chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động trong mối tương quan giữa

tỷ trọng lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp để đánh giá tiến trình công

nghiệp hóa.[37, tr.39-40].

Cơ cấu hàng xuất khẩu

Trong điều kiện đổi mới một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu

các mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một trong những tiêu chí quan

trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

13

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy luật phổ biến của quá trình

công nghiệp hóa (đối với phần lớn các nước đang phát triển hiện nay) là xuất

phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ

trọng lớn trong cơ cấu GDP và số lượng lao động làm nông nghiệp chiếm

phần lớn nhất trong tổng lực lượng lao động xã hội và do đó, trong tổng giá trị

xuất khẩu ít ỏi mà họ có được, một phần rất lớn là sản phẩm nông nghiệp

hoặc sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên liệu thô (chưa qua

chế biến hoặc chỉ ở dạng sơ chế). Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu máy móc,

thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp

lại rất lớn nên tình trạng khan hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu

mang tính kinh niên.

Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để trở thành

một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong

cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất

khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các loại

sản phẩm của công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như

lắp ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản…chuyển dần sang các

loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao như sản phẩm cơ khí chế

tạo, hóa chất, điện tử, v.v…Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất

khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên

cơ sở công nghệ - kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo

rất quan trọng đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hơn nữa, đối với nhiều nước chậm phát triển, do những chỉ số tiêu chuẩn kỹ

thuật quốc gia nhiều khi thấp hơn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu sản

phẩm xuất khẩu (được thị trường quốc tế chấp nhận) sẽ là một tiêu chí tốt để

bổ sung đánh giá kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

14

công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đồng thời, với cơ cấu giá trị của các sản phẩm xuất khẩu, cơ cấu nguồn

lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào chế tạo sản phẩm xuất khẩu cũng

có ý nghĩa trong phân tích, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu nguồn lao

động xã hội.

Tóm lại, khi phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu gồm cơ cấu

GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu hàng xuất khẩu để xem xét. Mức độ chi tiết, cụ

thể và các khía cạnh tiếp cận của những phân tích này trước hết phụ thuộc vào

yêu cầu mục tiêu cần đánh giá, vào nguồn tài liệu sẵn có và nhiều yếu tố khác.

Mỗi tiêu chí nêu trên đều hàm chứa một ý nghĩa kinh tế nhất định trong phân

tích quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thời kỳ CNH-HĐH.

Một nhóm các chỉ tiêu khác góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu

kinh tế với tư cách là kết quả của cơ cấu phân bổ các nguồn lực xã hội, trước

hết là cơ cấu đầu tư. Đó là các chỉ số về tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất

lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức độ tiêu hao năng lượng trên mỗi đơn vị

GDP được tạo ra, số chỗ việc làm mới được tạo ra, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ

giảm nghèo…Những chỉ tiêu này vốn là những chỉ tiêu tổng hợp phân tích

tình hình phát triển kinh tế của đất nước, nhưng trong một chừng mực nhất

định, chúng góp phần đáng kể vào việc đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh

tế đang được xây dựng của một nền kinh tế.[37, tr. 40-43].

1.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Như trên đã đề cập, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra dưới những tác

động nhất định, bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan. Vì thế, những

nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm:

Điều kiện tự nhiên: tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, hải sản, lâm

sản, nguồn nước...) phong phú và các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết, bờ

15

biển ...) thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp, du lịch, ngư

nghiệp và nông nghiệp. Chính Các Mác đã viết: “Bất cứ một nền sản xuất xã

hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng tự nhiên trong

phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Tuy vậy, việc khai thác các yếu tố

này phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn phụ thuộc

vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát

triển, người ta tập trung khai thác tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị

kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định. Như vậy sự đa dạng, phong

phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến

quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, là nhân tố phải tính

đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu.

Dân số và lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển

kinh tế. Trong đó, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, quy mô dân số và thu

nhập của họ là những mặt tác động này lên quá trình hình thành và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, sự phát triển của các ngành nghề truyền

thống trong công nghiệp cũng như trong các ngành kinh tế khác thường gắn

liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương. Sản phẩm của

các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa

chuông trên thị trường quốc tế. Sự phát triển và chuyển hoá các nghề này gắn

chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Vì vậy yếu tố này cũng ảnh hưởng đến sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một địa phương.

Vị trí địa lý cũng là một yếu tố phải được xem xét khi hình thành cũng

như định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Yếu tố này trở nên quan

trọng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ

kinh tế quốc tế.

Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng

sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của

16

chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo

ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ

công nghệ tiên tiến như: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển

mạnh mẽ trong tương lai.

Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ khoa học - công nghệ cho

phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, tạo ra

sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Vì vậy sẽ thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập

khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới.

Vai trò của Nhà nước bao gồm đường lối chính sách, cơ chế quản lý,

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (dù là chuyển dịch theo hướng

nào) thì Nhà nước đóng vai trò quyết định. Thứ nhất, Nhà nước xây dựng và

quyết định chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện

các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất nước. Đó thực chất là các định

hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực đầu tư theo ngành và theo

vùng lãnh thổ. Thứ hai, bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nước

khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, nhà đầu

tư phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã xác định.

Trong một quốc gia, sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường thể chế

có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu

ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế.

Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế như quan hệ kinh tế đối ngoại

và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất

ở trong nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở

mức độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế, mỗi nước, mỗi vùng

17

đều phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các

ngành, lĩnh vực có chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy

quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ

cấu ngành kinh tế. Rõ ràng là bối cảnh toàn cầu hoá tạo cho nước ta nhiều cơ

hội những cũng không ít thách thức. Vì thế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

theo hướng hội nhập là phải vượt qua được những thách thức đó để tranh thủ

được các cơ hội tạo lập nên một cơ cấu ngành kinh tế mới phù hợp, tiến bộ và

hiệu quả hơn.

Trong điều kiện quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế hiện nay,

cơ cấu ngành kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế

các nước trong khu vực. Khái quát hoá tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã

nêu lên một số đặc trưng quan trọng về biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiếu làn

sóng. Khi phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, dựa trên

những số liệu thống kê dài hạn Kamane Akamatsu đã sử dụng thuật ngữ “

Đàn ngỗng trời bay” để mô tả sự nối tiếp tăng trưởng liên tục của các ngành

trong cơ cấu kinh tế được xét cả về mặt số lượng lẫn chu kỳ biến thiên trong

quá trình xuất nhập khẩu. Năm 1963, kết hợp với sự phân tích của Akamatsu

với chu kỳ sản phẩm của Vesnon, Kojima đã đặt tên lại cho mô hình “Đàn

ngỗng trời bay” là mô hình “Chu kỳ đuổi kịp sản phẩm”. Mô hình này phản

ánh một thực tế sống động gọi là “Hiệu ứng chảy tràn” về cơ cấu kinh tế từ

các quốc gia ở các nấc thang phát triển cao hơn sang quốc gia phát triển thấp

hơn. Sự quan sát thực tế cho thấy khi Nhật bản khởi động và đạt được thành

tích tăng trưởng rực rỡ vào thập niên 1950- 1960, bốn quốc gia hiện đã trở

thành NICs đã tiếp theo đó bắt nhịp vào quá trình tăng trưởng vào thập niên

1960- 1970; đến thập kỷ 1970 và 1980 là một số nước thuộc ASEAN và từ

thập niên 1980 đến nay “ Hiệu ứng chảy tràn” đang lan sang Trung Quốc và

Việt Nam. Rõ ràng đây là một quá trình tăng trưởng liên tục và diễn ra theo

18

đúng kiểu “ làn sóng”.

Mức độ hoàn thiện của nền kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng tới

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bởi vậy sự hình thành và phát triển đồng

bộ các loại thị trường trong nước (thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường

vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ...) có tác động

mạnh đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng

bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trường, điều kiện cho thị trường và

các hoạt động sản xuất - kinh doanh thông qua các chính sách vĩ mô. Hình

thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào phụ thuộc vào chiến lược

và các định hướng phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ có tính đến các

yếu tố trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế.

1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại một số địa

phương ở nước ta giai đoạn từ 1997 đến nay

Hưng Yên và Vĩnh Phúc là hai tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm

trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Kể từ khi tái lập tỉnh (1/1/1997) đến

nay, các địa phương này đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế,

đặc biệt là tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy mỗi vùng có những đặc điểm riêng, nhưng

việc tìm hiểu kinh nghiệm của nhau để rút ra bài học là vấn đề có ý nghĩa

quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi địa phương, cũng như của Bắc

Ninh.

Sau đây là những thành tựu cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

ở Hưng Yên và Vĩnh Phúc.

1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Hưng Yên

Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có vị trí địa lý thuận lợi, diện tích tự nhiên là 923,45 km2, dân số 1.156 nghìn người (năm 2007). Mật độ dân số của tỉnh là 1.252 người/km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên

19

9,36%/năm, tỉnh đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm

2002. Hưng Yên có lực lượng lao động 674.102 người, chiếm 51% dân số

(2007). Lao động đã qua đào tạo nghề đạt 25%, chủ yếu trình độ đại học, cao

đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật được đào tạo cơ bản. Trung bình hàng

năm lực lượng lao động trẻ bổ sung khoảng trên 2 vạn người. Đây là nguồn

lực cơ bản phục vụ tốt cho phát triển công nghiệp của tỉnh.

Từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997), thực hiện công cuộc CNH - HĐH,

phấn đấu đưa Hưng Yên trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020, những

năm qua, tỉnh đã tích cực thực hiện thu hút đầu tư, tạo môi trường đầu tư

thông thoáng và hấp dẫn. Nhiều nhà đầu tư đã chọn Hưng Yên làm nơi “đất

lành chim đậu”. Đây là một vấn đề quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hưng Yên.

Những năm qua, tốc độ tăng kinh tế của tỉnh luôn duy trì ở mức cao so

với bình quân chung của cả nước, tạo sự chuyển dịch nhanh về cơ cấu kinh tế

theo hướng công - nông nghiệp và dịch vụ. Mức tăng trưởng kinh tế đạt khá,

bình quân đạt 11,87%/năm; trong đó, nông nghiệp tăng 5,6%/năm, công

nghiệp tăng 42%/năm, dịch vụ tăng 15%/năm; đời sống của người dân đang

dần được nâng lên rõ rệt. Cùng với việc tập trung phát triển kinh tế, Hưng

Yên coi trọng việc đào tạo và phát huy nguồn lực con người, thực hiện tốt các

chính sách xã hội, nâng cao mức hưởng thụ các giá trị văn hoá, tinh thần của

nhân dân.

Khai thác lợi thế gần thủ đô Hà Nội, nguồn lực dồi dào, giao thông

thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, Hưng Yên đặc biệt chú trọng nhấn

mạnh đến công tác thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công

nghiệp và dịch vụ, xem đây là điểm nhấn của tỉnh. Trong giai đoạn 2000 -

2006, Hưng Yên đã thu hút được 478 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký

20

tương đương 1.223 triệu USD, 160 dự án đã đi vào hoạt động, giá trị sản xuất

tăng hàng ngàn tỷ đồng/năm, đóng góp 70% số thu ngân sách hằng năm trên

địa bàn và tạo việc làm thường xuyên cho trên 4 vạn lao động.

Xét toàn bộ nền kinh tế của tỉnh Hưng Yên, sau hơn 10 năm tách tỉnh,

tỷ trọng của khu vực nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp)

trong tổng sản phẩm của tỉnh (GDP) đã giảm dần, nếu năm 1997 tỷ trọng

nông lâm nghiệp còn chiếm 51,87% trong tổng GDP của tỉnh thì đến năm

2008 chỉ còn 27,66%. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ 20,26% năm

1997; 32,44% năm 2001 lên 42,63% năm 2008; tỷ trọng dịch vụ tăng từ 27,87

% năm 1997 lên 29,71% năm 2008. Sự thay đổi đó là phù hợp với xu hướng

biến đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH - HĐH (tỷ trọng của khu vực

nông nghiệp trong tổng sản phẩm của cả nước (GDP) năm 2008 là 22,10%; tỷ

trọng công nghiệp - xây dựng là 39,73%; dịch vụ là 38,17%).

Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng có sự chuyển biến theo hướng

sản xuất hàng hoá, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi,

dịch vụ tăng. Nhiều mô hình sản xuất hiệu quả như: lúa-cá, lúa-cá-vườn, hoa-

cây cảnh, chăn nuôi thuỷ-đặc sản,… đã có xu hướng phát triển cả bề rộng lẫn

chiều sâu, từng bước nâng cao giá trị, thu nhập và hiệu quả kinh tế cho người

sản xuất. Tỷ trọng giá trị sản xuất lĩnh vực trồng trọt giảm từ 66,67% năm

1997 xuống còn 58,46% năm 2008, ngành chăn nuôi tăng từ 31,78% (1997)

lên 40,09% (2008), ngành dịch vụ từ 1,46% (1997) giảm còn 1,45 % (2008).

Giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá so sánh 1994) giai đoạn từ năm 1997

đến năm 2008 nhìn chung tăng khá từ 1.809,759 tỷ đồng năm 1997 lên

3.094,972 tỷ đồng năm 2008; giá trị sản xuất trồng trọt từ 1.295,229 tỷ đồng

lên 2.017,987 tỷ đồng; giá trị sản xuất chăn nuôi tăng từ 491,405 tỷ đồng lên

1.002,250 tỷ đồng năm 2008; dịch vụ nông nghiệp tăng từ 23,125 tỷ đồng lên

21

128,455 tỷ đồng.

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng nhanh. Giá trị sản xuất công nghiệp

tăng bình quân 26,7%/năm. Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 12.631

tỷ đồng, tăng 28,8% so cùng kỳ, đạt kế hoạch năm. Hình thành một số ngành

sản xuất chủ lực như: điện tử, dệt may, cơ khí và luyện thép…với công nghệ

tiên tiến, sản phẩm công nghiệp ngày càng đa dạng về chủng loại, chất lượng

tốt hơn, nhiều sản phẩm có thương hiệu và sức cạnh tranh trên thị trường.

Những năm gần đây công nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn Hưng Yên đã

có sự phát triển tích cực. Năm 2001 có 17 doanh nghiệp hoạt động chế biến ở

quy mô công nghiệp, đến năm 2008 có 65 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực này với 15 ngành hàng sản phẩm.

Một số ngành công nghiệp phục vụ cho phát triển nông nghiệp và kinh

tế nông thôn được tổ chức và sắp xếp lại sản xuất. Đặc biệt là lựa chọn các

sản phẩm ưu tiên và có lợi thế trong nước và thế giới để đầu tư về chiều sâu,

đổi mới công nghệ, đạt chất lượng cao hơn.

Làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp ở nhiều thôn được nhân

rộng và phát triển: Nổi bật là hình thành các cụm công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp dưới dạng làng nghề, đã tạo ra cơ hội tham gia cho nhiều lao động hơn

là công nghiệp tập trung và tăng thu nhập cho người lao động. Thay đổi dần

cơ cấu lao động nông thôn theo hướng chuyển dần sang lao động dịch vụ,

làng nghề, giải quyết thêm việc làm và dần dần làm thay đổi bộ mặt nông

thôn. Từ năm 1997 đến năm 2003, làng nghề và ngành tiểu thủ công nghiệp

tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 12,5%, từ năm 2006 đến năm 2008 tăng

bình quân tăng khoảng 13%/năm.

Quy hoạch phát triển công nghiệp có tiến bộ, 2 khu công nghiệp đã

được phê duyệt đi vào sản xuất, tỉnh đang trình duyệt các khu công nghiệp

khác và triển khai xây dựng các khu công nghiệp phía nam của tỉnh; quy

22

hoạch 10 khu công nghiệp làng nghề. Cơ cấu sản xuất hàng hoá chuyển dịch

theo hướng gia tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu, hàng tiêu dùng và hàng chất

lượng cao.

Hoạt động thương mại và dịch vụ chuyển biến theo hướng đáp ứng nhu

cầu của sản xuất và đời sống. Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân đạt

trên 15,0%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng

bình quân 20,5%/năm; năm 2007 giá trị các ngành dịch vụ đạt 5.271 tỷ đồng,

tăng 18,3% so với cùng kỳ. Dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu

chính viễn thông được mở rộng. Dịch vụ vận tải hành khách doanh thu tăng

bình quân 14%/năm. Hưng Yên đang phấn đấu trở thành một tỉnh phát triển,

công nghiệp hoá, hiện đại hoá với một cơ cấu kinh tế hợp lý, nâng cao hiệu

quả đầu tư và giải quyết tốt các vấn đề xã hội.

Cùng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lao động cũng có

những thay đổi, chuyển biến tích cực, lao động nông nghiệp giảm từ 80,4%

năm 2001 xuống còn 70,9% năm 2005 và 50,7% năm 2008, lao động công

nghiệp tăng từ 9,2% (năm 2001) lên 20,3% (năm 2008) và dịch vụ tăng từ

10,4% (năm 2001) lên 19,4% (năm 2008).

Nhìn chung, những năm qua, Hưng Yên đã đạt được những thành

tựu trên là do:

Thứ nhất là chính sách phát triển đúng đắn, xây dựng nền kinh tế nhiều

thành phần vận động theo cơ chế thị trường khơi dậy tiềm năng trong nhân

dân, phát huy kinh tế tự chủ, mở rộng hành lang thị trường, coi trọng việc sản

xuất và chế biến tại chỗ, v.v…từ đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các

hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ trên địa bàn nông thôn phát triển.

Thứ hai là với chính sách mở cửa, ưu đãi đầu tư tự nhiên dự án sản

xuất, công nghiệp đã được triển khai hoạt động có hiệu quả mở ra một số mặt

hàng thủ công mỹ nghệ tham gia xuất khẩu làm phong phú thêm chủng loại

23

hàng xuất khẩu của tỉnh.

Thứ ba là, khuyến khích hỗ trợ phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng

nghề. Khôi phục các làng nghề truyền thống, nhân cấy nghề mới được coi

trọng, trong một số làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã hoạt động

trở lại và có chiều hướng phát triển như nghề thêu ren, chạm bạc, mộc mỹ

nghệ, gốm sứ, mây tre đan,…

Phát huy tinh thần của vùng KTTĐ phía Bắc, nhiệm vụ phát triển kinh

tế xã hội của Hưng Yên luôn gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế của

vùng và cả nước. Phấn đấu đến năm 2010, Hưng Yên trở thành tỉnh khá trong

cả nước, tạo cơ sở để trở thành tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng hiện

đại trước năm 2020.

1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc là tỉnh đồng bằng sông Hồng, có vị trí địa lý thuận lợi, tiếp

giáp với thủ đô Hà Nội, Vĩnh phúc có nhiều lợi thế trong việc phát triển kinh

tế.

Xuất phát điểm Vĩnh Phúc là một tỉnh thuần nông, trên 90% dân số sống ở nông thôn, diện tích tự nhiên 1.371 km2, dân số hơn 1,1 triệu người,

công nghiệp phát triển kém, thu nhập bình quân đầu người thấp và tăng chậm

(GDP bình quân đầu người chỉ bằng 48% GDP bình quân của cả nước), thu

ngân sách chỉ dưới 100 tỷ đồng/năm. Đến nay, Đảng bộ và nhân dân tỉnh

Vĩnh Phúc đã lập được một kỳ tích. Nền kinh tế nói chung, đặc biệt là công

nghiệp - xây dựng luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đứng nhất, nhì toàn

quốc, bình quân đạt trên 70%/năm, xếp thứ 7 trong cả nước về giá trị sản xuất

công nghiệp và đứng thứ ba ở phía Bắc, sau Hà Nội và Hải Phòng; gia nhập

“câu lạc bộ một ngàn tỷ đồng thu ngân sách”. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch

nhanh chóng. Nếu như năm 1997, khi mới được tái lập, cơ cấu ngành kinh tế

của tỉnh là: Nông nghiệp 52%, dịch vụ 36%, công nghiệp 12% thì đến năm

24

2008, cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi: nông nghiệp 17,73%, dịch vụ 24,02%,

công nghiệp 58,25%, GDP bình quân đầu người đạt khá, thu ngân sách ước

năm 2008 là 9.228 tỷ đồng.

Thực hiện Nghị quyết TƯ 5 (khoá IX) về đẩy nhanh quá trình CNH-

HĐH nông nghiệp, nông thôn, Đại hội đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ 13 đã

ra nghị quyết chuyên đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thời kỳ

2001-2005. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã xây dựng đề án tập trung phát triển

6 cây, 3 con và triển khai thực hiện 18 dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và 15

dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách mới có

tác dụng khuyến khích sản xuất phát triển được nhân dân đồng tình ủng hộ, và

đã hoàn thành cơ bản mục tiêu giai đoạn 2001-2005. Kết quả là, tốc độ tăng

trưởng ngành nông nghiệp đạt bình quân 7,15%/năm, tỷ trọng chăn nuôi tăng

từ 28,16% (năm 2001) lên 39,08% (năm 2005), trồng trọt giảm từ 67,8%

xuống còn 56,41%, bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá có

giá trị sản xuất 50-70 triệu đồng/ha/năm, có nơi đạt hàng trăm triệu

đồng/ha/năm; hình thành một số mô hình kinh tế tổng hợp, kinh tế trang trại

mang lại hiệu quả kinh tế cao. Riêng lĩnh vực chăn nuôi đạt tốc độ tăng

trưởng cao (13,2%/năm), giá trị sản xuất ngành thuỷ sản tăng 19,95%. Mặc dù

diện tích đất nông nghiệp giảm do phát triển công nghiệp và đô thị hoá, nhưng

năng suất, sản lượng lương thực có hạt vẫn tăng, diện tích cây công nghiệp

phát triển khá. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành các vùng sản xuất chuyên

canh, mô hình vùng trồng hoa ở huyện Mê Linh, vùng nuôi trồng thuỷ sản

huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Bình Xuyên với diện tích trên 6.500 ha, đã

thu được kết quả cả về giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.

Thực hiện cải tạo diện tích vùng trũng cấy lúa không hiệu quả chuyển thành

vùng cấy 1 lúa, 1 cá do đó đến năm 2005 tổng sản phẩm thuỷ sản có mức tăng

25

trưởng khá cao, đạt 17,6%/năm, năm 2008 đạt 18,3%/năm.

Trong trồng trọt đã có sự chuyển đổi từ độc canh cây lương thực sang

đa dạng hoá cây trồng trong đó có 6 cây chủ lực được tập trung đầu tư là cây

lúa, ngô, rau, hoa, quả và dâu tằm. Tích cực ứng dụng những tiến bộ khoa học

kỹ thuật vào sản xuất do đó năng suất các loại cây trồng không ngừng được

tăng lên và đảm bảo chất lượng phục vụ nhu cầu của cuộc sống. Đến năm

2005, năng suất cây lúa đạt 50 tạ/ha/vụ, cây rau màu có diện tích 9.000 ha,

cây ăn quả đạt 9.052 ha. Năm 2008, năng suất cây lúa đạt 52,03 tạ/ha.

Bên cạnh đó, lĩnh vực chăn nuôi có chuyển biến tích cực nhờ có ứng

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nên số lượng, chất lượng đàn bò, đàn lợn

được nâng cao. Các dự án phát triển đàn bò, đàn lợn được nhân dân tích cực

tham gia. Đến năm 2005, tổng đàn bò có 149,6 nghìn con. Năm 2008, đàn bò

giảm xuống 142,9 nghìn con do tác động của dịch bệnh và giá thức ăn, con

giống tăng cao.

Ngành lâm nghiệp của tỉnh cũng đạt được những kết quả đáng kể do

thực hiện tốt công tác chăm sóc, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Trong

những năm qua, tỉnh đã trồng mới được 4.214 ha rừng tập trung và 1.200 ha

cây phân tán; chăm sóc 12.039 ha rừng, khoanh nuôi rừng tái sinh đạt 452 ha,

luôn chú trọng, quan tâm đầu tư chăm sóc và phát triển tài nguyên rừng. Đến

năm 2005, tổng diện tích rừng của Vĩnh Phúc được bảo vệ là 53.797 ha, nâng

độ che phủ của rừng đạt 23,7%.

Các hoạt động dịch vụ nông nghiệp bước đầu phát triển, hình thành một

số mô hình dịch vụ tiêu thụ, chế biến nông sản có hiệu quả. Kết cấu hạ tầng

nông thôn được quan tâm xây dựng, nhất là hệ thống đường giao thông nông

thôn, trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc, đèn thắp sáng…Các lĩnh vực văn

hoá, y tế, giáo dục, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm có nhiều tiến bộ.

Đời sống nhân dân từng bước cải tiến, nâng cao. Nhìn chung, trong những

26

năm qua ngành nông nghiệp-thuỷ sản tăng trưởng khá ổn định, giá trị sản xuất

nông nghiệp/1 ha đất nông nghiệp ngày một tăng. Cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, nông thôn thay đổi theo xu hướng tạo ra giá trị kinh tế cao và sử dụng

đất đai, nguồn lao động tốt hơn.

Vĩnh Phúc xác định nhiệm vụ trọng tâm là đầu tư, phát triển, tiếp tục

mở rộng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh để đến năm 2010 có khoảng

4.500 đến 5.000 ha đất nông nghiệp chuyển thành khu công nghiệp với hệ

thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, chất lượng cao.

Định hướng phát triển các ngành mũi nhọn có tính cạnh tranh cao như

ngành cơ khí chế tạo, điện tử tin học, công nghiệp dệt may, chế biến thực

phẩm, đồ uống và đặc biệt quan tâm thu hút các dự án công nghệ cao. Hiện

tỉnh đang tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh đa dạng hoá các hình

thức vận động, đổi mới và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin liên

lạc, tuyên truyền chính sách thu hút phát triển công nghiệp; chú trọng khuyến

khích các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút đầu tư trên địa

bàn tăng mạnh. Trong 5 năm (2001 - 2006) tỉnh thu hút được 450 dự án với

tổng số vốn đầu tư gần 2 tỉ USD, trong đó có 74 dự án FDI, 376 dự án ODA,

chiếm trên 90% tổng số dự án đã thu hút từ trước đến nay. Hình thành 5 khu

công nghiệp tập trung, 4 cụm công nghiệp nhỏ và vừa, 28 cụm thủ công

nghiệp, làng nghề với diện tích gần 1.400 ha, thu hút hàng vạn lao động, đẩy

nhanh quá trình công nghiệp hoá, đô thị hóa, tạo thêm tiền đề cho nông

nghiệp, nông thôn phát triển.

Phát triển các hệ thống chợ, trung tâm thương mại, siêu thị,… đặc biệt

với tiềm năng về du lịch, tỉnh có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển

các loại hình du lịch như: Khu nghỉ mát Tam Đảo, khu danh thắng Tây Thiên,

một quần thể di tích về Phật giáo và lịch sử văn hoá gồm hệ thống Đền Chùa,

Miếu thờ Quốc Mẫu vợ Vua Hùng Vương thứ 7, núi Sáng Sơn, thác Bay,…

27

Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn có tiềm năng du lịch nhân văn vì toàn tỉnh có 967 di

tích lịch sử, văn hoá đã xếp hạng cấp quốc gia, nhiều di tích có giá trị như:

Tháp Bình Sơn, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Trần Nguyên Hãn,… Hiện

nay, tỉnh đang tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng khu du lịch, có chính sách ưu

tiên phát triển để ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn xứng đáng

với tiềm năng sẵn có của tỉnh.

Tóm lại những năm qua Vĩnh Phúc đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại.

Nguyên nhân cơ bản của những thành tựu trên là:

- Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, lĩnh vực nông

nghiệp và nông thôn luôn được tỉnh quan tâm và đạt được nhiều thành tựu.

Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết 10 về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, đã tạo ra bước đột phá mới trong sản xuất hàng hoá, tăng tỷ trọng

chăn nuôi, thuỷ sản, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, góp phần

tích cực xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.

- Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hỗ trợ nông nghiệp, nông

thôn và nông dân qua các chương trình khuyến nông, huấn luyện kỹ thuật cho

nông dân; hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất giống, miễn giảm thuỷ lợi phí,

hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, triển khai nhiều dự án

nông nghiệp; hỗ trợ giao thông nông thôn; về dồn ghép ruộng đất; hỗ trợ tổ

khuyến nông cơ sở; về khuyến công, khôi phục và phát triển làng nghề tiểu thủ

công nghiệp; về bố trí đất dịch vụ cho các gia đình có đất nông nghiệp bị thu

hồi.

- Tạo môi trường thể chế ổn định và hoàn thiện, định hướng phát triển

đúng đắn, chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi,

thông thoáng cho các nhà đầu tư. Đồng thời, tỉnh cũng đang triển khai nhiều

dự án lớn để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng bên trong và bên ngoài các

28

khu, cụm công nghiệp.

- Hàng năm tỉnh đầu tư ngân sách để triển khai các dự án cải tạo vùng

trũng để nuôi trồng thuỷ sản, nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về

giống cây trồng, vật nuôi, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, gia súc, gia

cầm, hỗ trợ các xã nghèo, hộ nghèo.

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh

tế ở tỉnh Bắc Ninh

Qua một số thành tựu cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở

Hưng Yên và Vĩnh Phúc, có thể rút ra những kinh nghiệm sau cho chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh:

- Thường xuyên chú trọng tìm ra những giải pháp mới để phát triển các

ngành kinh tế của tỉnh.

- Khai thác và sử dụng hợp lý quỹ đất đai, đầu tư cải tạo để tăng diện

tích đất cho nông nghiệp, chuyển đổi đất trồng lúa, màu hiệu quả thấp sang

trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao. Khuyến khích nông dân dồn điền

đổi thửa để tạo thành những khu sản xuất tập trung để phát triển kinh tế.

- Hoàn thiện môi trường thể chế, định hướng đúng đắn, chính sách thu

hút đầu tư hấp dẫn, đảm bảo lợi ích hài hoà giữa các bên để thu hút đầu tư

trong nước và nước ngoài tạo nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế.

- Chú trọng công tác đào tạo và phát huy nguồn lực con người, đầu tư

xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển nông nghiệp và hiện đại

hoá nông thôn.

- Tập trung ưu tiên phát triển sản xuất những sản phẩm có lợi thế của

tỉnh để có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Ví dụ như sản

xuất nông sản đặc biệt ở Hưng Yên, trồng hoa, rau sạch và phát triển ngành

29

du lịch ở Vĩnh Phúc.

Qua những phân tích trên và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế ở hai địa phương, có thể thấy rằng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là

nhiệm vụ sống còn của mỗi vùng, quốc gia và khu vực. Việc chuyển dịch cơ

cấu ngành kinh tế phải dựa trên tiềm năng và vị trí sẵn có của từng địa

phương, lấy yếu tố thị trường làm mục tiêu, một số ngành kinh tế phải đi

trước đón đầu và mang tính dự báo. Từ đó, xác định mục tiêu và phương

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế cao nhất của địa

phương mình.

Kết luận chương 1

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi cấu trúc của các bộ

phận hợp thành nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng theo một mục tiêu

nhất định, dưới sự tác động của các nhân tố mang tính khách quan và chủ

quan. Các chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm:

Cơ cấu GDP, cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế và cơ cấu hàng

xuất khẩu.

Luận văn đã trình bày cách phân loại các ngành kinh tế theo tiêu chí

phân ngành của Tổng cục Thống kê Việt Nam. Theo đó, nền kinh tế nước ta

là tổng hoà của 3 nhóm ngành: Nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp (ngành

nông nghiệp); nhóm ngành công nghiệp và xây dựng (ngành công nghiệp);

nhóm ngành dịch vụ.

Sau khi hệ thống cơ sở lý luận về những nhân tố ảnh hưởng tới quá

trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, tác giả đã khái quát kinh nghiệm

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Hưng Yên và Vĩnh Phúc để rút ra bài

30

học kinh nghiệm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh.

Chương 2

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở BẮC

NINH

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế ở Bắc Ninh

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, mỗi vùng, địa

phương của một nước chịu sự tác động của các yếu tố ở mức độ khác nhau.

Có những nhân tố thúc đẩy quá trình này theo hướng tích cực, và ngược lại

cũng có những nhân tố làm cho cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng

tiêu cực.

Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Bắc

Ninh bao gồm:

2.1.1. Vị trí địa lý

Vị trí địa lý thuận lợi sẽ là yếu tố phát triển quan trọng và là một trong

những tiềm lực to lớn cần được phát huy một cách triệt để nhằm phục vụ phát

triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy quá trình đô thị hoá của tỉnh Bắc Ninh. Bắc

Ninh là một tỉnh thuộc cửa ngõ phía Bắc thủ đô Hà Nội, trung tâm xứ Kinh

Bắc cổ xưa, mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa bảng và

văn hoá lâu đời. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây và Tây Nam giáp thủ

đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương.

Bắc Ninh có các hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh trong vùng

như quốc lộ 1A nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn; Đường quốc lộ 18 nối sân

bay Quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long; Quốc lộ 38 nối Bắc Ninh - Hải

Dương - Hải Phòng. Lại có trục đường sắt xuyên việt chạy qua Bắc Ninh đi

Lạng Sơn và Trung Quốc, hiện nay tuyến đường sắt Lim - Phả Lại đang được

triển khai xây dựng, theo dự kiến năm 2012 sẽ hoàn thành và đưa vào sử

31

dụng. Hệ thống giao thông đường thủy cũng góp phần thuận tiện cho thông

thương, giao lưu với bên ngoài với mạng lưới sông Cầu, sông Đuống, sông

Thái Bình nối Bắc Ninh với hệ thống cảng sông và cảng biển của vùng tạo

cho Bắc Ninh là địa bàn mở gắn với phát triển của thủ đô Hà Nội.

Bắc Ninh thuộc đồng bằng sông Hồng và là một trong 8 tỉnh của vùng

KTTĐ Bắc Bộ, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mở

với cả nước, tạo cho tỉnh nhiều lợi thế về phát triển và chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế.

Là cửa ngõ phía Đông Bắc và là cầu nối giữa Hà Nội và các tỉnh trung

du miền núi phía Bắc và trên hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà

Nội - Hải Phòng - Hạ Long, có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng.

Thành phố Bắc Ninh chỉ cách trung tâm thủ đô Hà Nội 30 km, cách sân

bay Nội Bài 45 km, cách Hải Phòng 110 km. Vị trí địa lý kinh tế liền kề với

thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế lớn, một thị trường rộng lớn hàng thứ hai

trong cả nước, có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội,

giá trị lịch sử văn hoá. Đồng thời, là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công

nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Hà Nội sẽ là thị trường

tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản, vật liệu

xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ,… Bắc Ninh cũng là địa bàn mở rộng của

Hà Nội qua xây dựng các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí

nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Xét trên

khía cạnh cấu trúc hệ thống đô thị và các điểm dân cư của tỉnh thì các đô thị

Bắc Ninh sẽ dễ trở thành một hệ thống hoà nhập trong vùng ảnh hưởng của

thủ đô Hà Nội và có vị trí tương tác nhất định với hệ thống đô thị chung toàn

vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.[3].

2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và dân số

32

* Đặc điểm địa hình

Bắc Ninh có địa hình tương đối bằng phẳng, diện tích đồi núi chiếm tỷ

lệ rất nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở

2 huyện Quế Võ và Tiên Du. Ngoài ra còn một số khu vực thấp trũng ven đê

thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong. Với đặc điểm địa

chất mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất thuộc vùng trũng sông

Hồng, Bắc Ninh có tính ổn định hơn so với Hà Nội và các đô thị vùng đồng

bằng Bắc Bộ khác trong việc xây dựng công trình. Bên cạnh đó, một số vùng

trũng nếu biết khai thác có thể tạo cảnh quan sinh thái đầm nước vào mùa

mưa để phục vụ cho các hoạt động văn hoá, du lịch.

* Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn, nguồn nước

- Về khí hậu: Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23-240C; lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.200-

1.600mm; số giờ nắng trung bình từ 1.300-1.717 giờ, chủ yếu từ tháng 4 đến

tháng 11 trong năm; độ ẩm tương đối từ 80-84%, mùa đông lạnh và không

khác biệt nhiều so với các tỉnh lân cận của đồng bằng sông Hồng. Đây là điều

kiện thuận lợi để phát triển các vùng rau, hoa quả, chăn nuôi, tạo ra giá trị lớn

trên một đơn vị diện tích.

- Đặc điểm thuỷ văn: Bắc Ninh có 4 con sông chính chảy qua là Sông

Đuống, Sông Cầu, Sông Thái Bình và Sông Ngũ Huyện Khê. Ngoài ra trên

địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa tạo thành mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0-1,2km/km2.

Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ

đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó, tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m3; được đánh giá là khá dồi dào, trữ lượng nước ngầm cũng khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày,

33

chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ

chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động

của đô thị.

* Tài nguyên:

- Khoáng sản, rừng: Bắc Ninh là tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản

và tài nguyên rừng. Điều này lý giải tại sao ngành công nghiệp khai khoáng

của Bắc Ninh kém phát triển và tốc độ tăng trưởng ngày càng giảm. Về

khoáng sản chỉ có vật liệu xây dựng: Đất sét làm gạch, ngói, gốm với trữ liệu

khoảng 4 triệu khối. Tài nguyên rừng chỉ chủ yếu là rừng trồng với diện tích

khoảng 660 ha.

- Đất: Bắc Ninh thuộc tỉnh “đất chật người đông”. Tổng diện tích đất tự nhiên của Bắc Ninh là 822,7 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 55,81%;

đất lâm nghiệp chiếm 0,76%; nuôi trồng thuỷ sản chiếm 6,2%; đất chuyên

dùng và đất ở chiếm 29,67%; đất chưa sử dụng còn 0,78%. Tuy nhiên, nếu

biết khai thác và sử dụng hợp lý quỹ đất, Bắc Ninh sẽ tận dụng được lợi thế

để phát triển các ngành kinh tế, nhất là nông nghiệp.

- Tài nguyên nhân văn, du lịch: Bắc Ninh có tiềm năng văn hóa phong

phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Miền đất Kinh Bắc xưa là vùng đất địa linh nhân

kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế, nơi hội tụ của kho tàng

văn hóa nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu Quan họ trữ tình đằm thắm,

dòng nghệ thuật tạo hình, tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng. Con người Bắc

Ninh mang trong mình truyền thống văn hóa Kinh Bắc, mang đậm nét dân

gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, vẽ

tranh dân gian... cộng với nhiều cảnh quan đẹp là tiềm năng lớn để phát triển

du lịch văn hóa, lễ hội (Hội Lim, Hội đền Bà Chúa Kho), du lịch sinh thái, du

lịch thắng cảnh, du lịch làng nghề, du lịch làng Việt cổ. Nhiều di tích có giá

34

trị lịch sử văn hoá quan trọng không chỉ trong phạm vi tỉnh mà có ý nghĩa

quốc gia, quốc tế như: Đền Đô, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích,

chùa Dạm, Văn Miếu...[3].

*Đặc điểm dân số, nguồn nhân lực.

Dân số: Đến năm 2008, dân số trung bình của Bắc Ninh là 1.035,9

ngàn người, cơ cấu dân số Bắc Ninh thuộc loại trẻ: nhóm 0-14 tuổi chiếm tới

24,3%; nhóm 15-59 tuổi khoảng 62,6% và số người trên 60 tuổi chiếm 13,1%.

Dân số nữ chiếm tới 52,05% tổng dân số của tỉnh, cao hơn so với tỉ lệ tương

ứng của cả nước (50,83%). Phân bố dân cư Bắc Ninh mang đậm sắc thái nông

nghiệp, nông thôn với tỉ lệ 82,3%, dân số sống ở khu vực thành thị chiếm

17,7%, chưa bằng 1/2 tỉ lệ dân đô thị của cả nước.

Nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng cao. Ước tính 2008, dân số

trong độ tuổi lao động của tỉnh Bắc Ninh là 639,9 nghìn người, chiếm 61,8%

tổng dân số. Trong đó, dân số có khả năng lao động luôn chiếm trên 98% dân

số trong độ tuổi lao động. NNL này chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và

nguồn nhân lực trẻ chiếm tỉ trọng cao. Đây là một lợi thế cho phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Nhưng mặt khác, cũng

tạo sức ép lên hệ thống giáo dục - đào tạo, giải quyết việc làm và xã hội nếu

như tỉnh không có chủ trương đầu tư đúng đắn cho các chương trình đào tạo

và nâng cao trình độ nguồn nhân lực.

Chất lượng của NNL được thể hiện chủ yếu qua trình độ học vấn và

đặc biệt là trình độ chuyên môn kĩ thuật. Trình độ học vấn của NNL Bắc Ninh

cao hơn so với mức trung bình cả nước và đã vượt mức trung bình của ĐB

Sông Hồng và vùng KTTĐ Bắc Bộ. Đến năm 2008, tuy chỉ còn 1,12% NNL

mù chữ, 6,92% chưa tốt nghiệp tiểu học, 70,6% tốt nghiệp tiểu học và THCS

nhưng số tốt nghiệp THPT chỉ 21,36%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo chuyên

môn kỹ thuật của Bắc Ninh là 36,7%, trong đó số có bằng từ công nhân kỹ

35

thuật trở lên chiếm 15,4%. Như vậy, chất lượng NNL Bắc Ninh cao hơn mức

trung bình cả nước (20,99% & 11,83%) nhưng thấp hơn chỉ tiêu tương ứng

của ĐB Sông Hồng (27,99% & 15,76%) và vùng KTTĐ Bắc Bộ (30,04% &

18,11%).

Trình độ phát triển của NNL còn thể hiện qua trình độ phân công lao

động theo nhóm ngành/ngành. Năm 2008, trong tổng số lao động đang làm

việc là 594,8 ngàn người, thì có 308,5 ngàn người (chiếm 51,9%) làm việc

trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; có 173,6 ngàn người (chiếm

29,2%) làm việc trong khu vực công nghiệp - xây dựng và còn lại 112,7 ngàn

người (chiếm 18,9%) làm việc trong khu vực dịch vụ. Trình độ phân công lao

động theo 3 nhóm ngành lớn của Bắc Ninh kém hơn so với mức trung bình

của vùng KTTĐ Bắc Bộ (52,54%; 21,8%; 25,62%) và ĐB Sông Hồng

(56,9%; 20,4% & 22,8%) trong cùng năm 2007.

Mặc dù còn khó khăn về vốn cũng như đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu

của chuyển dịch cơ cấu lao động, trong 8 năm, từ 2001-2008, toàn tỉnh đã giải

quyết việc làm cho được 137.652 lao động, bình quân mỗi năm là 17,2 ngàn

lao động. Kết quả trên đã góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp từ 5,4% năm 2001

xuống còn 3,65% năm 2008, thấp hơn so với mức trung bình của Đồng bằng

sông Hồng và một số tỉnh thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ.

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

Về kinh tế

Trong 12 năm qua, kinh tế của Bắc Ninh luôn phát triển ổn định với

nhịp độ cao. Chỉ riêng năm 1998, tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 1 con số

(7,84%), 11 năm còn lại đều ở mức hai con số. Trong đó, cao nhất là năm

2000 với 16,6% và năm 2008 là 16,23%. Tính bình quân mỗi năm từ 1997-

2008, GDP của Bắc Ninh tăng 13,9%. Mức tăng này không chỉ cao hơn trung

bình cả nước mà còn xếp thứ hai trong vùng đồng bằng Sông Hồng (sau tỉnh

36

Vĩnh Phúc).

Về qui mô, đến năm 2008, GDP (theo giá so sánh 1994) là 7.380,3 tỷ

đồng, gấp 4,3 lần năm 1997. GDP bình quân đầu người đã tăng từ 196 USD

năm 1997 (cả nước là 361 USD) lên 250 USD năm 2000 (cả nước là 402

USD); năm 2005 tăng lên 526 USD (cả nước là 639 USD) và năm 2008 đạt

1.160 USD, lần đầu tiên vượt mức bình quân cả nước là 1.028 USD. Sở dĩ,

tổng sản phẩm trong tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng cao như trên là do hầu

hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt đều có tốc độ tăng trưởng khá

cao.

Về cơ cấu ngành kinh tế, từ khi tái lập tỉnh đến nay, cơ cấu ngành kinh

tế của Bắc Ninh đã chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong đó ngành công

nghiệp luôn giữ mức tăng trưởng cao và vươn lên chiếm tỷ trọng lớn nhất

trong cơ cấu ngành kinh tế. Sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi vượt qua nhiều

khó khăn về thời tiết, dịch bệnh,… đạt được nhiều tiến bộ trong sản xuất hàng

hoá. Cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi chuyển dịch theo hướng

hiệu quả cao. Vì thế, an ninh lương thực luôn được giữ vững, năm 1997, khi

mới tách tỉnh thì sản lượng lương thực có hạt là 337,8 nghìn tấn, lương thực

bình quân đầu người là 362 kg, đến năm 2008 sản lượng lương thực có hạt đã

tăng lên 443,9 nghìn tấn và lương thực bình quân đầu người là 429 kg. Ngành

dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ

và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân 22,3%/năm, đáp ứng tốt hơn nhu

cầu về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Sự phát triển của

các ngành kinh tế thúc đẩy thu ngân sách nhà nước tiến dần đến mục tiêu tự

cân đối, với mức tăng bình quân 25%/năm. Công tác qui hoạch được quan

tâm có chiều sâu đã góp phần thu hút vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn từ nước

ngoài đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

37

Về văn hoá - xã hội

Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy người

dân tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội góp phần nâng cao

đời sống vật chất tinh thần cho người dân Bắc Ninh. Trong những năm qua,

chất lượng hoạt động các lĩnh vực văn hóa, xã hội không ngừng được nâng

lên. Từ năm 2002 đến nay, toàn tỉnh cơ bản không còn hộ thiếu đói giáp hạt,

tỷ lệ hộ nghèo giảm qua các năm, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt. Quy

mô đào tạo các cấp, các ngành học được mở rộng; chất lượng giáo dục trọng

điểm và đại trà được nâng lên. Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân

dân được quan tâm chỉ đạo, các chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt.

Các hoạt động văn hoá được tổ chức thường xuyên góp phần giáo dục truyền

thống giữ gìn bản sắc dân tộc của vùng quê Kinh Bắc và từng bước nâng cao

phát triển văn hoá tiên tiến. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển

sâu rộng, các môn thể thao truyền thống được duy trì và phát triển. Các

chương trình đào tạo, giải quyết việc làm được đẩy mạnh. Tình hình an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, công tác quốc phòng được củng cố.

2.1.4. Vai trò của Nhà nước, nhu cầu của thị trường trong từng giai đoạn

phát triển.

Nhu cầu của thị trường, xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất

nước là cơ sở để sản xuất phát triển, do đó tác động trực tiếp đến quy mô,

trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, đến xu hướng phát triển và phân

công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng của các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu nền

kinh tế. Với định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá,

công nghiệp trọng tâm vào những ngành mũi nhọn và đầu tư theo chiều sâu, Bắc

Ninh cần phải tính đến yếu tố quan trọng hàng đầu này để hình thành các sản

phẩm đầu ra của ngành công nghiệp và nông nghiệp. Từ đó, định hướng sản xuất

cái gì và số lượng bao nhiêu trong mỗi giai đoạn nhằm đáp ứng cho nhu cầu của

38

thị trường và xã hội.

Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của nước ta ảnh hưởng rất lớn

tới chính sách phát triển kinh tế của mỗi địa phương. Thường thì các địa

phương sẽ vạch ra mục tiêu, chính sách phát triển của mình sau khi đã quán

triệt tinh thần các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và vận dụng vào thực tiễn của

địa phương mình. Thực tế nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới cho

thấy những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tạo thêm

nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Cơ cấu kinh

tế chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH đã thúc đẩy các vùng, ngành và thành

phần kinh tế phát huy lợi thế so sánh của mình để phát triển kinh tế. Tin tưởng

vào sự lãnh đạo của các cấp, các ngành, thực hiện chính sách của tỉnh, toàn

dân đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để ngày càng đạt được kết quả cao hơn

trong phát triển kinh tế - xã hội.

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc trong việc quản lí, duy trì sự cân đối hợp lí

và bền vững của các ngành trong nền kinh tế nước ta càng trở nên quan trọng.

Đặc biệt, trong việc ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu sự can thiệp

của nhà nước trở nên cấp thiết. Chính phủ lựa chọn, hoạch định chính sách -

các gói kích thích kinh tế giúp nền kinh tế nước ta tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy

sự vận hành thông suốt của cơ cấu nền kinh tế. Cơ cấu lại đầu tư nhà nước,

sản xuất, các ngành kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch

vụ đến những thị trường tiềm năng, những mặt hàng có thế mạnh như nông

sản với giá hợp lí; những sản phẩm nào, ngành nào cần khuyến khích, Nhà

nước miễn thuế hoặc quy định mức thuế suất thấp để người sản xuất có lợi

nhuận cao từ đó đầu tư phát triển ngành sản xuất đó, và ngược lại, tạo lập cơ

sở bền vững cho quá trình tăng trưởng kinh tế lâu dài. Trước hết là khu vực

xuất khẩu gắn nhiều với nông dân, năm 2008 mức đầu tư của Việt Nam đã lên

39

tới 44% trong GDP; các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn như các doanh

nghiệp sử dụng nhiều lao động: dệt may, da giày... Bài toán đặt ra đối với

nước ta, giữ được tăng trưởng GDP cao là tốt gắn với việc tạo việc làm cho

người lao động chống suy thoái kinh tế.

Để thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Nhà

nước phải sử dụng những chính sách, cơ chế quản lý có tác động trực tiếp đến

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể khuyến

khích sự dịch chuyển lao động đến những khu vực có tài nguyên nhưng đang

khan hiếm lao động...Sự tác động của các cơ chế quản lý sẽ tạo ra được một

cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư cân đối, phát triển được lực lượng sản xuất,

giảm bớt khoảng cách trong phát triển giữa các ngành, vùng, giảm bớt sự cách

biệt thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị.

Bắc Ninh được xếp vào vùng KTTĐ Bắc Bộ. Do đó, trong những năm

qua, tỉnh đã được quan tâm đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng, được khuyến

khích phát triển kinh tế theo hướng CNH - HĐH và chuyển dịch mạnh cơ cấu

ngành kinh tế. Bên cạnh đó, sức ép đối với tỉnh là làm thế nào để thực hiện

được nhiệm vụ to lớn của vùng KTTĐ của đất nước với bộ mặt kinh tế xã hội

phát triển xứng đáng trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó.

Hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương

mại Thế giới (WTO), mối quan hệ của Việt Nam đối với các nước lớn trên thế

giới là mối quan hệ hợp tác với các cường quốc trên nhiều phương diện. Sự

tác động của quá trình phân công lao động mang tính quốc tế càng có ý nghĩa

lớn đối với quá trình lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả của Việt

Nam.

2.1.5. Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hoá, khu vực

hoá.

Các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ và sự bùng nổ thông

40

tin. Những thành tựu to lớn đạt được trong cách mạng khoa học kỹ thuật và sự

chuyển đổi công nghệ giữa các quốc gia tạo điều kiện để nước ta đổi mới

công nghệ, chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm phát triển theo chiều sâu.

Bắc Ninh cũng như các địa phương khác trong cả nước trong những năm qua

đã đạt được nhiều thành tựu nhờ ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật

trong sản xuất như cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp, thay thế kiểu sản

xuất truyền thống bằng hình thức công nghiệp và bán công nghiệp. Việc tiếp

nhận công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của mình nhằm phát triển các

ngành, sản phẩm có triển vọng thị trường, khai thác được lợi thế cạnh tranh

của tỉnh.

Bên cạnh đó, sự thay đổi to lớn trong lĩnh vực thông tin trên toàn cầu

cũng tạo ra những bước chuyển cơ bản trong sản xuất xã hội, các kênh thông

tin phát triển mạnh cho phép các nhà sản xuất, phân phối nắm bắt thông tin,

tìm hiểu thị trường và đối tác một cách nhanh chóng và đầy đủ hơn.

Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa tạo ra sự phát triển đan xen với

nhau, khai thác thế mạnh về các nguồn lực sẵn có trong sản xuất và trao đổi

hàng hóa, dịch vụ. Do đó, toàn cầu hóa kinh tế tác động rất mạnh mẽ đến sự

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta cũng như tỉnh Bắc Ninh nói

riêng. Nền kinh tế nước ta hiện nay ngành nông nghiệp đang chiếm tỷ trọng

lớn trong GDP và định hướng xuất khẩu các sản phẩm nông sản là chủ yếu để

phát huy được lợi thế so sánh của đất nước. Song, đây cũng là những mặt

hàng thế mạnh của một số nước ASEAN, đặc biệt là Thái Lan. Với định

hướng như vậy, xu thế toàn cầu hoá tạo cho ta cơ hội mới nhưng cũng không

ít khó khăn và thách thức để cạnh tranh với nền kinh tế trong khu vực và trên

thế giới.

Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mỗi nước, mỗi vùng hay

địa phương chịu tác động của nhiều nhân tố làm cho quá trình này vừa mang

41

tính khách quan, lịch sử, xã hội, lại vừa mang tính chủ quan. Vì vậy, để xây

dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, chúng ta cần phải có chiến lược và kế

hoạch định hướng lâu dài.

Qua những phân tích trên, có thể khái quát những mặt thuận lợi

và khó khăn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Bắc

Ninh như sau:

Những thuận lợi

Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, Bắc Ninh có những thuận lợi về

phát triển kinh tế - xã hội như năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng đã phát

triển một bước, tiềm lực kinh tế khá phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch

theo hướng tích cực. Nguồn lực về lao động, đất đai, mặt nước chưa sử dụng

vẫn còn ; khả năng tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi còn lớn. Vị

trí địa lý của Bắc ninh gắn với vùng KTTĐ Bắc Bộ và nằm cạnh thủ đô Hà

Nội đưa lại những cơ hội mới cho sự phát triển. Cụ thể là:

- Là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có vị trí địa lý kinh tế-

chính trị rất thuận lợi, liền kề với Thủ đô Hà Nội về phía Bắc, có hệ thống

giao thông rất thuận lợi kết nối với Hà Nội, cảng hàng không quốc tế Nội Bài,

các cảng biển quan trọng của vùng (Cái Lân và Hải Phòng), nằm trên các trục

hành lang kinh tế Vân Nam - Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn -

Hải Phòng.

- Là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống với những ngành nghề nổi

tiếng như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, vẽ tranh dân gian...

cùng với các hệ thống khu công nghiệp được phát triển tạo ra địa bàn hấp dẫn

và thu hút đầu tư.

- Bắc Ninh có nền văn hóa phong phú, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa

nghệ thuật đặc sắc truyền thống văn hóa Kinh Bắc, cộng với nhiều cảnh quan

đẹp là tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hóa, lễ hội, du lịch sinh thái, du

42

lịch thắng cảnh, du lịch làng nghề, du lịch làng Việt cổ.

- Bắc Ninh có một đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo với trình độ

chuyên môn khá, đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cơ bản. Trình độ dân

trí khá cao, một bộ phận dân cư có trình độ sản xuất hàng hóa, năng động với

cơ chế thị trường. Ngoài ra, tỉnh còn có khả năng thu hút được đội ngũ cán bộ

khoa học chất lượng cao của Hà Nội.

- Là tỉnh đi sau, nên có thể học hỏi và rút kinh nghiệm trong quá trình

phát triển.

Khó khăn và thách thức

- Điểm xuất phát nền kinh tế thấp, phát triển chưa tương xứng với tiềm

năng và lợi thế so sánh về vị trí địa kinh tế - chính trị của tỉnh; cơ cấu kinh tế

còn có bộ phận chuyển dịch chậm, chưa đồng bộ, nhất là cơ cấu lao động.

Một số hoạt động thuộc lĩnh vực thương mại, du lịch - dịch vụ, văn hoá văn

nghệ, thể dục thể thao còn yếu.

- Tài nguyên khoáng sản ít, mật độ dân số cao, đất nông nghiệp ít phì

nhiêu, dễ bị lũ lụt.

- Ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất

còn ít, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh mới đạt trình độ công nghệ trung bình

và thấp, công nghệ cao chưa nhiều, chưa hình thành được ngành kinh tế mũi

nhọn, sản phẩm chiếm ưu thế tiêu thụ trên thị trường trong nước và xuất khẩu

chưa nhiều. Do đó sức cạnh tranh của nền kinh tế Bắc Ninh chưa cao, nhất là

khi hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế thì sức ép cạnh tranh sẽ càng

quyết liệt hơn.

- Đời sống nhân dân tuy có được cải thiện nhưng chênh lệch mức sống

giữa các tầng lớp dân cư và giữa các khu vực trong tỉnh rất lớn và tiếp tục

43

tăng.

- Lực lượng lao động đông đảo nhưng lao động được đào tạo cơ bản, có

tay nghề cao chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu phát triển nhanh, hiện đại, nhất là

đang thiếu các doanh nhân, các tổng công trình sư, các nhà quản lý giỏi.

Tận dụng được những lợi thế so sánh để phát triển kinh tế, đồng thời,

khắc phục những hạn chế tồn tại là vấn đề hết sức cần thiết để Bắc Ninh tiếp

tục đi trên con đường đổi mới nền kinh tế và đạt được nhiều thành tựu mới.

2.2. Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh từ

năm 1997 đến nay.

Như trên đã đề cập, cơ cấu kinh tế là khái niệm phản ánh quan hệ tỷ lệ

về lượng và mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành

nên nền kinh tế như, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ

cấu vùng kinh tế. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế được hiểu theo nghĩa phổ

biến nhất và được quan tâm nhiều nhất sẽ bao gồm cả khu vực kinh tế. Vì thế,

cũng trong bối cảnh chung của cả nước, thì cơ cấu ngành kinh tế của Bắc

Ninh được chia thành 3 nhóm ngành chính là nông nghiệp - công nghiệp -

dịch vụ.

Cơ cấu ngành kinh tế của Bắc Ninh trong 12 năm qua đã có sự chuyển

dịch khá rõ nét và phù hợp với định hướng đưa tỉnh Bắc Ninh cơ bản trở

thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 và sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.

Đơn vị tính: %

Chia ra:

Nông, lâm

Công

Năm

Tổng số

nghiệp và

nghiệp và

Dịch vụ

thuỷ sản

xây dựng

100,0

23,77

31,18

45,05

1997

100,0

35,67

26,37

37,96

2000

100,0

37,58

28,23

34,19

2001

44

Bảng 2.1: Cơ cấu GDP các ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh từ 1997-2008

100,0

32,30

40,08

27,62

2002

100,0

29,00

43,90

27,10

2003

100,0

28,22

44,69

27,09

2004

100,0

26,26

45,92

27,82

2005

100,0

21,31

49,52

29,17

2006

100,0

16,61

57,24

26,15

2007

100,0

15,30

56,38

28,32

Ước 2008

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến năm 2008

Biểu hiện của sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế chủ yếu ở hai ngành sản

xuất vật chất cơ bản là nông nghiệp và công nghiệp. Còn ở ngành dịch vụ duy

trì ở mức tương đối ổn định hơn. Năm 1997, tỷ trọng của ngành nông, lâm

nghiệp và thuỷ sản chiếm tới 45,05%, nhưng đến năm 2007 đã giảm xuống

18,65% và năm 2008 chỉ còn 15,3%. Trong khi đó, ngành công nghiệp - xây

dựng ngày càng khẳng định được vị trí và tầm quan trọng đối với phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh, được quan tâm đầu tư nhiều nên chuyển

dịch mạnh mẽ trong cơ cấu ngành kinh tế. Tỷ trọng đã tăng từ 23,77% năm

1997 lên 56,38% năm 2008. Đối với ngành dịch vụ, cơ cấu lại giảm từ

31,18% năm 1997 xuống còn 26,37% năm 2000. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến

nay đã tăng trở lại và duy trì ổn định ở mức trên dưới 28%.

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu GDP phân theo ba ngành kinh tế

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

45

Công nghiệp và xây dựng

Dịch vụ

Tốc độ tăng trưởng trong các ngành (%)

Năm

Tổng giá trị sản phẩm (tỷ đồng)

Dịch vụ

Công nghiệp và xây dựng

1997 1999 2001 2003 2005 2007 2008

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6,98 6,72 3,50 5,53 4,78 -0,76 0,78

1.706,7 2.134,4 2.838,4 3.671,9 4.766,1 6.349,6 7.380,3

12,05 41,50 19,70 21,18 18,46 20,57 20,41

13,77 7,63 21,45 12,17 16,13 19,54 18,34

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến năm 2008

Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng GTSX giai đoạn 1997-2008 theo các ngành kinh tế (Theo giá so sánh 1994)

Ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Sự chuyển dịch cơ cấu ngành này những năm qua đã khẳng định chủ

trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng

về phát triển thuỷ sản thành ngành sản xuất chính trên địa bàn. Điều này được

thể hiện qua mô hình chuyển đổi ruộng trũng sang nuôi trường thuỷ sản, với

mô hình “dồn điền đổi thửa” ngày càng cho hiệu quả kinh tế cao, tác động

tích cực làm cho cơ cấu ngành thuỷ sản đã tăng lên đáng kể. Giai đoạn đầu

(1997-2000) và cho đến năm 2003, quá trình chuyển dịch diễn ra chậm. Về

giá trị sản xuất, ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên 95%), tỷ

trọng ngành thuỷ sản cũng tăng rất chậm (từ 3,4% năm 1997 lên 3,5% năm

2000); còn về giá trị giá tăng, tỷ trọng ngành thuỷ sản thậm chí còn giảm từ

4,4% năm 1997 xuống còn 3,9% năm 2000. Nhưng từ năm 2001, đã có sự

chuyển dịch tích cực khi các mô hình nuôi trồng thuỷ sản bắt đầu phát huy

46

hiệu quả. Cơ cấu ngành thuỷ sản đã tăng lên 3,9% về giá trị sản xuất và tăng

lên 4,5% về giá trị gia tăng. Đến năm 2005, hai tỷ lệ tương ứng này của ngành

thuỷ sản là 7,1% và 8,1%; tương tự, ước năm 2008 tăng lên là 8,4% và 9,7%.

Trong khi đó, ngành lâm nghiệp, do có qui mô nhỏ, lại bị thu hẹp dần qua các

năm nên cơ cấu cũng giảm dần và rất nhỏ (dưới 0,5%). Sự tăng trưởng của các

ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản qua các năm tạo nên tốc độ tăng bình quân

của toàn ngành nông nghiệp giai đoạn 1997-2008 là 5,91%.

Ngành công nghiệp và xây dựng

Để thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

CNXH” mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã đề ra, tháng

7/1994 tại Hội nghị Trung ương 7 đã thông qua Nghị quyết về phát triển công

nghiệp theo hướng CNH - HĐH. Trên cơ sở đó, ngày 3/2/1995 UBND tỉnh

Hà Bắc đã đề ra kế hoạch số 02/KH-UB về mục tiêu và giải pháp phát triển

công nghiệp đến năm 2000. Kế thừa kế hoạch này, ngay sau khi tái lập tỉnh,

Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp tạo điều kiện thuận lợi

nhất để khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đều có cơ hội tham gia

phát triển công nghiệp theo hướng CNH-HĐH với mục tiêu xây dựng Bắc

Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015. Kết quả, giá trị sản

xuất công nghiệp liên tục tăng ở mức 2 con số, thấp nhất là năm 1998

(+11,5%) và cao nhất là năm 1999 (+105,2%); Quy mô công nghiệp năm

2005 đã gấp 11,8 lần năm 1997, bình quân mỗi năm thời kỳ 1997-2005 giá trị

sản xuất công nghiệp tăng 34,1%. Năm 2008, tổng giá trị sản xuất công

nghiệp đạt 3.817 tỷ đồng (giá so sánh 1994), tăng 20,4% so với năm 2007 và

gấp 9,1 lần năm 1997.

Đối với ngành xây dựng, chỉ tính vốn đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh

từ 1997-2005 đã đạt 13.244,2 tỷ đồng, chiếm 65,5% tổng số vốn đầu tư phát

triển toàn xã hội, giá trị tăng thêm từ ngành này tạo ra hàng năm chiếm từ 7,8-

47

9% GDP toàn tỉnh.

Ngành dịch vụ

Ngành dịch vụ được coi là “ngành công nghiệp không khói”, đóng vai

trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội. Vì

thế, nó đã, đang và sẽ được nhà nước khuyến khích phát triển để tạo bước đột

phá trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Những năm qua, tuy tốc độ phát triển của ngành dịch vụ vẫn duy trì ở

mức khá nhưng không ổn định. Năm 1997, tốc độ tăng trưởng là 13,77%,

2005 là 16,13%, 2006 là 25,33%, 2008 là 18,34%. Tuy nhiên, về cơ cấu nội

bộ ngành cũng đã và đang có sự chuyển dịch để đáp ứng nhu cầu phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh. Đáng chú ý là các ngành kinh doanh có tính chất thị

trường như thương nghiệp, tài chính ngân hàng, vận tải kho bãi và thông tin

liên lạc,… là nhóm có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao và chiếm tỷ trọng lớn

trong ngành dịch vụ. Năm 1997, đóng góp của các ngành này vào GDP là

19,39% trong khi đó toàn ngành dịch vụ là 31,18%. Đến năm 2008, tỷ lệ

tương ứng là 19,31% trong 28,32%.

Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh cũng như

cả nước ta theo hướng CNH - HĐH trước hết là quá trình phát triển mạnh các

ngành nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực

nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để

tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến, hiện đại

vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các

ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cần phát

triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch

vụ trong GDP.

Theo báo cáo của Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá

XII (tháng 10-11-2008) đã nêu rõ có nhiều nguyên nhân khiến cho kinh tế

48

nước ta lâm vào tình trạng lạm phát và chậm phát triển và suy giảm tăng

trưởng từ đầu năm 2008 đến nay, trong đó có một nguyên nhân cơ bản là

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH còn chậm. Vì thế, đẩy

nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH vẫn được coi là

một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững.

2.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và

dịch vụ

2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ

sản

Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị

trường. Sản xuất nông nghiệp, những năm đầu mới tái lập tỉnh do năng suất

thấp, nhu cầu về lương thực lại cao nên nông nghiệp vẫn được coi là “mặt

trận hàng đầu”. Vì thế, nhiệm vụ trọng tâm của những năm này là đầu tư cho

sản xuất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực. Tuy nhiên, những diễn

biến bất thường của thời tiết, giá hàng nông sản, giá phân bón và thức ăn chăn

nuôi tăng và giữ ở mức cao, dịch cúm gia cầm, diện tích đất nông nghiệp bị

thu hẹp… đã phần nào tác động xấu đến sản xuất của khu vực này. Nhưng do

áp dụng mạnh mẽ những tiến bộ khoa học công nghệ về cây, con, con giống,

kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh… lại được các cấp chính quyền tập

trung chỉ đạo sát sao nên sản xuất nông nghiệp đã có những chuyển biến tích

cực trong 12 năm qua. Từ năm 2001 đến nay, thực hiện chủ trương chuyển

đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ nên kết quả sản xuất nông nghiệp đã từng

bước thay đổi theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường và chuyển

dịch cơ cấu theo hướng CNH - HĐH. Đáng chú ý là, ngày 20/6/2001 Ban

chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-TU về “định

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001-2005”, trong

đó nêu rõ: “…phấn đấu đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính…”. Vì

49

thế, cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng: Tỷ trọng

trồng trọt ngày càng giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp

ngày càng tăng.

Bảng 2.3: Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn

Đơn vị tính: %

Cơ cấu GTSX theo giá thực tế

Năm

Tổng

Nông

Lâm

Thuỷ

nghiệp

nghiệp

sản

1997

100

95,7

0,9

3,4

2000

100

95,8

0,7

3,5

2001

100

95,4

0,7

3,9

2002

100

95,0

0,6

4,4

2003

100

94,5

0,4

5,1

2004

100

93,5

0,3

6,2

2005

100

92,6

0,3

7,1

2006

100

92,5

0,3

7,2

2007

100

91,9

0,4

7,7

2008

100

91,3

0,3

8,4

Nguån sè liÖu: Niªn gi¸m Thèng kª tØnh B¾c Ninh tõ n¨m 2000 ®Õn 2008

1997-2008 (theo giá thực tế)

Trong ngành nông nghiệp, được chia thành 3 ngành cấp 2 là trồng trọt,

chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Từ năm 1997 đến 2008, cơ cấu nội bộ

ngành có chiều hướng chuyển dịch tích cực: tỷ trọng ngành trồng trọt giảm

dần từ 67,3% năm 1997 ước tính còn 52,4% năm 2008, chăn nuôi từ 29,8%

năm 1997 ước tăng lên 44,1% năm 2008 còn ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng rất

nhỏ (khoảng 3-4%). Bảng 2.4 cho thấy dịch vụ trong nông nghiệp cũng có

chiều hướng tăng nhưng chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát

triển của trồng trọt và chăn nuôi.

- Trồng trọt: Những năm 2000 trở về trước, diện tích, năng suất, sản

50

lượng lúa tăng liên tục theo quy luật năm sau cao hơn năm trước do nhu cầu

về lương thực cao. Năng suất luá từ 39,3 tạ/ha năm 1997 đã tăng lên 52,6

tạ/ha năm 2000; sản lượng thóc năm 2000 tăng 38,5% so với năm 1997,

(tương ứng mỗi năm tăng thêm 30.677 tấn thóc). Kết quả là, tỷ lệ phần trăm

đóng góp của ngành trồng trọt vào tăng trưởng giá trị sản xuất từ năm 1997-

2000 vẫn giữ ở mức cao (năm 1997 là 67,25%; 1998 là 68,25%; 1999 là

69,98% và năm 2000 là 67,21%).

Bảng 2.4: Tình hình chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp

Đơn vị tính: %

Trồng

Dịch

Chăn

Năm

Tổng

nuôi

trọt

vụ

29,7

67,3

3,0

1997

100

29,4

67,2

3,4

2000

100

32,4

64,0

3,5

2001

100

35,2

61,5

3,2

2002

100

37,1

59,6

3,3

2003

100

38,7

57,4

3,9

2004

100

39,4

56,6

4,0

2005

100

40,1

55,9

4,1

2006

100

41,0

55,1

3,9

2007

100

44,1

52,4

3,5

Ước 2008

100

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến 2008

từ 1997-2008

Đến thời kỳ 2001-2005, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp (trồng trọt và

chăn nuôi) đã có những chuyển biến rõ nét: Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành

trồng trọt giảm, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng lên. Giá trị sản

xuất ngành trồng trọt bình quân mỗi năm thời kỳ 2001-2005 tăng 2,19%, thấp

hơn mức 8,88% của kỳ trước (1997-2000). Nguyên nhân là do sự tác động

của quá trình đô thị hoá và chủ trương chuyển đổi ruộng trũng sang nuôi trồng

51

thuỷ sản, nên trong thời kỳ này diện tích đất canh tác ngày càng giảm. Vì thế

sản xuất ngành trồng trọt thời kỳ 2001-2005 chậm lại và thấp hơn so với thời

kỳ 1997-2000. Đến năm 2008, tổng diện tích gieo trồng ước 94.022 ha, giảm

2,97% so với năm 2007; trong đó cây lương thực có hạt giảm 2,8% (riêng cây

lúa giảm 2,86%).

Diện tích gieo trồng cây hàng năm

Cơ cấu diện tích gieo trồng cây hàng

(Nghìn ha)

năm (%)

Lương

Thực

Công

Cây hàng

Lương

Thực

Công

Cây hàng

Năm

thực

phẩm

nghiệp

năm khác

thực

phẩm

nghiệp

năm khác

1997

91,26

8,06

3,16

0,64

88,5

7,8

3,1

0,6

2000

92,18

8,72

3,42

0,28

88,1

8,3

3,3

0,3

2001

89,13

9,68

3,59

0,34

86,8

9,4

3,5

0,3

2002

88,76

9,21

3,62

0,27

87,1

9,0

3,6

0,3

2003

87,81

10,00

3,90

0,29

86,1

9,8

3,8

0,3

2004

85,69

10,94

3,83

0,28

85,1

10,8

3,8

0,3

2005

84,74

10,73

3,80

0,37

85,0

10,8

3,8

0,4

2006

83,76

10,02

3,56

0,39

85,7

10,3

3,6

0,4

2007

82,67

10,35

3,50

0,38

85,3

10,7

3,6

0,4

2008

80,07

9,86

3,69

0,41

85,2

10,5

3,9

0,4

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê năm tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến 2008.

Bảng 2.5: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu gieo trồng từ 1997-2008

Cơ cấu cây trồng cũng có sự chuyển dịch theo hướng các cây trồng có

hiệu quả kinh tế thấp, quy mô, diện tích gieo trồng và tỷ trọng giá trị sản xuất

ngày càng giảm. Bên cạnh đó, các cây trồng có giá trị kinh tế cao, quy mô sản

xuất và giá trị ngày càng tăng. Năm 1997, diện tích các cây lương thực là

91,26 ha, năm 2005 là 84,74 ha, đến 2008 còn 80,07 ha. Trong khi đó, diện

tích cây thực phẩm tăng từ 8,06 ha lên 10,73 ha năm 2005 và năm 2008 là

9,86 ha. Cơ cấu diện tích cây thực phẩm thì diện tích dưa các loại, hành tỏi, cà

52

chua tăng nhanh. Ngoài ra, trong những năm gần đây, tỉnh chú trọng phát

triển ngành trồng hoa và cây cảnh nên diện tích trồng loại cây này cũng tăng

nhanh hơn.

Trong từng loại cây trồng, cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ cũng chuyển

biến tích cực góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Cây lúa

đã được gieo cấy chủ đạo bằng giống lúa Thuần Trung Quốc, lúa Lai thay cho

giống cũ là Mộc Tuyền và Bao Thai, cơ cấu mùa vụ đã chuyển đổi rõ nét. Các

cây ngô, đậu tương, lạc,… cũng dần dần thay thế giống cũ bằng các giống

mới nhập ngoại năng suất cao và chất lượng tốt hơn. Vì thế, đến năm 2008,

Bắc Ninh đã hình thành 13 vùng sản xuất lúa, 24 vùng khoai tây, 26 vùng sản

xuất rau xuất khẩu, nhiều vùng hoa, cây cảnh với những công thức luân canh

phù hợp, đưa được hệ số quay vòng đất lên 3 vụ trong năm, đạt được mức thu

nhập bình quân cao gấp ba, bốn lần so với nhiều năm về trước.

- Chăn nuôi được quan tâm đầu tư phát triển theo hướng đem lại giá trị

cao bằng nhiều mô hình như nuôi bò lai, lợn siêu nạc, ngan Pháp, gà vịt siêu

trứng,… tập trung với qui mô lớn, thậm chí tỉnh Bắc Ninh còn khuyến khích

chăn nuôi theo mô hình trang trại với nhiều loại vật nuôi mới như đà điểu,

hươu,… Đặc biệt là, giai đoạn 2001-2005 đã chuyển mạnh theo hướng sản

xuất hàng hoá, giá trị tăng thêm của khu vực này tăng khá đều hàng năm. Giá

trị sản xuất ngành chăn nuôi bình quân mỗi năm thời kỳ 2001-2005 tăng

9,25%, cao hơn mức 2,19% của ngành trồng trọt nên đã giữ được nhịp độ

tăng ổn định của toàn ngành nông nghiệp ở mức 4,84% năm về giá trị sản

xuất và 5,58% về giá trị tăng thêm.

Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông

nghiệp tăng từ 29,4% năm 2000 lên 35,22% năm 2002 và 39,37% năm 2005,

ước tính tăng đến 44,10% năm 2008. Ngành chăn nuôi Bắc Ninh những năm

gần đây có xu hướng tăng giá trị là do áp dụng phương pháp chăn nuôi bò và

53

gia cầm theo phương thức bán công nghiệp, công nghiệp quy mô vừa và lớn

ngày càng phát triển, thay thế dần kiểu chăn nuôi truyền thống nhỏ lẻ. Phương

thức này đã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để giảm thiểu dịch bệnh, rút

ngắn chu kỳ sản xuất, cho năng suất cao.

Trong những năm gần đây, quá trình cơ giới hoá trong nông nghiệp

được áp dụng rộng rãi cũng là một trong những nguyên nhân tác động đến số

lượng tăng, giảm của đàn gia súc, gia cầm tỉnh Bắc Ninh. Số lượng đàn trâu

ngày một giảm do hiệu quả kinh tế thấp vì trước đây, chủ yếu nuôi trâu để sử

dụng làm sức kéo trong nông nghiệp. Trong khi đó số lượng đàn bò ngày

càng tăng vì mang lại hiệu quả kinh tế cao, cơ cấu giống cũng thay đổi. Năm

2005, bò lai sind chiếm 63,8% tổng đàn, gấp hơn 5 lần năm 1997 và năm

2005 đã có 634 con bò sữa. Bên cạnh đó, việc tăng quy mô đàn lợn, đàn gia

cầm lấy thịt, trứng,… để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của tỉnh và cung cấp một

phần không nhỏ cho các tỉnh lân cận và thủ đô Hà Nội.

Năm 2008, do thời tiết diễn biến khắc nghiệt hơn nên ảnh hưởng xấu

tới ngành chăn nuôi của tỉnh. Những tháng đầu năm thời tiết rét đậm, rét hại

kéo dài, tuy không gây thiệt hại về số đầu gia súc, gia cầm nhưng đã làm giảm

khả năng miễn dịch và khiến vật nuôi chậm phát triển; trong khi đó, dịch bệnh

đàn gia súc, gia cầm vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát. Bên cạnh đó, giá thức ăn

chăn nuôi luôn giữ ở mức cao, số hộ chăn nuôi qui mô nhỏ tiếp tục giảm. Từ

quý II, dịch bệnh đã được kiểm soát, giá con giống đã giảm xuống, nhiều hộ

gia đình đã đầu tư vào chăn nuôi. Do đó, tổng đàn đã từng bước được khôi

phục và phát triển. Trong đó, đàn trâu và đàn bò giảm nhẹ, còn đàn lợn

(+8,3%) và gia cầm (+3%) tăng hơn so với năm 2007. Vì thế, sản lượng thịt

hơi ước đạt 80,8 nghìn tấn, tăng 6,5% năm 2007.

Bảng 2.6: Kết quả chăn nuôi của tỉnh Bắc Ninh từ 1997-2008

Trâu

Lợn

Gia cầm

Năm

(Con)

(Con)

(Con)

(1000 con)

54

1997

19.583

36.969

332.026

2.830

2000

17.065

42.647

419.685

3.037

2001

12.727

41.989

417.575

3.406

2002

12.018

43.969

443.729

3.812

2003

11.258

48.320

473.343

3.956

2004

9.503

54.622

451.347

3.388

2005

8.046

59.822

462.687

3.676

2006

4.888

59.360

474.791

3.486

2007

4.082

60.599

384.915

3.807

2008

3.493

49.646

416.940

3.923

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê tỉnh Bắc Ninh năm 2000, 2005, 2008

- Dịch vụ nông nghiệp, những năm qua, hoạt động dịch vụ nông nghiệp

đã phát triển cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Giá trị sản

xuất dịch vụ nông nghiệp năm 1997 đạt 38,6 tỷ đồng, năm 2007 đạt 95,4 tỷ

đồng, 2008 ước đạt 100,8 tỷ đồng và có tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ

1997-2008 là 9,12%. Dịch vụ nông nghiệp bao gồm chủ yếu là dịch vụ thuỷ

nông, cung cấp giống cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu thuốc thú y,… Nhiều

mô hình hợp tác xã có dịch vụ đầu vào và tiêu thụ sản phẩm xuất hiện như

HTX Ngang Nội (Tiên Du), HTX Lựa, HTX Mộ Đạo (Quế Võ), tổ chức dịch

vụ sản xuất giống luá, dưa chuột, ớt xuất khẩu. Tuy nhiên, mô hình HTX chưa

nhiều, qui mô hoạt động còn nhỏ, vốn đầu tư còn thiếu.

Ngành lâm nghiệp có quy mô nhỏ, do diện tích đất lâm nghiệp ít

(chiếm 0,74% trong tổng diện tích đất tự nhiên). Những năm qua, phong trào

trồng cây phân tán được quan tâm chỉ đạo và khuyến khích phát triển. Thực

hiện mục tiêu chung của phát triển lâm nghiệp Bắc Ninh là: Xây dựng rừng

cảnh quan môi trường gắn với du lịch - dịch vụ nên ngành lâm nghiệp vẫn giữ

vững và phát triển được vốn rừng. Để phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của

55

tỉnh và góp phần cải tạo đất, các loại cây như keo, thông đã được trồng để

thay thế cho hơn 200 ha cây bạch đàn. Giá trị sản xuất của ngành này cũng

giảm qua các năm, từ 11,9 tỷ đồng năm 2000 còn 5,77 tỷ đồng năm 2005 (giá

so sánh 1994).

Ngành thuỷ sản: Những năm đầu mới tái lập tỉnh, mặc dù diện tích ao

hồ, thùng, vũng đã được khai thác cơ bản vào nuôi trồng thuỷ sản nhưng do

sản xuất mang tính quảng canh, tự phát, manh mún, quy mô nhỏ bé, vốn đầu

tư ít nên kết quả đạt được rất hạn chế. Bình quân mỗi năm giai đoạn 1997-

2000, giá trị sản xuất chiếm 3,5% trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông,

lâm nghiệp và thuỷ sản. Đến 20/6/2001, Tỉnh uỷ Bắc Ninh đã ra nghị quyết về

chuyển đổi ruộng trũng cấy lúa không ăn chắc sang nuôi trồng thuỷ sản theo

mô hình lúa-cá, đã tạo bước đột phá quan trọng làm cho ngành thuỷ sản phát

triển nhanh, góp phần nâng cao thu nhập và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Quy mô diện tích và sản lượng thu hoạch hàng năm tăng nhanh. Năm

1997, diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 2.792 ha mặt nước, đến năm 2005 là

4.558 ha, năm 2008 ước đạt 5.177 ha. Sản lượng thuỷ sản năm 1997 là 5,26

nghìn tấn, tăng lên 17,6 nghìn tấn năm 2005, năm 2006 là 20,5 nghìn tấn và

ước năm 2008 là 23,41 nghìn tấn. Bên cạnh việc tăng quy mô, hình thức nuôi

trồng thuỷ sản cũng dần chuyển từ kiểu truyền thống sang nuôi bán thâm canh

và thâm canh nên đưa năng suất cá bình quân từ 1,46 tấn/ha tăng lên 3,86

tấn/ha năm 2005. Kết quả sản xuất đạt cao đã làm cho giá trị sản xuất của

ngành thuỷ sản đạt tốc độ tăng cao nhất trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ

sản. Bình quân giai đoạn 2001-2005 tăng 21,13%. Đến năm 2006, toàn tỉnh

có 4.732 hộ chuyên nuôi trồng thuỷ sản. So với năm 2001 tăng 3.597 hộ, gấp

3,17 lần.

2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng

Những năm gần đây, trong cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh, sản

56

xuất công nghiệp là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất và chủ yếu tạo ra

GDP hàng năm. Từ xuất phát điểm với tỷ trọng thấp (23,77% năm 1997), đến

năm 2005, tỷ trọng này được nâng lên là 45,92% và năm 2008 ước đạt

56,38% trong GDP. Bình quân mỗi năm từ 1997-2008, giá trị sản xuất công

nghiệp (theo giá so sánh 1994) tăng 33,5%. Trong đó, có sự đóng góp to lớn

của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (bình quân tăng 142%/năm).

Đến năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 đạt 16,05

nghìn tỷ đồng, gấp 7,68 lần so với năm 1997. Qua bảng 2.1, tỷ trọng ngành

công nghiệp - xây dựng của Bắc Ninh tăng lên dần dần hàng năm cho thấy

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Bắc Ninh đã đi đúng theo hướng CNH -

HĐH mà Đại hội Đảng bộ của tỉnh đã đề ra ngay từ thời kỳ đầu tái lập tỉnh.

Bảng 2.7: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp - xây

Đơn vị tính: %

SX, PP

CN khai

CN chế

Xây

Năm

Tổng

điện,

thác

biến

dựng

nước

1997

100

0,6

58,9

0,3

40,2

2000

100

0,0

79,8

0,1

20,1

2001

100

0,0

82,6

0,1

17,3

2002

100

0,8

84,2

0,1

14,9

2003

100

0,4

84,7

0,2

14,7

2004

100

0,2

85,9

0,1

13,8

2005

100

0,1

85,7

0,1

14,1

2006

100

0,1

85,0

0,1

14,8

2007

100

0,1

87,6

0,1

12,2

2008

100

0,1

88,0

0,1

11,8

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê Bắc Ninh từ năm 2000 đến 2008

dựng từ 1997-2008

Xét trong nội bộ ngành công nghiệp, có sự chuyển dịch bước đầu tạo ra

57

cơ cấu hợp lý. Đến nay, công nghiệp Bắc Ninh đã có đủ 3 ngành công nghiệp

cấp I, trong đó, công nghiệp chế biến là chủ yếu, chiếm hơn 99% tổng giá trị

sản xuất toàn ngành công nghiệp.

- Trong công nghiệp chế biến của Bắc Ninh, một số ngành chủ lực

được đầu tư phát triển nhanh và đồng bộ nên tạo ra giá trị sản xuất lớn và tăng

nhanh như sản xuất thực phẩm đồ uống bình quân mỗi năm tăng 58,92%;

ngành dệt tăng 52,23%, sản xuất trang phục tăng 28,13%; sản xuất giấy tăng

36,36%; sản xuất vật liệu xây dựng tăng 31,58%; sản xuất kim loại tăng

47,54%; sản xuất sản phẩm từ kim loại tăng 29,98%, sản phẩm đồ gỗ tăng

28,49%.

Những năm gần đây, tỉnh Bắc Ninh tập trung phát triển công nghiệp

vừa và nhỏ ở nông thôn và đô thị, mở rộng nâng cao chất lượng sản phẩm các

làng nghề với các ngành hàng chủ yếu:

+ Công nghiệp chế biến nông - lâm sản và thực phẩm bao gồm: công

nghiệp sản xuất thực phẩm nước giải khát, chế biến lâm sản, sản xuất gỗ, sản

xuất đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu và tủ bàn ghế các loại, sản xuất thuốc lá và chế

biến nguyên liệu thuốc lá, gia cầm và thuỷ sản, sản xuất bia, chế biến sản

phẩm tơ tằm đều có tốc độ tăng trưởng ổn định. Các cơ sở chế biến tập trung

chủ yếu ở thành phố Bắc Ninh, Từ Sơn, Yên Phong và Lương Tài.

+ Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng gốm, sứ, thuỷ tinh đã và

đang phát triển mạnh bao gồm cả các đơn vị Trung ương và địa phương.

+ Công nghiệp dệt, da, may mặc là ngành có điều kiện phát triển, thị

trường trong nước và nước ngoài rất rộng lớn, nhưng hiện tại các sản phẩm

công nghiệp này của Bắc Ninh còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu công

nghiệp của tỉnh, khoảng 5% .

+ Công nghiệp cơ khí, điện, điện tử: Ngành cơ khí của tỉnh còn phân

tán, thiết bị lạc hậu, không đồng bộ. Các sản phẩm chủ yếu của ngành cơ khí

58

là công cụ lao động phổ thông, cán kéo thép và thép hình, bu lông, ốc xiết...

+ Công nghiệp hoá chất, phân bón: Hiện tại, Bắc Ninh đã có nhà máy

khí công nghiệp 100% của Cộng hoà Pháp đã đi vào sản xuất ổn định. Sản

phẩm là các loại khí ôxy, nitơ, khí hiếm phục vụ cho nhà máy kính nổi và sản

xuất trong nước.

So với năm cuối của kế hoạch (1996-2000) thì tỷ trọng cơ cấu các

nhóm ngành hàng có thay đổi: Ngành chế biến nông lâm sản thực phẩm (chủ

yếu tăng là do sản phẩm chế biến thức ăn chăn nuôi và sản phẩm đồ gỗ) cao

hơn 10%. Ngành cơ khí, điện, điện tử cao hơn 4% (chủ yếu tăng do sản phẩm

sản xuất kết cấu thép và thiết bị điện). Riêng ngành sản xuất vật liệu xây dựng

có giảm hơn do các đơn vị sản xuất đã đi vào đầu tư chiều sâu, sản phẩm có

hàm lượng công nghệ cao hơn, mặt khác do thị trường tiêu thụ sản phẩm phải

cạnh tranh quyết liệt hơn.

Sản phẩm tham gia xuất khẩu chưa nhiều chủ yếu là: các sản phẩm

bằng gỗ, giấy đế, dưa chuột, mây tre đan, sắt thép..., một số sản phẩm sơ chế

thu mua để xuất khẩu như lạc nhân, hoa hồi, quế, long nhãn, hạt sen... Chiếm

tỷ trọng cao nhất trong sản phẩm xuất khẩu vẫn là sản phẩm may mặc chiếm

72%, chủ yếu là sản phẩm may gia công.

- Xây dựng cơ bản (XDCB) là một trong những lĩnh vực quan trọng của

đầu tư phát triển. Kết quả của hoạt động này là làm tăng thêm tài sản cố định

cho nền kinh tế quốc dân, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống sinh hoạt

của toàn xã hội. Với lợi thế là tỉnh có tiềm năng về nghề xây dựng, những

năm qua, cùng với việc phát huy các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế để

tăng cường cho đầu tư thì hoạt động XDCB cũng được tạo điều kiện về vốn

để triển khai xây dựng các dự án, công trình. Vì thế, bình quân mỗi năm từ

1997-2005, giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 14,78%, trong đó giai đoạn

2001-2005 có tốc độ tăng cao hơn (16,09%). Năm 2005, giá trị sản xuất

59

ngành xây dựng đạt 1.128,6 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994) thì đến năm 2008

tăng gần gấp đôi, ước đạt 2.087,7 tỷ đồng. Cùng với sự gia tăng về giá trị, quy

mô lao động tham gia trong lĩnh vực này ngày càng tăng nhanh, trình độ tay

nghề cũng được nâng lên không chỉ phục vụ đắc lực cho việc XDCB ở trong

tỉnh mà còn vươn tới các địa phương khác trong cả nước.

Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng, hoạt động thu hút đầu tư tiếp tục

được quan tâm và chỉ đạo. Đến nay, đã có 14 KCN được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt với tổng diện tích 7.483 ha (KCN 6.499 ha và Khu đô thị 984

ha). Trong đó có 4 KCN đã đi vào hoạt động, 3 KCN mới khởi công xây dựng

và 2 đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết, đang chuẩn bị khởi công. Tiếp tục

đón làn sóng đầu tư mới, tỉnh đang tiếp tục quảng bá hình ảnh, thân thiện, cởi

mở, tiềm năng và hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tỉnh tập trung chuẩn

bị mặt bằng và hạ tầng cơ sở hiện đại, thuận lợi cho các dự án khi vào đầu tư.

Tính đến hết tháng 10 năm 2008, Bắc Ninh đã thu hút 173 dự án FDI và 12

chi nhánh - văn phòng đại diện, với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.460,63 triệu

USD, đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 249 dự án đầu tư trong nước với

tổng vốn đầu tư đăng ký 21.968,82 tỷ đồng. Các dự án ODA đang tiếp tục

thực hiện. Tính đến năm 2008, tổng số doanh nghiệp hoạt động theo luật

doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là 2.811 doanh nghiệp, 235 chi

nhánh, 26 văn phòng đại diện với tổng số vốn đăng ký 14.600 tỷ đồng. Công

tác kiểm tra doanh nghiệp, thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” được triển

khai thực hiện tốt.

2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ

Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội ngày càng khẳng định vai trò to

lớn của ngành dịch vụ. Tuy tỷ trọng ngành dịch vụ ở Bắc Ninh giữ ở mức

tương đối ổn định trong những năm qua nhưng đã có sự chuyển dịch chủ yếu

60

là trong nội bộ ngành theo hướng tích cực.

Bảng 2.8 cho thấy, tỷ trọng đóng góp vào GDP của ngành dịch vụ chủ

yếu là những ngành kinh doanh có tính chất thị trường như thương nghiệp,

vận tải, thông tin liên lạc, tài chính tín dụng và kinh doanh bất động sản.

Ở nhóm các ngành kinh doanh này, mặc dù còn một số lĩnh vực chưa

được đầu tư tương xứng nên chưa phát huy được chức năng điều tiết vĩ mô và

làm dịch vụ tốt cho sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, nhưng vẫn là

nhóm có tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ.

Đầu tiên phải kể đến hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

trong cơ chế mới hiện nay đã có nhiều biến đổi kể cả về tổ chức, phương thức

hoạt động và lực lượng tham gia thị trường. Bao gồm các doanh nghiệp quốc

doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, các Hợp tác xã thương mại và hộ kinh doanh cá thể, mạng lưới chợ.

Năm

1997

2000

2005

2006

2007

2008

31,18

26,37

27,82

29,18

26,15 28,32

Bảng 2.8: Đóng góp của một số ngành dịch vụ chủ chốt vào GDP giai đoạn 1997-2008 (%)

Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP Trong đó: % đóng góp của một số ngành chủ chốt

Thương nghiệp

6,70

5,20

5,14

6,56

6,28 7,26

Khách sạn và nhà hàng

0,78

0,78

0,85

0,55

0,56 0,65

3,32 1,17

2,99 1,16

3,46 2,17

4,37 2,44

3,54 3,46 2,98 3,25

Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc Tài chính tín dụng Kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn Giáo dục và đào tạo Khoa học và công nghệ Quản lý Nhà nước và ANQP

8,92 3,94 0,07 6,18

6,93 3,11 0,14 4,04

6,25 2,94 0,12 3,22

6,00 2,98 0,27 3,29

4,60 4,69 2,73 2,93 0,39 0,44 2,76 2,83

Nguồn số liệu: Niên giám Thống kê Bắc Ninh từ năm 2000 đến 2008

Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường xã hội năm 1997

đạt 953,8 tỷ đồng đến năm 2000 đạt 1.490,5 tỷ đồng, tăng 1,56 lần so với

61

năm 1997, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1998-2000 là 16%. Năm 2005 đạt

4.116 tỷ đồng, tăng 2,8 lần so với năm 2000, tốc độ tăng trưởng bình quân

giai đoạn 2001-2005 đạt 22,4%. Năm 2007 đạt 6.680,4 tỷ đồng, tăng 32,16%

so năm 2006, năm 2008 ước tính đạt 9.786,7 tỷ đồng (giá thực tế).

Hoạt động thương mại diễn ra trên thị trường có nhiều chuyển biến tốt

theo hướng tích cực, sức mua tăng, hàng hoá kinh doanh có khối lượng dồi

dào, cơ cấu, chủng loại phong phú, quy cách mẫu mã ngày càng được cải tiến,

cung ứng dịch vụ dần được nâng cao, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng xã hội,

góp phần thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển và đẩy nhanh tốc độ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng Công nghiệp, Dịch vụ, Nông

nghiệp.

Sự phát triển của mạng lưới chợ góp phần thúc đẩy thương mại phát

triển hơn. Cuối năm 2001, toàn tỉnh có 88 chợ (12 chợ xếp loại II ,34 chợ xếp

loại III, 42 chợ tạm), đến 6/2004 toàn tỉnh có 80 chợ (15 chợ loại II, 65 chợ

loại III, 31 chợ tạm), đến 2007 có 74 chợ ( loại 1: 01 chợ, loại II: 33 chợ, loại

3 : 40 chợ) hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh đáp ứng được phần nào quá trình

trao đổi hàng hoá của các tầng lớp dân cư, nhất là các vùng quê thuần nông.

Năm 2004 đã xây mới chợ Trung tâm Suối Hoa (TP. Bắc Ninh) - với diện tích trên 6.000 m2, xây mới chợ Đọ Xá (TP. Bắc Ninh), nâng cấp cải tạo

chợ Đáp Cầu, Thị Cầu, Đại Phúc... Hiện nay, tỉnh đang tiến hành xây dựng

chợ đầu mối, trung tâm thương mại có quy mô lớn nhất từ trước tới nay tại thị

trấn Lim, huyện Tiên Du.

Hoạt động XNK liên tục có mức tăng trưởng đã tác động tích cực tới

hầu hết các ngành sản xuất và dịch vụ. Số lượng đơn vị tham gia xuất nhập

khẩu đã tăng lên nhanh chóng qua các thời kỳ. Năm 1997 có 7 doanh nghiệp

hoạt động XNK. Năm 2000 có 39 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

tham gia hoạt động XNK. Năm 2007 trên địa bàn toàn tỉnh có 135 doanh

62

nghiệp tham gia hoạt động XNK gồm 4 doanh nghiệp trung ương, 85 doanh

nghiệp địa phương và 46 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1997

kim ngạch xuất khẩu đạt 24,7 triệu USD. Đến năm 2007 đạt 356,359 triệu

USD, tăng 96,4% so với năm 2006.

- Giai đoạn 1998-2000 cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng

Công nghiệp - Nông lâm sản - Thủ công mỹ nghệ. Nhóm hàng công nghiệp

(May mặc, giấy, kính) tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 64% tổng kim

ngạch xuất khẩu năm 1997 lên 70% năm 2000, nhóm Nông lâm sản (Dược

liệu, rau, củ, quả) chiếm tỷ trọng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1997

giảm xuống còn 23,4% năm 2000, nhóm hàng hàng thủ công mỹ nghệ (Gỗ

mỹ nghệ, tơ tằm, vải tơ tằm, thêu ren, thảm) chiếm tỷ trọng 6% tổng kim

ngạch xuất khẩu năm 1997 tăng lên 6,6% năm 2000. Giai đoạn 2001-2007 cơ

cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng Công nghiệp - Thủ công mỹ nghệ -

Nông sản thực phẩm và lâm sản. Nhóm hàng công nghiệp (may mặc, giấy,

kính ) ngày càng đóng vai trò quan trọng, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tăng

nhanh, từ 60,2% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2001 lên 83% năm 2005.

Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ (gỗ mỹ nghệ, tơ tằm, vải tơ tằm, thêu ren,

thảm) chiếm tỷ trọng 13% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2001 và giảm

xuống 10,8% năm 2005, nhóm hàng nông sản thực phẩm và lâm sản (dược

liệu, rau, củ, quả) chiếm tỷ trọng 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2001

và xuống 6,2% năm 2005.

Kim ngạch nhập khẩu tăng trưởng khá. Năm 1997 kim ngạch nhập

khẩu đạt 17,6 triệu USD, năm 2000 đạt 47,8 triệu USD tăng 2,7 lần so với

năm 1997, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1998-2000 là 39,5%.

- Giai đoạn 1998-2000: Cơ cấu hàng nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu

phục vụ sản xuất năm 1997 đạt 58% tăng 72% năm 2000, máy móc, thiết bị

63

tạo tài sản cố định phục vụ cho quá trình đầu tư năm 1997 đạt 11% năm 2000

đạt 12%, nhóm hàng tiêu dùng giảm dần năm 1997 là 31% tổng kim ngạch

nhập khẩu đến năm 2000 giảm xuống 16%.

- Giai đoạn 2001-2007: Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt 140,5 triệu

USD, tăng 2,9 lần so với năm 2000, giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng

bình quân đạt 24,1%, năm 2007 đạt 288,621 triệu USD gấp 2,1 lần năm 2005

và tăng 27,75% so năm 2006. Cơ cấu hàng nhập khẩu theo hướng tăng nhanh

tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất và

máy móc, thiết bị tạo tài sản cố định phục vụ cho quá trình đầu tư. Năm 2001

là 85% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 2007 tăng lên 97,6%. Nhóm hàng tiêu

dùng giảm dần, năm 2001 là 25% tổng kim ngạch nhập khẩu đến năm 2007

giảm xuống 2,4%.

Dịch vụ vận tải ngày càng gia tăng với khối lượng vận chuyển hàng

hoá là 18,86 triệu tấn năm 2007, tăng 6,85%, năm 2008 ước 18,3 triệu tấn.

Khối lượng vận chuyển hành khách 5,89 triệu năm 2007, tăng 37,6% so với

năm 2006, ước 6,2 triệu năm 2008.

Trong mấy năm gần đây, hoạt động bưu chính viễn thông trên địa bàn

tăng trưởng khá mạnh. Năm 2007 phát triển thêm 145.838 máy điện thoại,

nâng tổng số máy trên mạng 508.047 máy, trong đó điện thoại cố định là

131.541 máy, điện thoại di động trả sau là 47.202 máy, đạt bình quân 50

máy/100 dân, tăng gấp 2,8 lần năm 2005, cao hơn trung bình toàn quốc (18,5

máy/100 dân). Doanh thu cả năm ước đạt 320,9 tỷ đồng, tăng 11,7% so năm

2006. Năm 2008, hoạt động bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển mạnh, thị

trường viễn thông và internet phát triển nhanh, mạng lưới bưu chính viễn

thông và cơ sở vật chất kỹ thuật tiếp tục được tăng cường, các trạm thu phát

sóng tiếp tục được đầu tư xây dựng ở nhiều địa phương, đáp ứng yêu cầu chỉ

đạo, điều hành của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và nhu cầu của

64

nhân dân, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội phát

triển. Tổng số thuê bao điện thoại ước tính 821.593 thuê bao, tăng 337.406

thuê bao so với cùng kỳ, trong đó, thuê bao cố định là 185.046 và thuê bao di

động 577.347.

Hoạt động du lịch được quan tâm phát triển. Tổng mức đầu tư giai đoạn

1997-2000 chỉ đạt hơn 27 tỷ đồng, giai đoạn 2001-2007 đã tăng gấp hơn 8 lần

đạt 220 tỷ đồng. Tuy nhiên, doanh thu từ hoạt động du lịch còn thấp. Tổng

doanh thu từ hoạt động du lịch năm 2007 khoảng 45 tỷ đồng, năm 2008 ước

đạt 80 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994). Tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1999-2000

là 13,08% và thời kỳ 2001-2007 là 15,4%.

Lượng khách du lịch đến Bắc Ninh trong giai đoạn 1997-2000 đạt mức

tăng bình quân là 14%/năm. Tổng số lượt khách đến Bắc Ninh năm 2007 đạt

60,4 nghìn lượt, tăng 11,2% so với năm 2006, với tốc độ tăng trưởng thời kỳ

2001-2007 là 16,4%, trong đó lượng khách quốc tế chiếm 4,3%. Số lượng các

đơn vị tham gia kinh doanh du lịch ngày càng tăng, nếu như năm 2000 trên

địa bàn mới có 60 cơ sở kinh doanh du lịch thì tính đến 31/12/2007 tăng gần

gấp đôi: 115 cơ sở (5 doanh nghiệp Nhà nước, 110 doanh nghiệp tư nhân và

hộ cá thể ).

Tuy nhiên mạng lưới kinh doanh du lịch Bắc Ninh còn ít và bất cập,

khả năng tài chính, nghiệp vụ hạn chế. Mặt khác trong số 115 cơ sở kinh

doanh đa số là các dịch vụ lưu trú (92 cơ sở), các dịch vụ lữ hành, vui chơi

giải trí, hướng dẫn viên chiếm tỷ lệ thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu phát

triển du lịch trên địa bàn.

Hoạt động tín dụng tiếp tục tăng trưởng. Tổng nguồn vốn huy động

năm 2007 là 8.026,8 tỷ đồng, tăng 63,5% so với năm 2006. Mặc dù giá cả

tăng, nhưng do các chi nhánh ngân hàng đã đẩy mạnh việc mở rộng mạng

lưới hoạt động và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn với nhiều kỳ hạn

65

khác nhau nên kết quả huy động khá. Tổng dư nợ tín dụng đến cuối năm 2007

là 10.432,2 tỷ đồng, tăng 63,99%. Tổng thu tiền mặt qua ngân hàng năm 2007

là 38.485,8 tỷ đồng, tăng 68,7%; tổng chi tiền mặt 37.948,4 tỷ đồng, tăng

66,9%; bội thu 537,4 tỷ đồng; nợ xấu chiếm tỷ lệ thấp so với cả nước. Năm

2008, hoạt động tín dụng, ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh; mạng lưới ngân

hàng thương mại và tổ chức tín dụng phát triển rộng khắp các huyện, thành

phố. Đến nay, toàn tỉnh đã có 16 chi nhánh cấp 1, 9 chi nhánh cấp 2 và 72

phòng giao dịch, chi nhánh cấp 3; 24 quỹ tín dụng nhân dân và 1 chi nhánh

quỹ tín dung trung ương. Tuy nhiên, do những bất ổn của nền kinh tế Mỹ,

nhất là khủng hoảng tài chính ở nước này đã tác động nhiều đến thị trường tài

chính tiền tệ và làm cho giá vàng, dầu thô trên thị trường thế giới tăng trở

lại,… đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động tín dụng. Ước năm 2008, tổng

nguồn vốn huy động 9.000 tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2007, thấp hơn

nhiều so với mức tăng 63,5% của năm 2007; tổng dư nợ tín dụng ước 12.500

tỷ đồng, tăng 19,8%, thấp hơn mức 63,99% của năm 2007. Tỷ lệ nợ xấu của

các tổ chức tín dụng là 0,72%, cao hơn mức 0,54% của năm 2007. Tổng thu

tiền mặt ước 50.000 tỷ đồng, tăng 29,9% so với năm 2007; bội thu tiền mặt

500 tỷ đồng.

2.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động

2.4.1. Về cơ cấu lao động theo ba ngành kinh tế

Năm 2007, Bắc Ninh có 870,856 nghìn người sống ở khu vực nông

thôn (chiếm 85,19%), quần tụ trong 108 xã, 7 thị trấn. Mật độ 1.243 người/km2, lao động nông nghiệp chiếm 54,97%, công nghiệp chiếm 27,37%,

dịch vụ chiếm 17,66% so với lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã tác động làm cho lao động xã hội

cũng chuyển dịch mạnh theo. Năm 1997, lao động làm việc ở ngành nông

nghiệp chiếm tới 86,1%, năm 2000 là 80,2%, nhưng đến năm 2008 ước còn

66

41,5%; ngành công nghiệp và xây dựng từ 7,3% năm 1997 tăng lên 29,2%

năm 2008. Cơ cấu lao động ngành dịch vụ cũng có sự gia tăng khá nhanh, từ

6,6% năm 1997 đến năm 2008 ước là 19,88%. Tuy nhiên, xét về tốc độ

chuyển dịch thì chuyển dịch lao động trong ngành kinh tế vẫn chậm hơn so

với cơ cấu kinh tế. Đây là điểm đáng quan tâm đối với các nhà quản lý và là

thách thức đối với kinh tế khi giải quyết việc làm chưa được đầu tư đúng

mức.

Bảng 2.9 cho thấy, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp - thuỷ sản

có tỷ trọng ngày càng giảm, từ 79,804% năm 2000 xuống còn 63,923% năm

2005 và 50,26% năm 2008, ngược lại tỷ trọng lao động trong ngành công

nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng dần trong cơ cấu lao động của tỉnh. Đó là kết

quả của việc làm tốt công tác quy hoạch, kết cấu hạ tầng các KCN tập trung.

Các khu, cụm công nghiệp nhỏ và vừa đang dần hoàn thiện, công tác xúc tiến

thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư trên địa bàn tỉnh có nhiều

khởi sắc.

Chỉ tiêu

Đơn vị

2000

2005

2007

2008

1000 ng

Dân số

951,122

998,512 1.026,700

1.035,900

1000 ng

Lao động trong ngành

528,213

562,078

582,170

590,513

KTQD

Trong đó:

1000 ng

Nông, lâm nghiệp-Thuỷ sản

421,534

359,300

319,666

296,776

Công nghiệp-Xây dựng

62,021

122,608

159,319

176,312

Dịch vụ

44,658

80,170

102,855

117,25

Cơ cấu %

100,000

100,000

100,00

100,00

%

Nông, lâm nghiệp-Thuỷ sản

79,804

63,923

54,97

50,26

%

Công nghiệp-Xây dựng

11,742

21,813

27,37

29,86

%

Dịch vụ

8,454

14,264

17,66

19,88

%

67

Bảng 2.9: Cơ cấu lao động của tỉnh Bắc Ninh trong các ngành kinh tế

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến năm 2008

So với cả nước, năm 2007 tỷ trọng lao động trong nông - lâm nghiệp -

thuỷ sản của tỉnh còn chiếm 54,97% cao hơn so với cả nước là 54,568%.

Ngược lại tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ của tỉnh chỉ chiếm 17,66%,

nhỏ hơn so với tỷ trọng của cả nước là 25,88%. Đó là do dân số của tỉnh sống

chủ yếu ở nông thôn, mà phần đông làm nông nghiệp. Nhưng nếu so với cơ

cấu giá trị tăng thêm của tỉnh ta thấy: lao động nông nghiệp chiếm 54,97% lại

chỉ tạo ra 18,65% giá trị tăng thêm; trong khi đó, lao động nông nghiệp cả

nước chỉ chiếm 54,568% tạo ra được 20,25% giá trị tăng thêm (theo giá thực

tế). Điều này cho thấy ngành nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh vẫn còn những

hạn chế về chất lượng nguồn lao động.

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu lao động theo ba ngành kinh tế

Nông, lâm nghiệp - thuỷ sản Công nghiệp - xây dựng Dịch vụ

Năm 2007, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp-xây dựng chiếm

27,37%, cao hơn so với cả nước là 19,556%. Có được kết quả này trước tiên

phải kể đến tốc độ tăng trưởng liên tục duy trì ở mức cao của ngành công

nghiệp - xây dựng và số lượng các cơ sở tham gia vào sản xuất công nghiệp.

Các đơn vị này đã tăng rất nhanh trong giai đoạn 2001-2007 nên thu hút được

nhiều lao động, nhất là lao động từ ngành nông nghiệp. Theo số liệu tại thời

68

điểm 31/12/2001 có 67.618 lao động tham gia vào lĩnh vực sản xuất công

nghiệp, nhưng đến 31/12/2007 đã tăng lên 159.319 lao động, tức là sau 6 năm

các cơ sở công nghiệp đã thu hút thêm được 91.701 lao động, bình quân mỗi

năm giải quyết việc làm cho 15.283,5 người. Đây là con số đáng kể trong việc

góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị từ 5,4% năm 2001

xuống còn 4,08% năm 2005 và 3,6% năm 2007, đồng thời tăng tỷ lệ thời gian

sử dụng trong khu vực nông thôn từ 81,3% năm 2005 lên 83% năm 2007 .

Lao động ngành dịch vụ tăng từ 8,454% năm 2001 lên tới 19,88% năm

2008. Tuy không thu hút được nhiều lao động so với ngành công nghiệp - xây

dựng và một số ngành khác nhưng sự tăng trưởng của hoạt động thương mại

dịch vụ đã thu hút, duy trì được hàng nghìn lao động và con số này gia tăng từ

7-10% hàng năm, có năm tăng tới 15%.

2.4.2. Về chất lượng nguồn nhân lực

Năm

Chỉ tiêu

Đơn vị

2001

2007

2008

Tổng số LĐ đã qua đào tạo

1000người

112,4

200,8

216,8

- Tỷ lệ so với tổng số LĐ

%

20,9

34,5

36,7

2. LĐ đã qua đào tạo trong ngành CN-XD

1000người

42,7

82,8

107,5

6,3

13,4

17,3

Trong đó: Đại học

10,5

26,7

32,3

Trung học chuyên nghiệp

18,9

40,8

53,5

Công nhân kỹ thuật

%

55,7

52,0

61,0

-Tỷ lệ so với LĐ trong ngành CN-XD

40,8

41,8

3.Lđ đã qua đào tạo ngành NN

1000người

31,9

2,3

3,7

3,9

Trong đó: Đại học

10,3

16,6

16,8

Trung học chuyên nghiệp

9,8

14,6

15,2

Công nhân kỹ thuật

%

7,7

12,8

14,1

-Tỷ lệ so với LĐ trong ngành NN

69

Bảng 2.10: Trình độ lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh

4. LĐ đã qua đào tạo ngành DV

1000người

37,8

72,2

93,8

Trong đó: Đại học

14,3

23,5

27,7

Trung học chuyên nghiệp

15,4

26,5

29,0

Công nhân kỹ thuật

4,0

6,6

9,4

-Tỷ lệ so với LĐ ngành DV

%

75,7

75,1

80,0

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Bắc Ninh

Chất lượng nguồn lao động của tỉnh đã qua đào tạo có xu hướng ngày

càng gia tăng. Tỷ lệ đã qua đào tạo trình độ đại học so với tổng số lực lượng

lao động đã qua đào tạo trong ngành công nghiệp tăng từ 6.300 người năm

2001 lên 17.300 người năm 2008, nông nghiệp từ 2.300 người lên 3.900

người, dịch vụ từ 14.300 người lên 27.700 người từ năm 2001 đến năm 2008.

Nhìn chung NNL của tỉnh là một thế mạnh nổi bật: dân số đông góp

phần tạo ra thị trường có nhu cầu to lớn về mọi mặt, người dân cần cù lao

động, có tinh thần hiếu học và nhiều người có tay nghề truyền thống. Nếu

thường xuyên được đào tạo và bố trí hợp lý thì NNL này sẽ là một trong

những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

2.5. Đánh giá chung sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh

2.5.1. Những thành tựu

Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước, Bắc Ninh đã khắc

phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu tạo ra sự phát triển liên tục trên các mặt

kinh tế xã hội. Nhìn tổng quát trong những năm qua, quy mô GDP tăng liên

tục, nhịp độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1997-2008 tăng 13,9%/ năm.

- Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến

bộ: tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành

nông nghiệp.

+ Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 45,05% năm 1997 đã giảm

70

xuống 37,96% năm 2000, 26,26% năm 2005 và 18,65% năm 2007 và ước tính

còn 15,3% năm 2008; tỷ trọng ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 23,77%

năm 1997 lên 35,67% năm 2000, từ năm 2001 tỷ trọng công nghiệp-xây dựng

đã vượt lên trên tỷ trọng nông nghiệp để chiếm vị trí đứng đầu trong cơ cấu

GDP, năm 2007 đã là 51,01% và năm 2008 ước lên tới 56,38%. Kinh tế nhiều

thành phần được hình thành và phát triển. Điều này đã tạo khả năng mới để

phát triển một nền kinh tế toàn diện theo hướng đa ngành đa sản phẩm .

+ Ngành nông nghiệp nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thâm

canh tăng vụ tăng năng suất cây trồng và vật nuôi cùng với việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế từ cơ cấu thuần nông sang sản xuất hàng hoá theo hướng tiến

bộ, gia tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, phát triển nuôi trồng các loại cây, con

đặc sản có giá trị kinh tế cao. Sản xuất nông nghiệp đạt được an toàn về lương

thực, nông nghiệp có bước tăng trưởng liên tục theo hướng sản xuất hàng hoá.

Sản xuất lương thực có những bước tiến vượt bậc và liên tục, đạt những đỉnh

cao mới, năng suất lúa vụ/năm đạt 49-52 tạ/ha. Chăn nuôi gia súc gia cầm liên

tục tăng cả về số lượng đầu con và trọng lượng thịt.

+ Ngành công nghiệp - xây dựng: Bình quân giai đoạn 1997-2008, giá

trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) tăng 33,5%/năm. Từ năm

2000 đến nay sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển một cách mạnh

mẽ, luôn giữ được vai trò “đầu tàu”, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài bình

quân tăng 142%/ năm và đóng góp to lớn vào tăng trưởng ngành công nghiệp;

công nghiệp quốc doanh địa phương (đã chuyển sang cổ phần hoá) và ngoài

quốc doang tăng nhanh.

+ Ngành dịch vụ: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng

xã hội tăng bình quân 22,35%/năm. Tuy tỷ trọng dịch vụ trong GDP ngày

càng giảm: chuyển dịch từ 31,18% năm 1997 ước còn 28,32% năm 2008,

nhưng các thành phần kinh tế tham gia dịch vụ ngày càng đa dạng, nhiều hàng

71

hoá, lưu thông thông suốt. Bên cạnh đó hoạt động giao thông vận tải ngày

càng tăng về số lượng và chất lượng phục vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu

cầu sản xuất và đi lại của nhân dân. Ngoài ra, mạng lưới hoạt động tín dụng,

ngân hàng trên địa bàn tỉnh trong mấy năm trở lại đây phát triển mạnh mẽ,

đơn giản hoá phương thức thủ tục cho vay giúp cho người dân và doanh

nghiệp có thêm vốn để chuyển đổi phương thức sản xuất kinh doanh mới,

đem lại hiệu quả kinh tế cao.

- Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao

động ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông

nghiệp. Tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp từ 11,74% (2000) tăng lên

21,81% (2005) và lên 29,86% (2008): tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ cũng

tăng từ 8,45% (2000) lên 14,26% (2005) và đạt 19,88% (2008), tỷ trọng lao

động nông nghiệp giảm từ 79,8% (2000) xuống 63,92% (2005) và xuống còn

50,26% (2008).

2.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân

Những mặt tồn tại

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh

Bắc Ninh vẫn còn một số tồn tại đáng chú ý là:

- Mười hai năm qua, nhìn chung tốc độ tăng trưởng kinh tế Bắc Ninh

khá cao. Nhưng nếu xét về tiềm năng và lợi thế vốn có của tỉnh, khả năng

phát triển còn có thể cao hơn nữa. Tính bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức

cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; GDP bình quân đầu người còn thấp. Vệ

sinh, môi trường nông thôn đã và đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương

trong tỉnh.

- Công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư triển khai còn chậm; quy

hoạch chưa theo kịp với nhu cầu phát triển, thu hút vốn đầu tư nói chung, đầu

tư từ bên ngoài chưa mạnh. Công tác đầu tư XDCB chậm so với tiến độ do

72

giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khả năng vay vốn phục vụ sản xuất vẫn còn

khó khăn. Huy động vốn đầu tư còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý sử dụng vốn

có hiệu quả, đầu tư còn mang tính dàn trải, không bám sát thực tế nên hệ

thống hạ tầng nông thôn của tỉnh hiện nay vẫn còn cần thêm nguồn vốn và cơ

chế hình thành vốn để xây dựng, duy trì, bảo dưỡng.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, tỷ trọng dịch vụ trong GDP đạt

thấp. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất gặp nhiều khó

khăn do chưa có sự đồng thuận giữa người dân và chính quyền.

- Các cấp, các ngành chưa phát huy toàn diện tinh thần chủ động trong

công việc. Chính vì vậy, sự phối hợp giữa các ban, ngành chưa đạt được tính

khăng khít và đồng bộ. Bên cạnh đó, trụ sở và trang thiết bị văn phòng của

một số UBND tỉnh còn lạc hậu. Mặt bằng về trình độ công chức chủ chốt của

xã cũng như điều kiện làm việc của họ có sự chênh lệch nhau giữa các xã

trong tỉnh.

- Trong nông nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, thực

hiện công tác “dồn điền đổi thửa” gặp nhiều khó khăn vì thế chưa tạo ra được

vùng sản xuất hàng hoá tập trung hiệu quả cao. Quy mô trang trại nhìn chung

còn rất nhỏ; số lao động, diện tích đất đai sử dụng, tổng vốn đầu tư cũng như

doanh thu và thu nhập bình quân mỗi trang trại đều nhỏ hơn so với toàn quốc

và trong khu vực Đồng bằng sông Hồng. Vốn đầu tư cho phát triển nông

nghiệp và đổi mới công nghệ kỹ thuật còn thiếu nên việc ứng dụng khoa học

công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Khả năng cạnh tranh

của hàng nông sản chưa cao. Việc khai thác, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng

nông sản đang còn là một vấn đề khó khăn đối với Bắc Ninh.

- Trong công nghiệp, giá trị sản xuất tăng trưởng nhanh nhưng chưa tạo

ra ngành thế mạnh, mũi nhọn, có tính chủ lực để cạnh tranh trên thị trường;

sản phẩm công nghiệp chủ yếu còn mang tính gia công, lắp ráp, giá trị nội địa

73

tăng chậm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô sản xuất nhỏ bé và trình

độ công nghệ còn lạc hậu, thiếu vốn đầu tư để đổi mới công nghệ. Công

nghiệp chế biến nông, lâm và thuỷ sản chưa được chú trọng đầu tư.

- Thương mại và dịch vụ chuyển dịch chậm, chưa tạo ra được thương

hiệu hàng hoá có sức cạnh tranh cao. Các loại hình dịch vụ cấp cao phát triển

chưa đủ để đưa ngành dịch vụ hội nhập với nền kinh tế thế giới. Chưa chú

trọng phát triển các kênh thông tin để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Du lịch tuy có lợi thế để phát

triển so với các địa phương khác trong cả nước nhưng chất lượng ngành du

lịch còn kém, chưa được quan tâm đầu tư có chiều sâu vì thế chậm phát triển.

Tóm lại, trong những năm qua, kinh tế - xã hội của Bắc Ninh đã đạt

được nhiều thành tựu nổi bật nhưng bên cạnh đó vẫn còn những vấn đề tồn tại

cần khắc phục để đạt kết quả cao hơn trong phát triển kinh tế của tỉnh.

Nguyên nhân của những mặt tồn tại

+ Nguyên nhân chủ quan:

- Công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành có lúc, có nơi còn

chậm đổi mới, thiếu chủ động, quyết liệt.

- Triển khai cải cách hành chính chưa mạnh, kỷ luật hành chính chưa

nghiêm. Nhân cách, ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ và tinh thần trách nhiệm

của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn yếu kém.

- Thực hiện chế độ thông tin báo cáo của các cấp, các ngành chưa được

cập nhật thường xuyên, kịp thời và chất lượng chưa cao.

+ Nguyên nhân khách quan:

- Điểm xuất phát về kinh tế và cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn thấp,

sức ép giải quyết một số vấn đề xã hội như việc làm, học tập, chữa bệnh tăng

nhanh và quá tải.

- Tình hình thời tiết diễn biến thất thường, giá cả hàng hoá biến động,

74

chủ yếu là tăng mạnh, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn biến phức

tạp. Đó là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh

doanh và đời sống xã hội.

Kết luận chương 2

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh trong 12 năm

qua cho thấy, Bắc Ninh đã và đang chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo

hướng tích cực. Do đó, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh công

nghiệp, dịch vụ, tác động tích cực đến các hoạt động xuất, nhập khẩu và kết

quả là GDP bình quân đầu người tăng dần qua các năm.

Những chuyển biến tích cực về cơ cấu ngành thể hiện rõ nét qua hai

ngành sản xuất vật chất là nông, lâm nghiệp - thuỷ sản và công nghiệp - xây

dựng. Qua phân tích cho thấy, tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản

trong GDP ngày càng giảm qua các năm và tăng tương ứng tỷ trọng ngành

công nghiệp - xây dựng. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ về cơ cấu nội bộ mỗi

ngành, có thể thấy những đóng góp cụ thể ở mỗi phân ngành lại có mức độ

khác nhau. Trong nông nghiệp, tỷ trọng GTSX ngành trồng trọt giảm dần và

tỷ trọng GTSX ngành chăn nuôi tăng dần theo định hướng đưa chăn nuôi trở

thành ngành sản xuất chính. Trong công nghiệp, định hướng phát triển ngành

công nghiệp chế biến đã thúc đẩy một số ngành chủ lực phát triển nhanh và

đồng bộ tạo ra GTSX lớn hàng năm. Bên cạnh đó, tỉnh đã quy hoạch các khu

công nghiệp, cụm công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn tạo điều kiện thuận lợi

cho đầu tư để thúc đẩy sản xuất hiệu quả cao hơn.

Đối với ngành dịch vụ, tuy không có sự thay đổi lớn về tỷ trọng trong

GDP nhưng trong nội bộ ngành có sự tăng lên về tỷ trọng của các ngành kinh

doanh có tính chất thị trường, đặc biệt là thương mại, vận tải, tài chính tín

dụng và thông tin liên lạc. Sự phát triển đó phù hợp với xu thế phát triển của

75

nền kinh tế đất nước và hội nhập nền kinh tế thế giới.

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh cũng bộc lộ

một số mặt hạn chế tồn tại. Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh

khốc liệt giữa các doanh nghiệp, việc tạo ra thương hiệu hàng hoá cho sản

phẩm thế mạnh của tỉnh là hết sức cần thiết. Nhưng cho đến nay, Bắc Ninh

vẫn chưa thực hiện được. Ngành du lịch chưa được đầu tư một cách có chiều

sâu để phát huy lợi thế về du lịch lễ hội truyền thống và văn hoá Quan họ.

Những hạn chế tồn tại do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân

chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do tỉnh chưa quán

triệt toàn diện tinh thần chủ động của các ngành, các cấp và của người dân

trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân khách quan

gồm có dịch bệnh, thời tiết, khủng hoảng tài chính trên thế giới và lạm phát.

Do tính phức tạp của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, Bắc Ninh

cần nỗ lực hơn để giải quyết tốt những vấn đề còn tồn tại và phát huy lợi thế

so sánh của tỉnh, phấn đấu hoàn thành mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp

76

vào năm 2015.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở BẮC NINH

TRONG NHỮNG NĂM TỚI

3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế ở Bắc Ninh

3.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế

3.1.1.1. Bối cảnh quốc tế

Hội nhập tạo cho thị trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Bắc

Ninh ngày càng được mở rộng hơn về quy mô, phong phú hơn về chủng loại,

nhạy cảm hơn về giá cả.

Thị trường hàng nông sản: Triển vọng thị trường xuất khẩu của các loại

hàng nông sản là tương đối sáng sủa bởi nhu cầu ngày càng tăng trên thị

trường thế giới (tuy tốc độ tăng không lớn). Ngoài thị trường truyền thống,

các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, các nước công nghiệp mới Châu Á đang có xu

hướng sử dụng ngày càng nhiều các sản phẩm nông sản của Việt Nam, do vậy

có thể khẳng định rằng quy mô thị trường các mặt hàng nông sản là lớn. Vấn

đề là ở chỗ giá cả xuất khẩu của các mặt hàng này thường không ổn định, do

vậy cần có các chính sách để có thể khắc phục các thiệt hại do sự biến động

của giá quốc tế gây ra. Để xâm nhập cần cải tiến kỹ thuật canh tác, cải tiến

giống cây trồng, vật nuôi, hướng tới thị hiếu tiêu dùng, sử dụng công nghệ

mới trong chế biến...

Thị trường hàng công nghiệp: Triển vọng thị trường hàng công nghiệp

sẽ vô cùng lớn về quy mô, vô cùng đa dạng về chủng loại. Nhưng đây cũng là

khu vực thị trường cạnh tranh rất gay gắt và với trình độ hiện nay rất nhiều

sản phẩm công nghiệp của Việt Nam nói chung và Bắc Ninh nói riêng khó

77

cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để thâm nhập được, Bắc Ninh cần khuyến

khích các công ty tìm kiếm các đồng minh chiến lược với công nghệ, kỹ năng

quản lý và tên nhãn hiệu mang tính toàn cầu. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất về

hàng công nghiệp là Trung Quốc.

Thị trường các sản phẩm dịch vụ: Là khu vực thị trường rất rộng lớn,

đa dạng nhưng cũng rất khó cạnh tranh trong tương lai. Bắc Ninh chỉ nên lựa

chọn một số dịch vụ quan trọng, có lợi thế. Trong những năm trước mắt nên

lựa chọn dịch vụ du lịch văn hóa, du lịch làng nghề, du lịch sinh thái, thương

mại, các dịch vụ khác phục vụ các đô thị lớn trong tỉnh và Hà Nội.

Hội nhập tạo cơ hội thuận lợi hơn cho việc nhập nguyên liệu, vật tư,

máy móc nhập khẩu của các doanh nghiệp Bắc Ninh.

Các doanh nghiệp sản xuất trong nước nhờ hội nhập có thể được hưởng

lợi thế hơn trong việc nhập khẩu vật tư nguyên liệu, máy móc, thiết bị phục

vụ sản xuất. Điều này góp phần làm giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm,

do vậy khả năng cạnh tranh của các sản phẩm sẽ có điều kiện để được nâng

cao hơn. Tuy nhiên, xu thế này tác động không lớn lắm đối với các ngành

công nghiệp của Bắc Ninh. Thực tế là, chi phí nguyên nhiên vật liệu cho các

nhóm sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp của cả nước nói chung,

Bắc Ninh nói riêng (dệt, may, da giầy, sản phẩm cơ khí, hàng điện tử...) đều

có tỷ lệ giá trị nguyên liệu trong giá thành sản phẩm trên 60% và phần lớn

nguồn nguyên liệu này lại không phải do sản xuất trong nước cung cấp mà do

nhập khẩu.

Tuy nhiên, hội nhập làm cho hàng hoá, dịch vụ của Bắc Ninh sẽ phải

đối mặt với nguy cơ cạnh tranh gay gắt hơn, khốc liệt hơn ngay cả trên thị

trường nội địa.

Do tác động của hội nhập hầu hết các mặt hàng trong nước sẽ phải đối

78

mặt với nguy cơ cạnh tranh lớn hơn do một số nguyên nhân sau:

Trong khi khả năng cạnh tranh của một số hàng công nghiệp sản xuất

trong nước còn yếu (về giá cả, chất lượng, hình thức mẫu mã) do quy mô sản

xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, tổ chức quản lý còn kém, năng suất lao động

thấp thì việc giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0-5%, có nghĩa là giá hàng

công nghiệp nhập khẩu sẽ giảm và hàng công nghiệp trong nước sẽ phải đối

mặt với nguy cơ cạnh tranh lớn hơn.

Cơ cấu hàng công nghiệp xuất khẩu của Bắc Ninh chủ yếu là các mặt

hàng công nghiệp nhẹ tương đối giống các nước ASEAN, nhiều mặt hàng mà

công nghiệp Bắc Ninh sản xuất được thì các nước ASEAN cũng sản xuất

được nên dẫn đến sự cạnh tranh trực tiếp, gay gắt không những trên thị trường

Việt Nam, ASEAN mà cả thị trường ngoài ASEAN.

Khả năng tiếp cận thị trường và tạo lập nguồn vốn đầu tư của doanh

nghiệp Bắc Ninh còn hạn chế. Hiện nay còn nhiều doanh nghiệp thiếu một

chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn và ổn định, cũng như chưa đề ra một

kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường.

Hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý còn nhiều bất cập, đặc

biệt là các cơ quan quản lý còn chưa quan tâm đúng mức đến việc hỗ trợ tháo

gỡ khó khăn giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.

3.1.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước.

Các thành tích đạt được của Việt nam sau 20 năm đổi mới đã thực sự

tạo ra thế và lực mới, xác lập được vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên

trường quốc tế. Trong đó, thành tựu về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có

vai trò rất to lớn đã tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống

nhân dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta.

Cơ cấu ngành kinh tế những năm qua đã chuyển dịch theo hướng tích

cực: Giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP, tăng tương ứng tỷ trọng

79

ngành công nghiệp và xây dựng. Năm 1990, cơ cấu ngành kinh tế là: Nông

nghiệp, lâm nghiệp- thuỷ sản: 38,74%; Công nghiệp-xây dựng: 22,67%; Dịch

vụ: 38,59%. Năm 2008 tỷ trọng tương ứng là: 22,10%; 39,73% và 38,17%.

Trong chuyển dịch cơ cấu ngành, ngành nông nghiệp bước đầu đã tạo ra được

hiệu quả trong gắn kết sản xuất với thị trường, áp dụng khoa học công nghệ

tiến tiến trong sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngành

công nghiệp có chiều hướng gia tăng các sản phẩm công nghệ chất xám, công

nghệ cao và coi trọng đổi mới công nghệ trong sản xuất. Ngành dịch vụ tuy có

chiều hướng giảm tỷ trọng trong GDP nhưng đã quan tâm phát triển các loại

hình dịch vụ cao cấp.

Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước cho chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế đã có sự điều chỉnh phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế-

xã hội. Đặc biệt, vốn đầu tư tập trung hơn cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng,

khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo và các vấn đề xã hội nhằm tạo nền tảng

cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thuận lợi.

Cải cách về cơ chế chính sách đang tiếp tục được tiến hành, tuy chưa

tạo ra được một cơ chế thị trường thực sự, song đã tạo ra nền tảng cho kinh tế

thị trường phát triển.

Tuy vậy, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam vẫn còn ở mức

thấp so với thế giới. Trong các sản phẩm của Việt Nam tỷ lệ nội địa hoá còn

rất thấp, vẫn phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. So với trình độ của một

nước công nghiệp thì trình độ kỹ thuật mỗi lao động của Việt nam vẫn còn

thấp kém, lao động phổ thông là phổ biến.

3.1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam trong

thời gian tới.

Đứng trước những thuận lợi, khó khăn và thử thách trong thời kỳ mới,

Đại hội Đảng X đã xác định: "Tiếp tục thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

80

theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá" và coi đây là nhiệm vụ trung tâm

có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Với phương châm hội nhập

trong xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, hướng chuyển dịch cơ

cấu ngành kinh tế của Việt Nam được xác định là phải có sự biến đổi về chất

và trình độ phát triển hơn hẳn so với hiện nay, tạo nền tảng để nước ta cơ bản

trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Theo đó, cơ cấu GDP sẽ có trạng

thái: các ngành phi nông nghiệp chiếm khoảng 85-88% tăng 0,4-0,6%/năm,

trong đó khu vực dịch vụ chiếm khoảng 42-45%. Tỉ trọng các ngành sản xuất

vật chất chiếm khoảng 63% trong tổng số GDP.

Từ các chỉ tiêu trên, hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt

Nam trong giai đoạn tới là:

- Ngành nông nghiệp, năm 2020 tỷ trọng chiếm khoảng 10% trong

GDP, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp 3-3,5%/năm.

- Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp bình quân trong 10

năm tới đạt khoảng 10 - 10,5%/năm. Đến năm 2020, công nghiệp và xây dựng

chiếm 40% GDP. Theo đó, sản phẩm chủ lực của cả nước đối với ngành công

nghiệp và xây dựng trong thời kỳ đến năm 2020 sẽ là khai thác và chế biến

các sản phẩm thế mạnh của đất nước như: dầu khí, điện, cơ khí chế tạo, vật

liệu, hoá chất, phân bón, lúa gạo, cao su, cà phê, thuỷ hải sản...

Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam phấn đấu đến năm 2015 có

đội ngũ cán bộ quản lý giỏi chuyên môn và công nhân lành nghề. Khoa học

công nghệ trở thành lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản

xuất kinh doanh, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường. Trong công

nghệ khai thác lộ thiên, phấn đấu đến năm 2015 đạt trình độ cơ giới hóa các

công đoạn sản xuất ngang tầm của khu vực và đến năm 2025 đạt trình độ thế

giới. Công nghệ thông tin được áp dụng phổ biến trong quản lý sản xuất kinh

doanh, quản trị tài nguyên ở những mỏ lớn. Tiến tới giảm tối đa lao động phổ

81

thông ở những mỏ nhỏ và vừa.

- Đặc biệt đối với ngành xây dựng, mục tiêu phấn đấu trong chiến lược

phát triển đến năm 2015 là tăng nhanh nguồn nhân lực về chất lượng và số

lượng; phấn đấu tách chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành xây dựng thành một chỉ

tiêu riêng biệt trong tổng sản phẩm quốc nội GDP, không để chung với giá trị

sản xuất công nghiệp và xây dựng; phấn đấu giá trị sản xuất của ngành đến

năm 2015 chiếm từ 12 - 15% GDP.

- Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ

tăng trưởng bình quân 7- 8%/năm và đến 2020 chiếm 50% GDP. Trong giai

đoạn tới năm 2020, phát triển ngành dịch vụ sẽ có một số lĩnh vực chủ lực: du

lịch, vận tải và đặc biệt là vận tải quốc tế, tài chính, y tế giáo dục và khoa học

công nghệ, thông tin.

3.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Ninh.

3.2.1. Các quan điểm phát triển

Tiếp tục phát triển Bắc Ninh với tốc độ nhanh nhưng phải bền vững,

hiệu quả và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại để phát huy các

lợi thế so sánh về vị trí địa lý kinh tế và NNL của tỉnh.

Nền kinh tế phải phát triển năng động, linh hoạt và hiệu quả phù hợp

với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh quốc tế.

Phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh đặt trong mối quan hệ và

sự hợp tác chặt chẽ với các tỉnh trong vùng KTTĐ Bắc Bộ và Đồng bằng sông

Hồng, đặc biệt là thủ đô Hà Nội.

Đảm bảo phát triển bền vững, phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với

phát triển xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội. Phát

triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái. Không làm tổn

hại và suy thoái cảnh quan thiên nhiên, các di tích văn hoá lịch sử.

Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng, củng

82

cố hệ thống chính trị và xây dựng nền hành chính vững mạnh, hiệu quả.

3.2.2. Các mục tiêu phát triển

3.2.2.1. Mục tiêu tổng quát

Nhanh chóng xây dựng Bắc Ninh đạt mục tiêu cơ bản trở thành tỉnh

công nghiệp vào năm 2015 với một hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội

tương đối hiện đại và đồng bộ gắn kết chặt chẽ với hệ thống hạ tầng của vùng

Thủ đô Hà Nội. Trở thành một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực

và y tế chất lượng cao của vùng. Văn hóa phát triển lành mạnh hiện đại và

đậm đà bản sắc dân tộc.

Hình thành không gian kinh tế thống nhất giữa đô thị hạt nhân với các

khu vực nông thôn bằng bộ khung kết cấu hạ tầng đồng bộ, rút thời gian đi từ

điểm xa nhất trong tỉnh đến trung tâm tỉnh lỵ xuống còn khoảng 30 phút.

3.2.2.2. Mục tiêu cụ thể

Về phát triển kinh tế.

- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010

đạt 15-16%; trong đó công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 18-21%/năm,

khu vực dịch vụ tăng khoảng 17-18%/năm. Thời kỳ 2011 - 2015 mức tăng

trưởng kinh tế 13%/năm, trong đó công nghiệp - xây dựng tăng bình quân trên

15%/năm, khu vực dịch vụ tăng bình quân 14-15%/năm.

- GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1300 USD.

- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế để đến năm 2010 tỷ trọng các ngành

nông - lâm - ngư nghiệp chiếm khoảng 15% ; năm 2015 xuống dưới 10% và

năm 2020 khoảng 5-6%. Công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 52-53% năm

2010 và khu vực dịch vụ chiếm khoảng 31-32%, đến năm 2015 các tỷ lệ

tương đương là : 56%, 35% ; năm 2020, công nghiệp vẫn đạt khoảng 57% và

dịch vụ đạt khoảng 37%.

- Tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh phấn đấu tăng bình quân

83

hàng năm trên 25%.

- Tăng nhanh đầu tư toàn xã hội, giải quyết tốt tích lũy và tiêu dùng, thu

hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài, thời kỳ 2006 - 2010 tổng vốn đầu tư xã

hội dự kiến đạt 38-40% GDP; 2011-2020 khoảng 42-45%.

- Phấn đấu thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2010 đạt 3200 tỷ đồng,

tăng bình quân 25%/năm đạt tỷ lệ thu ngân sách từ GDP là 20% năm 2020.

Về phát triển xã hội.

- Nâng cao chất lượng nguồn lao động, giải quyết việc làm; giảm tỷ lệ

thất nghiệp thành thị từ 4,5% hiện nay xuống 4 - 4,2% và tỷ lệ thời gian sử

dụng lao động ở nông thôn khoảng 88 - 90% vào năm 2015.

- Giải quyết việc làm bình quân hàng năm khoảng 22-24 nghìn lao

động, chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm tỷ trọng lao

động trong khu vực nông nghiệp, đến năm 2010 lao động trong khu vực nông

nghiệp còn khoảng 40%.

- Phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục bậc

trung học, 100% các trường được kiên cố hoá; bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hoá truyền thống vật thể và phi vật thể ; Đẩy mạnh phong trào thể dục thể

thao quần chúng, thể thao thành tích cao.

- Đến năm 2015, tỷ lệ đô thị hoá ít nhất đạt khoảng 45-50%, tỷ lệ lao

động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 70%.

- Đến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 39-40%,

đến năm 2015 khoảng 50-60%. Đến năm 2010, có 80% lao động có việc làm

sau khi đào tạo. Đến năm 2010 giảm tỷ lệ nghèo còn dưới 1,5-2% (theo chuẩn

năm 2005).

- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đến năm 2010 giảm còn

khoảng 1,5%.

84

Về bảo vệ môi trường.

- Môi trường được giữ vững, không còn tình trạng ô nhiễm ở các làng

nghề. Đến năm 2010 khoảng 98% dân số được sử dụng nước sạch; thu gom

và xử lý 100% rác thải sinh hoạt; quản lý và xử lý 100% chất thải công nghiệp

nguy hại, chất thải y tế.

- Bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ

đa dạng sinh học, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn và

tôn tạo.

- Tăng cường giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức bảo vệ môi

trường.

- Tăng cường năng lực quản lý môi trường.

3.2.2.3. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Bảng 3.1: Dự kiến chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến năm 2015

Đơn vị: %

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

Chỉ tiêu

2015

2020

2015

2020 2015

2020

Cơ cấu GDP

(giá thực tế)

9

6

56

57

35

37

Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh - Định hướng phát triển kinh tế đến năm

2020

và 2020 của tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là một tỉnh đất chật, người đông, diện tích đất canh tác bình quân đầu người chỉ 500,1 m2 (năm 2000), thấp hơn cả bình quân cả nước (869m2) tương đương với bình quân đồng bằng sông Hồng. Nông nghiệp hiện

nay vẫn là ngành sản xuất chính của tỉnh, mặc dù chưa phát triển hết tiềm

năng hiện có về năng suất cây trồng vật nuôi nhưng cũng góp phần giải quyết

85

một cách cơ bản vấn đề lương thực cho tỉnh. Hiện nay, ngành nông - lâm

nghiệp chiếm một tỷ trọng 15,3% trong GDP, thu hút khoảng 50,26% lao

động tỉnh, nhưng năng suất lao động nông nghiệp vẫn còn thấp.

Trong những năm tới cần chuyển dịch mạnh cơ cấu ngành kinh tế trên

địa bàn tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng nông

nghiệp giảm nhưng giá trị tuyệt đối của nông nghiệp vẫn tăng lên đáng kể. Cụ

thể như sau:

- Ngành nông nghiệp: Dựa trên cơ sở chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu trong

nội bộ ngành, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, đẩy mạnh chăn nuôi,

đưa các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào trồng trọt và chăn nuôi,

chuyển một số diện tích đất ở những nơi có điều kiện gần thị trường sang

trồng rau, cây trái và trồng hoa. Từ nay đến 2015, tập trung phát triển các sản

phẩm chủ lực như hoa-cây cảnh, cây lương thực, cây thực phẩm, cây khoai

tây, rau màu, đậu tương, lạc. Trong đó tăng diện tích trồng hoa - cây cảnh

theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, dự kiến khoảng 600 ha vào năm

2010.

Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đi sâu thâm canh

tăng năng suất cây trồng và vật nuôi. Phấn đấu đạt lương thực đầu người (cây

có hạt) khoảng 506 kg năm 2010. Từ đó nâng cao giá trị sản xuất ngành trồng

trọt trên một ha đất canh tác, đạt khoảng 34 triệu đồng vào năm 2010 (theo

giá so sánh 1994). Tăng tỷ suất hàng hoá lên khoảng 40% vào năm 2010 và

55% vào năm 2015.

Tập trung phát triển chăn nuôi bò thịt, lợn hướng nạc, chăn nuôi gia

cầm. Cải tạo đàn lợn nái ngoại, đưa tỷ lệ đàn lợn hướng nạc ngoại lên 50-60%

tổng đàn lợn thịt vào năm 2010 và những năm sau đó đạt khoảng 75-80%.

Phát triển nhanh đàn gia cầm với tỷ lệ tăng trưởng quy mô bình quân đạt 9-

10%/năm. Tiếp tục phát triển đàn bò lai sind, đưa cơ cấu tăng lên 85% vào

86

năm 2010.

Bảo vệ rừng trồng hiện có, trồng mới rừng để phủ xanh diện tích đất

trống còn lại góp phần cải thiện môi trường sinh thái, tăng khả năng phòng hộ

của rừng và tạo cảnh quan để phát triển du lịch. Dự kiến giai đoạn 2011-2015

trồng 12-13 triệu cây phân tán.

Tăng sản lượng cá tôm với chất lượng cao gấp 2-3 lần hiện nay do nhu

cầu tiêu dùng thuỷ sản tăng lên. Mở rộng các mô hình thâm canh cá theo kiểu

công nghiệp và kỹ thuật cao để giá trị sản xuất đạt từ 100-150 triệu đồng/ha.

Đưa diện tích nuôi thả cá kết hợp chăn nuôi của Bắc Ninh lên khoảng 6,5

nghìn ha.

Phát triển các loại hình dịch vụ nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu ngày

càng gia tăng của ngành nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng

hoá.

- Ngành công nghiệp - xây dựng: Phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng

kinh tế công nghiệp cao đạt nhịp độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân

hàng năm thời kỳ 2011-2015 khoảng 16-17% và 15-16% vào 2016-2020. Ưu

tiên phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp bổ trợ, cơ khí

chế tạo, đồng thời phát triển mạnh nhóm ngành có lợi thế về nguồn nguyên

liệu địa phương, có khả năng thu hồi vốn nhanh, có cơ hội chọn đối tác đầu tư

bên ngoài. Từng bước mở rộng phạm vi công nghiệp chế biến để tăng nhanh

giá trị đồng thời phục vụ nhu cầu các đô thị, các khu công nghiệp và xuất

khẩu. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu

tại chỗ, nhất là nguyên liệu từ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, các ngành nghề

truyền thống như gốm mỹ nghệ, chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp

dệt, may mặc và da giầy.

Tiếp tục quy hoạch mở rộng 2 KCN tập trung Tiên Sơn và Quế Võ, quy

hoạch xây dựng mới thêm 4 KCN. Đến 2010 dự kiến diện tích đất sử dụng

87

cho KCN tập trung đạt đến 1.900 ha. Quy hoạch mở rộng và quy hoạch mới

các KCN làng nghề và cụm công nghiệp để đến năm 2010 trên địa bàn tỉnh có

gần 39 khu với tổng diện tích 715 ha tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp

vừa và nhỏ của địa phương đầu tư phát triển, giải quyết việc làm phần lớn cho

người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, nâng cao thu

nhập cho người dân.

- Ngành dịch vụ: Phát triển du lịch với sản phẩm chủ đạo là du lịch văn

hoá. Phấn đấu đạt nhịp độ gia tăng hàng năm cho giai đoạn 2011-2015 là 15-

16%, với doanh thu ước đạt 1000 tỷ đồng vào năm 2015. Bên cạnh đó, tập

trung phát triển mạnh các loại hình dịch vụ như cải tiến kỹ thuật, dịch vụ pháp

luật, dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, dịch vụ văn hoá-vui chơi nghỉ

cuối tuần. Phát huy vị thế liền kề Hà Nội, có thể phát triển mạnh các loại dịch

vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, thương mại và dịch vụ khoa học

công nghệ, dịch vụ vận tải, dịch vụ nhà ở, nhà nghỉ. Tiếp tục nâng cao chất

lượng hoạt động dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, đô thị hoá và đời sống,

góp phần đóng góp cao hơn vào tăng trưởng GDP của tỉnh.

3.3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh

tế ở Bắc Ninh

3.3.1. Các giải pháp vĩ mô thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Giải pháp về quy hoạch không gian kinh tế - xã hội

* Quy hoạch vùng sản xuất hàng nông sản gắn với đầu tư cơ sở hạ tầng

phục vụ sản xuất.

Để thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp, trong đó đặc biệt chú

trọng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, cần quy hoạch ngành chăn nuôi tách

khỏi khu dân cư, hình thành các trang trại chăn nuôi tạo thành vùng sản xuất

tập trung, thuận lợi cho việc quản lý và phòng trừ dịch bệnh.

Tiếp tục thực hiện công tác “dồn điền đổi thửa”, chuyển khoảng 700 ha

88

diện tích lúa vùng trũng còn lại sang phát triển mô hình VAC và AC, phát

triển kinh tế trang trại và tạo thành vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung với quy

mô lớn. Hiện nay, đã có nhiều hộ nông dân thực hiện theo cách này để phát

triển sản xuất. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy nhìn chung mô hình

VAC chưa phát huy được hết hiệu quả do thiếu vốn ban đầu. Vì vậy, giải

quyết vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân là một vấn đề quan trọng cần

được quan tâm của các cấp lãnh đạo tỉnh và Nhà nước.

- Quy hoạch sản xuất nông nghiệp ven đô được ứng dụng công nghệ

cao: sản xuất rau sạch, xây dựng mô hình sản xuất và bảo quản hoa công nghệ

cao có triển vọng xuất khẩu, trước tiên cung cấp cho nhu cầu trong tỉnh và

một phần cho thủ đô Hà Nội.

- Quy hoạch các vùng cây thực phẩm, cây công nghiệp có giá trị kinh tế

cao trên địa bàn các huyện, thị xã như: cây rau, cà chua, khoai tây, ớt,… trong

đó tập trung phát triển cây vụ đông.

* Phát triển các khu công nghiệp, cụm làng nghề và đa dạng hoá các

hình thức kinh doanh

Bắc Ninh xưa và nay vốn là vùng có nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng

như: Làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, làng đúc đồng Đại Bái, làng

rèn Đa Hội, làng dệt Lũng Giang, Hồi Quan, sơn mài Đình Bảng, chạm khắc

Đồng Kỵ, làng nghề tre trúc Xuân Lai,… Ngày nay, nhiều làng nghề đã bị

mai một vì nhiều lý do khác nhau, do đó tỉnh đã quan tâm tới việc quy hoạch,

xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề tập trung để phát triển kinh tế địa

phương và du lịch. Quy hoạch mở rộng mới các khu công nghiệp làng nghề,

để đến năm 2010 trên địa bàn tỉnh cần có 39 khu cụm công nghiệp làng nghề,

cụm công nghiệp vừa và nhỏ với tổng diện tích 715 ha tạo điều kiện thu hút

các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương đầu tư phát triển. Như vậy, các

89

cụm làng nghề sẽ có cơ hội tăng thêm nguồn vốn để đổi mới kỹ thuật và thiết

bị, có thể đa dạng hoá sản phẩm sản xuất và hình thức kinh doanh để cạnh

tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Hơn nữa, do quỹ đất nông nghiệp bị thu hẹp để phát triển công nghiệp,

lao động trong nông nghiệp không có việc làm sẽ chuyển dần sang các làng

nghề, tạo sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.

* Quy hoạch không gian văn hoá, du lịch

Bắc Ninh nổi tiếng với những loại hình du lịch tiêu biểu như: du lịch

văn hoá, lễ hội; du lịch thể thao; du lịch làng quan họ; du lịch tín ngưỡng dân

gian.

Để phát triển ngành du lịch Bắc Ninh, cần đầu tư phát triển thành các

cụm du lịch có quy mô để thu hút khách trong nước và quốc tế.

- Hình thành các cụm du lịch ở những nơi có thế mạnh về sản phẩm du

lịch như: cụm du lịch Trung tâm thành phố Bắc Ninh; cụm du lịch Lim, Phật

Tích; cụm du lịch Thuận Thành; cụm du lịch Đền Đô, Đình Bảng,…

- Với địa thế giáp thủ đô Hà Nội, việc phát triển các khu nghỉ dưỡng và

khu du lịch sinh thái cũng là một ưu thế. Tuy nhiên, ở Bắc Ninh hiện nay, loại

hình du lịch này chưa phát triển mạnh như các tỉnh khác (ví dụ như tỉnh Vĩnh

Phúc).

Giải pháp về vốn

Nhu cầu về vốn đầu tư cho cả giai đoạn 2006-2020 ước tính khoảng

148.313 tỷ đồng. Bao gồm:

- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn ODA),

trong đó cả từ ngân sách địa phương và ngân sách tỉnh dành chủ yếu cho phát

triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Dự kiến vốn đầu tư từ ngân sách sẽ đáp

ứng được khoảng 25-30% nhu cầu vốn đầu tư.

- Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp và dân: ước tính khoảng 40-

90

45% trong cơ cấu vốn đầu tư.

- Vốn tín dụng và liên doanh, liên kết với các địa phương ngoài thành

phố (kể cả đầu tư nước ngoài): dự kiến sẽ đáp ứng được khoảng 25-30% tổng

nhu cầu vốn đầu tư.

Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế nông thôn luôn

trong tình trạng rất thiếu, kể cả vốn đầu tư ban đầu cũng như vốn hoạt động

thường xuyên sau này. Tuy nhiên, để cải thiện được nhu cầu về vốn, cần phối

hợp từ phía Nhà nước với các chính sách cụ thể để tác động làm tăng nguồn

vốn cho hoạt động kinh tế - xã hội của tỉnh.

* Giải pháp huy động vốn

Vốn đầu tư vào sản xuất được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Về

quan điểm, cần xác định nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước

ngoài là rất quan trọng. Phải huy động tối đa nguồn lực của địa phương và thu

hút vốn trong nước, nhất là của Hà Nội và các tỉnh lân cận; đồng thời tạo mọi

điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng nhiều hình thức

khác nhau.

Huy động nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ trung ương, vốn tín dụng ưu

đãi, vốn vay nước ngoài trả chậm hoặc thuê tài chính, vốn đầu tư trực tiếp

FDI, ODA,…) và sử dụng có hiệu quả, xử lý đồng bộ các nguồn vốn trung

hạn và dài hạn để đảm bảo sản xuất ổn định và phát triển. Huy động vốn

không chỉ trên địa bàn tỉnh mà còn thu hút trong vùng và cả nước, nhất là vốn

trong dân cư hiện nay đang được đánh giá là còn khá lớn mà tỉnh chưa khai

thác được. Cần phải có chính sách tín dụng hợp lý để đảm bảo kết hợp hài hoà

lợi ích giữa người có vốn và các doanh nghiệp có thể vay để phát triển sản

xuất.

* Giải pháp sử dụng vốn

- Đầu tư tập trung, có trọng điểm, tránh dàn trải, đề cao tính hiệu quả

91

trong đầu tư. Nâng cao tính cạnh tranh và tính trung thực trong công tác đấu

thầu; tăng cường công tác quản lý nhà nước để chống thất thoát trong đầu tư,

kiểm tra, giám sát, giám định chất lượng các công trình xây dựng để tránh nợ

xấu trong XDCB.

- Huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển, đẩy mạnh công tác đấu

giá quyền sử dụng đất, tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đẩy

mạnh các hoạt động thu hút đầu tư, tháo gỡ khó khăn. Hỗ trợ đầu tư cho dự án

được cấp phép, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa trong thủ tục hành chính về

đăng ký kinh doanh, thuê đất, vay vốn để các dự án nhanh đi vào sản xuất.

- Ưu tiên có trọng điểm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là các

khu đô thị, các khu, cụm công nghiệp và các tuyến giao thông quan trọng.

- Ưu tiên các dự án có khả năng khai thác sớm và có hiệu quả; các

chương trình, dự án phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Phát triển

nguồn điện, hiện đại hoá mạng lưới phân phối điện, đảm bảo đủ nhu cầu cung

cấp cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các tuyến

giao thông, quốc lộ, các tuyến đường nội thị của tỉnh.

Giải pháp về nguồn nhân lực

+ Đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm đạt qui mô

cơ cấu dân số hợp lý.

+ Không ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân

lực theo hướng trọng tâm là nâng cao dân trí, mở rộng đào tạo và nâng cao kỹ

năng nghề nghiệp của người lao động, hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực, tăng

tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động (>45% năm 2010

và >60% năm 2020).

+ Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ

92

trọng và số lượng lao động nông nghiệp, tăng cả số lượng và tỷ trọng lao

động phi nông nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Năm 2010 cơ

cấu lao động theo 3 nhóm ngành lớn tương đương với mức trung bình của

Đồng bằng sông Hồng (Công nghiệp-xây dựng: 25%; Nông nghiệp: 45% và

Dịch vụ: 30% - 2010); năm 2015 đạt tương đương với vùng KTTĐ Bắc Bộ

vào năm 2010 (30%; 40% và 30%); năm 2020 tương ứng là 33%; 30%; 37%.

+ Tạo việc làm có chất lượng, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở

nông thôn (>80% năm 2010 và >90% năm 2020), duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở

mức an toàn (4%), tăng thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo

(giảm hơn 2/3 tỷ lệ hộ nghèo) theo chuẩn tương ứng trong từng thời kỳ.

Để thực hiện những điều trên, cần thực hiện phổ cập giáo dục cho

người dân; phổ biến rộng rãi công tác kế hoạch hoá gia đình đến làng, xã,

thôn, xóm bằng nhiều hình thức như cử cán bộ đi tuyên truyền hoặc sử dụng

các phương tiện thông tin đại chúng.

- Tăng cường công tác phổ biến kiến thức, kỹ năng về sản xuất kinh

doanh và công nghệ cho nhân dân. Kết hợp các chương trình giáo dục hướng

nghiệp trong giáo dục phổ thông, với các phương tiện truyền thông, các loại

sản phẩm thích hợp với điều kiện nông thôn.

- Đào tạo lại đội ngũ cán bộ sao cho đáp ứng được công việc thực tế.

Cần chọn thời gian thích hợp để cử cán bộ đi học để tránh trường hợp công

việc quá nhiều cần có người giải quyết nhưng không có người làm.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu công

việc thực tế.

- Tăng cường cơ sở vật chất cho trường học, đào tạo và nâng cao trình

độ đội ngũ giáo viên.

- Có chính sách khuyến khích, trọng dụng nhân tài để tuyển chọn được

những người xuất sắc, thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao từ Hà Nội

93

vào những lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau của tỉnh. Đặc biệt, thực hiện

chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những người có trình độ, nhất là sinh viên

của tỉnh vừa tốt nghiệp từ các trường đại học. Họ chính là những con người

đầy nhiệt huyết muốn cống hiến sức mình để xây dựng quê hương.

Giải pháp về công nghệ và môi trường

* Đổi mới kỹ thuật và công nghệ cho sản xuất kinh doanh của tỉnh

Đây là một trong những giải pháp rất quan trọng vừa có tác động trực

tiếp, trước mắt, vừa có tác động gián tiếp, lâu dài tới sự phát triển kinh tế của

tỉnh. Bao gồm các phương hướng sau:

- Đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, tạo bước đột phá về năng

suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá.

+ Coi trọng việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong công nghệ chế biến

và công nghệ sản xuất vật liệu mới.

+ Giải quyết căn bản được các vấn đề về giống, cây trồng, vật nuôi có

năng suất, chất lượng cao và có giá trị hàng hoá xuất khẩu mà Bắc Ninh có lợi

thế.

+ Tập trung xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm.

+ Xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh.

+ Đào tạo lại đội ngũ lao động làm công tác khoa học công nghệ trong

các lĩnh vực công nghệ, quản trị, kinh doanh, bảo vệ môi trường.

+ Đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý

khoa học công nghệ đáp ứng kịp thời công tác nghiên cứu triển khai và điều

tra cơ bản.

Các đơn vị kinh doanh trên địa bàn tỉnh cần nhận thức rõ về sự cần

thiết và nhu cầu đổi mới công nghệ của đơn vị mình. Từ đó, nghiên cứu, hoàn

thiện trên cả các mặt sản phẩm, phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị và

94

chủ động triển khai các chiến lược khoa học - công nghệ.

- Chiến lược đổi mới công nghệ cần phải được thực hiện có trọng điểm,

đầu tư một cách có chọn lọc kết hợp với việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức

hiểu biết về kỹ thuật và công nghệ liên quan tới sản xuất của từng đơn vị.

Tăng cường công tác tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, hướng dẫn

họ áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới vào sản xuất.

- Bên cạnh đó, kết hợp với các đơn vị khác bằng cách liên kết kinh tế,

hợp tác kinh doanh cũng là một vấn đề quan trọng giúp nâng cao năng lực

công nghệ nội sinh của đơn vị.

- Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật

để thay đổi mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm chiếm được thị

phần lớn trên thị trường.

- Các cơ quan có thẩm quyền thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm

soát để bảo vệ sản phẩm của tỉnh, chống lại hàng nhái, hàng giả kém chất

lượng.

* Về bảo vệ môi trường

Ngày nay, trên phạm vi toàn cầu, vấn đề phát triển kinh tế đi đôi với

bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia. Nhìn chung, ở

nước ta vấn đề môi trường ô nhiễm nghiêm trọng hơn các nước khác. Đó là

cái giá phải trả của các nước đang phát triển với việc phát triển mạnh mẽ các

khu công nghiệp, sử dụng trang thiết bị lạc hậu trong khi ý thức bảo vệ môi

trường của người dân chưa cao. Tuy nhiên, để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm

môi trường cần phải thực hiện biện pháp ngăn chặn và xử lý chất thải của quá

trình sản xuất.

- Đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, thay thế nguyên liệu và tái sử dụng

phế thải cũng là một biện pháp quan trọng để cải thiện điều kiện môi trường.

- Có biện pháp dứt khoát để giải quyết vấn đề xử lý chất thải công

95

nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bởi vì ở Bắc Ninh có rất nhiều làng nghề thủ công

truyền thống như sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, sản xuất giấy,…tập trung nhiều ở

khu vực huyện Từ Sơn và Tiên Du; các cụm công nghiệp lớn như khu công

nghiệp Tiên Sơn, Quế Võ,… Chất thải của những nơi sản xuất này đã và đang

ảnh hưởng xấu đến môi trường sống xung quanh, sức khoẻ của người dân và

gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc

cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trên địa bàn tỉnh cũng

cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Trong khi cả nước có 35,3%

số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung thì tỷ lệ này ở Bắc Ninh mới

chỉ là 13%. Một tình trạng chung là ở các thôn, làng một số ao hồ bị san lấp

nên thiếu chỗ chứa nước thải. Không ít địa phương mặc dù đã tổ chức thu

gom rác thải, nhưng không có bãi chứa hoặc không được xử lý đảm bảo vệ

sinh.

- Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện quy trình sản xuất kinh

doanh theo tiêu chuẩn ISO.

- Ban hành các chính sách và quy định về bảo vệ môi trường, thực hiện

nghiêm túc theo tiêu chuẩn quốc gia về bảo vệ môi trường và phát triển bền

vững.

Giải pháp về cải cách hành chính

- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính một cách triệt để, thông thoáng

tạo điều kiện tốt nhất cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển.

- Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị các cấp.

- Xây dựng và ban hành đầy đủ, kịp thời các quy chế; cơ chế, chính

sách đảm bảo phát huy dân chủ, sáng kiến, sáng tạo và làm cho hệ thống hoạt

động tốt đáp ứng được yêu cầu phát triển.

- Thực hiện tốt đề án 30 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính.

Nội dung cơ bản của đề án là: trong tháng 6 năm 2009, các tỉnh, thành phố

96

công bố thủ tục hành chính chung đang được thực hiện tại các cấp xã, cấp

huyện trên Internet, công khai phục vụ nhân dân (Theo Quyết định số 30/QĐ-

TTg ngày 10/1/2007 do Thủ tướng Chính phủ ban hành và Quyết định số

07/QĐ-TTg ngày 04/01/2008). Trên thực tế, các thủ tục hành chính còn rất

rườm rà, chồng chéo và tiêu cực, gây ảnh hưởng đến việc giao dịch của người

dân và ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế đất

nước. Vì vậy, thực hiện đề án 30 của Chính phủ để cải cách thủ tục hành

chính trên địa bàn tỉnh cũng như cả nước là vấn đề hết sức quan trọng. Để

thực hiện được điều đó, tỉnh cần thành lập tổ công tác thực hiện đề án 30,

phối hợp với các ban, ngành có liên quan và sự ủng hộ của nhân dân để nhanh

chóng đưa thủ tục hành chính trở nên đơn giản, dân chủ, chuyên nghiệp và có

hiệu quả cao.

Giải pháp về mở rộng thị trường

Hầu hết các quá trình nghiên cứu, các đề án phát triển công nghiệp nói

chung và công nghiệp nông thôn nói riêng cũng như các dự án xoá đói giảm

nghèo được tiến hành ở Việt Nam trong thời gian qua đều có chung một nhận

định rằng khó khăn lớn nhất để phát triển công nghiệp, trước hết là tiểu thủ

công nghiệp ở nông thôn chính là tìm ra được thị trường cho sản xuất kinh

doanh.[26, tr.294-295].

Để hình thành và mở rộng thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá cho

ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của tỉnh, cả Nhà nước lẫn các đơn

vị sản xuất kinh doanh công nghiệp nông thôn đều cần cộng tác, thực hiện

hàng loạt các biện pháp có quan hệ hữu cơ với nhau, đó là:

+ Nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong địa bàn

tỉnh. Cần có tác động để sản phẩm có giá thấp, chất lượng đảm bảo đáp ứng

phần đông bộ phận người tiêu dùng. Ngày nay, nền kinh tế phát triển, đời

sống nhân dân được cải thiện, do đó, người tiêu dùng có xu hướng ngày càng

97

khó tính hơn và có nhu cầu tiêu dùng những sản phẩm có hình thức mẫu mã

đẹp và chất lượng tốt. Tuy nhiên, thực tế tìm hiểu trên thị trường hiện nay thì

sản phẩm có giá thấp, chất lượng không cao nhưng lại chiếm thị phần nhiều

hơn. Ví dụ: Nhiều mặt hàng gia dụng của Trung Quốc có chất lượng kém

nhưng khi tràn ngập thị trường Việt Nam lại được nhiều người tiêu dùng lựa

chọn vì lý do giá rẻ hơn hàng trong nước sản xuất. Điều này chứng tỏ giá cả là

yếu tố rất quan trọng để các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường.

+ Về phía các doanh nghiệp, cần tìm hiểu kỹ nhu cầu của thị trường,

nghiên cứu để tìm ra biện pháp sản xuất những sản phẩm có tính cạnh tranh

cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng.

+ Khuyến khích và hỗ trợ bằng nhiều hình thức (cho vay vốn ưu đãi, hỗ

trợ kinh phí chuyển giao công nghệ,…) giúp các doanh nghiệp có thể đa dạng

hoá sản phẩm sản xuất của đơn vị mình.

- Tăng cường công tác thông tin xúc tiến thương mại, phát triển các

kênh thông tin nhằm giúp nông dân nắm bắt được kịp thời giá cả thị trường,

hiểu biết về thị trường trong nước và thế giới để bắt kịp với quá trình hội nhập

nền kinh tế thế giới.

- Phát triển mạnh hệ thống chợ nông thôn, nhất là hệ thống chợ đầu mối

tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Việc này sẽ giúp cho nông sản của tỉnh được

dễ dàng tiêu thụ với số lượng lớn đáp ứng khả năng sản xuất sản phẩm theo

quy mô lớn, tập trung.

- Tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm của các ngành sản xuất

trên địa bàn tỉnh. Trợ giúp kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ.

Thông qua đó, các đơn vị sản xuất có thể quảng cáo được sản phẩm của mình,

có mối quan hệ với khách hàng để dễ dàng hơn trong việc ký kết hợp đồng

tiêu thụ sản phẩm ngay từ đầu vụ sản xuất.

98

3.3.2. Giải pháp phát triển từng ngành.

Để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh theo

hướng CNH - HĐH cần tập trung vào các giải pháp sau:

3.3.2.1. Các giải pháp phát triển ngành nông - lâm nghiệp và thuỷ sản

Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả nông

nghiệp và kinh tế nông thôn để đến năm 2010 tỷ trọng giữa chăn nuôi, nuôi

trồng thuỷ sản chiếm tới 60% giá trị toàn ngành nông nghiệp theo mục tiêu

nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra.

Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả kinh tế,

từng bước đáp ứng tiêu dùng của thị trường trong nước và xuất khẩu.

Trong nông nghiệp, đẩy mạnh thâm canh cây lương thực chuyển dịch

theo hướng sản xuất hàng hóa, đưa các loại giống lúa, ngô có năng suất cao

thay thế giống cũ; hình thành và đầu tư thâm canh vùng sản xuất lúa tập

trung như vùng cây ăn quả, vùng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây lấy gỗ.

Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ mới vào sản xuất theo

hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, phục vụ khu công nghiệp và đô

thị.

Kinh tế nông thôn từng bước phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành

nghề, các dịch vụ sản xuất nông, lâm nghiệp ngày càng mở rộng và phát triển.

Chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây

ăn quả, cây công nghiệp nhằm tăng nguồn thu trên cùng đơn vị diện tích đất

nông nghiệp. Hiện nay, ở nhiều địa phương mô hình kinh tế trang trại phát

triển mạnh có hiệu quả đem lại nguồn thu lớn góp phần xóa đói giảm nghèo,

tạo việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, ở Bắc Ninh, mô hình kinh tế

trang trại cần được tiếp tục phát triển mạnh hơn. Việc đẩy mạnh công tác

“dồn điền đổi thửa” là nhân tố quan trọng tạo ra vùng sản xuất rộng lớn thích

hợp với mô hình này. Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình đầu tư mua máy móc,

99

áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh đã từng bước

tiếp cận với cơ chế thị trường, sản phẩm của họ có chỗ đứng trên thị trường

nước ngoài.

Đẩy mạnh chăn nuôi, đưa chăn nuôi thành ngành chính, áp dụng các

tiến bộ khoa học công nghệ để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội,

đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Bắc Ninh cho thấy

những năm qua ngành chăn nuôi của tỉnh có tốc độ phát triển nhanh và đang

tạo đà để trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Do đó, cần tiếp

tục khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng giống mới

để ngành chăn nuôi của tỉnh mang lại hiệu quả cao hơn.

3.3.2.2. Giải pháp phát triển ngành công nghiệp - xây dựng

Tập trung phát triển ngành công nghiệp - xây dựng được xác định là

giải pháp cơ bản, lâu dài với định hướng phát triển công nghiệp hài hoà với

nông nghiệp. Cụ thể là:

Xác định các ngành mũi nhọn, chuyên sâu để công nghiệp phát triển có

chiều sâu, thân thiện với môi trường. Đối với Bắc Ninh, trong thời gian tới, các

ngành công nghiệp mũi nhọn được ưu tiên phát triển là ngành công nghiệp

công nghệ cao, công nghiệp bổ trợ, cơ khí chế tạo, các ngành công nghiệp sử

dụng nguồn nguyên liệu chế biến tại chỗ nhất là nguyên liệu từ nông lâm

nghiệp, các ngành nghề truyền thống như gốm, mỹ nghệ, chế biến lương thực,

thực phẩm, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt may, da giầy.

Phát huy sức mạnh nội lực của tỉnh về điều kiện kinh tế và nguồn lực

con người, tập trung cao cho việc hỗ trợ cơ sỏ hạ tầng, nâng cao trình độ kỹ

thuật và chuyên môn NNL để thúc đẩy các ngành mũi nhọn phát triển. Các

ngành mũi nhọn phải thực sự góp phần vào quá trình đẩy nhanh chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Các ngành này thực sự phải là trụ cột

100

của nền kinh tế, đáp ứng được quá trình sản xuất kinh doanh trong tiến trình

đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, Bắc Ninh cần phải học hỏi kinh

nghiệm của các quốc gia trên thế giới để mang lại hiệu quả cao trong quá

trình sản xuất.

Qui hoạch, phân bố hợp lí các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất, tiểu

thủ công nghiệp, làng nghề phục vụ sơ chế, tinh chế.

Xây dựng và nâng cấp các doanh nghiệp chế biến hiện có, phát triển

thêm một số nhà máy mới có công nghệ hiện đại gắn với qui hoạch vùng

nguyên liệu đạt tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm theo

tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế. Đẩy mạnh quy hoạch và mở rộng các khu

vực công nghiệp, các điểm công nghiệp trọng điểm của tỉnh các làng nghề

gắn với thị trường trong tỉnh và xuất khẩu. Đối với các làng nghề truyền

thống có lịch sử lâu đời như Gốm (Phù Lãng), đúc đồng (Đại Bái), gỗ (Đồng

Kỵ), tranh (Đông Hồ),… cần kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để phát

huy hiệu quả các tiềm năng hiện có, đồng thời đẩy mạnh sản xuất và mở

mang các loại hình du lịch làng nghề truyền thống. Bắc Ninh có lợi thế về

điều kiện tự nhiên nên thích hợp phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa đa

dạng, hình thành các vùng chuyên canh các sản phẩm nông nghiệp tạo điều

kiện phát triển công nghiệp chế biến nhằm khai thác nguồn nguyên liệu sẵn

có. Qui hoạch và xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung trên toàn tỉnh.

Thực hiện liên kết sản xuất giữa nông dân, nhà khoa học và doanh nghiệp để

nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.

Đầu tư phát triển cơ sở chế tạo phục vụ công nghiệp chế biến. Đầu tư

để có một ngành cơ khí đủ mạnh đảm bảo chủ động về trang thiết bị cho lắp

đặt và sửa chữa phục vụ ngành công nghiệp chế biến. Tổ chức các lực lượng

cơ khí chế tạo theo nguyên tắc chuyên môn hóa, hợp tác hóa, liên doanh hợp

tác với nước ngoài để từng bước chủ động sản xuất từng phần đến chế tạo

101

hoàn chỉnh các dây chuyền thiết bị cho ngành chế biến. Mỗi nhà máy chế biến

phải có xưởng cơ khí để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thường xuyên, định

kì.

Phát triển các ngành dịch vụ công nghiệp nhằm phục vụ nông, lâm

nghiệp, thủy sản xuất khẩu. Đây là ngành, lĩnh vực có tác dụng rất thiết thực

đối với nền kinh tế, nhất là phục vụ sản xuất và làm hàng xuất khẩu. Sự tác

động của nó vào các ngành khác tạo ra sản phẩm có chất lượng hơn, giá trị

hơn góp phần đẩy mạnh lưu thông hàng hóa, đem lại nguồn ngoại tệ cho đất

nước.

Vai trò của công nghiệp và nông nghiệp gắn bó với nhau thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Nền kinh tế phát triển

ngày càng cao thì vai trò của công nghiệp đối với sản xuất kinh doanh ngày

càng phải đạt trình độ cao hơn, công nghệ kỹ thuật phải vươn xa hơn. Công

nghiệp ứng dụng hiện nay ngày càng đi vào cuộc sống phục vụ sản xuất kinh

doanh đa dạng hơn.

Đẩy nhanh công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp để có sản phẩm

có giá trị cao, có thương hiệu trên thị trường trong nước và ngoài nước.

Trong nền kinh tế thị trường sản phẩm hàng hóa luôn được người tiêu

dùng tự quyền lựa chọn sản phẩm. Vì vậy, làm thế nào có được sản phẩm chất

lượng cao, mẫu mã đẹp, đáp ứng người tiêu dùng là mục tiêu vươn tới của các

nhà sản xuất. Việc đẩy nhanh công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp để

nâng cao chất lượng nông sản của tỉnh đã và đang là vấn đề bức xúc cần sớm

được giải quyết.

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là bước chuyển từ nhận thức phải

vươn lên để tự cứu mình, không còn dựa vào bao cấp từ phía Nhà nước. Nước

ta là thành viên của WTO, chúng ta không còn toàn quyền ban hành các quy

định trái với tinh thần của WTO, cho dù là bảo vệ lợi ích quốc gia. Đây là cơ

102

hội để các thành phần kinh tế vươn lên tự khẳng định mình trên thương

trường, với phương châm bình đẳng, tự tin phát huy thế mạnh của chính

mình. Sản phẩm của nông nghiệp của tỉnh muốn tiêu thụ nhanh thì phải coi

trọng khâu chế biến, đưa công nghiệp dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp. Để

làm tốt được việc này, chúng ta phải học tập kinh nghiệm của các địa phương

trong nước như Hưng Yên, Vĩnh Phúc và nước ngoài như Nhật Bản, Mỹ,

Đức, Anh…coi trọng khoa học kỹ thuật ứng dụng trong thực tiễn.

Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý ngành xây dựng

để nâng cao chất lượng công trình trong thời kỳ hội nhập, trong đó nhiệm vụ

trọng tâm xuyên suốt trong giai đoạn mới là nâng cao hiệu quả quản lý của

các cấp, các ngành. Tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách trong đầu tư xây

dựng công trình, quản lý và phát triển đô thị; chính sách phát triển hạ tầng kỹ

thuật đô thị, mô hình tổ chức của bộ máy quản lý đô thị ở các cấp và chính

sách thúc đẩy thị trường nhà ở, thị trường bất động sản phát triển.

Nâng cao năng lực và chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy

hoạch xây dựng kiến trúc. Hiện nay, Bắc Ninh là một địa bàn có diện tích nhà

ở bình quân thuộc hàng cao nhất cả nước (riêng khu vực đô thị, diện tích nhà ở bình quân đạt 22m2/người, trong khi bình quân ở đô thị cả nước là 11,5m2/người). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một nghịch lý là các khu nhà ở

hình thành nhưng chủ sở hữu lại thừa nhà ở, còn phần lớn người lao động thu

nhập thấp lại không thể mua nhà. Do đó việc đầu tư thương mại sẽ rất khó

khăn thu hút nhà đầu tư mặc dù nhà nước có chính sách ưu đãi. Việc phát

triển nhà ở xã hội còn thiếu chính sách về cơ chế đầu tư. Mặt khác, trong công

tác quản lý và phát triển nhà ở còn bộc lộ một số tồn tại.

Do đó, các công trình xây dựng và phát triển của Bắc Ninh phải dựa

trên cơ sở quy hoạch, bao gồm cả quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và

quy hoạch chuyên ngành. Các đồ án quy hoạch khi đó được phê duyệt cần

103

phải được công khai cho nhân dân biết và thực hiện, tạo cơ sở pháp lý để kêu

gọi đầu tư và làm tiền đề cho cho công tác quản lý và phát triển nhà ở. Mục

tiêu của Bắc Ninh là phát triển sản xuất nông nghiệp - nông thôn hài hoà với

phát triển công nghiệp. Để có sự ổn định về không gian, tập quán canh tác và

về nghề nghiệp, định hướng từ năm 2010 trở đi, Bắc Ninh sẽ giữ vững diện

tích sản xuất nông nghiệp 45.000 ha, chỉ dành 8.000 ha để phát triển công

nghiệp. Điều này đặt ra vấn đề Bắc Ninh phải thực hiện tốt công tác quản lý

quy hoạch xây dựng kiến trúc để thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư trong

nước và nước ngoài tham gia vào sự phát triển kinh tế của tỉnh.

3.3.2.3. Các giải pháp phát triển ngành dịch vụ

Tăng cường hoạt động của hệ thống dịch vụ và cơ sở hạ tầng phục vụ

sản xuất kinh doanh của tỉnh.

Qua phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Bắc

Ninh, tốc độ phát triển của ngành dịch vụ có chiều hướng giảm đi vào những

năm gần đây, tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP giảm và thay vào đó là sự

tăng lên của tỷ trọng ngành công nghiệp. Tuy nhiên, với trình độ phát triển

của nền kinh tế hiện nay, hệ thống dịch vụ cần phải được quan tâm phát triển,

vì sự phát triển của nó có tác dụng thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác.

Phát triển các loại hình dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu của nền kinh

tế trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong giai đoạn tới, cần ưu tiên phát triển các loại hình dịch vụ sau:

- Dịch vụ đào tạo và dạy nghề

- Dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn kinh doanh

- Dịch vụ khoa học - công nghệ và tư vấn chuyển giao công nghệ

- Dịch vụ thương mại

- Dịch vụ bảo hiểm

- Dịch vụ du lịch

104

- Dịch vụ tài chính ngân hàng

Phát triển dịch vụ đào tạo và dạy nghề bằng cách khuyến khích, đầu tư

và hỗ trợ xây dựng các trung tâm đào tạo và dạy nghề. Ưu tiên vay vốn để

mua sắm trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động của các trung tâm này. Qua đó,

nguồn nhân lực của tỉnh sẽ có cơ hội nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu phát

triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Phát triển các loại hình dịch vụ thương mại đáp ứng nhu cầu đa dạng

của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình dịch vụ có nhiều ngành

lĩnh vực khác nhau nhưng loại hình dịch vụ thương mại có vị trí rất quan

trọng. Dịch vụ thương mại đã và đang đóng góp lớn vào tỷ trọng của ngành

dịch vụ vào GDP của Bắc Ninh. Để tiếp tục phát triển, trong những năm tới

các dịch vụ thương mại của tỉnh phải quán triệt các hệ thống quan điểm:

- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu

hàng hoá để tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và quốc tế.

- Phát triển đồng bộ các loại hình dịch vụ phân phối bán buôn, bán lẻ và

nhượng quyền thương mại.

- Phát triển đồng bộ các hệ thống thị trường theo ngành hàng: vật tư,

nông sản thực phẩm, công nghiệp tiêu dùng.

- Phát triển hài hòa giữa các địa bàn thị trường thành thị và nông thôn

tạo ra sự cân đối và đạt hiệu quả cao.

Phát triển các loại hình dịch vụ du lịch để phát huy lợi thế của tỉnh,

tạo nguồn thu cho ngân sách, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nhân

dân.

Cần xác định loại hình dịch vụ du lịch là một ngành công nghiệp không

khói nhưng nguồn thu lại rất lớn. Phát huy lợi thế là tỉnh có tiềm năng lớn về

ngành du lịch, Bắc Ninh cần phát triển các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu

đa dạng của du khách nhằm tạo nguồn thu cho tỉnh. Ngành du lịch của tỉnh

105

cần phải chú trọng về chất lượng nhiều hơn. Từ các dịch vụ đưa đón khách

bằng các phương tiện tiện ích để tránh mất nhiều thời gian, đến việc hướng

dẫn khách, thông tin cho khách, giới thiệu điểm du lịch đòi hỏi có đội ngũ

nhân viên có trình độ ngoại ngữ thành thạo, giao tiếp nhiệt tình, khéo tiếp

khách qua các mời chào. Ngoài ra, các điểm du lịch nên có những hàng lưu

niệm mang tính độc đáo riêng để du khách có cảm tình gây dấu ấn cho chuyến

đi du lịch.

Phát triển các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng để tạo nguồn thu

ngoại tệ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn và đa dạng hoá các hình thức thanh

toán. Quá trình phát triển của nền kinh tế ngày càng khẳng định vai trò to lớn

của các dịch vụ tài chính ngân hàng. Các loại hình dịch vụ cung cấp vốn,

thanh toán luôn là vấn để rất nhạy cảm cần được coi trọng đúng mức và vận

dụng các bước đi cho phù hợp với bước phát triển của từng thời kỳ. Thực tế

sau khi Việt Nam vào WTO và qua Hội nghị APEC năm 2006 với chủ đề

“Hướng tới một cộng đồng năng động vì phát triển bền vững và thịnh vượng”

sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam, dịch vụ tài

chính ngân hàng là một nhu cầu thiết yếu. Đây cũng là cơ hội để ngành tài

chính, ngân hàng vươn lên đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong sự nghiệp

đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Đồng thời, sự

phát triển của các dịch vụ tài chính ngân hàng cũng là một yếu tố thu hút các

nhà đầu tư đến với Bắc Ninh.

Phát triển các hình thức dịch vụ bảo hiểm, nhất là bảo hiểm nông

nghiệp. Đây là một nghiệp vụ bảo hiểm phi nông nghiệp, có đối tượng bảo

hiểm là các rủi ro phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống

nông thôn, bao gồm những rủi ro gắn liền với cây trồng, vật nuôi, vật tư, hàng

hoá, nguyên vật liệu, nhà xưởng. Đồng thời, nó cũng là nghiệp vụ bảo hiểm

phi nhân thọ có đối tượng bảo hiểm giới hạn trong các rủi ro gắn liền với cây

106

trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, các

nhà bảo hiểm không mặn mà tham gia vào thị trường bảo hiểm nông nghiệp

do lĩnh vực này hoạt động phức tạp, rủi ro cao và khả năng sinh lợi thấp. Khi

người nông dân không tham gia bảo hiểm nông nghiệp, nếu có thiên tai, dịch

bệnh xảy ra thì họ phải đơn phương độc mã chống chọi với những khó khăn

ấy. Vì vậy đối với tỉnh Bắc Ninh, việc phát triển thị trường bảo hiểm nông

nghiệp là rất cần thiết. Các ngành, các cấp liên quan nên nhanh chóng xây

dựng cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo

hiểm nông nghiệp, giúp người dân và doanh nghiệp xích lại gần nhau hơn.

Cần nâng cao nhận thức cho người dân về tầm quan trọng của bản hiểm nông

nghiệp. Chẳng hạn như, khi người dân không trả được nợ do rủi ro, thiên tai,

dịch bệnh, công ty bảo hiểm sẽ bồi hoàn cho ngân hàng số tiền mà họ đã vay.

Do đó, việc tham gia bảo hiểm nông nghiệp sẽ giúp nông dân vay vốn ngân

hàng dễ dàng hơn để mở rộng sản xuất, thoát khỏi tập quán chăn nuôi nhỏ lẻ,

nâng cao mức thu nhập.

Trong quá trình đổi mới và thực hiện CNH - HĐH, chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế phải theo định hướng phát triển bền vững không chỉ vì mục tiêu

tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà phải vì mục tiêu phát triển kinh tế mà bao

trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có một bộ phận cấu

thành không thể thiếu là bảo vệ môi trường. Vì thế, các giải pháp thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có khả thi hay không còn cần phải hết sức

chú ý thực hiện tốt vấn đề môi trường. Tránh tình trạng vì lợi nhuận kinh tế

trước mắt dẫn đến phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái tự nhiên.

Kết luận chương 3

Bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến sự chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh. Trong bối cảnh đó, các quan điểm,

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được đưa ra nhằm định hướng cho chuyển

107

dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh trong những năm tới.

Từ những định hướng trên, luận văn đã đề xuất các giải pháp vĩ mô và

giải pháp phát triển từng ngành nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế của Bắc Ninh, tiến tới một cơ cấu ngành hợp lý hơn. Các giải pháp thể

hiện tính khả thi, cần thiết và có ý nghĩa đóng góp thiết thực đối với địa bàn

cụ thể của tỉnh. Cụ thể:

- Ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản cần tiếp tục phát triển theo hướng

sản xuất hàng hoá, thực hiện tốt mục tiêu đưa chăn nuôi trở thành ngành sản

xuất chính, ứng dụng kịp thời những tiến bộ khoa học để mang lại hiệu quả

cao hơn, phát triển các loại hình dịch vụ nông nghiệp để phục vụ nhu cầu của

sản xuất nông nghiệp.

- Ngành công nghiệp - xây dựng: Xác định những ngành mũi nhọn,

trọng tâm để đầu tư có trọng điểm, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến

nhằm tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường trong nước

và quốc tế. Ngành xây dựng phát triển với chất lượng cao để tạo ra tài sản cố

định và cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

- Phát triển các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế

và xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới. Đặc biệt là loại hình dịch vụ tài chính

108

ngân hàng, viễn thông, du lịch, thương mại, bảo hiểm.

KẾT LUẬN

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đối với mỗi vùng và địa phương

trong cả nước không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ phát

triển của nền kinh tế, nó lại có vai trò rất quan trọng. Nghiên cứu thực trạng

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh trong 12 năm qua, tác giả

đã thể hiện được cái mới và sự cần thiết của đề tài.

Qua quá trình nghiên cứu, có thể đi đến một số kết luận sau:

- Dựa trên cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và phân

loại cơ cấu ngành kinh tế theo tiêu chuẩn của Tổng cục Thống kê, luận văn đã

làm rõ các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

của tỉnh Bắc Ninh.

- Thông qua số liệu đã thống kê được, luận văn đi vào phân tích chuyển

dịch cơ cấu ngành và nội bộ từng ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh từ 1997-

2008. Qua đó có thể thấy kể từ khi tái lập tỉnh đến nay, cơ cấu ngành kinh tế

Bắc Ninh đã có những bước chuyển biến đáng kể, giữ vai trò to lớn trong việc

thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh đi lên. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn

ra chủ yếu ở hai ngành là nông, lâm nghiệp - thuỷ sản và công nghiệp - xây

dựng. Ngành dịch vụ tuy vẫn giữ ở mức ổn định nhưng tỷ trọng của ngành

này trong GDP còn thấp và tốc độ phát triển còn chậm. Như vậy sẽ không hợp

lý vì trong xu thế hội nhập nền kinh tế toàn cầu hiện nay, nước ta cũng như

các quốc gia trên thế giới đang chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng

tăng mạnh tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Vấn đề đặt ra

là: Bắc Ninh có thể tiến tới một cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH - HĐH

hay không trong điều kiện ngày càng khó khăn hơn bởi sự tác động của những

nhân tố chủ quan và khách quan?

Sau cùng, luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm

109

thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Bắc Ninh trong

những năm tới. Tác giả hi vọng rằng, những giải pháp đó sẽ góp phần nâng

cao hiệu quả hơn cho quá trình đổi mới nền kinh tế của tỉnh để bắt kịp với đà

110

phát triển chung của đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Song An, (1997), “Tổng quan về quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế và nông thôn Việt Nam”, Tạp chí phát triển kinh tế, (85), Tr.

12-15.

2. Nguyễn Bá Ân, (2005), “Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong cơ cấu

kinh tế Việt Nam qua gần 20 năm đổi mới”, Tạp chí kinh tế và dự

báo, (9), Tr.6-9-13.

3. Bắc Ninh Portal - www.bacninh.gov.vn

4. Các Mác và Ph. Ăng-ghen (1994), Toàn tập, tập 25, Phần 1, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

5. Các Mác, (1964), Góp phần phê phán kinh tế chính trị học, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

6. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh, (2001), Niên giám thống kê Bắc Ninh 2000,

Nxb thống kê.

7. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh, (2006), Niên giám thống kê Bắc Ninh 2005,

Nxb thống kê.

8. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh, (2008), Niên giám thống kê Bắc Ninh 2007,

Nxb thống kê.

9. Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh, số liệu ước tính năm 2008.

10. Trương Văn Diệu, (2005), “Bàn về cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”,

Tạp chí công nghiệp, (1-tháng 9), Tr.32-34.

11. Lê Phong Du, Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị Quốc

111

gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Ngô Đình Giao chủ biên, (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

17. Tạ Ngọc Giao (2006), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, vai trò và

cơ chế tác động của tài chính”, Tạp chí Tài chính, (4), Tr 17- 20.

18. Đinh Xuân Hạng (2005), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông

thôn”, Tạp chí Tài chính, (12), Tr 15-16.

19. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1996), Kinh tế học về tổ chức

và phát triển nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

20. Nguyễn Thanh Huyền (1997), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,

phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước”, Tạp chí Phát triển kinh tế, (83), Tr. 2-5.

21. Hưng Yên Portal - www.hungyen.gov.vn

22. Nguyễn Thị Bích Hường, (2005), Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt

Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

23. Đào Ngọc Lâm, (2005), “Cơ cấu ngành kinh tế: mục tiêu, tiến độ và cảnh

112

báo”, Tạp chí cộng sản, (16), Tr. 57-61.

24. Đỗ Hoài Nam, (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển

các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

25. Nxb Tiến bộ, Matxccơva, (1975), Từ điển triết học.

26. Nguyễn Văn Phúc, (2004), Công nghiệp nông thôn Việt Nam - Thực trạng

và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Trần Quế chủ biên, (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam

trong những năm đầu thế kỷ 21, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Vĩnh Phúc Portal - www.vinhphuc.gov.vn

29. Ngô Doãn Vịnh chủ biên (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

30. Ngô Doãn Vịnh chủ biên (2006), Những vấn đề chủ yếu về phát triển kinh

tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Nguyễn Thị Sinh, (1997), “Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ở nông thôn đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí giáo dục

lý luận, (2), Tr. 34-36.

32. Sở Kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh, (2009), Báo cáo tình hình thực hiện kế

hoạch năm 2008.

33. Nguyễn Hữu Thành, (2005), “Bắc Ninh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp giai đoạn 2001-2005”, Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông

thôn, (17), Tr. 8-12.

34. Nguyễn Thế Thảo, (2002), “Bắc Ninh và 5 giải pháp thực hiện công

nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn”, Tạp chí nông thôn

mới, (1+2), Tr. 64-65.

35. Nguyễn Thế Thảo, (2003), “Bắc Ninh: Thành tựu đột phá và triển vọng

113

đến năm 2010”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (8), Tr. 22-24.

36. Bùi Tất Thắng chủ biên, (1997), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Bùi Tất Thắng chủ biên, (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Bùi Tất Thắng (2003), “Kinh tế tri thức - Những cơ hội và thách thức mới

của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kì CNH, HĐH”,

Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (10), tháng 10.

39. Trần Đình Thiên, (1996), “Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế

giới, (4), Tr. 9-14.

40. Tổng cục thống kê - Cục thống kê Bắc Ninh, (2006), “Động thái kinh tế -

xã hội tỉnh Bắc Ninh 1997-2005”, Nxb Thống kê.

41. Nguyễn Ngọc Tú, (2006), “Cơ cấu ngành kinh tế: kết quả và mục tiêu

chuyển dịch đến năm 2010”, Tạp chí Tài chính, (7), Tr. 17-19.

42. Ngô Văn Tuệ, “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh từ 1986-

2005 và một số kiến nghị”, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh từ 1986-2005.

43. Trần Văn Túy chủ biên, (2008), Nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc

Ninh trên đường đổi mới, Nxb Thống kê.

44. Tatyna P. Soubboutina, (2005), Không chỉ là tăng trưởng, Nxb Văn hoá -

Thông tin, Hà Nội.

45. Nguyễn Hoàng Xanh, (2005), “Lối ra cho quá trình chuyển dịch cơ cấu

114

kinh tế ở khu vực nông thôn”, Tạp chí cộng sản, (11), Tr. 46-49-72.

115