BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ TRÚC HƯƠNG

ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ AN XUYÊN,

THÀNH PHỐ CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

LÊ TRÚC HƯƠNG

ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ AN XUYÊN,

THÀNH PHỐ CÀ MAU

Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8340403

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN GIÁP

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này do tôi tiến hành tham khảo tài liệu, khảo sát

thu thập tư liệu, thông tin và viết. Các đoạn trích dẫn, số liệu sử dụng trong luận văn

được trích nguồn có độ tin cậy trong phạm vi nhận thức của bản thân.

Ngày 20 tháng 3 năm 2019

Người thực hiện

Lê Trúc Hương

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

RESEARCH SUMMARY

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ___________________________________________ 1

1.1. Đặt vấn đề ____________________________________________________ 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ___________________________________________ 3

1.3. Câu hỏi nghiên cứu ____________________________________________ 3

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ________________________________ 3

1.4.1. Đối tượng nghiên cứu ________________________________________ 4

1.4.2. Phạm vi nghiên cứu _________________________________________ 4

1.5. Phương pháp nghiên cứu _______________________________________ 4

1.5.1. Địa điểm nghiên cứu _________________________________________ 4

1.5.2. Phương pháp thu thập số liệu __________________________________ 5

1.5.3. Bảng hỏi khảo sát ___________________________________________ 5

1.5.4. Phân tích dữ liệu ____________________________________________ 6

1.6. Cấu trúc của luận văn __________________________________________ 6

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU __________ 7

2.1. Cơ sở lý thuyết ________________________________________________ 7

2.1.2. Vai trò của người dân trong xây dựng NTM 12

2.1.1. Một số khái niệm ____________________________________________ 7

2.2. Cơ sở thực tiễn _______________________________________________ 13

2.2.1. Phong trào Làng mới ở Hàn Quốc _____________________________ 13

2.2.2. Kinh nghiệm phát triển nông thôn của Nhật Bản __________________ 15

2.2.3. Kinh nghiệm trong xây dựng NTM của Trung Quốc _______________ 17

2.2.4. Kết quả xây dựng NTM ở Việt Nam ____________________________ 18

2.3. Khung phân tích đề xuất _______________________________________ 21

2.3.1. Nhóm yếu tố chủ quan ______________________________________ 22

2.3.2. Nhóm yếu tố khách quan _____________________________________ 23

CHƯƠNG 3. SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG

THÔN MỚI TẠI XÃ AN XUYÊN ____________________________________ 24

3.1. Quá trình xây dựng NTM tại xã An Xuyên _______________________ 24

3.2. Kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM tại xã An Xuyên ______ 25

3.3. Thực trạng người dân tham gia xây dựng NTM tại xã An Xuyên _____ 33

3.3.1. Mô tả tổng quát mẫu khảo sát ________________________________ 33

3.3.2. Hiểu biết của người dân về xây dựng NTM tại xã An Xuyên _________ 38

3.3.3. Sự tham gia của cư dân nông thôn trong xây dựng NTM ___________ 40

3.3.4. Đánh giá của cư dân nông thôn về kết quả xây dựng NTM __________ 41

CHƯƠNG 4. THẢO LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP________________ 52

4.1. Đánh giá kết quả xây dựng NTM tại xã An Xuyên _________________ 52

4.2. Hạn chế của nghiên cứu và định hướng các nghiên cứu tiếp theo _____ 54

4.3. Nguyên nhân hạn chế _________________________________________ 55

4.4. Giải pháp xây dựng NTM bền vững tại xã An Xuyên _______________ 59

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ___________________________________________ 62

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Tiếng Việt

NTM Nông thôn mới

TP Thành phố

UBND Uỷ ban nhân dân

HTX Hợp tác xã

THT Tổ hợp tác

BCĐ Ban chỉ đạo

CNH – HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

UBMTTQ Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1 Giới tính người được khảo sát _________________________________ 34

Bảng 3.2 Về độ tuổi người được khảo sát ________________________________ 34

Bảng 3.3. Học vấn của người được khảo sát ______________________________ 35

Bảng 3.4. Cấu trúc nghề nghiệp người được khảo sát _______________________ 37

Bảng 3.5 Thời gian cư trú người được khảo sát ____________________________ 38

Bảng 3.6. Người dân tiếp cận thông tin qua họp UBND xã __________________ 39

Bảng 3.7. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí điện ___________________ 41

Bảng 3.8. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện nước sạch sinh hoạt _____________ 42

Bảng 3.9. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thuỷ lợi ________________ 43

Bảng 3.10. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giao thông _____________ 45

Bảng 3.11. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giáo dục _______________ 46

Bảng 3.12. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí y tế __________________ 47

Bảng 3.13. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí nhà ở dân cư ___________ 48

Bảng 3.14. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thu nhập ______________ 49

Bảng 3.15. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí hộ nghèo ______________ 50

DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1 Sơ đồ mức độ tham gia của người dân ___________________________ 11

Hình 2.2. Khung phân tích ROCCIPI ___________________________________ 21

Hình 3.1. Tỷ lệ giới tính của người được khảo sát __________________________ 34

Hình 3.2. Độ tuổi của người được khảo sát _______________________________ 35

Hình 3.3. Trình độ học vấn của người được khảo sát _______________________ 36

Hình 3.4. Cấu trúc nghề nghiệp người được khảo sát _______________________ 37

Hình 3.5 Thời gian cư trú người được khảo sát ____________________________ 38

Hình 3.6. Người dân tiếp cận thông tin qua họp UBND xã ___________________ 39

Hình 3.7. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí điện ___________________ 42

Hình 3.8. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện nước sạch sinh hoạt _____________ 43

Hình 3.9. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thuỷ lợi ________________ 44

Hình 3.10. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giao thông _____________ 45

Hình 3.11. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giáo dục _______________ 46

Hình 3.12. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí y tế ___________________ 47

Hình 3.13. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí nhà ở dân cư ___________ 48

Hình 3.14. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thu nhập _______________ 49

Hình 3.15. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí hộ nghèo ______________ 50

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai, tổ

chức thực hiện trên địa bàn 7 xã của thành phố Cà Mau. Sau hơn 9 năm thực hiện,

thành phố Cà Mau có 5 trên tổng số 7 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Trong đó, xã An Xuyên được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016 có đặc

điểm mang tính đại diện cho các xã trên địa bàn thành phố Cà Mau cả về điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.

Luận văn đã nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sự tham gia của người dân trong xây

dựng nông thôn mới tại xã An Xuyên. Từ nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn rút

ra những bài học kinh nghiệm, phân tích các vấn đề vướng mắc, tồn tại trong quá

trình xây dựng nông thôn mới để đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện thành công

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Cà

Mau. Từ kết quả khảo sát tại xã An Xuyên cho thấy, phần lớn người dân được phỏng

vấn đều biết về Chương trình xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết

về từng tiêu chí nông thôn mới còn chưa rõ. Thông tin tiếp cận chỉ dừng lại các khẩu

hiệu tuyên truyền hoặc thông qua các buổi họp của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã

hội ở cơ sở; hoặc khi được sự vận động đóng góp công sức và vật chất xây dựng nông

thôn mới... Đây là những thách thức đối với xã An Xuyên nhằm giữ vững và nâng

cao chất lượng của 19 tiêu chí nông thôn mới.

Để cải thiện sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới tại xã An

Xuyên, luận văn đưa ra một số kiến nghị: Thông báo kịp thời, đầy đủ, cụ thể các

thông tin liên quan xây dựng nông thôn mới để người dân được biết; tiếp thu và tôn

trọng ý kiến đóng góp của người dân về xây dựng nông thôn mới; tổ chức thực hiện

có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ sở theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra, dân hưởng lợi”; công khai, minh bạch các hoạt động liên quan đến xây dựng

nông thôn mới.

RESEARCH SUMMARY

National target program of new rural construction is deployed, organizations

implemented in 7 communes in Ca Mau city. After more than 9 years of

implementation, the city of Ca Mau has 5 out of 7 communes recognized standard

new countryside. In it, An Xuyen be recognized as the new rural standards in 2016

has characteristics which are representative of the communes in Ca Mau city, both in

terms of natural conditions, economic - social, defense - security security.

Thesis studied, evaluate the effectiveness of the participation of the people in

building a new countryside in An Xuyen. From theoretical studies and field surveys

to draw lessons, analyze issues and problems and shortcomings in the process of

building new countryside to propose solutions that contribute to the successful

implementation of the Program national target new rural construction in the province

of Ca Mau city. From the survey results in An Xuyen showed that the majority of

people interviewed were aware of the program of building new

countryside. However, the level of understanding of each new rural criteria

unclear. Information accessible stop the propaganda slogans or through the meetings

of the political organizations, society at grassroots level; or when the movement to

contribute material and new rural construction... These are challenges for An Xuyen

commune in order to maintain and improve the quality of 19 new rural criteria.

To improve the participation of the people in building a new countryside in An

Xuyen, essays offer some recommendations: Announcement timely, full and specific

information regarding building new rural areas to people are known; receptive and

respectful comments of people about the new rural construction; organize effective

grassroots democracy Regulation on the principle of “People know, people discuss,

people do and people check, people benefit”; publicity and transparency of activities

related to the construction of new countryside.

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

1.1. Đặt vấn đề

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí và vai trò quan trọng trong sự nghiệp

phát triển đất nước. Từ những thách thức mới của phát triển nông thôn, Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khoá X) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng

8 năm 2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, khẳng định ý nghĩa và tầm quan

trọng của khu vực nông thôn trong tiến trình phát triển đất nước. Theo đó, Chính phủ

đã cụ thể hoá và triển khai chiến lược “Tam nông” của Đảng thành chương trình Xây

dựng Nông thôn mới (NTM) thông qua Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng

10 năm 2008. Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động về nông nghiệp, nông

dân, nông thôn bao gồm: Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 ban

hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM (19 tiêu chí); Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04

tháng 6 năm 2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai

đoạn 2010 - 2020; Quyết định số 1980/QĐ-TTg, ngày 17 tháng 10 năm 2016 về việc

ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 - 2020.

Đối với tỉnh Cà Mau, để cụ thể hóa văn bản chỉ đạo của Trung ương về xây

dựng NTM, ngày 27 tháng 12 năm 2010, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Chỉ

thị số 02-CT/TU về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu

Quốc gia về xây dựng NTM; Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 12 tháng 7 năm 2011

của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng NTM tỉnh Cà Mau giai đoạn 2011-

2015 và những năm tiếp theo; Quyết định số 2025/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm

2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (UBND) về việc ban hành lại Bộ tiêu chí về

NTM tỉnh Cà Mau; Chương trình số 15-CTr/TU ngày 20 tháng 10 năm 2011 của Ban

Chấp hành Đảng bộ thành phố Cà Mau thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh Cà Mau về xây dựng NTM tỉnh Cà Mau giai đoạn 2011 - 2015 và những

năm tiếp theo; Kế hoạch số 71/KH-UBND ngày 21 tháng 10 năm 2011 của UBND

thành phố Cà Mau về xây dựng NTM thành phố Cà Mau giai đoạn 2011 - 2015 và

định hướng đến năm 2020.

2

Tại Cà Mau, Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM được triển khai

thực hiện từ năm 2011 đã tạo sự đồng lòng, hưởng ứng của cả hệ thống chính trị và

nhân dân, từ đó đạt được những kết quả quan trọng. Tính đến tháng 10 năm 2018,

tổng số tiêu chí đạt được 1.022 tiêu chí, bình quân 12,5 tiêu chí/xã. Có 29 xã đạt

chuẩn NTM, chiếm 35,4%; có 35 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí, chiếm 42,7%; 18 xã đạt

từ 06 - 09 tiêu chí, chiếm 21,9%; không còn xã dưới 06 tiêu chí.

Thành phố Cà Mau (TP) là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh

Cà Mau, đồng thời là đơn vị dẫn đầu về thành tích xây dựng NTM của tỉnh khi có 5/7

xã đạt chuẩn NTM, chiếm 71,4%. Chương trình NTM đã góp phần nâng tầm kinh tế

khu vực nông thôn; phát triển kinh tế phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương

mại và dịch vụ; kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn, nhất là ở các xã đã đạt chuẩn

NTM được đầu tư xây dựng ngày càng hoàn thiện; đời sống vật chất và tinh thần của

người dân nâng lên rõ rệt. Nổi bật là xã An Xuyên đã xuất hiện nhiều cách làm hay,

sáng tạo trong xây dựng NTM, là điển hình tiêu biểu trong việc huy động sự tham gia

của người dân vào xây dựng NTM của TP Cà Mau.

Trong quá trình xây dựng NTM, người dân xã An Xuyên thể hiện rõ vai trò chủ

thể trung tâm, mọi nhà và mọi người ra sức đóng góp trí tuệ, công sức, vật chất để

xây dựng NTM. Phong trào thi đua đóng góp ngày công lao động, hiến đất và đóng

góp tiền của để xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn được thực hiện và lan toả

trên địa bàn các ấp. Kinh tế tập thể phát triển, nhiều mô hình sản xuất mang lại hiệu

quả kinh tế cao và ổn định được triển khai, nhân rộng, như mô hình hợp tác xã (HTX)

nuôi cá chình, cá bống tượng, HTX trồng rau an toàn và dưa hấu theo tiêu chuẩn

VietGap, tổ hợp tác (THT) du lịch nhà vườn. Nhờ đó, xã An Xuyên trở thành nơi

cung ứng nguồn nông sản sạch cho TP Cà Mau và là địa điểm du lịch trải nghiệm

giàu tiềm năng. Chương trình xây dựng NTM đã góp phần làm thay đổi diện mạo xã

An Xuyên. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện và nâng cao.

Quy chế dân chủ cơ sở theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,

dân thụ hưởng” được mở rộng. Hiệu quả đầu tư các công trình xây dựng cơ sở hạ

tầng NTM xã An Xuyên làm cơ sở định hướng và đề xuất cho giai đoạn nâng chất xã

3

NTM trong giai đoạn tiếp theo mang tính khả thi. Mức độ hài lòng của người dân về

Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn xã An Xuyên khá cao, và có sự đồng thuận

giữa chính quyền và người dân trong xây dựng NTM.

Tuy nhiên, trên thực tế xây dựng NTM còn phụ thuộc nhiều vào nguồn ngân

sách Nhà nước và các nguồn lực bên ngoài, chưa phát huy được nội lực của cộng

đồng. Một số mô hình kinh tế tập thể chưa mang lại hiệu quả bền vững. Thu hút đầu

tư vào lĩnh vực nông thôn còn hạn chế. Một số tiêu chí NTM đạt được nhưng chưa

bền vững như tiêu chí về tình hình an ninh trật tự, vệ sinh môi trường. Một số công

trình đã đầu tư, xây dựng có dấu hiệu xuống cấp sau thời gian sử dụng, nhất là các

công trình giao thông, trụ sở ấp văn hoá. Nhận thức và sự tham gia của người dân

trong xây dựng NTM còn thụ động và chưa toàn diện. Đặc biệt, hiện nay chưa có

những khảo sát, nghiên cứu và đánh giá về sự tham gia của người dân trong xây dựng

NTM trên địa bàn xã An Xuyên để rút kinh nghiệm và góp phần nâng cao hiệu quả

sự tham gia của người dân trong chương trình NTM. Vì vậy, đề tài: “Đánh giá sự

tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới tại xã An Xuyên, thành

phố Cà Mau” là rất cần thiết.

Đánh giá sự tham gia của người dân một cách khách quan trong xây dựng NTM

là tất yếu. Cải thiện sự tham gia của người dân vừa là hành động vừa là mục đích của

chính sách xây dựng NTM. Bởi khi sự tham gia của người dân được cải thiện thì

nguồn lực đầu tư cho xây dựng NTM tăng lên và thúc đẩy người dân tự tin đưa ra

sáng kiến, tích cực, chủ động tham gia vào xây dựng NTM tại địa phương.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Đánh giá thực trạng sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại xã

An Xuyên, TP Cà Mau.

- Đề xuất những giải pháp tăng cường sự tham gia của người dân trong xây

dựng NTM.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

4

Câu hỏi 1: Thực trạng sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại xã

An Xuyên, TP Cà Mau hiện nay như thế nào?.

Câu hỏi 2: Làm thế nào để cải thiện sự tham gia của người dân trong xây dựng

NTM tại Cà Mau?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Đối tượng nghiên cứu

Sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại xã An Xuyên, thành phố

Cà Mau.

Đối tượng khảo sát: Người dân trên địa bàn xã An Xuyên, thành phố Cà Mau:

- Cán bộ đang công tác trong Mặt trận, các đoàn thể, chính quyền địa phương.

- Nhóm người dân:

+ Chủ sản xuất kinh doanh, hộ kinh doanh.

+ Cá nhân (công chức Nhà nước).

+ Người dân hoạt động sản xuất nông nghiệp.

+ Người dân hoạt động sản xuất phi nông nghiệp (công nhân, làm thuê,…).

1.4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện tại xã An Xuyên, thành phố Cà Mau. Ngoài ra,

các thông tin, dữ liệu thứ cấp được thu thập từ Ban chỉ đạo (BCĐ) xây dựng NTM

thành phố Cà Mau và Văn phòng điều phối các Chương trình mục tiêu Quốc gia xây

dựng NTM tỉnh Cà Mau.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu định tính, với trình tự

các bước như sau:

- Tham khảo ý kiến góp ý của các chuyên gia để xây dựng và hiệu chỉnh bảng

câu hỏi khảo sát.

5

- Tiến hành việc khảo sát lấy ý kiến của người dân xã An Xuyên, TP Cà Mau

để đánh giá thực trạng về hiệu quả sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM.

Kỹ thuật thu thập thông tin trực tiếp bằng bảng câu hỏi được gửi trực tiếp đến

các hộ dân; sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất với hình thức chọn mẫu

thuận tiện.

Sử dụng công cụ phân tích thống kê mô tả.

Thông tin sơ cấp: thu thập thông qua phỏng vấn, các buổi thảo luận và phát

trực tiếp phiếu khảo sát đến các hộ dân xã An Xuyên, TP Cà Mau.

Thông tin thứ cấp: xem xét các báo cáo của UBND TP Cà Mau và UBND xã

An Xuyên, TP Cà Mau.

1.5.1. Địa điểm nghiên cứu

Khảo sát được thực hiện 11/11 ấp của xã An Xuyên, thành phố Cà Mau.

Xã An Xuyên, thành phố Cà Mau là một trong 5 xã được Ủy ban nhân dân tỉnh

Cà Mau (UBND) chọn chỉ đạo điểm của tỉnh về xây dựng NTM.

1.5.2. Phương pháp thu thập số liệu

Tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Sử dụng phương pháp

chọn mẫu thuận tiện; nghiên cứu thực địa, phân tích, so sánh và thống kê mô tả để trả

lời các câu hỏi nghiên cứu.

1.5.3. Bảng hỏi khảo sát

Tổng cộng có 120 lượt người được điều tra bằng phiếu câu hỏi trên địa bàn

11/11 ấp của xã An Xuyên. Nội dung phiếu câu hỏi tập trung vào 3 chủ đề chính:

- Thông tin cá nhân của người trả lời.

- Hiểu biết của người dân về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM

trên địa bàn.

- Sự tham gia của cư dân nông thôn về xây dựng NTM.

- Đánh giá về kết quả xây dựng NTM.

6

1.5.4. Phân tích dữ liệu

Từ các biên bản phỏng vấn nhóm và các biên bản làm việc, tác giả đánh giá,

phân tích, so sánh, rút ra các vấn đề ý nghĩa mang tính phổ biến để tổng hợp, khái

quát hóa các vấn đề nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM.

Các thông tin phỏng vấn bằng phiếu điều tra soạn sẵn, sau đó được mã hoá,

nhập vào bảng dữ liệu Excel và được phân tích với phần mềm SPSS 20.0 Các phương

pháp thống kê, mô tả, tần suất, các kiểm định khác biệt và quan hệ được áp dụng để

tổng quát hoá kết quả.

1.6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm có 5 chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu; mục tiêu, câu hỏi, đối tượng, phạm vi

và phương pháp nghiên cứu.

Chương 2. Tổng quan cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trong và ngoài nước.

Chương 3. Kết quả nghiên cứu, phân tích dữ liệu, thông tin khảo sát sự tham gia

của người dân trong xây dựng NTM tại xã An Xuyên, thành phố Cà Mau.

Chương 4. Thảo luận và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả sự tham gia của

người dân trong xây dựng NTM tại xã An Xuyên, thành phố Cà Mau.

Chương 5. Kết luận.

7

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Một số khái niệm

- Khái niệm nông thôn: Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong

đó có nhiều nông dân. Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã

hội, môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ

chức khác (Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2005). Theo định nghĩa chính thống

của Chính phủ Việt Nam thì nông thôn được hiểu là “Vùng nông thôn là khu vực địa

giới hành chính không bao gồm địa bàn của phường, quận thuộc thị xã, thành phố”

(Khoản 1, Điều 3 Chương 1, Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2010

của Chính Phủ).

Theo Trần Tiến Khai (2015), sự khác biệt ở khía cạnh không gian, lãnh thổ, điều

kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng nông thôn so với thành thị được thể hiện qua

các đặc trưng riêng biệt như: Ở nông thôn có quy mô,dân số thấp, dân cư sống rải rác,

thưa thớt; không gian lãnh thổ ở nông,thôn rộng lớn, nhiều vùng địa lý đa dạng; điều

kiện tự nhiên ở nông thôn là vùng không gian mở, đa dạng điều kiện tự nhiên, đất,

nước, rừng, khí hậu, sinh cảnh môi trường. Nông,thôn là nơi có nguồn tài nguyên tự

nhiên sinh học, tính đa dạng sinh học cao, phong phú về sinh thái và cảnh quan thiên

nhiên đẹp; hoạt động,kinh tế ở nông thôn chủ yếu sản xuất nông nghiệp (các hoạt

động sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp) và gần với các điều kiện tự

nhiên; thu nhập nông thôn thấp (hoạt động kinh tế kém đa dạng, tính rủi ro cao, lệ

thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên); khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành

thị chênh lệch khá lớn; hạ tầng cơ sở kỹ thuật ở nông thôn có hệ thống giao thông,

bến cảng, kho bãi, cơ sở hạ tầng, viễn thông liên lạc còn yếu kém; hạ tầng xã hội ở

nông thôn còn kém phát triển, hệ thống cơ sở dịch vụ công cho giáo,dục, y tế còn hạn

chế. Mặt bằng dân trí thấp; văn hóa ở nông thôn mang nét văn hóa truyền thống và

bản địa, các phong tục, tập quán cổ truyền mang tính đặc thù theo từng địa phương.

8

- Khái niệm nông thôn mới: Theo Nghị quyết số 26-NQ-TW của Trung ương,

NTM là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ

cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển

nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã

hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; môi trường sinh thái

được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người

dân ngày càng được nâng cao.

- Khái niệm phát triển nông thôn: Dower (2001, trang 31) định nghĩa “Phát triển

nông thôn là một quá trình thay đổi bền vững và có chủ ý về xã hội, kinh tế, văn hoá

và môi trường nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người dân địa phương”. Cộng

đồng Châu Âu cho rằng phát triển nông thôn thể hiện ở ba mục tiêu: một là, cải thiện

năng lực cạnh tranh của nông nghiệp; hai là, cải thiện môi trường và cảnh quan nông

thôn; ba là, cải thiện chất lượng đời sống nông thôn và khuyến khích đa dạng hoá các

hoạt động kinh tế. USDA (2006) định nghĩa phát triển nông thôn là “Cải thiện các

điều kiện của cộng đồng nông thôn một cách tổng thể, bao gồm kinh tế và chất lượng

cuộc sống ở các phương diện khác như môi trường, sức khoẻ, cơ sở hạ tầng và nhà

ở”. OECD (dẫn theo United Nations, 2007) cho rằng phát triển nông thôn chú trọng

sự khác biệt tính chất lãnh thổ, chủ đề phát triển và mang tính động, vì vậy nó phải

được hiểu trong một tiến trình trung hạn và dài hạn mang tính động về lịch sử và được

phản ảnh ở các khía cạnh thay đổi công nghệ, kinh tế và xã hội.

Theo Trần Tiến Khai, (2015), khái niệm về phát triển nông thôn chú trọng vào

bốn vấn để cốt lõi. Thứ nhất, về kinh tế: Phát triển một nông thôn đa dạng hóa nghề

nghiệp, tạo ra,nhiều cơ hội công ăn việc làm, tạo ra giá trị gia,tăng cho vùng. Thứ hai,

về văn hóa xã hội: Gìn giữ lưu truyền, tái hiện, xây dựng nét văn hóa truyền thống

gắn với tôn vinh tinh thần cội nguồn dân tộc dựa trên các nền tảng xã hội. Thứ ba, về

chính trị và thể chế: Đảm bảo quyền tự chủ, sở hữu cộng đồng, đảm bảo cơ chế phân

quyền và thể chế hóa sự tham gia công chúng, tính trật tự an ninh chính trị, cơ chế

gọn nhẹ đáp ứng nguyện vọng, mong đợi của công chúng, thúc đẩy được sự tự chủ

9

trong việc nắm bắt các cơ hội tiếp cận công bằng các quyền lợi trong hầu hết các dịch

vụ. Thứ tư, về môi trường: Chất lượng môi trường cảnh quan sạch và bền vững.

Nhìn chung, khái niệm về phát triển nông thôn bao hàm chuyển biến và tiến bộ

của nông thôn trên các phương diện kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường và thể chế;

quan tâm toàn diện đến phúc lợi của cộng đồng ở nông thôn mà chính người nông

dân được thụ hưởng, bao gồm các lĩnh vực giáo dục, y tế, dịch vụ xã hội và cơ sở hạ

tầng kỹ thuật. Nói cách khác, các quan niệm phát triển nông thôn đều nhấn mạnh sự

kết hợp giữa việc cải thiện mức sống, kinh tế - xã hội cho cư dân nông thôn, nhất là

người nghèo và bền vững về môi trường; lấy con người làm trung tâm; và phát triển

đa ngành (Trần Tiến Khai, 2015).

- Khái niệm về sự tham gia của người dân: Sự tham,gia của người dân được tiếp

cận ở nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào hoạt động và mức độ tham gia của người

dân. Theo Florin, Paul (1990), “Sự tham gia của ngươi dân là một quá trình trong đó

các cá nhân tham gia vào việc ra quyết định trong các tổ chức, chương trình và môi

trường ảnh hưởng đến họ”. Theo Setty (1991), “Sự tham gia của người dân là người

dân cùng với các cơ quan phát triển xây dựng chương trình hoạt động, lựa chọn ưu

tiên, khởi xướng và thực hiện các dự án bằng cách đóng góp ý kiến, mối quan tâm,

vật liệu, tiền bạc, lao động và thời gian”. Sự tham gia của người dân trong chương

trình xây dựng NTM là một quá trình mà Nhà nước và người dân cùng nhận một số

trách nhiệm cụ thể trong việc phát triển nông thôn và tiến hành các hoạt động để thực

hiện trách nhiệm của mình, mang lại hiệu quả thiết thực cho người nông dân. Sự tham

gia của người dân trong chương trình xây dựng NTM là đảm bảo cho người nông

dân, người chịu ảnh hưởng từ chương trình, được tham gia quyết định chương trình

xây dựng NTM. Sự tham gia của người dân xây dựng NTM là tìm và huy động các

nguồn lực từ người dân để thực hiện chương trình, qua đó làm tăng lợi ích cho người

nông dân.

Theo định nghĩa của Andre, P; P. Martin và G. Lanmafankpotin (2012) thì “Sự

tham gia của người dân là một quá trình mà trong đó có những người dân thường

10

tham gia trên cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc”. Có thể chia thành 6 cấp độ tham gia

của người dân như sau:

o Thứ nhất, tham gia thụ động: Trong các hoạt động người dân thụ động tham

gia, bảo gì làm nấy, không quan tâm vào quá trình ra quyết định.

o Thứ hai, tham gia thông qua việc cung cấp thông tin: Thông qua việc trả lời

các câu hỏi điều tra của các nhà nghiên cứu, người dân không tham dự vào quá trình

phân tích và sử dụng thông tin.

o Thứ ba, tham gia như nhà tư vấn: Trong hoạt động này người dân được tham

vấn và đưa ra ý kiến về các vấn đề tại địa phương.

o Thứ tư, tham gia trong việc thực hiện: Trong các hoạt động người dân thành

lập nhóm để thực hiện những chương trình hay các dự án tại địa phương, tuy nhiên ở

cấp độ này họ không tham dự vào quá trình ra quyết định.

o Thứ năm, tham gia vào quá trình ra quyết định: Người dân chủ động tham

gia vào các quá trình phân tích và lập kế hoạch, được tham gia trực tiếp vào quá trình

ra quyết định tại địa phương.

o Thứ sáu, tự nguyện tham gia: Người dân tự thực hiện từ đầu mọi công việc,

lên kế hoạch và đánh giá các hoạt động, việc này được thực hiện không có sự hỗ trợ,

định hướng từ bên ngoài.

11

Hình 2.1 Sơ đồ mức độ tham gia của người dân

Nguồn: Andre, P; P. Martin và G. Lanmafankpotin (2012)

Theo Quỹ phát triển Nông nghiệp thế giới (IFAD, 2009) mục tiêu phát triển

nông thôn hướng đến cộng đồng mang lại cho cộng đồng và chính quyền địa phương

quyền kiểm soát các quyết định quy hoạch và các nguồn lực đầu tư. Sự tham gia tích

cực của người dân vào quá trình phát triển đã trở nên phổ biến hơn trong những năm

1990 và 2000. Phát triển có sự tham gia nhấn mạnh cách tiếp cận từ dưới lên chứ

không phải từ trên xuống, ưu tiên các mục tiêu trao quyền và ưu tiên nhu cầu của địa

phương.

Phát triển nông thôn theo hướng cộng đồng nhấn mạnh vai trò của các tổ chức

cộng đồng trong việc ra quyết định về quá trình phát triển kinh tế - xã hội có ảnh

hưởng trực tiếp đến sinh kế của họ; cách tiếp cận từ dưới lên hiện đang được chú

trọng như một xu hướng mới, xem cộng đồng là chủ thể của sự thay đổi và là người

12

cộng tác trong phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào việc ra

quyết định; tăng cường sức mạnh và hiệu quả của các chương trình, dự án.

2.1.2. Vai trò của nông dân trong việc tham gia xây dựng NTM

Sự tham gia của nông dân vào xây dựng NTM được coi như nhân tố quan trọng,

quyết định sự thành bại của tiếp cận phát triển dựa vào nội lực cộng đồng được thí

điểm trong chương trình NTM. Khi tham gia xây dựng NTM với sự hỗ trợ của Nhà

nước, người dân tại các cộng đồng dân cư nông thôn sẽ từng bước được tăng cường

kỹ năng, năng lực về quản lý, giám sát cộng đồng nhằm tận dụng các nguồn lực tại

chỗ và bên ngoài. Khi xem xét quá trình tham gia của người dân trong các hoạt động

xây dựng NTM phải đảm bảo nguyên tắc: Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm,

dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi. Như vậy, vai trò người dân phù hợp với

quan điểm của Nhà nước về việc “Lấy dân làm gốc”. Các nội dung thể hiện vai trò

tham gia của người dân trong xây dựng NTM được hiểu:

Dân biết: Là quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết của người dân về những kiến

thức bản địa có thể đóng góp vào quá trình quy hoạch nông thôn, quá trình khảo sát

thiết kế các công trình hạ tầng nông thôn. Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia

hiệu quả hơn vào các giai đoạn sau của quá trình xây dựng công trình; người dân nắm

được thông tin đầy đủ về công trình mà họ tham gia như: mục đích xây dựng công

trình, quy mô công trình, tiến độ xây dựng, yêu cầu đóng góp từ cộng đồng, trách

nhiệm và quyền lợi của cộng đồng người dân được hưởng lợi.

Dân bàn: Bao gồm sự tham gia ý kiến của người dân liên quan đến kế hoạch

phát triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt động của nông dân trên địa

bàn, như: bàn luận mở ra một hướng sản xuất mới, đầu tư xây dựng công trình phúc

lợi công cộng, các giải pháp thiết kế, phương thức khai thác công trình, tổ chức quản

lý công trình, các mức đóng góp và các định mức chi tiêu từ các nguồn thu, phương

thức quản lý tài chính trong nội bộ cộng đồng dân cư hưởng lợi.

Dân làm: Chính là sự tham gia lao động trực tiếp từ người dân vào các hoạt

động phát triển nông thôn như: đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn, các hoạt động của

13

nhóm khuyến nông, khuyến lâm, nhóm tín dụng tiết kiệm, những công việc liên quan

đến tổ chức tiếp nhận, quản lý và sử dụng công trình. Người dân trực tiếp tham gia

vào quá trình cụ thể trong việc lập kế hoạch có sự tham gia cho từng hoạt động thi

công, quản lý và duy tu bảo dưỡng, từ những việc tham gia đó đã tạo cơ hội cho người

dân có việc làm, tăng thu nhập, ngoài ra còn là cơ hội để người dân tham gia góp

công sức, của cải để xây dựng NTM. Hình thức đóng góp có thể bằng tiền, sức lao

động, vật tư, hiến đất hoặc đóng góp bằng trí tuệ.

Dân kiểm tra: Dân kiểm tra mọi vấn đề, mọi công việc đề ra là biểu hiện cao

nhất của tinh thần dân chủ. Từ chủ trương của Nhà nước đưa ra xây dựng hạ tầng

nông thôn hoặc như việc cấp đất, cấp vốn cho một đơn vị, cho đến hiệu quả đích thực

của các vấn đề đầu tư xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các giải pháp thiết kế,

phương thức khai thác công trình, tổ chức quản lý công trình, các mức đóng góp và

các định mức chi tiêu từ các nguồn thu, phương thức quản lý tài chính…đều phải

được dân kiểm tra, chất vấn, theo dõi, giám sát đến nơi đến chốn.

Dân hưởng lợi: Dân được hưởng những gì dân làm, dân đóng góp trong quá

trình xây dựng NTM.

Các nguyên tắc xây dựng NTM theo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

NTM giai đoạn 2010 - 2020: Xây dựng NTM theo chuẩn mực là bộ tiêu chí quốc gia

NTM do Thủ tướng Chính phủ ban hành; phạm vi thực hiện là địa bàn cấp xã; cộng

đồng dân cư là chủ thể tham gia xây dựng NTM; chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng NTM là chương trình khung, tổng thể, bao trùm các mục tiêu về phát triển nông

thôn đã được xác định các nội dung cần thiết để đạt 19 tiêu chí.

2.2. Cơ sở thực tiễn

2.2.1. Phong trào Làng mới ở Hàn Quốc

Theo nghiên cứu của Trần Tiến Khai (2015), phong trào Làng mới là một sáng

kiến chính trị được Tổng thống Hàn Quốc Park Chung Hy triển khai vào năm 1970

để hiện thực hóa kinh tế nông thôn Hàn Quốc. Ngay từ khi bắt đầu phong trào Làng

mới, Chính phủ Hàn Quốc đã xác định 3 nhân tố chính để phát triển nông thôn là

14

“Chăm chỉ - Tự lực - Hợp tác”. Trong đó, chăm chỉ là động cơ tự nguyện của người

dân, không ngừng vượt qua khó khăn để tiến tới thành công; tự lực là ý chí bản thân,

tinh thần làm chủ, chịu trách nhiệm về cuộc sống và vận mệnh của bản thân; hợp tác

là nhận thức về mong muốn phát triển cộng đồng phải nhờ vào nỗ lực của tập thể.

Để tạo sự khích lệ và lấy lại niềm tin của người nông dân, phong trào Làng mới

Hàn Quốc đã đưa ra những nội dung rất thiết thực, tương đối dễ triển khai và nhanh

có kết quả như: Mở rộng, làm mới đường vào thôn xóm; mở rộng, làm mới đường

trong thôn; làm vệ sinh thôn xóm; xây dựng khu giặt giũ chung; đào giếng nước

chung; cải tạo mái nhà từ lợp rạ thành mái ngói, xi măng; cải tạo hàng rào quanh nhà

từ tường đất thành tường xây gạch, xi măng; sửa cầu; sửa hệ thống đập, sông ngòi.

Trong quá trình thực hiện, Chính phủ Hàn Quốc cung cấp xi măng, vật tư xây dựng;

bên cạnh đó, đất đai, vật kiến trúc và công lao động do chính người dân trong làng đó

bỏ ra, toàn bộ kế hoạch đều do chính Ủy ban làng đó quản lý. Kết quả có hơn 50% số

làng ở nông thôn đã được cải thiện rõ rệt; kế hoạch tiếp tục được đẩy mạnh triển khai

trên quy mô toàn quốc và phần lớn dựa vào nguồn quỹ dồi dào của xã và lực lượng

lao động có sẵn.

Bên cạnh hỗ trợ về vật chất cho các làng, các dự án nông thôn của phong trào

Làng mới còn đặc biệt quan tâm đến phát triển đội ngũ cán bộ cấp làng, cán bộ chính

quyền địa phương và Chính phủ cũng rất coi trọng việc xử lý cán bộ tham nhũng.

Cùng với chăm lo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Chính phủ Hàn Quốc chú

trọng vào các dự án tăng thu nhập cho nông dân bằng việc hỗ trợ và khuyến khích

sản xuất, chế biến, kinh doanh nhiều mặt hàng nông sản, tăng cường các cơ sở đào

tạo nghề nông. Từ kết quả phong trào Làng mới của Hàn Quốc, chúng ta có thể rút ra

một số kinh nghiệm như:

- Lấy sức dân là chính. Trong xây dựng NTM phải xác định rõ vai trò tự lực,

chủ đạo và phát huy được tiềm năng của người dân. Mặt khác, cần phải thường xuyên

tuyên truyền, vận động, kêu gọi người dân tinh thần đoàn kết, tự vươn lên, xóa bỏ tư

15

tưởng thụ động, trông chờ ỷ lại và bằng lòng với những gì hiện có. Bên cạnh đó là sự

đoàn kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm để cùng nhau vươn lên.

- Bước đầu nên chọn một vài địa phương làm điểm chỉ đạo, qua đó có kiểm tra,

đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng.

- Phát triển nông thôn là một quá trình lâu dài. Vì thế, lộ trình phát triển nông

thôn phải được hoạch định theo từng bước cụ thể, không nóng vội, từ đơn giản đến

phức tạp, có nội dung thực hiện cụ thể, phù hợp với trình độ, năng lực và kỹ năng của

cư dân nông thôn ở từng giai đoạn, có tổng kết kết quả thực hiện.

- Kịp thời trong công tác khen thưởng.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác phát triển nông thôn chuyên nghiệp,

bởi đặc thù công việc làm phải làm việc với nông dân, gắn bó với nông dân, thấu hiểu

nông dân. Do đó, cán bộ phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực, phẩm

chất và sự tận tâm mới đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao ở khu vực

nông nghiệp, nông thôn.

- Xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng, tạo niềm tin trong nhân dân, đảm

bảo rằng tất cả vật lực, tài lực huy động từ các nguồn đều được sử dụng đúng mục

đích cho các dự án của chương trình xây dựng NTM.

- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ thông tin thị trường; thu hút đầu tư vào

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

2.2.2. Kinh nghiệm phát triển nông thôn của Nhật Bản

Theo Trần Tiến Khai (2015) phát triển nông thôn của Nhật Bản trong giai đoạn

đầu của quá trình xây dựng NTM là việc xác định khu vực áp dụng để xây dựng

NTM; xây dựng cơ chế thúc đẩy các làng thành lập hiệp hội nhằm bàn bạc, trao đổi,

đề ra quy hoạch xây dựng nông thôn và thực hiện; hỗ trợ vốn cho công cuộc xây dựng

NTM. Ở những giai đoạn tiếp theo Chính phủ Nhật Bản đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ

tầng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và đời sống của người nông dân; thu hẹp

16

khoảng cách thành thị và nông thôn; nâng cao trình độ hiện đại hóa cho nông nghiệp

và nông thôn; đề cao vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên của nông thôn; sửa chữa và

xây mới nhà ở cho người nông dân; quan tâm xây dựng các địa điểm hoạt động vui

chơi, giải trí tập thể cho nông dân; tăng cường xây dựng trường học, trạm y tế; quan

tâm đến chế độ an sinh xã hội ở nông thôn.

Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” của Nhật Bản khuyến khích sự nỗ lực của

người dân địa phương trong việc tận dụng nguồn lực tại chỗ, sự sáng tạo như phát

huy sức mạnh cộng đồng, bảo tồn các làng nghề truyền thống và thu hẹp khoảng cách

giữa thành thị và nông thôn.

Quá trình xây dựng NTM ở Nhật Bản đạt được nhiều kết quả rất quan trọng. Từ

đó là cơ sở, tiền đề để các nước rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình xây

dựng NTM như sau: Để xây dựng NTM đạt được hiệu quả, mục tiêu cuối cùng là rút

ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, nâng cao đời sống người dân nông

thôn, xây dựng bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Chính phủ là người tổ chức,

điều khiển, hướng dẫn và thúc đẩy thực hiện xây dựng NTM. Do đó, Chính phủ cần

chú ý phát huy vai trò tổ chức, hướng dẫn của mình trong các phương diện hoạch

định chính sách, phân bổ nguồn lực hợp lý, đầu tư xây dựng công khai, minh bạch

nhằm để công cuộc xây dựng NTM được tiến hành một cách thuận lợi trong môi

trường chính sách phù hợp. Quá trình phát triển kinh tế nông thôn lấy người dân làm

cốt lõi. Người nông dân có thu nhập thấp, do nguồn thu chủ yếu từ nông nghiệp. Kinh

nghiệm của Nhật Bản là tăng cường đổi mới khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp,

phát triển nét đặc trưng của nông nghiệp vùng, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người

nông dân nhằm tăng nguồn thu cho nông dân; tạo dựng môi trường thích hợp, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân vùng nông thôn. Nêu cao tinh thần

tự lực, tự cường, lòng tin và ý chí của người dân. Một nhiệm vụ quan trọng trong tiến

trình xây dựng NTM là phải dựa vào sức mạnh của người dân, khuyến khích người

nông dân phát huy tinh thần tự chủ, hình thành nên động lực nội tại cho công cuộc

xây dựng NTM.

17

Ở bất kỳ quốc gia nào nông thôn đều là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất nông

nghiệp. Do đó, việc xây dựng NTM cần phải có thời gian thực hiện lâu dài, phải đảm

bảo duy trì được bản sắc riêng cho từng vùng nông thôn, không đánh mất giá trị vốn

có của nó.

2.2.3. Kinh nghiệm “Nắm vững điểm cơ bản” trong xây dựng NTM của

Trung Quốc

Theo nghiên cứu của Cát Chí Hoa (2009) để xây dựng thành công NTM thì

Trung Quốc phải nắm vững điểm cơ bản là vận dụng phát triển khoa học để thống

lĩnh công cuộc xây dựng NTM, thuận theo xu thế phát triển của xây dựng hiện đại

hoá, kiên trì 3 nguyên tắc cơ bản trong xây dựng NTM.

Một là, nắm vững yêu cầu cơ bản của quan điểm phát triển khoa học. Kiên trì

lấy con người làm gốc, điều hoà toàn diện quan điểm phát triển khoa học bền vững.

Về quan điểm phát triển khoa học xuất phát từ bố cục tổng thể của sự nghiệp xây

dựng xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc, tập trung vào việc xây dựng quốc

gia hiện đại hoá, chủ nghĩa xã hội hài hoà, văn minh, dân chủ, giàu mạnh.

Hai là, cần nắm vững quy luật cơ bản của xây dựng hiện đại hoá khi lấy nông

nghiệp làm bệ đỡ cho nền kinh tế quốc dân. Lý luận phát triển kinh tế học cho thấy

rõ, trong tiến trình công nghiệp hoá, ngành nông nghiệp cống hiến cho sự phát triển

kinh tế của một đất nước ở 4 phương diện: lương thực, yếu tố sản xuất, thị trường,

ngoại hối. Đồng thời, kiên trì phương hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, nhấn

mạnh tính tối quan trọng của “tam nông”.

Ba là, trong tiến trình thúc đẩy “tam nông” cần căn cứ vào yêu cầu 20 chữ “Sản

xuất phát triển, đời sống sung túc, nông thôn văn minh, làng xã sạch đẹp, quản lý dân

chủ”; điều chỉnh hài hoà giữa thúc đẩy xây dựng kinh tế nông thôn, xây dựng chính

trị, xây dựng văn hoá, xây dựng xã hội và xây dựng Đảng; thiết thực nắm vững 5

nguyên tắc kiên trì (kiên trì lấy kinh tế nông thôn làm trung tâm; kiên trì chế độ kinh

doanh cơ bản ở nông thôn; kiên trì lấy con người làm gốc; kiên trì quy hoạch khoa

học; kiên trì phát huy tính tích cực mọi mặt của đời sống xã hội).

18

Trong công việc cụ thể còn phải thực hiện “5 cần và 5 không cần”. Tức là cần

chú trọng hiệu quả thực tế, không cần làm chủ nghĩa hình thức; cần lượng sức mà

hành động, không cần mù quáng; cần thảo luận dân chủ, không cần mệnh lệnh, cưỡng

ép; cần làm nổi bật nét đặc sắc, không cần giống nhau một các khiên cưỡng; cần

hướng dẫn, chỉ đạo nhưng không cần ôm đồm, làm thay.

2.2.4. Kết quả xây dựng NTM ở Việt Nam

Trong 10 năm (2008 - 2018) thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá

X), 8 năm (2010 - 2018) thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng

NTM, 5 năm (2013 - 2018) thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã tạo nên một

khu vực nông thôn với nhiều thay đổi rõ nét, kết cấu hạ tầng phát triển mạnh mẽ, hơn

20.000 mô hình phát triển sản xuất đã tạo nên động lực mới cho phát triển kinh tế khu

vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp hàng hóa được coi trọng và chuyển biến, đời

sống của đại đa số nông dân được nâng cao. Tính đến cuối năm 2018, cả nước có

3.838 xã (43,02%) được công nhận đạt chuẩn NTM, đã có 53 đơn vị cấp huyện thuộc

27 tỉnh, thành phố được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm

vụ xây dựng NTM. Có 61 đơn vị cấp huyện thuộc 31 tỉnh, thành phố thuộc Trung

ương đạt chuẩn NTM. Nhiều địa phương đã bước vào giai đoạn xây dựng NTM nâng

cao, NTM kiểu mẫu. Chính phủ đã chỉ đạo về giải pháp xây dựng NTM cấp thôn, bản

cho những vùng đặc thù, khó khăn. Đây là những nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính

trị và toàn xã hội trong xây dựng NTM, phát triển kinh tế xã hội khu vực nông thôn.

Cả nước huy động được khoảng 269.561 tỷ đồng để xây dựng NTM. Trong đó, vốn

ngân sách Trung ương 8.000 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương 33.887 tỷ đồng; vốn

lồng ghép từ các chương trình, dự án khác là 38.076 tỷ đồng; vốn tín dụng 158.420

tỷ đồng; vốn doanh nghiệp đóng góp 12.218 tỷ đồng; vốn nhân dân và cộng đồng

đóng góp 18.959 tỷ đồng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dẫn số liệu điều tra của Tổng cục Thống

kê cho thấy, từ năm 2011 - 2017, cả nước đã hoàn thành một khối lượng đường giao

thông gấp 5 lần của giai đoạn 2001 - 2010; có 99,4% tổng số xã trên cả nước có đường

19

ô tô đến trung tâm xã, đặc biệt ở những địa bàn vùng núi cao, địa hình phức tạp như

Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Thanh Hoá…Tính riêng tiêu chí giao thông có 4.850

xã đã đạt (54,3%), 7.611 xã đạt tiêu chí thuỷ lợi (đạt 85,3%), 4.983 xã đạt tiêu chí

trường học (đạt 55,8%), 4.681 xã đạt tiêu chí cơ sở vật chất văn hoá (đạt 52,4%),

6.330 xã đạt tiêu chí nhà ở dân cư (đạt 70,9%). Trong tổ chức sản xuất, phát triển

kinh tế, các địa phương đã tập trung đầu tư và đã phát triển được 21.000 mô hình sản

xuất liên kết theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao trên diện rộng, dần hình thành

một số vùng sản xuất tập trung theo hướng hang hoá, trong đó đã có 744 chuỗi nông

sản an toàn.

Qua tổng hợp báo cáo của các địa phương, hiện nay cả nước có khoảng 4.823

sản phẩm đặc sản cấp xã, huyện có lợi thế, trong đó có 1.086 sản phẩm (khoảng

22,52%) có đăng ký/công bố tiêu chuẩn chất lượng; có 695 (14,4%) sản phẩm đăng

ký bảo hộ sở hữu trí tuệ. Tính đến hết năm 2017 cả nước có 62,3% số xã đạt tiêu chí

thu nhập, 58,5% số xã đạt tiêu chí giảm hộ nghèo, 94,8% số xã đạt tiêu chí lao động

có việc làm. Riêng tiêu chí tổ chức sản xuất, cả nước có 71,2% số xã đạt do rà soát

lại theo yêu cầu mới của Bộ tiêu chí quốc gia. Cả nước đã có 4.795 xã đạt tiêu chí

môi trường và an toàn thực phẩm (đạt 53,7%); 76,7% số xã đạt tiêu chí văn hoá so

với cuối năm 2016. Đặc biệt tình trạng nợ đọng vốn xây dựng NTM đã giảm so với

trước đây. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ mức 15.000 tỷ đồng nợ

đọng xây dựng cơ bản trong xây dựng NTM vào đầu năm 2016 thì đến nay số này đã

giảm 70%, chỉ còn hơn 4.900 tỷ đồng. Đến hết tháng 01 năm 2018, toàn quốc có

26/63 tỉnh không nợ đọng xây dựng cơ bản thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia

xây dựng NTM.

Từ kết quả xây dựng NTM của cả nước cho thấy, vai trò và hiệu quả tham gia

của người dân là rất quan trọng trên cả các mặt về sự quan tâm đóng góp ý kiến, đóng

góp vật tư, tiền bạc, công lao động. Người dân có quyền tham gia vào việc ra các

quyết định có ảnh hưởng tới cuộc sống của họ, từ đó giúp người dân nâng cao năng

lực, có trách nhiệm với cộng đồng, tự tin hơn vào khả năng tự quản lý chính mình.

Bên cạnh đó, sự tham gia của người dân là phương tiện hữu hiệu để huy động nguồn

20

tài nguyên tại chỗ, tổ chức và vận dụng năng lực, trí tuệ, tính sáng tạo của người dân

vào các hoạt động xây dựng NTM. Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn đánh giá khoảng cách chênh lệch về kết quả xây dựng NTM giữa các vùng, miền

còn khá lớn. Cụ thể vùng Đồng bằng sông Hồng có 63,33% số xã đạt chuẩn, Đông

Nam Bộ là 63,22%, miền núi phía Bắc chỉ đạt 15,53%, Tây Nguyên 22,5%, Đồng

bằng sông Cửu Long 29,43%, Duyên hải Nam Trung Bộ 30,87%. Vấn đề ô nhiễm

môi trường ngày càng có dấu hiệu nghiêm trọng ở một số địa bàn, phức tạp, khó xử

lý, trong đó có ô nhiễm nguồn nước ở các tuyến sông, kênh, mương; chất lượng vệ

sinh an toàn thực phẩm, nông sản trên phạm vi cả nước có những tiến bộ nhưng

chuyển biến chưa rõ nét. Từ kết quả và hạn chế trong quá trình xây dựng NMT đã rút

ra sáu bài học kinh,nghiệm:

Thứ nhất, xây,dựng NTM thực chất là thực hiện các nội dung cụ thể để CNH-

HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do đó, phải gắn xây dựng NTM với tái cơ cấu,nông

nghiệp và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Thứ hai, phải,thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân. Công tác tuyên

truyền, vận động,quần chúng phải là giải pháp quan trọng hàng đầu. Làm cho dân

hiểu, dân tin, dân,hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp công sức,

tiền của, thời gian để xây dựng NTM.

Thứ ba, phải,có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt

của các cấp ủy, chính,quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các ban,

ngành, đoàn thể. Trong,đó, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền có vai trò quan

trọng. Thực tiễn cho thấy,nơi nào các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể thực sự quan tâm

vào cuộc thường xuyên, quyết liệt,thì trong cùng hoàn cảnh còn nhiều khó khăn vẫn

tạo ra sự chuyển,biến rõ nét.

Thứ tư, phải,có cách làm phù hợp với điều kiện của từng địa phương thông qua

lựa chọn nội dung, nhiệm,vụ ưu tiên, vận dụng sáng tạo cơ chế chính sách. Có phương

thức huy động các nguồn,lực phù hợp.

21

Thứ năm, phải,có hệ thống chỉ đạo, đồng bộ, hiệu quả; có bộ máy giúp việc đủ

năng lực, chuyên nghiệp, sát thực,tế sẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho công tác chỉ

đạo có hiệu quả.

Thứ sáu, phải lồng ghép sử dụng có hiệu quả sự hỗ trợ ngân sách của Nhà nước

và các nguồn,lực đa dạng; việc huy động, đóng góp của người dân phải được thực

hiện trên cơ sở thực sự,tự nguyện, bàn bạc dân chủ không gượng ép hoặc đóng góp

quá sức dân.

2.3. Khung phân tích đề xuất

Một chính sách tốt không chỉ được xây dựng tốt trên văn bản mà còn phải đáp

ứng việc thực thi trong đời sống có hiệu quả, trong đó các bên liên quan sẽ bị điều

chỉnh theo quy định của chính sách trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Theo Phạm

Duy Nghĩa, bộ tiêu chí ROCCIPI đã đưa ra 7 tiêu chí để nhận diện các yếu tố tác

động đến chính sách, bao gồm các yếu tố chủ quan (luật lệ (reles), cơ hội

(opportunity), truyền thông (communication), năng lực (capacity), quy trình

(proccess) và khách quan (lợi ích (interest) và ý thức hệ (ideology). Theo tiếp cận

ROCCIPI, sự tham gia của người dân phụ thuộc vào 6 yếu tố sau: Cơ hội tham gia,

truyền thông, quy trình, năng lực, lợi ích, ý thức hệ - truyền thống.

1. Cơ hội tham gia (O)

Yếu tố 2. Truyền thông (C)

Sự

tham

chủ quan 3. Quy trình (P)

gia

của

4. Năng lực (C)

người

1. Lợi ích (I)

dân

Yếu tố 2. Ý thức hệ - Giá trị

khách quan truyền thống (I)

Hình 2.2. Khung phân tích ROCCIPI

Nguồn: Tác giả tự vẽ

22

2.3.1. Nhóm yếu tố chủ quan

- Cơ hội tham gia (O): Yếu tố này liên quan đến hoàn cảnh, trường hợp, cơ hội

hay xác suất thúc đẩy các bên liên quan thực hiện những hành vi tuân thủ hay vi phạm

luật, lệ, quy ước, quy tắc xã hội. Các bên liên quan thường có những cơ hội thực thi

pháp luật, vì thế khi xem xét tiêu chí Cơ hội không chỉ nhìn nhận ở xu hướng thực

hiện hành vi mà nên phân tích mối tương quan với tiêu chí Năng lực của đối tượng

tham gia. Cơ hội để người dân tham gia xây dựng NTM bên cạnh phụ thuộc Năng

lực của từng cá nhân mà còn phụ thuộc vào vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính

trị cơ sở trong việc triển khai, tổ chức thực hiện xây dựng NTM. Vì thế, chính quyền

địa phương nào không phát huy triệt để vai trò tham gia của người dân thì chất lượng,

hiệu quả xây dựng NTM sẽ không đảm bảo.

- Truyền thông (C): Yếu tố truyền thông liên quan đến sự hiệu quả của việc

truyền tải thông tin về luật, lệ, quy ước, quy tắc xã hội đến các bên liên quan. Đây là

yếu tố quan trọng, vì nếu những quy định pháp luật, quy tắc xã hội mặc dù chặt chẽ,

tính khả thi cao nhưng khó có khả năng truyền tải đến những bên tham gia thì cũng

không đảm bảo tính hiệu quả thực thi của pháp luật. Yếu tố truyền thông liên quan

đến khả năng truyền tải và tiếp nhận thông tin giữa các bên liên quan, do đó họ cần

phải nhận được và hiểu được thông tin về mục tiêu, quy định của luật này.

- Quy trình (P): Yếu tố Quy trình liên quan tới những tiêu chuẩn và thủ tục mà

qua đó giải thích được 2 vấn đề: Thứ nhất, khả năng các bên liên quan tuân thủ hoặc

không tuân thủ các quy định của pháp luật, lệ, quy tắc xã hội. Thứ hai, khuyến khích

hay hạn chế những hành vi vi phạm hay tuân thủ. Quy trình đảm bảo cho việc thực

thi được vận hành thống nhất giữa các cơ quan, địa phương khác nhau.

- Năng lực (C): Yếu tố này xem xét khả năng thực thi pháp luật của các bên

tham gia. Yếu tố năng lực cần kết hợp với yếu tố Cơ hội để xem xét toàn diện hơn, vì

trong hoàn cảnh và cơ hội khác nhau thì năng lực thực thi cũng khác nhau. Năng lực

phụ thuộc vào mức độ hiểu biết khác nhau, tuỳ thuộc vào ý thức chính trị, trình độ

học vấn của mỗi người dân và vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã, chi, tổ hội trong công tác triển khai

thực hiện xây dựng NTM.

23

2.3.2. Nhóm yếu tố khách quan

Nhóm yếu tố này phụ thuộc vào cá nhân và theo thời gian:

- Lợi ích (I): Yếu tố lợi ích liên quan đến động cơ thúc đẩy hay khuyến khích

(hữu hình nay vô hình) hành vi các bên tham gia thực thi theo quy định pháp luật.

Thông thường những động cơ thúc đẩy liên quan đến chi phí, lợi ích của việc thực thi

pháp luật.

“Dân làm” - dân thực hiện là khâu thể hiện rõ nhất và có hiệu quả nhất ở cơ sở

trong quá trình xây dựng NTM. Song, cũng nổi lên những vấn đề cần giải quyết như:

Cần quy định rõ việc gì Nhà nước làm, việc gì dân làm và việc gì Nhà nước và dân

cùng làm. Vì hiện nay, thu nhập của người dân nông thôn còn thấp, có nơi rất thấp,

lại không đều nhau nhưng phải đóng góp nhiều khoản tiền nhằm góp phần xây dựng

NTM theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Vì vậy, nếu tham gia

xây dựng NTM mà đem lại quyền hạn, lợi ích nhiều hơn nghĩa vụ thì người dân sẽ tự

nguyện tham gia và ngược lại.

- Ý thức hệ - Giá trị truyền thống (I): Yếu tố này liên quan đến những giá trị và

thái độ mà xã hội thừa nhận làm tác động đến hành vi của đối tượng liên quan. Một

bộ phận người dân nhận thức còn hạn chế về pháp luật, chủ trương, chính sách về xây

dựng NTM, họ thờ ơ ít tham gia hoặc không tham gia sinh hoạt ở khu dân cư; chỉ

quan tâm đến lợi ích cá nhân, ít quan tâm đến lợi ích chung; ý thức tự giác thực hiện

nghĩa vụ công dân và ý thức trách nhiệm trong chấp hành các chủ trương, chính sách

còn thấp; chưa mạnh dạn tham gia đóng góp ý kiến và vật chất xây dựng NTM, nhất

là các hoạt động giám sát tiến trình xây dựng NTM.

Như vậy, 6 yếu tố trên nhằm xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi

của các bên liên quan, trong đó có sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM.

Nếu nhận diện cụ thể các nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả thực thi thì ta có thể giải

quyết được những vướng mắc bằng những quy định hoặc những phương pháp mới,

hữu hiệu hơn nhằm phát huy tối đa sự tham gia của người dân.

24

CHƯƠNG 3. SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ AN XUYÊN

3.1. Quá trình xây dựng NTM tại xã An Xuyên

An Xuyên là xã ngoại ô nằm về phía Bắc của TP Cà Mau. Phía Đông giáp xã

Tân Thạnh, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu; Tây giáp xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình;

Nam giáp với phường Tân Xuyên, TP Cà Mau; Bắc giáp với xã Tân Lộc, huyện Thới

Bình. Xã có diện tích tự nhiên 3.665,70 ha. Đất sản xuất lúa 2 vụ là 1.187,18 ha. Diện

tích nuôi tôm 1.308,96 ha. Diện tích cá ao hồ 205 ha, còn lại là đất trồng cây lâu năm,

rau màu, đất ở và đất công trình. Địa bàn xã có 11 ấp (gồm ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5, ấp

6, ấp 8, ấp 10, ấp Tân Dân, ấp Tân Hiệp, ấp Tân Thuộc, ấp Tân Thời). Dân số 14.423

khẩu, với 3.115 hộ. Dân tộc thiểu số (chủ yếu là hộ dân tộc Khmer) là 40 hộ, có 171

khẩu. Năm 2010, xã An Xuyên được TP Cà Mau chọn là 1 trong 3 xã chỉ đạo điểm

xây dựng NTM. Từ đó, Đảng bộ và nhân dân đã phát huy sự đoàn kết, khắc phục khó

khăn, chủ động củng cố, xây dựng Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể

vững mạnh; tạo môi trường thuận lợi nhằm đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế,

nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ; giữ vững an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội và phát triển đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Trong quá trình xây dựng NTM, xã An Xuyên đã tranh thủ mọi nguồn lực đầu

tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế, nhiều mô hình sản

xuất có hiệu quả được triển khai thực hiện, góp phần nâng cao thu nhập cho người

dân, đời sống của nhân dân được phát triển, diện mạo nông thôn ngày càng khang

trang, hiện đại. Để quán triệt sâu rộng nhiệm vụ xây dựng NTM, Đảng uỷ, UBND

chỉ đạo các ngành và Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội xã An Xuyên tổ chức tuyên

truyền trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong hệ thống chính trị và người

dân. Kết quả đã tuyên truyền được 492 cuộc, với 14.715 lượt người tham dự; tuyên

truyền thông qua tờ rơi được 9.000 tờ và cấp phát 250 cuốn sổ tay hỏi đáp về xây

dựng NTM; lắp đặt 7 cổng chào, 159 bảng tuyên truyền xây dựng NTM, tuyến dân

cư kiểu mẫu; Đài Truyền thanh xã phát liên tục 2 buổi/ngày về nội dung bộ tiêu chí

25

xây dựng NTM, hỏi đáp về xây dựng NTM, những tấm gương điển hình của tập thể

và cá nhân trong xây dựng NTM trong những đợt tuyên truyền cao điểm…Bên cạnh

đó, xã An Xuyên được BCĐ TP Cà Mau tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kỹ

năng thực hiện chương trình xây dựng NTM 2 đợt, có 17 cán bộ ban chỉ đạo, ban

quản lý và 33 cán bộ Ban phát triển của 11/11 ấp tham gia tập huấn. Kinh phí thực

hiện công tác tuyên truyền 468 triệu đồng, trong đó ngân sách tỉnh 350 triệu đồng,

ngân sách xã 118 triệu đồng.

Trong quá trình xây dựng NTM, xã An Xuyên quan tâm phát triển sản xuất

nhằm nâng cao thu nhập cho người dân. Từ khi triển khai xây dựng NTM đến nay,

các hình thức tổ chức sản xuất có bước phát triển; kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang

trại, kinh tế hợp tác có nhiều chuyển biến tích cực. Hạ tầng kinh tế - xã hội được quan

tâm đầu tư xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế khu vực nông thôn phát triển

theo hướng CNH-HĐH. Xã An Xuyên triển khai, thực hiện nhiều mô hình sản xuất

mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, ổn định như cánh đồng lớn, nuôi cá chình, cá bống

tượng, rau sạch, cây ăn trái. Tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng NTM trên địa bàn xã

An Xuyên là 209.306.119.000 đồng (Thời điểm ngày 12/5/2015). Trong đó, vốn ngân

sách 103.683.517.000 đồng, chiếm 49,54%; vốn trái phiếu Chính phủ 4.200.000.000

đồng, chiếm 2,01%; vốn từ nguồn tài trợ WB 21.000.000.000 đồng, chiếm 10,03%;

vốn tín dụng 7.021.200.000 đồng, chiếm 3,35%; vốn doanh nghiệp 150.000.000

đồng, chiếm 0,07%; vốn xã hội hoá 4.500.000.000, chiếm 2,15%; huy động đóng góp

của cộng đồng dân cư 68.751.402.000 đồng, chiếm 32,85%.

3.2. Kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM tại xã An Xuyên

Qua 4 năm triển khai thực hiện Đồ án quy hoạch xây dựng NTM (2012-2015),

xã An Xuyên, TP Cà Mau được UBND tỉnh Cà Mau quyết định công nhận đạt chuẩn

NTM vào tháng 7 năm 2015. Tại thời điểm công nhận xã NTM, kết quả thực hiện

từng tiêu chí cụ thể như sau:

26

Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch

- Năm 2012, xã An Xuyên được UBND TP Cà Mau phê duyệt Đồ án quy hoạch

xây dựng NTM tại Quyết định số 829/QĐ-UBND ngày 31/5/2012;

- UBND xã An Xuyên đã tổ chức công bố quy hoạch đến cán bộ, đảng viên và

nhân dân. Đồng thời đặt bảng công khai quy hoạch NTM tại trụ sở UBND xã và trụ

sở các ấp để tiện cho việc tra cứu thông tin quy hoạch cho người dân;

- Xã An Xuyên cắm mốc chỉ giới các công trình hạ tầng theo quy hoạch trên

tuyến Quốc lộ 63 để tổ chức, cá nhân theo dõi. Bên cạnh đó, xã An Xuyên xây dựng

Quy chế quản lý quy hoạch và được UBND TP Cà Mau phê duyệt;

- Kinh phí thực hiện: 246.000.000 đồng (ngân sách trung ương 150.000.000

đồng, ngân sách xã 96.000.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 1.

Tiêu chí 2: Giao thông

- Xã An Xuyên đã tranh thủ tốt nguồn vốn đầu tư của cấp trên và vận động nhân

dân đóng góp xây dựng 23 tuyến lộ giao thông nông thôn, tổng chiều dài 31.537,78m;

kinh phí 58,71 tỷ đồng; xây dựng 25 cây cầu bê tông, kinh phí 4,27 tỷ đồng. Bên cạnh

đó, các tuyến đường trục xã, liên xã dài hơn 8 km được nhựa hoá; đường trục ấp, liên

ấp với tổng chiều dài 65,45 km được bê tông; đường xóm, nhánh với tổng chiều dài

78,6 km được bê tông;

- Kinh phí thực hiện 62.975.678.000 đồng (nguồn vốn trái phiếu Chính phủ

4.200.000.000 đồng, ngân sách thành phố 49.419.323.000 đồng, nhân dân đóng góp

9.356.355.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 2.

Tiêu chí 3: Thuỷ lợi

- Trên địa bàn xã An Xuyên có 27 kênh rạch, với chiều dài 71,13 km. Xã được

thành phố và tỉnh đầu tư sên vét 7 tuyến kên thuỷ lợi dài 18.940 m; sên vét 8 tuyến

27

kênh thuỷ nông nội đồng dài 11.370 m; đắp 4 đập, xây 1 cống thuỷ lợi. Đồng thời,

vận động nhân dân trồng cây xanh dọc tuyến sông và gia cố kênh mương để chống

sạt lở đất;

- Hệ thống thuỷ lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu cấp nước, tiêu nước cho diện tích

trồng lúa, rau màu, nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn xã;

- Trên địa bàn xã có 2 cống, 7 đập được kiên cố bằng bê tông;

- Kinh phí thực hiện: 3.567.894.000 đồn (ngân sách thành phố 2.430.000.000

đồng, ngân sách xã 568.947.000 đồng, nhân dân đóng góp 568.947.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 3.

Tiêu chí 4: Điện

- Từ năm 2011 – 2014, xã An Xuyên tranh thủ sự đầu tư của cấp trên hạ thế 2

tuyến điện dài 2,5 km nhằm phủ kín nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt và sản xuất cho

người dân. Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện;

- Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện sinh hoạt đạt 100% tổng số hộ, trong đó có 95,6%

hộ si743 dụng điện an toàn;

- Kinh phí thực hiện: 300.000.000 đồng do ngân sách thành phố đầu tư;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 4.

Tiêu chí 5: Trường học

- Trên địa bàn xã An Xuyên có 7 trường học, trong đó có 6/7 trường đạt chuẩn

quốc gia. Kinh phí thực hiện 27.190.000.000 đồng, trong đó ngân sách tỉnh

12.000.000.000 đồng, ngân sách thành phố 15.190.000.000 đồng;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 5.

Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hoá

- Xã An Xuyên được cấp trên đầu tư xây dựng Trung tâm văn hoá thể thao, với

các hạng mục san lấp mặt bằng, xây dựng cổng, hàng rào, nhà vệ sinh, sân khấu ngoài

trời;

28

- Có 11/11 trụ sở sinh hoạt văn hoá ấp được xây dựng kiên cố và có 2 khu thể

thao liên ấp đảm bảo nhu cầu sinh hoạt văn hoá thể thao của người dân;

- Kinh phí thực hiện 24.646.697.000 đồng (ngân sách trung ương 9.100.000.000

đồng, ngân sách tỉnh 4.974.736.000 đồng, ngân sách thành phố 2.425.961.000 đồng,

nhân dân đóng góp 3.646.000.000 đồng, vốn xã hội hoá 4.500.000.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 6.

Tiêu chí 7: Chợ nông thôn

Căn cứ theo quy hoạch, xã An Xuyên không thực hiện tiêu chí chợ nông thôn

và được Sở Công thương tỉnh Cà Mau chấp thuận do địa bàn xã nằm gần trung tâm

TP Cà Mau nên việc xây dựng chợ nông thôn sẽ không phát huy hiệu quả hoạt động

kinh doanh mà còn gây lãng phí nguồn kinh phí đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó, trên

địa bàn xã có điểm chợ Cầu số 3, diện tích 222,63 m2, có 12 quầy hàng đáp ứng cơ

bản nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá khu vực nông thôn.

Tiêu chí 8: Bưu điện

- Xã có 1 Bưu điện văn hoá xã; 11/11 ấp có hệ thống mạng Internet; xã có 3

điểm phục vụ Internet công cộng tại ấp 8, ấp 6, ấp 4;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 8.

Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư

- Xã không có nhà tạm, nhà dột nát;

- Tổng số nhà dân cư trên địa bàn xã là 3.115 căn. Trong đó, có 2.658 căn nhà

được xây dựng đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng, đạt 85,3%;

- Kinh phí thực hiện: 49.493.400.000 đồng (ngân sách trung ương

1.160.800.000 đồng, ngân sách thành phố 855.000.000 đồng, vốn tín dụng

421.200.000 đồng, nhân dân tự đầu tư 47.056.400.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 9.

29

Tiêu chí 10: Thu nhập

- Xã quy hoạch tiểu vùng sản xuất phù hợp với từng vùng, mở nhiều lớp tập

huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân ứng dụng vào sản xuất, phát triển

mô hình nuôi cá chình, cá bống tượng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng một vụ lúa

trên đất nuôi tôm, trồng màu…; tăng cường công tác đào tạo nghề cho lao động nông

thôn, góp phần tăng năng suất và nâng cao thu nhập cho người dân. Thời điểm năm

2015, thu nhập bình quân của người dân là 34.405.000 đồng/người/năm (tăng 11,605

triệu đồng so với năm 2010);

- Kinh phí thực hiện: 4.736.000.000 đồng (ngân sách trung ương 65.000.000

đồng, ngân sách thành phố 116.300.000 đồng, vốn tín dụng 4.400.000.000 đồng, nhân

dân đóng góp 154.700.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 10.

Tiêu chí 11: Hộ nghèo

- Để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, xã An Xuyên tăng cường hỗ

trợ hộ nghèo, cận nghèo về mô hình sản xuất có hiệu quả như: nuôi cá chình, cá bống

tượng, trồng ràu màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm…Đồng thời, tín chấp với Ngân hàng

chính sách xã hội chi nhánh tỉnh Cà Mau để các hộ dân vay vốn đầu tư vào sản xuất,

nâng cao thu nhập cho gia đình;

- Thời điểm tháng 7 năm 2015, toàn xã An Xuyên còn 42 hộ nghèo, chiếm

1,35% (so với năm 2010 giảm 148 hộ nghèo); hộ cận nghèo còn 95 hộ, chiếm 3,18%

(giảm 159 hộ so với năm 2010);

- Kinh phí thực hiện: 2.571.000.000 đồng (ngân sách tỉnh 371.000.000 đồng,

vốn tín dụng 2.200.000.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí số 11.

Tiêu chí 12: Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên

- Lao động trong độ tuổi có 9.708 người, chiếm 68,06% dân số. Qua 4 năm

(2012 – 2015) đã tổ chức 14 lớp dạy nghề, với 434 học viên; tập huấn 38 lớp, có

30

1.140 lượt người tham gia và giới thiệu việc làm cho 2.105 lượt người. Trong đó, lao

động trong tỉnh 1.609 người, lao động ngoài tỉnh 496 người);

- Thời điểm tháng 7 năm 2015, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên là

8.913/9.708 người, chiếm 91,81% số người trong độ tuổi lao động;

- Kinh phí thực hiện: 262.600.000 đồng do ngân sách tỉnh đầu tư;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 12.

Tiêu chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất

- Xã An Xuyên có 3 Hợp tác xã với ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

nông nghiệp, thuỷ sản; Hợp tác xã trồng rau sạch; Hợp tác xã nuôi và thu mua cá

chình, cá bống tượng có 70 thành viên, vốn điều lệ 1,2 tỷ đồng. Bên cạnh đó, xã còn

có 12 Tổ hợp tác sản xuất. Các Hợp tác xã và Tổ Hợp tác hoạt động khá hiệu quả;

- Kinh phí thực hiện: 1.600.000.000 đồng do Hợp tác xã và Tổ Hợp tác đầu tư;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 13.

Tiêu chí 14: Giáo dục

- Xã được công nhận hoàn thành phô cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi (năm

2013); phổ cập giáo dục tiểu học chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ

tuổi (năm 1997) và phổ cập giáo dục trung học cơ sở (năm 2003). Hằng năm, đều duy

trì tốt chất lượng phổ cập giáo dục ở các cấp học;

- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở hằng năm đạt 96,92%; tỷ lệ học sinh

tốt nghiệp trung học cơ sở được tiếp tục học trung học phổ thông, học nghề hằng năm

đạt 97,10%; tỷ lệ lao động qua đào tạo trên địa bàn xã được 3.131/9.708 người, đạt

32,25%;

- Kinh phí thực hiện: 272.000.000 đồng;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 14.

31

Tiêu chí 15: Y tế

- Năm 2015, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế 10.381/14.423 người, đạt

71,98% dân số;

- Xã có 1 Trạm y tế. Cán bộ y tế có 8 người (1 bác sĩ, 3 y sĩ, 3 nữ hộ sinh, 1

trung cấp dược); có 22 cộng tác viên y tế ấp. Trạm y tế xã được đầu tư xây dựng mới;

xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2013 (theo tiêu chí mới);

- Kinh phí thực hiện: 3.080.000.000 đồng (ngân sách thành phố 3.000.000.000

đồng, ngân sách xã 80.000.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 15.

Tiêu chí 16: Văn hoá

- Xã có 11/11 ấp đạt chuẩn “Ấp văn hoá” liên tục 3 năm liền. Xã được công

nhận đạt chuẩn “Xã văn hoá NTM” năm 2015. Có 2.477 hộ đạt chuẩn “Gia đình văn

hoá”, đạt 79,52% số hộ;

- Kinh phí thực hiện: 300.000.000 đồng do ngân sách xã đầu tư;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 16.

Tiêu chí 17: Môi trường

- Năm 2014, xã An Xuyên được cấp trên đầu tư xây dựng giếng nước nối mạng

tập trung tại ấp Tân Dân, cung cấp nước sạch cho 1.100 hộ dân, nâng tỷ lệ hộ dân sử

dụng nước hợp vệ sinh 3.115/3.115 hộ, đạt 100%; hộ sử dụng nước sạch 1.596/3.115

hộ, đạt 51,24%;

- Các cơ sở sản xuất – kinh doanh trên địa bàn xã đạt tiêu chuẩn về môi trường.

Toàn xã có 15 doanh nghiệp, 3 Hợp tác xã, 12 Tổ Hợp tác, 2 trang trại đều đạt tiêu

chuẩn về môi trường;

- Đường ấp, xóm, cảnh quan từng hộ đảm bảo xanh, sạch, đẹp; không có các

hoạt động làm suy giảm môi trường sống; rác thải, chất thải, nước thải được thu gom

và xử lý theo quy định; vận động mỗi hộ gia đình có sọt rác và hố chôn rác sinh hoạt,

32

không vứt rác xuống sông; trồng mới 16.400 cây xanh trên các tuyến lộ giao thông;

từng bước tạp vẻ mỹ quan xanh – sạch – đẹp trên địa bàn xã;

- Tổng số hộ dân trên các tuyến đường chính là 1.412 hộ, đã có 1.376 hộ có

hàng rào, đạt 97,4% (trong đó có 1.156 hộ trồng hàng rào bằng cây xanh, có 220 hộ

làm hàng rào bằng bê tông và cây gỗ). Các hộ còn lại được xã tiếp tục vận động xây

dựng hàng rào;

- Có 2.807 hộ làm sọt rác gia đình, đạt 90,11% tổng số hộ; số hộ đào chôn lấp

rác sinh hoạt là 2.713 hộ, đạt 87,09% tổng số hộ;

- Theo quy hoạch được duyệt, xã An Xuyên không có nghĩa trang, nghĩa địa;

việc chôn cất người chết trên địa bàn xã được tập trung về khu nghĩa trang từ trần của

thành phố tại phường Tân Xuyên;

- Kinh phí thực hiện: 29.046.000.000 đồng (nguồn vốn WB tài trợ

21.000.000.000 đồng, ngân sách thành phố 77.000.000 đồng, vốn nhân dân

7.969.000.000 đồng);

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 17.

Tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh

- Tổng số cán bộ, công chức 22 người; trong đó cán bộ chuyên trách 11 người,

công chức 11 người. 100% cán bộ xã đều đạt chuẩn theo quy định;

- Xã có đủ tổ chức trong hệ thống chính trị bao gồm: Đảng uỷ, HĐND, UBND,

UBMTTQVN xã, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,

Công đoàn cơ sở. Đối với 11 ấp có đủ tổ chức bao gồm: Chi bộ, Trưởng ấp, phó

trưởng ấp, Ban công tác Mặt trận, Chi đoàn Thanh niên, Chi hội Phụ nữ, Nông dân,

Cựu Chiến binh;

- Đảng bộ, chính quyền xã hàng năm đều đạt “Trong sạch, vững mạnh”;

- Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội của xã đạt danh hiệu khá trở lên do các

tổ chức đoàn thể cấp thành phố xét, công nhận hang năm;

33

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 18.

Tiêu chí 19: An ninh, trật tự xã hội

- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định;

lực lượng công an được tăng cường, củng cố, kiện toàn; phát huy có hiệu quả phong

trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng 11 Ban bảo vệ thôn xóm, có 77

thành viên tham gia; xây dựng 75 Tổ nhân dân tự quản với 150 tổ viên phân bổ đều

trên địa bàn 11 ấp; vận động người dân đóng góp xây dựng 10 cổng an ninh trật tự;

trên địa bàn xã không có tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội; có 11/11 ấp được công

nhận đạt chuẩn an toàn về an ninh trật tự, đạt 100%;

- Hàng năm, Công an xã đều đạt danh hiệu đơn vị tiên tiến trở lên;

- Kết quả được đánh giá: Đạt tiêu chí 19.

3.3. Thực trạng sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại xã An

Xuyên, thành phố Cà Mau

Khảo sát đánh giá thực trạng về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM

tại xã An Xuyên được thực hiện bằng phiếu khảo sát và phỏng vấn sâu. Phiếu khảo

sát được thực hiện trên cơ sở 4 nội dung chủ yếu: (1) Thông tin người trả lời, (2) Hiểu

biết của người dân về chương trình xây dựng NTM trên địa bàn, (3) Sự tham gia của

cư dân nông thôn trong xây dựng NTM, (4) Đánh giá kết quả xây dựng NTM.

3.3.1. Mô tả tổng quát mẫu khảo sát

Qua khảo sát trên địa bàn 11/11 ấp của xã An Xuyên với cỡ mẫu 120 hộ đã có

kết quả như sau:

- Về giới tính của người được khảo sát có 68 nam, chiếm tỷ lệ 56,7% và 52 nữ,

chiếm tỷ lệ 43,3%.

34

Bảng 3.1 Giới tính người được khảo sát

Giới tính Tần suất Tỷ lệ (%) Tỷ lệ cộng dồn (%) Tỷ lệ đúng (%)

Nam 68 56.7 56.7 56.7

Nữ 52 43.3 43.3

100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Nam

43,3 %

Nữ

56,7 %

Giới tính

Hình 3.1. Tỷ lệ giới tính của người được khảo sát

- Về độ tuổi, từ 18 đến 30 tuổi có 32 người, chiếm 26,7%; từ trên 30 đến 50 tuổi

có 64 người, chiếm 53,3 %; từ trên 50 tuổi trở lên có 24 người, chiếm 20%.

Bảng 3.2 Về độ tuổi người được khảo sát

Độ tuổi Tần suất Tỷ lệ (%)

Từ 18 đến 30 Trên 30 đến 50 Trên 50 32 64 24 26.7 53.3 20.0 Tỷ lệ đúng (%) 26.7 53.3 20.0 Tỷ lệ cộng dồn (%) 26.7 80.0 100.0

Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

35

70

60

50

40

30

20

10

0

Từ 18 đến 30

Trên 30 đến 50

Trên 50

Độ tuổi

Hình 3.2. Độ tuổi của người được khảo sát

- Về trình độ học vấn, số người trình độ đến Trung học cơ sở có 56 người, chiếm

tỷ lệ cao nhất với 46,7%; trình độ Trung học phổ thông có 42 người, chiếm 35%;

trình độ Cao đẳng có 11 người, chiếm 9,2%; trình độ Đại học có 9 người, chiếm 7,5%;

trình độ sau Đại học có 2 người, chiếm tỷ lệ thấp nhất với 1,6%.

Bảng 3.3. Học vấn của người được khảo sát

Học vấn Tần suất Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ đúng (%) 46.7 56 46.7 Tỷ lệ cộng dồn (%) 46.7 Đến THCS

81.7 90.8 98.3 100.0 THPT Cao đẳng Đại học Sau Đại học 42 11 9 2 35.0 9.2 7.5 1.6 35.0 9.2 7.5 1.6

Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

36

60

50

40

30

Học vấn

20

10

0

Đến THCS

THPT

Cao đẳng

Đại học

Sau Đại học

Học vấn

Hình 3.3. Trình độ học vấn của người được khảo sát

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy, về cơ bản có sự cân đối tỷ lệ giới tính nhằm

đảm bảo chất lượng cho cuộc khảo sát. Điều đáng phấn khởi là trình độ dân trí của

cư dân nông thôn đã nâng lên so với trước đây. Tuy nhiên, tỷ lệ học vấn có trình độ

Trung học cơ sở vẫn ở mức cao (46,7%) nhưng trên bình diện chung đã phản ánh

đúng thực trạng về trình độ dân trí vùng nông thôn của thành phố Cà Mau hiện nay.

Vấn đề này không ảnh hưởng đến kết quả khảo sát, do đây là nhận định cá nhân của

từng người.

- Về cấu trúc nghề nghiệp chính của hộ gia đình được khảo sát thì nhóm nông

dân có tới 67 hộ, chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,8%; kế tiếp là nhóm công chức, viên

chức có 24 người, chiếm tỷ lệ 20%; nhóm buôn bán, kinh doanh nhỏ 13 người, chiếm

tỷ lệ 10,8%; nhóm nghề nghiệp khác 16 người, chiếm tỷ lệ 13,3%. Như vậy, qua bảng

kết quả khảo sát cho thấy rõ ràng các hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai

trò chủ đạo tại địa bàn xã An Xuyên.

37

Bảng 3.4. Cấu trúc nghề nghiệp người được khảo sát

Nghề nghiệp Tần suất Tỷ lệ (%) Tỷ lệ đúng (%) Tỷ lệ cộng dồn (%)

Nông nghiệp 67 55.8 55.8 55.8

13 10.8 10.8 66.7

Doanh nghiệp, hộ kinh doanh Công chức, viên chức Khác 24 16 20.0 13.3 20.0 13.3

86.7 100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

70

60

50

40

30

20

10

0

Nông nghiệp Doanh nghiệp,

Khác

hộ KD

Công chức, viên chức

Nghề nghiệp

Hình 3.4. Cấu trúc nghề nghiệp người được khảo sát

- Về thời gian cư trú, nhóm người được khảo sát có thời gian cư trú tại xã An

Xuyên đến 5 năm có 17 người, chiếm 14,2%; nhóm người có thời gian cư trú trên 5 năm

đến 10 năm có 45 người, chiếm 37,5%; nhóm người có thời gian cư trú trên 10 năm có

58 người, chiếm 48,3%. Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết người được khảo sát có thời

gian dài cư trú tại địa phương. Đây là yếu tố thuận lợi trong quá trình khảo sát, vì người

được khảo sát am hiểu tình hình phát triển của địa phương, nắm bắt rõ quá trình triển

khai, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM.

38

Bảng 3.5. Thời gian cư trú người được khảo sát

Thời gian cư trú Tỷ lệ (%) Tỷ lệ đúng (%) Tỷ lệ cộng dồn (%) Tần suất

Đến 5 năm 14.2 14.2 14.2 17

Trên 5 năm đến 10 năm 37.5 37.5 51.7 45

Trên 10 năm 48.3 48.3 100.0 58

Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Thời gian cư trú

70

60

50

40

30

20

10

0

Đến 5 năm

Trên 5 năm đến 10 năm

Trên 10 năm

Hình 3.5. Thời gian cư trú người được khảo sát

3.3.2. Hiểu biết của người dân về xây dựng NTM tại xã An Xuyên

Công tác tuyên truyền được xác định là nhiệm vụ then chốt, có tác động tích

cực đến việc triển khai, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng NTM. Nhận thức rõ ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của công tác này, Đảng

uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQVN xã An Xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền

bằng nhiều hình thức, phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Kết quả, trong

tổng số 120 người được khảo sát đều trả lời “biết” Chương trình mục tiêu quốc gia

về xây dựng NTM.

39

Kết quả khảo sát cho thấy (chọn nhiều phương án), nguồn thông tin về xây dựng

NTM mà người dân tiếp cận khá dồi dào. Theo đó, số người biết thông qua các tổ

chức đoàn thể chính trị - xã hội đông nhất, với 100 người, chiếm 83,3%; số người

biết thông qua các cuộc họp với UBND xã là 99 người, chiếm 82,5%; số người biết

qua gửi tài liệu, tờ rơi 97 người, chiếm 80,8%; số người biết qua báo, đài, internet

có 96 người, chiếm 80%. Tuy nhiên, số người biết qua việc phổ biến trực tiếp đến

từng hộ gia đình rất thấp, có 23 người, chiếm 19,1%. Như vậy, từ kết quả trên cho

thấy công tác tuyên truyền, vận động người dân biết về Chương trình xây dựng NTM

trên địa bàn xã An Xuyên đạt được thành công nhất định.

Bảng 3.6. Người dân tiếp cận thông tin qua họp UBND xã

Họp UBND xã Tần suất Tỷ lệ (%) Tỷ lệ đúng (%) Tỷ lệ cộng dồn (%)

Không Có 21 99 17.5 82.5 17.5 82.5 17.5 100.0

Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Hình 3.6. Người dân tiếp cận thông tin qua họp UBND xã

40

3.3.3. Sự tham gia của cư dân nông thôn trong xây dựng NTM

Sự tham gia của cư dân nông thôn trong tiến trình xây dựng NTM là một trong

những yếu tố cực kỳ quan trọng nhằm đảm bảo phát triển nông thôn theo hướng bền

vững. Cộng đồng cư dân nông thôn cần hiểu rõ vai trò chủ thể của mình trong xây

dựng NTM để tự giác, tự nguyện tham gia. Qua công tác tuyên truyền, vận động của

từng ấp và tuỳ vào nhận thức, ý thức của từng đối tượng phỏng vấn, lấy phiếu khảo

sát nên có kết quả trả lời khác nhau về sự tham gia. Cụ thể, có 103 người được khảo

sát đã trả lời có tham gia vào xây dựng NTM, chiếm 85,8%; có 17 người trả lời không

tham gia vào xây dựng NTM, chiếm 14,2%.

Trong số 103 người tham gia xây dựng NTM, có 6 người trả lời bị bắt buộc

tham gia (chiếm 5,8%), 76 người tham gia do sự vận động của địa phương (chiếm

73,8%), và 21 người tự nguyện tham gia xây dựng NTM (chiếm 20,4%). Kết quả

khảo sát cho thấy, sự tham gia của người dân vào xây dựng NTM phần lớn là do công

tác vận động của địa phương; số ít trường hợp tham gia vì bị bắt buộc (chủ yếu là

đóng góp vật chất). Song, vấn đề đáng quan tâm là sự tự nguyện tham gia của người

dân vào xây dựng NTM còn thấp.

Các hình thức và mức độ tham gia của người dân vào xây dựng NTM cũng khá

đa dạng. Theo kết quả khảo sát, nhóm tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến xây dựng

TNM có 21 người, chiếm 20,3%; nhóm đóng góp tiền có 72 người tham gia, chiếm

69,9%; nhóm đóng góp ngày công lao động 13 người, chiếm 12,6%; nhóm hiến đất

đai làm đường, cầu, trường học…có 35 người, chiếm 33,9%; nhóm cải tạo, xây mới

hàng rào, cổng rào theo yêu cầu xây dựng NTM của xã có 98 người, chiếm 95,1%;

nhóm làm nhà vệ sinh theo yêu cầu xây dựng NTM có 63 người, chiếm 61,1%; nhóm

lắp đặt hệ thống nước sạch theo yêu cầu NTM có 48 người, chiếm 46,6%; nhóm làm

nơi đổ rác tập trung theo yêu cầu NTM có 39 người, chiếm 37,8%; nhóm cải tạo đồng

ruộng sản xuất theo NTM có 67 người, chiếm 65%; nhóm giám sát chất lượng công

trình xây dựng NTM có 6 người, chiếm 5,8%; nhóm tuyên truyền xây dựng NTM có

14 người, chiếm 13,5%.

41

3.3.4. Đánh giá của cư dân nông thôn về kết quả xây dựng NTM

Xã An Xuyên đã được công nhận đạt chuẩn NTM năm 2016 nhưng quá trình

xây dựng và nâng chất 19 tiêu chí xã NTM vẫn đang tiếp tục diễn ra. Đánh giá của

cư dân nông thôn về kết quả xây dựng NTM tại thời điểm khảo sát rất tích cực. Phần

lớn người được khảo sát đều ghi nhận những kết quả đạt được từ khi triển khai, thực

hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tại địa phương là rất quan trọng.

Đây là tín hiệu phấn khởi cho chính quyền xã An Xuyên trong vận động và đồng hành

cùng cư dân nông thôn nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt được, làm cơ sở đề

nghị UBND tỉnh Cà Mau công nhận lại xã NTM vào năm 2020.

Đối với tiêu chí điện, chỉ có 1 người ý kiến về mức độ cải thiện rất không quan

trọng, chiếm 0,8%; có 71 người đánh giá mức độ cải thiện quan trọng, chiếm 59,2%;

đặc biệt có 11 người đánh giá mức độ cải thiện rất quan trọng, chiếm 9,2%. Điều này

cho thấy, sự đánh giá, ghi nhận của cư dân nông thôn xã An Xuyên về tiêu chí điện

đã cải thiện rất nhiều từ kết quả xây dựng NTM.

Bảng 3.7. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí điện

Tiêu chí điện Tần suất Tỷ lệ (%) Tỷ lệ đúng (%) Tỷ lệ cộng dồn (%)

Rất không quan trọng Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 1 5 32 71 11 0.8 4.2 26.6 59.2 9.2 0.8 4.2 26.6 59.2 9.2

0.8 5.0 31.6 90.8 100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

42

Điện

80

60

40

20

0

Quan trọng

Bình thường

Rất không quan trọng

Không quan trọng

Rất quan trọng

Hình 3.7. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí điện

Đối với vấn đề cấp nước sạch sinh hoạt cho cư dân nông thôn tại xã An Xuyên

theo đánh giá của người được khảo sát thì mức độ cải thiện chưa nhiều. Có tới 70

người được khảo sát, chiếm 58,3% trả lời mức độ cải thiện bình thường; có 34 người,

chiếm 28,3% đánh giá mức độ cải thiện quan trọng. Song, những đối tượng này sau

khi rà soát có điểm chung là nơi cư trú gần trung tâm xã nên hưởng lợi từ chương

trình cung cấp nước sạch nối mạng của thành phố Cà Mau, số còn lại tự khoan giếng

nước ngầm sinh hoạt. Từ kết quả phỏng vấn lãnh đạo UBND xã An Xuyên cho thấy,

nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của cư dân nông thôn tại địa bàn xã An Xuyên

rất lớn, nhưng do dân cư một số ấp sống không tập trung, suất đầu tư hệ thống nước

nối mạng cao, chính quyền địa phương không chủ động nguồn vốn đầu tư, việc vận

động xã hội hoá lĩnh vực nước sạch còn gặp nhiều khó khăn.

Bảng 3.8. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện nước sạch sinh hoạt

Nước sinh hoạt Tần suất Tỷ lệ (%) Tỷ lệ đúng (%) Tỷ lệ cộng dồn (%)

Rất không quan trọng 1 0.8 0.8 0.8

Không quan trọng 7 5.8 5.8 6.7

Bình thường 70 58.3 58.3 65.0

Quan trọng 34 28.3 28.3 93.3

Rất quan trọng 8 6.8 6.8 100.0

Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

43

Nước sinh hoạt

80

60

40

20

0

Quan trọng Rất quan

Bình thường

Rất không quan trọng

Không quan trọng

trọng

Hình 3.8. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện nước sạch sinh hoạt

Đối với tiêu chí thuỷ lợi, qua kết quả khảo sát cho thấy đánh giá của người dân

về mức độ cải thiện không đáng kể. Có tới 72 người, chiếm 60% được khảo sát mức

độ cải thiện của tiêu chí thuỷ lợi ở mức bình thường; chỉ có 31 người, chiếm 25,8%

đánh giá mức độ cả thiện quan trọng. Kết quả khảo sát và phỏng vấn cho thấy, tiêu

chí thuỷ lợi tuy đạt chuẩn NTM nhưng sự cải thiện chưa thật sự rõ nét, điều này phản

ánh đúng thực trạng về điều kiện địa lý tự nhiên, với số lượng sông ngòi, kênh rạch

chằng chịt, hệ thống thuỷ lợi vì thế tận dụng điều kiện tự nhiên để lấy nước và thoát

nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản; việc nạo vét hệ thống kênh

mương phục vụ thuỷ nông nội đồng tuy được quan tâm nhưng chưa thường xuyên;

hạ tầng công trình thuỷ lợi chậm đầu tư xây dựng mới những công trình bức bức xúc

do thiếu nguồn vốn.

Bảng 3.9. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thuỷ lợi

Thủy lợi Tần suất

Rất không quan trọng 3 Tỷ lệ (%) 2.5 Tỷ lệ đúng (%) 2.5 Tỷ lệ cộng dồn (%) 2.5

Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 7 72 31 7 5.8 60.0 25.9 5.8 5.8 60.0 25.9 5.8

8.3 68.3 94.2 100.0 Tổng cộng 120 100.0

100.0 Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

44

Hình 3.9. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thuỷ lợi

Đối với tiêu chí giao thông được các nhóm trả lời khảo sát ghi nhận về mức độ

cải thiện rất cao sau thời gian xây dựng NTM trên địa bàn xã An Xuyên, thành phố

Cà Mau. Số người đánh giá mức độ cải thiện quan trọng đến 76 người, chiếm 63,3%;

có 21 người đánh giá tiêu chí giao thông có mức độ cải thiện rất quan trọng, chiếm

17,5%. Kết quả khảo sát đã phản ánh đúng sự phấn đấu của chính quyền xã An Xuyên,

sự cộng đồng trách nhiệm của cư dân nông thôn đóng góp về vật chất, ngày công,

hiến đất…để xây dựng các công trình hạ tầng giao thông nông thôn. Theo nội dung

phỏng vấn Ban Chỉ đạo xây dựng NTM xã An Xuyên, từ khi thực hiện Đề án xây

dựng NTM đến thời điểm phỏng vấn, xã đã tranh thủ tốt nguồn vốn đầu tư của cấp

trên và vận động sự tham gia của người dân đóng góp kinh phí đầu tư xây dựng nhiều

tuyến lộ giao thông, góp phần nối liền các tuyến lộ trục xã, liên xã; đường trục

ấp, liên ấp; đường xóm, nhánh…góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi

lại, buôn bán cả hai mùa mưa nắng.

45

Bảng 3.10. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giao thông

Giao thông Tần suất Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ đúng (%) 1.7 Tỷ lệ cộng dồn (%) 1.7 Không quan trọng 2 1.7

Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 21 76 21 17.5 63.3 17.5 17.5 63.3 17.5

19.2 82.5 100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Giao thông

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Bình thường

Quan trọng

Rất quan trọng

Không quan trọng

Hình 3.10. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giao thông

Đối với tiêu chí giáo dục, qua khảo sát cho thấy các nhóm đối tượng có sự đánh

giá cao về mức độ cải thiện. Có tới 69 người, chiếm 57,5% đánh giá mức độ cải thiện

quan trọng; 17 người, chiếm 14,2% đánh giá mức độ cải thiện rất quan trọng; chỉ có

2 người, chiếm 1,7% đánh giá mức độ cải thiện không quan trọng. Kết quả khảo sát

cho thấy, sự ghi nhận của cư dân nông thôn đối với công tác giáo dục nói chung và

các nội dung liên quan đến tiêu chí giáo dục nói riêng đã có sự phát triển đáng kể.

46

Bảng 3.11. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giáo dục

Giáo dục Tần suất Tỷ lệ (%)

Không quan trọng 2 1.7 Tỷ lệ đúng (%) 1.7 Tỷ lệ cộng dồn (%) 1.7

Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 32 69 17 26.6 57.5 14.2 26.6 57.5 14.2

28.3 85.8 100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Hình 3.11. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí giáo dục

Đối với tiêu chí y tế, số người được khảo sát phần lớn đều đánh giá mức độ cải

thiện quan trọng, góp phần chăm lo, bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho cư dân nông thôn.

Trạm y tế xã An Xuyên đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2013. Đội ngũ cán bộ y tế cơ

sở đảm bảo về cơ cấu, số lượng và chất lượng khám chữa bệnh ngày càng nâng lên.

Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng.

47

Bảng 3.12. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí y tế

Y tế Tần suất Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ đúng (%) 2.5 Tỷ lệ cộng dồn (%) 2.5 Rất không quan trọng 3 2.5

Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 6 37 58 16 5.0 30.8 48.3 13.3 5.0 30.8 48.3 13.3

7.5 38.3 86.7 100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Hình 3.12. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí y tế

Đối với tiêu chí nhà ở dân cư, qua khảo sát và quan sát thực tế tại xã An Xuyên

cho thấy, trên địa bàn xã không còn nhà tạm, nhà dột nát; số căn nhà xây dựng đạt

chuẩn quy định của Bộ Xây dựng chiếm tỷ lệ khá lớn; mức độ cải thiện nhà ở dân cư tăng đáng kể, diện mạo nông thôn nhiều khởi sắc. Theo kết quả khảo sát, có 69 người đánh giá mức độ cải thiện nhà ở dân cư quan trọng, chiếm 57,5% và rất quan trọng có 19 người, chiếm 15,8%. Qua phỏng vấn Ban Chỉ đạo xây dựng NTM xã An Xuyên và đại diện một số hộ liên quan đến tiêu chí nhà ở dân cư, sự tham gia của người dân khá chủ động, với tổng nguồn kinh phí đầu tư sửa chữa, xây mới nhà ở đến thời điểm khảo sát trên 60 tỷ đồng, trong đó chỉ có 2 nguồn đầu tư chủ yếu là tín dụng và nguồn vốn nội lực của cư dân nông thôn.

48

Bảng 3.13. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí nhà ở dân cư

Nhà ở Tần suất Tỷ lệ (%)

Rất không quan trọng Không quan trọng Bình thường Quan trọng Rất quan trọng

Tỷ lệ cộng dồn (%) 0.8 2.5 26.7 84.2 100.0 Tổng cộng 1 2 29 69 19 120 0.8 1.7 24.2 57.5 15.8 100.0 Tỷ lệ đúng (%) 0.8 1.7 24.2 57.5 15.8 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Nhà ở

70 60 50 40 30 20 10 0

Quan trọng

Bình thường

Rất không quan trọng

Không quan trọng

Rất quan trọng

Hình 3.13. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí nhà ở dân cư

Đối với tiêu chí thu nhập, từ kết quả khảo sát cho thấy sự đánh giá của cư dân

nông thôn về mức độ cải thiện rất cao. Có 81 người đánh giá mức độ cải thiện của

tiêu chí thu nhập ở mức quan trọng, chiếm 67,5%; có 26 người, chiếm 21,7% đánh

giá tiêu chí thu nhập ở mức cải thiện rất quan trọng. Điều này cho thấy, chương trình

xây dựng NTM tại xã An Xuyên có tác động tích cực đến việc nâng cao đời sống và

thu nhập của cư dân nông thôn.

Hộp 3.1. Kết quả phỏng vấn đại diện lãnh đạo UBND xã An Xuyên về tiêu

chí thu nhập (Trích biên bản phỏng vấn)

Năm 2010, thu nhập đầu người của xã An Xuyên 22,8 triệu đồng/người/năm;

năm 2016 (thời điểm xã đạt chuẩn NTM) thu nhập đầu người đạt 34,4 triệu

49

đồng/người/năm (tăng 11,6 triệu đồng so với năm 2010); tại thời điểm phỏng vấn

(tháng 11 năm 2018) thu nhập đầu người của xã An Xuyên đạt 42,2 triệu

đồng/người/năm.

Để tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, xã quy hoạch tiểu vùng sản xuất phù

hợp với điều kiện tự nhiên và tiềm năng, thế mạnh của từng ấp. Phát triển một số mô

hình sản xuất mang lợi thế đặc trưng của xã ven đô, như mô hình nuôi cá chình, cá

bống tượng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây ăn trái, hoa màu…gắn với phát

triển du lịch cộng đồng. Tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật

cho nông dân ứng dụng vào sản xuất; dạy nghề, truyền nghề gắn với giới thiệu việc

làm…Nhờ đó, thu nhập của nông dân đã cải thiện đáng kể so với thời điểm bắt đầu

xây dựng NTM.

Bảng 3.14. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thu nhập

Thu nhập Tần suất

Không quan trọng 2 Tỷ lệ (%) 1.7 Tỷ lệ đúng (%) 1.7 Tỷ lệ cộng dồn (%) 1.7

Bình thường Quan trọng Rất quan trọng 11 81 26 9.2 67.5 21.7 9.2 67.5 21.7

10.8 78.3 100.0 Tổng cộng 120 100.0 100.0

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Thu nhập

100

80

60

40

20

0

Quan trọng

Bình thường

Không quan trọng

Rất quan trọng

Hình 3.14. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí thu nhập

50

Đối với tiêu chí hộ nghèo, kết quả khảo sát cho thấy mức độ cải thiện đáng kể.

Trong số 120 người được khảo sát, có tới 67 người, chiếm 55,8% đánh giá tiêu chí

hộ nghèo có mức độ cải thiện quan trọng; 12 người, chiếm 10% đánh giá mức độ cải

thiện rất quan trọng. Từ đó cho thấy, hộ nghèo cư dân nông thôn xã An Xuyên giảm

đáng kể từ kết quả xây dựng NTM được triển khai thực hiện trên địa bàn.

Bảng 3.15. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí hộ nghèo

Hộ nghèo Tần suất Tỷ lệ (%) Tỷ lệ đúng (%) Tỷ lệ cộng dồn (%)

Rất không quan trọng 3 2.5 2.5 2.5

Không quan trọng 7 5.8 5.8 8.3

Bình thường 31 25.8 25.8 34.2

Quan trọng 67 55.8 55.8 90.0

Rất quan trọng 12 10.0 10.0 100.0

120 100.0 100.0 Tổng cộng

Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát, 2018

Hộ nghèo

70

60

50

40

30

20

10

0

Quan trọng

Bình thường

Rất không quan trọng

Không quan trọng

Rất quan trọng

Hình 3.15. Kết quả đánh giá mức độ cải thiện tiêu chí hộ nghèo

51

Tóm lại, từ kết quả khảo sát 120 hộ gia đình, cùng với nội dung phỏng vấn một

số đối tượng cư dân, chính quyền địa phương, sau khi phân tích một số tiêu chí cơ

bản trong 19 tiêu chí xây dựng NTM đã phản ánh khá toàn diện về kết quả xây dựng

NTM trên địa bàn xã An Xuyên. Người dân đánh giá cao mức độ cải thiện về cơ sở

hạ tầng nông thôn, như điện, đường, trường, trạm, cơ sở vật chất văn hoá, nhà ở dân

cư…được đầu tư xây dựng khang trang, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn.

Chất lượng cuộc sống cư dân nông thôn được nâng lên so với trước, mức thu nhập

đầu người tăng lên, số hộ nghèo giảm dần qua từng năm. Đây là cơ sở, động lực để

xã An Xuyên giữ vững và nâng chất các tiêu chí đạt được để đề nghị UBND tỉnh Cà

Mau công nhận lại xã đạt chuẩn NTM vào năm 2020.

52

CHƯƠNG 4. THẢO LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

4.1. Đánh giá kết quả xây dựng NTM tại xã An Xuyên

Chương trình xây dựng NTM tại xã An Xuyên đã phát huy tốt bốn trụ cột kinh

tế, văn hoá - xã hội, môi trường và thể chế để làm động lực cho phát triển nông thôn,

nâng cao chất lượng cuộc sống cư dân nông thôn. Cụ thể, hạ tầng nông thôn như điện,

đường, trường, trạm, trung tâm sinh hoạt văn hoá được đầu tư xây dựng đáp ứng nhu

cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống của nhân dân. Lĩnh vực nông nghiệp vẫn

giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế; một số lĩnh vực phi nông nghiệp phát triển

góp phần thúc đẩy, hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp; khoa học công nghệ được chuyển

giao cho nông dân, nhiều mô hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng đã góp phần

nâng cao thu nhập hộ gia đình; khoảng cách giữa thành thị và nông thôn được rút

ngắn; chất lượng cuộc sống người dân được nâng lên; diện mạo nông thôn khởi sắc.

Từ kết quả nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại xã An

Xuyên đã khẳng định một số thành công như sau:

- Xã An Xuyên thực hiện tốt công tác tuyên truyền văn bản chỉ đạo các cấp về

xây dựng NTM gắn với vận động sự tham gia đóng góp vật chất, công sức của người

dân để thực hiện đạt các tiêu chí xã NTM. Chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã

hội tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình, hộ kinh doanh hoạt động sản xuất,

kinh doanh để nâng cao thu nhập.

- Nhận thức của người dân về chính sách pháp luật nói chung và Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng NTM nói riêng được nâng lên. Vai trò hạt nhân, chủ thể

của các nhóm cư dân nông thôn trong quá trình xây dựng NTM đang dần khẳng định

rõ hơn. Người dân ngày tích cực, chủ động trong việc xây dựng NTM bằng nhiều

việc làm ý nghĩa, thiết thực.

- Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn xã An Xuyên làm xuất hiện nhiều

điển hình tập thể và cá nhân tiêu biểu điển hình trong xây dựng NTM, như hiến đất

và vật kiến trúc xây dựng và mở rộng đường giao thông, xây dựng trường học, trụ sở

sinh hoạt văn hoá; chủ động chuyển đổi cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế

53

cao, trở thành mô hình điểm để rút kinh nghiệm và nhân rộng ở địa phương; tích cực

tham gia làm thành viên Ban thanh tra nhân dân để thực hiện nhiệm vụ giám sát thi

công các công trình hạ tầng nông thôn.

- Các công trình hạ tầng nông thôn được xây dựng đã đáp ứng nhu cầu đi lại,

học tập, sinh hoạt, sản xuất, vui chơi giải trí…của người dân. Bộ máy chính quyền

nông thôn được kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động; chất lượng nguồn nhân

lực đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định.

- Tranh thủ tốt các nguồn vốn đầu tư của Trung ương, của tỉnh và thành phố Cà

Mau vào xây dựng NTM, đặc biệt tranh thủ kết hợp nguồn vốn từ các chương trình,

dự án khác để xây dựng NTM, nhất là nguồn vốn đối ứng được huy động trong dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình xây dựng NTM tại địa bàn xã

An Xuyên, qua kết quả nghiên cứu, khảo sát vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế

làm ảnh hưởng đến tính bền vững của các tiêu chí đã đạt được. Đây thật sự là thách

thức cho chính quyền xã An Xuyên trong duy trì, giữ vững danh hiệu xã NTM. Một

trong những hạn chế cơ bản là người dân tiếp cận thông tin tuyên truyền chưa sâu,

chưa toàn diện, thông tin tuyên truyền dừng lại ở mức khẩu hiệu, kêu gọi thông qua

băng rôn, cụm pa-no, niêm yết văn bản…mà thiếu những cuộc đối thoại trực tiếp giữa

chính quyền địa phương với các nhóm cư dân về chủ trương, chính sách, phương

pháp, cách làm, …có liên quan đến xây dựng NTM. Nguyên tắc tập trung dân chủ cơ

sở chưa thực hiện đầy đủ, chỉ dừng lại ở mức “Dân biết”, chưa mở rộng để “Dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra”. Vẫn còn không ít người dân, trong đó có cả cán bộ nhận thức

chưa rõ, chưa toàn diện về vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM.

Nhiều hoạt động xây dựng NTM do chính quyền địa phương tự quyết định hoặc

có lấy ý kiến của người dân cũng chỉ mang tính hình thức. Người dân là chủ thể xây

dựng NTM nhưng lại ít biết đến quyền và nghĩa vụ của bản thân, trong đó công tác

quy hoạch ít được tổ chức để người dân đóng góp ý kiến, vai trò giám sát cộng đồng

của người dân chưa thể hiện rõ ràng, có trường hợp cơ cấu cho đủ thành phần tham

gia nhưng không phát huy hiệu quả giám sát; phần lớn những người tham gia giám

54

sát cộng đồng là cán bộ chính quyền và các đoàn thể chính trị, xã hội ở địa phương.

Mức độ tham gia của người dân trong chương trình xây dựng NTM chưa bao quát,

chưa toàn diện trên các hoạt động xây dựng NTM, chủ yếu những hoạt động liên quan

đến đời sống trực tiếp của người dân hoặc đóng góp kinh phí xây dựng NTM thì mới

có sự tham gia.

Trong phát triển kinh tế, tuy xã An Xuyên đã hình thành được các HTX, THT

sản xuất, một số trang trại chăn nuôi nhưng việc nhân rộng mô hình còn chậm do việc

hỗ trợ nguồn vốn, kỹ thuật, ứng dụng công nghệ…để phát triển các mô hình này chưa

được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức. Đặc thù nông thôn của xã An Xuyên là

ven đô thị thành phố Cà Mau, có một vài ấp thuận lợi trong đầu tư và phát triển du

lịch cộng đồng. Từ đó, được UBND thành phố Cà Mau đầu tư nguồn vốn xây dựng

hạ tầng giao thông; ưu tiên về chính sách đất đai, thuế để thu hút đầu tư, từ đó dẫn

đến thực trạng không đảm bảo công bằng giữa các ấp trong xây dựng NTM. Bên cạnh

đó, nguồn vốn xây dựng NTM giữa các ấp không đều nhau, đối với những ấp được

chọn chỉ đạo điểm thì được đầu tư nhiều hơn và ngược lại, đó là điều tất yếu nhưng

cũng ảnh hưởng không ít đến tâm lý của người dân.

4.2. Hạn chế của nghiên cứu và định hướng các nghiên cứu tiếp theo

Bên cạnh những kết quả đạt được, sự tham gia của người dân trong xây dựng

NTM ở tại xã An Xuyên vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, yếu kém như:

1. Cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa phát huy đúng mức vai trò sự tham gia của

người dân trong xây dựng NTM. Chưa khuyến khích, cổ vũ và tạo điều kiện thuận

lợi để mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến, công sức, vật chất một cách chủ động,

tự nguyện. Chưa xây dựng kế hoạch, mục tiêu, chương trình công tác liên quan đến

sự tham gia của người dân. Chưa khen thưởng, biểu dương kịp thời những nhân tố

tiêu biểu trong xây dựng NTM.

2. Công tác phối hợp giữa cấp chính quyền với MTTQ và các tổ chức chính trị

- xã hội trong công tác tuyên truyền đôi lúc chưa được chặt chẽ, thường xuyên; hiệu

quả công tác tuyên truyền chưa cao.

55

3. Một số nội dung công khai để dân biết, dân bàn và quyết định trực tiếp; nhân

dân tham gia bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; nhân dân tham gia ý

kiến trước khi chính quyền quyết định; nhân dân giám sát thì chưa đầy đủ.

4. Một bộ phận người dân còn thờ ơ, chưa mạnh dạn tham gia đóng góp ý kiến,

chưa tích cực tham gia giám sát, chưa thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong

tham gia xây dựng NTM; đôi lúc bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo tham gia gây rối an ninh

trật tự, đòi hỏi những quyền và lợi ích không hợp pháp, gây cản trở cho sự phát triển

kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh ở địa phương.

5. Việc củng cố, kiện toàn BCĐ xây dựng NTM của xã còn chậm; chất lượng

hoạt động của các thành viên BCĐ chưa đều.

6. Hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng

đồng, Tổ nhân dân tự quản chưa cao.

4.3. Nguyên nhân hạn chế

Theo khung phân tích ROCCIPI, sự tham gia của người dân trong xây dựng

NTM còn phụ thuộc vào 7 yếu tố: Quy tắc (Rule), Cơ hội tham gia (Opportunity),

Truyền thông (Communication), Năng lực (Capacity), Lợi ích (Interest), Quy trình

(Process), ý thức hệ - giá trị truyền thống (Ideology). Đây là 7 yếu tố nhằm xác định

nguyên nhân ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân. Qua những hạn chế, tồn tại

nêu ở 4.2, tác giả nhận thấy chủ yếu rơi vào nhóm các yếu tố chủ quan.

1. Cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa phát huy đúng mức sức mạnh sự tham gia

của người dân trong xây dựng NTM, thiếu kiểm tra, giám sát, khen thưởng kịp thời

những cá nhân tiêu biểu trong xây dựng NTM. Vấn đề này liên quan tới yếu tố Năng

lực (C) và Quy trình (P). Vì năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền phụ

thuộc vào nhận thức, ý thức chính trị của người lãnh đạo, nên trong lãnh đạo, điều

hành của cấp ủy, chính quyền vẫn còn tình trạng xem nhẹ công tác này (chưa xem

đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên).

56

2. Sự phối hợp giữa chính quyền với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội

trong công tác tuyên truyền, vận động từng lúc chưa được chặt chẽ, thường xuyên;

hiệu quả công tác tuyên truyền chưa cao. Nội dung này được phân tích theo 3 yếu tố:

Năng lực (C), Cơ hội tham gia (O) và Truyền thông (C). Công tác phối hợp tuyên

truyền phụ thuộc yếu tố Năng lực, nhất là sự nhận thức, ý thức chính trị về vai trò,

trách nhiệm của của người lãnh đạo trong tổ chức đó. Xét ở gốc độ Cơ hội tham gia,

nếu một bên tích cực và một bên không tích cực thực hiện, thì công tác phối hợp sẽ

thiếu chặt chẽ, đồng bộ; không được thực hiện liên tục, dẫn đến hiệu quả công tác

tuyên truyền chưa cao.

Ngoài ra, hiệu quả công tác tuyên truyền còn phụ thuộc vào năng lực, trình độ,

kỹ năng, mức độ hiểu biết của đội ngũ làm công tác tuyên truyền. Song, hình thức

tuyên truyền cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công tác truyền truyền (yếu tố Truyền

thông), hiện nay công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước đến người dân ở địa phương chưa kịp thời, còn hạn chế

về hình thức triển khai, do chủ yếu sử dụng phương pháp tuyền truyền truyền thống

như: Qua loa truyền thanh, họp chi, tổ hội, tổ dân phố, phát tờ rơi, băng gol, pano, áp

phích... chiếm 62,7%. Trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng

ở địa phương chưa tận dụng tối đa công nghệ thông tin để nâng cao công tác tuyên

truyền như: qua mạng internet, zalo, facebook, cổng thông tin điện tử của xã và TP

Cà Mau để kết nối thông tin với người dân một cách nhanh nhất, rộng rãi, thuận tiện,

ít tốn kém chí phí (tiền, thời gian, công sức). Bên cạnh đó, việc sinh hoạt lệ của các

tổ chức chính trị - xã hội, họp hội ở ấp, xóm có nơi chưa đi vào nền nếp, số người

tham gia sinh hoạt ít, nên việc tiếp nhận thông tin chính thống, cần thiết đối với đông

đảo nhân dân còn khó khăn.

3. Một số nội dung phải công khai để "Dân biết, dân bàn và quyết định; nhân

dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; nhân dân giám sát"

chưa đầy đủ. Xét theo yếu tố Năng lực (C), công khai cho nhân dân biết là trách nhiệm

của UBND và Chủ tịch UBND xã, phường. Người dân trên địa bàn xã được "Biết"

khá nhiều thông tin, qua nhiều kênh khác nhau, song những vấn đề cần biết thì không

57

biết hoặc biết không đầy đủ, như: Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp

xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân; kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội; quyết toán ngân sách cấp xã; những khoản tiền do dân đóng góp; dự án, công

trình đầu tư, phương án đền bù giải tỏa, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư; quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết. Việc công khai liên quan đến Truyền thông (C),

bởi đây là việc truyền tải thông tin về luật, các quy định của Đảng, Nhà nước đến các

bên liên quan. Công khai được xác định đây là một tiêu chí quan trọng, vì nếu những

quy định pháp luật mặc dù chặt chẽ, tính khả thi cao, nhưng không truyền tải đến

những bên tham gia thì cũng không đảm bảo tính hiệu quả thực thi của pháp luật.

4. Một bộ phận người dân còn thờ ơ, chưa mạnh dạn tham gia đóng góp ý kiến,

giám sát; chưa thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong xây dựng NTM, đôi

lúc bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo tham gia gây rối an ninh trật tự, đòi hỏi những quyền

và lợi ích không hợp pháp, gây cảng trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo

quốc phòng an ninh ở địa phương. Nội dung này phụ thuộc vào 2 yếu tố chủ quan và

khách quan:

- Xét theo các yếu tố khách quan:

Điểm cốt lõi của sự tham gia là Lợi ích (I). Lợi ích liên quan đến động cơ thúc

đẩy hay khuyến khích (hữu hình hay vô hình) hành vi các bên tham gia thực thi theo

quy định pháp luật. Thông thường những động cơ thúc đẩy liên quan đến chi phí, lợi

ích của việc thực thi pháp luật. "Dân làm" - dân thực hiện là khâu thể hiện rõ nhất và

có hiệu quả nhất ở cơ sở. Song cũng nổi lên nhiều vấn đề cần giải quyết như: Cần quy

định rõ việc gì Nhà nước làm, việc gì nhân dân làm và việc gì Nhà nước và dân cùng

làm, vì hiện nay người dân ở nông thôn thu nhập còn thấp, đời sống còn khó khăn,

song phải đóng góp rất nhiều khoản tiền, do thực hiện phương châm "Nhà nước và

nhân dân cùng làm". Vì vậy, nếu việc tham gia của người dân xây dựng NTM đem

lại quyền hạn, lợi ích nhiều hơn nghĩa vụ thì người dân sẽ tự nguyện tham gia và

ngược lại.

58

- Xét theo yếu tố chủ quan: Nếu người dân có Năng lực (C), điều kiện, hoàn

cảnh khác nhau sẽ có Cơ hội (O) tham gia thực hiện xây dựng NTM ở các mức độ

khác nhau. Qua khảo sát có 20,4% người dân tham gia xây dựng NTM tự nguyện.

Người dân nhận thức còn hạn chế về pháp luật là do trình độ dân trí thấp, nên nhận

thức chưa đúng về vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của mình trong xây dựng

NTM. Một số người do nghèo, kinh tế gia đình khó khăn nên chỉ tham gia những hoạt

động nào có lợi ích cho cá nhân, ít quan tâm đến lợi ích chung của cộng đồng, ý thức

tự giác thực hiện nghĩa vụ công dân còn thấp, do đó họ chưa tích cực tham gia, còn

thờ ơ, không tham gia hoặc ít tham gia, nhất là sinh hoạt ở khu dân cư.

Năng lực của từng cá nhân, còn phụ thuộc vào nhận thức về vai trò, trách nhiệm

của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc triển khai, tổ chức thực hiện ở cơ sở;

địa phương nào chưa thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra", sẽ làm cho một phận người dân ít có hoặc không có cơ hội tham gia, bởi

phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" được xác định là Quy trình

(P) của việc tham gia xây dựng NTM, nhưng trong quá trình thực hiện từng lúc còn

làm hình thức, chất lượng, hiệu quả không cao.

5. Việc củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo xây dựng NTM cấp xã còn chậm; chất

lượng hoạt động của các thành viên Ban Chỉ đạo chưa đều. Thành viên Ban Chỉ đạo

xây dựng NTM cấp xã đều hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên Cơ hội tham gia

(O) chưa tốt, chỉ tập trung vào công việc chuyên môn; từ gốc độ Lợi ích (I) thì các

thành viên Ban Chỉ đạo không có tiền phụ cấp từ hoạt động này. Về Năng lực (C),

thành viên Ban Chỉ đạo là lãnh đạo của các ngành nên ý thức về vai trò, trách nhiệm,

mức độ hiểu biết về các lĩnh vực, tiêu chí xây dựng NTM cũng khác nhau nên một số

thành viên còn xem nhẹ, chưa làm tròn nhiệm vụ được giao.

6. Có nơi hiệu quả hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư

cộng đồng, Tổ nhân dân tự quản chưa cao. Xét về Năng lực (C) của các thành viên 3

tổ chức này: Về trình độ nhận thức, ý thức về vai trò, trách nhiệm không đồng đều;

Quy trình (P) thực hiện còn lúng túng trong việc lựa chọn nội dung giám sát, thiếu

59

những quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết,

trả lời những phát hiện, kiến nghị; điều kiện, kinh phí hoạt động còn khó khăn, Lợi

ích (I) chi phí hoạt động chưa được đảm bảo.

Xét về đề tài nghiên cứu của tác giả, trong phạm vi của nghiên cứu này, vẫn

chưa khảo sát toàn diện, đầy đủ một số nội dung chuyên sâu về sự tham gia của người

dân trong xây dựng NTM. Việc đánh giá nội dung 18/19 tiêu chí (xã An Xuyên không

thực hiện tiêu chí chợ) chưa đi sâu khảo sát, phân tích từng tiêu chí đạt được mà chỉ

sử dụng thông tin, số liệu phỏng vấn của UBND xã An Xuyên, từ đó chưa thể hiện

rõ quan điểm của chủ thể trực tiếp xây dựng NTM là chính người dân. Việc tham

khảo tài liệu các nghiên cứu trước đây liên quan đến sự tham gia của người dân trong

xây dựng NTM còn hạn chế, nhất là nhóm tài liệu tham khảo nước ngoài, một phần

do khả năng ngoại ngữ của người viết còn hạn chế, mặt khác việc nghiên cứu các mô

hình xây dựng nông thôn ở nước ngoài mất nhiều thời gian. Vì thế, tác giả chủ yếu

sử dụng tài liệu tham khảo trong nước. Nguồn tin phục vụ nghiên cứu này chưa phong

phú, đa dạng. Tác giả chủ yếu sử dụng thông tin từ các văn bản, báo cáo của cơ quan

liên quan; kết quả khảo sát tại địa phương; phỏng vấn trực tiếp một số cơ quan chức

năng. Bảng hỏi được thực hiện theo cách thuận tiện và không thực hiện trên diện rộng

nên chưa bao quát tính đại diện đối tượng cư dân nông thôn khu vực khảo sát.

4.4. Giải pháp xây dựng NTM bền vững tại xã An Xuyên

Để cải thiện hiệu quả về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM, người

viết xin đề xuất một số giải pháp sau:

- Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, làm cho mọi người dân hiểu sâu, hiểu rõ về ý

nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM,

nhất là hiểu rõ vai trò chủ thể, quyền và nghĩa vụ liên quan của cư dân nông thôn

trong xây dựng NTM. Phát huy tối đa hiệu quả tuyên truyền thông qua các tổ chức

Mặt trận, đoàn thể chính trị, xã hội ở nông thôn. Định kỳ chính quyền địa phương tổ

chức đối thoại với người dân những nội dung liên quan đến xây dựng NTM.

60

- Hai là, cần quy định thống nhất về sự tham gia của người dân ở từng địa

phương từ hoạt động hội họp, đóng góp ý kiến, kinh phí đến công tác kiểm tra, giám

sát các hoạt động xây dựng NTM.

- Ba là, củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo xây dựng NTM các cấp đủ mạnh để tổ

chức thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM thời

gian tới.

- Bốn là, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng NTM, nhất là huy động

nguồn lực tại chỗ do người dân đóng góp để giảm bớt gánh nặng ngân sách cho Nhà

nước. Lồng ghép nguồn vốn các chương trình, dự án để xây dựng NTM. Có chính

sách kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.

- Năm là, phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM gắn với

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra và dân thụ hưởng”.

- Sáu là, thực hiện công khai, minh bạch các hoạt động có liên quan đến xây

dựng NTM cho người dân nắm, như công tác quy hoạch, tài chính, thông tin về các

dự án công trình NTM. Tổ chức họp dân thông tin công khai các nội dung liên quan

đến xây dựng NTM.

- Bảy là, tiếp tục duy trì và phát huy các phong trào thi đua xây dựng NTM trên

địa bàn tỉnh Cà Mau, như phong trào thi đua “Cà Mau chung sức xây dựng NTM”,

Ngày hội Văn hoá – Thể thao các xã NTM tỉnh Cà Mau…Tổ chức sơ kết, tổng kết

rút kinh nghiệm, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân điển hình có thành

tích xuất sắc trong xây dựng NTM.

- Tám là, tăng cường tập hợp người dân tham gia vào các tổ chức đoàn thể chính

trị, xã hội ở địa phương để tạo điều kiện cho người dân được giao lưu với nhau, cộng

đồng trách nhiệm hơn trong xây dựng NTM.

61

- Chín là, chính quyền địa phương phải tiếp thu và tôn trọng ý kiến đóng góp

của người dân. Kịp thời trả lời những kiến nghị, đề xuất của người dân có liên quan

đến xây dựng NTM. Tạo cơ hội cho người dân đóng góp ý kiến xây dựng NTM.

- Mười là, mỗi địa phương cần chọn mô hình điểm để thực hiện xây dựng NTM

kiểu mẫu, làm tiền đề để nhân rộng mô hình, góp phần nâng cao chất lượng các tiêu

chí xây dựng NTM.

62

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN

Xây dựng NTM đang là chủ trương nhận được nhiều sự quan tâm, đầu tư của

Đảng và Nhà nước, tuy nhiên những điểm nghẽn về cơ chế, tài chính, sự tham gia của

người dân,… đang thách thức thành công lâu dài của chính sách. Giải pháp cho vấn

đề là cải thiện sự tham gia của người dân vì đây vừa là yêu cầu, vừa là mục đích của

chính sách.

Để làm được điều này, mỗi cấp chính quyền cần thực hiện những công việc

tương ứng với vị trí, quyền hạn: (1) Chính quyền cấp xã cần công khai, minh bạch

thông tin về chính sách xây dựng NTM, trao quyền cho người dân trong lựa chọn

những việc ưu tiên làm trước. (2) Chính quyền tỉnh/huyện cần tổ chức các lớp tập

huấn, đào tạo để nâng cao hiệu quả tham gia của người dân, thí điểm các hoạt động

do người dân thực hiện nhằm phát huy nội lực cộng đồng. (3) Trung ương cần ban

hành các quy định về sự tham gia của người dân kèm theo chế tài cụ thể; xây dựng

cơ chế, chính sách đầu tư phù hợp với công tác xây dựng NTM từng vùng, miền.

Xác định công tác tuyên truyền, vận động nhân dân là khâu then chốt để huy

động sức mạnh tổng hợp của toàn dân cùng với cả hệ thống chính trị nhằm thực hiện

hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM của xã An Xuyên. Việc tuyên truyền phải thấm

sâu, làm rõ chủ thể xây dựng NTM là nhân dân và họ cũng là đối tượng thụ hưởng,

từ đó mới huy động được nguồn lực trong nhân dân hưởng ứng, hiến kế, đóng công,

góp sức,… xây dựng NTM. Bên cạnh đó, cần phải đa dạng hoá việc huy động các

nguồn lực, trước hết là nguồn lực của Nhà nước để tạo niềm tin, tạo đà, cơ sở để huy

động vốn, về lâu dài thì việc huy động vốn trong nhân dân sẽ là chính. Bên cạnh đánh

giá việc hoàn thành các tiêu chí theo chuẩn NTM của Trung ương và thành phố, cần

chú trọng ghi nhận, tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân, xem đây là một trong những

nội dung, yếu tố quan trọng, quyết định tính bền vững hay không trong chương trình

xây dựng NTM. Qua những góp ý, đánh giá đó cho thấy người dân đã thể hiện được

vai trò quan trọng và phát huy được quyền làm chủ của mình trong xây dựng, quản

lý, giám sát, thụ hưởng, nhất là trong giai đoạn mới, giai đoạn nâng cao chất lượng

các tiêu chí đã đạt, hướng tới xây dựng NTM bền vững hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nước

Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008

về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Ban chấp hành Trung ương (2008), Quyết định số 205-QĐ/TW, ngày

30/12/2008 thành lập Ban chỉ đạo thí điểm chương trình xây dựng nông thôn mới.

Ban chỉ đạo Trung ương chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn

mới (2014), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới giai đoạn 2010-2014 và phương hướng, nhiệm vụ đến năm 2015.

Báo cáo số 39/BC-UBND ngày 26/4/2015 của UBND xã An Xuyên về kết quả

thực hiện các tiêu chí nông thôn mới trên địa bàn xã An Xuyên, thành phố Cà Mau.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009), Thông tư số 54/2009/TT-

BNNPTNT ngày 21/8/2009 hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về NTM.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính

(2011), Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày

13/4/2011 hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày

04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.

Chính phủ (2009), Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 14/02/2009 về quản lý

đầu tư và xây dựng công trình.

Chính phủ (2009), Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 14/02/2009.

Chính phủ (2009), Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng dẫn

thực hiện Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng.

Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp - Lý luận thực tiễn và

triển vọng áp dụng ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp.

Hà Thị Thùy Dương (Tạp chí Cộng sản, tháng 2/2016), Phát huy vai trò chủ thể

của người dân trong xây dựng nông thôn mới.

Hải Đăng (2013) “Cần đẩy mạnh vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng

nông thôn mới”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,

http://cpv.org.vn/Modules/News/NewsDetail.aspx/co_id=2834 739&cn_id=610804.

Jang Heo (2009), Bài thuyết trình về mô hình“Nông thôn mới” của Hàn Quốc.

Lê Doãn Sơn (2017), Xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Cà Mau giai đoạn 2011-

2015: Thành tựu và những bài học kinh nghiệm, Tạp chí Tổ chức Nhà nước.

Nguyễn Minh Phương (2013), Vấn đề quy hoạch với sự tham gia của cộng

đồng: Thực trạng tại các quốc gia phát triển trên thế giới và Việt Nam.

Phạm Bảo Dương, Hà Thị Thanh Mai (2011), Một số vấn đề lý luận về sự tham

gia của các cộng đồng dân tộc trong giảm nghèo bền vững.

Tạ Quỳnh Hoa (2009), Quy hoạch đô thị với sự tham gia của cộng đồng – Những

vấn đề nghiên cứu cho việc áp dụng phương pháp tại Việt Nam.

Thành ủy Cà Mau (2011), Chương trình hành động số 15-Ctr/TU ngày

20/12/2011 thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới tỉnh Cà

Mau, giai đoạn 2011-2015 và những năm tiếp theo.

Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm

2009 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm

2010 về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai

đoạn 2010-2020.

Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 1013/QĐ-TTg ngày 01 tháng 7

năm 2010 về việc thành lập Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu Quốc gia

xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.

Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02

năm 2013 sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 372/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm

2014 về việc xét công nhận và công bố địa phương đạt chuẩn nông thôn mới.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2005), Giáo trình Phát triển nông thôn,

NXB Nông Nghiệp.

Trần Quang Minh (2010), Nông nghiệp Hàn Quốc trên đường phát triển, Nxb

Từ điển Bách khoa.

Trần Tiến Khai (2015), Phát triển nông thôn bền vững cho Việt Nam: Nhìn từ

lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, Nxb Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh.

UBND thành phố Cà Mau (2009), Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 22

tháng 01 năm 2009 về ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của

Thành ủy Cà Mau về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

UBND tỉnh Cà Mau (2011), Kế hoạch số 31/KH-UBND ngày 02/12/2011 về

việc phát động phong trào thi đua “Cà Mau chung sức xây dựng nông thôn mới” giai

đoạn 2011-2015 và những năm tiếp theo.

UBND tỉnh Cà Mau (2017), Kế hoạch số 643/QĐ-UBND ngày 07/4/2017 về

việc ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mới giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Cà Mau.

UBND tỉnh Cà Mau (2017), Quyết định số 1242/QĐ-UBND ngày 17/7/2017 về

việc tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cà Mau chung sức xây dựng nông thôn

mới” giai đoạn 2016-2020.

UBND tỉnh Cà Mau (2017), Quyết định số 705/QĐ-UBND ngày 13/4/2017 về

bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2017-2020.

Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương chương trình mục tiêu Quốc gia về xây

dựng nông thôn mới (2015), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu

Quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Vũ Thành (2013), “Phát huy vai trò nhân dân trong xây dựng NTM”, Báo Nhân

dân, http://www.nhandan,org.vn/chinhtri/cung-suy-ngam/item/20860502-htm.

Tài liệu nước ngoài

Arnstein, S.R. (1969). “A ladder of citizen participation”. Journal of the

American Institute of planners, 35 (4), 216-224.

Foster, C.R. (Ed). (2016) Comparative public policy and citizen participation:

energy, education, health and urban issues in the US and Germany. Elsevier.

Greitens, T.J. (2016). Citizen Participation in Public Management. Global

Encyclopedia of Public Administration, Public Policy and Governance, 1-6.

IFAD. (2009). Community-driven development decision tools for rural

development programmes.

Irvin, R.A & Stansbury, J. (2004). Citizen participation in decision making: Is

it worth the effort?. Public administration review, 64 (1), 55-56.

Lanmafankpotin, G. Edition of the Oxford English Dictionnary, 1971.

Theocharis, Y& Van Deth, J.W. (2017). The continuous expansion of citizen

participation: a new taxonomy – Erratum. Eutopean Political Science Review, 1-1.

Phụ lục 1. Phiếu khảo sát ý kiến người dân

PHIẾU KHẢO SÁT

Kính thưa quý ông/bà

Tôi tên: Lê Trúc Hương. Tôi thực hiện khảo sát này nhằm mục đích phục vụ

cho đề tài “Đánh giá hiệu quả sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn

mới (NTM) tại xã An Xuyên, TP Cà Mau. Tôi rất mong nhận được sự hỗ trợ của quý

ông/bà; những thông tin chỉ là tham khảo và sẽ được giữ bí mật.

C1. Họ và tên

C2. Tuổi

C3. Địa chỉ

Ấp…………., xã An Xuyên, TP Cà Mau

C4.Giới tỉnh

1. Nam 2. Nữ

1. Đến THCS

2. Phổ thông trung học

3. Cao đẳng

C5.Trình độ học vấn/đào tạo

4. Đại học

5. Sau đại học

1. Nông nghiệp

2. Buôn bán, kinh doanh nhỏ

3. Công chức, viên chức

C6. Nghề nghiệp chủ yếu của gia đình (chỉ chọn một đáp án)

4. Nghề khác

C7. Thời gian cư trú tại xã Từ năm…………………………đến nay

Phần I: Thông tin người trả lời

Phần II. Hiểu biết của người dân về chương trình xây dựng NTM trên địa bàn

C8. Ông/bà có biết đến chương trình xây dựng NTM không?

1. Có

2. Không

C9. Ông/bà biết về chương trình xây dựng NTM từ nguồn thông tin nào? (có thể chọn

nhiều đáp án)

1.

Các cuộc họp dân với UBND xã

2.

Qua tiếp xúc cử tri

3.

Qua các tổ chức đoàn thể

4.

Phổ biến trực tiếp đến từng hộ gia đình

5.

Gửi tài liệu, tờ rơi

6.

Niêm yết thông tin tại xã

7.

Tuyên truyền trên loa phát thanh của xã

8.

Qua báo, đài; Internet

9.

Từ người thân, hàng xóm, người quen

Phần III. Sự tham gia của cư dân nông thôn trong xây dựng NTM

C10. Ông/bà có tham gia vào quá trình xây dựng NTM ở địa phương hay không?

1. Có

2. Không

C11. Khi tham gia xây dựng NTM mức độ tự nguyện của ông/bà như thế nào?

1. Bị bắt buộc

2. Có sự vận động của địa phương 3. Tự nguyện

C12. Ông/bà tham gia xây dựng NTM dưới những hình thức nào sau đây? (Có thể

chọn nhiều đáp án)

Hình thức tham gia

1. Bàn bạc, đóng góp ý kiến

2. Đóng góp tiền

3. Đóng góp ngày công lao động

4. Hiến đất đai làm đường, cầu, trường học,…

5. Sửa chữa nhà ở theo yêu cầu NTM

Hình thức tham gia

6. Cải tạo, xây mới hàng rào, cổng rào theo NTM

7. Làm nhà vệ sinh trong nhà theo yêu cầu NTM

8. Lắp đặt hệ thống nước sạch theo yêu cầu NTM

9. Làm nơi đổ rác tập trung theo yêu cầu NTM

10. Cải tạo đồng ruộng sản xuất theo NTM

11. Giám sát chất lượng công trình xây dựng NTM

12. Kiểm tra việc sử dụng kinh phí đầu tư NTM

13. Tuyên truyền, vận động xây dựng NTM

14 Khác (ghi rõ nội dung):……………………

Phần IV. Đánh giá kết quả xây dựng NTM

C13. Sau thời gian xây dựng NTM, ông/bà thấy mức độ cải thiện một số tiêu chí cơ

bản ở địa phương mình ra sao?

Ghi chú: Đánh giá theo mức độ cải thiện 5 cấp độ. Cụ thể: 1 là rất không quan trọng;

2 là không quan trọng; 3 là bình thường; 4 là quan trọng; 5 là rất quan trọng.

1. Điện

1

2

3

4

5

2. Cấp nước sạch sinh hoạt

1

2

3

4

5

3. Giao thông

1

2

3

4

5

4. Thuỷ lợi

1

2

3

4

5

5. Giáo dục

1

2

3

4

5

6. Y tế

1

2

3

4

5

7. Nhà ở dân cư

1

2

3

4

5

8. Thu nhập

1

2

3

4

5

9. Hộ nghèo

1

2

3

4

5

10. Cơ sở vật chất văn hoá

1

2

3

4

5

11. An ninh trật tự

1

2

3

4

5

C14. Cuối cùng, xin ông/bà cho ý kiến về những gì cần thực hiện trong thời gian tới

để thúc đẩy sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn mới? (Có thể chọn nhiều

đáp án)

1. Nên thông báo kịp thời các chính sách về xây dựng NTM để người dân có thể tham

gia

2.

Tiếp thu và tôn trọng ý kiến của người dân

3.

Tăng cường sự giám sát của người dân trong các hoạt động xây dựng NTM

4.

Tiếp tục phát huy Quy chế dân chủ ở cơ sở theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.

5.

Tăng cường công tác vận động, tập hợp quần chúng tham gia vào các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội ở địa phương

6. Ý kiến khác……………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………

Chân thành cảm ơn sự hỗ trợ của quý ông/bà!