BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------
MAI THỊ THU THẢO
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP BAO DỮ LIỆU (DEA) ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả của quá trình
học tập, nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của tôi. Các số liệu trong luận
văn là trung thực, chính xác và được thu thập từ nguồn chính thống và đáng tin cậy.
Tôi cam đoan rằng luận văn này chưa được công bố trên bất kỳ một tài liệu
khoa học nào.
TP. Hồ Chí Minh, năm 2013 Tác giả
Mai Thị Thu Thảo
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN THEO
PHƯƠNG PHÁP DEA .............................................................................................. 3
1.1. Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần ............... 3
1.1.1. Ngân hàng thương mại.................................................................................. 3
1.1.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần .............................. 3
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
cổ phần ......................................................................................................... 5
1.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài ......................................................................... 5
1.1.3.2 .Các nhân tố bên trong ......................................................................... 7
1.2. Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần ..... 11
1.2.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
cổ phần ....................................................................................................... 11
1.2.1.1. Đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính .......................... 11
1.2.1.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên ....... 15
1.2.2. Đánh giá hiệu quả bằng cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số ............. 16
1.2.2.1. Giới thiệu tổng quát về phương pháp DEA ...................................... 16
1.2.2.2. Các cách tiếp cận đánh giá hiệu quả ............................................... 16
1.2.2.3. Các cách lựa chọn biến đầu vào và đầu ra trong phương pháp DEA20
1.2.3. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây .............................................................. 21
iii
1.2.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới đánh giá hiệu quả hoạt động của
ngân hàng bằng phương pháp DEA .................................................. 21
1.2.3.2. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng bằng
phương pháp DEA ở Việt Nam ......................................................... 23
1.3. Phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA ......................................................... 25
1.3.1. Mô hình DEACRS ...................................................................................... 25
1.3.2. Mô hình DEAVRS và hiệu quả quy mô ...................................................... 28
1.3.3 Chỉ số Malmquist và đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp ......... 30
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 32
CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG MÔ HÌNH DEA ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ......................... 34
2.1. Thực trạng họat động của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn
2008 – 2011 ...................................................................................................... 34
2.1.1. Về năng lực tài chính ................................................................................ 36
2.1.1.1. Mức độ an toàn và khả năng huy động vốn, cho vay ...................... 37
2.1.1.2. Về chất lượng tài sản có .................................................................... 39
2.1.1.3. Về khả năng sinh lời ........................................................................ 40
2.1.1.4. Về tính thanh khoản .......................................................................... 41
2.1.2. Về năng lực công nghệ ........................................................................... 42
2.1.3. Về nguồn nhân lực .................................................................................... 43
2.1.4. Về năng lực quản trị ................................................................................. 45
2.2. Một số điểm mạnh và yếu của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ...... 46
2.2.1. Một số điểm mạnh ................................................................................ 46
2.2.2. Một số điểm yếu ................................................................................... 48
2.3. Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam 50
2.3.1. Giới thiệu mô hình nghiên cứu ................................................................... 50
2.3.2. Quy trình nghiên cứu cụ thể ....................................................................... 51
2.3.2.1. Chọn lựa DMU ................................................................................. 51
2.3.2.2. Lựa chọn biến đầu ra và đầu vào ...................................................... 52
iv
2.3.2.3. Mô hình DEA .................................................................................... 53
Kết luận Chương 2 ................................................................................................. 55
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ GỢI Ý GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN VIỆT NAM ........................................................................................... 56
3.1. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................ 56
3.1.1. Hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình DEACRS và DEAVRS ......................... 56
3.1.2. Quy mô tổng tài sản và hiệu quả kỹ thuật .................................................. 59
3.1.3. Hiệu quả quy mô ........................................................................................ 61
3.1.4. Ước lượng năng suất nhân tố tổng hợp TFP ............................................... 62
3.2. Kết luận và gợi ý giải pháp ................................................................................ 64
3.2.1. Kết luận liên quan đến các mục tiêu nghiên cứu ........................................ 64
3.2.1.1 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ nhất ...................... 64
3.2.1.2 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ hai ........................ 65
3.2.2. Một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP
Việt Nam .................................................................................................... 66
3.2.2.1. Đối với các NHTMCP Việt Nam ...................................................... 66
3.2.2.2. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ............................................. 69
Kết luận Chương 3 .................................................................................................. 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CRS: Constant returns to scale - Sản lượng không đổi theo quy mô
DEA: Data envelopment analysis - Phân tích bao dữ liệu
DMU: Decision making unit- Đơn vị ra quyết định
DRS: Decreasing returns to scale - Sản lượng giảm theo quy mô
EPS: Earnings per share - Hệ số thu nhập trên cổ phiếu
effch: Technical efficiency change – Thay đổi hiệu quả kỹ thuật
IRS: Increasing returns to scale – Sản lượng tăng theo quy mô
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NIM: Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
NM: Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
PE: Pure technical efficiency – Hiệu quả kỹ thuật thuần
pech: Pure Technical efficiency change – Thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần
ROA: Return on assets - Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản
ROAA: Return on assets average - Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân
ROE: Return on equity - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
ROEA: Return on equity average - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân
SE: Scale efficiency – Hiệu quả quy mô
sech: Scale efficiency change - Thay đổi hiệu quả quy mô
TC: Technical change - thay đổi kỹ thuật
TCTD: Tổ chức tín dụng.
TE: Technical efficiency – Hiệu quả kỹ thuật
techch: Technological change – Thay đổi tiến bộ công nghệ
TFP: Total factor productivity - Năng suất nhân tố tổng hợp
tfpch: Total factor productivity change - Thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp
VRS: Variable returns to scale – Sản lượng thay đổi theo quy mô
vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu về năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam
giai đoạn 2008-2011
Bảng 2.3: Tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2008-2011
Bảng 2.4: Nợ quá hạn và nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng năm 2010-2011
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về năng lực công nghệ của các NHTM Việt Nam qua các
năm
Bảng 2.6: Danh sách 15 NHTMCP nghiên cứu
Bảng 2.7: Tóm tắt dữ liệu của các biến trong mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô trung bình
của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Bảng 3.2: Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-
2011
Bảng 3.3: Số lượng các NHTMCP đạt hiệu quả tối ưu giai đoạn 2008 - 2011
Bảng 3.4: So sánh thứ tự xếp hạng theo quy mô tổng tài sản bình quân và hiệu quả
kỹ thuật bình quân giai đoạn 2008-2011
Bảng 3.5: Số lượng ngân hàng đang ở điều kiện DRS, IRS và CONS giai đoạn
2008-2011
Bảng 3.6: Chỉ số Malmquist bình quân toàn bộ mẫu giai đoạn 2008-2011
Bảng 3.7: Kết quả ước lượng effch, techch, pech, sech và tfpch trung bình cho 15
NHTMCP giai đoạn 2008-2011
vii
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Đồ thị 1.1: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu vào
Đồ thị 1.2: Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào
Đồ thị 1.3a: Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng thay đổi theo quy mô
Đồ thị 1.3b: Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô
Đồ thị 1.4: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu ra
Đồ thị 1.5: Mô hình DEA tối đa hóa đầu ra
Đồ thị 1.6: Đường biên CRS và VRS
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2008-2011
Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả của ngân hàng
thương mại cổ phần
Đồ thị 2.2: Thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi trung bình của các NHTMCP
Đồ thị 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô của các
NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian quan trọng thực hiện chức
năng chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Những bước thăng trầm của ngành ngân
hàng gắn liền với những thăng trầm của nền kinh tế. Sự lớn mạnh của ngân hàng
được xem là thước đo đo lường sự tăng trưởng của nền kinh tế và được đánh giá
trên nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh doanh, đó chính là hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
Một ngân hàng kinh doanh có hiệu quả sẽ góp phần vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế, gia tăng năng lực cạnh tranh, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính
Việt Nam đang phải chịu sức ép rất lớn từ quá trình hội nhập. Các ngân hàng Việt
Nam bị cạnh tranh gay gắt bỡi các trung gian tài chính phi ngân hàng và các ngân
hàng nước ngoài.
Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng cũng như trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu và Việt Nam đang gặp khó khăn, việc đánh giá hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối
với các ngân hàng trong việc xem xét sử dụng các nguồn lực một cách tổng thể,
tăng cường năng lực cạnh tranh mà còn có ý nghĩa đối với các cơ quan quản lý Nhà
nước trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động tốt hơn. Chính vì
lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) đánh giá hiệu
quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Ước lượng và phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại
cổ phần Việt Nam.
- Phân tích thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam.
- Gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
Do nguồn dữ liệu hạn chế, đề tài nghiên cứu hiệu quả hoạt động của 15 ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2008-2011 (không tính đến các ngân
hàng thương mại cổ phần Nhà nước) thông qua các biến số đầu vào và đầu ra.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là phương
pháp định tính kết hợp với định lượng bằng cách sử dụng phương pháp phân tích
bao dữ liệu để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ
phần và mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần
theo phương pháp DEA.
Chương 2: Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng thương mại cổ phần.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và một số gợi ý giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN THEO PHƯƠNG PHÁP DEA
1.1. Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ
phần
1.1.1. Ngân hàng thương mại
Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16/06/2010 định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận”.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, bao gồm: Huy động vốn, cấp
tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác như: dịch
vụ ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại
hối, quản lý tài sản, tư vấn tài chính…
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt và tồn tại dưới nhiều
loại hình khác nhau như: Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại
liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần… Đề tài đề cập đến ngân hàng thương
mại cổ phần là các ngân hàng do cổ đông (tổ chức và cá nhân) góp vốn.
1.1.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần
Hiệu quả là một thuật ngữ thông dụng sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như kinh tế, chính trị, xã hội… Trong lĩnh vực kinh tế, theo định nghĩa trong
tác phẩm “Từ điển kinh tế học” của tác giả Nguyễn Văn Ngọc: “Hiệu quả là mối
quan hệ giữa đầu vào nhân tố khan hiếm và sản lượng hàng hóa và dịch vụ” và
“khái niệm hiệu quả còn được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem thị trường phân
4
bổ nguồn lực tốt đến mức nào”.Vì các nhân tố đầu vào hay các nguồn lực là khan
hiếm nên việc phân bổ nguồn lực như thế nào là một vấn đề sống còn của bất kỳ
một quốc gia, tổ chức. Vì vậy, có thể hiểu hiệu quả là mức độ thành công mà các tổ
chức đạt được trong việc phân bổ các yếu tố đầu vào có thể sử dụng để sản xuất ra
các đầu ra nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Nguồn lực đầu vào của một doanh
nghiệp là các yếu tố đầu vào sản xuất như vốn, lao động, kỹ thuật.... Đầu ra là kết
quả kinh tế như sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận…
Như vậy, hiệu quả phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục
tiêu xác định. Nói cách khác, đó là khả năng biến các yếu tố đầu vào thành các đầu
ra trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó cho biết những lợi ích đạt
được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh kết quả kinh
tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Trên phương diện khác, Farrell (1957) cho rằng hiệu quả của doanh nghiệp
gồm hai thành phần: hiệu quả kỹ thuật TE và hiệu quả phân bổ. Hiệu quả kỹ thuật
phản ánh khả năng doanh nghiệp đạt được đầu ra tối đa từ đầu vào cho trước (họặc
khả năng doanh nghiệp sử dụng đầu vào tối thiểu để đạt được các đầu ra cho trước).
Hiệu quả phân bổ phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào theo tỷ lệ
tối ưu với mức giá tương ứng của chúng đã biết. Hiệu quả mà đề tài tập trung
nghiên cứu là hiệu quả kỹ thuật của các NHTMCP, nó phản ánh khả năng của một
ngân hàng biến các nguồn lực đầu vào (lao động, kỹ thuật, vốn…) thành các đầu ra
(dịch vụ, tiền vay, thu nhập, lợi nhuận…).
Hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có thể chia làm hai nhóm là hiệu quả
tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối được đo
bằng kết quả kinh tế trừ đi chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đặc điểm của chỉ
tiêu tuyệt đối là phản ánh quy mô, khối lượng của một hiện tượng trong điều kiện,
thời gian và địa điểm cụ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chỉ tiêu này
lại khó có thể so sánh được. Chẳng hạn như nếu một ngân hàng có quy mô lớn thì
hiệu số tuyệt đối giữa doanh thu đạt được trừ chi phí rất lớn nhưng chưa thể đánh
giá ngân hàng này hoạt động hiệu quả hơn ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn và
5
hiệu số tuyệt đối giữa doanh thu đạt được và chi phí nhỏ hơn. Do vậy, chỉ tiêu hiệu
quả tuyệt đối không cho biết khả năng sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các yếu tố đầu
vào.
Cách đánh giá hiệu quả tương đối xem xét tỷ lệ so sánh giữa kết quả đầu ra
và yếu tố đầu vào (chẳng hạn như: kết quả kinh tế/chi phí bỏ ra,…), thuận tiện hơn
trong việc so sánh theo thời gian và không gian cũng như cho phép so sánh hiệu quả
giữa các ngân hàng có quy mô khác nhau, các thời kỳ khác nhau.
Một cách đơn giản, hiệu quả tương đối đối với trường hợp doanh nghiệp có
một biến đầu vào và một biến đầu ra có thể được xác định bằng công thức:
EF (Efficiency) = output/input (1)
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần
Ngân hàng trước hết là một tổ chức. Theo lý thuyết hệ thống thì một tổ chức
luôn hoạt động trong môi trường cụ thể và chịu sự tác động của nhiều nhân tố môi
trường và nhân tố nội tại của tổ chức.
Các nhân tố môi trường là các nhân tố bên ngoài mà tổ chức khó kiểm soát
nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả hoạt động của tổ chức, bao
gồm: môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước, môi trường pháp lý.
Các nhân tố nội tại của tổ chức có thể kiểm soát được và điều chỉnh, có ảnh hưởng
riêng biệt đến tổ chức. Nhóm nhân tố bên trong bao gồm: năng lực tài chính, năng
lực quản trị, điều hành, khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ và nguồn nhân lực.
Hầu hết các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTMCP đều ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
1.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
* Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Với vai trò là một định chế tài chính trung gian quan trọng, NHTMCP là
chiếc cầu nối gắn liền khu vực đầu tư và khu vực tiết kiệm của nền kinh tế. Khi hai
khu vực này bị ảnh hưởng thì NHTMCP cũng bị ảnh hưởng. Trong một môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường.
6
Các tổ chức và cá nhân luôn có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh,
đồng thời gia tăng khả năng trả nợ. Ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng tín
dụng, nâng cao chất lượng tín dụng, làm giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận. Mặt
khác, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định góp phần tạo việc làm cho nền kinh tế,
tăng thu nhập cho cá nhân và tổ chức, ổn định nguồn vốn đầu vào cho ngân hàng
thương mại, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Ngược lại, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội không ổn định ảnh hưởng
không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ
của các doanh nghiệp giảm, nợ quá hạn và nợ xấu tăng cao làm giảm hiệu quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Bên cạnh môi trường kinh tế, chính trị xã hội trong nước, NHTMCP còn chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ từ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đây là
một xu thế tất yếu của thời đại tạo nên những chuyển biến toàn diện trên nhiều lĩnh
vực với nhiều mức độ khác nhau thông qua quá trình trao đổi thông tin giữa các
quốc gia, cá nhân và các nền kinh tế. Trong lĩnh vực kinh tế, xu thế này thường
được đề cập đến là quá trình tự do hóa. Làn sóng tự do hóa xuất hiện từ những năm
1980 bắt đầu bằng quá trình tự do hóa thương mại, tiếp đến là làn sóng đầu tư trực
tiếp nước ngoài kéo theo nhu cầu tự do hóa dịch vụ tài chính đã tạo nhiều thuận lợi
cho nền kinh tế nhiều quốc gia phát triển, trong đó có các ngân hàng thương mại.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng thương mại có thể tiếp nhận nguồn vốn dồi dào,
kinh nghiệm quản lý và trình độ khoa học công nghệ từ nước ngoài để nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, những
mặt trái của quá trình toàn cầu hóa và sự cạnh tranh với các tổ chức tín dụng nước
ngoài, những tập đoàn tài chính đầy tiềm lực là những thử thách không nhỏ đối với
các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
thì những biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ngoài nhất là
các thị trường tiêu thụ càng gây bất lợi cho hoạt động của NHTMCP, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
* Môi trường pháp lý
7
Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ và đầy đủ của hệ thống pháp luật,
các văn bản dưới luật, việc chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Trong đó, hệ
thống pháp luật đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng nền kinh tế, vừa
tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh
doanh, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, người tiêu dùng,
người lao động và cộng đồng xã hội nói chung. Là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống tài chính, NHTMCP chịu sự kiểm soát chặt chẽ về phương diện pháp lý hơn
so với các ngành khác. Nhiều chính sách ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
NHTMCP như chính sách cạnh tranh, phá sản, sát nhập, cơ cấu và tổ chức ngân
hàng; các quy định về cho vay, bảo hiểm tiền gửi, dự phòng rủi ro tín dụng; các
chính sách tài chính tiền tệ, thuế, tỷ giá… Một môi trường pháp lý phù hợp bảo đảm
sự hoạt động ổn định và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại,
giữ vững niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính – ngân hàng, đồng thời
bảo vệ công chúng sử dụng dịch vụ ngân hàng và phòng chống các loại tội phạm tài
chính – ngân hàng. Đây chính là những nền tảng vững chắc để ngân hàng thương
mại phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Ngược lại, một môi trường
pháp lý không đồng bộ và chưa đầy đủ, không phù hợp với yêu cầu phát triển của
nền kinh tế sẽ là rào cản lớn cho quá trình phát triển kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến hoạt động của NHTMCP và làm giảm sút hiệu quả hoạt động của
NHTMCP.
1.1.3.2. Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong bao gồm các nhân tố nội bộ của chính các NHTMCP
như năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ và
nguồn nhân lực.
* Năng lực tài chính
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một NHTMCP tại một thời
điểm nhất định. Năng lực tài chính thể hiện trước hết ở mức độ an toàn vốn và khả
năng huy động vốn. Tiềm lực về vốn thể hiện qua chỉ tiêu quy mô vốn chủ sở hữu,
quy mô vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn. Nó phản ánh sức mạnh tài chính của một
8
NHTMCP và ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh của ngân hàng như khả năng huy
động vốn và cho vay, khả năng đầu tư tài chính, trình độ trang bị công nghệ và khả
năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thương mại. Như vậy, vốn là điều kiện cơ bản
đảm bảo quy mô kinh doanh của một NHTMCP và bù đắp tổn thất có thể xảy ra,
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Thứ hai là chất lượng tài sản có. Tài sản có là những tài sản được hình thành
từ các nguồn vốn của NHTMCP trong quá trình hoạt động, phản ánh sức khỏe của
một ngân hàng thương mại. Chất lượng tài sản có thể hiện qua các chỉ tiêu như: tỷ
lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản
nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hóa của danh mục tín dụng.
Nợ xấu ảnh hưởng đến tính an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản của các
NHTMCP. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các NHTMCP không có điều kiện mở
rộng tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hơn.
Trong phạm vi toàn nền kinh tế, nợ xấu cao sẽ là vật cản kìm hãm, làm chậm quá
trình luân chuyển vốn của nền kinh tế và tác động tiêu cực đến sản xuất, lưu thông
hàng hóa.
Một NHTMCP có chất lượng tài sản có tốt luôn bảo đảm khả năng thanh
toán trong mọi tình huống, đa dạng hóa danh mục đầu tư để phân tán rủi ro, đồng
thời giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa thanh khoản và khả năng sinh lời; từ đó
làm gia tăng hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Nếu thị trường biết rằng chất lượng
tài sản có của NHTMCP kém sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của
ngân hàng thương mại. Điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc đổ
xô đi rút tiền ở NHTMCP.
Thứ ba là mức sinh lời. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
của NHTMCP và được thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt đối của lợi
nhuận sau thuế, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài
sản có…Nó thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh của ngân hàng và
do đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
9
Một chỉ tiêu khác phản ánh năng lực tài chính của NHTMCP là khả năng
thanh khoản. Đảm bảo khả năng thanh khoản là một nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ
NHTMCP nào. Điều này có nghĩa là, NHTMCP hoặc có sẵn lượng vốn khả dụng,
hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay bên ngoài với chi phí hợp lý và kịp
thời, hoặc có thể nhanh chóng chuyển tài sản thành tiền với mức giá thỏa đáng để
đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Khả năng thanh khoản
kém chứng tỏ NHTMCP đang thiếu hụt thanh khoản và là dấu hiệu đầu tiên cho
thấy ngân hàng đang ở trong tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Điều này
có thể dẫn đến NHTMCP mất dần các khoản tiền gửi cũ, không thể thu hút thêm
tiền gửi mới hoặc phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, càng làm suy giảm lợi
nhuận và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP.
* Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức
Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội
đồng quản trị đối với ban giám đốc; mức độ cam kết trong việc thực hiện các chính
sách tiền lương và thu nhập; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện các chiến
lược, chính sách kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ.
Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của NHTMCP. Nói
đến chất lượng và năng lực quản lý là nói đến yếu tố con người trong bộ máy quản
lý và hoạt động, thể hiện ở việc đề ra chính sách kinh doanh đúng đắn và có hiệu
quả, xây dựng các thủ tục, điều hành các quy trình nghiệp vụ hợp lý, sát thực và
đúng pháp luật; đồng thời tạo lập một cơ cấu tổ chức phù hợp, vận hành hiệu quả,
giảm thiểu rủi ro về đạo đức trong hệ thống quản lý.
Một NHTMCP yếu kém về năng lực quản lý đồng nghĩa với một ban giám
đốc hay hội đồng quản trị yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách,
chiến lược hợp lý, phù hợp với những thay đổi của thị trường làm lãng phí các
nguồn lực và làm giảm hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
Năng lực quản lý của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc cũng bị chi
phối bởi cơ cấu tổ chức của NHTMCP. Cơ cấu tổ chức phản ánh cơ chế phân bổ các
nguồn lực phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của NHTMCP, phù hợp với đặc
10
trưng của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Hiệu quả của cơ cấu tổ chức
không chỉ phản ánh ở số lượng các bộ phận trực thuộc, sự phân công, phân cấp giữa
các bộ phận mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng, ban trong việc
triển khai hoạt động kinh doanh. Một cơ cấu tổ chức phù hợp phát huy mọi nguồn
lực, gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP và ngược lại.
* Năng lực về công nghệ
Với trình độ phát triển ngày càng cao, khoa học kỹ thuật đã và đang trở thành
nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Trong lĩnh vực ngân hàng, công
nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực đầu vào quan
trọng, tạo ra lợi thế cạnh tranh và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của mỗi
NHTMCP. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính
tác nghiệp như hệ thống thông tin điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền
tự động mà còn cả hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro…trong nội bộ
ngân hàng. Những công nghệ mang tính tác nghiệp giúp ngân hàng mở rộng các
kênh tiếp cận khách hàng, đa dạng hóa các dịch vụ, phục vụ khách hàng tốt hơn,
giảm thiểu chi phí và sai sót có thể xảy ra. Trong khi đó, hệ thống thông tin nội bộ
giúp NHTMCP quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, tăng cường khả
năng dự báo rủi ro và hạn chế những tổn thất. Năng lực công nghệ còn thể hiện ở
khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ, tính liên kết công nghệ giữa các ngân
hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng. Một NHTMCP với công
nghệ hiện đại có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, chiếm lĩnh thị
phần, gia tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động.
* Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng không thể thiếu của bất kỳ doanh
nghiệp hay NHTMCP nào, là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của
NHTMCP, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới. Nguồn nhân lực
cần đảm bảo cả số lượng và chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở trình
độ, kỹ năng, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Một ngân hàng thương mại với
nguồn nhân lực đầy đủ, có chất lượng sẽ giúp ngân hàng thương mại ngăn ngừa và
11
giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh, giúp giữ chân
khách hàng cũ và phát triển khách hàng mới. Nói cách khác, đội ngũ nhân viên giỏi
giúp NHTMCP giảm chi phí hoạt động, gia tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động.
Khi nguồn nhân lực không đảm bảo, các NHTMCP không thể triển khai các
chiến lược kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu của khách hàng dẫn đến sự cạnh tranh
lẫn nhau giữa các ngân hàng để tìm kiếm nguồn nhân lực. Điều này làm gia tăng chi
phí, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
1.2. Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ
phần
1.2.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần
1.2.1.1. Đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính
Các chỉ tiêu tài chính là công cụ thường được sử dụng phố biến để phân tích,
đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp, trong đó có các NHTMCP. Đây là các
chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ giữa hai biến số tài chính cho phép so sánh
hoạt động giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng thông qua việc phân tích xu
hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Nhiều chỉ tiêu tài chính khác
nhau được sử dụng để đánh giá nhiều khía cạnh khác nhau trong hoạt động của
NHTMCP. Các nhóm chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng bao gồm: các chỉ tiêu
phản ánh khả năng sinh lời, kết quả kinh doanh và rủi ro của ngân hàng.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Các chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng sinh lời của NHTMCP theo từng
góc độ khác nhau. Đây là nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá công tác quản
lý và các hoạt động chiến lược của NHTMCP thành công hay thất bại. Nhóm chỉ
tiêu này bao gồm: tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu (ROE), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
(NIM), tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NM).
ROA =
Tổng tài sản
Lợi nhuận sau thuế
12
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
NM =
Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi
Tổng tài sản
NIM =
Thu nhập lãi – Chi phí lãi
EPS =
Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế
Tổng số cổ phiếu thường
ROA là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tính hiệu quả quản lý, cho thấy khả năng
chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng, thể hiện khả năng sinh lợi trên
mỗi đồng tài sản của NHTMCP.
ROE là chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng, thể
hiện khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn của cổ đông. Đây là chỉ tiêu quan trọng
nhất đối với các cổ đông. Chỉ tiêu này còn được sử dụng khá phổ biến trong phân
tích hiệu quả hoạt động vì phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
NIM đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng
thương mại có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời
và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất.
NM đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi (chủ yếu là các
nguồn thu từ dịch vụ) với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng thương mại phải chịu
(tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng…) .
EPS đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ đông tính trên mỗi cổ phiếu hiện
đang lưu hành.
Trong một số trường hợp, tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên cũng được xem
xét để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
13
Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, các mô
hình phân tích khả năng sinh lời cũng được đưa ra xem xét như mô hình đánh đổi
rủi ro và lợi nhuận, mô hình phân chia tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu và mô
hình tách các chỉ số phân tích lợi nhuận trên tài sản. Bằng cách tách các tỷ lệ ROA,
ROE thành nhiều tỷ lệ khác để đánh giá sự phụ thuộc của các chỉ tiêu ROA, ROE
vào các tỷ lệ khác; hoặc phân tích mối quan hệ giữa ROA và ROE; các nhà quản trị
có thể đánh giá toàn diện hơn hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh
Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường gia
tăng hiệu quả hoạt động bằng cách giảm chi phí và tăng năng suất lao động. Nhóm
chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại bao gồm các tỷ số như sau:
- Tổng chi phí hoạt động/ tổng thu từ hoạt động: Chỉ tiêu này phản ánh mối
quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, cho biết khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động
của ngân hàng thương mại.
- Tổng thu nhập hoạt động/ tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử
dụng tài sản. Tỷ lệ này gồm 2 phần là thu nhập lãi bình quân trên tổng tài sản và thu
nhập ngoài lãi bình quân trên tổng tài sản. Khi cạnh tranh trên thị trường tín dụng
gia tăng và các khoản vay kém chất lượng ngày càng nhiều, các ngân hàng thương
mại chuyển hướng vào việc tăng thu nhập ngoài lãi (từ phí dịch vụ).
- Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/số bình quân nhân viên làm việc
toàn thời gian) là chỉ tiêu đo lường khả năng tạo ra thu nhập của một nhân viên
ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử
dụng lao động của ngân hàng thương mại.
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
Ngoài việc quan tâm đến giá trị cổ phiếu và lợi nhuận cao, các NHTMCP cần
phải quản trị rủi ro để bảo đảm ngân hàng hoạt động an toàn. Hoạt động của ngân
hàng thương mại liên quan đến các loại rủi ro chính: tín dụng, thanh khoản, thị
trường, lãi suất, thu nhập và rủi ro phá sản. Các chỉ tiêu tài chính thường sử dụng để
14
đánh giá rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm: tỷ lệ nợ xấu, hệ
số rủi ro tín dụng, tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ nhạy cảm lãi suất, dự
trữ thanh khoản/tổng tài sản, tỷ lệ đòn bẩy tài chính,…
- Tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu/tổng dư nợ cho vay): Là chỉ tiêu phản ánh chất lượng
tín dụng thường được sử dụng để đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng thương
mại. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng ngày càng cao.
- Hệ số rủi ro tín dụng (tổng dư nợ cho vay/tổng tài sản có). Hệ số này cho ta
thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có. Khoản mục tín dụng trong
tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ càng cao, nhưng đồng thời rủi ro tín dụng
cũng tăng lên.
- Tổng cho vay/tổng vốn huy động: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư
của một đồng vốn huy động, đồng thời cũng là chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng. Tỷ
lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng vốn huy động chủ yếu là để cho vay
nên rủi ro tín dụng càng cao. Tỷ lệ này càng thấp càng giảm thiểu rủi ro tín dụng
của ngân hàng vì ngân hàng đa dạng hóa danh mục đầu tư và dịch vụ cung ứng cho
khách hàng.
- Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ nhạy cảm lãi suất: Tỷ lệ này đo
lường rủi ro lãi suất. Khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá các khoản
nợ nhạy cảm lãi suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể rơi vào tình
trạng bất lợi và thua lỗ nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi nợ nhạy cảm với lãi suất
vượt quá tài sản nhạy cảm lãi suất, ngân hàng sẽ thua lỗ nếu lãi suất tăng.
- Dự trữ thanh khoản/tổng tài sản: Đây là chỉ tiêu đo lường rủi ro thanh
khoản của ngân hàng thương mại. Tỷ lệ này càng nhỏ thì khả năng chống đỡ rủi ro
thanh khoản càng yếu và ngược lại. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này cao thì ngân hàng cần
xem lại khả năng đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận, vì tài sản thanh khoản có mức
sinh lợi thường thấp hơn nhiều so với các tài sản sinh lời khác.
- Tỷ lệ đòn bẩy tài chính (tổng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản): Chỉ tiêu này
phản ánh có bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu tạo ra một đồng tài sản và ngân hàng
thương mại phải dựa vào nguồn vốn vay nợ là bao nhiêu. Tỷ lệ này càng thấp chứng
15
tỏ ngân hàng thương mại vay nợ càng nhiều, tận dụng được đòn bẩy tài chính nhưng
đồng thời rủi ro cũng tăng lên.
Bên cạnh các nhóm chỉ tiêu trên, để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân
hàng thương mại, các nhà quản trị ngân hàng còn sử dụng các chỉ tiêu khác như:
Vốn huy động/ vốn tự có (phản ánh khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế),
tiền gửi không kỳ hạn/ tiền gửi có kỳ hạn (phản ánh khả năng cung ứng dịch vụ của
ngân hàng)…
Ngày nay, trong phân tích hoạt động kinh doanh và đánh giá hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nói chung và NHTMCP nói riêng, các tỷ số tài chính vẫn
thường được áp dụng vì phương pháp này tương đối đơn giản và dễ hiểu. Mỗi chỉ
tiêu tài chính biểu hiện mối quan hệ giữa hai biến số, phản ánh một khía cạnh trong
hoạt động của ngân hàng thương mại. Vì vậy, để đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại, chúng ta phải sử dụng hàng loạt các chỉ tiêu khác
nhau. Điều này gây không ít khó khăn cho các nhà quản trị và cả các cơ quan quản
lý nhà nước khi đánh giá và so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương
mại, nhất là khi đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tạo ra các sản phẩm,
dịch vụ tài chính phức tạp của NHTMCP. Để khắc phục các nhược điểm trong
phương pháp phân tích các hệ số tài chính, gần đây các nhà kinh tế đã sử dụng
phương pháp phân tích hiệu quả biên để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Phương pháp này giúp chúng ta nhìn thấy một bức tranh tổng thể
trong hoạt động của các NHTMCP.
1.2.1.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên
Phân tích hiệu quả biên là phương pháp xác định chỉ số hiệu quả tương đối
dựa trên việc so sánh khoảng cách của các đơn vị (chẳng hạn, trong đề tài này là các
ngân hàng) với một đơn vị thực hiện hoạt động tốt nhất trên đường biên. Ưu điểm
của phương pháp này là cho phép xác định chỉ số hiệu quả chung của từng ngân
hàng và xếp hạng hiệu quả của ngân hàng dựa trên hoạt động thực tế. Đây cũng là
hiệu quả tốt nhất mà một ngân hàng đang thực hiện khi so sánh với các ngân hàng
16
khác. Những thông tin này giúp các nhà quản trị đánh giá được hiệu quả hiện tại của
ngân hàng và tìm cách cải thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Phân tích hiệu quả biên được chia thành 2 nhóm: tiếp cận tham số và tiếp cận
phi tham số. Cách tiếp cận tham số yêu cầu chỉ ra một dạng hàm cụ thể đối với
đường biên hiệu quả. Hạn chế của phương pháp này là nếu việc chỉ định dạng hàm
sai thì kết quả tính toán sẽ ảnh hưởng ngược đến các chỉ số hiệu quả, đồng thời cách
tiếp cận này đòi hỏi người sử dụng phải có một số kiến thức nhất định về toán học.
Cách tiếp cận phi tham số không yêu cầu đưa ra một dạng hàm cụ thể, cũng
như không đòi hỏi các ràng buộc về hình dáng của đường biên thực hiện tốt nhất.
Phương pháp thường được sử dụng trong cách tiếp cận này là phương pháp phân
tích bao dữ liệu DEA (Data Envelopment Analysis).
1.2.2. Đánh giá hiệu quả bằng cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số
1.2.2.1. Giới thiệu tổng quát về phương pháp DEA
Phương pháp DEA (DEA) là một cách tiếp cận phi tham số được khởi xướng
bỡi Charnes, Cooper và Rhodes (1978) để đo lường hiệu quả trong các tổ chức
công. Thực ra, nó lại có xuất phát điểm từ trước đó hơn 20 năm, bắt đầu từ ý tưởng
của Farrel. Mục tiêu của DEA là xây dựng một mặt bao lồi hiệu quả phi tham số sao
cho các điểm quan sát không nằm cao hơn đường giới hạn hiệu quả. Đường giới
hạn hiệu quả được xây dựng từ những đoạn thẳng kết nối các điểm hiệu quả nhất.
Vì DEA được xây dựng dựa trên các điểm thực tế (observed data) nên nó có
thể áp dụng được với các mẫu nghiên cứu nhỏ và thường được sử dụng trong phân
tích chuyên sâu theo lĩnh vực, địa phương. Mặc dù vậy, do đây là phương pháp tiếp
cận phi tham số, nó không tính toán mức sai số nên không tồn tại mức ý nghĩa hay
độ tin cậy; đồng thời điểm hiệu quả DEA là điểm hiệu quả tương đối giữa các đơn
vị khảo sát với nhau nên nếu có một DEA có điểm hiệu quả 100% (EF =1) nằm trên
đường giới hạn hiệu quả thì cũng không có nghĩa là nó đạt hiệu quả tối ưu trên thực
tế mà nó chỉ tốt hơn các đơn vị khác trong phạm vi khảo sát.
1.2.2.2. Các cách tiếp cận đánh giá hiệu quả
17
Phương pháp DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị ra quyết định
DMU (Decision Making Unit) có hai hướng tiếp cận: hướng tiếp cận đầu vào trả lời
cho câu hỏi doanh nghiệp cần giảm chi phí tối thiểu là bao nhiêu để đạt đến trạng
thái tối ưu mà không thay đổi sản lượng đầu ra. Ngược lại, hướng tiếp cận đầu ra trả
lời cho câu hỏi doanh nghiệp cần tối đa hóa sản lượng là bao nhiêu để đạt đến trạng
thái tối ưu trong điều kiện giữ nguyên chi phí đầu vào.
* Cách tiếp cận đầu vào (Input – orientated measures)
Farrell minh họa ý tưởng của ông về hiệu quả kỹ thuật bằng cách sử dụng
một ví dụ đơn giản gồm các doanh nghiệp sử dụng 2 yếu tố đầu vào (x1 và x2) để sản xuất một đầu ra (y) trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô1. Các
x2/y
S
P
Q
S,
S,
O
x1/y
doanh nghiệp nằm trên đường đẳng lượng đạt hiệu quả hoàn toàn, mô tả bằng đường SS, trong Đồ thị 1.1, cho phép đo lường hiệu quả kỹ thuật.
Đồ thị 1.1: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu vào
Nếu các doanh nghiệp sử dụng các lượng đầu vào, xác định tại điểm P để sản
xuất một đầu ra. Khi đó phi hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp được xác định bằng
khoảng cách QP. Đây là lượng mà tất cả các yếu tố đầu vào có thể giảm xuống mà
1 Điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô cho phép doanh nghiệp đại diện bằng một đường đẳng lượng đơn vị - unit isoquant. Sau này, Farrell cũng đề cập đến việc mở rộng phương pháp của ông đối với trường hợp 2 đầu vào, nhiều đầu ra và mô hình sản lượng thay đổi theo quy mô.
không làm giảm đầu ra. Mức không hiệu quả này thường được tính theo phần trăm
18
và biểu diễn bằng tỷ số QP/OP. Hiệu quả kỹ thuật TE của doanh nghiệp được đo
lường bằng tỷ số TEI = OQ/OP = 1 - QP/OP và có giá trị từ 0 đến 1. Trong ví dụ
này, điểm Q là điểm hiệu quả kỹ thuật vì nó nằm trên đường đồng lượng hiệu quả.
Cách đo lường hiệu quả này giả định rằng hàm sản xuất của doanh nghiệp
đạt hiệu quả hoàn toàn đã được biết. Trên thực tế, chúng ta không thể nào biết được
hàm sản xuất của một doanh nghiệp đạt hiệu quả hoàn toàn nên không thể có đường
đồng lượng hiệu quả như Đồ thị 1.1. Vì vậy, đường đồng lượng hiệu quả cần phải
được ước lượng từ dữ liệu mẫu. Farrell (1957) đã gợi ý sử dụng một đường đồng
lượng lồi tuyến tính từng khúc phi tham số sao cho các điểm quan sát không nằm
bên trái hay dưới nó. Và theo hướng gợi ý này của Farrell, Charnes, Cooper và
Rhodes (1978) đã phát triển thành mô hình DEA. Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu
S
vào được minh họa như sau:
P
A
B
C
S,
x2/y
o x1/y Đồ thị 1.2: Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào
Các doanh nghiệp A, B và C đạt hiệu quả tương đối hoàn toàn so với các
doanh nghiệp khác trong cùng mẫu nghiên cứu nên nằm trên đường giới hạn hiệu
quả. Doanh nghiệp P chưa đạt hiệu quả tương đối hoàn toàn nên không nằm trên
đường giới hạn hiệu quả.
* Cách tiếp cận đầu ra (output – orientated measures)
Đo lường hiệu quả theo khuynh hướng đầu ra ngược lại với cách đo lường
theo khuynh hướng đầu vào trên đây. Sự khác nhau giữa đo lường theo khuynh
hướng đầu vào và đầu ra được minh họa bằng cách sử dụng ví dụ đơn giản gồm một
đầu ra và một đầu vào và được minh họa trong Đồ thị 3a và Đồ thị 3b. Theo Đồ thị
19
3a, trong điều kiện sản lượng giảm dần theo quy mô, hiệu quả kỹ thuật đại diện
bằng hàm f(x) và doanh nghiệp không đạt được hiệu quả tại điểm P. Hiệu quả kỹ
thuật đo lường theo khuynh hướng đầu vào tương đương tỷ lệ AB/AP, trong khi
hiệu quả kỹ thuật đo lường theo khuynh hướng đầu ra được đo bằng tỷ lệ CP/CD.
Từ đồ thị cho thấy hai tỷ lệ này là khác nhau. Theo Đồ thị 3b, trong trường hợp sản
lượng không đổi theo quy mô, hiệu quả kỹ thuật đo lường theo đầu vào và đầu ra là
y
y
f(x)
f(x)
D
D
B
B
A
P
P
tương đương nhau.
0
A
C
C
x
x
Đồ thị 1.3a Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng thay đổi theo quy mô
Đồ thị 1.3b Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô
y2/x
B
Z
A
O
y1/x
, Z
0
Đồ thị 1.4: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu ra
20
Chúng ta có thể xem xét việc đo lường hiệu quả kỹ thuật theo khuynh hướng
đầu ra đối với trường hợp hai đầu ra và một đầu vào. Một lần nữa, trong trường hợp
sản lượng không đổi theo quy mô, có thể tính hiệu quả kỹ thuật dựa vào đường cong
khả năng sản xuất đơn vị ở hai chiều. Ví dụ này được mô tả trong Sơ đồ 1.4, đường Z Z, là đường cong khả năng sản xuất đơn vị và điểm A được xem là điểm không
hiệu quả. Điểm không hiệu quả A nằm dưới đường cong trong trường hợp này vì ZZ, đại diện cho giới hạn trên của đường giới hạn khả năng sản xuất.
Cách đo lường hiệu quả theo khuynh hướng đầu ra có thể xác định như sau:
Khoảng cách AB đại diện cho phi hiệu quả kỹ thuật. Vì vậy, đó chính là tỷ lệ đầu ra
có thể gia tăng mà không yêu cầu thêm lượng đầu vào. Khi đó, TE0 = OA/OB. Mô
hình DEA tối đa hóa đầu ra được minh họa tương tự như mô hình DEA tối thiểu
x1/y
A
B
C
P
0
x2/y
hóa đầu vào.
Đồ thị 1.5: Mô hình DEA tối đa hóa đầu ra
1.2.2.3. Các cách lựa chọn biến đầu vào và đầu ra trong phương pháp
DEA
Do đặc điểm của ngân hàng là ngành dịch vụ có nhiều yếu tố đầu vào và đầu
ra nên điều quan trọng trong phân tích DEA đối với các NHTMCP là lựa chọn biến
đầu vào và đầu ra cho hợp lý. Tuy nhiên, việc xác định đầu vào và đầu ra đối với
các ngân hàng không phải là điều đơn giản. Không giống như các ngành sản xuất
khác, trong quá trình hoạt động ngân hàng thương mại sử dụng cả tiền gửi và các tài
sản khác. Đầu ra các dịch vụ của ngân hàng thương mại, không giống như đầu ra
21
của các doanh nghiệp sản xuất, được đo lường bằng số lượng với mục tiêu được xác
định rõ ràng. Theo Aziz và Lennart (2002), do bản chất phức tạp trong hoạt động
của ngân hàng mà có nhiều lúng túng trong việc xác định đầu vào và đầu ra. Tác giả
đã tổng hợp các nghiên cứu trước đó và cho rằng có hai cách tiếp cận trong việc xác
định đầu vào và đầu ra của ngân hàng: cách tiếp cận sản xuất (hay còn gọi là cách
tiếp cận cung cấp dịch vụ, cách tiếp cận giá trị gia tăng) và cách tiếp cận tài sản
(hay còn gọi là cách tiếp cận trung gian).
Trong cách tiếp cận sản xuất, ngân hàng thương mại được xem là doanh
nghiệp sử dụng vốn và lao động để tạo ra các sản phẩm tiền gửi và cho vay khác
nhau. Còn trong cách tiếp cận trung gian, ngân hàng thương mại được xem là trung
gian của dịch vụ tài chính, nhận tiền gửi từ khách hàng và cho khách hàng khác vay.
Đầu vào của ngân hàng bao gồm lao động, kỹ thuật, tiền gửi; đầu ra bao gồm: tiền
cho vay, các thu nhập khác từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Cách tiếp cận trung
gian còn chia thành 2 nhóm nhỏ: tiếp cận lợi nhuận (hay còn gọi là cách tiếp cận chi
phí người sử dụng – the user cost approach) và cách tiếp cận quản lý rủi ro.
Cũng theo hai tác giả trên, về cơ bản hai cách tiếp cận này là giống nhau. Sự
khác nhau giữa hai cách tiếp cận ở chỗ cách tiếp cận trung gian sử dụng giá trị thay
vì số lượng và xem ngân hàng như là tổ chức trung gian. Vì vậy, cách tiếp cận trung
gian thường phù hợp hơn với các ngành dịch vụ, nhất là đối với các NHTMCP.
1.2.3. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây
1.2.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới đánh giá hiệu quả hoạt động của
ngân hàng bằng phương pháp DEA
Phương pháp DEA thường được ứng dụng để phân tích hiệu quả của các
DMU hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, kinh tế, xây dựng… Phương pháp
này được sử dụng lần đầu tiên để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng vào
năm 1985. Sherman and Gold (1985) đánh giá hiệu quả hoạt động của 14 chi nhánh
một ngân hàng ở Mỹ. Kết quả cho thấy có 6 chi nhánh ngân hàng hoạt động kém
hiệu quả so với các chi nhánh còn lại.
22
Rangan và các cộng sự (1988), trích trong Nguyen (2011), đã nâng cấp độ
đánh giá từ chi nhánh ngân hàng lên cấp độ ngân hàng và đánh giá hiệu quả hoạt
động của 215 ngân hàng ở Mỹ, đồng thời phân tích phi hiệu quả kỹ thuật từ phi hiệu
quả kỹ thuật thuần và phi hiệu quả quy mô. Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận trung
gian với 3 biến đầu vào (lao động, vốn và khấu hao) và 5 biến đầu ra (2 biến đầu ra
là tiền gửi và 3 biến đầu ra là khoản cho vay). Kết quả nghiên cứu cho thấy các
ngân hàng có thể tạo ra cùng một lượng đầu ra mà chỉ cần sử dụng 70% đầu vào.
Nghiên cứu cũng cho thấy phi hiệu quả quy mô của các ngân hàng là tương đối nhỏ
và phi hiệu quả chủ yếu từ phi hiệu quả kỹ thuật thuần.
Ngoài các nghiên cứu tập trung vào các ngân hàng ở Mỹ, phương pháp DEA
ngày càng được áp dụng rộng rãi trong đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng
thương mại tại các quốc gia khác. Có thể nêu ra một vài nghiên cứu tiêu biểu như
sau:
Tại Ba Lan, Grazyna (2008) tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của 40
ngân hàng từ năm 2000 đến năm 2007 với cách tiếp cận giá trị gia tăng, đồng thời
so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng theo phương pháp DEA và phương
pháp đánh giá hiệu quả bằng các chỉ số tài chính. Các biến được sử dụng trong
nghiên cứu bao gồm 02 biến đầu vào (tài sản và số lượng nhân viên) và 03 biến đầu
ra (cho vay, tiền gửi và thu nhập ngoài lãi). Kết quả khá thú vị là hiệu quả của các
ngân hàng theo các chỉ số tài chính (ROE và hiệu quả nguồn nhân lực) cao hơn
nhiều so với hiệu quả tính bằng phương pháp DEA.
Tại Nhật Bản, Elena (2008) tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt
động của 04 nhóm ngân hàng giai đoạn 2000-2006 theo hướng tiếp cận trung gian.
Nghiên cứu sử dụng 3 biến đầu vào (tiền gửi, số lượng nhân viên và số lượng chi
nhánh ngân hàng) để tạo ra 3 biến đầu ra (cho vay, chứng khoán thương mại và
chứng khoán đầu tư, lợi nhuận thuần). Điểm hiệu quả trung bình mà các ngân hàng
Nhật Bản đạt được là 69%. Các Ngân hàng City và Ngân hàng Trust đều đạt hiệu
quả 100%, trong khi các Ngân hàng Regionnal và Tier II đạt hiệu quả thấp hơn
nhiều.
23
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, Nurhan và các cộng sự (2009) thực hiện nghiên cứu đánh
giá hiệu quả hoạt động của 44 ngân hàng từ năm 2002 đến năm 2006 với cách tiếp
cận sản xuất. Các biến được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm 5 biến đầu vào
(Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, cho vay/tổng tài sản, tài sản lưu động/nợ ngắn hạn,
chi phí ngoài lãi/tổng chi phí lãi và chi phí ngoài lãi /tổng chi phí hoạt động) và 02
biến đầu ra (ROA và ROE). Trong nghiên cứu này, tác giả chia thành 4 nhóm ngân
hàng: ngân hàng nhà nước, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tư nhân và ngân hàng
đầu tư phát triển. Kết quả cho thấy nhóm ngân hàng nhà nước đạt hiệu quả trung
bình cao nhất (69%) và nhóm ngân hàng tư nhân đạt hiệu quả trung bình thấp nhất
(34%). Nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả trung bình của các ngân hàng có xu
hướng tăng dần qua các năm.
Còn tại Trung Quốc, Chan (2011) đánh giá hiệu quả hoạt động của 03 nhóm
ngân hàng thương mại Trung Quốc giai đoạn 2001-2007 (ngân hàng nhà nước, ngân
hàng nước ngoài và ngân hàng tư nhân) theo hướng tiếp cận trung gian. Tác giả sử
dụng 03 biến đầu vào (chi phí ngoài lãi, tài sản cố định và tiền gửi) và 02 biến đầu
ra (cho vay và đầu tư). Hiệu quả trung bình mà các ngân hàng Trung Quốc đạt được
là 31,42%. Kết quả này cho thấy các ngân hàng Trung Quốc hoạt động không hiệu
quả và đang phải đối diện với việc phân tán các nguồn lực. Theo tác giả, nguyên
nhân là do hệ thống ngân hàng Trung Quốc còn yếu kém, hệ thống luật pháp và tài
chính chưa phát triển và không đạt được các tiêu chuẩn quốc tế.
Nhìn chung, phương pháp DEA đã được sử dụng ở các nước phát triển để
đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và hiện nay đang
trở nên phổ biến ở các nước đang phát triển. Điều này chứng tỏ tính ưu việt của
phương pháp DEA trong việc đánh giá bức tranh tổng thể hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại ở từng quốc gia. Cách tiếp cận chủ yếu là tiếp cận trung gian
và các biến được lựa chọn khác nhau.
1.2.3.2. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
bằng phương pháp DEA ở Việt Nam
24
Các nghiên cứu trong nước về hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại trong những năm gần đây được nhiều người quan tâm, tuy nhiên số
lượng các nghiên cứu định lượng về hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
không nhiều lắm. Riêng về phương pháp DEA có các nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Năm 2008, tác giả Nguyễn Việt Hùng ứng dụng phương pháp DEA để đánh
giá hiệu quả hoạt động của 32 ngân hàng thương mại giai đoạn 2001-2005 theo
hướng tiếp cận trung gian. Các biến được đưa vào phân tích gồm: tổng tài sản cố
định ròng, chi cho nhân viên, tổng vốn huy động từ khách hàng (biến đầu vào); thu
từ lãi và các khoản tương đương, thu ngoài lãi và các khoản tương đương (biến đầu
ra). Hiệu quả toàn bộ bình quân thời kỳ nghiên cứu đạt được 0,791. Điều này cho
thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ sử dụng 79,1% các đầu vào để tạo ra
các sản lượng đầu ra. Còn nếu tính riêng từng loại hình ngân hàng thì nhóm
NHTMCP đạt hiệu quả bình quân cao hơn nhóm ngân hàng thương mại nhà nước
(81,6% so với 77,8%).
Tiếp sau đó, năm 2010, tác giả Ngô Đăng Thành sử dụng phương pháp DEA
để đánh giá hiệu quả hoạt động của 22 ngân hàng thương mại năm 2008 theo hướng
tiếp cận trung gian. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào gồm chi phí tiền lương,
chi phí trả lãi và các khoản tương tự, các khoản chi phí khác; các biến đầu ra gồm
tổng tài sản, thu nhập từ lãi và các khoản tương tự, các khoản thu nhập khác. Kết
quả cho thấy hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực của các ngân hàng thương mại
khá cao, trung bình đạt 91,7%. Trong số 22 ngân hàng được nghiên cứu, có 6 ngân
hàng đạt hiệu quả tối ưu, 7 ngân hàng đạt hiệu quả trên 90%, 7 ngân hàng đạt hiệu
quả trên 80% và 2 ngân hàng chưa phát huy hết nguồn lực. Vietcombank là ngân
hàng duy nhất trong 4 ngân hàng thương mại nhà nước nghiên cứu đạt đến đường
giới hạn khả năng sản xuất.
Gần đây nhất, tác giả Nguyen (2011) sử dụng phương pháp DEA đánh giá
hiệu quả hoạt động của 22 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007-2009
theo hướng tiếp cận trung gian. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào gồm chi phí
lao động, tài sản cố định, tổng tiền gửi và các biến đầu ra gồm thu nhập từ lãi và thu
25
nhập ngoài lãi. Điểm hiệu quả trung bình mà các ngân hàng thương mại Việt Nam
đạt được là 74,8%. Phi hiệu quả từ phi hiệu quả phân bổ và phi hiệu quả kỹ thuật.
Trong số các ngân hàng nghiên cứu, nhóm NHTMCP đạt hiệu quả cao hơn nhóm
ngân hàng thương mại nhà nước (74,9% so với 74,2%).
Cho đến nay, việc vận dụng phương pháp DEA trong nghiên cứu hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn hạn chế. Các nghiên cứu
đều sử dụng cách tiếp cận trung gian xem ngân hàng là cầu nối giữa người gửi tiền
và người vay tiền, các biến được sử dụng khác nhau và kết quả tính toán hiệu quả
cũng khác nhau. Ngoại trừ nghiên cứu của tác giả Ngô Đăng Thành (2010) cho thấy
các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động tương đối hiệu quả trong năm 2008,
các nghiên cứu còn lại đều kết luận các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động
chưa hiệu quả trong thời gian nghiên cứu. Mỗi nghiên cứu đều có những đóng góp
nhất định cho sự phát triển của ngành ngân hàng thông qua việc đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.3. Phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA
1.3.1. Mô hình DEACRS
Như đã đề cập ở phần 1.1.2, công thức (1) tính hiệu quả trong trường hợp
doanh nghiệp sử dụng một đầu vào và một đầu ra. Farrel cũng đã mở rộng công
thức tính hiệu quả cho trường hợp doanh nghiệp sử dụng nhiều đầu ra và nhiều đầu
vào. Khi áp dụng cho một doanh nghiệp có k yếu tố đầu vào và sản xuất ra m kết
quả đầu ra, công thức xác định hiệu quả cho nhiều yếu tố đầu vào và đầu ra là:
∑umym (2)
EF = ∑vkxk
Trong đó, u là trọng số của biến đầu ra y, v là trọng số của biến đầu vào x,
0≤um, vk ≤ 1.
Nếu phát triển lên cho n doanh nghiệp khác nhau trong cùng một lĩnh vực thì
có thể xác định được hiệu quả của doanh nghiệp thứ i (1≤i≤n) theo công thức:
26
∑umymi
∑vkxki
(3) EFi =
u1y1i + u2y2i +……..+ umymi
Hay:
v1x1i + v2x2i +……..+ vkxki
EFi = (4)
Bằng cách tính toán hệ số hiệu quả của từng doanh nghiệp, xác định doanh
nghiệp thứ s được xem là hiệu quả nhất (EF=1) sẽ hình thành nên đường bao dữ
liệu, trong khi đó các doanh nghiệp còn lại kém hiệu quả hơn sẽ không nằm trên
đường bao dữ liệu (EF <1).
Charnes, Cooper và Rhodes (1978) đã phát triển mô hình của Farrel bằng cách giả định xảy ra trường hợp sản lượng không đổi theo quy mô CRS2, với cách
tiếp cận định hướng đầu vào. Trong trường hợp này, doanh nghiệp thứ i0 nếu không
đạt được hiệu quả tương đối hoàn toàn (EF=1) có thể tối đa hóa hiệu quả của nó
bằng cách giải bài toán:
Max u,v EFi0
Với điều kiện: EFi ≤1, 1≤i≤n
(5) 0≤um, vk ≤ 1. ∑umymi0
EFi0 = Trong đó:
∑vkxki0
Vấn đề gặp phải là bài toán (5) tồn tại vô số nghiệm3. Để tránh điều này,
Charnes và Cooper đưa vào ràng buộc ∑vkxki0 =1. Và bài toán (5) được viết lại dưới
dạng bài toán quy hoạch tuyến tính (linear programming problem):
2 Điều kiện CRS có nghĩa là khi tăng tất cả các yếu tố đầu vào lên một tỷ lệ nhất định a% thì đầu ra tăng lên tương ứng một tỷ lệ a%. 3 Điều này có nghĩa là nếu tồn tại 1 nghiệm mà mẫu số khác 1, chẳng hạn như 2 thì nếu bài toán có nghiệm là 1/2 thì cũng sẽ có các nghiệm khác là 2/4, 3/6 …
Max u,v (∑umymi0)
27
Với điều kiện:
∑vkxki0 =1
EFi ≤1, 1≤i≤n
(6) 0≤um, vk ≤ 1
Sử dụng tính chất đối ngẫu của bài toán quy hoạch tuyến tính, có thể chuyển
bài toán (6) thành dạng bao dữ liệu tương đương (equivalent envelopment form).
Dạng bao dữ liệu này có ít ràng buộc hơn và có thể dễ dàng giải được.
min θ,
Với điều kiện: –yi + Yλ ≥0,
θxi – Xλ ≥0,
(7) λ ≥0
Trong đó :
- θ là mức độ hiệu quả của từng doanh nghiệp.
- λ gồm tập hợp (λ1,λ2, …λn) thể hiện mối quan hệ giữa các doanh nghiệp
được khảo sát (chẳng hạn như nếu u và v là trọng số của các biến đầu ra và đầu vào
thì λ là “trọng số” giữa các DMU với nhau).
- yi, xi: lần lượt là đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp thứ i.
- Y gồm tập hợp (y1, y2,…yn) : tập đầu ra của các doanh nghiệp.
- X gồm tập hợp (x1,x2,…,xn) : tập đầu vào của các doanh nghiệp.
Bài toán (7) còn được gọi là mô hình DEACRS với giả định các doanh nghiệp hoạt động ở quy mô tối ưu4. Bài toán (7) được giải n lần, mỗi lần với một
doanh nghiệp. Giá trị θ được xác định cho từng doanh nghiệp, thỏa điều kiện θ ≤1,
với θ =1 là doanh nghiệp đạt hiệu quả hoàn toàn.
Mục đích của mô hình DEACRS là xác định điểm hiệu quả kỹ thuật5 của các
doanh nghiệp được khảo sát với giả định các doanh nghiệp hoạt động ở quy mô tối
4 Mô hình DEACRS còn được gọi là mô hình CCR. CCR là chữ viết tắt của tên các tác giả đã đề xuất mô hình: Charnes, Cooper và Rhodes. 5 Hiệu quả kỹ thuật được đo lường theo mô hình DEACRS còn gọi là hiệu quả kỹ thuật toàn bộ. Trong đề tài này, hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kỹ thuật toàn bộ có thể được sử dụng thay thế cho nhau.
ưu, đồng thời xác định phi hiệu quả kỹ thuật có thể xảy ra. Phi hiệu quả kỹ thuật là
28
lượng mà tất cả các đầu vào có thể giảm xuống mà không làm giảm đầu ra. Nguyên
nhân gây ra phi hiệu quả kỹ thuật có thể là do cơ cấu (configuration) giữa đầu vào
và đầu ra, do khả năng quản lý yếu hoặc do quy mô hoạt động.
Mô hình DEACRS chỉ phù hợp với điều kiện các doanh nghiệp hoạt động ở
quy mô tối ưu. Thực tế không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng hoạt động ở quy
mô tối ưu. Khi đó, mô hình DEACRS không còn phù hợp.
1.3.2. Mô hình DEAVRS và hiệu quả quy mô
Năm 1984, Banker, Charnes và Cooper đề xuất mô hình mở rộng của mô hình DEACRS là mô hình DEAVRS6 với giả định sản lượng thay đổi theo quy mô7.
Việc sử dụng các chỉ thị (specification) của mô hình DEACRS khi không phải tất cả
các DMU hoạt động ở quy mô tối ưu làm cho kết quả đo lường hiệu quả kỹ thuật
bao gồm cả hiệu quả quy mô. Trong khi đó, mô hình DEAVRS cho phép tính toán
hiệu quả kỹ thuật mà không có các tác động này của hiệu quả theo quy mô.
Mô hình DEAVRS được xây dựng bằng cách thêm điều kiện ∑λi =1 vào mô
hình (7) và có dạng:
min θ,
Với điều kiện: –yi + Yλ ≥0,
θxi – Xλ ≥0,
∑λi =1
λ ≥0 (8)
Giải bài toán (7) và (8) là đi tìm các giá trị θ và λ cho từng DMU với các dữ
liệu đầu vào và đầu ra cho trước.
Trong mô hình DEAVRS, độ đo hiệu quả kỹ thuật TE được phân rã thành
6 Mô hình DEAVRS còn được gọi là mô hình BCC. BCC là chữ viết tắt của tên các tác giả đã đề xuất mô hình: Banker, Charnes và Cooper. 7 Điều kiện VRS có nghĩa là khi tăng tất cả các yếu tố đầu vào lên một tỷ lệ nhất định a% thì đầu ra tăng lên tương ứng một tỷ lệ khác a%.
hiệu quả kỹ thuật thuần PE và hiệu quả theo quy mô SE. Chính sự phân rã hiệu quả
29
này giúp chúng ta biết được nguồn gây ra phi hiệu quả. Phi hiệu quả có thể từ phi
hiệu quả kỹ thuật thuần và phi hiệu quả quy mô.
Nếu hiệu quả quy mô bằng 1, điều đó có nghĩa là DMU hoạt động với quy
mô tối ưu và do đó tăng năng suất của các đầu vào không thể được cải thiện bằng
cách tăng hay giảm quy mô sản xuất. Hiệu quả quy mô bằng 1 chỉ khi doanh nghiệp
hoạt động trong điều kiện CRS. Nếu hiệu quả theo quy mô nhỏ hơn 1 chứng tỏ
DMU đang hoạt động với quy mô không tối ưu và tồn tại phi hiệu quả quy mô. Phi
hiệu quả quy mô có thể tồn tại trong điều kiện sản lượng tăng (IRS) hoặc sản lượng giảm (DRS) theo quy mô8.
So sánh kết quả khi giải bài toán (7) và (8) chỉ xác định doanh nghiệp có tồn
tại hiệu quả theo quy mô hay không nhưng không cho biết được doanh nghiệp đang
ở trong điều kiện sản lượng tăng theo quy mô hay sản lượng giảm theo quy mô.
Muốn biết điều này cần giải bài toán (8) với ràng buộc ∑λi ≤1:
min θ,
Với điều kiện : –yi + Yλ ≥0,
θxi – Xλ ≥0,
∑λi ≤1
λ ≥0 (9)
Áp dụng một bộ số liệu cho 2 mô hình DEACRS và DEAVRS sẽ xác định hiệu
quả theo mô hình DEACRS và DEAVRS9. Sự khác nhau giữa các điểm hiệu quả kỹ
thuật của một DMU cụ thể chứng tỏ DMU này có phi hiệu quả quy mô.
Đồ thị sau đây minh họa nội dung này. Trong Đồ thị 1.6, giả sử chúng ta có
một đầu ra và một đầu vào, đường DEACRS và DEAVRS. Theo mô hình DEACRS,
phi hiệu quả kỹ thuật theo đầu vào tại P là khoảng cách PPC trong khi theo mô hình
VRS phi hiệu quả kỹ thuật chỉ là đoạn PPV. Sự khác nhau giữa 2 điểm này là đoạn
PCPV gọi là phi hiệu quả quy mô. Chúng ta có thể biểu thị tất cả các tỷ lệ này như
8 Điều kiện IRS và DRS có nghĩa là khi tăng tất cả các yếu tố đầu vào lên một tỷ lệ nhất định a% thì đầu ra tăng lên tương ứng một tỷ lệ lớn hơn hoặc nhỏ hơn a%. 9 Các công thức (7) và (9) áp dụng cho khuynh hướng đầu vào. Khuynh hướng đầu ra áp dụng công thức tương tự.
sau:
30
y
CRS
VRS
PC
P
A
PV
TEI, CRS = APC/AP TEI, VRS = APV / AP SEI= APC/APv Hay: TEI, CRS = TEI, VRS x SEI = PE x SE
Đồ thị 1.6: Đường biên CRS và VRS
x
0
Hiệu quả kỹ thuật thuần phản ánh năng lực quản lý (managerial
performance) tổ chức các đầu vào trong quá trình sản xuất. Vì vậy, PE có thể được
sử dụng như là chỉ số để đo lường năng lực quản lý. Trong khi đó, hiệu quả quy mô
cho biết khả năng của ban quản trị chọn lựa quy mô tối ưu của các nguồn lực để xác
định quy mô của ngân hàng. Nói cách khác, hiệu quả quy mô cho biết sự chọn lựa
quy mô sản xuất để đạt được mức sản xuất mong đợi. Một quy mô không phù hợp
(quá lớn hay quá nhỏ) có thể là nguyên nhân gây ra phi hiệu quả kỹ thuật. Mô hình
DEACRS xác định hiệu quả kỹ thuật toàn bộ trong khi đó mô hình DEAVRS cho biết
hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô.
Điều kiện DRS ngụ ý rằng quy mô của ngân hàng quá lớn và ngân hàng có
thể cải thiện năng suất các yếu tố đầu vào và theo đó giảm các chi phí đơn vị bằng
cách giảm quy mô. Còn điều kiện IRS cho biết ngân hàng có thể cải thiện năng suất
các yếu tố đầu vào để giảm các chi phí đơn vị bằng cách tăng quy mô.
1.3.3 Chỉ số Malmquist và đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp
Năng suất được xem là lượng đầu ra trên một đơn vị đầu vào được sử dụng.
Có hai cách đo lường năng suất: dựa trên năng suất nhân tố riêng lẻ nhằm đo lường
năng suất riêng của từng nhân tố và dựa trên năng suất nhân tố tổng hợp TFP. Đối
31
với lĩnh vực ngân hàng là ngành hoạt động dịch vụ có nhiều mối quan hệ giữa nhiều
đầu ra và nhiều đầu vào, cách tiếp cận TFP là phù hợp hơn.
Năm 1953, Sten Malmquist – một nhà kinh tế học và thống kê học người Thụy
Điển - đã đề xuất sử dụng một chỉ số để đo lường sự thay đổi của TFP và sự thay
đổi của các thành phần hiệu quả có liên quan như: thay đổi hiệu quả kỹ thuật, thay
đổi tiến bộ công nghệ, thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần và thay đổi hiệu quả theo qui
mô, gọi là chỉ số thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp TFP - Malmquist. Dựa trên ý
tưởng của Malmquist, nhiều tác giả đã xây dựng các phương pháp khác nhau để đo
lường chỉ số năng suất tổng hợp, trong đó có phương pháp DEA. Coeli và các cộng
sự (1996) đã giới thiệu phương pháp phân tích thay đổi năng suất thông qua việc xác
định chỉ số thay đổi năng suất tổng hợp Malmquist bằng phương pháp DEA.
Chỉ số thay đổi năng suất tổng hợp đo lường sự thay đổi của tổng đầu ra so với
1 )
(10)
t y
1 ,
t t yx ,
đầu vào và được xác định bằng công thức:
)
t 1 xM ( , 0
1 ) 1 )
t t 1 1 t xD y ( , 0 t t t ) yxD ,( 0
t 1 t t xD y ( , 0 t 1 t t 1 , xD ( y 0
t t t yxD ,( ) 0 t t t 1 ,( yxD ) 0
t
1
t
1
)
,
)
1 t xD y ( , 0 t t t ( yxD 0
Trong đó: số hạng thứ nhất của vế phải đo sự thay đổi hiệu
quả tương đối giữa năm t và năm t+1 trong điều kiện hiệu quả không đổi theo qui
1 t y , t 1 , y
1 ) 1 )
t t xD ( 0 t 1 t xD ( 0
t t t yxD ,( ) 0 t t t 1 yxD ,( ) 0
mô. Số hạng thứ hai của vế phải thể hiện chỉ số
t
1
t
1
)
thay đổi kỹ thuật (TC), tức là sự thay đổi công nghệ giữa hai thời kỳ t và t+1, được đánh giá tại xt và xt+1, như vậy ta có:
(11)
,
)
t 1 xD y ( , 0 t t t ( yxD 0
t
1
1
t
t
TE =
, 1
, t
t
t
) 1 )
y y ,
) t )
t D x ( 0 t 1 D x ( 0
t t D x y ( 0 1 t D x y ( , 0 Tăng năng suất sẽ biểu thị bằng chỉ số Malmquist lớn hơn 1. Năng suất giảm
TC = (12)
sẽ gắn với việc chỉ số Malmquist nhỏ hơn 1. Ngoài ra, việc tăng lên trong mỗi bộ
32
phận của chỉ số Malmquist sẽ dẫn tới việc giá trị của bộ phận đó lớn hơn 1. Theo
định nghĩa, tích số của thay đổi hiệu quả kỹ thuật và thay đổi kỹ thuật sẽ bằng chỉ số
Malmquist, những thành phần này có thể thay đổi ngược chiều nhau.
TFP = TE x TC
Trong đó: TE = PE x SE
Kết luận Chương 1
Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động của NHTMCP và lý
thuyết về phương pháp DEA.
Phần cơ sở lý luận đã hệ thống hóa các khái niệm cơ bản về hiệu quả, các nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả và một số phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của
NHTMCP. Khái niệm hiệu quả hoạt động của NHTMCP gắn liền với khả năng biến
các nguồn lực đầu vào thành các đầu ra của một ngân hàng nhằm đạt được một mục
tiêu xác định. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP bao
gồm các nhân tố bên trong và bên ngoài. Những nhân tố này rất đa dạng và ảnh
hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Hai phương pháp thường
sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng là phương pháp sử dụng các
chỉ tiêu tài chính và phương pháp tiếp cận hiệu quả biên. Phương pháp tiếp cận hiệu
quả biên có thể được thực hiện thông qua tiếp cận tham số và tiếp cận phi tham số.
Cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số thường được gọi là phương pháp phân tích
bao dữ liệu DEA.
Phần lý thuyết về phương pháp DEA trình bày chi tiết các mô hình DEACRS,
DEAVRS với phần minh họa hình học và các công thức đại số. Thực chất các mô
hình này là các bài toán nhằm ước lượng hiệu quả đạt được của các ngân hàng dựa
vào tập các dữ liệu đầu ra và đầu vào cho trước. Mô hình DEACRS cho phép xác
định hiệu quả kỹ thuật toàn bộ, trong khi mô hình DEAVRS đo lường hiệu quả kỹ
thuật thuần và hiệu quả quy mô.
Ngoài ra, Chương 1 cũng đề cập đến việc đo lường chỉ số năng suất tổng hợp
TFP bằng phương pháp DEA. Thông qua việc phân tích chỉ số năng suất tổng hợp
33
TFP thành các thành phần hiệu quả, có thể xác định nguyên nhân dẫn đến tăng hay
giảm năng suất. Năng suất tăng khi chỉ số TFP lớn hơn 1 và ngược lại.
34
CHƯƠNG 2
ÁP DỤNG MÔ HÌNH DEA ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
VIỆT NAM
2.1. Thực trạng họat động của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
giai đoạn 2008 - 2011
Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam có nhiều bất ổn
ảnh hưởng đến hoạt động của NHTMCP.
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2008-2011
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước qua các năm)
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế thế giới giảm mạnh so với năm 2007 (3,4%
so với 4,9%) và có những xu hướng biến động khó lường. Lạm phát gia tăng trong 6
tháng đầu năm và giảm phát trong 6 tháng cuối năm cùng với suy thoái kinh tế toàn
cầu. Suy thoái kinh tế sâu tiếp tục kéo dài sang năm 2009 và hậu quả là kinh tế thế
giới giảm 0,8%. Nhờ những biện pháp cứu trợ kinh tế được thực hiện từ cuối năm
2008 của nhiều quốc gia trên thế giới, những tháng cuối năm 2009 và năm 2010,
kinh tế thế giới dần phục hồi và đạt mức tăng trưởng 5%. Đây là mức tăng trưởng
35
cao nhất trong giai đoạn 2008-2011. Tuy nhiên, sự phục hồi còn tiềm ẩn nhiều rủi
ro khi thất nghiệp tiếp tục tăng cao, áp lực lạm phát gia tăng và đặc biệt là vấn đề nợ
công. Những nhân tố này đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới trong năm 2011 và
đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới còn 3,8%.
Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011 chịu tác động của khủng hoảng
kinh tế thế giới và biến động không ngừng. Áp lực lạm phát gia tăng trong 6 tháng
đầu năm 2008 và Chính phủ đã điều chỉnh từ mục tiêu tăng trưởng sang mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; thực hiện các nhóm giải pháp nhằm ngăn
chặn suy thoái. Nhờ vậy, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2008 đạt mức 6,18%.
Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới sâu tác động tiêu cực đến
cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời thiên tai, dịch bệnh
trong nước liên tiếp xảy ra làm suy giảm đà tăng trưởng nền kinh tế còn 5,32%.
Năm 2010, nhờ sự phục hồi của cầu trong nước và xuất khẩu đẩy tăng trưởng kinh
tế Việt Nam lên 6,78% và đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2008-2011. Tuy vậy,
kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát, nhập siêu gia
tăng và bội chi ngân sách nhà nước vẫn ở mức cao. Thêm vào đó, Chính phủ điều
hành chặt chẽ các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội làm cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại ở
mức 5,89% vào năm 2011.
Mặc dù có những biến động về kinh tế, nhưng sự ổn định về chính trị ở
Việt Nam cùng với việc hoàn thiện dần khung pháp lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam theo cơ chế thị trường và phù hợp với
chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Các quan điểm và nguyên tắc cơ bản cho hoạt động
của hệ thống ngân hàng được luật hóa trong Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các
tổ chức tín dụng năm 2010 (thay thế Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức
tín dụng năm 1997) và các văn bản pháp lý khác. Đặc biệt, theo cam kết khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, năm 2008, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài được cho phép thành lập tại Việt Nam.
36
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển cả về số lượng và chất
lượng so với những năm trước đó. Số lượng các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến
năm 2011 như sau:
Bảng 2.1: Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2011
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Loại ngân hàng
1. NHTM Nhà nước 5 5 5 5 5
2. NH phát triển 1 1
3. NH chính sách xã hội 1 1 1 1 1
4. NHTMCP 34 40 37 37 35
5. NH liên doanh 5 5 5 5 4
6. Chi nhánh NH nước ngoài 41 39 40 48 50
7. NH 100% vốn nước ngoài 5 5 5 5
Tổng cộng 86 95 93 102 101
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước qua các năm)
Đến cuối năm 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm 101 ngân hàng: 1
ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 NHTM nhà nước, 35 NHTM
cổ phần, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và
4 ngân hàng liên doanh. Tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng cho nền kinh
tế tăng trưởng bình quân hơn 29%/năm và đến cuối năm 2010 tương đương khoảng 116% tổng sản phẩm quốc nội10.
Các NHTMCP Việt Nam dần dần nâng cao hiệu quả, khẳng định vị trí của
mình và hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính quốc tế. Thực trạng hoạt động
của các NHTMCP Việt Nam được đánh giá qua các mặt cụ thể như sau:
2.1.1. Về năng lực tài chính
10 Số liệu trích trong tài liệu “ Hoạt động kinh doanh ngân hàng năm 2011” , Nguyễn Đức Hoàn, Thời báo kinh tế Việt Nam 2011-2012.
2.1.1.1. Mức độ an toàn và khả năng huy động vốn, cho vay
37
Là một thành phần chủ yếu của vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ trong toàn hệ
thống ngân hàng đã tăng nhanh theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày
22/11/2006 của Chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định đối với các tổ
chức tín dụng thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Đến năm 2011, quy mô vốn
điều lệ của các ngân hàng thương mại đáp ứng quy định mức vốn tối thiểu 3000 tỷ
đồng. Đặc biệt, khối NHTMCP có sự gia tăng nhanh chóng về quy mô vốn điều lệ
với tốc độ tăng trưởng vốn điều lệ cao nhất là 57,95% vào năm 2008.
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu về năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng
Việt Nam giai đoạn 2008-2011
Đơn vị tính: %
Năm 2008 2009 2010 2011
Chỉ tiêu
1. Tăng trưởng vốn điều lệ
Khối TCTD nhà nước 31,52 14,42 40,04 13,05
Khối NHTMCP 57,95 35,58 43,30 15,86
23,38 37,53 32,4 14,33 2. Tăng trưởng dư nợ tín dụng
Khối TCTD nhà nước 20,85 28,27 24,53 15,10
Khối NHTMCP 17,97 66,06 45,29 13,62
3. Tăng trưởng tổng tài sản
Khối TCTD nhà nước 23,80 20,81 24,07 14,95
Khối NHTMCP 27,59 61,15 58,22 23,14
(Nguồn: Tạp chí Thị trường Tài chính, số 3+4 tháng 2-2013)
Về phương diện mức độ an toàn vốn, theo Nguyễn Đức Hoàn (2012), đến
năm 2010, nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đạt mức tỷ lệ bảo đảm vốn tự có
tối thiểu CAR trên 8%. Thông tư số 13/2010/ TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Ngân
hàng nhà nước nâng quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9%. Điều này tiếp tục là
một áp lực lớn cho các NHTM. Mặc dù vậy, các NHTMCP đều cố gắng để đạt tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu theo quy định.
38
Tuy nhiên, theo Lê Thu Hằng và Đỗ Thị Bích Hồng (2010), nếu so sánh với
mức bình quân năm 2009 của các ngân hàng khu vực châu Á Thái Bình Dương
(gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) là 13,1% và của các ngân hàng của các nước
châu Á mới nổi (gồm 14 ngân hàng Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) với
tỷ lệ 12,3% thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn
thấp hơn.
Quy mô vốn điều lệ và quy mô vốn chủ sở hữu tăng ảnh hưởng đến tăng
trưởng huy động vốn. Theo Báo cáo của Ngân hàng nhà nước, huy động vốn của hệ
thống ngân hàng liên tục tăng trong giai đoạn 2008-2011 nhưng tốc độ tăng không
đồng đều giữa các năm. Tăng trưởng huy động vốn đạt mức cao nhất vào năm 2010
và thấp nhất vào năm 2011.
Bảng 2.3: Tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam
giai đoạn 2008-2011
Đơn vị tính: %
Năm 2008 2009 2010 2011
Tăng trưởng huy động vốn 22,84 29,88 36,2 12,4
của hệ thống ngân hàng
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước từ năm 2008-2011)
Cũng theo Báo cáo của Ngân hàng nhà nước, thị phần huy động vốn diễn
biến theo hướng tỷ trọng huy động vốn của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước
giảm, tăng thị phần huy động vốn của các NHTMCP và các tổ chức tín dụng khác.
Đến cuối năm 2011, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng chính
sách xã hội có thị phần huy động vốn chiếm 43,92%, giảm so với mức 45,29% của
năm 2010; nhóm NHTMCP và các tổ chức tín dụng khác chiếm 56,08%, tăng cao
so với mức 54,71% cuối năm 2010.
Diễn biến xu hướng huy động vốn cũng đồng thời xảy ra với xu hướng tín
dụng của nền kinh tế. Theo số liệu ở Bảng 2.2, tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế
của hệ thống ngân hàng gia tăng liên tục qua các năm nhưng tốc độ tăng khác nhau.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế đạt mức cao nhất vào năm 2009 và thấp
39
nhất vào năm 2011. Trong đó, khối NHMCP có mức tăng trưởng dư nợ tín dụng cao
hơn khối TCTD nhà nước và đạt mức cao nhất vào năm 2009, thấp nhất vào năm
2011.
Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2012); trong toàn hệ thống, tăng trưởng huy
động vốn vẫn ở mức thấp so với tăng trưởng tín dụng (ngoại trừ năm 2010). Thực tế
này đã dẫn đến tỷ lệ tín dụng trên huy động của hệ thống vẫn ở mức cao (trên
100%) và cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (Thái Lan: 95,8%,
Malaysia: 79,3%, Indonesia: 75,5%, Philippin: 72,6%). Chênh lệch tín dụng- huy
động không được cải thiện là nguyên nhân chính khiến mặt bằng lãi suất cho vay
tiếp tục duy trì ở mức cao trong cả năm 2011.
2.1.1.2. Về chất lượng tài sản có
Cùng với sự gia tăng vốn điều lệ, quy mô tài sản có của hệ thống ngân hàng
cũng đã có sự gia tăng vượt bậc trong giai đoạn 2008-2011. Số liệu ở Bảng 2.2 cho
thấy khối NHTMCP có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản cao hơn khối tổ chức tín
dụng nhà nước và đạt mức cao nhất vào năm 2009, thấp nhất vào năm 2011.
Tuy nhiên, chất lượng tài sản có là vấn đề cần quan tâm. Chỉ tiêu thường sử
dụng để đánh giá chất lượng tài sản có là tỷ lệ nợ xấu. Theo Hoàng Xuân Hoà và
Trần Kim Anh (2013), nợ xấu có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008. Năm 2008, nợ
xấu của các tổ chức tín dụng tăng 74%, năm 2009 tăng 27%, năm 2010 tăng 41% và
năm 2011 tăng 64%. Nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng năm 2011 tăng mạnh
lên mức 3,72% từ mức 2,29% của năm 2010. Riêng khối NHTMCP, năm 2011, nợ
quá hạn tăng lên nhưng tỷ lệ nợ xấu lại giảm xuống so với năm 2010.
Bảng 2.4: Nợ quá hạn và nợ xấu trong toàn hệ thống năm 2010-2011
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011
1. Nợ quá hạn/ tổng dư nợ (%) 7,77 11,09
Trong đó:
- NHTMNN 10,43 13,36
- NHTMCP 3,73 6,43
- NHTM liên doanh, nước ngoài 4,66 5,76
40
- Công ty tài chính và cho thuê tài chính 21,06 40,85
2,29 3,72 1. Nợ xấu / tổng dư nợ (%)
Trong đó:
- NHTMNN 2,95 2,16
- NHTMCP 2,3 1,87
- NHTM liên doanh, nước ngoài 1,86 1,2
- Công ty tài chính và cho thuê tài chính 34,5 11,38
(Nguồn: Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012)
Tăng trưởng tín dụng suy giảm. Nợ xấu cao tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
bất động sản và chứng khoán. Nợ xấu cao chủ yếu do một số nguyên nhân cơ bản
như: Tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các NHTMCP còn nhiều hạn
chế; chạy đua tăng trưởng tín dụng trong thời gian dài cùng với việc nới lỏng điều
kiện cho vay khiến nợ xấu tăng cao; hiệu quả công tác thanh tra, giám sát còn hạn
chế; tác động của kinh tế thế giới phục hồi chậm và kinh tế trong nước tăng trưởng
chậm lại làm cho doanh nghiệp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho
cao, không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
Mặc khác, trong danh mục tài sản của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn vẫn là
hoạt động tín dụng. Điều này cho thấy các ngân hàng chưa thực sự đa dạng hóa sản
phẩm. Theo Nguyễn Thị Nhung (2013), trong tổng tài sản của các ngân hàng, tỷ
trọng dư nợ cho vay vẫn cao và có xu hướng tăng: năm 2008 tỷ lệ này là 76,6%,
2009 là 81,7% và năm 2010 là 83,8%. Mặc dù các ngân hàng đã quan tâm đến các
dịch vụ khác nhưng thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm khoảng 60-70%
trong tổng thu nhập của các ngân hàng.
2.1.1.3. Về khả năng sinh lời
Theo nhận định của tác giả Tô Ngọc Hưng và Nguyễn Đức Trung (2012), mức sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam11 thể hiện qua chỉ số
11 Đối với một số chỉ tiêu, tác giả không thu thập được số liệu riêng của khối NHTMCP nên sử dụng chung số liệu của các tổ chức tín dụng hoặc của cả hệ thống NHTM để đánh giá.
ROE và ROA đều ở mức cao trong cả giai đoạn 2005-2010. Năm 2011, chỉ số ROE
41
của nhiều ngân hàng chủ yếu từ 10 đến 15%, cao hơn các ngành khác. Tuy nhiên
mức sinh lời của ngành ngân hàng có xu hướng giảm dần so với các năm trước.
Tính đến tháng 10/2011, ROA (tính theo lợi nhuận trước thuế) và ROE của toàn hệ
thống ngân hàng là 1,02% và 10,4%.
Khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng thấp
hơn khi so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ ROA và ROE
của một số nước Châu Á năm 2010 như sau: Indonesia là 3,1% và 25,9%, Malaysia
là 1,8% và 18,9%, Philippinies là 1,6% và 13,3%, Thái Lan là 1,1% và 13,6% .
Những số liệu trên đây có thể cho thấy khả năng sinh lời của hệ thống ngân
hàng Việt Nam chưa tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô hoạt động,
đồng thời ở mức thấp so với các ngân hàng trong khu vực.
Một số chuyên gia còn đánh giá kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng
không thực chất, lợi nhuận của ngành ngân hàng có khả năng sẽ suy giảm nhanh
trong thời gian tới. Nguyên nhân chính là do cơ cấu thu nhập của hệ thống ngân
hàng chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Trong bối cảnh nợ xấu gia tăng và hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng thì nhiều ngân hàng sẽ đối
mặt với nguy cơ thua lỗ.
2.1.1.4. Về tính thanh khoản
Tăng trưởng tín dụng cao liên tục trong 3 năm 2008-2010 cộng với tiền gửi
suy giảm trong toàn bộ nền kinh tế đã gây ra những hệ lụy cho thanh khoản năm
2011, đẩy lãi suất tiếp tục lên cao.
Thực tế là các ngân hàng thương mại không dễ dàng xử lý vấn đề thanh
khoản khi đã cấp nhiều khoản tín dụng bất động sản trong các năm trước đây. Bên
cạnh đó, cuộc đua lãi suất năm 2011 cho thấy những khó khăn về thanh khoản của
hệ thống và phản ánh qua mức lãi suất qua đêm lên đến hơn 20% vào đầu tháng
10/2011. Các ngân hàng đã sẵn sàng trả lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn và
phải huy động vốn bằng mọi giá để giải tỏa tạm thời vấn đề căng thẳng về luồng
tiền. Hiện tượng nhiều cán bộ ngân hàng phải đi tiếp thị trực tiếp khách hàng để huy
42
động vốn tiết kiệm cũng là một biểu hiện khác của sự căng thẳng thanh khoản trong
thời gian này.
2.1.2. Về năng lực công nghệ
Năng lực công nghệ thể hiện ở trình độ trang thiết bị máy móc, công nghệ và
năng lực khai thác trang thiết bị công nghệ.
Đầu tư đổi mới công nghệ là vấn đề sống còn trong việc nâng cao hiệu quả
của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo tính toán và kinh nghiệm của các
ngân hàng nước ngoài, trích trong Nguyễn Thị Quý (2005), công nghệ thông tin có
thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Trong thời gian qua, các ngân hàng
luôn chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ và ngành ngân hàng được
xem là một trong những ngành dẫn đầu về công nghệ thông tin so với các ngành
khác.
Với sự thành công của Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán
do Ngân hàng thế giới tài trợ, công nghệ của các ngân hàng thương mại tiếp tục
được nâng cấp. Hệ thống thanh toán không ngừng phát triển theo hướng hiện đại,
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Số lượng máy ATM và POS được trang bị không
ngừng tăng lên qua các năm, tạo điều kiện giảm tải các giao dịch tại các ngân hàng,
nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng cá nhân và phát triển dịch vụ thẻ ngân
hàng.
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về năng lực công nghệ
của các NHTM Việt Nam qua các năm
Năm 2008 2009 2011
Chỉ tiêu
1. Số thẻ phát hành
Số lượng thẻ (triệu) 14 21,5 41
Tốc độ tăng (%) 36 54 91
2. Số lượng máy ATM
Số lượng (máy) 7.600 9.700 13.300
Tốc độ tăng (%) 28 37
43
3. Số lượng POS
Số lượng (POS) 25.000 34.000 70.000
Tốc độ tăng (%) 36 106
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước qua các năm)
Bên cạnh đó, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và hệ thống thanh
toán bù trừ điện tử cũng phát triển mạnh mẽ. Đến cuối năm 2011, hệ thống thanh
toán điện tử liên ngân hàng được kết nối với 96 TCTD thành viên. Hệ thống thanh
toán bù trừ điện tử được triển khai tại 58 tỉnh với tổng số hơn 1000 thành viên.
Hệ thống quản trị ngân hàng tập trung (corebanking) đã được sử dụng phổ
biến ở phần lớn các ngân hàng, giúp cải thiện đáng kể hiệu quả của hoạt động nội
bộ ngân hàng như kế toán thanh toán, quản trị rủi ro, đánh giá xếp hạng tín dụng
khách hàng,.. Các dữ liệu trong hoạt động được nối mạng trực tuyến giữa các bộ
phận tại trụ sở chính và chi nhánh, đảm bảo kiểm soát, phát hiện kịp thời các vấn đề
phát sinh trong hoạt động.
Năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở trình độ hiện đại của trang thiết bị
máy móc và công nghệ mà còn thể hiện ở khả năng khai thác các trang thiết bị công
nghệ. Đồng thời với việc lắp đặt, triển khai các thiết bị công nghệ hiện đại, các ngân
hàng đã triển khai hàng loạt các khóa đào tạo, hướng dẫn sử dụng thiết bị công nghệ
cho hầu hết nhân viên ngân hàng.
Mặc dù vậy, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các ngân hàng Việt Nam
chú trọng đầu tư vào các thiết bị tốt nhất song chưa khai thác hết công suất, trọn vẹn
chức năng. Các ngân hàng thường chỉ cung cấp các dịch vụ ngân hàng trực tuyến
đơn giản, tập trung giao tiếp với nội bộ, chưa phát triển các kênh khác.
2.1.3. Về nguồn nhân lực
Các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại thường rất đa dạng và phong
phú. Do đó, những yêu cầu về kỹ năng, trình độ, kiến thức đối với đội ngũ nhân
viên làm việc cho ngành ngân hàng cũng rất đa dạng. Tùy thuộc vào loại hình
nghiệp vụ chuyên môn cũng như cấp độ công việc mà người nhân viên cần phải có
những kỹ năng, kiến thức, phẩm chất nhất định.
44
Theo đánh giá của Quy hoạch phát triển nhân lực ngành ngân hàng giai đoạn
2011-2020, thực trạng nguồn nhân lực đến năm 2011 được thể hiện qua các số liệu
thống kê như sau:
- Phân chia theo cấp bậc đào tạo: số có trình độ sau đại học (thạc sỹ, tiến sỹ)
là 5.433 người, chiếm tỷ lệ 3,1%. Trong đó, chuyên ngành tài chính- ngân hàng là
2.364 người (1,35%), chuyên ngành khác 3.069 người (1,75%). Nhân lực có trình
độ đại học là 114.006 người (65,05%). Trong đó, chuyên ngành tài chính – ngân
hàng là 53.735 người (30,66%), chuyên ngành khác là 60.271 người (34,39%). Số
liệu này cho thấy nhân lực qua đào tạo chuyên môn có trình độ đại học trở lên khá
cao (gần 70%), tuy nhiên tỷ lệ được đào tạo chuyên ngành ngân hàng lại thấp hơn
đào tạo ở các ngành khác. Cụ thể, tỷ lệ nhân lực có trình độ sau đại học ngành tài
chính – ngân hàng là 1,35%, ngành khác là 1,75%; đại học ngành tài chính – ngân
hàng là 30,66%, ngành khác là 34,39%. Tương tự như vậy đối với bậc cao đẳng và
trung cấp là 3,12% và 4,41%; 4,05 và 7,1%.
- Nhân lực trong ngành ngân hàng tương đối trẻ: lao động có độ tuổi dưới 30
chiếm 60,11%, từ 30-50 tuổi chiếm 35,05% và trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ rất nhỏ
4,84%.
Với cơ cấu tuổi và trình độ nguồn nhân lực như vậy, ngành ngân hàng không
gặp phải tình trạng hụt hẫng nguồn nhân lực lớn. Điều đáng nói là năng lực và trình
độ của học viên sau khi tốt nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của các hoạt động trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là yêu cầu về hội
nhập kinh tế quốc tế như thiếu kiến thức thực tế, khả năng ngoại ngữ hạn chế, kỹ
năng thực hành chưa cao. Những nhân tố này làm ảnh hưởng đến năng suất lao
động của ngành ngân hàng nói chung và NHTMCP nói riêng.
Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2012), năng suất lao động của
Việt Nam chỉ bằng khoảng 68,8% so với năng suất lao động của nhóm nước có thu
nhập trung bình thấp, bằng 57,8% so với Trung Quốc, khoảng 34,2 và 22% so với
Thái Lan và Malaysia. Năng suất lao động thấp cũng đúng trong ngành ngân hàng,
làm giảm hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
45
Đặc biệt, sự thiếu hụt ngày càng trầm trọng đối với đội ngũ nhân sự cấp cao
trong ngành ngân hàng. Theo ý kiến của một số chuyên gia, ba vị trí khó tuyển và
thiếu hụt nghiêm trọng nhất là chuyên gia quản lý rủi ro, quản lý cấp trung và
chuyên gia tài chính đầu tư. Nếu không thể phát triển nguồn cung, ngân hàng sẽ
phải chấp nhận “nhập khẩu” chuyên gia cho các vị trí này. Việc vốn nhân lực chảy
quanh từ ngân hàng nọ sang ngân hàng kia cũng sẽ là điều khó tránh khỏi.
Đạo đức của nhân viên ngân hàng cũng là một trong những khía cạnh khác
phản ánh chất lượng nguồn nhân lực. Vài năm trở lại đây, hàng loạt các vụ án hình
sự liên quan đến sai phạm trong hoạt động ngân hàng liên tiếp xảy ra. Số liệu của
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, trích trong
Nguyễn Thùy Trang (2012) cho thấy, trong 2 năm 2010-2011, đã xử lý 69 vụ án,
khởi tố 40 vụ, liên quan đến 70 cán bộ ngân hàng. Các vụ án xảy ra đều do sự yếu
kém về trình độ chuyên môn, về đạo đức, trách nhiệm quản trị, quản lý của cán bộ
ngân hàng.
Bên cạnh đó, các chính sách thu hút và giữ chân nhân lực giỏi cũng ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Hiện nay, nhiều NHTMCP đã áp
dụng cơ chế trả lương theo hiệu quả lao động, kết hợp với trả lương theo hệ số
thâm niên như trước đây, nhằm khuyến khích người lao động làm việc tốt hơn.
Việc trả lương thưởng được phân bố đều theo thời gian chứ không dồn vào cuối
năm tạo được sự gắn kết với ngân hàng. Hình thức thu nhập cũng được đa dạng hóa
bằng cổ phiếu, bảo hiểm,… chứ không chỉ bằng tiền mặt.
2.1.4. Về năng lực quản trị
Trước hết, cần phải đề cập đến cơ cấu tổ chức bộ máy. Các NHTMCP đều
hoạt động theo loại hình công ty cổ phần và tổ chức bộ máy theo mô hình hỗn hợp
trực tuyến chức năng. Mô hình này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp hoạt
động giữa các bộ phận để hoàn thành mục tiêu chung, bảo đảm sự thích nghi theo
yêu cầu của khách hàng, đồng thời vẫn tiết kiệm được chi phí.
Yếu tố cốt lõi trong năng lực quản trị là đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Đội ngũ
lãnh đạo, quản lý của các NHTMCP phần đông đều là những người có trình độ sau
46
đại học và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng. Họ ý thức rất rõ những
áp lực trong ngành ngân hàng và chủ động đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
của ngân hàng. Những quyết định về đầu tư công nghệ, đổi mới phương thức quản
lý và tổ chức ngân hàng là những minh chứng rõ nét nhất cho sự thay đổi này. Tuy
nhiên, do hoạt động NHTMCP rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro và ngành ngân
hàng Việt Nam vẫn còn non trẻ so với các nước khác nên năng lực quản trị của các
ngân hàng còn nhiều bất cập so với quy mô và tốc độ tăng trưởng. Nợ xấu gia tăng,
thanh khoản căng thẳng, đạo đức của một số nhân viên suy giảm là những biểu hiện
bề nổi của năng lực quản trị yếu kém. Hệ thống quản trị, nhất là hệ thống quản lý
rủi ro, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ chưa đạt hiệu quả cao.
Trong giai đoạn 2008-2011, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có
những bước phát triển khá mạnh. Tổng tài sản của các ngân hàng thương mại liên
tục tăng, dịch vụ thẻ ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, theo tác giả Quách
Mạnh Hào (2012), tỷ lệ bao phủ của hệ thống ngân hàng vẫn còn ở mức thấp (năm
2009 có 20% dân số có tài khoản ngân hàng và một nửa trong số đó sử dụng dịch vụ
ngân hàng). Tỷ trọng dư nợ tín dụng so với tổng sản phẩm trong nước mặc dù đã
tăng lên từ 70% năm 2007 lên mức 116% năm 2010 (năm 2012 là 130%) nhưng vẫn
ở mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các quốc gia trên thế giới (khoảng
200%). Có thể nói vẫn còn nhiều khoảng trống giữa khả năng đáp ứng và nhu cầu
thực tế .
2.2. Một số điểm mạnh và yếu của ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam
2.2.1. Một số điểm mạnh
Mặc dù ra đời sau các NHTMCP nhà nước nhưng các NHTMCP đã có sự
phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây và thu hút sự chú ý của các nhà đầu
tư.
Trước hết, các NHTMCP có tốc độ tăng trưởng nhanh và tỷ suất lợi nhuận
cao. Tốc độ tăng trưởng vốn điều lệ bình quân của các NHTMCP trong giai đoạn
47
2008-2011 là 38%, trong khi đó tỷ lệ này đối với ngân hàng thương mại nhà nước là
25%.
Số liệu vốn điều lệ của 15 NHTMCP thể hiện trong Phụ lục 1 cho thấy, đến
cuối năm 2011, quy mô vốn điều lệ của Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu và Sài
Gòn Thương tín là lớn nhất với số vốn điều lệ hơn 10.000 tỷ đồng. Các ngân hàng
có vốn điều lệ khoảng 3.000 tỷ đồng gồm NHTMCP Phát triển nhà TP.Hồ Chí
Minh, NHTMCP Nam Việt và NHTMCP Phương Tây.
Về phương diện tổng tài sản, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân của
các NHTMCP rất cao. Số liệu Phụ lục 2 cho thấy Ngân hàng Phát triển Mê Kông có
tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân cao nhất giai đoạn 2008-2011 với 149%
và thấp nhất là NHTMCP Sài Gòn Thương tín với 23,28%. Nếu xét quy mô tổng tài
sản thì đến năm 2011, 5 NHTMCP có quy mô tổng tài sản lớn nhất là Á Châu
(281.019 tỷ đồng), Xuất nhập khẩu (183.567 tỷ đồng), Kỹ thương (180.531 tỷ
đồng), Sài gòn Thương tín (140.137 tỷ đồng) và Quân đội (138.831 tỷ đồng). Ngân
hàng có quy mô tổng tài sản thấp nhất dưới 20.000 tỷ đồng là NHTMCP Phát triển
Mê Kông.
Về khả năng sinh lời, hầu hết các ngân hàng đều có tỷ suất sinh lời ROAA
bình quân của cả giai đoạn hơn 1%. Các NHTMCP có ROAA hơn 2% bao gồm:
Phát triển Mê Kông, Kỹ thương và Phương Tây. Các NHTMCP có ROAA thấp hơn
1% bao gồm: Phát triển nhà TP. Hồ Chí Minh, Nam Việt, Đại Dương và Phương
Nam.
Trong khi đó, tỷ suất ROEA của các NHTMCP cao hơn nhiều lần so với
ROAA. Ngân hàng TMCP Á châu và NHTMCP Kỹ thương có tỷ suất ROEA bình
quân cao nhất hơn 26%. Các NHTMCP có tỷ suất ROEA bình quân thấp dưới 10%
gồm: An Bình, Phát triển nhà TP.HCM, Nam Việt, Phương Nam và Phương Tây.
Một điểm mạnh khác của các NHTMCP là đội ngũ nhân viên trẻ, năng động,
tận tâm phục vụ khách hàng. Cơ chế tuyển dụng công khai, cơ chế trả lương phù
hợp của các NHTMCP luôn tạo điều kiện cho nhân viên phát huy năng lực trong
công việc. Số lượng nhân viên làm việc tại các ngân hàng có xu hướng tăng nhanh
48
trong giai đoạn 2008-2011. Số liệu từ Phụ lục 6 cho thấy đến năm 2011, 2 ngân
hàng có số lượng nhân viên cao nhất là Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín với
9.596 nhân viên và Ngân hàng TMCP Á Châu với 8.613 nhân viên. Ngân hàng có
số lượng nhân viên thấp nhất là Ngân hàng TMCP Phương Tây với 913 nhân viên.
Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông có tốc độ tăng nhân viên cao
nhất, tăng gần gấp 5 lần trong 4 năm (năm 2008 là 282 nhân viên, đến năm 2011 là
1.356 nhân viên).
Các NHTMCP cũng rất quan tâm đến việc đổi mới, nâng cao công nghệ
ngân hàng, tìm cách phát triển các dịch vụ mới đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng.
2.2.2. Một số điểm yếu
Mặc dù trong những năm gần đây, các NHTMCP luôn tìm cách tăng vốn
nhưng vốn chủ sở hữu của các NHTMCP vẫn ở mức thấp so với các ngân hàng
thương mại nhà nước. Tính đến năm 2011, tổng vốn chủ sở hữu của 4 NHTMCP
hàng đầu là Á Châu, Kỹ Thương, Xuất nhập khẩu và Sài Gòn Thương tín đạt
54.711 tỷ đồng; kém hơn 2 lần so với tổng vốn chủ sở hữu của 4 ngân hàng thương
mại nhà nước là Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngoại thương, Công thương,
Đầu tư và phát triển (120.254 tỷ đồng).
Nhận thức rõ vai trò của công nghệ trong hoạt động của ngân hàng, nhiều
ngân hàng đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, tốc độ phát triển công
nghệ thông tin còn chậm, chưa đồng đều giữa các ngân hàng nên khó khăn trong
việc liên kết các hệ thống với nhau nhằm hợp tác khai thác các dịch vụ lẫn nhau. Hạ
tầng công nghệ thông tin của các NHTMCP Việt Nam chưa được khai thác triệt để.
Chẳng hạn, các NHTMCP Việt Nam đang sử dụng nhiều hệ thống corebanking
khác nhau như: T24, I-flex, TCBS… gây khó khăn trong việc tích hợp công nghệ.
Số liệu ở Phụ lục 5 cho thấy tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP có xu hướng
tăng trong giai đoạn 2008-2011. Nợ xấu có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
có nguyên nhân do yếu kém về năng lực quản trị.
49
Với mô hình tổ chức và quản lý hiện tại với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản
trị và cấp quản lý kinh doanh. Cấp quản trị là hội đồng quản trị thực hiện chức năng
quản lý đối với mọi hoạt động của ngân hàng thương mại, chịu trách nhiệm bảo
toàn và phát triển vốn, ban hành điều lệ, các cơ chế, quy chế tổ chức và hoạt động
của ngân hàng. Cấp quản lý kinh doanh là ban điều hành gồm tổng giám đốc, các
phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và các phòng ban tham mưu giúp việc tại hội sở
chính. Trên thực tế, vai trò của hội đồng quản trị và ban điều hành ở một số
NHTMCP chưa được phân tách rõ ràng. Do vậy, hội đồng quản trị có thể bị rơi vào
trường hợp hoặc là không tập trung được các luồng thông tin chủ yếu về hoạt động
của ngân hàng để xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược và các quyết định
phòng ngừa rủi ro; hoặc lại tham gia quá sâu vào hoạt động thường ngày của các
hoạt động quản lý.
Ngoài ra, việc liên kết giữa các bộ phận, các quyết định giữa các phòng ban
nghiệp vụ còn chưa chặt chẽ. Các NHTMCP còn lúng túng trong việc hoạch định
chiến lược phát triển dài hạn, chưa có một chiến lược phát triển và chiến lược sản
phẩm cụ thể riêng biệt cho từng ngân hàng. Điều này dẫn đến các NHTMCP gần
như giống nhau về chiến lược, cạnh tranh trên cùng địa bàn, cùng loại sản phẩm nên
mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt và có thể dẫn đến những hành vi cạnh tranh
không làmh mạnh.
Trong cơ cấu thu nhập, thu nhập lãi vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu
nhập của các NHCMCP. Số liệu ở Phụ lục 7 cho thấy bình quân thu nhập lãi chiếm
khoảng 90% tổng thu nhập của các NHTMCP.
Thêm vào đó, năng lực quản trị rủi ro của các NHTMCP Việt Nam được các
chuyên gia đánh giá chỉ ở mức trung bình, trong khi tăng trưởng tín dụng nhanh dẫn
đến nợ xấu gia tăng làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Quản trị
rủi ro tại các NHTMCP vẫn còn đang trong quá trình xây dựng nên bọc lộ nhiều hạn
chế.
Đội ngũ nhân viên trẻ, tận tâm trong công việc nhưng thiếu những chuyên
gia cao cấp, có tầm nhìn chiến lược để hoạch định những kế hoạch dài hạn cho sự
50
phát triển của NHTMCP. Số lượng nhân viên tăng nhanh nhưng chưa tương xứng
với chất lượng.
Nhìn chung, qua phân tích thực trạng hoạt động của NHTMCP Việt Nam
cho thấy: các NHTMCP chưa tận dụng hết mọi nguồn lực để tạo ra sản phẩm, vẫn
còn nhiều bất cập trong điều hành hoạt động của ngân hàng. Tiềm lực giữa các
NHTMCP có sự chênh lệch nhau rất lớn. Các NHTMCP được đánh giá là có quy
mô lớn, có tiềm lực mạnh về tài chính bao gồm: Á Châu, Xuất nhập khẩu, Sài gòn
thương tín, Kỹ thương. Một số ngân hàng khác có quy mô tương đối nhỏ nhưng
được đánh giá là chất lượng dịch vụ tương đối tốt như: Đông Á, Đại Dương.
2.3. Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP
Việt Nam
2.3.1. Giới thiệu mô hình nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp DEA có thể đánh giá bức tranh tổng thể hoạt
động của ngân hàng, kết hợp phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phân
tích thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp sử dụng dữ liệu dạng bảng. Khuynh hướng
tiếp cận đầu vào cho phép xác định lượng đầu vào cần giảm để ngân hàng đạt đến
trạng thái tối ưu. Từ lý thuyết về phương pháp DEA, mô hình DEA được lựa chọn
nghiên cứu là mô hình DEACRS, mô hình DEAVRS theo khuynh hướng đầu vào và
đo lường chỉ số Malmquist.
- Mô hình DEACRS: Sử dụng công thức (7) của phần 1.3.1
- Mô hình DEAVRS: Sử dụng công thức (9) của phần 1.3.2
- Đo lường chỉ số Malmquist: Sử dụng công thức (10) của phần 1.3.3.
2.3.2. Quy trình nghiên cứu cụ thể
1. Chọn lựa DMU
2. Chọn biến đầu ra và đầu vào
3. Mô hình DEA
4. Tổng hợp kết quả
5. Kết luận và gợi ý giải pháp
51
2.3.2.1. Chọn lựa DMU Dựa vào nguồn dữ liệu có thể thu thập được, tác giả chọn các DMU là 15
NHTMCP Việt Nam và thời gian nghiên cứu là 04 năm (từ năm 2008 đến 2011).
Danh sách các NHTMCP Việt Nam được nghiên cứu như sau:
Bảng 2.6: Danh sách 15 NHTMCP nghiên cứu
Tên ngân hàng
2
.
Ngân hàng TMCP An Bình Ngân hàng TMCP Á Châu Ngân hàng TMCP Đông Á Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Ngân hàng TMCP Phát triển TP. HCM Ngân hàng TMCP Quân đội Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông Ngân hàng TMCP Hàng Hải Ngân hàng TMCP Nam Việt
Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Ngân hàng TMCP Đại Dương 11 Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín 12 Ngân hàng TMCP Phương Nam 13 Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 14 Ngân hàng TMCP Việt Nam thịnh vượng 15 Ngân hàng TMCP Phương Tây Mã ngân hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB
3.2.2. Lựa chọn biến đầu ra và đầu vào
Trên quan điểm cho rằng ngân hàng là tổ chức tài chính huy động và phân bổ
các nguồn vốn cho vay và các tài sản khác, các yếu tố đầu vào và đầu ra được chọn
lựa bao gồm:
* Biến đầu ra:
Đầu ra gồm 2 biến phản ánh kết quả kinh doanh của một NHTMCP:
- Thu nhập lãi và các khoản tương tự (y1): Đây là một trong những biến số
thể hiện đầu ra trong hoạt động của NHTMCP. Thu nhập lãi là các khoản thu nhập
từ cho vay; các khoản thu tương tự gồm thu lãi từ tiền gửi, cho thuê tài chính và các
khoản thu khác từ hoạt động tín dụng.
52
- Thu nhập ngoài lãi (y2): Biến số này cũng thể hiện đầu ra của NHTMCP.
Các khoản thu nhập khác của một NHTMCP bao gồm: thu nhập từ hoạt động dịch
vụ, góp vốn, kinh doanh và các khoản thu nhập khác.
* Biến đầu vào:
Đầu vào gồm 03 biến đại diện cho các nguồn lực đầu vào của một
NHTMCP như: lao động, cơ sở vật chất - trang thiết bị kỹ thuật và vốn.
- Chi phí tiền lương (x1): Thể hiện yếu tố lao động (L) trong đầu vào của
hoạt động NHTMCP.
- Tài sản cố định (x2): Thể hiện yếu tố trang thiết bị - cơ sở vật chất kỹ thuật
(T) trong đầu vào của hoạt động NHTMCP.
- Tiền gửi của khách hàng (x3): Thể hiện yếu tố vốn (K) trong đầu vào của
hoạt động NHTMCP. Ngân hàng chủ yếu sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho
vay, tạo ra thu nhập. Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền tiết kiệm và các khoản
tiền gửi khác.
Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả hoạt động của
NHTMCP được thể hiện qua Sơ đồ sau:
Chi phí tiền lương (x1)
Thu nhập lãi và các khoản tương tự (y1) Hiệu quả của
ngân hàng Tài sản cố định (x2)
thương mại
Thu nhập ngoài lãi (y2) cổ phần
Tiền gửi (x3)
Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả
của ngân hàng thương mại cổ phần
2.3.2.3. Mô hình DEA
* Mô tả dữ liệu mẫu
53
Nguồn dữ liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của 15
NHTMCP Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2011.
Tóm tắt các biến của 15 NHTMCP Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2011
như sau:
Bảng 2.7: Tóm tắt dữ liệu của các biến trong mẫu nghiên cứu
Đầu ra Đầu vào
y1 y2 Tên biến
Thu nhập lãi Thu nhập ngoài lãi
Thu nhập hoạt động x1 Chi phí tiền lương Lao động x3 Tiền gửi khách hàng Vốn
Định nghĩa
x2 Tài sản cố định Cơ sở vật chất – trang thiết bị kỹ thuật
1696288 27904 691319 16403
3323227,28 10497846 243470 2868031,23 15 274197,35 225329,78 469845,85 969011 4284 317548,44 212091,25 425365,11 15 15 15 20523474,71 64216949 859372 18719883,65 15
301817,57 605425,28 851469 28815 2480890 32114
3472934,35 9613889 326033 2720240,50 15 429703,5 1369166 8958 441723,19 260705,69 602951,96 15 15 15 30301219,14 86919196 677246 24617174,67 15
3707863 51000
6012835,57 14960336 619612 4330890,65 15 701150,28 400811,64 838458,64 1021646 2511340 8616 42929 748128,21 317769,38 902220,48 15 15 15 42964806,64 106936611 5593260 30700999,38 15
1944550 115623 3135519 139943
10848896,35 835959,07 695457,92 1054363,78 49766159,64 25460938 1332426 7295954,47 15 2235333 8224 754383,52 551825,82 803710,71 15 142218091 1254258 37944989,05 15 15 15 Năm 2008 Average Max Min Std. dev Obs Năm 2009 Average Max Min Std. dev Obs Năm 2010 Average Max Min Std. dev Obs Năm 2011 Average Max Min Std. dev Obs
54
Thu nhập ngoài lãi đã tăng lên trong giai đoạn 2008-2011 nhưng vẫn chiếm
một tỷ lệ rất thấp so với thu nhập lãi.
Đồ thị 2.2: Thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi trung bình của 15 NHTMCP
* Xử lý dữ liệu
Đề tài sử dụng phần mềm DEAP 2.1 của tác giả Tim Coelli. Phần mềm này
được sử dụng cho các trình biên tập văn bản (chẳng hạn như NOTEPAD hoặc
EDIT, WORD hoặc WORD PERFECT) và có nhiều lựa chọn, trong đó có 03 lựa
chọn chính là mô hình DEACRS, mô hình DEAVRS, ước lượng hiệu quả chi phí và
hiệu quả phân bổ, ứng dụng dữ liệu dạng bảng để ước lượng chỉ số năng suất tổng
hợp Malmquist. Phần mềm gồm 5 loại tệp dữ liệu tương ứng với các dạng tệp .exe,
.000, .dta, .cmd, .out. Tương ứng với mỗi mô hình cần nhập dữ liệu vào tệp .dta, lựa
chọn các lệnh điều khiển trong tệp .cmd và xuất kết quả vào tệp dữ liệu .out. Ưu
điểm của phần mềm này so với các phần mềm khác viết cho phương pháp DEA là
ngắn gọn, dễ hiểu, sử dụng được trên phầm mền Windows và là công cụ xử lý
mạnh.
Các mô hình lựa chọn bao gồm: DEACRS, DEAVRS và đo lường chỉ số
Malmquist với 15 NHTMCP, 2 biến đầu ra và 03 biến đầu vào cho 4 giai đoạn.
Kết luận Chương 2
Chương 2 trình bày tổng quan về hoạt động của NHTMCP Việt Nam giai
đoạn 2008-2011 và giới thiệu quy trình nghiên cứu.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, hoạt
động của các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn này trải qua những bước thăng
55
trầm. Mặc dù quy mô của các NHTMCP đang lớn dần thể hiện qua các số liệu ngày
càng tăng lên của vốn điều lệ, tổng tài sản, các chi nhánh, số nhân viên nhưng các
chỉ tiêu về hiệu quả lại có xu hướng chững lại thậm chí còn sụt giảm. Trong giai
đoạn 2008-2011, năm 2011 là năm đầy khó khăn đối với ngành ngân hàng khi tốc
độ tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng chậm lại nhưng không đi kèm với nâng cao
chất lượng tín dụng, huy động vốn khó khăn và thanh khoản trở nên xấu đi, khả
năng sinh lời của các NHTMCP giảm. Bức tranh tổng thể thực tế cho thấy các
NHTMCP chưa khai thác hết các nguồn lực. Vì vậy, việc nghiên cứu về hiệu quả
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMCP là cần thiết.
Theo khuynh hướng tiếp cận đầu vào, đề tài sử dụng mô hình DEACRS, mô
hình DEAVRS và chỉ số Malmquist đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp
TFP. Quy trình nghiên cứu được thực hiện qua 5 bước cụ thể. Đầu tiên là lựa chọn
DMU, tiếp đến là lựa chọn biến đầu vào và đầu ra, xử lý dữ liệu bằng phần mềm
DEAP 2.1 với những lựa chọn mô hình phù hợp, tổng hợp dữ liệu, phân tích kết quả
và cuối cùng là đưa ra các gợi ý giải pháp.
56
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ GỢI Ý GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
3.1. Kết quả nghiên cứu
3.1.1. Hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình DEACRS và DEAVRS
Sau khi lựa chọn các biến đại diện đầu vào, đầu ra cho mẫu nghiên cứu gồm
15 NHTMCP thời kỳ 2008-2011, theo cách tiếp cận phi tham số với sự hỗ trợ của
phần mềm DEAP 2.1; kết quả ước lượng hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình
DEACRS và DEAVRS và hiệu quả quy mô cho từng ngân hàng được thể hiện trong
Phụ lục 9.
Hiệu quả kỹ thuật xác định trong mô hình DEACRS là hiệu quả kỹ thuật toàn
bộ trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô. Còn hiệu quả kỹ thuật xác
định trong mô hình DEAVRS là hiệu quả kỹ thuật thuần trong điều kiện sản lượng
thay đổi theo quy mô. Hiệu quả kỹ thuật toàn bộ, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu
quả quy mô trung bình giai đoạn 2008-2011 cho từng ngân hàng được thể hiện
trong bảng sau:
Bảng 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô
trung bình của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Mã ngân hàng TE (CRS) PE (VRS) SE
Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB 0,830 0,925 0,840 0,795 0,978 0,821 0,898 0,951 0,857 1,000 0,859 0,894 0,981 0,856 1,000 0,991 0,972 0,925 0,977 0,883 0,998 0,964 0,898 0,959
57
0,908 1,000 0,966 0,931 0,964 0,897 0,848 0,977 1,000 1,000 0,987 1,000 0,989 1,000 0,929 1,000 0,966 0,943 0,964 0,906 0,848 9 10 11 12 13 14 15 NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB
(Nguồn: Tác giả tính toán từ kết quả của phần mềm DEAP 2.1) Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP qua từng năm được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3.2: Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP giai đoạn 2008-2011
2008 2009 2010 2011 Trung bình giai đoạn 2008-2011
Năm Hiệu quả TE (CRS) PE(VRS) SE 0,906 0,973 0,929 0,900 0,956 0,941 0,927 0,962 0,965 0,881 0,946 0,933 0,903 0,959 0,942
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1) Trong mô hình DEACRS, hiệu quả kỹ thuật bình quân của cả mẫu thời kỳ
2008-2011 đạt 90,3%. Điều này cho thấy các NHTPCP Việt Nam đã sử dụng tương
đối có hiệu quả các nguồn lực đầu vào để tạo ra các đầu ra. Lượng đầu vào trung
bình có thể giảm bớt để các NHTMCP đạt đến trạng thái tối ưu hoàn toàn (TE=1) là
9,7%.
Số lượng NHCMCP đạt hiệu quả tối ưu trong từng năm khác nhau. Số liệu ở
Bảng 3.3 cho thấy số lượng các NHTMCP đạt được hiệu quả tối ưu là cao nhất vào
năm 2011 với 8 ngân hàng và thấp nhất vào năm 2009 với 5 ngân hàng. Có 2
NHTMCP không đạt hiệu quả tối ưu trong cả 4 năm là NHTMCP An Bình và
NHTMCP Quân đội.
Bảng 3.3: Số lượng các NHTMCP đạt hiệu quả tối ưu giai đoạn 2008 - 2011
2008 2009 2010 2011 Stt
1 2 3 4 Mã ngân hàng ABB ACB DAB EIB X X X
58
5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 X X X X X 7 X X X X X 5 X X X X X X 6 X X X X X X X 8 HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB Tổng cộng
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1)
Số liệu ở Bảng 3.1 cho thấy, trong cả giai đoạn 2008-2011, có 1 ngân hàng
đạt hiệu quả tối ưu đó là Ngân hàng TMCP Đại Dương, chiếm tỷ lệ 6,7%; 7 ngân
hàng đạt hiệu quả từ 90 đến 100%, chiếm tỷ lệ 46,67%; 7 ngân hàng còn lại đạt hiệu
quả dưới 90% và thấp hơn hệ số trung bình chung của mẫu, chiếm tỷ lệ 46,7%.
Trong mô hình này, ngân hàng có hiệu quả thấp nhất là Ngân hàng TMCP Xuất
nhập khẩu với 79,5%.
Năm 2008, hiệu quả kỹ thuật trung bình chung của 15 ngân hàng TMCP là
90,6%. Nhưng sang năm 2009, do tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008
nên hiệu quả giảm còn 90%. Năm 2010, hiệu quả kỹ thuật trung bình của các ngân
hàng này được cải thiện hơn nhiều, tăng lên 92,7% nhưng lại giảm xuống còn
88,1% vào năm 2011. Đây là năm mà hiệu quả kỹ thuật trung bình của các
NHTMCP đạt thấp nhất trong 4 năm nghiên cứu vì các NHTMCP gặp nhiều khó
khăn trong năm 2011. Điều này là phù hợp với nhận định khi đánh giá thực trạng
hoạt động của NHTMCP trên đây. Chênh lệch về hiệu quả kỹ thuật trung bình giữa
điểm hiệu quả cao nhất và điểm hiệu quả thấp nhất là tương đối lớn 20,5%.
Trái với mô hình DEACRS, mô hình DEAVRS cho thấy một sự khác biệt trong
kết quả nghiên cứu. Hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình trong mô hình DEAVRS cao
hơn nhiều so với mô hình DEACRS, đạt ở mức 95,9%. Số lượng NHTMCP đạt hiệu
quả tối ưu cũng tăng lên. Có 6 ngân hàng đạt hiệu quả tối ưu nhờ quy mô (ACB,
59
MDB, OCB, SCB, TCB và WTB), chiếm tỷ lệ 40%; 1 ngân hàng đạt hiệu quả kỹ
thuật thuần xấp xỉ tối ưu là MSB (99,1%); chiếm tỷ lệ 6,7%; 4 ngân hàng đạt hiệu
quả kỹ thuật thuần từ 90% đến 99%, chiếm tỷ lệ 26,6% và 4 ngân hàng đạt hiệu quả
dưới 90% (chiếm tỷ lệ 26,6%), thấp hơn nhiều so với hiệu quả trung bình chung.
Trong mô hình này, Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB) có hiệu quả kỹ thuật thuần
thấp nhất (85,6%). Chênh lệch về hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình giữa điểm hiệu
quả cao nhất và điểm hiệu quả thấp nhất là 14,4%.
Trong năm 2008, hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình đạt cao nhất, sau đó
giảm trong năm 2009, tăng lên năm 2010 và tiếp tục giảm vào năm 2011 còn 94,6%
tuy vẫn ở mức cao. Điều này một lần nữa chứng tỏ các ngân hàng hoạt động không
ổn định trong giai đoạn 2008-2011 và đạt hiệu quả thấp nhất vào năm 2011.
3.1.2. Quy mô tổng tài sản và hiệu quả kỹ thuật
Để đánh giá chi tiết hơn, chúng ta có thể sắp xếp các NHTMCP theo thứ tự giảm dần tổng tài sản12 và xem xét thứ tự sắp xếp theo quy mô tổng tài sản và hiệu
quả kỹ thuật của các NHTMCP theo từng năm (Phụ lục 10) và theo giá trị bình quân
cho cả giai đoạn.
Bảng 3.4: So sánh thứ tự xếp hạng theo quy mô tổng tài sản bình quân
và hiệu quả kỹ thuật bình quân giai đoạn 2008-2011
Mã ngân
hàng Tổng tài sản bình quân 2008-2011 (triệu đồng)
12 Khi xét đến quy mô của một ngân hàng có nhiều tiêu chí như: địa bàn và phạm vi hoạt động, số lượng nhân sự, các nghiệp vụ cung cấp cho khách hàng, tổng tài sản, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động… trong đó tổng tài sản được đề cập đến nhiều nhất.
ACB TCB SCB EIB MBB MSB DAB VPB Thứ tự xếp theo tổng tài bình quân 2008-2011 1 2 3 4 5 6 7 8 Thứ tự xếp hạng theo hiệu quả kỹ thuật trung bình 7 4 3 15 14 5 12 10 Hiệu quả kỹ thuật trung bình 2008-2011 0,925 0,964 0,966 0,795 0,821 0,951 0,840 0,897 189.827.361 120.625.711 116.578.341 107.093.522 90.452.270 81.554.794 49.663.814 47.203.901
60
STB OCB ABB HDB NVB WTB MDB 9 10 11 12 13 14 15 46.616.150 41.413.628 29.892.464 27.024.998 18.026.916 10.715.376 8.004.920 6 1 13 2 8 11 9 0,931 1,000 0,830 0,978 0,908 0,848 0,898
(Nguồn: Tác giả sắp xếp dựa vào số liệu từ Báo cáo tài chính của các
NHTMCP và kết quả từ phần mềm DEAP 2.1)
Bảng so sánh trên và Bảng xếp hạng theo từng năm ở Phụ lục 10 cho chúng
ta thấy các ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn chưa hẳn đã hoạt động hiệu quả
hơn các ngân hàng có quy mô tổng tài sản nhỏ. Chẳng hạn như NHTMCP đạt hiệu
quả kỹ thuật tối ưu và xếp hạng cao nhất là Ngân hàng TMCP Đại Dương có tổng
tài sản bình quân 41.413 tỷ, xếp hạng 10 theo tổng tài sản bình quân. Vị trí xếp hạng
hiệu quả kỹ thuật số 2 lại thuộc về Ngân hàng TMCP Phát triển nhà TP. HCM có
tổng tài sản bình quân là 27.024 tỷ, xếp hạng 12 theo tổng tài sản bình quân. 2 vị trí
xếp hạng hiệu quả kỹ thuật thấp nhất (vị trí 14 và 15) lại thuộc về 2 ngân hàng có
tổng tài sản bình quân tương đối cao (Ngân hàng TMCP Quân đội với tổng tài sản
bình quân 81.554 tỷ và Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu với tổng tài sản bình
quân 107.093 tỷ). Hai ngân hàng có tổng tài sản bình quân nhỏ nhất là Ngân hàng
TMCP Phương Tây và Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông lại xếp hạng hiệu quả
kỹ thuật ở mức trung bình.
Trong một nghiên cứu khác, tác giả Lê Thị Lợi (2011) cũng kết luận các
ngân hàng có tổng tài sản lớn (thể hiện quy mô) chưa hẳn đạt được tỷ số lợi nhuận
ROE cao (thể hiện hiệu quả hoạt động).
Kết quả này cho thấy các NHTMCP kể cả các ngân hàng có quy mô lớn cần
tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động.
3.1.3. Hiệu quả quy mô
Theo lý thuyết về phương pháp DEA, khi có sự khác biệt về hiệu quả kỹ
thuật giữa 2 mô hình thì tồn tại hiệu quả quy mô. Kết quả ước lượng từ mô hình
DEAVRS cho thấy có 14 ngân hàng tồn tại hiệu quả quy mô trong giai đoạn 2008-
61
2011, ngoại trừ Ngân hàng TMCP Đại Dương đã đạt hiệu quả tối ưu hoàn toàn nên
không tồn tại hiệu quả quy mô.
Hiệu quả kỹ thuật toàn bộ là tích của hiệu quả kỹ thuật thuần với hiệu quả
quy mô. Vì vậy, độ lớn của các chỉ số hiệu quả này sẽ phản ánh nguồn phi hiệu quả
trong hoạt động của các NHTMCP. Hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình của mẫu
thời kỳ nghiên cứu là 95,9%, lớn hơn hiệu quả quy mô bình quân 94,2%. Điều đó
cho thấy trong thời kỳ mẫu nghiên cứu, các nhân tố phản ánh quy mô hoạt động của
NHTMCP đóng góp vào hiệu quả kỹ thuật toàn bộ nhỏ hơn so với hiệu quả kỹ thuật
thuần. Như vậy, các nhân tố phản ánh quy mô hoạt động của NHTMCP là nguồn
gây ra phi hiệu quả lớn hơn so với các nhân tố về mặt kỹ thuật.
Bảng 3.5 tóm tắt kết quả ước lượng từ mô hình DEA cho biết cụ thể số lượng
các NHTMCP ở Việt Nam đang hoạt động trong điều kiện DRS, IRS và CONS13.
Bảng 3.5: Số lượng NHTMCP trong điều kiện DRS, IRS và CONS
2008 2009 2010 2011
5 3 7 15 7 2 6 15 3 4 8 15 3 4 8 15 Năm Điều kiện DRS IRS CONS Tổng cộng
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1, Phụ lục 9)
Bảng 3.5 cho thấy số lượng các ngân hàng đang đối mặt với sản lượng giảm
theo quy mô có xu hướng giảm dần trong 3 năm cuối, từ 7 ngân hàng năm 2009 còn
lại 3 ngân hàng năm 2010 và năm 2011 (giảm 58%). Ngược lại, số lượng các
NHTMCP đang đối diện với sản lượng tăng theo quy mô ngày càng tăng, từ 2 ngân
hàng năm 2009 lên 4 ngân hàng năm 2011 (tăng 100%). Hầu hết các NHTMCP có
quy mô tổng tài sản lớn đều đối diện với điều kiện sản lượng giảm theo quy mô, cụ
thể như NHTMCP Á Châu (năm 2009, 2010 và 2011), NHTMCP Xuất nhập khẩu
(năm 2008 và 2009), NHTMCP Quân đội (2009, 2010 và 2011), NHTMCP Sài gòn
13 Điều kiện CONS là một cách gọi khác của điều kiện CRS – Sản lượng không đổi theo quy mô
Thương tín (2011) và NHTMCP Kỹ thương (2009). Các NHTMCP thường đối diện
62
với điều kiện sản lượng tăng theo quy mô là NHTMCP Phương Tây (năm 2009,
2010 và 2011) và NHTMCP Đông Á (năm 2010 và 2011).
Các NHTMCP đang trong điều kiện sản lượng giảm theo quy mô không nên
tăng quy mô. Muốn cải thiện hiệu quả hoạt động, các ngân hàng này nên phát triển
các sản phẩm mới để cải thiện năng suất các yếu tố đầu vào. Các NHTMCP đang
trong điều kiện sản lượng tăng dần theo quy mô có thể cải thiện hiệu quả hoạt động
của mình bằng cách tập trung mở rộng quy mô, mở rộng các sản phẩm đang cung
cấp cho thị trường.
3.1.4. Ước lượng năng suất nhân tố tổng hợp TFP
Mô hình Chỉ số Malmquist cho phép ước lượng sự thay đổi của TFP và sự
thay đổi của các thành phần hiệu quả có liên quan như thay đổi hiệu quả kỹ thuật,
thay đổi tiến bộ công nghệ, thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần và thay đổi hiệu quả
theo quy mô.
Số liệu từ Bảng 3.6 cho thấy, trong giai đoạn 2008-2011, tăng trưởng TFP
bình quân của các NHTMCP nghiên cứu là 1,142, nghĩa là có sự gia tăng năng suất
ở mức 14,2%. Nguyên nhân chính là do tăng trưởng của tiến bộ công nghệ đạt
15,5%, trong khi hiệu quả kỹ thuật lại giảm đi 1,1%. Có thể giải thích điều này là do
hầu hết các NHTMCP đều chú trọng vào việc nâng cấp và đổi mới công nghệ trong
giai đoạn này. Kết quả này là phù hợp với nhận định về năng lực công nghệ của các
NHTMCP Việt Nam trong phần đánh giá thực trạng hoạt động của NHTMCP.
Bảng 3.6: Chỉ số Malmquist bình quân toàn bộ mẫu giai đoạn 2008-2011 tfpch Chỉ số techch effch pech sech
0,996 1,031 0,942 0,989 0,936 1,116 1,475 1,155 0,982 1,005 0,985 0,991 1,015 1,025 0,956 0,998 0,932 1,150 1,389 1,142 Giai đoạn 2008-2009 2009-2010 2010-2011 Trung bình 2008-2011
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1, Phụ lục 11)
Chỉ số TFP có xu hướng tăng dần qua các năm, từ 0,932 trong giai đoạn
2008-2009 lên 1,150 trong giai đoạn 2009-2010 và đạt cao nhất ở mức 1,389 trong
63
giai đoạn 2010-2011. Điều đó chứng tỏ năng suất của các NHTMCP tăng dần qua
các năm. Nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng này là tăng trưởng tiến bộ công
nghệ thể hiện qua chỉ số techch cũng tăng dần qua các năm, từ 0,936 giai đoạn
2008-2009 đến 1,116 giai đoạn 2009-2010 và đạt cao nhất ở mức 1,475 trong giai
đoạn 2010-2011. Trong giai đoạn 2010-2011, tăng trưởng của tiến bộ công nghệ đạt
cao nhất với mức tăng 47,5% kéo chỉ số TFP bình quân tăng lên 38,9%.
Số liệu ở Bảng 3.6 cũng cho thấy hiệu quả theo quy mô và hiệu quả kỹ thuật
không góp phần vào sự gia tăng năng suất.
Kết quả ước lượng chỉ số TFP trung bình giai đoạn 2008-2011 cho từng ngân
hàng ở Bảng 3.7 cho thấy 13 NHTMCP có chỉ số TFP lớn hơn 1 và 2 NHTMCP có
chỉ số TFP nhỏ hơn 1. Điều này chứng tỏ hầu hết NHTMCP được nghiên cứu có xu
hướng tăng năng suất, 2 NHTMCP có sự sụt giảm về năng suất là NHTMCP Đông
Á và NHTMCP Phương Tây với chỉ số TFP bình quân tương ứng là 0,967 và 0,997.
Nguyên nhân chính gây ra sự sụt giảm về năng suất của NHTMCP Đông Á là do sự
suy giảm về hiệu quả kỹ thuật thuần. Trong khi đó, nguyên nhân chính gây ra sự sụt
giảm về năng suất của NHTMCP Phương Tây là do sự suy giảm về hiệu quả quy
mô. Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông có chỉ số TFP bình quân cao nhất với
1,377. Nguyên nhân chính là do tăng trưởng tiến bộ công nghệ ở mức cao (32,6%).
Bảng 3.7: Kết quả ước lượng effch, techch, pech, sech và tfpch trung
bình của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011
Stt Mã ngân effch techch pech sech tfpch
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB 0,953 0,933 0,871 1,182 1,000 0,912 1,038 1,075 0,957 1,000 0,952 1,146 1,230 1,110 1,055 1,206 1,193 1,326 1,083 1,235 1,040 1,188 0,931 1,000 0,875 1,046 1,000 0,969 1,000 1,011 1,036 1,000 1,000 1,024 0,933 0,995 1,129 1,000 0,941 1,038 1,064 0,924 1,000 0,952 1,093 1,047 0,967 1,246 1,206 1,087 1,377 1,065 1,083 1,040 1,132
64
12 13 14 15 STB TCB VPB WTB 1,069 1,000 1,086 0,861 1,084 1,155 1,146 1,158 1,000 1,000 1,000 1,000 1,069 1,000 1,082 0,861 1,159 1,155 1,244 0,997
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phần mềm DEAP 2.1, Phụ lục 3)
3.2. Kết luận và gợi ý giải pháp
3.2.1. Kết luận liên quan đến các mục tiêu nghiên cứu
3.2.1.1 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ nhất
Như đã đề cập trong phần Mở đầu, một trong những mục tiêu nghiên cứu của
đề tài là ước lượng và phân tích hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam
giai đoạn 2008-2011. Để đạt được mục tiêu này, tác giả áp dụng phương pháp DEA
và sử dụng dữ liệu của 15 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2011. Hiệu quả của
15 NHTMCP được thể hiện qua đồ thị sau:
Đồ thị 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô
của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Hiệu quả hoạt động kinh doanh chung (TE) tương đối cao. Mức độ phi hiệu
quả của các NHTMCP Việt Nam trung bình là 9,7%. Nhìn chung, trong toàn bộ
mẫu, các ngân hàng có thể gia tăng hiệu quả lên 9,4%, 10%, 7,3% và 11,9% tương
ứng với các năm 2008, 2009, 2010 và 2011. Nguồn gây ra phi hiệu quả từ phi hiệu
quả quy mô và cả phi hiệu quả kỹ thuật thuần, trong đó phi hiệu quả quy mô lớn
hơn phi hiệu quả kỹ thuật thuần (5,8% so với 4,1%).
65
Hiệu quả đạt được của các NHTMCP là khác nhau. Trung bình trong 4 năm
nghiên cứu, có 1 ngân hàng đạt hiệu quả tối ưu đó là Ngân hàng TMCP Đại Dương,
chiếm tỷ lệ 6,7%; 7 ngân hàng đạt hiệu quả từ 90 đến 100%, chiếm tỷ lệ 46,67%; 7
ngân hàng còn lại đạt hiệu quả dưới 90%, chiếm tỷ lệ 46,7%. Trong mô hình này,
ngân hàng có hiệu quả thấp nhất là NHTMCP Xuất nhập khẩu với 79,4%. Chênh
lệch giữa hiệu quả kỹ thuật cao nhất và thấp nhất đạt được là 20,6%.
Nghiên cứu cũng so sánh giữa thu nhập lãi và thu nhập phi lãi từ 15
NHTMCP Việt Nam và cho thấy thu nhập lãi vẫn là nguồn thu nhập chính của các
NHTMCP. Thu nhập phi lãi có xu hướng tăng dần qua các năm những vẫn chiếm
một tỷ lệ rất thấp so với thu nhập lãi.
Kết quả từ mô hình DEA cho thấy có sự mất cân bằng tương đối giữa các
NHTMCP Việt Nam trong các năm. Năm 2011, có 3 NHTMCP đang hoạt động
trong điều kiện sản lượng giảm theo quy mô (chiếm 20%), 4 NHTMCP đang hoạt
động trong điều kiện sản lượng tăng dần theo quy mô (chiếm 27%), trong khi đó có
8 NHTMCP (chiếm 53%) hoạt động trong điều kiện quy mô tối ưu. Vì vậy, để nâng
cao hiệu quả hoạt động, các NHTMCP Việt Nam không chỉ cần gia tăng lượng đầu
ra hay giảm chi phí đầu vào mà còn cần những giải pháp có ảnh hưởng chung đến
toàn hệ thống.
3.2.1.2. Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ hai
Mục tiêu nghiên cứu thứ hai của đề tài là phân tích thay đổi năng suất nhân
tố tổng hợp.
Để đạt được mục tiêu này, tác giả ước lượng chỉ số năng suất nhân tố tổng
hợp Malmquist TFP và các thành phần của nó đối với 15 NHTMCP Việt Nam giai
đoạn 2008-2011. Kết quả cho thấy năng suất nhân tố tổng hợp của NHTMCP Việt
Nam có xu hướng tăng dần qua các năm. Giá trị trung bình chung của chỉ số
Malmquist TFP của các NHTMCP qua 4 năm nghiên cứu là 1,142, nghĩa là các
NHTMCP Việt Nam tăng năng suất bình quân 14,2%. Nguyên nhân chính dẫn đến
sự gia tăng năng suất là tiến bộ công nghệ với mức tăng bình quân 15,5%.
66
3.2.2. Một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
NHTMCP Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu, kết quả nghiên cứu cho thấy có duy nhất 1 ngân
hàng đạt đến hiệu quả tối ưu trong 4 năm 2008-2011. Đa số các ngân hàng chưa sử
dụng tối ưu các nguồn lực nên hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam
chưa đạt tối ưu. Vì vậy, tác giả đưa ra một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam như sau:
3.2.2.1. Đối với các NHTMCP Việt Nam
* Các NHTMCP Việt Nam cần tăng dần quy mô để đạt đến mức hiệu
quả quy mô cao hơn
Từ ước lượng của mô hình DEA cho thấy, phi hiệu quả quy mô của các
NHTMCP Việt Nam là 5,8% vì vậy các NHTMCP cần tăng quy mô.
Chương 2 đánh giá thực trạng hoạt động của NHTMCP cho thấy vốn điều lệ
của NHTMCP Việt Nam còn thấp, tỷ lệ bao phủ chưa cao. Vì vậy, đối với các
NHTMCP đang ở điều kiện sản lượng tăng theo quy mô và hiệu quả quy mô nhỏ
hơn 1, cần gia tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch,
tăng vốn huy động,… Việc tăng vốn điều lệ có thể thông qua sáp nhập, hợp nhất,
phát hành cổ phiếu bổ sung,…Các NHTMCP đang hoạt động ở điều kiện sản lượng
giảm theo quy mô và có hệ số an toàn vốn quá lớn cần lưu ý vì việc tăng vốn chủ sở
hữu đối với các ngân hàng này không có ý nghĩa nhiều.
Khi phát triển các mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch cần dựa trên nguyên
tắc không phình to, cồng kềnh bộ máy tổ chức và không tăng nhiều lao động.
Ðể tăng quy mô, các NHTMCP cũng có thể phát triển thị trường mới bằng
việc mở rộng phạm vi địa lý hay mở rộng các dịch vụ sử dụng đa dạng kênh phân
phối: phân phối dịch vụ qua máy ATM và POS, phân phối dịch vụ qua Internet và
điện thoại.
* Tăng cường năng lực quản trị, điều hành để gia tăng hiệu quả kỹ thuật
thuần
67
Phi hiệu quả kỹ thuật thuần theo kết quả ước lượng của mô hình DEA là
4,1%. Vì vậy, đồng thời với việc tăng quy mô, các NHTMCP cần tăng cường năng
lực quản trị, điều hành; khắc phục những hạn chế về năng lực quản trị, điều hành.
Để quản trị tốt, ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài sản có, xây dựng văn hóa quản
trị lành mạnh, các NHTMCP cần nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ trên cơ sở
áp dụng hệ thống công nghệ hiện đại để phát hiện những rủi ro tiềm ẩn và có biện
pháp ngăn chặn kịp thời.
Hoạt động của ngân hàng luôn đối diện với nhiều rủi ro, trong khi năng lực
quản trị rủi ro của nhiều NHTMCP Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tăng
cường năng lực, điều hành của NHTMCP bao gồm cả tăng cường năng lực quản trị
rủi ro. Chẳng hạn như phân chia các rủi ro cụ thể cho từng bộ phận chuyên trách
cũng như hội đồng quản lý nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng khi quản lý các rủi ro;
đồng thời Hội đồng quản trị cần xây dựng co chế phối hợp hành động giữa các hội
đồng quản lý rủi ro để đưa ra các quyết định quản trị đồng bộ, chính xác và hiệu
quả. Bên cạnh đó, các NHTMCP cần tăng cường hoạt động kiểm soát và giám sát.
Trong đó, Hội đồng rủi ro và khối quản lý rủi ro chịu trách nhiệm chính trong việc
kiểm soát rủi ro để đảm bảo mức rủi ro luôn nằm trong giới hạn cho phép. Hội đồng
rủi ro và ban kiểm soát nội bộ cần xây dựng hệ thống giám sát rủi ro phù hợp với
quy trình quản trị rủi ro của ngân hàng.
Các NHTMCP cần nghiên cứu và xây dựng mô hình, bộ phận chuyên trách
về rủi ro, từ đó chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro. Từng NHTMCP cần có
chiến lược hoạt động rõ ràng, xây dựng những “kịch bản” cụ thể về những rủi ro
trong quá trình hoạt động. Mỗi “kịch bản” sẽ có những giải pháp riêng để chủ động
ứng phó. Từ đó sẽ giúp ngân hàng có những hành động kịp thời với chi phí thấp
nhất nhằm bảo vệ uy tín của ngân hàng.
Cần phân loại rủi ro và có giải pháp thích hợp với từng loại rủi ro cụ thể.
Chẳng hạn như rủi ro tín dụng hoàn toàn có thể giảm được, nếu các ngân hàng thực
hiện tốt khâu "phòng bệnh", tức là sàng lọc khách hàng từ trước khi cấp tín dụng
chứ không phải đến khi xảy ra rủi ro mới lo xử lý hậu quả. Hiện nay, có rất nhiều
68
biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng, trong đó xếp hạng tín dụng là một trong những
biện pháp phổ biến nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác ra quyết định và quản lý tín
dụng. "Thông qua xếp hạng tín dụng của khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá cơ
bản về mức độ rủi ro của khách hàng, sàng lọc được khách hàng tốt để phục vụ việc
ra quyết định cấp tín dụng. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể tập trung vào các
đặc điểm riêng của khách hàng, để có biện pháp quản lý tín dụng hiệu quả" Ngoài
ra, để nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng, phải đưa điều kiện xếp hạng tín dụng
với các sản phẩm của tổ chức xếp hạng và của ngân hàng thương mại vào điều kiện
bắt buộc đối với các khoản cho vay, đầu tư của tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng.
Để thể hiện sự minh bạch hóa tài chính, yêu cầu lên sàn chứng khoán cũng là một
trong những điều kiện bắt buộc trong danh mục chấm điểm ưu tiên khi xếp hạng tín
dụng đối với các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng. Bổ sung thang điểm thương hiệu
cá nhân đứng đầu doanh nghiệp và thương hiệu doanh nghiệp vào thang điểm xếp
hạng của doanh nghiệp, vì con người chính là nguyên nhân rủi ro nhất trong các
nguyên nhân rủi ro.
Để xử lý dứt điểm nợ xấu, các NHTMCP chủ động phối hợp với khách hàng
vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý
cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất
kinh doanh tích cực; đồng thời đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của
các khoản nợ xấu để thu hồi vốn.
* Giảm chi phí đầu vào, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Theo kết quả ước lượng của mô hình DEA, các NHTMCP Việt Nam còn có
thể giảm đầu vào một tỷ lệ trung bình 9,7% để đạt đến trạng thái tối ưu. Thực trạng
hoạt động của NHTMCP cũng cho thấy số lượng nhân viên ngân hàng tăng nhanh
trong những năm gần đây trong khi năng suất lao động lại chưa cao. Vì vậy, trong
một chừng mực nào đó, giảm chi phí đầu vào có thể thực hiện bằng cách giảm số
lượng nhân viên, đồng thời tăng năng suất lao động.
69
Chẳng hạn, kết quả ước lượng của phần mềm DEA cho thấy NHTMCP Xuất
nhập khẩu có thể giảm chi phí tiền lương 43.878 triệu VND (năm 2008), 67.849
triệu VND (năm 2009) và 65.604 triệu VND (năm 2010).
Tăng năng suất lao động bằng cách tăng cường bồi dưỡng kỹ năng và kiến
thức chuyên môn cho nhân viên, tăng cường kiểm soát nội bộ và tạo môi trường văn
hóa lành mạnh, tạo sự gắn kết giữa nhân viên và ngân hàng.
Về lâu dài, các NHTMCP cần xây dựng chuẩn mực năng lực cho từng chức
danh song song với việc tạo ngân hàng đề thi để đánh giá trình độ năng lực thực tế
so với tiêu chuẩn, nhằm tạo điều kiện để đánh giá cán bộ và tạo điều kiện cho từng
cá nhân chủ động phát triển năng lực bản thân.
Bên cạnh đó, các NHTMCP cần xây dựng chiến lược phát triển nhân lực và
định hướng đào tạo phù hợp với chiến lược của ngân hàng để từ đó đặt hàng cho các
trường đào tạo bằng cách đưa ra những yêu cầu cụ thể về kỹ năng, đẩy mạnh thực
hiện các hoạt động hợp tác giữa ngân hàng và các trường đào tạo cán bộ ngành ngân
hàng.
- Mở rộng xây dựng mô hình “Ngân hàng thực hành” (School Branch). Hiện
nay mới chỉ được một số ít các trường Đại học quan tâm áp dụng. Còn với các
NHTM Việt Nam, khi tiếp nhận nhân viên mới tuyển, bài toán đặt ra là nhân viên
mới sau khi được đào tạo lý thuyết sẽ đảm nhận được vị trí công tác mà lãnh đạo
giao như thế nào? Có nhanh chóng thích ứng với tình hình thực tế tại chi nhánh hay
không?
Sự thiếu hụt môi trường thực hành khiến nhân viên mới thường tỏ ra lúng
túng, mất nhiều thời gian thích nghi trong quá trình tác nghiệp. Chính vì thế, các
NHTM Việt Nam cần áp dụng mô hình School Branch nhằm tạo môi trường mô
phỏng thực tiễn cho học viên để họ có thể vận dụng những kiến thức đã học, rút
ngắn thời gian học việc và thích nghi nhanh với công việc thực tế.
* Tăng thu nhập ngoài lãi
Thu nhập ngoài lãi chiếm một tỷ lệ rất thấp ở các NHTMCP. Vì vậy, để nâng
cao hiệu quả hoạt động, song song việc duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ
70
truyền thống, các NHTMCP cần mở rộng đa dạng hóa sản phẩm – dịch vụ mới.
Dịch vụ mới của ngân hàng có thể phát triển theo nhiều chiều hướng khác nhau
như: phát triển dịch vụ mới trên cơ sở hoàn thiện các dịch vụ hiện có về hình thức
và nội dung, phát triển dịch vụ mới tương đối và phát triển dịch vụ mới hoàn toàn.
Việc phát triển đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế
rủi ro trong quá trình hoạt động.
Tuy nhiên, khi hoạch định chiến lược, ngân hàng cần có những hoạch định
dài hạn, tạo một hướng đi cho riêng mình nhằm phát huy những điểm mạnh, tránh
các NHTMCP gần như giống nhau về chiến lược, cạnh tranh trên cùng địa bàn,
cùng loại sản phẩm sẽ dẫn đến mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân
hàng và có thể dẫn đến những hành vi cạnh tranh không làmh mạnh.
Các NHCMCP cũng có thể tăng cường các hoạt động ngoại bảng để tăng
thêm thu nhập, bù đắp cho sự sụt giảm thu nhập từ các nghiệp vụ truyền thống của
ngân hàng, nhất là trong tình hình cho vay và huy động vốn đang gặp nhiều khó
khăn như hiện nay.
* Tăng cường áp dụng tiến bộ công nghệ
Kết quả phân tích chỉ số năng suất tổng hợp Malmquist TFP cho thấy tiến bộ
công nghệ là nhân tố chính làm tăng năng suất nhân tố tổng hợp. Vì vậy, để tiếp tục
tăng năng suất, các NHTMCP cần khắc phục những hạn chế về năng lực công nghệ;
tiếp tục hiện đại hóa công nghệ, sử dụng các hệ thống công nghệ đồng bộ theo một
chuẩn mực chung để có thể tích hợp khai thác các dịch vụ lẫn nhau, khai thác triệt
để hạ tầng công nghệ.
3.2.2.2. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Hoạt động của NHTMCP không chỉ ảnh hưởng đến các ngân hàng mà còn
tác động mạnh đến nền kinh tế. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
NHTMCP rất cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là trong việc
thực hiện các giải pháp ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống ngân hàng, vừa bảo
đảm NHTMCP hoạt động theo đúng định hướng của Nhà nước, vừa góp phần xây
dựng hệ thống tài chính Việt Nam. Các giải pháp hỗ trợ bao gồm:
71
* Các giải pháp nhằm xử lý nợ xấu của các NHTMCP
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để
bảo đảm các NHTMCP tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc
biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định
về an toàn hoạt động tín dụng.
- Thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai
có hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ. Hình thành công ty mua bán
nợ xấu quốc gia, có chức năng, nhiệm vụ xử lý nợ xấu thông qua hoạt động mua
bán tài sản xấu của các doanh nghiệp.
- Các Bộ, ngành cần phối hợp triển khai đồng bộ các biện pháp hỗ trợ giải
quyết nợ xấu của các NHTMCP như: thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường như miễn, giảm thuế, giãn thời hạn nộp thuế;
hỗ trợ cho vay các dự án nhà ở dành cho người có thu nhập thấp nhằm khôi phục thị
trường bất động sản, quản lý chặt chẽ và bảo đảm thị trường này phát triển lành
mạnh.
* Giải pháp nhằm hạn chế sở hữu chéo
Sở hữu chéo có mặt tích cực là góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng
và doanh nghiệp nhưng cũng có những mặt trái và rủi ro, nhất là việc các NHTMCP
dùng sở hữu chéo để lách các quy định bảo đảm an toàn hoạt động do NHNN ban
hành. Luật các tổ chức tín dụng hiện hành có quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ
phần đối với cổ đông cá nhân và đối với cổ đông tổ chức. Tuy nhiên, một cá nhân
hoặc một doanh nghiệp có thể có ảnh hưởng rất lớn đến đến các hoạt động tín dụng
tại các ngân hàng thông qua các công ty con. Vì vậy, việc khống chế tỷ lệ sở hữu tại
các NHTMCP bởi cá nhân hay doanh nghiệp cũng phải tính đến cả những sở hữu
gián tiếp này.
- Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, đồng thời quy định hợp lý các chế
tài làm cho hoạt động của NHTMCP trở nên minh bạch hơn.
* Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
72
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và NHNN cần liên kết để nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành ngân hàng và đào tạo theo yêu cầu của
ngành ngân hàng, phối hợp với một số ngân hàng lớn xây dựng trang web về đào
tạo theo nhu cầu ngành.
- Phối hợp xây dựng ngân hàng thực hành để tạo điều kiện cho học viên tiếp
cận thực tế từ sớm và liên tục. Hiện nay, các học viên ngành ngân hàng hầu hết chỉ
tiếp cận môi trường làm việc thực tế qua việc đi thực tập ba tháng cuối khóa học
nên khó có thể nâng cao kỹ năng thực hành.
Bên cạnh những giải pháp trên đây, hiện nay, Việt Nam đang thực hiện Đề
án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong đó có các NHTMCP. Đây cũng là một giải
pháp để tăng hiệu quả, hướng đến sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh
tranh của các NHTMCP Việt Nam.
Kết luận Chương 3
Chương 3 phân tích kết quả ước lượng từ phần mềm DEAP 2.1 và đưa ra
một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam.
Mặc dù hiệu quả kinh doanh trung bình chung đạt được của các NHTMCP là tương
đối cao nhưng chưa đồng đều giữa các NHTMCP, có sự chênh lệch giữa khả năng
sử dụng các nguồn lực giữa các NHTMCP. Nguồn gây ra phi hiệu quả từ các nhân
tố quy mô và cả yếu tố năng lực quản trị, điều hành. Xu hướng tăng năng suất thể
hiện rất rõ khi phân tích chỉ số năng suất tổng hợp và nguyên nhân chính là do thay
đổi công nghệ.
Để tăng hiệu quả hoạt động, các NHTMCP cần tăng quy mô, đa dạng hóa
sản phẩm, nâng cao năng lực quản trị điều hành, tận dụng triệt để hạ tầng công
nghệ và không ngừng đổi mới công nghệ. Các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh thực
hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, đồng thời tổ chức đào tạo nhân lực cao cấp cho
ngành ngân hàng.
73
KẾT LUẬN
Luận văn đã đạt được mục tiêu nghiên cứu là ước lượng và phân tích hiệu
quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam kết hợp phân tích thay đổi năng suất
nhân tố tổng hợp.
Theo đó, thông qua phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA, luận văn đã xác
định hiệu quả kỹ thuật trung bình chung của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn
2008-2011 đạt mức 90,3%. Mặc dù vậy, các NHTMCP Việt Nam vẫn còn chưa sử
dụng tối ưu các nguồn lực và còn có thể giảm đầu vào trung bình 9,7%. Có sự mất
cân bằng tương đối giữa các ngân hàng trong việc sử dụng các nguồn lực. Luận văn
cũng xác định nguồn gây ra phi hiệu quả là từ các nhân tố quy mô (5,8%) và các
nhân tố quản trị, điều hành (4,1%). Kết hợp xử lý cùng một bộ dữ liệu để phân tích
thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp, kết quả cho thấy năng suất của các NHTMCP
Việt Nam có xu hướng tăng dần do sự thay đổi của tiến bộ công nghệ.
Bằng phương pháp định lượng, luận văn cho thấy các NHTMCP có quy mô
lớn hơn chưa hẳn hoạt động có hiệu quả hơn các ngân hàng nhỏ. Và vì vậy, các
NHTMCP nhỏ vẫn có thể tồn tại trong môi trường hiện nay và có khả năng cạnh
tranh với các ngân hàng khác.
Cuối cùng, luận văn đã gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của NHTMCP Việt Nam. Đối với các NHTMCP, cần tăng vốn chủ sở hữu,
mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường quản trị nội bộ, khai thác
triệt để hạ tầng công nghệ và chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đối
với các cơ quan quản lý nhà nước, cần thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu ở các
NHTMCP và phối hợp đào tạo đội ngũ chuyên gia cao cấp cho ngành ngân hàng.
Việt Nam cũng cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tái cơ cấu các tổ chức tín
dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường năng lực cạnh tranh của các
NHTMCP. Tuy nhiên, Việt Nam không nhất thiết phải xóa bỏ các ngân hàng nhỏ
mà Nhà nước cần điều chỉnh phạm vi và lĩnh vực phù hợp để một số NHTMCP nhỏ
hoạt động có hiệu quả tiếp tục tồn tại và phát triển.
74
Bên cạnh những kết quả đạt được, luận văn còn một số hạn chế nhất định:
- Do nguồn số liệu hạn chế, đề tài chưa đánh giá hiệu quả hoạt động của tất
cả các NHTMCP Việt Nam mà chỉ chọn 15 NHTMCP có thể tập hợp được dữ liệu.
Nguồn số liệu từ 15 NHTMCP cũng làm giới hạn cách chọn biến đầu vào và đầu ra
của mô hình nghiên cứu. Một nghiên cứu với số lượng mẫu đầy đủ hơn với nhiều
biến đầu vào, đầu ra sẽ phân tích sâu và rõ ràng hơn hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
- Thông tin về NHTMCP Việt Nam còn hạn chế nên phần đánh giá thực
trạng hoạt động của NHTMCP chưa sâu, chưa thật chi tiết.
- Luận văn chỉ dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP
bằng phương pháp DEA mà chưa kèm theo các phương pháp kiểm định khác, cũng
như chưa kết hợp phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân
hàng bằng một mô hình hồi quy. Cần có thêm các phép kiểm định kết hợp đánh giá
bằng phương pháp DEA và phân tích bằng mô hình hồi quy để xác định chính xác
và rõ ràng hơn các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt
Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cụ thể hơn nhằm làm gia tăng hiệu quả
hoạt động, tăng cường năng lực cạnh tranh của các NHTMCP Việt Nam.
viii
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Việt 1. Chính phủ, 2006. Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về ban hành danh mục mức vốn
pháp định của các tổ chức tín dụng.
Website: http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban.
2. Hoàng Xuân Hòa và Trần Kim Anh, 2013. Vấn đề nợ xấu và một số giải pháp
cấp thiết. Tạp chí Ngân hàng, số 4, trang 23-26.
3. Lê Thị Lợi, 2011. Vốn chủ sở hữu trong các ngân hàng tại Việt Nam, các vấn đề
về quản trị vốn. Tạp chí Ngân hàng, số 2+3, trang 90-95.
4. Lê Thu Hằng và Đỗ Thị Bích Hồng, 2010. Định vị hệ thống ngân hàng Việt Nam
so với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, Tạp chí Ngân hàng, số 24,
trang 11-16.
5. Ngân hàng Nhà nước, 2008, 2009, 2010, 2011. Báo cáo thường niên
6. Ngân hàng Nhà nước, 2010. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Website: http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban.
7. Ngân hàng Nhà nước, 2012. Quyết định số 219/QĐ-NHNN về việc phê duyệt quy
hoạch phát triển nhân lực ngành ngân hàng giai đoạn 2011-2020. Website:
http://luatvietnam.vn/Van-ban-moi-cap-nhat-tuan
8. Ngô Đăng Thành, 2010. Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực của một số
NHTMCP Việt Nam ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA). SSRN eLibrary,
WP.2010.01.
9. Ngọc Minh, 2013. Phát triển vốn nhân lực ngành tài chính ngân hàng – các bài
học kinh nghiệm trong khu vực. Tạp chí Ngân hàng, số 2+3 trang 138-143. 10. Nguyễn Đức Hoàn, 2012. Hoạt động kinh doanh ngân hàng năm 2011. Thời báo
kinh tế Việt Nam 2011-2012, số Đặc biệt, trang 32-35.
11. Nguyễn Thị Nhung, 2013. Suy nghĩ về vấn đề tái cấu trúc NHTM Việt Nam,
Tạp chí Thị trường Tài chính, số 3+4 tháng 2, trang 39-43.
ix
12. Nguyễn Thị Quý, 2005. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
trong xu thế hội nhập. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị.
13. Nguyễn Thùy Trang, 2012. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng – nhìn từ góc độ
đạo đức. Tạp chí Ngân hàng, số 23, trang 30-33.
14. Nguyễn Văn Ngọc, 2012. Từ điển Kinh tế học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học
kinh tế quốc dân.
15. Nguyễn Việt Hùng, 2008. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Luận án tiến sỹ Kinh tế, Đại
học Kinh tế quốc dân.
16. Quách Mạnh Hào, 2012. Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam gia. Website: sát chính giám quốc ban tài nay. Ủy
hiện http://nfsc.gov.vn/en/nghien-cuu-trao-doi.
17. Quốc hội, 2010. Luật các tổ chức tín dụng. Nhà xuất bản Phương Đông.
18. Quốc hội, 2010. Luật Ngân hàng Nhà nước. Nhà xuất bản Phương Đông.
19. Thủ tướng Chính phủ, 2012. Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai
đoạn 2011-2015.
Website: http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vilinks/videtail/vicm207. 20.Tô Ngọc Hưng và Nguyễn Đức Trung. Hoạt động ngân hàng Việt Nam – nhìn
lại năm 2011 và một số giải pháp cho năm 2012. Học viện ngân hàng, Website:
http://v1.hvnh.edu.vn/magazine/503/1938
21.Trần Huy Hoàng, 2012. Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh.
22.Trương Quang Thông, 2012. Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản
Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
23. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, 2012. Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012.
24. Các báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các NHTMCP năm 2008,
2009, 2010, 2011.
x
Danh mục tài liệu tiếng Anh 1. Alli M., and R. Habibollah, 2011. The application of DEA based Malmquist
Productivity index in Organization Performance Analysis. International research
Journal of Finance and Economics, ISSN 1450-2887 Issue 62,
2. Aziz P., M., and H. Lennart, 2002. Measurement of inputs and outputs in the
banking industry. Tanzanet Journal, 3(1): 12-22.
3. Banker, R.D., A.Charmens, and W.W.Cooper, 1984. Some models for estimating
Technical and scale inefficiencies in Data Envelopment Analysis. Management
Science, 30:1078-1092.
4. Chan S., 2011. Technical efficiency of commercial banks in China:
Decomposition into Pure Technical and scale efficiency. International journal of
China Studies, Vol.2, No.1:27-38.
5. Charnes, A., W.W. Cooper, and E. Rhodes, 1978. Measuring the Efficiency of
Decision Making Units. European Journal of Operational Research, 2: 429-444.
6. Coelli, T., 1996. A guide to DEAP version 2.1: A data envelopment analysis
(computer) program. CEPA Working paper 96/08, University of New England,
http://www.une.edu.au/econometrics/cepawp.htm.
7. Coelli, T., Rao., D.S and G.E. Battese, 1996. An Introduction to efficiency and
productivity analysis. Boston, MA: Kluwer Academic Publishers.
8. Elena L., 2008. Analysis of the efficiency and profitability of the Japanese
banking system. IMF Working paper, WP/08/63.
9. Farrell, M.,1957. The measurement of productive efficiency. Journal of the Royal
Statistical Society. Series A 9 (General), 120: 253-290.
10. Grazyna W., 2008. Methods of measuring the efficiency of commercial banks:
an example of Polish Banks. ISSN 1392-128. Economika, 84.
11. Nguyen, T.H.V., 2011. The Data Envelopment analysis model: Evaluating the
efficiency of Vietnamese commercial banks. Master Thesis in Economics,
University of Economics HoChiMinh City.
xi
12. Nurhan A., Y. Abdullah, and S.Mustafa, 2009. Banking efficiency in
Developing economy: empirical evidence from Turkey. Journal of money,
investment and banking. ISSN 1450-288X Issue 8 (2009).
13. Sherman, H.D., F.Gold, 1983. Evaluating operating efficiency of service
business with data envelopment analysis – empirical study of bank branch
operations. Working paper 1444-83, Massachusetts Institute of Technology.
xii
Phụ lục 1: Vốn điều lệ của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011
2008 2009 2010 2011
Stt Mã ngân hàng Tốc độ tăng vốn điều lệ bình quân 2008-2011 (%) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Vốn điều lệ (tỷ đồng) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%) Vốn điều lệ 2007 (tỷ đồng) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%) Tốc độ tăng vốn điều lệ (%)
1 ABB 2.300 2.706 17,65 3.483 28,71 3.831 10 4.200 9,63 16,50
2.630 2 ACB 3 DAB 1.600 2.800 4 EIB 500 5 HDB 6 MBB 2.000 7 MDB 500 8 MSB 1.500 500 9 NVB 1.000 10 OCB 5.662 11 SCB 1.434 12 STB 2.521 13 TCB 2.000 14 VPB 200 15 WTB 6.356 2.880 7.220 1.550 3.400 500 1.500 1.000 1.000 5.116 2.028 3.642 2.117 1.000 141,67 80,00 157,86 210,00 70,00 0,00 0,00 100,00 0,00 -9,64 41,42 44,47 5,85 400,00 22,94 7.814 18,06 3.400 21,88 8.800 0,00 1.550 5.300 55,88 1.000 100,00 3.000 100,00 1.000 0,00 2.000 100,00 30,96 6.700 26,63 2.568 48,27 5.400 0,00 2.117 0,00 1.000 9.377 4.500 10.560 2.000 7.300 3.000 5.000 1.820 3.500 9.179 3.049 6.932 4.000 2.000 20 32 20 29 38 200 67 82 75 37 19 28 89 100 9.377 4.500 12.355 3.000 7.300 3.750 8.000 3.010 4.000 10.740 3.212 8.788 5.050 3.000 0,00 0,00 17,00 50,00 0,00 25,00 60,00 65,38 14,29 17,01 5,35 26,77 26,25 50,00 46,15 32,60 54,18 72,26 40,90 81,25 56,67 61,85 47,32 18,83 23,03 36,97 30,26 137,50
(Nguồn: Báo cáo thường niên,báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)
xiii
Phụ lục 2: Tổng tài sản của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011
2008 2009 2010 2011
Stt Mã ngân hàng Tổng tài sản 2007 (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng tài sản (tỷ đồng) Tốc độ tăng tổng tài sản bình quân 2008-2011 (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%) Tốc độ tăng tổng tài sản (%)
9.558 (30,85)
43,36 41.542 22,17 281.019 31,40 65.549 100,33 183.567 79,79 45.025 58,86 138.831
1 ABB 2 ACB 3 DAB 4 EIB 5 HDB 6 MBB 7 MDB 8 MSB 9 NVB 10 OCB 11 SCB 12 STB 13 TCB 14 VPB 15 WTB 17.174 13.494 (21,43) 85.392 105.306 27.376 34.713 33.710 48.248 13.823 29.624 44.346 1.575 1.988 17.569 32.626 9.903 10.905 13.680 14.091 64.573 68.439 17.130 20.762 39.542 59.099 18.137 18.648 1.295 26.518 23,32 167.881 26,80 42.520 43,13 65.448 19.127 49,70 69.008 26,22 2.524 85,70 63.882 10,12 18.690 3,00 33.785 5,99 104.019 21,20 35.473 49,46 92.582 27.543 2,82 2.662 105,56 10.314 96,52 38.016 59,42 205.103 22,49 55.873 35,65 131.110 100,12 34.389 55,61 109.623 26,96 17.267 95,80 115.336 71,39 20.016 139,76 55.139 51,99 141.799 70,86 60.235 56,66 150.291 59.807 47,70 9.335 287,45 117,14 (9,49) 31,93 35,48 24,50 54,78 45,00 47,70 149,15 65,30 25,25 54,89 23,28 44,51 47,14 51,53 125,92
9,28 37,01 17,32 40,01 30,93 26,64 584,11 10.241 (40,69) (0,83) 80,55 114.375 12,39 7,09 22.496 13,60 63,21 62.639 (1,17) 36,32 140.137 16,20 69,81 69.991 20,12 62,33 180.531 82.818 38,48 20.551 120,15 (Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)
xiv
Phụ lục 3: ROAA của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2008-2011
Đơn vị tính: %
2008 2009 2010 2011 Stt Mã ngân hàng ROAA bình quân giai đoạn 2008- 2011
1 ABB 1,56 0,32 0,77 1,05 1,54
2 ACB 1,61 2,32 1,32 1,63 1,25
3 DAB 1,52 1,74 1,56 1,54 1,34
4 EIB 1,99 1,74 1,93 1,88 1,85
5 6 HDB MBB 1,35 1,93 0,51 1,90 1,07 1,54 0,99 1,83 1,01 1,95
7 8 9 MDB MSB NVB 4,42 1,60 0,96 3,73 1,26 0,55 2,77 0,69 0,78 3,14 1,21 0,78 1,64 1,29 0,81
10 11 12 13 14 OCB SCB STB TCB VPB 0,95 1,94 0,88 2,13 1,27 0,33 1,44 0,62 2,38 0,78 0,83 1,44 0,35 1,91 1,12 0,82 1,57 0,68 2,03 1,08 1,17 1,46 0,88 1,71 1,15
WTB 2,05 0,52 1,84 0,81 5,02
15 (Nguồn: tác giả tính toán dựa vào số liệu của Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)
xv
Phụ lục 4: ROEA của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011 Đơn vị tính: %
Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011 hàng ROEA bình quân giai đoạn 2008- 2011
ABB 1,54 7,38 10,86 6,55 6,58 1
ACB 31,53 24,63 21,74 27,49 26,35 2
DAB 15,98 15,23 13,71 16,86 15,44 3
EIB 7,43 8,65 13,51 20,39 12,49 4
HDB MBB 0,77 17,64 11,20 19,36 12,97 22,13 14,44 20,68 9,85 19,95 5 6
MDB MSB NVB 12,45 16,86 6,91 12,76 28,49 12,70 6,68 23,42 9,84 9,89 10,08 6,35 10,44 19,71 8,95 7 8 9
OCB SCB STB TCB VPB 4,13 12,64 5,15 25,51 6,31 13,65 18,25 9,33 25,00 12,00 16,42 14,88 12,87 24,80 12,98 11,18 14,60 5,94 28,79 14,28 11,35 15,09 8,32 26,03 11,39 10 11 12 13 14
WTB 14,88 10,67 3,17 4,60 8,33 15
(Nguồn: tác giả tính toán dựa vào số liệu của Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)
xvi
Phụ lục 5: Tỷ lệ nợ xấu của 15 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2011
Đơn vị tính: %
Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011
hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 - 0,9 - - 1,9 - 0,8 1,49 2,9 - 0,69 - - 3,41 2,3 - - - 1,8 1,1 - 2,9 0,62 2,4 0,016 0,62 2,3 - 1,63 2,1 - 0,3 1,6 1,4 0,8 - - 1,87 2,2 1,67 0,6 1,8 2,3 1,2 - - 0,9 1,7 1,6 2,1 - - - 2,9 2,08 0,6 - 2,8 1,8 -
(Nguồn: tác giả tính toán dựa vào số liệu của Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm)
Ghi chú: các trường hợp (-) do không có số liệu
xvii
Phụ lục 6: Tổng số nhân viên của 15 NHTMCP Việt Nam nghiên cứu Đơn vị tính: Người
Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011
hàng ABB ACB DAB EIB HDB MBB MDB MSB NVB OEB SCB STB TCB VPB WTB - 7255 4750 4088 1752 4079 533 2587 - 1359 8354 2155 7481 2700 763 2683 8613 4846 4974 2162 5098 1356 4699 - 1848 9596 - 8335 3382 913 - 6901 - 3104 783 2435 282 - 1123 590 6016 1752 - - 404 - 6669 - 3780 1288 2999 375 - 1050 895 7200 1788 5548 2394 594
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 (Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm 2008-2011)
xviii
Phụ lục 7: Tỷ lệ thu nhập lãi so với tổng thu nhập của 15 NHTMCP Đơn vị tính: %
Stt Mã ngân 2008 2009 2010 2011 hàng
ABB 1 95,29 92,36 92,71 95,86
ACB 2 92,18 88,16 91,83 94,21
DAB 3 92,15 92,29 88,72 93,67
EIB 4 96,44 92,02 87,98 93,65
HDB 5 92,33 86,08 91,90 97,73
MBB 6 92,07 87,79 91,38 91,58
MDB 7 98,42 97,33 97,50 99,39
MSB 8 96,49 93,56 94,87 91,01
NVB 9 93,35 86,69 97,41 97,86
OCB 10 99,17 95,25 95,16 96,26
SCB 11 88,08 83,91 82,45 90,15
STB 12 92,30 94,11 95,33 97,06
TCB 13 90,68 87,70 84,78 89,92
VPB 14 96,62 90,36 89,45 91,51
15 WTB 90,85 86,21 98,91 98,94
(Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm 2008-2011)
xix
Phụ lục 8: Số liệu các biến của 15 NHTMCP nghiên cứu Đơn vị tính: triệu VND
Năm 2008
Stt Mã ngân hàng Thu nhập ngoài lãi Thu nhập lãi và các khoản tương tự Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng
1.494.819 1 ABB 73.958 92.362 480.524 6.673.746
2 ACB 10.497.846 891.066 691.319 789.034 64.216.949
3 DAB 3.815.708 325.027 215.987 549.467 23.010.437
4 EIB 4.196.594 154.738 282.709 716.157 30.877.730
5 HDB 6 MBB 1.084.874 90.132 3.679.299 316.972 68.380 234.025 150.489 629.394 4.336.883 27.162.881
7 MDB 8 MSB 9 NVB 10 OCB 266.620 2.481.604 1.024.772 1.335.733 4.284 90.326 73.034 11.119 16.403 124.757 79.480 33.394 27.904 219.635 108.682 45.900 1.297.603 14.111.556 6.021.861 6.411.984
11 SCB 12 STB 7.161.082 969.011 1.888.682 157.534 643.346 1.696.288 600.574 151.789 46.128.820 9.044.745
13 TCB 6.218.777 638.886 405.506 564.262 39.617.7230
14 VPB 15 WTB 2.630.121 243.470 92.103 24.531 187.360 20.162 368.035 112.021 14.230.102 859.372
xx
Năm 2009
Stt
Mã ngân hàng Thu nhập lãi và các khoản tương tự Thu nhập ngoài lãi Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng
1 ABB 1.646.999 136.295 143.060 507.124 15.001.842
2 ACB 9.613.889 1.290.595 851.469 872.634 86.919.196
3 DAB 3.325.056 277.735 280.770 793.784 27.973.540
4 EIB 4.344.177 376.849 458.505 937.558 38.766.465
5 HDB 1.039.175 167.983 91.848 250.618 9.459.244
6 MBB 4.050.421 563.348 349.706 623.041 39.978.447
7 MDB 326.033 8.958 28.815 32.114 677.246
8 MSB 4.041.658 278.364 248.251 258.567 30.053.287
9 NVB 1.251.187 192.117 95.927 107.637 9.629.727
10 OCB 1.749.594 87.310 77.568 194.020 23.376.980
11 SCB 7.137.799 1.369.166 747.374 2.480.890 60.516.273
12 STB 2.297.103 143.825 156.432 779.037 14.720.676
13 TCB 6.882.366 965.002 594.340 700.901 62.347.400
14 VPB 2.163.995 230.858 207.993 326.237 16.489.544
15 WTB 398.628 63.739 36.448 118.916 3.309.043
xxi
Năm 2010
Stt
Thu nhập lãi và các khoản tương tự Thu nhập ngoài lãi Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng
3.300.305 259.671 250.947 627.468 23.457.313
14.960.336, 1.330.554 970.747 1.054.702 106.936.611
4.508.6050 573.241 353.344 940.622 31.417.279
7.544.746 1.030.687 544.314 1.067.579 58.150.665
2.353.1580 207.423 162.463 256.043 13.986.213
8.765.605 826.594 567.112 1.223.530 65.740.838
619.612 15.893 42.929 51.000 6.556.453
8.246.078 446.055 418.307 615.381 48.626.708
1.714.750 45.642 122.364 106.571 10.721.302
4.202.658 213.789 148.402 132.439 42.337.825
11.801.566 2.511.340 1.021.646 3.707.863 78.335.416
3.933.128 192.832 206.314 1.090.577 28.584.325
Mã ngân hàng ABB 1 ACB 2 DAB 3 EIB 4 HDB 5 MBB 6 MDB 7 MSB 8 NVB 9 OEB 10 SCB 11 12 STB 13 TCB 10.934.383 1.963.483 754.516 1.003.907 80.550.753
3.814.024 449.955 239.505 349.889 23.969.645
781.049 8.616 59.400 138.318 5.593.260 14 15 VPB WTB
xxii
Năm 2011
Stt Mã ngân hàng
Thu nhập lãi và các khoản tương tự Thu nhập ngoài lãi Chi phí tiền lương Tài sản cố định Tiền gửi khách hàng
1 ABB 5.090.760 219.672 366.291 716.538 20.249.558
2 ACB 25.460.938 1.564.328, 1.574.327 1.236.987 142.218.091
3 DAB 7.348.942 496.476 629.943 1.223.566 36.064.013
4 EIB 17.549.942 1.190.176 1.050.942 1.912.605 53.652.639
5 HDB 5.340.656 124.140 267.297 327.506 19.089.860
6 MBB 13.820.889 1.270.302 824.090 1.551.406 89.548.673
7 MDB 1.332.426 8.224 175.614 148.865 1.254.258
8 MSB 14.078.653 1.391.135 578.456 724.903 62.294.523
9 NVB 2.691.190 58.934 194.459 139.943 14.822.283
10 OCB 6.428.069 249.554 203.149 232.217 38.589.893
11 SCB 17.864.267 1.951.996 1.944.550 3.135.519 75.092.252
12 STB 8.458.289 256.170 309.060 1.299.903 33.410.241
13 TCB 19.948.573 2.235.333 1.181.254, 1.191.224 88.647.779
14 VPB 9.539.693 884.895 687.647 370.704 29.412.135
15 WTB 2.022.022 21.764 115.623 1.265.745 12.629.595
(Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính của 15 NHTMCP qua các năm 2008-2011)
xxiii
Phụ lục 9: Hiệu quả kỹ thuật theo mô hình CRS, VRS và hiệu quả quy mô của 15 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2011 (Nguồn: Kết quả ước lượng từ phần mềm DEAP 2.1)
2008 2009
VRS (PE) Scale (SE)
Stt Mã ngân hàng ABB 1 Điều CRS (TE) kiện 0,919 1,000 0,919 Drs Scale VRS CRS (TE) (SE) (PE) 0,771 0,771 1,000 Điều kiện
ACB 2 DAB 3 EIB 4 HDB 5 MBB 6 MDB 7 MSB 8 NVB 9 OCB 10 SCB 11 STB 12 TCB 13 14 VPB 15 WTB 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,606 0,845 0,718 Drs 1,000 1,000 1,000 Irs 0,897 0,899 0,999 0,893 1,000 0,893 Irs 0,805 0,962 0,836 Drs Irs 0,868 0,909 0,955 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,820 1,000 0,820 Drs 1,000 1,000 1,000 0,781 0,988 0,790 Drs 1,000 1,000 1,000 0,892 1,000 0,892 Drs 0,810 0,857 0,946 Drs 0,694 0,852 0,814 Drs 0,913 0,923 0,990 Irs 0,841 0,969 0,868 Drs 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,989 1,000 0,989 Drs 0,857 1,000 0,857 Drs 0,806 0,967 0,834 Drs Irs 0,930 1,000 0,930
2010 2011
VRS (PE) Scale (SE)
Stt Mã ngân hàng ABB 1 CRS Điều kiện (TE) 0,835 0,836 0,999 Drs CRS VRS Scale (SE) (PE) (TE) 0,795 0,820 0,970 Điều kiện Irs
Irs
ACB 2 DAB 3 EIB 4 HDB 5 MBB 6 MDB 7 MSB 8 NVB 9 OCB 10 SCB 11 STB 12 TCB 13 14 VPB 15 WTB 0,812 1,000 0,812 Drs Irs 0,660 0,686 0,962 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,680 0,687 0,990 Drs 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,762 1,000 0,762 1,000 1,000 1,000 0,864 1,000 0,864 Drs 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,638 1,000 0,638 Irs
0,997 1,000 0,997 Drs Irs 0,891 0,893 0,998 0,879 0,879 1,000 1,000 1,000 1,000 0,867 0,870 0,997 Drs Irs 0,700 1,000 0,700 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 Irs 0,914 0,949 0,963 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 irs 0,823 1,000 0,823
xxiv
Phụ lục 10: Xếp hạng tổng tài sản và xếp hạng hiệu quả của 15 NHTMCP giai đoạn 2008-2011
Năm 2008 Năm 2009
Mã ngân hàng Stt Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Xếp hạng Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Xếp hạng Hiệu quả TE Hiệu quả TE
1 ABB 13.494.125 11 8 26.518.084 11 14
1 2 ACB 105.306.130 1 167.881.047 1 9
6 3 DAB 34.713.192 1 42.520.402 7 12
4 4 EIB 48.247.821 15 65.448.356 5 15
5 HDB 9.557.917 13 19.127.427 12 1 8
6 MBB 44.346.106 5 69.008.288 4 9 11
15 7 MDB 10 2.523.817 15 1
7 8 MSB 13 63.882.044 6 1
12 9 NVB 11 18.689.953 13 1
10 1.987.889 32.626.054 10.905.279 14.091.336 10 OCB 1 33.784.958 9 1
2 11 SCB 1 104.019.144 2 1
8 12 STB 12 35.473.136 8 6
3 13 TCB 1 92.581.504 3 10
9 14 VPB 14 27.543.006 10 13
0,919 1,000 1,000 0,606 1,000 0,897 0,893 0,805 0,868 1,000 1,000 0,820 1,000 0,781 1,000 68.438.569 20.761.516 59.098.962 18.647.630 2.661.681 14 1 10.314.177 14 0,771 0,892 0,810 0,694 0,913 0,841 1,000 1,000 1,000 1,000 1,000 0,989 0,857 0,806 0,930 7
15 WTB
xxv
Năm 2010 Năm 2011 Stt Mã ngân hàng
Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Tổng tài sản (triệu đồng) Xếp hạng Xếp hạng Hiệu quả TE Xếp hạng Hiệu quả TE
1 ABB 38.015.689 11 13 41.541.959 12 11
2 ACB 205.102.950 8 281.019.319 1 10
9 14 10 65.548.578 55.873.084 9
2 1 11 183.567.032 3 DAB EIB 4 131.110.882 4
1 1 45.025.421 11 34.389.227 12
12 138.831.492 5 13 5 HDB MBB 109.623.197 6 6
1 17.266.794 14 15 10.241.182 15
6 1 8 115.336.083 1 114.374.998 5
13 12 9 20.016.386 1 22.496.047 13
10 1 10 55.138.903 1 62.639.317 10
4 9 11 152.386.936 1 141.468.717 2
8 1 12 60.235.078 9 69.990.870 7
3 1 13 15.291.215 1 180.531.163 3
7 1 14 59.807.023 1 82.817.947 8
0,795 0,812 0,660 1,000 1,000 0,680 1,000 1,000 0,762 1,000 0,864 1,000 1,000 1,000 0,638 15 7 MDB MSB NVB OCB SCB STB TCB VPB WTB 15 9.335.005 15 14 20.550.642 14 0,835 0,997 0,891 0,879 1,000 0,867 0,700 1,000 1,000 1,000 1,000 0,914 1,000 1,000 0,823
(Nguồn: Tác giả sắp xếp dựa vào số liệu từ Báo cáo tài chính của các
NHCMCP và kết quả từ phần mềm DEAP 2.1)
xxvi
Phụ lục 11: Kết quả ước lượng các chỉ số Mamquist bằng mô hình DEA
Results from DEAP Version 2.1 Instruction file = Eg41-cmd.txt Data file = eg41-dta.txt Output orientated Malmquist DEA DISTANCES SUMMARY year = 1 firm crs te rel to tech in yr vrs no. **********************te t-1 t t+1 1 0.000 0.919 1.173 1.000 2 0.000 1.000 1.070 1.000 3 0.000 1.000 1.180 1.000 4 0.000 0.606 0.947 0.873 5 0.000 1.000 1.267 1.000 6 0.000 0.897 1.015 0.906 7 0.000 0.893 1.149 1.000 8 0.000 0.805 1.253 0.968 9 0.000 0.868 0.954 0.900 10 0.000 1.000 2.258 1.000 11 0.000 1.000 1.012 1.000 12 0.000 0.820 1.012 1.000 13 0.000 1.000 1.093 1.000 14 0.000 0.781 1.004 0.990 15 0.000 1.000 1.397 1.000 mean 0.000 0.906 1.186 0.976 year = 2 firm crs te rel to tech in yr vrs no. **********************te t-1 t t+1 1 0.645 0.771 0.662 0.773 2 1.306 0.892 0.848 1.000 3 0.676 0.810 0.714 0.880 4 0.578 0.694 0.666 0.882 5 1.161 0.913 0.768 0.916 6 1.022 0.841 0.722 0.970
xxvii
7 1.891 1.000 2.839 1.000 8 1.042 1.000 0.986 1.000 9 1.576 1.000 0.973 1.000 10 0.950 1.000 0.796 1.000 11 1.197 1.000 0.775 1.000 12 0.743 0.989 0.922 1.000 13 1.216 0.857 0.806 1.000 14 0.805 0.806 0.800 0.970 15 1.123 0.930 0.789 1.000 mean 1.062 0.900 0.938 0.959 year = 3 firm crs te rel to tech in yr vrs no. **********************te t-1 t t+1 1 0.915 0.835 0.573 0.839 2 1.022 0.997 0.674 1.000 3 0.982 0.891 0.769 0.892 4 1.015 0.879 0.792 0.880 5 1.056 1.000 0.674 1.000 6 1.016 0.867 0.624 0.902 7 0.854 0.700 0.510 1.000 8 1.229 1.000 0.778 1.000 9 1.092 1.000 0.695 1.000 10 2.030 1.000 1.166 1.000 11 1.417 1.000 1.282 1.000 12 1.129 0.914 0.676 0.945 13 1.299 1.000 1.089 1.000 14 1.154 1.000 0.822 1.000 15 0.882 0.823 0.552 1.000 mean 1.139 0.927 0.778 0.964 year = 4 firm crs te rel to tech in yr vrs no. ********************* te t-1 t t+1 1 1.482 0.795 0.000 0.807
xxviii
2 1.285 0.812 0.000 1.000 3 1.205 0.660 0.000 0.670 4 1.935 1.000 0.000 1.000 5 1.650 1.000 0.000 1.000 6 0.959 0.680 0.000 0.826 7 6.264 1.000 0.000 1.000 8 1.510 1.000 0.000 1.000 9 1.168 0.762 0.000 1.000 10 1.375 1.000 0.000 1.000 11 1.442 0.864 0.000 1.000 12 1.493 1.000 0.000 1.000 13 1.444 1.000 0.000 1.000 14 2.059 1.000 0.000 1.000 15 0.944 0.638 0.000 1.000 mean 1.748 0.881 0.000 0.953 [Note that t-1 in year 1 and t+1 in the final year are not defined] MALMQUIST INDEX SUMMARY year = 2 firm effch techch pech sech tfpch 1 0.839 0.810 0.773 1.085 0.679 2 0.892 1.169 1.000 0.892 1.044 3 0.810 0.841 0.880 0.921 0.681 4 1.144 0.730 1.010 1.133 0.835 5 0.913 1.002 0.916 0.997 0.915 6 0.937 1.037 1.071 0.875 0.972 7 1.120 1.212 1.000 1.120 1.358 8 1.243 0.818 1.033 1.203 1.016 9 1.152 1.198 1.111 1.037 1.380 10 1.000 0.648 1.000 1.000 0.648 11 1.000 1.088 1.000 1.000 1.088 12 1.207 0.780 1.000 1.207 0.941 13 0.857 1.139 1.000 0.857 0.976 14 1.033 0.881 0.980 1.054 0.910 15 0.930 0.930 1.000 0.930 0.865 mean 0.996 0.936 0.982 1.015 0.932
xxix
year = 3 firm effch techch pech sech tfpch 1 1.084 1.129 1.085 0.999 1.224 2 1.117 1.039 1.000 1.117 1.160 3 1.100 1.119 1.014 1.085 1.230 4 1.267 1.097 0.998 1.269 1.390 5 1.095 1.121 1.091 1.003 1.227 6 1.031 1.169 0.929 1.110 1.205 7 0.700 0.655 1.000 0.700 0.459 8 1.000 1.117 1.000 1.000 1.117 9 1.000 1.059 1.000 1.000 1.059 10 1.000 1.597 1.000 1.000 1.597 11 1.000 1.352 1.000 1.000 1.352 12 0.924 1.151 0.945 0.978 1.064 13 1.167 1.176 1.000 1.167 1.372 14 1.240 1.078 1.031 1.203 1.338 15 0.886 1.123 1.000 0.886 0.995 mean 1.031 1.116 1.005 1.025 1.150 year = 4 firm effch techch pech sech tfpch 1 0.952 1.648 0.962 0.990 1.570 2 0.815 1.530 1.000 0.815 1.246 3 0.740 1.455 0.751 0.986 1.077 4 1.138 1.466 1.136 1.001 1.667 5 1.000 1.564 1.000 1.000 1.564 6 0.784 1.400 0.916 0.856 1.098 7 1.428 2.933 1.000 1.428 4.188 8 1.000 1.393 1.000 1.000 1.393 9 0.762 1.485 1.000 0.762 1.131 10 1.000 1.086 1.000 1.000 1.086 11 0.864 1.141 1.000 0.864 0.986 12 1.094 1.421 1.058 1.033 1.554 13 1.000 1.152 1.000 1.000 1.152 14 1.000 1.582 1.000 1.000 1.582 15 0.774 1.486 1.000 0.774 1.151
xxx
mean 0.942 1.475 0.985 0.956 1.389 MALMQUIST INDEX SUMMARY OF ANNUAL MEANS year effch techch pech sech tfpch 2 0.996 0.936 0.982 1.015 0.932 3 1.031 1.116 1.005 1.025 1.150 4 0.942 1.475 0.985 0.956 1.389 mean 0.989 1.155 0.991 0.998 1.142 MALMQUIST INDEX SUMMARY OF FIRM MEANS firm effch techch pech sech tfpch 1 0.953 1.146 0.931 1.024 1.093 2 0.933 1.230 1.000 0.933 1.147 3 0.871 1.110 0.875 0.995 0.967 4 1.182 1.055 1.046 1.129 1.246 5 1.000 1.206 1.000 1.000 1.206 6 0.912 1.193 0.969 0.941 1.087 7 1.038 1.326 1.000 1.038 1.377 8 1.075 1.083 1.011 1.064 1.165 9 0.957 1.235 1.036 0.924 1.183 10 1.000 1.040 1.000 1.000 1.040 11 0.952 1.188 1.000 0.952 1.132 12 1.069 1.084 1.000 1.069 1.159 13 1.000 1.155 1.000 1.000 1.155 14 1.086 1.146 1.004 1.082 1.244 15 0.861 1.158 1.000 0.861 0.997 mean 0.989 1.155 0.991 0.998 1.142 [Note that all Malmquist index averages are geometric means]