i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------------
LÊ HỮU ĐỨC
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
CẤU TRÚC VỐN CỦA DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT Ở
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2011
ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------------
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
LÊ HỮU ĐỨC
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
CẤU TRÚC VỐN CỦA DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành:
Chính sách công
Mã số:
HD16.06.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH CÔNG KHẢI
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2011
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử
dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi.
Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh hay Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
TP HCM, ngày…tháng…năm 2011
LÊ HỮU ĐỨC
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright 2009-2011
ii
LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Đinh Công Khải, người thầy và là người trực tiếp
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả quý thầy cô Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright-những con người với nhiệt huyết của mình
đã truyền được khát vọng khám phá thế giới cho các học viên và bản thân tôi
trong suốt thời gian học tập tại mái trường này.
Tôi xin cảm ơn các bạn đồng môn cùng các cán bộ của chương trình đã t ạo
nguồn cảm hứng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm sống trong suốt thời gian
học tập tại đây. Cám ơn tất cả mọi người vì cơ duyên đư ợc cùng nhau ngồi
dưới gốc me, ăn ly chè và thưởng thức cuộc sống!
Cuối cùng, con xin được cảm ơn cha mẹ và những người thân yêu nhất vì tất
cả !
TP. Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm 2011
Tác giả
Lê Hữu Đức
iii
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp
niêm yết Việt Nam trên sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội trong giai
đoạn 2007-2009. Tác giả đã đi đến kết luận:
Thứ nhất, cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam nói chung tuân theo các lý
thuyết tài chính ở các thị trường phát triển.
Thứ hai, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp niêm
yết càng lớn, doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận các khoản vay từ ngân
hàng quốc doanh. Tác giả đã nhận thấy rằng “mối quan hệ xã hội và kinh doanh với ngân
hàng quốc doanh”, việc nhà nước cùng sở hữu ngân hàng và doanh nghiệp, Chính phủ áp
đặt lãi suất trần là các nguyên nhân giúp cho các doanh nghiệp với tỷ lệ sở hữu nhà nước
lớn có cơ hội tốt hơn trong tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng quốc doanh.
Dựa trên các lập luận của lý thuyết Kinh tế học khu vực công và các phân tích thực tế tình
hình Việt Nam, tác giả thấy rằng các doanh nghiệp công cộng ở Việt Nam là không hiệu
quả. Do vậy đây là bằng chứng cho thấy nguồn vốn của các ngân hàng quốc d oanh đã bị
phân bổ vào các doanh nghiệp kém hiệu quả hơn. Tác giả đưa ra ba khuyến nghị chính
sách nhằm định hướng nguồn vốn của các ngân hàng quốc doanh sẽ được phân bổ một
cách có hiệu quả hơn như sau:
Thứ nhất, về phía doanh nghiệp, tác giả cho rằng nhà nước cần phải giảm ảnh hưởng của
mình tới các hoạt động doanh nghiệp và chuyển giao việc sản xuất hàng hóa dịch vụ cho
khu vực tư nhân bằng cách tăng số doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa và giảm dần
tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa.
Thứ hai, về phía các ngân hàng quốc doanh, Chính phủ phải xem xét lại hoạt động của các
ngân hàng quốc doanh để các doanh nghiệp đều có cơ hội công bằng trong việc tiếp cận
các nguồn vốn vay theo nghĩa nguồn vốn cần được phân bổ cho các doanh nghiệ p hoạt
động hiệu quả hơn.
Thứ ba, Chính phủ cần phải xem xét liệu điều 476 Bộ luật Dân sự quy định lãi suất cho vay
không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản có thực sự cần thiết hay không. Trong trường
hợp Chính phủ phải sử dụng điều khoản trên như là một công cụ hành chính để áp đặt trần
lãi suất cho vay, Chính phủ cần phải có những quy định rõ ràng để tất cả các doanh nghiệp
đều có cơ hội giống nhau trong việc tiếp cận các khoản vay từ ngân hàng quốc doanh.
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................ii
TÓM TẮT ........................................................................................................ iii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... vi
DANH MỤC HÌNH VẼ ...................................................................................vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................... viii
CHƯƠNG 1 – GIỚI THIỆU .............................................................................. 1
1.1. Vấn đề nghiên cứu ......................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu .................................................... 4
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 5
1.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 5
1.5. Bố cục luận văn ............................................................................. 5
CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................ 6
2.1. Nhóm các lý thuyết đánh đổi (trade-off theory) ............................ 6
2.2. Nhóm các lý thuyết về bất cân xứng thông tin .............................. 6
2.3. Lý thuyết về mối quan hệ giữa người vay nợ và ngân hàng ......... 7
2.4. Các nghiên cứu liên quan .............................................................. 8
CHƯƠNG 3 – MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG ................................................ 11
3.1. Các giả thuyết kiểm định ............................................................. 11
3.2. Mô hình kinh tế lượng ................................................................. 14
v
3.3. Mô tả số liệu và phương pháp thực hiện ..................................... 16
CHƯƠNG 4 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 18
4.1. Thống kê cơ bản .......................................................................... 18
4.2. Các kết quả ước lượng và giải thích ............................................ 20
4.3. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp có sở hữu nhà nước và ngân hàng ... 22
CHƯƠNG 5 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................. 26
5.1. Kết luận ........................................................................................ 26
5.2. Khuyến nghị chính sách .............................................................. 27
5.3. Những giới hạn và đề xuất nghiên cứu tiếp theo......................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 31
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 34
Phụ lục 1: Thống kê tỷ lệ tổng nợ của các DNNY ................................ 34
Phụ lục 2: Thống kê tỷ lệ nợ dài hạn của các DNNY............................ 34
Phụ lục 3: Thống kê tỷ lệ nợ ngắn hạn của các DNNY ......................... 35
Phụ lục 4: Thống kê tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY .......................... 35
Phụ lục 5: Ma trận tương quan .............................................................. 35
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy (phân tích trong phần mềm Eview 6.0) ..... 36
Phụ lục 7: Kết quả ước lượng của Lại Thị Phương Nhung (2010) ....... 39
Phụ lục 8: Kết quả ước lượng của Nguyên và Neelakantan (2006) ...... 40
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DNCC Doanh nghiệp công cộng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNNY Doanh nghiệp niêm yết
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
GDP Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội
SGDCK Hà Nội Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
SGDCK TP.HCM Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phồ Hồ Chí Minh
TTGDCK Hà Nội Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
TTGDCK TP.HCM Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí
Minh
UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước
vii
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 4.1: Ảnh hưởng của việc chính phủ áp đặt lãi suất trần ..................... 26
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1: Thống kê cơ bản mẫu dữ liệu nghiên cứu ................................... 20
Bảng 4.2: Thống kê số lượng các mã chứng khoán trên sàn ....................... 21
Bảng 4.3: Kết quả ước lượng với Cross-section fixed và Cross-section weights22
1
CHƯƠNG 1 – GIỚI THIỆU
1.1. Vấn đề nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính Việt Nam nói riêng đã có những
bước tiến quan trọng. Trước hết là quá trình cổ phần hóa được bắt đầu từ năm 1992 đến
nay đã thu được những thành công nhất định. Từ số lượng ban đầu lên đến 5.000 doanh nghiệp nhà nước (DNNN)1trước thời điểm cổ phần hóa, đến cuối năm 2008 Chính phủ
Việt Nam đã cổ phần hóa được 3.000 doanh nghiệp (theo kế hoạch quá trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp còn lại sẽ tiếp tục được tiến hành trong năm 2010) (Lại Thị Phương
Nhung, 2010). Tiếp đến là sự ra đời và lớn mạnh của thị trường chứng khoán trong đó đặc
biệt phải kể đến sự ra đời của hai sàn chứng khoán niêm yết là Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM đến 05/2007 đổi tên thành Sở Giao
dịch Chứng khoán Thành phồ Hồ Chí Minh – SGDCK TP.HCM ) và Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội (TTGDCK Hà Nội sau đó đến 01/2009 được đổi thành Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội- SGDCK Hà Nội ). Sau bảy năm thành lập , đến cuối năm 2007 thị
trường chứng khoán Việt Nam đã lớn mạnh nhanh chóng. Tổng giá trị vốn hóa thị trường
của các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) trên SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội chiếm đến hơn 43% GDP Việt Nam2 . Sự ra đời và lớn mạnh của thị trường chứng khoán đã tạo
điều kiện cho Chính phủ đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và tái cấu trúc DNNN. Trong đó
quá trình niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên thị trường chứng khoán
là giai đoạn quan trọng trong quá trình cổ phần hóa và tái cấu trúc DNNN nhằm minh bạch
hóa thông tin và lành mạnh hóa hoạt động của các doanh nghiệp . Mặc dù vậy, môi trường
tài chính xung quanh DNNY hiện nay vẫn thể hiện nhiều vấn đề cần phải đề cập tới:
Thứ nhất, Việt Nam là một nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế sản
xuất tập trung sang nền kinh tế thị trường nên cấu trúc vốn của các doanh nghiệp Việt Nam
theo đó có thể phản ánh những nét đặc trưng riêng. Booth (2001) đã chỉ ra rằng cấu trúc
vốn doanh nghiệp của các nước đang phát triển mang những đặc trưng riêng phụ thuộc vào
từng quốc gia như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát và các đặc trưng riêng của thị
1 Theo luật DN nhà nước năm 2006 thì doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% cổ phần 2 Trần Chung Thủy (2009),”Nhận dạng và đo lường hiệu ứng đám đông trên thị trường chứng khoán Việt Nam và phân tích các nhân tố ảnh hưởng,” Luận văn thạc sĩ kinh tế, tr.3
trường vốn của quốc gia đó. Guihai và Frank (2006) khi nghiên cứu về cấu trúc vốn của
2
các doanh nghiệp Trung Quốc trong thời kỳ chuyển đổi đã tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy cấu trúc vốn doanh nghiệp của nước này mang một số nét đặc trưng riêng 3. Việt Nam
và Trung Quốc cũng đều là các nước đang phát triển và đang trong thời kỳ chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường vì vậy giống như Trung Quốc, nền kinh tế
Việt Nam cũng có thể mang một số nét đặc trưng riêng. Mặc dù vậy các nghiên cứu về cấu
trúc vốn của các do anh nghiệp Việt Nam hiện nay cho thấy những kết quả không nhất
quán. Nguyên và Neelakantan (2006) trong phân tích dữ liệu chéo của 558 công ty vừa và nhỏ4 đã kết luận rằng cấu trúc vốn của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung không giống như lý thuyết tài chính tại các thị trường phát triển 5. Biger (2008) qua phân tích dữ
liệu của 3.778 doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2002-2003 phát hiện ra nhiều kết
quả mâu thuẫn với lý thuyết tài chính ở các thị trường phát triển như kết luận thuế thu nhập
càng cao thì doanh nghiệp có xu thế vay nợ ít hơn. Ngược lại, Lại Thị Phương Nhung
(2010) khi nghiên cứu cấu trúc vốn của các DNNY ở Việt Nam lại không tìm thấy mâu
thuẫn nào trong cấu trúc vốn của các doanh nghiệp Việt Nam và các thị trường phát triển.
Trong nghiên cứu này tác giả muốn kiểm nghiệm lại các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc
vốn của các DNNY ở Việt Nam so sánh với cấu trúc vốn ở các thị trường phát triển thông
qua cách tiếp cận khác. Cụ thể cách tiếp cận này sử dụng số liệu mới nhất tại thời điểm
nghiên cứu, đưa thêm biến tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY vào trong mô hình nghiên
cứu, kiểm nghiệm sử dụng mô hình dữ liệu bảng trong đó biến độc lập và biến phụ thuộc
cùng thời kỳ kế toán thay vì biến độc lập trễ hơn một chu kỳ so với biến phụ thuộc như trong nghiên cứu của Lại Thị Phương Nhung (2010)6 .
Thứ hai là khi xem xét về yếu tố sở hữu, có nhiều dấu hiệu cho thấy nhà nước vẫn can
thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp từ đó tác động đến lựa chọn cấu trúc vốn doanh
nghiệp. Các số liệu thống kê cơ bản cho thấy tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY vẫn còn
ở mức cao. Trong giai đoạn 2007 -2009, tỷ lệ sở hữu nhà nước bình quân của 166 các
DNNY trong mẫu nghiên cứu xấp xỉ đạt 29%. Kết quả thống kê của Lại Thị Phương
3 Một số đặc trưng riêng được Guihai và Frank (2006) trình bày như các doanh nghi ệp niêm yết Trung Quốc có xu thế sử dụng ít nợ nói chung và nợ dài hạn nói riêng hơn, sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu cao hơn (đặc biệt là từ các cổ đông mới) so với tại các thị trường phát triển 4 Theo Nguyên và Neelakantan (2006) thì công ty vừa và nhỏ là công ty có ít hơn 300 nhân viên và vốn điều lệ nhỏ hơn 10 tỷ đồng 5 Lý thuyết tài chính tại các thị trường phát triển được trình bày chi tiết tại Chương 2 phần 2.1 và 2.2 6 Chi tiết hơn về phương pháp tiếp cận được trình bày trong phần 3.2
Nhung (2010) cũng đã chỉ ra rằng đến cuối năm 20 07, trong số 211 các DNNY trên
3
SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội thì có đến 84 DNNN, chiếm đến gần 40% tổng số
doanh nghiệp niêm yết trên sàn. Do vậy đứng trên góc độ sở hữu, nhà nước rất có thể vẫn
còn can thiệp vào các hoạt động của doanh nghiệp, ưu tiên các khoản vay của mình cho các
doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước ở mức cao gây nên tình trạng bất bình đẳng giữa
các nhóm đối tượng sở hữu khác nhau trong mỗi doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp
khác nhau được phản ánh trong cấu trúc vốn doanh nghiệp. Tuy nhiên các kết quả nghiên
cứu về cơ cấu sở hữu tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.
Nguyên và Neelakantan (2006) đã tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng các DNNN thường
có xu thế vay nợ nhiều hơn các doanh nghiệp khác tuy nhiên nghiên cứu của Nguyên và
Neelakantan (2006) đã sử dụng dữ liệu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn
1998-2001 trong khi đó giai đoạn từ năm 2000 trở về sau là giai đoạn thị trường tài chính Việt Nam mở rộng rất nhanh chóng7 do vậy có thể cấu trúc vốn doanh nghiệp Việt Nam
nói chung và tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước tới cấu trúc vốn doanh nghiệp nói riêng
theo đó đã có nhiều thay đổi đáng kể. Biger (2008) cũng đã xem xét mối quan hệ giữa cơ
cấu sở hữu và cấu trúc vốn doanh nghiệp tuy nhiên cũng không tìm thấy một kết quả nào
đáng kể về yếu tố sở hữu nhà nước và đã đưa ra đề xuất cho rằng cần thiết phải có nhiều
nghiên cứu hơn nữa về yếu tố sở hữu ảnh hưởng tới quyết định tài chính của doanh nghiệp.
Tương tự, Lại Thị Phương Nhung (2010) cũng đặt vấn đề về yếu tố sở hữu nhà nước vào
trong nghiên cứu của mình tuy nhiên cũng không tìm thấy sự khác biệt giữa cấu trúc vốn
của DNNN so với các doanh nghiệp khác. Cách đặt vấn đề của các nghiên cứu này gặp hạn
chế rất lớn khi chỉ bó hẹp so sánh sự khác biệt về cấu trúc vốn giữa DNNN (tỷ lệ sở hữu
trên 50%) và doanh nghiệp khác. Trên thực tế, không chỉ tỷ lệ sở h ữu n h à n ướ c tại các
doanh nghiệp trên 50% nhà nước mới có ảnh hưởng trong các hoạt động của doanh nghiệp
mà ngay cả tỷ lệ sở hữu nhà nước ở mức thấp hơn thì nhà nước cũng có thể có những ảnh
hưởng quan trọng và những ảnh hưởng này có thể được phản ánh trong cấu trúc vốn doanh
nghiệp. Từ những hạn chế trên, nghiên cứu này muốn xem xét mối quan hệ giữa yếu tố sở
hữu và cấu trúc vốn doanh nghiệp tương ứng với các mức độ sở hữu nhà nước khác nhau.
Thứ ba, theo thống kê năm 2006 của ngân hàng Nhà nước thì các ngân hàng quốc doanh
7 Workbank (2006), “Overview of the Capital Markets in Vietnam and Directions for Development”, tr.16 tải về ngày 08/04/2010 tại địa chỉ http://siteresources.worldbank.org/INTVIETNAM/Resources/Overview_of_the_Capital_Markets_in_Vietnam.pdf
chiếm đến 68% tổng tín dụng của toàn nền kinh tế và chính sách áp đặt lãi suất trần cho
4
vay hiện nay trên thị trường cũng có thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp
cận các nguồn vốn đối với các doanh nghiệp khác nhau. Theo điều 476 Bộ luật Dân sự quy
định lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản và về bản chất đây là một
hình thức áp trần lãi suất. Lãi suấ t thực tế của thị trường Việt Nam trong giai đoạn này trong nhiều thời điểm là cao hơn mức trần lãi suất quy định8 . Vậy đứng trên góc độ kinh tế
học vi mô, hệ quả của việc áp đặt lãi suất trần sẽ dẫn đến thiếu hụt một lượng vốn nhất
định đồng thời dẫn đến việc một số doanh nghiệp với một số điều kiện đặc biệt có lợi ích
rất lớn khi tiếp cận được nguồn vay theo mức lãi suất quy định trong khi các doanh nghiệp
khác sẽ phải gặp rất nhiều khó khăn trong huy động nguồn vốn hoặc phải trả chi phí phụ
trội (mức chi phí cao hơn so với khi không có lãi suất trần) để có thể tiếp cận được nguồn
vốn từ thị trường một cách phi chính thức. Nhà nước đồng thời sở hữu các ngân hàng quốc
doanh và doanh nghiệp có thể dẫn đến việc các ngân hàng quốc doanh có nhiều động cơ để
ưu tiên các khoản vay của mình cho các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn so
với các doanh nghiệp khác. Do vậy, t rong nghiên cứu này tác giả muốn tìm kiếm bằng
chứng kiểm tra tác động của việc áp trần lãi suất cho vay tới lựa chọn cấu trúc vốn doanh
nghiệp đồng thời tìm hiểu mối liên hệ giữa các doanh nghiệp và ngân hàng đặc biệt là giữa
các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn với các ngân hàng quốc doanh.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu
Đề tài sẽ hướng đến kiểm nghiệm lý thuyết về cấu trúc vốn doanh nghiệp ở các thị trường
phát triển đối với trường hợp các DNNY Việt Nam đồng thời xem xét với các đặc trưng
riêng của Việt Nam. Cụ thể mục đích của đề tài nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng sau
đây:
Thứ nhất, tác giả muốn kiểm nghiệm lại các lý thuyết về cấu trúc vốn doanh nghiệp ở các
thị trường phát triển đối với trường hợp các DNNY trên sàn chứng khoán Việt Nam . Thứ
hai, tác giả muốn kiểm nghiệm liệu việc sở hữu nhà nước tại các DNNY có ảnh hưởng đến
lựa chọn cấu trúc vốn doanh nghiệ p hay không? Thứ ba, trong trường hợp chứng minh
được việc sở hữu nhà nước tại các DNNY có ảnh hưởng đến lựa chọn cấu trúc vốn doanh
8 Thủy Triều (2010), “Ngân hàng nan giải bài toán lãi suất”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/28729/
nghiệp, tác giả sẽ làm rõ sự ảnh hưởng này dựa trên phân tích mối quan hệ giữa các ngân
5
hàng và doanh nghiệp để xem xét các yếu tố tác động đến quyết định cho vay của ngân
hàng.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
(i) Cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam có được phản ánh giống với lý
thuyết tài chính tại các thị trường phát triển hay không?
(ii) Tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam có tác động đến lựa
chọn cấu trúc vốn doanh nghiệp hay không?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là cấu trúc vốn của các DNNY tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là các DNNY trên SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội trong giai
đoạn 2007-2009. Ngoài ra trong nghiên cứu này tác giả thực hiện so sánh kết quả nhận
được với các kết quả nghiên cứu khác; các phân tích đối với hệ thống ngân hàng và các
yếu tố có tác động đến quyết định cho vay của ngân hàng để từ đó làm rõ những đặc trưng
về cấu trúc vốn doanh nghiệp Việt Nam được phản ánh trong các kết quả ước lượng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này tác giả đã sử dụng phương pháp định lượng và phương pháp định
tính. Trong phương pháp định lượng tác giả sử dụng mô hình kinh tế lượng thông qua phân
tích số liệu bảng. Phương pháp định tính sẽ dựa trên việc thống kê, so sánh với các kết quả
nghiên cứu liên quan; phân tích ảnh hưởng chính sách Chính phủ tới hệ thống ngân hàng;
sử dụng những nghiên cứu về các yếu tố có tác động đến quyết định cho vay của các ngân
hàng, đồng thời ứng dụng các lý thuyết về kinh tế vi mô và kinh tế học khu vực công nhằm
giải thích và đưa ra những đề xuất chính sách phù hợp.
1.5. Bố cục luận văn
Luận văn bao gồm 5 chương. Chương 1 giới thiệu về luận văn bao gồm vấn đề nghiên cứu;
mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên cứu; phương pháp nghiên
cứu. Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan của luận văn. Chương
3 trình bày mô hình kinh tế lượng được sử dụng trong phân tích định lượng . Chương 4
trình bày kết quả nghiên cứu và giải thích các kết quả. Chương 5 rút ra kết luận và đề xuất
chính sách.
6
CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Nhóm các lý thuyết về đánh đổi (trade-off theory)
Thứ nhất là các lý thuyết nói đến tác động của thuế suất và các khoản miễn, giảm trừ thuế
đến cấu trúc vốn doanh nghiệp. Các lý thuyết này cho thấy khi thuế suất càng cao và các
khoản miễn, giảm trừ thuế càng thấp thì các doanh nghiệp càng có xu hướng vay nợ nhiều
hơn. Lý thuyết Modigliani và Miller (1958) giả định rằng doanh nghiệp hoạt động trong
một thị trường hiệu quả như không có thuế thu nhập doanh nghiệp, không có bất cân xứng
thông tin và chi phí giao dịch bằng không, khi đó giá trị doanh nghiệp sẽ không bị tác động
bởi cấu trúc vốn doanh nghiệp. Rõ ràng lý thuyết này là không thể áp dụng vào các thị
trường trong thực tế do hầu hết các thị trường của các nước trên thế giới nhìn chung là
không hiệu quả: có thuế thu nhập doanh nghiệp, có bất cân xứng thông tin, chi phí giao
dịch lớn hơn không. Lý thuyết Modigliani và Miller (1963) cho rằng khi doanh nghiệp phải
trả thuế thu nhập, doanh nghiệp sẽ vay nợ để giảm bớt khoản thuế phải nộp cho nhà nước
từ đó giá trị doanh nghiệp được tăng lên nhờ lợi ích từ lá chắn thuế. Do vậy, thuế suất càng
cao thì doanh nghiệp càng vay nợ nhiều hơn. Ngược lại, các khoản kh ấu hao, các khoản
giảm trừ thuế và các khoản miễn thuế (gọi chung là các khoản miễn giảm thuế) sẽ làm
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng. Do vậy khi khoản miễn giảm thuế này càng
lớn thì thuế suất hiệu dụng doanh nghiệp càng giảm do vậy sẽ giảm động cơ của doanh
nghiệp sử dụng các khoản nợ để tiết kiệm thuế.
Thứ hai là các lý thuyết nói về tác động của rủi ro kinh doanh (business risk) đối với cấu
trúc vốn doanh nghiệp. Các lập luận đã chỉ ra rằng doanh nghiệp có rủi ro kinh doanh càng
cao thì càng ít vay nợ. Rajan và Zingales (1995) cho rằng doanh nghiệp phải đánh đổi giữa
việc vay nợ và tăng rủi ro kinh doanh (rủi ro phá sản). Đối với các doanh nghiệp càng lớn,
khả năng chịu đựng các cú sốc sẽ cao hơn do vậy rủi ro kinh doanh sẽ thấp hơn. Như vậy
các doanh nghiệp càng lớn thì rủi ro kinh doanh càng nhỏ, và do vậy càng có cơ hội để vay
nợ nhiều hơn.
2.2. Nhóm các lý thuyết bất cân xứng thông tin
Nhóm lý thuyết này thừa nhận có sự bất cân xứng thông tin giữa chủ sở hữu, người quản lý
doanh nghiệp và chủ nợ. Từ sự bất cân xứng thông tin giữa ba nhóm đối tượng này đã dẫn
đến các hành vi khác nhau tác động đến lựa chọn cấu trúc vốn doanh nghiệp.
7
Thứ nhất là các lý thuyết thể hiện mối quan hệ giữa nguồn ngân quỹ nội bộ (internal fund)
và tỷ lệ nợ vay của doanh nghiệp. Các nghiên cứu khác nhau cho thấy rằng mối quan hệ
giữa nguồn ngân quỹ nội bộ và tỷ lệ nợ vay của doanh nghiệp là không ổn định. Myers
(1984) cho rằng các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng các quỹ nội bộ trước khi vay nợ và
huy động vốn từ những nhà đầu tư bên ngoài. Tuy nhiên Nguyên và Neelakantan (2006) lại
cho rằng lợi nhuận của doanh nghiệp (một nguồn quỹ nội bộ) càng tăng có thể sẽ khiến
doanh nghiệp phải đóng thuế nhiều hơn. Điều này sẽ dẫn đến doanh nghiệp có động cơ vay
nợ nhiều hơn để tiết kiệm thuế thu nhập.
Thứ hai là cơ sở lý thuyết liên quan đến mối liên hệ giữa tài sản đảm bảo (collateral) và
cấu trúc vốn doanh nghiệp. Rajan và Zingales (1995) cho rằng sự bất cân xứng thông tin
giữa người quản lý doanh nghiệp và chủ nợ dẫn đến việc làm tăng chi phí ủy quyền thừa
hành (agency cost) mà ở đó người quản l ý doanh nghiệp sẽ sử dụng các nguồn nợ vay đầu
tư vào các khoản đầu tư rủi ro hơn mức mà chủ nợ cho phép và ngược lại chủ nợ sẽ yêu
cầu một khoản chi phí lãi vay cao hơn mức chi phí phải trả cho rủi ro thực của dự án khi nó
sử dụng đúng mục đích. Một cách thức hiệu quả để giảm bớt tình trạng bất cân xứng thông
tin là sử dụng tài sản đảm bảo. Do vậy tài sản đảm bảo càng lớn thì doanh nghiệp càng có
nhiều cơ hội để vay nợ nhiều hơn.
Thứ ba là các lý thuyết thể hiện mối liên hệ giữa cơ hội tăng trưởng kinh doanh và cấu trúc
vốn doanh nghiệp. Mối liên hệ giữa cơ hội tăng trưởng kinh doanh và tỷ lệ nợ vay của
doanh nghiệp là không ổn định. Myers và Majluf (1984) cho rằng bất cân xứng thông tin
khiến cho các chủ nợ có xu hướng đánh giá rủi ro của các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh
cao hơn so với các doanh nghiệp ổn định. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp tăng trưởng
nhanh phải trả một khoản chi phí nợ vay cao hơn so với các doanh nghiệp tăng trưởng
chậm do vậy các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh sẽ có xu hướng vay nợ ít hơn so với các
doanh nghiệp tăng trưởng chậm. Không hoàn toàn đồng nhất với các lập luận trên, Myers
(1977) lại cho rằng vấn đề bất cân xứng thông tin có thể giảm bớt nếu các khoản nợ dài
hạn được thay thế bởi các khoản nợ ngắn hạn và đưa ra đề nghị rằng tỷ lệ nợ có thể tương
quan dương với cơ hội tăng trưởng nếu các doanh nghiệp này sử dụng các khoản nợ ngắn
hạn thay vì sử dụng các khoản nợ dài hạn.
2.3. Lý thuyết về mối quan hệ giữa người vay nợ và ngân hàng
Đây là một nhóm các nghiên cứu liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến các quyết định
cho vay của ngân hàng. Petersen và Rajan (1994) đã tìm thấy bằng chứng cho rằng sự sẵn
8
có của các khoản tài chính mà tổ chức tài chính dành cho doanh nghiệp tăng lên khi doanh
nghiệp sử dụng nhiều thời gian hơn trong phát triển mối quan hệ với tổ chức tài chính. Một
nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng việc thiết lập và duy trì mối quan hệ với các tổ chức tài
chính đã mang lại một số lợi ích to lớn cho doanh nghiệp như có được sự đảm bảo tốt hơn
về sự sẵn có của các khoản vay, được ưu tiên về lãi suất và các điều khoản cho vay khác;
tổ chức tài chính có được thông tin tốt hơn về những nhu cầu của người đi vay (Donnelly,
1985, trích trong Nguyên và Neelakantan, 2006). Nhấn mạnh mối quan hệ với ngân hàng,
một nghiên cứu khác lại cho rằng mối quan hệ với ngân hàng cấu thành từ hai thành phần
cơ bản đó là “mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng” và “mối quan hệ xã hội với ngân
hàng”; trong đó bên cạnh “mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng” thì “mối quan hệ xã hội
với ngân hàng” là một yếu tố nền tảng tác động đến các quyết định kinh doanh (Pfeffer,
1978, trích trong Nguyên và Neelakantan, 2006).
Liên quan đến Việt Nam, Nguyên và Neelakantan (2006) lại đưa ra kết luận rằng ”mối quan hệ xã hội với ngân hàng” và “mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng”9 là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến quyết định cho vay của các ngân hàng Việt Nam.
2.4. Một số nghiên cứu liên quan
Các nghiên cứu về cấu trúc vốn doanh nghiệp đã được thực hiện khá nhiều trên thế giới.
Các nghiên cứu này nhìn chung đều dựa trên hai nhóm lý thuyết về đánh đổi và bất cân
xứng thông tin ở các thị trường phát triển như được trình bày ở trên đồng thời xem xét với
các đặc trưng riêng của từng quốc gia.
Tại Châu Âu, Bauer (2004) khi nghiên cứu các DNNY của cộng hòa Séc thấy rằng cấu trúc
vốn của các DNNY tại cộng hòa Séc là giống với cấu trúc vốn của các nước các nước G7
(các thị trường phát triển). Michaelas (1999) qua phân tích dữ liệu bảng của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Vương Quốc Anh đã đi đến kết luận rằng cấu trúc vốn doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Vương quốc Anh phù hợp với lý thuyết tài chính ở các nước phát triển tuy
nhiên tác giả không tìm thấy bằng chứng cho thấy thuế suất có tác động tới quyết định vay
nợ của doanh nghiệp.
Tại Châu Á, Guihai và Frank (2006) qua phân tích dữ liệu của 1.200 DNNY trong giai
đoạn 1994-2003 tại Trung Quốc thấy rằng: (1) các yếu tố xác định cấu trúc vốn doanh
9 Định nghĩa “mối quan hệ xã hội với ngân hàng” và “ mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng” của Nguyên và Neelakantan (2006) được trình bày chi tiết trong chương 4 phần 4.3
nghiệp tại các các nước phát triển được phản ánh phù hợp ở các DNNY Trung Quốc; (2)
9
không tìm thấy có sự khác biệt trong cấu trúc vốn doanh nghiệp nhà nước (SOEs)10 so với
các doanh nghiệp khác. Jean (2004) khi xem xét các DNNY tại Trung Quốc lại thấy rằng
cấu trúc vốn doanh nghiệp Trung Quốc có một số khác biệt so với các nước phát triển
trong đó nghiên cứu này cho rằng so với các thị trường phát triển thì các doanh nghiệp
Trung Quốc thường sử dụng các khoản nợ ngắn hạn nhiều hơn trong khi các khoản nợ dài
hạn được sử dụng ở mức thấp hơn. Booth (2001) trong nghiên cứu cấu trúc vốn của các
nước đang phát triển đã thấy rằng cấu trúc vốn doanh nghiệp tại các nước đang phát triển
nhìn chung được phản án h giống với lý thuyết tài chính tại các thị trường phát triển. Tuy
nhiên nghiên cứu này cũng đã chỉ ra rằng những yếu tố mang đặc trưng quốc gia như tỷ lệ
tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát và các đặc trưng về thị trường vốn có tác động một cách
hệ thống lên cấu trúc vốn doanh nghiệp. Xét riêng về thị trường vốn, nghiên cứu này đã chỉ
ra rằng ở các thị trường mà nhà nước kiểm soát giá (ý nói việc áp đặt lãi suất trần và giá
trần phát hành cổ phiếu (issue price of equity)) và có sự chỉ định tín dụng của Chính phủ
vào một số lĩnh vực nhất định sẽ ảnh hưởng quan trọng đến cấu trúc vốn doanh nghiệp.
Booth (2001) còn chỉ ra rằng Chính phủ Ấn Độ áp đặt lãi suất trần đã khiến cho các doanh
nghiệp có xu hướng phụ thuộc hơn vào vốn vay. Lee, J.W (1999) khi nghiên cứu các
doanh nghiệp ở Hàn Quốc thấy rằng: (1) cấu trúc vốn của các doanh nghiệp Hàn Quốc
phản ánh giống như các doanh nghiệp ở các thị trường phát triển; (2) các doanh nghiệp Chaebol11 sử dụng nợ vay nhiều hơn các doanh nghiệp khác.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về cấu trúc vốn doanh nghiệp còn rất ít chủ yếu được thực
hiện bởi các nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Cụ thể có ba nghiên cứu điển hình nhất hiện
nay: Nguyên và Neelakantan (2006) nghiên cứu sinh tại Viện Phát triển Châu Á (Bangkok)
đã phân tích dữ liệu chéo của 558 công ty vừa và nhỏ trong giai đoạn 1998-2001 đã đi đến
kết luận rằng: (1) các khoản nợ ngắn hạn đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc vốn doanh
nghiệp trong khi các khoản nợ dài hạn hiếm khi được các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt
Nam sử dụng; (2) các công ty có quy mô lớn hơn thường có tỷ lệ nợ cao hơn; (3) tỷ lệ tài
10Theo China Statistical Yearbook, 2009, trích trong OECD, 2009, ”State owned enterprises in China:Reviewing the evidence,” đã đ ịnh nghĩa các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) ở Trung Quốc là: “Doanh nghiệp nhà nước là nói đến các doanh nghiệp mà nước nắm giữ hoàn toàn cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ phần lớn cổ phần”.
11 Định nghĩa các Chaebol xem tại http://en.wikipedia.org/wiki/Chaebol truy cập ngày 08/04/2011
sản cố định có tương quan âm với tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ tổng nợ; (4) các DNNN sử
10
dụng tỷ lệ nợ cao hơn các doanh nghiệp khác; (5) ”mối quan hệ xã hội với ngân hàng” và
“mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng” là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định
cho vay của ngân hàng. Biger (2008) qua phân tích dữ liệu của 3.778 doanh nghiệp từ năm
2002-2003 phát hiện ra rằng: (1) thuế thu nhập càng cao thì doanh nghiệp có xu thế vay nợ
ít hơn; tỷ lệ nợ càng nhỏ khi tỷ lệ tài sản cố định càng tăng và cơ hội tăng trưởng càng cao;
(2) tỷ lệ nợ dài hạn của các doanh nghiệp Việt Nam giới hạn ở mức 20% thấp hơn trường
hợp của Nguyên và Neelakantan (2006). Nghiên cứu gần đây nhất là Lại Thị Phương
Nhung (2010) đối với các DNNY trên sàn chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2006 -
2008 cho rằng: (1) nghiên cứu không tìm thấy mâu thuẫn nào giữa cấu trúc vốn doanh
nghiệp Việt Nam và các lý thuyết tài chính ở các nước phát triển; (2) các doanh nghiệp có
xu hướng sử dụng các khoản nợ dài hạn để tiết kiệm thuế tuy nhiên lại không tìm thấy ảnh
hưởng của thuế suất đối với các khoản nợ ngắn hạn; (2) các DNNN có động cơ yếu hơn
trong sử dụng nợ để tiết kiệm thuế so với các doanh nghiệp khác; (3) tỷ lệ nợ của các
DNNY trong nghiên cứu của Lại Thị Phương Nhung (2010) cao hơn các doanh nghiệp
trong nghiên cứu c ủa Nguyên và Neelakantan (2006) và Biger (2008); (4) nghiên cứu này
đã không tìm thấy có sự khác biệt giữa các cấu trúc vốn của các DNNN và các doanh
nghiệp khác.
11
CHƯƠNG 3 – MÔ HÌNH ƯỚC LƯỢNG
3.1. Các giả thuyết kiểm định
3.1.1. Các giả thuyết liên quan đến lý thuyết đánh đổi
Theo lý thuyết Modigliani và Miller (1963) , thuế suất càng cao thì doanh nghiệp vay nợ
càng nhiều để nhận được nhiều lợi ích từ lá chắn thuế. Theo Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp 2003 thì các doanh nghiệp phải đóng thuế với mức thuế suất 28% sau đó hạ xuống
mức 25% từ năm 2009 trở đi. Đây là mức thuế suất cao có thể tác động đến quyết định vay
vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều DNNY trên sàn trong thời gian 2007 -2009 có thể vẫn đang trong quá trình nhận được chính sách miễn hoặc giảm thuế12 cho nên động cơ sử
dụng nợ vay để tiết kiệm thuế của các doanh nghiệp có thể ở mức thấp hơn. Đối với các
khoản miễn giảm thuế càng lớn thì doanh nghiệp càng ít có động cơ để vay nợ hơn. Do vậy
ta có hai giả thuyết kiểm định:
Giả thuyết 1: Thuế suất hiệu dụng càng lớn thì doanh nghiệp càng có xu hướng vay nợ
nhiều hơn
Giả thuyết 2: Các khoản miễn giảm thuế càng lớn thì doanh nghiệp càng có xu hướng vay
nợ ít hơn.
Thể hiện sự tác động của yếu tố rủi ro kinh doanh tới cấu trúc vốn doanh nghiệp, dựa theo
thường có xu hướng kinh doanh đa ngành nghề lập luận Nguyên và Neelakantan (2006), tác giả thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam 13 cho nên các doanh nghiệp càng lớn thì
khả năng đa dạng hóa kinh doanh của họ càng cao hơn và khả năng chịu đựng rủi ro càng
cao. Do đó các doanh nghiệp càng lớn càng có cơ hội để vay nợ nhiều hơn. Tuy nhiên tác
giả lại cũng thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam có thể đã tăng mức độ rủi ro kinh doanh
12 Theo công văn 148/TCT-PC của Tổng cục thuế thì các doanh nghiệp được miễn thuế hai năm đầu và giảm thuế ba năm tiếp theo kể từ năm đầu có lãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa; miễn thuế 50% trong hai năm đầu tiên cho các DNNY trước ngày 01/01/2007 13Trung Hưng (2010), “Kinh doanh đa ngành: Tham vọng cần uốn nắn”, Báo Hà Nội mới, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/Kinh-te/357467/kinh-doanh-da-nganh-tham- vong-can-uon-nan.htm 14 Nguyễn Trường Sơn (2010), “Vấn đề quản trị công ty trong các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5, tr. 241
khi đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh. Lý do là các doanh nghiệp Việt Nam nói chung có năng lực quản trị doanh nghiệp yếu kém 14 . Khi kinh doanh đa ngành nghề tức là các
12
doanh nghiệp đã mở rộng kinh doanh ra các ngành nghề không phải là ngành kinh doanh
chính thì nhiều khả năng rủi ro kinh doanh tăng lên do năng lực quản trị doanh nghiệp
giảm đi. Mặc dù vậy, yếu tố rủi ro kinh doanh do năng lực quản trị doanh nghiệp là khó có
thể đánh giá được bởi các tổ chức cho vay cho nên có thể các ngân hàng sử dụng một tiêu
chí dễ dàng quan sát hơn đó là quy mô doanh nghiệp trong các quyết định cho vay. Từ đó
ta có giả thuyết:
Giả thuyết 3: Quy mô của doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp càng có xu hướng vay
nợ nhiều hơn.
3.1.2. Các giả thuyết liên quan đến lý thuyết bất cân xứng thông tin
Nguyên và Neelakantan (2006) cho rằng lợi nhuận (giá trị thể hiện mức độ dồi dào của
nguồn ngân quỹ nội bộ của doanh nghiệp) càng tăng dẫn đến các doanh nghiệp có động cơ
vay nợ nhiều hơn để tiết kiệm thuế. Tác giả không đồng ý với lập luận này vì cho rằng
động cơ vay nợ để tiết kiệm thuế của doanh nghiệp trong giai đoạn này sẽ giảm đi đáng kể
vì các DNNY trong giai đoạn này hầu hết đang được hưởng chính sách miễn thuế và giảm
thuế theo nội dung của công văn 148/TCT-PC của Tổng cục thuế. Tác giả đồng ý với lập
luận của Lại Thị Phương Nhung (2010) và Myers (1984) cho rằng các doanh nghiệp có
nguồn ngân quỹ nội bộ (internal fund) dồi dào sẽ có xu hướng giảm các khoản nợ vay bên
ngoài do vậy nguồn ngân quỹ nội bộ doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp càng ít có xu
hướng vay nợ bên ngoài. Từ đó ta có giả thuyết
Giả thuyết 4: Các khoản ngân quỹ nội bộ doanh nghiệp càng cao thì các doanh nghiệp
càng có ít động cơ để vay nợ hơn.
Rajan và Zingales (1995) cho rằng sự bất cân xứng thông tin giữa người quản lý doanh
nghiệp và chủ nợ dẫn đến việc doanh nghiệp cần có tài sản đảm bảo cho các khoản vay .
Nguyên và Neelakantan (2006) cũng cho rằng đối với các thị trường đang phát triển như
Việt Nam, sự bất cân xứng thông tin là phổ biến và tài sản đảm bảo là cần thiết đối với tất
cả các doanh nghiệp muốn vay nợ. Ta có giả thuyết:
Giả thuyết 5: Giá trị của các tài sản đảm bảo của doanh nghiệp càng cao thì doanh nghiệp
càng có xu thế vay nợ nhiều hơn.
Myers (1977) cho rằng mức độ bất cân xứng thông tin giữa nhà quản lý doanh nghiệp và
chủ nợ có thể giảm xuống khi doanh nghiệp sử dụng các khoản vay ngắn hạn thay vì các
khoản vay dài hạn và tỷ lệ nợ có thể tương quan dương với mức độ tăng trưởng kinh
doanh. Kết quả thống kê ở bảng 4.1 trong chương 4 cho thấy rằng tỷ lệ nợ ngắn hạn trung
13
bình của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2007-2009 là xấp xỉ 37% trong khi tỷ lệ nợ dài
hạn bình quân chỉ ở mức 9%. Điều này chứng tỏ rằng các DNNY vẫn phụ thuộc chủ yếu
vào các khoản vay ngắn hạn dẫn đến mức độ tăng trưởng kinh doanh của doanh nghiệp có
thể tương quan dương với tỷ lệ nợ vay của doanh nghiệp. Ngoài ra cũng giống như Rajan
và Zingales (1995), Guihai và Frank (2006), Lại Thị Phương Nhung (2010), trong nghiên
cứu này tác giả sử dụng Tobin’s Q để đo lường mức độ tăng trưởng kinh doanh của doanh
nghiệp. Tobin’s Q thể hiện tỷ lệ giá trị thị trường của tài sản doanh nghiệp chia cho giá trị sổ sách của doanh nghiệp15. Nếu giá trị này càng lớn (và lớn hơn 1) thì giá trị trị trường
của tài sản được đánh giá cao hơn giá trị sổ sách do vậy doanh nghiệp có xu hướng đầu tư
để tăng giá trị sổ sách của doanh nghiệp nhiều hơn vì giá trị mỗi đồng vốn họ bỏ ra được thị trường đánh giá cao hơn chi phí để huy động đồng vốn đó16 . Bằng cách này giá trị thị
trường của vốn chủ sở hữu đã tăng lên. Theo thống kê số liệu thống kê ở bảng 4.1 chương
4 cho thấy rằng giá trị trung bình của Tobin’s Q trong giai đoạn 2007-2009 là 1,64 và do
đó nhìn chung trong khoảng thời gian này thị trường đánh giá tài sản của hầu hết các doanh
nghiệp cao hơn giá trị sổ sách của nó . Do vậy các doanh nghiệp sẽ có động cơ vay nợ
nhiều hơn để tăng giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu. Ta có giả thuyết:
Giả thuyết 6: Các doanh nghiệp tăng trưởng kinh doanh càng cao càng có xu hướng vay
nợ nhiều hơn.
3.1.3. Một số giả thuyết mang tính đặc trưng riêng của Việt Nam
Nhóm giả thuyết thể h iện mố i liên h ệ giữa sở hữu n h à nước và cấu trúc v ố n của d o anh
nghiệp. Các nguồn tín dụng hiện nay chủ yếu là nguồn tín dụng từ các ngân hàng quốc
doanh. Theo Nguyên và Neelakantan (2006), bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất Việt
Nam cung cấp tới 78% nguồn tài chính cho toàn nền kinh tế. Dựa trên các lý thuyết thể
hiện mối quan hệ giữa người vay nợ và ngân hàng như đã trình bày ở trên, Lại Thị Phương
Nhung (2010) và Nguyên và Neelakantan (2006) đều cho rằng các DNNN có mối quan hệ
chặt chẽ hơn với các ngân hàng quốc doanh hơn so với các doanh nghiệp khác do vậy các
ngân hàng quốc doanh có thể sẽ ưu tiên các khoản vay cho các DNNN hơn là doanh nghiệp
tư nhân. Mở rộng lập luận của Lại Thị Phương Nhung (2010), Nguyên và Neelakantan
(2006), tác giả cho rằng không chỉ những DNNN (tức tỷ lệ sở h ữu nhà nước phải trên
15 http://www.investopedia.com/terms/q/qratio.asp truy cập ngày 08/04/2011 16 http://en.wikipedia.org/wiki/Tobin%27s_q truy cập ngày 08/04/2011
50%) mà ngay cả những doanh nghiệp mà tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao thì khả năng nhà
14
nước càng có động cơ hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp nhiều hơn và cũng do đó
doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội để tiếp cận với các khoản nợ từ các ngân hàng quốc
doanh cao hơn. Do đó ta có các giả thuyết:
Giả thuyết 7: Doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao càng có cơ hội để vay nợ
nhiều hơn.
Dựa theo lý thuyết đánh đổi (trade-off theory), tác giả thấy rằng quy mô của các DNNY ở SGDCK TP.HCM là lớn hơn so với các DNNY ở SGDCK Hà Nội 17 do vậy có thể các
DNNY ở SGDCK TP.HCM sẽ vay nhiều nợ hơn so với các DNNY tại SGDCK Hà Nội. Ta
có giả thuyết:
Giả thuyết 8: Tỷ lệ nợ vay của các DNNY ở SGDCK TP.HCM là cao hơn so với các DNNY
ở SGDCK Hà Nội
3.2. Mô hình kinh tế lượng
Nghiên cứu của Nguyên và Neelakantan (2006), Rajan và Zingales (1995) sử dụng giá trị
trung bình của các biến giải thích và biến phụ thuộc trong khoảng thời gian từ 1998 -2001
và 1987-1991 trong mô hình ước lượng. Booth (2001) thì lại sử dụng biến giải thích và
biến độc lập cùng thời điểm trong ước lượng. Lại Thị Phương Nhung (2010) sử dụng mô
hình ước lượng trong đó biến giải thích trễ hơn so với biến phụ thuộc một chu kỳ kế toán
(1 năm). Trong mô hình ước lượng này tác giả đã sử dụng ước lượng dữ liệu bảng trong đó
biến giải thích và biến phụ thuộc trong cùng thời điểm kết thúc kỳ kế toán (31/12) trong
6
giai đoạn từ 2007-2009.
1k
βkXkit+ λ*SORit + η HOSE + δi +γt+εit Yit= α+ ∑ =
Trong đó:
Yit là biến phụ thuộc trong đó ứng với mỗi mô hình ta sẽ xem xét biến phụ thuộc tương
ứng với một trong các biến tỷ lệ tổng nợ, tỷ lệ nợ dài hạn hoặc tỷ lệ nợ ngắn hạn của các
doanh nghiệp qua các năm khác nhau
Xkit (k=1,2,3,4,5,6) lần lượt tương ứng với các biến độc lập: thuế hiệu dụng (ETR), tỷ
lệ các khoản miễn giảm thuế (DER), tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp (PROR), tỷ lệ tài sản
17 Theo Luật chứng khoán Việt Nam 2006 thì điều kiện niêm yết đối với các doanh nghiệp trên SGDCK TP.HCM là phải có vốn điều lệ từ 80 tỷ đồng trở lên trong khi SGDCK Hà Nội là 10 tỷ đồng trở lên
cố định (FAR), tăng trưởng kinh doanh (BGR) theo từng doanh nghiệp và qua các năm
15
SORit là biến giải thích thể hiện tỷ lệ sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp qua các
năm khác nhau
HOSE là biến biến giả của mô hình nhận giá trị 1 khi DNNY trên SGDCK TP.HCM
và nhận giá trị 0 khi DNNY trên SGDCK Hà Nội
α là tung độ gốc chung của mô hình
δi , γt thể hiện các tác động đặc trưng theo doanh nghiệp và theo yếu tố thời gian
βk (k=1,2,3,4,5,6),λ và η thể hiện các hệ số góc của mô hình
i thể hiện dữ liệu theo từng công ty và t thể hiện dữ liệu qua thời gian
εit là ma trận sai số phần dư
Cụ thể, trong nghiên cứu này các biến số được định nghĩa như sau:
Thứ nhất là biến phụ thuộc (mỗi biến phụ thuộc tương ứng với một mô hình):
Tỷ lệ tổng nợ (TDR) là chỉ số cơ bản nhất để đo lường cấu trúc vốn doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu này, chỉ số này được tính toán bằng cách lấy tổng nợ của doanh nghiệp
chia cho tổng tài sản của doanh nghiệp ( Lại Thị Phương Nhung, 2010; Nguyên và
Neelakantan, 2006; Michaelas, 1999).
Tỷ lệ nợ dài hạn (LDR) bằng tổng nợ dài hạn chia cho tổng tài sản (Lại Thị Phương
Nhung, 2010; Michaelas, 1999). Trong đó tổng n ợ dài hạn là tổng các khoản nợ có thời
hạn trên một năm được thể hiện trong báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Tỷ lệ nợ ngắn hạn (SDR) bằng tổng nợ ngắn hạn chia cho tổng tài sản ( Lại Thị
Phương Nhung, 2010; Michaelas, 1999).Trong đó tổng nợ ngắn hạn là tổng các khoản nợ
có thời hạn dưới một năm được thể hiện trên báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Thứ hai là các biến số độc lập của mô hình được định nghĩa:
Thuế suất hiệu dụng (ETR): Chỉ số này được tính toán bằng tổng thuế thu nhập doanh
nghiệp phải trả chia cho lợi nhuận trước thuế (Lại Thị Phương Nhung, 2010; Biger, 2008;
Guihai và Frank, 2006). Chỉ số này được sử dụng để xem xét tác động của thuế suất tới
quyết định vay nợ của doanh nghiệp.
Tỷ lệ các khoản miễn giảm thuế (DER): Tỷ lệ này đ ược tín h to án b ằng tổng giá trị
khấu hao của doanh nghiệp chia cho tổng tài sản (Michaelas, 1999). Chỉ số này được xem
xét tác động của các khoản miễn giảm thuế tới cấu trúc vốn doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp (PROR): Chỉ số này được sử dụng để đo lường mức
độ dồi dào của nguồn ngân quỹ nội bộ doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này chỉ số được đo
16
lường bằng lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản (Lại Thị Phương Nhung,
2010; Guihan và Frank, 2006).
Quy mô doanh nghiệp (SIZE): Được đo lường bằng tổng tài sản doanh nghiệp (Lại Thị
Phương Nhung, 2010; Michaelas, 1999). Chỉ số này dùng để xem xét tác động của rủi ro
kinh doanh tới cấu trúc vốn doanh nghiệp.
Tỷ lệ tài sản cố định (FAR): Chỉ số này được đo lường bằng tổng tài sản cố định chia
cho tổng tài sản (Lại Thị Phương Nhung, 2010; Nguyên và Neelakantan, 2006; Rajan và
Zingales, 1995).Chỉ số này được sử dụng để xem xét tác động của tài sản đảm bảo tới cấu
trúc vốn doanh nghiệp.
Tăng trưởng kinh doanh (BGR): Chỉ số này được đo lường bằng Tobin's Q. Chỉ số này
phản ánh tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp chia cho giá trị sổ sách của doanh nghiệp18 (Rajan và Zingales, 1995; Guihai và Frank, 2006; Lại Thị Phương Nhung, 2010).
Thứ ba, nhóm các biến đặc trưng của Việt Nam được định nghĩa:
Tỷ lệ sở hữu nhà nước (SOR): Tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY. Tỷ lệ sở hữu nhà
nước (SOR) được thu thập từ phần thuyết minh của báo cáo tài chính của các doanh nghiệp
qua các năm. Các tài liệu này được công bố trên trang điện tử của SGDCK TP.HCM và
SGDCK Hà Nội.
Sàn niêm yết (HOSE): HOSE nhận giá trị 1 nếu DNNY tại SGDCK TP.HCM và giá
trị 0 nếu DNNY tại SGDCK Hà Nội (Lại Thị Phương Nhung, 2010).
3.3. Mô tả số liệu và phương pháp thực hiện
Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ các nguồn sau:
Báo cáo tài chính của các DNNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai
đoạn 2007-2009 được xuất ra từ phần mềm Stox Pro3.0 của công ty cung cấp dữ liệu tài
chính STOX.
Để tính toán giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu, tác giả lấy số lượng cổ phiếu lưu
hành của doanh nghiệp vào thời điểm cuối kỳ kế toán (lấy từ bảng các chỉ số tài chính
được xuất ra từ phần mềm thương mại Stox Pro3.0 của công ty STOX) nhân cho giá trị thị
trường của cổ phiếu tại thời điểm đó. Để giảm bớt yếu tố biến động giá chứng khoán vào
các ngày trong tuần, trong nghiên cứu này tác giả đã lấy giá trị thị trường của cổ phiếu là
18 http://en.wikipedia.org/wiki/Tobin%27s_q truy cập ngày 08/04/2011
trung bình giá đóng cửa của cổ phiếu đó trong tuần giao dịch gần nhất trước thời điểm kết
17
thúc kỳ kế toán của năm (dữ liệu về giá đóng của qua các ngày giao dịch được tải về miễn
phí từ trang điện tử của công ty chứng khoán FPT tại www.fpts.com.vn ).
Do báo cáo tài chính của các ngân hàng là hoàn toàn khác biệt so với các doanh
nghiệp kinh doanh hàng hóa dịch vụ cho nên tương tự Lại Thị Phương Nhung (2010) trong
nghiên cứu này tác giả đã loại bỏ báo cáo tài chính của các ngân hàng ra khỏi dữ liệu
nghiên cứu.
Sau khi đã xử l ý số liệu, bảng dữ liệu cuối cùng được sử dụng để ước lượng trong
nghiên cứu này là bảng dữ liệu cân bằng của 166 doanh nghiệp trong ba năm từ 2007-2009
Ước lượng trong nghiên cứu này được xử lý bằng phần mềm thống kê Eviews 6. Chiến
lược được sử dụng để xây dựng mô hình là từ tổng quát đến đơn giản. Trong tập dữ liệu
bảng nghiên cứu, chuỗi thời gian chỉ có ba năm cho nên không thể ước lượng mô hình đối
với tất cả thông số thay đổi giữa các đơn vị chéo. Đối với trường hợp chuỗi dữ liệu thời
gian quá ngắn như vậy thì mô hình khả thi tổng quát nhất là mô hình các tác động cố định:
chỉ có tung độ gốc thay đổi giữa các đơn vị chéo; hệ số hồi quy riêng phần giống nhau giữa các đơn vị chéo19 .
19 Eshragh Mohatar (2002), “Eview và dữ liệu bảng,” người dịch Xinh Xinh, hiệu đính Trọng Hoài, tr.8
18
CHƯƠNG 4 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê cơ bản
Phụ lục 1, 2 và 3 thể hiện thống kê về tỷ lệ nợ của các DNNY Việt Nam trong mẫu nghiên
cứu. Thống kê này cho thấy t ỷ lệ tổng nợ trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam ở
mức 46%, xấp xỉ mức 47 % trong nghiên cứu của Lại Thị Phương Nhung (2010), thấp hơn
mức 50% trong nghiên cứu của Guihai và Frank (2006) và cao hơn mức 43% trong nghiên
cứu của Nguyên và Neelakantan (2006). Lại Thị Phương Nhung (2010) giải thích rằng các
DNNY tuân thủ điều kiện công bố thông tin ngặt nghèo hơn do vậy chi phí phí ủy quyền
thừa hành (agency cost) thấp hơn các công ty vừa và nhỏ. Vì lý do này nên các DNNY này
có thể tiếp cận được các khoản nợ bên ngoài để tăng tỷ lệ nợ cao hơn là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong nghiên cứu của Nguyên và Neelakantan (2006) . Mức độ thay đổi của tỷ
lệ nợ ở Việt Nam thì tương đối cao. Độ lệch chuẩn của tỷ lệ tổng nợ của các doanh nghiệp
Việt Nam xấp xỉ 22% và độ lệch chuẩn của tỷ lệ nợ dài hạn của Việt Nam ở mức 13% cao
hơn các DNNY của Trung Quốc (7%) được thể hiện trong nghiên cứu của Jean (2004).
Bình quân tỷ lệ nợ dài hạn của các DNNY Việt Nam ở mức 9% trong khi bình quân tỷ lệ
nợ ngắn hạn của các DNNY Việt Nam ở mức 37% chứng tỏ rằng các DNNY Việt Nam
vẫn phụ thuộc chủ yếu vào các khoản nợ ngắn hạn.
PROR FAR BGR SOR
LDR SDR ETR DER SIZE
892.0 12.2% 29.0% 335.7 10.2% 25.0%
0
0
0.74 5.57 183.1 0 67.66 3.866 498
498
498
498
498
498
498
TDR 1.6 28.9% 46.1% 9.4% 36.7% 13.6% 3.6% Trung bình 1.2 29.2% 48.5% 3.5% 36.8% 13.5% 2.9% Trung vị 96.7% 69.3% 85.7% 66.7% 27.0% 14313.4 60.9% 93.9% 14.0 85.4% Giá trị lớn nhất 16.1 -24.5% 0.7% 0.4 3.1% 0.0% 3.1% 0.0% 0.0% 0.0% Giá trị nhỏ nhất 1756.2 1.2 22.9% 9.0% 19.3% 21.8% 13.4% 19.3% 8.8% 3.3% Độ lệch chuẩn 4.1 0.16 4.05 0.94 1.44 2.43 0.17 -0.12 2.00 Skewness 23.2 8.38 14.01 1.86 3.57 29.80 2.05 2.00 6.87 Kurtosis 9873.7 773.9 80.82 16266 28.91 3007 21.739 642.5 21.07 Jarque-Bera 0 0 1E-06 0 0 3E-05 2E-05 Probability 60.53 144.5 815.3 143.8 18.02 Tổng các giá trị 229.37 46.78 182.6 444205.5 4.062 18.43 765.3 26.02 0.527 1.53E+09 23.542 8.965 18.55 Sum Sq. Dev. 498 498 498 Số quan sát Bảng 4.1 là thông kê cơ bản của mẫu dữ liệu nghiên cứu. Thuế suất hiệu dụng của các
Bảng 4.1: Thống kê cơ bản dữ liệu nghiên cứu
DNNY ở Việt Nam ở mức 14% cao hơn so với mức 11% trong nghiên cứu của Lại Thị
Phương Nhung (2010). Điều này chứng tỏ mức độ ưu đãi thuế của DNNY trong giai đoạn
từ 2007-2009 là thấp hơn trong giai đoạn 2006-2008 trong nghiên cứu của Lại Thị Phương
19
Nhung (2010). Mặc dù vậy mức thuế suất này vẫn thấp hơn rất nhiều so với thuế thu nhập
doanh nghiệp chính thức là 28% trong giai đoạn này. Đây là bằng chứng cho thấy rằng
trong giai đoạn này hầu hết các DNNY đều vẫn đang nhận được ưu đãi về thuế nhờ chính
sách khuyến khích cổ phần hóa và niêm yết lên sàn trước ngày 01/01/2007 giống như nội
dung công văn 148/TCT-PC của Tổng cục thuế. Tỷ lệ các khoản miễn giảm thuế là tương
đối thấp chỉ ở mức bình quân khoảng 4% với độ lệch chuẩn 3%. Thống kê dữ liệu theo quy
mô doanh nghiệp cho thấy quy mô bình quân DNNY Việt Nam xấp xỉ 892 tỷ đồng trong
khi đó độ lệch chuẩn lại rất lớn lên đến 1.756 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ quy mô của các
DNNY Việt Nam là rất phân tán. Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế và lãi vay của các doanh
nghiệp Việt Nam đạt trung bình ở mức 12% với độ lệch chuẩn 9%. Tỷ lệ tài sản cố định
bình quân trên tổng tài sản của các DNNY ở Việt Nam ở mức 29% thấp hơn một chút so
với mức 34% đối với các DNNY Trung Quốc trong nghiên cứu của Guihai và Frank
(2006). Đo lường cơ hội tăng trưở ng kinh doanh, giá trị Tobin’s Q bình quân của các
DNNY Việt Nam ở mức 1,64 với độ lệch chuẩn là 1,24 điều này chứng tỏ giá trị thị trường
của các tài sản nói chung vẫn được đánh giá cao hơn giá trị sổ sách của các tài sản trong
giai đoạn này.
Phụ lục 4 là kết quả thống kê về tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY trong mẫu nghiên
cứu. Khi xem xét thống kê tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY, kết quả cho thấy tỷ lệ sở
hữu nhà nước bình quân trong các doanh nghiệp lên đến gần 29% với độ lệch chuẩn xấp xỉ
23%. Điều này chứng tỏ tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp là khá lớn và tương
đối khác nhau. Đây là dấu hiệu cho thấy nhà nước có thể có những ảnh hưởng đáng kể tới
lựa chọn cấu trúc vốn doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của nhà nước tại các doanh
nghiệp có thể là rất khác nhau.
Bảng 4.2: Thống kê số lượng các mã chứng khoán trên sàn
Số cổ phiếu trên SGGCK TP.HCM
Số cổ phiếu trên SGGCK Hà Nội
Số cổ phiếu chuyển từ SGGCK TP.HCM sang Hà Nội
Số cổ phiếu chuyển từ SGGCK Hà Nội sang TP.HCM N/A
2007 2008 2009
105 107 90
0 20
61 N/A 59 76
2 3 Bảng 4.2 thống kê dữ liệu các mã chứng khoán trên các sàn trong mẫu nghiên cứu. Kết quả
cho thấy có 302 mẫu nghiên cứu là niêm yết trê n SGDCK TP.HCM và 196 mẫu nghiên
cứu niêm yết trên SGDCK Hà Nội trong giai đoạn này trong đó có 20 doanh nghiệp trong
20
năm 2008 niêm yết trên SGDCK TP.HCM sang đến năm 2009 chuyển sang niêm yết trên
SGDCK Hà Nội ngược lại chỉ có 5 DNNY trên SGDCK Hà Nội chuyển sang niêm yết trên
SGDCK TP.HCM (trong đó có 2 doanh nghiệp chuyển sàn trong năm 2008 và 3 doanh
nghiệp chuyển sàn trong năm 2009). Kết quả thống kê này cho thấy có khá nhiều doanh
nghiệp chuyển từ sàn niêm yết tại SGDCK TP.HCM sang SGDCK Hà Nội trong năm
2009. Đây là kết quả của việc tuân thủ công văn 163/UBCK-PTTT ngày 10/2/2009 của
UBCKNN theo đó “các công ty có vốn điều lệ dưới 80 tỷ đồng mà không có kế hoạch tăng
vốn thì phải đăng ký kế hoạch chuyển sang niêm yết tại SGDCK Hà Nội trong vòng 3 tháng, kể từ ngày 8/2/2009”20 .
4.2. Các kết quả ước lượng và giải thích
Từ các kết quả ước lượng ở bảng 4.3, tác giả nhận thấy các yếu tố tác động đến cấu trúc
vốn của các DNNY ở Việt Nam phản ánh tương tự với lý thuyết tài chính ở các thị trường
phát triển.
Phương thức: Panel EGLS (Cross-section weights) Khoảng thời gian: 2007-2009 Chuỗi thời gian: 3 năm Số phần tử chéo: 166 Số quan sát của dữ liệu bảng: 498 Mỗi mô hình ứng với biến phụ thuộc là tỷ lệ tổng nợ (TDR), tỷ lệ nợ dài hạn (LDR) và tỷ lệ nợ ngắn hạn (SDR Biến
TDR Hệ số
LDR Prob. Hệ số
SDR Prob. Hệ số
Prob.
0.0% 0.0519
0.0% 65.5% 0.0% 18.7% 0.0% 0.0% 5.0% 0.0% 0.0%
0.0% 0.4060 0.4575 0.0356 15.0% 0.0099 21.6% 0.0132 0.0% -0.4213 -0.7678 0.0% -0.3583 0.0% 0.00001 0.00003 0.0% 0.00002 0.0% -0.3659 -0.4014 0.0% -0.0686 0.0% -0.2111 -0.0805 0.2% 0.1292 0.4% 0.0007 0.0049 5.2% 0.0037 0.0% -0.0169 32.9% 0.2936 0.2373 0.0% -0.0277 -0.0116 18.2% 0.0133
0.989 0.983 166.439 0 2.298
0.988 0.982 154.42 0 2.090
0.979 0.968 86.668 0 0.987
0.909 2.143
0.884 1.040
0.874 2.328
Bảng 4.3: Kết quả ước lượng với Cross-section fixed và Cross-section weights
C Thuế suất hiệu dụng (ETR) Tỷ lệ các khoản miễn, giảm thuế (DER) Quy mô doanh nghiệp (SIZE) Tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp (PROR) Tỷ lệ tài sản cố định (FAR) Tăng trưởng kinh doanh (BGR) Tỷ lệ sở hữu nhà nước (SOR) Sàn niêm yết (HOSE) Xác định loại tác động Tác động chéo cố định (các biến giả) Weighted Statistics R bình phương R bình phương hiệu chỉnh F-statistic Prob(F-statistic) Tổng bình phương phần dư Unweighted Statistics R bình phương Tổng bình phương phần dư Kiểm định Hausman cho thấy mô hình tác động cố định thích hợp hơn 20 http://dddn.com.vn/20090527045023684cat52/14-cong-ty-chuyen-tu-san-hose-sang-san-hastc.htm truy cập ngày 08/04/2011
21
Thứ nhất, khi xem xét các mô hình TDR, LDR và SDR, nhìn chung tác giả không tìm thấy
có sự mâu thuẫn nào trong cấu trúc vốn của các DNNY so với các lý thuyết tài chính tại
các thị trường phát triển. Về nhóm lý thuyết đánh đổi (trade-off theory): Trong mô hình tỷ
lệ tổng nợ (TDR), tỷ lệ nợ dài hạn (LDR) và tỷ lệ nợ ngắn hạn (TDR), hệ số của biến thuế
suất hiệu dụng (ETR) mang dấu dương phù hợp với lý thuyết tuy nhiên lại không có ý
nghĩa về mặt thống kê. Kết quả ước lượng trong các mô hình trên cũng chỉ ra rằng các
khoản miễn giảm thuế (DER) càng lớn thì tỷ lệ tổng nợ, tỷ lệ nợ dài hạn, tỷ lệ nợ ngắn hạn
càng nhỏ phù hợp với lý thuyết và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Hệ số của biến quy mô
doanh nghiệp (SIZE ) là dương và có ý nghĩa thố n g k ê ở mức 5 % trong cả hai mô hình
TDR và LDR, điều đó chứng tỏ rằng quy mô doanh nghiệp càng lớn thì tỷ lệ tổng nợ, tỷ lệ
nợ dài hạn càng cao phù hợp với lý thuyết. Về nhóm các lý thuyết liên quan đến thông tin
bất cân xứng: Kết quả cả ba mô hình ước lượng đã chỉ ra rằng tỷ lệ thu nhập hoạt động
(PROR) càng dồi dào thì tỷ lệ nợ càng t hấp với mức ý nghĩa thống kê 5%. Điều này phù
hợp với lý thuyết về bất cân xứng thông tin cho rằng các doanh nghiệp có nguồn ngân quỹ
nội bộ càng dồi dào thì càng có xu hướng vay nợ bên ngoài ít hơn. Hệ số của biến tỷ lệ tài
sản cố định (FAR) trong mô hình LDR là dương có ý nghĩa thống kê ở mức 5% chứng tỏ
doanh nghiệp có xu hướng sử dụng tài sản cố định để cầm cố cho các khoản vay dài hạn do
vậy tỷ lệ tài sản cố định càng lớn thì doanh nghiệp càng vay nợ dài hạn nhiều hơn. Tuy
nhiên trong mô hình TDR và SDR thì kết quả lại ngược lại với kỳ vọng . Hệ số của biến tỷ
lệ tài sản cố định (FAR) trong hai mô hình này là âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Kết quả này tương tự nghiên cứu Nguyên và Neelakantan (2006) và Biger (2008). Biger
(2008) cho rằng tài sản cố định và tài sản lưu động là hai thành phần của tổng tài sản doanh
nghiệp do vậy tỷ lệ tài sản cố định và tỷ lệ tài sản lưu động là tương quan âm hoàn toàn với
nhau trong khi đó tổ chức tài chính thường dựa vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp
để quyết định cho vay cho nên họ thường sử dụng tài sản lưu động (có tính thanh khoản
cao hơn) làm tài sản đảm bảo . Điều này sẽ dẫn đến tỷ lệ tài sản cố định và tỷ lệ nợ tương
quan âm với nhau. Dựa trên cách giải thích của Biger (2008), tác giả cho rằng các doanh
nghiệp thường sử dụng tài sản cố định để cầm cố đối với các khoản nợ dài hạn trong khi sử
dụng tài sản lưu động để cầm cố cho các khoản vay ngắn hạn do vậy tỷ lệ tài sản cố định
tương quan dương với tỷ lệ nợ dài hạn trong khi lại tương quan âm với tỷ lệ nợ ngắn hạn.
Từ kết quả thống kê cơ bản, tác giả thấy rằng các DNNY ở Việt Nam phụ thuộc chủ yếu
vào các khoản nợ ngắn hạn nhiều hơn so với các khoản nợ dài hạn do vậy giống như tỷ lệ
22
nợ ngắn hạn (thành phần chủ yếu của tổng nợ), tỷ lệ tổng nợ của các DNNY có thể tương
quan âm với tỷ lệ tài sản cố định. Cả ba mô hình TDR, LDR và SDR đều cho thấy mối liên
hệ có ý nghĩa thống kê giữa biến tăng trưởng kinh doanh (BGR) và biến tỷ lệ tổng nợ
(TDR), tỷ lệ nợ dài hạn (LDR), tỷ lệ nợ ngắn hạn (SDR). Điều này là bằng chứng cho thấy
rằng các doanh nghiệp có xu hướng vay nợ nhiều hơn trong một thị trường mà giá trị thị
trường của tài sản được đánh giá cao hơn giá trị sổ sách.
Thứ hai, khi xem xét yếu tố đặc trưng của Việt Nam đứng về góc độ sở hữu nhà nước,
khác với kết quả của Lại Thị Phương Nhung (2010), kết quả ước lượng ở mô hình TDR và
SDR đã chỉ ra rằng, tỷ lệ sở hữu nhà nước càng lớn thì đều làm cho tỷ lệ tổng nợ (TDR) và
tỷ lệ nợ ngắn hạn (SDR) càng cao và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Quá trình phân tích
chi tiết mối quan hệ này sẽ được trình bày ở phần giải thích mối liên hệ giữa doanh nghiệp
có sở hữu nhà nước và ngân hàng trong phần 4.3.
Thứ ba, kết quả ước lượng trong cả ba mô hình TDR, LDR và SDR đã cho thấy sự khác
biệt trong cấu trúc vốn doanh nghiệp giữa SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội. Khác với
kết quả của Lại Thị Phương Nhung (2010), kết quả ước lượng đã chỉ ra rằng có sự khác
biệt giữa tỷ lệ nợ dài hạn và tỷ lệ nợ ngắn hạn của các DNNY trên SGDCK TP.HCM và
SGDCK Hà Nội với mức ý nghĩa thống kê 5% trong đó tỷ lệ nợ ngắn hạn (SDR) của các
doanh nghiệp trên SGDCK TP.HCM thấp hơn trên SGDCK Hà Nội trong khi tỷ lệ nợ dài
hạn (LDR) của doanh nghiệp ở SGDCK TP.HCM lại cao hơn SGDCK Hà Nội. Đây là kết
quả minh chứng cho kết luận Marsh (1982) khi cho rằng các doanh nghiệp lớn thường phụ
thuộc vào các khoản nợ dài hạn hơn trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại thường lựa chọn
các khoản nợ ngắn hạn hơn. Các doanh nghiệp ở sàn Hà Nội là các doanh nghiệp nhỏ hơn
về quy mô nên có thể họ sẽ có khả năng lựa chọn các khoản nợ ngắn hạn nhiều hơn trong
khi các doanh nghiệp ở sàn TP Hồ Chí Minh lớn hơn nên có xu hướng lựa chọn các khoản
nợ dài hạn nhiều hơn.
4.3. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp có sở hữu nhà nước và ngân hàng
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ sở h ữu n hà n ước càng lớn
càng có xu hướng được ưu tiên các khoản vay nhiều hơn . Thống kê của ngân hàng Nhà
nước năm 2006 đã chỉ ra rằng tổng tín dụng của các ngân hàng quốc doanh chiếm đến 68%
của toàn nền kinh tế và do vậy các khoản vay của doanh nghiệp nói chung phần lớn là xuất
phát từ các ngân hàng quốc doanh. Tác giả cho rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà
nước càng lớn càng có cơ hội tốt hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn của các ngân hàng
23
quốc doanh. Để chứng minh cụ thể hơn cho nhận định này, tác giả đã xem xét lại các
nghiên cứu trước đây nhằm xác định các yếu tố tác động đến quyết định cho vay của các
ngân hàng quốc doanh Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của Nguyên và Neelakantan (2006) đã chỉ ra rằng hai yếu tố quyết
định đến hành vi cho vay của các doanh nghiệp đó là “các mối quan hệ kinh doanh với
ngân hàng” và “các mối quan hệ xã hội với ngân hàng” (phụ lục 8). Nguyên và
Neelakantan (2006) giải thích mối quan hệ giữa ngân hàng được thể hiện như sau: (1) ”mối
quan hệ kinh doanh với các ngân hàng” được thể hiện theo cách các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trao đổi thông tin với ngân hàng thông qua các báo cáo tài chính hay các dữ liệu liên
quan; (2) ”mối quan hệ xã hội với các ngân hàng” được thể hiện theo cách mà các nhà
quản lý doanh nghiệp quan tâm đến những sở thích của các nhà quản lý ngân hàng, mời họ
đến thăm doanh nghiệp, khai thác các mối quan hệ bạn bè và người quen. Kết quả nghiên
cứu của Nguyên và Neelakantan (2006) hoàn toàn có thể áp dụng đối với các DNNY bởi vì
hai nguyên nhân: Thứ nhất là sự khác biệt thời gian giữa kết quả nghiên cứu năm 2006 của
Nguyên và Neelakantan (2006) so với số liệu của các DNNY trong nghiên cứu này (giai
đoạn từ 2007-2009) là không đáng kể. Thứ hai, cả hai đối tư ợng doanh nghiệp trong các
nghiên cứu đều hoạt động trong cùng một môi trường kinh doanh giống nhau và do vậy sẽ
bị chi phối bởi các quyết định cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp là
tương đối giống nhau. Từ đó ta có thể sử dụng các kết quả nghiên cứu của Nguyên và
Neelakantan (2006) về “mối quan hệ kinh doanh với các ngân hàng” và “mối quan hệ xã
hội với các ngân hàng” chi phối đến hoạt động cho vay vốn của các ngân hàng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở lập luận cho các quyết định cho vay của ngân hàng đối
với các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán trong giai đoạn từ 2007-2009.
Dựa trên cơ sở này, tác giả cho rằng các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng lớn
càng có xu hướng được ưu tiên các khoản vay nhiều hơn từ các ngân hàng quốc doanh vì
những lý do như sau:
Thứ nhất là thông qua một lịch sử lâu dài đã tạo nên “mối quan hệ xã hội và mối quan hệ
kinh doanh với ngân hàng ” của các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao đối với các
ngân hàng quốc doanh đã giúp những doanh nghiệp này có ưu thế trong tiếp cận các khoản
vay từ các ngân hàng quốc doanh. Các doanh nghiệp với tỷ lệ sở hữu nhà nước ở mức cao
thì chủ yếu là các DNNN cổ phần hóa (sau khi xem lịch sử hình thành và phát triển của các
DNNY tác giả thấy rằng các doanh nghiệp mà nhà nước có chiếm giữ cổ phần trong mẫu
24
nghiên cứu thì đều là DNNN trước khi cổ phần hóa) có lịch sử sử dụng các khoản vay từ
các ngân hàng quốc doanh. Vì vậy rõ ràng là các doanh nghiệp với tỷ lệ sở hữu nhà nước
cao trong lịch sử đã va y nợ từ các ngân hàng quốc doanh nên họ có “mối quan hệ kinh
doanh và xã hội với các ngân hàng quốc doanh” lâu dài được thể hiện theo các tiêu chí điều
tra của Nguyên và Neelakantan (2006) là trao đổi thông tin thông qua các báo cáo tài chính
hay dữ liệu l iên quan (mối quan hệ kinh doanh); cũng như các mối quan hệ xã hội theo
cách mà các nhà quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm đến những sở thích của các
nhà quản lý ngân hàng, mời họ đến thăm doanh nghiệp, khai thác các mối quan hệ bạn bè
và người quen (mối quan hệ xã hội). Do vậy nhờ “mối quan hệ kinh doanh và xã hội với
các ngân hàng quốc doanh” tốt hơn khiến cho các doanh nghiệp với tỷ lệ sở hữu nhà nước
lớn có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận các khoản vay từ các ngân hàng quốc doanh.
Thứ hai là thống kê của ngân hàng Nhà nước cho thấy các ngân hàng quốc doanh chiếm
đến 68% tổng nguồn tín dụng của cả nền kinh tế do vậy từ việc có cùng chủ sở hữu chủ sở
hữu là nhà nước, các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao càng có “mối quan
hệ kinh doanh với ngân hàng quốc doanh” và “mối quan hệ xã hội với các ngân hàng quốc
doanh” tốt hơn và được ưu tiên các khoản vay nhiều hơn từ các ngân hàng quốc doanh.
Hình 4.1: Ảnh hưởng của việc chính phủ áp đặt lãi suất trần
Lãi suất thị trường (r0)
Lãi suất trần (rmax)
Cung vốn Lãi suất
Lượng vốn thiếu hụt
Q1
Q0
Q2
Lượng vốn Cầu vốn
Thứ ba là việc áp đặt lãi suất trần ở Việt Nam trong giai đoạn này sẽ dẫn đến tình trạng các
doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao sẽ càng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận
đến nguồn vốn vay hơn so với các doanh nghiệp khác. Hình 4.1 phản ánh ảnh hưởng của
25
việc Chính phủ áp đặt lãi suất trần dựa theo lý thuyết kinh tế vi mô21. Trường hợp Việt
Nam, theo điều 476 Bộ luật Dân sự, lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất
cơ bản và về bản chất đây là một mức trần lãi suất. Lãi suất thực tế của thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn này trong nhiều thời điểm là cao hơn mức trần lãi suất quy định22.
Khi lãi suất trần thấp hơn lãi suất thị trường sẽ xuất hiện thị trường “chợ đen” được biểu
hiện theo cách các ngân hàng (đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ) phải lách
luật để có thể huy động vốn và cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất quy định, ví dụ cách thông thường là bằng cách cộng các khoản phí vào để có mức lãi suất phù hợp23 (đối tượng
bị thiệt hại). Tuy nhiên với các ngân hàng quốc doanh do có được nguồn vốn ưu đãi từ
phía Chính phủ, họ có thể cho vay với mức lãi suất theo quy định nhà nước về trần lãi suất.
Việc áp đặt trần lãi suất này đã dẫn đến việc sẽ chỉ có một số doanh nghiệp có mối quan hệ
thân thiết với ngân hàng mới có thể tiếp cận được với nguồn vốn vay ở mức lãi suất quy
định thấp hơn thị trường (đối tượng được lợi). Từ “mối quan hệ xã hội và kinh doanh với
các ngân hàng” như Nguyên và Neelakantan (2006) đã trình bày và việc có cùng một chủ
sở hữu sẽ dẫn đến các ngân hàng quốc doanh sẽ càng ưu tiên các khoản vay của mình cho
các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn so với các doanh nghiệp khác. Từ phân
tích trên rõ ràng việc áp đặt lãi suất trần càng góp phần làm cho việc tiếp cận nguồn vốn
của các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước thấp sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với các
doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn (những đối tượng không tiếp cận được
nguồn vốn vay theo lãi suất quy định sẽ bị thiệt hại từ chính sách). Như vậy lập luận trên
cho thấy rằng chính sách áp đặt lãi suất trần đã mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp có tỷ
lệ sở hữu nhà nước cao trong khi lại gây thiệt hại cho các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà
21 Pindyck ,Robert S. và Rubinfeld, Daniel L. (1999), Kinh tế học vi mô, NXB Thống kê, tr.65. Lý thuyết này cho rằng tác động của việc áp trần lãi suất này dẫn đến việc cầu vượt quá cung và xuất hiện hiện tượng thiếu hụt cung vốn (hay thặng dự của cầu vốn) một lượng là Q2-Q1. Việc áp đặt trần lãi suất này sẽ dẫn đến một số người được lợi và số khác bị thiệt hại. Người bị thiệt hại trước hết là các chủ nợ vì họ nhận được lãi suất thấp hơn và một trong số họ phải rời khỏi ngành. Một số người đi vay có thể vay được nguồn vốn với lãi suất quy định là những người được lợi trong khi những người không thể tiếp cận được nguồn vốn vay sẽ là những người bị thiệt hại. 22Huỳnh Bửu Sơn (2010), “Bỏ trần lãi suất: Quả bóng trong chân ai?”, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ http://cafef.vn/2010041012337926CA34/bo-tran-lai-suat-qua-bong-trong-chan-ai.chn 23Theo Thông tấn xã Việt Nam được đăng lại bởi VnEconomy, truy cập ngày 08/04/2011tại điạ chỉ http://vneconomy.vn/59364P0C6/khong-con-tinh-trang-cho-vay-vuot-tran-lai-suat.htm
nước thấp.
26
CHƯƠNG 5 – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Khi xem xét với các lý thuyết tài chính tại các nước phát triển nghiên cứu này đã có một số
kết luận như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu này cho thấy cấu trúc vốn của các DNNY nói chung tuân theo các lý
thuyết tài chính ở các thị trường phát triển. Khác với kết quả của Lại Thị Phương Nhung
(2010), nghiên cứu này đã tìm thấy bằng chứng cho thấy các khoản miễn giảm thuế càng
lớn thì doanh nghiệp càng có ít động cơ để tiết kiệm thuế hơn; doanh nghiệp có mức độ
tăng trưởng kinh doanh cao hơn thì có xu thế vay nợ nhiều hơn; tỷ lệ tài sản cố định càng
lớn thì tỷ lệ nợ dài hạn càng có xu hướng lớn hơn trong khi mối quan hệ giữa tỷ lệ tài sản
cố định và tỷ lệ tổng nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn lại có xu hướng ngược lại . Dựa vào kết quả
thống kê, tác giả cũng thấy rằng các DNNY Việt Nam phụ thuộc chủ yếu khoản nợ ngắn
hạn hơn so với các khoản nợ dài hạn. Khi xem xét đặc trưng sàn niêm yết, khác với nghiên
cứu của Lại Thị Phương Nhung (2010), tác giả đã tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa tỷ lệ vay nợ của các DNNY trên SGDCK Hà Nội và các DNNY trên SGDCK
TP.HCM. Cụ thể là tỷ lệ n ợ n gắn hạn của các DNNY trên SGDCK Hà Nội cao hơn ở
SGDCK TP.HCM trong khi tỷ lệ nợ dài hạn lại lại thấp hơn.
Thứ hai, khác với nghiên cứu của Lại Thị Phương Nhung (2010), nghiên cứu này đã chỉ ra
rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước trong các DNNY sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn
vốn vay từ các ngân hàng quốc doanh trong đó các DNNY có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng
lớn càng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận các khoản vay từ ngân hàng quốc doanh. Kết quả
này khác kết quả nghiên cứu của Nguyên và Neelak antan (2006) ở h ai ý nghĩa: (1) các
doanh nghiệp trong nghiên cứu của Nguyên và Neelakantan (2006) là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong giai đoạn 1998-2001 trong khi nghiên cứu này là các DNNY trong giai
đoạn 2007-2009 là các doanh nghiệp tốt nhất ở Việt Nam về m ức độ minh bạch thông tin
và các doanh nghiệp trong nghiên cứu này nằm trong một thị trường tài chính đã phát triển
sau hơn tám năm so với các doanh nghiệp trong nghiên cứu của Nguyên và Neelakantan
(2006); (2) nghiên cứu này mở rộng kết quả nghiên cứu của Nguyên và Nee lakantan
(2006) khi nó cho thấy rằng không chỉ các DNNN (tỷ lệ sở hữu nhà nước trên 50%) vay nợ
nhiều hơn các doanh nghiệp khác mà các doanh nghiệp với mức độ sở hữu nhà nước khác
nhau (tỷ lệ sở hữu nhà nước ở các mức độ khác nhau) thì mức độ ưu tiên các khoản vay
27
của ngân hàng quốc doanh cho doanh nghiệp cũng khác nhau. Nói một cách khác, nghiên
cứu này đã khắc phục được hạn chế của các nghiên cứu trước đây khi đã chứng minh được
rằng việc nhà nước chiếm quyền kiểm soát doanh nghiệp ở các mức độ khác nhau thông
qua tỷ lệ cổ phần nắm giữ đã ảnh hưởng khác nhau đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Tác
giả đã nhận thấy rằng “mối quan hệ xã hội và kinh doanh với ngân hàng quốc doanh”, việc
nhà nước cùng sở hữu ngân hàng và doanh nghiệp, Chính phủ áp đặt lãi suất trần là các
nguyên nhân giúp cho các doanh nghiệp với tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn có cơ hội để tiếp
cận các nguồn vốn vay tốt hơn các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ sở hữu nhà nước nhỏ
hơn. Xét riêng yếu tố lãi suất trần, tác giả còn nhận thấy rằng việc nhà nước áp đặt lãi suất
trần cho vay đã dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp mà nhà nước có tỷ lệ cổ phần sở
hữu lớn có lợi ích khi tiếp cận được các khoản vay nằm trong quy định trong khi lại gây
thiệt hại cho các doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần hoặc nắm giữ ở mức
thấp do không tiếp cận được nguồn vốn.
5.2. Khuyến nghị chính sách
Nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng có một sự đối xử bất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước ở các mức độ khác nhau trong việc tiếp cận các
khoản vay từ các ngân hàng quốc doanh. Trong đó, “mối quan hệ xã hội và kinh doanh với
ngân hàng”, việc nhà nước cùng sở hữu ngân hàng và doanh nghiệp và việc áp đặt trần lãi
suất cho vay đã dẫn đến tình trạng nguồn vốn vay từ các ngân hàng quốc doanh đã được
phân bổ cho các doanh nghiệp mà nhà nước có tỷ lệ sở hữu lớn.
Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp mà nhà nước có tỷ lệ sở hữu
lớn ở Việt Nam thường kém hiệu quả. Những doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng
lớn sẽ mang tính chất của doanh nghiệp công cộng càng lớn. Trong khi đó thì kinh tế học
khu vực công đã chỉ ra nhiều lý do khiến cho sản xuất ở khu vực công kém hiệu quả hơn so với sản xuất khu vực tư nhân24 . Lý do thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất ở khu vực
công (gọi là doanh nghiệp công cộng (DNCC)) không phải quan tâm đến khả năng bị phá
sản như các doanh nghiệp sản xuất ở khu vực tư nhân (gọi là doanh nghiệp tư nhân
(DNTN)) vì nếu gặp khó khăn gì họ có thể nhận được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Lý do
thứ hai là các DNCC thường hoạt động trong các môi trường thiếu tính cạnh tranh do đó
24 Stiglitz, Joseph E. (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr.251-255
không khuyến khích được các doanh nghiệp này nâng cao hiệu quả hoạt động. Thứ ba là
28
hạn chế của DNCC do thiếu sự khuyến khích cá nhân như việc sử dụng khen thưởng đối
với các cá nhân làm việc tốt và các biện pháp kỷ luật đối với các cá nhân làm việc yếu
kém. Thực tế ở Việt Nam cũng cho thấy việc sản xuất khu vực công kém hiệu quả hơn so
với các khu vực tư nhân. Theo số liệu của năm 2006, khu vực DNNN tạo ra 38% GDP
trong khi lại chiếm trên 60% tổng số tín dụng, phần lớn tài nguyên đất đai, khoáng sản của đất nước25 .
Từ những lập luận trên và kết quả nghiên cứu, tác giả đã tìm thấy bằng chứng cho thấy các
ngân hàng quốc doanh đã ưu tiên các khoản vay của mình cho các doanh nghiệp có tỷ lệ sở
hữu nhà nước lớn hơn (cũng là các doanh nghiệp kém hiệu quả hơn). Do vậy nhằm định
hướng nguồn vốn của các ngân hàng cần phải được phân bổ một cách có hiệu quả hơn, tác
giả đưa ra ba khuyến nghị chính sách như sau:
Thứ nhất, về phía doanh nghiệp, tác giả cho rằng nhà nước cần phải giảm ảnh hưởng của
mình tới các hoạt động doanh nghiệp và chuyển giao việc sản xuất hàng hóa dịch vụ cho
khu vực tư nhân bằng cách giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp. Đây cũng
là cơ sở để nhà nước đẩy nhanh qu á trình cổ phần hóa. Trong đó phương án và mục tiêu
của Chính phủ đã được thể hiện như sau: “Theo phương án đã được Thủ tướ ng Chính phủ
duyệt thì giai đoạn 2007-2010 cả nước cần sắp xếp 1.553 DNNN, trong đó 950 doanh
nghiệp sẽ được cổ phần hóa. Theo số liệu của Bộ Tài chính, cả nước còn 1.192 DNNN vào
26
cuối năm 2008. Mục tiêu mà Chính phủ đặt ra là chỉ giữ lại 700-800 DNNN sau năm
2010” . Như vậy, tác giả thấy rằng cổ phần hóa là một chủ trương của Chính phủ và kết
quả nghiên cứu đã chứng minh được chủ trương cổ phần hóa các DNNN là một chủ trương
phù hợp đứng trên góc độ phát triển một thị trường vốn lành mạnh. Tuy nhiên xét về mức
độ cổ phần hóa thì phương án và mục tiêu của Chính phủ nêu trên vẫn cho thấy rằng Chính
phủ còn muốn giữ lại một số DNNN và đối với các doanh nghiệp sau khi đã được cổ phần
hóa có thể Chính phủ sẽ vẫn tiếp tục nắm giữ một tỷ lệ cổ phần đáng kể tại các doanh
nghiệp như đã phản ánh trong kết quả thống kê về tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY của
http://vietbao.vn/Kinh-te/Vi-sao-doanh-nghiep-nha-nuoc-kem-hieu-qua/65065083/87/
25 Nguyễn Quang A (2006), “Vì sao doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả?”, Việt báo, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ 26 Hồng Phúc (2009), “Cải tổ doanh nghiệp nhà nước: Cổ phần hóa bị bỏ lửng”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, truy cập ngày 10/04/2011 tại địa chỉ http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/17352/
nghiên cứu này. Theo tác giả thì Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa mức độ cổ phần hóa
29
(nghĩa là tăng số lượng các DNNN phải cổ phần hóa và giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các
doanh nghiệp đã được cổ phần hóa ) một cách triệt để khi Chính phủ không chứng minh
được cơ sở để can thiệp vào ngành nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Theo
kinh tế học khu vực công thì nhà nước chỉ nên can thiệp khi chứng minh được có sự thất
bại của thị trường. Trong trường hợp lĩnh vực nào đó có thất bại thị trường thì nhà nước
cũng phải xem xét liệu có thực sự cần thiết phải can thiệp bằng cách trực tiếp cung cấp
hàng hóa dịch vụ hay có thể sử dụng các chính sách điều tiết và đánh thuế nhằm kết hợp
giữa lợi ích tư và lợi ích xã hội như nhà nước hỗ trợ tài chính để khu vực tư nhân trực tiếp
sản xuất, các chính sách thuế để khuyến khích khu vực tư nhân sản xuất vì lợi ích của công cộng27 .
Thứ hai, về phía ngân hàng quốc doanh, Chính phủ phải xem xét lại hoạt động của các
ngân hàng quốc doanh để các doanh nghiệp đều có cơ hội công bằng trong việc tiếp cận
các nguồn vốn theo nghĩa nguồn vốn cần được phân bổ cho các doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả hơn.
Thứ ba, Chính phủ cần phải xem xét liệu điều 476 Bộ luật Dân sự quy định lãi suất cho vay
không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản có thực sự cần thiết hay không và trong trường
hợp Chính phủ phải sử dụng điều khoản trên như là một công cụ hành chính để áp đặt trần
lãi suất cho vay thì Chính phủ cần phải có các quy định rõ ràng nhằm tạo điều kiện để tất
cả các doanh nghiệp đều có cơ hội giống nhau trong việc tiếp cận các khoản vay từ các
ngân hàng quốc doanh.
5.3. Những giới hạn và đề xuất nghiên cứu tiếp theo
Trong nghiên cứu này chưa đề cập đến tác động của cấu trúc vốn qua các chu kỳ kinh tế
khác nhau. Do khoảng thời gian dữ liệu nghiên cứu là tương đối ngắn (2007-2009) cho nên
khi có độ trễ về thời gian sẽ làm cho các kết quả nghiên cứu cấu trúc vốn theo thời gian sẽ
không còn chính xác nữa. Việc không xem xét được tác động của cấu trúc vốn qua các chu
kỳ kinh tế khác nhau đã làm cho đề tài này không thể đánh giá được các yếu tố mang tính
chu kỳ của nền kinh tế như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng GDP ảnh hưởng tới cấu trúc vốn
doanh nghiệp. Thứ hai là nghiên cứu này cũng chưa xem xét tác động của cấu trúc vốn
27 Stiglitz, Joseph E. (1995) , Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr.236-246
doanh nghiệp qua các ngành nghề khác nhau.
30
Tác giả xin đề xuất một số hướng tiếp cận cho các nghiên cứu tiếp theo như sau: Thứ nhất
các nghiên cứu tiếp cận với các bộ dữ liệu với chuỗi thời gian dài hơn để xem xét tác động
của cấu trúc vốn theo thời gian qua các chu kỳ kinh tế khác nhau và xem xét các yếu tố đặc
trưng về ngành nghề tới cấu trúc vốn doanh nghiệp. Thứ hai tác giả cũng đề xuất rằng cần
phải có các nghiên cứu tiếp theo xem xét các đặc trưng của cấu trúc vốn ở tại các doanh
nghiệp chưa niêm yết.
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Quang A (2006), “Vì sao doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả?”, Việt báo, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ http://vietbao.vn/Kinh-te/Vi-sao-doanh-nghiep-nha-nuoc- kem-hieu-qua/65065083/87/
Eshragh Mohatar (2002), “Eview và dữ liệu bảng,” người dịch Xinh Xinh, hiệu đính Trọng Hoài, tr.8
Trung Hưng (2010), “Kinh doanh đa ngành: Tham vọng cần uốn nắn”, Báo Hà Nội mới, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/Kinh- te/357467/kinh-doanh-da-nganh- tham-vong-can-uon-nan.htm
Hồng Phúc (2009), “Cải tổ doanh nghiệp nhà nước: Cổ phần hóa bị bỏ lửng”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, truy cập ngày 10/04/2011 tại địa chỉ http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/17352/
Pindyck, Robert S. và Rubinfeld, Daniel L. (1999), Kinh tế học vi mô, NXB Thống kê, tr.65
http://cafef.vn/2010041012337926CA34/bo-tran-lai-suat-qua-bong-
Huỳnh Bửu Sơn (2010), “Bỏ trần lãi suất: Quả bóng trong chân ai?”, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ trong-chan-ai.chn
Nguyễn Trường Sơn (2010), “Vấn đề quản trị công ty trong các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5, tr. 241
Stiglitz, Joseph E. (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr.236-255
Trần Chung Thủy (2009), “Nhận dạng và đo lường hiệu ứng đám đông trên thị trường chứng khoán Việt Nam và phân tích các nhân tố ảnh hưởng,” Luận văn thạc sĩ kinh tế, tr.3
Thủy Triều (2010), “Ngân hàng nan giải bài toán lãi suất”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, truy cập ngày 08/04/2011 tại địa chỉ http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/28729/
Theo Thông tấn xã Việt Nam được đăng lại bởi VnEconomy, truy cập ngày 08/04/2011tại điạ chỉ http://vneconomy.vn/59364P0C6/khong-con-tinh-trang-cho-vay-vuot-tran-lai- suat.htm
32
Tài liệu tiếng Anh
Bauer, P. (2004), “Determinants of Capital Structure Empirical Evidence from the Czech
Republic”, Czech Journal of Economics and Finance, Vol. 54, pp. 1-2.
Biger, N., Nguyen, N.V. and Hoang, N.V. (2008), “The determinants of capital structure:
Evidence from Vietnam,” International Finance Review,Vol 8, pp. 307- 326.
Booth, L.,V. Aivazian, A. Kunt-Demirguc, and V. Maksimovic. (2001), “Capital structure
in developing countries,” Journal of Finance, Vol. 56, pp. 87-130.
Guihai, H. and M.S. Frank. (2006), “The determinants of capital structure: Evidence
from China,” The China Economic Review, Vol. 17, No. 1, pp. 14-36.
Jean, J. Chen. (2004), “Determinants of capital structure of Chinese-listed companies,”
Journal of Business research, Vol. 57, No. 12, pp. 1341-1351.
Lai Thi Phuong Nhung (2010), “The Determinants of the Fundraising Structure of Listed
Companies in Vietnam: The Effects of Government Ownership”, Hitotsubashi
University, No 017, pp. 15-35.
Lee, J.W., Lee, Y.S. and Lee, B.S. (2000), “The determination of Corporate Debt in
Korea,” Asian Economic Journal, Vol.1, No.4, pp. 333-356.
Nguyen, Tran Dinh Khoi. and Neelakantan, Ramachandran. (2006), “Capital structure in
small and medium-sized enterprises: the case of Vietnam”, ASEAN Economic Bulletin,
Vol. 23, No.2, pp. 192-211.
Marsh, Paul. (1982), “The Choice between equity and debt: An empirical Study,” Journal
of Finance 37, pp. 121-144.
Michaelas, Nicos., Chittenden, Francis., Poutziouris,.Panikkos. (1999), “Financial Policy
and Capital Structure Choice in U.K. SMEs: Empirical Evidence from Company Panel
Data”, Small Business Economics, pp. 113–130.
Modigliani, F. and Miller, M.H. (1958), “The Cost of Capital, Corporate Finance, and the
Theory of Investment,” American Economic Review, Vol.48, pp. 261-275.
Modigliani, F. and Miller, M.H. (1963), “Corporate Income Taxes and the Cost of Capital-
A Correction,” American Economic Review, Vol. 53, pp. 276-298.
Myers, S. C. (1977), “Determinants of corporate borrowing, ” The Journal of Financial Economics 5, pp. 147-175. Myers, S. C. (1984), “The Capital Structure Puzzle, ” The Journal of Finance, Vol. 39, No. 3, pp. 575-592.
33
Myers, S.C. and Majluf, N. (1984), “Corporate financing and Investment decisions when
firms have information that investors do not have,” Journal of Financial Economics,
Vol.13, pp. 187-221.
OECD (2009), ”State owned enterprises in China:Reviewing the evidence,” p.5, available on Aug 04, 2010 at http://www.oecd.org/dataoecd/14/30/42095493.pdf Petersen, M. A. and R. G. Rajan (1994), “The benefits of lending relationships: Evidence
from small business data,” Journal of Finance, pp. 3-37.
Rajan, R. G., Zingales, L. (1995), “What Do We Know about Capital Structure? Some
http://siteresources.worldbank.org/INTVIETNAM/Resources/Overview_of_the_Capital_Markets_in_Vietnam.pdf
Evidence from International Data,” The Journal of Finance,Vol. 50, pp.1421-1460.
Workbank (2006), “Overview of the Capital Markets in Vietnam and Directions for Development,” p.16 available on Aug 04, 2010 at
34
PHỤ LỤC
30
25
Series: TDR Sample 2007 2009 Observations 498
20
15
10
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis
0.460590 0.484635 0.966798 0.030933 0.217642 -0.115264 2.002742
5
Jarque-Bera 21.73909 0.000019 Probability
0
0.250
0.375
0.500
0.625
0.750
0.875
0.125
Phụ lục 1: Thống kê tỷ lệ tổng nợ của các DNNY
240
200
Series: LDR Sample 2007 2009 Observations 498
160
120
80
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis
0.093940 0.034664 0.693009 0.000000 0.134307 1.999970 6.868555
40
Jarque-Bera 642.5286 0.000000 Probability
0
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
Phụ lục 2: Thống kê tỷ lệ nợ dài hạn của các DNNY
35
35
30
Series: SDR Sample 2007 2009 Observations 498
25
20
15
10
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis
0.366650 0.367905 0.857322 0.030758 0.193175 0.173821 2.054239
5
Jarque-Bera 21.06788 0.000027 Probability
0
0.125
0.250
0.375
0.500
0.625
0.750
0.875
Phụ lục 3: Thống kê tỷ lệ nợ ngắn hạn của các DNNY
140
120
Series: SOR Sample 2007 2009 Observations 498
100
80
60
40
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Skewness Kurtosis
0.288713 0.291675 0.854000 0.000000 0.228806 0.155683 1.861424
20
Jarque-Bera 28.91107 0.000001 Probability
0 0.000
0.125
0.250
0.375
0.500
0.625
0.750
0.875
Phụ lục 4: Thống kê tỷ lệ sở hữu nhà nước tại các DNNY
TDR
LDR
SDR
BGR
DER
ETR
FAR
HOSE
PROR
SIZE
SOR
TDR LDR SDR BGR DER ETR FAR HOSE PROR SIZE SOR
1.0 0.5 0.8 -0.2 0.0 -0.1 0.1 -0.2 -0.3 0.2 0.1
1.0 -0.2 -0.1 0.1 -0.1 0.5 -0.1 -0.2 0.4 0.2
1.0 -0.2 0.0 0.0 -0.3 -0.2 -0.2 -0.1 0.1
1.0 0.0 -0.1 0.0 0.1 0.4 0.0 0.0
1.0 -0.2 0.3 -0.2 0.1 -0.2 0.1
1.0 -0.2 0.1 0.0 0.0 -0.2
1.0 0.0 -0.1 0.1 0.2
1.0 0.0 0.2 -0.2
1.0 -0.1 0.1
1.0 0.0
1.0
Phụ lục 5: Ma trận tương quan
36
Phụ lục 6: Một số kết quả hồi quy (phân tích trong phần mềm Eview 6.0)
6.1. Kết quả ước lượng với Cross-section fixed và No weights
Dependent Variable: TDR Method: Panel Least Squares Date: 04/07/11 Time: 14:25 Sample: 2007 2009 Periods included: 3 Cross-sections included: 166 Total panel (balanced) observations: 498
Variable TDR CoefficientProb. LDR CoefficientProb. SDR CoefficientProb.
C ETR DER SIZE PROR FAR BGR SOR HOSE 0.4322 0.0724 -0.8360 0.00003 -0.4318 -0.0682 0.0055 0.3124 -0.0098 0.0441 0% 0.0218 25% 0% -0.3904 0% 0.00002 0% -0.0831 0.1576 23% 18% 0.0007 1% -0.0323 0.0205 62% 0.3881 15% 0.0506 62% 1% -0.4456 0% 0.00001 12% -0.3487 0% -0.2258 0.0049 82% 70% 0.3447 14% -0.0303 0% 44% 5% 22% 0% 0% 26% 1% 15%
Effects Specification Cross-section fixed (dummy variables) R-squared 0.909232 Adjusted R-squared 0.860766 S.E. of regression 0.081211 Sum squared resid 2.136868 Log likelihood 650.7321 F-statistic 18.76028 0 Prob(F-statistic) Mean dependent var 0.46059 S.D. dependent var 0.217642 Akaike info criterio -1.91459 -0.44341 Schwarz criterion Hannan-Quinn crite -1.3372 Durbin-Watson stat 2.564767 0.884479 0.822796 0.056538 1.035663 831.0827 14.33915 0 0.09394 0.134307 -2.63889 -1.16771 -2.0615 2.61113 0.87474 0.807857 0.084677 2.323127 629.9224 13.0787 0 0.36665 0.193175 -1.83101 -0.35984 -1.25363 2.544159
37
6.2. Kết quả ước lượng với Cross-section fixed, Period fixed và No weights
Dependent Variable: TDR, LDR, SDR Method: Panel Least Squares Date: 04/07/11 Time: 14:23 Sample: 2007 2009 Periods included: 3 Cross-sections included: 166 Total panel (balanced) observations: 498
LDR SDR
TDR CoefficienProb. CoefficientProb. CoefficientProb. Variable
C ETR DER SIZE PROR FAR BGR SOR HOSE 0% 0.04131 18% 0.38355 0% 0.42486 0.05757 37% 0.01106 80% 0.04650 49% 0% -0.41217 1% -0.40589 8% -0.81806 0% 0.00002 0% 0.00001 34% 0.00003 7% -0.33276 0% -0.43409 0% -0.10133 -0.06181 28% 0.15283 0% -0.21464 0% 0.00379 54% 0.00454 29% -0.00074 91% 1% -0.02984 72% 0.36339 0% 0.33355 9% -0.02439 26% 0.00025 99% 0.02465
Effects Specification Cross-section fixed (dummy variables) Period fixed (dummy variables)
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic) Mean dependent var S.D. dependent var Akaike info criterion Schwarz criterion Hannan-Quinn criter. Durbin-Watson stat 0.91017 0.86135 0.08104 2.11474 653.324 18.6435 0 0.46059 0.21764 -1.917 -0.4289 -1.3329 2.55777 0.885346 0.823033 0.0565 1.02789 832.9585 14.20821 0 0.09394 0.134307 -2.63839 -1.1503 -2.05437 2.601893 0.875738 0.808204 0.0846 2.304611 631.9149 12.96744 0 0.36665 0.193175 -1.83098 -0.3429 -1.24696 2.524018
38
6.3. Kết quả ước lượng với Cross-section Random, Period fixed
Dependent Variable: TDR, LDR, SDR Method: Panel EGLS (Cross-section random effects) Date: 04/07/11 Time: 14:28 Sample: 2007 2009 Periods included: 3 Cross-sections included: 166 Total panel (balanced) observations: 498 Swamy and Arora estimator of component variances
LDR
SDR
Variable
TDR CoefficientProb. CoefficientProb. CoefficientProb.
48% 87%
0.0120 0% 0.4895 0.0387 53% -0.0066 1% -0.2503 -0.5554 0% 0.00002 0.00002 0% -0.1363 -0.4709 0.2485 -0.0297 52% -0.0021 72% 0.0015 0.0486 0% 0.1904 4% -0.0031 -0.0360
0.4888 0.0372 6% -0.2086 0% 0.00000 1% -0.3555 0% -0.2594 71% -0.0060 0.1265 11% 78% -0.0459
0% 55% 31% 97% 0% 0% 32% 1% 1%
C ETR DER SIZE PROR FAR BGR SOR HOSE Effects Specification
Rho
Rho 0.82
Rho 0.705
0.764
0.0069 -0.0120 0.0051
-0.0020 -6.E-04 0.0031
0.0122 -0.0120 -4.E-04
0.18
0.295
0.236
0.174748 0.157802 0.083019 10.31228 0 0.46059 0.090463 3.356502 1.638192
0.270349 0.255367 0.05771 18.04428 0 0.09394 0.066878 1.621944 1.69252
0.136943 0.119222 0.085593 7.727358 0 0.36665 0.091202 3.567839 1.653452
Cross-section random Period fixed (dummy variables) 2007 2008 2009 Idiosyncratic random Weighted Statistics R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression F-statistic Prob(F-statistic) Mean dependent var S.D. dependent var Sum squared resid Durbin-Watson stat Unweighted Statistics R-squared Sum squared resid Mean dependent var Durbin-Watson stat
0.14769 20.06509 0.46059 0.274038
0.376997 5.585287 0.09394 0.491501
0.17711 15.26164 0.36665 0.386541
39
Phụ lục 7: Kết quả ước lượng của Lại Thị Phương Nhung (2010)
Nguồn: Lại Thị Phương Nhung (2010)
40
Phụ lục 8: Kết quả ước lượng của Nguyên và Neelakantan (2006)
Short-term liabilities ratio Debt ratio
Pro Coeff Pro Coeff
0% 0.1720 6% 0.0450 0% -0.0770 0.0880 0% -0.0340 16% 0% 0.2240 0% 0.3000 0.2640 0.0260 -0.1720 0.0620 -0.0420 0.1770 0.3010 0% 32% 0% 2% 12% 0% 0%
0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0%
0.4130 0.2050 0.1560 0.0900 0.7130 130.1400 0.0000 0.4230 0.1770 0.1700 0.0920 0.6520 98.3500 0.0000
(Constant) Growth Tangibility Business risk Profitability Size Ownership Business relation with banks Social relation with banks Business networks Social networks Adj. R-square F--stat Sig. Nguồn: Nguyên và Neelakantan (2006)