ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐINH THỊ QUỲNH HÀ

DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐINH THỊ QUỲNH HÀ

DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyờn ngành: Kinh tế chớnh trị

Mó số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS, TS ĐỖ THẾ TÙNG

HÀ NỘI - 2010

MỤC LỤC

Mở đầu ................................................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1. DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH - VAI TRÕ CỦA NÓ

TRONG HỆ THỐNG TÍN DỤNG VÀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

THỊ TRƢỜNG .................................................................................................... 6

1.1. Những lý luận cơ bản về cho thuê tài chính ...................................................................... 6

1.1.1. Khỏi niệm cho thuê tài chính.................................................................................... 6

1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ cho thuê tài chính ................................................................. 9

1.1.3. Phân loại cho thuờ tài chính ................................................................................... 13

1.1.4. Những điều kiện để hình thành và phát triển dịch vụ cho thuê tài chính trong

nền kinh tế thị trƣờng .................................................................................................. 19

1.2. Vai trò cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trƣờng ................................................... 22

1.2.1. Đối với ngƣời đi thuê ............................................................................................. 22

1.2.2. Đối với ngƣời cho thuê .......................................................................................... 25

1.2.3. Đối với phát triển kinh tế- xã hội ............................................................................ 26

1.3. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ CTTC ở một số nƣớc .................................................... 27

1.3.1. Kinh nghiệm về tạo môi trƣờng pháp lý ................................................................. 27

1.3.2. Kinh nghiệm về tạo môi trƣờng kinh tế .................................................................. 29

1.3.3. Kinh nghiệm về lựa chọn các hình thức CTTC, lựa chọn đối tƣợng CTTC ............. 32

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI

CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN (1995- 2008) ................................ 35

2.1. Cơ sở pháp lý của dịch vụ CTTC ở Việt Nam ................................................................ 35

2.1.1. Quy định về tƣ cách pháp nhân và hình thức hoạt động của công ty CTTC ............ 37

2.1.2. Quy định về hoạt động nghiệp vụ của công ty CTTC .............................................. 38

2.1.3. Quy định về đăng ký tài sản thuê ............................................................................. 39

2.1.4. Quy định về hạch toán tài sản thuê ........................................................................... 40

2.1.5. Các quy định khác .................................................................................................. 41

2.2. Tình hình hoạt động của ngành dịch vụ CTTC ở Việt Nam trong thời gian qua

(1995- 2008) ............................................................................................................... 41

2.2.1. Đánh giá tổng quan ................................................................................................ 41

1

2.2.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế ................................................................................ 50

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ

CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG THỜI GIAN TỚI .......................................... 63

3.1. Bối cảnh và phƣơng hƣớng phát triển dịch vụ CTTC ở Việt Nam trong thời gian

tới ............................................................................................................................... 63

3.1.1. Bối cảnh phát triển dịch vụ CTTC .......................................................................... 63

3.1.2. Phƣơng hƣớng phát triển dịch vụ CTTC ở Việt Nam trong thời gian tới ................. 70

3.2. Những giải pháp phát triển dịch vụ CTTC ở Việt Nam trong thời gian tới ..................... 72

3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan đến tạo lập các điều kiện để phát triển dịch vụ

CTTC .......................................................................................................................... 72

3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến các chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với

dịch vụ CTTC ............................................................................................................. 78

3.2.3. Nhóm giải phỏp liên quan đến việc tăng cƣờng năng lực hoạt động của các

công ty CTTC ............................................................................................................. 80

Kết luận .............................................................................................................................. 84

Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................................. 87

Phụ lục ................................................................................................................................ 93

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu

ACBL

ALC II

Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Nông nghiệp và và phát triển nông thôn II

BLC I

Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tƣ và phát triển Việt Nam I

BLC II

Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tƣ và phát triển Việt Nam II

CILC

Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Chailease

DN

Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp nhà nƣớc

DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ

GTVT

Giao thông vận tải

HTX

Hợp tác xã

IAS

Chuẩn mực kế toán quốc tế

IASC

Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế

ICBVLC Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thƣơng Việt Nam

IFC

Công ty tài chính quốc tế

KVLC

Công ty cho thuê tài chính Kexim

MMTB

Máy móc thiết bị

Nghị định

NHNN

Ngân hàng nhà nƣớc

SBL

Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn thƣơng tín

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

VAS

Chuẩn mực kế toán Việt Nam

VCBLC

Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam

VFV

Công ty cho thuê tài chính công nghiệp tàu thuỷ

VILC

Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Việt Nam

WB

Ngân hàng thế giới

WTO

Tổ chức Thƣơng mại Thế giới

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Dịch vụ cho thuê tài chính xuất hiện trên thế giới từ thập niên 50 của

thế kỷ XX, nhƣng chỉ thật sự phát triển trong khoảng 20 năm trở lại đây. Ở

Việt Nam dịch vụ này có mặt muộn hơn (vào những năm 90 của thế kỷ XX).

Cho thuê tài chính đƣợc coi là một loại hình tài trợ tín dụng trung dài hạn

nhằm đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Gần 15 năm phát triển tại Việt Nam, dịch vụ cho thuê tài chính đã có

những đóng góp nhất định trong việc giải quyết nhu cầu về vốn để phát triển

kinh tế, cùng với các kênh tín dụng truyền thống nhƣ tín dụng ngân hàng,

nhƣng chƣa khai thác hết tiềm năng. Số lƣợng các công ty cho thuê tài chính

ở nƣớc ta hiện nay mới đạt tới con số 13, trong đó chủ yếu là các tổ chức cho

thuê tài chính trong nƣớc trực thuộc các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh.

Cho thuê tài chính vẫn còn rất mới mẻ và chƣa đƣợc nhiều doanh nghiệp lựa

chọn. Hiện tại, chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp sử dụng hình thức này. Một

mặt, các doanh nghiệp chƣa tiếp cận đƣợc nguồn tín dụng này. Mặt khác,

chính bản thân các tổ chức cho thuê tài chính chƣa chủ động đƣợc về năng lực

tài chính và phƣơng thức tiếp cận khách hàng. Do chƣa có luật về cho thuê tài

chính, nên còn thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa bên thuê và

bên cho thuê, nhất là thiếu đi một chính sách thuế đồng bộ giữa ngƣời đi thuê

và ngƣời cho thuê. Các công ty cho thuê tài chính cũng chƣa thiết lập đƣợc

một mối quan hệ sâu rộng với các cơ sở cung ứng máy móc, thiết bị; chƣa tích

cực tuyên truyền, quảng bá... Và đội ngũ cán bộ của công ty còn thiếu những

chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến, điều này

làm cho công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trƣờng. Tham gia lĩnh

4

vực này chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa phần lớn còn yếu kém về

năng lực sản xuất, trình độ quản lý, tính khả thi của dự án thiếu thuyết phục

(do đa số là doanh nghiệp hộ gia đình, tình hình tài chính không rõ ràng,

doanh nghiệp mới thành lập...). Đây là thế yếu khi họ có nhu cầu tìm nguồn

vốn cho dự án...

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế với tƣ cách mới là

thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại quốc tế (WTO), doanh nghiệp

trong nƣớc hơn bao giờ hết đứng trƣớc sức ép của đổi mới công nghệ, đổi mới

tài sản cố định. Do vậy, phát triển dịch vụ cho thuê tài chính là một yêu cầu

bức thiết. Với lý do đó, “Dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay”

đƣợc chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ này.

2. Tình hình nghiên cứu

Dịch vụ cho thuê tài chính là hình thức tín dụng có nhiều ƣu việt, đặc

biệt là tính chất cho vay không cần thế chấp. Tiềm năng phát triển thị trƣờng

cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay còn rất lớn. Để xúc tiến hơn nữa hoạt

động này ở Việt Nam, trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu

lý luận và hoạt động thực tiễn đƣợc triển khai nhƣ:

- Cho thuê tài chính và phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

đáp ứng yêu cầu hội nhập, Nguyễn Hạnh Thủy, Đại học Ngoại thƣơng, 2001.

- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thuê tài chính

ở Việt Nam, Bùi Hồng Đới, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2003.

- Giải pháp phát triển thị trƣờng cho thuê tài chính ở Việt Nam trong

quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế, Tống Thiện Phƣớc, Học viện

Ngân hàng, 2006.

- Hội thảo “Cho thuê tài chính - Công cụ tài chính của doanh nghiệp

sau hội nhập” do SacombankLEASING thuộc Sacombank phối hợp với Tập

đoàn Tài chính quốc tế (IFC) thuộc Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức tại Tp.

5

Hồ Chí Minh ngày 30/06/2006.

- Hội thảo “Cho thuê tài chính - Giải pháp đầu tƣ cho các doanh nghiệp

vừa và nhỏ” do SacombankLEASING thuộc Sacombank phối hợp với Phòng

Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam dƣới sự tài trợ của GCF (Global

Competitiveness Facility) tổ chức tại Khánh Hòa ngày 17/04/2008.

- Đoàn Thanh Hà: Một số giải pháp thúc đẩy dịch vụ cho thuê tài chính

ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, ĐH Kinh tế Hồ Chí Minh, 2003.

- Lê Thị Kim Nhung: Giải pháp phát triển thị trƣờng ở Việt Nam trong

quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế, Luận án Tiến sỹ, Hà Nội 2005.

- Vũ Quốc Trung: Giải pháp hoàn thiện và phát triển dịch vụ cho thuê

tài chính ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Luận án Tiến sỹ,

Hà Nội, 2005.

Và một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành khác.

Hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học trên đều tiếp cận cho thuê tài

chính dƣới góc độ nghiệp vụ tài chính ngân hàng. Ở luận văn thạc sỹ này,

dịch vụ CTTC đƣợc phân tích trên giác độ kinh tế chính trị; nhấn mạnh vai trò

CTTC trong hệ thống tín dụng, và sự tác động của nó đến phát triển kinh tế

thị trƣờng nói chung. Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của những ngƣời

đi trƣớc và góp phần làm sáng tỏ hơn những ƣu, nhƣợc điểm của dịch vụ cho

thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay, phát hiện những vƣớng mắc trong quá

trình xúc tiến, từ đó đƣa ra giải pháp khả thi nhằm phát triển mạnh hơn dịch

vụ này để thúc đẩy kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn: Làm rõ bản chất và vai trò của dịch vụ cho

thuê tài chính trong nền kinh tế thị trƣờng nói chung. Ngoài ra, bằng việc

khảo sát hoạt động này ở một số ngân hàng thƣơng mại trong thời gian qua,

luận văn đƣa ra một số giải pháp để góp phần đẩy mạnh dịch vụ cho thuê tài

6

chính ở Việt Nam trong thời gian tới.

Nhiệm vụ của luận văn: Một là, phân tích nội dung, ƣu nhƣợc điểm và

vai trò của cho thuê tài chính trong hệ thống tín dụng và trong phát triển kinh

tế thị trƣờng nói chung.

Hai là, khái quát những thành tựu và hạn chế trong dịch vụ cho thuê tài

chính ở Việt Nam từ 1995- 2008.

Ba là, đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp đẩy mạnh dịch vụ cho

thuê tài chính ở Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Dịch vụ cho thuê tài chính

Phạm vi nghiên cứu: Dịch vụ CTTC ở Việt Nam (1995- 2008)

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế chính trị,

đặc biệt coi trọng phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học, phân tích và tổng

hợp, kết hợp lôgíc và lịch sử, thống kê, so sánh…

6. Những đóng góp của luận văn

- Làm rõ bản chất của dịch vụ cho thuê tài chính, những ƣu và nhƣợc

điểm của nó so với các hình thức tín dụng khác.

- Phân tích vai trò của dịch vụ cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị

trƣờng nói chung, ở Việt Nam nói riêng.

- Khảo sát thực trạng dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam và đề xuất

một số giải pháp khả thi nhằm thúc đẩy dịch vụ cho thuê tài chính trong thời

gian tới.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Dịch vụ cho thuê tài chính - vai trò của nó trong hệ thống tín

7

dụng và trong phát triển kinh tế thị trƣờng.

Chƣơng 2: Thực trạng phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

trong thời gian qua (1995- 2008).

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển dịch vụ cho thuê tài

8

chính trong thời gian tới.

Chƣơng 1

DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH- VAI TRÒ CỦA NÓ

TRONG HỆ THỐNG TÍN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

1.1. Những lý luận cơ bản về cho thuê tài chính

1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính

Hiện nay, có hàng chục khái niệm cho thuê tài chính đƣợc điều chỉnh từ

hai nguồn luật: nguồn luật quốc gia và nguồn luật quốc tế. Ở Việt Nam, khái

niệm cho thuê tài chính đƣợc dẫn chiếu bởi hai văn bản pháp lý sau:

Thứ nhất, tại Nghị định 16/2001/NĐ- CP ban hành ngày 02/05/2001

của Chính phủ về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính, khoản

1 điều 1 ghi: cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông

qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản

khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho

thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản

khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho

thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời

hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.

Thứ hai, theo Chuẩn mực số 06 “Thuê tài sản” đƣợc ban hành theo

Quyết định 165 của Bộ Tài chính (165/2002/QĐ- BTC ngày 31/12/2002 về

việc ban hành sáu chuẩn mực kế toán) định nghĩa cho thuê tài chính là thuê

tài sản mà bên cho thuê có sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền

với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Quyền sở hữu tài sản có thể chuyển

giao vào cuối thời hạn thuê.

Còn theo Ủy ban về chuẩn mức kế toán quốc tế - IACS (International

Accounting Standard Committee), chuẩn mực 17 (IAS 17) định nghĩa: cho

thuê tài chính là giao dịch trong đó một bên (người cho thuê) chuyển giao

9

quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia (người đi thuê)

trong thời hạn nhất định, trong thời gian này người cho thuê dự định thu hồi

vốn tài trợ cùng các chi phí liên quan khác; quyền sở hữu có được chuyển

giao hay không tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa hai bên.

Nhƣ vậy, về cơ bản, cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tín dụng

trung, dài hạn thông qua việc cung cấp tài sản cho thuê không có yêu cầu về

thế chấp đối với bên đi thuê. Do vậy, giao dịch CTTC là một giao dịch không

huỷ ngang mà nội dung của nó là sự chuyển quyền sử dụng tài sản từ bên thuê

cho bên cho thuê trong một thời hạn nhất định có tính phí; quyền sở hữu tài

sản cũng có thể chuyển giao khi hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt tùy

theo sự thoả thuận của hai bên hợp đồng.

Hai khái niệm CTTC của Việt Nam vừa nêu trên nhìn chung là phù hợp

với chuẩn mực quốc tế về bản chất. Tuy nhiên, một khái niệm đƣợc dẫn chiếu

cùng lúc đến hai văn bản pháp lý đã cho thấy sự không thống nhất về mặt

hình thức. Hơn thế nữa cả hai khái niệm này đều bộc lộ những hạn chế; và

chính những hạn chế này đã phần nào cản trở trong quá trình xúc tiến dịch vụ

CTTC ở Việt Nam.

Khái niệm CTTC ở khoản 1 điều 1 của Nghị định 16 vô hình chung đã

giới hạn đối tƣợng CTTC (tài sản thuê) chỉ là động sản. Ngƣời cho thuê là chủ

sở hữu tài sản thuê, nên không thể áp dụng hình thức CTTC giáp lƣng - là

hình thức CTTC mà trong đó, đƣợc sự đồng ý của bên cho thuê, bên đi thuê

thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản mà mình đã thuê từ bên cho

thuê. CTTC giáp lƣng là cần thiết để đảm bảo tính lƣu thông trên thị trƣờng

CTTC.

Cách diễn đạt dài dòng về khái niệm CTTC tại điều 1 của Nghị định

này mang tính chất liệt kê một quy trình CTTC; nhƣng lại không phản ánh

đầy đủ nội dung của một giao dịch CTTC. Ví dụ nhƣ, vấn để chuyển quyền sở

hữu tài sản thuê từ ngƣời cho thuê sang ngƣời đi thuê vào thời điểm kết thúc

10

thời hạn thuê tài sản không đƣợc nêu ra ngay ở khoản 1, mà lại tách ra và đề

cập ở khoản 2 điều 1: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa

chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận

trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định

tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài

sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.

Ngƣợc lại, khái niệm CTTC theo chuẩn mực số 06 lại chỉ đề cập đến

đặc trƣng cơ bản của giao dịch CTTC là việc chuyển giao quyền sở hữu đối

với tài sản thuê; việc mô tả nhƣ vậy dẫn đến sự khó hiểu, trừu tƣợng và khó

định hình thế nào là một giao dịch CTTC.

Vậy, có thể định nghĩa CTTC là một loại hình tín dụng trung và dài

hạn không hủy ngang, có đối tượng là tài sản, trong đó bên cho thuê chuyển

giao quyền sử dụng và hầu hết lợi ích và rủi ro cho bên đi thuê theo thời hạn

đã thỏa thuận. Khi hết hạn cho thuê quyền sở hữu tài sản có được chuyển

giao hay không tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên.

Khi phân tích khái niệm cho thuê tài chính cũng cần phân biệt khái

niệm CTTC (financial leasing) với cho thuê vận hành(operating leasing) vì cả

hai giao dịch này đều là quan hệ cho thuê và đối tƣợng là tài sản.

Cho thuê vận hành (hay còn gọi là cho thuê hoạt động) là hình thức

thuê ngắn hạn tài sản. Đặc trƣng cơ bản để phân biệt giữa cho thuê tài chính

với cho thuê vận hành là, trong cho thuê vận hành không có sự chuyển giao

quyền sở hữu tài sản cho ngƣời thuê. Cho thuê hoạt động, về mặt lịch sử là

giai đoạn phát triển cao hơn CTTC, thị trƣờng cho thuê vận hành có mức độ

cạnh tranh và tính chất chuyên môn hóa cao hơn. Trong hình thức cho thuê

vận hành, ngƣời cho thuê đồng thời phải cung cấp dịch vụ bảo trì bảo dƣỡng

tài sản. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới tài sản cố định trong điều kiện tốc độ hao

mòn vô hình của tài sản cố định tăng lên không ngừng, cho thuê vận hành có

tính chất ngắn hạn, ngƣời thuê có thể trả lại tài sản khi chƣa hết thời hạn thuê

11

(giao dịch có tính chất hủy ngang).

Ngoài ra, còn có các tiêu chí khác để phân biệt hai loại hình cho thuê

này (xem Bảng 1.1.1).

1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ cho thuê tài chính

Nhìn chung, một giao dịch cho thuê tài chính bao gồm các nội dung,

đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, cho thuê tài chính là loại hình tín dụng trung, dài hạn không

hủy ngang mà vật thế chấp chính là tài sản cho thuê; tỷ lệ tài trợ tín dụng có

thể lên đến 100% trị giá của tài sản thuê. Khác với các hình thức cấp tín dụng

khác mà theo đó, tổ chức tín dụng chuyển giao một khoản tiền, trong hình

thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng (bên cho thuê) tiến hành

cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ

thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phƣơng tiện vận tải,...) để bên thuê sử

dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê

theo thoả thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch cho thuê tài

chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Tổ chức tín dụng đƣợc

bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối với khoản tín dụng đã

chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê. Cũng tƣơng tự nhƣ pháp luật

một số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận cho thuê tài chính

là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, phù hợp với đặc điểm của đối

tƣợng cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao

12

thƣờng từ một năm trở lên.

Bảng 1.1.1: Phân biệt CTTC và cho thuê vận hành

Tiêu chí phân loại

Cho thuê tài chính

Cho thuê vận hành

Bên cho thuê

Cty CTTC cho thuê trên cơ sở bên thuê lựa chọn tài sản từ

Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có đủ năng lực chủ thể và tài

nhà cung ứng và qua đó hình

sản cho thuê có sẵn của mình,

thành nên hai hợp đồng: HĐ

trên cơ sở đó hai bên ký kết

hợp đồng cho thuê vận hành

cho thuê và HĐ mua bán (giữa bên cho thuê và nhà

cung ứng tài sản)

Thời hạn thuê

Dài hạn: chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản (economic life)

Ngắn hạn: thƣờng chiếm một tỷ lệ nhỏ so với toàn bộ thời gian hữu dụng của tài sản

Tính chất hợp đồng Hợp đồng CTTC là hợp đồng

Hợp đồng cho thuê vận hành

không hủy ngang

là hợp đồng hủy ngang

Tiền thuê tài sản

Hiện giá của các khoản tiền

Hiện giá của các khoản tiền

thuê ít nhất là tƣơng đƣơng

thuê nhỏ hơn nhiều so với giá

với giá trị thị trƣờng của tài

trị thị trƣờng của tài sản tại

sản tại thời điểm bắt đầu hợp

thời điểm bắt đầu hợp đồng

đồng CTTC

cho thuê vận hành

Các chi phí bảo

Do bên đi thuê chịu

Do bên cho thuê chịu

hiểm, bảo dƣỡng và

rủi ro liên quan đến

tài sản

Phƣơng thức hạch

Bên cho thuê hạch toán

Bên đi thuê hạch toán

toán tài sản thuê

Chuyển giao quyền

Có thể đƣợc thực hiện vào

Hợp đồng cho thuê vận hành

sở hữu tài sản

không quy định quyền chọn mua tài sản

cuối thời hạn thuê trên cơ sở hợp đồng CTTC có quy định theo giá quyền chọn mua tƣợng trƣng

Luật điều chỉnh

Pháp luật về CTTC

Luật dân sự

Thứ hai, CTTC là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền (bao gồm

lợi ích và rủi ro) của chủ sở hữu (bên cho thuê) đƣợc chuyển giao cho bên

13

thuê. Trong thời hạn thuê, đó là sự chuyển giao quyền sử dung/kinh doanh tài

sản từ bên cho thuê sang bên thuê về dài hạn (tính chất dài hạn thể hiện ở

việc, những chi phí, rủi ro liên quan đến quá trình vận hành tài sản nhƣ: bảo

hiểm, bảo dƣỡng,... do bên thuê chịu). Khi kết thúc thời hạn thuê, quyền sở

hữu tài sản có thể hoàn toàn đƣợc chuyển giao cho ngƣời thuê.

Khác với các hình thức thuê tài sản thông thƣờng theo quy định của

pháp luật dân sự, trong hoạt động cho thuê tài chính, bên cho thuê giữ quyền

sở hữu đối với tài sản cho thuê (quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể

thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền cụ

thể nhƣ: quyền sử dụng, quyền hƣởng lợi ích từ tài sản thuê,... đƣợc chuyển

giao hầu nhƣ hoàn toàn cho bên thuê. Đặc điểm này đã đƣợc Uỷ ban về chuẩn

mực kế toán quốc tế - IASC ghi nhận: “Cho thuê tài chính là loại hình cho

thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền

với quyền sở hữu tài sản”.

Cụ thể hoá những đặc trƣng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, quy định

của pháp luật Việt Nam (tại khoản 1, điều 1 của Nghị định 65/2005/NĐ- CP:

Quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-

CP: Về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC) ghi nhận giao dịch cho thuê

tài chính phải có một trong những dấu hiệu sau đây:

(i) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê đƣợc chuyển

quyền sở hữu tài sản thuê hoặc đƣợc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên;

(ii) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê đƣợc quyền

ƣu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài

sản thuê tại thời điểm mua lại;

(iii) Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian

cần thiết để khấu hao tài sản thuê;

(iv) Tổng số tiền thuê tài sản theo thoả thuận ít nhất phải tƣơng đƣơng

14

với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.

Thứ ba, giao dịch CTTC có tính chất thời hạn. Tuy nhiên, thời hạn hợp

đồng CTTC (thời hạn cho thuê tài sản) chiếm đại đa số thời gian hoạt động

của tài sản (là thời gian cần thiết để khấu hao hết giá trị của tài sản/tƣ bản cố

định). Thời hạn cho thuê là không thể điều chỉnh, và thƣờng đƣợc xác định

trên ba yếu tố: thời gian hữu dụng của tài sản, khả năng tài chính của ngƣời đi

thuê và quy chế tài trợ cho thuê của công ty cho thuê tài chính.

Thứ tư, khác với các giao dịch cho thuê thông thƣờng (cho thuê vận

hành), giao dịch CTTC thƣờng liên quan đến hai hợp đồng: hợp đồng mua

bán tài sản và hợp đồng CTTC. Hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng ký kết

giữa công ty CTTC (ngƣời đi thuê) và nhà cung ứng thiết bị (tài sản), là hợp

đồng mà ở đó có sự chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu tài sản kể từ khi hợp

đồng này có giá trị hiệu lực về mặt pháp lý. Hợp đồng CTTC là hợp đồng

đƣợc ký kết giữa ngƣời đi thuê và ngƣời cho thuê, là hợp đồng mà ở đó có sự

chuyển giao quyền sử dụng tài sản trong thời hạn thỏa thuận; việc chuyển

giao quyền sở hữu có thể đƣợc thực hiện khi kết thúc thời hạn thuê.

Trong đó, bên cho thuê/công ty CTTC là nhà tài trợ tín dụng, là chủ sở

hữu tài sản, là ngƣời sẽ thanh toán toàn bộ giá trị của tài sản (thiết bị) theo

thỏa thuận giữa ngƣời thuê và nhà cung cấp thiết bị, bên cho thuê cũng có thể

đồng thời là nhà cung cấp.

Bên thuê (bên nhận tài trợ tín dụng) có quyền lựa chọn tài sản theo một

mức giá thấp hơn giá trị còn lại của tài sản, có quyền sử dụng, hƣởng những

lợi ích của tài sản trong thời hạn thuê; có nghĩa vụ trả tiền thuê tài sản (tiền

trích khấu hao tài sản cho thuê) cho công ty CTTC theo phƣơng thức thanh

toán đã đƣợc thỏa thuận.

Thứ năm, CTTC là hình thức tín dụng cung cấp hàng loạt sự lựa chọn

(options) cho ngƣời đi thuê, Khi chấm dứt thời hạn thuê, việc xử lý tài sản

15

thuê có nhiều cách thức: Ngƣời thuê có quyền lựa chọn trả lại tài sản cho

ngƣời cho thuê, thuê tiếp, hoặc mua tài sản theo một mức giá đƣợc xác định

trƣớc trong hợp đồng CTTC (mức giá này thƣờng thấp hơn giá trị còn lại của

tài sản tại thời điểm mua tài sản).

1.1.3. Phân loại cho thuê tài chính

1.1.3.1. Căn cứ vào số lượng các bên tham gia có: CTTC trực tiếp (hai

bên) và CTTC ba bên

CTTC trực tiếp (direct financial lease): Theo hình thức này, trƣớc khi

thực hiện giao dịch cho thuê, tài sản thuê đã thuộc quyền sở hữu của bên cho

thuê. Thƣờng ngƣời cho thuê là công ty sản xuất ra tài sản cho thuê, là ngƣời

có sẵn tài sản và sử dụng tài sản đó để tài trợ cho ngƣời thuê. Ngƣời cho thuê

cũng có thể là chủ sở hữu của các bất động sản. Hoặc cũng có thể là ngƣời

mua tài sản của doanh nghiệp và cho chính doanh nghiệp đó thuê lại (hình

thức mua và thuê lại). Với đặc điểm nhƣ trên, mục đích của CTTC trực tiếp là

đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của bên cung ứng. Ngoài ra, do ƣu thế

chuyên môn hóa, nhà sản xuất có thể sẵn sàng mua lại thiết bị đã lạc hậu để

cải tiến, cập nhật những công nghệ mới cho sản phẩm. Ở đây không có nhiều

sự tham gia của các định chế tài chính (xem Sơ đồ 1.1).

CTTC ba bên: Trong giao dịch này có sự tham gia của ba bên: ngƣời

cho thuê, ngƣời thuê và nhà cung cấp tài sản. Bên cho thuê là ngƣời tài trợ

vốn, có thể là một hoặc nhiều công ty. Bên cung cấp tài sản cũng có thể là

một hoặc một nhóm nhà sản xuất/cung ứng. Đây là hình thức phổ biến vì các

16

lý do sau:

(1)

Sơ đồ 1.1.1: CTTC trực tiếp (hai bên)

(2)

(3)

Bên thuê Bên đi thuê

(1): Bên cho thuê và bên đi thuê ký kết hợp đồng CTTC

(2): Bên cho thuê giao tài sản (quyền sử dụng) cho bên đi thuê

(3): Bên đi thuê thanh toán các khoản tiền thuê theo hợp đồng CTTC

- Bên cho thuê không phải mua tài sản trƣớc nên không bị đọng vốn,

thời gian chu chuyển vốn nhanh hơn do tiết kiệm đƣợc thời gian dự trữ.

- Bên thuê có sự lựa chọn nhiều hơn về tài sản thuê về các tiêu chí:

thông số kỹ thuật, giá cả, dịch vụ hậu mãi,…

- Bên cho thuê không trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó mới chuyển giao

cho bên đi thuê. Ngƣời thuê không chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng

hoạt động cũng nhƣ bảo hành, bảo dƣỡng tài sản. Do đó, bên cho thuê có thể

hạn chế đƣợc rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận tài sản của bên đi thuê

nếu nhƣ có sự sai sót về mặt kỹ thuật (xem Sơ đồ 1.1.2).

1.1.3.2. Căn cứ vào tính chất giao dịch có cho thuê ƣớt, cho thuê khô;

cho thuê đóng, cho thuê mở; cho thuê nội địa, cho thuê qua biên giới; cho

thuê theo hợp đồng thuê gốc; cho thuê cập nhật

Cho thuê ƣớt và cho thuê khô: Cả hai hình thức cho thuê này đều là

cho thuê hoạt động, phổ biến trong nghiệp vụ cho thuê máy bay. Cho thuê ƣớt

là hình thức cung cấp tài chính kèm theo dịch vụ bảo trì bảo dƣỡng, ngƣời lái,

nhiên liệu,… Còn cho thuê khô chỉ đơn thuần cung cấp tài chính dƣới dạng tài

17

sản (máy bay), các dịch vụ khác do ngƣời thuê chịu trách nhiệm.

(1)

Sơ đồ 1.1.2: CTTC 3 bên

(4)

(2)

(3)

Bên cho thuê Bên thuê

B. cung cấp

(1): Bên cho thuê và bên thuê ký kết hợp đồng CTTC

(2): Bên cho thuê và nhà cung cấp ký kết hợp đồng mua bán tài sản

(3): Nhà cung cấp bàn giao tài sản thuê cho bên thuê

(4): Thanh toán tiền thuê

Cho thuê đóng và cho thuê mở: Cho thuê đóng là hình thức cho thuê

khi kết thúc thời hạn tài sản thuê đƣợc chuyển giao cho ngƣời thuê; mọi rủi ro

về hao mòn vô hình, giá trị còn lại của tài sản do ngƣời thuê chịu. Trong hình

thức cho thuê mở, ngƣời thuê có quyền lựa chọn mua tài sản vào cuối thời

hạn thuê hoặc có quyền kéo dài thời hạn thuê.

Cho thuê nội địa và cho thuê qua biên giới: Cho thuê nội địa là hình

thức cho thuê mà các bên tham gia vào hợp đồng thuê không có yếu tố quốc

tế, ngƣời thuê và cho thuê cùng trong một biên giới quốc gia. Cho thuê qua

biên giới là hình thức cho thuê khi ngƣời xuất khẩu bán sản phẩm của mình

cho công ty cho thuê, công ty cho thuê sau đó cho thể nhân hoặc pháp nhân ở

nƣớc ngoài thuê. Do có ít nhất hai đƣơng sự của hai nƣớc khác nhau tham gia,

các vấn đề đặc biệt là thuế và luật pháp sẽ phức tạp hơn nhiều cho thuê nội

địa. Ƣu điểm của hình thức này là bên thuê có thể tiếp cận với những sản

phẩm công nghệ cao ở các nƣớc tiên tiến, giảm bớt đƣợc các chi phí trung

18

gian. Trong trƣờng hợp này, ngƣời thuê phải cân nhắc kỹ giữa ƣu điểm và rủi

ro (lợi ích và chi phí) của giao dịch này. Thuê qua biên giới thƣờng là thuê trả

hết, hàng hóa đƣợc bán (xuất khẩu) cho ngƣời thuê ở cuối thời hạn thuê.

Cho thuê theo hợp đồng thuê gốc: Hình thức này cho phép ngƣời thuê

tài sản có thể tiếp tục thuê những tài sản khác (hoặc tài sản thay thế) từ ngƣời

cho thuê cùng những điều khoản nhƣ trong hợp đồng cho thuê ban đầu

(master lease contract) mà không cần phải ký một hợp đồng mới. Cho thuê

theo hợp đồng gốc thƣờng áp dụng với thời hạn của hợp đồng thuê lớn hơn

thời gian hữu dụng của tài sản, nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí cho những

khách hàng quen thuộc.

Cho thuê cập nhật: Trong hình thức này, ngƣời cho thuê (thƣờng đồng

thời là bên cung ứng tài sản hoặc công ty liên kết với bên cung ứng tài sản)

đồng ý cho bên đi thuê thay thế tài sản đã lạc hậu bằng tài sản mới để tránh

hao mòn vô hình cho bên đi thuê tài sản.

1.1.3.3. Các hình thức đặc biệt của CTTC

Bán và tái thuê (Sale and Lease Back):

Đây là một hình thức đặc biệt trong hoạt động CTTC có sự tham gia

của hai bên. Bán và tái thuê xảy ra khi doanh nghiệp thiếu vốn lƣu động để

khai thác tài sản cố định hiện có. Để có đƣợc thêm nguồn vốn lƣu động doanh

nghiệp buộc phải bán tài sản cố định cho công ty CTTC sau đó thuê lại chính

19

tài sản đó để sử dụng (xem Sơ đồ 1.1.3).

Hợp đồng mua bán tài sản

Quyền sở hữu pháp lý

Tiền mua tài sản

Chủ sở hữu ban đầu Ngƣời bán Ngƣời thuê

Quyền sử dụng tài sản

Cty CTTC Ngƣời mua Chủ sở hữu mới

Tiền thuê tài sản

Hợp đồng thuê tài sản

Sơ đồ 1.1.3: Bán và tái thuê

Cho thuê giáp lƣng (hay còn gọi là cho thuê lại- Under Lease):

Hình thức cho thuê này có sự tham gia của ba bên: ngƣời cho thuê,

ngƣời thuê thứ nhất và ngƣời thuê thứ hai. Ngƣời thuê thứ nhất khi không còn

nhu cầu đối với tài sản thuê nên phải tìm ngƣời thuê thứ hai để chuyển giao

hợp đồng thuê (vì hợp đồng CTTC là hợp đồng không hủy ngang). Sự chuyển

giao này phải đƣợc sự đồng ý của ngƣời cho thuê. Mọi chi phí và rủi ro phát

sinh từ hợp đồng thuê lại này do ngƣời thuê thứ nhất và ngƣời thuê thứ hai tự

thỏa thuận. Ngƣời thuê thứ nhất vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới về tài sản

thuê vì là ngƣời trực tiếp ký kết hợp đồng với ngƣời cho thuê (xem sơ đồ

20

1.1.4).

QSD tài sản

QSD tài sản

Cty CTTC

Ngƣời thuê thứ hai

Ngƣời thuê thứ nhất

Tiền thuê

Tiền thuê

Sơ đồ 1.1.4: CTTC giáp lƣng

Cho thuê bắc cầu (Leveraged Lease): Hình thức cho thuê này có sự

tham gia của ba bên: ngƣời cho thuê, ngƣời thuê và nhà tài trợ. Ngƣời cho

thuê do không đủ khả năng tài trợ vốn cho khách hàng phải đi vay ngƣời thứ

ba (nhà tài trợ). Vật thế chấp cho khoản vay của ngƣời cho thuê là quyền sở

hữu tài sản thuê trong hợp đồng CTTC và các khoản tiền mà ngƣời thuê sẽ trả

cho ngƣời cho thuê. Nhà tài trợ đƣợc hoàn trả từ các khoản tiền thuê thƣờng

trực tiếp từ ngƣời thuê theo yêu cầu của ngƣời cho thuê. Khi thanh toán hết với

nhà tài trợ, những khoản tiền thuê còn lại sẽ đƣợc trả cho ngƣời thuê. Thuê bắc

cầu thƣờng áp dụng với những tài sản thuê có giá trị lớn (xem Sơ đồ 1.1.5).

Ngân hàng/Nhà tài trợ

(1)

(4)

(2)

Ngƣời thuê

Cty CTTC

(3)

Sơ đồ 1.1.5: CTTC bắc cầu

(1): Cho vay mua tài sản (2): Cho thuê tài sản

(3): Trả tiền thuê

21

(4): Trả tiền vay

Cho thuê hợp tác (Syndicated Lease): Hình thức cho thuê này đƣợc

thực hiện trên cơ sở hợp đồng đa phƣơng giữa một hay nhiều khách hàng và

nhiều công ty CTTC do một công ty CTTC đứng ra làm ngƣời tổ chức. Ngƣời

tổ chức này sẽ đại diện thực hiện quy trình CTTC với ngƣời đi thuê. Hình

thức tƣơng đối giống với cho thuê bắc cầu chỉ khác là nhà tài trợ trong cho

thuê hợp tác tham gia trực tiếp trong quá trình cho thuê, còn nhà tài trợ trong

cho thuê bắc cầu tham gia gián tiếp.

Các hình thức đặc biệt này của CTTC tạo điều kiện ngày một thuận lợi

cho việc phát triển dịch vụ CTTC trong nền kinh tế. Ngƣợc lại, để vận hành

tốt những hình thức cho thuê này đòi hỏi trình độ cao về tổ chức quản lý, tác

nghiệp của nội bộ các công ty CTTC cũng nhƣ trên bình diện của ngành và

nền kinh tế.

1.1.4. Những điều kiện để hình thành và phát triển dịch vụ cho thuê

tài chính trong nền kinh tế thị trường

1.1.4.1. Tạo môi trường pháp lý cho hoạt động CTTC

Khi thực hiện chuyển đổi kinh tế, một trong những vấn đề bức xúc nhất

là tạo môi trƣờng pháp lý, thu hút và đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tƣ

trong nƣớc và nƣớc ngoài, nghiên cứu đƣa ra một số luật nhằm bảo vệ quyền

lợi của nhà đầu tƣ và các doanh nghiệp. Xây dựng một khung thể chế có hiệu

quả là cần thiết, mặc dù trong thực tế, việc làm này không phải dễ dàng.

Tính tin cậy về luật pháp cũng là một yếu tố quan trọng tác động tới

môi trƣờng kinh doanh đặc biệt ở khu vực tƣ nhân. Kinh nghiệm cho thấy ở

một số nƣớc, nhƣ Nga và các nƣớc thuộc Liên Xô trƣớc đây (sau sự kiện

chính trị 12/12/1991), rất nhiều đạo luật về sở hữu tƣ nhân, về hợp đồng, tổ

chức, cạnh tranh… đƣợc ban hành, nhƣng trên thực tế thì lại không đƣợc áp

dụng hay không có hiệu lực. Sự không ổn định trong hệ thống toà án cũng

góp phần làm hạn chế các giao dịch, làm tăng chi phí của các giao dịch này

22

đến mức làm cho các giao dịch không thể thực hiện đƣợc. Khi mức độ tin cậy

vào hệ thống luật pháp thấp, các chủ thể kinh doanh không thể có lòng tin với

các đối tác mới, do vậy hạn chế sự mở rộng hoạt động. Ngƣợc lại, các nƣớc

Đông Âu (nhƣ Hunggary, cộng hòa Séc, Estonia) đã xây dựng đƣợc một hệ

thống toà án có tính ổn định và đƣợc đảm bảo tƣơng đối cao trong số những

nƣớc chuyển đổi.

Vì vậy, tạo môi trƣờng pháp lý trong kinh doanh và xây dựng thể chế

kinh tế thị trƣờng là tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế thị trƣờng nói

chung, phát triển thị trƣờng CTTC nói riêng ở Việt Nam hiện nay.

Cho thuê tài chính là một hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho các chủ

thể tham gia và cho nền kinh tế- xã hội. Nhƣng để lợi ích của cá nhân, doanh

nghiệp và lợi ích của xã hội đi cùng chiều với nhau đòi hỏi trƣớc tiên phải

thiết lập một khuôn khổ pháp lý và hệ thống vận hành đồng bộ, đúng mực.

Xây dựng một khung pháp lý tốt không chỉ là tiền đề mà còn đóng vai trò là

tác nhân xúc tiến hoạt động này phát triển trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng ở

Việt Nam. Trƣớc tiên là hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động cho

thuê tài chính mà căn cứ chung nhất là luật về cho thuê tài chính, sau đó là

cần có sự bổ sung điều chỉnh các đạo luật khác có liên quan đến hoạt động

CTTC. Chính sự thiếu vắng luật CTTC đã gây nên tình trạng chồng chéo, gây

khó hiểu cũng nhƣ ảnh hƣởng đến hiệu quả và tốc độ phát triển của dịch vụ

CTTC ở Việt Nam trong thời gian qua.

Công ty tài chính quốc tế - IFC (International Finance Corporation)

thuộc Ngân hàng thế giới - WB đã rút ra một số nguyên tắc mang tính chất

pháp lý đảm bảo cho một giao dịch cho thuê thành công nhƣ sau:

Một là, hệ thống luật pháp quốc gia phải định nghĩa rõ ràng về bản chất

các giao dịch cho thuê để bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngƣời thuê và ngƣời

cho thuê. Cần phân biệt rõ ràng giữa cho thuê với các giao dịch thƣơng mại và

các hình thức tín dụng khác để tránh cho hoạt động này phải tuân thủ những

23

điều khoản bất lợi.

Hai là, luật thuế phải có các tham chiếu và điều khoản cụ thể về nghĩa

vụ thuế và ƣu đãi thuế đối với bên thuê và bên cho thuê. Trên cơ sở đó, ngƣời

thuê sẽ xác định chính xác chi phí CTTC và so sánh với chi phí nếu đi vay

vốn của ngân hàng để mua tài sản. Về phía ngƣời cho thuê cũng tính đƣợc

những ƣu đãi do thuế mang lại đủ để thúc đẩy đầu tƣ trong lĩnh vực CTTC.

Ba là, CTTC là kênh huy động hữu hiệu vốn trong nền kinh tế để xây

dựng và phát triển sản xuất hàng hóa lớn nên luật khuyến khích đầu tƣ cần

đƣợc áp dụng cho lĩnh vực này. Luật phải thể hiện thái độ bình đẳng đối với

việc thuê và mua máy móc, thiết bị, cũng nhƣ đối với các thành phần kinh tế

tham gia trong hoạt động CTTC.

1.1.4.2. Môi trường kinh tế

Môi trƣờng kinh tế vĩ mô là môi trƣờng tác động gián tiếp đến hoạt

động của ngành, bao gồm các chính sách vĩ mô nhƣ: chính sách đầu tƣ, chính

sách tiền tệ… Lƣu thông tiền tệ ổn định, lạm phát đƣợc kiểm soát ở mức hợp

lý là những tiền đề cần thiết để tạo niềm tin cho các bên tham gia và là một

trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trƣờng

CTTC. Để thúc đẩy thị trƣờng này phát triển, trong giai đoạn đầu các quốc gia

thƣờng áp dụng chính sách thuế cho phép các bên đƣợc hƣởng những lợi ích

trực tiếp về thuế nhƣ: miễn/giảm hoặc giãn những khoản thuế phải nộp cho

ngân sách nhà nƣớc trong những năm đầu hoạt động (thuế doanh thu, thuế

đánh vào cổ tức, lợi tức…) Về lâu dài, chính sách thuế phải thể hiện ƣu thế

của CTTC với các hình thức tài trợ tín dụng khác, ví dụ: cho phép doanh

nghiệp tính khấu hao nhanh để đổi mới nhanh tài sản cố định, cũng nhƣ giảm

đi gánh nặng về thuế (thuế VAT, thuế trƣớc bạ, thuế nhập khẩu,…)

Môi trƣờng kinh tế vi mô là môi trƣờng tác động trực tiếp đến hoạt

động của ngành, trong đó có thể kể đến sự cạnh tranh trong và ngoài ngành.

Để củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của chủ thể CTTC, hai vấn đề cần

24

lƣu tâm là: nguồn vốn và năng lực hoạt động của các công ty cho thuê tài chính.

Vốn của công ty CTTC có thể hình thành từ các nguồn sau: vốn tự có,

vốn góp, vốn tích lũy trong quá trình kinh doanh; vốn huy động trong xã hội

thông qua việc phát hành các loại giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu) hoặc

nhận tiền gửi có kỳ hạn (thƣờng là trên 1 năm)... Đối tƣợng của CTTC là

những tài sản có giá trị nên nhu cầu vốn cho hoạt động của các công ty CTTC

là rất lớn. Vì vậy, cần có cơ chế thích hợp để công ty CTTC đa dạng hóa các

hình thức huy động vốn và tạo lập nguồn vốn một cách dồi dào.

Năng lực hoạt động của công ty CTTC trƣớc tiên và quan trọng nhất

thể hiện ở năng lực hoạt động của đội ngũ nhân sự đặc biệt trong việc thẩm

định các dự án CTTC. Đội ngũ này phải đảm bảo hai yếu tố nắm vững chuyên

môn nghiệp vụ trong lĩnh vực tài chính và lĩnh vực công nghệ. Hiện nay chƣa

có trƣờng đại học nào ở Việt Nam xây dựng đƣợc một chƣơng trình đào tạo

cử nhân kinh tế chuyên ngành về cho thuê tài chính. Đó cũng là một trong

những nguyên nhân cản trở sự phát triển dịch vụ này ở Việt Nam trong thời

gian qua.

CTTC là một quy trình kinh tế- kỹ thuật đòi hỏi sự tham gia của nhiều

khâu, nhiều thành phần trong và ngoài phạm vi công ty CTTC. Do vậy, để

đảm bảo sự thành công cho một giao dịch CTTC không thể không nhắc đến

sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, cơ quan hữu quan. Xét về phƣơng diện

kỹ thuật, đó là các cơ quan thuế, đăng kiểm, kiểm toán… Đứng ở góc độ quản

lý, giám sát là các cơ quan nhƣ: ngân hàng nhà nƣớc, trọng tài, tòa án,… Sự

phối hợp này phải thực hiện cả ở giác độ vĩ mô và vi mô.

1.2. Vai trò của cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trƣờng

1.2.1. Đối với người đi thuê

Trƣớc yêu cầu đổi mới tài sản cố định để nâng cao năng lực cạnh tranh

về giá và công nghệ của sản phẩm, doanh nghiệp thƣờng có hai sự lựa chọn là

vay vốn của ngân hàng để mua máy móc, thiết bị và đi thuê tài chính để có tài

25

sản đó từ công ty CTTC. Lợi ích của dịch vụ cho thuê tài chính mà bên đi

thuê có đƣợc chính là “lợi thế tƣơng đối” của dịch vụ này so với hình thức tín

dụng ngân hàng (đối tƣợng là tiền tệ). Đó là, ngƣời đi thuê đổi mới đƣợc tài

sản cố định với khoản đầu tƣ chỉ bằng một phần giá trị tài sản, tránh đƣợc

nguy cơ do hao mòn vô hình gây ra khi chờ có đủ vốn hoặc bị ảnh hƣởng đến

hạn mức tín dụng nếu đi vay (giá trị tài sản thuê đƣợc hạch toán ngoại bảng

nên không ảnh hƣởng đến số nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp

vẫn chịu hạn mức thuê đã đƣợc quy định để đảm bảo khả năng thanh toán của

công ty CTTC). Kết quả là, doanh nghiệp không bị đọng vốn trong tài sản cố

định, tạo khả năng dự trữ các nguồn tín dụng cho tƣơng lai, cũng nhƣ giúp

doanh nghiệp vƣợt qua khởi đầu khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp cũng có

thể tiết kiệm đƣợc chi phí vì có đƣợc tài sản với giá rẻ hơn nếu tự mình đi

mua. Bởi vì công ty CTTC có trình độ chuyên môn hóa cao và thiết lập mối

quan hệ lâu dài với các nhà cung ứng nên có nhiều khả năng đƣợc hƣởng mức

giá cạnh tranh hấp dẫn hơn. Ngƣời hƣởng lợi ở đây trong hợp đồng CTTC là

bên đi thuê, còn ngƣời hƣởng lợi trong hợp đồng mua bán tài sản là công ty

CTTC (bên cho thuê).

Ngƣời đi thuê cũng nhận đƣợc lợi ích về thuế, chi phí thuê đƣợc khấu

trừ trƣớc thuế nên làm giảm thuế thu nhập mà ngƣời đi thuê phải nộp.

CTTC giúp doanh nghiệp sử dụng, quản lý tài sản tốt hơn và dễ dàng

tính chi phí. Do chỉ đƣợc hƣởng quyền sử dụng tài sản trong thời hạn thuê,

quyền sở hữu vẫn thuộc về công ty CTTC nên quá trình sử dụng tài sản chịu

sự giám sát của bên thuê. Chính vì thế, ngƣời đi thuê luôn tìm mọi cách để

khai thác tài sản tốt nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất. Cũng từ đây, nhiều

sáng kiến, ý tƣởng đƣợc nảy nở trong việc sử dụng và quản lý tài sản cố định

nói chung của doanh nghiệp.

Về thủ tục, đơn giản hơn các hình thức tài trợ khác khi xem xét uy tín

doanh nghiệp cần tài trợ do không mất thời gian để hoàn thiện thủ tục thế

26

chấp, cầm cố.

Dịch vụ cho thuê tài chính cung cấp cho doanh nghiệp hàng loạt sự lựa

chọn, tính linh hoạt của dịch vụ giúp doanh nghiệp tính toán để có kết quả tối

ƣu trong khi tiến hành sản xuất kinh doanh.

Về tài sản thuê, doanh nghiệp đƣợc tự do lựa chọn tài sản thuê phù hợp

về giá cả, thông số kỹ thuật, dịch vụ sau bán,...

Về phƣơng thức thanh toán tiền thuê, doanh nghiệp có thể linh hoạt lựa

chọn phƣơng thức thanh toán tăng dần (step - up lease), giảm dần (step -

down lease) hay trả theo kiểu cách quãng - điều chỉnh theo diễn biến kinh

doanh (skip payment lease). Thậm chí cho phép hoãn nợ trong thời kỳ đầu để

chuyển đổi sản xuất kinh doanh, huấn luyện sử dụng, lắp đặt chạy thử,... (cho

thuê có ân hạn nợ thuê - deferred billing lease).Việc lựa chọn này dựa trên cơ

sở dòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp, cũng nhƣ cách xác định giá thành

sản phẩm khi tính khấu hao giá trị tài sản cố định vào sản phẩm mới của

doanh nghiệp.

Do vậy, về thời hạn thanh toán: Ngƣời đi thuê có thể thanh toán tiền

thuê ở những thời điểm nhất định trong năm. Cơ cấu cho thuê này nhằm đáp

ứng nhu cầu vốn cho sản xuất (theo thời vụ/mùa) hoặc những khó khăn có thể

phát sinh trong chu chuyển tiền tệ của ngƣời đi thuê.

Về lãi suất, có thể lựa chọn lãi suất cố định hay thả nổi.

Ngay cả khi doanh nghiệp trƣớc đó đã đầu tƣ máy móc, thiết bị nhƣng

lại thiếu vốn hoạt động trong quá trình vận hành, doanh nghiệp có thể bán lại

và tái thuê tài sản từ công ty CTTC. Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp

đƣợc quyền ƣu tiên mua lại tài sản với mức giá thấp hơn giá trị còn lại của tài

sản. Ngoài ra, trƣớc và trong suốt quá trình sử dụng tài sản ngƣời đi thuê còn

đƣợc hƣởng một loạt các dịch vụ hỗ trợ từ phía công ty CTTC nhƣ: dịch vụ tƣ

vấn miễn phí về nguồn gốc, giá cả, thông số kỹ thuật của tài sản cũng nhƣ các

vấn đề kỹ thuật phát sinh trong khi vận hành thiết bị; đăng ký tài sản; ngƣời

27

cho thuê đứng ra nhập khẩu trực tiếp, mở L/C không phải ký quỹ để giảm

thiểu chi phí cho doanh nghiệp. Ngày nay các công ty CTTC hoạt động

chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê thƣờng tổ chức cung ứng

các loại thiết bị theo quy trình khép kín. Cung ứng thiết bị cho thuê thƣờng đi

kèm với việc cung ứng linh phụ kiện, kỹ năng quản trị, dịch vụ đào tạo; thậm

chí cả tƣ vấn về sản phẩm, thị trƣờng cho khách hàng, do đó, giúp cho ngƣời

đi thuê nhanh chóng chớp đƣợc thời cơ trong sản xuất kinh doanh.

Với những ƣu thế nhƣ vậy, có thể nói CTTC là kênh dẫn vốn hữu hiệu

cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt các doanh nghiệp mới thành lập

chƣa có điều kiện về vốn hoặc tạo dựng đƣợc thƣơng hiệu; là tác nhân tích

cực kích thích những doanh nghiệp này tập trung sản xuất không ngừng, và

ngày càng trở thành “tế bào” năng động, hiệu quả trong nền kinh tế.

1.2.2. Đối với người cho thuê

CTTC làm đa dạng hóa các hoạt động đầu tƣ, kinh doanh cho công ty

CTTC; tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính, tín dụng mở rộng đối tƣợng

khách hàng, thị trƣờng; nâng cao năng lực cạnh tranh, cũng nhƣ giảm thiểu

rủi ro trong các hoạt động đầu tƣ.

CTTC là hình thức tài trợ tín dụng tƣơng đối ít rủi ro so với các hình

thức tín dụng khác, thể hiện ở hai điểm sau.

Thứ nhất, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng CTTC, quyền sở hữu

tài sản thuộc về bên cho thuê; giao dịch CTTC có tính chất không hủy ngang,

nên ngƣời cho thuê có thể thu hồi tài sản khi ngƣời thuê vi phạm hợp đồng mà

không cần đến phán quyết chính thức của tòa án. Tuy nhiên, việc thu hồi này

phụ thuộc ít nhiều vào chế tài pháp lý của từng nƣớc. Ngoài ra, thu hồi tài sản

trong CTTC thƣờng là thuận lợi và ít tốn kém hơn so với thu hồi tài sản mà

doanh nghiệp thế chấp để vay vốn của ngân hàng.

Thứ hai, tài trợ tín dụng thông qua hoạt động CTTC đảm bảo việc sử

dụng vốn đúng thời điểm, mục đích và đạt hiệu quả. Bởi vì, ngƣời thuê tự

28

chọn tài sản đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh thực sự của doanh nghiệp.

Mặt khác, ngƣời thuê trả tiền thuê tài sản bằng thu nhập từ hiệu quả sử dụng

tài sản thuê. Cơ chế giám sát trong suốt quá trình sử dụng tài sản của bên thuê

cũng cho phép bên cho thuê thu hồi tài sản trong tình trạng kỹ thuật tốt và có

khả năng tái đầu tƣ để sinh lời.

1.2.3. Đối với phát triển kinh tế - xã hội

CTTC là bộ phận hữu cơ trong hệ thống tín dụng xã hội. Sự phát triển

dịch vụ CTTC sẽ kéo theo sự phát triển của hệ thống tín dụng và ngƣợc lại.

Vai trò của hệ thống tín dụng đƣợc K. Marx nhìn nhận là “đòn bẩy” mạnh mẽ

cho tích tụ, tập trung sản xuất của toàn bộ nền kinh tế; không phải là số cộng

mà là số nhân sức sản xuất, góp phần xây dựng nền sản xuất hàng hóa lớn,

tăng năng suất lao động; thực hiện tốt việc phát triển kinh tế thị trƣờng định

hƣớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

Cho thuê tài chính thực chất là một quá trình cấp tín dụng bằng tài sản

trên cơ sở những dự án khả thi. Với tƣ cách là một kênh dẫn vốn cho nền kinh

tế, CTTC là đòn bẩy tích cực xúc tiến quá trình tập trung vốn, tập trung sản

xuất cho doanh nghiệp (ngƣời tiếp nhận vốn) nói riêng và cho toàn bộ nền

kinh tế quốc dân nói chung. Hơn thế nữa, CTTC là hình thức tài trợ vốn bằng

tài sản không cần thế chấp nên dịch vụ này ƣu thế hơn so với các hình thức tín

dụng cấp vốn (tiền tệ) thông thƣờng khác, nó định hƣớng đầu tƣ và giám sát

hữu hiệu quá trình đầu tƣ đó.Vì vậy, nguồn vốn xã hội đƣợc phân bổ một cách

hợp lý (cả về không gian và thời gian), mang lại lợi ích cho các bên tham gia

và cho xã hội, đảm bảo nguyên tắc thống nhất lợi ích. Có thể cụ thể hóa vai

trò của CTTC nhƣ sau:

Một là, huy động vốn xã hội, đa dạng hóa đầu tƣ xã hội, nâng cao quy

mô và chất lƣợng sử dụng vốn xã hội; tăng cƣờng, nâng cao năng lực cạnh

29

tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nƣớc.

Hai là, tăng cƣờng giám sát xã hội trong quá trình sử dụng vốn của

doanh nghiệp.

Ba là, góp phần hoàn thiện thị trƣờng vốn, là cơ sở hình thành sự đồng

bộ các loại thị trƣờng.

Từ những năm cuối thập niên 90 (thế kỷ XX) đến nay đã đã chứng kiến

sự phát triển của dịch vụ tài chính tín dụng ở Việt Nam, đáp ứng phần nào

nhu cầu ngày càng cao về tái sản xuất xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế, tạo đà tăng trƣởng cho nền kinh tế.

Biểu 1.2.1: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trƣởng kinh tế và tốc độ

tăng trƣởng dịch vụ tài chính, tín dụng (1996- 2008)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1.3. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở một số

nƣớc

1.3.1. Kinh nghiệm về tạo môi trường pháp lý

Công ty CTTC đầu tiên của Nhật đƣợc thành lập vào năm 1963. Để

thúc đẩy hoạt động này, ngay từ đầu hàng loạt các chính sách có lợi cho các

công ty CTTC đã đƣợc ban hành. Về mặt pháp lý, tòa án nhân dân tối cao

Nhật bản đã qui định về đánh giá hoạt động CTTC phải đƣợc dựa trên cơ sở

30

các đặc trƣng tài chính của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế IASC. Tiếp

đến, năm 1971, Hiệp hội CTTC Nhật bản (JLA) đƣợc thành lập, tiếp tục hoàn

thiện về mặt pháp lý. Ở Nhật bản, luật pháp cho phép các công ty trong các

lĩnh vực khác nhau nhƣ: tài chính ngân hàng, sản xuất công nghiệp, thƣơng mại,

dịch vụ, giao thông vận tải, viễn thông, xây dựng, điện, khí đốt,… đều đƣợc thực

hiện dịch vụ leasing nhƣ một chức năng kinh doanh của doanh nghiệp.

Năm 1973, chỉ sau một năm công ty CTTC đầu tiên đƣợc ra đời, tiếp

thu khuyến nghị của IFC, Hàn Quốc đã ban hành luật xúc tiến cho thuê

(leasing promotion law), trong đó xác định những căn cứ pháp lý quan trọng

điều chỉnh hoạt động CTTC. Năm 1976, quy chế cho thuê (leasing

regulations) đƣợc ra đời. Quy chế này quy định rõ đối tƣợng của CTTC, cho

phép ngƣời đi thuê và cho thuê đều đƣợc hƣởng lợi ích về thuế (đối với ngƣời

đi thuê: có thể khấu trừ tiền thuê vào thu nhập chịu thuế, ngƣời cho thuê cũng

đƣợc phép trừ các chi phí liên quan đến lãi suất và tiền khấu khao nhanh tài

sản cố định vào thu nhập chịu thuế). Các công ty cho thuê không bị hạn chế

nhập khẩu và đƣợc ƣu đãi với các giao dịch ngoại thƣơng.

CTTC xuất hiện ở Trung Quốc vào đầu những năm 80, thế kỷ XX.

Trƣớc đó, năm 1978 Trung Quốc thực hiện cải tổ toàn diện nền kinh tế. Theo

đó, môi trƣờng luật pháp kinh tế ngày càng đƣợc hoàn thiện. Luật về tài chính

ngân hàng hƣớng tới việc huy động các nguồn lực tài chính trong và ngoài

nƣớc, trong đó CTTC đƣợc khuyến khích phát triển. Nhà nƣớc đã áp dụng các

chính sách ƣu đãi về thuế đối với các trang thiết bị hiện đại nhập khẩu. Chính

sách hỗ trợ cho các công ty CTTC chuyên nghiệp thông qua việc cung cấp các

kênh tạo vốn từ bên ngoài cho phép các công ty này hoạt động nhƣ một ngân

hàng thƣơng mại đƣợc quyền huy động các nguồn vốn tín thác, huy động các

khoản tiền gửi và đƣợc phép vay các tổ chức kinh tế nƣớc ngoài. Sự quan tâm

của Nhà nƣớc trong bối cảnh tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh của giai đoạn

này đã kéo theo nhu cầu vốn đầu tƣ cho máy móc thiết bị, công nghệ phục vụ

31

cho sản xuất kinh doanh gia tăng không ngừng. Nhƣ một hệ quả tất yếu, thị

trƣờng CTTC độc lập, đầy tính cạnh tranh đã đƣợc hình thành và phát triển ở

Trung Quốc. Chính phủ nƣớc này cũng tạo ra một cơ chế mềm dẻo, hiệu quả

trong việc thu hút nguồn vốn nƣớc ngoài tạo đà tiếp tục cho sự phát triển của

ngành dịch vụ cho thuê. Giai đoạn 1981- 1986, doanh số cho thuê tăng từ 18,2

triệu USD lên đến 1 tỷ USD. Sự tăng trƣởng này góp phần không nhỏ vào

việc phát triển nền kinh tế ở Trung Quốc cũng nhƣ việc đạt đƣợc mục tiêu

nhân đôi trên bốn lĩnh vực: nhân đôi tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp và

nông nghiệp, nhân đôi tổng sản phẩm quốc nội, nhân đôi thu ngân sách nhà

nƣớc, nhân đôi thu nhập của nhân dân.

1.3.2. Kinh nghiệm về tạo môi trường kinh tế

Năm 1978, để cân bằng cán cân thanh toán (xuất siêu thƣơng mại với

Mỹ), Nhật Bản đã thúc đẩy nhập khẩu trong đó có nhập khẩu máy bay để cho

thuê. Các khoản cho thuê này đƣợc gọi là Samurai Lease- cho thuê máy bay

qua biên giới đƣợc chính phủ hỗ trợ thông qua chƣơng trình cho vay của ngân

hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản với lãi suất thấp ƣu đãi. Kết quả là có đến 31

hợp đồng cho thuê máy bay đã đƣợc ký kết tạo đà tích cực cho Nhật Bản tham

gia vào thị trƣờng cho thuê quốc tế. Đến năm 1980, luật Quản chế ngoại hối

và thƣơng mại đƣợc sửa đổi tạo cơ chế thoáng hơn cho trao đổi ngoại hối và

các giao dịch xuất nhập khẩu. Chính phủ đồng thời cũng có những ƣu đãi về

thời hạn tài trợ: đối với cho thuê là trên 10 năm (thời hạn ƣu đãi đối với ngân

hàng thƣơng mại là dƣới 10 năm). Vào thời điểm những năm 80 (XX), lãi

suất của các khoản tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thƣơng mại và công

ty cho thuê ở mức: 8,5- 8,9%/năm thấp hơn nhiều mức 13- 14%/năm ở Mỹ đã

tạo điều kiện cho các công ty cho thuê của Nhật có ƣu thế hơn hẳn so với các

định chế tài chính trong và ngoài nƣớc. Do có sự chênh lệch về lãi suất so với

Mỹ, nhu cầu bán trả góp định giá bằng đồng Yên tăng vọt. Ngành cho thuê của

Nhật tăng kim ngạch đáng kể trên thị trƣờng quốc tế. Các giao dịch cho thuê qua

32

biên giới dựa trên các hợp đồng trả góp này đƣợc gọi là “Shogun Lease”.

Vào cuối những năm 90, chính phủ Nhật bản đã thực hiện cải cách hệ

thống tài chính chƣa từng có trong lịch sử với những phƣơng hƣớng cơ bản

sau: tự do hơn, giảm can thiệp của Nhà nƣớc, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,

nới lỏng chính sách tài chính tiền tệ đi đôi với hoàn thiện các nguyên tắc và

cơ chế thị trƣờng [23]. Cuộc cải cách này đƣợc đánh giá là đòn bẩy vực nền

kinh tế Nhật Bản tăng trƣởng trở lại trong đó có sự tăng trƣởng của công

nghiệp cho thuê.

Sự thành công của ngành dịch vụ CTTC của Hàn Quốc là nhờ có sự hỗ

trợ rất lớn của chính phủ. Ngay từ đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã có chủ trƣơng

xây dựng và phát triển dịch vụ CTTC thành một lĩnh vực tài chính độc lập và

riêng biệt, đồng thời ban hành các đạo luật và các văn bản cụ thể, từng bƣớc

hoàn thiện theo những bƣớc tiến của ngành công nghiệp này.

Tại Hàn Quốc không phân biệt đối xử giữa hoạt động CTTC và các

hình thức tài trợ khác. Vì vậy, các công ty CTTC không phải nộp thuế doanh

thu, thuế giá trị gia tăng, và đƣợc hƣởng cùng một mức thuế lợi tức với các

ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín dụng,... Điều đó đã giúp tạo ra một môi

trƣờng cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty CTTC và các tổ chức tài chính,

tín dụng vốn có trên thị trƣờng Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng đƣa

ra các biện pháp khuyến khích đầu tƣ nhằm thu hút vốn đầu tƣ trong và ngoài

nƣớc vào lĩnh vực CTTC. Một trong những biện pháp đƣợc đƣa ra là khuyến

khích về thuế: công ty CTTC đƣợc miễn thuế lợi tức trong 5 năm hoạt động

đầu tiên, ngoài ra, còn đƣợc giảm 50% thuế đánh vào cổ tức chia cho các cổ

đông nƣớc ngoài. Ngoài ra, chính phủ Hàn Quốc còn ƣu tiên phát triển cho

thuê cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua quy định 50% doanh số cho

thuê của công ty cho thuê đƣợc dành cho doanh nghiệp có dƣới 300 nhân

công. Bƣớc sang thập niên 80, chính phủ Hàn Quốc tiếp tục dỡ bỏ những hạn

chế về lợi nhuận và cho vay nội địa. Ngay cả khi Hàn Quốc thực hiện chính

33

sách tiền tệ thắt chặt, các công ty CTTC cũng đƣợc hƣởng những nới lỏng

hơn so với ngân hàng thƣơng mại trong việc cấp tín dụng cho các doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Tác dụng của những biện pháp nói trên đặc biệt có ý nghĩa

trong thời gian mới đƣa loại hình CTTC vào nền kinh tế.

Theo các quy định của Hàn Quốc, các doanh nghiệp khi sử dụng hình

thức thuê tài chính để tài trợ cho nhu cầu đầu tƣ máy móc thiết bị đƣợc hƣởng

mọi quyền lợi nhƣ khi họ trực tiếp mua sắm thiết bị máy móc bằng nguồn vốn

của mình hoặc nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác. Cách thức đối xử

nhƣ vậy đã tác động đến quyết định của các doanh nghiệp khi lựa chọn hình

thức tài trợ cho nhu cầu mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị của mình. Sử

dụng hình thức khác thì quyền lợi pháp lý của doanh nghiệp vẫn vậy, trong

khi CTTC lại có nhiều ƣu điểm hơn các hình thức tài trợ thông thƣờng, nhƣ:

tỷ lệ tài trợ cao, không yêu cầu tài sản thế chấp, ra quyết định nhanh chóng,

linh hoạt trong thanh toán tiền thuê,... nên CTTC đƣợc ƣa thích hơn.

Nhìn chung, Hàn Quốc dành cho các công ty CTTC khá nhiều ƣu đãi

trong việc huy động nguồn vốn hoạt động. Bên cạnh các nguồn vốn vay từ

các tổ chức tài chính trung gian trong và ngoài nƣớc, các công ty cho thuê

đƣợc phép phát hành trái phiếu với giá trị phát hành tối đa lên tới 10 lần giá

trị ròng của công ty. Ngoài ra, cũng cho phép các công ty CTTC “tiếp cận”

với các quỹ khuyến khích đầu tƣ của Hàn Quốc, nhƣ: Quỹ đầu tƣ quốc gia,

Quỹ nội địa hoá máy móc, Quỹ tín dụng ngoại tệ đặc biệt,... Công ty CTTC

đƣợc hƣởng sự ƣu tiên đặc biệt này khi doanh nghiệp đi thuê thoả mãn các

điều kiện để đƣợc tài trợ từ các quỹ đó. Biện pháp này đã giúp các công ty

CTTC Hàn Quốc tháo gỡ khó khăn trong huy động nguồn vốn hoạt động,

ngay cả trong bối cảnh chính phủ Hàn Quốc thực hiện chính sách thắt chặt

tiền tệ để kiểm soát lạm phát, các công ty CTTC Hàn Quốc không chỉ đứng

34

vững mà còn có điều kiện để phát triển hơn nữa.

1.3.3. Kinh nghiệm về lựa chọn các hình thức CTTC, lựa chọn đối

tượng CTTC

Thuê bắc cầu theo kiểu Nhật (Japanese - Style Leverage Lease): Nhƣ

đã trình bày ở trên sự thành công của Shogun Lease ở Nhật là do chênh lệch

lãi suất giữa Nhật và Mỹ. Đến giữa những năm 80 chênh lệch này giảm dần,

do vậy Shogun Lease không còn căn cứ để tiếp tục phát triển. Năm 1985,

Nhật Bản đƣa ra hình thức thuê bắc cầu mới có lợi ích thuế. So với cho thuê

bắc cầu thông thƣờng (kiểu Mỹ)- ngƣời cho thuê đƣợc hƣởng lợi ích thuế do

khấu hao nhanh và đƣợc miễn trừ thuế đầu tƣ; cho thuê bắc cầu kiểu Nhật cho

phép trả chậm thuế đầu tƣ do thời hạn khấu hao đƣợc quy định ngắn hơn thời

hạn của hợp đồng thuê. Theo cơ cấu này, thu nhập là “tổng các khoản tiền

thuê cố định mà ngƣời thuê trả trong suốt thời hạn thuê và giá bán tài sản trên

thị trƣờng ở cuối thời hạn thuê” và chi phí là “tổng khấu hao và lãi trả ngân

hàng”. Bảng phân tích lỗ lãi thể hiện: trong nửa đầu của thời hạn thuê, chi phí

vƣợt thu nhập, do vậy thuế thu nhập đƣợc giảm đi; đến nửa cuối của thời hạn

thuê mới bắt đầu có lãi.

CTTC cân bằng tay ba (Square Trip): Phƣơng thức CTTC cân bằng tay

ba là sản phẩm riêng có của Nhật Bản, lần đầu tiên đƣợc áp dụng vào năm

1984. Theo đó, công ty cho thuê của Nhật ký một hợp đồng cho thuê với một

ngân hàng nƣớc ngoài, ngân hàng này đồng thời ký một hợp đồng cho vay với

khách hàng với cùng những điều kiện nhƣ trong hợp đồng CTTC. Hợp đồng

cho vay này đƣợc sử dụng làm thế chấp cho hợp đồng cho thuê giữa ngân

hàng và công ty cho thuê. Nhƣ vậy khách hàng có thể rút vốn thông qua hợp

đồng vay và công ty cho thuê cung cấp tài trợ dƣới dạng hợp đồng cho thuê.

35

(Xem Sơ đồ 1.3.1)

Ngân hàng nƣớc ngoài

(2)

(1)

(3)

Công ty cho thuê của Nhật

Khách hàng nƣớc ngoài

Sơ đồ 1.3.1: CTTC cân bằng tay ba

(1): Hợp đồng cho thuê

(2): Hợp đồng cho vay

(3): Tài trợ vốn

Cho thuê có ƣu đãi thuế: Chính phủ Nhật có quy định miễn thuế khấu

lƣu (withholding tax) đối với lãi thu đƣợc từ các khoản vay (đối với thuê bắc

cầu) hay thuê. Kinh nghiệm cho thuê ở một số nƣớc châu Á cho thấy dịch vụ

cho thuê chƣa đƣợc nhìn nhận là một hình thức tài trợ, nên thu nhập từ hợp

đồng cho thuê đƣợc coi là tiền thuê hơn là lãi suất và công ty cho thuê phải trả

phần thuế khấu lƣu này.

Hàn Quốc lại thành công với mô hình “Quick Lease” vào thời điểm

cuối thập niên 80. Đây là chƣơng trình kết hợp linh hoạt giữa những ƣu đãi

của chính phủ đối với việc cho thuê cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với

hình thức cho thuê giá trị nhỏ - Small Ticket Leasing- dƣới 50 triệu won

(tƣơng đƣơng 50 nghìn USD). Theo đó, ngƣời cho thuê thông báo cho ngƣời

môi giới hay nhà sản xuất (sau đây gọi là ngƣời cung ứng) các điều kiện của

hợp đồng thuê. Sau đó, ngƣời cung ứng tập hợp những khách hàng thuê tiềm

năng. Tiếp đến, ngƣời cho thuê duyệt đơn xin thuê và ký hợp đồng thuê cho

những ngƣời thuê do ngƣời cung ứng giới thiệu. Việc thanh toán tiền thuê sẽ

36

đƣợc đảm bảo bởi thƣ bảo lãnh của công ty bảo hiểm, chi phí bảo lãnh do

ngƣời thuê chịu. Sự xuất hiện của những ngƣời trung gian có uy tín đã làm

cho quy trình cho thuê đƣợc thực hiện một cách nhanh chóng và an toàn.

Quick Lease chính là cú huých cần thiết đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

ở Hàn Quốc trong quá trình đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ giúp doanh

37

nghiệp tạo đà cho những bƣớc phát triển dài hơi hơn sau này.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH

Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA (1995- 2008)

2.1. Cơ sở pháp lý của dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX nền kinh tế Việt Nam chuyển từ

cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc. Nhu cầu

lớn về vốn, công nghệ để hình thành một nền sản xuất hàng hóa lớn đã đặt ra

yêu cầu hoàn chỉnh cơ sở pháp lý, kỹ thuật cho hệ thống tín dụng, trong đó có

hoạt động CTTC.

Pháp lệnh hợp đồng dân sự (29/04/1991) đƣa ra những nguyên tắc

chung nhất về các giao dịch dân sự trong đó có đề cập đến hoạt động cho thuê

tài sản. Tiếp đến là Bộ Luật Dân sự đƣợc quốc hội thông qua ngày 28/10/1995

đã quy định chi tiết hơn về hoạt động cho thuê tài sản.

Năm 1992, Công ty tài chính quốc tế - IFC, theo yêu cầu của Ngân

hàng Nhà nƣớc Việt Nam đã hỗ trợ xây dựng nghiên cứu khả thi về việc thiết

lập nghiệp vụ tài trợ thuê mua máy móc thiết bị ở Việt Nam. Tuy nhiên, tại

thời điểm đó, CTTC là khái niệm mới cả đối với doanh nghiệp, ngân hàng và

các cơ quan chủ quản. Để thử nghiệm, Thống đốc NHNN đã ban hành thể lệ

tín dụng thuê mua (Quyết định 149/QĐ- NH5 ngày 09/10/1995) tạo cơ sở

pháp lý cho một số ngân hàng thƣơng mại quốc doanh thành lập thí điểm các

phòng tín dụng thuê mua, công ty thuê mua trực thuộc để từng bƣớc triển khai

một cách chính thức hoạt động này. Về bản chất, tín dụng thuê mua cũng

giống nhƣ CTTC.

Để nâng tầm hoạt động cho thuê, Chính phủ đã ban hành Nghị định

38

64/1995/NĐ- CP ngày 09/10/1995 về “Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt

động của công ty CTTC tại Việt Nam” và Thông tƣ 03/TT- NH5 của Thống

đốc NHNN (ngày 09/02/1996) hƣớng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 64.

Ngày 12/12/1997 Quốc hội thông qua Luật các tổ chức tín dụng, Luật

này có hiệu lực từ ngày 01/08/1998, đã thừa nhận hoạt động CTTC là một

hình thức cấp tín dụng do các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là các công ty

CTTC thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan Nhà nƣớc

có thẩm quyền ban hành các văn bản dƣới luật quy định chi tiết, cụ thể hơn

nữa về hoạt động này, tạo thuận lợi cho các bên tham gia tuân thủ pháp luật

và việc quản lý của Nhà nƣớc đối với hoạt động này đƣợc dễ dàng nhƣ:

Thông tƣ 49/1999/TT- BTC của Bộ Tài Chính ngày 06/05/1999 về Hƣớng

dẫn thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động CTTC, Thông tƣ

107/1999/TT- BTC của Bộ Tài chính về Hƣớng dẫn kế toán thuế GTGT đối

với hoạt động đi thuê tài chính vào ngày 1/9/1999.

Hoạt động CTTC trong những năm đầu đƣợc triển khai ở Việt Nam với

thái độ cẩn trọng cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Nghị định 64/CP sau gần 6 năm

đi vào thực tiễn đã tỏ ra nhiều bất cập. Chính phủ đã ban hành Nghị định

16/2001/NĐ - CP ngày 02/05/2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty

CTTC thay thế cho NĐ 64. Ngày 06/09/2001, NHNN đã ban hành Thông tƣ

08/2001/TT- NHNN hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 16.

Ngày 19/05/2005 Chính phủ ban hành Nghị định 65/2005/NĐ- CP về

sửa đổi, bổ sung một số điều của NĐ16/CP. Để thực hiện tốt Nghị định 65,

ngày 07/09/2006 NHNN ban hành Thông tƣ 07/2004/TT-NHNN “Hƣớng dẫn

về hoạt động mua và thuê lại theo hình thức CTTC theo quy định tại Nghị

định số 16/2001/NĐ- CP ngày 02/05/2001 và Nghị định số 65/2005/NĐ- CP

của Chính phủ”. Tiếp theo đó là thông tƣ 06/2005/TT- NHNN về Hƣớng dẫn

thực hiện một số nội dung tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001

của Chính phủ "Về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính" và

39

Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/05/2005 của Chính phủ "Quy định về

việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày

2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC".

Ngày 7/9/2006, Ngân hàng Nhà nƣớc đã có Thông tƣ số 07/2006/TT-

NHNN hƣớng dẫn về hoạt động mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê

tài chính quy định tại Nghị định số 16/2001/NÐ- CP ngày 2/5/2001 và Nghị

định số 65/2005/NÐ- CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ. Để thống nhất thực

hiện, NHNN ban hành Thông tƣ số 02/2007/TT-NHNN ngày 21/5/2007 sửa

đổi nội dung khoản 5 của Thông tƣ nói trên. Ngày 25/07/2006, NHNN tiếp

tục ban hành thông tƣ 05/2006/TT- NHNN về Hƣớng dẫn một số nội dung về

hoạt động CTTC và dịch vụ ủy thác CTTC theo quy định tại nghị định

16/2001/NĐ- CP và nghị định 65/2005/NĐ- CP của Chính phủ.

Ngày 25/08/2008 Nghị định 95/2008/NĐ- CP đƣợc Chính phủ ban

hành về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ- CP về loại

hình công ty CTTC.

Trong số các nghị định nói trên, Nghị định 16, về cơ bản, là căn cứ

pháp lý chủ yếu để triển khai dịch vụ CTTC ở Việt Nam.

Ngoài ra, CTTC ở Việt Nam hiện nay còn chịu sự điều chỉnh của các

luật sau: Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997), Luật sửa đổi bổ sung Luật

các tổ chức tín dụng (15/06/2004), Luật doanh nghiệp (2005), Luật dân sự

(trong trƣờng hợp có phát sinh tranh chấp về tài sản thuê), các luật thuế: thuế

giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu, luật doanh nghiệp,...

Từ những văn bản đã dẫn ra ở trên, nổi lên những quy định pháp sau

đây điều chỉnh hoạt động CTTC ở Việt Nam:

2.1.1. Quy định về tư cách pháp nhân và hình thức hoạt động của

công ty cho thuê tài chính

Công ty CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân

Việt Nam, đƣợc thành lập và hoạt động tại Việt Nam dƣới các hình thức:

40

Công ty CTTC Nhà nƣớc, CTCTTC cổ phần, CTCTTC trực thuộc của tổ

chức tín dụng, CTCTTC liên doanh, CTTC 100% vốn nƣớc ngoài. Các công

ty CTTC có thể tồn tại dƣới 3 hình thức: CTCTTC trách nhiệm hữu hạn hai

thành viên trở lên; CTCTTC trách nhiệm hữu hạn một thành viên và

CTCTTC cổ phần. Việc chuyển đổi sở hữu, thay đổi hình thức CTCTTC thực

hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (Nghị định 95).

Nghị định 95/2008/NĐ- CP quy định CTCTTC liên doanh là CTCTTC

đƣợc thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của Bên Việt Nam và Bên nƣớc

ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. CTCTTC liên doanh đƣợc thành lập

dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

CTCTTC 100% vốn nƣớc ngoài là CTCTTC đƣợc thành lập tại Việt

Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu của một hoặc một số tổ chức tín

dụng nƣớc ngoài và đƣợc thành lập dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu

hạn.

Ngoài các điều kiện đã đƣợc quy định, CTCTTC liên doanh hoặc 100%

vốn nƣớc ngoài muốn hoạt động hợp pháp phải đƣợc tổ chức có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật nƣớc nguyên xứ cho phép hoạt động cho thuê tài

chính tại Việt Nam; có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trƣớc thời

điểm nộp đơn, trừ trƣờng hợp Hiệp định đầu tƣ song phƣơng giữa Việt Nam

và nƣớc nguyên xứ có quy định khác.

2.1.2. Quy định về hoạt động nghiệp vụ của công ty CTTC

CTTC đƣợc thực hiện các nghiệp vụ sau:

a. Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo

các quy định của NHNN; đƣợc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và

giấy tờ có giá khác có kỳ hạn trên một năm để huy động vốn của tổ chức, cá

nhân trong và ngoài nƣớc khi đƣợc Thống đốc NHNN chấp thuận; đƣợc vay

vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nƣớc; đƣợc nhận các

nguồn vốn khác theo quy định của NHNN.

41

b. Cho thuê tài chính

c. Mua và cho thuê lại theo hình thức CTTC (dƣới đây gọi tắt là mua và

cho thuê lại). Theo hình thức này, công ty CTTC mua lại máy móc, thiết bị,

phƣơng tiện vận chuyển và các động sản thuộc sở hữu của bên thuê và cho

bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt

động của mình.

d. Tƣ vấn khách hàng những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ CTTC.

e. Thực hiện các dịch vụ ủy thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan

đến hoạt động CTTC và hoạt động khác khi đƣợc NHNN cho phép (điều 16,

Nghị định 16).

2.1.3. Quy định về đăng ký tài sản thuê

Tài sản CTTC phải đăng ký tại Trung tâm đăng ký giao dịch có đảm

bảo. Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn chi tiết việc đăng ký tài sản CTTC.

Đối với tài sản cho thuê là phƣơng tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt

thủy hải sản có giấy chứng nhận đăng ký, công ty CTTC giữ bản chính giấy

chứng nhận đăng ký, bên thuê khi sử dụng phƣơng tiện đƣợc dùng bản sao có

chứng nhận của Công chứng Nhà nƣớc và xác nhận của công ty CTTC, để sử

dụng phƣơng tiện trong thời hạn cho thuê. Công ty CTTC chỉ xác nhận vào

một bản sảo giấy chứng nhận đăng ký sau khi đã có chứng nhận của Công

chứng Nhà nƣớc. Nếu tài sản trên tham gia hoạt động trên tuyến quốc tế, công

ty CTTC giữ bản sao giấy chứng nhận đăng ký có chứng nhận của cơ quan

công chứng (điều 19, Nghị định 16).

Tại NĐ 65/2005/NĐ- CP, khoản 7 điều 1 có bổ sung: Công ty CTTC

đƣợc đăng ký sở hữu tài sản cho thuê tại cơ quan có thẩm quyền nơi công ty

cho thuê tài chính đặt trụ sở chính hoặc chi nhánh hoặc nơi bên thuê cƣ trú

hoặc đặt trụ sở hoạt động. Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp và Bộ Giao thông vận tải

42

có trách nhiệm hƣớng dẫn thi hành quy định này.

2.1.4. Quy định về hạch toán tài sản thuê

Doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định thuê tài chính phải trích khấu hao

tài sản cố định thuê tài chính nhƣ tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh

nghiệp theo quy định hiện hành. Trƣờng hợp ngay tại thời điểm khởi đầu thuê

tài sản, doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính cam kết không mua tài

sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh nghiệp đi thuê đƣợc trích

khấu hao tài sản cố định thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng

(Điểm 4, điều 9 Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định ban

hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ

Tài chính).

Nhƣ vậy, tại Việt Nam việc trích khấu hao nhanh tài sản thuê vẫn chƣa

đƣợc quy định rõ trong luật. Ở các quốc gia khác, để khuyến khích ngành

công nghiệp cho thuê phát triển, bên cho thuê và đi thuê có thể tùy thỏa thuận

để quyết định bên nào sẽ phản ảnh tài sản thuê trên bảng cân đối kế toán và

trích khấu hao. Thông thƣờng, bên cho thuê sẽ là bên trích khấu hao tài sản

thuê vì có mức lợi nhuận cao hơn và sẽ tiết kiệm thuế hơn. Trong nhiều

trƣờng hợp, bên cho thuê là thành viên của một tập đoàn tài chính lớn và nhƣ

vậy số tiền thuế tiết kiệm đƣợc sẽ rất lớn do chi phí khấu hao của công ty

thành viên đƣợc chuyển cho công ty mẹ trên bảng cân đối kế toán tổng hợp.

Số tiền tiết kiệm từ thuế này sẽ đƣợc chuyển hóa một phần cho bên thuê thông qua

việc giảm chi phí thuê - đây là một trong những lợi thế hấp dẫn của dịch vụ CTTC.

Theo Quyết định 206 nói trên thì bên thuê sẽ là ngƣời trích khấu hao tài

sản thuê, do vậy ở Việt Nam vấn đề tiết kiệm thuế chƣa đƣợc thực hiện, làm

giảm đi ít nhiều sự lựa chọn của doanh nghiệp với dịch vụ này. Do vậy, trên

thực tế, doanh nghiệp tìm đến CTTC khi không thể tiếp cận vốn vay từ ngân

43

hàng chứ không phải từ những ƣu thế mà dịch vụ này mang lại.

2.1.5. Các quy định khác

Tổng mức CTTC đối với một khách hàng không đƣợc vƣợt quá 30%

vốn tự có của công ty CTTC, trừ trƣờng hợp đối với những khoản cho thuê tài

chính từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc

khách hàng thuê là tổ chức tín dụng (khoản 2 điều 31 của Nghị định 16).

Trƣờng hợp nhu cầu thuê của một khách hàng vƣợt quá 30% vốn tự có

của công ty CTTC hoặc khách hàng có nhu cầu thuê từ nhiều nguồn thì các

công ty CTTC đƣợc cho thuê hợp vốn theo quy định của Thống đốc NHNN.

Trong các trƣờng hợp đặc biệt, thực hiện theo quy định tại điểm c khỏan 1

điều 79 của Luật các tổ chức tín dụng.

2.2. Tình hình hoạt động của ngành dịch vụ cho thuê tài chính ở

Việt Nam (1995 - 2008)

2.2.1. Đánh giá tổng quan

Công ty CTTC đầu tiên ở Việt Nam đƣợc thành lập vào năm 1996, kể

từ đó đến nay NHNN Việt Nam đã cấp tất cả 15 giấy phép hoạt động. Sau

một lần sáp nhập và một lần cấp lại giấy phép, trên thị trƣờng CTTC ở Việt

Nam hiện có 13 công ty (xem Bảng 2.2.1).

Nhìn chung, hầu hết các công ty CTTC trong nƣớc đều trực thuộc ngân

hàng thƣơng mại (ngoại trừ trƣờng hợp công ty CTTC của VINASHIN), tận

dụng nguồn vốn dồi dào và năng lực tác nghiệp sẵn có từ các ngân hàng mẹ.

Việc hình thành tƣ cách pháp nhân này là phù hợp với yêu cầu của luật pháp

Việt Nam (theo điều 2 của Nghị định 16/2001/NĐ- CP)

Phần lớn các công ty CTTC trực thuộc ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh (chƣa hoặc đã cổ phần hóa), chỉ có 3/13 công ty 100% vốn nƣớc ngoài

và 2/14 công ty thuộc ngân hàng thƣơng mại ngoài quốc doanh. Với cơ cấu

đơn giản nhƣ vậy cho thấy mức độ cạnh tranh trên thị trƣờng CTTC còn thấp.

44

Về cơ cấu nguồn vốn (xem Bảng 2.2.2)

Tỷ trọng vốn của chủ sở hữu phản ánh thời gian hoạt động trong ngành

của từng công ty, ở đây không có sự khác biệt nhiều giữa khu vực kinh tế nhà

nƣớc, tƣ nhân và khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Về cơ bản, những doanh

nghiệp lâu năm hơn thì có khả năng huy động vốn xã hội tốt hơn. Về tổng

nguồn vốn của toàn ngành là hơn 15 nghìn tỷ đồng, chỉ tƣơng đƣơng với

khoảng 2% tổng vốn huy động toàn xã hội. Nếu làm một phép so sánh giữa

vốn điều lệ trung bình của công ty CTTC là 150 tỷ VND với vốn điều lệ trung

bình của NHTM vào khoảng 1.000 tỷ đồng; thì công ty CTTC yếu thế hơn

hẳn so với NHTM. Ngoài ra, các ƣu thế về lãi suất, ƣu đãi của các dòng vốn

vay trung, dài hạn từ các NHTM, sự chƣa tích cực trong quảng bá về hoạt

động CTTC,... làm cho các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu hƣớng vào

45

các hình thức vay truyền thống.

Bảng 2.2.1: Danh sách các công ty CTTC ở Việt Nam

STT

Tên Công ty

Vốn điều lệ

Số và ngày cấp Giấy phép

Số và ngày cấp GP ngoại hối

1

103 Tỷ VND

14/GP-CTCTTC ngày 19/11/1999

438/QĐ-NHNN ngày 8/5/2003

Cty CTTC ANZ-VTRAC (100% vốn nƣớc ngoài) ( ANZ/V-TRAC Leasing Company)

2 Cty CTTC I - NH Nông nghiệp & PTNT (Agribank No1. Leasing Company)

06/GP-CTCTTC ngày 27/08/1998

250/QĐ-NHNN ngày 22/01/2007

200 tỷ VNĐ

3 Cty CTTC II - NH Nông nghiệp & PTNT (Agribank No2. Leasing Company)

07/GP-CTCTTC ngày 27/08/1998

04/GP-NHNN ngày 12/3/2003

350 tỷ VNĐ

4 Cty CTTC II NH Đầu tƣ và Phát triển VN (BIDV Leasing Company II)

11/GP-NHNN 17/12/2004

150 tỷ VNĐ

5

13 Triệu USD

02/GP-CTCTTC 20/11/1996

763/QĐ-NHNN ngày 14/7/2003

Cty CTTC Kexim (KVLC) (100% vốn nƣớc ngoài) (Kexim Vietnam Leasing Company)

6

300 tỷ VNĐ

04/GP-CTCTTC 20/03/1998

Cty CTTC NH Công thƣơng VN (Leasing Company - Industrial and Commercial Bank of Vietnam)

7 Cty CTTC NH Ngoại thƣơng VN (VCB

Financial Leasing Company)

05/GP-CTCTTC ngày 25/05/1998

06/GP-NHNN ngày 8/4/2003

300 tỷ VNĐ

200 tỷ VNĐ

8 Cty CTTC NH Sài Gòn Thƣơng Tín (Sacombank Leasing Company)

04/GP-NHNN ngày 12/04/2006

5010/NHNN- CNH ngày 4/6/2008

9

Cty CTTC NH Đầu tƣ và Phát triển VN (BIDV Leasing Company I)

08/GP-CTCTTC ngày 27/10/1998

13/GP-NHNN ngày 22/5/2003

200 tỷ VNĐ

10

10 triệu USD

09/GP-NHNN ngày 09/10/2006

quy định trong giấy phép

Cty TNHH CTTC Quốc tế Chailease (100% Vốn nƣớc ngoài) (Chailease International Leasing Company Limited)

11

100 Triệu VND

quy định trong giấy phép

Cty TNHH cho thuê tài chính Quốc tế VN (Vietnam International Leasing Company)

117/GP-NHNN ngày 24/04/2008 (Cấp lại)

200 tỷ VNĐ

12

79/GP-NHNN ngày 19/03/2008

5757/NHNN- CNH, 29/07/2009

Cty TNHH một thành viên CTTC Công nghiệp tàu thủy (VINASHIN Financial Leasing Company Limited)

13

100 tỷ VNĐ

06/GP-NHNN ngày 22/05/2007

Cty TNHH một thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu (ACB Leasing Company)

46

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bảng 2.2.2: Cơ cấu nguồn vốn của các công ty CTTC ở Việt Nam - 2007

Vốn khác

Tên công ty

Tổng nguồn vốn

S T T

Vốn chủ sở hữu

%

Vốn vay từ các TCTD

%

Vốn tự huy động

%

%

111.745

10

775.678 74

47.449

5 114.999

11 1.049.871

1 Cty CTTC VCB

335.450

38

401.600 47

47.918

6

76.308

9

861.276

2 Cty CTTC VietinBank

202.085

9 1.303.893 60

198.295

9 493.584

22 2.197.857

3 Cty CTTC Agribank I

355.599

6 4.424.243 71

966.096

15 527.021

8 6.272.959

4 Cty CTTC Agribank II

222.290

18

910.254 74

35.200

60.511

5 1.228.255

3

5 Cty CTTC BIDV I

6 Cty CTTC

156.878

19

518.526 63

56.106

94.563

11

826.073

7

BIDV II

108.634

16

273.356 40

186.979

27 118.748

17

687.717

7 Cty CTTC VILC

8 KVLC

209.482

15

991.011 73

109.731

44.650

3 1.354.874

9

87.976

67

17.513 13

0

25.719

20

131.208

0

9 Cty CTTC ANZ- VTRAC

160.930

68

36.797 16

19.342

17.740

234.809

8

8

10 Cty CTTC Chailease

11 SBL

143.371

25

45.572 63

45.752

23.568

570.351

4

8

12 ACBL

-

-

-

-

-

-

-

-

-

13 VFV

-

-

-

-

-

-

-

-

-

TỔNG

2.094.440

14 10010531 65 1712868

11 1597411

10 15415250

Đơn vị: triệu đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tỷ trọng nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng tại các công ty CTTC

thuộc ngân hàng thƣơng mại rất cao trên 60%. Thực tế này cũng dễ hiểu vì

47

nguồn vốn này đƣơc “rót” từ ngân hàng “mẹ” xuống. Điều này cũng có nghĩa

là, các nguồn vốn xã hội chƣa đƣợc các công ty khai thác nhiều. Vốn vay từ

ngân hàng mẹ là vốn vay với lãi suất ƣu đãi. Yếu tố đầu vào này thực tế chƣa

theo cơ chế thị trƣờng, vì vậy chƣa đƣợc thị trƣờng định giá (trong trƣờng hợp

này là định giá thấp hơn giá cả thị trƣờng). Vậy, chừng nào còn dựa nhiều vào

nguồn vốn này, CTTC ở Việt Nam vẫn còn trong tình trạng của “bao cấp”,

quy mô nhỏ, thiếu tính tự chủ, sáng tạo, hiệu quả kinh doanh không cao.

Đứng ở một góc độ khác, Nhà nƣớc chƣa tạo một cơ chế đủ “thoáng” để các

công ty CTTC có thể huy động nhiều vốn xã hội hơn nữa.

Về tăng trưởng dư nợ qua các năm (xem Bảng 2.2.3)

Đơn vị: tỷ đồng Năm

2003 4.321

2004 6.575

2005 8.089

2006 8.797

2007 13.054

30/9/08 14.357

2002 2.770

56%

52,16%

23,03%

8,75%

48.39%

9,98%

-

56%

137,36% 192,02% 217,58%

371,26%

418,30%

-

Tổng dƣ nợ Mức tăng trƣởng Mức tăng trƣởng 2002: gốc)

Bảng 2.2.3: Tăng trƣởng dƣ nợ tài chính của các công ty CTTC

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Dƣ nợ là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh tốc độ tăng

trƣởng của các công ty CTTC. Nhìn chung, CTTC trong những năm qua đã có

sự tăng trƣởng nhƣng chƣa bền vững. Tổng dƣ nợ tăng liên tục, năm sau luôn

cao hơn năm trƣớc, có những năm đạt tốc độ tăng trƣởng rất cao (hơn 50%).

Nếu lấy năm 2002 làm gốc, trong vòng gần 5 năm tổng dƣ nợ đã tăng gần

420% (tăng 5,2 lần). Nhƣng, xét ở chỉ tiêu tốc độ tăng trƣởng, CTTC Việt

48

Nam có sự tăng trƣởng không ổn định. Do ảnh hƣởng của suy thoái kinh tế

trong nƣớc từ cuối năm 2007 mức tăng trƣởng của ngành trong năm 2008 chỉ

còn khoảng 10%.

Về tăng trưởng dư nợ theo lĩnh vực, ngành nghề sản xuất (xem Bảng

2.2.4)

Bảng 2.4: Tăng trƣởng dƣ nợ theo lĩnh vực, ngành nghề sản xuất

của các công ty CTTC (cơ cấu sản phẩm CTTC)

STT Loại tài sản

Dƣ nợ 2006

Tỷ trọng Dƣ nợ 2007

Tỷ trọng

2.331

26,5%

3.655

28%

1 MMTB sản xuất công nghiệp

2 MMTB ngành

3.237

36,8%

6.004

46%

GTVT và thông tin

3 MMTB xây dựng

1.759

20%

1.556

12%

774

8,8%

1.174

9%

4 MMTB nông lâm ngƣ nghiệp

5 MMTB ngành khác

696

7,9%

655

5%

6

Tổng

8.797

100%

13.054

100%

Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo bảng 2.2.4, máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải và thông

tin (chủ yếu là phƣơng tiện vận tải) chiếm tỷ trọng cao nhất. Đây cũng là

ngành đạt có tốc độ tăng cao nhất. Ngƣợc lại, máy móc thiết bị phục vụ trong

lĩnh vực nông nghiệp có mức tăng chậm nhất và tỷ trọng nhỏ nhất. Trong khi

đó, Việt Nam hiện vẫn trong thời kỳ “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa nông

nghiệp, nông thôn”. Và cho đến nay quá trình cơ khí hóa nông nghiệp mới chỉ

đạt đƣợc những thành tích hết sức hạn chế, lao động thủ công vẫn là chủ yếu.

Theo kết quả điều tra về thực trạng doanh nghiệp Việt Nam của Tổng

cục Thống kê công bố ngày 11/05/2005, hầu hết các DN nƣớc ta có quy mô

49

vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ

thuật, công nghệ tiên tiến rất hạn chế. Ngay cả một số DN nhà nƣớc lớn cũng

ít quan tâm đến đổi mới công nghệ vì thƣờng có vị thế độc quyền, không chịu

sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nƣớc. Theo

Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thƣơng), phần lớn giá trị máy móc thiết bị

sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm, nhƣ dệt

may có đến 45% thiết bị máy móc cần phải đầu tƣ nâng cấp và 30- 40% cần

thay thế; mũi nhọn công nghiệp là cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40 năm so với

khu vực và 50 năm so với các nƣớc phát triển về công nghệ và thiết bị sản

xuất. Đầu tàu kinh tế của cả nƣớc là TP Hồ Chí Minh cũng chỉ có 25% DN có

công nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại là dƣới trung bình

và lạc hậu, trong đó DN có công nghệ lạc hậu chiếm 20%.

Các chuyên gia cho rằng, có hai luồng chuyển giao công nghệ chính

vào nƣớc ta hiện nay: hoặc là qua hình thức liên doanh với nƣớc ngoài và DN

100% vốn nƣớc ngoài, hoặc mang tính thƣơng mại thuần túy thông qua việc

mua bán công nghệ trên thị trƣờng. Song luồng thứ hai chiếm tỷ lệ rất ít; còn

luồng thứ nhất tuy chiếm tới 90% số hợp đồng chuyển giao, nhƣng trong đó

cũng có không ít những hợp đồng có trình độ công nghệ không cao, mà chủ

yếu là khai thác nhân công giá rẻ và trốn tránh các tiêu chuẩn về môi trƣờng ở

chính quốc. Rõ ràng, sự vận hành của thị trƣờng CTTC trong thời gian qua

chƣa đi vào thực chất, kênh huy động vốn trung dài hạn theo phƣơng thức

CTTC đã gần nhƣ hoàn toàn bỏ ngỏ đối với doanh nghiệp [44].

Hơn thế, dịch vụ CTTC- hình thức tín dụng cho vay không cần thế

chấp, cũng trên phƣơng diện lý thuyết, rất “vừa vặn” với nhu cầu cơ giới hóa,

ứng dụng công nghệ của kinh tế hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã,... là những

đơn vị kinh tế hầu nhƣ không có cơ hội tiếp cận vốn xã hội theo hình thức vay

50

thƣơng mại thông thƣờng (vay thế chấp).

Theo đánh giá của ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp

vừa và nhỏ trên Báo Ngƣời lao động ngày 06/09/2008, hiện nay chỉ có 20%

doanh nghiệp (trong tổng số khoảng hơn 300.000 doanh nghiệp) tiếp tục phát

triển nhờ có vốn, thƣơng hiệu tốt và áp dụng kỹ thuật mới, 60% doanh nghiệp

sản xuất cầm chừng chờ cơn bão lạm phát đi qua, 20% “chết dần” vì phá sản

hoặc phải sáp nhập. Điều này cũng có nghĩa là 80% doanh nghiệp này lỡ mất

cơ hội tiếp cận với kênh CTTC để đổi mới kỹ thuật, công nghệ, cách thức tổ

chức quản lý sản xuất kinh doanh.

Về tăng trưởng dư nợ theo thành phần kinh tế (xem bảng 2.2.5)

Bảng 2.2.5: Cơ cấu khách hàng theo thành phần kinh tế của các công ty

cho thuê tài chính

2006

2007

Thành phần

Tăng trƣởng dƣ nợ

kinh tế

Dƣ nợ

Tỷ trọng

Dƣ nợ

Tỷ trọng

1.275

14,50%

1.592

12,20%

24,86%

1.Doanh nghiệp nhà nƣớc

4.222

48,00%

6.788

52,00%

60,77%

2.Cty cổ phần & TNHH

2.729

31,00%

3.785

29,00%

38,69%

3. Cty tƣ nhân

571

6,50%

889

6,80%

55,69%

4. HTX & Hộ gia đình

7.522

85,50%

11.462

87,80%

52,38%

DN ngoài quốc doanh (2 + 3 + 4)

8.797

100,00%

13.045

100,00%

48,30%

Tổng

Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Từ số liệu của bảng trên cho thấy đối tƣợng khách hàng sử dụng dịch

vụ CTTC mở rộng tới mọi thành phần kinh tế từ doanh nghiệp có quy mô lớn

(doanh nghiệp nhà nƣớc, tƣ nhân,...) đến doanh nghiệp có quy mô vốn cực

51

nhỏ (MSMEs: Micro Small and Medium sized Enterprises) nhƣ hộ gia đình

và hợp tác xã. Nhìn chung, tốc độ tăng trƣởng dƣ nợ của mọi thành phần kinh

tế là rất khả quan. Ngay trong năm đầu tiên trở thành thành viên chính thức

của WTO, doanh nghiệp Việt Nam đã có một sự chuẩn bị tƣơng đối tốt để hội

nhập kinh tế quốc tế.

Khu vực ngoài quốc doanh với tốc độ tăng trƣởng dƣ nợ (2007/2006) là

52,38% vƣợt xa so với khu vực nhà nƣớc (24,86%) chứng tỏ thị trƣờng CTTC

ở Việt Nam trong mấy năm gần đây đã đi đúng hƣớng. Khu vực kinh tế tƣ

nhân lấn lƣớt khu vực kinh tế nhà nƣớc về tăng trƣởng dƣ nợ CTTC vì đây là

giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc.

Dịch vụ CTTC đối kinh tế hộ gia đình và hợp tác xã đạt tốc độ tăng

trƣởng khá nhƣng tỷ trọng còn rất nhỏ, chứng tỏ CTTC đối với đối tƣợng này

vẫn còn “xa tầm tay với”.

Về nợ quá hạn (xem bảng 2.2.6)

Bảng 2.2.6: Tình hình nợ quá hạn của các công ty CTTC

Dƣ nợ

Nợ quá hạn

Năm

Tỷ trọng

Tỷ trọng

2.770

100%

150,350

5,43%

2002

4.321

100%

192,674

4,46%

2003

6.575

100%

274,892

4,18%

2004

8.089

100%

186,466

2,30%

2005

8.797

100%

184,759

2,10%

2006

13.054

100%

327,856

2,51%

2007

Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Chỉ tiêu nợ quá hạn cho thấy chất lƣợng của dịch vụ CTTC, qua đó

52

phản ảnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty CTTC. Nhìn chung, tỷ

trọng nợ quá hạn so với tổng dƣ nợ CTTC duy trì ở mức 2,5%- 5,5% là tƣơng

đối an toàn. Tuy nhiên, cần lƣu ý rằng hệ số nợ quá hạn đảm bảo hiệu quả là

dƣới 2%.

2.2.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế

2.2.2.1. Thành tựu

Với thời gian hoạt động hơn mƣời năm ở Việt Nam, về cơ bản, CTTC

đã tạo dựng cho mình đƣợc thị trƣờng, khách hàng và đang bắt đầu nắm lấy

những cơ hội để phát triển. Thị trƣờng về dịch vụ CTTC liên tục chứng kiến

tăng trƣởng dƣ nợ hằng năm, đặc biệt là những năm gần đây khi thách thức về

hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế và doanh nghiệp đã trở thành một

thực tế. Nếu năm 1998 tổng dƣ nợ là 300 tỷ đồng thì đến quý 3 năm 2008 lên

đến 14.357 tỷ đồng, tăng gần 48 lần. Theo ƣớc tính của Hiệp hội CTTC, đến

cuối năm 2008, lợi nhuận của các thành viên Hiệp hội ƣớc đạt 156,746 tỷ đồng.

Về phía doanh nghiệp, cho đến giờ vẫn chƣa có một số liệu thống kê cụ

thể nào về số lƣợng doanh nghiệp sử dụng dịch vụ CTTC, mức độ thay đổi

hiệu quả sản xuất kinh doanh trƣớc và sau sử dụng dịch vụ. Nhƣng nếu nhìn

vào chỉ tiêu tốc độ tăng trƣởng dƣ nợ của ngành thì có thể thấy cơ hội và khả

năng tiếp cận nguồn tín dụng này đối với doanh nghiệp ngày càng trở nên rõ

ràng hơn, nhất là khi doanh nghiệp đã đối mặt thực sự với cạnh tranh kể từ lúc

Việt Nam phải thực hiện những cam kết của WTO. Đơn cử một ví dụ: Theo

ông Nguyễn Văn Viện, Giám đốc Công ty TNHH Nhất Trí tại TP. Hồ Chí

Minh, công ty của ông đã thành công nhờ vào hoạt động CTTC. Bắt đầu bằng

hợp đồng trị giá 1.000 USD, đến nay số gia tăng lũy tiến theo quy mô phát

triển của công ty đã lên đến 1 triệu USD, và sẽ còn tăng nữa. Theo ông Viện:

“Điều lợi thế là tôi hoàn toàn có quyền chủ động lựa chọn công nghệ, thiết bị

của các nhà cung ứng phù hợp về giá cả và điều kiện sản xuất kinh doanh; tiết

53

kiệm đƣợc chi phí, khấu hao tài sản nhanh, đem lại lợi nhuận tức thì” [34].

Các công ty CTTC cũng đã hình thành một mạng lƣới phát triển trên

toàn quốc, cung cấp dịch vụ cho mọi thành phần kinh tế và có một cơ cấu tài

sản cho thuê tƣơng đối đa dạng. Chủ thể tham gia trên thị trƣờng dịch vụ

CTTC bao gồm đầy đủ các hình thức: công ty nhà nƣớc, công ty cổ phần,

công ty liên doanh, công ty 100% vốn nƣớc ngoài hoạt động thống nhất theo

luật pháp Việt Nam.

Khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế, các công ty CTTC

đã cùng nhau liên kết lại trở thành một hiệp hội - một tổ chức đại diện chính

thức cho ngành công nghiệp còn non trẻ này ở Việt Nam. Hiệp hội cho thuê

tài chính Việt Nam (tên giao dịch là VILEA - Vietnam Leasing Association)

đƣợc thành lập theo Quyết định số 1004/QĐ- BNV ngày 10/07/2006 của Bộ

Nội vụ với 7 thành viên chính thức. Là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các

công ty cho thuê tài chính, VILEA đƣợc thành lập tự nguyện, hoạt động hợp

pháp theo quy định của pháp luật, nhằm tập hợp, liên kết các hội viên hợp tác

và hỗ trợ nhau có hiệu quả cao trong hoạt động cho thuê tài chính và các hoạt

động kinh doanh, dịch vụ khác, tạo điều kiện cho các hội viên phát triển bình

đẳng. Đồng thời, Hiệp hội cũng là đơn vị đại diện, bảo vệ lợi ích hợp pháp

của hội viên, làm cầu nối giữa các hội viên với các cơ quan nhà nƣớc nhằm ổn

định và phát triển lành mạnh, hiệu quả, an toàn ngành cho thuê tài chính tại

Việt Nam.

Bên cạnh đó, pháp luật điều chỉnh hoạt động CTTC cũng ngày càng

đƣợc hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển cả bề sâu và chiều rộng của thị

trƣờng này.

2.2.2.2. Hạn chế

Một là, chưa có một chiến lược phát triển cụ thể cho hoạt động CTTC

54

ở Việt Nam.

Mặc dù đã tồn tại ở Việt Nam gần 15 năm nhƣng dịch vụ CTTC vẫn

phát triển theo kiểu “ăn đong”. Việc chƣa có một nghiên cứu tổng quan nào

về nhu cầu của thị trƣờng, phân loại khách hàng,... của dịch vụ này đã làm

ảnh hƣởng đến chính sách huy động vốn của ngành. Ngay nhƣ một chuyện rất

nhỏ là quảng bá thông tin về CTTC tới các doanh nghiệp cũng bị xem nhẹ,

trong tổng số 13 công ty CTTC, chỉ có duy nhất SBL của SacomBank- một

trong những công ty ra đời muộn nhất để ý tới chuyện này. Các ngân hàng

thƣơng mại cũng nhƣ doanh nghiệp nhà nƣớc khi thành lập công ty CTTC của

riêng mình mới chỉ dừng lại các tỉnh, thành phố lớn, chƣa tạo ra một mạng

lƣới rộng khắp đáp ứng nhu cầu đi thuê một cách đầy đủ và thuận tiện nhất.

Hầu hết các công ty CTTC ở Việt Nam hiện nay sống đƣợc là nhờ vào viện

trợ rót từ công ty mẹ.

Hai là, tăng trưởng CTTC chưa tương xứng với tiềm năng, và chưa bền

vững.

Tỷ trọng dƣ nợ CTTC so với tổng mức dƣ nợ tín dụng của xã hội còn

thấp. Nếu nhƣ các nƣớc phát triển, tỷ trọng thị trƣờng CTTC so với thị trƣờng

tín dụng nói chung vào khoảng 15 đến 20% thậm chí là 30% thì ở Việt Nam,

tỷ trọng này đạt chƣa đến 1,5% và trong những năm gần đây có xu hƣớng

giảm dần. Nếu năm 2005, tỷ trọng trên là 1,4% thì năm 2006 là 1,27%, năm

2007 là 1,3% và tính đến quý 3/2008 là 1,34%. Trong khi đó, đối tƣợng khách

hàng phù hợp để sử dụng dịch vụ CTTC là các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở

Việt Nam hiện nay khá lớn và tăng đáng kể ở hầu hết các địa phƣơng (xem

55

bảng 2.2.7).

Bảng 2.2.7: Số lƣợng doanh nghiệp theo vùng (2002- 2007)

Vùng

Tỷ lệ tăng thêm sau 5 năm (%)

Số doanh nghiệp thống kê ngày 01/07/2007

Cả nƣớc

3.934.366

44,7

Đồng bằng sông Hồng

994.628

27,8

Đông Bắc

350.991

45,0

Tây Bắc

62.232

55,4

Bắc Trung Bộ

459.047

34,1

Duyên hải Nam Trung Bộ

347.808

53,5

Tây nguyên

162.341

45,9

Đông Nam Bộ

749.890

56,6

Đồng bằng sông CLong

807.449

61,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2008), Kết quả điều tra cơ sở kinh tế, hành

chính, sự nghiệp 2007. Tập 2, Nxb. Thống kê Hà Nội, tr. 29 - 55.

Nợ xấu tại các công ty CTTC có xu hƣớng tăng nhanh, phản ánh hiệu

quả đầu tƣ còn hạn chế (xem bảng 2.2.8).

Ba là, cơ cấu tài sản cho thuê còn nghèo nàn về chủng loại và hạn chế

về chất lượng.

Theo phân tích trong phần đánh giá tổng quan, tài sản CTTC chủ yếu là

máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải và thông tin. Chất lƣợng và mức độ

công nghệ của tài sản nhìn chung ở trình độ trung bình, dây chuyền công nghệ

cao và máy móc thiết bị hiện đại tiên tiến còn chiếm một tỷ trọng thấp trong

hoạt động cho thuê của các công ty CTTC. Các công ty CTTC chƣa đƣợc cho

thuê bất động sản. Hiện chỉ có công ty CTTC II - Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn Việt Nam có cơ cấu tài sản cho thuê là tƣơng đối đa

dạng. Công ty này đã triển khai và áp dụng các sản phẩm nhƣ bán các khoản

56

phải thu, cho thuê hợp vốn, cho thuê vận hành.

Năm

STT

Tên công ty

2005

2006

2007

30/9/2008

ANZ-VTRAC

1

1.71%

0%

0%

0%

ALC I

2

1.45%

3.8%

4%

8.82%

ICBVLC

3

0.93%

2.1%

2.5%

3.68%

4

BLC I

1.77%

0.8%

2.7%

3.8%

5

VCBL

1.07%

1.5%

6.1%

13.47%

6

ALC II

1.63%

1.7%

1.3%

4.37%

7

BLC II

1.63%

1.8%

2.3%

6.19%

8

KVLC

8.93%

3.5%

2.3%

0%

9

VILC

4.34%

1.9%

2.0%

0%

10 CILC

_

_

0.6%

0%

11

SBL

_

_

1.1%

0.13%

12 ACBLC

_

_

0%

0%

Bảng 2.2.8: Tỷ trọng nợ xấu của các công ty CTTC (2005 - 2008)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bốn là, CTTC còn là một dịch vụ quá mới mẻ với các doanh nghiệp đặc

biệt là các doanh nghiệp vừa nhỏ và cực nhỏ.

Trong 13 công ty CTTC chỉ duy nhất có SBL - Công ty CTTC của

Ngân hàng Sài Gòn thƣơng tín (SacomBank) là làm tốt công tác tuyên truyền

quảng cáo; là đơn vị tiên phong trên thị trƣờng trong công tác phổ cập, quảng

bá lợi ích của loại hình CTTC tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.

Tuy nhiên, một mình SBL không thể lãnh hết trách nhiệm của cả ngành.

Theo điều tra hơn 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ của GS, TS Nguyễn

Thị Cành, Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đƣợc thực hiện

57

trong hai năm 2005 và 2006 tại TP. Hồ Chí Minh [20]; một loạt các nguyên

nhân hạn chế doanh nghiệp sử dụng hình thức CTTC đã đƣợc xác định (xem

Bảng 2.2.9).

Nguyên nhân

Tỷ lệ (%)

1. Không biết gì về hình thức thuê tài chính

28,6%

2. Không biết thủ tục thuê tài chính

32,0%

3. Không hiểu lợi ích của thuê tài chính

17,5%

4. Thủ tục phức tạp

35,7%

5. Chi phí cao

31,6%

6. Hình thức tín dụng khác có lợi hơn

33,3%

7. Nguyên nhân khác (không có nhu cầu, không biết ở đâu…)

5,4%

Bảng 2.2.9: Mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về dịch vụ CTTC

Nguồn: Điều tra khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV, 2006

Đây cũng là tình trạng chung khi doanh nghiệp tiếp cận vốn tại các

ngân hàng thƣơng mại. Dƣờng nhƣ có một tâm lý e ngại khi doanh nghiệp

đến hỏi vay vốn ngân hàng. Một trong những kết quả của cuộc điều tra này

cho thấy mối quan hệ giữa cán bộ tín dụng và doanh nghiệp cần đƣợc cải

thiện nhiều hơn nữa (xem bảng 2.2.10).

Năm là, sự bất cập của pháp luật hiện hành trong việc điều chỉnh hoạt

động CTTC.

Hiện nay, pháp luật về cho thuê tài chính còn tồn tại nhiều bất cập.

Những bất cập này không những làm giảm hiệu quả điều chỉnh pháp luật, mà

còn hạn chế rất nhiều khả năng kinh doanh của tổ chức tín dụng trong hoạt

58

động cho thuê tài chính.

Các ý kiến

Tỷ lệ đồng tình (%) Tỷ lệ không và

ít đồng tình (%)

1. Cán bộ tín dụng luôn sẵn sàng giúp đỡ ông (bà)

52,9%

47,1%

2. Ông (bà) tin tƣởng vào lời khuyên của cán bộ

51,1%

48,9%

tín dụng

3. Ông (bà) tin rằng cán bộ tín dụng hiểu doanh

52,4%

47,7%

nghiệp của ông (bà)

4. Ông (bà) không muốn tiếp xúc với cán bộ tín

29,1%

70,9%

dụng

5. Cán bộ tín dụng không quan tâm đến doanh

45,4%

54,6%

nghiệp ông (bà)

6. Ông (bà) cảm thấy bị hạch sách khi làm việc

72,1%

27,9%

với cán bộ tín dụng

Bảng 2.2.10: Đánh giá mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng

Nguồn: Điều tra khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV, 2006

a. Quy định về tư cách pháp nhân của các công ty CTTC chưa thỏa đáng

Điều 2, Nghị định 16/2001/NĐ-CP quy định Công ty cho thuê tài chính

là tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Cũng tại khoản 3, điều 7 của Nghị định

này có định nghĩa: Bên cho thuê là công ty CTTC đƣợc thành lập và hoạt

động theo pháp luật Việt Nam.

Quy định tƣ cách pháp nhân nhƣ vậy là không công bằng đối với loại

hình tổ chức tín dụng là ngân hàng, đồng thời không phù hợp với Luật các tổ

chức tín dụng (văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn nghị định) trong điều

chỉnh về hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung cũng nhƣ hoạt động cho

thuê tài chính nói riêng. Vì, theo quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật Các tổ

chức tín dụng thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện

59

toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên

quan”. Điều này cũng có nghĩa là, ngân hàng có đủ thẩm quyền và năng lực

tiến hành hoạt động cho thuê tài chính, vì đây là một hình thức cấp tín dụng,

không chỉ đƣợc “độc canh” bởi các công ty cho thuê tài chính nhƣ quy định

tại Nghị định 16/2001/NĐ-CP.

Để “lách” luật, các ngân hàng thƣơng mại, trên thực tế đã thành lập các

công ty cho thuê tài chính trực thuộc để tiến hành kinh doanh trong lĩnh vực

này, nhƣng xét dƣới khía cạnh pháp lý, rõ ràng hoạt động kinh doanh này

không phải do chính ngân hàng trực tiếp tiến hành. Thực tế này cũng đƣợc ghi

nhận tại Điều 2 Nghị định 16/2001/NĐ-CP và đã tạo thành một cách thức

phân loại không thống nhất về tiêu chí: Khi đang phân loại công ty cho thuê

tài chính theo nguồn gốc vốn sở hữu, lại ghi nhận có loại hình công ty cho

thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng (tiêu chí về cơ cấu tổ chức).

Trên thực tế, hoạt động của các công ty CTTC vì thế dựa dẫm nhiều

vào nguồn viện trợ của ngân hàng mẹ, chƣa thể xây dựng năng lực nội sinh để

tồn tại và phát triển. Sự viện trợ về nguồn vốn (đầu vào) của các ngân hàng

thƣơng mại, phần nào cũng bóp méo đi tính chất thị trƣờng của dịch vụ này.

Do vậy, khó có thể đƣa ra một lý lẽ thuyết phục về việc ngân hàng

không đƣợc thực hiện hoạt động cho thuê tài chính, trong khi các nhà làm luật

và cũng nhƣ các nhà khoa học pháp lý đều thống nhất với nhau rằng, xét về lý

thuyết, hoạt động cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng có độ an

toàn cao. Mâu thuẫn này cần đƣợc tháo gỡ để các ngân hàng đƣợc thực hiện

nghiệp vụ cấp tín dụng cho thuê tài chính, qua đó nâng cao năng lực cấp tín

dụng của ngân hàng, tăng cƣờng khả năng sử dụng vốn có hiệu quả, không

những đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật mà còn là điều rất hợp

60

lý và công bằng cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh.

b. Đối tượng CTT bị bó hẹp

Theo quy định tại khoản 3, điều 7 Nghị định 16/2001/NĐ- CP thì pháp

luật chỉ cho phép tổ chức tín dụng tiến hành cho thuê tài chính với đối tƣợng

là động sản (máy móc, thiết bị, phƣơng tiện vận chuyển,...). Sở dĩ bất động

sản không thể là đối tƣợng của hoạt động cho thuê tài chính là do quy định tại

Điều 73 Luật các tổ chức tín dụng mà theo đó, tổ chức tín dụng không đƣợc

trực tiếp kinh doanh bất động sản.

c. Chưa nhất quán trong quy định về quản lý, sử dụng và trích khấu

hao đối với tài sản cố định thuê tài chính.

Theo Quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ tài chính

ban hành Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định thì về

nguyên tắc, doanh nghiệp đi thuê tài chính tài sản cố định phải quản lý, sử

dụng và trích khấu hao nhƣ đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Đối với

việc thuê tài sản cố định không thoả mãn điều kiện cho thuê tài chính thì đƣợc

coi là thuê hoạt động (thuê vận hành) và trong trƣờng hợp này, bên cho thuê

có nghĩa vụ trích khấu hao chứ không phải bên thuê. Vấn đề là ở chỗ, trong

Quyết định 206/2003/QĐ-BTC lại định nghĩa một cách rõ ràng về cho thuê tài

chính y hệt nhƣ Nghị định 16/2001/NĐ-CP trƣớc khi sửa đổi, nên rất nhiều

trƣờng hợp là thuê tài chính theo sự sửa đổi của Nghị định 65/2005/NĐ-CP

không đƣợc coi là cho thuê tài chính theo Quyết định này. Trong những

trƣờng hợp nhƣ vậy, vƣớng mắc đặt ra là, bên nào (bên cho thuê hay bên

thuê) sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trích khấu hao đối với tài sản thuê tài chính?

Trong khi đó, theo Quyết định 731/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nƣớc ngày 15/6/2004 ban hành Quy chế tạm thời về hoạt động cho

thuê vận hành của các công ty cho thuê tài chính thì đối với hoạt động cho

thuê vận hành, nghĩa vụ thuế (có liên quan đến nghĩa vụ trích khấu hao tài sản

61

cố định) của công ty cho thuê tài chính đƣợc thực hiện theo quy định của Bộ

tài chính. Cần thiết phải sửa đổi Quyết định 206/2003/QĐ-BTC theo hƣớng

bỏ việc định nghĩa thế nào là cho thuê tài chính, để việc áp dụng đƣợc thuận

lợi và rõ ràng hơn.

Sáu là, các chính sách liên quan đến hoạt động CTTC còn nhiều hạn chế

Thứ nhất, chính sách thuế chƣa công bằng. Điề u 22 - Nghị định

16/2001/NĐ- CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về tổ chức và hoạt động của công

ty cho thuê tài chính ghi rõ “Thuế đối với máy móc, thiết bị, các phƣơng tiện

vận chuyển và các động sản khác mà công ty cho thuê tài chính mua trong

nƣớc hoặc nhập khẩu để cho thuê đƣợc áp dụng nhƣ trƣờng hợp bên thuê trực

tiếp mua hoặc nhập khẩu các tài sản này”. Tuy nhiên, một tài sản nếu mua

bằng vốn của chủ sở hữu hoặc vốn vay ngân hàng sẽ đƣợc khấu trừ thuế giá

trị gia tăng- VAT ngay từ đầu, nhƣng nếu cũng tài sản đó đƣợc cung cấp theo

phƣơng thức CTTC thì lại chỉ đƣợc khấu trừ dần. Nghĩa là có sự phân biệt đối

xử về thuế, mà thực ra để xúc tiến dịch vụ CTTC, thì đáng ra phải có những

chính sách thuế có lợi hơn so với các hình thức cấp tín dụng khác.

Giá trị tài sản thuê đƣợc cấu thành giá trị của tài sản cộng với thuế

VAT, thuế trƣớc bạ, thuế nhập khẩu (nếu có), và các chi phí khác liên quan

nhƣ chi phí bảo hành, bảo dƣỡng, bảo hiểm,... Nhƣ vậy, ngƣời đi thuê sẽ phải

chịu lãi suất trên cả phần VAT trừ dần, làm tăng gánh nặng lãi suất cho khách

hàng.

Doanh nghiệp đi thuê tài chính chƣa đƣợc hƣởng chính sách hỗ trợ lãi

suất sau đầu tƣ vì tài sản cho thuê không thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Sự

phân biệt đối xử này là không thuyết phục. Vì tài sản của doanh nghiệp dù tài

trợ theo hình thức nào cũng là nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Hơn

thế nữa, minh chứng về mục đích sử dụng của tài sản trong trƣờng hợp CTTC

62

là chắc chắn hơn khi đi vay vốn ngân hàng. Chính qui định này đã buộc doanh

nghiệp- đối tƣợng đƣợc hƣởng hỗ trợ lãi suất thay vì đi thuê tài chính đành

phải chọn giải pháp vay vốn.

Trƣớc thực tế này, Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam đã kiến nghị

với Thủ tƣớng Chính phủ để bổ sung các đối tƣợng đƣợc hƣởng hỗ trợ lãi suất

theo tinh thần Quyết định số 443/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày

04/04/2009. Quyết định này có nội dung về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá

nhân vay vốn trung, dài hạn để đầu tƣ mới cho phát triển sản xuất kinh doanh,

đầu tƣ kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên, đối tƣợng thụ hƣởng theo Quyết định 443

chỉ gồm các ngân hàng thƣơng mại, Ngân hàng phát triển Việt Nam. Công ty

tài chính và khách hàng vay còn các công ty cho thuê tài chính lại không

thuộc đối tƣợng thụ hƣởng dù cũng hoạt động tín dụng trung và dài hạn.

Nhƣng theo điều 2 của Quyết định 443 thì đối tƣợng và phạm vi áp dụng của

Quyết định là: “Thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định tại khoản 1 điều 2

Quyết định số 131/QĐ- TTg ngày 23/01/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các

tổ chức cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh và các công ty cho

thuê tài chính thực hiện hỗ trợ lãi suất...”. Ngoài ra, cho thuê tài chính là một

loại hình tín dụng nhƣ các hình thức cho vay, bảo lãnh tín dụng... đã đƣợc ghi

trong Luật Các tổ chức tín dụng (điều 49); Tổ chức và hoạt động của các công

ty cho thuê tài chính tại Việt Nam đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ quy định tại

Nghị định 16/2001/NĐ- CP ngày 19/05/2001. Tại điều 1 của Nghị định 16 nói

trên cũng thể hiện “cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung dài hạn

thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phƣơng tiện vận tải và các động

sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê...”.

Cơ chế trích lập khấu hao tài sản thuê còn cứng nhắc. Một trong những

ƣu điểm nổi bật của dịch vụ CTTC là khả năng khấu hao nhanh để đổi mới

công nghệ, tài sản cố định; trong khi đó theo quy định của Bộ Tài chính thì

63

việc trích khấu hao này phải tuân thủ theo tỷ lệ trích nhƣ các tài sản cố định

thông thƣờng khác (Quyết định 166/1999/QĐ- BTC). Trên thế giới việc cho

phép trích khấu hao nhanh tài sản CTTC đã trở thành động lực khiến cho

khoảng 30% máy móc thiết bị đầu tƣ của doanh nghiệp đƣợc thực hiện theo

phƣơng thức CTTC.

Chính sách lãi suất hiện hành khiến cho lãi suất cho thuê không cạnh

tranh đƣợc với lãi suất cho vay của ngân hàng. Bởi vì, chi phí đầu vào của các

công ty CTTC thƣờng cao hơn so với ngân hàng thƣơng mại do bị hạn chế về

vốn tự có và khả năng huy động vốn. Ngoài ra, công ty CTTC lại không đƣợc

hƣởng các lợi ích từ việc khấu hao nhanh tài sản thuê và những ích lợi từ việc

tiết kiệm thuế. Những lợi ích này, nếu có, sẽ đƣợc chuyển hóa một phần cho

bên thuê thông qua việc giảm phí thuê.

Bảy là, năng lực nghiệp vụ của cán bộ trong các công ty CTTC nhìn

chung còn yếu kém.

Năng lực thẩm định dự án đầu tƣ còn yếu kém đã làm cho công ty

không tính chính xác đƣợc hao mòn vô hình của tài sản, điều này cản trở việc

thu hồi nợ gốc và lãi đến hạn. Hầu hết cán bộ làm công tác thẩm định là

những ngƣời trƣớc đây từng làm việc tại các ngân hàng thƣơng mại, do vậy

còn hạn chế nhiều về kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực CTTC.

Quy trình tài trợ đã đƣợc cải thiện ít nhiều, tuy nhiên, thủ tục tài trợ vẫn

còn phức tạp trong tác nghiệp, xử lý nghiệp vụ vẫn còn mang dáng dấp của

ngân hàng. Công tác xử lý kế toán trong CTTC còn nhiều lúng túng, đặc biệt

khi thu hồi tài sản, thực hiện mua và cho thuê lại tài sản, cho thuê vận hành.

Do đó, ảnh hƣởng đến thủ tục xét duyệt cho vay, làm giảm đi tính ƣu việt, lợi

thế cạnh tranh của sản phẩm CTTC vốn là đơn giản về mặt thủ tục.

64

Tám là, năng lực quản trị tài chính của khách hàng còn hạn chế.

Đối tƣợng CTTC chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là

các doanh nghiệp mới đƣợc thành lập nên trình độ quản lý sản xuất kinh

doanh cũng nhƣ quản trị tài chính còn ở trình độ thấp. Vì vậy, doanh nghiệp

không thể lƣờng trƣớc hoặc kịp thời hạn chế những rủi ro liên quan đến tài

sản vay nhƣ: rủi ro về tài chính tín dụng (lãi suất, hối đoái, thuế,...), rủi ro liên

quan đến sở hữu tài sản thuê (hao mòn vô hình, giá trị còn lại của tài sản,...)

Chín là, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp

dân doanh còn nhiều khe hở.

Việc cấp giấy phép đăng ký sản xuất kinh doanh và giấy phép đầu tƣ

cho các doanh nghiệp chƣa đƣợc chặt chẽ. Pháp lệnh về kế toán thống kê thực

hiện chƣa nghiêm dẫn đến tình trạng doanh nghiệp cung cấp thông tin, báo

65

cáo thiếu trung thực.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ

CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Bối cảnh và phƣơng hƣớng phát triển dịch vụ cho thuê tài

chính ở Việt Nam trong thời gian tới

3.1.1. Bối cảnh phát triển dịch vụ cho thuê tài chính

3.1.1.1. Thuận lợi

Thứ nhất, tiềm năng phát triển của thị trƣờng dịch vụ CTTC ở Việt

Nam trong thời gian tới là rất lớn.

Sự phát triển hiện tại của thị trƣờng CTTC ở Việt Nam là dƣới mức

tiềm năng rất nhiều. Thực tế cho thấy khả năng tiếp cận tín dụng nói chung

của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thông qua kênh chính là hệ thống các

ngân hàng thƣơng mại là rất hạn chế. Theo kết quả Điều tra khả năng tiếp cận

của các doanh nghiệp vừa và nhỏ- 2006 do GS, TS Nguyễn Thị Cành thực

hiện thông qua khảo sát 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất chế biến công

nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dƣơng thì trong cơ cấu vốn của

doanh nghiệp chỉ có 18,9% là vốn vay từ ngân hàng (xem bảng 3.1.1).

Theo một báo cáo gần đây của Vụ Tín dụng, Ngân hàng Nhà nƣớc dựa

trên kết quả khảo sát tại 6 ngân hàng thƣơng mại quốc doanh (bao gồm cả

Ngân hàng Ngoại thƣơng vừa chuyển đổi mô hình và Ngân hàng Phát triển),

31 ngân hàng thƣơng mại cổ phần và 33 chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và

ngân hàng liên doanh; tính đến 31/7/2008 vốn tự có bình quân 1 doanh nghiệp

là 1,33 tỷ đồng; bình quân vốn vay ngân hàng của một doanh nghiệp là 1,79

tỷ đồng. Tuy nhiên, cũng chỉ có hơn 50% doanh nghiệp (163.673 DN) có

66

quan hệ tín dụng với ngân hàng với tổng nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ,

trong đó vốn tự có chiếm tỷ trọng là 36,25%, vốn vay ngân hàng chiếm tỷ

trọng 45,31%, còn lại vốn khác chiếm 18,44%. [19]

Bảng 3.1.1: Cơ cấu nguồn vốn bình quân trong DNVVN khảo sát

Số TT Nguồn vốn Tỷ trọng (%)

1 Vốn chủ doanh nghiệp 33,9%

2 Lợi nhuận giữ lại 21,9%

3 Vay ngân hàng 18,9%

4 Vốn chiếm dụng 12,1%

5 Vay gia đình, họ hàng, bạn bè 6,7%

6 Vay công nhân viên trong DN 2,3%

7 Nguồn khác 4,3%

Nguồn: Điều tra khả năng tiếp cận tín dụng của các DNNVV, 2006

Ngoài ra, kênh huy động vốn trung dài hạn từ CTTC mới chỉ đóng góp

một phần rất nhỏ trong tổng vốn huy động xã hội, khoảng từ 2- 4% so với vốn

trung dài hạn và chỉ khoảng 1% so với tổng dƣ nợ của toàn bộ hệ thống tín

dụng (xem Bảng 3.1.2).

Thứ hai, nhu cầu đổi mới công nghệ, tài sản cố định trƣớc yêu cầu đẩy

mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc; sự phát triển lớn mạnh của

khu vực kinh tế dân doanh trong bối cảnh môi trƣờng kinh tế ngày càng cạnh

tranh khi thị trƣờng trong nƣớc ngày càng “rộng cửa” đối với các loại hàng

67

hóa, dịch vụ nƣớc ngoài.

Bảng 3.1.2: Thị phần CTTC trong hệ thống thị trƣờng tín dụng

Năm

Tổng dƣ nợ toàn bộ

Dƣ nợ trung, dài hạn

Dƣ nợ CTTC

hệ thống

(2)

(3)

(1)

(2)/(1)

(3)/(1)

(3)/(2)

1999

122.734

100%

27.124

22,1%

449,8

0,36%

1,65%

2000

172.501

100%

39.675

23%

776

0,45%

1,95%

2001

215.598

100%

71.578,5

33,2%

1.535,4 0,71%

2,14%

2002

281.022

100%

98.357,7

35%

2.769,8 0,98%

2,81%

2003

364.906,5

100%

142.313,5

39%

4.321,5 1,18%

3.04%

2004

466.970

100%

210.136

45%

6.575

1,41%

3,13%

2005

533.337

100%

221.899

41,6%

8.089

1,52%

3,65%

Đơn vị: triệu đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo quy định tại Nghị định 91 (91/2001/NĐ- CP) của Thủ tƣớng

Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001, doanh nghiệp có qui mô vốn dƣới 10 tỷ

đồng và qui mô lao động dƣới 300 nhân công đƣợc coi là doanh nghiệp vừa

và nhỏ. Căn cứ vào các tiêu chí trên, đặc biệt tiêu chí về vốn thì đa số các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh (thuộc khu vực kinh tế tƣ nhân) của Việt

Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số liệu thống kê phân loại qui mô doanh

nghiệp theo thành phần kinh tế tính đến ngày 31/12/2005 của Tổng cục Thống

kê Việt Nam phản ánh qua bảng 14 và bảng 15 dƣới đây cho thấy rõ nhận

68

định này (xem Bảng 3.1.3 và Bảng 3.1.4).

Bảng 3.1.3: Qui mô doanh nghiệp VN theo lao động, vốn và theo

Tổng số DN Số lƣợng Tỷ trọng

Số DN có dƣới 300 lao động

Số DN có vốn dƣới 10 tỷ đồng

Phân loại doanh nghiệp theo TPKT

Tỷ lệ DNVV theo qui mô LĐ

Tổng số DN

112.952 100,00%

109.338

98.233

96,80%

Tỷ lệ DNVV theo quy mô vốn 86,97%

DN Nhà nƣớc

4.086

3,60%

2.675

873

65,47%

21,36%

DN tƣ nhân

105.169

93,11%

103.802

96.179

98,70%

91,45%

DN FDI

3.697

3,27%

2.869

1.181

77,60%

31,94%

thành phần kinh tế (tính đến ngày 31/12/2005)

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005.

Bảng 3.1.4: Trang bị vốn của các doanh nghiệp

Tiêu chí

2005

2006

2007

Tốc độ

1.Trang bị vốn các DN

23,70

25,80

31,20

14,70%

(tỷ đồng/doanh nghiệp)

1.1. Doanh nghiệp nhà nƣớc

353,60

470,10

626,00

33,10%

1.2. Doanh nghiệp dân doanh

6,60

8,00

12,40

37,10%

1.3. Doanh nghiệp FDI

142,80

155,30

171,10

9,50%

153,00

213,00

255,00

29,10%

2. Tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn bình quân

2.1. Doanh nghiệp nhà nƣớc

421,00

523,00

640,00

23,30%

2.2. Doanh nghiệp dân doanh

66,00

89,00

150,00

50,80%

2.3. Doanh nghiệp FDI

221,00

233,00

231,00

2,20%

Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp, Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám

69

thống kê 2008, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.144- 146

Thứ ba, những ảnh hƣởng tích cực từ quá trình hiện đại hóa hệ thống

ngân hàng, cũng nhƣ từ quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thƣơng mại quốc

doanh ở Việt Nam trong thời gian tới đến thị trƣờng CTTC.

Ngân hàng (banking) là một trong những lĩnh vực đối mặt với hội nhập

quốc tế sớm nhất và cũng sớm cần đƣợc hội nhập nhất. Hiện đại hóa hệ thống

ngân hàng là một trong những yêu cầu của hội nhập tài chính quốc tế; đây là

một quá trình vừa mang lại nhiều thời cơ vừa đặt ra nhiều thách thức với các

ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay có rất nhiều dự án sử dụng vốn vay

nƣớc ngoài đã và đang đƣợc triển khai nhằm mục tiêu này. Trong đó, phải kể

đến dự án 60 triệu USD tài trợ bởi Ngân hàng thế giới- WB có thời gian dự

kiến thực hiện từ 2009 đến 2014 nhằm hiện đại hóa ngành Tài chính và Hệ

thống Quản lý Thông tin Tài chính Việt Nam [32]. Tổng mức đầu tƣ của Dự

án này là 71,830 triệu USD, trong đó: vốn vay của WB là 60 triệu USD; vốn

đồng tài trợ PHRD của Chính phủ Nhật Bản là 0,83 triệu USD; và vốn đối

ứng của Chính phủ Việt Nam là 11 triệu USD. Dự án này có mục tiêu tăng

cƣờng năng lực cho Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và các cơ quan liên quan

(Trung tâm Thông tin Tín dụng, và Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam)

thực hiện nhiệm vụ theo các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan trong ngành ngân

hàng trong đó có CTTC.

Ngoài ra, lộ trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc nói chung và

các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh nói riêng đang trở nên gấp rút hơn bao

giờ hết. Theo nội dung Chỉ thị số 854/CT- TTg ngày 19/06/2009 của Thủ

tƣớng Chính phủ về việc triển khai thực hiện kết luận của Bộ Chính trị trong

việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nƣớc thì các bộ, ngành, địa

phƣơng, tập đoàn kinh tế, tổng công ty phải xây dựng Đề án điều chỉnh tiến

độ thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa các DN 100% vốn nhà nƣớc trình Thủ

70

tƣớng Chính phủ phê duyệt trong quý III năm 2009, đảm bảo đến ngày

01/7/2010, tất cả các DN này đều chuyển sang hoạt động theo Luật DN. Đây

là một nội dung yêu cầu thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong quá trình sắp

xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo tinh thần Nghị

quyết Đại hội Đảng lần thứ X. Một khi các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh

đƣợc cổ phần hóa, khả năng tiếp cận vốn xã hội của các công ty CTTC trực

thuộc là rất lớn để đa dạng hóa sản phẩm, đổi mới cách thức kinh doanh, mở

rộng thị trƣờng...

Thứ tư, những cam kết WTO sẽ đƣợc thực hiện trong đó có lĩnh vực về

pháp luật CTTC: cơ hội để chuẩn hóa nguồn luật, tạo sân chơi thuận lợi hơn

nữa cho các chủ thể tham gia.

3.1.1.2. Khó khăn

Thứ nhất: Áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng trên thị trƣờng CTTC.

Cam kết mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng trong đó có CTTC buộc

các doanh nghiệp CTTC Việt Nam phải cạnh tranh với các đối thủ nƣớc ngoài

dày dặn kinh nghiệm và trƣờng vốn. Ở một góc độ khác, thì sự xuất hiện chủ

thể mới trên thị trƣờng này cũng có thể là một cơ hội để các công ty cho thuê

trong nƣớc thể hiện “bản lĩnh”. Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế tuy không

mới nhƣng cũng chƣa quá cũ để nhắc lại. Đó là, các đối thủ nƣớc ngoài với

lợi thế sẵn có về thƣơng hiệu, thị trƣờng, mạng lƣới kênh phân phối,... khi

thâm nhập vào một thị trƣờng mới nhƣ Việt Nam, sẵn sàng chào bán hàng hóa

dƣới giá thị trƣờng để nhằm đến “chiếc bánh thị phần”, khi có chiếc bánh này

trong tay thì việc lũng đoạn thị trƣờng là tất yếu. Nếu không có sự chuẩn bị

tốt nguy cơ phá sản, đổ bể tín dụng là có thể xảy ra.

Thứ hai: Khả năng suy thoái kinh tế, suy giảm cầu về tín dụng (xem

71

Biểu 3.1.1).

Biểu 3.1.1: Tình hình huy động vốn của các NHTM từ năm 2005 đến

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

tháng 4/2009

Từ năm 2008, tình hình huy động vốn của các NHTM giảm sút rõ rệt.

Nguyên nhân là do trong năm 2008, lạm phát cao bùng phát. Năm 2009, Việt

Nam đã có những dấu hiệu rõ rệt về suy giảm kinh tế do tác động của suy

thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù cuối năm 2009 đã có những dấu hiệu hồi phục,

nhƣng theo dự báo của các chuyên gia kinh tế thì nền kinh tế toàn cầu trong

năm 2010 và những năm tiếp theo vẫn còn nhiều khó khăn tác động đáng kể

đến kinh tế trong nƣớc. Trong khi đó, máy móc thiết bị CTTC phần lớn phụ

thuộc vào nguồn cung từ nƣớc ngoài. Sự biến động của tỷ giá đô la vào cuối

năm 2009, sự bất lợi của tỷ giá ngoại hối (USD/VND) trƣớc đó đối với các

doanh nghiệp trong nƣớc gây trở ngại đáng kể cho doanh nghiệp trong việc

xúc tiến các giao dịch có sử dụng đồng đô la Mỹ. Ngay cả khi, Ngân hàng

Nhà nƣớc Việt Nam quyết định điều chỉnh tỷ giá USD/VND bình quân liên

72

ngân hàng vào tháng 11/2009 (điều chỉnh tăng trực tiếp và giảm biên độ dao

động từ +/-5% xuống còn +/-3%) cũng chƣa thể khẳng định sẽ không có

những biến động về tỷ giá bất lợi đến nền kinh tế và doanh nghiệp.

Trong năm 2009, lãi suất cơ bản cũng đƣợc điều chỉnh theo hƣớng tăng

từ 7%/năm lên 8%/năm (mức 8% bắt đầu có hiệu lực từ 1/10/2009) cho thấy

nguy cơ lạm phát cao vẫn còn tồn tại. Việc đồng nội tệ trƣợt giá quá nhiều

trong suốt thời gian qua đặc biệt là cuối năm 2007, năm 2008 và 2009, và dự

báo còn tiếp tục, xu hƣớng này đã và đang là một trở ngại đối với các hợp

đồng CTTC đáo hạn sau 2009 và chuẩn bị kí kết. Lãi suất cơ bản tăng, điều

này đồng nghĩa là giá cả của dịch vụ CTTC cũng bị kéo lên.

3.1.2. Phương hướng phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt

Nam trong thời gian tới

Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là ƣu tiên phát triển các ngành

dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao

chất lƣợng các ngành dịch vụ truyền thống, nhƣ vận tải, thƣơng mại, du lịch,

ngân hàng, bƣu chính - viễn thông. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những

dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lƣợng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.

Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển thị

trƣờng tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển các dịch vụ

pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y

tế, văn hoá, thông tin, thể thao; tăng số lƣợng và nâng cao chất lƣợng dịch vụ

việc làm, an sinh xã hội.

Nhà nƣớc kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trƣờng thuận lợi

cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh

73

bình đẳng trên thị trƣờng dịch vụ.

Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ

công cộng theo hƣớng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu-

chi không vì lợi nhuận; Nhà nƣớc không bao cấp tràn lan.

Dịch vụ công cộng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của

nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội; vì vậy, việc chuyển

đổi phƣơng thức cung ứng các loại dịch vụ này cần đƣợc thực hiện một cách

kiên định và tích cực, nhƣng phải theo một kế hoạch đồng bộ và một lộ trình phù

hợp.”

Căn cứ vào mục tiêu phấn đấu để Việt Nam trở thành một nƣớc công

nghiệp vào năm 2020, xuất phát từ những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát

triển kinh tế thị trƣờng, phƣơng hƣớng phát triển thị trƣờng CTTC trong

những năm tới là:

Thứ nhất, phát triển thị trƣờng CTTC phải đảm bảo là một bộ phận của

thị trƣờng tài chính đồng bộ và thống nhất, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có

sự quản lý của nhà nƣớc; là kênh huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn trung

dài hạn cho đầu tƣ phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc; đảm

bảo hoàn thành các mục tiêu về huy động nguồn lực tài chính trong chiến

lƣợc tài chính quốc gia.

Thứ hai, đa dạng hóa sản phẩm, các hình thức đầu tƣ; có cơ chế thích

hợp khuyến khích các chủ thể trên thị trƣờng phát triển các hàng hóa- dịch vụ

tài chính mới, cung cấp dịch vụ trọn gói, không ngừng nâng cao chất lƣợng và

chào giá ngày càng cạnh tranh.

Thứ ba, đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội, từng bƣớc mở cửa thị trƣờng

đáp ứng nhu cầu hội nhập tài chính quốc tế, phải có sự chuẩn bị kỹ lƣỡng cả

về mặt kỹ thuật, tổ chức quản lý và pháp lý khi thực hiện những cam kết của

74

WTO trong lĩnh vực tài chính nói chung, trong hoạt động CTTC nói riêng; tạo

điều kiện để thị trƣờng CTTC vừa là một trong những kênh huy động vốn đầu

tƣ nƣớc ngoài, đồng thời chuyển giao những công nghệ mới, hiệu quả phục vụ

cho quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị

trƣờng ở Việt Nam.

Thứ tư, tôn trọng các quy luật kinh tế, đồng thời không ngừng nâng cao

vai trò quản lý và hiệu lực giám sát của nhà nƣớc trong lĩnh vực tài chính, tiền

tệ. Nhà nƣớc quản lý thị trƣờng CTTC bằng pháp luật, có chính sách khuyến

khích các chủ thể cung cấp dịch vụ CTTC phát triển, khách hàng tiếp cận dịch

vụ nhanh và hiệu quả

3.2. Những giải pháp phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt

Nam trong thời gian tới

3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan đến việc tạo lập các điều kiện để

phát triển dịch vụ CTTC

3.2.1.1. Hoàn thiện các văn bản pháp lý đã ban hành theo hướng tháo

gỡ những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động của dịch vụ CTTC

Kể từ khi thí điểm hoạt động CTTC tại Việt Nam cho đến khi chính

thức hình thành thị trƣờng tài chính, gần 15 năm qua, nhà nƣớc Việt Nam đã

ban hành một hệ thống pháp quy về cho thuê tài chính, thƣờng xuyên có

những thay đổi, bổ sung cần thiết. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị

trƣờng CTTC đã bộc lộ những bất cập trong hành lang pháp lý về CTTC đòi

hỏi cần tiếp tục đƣợc chỉnh sửa.

Một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển thị trƣờng CTTC ở

Việt Nam là thiếu một nguồn luật của ngành, nên phải dẫn chiếu tới nhiều

nguồn luật khác nhau gây tình trạng chồng chéo và không nhất quán. Do vậy,

việc xây dựng Luật CTTC- là mặt bằng pháp lý chính thức của ngành trở

75

thành nhiệm vụ không thể trì hoãn làm chỗ dựa cho các quy định chi tiết hơn

đƣợc ban hành. Luật CTTC là bộ phận hữu cơ trong hệ thống luật pháp Việt

Nam, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; đảm bảo tính minh bạch và

hiệu lực thực thi pháp luật.

Về chi tiết, cần điều chỉnh ngay những điểm sau sau cần đƣợc lƣu ý:

Thứ nhất, phải có một khái niệm chuẩn về CTTC cũng nhƣ quy định

những tiêu chí nhận biết một giao dịch CTTC phù hợp với chuẩn mực kế toán

06 của Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS). Khái niệm cho thuê tài

chính phải thể hiện bản chất của dịch vụ, phản ánh xu hƣớng vận động không

ngừng của thực tiễn. Hiện có rất nhiều loại hình cho thuê tài chính dựa trên

những căn cứ phân loại khác nhau, nhƣ đã trình bày ở mục 1.1.3 chƣơng 1.

Nhƣ cho thuê nội địa (domestic lease) và cho thuê qua biên giới (cross-

border lease); thuê ƣớt (wet lease) và thuê khô (dry lease); thuê đóng (closed

lease) và thuê mở (open- ended lease),… Nhƣng, tiêu chuẩn để nhận biết một

giao dịch có phải là CTTC hay không theo chuẩn mực kế toán 06 chƣa hoàn

toàn tƣơng hợp với IAS 17. Điều chỉnh chuẩn mực kế toán 06 theo hƣớng phù

hợp với IAS 17 là đúng đắn, mà IAS đã đƣợc vận dụng thành công ở rất nhiều

quốc gia, và đã trở thành nguồn luật tham khảo đầy uy tín.

Thứ hai, mở rộng đối tƣợng cho CTTC, bao gồm cả bất động sản. Đây

là một việc rất khó nhƣng rất đáng làm. Đặc biệt ở Việt Nam khi thị trƣờng

bất động sản còn đang trong tình trạng hoạt động với tính chất “phi chính

thức” thì công tác này lại càng trở nên khó khả thi hơn.

Để lý giải cho quy định tại điều 73 Luật các tổ chức tín dụng mà theo

đó, tổ chức tín dụng không đƣợc trực tiếp kinh doanh bất động sản có ba lý do

chính đƣợc đƣa ra: (i) thị trƣờng bất động sản ở Việt Nam hiện nay quá thất

thƣờng, không có quy luật rõ ràng và tiềm ẩn quá nhiều rủi ro; (ii) tính thanh

khoản của thị trƣờng bất động sản ở Việt Nam hiện nay là quá kém; (iii) bất

76

động sản là tài sản bảo đảm thông dụng, và việc để tổ chức tín dụng thực hiện

kinh doanh bất động sản có thể gây ra các rủi ro đạo đức. Cả ba lý do trên chỉ

là sự giải thích đƣợc coi là tƣơng đối thoả đáng đối với hình thức cấp tín dụng

cho vay, mà không hợp lý đối với hoạt động cho thuê tài chính. Sẽ không có

gì đáng ngại cho khả năng thu hồi vốn của tổ chức tín dụng khi đối tƣợng cho

thuê tài chính là bất động sản, bởi vì, xét về mặt lý thuyết có các lý do sau

đây:

(i) quyền sở hữu tài sản thuộc về bên cho thuê, do đó, nếu bên thuê vi

phạm hợp đồng thì bên cho thuê có thể thu hồi tài sản cho thuê;

(ii) bên thuê phải thanh toán đầy đủ tiền thuê và số tiền này theo tính

toán là đảm bảo cho bên cho thuê thu hồi cả gốc và lãi;

(iii) các bên vẫn có quyền thoả thuận việc áp dụng các biện pháp bảo

đảm cho khả năng thanh toán tiền thuê của bên thuê.

Còn xét dƣới khía cạnh thực tế, việc cho thuê bất động sản rõ ràng an

toàn hơn nhiều so với cho thuê động sản vì đặc tính không thể di dời của nó

cũng nhƣ khả năng đảm bảo quyền sở hữu thông qua việc đăng ký chứng

nhận quyền sở hữu và đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền. Bên cạnh đó, hiện nay, thị trƣờng cho thuê bất động sản mà chủ

yếu là cho thuê văn phòng đang có nhu cầu rất lớn, việc để cho tổ chức tín

dụng với sức mạnh tài chính vƣợt trội là ngƣời đứng ngoài cuộc sẽ không có

lợi cho bất kỳ ai. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi Điều 73 Luật các tổ chức tín

dụng theo hƣớng loại trừ hạn chế này đối với hoạt động CTTC, nhƣ vậy mới

góp phần làm cho thị trƣờng CTTC phát triển tƣơng xứng với tiềm năng của

nó, để tạo ra khả năng đầu tƣ tốt hơn cho nền kinh tế, có lợi cho các doanh

nghiệp trong kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thực tế cho thấy, khi luật doanh nghiệp (năm 2000) và Luật doanh

77

nghiệp sửa đổi (2005) đi vào cuộc sống đã tạo ấn tƣợng về sự phát triển của

lực lƣợng sản xuất. Theo báo cáo tổng kết 6 năm thi hành luật này (2000-

2006), số lƣợng DN đăng ký kinh doanh (160.725 DN) gấp 3,3 lần số DN

đăng ký trong 10 năm trƣớc đó (1990- 1999), số lƣợng DN đăng ký trung

bình hàng năm cao gấp 6 lần giai đoạn 1990- 1999. Số vốn đăng ký kinh

doanh mới gấp hàng chục lần so với 10 năm trƣớc đó và còn cao hơn số vốn

FDI trong cùng thời kỳ. Tổng số vốn đăng ký mới đạt 321,2 ngàn tỷ đồng,

tƣơng đƣơng 20 tỷ USD. Số vốn đăng ký bổ sung trong quá trình hoạt động là

103,4 ngàn tỷ, khoảng 6,3 tỷ USD. Ngoài ra còn có khoảng 2 triệu hộ kinh

doanh cá thể và hàng chục ngàn chi nhánh và văn phòng đại diện đƣợc thành

lập [39]. Do vậy cầu về địa ốc cho sản xuất kinh doanh luôn trong trạng thái

thiếu hụt, thị trƣờng đầy tính chất đầu cơ, trục lợi, đẩy giá cho thuê nhà đất

leo thang. Trong khi đó, hàng triệu mét vuông đất công do không có cơ chế

thích hợp thì đành “nằm không”. Bức tranh tƣơng phản này, một phần phản

ánh tình trạng sử dụng không hiệu quả đất đai, mặt khác cho thấy hàng hóa

đặc thù này thiếu đi một kênh lƣu thông hữu hiệu, đó là CTTC bất động sản.

Mô hình CTTC bất động sản giống nhƣ CTTC 3 bên, khác là nhà cung

cấp là nhà đầu tƣ kinh doanh bất động sản. Đầu tiên, bên thuê và bên cho thuê

đàm phán ký kết hợp đồng CTTC. Nhà đầu tƣ bất động sản (một hay nhiều

bên liên kết với nhau) sau đó sẽ chuyển giao tài sản (đất hoặc nhà) hoặc có thể

xây dựng theo thiết kế nhƣ bên thuê yêu cầu. Bên cho thuê thanh toán tiền cho

nhà đầu tƣ bất động sản. Quyền sở hữu bất động sản thuộc về bên cho thuê

(công ty CTTC) và quyền này sẽ đƣợc chuyển giao cho bên thuê khi kết thúc

hợp đồng CTTC nhƣ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Cũng có thể vận dụng

mua và thuê lại (sales and lease back) trong trƣờng hợp này. Bên cho thuê

mua bất động sản của một doanh nghiệp rồi sau đó cho chính doanh nghiệp

này thuê theo hợp đồng CTTC. Qua nghiệp vụ tái thuê, doanh nghiêp có thể

78

chuyển tài sản cố định thành tài sản lƣu động hay chuyển dịch vốn đầu tƣ cho

các dự án kinh doanh khác có hiệu quả hơn trong khi vẫn duy trì đƣợc hoạt

động đầu tƣ hiện tại do vốn lƣu động đƣợc bổ sung kịp thời mà không làm

giảm năng lực về cơ sở vật chất của doanh nghiệp.

Do vậy, cần phải nghiên cứu và ban hành các qui định hƣớng dẫn về

chủ thể, đối tƣợng tham gia, thời gian tối thiểu của hợp đồng, phƣơng hƣớng

giải quyết khi kết thúc hợp đồng, chấm dứt hợp đồng CTTC bất động sản. Khi

bất động sản đƣợc phép CTTC, Nhà nƣớc cần ban hành các văn bản pháp quy

hƣớng dẫn thực hiện quy chế riêng về cho thuê bất động sản để tạo cơ sở pháp

lý cho các công ty CTTC kinh doanh dịch vụ đặc thù này.

Thứ ba, bổ sung thẩm quyền hoạt động của công ty CTTC: công ty

CTTC đƣợc phép bán các khoản nợ phải thu từ hợp đồng CTTC cho các tổ

chức mua bán nợ ở Việt Nam.

Sự bổ sung này là cần thiết để đảm bảo tính lƣu thông và thanh khoản

trên thị trƣờng CTTC. Tập quán này còn mới mẻ ở Việt Nam nhƣng lại khá

phổ biến ở các nƣớc phát triển đối với các khoản nợ nói chung trong dó có nợ

từ các hợp đồng CTTC. Cũng giống nhƣ trƣờng hợp bất động sản, đây là loại

hình có nhiều đặc thù đòi hỏi muốn vận hành đƣợc cần phải có sự chuẩn bị kỹ

lƣỡng về kỹ thuật, pháp luật và tổ chức thực hiện.

Thứ tư, tháo gỡ khó khăn về huy động vốn xã hội của các công ty

CTTC.

Công ty CTTC là một trung gian tài chính với nguyên tắc hoạt động là

đi vay để cho vay. Trong khi giá cả cho thuê tài chính chỉ một phần phản ánh

lãi suất CTTC thì Nhà nƣớc cần tạo cơ chế cho phép các công ty CTTC tiếp

cận với các nguồn vốn ƣu đãi nhƣ: quỹ đầu tƣ quốc gia, quỹ nội địa hóa máy

móc, quỹ tín dụng ngoại tệ đặc biệt… (kinh nghiệm từ CTTC ở Trung Quốc).

79

Đối tƣợng hƣởng lợi của các quỹ này không thể đại trà, do vậy, một lần nữa

công tác thẩm định dự án cần đƣợc đặc biệt lƣu ý. Thẩm định dự án ở đây là

thẩm định dự án của chính công ty CTTC và ngƣời thẩm định trong trƣờng

hợp này là cơ quan cấp tín dụng (ở Việt Nam thƣờng là Ngân hàng Nông

nghiệp phát triển nông thôn, Ngân hàng Phát triển,….). Đồng thời phải có cơ

chế kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện dự án đảm bảo các nguồn tài trợ ƣu

đãi phát huy hiệu quả kinh tế- xã hội.

Thứ năm, hoàn thiện cơ chế cho thuê hợp vốn/bắc cầu (leveraged lease).

Nhƣ đã phân tích, vốn là vấn đề vƣớng mắc nổi cộm của công ty CTTC

hiện nay. Sự hạn chế này sẽ không cho phép công ty CTTC triển khai những

dự án lớn theo cách “đơn thƣơng độc mã”. Cho thuê bắc cầu chính là câu trả

lời cho bài toán khó giải này.

Cho thuê bắc cầu là một dạng đặc biệt của CTTC, xuất phát từ sự thiếu

hụt nguồn vốn tài trợ. Về phƣơng diện tài chính, phƣơng thức này đòi hỏi ít

nhất sự tham gia của 3 bên: ngƣời cho thuê, ngƣời thuê và nhà tài trợ

(financier/lender). Bên cho thuê không đủ khả năng tài trợ cho khách hàng

phải đi vay của nhà tài trợ hoặc liên kết với những đối tác khác phần vốn còn

thiếu. Vật thế chấp cho khoản vay này là quyền sở hữu tài sản cho thuê và

hợp đồng thuê. Nhà tài trợ đƣợc hoàn trả từ các khoản tiền thuê, thƣờng do bên

thuê trực tiếp chuyển trả theo yêu cầu của bên cho thuê. Sau khi thanh toán hết

cho nhà tài trợ, những khoản tiền thuê còn lại đƣợc trả cho ngƣời cho thuê.

3.2.1.2. Tăng cường vai trò hoạch định, quản lý, giám sát của Nhà

nước và các cơ quan hữu quan

Tiếp theo là xây dựng chiến lƣợc phát triển ngành dịch vụ cho thuê

đảm bảo sự vận hành thị trƣờng cho thuê đúng định hƣớng, huy động đƣợc

các nguồn lực một cách tốt nhất cho sự vận hành thị trƣờng CTTC để đạt

80

đƣợc các mục tiêu kinh tế- xã hội.

Tăng cƣờng vai trò của Hiệp hội CTTC Việt Nam- VILEA trong việc

hỗ trợ cho công tác quản lý Nhà nƣớc và thúc đẩy thị trƣờng CTTC phát triển.

Hiệp hội phải không ngừng tạo điều kiện để các chủ thể trên thị trƣờng cạnh

tranh lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham

gia trên thị trƣờng; tƣ vấn cho Nhà nƣớc để hoạch định những chính sách

thuận lợi cho sự phát triển của ngành; tăng cƣởng khâu quảng bá dịch vụ

CTTC đến các doanh nghiệp trong nƣớc.

3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến các chính sách hỗ trợ của Nhà

nước đối với dịch vụ cho thuê tài chính

Thứ nhất, điều chỉnh các chính sách về thuế, trích khấu hao tài sản cố

định theo hƣớng nhƣ đã phân tích trong chƣơng 2.

Về thuế giá trị gia tăng: Cho phép khấu trừ VAT đầu vào của tài sản

CTTC nhƣ trƣờng hợp doanh nghiệp tự mua sắm, số tiền thuế đƣợc khấu trừ

này sau đó sẽ đƣợc bên thuê hoàn trả cho bên cho thuê. Đối với nghiệp vụ

CTTC theo phƣơng thức “mua và thuê lại” hiện nay đang áp dụng mức thuế

VAT 5%. Nghĩa là, doanh nghiệp đi thuê phải chịu thêm tiền lãi thuê tính trên

khoản thuế VAT khi chuyển nhƣợng tài sản từ doanh nghiệp sang công ty

CTTC, phần nợ gốc chỉ đƣợc khấu trừ dần theo thời hạn thuê. Thực chất giao

dịch mua và thuê lại chỉ là sự chuyển đổi quyền sở hữu vốn mà doanh nghiệp

đã đầu tƣ vào tài sản cho công ty CTTC. Bên đi thuê (doanh nghiệp) đã thực

hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ về thuế khi mua tài sản bằng nguồn vốn của mình.

Do vậy, đề nghị áp dụng thuế suất VAT 0% đối với tài sản CTTC trong giao

dịch mua và thuê lại.

Về thuế nhập khẩu: Cần áp dụng các ƣu đãi về thuế nhập khẩu đối với

các máy móc thiết bị CTTC nhằm mục đích sản xuất hàng hóa dịch vụ xuất

81

khẩu, hoặc gia công xuất khẩu.

Về trích khấu hao tài sản cố định là đối tƣợng của CTTC: Nhà nƣớc

nên cho phép nghĩa vụ trích khấu hao tài sản cố định một cách linh hoạt,

nghĩa là tùy vào sự thỏa thuận của hai bên để quyết định bên nào sẽ thực hiện

nghĩa vụ này để hƣởng những lợi ích về thuế tốt nhất. Nhà nƣớc cũng nên cho

phép các doanh nghiệp tự chủ trong việc trích khấu hao tài sản CTTC. Hiện

nay chế độ trích khấu hao tài sản cố định đang đƣợc áp dụng theo quyết định

206/2003/QĐ- BTC của Bộ Tài chính. Theo đó, doanh nghiệp đƣợc phép

trích khấu hao nhanh nhƣng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định

theo phƣơng pháp đƣờng thẳng. Tuy nhiên, cách tính này vẫn chƣa đủ để giúp

doanh nghiệp bảo toàn giá trị của tài sản cố định trong điều kiện tốc độ hao

mòn vô hình về tài sản cố định ngày một tăng nhanh. Để tăng tính hấp dẫn

của dịch vụ CTTC, Nhà nƣớc nên cho phép áp dụng phƣơng pháp tính khấu

hao nhanh tài sản cố định cho thuê. Việc tính khấu hao này có thể căn cứ vào

thời gian thu hồi vốn cần thiết (recovery period) thay vì dựa trên thời gian hữu

dụng của tài sản (economic life). Có thể tham khảo mô hình Hệ thống thu hồi

vốn theo gia tốc ACRS -Accelerated Cost Recovery System (xem Bảng 3.5).

Về chính sách lãi suất: Xây dựng, hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất

của NHNN theo nguyên tắc thị trƣờng. Tạo lập khuôn khổ lãi suất điều hành

của NHNN nhằm định hƣớng cho sự vận động của lãi suất trên thị trƣờng liên

ngân hàng bao gồm: xác định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi

82

suất thị trƣờng mở.

Loại tài sản

Thời gian thu hồi vốn

03 năm

Phƣơng tiện vận chuyển hạng nhẹ, thiết bị sử dụng trong nghiên cứu & phát triển

Máy móc, thiết bị, đồ dùng vật dụng cố định, xe tải

05 năm

Tài sản công ích có thời gian hữu dụng từ 18- 20 năm

10 năm

Tài sản công ích sử dụng lâu dài

15 năm

Bảng 3.2.1: Mô hình Hệ thống thu hồi vốn theo gia tốc ACRS của Mỹ

Về chính sách lãi suất: Xây dựng, hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất

của NHNN theo nguyên tắc thị trƣờng. Tạo lập khuôn khổ lãi suất điều hành

của NHNN nhằm định hƣớng cho sự vận động của lãi suất trên thị trƣờng liên

ngân hàng bao gồm: xác định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi

suất thị trƣờng mở.

3.2.3. Nhóm giải pháp liên quan đến việc tăng cường năng lực hoạt

động của công ty CTTC

3.2.3.1. Xây dựng chiến lược khách hàng để mở rộng thị trường, mạng

lưới cung cấp dịch vụ, gia tăng thị phần của công ty CTTC

Các công ty CTTC phải thƣờng xuyên cập nhật thông tin của khách

hàng, diễn biến của thị trƣờng từ nhiều kênh để đảm bảo cung cấp dịch vụ

đúng, đủ, kịp thời và chất lƣợng cho khách hàng hiện tại, phát hiện và hiện

thực hóa nhu cầu của khách hàng tiềm năng không chỉ dựa trên phƣơng châm

“ở đâu có cầu là ở đó có cung” mà còn có khả năng định hƣớng khơi dậy cầu

tƣơng lai để đáp ứng tốt nhất và nhiều nhất.

Trên cơ sở thu thập, phân tích xử lý dữ liệu; tiến hành đánh giá phân

83

loại khách hàng, cụ thể hóa chính sách đến từng nhóm khách hàng.

3.2.3.2. Gia tăng nguồn vốn hoạt động và mở rộng mạng lưới hoạt

động

Thứ nhất, tăng cƣờng nguồn vốn chủ sở hữu. Đa số các công ty CTTC

ở Việt Nam có vốn điều lệ nhỏ, các công ty này cần tăng vốn điều lệ. Bằng

cách tăng vốn thông qua tích luỹ hoặc tiến hành cổ phần hoá.

Thứ hai, phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn từ nền kinh tế thông

qua thị trƣờng chứng khoán.

Thứ ba, liên doanh liên kết với các công ty bảo hiểm trong nƣớc, các

nhà cung ứng trong và ngoài nƣớc, các định chế tài chính để tạo nguồn cho

thuê theo hình thức cho thuê hợp vốn, cho thuê trả góp hoặc gửi vốn có kỳ

hạn tại các công ty với mức lãi suất hợp lý.

Thứ tư, triển khai nghiệp vụ bán các khoản thu từ các trƣờng hợp

CTTC cho các định chế tài chính.

Thứ năm, nhận uỷ thác bằng tiền của các bên uỷ thác để mua máy móc

thiết bị và động sản khác CTTC đối với bên thuê. Đồng thời sử dụng phƣơng

thức mua hàng trả chậm.

Thứ sáu, duy trì một tỷ lệ ký cƣợc hợp lý vừa đảm bảo tăng tính an toàn

trong suốt thời gian thuê vừa tăng năng lực tài chính vì nguồn vốn này có lãi

suất bằng 0%.

3.2.3.3. Đa dạng hoá các sản phẩm CTTC

Bên cạnh những sản phẩm truyền thống nhƣ cho thuê có sự tham gia

của hai bên, cho thuê có sự tham gia của ba bên thì các công ty CTTC cần đẩy

mạnh các sản phẩm nhƣ bán và thuê lại, cho thuê hợp vốn, đồng thời mở rộng

các hình thức cung cấp dịch vụ nhƣ cho thuê giáp lƣng, cho thuê vận hành,

cho thuê uỷ thác, cung cấp dịch tƣ vấn và bảo lãnh liên quan đến hoạt động

84

CTTC hƣớng đến mô hình cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách hàng.

Linh hoạt hóa phƣơng thức tính tiền thuê. Các công ty CTTC cần

nghiêm cứu và áp dụng thêm các phƣơng pháp tính tiền thuê dựa vào khả

năng khai thác tài sản thuê của khách hàng, cụ thể nhƣ: tính tiền thuê theo

mùa vụ, tính tiền thuê tăng dần, giảm dần, tính tiền thuê theo lãi suất thả nổi,

tính tiền thuê theo khấu hao gia tốc,…

3.2.3.4. Tăng cường công tác quản trị rủi ro

Một là, nâng cao chất lƣợng thẩm định bao gồm thẩm định tài sản thuê,

dự án kinh doanh và năng lực tài chính của khách hàng thuê. Để thực hiện

biện pháp này các công ty CTTC lƣu ý các điểm sau:

+ Xây dựng quy trình thẩm định chuẩn bao gồm quá trình từ tiền kiểm

đên hậu kiểm, phù hợp với mô hình tổ chức với phƣơng châm gọn nhẹ, chặt

chẽ, đảm bảo có sự phối lợp và kiểm soát trong toàn bộ quy trình.

+ Xây dựng phƣơng pháp tính khấu hao tài sản cố định linh hoạt

+ Mua bảo hiểm vật chất cho tất cả tài sản cho thuê

+ Thành lập trung tâm thông tin để không ngừng cập nhật dữ liệu và hệ

thống hóa phân loại thông tin phục vụ cho công tác quản trị rủi ro

Hai là, tăng cƣờng quản lý tài sản trong và sau khi cho thuê. Để thực

hiện đƣợc biện pháp này cần chú ý đến các vấn đề sau:

+ Thƣờng xuyên kiểm tra, bảo đảm kiểm soát đƣợc sản phẩm suốt quá

trình cho thuê nhằm nắm đƣợc tình hình tài chính, thực trạng hoạt động cũng

nhƣ việc sử dụng tài sản thuê của khách hàng có đúng mục đích và hiệu quả

+ Tăng cƣờng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Thông qua hoạt

hay không nhằm chia sẻ và tháo gỡ khó khăn với khách hàng khi cần thiết

động kiểm tra có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong

85

quá trình thực hiện nghiệp vụ CTTC. Công tác kiểm tra, kiểm soát ở đây

không chỉ do bộ phận chuyên trách thực hiện bởi bộ phận này thực hiện kiểm

tra khi việc cho thuê đã hoàn tất mà tất cả các cán bộ tham gia vào công việc

liên quan đến hoạt động kinh doanh, ở tất cả các khâu trong quá trình từ khi

thẩm định, giải ngân đến khi thanh lý hợp đồng, mỗi cán bộ phải là một mắt

khâu trong quá trình kiểm tra.

Ba là, nâng cao năng lực quản trị rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất phát

sinh từ tƣơng quan giữa các lãi suất thu đƣợc từ hợp đồng CTTC và phải trả

đối với hợp đồng nhận tiền gửi hoặc hợp đồng tiền vay. Do đó, để hạn chế

thấp nhất rủi ro, các công ty CTTC cần tăng cƣờng quản lý rủi ro lãi suất bằng

cách xây dựng hệ thống rủi ro lãi suất, trong đó xây dựng bảng liệt kê kỳ hạn

đánh giá đƣợc mọi rủi ro lãi suất liên quan đến tài sản nợ, tài sản có. Đồng

86

thời thành lập bộ phận theo dõi và dự báo tình hình lãi suất.

KẾT LUẬN

Một trong những quan điểm chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt nam đã đƣợc Đảng ta xác định: khoa học công nghệ là động

lực để thực hiện thành công công cuộc này. Do vậy nhu cầu về vốn hiện vật là

rất lớn để đổi mới công nghệ, kỹ thuật. Cho thuê tài chính chính là một trong

những kênh tín dụng hữu hiệu đáp ứng nhu cầu này.

1. Cho thuê tài chính là một loại hình tín dụng trung và dài hạn không

hủy ngang, có đối tƣợng là tài sản, trong đó bên cho thuê chuyển giao quyền

sử dụng và hầu hết lợi ích và rủi ro cho bên đi thuê theo thời hạn đã thỏa

thuận. Khi hết hạn cho thuê, quyền sở hữu tài sản có đƣợc chuyển giao hay

không tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên.

Để hình thành và phát triển thị trƣờng CTTC, phát huy đƣợc vai trò, vị

trí của ngành dịch vụ này trong hệ thống tín dụng và trong nền kinh tế cần

phải tạo lập các tiền đề pháp lý và kinh tế.

2. Với tƣ cách là phƣơng thức tài trợ vốn trung và dài hạn, cho thuê tài

chính đƣợc biết đến là một trong những đòn bẩy tín dụng đến quá trình tích tụ

và tập trung sản xuất; điều hòa phân bổ vốn xã hội một cách hợp lý và hiệu

quả; hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới tài sản cố định- căn cứ quan

trọng để nâng cao hiệu quả công việc, tăng năng suất lao động; đa dạng hóa

các hình thức tín dụng, tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế.

3. Từ kinh nghiệm phát triển dịch vụ CTTC ở một số nƣớc châu Á cho

thấy vai trò quan trọng của Nhà nƣớc đối với sự phát triển của ngành dịch vụ

CTTC, đặc biệt trong giai đoạn đầu hình thành. Những quy định về mặt pháp

87

lý cũng nhƣ các chính sách kinh tế tại các nƣớc này thể hiển rõ sự khuyến

khích đầu tƣ và do vậy đã làm cho kênh tín dụng này có đƣợc những lợi thế

để cạnh tranh và phát triển. Ngoài ra, sự sáng tạo của Nhật Bản và Hàn Quốc

khi cho ra đời những gói cho thuê đặc thù với điều kiện của từng nƣớc cũng là

bài học quý để Việt Nam tham khảo trong quá trình vận hành dịch vụ CTTC

trong thời gian tới.

4. CTTC đã hình thành gần 15 năm qua tại Việt Nam, bắt đầu từ

chƣơng trình thí điểm. Kể từ đó, khung khổ và các điều kiện pháp lý điều

chỉnh cho hoạt động CTTC đã đƣợc hình thành và tiếp tục có những bƣớc

điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, để trở thành nền

tảng vững chắc, cơ sở pháp lý của dịch vụ CTTC ở Việt Nam còn cần đƣợc

tiếp tục hoàn thiện.

5. Dịch vụ CTTC ở Việt Nam trong thời gian qua bƣớc đầu đã đạt đƣợc

những thành tựu nhất định biểu hiện qua các chỉ tiêu: tăng trƣởng dƣ nợ, đa

dạng hóa tài sản cho thuê, kiểm soát nợ xấu, … Tuy vậy, tốc độ phát triển của

CTTC cả về lƣợng và chất vẫn còn dƣới mức tiềm năng. Sự vận động của

dịch vụ CTTC trong những năm qua còn thiếu tính bền vững. Có rất nhiều

nguyên nhân lý giải cho hiện trạng này. Nổi cộm lên là sự bất cập của các văn

bản pháp lý; những chính sách kinh tế thay vì là động lực thì lại trở thành trở

lực đến sự phát triển của ngành dịch vụ cho thuê ở Việt Nam. Nguyên nhân

chủ quan đến từ các công ty CTTC là chƣa chuẩn bị đƣợc đội ngũ chuyên

môn giỏi, chƣa quan tâm đến công tác quảng bá, hoạt động còn dựa dẫm

nhiều vào ngân hàng “mẹ” nên thiếu tính sáng tạo… Ngoài ra, các cơ quan

hữu quan còn thiếu sự phối hợp trong khi triển khai dịch vụ CTTC.

6. Thị trƣờng CTTC ở Việt Nam trong thời gian tới đứng trƣớc nhiều

thuận lợi. Đó là lƣợng cầu dồi dào về dịch vụ này đến từ các doanh nghiệp

88

vừa và nhỏ, những tác động tích cực từ quá trình hiện đại hóa, cổ phần hóa

trong hệ thống các ngân hàng thƣơng mại,… Bên cạnh đó là những thách thức

về một thị trƣờng ngày càng cạnh tranh từ các yếu tố bên trong và ngoài nền

kinh tế, những tác động bất lợi của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu,… Trƣớc

bối cảnh đó, ngành dịch vụ CTTC ở Việt Nam cần phải hoạch định cho mình

phƣơng hƣớng phát triển theo phƣơng châm tối đa hóa thời cơ, giảm thiểu hóa

nguy cơ. Phƣơng hƣớng và chiến lƣợc hoạt động kinh doanh dịch vụ CTTC ở

Việt Nam về lâu dài cũng nhƣ trƣớc mắt là: “ổn định, phát triển, an toàn và

hiệu quả”; kết hợp hài hòa ba lợi ích: lợi ích của công ty CTTC, lợi ích của

doanh nghiệp và lợi ích của nhà nƣớc.

7. Để thúc đẩy thị trƣờng CTTC phát triển cần thực thi các giải pháp

liên quan đến tạo tập môi trƣờng pháp lý, môi trƣờng kinh tế nhằm khai thông

những bế tắc hiện nay của ngành và các giải pháp tăng cƣờng năng lực hoạt

động của các công ty CTTC để đảm bảo sự tăng trƣởng và phát triển bền

89

vững của ngành.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Tuấn Anh (2009), “Mối quan hệ giữa hoạt động của ngân hàng

thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế”, Tạp chí ngân hàng, (17), tr.48-56.

2. Nguyễn Thị Cành (2008), “Khả năng tiếp cận các nguồn tài chính của

các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế,

(212), tr.3-12.

3. Nguyễn Thị Cành, Trần Viết Hoàng, Trần Thọ Phú, Cung Trần Việt,

Nick Freedman, David Ray (2006), “Chính sách tín dụng cấp tỉnh cho

các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VN”, Báo cáo nghiên cứu chính sách -

VNCI, (8).

4. Diễn đàn kinh tế và tài chính (2008), Rủi ro hệ thống ngân hàng ở Việt

Nam xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến, Đà Nẵng.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa IX, Hà Nội.

6. Bùi Hồng Đới (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công

ty cho thuê tài chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh

tế Quốc dân, Hà Nội.

7. Đoàn Thanh Hà (2003), Một số giải pháp thúc đẩy dịch vụ cho thuê tài

chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, ĐH Kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh.

8. Đoàn Thanh Hà (2009), “Thực trạng tiềm năng và giải pháp cho thuê tài

chính ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng, (6), tr.43-49.

9. Trần Vũ Hải (2007), “Pháp luật về cho thuê tài chính- một số vấn đề cần

90

hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, (2), tr. 34-41.

10. Nguyễn Thị Hiền (2000), Một số vấn đề trong dịch vụ cho thuê tài chính

ở Việt Nam, Kỷ yếu hội nghị khoa học, Trƣờng ĐH Ngoại thƣơng, Hà

Nội.

11. Văn Lạc (2008), “Cần tiếp tục xem xét sửa đổi bổ sung một số điều của

Nghị định 16/2001/NĐ- CP”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, (11),

tr.24- 26.

12. Mạng lƣới ngân hàng phục vụ ngƣời nghèo (2008), Báo cáo đánh giá về

ngành tài chính vi mô Việt Nam, Hà Nội.

13. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2002), Báo cáo thường niên, Hà Nội.

14. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2003), Báo cáo thường niên, Hà Nội.

15. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2004), Báo cáo thường niên, Hà Nội.

16. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2005), Báo cáo thường niên, Hà Nội.

17. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2006), Báo cáo thường niên, Hà Nội.

18. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội.

19. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2008), Báo cáo của Vụ Tín dụng công

bố ngày 29/09/08, Hà Nội.

20. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2008), Tài liệu triển khai nhiệm vụ,

Hà Nội.

21. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2007), Báo cáo sơ kết hoạt động của

các công ty cho thuê tài chính, Hà Nội.

22. Lê Thị Kim Nhung (2005), Giải pháp phát triển thị trường ở Việt Nam

trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế, Luận án Tiến sỹ kinh

91

tế, Hà Nội.

23. Nguyễn Minh Phong, Trịnh Thanh Huyền (2000), Cải cách hệ thống tài

chính Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam,

Nxb. Tài chính, Hà Nội.

24. Tống Thiện Phƣớc (2006), Giải pháp phát triển thị trường cho thuê tài

chính ở Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế,

Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.

25. Nguyễn Hạnh Thủy (2001), Cho thuê tài chính và phát triển dịch vụ cho

thuê tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập, Luận văn Thạc sỹ

kinh tế, Đại học Ngoại thƣơng, Hà Nội.

26. Nguyễn Minh Trí (2007), “Cho thuê tài chính trong quá trình đa dạng

hoá dịch vụ của các Ngân hàng thƣơng mại”, Tạp chí Thị trường tài

chính tiền tệ, (16), tr.34-36.

27. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê năm 2005, Nxb. Thống

kê, Hà Nội.

28. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê năm 2006, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

29. Tổng cục Thống kê (2008), Kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành

chính, sự nghiệp 2007, Tập 2, Cơ sở sản xuất kinh doanh, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

30. Tổng cục thống kê (2009), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều

tra các năm 2006, 2007 và 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội.

31. Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê

mua, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

32. http://www.business.gov.vn/newsevents.aspx?id=4458

92

33. http://www.bwportal.com.vn/?cid=4

34. http://dantri.com.vn/c76/s82-248233/3-hinh-thuc-cong-ty-cho-thue-tai-

chinh.htm

35. http://www.datc.com.vn/tabid/114/postid/161/Tiep-tuc-day-nhanh-qua-

trinh-sap-xep-doi-moi-doanh-nghiep-100-von-nha-nuoc.aspx

36. http://dddn.com.vn/11833cat90/nhung-bat-cap-can-duoc-thao-go.htm

37. http://www.doanhnghiep24g.com.vn/cms/detail.php?id=11890

38. http://www.hvnh.edu.vn/modules.php?name=CMS&op=details&mid

=1196

39. http://www.kienthuctaichinh.com/2008/02/cho-thu-ti-chnh-knh-tn-dng-

hu-hiu-cho.html

40. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=25333

41. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=33387

42. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=29249

43. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=23810

44. http://www.nguoidaibieu.com.vn/pPrint.aspx?itemid=91328

45. http://nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/3/ContentID/6

9936/Default.aspx

46. http://www.saga.vn/Taichinh/Thitruong/Nganhang/4680.saga

47. http://www.sacombankleasing.com/index.php?module=news&action

=news&menu_id=2&type=2&id=69

48. http://www.sbv.gov.vn/vn/home/htCtyCthueTchinh.jsp

49. http://www.sbv.gov.vn/vn/tintuc/tcnh/nguyendinhtrung/tin/tapchi_2009

93

_10_19_025124.doc?tin=626

50. http://www.tapchiketoan.com/tin-tuc/tin-tuc-ngan-hang-tai-chinh/60-

trieu-usd-hien-dai-nganh-tai-chinh-ngan.html

51. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/10/16/3915/

52. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/09/04/2143-2/

53. http://vcbl.com.vn/Index.php?CateID=44

54. http://vinalaw.com.vn/vietnam/law.cfm?pgno=16&LinhVucID=55

55. http://vietbao.vn/Kinh-te/Thi-hanh-Luat-DN-luc-can-tu-cac-co-quan-

hanh-chinh/20574437/87/

56. http://www.vir.com.vn/Client/dautu/dautu.asp?CatID=11&DocID=5776

57. http://www.vneconomy.vn/66750P0C6/tim-von-qua-cho-thue-tai-

chinh.htm

58. http://vneconomy.vn/20080929060756327P0C6/doanh-nghiep-vua-va-

nho-khong-co-kha-nang-pha-san-hang-loat.htm

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

60. ADB (1990), Leasing in Developing Asia, Manila, the Philippines.

61. Asian Leasing Association (1992), Asian Leasing Year Book.

62. IFC (1996), Leasing in Emerging Markets, the World Bank, Washington

D.C., US.

63. Matthew Fletcher, Rachel Freeman, Murat Sultanov, and Umedjan

Umanov (2005, Leasing in Development: Lesson from Emerging

Economies, IFC, WB Group, Washington D.C., US.

64. Ross et al. (2003): Fundamentals of Corporate Finance, Volume 1, Sixth

94

Edition, Alternative Edition, The McCraw- Hill Companies Inc., US.

65. http://www.allbusiness.com/finance/leasing-equipment-

leasing/3910533-1.html

66. http://www.hmrc.gov.uk/manuals/blmmanual/BLM00220.htm

67. 67.http://heinonline.org/HOL/LandingPage?collection=journals&handle

=hein.journals/intfinr8&div=7&id=&page=

68. www.leasing.org.jp/english/JLA/index.html

69. 69.www.nbs.yu/export/internet/english/15/konference_guvernea/atttach

ment/20060126_leasing_supervision.ppt.

70. 70.www.pramacorp.kiev.ua/Docs/LegalTreatmentofFinLeasingKeysilM

ar2005_ENG.pdf.

71. 71. http://www.praguemonitor.com/en/342/czech.busines

95

72. 72. http://www.researchinchina.com/Htmls/Report/2009/5636.html

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH

HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

(theo thứ tự thời gian)

1. Hội đồng Nhà nƣớc (1991), Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày

29/04/1991.

2. Quốc hội (1995), Luật Dân sự, ngày 28/10/1995.

3. Ngân hàng Nhà nƣớc (1995), Quyết định số 149/QĐ- NH5 ngày

09/10/1995 về Thể lệ tín dụng thuê mua.

4. Chính phủ (1995), Nghị định số 64/1995/NĐ- CP, ngày 09/10/1995 về

“Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC tại Việt

Nam”.

5. Ngân hàng Nhà nƣớc (1995), Thông tƣ số 03/TT- NH5, ngày 09/02/1996

hƣớng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 64/1995/NĐ- CP.

6. Quốc hội (1998), Luật các tổ chức tín dụng (có hiệu lực từ ngày

01/08/1998)

7. Bộ Tài chính (1999), Thông tƣ số 49/1999/TT- BTC, ngày 06/05/1999

về Hƣớng dẫn thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động

CTTC

8. Bộ Tài chính (1999), Thông tƣ số 107/1999/TT- BTC, ngày 1/9/1999 về

Hƣớng dẫn kế toán thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động đi thuê tài

chính

9. Chính phủ (2001), Nghị định số 16/2001/NĐ- CP ngày 02/05/2001 về

96

Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính

10. Ngân hàng Nhà nƣớc (2001), Thông tƣ số 08/2001/TT- NHNN ngày

02/05/2001 về Hƣớng dẫn thi hành Nghị định 16/2001/NĐ- CP.

11. Bộ Tài chính (2002), Quyết định số 165/2002/QĐ- BTC ngày

31/12/2002 về việc ban hành và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán

Việt Nam (đợt 2).

12. Bộ Tài chính (2002), Chuẩn mực kế toán số 06 ban hành và công bố theo

Quyết định số 165/2002/QĐ- BTC ngày 31/12/2002 của về việc ban hành

và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 2).

13. Bộ Tài chính (2003), Quyết định số 206/2003/QĐ- BTC ngày

12/12/2003 về Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố

định.

14. Quốc hội (2004), Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung.

15. Chính phủ (2005), Nghị định 65/2005/NĐ- CP ngày 19/05/2005: Quy

định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-

CP ngày 02/02/2001.

16. Quy định mới về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính

(2007), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

17. Chính phủ (2008), Nghị định số 95/2008/NĐ- CP ngày 25/08/2008 về

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ- CP về loại

97

hình công ty CTTC.