HOÀNG THỊ ANH THƯ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------(cid:0)ω(cid:0)----------

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TÍNH HỆ SỐ BETA THEO CHỈ SỐ VN-TOTAL ĐẠI DIỆN TỔNG THỂ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12 NĂM 2011

HOÀNG THỊ ANH THƯ

TÍNH HỆ SỐ BETA THEO CHỈ SỐ VN-TOTAL ĐẠI DIỆN TỔNG THỂ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------(cid:0)ω(cid:0)----------

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, bạn bè, gia đình và các đồng nghiệp.

Trước hết, tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn đến PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang - người đã rất tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các anh chị trong công ty chứng khoán đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.

TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2011

Học viên Hoàng Thị Anh Thư

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự giúp đỡ của Cô

hướng dẫn và những người mà tôi đã cảm ơn; số liệu thống kê là trung thực, nội dung

và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ công

trình nào cho tới thời điểm hiện nay.

Tp.HCM, ngày 26 tháng 12 năm 2011

Tác giả

Hoàng Thị Anh Thư

Mục lục nội dung



MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1

3.  Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 2

4.  Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 2

5. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 3

6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 3

7.  Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................... 4

8. Bố cục luận văn ................................................................................................ 4

9.  Những đóng góp của luận văn .......................................................................... 4

CHƯƠNG 1: HỆ SỐ BETA VÀ NHỮNG BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ....... 5

1.1  Tìm hiểu beta và những ứng dụng của beta vào việc nghiên cứu thị trường vốn .   ......................................................................................................................... 5

1.2  Beta phụ thuộc vào nhiều nhân tố ..................................................................... 7

1.3  Khảo sát thực nghiệm trước đây ....................................................................... 9

1.3.1  Những bằng chứng thực nghiệm từ thị trường Mỹ ...................................... 11

1.3.2  Bằng chứng từ thị trường Anh .................................................................... 13

1.3.3  Bằng chứng thực nghiệm ở thị trường Nhật ................................................ 15

1.3.4  Bằng chứng từ thị trường mới nổi .............................................................. 16

1.3.5  Bằng chứng từ thị trường Việt Nam ........................................................... 19

1.4  Kết luận chương 1 .......................................................................................... 22

CHƯƠNG 2: KIỂM TRA TÍNH ỔN ĐỊNH VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA HỆ SỐ BETA TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 24

2.1.  Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam ................................................. 24

2.1.1 Số công ty niêm yết ..................................................................................... 24

2.1.2 Khối lượng và giá trị giao dịch..................................................................... 26

2.1.3 Giá trị vốn hóa thị trường ............................................................................. 27

2.2.  Kiểm tra tính ổn định của hệ số beta ............................................................... 31

2.2.1. Phương pháp kiểm tra ................................................................................. 31

2.2.2 Kết quả ........................................................................................................ 36

2.3.  Kết luận chương 2 .......................................................................................... 42

CHƯƠNG 3: TÍNH CHỈ SỐ VN-TOTAL ĐẠI DIỆN CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ HỆ SỐ BETA THEO CHỈ SỐ VN-TOTAL . 43

3.1    Tính chỉ số VN-Total đại diện cho thị trường chứng khoán Việt Nam ............ 43

3.1.1 Phương pháp tính ......................................................................................... 43

3.1.2 Kết quả ........................................................................................................ 46

3.2    Hệ số beta theo chỉ số VN-Total ..................................................................... 50

3.3    Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo .................................. 57

3.4    Khuyến nghị sử dụng hệ số beta trong quyết định đầu tư ................................ 57

3.5  Kết luận chung ............................................................................................... 58

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 60

PHỤ LỤC 1: Danh mục các công ty chứng khoán trong mẫu phân tích ..................... 62

PHỤ LỤC 2: Bài nghiên cứu của Sromon Das (2008) ............................................... 63

PHỤ LỤC 3: Giả thuyết mô hình CAPM ................................................................... 79

PHỤ LỤC 4: Giả thuyết của hồi quy tuyến tính ......................................................... 81

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HOSE : Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội HAX

: Mô hình Fama và French FF

CAPM : Mô hình định giá tài sản vốn

NYSE : Thị trường chứng khoán New York

: Thị trường chứng khoán London LSE

: Thị trường chứng khoán Tokyo TSE

: Khối lượng giao dịch KLGD

: Khối lượng niêm yết KLNY

: Chỉ số trung bình giá chứng khoán trên thị trường Việt Nam (bao gồm

VN-Total  HOSE và HAX) do tác giả tự đặt tên.

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2. 1 Số lượng công ty niêm yết trên sàn qua các năm 2000-2010 ....................... 25

Bảng 2. 2 Khối lượng và giá trị giao dịch trên hai sàn từ 2000-2010 ........................... 26

Bảng 2. 3 Giá trị beta của mỗi chứng khoán ............................................................... 36

Bảng 2. 4 Ước tính phương trình hồi quy sử dụng thời gian như một biến số.............. 38

Bảng 2. 5 Ước lượng phương trình hồi quy bằng biến giả ........................................... 41

Bảng 3. 1 Chỉ số VN-Total, VN-Index, HAX-Index giai đoạn 2006-2011 .................. 46

Bảng 3. 2 Chỉ số VN-Total theo cách tính VN-Index, theo trọng số khối lượng giao

dịch và theo trọng số khối lượng niêm yết .................................................................. 49

Bảng 3. 3 Giá trị beta của các chứng khoán ................................................................ 51

Bảng 3. 4 Ước tính phương trình hồi quy sử dụng thời gian như một biến số.............. 53

Bảng 3. 5 Ước tính phương trình hồi quy sử dụng biến giả với chỉ số VN-Total ......... 55

DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 2. 1 Giá trị vốn hoá thị trường trên HOSE năm 2000-2010 (tỷ đồng) ................. 28

Hình 2. 2 Giá trị vốn hoá trên cả hai sàn và Upcom (%GDP)...................................... 28

Hình 3. 1 Chỉ số VN-Total, VN-Index, HAX-Index giai đoạn 2006-2011 .................. 47

Hình 3. 2 Chỉ số VN-Total, VN-Total theo KLGD, VN-Total theo KLNY ................. 50

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thị trường chứng  khoán là  một  khái niệm quen thuộc tại các nước có nền kinh tế

phát triển. Trong những năm qua thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự phát triển

mạnh mẽ, đáp ứng ngày càng đa dạng và phong phú của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó

thì thị trường chứng khoán cũng có những biến động lớn dẫn đến sự thua lỗ cũng như

sụt giảm chỉ số VN-Index. Do đó, đầu tư chứng khoán cũng có rủi ro, rủi ro đó là sự

bất  ổn,  sự  biến  thiên  có  khả  năng  của  lợi  nhuận  thực  tế  so  với  lợi  nhuận  kỳ  vọng.

Thông thường để đo lường rủi ro người ta dùng phân phối xác suất với các tham số đo

lường phổ biến là phương sai, độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên và  đặc biệt là hệ số beta

(β).

Tuy nhiên bản thân hệ số beta (β) có thể giữ vai trò quyết định đầu tư hay không?

Hệ số beta (β) liệu có ổn định theo thời gian hay không? Hệ số beta (β) phụ thuộc lớn

vào chỉ số đại diện cho thị trường chứng khoán Việt Nam VN-Index, trong khi chỉ số

này đang bộc lộ một số hạn chế, liệu nên đưa ra chỉ số mới “VN-Total” khắc phục hạn

chế đó hay không?

Đây là những câu hỏi mà nhiều nhà kinh tế quan tâm. Và để trả lời những câu hỏi

này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tính hệ số beta theo chỉ số VN-Total đại diện tổng

thể thị trường chứng khoán Việt Nam” để  làm  đề  tài  nghiên  cứu  luận  văn  bảo  vệ

2. Tính cấp thiết của đề tài

khóa học Thạc sĩ của mình.

Việc cung cấp hệ số beta chứng khoán liệu có phản ánh đúng mức độ biến động lợi

2

nhuận  cổ  phiếu  cá  biệt  so  với  mức  độ  biến  động  lợi  nhuận  danh  mục  cổ  phiếu  thị

trường hay không rất được quan tâm và thực hiện trong nhiều nghiên cứu kinh tế ở các

quốc gia khác nhau trên thế giới.

Tuy nhiên tại Việt Nam, các nghiên cứu về việc tính toán hệ số beta cho thị trường

chứng khoán Việt Nam còn khá mới mẻ, chưa có tổ chức chuyên nghiệp đứng ra công

bố và xác nhận độ tin cậy của nó. Những năm gần đây, cùng với sự gia tăng mạnh của

thị trường chứng khoán việc cung cấp thêm công cụ đo lường rủi ro đáng tin cậy là cần

3. Mục tiêu nghiên cứu

thiết.

Thứ nhất: Tính toán hệ số beta của một số chứng khoán tiêu biểu và kiểm tra liệu

hệ  số  beta  (β) có  ổn  định  qua  các  thời  kỳ  thị  trường  từ năm  2006  đến  tháng  10  năm

2011 của Việt Nam hay không?

Thứ hai: Từ việc kiểm tra beta (β), ta thấy hệ số beta có một số hạn chế trong việc

tính toán dựa theo chỉ số VN-Index, tác giả muốn đưa ra chỉ số VN-Total thay cho VN-

Index đại diện chung cho toàn thị trường chứng khoán Việt Nam và tính toán lại hệ số

4. Đối tượng nghiên cứu

beta theo chỉ số VN-Total này.

Để đạt mục tiêu nghiên cứu như nêu trên, luận văn hướng đến các đối tượng nghiên

cứu như sau:

- Giá đóng cửa của chứng khoán hàng ngày trên Sở giao dịch chứng  khoán Thành phố

Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HAX);

- Khối  lượng  giao  dịch  của  chứng  khoán  hàng  ngày  trên  Sở  giao  dịch  chứng  khoán

Tp.HCM và Sở giao dịch chứng  khoán Hà Nội;

- Chỉ số VN-Index và HaSTC-Index hàng ngày;

3

- Cách tính hệ số beta; cách tính chỉ số VN-Index;

5. Phạm vi nghiên cứu

- Cách tính chỉ số VN-Total đại diện tổng thể thị trường chứng khoán Việt Nam.

- Tổng  thể  chứng  khoán  đã  niêm  yết  trên  sàn  HOSE  và  HAX  từ  khi  cổ  phiếu  lên  sàn

niêm yết đến 13/10/2011 có 711 chứng khoán với 2625 ngày quan sát.

-  Chọn mẫu 24 công ty niêm yết trên sàn HOSE từ năm 2006 đến 13/10/2011 với 1434  ngày quan sát vì các công ty đã được niêm yết trên sàn chứng khoán trước năm 2007

thì dữ liệu đủ lớn để kiểm tra sự ổn định của beta chứng khoán.

- Đối tượng nghiên cứu là mức độ biến động rủi ro của chứng khoán so với biến động rủi

6. Phương pháp nghiên cứu

ro của danh mục thông qua  việc tính toán hệ số beta của các chứng khoán.

Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:

- Phương pháp hồi quy: để xác định mối quan hệ giữa các nhân  tố rủi ro và tỷ suất sinh  lợi. Để kiểm định tính ổn định của hệ số beta sử dụng  phương pháp hồi quy sử dụng

thời  gian  như  biến  số  và  phương  pháp  hồi  quy  sử  dụng  biến  giả  theo  đề  xuất  của

Sromon Das (2008) (Tham khảo ở phụ lục 2)

- Phân tích, so sánh kết hợp sử dụng bảng biểu, đồ thị nhằm làm rõ sự khác biệt của chỉ

số VN-Total đại diện tổng thể thị trường Việt Nam so với VN-Index.

- Công cụ: Sử dụng phần mềm Eview để tính toán hệ số beta, cũng như các hàm đặc biệt

của excel để lọc dữ liệu và tính toán chỉ số VN-Total.

4

7. Dữ liệu nghiên cứu

Trong luận  văn tác  giả đã sử dụng số liệu thống  kê từ các nguồn dữ liệu:  Sở giao

dịch chứng  khoán Tp.HCM  và  Sở  giao dịch  chứng   khoán Hà Nội trong  khoảng thời

8. Bố cục luận văn

gian từ năm 2000 đến 13/10/2011.

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3

chương:

 Chương 1: Hệ số beta và những bằng chứng thực nghiệm.

 Chương  2:  Kiểm  tra  tính  ổn  định  và  những    hạn  chế  của  hệ  số  beta  trên  thị  trường

chứng khoán Việt Nam hiện nay.

 Chương 3: Tính toán chỉ số VN-Total đại diện cho thị trường chứng khoán Việt Nam

9. Những đóng góp của luận văn

và hệ số beta chứng khoán theo chỉ số VN-Total.

 Thứ nhất, để giúp các nhà đầu tư xem xét, cân nhắc khi ra quyết định đầu tư một trong

những tham số quan trọng phản ánh rủi ro của cổ phiếu là hệ số beta (β) tuy nhiên một

vấn đề đặt ra liệu beta có biến đổi theo thời gian hay không?  Tác giả hi vọng sẽ giúp

người đọc có cái nhìn rõ  hơn về hệ số beta khi ra quyết định đầu tư.

 Thứ hai, luận văn là nghiên cứu định lượng để xây dựng một chỉ số VN-Total đại diện

 Thứ ba, từ kết quả mô hình, luận văn đã tính toán lại hệ số beta chứng khoán theo chỉ

cho tổng thể thị trường chứng khoán Việt Nam thay cho chỉ số VN-Index hiện tại.

số VN-Total và kiểm tra tính ổn định của beta theo chỉ số VN-Total từ khi có sự ra đời

của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.

5

CHƯƠNG 1: HỆ SỐ BETA VÀ NHỮNG BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM

1.1 Tìm hiểu beta và những ứng dụng của beta vào việc nghiên cứu thị

trường vốn

Beta là một khái niệm hay được sử dụng trong phân tích tài chính. Rủi ro của một

danh mục đa dạng hoá tốt phụ thuộc vào rủi ro thị trường của các chứng khoán trong

danh mục.

Góp  phần  của  chứng  khoán  vào  rủi  ro  của  một  danh  mục  đa  dạng  hoá  phụ  thuộc

vào chứng  khoán đó bị tác động như thế nào  bởi một sụt  giảm chung của thị trường.

Độ nhạy cảm này đối với thị trường được gọi là hệ số beta.

Beta đo lường mức độ mà các nhà đầu tư kỳ vọng giá cổ phần thay đổi đối với một

phần trăm  thay đổi tăng thêm trên thị trường. Beta trung bình của tất cả các cổ phần

bằng một. Một cổ phần có beta lớn hơn một thì có nhạy cảm cao đối với các biến động

thị trường, một cổ phần có beta nhỏ hơn một thì không có nhạy cảm cao đối với các thị

trường. Độ lệch chuẩn của  một danh  mục đa  dạng hoá tỷ lệ  với beta của chúng. Như

vậy, một danh mục đa dạng hoá đầu tư vào cổ phần có beta bằng hai sẽ có gấp đôi rủi

ro so với danh mục đa dạng hoá đầu tư vào cổ phần có beta bằng một.

Tính  toán  beta  để  nắm  bắt  “rủi  ro  hệ  thống”  là  ý  nghĩa  quan  trọng  mà  công  trình

nghiên cứu của Giáo sư Sharpe (1964), Lintner (1965) và Mossin (1966) đã thực hiện.

Mô hình này dùng để nghiên cứu thị trường vốn, cụ thể là lựa chọn các chứng khoán

riêng lẻ và một danh mục đầu tư. Mô hình này ban đầu chỉ là xây dựng một tài sản với

danh mục thị trường, rủi ro hệ thống hay “beta” có thể đo lường chính xác rủi ro của tài

sản và quyết định tỷ suất sinh lợi của tài sản đó. Tương tự, các công trình nghiên cứu

6

thực nghiệm thực hiện bởi G.S Black, Jense, Schole (1972) cũng dựa trên “phiên bản

beta bằng 0” của G.S Black (1972). Tuy nhiên những nghiên cứu thực nghiệm sau đó

đã  đi  ngược  lại  mô  hình  này  cụ  thể  nghiên  cứu  của  Banz  (1981),  Daniel  (1997)  cho

thấy rằng quy mô công ty là nhân tố then chốt quyết định tỷ suất sinh lợi chứng khoán.

Có rất nhiều phương pháp để ước lượng hệ số rủi ro beta cho các cổ phiếu trên thị

trường  chứng  khoán.  Việc  sử  dụng  phương  pháp  nào  tùy  thuộc  vào  sự  phù  hợp  của

phương  pháp  đó  với  thị  trường  đang  xét,  tùy  thuộc  vào  ý  muốn  chủ  quan  của  người

đánh giá, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả mà phương pháp đó mang lại. Các phương

pháp thường được sử dụng  là:

 Ước lượng beta thông qua các phương pháp đơn giản bằng đồ thị.

 Ước lượng beta bằng mô hình chỉ số đơn (SIM)

 Ước lượng beta bằng mô hình CAPM dựa trên số liệu lịch sử.

Trong đó ước lượng beta qua mô hình CAPM là phương pháp được sử dụng phổ biến

() = + () −

nhất.  Theo mô hình CAPM, TSSL kỳ vọng của một tài sản được tính như sau:

Trong đó:

E(ri) là tỷ suất sinh lợi kỳ vọng hay chi phí vốn của chứng khoán i

βi là rủi ro hệ thống dựa trên độ nhạy cảm của chứng khoán i với thị trường

rf là lãi suất phi rủi ro.

Thực  nghiệm  cho  thấy  beta  ảnh  hưởng  đến  tỷ  suất  sinh  lợi  của  mẫu  phân  tích.

Nghiên  cứu  về  sự  di  chuyển  của  giá  cổ  phiếu  thấy  rằng  mỗi  chứng  khoán  hay  danh

mục của chứng khoán có 2 thành phần rủi ro đó là rủi ro hệ thống hay còn gọi là rủi ro

thị trường là rủi ro không thể đa dạng hóa được. Biến số thể hiện rủi ro không thể đa

dạng hóa gọi là “beta”, biến số này có mối liên hệ với tỷ suất sinh lợi kỳ vọng. Ngoài

7

ra beta cũng đo lường độ biến động  và tính thanh khoản của chứng  khoán đó. Rủi ro

thứ hai là “alpha” (α) có thể đa dạng hóa bởi các nhà đầu tư hợp lý. Lý thuyết này cho

rằng  những  nhà  đầu  tư hợp  lý  sẽ  loại  bỏ  rủi  ro  phi  hệ  thống.  Tuy  nhiên  điều  đó  cho

thấy rằng nhà đầu tư nhận thấy rủi ro hệ thống hay beta như là rủi ro vốn có của chứng

khoán.

Hệ số beta là hệ số rủi ro  không thể đa dạng hóa được ngay cả  trong  mô hình đa

nhân tố. Ngày nay, nhà nghiên cứu cho rằng hệ số beta là một trong những nhân tố ảnh

hưởng quyết định đầu tư. Tuy nhiên, việc sử dụng hệ số beta là hạn chế do yếu tố tính

toán beta dựa trên dữ liệu trong quá khứ và sẽ khó để dự đoán sự thay đổi trong tương

lại.

Nhìn  vào  những  quan  điểm  khác  nhau  thể  hiện  trên  mô  hình,  công  thức  của  mô

hình CAPM trước đây dự đoán chứng khoán nào có beta càng cao thì sẽ có tỷ suất sinh

lợi càng cao khi mà tỷ suất sinh lợi thị trường cao hơn tỷ suất sinh lợi của tỷ suất phi

rủi ro. Trong trường hợp tỷ suất sinh lợi thị trường thấp hơn lãi suất phi rủi ro, chứng

khoán  có  beta  càng  cao  thì  tỷ  suất  sinh  lợi  càng  thấp.  G.S  Pettengill,  Sundaram  và

Mathur (1995) gọi đây là mối quan hệ có điều kiện của beta và tỷ suất sinh lợi. Riêng

đối  với lý do này, họ xác định quy trình  kiểm tra của Fama  và Macbeth (1973) bằng

cách loại bỏ yếu tố tự nhiên có điều  kiện  giữa beta  và tỷ suất sinh lợi. Phát hiện chủ

yếu của họ là mối liên hệ xác định mang ý nghĩa thống kê giữa beta và tỷ suất sinh lợi.

Tuy nhiên, Bodie và cộng sự của ông (2008)  tranh luận rằng mô hình đa nhân tố ảnh

hưởng  không  nhiều  lắm  so  với  những  mô  tả  nhân  tố  ảnh  hưởng  đến  tỷ  suất  sinh  lợi

chứng khoán.

Gooding, A., và O’Malley.F (1977) nghiên cứu sự biến động của beta qua các giai

đoạn thị trường và nhận ra rằng hầu hết các danh mục đầu tư bị tác động của xu hướng

1.2 Beta phụ thuộc vào nhiều nhân tố

thị trường và vì vậy beta cũng biến đổi theo.

8

Vấn đề quan tâm khác được lưu ý là rất khó để thiết lập beta của một công ty, cho

dù  beta  không  thay  đổi  trong  thời  gian  dài,  hoặc  không  có  xu  hướng  biến  động  lên

xuống theo thị trường trong những thời kỳ (giai đoạn) khác nhau. Ví dụ, ngay cả thời

kỳ  đầu  cơ  giá  lên  và  giá  xuống  “bull  and  bear”  beta  của  chứng  khoán  hay  của  danh

mục chứng khoán di chuyển cùng chiều, vì  vậy dẫn đến kích thước rủi ro khác nhau.

Do đó beta phụ thuộc vào nhiều nhân tố như là lựa chọn giai đoạn, rủi ro tài sản cũng

được kể đến trong danh mục …

Một loạt các nghiên cứu đã xem xét tính ổn định của beta và rút ra kết luận chung

rằng thước đo rủi ro này thì không ổn định đối với cổ phiếu cá thể nhưng tính ổn định

của  beta  đối  với  danh  mục  các  cổ  phiếu  gia  tăng  mạnh.  Hơn  nữa,  danh  mục  các  cổ

phiếu càng lớn (trên 50 cổ phiếu) và có thời gian dài (trên 26 tuần) thì beta của danh

mục càng ổn định. Ngoài ra, các beta cao có xu hướng ngược lại với mức trung bình.

Cụ thể các danh mục có beta cao có xu hướng giảm theo thời gian dần về một (1,00)

trong  khi  các  danh  mục  có  beta  thấp  có  xu  hướng  tăng  theo  thời  gian  dần  về  một

(1,00).

Các nhân tố khác ảnh hưởng đến tính ổn định của beta là số tháng được sử dụng để

ước lượng beta ban đầu và beta kiểm định. Roenfeldt, Griepemtrog và Pflamm (PGP)

(2006) đã so sánh các beta được rút ra từ 48 tháng dữ liệu và beta sau đó của 12, 24,

36, 48 tháng. Các beta 48 tháng thì không tốt để ước lượng cho beta 12 tháng sau đó

nhưng khá tốt để ước lượng cho các beta 24, 36, 48 tháng.

Chen (2005) đã kết luận rằng các beta danh mục sẽ bị sai lệch nếu các beta của các

chứng khoán cá thể không ổn định, vì vậy ông đã đề xuất mô hình Bayes để ước lượng

beta thay đổi theo thời gian.

Carpemter  và Upton (2001) xem xét ảnh hưởng của  khối lượng  giao dịch lên tính

ổn định của beta và kết luận rằng những tiên đoán về beta sẽ tốt hơn nếu sử dụng các

beta đã điều chỉnh khối lượng giao dịch. Việc ảnh hưởng của khối lượng giao dịch lên

9

các  ước  lượng  beta  có  liên  quan  đến  ảnh  hưởng  công  ty  nhỏ,  điều  này  cho  rằng  beta

của các chứng khoán có khối lượng giao dịch nhỏ thì bị sai lệch đi xuống như xác định

của Ibbotson, Kaplan  và Peterson (1998). Trong nghiên cứu của  Sromon Dass (2008)

tại thị trường Ấn Độ thì hầu hết kết quả beta ổn định qua các giai đoạn phân tích. Tuy

nhiên các kết quả phụ thuộc vào lựa chọn thời điểm và dựa vào việc phân loại.

Tóm lại, các beta cá thể nói chung bất ổn theo thời gian trong khi đó beta của các

danh  mục  lớn  ổn  định.  Ngoài  ra,  nên  sử dụng  ít  nhất  36  tháng  dữ liệu  để  ước  lượng

1.3 Khảo sát thực nghiệm trước đây

beta và tỉnh táo xem xét khối lượng và quy mô giao dịch của các cổ phiếu.

Nhìn  vào  công trình nghiên cứu tiên phong  thực hiện trong quá  khứ về ứng dụng

của beta trong những thị trường khác nhau.

Blume  (1975)  là  nhà  nghiên  cứu đã  đóng  góp  to  lớn  trong  việc  ứng  dụng  beta  để

nắm bắt rủi ro hệ thống mà trong những giai đoạn sau này mỗi nhà nghiên cứu đã trích

dẫn mô hình của họ

Fabbozzi và Francis (1977) đã áp dụng kiểm tra ý nghĩa kinh  tế chuẩn để xem xét

tính  bền  vững  của  thị  trường  chứng  khoán  NewYork  (NYSE)  trong  cả  hai  giai  đoạn

đầu cơ giá lên và giá xuống (bull and bear) để áp dụng mô hình hồi quy biến giả. Họ

kết luận rằng giá trị của alpha và beta không bị ảnh hưởng bởi các thị trường khác nhau

(thời kỳ  giá lên  và  giá xuống – bull and bear phases), mà dựa vào từng chứng  khoán

riêng lẻ.

Trong nghiên cứu của Gooding và O’Malley (1977) xem xét tính ổn định của beta

qua các thời kỳ thị trường dựa trên beta danh mục. Họ đã đưa ra kết luận hầu hết danh

mục đầu tư bị tác động bởi sự di chuyển (biến động) của giá chứng khoán và xu hướng

của thị trường. Vì vậy beta không đứng yên. Họ cũng đưa ra quan điểm có thể những

dự đoán này sẽ cải thiện nếu giai đoạn dự báo là giá tăng.

10

Fstrada  (2000)  đã  phân  tích  14  Sở  giao  dịch  chứng  khoán  châu  Âu  và  ông  nhận

thấy là sự gia tăng trong giá trị beta khi số lần xuất hiện (tần số) dữ liệu bị giảm. Ông

cũng lưu ý rằng hệ số beta thấp nhất khi sử dụng giá cổ phiếu hàng ngày có yếu tố tâm

lý hành  vi trong đó. Cũng  vậy,  giá trị beta ước tính là càng thấp  khi sử dụng dữ liệu

hàng tháng hơn là dữ liệu hằng quý. Một  vài nghiên cứu,  Scholes  và  William (1977)

khuyến khích sử dụng tỷ suất sinh lợi hàng ngày để tính beta vì nó liên quan đến một

vài câu hỏi kinh tế lượng quan trọng như là “biến nội sinh”.

Faff (2001) trong công trình phân tích của mình cũng cho thấy sự khác nhau giữa

beta qua chuỗi thời gian và phần bù rủi ro của mẫu phân tích trong điều kiện thị trường

biến đổi.

Woodward và Andeson (2003) một mặt sử dụng mô hình cho phép dịch chuyển nhẹ

nhàng  giữa các tình trạng khác nhau phụ thuộc vào tỷ suất sinh lợi trung bình của 12

tháng  trước  đó.  Những  nhà  nghiên  cứu cũng  lưu ý  một  số  hạn  chế  của  việc  sử dụng

beta. Mặc dù cho thấy những hạn chế khác nhau, Cochran (2005) gọi mô hình CAPM

là mô hình “đầu tiên, nổi tiếng nhất” và hơn hết là sử dụng mô hình trong định giá tài

sản.

Nhìn dữ liệu sử dụng, vấn đề quan tâm cần lưu ý là các nhà nghiên cứu không thay

đổi sử dụng dữ liệu hàng quý, hàng tháng, hàng tuần và hàng ngày để tính hệ số beta và

lưu ý sự khác nhau trong kết quả của nhiều trường hợp. Tóm lại, nhiều nhà nghiên cứu

cho thấy sự hạn chế của việc tính toán hệ số beta khi sử dụng dữ liệu khác nhau. Tuy

nhiên,  rủi  ro  hệ  thống  được  nắm  bắt  bởi  beta  và  xu  hướng  trong  tâm  lý  giá  cổ  phiếu

trong các thời điểm thị trường  khác nhau sẽ tiếp tục đóng  vai trò quan trọng để phân

loại các công ty về rủi ro và đưa ra quyết định đầu tư thích hợp.

Việc tính toán beta dựa vào mô hình CAPM. Sau khi mô hình CAPM đưa ra, nhiều

nhà nghiên cứu và các học giả đã thực hiện nhiều kiểm tra thực nghiệm khác nhau để

11

đưa ra bằng chứng, hoặc những nghi ngờ và tranh luận. Theo giáo sư Xu (2001) những

bài kiểm tra thực tế về mô hình CAPM tập trung vào ba vấn đề chính của phương trình

- Thứ nhất, hệ số gốc (hệ số chặn) sẽ cân bằng lãi suất phi rủi ro.

- Thứ hai, beta chỉ đại diện cho rủi ro chứng khoán, được tính toán dựa vào những phân

tích biến tỷ suất sinh lợi kỳ vọng và mối quan hệ giữa beta- tỷ suất sinh lợi là quan hệ

tuyến tính.

- Cuối cùng, phần bù rủi ro là dương.

Trong  phần  này,  nghiên  cứu  thực  nghiệm  trước  đây  về  mô  hình  CAPM  sẽ  được

xem xét từ cả hai thị trường phát triển  và thị trường  mới nổi. Toàn bộ những nghiên

cứu thực  nghiệm  trước  đây  chưa đưa ra  kết  quả  thích  hợp.  Nói  chung  những  nghiên

cứu gần đây ủng hộ mô hình CAPM. Ngược lại, những bằng chứng sau đó dường như

không ủng hộ nhiều do beta được lựa chọn để xem như đại diện duy nhất cho rủi ro bị

1.3.1 Những bằng chứng thực nghiệm từ thị trường Mỹ

nghi ngờ.

 Những thực nghiệm ban đầu

Từ khi mô hình CAPM được phát triển từ năm 1960, rất nhiều bài nghiên cứu đưa

ra ở nước Mỹ, nó đã lấn át lý thuyết kiểm tra CAPM. Những bài kiểm tra ban đầu về

mô hình CAPM được xây dựng trong quốc gia đơn lẻ là nước Mỹ, và tập trung vào dữ

liệu từ trước tới năm 1969.

Black, Jense và Scholes (1972) kết luận rằng kết quả kiểm tra của họ đưa ra ủng hộ

mạnh mẽ cho mô hình CAPM. Sau khi phân tích tỷ suất sinh lợi của danh mục đầu tư

chứng khoán tại các mức độ beta khác nhau từ thời điểm 1926 đến 1966. Họ nhận ra

rằng nhìn chung có  mối quan hệ đơn  giản  giữa tỷ suất sinh lợi trung bình  và beta thị

trường khi sử dụng dữ liệu thị trường NYSE. Cả Blume và Friend (1973) và Fama và

Macbeth (1973) đã chỉ ra đường thẳng thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh

12

lợi của thị trường NYSE qua ba giai đoạn khác nhau sau cuộc chiến tranh thế giới thứ

hai, sử dụng số liệu thị trường NYSE tương tự từ Trung tâm nghiên cứu giá cả chứng

khoán (The Center for Research in Security Pric -SRSP) và COMPUSTAT trong suốt

giai đoạn trước 1969. Fama và MacBeth (1973) đã phát hiện ra chênh lệch tỷ suất sinh

lợi của thị trường trung bình là 1.3% mỗi tháng và đưa ra mỗi quan hệ giữa beta và tỷ

suất  sinh  lợi  hàng  tháng  là  dương.  Họ  hiểu  rằng  kết  quả  không  phản  ánh  hết  hai  giả

thuyết của mô hình SML, và có một đường thẳng thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ

suất sinh lợi trong mô hình và quan trọng hơn, không có thước đó rủi ro nào ngoài beta

hệ thống tác động lên tỷ suất sinh lợi trung bình. Thêm nữa, Fama và Macleth (19730)

đã giới thiệu hai bước hồi quy (FM approach) cho lần đầu kiểm tra mô hình CAPM mà

sau  này  phương  pháp  này  đã  trở  nên  vượt  trội  trong  việc  kiểm  tra  thực  nghiệm  lý

thuyết CAPM.

Tuy nhiên, mặc dù kết quả thực nghiệm xác định dương nhưng những bằng chứng

phủ định chống lại mô hình CAPM vẫn còn. Ví dụ, những nhà nghiên cứu nhận thấy hệ

số gốc ước tính chỉ ra tỷ suất sinh lợi phi rủi ro cao hơn lãi suất phi rủi ro được sử dụng

khi đưa vào, và vì vậy nếu minh họa kết quả với đường thị trường chứng khoán, độ dốc

của rủi ro – tỷ suất sinh lợi không hoàn toàn dốc đứng. Tuy nhiên, Black (1972) đưa ra

2 lý do cho sự sai lệch này: một là vì sử dụng một đại diện thay vì danh mục đầu tư thị

trường thực sự, và điều khác nữa là tỷ suất phi rủi ro thực sự không tồn tại và mô hình

CAPM không thể dự đoán tại hệ số gốc bằng 0.

 Bằng chứng chắc chắn sau thập niên 1970 ở thị trường Mỹ

Từ sau thập niên 1970, những kiểm tra thực nghiệm về mô hình CAPM đã đưa ra

những kết quả pha trộn. Đặc biệt trong 30 năm gần đây, những bằng chứng nghiêng về

xu hướng chung ít đi, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những tranh cãi khác nhau chống lại

mô hình SML.

13

Dowen (1988) đã phân tích nếu giá chứng khoán chỉ được quyết định bởi beta thì

tất cả rủi ro phi hệ thống sẽ được loại bỏ bằng cách đa dạng hóa. Mặc dù Dowen kết

luận rằng không có danh mục nào đủ lớn để có thể đảm bảo loại trừ hết rủi ro phi hệ

thống, kết quả là vẫn nghiêng về mô hình CAPM, và xa hơn nữa còn đưa ra việc quản

lý danh mục đầu tư có thể sử dụng beta như là một công cụ nhưng không phải là công

cụ duy nhất. Kothair (1995) cũng có một cuộc điều tra về mối quan hệ rủi ro - tỷ suất

sinh lợi, sử dụng tiêu chuẩn đánh giá khoảng cách tỷ suất sinh lợi và số liệu thị trường

xen kẽ - danh  mục công nghiệp  S&P dựa vào nghiên cứu từ Fama  và French (1992).

Họ đã đưa ra bằng chứng tỷ suất sinh lợi trung bình thực sự phản ánh các thành phần

bên  trong  của  rủi  ro  beta,  đưa ra  kết  luận  beta  được  đo  lường  với  khoảng  cách  hàng

năm. Hơn nữa, Jogannathan và Wang (1996) cũng đồng ý mô hình SML, họ đã đưa ra

một đề xuất về mối quan hệ xác định giữa beta và tỷ suất sinh lợi và họ giả định rằng

việc  nắm  giữ CAPM  trong  điều  kiện  nhạy  cảm  với  beta  và  phần  bù  rủi  ro  thị  trường

1.3.2 Bằng chứng từ thị trường Anh

khác nhau qua thời gian, và do đó cần xác định tính hiệu lực của CAPM.

Theo hướng dẫn của Fama và French (1992), Strong và Xu (1997) nghiên cứu mẫu

phân tích tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của cổ phần tại Anh trong giai đoạn 1973-1992. Sau

khi  kiểm tra  mối quan  hệ  giữa tỷ suất sinh lợi  kỳ  vọng  và  giá thị trường, tỷ số B/M,

đòn bẩy, tỷ số E/P và hệ số beta, họ phát hiện ra rằng tỷ suất sinh lợi trung bình có mối

quan hệ dương mang ý nghĩa với hệ số beta, tỷ số B/M và đòn bẩy thị trường, nhưng

trái lại giá thị trường và đòn bẩy sổ sách có mối quan hệ âm mang ý nghĩa với tỷ suất

sinh lợi kỳ vọng. Tuy nhiên họ quan sát thấy rằng beta trở nên không có ý nghĩa trong

hồi quy đa biến theo quy mô, hoặc tính toán dựa trên các biến số như đòn bẩy hoặc tỷ

số B/M được tính đến.

Mặt khác kết quả thực nghiệm ở Anh, họ thấy rằng tỷ số B/M và biến số đòn bẩy

chỉ là những biến cố định mang ý nghĩa trong việc giải thích mẫu phân tích tỷ suất sinh

14

lợi  chứng  khoán  kỳ  vọng  ở  Anh,  trong  khi  ảnh  hưởng  quy  mô  của  mẫu  phân  tích  là

không quan trọng. Tuy nhiên, họ cũng đưa ra giải thích bất kỳ sự kết hợp tính toán nào

cũng đủ mạnh và biến số tỷ suất sinh lợi trung bình của thị trường là thấp, họ chỉ ra khả

năng  áp  dụng  rất  thấp  với  biến  số  lưu hành  (đang  phổ  biến)  ở  thị  trường  Mỹ  để  giải

thích tỷ suất sinh lợi trung bình của mẫu phân tích tại thị trường Anh. Ngoài ra, nghiên

cứu  của  họ  xác  định  tầm  quan  trọng  của  tỷ  số  B/M  như  khi  phát  hiện  ra  nó  tại  thị

trường Mỹ trước đây.

Theo Clare, Priestley và Thomas (1998), có một đường thẳng thể hiện mối quan hệ

xác định giữa hệ số beta và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng khi sử dụng dữ liệu tỷ suất sinh lợi

chứng  khoán  hàng  tháng  từ  thị  trường  Anh  trong  thời  kỳ  1980-1993.  Ngược  lại  với

những phát hiện ở Mỹ, kết quả của họ cho thấy hệ số rủi ro beta vẫn giữ vai trò quan

trọng là  hằng số dương ở thị trường Anh. Xa hơn nữa Clare (1998) cũng đưa ra những

nghiên cứu trước đó rằng tỷ số B/M giữ vai trò quan trọng trong việc giải thích tỷ suất

sinh lợi của mẫu phân tích hơn hệ số beta mà kết quả từ giả thuyết ẩn (implicit) không

thích hợp trong việc hồi quy với rủi ro phần dư (residual risk) là không tương quan. Họ

đã lên tiếng chống lại về bảng báo cáo về cái chết của hệ số beta là một cái chết non.

Theo hướng dẫn truyền thống của Pettengill, Jonathan Fletcher (1997) đã phân tích

mối quan hệ tiêu chuẩn giữa beta- tỷ suất sinh lợi tại thị trường chứng khoán Anh. Giữ

vững với lý luận của Strong và Xu (1997), họ thấy rằng không có bằng chứng nào về

tầm quan trọng của phần bù rủi ro của beta khi mối quan hệ không có điều kiện giữa

beta  và  tỷ  suất  sinh  lợi  được  nêu  ra.  Tuy  nhiên  sau  khi  chia  mẫu  phân  tích  thành  trị

trường đi lên và thị trường đi xuống, quan sát thấy có mối quan hệ xác định có ý nghĩa

giữa hệ số beta và tỷ suất sinh lợi khi mà tỷ suất sinh lợi thị trường vượt tỷ suất sinh lợi

phi rủi ro, và mối quan hệ phủ định (âm) giữa beta - tỷ suất sinh lợi có ý nghĩa khi tỷ

suất sinh lợi phi rủi ro vượt qua tỷ suất sinh lợi thị trường. Điều đáng ngạc nhiên trong

nghiên cứu của ông là  mối quan hệ  giữa beta và tỷ suất sinh lợi là bền chặt trong  thị

15

trường đi xuống hàng tháng hơn là trong thị trường đi lên hàng tháng, Flecher (1997)

cũng xác định sự thiếu vắng của tác động quy mô ở thị trường Anh.

Hơn nữa, khi Tom và cộng sự (2001) dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Xu (2001) họ đã

kiểm  tra  mô  hình  ba  nhân  tố  của  Fama  và  French  về  cổ  phiếu  chứng  khoán  của  thị

trường chứng khoán London (LSE) trong thời kỳ 1975-1999, và nhận xét mô hình ba

nhân tố này đưa ra kết quả thực nghiệm tốt hơn mô hình CAPM khi hệ số gốc càng gần

zero (0) hơn, mô hình CAPM và R bình phương được cải thiện nhờ mô hình FF (Fama

1.3.3 Bằng chứng thực nghiệm ở thị trường Nhật

và French).

Nói chung thị trường Nhật đưa ra kết quả không ủng hộ mô hình CAPM, theo giáo

sư Chan, Hamao và Lakonishok (1991) liên quan đến sự khác nhau về tỷ suất sinh lợi

của mẫu phân tích, trong một ví dụ thiết lập chứng khoán Nhật Bản từ cả hai bộ phận

của thị trường chứng khoán Tokyo (TSE) thành bốn biến số bao gồm: thu nhập mang

lại, quy mô, tỷ số B/M và dòng tiền của thu nhập. Sau khi áp dụng kỹ thuật thống kê

lựa chọn và phương pháp ước tính khác nhau với dữ liệu sử dụng từ thời điểm 1971-

1988, mối quan hệ có ý nghĩa giữa những biến số cơ bản được xem xét với tỷ suất sinh

lợi kỳ vọng được quan sát ở thị trường Nhật, biến số có ý nghĩa nhất là tỷ số B/M và

dòng tiền của thu nhập mang lại, những biến số này tác động hoàn toàn đến tỷ suất sinh

lợi kỳ vọng. Kết quả thực nghiệm của họ tự động loại bỏ giá trị của CAPM ở thị trường

Nhật.

Nimal (2006) cũng đưa ra những nghiên cứu gần đây nhất về CAPM tại thị trường

Nhật. Trong bài nghiên cứu của ông, dữ liệu thị trường chứng khoán Tokyo được chia

làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ tháng 7/1975 đến tháng 12/1989 và giai đoạn hai từ

tháng 1/1990 đến tháng 12/2002. Ông đã đưa ra những bằng chứng thực nghiệm về mô

hình CAPM tương tự những nghiên cứu trước đây đó là không ủng hộ đối với dự đoán

chính là có sự tồn tại mối quan hệ beta - tỷ suất sinh lợi. Mặt khác, tác động của quy

16

mô và tỷ số B/M ảnh hưởng trong giai đoạn đầu nhưng vai trò của chúng không có ý

nghĩa trong giai đoạn hai khi mà tỷ suất sinh lợi thị trường trung bình là âm với độ biến

động cao. Tuy nhiên, có sự ủng hộ cho mối quan hệ tiêu chuẩn giữa beta và tỷ suất sinh

lợi mặc dù không giống với những thể hiện của thị trường Mỹ, mối quan hệ giữa beta -

tỷ  suất  sinh  lợi  trong  thời  kỳ  giá  xuống  dường  như  dốc  đứng  phủ  định  (âm)  ở  thị

trường TSE hơn khi thị trường đi lên. Do đó, ông kết luận rằng do mối quan hệ truyền

thống của beta và tỷ suất sinh lợi, việc sử dụng beta xem như là công cụ đo lường rủi

1.3.4 Bằng chứng từ thị trường mới nổi

ro thị trường vẫn có giá trị.

Trong  suốt hai thập  niên  gần đây, những nhà nghiên cứu đã bắt đầu  kiểm tra tính

hiệu lực của CAPM ở các thị trường mới nổi, đặc biệt thị trường chứng khoán châu Á.

Tuy nhiên, có quá ít những kiểm tra CAPM áp dụng thị trường mới nổi so với tại thị

trường  phát  triển.  Quả  thật  mô  hình  CAPM  truyền  thống  không  thích  hợp  với  thị

trường mới nổi vì nó được thiết kế dựa trên thị trường phát triển (theo giáo sư Hwang

và Satchell, 1990). Theo giả định của CAPM thì thị trường vốn hoàn hảo, trong khi đó

thị trường  mới nổi là đạt quá  ít so  với tiêu chuẩn cũng như cấu trúc  của định chế thị

trường là đứng yên khi vận hành. Do đó, không mấy ngạc nhiên để thấy rằng kết quả

chủ  yếu  của  mối  quan  hệ  giữa  beta  và  tỷ  suất  sinh  lợi  được  dự  đoán  bởi  mô  hình

CAPM nói chung không được ủng hộ tại thị trường mới nổi. Lưu ý đối với thị trường

mới  nổi  châu  Á,  ví  dụ  như Trung  Quốc,  HongKong,  Đài  Loan  (Taiwan),  Hàn  Quốc,

Singapore  và  Malaysia  vẫn  phát  triển  nhanh  chóng,  mặc  dù  thị  trường  chứng  khoán

này là tương đối nhỏ so với những thị trường chứng khoán phát triển chính như NYSE

và  LSE…  Theo  giáo  sư Wang  và  Tan  (1991)  đã  kiểm  tra  thị  trường  Singapore  trong

giai  đoạn  1980-1985  với  dữ  liệu  hàng  tuần,  phát  hiện  ra  mối  quan  hệ  phủ  định  (âm)

giữa beta và tỷ suất sinh lợi cả những chứng khoán đơn lẻ và danh mục đầu tư. Giáo sư

Bark (1991) đã nghiên cứu thị trường Hàn Quốc và nhận ra mối quan hệ giữa beta - tỷ

17

suất sinh lợi (là) quá yếu. Giáo sư Lee (1988) đã xây dựng bài kiểm tra mô hình CAPM

bằng  cách  sử  dụng  phương  pháp  FM  (1973).  Sau  khi  phân  tích  dữ  liệu  từ  giai  đoạn

1977-1987, ông ấy chỉ ra rằng xu hướng của thu nhập danh mục đầu tư có beta cao thì

tỷ  suất  sinh  lợi  thấp  và  ngược  lại,  và  không  đứng  yên  so  với  dự  đoán  của  CAPM.

Tương tự, kết quả quan sát của giáo sư Cheung (1993) khi kiểm tra thực nghiệm ở thị

trường Hàn Quốc và Đài Loan giai đoạn 1980-1988 cũng phát hiện ra mối quan hệ yếu

giữa  beta  và  tỷ  suất  sinh  lợi.  Xa  hơn  nữa  là  giáo  sư  Huang  (1997)  đã  kiểm  tra  thị

trường Đài  Loan  giai đoạn 1971-1993 bằng cách sử dụng tỷ suất sinh lợi hàng ngày.

Trái ngược với dự đoán của mô hình CAPM, kết quả chỉ ra mối quan hệ ngược lại giữa

tỷ suất sinh lợi và rủi ro hệ thống tương ứng rủi ro cá thể và tổng rủi ro. Ông cũng cho

rằng mối quan hệ phủ định giữa beta - tỷ suất sinh lợi không nên quy cho yếu tố mùa

vụ hàng tháng.

Aydogan và Gursoy (2000) đã đưa ra một nghiên cứu toàn diện với dữ liệu là 19 thị

trường  mới nổi đại diện cho tổng thể. Mặc dù mối quan hệ như nhau  giữa beta  và tỷ

suất sinh lợi, kết quả của họ đã đưa ra cả hai chỉ số P/E và B/M có khả năng dự đoán

chính  xác  tỷ  suất  sinh  lợi  tương  lai,  cụ  thể  qua  thời  gian  dài.  Ngoài  ra  Aydogan  và

Gursoy, Drew và Veeraraghavan (2003) đã xem xét giả định của mô hình định giá đa

nhân tố của Fama và French cho những thị trường mới nổi bao gồm HongKong, Hàn

Quốc, Malaysia và Philippines. Họ cũng đề xuất quy mô công ty và giá trị sổ sách đến

giá trị thị trường để có thể giúp giải thích biến số tỷ suất sinh lợi chứng khoán, trong

khi  đó  chỉ  một  hệ  số  beta  không  đủ  để  mô  tả  tỷ  suất  sinh  lợi  kỳ  vọng  của  mẫu  phân

tích.

Tuy nhiên, mối quan hệ yếu giữa beta và tỷ suất sinh lợi quan sát ở thị trường mới

nổi  có  thể  là  kết  quả  từ  đại  diện  tượng  trưng  của  những  thị  trường  như  vậy  hơn  là

những vấn đề quyết định nền tảng của mô hình CAPM. Hệ số beta là ước tính truyền

thống dựa vào dữ liệu lịch sử 5 năm mà theo FM (1973) sử dụng cho thị trường phát

18

triển,  trong  khi  đó  những  nền  kinh  tế  đang  phát  triển  đã  trải  qua  sự  thay  đổi  nhanh

chóng mà trong đó hệ số beta ít đứng yên. Vì vậy giống như nhiều nghiên cứu,  đưa ra

mức tổn thất do rủi ro thay đổi theo thời gian là phù hợp và thích hợp hơn là sự tổn thất

do rủi ro cố định cho thị trường mới nổi do thị trường mới nổi năng động hơn, đặc biệt

là các quốc gia thuộc khu vực Thái Bình Dương. Nói chung những mô hình càng phức

tạp cho phép mức tổn thất do rủi ro biến đổi theo thời gian hay nhân tố rủi ro bên ngoài

có thể giải thích cho việc định giá cổ phần thị trường mới nổi. Tuy nhiên, mô hình như

thế là khó để thực hiện bởi vì dữ liệu thị trường mới nổi nhỏ và hỗn tạp.

Thị trường chứng khoán HongKong được đề cập do HongKong là một trung tâm tài

chính và thương mại quốc tế, và nó được đánh giá là thị trường chứng khoán lớn thứ

hai ở châu Á và đứng vị trí thứ bảy trên thế giới. Nó được xem như là một thị trường

đã phát triển hơn là thị trường mới nổi.

Tóm lại, các nhà nghiên cứu tập trung những kiểm tra sau này vào tính hiệu lực của

mô  hình  CAPM  và  nhận  thấy  không  thể  áp  dụng  với  thị  trường  HongKong.  Mok  và

cộng sự (1990) đã xem xét tỷ suất sinh lợi của chỉ số 37 HongKong và phát hiện ra mối

quan  hệ  giữa  tỷ  suất  sinh  lợi  và  beta  là  âm  trong  giai  đoạn  1982-1983  dẫn  đến  mối

quan hệ có ý nghĩa âm. Hơn nữa, thị trường chứng khoán không cân xứng cũng có thể

nhận  ra  hướng  di  chuyển  của  giá  chứng  khoán  khi  thị  trường  đi  xuống  hơn  là  sự  di

chuyển của giá chứng khoán trong thị trường đi lên.

Cheugn và Wong (1992) đã phân tích mối quan hệ giữa beta - tỷ suất sinh lợi bằng

cách sử dụng số liệu hàng tháng của 90 chứng khoán từ năm 1980-1989, và nhận thấy

có mối quan hệ có hệ thống giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi tồn tại yếu trong cả giai đoạn,

không  kể  phát  hiện  có  mối  quan  hệ  âm  giữa  beta  có  hệ  thống  trong  giai  đoạn  1982-

1983.  Họ  đã  đạt  được  kết  quả  tương  tự khi  chia  90  chứng  khoán  thành  18  danh  mục

đầu tư, khám phá ra ở đó tồn tại đường thẳng thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro hệ thống

và tỷ suất sinh lợi .

19

Hơn nữa, bài viết của Lam (2001), mối quan hệ giữa beta và tỷ suất sinh lợi được

nghiên cứu bằng cách sử dụng phương pháp có điều kiện dựa trên hướng dẫn có điều

kiện  của  Pettengill  (1995).  Sau  khi  xem  xét  dữ  liệu  thị  trường  HongKong  giai  đoạn

1980-1995,  kết  quả  kiểm  tra  thực nghiệm  đã  minh  họa  cho  mối  quan  hệ  xác  định  và

không xác định có điều kiện giữa rủi ro - tỷ suất sinh lợi. Thêm nữa, mối quan hệ bất

cân xứng đã phát hiện ra phần bù rủi ro ước tính trong cả hai thị trường, và ở thị trường

đi xuống thì tầm quan trọng của phần bù thị trường đi xuống lớn hơn phần bù khi thị

trường đi lên. Do đường thẳng thị trường chứng khoán ước tính (SML) ở thị trường đi

xuống là dốc đứng âm hơn độ dốc dương của đường  SML ước tính  khi thị trường đi

lên với CAPM có điều kiện. Tuy nhiên, ông cũng kết luận CAPM truyền thống vẫn có

1.3.5 Bằng chứng từ thị trường Việt Nam

giá trị thực tiễn ở thị tường chứng khoán HongKong mặc dù tác động âm (phủ định).

Trên  thị  trường  chứng  khoán  ở  các  nước  có nền  kinh  tế  thị  trường  phát  triển,  các

thông tin về Công ty niêm yết như tỷ suất sinh lợi, rủi ro và các thông tin quan trọng

khác được tính toán và công bố hàng ngày trên thị trường để giúp các nhà đầu tư xem

xét, cân nhắc khi ra quyết định đầu tư. Một trong những tham số quan trọng phản ánh

rủi ro của cổ phiếu là hệ số beta (β). Hệ số này thường do các tổ chức nghiên cứu tài

chính chuyên nghiệp cung cấp. Tuy nhiên, ở Việt Nam do thị trường chứng khoán ra

đời chưa lâu, bản thân thị trường chưa được coi là thị trường hiệu quả nên việc áp dụng

mô  hình  CAPM  để  tính  toán  hệ  số  beta  còn  hạn  chế.  Bên  cạnh  các  công  ty  chứng

khoán  đã  cung  cấp  miễn  phí  hệ  số  beta    trên trang  Web  của  mình  có  một  vài  nghiên

cứu tiêu biểu về beta như sau:

Nghiên cứu của PGS.TS Trương Đông Lộc và Ths Trần Thị Hạnh Phúc (2011) về

“Kiểm  định  mối  quan  hệ  giữa lợi  nhuận  và  rủi  ro  của  các  cổ  phiếu  niêm  yết  trên  Sở

giao dịch chứng khoán Tp.HCM”, bài viết này kiểm định mối quan hệ giữa lợi nhuận

20

và rủi ro của các cổ phiếu niêm yết trên HOSE trên cơ sở CAPM. Số liệu sử dụng trong

nghiên cứu này bao gồm chuỗi chỉ số VN-Index và giá của 80 cổ phiếu niêm yết trên

HOSE với tần suất trong khoảng thời gian từ 02/01/2007 đến 31/12/2009. Để nâng cao

độ chính xác của việc ước lượng hệ số beta khi kiểm định mối quan hệ giữa lợi nhuận

và  rủi  ro,  các  cổ  phiếu  trong  mẫu  nghiên  cứu  được  phân  thành  10  danh  mục  (8  cổ

phiếu/danh  mục)  theo  thứ  tự  hệ  số  beta  của  các  cổ  phiếu  từ  thấp  đến  cao.  Kết  quả

nghiên cứu thu được từ mô hình phân tích hồi quy cho thấy CAPM là phù hợp với các

cổ phiếu niêm yết trên HOSE. Một cách cụ thể, các cổ phiếu có rủi ro càng cao thì lợi

nhuận của nó càng cao. Tuy nhiên, dựa trên những bằng chứng thực nghiệm có được từ

nghiên cứu này tác giả có thể kết luận rằng mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro của

các cổ phiếu niêm yết trên HOSE là quan hệ phi tuyến tính chứ không phải là quan hệ

tuyến tính như trong CAPM.

Tiến  sĩ  Nguyễn  Ngọc  Vũ  –  Giảng  viên  Đại  học  Đà  Nẵng  với  “Hệ  số  beta  trong

phân tích rủi ro khi đầu tư chứng khoán”, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam (10/2010) đã

trình bày phương pháp tính toán hệ số bêta và dựa trên cơ sở dữ liệu về giá cổ phiếu

giao dịch của một số Cty niêm yết tại Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong

giai đoạn từ ngày 02/01/2007 đến ngày 30/09/2009 để tính hệ số bêta của các công ty

này nhằm cung cấp thông tin  cho các nhà đầu tư tham  khảo  khi ra quyết định đầu tư

sao cho có hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên theo tác giả ở thị trường Việt Nam do bản thị

trường  chứng  khoán  Việt  Nam  chưa thể  được  coi  là  một  thị  trường  hiệu  quả.  Những

vấn  đề tồn tại ở thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm:  Thứ nhất là về mức giá,

ở Việt Nam, mức giá chỉ thể hiện một phần nhỏ về doanh nghiệp, phần lớn là do sự tác

động từ cung cầu  về cổ phiếu của các nhà đầu cơ. Đặc biệt, tâm  lý đầu tư theo  “bầy

đàn”, hay “hiệu ứng đám đông” luôn chi phối mạnh mẽ đến giá cổ phiếu. Do vậy, beta

được tính toán từ các mức giá này không thể nói lên rủi ro của doanh nghiệp.  Thứ hai

là  danh  mục  thị  trường.  Hiện  nay,  ở  Việt  Nam  có  hai  chỉ  số  chính  là  VN-Index  và

HNX-Index.  Hai  chỉ  số  này  chưa    đủ  sức    để  tạo  nên  một  danh  mục  thị  trường,  bởi

21

danh mục này chưa có đầy đủ các lĩnh vực ngành nghề trong nền kinh tế và trong từng

lĩnh vực không bao  gồm các doanh nghiệp đại diện cho lĩnh vực đó; bởi vì còn thiếu

các công ty lớn. Chính vì vậy, sự biến động của danh mục chưa đánh giá chính xác sự

biến động của nền kinh tế. Thứ ba khoảng thời gian các công ty được niêm yết trên sàn

giao dịch chứng khoán còn quá ngắn, chủ yếu từ cuối năm 2006, do đó dữ liệu giá chưa

đủ độ dài để có thể tiến hành hồi quy tìm ra hệ số beta chính xác. Với những hạn chế

nêu trên, beta hầu như không có ý nghĩa nếu được tính toán trong giai  đoạn này. Tuy

nhiên, beta vẫn rất hữu ích nếu chúng ta sử dụng nó  đúng cách

Luận án tiến sĩ của Trần Thị Hải Lý về “Nghiên cứu rủi ro và tỷ suất sinh lợi trên

thị trường chứng khoán Việt Nam” (năm 2010), luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa

tỷ suất sinh lợi và các nhân tố rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam, qua đó xác

định nhân tố rủi ro chủ yếu tác động đến tỷ suất sinh lợi làm cơ sở cho việc đề xuất các

giải  pháp  kiểm  soát  rủi  ro,  đối  tượng  nghiên  cứu  tập  trung  vào  thị  trường  cổ  phiếu

chính thức, mẫu được chọn là các cổ phần niêm yết  trên Sở  giao  dịch  chứng  khoán

TP.  Hồ  Chí  Minh    và  chỉ    số    thị   trường  VN-Index.  Kết  quả  nghiên  cứu có  thể  tóm

lược như sau:

-  Nhân tố thị trường tác động mạnh nhất lên tỷ suất sinh lợi các chứng khoán.

-  Đặc trưng sở hữu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường Việt Nam dẫn

đến làm  đảo  ngược  hiệu  ứng  quy mô  so  với  các  nghiên cứu  trên nhiều  thị trường

chứng khoán quốc  tế. Nhân  tố sở hữu nhà nước  là một nhân  tố  rủi  ro đáng quan tâm

trên thị trường Việt Nam.

-  Kiểm  định mối  quan  hệ  của  các  nhân  tố  kinh  tế  vĩ mô  với  tỷ  suất  sinh

lợi VN-Index cho thấy  tỷ suất sinh  lợi có  ít quan hệ với các nhân  tố này. Có thể thấy

ở trên toàn  giai đoạn  và trên  giai đoạn  khủng hoảng chỉ có nhân tố tăng trưởng cung

tiền là có  tác  động bền  vững  lên tỷ   suất sinh  lợi,  vì thế các nhà hoạch định chính

sách (cụ thể là Ngân hàng nhà nước) cần quan tâm tới nhân tố này như là một công cụ

22

điều tiết thị trường. Trong giai đoạn nghiên cứu mở rộng, thị trường dường như quan

tâm hơn đến nhân tố lạm phát, nhưng đổi lại nhân tố  sản  lượng  công  nghiệp  lại  bị

đảo  ngược  dấu  và không có ý nghĩa thống kê. Như vậy có thể nói rủi ro hệ thống của

thị trường Việt Nam không phải  bắt  nguồn chủ yếu từ các  nhân tố vĩ mô. Kết quả từ

phân  tích  định  lượng  cho  thấy  hành  vi  bầy  đàn  tồn  tại  rất  mạnh  trên  thị  trường  Việt

Nam, kết quả khảo sát đã củng cố thêm chứng cứ  thực nghiệm này. Như vậy có  thể

nói hành vi bầy đàn tác động mạnh đến tỷ suất sinh lợi thị trường. Các nhân tố thuộc về

vi mô của thị trường như hạn chế hàng hóa cơ sở, cơ chế giao dịch - thanh toán T+3,

chưa triển  khai nghiệp  vụ bán  khống  là những  rào cản   lớn đối  với  các chiến  lược

kinh doanh chênh lệch giá, làm cho giá chứng khoán trên thị trường bị sai lệch kéo dài

và mang tính hệ thống. Bên cạnh đó tính minh bạch của thông tin còn nhiều bất cập kết

hợp với  khả năng phân tích thông tin hạn chế của các nhà đầu tư cá nhân (lực lượng

chủ yếu trên thị trường) góp phần làm sai niềm tin của họ. Thông qua việc kiểm định

mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi cho thị trường chứng khoán Việt Nam bằng

các mô hình nhân tố, luận án phát hiện ra rằng rủi ro hệ thống là nhân tố chi phối rủi ro

tổng thể trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng rủi ro này không phải xuất phát

từ sự thay đổi của các nhân tố vĩ mô cơ bản mà chủ yếu xuất phát  từ hành vi bầy đàn

1.4

Kết luận chương 1

của các nhà đầu  tư  trên  thị  trường.

Trong  chương  này  những  kiểm  tra  thực nghiệm  về  mô  hình  CAPM  đã  được  xem

xét  cả  trong  những  thị  trường  đã  phát  triển  và  thị  trường  mới  nổi.  Cụ  thể,  có  những

tranh luận chống lại mô hình CAPM, có những biện hộ ủng hộ mô hình CAPM về mối

quan hệ giữa beta và tỷ suất sinh lợi. Tất cả những điều này nhằm đưa ra những ý kiến

chung về tính ứng dụng của mô hình CAPM vào thực tiễn.

23

Nói chung, mô hình CAPM không có hiệu lực cả trong thị trường phát triển và thị

trường mới nổi trong đó có ba thị trường quan trọng nhất là Mỹ, Anh và Nhật, khi hầu

hết các nghiên cứu đưa ra những biến số khác là có ý nghĩa trong việc nắm bắt sự dao

động của tỷ suất sinh lợi trung bình. Tuy nhiên, phương pháp truyền thống nhìn chung

được  ủng  hộ.  Mặt  khác,  nó  dường  như  cần  một  mô  hình  phức  tạp  để  giải  thích  mối

quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro trong thực tế.

24

CHƯƠNG 2: KIỂM TRA TÍNH ỔN ĐỊNH VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA HỆ SỐ BETA TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam

2.1.1 Số công ty niêm yết

Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức giao dịch ngày 28/07/2000

với  chỉ  hai  mã  chứng  khoán.  Số  công  ty  niêm  yết  thêm  tăng  lên  khá  chậm  trong  các

năm  tiếp  theo,  tính đến năm 2005,  trung bình mỗi năm chỉ có 5 công  ty niêm yết

thêm.  Tuy  nhiên  năm  2006,    số  công    ty  niêm  yết    thêm  lên  tới  74  công    ty,  đưa   số

lượng công ty niêm yết cuối năm 2006  lên 106 công  ty. Trong năm 2007 và 2008 mỗi

năm có thêm 32 công ty niêm yết. Số công ty niêm yết trên thị trường vào cuối 2008

lên 170  công  ty,  trong  đó phần  lớn  là các doanh nghiệp nhà nước  cổ phần. Trong

năm 2009, có 52 công ty niêm yết thêm, song có 24 công ty khác chuyển ra niêm yết

trên HNX do không đáp ứng nhu cầu vốn  (theo quy định  tại điều 8 NĐ 14/2007/NĐ-

CP, vốn điều lệ tối thiểu để được niêm yết trên Sở giao dịch là 80 tỷ), hai công ty bị

hủy niêm yết là BTC (Công ty CP  Cơ khí  và Xây dựng  Bình Triệu – ngày  giao dịch

cuối  cùng  trên  HOSE  là  26/06/2009)  và  công  ty  BBT  (công  ty  cổ  phần  Bông  Bạch

Tuyết – ngày hủy niêm yết là 07/08/2009), nên số công ty niêm yết tăng thêm thuần là

26 công ty. Tính đến cuối tháng 12/2010 sở HOSE đã có 329 mã chứng khoán.

Quỹ đầu  tư đại chúng chiếm một tỷ  lệ  rất nhỏ  trên thị  trường chính thức,  tính

đến tháng 12/2010, cả  thị  trường chỉ có 4 chứng chỉ quỹ đầu  tư được niêm yết, đó  là

chứng chỉ quỹ VFMVF1 của quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1) được niêm yết

25

vào tháng  11/2004, chứng chỉ quỹ  PRBF1 của quỹ đầu  tư cân bằng Prudential niêm

yết  vào  tháng  12/2006,  chứng  chỉ  quỹ  MAFPF1  của  quỹ  đầu    tư    tăng    trưởng

Manulife,  niêm  yết  vào  tháng  12/2007  và  cuối  cùng  là  chứng  chỉ  quỹ  VFMVF4  của

quỹ đầu tư doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam niêm yết vào tháng 6/2008.

Trung tâm giao dịch Hà Nội đi vào hoạt động từ năm 2005, với 5 công ty, số công

ty  tăng  mạnh  qua  các  năm  và  chủ  yếu  là  các  công  ty  có  vốn  dưới  40  tỷ  đồng.  Năm

2009 số công ty niêm yết thêm trên HNX tăng 95 công ty trong đó gồm có 24 công ty

chuyển  từ HOSE   sang do   không đáp ứng đủ  yêu cầu    về    vốn. Tổng  số công   ty

Bảng 2. 1 Số lượng công ty niêm yết trên sàn qua các năm 2000-2010

niêm yết trên cả hai sàn đến cuối năm 2010 là 701, cùng với 4 chứng chỉ quỹ.

HOSE HNX Cả hai sàn

Tích lũy Niêm yết thêm Tích lũy Niêm yết thêm Tích lũy Chứng chỉ quỹ Niêm yết thêm

2000 5 5 5 5

2001 5 10 5 10

2002 10 20 10 20

2003 2 22 2 22

2004 4 26 1 4 27

2005 6 32 1 6 6 12 39

2006 74 106 2 81 87 155 195

2007 32 138 3 27 114 59 255

2008 32 170 4 57 171 89 345

2009 26 196 4 95 266 121 466

(Nguồn: Tổng hợp từ  http://www.hsx.vn; http://www.hnx.vn,  Báo cáo thường  niên HOSE, HAS)

2010 133 329 4 101 367 234 700

26

2.1.2 Khối lượng và giá trị giao dịch

Khối  lượng  cổ  phiếu  được  giao  dịch  khá  thấp  và  ít  biến  động  trong  giai  đoạn  từ

năm  2001  đến  2004,  nhưng  kể  từ năm  2005  trở  về  sau,  cùng  với  sự ra  đời  của  trung

tâm  giao  dịch  chứng  khoán  Hà  Nội  và  số  công  ty  niêm  yết  tăng  cao  trên  HOSE  nên

khối lượng giao dịch trên toàn thị trường tăng khá mạnh. Trong năm 2009 có hơn 16,8

tỷ cổ phiếu trên sàn niêm yết được chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư, con số này còn

tăng mạnh trong năm 2010 lên 20,6 tỷ cổ phiếu do tăng số lượng công ty niêm yết và

nhà đầu tư bắt đầu lạc quan trở lại, thanh khoản thị trường được cải thiện hơn so với

năm 2009.

Giá trị giao dịch  trên thị  trường chứng khoán Việt Nam  tăng ngoạn mục vào năm

2006 lên tới 39 ngàn tỷ đồng, năm 2007 tiếp  tục tăng lên tới 281 ngàn tỷ đồng. Điều

này  một  mặt  do  khối  lượng  giao  dịch  tăng,  mặt  khác  do  giá  cổ  phiếu  trong  thời  gian

này  tăng mạnh. Sang 2008,  giá  cổ phiếu  trên thị  trường  sụt  giảm  kéo  theo giá  trị

giao dịch trên cả hai sàn đều sụt giảm mạnh, tổng giá trị giao dịch năm 2008 giảm gần

100 ngàn tỷ đồng so với năm  trước đó,  tuy nhiên năm 2009  tăng mạnh  trở lại lên tới

630 ngàn tỷ đồng, tăng gần 3,5 lần so với năm 2008. Tổng giá trị giao dịch năm 2010

Bảng 2. 2 Khối lượng và giá trị giao dịch trên hai sàn từ 2000-2010

lên tới 835 tỷ đồng.

Khối lượng giao dịch (Chứng khoán) Giá trị giao dịch (Tỷ đồng) Năm HOSE HASTC Tổng HOSE HASTC Tổng

2000 3,641,000 3,641,000 90 90

2001 19,028,200 19,028,200 964 964

2002 35,715,939 35,715,939 959 959

2003 28,074,150 28,074,150 502 502

2004 72,894,288 72,894,288 1,971 1,971

2005 2,784 94,846,187 20,423,383 115,269,570 264 3,048

27

Khối lượng giao dịch (Chứng khoán) Giá trị giao dịch (Tỷ đồng) Năm HOSE HASTC Tổng HOSE HASTC Tổng

2006 538,536,869 95,606,426 634,143,295 35,472 3,917 39,389

2007 1,814,278,168 612,038,933  2,426,317,101 217,836 63,422  281,258

2008 2,977,771,458  1,531,376,130  4,509,147,588 124,576 57,122  181,698

2009  11,089,245,503  5,759,833,263  16,849,078,766 432,646  197,357  630,003

(Nguồn: Tổng hợp từ  http://www.hsx.vn; http://www.hnx.vn,  Báo cáo thường  niên HOSE, HAS)

2.1.3 Giá trị vốn hóa thị trường

2010  11,849,297,628  8,760,827,080  20,610,124,708 591,345  243,964  835,309

Thị trường chứng khoán hoạt động năm đầu tiên với giá trị vốn hóa thị trường trên

HOSE là 986 tỷ đồng, từ năm 2001 đến 2004, giá trị  vốn hóa thị trường tăng trưởng

chậm.  Giá  trị  vốn  hóa  thị  trường  tăng  ấn  tượng  trong  năm  2006  lên  tới  147  ngàn  tỷ

đồng, gấp 20 lần so với năm 2005, năm 2007 vốn hóa thị trường đã ở mức 364 ngàn tỷ

tăng xấp xỉ 2,5  lần của năm  liền  kề. Trong hai  năm  2006 và 2007 thị  trường chứng

kiến sự chào sàn của các công ty nhà nước cổ phần hóa có mức vốn lớn như Công ty cổ

phần  Sữa  Việt  Nam    (VNM),  Tổng  công  ty  phân  bón  và  hóa  chất  Dầu  Khí  (DPM),

Tổng  công  ty  cổ  phần Khoan  và Dịch  vụ Dầu Khí  (PVD)..., đã góp phần  làm mức

vốn hóa  thị  trường  tăng mạnh, nhưng năm 2008 giá  trị vốn hóa  thị trường sụt giảm

hơn 54%. Năm 2009, với sự gia tăng niêm yết và giá chứng khoán có phần phục hồi so

với năm trước, đưa vốn hóa thị trường của HOSE lên tới 495 ngàn tỷ đồng, tăng gần 3

lần so với cuối năm 2008.

28

700,000

591,345

600,000

495,094

500,000

364,425

400,000

300,000

169,346

200,000

147,967

100,000

7,390

4,237

2,436

2,370

986

1,570

0

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Hình 2. 1 Giá trị vốn hóa thị trường trên HOSE năm 2000-2010 (tỷ đồng)

Nguồn: Báo cáo thường niên HOSE

Tính  trên  cả  hai  sàn,  giá  trị  vốn  hóa  thị  trường  tăng  mạnh  vào  năm  2007  lên  tới

43%  GDP,  tăng  gấp  đôi  so  với  2007,  nhưng  năm  2008,  cùng  với  sự sụt  giảm  giá  cổ

60.00%

48.00%

50.00%

43.00%

40.00%

36.00%

30.00%

22.00%

20.00%

15.10%

10.00%

0.00%

2006

2007

2008

2009

2010

Hình 2. 2 Giá trị vốn hoá trên cả hai sàn và Upcom (%GDP)

phiếu giá trị vốn hóa thị trường trên GDP đã giảm xuống chỉ còn 15,1% GDP.

29

Diễn biến thị trường từ 2006 đến nay có thể chia thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: Thị trường tăng trưởng nóng trong giai đoạn 2006 – tháng 10/2007

Năm  2006  đã  chứng  kiến  sự  phát  triển  đầy  sôi  động  của  thị  trường  chứng  khoán

Việt Nam với nhiều sự kiện đáng chú ý. Trong đó, ấn tượng nhất là sự mở rộng về quy

mô  thị  trường  với  tổng  mức  vốn  hóa  của  toàn  thị  trường  chứng  khoán  Việt  Nam  đạt

220.000 tỷ đồng, tương đương 13,8 tỷ USD, tăng gấp hơn 20 lần so với cuối năm 2005

và bằng khoảng 17% tổng sản phẩm quốc nội

(GDP) năm 2006, vượt xa so với mục tiêu đạt 5% GDP mà các nhà quản lý đặt ra

hồi  đầu  năm  đạt  mức  tăng  trưởng  cao  nhất  khu  vực  Châu  Á-  Thái  Bình  Dương  với

145% , thậm chí đứng trên thị trường chứng  khoán Thượng Hải  với  mức tăng  130%.

Và đầu năm 2007  vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế  giới. Thị trường tăng  mãnh

liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia

Chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường Có thể giải thích hiện tượng này

bằng các yếu tố trong tài chính hành  vi: phản ứng thái quá, tâm lý bầy đàn và quá tự

tin. Quá trình phản ứng thái quá những thông tin tốt như: gia nhập WTO, Tổng thống

Mỹ George W. Bush đã đến thăm trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM và gặp

gỡ với lãnh đạo nhiều Doanh nghiệp lớn của Việt Nam, luồng vốn đầu tư nước ngoài ồ

ạt… đã làm dấy lên sự hưng phấn của giới đầu tư trong và ngoài nước

Bản thân doanh nghiệp cũng tranh thủ có một lượng huy động cao, bằng mọi cách

để  đưa  giá  lên  mà  chưa  đề  cao  sự  xứng  đáng  hay  không  với  giá  trị  thực  sự  của  nó.

Thậm chí, có những hành vi phản ứng thái quá tiêu cực là lợi dụng thời cơ này để kiếm

tiền “nóng”, bằng việc dành rất nhiều thời gian để “thổi giá” cổ phiếu, thay vì tập trung

vào những tính toán mang tính chiến lược.

Về phía các nhà đầu tư thì cứ thấy doanh nghiệp huy động vốn bằng phát hành cổ

phiếu mới, chia cổ tức bằng cổ phiếu, có nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu thì tham

30

gia đẩy giá cổ phiếu lên nữa. Điều này dễ tạo thành giai đoạn đầu tiên trong quá trình

“phản ứng thái quá” trên thị trường chứng khoán

Giai đoạn 2: Từ tháng 11/2007 đến tháng 3/2009: thị trường suy giảm

Cuối 2007 diễn biến thị trường chứng khoán (TTCK) VN xấu nhất trong suốt hơn 8

năm  hoạt  động.  Chỉ  số  giá  chứng  khoán  của  cả  hai  sàn  giảm  mạnh:  HaSTC-Index  ở

dưới mức 100 điểm vào ngày 27/11. So với thời điểm đầu năm 2008, HaSTC-Index và

VN-Index  giảm tương ứng 67,2%  và 66,9%.  Việc huy động  vốn qua TTCK  giảm tới

75 - 80% và cả 3 kênh: Phát hành tăng vốn của doanh nghiệp, cổ phần hóa, phát hành

trái  phiếu  đều  sụt  giảm  mạnh  so  với  năm  trước;  Tính  thanh  khoản  -  khối  lượng  giao

dịch giảm khoảng 70% so với năm trước… Ðể phục hồi thị trường, ngay từ đầu năm,

cơ quan quản lý đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó, có những giải pháp khiến dư luận

kỳ vọng nhiều rồi lại thất vọng không ít như: cho phép Tổng Cty Ðầu tư và kinh doanh

vốn Nhà nước (SCIC) mua vào cổ phiếu, thu hẹp biên độ rồi lại nới rộng biên độ...

Thị trường chứng khoán sụt giảm trong những tháng qua chủ yếu xuất phát từ chính

nội tại của nền kinh tế, bên cạnh đó là yếu tố bày đàn của các nhà đầu tư trong nước.

Giai đoạn 3: Quý 2/2009 đến nay thị trường bắt đầu sự phục hồi tương đối ấn

tượng

Thị trường chứng khoán bắt đầu đi lên sau khi thiết lập mức đáy 235 điểm vào cuối

tháng 2/2009. Tính đến ngày 8-6, chỉ số VN-Index đã tăng 113% so với mức đáy trên,

trong khi giá nhiều cổ phiếu đã tăng gấp hai, gấp ba lần tốc độ tăng trung bình của thị

trường. Dòng tiền lại ồ ạt chảy vào thị trường chứng khoán. Nếu trong năm 2008 giá trị

giao dịch bình quân một phiên của cả hai thị  trường chỉ khoảng 500 tỉ đồng, thì hiện

nay con số đó khoảng 1.500 tỉ đồng.

TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành

điểm sáng ấn tượng  khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á. Các nhà đầu tư trong

31

nước lại chính là những người dẫn dắt thị trường, ngay cả trong những phiên nhà đầu

tư nước ngoài bán ra mạnh thì khối lượng mua vẫn ở mức cao và giá chứng khoán vẫn

tăng.

Hầu  hết  các  chuyên  gia  đều  lắc  đầu  khi  nhắc  đến  lý  do  vì  sao  thị  trường  chứng

khoán lại tăng mạnh mẽ trong vài tháng gần đây. Lý do chung nhất được đưa ra là nhà

đầu tư đang trong trạng thái hưng phấn sau khi thị trường đã điều chỉnh quá sâu trong

suốt năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, đồng thời nền kinh tế trong nước đã có

những dấu hiệu hồi phục sau khủng hoảng năm 2008.

Nguyên nhân từ sự hồi phục của nền kinh tế thế giới cũng được nhắc đến nhiều như

một yếu tố củng cố tâm lý của nhà đầu tư Việt Nam. Ngoài ra việc chia cổ tức đến sớm

tạo hứng khởi cho các nhà đầu tư.

Tuy  nhiên  từ  tháng  11  cho  tới  cuối  năm  các  chỉ  số  bắt  đầu  rơi  vào  chu  kỳ  giảm

điểm do nửa cuối tháng 10-2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng phải

chấm dứt cho vay chứng khoán và yếu tố tâm lý xu hướng điển hình - nhà đầu tư lao

vào xả hàng vì lo sợ “lịch sử lặp lại” (chứng khoán có thể sẽ lập đáy như thời điểm đầu

2.2. Kiểm tra tính ổn định của hệ số beta

2.2.1. Phương pháp kiểm tra

năm)

Mục đích chính của chương này là kiểm tra tính ổn định của beta qua các giai đoạn.

Ước tính beta chỉ là một vấn đề, nhưng vấn đề quan trọng hơn trong thực tế là liệu rằng

việc duy trì tính ổn định của beta qua thời gian có quan trọng hay không?

Trong phần này, tính ổn định của beta được kiểm tra bằng hai phương pháp:

- Sử dụng thời gian như là biến số

- Sử dụng biến số giả để đo lường sự thay đổi của beta qua thời gian.

32

2.2.1.1 Ước tính beta

r

  

U

j t ,

r ,* m t

Để ước tính giá trị beta của mỗi chứng khoán, tác giả sử dụng mô hình hồi quy sau:

,j tr  = Tỷ suất sinh lợi hàng ngày của của chứng khoán j trong giai đoạn t

,m tr  = Tỷ suất sinh lợi hàng ngày của thị trường

Trong đó:

U = Sai số

α = Hằng số

β = Độ nhạy cảm của tỷ suất sinh lợi chứng khoán với tỷ suất sinh lợi thị trường, hay là

beta chứng khoán

Các bước tiến hành tính toán hệ số beta của từng chứng khoán

Bước 1: Xác định số lượng công ty tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt

Nam: tác giả chọn 24 chứng khoán niêm yết trên HOSE (xem phụ lục 1).

Bước 2: Cơ sở dữ liệu dùng trong chương này được giới hạn  trong khoảng thời gian từ

năm 2006 đến 13/10/2011 với 1434 ngày quan sát.

Bước 3: Xác định tỷ suất sinh lợi   của từng  chứng  khoán  theo từng  ngày, theo công

P

P

j t ,

 , 1 j t

r

j t ,

P

 , 1 j t

thức

j tP   là giá mở cửa

, 1

,j tP  là giá đóng cửa

Trong đó:

33

Bước 4:  Xác định tỷ suất sinh lợi của thị trường như với chứng khoán

Bước 5: tính toán hệ số β bằng cách chạy hồi quy tuyến tính giữa tỷ suất sinh lợi chứng

r

  

U

j t ,

r ,* m t

khoán với tỷ suất sinh lợi thị trường. Theo mô hình hồi quy

2.2.1.2 Sử dụng thời gian như là biến số

Tính ổn định của beta , hay là độ dốc trong mô hình hồi quy đơn có thể được kiểm

tra bằng một biến số mới, chúng ta sẽ biểu thị như thời gian, toàn bộ thời kỳ phân tích

sẽ được chia làm ba giai đoạn nhỏ. Đây là biến số mới, thời gian sẽ là giá trị duy nhất

cho mỗi giai đoạn. Vì vậy:

- Giai đoạn 1: Từ thời gian 2006 đến đầu năm 2007, t = 1

- Giai đoạn 2: Từ tháng 11/2007 đến tháng 3/2009, t = 2

- Giai đoạn 3: từ tháng 4/2009 đến nay, t = 3

Mô hình hồi quy thường xác định theo cách kết hợp chặt chẽ với biến số mới, thời

r

 

*

j t ,

  1

r m t ,

 2

m t ,

   U

gian, như sau:

 t r * *

,j tr  = Tỷ suất sinh lợi hàng ngày của của cổ phiếu j trong giai đoạn t

,m tr  = Tỷ suất sinh lợi hàng ngày của thị trường

Trong đó:

t = Giá trị của biến số thời gian (1, 2 hoặc 3, phụ thuộc vào giai đoạn)

,

1 ,

2  = hệ số để ước tính

U = sai số

34

r

U

 t * *

j t ,

    1 2

r m t ,

Phương trình hồi quy trên có thể viết lại như sau:

2  là có nghĩa

Để kiểm tra tính ổn định của beta, chúng ta phải dựa trên biểu thức

r

hay  không.  Nếu  có  nghĩa,  thì  điều  đó  hàm  ý  là  có  độ  nhạy  cảm  của  tỷ  suất  sinh  lợi

  2

1

 t * * m t

,

r

t

thay đổi theo thời chứng khoán với tỷ suất sinh lợi thị trường, nghĩa là  

2  không có ý nghĩa,  

  2

1

 * * m t

,

sẽ giảm gian và vì vậy beta không đứng yên. Nếu

1  hay beta chứng khoán không thay đổi theo thời gian va vì

,* m tr

, hàm ý rằng đến 1

2  có thể được kiểm tra bằng

vậy beta đứng yên theo thời gian. Ý nghĩa thống kê của

cách sử dụng thống kê t hoặc p-value.

2.2.1.3 Sử dụng biến số giả để đo lường sự thay đổi của beta qua thời gian

Phương pháp  khác để  kiểm tra tính ổn định  của beta là sử dụng  biến số  giả trong

r

 

*

*

*

U

j t ,

  1

r m t ,

 2

D r * 1

m t ,

 3

D r * 2

m t ,

mô hình hồi quy. Mô hình được thể hiện lại như sau:

1D  = 1, cho  giai đoạn 2 (Từ tháng 11/2007 đến  tháng 3/2009),

1D  = 0 cho  giai đoạn

Trong đó:

2D = 1, cho giai đoạn 3 (từ tháng 4/2009 đến nay),

2D  = 0 cho giai đoạn khác

,j tr = Tỷ suất sinh lợi hàng ngày của của cổ phiếu j trong giai đoạn t

,m tr  = Tỷ suất sinh lợi hàng ngày của thị trường

khác

t = Giá trị của biến số thời gian (1, 2 hoặc 3, phụ thuộc vào giai đoạn)

35

,

1 ,

2 ,

3 = hệ số để ước tính

U = sai số

r

U

j t ,

   1

r ,* m t

Bây giờ phương trình cho giai đoạn 1 là:

r

 

*

*

U

  hoặc

j t ,

  1

r m t ,

 2

D r * 1

m t ,

r

U

Phương trình cho giai đoạn 2 là:

j t ,

    1 2

r ,* m t

1D  = 1 cho giai đoạn 2)

(vì

2  là không có ý nghĩa.

Rõ ràng beta sẽ đứng yên qua 2 thời kỳ nếu khoản mục

r

*

*

U

Phương trình cho giai đoạn 3 là:

j t ,

   1

r m t ,

 3

D r * 2

m t ,

r

 

U

, hoặc

j t ,

    1 3

r ,* m t

2D  = 1 cho giai đoạn 3)

(vì

3  là không có ý nghĩa.

Rõ ràng beta sẽ đứng yên qua 2 thời kỳ nếu khoản mục

Vì vậy, để xem liệu beta của mỗi chứng khoán  có đứng yên qua thời gian, chúng ta

2  và

3 . Điều này có thể thực hiện bằng cách sử dụng thống

cần kiểm tra ý nghĩa của

2

kê t hoặc tương quan p-value. Thậm chí nếu một trong hai khoản mục có ý nghĩa (

3 ) thì beta chứng khoán sẽ được cho rằng không đứng yên qua thời gian.

hoặc

36

2.2.2 Kết quả

Như đã đề cập ở trên, beta của chứng khoán được ước tính bằng cách kỹ thuật hồi

quy  bình  phương  bé  nhất.  Quả  thật  trong  mô  hình  hồi  quy  tuyến  tính  đơn,  beta  đơn

giản là hệ số dốc của phương trình

2.2.2. 1 Ước tính beta qua các giai đoạn

Dựa vào  dữ liệu  của  24  công  ty  lọc  số  liệu  từ năm  2006  đến  nay  ta  tính  beta  của

chứng khoán trong mỗi giai đoạn nhỏ và tổng thể qua toàn thời kỳ đó. Ta có bảng tổng

Bảng 2. 3 Giá trị beta của mỗi chứng khoán

hợp sau:

STT Chứng khoán

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 REE SAM HAP TMS LAF BBC GIL GMD SAV AGF TRI tổng thể Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 1.1100 0.0000 1.1122 0.0000 1.0576 0.0000 -0.0343 0.3720 0.9347 0.0000 0.6048 0.0000 0.0065 0.8579 0.3865 0.0000 -0.0226 0.5720 0.1783 0.0000 -0.5600 0.0541 0.0000 0.0495 0.0000 0.0643 0.0000 0.0194 0.0000 0.0265 0.0000 0.1033 0.0000 0.0325 0.0000 0.2130 0.0000 0.0815 0.0000 0.0658 0.0000 0.0313 0.0585 0.0000 0.0846 0.0000 0.0395 0.0000 0.0146 0.0000 0.0048 0.1418 0.0549 0.0000 0.0200 0.0000 0.1140 0.0000 0.0310 0.0000 0.0733 0.0000 0.0170 0.0514 0.0000 0.0788 0.0000 0.0677 0.0000 0.0255 0.0000 0.0312 0.0000 0.1144 0.0000 0.0257 0.0000 0.1177 0.0000 0.0555 0.0000 0.0864 0.0000 0.0493

37

STT Chứng khoán

BT6 KHA HAS TS4 DHA SFC SSC MHC PNC TNA KDC VFMVF1 VNM tổng thể Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 0.1926 0.0059 0.8837 0.9562 0.0000 0.1200 0.0040 0.6857 0.0000 0.0295 0.4836 -0.0112 0.8114 0.1205 0.0049 0.0722 0.1328 0.0709 0.1201 -0.0056 0.9050 0.9322 0.0000 1.0642 0.0000 -0.2624 0.4525 0.0000 0.0215 0.0000 0.0705 0.0000 0.0406 0.0000 0.0143 0.0000 0.0812 0.0000 0.0799 0.0000 0.0880 0.0000 0.0364 0.0000 0.0285 0.0000 0.0366 0.0000 0.1283 0.0000 0.0350 0.0000 0.0350 0.0785 0.0000 0.0109 0.0000 0.0136 0.0000 0.0360 0.0000 0.0223 0.0000 0.0122 0.0000 0.0123 0.0000 0.0307 0.0000 0.0169 0.0000 0.0058 0.0000 0.0138 0.0000 0.1071 0.0000 0.0176 0.0000 0.0176 0.0000 0.0000 0.0064 0.0000 0.0150 0.0000 0.0506 0.0000 0.0319 0.0000 0.0325 0.0000 0.0110 0.0000 0.0415 0.0000 0.0421 0.0000 0.0278 0.0000 0.0291 0.0000 0.0988 0.0000 0.0252 0.0000 0.0252 0.0000 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Tổng thể giai đoạn (từ 19/01/2006 đến nay) có 13 trên 24 cổ phiếu beta có ý nghĩa

khác không tại mức tin tưởng 5%.

Giai  đoạn  1  từ 2006  đến  tháng  10/2007  có  23  trên  24  cổ  phiếu  beta  có  ý  nghĩa  khác

không tại mức tin tưởng 5%.

38

Giai đoạn 2 từ tháng 11/2007 đến tháng 03/2009 có 24 trên 24 cổ phiếu beta có ý nghĩa

khác không tại mức tin tưởng 5%.

Giai đoạn 3 từ tháng 04/2009 nay có 23 trên 24 cổ phiếu beta có ý nghĩa khác không

tại mức tin tưởng 5%.

2.2.2. 2 Kiểm tra tính ổn định của beta bằng cách sử dụng thời gian như một

biến số

Dùng hồi quy để  kiểm tra tính  ổn định của beta bằng cách sử dụng thời  gian như

 

biến số theo phương trình sau:

 t * *

   U

r j t ,

    1 2

r m t ,

2   sẽ  chỉ  cho  ta  thấy  liệu  beta  có  ổn  định  qua  thời  gian  hay  không.

Ý  nghĩa  của

2   không  có  ý  nghĩa  thì  phương  trình  sẽ  biến  đổi  thành

U

  do đó hàm ý rằng beta không thay đổi theo thời gian

r j t ,

   1

r ,* m t

Theo  logic  nếu

2  có ý

Kết quả từ thực tế cho thấy trong 24 chứng khoán có 10 chứng  khoán có

2  không có ý nghĩa (bằng không). Nghĩa là

nghĩa, hàm ý 14 chứng khoán còn lại là

14 chứng khoán có beta không đổi theo thời gian.

Phân tích xa hơn trong số 13 chứng khoán beta có ý nghĩa tại mức tin tưởng 5% thì

Bảng 2. 4 Ước tính phương trình hồi quy sử dụng thời gian như một biến số

chỉ có 03 chứng khoán có beta ổn định qua thời gian.

 0.0436 0.3719 -0.0313 0.5445 -0.0360

1 0.8358 0.0000 0.8770 0.0000 0.7303

2 0.1366 0.0000 0.1171 0.0003 0.1631

STT 1 2 3 chứng khoán REE SAM HAP R-Sqr 0.5741 0.5458 0.4420

39

 0.5544 0.0401 0.5852 0.0673 0.3306 0.0421 0.5830 0.0952 0.1753 0.0173 0.8076 0.0688 0.3706 0.0136 0.8468 -0.1036 0.2088 0.0594 0.4452 0.0321 0.5801 0.0058 0.9413 0.0773 0.3206 -0.0164 0.8356 0.1319 0.1372 0.0218 0.7858 -0.0964 0.2856 -0.0442 0.6064

1 0.0000 0.0041 0.9669 0.4082 0.0000 -0.4856 NA -0.0116 0.9039 0.2683 0.0057 -0.1522 0.1482 0.0292 0.0178 -0.1041 0.3558 -0.1525 0.1526 0.7742 0.0000 0.2191 0.0449 -0.3861 0.0003 0.0033 0.9801 -0.2333 0.1167 -0.0182 0.8922 -0.1793 0.2361 0.1002 0.4859

2 0.0000 -0.0191 0.6796 0.2623 0.0000 0.5433 0.0000 0.0090 0.8380 0.0588 0.0188 0.0645 0.1831 -0.0253 0.5688 0.0239 0.6444 0.0789 0.1079 0.0906 0.0134 -0.0493 0.3264 0.5340 0.0000 0.0117 0.8355 0.0993 0.1154 0.0620 0.2782 0.1125 0.0799 0.0131 0.8297

STT 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 chứng khoán TMS LAF BBC GIL GMD SAV AGF TRI BT6 KHA HAS TS4 DHA SFC SSC MHC PNC R-Sqr 0.0006 0.3320 2.4722 0.0000 0.0724 0.0014 0.0164 0.0013 0.0018 0.4134 0.0064 0.2211 0.0004 0.0021 0.0075 0.0044 0.0020

40

 0.0713 0.4200 0.0491 0.4137 -0.0276 0.5528 66.0081 0.0000

1 0.0951 0.5211 1.2600 0.0000 0.8862 0.0000 -0.7749 0.3978

2 -0.0450 0.4737 -0.1465 0.0006 0.0795 0.0164 0.2553 0.5452

STT 21 22 23 24 chứng khoán TNA KDC VFMVF1 VNM R-Sqr 0.0004 0.4189 0.6676 0.0066

2.2.2. 3 Kiểm tra tính ổn định của beta bằng cách sử hồi quy biến giả

Hồi  quy  sử dụng  kiểm  tra  tính  ổn  định  của  beta  bằng  cách  sử dụng  biến  giả  theo

r

*

*

*

U

j t ,

   1

r m t ,

 2

D r * 1

m t ,

 3

D r * 2

m t ,

phương trình sau:

2  và

3  sẽ chỉ ta thấy liệu beta có ổn định qua thời gian hay không.

Ý nghĩa của

2   và

3   không  có  ý  nghĩa  thì  phương  trình  sẽ  biến  đổi  thành

r

U

  do đó hàm ý rằng beta ổn định theo thời gian.

j t ,

   1

r ,* m t

Theo  logic  nếu

2  và

3   sẽ phải không có ý

Vì vậy , để beta thực tính ổn định qua thời gian thì cả

nghĩa.

Kết quả từ thực tế cho thấy trong 24 cổ phiếu có:

2  hoặc

3  có ý nghĩa, tức là có 14 cổ phiếu có beta không đổi theo

- Có 10 cổ phiếu có

thời gian.

- Phân  tích  xa  hơn,  trong  12  chứng  khoán  có  beta  có  ý  nghĩa  tại  mức  ý  nghĩa  5%  thì

cũng chỉ có 04 chứng khoán có beta ổn định theo thời gian,

41

Bảng 2. 5 Ước lượng phương trình hồi quy bằng biến giả

STT Chứng khoán

 0.0485 0.3240 -0.0231 0.6563 -0.0347 0.5709 0.0393 0.5956 0.0968 0.1628 0.0599 0.3629 0.1028 0.1459 0.0260 0.7150 0.0626 0.4186 0.0228 0.7478 -0.1008 0.2249 0.0598 0.4452 0.0432 0.4595 0.0113 0.8885 0.0755 0.3354 -0.0034 0.9658 0.1218 0.1720

1 1.2306 0.0000 1.2032 0.0000 1.2157 0.0000 -0.0507 0.4375 1.1041 0.0000 0.0892 0.0000 -0.0079 0.8990 0.4178 0.0000 0.0607 0.3734 0.1246 0.0467 -0.0412 0.5730 0.0831 0.2292 1.0120 0.0000 0.0544 0.4419 1.2216 0.0000 0.0019 0.9760 0.0928 0.1994

2 -0.0882 0.1614 -0.0359 0.5911 -0.1506 0.0555 0.0108 0.9093 0.0299 0.7360 -0.3666 0.0000 0.0662 0.4647 0.0283 0.7568 -0.1266 0.2019 0.1168 0.1998 0.0048 0.9634 -0.0750 0.4553 0.0192 0.7972 0.1028 0.3178 -0.5520 0.0000 0.1056 0.2617 -0.1898 0.0713

3 -0.2738 0.0000 -0.2352 0.0003 -0.3263 0.0000 0.0384 0.6790 -0.5277 0.0000 -1.0885 0.0000 -0.0189 0.8309 -0.1186 0.1842 -0.1284 0.1855 0.0497 0.5763 -0.0482 0.6424 -0.1579 0.1080 -0.1825 0.0127 0.0981 0.3293 -1.0679 0.0000 -0.0690 0.5536 -0.1635 0.2096

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 REE SAM HAP TMS LAF BBC GIL GMD SAV AGF TRI BT6 KHA HAS TS4 DHA SFC R - Sqr 0.5744 0.5464 0.4420 0.0006 0.0386 0.2576 0.0006 0.0733 0.0018 0.0174 0.0014 0.0018 0.4145 0.0067 0.2211 0.0024 0.0030

42

 0.0195 0.8091 -0.1050 0.2594 -0.0488 0.5719 0.0740 0.4055 0.0464 0.4425 -0.0151 0.7466 66.2417 0.0000

1 0.1744 0.0080 0.1750 0.0176 0.0737 0.2926 -0.0475 0.5098 0.8278 0.0000 1.0899 0.0000 -0.7308 0.2172

2 -0.0829 0.3850 -0.1667 0.1198 -0.0279 0.7835 0.0692 0.5095 0.1222 0.0867 0.0333 0.5455 2.0623 0.0167

3 -0.1160 0.3268 -0.2039 0.1244 0.0422 0.7378 0.0807 0.5347 0.3025 0.0006 -0.2030 0.0030 -0.5356 0.5245

2.3.

Kết luận chương 2

STT Chứng khoán 18 19 20 21 22 23 24 SSC MHC PNC TNA KDC VFMVF1 VNM R - Sqr 0.0076 0.0047 0.0002 0.0005 0.4190 0.6097 0.0073

Hệ số beta của chứng  khoán tính theo chỉ số  VN-Index chỉ có thể  giải thích được

một  vài  chứng  khoán.  Tuy  nhiên  trong  thời  gian  dài  vừa qua,  sự biến  động  của  VN-

Index phụ thuộc vào một số chứng khoán có vốn hóa lớn như BVH, MSN, VIC…VN-

Index đại diện cho thị trường Việt Nam nhưng chỉ tính trên Sở giao dịch chứng khoán

Thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  nên  tác  giả  đề  nghị  tính  một  chỉ  số  khác  đại  diện  cho  thị

trường  Việt  Nam,  tác  giả  đặt  tên  là  VN-Total  –  được  tính  chung  trên  trên  cả  hai  sàn

giao dịch Hồ Chí Minh  và  Hà Nội. Phương pháp tính chỉ số  VN-Total như cách tính

VN-Index để đưa ra chỉ số thực hơn cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

43

CHƯƠNG 3: TÍNH CHỈ SỐ VN-TOTAL ĐẠI DIỆN CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ HỆ SỐ BETA THEO CHỈ SỐ VN-TOTAL

3.1 Tính chỉ số VN-Total đại diện cho thị trường chứng khoán Việt

Nam

3.1.1 Phương pháp tính

Chỉ số giá chứng khoán là tổng hợp các yếu tố thống kê nhằm đo lường sự tăng giá

hay giảm giá của các chứng khoán tại một thị trường chứng khoán cụ thể, ở một thời

điểm nhất định so với thời điểm trước đó.

Thế giới ngày nay có rất nhiều thị trường chứng khoán và ở tại mỗi thị trường thì

có những chỉ số chứng khoán riêng thích hợp với nó. Một số chỉ số chứng khoán lớn

trên thế giới:

Chỉ  số  Dow  Jones  của  Mỹ:  Là  chỉ  số  giá  chứng  khoán  bình  quân  của  thị  trường

chứng khoán New York, một thị trường lớn nhất thế giới hiện nay, là chỉ số giá chung

của 65 chứng khoán đại diện, thuộc nhóm hàng đầu (Blue chip) trong các chứng khoán

được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York. Chỉ số Dow Jones bao hàm 3

chỉ số thuộc 3 nhóm ngành: công nghiệp DJIA (Dow Jones Industrial Average), vận tải

DJTA  (Dow  Jones  Transportation  Average)  và  dịch  vụ  DJUA  (Dow  Jones  Utilities

Average).

HangSeng của HongKong: Chỉ số Hang Seng là chỉ số chứng khoán được xây dựng

dựa trên giá trị vốn hóa thị trường của các công ty lớn nhất ở Hồng Kông. Nó được sử

44

dụng để ghi lại và theo dõi những thay đổi hàng ngày của những công ty lớn nhất trên

thị  trường  chứng  khoán  Hồng  Kông  và  là  chỉ  số  biểu  chính  biểu  hiện  tình  hình  hoạt

động  của  toàn  bộ  thị  trường  Hồng  Kông.  40  công  ty  được  tính  đại  diện  cho  khoảng

65% giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán Hồng Kông

Nikkei 225 của Nhật: Là chỉ số tổng hợp cổ phiếu với quyền số giá cả của 225 cổ

phiếu thuộc sở giao dịch chứng khoán Tokyo và 250 cổ phiếu thuộc sở giao dịch Osaka

do  Thời  báo  kinh  tế  Nhật  tính  toán  và  công  bố.  Chỉ  số  này  còn  được  gọi  là  chỉ  số

NIKKEI Dow vì phương pháp tính của nó như phương pháp tính các chỉ số DowJones.

DAX  30  (viết  tắt  của  Deutsche  Aktien  Xchange  30,  tiền  thân  của  Deutscher

Aktien-Index 30) là một chỉ số thị trường chứng khoán cho các cổ phiếu blue chip bao

gồm 30 công ty lớn nhất của Đức giao dịch trên sàn GDCK Frankfurt, căn cứ theo khối

lượng giao dịch và giá trị vốn hóa thị trường. Giá được tính theo giá trên hệ thống giao

dịch điện tử Xetra.

FTSE 100 của Anh: Là chỉ số cố phiếu của 100 công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất

được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn (LSE).

CAC  40  của  Pháp:  Căn  cứ  trên  cổ  phiếu  của  40  công  ty  có  giá  trị  vốn  hóa  thị

trường lớn nhất của sàn giao dịch chứng khoán Paris Bourne, Pháp. CAC là viết tắt của

Compagnie des Agents de Changem.

Chỉ số S&P/ASX 200 (S&P/ASX 200): Là chỉ số mức vốn hóa được sử dụng nhiều

nhất của Úc, được bắt đầu từ tháng 4 năm 2000. Nó đã thay thế chỉ số giá trị vốn hóa

thị trường (All Ordinaries Index) trên sàn giao dịch chứng khoán Úc (Asx) để trở thành

công cụ quan trọng nhất đánh giá hoạt động trên sàn giao dịch.

Việt  Nam  chúng  ta  có  chỉ  số  chứng  khoán  riêng  cho  thị  trường  chứng  khoán  của

mình, đó là chỉ số VN-Index,  VN-Index  được Ủy ban Chứng  khoán Nhà nước được

tính toán theo phương pháp chỉ số giá bình quân Passcher. Chỉ số VN- Index thể hiện

45

mức giá bình quân của các cổ phiếu giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố

Hồ Chí Minh.

N

100

P Q 1 i 1 i

VN - Index được tính theo công thức sau:

i

 1

Index

(1)

N

P Q 0 1 i i

i

 1

Trong đó:

P1i: Giá hiện hành của cổ phiếu i  Q1i: Khối lượng đang lưu hành (khối lượng niêm yết) của cổ phiếu i  P0i: Giá của cổ phiếu i thời kì gốc  i: Là giá cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá  n: Số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số

Khi trên thị trường xảy ra trường hợp niêm yết mới hay tổ chức niêm yết tiến hành

D 1

D V 0 1  AV

)

V 1(

tăng vốn, hệ số chia sẽ được điều chỉnh như sau:

Trong đó:

N

D 0

P Q 1 i 1 i

D1: Hệ số chia mới

 

i

 1

N

P Q 1 i 1 i

V V1: Tổng giá trị hiện hành của các cổ phiếu niêm yết:  1

 

i

 1

D0: Hệ số chia cũ

AV: Giá trị điều chỉnh cổ phiếu

46

D 1

D V 0 1   V AV

1

Khi hủy niêm yết hay tổ chức niêm yết tiến hành giảm vốn, hệ số chia mới sẽ được tính như sau:

Chỉ số Chỉ số giá bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy

quyền  số  là  quyền  số  thời  kỳ  tính  toán,  vì  vậy  kết  quả  tính  sẽ  phụ  thuộc  vào  cơ  cấu

quyền số (cơ cấu chứng khoán niêm yết) thời tính toán.

Các  chỉ  số  KOSPI  (Hàn  Quốc);  S&P500(Mỹ);  FT-SE  100  (Anh);  TOPIX  (Nhật);

CAC (Pháp); TSE (Đài  Loan); Hangseng (Hong  Kong); các chỉ số của Thụy  Sĩ...  và

VN-Index của Việt Nam áp dụng phương pháp này.

Ta  tính  chỉ  số  VN-Total  đại  diện  cho  tổng  thể  thị  trường  chứng  khoán  Việt  Nam

như  cách  tính  VN-Index,  bao  gồm  tất  cả  các  chứng  khoán  niêm  yết  trên  HOSE  và

3.1.2 Kết quả

HAX.

Tổng hợp giá chứng khoán và khối lượng niêm yết của cả 02 sàn Hà Nội và Tp. Hồ

Chí Minh, tính VN-Total theo công thức (1) từ năm 2006 (thời điểm sàn Hà Nội đi vào

hoạt động.

Bảng 3. 1 Chỉ số VN-Total, VN-Index, HAX-Index giai đoạn 2006-2011

Kết quả chỉ số VN-Total được tổng hợp như sau:

Ngày VN-Total VN-Index HNX-Index

10/13/2011 248.60 412.6 69.1

9/26/2011 256.46 434.4 73.4

8/26/2011 245.77 404.4 69.2

7/26/2011 247.80 409.4 69.9

6/24/2011 257.56 433.4 75.8

47

Ngày VN-Total VN-Index HNX-Index

5/26/2011 245.35 398 70.3

4/26/2011 269.28 461.9 83.7

3/24/2011 268.92 461.3 93.3

2/24/2011 268.50 461.3 95.6

1/26/2011 284.67 501.2 105.8

6/24/2010 301.20 511.7 163

6/24/2009 321.72 453.8 154.4

6/24/2008 308.33 383.8 112.1

6/25/2007 702.63 1055.7 284.7

1400.00

1200.00

1000.00

800.00

VN_Total

600.00

VN_Index

HAX_Index

400.00

200.00

0.00

Hình 3. 1 Chỉ số VN-Total, VN-Index, HAX-Index giai đoạn 2006-2011

6/26/2006 492.78 501.6 190

48

Ta  thấy  VN-Total  sẽ  luôn  nằm  giữa  hai  chỉ  số  VN-Index  và  HAX-Index,  chỉ  số

VN-Total bao quát toàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nếu tính VN-Total theo trọng số khối lượng niêm yết hay theo trọng số khối lượng

*

Index KLGD * H

AX

VN Total 

KLGD

  

 VN Index KLGD OS H KLGD H

OS

H AX  KLGD H

AX

giao dịch theo công thức sau:

*

Index KLNY * H

AX

 VN Total

KLNY

  

 VN Index KLNY OS H KLNY H

OS

 H AX KLNY H

AX

 VN Total

Trong đó:

KLGD

: VN-Total được tính theo phương pháp trọng số khối lượng giao dịch

 VN Total

theo hai chỉ số VN-Index  và HAX-Index

KLNY

: VN-Total được tính theo phương pháp trọng số khối lượng niêm yết

KLGD : Khối lượng giao dịch của HOSE hàng ngày.

OSH

KLGD : Khối lượng giao dịch của HAX hàng ngày.

AXH

KLNY

theo hai chỉ số VN-Index  và HAX-Index

OSH

KLNY

: Khối lượng niêm yết của HOSE

AXH

: Khối lượng niêm yết của HAX

Ta có bảng tổng hợp sau:

49

Bảng 3. 2 Chỉ số VN-Total theo cách tính VN-Index, theo trọng số khối lượng giao dịch và  theo trọng số khối lượng niêm yết

Ngày VN-Total VN-TotalKLGD VN-TotalKLNY

10/13/2011 248.60 234.8 307.8

9/26/2011 256.46 253.8 325.2

8/26/2011 245.77 234.8 303.3

7/26/2011 247.80 258.2 306.0

6/24/2011 257.56 249.5 325.2

5/26/2011 245.35 216.4 298.0

4/26/2011 269.28 268.4 346.4

3/24/2011 268.92 262.8 347.8

2/24/2011 268.50 298.1 348.5

1/26/2011 284.67 336.1 378.4

6/24/2010 301.20 362.7 417.3

6/24/2009 321.72 359.7 372.5

6/24/2008 308.33 292.8 320.7

6/25/2007 702.63 946.7 940.3

6/26/2006 492.78 494.8 486.5

Trung bình cộng của chỉ số VN-Total theo cách tính bình quân trọng số khối lượng

giao dịch và khối lượng niêm yết gần bằng với chỉ số VN-Total được tính theo phương

pháp giống VN-Index

50

1200.00

1000.00

800.00

600.00

400.00

200.00

0.00

6/26/2006

6/26/2007

6/26/2008

6/26/2009

6/26/2010

6/26/2011

VN-Total

VN-Total Theo trong so KLGD

VN-Total theo trong so KLNY

Hình 3. 2 Chỉ số VN-Total, VN-Total theo KLGD, VN-Total theo KLNY

3.2 Hệ số beta theo chỉ số VN-Total

Dựa  và  dữ liệu  của  24  công  ty  với  chỉ  số  VN-Total,  tác  giả  tiến  hành  chạy  mô  hình

r

  

U

j t ,

r ,* m t

theo phương trình

Ta có bảng tổng hợp sau:

51

Bảng 3. 3 Giá trị beta của các chứng khoán

STT Chứng khoán Tổng thể Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3

1 REE 0.5226 0.0575 -0.0531 0.5929

0.0000 0.3864 0.4352 0.0000

2 SAM 0.5236 0.0005 0.0126 0.4514

0.0000 0.9940 0.8555 0.0000

3 HAP 0.3725 -0.0525 -0.0941 0.4169

0.0000 0.3824 0.1292 0.0000

4 TMS 0.2126 0.0348 -0.0169 0.2581

0.0000 0.5946 0.7708 0.0000

5 LAF 0.1851 -0.5858 0.0138 0.1980

0.0000 0.1673 0.8109 0.0016

6 BBC 0.3610 0.0138 0.0142 0.3288

0.0000 0.8123 0.8048 0.0000

7 GIL 0.4039 0.0818 -0.0190 0.4099

0.0000 0.1795 0.7250 0.0000

8 GMD 0.4510 -0.0459 -0.0958 0.4919

0.0000 0.5111 0.1326 0.0000

9 SAV 0.2420 -0.0476 0.0505 0.1612

0.0000 0.4202 0.3542 0.0021

10 AGF 0.3626 0.0419 -0.0398 0.3029

0.0000 0.4514 0.4165 0.0000

11 TRI 0.1696 0.0293 0.0235 0.0915

0.0000 0.5265 0.5706 0.0495

12 BT6 0.1236 0.1245 0.0174 0.0021

0.0001 0.0306 0.7629 0.9683

13 KHA 0.3260 -0.0368 0.0211 0.4321

0.0000 0.5360 0.7206 0.0000

52

STT Chứng khoán Tổng thể Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3

14 HAS 0.2396 -0.0984 -0.0918 0.2482

0.0000 0.0732 0.0789 0.0000

15 TS4 0.1910 0.0742 -0.0195 0.2243

0.0000 0.2438 0.7745 0.0002

16 DHA 0.4363 0.0622 -0.0322 0.5032

0.0000 0.3106 0.6450 0.0000

17 SFC 0.1171 -0.0686 0.0502 0.1015

0.0018 0.3649 0.4792 0.1049

18 SSC 0.2341 0.0106 -0.0733 0.2302

0.0000 0.8453 0.1694 0.0001

19 MHC 0.1901 -0.0828 0.0827 0.1438

0.0000 0.0955 0.0948 0.0045

20 PNC 0.1815 0.0165 -0.0131 0.2660

0.0000 0.7779 0.8025 0.0000

21 TNA 0.2535 0.0525 0.0118 0.2831

0.0000 0.3732 0.8367 0.0000

22 KDC 0.3470 0.0562 0.0417 0.3242

0.0000 0.3199 0.3031 0.0000

0.5598 -0.0454 -0.0257 0.5245 23 VFMVF1

0.0000 0.3811 0.6361 0.0000

24 VNM 0.4842 -0.0703 0.0345 0.3275

0.0000 0.2662 0.4732 0.0000

Tổng thể giai đoạn (từ 19/01/2006 đến nay) có 24 trên 24 cổ phiếu beta có ý nghĩa

khác không tại mức tin tưởng 5%.

Giai đoạn 1 và giai đoạn 2 không có cổ phiếu nào có beta có ý nghĩa khác không tại

mức tin tưởng 5%.

53

Giai đoạn 3: 23 trên 24 cổ phiếu beta có ý nghĩa khác không tại mức tin tưởng 5%.

Tác giả cũng tiến hành kiểm tra độ ổn định của beta khi tính với chỉ số VN-Total

theo  phương  pháp  hồi  quy  bằng  biến  số  thời  gian,  ta  thấy  có  18  chứng  khoán  trong

Bảng 3. 4 Ước tính phương trình hồi quy sử dụng thời gian như một biến số

1

2

tổng số 24 chứng khoán ổn định theo thời gian.

STT chứng khoán R-Sqr

REE 0.2343 1 0.0206 0.4468 0.0377

0.0000 0.0000 0.2613

2 SAM 0.2375 0.0207 0.5625 -0.0190

0.0000 0.0000 0.5745

3 HAP 0.1265 0.0247 0.3365 0.0183

0.0000 0.0000 0.6205

4 TMS 0.0685 0.0248 0.1324 0.0389

0.0000 0.1109 0.2925

5 LAF 0.0382 0.0291 0.0663 0.0578

0.0000 0.4610 0.1427

6 BBC 0.1280 0.0240 0.4667 -0.0511

0.0000 0.0000 0.1821

7 GIL 0.1747 0.0204 0.4004 0.0017

0.0000 0.0000 0.9603

8 GMD 0.1765 0.0210 0.3738 0.0382

0.0000 0.0000 0.2928

9 SAV 0.0809 0.0252 0.3426 -0.0483

0.0000 0.0000 0.1719

10 AGF 0.1378 0.0210 0.3981 -0.0174

0.0000 0.0000 0.6248

11 TRI 0.0391 0.0294 0.2033 -0.0162

54

1

2

STT chứng khoán R-Sqr

0.0000 0.0172 0.6620

BT6 0.0301 12 0.0270 0.2719 -0.0736

0.0000 0.0009 0.0490

KHA 0.1039 13 0.0238 0.2811 0.0227

0.0000 0.0011 0.5542

HAS 0.0759 14 0.0268 0.0802 0.0793

0.0000 0.3130 0.0243

TS4 0.0465 15 0.0309 0.0586 0.0644

0.0000 0.5009 0.0941

DHA 0.2052 16 0.0204 0.3183 0.0580

0.0000 0.0000 0.0862

SFC 0.0159 17 0.0284 0.1337 -0.0082

0.0000 0.1521 0.8456

SSC 0.0647 18 0.0234 0.1868 0.0182

0.0000 0.0196 0.6225

MHC 0.0435 19 0.0291 0.1280 0.0314

0.0000 0.1279 0.4081

20 0.0273 PNC 0.0542 -0.0167 0.0986

0.0000 0.8397 0.0080

TNA 0.0730 21 0.0263 0.1784 0.0362

0.0000 0.0477 0.3604

KDC 0.1322 22 0.0214 0.5986 -0.1219

0.0000 0.0000 0.0009

23 VFMVF1 0.2871 0.0176 0.6987 0.0694

0.0000 0.0000 0.0284

VNM 0.2717 24 0.0174 0.7779 -0.1473

0.0000 0.0000 0.0000

55

Tương tự kiểm tra tính ổn định của beta theo phương trình hồi quy bằng biến số giả

Bảng 3. 5 Ước tính phương trình hồi quy sử dụng biến giả với chỉ số VN-Total

1

2

3

ta cũng thu được kết quả có 19 chứng khoán có beta ổn định theo thời gian.

STT Chứng khoán R - Sqr

1 REE 0.2366 0.0206 0.5086 -0.0502 0.0753

0.0000 0.0000 0.5011 0.2623

2 SAM 0.2385 0.0207 0.5580 -0.0778 -0.0393

0.0000 0.0000 0.3186 0.3622

3 HAP 0.1307 0.0247 0.3861 -0.1067 0.0361

0.0000 0.0000 0.1966 0.6253

4 TMS 0.0705 0.0247 0.1973 -0.0383 0.0749

0.0000 0.0005 0.6266 0.3110

5 LAF 0.0393 0.0291 0.1050 0.1225 0.1195

0.0000 0.0883 0.1590 0.1306

6 BBC 0.1289 0.0240 0.3975 0.0098 -0.0990

0.0000 0.0000 0.9089 0.1969

7 GIL 0.1753 0.0203 0.3911 0.0469 0.0033

0.0000 0.0000 0.5427 0.9608

8 GMD 0.1765 0.0210 0.4139 0.0317 0.0763

0.0000 0.0000 0.6939 0.2941

9 0.0252 0.2997 SAV 0.0810 -0.0636 -0.0974

0.0000 0.0000 0.4156 0.1694

10 AGF 0.1388 0.0210 0.3642 0.0407 -0.0339

0.0000 0.0000 0.6062 0.6339

11 0.0294 0.1909 TRI 0.0391 -0.0289 -0.0328

0.0000 0.0010 0.7185 0.6578

12 BT6 0.0375 0.0271 0.1515 0.0641 -0.1488

0.0000 0.0052 0.3884 0.0462

56

1

2

3

STT Chứng khoán R - Sqr

13 KHA 0.1049 0.0238 0.2874 0.0857 0.0457

0.0000 0.0000 0.3100 0.5518

14 HAS 0.0762 0.0268 0.1524 0.1070 0.1586

0.0000 0.0050 0.1770 0.0244

15 TS4 0.0472 0.0309 0.1372 0.0151 0.1258

0.0000 0.0202 0.8605 0.1034

16 DHA 0.2053 0.0204 0.3821 0.0380 0.1157

0.0000 0.0000 0.6050 0.0875

17 SFC 0.0160 0.0284 0.1189 0.0125 -0.0165

0.0000 0.0557 0.8857 0.8456

18 SSC 0.0649 0.0234 0.2085 0.0423 0.0367

0.0000 0.0003 0.6017 0.6216

19 MHC 0.0440 0.0291 0.1701 -0.0108 0.0632

0.0000 0.0026 0.8967 0.4053

20 PNC 0.0543 0.0273 0.0847 0.0886 0.1972

0.0000 0.1273 0.2738 0.0082

21 TNA 0.0737 0.0263 0.1998 0.0857 0.0754

0.0000 0.0011 0.3229 0.3423

22 KDC 0.1322 0.0214 0.4680 -0.1270 -0.2438

0.0000 0.0000 0.1185 0.0009

23 VFMVF1 0.2883 0.0177 0.6448 -0.1306 -0.1401

0.0000 0.0000 0.0658 0.0270

24 VNM 0.0134 0.0174 0.6310 -0.1439 -0.2947

0.0000 0.0000 0.0426 0.0000

2  hoặc

3

Kết quả từ thực tế cho thấy trong 24 chứng khoán có 5 chứng khoán có

có ý nghĩa, hàm ý 19 chứng khoán còn lại có beta không đổi theo thời gian.

57

Qua kết quả tính toán ta thấy  với chỉ số VN-Total, hệ số beta tổng thể của chứng

khoán  đều  có  ý  nghĩa  tại  mức ý  nghĩa  5%.  Khả  năng  giải  thích  độ  biến  động  tỷ  suất

3.3 Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo

sinh lợi chứng khoán có ý nghĩa hơn.

Mô  hình  sử  dụng  tính  hệ  số  beta  theo  mô  hình  CAPM  nhưng  thị  trường  chứng

khoán Việt Nam chưa được xem là hiệu quả nên kết quả từ beta chưa phản ánh chính

xác đọ rủi ro của chứng khoán so với thị trường.

Để tính hệ số beta gần với thực tế cần đưa ra chỉ số thị trường phản ánh đúng thị

trường hơn. Ở nhiều nước trên thế  giới,  khi  tỷ lệ sở hữu nhà nước ở những công ty

quy mô lớn chiếm đa số thì người ta thường tính chỉ số dựa trên số cổ phiếu được phép

lưu  hành.  Quy  mô  vốn  hóa  thị  trường  của  những  cổ  phiếu  này  được  tính  trên  số  cổ

phiếu  có  thể  giao  dịch  được  trên  thị  trường.  Nghĩa  là  nó  phải  trừ đi  số  cổ  phiếu  nhà

nước sở hữu, cổ phiếu của cổ đông sáng lập, cổ đông chiến lược và cổ phiếu bị phong

tỏa.  Khi  đó,  chỉ  số  phản  ánh  chính  xác  diễn  biến  của  thị  trường,  cho  phép  phân  tích

chuẩn xác hơn xu hướng của chỉ số. Hướng nghiên cứu tiếp theo là tính lại chỉ số thị

trường với trọng số số lượng cổ phiếu được phép lưu hành, chuyển nhượng. Từ đó đưa

3.4 Khuyến nghị sử dụng hệ số beta trong quyết định đầu tư

ra chỉ số β của chứng khoán.

Hệ  số  beta  được  tính  toán  dựa  theo  mô  hình  CAPM,  tuy  nhiên  do  bản  thân  thị

trường, đối với thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thể được coi là một thị trường

hiệu quả. Những vấn đề tồn tại ở thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm:

Thứ nhất là về mức giá: Ở Việt Nam, mức giá chỉ thể hiện một phần nhỏ về doanh

nghiệp, phần lớn là do sự tác động từ cung cầu về cổ phiếu của các nhà đầu cơ. Đặc

biệt, tâm lý đầu tư theo “bầy đàn”, hay “hiệu ứng đám đông” luôn chi phối mạnh mẽ

58

đến giá cổ phiếu. Do vậy, beta được tính toán từ các mức giá này không thể nói lên rủi

ro của doanh nghiệp.

Thứ hai là danh mục thị trường. Hiện nay, ở Việt Nam có hai chỉ số chính là VN-

Index và HNX-Index. Hai chỉ số này chưa đủ sức để tạo nên một danh mục thị trường,

bởi danh mục này chưa có đầy đủ các lĩnh vực ngành nghề trong nền kinh tế và trong

từng lĩnh  vực không bao  gồm các doanh nghiệp đại diện cho lĩnh  vực đó; bởi  vì còn

thiếu các Cty lớn. Chính vì vậy, sự biến động của danh mục chưa đánh giá chính xác

sự biến động của nền kinh tế.

Với  những  hạn  chế  nêu  trên,  beta hầu như không có ý nghĩa nếu được tính toán

trong giai đoạn này.  Tuy  nhiên,  beta  vẫn  rất  hữu ích  nếu  chúng  ta  sử dụng  nó  đúng

cách. Hãy trở về với bản chất đầu tiên của beta, đó là một công cụ thống kê đo lường

khả năng biến động của cổ phiếu so với sự biến động của thị trường. Chúng ta có thể

sử dụng beta như  một chỉ  báo (indicator) trong phân tích  kỹ thuật. Khi ra quyết định

đầu tư không chỉ dựa vào hệ số beta mà cần phải dựa vào nhiều chỉ tiêu khác để đưa ra

3.5 Kết luận chung

quyết định chính xác hơn.

Đề  tài  nghiên  cứu đưa ra  hệ  số  beta  để  nhà  đầu  tư có  những  dự báo  bổ  sung  cần

thiết  cho  mình  khi  tham  gia  vào  thị  trường  chứng  khoán  Việt  Nam.  Tuy  nhiên,  việc

ứng dụng mô hình tính toán hệ số beta có những hạn chế nhất định trong thực tiễn, đó

là tỷ suất sinh lợi thị trường được tính dựa vào VN-Index, HAX-Index. Vì vậy tỷ suất

sinh  lợi  chứng  khoán  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  beta  mà  vào  nhiều  chỉ  tiêu  tài  chính

khác.

Tuy nhiên với tốc độ phát triển  hiện nay của thị trường chứng khoán, hàng hóa này

càng gia tăng thì việc cung cấp một hệ số đo lường rủi ro của từng chứng khoán so với

thị  trường  là  cần  thiết  cho  nhà  đầu  tư.  Vì  vậy  việc  khuyến  khích  các  công  ty  chứng

59

khoán đưa ra các bộ chỉ số VN-Total phù hợp với thị trường và công bố hệ số beta của

các chứng khoán là cần thiết.

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1]. Dương  Kha,  “Mô  hình  dự  báo  tỷ  suất  sinh  lợi  trên  thị  trường  chứng  khoán  Việt

Nam”

[2]. PGS. TS Trương Đông Lộc và ThS. Trần Thị Hạnh Phúc (2011), “Kiểm định mối

quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro của các cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng

khoán Tp.HCM”.

[3]. Trần  Thị  Hải  Lý  (2010),  “Nghiên  cứu  rủi  ro  và  tỷ  suất  sinh  lợi  trên  thị  trường

chứng khoán Việt Nam”, luận văn tiến sĩ ĐH Kinh tế Tp.HCM

[4]. Trần  Hoàng  Ngân  (2000),  “Cách  tính  chỉ  số  chứng  khoán  Việt  Nam  VN-Index”,

Tạp chí phát triển kinh tế.

[5]. TS. Nguyễn Ngọc Vũ (2010), “Hệ số beta trong phân tích rủi ro khi đầu tư chứng

khoán”, Tạp chí chứng khoán Việt Nam.

[6]. Trần Thị Mộng Tuyết, “Đầu tư trên thị trường chứng khoán mới nổi: Phân tích lợi

nhuận và rủi ro”.

Tiếng Anh

[7]. Banz, R. W. (1981), “The relationship between return and market value of common

stocks”, Journal of Financial Economics.

[8]. Black  F,  Jensen  M,  Scholes  M  (1972),  “The  CAPM;  Some  empirical  tests  In:

Jensen M(Ed)Studies in the theory of capital markets”.

[9]. Chalwa, D. (2001), “Testing the stability of beta in the Indian stock market”.

[10]. Chris Tofallis (2004), “Investment Volatility: A critique of standard beta estimation

and a simple way forward”, European Journal of Operation Research.

61

[11]. Eric  Ghysels  and  Eric  Jacquier  (2006),  Market  Beta  Dynamics  and  Portfolio

Efficiency.

[12]. Fabbozzi F, Francis J.C (1977), “Stability Test of  Alphas and Betas over bull and

bear market conditions”, Journal of Finance.

[13]. Gooding. A. R and T.P. O'Malley (1977), “Market phase and stationarity of beta”,

Journal of Financial and quantitative analysis.

[14]. Ian A. Cooper (2007), “On Tests of the Conditional Relationship between Beta and

Returns”

[15]. John Y. Campbell and Tuomo Vuolteenaho (2003) , “Bad Beta, Good Beta”.

[16]. Michael  C.  Jensen    (2006),  “The  Capital  Asset  Pricing  Model:  Some  Empirical

Tests”.

[17]. Pettengill,  Glenn  N,  Sundaram,  Sridhar,  Mathur,  Ike  (1995),  “The  conditional

relation between beta and returns”, Journal of Financial and quantitative analysis.

[18]. Dr. Rengasamy Elango and Dr. Dayanand Pandey (2009), “Market Beta and Stock

return – An analysis of Select Gulf Companies”..

62

STT

Mã CK  Tên công ty

Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang

AGF

1

BBC

Công ty Cổ phần Bibica

2

BT6

Công ty cổ phần Beton 6

3

DHA

Công ty Cổ phần Hóa An

4

GIL

Công ty Cổ phần Sản Xuất Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Bình Thạnh

5

GMD

Công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển

6

HAP

Công ty cổ phần Tập đoàn HAPACO

7

HAS

Công ty cổ phần Xây lắp Bưu điện Hà Nội

8

KDC

Công ty cổ phần Kinh Đô

9

KHA

Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Khánh Hội

10

LAF

Công ty Cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An

11

MHC

Công ty cổ phần hàng hải Hà Nội

12

PNC

Công ty cổ phần văn hóa Phương Nam

13

REE

Công ty cổ phần Cơ điện lạnh

14

SAM

Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển SACOM

15

SAV

Công ty cổ phần Hợp tác kinh tế và Xuất nhập khẩu SAVIMEX

16

SFC

Công Ty Cổ Phần Nhiên Liệu Sài Gòn

17

SSC

Công ty cổ phần Giống cây trồng miền Nam

18

TMS

Công ty cổ phần Kho vận Giao nhận Ngoại thương TP.HCM

19

TNA

Công ty Cổ Phần Thương Mại Xuất Nhập Khẩu Thiên Nam

20

TRI

Công ty cổ phần Nước giải khát Sài Gòn-TRIBECO

21

TS4

Công ty cổ phần Thủy sản số 4

22

VFMVF1 Quỹ Đầu Tư Chứng Khoán Việt Nam

23

VNM

Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam

24

PHỤ LỤC 1: Danh mục các công ty chứng khoán trong mẫu phân tích

63

PHỤ LỤC 2: Bài nghiên cứu của Sromon Das (2008)

Kiểm tra tính ổn định của beta qua các giai đoạn thị trường: Nghiên cứu thực nghiệm tại Ấn Độ

Tóm tắt

Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) là mô hình rủi ro – tỷ suất sinh lợi truyền

thống được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng. Khái niệm của CAPM đó là nhà đầu tư chỉ

chịu một phần rủi ro không thể đa dạng hóa được. Biến số không thể đa dạng hóa được

gọi là beta, có mắt xích với tỷ suất sinh lợi kỳ vọng.

Đối  tượng  nghiên  cứu  của  bài  viết  này  là  kiểm  tra  tính  ổn  định  của  beta  từng

chứng khoán qua các giai đoạn thời gian bằng cách sử dụng hai phương pháp kiểm tra

kinh tế. Tác giả đã sử dụng dữ liệu của 39 công ty được niêm yết trên NSE Nifty trong

khoảng thời gian là 104 tháng (từ tháng 02/1999 đến tháng 09/2007), và chia thời gian

nghiên  cứu thành  ba  giai  đoạn  nhỏ,  hai  giai  đoạn  giá  lên  và  một  giai  đoạn  giá  giảm.

Tác giả nhận thấy sử  dụng phương pháp một (hồi quy sử dụng thời gian như một biến

số), 85% chứng khoán có beta ổn định, trong khi đó sử dụng phương pháp thứ hai (hồi

quy sử dụng biến số  giả) có 65% chứng  khoán có beta ổn định. Người đọc cũng nên

lưu ý rằng  kết  quả phụ thuộc  vào lựa chọn  mẫu thời gian  và dựa trên  giai đoạn phân

tích được phân chia ra sao.

I. Động lực và nền tảng lý thuyết

Mỗi danh mục chứng  khoán chứa hai loại rủi ro, rủi ro hệ thống  và rủi ro phi hệ

thống. Rủi ro hệ thống (hay rủi ro thị trường), trong lĩnh vực kinh tế và tài chính được

gọi là beta, đây là loại rủi ro vốn có của mỗi chứng khoán và nó không thể đa dạng hóa

được. Rủi ro phi hệ thống, hay là alpha, có thể đa dạng hóa được bằng nhiều phương

pháp khác nhau. Hơn nữa mô hình định giá tài sản vốn (CAPM), một trong những lý

thuyết  nền  tảng  về  tài  chính,  dựa  trên  giả  định  đầu  tư  hợp  lý  của  nhà  đầu  tư loại  bỏ

64

không còn rủi ro phi hệ thống, và vì vậy chỉ còn lại rủi ro hệ thống của chứng khoán,

đó là beta.

Lý do logic tại sao beta không thể đa dạng hóa được bởi vì nó liên quan đến tỷ suất

sinh lợi của từng tài sản trong danh mục đầu tư. Beta có thể giải thích tính đàn hồi của

tài chính hay độ nhạy cảm của tỷ suất sinh lợi từng tài sản đối với tỷ suất sinh lợi thị

trường.  Hơn  nữa  giá  trị  beta  cũng  cho  biết  tính  bất  ổn  và  độ  thanh  khoản  của  chứng

khoán.

Theo định nghĩa, beta có thể nhận các giá trị sau:

- Giá  trị  âm:  Điều  này  có  nghĩa  là  chứng  khoán  và  thị  trường  di  chuyển  ngược

chiều nhau, nhưng điều này trong lý thuyết thì có thể còn thực tế hiếm xảy ra.

- Bằng  không:  Điều  này  ám  chỉ  thị  trường  vẫn  dịch  chuyển,  trong  khi  cổ  phiếu

vẫn  không  thay  đổi.  Ví  dụ  cho  những  chứng  khoán  như  vậy  cũng  hiếm  có,

nhưng tiền mặt thì beta tiệm cận  tiến đến gần không.

- Giữa  không  và  một:  nhiều  chứng  khoán  được  kỳ  vọng  nằm  trong  vùng  này.

Những  chứng  khoán  có  beta  trong  vùng  này  được  cho  là  ít  biến  động  hơn  thị

trường.

- Bằng  một:  Chứng  khoán  có  beta  bằng  một  sẽ  di  chuyển  cùng  với  thị  trường.

Theo định nghĩa beta thị trường là một.

- Lớn hơn một: Những chứng khoán như vậy có tính biến động nhiều trong thời

kỳ giá lên, chứng khoán như vậy sẽ mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiên điều này

cũng cho thấy khoản lỗ lớn nhất khi thị trường đi xuống.

Giá trị của beta quan trọng nhưng  không  phải là kết thúc, đây là nhân tố để xem

xét trong đầu tư. Các nhà đầu tư cố gắng vẽ ra một sự so sánh giữa beta và khẩu vị rủi

ro, vì beta cũng đo lường rủi ro, hay độ biến động của chứng  khoán. Tuy nhiên, beta

được tính toán dựa trên dữ liệu quá khứ, và không có cách nào tính toán sự ảnh hưởng

của beta. Tuy nhiên cũng có thể đưa ra ý kiến hợp lý về sự biến động của chứng khoán

dựa trên giá trị beta.

65

Hơn  nữa khi  kiểm  tra  tính  ổn  định  của  beta  nên  nhớ  rằng  có  thể  không  kiểm  tra

kinh tế để quyết định liệu beta có ổn định hay không trong thời kỳ thuần nhất. Kết quả

của bài kiểm tra phụ thuộc vào lựa chọn thời gian và phân chia giai đoạn phân tích.

Trong  bài  viết  này,  tác  giả  chọn  104  tháng,  xếp  từ  tháng  02/1999  đến  tháng

9/2007.  Chỉ  số  NSE  Nifty  là  chỉ  số  đại  diện  thị  trường  và  tỷ  suất  sinh  lợi  của  mỗi

chứng khoán riêng lẻ đi ngược lại với tỷ suất sinh lợi của Nifty.

Nói chung beta được tính bằng cách hồi quy tỷ suất sinh lợi của chứng khoán với

tỷ suất sinh lợi thị trường. Tuy nhiên  trong khi lý thuyết có thể tính beta bằng cách lấy

một  chuỗi  thời  gian  dài  nhưng  không  thể  đáp  ứng  theo  mục  đích  này  do  beta  có  thể

không ổn định qua các giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn đi xuống hay đi về một phía.

Vì  đối  tượng  nghiên  cứu  của  bài  viết  này  là  kiểm  tra  tính  ổn  định  của  beta  qua  giai

đoạn giá lên và giá xuống, tổng giai đoạn phân tích gồm 104 tháng, có thể chia làm 3

thời kỳ nhỏ:

Thời kỳ 1: Từ tháng 02/1999 đến tháng 02/2000:  giai đoạn tăng  giá, tỷ suất sinh

lợi của chỉ số Cumulative Wealth là 72%.

Thời kỳ 2: Từ tháng 03/2000 đến tháng 04/2003: giai đoạn giảm giá, tỷ suất sinh

lợi của chỉ số Cumulative Wealth là -49%.

Thời kỳ 3: Từ tháng 05/2003 đến tháng 09/2007:  giai đoạn tăng  giá, tỷ suất sinh

lợi của chỉ số Cumulative Wealth là 372%.

Mặc dù mẫu phân tích 104 tháng có thể nhỏ, có thể thực hiện để đưa ra quan điểm

về bức tranh toàn cảnh của thị trường NSE Nifty có thỉnh thoảng thay đổi hay không.

Các chứng  khoán  mà tác  giả chọn  bao  gồm trong chỉ số của  các chứng  khoán chính

trong giai đoạn phân tích.

II. Dữ liệu và phương pháp

Để thực hiện mục đích nghiên cứu, tác giả đã xem xét dữ liệu hàng tháng của 39

chứng khoán được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán quốc gia, từ giai đoạn tháng

01/1999 đến tháng 9/2007.

66

Công ty Ngành công nghiệp

ABB Thiết bị điện

ACC Xi măng và sản phẩm từ xi măng

Appollo Tyres Lốp xe

Asian Paints Sơn

Bajaj Auto Tự động hóa

Bank of Baroda Ngân hàng

BEL Công nghiệp điện

BHEL Thiết bị điện

BPCL Nhà máy tinh chế

GAIL Ga

Glaxo Thuốc

Grasim Xi măng và sản phẩm từ xi măng

HDFC Định chế tài chính

HDFC Bank Ngân hàng

Hero Honda Tự động hóa

Hindalco Nhôm

HPLC Nhà máy lọc

ICICI Bank Ngân hàng

IDBC Ngân hàng

IFCI Định chế tài chính

Indian Hotels Khách sạn

Infosys Công nghệ thông tin

ITC Thuốc lá

L&T Khoa học

M&M Tự động hóa

67

Viễn thông MTNL

Dược Nicolas Piramal

Dầu E & P ONGC

Định chế tài chính Reliance Capital

Nhà máy tinh chế Reliance

Thép và sản phẩm thép SAIL

Công nghệ thông tin Satyam

Ngân hàng SBI

Vận tải SCI

Dược Sun Pharma

Hóa chất Tata Chemicals

Năng lượng Tata Power

Viễn thông VSNL

Công nghệ thông tin Wipro

Vì giá chứng khoán đóng cửa có hàng ngày, trung bình hàng tháng sẽ được tính giá trị

đóng cửa hàng tháng của 39 chứng khoán.

Tính tỷ suất sinh lợi

Trong bài này tác giả quan tâm tỷ suất sinh lợi hàng tháng hơn là giá đóng cửa.

Tỷ suất sinh lợi hàng tháng của mỗi chứng khoán được tính như công thức sau:

rj,t = ln (Pj,t/Pj,t-1)

trong đó:

Pj,t = Giá trị trung bình của chứng khoán j trong tháng t

Pj,t-1 = Giá trị trung bình của chứng khoán j trong tháng t-1, hay là tháng trước đó.

rj,t  = Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán thứ j trong tháng t

Tương tự, tỷ suất sinh lợi của thị trường được tính như sau:

68

mt = ln(Nt/Nt-1)

trong đó:

Nt = Giá trị trung bình của NSE-Nifty trong tháng t

Nt-1 = Giá trị trung bình của NSE-Nifty trong tháng t

mt  = Tỷ suất sinh lợi thị trường trong tháng t

Dữ liệu gốc được xem xét với 104 điểm quan sát (tháng 01/1999 đến tháng 09/2007).

Tuy nhiên khi tính toán tỷ suất sinh lợi hàng tháng, quan sát đầu tiên phải bỏ qua. Vì

vậy giai đoạn mẫu dùng để phân tích chỉ tính từ tháng 02/1999 đến tháng 09/2007,

nghĩa là có 103 điểm quan sát.

Ước tính beta

Để ước tính giá trị beta của mỗi chứng khoán, tác giả sử dụng mô hình hồi quy sau:

rj,t = B0 + B1 * mt + U

,j tr  = Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán j trong giai đoạn t

Trong đó:

mt = Tỷ suất sinh lợi của thị trường ta  U = Sai số ngẫu nhiên

B0 = Hằng số

B1 = Độ nhạy cảm của tỷ suất sinh lợi chứng khoán với tỷ suất sinh lợi thị trường, hay

là beta chứng khoán

Sử dụng  hồi quy trên sẽ ước tính ra giá trị của mỗi beta. Thực sự tác giả đã chia giai

đoạn mẫu thành ba giai đoạn nhỏ:

Từ tháng 02/1999 đến tháng 02/2000: Thời kỳ giá lên trong giai đoạn ngắn.

Tháng 03/2000 đến tháng 04/2003: Thời kỳ giá xuống

Tháng 05/2003 đến tháng 09/2007: Thời kỳ giá lên.

Beta mỗi chứng khoán sẽ được tính theo những giai đoạn nhỏ cũng như cho toàn thời

kỳ mẫu. Vì vậy mỗi chứng khoán tác giả sẽ ước tính 4 giá trị beta tương ứng với giai

đoạn cả thời kỳ và từng thời kỳ nhỏ.

69

Kiểm tra tính ổn định của beta

Mục  đích  chính  của  bài  này  là  kiểm  tra  tính  ổn  định  của  beta  qua  các  giai  đoạn  thời

gian. Ước tính beta là một việc nhưng việc quan trọng hơn là từ thực tế đó liệu beta có

ý nghĩa và duy trì ổn định qua các giai đoạn thời gian hay không.

Trong bài này, để kiểm tra tính ổn định của beta bằng hay phương pháp:

- Sử dụng thời gian như một biến số

- Sử dụng biến số giả để đo lường sự thay đổi của beta qua thời gian.

Sử dụng thời gian như là biến số

Tính ổn định của beta , hay là độ dốc trong mô hình hồi quy đơn có thể được kiểm

tra bằng một biến số mới, chúng ta sẽ biểu thị như thời gian, toàn bộ thời kỳ phân tích

sẽ được chia làm ba giai đoạn nhỏ. Đây là biến số mới, thời gian sẽ là giá trị duy nhất

cho mỗi giai đoạn. Vì vậy:

- Giai đoạn 1(02/1999 đến 02/2000), t = 1

- Giai đoạn 2 (03/2000 đến 04/2003), t = 2

- Giai đoạn 3 (05/2003 đến 09/2007), t = 3

Mô hình hồi quy thường xác định theo cách kết hợp chặt chẽ với biến số mới, thời

gian, như sau:

rj,t = B0 + B1 * mt + B2 * (t*mt) + U

,j tr  = Tỷ suất sinh lợi hàng tháng của chứng khoán j trong giai đoạn t

trong đó:

mt = Tỷ suất sinh lợi hàng tháng của thị trường  t = giá trị biến số thời gian (1, 2, hay 3 phụ thuộc vào giai đoạn )

U = Sai số

B0, B1, B2  = Hệ số cần ước tính

Phương trình hồi quy trên có thể viết lại như sau:

rj,t = B0 + (B1 + B2 * t)*mt + U

70

Để kiểm tra tính ổn định của beta, chúng ta phải dựa trên biểu thức B2 là có nghĩa

hay  không.  Nếu  có  nghĩa,  thì  điều  đó  hàm  ý  là  có  độ  nhạy  cảm  của  tỷ  suất  sinh  lợi

thay đổi theo thời chứng khoán với tỷ suất sinh lợi thị trường, nghĩa là (B1 + B2 * t)

gian  và  vì  vậy  beta  không  đứng  yên.  Nếu  B2  không  có  ý  nghĩa,  (B1 + B2 * t)*mt sẽ

giảm đến B1*mt, hàm ý rằng B1 hay beta chứng khoán không thay đổi theo thời gian và  vì  vậy  beta  đứng  yên  theo  thời  gian.  Ý  nghĩa  thống  kê  của  B2  có  thể  được  kiểm  tra  bằng cách sử dụng thống kê t hoặc p-value.

Hồi quy biến số giả

Phương pháp  khác để  kiểm tra tính ổn định  của beta là sử dụng  biến số  giả trong

mô hình hồi quy. Mô hình được thể hiện lại như sau:

rj,t = B0 + B1 *mt + B2 *D1 * mt + B3 *D2 * mt + U

1D  = 1, cho giai đoạn 2 (03/2000 đến 04//2003),

1D  = 0 cho giai đoạn khác

2D = 1, cho giai đoạn 3 (05/2003 đến 09/2007),

2D  = 0 cho giai đoạn khác

,j tr = Tỷ suất sinh lợi của của cổ phiếu j trong giai đoạn t

Trong đó:

mt = Tỷ suất sinh lợi của thị trường trong giai đoạn t

U = Sai số

B0, B1, B2,  B3 = Hệ số cần ước tính

Bây giờ phương trình cho giai đoạn 1 là:

rj,t = B0 + B1 * mt + U

Phương trình cho giai đoạn 2 là:

rj,t = B0 + B1 *mt + B2 *D1 * mt + U, hoặc

rj,t = B0 + (B1 + B2) * mt + U (vì D1= 1 cho giai đoạn 2)

Rõ ràng beta sẽ đứng yên qua 2 thời kỳ nếu khoản mục B2 là không có ý nghĩa.

71

Phương trình cho giai đoạn 3 là:

rj,t = B0 + B1 * mt + B3 *D2 * mt + U, hoặc

2D  = 1 cho giai đoạn 3)

rj,t = B0 + (B1 + B3)* mt + U (vì

Rõ ràng beta sẽ đứng yên qua 2 thời kỳ nếu khoản mục B3 là không có ý nghĩa.

Vì vậy, để xem liệu beta của  mỗi chứng  khoán  có đứng yên qua thời  gian, chúng ta

cần kiểm tra ý nghĩa của B2 và B3. Điều này có thể thực hiện bằng cách sử dụng thống

kê t hoặc tương quan p-value. Thậm chí nếu một trong hai khoản mục có ý nghĩa (B2

hoặc B3) thì beta chứng khoán sẽ được cho rằng không đứng yên qua thời gian.

III. Kết quả

Như đã đề cập ở trên, beta của chứng khoán được ước tính bằng cách sử dụng phương

pháp  hồi  quy  bình  phương  bé  nhất.  Quả  thật  trong  mô  hình  hồi  quy  tuyến  tính  đơn,

beta đơn giản là hệ số gốc của phương trình.

Ước tính beta qua các giai đoạn

Như đã đề cập trước, beta sẽ được tính cho 39 chứng khoán với giai đoạn mẫu tổng thể

Giá trị beta

Chứng khoán

ABB

ACC

Apollo Tyres

Asian Paints

Bajaj Auto

Bank of Baroda

BEL

BHEL

Cả giai đoạn Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 1.2892  0.1116  -3.1103  0.3262  2.3323  0.0992  1.3479  0.0971  0.5601  0.2780  1.8689  0.0594  2.9500  0.0471  2.2258

1.2684  0.0001  1.7973  0.0000  0.9226  0.0254  0.1303  0.6346  0.8022  0.0050  1.0598  0.0016  1.1809  0.0207  1.2343

1.0528  0.0001  0.6713  0.0679  1.1769  0.0050  0.3981  0.0073  0.6301  0.0000  1.0052  0.0000  1.1696  0.0000  1.1123

Giai đoạn 3 1.1897  0.0151  0.8834  0.0000  1.4194  0.0619  0.3464  0.0492  0.7178  0.0000  1.1559  0.0001  0.9225  0.0000  1.1276

cũng như các giai đoạn nhỏ

72

BPCCL

GAIL

Glaxo

Grasim

HDFC

HDFC Bank

Hero Honda

Hindalco

HPCL

ICICI Bank

IDBI

IFCI

Indian Hotels

Infosys

ITC

L&T

M&M

MTNL

Nicolas Piramal

0.0248  0.9141  0.2418  1.0879  0.2683  1.8620  0.0678  1.6159  0.1486  1.9240  0.5719  0.6376  0.4888  0.7217  0.3420  1.2744  0.1355  0.3720  0.7024  1.5645  0.2572  1.4440  0.0113  -0.1333  0.8322  0.5532  0.3826  2.2953  0.0720  1.3822  0.0466  1.6324  0.0027  -0.5639  0.3240  2.2885  0.0059  1.1924  0.2270

0.0000  1.2194  0.0000  1.1071  0.0000  0.7555  0.0000  1.2100  0.0000  0.5153  0.1660  0.6864  0.0000  1.2072  0.0000  1.2690  0.0013  1.0452  0.0000  1.0614  0.0000  1.3410  0.0000  1.2400  0.0001  0.7412  0.0479  0.9676  0.0011  0.9070  0.0109  1.1471  0.0000  0.2854  0.1204  1.1884  0.0000  0.9762  0.0010

0.0000  1.5052  0.0037  0.8699  0.0319  0.7162  0.0026  1.2871  0.0004  -0.0356  0.9213  0.2406  0.3029  2.1222  0.0083  1.1059  0.3339  1.7287  0.0000  0.4320  0.2379  0.7111  0.1188  0.1827  0.0104  1.0718  0.0001  1.5730  0.0002  0.5800  0.5758  1.4333  0.0002  0.2281  0.5316  0.8492  0.0324  0.2160  0.3696

0.0001  1.3416  0.0000  1.4587  0.0000  0.6542  0.0000  1.1518  0.0000  0.8855  0.0000  0.8385  0.0000  0.7162  0.0000  1.2445  0.0000  1.2135  0.0000  1.1892  0.0000  1.8204  0.0000  1.5863  0.0027  0.7949  0.2806  0.3364  0.0433  0.7824  0.0000  0.7681  0.0541  0.5529  0.0356  1.1975  0.0000  1.4610  0.0078

73

ONGC

Reliance Capital

Reliance Industries

SAIL

Satyam

SBI

SCI

Sun Pharma

Tata Chemicals

Tata Power

VSNL

Wipro

1.0159  0.0000  1.3700  0.0000  0.9252  0.0000  1.5021  0.0000  1.4637  0.0000  1.1463  0.0000  1.2349  0.0000  1.1941  0.0000  0.7927  0.0000  1.3876  0.0000  1.3361  0.0000  1.3919  0.0003

1.6557  0.0747  0.2490  0.8674  1.4753  0.0192  0.8868  0.4567  1.2431  0.4400  1.6352  0.0671  2.4408  0.0429  -1.7164  0.0710  1.4357  0.0283  0.2104  0.7362  0.9556  0.3609  1.7667  0.5219

1.0033  0.0074  1.8900  0.0000  0.8263  0.0109  1.6826  0.0012  2.1978  0.0077  1.1607  0.0000  1.5251  0.0045  1.4991  0.0263  0.6935  0.0120  2.2440  0.0000  1.1893  0.0482  2.2885  0.0000

1.2172  0.0000  0.9453  0.0013  0.8375  0.0000  1.6079  0.0000  0.6319  0.0104  1.1920  0.0000  1.3469  0.0000  1.2431  0.0000  1.0000  0.0000  1.4455  0.0000  1.0608  0.0003  0.7825  0.0631

Giai  đoạn  tổng  thể  (02/1999  đến  09/2007)  có  36  trên  39  chứng  khoán  có  beta  có  ý

nghĩa khác không tại mức ý nghĩa 5%.

Phân đoạn 1 (02/1999 đến 02//2000)chỉ có 9 trên 39 chứng khoán có beta có ý nghĩa

khác không tại mức ý nghĩa 5%.

Phân đoạn 2 (03/2000 đến 04/2003) có 30 trên 39 chứng khoán có beta có ý nghĩa lớn

hơn không tại mức ý nghĩa 5%.

Phân đoạn 3 (05/2003 đến 09/2007) có 34 trên 39 chứng khoán có beta có ý nghĩa lớn

hơn không tại mức ý nghĩa 5%.

74

Kiểm tra tính ổn định của beta sử dụng thời gian như một biến số

Hồi quy sử dụng để kiểm tra tính ổn định của beta sử dụng thời gian như biến số là:

rj,t = B0 + B1 * mt + B2 * (t*mt) + U

Ý nghĩa của  B2 sẽ chỉ cho ta thấy liệu beta có đứng yên qua thời gian hay không. Theo

logic thì nếu B2  không có ý nghĩa, phương trình sẽ rút gọn là

Chứng khoán ABB    ACC    Apollo Tyres    Asian Paints    Bajaj Auto    Bank of Baroda    BEL    BHEL    BPCL    GAIL    Glaxo    Grasim Cements    HDFC    HDFC Bank    Hero Honda    Hindalco

R-Sqr 0.13954    0.10742    0.07748    0.07671    0.20620    0.21172    0.24134    0.25874    0.27096    0.29780    0.22513    0.32995    0.03798    0.19889    0.16703    0.09696

Hằng số -0.00961  0.59220  -0.01611  0.49685  -0.02289  0.40997  0.00619  0.52848  0.00367  0.67622  0.00088  0.94591  0.02770  0.07578  0.00078  0.95103  -0.01529  0.25670  -0.00467  0.69228  -0.00581  0.54041  0.00920  0.42859  -0.01099  0.65747  0.02058  0.02836  -0.01585  0.38990  -0.03269  0.21039

B1 0.34092  0.70630  -2.65051  0.02843  1.89665  0.17729  0.84708  0.08941  -0.08267  0.85209  0.81907  0.21490  3.01832  0.00019  0.89179  0.16469  1.00956  0.13881  0.15978  0.78847  1.06875  0.02734  1.53030  0.01019  -1.18006  0.34652  0.87476  0.06394  1.92933  0.03974  1.15622  0.37909

B2 0.29589  0.41090  1.38067  0.00437  -0.29916  0.59072  -0.18662  0.34375  0.29624  0.09482  0.07737  0.76723  -0.76840  0.01469  0.09165  0.71800  0.08723  0.74619  0.39376  0.09820  -0.13022  0.49375  -0.13314  0.56753  0.70467  0.15814  -0.07831  0.67381  -0.30014  0.41643  0.04688  0.92832

rj,t=B0+ B1*mt+U, điều này ám chỉ rằng beta không thay đổi theo thời gian.

75

0.22013    0.22528    0.24937    0.18670    0.03837    0.15085    0.06208    0.21296    0.04869    0.32338    0.10648    0.24572    0.26570    0.32601

-0.01632  0.22691  0.02006  0.13694  -0.01006  0.53822  -0.00628  0.74939  -0.02173  0.38714  -0.01889  0.32089  -0.02815  0.23631  0.00933  0.54015  -0.00869  0.47622  -0.01999  0.08943  -0.02047  0.29445  0.00055  0.96342  0.01437  0.35354  0.01370

0.37286  0.58329  1.67452  0.01482  0.00689  0.99333  -0.89108  0.36992  0.45255  0.72076  3.22776  0.00104  1.05787  0.37712  2.04005  0.00901  -0.67390  0.27472  1.81120  0.00267  0.24907  0.79992  0.86145  0.15545  2.04189  0.01003  1.46427

0.27943  0.30156  -0.25483  0.34443  0.55452  0.09255  0.88576  0.02636  0.11998  0.81139  -0.93942  0.01499  -0.06272  0.89491  -0.37115  0.22540  0.39872  0.10497  -0.25886  0.27051  0.30222  0.43939  0.06417  0.78892  -0.27928  0.36833  -0.22407

HPCL    ICICI Bank    IDBI    IFCI    Ind Hotel    Infosys    ITC    L&T    M&M    MTNL    Nicolas Piramal    ONGC    Reliance Capital    Reliance  Industries    SAIL    Satyam    SBI    SCI    Sun Pharma    Tata Chemicals    Tata Power

0.29687    0.19343    0.39380    0.21421    0.16276    0.22697    0.38272

0.13297  0.00800  0.60973  -0.02662  0.22709  0.00435  0.64833  0.00244  0.87786  -0.00846  0.64464  -0.00335  0.74261  -0.00382

0.00180  0.80719  0.30863  3.57982  0.00163  1.15598  0.01794  1.32354  0.10080  0.66331  0.47421  0.06432  0.90059  0.40517

0.21948  0.28883  0.35881  -0.87954  0.04783  -0.00402  0.98322  -0.03685  0.90781  0.22060  0.54888  0.30275  0.14094  0.40833

76

0.75266  -0.02599  0.13962  -0.03745  0.13485

VSNL    Wipro

0.20992    0.14211

0.50759  1.81193  0.04227  3.29765  0.00988

0.09465  -0.19779  0.57312  -0.79209  0.11489

Kết quả từ thực tế dường như khẳng định mạnh mẽ hơn. Trong 39 chứng khoán chỉ có

5 chứng khoán có B2  có ý nghĩa, hàm ý rằng 34 chứng khoán còn lại có B2  không có ý

nghĩa (bằng không). Phân tích xa hơn, tác giả cho thấy trong 36 chứng khoán có beta

có ý nghĩa trong giai đoạn tổng thể thì chỉ có 33 chứng khoán có beta ổn định.

Kiểm tra tính ổn định của beta sử dụng hồi quy biến giả

Hồi quy sử dụng để kiểm tra tính ổn định của beta sử dụng biến giả là:

rj,t = B0 + B1 *mt + B2 *D1 * mt + B3 *D2 * mt + U

Ý nghĩa của B2 và B3 sẽ chỉ cho ta thấy liệu beta có đứng yên qua thời gian hay không.

Theo logic nếu B2 và B3 không có ý nghĩa, phương trình sẽ rút gọn là

rj,t = B0 + B1 *mt + U, điều này ngụ ý beta ổn định qua thời gian. Do đó, beta thực sự

Chứng khoán ABB    ACC    Apollo Tyres    Asian Paints    Bajaj Auto    Bank of Baroda    BEL    BHEL    BPCL

R-Sqr 0.14234    0.21191    0.08612    0.10099    0.21903    0.21225    0.25217    0.25893    0.27488

Hằng số -0.00580  0.76245  0.01403  0.55676  -0.03287  0.26804  0.00027  0.97907  0.00783  0.40294  -0.00037  0.97900  0.02082  0.20800  0.00153  0.91011  -0.01163

B1 0.39158  0.58481  -3.21100  0.00047  2.24052  0.04469  1.04163  0.00827  -0.05410  0.87674  0.97708  0.06333  2.69293  0.00003  0.93486  0.06725  0.86088

B2 0.75267  0.39206  4.99635  0.00001  -1.49689  0.27044  -0.89661  0.06134  0.79483  0.06529  -0.07284  0.90930  -1.59356  0.03658  0.18214  0.76930  0.52664

B3 0.75996  0.33030  4.09258  0.00005  -1.03931  0.38788  -0.63465  0.13426  0.77606  0.04287  0.09943  0.86088  -1.84061  0.00691  0.21662  0.69425  0.33624

đứng yên qua giai đoạn tổng thể khi cả B2 và B3 là không có ý nghĩa.

77

GAIL    Glaxo    Grasim Cements    HDFC    HDFC Bank    Hero Honda    Hindalco    HPCL    ICICI Bank    IDBI    IFCI    Ind Hotel    Infosys    ITC    L&T    M&M    MTNL    Nicolas Piramal    ONGC    Reliance Capital    Reliance

0.30083    0.22811    0.32996    0.04226    0.24067    0.20441    0.09716    0.25487    0.27281    0.26197    0.19188    0.04120    0.15272    0.06418    0.21574    0.04963    0.34809    0.13129    0.24798    0.28715    0.33208

0.41902  -0.00755  0.54982  -0.00800  0.43113  0.00900  0.47025  -0.01714  0.51825  0.01270  0.19144  -0.00135  0.94421  -0.03411  0.22262  -0.00575  0.68331  0.00770  0.58070  -0.01793  0.30291  -0.00045  0.98307  -0.01667  0.53505  -0.01557  0.44426  -0.03232  0.20441  0.01269  0.43641  -0.00727  0.57804  -0.02829  0.02311  -0.03254  0.11611  -0.00189  0.88274  0.02420  0.14046  0.01050

0.11089  0.73921  0.11898  1.07949  0.00520  1.41047  0.00299  -0.07936  0.93610  1.30401  0.00047  0.69551  0.33492  1.29471  0.21515  -0.02823  0.95724  2.21587  0.00004  1.06823  0.10162  -0.38107  0.62721  0.24656  0.80573  2.07477  0.00727  1.26367  0.18406  1.45237  0.01850  -0.36691  0.45247  2.08726  0.00001  1.32864  0.08612  1.08252  0.02529  1.12980  0.06610  1.44637

0.42401  0.04791  0.93389  -0.39277  0.39841  -0.15795  0.78158  -0.03299  0.97830  -1.02371  0.02259  1.43897  0.10509  -0.12376  0.92270  1.54700  0.01810  -1.73781  0.00745  -0.38951  0.62414  1.58565  0.10129  0.72715  0.55431  -0.54159  0.56078  -0.56289  0.62796  0.03215  0.96559  0.56959  0.34173  -1.25525  0.02755  -1.14572  0.22553  -0.22806  0.69711  0.89943  0.23034  -0.60810

0.56476  0.66018  0.19951  -0.35711  0.38686  -0.27542  0.58600  1.13775  0.29188  -0.50470  0.20105  0.04004  0.95920  0.03093  0.97819  1.02556  0.07558  -1.05567  0.06433  0.76146  0.28139  2.02921  0.01893  0.46351  0.67081  -1.73235  0.03787  -0.3096  0.76377  -0.59381  0.37012  0.86035  0.10701  -0.88458  0.07872  0.07133  0.93198  0.02075  0.96815  -0.12457  0.85095  -0.58954

78

Industries    SAIL    Satyam    SBI    SCI    Sun Pharma    Tata Chemicals    Tata Power    VSNL    Wipro

0.30154    0.20522    0.39425    0.21430    0.17858    0.22804    0.45823    0.20996    0.15160

0.27927  0.01275  0.44680  -0.01675  0.47413  0.00339  0.74046  0.00308  0.85648  0.00091  0.96256  -0.00476  0.66317  0.01193  0.32745  -0.02644  0.16070  -0.02771  0.29804

0.00012  0.79004  0.20811  2.06438  0.01960  1.21420  0.00192  1.24560  0.05216  0.27986  0.70048  0.45795  0.26333  -0.20069  0.65853  1.64328  0.02063  1.87792  0.06048

0.17181  0.85877  0.26388  0.30491  0.77559  -0.11997  0.79774  0.03969  0.95936  1.34573  0.13331  0.13347  0.78965  2.29739  0.00007  -0.25206  0.76910  0.37698  0.75647

0.13576  0.78751  0.24826  -1.32298  0.16523  -0.05074  0.90276  -0.04552  0.94748  0.85546  0.28079  0.54317  0.22273  1.51219  0.00274  -0.41556  0.58560  -1.15374  0.28598

Kết quả cho thấy trong 39 chứng  khoán có 10 chứng  khoán có hoặc B2 hoặc  B3 có ý

nghĩa. Xa hơn nữa tác giả nhận thấy trong 36 chứng khoán có beta có ý nghĩa cho giai

đoạn tổng thể có 25 chứng khoán có beta ổn định.

IV. Kết luận

Kết quả cho thấy hầu hết các chứng khoán có beta ổn định qua thời gian phân tích.

Các  phát  hiện  dường  như  khẳng  định  mạnh  mẽ  hơn,  với  31  chứng  khoán  có  beta  ổn

định bằng hai phương pháp

Tuy nhiên kết quả phụ thuộc quá nhiều vào  việc lựa chọn giai đoạn phân tích và dựa

vào cách phân loại. Chúng ta thu được các kết quả khác nhau nếu chúng ta đưa ra giai

đoạn và phân đoạn mẫu khác nhau. Kiểm tra kinh tế cho phép chúng ta kiểm tra tính ổn

định  của  beta  dựa trên  cơ  sở  xác  thực.  Vì  vậy  đưa ra  giai  đoạn  phân  tích  mà  tác  giả

chọn,  giả  thuyết  rằng  beta  ổn  định  ổn  định  là  có  giá  trị  với  một  phần  lớn  của  chứng

khoán.

79

PHỤ LỤC 4: Giả thuyết mô hình CAPM

Vì lý thuyết thị trường vốn xây dựng trên lý thuyết danh mục của Markowitz cho nên

nó sẽ cần các giả định tương tự, ngoài ra còn thêm một số giả định sau:

(1) Tất cả các nhà đầu tư đều là các nhà đầu tư hiệu quả Markowitz, họ mong muốn nắm

giữ danh  mục nằm trên đường biên hiệu quả. Vì vậy  vị trí chính xác trên đường biên

hiệu quả và danh mục cụ thể được chọn sẽ phụ thuộc vào hàm hữu dụng rủi ro – tỷ suất

sinh lợi của mỗi nhà đầu tư.

(2) Các nhà đầu tư có thể đi vay và cho vay bất kỳ số tiền nào ở lãi suất phi rủi ro - rf. Rõ

ràng,  chúng  ta  luôn  có  thể  cho  vay  bất  kỳ  số  tiền  nào  ở  mức lãi  suất  phi  rủi  ro  danh

nghĩa bằng cách mua T-bill, nhưng không thể luôn đi vay được ở mức lãi suất này. Tuy

nhiên chúng ta có thể thấy rằng việc  giả định lãi suất đi vay cao hơn không làm thay

đổi kết quả tổng quát.

(3) Tất cả các nhà đầu tư đều có các mong đợi thuần nhất: có nghĩa là, họ ước lượng các

phân phối xác suất tỷ suất sinh lợi trong tương lai giống hệt nhau. Vả lại, giả định này

có thể bỏ qua.  Lúc đó các  khác biệt trong các giá trị  mong đợi sẽ  không lớn nên các

ảnh hưởng của chúng sẽ không đáng kể.

(4) Tất cả các nhà đầu tư có phạm vi thời gian trong một kỳ như nhau chẳng hạn như một

tháng, sáu tháng hay một năm. Mô hình này sẽ được xây dựng cho moat khoảng thời

gian  giả định   và  kết quả của nó cúng  sẽ bị  ảnh hưởng bởi  việc  giả định  khác đi.  Sự

khác nhau trong phạm vi thời gian sẽ đòi hỏi các nhà đầu tư xác định ra các thước đo

rủi ro và các tài sản phi rủi ro phù hợp với các phạm vi thời gian đầu tư của họ

(5) Tất cả các khoản đầu tư có thể phân chia tùy ý, có nghĩa là các nhà đầu tư có thể mua

và bán các tỷ lệ phần trăm của bất  kỳ tài sản hay danh  mục nào. Giả thuyết  này cho

phép chúng ta thảo luận các kết hợp thành các đường cong liên tục. Thay đổi giả thuyết

này sẽ có một chút ảnh hưởng đến lý thuyết.

80

(6) Không có thuế  và chi phí giao dịch liên quan tới việc mua  và bán các tài sản. Đây là

một giả định hợp lý trong nhiều trường hợp. Các quỹ hưu bổng và các tổ chức tôn giáo

đều  không  phải  trả  thuế  và  chi  phí  giao  dịch  của  hầu  hết  các  định  chế  tài  chính  thấp

hơn 1% trên các công cụ tài chính. Bỏ qua giả định này sẽ làm thay đổi kết quả nhưng

không làm thay đổi kết cục cơ bản

(7) Không có lạm phát hay bất ký thay đổi nào trong lãi suất, hoặc lạm phát được phản ánh

một cách đầy đủ. Đây là một giả định ban đầu hợp lý và có thể được thay đổi.

(8) Các thị trường vốn ở trạng thái cân bằng. Điều này có nghĩa là chúng ta bắt đầu với tất

cả các tài sản được định giá đúng với mức độ rủi ro của chúng.

81

PHỤ LỤC 3: Giả thuyết của hồi quy tuyến tính

 Hoài quy tuyeán tính

Hoài quy tuyeán tính cho pheùp ta duøng moät bieán ñeå döï ñoaùn moät bieán khaùc

kieåm ñònh giaû thuyeát veà lieân heä giöõa 2 bieán, vaø ñònh löôïng ñoä vöõng maïnh cuûa töông

quan giöõa hai bieán.

Phaân tích hoài quy baét ñaàu vôùi bieán phuï thuoäc Y, bieán ta tìm lôøi giaûi thích.

Bieán ñoäc laäp X laø bieán ñeå giaûi thích söï thay ñoåi cuûa bieán phuï thuoäc. Ví duï, ta coá

gaéng tìm lôøi lyù giaûi cho lôïi suaát cuûa chöùng khoaùn nhoû (bieán phuï thuoäc) döïa treân lôïi

suaát cuûa S&P500 (bieán ñoäc laäp).

Hoài quy tuyeán tính giaû thieát raèng moái töông quan giöõa bieán ñoäc laäp vaø phuï

thuoäc laø tuyeán tính vaø duøng ñaúng thöùc:

Yi = b0 + b1Xi +εi, i = 1,...,n

Hai loaïi döõ lieäu cô baûn ñöôïc söû duïng trong phaân tích hoài quy laø döõ lieäu cheùo

vaø döõ kieäu theo chuoãi thôøi gian. Döõ lieäu cheùo duøng nhieàu quan saùt X vaø Y cho cuøng

moät giai ñoaïn. Nhöõng quan saùt naøy coù theå xuaát phaùt töø nhöõng coâng ty khaùc nhau,

phaân loaïi taøi saûn, quyõ ñaàu tö, ngöôøi ñaàu tö, daân toäc, hay nhöõng chuû theå khaùc nhau

tuøy vaøo moâ hình hoài quy. Ví duï nhö moâ hình cheùo duøng döõ lieäu töø nhöõng coâng ty ñeå

kieåm ñònh EPS döï ñoaùn taêng coù giaûi thích söï khaùc nhau trong tyû suaát P/E giöõa caùc

coâng ty trong moät giai ñoaïn thôøi gian. Neáu chuùng ta duøng caùc quan saùt cheùo trong

moät hoài quy, chuùng ta thöôøng xem caùc quan saùt i=1,2,..n. Moät caùch chính xaùc, hoài

quy tuyeán tính öôùc löôïng b0, b1 nhö theá naøo? Hoài quy tuyeán tính laø ñöôøng thaúng bình

phöông beù nhaát phuø hôïp vôùi caùc quan saùt. Noù tìm nhöõng giaù trò coù ñoä doác b0, giao

ñieåm b1 naøo toái thieåu hoùa toång cuûa bình phöông caùc khoaûng caùch doïc giöõa caùc quan

82

 0b

 1b

saùt vôùi ñöôøng hoài quy. Ñoù laø ñöôøng hoài quy laáy nhöõng thoâng soá trong ñaúng ,

n

i

ˆ Xb 1

2

i

 ˆ bY  0

i

 1

n

thöùc treân ñeå toái thieåu hoùa:

ˆ Xb 1

i

2

i

 ˆ bY  0

i

1 

Trong ñaúng thöùc naøy, ñaúng thöùc laø bình phöông cuûa (bieán

phuï thuoäc – giaù trò döï ñoaùn cuûa bieán phuï thuoäc).

 Caùc giaû thieát cuûa hoài quy tuyeán tính

Ñeå coù keát luaän ñöôïc töø moâ hình hoài quy tuyeán tính vôùi moät bieán phuï thuoäc,

caàn coù 6 giaû thieát, ñöôïc bieát nhö laø nhöõng giaû thieát kinh ñieån cuûa moâ hình hoài quy

tuyeán tính.

Giaû thieát 1: Moät töông quan tuyeán tính toàn taïi giöõa bieán phuï thuoäc Y vaø bieán

ñoäc laäp X. Töông quan naøy laø tuyeán tính trong caùc thoâng soá b0, b1.

Giaû thieát 1 laø quan troïng trong moät hoài quy tuyeán tính. Neáu caùc bieán ñoäc laäp vaø phuï

thuoäc coù moät töông quan khoâng tuyeán tính, thì öôùc tính veà hoài quy tuyeán tính seõ

khoâng coù hieäu löïc.

Cho duø caùc bieán trong moâ hình laø phi tuyeán tính, hoài quy tuyeán tính coù theå

ñöôïc söû duïng khi bieán coù theå chuyeån sang ñaúng thöùc tuyeán tính cho caùc tham soá. Do

2) +εi

ñoù, hoài quy tuyeán tính coù theå ñöôïc söû duïng khi bieán coù theå ñöôïc söû duïng ñeå öôùc

löôïng ñaúng thöùc Yi = b0+ b1(xi

Giaû thieát 2: Bieán ñoäc laäp X khoâng laø ngaãu nhieân

Giaû thieát 3: Giaù trò mong ñôïi cuûa sai soá laø 0

Giaû thieát 2 vaø 3 caàn thieát ñeå ñaûm baûo raèng hoài quy tuyeán tính cho nhöõng öôùc

löôïng ñuùng veà b0, b1.

83

Giaû thieát 4: Bieán cuûa sai soá laø gioáng nhau cho taát caû quan saùt. Giaû thieát 4 veà

bieán sai soá coù gioáng nhau cho taát caû caùc quan saùt cuõng ñöôïc bieát nhö laø giaû thieát

homoskedasticity

Giaû thieát 5: Sai soá, khoâng coù lieân heä töông quan vôùi caùc bieán cheùo. Keát quaû

E(εi, εj)=0 vôùi moïi i khaùc j. Giaû thieát 5 veà sai soá khoâng coù töông quan cheùo giöõa caùc

quan saùt

Giaû thieát 6: Sai soá εi coù phaân phoái thoâng thöôøng. Neáu sai soá hoài quy khoâng coù

phaân phoái thöôøng, chuùng ta coù theå vaãn duøng phaân tích hoài quy chöù? May thay, coù.

Caùc nhaø toaùn kinh teá hoïc duøng F-test ñeå kieåm ñònh giaû thieát. Nhöng khaùc bieät naøy

thöôøng khoâng aûnh höôûng ñeán kieåm ñònh veà moät giaû thieát troáng bò baùc boû hay khoâng.

Ba giaû thieát 4, 5vaø 6 cho pheùp chuùng ta duøng moâ hình hoài quy tuyeán tính xaùc

 0b

 , 1b

ñònh phaân phoái cuûa caùc thoâng soá , vaø do ñoù, kieåm ñònh nhöõng heä soá ñoù coù giaù

trò cuï theå hay khoâng.

 Heä soá xaùc ñònh

Maëc duø sai soá chuaån cuûa öôùc löôïng coù ñöa ra moät daáu hieäu naøo ñoù veà möùc ñoä

chaéc chaén cuûa döï ñoaùn Y baèng caùch duøng ñaúng thöùc hoài quy, noù vaãn khoâng cho

chuùng ta bieát bieán ñoäc laäp lyù giaûi theá naøo veà söï thay ñoåi trong bieán phuï thuoäc. Heä soá

xaùc ñònh laøm ñieàu naøy moät caùch chính xaùc: noù ño löôøng tyû leä bieán phuï thuoäc treân

toång soá bieán ñöôïc giaûi thích bôûi bieán ñoäc laäp.

Heä soá xaùc ñònh coù theå ñöôïc tính baèng 2 caùch. Caùch ñôn giaûn hôn ñöôïc söû

duïng trong hoài quy tuyeán tính vôùi moät bieán ñoäc laäp. Ví duï: heä soá töông quan giöõa lôïi

suaát cuûa S&P500 vaø chöùng khoaùn nhoû giai ñoaïn 1/1998 vaø 6/1998 laø 0.8234. Heä soá

xaùc ñònh trong hoài quy laø (0.8234)2= 0.6780. Do ñoù, trong hoài quy naøy, lôïi suaát của

84

S&P500 giaû thích 67.80% söï thay ñoåi trong lôïi suaát chöùng khoaùn nhoû trong giai ñoaïn

naøy.

ˆ Y i

ˆ 0  b

ˆ Xb i

i

. Neáu Khi duøng quan heä hoài quy ñeå döï ñoaùn, giaù trò döï ñoaùn laø

iYˆ seõ nhoû

n

 2 toång bieán thieân

töông quan hoài quy hoaït ñoäng toát, sai soá trong döï ñoaùn Yi baèng caùch duøng

 Y i Y  i

i

1 

n

hôn sai soá trong döï ñoaùn Yi baèng caùch duøng Y . Neáu goïi

 2 bieán thieân khoâng giaûi thích ñöôïc töø hoài quy baèng caùch duøng

 Y i Y  i

i

1 

cuûa Y vaø

ñaúng thöùc sau:

Toång bieán thieân=bieán khoâng giaûi thích ñöôïc+bieán giaûi thích ñöôïc

Heä soá xaùc ñònh laø phaân soá cuûa toång bieán giaûi thích ñöôïc bôûi hoài quy. Ñieàu naøy

bieán giaûi thích ñöôïc

R2=

Toång bieán

cho moái quan heä: