BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

--------o0o---------

VŨ NGỌC ĐĂNG

SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

--------o0o---------

VŨ NGỌC ĐĂNG

SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số:

8340403

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN HỮU DŨNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do cá nhân tôi khảo sát, tham khảo

tài liệu và thực hiện. Mọi trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn

nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của cá nhân. Luận văn

được thực hiện trên cơ sở tổng hợp những kiến thức và khảo sát thực tế mà không

nhất thiết phản ánh quan điểm của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 6 năm 2018

Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Đăng

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

TỪ VIẾT TẮT

DANH SÁCH CÁC BẢNG

DANH SÁCH CÁC HÌNH

TÓM TẮT ĐỀ TÀI

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................... 1

1.1 Bối cảnh đề tài ................................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 3

1.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 3

1.4 Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu .................................................. 4

1.5 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4

1.6 Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 4

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TẠI CÁC XÃ NTM ........................................... 7

2.1 Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 7

2.1.1 Lược sử vấn đề ............................................................................................ 7

2.1.2 Lược sử vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM ............................................................................................................................ 10

2.1.2.1 Khái niệm nông dân ............................................................................ 10

2.1.2.2 Khái niệm Nông thôn mới .................................................................. 11

2.1.2.3 Vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM ..... 12

2.1.3 Lý thuyết về sự tham gia của người dân ................................................... 14

2.1.4 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM ................... 18

2.2 Kinh nghiệm phát triển nông thôn với hoạt động của người dân tham gia ở một số nước trên thế giới ....................................................................................... 19

2.2.1 Hoạt động của người dân tham gia ở Hàn Quốc ....................................... 19

2.2.2 Hoạt động của người dân tham gia ở Nhật Bản ........................................ 21

CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NTM TẠI TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU .............. 25

3.1 Tổng quan về Chương trình MTQG xây dựng NTM ...................................... 25

3.1.1 Mục tiêu ..................................................................................................... 25

3.1.2 Các chính sách cho xây dựng NTM .......................................................... 26

3.1.2.1 Nguyên tắc xây dựng NTM ................................................................ 26

3.1.2.2 Nội dung xây dựng NTM .................................................................... 26

3.1.2.3 Tiêu chí đạt NTM ................................................................................ 27

3.1.2.4 Nguồn kinh phí cho xây dựng NTM ................................................... 28

3.1.2.5 Chính sách hỗ trợ xây dựng NTM ...................................................... 29

3.2 Tình hình thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM trên cả nước ........ 29

3.2.1 Tình hình thực hiện từ năm 2011 – 2015 .................................................. 29

3.2.2 Tình hình thực hiện từ năm 2016 - 2017 ................................................... 31

3.3 Kết quả triển khai Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ......................................................................................................................... 32

3.4 Chọn mẫu nghiên cứu ...................................................................................... 35

3.5 Thực trạng người dân tham gia trong xây dựng NTM .................................... 37

3.5.1 Người dân nắm bắt thông tin về Chương trình ......................................... 37

3.5.2 Người dân tham gia ý kiến ........................................................................ 42

3.5.3 Người dân tham gia thực hiện ................................................................... 51

3.5.4 Người dân tham gia giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng ............... 56

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP ................................................................ 62

4.1 Kết luận ............................................................................................................ 62

4.2 Giải pháp .......................................................................................................... 64

4.3 Hạn chế và hướng mở rộng đề tài .................................................................... 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

TỪ VIẾT TẮT

ANTT An ninh trật tự 1

BCĐ Ban Chỉ đạo 2

LĐNT Lao động nông thôn 3

MTQG Mục tiêu quốc gia 4

NTM Nông thôn mới 5

NSĐP Ngân sách địa phương 6

NSNN Ngân sách nhà nước 7

NSTW Ngân sách Trung ương 8

TCSX Tổ chức sản xuất 9

DANH SÁCH CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1 Số liệu mẫu điều tra ................................................................................... 36

Bảng 3.2 Tỷ lệ người dân biết về các nội dung đầu tư theo từng địa phương .......... 41

Bảng 3.3 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc công khai theo từng địa phương ................................................................................................................. 46

Bảng 3.4 Tổng hợp ý kiến về yếu tố quyết định việc lập kế hoạch tại địa phương theo từng năm ............................................................................................................ 49

Bảng 3.5 Mức độ tham gia đóng góp của người dân vào công trình ........................ 52

DANH SÁCH CÁC HÌNH

Trang

Hình 2.1 Thang đo mức tham gia của người dân ...................................................... 15

Hình 2.2 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM .................... 18

Hình 3.1 Tỷ lệ người dân biết các thông tin về Chương trình NTM ........................ 38

Hình 3.2 Tỷ lệ nguồn tiếp cận thông tin của người dân về NTM ............................. 39

Hình 3.3 Tỷ lệ người dân được mời tham gia các cuộc họp ..................................... 44

Hình 3.4 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc ............................. 45

Hình 3.5 Các yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch (Tỷ lệ khảo sát %) .............. 48

Hình 3.6 Tỷ lệ mức độ người dân cần được tham gia trong xây dựng NTM ........... 50

Hình 3.7 Tỷ lệ các công trình người dân tham gia .................................................... 53

Hình 3.8 Tỷ lệ hình thức đóng góp của người dân ................................................... 54

Hình 3.9 Tỷ lệ người dân tham gia vào quá trình thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM ......................................................................................... 56

Hình 3.10 Nguyên nhân người dân không tham gia thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM ................................................................................ 57

Hình 3.11 Hình thức chính quyền địa phương tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, kiểm tra ...................................................................................................... 58

Hình 3.12 Tỷ lệ nhận định của người dân về hình thức thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM hiệu quả ................................................................. 59

TÓM TẮT ĐỀ TÀI

Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên

suốt của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; là chương trình khung, tổng

thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu

quốc gia. Trong đó mục tiêu cao đẹp, ý nghĩa và trọng tâm nhất chính là không

ngừng nâng cao và cải thiện đời sống, từng bước tăng thu nhập cho người dân tại

khu vực nông thôn thông qua phát triển sản xuất. Chương trình xây dựng NTM thực

chất là do dân và vì dân, người dân là trung tâm của mọi sự đầu tư và phát triển;

trong đó người dân được lựa chọn, chủ động đóng góp công sức thực hiện và trực

tiếp hưởng lợi. Chương trình xây dựng nông thôn mới thực sự là một Chương trình

có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế - chính trị - xã hội vì nó mang lại lợi ích thiết thực,

cao đẹp cho cư dân nông thôn.

Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, sau 7 năm (2011-2017) thực hiện Chương trình

mục tiêu quốc gia MTQG xây dựng nông thôn mới, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của

cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của các sở ngành, địa phương, và đã tạo được sự

đồng thuận của người dân trong toàn tỉnh. Chương trình gặt hái được nhiều kết quả

đáng khích lệ, cơ sở hạ tầng vùng nông thôn ngày một đổi mới, hiện đại, đời sống

vật chất và chất tinh thần từng bước được cải thiện. Mặc dù vậy, người dân chưa

thực sự chủ động phát huy vai trò làm chủ của mình như mục tiêu ban đầu của

Chương trình đề ra.

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số kiến nghị: (1) định hướng và

tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức, khơi dậy tinh

thần tự lực, chủ động cho người dân; (2) tạo điều kiện để người dân phát huy tính

chủ động, tự lực trong các hoạt động liên quan Chương trình MTQG xây dựng

NTM ở địa phương; (3) tham mưu các cơ chế, chính sách và cụ thể hoá các chương

trình, nghị quyết của tỉnh để tạo động lực và tăng cường sự tham gia hoạt động của

người dân; (4) tạo sự rõ ràng, công khai và phát huy tính dân chủ các hoạt động

NTM từ việc lên quy hoạch, kế hoạch và tài chính; (5) gắn trách nhiệm của người

đứng đầu các địa phương trong việc tham mưu triển khai thực hiện chương trình đạt

hiệu quả; (6) tăng cường ứng dụng các tiến bộ về giống, kỹ thuật để phát triển sản

xuất nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân.

1

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Bối cảnh đề tài

“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên

suốt của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, là sự nghiệp của toàn thể

nhân dân và là vấn đề chiến lược trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thông qua việc

phát triển sản xuất nông nghiệp để từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc

sống cũng như cơ sở hạ tầng vùng nông thôn. Để quán triệt Nghị quyết số 26/NQ-

TW, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP về

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;

đồng thời ban hành quyết định phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới với 19 tiêu chí trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội và đời sống tại khu

vực nông thôn nhằm mục đích cải thiện, chăm lo đời sống của người dân, phát triển

kinh tế ngày càng bền vững.

Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình trọng tâm, xuyên

suốt của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; là chương trình khung, tổng

thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu

quốc gia. Trong đó mục tiêu cao đẹp, ý nghĩa và trọng tâm nhất chính là không

ngừng nâng cao và cải thiện đời sống, từng bước tăng thu nhập cho người dân tại

khu vực nông thôn thông qua phát triển sản xuất. Chương trình xây dựng NTM thực

chất là do dân và vì dân, người dân là trung tâm của mọi sự đầu tư và phát triển;

trong đó người dân được lựa chọn, chủ động đóng góp công sức thực hiện và trực

tiếp hưởng lợi. Chương trình xây dựng nông thôn mới thực sự là một Chương trình

có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế - chính trị - xã hội vì nó mang lại lợi ích thiết thực,

cao đẹp cho cư dân nông thôn.

2

Tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, sau 7 năm (2011-2017) thực hiện Chương trình

MTQG xây dựng NTM, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ

lực của các sở ngành, địa phương, và đã tạo được sự đồng thuận của người dân

trong toàn tỉnh. Chương trình đã gặt hái được nhiều kết quả đáng khích lệ như: kết

cấu kinh tế hạ tầng xã hội ở nông thôn đã có sự chuyển biến rõ nét, ngày một đổi

mới, hiện đại đặc biệt là giao thông, trường học, cơ sở vật chất văn hoá đã góp phần

thay đổi rõ nét vùng nông thôn, góp phần phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho

người dân nhờ đó đời sống vật chất và chất tinh thần từng bước được cải thiện.

Tính đến cuối năm 2017, toàn tỉnh có 20/45 xã được UBND tỉnh công nhận

đạt chuẩn nông thôn mới và 03 xã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí; Thu nhập bình quân đạt

khoảng 39,9 triệu đồng/người/năm, tăng khoảng 25,68 triệu đồng so với trước khi

xây dựng NTM; Tổng số tiêu chí đạt được của 45 xã là 633 tiêu chí, trung bình đạt

14 tiêu chí/xã. Hiện nay, có 41/45 xã lập và được phê duyệt quy hoạch xây dựng

NTM, đạt tỷ lệ 82%; Về hạ tầng kinh tế - xã hội: 24/45 xã đạt tiêu chí Giao thông

(tỷ lệ 53,3%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thủy lợi (tỷ lệ 86%); 31/45 xã đạt tiêu chí Điện

nông thôn và tiêu chí Trường học (tỷ lệ 68,8%); 27/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở vật chất

văn hóa (tỷ lệ 60%); 36/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (tỷ

lệ 80%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thông tin truyền thông (tỷ lệ 86,6%) và 36/45 xã đạt

tiêu chí về nhà ở, chiếm tỷ lệ 80%.(Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây

dựng NTM, 2018)

Bên cạnh những thành công mang lại từ Chương trình, xây dựng NTM giai

đoạn 2016-2020 vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là tăng thu nhập cho

người dân nông thôn thông qua hình thức phát triển sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh

đó, giá sản phẩm các mặt hàng nông sản không ổn định gây bất lợi cho người nông

dân, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ,

chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất, người dân gặp

nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để phát triển sản xuất.

Trong bối cảnh cả hệ thống chính trị và toàn dân chung sức đồng lòng để

thực hiện các mục tiêu của Chương trình xây dựng nông thôn mới, người dân làm

3

nòng cốt là “Chủ thể” của Chương trình, việc đánh giá hoạt động tham gia của

người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM là vô cùng cấp thiết và có ý

nghĩa quan trọng. Bởi vì, thông qua việc đánh giá giúp điều chỉnh những mặt chưa

được và phát huy những mặt được từ những cơ chế, chính sách của nhà nước,

những hoạt động ảnh hưởng đến đời sống của người dân; nhất là người dân tại xã

xây dựng nông thôn mới của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Để hiểu được vấn đề này, thì

ta sẽ tìm hiểu trong đề tài “Đánh giá sự tham gia của người dân trong xây dựng

nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Thông qua lược sử các vấn đề nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của

người dân vào các chương trình và các kết quả đạt được từ Chương trình MTQG

xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong giai đoạn 2011 – 2017, NNC lựa

chọn tìm hiểu đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu:

- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò tham gia của người

dân trong xây dựng NTM.

- Đề xuất khung phân tích các mức độ tham gia của người dân tại các xã xây

dựng NTM và đánh giá sự tham gia của người dân tại các huyện, thành phố xây

dựng NTM tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo từng khía cạnh và mức độ đề xuất.

- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng sự tham gia của người dân trong xây

dựng NTM tại các xã.

- Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của người dân và chính quyền

địa phương trong hoạt động xây dựng nông thôn mới.

- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp chính

quyền và tăng tính chủ động cũng như phát huy vai trò chủ thể của người dân trong

các hoạt động xây dựng NTM tại địa phương.

1.3 Câu hỏi nghiên cứu

- Thực trạng về hoạt động tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu?

4

- Làm thế nào để điều chỉnh và cải thiện hoạt động tham gia xây dựng NTM

của người dân tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ?

1.4 Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Sự tham gia của người dân tại các xã NTM tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu.

- Phạm vi nghiên cứu: Được tiến hành trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

từ khi thực hiện Chương trình đến nay. Bên cạnh đó, các thông tin, dữ liệu còn được

thu thập từ BCĐ thực hiện Chương trình MTQG tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và BCĐ

Trung ương Chương trình MTQG.

1.5 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp điều tra

bằng việc phát phiếu câu hỏi cho các hộ dân cùng với phân tích, so sánh và thống kê

mô tả sẽ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi:

Câu hỏi 1: Thông qua lý thuyết về sự tham gia của người dân và các nội

dung về vai trò của người dân trong xây dựng NTM, đề xuất khung phân tích các

mức độ tham gia của người dân. Bên cạnh đó, để đánh giá sự tham gia của người

dân trong xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tác giả thực hiện khảo sát tại

địa phương bằng cách thu thập ý kiến của người dân tại một số xã xây dựng NTM

thông qua bảng hỏi. Qua đó, tiến hành đối chiếu so sánh các quy định để xác định

những vấn đề còn tồn tại cũng như mặt tích cực trong quá trình xây dựng NTM tại

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Câu hỏi 2: Thông qua các phân tích mức độ tham gia của người dân được

khảo sát lấy ý kiến, các quy định, kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông

thôn, đề tài sẽ đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cải thiện sự tham gia của người

dân trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh.

1.6 Cấu trúc của luận văn

Nội dung của luận văn được chia thành 4 chương cụ thể như sau:

Chương 1: Mở đầu.

5

Phần này tác giả nêu lên lý do chọn đề tài, đưa ra mục tiêu nghiên cứu, câu

hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Trình bày phương pháp nghiên

cứu, làm rõ ý nghĩa thực hiện của đề tài và nêu lên kết cấu của luận văn.

Chương trình MTQG xây dựng NTM là một chương trình trọng tâm, xuyên

suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Nông nghiệp, nông dân,

nông thôn” và là chương trình khung, tổng thể phát triển nông thôn. Tuy nhiên, bên

cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải có những

giải pháp cụ thể để mang lại hiệu và thành công cho Chuowmg trình tại tỉnh Bà Rịa

– Vũng Tàu. Vì vậy, NNC lựa chọn đề tài “Đánh giá sự tham gia của người dân

trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Đồng

thời, thông qua các phương pháp và phạm vi, đối tượng để làm rõ các vấn đề và đề

xuất các giải pháp để góp phần đạt đến mục tiêu sau cùng của đề tài là giúp chương

trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả

Chương 2: Tổng quan cơ sở lý luận và kinh nghiệm sự tham gia của người

dân tại các xã NTM. Phần này trình bày các khái niệm, nghiên cứu về sự tham gia

của người dân trong các chương trình và kinh nghiệm phát triển nông thôn với sự

tham gia của người dân ở một số nước trên thế giới.

Bằng việc nhận định khái niệm các vấn đề liên quan và thông qua lược sử

vấn đề nghiên cứu của các đơn vị, tỏ chức và cá nhân về sự tham gia của người dân

trong các Chương trình, dự án, NNC đưa ra các mức độ tham gia của người dân và

đề xuất khung phân tích nhằm đánh giá thực trạng sự tham gia khác nhau của người

dân qua các mức độ. Đồng thời, khái quát tình hình một số nước trên thế giới trong

việc quản lý, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cũng như tạo điều kiện cho người dân

tham gia phát huy tính chủ động trong mọi hoạt động liên quan đến phát triển cộng

đồng chung để qua đó rút kinh nghiệm và vận dung những kết quả đạt được từ

những nước trên thế giới vào thực tiễn cả nước nói chung và tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu nói riêng.

Chương 3: Phân tích thực trạng sự tham gia của người dân trong xây dựng

NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

6

Phần này, giới thiệu tổng quan các vấn đề liên quan đến NTM từ mục tiêu,

nguyên tắc và nội dung xây dựng đến các tiêu chí, nguồn kinh phí cũng như các

chính sách hỗ trợ triển khai thực hiện của Chương trình. Trình bày những kết quả

đạt được của chương trình theo giai đoạn và đến thời điểm hiện tại trên cả nước để

qua đó, tổng quát hơn về Chương trình và những thành công từ Chương trình

MTQG xây dựng NTM đã mang lại kết quả giúp cho người dân trên cả nước.

Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp thống kê và phân tích để xác định tỷ

lệ mức độ tham gia của người dân vào chương trình xây dựng NTM tại địa phương.

NNC đưa ra mẫu phiếu khảo sát và lựa chọn ngẫu nhiên các hộ dân đang sinh sống

tại các xã xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để khảo sát lấy ý

kiến trực tiếp của các hộ dân. Qua việc tổng hợp các phiếu khảo sát, NNC phân tích

sự tham gia của người dân ở các mức độ, gồm:

Mức độ 1: Người dân nắm bắt thông tin về Chương trình.

Mức độ 2: Người dân tham gia ý kiến.

Mức độ 3: Người dân tham gia thực hiện

Mức độ 4: Người dân tham gia giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng các

công trình tại xã (đây là mức độ tham gia cao nhất của người dân).

Từ đó, đánh giá được sự tham gia của người dân theo từng mức độ và đề

xuất những khuyến nghị mang lại tính hieeujq ủa cho Chương trình.

Chương 4: Kết luận, giải pháp.

Trên cơ sở tổng hợp các kết quả vấn đề nghiên cứu, NNC đưa ra những nội

dung đạt kết quả tốt cần tiếp tục phát huy và đế xuất những giải pháp giúp các cấp

chính quyền, cũng như người dân phát huy được vai trò, nhiệm vụ và tính chủ động

trong các hoạt động xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

7

CHƯƠNG 2

TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM SỰ THAM GIA CỦA

NGƯỜI DÂN TẠI CÁC XÃ NTM

2.1 Cơ sở lý luận

2.1.1 Lược sử vấn đề

Qua 07 năm thực hiện, toàn Đảng, toàn dân cả nước đã chung tay xây dựng

và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng vướng phải

những tồn tại, khó khăn như: sản xuất thiếu tính liên kết bền vững, nhiều nơi chưa

quan tâm tới phát triển hoạt động sản xuất gắn với cơ cấu ngành trong lĩnh vực

nông nghiệp; số ít cán bộ và người dân chưa hiểu đúng về chương trình cũng như

người dân chưa phát huy vai trò chủ thể trong xây dựng NTM tại các xã.

Với mục tiêu cuối cùng của Chương trình xây dựng NTM là nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho người dân khu vực nông thôn bằng những việc cụ thể

trong xây dựng NTM theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg như: có kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất

hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển

nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản

sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ

vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để đạt được mục tiêu cuối cùng thì sự tham gia của người dân đóng vai trò

quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực. Để phát huy được vai trò của người dân trong

tham gia phát triển kinh tế xã hội của đất nước thời kỳ hội nhập, đã có nhiều cuộc

nghiên cứu diễn ra xoay quanh vấn đề tham gia hoạt động của người dân như:

- Trong lĩnh vực nông nghiệp, Ngân hàng thế giới, Bộ thủy sản, Trung tâm

phát triển và hội nhập, Viện kinh tế Việt Nam (2006) thực hiện một nghiên cứu về

sự tham gia của cộng đồng ngư dân nghèo để xác định nguồn lực và nhu cầu đầu tư

phát triển thủy sản cũng chỉ ra vai trò của cộng đồng ngư dân trong việc phát triển.

8

- Trong Báo cáo hội thảo Phát triển kinh tế Nông nghiệp (ngày 27/3/2012)

của Tổ chức Oxfarm đã đưa ra các luận điểm người dân được tham gia vào quá

trình thiết kế, xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng là tối cần thiết, đồng thời cũng đưa

ra đề xuất tăng cường sự tham gia của người sản xuất nhỏ trong quy hoạch sử dụng

đất. Cũng trong một nghiên cứu của Ủy ban Oxford cho cứu trợ nạn đói (Oxford

Committee for Famine Relief – gọi tắt là Oxfarm) đã hoàn thành nghiên cứu và

công bố báo cáo “ Tăng cường tiếng nói cộng đồng và sử dụng đúng đắn vấn để sử

dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất ở miền Trung Việt Nam” (tháng 5/2012), về

vấn đề sử dụng đất nêu ra sự ảnh hưởng của cộng đồng trong việc thay đổi quyền sử

dụng đất như thế nào. Đồng thời, báo cáo đã nêu một số trường hợp điển hình về

vấn đề sử dụng đất, thay đổi quyền sử dụng đất ở Quảng Trị, Quảng Bình và Nghệ

An và đưa ra những khuyến nghị về những thay đổi quyền sử dụng đất; trong đó,

nghiên cứu chỉ ra tăng cường tiếng nói cộng đồng để lựa chọn đúng đắn về vấn đề

sử dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất và cũng chỉ ra sự phản ứng khác nhau

của cộng đồng và chính quyền về vấn đề này.

- Tại Kỷ yếu Hội thảo Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình

xây dựng nông thôn mới ở An Giang (tháng 12/2016), các tổ chức đã đưa ra nhiều

bài viết như: Tăng cường sự tham gia của người dân trong thực hiện chương trình

MTQG xây dựng NTM tỉnh An Giang – Văn Phòng Điều phối CT MTQG xây dựng

NTM; Phát huy tính tích cực, năng động của nông dân trong quá trình phát triển

nông nghiệp và xây dựng NTM – Chủ tịch Liên hiệp các Hội KHHT; Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam tỉnh vận động nhân dân tham gia xây dựng NTM - Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam; Công tác dân vận với phát huy vai trò chủ thể của người dân

trong xây dựng NTM đã đánh giá sức mạnh đoàn kết và nhấn mạnh vai trò quan

trọng của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở An Giang.

Bên cạnh đó còn chỉ ra những tồn tại, khó khăn cần phải khắc phục trong thời gian

tới để xây dựng NTM đạt hiệu quả, phát huy quyền làm chủ, tính tích cực và sáng

tạo của nông dân trong quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

9

Ngoài ra, cũng có nhiều nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào các

chương trình, dự án tại địa phương để tìm ra giải pháp khắc phục nhằm thể hiện đầy

đủ vai trò của người dân vào các hoạt động như:

- Đào Duy Ngọc (2015) nhận thấy rằng mức độ người dân tham gia tại địa

phương theo thang đo “biết, bàn, làm, kiểm tra“ có chiều hướng giảm dần, chỉ

những hoạt động liên quan trực tiếp tới đời sống người dân và chi phí đóng góp để

xây dựng từ cộng đồng thì mới có sự tham gia của người dân; những hoạt động nào

có nguồn vốn ngân sách càng nhiều thì điều kiện giám sát, kiểm tra của người dân

càng giảm xuống.

- Bàn Cao Sơn (2016) đã đưa ra khung phân tích 4 mức độ tham gia của

người dân và qua quá trình khảo sát, đánh giá thì thực trạng người dân tham gia như

sau: Người dân đã nắm bắt và tiếp cận các nội dung thông tin về NTM thông qua

nhiều kênh tuy nhiên vẫn cò một số ít khó tiếp cận do cách xa về địa lý; Về bàn bạc,

đóng góp ý kiến thì người dân đều biết họ được quyền tham gia nhưng chưa thực sự

phát huy tính chủ động mà dừng lại ở việc chỉ cần được mời và thông báo, còn

quyền quyết định các nội dung thuộc về chính quyền; Người dân tham gia trực tiếp

chủ yếu bằng việc hiến đất và góp sức lao động tuy nhiên việc đóng góp còn nhiều

hạn chế do thu nhập của người dân chưa cao; Hoạt động tham gia giám sát chưa tích

cực được thể hiện bằng việc cử người váo ban giám sát và để tự họ thực hiện nhưng

hoạt động quản lý, vận hành và bảo dưỡng đã có sự tham gia tích cực hơn của người

dân.

- Đỗ Thị Nhài (2016) đã đánh giá sự tham gia của người dân trong các

chương trình, dự án giảm nghèo tại địa phương thông qua các hoạt động: tham gia

lập kế hoạch chi tiết nhưng cũng chỉ mang tính hình thức; ở khâu thực hiện, người

dân tham gia ở mức độ cao hơn trong việc đóng góp các nguồn lực có sẵn nhưng

vẫn còn hạn chế do thu nhập người dân thấp và người dân không được quyết định

về mức đóng góp cũng như tham gia vào những hoạt động mua sắm hàng hóa và

cung ứng dịch vụ; công tác giám sát và đánh giá hầu như chưa có sự tham gia của

người dân vì chưa có cơ chế, chính sách thu hút họ tham gia vào hoạt động này và

10

việc giám sát, đánh giá do chính quyền thực hiện kiêm nhiệm nên không đucợ

thường xuyên và kém hệu quả. Đồng thời, qua nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân

của tình trạng trên là do: (1) chính sách thu hút sự tham gia của người dân còn nhiều

bất cập; (2) công tác triển khai dự án ở cấp xã đã bộc lộ nhiều hạn chế; (3) người

dân chưa nhận thức và ý thức được tầm quan trọng của sự tham gia, thói quen dựa

dẫn và sự hỗ trợ bên ngoài vẫn còn tồn tại.

Từ những nghiên cứu, người dân tham gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau và

trong mỗi lĩnh vực thì mức độ tham gia khác nhau, có những tác động khác nhau

đối với các lĩnh vực hoạt động. Khi người dân có sự hiểu biết, tham gia và đóng góp

ý kiến cũng như tham gia giám sát thì hiệu quả rõ ràng được cải thiện, người dân

không còn thụ động trong các hoạt động mà trở nên tích cực, chủ động. Do đó, có

thể thấy vai trò tham gia của người dân và mức độ tham gia đến đâu sẽ quyết định

mức độ thành công của Chương trình.

2.1.2 Lược sử vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng

NTM

2.1.2.1 Khái niệm nông dân

Nông dân, với C.Mác và Ph.Ăngghen, là khối quần chúng đông đảo mà tất cả

thành viên đều sống trong một hoàn cảnh như nhau nhưng lại không nằm trong mối

quan hệ nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ

liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau. Các ông còn chỉ rõ, nông dân ở

mọi quốc gia đều là nhân tố cơ bản của dân cư, của nền sản xuất và của lực lượng

chính trị.

Với V.I. Lênin, nông dân, một mặt là người tư hữu, nhưng mặt khác, lại là

người lao động. Nông dân là lực lượng xã hội được hình thành trong quá trình giải

thể chế độ công xã nguyên thủy và tồn tại đến nay. Họ là những người sinh sống và

lao động ở nông thôn gắn với tư liệu sản xuất và tạo ra các sản phẩm nông nghiệp.

Hồ Chí Minh khẳng định, nông dân là đại đa số dân tộc, do đó, vấn đề nông

dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Đối với Người, nông dân Việt Nam là những

11

người bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất. Và dân chúng công nông là gốc của cách

mạng.

Như vậy, nông dân là một lực lượng được hình thành tất yếu trong tiến trình

lịch sử, cho đến nay nông dân vẫn là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, nông

dân sống ở nông thôn, sản xuất và tạo ra các sản phẩm trong nông nghiệp. Nông dân

có vai trò hết sức quan trọng đối với chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc

gia.

2.1.2.2 Khái niệm Nông thôn mới

Theo Phan Kế Vân (2011) thì “Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân

cư, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế,

văn hóa, xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh

hưởng của các tổ chức khác; phân biệt với đô thị".

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010) thì nông thôn được

hiểu là “là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị

trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã".

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2008) đưa ra mục tiêu “Xây dựng NTM

có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức TCSX

hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy

hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng

cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh

đạo của Đảng được tăng cường”.

Như vậy, NTM trước tiên được hiểu là nông thôn, khác với nông thôn truyền

thống hiện nay và có những đặc điểm sau: (1) có cơ sở hạ tầng văn minh, hiện đại;

(2) sản xuất phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa liên kết, bền vững; (3) đời sống

người dân ngày càng được cải thiện theo hướng nâng cao; (4) bản sắc văn hóa dân

tộc được giữ gìn, bảo tồn và phát triển; (5) xã hội nông thôn an ninh trật tự tốt, thể

hiện sự công bằng, dân chủ.

Xây dựng NTM chính là phát triển nông thôn theo hướng bền vững về mặt

kinh tế, xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa và cải thiện môi trường sản xuất cũng

12

như sinh sống của người dân tại nông thôn. Quá trình này, trước hết chính là do

người dân nông thôn với sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức khác; trong đó, đối

tượng phát triển là dân cư vùng nông thôn, lĩnh vực để phát triển là các yếu tố về

kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường, vai trò chủ thể người dân nông thôn là chính,

nhà nước, các tổ chức khác đóng vai trò tích cực hỗ trợ phát triển.

2.1.2.3 Vị trí của người dân trong Chương trình MTQG xây dựng NTM

Xây dựng NTM nhằm không ngừng cải thiện đời sống cho nông dân. Vì vậy,

người nông dân và cộng đồng dân cư giữ vị trí quan trọng chính là chủ thể, nòng cốt

trong xây dựng nông thôn mới. Họ được biết, được bàn, được quyết định, tự làm, tự

giám sát và được thụ hưởng. Đóng góp công sức, tiền của để chỉnh trang nơi ở của

gia đình mình, đầu tư cho sản xuất, đóng góp xây dựng các công trình công cộng

của thôn, xã.

Người dân tại cộng đồng nông thôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng

trong các hoạt động của quá trình xây dựng NTM. Họ là người có nhu cầu

nhưng không có điều kiện đáp ứng nhu cầu, là người phản ánh nhu cầu cần có

sự hỗ trợ nhưng lại là người thực hiện, đánh giá, hưởng lợi… Do đó, cần thay

đổi tư duy về NTM từ trong nhận thức, cách nghĩ và hoạt động NTM trong tư

tưởng người dân, hoạt động NTM được khởi xướng và bắt đầu từ người dân,

do dân đề xuất, thực hiện, nhân tố bên ngoài chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tư vấn

khi cần thiết để hoạt động NTM đạt hiệu quả và bền vững.

Vị trí quan trọng của người dân trong xây dựng nông thôn mới thể hiện ở chỗ

người dân chính là chủ thể tham gia xây dựng kế hoạch, chương trình và triển khai

thực hiện; tự mình giám sát, quản lý các công trình, hoạt động; đồng thời, vận hành

và bảo dưỡng các công trình sau khi hoàn thành trong xây dựng NTM tại địa

phương. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương và Nhà nước đóng vai trò là một tổ

chức, dẵn dắt, chỉ đạo xây dựng và định hướng, hỗ trợ bằng các cơ chế, chính sách.

Qua đó, thể hiện được quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng” và tư tưởng của Hồ Chí Minh “lấy sức dân để làm lợi cho

dân”,

13

Phải phát huy tối đa vị trí chủ thể của người dân trong các hoạt động xây

dựng NTM vì nguồn lực bố trí để thực hiện Chương trình của Nhà nước rất hạn hẹp,

trong khi đó có thể huy động nguồn lực dồi dào từ người dân thông qua các hình

thức đóng góp như: của cải, công sức, trí tuệ, .... để giúp hoàn thành các nhiệm vụ.

Như vậy, có thể thấy được cần phải huy động tất cả nguồn lực từ nhà nước đến

người dân để cùng nhau chung tay xây dựng mới tạo nên thành công và nêu bật

được điểm quan trọng của chương trình.

Trong toàn bộ quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay,

người dân nói chung và người nông dân nói riêng có vị trí quan trọng chính là "chủ

thể", đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết nhằm khơi dậy và phát huy mọi thế

mạnh của người dân trong sự nghiệp xây dựng NTM trên các mặt thuộc lĩnh vực

kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội cũng như nhằm khẳng định những quyền

lợi chính đáng của người dân. Vị trí “chủ thể” của người dân trong các hoạt động

xây dựng góp phần tạo nên NTM mang vẻ đẹp văn minh, phong cách theo hướng

hiện đại được thể hiện ở việc: Tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và tổ chức

triển khai quy hoạch xây dựng NTM; chủ động và sáng tạo trong góp ý hoàn thiện

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; trực tiếp phát triển kinh tế thông qua các hình thức

tổ chức sản xuất tại địa phương và tổ chức sản xuất theo hướng công nghiệp hóa –

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong gìn giữ và phát huy

nét đẹp đời sống văn hoá - xã hội, góp sức bảo vệ môi trường ở nông thôn. Qua đó,

khẳng định người dân là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính

trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm ANTT xã hội ở cơ sở.

Thực tiễn trong các hoạt động xây dựng góp phần tạo nên NTM ở mỗi địa

phương cho thấy nơi nào huy động được sự chung sức, chung lòng người dân tham

gia cùng với Nhà nước và địa phương thực hiện các nội dung để hoàn thành tiêu chí

xã NTM theo Bộ tiêu chí thì địa phương đó sớm đạt được kết quả công nhận xã

NTM và ngược lại.

14

2.1.3 Lý thuyết về sự tham gia của người dân

Sự tham gia là “sự bao gồm đa dạng phạm vi đóng góp của các bên liên quan

trong sự phát triển cộng đồng đang diễn ra quá trình, từ việc xác định các khu vực

có vấn đề, đến sự phát triển, thực hiện và quản lý lập kế hoạch chiến lược” (Schafft

và Greenwood, 2003, tr.19)

Theo Florin (1990), đó là “một quá trình trong đó các cá nhân tham gia vào

việc ra quyết định trong các tổ chức, chương trình và môi trường ảnh hưởng đến

họ”. Đối với Pierre André (2012) thì được xem là “một quá trình mà trong đó những

người dân thường tham gia – trên cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc và hành động một

mình hoặc trong một nhóm – với mục tiêu ảnh hưởng đến quyết định sẽ tác động

đến cộng đồng của họ. Sự tham gia này có thể diễn ra bên trong hoặc bên ngoài

khuôn khổ thể chế và nó có thể được tổ chức bởi thành viên của các tổ chức xã hội

hay người ra quyết định.

Tùy thuộc vào trình độ nhận thức, văn hóa, điều kiện địa lý của từng vùng

miền khác nhau, mức độ tham gia của người dân vào các công việc phát triển cộng

đồng khác nhau. Theo Lê Văn An (2016) cho rằng sự tham gia của người dân địa

phương trong các hoạt động được mô tả theo 6 cấp bậc sau đây: (1) Thụ động:

Không đưa ra ý kiến và chỉ làm theo sự hướng dẫn của người khác. (2) Cung cấp

thông tin: Chỉ cung cấp những thông tin theo sự gợi ý của người làm công tác phát

triển. (3) Tư vấn: Được góp ý và được tiếp thu các ý kiến về những vấn đề cần thực

hiện để phát triển các hoạt động của địa phương. (4) Thực hiện các hoạt động: chủ

động thành lập hoặc tham gia các nhóm để tổ chức triển khai thực hiện các nội dung

hoạt động nhằm phát triển cộng đồng. (5) Ra quyết định: Người dân chủ động tham

gia vào các quá trình bàn luận góp ý, lựa chọn phương án và quyết định thực hiện

phương án tại địa phương. (6) Tự nguyện: Người dân tự khởi xướng hoạt động phát

triển cộng đồng bao gồm việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá

các hoạt động phát triển mà không lệ thuộc vào bên ngoài. Trong đó, tham gia tự

nguyện là hình thức tham gia cao nhất trong phát triển cộng đồng.

15

Tự nguyện

Ra quyết định

Thực hiện các hoạt động

Tư vấn

Cung cấp thông tin

Thụ động

Hình 2.1 Thang đo mức tham gia của người dân

(Nguồn: Tác giả tự vẽ dựa trên 6 cấp độ tham gia)

Hay một định nghĩa khác thể hiện quan điểm sâu hơn về mức độ người dân

tham gia trong các hoạt động xây dựng NTM đó chính là các cá nhân được tham gia

trong việc ra quyết định liên quan đến thể chế, các chương trình và môi trường có

tác động đến đời sống người dân (Heller, Price, Reinharz, và Wandersman, 1984).

Theo nghiên cứu của Sherry R. Arnstein (1969) lại chú trọng đến phân chia

mức độ người dân tham gia thông qua việc đưa ra thang đo 8 mức độ, được chia

thành 3 cấp và được mô tả như sau:

- Cấp 1: gồm hai mức độ thấp nhất là Bị điều khiển (Manipulation) và Liệu

pháp (Therapy). Ở cấp này, người dân chỉ làm theo hướng dẫn và không tham gia

vào hoạt động của chương trình, đây là bước vận động để có thể lôi kéo, thu hút

người dân tham gia vào chương trình và ở đó người dân được đào tạo tham gia.

- Cấp 2: gồm ba mức độ là Cung cấp thông tin (Informing), đây là bước quan

trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy sự tham gia nhưng thường thông tin chỉ mang tính

một chiều mà không có phản hồi. Ở mức Tham vấn (Consultation) sẽ thực hiện các

bước khảo sát, tổ chức các cuộc họp khu dân cư và tham khảo ý kiến người dân, tuy

nhiên ở mức độ này chỉ là những nghi thức. Mức kế tiếp Động viên (Placation)

người dân thể hiện quyền lực bằng cách bầu ra một ủy ban để thực hiện chương

16

trình hoặc lắng nghe, ghi nhận những ý kiến đề xuất. Ở ba mức này, mặc dù chỉ

mang tính hình thức nhưng người dân đã nhận thức được lợi ích từ chương trình, từ

đó từng bước tham gia vào các hoạt động: từ cung cấp thông tin một chiều thông

qua khảo sát của chính quyền đến việc được tham vấn, đưa ra các ý kiến về các vấn

đề tại địa phương và được tham gia bầu hoặc đóng góp ý kiến được lắng nghe.

- Cấp 3: Ở mức độ Hợp tác (Partnership) có sự phân phối lại quyền lực và

trách nhiệm giữa các bên, cả hai đều phải có trách nhiệm trong lên kế hoạch và ra

quyết định. Ở mức độ Ủy quyền (Delegated Power) người dân thường nắm đa số

các vị trí trong ủy ban và có quyền quyết định cao hơn các bên có liên quan khác

thông qua việc đàm phán, ở mức độ này người dân đã có thể chịu trách nhiệm. Mức

độ cuối cùng Người dân điều khiển (Citizen Control) người dân khởi xướng công

việc nhằm giải quyết nhu cầu của họ, đồng thời các nguồn lực được huy động từ

trong cộng đồng để tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động. Ở nấc thang này,

người dân thực hiện toàn bộ công việc lập kế hoạch, hoạch định chính sách và quản

lý một chương trình. Các mức độ ở cấp 3, người dân thực sự là chủ thể của chương

trình, từ việc hợp tác, đến ủy quyền thực hiện và trực tiếp quản lý.

Trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng NTM hiện nay, nông dân giữ vai trò chủ

thể được thể hiện tại các nội dung theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(2010), đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết, nhàm phát huy nhân tố con người,

khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân vào công cuộc xây dựng NTM cả

về kinh tế, văn hóa và xã hội đồng thời bảo đảm những quyền lợi chính đáng của

họ. Sự tham gia của người dân vào việc xây dựng NTM được coi như nhân tố quan

trọng, quyết định sự thành bại của việc áp dụng phương pháp tiếp cận phát triển dựa

vào nội lực và do cộng đồng làm chủ. Khi tham gia vào quá trình phát triển NTM

với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân tại các cộng đồng dân cư nông thôn sẽ từng

bước được tăng cường kỹ năng, năng lực về quản lý nhằm tận dụng triệt để các

nguồn lực tại chỗ và bên ngoài. Khi xem xét quá trình tham gia của người dân trong

các hoạt động phát triển nông thôn, vai trò của người dân được thể hiện: Dân biết,

dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi. Như

17

vậy, vai trò của người dân vẫn theo một trực tự nhất định, hoàn toàn phù hợp với

quan điểm của Đảng lấy dân làm gốc. Các nội dung trong vai trò của người dân vào

việc tham gia xây dựng NTM được hiểu là:

- Dân biết: là quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết của người nông dân về

những kiến thức sơ cấp có thể đóng góp vào quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông

thôn. Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia hiệu quả hơn vào các giai đoạn sau

của quá trình xây dựng. Điều đó có nghĩa là dân được biết rõ về những nội dung

Chương trình NTM đang triển khai.

- Dân bàn: bao gồm sự tham gia ý kiến và bàn bạc của người dân liên quan

đến kế hoạch phát triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt động của

nông dân trên địa bàn.

- Dân đóng góp: là một yếu tố không chỉ ở phạm trù vật chất mà còn ở cả

phạm trù nhận thức quyền sở hữu và tính trách nhiệm, tăng tính tự giác của từng

người dân trong cộng đồng. Hình thức đóng góp có thể bằng tiền, sức lao động, vật

tư tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ.

- Dân làm: chính là sự tham gia lao động trực tiếp từ người dân vào các hoạt

động phát triển nông thôn như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động của các

nhóm và những công việc liên quan tổ chức tiếp nhận, quản lý và sử dụng công

trình. Người dân trực tiếp tham gia vào quá trình bằng việc lập kế hoạch có sự tham

gia cho từng hoạt động thi công, quản lý và duy tu bảo dưỡng, từ những việc tham

gia đó tạo cho người dân có việc làm, tăng thu nhập.

- Dân kiểm tra: là Ban giám sát cộng đồng gồm đại diện cấp chính quyền,

đoàn thể và người dân theo dõi tiến độ, quá trình thực hiện, nghiệm thu chất lượng

các công trình, ... sẽ đảm bảo chất lượng công trình và tính minh bạch trong việc sử

dụng các nguồn lực của Nhà nước và người dân vào xây dựng, quản lý và vận hành

công trình.

- Dân quản lý: là các thành quả của các hoạt động mà người dân đã tham gia;

các công trình sau khi xây dựng xong cần được quản lý trực tiếp của một tổ chức do

18

nông dân hưởng lợi. Các công trình cần được người tham gia duy tu, bảo dưỡng

nhằm nâng cao tuổi thọ và phát huy tối đa hiệu quả trong việc sử dụng.

- Dân hưởng lợi: dân được hưởng những gì mà dân làm, dân đóng góp, đó

chính là lợi ích mà các hoạt động mang lại.

2.1.4 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM

Từ những nền tảng lý thuyết về sự tham gia, cùng với việc khẳng định vai trò

là chủ thể của người dân trong hoạt động xây dựng tại các xã NTM thì vai trò chủ

thể của nông dân được thể hiện bằng các hành động sau:

Giám sát, quản lý

Quản lý

- Cử đại diện

- Bằng hành động thiết thực

Ủy quyền

Người dân nắm quyền

Hợp tác

Trực tiếp tham gia

- Quyết định mức đóng góp

Động viên

- Tham gia thực hiện

Tham vấn

Thực hiện hình thức

Sự tham gia của người dân

Tham gia ý kiến

Cung cấp thông tin

- Đề án, bản đồ, quy hoạch

- Lựa chọn công việc

Liệu pháp

Không tham gia

Nắm bắt các thông tin về chương trình

Vận động

Hình 2.2 Khung phân tích sự tham gia của người dân tại các xã NTM

(Nguồn: Tác giả tự vẽ dựa trên các mức độ của Sherry R. Arnstein (1969) và nội

dung trong vai trò của người nông dân xây dựng NTM)

19

Người dân sẽ tham gia vào những hoạt động có tác động đến đời sống cộng

đồng cũng như từng cá nhân, theo những hình thức và mức độ khác nhau vì người

dân là người được thụ hưởng những thành quả trong xây dựng NTM chỉ có người

dân mới biết mình cần cái gì để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống. Khi người

dân được tham gia vào quá trình công việc mà có lợi ích hay chi phí ảnh hưởng trực

tiếp đến mình, họ sẽ tích cực chủ động hơn mà không còn dựa dẫm quá nhiều vào

Nhà nước như trước.

Từ khung phân tích đề xuất có thể thấy người dân tham gia với ba cấp độ

như sau: Thứ nhất, không tham gia vào chương trình, theo thang đo đã đề xuất được

mô tả ở hai hình thức: liệu pháp và vận động; Thứ hai, tham gia mang tính hình

thức được thể hiện ở ba hình thức cao hơn: thông tin, tham vấn và động viên; Thứ

ba, người dân nắm quyền, thể hiện ở: hợp tác, ủy quyền và người dân quản lý.

Để đo lường ba cấp độ tham gia này của người dân, tác giả đưa ra phân tích

bốn khía cạnh cụ thể dựa vào văn bản hướng dẫn sự tham gia của người dân vào

NTM, đó là: i) nắm bắt các thông tin về chương trình; ii) tham gia ý kiến vào đề án,

quy hoạch, lựa chọn công việc; iii) trực tiếp tham gia và iv) bầu giám sát, tổ chức

quản lý.

2.2 Kinh nghiệm phát triển nông thôn với hoạt động của người dân tham gia ở

một số nước trên thế giới

2.2.1 Hoạt động của người dân tham gia ở Hàn Quốc

Vào những năm 1960, Hàn Quốc là một trong những quốc gia lạc hậu ở

Châu Á. Để đưa nền kinh tế phát triển cao trên thế giới, Hàn Quốc đã đưa ra rất

nhiều giải pháp, trong đó tập trung phát triển ngành công nghiệp và cùng lúc phát

triển nông nghiệp khu vực nông thôn, chính nhờ vậy đã mở đường cho nền tảng

vững chắc của tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững trong nhiều thập kỳ và bắt

đầu từ năm 1970 với sự ra đời của Phong trào Saemaul Undong.

Theo Hoàng Bà Thịnh (2016), Phong trào Saemaul Undong (Phong trào làng

mới) ra đời năm 1970 do Tổng thống Park Chung Hy phát động khi Chính phủ Hàn

Quốc nhận thức rằng nếu nông dân không có niềm tin vào tương lai thì tất cả mọi

20

nỗ lực và cố gắng của Chính phủ đều vô ích. Trong bối cảnh nguồn lực tài

chính của Chính phủ hạn hẹp, các nhà lãnh đạo của Hàn Quốc nhận thấy rằng người

dân tuy nghèo nhưng nếu biết huy động nguồn lực từ số đông người dân và huy

động dần từng bước vẫn có thể huy động được một lượng vốn không nhỏ. Để huy

động nguồn lực tài chính từ người dân, cần thực hiện bằng được phương thức dân

chủ, xác định đúng vai trò của người dân tạo động lực trong xây dựng tạo nên

phong trào Làng mới. Trong phong trào, tính tự lực và hợp lực từ người dân là

chính, Nhà nước chỉ hỗ trợ mang tính khởi đầu và động viên khen thưởng.

Cốt lõi chính của phong trào là: Thay đổi tư duy, phát huy nội lực của nhân

dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển sản xuất để tăng thu nhập cho

nông dân; phát huy dân chủ để phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hợp tác từ

phát triển cộng đồng. Tinh thần xuyên suốt của phong trào đó là: cần cù mang lại

tính chân thật, không cho phép sự giả tạo và thói kiêu căng ngạo mạn; tự lực giúp

cho con người biết tự lực cánh sinh; hợp tác phải dựa trên mong muốn phát triển

chung cả cộng đồng, sự phát triển đó có được là nhờ nỗ lực tập thể. Đặc trưng của

phong trào không đơn thuần là một kế hoạch phát triển toàn diện các cộng đồng

nông nghiệp, sự hợp tác và tham gia của tất cả các tổ chức mà là một cuộc “vận

động cải cách ý thức” cùng với “vận động thực hiện hành động” dựa trên các khẩu

hiệu động viên và khích lệ tinh thần người dân được sử dụng bao gồm: “Đã làm là

được”; “Tất cả đều có thể làm được” và “Nhất định phải làm”. Điểm khác biệt trong

hệ thống thực hiện Phong trào là khả năng huy động sự tham gia của người dân từ

tất cả thành phần không phân biệt nam nữ, gồm cả Tổng thống, công chức, viên

chức, người nông dân, doanh nghiệp, sinh viên... Nhân tố đầu tiên và quan trọng

nhất cho sự thành công của phong trào này là sự tham gia tình nguyện của người

dân với thái độ tích cực và năng động. Nhờ phong trào, bộ mặt nông thôn Hàn Quốc

đã hoàn toàn thay đổi với đầy đủ điện, đường, nước sạch, công trình văn hóa.

Ban đầu phong trào Làng mới ở Hàn Quốc bao gồm 10 nội dung và quy

hoạch NTM nhấn mạnh vào ba yếu tố chính để phát triển nông thôn. Đồng thời các

nội dung rất phù hợp tình hình địa phương, đơn giản, dễ thực hiện, nhanh đạt kết

21

quả và chính điều này đã khích lệ tinh thần người dân tin vào hiệu quả công việc,

tin vào phong trào, tạo nền tảng để thực hiện những dự án khác. Phong trào Làng

mới là một cuộc đổi mới bộ mặt vùng nông thôn, tạo nên một cuộc sống tốt đẹp

hơn, vì vậy mục tiêu đạt đến cuối cùng của Phong trào Làng mới là xây dựng để tạo

ra một nền tảng cuộc sống tốt đẹp hơn đối với mỗi gia đình, làng xã và góp phần

vào sự phát triển chung của cả quốc gia. Phong trào Làng mới áp dụng biện pháp

tiếp cận từ trên xuống dưới, đứng đầu bởi chính phủ và đây cũng là biện pháp tiếp

cận từ cấp cơ sở lên khi dự án được đưa vào thực hiện. Phong trào Làng mới đã thể

hiện sự dân chủ của người dân bằng hành động tự nguyện tham gia các hoạt động ở

cấp làng. Người dân trong làng đóng góp một phần lớn nguồn vốn và sức lao động

để đạt được mục đích của phong trào Làng mới. Trong khi đó, Chính phủ chỉ cung

cấp một số nguyên vật liệu để hỗ trợ để nông dân tự mình đứng lên trở thành người

chủ đích thực: chủ động quy hoạch sản xuất tập trung phân dịnh rõ các vùng chuyên

canh quy mô lớn và đầu tư thành lập các khu liên hiệp nông nghiệp trồng các sản

phẩm mang lại lợi nhuận cao; xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn. Tất cả các làng

nông thôn trên toàn đất nước đều tham gia vào phong trào Làng mới, nó đã trở

thành chương trình quốc gia thông qua các hoạt động nhằm cải thiện thu nhập, xây

dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và nâng cao tinh thần người dân, đồng thời qua đó

chất lượng cuộc sống tại các vùng nông thôn ngày càng bắt kịp với chất lượng cuộc

sống đô thị.

Phong trào Làng mới của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn

cũ thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông

thôn trở thành xã hội năng động có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư và tự phát triển.

Phong trào Làng mới, với mức đầu tư không lớn, đã góp phần đưa Hàn Quốc từ một

nước nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu có.

2.2.2 Hoạt động của người dân tham gia ở Nhật Bản

Căn cứ vào tình hình phát triển của nông thôn và mục tiêu của từng thời kỳ,

Chính phủ Nhật Bản đã lần lượt ban hành hàng loạt pháp lệnh và chính sách hỗ trợ

nông nghiệp có ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài. Đồng thời, xây dựng và thực hiện chính

22

sách, pháp luật hỗ trợ ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Trong thập

kỷ 50, 60 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã đề ra Luật cơ bản về nông nghiệp và gần 30

đạo luật khác; đồng thời nhiều lần sửa đổi Luật Đất nông nghiệp, Luật Nông nghiệp

bề vững, ... Tất cả các Bộ luật đã cấu thành một hệ thống hoàn chỉnh, tạo hành lang

pháp lý để công cuộc xây dựng NTM được tiến hành thuận lợi.

Chính phủ Nhật Bản tích cực tham gia và đầu tư kinh phí lớn và để giải

quyết vấn đề thiếu kinh phí đầu tư cho phát triển nông nghiệp, Chính phủ Nhật Bản

đã xây dựng chính sách hỗ trợ nông nghiệp và luôn khuyến khích người nông dân

tích cực tham gia, coi trọng tính tự lập tự chủ. Thời gian đầu, công cuộc xây dựng

NTM ở Nhật Bản do Chính phủ đóng vai trò chủ đạo đã tìm mọi cách để nâng cao

tính tích cực, sáng tạo của nông dân để họ thực sự trở thành đội quân chủ lực trong

công cuộc xây dựng phát triển nông thôn. Cụ thể, trong phong trào xây dựng làng

xã, Chính phủ Nhật Bản đề cao tinh thần phát huy tính sáng tạo, dám nghĩ dám làm,

từ việc xây dựng, thực thi quy hoạch, đến việc lựa chọn sản phẩm trong phong trào

“mỗi làng một sản phẩm”, đều là do dân cư các vùng tự căn cứ vào nhu cầu của địa

phương mình để đề xuất, thực hiện.

Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” (OVOP) là một chương trình phát triển

theo khu vực ở Nhật Bản, được khởi xướng bới Thống đốc Morihiko Hiramatsu vào

năm 1979 tại làng Oyama, tỉnh Oita, Nhật Bản để cải thiện đời sống của cư dân

nông thôn trong điều kiện khó khăn về kinh phí trợ cấp của chính quyền Trung

ương cũng như tổng kết thực tiễn công tác phát triển nông thôn ở một số địa bàn

trong tỉnh.

Mục tiêu ban đầu của Phong trào này là khuyến khích người dân nông thôn

làm sống lại các giá trị tốt đẹp của quê hương, qua đó làm tăng thu nhập và cải thiện

bộ mặt vùng nông thôn. Tuy nhiên, mục tiêu quan trọng nhất chính là tạo ra sức thu

hút cho khu vực nông thôn, hạn chế sự di chuyển một cách tự do của người dân ra

khỏi các khu dân cư và khu công nghiệp lớn trong các nước, xây dựng nguồn nhân

lực đủ mạnh thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực nông thôn

trong tương lai; đồng thời tạo sự chuyển dịch để đạt đến sự cân bằng về kinh tế

23

cũng như về xã hội giữa vùng nông thôn của địa phương với các thành phố lớn,

giảm sự phụ thuộc về kinh tế và ngân sách vào chính quyền Trung ương. Ba nguyên

tắc chính trong xây dựng Phong trào OVOP gồm:

- Một là “Từ địa phương tiến ra toàn cầu”, đây là mục tiêu cao nhất trong

sản xuất hàng hóa nông nghiệp của Nhật Bản và thể hiện sự chiếm lĩnh thị trường

nông sản trên thế giới.

- Hai là,“Tự tin, sáng tạo”, phong trào OVOP quan tâm đến tất cả các quy

trình từ sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, khích lệ và phát huy những cách làm sáng tạo.

Bên cạnh đó, nông sản đảm bảo về chất lượng cùng với việc đổi mới phương pháp

trong kinh doanh đã giúp nông sản tìm được thị trường tiêu thụ góp phần ổn định

kinh tế cho các hộ nông dân.

Ba là, “Tập trung phát triển nguồn nhân lực”, ngoài những chính sách hỗ

trợ mang lại hiệu quả cho chương trình từ các cấp chính quyền thì người nông dân

còn được tham gia các lớp đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao kiến thức trong các lĩnh

vực sản xuất kinh doanh.

Qua thời gian triển khai và thực hiện, phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”

của Nhật Bản đã đạt được những thành công lớn góp phần thúc đẩy quá trình phát

triển nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Phong trào này

đã gắn kết được các hoạt động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp với chế biến

nông sản, tạo ra nhiều công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng trong các sản phẩm,

tăng khả năng cạnh tranh, từ đó giúp tăng thu nhập cho người dân nông thôn.

Điều quan trọng được nhấn mạnh là người dân tự nguyện tham gia vào

Phong trào với tư cách là chủ thể để điều hành mọi hoạt động. Chính quyền các cấp

chỉ đóng vai trò trợ giúp cho những nỗ lực, cố gắng của người dân chứ không phải

là hướng dẫn hoặc ra mệnh lệnh cho họ. Đây chính là động lực làm nên những

thành công lớn của Phong trào này và thông qua phong trào đã tạo ra nhiều thương

hiệu sản phẩm.

Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, phong trào “Mỗi làng một sản

phẩm” đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ. Sự thành công của phong trào này tại

24

Nhật Bản đã tạo nên sức mạnh lan toả, không những lôi cuốn sự quan tâm của

nhiều địa phương trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, quốc gia khác

trên thế giới đã áp dụng những bài học kinh nghiệm quý giá trong việc phát huy nội

lực, phát triển bền vững các sản phẩm đặc thù của địa phương, mang lại thu nhập và

cải thiện cuộc sống cho người dân, đặc biệt là khu vực nông thôn còn nhiều khó

khăn.

25

CHƯƠNG 3

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG

XÂY DỰNG NTM TẠI TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

3.1 Tổng quan về Chương trình MTQG xây dựng NTM

3.1.1 Mục tiêu

Chương trình MTQG về xây dựng NTM là một chương trình tổng thể về

phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng do Chính phủ Việt Nam

xây dựng và triển khai trên phạm vi nông thôn toàn quốc, căn cứ tinh thần của Nghị

quyết số 26-NQ/TW.

Chương trình MTQG về xây dựng NTM được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt lần đầu tiên tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 cho giai đoạn 2010

– 2020 với mục tiêu chung là “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế -

xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,

gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông

thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn

hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời

sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng

xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu cụ thể: đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn

NTM và đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM.

Trong quá trình triển khai và tổng kết đánh giá giai đoạn, để xây dựng NTM

vững mạnh, đạt hiệu quả thì phải đặt ra mục tiêu và phương hướng phát triển NTM

phù hợp với tình hình phát triển trong giai đoạn mới. Vì vậy, ngày 16/8/2016 Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình

MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2016 – 2020 và thay thế Quyết định số 800/QĐ-

TTg ngày 4/6/2010, có mục tiêu chung là "Xây dựng NTM để nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho người dân, có kết cấu hạ tầng KTXH phù hợp; cơ cấu kinh

tế và các hình thức TCSX hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch

vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ,

bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ;

26

quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững". Bên cạnh đó, Chương trình còn đặt

ra mục tiêu cụ thể là: đến năm 2020 số xã đạt chuẩn NTM khoảng 50%; bình quân

cả nước đạt 15 tiêu chí/xã và không còn xã dưới 5 tiêu chí, trong đó Đông Nam Bộ

đạt 17,5 tiêu chí/xã; các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và

đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y

tế xã cơ bản được hoàn thành; chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn được

nâng cao, phát triển nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân

để tăng thu nhập cho người dân ít nhất 1,8 lần so với năm 2015.

3.1.2 Các chính sách cho xây dựng NTM

3.1.2.1 Nguyên tắc xây dựng NTM

- Các nội dung, hoạt động phải hướng tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí của

Bộ tiêu chí quốc gia về NTM;

- Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính;

- Kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ

trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn NTM;

- Xây dựng NTM phải gắn với kế hoạch phát triển KTXH của địa phương, có

quy hoạch và cơ chế đảm bảo thực hiện các quy hoạch xây dựng NTM;

- Công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn; tăng cường phân cấp,

trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các công trình, dự án;

- Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

3.1.2.2 Nội dung xây dựng NTM

Gồm 11 nội dung:

- Quy hoạch xây dựng nông thôn mới;

- Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội;

- Phát triển sản xuất gắn với TCC ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân;

- Giảm nghèo và an sinh xã hội;

- Phát triển giáo dục ở nông thôn;

27

- Phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân

nông thôn;

- Nâng cao chất lượng dời sống văn hóa của người dân nông thôn;

- Vệ sinh môi trường nông thôn, khắc phục, xử lý ô nhiễm và cải thiện môi

trường tại các làng nghề;

- Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn

thể chính trị - xã hội trong xây dựng NTM, cải thiện và nâng cao chất lượng các

dịch vụ hành chính công, bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho

người dân;

- Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn;

- Nâng cao năng lực xây dựng nông thôn mới và công tác giám sát, đánh giá

thực hiện Chương trình; truyền thông về xây dựng NTM.

3.1.2.3 Tiêu chí đạt NTM

Xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới là xã đạt 05 nhóm tiêu chí, gồm 19 tiêu chí:

- Nhóm quy hoạch gồm tiêu chí 01 - quy hoạch;

- Nhóm hạ tầng kinh tế - xã hội gồm 08 tiêu chí: tiêu chí 02 - giao thông; tiêu

chí 03 - thủy lợi; tiêu chí 04 - điện; tiêu chí 05 - trường học; tiêu chí 06 - cơ sở vật

chất văn hóa; tiêu chí 07 – cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn; tiêu chí 08 – thông

tin và truyền thông; tiêu chí 09 - nhà ở dân cư.

- Nhóm kinh tế và tổ chức sản xuất gồm 04 tiêu chí: tiêu chí 10 - thu nhập;

tiêu chí 11 - hộ nghèo; tiêu chí 12 - lao động có việc làm; tiêu chí 13 - tổ chức sản

xuất;

- Nhóm văn hóa – xã hội – môi trường gồm 04 tiêu chí: tiêu chí 14 - giáo dục

và đào tạo; tiêu chí 15 - y tế; tiêu chí 16 - văn hóa; tiêu chí 17 - môi trường và an

toàn thực phẩm.

- Nhóm hệ thống chính trị gồm 02 tiêu chí: tiêu chí 18 - hệ thống chính trị và

tiếp cận pháp luật; tiêu chí 19 - quốc phòng và an ninh.

Đối với việc công nhận huyện NTM và thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn

thành nhiệm vụ xây dựng NTM thì phải đạt các tiêu chí và quy định sau:

28

- Huyện NTM là huyện có 100% số xã trong huyện đạt chuẩn NTM và có tất

các tiêu chí đạt chuẩn theo quy định: quy hoạch; giao thông; thủy lợi; điện; y tế –

văn hóa – giáo dục; sản xuất; môi trường; an ninh – trật tự xã hội; chỉ đạo xây dựng

NTM.

- Thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM

có 100% số xã trên địa bàn được công nhận đạt chuẩn NTM.

3.1.2.4 Nguồn kinh phí cho xây dựng NTM

Cơ cấu nguồn vốn theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 –

2020 gồm 4 nguồn chính và phân theo các tỷ lệ: (i) Ngân sách nhà nước (gồm

NSTW và NSĐP, phân thành vốn trực tiếp cho chương trình và vốn lồng ghép)

40%; (ii) Vốn tín dụng 30%; (iii) Vốn doanh nghiệp 20%; (iv) Vốn đóng góp của

cộng đồng dân cư 10%.

Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai

đoạn 2011 – 2015 của Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng

NTM (2105) thì cả nước đã huy động được khoảng 851.380 tỷ đồng cho Chương

trình xây dựng NTM, trong đó: NSNN (bao gồm các chương trình, dự án khác) là

266.785 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 31,34%); vốn tín dụng là 434.950 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ

51%); vốn doanh nghiệp là 42.198 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 4,9%), vốn đóng góp của

người dân và cộng đồng là 107.447 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 12,62%).

Như vậy, có thể thấy cơ cấu vốn thu được thực tế là không đồng cân đối so

với quy định. So với Quyết định số 800/QĐ-TTg thì nguồn lực huy động từ NSNN

và doanh nghiệp không đạt so với mục tiêu, trong khi đó vốn tín dụng và vốn huy

động từ nguồn lực cộng đồng đạt cao hơn.

Hiện nay, theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2016 – 2020

gồm 4 nguồn chính và phân theo tỷ lệ: (i) Ngân sách nhà nước (gồm NSTW và

NSĐP, phân thành vốn trực tiếp cho chương trình và vốn lồng ghép) 30%; (ii) Vốn

29

tín dụng 45%; (iii) Vốn doanh nghiệp 15%; (iv) Vốn đóng góp của cộng đồng dân

cư 10%.

3.1.2.5 Chính sách hỗ trợ xây dựng NTM

Căn cứ các văn bản pháp lý và các chính sách của các Bộ, ngành hướng dẫn,

hỗ trợ cho việc thực hiện mỗi nội dung xây dựng NTM, chia thành hai nhóm chính

sách chủ yếu đang được thực hiện hỗ trợ xây dựng NTM gồm:

- Nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp: gồm các chính sách hướng trực tiếp vào

việc hỗ trợ các xã thực hiện 19 tiêu chí NTM. Các Bộ, ngành có liên quan đến lĩnh

vực nào được giao chủ trì lĩnh vực đó và đề xuất với Chính phủ ban hành quy định

cụ thể về chính sách đầu tư, hỗ trợ.

- Nhóm chính sách hỗ trợ gián tiếp: gồm các chính sách hỗ trợ hoạt động xay

dựng NTM, giám tiếp tác động tới việc đạt được các tiêu chí NTM, như: chính sách

đào tạo nghề LĐNT, chính sách khuyến nông, chính sách tín dụng, …

3.2 Tình hình thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM trên cả nước

3.2.1 Tình hình thực hiện từ năm 2011 – 2015

Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai

đoạn 2011 – 2015 của BCĐ Trung ương Chương trình MTQG xây dựng NTM

(2015), tất cả các tỉnh, thành phố đã có BCĐ các cấp từ Trung ương đến tỉnh,

huyện, xã và ở các xã đã có Ban quản lý Chương trình hoặc Ban phát triển thôn,

bản, ấp.

Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh tất cả các cấp nhất là về mục đích, ý

nghĩa, phương châm, các nội dung và cơ chế chính sách của Chương trình. Các cấp

chính quyền, hội và đoàn thể nâng cao vai trò, chủ động trong các hoạt động cũng

như phương tiện truyền thông tích cực tuyên truyền về xây dựng NTM, phát động

nhiều phong trào thi đua gắn với mục tiêu xây dựng NTM; nhiều cơ chế, chính sách

của Trung ương và địa phương được ban hành và áp dụng để thực hiện Chương

trình; hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, đời sống người dân được

nâng lên rõ rệt. Qua đó, sự tin tưởng của người dân vào chủ trương của Đảng, chính

30

sách, pháp luật của nhà nước và sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền được

nâng cao.

Kết quả xây dựng NTM đến cuối năm 2015 đạt nhiều thành tích đáng kể:

mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đạt 24,4 triệu đồng/năm (tăng

khoảng 1,9 lần so với năm 2010); số tiêu chí bình quân/xã là 12,9 tiêu chí (tăng 8,2

tiêu chí so với 2010); 183 xã đạt 10 tiêu chí trở lên là và cả nước có 1.298 xã

(14,5%) được công nhận đạt chuẩn NTM. Tuy nhiên, so với mục tiêu của Chương

trình tại Quyết định số 800/QĐ-TTg thì không đạt tỷ lệ 20 % xã NTM vào năm

2015 (Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, 2015).

Chương trình MTQG xây dựng NTM đã làm thay đổi nhận thức của đa số

người dân, lôi cuốn họ vào xây dựng nông thôn mới. Qua đó, tác động tích cực làm

thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ các cấp chính quyền và người dân từ thụ động

sang chủ động thực hiện các công việc, lựa chọn nội dung ưu tiên, đóng góp công

sức và tích cực tham gia thực hiện, tạo thành một phong trào có sự hưởng ứng sâu

rộng trong cả nước.

Hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt nhiều

vùng nông thôn; điều kiện sống của phần lớn người dân vùng nông thôn được nâng

cao rõ rệt; đồng thời, sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp được chú trọng và tạo

được sự chuyển biến, góp phần tích cực nâng cao thu nhập.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình vẫn chưa đạt được mục tiêu

đề ra theo Nghị quyết số 26-NQ/TW như: chưa quan tâm phát triển sản xuất gắn với

tái cơ cấu ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, đời sống văn hóa và vấn đề bảo vệ môi

trường chưa được quan tâm đúng mức; sự chênh lệch về kết quả thực hiện xây dựng

NTM giữa các vùng, miền và một số địa phương còn mang nặng tính hình thức,

chạy đua theo thành tích. Nguyên nhân là do Chương trình triển khai trong điều

kiện kinh tế còn khó khăn, ngân sách hạn hẹp; xuất phát điểm của đa số các xã còn

thấp; bên cạnh đó nhận thức của một số cán bộ chính quyền địa phương và nhân dân

về NTM còn hạn chế, chưa phát huy tính chủ động; sự lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều

31

cấp ủy và chính quyền địa phương thiếu sâu sát, đôi khi chạy theo thành tích; tiêu

chí, cơ chế chính sách chưa thật sự phù hợp với thực tế tại địa phương.

3.2.2 Tình hình thực hiện từ năm 2016 - 2017

Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện năm 2017 và dự kiến một số nhiệm vụ

trọng tâm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM năm 2018 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), đến hết tháng 11/2017, trên cả nước đã đạt

được nhiều kết quả từ Chương trình như:

- Có 2.884 xã được công nhận đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã

NTM giai đoạn 2016 – 2020 (chiếm tỷ lệ 32,3% và vượt chỉ tiêu năm 2017 có ít

nhất 31% xã đạt chuẩn), tăng 524 xã (5,87%) so với cuối năm 2016; bình quân đạt

13,69 tiêu chí/xã; còn 176 xã dưới 5 tiêu chí, giảm 81 xã so với cuối năm 2016.

- Đối với huyện đạt chuẩn NTM thì đến hết 15/12/2017, cả nước có 43 đơn

vị cấp huyện thuộc 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng

Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM và tăng so với cuối năm 2016 là 13 huyện

(vuợt mục tiêu phấn đấu năm 2017 có ít nhất 38 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng

Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM).

- Huy động trên cả nước được khoảng 217.138 tỷ đồng, trong đó: ngân sách

Trung ương là 9.259 tỷ đồng (4,3%), ngân sách địa phương 22.152 tỷ đồng (10,2%)

và các nguồn vốn huy động khác (Lồng ghép từ chương trình, dự án khác là 26.260

tỷ đồng (12,1%); vốn tín dụng là 140.811 tỷ đồng (64,9%); vốn doanh nghiệp là

7.549 tỷ đồng (3,5%); người dân đóng góp là 11.107 tỷ đồng (5%). Bên cạnh đó,

Trung ương đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phê duyệt chương trình trong giai

đoạn mới; những quy định chức năng, quyền hạn của Văn phòng điều phối; chương

trình khung tập huấn, bồi dưỡng cán bộ tại các xã NTM; nhiều đề án phát triển và

thông tin tuyên truyền về Chương trình MTQG xây dựng NTM, ... Quá trình triển

khai một số địa phương đã chủ động ban hành kế hoạch và tiêu chí nâng chất đối

với các xã, huyện đạt chuẩn NTM; phát huy được các phong trào và xử lý các

nhiệm vụ liên quan đến việc xây dựng NTM.

32

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền ở hầu hết địa phương vẫn còn nhiều hạn

chế; người dân chưa nhận thức đầy đủ về nội dung chương trình và các hoạt động

trong xây dựng NTM; tập trung triển khai đầu tư thực hiện vào các tiêu chí xây

dựng hạ tầng cơ bản nhưng chưa đồng đều và chưa chú ý đên các tiêu chí khác; việc

ban hành các cơ chế, chính sách hướng dẫn triển khai Chương trình xây dựng NTM

trong giai đoạn 2016 – 2020 còn chậm, gây lúng túng và làm giảm tiến độ thực

hiện. Sau nhiều năm triển khai thực hiện đã tìm ra những mô hình NTM mang tính

đặc trưng riêng ở nhiều địa phương.

3.3 Kết quả triển khai Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu

Để triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM theo chỉ đạo

của Trung ương, ngày 24/12/2010, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành

Quyết định số 3505/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án xây dựng NTM tỉnh Bà Rịa

– Vũng Tàu đến năm 2020; trong đó, tập trung xây dựng NTM gắn nông nghiệp với

phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định;

nâng cao dân trí; bảo vệ tốt môi trường sinh thái, hệ thống chính trị ở nông thôn

trong sạch vững mạnh toàn diện; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của dân cư nông thôn; an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững. Đồng thời,

ngày 07/3/2017, UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-UBND về

Chương trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn

2016 – 2020.

Bên cạnh đó, để triển khai một cách toàn diện các nội dung Nghị quyết của

Trung ương và Đề án, Quyết định của UBND tỉnh thì hàng năm các cấp ủy đảng,

chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội từ tỉnh đến huyện, xã đã xây dựng kế

hoạch cụ thể hàng năm và năm năm để thực hiện.

Để tăng tính hiệu quả và triển khai thực hiện Chương trình mang lại thành

công, các cấp chính quyền tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ tỉnh, huyện đến xã đã thành

lập bộ máy BCĐ và bộ phận tham mưu giúp việc, cụ thể: cấp tỉnh được UBND tỉnh

ban hành Quyết định thành lập BCĐ Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Bà

33

Rịa – Vũng Tàu (gọi tắt là BCĐ tỉnh), giúp việc cho BCĐ tỉnh là VPĐP Chương

trình MTQG xây dựng NTM tỉnh (gọi tắt là VPĐP tỉnh) được UBND tỉnh ban hành

Quyết định thành lập và chịu trách nhiệm tổ chức tham mưu BCĐ tỉnh các nội dung

công việc liên quan đến xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh; cấp huyện đã thành lập

BCĐ trong thực hiện các hoạt động xây dựng NTM và thành lập VPĐP NTM tại

các huyện; cấp xã đã thành lập Ban Quản lý xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020.

Nhiệm vụ và quyền hạn của các thành viên trong BCĐ từng cấp được phân công cụ

thể, rõ ràng theo chức năng, lĩnh vực phụ trách của từng đơn vị, cá nhân.

Căn cứ vào Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xây

dựng Bộ tiêu chí NTM của tỉnh. So với Trung ương, Bộ tiêu chí của tỉnh nhiều hơn

về số lượng các tiểu tiêu chí.

* Tình hình thực hiện giai đoạn 2010 - 2015

Trong giai đoạn 2011 – 2015, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xây dựng Chương

trình thực hiện gồm đầu tư thí điểm gồm 6 xã điểm và 21 xã trên địa bàn tỉnh. Theo

Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM (2015), kết quả thực

hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM của BCĐ thực hiện Chương trình MTQG

xây dựng NTM giai đoạn 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016

– 2020 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:

- Tổng nguồn vốn đã bố trí, huy động từ các nguồn cho Chương trình giai

đoạn 2011 – 2015 là 5.115,191 tỷ đồng, trong đó theo cơ cấu nguồn vốn gồm:

NSNN là 1.952,353 tỷ đồng (38,17%); vốn tín dụng là 1.289,865 tỷ đồng (25,22%);

vốn doanh nghiệp là 965,15 tỷ đồng (18,87%); vốn huy động người dân là 868,750

tỷ đồng (16,98%). So với cơ cấu nguồn vốn của Trung ương, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu đã huy động vốn với tỷ lệ gần bằng tỷ lệ của Trung ương cho giai đoạn 2010 –

2015 và với tỷ lệ đóng góp của người dân vượt tỷ lệ nguồn vốn theo Trung ương,

điều đó thể hiện sự chuyển biến về nhận thức của người dân từ chỗ tư tưởng trông

chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước đã chuyển sang chủ động, tự tin tham gia tích

cực vào xây dựng NTM tại địa phương. Bên cạnh đó, ngoài cơ cấu nguồn vốn theo

34

Trung ương, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn huy động được nguồn vốn khác 39,073

tỷ đồng (0,76%) để đầu tư thực hiện Chương trình xây dựng NTM.

- Tổng số tiêu chí đã đạt của 27 xã là 432 tiêu chí, bình quân mỗi xã đạt 16

tiêu chí/xã, tăng thêm 195 tiêu chí so với trước khi xây dựng NTM và có 6 xã điểm

được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn NTM.

- Thu nhập bình quân đầu người của các xã là 33,76 triệu đồng/người/năm,

tăng trung bình khoảng 18,2 triệu đồng (tương đương với gấp 2,2 lần) so với trước

khi xây dựng NTM cuối năm 2012.

* Tình hình thực hiện năm 2016, 2017

Trong giai đoạn 2016 – 2020, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp tục triển khai các

nhiệm vụ của Chương trình xây dựng NTM cho thêm 18 xã. Trong 02 năm thực

hiện đã đạt được những thành công sau:

- Năm 2016, toàn tỉnh đã có 19/45 xã đạt 19/19 tiêu chí; tổng số tiêu chí đã

đạt đến nay của 45 xã là 601 tiêu chí (tăng thêm 169 tiêu chí so với cuối năm 2015);

bình quân số tiêu chí đạt được của mỗi xã là 13,4 tiêu chí. Thu nhập bình quân đầu

người đạt khoảng 34, 9 triệu đồng/người/năm, vượt chỉ tiêu đặt ra về tiêu chí thu

nhập trong năm 2016 của tỉnh BRVT. Tổng nguồn vốn đầu tư cho Chương trình

MTQG xây dựng NTM là 1.976,260 tỷ đồng, trong đó: NSNN là 726,628 tỷ đồng

(36,9%); vốn tín dụng là 841,199 tỷ đồng (42,57%); vốn doanh nghiệp là 147,992 tỷ

đồng (7,49%); huy động nhân dân đóng góp là 256,971 tỷ đồng (13%) và huy động

nguồn khác 0,470 tỷ đồng (0,02%).

- Năm 2017, toàn tỉnh có 20/45 xã được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn

nông thôn mới và 03 xã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí. Thu nhập bình quân đạt khoảng

39,9 triệu đồng/người/năm, tăng khoảng 25,68 triệu đồng so với trước khi xây dựng

NTM. Tổng số tiêu chí đạt được của 45 xã là 633 tiêu chí, trung bình đạt 14 tiêu

chí/xã. Tổng nguồn vốn đầu tư cho Chương trình MTQG xây dựng NTM năm 2017

là 2.115,346 tỷ đồng, trong đó: NSNN là 543,200 tỷ đồng (25,68%); vốn tín dụng là

1.079,916 tỷ đồng (51,05%); vốn doanh nghiệp là 209,435 tỷ đồng (9,9%); huy

động nhân dân đóng góp là 282,795 tỷ đồng (13,37%).

35

Hiện nay, có 41/45 xã lập và được phê duyệt quy hoạch xây dựng NTM, đạt

tỷ lệ 82%; Về hạ tầng kinh tế - xã hội: 24/45 xã đạt tiêu chí Giao thông (tỷ lệ

53,3%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thủy lợi (tỷ lệ 86%); 31/45 xã đạt tiêu chí Điện nông

thôn và tiêu chí Trường học (tỷ lệ 68,8%); 27/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở vật chất văn

hóa (tỷ lệ 60%); 36/45 xã đạt tiêu chí Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn (tỷ lệ

80%); 39/45 xã đạt tiêu chí Thông tin truyền thông (tỷ lệ 86,6%) và 36/45 xã đạt

tiêu chí về nhà ở, chiếm tỷ lệ 80%.

3.4 Chọn mẫu nghiên cứu

Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay có 45 xã trong Chương trình MTQG xây

dựng NTM nằm trên 6 huyện, thành phố. Dựa trên số lượng xã nằm trên địa bàn

từng huyện, thành phố; đồng thời, dựa trên kết quả báo cáo tình hình thực hiện

Chương trình MTQG xây dựng NTM theo từng năm, NNC nhận thấy cần phải lựa

chọn ngẫu nhiên từng hộ thuộc các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh để trực tiếp

phát phiếu khảo sát và thu thập thông tin của đối tượng được phát phiếu. Tổng số

đối tượng được phát phiếu khảo sát trực tiếp thu thập thông tin tra là 200 hộ, tổng số

phiếu hợp lệ đầy đủ thông tin là 200 phiếu (đạt tỷ lệ 100%) được phân bố cụ thể

như sau:

36

Bảng 3.1 Số liệu mẫu điều tra

Tổng thể Mẫu điều tra

Huyện/thành phố Số xã xây Tỷ lệ Số hộ Tỷ lệ dựng NTM

Huyện Châu Đức 15 33,33 % 50 25%

Huyện Xuyên Mộc 12 26,67% 50 25%

Huyện Đất Đỏ 6 13,33% 30 15%

Huyện Long Điền 5 11,11% 30 15%

Huyện Tân Thành 4 8,89% 20 10%

Thành phố Bà Rịa 3 6,67% 20 10%

Tổng cộng 45 100% 200 100%

(Nguồn: Tác giả thiết kế dựa trên số liệu khảo sát)

Thông tin NNC tiến hành điều tra thu thập để phân tích được kết quả về mức

độ tham gia của người dân trong chương trình MTQG xây dựng NTM trên phiếu

khảo sát gồm 5 phần:

Phần I: Thông tin chung. Giới thiệu sơ lược về đối tượng cung cấp thông tin

để đánh giá được tình hình triển khai và kết quả đạt được của huyện, thành phố.

Phần II: Tiếp cận thông tin về Chương trình. Nhận thức của người dân về

các nội dung thuộc Chương trình MTQG xây dựng NTM và cách thức tiếp cận

thông tin mà người dân thường nghe để biết được Chương trình MTQG xây dựng

NTM đang triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh.

Phần III: Tham gia bàn về xây dựng NTM. Đánh giá việc quan tâm của

chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện cho người dân tham gia các cuộc

37

họp và đóng góp ý kiến về công tác quy hoạch, lập đề án quy hoạch, nguồn vốn và

lựa chọn những việc nên làm trước phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương để

phát huy tối đa kết quả của các công việc.

Phần IV: Tham gia trực tiếp. Đánh giá mức độ tham gia, hình thức đóng góp

và nhận định của các hộ về mức đóng góp và hình thức đóng góp để kịp thời đề xuất

giải pháp giải quyết nếu phát sinh những khó khăn.

Phần V: Giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng. Đánh giá các hình thức

tạo điều kiện của chính quyền địa phương để người dân tham gia vào các công việc

giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng những công trình khi đã đi vào hoạt động

cũng như đánh giá mức độ chủ động của người dân vào các hoạt động trên để đề

xuất những giải pháp tăng cường sự chủ động của người dân tham gia vào hoạt

động Chương trình MTQG xây dựng NTM.

3.5 Thực trạng người dân tham gia trong xây dựng NTM

3.5.1 Người dân nắm bắt thông tin về Chương trình

Để người dân quan tâm và tích cực tham gia vào Chương trình thì điều đầu

tiên quan trọng, cần thiết nhất là phải cung cấp những thông tin cho người dân để từ

đó người dân nắm bắt được thông tin và nhận biết được những lợi ích mà chương

trình đem lại bởi người dân sẽ chỉ tham gia khi nắm bắt được các lợi ích có liên

quan. Vì vậy, trong xây dựng NTM tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, BCĐ các cấp đã

tham mưu cho UBND các cấp ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, các

chương trình, kế hoạch và văn bản thực hiện nhiệm vụ để đạt được các mục tiêu đề

ra tại Nghị quyết số 26-NQ/ĐH ngày 23/10/2010 trên địa bàn một cách hiệu quả.

Theo Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM (2015) tại

báo cáo tổng kết về NTM của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2011 – 2015, tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu đã tổ chức công tác tuyên truyền, phát động phong trào chung

sức xây dựng NTM bằng nhiều hình thức như: xây dựng nhiều chuyên mục về NTM

và phối hợp với Đài phát thanh truyền hình, Báo BRVT phát sóng các bản tin,

phóng sự cũng như in ấn, phát hành các tài liệu có liên quan đến nội dung NTM để

cấp phát cho các địa phương sử dụng trong việc tuyên truyền, hỗ trợ các xã xây

38

dựng pano, áp phích, băng rôn tuyên truyền. Bên cạnh đó, tại các huyện cũng đã tổ

chức các chương trình tuyên truyền; thường xuyên thông tin và tuyên truyền trên

đài phát thanh cũng như tiến độ thực hiện các tiêu chí tại địa phương; mở các

chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền và tổ chức các Hội nghị, Hội thảo để người

dân và các tổ chức nâng cao nhận thức về NTM. Ngoài ra, Ban vận động tuyên

truyền xã kết hợp với Ban vận động phát triển các ấp tổ chức họp dân theo từng tổ

địa bàn để tuyên truyền, vận động nhân dân tự nguyện đăng ký hưởng ứng các cuộc

vận động theo nội dung 19 tiêu chí. Nhờ đó, khi được hỏi về CT MTQG xây dựng

NTM thì có 100% người dân được khảo sát tại các xã đều biết CT MTQG xây dựng

NTM. Qua đó, thấy được hiệu quả mang lại từ những hoạt động tuyên truyền của

tỉnh và huyện rất cao. Tuy nhiên khi hỏi về các nội dung của CT MTQG xây dựng

NTM như: các nội dung của CT, các tiêu chí của CT, thời gian bắt đầu CT và các

chính sách hỗ trợ xây dựng NTM thì tương đối người dân biết đến và chiếm tỷ lệ

nhiều nhất là 75% biết về các tiêu chí NTM, tiếp theo là thời gian bắt đầu CT, các

nội dung CT và cuối cùng là các chính sách hỗ trợ xây dựng NTM.

Hình 3.1 Tỷ lệ người dân biết các thông tin về Chương trình NTM

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

39

Phần lớn các thông tin về Chương trình NTM được người dân tại các xã tiếp

cận thông qua các buổi họp tại địa phương chiếm tỷ lệ 83,3% vì các thôn, ấp là nơi

người dân sinh sống nên việc người dân sẽ dễ dàng tiếp cận và biết thông tin nhanh

nhất. Đồng thời, tại các buổi họp, người dân được lắng nghe và trao đổi trực tiếp

những thắc mắc của mình về Chương trình đến những cán bộ phụ trách. Việc trao

đổi hai chiều giữa cán bộ và người dân không những giúp người dân hiểu sâu hơn

về chương trình, từ đó nâng cao nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mình đối

với hoạt động xây dựng NTM. Mà qua việc tiếp xúc còn giúp cho người cán bộ có

thể nắm rõ những tâm tư, nguyện vọng của người dân để từ đó có hướng đề xuất

giúp hoàn thiện chương trình NTM tại địa phương. Kênh thông tin tiếp theo mà

người dân cũng dễ dàng tiếp cận đó là qua việc đọc/nghe báo, đài, tivi chiếm 66,7%

thông qua việc đẩy mạnh phong trào chung sức xây dựng NTM bằng nhiều hình

thức như: xây dựng chuyên mục, thời sự, phối hợp phát sóng các thông tin về NTM,

... Bên cạnh đó, việc người dân tiếp cận thông tin từ nguồn khác như tự tìm hiểu để

biết về Chương trình NTM chỉ chiếm phần nhỏ khoảng 22,2%.

Hình 3.2 Tỷ lệ nguồn tiếp cận thông tin của người dân về NTM

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

40

Tuy nhiên, khi được hỏi về các nội dung đầu tư tại địa phương thì có khoảng

53% tỷ lệ người dân được khảo sát không hề biết đến, chỉ có khoảng 47% tỷ lệ

người dân được biết. Điều này chứng tỏ rằng chính quyền địa phương chưa quan

tâm và thông báo cho người dân biết về các nội dung đầu tư. Bên cạnh đó, cũng có

địa phương đã thực hiện tốt để người dân hiểu rõ và phát huy tối đa vị trí trong xây

dựng NTM, muốn người dân được biết các công trình để tham gia góp ý hoàn thiện

Chương trình gồm các huyện: Châu Đức, Đất Đỏ và Long Điền.

Qua khảo sát, tỷ lệ người dân biết đến các nội dung đầu tư tại địa phương họ

sinh sống chiếm tỷ lệ 47%, bên cạnh đó số lượng người dân không biết thông tin

chiếm tỷ lệ khá cao 53% và phân theo số lượng phiếu khảo sát tại từng huyện, thành

phố như sau:

41

Bảng 3.2 Tỷ lệ người dân biết về các nội dung đầu tư theo từng địa phương

Tỷ lệ % tổng số

Có Không phiếu điều tra đã

Huyện/thành phố phát/đơn vị

Tần số % Tần số % Có Không

Thành phố Bà Rịa 7 3,5 6,5 35% 65% 13

Huyện Long Điền 14 16 7 8 46,7% 53,3%

Huyện Đất Đỏ 15 15 7,5 7,5 50% 50%

Huyện Xuyên Mộc 20 30 10 40% 60% 60

Huyện Châu Đức 28 22 14 56% 44% 11

Huyện Tân Thành 8 12 4 40% 60% 6

47 53 Tổng 94 106

(Nguồn: Tác giả thiết kế dựa trên số liệu khảo sát)

Xây dựng NTM là một nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, thường

xuyên, lâu dài và đầy nỗ lực với mục tiêu cao đẹp, xuyên suốt và quan trọng là nâng

cao đời sống người dân tại nông thôn. Vì vậy mọi người dân phải biết được những

nội dung của Chương trình để hiểu và có cơ sở đóng góp những ý kiến để Chương

trình ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn. Để chủ trương này trở thành hiện thực,

Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, Nghị định, Nghị quyết nhằm triển khai

chủ trương này và tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành các chương trình, kế

hoạch và nhiều văn bản hướng dẫn, cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị

quyết đạt kết quả, xây dựng. Bên cạnh đó, nhằm giúp người dân, các Sở, ngành,

chính quyền tại địa phương hiểu và triển khai hiệu quả các tiêu chí, ngày 6/3/2017,

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 452/QĐ-UBND về việc ban hành Bộ tiêu

42

chí xã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016 – 2020 thực hiện trên địa bàn tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu và để cụ thể hóa Quyết định của UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn – Thường trực Ban Chỉ đạo Chương trình đã ban hành Quyết định

số 106/QĐ-SNN-VPĐP ngày 31/3/2017 ban hành Sổ tay hướng dẫn thực hiện Bộ

tiêu chí xã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016 – 2020, thực hiện trên địa bàn tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu và tăng cường tuyên truyền về xây dựng NTM đến toàn thể cán bộ

Đảng viên, công chức, các thành phần kinh tế và người dân trên địa bàn tỉnh để mọi

người, mọi thành phần đều được biết, hiểu và thực hiện.

Rõ ràng cấp ủy, chính quyền các cấp và cả hệ thống chính trị có trách nhiệm

nâng cao nhận thức của người dân về Chương trình; đồng thời, người nông dân –

với vai trò là chủ thể của Chương trình phải là người được quán triệt những nội

dung, nhiệm vụ cần thiết để phát triển xây dựng NTM. Nếu người nông dân không

hiểu rõ về Chương trình cũng như những nhiệm vụ cần thực hiện thì họ không thể

góp sức cùng với các Sở, ngành, địa phương để hoàn thành các tiêu chí và điều

chỉnh, bổ sung các tiêu chí để phù hợp hơn với từng địa phương nơi họ sinh sống.

Thông qua vấn đề khảo sát về tình hình nắm bắt thông tin Chương trình

NTM của người dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhận thấy rằng để nâng cao vai trò

của nông dân trong xây dựng nông thôn mới thì các cấp chính quyền phải phát huy

được tính chủ động, tích cực tổ chức các lớp tuyên truyền, phát động các phong trào

và phát sóng các Chương trình NTM, định hướng thông qua việc trao đổi nhằm bồi

dưỡng và giúp người dân hiểu về ý nghĩa, nhiệm vụ, nắm bắt được nhiều thông tin

của Chương trình và từ đó, người dân sẽ đóng góp các ý kiến để Chương trình đi

đúng mục tiêu, phát triển phù hợp với địa phương.

3.5.2 Người dân tham gia ý kiến

Đây là mức cao hơn trong hoạt động xây dựng NTM của người dân. Qua

việc khảo sát tại mức độ này, NNC đánh giá được nhận thức của người dân về vai

trò của mình trong việc xây dựng NTM cũng như nhu cầu và nguyện vọng để thực

hiện các kế hoạch NTM. Ở mức độ này đòi hỏi người dân cần có hiểu biết nhất định

43

về Chương trình, đóng góp ý kiến để Chương trình đi đúng mục tiêu và đảm bảo

quyền lợi cho chính bản thân và cộng đồng.

Khi được hỏi sự cần thiết đóng góp ý kiến của người dân vào xây dựng NTM

thì có 71,5% người dân trả lời Có với nguyên nhân là: người dân bỏ ra một phần

trong kinh phí để thực hiện các nội dung Chương trình; xây dựng NTM mục đích

cuối cùng đạt đến chính là thay đổi đời sống của các hộ dân tại vùng nông thôn theo

hướng tích cực hơn vì vậy người dân có quyền được đóng góp ý kiến để giúp việc

thực hiện hoàn thành Chương trình nhanh hơn. Bên cạnh đó, vẫn còn có người nhận

định rằng không cần thiết phải đóng góp ý kiến chiếm 28,5% với nguyên nhân là họ

không quan tâm, đó là trách nhiệm của người phụ trách và của nhà nước hoặc có

đóng góp ý kiến cũng không biết có được ghi nhận và chỉnh sửa. Qua kết quả khảo

sát, một số người dân chưa nhận thấy và chưa thể hiện được vai trò bằng việc tham

gia các ý kiến, họ chưa thực sự hiểu bản chất của Chương trình MTQG xây dựng

NTM là phải có ý kiến của người dân thì Chương trình mới thực sự phù hợp và

mang lại hiệu quả.

Các cuộc họp tại địa phương, người dân tham gia với nhiều mức độ khác

nhau để bàn bạc các vấn đề liên quan đến NTM, chủ yếu là ở dạng truyền đạt những

thông tin cho người dân biết. Qua cuộc khảo sát, cho thấy tỷ lệ khoảng 30% người

dân là thường xuyên được mời tham dự các cuộc họp; tỷ lệ 53,3% người dân thỉnh

thoảng được mời tham dự và tỷ lệ 16,7 % người dân chưa từng được mời. Sự tham

gia các cuộc họp không đồng đều do tính chất đặc thù công việc của từng hộ dân.

Bên cạnh đó, những người tham gia thường xuyên thường là cán bộ, công chức

đảng viên và những cá nhân điển hình trong sản xuất, có đóng góp trong việc xây

dựng chính quyền địa phương.

44

Hình 3.3 Tỷ lệ người dân được mời tham gia các cuộc họp

(Nguồn: Tác giả vẽ dự trên số liệu khảo sát)

Ngoài ra, khi được hỏi các hoạt động về vấn đề có liên quan NTM được đưa

ra bàn bạc, thảo luận và thông báo đến người dân tại địa phương công khai như: (1)

công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM; (2) nội dung sử dụng và hình thức

quản lý các khoản đóng góp của dân; (3) nguồn vốn và chi phí của các công trình

NTM; (4) lựa chọn những việc nên làm trước trong xây dựng NTM thì qua kết quả

khảo sát, ta nhận thấy chính quyền địa phương đã không tạo điều kiện cho người

dân được tham gia góp ý kiến vào các vấn đề trên, vì vậy tương ứng các nội dung

được đưa ra bàn bạc, thảo luận và thông báo công khai tại địa phương đạt tỷ lệ rất

thấp gồm: chiếm tỷ lệ 48,5 % nội dung trong công tác lập quy hoạch, đề án xây

dựng NTM; nguồn vốn, chi phí của các công trình chiếm tỷ lệ là 47 %; quản lý và

sử dụng nguồn vốn với tỷ lệ 41,5% và thấp nhất là việc bàn bạc công khai để lựa

chọn những việc nên làm trước. Điều đó đồng nghĩa với việc chính quyền địa

phương đã không nhận thấy được muốn để Chương trình đạt kết quả tốt và hoàn

thành nhanh nhất thì cần đưa người dân tham gia vào trong các hoạt động vì họ

chính là đối tượng sau cùng hưởng thụ những kết quả mà Chương trình hướng tới

45

nên họ sẽ biết được nhu cầu, nguyện vọng của mình cần những gì để góp ý, bàn

luận hoàn thiện.

Hình 3.4 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát tại từng huyện, thành phố trong tổng số tỷ

lệ khảo sát trả lời “Có” về vấn đề trên thì các huyện như: Châu Đức, Long Điền và

Đất Đỏ đã đưa các hoạt động này ra để bàn bạc, thảo luận và thông báo công khai

cho người dân tại địa phương được biết và tham gia với tỷ lệ chiếm tương đối cao

theo từng hoạt động như sau:

46

Bảng 3.3 Tỷ lệ các vấn đề NTM được đưa ra thảo luận, bàn bạc công khai theo

từng địa phương

Các hoạt động

Nội dung sử Lựa chọn dựng và hình Nguồn vốn, Công tác lập quy những việc thức quản lý, chi phí của Huyện/thành phố hoạch, đề án xây nên làm trước các khoản các công trình dựng NTM trong xây đóng góp của NTM dựng NTM dân

Tần số % Tần số % Tần số % Tần số %

Thành phố Bà Rịa 10 3 15 7 2 10 2 35

Huyện Long Điền 66,7 13 43,3 15 13 43,3 20 50

Huyện Đất Đỏ 63,3 18 17 56,7 11 36,7 60 19

Huyện Xuyên Mộc 40 19 40 20 11 22 20 38

Huyện Châu Đức 52 27 58 26 29 58 29 54

Huyện Tân Thành 15 9 20 3 5 25 4 45

(Nguồn: Tác giả thiết kế dự trên số liệu khảo sát)

Bên cạnh đó, chính quyền địa phương chưa thật sự tạo điều kiện cho người

dân tham gia vào công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM để người dân thể

hiện được vai trò của mình nên chỉ có 26,5% trong tổng số người được khảo sát là

đã từng tham gia. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thì trong số người đã từng tham

gia thì họ tham gia với những hình thức khác nhau, phần lớn họ đi theo ý thích, tiếp

theo là được cử đi và sau cùng là họ quan tâm và muốn góp ý để việc lập quy hoạch

và đề án xây dựng NTM tại địa phương được hoàn thiện. Đối với những người chưa

47

tham gia chiếm tỷ lệ 73,5% thì phần lớn là họ không được mời nhưng vẫn có người

muốn được tham gia vào các vấn đề trên. Tiếp theo là những người với lý do không

quan tâm và không có thời gian thì họ cho rằng đây là công việc mang tính chất kỹ

thuật chuyên môn, thường là do các cơ quan, đơn vị được chỉ định xây dựng làm

việc với các Ban quản lý tại địa phương; đồng thời phần lớn người dân tại các xã

cho rằng mức học vấn không đủ nên họ không quan tâm hoặc không tham gia vào

công tác quy hoạch mặc dù có tham dự cuộc họp.

Tuy nhiên, theo quy định, để công tác lập quy hoạch và đề án xây dựng

NTM thật sự đạt kết quả, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng thì cần phải có ý kiến góp

ý của người dân tại địa phương. Sự tham gia sẽ mang lại kết quả tốt nhất vì chính

người dân tại địa phương nơi mình sinh sống biết rõ nhất là họ cần gì, khả năng

thực hiện, sẽ được hưởng lợi gì từ việc đầu tư thực hiện CT xây dựng NTM và công

sức của họ bỏ ra trong thực hiện lập quy hoạch, đề án để từ đó người dân tham gia

một cách chủ động, làm tăng ý thức, trách nhiệm cộng đồng dân cư. Như vậy, qua

việc khảo sát có thể thấy công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM tại các địa

phương thiếu thực tiễn vì yếu tố về người dân chưa thật sự được chú trọng.

Bên cạnh đó, công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM là điều quan

trọng bởi nó gắn liền với việc lựa chọn mục tiêu và các chương trình hành động

trong tương lai, tránh được sự lãng phí và dư thừa nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo

tiến trình xây dựng đạt được kết quả tốt, giúp chính quyền và người dân cân nhắc

những hoạt động nào quan trọng cần thực hiện trước, thời gian thực hiện, nguồn lực

thực hiện, ... để đưa đến sự thành công. Khi được hỏi về yếu tố nào quyết định việc

lập kế hoạch cho các hoạt động xây dựng NTM thì kết quả khảo sát cho thấy người

dân đã cảm nhận được vai trò của mình khi có đến 54% người dân trả lời việc lập kế

hoạch yếu tố quyết định là ý kiến của người dân với lý do là Chương trình ảnh

hưởng trực tiếp đến cuộc sống của chính bản thân họ, và họ biết điều gì cần làm tiếp

theo để góp ý lập kế hoạch cho các hoạt động triển khai năm sau tại địa phương.

48

Hình 3.5 Các yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch (Tỷ lệ khảo sát %)

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Theo như hình 3.5, ta nhận thấy tỷ lệ ý kiến người dân cho rằng ý kiến của

chính quyền các cấp mới là yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch tại địa phương

cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao lên tới 46% (bao gồm các ý kiến của xã; huyện, tỉnh

và Trung ương). Kết quả này phản ánh thực tế tại các địa phương trên địa bàn tỉnh

là người dân mặc dù có nhu cầu, nguyện vọng và biết cần thực hiện những hoạt

động gì tiếp theo để trể khai Chương trình đạt hiệu quả tốt nhất nhưng vẫn còn tâm

lý dựa dẫm vào sự giúp đỡ từ chính quyền các cấp và chưa thật sự chủ động trong

các hoạt động. Bảng tổng hợp dưới đây sẽ cho thấy nhận thức của người dân từng

huyện, thành phố về vấn đề lập kế hoạch tại địa phương.

49

Bảng 3.4 Tổng hợp ý kiến về yếu tố quyết định việc lập kế hoạch tại địa

phương theo từng năm

Ý kiến của Ý kiến của Ý kiến của Ý kiến của xã người dân huyện, tỉnh trung ương Huyện/ thành phố

Tần số % Tần số % Tần số % Tần số %

Thành phố Bà Rịa 10 50 3 15 5 25 2 10

Huyện Long Điền 19 63,3 3 10 6 20 2 6,7

Huyện Đất Đỏ 18 13,3 16,7 4 5 3 10 60

Huyện Xuyên Mộc 24 9 18 12 24 5 10 48

Huyện Châu Đức 28 7 14 10 20 5 10 56

Huyện Tân Thành 9 2 10 7 35 2 10 45

(Nguồn: Tác giả thiết kế dựa trên số liệu khảo sát)

Khi được hỏi về mức độ tham gia của người dân trong xây dựng NTM thì

những người được hỏi đều nhận thấy mức độ tham gia từ đơn giản như không cần

phải tham gia đến mức độ cao nhất ra quyết định. Kết quả khảo sát cho thấy người

dân chú trọng đến việc tham gia bàn và đóng góp ý kiến, tỷ lệ này chiếm 43,5% số

người được hỏi. Tuy nhiên người dân chưa cảm nhận hết vai trò của mình trong xây

dựng NTM khi chỉ có 10,5% lựa chọn rằng người dân cần phải tham gia vào việc ra

quyết định.

50

Hình 3.6 Tỷ lệ mức độ người dân cần được tham gia trong xây dựng

NTM

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Qua cuộc khảo sát trên, chỉ khi nào người dân cảm nhận được vai trò của

mình thì việc xây dựng NTM đối với họ mới trở thành chính nhu cầu tự bản thân họ

cố gắng để hoàn thành. Đây cũng chính là cơ sở quyết định việc xây dựng NTM

thành công và bền vững.

Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM được Chính phủ ban hành áp dụng trong

giai đoạn 2016 – 2020 trên phạm vi cả nước với nhiều tiểu tiêu chí nhỏ bắt buộc

mỗi tỉnh, thành phố phải đạt yêu cầu thì mới được công nhận là một xã NTM. Đồng

thời để đạt được công nhận thì mỗi tỉnh, thành phố trên cả nước phải phấn đấu và

nỗ lực hết sức mình bằng việc xây dựng những chương trình, kế hoạch và cụ thể

hóa bằng những hành động thiết thực, nhiệm vụ phù hợp với tình hình thực tế tại địa

phương do mỗi địa phương có những điểm bắt đầu khác nhau, điều kiện tự nhiên,

kinh tế, xã hội không tương đồng. Từ đó, cần phải tạo ra những biện pháp hữu hiệu

để người dân tham gia và Chương trình một cách tự nguyện, tạo môi trường để

người dân tham gia ý kiến góp ý xây dựng, ... Chỉ khi yếu tố con người được phát

huy tối đa thì mới rút ngắn khoản cách về thời gian đạt được mục tiêu và tạo nên

thành công của Chương trình.

51

3.5.3 Người dân tham gia thực hiện

Ở mức độ này, đánh giá sự tham gia thực hiện của người dân qua việc đưa ra

quyết định về hình thức và mức đóng góp. Theo đó, vốn huy động từ người dân

tham gia Chương trình giai đoạn 2011 – 2015 là l868,750 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ là

16,98%) trong tổng số nguồn vốn đầu tư cho Chương trình, vượt chỉ tiêu đề ra theo

cơ cấu nguồn vốn của Trung ương tại Quyết định số 800/QĐ-TTg. Điều này cho

thấy rằng người dân đã ý thức về vai trò trách nhiệm và quan tâm đến các vấn đề

xây dựng NTM. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát khi hỏi người dân về việc đóng

góp vào các công trình ở địa phương thì có 93% tỷ lệ người dân tham gia đóng góp,

số còn lại chiếm tỷ lệ 7% là chưa tham gia vì chủ yếu người dân được khảo sát nằm

trong hộ nghèo, người tàn tật nên họ không có khả năng về tài chính cũng như công

sức để tham gia.

52

Bảng 3.5 Mức độ tham gia đóng góp của người dân vào công trình

Tham gia đóng góp vào các công trình tại địa phương

Huyện/ thành phố Có Không

Tần số Tần số % %

Thành phố Bà Rịa 18 2 1 9

Huyện Long Điền 28 2 1 14

Huyện Đất Đỏ 27 3 1,5 13,5

Huyện Xuyên Mộc 46 4 2 23

Huyện Châu Đức 48 2 1 24

Huyện Tân Thành 19 1 0,5 9,5

Tổng 186 14 7 93

(Nguồn: Tác giả thiết kế dự trên số liệu khảo sát)

Đối với việc đầu tư các công trình tại địa phương, tỉnh đã chỉ đạo ưu tiên

thực hiện đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động sản xuất của người

dân tại nông thôn như đường giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội

đồng, đầu tư nâng cấp hệ thống điện phục vụ sản xuất của người dân đê phục vụ tốt

nhu cầu sản xuất của người dân. Vì vậy khi được hỏi các công trình mà ông bà đã

tham gia đóng góp thì người dân trả lời: đường làng, ngõ xóm và kênh mương nội

đồng, có đến 87,5% tỷ lệ người dân được khảo sát trả lời là tham gia xây dựng

đường làng, ngõ xóm và 91,5% tỷ lệ người dân trả lời tham gia xây dựng kênh

mương nội đồng. Đây là hai nội dung liên quan đến xây dựng NTM mà theo chính

quyền tại các địa phương thì người dân có thể chủ động thực hiện theo sự hướng

dẫn và thiết kế của các đơn vị chuyên môn.

53

Hình 3.7 Tỷ lệ các công trình người dân tham gia

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Việc đóng góp nguồn lực để xây dựng NTM của người dân cũng rất đa dạng,

từ việc đóng góp tiền bạc, hiện vật, hiến đất đến ngày công lao động. Khi khảo sát

thực tế theo từng huyện, thành phố tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hình thức đóng góp

chủ yếu của người dân thông qua việc hiến đất chiềm tỷ lệ 83,5% và ngày công lao

động chiếm tỷ lệ 90,5%. Với phần lớn người dân sống tại vùng nông thôn, thu nhập

thường thấp và chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuât nông nghiêp, vì vậy việc

đóng góp tiền bạc còn hạn chế. Mặt khác, với đa số người dân làm nghề nông

nghiệp thì hình thức góp bằng công lao động và hiến đất sẽ thích hợp và tương xứng

với khả năng của người dân. Hầu hết các đóng góp của người dân đều là các công

trình tại địa phương như đã khảo sát ở trên đều là các công trình hạ tầng thiết yếu để

phục vụ cho sinh hoạt thường ngày như đường làng ngõ xóm và cho hoạt động sản

xuất như kênh mương nội đồng.

54

Hình 3.8 Tỷ lệ hình thức đóng góp của người dân

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Theo Báo cáo kết quả Chương trình giai đoạn 2011 – 2015, tại các xã xây

dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đầu tư 514,46km đường giao

thông nông thôn với tổng kinh phí đầu tư là 858,557 tỷ đồng (huy động vốn người

dân đóng góp chiếm tỷ lệ 12,2%, gồm: đường trục xã, liên xã 28,7km; đường trục

thôn, xóm 241,06km; đường ngõ xóm 103,98km; đường nội đồng 140,72km;

mương thoát nước 2,11km. Việc xây dựng đường giao thông nông thôn các loại

được huy động từ việc hiến đất và công lao động của người dân để giúp hoàn thành

nhanh nội dung đầu tư CT MTQG xây dựng NTM.

Quyền quyết định việc lựa chọn hình thức và mức đóng góp vào các công

trình tại địa phương đều phụ thuộc vào chính quyền, người dân không được bàn

bạc, góp ý để đưa ra quyết định áp dụng hình thức và mức đóng. Tuy nhiên, chính

quyền địa phương không giao chỉ tiêu để người dân đóng góp thực hiện nội dung

đầu tư, mà trên tinh thần người dân được vận động và sự tự nguyện đóng góp bằng

hình thức ngày công và hiến đất, không có sự can thiệp của chính quyền. Vì vậy,

khi được hỏi về mức đóng góp so với khả năng kinh tế gia đình thì có đến 89,5% tỷ

lệ người dân trả lời phù hợp. Qua khảo sát thấy được, chính quyền địa phương đã

không chạy theo thành tích để cố gắng huy động, đưa ra chỉ tiêu bắt buộc người dân

55

đóng góp mà thông qua việc vận động để nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác của

người dân.

Một nhóm tiêu chí quan trọng của xã NTM là về kinh tế và tổ chức sản xuất,

đặt ra yêu cầu phát triển toàn diện sản xuất nông nghiệp theo hướng: nâng cao chất

lượng để đảm bảo an toàn; gia tăng về số lượng để tạo nguồn cung bền vững cung

ứng ra thị trường và tạo vùng liên kết sản phẩm trong tiêu thụ hiện đại góp phần

nâng cao kinh tế, cải thiện đời sống cho người dân. Để đạt được nhóm tiêu chí trên,

người dân phải thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng các tiến

bộ công nghệ vào trong sản xuất để tiết kiệm thời gian, chi phí, tạo sản phẩm an

toàn. Vì vậy, bên cạnh tham gia những hoạt động xây dựng công trình thiết yếu thì

người dân tại các huyện, thành phố còn tham gia vào hoạt động tạo giá trị sản phẩm

nông sản trong sản xuất.

Trong giai đoạn 2011 – 2015, các xã tham gia Chương trình đã thực hiện các

hoạt động: vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả

sang những cây trồng có giá trị cao hơn như cây hồ tiêu, nhãn xuồng cơm vàng,

thanh lonh ruột đỏ, bưởi da xanh, mãng cầu ta, …. ; vận động người dân thực hiện

nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả, góp phần lớn trong việc nâng cao thu nhập cho

người dân như sản xuất cây ăn trái chuyên canh, nuôi các vật nuôi đặc sản kết hợp

du lịch sinh thái, trồng hoa trong nhà lưới, trồng nấm, … ; hướng dẫn lập phương án

sản xuất, ứng dụng các tiến bộ công nghệ vào sản xuất; đào tạo nghề để giải quyết

việc làm cho nhiều lao động nông thôn; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất.

Bằng những hành động thiết thực đã cải thiện về thu nhập (tăng 2,2 lần so với năm

2010); tỷ lệ hộ nghèo quốc gia của các xã giảm đáng kể, đã xét thoát nghèo cho

khoảng 1.472 hộ nghèo quốc gia nhờ thực hiện nhiều chính sách an sinh xã hội có

hiệu quả; tăng tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên lên 90,4%; gia tăng đáng kế

việc thành lập các hình thức tổ chức sản xuất (Hợp tác xã, Tổ hợp tác) hoạt động có

hiệu quả.

56

3.5.4 Người dân tham gia giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng

Đây là giai đoạn cuối cùng đánh giá mức độ người dân tham gia. Người dân

chính là người được thụ hưởng những thành quả trong xây dựng NTM nên họ hiểu

rõ nhất nhu cầu của mình. Vì vậy, trong quá trình triển khai cũng như khi đi vào

hoạt động, người dân có quyền tham gia giám sát, quản lý thông qua đại diện hoặc

bằng những hành động thiết thực.

Khi được hỏi về việc tham gia vào quá trình giám sát,quản lý, vận hành, bảo

dưỡng các công trình tại địa phương thì có đến 84,5% tỷ lệ người dân được khảo sát

trả lời chưa tham gia.

Hình 3.9 Tỷ lệ người dân tham gia vào quá trình thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Qua kết quả khảo sát, nhận thấy chính quyền địa phương đã không tạo điều

kiện để người dân tham gia giám sát, quản lý các công trình bằng những hành động

thiết thực.

Nguyên nhân lý giải của vấn đề do người dân cho rằng đây là việc của chính

quyền nên họ không có trách nhiệm, không cần phải tham gia đối với những công

57

việc này chiếm tỷ lệ 58%; với tỷ lệ 23,07% là người dân không quan tâm và 18,93%

là người dân không biết thông tin để tham gia các hoạt động.

Hình 3.10 Nguyên nhân người dân không tham gia thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Đối với các hoạt động thuộc phạm vi quản lý, giám sát sau khi hoàn thành

các công trình thì người dân phải tham gia tích cực hơn vì trong quá trình thực hiện

công trình, người dân cũng góp một phần của cải thông qua việc hiến đất và ngày

công lao động nên mọi người dân đều có trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng

các công trình thiết yếu nhằm đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả. Tuy nhiên, qua kết

quả khảo sát thì phần lớn những người dân thường thờ ơ các hoạt động này vì họ

cho rằng đã có Ban giám sát tham gia trong các hoạt động nên họ không phải tham

gia, chỉ cần thông qua Ban giám sát là nắm được tình hình các công trình.

Vì vậy, khi được hỏi chính quyền có tạo điều kiện cho người dân tham gia

giám sát, kiểm tra thì có 50% người dân trả lời là thực hiện thông qua Ban Giám sát

cộng đồng, 28,5% người dân cho rằng chính quyền không tạo điều kiện, 5,5%

người dân trả lời không rõ và có 16% người dân trả lời rằng được trực tiếp thực hiện

thông qua phản ánh, kiến nghị, với tỷ lệ chiếm không cao nhưng cũng đã thể hiện

được vẫn còn người dân ý thức về vai trò của họ.

58

Bên cạnh đó, Ban giám sát tại xã là do người dân tham gia bầu ra, hầu hết

đều là kiêm nhiệm, không có chuyên môn vì vậy không thể phát huy được hết chức

năng trong việc giám sát tại địa phương.

Hình 3.11 Hình thức chính quyền địa phương tạo điều kiện cho người dân

tham gia giám sát, kiểm tra

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Với việc nhận thức rằng thông qua Ban giám sát cộng đồng của người dân

thì chính bản thân họ đã thể hiện được vai trò, trách nhiệm trong việc giám sát,

kiểm tra các công trình, nên khi được hỏi về hình thức giám sát, vận hành, duy tu và

bảo dưỡng nào là hiệu quả nhất thì chiếm 79% tỷ lệ người dân đều cho rằng thuê

các đơn vị tư vấn và chính quyền thành lập các tổ là cách tốt nhất, chỉ có khoảng

13,5% người dân cho rằng nên tham gia trực tiếp.

59

Hình 3.12 Tỷ lệ nhận định của người dân về hình thức thực hiện các hoạt động liên quan công trình xây dựng NTM hiệu quả

(Nguồn: Tác giả vẽ dựa trên số liệu khảo sát)

Như vậy, có thể thấy người dân còn phụ thuộc nhiều vào chính quyền trong

tham gia các hoạt động để giữ gìn và phát triển các công trình tại địa phương.

3.6 Đánh giá thực trạng người dân tham gia

Qua khảo sát nhận thấy mức độ tham gia của người dân còn thấp, thờ ơ và

phụ thuộc vào phía chính quyền về nhiều vấn đề. Đầu tư nguồn vốn ngân sách vào

các công trình càng nhiều thì người dân không nhận thức được trách nhiệm và vai

trò của mình và lúc này trách nhiệm của chính quyền địa phương sẽ cao hơn. Nếu

tình trạng này kéo dài sẽ làm cho người dân thiếu sự tin tưởng vào các hoạt động và

chất lượng công trình NTM, đặc biệt là không phát huy được vai trò chủ thể trong

xây dựng NTM.

- Nắm bắt thông tin về Chương trình được người dân nắm bắt phần lớn thông

qua các cuộc họp tại địa phương và chủ yếu là các tiêu chí về NTM, qua đó nhận

thấy rằng:

60

+ Đối với các cấp chính quyền: đã phát huy được tính chủ động và tích cực

tổ chức các cuộc họp tại địa phương, phát sóng các nội dung Chương trình và tổ

chức các lớp tuyên truyền tập huấn.

+ Đối với người dân: tiếp thu được nhiều thông tin về Chương trình, nâng

cao nhận thức từ đó tạo tiền đề để người dân tham gia ý kiến để Chương trình phát

huy đúng mục tiêu, phù hợp với địa phương.

Tuy nhiên hạn chế đối với việc truyền đạt thông tin từ phía chính quyền

thông qua các cuộc họp là chính quyền sẽ truyền đạt những điều mà họ sẽ hướng

người dân muốn biết và người dân sẽ tiếp nhận thông tin đó một cách thụ động-

- Bàn bạc, đóng góp ý kiến: người dân được thể hiện vai trò làm chủ thông

qua việc tham dự cuộc họp và được tham gia bàn bạc, cho ý kiến về các vấn đề liên

quan đến xây dựng NTM tại địa phương và chính quyền cũng đã thể hiện được vai

trò quản lý, tạo điều kiện cho người dân tham gia các hoạt động tại cuộc họp.

Tuy nhiên việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại ở mức tham gia cho ý kiến, ngồi

nghe hoặc chỉ cần được thông báo về những vấn đề do tính chất công việc của nhiều

người dân nên phần lớn đối tượng người dân được mời là những cán bộ, công chức

hoặc người sản xuất tiêu biểu tại địa phương nên việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại

ở mức tham gia cho ý kiến, ngồi nghe hoặc chỉ cần được thông báo về những vấn

đề.

- Tham gia trực tiếp bằng những hành động:

+ Người dân đã phát huy được vai trò chủ động thông qua việc tham gia trực

tiếp bằng những hành động thiết thực,trên tinh thần tự nguyện, phù hợp với tình

hình thực tế và đưa ra những quyết định.

+ Đối với chính quyền địa phương đã khuyến khích và tạo điều kiện cho

người dân được lựa chọn tham gia những công việc và hình thức đóng góp phù hợp

với từng hoạt động xây dựng NTM tại địa phương

Tuy nhiên, tại mức độ này, người dân chỉ tham gia thực hiện những công

trình hạ tầng cơ sở phục vụ phát triển sản xuất và nhu cầu thiết yếu, chưa thật sự

quan tâm thực hiện những hoạt động khác tại địa phương.

61

- Công tác giám sát, quản lý, vận hành, bảo dưỡng: ở mức này, chính quyền

địa phương đã phát huy tốt vai trò của mình trong hoạt động kiểm tra, giám sát và

có trách nhiệm trong các hoạt động duy tu, bảo dưỡng công trình.

Tuy nhiên, chính quyền địa phương chưa thật sự tạo cho người dân nhận

thức được vai trò chủ thể để từ đó phát huy được tính chủ động và tăng trách nhiệm

trong việc kiểm tra, giám sát, vận hành các công trình và duy tu, bảo dưỡng các

công trình sau khi đưa vào hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của gười dân tại địa

phương.

62

CHƯƠNG 4

KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP

4.1 Kết luận

Chương trình MTQG xây dựng NTM là Chương trình có mục tiêu toàn diện,

bao gồm tổng hợp các chương trình, mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước, liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân tại vùng nông thôn.

Chương trình được triển khai trên toàn quốc và đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ

của chính quyền, đoàn thể các cấp và sự ủng hộ của người dân của các địa phương,

bên cạnh đó đã huy động nguồn tài chính lớn cho sự phát triển nông thôn.

Vị trí quan trọng của người dân trong xây dựng nông thôn mới thể hiện ở chỗ

người dân chính là chủ thể tham gia xây dựng Chương trình bằng những hành động

cụ thể từ công tác lập quy hoạch, đề án đến tham gia trực tiếp các kế hoạch phát

triển sản xuất và cuối cùng là những hành động thiết thực để góp phần xây dựng,

giữ gìn và sử dụng các công trình tại địa phương theo đúng mục đích, nhu cầu; Nhà

nước và các đơn vị, tổ chức có liên quan trong Chương trình đóng vai trò hỗ trợ để

định hướng và thúc đẩy nhanh tiến trình hoàn thành. Bên cạnh đó, nguồn lực nhà

nước rất hạn hẹp trong khi đó nhu cầu đầu tư để phát triển toàn diện vùng nông thôn

rất lớn vì vậy, cần phải nâng cao vai trò của người dân để tận dụng nguồn lực dồi

dào từ người dân đóng góp thực hiện và đảm bảo đạt mục đích cuối cùng đề ra của

Chương trình.

Thực tế tình hình xây dựng NTM tại các địa phương trên cả nước cho thấy

nơi nào mà chính quyền huy động và hỗ trợ để người dân phát huy được sự chủ

động, sáng tạo trong việc thực hiện các tiêu chí thì nơi đó NTM sớm hoàn thành và

các nội dung đầu tư được đưa vào sử dụng đạt hiệu quả cao vì phù hợp với nhu cầu,

nguyện vọng của người dân.

Chương trình đang được triển khai rất hiệu quả tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

đã mang lại được nhiều kết quả như: giúp hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển

mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt vùng nông thôn, điều kiện sống cả về vật chất và tinh

63

thần của số lượng lớn dân cư nông thôn được nâng cao rõ rệt; sản xuất nông nghiệp

hàng hóa được coi trọng và có chuyển biến góp phần tích cực nâng cao thu nhập của

dân cư nông thôn tại các xã xây dựng NTM. Tuy nhiên vai trò chủ thể của người

dân vẫn chưa được phát huy tối đa trong thực hiện, mức độ tham gia của người dân

theo thang đo “biết, bàn, làm, kiểm tra” có chiều hướng giảm dần.

- Giai đoạn đầu tiên trong đánh giá là việc nắm thông tin. Qua các cuộc họp,

công tác tuyên truyền và tập huấn của các cấp chính quyền rất tốt nên khi nhắc tới

NTM thì ai cũng đều được nghe. Tuy nhiên, khi đi sâu vào các nội dung của

Chương trình thì số người biết nội dung của Chương trình MTQG xây dựng NTM

giảm đi nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao và ở dạng những thông tin do chính quyền địa

phương cung cấp.

- Tiếp theo là tham gia ở mức bàn bạc, người dân đóng góp ý kiến. Mặc dù

người dân biết họ có quyền đóng góp ý kiến vào Chương trình xây dựng NTM tuy

nhiên việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại ở mức tham gia cho ý kiến, ngồi nghe hoặc

chỉ cần được thông báo về những vấn đề, còn việc được quyền tham gia quyết định

các vấn đề chiếm tỷ lệ rất thấp vì phần lớn đối tượng mời là những cán bộ, công

chức hoặc người sản xuất và họ được cử đi và cho rằng việc bàn bạc, đóng góp là

nhiệm vụ của chính quyền.

- Đối với việc tham gia trực tiếp vào Chương trình thì người dân không được

tham gia quyết định về mức và hình thức đóng góp. Tuy nhiên, chính quyền không

áp đặt mức và hình thức đóng góp mà chỉ vận động, việc đóng góp của người dân

đều trên tinh thần tự nguyện và bằng hình thức là hiến đất và ngày công lao động.

Tuy nhiên việc thực hiện của người dân đều nhằm vào những công trình hạ tằng

thiết yếu.

- Ở mức cuối cùng là sự tham gia của người dân vào công tác giám sát, quản

lý, vận hành, bảo dưỡng những công trình tại địa phương thì người dân chưa thật sự

phát huy tối đa trong vai trò chủ thể của Chương trình. Việc giám sát các công trình

đều được thực hiện bới chính quyền địa phương và người dân chỉ được thực hiện

các hoạt động này thông qua Ban giám sát cộng đồng, các tổ. Tuy nhiên các Ban

64

này hầu hết đều là kiêm nhiệm, không có chuyên môn vì vậy không thể phát huy

được hết chức năng trong việc thực hiện các hoạt động này tại địa phương.

Nguyên nhân làm ảnh hưởng đến mức độ việc người dân tham gia của người

xuất phát từ phía các cấp chính quyền chưa tạo kiện, thu hút tối đa sự tham gia của

nguời dân, ý thức được vai trò chính của bản thân và từ phía bản thân của người

dân, họ chưa nhận thức và ý thức được vai trò, tầm quan trọng của sự tham gia, vãn

còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước.

4.2 Giải pháp

Chỉ khi người dân phát huy được tính chủ động tham gia vào những hoạt

động xây dựng NTM thì mới bảo đảm mang lại sự thành công của Chương trình. Để

làm được điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền ở địa phương phải thay đổi bằng

những hành động cụ thể để từ đó nhận thức người dân được nâng cao và phát huy

được vai trò của người dân “biết, bàn, làm, kiểm tra” trong quá trình xây dựng

NTM. Vì vậy, NNC đưa ra một số giải pháp sau:

- Chính quyền các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để

người dân hiểu được những nội dung của Chương trình, nâng cao nhận thức để

người dân hiểu được vai trò chủ thể trong mọi hoạt động và là đối tượng sau cùng

được hưởng những thành quả trong xây dựng NTM; trong đó, mọi hoạt động xây

dựng NTM thì nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ một phần kinh phí, kỹ thuật, ... còn

vai trò chính vần là người dân và đối tượng nhắm đến sau cùng là người dân được

hưởng thụ những thành quả, hỗ trợ đầu tư từ Chương trình, mục đích của Chương

trình là phát triển toàn diện vùng nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững nhằm cải

thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân. Khi người dân hiểu thấu đáo vấn

đề này, sẽ không còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại.

- Chính quyền địa phương cần khơi dậy và tạo mọi điều kiện để người dân

được phát huy tính chủ động thông qua việc sắp xếp thời gian tổ chức các cuộc họp

tại địa phương phù hợp với tính chất công việc của phần lớn người dân tại xã, để

người dân có thể tham gia. Đồng thời, tại cuộc họp, các cấp chính quyền cần tạo sự

rõ ràng, công khai từ việc lên quy hoạch, kế hoạch và tài chính để người dân mạnh

65

trao đổi, chia sẻ những ý kiến để góp phần hoàn thành các nhiệm vụ trong xây dựng

NTM.

- Tạo điều kiện để người dân tự chủ động trong thực hiện mọi hoạt động

xung quanh các vấn đề liên quan đến chương trình xây dựng NTM ở địa phương.

Khi người dân được tham gia vào các công việc đó, họ sẽ nhận thấy được vai trò

của mình trong các hoạt động và các vấn đề phát sinh liên quan đến lợi ích mà chỉ

có họ mới có khả năng điều chỉnh theo đúng hướng nếu nội dung đó không phù hợp

tại địa phương.

- Tham mưu và trình ban hành các cơ chế, chính sách để tạo động lực và tăng

cường sự tham gia của người dân trong giám sát, quản lý, vận hành và bảo dưỡng

các công trình giai đoạn thiết kế, thi công và đưa vào sử dụng. Vì trên thực tế nếu

các công trình không được giám sát, quản lý trong việc thiết kế và quá trình thi công

sẽ có thể ảnh hưởng đến chất lượng sau này khi đưa vào hoạt động; đồng thời, trong

quá trình đưa vào sử dụng mà không được bảo dưỡng thì theo thời gian, những công

trình này sẽ bị hư hỏng nặng.

Ngoài những giải pháp đề xuất để cải thiện sự tham gia của người dân theo

bốn mức độ phân tích, NNC còn đề xuất một số giải pháp góp phần tăng cường sự

tham gia của người dân để hoàn thành Chương trình MTQG xây dựng NTM trên

địa bà tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu gồm:

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các huyện, thành phố trong việc

thực hiện; đồng thời gắn trách nhiệm của người đứng đầu các UBND huyện, thành

phố trong việc tham mưu triển khai thực hiện chương trình NTM tại địa phương.

Nếu để xảy ra tình trạng các tiêu chí không hoàn thành theo tiến độ đề ra hoặc giảm

chất lượng các tiêu chí thì người đứng đầu các cơ quan tại địa phương phải chiu

trách nhiệm và phải giải trình với các đơn vị cấp tỉnh. Như vậy mới tạo sự gương

mẫu, xoá đi tư tưởng trông chờ ỷ lại của chính các cấp chính quyền tại huyện, thành

phố và phát huy sự chủ động trong việc lồng ghép các chương trình dự án tại địa

phương để hỗ trợ cho người dân tại các xã phát triển sản xuất.

66

- Tăng cường ứng dụng các tiến bộ về giống, kỹ thuật và tạo mọi điều kiện

để người dân tiếp cận các tiến bộ để áp dụng vào trong phát triển sản xuất nông

nghiệp, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống cho người dân. Chỉ khi ổn định

cuộc sống thì người dân mới yên tâm và góp sức đóng góp vào các hoạt động xây

dựng NTM tại địa phường; phát huy được sự chủ động tham gia vào các hoạt động

nhằm góp phần xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu

quả

4.3 Hạn chế và hướng mở rộng đề tài

Do trong quá trình làm đề tài còn nhiều hạn chế về điều kiện và thời gian nên

các thông tin, dữ liệu để phục vụ viết đề tài được thu thập từ các văn bản, báo cáo

của BCĐ thực hiện Chương trình MTQG tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, BCĐ Trung

ương Chương trình MTQG và thực tế khảo sát tại các huyện, thành phố trên địa bàn

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đề tài không thể tìm hiểu hết sự tham gia của toàn bộ

người dân trên địa bàn 6 huyện, thành phố tham gia Chương trình mà chỉ tìm hiểu

sự tham gia của ngẫu nhiên một số người dân đại diện trên mỗi huyện, thành phố

nên không thể đánh giá hoàn toàn được tình trạng người dân tham gia. Mặt khác, đề

tài chủ yếu nghiên cứu về sự tham gia của người dân, không đánh giá sâu những

nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc tham gia nên phần đề xuất các giải pháp còn

hạn chế, chỉ phản ánh một phần của vấn đề tham gia của gười dân trong xây dựng

NTM.

Từ đề tài này, có thể mở rộng tìm hiểu thêm những đề tài khác để giúp CT

MTQG xây dựng NTM tại địa phương đạt kết quả tốt hơn như: tìm hiểu những yếu

tố tác động đến việc tham gia của người dân để phần kiến nghị thêm chặt chẽ và có

chiều sâu hơn; so sánh sự tham gia của người dân tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và

tỉnh khác để rút ra được những điểm mới và áp dụng vào tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

hoặc tìm hiểu sự tham gia của người dân tại một xã hoặc một địa phương để từ đó

nhân rộng những điều hay và đưa ra giải pháp để khắc phục những điểm còn hạn

chế tại địa phương hoặc áp dụng những điều hay của địa phương được nghiên cứu

67

đề triển khai thực hiện trên những địa phương khác trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu, ...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu Tiếng Việt

1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày

05 tháng 8 năm 2008 của BCH TW Đảng Hội nghị lần thứ Bảy BCHTW khóa X về

nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

2. Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

(2015), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn

mới giai đoạn 2010 – 2015; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 – 2020 tại

Hội nghị toàn quốc tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM

giai đoạn 2010 – 2015

3. Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng

NTM năm 2018.

4. Bàn Cao Sơn (2016), Sự tham gia của người dân vào XD NTM trường hợp

xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công,

trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh.

5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), Sổ tay hướng dẫn thực

hiện Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, NXB Lao

động, Hà Nội.

6. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 24/2008 ngày 28 tháng 10 năm 2008 của

Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

7. Đào Duy Ngọc (2015), Sự tham gia của người dân vào XD NTM tại huyện

Xuân Lộc, Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công, trường ĐH Kinh tế TP Hồ

Chí Minh.

8. Đỗ Thị Nhài (2016), Sự tham gia của người dân trong các Chương trình,

dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc – giai đoạn 2 (2010 – 2015) tại xã Do

Nhân, huyện Tân Lạc, tỉnh Hìa Bình, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công, trường ĐH

Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

9. Hoàng Bá Thịnh (2016), “ Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc và Việt

Nam”, Tạp chí KHXH Việt Nam, số 7 (104) 2016.

10. Lê Văn An, Ngô Tùng Đức và đtg (2016), “Sổ tay hướng dẫn phát triển

cộng đồng”, NXB Thanh niên.

11. Tổ chức Oxfarm (2012), Báo cáo hội thảo Phát triển kinh tế Nông nghiệp

(ngày 27/3/2012)

12. Tổ chức Oxfam (2012), Tăng cường tiếng nói cộng đồng để lựa chọn

đúng đắn – vấn đề sử dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất ở miền trung Việt

Nam.

13. Phan Kế Vân (2011), Quản lý nhà nước về nông thôn, truy cập ngày

14/12/2017.

14. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010

của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mới giai đoạn 2016-2020.

15. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày

05/4/2016 của về việc ban hành Tiêu chí huyện nông thôn mới và Quy hoạch thị xã,

thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

16. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày

16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.

17. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày

17/10/2016 của về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 –

2020

18. UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2015), Báo cáo kết quả thực hiện

Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015 và phương

hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016 – 2020 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Tài liệu Tiếng Anh

19. André, Pierre (2012), "Citizen Participation", Encyclopedic Dictionary of

Public Administration, www. dictionnaire.enap.ca.

20. Arnstein S. (1969), “A Ladder of Citizen Participation”, JAJP, Vol. 35,

No. 4, pp. 216-224

21. Florin, P. (1990). “An Introduction to Citizen Participation, Voluntary

Organizations, and Community Development: Insights for Empowerment Throught

Research.” In American Journal of Community Psychology.

22. Schafft, K.A and Greenwood, D.J. (2003), “Promises and dilemmas of

participation: action research conference methodology and community

development”, Journal of Community Development Society.

3. Tài liệu báo điện tử

23. Hà Thị Thùy Dương (2016), "Phát huy vai trò chủ thể của người dân

trong xây dựng NTM", truy cập ngày 26/11/2017 tại địa chỉ:

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-

moi/2016/37485/Phat-huy-vai-tro-chu-the-cua-nguoi-dan-trong-xay-dung.aspx

24. Ngô Thị Phương Liên (2015), "Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” của

Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam", truy cập ngày 14/12/2017 tại địa chỉ :

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1037-phong-trao-

%E2%80%9Cmoi-lang-mot-san-pham%E2%80%9D-cua-nhat-ban-kinh-nghiem-

voi-viet-nam.html

25. Nguyễn Thị Bích Phương, Đặng Thị Thanh Thúy, "Huy động sự tham

gia và giám sát của cộng đồng trong xây dựng NTM của Hàn Quốc – Bài học chính

sách cho Việt Nam", truy cập vào ngày 26/12/2017 tại địa chỉ:

http://tapchimoitruong.vn/pages/article.aspx?item=Huy-

%C4%91%E1%BB%99ng-s%E1%BB%B1-tham-gia-v%C3%A0-gi%C3%A1m-

s%C3%A1t-c%E1%BB%A7a-c%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BB%93ng-trong-

x%C3%A2y-d%E1%BB%B1ng-n%C3%B4ng-th%C3%B4n-m%E1%BB%9Bi-

c%E1%BB%A7a-H%C3%A0n-Qu%E1%BB%91c---B%C3%A0i-

h%E1%BB%8Dc-ch%C3%ADnh-s%C3%A1ch-cho-Vi%E1%BB%87t-Nam-

42112

26. Quyền Đình Hà (2017), “Hội thảo Huy động, quản lý và sử dụng nguồn

lực trong xây dựng NTM” diễn ra ngày 7/5/2017 tại Hà Nội, truy cập ngày

26/12/2017 tại địa chỉ:

http://baodautu.vn/huy-dong-nguon-luc-xay-dung-nong-thon-moi-bai-hoc-tu-

han-quoc-d63145.html

27. Báo Điện tử của Bộ xây dựng (2017), “Xây dựng nông thôn mới – Kinh

nghiệm thế giới”, truy cập ngày 16/8/2018 tại địa chỉ:

http://www.baoxaydung.com.vn/news/vn/the-gioi/xay-dung-nong-thon-moi-

kinh-nghiem-the-gioi.html

28. Thư viện Trường đại học An Giang (2016), Kỷ yếu hội thảo “Tăng

cường sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở An

Giang”, truy cập ngày 16/8/2018 tại địa chỉ:

http://lib.agu.edu.vn/thong-tin-chuyen-de/3804-chuy%C3%AAn-

%C4%91%E1%BB%81-%E2%80%9Cs%E1%BB%B1-tham-gia-

c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-d%C3%A2n-v%C3%A0o-

qu%C3%A1-tr%C3%ACnh-x%C3%A2y-d%E1%BB%B1ng-n%C3%B4ng-

th%C3%B4n-m%E1%BB%9Bi-t%E1%BA%A1i-an-giang%E2%80%9D

PHỤ LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT

Kính chào ông/bà!

Tôi tên là Vũ Ngọc Đăng, là học viên Cao học ngành Quản lý Công, Trường Đại

học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Tôi thực hiện cuộc khảo sát này với mục đích

phục vụ cho đề tài “Đánh giá sự tham gia của người dân trong xây dựng nông thôn

mới trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Rất mong nhận được sự giúp đỡ của

ông/bà. Tôi đảm bảo thông tin ghi nhận từ cuộc khảo sát này sẽ được giữ bí mật

nghiêm ngặt. Các dữ liệu thu thập được chỉ dùng mục đích nghiên cứu khoa học.

Hy vọng sẽ được sự giúp đỡ của ông/bà thông qua việc trả lời các câu hỏi sau đây:

I. Thông tin chung

Ông/bà thuộc huyện, thành phố: ……………………………

Xã: …………………………………………………………...

Khoảng thời gian sinh sống tại địa phương: ………………..

II. Tiếp cận thông tin về Chương trình NTM

Câu 1: Ông/bà có biết thông tin về Chương trình MTQG xây dựng NTM?

a. Có b. Không

Câu 2: Ông/bà biết thông tin về NTM bằng cách nào?

a. Đọc/nghe trên báo, đài, tivi.

b. Được tuyên truyền, tập huấn.

c. Được mời tham gia các cuộc họp tại địa phương về vấn đề liên quan NTM.

d. Khác: ……………………….

Câu 3: Ông/bà có biết những nội dung về Chương trình NTM?

STT Nội dung Có Không

1 Các nội dung về CT xây dựng NTM

2 Các tiêu chí trong xây dựng NTM

3 Thời gian bắt đầu CT NTM

4 Các chính sách hỗ trợ xây dựng NTM

Câu 4: Ông/bà có biết về nội dung đầu tư Chương trình NTM nào tại địa

phương đang sống? (các nội dung đầu tư thuộc 19 tiêu chí xây dựng NTM)

a. Có b. Không

III. Tham gia bàn về xây dựng NTM

Câu 5: Theo ông/bà, người dân có quyền đóng góp ý kiến vào xây dựng

NTM không?

a. Có, vì: ………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………...

b. Không, vì: …………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………………...

Câu 6: Chính quyền địa phương nơi ông/bà đang sinh sống có mời người

dân tham gia các cuộc họp tại địa phương về vấn đề NTM?

a. Thường xuyên b. Thỉnh thoảng c. Chưa được mời

Câu 7: Tại địa phương, những nội dung liên quan đến NTM có được bàn

bạc, thảo luận không?

STT Nội dung Có Không

1 Công tác lập quy hoạch xây dựng NTM

2 Công tác lập đề án xây dựng NTM

Nội dung sử dụng và hình thức đóng góp của 3 người dân

4 Nguồn vốn và chi phí của các công trình NTM

Lựa chọn những việc nên làm trước trong xây 5 dựng NTM

Câu 8: Ông/bà đã từng tham gia hoạt động góp ý vào công tác lập quy hoạch

và đề án xây dựng NTM tại địa phương chưa?

a. Đã từng tham gia.

b. Chưa tham gia (chuyển sang câu 10).

Câu 9: Nguyên nhân ông/bà tham gia vào vấn đề này?

a. Vì được cử đi.

b. Quan tâm đến các vấn đề.

c. Khác: …………………………………..

Câu 10: Nếu chưa tham gia, nguyên nhân chưa tham gia là gì?

a. Không quan tâm.

b. Không được mời.

c. Không có thời gian tham dự.

d. Khác

Câu 11: Theo ông/bà để lập được kế hoạch cho các hoạt động xây dựng

NTM tại địa phương theo từng năm thì yếu tố quyết định là gì?

a. Ý kiến của người dân.

b. Ý kiến của chính quyền xã.

c. Ý kiến của chính quyền huyện, tỉnh.

d. Ý kiến của chính quyền trung ương.

Câu 12: Theo ông/bà, người dân cần được tham gia ở mức độ nào trong các

vấn đề xây dựng NTM?

a. Ngồi lắng nghe thảo luận các vấn đề.

b. Đóng góp ý kiến.

c. Ra quyết định.

d. Chỉ cần được thông báo.

e. Không cần phải tham gia.

IV. Tham gia trực tiếp vào xây dựng NTM

Câu 13: Ông/bà đã tham gia đóng góp vào các công trình tại địa phương?

a. Có tham gia b. Chưa tham gia

Câu 14: Các công trình ở địa phương mà ông/bà đã tham gia đóng góp?

a. Đường làng, ngõ xóm

b. Kênh mương nội đồng

c. Nhà văn hóa, sân chơi

d. Khác: ………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………..

Câu 15: Hình thức đóng góp mà ông/bà đã thực hiện?

a. Ngày công, sức lao động

b. Tiền bạc

c. Hiện vật

d. Khác: ………………………………………………………………………

Câu 16: Theo ông/bà chủ trương và hình thức đóng góp ở địa phương được

quyết định như thế nào?

a. Người dân được tham gia bàn bạc và quyết định

b. Người dân được tham gia bàn bạc, việc quyết định do chính quyền địa

phương

c. Người dân không được tham gia bàn bạc, việc quyết định do chính quyền

địa phương

d. Không rõ

Câu 17: Ông/bà nhận xét thế nào về mức đóng góp so với khả năng kinh tế

gia đình?

a. Vượt quá khả năng có thể đóng góp của gia đình

b. Cao nhưng vẫn trong khả năng đóng góp của gia đình

c. Phù hợp

d. Khác

V. Giám sát, quản lý, vận hành, bảo dưỡng

Câu 18: Ông/bà đã từng tham gia vào quá trình giám sát các công trình xây

dựng NTM trong thời gian vừa qua tại địa phương?

a. Đã tham gia

b. Chưa tham gia

Nguyên nhân …………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Câu 19: Chính quyền địa phương có tạo điều kiện cho người dân tham gia

giám sát, kiểm tra không?

a. Người dân được thực hiện thông qua Ban giám sát cộng đồng

b. Người dân được trực tiếp thực hiện thông qua phản ánh, kiến nghị

c. Không tạo điều kiện

d. Không rõ

Câu 20: Theo ông/bà cách giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng nào là có

hiệu quả nhất?

a. Thông qua chính quyền và các đơn vị có chuyên môn

b. Người dân tham gia trực tiếp

c. Không rõ

Câu 21: Mức độ đánh giá của ông/bà về kết quả chương trình xây dựng

NTM đã mang lại? (Ông/bà đánh dấu X vào cột mức độ đánh giá mình chọn hoặc

ghi thêm nội dung vào cột ý kiến khác)

Mức độ đánh giá

STT Nội dung Không Ý kiến Rất tốt Tốt đổi khác

1 Giao thông

2 Thủy lợi

3 Điện

4 Trường học

5 Cơ sở vật chất, văn hóa

6 Chợ nông thôn

7 Bưu điện

8 Nhà ở dân cư

9 Thu nhập

10 Hộ nghèo

11 Cơ cấu lao động

12 Hình thức tổ chức sản xuất

13 Giáo dục

14 Y tế

15 Môi trường

Câu 22: Theo ông/bà, cần làm gì để tăng cường sự tham gia của người dân

vào xây dựng NTM?

a. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền các chính sách về NTM để

người dân tham gia

b. Cho người dân bàn bạc, đưa ra quyết định, tiếp thu và tôn trọng ý kiến của

người dân

c. Trao quyền việc thực hiện cho người dân

d. Tạo điều kiện và thúc đẩy người dân phát huy tính chủ động trong giám

sát các hoạt động xây dựng NTM

e. Ý kiến khác: ………………………………………………………………

Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà