BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------

MAI THỊ THU THẢO

ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP BAO DỮ LIỆU (DEA) ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả của quá trình

học tập, nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của tôi. Các số liệu trong luận

văn là trung thực, chính xác và được thu thập từ nguồn chính thống và đáng tin cậy.

Tôi cam đoan rằng luận văn này chưa được công bố trên bất kỳ một tài liệu

khoa học nào.

TP. Hồ Chí Minh, năm 2013 Tác giả

Mai Thị Thu Thảo

ii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN THEO

PHƯƠNG PHÁP DEA .............................................................................................. 3

1.1. Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần ............... 3

1.1.1. Ngân hàng thương mại.................................................................................. 3

1.1.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần .............................. 3

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

cổ phần ......................................................................................................... 5

1.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài ......................................................................... 5

1.1.3.2 .Các nhân tố bên trong ......................................................................... 7

1.2. Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần ..... 11

1.2.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

cổ phần ....................................................................................................... 11

1.2.1.1. Đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính .......................... 11

1.2.1.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên ....... 15

1.2.2. Đánh giá hiệu quả bằng cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số ............. 16

1.2.2.1. Giới thiệu tổng quát về phương pháp DEA ...................................... 16

1.2.2.2. Các cách tiếp cận đánh giá hiệu quả ............................................... 16

1.2.2.3. Các cách lựa chọn biến đầu vào và đầu ra trong phương pháp DEA20

1.2.3. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây .............................................................. 21

iii

1.2.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới đánh giá hiệu quả hoạt động của

ngân hàng bằng phương pháp DEA .................................................. 21

1.2.3.2. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng bằng

phương pháp DEA ở Việt Nam ......................................................... 23

1.3. Phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA ......................................................... 25

1.3.1. Mô hình DEACRS ...................................................................................... 25

1.3.2. Mô hình DEAVRS và hiệu quả quy mô ...................................................... 28

1.3.3 Chỉ số Malmquist và đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp ......... 30

Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 32

CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG MÔ HÌNH DEA ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ......................... 34

2.1. Thực trạng họat động của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn

2008 – 2011 ...................................................................................................... 34

2.1.1. Về năng lực tài chính ................................................................................ 36

2.1.1.1. Mức độ an toàn và khả năng huy động vốn, cho vay ...................... 37

2.1.1.2. Về chất lượng tài sản có .................................................................... 39

2.1.1.3. Về khả năng sinh lời ........................................................................ 40

2.1.1.4. Về tính thanh khoản .......................................................................... 41

2.1.2. Về năng lực công nghệ ........................................................................... 42

2.1.3. Về nguồn nhân lực .................................................................................... 43

2.1.4. Về năng lực quản trị ................................................................................. 45

2.2. Một số điểm mạnh và yếu của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ...... 46

2.2.1. Một số điểm mạnh ................................................................................ 46

2.2.2. Một số điểm yếu ................................................................................... 48

2.3. Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam 50

2.3.1. Giới thiệu mô hình nghiên cứu ................................................................... 50

2.3.2. Quy trình nghiên cứu cụ thể ....................................................................... 51

2.3.2.1. Chọn lựa DMU ................................................................................. 51

2.3.2.2. Lựa chọn biến đầu ra và đầu vào ...................................................... 52

iv

2.3.2.3. Mô hình DEA .................................................................................... 53

Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 55

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ GỢI Ý GIẢI PHÁP

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CỔ PHẦN VIỆT NAM ........................................................................................... 56

3.1. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................ 56

3.1.1. Hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình DEACRS và DEAVRS ......................... 56

3.1.2. Quy mô tổng tài sản và hiệu quả kỹ thuật .................................................. 59

3.1.3. Hiệu quả quy mô ........................................................................................ 61

3.1.4. Ước lượng năng suất nhân tố tổng hợp TFP ............................................... 62

3.2. Kết luận và gợi ý giải pháp ................................................................................ 64

3.2.1. Kết luận liên quan đến các mục tiêu nghiên cứu ........................................ 64

3.2.1.1 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ nhất ...................... 64

3.2.1.2 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ hai ........................ 65

3.2.2. Một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP

Việt Nam .................................................................................................... 66

3.2.2.1. Đối với các NHTMCP Việt Nam ...................................................... 66

3.2.2.2. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ............................................. 69

Kết luận Chương 3 .................................................................................................. 70

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CRS: Constant returns to scale - Sản lượng không đổi theo quy mô

DEA: Data envelopment analysis - Phân tích bao dữ liệu

DMU: Decision making unit- Đơn vị ra quyết định

DRS: Decreasing returns to scale - Sản lượng giảm theo quy mô

EPS: Earnings per share - Hệ số thu nhập trên cổ phiếu

effch: Technical efficiency change – Thay đổi hiệu quả kỹ thuật

IRS: Increasing returns to scale – Sản lượng tăng theo quy mô

NHTM: Ngân hàng thương mại

NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần

NIM: Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên

NM: Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên

PE: Pure technical efficiency – Hiệu quả kỹ thuật thuần

pech: Pure Technical efficiency change – Thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần

ROA: Return on assets - Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản

ROAA: Return on assets average - Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân

ROE: Return on equity - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

ROEA: Return on equity average - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân

SE: Scale efficiency – Hiệu quả quy mô

sech: Scale efficiency change - Thay đổi hiệu quả quy mô

TC: Technical change - thay đổi kỹ thuật

TCTD: Tổ chức tín dụng.

TE: Technical efficiency – Hiệu quả kỹ thuật

techch: Technological change – Thay đổi tiến bộ công nghệ

TFP: Total factor productivity - Năng suất nhân tố tổng hợp

tfpch: Total factor productivity change - Thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp

VRS: Variable returns to scale – Sản lượng thay đổi theo quy mô

vi

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1: Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011

Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu về năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam

giai đoạn 2008-2011

Bảng 2.3: Tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn

2008-2011

Bảng 2.4: Nợ quá hạn và nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng năm 2010-2011

Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về năng lực công nghệ của các NHTM Việt Nam qua các

năm

Bảng 2.6: Danh sách 15 NHTMCP nghiên cứu

Bảng 2.7: Tóm tắt dữ liệu của các biến trong mẫu nghiên cứu

Bảng 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô trung bình

của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011

Bảng 3.2: Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-

2011

Bảng 3.3: Số lượng các NHTMCP đạt hiệu quả tối ưu giai đoạn 2008 - 2011

Bảng 3.4: So sánh thứ tự xếp hạng theo quy mô tổng tài sản bình quân và hiệu quả

kỹ thuật bình quân giai đoạn 2008-2011

Bảng 3.5: Số lượng ngân hàng đang ở điều kiện DRS, IRS và CONS giai đoạn

2008-2011

Bảng 3.6: Chỉ số Malmquist bình quân toàn bộ mẫu giai đoạn 2008-2011

Bảng 3.7: Kết quả ước lượng effch, techch, pech, sech và tfpch trung bình cho 15

NHTMCP giai đoạn 2008-2011

vii

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Đồ thị 1.1: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu vào

Đồ thị 1.2: Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào

Đồ thị 1.3a: Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng thay đổi theo quy mô

Đồ thị 1.3b: Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô

Đồ thị 1.4: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu ra

Đồ thị 1.5: Mô hình DEA tối đa hóa đầu ra

Đồ thị 1.6: Đường biên CRS và VRS

Đồ thị 2.1: Tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2008-2011

Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả của ngân hàng

thương mại cổ phần

Đồ thị 2.2: Thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi trung bình của các NHTMCP

Đồ thị 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô của các

NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian quan trọng thực hiện chức

năng chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Những bước thăng trầm của ngành ngân

hàng gắn liền với những thăng trầm của nền kinh tế. Sự lớn mạnh của ngân hàng

được xem là thước đo đo lường sự tăng trưởng của nền kinh tế và được đánh giá

trên nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh doanh, đó chính là hiệu quả hoạt

động của ngân hàng.

Một ngân hàng kinh doanh có hiệu quả sẽ góp phần vào sự tăng trưởng của

nền kinh tế, gia tăng năng lực cạnh tranh, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính

Việt Nam đang phải chịu sức ép rất lớn từ quá trình hội nhập. Các ngân hàng Việt

Nam bị cạnh tranh gay gắt bỡi các trung gian tài chính phi ngân hàng và các ngân

hàng nước ngoài.

Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng cũng như trong bối

cảnh kinh tế toàn cầu và Việt Nam đang gặp khó khăn, việc đánh giá hiệu quả hoạt

động của các ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối

với các ngân hàng trong việc xem xét sử dụng các nguồn lực một cách tổng thể,

tăng cường năng lực cạnh tranh mà còn có ý nghĩa đối với các cơ quan quản lý Nhà

nước trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động tốt hơn. Chính vì

lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) đánh giá hiệu

quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” để nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Ước lượng và phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại

cổ phần Việt Nam.

- Phân tích thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp của các ngân hàng thương

mại cổ phần Việt Nam.

- Gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng

thương mại cổ phần Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

Do nguồn dữ liệu hạn chế, đề tài nghiên cứu hiệu quả hoạt động của 15 ngân

hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2008-2011 (không tính đến các ngân

hàng thương mại cổ phần Nhà nước) thông qua các biến số đầu vào và đầu ra.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là phương

pháp định tính kết hợp với định lượng bằng cách sử dụng phương pháp phân tích

bao dữ liệu để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần

Việt Nam.

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ

phần và mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần

theo phương pháp DEA.

Chương 2: Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng thương mại cổ phần.

Chương 3: Kết quả nghiên cứu và một số gợi ý giải pháp nâng cao hiệu quả

hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

3

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CỔ PHẦN THEO PHƯƠNG PHÁP DEA

1.1. Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ

phần

1.1.1. Ngân hàng thương mại

Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16/06/2010 định nghĩa: “Ngân hàng

thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và

các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi

nhuận”.

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh

tiền tệ và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, bao gồm: Huy động vốn, cấp

tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác như: dịch

vụ ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại

hối, quản lý tài sản, tư vấn tài chính…

Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt và tồn tại dưới nhiều

loại hình khác nhau như: Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại

liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần… Đề tài đề cập đến ngân hàng thương

mại cổ phần là các ngân hàng do cổ đông (tổ chức và cá nhân) góp vốn.

1.1.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần

Hiệu quả là một thuật ngữ thông dụng sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác

nhau như kinh tế, chính trị, xã hội… Trong lĩnh vực kinh tế, theo định nghĩa trong

tác phẩm “Từ điển kinh tế học” của tác giả Nguyễn Văn Ngọc: “Hiệu quả là mối

quan hệ giữa đầu vào nhân tố khan hiếm và sản lượng hàng hóa và dịch vụ” và

“khái niệm hiệu quả còn được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem thị trường phân

4

bổ nguồn lực tốt đến mức nào”.Vì các nhân tố đầu vào hay các nguồn lực là khan

hiếm nên việc phân bổ nguồn lực như thế nào là một vấn đề sống còn của bất kỳ

một quốc gia, tổ chức. Vì vậy, có thể hiểu hiệu quả là mức độ thành công mà các tổ

chức đạt được trong việc phân bổ các yếu tố đầu vào có thể sử dụng để sản xuất ra

các đầu ra nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Nguồn lực đầu vào của một doanh

nghiệp là các yếu tố đầu vào sản xuất như vốn, lao động, kỹ thuật.... Đầu ra là kết

quả kinh tế như sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận…

Như vậy, hiệu quả phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục

tiêu xác định. Nói cách khác, đó là khả năng biến các yếu tố đầu vào thành các đầu

ra trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó cho biết những lợi ích đạt

được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh kết quả kinh

tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

Trên phương diện khác, Farrell (1957) cho rằng hiệu quả của doanh nghiệp

gồm hai thành phần: hiệu quả kỹ thuật TE và hiệu quả phân bổ. Hiệu quả kỹ thuật

phản ánh khả năng doanh nghiệp đạt được đầu ra tối đa từ đầu vào cho trước (họặc

khả năng doanh nghiệp sử dụng đầu vào tối thiểu để đạt được các đầu ra cho trước).

Hiệu quả phân bổ phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào theo tỷ lệ

tối ưu với mức giá tương ứng của chúng đã biết. Hiệu quả mà đề tài tập trung

nghiên cứu là hiệu quả kỹ thuật của các NHTMCP, nó phản ánh khả năng của một

ngân hàng biến các nguồn lực đầu vào (lao động, kỹ thuật, vốn…) thành các đầu ra

(dịch vụ, tiền vay, thu nhập, lợi nhuận…).

Hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có thể chia làm hai nhóm là hiệu quả

tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối được đo

bằng kết quả kinh tế trừ đi chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đặc điểm của chỉ

tiêu tuyệt đối là phản ánh quy mô, khối lượng của một hiện tượng trong điều kiện,

thời gian và địa điểm cụ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chỉ tiêu này

lại khó có thể so sánh được. Chẳng hạn như nếu một ngân hàng có quy mô lớn thì

hiệu số tuyệt đối giữa doanh thu đạt được trừ chi phí rất lớn nhưng chưa thể đánh

giá ngân hàng này hoạt động hiệu quả hơn ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn và

5

hiệu số tuyệt đối giữa doanh thu đạt được và chi phí nhỏ hơn. Do vậy, chỉ tiêu hiệu

quả tuyệt đối không cho biết khả năng sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các yếu tố đầu

vào.

Cách đánh giá hiệu quả tương đối xem xét tỷ lệ so sánh giữa kết quả đầu ra

và yếu tố đầu vào (chẳng hạn như: kết quả kinh tế/chi phí bỏ ra,…), thuận tiện hơn

trong việc so sánh theo thời gian và không gian cũng như cho phép so sánh hiệu quả

giữa các ngân hàng có quy mô khác nhau, các thời kỳ khác nhau.

Một cách đơn giản, hiệu quả tương đối đối với trường hợp doanh nghiệp có

một biến đầu vào và một biến đầu ra có thể được xác định bằng công thức:

EF (Efficiency) = output/input (1)

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

thương mại cổ phần

Ngân hàng trước hết là một tổ chức. Theo lý thuyết hệ thống thì một tổ chức

luôn hoạt động trong môi trường cụ thể và chịu sự tác động của nhiều nhân tố môi

trường và nhân tố nội tại của tổ chức.

Các nhân tố môi trường là các nhân tố bên ngoài mà tổ chức khó kiểm soát

nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả hoạt động của tổ chức, bao

gồm: môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước, môi trường pháp lý.

Các nhân tố nội tại của tổ chức có thể kiểm soát được và điều chỉnh, có ảnh hưởng

riêng biệt đến tổ chức. Nhóm nhân tố bên trong bao gồm: năng lực tài chính, năng

lực quản trị, điều hành, khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ và nguồn nhân lực.

Hầu hết các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTMCP đều ảnh hưởng trực

tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

1.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài

* Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước

Với vai trò là một định chế tài chính trung gian quan trọng, NHTMCP là

chiếc cầu nối gắn liền khu vực đầu tư và khu vực tiết kiệm của nền kinh tế. Khi hai

khu vực này bị ảnh hưởng thì NHTMCP cũng bị ảnh hưởng. Trong một môi trường

kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường.

6

Các tổ chức và cá nhân luôn có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh,

đồng thời gia tăng khả năng trả nợ. Ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng tín

dụng, nâng cao chất lượng tín dụng, làm giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận. Mặt

khác, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định góp phần tạo việc làm cho nền kinh tế,

tăng thu nhập cho cá nhân và tổ chức, ổn định nguồn vốn đầu vào cho ngân hàng

thương mại, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.

Ngược lại, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội không ổn định ảnh hưởng

không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ

của các doanh nghiệp giảm, nợ quá hạn và nợ xấu tăng cao làm giảm hiệu quả hoạt

động kinh doanh của ngân hàng thương mại.

Bên cạnh môi trường kinh tế, chính trị xã hội trong nước, NHTMCP còn chịu

ảnh hưởng mạnh mẽ từ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đây là

một xu thế tất yếu của thời đại tạo nên những chuyển biến toàn diện trên nhiều lĩnh

vực với nhiều mức độ khác nhau thông qua quá trình trao đổi thông tin giữa các

quốc gia, cá nhân và các nền kinh tế. Trong lĩnh vực kinh tế, xu thế này thường

được đề cập đến là quá trình tự do hóa. Làn sóng tự do hóa xuất hiện từ những năm

1980 bắt đầu bằng quá trình tự do hóa thương mại, tiếp đến là làn sóng đầu tư trực

tiếp nước ngoài kéo theo nhu cầu tự do hóa dịch vụ tài chính đã tạo nhiều thuận lợi

cho nền kinh tế nhiều quốc gia phát triển, trong đó có các ngân hàng thương mại.

Trong bối cảnh đó, các ngân hàng thương mại có thể tiếp nhận nguồn vốn dồi dào,

kinh nghiệm quản lý và trình độ khoa học công nghệ từ nước ngoài để nâng cao

hiệu quả hoạt động kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, những

mặt trái của quá trình toàn cầu hóa và sự cạnh tranh với các tổ chức tín dụng nước

ngoài, những tập đoàn tài chính đầy tiềm lực là những thử thách không nhỏ đối với

các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

thì những biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ngoài nhất là

các thị trường tiêu thụ càng gây bất lợi cho hoạt động của NHTMCP, từ đó ảnh

hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

* Môi trường pháp lý

7

Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ và đầy đủ của hệ thống pháp luật,

các văn bản dưới luật, việc chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Trong đó, hệ

thống pháp luật đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng nền kinh tế, vừa

tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh

doanh, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, người tiêu dùng,

người lao động và cộng đồng xã hội nói chung. Là một bộ phận quan trọng trong hệ

thống tài chính, NHTMCP chịu sự kiểm soát chặt chẽ về phương diện pháp lý hơn

so với các ngành khác. Nhiều chính sách ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của

NHTMCP như chính sách cạnh tranh, phá sản, sát nhập, cơ cấu và tổ chức ngân

hàng; các quy định về cho vay, bảo hiểm tiền gửi, dự phòng rủi ro tín dụng; các

chính sách tài chính tiền tệ, thuế, tỷ giá… Một môi trường pháp lý phù hợp bảo đảm

sự hoạt động ổn định và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại,

giữ vững niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính – ngân hàng, đồng thời

bảo vệ công chúng sử dụng dịch vụ ngân hàng và phòng chống các loại tội phạm tài

chính – ngân hàng. Đây chính là những nền tảng vững chắc để ngân hàng thương

mại phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Ngược lại, một môi trường

pháp lý không đồng bộ và chưa đầy đủ, không phù hợp với yêu cầu phát triển của

nền kinh tế sẽ là rào cản lớn cho quá trình phát triển kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp

hoặc gián tiếp đến hoạt động của NHTMCP và làm giảm sút hiệu quả hoạt động của

NHTMCP.

1.1.3.2. Các nhân tố bên trong

Các nhân tố bên trong bao gồm các nhân tố nội bộ của chính các NHTMCP

như năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ và

nguồn nhân lực.

* Năng lực tài chính

Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một NHTMCP tại một thời

điểm nhất định. Năng lực tài chính thể hiện trước hết ở mức độ an toàn vốn và khả

năng huy động vốn. Tiềm lực về vốn thể hiện qua chỉ tiêu quy mô vốn chủ sở hữu,

quy mô vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn. Nó phản ánh sức mạnh tài chính của một

8

NHTMCP và ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh của ngân hàng như khả năng huy

động vốn và cho vay, khả năng đầu tư tài chính, trình độ trang bị công nghệ và khả

năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thương mại. Như vậy, vốn là điều kiện cơ bản

đảm bảo quy mô kinh doanh của một NHTMCP và bù đắp tổn thất có thể xảy ra,

ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.

Thứ hai là chất lượng tài sản có. Tài sản có là những tài sản được hình thành

từ các nguồn vốn của NHTMCP trong quá trình hoạt động, phản ánh sức khỏe của

một ngân hàng thương mại. Chất lượng tài sản có thể hiện qua các chỉ tiêu như: tỷ

lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản

nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hóa của danh mục tín dụng.

Nợ xấu ảnh hưởng đến tính an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản của các

NHTMCP. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các NHTMCP không có điều kiện mở

rộng tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hơn.

Trong phạm vi toàn nền kinh tế, nợ xấu cao sẽ là vật cản kìm hãm, làm chậm quá

trình luân chuyển vốn của nền kinh tế và tác động tiêu cực đến sản xuất, lưu thông

hàng hóa.

Một NHTMCP có chất lượng tài sản có tốt luôn bảo đảm khả năng thanh

toán trong mọi tình huống, đa dạng hóa danh mục đầu tư để phân tán rủi ro, đồng

thời giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa thanh khoản và khả năng sinh lời; từ đó

làm gia tăng hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Nếu thị trường biết rằng chất lượng

tài sản có của NHTMCP kém sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của

ngân hàng thương mại. Điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc đổ

xô đi rút tiền ở NHTMCP.

Thứ ba là mức sinh lời. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh

của NHTMCP và được thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt đối của lợi

nhuận sau thuế, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài

sản có…Nó thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh của ngân hàng và

do đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

9

Một chỉ tiêu khác phản ánh năng lực tài chính của NHTMCP là khả năng

thanh khoản. Đảm bảo khả năng thanh khoản là một nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ

NHTMCP nào. Điều này có nghĩa là, NHTMCP hoặc có sẵn lượng vốn khả dụng,

hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay bên ngoài với chi phí hợp lý và kịp

thời, hoặc có thể nhanh chóng chuyển tài sản thành tiền với mức giá thỏa đáng để

đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Khả năng thanh khoản

kém chứng tỏ NHTMCP đang thiếu hụt thanh khoản và là dấu hiệu đầu tiên cho

thấy ngân hàng đang ở trong tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Điều này

có thể dẫn đến NHTMCP mất dần các khoản tiền gửi cũ, không thể thu hút thêm

tiền gửi mới hoặc phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, càng làm suy giảm lợi

nhuận và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP.

* Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức

Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội

đồng quản trị đối với ban giám đốc; mức độ cam kết trong việc thực hiện các chính

sách tiền lương và thu nhập; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện các chiến

lược, chính sách kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ.

Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của NHTMCP. Nói

đến chất lượng và năng lực quản lý là nói đến yếu tố con người trong bộ máy quản

lý và hoạt động, thể hiện ở việc đề ra chính sách kinh doanh đúng đắn và có hiệu

quả, xây dựng các thủ tục, điều hành các quy trình nghiệp vụ hợp lý, sát thực và

đúng pháp luật; đồng thời tạo lập một cơ cấu tổ chức phù hợp, vận hành hiệu quả,

giảm thiểu rủi ro về đạo đức trong hệ thống quản lý.

Một NHTMCP yếu kém về năng lực quản lý đồng nghĩa với một ban giám

đốc hay hội đồng quản trị yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách,

chiến lược hợp lý, phù hợp với những thay đổi của thị trường làm lãng phí các

nguồn lực và làm giảm hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

Năng lực quản lý của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc cũng bị chi

phối bởi cơ cấu tổ chức của NHTMCP. Cơ cấu tổ chức phản ánh cơ chế phân bổ các

nguồn lực phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của NHTMCP, phù hợp với đặc

10

trưng của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Hiệu quả của cơ cấu tổ chức

không chỉ phản ánh ở số lượng các bộ phận trực thuộc, sự phân công, phân cấp giữa

các bộ phận mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng, ban trong việc

triển khai hoạt động kinh doanh. Một cơ cấu tổ chức phù hợp phát huy mọi nguồn

lực, gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP và ngược lại.

* Năng lực về công nghệ

Với trình độ phát triển ngày càng cao, khoa học kỹ thuật đã và đang trở thành

nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Trong lĩnh vực ngân hàng, công

nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực đầu vào quan

trọng, tạo ra lợi thế cạnh tranh và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của mỗi

NHTMCP. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính

tác nghiệp như hệ thống thông tin điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền

tự động mà còn cả hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro…trong nội bộ

ngân hàng. Những công nghệ mang tính tác nghiệp giúp ngân hàng mở rộng các

kênh tiếp cận khách hàng, đa dạng hóa các dịch vụ, phục vụ khách hàng tốt hơn,

giảm thiểu chi phí và sai sót có thể xảy ra. Trong khi đó, hệ thống thông tin nội bộ

giúp NHTMCP quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, tăng cường khả

năng dự báo rủi ro và hạn chế những tổn thất. Năng lực công nghệ còn thể hiện ở

khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ, tính liên kết công nghệ giữa các ngân

hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng. Một NHTMCP với công

nghệ hiện đại có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, chiếm lĩnh thị

phần, gia tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động.

* Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng không thể thiếu của bất kỳ doanh

nghiệp hay NHTMCP nào, là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của

NHTMCP, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới. Nguồn nhân lực

cần đảm bảo cả số lượng và chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở trình

độ, kỹ năng, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Một ngân hàng thương mại với

nguồn nhân lực đầy đủ, có chất lượng sẽ giúp ngân hàng thương mại ngăn ngừa và

11

giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh, giúp giữ chân

khách hàng cũ và phát triển khách hàng mới. Nói cách khác, đội ngũ nhân viên giỏi

giúp NHTMCP giảm chi phí hoạt động, gia tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động.

Khi nguồn nhân lực không đảm bảo, các NHTMCP không thể triển khai các

chiến lược kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu của khách hàng dẫn đến sự cạnh tranh

lẫn nhau giữa các ngân hàng để tìm kiếm nguồn nhân lực. Điều này làm gia tăng chi

phí, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

1.2. Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ

phần

1.2.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng

thương mại cổ phần

1.2.1.1. Đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính

Các chỉ tiêu tài chính là công cụ thường được sử dụng phố biến để phân tích,

đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp, trong đó có các NHTMCP. Đây là các

chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ giữa hai biến số tài chính cho phép so sánh

hoạt động giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng thông qua việc phân tích xu

hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Nhiều chỉ tiêu tài chính khác

nhau được sử dụng để đánh giá nhiều khía cạnh khác nhau trong hoạt động của

NHTMCP. Các nhóm chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng bao gồm: các chỉ tiêu

phản ánh khả năng sinh lời, kết quả kinh doanh và rủi ro của ngân hàng.

* Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời

Các chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng sinh lời của NHTMCP theo từng

góc độ khác nhau. Đây là nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá công tác quản

lý và các hoạt động chiến lược của NHTMCP thành công hay thất bại. Nhóm chỉ

tiêu này bao gồm: tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ lợi nhuận trên vốn

chủ sở hữu (ROE), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên

(NIM), tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NM).

ROA =

Tổng tài sản

Lợi nhuận sau thuế

12

ROE =

Lợi nhuận sau thuế

Vốn chủ sở hữu

NM =

Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi

Tổng tài sản

NIM =

Thu nhập lãi – Chi phí lãi

EPS =

Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế

Tổng số cổ phiếu thường

ROA là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tính hiệu quả quản lý, cho thấy khả năng

chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng, thể hiện khả năng sinh lợi trên

mỗi đồng tài sản của NHTMCP.

ROE là chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng, thể

hiện khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn của cổ đông. Đây là chỉ tiêu quan trọng

nhất đối với các cổ đông. Chỉ tiêu này còn được sử dụng khá phổ biến trong phân

tích hiệu quả hoạt động vì phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.

NIM đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng

thương mại có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời

và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất.

NM đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi (chủ yếu là các

nguồn thu từ dịch vụ) với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng thương mại phải chịu

(tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng…) .

EPS đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ đông tính trên mỗi cổ phiếu hiện

đang lưu hành.

Trong một số trường hợp, tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên cũng được xem

xét để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

13

Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, các mô

hình phân tích khả năng sinh lời cũng được đưa ra xem xét như mô hình đánh đổi

rủi ro và lợi nhuận, mô hình phân chia tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu và mô

hình tách các chỉ số phân tích lợi nhuận trên tài sản. Bằng cách tách các tỷ lệ ROA,

ROE thành nhiều tỷ lệ khác để đánh giá sự phụ thuộc của các chỉ tiêu ROA, ROE

vào các tỷ lệ khác; hoặc phân tích mối quan hệ giữa ROA và ROE; các nhà quản trị

có thể đánh giá toàn diện hơn hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

* Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh

Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường gia

tăng hiệu quả hoạt động bằng cách giảm chi phí và tăng năng suất lao động. Nhóm

chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng

thương mại bao gồm các tỷ số như sau:

- Tổng chi phí hoạt động/ tổng thu từ hoạt động: Chỉ tiêu này phản ánh mối

quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, cho biết khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động

của ngân hàng thương mại.

- Tổng thu nhập hoạt động/ tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử

dụng tài sản. Tỷ lệ này gồm 2 phần là thu nhập lãi bình quân trên tổng tài sản và thu

nhập ngoài lãi bình quân trên tổng tài sản. Khi cạnh tranh trên thị trường tín dụng

gia tăng và các khoản vay kém chất lượng ngày càng nhiều, các ngân hàng thương

mại chuyển hướng vào việc tăng thu nhập ngoài lãi (từ phí dịch vụ).

- Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/số bình quân nhân viên làm việc

toàn thời gian) là chỉ tiêu đo lường khả năng tạo ra thu nhập của một nhân viên

ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử

dụng lao động của ngân hàng thương mại.

* Nhóm chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong hoạt động của ngân hàng

Ngoài việc quan tâm đến giá trị cổ phiếu và lợi nhuận cao, các NHTMCP cần

phải quản trị rủi ro để bảo đảm ngân hàng hoạt động an toàn. Hoạt động của ngân

hàng thương mại liên quan đến các loại rủi ro chính: tín dụng, thanh khoản, thị

trường, lãi suất, thu nhập và rủi ro phá sản. Các chỉ tiêu tài chính thường sử dụng để

14

đánh giá rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm: tỷ lệ nợ xấu, hệ

số rủi ro tín dụng, tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ nhạy cảm lãi suất, dự

trữ thanh khoản/tổng tài sản, tỷ lệ đòn bẩy tài chính,…

- Tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu/tổng dư nợ cho vay): Là chỉ tiêu phản ánh chất lượng

tín dụng thường được sử dụng để đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng thương

mại. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng ngày càng cao.

- Hệ số rủi ro tín dụng (tổng dư nợ cho vay/tổng tài sản có). Hệ số này cho ta

thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có. Khoản mục tín dụng trong

tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ càng cao, nhưng đồng thời rủi ro tín dụng

cũng tăng lên.

- Tổng cho vay/tổng vốn huy động: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư

của một đồng vốn huy động, đồng thời cũng là chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng. Tỷ

lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng vốn huy động chủ yếu là để cho vay

nên rủi ro tín dụng càng cao. Tỷ lệ này càng thấp càng giảm thiểu rủi ro tín dụng

của ngân hàng vì ngân hàng đa dạng hóa danh mục đầu tư và dịch vụ cung ứng cho

khách hàng.

- Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ nhạy cảm lãi suất: Tỷ lệ này đo

lường rủi ro lãi suất. Khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá các khoản

nợ nhạy cảm lãi suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể rơi vào tình

trạng bất lợi và thua lỗ nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi nợ nhạy cảm với lãi suất

vượt quá tài sản nhạy cảm lãi suất, ngân hàng sẽ thua lỗ nếu lãi suất tăng.

- Dự trữ thanh khoản/tổng tài sản: Đây là chỉ tiêu đo lường rủi ro thanh

khoản của ngân hàng thương mại. Tỷ lệ này càng nhỏ thì khả năng chống đỡ rủi ro

thanh khoản càng yếu và ngược lại. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này cao thì ngân hàng cần

xem lại khả năng đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận, vì tài sản thanh khoản có mức

sinh lợi thường thấp hơn nhiều so với các tài sản sinh lời khác.

- Tỷ lệ đòn bẩy tài chính (tổng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản): Chỉ tiêu này

phản ánh có bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu tạo ra một đồng tài sản và ngân hàng

thương mại phải dựa vào nguồn vốn vay nợ là bao nhiêu. Tỷ lệ này càng thấp chứng

15

tỏ ngân hàng thương mại vay nợ càng nhiều, tận dụng được đòn bẩy tài chính nhưng

đồng thời rủi ro cũng tăng lên.

Bên cạnh các nhóm chỉ tiêu trên, để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân

hàng thương mại, các nhà quản trị ngân hàng còn sử dụng các chỉ tiêu khác như:

Vốn huy động/ vốn tự có (phản ánh khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế),

tiền gửi không kỳ hạn/ tiền gửi có kỳ hạn (phản ánh khả năng cung ứng dịch vụ của

ngân hàng)…

Ngày nay, trong phân tích hoạt động kinh doanh và đánh giá hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp nói chung và NHTMCP nói riêng, các tỷ số tài chính vẫn

thường được áp dụng vì phương pháp này tương đối đơn giản và dễ hiểu. Mỗi chỉ

tiêu tài chính biểu hiện mối quan hệ giữa hai biến số, phản ánh một khía cạnh trong

hoạt động của ngân hàng thương mại. Vì vậy, để đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt

động của ngân hàng thương mại, chúng ta phải sử dụng hàng loạt các chỉ tiêu khác

nhau. Điều này gây không ít khó khăn cho các nhà quản trị và cả các cơ quan quản

lý nhà nước khi đánh giá và so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương

mại, nhất là khi đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tạo ra các sản phẩm,

dịch vụ tài chính phức tạp của NHTMCP. Để khắc phục các nhược điểm trong

phương pháp phân tích các hệ số tài chính, gần đây các nhà kinh tế đã sử dụng

phương pháp phân tích hiệu quả biên để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng thương mại. Phương pháp này giúp chúng ta nhìn thấy một bức tranh tổng thể

trong hoạt động của các NHTMCP.

1.2.1.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên

Phân tích hiệu quả biên là phương pháp xác định chỉ số hiệu quả tương đối

dựa trên việc so sánh khoảng cách của các đơn vị (chẳng hạn, trong đề tài này là các

ngân hàng) với một đơn vị thực hiện hoạt động tốt nhất trên đường biên. Ưu điểm

của phương pháp này là cho phép xác định chỉ số hiệu quả chung của từng ngân

hàng và xếp hạng hiệu quả của ngân hàng dựa trên hoạt động thực tế. Đây cũng là

hiệu quả tốt nhất mà một ngân hàng đang thực hiện khi so sánh với các ngân hàng

16

khác. Những thông tin này giúp các nhà quản trị đánh giá được hiệu quả hiện tại của

ngân hàng và tìm cách cải thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Phân tích hiệu quả biên được chia thành 2 nhóm: tiếp cận tham số và tiếp cận

phi tham số. Cách tiếp cận tham số yêu cầu chỉ ra một dạng hàm cụ thể đối với

đường biên hiệu quả. Hạn chế của phương pháp này là nếu việc chỉ định dạng hàm

sai thì kết quả tính toán sẽ ảnh hưởng ngược đến các chỉ số hiệu quả, đồng thời cách

tiếp cận này đòi hỏi người sử dụng phải có một số kiến thức nhất định về toán học.

Cách tiếp cận phi tham số không yêu cầu đưa ra một dạng hàm cụ thể, cũng

như không đòi hỏi các ràng buộc về hình dáng của đường biên thực hiện tốt nhất.

Phương pháp thường được sử dụng trong cách tiếp cận này là phương pháp phân

tích bao dữ liệu DEA (Data Envelopment Analysis).

1.2.2. Đánh giá hiệu quả bằng cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số

1.2.2.1. Giới thiệu tổng quát về phương pháp DEA

Phương pháp DEA (DEA) là một cách tiếp cận phi tham số được khởi xướng

bỡi Charnes, Cooper và Rhodes (1978) để đo lường hiệu quả trong các tổ chức

công. Thực ra, nó lại có xuất phát điểm từ trước đó hơn 20 năm, bắt đầu từ ý tưởng

của Farrel. Mục tiêu của DEA là xây dựng một mặt bao lồi hiệu quả phi tham số sao

cho các điểm quan sát không nằm cao hơn đường giới hạn hiệu quả. Đường giới

hạn hiệu quả được xây dựng từ những đoạn thẳng kết nối các điểm hiệu quả nhất.

Vì DEA được xây dựng dựa trên các điểm thực tế (observed data) nên nó có

thể áp dụng được với các mẫu nghiên cứu nhỏ và thường được sử dụng trong phân

tích chuyên sâu theo lĩnh vực, địa phương. Mặc dù vậy, do đây là phương pháp tiếp

cận phi tham số, nó không tính toán mức sai số nên không tồn tại mức ý nghĩa hay

độ tin cậy; đồng thời điểm hiệu quả DEA là điểm hiệu quả tương đối giữa các đơn

vị khảo sát với nhau nên nếu có một DEA có điểm hiệu quả 100% (EF =1) nằm trên

đường giới hạn hiệu quả thì cũng không có nghĩa là nó đạt hiệu quả tối ưu trên thực

tế mà nó chỉ tốt hơn các đơn vị khác trong phạm vi khảo sát.

1.2.2.2. Các cách tiếp cận đánh giá hiệu quả

17

Phương pháp DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị ra quyết định

DMU (Decision Making Unit) có hai hướng tiếp cận: hướng tiếp cận đầu vào trả lời

cho câu hỏi doanh nghiệp cần giảm chi phí tối thiểu là bao nhiêu để đạt đến trạng

thái tối ưu mà không thay đổi sản lượng đầu ra. Ngược lại, hướng tiếp cận đầu ra trả

lời cho câu hỏi doanh nghiệp cần tối đa hóa sản lượng là bao nhiêu để đạt đến trạng

thái tối ưu trong điều kiện giữ nguyên chi phí đầu vào.

* Cách tiếp cận đầu vào (Input – orientated measures)

Farrell minh họa ý tưởng của ông về hiệu quả kỹ thuật bằng cách sử dụng

một ví dụ đơn giản gồm các doanh nghiệp sử dụng 2 yếu tố đầu vào (x1 và x2) để sản xuất một đầu ra (y) trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô1. Các

x2/y

S

P

Q

S,

S,

O

x1/y

doanh nghiệp nằm trên đường đẳng lượng đạt hiệu quả hoàn toàn, mô tả bằng đường SS, trong Đồ thị 1.1, cho phép đo lường hiệu quả kỹ thuật.

Đồ thị 1.1: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu vào

Nếu các doanh nghiệp sử dụng các lượng đầu vào, xác định tại điểm P để sản

xuất một đầu ra. Khi đó phi hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp được xác định bằng

khoảng cách QP. Đây là lượng mà tất cả các yếu tố đầu vào có thể giảm xuống mà

1 Điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô cho phép doanh nghiệp đại diện bằng một đường đẳng lượng đơn vị - unit isoquant. Sau này, Farrell cũng đề cập đến việc mở rộng phương pháp của ông đối với trường hợp 2 đầu vào, nhiều đầu ra và mô hình sản lượng thay đổi theo quy mô.

không làm giảm đầu ra. Mức không hiệu quả này thường được tính theo phần trăm

18

và biểu diễn bằng tỷ số QP/OP. Hiệu quả kỹ thuật TE của doanh nghiệp được đo

lường bằng tỷ số TEI = OQ/OP = 1 - QP/OP và có giá trị từ 0 đến 1. Trong ví dụ

này, điểm Q là điểm hiệu quả kỹ thuật vì nó nằm trên đường đồng lượng hiệu quả.

Cách đo lường hiệu quả này giả định rằng hàm sản xuất của doanh nghiệp

đạt hiệu quả hoàn toàn đã được biết. Trên thực tế, chúng ta không thể nào biết được

hàm sản xuất của một doanh nghiệp đạt hiệu quả hoàn toàn nên không thể có đường

đồng lượng hiệu quả như Đồ thị 1.1. Vì vậy, đường đồng lượng hiệu quả cần phải

được ước lượng từ dữ liệu mẫu. Farrell (1957) đã gợi ý sử dụng một đường đồng

lượng lồi tuyến tính từng khúc phi tham số sao cho các điểm quan sát không nằm

bên trái hay dưới nó. Và theo hướng gợi ý này của Farrell, Charnes, Cooper và

Rhodes (1978) đã phát triển thành mô hình DEA. Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu

S

vào được minh họa như sau:

P

A

B

C

S,

x2/y

o x1/y Đồ thị 1.2: Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào

Các doanh nghiệp A, B và C đạt hiệu quả tương đối hoàn toàn so với các

doanh nghiệp khác trong cùng mẫu nghiên cứu nên nằm trên đường giới hạn hiệu

quả. Doanh nghiệp P chưa đạt hiệu quả tương đối hoàn toàn nên không nằm trên

đường giới hạn hiệu quả.

* Cách tiếp cận đầu ra (output – orientated measures)

Đo lường hiệu quả theo khuynh hướng đầu ra ngược lại với cách đo lường

theo khuynh hướng đầu vào trên đây. Sự khác nhau giữa đo lường theo khuynh

hướng đầu vào và đầu ra được minh họa bằng cách sử dụng ví dụ đơn giản gồm một

đầu ra và một đầu vào và được minh họa trong Đồ thị 3a và Đồ thị 3b. Theo Đồ thị

19

3a, trong điều kiện sản lượng giảm dần theo quy mô, hiệu quả kỹ thuật đại diện

bằng hàm f(x) và doanh nghiệp không đạt được hiệu quả tại điểm P. Hiệu quả kỹ

thuật đo lường theo khuynh hướng đầu vào tương đương tỷ lệ AB/AP, trong khi

hiệu quả kỹ thuật đo lường theo khuynh hướng đầu ra được đo bằng tỷ lệ CP/CD.

Từ đồ thị cho thấy hai tỷ lệ này là khác nhau. Theo Đồ thị 3b, trong trường hợp sản

lượng không đổi theo quy mô, hiệu quả kỹ thuật đo lường theo đầu vào và đầu ra là

y

y

f(x)

f(x)

D

D

B

B

A

P

P

tương đương nhau.

0

A

C

C

x

x

Đồ thị 1.3a Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng thay đổi theo quy mô

Đồ thị 1.3b Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô

y2/x

B

Z

A

O

y1/x

, Z

0

Đồ thị 1.4: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu ra

20

Chúng ta có thể xem xét việc đo lường hiệu quả kỹ thuật theo khuynh hướng

đầu ra đối với trường hợp hai đầu ra và một đầu vào. Một lần nữa, trong trường hợp

sản lượng không đổi theo quy mô, có thể tính hiệu quả kỹ thuật dựa vào đường cong

khả năng sản xuất đơn vị ở hai chiều. Ví dụ này được mô tả trong Sơ đồ 1.4, đường Z Z, là đường cong khả năng sản xuất đơn vị và điểm A được xem là điểm không

hiệu quả. Điểm không hiệu quả A nằm dưới đường cong trong trường hợp này vì ZZ, đại diện cho giới hạn trên của đường giới hạn khả năng sản xuất.

Cách đo lường hiệu quả theo khuynh hướng đầu ra có thể xác định như sau:

Khoảng cách AB đại diện cho phi hiệu quả kỹ thuật. Vì vậy, đó chính là tỷ lệ đầu ra

có thể gia tăng mà không yêu cầu thêm lượng đầu vào. Khi đó, TE0 = OA/OB. Mô

hình DEA tối đa hóa đầu ra được minh họa tương tự như mô hình DEA tối thiểu

x1/y

A

B

C

P

0

x2/y

hóa đầu vào.

Đồ thị 1.5: Mô hình DEA tối đa hóa đầu ra

1.2.2.3. Các cách lựa chọn biến đầu vào và đầu ra trong phương pháp

DEA

Do đặc điểm của ngân hàng là ngành dịch vụ có nhiều yếu tố đầu vào và đầu

ra nên điều quan trọng trong phân tích DEA đối với các NHTMCP là lựa chọn biến

đầu vào và đầu ra cho hợp lý. Tuy nhiên, việc xác định đầu vào và đầu ra đối với

các ngân hàng không phải là điều đơn giản. Không giống như các ngành sản xuất

khác, trong quá trình hoạt động ngân hàng thương mại sử dụng cả tiền gửi và các tài

sản khác. Đầu ra các dịch vụ của ngân hàng thương mại, không giống như đầu ra

21

của các doanh nghiệp sản xuất, được đo lường bằng số lượng với mục tiêu được xác

định rõ ràng. Theo Aziz và Lennart (2002), do bản chất phức tạp trong hoạt động

của ngân hàng mà có nhiều lúng túng trong việc xác định đầu vào và đầu ra. Tác giả

đã tổng hợp các nghiên cứu trước đó và cho rằng có hai cách tiếp cận trong việc xác

định đầu vào và đầu ra của ngân hàng: cách tiếp cận sản xuất (hay còn gọi là cách

tiếp cận cung cấp dịch vụ, cách tiếp cận giá trị gia tăng) và cách tiếp cận tài sản

(hay còn gọi là cách tiếp cận trung gian).

Trong cách tiếp cận sản xuất, ngân hàng thương mại được xem là doanh

nghiệp sử dụng vốn và lao động để tạo ra các sản phẩm tiền gửi và cho vay khác

nhau. Còn trong cách tiếp cận trung gian, ngân hàng thương mại được xem là trung

gian của dịch vụ tài chính, nhận tiền gửi từ khách hàng và cho khách hàng khác vay.

Đầu vào của ngân hàng bao gồm lao động, kỹ thuật, tiền gửi; đầu ra bao gồm: tiền

cho vay, các thu nhập khác từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Cách tiếp cận trung

gian còn chia thành 2 nhóm nhỏ: tiếp cận lợi nhuận (hay còn gọi là cách tiếp cận chi

phí người sử dụng – the user cost approach) và cách tiếp cận quản lý rủi ro.

Cũng theo hai tác giả trên, về cơ bản hai cách tiếp cận này là giống nhau. Sự

khác nhau giữa hai cách tiếp cận ở chỗ cách tiếp cận trung gian sử dụng giá trị thay

vì số lượng và xem ngân hàng như là tổ chức trung gian. Vì vậy, cách tiếp cận trung

gian thường phù hợp hơn với các ngành dịch vụ, nhất là đối với các NHTMCP.

1.2.3. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây

1.2.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới đánh giá hiệu quả hoạt động của

ngân hàng bằng phương pháp DEA

Phương pháp DEA thường được ứng dụng để phân tích hiệu quả của các

DMU hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, kinh tế, xây dựng… Phương pháp

này được sử dụng lần đầu tiên để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng vào

năm 1985. Sherman and Gold (1985) đánh giá hiệu quả hoạt động của 14 chi nhánh

một ngân hàng ở Mỹ. Kết quả cho thấy có 6 chi nhánh ngân hàng hoạt động kém

hiệu quả so với các chi nhánh còn lại.

22

Rangan và các cộng sự (1988), trích trong Nguyen (2011), đã nâng cấp độ

đánh giá từ chi nhánh ngân hàng lên cấp độ ngân hàng và đánh giá hiệu quả hoạt

động của 215 ngân hàng ở Mỹ, đồng thời phân tích phi hiệu quả kỹ thuật từ phi hiệu

quả kỹ thuật thuần và phi hiệu quả quy mô. Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận trung

gian với 3 biến đầu vào (lao động, vốn và khấu hao) và 5 biến đầu ra (2 biến đầu ra

là tiền gửi và 3 biến đầu ra là khoản cho vay). Kết quả nghiên cứu cho thấy các

ngân hàng có thể tạo ra cùng một lượng đầu ra mà chỉ cần sử dụng 70% đầu vào.

Nghiên cứu cũng cho thấy phi hiệu quả quy mô của các ngân hàng là tương đối nhỏ

và phi hiệu quả chủ yếu từ phi hiệu quả kỹ thuật thuần.

Ngoài các nghiên cứu tập trung vào các ngân hàng ở Mỹ, phương pháp DEA

ngày càng được áp dụng rộng rãi trong đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng

thương mại tại các quốc gia khác. Có thể nêu ra một vài nghiên cứu tiêu biểu như

sau:

Tại Ba Lan, Grazyna (2008) tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của 40

ngân hàng từ năm 2000 đến năm 2007 với cách tiếp cận giá trị gia tăng, đồng thời

so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng theo phương pháp DEA và phương

pháp đánh giá hiệu quả bằng các chỉ số tài chính. Các biến được sử dụng trong

nghiên cứu bao gồm 02 biến đầu vào (tài sản và số lượng nhân viên) và 03 biến đầu

ra (cho vay, tiền gửi và thu nhập ngoài lãi). Kết quả khá thú vị là hiệu quả của các

ngân hàng theo các chỉ số tài chính (ROE và hiệu quả nguồn nhân lực) cao hơn

nhiều so với hiệu quả tính bằng phương pháp DEA.

Tại Nhật Bản, Elena (2008) tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt

động của 04 nhóm ngân hàng giai đoạn 2000-2006 theo hướng tiếp cận trung gian.

Nghiên cứu sử dụng 3 biến đầu vào (tiền gửi, số lượng nhân viên và số lượng chi

nhánh ngân hàng) để tạo ra 3 biến đầu ra (cho vay, chứng khoán thương mại và

chứng khoán đầu tư, lợi nhuận thuần). Điểm hiệu quả trung bình mà các ngân hàng

Nhật Bản đạt được là 69%. Các Ngân hàng City và Ngân hàng Trust đều đạt hiệu

quả 100%, trong khi các Ngân hàng Regionnal và Tier II đạt hiệu quả thấp hơn

nhiều.

23

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, Nurhan và các cộng sự (2009) thực hiện nghiên cứu đánh

giá hiệu quả hoạt động của 44 ngân hàng từ năm 2002 đến năm 2006 với cách tiếp

cận sản xuất. Các biến được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm 5 biến đầu vào

(Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, cho vay/tổng tài sản, tài sản lưu động/nợ ngắn hạn,

chi phí ngoài lãi/tổng chi phí lãi và chi phí ngoài lãi /tổng chi phí hoạt động) và 02

biến đầu ra (ROA và ROE). Trong nghiên cứu này, tác giả chia thành 4 nhóm ngân

hàng: ngân hàng nhà nước, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tư nhân và ngân hàng

đầu tư phát triển. Kết quả cho thấy nhóm ngân hàng nhà nước đạt hiệu quả trung

bình cao nhất (69%) và nhóm ngân hàng tư nhân đạt hiệu quả trung bình thấp nhất

(34%). Nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả trung bình của các ngân hàng có xu

hướng tăng dần qua các năm.

Còn tại Trung Quốc, Chan (2011) đánh giá hiệu quả hoạt động của 03 nhóm

ngân hàng thương mại Trung Quốc giai đoạn 2001-2007 (ngân hàng nhà nước, ngân

hàng nước ngoài và ngân hàng tư nhân) theo hướng tiếp cận trung gian. Tác giả sử

dụng 03 biến đầu vào (chi phí ngoài lãi, tài sản cố định và tiền gửi) và 02 biến đầu

ra (cho vay và đầu tư). Hiệu quả trung bình mà các ngân hàng Trung Quốc đạt được

là 31,42%. Kết quả này cho thấy các ngân hàng Trung Quốc hoạt động không hiệu

quả và đang phải đối diện với việc phân tán các nguồn lực. Theo tác giả, nguyên

nhân là do hệ thống ngân hàng Trung Quốc còn yếu kém, hệ thống luật pháp và tài

chính chưa phát triển và không đạt được các tiêu chuẩn quốc tế.

Nhìn chung, phương pháp DEA đã được sử dụng ở các nước phát triển để

đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và hiện nay đang

trở nên phổ biến ở các nước đang phát triển. Điều này chứng tỏ tính ưu việt của

phương pháp DEA trong việc đánh giá bức tranh tổng thể hoạt động của hệ thống

ngân hàng thương mại ở từng quốc gia. Cách tiếp cận chủ yếu là tiếp cận trung gian

và các biến được lựa chọn khác nhau.

1.2.3.2. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng

bằng phương pháp DEA ở Việt Nam

24

Các nghiên cứu trong nước về hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng

thương mại trong những năm gần đây được nhiều người quan tâm, tuy nhiên số

lượng các nghiên cứu định lượng về hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

không nhiều lắm. Riêng về phương pháp DEA có các nghiên cứu tiêu biểu như sau:

Năm 2008, tác giả Nguyễn Việt Hùng ứng dụng phương pháp DEA để đánh

giá hiệu quả hoạt động của 32 ngân hàng thương mại giai đoạn 2001-2005 theo

hướng tiếp cận trung gian. Các biến được đưa vào phân tích gồm: tổng tài sản cố

định ròng, chi cho nhân viên, tổng vốn huy động từ khách hàng (biến đầu vào); thu

từ lãi và các khoản tương đương, thu ngoài lãi và các khoản tương đương (biến đầu

ra). Hiệu quả toàn bộ bình quân thời kỳ nghiên cứu đạt được 0,791. Điều này cho

thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ sử dụng 79,1% các đầu vào để tạo ra

các sản lượng đầu ra. Còn nếu tính riêng từng loại hình ngân hàng thì nhóm

NHTMCP đạt hiệu quả bình quân cao hơn nhóm ngân hàng thương mại nhà nước

(81,6% so với 77,8%).

Tiếp sau đó, năm 2010, tác giả Ngô Đăng Thành sử dụng phương pháp DEA

để đánh giá hiệu quả hoạt động của 22 ngân hàng thương mại năm 2008 theo hướng

tiếp cận trung gian. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào gồm chi phí tiền lương,

chi phí trả lãi và các khoản tương tự, các khoản chi phí khác; các biến đầu ra gồm

tổng tài sản, thu nhập từ lãi và các khoản tương tự, các khoản thu nhập khác. Kết

quả cho thấy hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực của các ngân hàng thương mại

khá cao, trung bình đạt 91,7%. Trong số 22 ngân hàng được nghiên cứu, có 6 ngân

hàng đạt hiệu quả tối ưu, 7 ngân hàng đạt hiệu quả trên 90%, 7 ngân hàng đạt hiệu

quả trên 80% và 2 ngân hàng chưa phát huy hết nguồn lực. Vietcombank là ngân

hàng duy nhất trong 4 ngân hàng thương mại nhà nước nghiên cứu đạt đến đường

giới hạn khả năng sản xuất.

Gần đây nhất, tác giả Nguyen (2011) sử dụng phương pháp DEA đánh giá

hiệu quả hoạt động của 22 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007-2009

theo hướng tiếp cận trung gian. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào gồm chi phí

lao động, tài sản cố định, tổng tiền gửi và các biến đầu ra gồm thu nhập từ lãi và thu

25

nhập ngoài lãi. Điểm hiệu quả trung bình mà các ngân hàng thương mại Việt Nam

đạt được là 74,8%. Phi hiệu quả từ phi hiệu quả phân bổ và phi hiệu quả kỹ thuật.

Trong số các ngân hàng nghiên cứu, nhóm NHTMCP đạt hiệu quả cao hơn nhóm

ngân hàng thương mại nhà nước (74,9% so với 74,2%).

Cho đến nay, việc vận dụng phương pháp DEA trong nghiên cứu hiệu quả

hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn hạn chế. Các nghiên cứu

đều sử dụng cách tiếp cận trung gian xem ngân hàng là cầu nối giữa người gửi tiền

và người vay tiền, các biến được sử dụng khác nhau và kết quả tính toán hiệu quả

cũng khác nhau. Ngoại trừ nghiên cứu của tác giả Ngô Đăng Thành (2010) cho thấy

các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động tương đối hiệu quả trong năm 2008,

các nghiên cứu còn lại đều kết luận các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động

chưa hiệu quả trong thời gian nghiên cứu. Mỗi nghiên cứu đều có những đóng góp

nhất định cho sự phát triển của ngành ngân hàng thông qua việc đề xuất những giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.

1.3. Phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA

1.3.1. Mô hình DEACRS

Như đã đề cập ở phần 1.1.2, công thức (1) tính hiệu quả trong trường hợp

doanh nghiệp sử dụng một đầu vào và một đầu ra. Farrel cũng đã mở rộng công

thức tính hiệu quả cho trường hợp doanh nghiệp sử dụng nhiều đầu ra và nhiều đầu

vào. Khi áp dụng cho một doanh nghiệp có k yếu tố đầu vào và sản xuất ra m kết

quả đầu ra, công thức xác định hiệu quả cho nhiều yếu tố đầu vào và đầu ra là:

∑umym (2)

EF = ∑vkxk

Trong đó, u là trọng số của biến đầu ra y, v là trọng số của biến đầu vào x,

0≤um, vk ≤ 1.

Nếu phát triển lên cho n doanh nghiệp khác nhau trong cùng một lĩnh vực thì

có thể xác định được hiệu quả của doanh nghiệp thứ i (1≤i≤n) theo công thức:

26

∑umymi

∑vkxki

(3) EFi =

u1y1i + u2y2i +……..+ umymi

Hay:

v1x1i + v2x2i +……..+ vkxki

EFi = (4)

Bằng cách tính toán hệ số hiệu quả của từng doanh nghiệp, xác định doanh

nghiệp thứ s được xem là hiệu quả nhất (EF=1) sẽ hình thành nên đường bao dữ

liệu, trong khi đó các doanh nghiệp còn lại kém hiệu quả hơn sẽ không nằm trên

đường bao dữ liệu (EF <1).

Charnes, Cooper và Rhodes (1978) đã phát triển mô hình của Farrel bằng cách giả định xảy ra trường hợp sản lượng không đổi theo quy mô CRS2, với cách

tiếp cận định hướng đầu vào. Trong trường hợp này, doanh nghiệp thứ i0 nếu không

đạt được hiệu quả tương đối hoàn toàn (EF=1) có thể tối đa hóa hiệu quả của nó

bằng cách giải bài toán:

Max u,v EFi0

Với điều kiện: EFi ≤1, 1≤i≤n

(5) 0≤um, vk ≤ 1. ∑umymi0

EFi0 = Trong đó:

∑vkxki0

Vấn đề gặp phải là bài toán (5) tồn tại vô số nghiệm3. Để tránh điều này,

Charnes và Cooper đưa vào ràng buộc ∑vkxki0 =1. Và bài toán (5) được viết lại dưới

dạng bài toán quy hoạch tuyến tính (linear programming problem):

2 Điều kiện CRS có nghĩa là khi tăng tất cả các yếu tố đầu vào lên một tỷ lệ nhất định a% thì đầu ra tăng lên tương ứng một tỷ lệ a%. 3 Điều này có nghĩa là nếu tồn tại 1 nghiệm mà mẫu số khác 1, chẳng hạn như 2 thì nếu bài toán có nghiệm là 1/2 thì cũng sẽ có các nghiệm khác là 2/4, 3/6 …

Max u,v (∑umymi0)

27

Với điều kiện:

∑vkxki0 =1

EFi ≤1, 1≤i≤n

(6) 0≤um, vk ≤ 1

Sử dụng tính chất đối ngẫu của bài toán quy hoạch tuyến tính, có thể chuyển

bài toán (6) thành dạng bao dữ liệu tương đương (equivalent envelopment form).

Dạng bao dữ liệu này có ít ràng buộc hơn và có thể dễ dàng giải được.

min θ,

Với điều kiện: –yi + Yλ ≥0,

θxi – Xλ ≥0,

(7) λ ≥0

Trong đó :

- θ là mức độ hiệu quả của từng doanh nghiệp.

- λ gồm tập hợp (λ1,λ2, …λn) thể hiện mối quan hệ giữa các doanh nghiệp

được khảo sát (chẳng hạn như nếu u và v là trọng số của các biến đầu ra và đầu vào

thì λ là “trọng số” giữa các DMU với nhau).

- yi, xi: lần lượt là đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp thứ i.

- Y gồm tập hợp (y1, y2,…yn) : tập đầu ra của các doanh nghiệp.

- X gồm tập hợp (x1,x2,…,xn) : tập đầu vào của các doanh nghiệp.

Bài toán (7) còn được gọi là mô hình DEACRS với giả định các doanh nghiệp hoạt động ở quy mô tối ưu4. Bài toán (7) được giải n lần, mỗi lần với một

doanh nghiệp. Giá trị θ được xác định cho từng doanh nghiệp, thỏa điều kiện θ ≤1,

với θ =1 là doanh nghiệp đạt hiệu quả hoàn toàn.

Mục đích của mô hình DEACRS là xác định điểm hiệu quả kỹ thuật5 của các

doanh nghiệp được khảo sát với giả định các doanh nghiệp hoạt động ở quy mô tối

4 Mô hình DEACRS còn được gọi là mô hình CCR. CCR là chữ viết tắt của tên các tác giả đã đề xuất mô hình: Charnes, Cooper và Rhodes. 5 Hiệu quả kỹ thuật được đo lường theo mô hình DEACRS còn gọi là hiệu quả kỹ thuật toàn bộ. Trong đề tài này, hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kỹ thuật toàn bộ có thể được sử dụng thay thế cho nhau.

ưu, đồng thời xác định phi hiệu quả kỹ thuật có thể xảy ra. Phi hiệu quả kỹ thuật là

28

lượng mà tất cả các đầu vào có thể giảm xuống mà không làm giảm đầu ra. Nguyên

nhân gây ra phi hiệu quả kỹ thuật có thể là do cơ cấu (configuration) giữa đầu vào

và đầu ra, do khả năng quản lý yếu hoặc do quy mô hoạt động.

Mô hình DEACRS chỉ phù hợp với điều kiện các doanh nghiệp hoạt động ở

quy mô tối ưu. Thực tế không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng hoạt động ở quy

mô tối ưu. Khi đó, mô hình DEACRS không còn phù hợp.

1.3.2. Mô hình DEAVRS và hiệu quả quy mô

Năm 1984, Banker, Charnes và Cooper đề xuất mô hình mở rộng của mô hình DEACRS là mô hình DEAVRS6 với giả định sản lượng thay đổi theo quy mô7.

Việc sử dụng các chỉ thị (specification) của mô hình DEACRS khi không phải tất cả

các DMU hoạt động ở quy mô tối ưu làm cho kết quả đo lường hiệu quả kỹ thuật

bao gồm cả hiệu quả quy mô. Trong khi đó, mô hình DEAVRS cho phép tính toán

hiệu quả kỹ thuật mà không có các tác động này của hiệu quả theo quy mô.

Mô hình DEAVRS được xây dựng bằng cách thêm điều kiện ∑λi =1 vào mô

hình (7) và có dạng:

min θ,

Với điều kiện: –yi + Yλ ≥0,

θxi – Xλ ≥0,

∑λi =1

λ ≥0 (8)

Giải bài toán (7) và (8) là đi tìm các giá trị θ và λ cho từng DMU với các dữ

liệu đầu vào và đầu ra cho trước.

Trong mô hình DEAVRS, độ đo hiệu quả kỹ thuật TE được phân rã thành

6 Mô hình DEAVRS còn được gọi là mô hình BCC. BCC là chữ viết tắt của tên các tác giả đã đề xuất mô hình: Banker, Charnes và Cooper. 7 Điều kiện VRS có nghĩa là khi tăng tất cả các yếu tố đầu vào lên một tỷ lệ nhất định a% thì đầu ra tăng lên tương ứng một tỷ lệ khác a%.

hiệu quả kỹ thuật thuần PE và hiệu quả theo quy mô SE. Chính sự phân rã hiệu quả

29

này giúp chúng ta biết được nguồn gây ra phi hiệu quả. Phi hiệu quả có thể từ phi

hiệu quả kỹ thuật thuần và phi hiệu quả quy mô.

Nếu hiệu quả quy mô bằng 1, điều đó có nghĩa là DMU hoạt động với quy

mô tối ưu và do đó tăng năng suất của các đầu vào không thể được cải thiện bằng

cách tăng hay giảm quy mô sản xuất. Hiệu quả quy mô bằng 1 chỉ khi doanh nghiệp

hoạt động trong điều kiện CRS. Nếu hiệu quả theo quy mô nhỏ hơn 1 chứng tỏ

DMU đang hoạt động với quy mô không tối ưu và tồn tại phi hiệu quả quy mô. Phi

hiệu quả quy mô có thể tồn tại trong điều kiện sản lượng tăng (IRS) hoặc sản lượng giảm (DRS) theo quy mô8.

So sánh kết quả khi giải bài toán (7) và (8) chỉ xác định doanh nghiệp có tồn

tại hiệu quả theo quy mô hay không nhưng không cho biết được doanh nghiệp đang

ở trong điều kiện sản lượng tăng theo quy mô hay sản lượng giảm theo quy mô.

Muốn biết điều này cần giải bài toán (8) với ràng buộc ∑λi ≤1:

min θ,

Với điều kiện : –yi + Yλ ≥0,

θxi – Xλ ≥0,

∑λi ≤1

λ ≥0 (9)

Áp dụng một bộ số liệu cho 2 mô hình DEACRS và DEAVRS sẽ xác định hiệu

quả theo mô hình DEACRS và DEAVRS9. Sự khác nhau giữa các điểm hiệu quả kỹ

thuật của một DMU cụ thể chứng tỏ DMU này có phi hiệu quả quy mô.

Đồ thị sau đây minh họa nội dung này. Trong Đồ thị 1.6, giả sử chúng ta có

một đầu ra và một đầu vào, đường DEACRS và DEAVRS. Theo mô hình DEACRS,

phi hiệu quả kỹ thuật theo đầu vào tại P là khoảng cách PPC trong khi theo mô hình

VRS phi hiệu quả kỹ thuật chỉ là đoạn PPV. Sự khác nhau giữa 2 điểm này là đoạn

PCPV gọi là phi hiệu quả quy mô. Chúng ta có thể biểu thị tất cả các tỷ lệ này như

8 Điều kiện IRS và DRS có nghĩa là khi tăng tất cả các yếu tố đầu vào lên một tỷ lệ nhất định a% thì đầu ra tăng lên tương ứng một tỷ lệ lớn hơn hoặc nhỏ hơn a%. 9 Các công thức (7) và (9) áp dụng cho khuynh hướng đầu vào. Khuynh hướng đầu ra áp dụng công thức tương tự.

sau:

30

y

CRS

VRS

PC

P

A

PV

TEI, CRS = APC/AP TEI, VRS = APV / AP SEI= APC/APv Hay: TEI, CRS = TEI, VRS x SEI = PE x SE

Đồ thị 1.6: Đường biên CRS và VRS

x

0

Hiệu quả kỹ thuật thuần phản ánh năng lực quản lý (managerial

performance) tổ chức các đầu vào trong quá trình sản xuất. Vì vậy, PE có thể được

sử dụng như là chỉ số để đo lường năng lực quản lý. Trong khi đó, hiệu quả quy mô

cho biết khả năng của ban quản trị chọn lựa quy mô tối ưu của các nguồn lực để xác

định quy mô của ngân hàng. Nói cách khác, hiệu quả quy mô cho biết sự chọn lựa

quy mô sản xuất để đạt được mức sản xuất mong đợi. Một quy mô không phù hợp

(quá lớn hay quá nhỏ) có thể là nguyên nhân gây ra phi hiệu quả kỹ thuật. Mô hình

DEACRS xác định hiệu quả kỹ thuật toàn bộ trong khi đó mô hình DEAVRS cho biết

hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô.

Điều kiện DRS ngụ ý rằng quy mô của ngân hàng quá lớn và ngân hàng có

thể cải thiện năng suất các yếu tố đầu vào và theo đó giảm các chi phí đơn vị bằng

cách giảm quy mô. Còn điều kiện IRS cho biết ngân hàng có thể cải thiện năng suất

các yếu tố đầu vào để giảm các chi phí đơn vị bằng cách tăng quy mô.

1.3.3 Chỉ số Malmquist và đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp

Năng suất được xem là lượng đầu ra trên một đơn vị đầu vào được sử dụng.

Có hai cách đo lường năng suất: dựa trên năng suất nhân tố riêng lẻ nhằm đo lường

năng suất riêng của từng nhân tố và dựa trên năng suất nhân tố tổng hợp TFP. Đối

31

với lĩnh vực ngân hàng là ngành hoạt động dịch vụ có nhiều mối quan hệ giữa nhiều

đầu ra và nhiều đầu vào, cách tiếp cận TFP là phù hợp hơn.

Năm 1953, Sten Malmquist – một nhà kinh tế học và thống kê học người Thụy

Điển - đã đề xuất sử dụng một chỉ số để đo lường sự thay đổi của TFP và sự thay

đổi của các thành phần hiệu quả có liên quan như: thay đổi hiệu quả kỹ thuật, thay

đổi tiến bộ công nghệ, thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần và thay đổi hiệu quả theo qui

mô, gọi là chỉ số thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp TFP - Malmquist. Dựa trên ý

tưởng của Malmquist, nhiều tác giả đã xây dựng các phương pháp khác nhau để đo

lường chỉ số năng suất tổng hợp, trong đó có phương pháp DEA. Coeli và các cộng

sự (1996) đã giới thiệu phương pháp phân tích thay đổi năng suất thông qua việc xác

định chỉ số thay đổi năng suất tổng hợp Malmquist bằng phương pháp DEA.

Chỉ số thay đổi năng suất tổng hợp đo lường sự thay đổi của tổng đầu ra so với

1  )

(10)

t y

1  ,

t t yx ,

đầu vào và được xác định bằng công thức:

)

t  1 xM ( , 0

1  ) 1  )

t  t  1 1 t xD y ( , 0 t t t ) yxD ,( 0

t 1  t t xD y ( , 0 t  1 t t  1 , xD ( y 0

t t t yxD ,( ) 0 t t t  1 ,( yxD ) 0

  

  

     

     

     

t

1 

t

1 

)

,

)

 1 t xD y ( , 0 t t t ( yxD 0

  

  

Trong đó: số hạng thứ nhất của vế phải đo sự thay đổi hiệu

quả tương đối giữa năm t và năm t+1 trong điều kiện hiệu quả không đổi theo qui

1  t y , t 1  , y

1  ) 1  )

t t xD ( 0  t 1 t xD ( 0

t t t yxD ,( ) 0 t t t  1 yxD ,( ) 0

     

     

     

mô. Số hạng thứ hai của vế phải thể hiện chỉ số

t

1 

t

1 

)

thay đổi kỹ thuật (TC), tức là sự thay đổi công nghệ giữa hai thời kỳ t và t+1, được đánh giá tại xt và xt+1, như vậy ta có:

(11)

,

)

t  1 xD y ( , 0 t t t ( yxD 0

  

  

t

 1

 1

t

t

TE =

,  1

, t

t

t

)  1 )

y y ,

) t )

t D x ( 0  t 1 D x ( 0

  

  

  

  

  

t t D x y ( 0  1 t D x y ( , 0 Tăng năng suất sẽ biểu thị bằng chỉ số Malmquist lớn hơn 1. Năng suất giảm

TC = (12)

sẽ gắn với việc chỉ số Malmquist nhỏ hơn 1. Ngoài ra, việc tăng lên trong mỗi bộ

32

phận của chỉ số Malmquist sẽ dẫn tới việc giá trị của bộ phận đó lớn hơn 1. Theo

định nghĩa, tích số của thay đổi hiệu quả kỹ thuật và thay đổi kỹ thuật sẽ bằng chỉ số

Malmquist, những thành phần này có thể thay đổi ngược chiều nhau.

TFP = TE x TC

Trong đó: TE = PE x SE

Kết luận Chương 1

Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động của NHTMCP và lý

thuyết về phương pháp DEA.

Phần cơ sở lý luận đã hệ thống hóa các khái niệm cơ bản về hiệu quả, các nhân

tố ảnh hưởng đến hiệu quả và một số phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của

NHTMCP. Khái niệm hiệu quả hoạt động của NHTMCP gắn liền với khả năng biến

các nguồn lực đầu vào thành các đầu ra của một ngân hàng nhằm đạt được một mục

tiêu xác định. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP bao

gồm các nhân tố bên trong và bên ngoài. Những nhân tố này rất đa dạng và ảnh

hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Hai phương pháp thường

sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng là phương pháp sử dụng các

chỉ tiêu tài chính và phương pháp tiếp cận hiệu quả biên. Phương pháp tiếp cận hiệu

quả biên có thể được thực hiện thông qua tiếp cận tham số và tiếp cận phi tham số.

Cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số thường được gọi là phương pháp phân tích

bao dữ liệu DEA.

Phần lý thuyết về phương pháp DEA trình bày chi tiết các mô hình DEACRS,

DEAVRS với phần minh họa hình học và các công thức đại số. Thực chất các mô

hình này là các bài toán nhằm ước lượng hiệu quả đạt được của các ngân hàng dựa

vào tập các dữ liệu đầu ra và đầu vào cho trước. Mô hình DEACRS cho phép xác

định hiệu quả kỹ thuật toàn bộ, trong khi mô hình DEAVRS đo lường hiệu quả kỹ

thuật thuần và hiệu quả quy mô.

Ngoài ra, Chương 1 cũng đề cập đến việc đo lường chỉ số năng suất tổng hợp

TFP bằng phương pháp DEA. Thông qua việc phân tích chỉ số năng suất tổng hợp

33

TFP thành các thành phần hiệu quả, có thể xác định nguyên nhân dẫn đến tăng hay

giảm năng suất. Năng suất tăng khi chỉ số TFP lớn hơn 1 và ngược lại.

34

CHƯƠNG 2

ÁP DỤNG MÔ HÌNH DEA ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

VIỆT NAM

2.1. Thực trạng họat động của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

giai đoạn 2008 - 2011

Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam có nhiều bất ổn

ảnh hưởng đến hoạt động của NHTMCP.

Đồ thị 2.1: Tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2008-2011

(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước qua các năm)

Năm 2008, tăng trưởng kinh tế thế giới giảm mạnh so với năm 2007 (3,4%

so với 4,9%) và có những xu hướng biến động khó lường. Lạm phát gia tăng trong 6

tháng đầu năm và giảm phát trong 6 tháng cuối năm cùng với suy thoái kinh tế toàn

cầu. Suy thoái kinh tế sâu tiếp tục kéo dài sang năm 2009 và hậu quả là kinh tế thế

giới giảm 0,8%. Nhờ những biện pháp cứu trợ kinh tế được thực hiện từ cuối năm

2008 của nhiều quốc gia trên thế giới, những tháng cuối năm 2009 và năm 2010,

kinh tế thế giới dần phục hồi và đạt mức tăng trưởng 5%. Đây là mức tăng trưởng

35

cao nhất trong giai đoạn 2008-2011. Tuy nhiên, sự phục hồi còn tiềm ẩn nhiều rủi

ro khi thất nghiệp tiếp tục tăng cao, áp lực lạm phát gia tăng và đặc biệt là vấn đề nợ

công. Những nhân tố này đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới trong năm 2011 và

đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới còn 3,8%.

Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011 chịu tác động của khủng hoảng

kinh tế thế giới và biến động không ngừng. Áp lực lạm phát gia tăng trong 6 tháng

đầu năm 2008 và Chính phủ đã điều chỉnh từ mục tiêu tăng trưởng sang mục tiêu ổn

định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; thực hiện các nhóm giải pháp nhằm ngăn

chặn suy thoái. Nhờ vậy, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2008 đạt mức 6,18%.

Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới sâu tác động tiêu cực đến

cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời thiên tai, dịch bệnh

trong nước liên tiếp xảy ra làm suy giảm đà tăng trưởng nền kinh tế còn 5,32%.

Năm 2010, nhờ sự phục hồi của cầu trong nước và xuất khẩu đẩy tăng trưởng kinh

tế Việt Nam lên 6,78% và đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2008-2011. Tuy vậy,

kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát, nhập siêu gia

tăng và bội chi ngân sách nhà nước vẫn ở mức cao. Thêm vào đó, Chính phủ điều

hành chặt chẽ các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế

vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội làm cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại ở

mức 5,89% vào năm 2011.

Mặc dù có những biến động về kinh tế, nhưng sự ổn định về chính trị ở

Việt Nam cùng với việc hoàn thiện dần khung pháp lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho

sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam theo cơ chế thị trường và phù hợp với

chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Các quan điểm và nguyên tắc cơ bản cho hoạt động

của hệ thống ngân hàng được luật hóa trong Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các

tổ chức tín dụng năm 2010 (thay thế Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức

tín dụng năm 1997) và các văn bản pháp lý khác. Đặc biệt, theo cam kết khi Việt

Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, năm 2008, ngân hàng 100% vốn nước

ngoài được cho phép thành lập tại Việt Nam.

36

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển cả về số lượng và chất

lượng so với những năm trước đó. Số lượng các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến

năm 2011 như sau:

Bảng 2.1: Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2011

Năm 2007 2008 2009 2010 2011

Loại ngân hàng

1. NHTM Nhà nước 5 5 5 5 5

2. NH phát triển 1 1

3. NH chính sách xã hội 1 1 1 1 1

4. NHTMCP 34 40 37 37 35

5. NH liên doanh 5 5 5 5 4

6. Chi nhánh NH nước ngoài 41 39 40 48 50

7. NH 100% vốn nước ngoài 5 5 5 5

Tổng cộng 86 95 93 102 101

(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước qua các năm)

Đến cuối năm 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm 101 ngân hàng: 1

ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 NHTM nhà nước, 35 NHTM

cổ phần, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và

4 ngân hàng liên doanh. Tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng cho nền kinh

tế tăng trưởng bình quân hơn 29%/năm và đến cuối năm 2010 tương đương khoảng 116% tổng sản phẩm quốc nội10.

Các NHTMCP Việt Nam dần dần nâng cao hiệu quả, khẳng định vị trí của

mình và hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính quốc tế. Thực trạng hoạt động

của các NHTMCP Việt Nam được đánh giá qua các mặt cụ thể như sau:

2.1.1. Về năng lực tài chính

10 Số liệu trích trong tài liệu “ Hoạt động kinh doanh ngân hàng năm 2011” , Nguyễn Đức Hoàn, Thời báo kinh tế Việt Nam 2011-2012.

2.1.1.1. Mức độ an toàn và khả năng huy động vốn, cho vay

37

Là một thành phần chủ yếu của vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ trong toàn hệ

thống ngân hàng đã tăng nhanh theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày

22/11/2006 của Chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ

chức tín dụng thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Đến năm 2011, quy mô vốn

điều lệ của các ngân hàng thương mại đáp ứng quy định mức vốn tối thiểu 3000 tỷ

đồng. Đặc biệt, khối NHTMCP có sự gia tăng nhanh chóng về quy mô vốn điều lệ

với tốc độ tăng trưởng vốn điều lệ cao nhất là 57,95% vào năm 2008.

Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu về năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng

Việt Nam giai đoạn 2008-2011

Đơn vị tính: %

Năm 2008 2009 2010 2011

Chỉ tiêu

1. Tăng trưởng vốn điều lệ

Khối TCTD nhà nước 31,52 14,42 40,04 13,05

Khối NHTMCP 57,95 35,58 43,30 15,86

23,38 37,53 32,4 14,33 2. Tăng trưởng dư nợ tín dụng

Khối TCTD nhà nước 20,85 28,27 24,53 15,10

Khối NHTMCP 17,97 66,06 45,29 13,62

3. Tăng trưởng tổng tài sản

Khối TCTD nhà nước 23,80 20,81 24,07 14,95

Khối NHTMCP 27,59 61,15 58,22 23,14

(Nguồn: Tạp chí Thị trường Tài chính, số 3+4 tháng 2-2013)

Về phương diện mức độ an toàn vốn, theo Nguyễn Đức Hoàn (2012), đến

năm 2010, nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đạt mức tỷ lệ bảo đảm vốn tự có

tối thiểu CAR trên 8%. Thông tư số 13/2010/ TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Ngân

hàng nhà nước nâng quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9%. Điều này tiếp tục là

một áp lực lớn cho các NHTM. Mặc dù vậy, các NHTMCP đều cố gắng để đạt tỷ lệ

an toàn vốn tối thiểu theo quy định.

38

Tuy nhiên, theo Lê Thu Hằng và Đỗ Thị Bích Hồng (2010), nếu so sánh với

mức bình quân năm 2009 của các ngân hàng khu vực châu Á Thái Bình Dương

(gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) là 13,1% và của các ngân hàng của các nước

châu Á mới nổi (gồm 14 ngân hàng Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) với

tỷ lệ 12,3% thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn

thấp hơn.

Quy mô vốn điều lệ và quy mô vốn chủ sở hữu tăng ảnh hưởng đến tăng

trưởng huy động vốn. Theo Báo cáo của Ngân hàng nhà nước, huy động vốn của hệ

thống ngân hàng liên tục tăng trong giai đoạn 2008-2011 nhưng tốc độ tăng không

đồng đều giữa các năm. Tăng trưởng huy động vốn đạt mức cao nhất vào năm 2010

và thấp nhất vào năm 2011.

Bảng 2.3: Tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam

giai đoạn 2008-2011

Đơn vị tính: %

Năm 2008 2009 2010 2011

Tăng trưởng huy động vốn 22,84 29,88 36,2 12,4

của hệ thống ngân hàng

(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước từ năm 2008-2011)

Cũng theo Báo cáo của Ngân hàng nhà nước, thị phần huy động vốn diễn

biến theo hướng tỷ trọng huy động vốn của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước

giảm, tăng thị phần huy động vốn của các NHTMCP và các tổ chức tín dụng khác.

Đến cuối năm 2011, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng chính

sách xã hội có thị phần huy động vốn chiếm 43,92%, giảm so với mức 45,29% của

năm 2010; nhóm NHTMCP và các tổ chức tín dụng khác chiếm 56,08%, tăng cao

so với mức 54,71% cuối năm 2010.

Diễn biến xu hướng huy động vốn cũng đồng thời xảy ra với xu hướng tín

dụng của nền kinh tế. Theo số liệu ở Bảng 2.2, tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế

của hệ thống ngân hàng gia tăng liên tục qua các năm nhưng tốc độ tăng khác nhau.

Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế đạt mức cao nhất vào năm 2009 và thấp

39

nhất vào năm 2011. Trong đó, khối NHMCP có mức tăng trưởng dư nợ tín dụng cao

hơn khối TCTD nhà nước và đạt mức cao nhất vào năm 2009, thấp nhất vào năm

2011.

Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2012); trong toàn hệ thống, tăng trưởng huy

động vốn vẫn ở mức thấp so với tăng trưởng tín dụng (ngoại trừ năm 2010). Thực tế

này đã dẫn đến tỷ lệ tín dụng trên huy động của hệ thống vẫn ở mức cao (trên

100%) và cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (Thái Lan: 95,8%,

Malaysia: 79,3%, Indonesia: 75,5%, Philippin: 72,6%). Chênh lệch tín dụng- huy

động không được cải thiện là nguyên nhân chính khiến mặt bằng lãi suất cho vay

tiếp tục duy trì ở mức cao trong cả năm 2011.

2.1.1.2. Về chất lượng tài sản có

Cùng với sự gia tăng vốn điều lệ, quy mô tài sản có của hệ thống ngân hàng

cũng đã có sự gia tăng vượt bậc trong giai đoạn 2008-2011. Số liệu ở Bảng 2.2 cho

thấy khối NHTMCP có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản cao hơn khối tổ chức tín

dụng nhà nước và đạt mức cao nhất vào năm 2009, thấp nhất vào năm 2011.

Tuy nhiên, chất lượng tài sản có là vấn đề cần quan tâm. Chỉ tiêu thường sử

dụng để đánh giá chất lượng tài sản có là tỷ lệ nợ xấu. Theo Hoàng Xuân Hoà và

Trần Kim Anh (2013), nợ xấu có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008. Năm 2008, nợ

xấu của các tổ chức tín dụng tăng 74%, năm 2009 tăng 27%, năm 2010 tăng 41% và

năm 2011 tăng 64%. Nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng năm 2011 tăng mạnh

lên mức 3,72% từ mức 2,29% của năm 2010. Riêng khối NHTMCP, năm 2011, nợ

quá hạn tăng lên nhưng tỷ lệ nợ xấu lại giảm xuống so với năm 2010.

Bảng 2.4: Nợ quá hạn và nợ xấu trong toàn hệ thống năm 2010-2011

Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011

1. Nợ quá hạn/ tổng dư nợ (%) 7,77 11,09

Trong đó:

- NHTMNN 10,43 13,36

- NHTMCP 3,73 6,43

- NHTM liên doanh, nước ngoài 4,66 5,76

40

- Công ty tài chính và cho thuê tài chính 21,06 40,85

2,29 3,72 1. Nợ xấu / tổng dư nợ (%)

Trong đó:

- NHTMNN 2,95 2,16

- NHTMCP 2,3 1,87

- NHTM liên doanh, nước ngoài 1,86 1,2

- Công ty tài chính và cho thuê tài chính 34,5 11,38

(Nguồn: Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012)

Tăng trưởng tín dụng suy giảm. Nợ xấu cao tập trung chủ yếu vào lĩnh vực

bất động sản và chứng khoán. Nợ xấu cao chủ yếu do một số nguyên nhân cơ bản

như: Tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các NHTMCP còn nhiều hạn

chế; chạy đua tăng trưởng tín dụng trong thời gian dài cùng với việc nới lỏng điều

kiện cho vay khiến nợ xấu tăng cao; hiệu quả công tác thanh tra, giám sát còn hạn

chế; tác động của kinh tế thế giới phục hồi chậm và kinh tế trong nước tăng trưởng

chậm lại làm cho doanh nghiệp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho

cao, không còn khả năng trả nợ ngân hàng.

Mặc khác, trong danh mục tài sản của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn vẫn là

hoạt động tín dụng. Điều này cho thấy các ngân hàng chưa thực sự đa dạng hóa sản

phẩm. Theo Nguyễn Thị Nhung (2013), trong tổng tài sản của các ngân hàng, tỷ

trọng dư nợ cho vay vẫn cao và có xu hướng tăng: năm 2008 tỷ lệ này là 76,6%,

2009 là 81,7% và năm 2010 là 83,8%. Mặc dù các ngân hàng đã quan tâm đến các

dịch vụ khác nhưng thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm khoảng 60-70%

trong tổng thu nhập của các ngân hàng.

2.1.1.3. Về khả năng sinh lời

Theo nhận định của tác giả Tô Ngọc Hưng và Nguyễn Đức Trung (2012), mức sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam11 thể hiện qua chỉ số

11 Đối với một số chỉ tiêu, tác giả không thu thập được số liệu riêng của khối NHTMCP nên sử dụng chung số liệu của các tổ chức tín dụng hoặc của cả hệ thống NHTM để đánh giá.

ROE và ROA đều ở mức cao trong cả giai đoạn 2005-2010. Năm 2011, chỉ số ROE

41

của nhiều ngân hàng chủ yếu từ 10 đến 15%, cao hơn các ngành khác. Tuy nhiên

mức sinh lời của ngành ngân hàng có xu hướng giảm dần so với các năm trước.

Tính đến tháng 10/2011, ROA (tính theo lợi nhuận trước thuế) và ROE của toàn hệ

thống ngân hàng là 1,02% và 10,4%.

Khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng thấp

hơn khi so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ ROA và ROE

của một số nước Châu Á năm 2010 như sau: Indonesia là 3,1% và 25,9%, Malaysia

là 1,8% và 18,9%, Philippinies là 1,6% và 13,3%, Thái Lan là 1,1% và 13,6% .

Những số liệu trên đây có thể cho thấy khả năng sinh lời của hệ thống ngân

hàng Việt Nam chưa tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô hoạt động,

đồng thời ở mức thấp so với các ngân hàng trong khu vực.

Một số chuyên gia còn đánh giá kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng

không thực chất, lợi nhuận của ngành ngân hàng có khả năng sẽ suy giảm nhanh

trong thời gian tới. Nguyên nhân chính là do cơ cấu thu nhập của hệ thống ngân

hàng chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Trong bối cảnh nợ xấu gia tăng và hoạt động

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng thì nhiều ngân hàng sẽ đối

mặt với nguy cơ thua lỗ.

2.1.1.4. Về tính thanh khoản

Tăng trưởng tín dụng cao liên tục trong 3 năm 2008-2010 cộng với tiền gửi

suy giảm trong toàn bộ nền kinh tế đã gây ra những hệ lụy cho thanh khoản năm

2011, đẩy lãi suất tiếp tục lên cao.

Thực tế là các ngân hàng thương mại không dễ dàng xử lý vấn đề thanh

khoản khi đã cấp nhiều khoản tín dụng bất động sản trong các năm trước đây. Bên

cạnh đó, cuộc đua lãi suất năm 2011 cho thấy những khó khăn về thanh khoản của

hệ thống và phản ánh qua mức lãi suất qua đêm lên đến hơn 20% vào đầu tháng

10/2011. Các ngân hàng đã sẵn sàng trả lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn và

phải huy động vốn bằng mọi giá để giải tỏa tạm thời vấn đề căng thẳng về luồng

tiền. Hiện tượng nhiều cán bộ ngân hàng phải đi tiếp thị trực tiếp khách hàng để huy

42

động vốn tiết kiệm cũng là một biểu hiện khác của sự căng thẳng thanh khoản trong

thời gian này.

2.1.2. Về năng lực công nghệ

Năng lực công nghệ thể hiện ở trình độ trang thiết bị máy móc, công nghệ và

năng lực khai thác trang thiết bị công nghệ.

Đầu tư đổi mới công nghệ là vấn đề sống còn trong việc nâng cao hiệu quả

của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo tính toán và kinh nghiệm của các

ngân hàng nước ngoài, trích trong Nguyễn Thị Quý (2005), công nghệ thông tin có

thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Trong thời gian qua, các ngân hàng

luôn chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ và ngành ngân hàng được

xem là một trong những ngành dẫn đầu về công nghệ thông tin so với các ngành

khác.

Với sự thành công của Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

do Ngân hàng thế giới tài trợ, công nghệ của các ngân hàng thương mại tiếp tục

được nâng cấp. Hệ thống thanh toán không ngừng phát triển theo hướng hiện đại,

phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Số lượng máy ATM và POS được trang bị không

ngừng tăng lên qua các năm, tạo điều kiện giảm tải các giao dịch tại các ngân hàng,

nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng cá nhân và phát triển dịch vụ thẻ ngân

hàng.

Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về năng lực công nghệ

của các NHTM Việt Nam qua các năm

Năm 2008 2009 2011

Chỉ tiêu

1. Số thẻ phát hành

Số lượng thẻ (triệu) 14 21,5 41

Tốc độ tăng (%) 36 54 91

2. Số lượng máy ATM

Số lượng (máy) 7.600 9.700 13.300

Tốc độ tăng (%) 28 37

43

3. Số lượng POS

Số lượng (POS) 25.000 34.000 70.000

Tốc độ tăng (%) 36 106

(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước qua các năm)

Bên cạnh đó, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và hệ thống thanh

toán bù trừ điện tử cũng phát triển mạnh mẽ. Đến cuối năm 2011, hệ thống thanh

toán điện tử liên ngân hàng được kết nối với 96 TCTD thành viên. Hệ thống thanh

toán bù trừ điện tử được triển khai tại 58 tỉnh với tổng số hơn 1000 thành viên.

Hệ thống quản trị ngân hàng tập trung (corebanking) đã được sử dụng phổ

biến ở phần lớn các ngân hàng, giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của hoạt động nội

bộ ngân hàng như kế toán thanh toán, quản trị rủi ro, đánh giá xếp hạng tín dụng

khách hàng,.. Các dữ liệu trong hoạt động được nối mạng trực tuyến giữa các bộ

phận tại trụ sở chính và chi nhánh, đảm bảo kiểm soát, phát hiện kịp thời các vấn đề

phát sinh trong hoạt động.

Năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở trình độ hiện đại của trang thiết bị

máy móc và công nghệ mà còn thể hiện ở khả năng khai thác các trang thiết bị công

nghệ. Đồng thời với việc lắp đặt, triển khai các thiết bị công nghệ hiện đại, các ngân

hàng đã triển khai hàng loạt các khóa đào tạo, hướng dẫn sử dụng thiết bị công nghệ

cho hầu hết nhân viên ngân hàng.

Mặc dù vậy, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các ngân hàng Việt Nam

chú trọng đầu tư vào các thiết bị tốt nhất song chưa khai thác hết công suất, trọn vẹn

chức năng. Các ngân hàng thường chỉ cung cấp các dịch vụ ngân hàng trực tuyến

đơn giản, tập trung giao tiếp với nội bộ, chưa phát triển các kênh khác.

2.1.3. Về nguồn nhân lực

Các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại thường rất đa dạng và phong

phú. Do đó, những yêu cầu về kỹ năng, trình độ, kiến thức đối với đội ngũ nhân

viên làm việc cho ngành ngân hàng cũng rất đa dạng. Tùy thuộc vào loại hình

nghiệp vụ chuyên môn cũng như cấp độ công việc mà người nhân viên cần phải có

những kỹ năng, kiến thức, phẩm chất nhất định.

44

Theo đánh giá của Quy hoạch phát triển nhân lực ngành ngân hàng giai đoạn

2011-2020, thực trạng nguồn nhân lực đến năm 2011 được thể hiện qua các số liệu

thống kê như sau:

- Phân chia theo cấp bậc đào tạo: số có trình độ sau đại học (thạc sỹ, tiến sỹ)

là 5.433 người, chiếm tỷ lệ 3,1%. Trong đó, chuyên ngành tài chính- ngân hàng là

2.364 người (1,35%), chuyên ngành khác 3.069 người (1,75%). Nhân lực có trình

độ đại học là 114.006 người (65,05%). Trong đó, chuyên ngành tài chính – ngân

hàng là 53.735 người (30,66%), chuyên ngành khác là 60.271 người (34,39%). Số

liệu này cho thấy nhân lực qua đào tạo chuyên môn có trình độ đại học trở lên khá

cao (gần 70%), tuy nhiên tỷ lệ được đào tạo chuyên ngành ngân hàng lại thấp hơn

đào tạo ở các ngành khác. Cụ thể, tỷ lệ nhân lực có trình độ sau đại học ngành tài

chính – ngân hàng là 1,35%, ngành khác là 1,75%; đại học ngành tài chính – ngân

hàng là 30,66%, ngành khác là 34,39%. Tương tự như vậy đối với bậc cao đẳng và

trung cấp là 3,12% và 4,41%; 4,05 và 7,1%.

- Nhân lực trong ngành ngân hàng tương đối trẻ: lao động có độ tuổi dưới 30

chiếm 60,11%, từ 30-50 tuổi chiếm 35,05% và trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ rất nhỏ

4,84%.

Với cơ cấu tuổi và trình độ nguồn nhân lực như vậy, ngành ngân hàng không

gặp phải tình trạng hụt hẫng nguồn nhân lực lớn. Điều đáng nói là năng lực và trình

độ của học viên sau khi tốt nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu

ngày càng cao của các hoạt động trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là yêu cầu về hội

nhập kinh tế quốc tế như thiếu kiến thức thực tế, khả năng ngoại ngữ hạn chế, kỹ

năng thực hành chưa cao. Những nhân tố này làm ảnh hưởng đến năng suất lao

động của ngành ngân hàng nói chung và NHTMCP nói riêng.

Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2012), năng suất lao động của

Việt Nam chỉ bằng khoảng 68,8% so với năng suất lao động của nhóm nước có thu

nhập trung bình thấp, bằng 57,8% so với Trung Quốc, khoảng 34,2 và 22% so với

Thái Lan và Malaysia. Năng suất lao động thấp cũng đúng trong ngành ngân hàng,

làm giảm hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.

45

Đặc biệt, sự thiếu hụt ngày càng trầm trọng đối với đội ngũ nhân sự cấp cao

trong ngành ngân hàng. Theo ý kiến của một số chuyên gia, ba vị trí khó tuyển và

thiếu hụt nghiêm trọng nhất là chuyên gia quản lý rủi ro, quản lý cấp trung và

chuyên gia tài chính đầu tư. Nếu không thể phát triển nguồn cung, ngân hàng sẽ

phải chấp nhận “nhập khẩu” chuyên gia cho các vị trí này. Việc vốn nhân lực chảy

quanh từ ngân hàng nọ sang ngân hàng kia cũng sẽ là điều khó tránh khỏi.

Đạo đức của nhân viên ngân hàng cũng là một trong những khía cạnh khác

phản ánh chất lượng nguồn nhân lực. Vài năm trở lại đây, hàng loạt các vụ án hình

sự liên quan đến sai phạm trong hoạt động ngân hàng liên tiếp xảy ra. Số liệu của

Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, trích trong

Nguyễn Thùy Trang (2012) cho thấy, trong 2 năm 2010-2011, đã xử lý 69 vụ án,

khởi tố 40 vụ, liên quan đến 70 cán bộ ngân hàng. Các vụ án xảy ra đều do sự yếu

kém về trình độ chuyên môn, về đạo đức, trách nhiệm quản trị, quản lý của cán bộ

ngân hàng.

Bên cạnh đó, các chính sách thu hút và giữ chân nhân lực giỏi cũng ảnh

hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Hiện nay, nhiều NHTMCP đã áp

dụng cơ chế trả lương theo hiệu quả lao động, kết hợp với trả lương theo hệ số

thâm niên như trước đây, nhằm khuyến khích người lao động làm việc tốt hơn.

Việc trả lương thưởng được phân bố đều theo thời gian chứ không dồn vào cuối

năm tạo được sự gắn kết với ngân hàng. Hình thức thu nhập cũng được đa dạng hóa

bằng cổ phiếu, bảo hiểm,… chứ không chỉ bằng tiền mặt.

2.1.4. Về năng lực quản trị

Trước hết, cần phải đề cập đến cơ cấu tổ chức bộ máy. Các NHTMCP đều

hoạt động theo loại hình công ty cổ phần và tổ chức bộ máy theo mô hình hỗn hợp

trực tuyến chức năng. Mô hình này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp hoạt

động giữa các bộ phận để hoàn thành mục tiêu chung, bảo đảm sự thích nghi theo

yêu cầu của khách hàng, đồng thời vẫn tiết kiệm được chi phí.

Yếu tố cốt lõi trong năng lực quản trị là đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Đội ngũ

lãnh đạo, quản lý của các NHTMCP phần đông đều là những người có trình độ sau

46

đại học và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng. Họ ý thức rất rõ những

áp lực trong ngành ngân hàng và chủ động đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động

của ngân hàng. Những quyết định về đầu tư công nghệ, đổi mới phương thức quản

lý và tổ chức ngân hàng là những minh chứng rõ nét nhất cho sự thay đổi này. Tuy

nhiên, do hoạt động NHTMCP rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro và ngành ngân

hàng Việt Nam vẫn còn non trẻ so với các nước khác nên năng lực quản trị của các

ngân hàng còn nhiều bất cập so với quy mô và tốc độ tăng trưởng. Nợ xấu gia tăng,

thanh khoản căng thẳng, đạo đức của một số nhân viên suy giảm là những biểu hiện

bề nổi của năng lực quản trị yếu kém. Hệ thống quản trị, nhất là hệ thống quản lý

rủi ro, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ chưa đạt hiệu quả cao.

Trong giai đoạn 2008-2011, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có

những bước phát triển khá mạnh. Tổng tài sản của các ngân hàng thương mại liên

tục tăng, dịch vụ thẻ ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, theo tác giả Quách

Mạnh Hào (2012), tỷ lệ bao phủ của hệ thống ngân hàng vẫn còn ở mức thấp (năm

2009 có 20% dân số có tài khoản ngân hàng và một nửa trong số đó sử dụng dịch vụ

ngân hàng). Tỷ trọng dư nợ tín dụng so với tổng sản phẩm trong nước mặc dù đã

tăng lên từ 70% năm 2007 lên mức 116% năm 2010 (năm 2012 là 130%) nhưng vẫn

ở mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các quốc gia trên thế giới (khoảng

200%). Có thể nói vẫn còn nhiều khoảng trống giữa khả năng đáp ứng và nhu cầu

thực tế .

2.2. Một số điểm mạnh và yếu của ngân hàng thương mại cổ phần Việt

Nam

2.2.1. Một số điểm mạnh

Mặc dù ra đời sau các NHTMCP nhà nước nhưng các NHTMCP đã có sự

phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây và thu hút sự chú ý của các nhà đầu

tư.

Trước hết, các NHTMCP có tốc độ tăng trưởng nhanh và tỷ suất lợi nhuận

cao. Tốc độ tăng trưởng vốn điều lệ bình quân của các NHTMCP trong giai đoạn

47

2008-2011 là 38%, trong khi đó tỷ lệ này đối với ngân hàng thương mại nhà nước là

25%.

Số liệu vốn điều lệ của 15 NHTMCP thể hiện trong Phụ lục 1 cho thấy, đến

cuối năm 2011, quy mô vốn điều lệ của Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu và Sài

Gòn Thương tín là lớn nhất với số vốn điều lệ hơn 10.000 tỷ đồng. Các ngân hàng

có vốn điều lệ khoảng 3.000 tỷ đồng gồm NHTMCP Phát triển nhà TP.Hồ Chí

Minh, NHTMCP Nam Việt và NHTMCP Phương Tây.

Về phương diện tổng tài sản, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân của

các NHTMCP rất cao. Số liệu Phụ lục 2 cho thấy Ngân hàng Phát triển Mê Kông có

tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân cao nhất giai đoạn 2008-2011 với 149%

và thấp nhất là NHTMCP Sài Gòn Thương tín với 23,28%. Nếu xét quy mô tổng tài

sản thì đến năm 2011, 5 NHTMCP có quy mô tổng tài sản lớn nhất là Á Châu

(281.019 tỷ đồng), Xuất nhập khẩu (183.567 tỷ đồng), Kỹ thương (180.531 tỷ

đồng), Sài gòn Thương tín (140.137 tỷ đồng) và Quân đội (138.831 tỷ đồng). Ngân

hàng có quy mô tổng tài sản thấp nhất dưới 20.000 tỷ đồng là NHTMCP Phát triển

Mê Kông.

Về khả năng sinh lời, hầu hết các ngân hàng đều có tỷ suất sinh lời ROAA

bình quân của cả giai đoạn hơn 1%. Các NHTMCP có ROAA hơn 2% bao gồm:

Phát triển Mê Kông, Kỹ thương và Phương Tây. Các NHTMCP có ROAA thấp hơn

1% bao gồm: Phát triển nhà TP. Hồ Chí Minh, Nam Việt, Đại Dương và Phương

Nam.

Trong khi đó, tỷ suất ROEA của các NHTMCP cao hơn nhiều lần so với

ROAA. Ngân hàng TMCP Á châu và NHTMCP Kỹ thương có tỷ suất ROEA bình

quân cao nhất hơn 26%. Các NHTMCP có tỷ suất ROEA bình quân thấp dưới 10%

gồm: An Bình, Phát triển nhà TP.HCM, Nam Việt, Phương Nam và Phương Tây.

Một điểm mạnh khác của các NHTMCP là đội ngũ nhân viên trẻ, năng động,

tận tâm phục vụ khách hàng. Cơ chế tuyển dụng công khai, cơ chế trả lương phù

hợp của các NHTMCP luôn tạo điều kiện cho nhân viên phát huy năng lực trong

công việc. Số lượng nhân viên làm việc tại các ngân hàng có xu hướng tăng nhanh

48

trong giai đoạn 2008-2011. Số liệu từ Phụ lục 6 cho thấy đến năm 2011, 2 ngân

hàng có số lượng nhân viên cao nhất là Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín với

9.596 nhân viên và Ngân hàng TMCP Á Châu với 8.613 nhân viên. Ngân hàng có

số lượng nhân viên thấp nhất là Ngân hàng TMCP Phương Tây với 913 nhân viên.

Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông có tốc độ tăng nhân viên cao

nhất, tăng gần gấp 5 lần trong 4 năm (năm 2008 là 282 nhân viên, đến năm 2011 là

1.356 nhân viên).

Các NHTMCP cũng rất quan tâm đến việc đổi mới, nâng cao công nghệ

ngân hàng, tìm cách phát triển các dịch vụ mới đáp ứng các yêu cầu của khách

hàng.

2.2.2. Một số điểm yếu

Mặc dù trong những năm gần đây, các NHTMCP luôn tìm cách tăng vốn

nhưng vốn chủ sở hữu của các NHTMCP vẫn ở mức thấp so với các ngân hàng

thương mại nhà nước. Tính đến năm 2011, tổng vốn chủ sở hữu của 4 NHTMCP

hàng đầu là Á Châu, Kỹ Thương, Xuất nhập khẩu và Sài Gòn Thương tín đạt

54.711 tỷ đồng; kém hơn 2 lần so với tổng vốn chủ sở hữu của 4 ngân hàng thương

mại nhà nước là Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngoại thương, Công thương,

Đầu tư và phát triển (120.254 tỷ đồng).

Nhận thức rõ vai trò của công nghệ trong hoạt động của ngân hàng, nhiều

ngân hàng đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, tốc độ phát triển công

nghệ thông tin còn chậm, chưa đồng đều giữa các ngân hàng nên khó khăn trong

việc liên kết các hệ thống với nhau nhằm hợp tác khai thác các dịch vụ lẫn nhau. Hạ

tầng công nghệ thông tin của các NHTMCP Việt Nam chưa được khai thác triệt để.

Chẳng hạn, các NHTMCP Việt Nam đang sử dụng nhiều hệ thống corebanking

khác nhau như: T24, I-flex, TCBS… gây khó khăn trong việc tích hợp công nghệ.

Số liệu ở Phụ lục 5 cho thấy tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP có xu hướng

tăng trong giai đoạn 2008-2011. Nợ xấu có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó

có nguyên nhân do yếu kém về năng lực quản trị.

49

Với mô hình tổ chức và quản lý hiện tại với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản

trị và cấp quản lý kinh doanh. Cấp quản trị là hội đồng quản trị thực hiện chức năng

quản lý đối với mọi hoạt động của ngân hàng thương mại, chịu trách nhiệm bảo

toàn và phát triển vốn, ban hành điều lệ, các cơ chế, quy chế tổ chức và hoạt động

của ngân hàng. Cấp quản lý kinh doanh là ban điều hành gồm tổng giám đốc, các

phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và các phòng ban tham mưu giúp việc tại hội sở

chính. Trên thực tế, vai trò của hội đồng quản trị và ban điều hành ở một số

NHTMCP chưa được phân tách rõ ràng. Do vậy, hội đồng quản trị có thể bị rơi vào

trường hợp hoặc là không tập trung được các luồng thông tin chủ yếu về hoạt động

của ngân hàng để xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược và các quyết định

phòng ngừa rủi ro; hoặc lại tham gia quá sâu vào hoạt động thường ngày của các

hoạt động quản lý.

Ngoài ra, việc liên kết giữa các bộ phận, các quyết định giữa các phòng ban

nghiệp vụ còn chưa chặt chẽ. Các NHTMCP còn lúng túng trong việc hoạch định

chiến lược phát triển dài hạn, chưa có một chiến lược phát triển và chiến lược sản

phẩm cụ thể riêng biệt cho từng ngân hàng. Điều này dẫn đến các NHTMCP gần

như giống nhau về chiến lược, cạnh tranh trên cùng địa bàn, cùng loại sản phẩm nên

mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt và có thể dẫn đến những hành vi cạnh tranh

không làmh mạnh.

Trong cơ cấu thu nhập, thu nhập lãi vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu

nhập của các NHCMCP. Số liệu ở Phụ lục 7 cho thấy bình quân thu nhập lãi chiếm

khoảng 90% tổng thu nhập của các NHTMCP.

Thêm vào đó, năng lực quản trị rủi ro của các NHTMCP Việt Nam được các

chuyên gia đánh giá chỉ ở mức trung bình, trong khi tăng trưởng tín dụng nhanh dẫn

đến nợ xấu gia tăng làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Quản trị

rủi ro tại các NHTMCP vẫn còn đang trong quá trình xây dựng nên bọc lộ nhiều hạn

chế.

Đội ngũ nhân viên trẻ, tận tâm trong công việc nhưng thiếu những chuyên

gia cao cấp, có tầm nhìn chiến lược để hoạch định những kế hoạch dài hạn cho sự

50

phát triển của NHTMCP. Số lượng nhân viên tăng nhanh nhưng chưa tương xứng

với chất lượng.

Nhìn chung, qua phân tích thực trạng hoạt động của NHTMCP Việt Nam

cho thấy: các NHTMCP chưa tận dụng hết mọi nguồn lực để tạo ra sản phẩm, vẫn

còn nhiều bất cập trong điều hành hoạt động của ngân hàng. Tiềm lực giữa các

NHTMCP có sự chênh lệch nhau rất lớn. Các NHTMCP được đánh giá là có quy

mô lớn, có tiềm lực mạnh về tài chính bao gồm: Á Châu, Xuất nhập khẩu, Sài gòn

thương tín, Kỹ thương. Một số ngân hàng khác có quy mô tương đối nhỏ nhưng

được đánh giá là chất lượng dịch vụ tương đối tốt như: Đông Á, Đại Dương.

2.3. Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP

Việt Nam

2.3.1. Giới thiệu mô hình nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp DEA có thể đánh giá bức tranh tổng thể hoạt

động của ngân hàng, kết hợp phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phân

tích thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp sử dụng dữ liệu dạng bảng. Khuynh hướng

tiếp cận đầu vào cho phép xác định lượng đầu vào cần giảm để ngân hàng đạt đến

trạng thái tối ưu. Từ lý thuyết về phương pháp DEA, mô hình DEA được lựa chọn

nghiên cứu là mô hình DEACRS, mô hình DEAVRS theo khuynh hướng đầu vào và

đo lường chỉ số Malmquist.

- Mô hình DEACRS: Sử dụng công thức (7) của phần 1.3.1

- Mô hình DEAVRS: Sử dụng công thức (9) của phần 1.3.2

- Đo lường chỉ số Malmquist: Sử dụng công thức (10) của phần 1.3.3.

2.3.2. Quy trình nghiên cứu cụ thể

1. Chọn lựa DMU

2. Chọn biến đầu ra và đầu vào

3. Mô hình DEA

4. Tổng hợp kết quả

5. Kết luận và gợi ý giải pháp

51

2.3.2.1. Chọn lựa DMU Dựa vào nguồn dữ liệu có thể thu thập được, tác giả chọn các DMU là 15

NHTMCP Việt Nam và thời gian nghiên cứu là 04 năm (từ năm 2008 đến 2011).

Danh sách các NHTMCP Việt Nam được nghiên cứu như sau:

Bảng 2.6: Danh sách 15 NHTMCP nghiên cứu

Tên ngân hàng

2

.

Ngân hàng TMCP An Bình Ngân hàng TMCP Á Châu Ngân hàng TMCP Đông Á Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Ngân hàng TMCP Phát triển TP. HCM Ngân hàng TMCP Quân đội Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông Ngân hàng TMCP Hàng Hải Ngân hàng TMCP Nam Việt

Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Ngân hàng TMCP Đại Dương 11 Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín 12 Ngân hàng TMCP Phương Nam 13 Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 14 Ngân hàng TMCP Việt Nam thịnh vượng 15 Ngân hàng TMCP Phương Tây Mã ngân hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB

3.2.2. Lựa chọn biến đầu ra và đầu vào

Trên quan điểm cho rằng ngân hàng là tổ chức tài chính huy động và phân bổ

các nguồn vốn cho vay và các tài sản khác, các yếu tố đầu vào và đầu ra được chọn

lựa bao gồm:

* Biến đầu ra:

Đầu ra gồm 2 biến phản ánh kết quả kinh doanh của một NHTMCP:

- Thu nhập lãi và các khoản tương tự (y1): Đây là một trong những biến số

thể hiện đầu ra trong hoạt động của NHTMCP. Thu nhập lãi là các khoản thu nhập

từ cho vay; các khoản thu tương tự gồm thu lãi từ tiền gửi, cho thuê tài chính và các

khoản thu khác từ hoạt động tín dụng.

52

- Thu nhập ngoài lãi (y2): Biến số này cũng thể hiện đầu ra của NHTMCP.

Các khoản thu nhập khác của một NHTMCP bao gồm: thu nhập từ hoạt động dịch

vụ, góp vốn, kinh doanh và các khoản thu nhập khác.

* Biến đầu vào:

Đầu vào gồm 03 biến đại diện cho các nguồn lực đầu vào của một

NHTMCP như: lao động, cơ sở vật chất - trang thiết bị kỹ thuật và vốn.

- Chi phí tiền lương (x1): Thể hiện yếu tố lao động (L) trong đầu vào của

hoạt động NHTMCP.

- Tài sản cố định (x2): Thể hiện yếu tố trang thiết bị - cơ sở vật chất kỹ thuật

(T) trong đầu vào của hoạt động NHTMCP.

- Tiền gửi của khách hàng (x3): Thể hiện yếu tố vốn (K) trong đầu vào của

hoạt động NHTMCP. Ngân hàng chủ yếu sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho

vay, tạo ra thu nhập. Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền tiết kiệm và các khoản

tiền gửi khác.

Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả hoạt động của

NHTMCP được thể hiện qua Sơ đồ sau:

Chi phí tiền lương (x1)

Thu nhập lãi và các khoản tương tự (y1) Hiệu quả của

ngân hàng Tài sản cố định (x2)

thương mại

Thu nhập ngoài lãi (y2) cổ phần

Tiền gửi (x3)

Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả

của ngân hàng thương mại cổ phần

2.3.2.3. Mô hình DEA

* Mô tả dữ liệu mẫu

53

Nguồn dữ liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của 15

NHTMCP Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2011.

Tóm tắt các biến của 15 NHTMCP Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2011

như sau:

Bảng 2.7: Tóm tắt dữ liệu của các biến trong mẫu nghiên cứu

Đầu ra Đầu vào

y1 y2 Tên biến

Thu nhập lãi Thu nhập ngoài lãi

Thu nhập hoạt động x1 Chi phí tiền lương Lao động x3 Tiền gửi khách hàng Vốn

Định nghĩa

x2 Tài sản cố định Cơ sở vật chất – trang thiết bị kỹ thuật

1696288 27904 691319 16403

3323227,28 10497846 243470 2868031,23 15 274197,35 225329,78 469845,85 969011 4284 317548,44 212091,25 425365,11 15 15 15 20523474,71 64216949 859372 18719883,65 15

301817,57 605425,28 851469 28815 2480890 32114

3472934,35 9613889 326033 2720240,50 15 429703,5 1369166 8958 441723,19 260705,69 602951,96 15 15 15 30301219,14 86919196 677246 24617174,67 15

3707863 51000

6012835,57 14960336 619612 4330890,65 15 701150,28 400811,64 838458,64 1021646 2511340 8616 42929 748128,21 317769,38 902220,48 15 15 15 42964806,64 106936611 5593260 30700999,38 15

1944550 115623 3135519 139943

10848896,35 835959,07 695457,92 1054363,78 49766159,64 25460938 1332426 7295954,47 15 2235333 8224 754383,52 551825,82 803710,71 15 142218091 1254258 37944989,05 15 15 15 Năm 2008 Average Max Min Std. dev Obs Năm 2009 Average Max Min Std. dev Obs Năm 2010 Average Max Min Std. dev Obs Năm 2011 Average Max Min Std. dev Obs

54

Thu nhập ngoài lãi đã tăng lên trong giai đoạn 2008-2011 nhưng vẫn chiếm

một tỷ lệ rất thấp so với thu nhập lãi.

Đồ thị 2.2: Thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi trung bình của 15 NHTMCP

* Xử lý dữ liệu

Đề tài sử dụng phần mềm DEAP 2.1 của tác giả Tim Coelli. Phần mềm này

được sử dụng cho các trình biên tập văn bản (chẳng hạn như NOTEPAD hoặc

EDIT, WORD hoặc WORD PERFECT) và có nhiều lựa chọn, trong đó có 03 lựa

chọn chính là mô hình DEACRS, mô hình DEAVRS, ước lượng hiệu quả chi phí và

hiệu quả phân bổ, ứng dụng dữ liệu dạng bảng để ước lượng chỉ số năng suất tổng

hợp Malmquist. Phần mềm gồm 5 loại tệp dữ liệu tương ứng với các dạng tệp .exe,

.000, .dta, .cmd, .out. Tương ứng với mỗi mô hình cần nhập dữ liệu vào tệp .dta, lựa

chọn các lệnh điều khiển trong tệp .cmd và xuất kết quả vào tệp dữ liệu .out. Ưu

điểm của phần mềm này so với các phần mềm khác viết cho phương pháp DEA là

ngắn gọn, dễ hiểu, sử dụng được trên phầm mền Windows và là công cụ xử lý

mạnh.

Các mô hình lựa chọn bao gồm: DEACRS, DEAVRS và đo lường chỉ số

Malmquist với 15 NHTMCP, 2 biến đầu ra và 03 biến đầu vào cho 4 giai đoạn.

Kết luận Chương 2

Chương 2 trình bày tổng quan về hoạt động của NHTMCP Việt Nam giai

đoạn 2008-2011 và giới thiệu quy trình nghiên cứu.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, hoạt

động của các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn này trải qua những bước thăng

55

trầm. Mặc dù quy mô của các NHTMCP đang lớn dần thể hiện qua các số liệu ngày

càng tăng lên của vốn điều lệ, tổng tài sản, các chi nhánh, số nhân viên nhưng các

chỉ tiêu về hiệu quả lại có xu hướng chững lại thậm chí còn sụt giảm. Trong giai

đoạn 2008-2011, năm 2011 là năm đầy khó khăn đối với ngành ngân hàng khi tốc

độ tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng chậm lại nhưng không đi kèm với nâng cao

chất lượng tín dụng, huy động vốn khó khăn và thanh khoản trở nên xấu đi, khả

năng sinh lời của các NHTMCP giảm. Bức tranh tổng thể thực tế cho thấy các

NHTMCP chưa khai thác hết các nguồn lực. Vì vậy, việc nghiên cứu về hiệu quả

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMCP là cần thiết.

Theo khuynh hướng tiếp cận đầu vào, đề tài sử dụng mô hình DEACRS, mô

hình DEAVRS và chỉ số Malmquist đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp

TFP. Quy trình nghiên cứu được thực hiện qua 5 bước cụ thể. Đầu tiên là lựa chọn

DMU, tiếp đến là lựa chọn biến đầu vào và đầu ra, xử lý dữ liệu bằng phần mềm

DEAP 2.1 với những lựa chọn mô hình phù hợp, tổng hợp dữ liệu, phân tích kết quả

và cuối cùng là đưa ra các gợi ý giải pháp.

56

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ GỢI Ý GIẢI PHÁP

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

3.1. Kết quả nghiên cứu

3.1.1. Hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình DEACRS và DEAVRS

Sau khi lựa chọn các biến đại diện đầu vào, đầu ra cho mẫu nghiên cứu gồm

15 NHTMCP thời kỳ 2008-2011, theo cách tiếp cận phi tham số với sự hỗ trợ của

phần mềm DEAP 2.1; kết quả ước lượng hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình

DEACRS và DEAVRS và hiệu quả quy mô cho từng ngân hàng được thể hiện trong

Phụ lục 9.

Hiệu quả kỹ thuật xác định trong mô hình DEACRS là hiệu quả kỹ thuật toàn

bộ trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô. Còn hiệu quả kỹ thuật xác

định trong mô hình DEAVRS là hiệu quả kỹ thuật thuần trong điều kiện sản lượng

thay đổi theo quy mô. Hiệu quả kỹ thuật toàn bộ, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu

quả quy mô trung bình giai đoạn 2008-2011 cho từng ngân hàng được thể hiện

trong bảng sau:

Bảng 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô

trung bình của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011

Mã ngân hàng TE (CRS) PE (VRS) SE

Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB 0,830 0,925 0,840 0,795 0,978 0,821 0,898 0,951 0,857 1,000 0,859 0,894 0,981 0,856 1,000 0,991 0,972 0,925 0,977 0,883 0,998 0,964 0,898 0,959

57

0,908 1,000 0,966 0,931 0,964 0,897 0,848 0,977 1,000 1,000 0,987 1,000 0,989 1,000 0,929 1,000 0,966 0,943 0,964 0,906 0,848 9 10 11 12 13 14 15 NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB

(Nguồn: Tác giả tính toán từ kết quả của phần mềm DEAP 2.1) Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP qua từng năm được thể hiện trong bảng sau:

Bảng 3.2: Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP giai đoạn 2008-2011

2008 2009 2010 2011 Trung bình giai đoạn 2008-2011

Năm Hiệu quả TE (CRS) PE(VRS) SE 0,906 0,973 0,929 0,900 0,956 0,941 0,927 0,962 0,965 0,881 0,946 0,933 0,903 0,959 0,942

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1) Trong mô hình DEACRS, hiệu quả kỹ thuật bình quân của cả mẫu thời kỳ

2008-2011 đạt 90,3%. Điều này cho thấy các NHTPCP Việt Nam đã sử dụng tương

đối có hiệu quả các nguồn lực đầu vào để tạo ra các đầu ra. Lượng đầu vào trung

bình có thể giảm bớt để các NHTMCP đạt đến trạng thái tối ưu hoàn toàn (TE=1) là

9,7%.

Số lượng NHCMCP đạt hiệu quả tối ưu trong từng năm khác nhau. Số liệu ở

Bảng 3.3 cho thấy số lượng các NHTMCP đạt được hiệu quả tối ưu là cao nhất vào

năm 2011 với 8 ngân hàng và thấp nhất vào năm 2009 với 5 ngân hàng. Có 2

NHTMCP không đạt hiệu quả tối ưu trong cả 4 năm là NHTMCP An Bình và

NHTMCP Quân đội.

Bảng 3.3: Số lượng các NHTMCP đạt hiệu quả tối ưu giai đoạn 2008 - 2011

2008 2009 2010 2011 Stt

1 2 3 4 Mã ngân hàng ABB ACB DAB EIB X X X

58

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 X X X X X 7 X X X X X 5 X X X X X X 6 X X X X X X X 8 HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB Tổng cộng

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1)

Số liệu ở Bảng 3.1 cho thấy, trong cả giai đoạn 2008-2011, có 1 ngân hàng

đạt hiệu quả tối ưu đó là Ngân hàng TMCP Đại Dương, chiếm tỷ lệ 6,7%; 7 ngân

hàng đạt hiệu quả từ 90 đến 100%, chiếm tỷ lệ 46,67%; 7 ngân hàng còn lại đạt hiệu

quả dưới 90% và thấp hơn hệ số trung bình chung của mẫu, chiếm tỷ lệ 46,7%.

Trong mô hình này, ngân hàng có hiệu quả thấp nhất là Ngân hàng TMCP Xuất

nhập khẩu với 79,5%.

Năm 2008, hiệu quả kỹ thuật trung bình chung của 15 ngân hàng TMCP là

90,6%. Nhưng sang năm 2009, do tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008

nên hiệu quả giảm còn 90%. Năm 2010, hiệu quả kỹ thuật trung bình của các ngân

hàng này được cải thiện hơn nhiều, tăng lên 92,7% nhưng lại giảm xuống còn

88,1% vào năm 2011. Đây là năm mà hiệu quả kỹ thuật trung bình của các

NHTMCP đạt thấp nhất trong 4 năm nghiên cứu vì các NHTMCP gặp nhiều khó

khăn trong năm 2011. Điều này là phù hợp với nhận định khi đánh giá thực trạng

hoạt động của NHTMCP trên đây. Chênh lệch về hiệu quả kỹ thuật trung bình giữa

điểm hiệu quả cao nhất và điểm hiệu quả thấp nhất là tương đối lớn 20,5%.

Trái với mô hình DEACRS, mô hình DEAVRS cho thấy một sự khác biệt trong

kết quả nghiên cứu. Hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình trong mô hình DEAVRS cao

hơn nhiều so với mô hình DEACRS, đạt ở mức 95,9%. Số lượng NHTMCP đạt hiệu

quả tối ưu cũng tăng lên. Có 6 ngân hàng đạt hiệu quả tối ưu nhờ quy mô (ACB,

59

MDB, OCB, SCB, TCB và WTB), chiếm tỷ lệ 40%; 1 ngân hàng đạt hiệu quả kỹ

thuật thuần xấp xỉ tối ưu là MSB (99,1%); chiếm tỷ lệ 6,7%; 4 ngân hàng đạt hiệu

quả kỹ thuật thuần từ 90% đến 99%, chiếm tỷ lệ 26,6% và 4 ngân hàng đạt hiệu quả

dưới 90% (chiếm tỷ lệ 26,6%), thấp hơn nhiều so với hiệu quả trung bình chung.

Trong mô hình này, Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB) có hiệu quả kỹ thuật thuần

thấp nhất (85,6%). Chênh lệch về hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình giữa điểm hiệu

quả cao nhất và điểm hiệu quả thấp nhất là 14,4%.

Trong năm 2008, hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình đạt cao nhất, sau đó

giảm trong năm 2009, tăng lên năm 2010 và tiếp tục giảm vào năm 2011 còn 94,6%

tuy vẫn ở mức cao. Điều này một lần nữa chứng tỏ các ngân hàng hoạt động không

ổn định trong giai đoạn 2008-2011 và đạt hiệu quả thấp nhất vào năm 2011.

3.1.2. Quy mô tổng tài sản và hiệu quả kỹ thuật

Để đánh giá chi tiết hơn, chúng ta có thể sắp xếp các NHTMCP theo thứ tự giảm dần tổng tài sản12 và xem xét thứ tự sắp xếp theo quy mô tổng tài sản và hiệu

quả kỹ thuật của các NHTMCP theo từng năm (Phụ lục 10) và theo giá trị bình quân

cho cả giai đoạn.

Bảng 3.4: So sánh thứ tự xếp hạng theo quy mô tổng tài sản bình quân

và hiệu quả kỹ thuật bình quân giai đoạn 2008-2011

Mã ngân

hàng Tổng tài sản bình quân 2008-2011 (triệu đồng)

12 Khi xét đến quy mô của một ngân hàng có nhiều tiêu chí như: địa bàn và phạm vi hoạt động, số lượng nhân sự, các nghiệp vụ cung cấp cho khách hàng, tổng tài sản, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động… trong đó tổng tài sản được đề cập đến nhiều nhất.

ACB TCB SCB EIB MBB MSB DAB VPB Thứ tự xếp theo tổng tài bình quân 2008-2011 1 2 3 4 5 6 7 8 Thứ tự xếp hạng theo hiệu quả kỹ thuật trung bình 7 4 3 15 14 5 12 10 Hiệu quả kỹ thuật trung bình 2008-2011 0,925 0,964 0,966 0,795 0,821 0,951 0,840 0,897 189.827.361 120.625.711 116.578.341 107.093.522 90.452.270 81.554.794 49.663.814 47.203.901

60

STB OCB ABB HDB NVB WTB MDB 9 10 11 12 13 14 15 46.616.150 41.413.628 29.892.464 27.024.998 18.026.916 10.715.376 8.004.920 6 1 13 2 8 11 9 0,931 1,000 0,830 0,978 0,908 0,848 0,898

(Nguồn: Tác giả sắp xếp dựa vào số liệu từ Báo cáo tài chính của các

NHTMCP và kết quả từ phần mềm DEAP 2.1)

Bảng so sánh trên và Bảng xếp hạng theo từng năm ở Phụ lục 10 cho chúng

ta thấy các ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn chưa hẳn đã hoạt động hiệu quả

hơn các ngân hàng có quy mô tổng tài sản nhỏ. Chẳng hạn như NHTMCP đạt hiệu

quả kỹ thuật tối ưu và xếp hạng cao nhất là Ngân hàng TMCP Đại Dương có tổng

tài sản bình quân 41.413 tỷ, xếp hạng 10 theo tổng tài sản bình quân. Vị trí xếp hạng

hiệu quả kỹ thuật số 2 lại thuộc về Ngân hàng TMCP Phát triển nhà TP. HCM có

tổng tài sản bình quân là 27.024 tỷ, xếp hạng 12 theo tổng tài sản bình quân. 2 vị trí

xếp hạng hiệu quả kỹ thuật thấp nhất (vị trí 14 và 15) lại thuộc về 2 ngân hàng có

tổng tài sản bình quân tương đối cao (Ngân hàng TMCP Quân đội với tổng tài sản

bình quân 81.554 tỷ và Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu với tổng tài sản bình

quân 107.093 tỷ). Hai ngân hàng có tổng tài sản bình quân nhỏ nhất là Ngân hàng

TMCP Phương Tây và Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông lại xếp hạng hiệu quả

kỹ thuật ở mức trung bình.

Trong một nghiên cứu khác, tác giả Lê Thị Lợi (2011) cũng kết luận các

ngân hàng có tổng tài sản lớn (thể hiện quy mô) chưa hẳn đạt được tỷ số lợi nhuận

ROE cao (thể hiện hiệu quả hoạt động).

Kết quả này cho thấy các NHTMCP kể cả các ngân hàng có quy mô lớn cần

tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động.

3.1.3. Hiệu quả quy mô

Theo lý thuyết về phương pháp DEA, khi có sự khác biệt về hiệu quả kỹ

thuật giữa 2 mô hình thì tồn tại hiệu quả quy mô. Kết quả ước lượng từ mô hình

DEAVRS cho thấy có 14 ngân hàng tồn tại hiệu quả quy mô trong giai đoạn 2008-

61

2011, ngoại trừ Ngân hàng TMCP Đại Dương đã đạt hiệu quả tối ưu hoàn toàn nên

không tồn tại hiệu quả quy mô.

Hiệu quả kỹ thuật toàn bộ là tích của hiệu quả kỹ thuật thuần với hiệu quả

quy mô. Vì vậy, độ lớn của các chỉ số hiệu quả này sẽ phản ánh nguồn phi hiệu quả

trong hoạt động của các NHTMCP. Hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình của mẫu

thời kỳ nghiên cứu là 95,9%, lớn hơn hiệu quả quy mô bình quân 94,2%. Điều đó

cho thấy trong thời kỳ mẫu nghiên cứu, các nhân tố phản ánh quy mô hoạt động của

NHTMCP đóng góp vào hiệu quả kỹ thuật toàn bộ nhỏ hơn so với hiệu quả kỹ thuật

thuần. Như vậy, các nhân tố phản ánh quy mô hoạt động của NHTMCP là nguồn

gây ra phi hiệu quả lớn hơn so với các nhân tố về mặt kỹ thuật.

Bảng 3.5 tóm tắt kết quả ước lượng từ mô hình DEA cho biết cụ thể số lượng

các NHTMCP ở Việt Nam đang hoạt động trong điều kiện DRS, IRS và CONS13.

Bảng 3.5: Số lượng NHTMCP trong điều kiện DRS, IRS và CONS

2008 2009 2010 2011

5 3 7 15 7 2 6 15 3 4 8 15 3 4 8 15 Năm Điều kiện DRS IRS CONS Tổng cộng

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1, Phụ lục 9)

Bảng 3.5 cho thấy số lượng các ngân hàng đang đối mặt với sản lượng giảm

theo quy mô có xu hướng giảm dần trong 3 năm cuối, từ 7 ngân hàng năm 2009 còn

lại 3 ngân hàng năm 2010 và năm 2011 (giảm 58%). Ngược lại, số lượng các

NHTMCP đang đối diện với sản lượng tăng theo quy mô ngày càng tăng, từ 2 ngân

hàng năm 2009 lên 4 ngân hàng năm 2011 (tăng 100%). Hầu hết các NHTMCP có

quy mô tổng tài sản lớn đều đối diện với điều kiện sản lượng giảm theo quy mô, cụ

thể như NHTMCP Á Châu (năm 2009, 2010 và 2011), NHTMCP Xuất nhập khẩu

(năm 2008 và 2009), NHTMCP Quân đội (2009, 2010 và 2011), NHTMCP Sài gòn

13 Điều kiện CONS là một cách gọi khác của điều kiện CRS – Sản lượng không đổi theo quy mô

Thương tín (2011) và NHTMCP Kỹ thương (2009). Các NHTMCP thường đối diện

62

với điều kiện sản lượng tăng theo quy mô là NHTMCP Phương Tây (năm 2009,

2010 và 2011) và NHTMCP Đông Á (năm 2010 và 2011).

Các NHTMCP đang trong điều kiện sản lượng giảm theo quy mô không nên

tăng quy mô. Muốn cải thiện hiệu quả hoạt động, các ngân hàng này nên phát triển

các sản phẩm mới để cải thiện năng suất các yếu tố đầu vào. Các NHTMCP đang

trong điều kiện sản lượng tăng dần theo quy mô có thể cải thiện hiệu quả hoạt động

của mình bằng cách tập trung mở rộng quy mô, mở rộng các sản phẩm đang cung

cấp cho thị trường.

3.1.4. Ước lượng năng suất nhân tố tổng hợp TFP

Mô hình Chỉ số Malmquist cho phép ước lượng sự thay đổi của TFP và sự

thay đổi của các thành phần hiệu quả có liên quan như thay đổi hiệu quả kỹ thuật,

thay đổi tiến bộ công nghệ, thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần và thay đổi hiệu quả

theo quy mô.

Số liệu từ Bảng 3.6 cho thấy, trong giai đoạn 2008-2011, tăng trưởng TFP

bình quân của các NHTMCP nghiên cứu là 1,142, nghĩa là có sự gia tăng năng suất

ở mức 14,2%. Nguyên nhân chính là do tăng trưởng của tiến bộ công nghệ đạt

15,5%, trong khi hiệu quả kỹ thuật lại giảm đi 1,1%. Có thể giải thích điều này là do

hầu hết các NHTMCP đều chú trọng vào việc nâng cấp và đổi mới công nghệ trong

giai đoạn này. Kết quả này là phù hợp với nhận định về năng lực công nghệ của các

NHTMCP Việt Nam trong phần đánh giá thực trạng hoạt động của NHTMCP.

Bảng 3.6: Chỉ số Malmquist bình quân toàn bộ mẫu giai đoạn 2008-2011 tfpch Chỉ số techch effch pech sech

0,996 1,031 0,942 0,989 0,936 1,116 1,475 1,155 0,982 1,005 0,985 0,991 1,015 1,025 0,956 0,998 0,932 1,150 1,389 1,142 Giai đoạn 2008-2009 2009-2010 2010-2011 Trung bình 2008-2011

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1, Phụ lục 11)

Chỉ số TFP có xu hướng tăng dần qua các năm, từ 0,932 trong giai đoạn

2008-2009 lên 1,150 trong giai đoạn 2009-2010 và đạt cao nhất ở mức 1,389 trong

63

giai đoạn 2010-2011. Điều đó chứng tỏ năng suất của các NHTMCP tăng dần qua

các năm. Nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng này là tăng trưởng tiến bộ công

nghệ thể hiện qua chỉ số techch cũng tăng dần qua các năm, từ 0,936 giai đoạn

2008-2009 đến 1,116 giai đoạn 2009-2010 và đạt cao nhất ở mức 1,475 trong giai

đoạn 2010-2011. Trong giai đoạn 2010-2011, tăng trưởng của tiến bộ công nghệ đạt

cao nhất với mức tăng 47,5% kéo chỉ số TFP bình quân tăng lên 38,9%.

Số liệu ở Bảng 3.6 cũng cho thấy hiệu quả theo quy mô và hiệu quả kỹ thuật

không góp phần vào sự gia tăng năng suất.

Kết quả ước lượng chỉ số TFP trung bình giai đoạn 2008-2011 cho từng ngân

hàng ở Bảng 3.7 cho thấy 13 NHTMCP có chỉ số TFP lớn hơn 1 và 2 NHTMCP có

chỉ số TFP nhỏ hơn 1. Điều này chứng tỏ hầu hết NHTMCP được nghiên cứu có xu

hướng tăng năng suất, 2 NHTMCP có sự sụt giảm về năng suất là NHTMCP Đông

Á và NHTMCP Phương Tây với chỉ số TFP bình quân tương ứng là 0,967 và 0,997.

Nguyên nhân chính gây ra sự sụt giảm về năng suất của NHTMCP Đông Á là do sự

suy giảm về hiệu quả kỹ thuật thuần. Trong khi đó, nguyên nhân chính gây ra sự sụt

giảm về năng suất của NHTMCP Phương Tây là do sự suy giảm về hiệu quả quy

mô. Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông có chỉ số TFP bình quân cao nhất với

1,377. Nguyên nhân chính là do tăng trưởng tiến bộ công nghệ ở mức cao (32,6%).

Bảng 3.7: Kết quả ước lượng effch, techch, pech, sech và tfpch trung

bình của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011

Stt Mã ngân effch techch pech sech tfpch

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB 0,953 0,933 0,871 1,182 1,000 0,912 1,038 1,075 0,957 1,000 0,952 1,146 1,230 1,110 1,055 1,206 1,193 1,326 1,083 1,235 1,040 1,188 0,931 1,000 0,875 1,046 1,000 0,969 1,000 1,011 1,036 1,000 1,000 1,024 0,933 0,995 1,129 1,000 0,941 1,038 1,064 0,924 1,000 0,952 1,093 1,047 0,967 1,246 1,206 1,087 1,377 1,065 1,083 1,040 1,132

64

12 13 14 15 STB TCB VPB WTB 1,069 1,000 1,086 0,861 1,084 1,155 1,146 1,158 1,000 1,000 1,000 1,000 1,069 1,000 1,082 0,861 1,159 1,155 1,244 0,997

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1, Phụ lục 3)

3.2. Kết luận và gợi ý giải pháp

3.2.1. Kết luận liên quan đến các mục tiêu nghiên cứu

3.2.1.1 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ nhất

Như đã đề cập trong phần Mở đầu, một trong những mục tiêu nghiên cứu của

đề tài là ước lượng và phân tích hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam

giai đoạn 2008-2011. Để đạt được mục tiêu này, tác giả áp dụng phương pháp DEA

và sử dụng dữ liệu của 15 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2011. Hiệu quả của

15 NHTMCP được thể hiện qua đồ thị sau:

Đồ thị 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô

của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011

Hiệu quả hoạt động kinh doanh chung (TE) tương đối cao. Mức độ phi hiệu

quả của các NHTMCP Việt Nam trung bình là 9,7%. Nhìn chung, trong toàn bộ

mẫu, các ngân hàng có thể gia tăng hiệu quả lên 9,4%, 10%, 7,3% và 11,9% tương

ứng với các năm 2008, 2009, 2010 và 2011. Nguồn gây ra phi hiệu quả từ phi hiệu

quả quy mô và cả phi hiệu quả kỹ thuật thuần, trong đó phi hiệu quả quy mô lớn

hơn phi hiệu quả kỹ thuật thuần (5,8% so với 4,1%).

65

Hiệu quả đạt được của các NHTMCP là khác nhau. Trung bình trong 4 năm

nghiên cứu, có 1 ngân hàng đạt hiệu quả tối ưu đó là Ngân hàng TMCP Đại Dương,

chiếm tỷ lệ 6,7%; 7 ngân hàng đạt hiệu quả từ 90 đến 100%, chiếm tỷ lệ 46,67%; 7

ngân hàng còn lại đạt hiệu quả dưới 90%, chiếm tỷ lệ 46,7%. Trong mô hình này,

ngân hàng có hiệu quả thấp nhất là NHTMCP Xuất nhập khẩu với 79,4%. Chênh

lệch giữa hiệu quả kỹ thuật cao nhất và thấp nhất đạt được là 20,6%.

Nghiên cứu cũng so sánh giữa thu nhập lãi và thu nhập phi lãi từ 15

NHTMCP Việt Nam và cho thấy thu nhập lãi vẫn là nguồn thu nhập chính của các

NHTMCP. Thu nhập phi lãi có xu hướng tăng dần qua các năm những vẫn chiếm

một tỷ lệ rất thấp so với thu nhập lãi.

Kết quả từ mô hình DEA cho thấy có sự mất cân bằng tương đối giữa các

NHTMCP Việt Nam trong các năm. Năm 2011, có 3 NHTMCP đang hoạt động

trong điều kiện sản lượng giảm theo quy mô (chiếm 20%), 4 NHTMCP đang hoạt

động trong điều kiện sản lượng tăng dần theo quy mô (chiếm 27%), trong khi đó có

8 NHTMCP (chiếm 53%) hoạt động trong điều kiện quy mô tối ưu. Vì vậy, để nâng

cao hiệu quả hoạt động, các NHTMCP Việt Nam không chỉ cần gia tăng lượng đầu

ra hay giảm chi phí đầu vào mà còn cần những giải pháp có ảnh hưởng chung đến

toàn hệ thống.

3.2.1.2. Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ hai

Mục tiêu nghiên cứu thứ hai của đề tài là phân tích thay đổi năng suất nhân

tố tổng hợp.

Để đạt được mục tiêu này, tác giả ước lượng chỉ số năng suất nhân tố tổng

hợp Malmquist TFP và các thành phần của nó đối với 15 NHTMCP Việt Nam giai

đoạn 2008-2011. Kết quả cho thấy năng suất nhân tố tổng hợp của NHTMCP Việt

Nam có xu hướng tăng dần qua các năm. Giá trị trung bình chung của chỉ số

Malmquist TFP của các NHTMCP qua 4 năm nghiên cứu là 1,142, nghĩa là các

NHTMCP Việt Nam tăng năng suất bình quân 14,2%. Nguyên nhân chính dẫn đến

sự gia tăng năng suất là tiến bộ công nghệ với mức tăng bình quân 15,5%.

66

3.2.2. Một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của

NHTMCP Việt Nam

Trong phạm vi nghiên cứu, kết quả nghiên cứu cho thấy có duy nhất 1 ngân

hàng đạt đến hiệu quả tối ưu trong 4 năm 2008-2011. Đa số các ngân hàng chưa sử

dụng tối ưu các nguồn lực nên hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam

chưa đạt tối ưu. Vì vậy, tác giả đưa ra một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam như sau:

3.2.2.1. Đối với các NHTMCP Việt Nam

* Các NHTMCP Việt Nam cần tăng dần quy mô để đạt đến mức hiệu

quả quy mô cao hơn

Từ ước lượng của mô hình DEA cho thấy, phi hiệu quả quy mô của các

NHTMCP Việt Nam là 5,8% vì vậy các NHTMCP cần tăng quy mô.

Chương 2 đánh giá thực trạng hoạt động của NHTMCP cho thấy vốn điều lệ

của NHTMCP Việt Nam còn thấp, tỷ lệ bao phủ chưa cao. Vì vậy, đối với các

NHTMCP đang ở điều kiện sản lượng tăng theo quy mô và hiệu quả quy mô nhỏ

hơn 1, cần gia tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch,

tăng vốn huy động,… Việc tăng vốn điều lệ có thể thông qua sáp nhập, hợp nhất,

phát hành cổ phiếu bổ sung,…Các NHTMCP đang hoạt động ở điều kiện sản lượng

giảm theo quy mô và có hệ số an toàn vốn quá lớn cần lưu ý vì việc tăng vốn chủ sở

hữu đối với các ngân hàng này không có ý nghĩa nhiều.

Khi phát triển các mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch cần dựa trên nguyên

tắc không phình to, cồng kềnh bộ máy tổ chức và không tăng nhiều lao động.

Ðể tăng quy mô, các NHTMCP cũng có thể phát triển thị trường mới bằng

việc mở rộng phạm vi địa lý hay mở rộng các dịch vụ sử dụng đa dạng kênh phân

phối: phân phối dịch vụ qua máy ATM và POS, phân phối dịch vụ qua Internet và

điện thoại.

* Tăng cường năng lực quản trị, điều hành để gia tăng hiệu quả kỹ thuật

thuần

67

Phi hiệu quả kỹ thuật thuần theo kết quả ước lượng của mô hình DEA là

4,1%. Vì vậy, đồng thời với việc tăng quy mô, các NHTMCP cần tăng cường năng

lực quản trị, điều hành; khắc phục những hạn chế về năng lực quản trị, điều hành.

Để quản trị tốt, ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài sản có, xây dựng văn hóa quản

trị lành mạnh, các NHTMCP cần nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ trên cơ sở

áp dụng hệ thống công nghệ hiện đại để phát hiện những rủi ro tiềm ẩn và có biện

pháp ngăn chặn kịp thời.

Hoạt động của ngân hàng luôn đối diện với nhiều rủi ro, trong khi năng lực

quản trị rủi ro của nhiều NHTMCP Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tăng

cường năng lực, điều hành của NHTMCP bao gồm cả tăng cường năng lực quản trị

rủi ro. Chẳng hạn như phân chia các rủi ro cụ thể cho từng bộ phận chuyên trách

cũng như hội đồng quản lý nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng khi quản lý các rủi ro;

đồng thời Hội đồng quản trị cần xây dựng co chế phối hợp hành động giữa các hội

đồng quản lý rủi ro để đưa ra các quyết định quản trị đồng bộ, chính xác và hiệu

quả. Bên cạnh đó, các NHTMCP cần tăng cường hoạt động kiểm soát và giám sát.

Trong đó, Hội đồng rủi ro và khối quản lý rủi ro chịu trách nhiệm chính trong việc

kiểm soát rủi ro để đảm bảo mức rủi ro luôn nằm trong giới hạn cho phép. Hội đồng

rủi ro và ban kiểm soát nội bộ cần xây dựng hệ thống giám sát rủi ro phù hợp với

quy trình quản trị rủi ro của ngân hàng.

Các NHTMCP cần nghiên cứu và xây dựng mô hình, bộ phận chuyên trách

về rủi ro, từ đó chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro. Từng NHTMCP cần có

chiến lược hoạt động rõ ràng, xây dựng những “kịch bản” cụ thể về những rủi ro

trong quá trình hoạt động. Mỗi “kịch bản” sẽ có những giải pháp riêng để chủ động

ứng phó. Từ đó sẽ giúp ngân hàng có những hành động kịp thời với chi phí thấp

nhất nhằm bảo vệ uy tín của ngân hàng.

Cần phân loại rủi ro và có giải pháp thích hợp với từng loại rủi ro cụ thể.

Chẳng hạn như rủi ro tín dụng hoàn toàn có thể giảm được, nếu các ngân hàng thực

hiện tốt khâu "phòng bệnh", tức là sàng lọc khách hàng từ trước khi cấp tín dụng

chứ không phải đến khi xảy ra rủi ro mới lo xử lý hậu quả. Hiện nay, có rất nhiều

68

biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng, trong đó xếp hạng tín dụng là một trong những

biện pháp phổ biến nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác ra quyết định và quản lý tín

dụng. "Thông qua xếp hạng tín dụng của khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá cơ

bản về mức độ rủi ro của khách hàng, sàng lọc được khách hàng tốt để phục vụ việc

ra quyết định cấp tín dụng. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể tập trung vào các

đặc điểm riêng của khách hàng, để có biện pháp quản lý tín dụng hiệu quả" Ngoài

ra, để nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng, phải đưa điều kiện xếp hạng tín dụng

với các sản phẩm của tổ chức xếp hạng và của ngân hàng thương mại vào điều kiện

bắt buộc đối với các khoản cho vay, đầu tư của tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng.

Để thể hiện sự minh bạch hóa tài chính, yêu cầu lên sàn chứng khoán cũng là một

trong những điều kiện bắt buộc trong danh mục chấm điểm ưu tiên khi xếp hạng tín

dụng đối với các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng. Bổ sung thang điểm thương hiệu

cá nhân đứng đầu doanh nghiệp và thương hiệu doanh nghiệp vào thang điểm xếp

hạng của doanh nghiệp, vì con người chính là nguyên nhân rủi ro nhất trong các

nguyên nhân rủi ro.

Để xử lý dứt điểm nợ xấu, các NHTMCP chủ động phối hợp với khách hàng

vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý

cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất

kinh doanh tích cực; đồng thời đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của

các khoản nợ xấu để thu hồi vốn.

* Giảm chi phí đầu vào, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Theo kết quả ước lượng của mô hình DEA, các NHTMCP Việt Nam còn có

thể giảm đầu vào một tỷ lệ trung bình 9,7% để đạt đến trạng thái tối ưu. Thực trạng

hoạt động của NHTMCP cũng cho thấy số lượng nhân viên ngân hàng tăng nhanh

trong những năm gần đây trong khi năng suất lao động lại chưa cao. Vì vậy, trong

một chừng mực nào đó, giảm chi phí đầu vào có thể thực hiện bằng cách giảm số

lượng nhân viên, đồng thời tăng năng suất lao động.

69

Chẳng hạn, kết quả ước lượng của phần mềm DEA cho thấy NHTMCP Xuất

nhập khẩu có thể giảm chi phí tiền lương 43.878 triệu VND (năm 2008), 67.849

triệu VND (năm 2009) và 65.604 triệu VND (năm 2010).

Tăng năng suất lao động bằng cách tăng cường bồi dưỡng kỹ năng và kiến

thức chuyên môn cho nhân viên, tăng cường kiểm soát nội bộ và tạo môi trường văn

hóa lành mạnh, tạo sự gắn kết giữa nhân viên và ngân hàng.

Về lâu dài, các NHTMCP cần xây dựng chuẩn mực năng lực cho từng chức

danh song song với việc tạo ngân hàng đề thi để đánh giá trình độ năng lực thực tế

so với tiêu chuẩn, nhằm tạo điều kiện để đánh giá cán bộ và tạo điều kiện cho từng

cá nhân chủ động phát triển năng lực bản thân.

Bên cạnh đó, các NHTMCP cần xây dựng chiến lược phát triển nhân lực và

định hướng đào tạo phù hợp với chiến lược của ngân hàng để từ đó đặt hàng cho các

trường đào tạo bằng cách đưa ra những yêu cầu cụ thể về kỹ năng, đẩy mạnh thực

hiện các hoạt động hợp tác giữa ngân hàng và các trường đào tạo cán bộ ngành ngân

hàng.

- Mở rộng xây dựng mô hình “Ngân hàng thực hành” (School Branch). Hiện

nay mới chỉ được một số ít các trường Đại học quan tâm áp dụng. Còn với các

NHTM Việt Nam, khi tiếp nhận nhân viên mới tuyển, bài toán đặt ra là nhân viên

mới sau khi được đào tạo lý thuyết sẽ đảm nhận được vị trí công tác mà lãnh đạo

giao như thế nào? Có nhanh chóng thích ứng với tình hình thực tế tại chi nhánh hay

không?

Sự thiếu hụt môi trường thực hành khiến nhân viên mới thường tỏ ra lúng

túng, mất nhiều thời gian thích nghi trong quá trình tác nghiệp. Chính vì thế, các

NHTM Việt Nam cần áp dụng mô hình School Branch nhằm tạo môi trường mô

phỏng thực tiễn cho học viên để họ có thể vận dụng những kiến thức đã học, rút

ngắn thời gian học việc và thích nghi nhanh với công việc thực tế.

* Tăng thu nhập ngoài lãi

Thu nhập ngoài lãi chiếm một tỷ lệ rất thấp ở các NHTMCP. Vì vậy, để nâng

cao hiệu quả hoạt động, song song việc duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ

70

truyền thống, các NHTMCP cần mở rộng đa dạng hóa sản phẩm – dịch vụ mới.

Dịch vụ mới của ngân hàng có thể phát triển theo nhiều chiều hướng khác nhau

như: phát triển dịch vụ mới trên cơ sở hoàn thiện các dịch vụ hiện có về hình thức

và nội dung, phát triển dịch vụ mới tương đối và phát triển dịch vụ mới hoàn toàn.

Việc phát triển đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế

rủi ro trong quá trình hoạt động.

Tuy nhiên, khi hoạch định chiến lược, ngân hàng cần có những hoạch định

dài hạn, tạo một hướng đi cho riêng mình nhằm phát huy những điểm mạnh, tránh

các NHTMCP gần như giống nhau về chiến lược, cạnh tranh trên cùng địa bàn,

cùng loại sản phẩm sẽ dẫn đến mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân

hàng và có thể dẫn đến những hành vi cạnh tranh không làmh mạnh.

Các NHCMCP cũng có thể tăng cường các hoạt động ngoại bảng để tăng

thêm thu nhập, bù đắp cho sự sụt giảm thu nhập từ các nghiệp vụ truyền thống của

ngân hàng, nhất là trong tình hình cho vay và huy động vốn đang gặp nhiều khó

khăn như hiện nay.

* Tăng cường áp dụng tiến bộ công nghệ

Kết quả phân tích chỉ số năng suất tổng hợp Malmquist TFP cho thấy tiến bộ

công nghệ là nhân tố chính làm tăng năng suất nhân tố tổng hợp. Vì vậy, để tiếp tục

tăng năng suất, các NHTMCP cần khắc phục những hạn chế về năng lực công nghệ;

tiếp tục hiện đại hóa công nghệ, sử dụng các hệ thống công nghệ đồng bộ theo một

chuẩn mực chung để có thể tích hợp khai thác các dịch vụ lẫn nhau, khai thác triệt

để hạ tầng công nghệ.

3.2.2.2. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước

Hoạt động của NHTMCP không chỉ ảnh hưởng đến các ngân hàng mà còn

tác động mạnh đến nền kinh tế. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của

NHTMCP rất cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là trong việc

thực hiện các giải pháp ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống ngân hàng, vừa bảo

đảm NHTMCP hoạt động theo đúng định hướng của Nhà nước, vừa góp phần xây

dựng hệ thống tài chính Việt Nam. Các giải pháp hỗ trợ bao gồm:

71

* Các giải pháp nhằm xử lý nợ xấu của các NHTMCP

- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để

bảo đảm các NHTMCP tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc

biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định

về an toàn hoạt động tín dụng.

- Thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai

có hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ. Hình thành công ty mua bán

nợ xấu quốc gia, có chức năng, nhiệm vụ xử lý nợ xấu thông qua hoạt động mua

bán tài sản xấu của các doanh nghiệp.

- Các Bộ, ngành cần phối hợp triển khai đồng bộ các biện pháp hỗ trợ giải

quyết nợ xấu của các NHTMCP như: thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho

sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường như miễn, giảm thuế, giãn thời hạn nộp thuế;

hỗ trợ cho vay các dự án nhà ở dành cho người có thu nhập thấp nhằm khôi phục thị

trường bất động sản, quản lý chặt chẽ và bảo đảm thị trường này phát triển lành

mạnh.

* Giải pháp nhằm hạn chế sở hữu chéo

Sở hữu chéo có mặt tích cực là góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng

và doanh nghiệp nhưng cũng có những mặt trái và rủi ro, nhất là việc các NHTMCP

dùng sở hữu chéo để lách các quy định bảo đảm an toàn hoạt động do NHNN ban

hành. Luật các tổ chức tín dụng hiện hành có quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ

phần đối với cổ đông cá nhân và đối với cổ đông tổ chức. Tuy nhiên, một cá nhân

hoặc một doanh nghiệp có thể có ảnh hưởng rất lớn đến đến các hoạt động tín dụng

tại các ngân hàng thông qua các công ty con. Vì vậy, việc khống chế tỷ lệ sở hữu tại

các NHTMCP bởi cá nhân hay doanh nghiệp cũng phải tính đến cả những sở hữu

gián tiếp này.

- Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, đồng thời quy định hợp lý các chế

tài làm cho hoạt động của NHTMCP trở nên minh bạch hơn.

* Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

72

- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và NHNN cần liên kết để nâng cao

chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành ngân hàng và đào tạo theo yêu cầu của

ngành ngân hàng, phối hợp với một số ngân hàng lớn xây dựng trang web về đào

tạo theo nhu cầu ngành.

- Phối hợp xây dựng ngân hàng thực hành để tạo điều kiện cho học viên tiếp

cận thực tế từ sớm và liên tục. Hiện nay, các học viên ngành ngân hàng hầu hết chỉ

tiếp cận môi trường làm việc thực tế qua việc đi thực tập ba tháng cuối khóa học

nên khó có thể nâng cao kỹ năng thực hành.

Bên cạnh những giải pháp trên đây, hiện nay, Việt Nam đang thực hiện Đề

án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong đó có các NHTMCP. Đây cũng là một giải

pháp để tăng hiệu quả, hướng đến sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh

tranh của các NHTMCP Việt Nam.

Kết luận Chương 3

Chương 3 phân tích kết quả ước lượng từ phần mềm DEAP 2.1 và đưa ra

một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam.

Mặc dù hiệu quả kinh doanh trung bình chung đạt được của các NHTMCP là tương

đối cao nhưng chưa đồng đều giữa các NHTMCP, có sự chênh lệch giữa khả năng

sử dụng các nguồn lực giữa các NHTMCP. Nguồn gây ra phi hiệu quả từ các nhân

tố quy mô và cả yếu tố năng lực quản trị, điều hành. Xu hướng tăng năng suất thể

hiện rất rõ khi phân tích chỉ số năng suất tổng hợp và nguyên nhân chính là do thay

đổi công nghệ.

Để tăng hiệu quả hoạt động, các NHTMCP cần tăng quy mô, đa dạng hóa

sản phẩm, nâng cao năng lực quản trị điều hành, tận dụng triệt để hạ tầng công

nghệ và không ngừng đổi mới công nghệ. Các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh thực

hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, đồng thời tổ chức đào tạo nhân lực cao cấp cho

ngành ngân hàng.

73

KẾT LUẬN

Luận văn đã đạt được mục tiêu nghiên cứu là ước lượng và phân tích hiệu

quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam kết hợp phân tích thay đổi năng suất

nhân tố tổng hợp.

Theo đó, thông qua phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA, luận văn đã xác

định hiệu quả kỹ thuật trung bình chung của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn

2008-2011 đạt mức 90,3%. Mặc dù vậy, các NHTMCP Việt Nam vẫn còn chưa sử

dụng tối ưu các nguồn lực và còn có thể giảm đầu vào trung bình 9,7%. Có sự mất

cân bằng tương đối giữa các ngân hàng trong việc sử dụng các nguồn lực. Luận văn

cũng xác định nguồn gây ra phi hiệu quả là từ các nhân tố quy mô (5,8%) và các

nhân tố quản trị, điều hành (4,1%). Kết hợp xử lý cùng một bộ dữ liệu để phân tích

thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp, kết quả cho thấy năng suất của các NHTMCP

Việt Nam có xu hướng tăng dần do sự thay đổi của tiến bộ công nghệ.

Bằng phương pháp định lượng, luận văn cho thấy các NHTMCP có quy mô

lớn hơn chưa hẳn hoạt động có hiệu quả hơn các ngân hàng nhỏ. Và vì vậy, các

NHTMCP nhỏ vẫn có thể tồn tại trong môi trường hiện nay và có khả năng cạnh

tranh với các ngân hàng khác.

Cuối cùng, luận văn đã gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của NHTMCP Việt Nam. Đối với các NHTMCP, cần tăng vốn chủ sở hữu,

mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường quản trị nội bộ, khai thác

triệt để hạ tầng công nghệ và chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đối

với các cơ quan quản lý nhà nước, cần thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu ở các

NHTMCP và phối hợp đào tạo đội ngũ chuyên gia cao cấp cho ngành ngân hàng.

Việt Nam cũng cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tái cơ cấu các tổ chức tín

dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường năng lực cạnh tranh của các

NHTMCP. Tuy nhiên, Việt Nam không nhất thiết phải xóa bỏ các ngân hàng nhỏ

mà Nhà nước cần điều chỉnh phạm vi và lĩnh vực phù hợp để một số NHTMCP nhỏ

hoạt động có hiệu quả tiếp tục tồn tại và phát triển.

74

Bên cạnh những kết quả đạt được, luận văn còn một số hạn chế nhất định:

- Do nguồn số liệu hạn chế, đề tài chưa đánh giá hiệu quả hoạt động của tất

cả các NHTMCP Việt Nam mà chỉ chọn 15 NHTMCP có thể tập hợp được dữ liệu.

Nguồn số liệu từ 15 NHTMCP cũng làm giới hạn cách chọn biến đầu vào và đầu ra

của mô hình nghiên cứu. Một nghiên cứu với số lượng mẫu đầy đủ hơn với nhiều

biến đầu vào, đầu ra sẽ phân tích sâu và rõ ràng hơn hiệu quả hoạt động của các

ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

- Thông tin về NHTMCP Việt Nam còn hạn chế nên phần đánh giá thực

trạng hoạt động của NHTMCP chưa sâu, chưa thật chi tiết.

- Luận văn chỉ dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP

bằng phương pháp DEA mà chưa kèm theo các phương pháp kiểm định khác, cũng

như chưa kết hợp phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân

hàng bằng một mô hình hồi quy. Cần có thêm các phép kiểm định kết hợp đánh giá

bằng phương pháp DEA và phân tích bằng mô hình hồi quy để xác định chính xác

và rõ ràng hơn các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt

Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cụ thể hơn nhằm làm gia tăng hiệu quả

hoạt động, tăng cường năng lực cạnh tranh của các NHTMCP Việt Nam.

viii

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu tiếng Việt 1. Chính phủ, 2006. Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về ban hành danh mục mức vốn

pháp định của các tổ chức tín dụng.

Website: http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban.

2. Hoàng Xuân Hòa và Trần Kim Anh, 2013. Vấn đề nợ xấu và một số giải pháp

cấp thiết. Tạp chí Ngân hàng, số 4, trang 23-26.

3. Lê Thị Lợi, 2011. Vốn chủ sở hữu trong các ngân hàng tại Việt Nam, các vấn đề

về quản trị vốn. Tạp chí Ngân hàng, số 2+3, trang 90-95.

4. Lê Thu Hằng và Đỗ Thị Bích Hồng, 2010. Định vị hệ thống ngân hàng Việt Nam

so với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, Tạp chí Ngân hàng, số 24,

trang 11-16.

5. Ngân hàng Nhà nước, 2008, 2009, 2010, 2011. Báo cáo thường niên

6. Ngân hàng Nhà nước, 2010. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ

bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

Website: http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban.

7. Ngân hàng Nhà nước, 2012. Quyết định số 219/QĐ-NHNN về việc phê duyệt quy

hoạch phát triển nhân lực ngành ngân hàng giai đoạn 2011-2020. Website:

http://luatvietnam.vn/Van-ban-moi-cap-nhat-tuan

8. Ngô Đăng Thành, 2010. Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực của một số

NHTMCP Việt Nam ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA). SSRN eLibrary,

WP.2010.01.

9. Ngọc Minh, 2013. Phát triển vốn nhân lực ngành tài chính ngân hàng – các bài

học kinh nghiệm trong khu vực. Tạp chí Ngân hàng, số 2+3 trang 138-143. 10. Nguyễn Đức Hoàn, 2012. Hoạt động kinh doanh ngân hàng năm 2011. Thời báo

kinh tế Việt Nam 2011-2012, số Đặc biệt, trang 32-35.

11. Nguyễn Thị Nhung, 2013. Suy nghĩ về vấn đề tái cấu trúc NHTM Việt Nam,

Tạp chí Thị trường Tài chính, số 3+4 tháng 2, trang 39-43.

ix

12. Nguyễn Thị Quý, 2005. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

trong xu thế hội nhập. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị.

13. Nguyễn Thùy Trang, 2012. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng – nhìn từ góc độ

đạo đức. Tạp chí Ngân hàng, số 23, trang 30-33.

14. Nguyễn Văn Ngọc, 2012. Từ điển Kinh tế học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học

kinh tế quốc dân.

15. Nguyễn Việt Hùng, 2008. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại

học Kinh tế quốc dân.

16. Quách Mạnh Hào, 2012. Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam gia. Website: sát chính giám quốc ban tài nay. Ủy

hiện http://nfsc.gov.vn/en/nghien-cuu-trao-doi.

17. Quốc hội, 2010. Luật các tổ chức tín dụng. Nhà xuất bản Phương Đông.

18. Quốc hội, 2010. Luật Ngân hàng Nhà nước. Nhà xuất bản Phương Đông.

19. Thủ tướng Chính phủ, 2012. Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai

đoạn 2011-2015.

Website: http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vilinks/videtail/vicm207. 20.Tô Ngọc Hưng và Nguyễn Đức Trung. Hoạt động ngân hàng Việt Nam – nhìn

lại năm 2011 và một số giải pháp cho năm 2012. Học viện ngân hàng, Website:

http://v1.hvnh.edu.vn/magazine/503/1938

21.Trần Huy Hoàng, 2012. Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Kinh tế

TP.Hồ Chí Minh.

22.Trương Quang Thông, 2012. Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản

Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.

23. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, 2012. Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012.

24. Các báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các NHTMCP năm 2008,

2009, 2010, 2011.

x

Danh mục tài liệu tiếng Anh 1. Alli M., and R. Habibollah, 2011. The application of DEA based Malmquist

Productivity index in Organization Performance Analysis. International research

Journal of Finance and Economics, ISSN 1450-2887 Issue 62,

2. Aziz P., M., and H. Lennart, 2002. Measurement of inputs and outputs in the

banking industry. Tanzanet Journal, 3(1): 12-22.

3. Banker, R.D., A.Charmens, and W.W.Cooper, 1984. Some models for estimating

Technical and scale inefficiencies in Data Envelopment Analysis. Management

Science, 30:1078-1092.

4. Chan S., 2011. Technical efficiency of commercial banks in China:

Decomposition into Pure Technical and scale efficiency. International journal of

China Studies, Vol.2, No.1:27-38.

5. Charnes, A., W.W. Cooper, and E. Rhodes, 1978. Measuring the Efficiency of

Decision Making Units. European Journal of Operational Research, 2: 429-444.

6. Coelli, T., 1996. A guide to DEAP version 2.1: A data envelopment analysis

(computer) program. CEPA Working paper 96/08, University of New England,

http://www.une.edu.au/econometrics/cepawp.htm.

7. Coelli, T., Rao., D.S and G.E. Battese, 1996. An Introduction to efficiency and

productivity analysis. Boston, MA: Kluwer Academic Publishers.

8. Elena L., 2008. Analysis of the efficiency and profitability of the Japanese

banking system. IMF Working paper, WP/08/63.

9. Farrell, M.,1957. The measurement of productive efficiency. Journal of the Royal

Statistical Society. Series A 9 (General), 120: 253-290.

10. Grazyna W., 2008. Methods of measuring the efficiency of commercial banks:

an example of Polish Banks. ISSN 1392-128. Economika, 84.

11. Nguyen, T.H.V., 2011. The Data Envelopment analysis model: Evaluating the

efficiency of Vietnamese commercial banks. Master Thesis in Economics,

University of Economics HoChiMinh City.

xi

12. Nurhan A., Y. Abdullah, and S.Mustafa, 2009. Banking efficiency in

Developing economy: empirical evidence from Turkey. Journal of money,

investment and banking. ISSN 1450-288X Issue 8 (2009).

13. Sherman, H.D., F.Gold, 1983. Evaluating operating efficiency of service

business with data envelopment analysis – empirical study of bank branch

operations. Working paper 1444-83, Massachusetts Institute of Technology.

xii

Phụ lục 1: Vốn điều lệ của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011

2008 2009 2010 2011

Stt Mã ngân hàng Tốc độ tăng vốn điều lệ bình quân 2008-2011 (%) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%) Vốn điều lệ 2007 (tỷ đồng) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%)

1 ABB 2.300 2.706 17,65 3.483 28,71 3.831 10 4.200 9,63 16,50

2.630 2 ACB 3 DAB 1.600 2.800 4 EIB 500 5 HDB 6 MBB 2.000 7 MDB 500 8 MSB 1.500 500 9 NVB 1.000 10 OCB 5.662 11 SCB 1.434 12 STB 2.521 13 TCB 2.000 14 VPB 200 15 WTB 6.356 2.880 7.220 1.550 3.400 500 1.500 1.000 1.000 5.116 2.028 3.642 2.117 1.000 141,67 80,00 157,86 210,00 70,00 0,00 0,00 100,00 0,00 -9,64 41,42 44,47 5,85 400,00 22,94 7.814 18,06 3.400 21,88 8.800 0,00 1.550 5.300 55,88 1.000 100,00 3.000 100,00 1.000 0,00 2.000 100,00 30,96 6.700 26,63 2.568 48,27 5.400 0,00 2.117 0,00 1.000 9.377 4.500 10.560 2.000 7.300 3.000 5.000 1.820 3.500 9.179 3.049 6.932 4.000 2.000 20 32 20 29 38 200 67 82 75 37 19 28 89 100 9.377 4.500 12.355 3.000 7.300 3.750 8.000 3.010 4.000 10.740 3.212 8.788 5.050 3.000 0,00 0,00 17,00 50,00 0,00 25,00 60,00 65,38 14,29 17,01 5,35 26,77 26,25 50,00 46,15 32,60 54,18 72,26 40,90 81,25 56,67 61,85 47,32 18,83 23,03 36,97 30,26 137,50

(Nguồn: Báo cáo thường niên,báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)

xiii

Phụ lục 2: Tổng tài sản của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011

2008 2009 2010 2011

Stt Mã ngân hàng Tổng tài sản 2007 (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tốc độ tăng tổng tài sản bình quân 2008-2011 (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%)

9.558 (30,85)

43,36 41.542 22,17 281.019 31,40 65.549 100,33 183.567 79,79 45.025 58,86 138.831

1 ABB 2 ACB 3 DAB 4 EIB 5 HDB 6 MBB 7 MDB 8 MSB 9 NVB 10 OCB 11 SCB 12 STB 13 TCB 14 VPB 15 WTB 17.174 13.494 (21,43) 85.392 105.306 27.376 34.713 33.710 48.248 13.823 29.624 44.346 1.575 1.988 17.569 32.626 9.903 10.905 13.680 14.091 64.573 68.439 17.130 20.762 39.542 59.099 18.137 18.648 1.295 26.518 23,32 167.881 26,80 42.520 43,13 65.448 19.127 49,70 69.008 26,22 2.524 85,70 63.882 10,12 18.690 3,00 33.785 5,99 104.019 21,20 35.473 49,46 92.582 27.543 2,82 2.662 105,56 10.314 96,52 38.016 59,42 205.103 22,49 55.873 35,65 131.110 100,12 34.389 55,61 109.623 26,96 17.267 95,80 115.336 71,39 20.016 139,76 55.139 51,99 141.799 70,86 60.235 56,66 150.291 59.807 47,70 9.335 287,45 117,14 (9,49) 31,93 35,48 24,50 54,78 45,00 47,70 149,15 65,30 25,25 54,89 23,28 44,51 47,14 51,53 125,92

9,28 37,01 17,32 40,01 30,93 26,64 584,11 10.241 (40,69) (0,83) 80,55 114.375 12,39 7,09 22.496 13,60 63,21 62.639 (1,17) 36,32 140.137 16,20 69,81 69.991 20,12 62,33 180.531 82.818 38,48 20.551 120,15 (Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)

xiv

Phụ lục 3: ROAA của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2008-2011

Đơn vị tính: %

2008 2009 2010 2011 Stt Mã ngân hàng ROAA bình quân giai đoạn 2008- 2011

1 ABB 1,56 0,32 0,77 1,05 1,54

2 ACB 1,61 2,32 1,32 1,63 1,25

3 DAB 1,52 1,74 1,56 1,54 1,34

4 EIB 1,99 1,74 1,93 1,88 1,85

5 6 HDB MBB 1,35 1,93 0,51 1,90 1,07 1,54 0,99 1,83 1,01 1,95

7 8 9 MDB MSB NVB 4,42 1,60 0,96 3,73 1,26 0,55 2,77 0,69 0,78 3,14 1,21 0,78 1,64 1,29 0,81

10 11 12 13 14 OCB SCB STB TCB VPB 0,95 1,94 0,88 2,13 1,27 0,33 1,44 0,62 2,38 0,78 0,83 1,44 0,35 1,91 1,12 0,82 1,57 0,68 2,03 1,08 1,17 1,46 0,88 1,71 1,15

WTB 2,05 0,52 1,84 0,81 5,02

15 (Nguồn: tác giả tính toán dựa vào số liệu của Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)

xv

Phụ lục 4: ROEA của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011 Đơn vị tính: %

Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011 hàng ROEA bình quân giai đoạn 2008- 2011

ABB 1,54 7,38 10,86 6,55 6,58 1

ACB 31,53 24,63 21,74 27,49 26,35 2

DAB 15,98 15,23 13,71 16,86 15,44 3

EIB 7,43 8,65 13,51 20,39 12,49 4

HDB MBB 0,77 17,64 11,20 19,36 12,97 22,13 14,44 20,68 9,85 19,95 5 6

MDB MSB NVB 12,45 16,86 6,91 12,76 28,49 12,70 6,68 23,42 9,84 9,89 10,08 6,35 10,44 19,71 8,95 7 8 9

OCB SCB STB TCB VPB 4,13 12,64 5,15 25,51 6,31 13,65 18,25 9,33 25,00 12,00 16,42 14,88 12,87 24,80 12,98 11,18 14,60 5,94 28,79 14,28 11,35 15,09 8,32 26,03 11,39 10 11 12 13 14

WTB 14,88 10,67 3,17 4,60 8,33 15

(Nguồn: tác giả tính toán dựa vào số liệu của Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)

xvi

Phụ lục 5: Tỷ lệ nợ xấu của 15 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2011

Đơn vị tính: %

Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011

hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 - 0,9 - - 1,9 - 0,8 1,49 2,9 - 0,69 - - 3,41 2,3 - - - 1,8 1,1 - 2,9 0,62 2,4 0,016 0,62 2,3 - 1,63 2,1 - 0,3 1,6 1,4 0,8 - - 1,87 2,2 1,67 0,6 1,8 2,3 1,2 - - 0,9 1,7 1,6 2,1 - - - 2,9 2,08 0,6 - 2,8 1,8 -

(Nguồn: tác giả tính toán dựa vào số liệu của Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)

Ghi chú: các trường hợp (-) do không có số liệu

xvii

Phụ lục 6: Tổng số nhân viên của 15 NHTMCP Việt Nam nghiên cứu Đơn vị tính: Người

Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011

hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OEB SCB STB TCB VPB WTB - 7255 4750 4088 1752 4079 533 2587 - 1359 8354 2155 7481 2700 763 2683 8613 4846 4974 2162 5098 1356 4699 - 1848 9596 - 8335 3382 913 - 6901 - 3104 783 2435 282 - 1123 590 6016 1752 - - 404 - 6669 - 3780 1288 2999 375 - 1050 895 7200 1788 5548 2394 594

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 (Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm 2008-2011)

xviii

Phụ lục 7: Tỷ lệ thu nhập lãi so với tổng thu nhập của 15 NHTMCP Đơn vị tính: %

Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011 hàng

ABB 1 95,29 92,36 92,71 95,86

ACB 2 92,18 88,16 91,83 94,21

DAB 3 92,15 92,29 88,72 93,67

EIB 4 96,44 92,02 87,98 93,65

HDB 5 92,33 86,08 91,90 97,73

MBB 6 92,07 87,79 91,38 91,58

MDB 7 98,42 97,33 97,50 99,39

MSB 8 96,49 93,56 94,87 91,01

NVB 9 93,35 86,69 97,41 97,86

OCB 10 99,17 95,25 95,16 96,26

SCB 11 88,08 83,91 82,45 90,15

STB 12 92,30 94,11 95,33 97,06

TCB 13 90,68 87,70 84,78 89,92

VPB 14 96,62 90,36 89,45 91,51

15 WTB 90,85 86,21 98,91 98,94

(Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm 2008-2011)

xix

Phụ lục 8: Số liệu các biến của 15 NHTMCP nghiên cứu Đơn vị tính: triệu VND

Năm 2008

Stt Mã ngân hàng Thu nhập ngoài lãi Thu nhập lãi và các khoản tương tự Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng

1.494.819 1 ABB 73.958 92.362 480.524 6.673.746

2 ACB 10.497.846 891.066 691.319 789.034 64.216.949

3 DAB 3.815.708 325.027 215.987 549.467 23.010.437

4 EIB 4.196.594 154.738 282.709 716.157 30.877.730

5 HDB 6 MBB 1.084.874 90.132 3.679.299 316.972 68.380 234.025 150.489 629.394 4.336.883 27.162.881

7 MDB 8 MSB 9 NVB 10 OCB 266.620 2.481.604 1.024.772 1.335.733 4.284 90.326 73.034 11.119 16.403 124.757 79.480 33.394 27.904 219.635 108.682 45.900 1.297.603 14.111.556 6.021.861 6.411.984

11 SCB 12 STB 7.161.082 969.011 1.888.682 157.534 643.346 1.696.288 600.574 151.789 46.128.820 9.044.745

13 TCB 6.218.777 638.886 405.506 564.262 39.617.7230

14 VPB 15 WTB 2.630.121 243.470 92.103 24.531 187.360 20.162 368.035 112.021 14.230.102 859.372

xx

Năm 2009

Stt

Mã ngân hàng Thu nhập lãi và các khoản tương tự Thu nhập ngoài lãi Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng

1 ABB 1.646.999 136.295 143.060 507.124 15.001.842

2 ACB 9.613.889 1.290.595 851.469 872.634 86.919.196

3 DAB 3.325.056 277.735 280.770 793.784 27.973.540

4 EIB 4.344.177 376.849 458.505 937.558 38.766.465

5 HDB 1.039.175 167.983 91.848 250.618 9.459.244

6 MBB 4.050.421 563.348 349.706 623.041 39.978.447

7 MDB 326.033 8.958 28.815 32.114 677.246

8 MSB 4.041.658 278.364 248.251 258.567 30.053.287

9 NVB 1.251.187 192.117 95.927 107.637 9.629.727

10 OCB 1.749.594 87.310 77.568 194.020 23.376.980

11 SCB 7.137.799 1.369.166 747.374 2.480.890 60.516.273

12 STB 2.297.103 143.825 156.432 779.037 14.720.676

13 TCB 6.882.366 965.002 594.340 700.901 62.347.400

14 VPB 2.163.995 230.858 207.993 326.237 16.489.544

15 WTB 398.628 63.739 36.448 118.916 3.309.043

xxi

Năm 2010

Stt

Thu nhập lãi và các khoản tương tự Thu nhập ngoài lãi Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng

3.300.305 259.671 250.947 627.468 23.457.313

14.960.336, 1.330.554 970.747 1.054.702 106.936.611

4.508.6050 573.241 353.344 940.622 31.417.279

7.544.746 1.030.687 544.314 1.067.579 58.150.665

2.353.1580 207.423 162.463 256.043 13.986.213

8.765.605 826.594 567.112 1.223.530 65.740.838

619.612 15.893 42.929 51.000 6.556.453

8.246.078 446.055 418.307 615.381 48.626.708

1.714.750 45.642 122.364 106.571 10.721.302

4.202.658 213.789 148.402 132.439 42.337.825

11.801.566 2.511.340 1.021.646 3.707.863 78.335.416

3.933.128 192.832 206.314 1.090.577 28.584.325

Mã ngân hàng ABB 1 ACB 2 DAB 3 EIB 4 HDB 5 MBB 6 MDB 7 MSB 8 NVB 9 OEB 10 SCB 11 12 STB 13 TCB 10.934.383 1.963.483 754.516 1.003.907 80.550.753

3.814.024 449.955 239.505 349.889 23.969.645

781.049 8.616 59.400 138.318 5.593.260 14 15 VPB WTB

xxii

Năm 2011

Stt Mã ngân hàng

Thu nhập lãi và các khoản tương tự Thu nhập ngoài lãi Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng

1 ABB 5.090.760 219.672 366.291 716.538 20.249.558

2 ACB 25.460.938 1.564.328, 1.574.327 1.236.987 142.218.091

3 DAB 7.348.942 496.476 629.943 1.223.566 36.064.013

4 EIB 17.549.942 1.190.176 1.050.942 1.912.605 53.652.639

5 HDB 5.340.656 124.140 267.297 327.506 19.089.860

6 MBB 13.820.889 1.270.302 824.090 1.551.406 89.548.673

7 MDB 1.332.426 8.224 175.614 148.865 1.254.258

8 MSB 14.078.653 1.391.135 578.456 724.903 62.294.523

9 NVB 2.691.190 58.934 194.459 139.943 14.822.283

10 OCB 6.428.069 249.554 203.149 232.217 38.589.893

11 SCB 17.864.267 1.951.996 1.944.550 3.135.519 75.092.252

12 STB 8.458.289 256.170 309.060 1.299.903 33.410.241

13 TCB 19.948.573 2.235.333 1.181.254, 1.191.224 88.647.779

14 VPB 9.539.693 884.895 687.647 370.704 29.412.135

15 WTB 2.022.022 21.764 115.623 1.265.745 12.629.595

(Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm 2008-2011)

xxiii

Phụ lục 9: Hiệu quả kỹ thuật theo mô hình CRS, VRS và hiệu quả quy mô của 15 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2011 (Nguồn: Kết quả ước lượng từ phần mềm DEAP 2.1)

2008 2009

VRS (PE) Scale (SE)

Stt Mã ngân hàng ABB 1 Điều CRS (TE) kiện 0,919 1,000 0,919 Drs Scale VRS CRS (TE) (SE) (PE) 0,771 0,771 1,000 Điều kiện

ACB 2 DAB 3 EIB 4 HDB 5 MBB 6 MDB 7 MSB 8 NVB 9 OCB 10 SCB 11 STB 12 TCB 13 14 VPB 15 WTB 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,606 0,845 0,718 Drs 1,000 1,000 1,000 Irs 0,897 0,899 0,999 0,893 1,000 0,893 Irs 0,805 0,962 0,836 Drs Irs 0,868 0,909 0,955 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,820 1,000 0,820 Drs 1,000 1,000 1,000 0,781 0,988 0,790 Drs 1,000 1,000 1,000 0,892 1,000 0,892 Drs 0,810 0,857 0,946 Drs 0,694 0,852 0,814 Drs 0,913 0,923 0,990 Irs 0,841 0,969 0,868 Drs 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,989 1,000 0,989 Drs 0,857 1,000 0,857 Drs 0,806 0,967 0,834 Drs Irs 0,930 1,000 0,930

2010 2011

VRS (PE) Scale (SE)

Stt Mã ngân hàng ABB 1 CRS Điều kiện (TE) 0,835 0,836 0,999 Drs CRS VRS Scale (SE) (PE) (TE) 0,795 0,820 0,970 Điều kiện Irs

Irs

ACB 2 DAB 3 EIB 4 HDB 5 MBB 6 MDB 7 MSB 8 NVB 9 OCB 10 SCB 11 STB 12 TCB 13 14 VPB 15 WTB 0,812 1,000 0,812 Drs Irs 0,660 0,686 0,962 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,680 0,687 0,990 Drs 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,762 1,000 0,762 1,000 1,000 1,000 0,864 1,000 0,864 Drs 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,638 1,000 0,638 Irs

0,997 1,000 0,997 Drs Irs 0,891 0,893 0,998 0,879 0,879 1,000 1,000 1,000 1,000 0,867 0,870 0,997 Drs Irs 0,700 1,000 0,700 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 Irs 0,914 0,949 0,963 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 irs 0,823 1,000 0,823

xxiv

Phụ lục 10: Xếp hạng tổng tài sản và xếp hạng hiệu quả của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011

Năm 2008 Năm 2009

Mã ngân hàng Stt Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Xếp hạng Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Xếp hạng Hiệu quả TE Hiệu quả TE

1 ABB 13.494.125 11 8 26.518.084 11 14

1 2 ACB 105.306.130 1 167.881.047 1 9

6 3 DAB 34.713.192 1 42.520.402 7 12

4 4 EIB 48.247.821 15 65.448.356 5 15

5 HDB 9.557.917 13 19.127.427 12 1 8

6 MBB 44.346.106 5 69.008.288 4 9 11

15 7 MDB 10 2.523.817 15 1

7 8 MSB 13 63.882.044 6 1

12 9 NVB 11 18.689.953 13 1

10 1.987.889 32.626.054 10.905.279 14.091.336 10 OCB 1 33.784.958 9 1

2 11 SCB 1 104.019.144 2 1

8 12 STB 12 35.473.136 8 6

3 13 TCB 1 92.581.504 3 10

9 14 VPB 14 27.543.006 10 13

0,919 1,000 1,000 0,606 1,000 0,897 0,893 0,805 0,868 1,000 1,000 0,820 1,000 0,781 1,000 68.438.569 20.761.516 59.098.962 18.647.630 2.661.681 14 1 10.314.177 14 0,771 0,892 0,810 0,694 0,913 0,841 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,989 0,857 0,806 0,930 7

15 WTB

xxv

Năm 2010 Năm 2011 Stt Mã ngân hàng

Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Xếp hạng Hiệu quả TE Xếp hạng Hiệu quả TE

1 ABB 38.015.689 11 13 41.541.959 12 11

2 ACB 205.102.950 8 281.019.319 1 10

9 14 10 65.548.578 55.873.084 9

2 1 11 183.567.032 3 DAB EIB 4 131.110.882 4

1 1 45.025.421 11 34.389.227 12

12 138.831.492 5 13 5 HDB MBB 109.623.197 6 6

1 17.266.794 14 15 10.241.182 15

6 1 8 115.336.083 1 114.374.998 5

13 12 9 20.016.386 1 22.496.047 13

10 1 10 55.138.903 1 62.639.317 10

4 9 11 152.386.936 1 141.468.717 2

8 1 12 60.235.078 9 69.990.870 7

3 1 13 15.291.215 1 180.531.163 3

7 1 14 59.807.023 1 82.817.947 8

0,795 0,812 0,660 1,000 1,000 0,680 1,000 1,000 0,762 1,000 0,864 1,000 1,000 1,000 0,638 15 7 MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB 15 9.335.005 15 14 20.550.642 14 0,835 0,997 0,891 0,879 1,000 0,867 0,700 1,000 1,000 1,000 1,000 0,914 1,000 1,000 0,823

(Nguồn: Tác giả sắp xếp dựa vào số liệu từ Báo cáo tài chính của các

NHCMCP và kết quả từ phần mềm DEAP 2.1)

xxvi

Phụ lục 11: Kết quả ước lượng các chỉ số Mamquist bằng mô hình DEA

Results from DEAP Version 2.1 Instruction file = Eg41-cmd.txt Data file = eg41-dta.txt Output orientated Malmquist DEA DISTANCES SUMMARY year = 1 firm crs te rel to tech in yr vrs no. **********************te t-1 t t+1 1 0.000 0.919 1.173 1.000 2 0.000 1.000 1.070 1.000 3 0.000 1.000 1.180 1.000 4 0.000 0.606 0.947 0.873 5 0.000 1.000 1.267 1.000 6 0.000 0.897 1.015 0.906 7 0.000 0.893 1.149 1.000 8 0.000 0.805 1.253 0.968 9 0.000 0.868 0.954 0.900 10 0.000 1.000 2.258 1.000 11 0.000 1.000 1.012 1.000 12 0.000 0.820 1.012 1.000 13 0.000 1.000 1.093 1.000 14 0.000 0.781 1.004 0.990 15 0.000 1.000 1.397 1.000 mean 0.000 0.906 1.186 0.976 year = 2 firm crs te rel to tech in yr vrs no. **********************te t-1 t t+1 1 0.645 0.771 0.662 0.773 2 1.306 0.892 0.848 1.000 3 0.676 0.810 0.714 0.880 4 0.578 0.694 0.666 0.882 5 1.161 0.913 0.768 0.916 6 1.022 0.841 0.722 0.970

xxvii

7 1.891 1.000 2.839 1.000 8 1.042 1.000 0.986 1.000 9 1.576 1.000 0.973 1.000 10 0.950 1.000 0.796 1.000 11 1.197 1.000 0.775 1.000 12 0.743 0.989 0.922 1.000 13 1.216 0.857 0.806 1.000 14 0.805 0.806 0.800 0.970 15 1.123 0.930 0.789 1.000 mean 1.062 0.900 0.938 0.959 year = 3 firm crs te rel to tech in yr vrs no. **********************te t-1 t t+1 1 0.915 0.835 0.573 0.839 2 1.022 0.997 0.674 1.000 3 0.982 0.891 0.769 0.892 4 1.015 0.879 0.792 0.880 5 1.056 1.000 0.674 1.000 6 1.016 0.867 0.624 0.902 7 0.854 0.700 0.510 1.000 8 1.229 1.000 0.778 1.000 9 1.092 1.000 0.695 1.000 10 2.030 1.000 1.166 1.000 11 1.417 1.000 1.282 1.000 12 1.129 0.914 0.676 0.945 13 1.299 1.000 1.089 1.000 14 1.154 1.000 0.822 1.000 15 0.882 0.823 0.552 1.000 mean 1.139 0.927 0.778 0.964 year = 4 firm crs te rel to tech in yr vrs no. ********************* te t-1 t t+1 1 1.482 0.795 0.000 0.807

xxviii

2 1.285 0.812 0.000 1.000 3 1.205 0.660 0.000 0.670 4 1.935 1.000 0.000 1.000 5 1.650 1.000 0.000 1.000 6 0.959 0.680 0.000 0.826 7 6.264 1.000 0.000 1.000 8 1.510 1.000 0.000 1.000 9 1.168 0.762 0.000 1.000 10 1.375 1.000 0.000 1.000 11 1.442 0.864 0.000 1.000 12 1.493 1.000 0.000 1.000 13 1.444 1.000 0.000 1.000 14 2.059 1.000 0.000 1.000 15 0.944 0.638 0.000 1.000 mean 1.748 0.881 0.000 0.953 [Note that t-1 in year 1 and t+1 in the final year are not defined] MALMQUIST INDEX SUMMARY year = 2 firm effch techch pech sech tfpch 1 0.839 0.810 0.773 1.085 0.679 2 0.892 1.169 1.000 0.892 1.044 3 0.810 0.841 0.880 0.921 0.681 4 1.144 0.730 1.010 1.133 0.835 5 0.913 1.002 0.916 0.997 0.915 6 0.937 1.037 1.071 0.875 0.972 7 1.120 1.212 1.000 1.120 1.358 8 1.243 0.818 1.033 1.203 1.016 9 1.152 1.198 1.111 1.037 1.380 10 1.000 0.648 1.000 1.000 0.648 11 1.000 1.088 1.000 1.000 1.088 12 1.207 0.780 1.000 1.207 0.941 13 0.857 1.139 1.000 0.857 0.976 14 1.033 0.881 0.980 1.054 0.910 15 0.930 0.930 1.000 0.930 0.865 mean 0.996 0.936 0.982 1.015 0.932

xxix

year = 3 firm effch techch pech sech tfpch 1 1.084 1.129 1.085 0.999 1.224 2 1.117 1.039 1.000 1.117 1.160 3 1.100 1.119 1.014 1.085 1.230 4 1.267 1.097 0.998 1.269 1.390 5 1.095 1.121 1.091 1.003 1.227 6 1.031 1.169 0.929 1.110 1.205 7 0.700 0.655 1.000 0.700 0.459 8 1.000 1.117 1.000 1.000 1.117 9 1.000 1.059 1.000 1.000 1.059 10 1.000 1.597 1.000 1.000 1.597 11 1.000 1.352 1.000 1.000 1.352 12 0.924 1.151 0.945 0.978 1.064 13 1.167 1.176 1.000 1.167 1.372 14 1.240 1.078 1.031 1.203 1.338 15 0.886 1.123 1.000 0.886 0.995 mean 1.031 1.116 1.005 1.025 1.150 year = 4 firm effch techch pech sech tfpch 1 0.952 1.648 0.962 0.990 1.570 2 0.815 1.530 1.000 0.815 1.246 3 0.740 1.455 0.751 0.986 1.077 4 1.138 1.466 1.136 1.001 1.667 5 1.000 1.564 1.000 1.000 1.564 6 0.784 1.400 0.916 0.856 1.098 7 1.428 2.933 1.000 1.428 4.188 8 1.000 1.393 1.000 1.000 1.393 9 0.762 1.485 1.000 0.762 1.131 10 1.000 1.086 1.000 1.000 1.086 11 0.864 1.141 1.000 0.864 0.986 12 1.094 1.421 1.058 1.033 1.554 13 1.000 1.152 1.000 1.000 1.152 14 1.000 1.582 1.000 1.000 1.582 15 0.774 1.486 1.000 0.774 1.151

xxx

mean 0.942 1.475 0.985 0.956 1.389 MALMQUIST INDEX SUMMARY OF ANNUAL MEANS year effch techch pech sech tfpch 2 0.996 0.936 0.982 1.015 0.932 3 1.031 1.116 1.005 1.025 1.150 4 0.942 1.475 0.985 0.956 1.389 mean 0.989 1.155 0.991 0.998 1.142 MALMQUIST INDEX SUMMARY OF FIRM MEANS firm effch techch pech sech tfpch 1 0.953 1.146 0.931 1.024 1.093 2 0.933 1.230 1.000 0.933 1.147 3 0.871 1.110 0.875 0.995 0.967 4 1.182 1.055 1.046 1.129 1.246 5 1.000 1.206 1.000 1.000 1.206 6 0.912 1.193 0.969 0.941 1.087 7 1.038 1.326 1.000 1.038 1.377 8 1.075 1.083 1.011 1.064 1.165 9 0.957 1.235 1.036 0.924 1.183 10 1.000 1.040 1.000 1.000 1.040 11 0.952 1.188 1.000 0.952 1.132 12 1.069 1.084 1.000 1.069 1.159 13 1.000 1.155 1.000 1.000 1.155 14 1.086 1.146 1.004 1.082 1.244 15 0.861 1.158 1.000 0.861 0.997 mean 0.989 1.155 0.991 0.998 1.142 [Note that all Malmquist index averages are geometric means]