BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------o0o---------
VŨ NGỌC ĐĂNG
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------o0o---------
VŨ NGỌC ĐĂNG
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số:
8340403
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỮU DŨNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do cá nhân tôi khảo sát, tham khảo
tài liệu và thực hiện. Mọi trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn
nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của cá nhân. Luận văn
được thực hiện trên cơ sở tổng hợp những kiến thức và khảo sát thực tế mà không
nhất thiết phản ánh quan điểm của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Vũ Ngọc Đăng
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
TỪ VIẾT TẮT
DANH SÁCH CÁC BẢNG
DANH SÁCH CÁC HÌNH
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................... 1
1.1 Bối cảnh đề tài ................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 3
1.4 Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu .................................................. 4
1.5 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
1.6 Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 4
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TẠI CÁC XÃ NTM ........................................... 7
2.1 Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 7
2.1.1 Lược sử vấn đề ............................................................................................ 7
2.1.2 Lược sử vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM ............................................................................................................................ 10
2.1.2.1 Khái niệm nông dân ............................................................................ 10
2.1.2.2 Khái niệm Nông thôn mới .................................................................. 11
2.1.2.3 Vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM ..... 12
2.1.3 Lý thuyết về sự tham gia của người dân ................................................... 14
2.1.4 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM ................... 18
2.2 Kinh nghiệm phát triển nông thôn với hoạt động của người dân tham gia ở một số nước trên thế giới ....................................................................................... 19
2.2.1 Hoạt động của người dân tham gia ở Hàn Quốc ....................................... 19
2.2.2 Hoạt động của người dân tham gia ở Nhật Bản ........................................ 21
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NTM TẠI TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU .............. 25
3.1 Tổng quan về Chương trình MTQG xây dựng NTM ...................................... 25
3.1.1 Mục tiêu ..................................................................................................... 25
3.1.2 Các chính sách cho xây dựng NTM .......................................................... 26
3.1.2.1 Nguyên tắc xây dựng NTM ................................................................ 26
3.1.2.2 Nội dung xây dựng NTM .................................................................... 26
3.1.2.3 Tiêu chí đạt NTM ................................................................................ 27
3.1.2.4 Nguồn kinh phí cho xây dựng NTM ................................................... 28
3.1.2.5 Chính sách hỗ trợ xây dựng NTM ...................................................... 29
3.2 Tình hình thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM trên cả nước ........ 29
3.2.1 Tình hình thực hiện từ năm 2011 – 2015 .................................................. 29
3.2.2 Tình hình thực hiện từ năm 2016 - 2017 ................................................... 31
3.3 Kết quả triển khai Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ......................................................................................................................... 32
3.4 Chọn mẫu nghiên cứu ...................................................................................... 35
3.5 Thực trạng người dân tham gia trong xây dựng NTM .................................... 37
3.5.1 Người dân nắm bắt thông tin về Chương trình ......................................... 37
3.5.2 Người dân tham gia ý kiến ........................................................................ 42
3.5.3 Người dân tham gia thực hiện ................................................................... 51
3.5.4 Người dân tham gia giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng ............... 56
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP ................................................................ 62
4.1 Kết luận ............................................................................................................ 62
4.2 Giải pháp .......................................................................................................... 64
4.3 Hạn chế và hướng mở rộng đề tài .................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
TỪ VIẾT TẮT
ANTT An ninh trật tự 1
BCĐ Ban Chỉ đạo 2
LĐNT Lao động nông thôn 3
MTQG Mục tiêu quốc gia 4
NTM Nông thôn mới 5
NSĐP Ngân sách địa phương 6
NSNN Ngân sách nhà nước 7
NSTW Ngân sách Trung ương 8
TCSX Tổ chức sản xuất 9
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1 Số liệu mẫu điều tra ................................................................................... 36
Bảng 3.2 Tỷ lệ người dân biết về các nội dung đầu tư theo từng địa phương .......... 41
Bảng 3.3 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc công khai theo từng địa phương ................................................................................................................. 46
Bảng 3.4 Tổng hợp ý kiến về yếu tố quyết định việc lập kế hoạch tại địa phương theo từng năm ............................................................................................................ 49
Bảng 3.5 Mức độ tham gia đóng góp của người dân vào công trình ........................ 52
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1 Thang đo mức tham gia của người dân ...................................................... 15
Hình 2.2 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM .................... 18
Hình 3.1 Tỷ lệ người dân biết các thông tin về Chương trình NTM ........................ 38
Hình 3.2 Tỷ lệ nguồn tiếp cận thông tin của người dân về NTM ............................. 39
Hình 3.3 Tỷ lệ người dân được mời tham gia các cuộc họp ..................................... 44
Hình 3.4 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc ............................. 45
Hình 3.5 Các yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch (Tỷ lệ khảo sát %) .............. 48
Hình 3.6 Tỷ lệ mức độ người dân cần được tham gia trong xây dựng NTM ........... 50
Hình 3.7 Tỷ lệ các công trình người dân tham gia .................................................... 53
Hình 3.8 Tỷ lệ hình thức đóng góp của người dân ................................................... 54
Hình 3.9 Tỷ lệ người dân tham gia vào quá trình thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM ......................................................................................... 56
Hình 3.10 Nguyên nhân người dân không tham gia thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM ................................................................................ 57
Hình 3.11 Hình thức chính quyền địa phương tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, kiểm tra ...................................................................................................... 58
Hình 3.12 Tỷ lệ nhận định của người dân về hình thức thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM hiệu quả ................................................................. 59
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên
suốt của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; là chương trình khung, tổng
thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu
quốc gia. Trong đó mục tiêu cao đẹp, ý nghĩa và trọng tâm nhất chính là không
ngừng nâng cao và cải thiện đời sống, từng bước tăng thu nhập cho người dân tại
khu vực nông thôn thông qua phát triển sản xuất. Chương trình xây dựng NTM thực
chất là do dân và vì dân, người dân là trung tâm của mọi sự đầu tư và phát triển;
trong đó người dân được lựa chọn, chủ động đóng góp công sức thực hiện và trực
tiếp hưởng lợi. Chương trình xây dựng nông thôn mới thực sự là một Chương trình
có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế - chính trị - xã hội vì nó mang lại lợi ích thiết thực,
cao đẹp cho cư dân nông thôn.
Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, sau 7 năm (2011-2017) thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia MTQG xây dựng nông thôn mới, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của
cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của các sở ngành, địa phương, và đã tạo được sự
đồng thuận của người dân trong toàn tỉnh. Chương trình gặt hái được nhiều kết quả
đáng khích lệ, cơ sở hạ tầng vùng nông thôn ngày một đổi mới, hiện đại, đời sống
vật chất và chất tinh thần từng bước được cải thiện. Mặc dù vậy, người dân chưa
thực sự chủ động phát huy vai trò làm chủ của mình như mục tiêu ban đầu của
Chương trình đề ra.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số kiến nghị: (1) định hướng và
tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức, khơi dậy tinh
thần tự lực, chủ động cho người dân; (2) tạo điều kiện để người dân phát huy tính
chủ động, tự lực trong các hoạt động liên quan Chương trình MTQG xây dựng
NTM ở địa phương; (3) tham mưu các cơ chế, chính sách và cụ thể hoá các chương
trình, nghị quyết của tỉnh để tạo động lực và tăng cường sự tham gia hoạt động của
người dân; (4) tạo sự rõ ràng, công khai và phát huy tính dân chủ các hoạt động
NTM từ việc lên quy hoạch, kế hoạch và tài chính; (5) gắn trách nhiệm của người
đứng đầu các địa phương trong việc tham mưu triển khai thực hiện chương trình đạt
hiệu quả; (6) tăng cường ứng dụng các tiến bộ về giống, kỹ thuật để phát triển sản
xuất nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân.
1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Bối cảnh đề tài
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên
suốt của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, là sự nghiệp của toàn thể
nhân dân và là vấn đề chiến lược trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thông qua việc
phát triển sản xuất nông nghiệp để từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc
sống cũng như cơ sở hạ tầng vùng nông thôn. Để quán triệt Nghị quyết số 26/NQ-
TW, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP về
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
đồng thời ban hành quyết định phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới với 19 tiêu chí trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội và đời sống tại khu
vực nông thôn nhằm mục đích cải thiện, chăm lo đời sống của người dân, phát triển
kinh tế ngày càng bền vững.
Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên
suốt của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; là chương trình khung, tổng
thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu
quốc gia. Trong đó mục tiêu cao đẹp, ý nghĩa và trọng tâm nhất chính là không
ngừng nâng cao và cải thiện đời sống, từng bước tăng thu nhập cho người dân tại
khu vực nông thôn thông qua phát triển sản xuất. Chương trình xây dựng NTM thực
chất là do dân và vì dân, người dân là trung tâm của mọi sự đầu tư và phát triển;
trong đó người dân được lựa chọn, chủ động đóng góp công sức thực hiện và trực
tiếp hưởng lợi. Chương trình xây dựng nông thôn mới thực sự là một Chương trình
có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế - chính trị - xã hội vì nó mang lại lợi ích thiết thực,
cao đẹp cho cư dân nông thôn.
2
Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, sau 7 năm (2011-2017) thực hiện Chương trình
MTQG xây dựng NTM, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ
lực của các sở ngành, địa phương, và đã tạo được sự đồng thuận của người dân
trong toàn tỉnh. Chương trình đã gặt hái được nhiều kết quả đáng khích lệ như: kết
cấu kinh tế hạ tầng xã hội ở nông thôn đã có sự chuyển biến rõ nét, ngày một đổi
mới, hiện đại đặc biệt là giao thông, trường học, cơ sở vật chất văn hoá đã góp phần
thay đổi rõ nét vùng nông thôn, góp phần phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho
người dân nhờ đó đời sống vật chất và chất tinh thần từng bước được cải thiện.
Tính đến cuối năm 2017, toàn tỉnh có 20/45 xã được UBND tỉnh công nhận
đạt chuẩn nông thôn mới và 03 xã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí; Thu nhập bình quân đạt
khoảng 39,9 triệu đồng/người/năm, tăng khoảng 25,68 triệu đồng so với trước khi
xây dựng NTM; Tổng số tiêu chí đạt được của 45 xã là 633 tiêu chí, trung bình đạt
14 tiêu chí/xã. Hiện nay, có 41/45 xã lập và được phê duyệt quy hoạch xây dựng
NTM, đạt tỷ lệ 82%; Về hạ tầng kinh tế - xã hội: 24/45 xã đạt tiêu chí Giao thông
(tỷ lệ 53,3%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thủy lợi (tỷ lệ 86%); 31/45 xã đạt tiêu chí Điện
nông thôn và tiêu chí Trường học (tỷ lệ 68,8%); 27/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở vật chất
văn hóa (tỷ lệ 60%); 36/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (tỷ
lệ 80%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thông tin truyền thông (tỷ lệ 86,6%) và 36/45 xã đạt
tiêu chí về nhà ở, chiếm tỷ lệ 80%.(Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây
dựng NTM, 2018)
Bên cạnh những thành công mang lại từ Chương trình, xây dựng NTM giai
đoạn 2016-2020 vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là tăng thu nhập cho
người dân nông thôn thông qua hình thức phát triển sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh
đó, giá sản phẩm các mặt hàng nông sản không ổn định gây bất lợi cho người nông
dân, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ,
chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất, người dân gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh cả hệ thống chính trị và toàn dân chung sức đồng lòng để
thực hiện các mục tiêu của Chương trình xây dựng nông thôn mới, người dân làm
3
nòng cốt là “Chủ thể” của Chương trình, việc đánh giá hoạt động tham gia của
người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM là vô cùng cấp thiết và có ý
nghĩa quan trọng. Bởi vì, thông qua việc đánh giá giúp điều chỉnh những mặt chưa
được và phát huy những mặt được từ những cơ chế, chính sách của nhà nước,
những hoạt động ảnh hưởng đến đời sống của người dân; nhất là người dân tại xã
xây dựng nông thôn mới của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Để hiểu được vấn đề này, thì
ta sẽ tìm hiểu trong đề tài “Đánh giá sự tham gia của người dân trong xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua lược sử các vấn đề nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của
người dân vào các chương trình và các kết quả đạt được từ Chương trình MTQG
xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong giai đoạn 2011 – 2017, NNC lựa
chọn tìm hiểu đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu:
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò tham gia của người
dân trong xây dựng NTM.
- Đề xuất khung phân tích các mức độ tham gia của người dân tại các xã xây
dựng NTM và đánh giá sự tham gia của người dân tại các huyện, thành phố xây
dựng NTM tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo từng khía cạnh và mức độ đề xuất.
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng sự tham gia của người dân trong xây
dựng NTM tại các xã.
- Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của người dân và chính quyền
địa phương trong hoạt động xây dựng nông thôn mới.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp chính
quyền và tăng tính chủ động cũng như phát huy vai trò chủ thể của người dân trong
các hoạt động xây dựng NTM tại địa phương.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng về hoạt động tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu?
4
- Làm thế nào để điều chỉnh và cải thiện hoạt động tham gia xây dựng NTM
của người dân tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ?
1.4 Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sự tham gia của người dân tại các xã NTM tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu.
- Phạm vi nghiên cứu: Được tiến hành trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
từ khi thực hiện Chương trình đến nay. Bên cạnh đó, các thông tin, dữ liệu còn được
thu thập từ BCĐ thực hiện Chương trình MTQG tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và BCĐ
Trung ương Chương trình MTQG.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp điều tra
bằng việc phát phiếu câu hỏi cho các hộ dân cùng với phân tích, so sánh và thống kê
mô tả sẽ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi:
Câu hỏi 1: Thông qua lý thuyết về sự tham gia của người dân và các nội
dung về vai trò của người dân trong xây dựng NTM, đề xuất khung phân tích các
mức độ tham gia của người dân. Bên cạnh đó, để đánh giá sự tham gia của người
dân trong xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tác giả thực hiện khảo sát tại
địa phương bằng cách thu thập ý kiến của người dân tại một số xã xây dựng NTM
thông qua bảng hỏi. Qua đó, tiến hành đối chiếu so sánh các quy định để xác định
những vấn đề còn tồn tại cũng như mặt tích cực trong quá trình xây dựng NTM tại
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Câu hỏi 2: Thông qua các phân tích mức độ tham gia của người dân được
khảo sát lấy ý kiến, các quy định, kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn, đề tài sẽ đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cải thiện sự tham gia của người
dân trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh.
1.6 Cấu trúc của luận văn
Nội dung của luận văn được chia thành 4 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Mở đầu.
5
Phần này tác giả nêu lên lý do chọn đề tài, đưa ra mục tiêu nghiên cứu, câu
hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Trình bày phương pháp nghiên
cứu, làm rõ ý nghĩa thực hiện của đề tài và nêu lên kết cấu của luận văn.
Chương trình MTQG xây dựng NTM là một chương trình trọng tâm, xuyên
suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn” và là chương trình khung, tổng thể phát triển nông thôn. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải có những
giải pháp cụ thể để mang lại hiệu và thành công cho Chuowmg trình tại tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu. Vì vậy, NNC lựa chọn đề tài “Đánh giá sự tham gia của người dân
trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Đồng
thời, thông qua các phương pháp và phạm vi, đối tượng để làm rõ các vấn đề và đề
xuất các giải pháp để góp phần đạt đến mục tiêu sau cùng của đề tài là giúp chương
trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả
Chương 2: Tổng quan cơ sở lý luận và kinh nghiệm sự tham gia của người
dân tại các xã NTM. Phần này trình bày các khái niệm, nghiên cứu về sự tham gia
của người dân trong các chương trình và kinh nghiệm phát triển nông thôn với sự
tham gia của người dân ở một số nước trên thế giới.
Bằng việc nhận định khái niệm các vấn đề liên quan và thông qua lược sử
vấn đề nghiên cứu của các đơn vị, tỏ chức và cá nhân về sự tham gia của người dân
trong các Chương trình, dự án, NNC đưa ra các mức độ tham gia của người dân và
đề xuất khung phân tích nhằm đánh giá thực trạng sự tham gia khác nhau của người
dân qua các mức độ. Đồng thời, khái quát tình hình một số nước trên thế giới trong
việc quản lý, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cũng như tạo điều kiện cho người dân
tham gia phát huy tính chủ động trong mọi hoạt động liên quan đến phát triển cộng
đồng chung để qua đó rút kinh nghiệm và vận dung những kết quả đạt được từ
những nước trên thế giới vào thực tiễn cả nước nói chung và tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu nói riêng.
Chương 3: Phân tích thực trạng sự tham gia của người dân trong xây dựng
NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
6
Phần này, giới thiệu tổng quan các vấn đề liên quan đến NTM từ mục tiêu,
nguyên tắc và nội dung xây dựng đến các tiêu chí, nguồn kinh phí cũng như các
chính sách hỗ trợ triển khai thực hiện của Chương trình. Trình bày những kết quả
đạt được của chương trình theo giai đoạn và đến thời điểm hiện tại trên cả nước để
qua đó, tổng quát hơn về Chương trình và những thành công từ Chương trình
MTQG xây dựng NTM đã mang lại kết quả giúp cho người dân trên cả nước.
Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp thống kê và phân tích để xác định tỷ
lệ mức độ tham gia của người dân vào chương trình xây dựng NTM tại địa phương.
NNC đưa ra mẫu phiếu khảo sát và lựa chọn ngẫu nhiên các hộ dân đang sinh sống
tại các xã xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để khảo sát lấy ý
kiến trực tiếp của các hộ dân. Qua việc tổng hợp các phiếu khảo sát, NNC phân tích
sự tham gia của người dân ở các mức độ, gồm:
Mức độ 1: Người dân nắm bắt thông tin về Chương trình.
Mức độ 2: Người dân tham gia ý kiến.
Mức độ 3: Người dân tham gia thực hiện
Mức độ 4: Người dân tham gia giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng các
công trình tại xã (đây là mức độ tham gia cao nhất của người dân).
Từ đó, đánh giá được sự tham gia của người dân theo từng mức độ và đề
xuất những khuyến nghị mang lại tính hieeujq ủa cho Chương trình.
Chương 4: Kết luận, giải pháp.
Trên cơ sở tổng hợp các kết quả vấn đề nghiên cứu, NNC đưa ra những nội
dung đạt kết quả tốt cần tiếp tục phát huy và đế xuất những giải pháp giúp các cấp
chính quyền, cũng như người dân phát huy được vai trò, nhiệm vụ và tính chủ động
trong các hoạt động xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
7
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM SỰ THAM GIA CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI CÁC XÃ NTM
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lược sử vấn đề
Qua 07 năm thực hiện, toàn Đảng, toàn dân cả nước đã chung tay xây dựng
và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng vướng phải
những tồn tại, khó khăn như: sản xuất thiếu tính liên kết bền vững, nhiều nơi chưa
quan tâm tới phát triển hoạt động sản xuất gắn với cơ cấu ngành trong lĩnh vực
nông nghiệp; số ít cán bộ và người dân chưa hiểu đúng về chương trình cũng như
người dân chưa phát huy vai trò chủ thể trong xây dựng NTM tại các xã.
Với mục tiêu cuối cùng của Chương trình xây dựng NTM là nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân khu vực nông thôn bằng những việc cụ thể
trong xây dựng NTM theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg như: có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển
nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản
sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ
vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục tiêu cuối cùng thì sự tham gia của người dân đóng vai trò
quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực. Để phát huy được vai trò của người dân trong
tham gia phát triển kinh tế xã hội của đất nước thời kỳ hội nhập, đã có nhiều cuộc
nghiên cứu diễn ra xoay quanh vấn đề tham gia hoạt động của người dân như:
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, Ngân hàng thế giới, Bộ thủy sản, Trung tâm
phát triển và hội nhập, Viện kinh tế Việt Nam (2006) thực hiện một nghiên cứu về
sự tham gia của cộng đồng ngư dân nghèo để xác định nguồn lực và nhu cầu đầu tư
phát triển thủy sản cũng chỉ ra vai trò của cộng đồng ngư dân trong việc phát triển.
8
- Trong Báo cáo hội thảo Phát triển kinh tế Nông nghiệp (ngày 27/3/2012)
của Tổ chức Oxfarm đã đưa ra các luận điểm người dân được tham gia vào quá
trình thiết kế, xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng là tối cần thiết, đồng thời cũng đưa
ra đề xuất tăng cường sự tham gia của người sản xuất nhỏ trong quy hoạch sử dụng
đất. Cũng trong một nghiên cứu của Ủy ban Oxford cho cứu trợ nạn đói (Oxford
Committee for Famine Relief – gọi tắt là Oxfarm) đã hoàn thành nghiên cứu và
công bố báo cáo “ Tăng cường tiếng nói cộng đồng và sử dụng đúng đắn vấn để sử
dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất ở miền Trung Việt Nam” (tháng 5/2012), về
vấn đề sử dụng đất nêu ra sự ảnh hưởng của cộng đồng trong việc thay đổi quyền sử
dụng đất như thế nào. Đồng thời, báo cáo đã nêu một số trường hợp điển hình về
vấn đề sử dụng đất, thay đổi quyền sử dụng đất ở Quảng Trị, Quảng Bình và Nghệ
An và đưa ra những khuyến nghị về những thay đổi quyền sử dụng đất; trong đó,
nghiên cứu chỉ ra tăng cường tiếng nói cộng đồng để lựa chọn đúng đắn về vấn đề
sử dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất và cũng chỉ ra sự phản ứng khác nhau
của cộng đồng và chính quyền về vấn đề này.
- Tại Kỷ yếu Hội thảo Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở An Giang (tháng 12/2016), các tổ chức đã đưa ra nhiều
bài viết như: Tăng cường sự tham gia của người dân trong thực hiện chương trình
MTQG xây dựng NTM tỉnh An Giang – Văn Phòng Điều phối CT MTQG xây dựng
NTM; Phát huy tính tích cực, năng động của nông dân trong quá trình phát triển
nông nghiệp và xây dựng NTM – Chủ tịch Liên hiệp các Hội KHHT; Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tỉnh vận động nhân dân tham gia xây dựng NTM - Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; Công tác dân vận với phát huy vai trò chủ thể của người dân
trong xây dựng NTM đã đánh giá sức mạnh đoàn kết và nhấn mạnh vai trò quan
trọng của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở An Giang.
Bên cạnh đó còn chỉ ra những tồn tại, khó khăn cần phải khắc phục trong thời gian
tới để xây dựng NTM đạt hiệu quả, phát huy quyền làm chủ, tính tích cực và sáng
tạo của nông dân trong quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
9
Ngoài ra, cũng có nhiều nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào các
chương trình, dự án tại địa phương để tìm ra giải pháp khắc phục nhằm thể hiện đầy
đủ vai trò của người dân vào các hoạt động như:
- Đào Duy Ngọc (2015) nhận thấy rằng mức độ người dân tham gia tại địa
phương theo thang đo “biết, bàn, làm, kiểm tra“ có chiều hướng giảm dần, chỉ
những hoạt động liên quan trực tiếp tới đời sống người dân và chi phí đóng góp để
xây dựng từ cộng đồng thì mới có sự tham gia của người dân; những hoạt động nào
có nguồn vốn ngân sách càng nhiều thì điều kiện giám sát, kiểm tra của người dân
càng giảm xuống.
- Bàn Cao Sơn (2016) đã đưa ra khung phân tích 4 mức độ tham gia của
người dân và qua quá trình khảo sát, đánh giá thì thực trạng người dân tham gia như
sau: Người dân đã nắm bắt và tiếp cận các nội dung thông tin về NTM thông qua
nhiều kênh tuy nhiên vẫn cò một số ít khó tiếp cận do cách xa về địa lý; Về bàn bạc,
đóng góp ý kiến thì người dân đều biết họ được quyền tham gia nhưng chưa thực sự
phát huy tính chủ động mà dừng lại ở việc chỉ cần được mời và thông báo, còn
quyền quyết định các nội dung thuộc về chính quyền; Người dân tham gia trực tiếp
chủ yếu bằng việc hiến đất và góp sức lao động tuy nhiên việc đóng góp còn nhiều
hạn chế do thu nhập của người dân chưa cao; Hoạt động tham gia giám sát chưa tích
cực được thể hiện bằng việc cử người váo ban giám sát và để tự họ thực hiện nhưng
hoạt động quản lý, vận hành và bảo dưỡng đã có sự tham gia tích cực hơn của người
dân.
- Đỗ Thị Nhài (2016) đã đánh giá sự tham gia của người dân trong các
chương trình, dự án giảm nghèo tại địa phương thông qua các hoạt động: tham gia
lập kế hoạch chi tiết nhưng cũng chỉ mang tính hình thức; ở khâu thực hiện, người
dân tham gia ở mức độ cao hơn trong việc đóng góp các nguồn lực có sẵn nhưng
vẫn còn hạn chế do thu nhập người dân thấp và người dân không được quyết định
về mức đóng góp cũng như tham gia vào những hoạt động mua sắm hàng hóa và
cung ứng dịch vụ; công tác giám sát và đánh giá hầu như chưa có sự tham gia của
người dân vì chưa có cơ chế, chính sách thu hút họ tham gia vào hoạt động này và
10
việc giám sát, đánh giá do chính quyền thực hiện kiêm nhiệm nên không đucợ
thường xuyên và kém hệu quả. Đồng thời, qua nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân
của tình trạng trên là do: (1) chính sách thu hút sự tham gia của người dân còn nhiều
bất cập; (2) công tác triển khai dự án ở cấp xã đã bộc lộ nhiều hạn chế; (3) người
dân chưa nhận thức và ý thức được tầm quan trọng của sự tham gia, thói quen dựa
dẫn và sự hỗ trợ bên ngoài vẫn còn tồn tại.
Từ những nghiên cứu, người dân tham gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau và
trong mỗi lĩnh vực thì mức độ tham gia khác nhau, có những tác động khác nhau
đối với các lĩnh vực hoạt động. Khi người dân có sự hiểu biết, tham gia và đóng góp
ý kiến cũng như tham gia giám sát thì hiệu quả rõ ràng được cải thiện, người dân
không còn thụ động trong các hoạt động mà trở nên tích cực, chủ động. Do đó, có
thể thấy vai trò tham gia của người dân và mức độ tham gia đến đâu sẽ quyết định
mức độ thành công của Chương trình.
2.1.2 Lược sử vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng
NTM
2.1.2.1 Khái niệm nông dân
Nông dân, với C.Mác và Ph.Ăngghen, là khối quần chúng đông đảo mà tất cả
thành viên đều sống trong một hoàn cảnh như nhau nhưng lại không nằm trong mối
quan hệ nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ
liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau. Các ông còn chỉ rõ, nông dân ở
mọi quốc gia đều là nhân tố cơ bản của dân cư, của nền sản xuất và của lực lượng
chính trị.
Với V.I. Lênin, nông dân, một mặt là người tư hữu, nhưng mặt khác, lại là
người lao động. Nông dân là lực lượng xã hội được hình thành trong quá trình giải
thể chế độ công xã nguyên thủy và tồn tại đến nay. Họ là những người sinh sống và
lao động ở nông thôn gắn với tư liệu sản xuất và tạo ra các sản phẩm nông nghiệp.
Hồ Chí Minh khẳng định, nông dân là đại đa số dân tộc, do đó, vấn đề nông
dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Đối với Người, nông dân Việt Nam là những
11
người bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất. Và dân chúng công nông là gốc của cách
mạng.
Như vậy, nông dân là một lực lượng được hình thành tất yếu trong tiến trình
lịch sử, cho đến nay nông dân vẫn là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, nông
dân sống ở nông thôn, sản xuất và tạo ra các sản phẩm trong nông nghiệp. Nông dân
có vai trò hết sức quan trọng đối với chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc
gia.
2.1.2.2 Khái niệm Nông thôn mới
Theo Phan Kế Vân (2011) thì “Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân
cư, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế,
văn hóa, xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh
hưởng của các tổ chức khác; phân biệt với đô thị".
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010) thì nông thôn được
hiểu là “là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị
trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã".
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2008) đưa ra mục tiêu “Xây dựng NTM
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức TCSX
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh
đạo của Đảng được tăng cường”.
Như vậy, NTM trước tiên được hiểu là nông thôn, khác với nông thôn truyền
thống hiện nay và có những đặc điểm sau: (1) có cơ sở hạ tầng văn minh, hiện đại;
(2) sản xuất phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa liên kết, bền vững; (3) đời sống
người dân ngày càng được cải thiện theo hướng nâng cao; (4) bản sắc văn hóa dân
tộc được giữ gìn, bảo tồn và phát triển; (5) xã hội nông thôn an ninh trật tự tốt, thể
hiện sự công bằng, dân chủ.
Xây dựng NTM chính là phát triển nông thôn theo hướng bền vững về mặt
kinh tế, xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa và cải thiện môi trường sản xuất cũng
12
như sinh sống của người dân tại nông thôn. Quá trình này, trước hết chính là do
người dân nông thôn với sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức khác; trong đó, đối
tượng phát triển là dân cư vùng nông thôn, lĩnh vực để phát triển là các yếu tố về
kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường, vai trò chủ thể người dân nông thôn là chính,
nhà nước, các tổ chức khác đóng vai trò tích cực hỗ trợ phát triển.
2.1.2.3 Vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM
Xây dựng NTM nhằm không ngừng cải thiện đời sống cho nông dân. Vì vậy,
người nông dân và cộng đồng dân cư giữ vị trí quan trọng chính là chủ thể, nòng cốt
trong xây dựng nông thôn mới. Họ được biết, được bàn, được quyết định, tự làm, tự
giám sát và được thụ hưởng. Đóng góp công sức, tiền của để chỉnh trang nơi ở của
gia đình mình, đầu tư cho sản xuất, đóng góp xây dựng các công trình công cộng
của thôn, xã.
Người dân tại cộng đồng nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong các hoạt động của quá trình xây dựng NTM. Họ là người có nhu cầu
nhưng không có điều kiện đáp ứng nhu cầu, là người phản ánh nhu cầu cần có
sự hỗ trợ nhưng lại là người thực hiện, đánh giá, hưởng lợi… Do đó, cần thay
đổi tư duy về NTM từ trong nhận thức, cách nghĩ và hoạt động NTM trong tư
tưởng người dân, hoạt động NTM được khởi xướng và bắt đầu từ người dân,
do dân đề xuất, thực hiện, nhân tố bên ngoài chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tư vấn
khi cần thiết để hoạt động NTM đạt hiệu quả và bền vững.
Vị trí quan trọng của người dân trong xây dựng nông thôn mới thể hiện ở chỗ
người dân chính là chủ thể tham gia xây dựng kế hoạch, chương trình và triển khai
thực hiện; tự mình giám sát, quản lý các công trình, hoạt động; đồng thời, vận hành
và bảo dưỡng các công trình sau khi hoàn thành trong xây dựng NTM tại địa
phương. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương và Nhà nước đóng vai trò là một tổ
chức, dẵn dắt, chỉ đạo xây dựng và định hướng, hỗ trợ bằng các cơ chế, chính sách.
Qua đó, thể hiện được quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” và tư tưởng của Hồ Chí Minh “lấy sức dân để làm lợi cho
dân”,
13
Phải phát huy tối đa vị trí chủ thể của người dân trong các hoạt động xây
dựng NTM vì nguồn lực bố trí để thực hiện Chương trình của Nhà nước rất hạn hẹp,
trong khi đó có thể huy động nguồn lực dồi dào từ người dân thông qua các hình
thức đóng góp như: của cải, công sức, trí tuệ, .... để giúp hoàn thành các nhiệm vụ.
Như vậy, có thể thấy được cần phải huy động tất cả nguồn lực từ nhà nước đến
người dân để cùng nhau chung tay xây dựng mới tạo nên thành công và nêu bật
được điểm quan trọng của chương trình.
Trong toàn bộ quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay,
người dân nói chung và người nông dân nói riêng có vị trí quan trọng chính là "chủ
thể", đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết nhằm khơi dậy và phát huy mọi thế
mạnh của người dân trong sự nghiệp xây dựng NTM trên các mặt thuộc lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội cũng như nhằm khẳng định những quyền
lợi chính đáng của người dân. Vị trí “chủ thể” của người dân trong các hoạt động
xây dựng góp phần tạo nên NTM mang vẻ đẹp văn minh, phong cách theo hướng
hiện đại được thể hiện ở việc: Tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và tổ chức
triển khai quy hoạch xây dựng NTM; chủ động và sáng tạo trong góp ý hoàn thiện
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; trực tiếp phát triển kinh tế thông qua các hình thức
tổ chức sản xuất tại địa phương và tổ chức sản xuất theo hướng công nghiệp hóa –
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong gìn giữ và phát huy
nét đẹp đời sống văn hoá - xã hội, góp sức bảo vệ môi trường ở nông thôn. Qua đó,
khẳng định người dân là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính
trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm ANTT xã hội ở cơ sở.
Thực tiễn trong các hoạt động xây dựng góp phần tạo nên NTM ở mỗi địa
phương cho thấy nơi nào huy động được sự chung sức, chung lòng người dân tham
gia cùng với Nhà nước và địa phương thực hiện các nội dung để hoàn thành tiêu chí
xã NTM theo Bộ tiêu chí thì địa phương đó sớm đạt được kết quả công nhận xã
NTM và ngược lại.
14
2.1.3 Lý thuyết về sự tham gia của người dân
Sự tham gia là “sự bao gồm đa dạng phạm vi đóng góp của các bên liên quan
trong sự phát triển cộng đồng đang diễn ra quá trình, từ việc xác định các khu vực
có vấn đề, đến sự phát triển, thực hiện và quản lý lập kế hoạch chiến lược” (Schafft
và Greenwood, 2003, tr.19)
Theo Florin (1990), đó là “một quá trình trong đó các cá nhân tham gia vào
việc ra quyết định trong các tổ chức, chương trình và môi trường ảnh hưởng đến
họ”. Đối với Pierre André (2012) thì được xem là “một quá trình mà trong đó những
người dân thường tham gia – trên cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc và hành động một
mình hoặc trong một nhóm – với mục tiêu ảnh hưởng đến quyết định sẽ tác động
đến cộng đồng của họ. Sự tham gia này có thể diễn ra bên trong hoặc bên ngoài
khuôn khổ thể chế và nó có thể được tổ chức bởi thành viên của các tổ chức xã hội
hay người ra quyết định.
Tùy thuộc vào trình độ nhận thức, văn hóa, điều kiện địa lý của từng vùng
miền khác nhau, mức độ tham gia của người dân vào các công việc phát triển cộng
đồng khác nhau. Theo Lê Văn An (2016) cho rằng sự tham gia của người dân địa
phương trong các hoạt động được mô tả theo 6 cấp bậc sau đây: (1) Thụ động:
Không đưa ra ý kiến và chỉ làm theo sự hướng dẫn của người khác. (2) Cung cấp
thông tin: Chỉ cung cấp những thông tin theo sự gợi ý của người làm công tác phát
triển. (3) Tư vấn: Được góp ý và được tiếp thu các ý kiến về những vấn đề cần thực
hiện để phát triển các hoạt động của địa phương. (4) Thực hiện các hoạt động: chủ
động thành lập hoặc tham gia các nhóm để tổ chức triển khai thực hiện các nội dung
hoạt động nhằm phát triển cộng đồng. (5) Ra quyết định: Người dân chủ động tham
gia vào các quá trình bàn luận góp ý, lựa chọn phương án và quyết định thực hiện
phương án tại địa phương. (6) Tự nguyện: Người dân tự khởi xướng hoạt động phát
triển cộng đồng bao gồm việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá
các hoạt động phát triển mà không lệ thuộc vào bên ngoài. Trong đó, tham gia tự
nguyện là hình thức tham gia cao nhất trong phát triển cộng đồng.
15
Tự nguyện
Ra quyết định
Thực hiện các hoạt động
Tư vấn
Cung cấp thông tin
Thụ động
Hình 2.1 Thang đo mức tham gia của người dân
(Nguồn: Tác giả tự vẽ dựa trên 6 cấp độ tham gia)
Hay một định nghĩa khác thể hiện quan điểm sâu hơn về mức độ người dân
tham gia trong các hoạt động xây dựng NTM đó chính là các cá nhân được tham gia
trong việc ra quyết định liên quan đến thể chế, các chương trình và môi trường có
tác động đến đời sống người dân (Heller, Price, Reinharz, và Wandersman, 1984).
Theo nghiên cứu của Sherry R. Arnstein (1969) lại chú trọng đến phân chia
mức độ người dân tham gia thông qua việc đưa ra thang đo 8 mức độ, được chia
thành 3 cấp và được mô tả như sau:
- Cấp 1: gồm hai mức độ thấp nhất là Bị điều khiển (Manipulation) và Liệu
pháp (Therapy). Ở cấp này, người dân chỉ làm theo hướng dẫn và không tham gia
vào hoạt động của chương trình, đây là bước vận động để có thể lôi kéo, thu hút
người dân tham gia vào chương trình và ở đó người dân được đào tạo tham gia.
- Cấp 2: gồm ba mức độ là Cung cấp thông tin (Informing), đây là bước quan
trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy sự tham gia nhưng thường thông tin chỉ mang tính
một chiều mà không có phản hồi. Ở mức Tham vấn (Consultation) sẽ thực hiện các
bước khảo sát, tổ chức các cuộc họp khu dân cư và tham khảo ý kiến người dân, tuy
nhiên ở mức độ này chỉ là những nghi thức. Mức kế tiếp Động viên (Placation)
người dân thể hiện quyền lực bằng cách bầu ra một ủy ban để thực hiện chương
16
trình hoặc lắng nghe, ghi nhận những ý kiến đề xuất. Ở ba mức này, mặc dù chỉ
mang tính hình thức nhưng người dân đã nhận thức được lợi ích từ chương trình, từ
đó từng bước tham gia vào các hoạt động: từ cung cấp thông tin một chiều thông
qua khảo sát của chính quyền đến việc được tham vấn, đưa ra các ý kiến về các vấn
đề tại địa phương và được tham gia bầu hoặc đóng góp ý kiến được lắng nghe.
- Cấp 3: Ở mức độ Hợp tác (Partnership) có sự phân phối lại quyền lực và
trách nhiệm giữa các bên, cả hai đều phải có trách nhiệm trong lên kế hoạch và ra
quyết định. Ở mức độ Ủy quyền (Delegated Power) người dân thường nắm đa số
các vị trí trong ủy ban và có quyền quyết định cao hơn các bên có liên quan khác
thông qua việc đàm phán, ở mức độ này người dân đã có thể chịu trách nhiệm. Mức
độ cuối cùng Người dân điều khiển (Citizen Control) người dân khởi xướng công
việc nhằm giải quyết nhu cầu của họ, đồng thời các nguồn lực được huy động từ
trong cộng đồng để tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động. Ở nấc thang này,
người dân thực hiện toàn bộ công việc lập kế hoạch, hoạch định chính sách và quản
lý một chương trình. Các mức độ ở cấp 3, người dân thực sự là chủ thể của chương
trình, từ việc hợp tác, đến ủy quyền thực hiện và trực tiếp quản lý.
Trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng NTM hiện nay, nông dân giữ vai trò chủ
thể được thể hiện tại các nội dung theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2010), đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết, nhàm phát huy nhân tố con người,
khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân vào công cuộc xây dựng NTM cả
về kinh tế, văn hóa và xã hội đồng thời bảo đảm những quyền lợi chính đáng của
họ. Sự tham gia của người dân vào việc xây dựng NTM được coi như nhân tố quan
trọng, quyết định sự thành bại của việc áp dụng phương pháp tiếp cận phát triển dựa
vào nội lực và do cộng đồng làm chủ. Khi tham gia vào quá trình phát triển NTM
với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân tại các cộng đồng dân cư nông thôn sẽ từng
bước được tăng cường kỹ năng, năng lực về quản lý nhằm tận dụng triệt để các
nguồn lực tại chỗ và bên ngoài. Khi xem xét quá trình tham gia của người dân trong
các hoạt động phát triển nông thôn, vai trò của người dân được thể hiện: Dân biết,
dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi. Như
17
vậy, vai trò của người dân vẫn theo một trực tự nhất định, hoàn toàn phù hợp với
quan điểm của Đảng lấy dân làm gốc. Các nội dung trong vai trò của người dân vào
việc tham gia xây dựng NTM được hiểu là:
- Dân biết: là quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết của người nông dân về
những kiến thức sơ cấp có thể đóng góp vào quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn. Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia hiệu quả hơn vào các giai đoạn sau
của quá trình xây dựng. Điều đó có nghĩa là dân được biết rõ về những nội dung
Chương trình NTM đang triển khai.
- Dân bàn: bao gồm sự tham gia ý kiến và bàn bạc của người dân liên quan
đến kế hoạch phát triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt động của
nông dân trên địa bàn.
- Dân đóng góp: là một yếu tố không chỉ ở phạm trù vật chất mà còn ở cả
phạm trù nhận thức quyền sở hữu và tính trách nhiệm, tăng tính tự giác của từng
người dân trong cộng đồng. Hình thức đóng góp có thể bằng tiền, sức lao động, vật
tư tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ.
- Dân làm: chính là sự tham gia lao động trực tiếp từ người dân vào các hoạt
động phát triển nông thôn như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động của các
nhóm và những công việc liên quan tổ chức tiếp nhận, quản lý và sử dụng công
trình. Người dân trực tiếp tham gia vào quá trình bằng việc lập kế hoạch có sự tham
gia cho từng hoạt động thi công, quản lý và duy tu bảo dưỡng, từ những việc tham
gia đó tạo cho người dân có việc làm, tăng thu nhập.
- Dân kiểm tra: là Ban giám sát cộng đồng gồm đại diện cấp chính quyền,
đoàn thể và người dân theo dõi tiến độ, quá trình thực hiện, nghiệm thu chất lượng
các công trình, ... sẽ đảm bảo chất lượng công trình và tính minh bạch trong việc sử
dụng các nguồn lực của Nhà nước và người dân vào xây dựng, quản lý và vận hành
công trình.
- Dân quản lý: là các thành quả của các hoạt động mà người dân đã tham gia;
các công trình sau khi xây dựng xong cần được quản lý trực tiếp của một tổ chức do
18
nông dân hưởng lợi. Các công trình cần được người tham gia duy tu, bảo dưỡng
nhằm nâng cao tuổi thọ và phát huy tối đa hiệu quả trong việc sử dụng.
- Dân hưởng lợi: dân được hưởng những gì mà dân làm, dân đóng góp, đó
chính là lợi ích mà các hoạt động mang lại.
2.1.4 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM
Từ những nền tảng lý thuyết về sự tham gia, cùng với việc khẳng định vai trò
là chủ thể của người dân trong hoạt động xây dựng tại các xã NTM thì vai trò chủ
thể của nông dân được thể hiện bằng các hành động sau:
Giám sát, quản lý
Quản lý
- Cử đại diện
- Bằng hành động thiết thực
Ủy quyền
Người dân nắm quyền
Hợp tác
Trực tiếp tham gia
- Quyết định mức đóng góp
Động viên
- Tham gia thực hiện
Tham vấn
Thực hiện hình thức
Sự tham gia của người dân
Tham gia ý kiến
Cung cấp thông tin
- Đề án, bản đồ, quy hoạch
- Lựa chọn công việc
Liệu pháp
Không tham gia
Nắm bắt các thông tin về chương trình
Vận động
Hình 2.2 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM
(Nguồn: Tác giả tự vẽ dựa trên các mức độ của Sherry R. Arnstein (1969) và nội
dung trong vai trò của người nông dân xây dựng NTM)
19
Người dân sẽ tham gia vào những hoạt động có tác động đến đời sống cộng
đồng cũng như từng cá nhân, theo những hình thức và mức độ khác nhau vì người
dân là người được thụ hưởng những thành quả trong xây dựng NTM chỉ có người
dân mới biết mình cần cái gì để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống. Khi người
dân được tham gia vào quá trình công việc mà có lợi ích hay chi phí ảnh hưởng trực
tiếp đến mình, họ sẽ tích cực chủ động hơn mà không còn dựa dẫm quá nhiều vào
Nhà nước như trước.
Từ khung phân tích đề xuất có thể thấy người dân tham gia với ba cấp độ
như sau: Thứ nhất, không tham gia vào chương trình, theo thang đo đã đề xuất được
mô tả ở hai hình thức: liệu pháp và vận động; Thứ hai, tham gia mang tính hình
thức được thể hiện ở ba hình thức cao hơn: thông tin, tham vấn và động viên; Thứ
ba, người dân nắm quyền, thể hiện ở: hợp tác, ủy quyền và người dân quản lý.
Để đo lường ba cấp độ tham gia này của người dân, tác giả đưa ra phân tích
bốn khía cạnh cụ thể dựa vào văn bản hướng dẫn sự tham gia của người dân vào
NTM, đó là: i) nắm bắt các thông tin về chương trình; ii) tham gia ý kiến vào đề án,
quy hoạch, lựa chọn công việc; iii) trực tiếp tham gia và iv) bầu giám sát, tổ chức
quản lý.
2.2 Kinh nghiệm phát triển nông thôn với hoạt động của người dân tham gia ở
một số nước trên thế giới
2.2.1 Hoạt động của người dân tham gia ở Hàn Quốc
Vào những năm 1960, Hàn Quốc là một trong những quốc gia lạc hậu ở
Châu Á. Để đưa nền kinh tế phát triển cao trên thế giới, Hàn Quốc đã đưa ra rất
nhiều giải pháp, trong đó tập trung phát triển ngành công nghiệp và cùng lúc phát
triển nông nghiệp khu vực nông thôn, chính nhờ vậy đã mở đường cho nền tảng
vững chắc của tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững trong nhiều thập kỳ và bắt
đầu từ năm 1970 với sự ra đời của Phong trào Saemaul Undong.
Theo Hoàng Bà Thịnh (2016), Phong trào Saemaul Undong (Phong trào làng
mới) ra đời năm 1970 do Tổng thống Park Chung Hy phát động khi Chính phủ Hàn
Quốc nhận thức rằng nếu nông dân không có niềm tin vào tương lai thì tất cả mọi
20
nỗ lực và cố gắng của Chính phủ đều vô ích. Trong bối cảnh nguồn lực tài
chính của Chính phủ hạn hẹp, các nhà lãnh đạo của Hàn Quốc nhận thấy rằng người
dân tuy nghèo nhưng nếu biết huy động nguồn lực từ số đông người dân và huy
động dần từng bước vẫn có thể huy động được một lượng vốn không nhỏ. Để huy
động nguồn lực tài chính từ người dân, cần thực hiện bằng được phương thức dân
chủ, xác định đúng vai trò của người dân tạo động lực trong xây dựng tạo nên
phong trào Làng mới. Trong phong trào, tính tự lực và hợp lực từ người dân là
chính, Nhà nước chỉ hỗ trợ mang tính khởi đầu và động viên khen thưởng.
Cốt lõi chính của phong trào là: Thay đổi tư duy, phát huy nội lực của nhân
dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển sản xuất để tăng thu nhập cho
nông dân; phát huy dân chủ để phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hợp tác từ
phát triển cộng đồng. Tinh thần xuyên suốt của phong trào đó là: cần cù mang lại
tính chân thật, không cho phép sự giả tạo và thói kiêu căng ngạo mạn; tự lực giúp
cho con người biết tự lực cánh sinh; hợp tác phải dựa trên mong muốn phát triển
chung cả cộng đồng, sự phát triển đó có được là nhờ nỗ lực tập thể. Đặc trưng của
phong trào không đơn thuần là một kế hoạch phát triển toàn diện các cộng đồng
nông nghiệp, sự hợp tác và tham gia của tất cả các tổ chức mà là một cuộc “vận
động cải cách ý thức” cùng với “vận động thực hiện hành động” dựa trên các khẩu
hiệu động viên và khích lệ tinh thần người dân được sử dụng bao gồm: “Đã làm là
được”; “Tất cả đều có thể làm được” và “Nhất định phải làm”. Điểm khác biệt trong
hệ thống thực hiện Phong trào là khả năng huy động sự tham gia của người dân từ
tất cả thành phần không phân biệt nam nữ, gồm cả Tổng thống, công chức, viên
chức, người nông dân, doanh nghiệp, sinh viên... Nhân tố đầu tiên và quan trọng
nhất cho sự thành công của phong trào này là sự tham gia tình nguyện của người
dân với thái độ tích cực và năng động. Nhờ phong trào, bộ mặt nông thôn Hàn Quốc
đã hoàn toàn thay đổi với đầy đủ điện, đường, nước sạch, công trình văn hóa.
Ban đầu phong trào Làng mới ở Hàn Quốc bao gồm 10 nội dung và quy
hoạch NTM nhấn mạnh vào ba yếu tố chính để phát triển nông thôn. Đồng thời các
nội dung rất phù hợp tình hình địa phương, đơn giản, dễ thực hiện, nhanh đạt kết
21
quả và chính điều này đã khích lệ tinh thần người dân tin vào hiệu quả công việc,
tin vào phong trào, tạo nền tảng để thực hiện những dự án khác. Phong trào Làng
mới là một cuộc đổi mới bộ mặt vùng nông thôn, tạo nên một cuộc sống tốt đẹp
hơn, vì vậy mục tiêu đạt đến cuối cùng của Phong trào Làng mới là xây dựng để tạo
ra một nền tảng cuộc sống tốt đẹp hơn đối với mỗi gia đình, làng xã và góp phần
vào sự phát triển chung của cả quốc gia. Phong trào Làng mới áp dụng biện pháp
tiếp cận từ trên xuống dưới, đứng đầu bởi chính phủ và đây cũng là biện pháp tiếp
cận từ cấp cơ sở lên khi dự án được đưa vào thực hiện. Phong trào Làng mới đã thể
hiện sự dân chủ của người dân bằng hành động tự nguyện tham gia các hoạt động ở
cấp làng. Người dân trong làng đóng góp một phần lớn nguồn vốn và sức lao động
để đạt được mục đích của phong trào Làng mới. Trong khi đó, Chính phủ chỉ cung
cấp một số nguyên vật liệu để hỗ trợ để nông dân tự mình đứng lên trở thành người
chủ đích thực: chủ động quy hoạch sản xuất tập trung phân dịnh rõ các vùng chuyên
canh quy mô lớn và đầu tư thành lập các khu liên hiệp nông nghiệp trồng các sản
phẩm mang lại lợi nhuận cao; xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn. Tất cả các làng
nông thôn trên toàn đất nước đều tham gia vào phong trào Làng mới, nó đã trở
thành chương trình quốc gia thông qua các hoạt động nhằm cải thiện thu nhập, xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và nâng cao tinh thần người dân, đồng thời qua đó
chất lượng cuộc sống tại các vùng nông thôn ngày càng bắt kịp với chất lượng cuộc
sống đô thị.
Phong trào Làng mới của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn
cũ thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông
thôn trở thành xã hội năng động có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư và tự phát triển.
Phong trào Làng mới, với mức đầu tư không lớn, đã góp phần đưa Hàn Quốc từ một
nước nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu có.
2.2.2 Hoạt động của người dân tham gia ở Nhật Bản
Căn cứ vào tình hình phát triển của nông thôn và mục tiêu của từng thời kỳ,
Chính phủ Nhật Bản đã lần lượt ban hành hàng loạt pháp lệnh và chính sách hỗ trợ
nông nghiệp có ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài. Đồng thời, xây dựng và thực hiện chính
22
sách, pháp luật hỗ trợ ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Trong thập
kỷ 50, 60 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã đề ra Luật cơ bản về nông nghiệp và gần 30
đạo luật khác; đồng thời nhiều lần sửa đổi Luật Đất nông nghiệp, Luật Nông nghiệp
bề vững, ... Tất cả các Bộ luật đã cấu thành một hệ thống hoàn chỉnh, tạo hành lang
pháp lý để công cuộc xây dựng NTM được tiến hành thuận lợi.
Chính phủ Nhật Bản tích cực tham gia và đầu tư kinh phí lớn và để giải
quyết vấn đề thiếu kinh phí đầu tư cho phát triển nông nghiệp, Chính phủ Nhật Bản
đã xây dựng chính sách hỗ trợ nông nghiệp và luôn khuyến khích người nông dân
tích cực tham gia, coi trọng tính tự lập tự chủ. Thời gian đầu, công cuộc xây dựng
NTM ở Nhật Bản do Chính phủ đóng vai trò chủ đạo đã tìm mọi cách để nâng cao
tính tích cực, sáng tạo của nông dân để họ thực sự trở thành đội quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng phát triển nông thôn. Cụ thể, trong phong trào xây dựng làng
xã, Chính phủ Nhật Bản đề cao tinh thần phát huy tính sáng tạo, dám nghĩ dám làm,
từ việc xây dựng, thực thi quy hoạch, đến việc lựa chọn sản phẩm trong phong trào
“mỗi làng một sản phẩm”, đều là do dân cư các vùng tự căn cứ vào nhu cầu của địa
phương mình để đề xuất, thực hiện.
Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” (OVOP) là một chương trình phát triển
theo khu vực ở Nhật Bản, được khởi xướng bới Thống đốc Morihiko Hiramatsu vào
năm 1979 tại làng Oyama, tỉnh Oita, Nhật Bản để cải thiện đời sống của cư dân
nông thôn trong điều kiện khó khăn về kinh phí trợ cấp của chính quyền Trung
ương cũng như tổng kết thực tiễn công tác phát triển nông thôn ở một số địa bàn
trong tỉnh.
Mục tiêu ban đầu của Phong trào này là khuyến khích người dân nông thôn
làm sống lại các giá trị tốt đẹp của quê hương, qua đó làm tăng thu nhập và cải thiện
bộ mặt vùng nông thôn. Tuy nhiên, mục tiêu quan trọng nhất chính là tạo ra sức thu
hút cho khu vực nông thôn, hạn chế sự di chuyển một cách tự do của người dân ra
khỏi các khu dân cư và khu công nghiệp lớn trong các nước, xây dựng nguồn nhân
lực đủ mạnh thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực nông thôn
trong tương lai; đồng thời tạo sự chuyển dịch để đạt đến sự cân bằng về kinh tế
23
cũng như về xã hội giữa vùng nông thôn của địa phương với các thành phố lớn,
giảm sự phụ thuộc về kinh tế và ngân sách vào chính quyền Trung ương. Ba nguyên
tắc chính trong xây dựng Phong trào OVOP gồm:
- Một là “Từ địa phương tiến ra toàn cầu”, đây là mục tiêu cao nhất trong
sản xuất hàng hóa nông nghiệp của Nhật Bản và thể hiện sự chiếm lĩnh thị trường
nông sản trên thế giới.
- Hai là,“Tự tin, sáng tạo”, phong trào OVOP quan tâm đến tất cả các quy
trình từ sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, khích lệ và phát huy những cách làm sáng tạo.
Bên cạnh đó, nông sản đảm bảo về chất lượng cùng với việc đổi mới phương pháp
trong kinh doanh đã giúp nông sản tìm được thị trường tiêu thụ góp phần ổn định
kinh tế cho các hộ nông dân.
Ba là, “Tập trung phát triển nguồn nhân lực”, ngoài những chính sách hỗ
trợ mang lại hiệu quả cho chương trình từ các cấp chính quyền thì người nông dân
còn được tham gia các lớp đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao kiến thức trong các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh.
Qua thời gian triển khai và thực hiện, phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”
của Nhật Bản đã đạt được những thành công lớn góp phần thúc đẩy quá trình phát
triển nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Phong trào này
đã gắn kết được các hoạt động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp với chế biến
nông sản, tạo ra nhiều công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng trong các sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh, từ đó giúp tăng thu nhập cho người dân nông thôn.
Điều quan trọng được nhấn mạnh là người dân tự nguyện tham gia vào
Phong trào với tư cách là chủ thể để điều hành mọi hoạt động. Chính quyền các cấp
chỉ đóng vai trò trợ giúp cho những nỗ lực, cố gắng của người dân chứ không phải
là hướng dẫn hoặc ra mệnh lệnh cho họ. Đây chính là động lực làm nên những
thành công lớn của Phong trào này và thông qua phong trào đã tạo ra nhiều thương
hiệu sản phẩm.
Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, phong trào “Mỗi làng một sản
phẩm” đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ. Sự thành công của phong trào này tại
24
Nhật Bản đã tạo nên sức mạnh lan toả, không những lôi cuốn sự quan tâm của
nhiều địa phương trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, quốc gia khác
trên thế giới đã áp dụng những bài học kinh nghiệm quý giá trong việc phát huy nội
lực, phát triển bền vững các sản phẩm đặc thù của địa phương, mang lại thu nhập và
cải thiện cuộc sống cho người dân, đặc biệt là khu vực nông thôn còn nhiều khó
khăn.
25
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG
XÂY DỰNG NTM TẠI TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
3.1 Tổng quan về Chương trình MTQG xây dựng NTM
3.1.1 Mục tiêu
Chương trình MTQG về xây dựng NTM là một chương trình tổng thể về
phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng do Chính phủ Việt Nam
xây dựng và triển khai trên phạm vi nông thôn toàn quốc, căn cứ tinh thần của Nghị
quyết số 26-NQ/TW.
Chương trình MTQG về xây dựng NTM được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt lần đầu tiên tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 cho giai đoạn 2010
– 2020 với mục tiêu chung là “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,
gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông
thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn
hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu cụ thể: đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn
NTM và đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM.
Trong quá trình triển khai và tổng kết đánh giá giai đoạn, để xây dựng NTM
vững mạnh, đạt hiệu quả thì phải đặt ra mục tiêu và phương hướng phát triển NTM
phù hợp với tình hình phát triển trong giai đoạn mới. Vì vậy, ngày 16/8/2016 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình
MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2016 – 2020 và thay thế Quyết định số 800/QĐ-
TTg ngày 4/6/2010, có mục tiêu chung là "Xây dựng NTM để nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người dân, có kết cấu hạ tầng KTXH phù hợp; cơ cấu kinh
tế và các hình thức TCSX hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch
vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ,
bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ;
26
quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững". Bên cạnh đó, Chương trình còn đặt
ra mục tiêu cụ thể là: đến năm 2020 số xã đạt chuẩn NTM khoảng 50%; bình quân
cả nước đạt 15 tiêu chí/xã và không còn xã dưới 5 tiêu chí, trong đó Đông Nam Bộ
đạt 17,5 tiêu chí/xã; các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và
đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y
tế xã cơ bản được hoàn thành; chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn được
nâng cao, phát triển nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân
để tăng thu nhập cho người dân ít nhất 1,8 lần so với năm 2015.
3.1.2 Các chính sách cho xây dựng NTM
3.1.2.1 Nguyên tắc xây dựng NTM
- Các nội dung, hoạt động phải hướng tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí của
Bộ tiêu chí quốc gia về NTM;
- Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính;
- Kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ
trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn NTM;
- Xây dựng NTM phải gắn với kế hoạch phát triển KTXH của địa phương, có
quy hoạch và cơ chế đảm bảo thực hiện các quy hoạch xây dựng NTM;
- Công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn; tăng cường phân cấp,
trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các công trình, dự án;
- Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
3.1.2.2 Nội dung xây dựng NTM
Gồm 11 nội dung:
- Quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
- Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội;
- Phát triển sản xuất gắn với TCC ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân;
- Giảm nghèo và an sinh xã hội;
- Phát triển giáo dục ở nông thôn;
27
- Phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân
nông thôn;
- Nâng cao chất lượng dời sống văn hóa của người dân nông thôn;
- Vệ sinh môi trường nông thôn, khắc phục, xử lý ô nhiễm và cải thiện môi
trường tại các làng nghề;
- Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn
thể chính trị - xã hội trong xây dựng NTM, cải thiện và nâng cao chất lượng các
dịch vụ hành chính công, bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho
người dân;
- Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn;
- Nâng cao năng lực xây dựng nông thôn mới và công tác giám sát, đánh giá
thực hiện Chương trình; truyền thông về xây dựng NTM.
3.1.2.3 Tiêu chí đạt NTM
Xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới là xã đạt 05 nhóm tiêu chí, gồm 19 tiêu chí:
- Nhóm quy hoạch gồm tiêu chí 01 - quy hoạch;
- Nhóm hạ tầng kinh tế - xã hội gồm 08 tiêu chí: tiêu chí 02 - giao thông; tiêu
chí 03 - thủy lợi; tiêu chí 04 - điện; tiêu chí 05 - trường học; tiêu chí 06 - cơ sở vật
chất văn hóa; tiêu chí 07 – cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn; tiêu chí 08 – thông
tin và truyền thông; tiêu chí 09 - nhà ở dân cư.
- Nhóm kinh tế và tổ chức sản xuất gồm 04 tiêu chí: tiêu chí 10 - thu nhập;
tiêu chí 11 - hộ nghèo; tiêu chí 12 - lao động có việc làm; tiêu chí 13 - tổ chức sản
xuất;
- Nhóm văn hóa – xã hội – môi trường gồm 04 tiêu chí: tiêu chí 14 - giáo dục
và đào tạo; tiêu chí 15 - y tế; tiêu chí 16 - văn hóa; tiêu chí 17 - môi trường và an
toàn thực phẩm.
- Nhóm hệ thống chính trị gồm 02 tiêu chí: tiêu chí 18 - hệ thống chính trị và
tiếp cận pháp luật; tiêu chí 19 - quốc phòng và an ninh.
Đối với việc công nhận huyện NTM và thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn
thành nhiệm vụ xây dựng NTM thì phải đạt các tiêu chí và quy định sau:
28
- Huyện NTM là huyện có 100% số xã trong huyện đạt chuẩn NTM và có tất
các tiêu chí đạt chuẩn theo quy định: quy hoạch; giao thông; thủy lợi; điện; y tế –
văn hóa – giáo dục; sản xuất; môi trường; an ninh – trật tự xã hội; chỉ đạo xây dựng
NTM.
- Thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM
có 100% số xã trên địa bàn được công nhận đạt chuẩn NTM.
3.1.2.4 Nguồn kinh phí cho xây dựng NTM
Cơ cấu nguồn vốn theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 –
2020 gồm 4 nguồn chính và phân theo các tỷ lệ: (i) Ngân sách nhà nước (gồm
NSTW và NSĐP, phân thành vốn trực tiếp cho chương trình và vốn lồng ghép)
40%; (ii) Vốn tín dụng 30%; (iii) Vốn doanh nghiệp 20%; (iv) Vốn đóng góp của
cộng đồng dân cư 10%.
Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai
đoạn 2011 – 2015 của Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng
NTM (2105) thì cả nước đã huy động được khoảng 851.380 tỷ đồng cho Chương
trình xây dựng NTM, trong đó: NSNN (bao gồm các chương trình, dự án khác) là
266.785 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 31,34%); vốn tín dụng là 434.950 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ
51%); vốn doanh nghiệp là 42.198 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 4,9%), vốn đóng góp của
người dân và cộng đồng là 107.447 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 12,62%).
Như vậy, có thể thấy cơ cấu vốn thu được thực tế là không đồng cân đối so
với quy định. So với Quyết định số 800/QĐ-TTg thì nguồn lực huy động từ NSNN
và doanh nghiệp không đạt so với mục tiêu, trong khi đó vốn tín dụng và vốn huy
động từ nguồn lực cộng đồng đạt cao hơn.
Hiện nay, theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2016 – 2020
gồm 4 nguồn chính và phân theo tỷ lệ: (i) Ngân sách nhà nước (gồm NSTW và
NSĐP, phân thành vốn trực tiếp cho chương trình và vốn lồng ghép) 30%; (ii) Vốn
29
tín dụng 45%; (iii) Vốn doanh nghiệp 15%; (iv) Vốn đóng góp của cộng đồng dân
cư 10%.
3.1.2.5 Chính sách hỗ trợ xây dựng NTM
Căn cứ các văn bản pháp lý và các chính sách của các Bộ, ngành hướng dẫn,
hỗ trợ cho việc thực hiện mỗi nội dung xây dựng NTM, chia thành hai nhóm chính
sách chủ yếu đang được thực hiện hỗ trợ xây dựng NTM gồm:
- Nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp: gồm các chính sách hướng trực tiếp vào
việc hỗ trợ các xã thực hiện 19 tiêu chí NTM. Các Bộ, ngành có liên quan đến lĩnh
vực nào được giao chủ trì lĩnh vực đó và đề xuất với Chính phủ ban hành quy định
cụ thể về chính sách đầu tư, hỗ trợ.
- Nhóm chính sách hỗ trợ gián tiếp: gồm các chính sách hỗ trợ hoạt động xay
dựng NTM, giám tiếp tác động tới việc đạt được các tiêu chí NTM, như: chính sách
đào tạo nghề LĐNT, chính sách khuyến nông, chính sách tín dụng, …
3.2 Tình hình thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM trên cả nước
3.2.1 Tình hình thực hiện từ năm 2011 – 2015
Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai
đoạn 2011 – 2015 của BCĐ Trung ương Chương trình MTQG xây dựng NTM
(2015), tất cả các tỉnh, thành phố đã có BCĐ các cấp từ Trung ương đến tỉnh,
huyện, xã và ở các xã đã có Ban quản lý Chương trình hoặc Ban phát triển thôn,
bản, ấp.
Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh tất cả các cấp nhất là về mục đích, ý
nghĩa, phương châm, các nội dung và cơ chế chính sách của Chương trình. Các cấp
chính quyền, hội và đoàn thể nâng cao vai trò, chủ động trong các hoạt động cũng
như phương tiện truyền thông tích cực tuyên truyền về xây dựng NTM, phát động
nhiều phong trào thi đua gắn với mục tiêu xây dựng NTM; nhiều cơ chế, chính sách
của Trung ương và địa phương được ban hành và áp dụng để thực hiện Chương
trình; hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, đời sống người dân được
nâng lên rõ rệt. Qua đó, sự tin tưởng của người dân vào chủ trương của Đảng, chính
30
sách, pháp luật của nhà nước và sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền được
nâng cao.
Kết quả xây dựng NTM đến cuối năm 2015 đạt nhiều thành tích đáng kể:
mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đạt 24,4 triệu đồng/năm (tăng
khoảng 1,9 lần so với năm 2010); số tiêu chí bình quân/xã là 12,9 tiêu chí (tăng 8,2
tiêu chí so với 2010); 183 xã đạt 10 tiêu chí trở lên là và cả nước có 1.298 xã
(14,5%) được công nhận đạt chuẩn NTM. Tuy nhiên, so với mục tiêu của Chương
trình tại Quyết định số 800/QĐ-TTg thì không đạt tỷ lệ 20 % xã NTM vào năm
2015 (Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, 2015).
Chương trình MTQG xây dựng NTM đã làm thay đổi nhận thức của đa số
người dân, lôi cuốn họ vào xây dựng nông thôn mới. Qua đó, tác động tích cực làm
thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ các cấp chính quyền và người dân từ thụ động
sang chủ động thực hiện các công việc, lựa chọn nội dung ưu tiên, đóng góp công
sức và tích cực tham gia thực hiện, tạo thành một phong trào có sự hưởng ứng sâu
rộng trong cả nước.
Hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt nhiều
vùng nông thôn; điều kiện sống của phần lớn người dân vùng nông thôn được nâng
cao rõ rệt; đồng thời, sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp được chú trọng và tạo
được sự chuyển biến, góp phần tích cực nâng cao thu nhập.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình vẫn chưa đạt được mục tiêu
đề ra theo Nghị quyết số 26-NQ/TW như: chưa quan tâm phát triển sản xuất gắn với
tái cơ cấu ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, đời sống văn hóa và vấn đề bảo vệ môi
trường chưa được quan tâm đúng mức; sự chênh lệch về kết quả thực hiện xây dựng
NTM giữa các vùng, miền và một số địa phương còn mang nặng tính hình thức,
chạy đua theo thành tích. Nguyên nhân là do Chương trình triển khai trong điều
kiện kinh tế còn khó khăn, ngân sách hạn hẹp; xuất phát điểm của đa số các xã còn
thấp; bên cạnh đó nhận thức của một số cán bộ chính quyền địa phương và nhân dân
về NTM còn hạn chế, chưa phát huy tính chủ động; sự lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều
31
cấp ủy và chính quyền địa phương thiếu sâu sát, đôi khi chạy theo thành tích; tiêu
chí, cơ chế chính sách chưa thật sự phù hợp với thực tế tại địa phương.
3.2.2 Tình hình thực hiện từ năm 2016 - 2017
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện năm 2017 và dự kiến một số nhiệm vụ
trọng tâm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM năm 2018 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), đến hết tháng 11/2017, trên cả nước đã đạt
được nhiều kết quả từ Chương trình như:
- Có 2.884 xã được công nhận đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã
NTM giai đoạn 2016 – 2020 (chiếm tỷ lệ 32,3% và vượt chỉ tiêu năm 2017 có ít
nhất 31% xã đạt chuẩn), tăng 524 xã (5,87%) so với cuối năm 2016; bình quân đạt
13,69 tiêu chí/xã; còn 176 xã dưới 5 tiêu chí, giảm 81 xã so với cuối năm 2016.
- Đối với huyện đạt chuẩn NTM thì đến hết 15/12/2017, cả nước có 43 đơn
vị cấp huyện thuộc 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng
Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM và tăng so với cuối năm 2016 là 13 huyện
(vuợt mục tiêu phấn đấu năm 2017 có ít nhất 38 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng
Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM).
- Huy động trên cả nước được khoảng 217.138 tỷ đồng, trong đó: ngân sách
Trung ương là 9.259 tỷ đồng (4,3%), ngân sách địa phương 22.152 tỷ đồng (10,2%)
và các nguồn vốn huy động khác (Lồng ghép từ chương trình, dự án khác là 26.260
tỷ đồng (12,1%); vốn tín dụng là 140.811 tỷ đồng (64,9%); vốn doanh nghiệp là
7.549 tỷ đồng (3,5%); người dân đóng góp là 11.107 tỷ đồng (5%). Bên cạnh đó,
Trung ương đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phê duyệt chương trình trong giai
đoạn mới; những quy định chức năng, quyền hạn của Văn phòng điều phối; chương
trình khung tập huấn, bồi dưỡng cán bộ tại các xã NTM; nhiều đề án phát triển và
thông tin tuyên truyền về Chương trình MTQG xây dựng NTM, ... Quá trình triển
khai một số địa phương đã chủ động ban hành kế hoạch và tiêu chí nâng chất đối
với các xã, huyện đạt chuẩn NTM; phát huy được các phong trào và xử lý các
nhiệm vụ liên quan đến việc xây dựng NTM.
32
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền ở hầu hết địa phương vẫn còn nhiều hạn
chế; người dân chưa nhận thức đầy đủ về nội dung chương trình và các hoạt động
trong xây dựng NTM; tập trung triển khai đầu tư thực hiện vào các tiêu chí xây
dựng hạ tầng cơ bản nhưng chưa đồng đều và chưa chú ý đên các tiêu chí khác; việc
ban hành các cơ chế, chính sách hướng dẫn triển khai Chương trình xây dựng NTM
trong giai đoạn 2016 – 2020 còn chậm, gây lúng túng và làm giảm tiến độ thực
hiện. Sau nhiều năm triển khai thực hiện đã tìm ra những mô hình NTM mang tính
đặc trưng riêng ở nhiều địa phương.
3.3 Kết quả triển khai Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu
Để triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM theo chỉ đạo
của Trung ương, ngày 24/12/2010, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành
Quyết định số 3505/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án xây dựng NTM tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu đến năm 2020; trong đó, tập trung xây dựng NTM gắn nông nghiệp với
phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định;
nâng cao dân trí; bảo vệ tốt môi trường sinh thái, hệ thống chính trị ở nông thôn
trong sạch vững mạnh toàn diện; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của dân cư nông thôn; an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững. Đồng thời,
ngày 07/3/2017, UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-UBND về
Chương trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn
2016 – 2020.
Bên cạnh đó, để triển khai một cách toàn diện các nội dung Nghị quyết của
Trung ương và Đề án, Quyết định của UBND tỉnh thì hàng năm các cấp ủy đảng,
chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội từ tỉnh đến huyện, xã đã xây dựng kế
hoạch cụ thể hàng năm và năm năm để thực hiện.
Để tăng tính hiệu quả và triển khai thực hiện Chương trình mang lại thành
công, các cấp chính quyền tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ tỉnh, huyện đến xã đã thành
lập bộ máy BCĐ và bộ phận tham mưu giúp việc, cụ thể: cấp tỉnh được UBND tỉnh
ban hành Quyết định thành lập BCĐ Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Bà
33
Rịa – Vũng Tàu (gọi tắt là BCĐ tỉnh), giúp việc cho BCĐ tỉnh là VPĐP Chương
trình MTQG xây dựng NTM tỉnh (gọi tắt là VPĐP tỉnh) được UBND tỉnh ban hành
Quyết định thành lập và chịu trách nhiệm tổ chức tham mưu BCĐ tỉnh các nội dung
công việc liên quan đến xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh; cấp huyện đã thành lập
BCĐ trong thực hiện các hoạt động xây dựng NTM và thành lập VPĐP NTM tại
các huyện; cấp xã đã thành lập Ban Quản lý xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020.
Nhiệm vụ và quyền hạn của các thành viên trong BCĐ từng cấp được phân công cụ
thể, rõ ràng theo chức năng, lĩnh vực phụ trách của từng đơn vị, cá nhân.
Căn cứ vào Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xây
dựng Bộ tiêu chí NTM của tỉnh. So với Trung ương, Bộ tiêu chí của tỉnh nhiều hơn
về số lượng các tiểu tiêu chí.
* Tình hình thực hiện giai đoạn 2010 - 2015
Trong giai đoạn 2011 – 2015, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xây dựng Chương
trình thực hiện gồm đầu tư thí điểm gồm 6 xã điểm và 21 xã trên địa bàn tỉnh. Theo
Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM (2015), kết quả thực
hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM của BCĐ thực hiện Chương trình MTQG
xây dựng NTM giai đoạn 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016
– 2020 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:
- Tổng nguồn vốn đã bố trí, huy động từ các nguồn cho Chương trình giai
đoạn 2011 – 2015 là 5.115,191 tỷ đồng, trong đó theo cơ cấu nguồn vốn gồm:
NSNN là 1.952,353 tỷ đồng (38,17%); vốn tín dụng là 1.289,865 tỷ đồng (25,22%);
vốn doanh nghiệp là 965,15 tỷ đồng (18,87%); vốn huy động người dân là 868,750
tỷ đồng (16,98%). So với cơ cấu nguồn vốn của Trung ương, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu đã huy động vốn với tỷ lệ gần bằng tỷ lệ của Trung ương cho giai đoạn 2010 –
2015 và với tỷ lệ đóng góp của người dân vượt tỷ lệ nguồn vốn theo Trung ương,
điều đó thể hiện sự chuyển biến về nhận thức của người dân từ chỗ tư tưởng trông
chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước đã chuyển sang chủ động, tự tin tham gia tích
cực vào xây dựng NTM tại địa phương. Bên cạnh đó, ngoài cơ cấu nguồn vốn theo
34
Trung ương, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn huy động được nguồn vốn khác 39,073
tỷ đồng (0,76%) để đầu tư thực hiện Chương trình xây dựng NTM.
- Tổng số tiêu chí đã đạt của 27 xã là 432 tiêu chí, bình quân mỗi xã đạt 16
tiêu chí/xã, tăng thêm 195 tiêu chí so với trước khi xây dựng NTM và có 6 xã điểm
được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn NTM.
- Thu nhập bình quân đầu người của các xã là 33,76 triệu đồng/người/năm,
tăng trung bình khoảng 18,2 triệu đồng (tương đương với gấp 2,2 lần) so với trước
khi xây dựng NTM cuối năm 2012.
* Tình hình thực hiện năm 2016, 2017
Trong giai đoạn 2016 – 2020, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp tục triển khai các
nhiệm vụ của Chương trình xây dựng NTM cho thêm 18 xã. Trong 02 năm thực
hiện đã đạt được những thành công sau:
- Năm 2016, toàn tỉnh đã có 19/45 xã đạt 19/19 tiêu chí; tổng số tiêu chí đã
đạt đến nay của 45 xã là 601 tiêu chí (tăng thêm 169 tiêu chí so với cuối năm 2015);
bình quân số tiêu chí đạt được của mỗi xã là 13,4 tiêu chí. Thu nhập bình quân đầu
người đạt khoảng 34, 9 triệu đồng/người/năm, vượt chỉ tiêu đặt ra về tiêu chí thu
nhập trong năm 2016 của tỉnh BRVT. Tổng nguồn vốn đầu tư cho Chương trình
MTQG xây dựng NTM là 1.976,260 tỷ đồng, trong đó: NSNN là 726,628 tỷ đồng
(36,9%); vốn tín dụng là 841,199 tỷ đồng (42,57%); vốn doanh nghiệp là 147,992 tỷ
đồng (7,49%); huy động nhân dân đóng góp là 256,971 tỷ đồng (13%) và huy động
nguồn khác 0,470 tỷ đồng (0,02%).
- Năm 2017, toàn tỉnh có 20/45 xã được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn
nông thôn mới và 03 xã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí. Thu nhập bình quân đạt khoảng
39,9 triệu đồng/người/năm, tăng khoảng 25,68 triệu đồng so với trước khi xây dựng
NTM. Tổng số tiêu chí đạt được của 45 xã là 633 tiêu chí, trung bình đạt 14 tiêu
chí/xã. Tổng nguồn vốn đầu tư cho Chương trình MTQG xây dựng NTM năm 2017
là 2.115,346 tỷ đồng, trong đó: NSNN là 543,200 tỷ đồng (25,68%); vốn tín dụng là
1.079,916 tỷ đồng (51,05%); vốn doanh nghiệp là 209,435 tỷ đồng (9,9%); huy
động nhân dân đóng góp là 282,795 tỷ đồng (13,37%).
35
Hiện nay, có 41/45 xã lập và được phê duyệt quy hoạch xây dựng NTM, đạt
tỷ lệ 82%; Về hạ tầng kinh tế - xã hội: 24/45 xã đạt tiêu chí Giao thông (tỷ lệ
53,3%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thủy lợi (tỷ lệ 86%); 31/45 xã đạt tiêu chí Điện nông
thôn và tiêu chí Trường học (tỷ lệ 68,8%); 27/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở vật chất văn
hóa (tỷ lệ 60%); 36/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (tỷ lệ
80%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thông tin truyền thông (tỷ lệ 86,6%) và 36/45 xã đạt
tiêu chí về nhà ở, chiếm tỷ lệ 80%.
3.4 Chọn mẫu nghiên cứu
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay có 45 xã trong Chương trình MTQG xây
dựng NTM nằm trên 6 huyện, thành phố. Dựa trên số lượng xã nằm trên địa bàn
từng huyện, thành phố; đồng thời, dựa trên kết quả báo cáo tình hình thực hiện
Chương trình MTQG xây dựng NTM theo từng năm, NNC nhận thấy cần phải lựa
chọn ngẫu nhiên từng hộ thuộc các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh để trực tiếp
phát phiếu khảo sát và thu thập thông tin của đối tượng được phát phiếu. Tổng số
đối tượng được phát phiếu khảo sát trực tiếp thu thập thông tin tra là 200 hộ, tổng số
phiếu hợp lệ đầy đủ thông tin là 200 phiếu (đạt tỷ lệ 100%) được phân bố cụ thể
như sau:
36
Bảng 3.1 Số liệu mẫu điều tra
Tổng thể Mẫu điều tra
Huyện/thành phố Số xã xây Tỷ lệ Số hộ Tỷ lệ dựng NTM
Huyện Châu Đức 15 33,33 % 50 25%
Huyện Xuyên Mộc 12 26,67% 50 25%
Huyện Đất Đỏ 6 13,33% 30 15%
Huyện Long Điền 5 11,11% 30 15%
Huyện Tân Thành 4 8,89% 20 10%
Thành phố Bà Rịa 3 6,67% 20 10%
Tổng cộng 45 100% 200 100%
(Nguồn: Tác giả thiết kế dựa trên số liệu khảo sát)
Thông tin NNC tiến hành điều tra thu thập để phân tích được kết quả về mức
độ tham gia của người dân trong chương trình MTQG xây dựng NTM trên phiếu
khảo sát gồm 5 phần:
Phần I: Thông tin chung. Giới thiệu sơ lược về đối tượng cung cấp thông tin
để đánh giá được tình hình triển khai và kết quả đạt được của huyện, thành phố.
Phần II: Tiếp cận thông tin về Chương trình. Nhận thức của người dân về
các nội dung thuộc Chương trình MTQG xây dựng NTM và cách thức tiếp cận
thông tin mà người dân thường nghe để biết được Chương trình MTQG xây dựng
NTM đang triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh.
Phần III: Tham gia bàn về xây dựng NTM. Đánh giá việc quan tâm của
chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện cho người dân tham gia các cuộc
37
họp và đóng góp ý kiến về công tác quy hoạch, lập đề án quy hoạch, nguồn vốn và
lựa chọn những việc nên làm trước phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương để
phát huy tối đa kết quả của các công việc.
Phần IV: Tham gia trực tiếp. Đánh giá mức độ tham gia, hình thức đóng góp
và nhận định của các hộ về mức đóng góp và hình thức đóng góp để kịp thời đề xuất
giải pháp giải quyết nếu phát sinh những khó khăn.
Phần V: Giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng. Đánh giá các hình thức
tạo điều kiện của chính quyền địa phương để người dân tham gia vào các công việc
giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng những công trình khi đã đi vào hoạt động
cũng như đánh giá mức độ chủ động của người dân vào các hoạt động trên để đề
xuất những giải pháp tăng cường sự chủ động của người dân tham gia vào hoạt
động Chương trình MTQG xây dựng NTM.
3.5 Thực trạng người dân tham gia trong xây dựng NTM
3.5.1 Người dân nắm bắt thông tin về Chương trình
Để người dân quan tâm và tích cực tham gia vào Chương trình thì điều đầu
tiên quan trọng, cần thiết nhất là phải cung cấp những thông tin cho người dân để từ
đó người dân nắm bắt được thông tin và nhận biết được những lợi ích mà chương
trình đem lại bởi người dân sẽ chỉ tham gia khi nắm bắt được các lợi ích có liên
quan. Vì vậy, trong xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, BCĐ các cấp đã
tham mưu cho UBND các cấp ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, các
chương trình, kế hoạch và văn bản thực hiện nhiệm vụ để đạt được các mục tiêu đề
ra tại Nghị quyết số 26-NQ/ĐH ngày 23/10/2010 trên địa bàn một cách hiệu quả.
Theo Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM (2015) tại
báo cáo tổng kết về NTM của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2011 – 2015, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu đã tổ chức công tác tuyên truyền, phát động phong trào chung
sức xây dựng NTM bằng nhiều hình thức như: xây dựng nhiều chuyên mục về NTM
và phối hợp với Đài phát thanh truyền hình, Báo BRVT phát sóng các bản tin,
phóng sự cũng như in ấn, phát hành các tài liệu có liên quan đến nội dung NTM để
cấp phát cho các địa phương sử dụng trong việc tuyên truyền, hỗ trợ các xã xây
38
dựng pano, áp phích, băng rôn tuyên truyền. Bên cạnh đó, tại các huyện cũng đã tổ
chức các chương trình tuyên truyền; thường xuyên thông tin và tuyên truyền trên
đài phát thanh cũng như tiến độ thực hiện các tiêu chí tại địa phương; mở các
chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền và tổ chức các Hội nghị, Hội thảo để người
dân và các tổ chức nâng cao nhận thức về NTM. Ngoài ra, Ban vận động tuyên
truyền xã kết hợp với Ban vận động phát triển các ấp tổ chức họp dân theo từng tổ
địa bàn để tuyên truyền, vận động nhân dân tự nguyện đăng ký hưởng ứng các cuộc
vận động theo nội dung 19 tiêu chí. Nhờ đó, khi được hỏi về CT MTQG xây dựng
NTM thì có 100% người dân được khảo sát tại các xã đều biết CT MTQG xây dựng
NTM. Qua đó, thấy được hiệu quả mang lại từ những hoạt động tuyên truyền của
tỉnh và huyện rất cao. Tuy nhiên khi hỏi về các nội dung của CT MTQG xây dựng
NTM như: các nội dung của CT, các tiêu chí của CT, thời gian bắt đầu CT và các
chính sách hỗ trợ xây dựng NTM thì tương đối người dân biết đến và chiếm tỷ lệ
nhiều nhất là 75% biết về các tiêu chí NTM, tiếp theo là thời gian bắt đầu CT, các
nội dung CT và cuối cùng là các chính sách hỗ trợ xây dựng NTM.
Hình 3.1 Tỷ lệ người dân biết các thông tin về Chương trình NTM
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
39
Phần lớn các thông tin về Chương trình NTM được người dân tại các xã tiếp
cận thông qua các buổi họp tại địa phương chiếm tỷ lệ 83,3% vì các thôn, ấp là nơi
người dân sinh sống nên việc người dân sẽ dễ dàng tiếp cận và biết thông tin nhanh
nhất. Đồng thời, tại các buổi họp, người dân được lắng nghe và trao đổi trực tiếp
những thắc mắc của mình về Chương trình đến những cán bộ phụ trách. Việc trao
đổi hai chiều giữa cán bộ và người dân không những giúp người dân hiểu sâu hơn
về chương trình, từ đó nâng cao nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mình đối
với hoạt động xây dựng NTM. Mà qua việc tiếp xúc còn giúp cho người cán bộ có
thể nắm rõ những tâm tư, nguyện vọng của người dân để từ đó có hướng đề xuất
giúp hoàn thiện chương trình NTM tại địa phương. Kênh thông tin tiếp theo mà
người dân cũng dễ dàng tiếp cận đó là qua việc đọc/nghe báo, đài, tivi chiếm 66,7%
thông qua việc đẩy mạnh phong trào chung sức xây dựng NTM bằng nhiều hình
thức như: xây dựng chuyên mục, thời sự, phối hợp phát sóng các thông tin về NTM,
... Bên cạnh đó, việc người dân tiếp cận thông tin từ nguồn khác như tự tìm hiểu để
biết về Chương trình NTM chỉ chiếm phần nhỏ khoảng 22,2%.
Hình 3.2 Tỷ lệ nguồn tiếp cận thông tin của người dân về NTM
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
40
Tuy nhiên, khi được hỏi về các nội dung đầu tư tại địa phương thì có khoảng
53% tỷ lệ người dân được khảo sát không hề biết đến, chỉ có khoảng 47% tỷ lệ
người dân được biết. Điều này chứng tỏ rằng chính quyền địa phương chưa quan
tâm và thông báo cho người dân biết về các nội dung đầu tư. Bên cạnh đó, cũng có
địa phương đã thực hiện tốt để người dân hiểu rõ và phát huy tối đa vị trí trong xây
dựng NTM, muốn người dân được biết các công trình để tham gia góp ý hoàn thiện
Chương trình gồm các huyện: Châu Đức, Đất Đỏ và Long Điền.
Qua khảo sát, tỷ lệ người dân biết đến các nội dung đầu tư tại địa phương họ
sinh sống chiếm tỷ lệ 47%, bên cạnh đó số lượng người dân không biết thông tin
chiếm tỷ lệ khá cao 53% và phân theo số lượng phiếu khảo sát tại từng huyện, thành
phố như sau:
41
Bảng 3.2 Tỷ lệ người dân biết về các nội dung đầu tư theo từng địa phương
Tỷ lệ % tổng số
Có Không phiếu điều tra đã
Huyện/thành phố phát/đơn vị
Tần số % Tần số % Có Không
Thành phố Bà Rịa 7 3,5 6,5 35% 65% 13
Huyện Long Điền 14 16 7 8 46,7% 53,3%
Huyện Đất Đỏ 15 15 7,5 7,5 50% 50%
Huyện Xuyên Mộc 20 30 10 40% 60% 60
Huyện Châu Đức 28 22 14 56% 44% 11
Huyện Tân Thành 8 12 4 40% 60% 6
47 53 Tổng 94 106
(Nguồn: Tác giả thiết kế dựa trên số liệu khảo sát)
Xây dựng NTM là một nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, thường
xuyên, lâu dài và đầy nỗ lực với mục tiêu cao đẹp, xuyên suốt và quan trọng là nâng
cao đời sống người dân tại nông thôn. Vì vậy mọi người dân phải biết được những
nội dung của Chương trình để hiểu và có cơ sở đóng góp những ý kiến để Chương
trình ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn. Để chủ trương này trở thành hiện thực,
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, Nghị định, Nghị quyết nhằm triển khai
chủ trương này và tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành các chương trình, kế
hoạch và nhiều văn bản hướng dẫn, cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị
quyết đạt kết quả, xây dựng. Bên cạnh đó, nhằm giúp người dân, các Sở, ngành,
chính quyền tại địa phương hiểu và triển khai hiệu quả các tiêu chí, ngày 6/3/2017,
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 452/QĐ-UBND về việc ban hành Bộ tiêu
42
chí xã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016 – 2020 thực hiện trên địa bàn tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu và để cụ thể hóa Quyết định của UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn – Thường trực Ban Chỉ đạo Chương trình đã ban hành Quyết định
số 106/QĐ-SNN-VPĐP ngày 31/3/2017 ban hành Sổ tay hướng dẫn thực hiện Bộ
tiêu chí xã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016 – 2020, thực hiện trên địa bàn tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu và tăng cường tuyên truyền về xây dựng NTM đến toàn thể cán bộ
Đảng viên, công chức, các thành phần kinh tế và người dân trên địa bàn tỉnh để mọi
người, mọi thành phần đều được biết, hiểu và thực hiện.
Rõ ràng cấp ủy, chính quyền các cấp và cả hệ thống chính trị có trách nhiệm
nâng cao nhận thức của người dân về Chương trình; đồng thời, người nông dân –
với vai trò là chủ thể của Chương trình phải là người được quán triệt những nội
dung, nhiệm vụ cần thiết để phát triển xây dựng NTM. Nếu người nông dân không
hiểu rõ về Chương trình cũng như những nhiệm vụ cần thực hiện thì họ không thể
góp sức cùng với các Sở, ngành, địa phương để hoàn thành các tiêu chí và điều
chỉnh, bổ sung các tiêu chí để phù hợp hơn với từng địa phương nơi họ sinh sống.
Thông qua vấn đề khảo sát về tình hình nắm bắt thông tin Chương trình
NTM của người dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhận thấy rằng để nâng cao vai trò
của nông dân trong xây dựng nông thôn mới thì các cấp chính quyền phải phát huy
được tính chủ động, tích cực tổ chức các lớp tuyên truyền, phát động các phong trào
và phát sóng các Chương trình NTM, định hướng thông qua việc trao đổi nhằm bồi
dưỡng và giúp người dân hiểu về ý nghĩa, nhiệm vụ, nắm bắt được nhiều thông tin
của Chương trình và từ đó, người dân sẽ đóng góp các ý kiến để Chương trình đi
đúng mục tiêu, phát triển phù hợp với địa phương.
3.5.2 Người dân tham gia ý kiến
Đây là mức cao hơn trong hoạt động xây dựng NTM của người dân. Qua
việc khảo sát tại mức độ này, NNC đánh giá được nhận thức của người dân về vai
trò của mình trong việc xây dựng NTM cũng như nhu cầu và nguyện vọng để thực
hiện các kế hoạch NTM. Ở mức độ này đòi hỏi người dân cần có hiểu biết nhất định
43
về Chương trình, đóng góp ý kiến để Chương trình đi đúng mục tiêu và đảm bảo
quyền lợi cho chính bản thân và cộng đồng.
Khi được hỏi sự cần thiết đóng góp ý kiến của người dân vào xây dựng NTM
thì có 71,5% người dân trả lời Có với nguyên nhân là: người dân bỏ ra một phần
trong kinh phí để thực hiện các nội dung Chương trình; xây dựng NTM mục đích
cuối cùng đạt đến chính là thay đổi đời sống của các hộ dân tại vùng nông thôn theo
hướng tích cực hơn vì vậy người dân có quyền được đóng góp ý kiến để giúp việc
thực hiện hoàn thành Chương trình nhanh hơn. Bên cạnh đó, vẫn còn có người nhận
định rằng không cần thiết phải đóng góp ý kiến chiếm 28,5% với nguyên nhân là họ
không quan tâm, đó là trách nhiệm của người phụ trách và của nhà nước hoặc có
đóng góp ý kiến cũng không biết có được ghi nhận và chỉnh sửa. Qua kết quả khảo
sát, một số người dân chưa nhận thấy và chưa thể hiện được vai trò bằng việc tham
gia các ý kiến, họ chưa thực sự hiểu bản chất của Chương trình MTQG xây dựng
NTM là phải có ý kiến của người dân thì Chương trình mới thực sự phù hợp và
mang lại hiệu quả.
Các cuộc họp tại địa phương, người dân tham gia với nhiều mức độ khác
nhau để bàn bạc các vấn đề liên quan đến NTM, chủ yếu là ở dạng truyền đạt những
thông tin cho người dân biết. Qua cuộc khảo sát, cho thấy tỷ lệ khoảng 30% người
dân là thường xuyên được mời tham dự các cuộc họp; tỷ lệ 53,3% người dân thỉnh
thoảng được mời tham dự và tỷ lệ 16,7 % người dân chưa từng được mời. Sự tham
gia các cuộc họp không đồng đều do tính chất đặc thù công việc của từng hộ dân.
Bên cạnh đó, những người tham gia thường xuyên thường là cán bộ, công chức
đảng viên và những cá nhân điển hình trong sản xuất, có đóng góp trong việc xây
dựng chính quyền địa phương.
44
Hình 3.3 Tỷ lệ người dân được mời tham gia các cuộc họp
(Nguồn: Tác giả vẽ dự trên số liệu khảo sát)
Ngoài ra, khi được hỏi các hoạt động về vấn đề có liên quan NTM được đưa
ra bàn bạc, thảo luận và thông báo đến người dân tại địa phương công khai như: (1)
công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM; (2) nội dung sử dụng và hình thức
quản lý các khoản đóng góp của dân; (3) nguồn vốn và chi phí của các công trình
NTM; (4) lựa chọn những việc nên làm trước trong xây dựng NTM thì qua kết quả
khảo sát, ta nhận thấy chính quyền địa phương đã không tạo điều kiện cho người
dân được tham gia góp ý kiến vào các vấn đề trên, vì vậy tương ứng các nội dung
được đưa ra bàn bạc, thảo luận và thông báo công khai tại địa phương đạt tỷ lệ rất
thấp gồm: chiếm tỷ lệ 48,5 % nội dung trong công tác lập quy hoạch, đề án xây
dựng NTM; nguồn vốn, chi phí của các công trình chiếm tỷ lệ là 47 %; quản lý và
sử dụng nguồn vốn với tỷ lệ 41,5% và thấp nhất là việc bàn bạc công khai để lựa
chọn những việc nên làm trước. Điều đó đồng nghĩa với việc chính quyền địa
phương đã không nhận thấy được muốn để Chương trình đạt kết quả tốt và hoàn
thành nhanh nhất thì cần đưa người dân tham gia vào trong các hoạt động vì họ
chính là đối tượng sau cùng hưởng thụ những kết quả mà Chương trình hướng tới
45
nên họ sẽ biết được nhu cầu, nguyện vọng của mình cần những gì để góp ý, bàn
luận hoàn thiện.
Hình 3.4 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát tại từng huyện, thành phố trong tổng số tỷ
lệ khảo sát trả lời “Có” về vấn đề trên thì các huyện như: Châu Đức, Long Điền và
Đất Đỏ đã đưa các hoạt động này ra để bàn bạc, thảo luận và thông báo công khai
cho người dân tại địa phương được biết và tham gia với tỷ lệ chiếm tương đối cao
theo từng hoạt động như sau:
46
Bảng 3.3 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc công khai theo
từng địa phương
Các hoạt động
Nội dung sử Lựa chọn dựng và hình Nguồn vốn, Công tác lập quy những việc thức quản lý, chi phí của Huyện/thành phố hoạch, đề án xây nên làm trước các khoản các công trình dựng NTM trong xây đóng góp của NTM dựng NTM dân
Tần số % Tần số % Tần số % Tần số %
Thành phố Bà Rịa 10 3 15 7 2 10 2 35
Huyện Long Điền 66,7 13 43,3 15 13 43,3 20 50
Huyện Đất Đỏ 63,3 18 17 56,7 11 36,7 60 19
Huyện Xuyên Mộc 40 19 40 20 11 22 20 38
Huyện Châu Đức 52 27 58 26 29 58 29 54
Huyện Tân Thành 15 9 20 3 5 25 4 45
(Nguồn: Tác giả thiết kế dự trên số liệu khảo sát)
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương chưa thật sự tạo điều kiện cho người
dân tham gia vào công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM để người dân thể
hiện được vai trò của mình nên chỉ có 26,5% trong tổng số người được khảo sát là
đã từng tham gia. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thì trong số người đã từng tham
gia thì họ tham gia với những hình thức khác nhau, phần lớn họ đi theo ý thích, tiếp
theo là được cử đi và sau cùng là họ quan tâm và muốn góp ý để việc lập quy hoạch
và đề án xây dựng NTM tại địa phương được hoàn thiện. Đối với những người chưa
47
tham gia chiếm tỷ lệ 73,5% thì phần lớn là họ không được mời nhưng vẫn có người
muốn được tham gia vào các vấn đề trên. Tiếp theo là những người với lý do không
quan tâm và không có thời gian thì họ cho rằng đây là công việc mang tính chất kỹ
thuật chuyên môn, thường là do các cơ quan, đơn vị được chỉ định xây dựng làm
việc với các Ban quản lý tại địa phương; đồng thời phần lớn người dân tại các xã
cho rằng mức học vấn không đủ nên họ không quan tâm hoặc không tham gia vào
công tác quy hoạch mặc dù có tham dự cuộc họp.
Tuy nhiên, theo quy định, để công tác lập quy hoạch và đề án xây dựng
NTM thật sự đạt kết quả, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng thì cần phải có ý kiến góp
ý của người dân tại địa phương. Sự tham gia sẽ mang lại kết quả tốt nhất vì chính
người dân tại địa phương nơi mình sinh sống biết rõ nhất là họ cần gì, khả năng
thực hiện, sẽ được hưởng lợi gì từ việc đầu tư thực hiện CT xây dựng NTM và công
sức của họ bỏ ra trong thực hiện lập quy hoạch, đề án để từ đó người dân tham gia
một cách chủ động, làm tăng ý thức, trách nhiệm cộng đồng dân cư. Như vậy, qua
việc khảo sát có thể thấy công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM tại các địa
phương thiếu thực tiễn vì yếu tố về người dân chưa thật sự được chú trọng.
Bên cạnh đó, công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM là điều quan
trọng bởi nó gắn liền với việc lựa chọn mục tiêu và các chương trình hành động
trong tương lai, tránh được sự lãng phí và dư thừa nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo
tiến trình xây dựng đạt được kết quả tốt, giúp chính quyền và người dân cân nhắc
những hoạt động nào quan trọng cần thực hiện trước, thời gian thực hiện, nguồn lực
thực hiện, ... để đưa đến sự thành công. Khi được hỏi về yếu tố nào quyết định việc
lập kế hoạch cho các hoạt động xây dựng NTM thì kết quả khảo sát cho thấy người
dân đã cảm nhận được vai trò của mình khi có đến 54% người dân trả lời việc lập kế
hoạch yếu tố quyết định là ý kiến của người dân với lý do là Chương trình ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của chính bản thân họ, và họ biết điều gì cần làm tiếp
theo để góp ý lập kế hoạch cho các hoạt động triển khai năm sau tại địa phương.
48
Hình 3.5 Các yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch (Tỷ lệ khảo sát %)
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Theo như hình 3.5, ta nhận thấy tỷ lệ ý kiến người dân cho rằng ý kiến của
chính quyền các cấp mới là yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch tại địa phương
cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao lên tới 46% (bao gồm các ý kiến của xã; huyện, tỉnh
và Trung ương). Kết quả này phản ánh thực tế tại các địa phương trên địa bàn tỉnh
là người dân mặc dù có nhu cầu, nguyện vọng và biết cần thực hiện những hoạt
động gì tiếp theo để trể khai Chương trình đạt hiệu quả tốt nhất nhưng vẫn còn tâm
lý dựa dẫm vào sự giúp đỡ từ chính quyền các cấp và chưa thật sự chủ động trong
các hoạt động. Bảng tổng hợp dưới đây sẽ cho thấy nhận thức của người dân từng
huyện, thành phố về vấn đề lập kế hoạch tại địa phương.
49
Bảng 3.4 Tổng hợp ý kiến về yếu tố quyết định việc lập kế hoạch tại địa
phương theo từng năm
Ý kiến của Ý kiến của Ý kiến của Ý kiến của xã người dân huyện, tỉnh trung ương Huyện/ thành phố
Tần số % Tần số % Tần số % Tần số %
Thành phố Bà Rịa 10 50 3 15 5 25 2 10
Huyện Long Điền 19 63,3 3 10 6 20 2 6,7
Huyện Đất Đỏ 18 13,3 16,7 4 5 3 10 60
Huyện Xuyên Mộc 24 9 18 12 24 5 10 48
Huyện Châu Đức 28 7 14 10 20 5 10 56
Huyện Tân Thành 9 2 10 7 35 2 10 45
(Nguồn: Tác giả thiết kế dựa trên số liệu khảo sát)
Khi được hỏi về mức độ tham gia của người dân trong xây dựng NTM thì
những người được hỏi đều nhận thấy mức độ tham gia từ đơn giản như không cần
phải tham gia đến mức độ cao nhất ra quyết định. Kết quả khảo sát cho thấy người
dân chú trọng đến việc tham gia bàn và đóng góp ý kiến, tỷ lệ này chiếm 43,5% số
người được hỏi. Tuy nhiên người dân chưa cảm nhận hết vai trò của mình trong xây
dựng NTM khi chỉ có 10,5% lựa chọn rằng người dân cần phải tham gia vào việc ra
quyết định.
50
Hình 3.6 Tỷ lệ mức độ người dân cần được tham gia trong xây dựng
NTM
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Qua cuộc khảo sát trên, chỉ khi nào người dân cảm nhận được vai trò của
mình thì việc xây dựng NTM đối với họ mới trở thành chính nhu cầu tự bản thân họ
cố gắng để hoàn thành. Đây cũng chính là cơ sở quyết định việc xây dựng NTM
thành công và bền vững.
Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM được Chính phủ ban hành áp dụng trong
giai đoạn 2016 – 2020 trên phạm vi cả nước với nhiều tiểu tiêu chí nhỏ bắt buộc
mỗi tỉnh, thành phố phải đạt yêu cầu thì mới được công nhận là một xã NTM. Đồng
thời để đạt được công nhận thì mỗi tỉnh, thành phố trên cả nước phải phấn đấu và
nỗ lực hết sức mình bằng việc xây dựng những chương trình, kế hoạch và cụ thể
hóa bằng những hành động thiết thực, nhiệm vụ phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương do mỗi địa phương có những điểm bắt đầu khác nhau, điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội không tương đồng. Từ đó, cần phải tạo ra những biện pháp hữu hiệu
để người dân tham gia và Chương trình một cách tự nguyện, tạo môi trường để
người dân tham gia ý kiến góp ý xây dựng, ... Chỉ khi yếu tố con người được phát
huy tối đa thì mới rút ngắn khoản cách về thời gian đạt được mục tiêu và tạo nên
thành công của Chương trình.
51
3.5.3 Người dân tham gia thực hiện
Ở mức độ này, đánh giá sự tham gia thực hiện của người dân qua việc đưa ra
quyết định về hình thức và mức đóng góp. Theo đó, vốn huy động từ người dân
tham gia Chương trình giai đoạn 2011 – 2015 là l868,750 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ là
16,98%) trong tổng số nguồn vốn đầu tư cho Chương trình, vượt chỉ tiêu đề ra theo
cơ cấu nguồn vốn của Trung ương tại Quyết định số 800/QĐ-TTg. Điều này cho
thấy rằng người dân đã ý thức về vai trò trách nhiệm và quan tâm đến các vấn đề
xây dựng NTM. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát khi hỏi người dân về việc đóng
góp vào các công trình ở địa phương thì có 93% tỷ lệ người dân tham gia đóng góp,
số còn lại chiếm tỷ lệ 7% là chưa tham gia vì chủ yếu người dân được khảo sát nằm
trong hộ nghèo, người tàn tật nên họ không có khả năng về tài chính cũng như công
sức để tham gia.
52
Bảng 3.5 Mức độ tham gia đóng góp của người dân vào công trình
Tham gia đóng góp vào các công trình tại địa phương
Huyện/ thành phố Có Không
Tần số Tần số % %
Thành phố Bà Rịa 18 2 1 9
Huyện Long Điền 28 2 1 14
Huyện Đất Đỏ 27 3 1,5 13,5
Huyện Xuyên Mộc 46 4 2 23
Huyện Châu Đức 48 2 1 24
Huyện Tân Thành 19 1 0,5 9,5
Tổng 186 14 7 93
(Nguồn: Tác giả thiết kế dự trên số liệu khảo sát)
Đối với việc đầu tư các công trình tại địa phương, tỉnh đã chỉ đạo ưu tiên
thực hiện đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động sản xuất của người
dân tại nông thôn như đường giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội
đồng, đầu tư nâng cấp hệ thống điện phục vụ sản xuất của người dân đê phục vụ tốt
nhu cầu sản xuất của người dân. Vì vậy khi được hỏi các công trình mà ông bà đã
tham gia đóng góp thì người dân trả lời: đường làng, ngõ xóm và kênh mương nội
đồng, có đến 87,5% tỷ lệ người dân được khảo sát trả lời là tham gia xây dựng
đường làng, ngõ xóm và 91,5% tỷ lệ người dân trả lời tham gia xây dựng kênh
mương nội đồng. Đây là hai nội dung liên quan đến xây dựng NTM mà theo chính
quyền tại các địa phương thì người dân có thể chủ động thực hiện theo sự hướng
dẫn và thiết kế của các đơn vị chuyên môn.
53
Hình 3.7 Tỷ lệ các công trình người dân tham gia
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Việc đóng góp nguồn lực để xây dựng NTM của người dân cũng rất đa dạng,
từ việc đóng góp tiền bạc, hiện vật, hiến đất đến ngày công lao động. Khi khảo sát
thực tế theo từng huyện, thành phố tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hình thức đóng góp
chủ yếu của người dân thông qua việc hiến đất chiềm tỷ lệ 83,5% và ngày công lao
động chiếm tỷ lệ 90,5%. Với phần lớn người dân sống tại vùng nông thôn, thu nhập
thường thấp và chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuât nông nghiêp, vì vậy việc
đóng góp tiền bạc còn hạn chế. Mặt khác, với đa số người dân làm nghề nông
nghiệp thì hình thức góp bằng công lao động và hiến đất sẽ thích hợp và tương xứng
với khả năng của người dân. Hầu hết các đóng góp của người dân đều là các công
trình tại địa phương như đã khảo sát ở trên đều là các công trình hạ tầng thiết yếu để
phục vụ cho sinh hoạt thường ngày như đường làng ngõ xóm và cho hoạt động sản
xuất như kênh mương nội đồng.
54
Hình 3.8 Tỷ lệ hình thức đóng góp của người dân
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Theo Báo cáo kết quả Chương trình giai đoạn 2011 – 2015, tại các xã xây
dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đầu tư 514,46km đường giao
thông nông thôn với tổng kinh phí đầu tư là 858,557 tỷ đồng (huy động vốn người
dân đóng góp chiếm tỷ lệ 12,2%, gồm: đường trục xã, liên xã 28,7km; đường trục
thôn, xóm 241,06km; đường ngõ xóm 103,98km; đường nội đồng 140,72km;
mương thoát nước 2,11km. Việc xây dựng đường giao thông nông thôn các loại
được huy động từ việc hiến đất và công lao động của người dân để giúp hoàn thành
nhanh nội dung đầu tư CT MTQG xây dựng NTM.
Quyền quyết định việc lựa chọn hình thức và mức đóng góp vào các công
trình tại địa phương đều phụ thuộc vào chính quyền, người dân không được bàn
bạc, góp ý để đưa ra quyết định áp dụng hình thức và mức đóng. Tuy nhiên, chính
quyền địa phương không giao chỉ tiêu để người dân đóng góp thực hiện nội dung
đầu tư, mà trên tinh thần người dân được vận động và sự tự nguyện đóng góp bằng
hình thức ngày công và hiến đất, không có sự can thiệp của chính quyền. Vì vậy,
khi được hỏi về mức đóng góp so với khả năng kinh tế gia đình thì có đến 89,5% tỷ
lệ người dân trả lời phù hợp. Qua khảo sát thấy được, chính quyền địa phương đã
không chạy theo thành tích để cố gắng huy động, đưa ra chỉ tiêu bắt buộc người dân
55
đóng góp mà thông qua việc vận động để nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác của
người dân.
Một nhóm tiêu chí quan trọng của xã NTM là về kinh tế và tổ chức sản xuất,
đặt ra yêu cầu phát triển toàn diện sản xuất nông nghiệp theo hướng: nâng cao chất
lượng để đảm bảo an toàn; gia tăng về số lượng để tạo nguồn cung bền vững cung
ứng ra thị trường và tạo vùng liên kết sản phẩm trong tiêu thụ hiện đại góp phần
nâng cao kinh tế, cải thiện đời sống cho người dân. Để đạt được nhóm tiêu chí trên,
người dân phải thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng các tiến
bộ công nghệ vào trong sản xuất để tiết kiệm thời gian, chi phí, tạo sản phẩm an
toàn. Vì vậy, bên cạnh tham gia những hoạt động xây dựng công trình thiết yếu thì
người dân tại các huyện, thành phố còn tham gia vào hoạt động tạo giá trị sản phẩm
nông sản trong sản xuất.
Trong giai đoạn 2011 – 2015, các xã tham gia Chương trình đã thực hiện các
hoạt động: vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả
sang những cây trồng có giá trị cao hơn như cây hồ tiêu, nhãn xuồng cơm vàng,
thanh lonh ruột đỏ, bưởi da xanh, mãng cầu ta, …. ; vận động người dân thực hiện
nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả, góp phần lớn trong việc nâng cao thu nhập cho
người dân như sản xuất cây ăn trái chuyên canh, nuôi các vật nuôi đặc sản kết hợp
du lịch sinh thái, trồng hoa trong nhà lưới, trồng nấm, … ; hướng dẫn lập phương án
sản xuất, ứng dụng các tiến bộ công nghệ vào sản xuất; đào tạo nghề để giải quyết
việc làm cho nhiều lao động nông thôn; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất.
Bằng những hành động thiết thực đã cải thiện về thu nhập (tăng 2,2 lần so với năm
2010); tỷ lệ hộ nghèo quốc gia của các xã giảm đáng kể, đã xét thoát nghèo cho
khoảng 1.472 hộ nghèo quốc gia nhờ thực hiện nhiều chính sách an sinh xã hội có
hiệu quả; tăng tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên lên 90,4%; gia tăng đáng kế
việc thành lập các hình thức tổ chức sản xuất (Hợp tác xã, Tổ hợp tác) hoạt động có
hiệu quả.
56
3.5.4 Người dân tham gia giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng
Đây là giai đoạn cuối cùng đánh giá mức độ người dân tham gia. Người dân
chính là người được thụ hưởng những thành quả trong xây dựng NTM nên họ hiểu
rõ nhất nhu cầu của mình. Vì vậy, trong quá trình triển khai cũng như khi đi vào
hoạt động, người dân có quyền tham gia giám sát, quản lý thông qua đại diện hoặc
bằng những hành động thiết thực.
Khi được hỏi về việc tham gia vào quá trình giám sát,quản lý, vận hành, bảo
dưỡng các công trình tại địa phương thì có đến 84,5% tỷ lệ người dân được khảo sát
trả lời chưa tham gia.
Hình 3.9 Tỷ lệ người dân tham gia vào quá trình thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Qua kết quả khảo sát, nhận thấy chính quyền địa phương đã không tạo điều
kiện để người dân tham gia giám sát, quản lý các công trình bằng những hành động
thiết thực.
Nguyên nhân lý giải của vấn đề do người dân cho rằng đây là việc của chính
quyền nên họ không có trách nhiệm, không cần phải tham gia đối với những công
57
việc này chiếm tỷ lệ 58%; với tỷ lệ 23,07% là người dân không quan tâm và 18,93%
là người dân không biết thông tin để tham gia các hoạt động.
Hình 3.10 Nguyên nhân người dân không tham gia thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Đối với các hoạt động thuộc phạm vi quản lý, giám sát sau khi hoàn thành
các công trình thì người dân phải tham gia tích cực hơn vì trong quá trình thực hiện
công trình, người dân cũng góp một phần của cải thông qua việc hiến đất và ngày
công lao động nên mọi người dân đều có trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng
các công trình thiết yếu nhằm đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả. Tuy nhiên, qua kết
quả khảo sát thì phần lớn những người dân thường thờ ơ các hoạt động này vì họ
cho rằng đã có Ban giám sát tham gia trong các hoạt động nên họ không phải tham
gia, chỉ cần thông qua Ban giám sát là nắm được tình hình các công trình.
Vì vậy, khi được hỏi chính quyền có tạo điều kiện cho người dân tham gia
giám sát, kiểm tra thì có 50% người dân trả lời là thực hiện thông qua Ban Giám sát
cộng đồng, 28,5% người dân cho rằng chính quyền không tạo điều kiện, 5,5%
người dân trả lời không rõ và có 16% người dân trả lời rằng được trực tiếp thực hiện
thông qua phản ánh, kiến nghị, với tỷ lệ chiếm không cao nhưng cũng đã thể hiện
được vẫn còn người dân ý thức về vai trò của họ.
58
Bên cạnh đó, Ban giám sát tại xã là do người dân tham gia bầu ra, hầu hết
đều là kiêm nhiệm, không có chuyên môn vì vậy không thể phát huy được hết chức
năng trong việc giám sát tại địa phương.
Hình 3.11 Hình thức chính quyền địa phương tạo điều kiện cho người dân
tham gia giám sát, kiểm tra
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Với việc nhận thức rằng thông qua Ban giám sát cộng đồng của người dân
thì chính bản thân họ đã thể hiện được vai trò, trách nhiệm trong việc giám sát,
kiểm tra các công trình, nên khi được hỏi về hình thức giám sát, vận hành, duy tu và
bảo dưỡng nào là hiệu quả nhất thì chiếm 79% tỷ lệ người dân đều cho rằng thuê
các đơn vị tư vấn và chính quyền thành lập các tổ là cách tốt nhất, chỉ có khoảng
13,5% người dân cho rằng nên tham gia trực tiếp.
59
Hình 3.12 Tỷ lệ nhận định của người dân về hình thức thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM hiệu quả
(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)
Như vậy, có thể thấy người dân còn phụ thuộc nhiều vào chính quyền trong
tham gia các hoạt động để giữ gìn và phát triển các công trình tại địa phương.
3.6 Đánh giá thực trạng người dân tham gia
Qua khảo sát nhận thấy mức độ tham gia của người dân còn thấp, thờ ơ và
phụ thuộc vào phía chính quyền về nhiều vấn đề. Đầu tư nguồn vốn ngân sách vào
các công trình càng nhiều thì người dân không nhận thức được trách nhiệm và vai
trò của mình và lúc này trách nhiệm của chính quyền địa phương sẽ cao hơn. Nếu
tình trạng này kéo dài sẽ làm cho người dân thiếu sự tin tưởng vào các hoạt động và
chất lượng công trình NTM, đặc biệt là không phát huy được vai trò chủ thể trong
xây dựng NTM.
- Nắm bắt thông tin về Chương trình được người dân nắm bắt phần lớn thông
qua các cuộc họp tại địa phương và chủ yếu là các tiêu chí về NTM, qua đó nhận
thấy rằng:
60
+ Đối với các cấp chính quyền: đã phát huy được tính chủ động và tích cực
tổ chức các cuộc họp tại địa phương, phát sóng các nội dung Chương trình và tổ
chức các lớp tuyên truyền tập huấn.
+ Đối với người dân: tiếp thu được nhiều thông tin về Chương trình, nâng
cao nhận thức từ đó tạo tiền đề để người dân tham gia ý kiến để Chương trình phát
huy đúng mục tiêu, phù hợp với địa phương.
Tuy nhiên hạn chế đối với việc truyền đạt thông tin từ phía chính quyền
thông qua các cuộc họp là chính quyền sẽ truyền đạt những điều mà họ sẽ hướng
người dân muốn biết và người dân sẽ tiếp nhận thông tin đó một cách thụ động-
- Bàn bạc, đóng góp ý kiến: người dân được thể hiện vai trò làm chủ thông
qua việc tham dự cuộc họp và được tham gia bàn bạc, cho ý kiến về các vấn đề liên
quan đến xây dựng NTM tại địa phương và chính quyền cũng đã thể hiện được vai
trò quản lý, tạo điều kiện cho người dân tham gia các hoạt động tại cuộc họp.
Tuy nhiên việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại ở mức tham gia cho ý kiến, ngồi
nghe hoặc chỉ cần được thông báo về những vấn đề do tính chất công việc của nhiều
người dân nên phần lớn đối tượng người dân được mời là những cán bộ, công chức
hoặc người sản xuất tiêu biểu tại địa phương nên việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại
ở mức tham gia cho ý kiến, ngồi nghe hoặc chỉ cần được thông báo về những vấn
đề.
- Tham gia trực tiếp bằng những hành động:
+ Người dân đã phát huy được vai trò chủ động thông qua việc tham gia trực
tiếp bằng những hành động thiết thực,trên tinh thần tự nguyện, phù hợp với tình
hình thực tế và đưa ra những quyết định.
+ Đối với chính quyền địa phương đã khuyến khích và tạo điều kiện cho
người dân được lựa chọn tham gia những công việc và hình thức đóng góp phù hợp
với từng hoạt động xây dựng NTM tại địa phương
Tuy nhiên, tại mức độ này, người dân chỉ tham gia thực hiện những công
trình hạ tầng cơ sở phục vụ phát triển sản xuất và nhu cầu thiết yếu, chưa thật sự
quan tâm thực hiện những hoạt động khác tại địa phương.
61
- Công tác giám sát, quản lý, vận hành, bảo dưỡng: ở mức này, chính quyền
địa phương đã phát huy tốt vai trò của mình trong hoạt động kiểm tra, giám sát và
có trách nhiệm trong các hoạt động duy tu, bảo dưỡng công trình.
Tuy nhiên, chính quyền địa phương chưa thật sự tạo cho người dân nhận
thức được vai trò chủ thể để từ đó phát huy được tính chủ động và tăng trách nhiệm
trong việc kiểm tra, giám sát, vận hành các công trình và duy tu, bảo dưỡng các
công trình sau khi đưa vào hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của gười dân tại địa
phương.
62
CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP
4.1 Kết luận
Chương trình MTQG xây dựng NTM là Chương trình có mục tiêu toàn diện,
bao gồm tổng hợp các chương trình, mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân tại vùng nông thôn.
Chương trình được triển khai trên toàn quốc và đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ
của chính quyền, đoàn thể các cấp và sự ủng hộ của người dân của các địa phương,
bên cạnh đó đã huy động nguồn tài chính lớn cho sự phát triển nông thôn.
Vị trí quan trọng của người dân trong xây dựng nông thôn mới thể hiện ở chỗ
người dân chính là chủ thể tham gia xây dựng Chương trình bằng những hành động
cụ thể từ công tác lập quy hoạch, đề án đến tham gia trực tiếp các kế hoạch phát
triển sản xuất và cuối cùng là những hành động thiết thực để góp phần xây dựng,
giữ gìn và sử dụng các công trình tại địa phương theo đúng mục đích, nhu cầu; Nhà
nước và các đơn vị, tổ chức có liên quan trong Chương trình đóng vai trò hỗ trợ để
định hướng và thúc đẩy nhanh tiến trình hoàn thành. Bên cạnh đó, nguồn lực nhà
nước rất hạn hẹp trong khi đó nhu cầu đầu tư để phát triển toàn diện vùng nông thôn
rất lớn vì vậy, cần phải nâng cao vai trò của người dân để tận dụng nguồn lực dồi
dào từ người dân đóng góp thực hiện và đảm bảo đạt mục đích cuối cùng đề ra của
Chương trình.
Thực tế tình hình xây dựng NTM tại các địa phương trên cả nước cho thấy
nơi nào mà chính quyền huy động và hỗ trợ để người dân phát huy được sự chủ
động, sáng tạo trong việc thực hiện các tiêu chí thì nơi đó NTM sớm hoàn thành và
các nội dung đầu tư được đưa vào sử dụng đạt hiệu quả cao vì phù hợp với nhu cầu,
nguyện vọng của người dân.
Chương trình đang được triển khai rất hiệu quả tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đã mang lại được nhiều kết quả như: giúp hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển
mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt vùng nông thôn, điều kiện sống cả về vật chất và tinh
63
thần của số lượng lớn dân cư nông thôn được nâng cao rõ rệt; sản xuất nông nghiệp
hàng hóa được coi trọng và có chuyển biến góp phần tích cực nâng cao thu nhập của
dân cư nông thôn tại các xã xây dựng NTM. Tuy nhiên vai trò chủ thể của người
dân vẫn chưa được phát huy tối đa trong thực hiện, mức độ tham gia của người dân
theo thang đo “biết, bàn, làm, kiểm tra” có chiều hướng giảm dần.
- Giai đoạn đầu tiên trong đánh giá là việc nắm thông tin. Qua các cuộc họp,
công tác tuyên truyền và tập huấn của các cấp chính quyền rất tốt nên khi nhắc tới
NTM thì ai cũng đều được nghe. Tuy nhiên, khi đi sâu vào các nội dung của
Chương trình thì số người biết nội dung của Chương trình MTQG xây dựng NTM
giảm đi nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao và ở dạng những thông tin do chính quyền địa
phương cung cấp.
- Tiếp theo là tham gia ở mức bàn bạc, người dân đóng góp ý kiến. Mặc dù
người dân biết họ có quyền đóng góp ý kiến vào Chương trình xây dựng NTM tuy
nhiên việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại ở mức tham gia cho ý kiến, ngồi nghe hoặc
chỉ cần được thông báo về những vấn đề, còn việc được quyền tham gia quyết định
các vấn đề chiếm tỷ lệ rất thấp vì phần lớn đối tượng mời là những cán bộ, công
chức hoặc người sản xuất và họ được cử đi và cho rằng việc bàn bạc, đóng góp là
nhiệm vụ của chính quyền.
- Đối với việc tham gia trực tiếp vào Chương trình thì người dân không được
tham gia quyết định về mức và hình thức đóng góp. Tuy nhiên, chính quyền không
áp đặt mức và hình thức đóng góp mà chỉ vận động, việc đóng góp của người dân
đều trên tinh thần tự nguyện và bằng hình thức là hiến đất và ngày công lao động.
Tuy nhiên việc thực hiện của người dân đều nhằm vào những công trình hạ tằng
thiết yếu.
- Ở mức cuối cùng là sự tham gia của người dân vào công tác giám sát, quản
lý, vận hành, bảo dưỡng những công trình tại địa phương thì người dân chưa thật sự
phát huy tối đa trong vai trò chủ thể của Chương trình. Việc giám sát các công trình
đều được thực hiện bới chính quyền địa phương và người dân chỉ được thực hiện
các hoạt động này thông qua Ban giám sát cộng đồng, các tổ. Tuy nhiên các Ban
64
này hầu hết đều là kiêm nhiệm, không có chuyên môn vì vậy không thể phát huy
được hết chức năng trong việc thực hiện các hoạt động này tại địa phương.
Nguyên nhân làm ảnh hưởng đến mức độ việc người dân tham gia của người
xuất phát từ phía các cấp chính quyền chưa tạo kiện, thu hút tối đa sự tham gia của
nguời dân, ý thức được vai trò chính của bản thân và từ phía bản thân của người
dân, họ chưa nhận thức và ý thức được vai trò, tầm quan trọng của sự tham gia, vãn
còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước.
4.2 Giải pháp
Chỉ khi người dân phát huy được tính chủ động tham gia vào những hoạt
động xây dựng NTM thì mới bảo đảm mang lại sự thành công của Chương trình. Để
làm được điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền ở địa phương phải thay đổi bằng
những hành động cụ thể để từ đó nhận thức người dân được nâng cao và phát huy
được vai trò của người dân “biết, bàn, làm, kiểm tra” trong quá trình xây dựng
NTM. Vì vậy, NNC đưa ra một số giải pháp sau:
- Chính quyền các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để
người dân hiểu được những nội dung của Chương trình, nâng cao nhận thức để
người dân hiểu được vai trò chủ thể trong mọi hoạt động và là đối tượng sau cùng
được hưởng những thành quả trong xây dựng NTM; trong đó, mọi hoạt động xây
dựng NTM thì nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ một phần kinh phí, kỹ thuật, ... còn
vai trò chính vần là người dân và đối tượng nhắm đến sau cùng là người dân được
hưởng thụ những thành quả, hỗ trợ đầu tư từ Chương trình, mục đích của Chương
trình là phát triển toàn diện vùng nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững nhằm cải
thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân. Khi người dân hiểu thấu đáo vấn
đề này, sẽ không còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại.
- Chính quyền địa phương cần khơi dậy và tạo mọi điều kiện để người dân
được phát huy tính chủ động thông qua việc sắp xếp thời gian tổ chức các cuộc họp
tại địa phương phù hợp với tính chất công việc của phần lớn người dân tại xã, để
người dân có thể tham gia. Đồng thời, tại cuộc họp, các cấp chính quyền cần tạo sự
rõ ràng, công khai từ việc lên quy hoạch, kế hoạch và tài chính để người dân mạnh
65
trao đổi, chia sẻ những ý kiến để góp phần hoàn thành các nhiệm vụ trong xây dựng
NTM.
- Tạo điều kiện để người dân tự chủ động trong thực hiện mọi hoạt động
xung quanh các vấn đề liên quan đến chương trình xây dựng NTM ở địa phương.
Khi người dân được tham gia vào các công việc đó, họ sẽ nhận thấy được vai trò
của mình trong các hoạt động và các vấn đề phát sinh liên quan đến lợi ích mà chỉ
có họ mới có khả năng điều chỉnh theo đúng hướng nếu nội dung đó không phù hợp
tại địa phương.
- Tham mưu và trình ban hành các cơ chế, chính sách để tạo động lực và tăng
cường sự tham gia của người dân trong giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng
các công trình giai đoạn thiết kế, thi công và đưa vào sử dụng. Vì trên thực tế nếu
các công trình không được giám sát, quản lý trong việc thiết kế và quá trình thi công
sẽ có thể ảnh hưởng đến chất lượng sau này khi đưa vào hoạt động; đồng thời, trong
quá trình đưa vào sử dụng mà không được bảo dưỡng thì theo thời gian, những công
trình này sẽ bị hư hỏng nặng.
Ngoài những giải pháp đề xuất để cải thiện sự tham gia của người dân theo
bốn mức độ phân tích, NNC còn đề xuất một số giải pháp góp phần tăng cường sự
tham gia của người dân để hoàn thành Chương trình MTQG xây dựng NTM trên
địa bà tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu gồm:
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các huyện, thành phố trong việc
thực hiện; đồng thời gắn trách nhiệm của người đứng đầu các UBND huyện, thành
phố trong việc tham mưu triển khai thực hiện chương trình NTM tại địa phương.
Nếu để xảy ra tình trạng các tiêu chí không hoàn thành theo tiến độ đề ra hoặc giảm
chất lượng các tiêu chí thì người đứng đầu các cơ quan tại địa phương phải chiu
trách nhiệm và phải giải trình với các đơn vị cấp tỉnh. Như vậy mới tạo sự gương
mẫu, xoá đi tư tưởng trông chờ ỷ lại của chính các cấp chính quyền tại huyện, thành
phố và phát huy sự chủ động trong việc lồng ghép các chương trình dự án tại địa
phương để hỗ trợ cho người dân tại các xã phát triển sản xuất.
66
- Tăng cường ứng dụng các tiến bộ về giống, kỹ thuật và tạo mọi điều kiện
để người dân tiếp cận các tiến bộ để áp dụng vào trong phát triển sản xuất nông
nghiệp, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống cho người dân. Chỉ khi ổn định
cuộc sống thì người dân mới yên tâm và góp sức đóng góp vào các hoạt động xây
dựng NTM tại địa phường; phát huy được sự chủ động tham gia vào các hoạt động
nhằm góp phần xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu
quả
4.3 Hạn chế và hướng mở rộng đề tài
Do trong quá trình làm đề tài còn nhiều hạn chế về điều kiện và thời gian nên
các thông tin, dữ liệu để phục vụ viết đề tài được thu thập từ các văn bản, báo cáo
của BCĐ thực hiện Chương trình MTQG tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, BCĐ Trung
ương Chương trình MTQG và thực tế khảo sát tại các huyện, thành phố trên địa bàn
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đề tài không thể tìm hiểu hết sự tham gia của toàn bộ
người dân trên địa bàn 6 huyện, thành phố tham gia Chương trình mà chỉ tìm hiểu
sự tham gia của ngẫu nhiên một số người dân đại diện trên mỗi huyện, thành phố
nên không thể đánh giá hoàn toàn được tình trạng người dân tham gia. Mặt khác, đề
tài chủ yếu nghiên cứu về sự tham gia của người dân, không đánh giá sâu những
nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc tham gia nên phần đề xuất các giải pháp còn
hạn chế, chỉ phản ánh một phần của vấn đề tham gia của gười dân trong xây dựng
NTM.
Từ đề tài này, có thể mở rộng tìm hiểu thêm những đề tài khác để giúp CT
MTQG xây dựng NTM tại địa phương đạt kết quả tốt hơn như: tìm hiểu những yếu
tố tác động đến việc tham gia của người dân để phần kiến nghị thêm chặt chẽ và có
chiều sâu hơn; so sánh sự tham gia của người dân tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và
tỉnh khác để rút ra được những điểm mới và áp dụng vào tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
hoặc tìm hiểu sự tham gia của người dân tại một xã hoặc một địa phương để từ đó
nhân rộng những điều hay và đưa ra giải pháp để khắc phục những điểm còn hạn
chế tại địa phương hoặc áp dụng những điều hay của địa phương được nghiên cứu
67
đề triển khai thực hiện trên những địa phương khác trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu, ...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tiếng Việt
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
05 tháng 8 năm 2008 của BCH TW Đảng Hội nghị lần thứ Bảy BCHTW khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
2. Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
(2015), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 – 2015; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 – 2020 tại
Hội nghị toàn quốc tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM
giai đoạn 2010 – 2015
3. Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng
NTM năm 2018.
4. Bàn Cao Sơn (2016), Sự tham gia của người dân vào XD NTM trường hợp
xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công,
trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), Sổ tay hướng dẫn thực
hiện Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, NXB Lao
động, Hà Nội.
6. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 24/2008 ngày 28 tháng 10 năm 2008 của
Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
7. Đào Duy Ngọc (2015), Sự tham gia của người dân vào XD NTM tại huyện
Xuân Lộc, Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công, trường ĐH Kinh tế TP Hồ
Chí Minh.
8. Đỗ Thị Nhài (2016), Sự tham gia của người dân trong các Chương trình,
dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc – giai đoạn 2 (2010 – 2015) tại xã Do
Nhân, huyện Tân Lạc, tỉnh Hìa Bình, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công, trường ĐH
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
9. Hoàng Bá Thịnh (2016), “ Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc và Việt
Nam”, Tạp chí KHXH Việt Nam, số 7 (104) 2016.
10. Lê Văn An, Ngô Tùng Đức và đtg (2016), “Sổ tay hướng dẫn phát triển
cộng đồng”, NXB Thanh niên.
11. Tổ chức Oxfarm (2012), Báo cáo hội thảo Phát triển kinh tế Nông nghiệp
(ngày 27/3/2012)
12. Tổ chức Oxfam (2012), Tăng cường tiếng nói cộng đồng để lựa chọn
đúng đắn – vấn đề sử dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất ở miền trung Việt
Nam.
13. Phan Kế Vân (2011), Quản lý nhà nước về nông thôn, truy cập ngày
14/12/2017.
14. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2016-2020.
15. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày
05/4/2016 của về việc ban hành Tiêu chí huyện nông thôn mới và Quy hoạch thị xã,
thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
16. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày
16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
17. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày
17/10/2016 của về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 –
2020
18. UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2015), Báo cáo kết quả thực hiện
Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015 và phương
hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 – 2020 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Tài liệu Tiếng Anh
19. André, Pierre (2012), "Citizen Participation", Encyclopedic Dictionary of
Public Administration, www. dictionnaire.enap.ca.
20. Arnstein S. (1969), “A Ladder of Citizen Participation”, JAJP, Vol. 35,
No. 4, pp. 216-224
21. Florin, P. (1990). “An Introduction to Citizen Participation, Voluntary
Organizations, and Community Development: Insights for Empowerment Throught
Research.” In American Journal of Community Psychology.
22. Schafft, K.A and Greenwood, D.J. (2003), “Promises and dilemmas of
participation: action research conference methodology and community
development”, Journal of Community Development Society.
3. Tài liệu báo điện tử
23. Hà Thị Thùy Dương (2016), "Phát huy vai trò chủ thể của người dân
trong xây dựng NTM", truy cập ngày 26/11/2017 tại địa chỉ:
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-
moi/2016/37485/Phat-huy-vai-tro-chu-the-cua-nguoi-dan-trong-xay-dung.aspx
24. Ngô Thị Phương Liên (2015), "Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” của
Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam", truy cập ngày 14/12/2017 tại địa chỉ :
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1037-phong-trao-
%E2%80%9Cmoi-lang-mot-san-pham%E2%80%9D-cua-nhat-ban-kinh-nghiem-
voi-viet-nam.html
25. Nguyễn Thị Bích Phương, Đặng Thị Thanh Thúy, "Huy động sự tham
gia và giám sát của cộng đồng trong xây dựng NTM của Hàn Quốc – Bài học chính
sách cho Việt Nam", truy cập vào ngày 26/12/2017 tại địa chỉ:
http://tapchimoitruong.vn/pages/article.aspx?item=Huy-
%C4%91%E1%BB%99ng-s%E1%BB%B1-tham-gia-v%C3%A0-gi%C3%A1m-
s%C3%A1t-c%E1%BB%A7a-c%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BB%93ng-trong-
x%C3%A2y-d%E1%BB%B1ng-n%C3%B4ng-th%C3%B4n-m%E1%BB%9Bi-
c%E1%BB%A7a-H%C3%A0n-Qu%E1%BB%91c---B%C3%A0i-
h%E1%BB%8Dc-ch%C3%ADnh-s%C3%A1ch-cho-Vi%E1%BB%87t-Nam-
42112
26. Quyền Đình Hà (2017), “Hội thảo Huy động, quản lý và sử dụng nguồn
lực trong xây dựng NTM” diễn ra ngày 7/5/2017 tại Hà Nội, truy cập ngày
26/12/2017 tại địa chỉ:
http://baodautu.vn/huy-dong-nguon-luc-xay-dung-nong-thon-moi-bai-hoc-tu-
han-quoc-d63145.html
27. Báo Điện tử của Bộ xây dựng (2017), “Xây dựng nông thôn mới – Kinh
nghiệm thế giới”, truy cập ngày 16/8/2018 tại địa chỉ:
http://www.baoxaydung.com.vn/news/vn/the-gioi/xay-dung-nong-thon-moi-
kinh-nghiem-the-gioi.html
28. Thư viện Trường đại học An Giang (2016), Kỷ yếu hội thảo “Tăng
cường sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở An
Giang”, truy cập ngày 16/8/2018 tại địa chỉ:
http://lib.agu.edu.vn/thong-tin-chuyen-de/3804-chuy%C3%AAn-
%C4%91%E1%BB%81-%E2%80%9Cs%E1%BB%B1-tham-gia-
c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-d%C3%A2n-v%C3%A0o-
qu%C3%A1-tr%C3%ACnh-x%C3%A2y-d%E1%BB%B1ng-n%C3%B4ng-
th%C3%B4n-m%E1%BB%9Bi-t%E1%BA%A1i-an-giang%E2%80%9D
PHỤ LỤC
PHIẾU KHẢO SÁT
Kính chào ông/bà!
Tôi tên là Vũ Ngọc Đăng, là học viên Cao học ngành Quản lý Công, Trường Đại
học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Tôi thực hiện cuộc khảo sát này với mục đích
phục vụ cho đề tài “Đánh giá sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Rất mong nhận được sự giúp đỡ của
ông/bà. Tôi đảm bảo thông tin ghi nhận từ cuộc khảo sát này sẽ được giữ bí mật
nghiêm ngặt. Các dữ liệu thu thập được chỉ dùng mục đích nghiên cứu khoa học.
Hy vọng sẽ được sự giúp đỡ của ông/bà thông qua việc trả lời các câu hỏi sau đây:
I. Thông tin chung
Ông/bà thuộc huyện, thành phố: ……………………………
Xã: …………………………………………………………...
Khoảng thời gian sinh sống tại địa phương: ………………..
II. Tiếp cận thông tin về Chương trình NTM
Câu 1: Ông/bà có biết thông tin về Chương trình MTQG xây dựng NTM?
a. Có b. Không
Câu 2: Ông/bà biết thông tin về NTM bằng cách nào?
a. Đọc/nghe trên báo, đài, tivi.
b. Được tuyên truyền, tập huấn.
c. Được mời tham gia các cuộc họp tại địa phương về vấn đề liên quan NTM.
d. Khác: ……………………….
Câu 3: Ông/bà có biết những nội dung về Chương trình NTM?
STT Nội dung Có Không
1 Các nội dung về CT xây dựng NTM
2 Các tiêu chí trong xây dựng NTM
3 Thời gian bắt đầu CT NTM
4 Các chính sách hỗ trợ xây dựng NTM
Câu 4: Ông/bà có biết về nội dung đầu tư Chương trình NTM nào tại địa
phương đang sống? (các nội dung đầu tư thuộc 19 tiêu chí xây dựng NTM)
a. Có b. Không
III. Tham gia bàn về xây dựng NTM
Câu 5: Theo ông/bà, người dân có quyền đóng góp ý kiến vào xây dựng
NTM không?
a. Có, vì: ………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………...
b. Không, vì: …………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
Câu 6: Chính quyền địa phương nơi ông/bà đang sinh sống có mời người
dân tham gia các cuộc họp tại địa phương về vấn đề NTM?
a. Thường xuyên b. Thỉnh thoảng c. Chưa được mời
Câu 7: Tại địa phương, những nội dung liên quan đến NTM có được bàn
bạc, thảo luận không?
STT Nội dung Có Không
1 Công tác lập quy hoạch xây dựng NTM
2 Công tác lập đề án xây dựng NTM
Nội dung sử dụng và hình thức đóng góp của 3 người dân
4 Nguồn vốn và chi phí của các công trình NTM
Lựa chọn những việc nên làm trước trong xây 5 dựng NTM
Câu 8: Ông/bà đã từng tham gia hoạt động góp ý vào công tác lập quy hoạch
và đề án xây dựng NTM tại địa phương chưa?
a. Đã từng tham gia.
b. Chưa tham gia (chuyển sang câu 10).
Câu 9: Nguyên nhân ông/bà tham gia vào vấn đề này?
a. Vì được cử đi.
b. Quan tâm đến các vấn đề.
c. Khác: …………………………………..
Câu 10: Nếu chưa tham gia, nguyên nhân chưa tham gia là gì?
a. Không quan tâm.
b. Không được mời.
c. Không có thời gian tham dự.
d. Khác
Câu 11: Theo ông/bà để lập được kế hoạch cho các hoạt động xây dựng
NTM tại địa phương theo từng năm thì yếu tố quyết định là gì?
a. Ý kiến của người dân.
b. Ý kiến của chính quyền xã.
c. Ý kiến của chính quyền huyện, tỉnh.
d. Ý kiến của chính quyền trung ương.
Câu 12: Theo ông/bà, người dân cần được tham gia ở mức độ nào trong các
vấn đề xây dựng NTM?
a. Ngồi lắng nghe thảo luận các vấn đề.
b. Đóng góp ý kiến.
c. Ra quyết định.
d. Chỉ cần được thông báo.
e. Không cần phải tham gia.
IV. Tham gia trực tiếp vào xây dựng NTM
Câu 13: Ông/bà đã tham gia đóng góp vào các công trình tại địa phương?
a. Có tham gia b. Chưa tham gia
Câu 14: Các công trình ở địa phương mà ông/bà đã tham gia đóng góp?
a. Đường làng, ngõ xóm
b. Kênh mương nội đồng
c. Nhà văn hóa, sân chơi
d. Khác: ………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………..
Câu 15: Hình thức đóng góp mà ông/bà đã thực hiện?
a. Ngày công, sức lao động
b. Tiền bạc
c. Hiện vật
d. Khác: ………………………………………………………………………
Câu 16: Theo ông/bà chủ trương và hình thức đóng góp ở địa phương được
quyết định như thế nào?
a. Người dân được tham gia bàn bạc và quyết định
b. Người dân được tham gia bàn bạc, việc quyết định do chính quyền địa
phương
c. Người dân không được tham gia bàn bạc, việc quyết định do chính quyền
địa phương
d. Không rõ
Câu 17: Ông/bà nhận xét thế nào về mức đóng góp so với khả năng kinh tế
gia đình?
a. Vượt quá khả năng có thể đóng góp của gia đình
b. Cao nhưng vẫn trong khả năng đóng góp của gia đình
c. Phù hợp
d. Khác
V. Giám sát, quản lý, vận hành, bảo dưỡng
Câu 18: Ông/bà đã từng tham gia vào quá trình giám sát các công trình xây
dựng NTM trong thời gian vừa qua tại địa phương?
a. Đã tham gia
b. Chưa tham gia
Nguyên nhân …………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 19: Chính quyền địa phương có tạo điều kiện cho người dân tham gia
giám sát, kiểm tra không?
a. Người dân được thực hiện thông qua Ban giám sát cộng đồng
b. Người dân được trực tiếp thực hiện thông qua phản ánh, kiến nghị
c. Không tạo điều kiện
d. Không rõ
Câu 20: Theo ông/bà cách giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng nào là có
hiệu quả nhất?
a. Thông qua chính quyền và các đơn vị có chuyên môn
b. Người dân tham gia trực tiếp
c. Không rõ
Câu 21: Mức độ đánh giá của ông/bà về kết quả chương trình xây dựng
NTM đã mang lại? (Ông/bà đánh dấu X vào cột mức độ đánh giá mình chọn hoặc
ghi thêm nội dung vào cột ý kiến khác)
Mức độ đánh giá
STT Nội dung Không Ý kiến Rất tốt Tốt đổi khác
1 Giao thông
2 Thủy lợi
3 Điện
4 Trường học
5 Cơ sở vật chất, văn hóa
6 Chợ nông thôn
7 Bưu điện
8 Nhà ở dân cư
9 Thu nhập
10 Hộ nghèo
11 Cơ cấu lao động
12 Hình thức tổ chức sản xuất
13 Giáo dục
14 Y tế
15 Môi trường
Câu 22: Theo ông/bà, cần làm gì để tăng cường sự tham gia của người dân
vào xây dựng NTM?
a. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền các chính sách về NTM để
người dân tham gia
b. Cho người dân bàn bạc, đưa ra quyết định, tiếp thu và tôn trọng ý kiến của
người dân
c. Trao quyền việc thực hiện cho người dân
d. Tạo điều kiện và thúc đẩy người dân phát huy tính chủ động trong giám
sát các hoạt động xây dựng NTM
e. Ý kiến khác: ………………………………………………………………
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà