BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------
NGUYỄN VÕ THANH VY HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ SỐ KPI TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC TẠI CTCP PHÁT TRIỂN NAM SÀI GÒN (SADECO) LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------
NGUYỄN VÕ THANH VY HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ SỐ KPI TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC TẠI CTCP PHÁT TRIỂN NAM SÀI GÒN (SADECO)
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
(hƣớng ứng dụng)
Mã số: 8340101
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PSG.TS. NGUYỄN QUANG THU
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Võ Thanh Vy, học viên cao học K27 ngành Quản trị kinh
Tôi xin cam đoan luận văn nghiên cứu đề tài “hoàn thiện hệ thống chỉ số KPI
trong việc đánh giá hiệu quả thực hiện công việc tại CTCP Phát triển Nam Sài Gòn
(SADECO)” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Nguyễn Quang Thu. Các thông tin trong luận văn này là trung thực, các tài
liệu tham khảo được trích dẫn rõ ràng. Nội dung và kết quả nghiên cứu chưa được công
bố trong bất kỳ đề tài nào.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày….. tháng….. năm 2019
doanh trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngƣời thực hiện luận văn
Nguyễn Võ Thanh Vy
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH ẢNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT
ABSTRACT
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
DANH MỤC HÌNH ẢNH ....................................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU ....................................................................................... v
TÓM TẮT .................................................................................................................. i
ABSTRACT .............................................................................................................. ii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Giới thiệu Công ty và vấn đề cần nghiên cứu ............................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
5. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ VÀ KPI ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ....................................................................................... 9
1.1. Các khái niệm liên quan .............................................................................. 9
1.1.1. Khái niệm về yếu tố thành công cốt yếu (CFS) ...................................... 9
1.1.2. Khái niệm về thẻ điểm cân bằng (BSC) ............................................... 10
1.1.3. Khái niệm về chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu (KPI) ......................... 10
1.1.4. Các đặc điểm của KPI ........................................................................... 11
1.1.5. Ưu điểm và khuyết điểm của KPI ......................................................... 13
1.2. Áp dụng KPIs trong quản lý doanh nghiệp ............................................ 15
1.2.1. Mối liên hệ giữa KPI với BSC, CFS và các mục tiêu chiến lược......... 15
1.2.2. Mối liên hệ giữa KPI và chế độ khen thưởng ....................................... 16
1.2.3. Những yếu tố cần thiết để xây dựng KPIs hiệu quả ............................. 21
1.2.4. Kinh nghiệm khắc phục những vấn đề phát sinh khi triển khai KPI .... 24
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI HỆ THỐNG KPI
TẠI CTCP PHÁT TRIỂN NAM SÀI GÒN .......................................................... 27
2.1. Tổng quan hoạt động áp dụng KPI tại Công ty SADECO .................... 27
2.1.1. Đối tượng áp dụng ................................................................................ 27
2.1.2. Mục tiêu của việc thực hiện hệ thống KPI............................................ 27
2.1.3. Ban Kiểm soát KPI ............................................................................... 28
2.2. Mô tả cách thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO ........................... 28
2.2.1. Phân loại, phân cấp thẩm quyền đánh giá, phê duyệt KPI ................... 28
2.2.2. Cách thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO ................................... 30
2.3. Đánh giá kết quả thực tế ........................................................................... 30
2.3.1. Mô tả kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trước và sau quá trình
triển khai KPI ..................................................................................................... 30
2.3.2. Những hạn chế và vấn đề tồn tại ........................................................... 36
2.4. Xác định nguyên nhân ............................................................................... 43
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KPI TẠI CTCP
SADECO .................................................................................................................. 57
3.1. Xây dựng và củng cố những yếu tố nền cho việc triển khai KPI .......... 57
3.2. Xây dựng mục tiêu chiến lƣợc Công ty SADECO .................................. 61
3.3. Xây dựng chỉ số KPI .................................................................................. 62
3.4. Một số vấn đề cần lƣu ý khi lập chỉ số chi tiết ........................................ 68
3.5. Áp dụng phƣơng án đề xuất đánh giá lại KPI năm 2018 ...................... 69
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 72
DANH MỤC THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Thẻ điểm cân bằng (Balanced scorecard) BSC Cán bộ nhân viên CBNV Giám đốc điều hành (Chief Executive Officer) CEO Yếu tố thành công cốt yếu (Critical Success Factors) CSF Công ty cổ phần CTCP Công ty TNHH Một thành viên Phát triển Công nghiệp Tân Thuận IPC Chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu (key performance indicator) KPI Chỉ số đo lường kết quả cốt yếu (key result indicator) KRI Chỉ số đo lường hiệu suất (performance indicator) PI RI Chỉ số đo lường kết quả (result indicator) SADECO Công ty cổ phần Phát triển Nam Sài Gòn UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 0.1 Cơ cấu tổ chức CTCP SADECO ................................................................. 3
Hình 1.1 Chuỗi các mối liên hệ giữa chiến lược, CSF và KPI ................................. 15
Hình 2.1 Biểu đồ tỷ lệ thực hiện kế hoạch năm Công ty SADECO về doanh thu và
lợi nhuận giai đoạn 2013-2018 (đơn vị:%) ............................................................... 34
Hình 2.2 Các chỉ tiêu tài chính Công ty SADECO giai đoạn 2015-2018 (đơn vị: tỷ
đồng).......................................................................................................................... 35
Hình 2.3 Mức độ chênh lệch giữa tự đánh giá và đánh giá lại kết quả KPI của các
Phòng ban Công ty SADECO giai đoạn 2017-2018 ................................................. 37
Hình 2.4 Mối quan hệ giữa các Phòng ban trực tiếp trong Công ty SADECO giai
đoạn chuẩn bị đầu tư ................................................................................................. 40
Hình 2.5 Mối quan hệ giữa các Phòng ban trực tiếp trong Công ty SADECO giai
đoạn triển khai dự án ................................................................................................. 41
Hình 2.6 Các nguyên nhân khiến KPI không thúc đẩy quá trình thực hiện chiến lược
tại SADECO .............................................................................................................. 44
Hình 2.7 Các nguyên nhân khiến kết quả đánh giá KPI không tương thích với kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của SADECO ................................................... 45
Hình 2.8 Các nguyên nhân khiến việc đánh giá KPI chủ quan không thống nhất giữa
các Phòng ban và không phản ánh được năng lực và nỗ lực của người lao động tại
SADECO ................................................................................................................... 46
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Phân loại KPI tại Công ty SADECO ......................................................... 29
Bảng 2.2 Thẩm quyền phê duyệt KPI tại Công ty SADECO ................................... 29
Bảng 2.3 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của Công ty SADECO giai đoạn
2013-2018.................................................................................................................. 31
Bảng 2.4 Kế hoạch tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận Công ty SADECO giai đoạn
2014-2018.................................................................................................................. 32
Bảng 2.5 Kết quả đánh giá KPI năm 2018 của các Phòng ban và CBNV Công ty
SADECO ................................................................................................................... 38
Bảng 3.1 Các mục tiêu chiến lược của Công ty SADECO ....................................... 62
Bảng 3.2 Các nội dung chỉ tiêu KPI được đề xuất áp dụng tại Công ty SADECO
năm 2019 ................................................................................................................... 63
Bảng 3.3 So sánh kết quả đánh giá KPI năm 2018 của các phòng ban và CBNV
Công ty SADECO theo phương pháp cũ và mới ...................................................... 69
TÓM TẮT
1. Tiêu đề: tóm tắt đề tài luận văn “hoàn thiện hệ thống chỉ số KPI trong việc đánh giá hiệu quả thực hiện công việc tại CTCP Phát triển Nam Sài Gòn (SADECO)”
2. Tóm tắt:
Đối mặt với tình hình cạnh tranh ngày càng cao trên thị trường bất động sản
tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng với việc suy giảm lợi thế về sản phẩm đất nền giá
rẻ, Công ty cổ phần Phát triển Nam Sài Gòn (SADECO) đã tiến hành triển khai hệ
thống KPI nhằm giúp gia tăng hiệu quả và hiệu suất hoạt động. Tuy vậy, trái với kỳ
vọng của Ban điều hành, sau khi áp dụng KPI, kết quả đánh giá hoạt động của công
ty bắt đầu phát sinh một số vấn đề tiêu cực cũng như khả năng hoàn thành kế hoạch
sụt giảm mạnh so với trước đây.
Bên cạnh việc phân tích, đánh giá thực trạng của Công ty kết hợp với cơ sở
lý thuyết, đề tài này chủ yếu sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia xác định
nguyên nhân của những hạn chế và vấn đề còn tồn tại trong quá trình triển khai và
áp dụng KPI. Thông qua đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống KPI tại Công ty
SADECO bao gồm việc xây dựng và củng cố 7 yếu tố nền; xây dựng mục tiêu chiến
lược, xác định nội dung của 21 chỉ số KPI phù hợp và các nguyên tắc tiên quyết để
triển khai thành công KPI. Việc áp dụng các đề xuất để đánh giá lại kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh năm 2018 của Công ty SADECO cho thấy hệ thống chỉ
số KPI sau khi được cải thiện phản ánh tốt hơn kết quả hoạt động của Công ty.
Tuy còn tồn tại nhiều hạn chế như biện pháp đề xuất chưa thể khắc phục tất
cả các nguyên nhân đã được xác định; nghiên cứu thực hiện trên Công ty SADECO
với các nhiệm vụ chính trị và xã hội đặc thù nên việc ứng dụng kết quả nghiên cứu
cho ngành Bất động sản có thể gặp nhiều hạn chế. Tuy vậy, nghiên cứu này sẽ góp
phần hỗ trợ Ban Điều hành tại SADECO đưa ra phương hướng hoạt động cũng như
cải thiện hiệu suất hoạt động của Công ty trong tương lai.
3. Từ khóa: chỉ số, hiệu suất cốt yếu, KPI, bất động sản
ABSTRACT
1. Title: The summary of the research "perfecting the construction of KPI
index system in assessing the effectiveness of work performance at South Saigon
Development Joint Stock Company (SADECO)"
2. Summary:
Faced with the increasing competition in the real estate market in Ho Chi
Minh City along with the decline in advantages of low-cost land products, Saigon
South Development Joint Stock Company (SADECO) has implement KPI system to
help increase efficiency and operational efficiency. However, after applying KPI,
not only the company's performance rapidly reduced but also there were many
negative issues from the labor more and more.
Analyzing and assessing the situation of the Company based on theoretical
basis, this topic mainly uses expert interview methods to identify the causes of
limitations and major problems. Through that, propose solutions to improve the
construction of KPI system at SADECO including the construction and
consolidation of 7 factors; build strategic objectives, determine the content of 21
relevant KPI indicators and prerequisite principles for successful implementation of
KPI. The application of proposals to re-evaluate the business performance in 2018
of SADECO showed that the construction of KPI index system after being
improved reflects more accurately the performance of Cong. company.
The application of this research result to the real estate industry may face
many limitations due to this study is not able to provide solution for all identified
causes and be carried out on special situation of SADECO'S which was linked to
political and social tasks. However, this study will contribute to support the
Executive Board at SADECO to provide operational direction as well as to improve
the performance of the Company in the future.
3. Keywords: Key Performance Indicators, KPI, real estate
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu Công ty và vấn đề cần nghiên cứu
Công ty Cổ phần Phát triển Nam Sài Gòn được thành lập từ năm 1994, vốn
điều lệ đầu tiên chỉ 41,2 tỷ đồng, lĩnh vực kinh doanh chính bao gồm: Kinh doanh
bất động sản và quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu; Dịch vụ tư vấn xây dựng, lập
dự án đầu tư môi giới, định giá bất động sản, sàn giao dịch bất động sản và Xây
dựng nhà các loại, công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, cơ sở hạ tầng và nhà
ở lưu trú cho công nhân…
Năm 1989, Công ty TNHH Một thành viên Phát triển Công nghiệp Tân
Thuận (IPC) – Công ty 100% vốn của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
được thành lập, mang nhiệm vụ chính trị đầu tư phát triển kinh tế xã hội thành phố.
Năm 1993, Quy hoạch tổng thể Khu đô thị mới Nam Thành phố được thủ tướng phê
duyệt. Với mục tiêu mở rộng khu dân cư, giải quyết các vấn đề về ách tắc giao
thông, chống ngập nước và chỉnh trang khu vực ven thành phố, vào năm 1994,
Công ty Cổ phần Phát triển Nam Sài Gòn (SADECO) được thành lập, hoạt động
dưới hình thức công ty con của IPC. Thực hiện nhiệm vụ đền bù giải tỏa và bố trí
tái định cư trên khu vực phía Nam Thành phố (Khu Nam), đặc biệt là khu vực quận
7 và huyện Bình Chánh, SADECO trở thành một trong những công ty cổ phần đầu
tiên của Tp.HCM có vốn nhà nước chi phối hoạt động trong lĩnh vực bất động sản.
Sứ mệnh đầu tiên của Công ty được xác định là “Xây dựng những khu tái
định cư khang trang, tiện ích nhằm tạo nên một nơi an cư lâu dài cho các hộ dân
trong khu vực giải tỏa; kinh doanh có hiệu quả bằng cách không ngừng nâng cao
chất lượng sống cho khách hàng bằng những sản phẩm nhà, đất ưu việt với hạ tầng
kỹ thuật hoàn chỉnh dựa trên nguyên tắc bảo vệ môi trường”. Do đặc thù hình thành,
trong giai đoạn 1994-1998, SADECO chỉ tập trung nhiệm vụ chính trị mà UBND
thành phố giao phó, di dời và bố trí tái định cư cho gần 3.500 hộ dân, bàn giao gần
600ha đất cho Công ty IPC tiếp tục đầu tư xây dựng đại lộ Nguyễn Văn Linh và khu
đô thị mới Phú Mỹ Hưng. Sau khi hoàn thành sứ mệnh chính trị đầu tiên, năm 1999,
2
SADECO thực sự bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình. Sứ mệnh của Công ty
được điều chỉnh, củng cố và truyền thông rộng rãi gồm:
Thứ nhất là xây dựng những khu tái định cư khang trang, tiện ích nhằm tạo
nên một nơi an cư lâu dài cho các hộ dân trong khu vực giải tỏa đồng thời thực hiện
mục tiêu giãn dân, giảm áp lực dân số cho khu vực nội thị.
Thứ hai là tham gia chương trình xây dựng 11.000 căn hộ tái định cư tại khu
độ thị Nam Sài Gòn của Ủy ban nhân dân thành phố.
Thứ ba là giải tỏa đền bù và xây dựng những khu tái định cư khang trang
tiện ích nhằm góp phần thực thi mục tiêu chỉnh trang đô thị của thành phố.
Thứ tƣ là tạo nên các giá trị lợi ích cho cộng đồng và xã hội với các yếu tố
thân thiện môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống: tiện nghi, an toàn với
đầy đủ các tiện ích cùng hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh.
Trong quá trình hình thành và phát triển, SADECO đã xác định tầm nhìn 3
điểm, bao gồm:
Là một trong mười công ty đầu tư xây dựng, kinh doanh địa ốc có
thương hiệu và uy tín tại Việt Nam;
Định vị trở thành đơn vị có phong cách phục vụ khách hàng tốt nhất;
Trở thành tập đoàn kinh tế tầm cỡ có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng
trong năm năm tới.
Sau khi thực sự bắt đầu hoạt động kinh doanh, xác định hoạt động cung cấp
quỹ đất đã được bồi thường và san lấp sơ bộ là mảng kinh doanh có lợi nhuận thấp,
SADECO đã mở rộng hoạt động kinh doanh sang kinh doanh đất nền đã được hoàn
chỉnh hạ tầng tại các dự án. Năm 2001, Khu định cư Tân Quy Đông do SADECO
làm chủ đầu tư trở thành khu định cư đầu tiên của cả nước có trạm xử lý nước thải công suất lên đến 500m3/ngày đêm. Năm 2002, Công ty đầu tư xây dựng khu lưu
trú công nhân đầu tiên của thành phố tại khu chế xuất Tân Thuận. Đây không chỉ là
hoạt động trong chuỗi nhiệm vụ chính trị - an sinh do UBND giao mà còn là hoạt
động đa dạng hóa các dòng sản phẩm của SADECO trong giai đoạn đầu hình thành
và phát triển.
3
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
BAN KIỂM SOÁT
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÒNG KỸ THUẬT
PHÒNG BỒI THƯỜNG
PHÒNG KINH DOANH TIẾP THỊ
PHÒNG KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ
PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
PHÒNG QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH
BAN QUẢN LÝ KHU LƯU TRÚ
BỘ PHẬN QUẢN TRỊ NHÂN SỰ
Cơ cấu tổ chức của Công ty được thể hiện ở Hình 1.1 như sau:
Hình 0.1 Cơ cấu tổ chức CTCP SADECO
Nguồn: Quy chế quản trị Công ty 2018
Trong đó:
“Phòng ban trực tiếp” bao gồm Phòng Kỹ thuật, Phòng Kế hoạch Đầu tư,
Phòng Bồi thường và Phòng Kinh doanh tiếp thị;
“Phòng ban gián tiếp” bao gồm Phòng Quản trị hành chính, Ban quản lý Khu
lưu trú, Phòng Tài chính Kế toán và Bộ phận Quản trị nhân sự.
Với hệ thống nền tảng vững chắc, đặc biệt là lợi thế về quỹ đất giá rẻ được
bồi thường trong giai đoạn đầu thành lập, SADECO có nhiều thuận lợi trong việc
triển khai đầu tư và khai thác nhiều dự án trọng điểm tại Khu Nam. Đến năm 2017,
SADECO đã và đang đầu tư, khai thác 10 dự án phân bổ khắp quận 7, Nhà Bè, Bình
Chánh và định hướng mở rộng về Long An, tốc độ tăng trưởng doanh thu hằng năm
của công ty đạt tối thiểu 30%. Sau hai lần tăng vốn điều lệ theo lộ trình của UBND
thành phố, vốn điều lệ của SADECO năm 2017 đạt 170 tỷ đồng, suất sinh lời trung
bình năm đạt 30%, chia cổ tức đều đặng bằng tiền mặt với tỷ lệ tối thiểu 20%.
4
Cũng trong năm 2017, Ban điều hành SADECO xác định lợi thế về quỹ đất
giá rẻ của Công ty đang sụt giảm mạnh nên cần triển khai kiện toàn bộ máy để nâng
cao hiệu quả họat động toàn công ty. Theo đó, hệ thống KPI (key performance
indicator- chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu) được đánh giá là phù hợp với nhu cầu
và định hướng phát triển của công ty nên đã được xem xét triển khai và áp dụng tại
công ty từ cuối năm 2017. Theo Niven (2006), việc chỉ tập trung vào các thước đo
tài chính và các chỉ số kế toán chỉ, vốn chỉ tập trung vào những vấn đề liên quan
đến tài sản hữu hình, thể hiện số liệu và những việc đã xảy ra trong quá khứ, ít có
giá trị dự báo cho tương lai, không còn phù hợp với việc kinh doanh hiện nay. Các
hoạt động tạo ra giá trị cho tổ chức ngày nay còn bao gồm những mối quan hệ với
khách hàng và các bên liên quan; khả năng quản lý những vấn đề liên quan đến
quản trị hệ thống và chất lượng; khả năng học hỏi và phát triển kỹ năng của nhân
viên cũng như khả năng đổi mới doanh nghiệp. Theo Parmenter (2015), KPI là các
chỉ số hiệu suất cốt yếu thể hiện trên 4 khía cạnh: tài chính, khách hàng, quy trình
nội bộ (vận hành) và đổi mới phát triển (học hỏi - sáng tạo), cho biết Công ty cần
phải làm gì, như thế nào để có được những yếu tố quyết định giúp Công ty đạt được
mục tiêu đã đề ra. Việc kiểm soát hệ thống KPI giúp gia tăng hiệu quả và hiệu suất
của công ty lên đáng kể. Tuy vậy, trái với kỳ vọng của Ban điều hành, sau khi áp
dụng KPI, kết quả đánh giá hoạt động của công ty bắt đầu phát sinh một số vấn đề
tiêu cực cũng như khả năng hoàn thành kế hoạch sụt giảm mạnh so với trước đây.
Cụ thể:
Thứ nhất, kết quả hoạt động của các Phòng ban có dấu hiệu sụt giảm so với
kỳ vọng tăng 20%-50% so với trước khi áp dụng KPI. Theo Parmenter (2015), KPI
là công cụ giúp kiểm soát và thúc đẩy người lao động và các Phòng ban hoạt động
theo định hướng thông qua việc giao nhiệm vụ, định hướng hoạt động và đo lường,
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cá nhân, Phòng ban. Nhưng trên
thực tế, sản lượng bồi thường từ cuối năm 2017 (bắt đầu triển khai áp dụng KPI)
đến 31/12/2018 luôn chỉ đạt dưới 1% kế hoạch định kỳ. Kết quả hoạt động sản xuất
5
kinh doanh tất cả các tháng, quý và cả năm 2018 không đạt theo kế hoạch được Đại
hội đồng cổ đông thông qua…
Thứ hai, Parmenter (2015) cũng cho rằng KPI có thể giúp cấp quản lý đo
lường, đánh giá, lượng hóa thành quả của cá nhân và Phòng ban nhưng thực tế hệ
thống chỉ số KPI hiện tại chưa thể cung cấp đầy đủ cơ sở để Ban Điều hành đánh
giá đúng nỗ lực và năng lực các Phòng ban cũng như cá nhân trong việc tiết giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động Công ty. Cụ thể, cách tính các chỉ số KPI
cũng như chỉ tiêu KPI đặt ra trong kỳ đánh giá chỉ xuất phát từ đề xuất của các
Phòng ban và cá nhân theo hướng từ dưới lên (bottom up) nên còn mang tính chủ
quan và chưa phù hợp với định hướng KPI của Công ty. Điều này không chỉ gây
khó khăn cho Ban điều hành trong việc so sánh, đánh giá năng lực và hiệu quả hoạt
động của từng Phòng ban và cá nhân mà còn hạn chế khả năng phối hợp giữa các
Phòng ban trong công ty. Cụ thể, do việc đề xuất cách tính và chỉ tiêu KPI trong kỳ
đánh giá của từng Phòng ban được trình trực tiếp lên Ban KPI và Ban điều hành,
không có sự tham gia của các Phòng ban hỗ trợ có liên quan nên không có sự thống
nhất phối hợp giữa hoạt động của các Phòng ban. Việc đăng ký mang tính chất cục
bộ đó khiến cho các Phòng ban ưu tiên thực hiện những công việc được đăng ký,
trong khi đầu ra của Phòng ban này là đầu vào của Phòng ban khác, dẫn đến nhiều
công việc tiền đề không được thực hiện đúng hạn làm ảnh hưởng đến khả năng hoàn
thành KPI và nhiệm vụ chính của các Phòng ban khác trong chuỗi hoạt động của
công ty. Mặt khác, Parmenter (2015) không khuyến khích việc gắn liền hệ thống
đánh giá hiệu quả làm việc với chế độ lương thưởng vì điều đó có thể gây những tác
động tiêu cực lên người lao động bao gồm: chỉ tập trung thực hiện những hoạt động,
nhiệm vụ hoặc phần công việc được đánh giá, chỉ nỗ lực trong quá trình được đánh
giá hoặc có những hành động gây sai lệch kết quả đánh giá so với thực tế… nhằm
đạt được chế độ lương thưởng tốt hơn. Trên thực tế, Công ty SADECO lại đang gắn
liền hệ thống đánh giá KPI với chế độ lương 3P, tác động trực tiếp đến quyền lợi
của người lao động. Đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân khiến cho kết
quả đánh giá theo KPI của các Phòng ban và cá nhân luôn đạt kết quả cao trong khi
6
hiệu quả và hiệu suất hoạt động của công ty đều không đạt được kết quả như kỳ
vọng.
Thứ ba, Parmenter (2015) cho rằng KPI cho biết Công ty cần phải làm gì,
như thế nào để đạt được mục tiêu đã đề ra nhưng trên thực tế, do nhiều yếu tố chủ
quan, việc đề xuất các chỉ tiêu KPI định kỳ theo phương pháp hiện tại chưa thể chỉ
ra được những công việc trọng tâm cần phải thực hiện trong thời gian nhất định,
những phương án thay thế, định hướng điều chỉnh khi có những thay đổi trong quá
trình thực hiện, đặc biệt là khi có những thay đổi bất khả kháng (như thay đổi luật
và các cơ sở pháp lý hiện hành, thay đổi chủ trương, chính sách triển khai…). Điều
đó không chỉ làm giảm hiệu quả đánh giá của hệ thống KPI mà còn hạn chế khả
năng định hướng và điều chỉnh phù hợp, giúp Công ty đạt được những mục tiêu đã
đề ra trong kỳ đánh giá. Đồng thời, việc theo dõi các chỉ số KPI hiện tại cũng chưa
thể giúp Ban điều hành có định hướng và cơ sở đầy đủ để xây dựng kế hoạch đảm
bảo Công ty hoạt động đúng theo chiến lược và đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Từ thực trạng trên, đề tài “hoàn thiện hệ thống chỉ số KPI trong việc đánh
giá hiệu quả thực hiện công việc tại CTCP Phát triển Nam Sài Gòn
(SADECO)” được thực hiện nhằm xác định các giải pháp nâng cao tính chính xác
và khả thi của hệ thống KPI trong việc đánh giá hiệu quả thực hiện công việc cũng
như giúp gia tăng hiệu quả và hiệu suất hoạt động của Công ty.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm hoàn
thiện hệ thống chỉ số KPI trong việc đánh giá hiệu quả thực hiện công việc tại
CTCP Phát triển Nam Sài Gòn (SADECO). Các mục tiêu cụ thể:
Xác định các hạn chế tồn tại và nguyên nhân của chúng qua việc phân
tích hoạt động triển khai KPI hiện tại của công ty;
Đề xuất các giải pháp giúp Công ty hoàn thiện hệ thống chỉ số KPI.
7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống KPI đang được triển khai áp dụng tại
SADECO từ quý 4/2017 đến hết quý 4/2018.
Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động đánh giá hiệu quả hoạt động của SADECO trước và sau
khi áp dụng hệ thống KPI (2015-2018).
Hệ thống KPI ở các cấp (Công ty, Phòng ban, cá nhân) và theo thời
đoạn (năm, quý, tháng) đang được triển khai tại Công ty.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng kết hợp phương pháp định tính như sau:
+ Trên cơ sở lý thuyết và phỏng vấn sâu với các bên liên quan (ban điều
hành, bộ phận nhân sự và nhân viên các Phòng ban) nhằm xác định nguyên nhân
những vấn đề phát sinh và khả năng chấp thuận áp dụng bộ chỉ số KPI mới sau khi
điều chỉnh.
+ Trên kết quả kiểm soát quá trình bằng các công cụ thống kê để xác định
nguyên nhân những vấn đề phát sinh cũng như tác động của những vấn đề đó lên
hiệu quả và hiệu suất hoạt động của Công ty.
+ Tổng hợp tài liệu và số liệu thứ cấp sau đó tiến hành phân tích, diễn giải,
xác định các tiêu chí đánh giá, các thang đo.
Tác giả cũng sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp để đưa ra các kết
luận sơ bộ cho nghiên cứu.
Nguồn dữ liệu: Số liệu thống kê do công ty cung cấp về hệ thống KPI và các
báo cáo quản trị giai đoạn 2014-2018.
5. Kết cấu đề tài
Luận văn có kết cấu các phần và chương sau:
8
Phần mở đầu: Giới thiệu Công ty và vấn đề cần nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết cấu
đề tài
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết về hiệu quả và KPI đánh giá hiệu quả hoạt động
của CTCP SADECO
Chƣơng 2: Phân tích thực trạng hệ thống KPI đang triển khai tại CTCP
SADECO
Chƣơng 3: Giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ số KPI KPI tại
CTCP SADECO
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ VÀ KPI ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm về yếu tố thành công cốt yếu (CFS)
Theo Rockart (1979), các “yếu tố thành công cốt yếu” (Critical Success
Factors - CSF) là một trong số rất ít những nội dung quan trọng, bao gồm những
việc “bắt buộc phải làm đúng (must go right)”, mà nếu được thực hiện đầy đủ sẽ
đảm bảo tính cạnh tranh cho tổ chức. Trái lại, nếu những nội dung này không được
thực hiện đầy đủ, các nỗ lực của tổ chức trong khoảng thời gian tương tự sẽ đạt
được ít kết quả hơn kỳ vọng.
Theo Boynton và Zmud (1984), các yếu tố thành công cốt yếu CSF là một số
rất ít những điều trọng yếu mà các tổ chức cần phải thực hiện tốt nhằm đảm bảo đạt
được thành công trong việc quản lý tổ chức đó. CSF cũng bao gồm những vấn đề
trọng yếu liên quan đến quá trình hoạt động trong hiện tại hoặc có tác động đến
thành công trong tương lai của tổ chức. Vì vậy, các doanh nghiệp càng phải càng
đặc biệt chú trọng và tuân theo nhằm đảm bảo đạt được hiệu suất cao.
Theo Baker và AusIndustry (2002), Các yếu tố thành công cốt yếu CFS là
danh sách các vấn đề hoặc khía cạnh của hiệu suất tổ chức, xác định tình trạng tồn
tại, hoạt động và phát triển của tổ chức.
Theo Parmenter (2015), yếu tố thành công cốt yếu CSF nên đạt được những
tiêu chuẩn theo phương pháp SMART (SMART method) được áp dụng trong việc
xác định mục tiêu trong mô hình Quản trị theo Mục tiêu của Drucker (1954) bao
gồm:
Cụ thể (S – specific): từng yếu tố cần được xác định và mô tả cụ thể, chính
xác và rõ ràng không chỉ nhằm định hướng cho nhà quản trị và người lao động cách
đạt được mục tiêu chiến lược mà còn giúp họ nhận thức được tầm quan trọng của
việc thực hiện chúng.
Có thể đo lƣờng (M – measureable): từng yếu tố cần được gắn kết với các
thước đo cụ thể.
10
Có thể đạt đƣợc (A – achievable): các yếu tố phải mang tính khả thi và phải
được truyền đạt chính xác, rõ ràng nhằm đảm bảo mọi người trong tổ chức nhận
thức được tính khả thi đó.
Thực tế (R – realistic): từng yếu tố phải phù hợp với thực tế hoạt động của
tổ chức, đảm bảo tổ chức có đủ nguồn lực để thực hiện, có tính thử thách (để tạo
động lực phát triển) và giữ được sự cân bằng giữa các yếu tố.
Nhạy cảm với thời gian (T – Time sensitive): các yếu tố có thể thay đổi
theo thời gian nhằm đảm bảo phù hợp với tình hình hoạt động của tổ chức.
1.1.2. Khái niệm về thẻ điểm cân bằng (BSC)
Theo Kaplan, R.S và Norton, D.P (1996), Thẻ điểm cân bằng (Balanced
scorecard - BSC) là tập hợp các thước đo hiệu quả hoạt động, diễn giải chiến lược
và sứ mệnh của tổ chức, đồng thời cung cấp một khung làm việc cho hệ thống quản
lý và đo lường chiến lược. BSC tính toán hiệu suất hoạt động của tổ chức trên 4
khía cạnh tài chính, khách hàng, quá kinh doanh nội tại và học tập – tăng trưởng.
Ngoài vai trò là hệ thống đo lường chiến thuật và hoạt động, BSC hiện đang được
sử dung như một hệ thống quản lý chiến lược nhằm hoàn thành 4 quá trình quản lý
trọng yếu bao gồm: cụ thể hóa tầm nhìn và chiến lược Công ty; gắn chiến lược với
các thước đo và truyền đạt đến người lao động; đặt mục tiêu, lên kế hoạch chi tiết
và liên kết các sáng kiến chiến lược; gia tăng sự phản hồi đa phương tạo điều kiện
phát triển và đánh giá chiến lược.
Theo Dumitrescu, L. và Fuciu, M. (2009), Thẻ điểm cân bằng là một công cụ
quản lý nhằm đảm bảo các hoạt động vận hành ở các đơn vị phù hợp với các mục
tiêu, tầm nhìn và chiến lược của doanh nghiệp.
Theo Niven (2009), Thẻ điểm cân bằng là tập hợp các thước đo bắt nguồn từ
chiến lược tổ chức, là công cụ truyền đạt những yếu tố dẫn dắt hiệu suất giúp tổ
chức đạt được sứ mệnh và chiến lược.
1.1.3. Khái niệm về chỉ số đo lƣờng hiệu suất cốt yếu (KPI)
Spitzer (2007) cho rằng mọi người sẽ làm những thứ được nhà quản lý đánh
giá (thông qua việc đo lường), điều đó có thể khác với những gì nhà quản lý thực sự
11
kỳ vọng. Mặt khác, nhà quản lý thường xuyên đưa ra những kỳ vọng mơ hồ, gây
khó hiểu và nhầm lẫn cho nhân viên.
Theo Parmenter (2015), việc đo lường phù hợp mang lại các lợi ích như giúp
mọi người thấy được tiến độ thực hiện và thúc đẩy hành động, kế hoạch đã đề ra;
làm cơ sở cho việc cân bằng giữa các mục tiêu cần đạt và tăng tính nhất quán trong
việc xây dựng mục tiêu; Tập trung nguồn lực để thực hiện được các mục tiêu cả
ngắn và dài hạn. Ngoài ra, việc sở hữu một hệ thống đo lường phù hợp không chỉ
giúp nhà quản trị tăng tính khách quan trong việc đánh giá nhân viên và công việc
mà còn tăng tính khách quan, nhất quán trong quá trình đưa ra quyết định. Đồng
thời, thông qua việc khuyến khích phản hồi và đổi mới, tinh giản những thứ không
cần thiết, công nhận thành tích nhân viên, đào tạo và cố vấn phù hợp… một hệ
thống đánh giá phù hợp cũng tạo điều kiện trao đổi thông tin đa chiều, để xác định
những cảnh báo sớm giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định và có bước chuẩn bị tốt
hơn cho tương lai.
Do đó, để tổ chức hoạt động hiệu quả và đạt được thành công như kỳ vọng,
bên cạnh việc xác định những yếu tố thành công cốt yếu CSF như đã nêu tại 1.2.1,
nhà quản lý cần có phương pháp đo lường hợp lý.
Theo Stannard và các cộng sự (2008), các chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu
(key performance indicator – KPI) là các biến được đo lường nhằm trên thang điểm
chuẩn không chỉ phản ánh kết quả hoạt động của tổ chức trong hiện tại mà còn cung
cấp mô tả về tác động của các đơn vị chức năng (function) lên kết quả đầu ra
(outcome).
Theo Parmenter (2015), các chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu KPI là các chỉ
số tập trung vào các khía cạnh biểu hiện, hiệu suất (performance) – vốn rất quan
trọng trong việc quyết định thành công của tổ chức trong hiện tại và tương lai.
1.1.4. Các đặc điểm của KPI
Theo Parmenter (2015), các chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu KPI hiệu quả
có 7 đặc điểm sau:
12
Thứ nhất, KPI là chỉ số phi tài chính. Theo Parmenter (2015), KPI có thể chỉ
ra những công việc cụ thể mà Ban Điều hành, các Phòng ban chức năng và người
lao động cần thực hiện để đạt được những mục tiêu chiến lược. Trong khi đó các chỉ
số tài chính là công cụ định lượng kết quả của những sự kiện đã diễn ra. Do đó, các
thước đo tài chính là thước đo kết quả (RI – result indicator) trong quá khứ, không
thể là KPI – những chỉ số hướng đến định hướng công việc trong hiện tại và tương
lai.
Thứ hai, các KPI cần được cung cấp kịp thời. Theo Parmenter, các KPI tạo
điều kiện đưa ra – tiếp nhận thông tin phản hồi giữa Ban Điều hành, các Phòng ban
chức năng, người lao động và các đối tượng hữu quan (nếu có) để xác định những
cảnh báo sớm giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định nên cần được giám sát thường
xuyên và cung cấp kịp thời. Parmenter cũng cho rằng những thước đo hằng năm,
hằng quý không thể là KPI vì chúng không thể cung cấp thông tin kịp thời cho các
nhà quản trị mà chỉ thể hiện kết quả của vấn đề sau khi đã xảy ra.
Thứ ba, các KPI đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch
hướng đến mục tiêu chiến lược của tổ chức nên cần được xem là đối tượng tập trung
theo dõi của Ban Điều hành và các nhà quản trị cấp cao trong tổ chức.
Thứ tƣ, các KPI phải đơn giản để giúp người lao động, nhóm hoặc các đơn
vị hiểu rõ nhiệm vụ và công việc cụ thể cần thực hiện. Họ cũng cần hiểu rõ các
thước đo và cách thức đánh giá các KPI liên quan.
Thứ năm, KPI nên được áp dụng trên nhóm thay vì cá nhân. Theo đó, các
nhiệm vụ được giao phải được cụ thể đến từng nhóm hoặc đơn vị gồm những nhóm
có hoạt động tương tác chặt chẽ. Nguyên nhân chính là do KPI thường gắn liền với
những nhiệm vụ lớn, có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của Công ty mà một cá
nhân thường không đủ khả năng đảm nhận.
Thứ sáu, các KPI được gắn kết với các yếu tố thành công cốt yếu CFS nên
việc tập trung vào KPI sẽ giúp tổ chức tập trung và phân bổ các nguồn lực phù hợp
sẽ có tác động đáng kể trong quá trình theo đuổi và thực hiện chiến lược.
13
Thứ bảy, KPI có khả năng hạn chế tác động tiêu cực. Parmenter nhấn mạnh
hiện tượng người lao động và thậm chí cả nhà quản trị cố ý thao túng các KPI nhằm
tối đa hóa lợi ích bản thân, đồng thời cũng chỉ ra nhiều tác động tiêu cực khi tổ chức
sử dụng KPI như cơ sở đánh giá khen thưởng của người lao động. KPI là những chỉ
số được tổ chức đánh giá là mang lại tác động đáng kể lên quá trình thực hiện các
kế hoạch hướng đến các mục tiêu chiến lược, chính vì vậy, khi một chỉ số được xác
định trở thành KPI thì cần được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo việc sử dụng chỉ
số đó mang lại những chuyển biến tích cực đối với hiệu suất hoạt động của tổ chức.
1.1.5. Ƣu điểm và khuyết điểm của KPI
Theo Parmenter (2015), việc áp dụng KPI có thể đem lại các lợi ích như tăng
tính gắn kết trong các hoạt động hằng ngày của các Phòng ban, đơn vị, nhóm,…
thậm chí của từng cá nhân với các nhân tố thành công CSF của tổ chức nên giúp cải
thiện hiệu suất hoạt động của tổ chức. Ngoài ra, hệ thống KPI hiệu quả hỗ trợ đánh
giá và ghi nhận chính xác sự nỗ lực và cống hiến của người lao động, làm tăng tinh
thần trách nhiệm, tạo cơ sở để tăng việc trao quyền cũng như tăng cảm giác thỏa
mãn khi hoàn thành nhiệm vụ.
Theo Ittner và Larcker (2003), việc sử dụng thang đo phi tài chính thường
gặp phải 4 vấn đề sau:
Thứ nhất, việc đo lường không gắn kết với chiến lược của tổ chức. Các tổ
chức thường có quá nhiều nội dung đo lường nhưng lại không xác định được những
nội dung nào có tác động lớn và trực tiếp đến khả năng thực hiện chiến lược của tổ
chức. Một trong những biện pháp để giải quyết vấn đề này là áp dụng mô hình Nhân
– Quả (causal models) để xác định những vấn đề chính – một số ít những vấn đề
mang tính trọng yếu có tác động mạnh và trực tiếp đến khả năng và quá trình thực
hiện mục tiêu và chiến lược của tổ chức trong dài hạn.
Thứ hai là tồn tại các mối liên kết không phù hợp giữa các nội dung được
đánh giá. Các nhà lãnh đạo thường sử dụng kinh nghiệm và lý thuyết quản trị trong
việc xác định những nội dung cần đo lường rồi áp dụng chúng vào mô hình Nhân –
Quả thay vì có những cuộc điều tra thực nghiệm. Cách làm này cũng dẫn đến kết
14
quả sai trong việc xác định trọng số của các nội dung đo lường (vốn thể hiện mức
quan trọng của nội dung đo). Ví dụ, việc đề cao kinh nghiệm sẽ dẫn đến tình trạng
những người lao động có kinh nghiệm thường đạt được kết quả đánh giá cao hơn dù
thực tế kết quả đánh giá đó có thể không tương thích với kết quả thực hiện chiến
lược được kỳ vọng. Để khắc phục vấn đề này, các tổ chức cần khách quan đánh giá
và thiết lập mối quan hệ Nhân – Quả để xác định những thang đo có mối liên kết
phù hợp với chiến lược và mục tiêu công ty rồi mới cân nhắc tỷ trọng giữa những
thang đo này, hướng đến việc phương án phân bổ nguồn lực tối ưu.
Thứ ba là việc thiết lập các mục tiêu sai về hiệu suất: Không phải tất cả
những chỉ số phi tài chính đều mang lại hiệu quả kinh tế. Ví dụ như khách hàng hài
lòng 100% với dịch vụ chăm sóc khách hàng không chi trả nhiều hơn hay có mức
độ quảng bá cho khách hàng mới nhiều hơn so với khách hàng chỉ hài lòng 80%,
trong khi các khoảng đầu tư phải bỏ ra để duy trì kết quả đó rất lớn. Các doanh
nghiệp cũng tập trung nhiều vào các sáng kiến mang lại kết quả tài chính ngắn hạn
mặc dù có nhiều lực chọn để thu được kết quả tốt hơn trong trung và dài hạn. Chính
vì vậy, các doanh nghiệp có thể xem xét phương pháp ước lượng những giá trị tài
chính phù hợp có thể thu được tương ứng khi tiến hành đánh giá các chỉ tiêu phi tài
chính trong cùng điều kiện và thời gian.
Thứ tƣ, việc đo lường không chính xác. Kết quả của việc đo lường sai do
công ty sử dụng số liệu khảo sát không hợp lệ hoặc không đủ độ tin cậy; sử dụng
các phương pháp khác nhau cho cùng một nội dung đo lường; sử dụng những chỉ
báo không phù hợp để đo lường những nội dung quá phức tạp… Việc đo lường
không đúng này dẫn đến kết quả đo lường không phản ánh đúng thực tế diễn ra
hoặc thúc đẩy những hoạt động tiêu cực đi ngược lại với kỳ vọng của nhà quản lý.
Để khắc phục vấn đề này cần xác định chính xác bản chất của vấn đề cần đo lường,
cân nhắn lựa chon mẫu khảo sát cũng như thiết lập và áp dụng hệ thống thang đo và
đánh giá đồng nhất đối với tất cả bộ phận trong công ty cho cùng một nội dung đo
lường.
15
KPI là những chỉ số phi tài chính nên việc áp dụng KPI trong việc đánh giá
hiệu suất hoạt động của tổ chức cũng gặp phải những vấn đề trên.
Bên cạnh đó, theo Parmenter (2015), việc ràng buộc chế độ lương thưởng
theo KPI cũng gây ra một số tác động tiêu cực đến hoạt động của tổ chức như việc
xuất hiện các hành vi thao túng (manipulate), cố tình nhìn nhận sai các kết quả đánh
giá, ngụy biện… nhằm tối đa hóa các khoản tiền thưởng và thu nhập của một hoặc
một số bộ phận. Parmenter cũng nhấn mạnh rằng các KPI có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy hoạt động của tổ chức đi đúng định hướng chiến lược nên việc
thao túng nhằm đạt được lợi ích cá nhân/ lợi ích nhóm trên không chỉ là một trong
những rào cản lớn nhất ngăn cản sự thay đổi tích cực mà còn thúc đẩy nguy cơ tổ
chức hoạt động lệch khỏi chiến lược đã định trước.
1.2. Áp dụng KPIs trong quản lý doanh nghiệp
1.2.1. Mối liên hệ giữa KPI với BSC, CFS và các mục tiêu chiến lƣợc
Sứ mệnh/ Tầm nhìn/ Giá trị cốt lõi/ Nguyên tắc
Chiến lược (Mục tiêu và sáng kiến)
Kết quả tài chính Quy trình nội bộ Tập trung vào khách hàng Đổi mới và học tập Sự hài lòng của nhân viên Môi trường và cộng đồng
Yếu tố thành công cốt yếu CSF
Chỉ số đo lường kết quả cốt yếu (KRI)
Chỉ số đo lường hiệu suất (PI) và Chỉ số đo lường kết quả (RI)
Chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu (KPI)
Kết quả tài chính Quy trình nội bộ Tập trung vào khách hàng Đổi mới và học tập Sự hài lòng của nhân viên Môi trường và cộng đồng
Hình 1.1 Chuỗi các mối liên hệ giữa chiến lược, CSF và KPI
Nguồn: Parmenter (2015)
16
Phương pháp xây dựng KPI hiệu quả của Parmenter (2015) hoàn toàn đồng ý
với phương pháp BSC của Kaplan, R.S và Norton, D.P (1996) trong việc nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc triển khai và thực thi chiến lược một cách cân bằng.
Tương tự BSC, KPI của Parmenter bao gồm 4 khía cạnh: khách hàng, vận hành và
đổi mới phát triển.
Bên cạnh đó, Parmenter cũng khẳng định các yểu tố thành công cốt yếu CSF
là điểm then chốt giúp xác định những nội dung cần đo lường và KPI trong khi
Kaplan, R.S và Norton, D.P (1996) không đề cập đến CSF.
1.2.2. Mối liên hệ giữa KPI và chế độ khen thƣởng
Theo Aleksey (2013), có 4 cấp độ (level) kết nối chế độ khen thưởng với KPI
được phân loại theo mức độ tăng dần tác động của các phần thưởng nội tại (intrinsic
reward) lên việc thúc đẩy hoạt động của nhân viên. Tổ chức có thể lựa chọn bất kỳ
mức độ nào để áp dụng, không bắt buộc phải hoàn thành các cấp độ từ thấp đến cao.
Cấp độ 1: Dùng hiệu suất KPI để xác định chế độ khen thưởng. Cụ thể, nhà
quản trị áp dụng cấp độ này có xu hướng thực hiện quản trị nguồn nhân lực theo
thuyết X (của Douglas McGregor) cho rằng người lao động ghét làm việc, lười
biếng, cần được hướng dẫn sát sao, luôn tìm cách tránh trách nhiệm và chỉ làm việc
vì thu nhập. Động lực của người lao động theo thuyết X là phần thưởng lớn (để
động viên) hoặc trách phạt nặng (để răn đe). Nhà quản trị cần phải giám sát và kiểm
soát chặt chẽ từng hoạt động của người lao động.
Do đó, tại cấp độ 1, nhà quản trị chỉ định KPI xuống từng cá nhân để theo
dõi, đánh giá từng mục tiêu cố định, thông qua đó, tiến hành khen thưởng (hoặc
trách phạt) thường xuyên tại những thời điểm cố định (tháng, quý, năm). Aleksey
cho rằng khó có thể đánh giá hiệu suất làm việc của người lao động, đặc biệt là khi
chế độ lương thưởng phụ thuộc vào KPI. Ông đã chỉ ra khuyết điểm chính của cấp
độ này là việc đánh giá hiệu suất chủ quan, thiên vị (Biased Performance
Measurement):
KPI tốt phải gắn với bản đồ chiến lược (strategy map) nhưng để tối đa
hóa phần thu nhập (hoặc lợi ích) nhận được, người lao động và cả nhà
17
quản lý có xu hướng quan tâm đến những số liệu và chỉ tiêu được
đánh giá trên KPI thay vì chiến lược dài hạn của tổ chức.
Khó để đánh giá hiệu suất làm việc do các số liệu trong quá khứ được
dùng để đánh giá KPI có thể không còn phù hợp với tình hình hiện tại.
Các quy trình làm việc phải được chuẩn hóa nhằm đạt được sự thống
nhất và công bằng trong quá trình đánh giá hiệu suất giữa các Phòng
ban, bộ phận, cá nhân...
Các chỉ tiêu KPI và trọng số đánh giá phải được chuẩn hóa và đồng
nhất trước khi áp dụng. Điều này có thể mâu thuẫn với việc trọng số
giữa 4 khía cạnh đánh giá KPI (tài chính, khách hàng, vận hành và đổi
mới phát triển) có thể được thay đổi nhằm phù hợp với kế hoạch hoạt
động trong năm, kế hoạch phát triển trong ngắn hạn (3-5 năm) tiếp
theo… hoặc tốn kém (chi phí, thời gian thực hiện…) để tiến hành
đánh giá và cân bằng tỷ trọng phù hợp
Cấp độ 2: Gắn việc khen thưởng KPI với những mục tiêu chiến lược. Theo
Aleksey, hệ thống khen thưởng tốt không phải đạt được cấp độ 4 mà chính là thực
hiện cấp độ 2 một cách hoàn chỉnh. Ở cấp độ này, tổ chức cần xác định và mô tả
chính xác chiến lược dài hạn, sau đó dùng hệ thống khen thưởng như nguồn động
lực giúp tổ chức đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra. Áp dụng cấp độ này, nhà
quản trị chủ yếu đi theo thuyết Y (của Douglas McGregor) – giả định rằng người
lao động hứng thú với công việc, có động lực và trách nhiệm để hoàn thành mục
tiêu được giao. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, nhà quản trị cũng vẫn áp dụng
thuyết X, thể hiện thông qua chế độ khen thưởng và trách phạt.
Áp dụng cấp độ 2, nhà quản trị xác định KPI chỉ dùng để theo dõi những chỉ
tiêu quan trọng, có mục tiêu linh hoạt, có thể điều chỉnh để phù hợp với tình hình thị
trường. Việc khen thưởng được tiến hành không thường xuyên bằng cấp độ 1, thực
hiện hằng năm hoặc hàng quý. Cấp độ 2 tồn tại một số khuyết điểm sau:
Rất khó để xác định và mô tả chính xác chiến lược và các mục tiêu
chiến lược.
18
Không xác định được cụ thể mức độ đóng góp của từng cá nhân vào
thành công của tổ chức (do tiến hành đánh giá trên đội, nhóm, bộ phận
mới có thể có được kết quả đủ lớn tác động đến chiến lược dài hạn).
Khó đánh giá được mức độ thành công của tổ chức (có thể tổ chức đạt
được chiến lược đề ra nhưng không phù hợp với tình hình hiện tại của
thị trường và ngược lại, thời gian đánh giá không đủ dài để thấy được
bước tiến và những thành tựu đạt được so với chiến lược…)
Theo Aleksey, tại cấp độ 2 này, hệ thống khen thưởng là động lực để thúc
đẩy khả năng theo đuổi và thực hiện mục tiêu chiến lược tốt nhất trong 4 cấp độ.
Cấp độ 3: Không chi trả khen thưởng bằng tiền. Ở cấp độ này, nhà quản lý
hoàn toàn theo đuổi lý thuyết Y và xác định sẽ không chi trả bất kỳ khoản thưởng
nào một công việc đã được trả lương. Do đó, người lao động không nhận thêm các
khoản khen thưởng từ việc đánh giá KPI mà toàn bộ công ty sẽ được nhận thưởng
trên mức lương cơ sở. Các khoản khen thưởng này cũng không được thực hiện bằng
tiền mà được thay bằng cổ phiếu công ty hoặc các khoản đầu tư vào quỹ lương
hưu… Như vậy, KPI được sử dụng như một công cụ quản trị nhằm theo đuổi và
thực hiện chiến lược. Kết quả đánh giá KPI không tác động trực tiếp đến chế độ
lương thưởng của người lao động. Do đó, ở cấp độ này, tồn lại những khuyết điểm
sau:
Vì KPI không tác động trực tiếp đến chế độ lương thưởng nên những
hoạt động mang lại hiệu quả hoặc lợi ích ngắn hạn sẽ không được thúc
đẩy (đặc biệt là khi nó có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu dài hạn và
mục tiêu chiến lược).
Nhà quản trị có thể gặp sự phản kháng từ phía người lao động nếu
việc chi trả các khoản lương thưởng bằng tiền hoặc những lợi ích tài
chính trong ngắn hạn đã được mặc định.
Cần phải có nhiều điều khoản cam kết về lợi ích người lao động sẽ
nhận được trong lương lai hơn để có thể giữ chân người lao động, đặc
biệt là những thành phần chủ chốt.
19
Cấp độ 4: trả lương công bằng, không thưởng. Tại cấp độ này, quan điểm
của nhà quản trị được xây dựng hoàn toàn theo thuyết Y – giả định người lao động
hoàn toàn nhận thức được và sẵn sàng chịu trách nhiệm với công việc của mình mà
không cần bất kỳ khoản thưởng nào làm động lực. Aleksey (2013) cũng đồng ý với
Thomas (2009), các tổ chức đang chuyển dần tỷ trọng các động lực ngoại sinh
(extrinsic motivation) sang các động lực nội tại (intrinsic motivation) và có 4 phần
thưởng nội tại (intrinsic reward), bao gồm:
Nhận thức về ý nghĩa công việc (Sense of meaningfulness): người lao
động nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công việc đang
làm và nhiệm vụ được giao. Kết quả trong tương lai xứng đáng với
công sức và thời gian đã được bỏ ra.
Nhận thức về sự lựa chọn (Sense of choice): người lao động được
quyền sáng tạo và chủ động lựa chọn những cách thức phù hợp để
hoàn thành công việc và nhiệm vụ được giao.
Nhận thức về năng lực (Sense of competence): người lao động ý thức
được khả năng kiểm soát và hoàn thành tốt công việc, nhiệm vụ được
giao, thông qua đó, họ cảm thấy được thỏa mãn, tự hào.
Nhận thức về tiến trình (Sense of progress): người lao động ý thức
được sự hỗ lực của họ sẽ mang lại kết quả gì trong tương lai, cảm thấy
công việc đang tiến triển đúng theo kế hoạch đặt ra.
Tại cấp độ này, KPI đóng vai trò như một công cụ chỉ báo cho người lao
động và nhà quản lý biết về tiến độ và đảm bảo mọi thứ được diễn ra đúng kế
hoạch, hướng đến mục tiêu chiến lược, thông qua đó, người lao động nhận thức
được vai trò của mình trong tổ chức, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao thay vì
được sử dụng như một cơ sở thực hiện chế độ khen thưởng cho những cá nhân, bộ
phận hoạt động vượt hiệu suất.
Cũng như ở cấp độ 3, nhà quản trị theo đuổi thuyết Y (của Douglas
McGregor) ở một mức độ cao hơn. Theo đó, giả định người lao động có trách
nhiệm và động lực để hoàn thành công việc được giao mà không cần bất kỳ khoản
20
thưởng nào. Khác với cấp độ 3, ở cấp độ 4 người lao động được chi trả công bằng
cho các cống hiến của mình và không có thêm bất kì khoản thưởng bên ngoài
(extrinsic reward) nào cho người lao động (bao gồm khen thưởng bằng tiền, cổ
phiếu…). Do đó, ngoài những khuyết điểm của việc áp dụng cấp độ 3, tại cấp độ 4,
các tổ chức còn gặp phải những vấn đề sau:
Khó khăn trong việc tuyển dụng người lao động.
Sự chống đối mạnh mẽ của người lao động do phải đối mặt với nhiều
thay đổi trong suy nghĩ và hành động.
Nhà quản trị phải chứng minh được mức lương được chi trả là công
bằng và xứng đáng với những gì người lao động cống hiến.
Xây dựng hệ thống nhận thức và các động lực nội tại cho người lao
động.
Theo Parmenter (2015), việc ràng buộc chế độ lương thưởng theo KPI có thể
gây ra một số tác động tiêu cực. Cụ thể, như Spitzer (2007) cho rằng người lao động
sẽ cố làm tốt những thứ được nhà quản lý đánh giá – đặt biệt là những thứ ảnh
hưởng đến lương và thưởng của họ, Parmenter cho rằng người la động có xu hướng
thao túng kết quả đánh giá KPI hoặc các thước đo KPI nhằm tối đa hóa các khoản
thu nhập (bao gồm lương và thưởng) của mình. Ông cũng chỉ ra rằng mặc dù các
KPI thể hiện (và là cơ sở giúp đánh giá) tình hình hoạt động hằng ngày của các bộ
phận, nhóm, thậm chí là từng cá nhân.
Theo Aleksey (2013), hệ thống khen thưởng trở thành một trong những động
lực của tổ chức khi hệ thống khen thưởng đáp ứng 4 nội dung sau:
Thứ nhất, việc khen thưởng phù hợp với môi trường hoạt động của tổ chức:
nhà quản trị có thể lựa chọn các cấp độ và cách thức liên kết giữa đánh giá hiệu suất
KPI với hệ thống khen thưởng và tình hình hoạt động của tổ chức nhằm mục đích
động viên khích lệ người lao động.
Thứ hai, hệ thống khen thưởng được gắn kết với những vấn đề quan trọng,
cốt lõi thực hiện chiến lược và giúp đạt được các mục tiêu chiến lược.
21
Thứ ba, việc khen thưởng nên hướng đến khen thưởng đội nhóm, bộ phận
hoặc toàn bộ tổ chức thay vì khen thưởng từng cá nhân.
Thứ tƣ, cần hạn chế những phần thưởng dạng tiền mặt hoặc hiện vật, thay
vào đó là quyền mua cổ phiếu hoặc đầu tư vào quỹ hưu trí… nhằm gia tăng sự gắn
bó của người lao động với lợi ích của tổ chức.
1.2.3. Những yếu tố cần thiết để xây dựng KPIs hiệu quả
Theo Parmenter (2015), KPI hiệu quả nên được xây dựng từ các CSF, mà
CSF cần đạt được những tiêu chuẩn theo phương pháp SMART. Do đó, các KPI
cũng nên đạt được những tiêu chuẩn của SMART, cụ thể:
Cụ thể (S – specific): Theo Parmenter (2015), các KPI hiệu quả phải đủ cụ
thể đến từng hoạt động hằng ngày cho từng nhóm hoặc đơn vị. Đồng thời, KPI phải
là những chỉ số gắn liền với những vấn đề trọng yếu không chỉ với chiến lược của tổ
chức mà còn phù hợp với các kế hoạch ngắn và dài hạn.
Có thể đo lƣờng (M – measureable): từng KPI cần được gắn kết với các
thước đo cụ thể, khách quan.
Có thể đạt đƣợc (A – achievable): các kế hoạch KPI mục tiêu phải mang
tính khả thi và phải được truyền đạt chính xác, rõ ràng nhằm đảm bảo mọi người
trong tổ chức nhận thức được tính khả thi và tạo động lực thực hiện.
Thực tế (R – realistic): việc đặt các KPI phải phù hợp với thực tế hoạt động
của tổ chức, đảm bảo tổ chức có đủ nguồn lực để thực hiện, có tính thử thách để tạo
động lực phát triển và giữ được sự cân bằng giữa các yếu tố.
Nhạy cảm với thời gian (T – Time sensitive): việc đo lường và báo cáo KPI
phải đảm bảo cung cấp thông tin quản trị kịp thời cho ban lãnh đạo cấp cao.
Parmenter cũng cho rằng có 7 yếu tố cần thiết (foundation stone – viên gạch
nền – chi tiết ở Chương 3) để xây dựng hệ thống KPI hiệu quả bao gồm:
Thứ nhất, Parmenter (2015) nhấn mạnh việc thiết lập mối quan hệ hợp tác
hiệu quả giữa nhà quản trị, đại diện của người lao động ở từng Phòng ban, đơn vị,
Công đoàn, người lao động và các bên thứ ba (bao gồm cả khách hàng và nhà cung
22
cấp lớn). Điều này giúp Công ty xác định được chính xác những nội dung cần cải
thiện. Đồng thời, việc xác lập mối quan hệ hợp tác cũng bao gồm việc phổ biến
nhằm đạt đến sự thống nhất và cam kế thiết lập cũng như duy trì những thỏa thuận
trong việc triển khai KPI rộng rãi trong toàn Công ty.
Thứ hai, Parmenter (2015) cho rằng cần trao quyền người lao động, thông
qua đó hỗ trợ công tác phân bổ nguồn lực để đạt chiến lược Công ty. Việc “trao
quyền” theo Parmenter (2015) bao gồm việc thúc đẩy sự giao tiếp hai chiều hiệu
quả, trao quyền hành động cho nhân viên, chuyển giao trách nhiệm xuống các cấp
đội nhóm, đào tạo về KPI và các phương pháp luận cũng như gia tăng sự nhận thức
về khó khăn của người lao động. Công ty cũng nên cung cấp các khóa học hoặc
buổi tập huấn về sụ trao quyền, chuyển giao quyền và trách nhiệm, hệ thống KPI,
các yếu tố thành công cốt yếu CSF… Thông qua đó, người lao động được khuyến
khích cung cấp những phản hồi về thực trạng hoạt động của Công ty, có quyền hành
động ngay để hạn chế và khắc phục những vấn đề phát sinh có tác động xấu lên
KPI. Đồng thời, người lao động nhận thức được sự hỗ trợ từ Công ty trong việc giải
quyết những khó khăn đang tồn tại, vai trò và trách nhiệm của mình và đơn vị trong
quá trình hướng đến mục tiêu chiến lược của Công ty nên có thểm tự tin ra quyết
định nhanh chóng trong quá trình xử lý sự cố phát sinh. Riêng việc trao quyền và
gia tăng sự chuyển giao trách nhiệm xuống các cấp thấp hơn cần phải được giám sát
chặt chẽ hơn vì ngoài ưu điểm cho phép người lao động và các nhóm chủ động đưa
ra nhiều quyết định phù hợp với tình huống phát sinh.
Thứ ba, Parmenter (2015) cho rằng chỉ nên đo lường và báo cáo những thứ
có ý nghĩa, đồng thời nên dựa vào tầm quan trọng của các báo cáo mà bố trí tần suất
báo cáo phù hợp. Điều này giúp thúc đẩy việc tinh gọn số lượng báo cáo, giảm thời
gian thực hiện những báo cáo trùng lặp giúp gia tăng khả năng cung cấp thông tin
kịp thời của hệ thống KPI, tạo cơ sở hỗ trợ việc phân bổ nguồn lực phù hợp. Việc
tinh gọn hệ thống báo cáo cũng thúc đẩy Ban Điều hành và các nhà quản lý cấp
trung rà soát lại tính liên kết của hệ thống dữ liệu và hệ thống đăng ký – đánh giá
KPI phù hợp với thực tế. Đồng thời, thông qua quá trình rà soát, các nội dung và
23
thước đo được giữ lại có thể chứng minh được vai trò, sự cần thiết để tồn tại và sự
gắn kết của nó với ít nhất một trong các vấn đề như mục tiêu chiến lược, nhân tố
thành công cốt yếu CSF hoặc một kế hoạch cụ thể. Điều đó giúp tăng tính phù hợp
của nội dung đánh giá, giảm tính chủ quan và các cơ hội thao túng KPI.
Thứ tƣ, Parmenter (2015) cho rằng nên xây dựng các KPI trên cơ sở các
nhân tố thành công cốt yếu CSF. Như đã phân tích ở chương 1, việc xác định các
CSF của một Công ty là vô cùng quan trọng trong việc định hướng hoạt động cũng
như hỗ trợ phân bố các nguồn lực trong tổ chức hướng đến việc thực hiện mục tiêu
chiến lược. Chương 2 cũng chỉ ra việc triển khai hệ thống KPI không gắn với chiến
lược sẽ dẫn đến tình trạng hệ thống đó không giúp định hướng và cũng không hỗ trợ
phân bổ nguồn lực để Công ty đạt được các mục tiêu chiến lược. Như vậy, muốn cải
thiện vấn đề này, trước tiên cần phải xác định rõ các CSF của Công ty.
Thứ năm, Parmenter (2015) nhấn mạnh vai trò của việc loại bỏ những quy
trình không hiệu quả bao gồm: các thước đo mục tiêu lệch lạc, các báo cáo và cuộc
họp không cần thiết, các thẻ điểm cân bằng không hiệu quả, một số dự án và
chương trình không phù hợp hoặc không cần thiết. Việc loại bỏ những quy trình
không hiệu quả sẽ giúp hệ thống KPI tinh gọn, tăng tính thống nhất trong việc đăng
ký và đánh giá KPI, thông qua đó cải thiện tính khách quan của KPI, giúp tăng
cường khả năng định hướng, hỗ trợ phân bổ nguồn lực của Công ty và cải thiện hiệu
suất hoạt động của Công ty. Mặt khác, việc loại bỏ những quy trình không phù hợp
cũng góp phần xây dựng hệ thống đánh giá mang tính chất toàn diện và khách quan,
được triển khai thống nhất giữa các Phòng ban.
Thứ sáu, Parmenter (2015) đã bổ sung quan điểm “cần bổ nhiệm người quản
lý chịu trách nhiệm về việc đo lường hiệu suất nội bộ” vào danh mục những yếu tố
nền để xây dựng hệ thống KPI hiệu quả. Ông gọi đó là “vị giám đốc đo lường hiệu
suất nội bộ” (Home-Grown Chief Measurement Officer), thực hiện các trách nhiệm
sau: Kiểm tra các thước đo để tìm ra giá trị, giám sát công tác đo lường và đóng vai
trò là chuyên gia nội bộ trong công tác triển khai KPI. Theo đó, thông qua việc kiểm
tra từng thước đo mới, bao gồm cả việc tham khảo ý kiến người lao động để xác
24
định những hệ quả không mong muốn có thể xảy ra của các thước đo cũng như đảm
bảo có thể kiểm soát các tác động tiêu cực của chúng, vị giám đốc này đóng vai trò
là người duy nhât tập hợp, xem xét và phê duyệt các thước đo trong tổ chức, tạo cơ
hội để xây dựng một hệ thống các nội dung, thang đo và cơ sở đánh giá KPI thống
nhất trong Công ty. Mặt khác, vị giám đốc này còn đóng vai trò là một chuyên gia
nội bộ cũng là người dẫn dắt và quảng bá việc phát triển, cải tiến các thước đo mục
tiêu cũng như việc loại bỏ các quy trình không hiệu quả trong Công ty.
Cuối cùng, Parmenter (2015) đề cập đến “sự hiểu biết và nhận thức về hệ
hống KPI hiệu quả trong toàn bộ tổ chức”. Theo đó, ông nhấn mạnh việc nhận thức
về vai trò và các đặc điểm của KPI. Đồng thời, ông cũng cho rằng nhà quản lý cần
truyền tải ý nghĩa của việc triển khai KPI, nhanh chóng khắc phục các suy nghĩ sai
lầm và tiêu cực của người lao động và điều chỉnh lại nhận thức của đội ngũ nhân
viên và quản lý trực thuộc thông qua việc giúp họ hiểu rõ và phân biệt được sự khác
nhau giữa các định nghĩa KPI (chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu), PI (chỉ số đo
lường hiệu suất), RI (chỉ số đo lường kết quả) và KRI (chỉ số đo lường kết quả cốt
yếu).
1.2.4. Kinh nghiệm khắc phục những vấn đề phát sinh khi triển khai
KPI
Theo Ittner và Larcker (2003), có 6 công việc cần thực hiện để khắc phục
những vấn đề phát sinh khi áp dụng chỉ số phi tài chính bao gồm:
Thứ nhất là cải thiện mô hình Nhân – Quả: Việc xây dựng hệ thống KPI
hiệu quả dựa trên chiến lược dài hạn của Công ty nhưng chiến lược này thường
không rõ ràng khiến nhà quản lý khó có thể thống nhất về mô hình nhân quả có tác
động trực tiếp đến hoạt động Công ty. Như vậy việc xác định rõ ràng chiến lược
công ty một cách rõ ràng là nền tảng để cải thiện mô hình Nhân – quả. Thông qua
đó, mô hình Nhân – Quả phù hợp sẽ giúp các nhà quản trị xác định các yếu tố thành
công cốt yếu CSF phù hợp hơn cho Công ty.
Thứ hai là tạo mối liên kết giữa các dữ liệu: Như đã nêu ở…. Hầu hết các tổ
chức có quá nhiều những chỉ số đo lường phi tài chính áp dụng trong hoạt động
25
hằng ngày nhưng lại không xác định được những nội dung/chỉ số đo lường nào có
tác động lớn và trực tiếp đến khả năng thực hiện chiến lược của tổ chức. Do đó,
thay vì giới hạn việc thu thập đơn lẻ những kết quả đo lường, các tổ chức nên liên
kết chúng thành hệ thống thông tin lưu trữ dữ liệu xoay quanh những yếu tố hiệu
suất chính. Điều này không chỉ giúp mô tả rõ ràng hơn tác động của từng bộ phận
lên thành quả chung mà còn giúp cải thiện hệ thống đánh giá đo lường một cách
nhất quán trong toàn tổ chức.
Thứ ba là xây dựng mô hình Nhân – Quả trên cơ sở thực tế khách quan:
Việc áp dụng số liệu thống kê không phù hợp cũng như việc dựa vào kinh nghiệp để
xác định mô hình Nhân – Quả dẫn đến việc các yếu tố thành công cốt yếu CSF và
mức độ quan trọng của chúng (tỷ trọng đánh giá) được xác định thiếu tính khách
quan. Do đó, các tổ chức nên dùng các phương pháp thống kê thực tế để thử nghiệm
và xây dựng mô hình Nhân – Quả mang tính khách quan và phù hợp với thực tế.
Thứ tƣ là không ngừng cập nhật và điều chỉnh mô hình: Các yếu tố thành
công cốt yếu CSF được xác định từ mô hình Nhân – Quả thường được áp dụng cố
định trong việc lựa chon các chỉ số đánh giá của tổ chức trong một khoảng thời gian
nhất định. Tuy nhiên, môi trường cạnh tranh khốc liệt cũng như sự thay đổi không
ngừng của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng các phương pháp quản lý khác nhau
có thể khiến các tổ chức doanh nghiệp xem xét lại các yếu tố CSF nhằm đảm bảo
chúng phù hợp với chiến lược được đặt ra trước đó. Ngoài ra, ngay cả trong môi
trường ổn định, việc cập nhật và điểu chỉnh mô hình Nhân – Quả nhằm xác định các
CSF phù hợp hơn không chỉ giúp các tổ chức hiểu sâu hơn về tác động của các bộ
phận chức năng mà còn cung cấp cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp cải thiện hiệu
suất hoạt động của tổ chức.
Thứ năm là chỉ ra quyết định trên cơ sở thực nghiệm: Các tổ chức áp dụng
các chỉ số tài chính và phi tài chính để đo lường, đánh giá và đưa ra các biện pháp
nhằm thực hiện chiến lược đã đề ra. Chính vì thế, thay vì đánh giá quá nhiều nội
dung trong từng hoạt động hằng ngày, các tổ chức cần thông qua việc phân tích số
liệu thống kê, các so sánh chi phí – lợi nhuận, các lợi ích mang lại trong ngắn hạn
26
và dài hạn… để xác định những chỉ số giúp đánh giá và cải thiện hiệu suất hoạt
động của công ty.
Thứ sáu là tiến hành đánh giá kết quả đầu ra: Mục đích ban đầu của các chỉ
số phi tài chính là cung cấp góc nhìn toàn diện hơn so với việc chỉ áp dụng những
chỉ số tài chính nên các tổ chức nên đánh giá mức độ hiệu quả mà các chỉ số đo
lường phi tài chính mang lại. Tuy nhiên, theo Spitzer (2007) mọi người sẽ làm
những thứ được nhà quản lý đánh giá (thông qua việc đo lường), điều đó có thể
khác với những gì nhà quản lý thực sự kỳ vọng. Việc đánh giá kết quả đầu ra sau
khi áp dụng các chỉ số này không chỉ xác định các lợi ích mang lại trong ngắn hạn
và dài hạn, làm cơ sở phân bổ tối ưu các nguồn lực trong nỗ lực thực hiện chiến
lược chung cũng như tạo động lực thúc đẩy các sự cải tiến thực tế trong hoạt động
của tổ chức… mà còn giúp xác định những sai sót trong việc thu thập và thao túng
kết quả đánh giá nhằm đạt được những lợi ích tài chính cao hơn.
Tóm tắt chƣơng 1:
Trong chương 1, luận văn giới thiệu khái quát về chỉ số đo lường hiệu suất
cốt yếu KPI và việc áp dụng KPI trong quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh việc đánh
giá và so sánh kết quả thực hiện công việc với mục tiêu đặt ra, KPI còn được sử
dụng làm cơ sở để đánh giá khen thưởng; ghi nhận năng lực của nhân viên để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, điều động; cải thiện chính sách hoạt động. Việc tập hợp
và khái quát một số kinh nghiệm triển khai KPI trong quản lý doanh nghiệp được sử
dụng làm cơ sở nền cho việc áp dụng công cụ này tại Công ty SADECO.
Sau khi nghiên cứu cơ sở lý thuyết về KPI, trong chương 2, luận văn mô tả
thực trạng triển khai hệ thống KPI, cách thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO
cũng như việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty sau
khi áp dụng KPI. Thông qua đó, luận văn xác định những hạn chế và vấn đề còn tồn
tại trong quá trình triển khai và áp dụng KPI vào đánh giá hiệu suất hoạt động tại
Công ty SADECO.
27
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI HỆ THỐNG KPI
TẠI CTCP PHÁT TRIỂN NAM SÀI GÒN
2.1. Tổng quan hoạt động áp dụng KPI tại Công ty SADECO
2.1.1. Đối tƣợng áp dụng
Tháng 12/2018, Công ty ban hành Quy chế áp dụng hệ thống đánh giá hiệu
quả công việc (BSC – KPI), được sửa đổi bổ dung vào tháng 07/2018. Theo đó,
Quy chế được áp dụng để đánh giá KPI Công ty, các Phòng ban, bộ phận và toàn
thể người lao động đã ký hợp đồng lao động chính thức với Công ty, có đăng ký
KPI và còn làm việc tính đến thời điểm chi trả lương hiệu quả. Quy chế không áp
dụng đối với các vị trí, chức danh công việc hưởng lương lao động khoán hàng
tháng hoặc nằm trong danh sách không đăng ký KPI.
2.1.2. Mục tiêu của việc thực hiện hệ thống KPI
Theo Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả Công việc của Công ty
SADECO, KPI là các chỉ tiêu đo lường hiệu quả công việc,d 9an1h giá những mục
tiêu được lượng hóa dựa trên mục tiêu chiến lược của Công ty, được triển khai
thành các cấp độ: Công ty, Phòng, Ban Điều hành, Quản lý Phòng và Cán bộ nhân
viên (CBNV). KPI bao gồm bốn phương diện: Tài chính, Khách hàng, Vận hành và
Học hỏi phát triển. Theo Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả Công việc,
việc thực hiện triển khai hệ thống KPI của SADECO hướng đến 4 mục tiêu sau:
Thứ nhất là định hướng cho các cấp quản lý và cán bộ nhân viên những mục
tiêu ưu tiên trong công việc, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của
Công ty;
Thứ hai là khích lệ tinh thần làm việc hướng tới mục tiêu chung, đồng thời
phát triển năng lực của từng cán bộ nhân viên;
Thứ ba là ghi nhận năng lực làm việc của cán bộ nhân viên, đồng thời có
giải pháp cải thiện công việc hiệu quả hơn;
Thứ tƣ là dùng kết quả đánh giá công việc của cán bộ nhân viên, của từng
Phòng ban và của Công ty làm cơ sở cho công tác trả lương, khen thưởng, đào tạo
phát triển và tuyển dụng.
28
2.1.3. Ban Kiểm soát KPI
Nhắm đảm bảo hệ thống KPI được triển khai và áp dụng hiệu quả trong toàn
Công ty, vào cuối năm 2017, Tổng Giám đốc đã quyết định thành lập Ban Kiểm
soát KPI bao gồm các thành viên:
1. Tổng Giám đốc : Trưởng ban
2. Các Phó Tổng Giám đốc : Thành viên
3. Kế toán trưởng : Thành viên
4. Trưởng Bộ phận Quản trị Nhân sự : Thành viên thường trực
5. Chuyên viên phụ trách KPI : Thư ký
Trách nhiệm của Ban Kiểm soát KPI được xác định gồm 6 nội dung, chi tiết
như sau: Tổ chức chỉ đạo triển khai hệ thống đánh giá hiệu suất thực hiện KPI trong
toàn Công ty; Giám sát và kiểm soát tính tuân thủ tại các Phòng ban, Bộ phận trong
quá trình thực hiện áp dụng hệ thống KPI; Kiểm tra và điều chỉnh các nội dung
đăng ký KPI từ các Phòng ban, Bộ phận và cá nhân cho phù hợp với mục tiêu sản
xuất kinh doanh của Công ty; Xử lý các trường hợp khiếu nại liên quan khi áp dụng
hệ thống KPI tại Công ty; Tổ chức triển khai đánh giá nội bộ định kỳ; Nghiên cứu
đề xuất các phương án đo lường và cải tiến hệ thống đảm bảo phù hợp với mục tiêu
sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.2. Mô tả cách thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO
Theo Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả Công việc, cách thức xây
dựng và đánh giá KPI chi tiết của Công ty SADECO được thể hiện ở Phụ lục 1.
Việc phân loại, phân cấp thẩm quyền đánh giá, phê duyệt và cách thức xây dựng
KPI tổng quan như sau:
2.2.1. Phân loại, phân cấp thẩm quyền đánh giá, phê duyệt KPI
Theo Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả Công việc, Công ty
SADECO phân loại KPI theo thời gian đánh giá và đối tượng đánh giá. Theo đó,
thời gian đánh giá KPI được chia theo năm, quý và tháng. Đối tượng đánh giá bao
gồm Công ty, Phòng, Quản lý Phòng và Cán bộ công nhân viên. Cụ thể, từng đối
tượng sẽ đăng ký kế hoạch KPI theo thời gian thể hiện tại bảng 2.1 như sau:
29
Bảng 2.1 Phân loại KPI tại Công ty SADECO
Đăng ký kế hoạch mục tiêu Đánh giá kết quả thực hiện
Đối tƣợng KPI Năm KPI Quý KPI Tháng KPI Năm KPI Quý KPI Tháng
X X X X X X X X X x x x x x x x x x
Công ty Ban điều hành Phòng Quản lý Phòng Cán bộ nhân viên Nguồn: Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả công việc (BSC –KPI) 2018
Kết quả đánh giá thực hiện KPI của từng đối tượng trên được dùng làm cơ sở
chi trả lương hiệu quả định kỳ (tháng, quý, năm) cho người lao động và đánh giá
thành tích thi đua của các Phòng ban, cá nhân để khen thưởng.
Tại Công ty SADECO, việc phân cấp thẩm quyền phê duyệt và đánh giá KPI
được thể hiện tại bảng 2.2 như sau:
Bảng 2.2 Thẩm quyền phê duyệt KPI tại Công ty SADECO
STT Loại KPI Định kỳ Thẩm quyền duyệt
1 KPI Công ty Năm Tổng Giám đốc
2 KPI Phòng Năm, Quý Tổng Giám đốc
Ban Tổng Giám đốc phụ trách 3 KPI Quản lý Phòng Năm, Quý, Tháng Tổng Giám đốc
Ban Tổng Giám đốc phụ trách 4 KPI Cán bộ nhân viên Năm, Quý, Tháng Tổng Giám đốc
Nguồn: Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả công việc (BSC –KPI)
2018
Theo đó, có các định nghĩa như sau:
“Ban Tổng Giám đốc chuyên trách” chỉ một thành viên trong Ban Tổng
Giám đốc trực tiếp Quản lý Phòng ban, Bộ phận. “Ban Tổng Giám đốc chuyên
trách” của Phòng Kỹ thuật, Phòng Kế hoạch Đầu tư, Phòng Bồi thường, Phòng
Quản trị Hành chính và Ban quản lý Khu lưu trú là Phó Tổng Giám đốc. “Ban Tổng
30
Giám đốc chuyên trách” của Phòng Tài chính Kế Toán, Phòng Kinh doanh Tiếp thị
và Bộ phận Quản trị Nhân sự là Tổng Giám đốc.
“Ban Điều hành”: bao gồm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Kế toán
trướng và các chức danh điều hành do Hội đồng quản trị bổ nhiệm.
“ Quản lý Phòng”: Trưởng/ Phó các Phòng ban/ bộ phận/ tổ/ ban…
2.2.2. Cách thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO
KPI năm của Công ty được lập dựa vào Mục tiêu năm của Công ty, bao gồm
bốn phương diện: Tài chính, Khách hàng, Vận hành và Học hỏi phát triển. Trọng số
của mỗi phương diện do Tổng Giám đốc quyết định trên chiến lược kinh doanh và
tình hình thực tế hằng năm của Công ty.
Đối với KPI Phòng ban: Sau khi KPI năm của Công ty được thông qua, Ban
Điều hành sẽ họp các Phòng ban chức năng để phân phối nhiệm vụ thực hiện trong
năm được lượng hóa thành KPI năm của Phòng ban, đảm bảo KPI năm của Công ty
được phân bổ hết cho từng đơn vị. Ngoài ra, Ban Điều hành và Quản lý Phòng có
thể đề xuất bổ sung các hạng mục công việc không nằm trong danh mục KPI năm
của Công ty nhưng cần thiết trong việc thực hiện các nhiệm vụ dài hạn của Công ty
vào danh mục KPI năm của Phòng. Trên cơ sở KPI năm, Quản lý Phòng xây dựng
kế hoạch triển khai chi tiết theo thời gian và dùng kế hoạch đó đăng ký KPI quý.
Đối với KPI cá nhân: Trên cơ sở KPI năm của Phòng, kế hoạch triển khai chi
tiết và bảng mô tả công việc, từng cá nhân sẽ đăng ký KPI năm cá nhân (giới hạn từ
3 đến 5 hạng mục công việc chính). Sau đó, Quản lý Phòng sẽ xem xét, điều chỉnh
KPI năm của cá nhân cho phù hợp với cách thức quản lý và điều phối nhân sự trong
Phòng. Quản lý Phòng cũng có thể bổ sung các công việc khác cần thiết để triển
khai hoạt động chung. (Chi tiết việc đăng ký và đánh giá KPI xem Phụ lục 1).
2.3. Đánh giá kết quả thực tế
2.3.1. Mô tả kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trƣớc và sau
quá trình triển khai KPI
Các chỉ tiêu kế hoạch của Công ty được theo dõi và đánh giá được thể hiện
trong bảng 2.3. Có thể thấy, đến trước năm 2017, Công ty SADECO chỉ lập kế
31
hoạch về chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận hằng năm, không đặt chỉ tiêu về kế hoạch
bồi thường và thiết kế thi công. Đồng thời, Công ty cũng không tiến hành thống kê
chi tiết các hạng mục công việc liên quan theo tiến độ để theo dõi và có kế hoạch
triển khai phù hợp. Tình trạng này kéo dài gần như suốt quá trình hoạt động của
Công ty cho đến năm 2017 khi có sự thay đổi trong cơ cấu cổ đông lớn. Tỷ lệ sở
hữu của khối tư nhân tăng đòi hỏi Công ty phải kiểm soát và sử dụng vốn hiệu quả
hơn. Do đó, kể từ năm 2017, các chỉ tiêu về sản lượng bồi thường và thiết kế - thi
công được đưa vào đo lường và đánh giá nhằm kiểm soát tiến độ triển khai dự án,
tăng hiệu quả đầu tư.
Bảng 2.3 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của Công ty SADECO giai đoạn
2013-2018
CHỈ TIÊU
Tổng doanh thu (tỷ đồng)
Lợi nhuận sau thuế (tỷ đồng)
Sản lƣợng bồi thƣờng (m2)
Sản lƣợng thiết kế thi công (tỷ đồng)
2013
Kế hoạch Thực hiện
80,55 82,41
22,78 25,14
2014
Kế hoạch Thực hiện
88,84 94,78
26,43 27,97
2015
Kế hoạch Thực hiện
112,30 150,87
29,04 64,02
2016
Kế hoạch Thực hiện
252,43 297,74
96,01 153,62
20.599
2017
Kế hoạch Thực hiện
224,80 265,60
89,27 111,07
85.427 39.646
41,29 38,04
2018
37.467 7.236
272,10 51,70
131,60 0,40
Kế hoạch 59,00 Thực hiện 28,00 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Công ty cung cấp Tổng hợp từ số liệu Công ty
cung cấp
Đánh giá giai đoạn 2015 – 2016, thị trường bất động sản sẽ bắt đầu sôi động
trở lại nhưng sẽ giảm nhiệt khi nguồn cung trên thị trường tăng mạnh từ năm 2017,
Ban Điều hành và Hội đồng quản trị đã đặt ra kế hoạch doanh thu – lợi nhuận tương
ứng với dự báo tình hình thị trường, thể hiện ở bảng 2.4 như sau:
32
Bảng 2.4 Kế hoạch tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận Công ty SADECO giai đoạn
2014-2018
Tỷ lệ tăng trƣởng kế hoạch Tỷ lệ tăng trƣởng kế hoạch/
hằng năm Thực hiện năm trƣớc Năm Lợi nhuận Lợi nhuận Doanh thu Doanh thu sau thuế sau thuế
10% 16% 8% 5% 2014
26% 10% 18% 4% 2015
125% 231% 67% 50% 2016
-11% -7% -24% -42% 2017
21% 47% 2% 18% 2018
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Công ty cung cấp
Nguyên nhân chính của sự tăng đột biến cả về doanh thu lẫn lợi nhuận trong
năm 2015 - 2016 của Công ty đến từ việc giá đất tăng cao, việc kinh doanh đạt
nhiều thuận lợi theo thị trường chung chứ không phải đến từ lợi thế cạnh tranh.
Năm 2017, Ban Điều hành Công ty đưa ra nhận định thị trường sắp bước vào giai
đoạn suy thoái, kéo theo đó là hàng loạt các thử thách đến từ sự cạnh tranh mạnh
mẽ từ các đối thủ trực tiếp ngành, có vốn mạnh, nguồn lực dồi dào đang tích cực
triển khai các dự án trong khu vực như Novaland, Khang Điền… Đồng thời, Ban
Điều hành cũng đưa ra nhận định về những vấn đề nội tại của Công ty như sau:
Thứ nhất, SADECO đang phải đối mặt với sự suy giảm mạnh trong nguồn
cung quỹ đất giá rẻ - một trong những lợi thế kinh doanh giúp Công ty tồn tại và
phát triển suốt thời gian qua. Trên thực tế, Công ty vẫn đang hưởng lợi từ quỹ đất
giá rẻ được bồi thường, giải phóng mặt bằng từ những năm 1994-1998 với đơn giá trung bình khoảng 200.000 đồng/m2. Trong khi đó, hoạt động bồi thường của Công
ty đang gặp khó khăn, diện tích bồi thường hàng năm rất thấp, thường không đạt chỉ
tiêu đề ra, chủ yếu do mức giá người dân đưa ra hiệp thương quá cao, tối thiểu 2.000.000 đồng/m2 đối với đất ruộng và 5.000.000 đồng/m2 đối với đất thổ cư.
33
Thứ hai, SADECO chỉ có một dòng sản phẩm là kinh doanh đất nền (chỉ
thực hiện quy hoạch và thi công hạ tầng kỹ thuật toàn khu rồi phân lô bán nền,
không xây dựng nhà ở và cung cấp tiện ích hậu mãi). Đây là dòng sản phẩm có biên
lợi nhuận thấp, không mang lại nhiều giá trị tăng thêm cho khách hàng và cũng
không góp phần giúp Công ty gia tăng mức độ nhận dạng thương hiệu.
Thứ ba, SADECO gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và triển khai dự
án đầu tư mới do quỹ đất Thành phố Hồ Chí Minh gần như đã được quy hoạch và
giao cho các doanh nghiệp, không có dự án đất nền mới được đưa ra đấu thầu.
Vì những lý do đó, Ban Điều hành đã xin ý kiến Hội đồng quản trị về những
nội dung sau: Đa dạng hóa các dòng sản phẩm của công ty, tập trung phát triển
những dòng sản phẩm có biên lợi nhuận cao và có thể gia tăng mức độ nhận dạng
thương hiệu; Tiến hành kiện toàn hệ thống bằng cách đưa vào kế hoạch hoạt động
những kế hoạch cụ thể về vận hành và đổi mới phát triển; Kiểm soát và cải thiện
hiệu suất hoạt động Công ty bằng cách áp dụng phương pháp đánh giá hiệu suất
hoạt động của từng Phòng ban, bộ phận, cá nhân… Đồng thời, Ban Điều hành đã cụ
thể hóa kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh năm so với những kế hoạch trước
năm 2017 bằng những hoạt động như: Đặt ra những tiêu chí đánh giá và chỉ tiêu
hoạt động cho từng Phòng ban, bộ phận, cá nhân… bằng văn bản; tăng cường kiểm
soát hoạt động bồi thường và thiết kế thi công từ năm 2017 nhằm kiểm soát dòng
tiền và tiến độ triển khai các dự án dở dang; nghiên cứu, triển khai lương 3P và áp
dụng hệ thống KPI làm cơ sở khen thưởng người lao động…
Việc triển khai đăng ký và đánh giá KPI bắt đầu thử nghiệm từ quý 4 năm
2017 và chính thức áp dụng từ năm 2018. Do nhận định năm 2018 là năm thị trường
tiến vào giai đoạn cung lớn hơn cầu, việc thúc đẩy kinh doanh không thể mang lại
lợi nhuận như kỳ vọng, Ban Điều hành xác định mục tiêu ưu tiên năm 2018 là tập
trung nguồn lực tạo quỹ đất dự trữ cho tương lai đồng thời hoàn thiện cơ sở pháp lý
cho các dự án đang triển khai. Bên cạnh đó, hai mục tiêu lần đầu được tuyên truyền
rộng rãi và đưa vào làm tiêu chí đánh giá người lao động là tăng chất lượng dịch vụ
34
khách hàng và tham gia kiện toàn bộ máy nhân sự cũng chính thức được công bố
bằng văn bản.
Tuy vậy, trái với kỳ vọng của Ban điều hành, sau khi áp dụng KPI, kết quả
đánh giá hoạt động của công ty bắt đầu phát sinh một số vấn đề tiêu cực cũng như
khả năng hoàn thành kế hoạch sụt giảm mạnh so với trước đây. Cụ thể:
Thứ nhất, kết quả hoạt động của các Phòng ban có dấu hiệu sụt giảm. Hình
2.1 thể hiện tỷ lệ kết quả thực hiện/ kế hoạch năm đã được Hội đồng quản trị và Đại
hội đồng cổ đông thường niên thông qua. Theo đó, kết quả thực hiện của năm 2017-
2018 sụt giảm mạnh so với trước khi triển khai KPI.
250%
150%
200%
100%
50%
0% 19% 0.30% 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Doanh thu Lợi nhuận sau thuế
Hình 2.1 Biểu đồ tỷ lệ thực hiện kế hoạch năm Công ty SADECO về doanh thu và
lợi nhuận giai đoạn 2013-2018 (đơn vị:%)
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Công ty cung cấp
Có thể thấy, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về doanh thu trong năm 2018 đạt 19%
so với kế hoạch, sụt giảm 80,5% so với năm 2017 trong khi kế hoạch về lợi nhuận
sau thuế chỉ đạt 0,3% kế hoạch, sụt giảm đến 99,6% so với năm trước cho thấy hiệu
quả hoạt động của Công ty chẳng những không được cải thiện mà còn suy giảm
mạnh so với thời gian trước. Nguyên nhân chính đến từ cả việc giảm doanh thu (do
không triển khai bán hàng) và tăng chi phí quản lý doanh nghiệp (do phát sinh nhiều
35
hoạt động kiện toàn bộ máy doanh nghiệp và tăng chi phí lương thưởng KPI cho
người lao động).
Thứ hai, Công ty kỳ vọng việc triển khai hệ thống KPI sẽ giúp Ban Điều
hành ghi nhận năng lực làm việc của cán bộ nhân viên, đồng thời có giải pháp cải
thiện công việc hiệu quả nhưng thực tế kết quả đánh giá dựa trên KPI không thể
thực hiện mục tiêu trên. Do đó, thay vì trở thành công cụ hỗ trợ Ban Điều hành
trong việc tiết giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động Công ty, hệ thống KPI
lại trở thành một trong những gánh nặng làm tăng chi phí chung, bao gồm chi phí
tập huấn, in ấn tài liệu và các khoản lương thưởng cho người lao động (Công ty
hạch toán chi phí lương trong chi phí Quản lý doanh nghiệp). Hình 2.2 cho thấy chi
phí quản lý doanh nghiệp tăng đều dù tổng doanh thu và lợi nhuận hai năm 2017,
2018 sụt giảm mạnh.
350 300 250 200 150 100 50 0
2015 2016 2017 2018
Tổng doanh thu Chi phí quản lý doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế
Hình 2.2 Các chỉ tiêu tài chính Công ty SADECO giai đoạn 2015-2018 (đơn vị: tỷ
đồng)
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Công ty cung cấp
Thứ ba, Parmenter (2015) cho rằng KPI cho biết Công ty cần phải làm gì,
như thế nào để đạt được mục tiêu đã đề ra nhưng trên thực tế, do nhiều yếu tố chủ
quan, việc đề xuất các chỉ tiêu KPI định kỳ theo phương pháp hiện tại chưa thể chỉ
ra được những công việc trọng tâm cần phải thực hiện trong thời gian nhất định,
36
những phương án thay thế, định hướng điều chỉnh khi có những thay đổi trong quá
trình thực hiện, đặc biệt là khi có những thay đổi bất khả kháng (như thay đổi luật
và các cơ sở pháp lý hiện hành, thay đổi chủ trương, chính sách triển khai…). Điều
đó không chỉ làm giảm hiệu quả đánh giá của hệ thống KPI mà còn hạn chế khả
năng định hướng và điều chỉnh phù hợp, giúp Công ty đạt được những mục tiêu đã
đề ra trong kỳ đánh giá. Đồng thời, việc theo dõi các chỉ số KPI hiện tại cũng chưa
thể giúp Ban điều hành có định hướng và cơ sở đầy đủ để xây dựng kế hoạch đảm
bảo Công ty hoạt động đúng theo chiến lược và đạt được những mục tiêu đã đề ra.
2.3.2. Những hạn chế và vấn đề tồn tại
Thực trạng trên cho thấy hệ thống KPI đang được Công ty SADECO áp dụng
tồn tại 3 vấn đề sau:
Thứ nhất, hệ thống KPI không định hướng, thúc đẩy hay hỗ trợ phân bổ
nguồn lực trong việc theo đuổi chiến lược Công ty. Mặc dù được xây dựng nhằm
mục đích theo đuổi chiến lược Công ty, hệ thống KPI được áp dụng để đánh giá
hiệu suất hoạt động của Công ty, các phòng ban và từng cá nhân không thể hiện
được sự liên kết cụ thể với chiến lược đó. Ví dụ như việc dùng doanh thu để đánh
giá KPI trong khi không giới hạn phạm vi sản phẩm được bán dẫn đến tình trạng
Phòng Kinh doanh Tiếp thị tập trung đề xuất bán sản phẩm (đất nền) ở những vị trí
thuận lợi, biên lợi nhuận cao, dễ bán thay vì tập trung thanh lý những sản phẩm ở
một số dự án đã triển khai lâu năm để đủ điều kiện đóng dự án (hoàn tất báo cáo cơ
quan chức năng để chấm dứt nghĩa vụ của Công ty tại dự án). Điều này cũng đã
được Parmenter (2015) đề cập khi nhận định người lao động và nhà quản lý có xu
hướng quan tâm tập trung thực hiện những công việc mang lại lợi ích ngắn hạn và
có biểu hiện rõ ràng (dễ dàng đánh giá).
Thứ hai, kết quả đánh giá KPI không tương thích với kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty. Mức độ chênh lệch giữa tự đánh giá và đánh giá lại
kết quả KPI của các Phòng ban Công ty SADECO giai đoạn 2017-2018 cho thấy
hầu hết cá Phòng ban đều tự đánh giá mức độ hoàn thành công việc ở mức cao hơn
thực tế, dẫn đến việc kết quả đánh giá lại các kết quả KPI của thấp hơn tự đánh giá.
37
10%
5%
0%
-5%
-10%
-15%
-20%
-25%
-30%
Kỹ thuật Quản trị Bồi thường Kế hoạch đầu tư Quản trị nhân sự Tài chính kế toán Ban quản lý khu lưu trú Kinh doanh tiếp thị hành chính
12/2017 06/2018 12/2018
Hình 2.3 Mức độ chênh lệch giữa tự đánh giá và đánh giá lại kết quả KPI của các
Phòng ban Công ty SADECO giai đoạn 2017-2018
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Công ty cung cấp
Hình 2.3 cũng cho thấy mức độ chênh lệch giữa kết quả tự đánh giá và đánh
giá lại KPI của các Phòng ban Công ty SADECO giai đoạn qua 3 lần đánh giá định
kỳ có xu hướng giảm dần, thể hiện sự khác biệt về góc nhìn giữa Phòng ban và Ban
Điều hành đang được cải thiện. Điều đó ghi nhận nỗ lực của Ban Kiểm soát KPI
trong việc kiểm soát việc đăng ký và đánh giá KPI nhằm gia tăng sự phù hợp trong
nội dung đánh giá và tính thống nhất trong việc đánh giá của các Phòng ban. Tuy
vậy, sự mâu thuẫn trong kết quả đánh giá KPI cá nhân, Phòng ban và Công ty vẫn
thể hiện chưa có sự thống nhất hướng đến mục tiêu chung của Phòng. Hiện tại, dù
Công ty đã ban hành các văn bản và tài liệu hướng dẫn và định hướng xây dựng
KPI quy chuẩn, nhưng các nội dung đánh giá định kỳ, cách tính các chỉ số KPI cũng
như kế hoạch mục tiêu đặt ra trong kỳ đánh giá vẫn do từng Phòng ban và cá nhân
đề xuất.
Như Parmenter (2015) đã cho rằng người lao động có xu hướng thao túng hệ
thống KPI nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân và Spitzer (2007) đã đề cập đến việc các
38
đơn vị và cá nhân có xu hướng chỉ tập trung thực hiện những gì được đánh giá, việc
tự đề xuất các nội dung đánh giá KPI như trên mang nặng tính chủ quan, chủ yếu
lựa chọn những hoạt động có khả năng thực hiện cao nhằm thu được lợi ích cho bản
thân thay vì tập trung thực hiện mục tiêu chiến lược của Công ty. Đồng thời, vì các
Phòng ban và cá nhân được chủ động lựa chọn các nội dung được đánh giá nên tính
phối hợp giữa các Phòng ban bị giảm sút. Cụ thể, có trên 70% trường hợp trễ tiến
độ triển khai dự án của các Phòng ban trực tiếp đến từ việc các Phòng ban có liên
quan không tích cực trong công tác phối hợp.
Bảng 2.5 Kết quả đánh giá KPI năm 2018 của các Phòng ban và CBNV Công ty
SADECO
KPI Chênh KPI tối Chênh
KPI trung lệch so thiểu lệch so Phòng ban Phòng bình với KPI của với KPI
CBNV Phòng CBNV Phòng
Ban quản lý khu lưu trú 91% 100% 8% 99% 7%
Bồi thường 57% 75% 17% 68% 11%
Kế hoạch đầu tư 69% 97% 28% 91% 22%
Kinh doanh tiếp thị 71% 81% 11% 67% -4%
Kỹ thuật 70% 97% 27% 92% 22%
Quản trị hành chính 88% 98% 11% 97% 10%
Quản trị nhân sự 93% 92% -1% 88% -5%
Tài chính kế toán 90% 100% 10% 99% 9%
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Công ty cung cấp
Bảng 2.5 cho thấy có đến 7/8 Phòng ban (tương ứng 88%) có KPI trung bình
của nhân viên cao hơn tối thiểu 8% so với kết quả KPI Phòng. Đồng thời có đến 6/8
Phòng ban (tương ứng 75%) mà toàn bộ nhân viên có hiệu quả KPI cao hơn KPI
Phòng. Việc “hầu hết (tất cả) mọi người đều hoàn thành công việc của mình nhưng
Phòng ban thì không hoàn thành công việc của Phòng” thể hiện chưa có sự phân bổ
công việc đầy đủ từ cấp độ Phòng ban xuống người lao động. Tương tự, vẫn tồn tại
39
sự phân bổ công việc đầy đủ từ cấp độ Phòng ban xuống người lao động và trong
quá trình triển khai đăng ký cũng như đánh giá KPI trong năm 2018 dẫn đến những
tình trạng như: Có đến 7/8 Phòng ban đều đạt kết quả KPI cao hơn KPI Công ty;
Trung bình KPI năm của các Phòng ban đạt 79% trong khi kết quả KPI năm Công
ty chỉ đạt 66%; 100% Ban Điều hành có Trung bình KPI hàng tháng đạt 100% trong
khi kết quả KPI năm của Ban Điều hành chính là KPI năm của Công ty chỉ đạt
66%; Kết quả KPI năm của Công ty đạt đến 66% trong khi không có chỉ tiêu nào
trong kế hoạch năm đạt trên 50% (Sản lượng thiết kế thi công đạt 47%, sản lượng
bồi thường đạt 19%, Tổng doanh thu đạt 19%, Lợi nhuận sau thuế đạt 0,3%).
Tình trạng trên phù hợp với nội dung Parmenter (2015) đã đề cập. Theo đó,
ông không khuyến khích việc gắn liền hệ thống đánh giá hiệu quả làm việc với chế
độ lương thưởng vì điều đó thúc đẩy phát sinh những phản ứng không mong muốn
từ phía người lao động nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân. Trên thực tế, Công ty
SADECO lại đang gắn liền hệ thống đánh giá KPI với chế độ lương 3P, tác động
trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Điều này càng khiến sự phối hợp giữa
các Phòng ban và giữa người lao động trở nên lỏng lẻo hơn vì mọi người đều ưu
tiên thực hiện công việc của mình, thậm chí như Spitzer đã nói “chỉ những việc
được đánh giá” nhằm tối đa hóa lợi ích bản thân.
Thứ ba, kết quả đánh giá KPI chủ quan, không thống nhất giữa các Phòng
ban và không phản ánh được năng lực và nỗ lực của người lao động trong quá trình
thực hiện kế hoạch do chỉ dựa trên việc đánh giá mức độ hoàn thành một số ít công
việc – được đánh giá là nhiệm vụ chính, và đánh giá năng lực thực hiện công việc
chung (do Quản lý Phòng đánh giá). Cụ thể, có trên 70% trường hợp trễ tiến độ
triển khai dự án của các Phòng ban trực tiếp đến từ việc các Phòng ban có liên quan
không tích cực trong công tác phối hợp.
40
Phòng Kinh doanh Tiếp thị
Phòng Kế hoạch Đầu tư
Phòng Kỹ thuật
Phòng Bồi thường
+ Định vị sản phẩm + Đề xuất ý tưởng nhận dạng thương hiệu + Lập bản vẽ quy hoạch dự án + Thiết kế Bố trí cảnh quan
+ Đo đạc + Lập bản vẽ Hiện trạng vị trí
+ Lập phương án đầu tư - khai thác + Thực hiện thủ tục xin đầu tư dự án
Hình 2.4 Mối quan hệ giữa các Phòng ban trực tiếp trong Công ty SADECO giai
đoạn chuẩn bị đầu tư
Nguồn: Quy trình phối hợp thực hiện dự án đầu tư
Dù công việc chính đã được thể hiện như hình 2.4 và 2.5 trên thực tế, công
việc của mỗi Phòng ban lại cần có sự phối hợp tích cực của các Phòng ban còn lại.
Ví dụ, việc lập bản vẽ và thiết kế cảnh quan của Phòng Kỹ thuật thường được tham
khảo ý kiến của Phòng Bồi thường về tiến độ triển khai giải phóng mặt bằng và
ranh mốc dự kiến để giai đoạn triển khai được thuận lợi, tham khảo ý kiến Phòng
Kế hoạch Đầu tư nhằm đưa ra phương án hiệu quả nhất. Phòng Kế hoạch Đầu tư
cũng tham khảo ý kiến các Phòng ban về tính khả thi của tiến độ dự kiến triển khai
và các phương án dự phòng trong trường hợp thị trường thay đổi… Do đó, các
phương án thường cần được họp bàn giữa các Phòng ban nhằm đưa ra giải pháp phù
hợp với năng lực và tình hình thị trường. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư sẽ tiếp tục kéo
dài đến khi Phòng Kế hoạch Đầu tư hoàn tất thủ tục xin đầu tư dự án. Trong thời
gian đó, Phòng Bồi thường vẫn tiến hành việc đo đạc và lập bản vẽ Hiện trạng vị trí
để bổ sung vào hồ sơ pháp lý của Công ty
Sau khi được chấp thuận đầu tư và công nhận chủ đầu tư, Công ty sẽ tiếp tục
giai đoạn triển khai dự án được thể hiện trong hình 2.5 như sau:
41
Phòng Bồi thường
Phòng Kỹ thuật
Phòng Kế hoạch Đầu tư
Phòng KDTT + Xin cấp sổ đỏ
+ Giải phóng mặt bằng + Chỉnh lý biến động + Cắm mốc ranh + Xây hạ tầng kỹ thuật + Phân lô sản phẩm
+ Bán sản phẩm + Cung cấp dịch vụ hậu mãi
Hình 2.5 Mối quan hệ giữa các Phòng ban trực tiếp trong Công ty SADECO giai
đoạn triển khai dự án
Nguồn: Quy trình phối hợp thực hiện dự án đầu tư Công ty SADECO
Như vậy, ở cả hai giai đoạn thể hiện ở hình 2.4 và hình 2.5, sản phẩm đầu ra
của Phòng ban này là đầu vào của Phòng ban khác, dẫn đến nếu công việc tiền đề
không được thực hiện đúng hạn làm ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành KPI và
nhiệm vụ chính của các Phòng ban khác trong chuỗi hoạt động của công ty. Mặt
khác, trong quá trình thực hiện công việc của từng Phòng ban cũng cần sự phối hợp
trong việc cung cấp thông tin cũng như tham vấn các cơ quan chức năng của các
Phòng ban khác. Do đó, việc các Phòng ban tập trung thực hiện nhiệm vụ phòng
mình mà bàng quan trong việc phối hợp với các Phòng ban khác là một trong những
nguyên nhân khiến hoạt động của Công ty bị trì trệ từ khi triển khai hệ thống KPI.
Điều này phù hợp với vấn đề Parmenter (2015) đã đề cập khi cho rằng chỉ nên triển
khai hệ thống KPI cho những đối tượng có thể được đánh giá độc lập, ít hoặc gần
như không chịu ảnh hưởng quá nhiều từ việc phối hợp hoặc có khả năng giảm tác
động tiêu cực từ bên ngoài.
Trong năm 2018, Công ty đã áp dụng kết quả đánh giá KPI để đánh giá thành
tích nhân viên. Kết quả đánh giá được xác định bằng công thức:
42
KPI năm của Cán bộ nhân viên = kết quả KPI năm của Công ty x 10%
+ kết quả KPI năm của Phòng x 20%
+ kết quả KPI năm của CBNV x 50%
+ kết quả đánh giá tiêu chí năng lực x 20%
Theo đó, thành tích của cán bộ nhân viên bị chi phối bởi 4 thành tố mang
tính chất chủ quan được phân bổ theo các trọng số chủ quan của Tổng Giám đốc.
Công ty chưa có khảo sát hay nghiên cứu nào cho thấy 4 thành tố trên thể hiện năng
lực của người lao động cũng như các trọng số như trên là phù hợp để đánh giá chất
lượng của người lao động. Công thức này tồn tại nhiều bất cập như:
Thứ nhất, kết quả KPI năm của Công ty và của Phòng bị tác động bởi nhiều
cá nhân, đội, nhóm (nội bộ), sự phối hợp giữa các Phòng ban, bộ phận…, kế hoạch
của Ban Điều hành và các yếu tố bên ngoài (thị trường, chính sách….). Trong khi
đó, theo Parmenter (2015), KPI hiệu quả phải loại bỏ được các tác động bên ngoài
lên công việc của đối tượng được đánh giá mới có thể phản ánh năng lực của đối
tượng. Thêm vào đó, vì KPI Phòng ban và người lao động gắn liền với KPI Công ty
và Mục tiêu công ty nên việc một đối tượng không hoàn thành kế hoạch mục tiêu sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến KPI năm Công ty. Bản thân đối tượng đó đã chịu tác động
do không hoàn thành nhiệm vụ, lại phải chịu thêm tác động từ việc các cấp cao hơn
(Phòng ban/ Công ty…) không hoàn thành nhiệm vụ. Điều này khiến cho người lao
động có xu hướng lựa chọn đăng ký những hạng mục công việc có tính khả thi cao,
dễ hoàn thành thay vì những công việc có tác động chính và trực tiếp đến chiến lược
và các yếu tố thành công cốt yếu CSF nhằm đảm bảo quyền lợi của cá nhân.
Thứ hai, Kết quả KPI năm của cán bộ nhân viên được đánh giá trên mức độ
hoàn thành từ 03 đến 05 công việc chính nhưng Công ty chưa có định nghĩa “công
việc chính” và danh mục những công việc chính – được đưa vào đánh giá KPI. Mặt
khác, một người lao động có thể đảm nhận nhiều hạng mục quan trọng, mức độ
tham gia, đóng góp vào công việc cũng khác nhau. Do đó, việc giới hạn số lượng
công việc được đánh giá như trên không đảm bảo tính toàn vẹn và đầy đủ
(complete). Đồng thời, điều này thúc đẩy nhân viên lựa chọn những công việc/ hạng
43
mục có khả năng hoàn thành cao – thay vì những công việc có tác động chính và
trực tiếp đến chiến lược và các yếu tố thành công cốt yếu CSF.
Thứ ba, kết quả đánh giá tiêu chí năng lực là việc đánh giá các tiêu chí năng
lực của người lao động (8 tiêu chí đối với nhân viên và 9 tiêu chí đối với Quản lý
Phòng – chi tiết ở phụ lục 2) ở 3 mức độ: cần cải thiện, hiệu quả và nổi bật. Tuy
nhiên, cũng như việc lựa chọn các “công việc chính”, Công ty chưa có nghiên cứu
hoặc khảo sát thực tế nào để xác định các tiêu chí trên. Đồng thời, vì chưa từng
được thử nghiệm thực tế từng tiêu chí chưa được gắn kết với một thước đo cụ thể
nào nên không có cơ sở đo lường định lượng nào mà chỉ dựa vào tính chủ quan của
người đánh giá (Quản lý Phòng hoặc Ban Tổng Giám đốc chuyên trách) nên không
có sự đồng nhất trong đánh giá giữa các Phòng ban, bộ phận trong công ty. Mặt
khác, vì từng tiêu chí chỉ được đánh giá ở 3 mức độ nên không thể hiện được sự nỗ
lực cũng như sự thay đổi (tăng/ giảm) năng lực của người lao động trong quá trình
làm việc. Đặc biệt, đối với người lao động đã được đánh giá “vượt bật” thì không
thể thể hiện sự nỗ lực nhằm hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn (vì không có mức đánh
giá tốt hơn).
Như vậy, việc đánh giá KPI như trên mang tính chủ quan, không thống nhất
giữa các Phòng ban, không đảm bảo tính toàn vẹn và không thể hiện chính xác năng
lực và sự nỗ lực của người lao động.
2.4. Xác định nguyên nhân
Tác giả dùng phương pháp phỏng vấn chuyên gia để xác định nguyên nhân
các thực trạng trên, thông qua việc trao đổi, phỏng vấn Ban kiểm soát KPI, lãnh đạo
các Phòng ban và nhân viên tổng hợp KPI của các Phòng ban trong Công ty như
sau:
Bước 1: tác giả dùng phương pháp Brainstorming để thu thập ý kiến của các
chuyên gia được mời. Theo đó, mọi thành viên đều được khuyến khích đưa ra ý
kiến nhưng không thể hiện ý kiến cá nhân (kể cả phản đối lẫn đồng thuận). Tất cả
các ý kiến đều được ghi nhận và có giá trị như nhau.
44
Nội dung thảo luận là dùng mô hình Nhân - Quả để xác định nguyên nhân
các vấn đề tồn tại được nêu. Thông qua việc hỏi đáp liên tục các câu hỏi “tại sao”,
các thành viên tham gia được khuyến khích tích cực đưa các nguyên nhân có thể
dẫn đến vấn đề cho đến khi tìm được các nguyên nhân cốt lõi. Việc kết hợp giữa mô
hình này, phương pháp Brainstorming và phỏng vấn chuyên gia không chỉ giúp xác
định những nguyên nhân hiện tại và tiềm năng, tác động đến vấn đề ở nhiều mức độ
mà còn giúp Ban điều hành hoạch định thứ tự ưu tiên để xử lý cho phù hợp với tình
hình Công ty. Kết quả của buổi phỏng vấn được thể hiện bằng biểu đồ xương cá ở
các Hình 2.6, 2.7 và 2.8 như sau:
Hình 2.6 Các nguyên nhân khiến KPI không thúc đẩy quá trình thực hiện
chiến lược tại SADECO
Nguồn: xử lý kết quả khảo sát
45
Hình 2.7 Các nguyên nhân khiến kết quả đánh giá KPI không tương thích với
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của SADECO
Nguồn: xử lý kết quả khảo sát
46
Hình 2.8 Các nguyên nhân khiến việc đánh giá KPI chủ quan không thống
nhất giữa các Phòng ban và không phản ánh được năng lực và nỗ lực của người lao
động tại SADECO
Nguồn: xử lý kết quả khảo sát
Như vậy, theo kết quả khảo sát, có 5 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vấn
đề đang tồn tại trong quá trình triển khai KPI tại Công ty SADECO được thể hiện ở
các hình 2.6, 2.7 và 2.8. Các nguyên nhân này phù hợp với lý thuyết của Parmenter
(2015) về những sai lầm trong việc triển khai khiến hệ thống KPI không hiệu quả.
Thứ nhất là việc xây dựng và triển khai KPI sử dụng cơ sở dữ liệu cũ và chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm và cảm tính. Đây là nguyên nhân của hầu hết các vấn đề
được xác định theo mô hình Nhân – Quả. Do trước khi triển khai KPI trong việc đo
lường hiệu suất làm việc của từng Phòng ban, bộ phận, cá nhân… Công ty
SADECO chưa từng tiến hành đánh giá, đo lường… tương tự. Công ty cũng chưa
từng thực hiện các khảo sát, nghiên cứu, đánh giá sự tương quan giữa các bộ phận,
Phòng ban… nên việc xây dựng và triển khai hệ thống KPI được dựa trên ý kiến
của đơn vị tư vấn, sử dụng cơ sở dữ liệu cũ và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và cảm
tính của Ban kiểm soát KPI. Điều đó dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như
Parmenter (2015) và Ittner và Larcker (2003) đã đề cập như:
1) Đưa ra những nội dung và chỉ tiêu đánh giá không phù hợp dẫn đến các
phản ứng không mong muốn từ Phòng ban và người lao động. Ví dụ: hiệu
suất công tác thi công công trình (KPI của Phòng Kỹ thuật) được đánh giá
theo công thức sau:
Hiệu suất KPI = Chi phí thực tế thực hiện / chi phí dự kiến thực hiện x 100%
Có thể thấy, việc thiết lập công thức đánh giá như trên khiến Phòng Kỹ
thuật phải nỗ lực tăng chi phí thực tế thực hiện, trong khi mục tiêu của
Ban Điều hành là tiết giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Mặt
khác, việc thực hiện thanh toán, thanh lý hợp đồng làm cơ sở ghi nhận chi
phí là nhiệm vụ của Phòng Kế toán. Để đạt được mục tiêu “tăng hiệu quả
sử dụng vốn”, Phòng Kế toán có thể sử dụng nhiều biện pháp để trì hoãn
47
việc thanh toán, tăng thời gian chiếm dụng vốn đối tác. Như vậy, việc sử
dụng chỉ số trên không chỉ không thể đánh giá năng lực Phòng Kỹ thuật
mà còn tạo ra những phản ứng không mong muốn từ phía người lao động,
không hỗ trợ việc phân bổ các nguồn lực nhằm theo đuổi các mục tiêu
chiến lược… như Parmenter (2015) đã đề cập.
2) Đưa ra cơ sở đánh giá không phù hợp nên không thể đánh giá chính xác
năng lực và sự nỗ lực của người lao động. Cụ thể, tuy Công ty đã có Bảng
mô tả công việc và định hướng đăng ký KPI cho các Phòng ban, bộ
phận,… và từng vị trí chức vụ nhưng nội dung của những bản mô tả đó
chủ yếu dựa trên thông tin và cơ sở dữ liệu cũ kết hợp với kinh nghiệm và
cảm tính của Ban Điều hành và Ban Kiểm soát KPI. Vì thời gian triển
khai hệ thống KPI ngắn (chưa đến 1 năm) nên các chỉ số, thang đo và cơ
sở đánh giá gần như chưa được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Trong
năm 2018, Công ty đã áp dụng kết quả đánh giá KPI năm của người lao
động để đánh giá thành tích nhân viên theo công thức:
KPI năm của CBNV = kết quả KPI năm của Công ty x 10%
+ kết quả KPI năm của Phòng x 20%
+ kết quả KPI năm của CBNV x 50%
+ kết quả đánh giá tiêu chí năng lực x 20%
Điều này đã dẫn đến một mâu thuẫn gây khó khăn cho Ban Điều hành
trong việc đánh giá năng lực người lao động vì kết quả KPI năm của
Công ty chỉ đạt 66% nên KPI năm của cán bộ nhân viên (tính theo công
thức trên) tối đa chỉ có thể đạt 96,6%. Trong khi nếu xét trên trung bình
kết quả KPI 12 tháng của người lao động thì có đến 26% nhân viên hoàn
thành 100% kế hoạch mục tiêu cá nhân. Điều đó cho thấy việc xác lập
công thức tính cũng như cơ sở đánh giá KPI còn chủ quan và chưa thể
cung cấp cơ sở đánh giá người lao động cho Ban Điều hành.
3) Không tuân thủ nguyên tắc chung. Việc xây dựng và triển khai KPI sử
dụng cơ sở dữ liệu cũ và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và cảm tính dẫn
48
đến tình trạng hệ thống KPI vừa thừa vừa thiếu: đánh giá quá nhiều nội
dung nhưng mỗi nội dung lại không sâu, không bám sát thực tế và không
tạo được động lực cho người lao động; kết quả đánh giá KPI nhiều nhưng
không liên kết với nhau, không có nhiều ý nghĩa quản trị, không cung cấp
được định hướng, kế hoạch… cho Ban Điều hành. Theo nguyên tắc xây
dựng KPI từ cấp độ Công ty đến cấp độ cán bộ nhân viên, công việc phải
được phân bố hết cho các cấp dưới liền kề, do đó không thể tồn tại việc
tổng tỷ lệ hoàn thành công việc của cấp dưới lại lớn hơn tỷ lệ hoàn thành
công việc của cấp trên. Theo nguyên tắc phân bổ kế hoạch năm thành
từng quý và từng tháng, KPI tháng, quý, năm thống nhất với nhau trên
một kế hoạch tiến độ triển khai từng hạng mục. Do đó, chỉ có thể tồn tại
việc chậm tiến độ quá trình (tháng, quý) nhưng hoàn thành kế hoạch năm
nhưng không tồn tại trường hợp ngược lại. Tuy vậy, năm 2018 việc đăng
ký kế hoạch mục tiêu KPI của Phòng ban và Người lao động chủ yếu
được cấp dưới đề xuất, thường xuyên thay đổi nên dẫn đến kết quả có đến
89% người lao động đạt 100% KPI cá nhân trung bình 12 tháng nhưng
đạt dưới 75% KPI cá nhân năm. Một trường hợp khác, cơ sở và công thức
áp dụng để đánh giá KPI cho từng đối tượng đã được thống nhất từ đầu
năm nhưng khi đánh giá tổng kết cuối năm lại không sự dụng cơ sở và
công thức đó. Ví dụ, mục tiêu Công ty là phải hoàn thành việc xin chấp
thuận chủ trương đầu tư dự án SPK3 trong năm 2018 thì Phòng Bồi
thường phải hoàn thành bồi thường 100% đất trong ranh dự án trước
tháng 09/2018 để các Phòng ban khác tiếp tục triển khai thực hiện các thủ
tục liên quan nên KPI năm của Công ty đăng ký:
Nếu Tỷ lệ bồi thường thực hiện = 100% trước tháng 09/2018 thì Công
ty đạt 100% KPI
Nếu Tỷ lệ bồi thường thực hiện = 100% sau tháng 09/2018 thì Công ty
đạt 0% KPI
49
Nhưng đến khi đánh giá kết quả năm làm cơ sở khen thưởng thì lại áp
dụng công thức
Hiệu suất KPI = Tỷ lệ bồi thường thực hiện/ kế hoạch x 100%
Điều này dẫn đến tình trạng KPI của hạng mục này đạt 19%, Công ty vẫn
chi một khoản tiền thưởng cho Phòng ban và người lao động nhưng Công
ty hoàn toàn không thực hiện được mục tiêu đã đề ra (vì không đủ điều
kiện pháp lý).
4) Và quan trọng hơn cả là hệ thống KPI không gắn liền với chiến lược và
các yếu tố thành công cốt yếu CSF nên không hỗ trợ việc theo đuổi các
mục tiêu chiến lược đã được đặt ra – nhiệm vụ chính và cũng là nguyên
nhân thúc đẩy SADECO nghiên cứu triển khai KPI.
KPI năm của Công ty đăng ký:
Nếu Tỷ lệ bồi thường thực hiện = 100% trước tháng 09/2018 thì Công
ty đạt 100% KPI
Nếu Tỷ lệ bồi thường thực hiện = 100% sau tháng 09/2018 thì Công ty
đạt 0% KPI
Phòng Bồi thường đã đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI như sau:
Hiệu suất KPI = Tỷ lệ bồi thường thực hiện/ kế hoạch x 100%
Như vậy, không có sự tương đồng giữa KPI cấp Công ty và cấp Phòng
ban. Điều đó khiến cho việc triển khai KPI ở cấp độ Công ty không chỉ
trở thành một trong những hoạt động làm tăng chi phí hoạt động (do tăng
chi phí thưởng cho các cá nhân, Phòng ban đạt hiệu suất KPI), giảm hiệu
quả hoạt động (do người lao động và các Phòng ban phải dành một khoản
thời gian để tham gia đào tạo, tập huấn, đăng ký và đánh giá định kỳ; tăng
số lượng công việc không mang lại lợi ích kinh tế cho Công ty) mà còn
trở thành trở ngại trong việc theo đuổi các mục tiêu chiến lược (do người
lao động chỉ tập trung vào những công việc được đánh giá; thao túng việc
đăng ký và đánh giá để tối đa hóa lợi ích cá nhân…)
50
Thứ hai là sự mơ hồ trong hệ thống các định nghĩa. Mặc dù Công ty có
Chiến lược, Tầm nhìn và Sứ mệnh nhưng tất cả những định nghĩa đó đều còn chủ
quan, không rõ ràng và không thể tiến hành đo lường được nên không thể đánh giá
mức độ hoàn thành. Ví dụ như tầm nhìn hướng đến “Trở thành tập đoàn kinh tế tầm
cỡ có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng trong năm năm tới” và “Là một trong mười
công ty đầu tư xây dựng, kinh doanh địa ốc có thương hiệu và uy tín tại Việt Nam”
đang có sự mâu thuẫn trong các khái niệm. Theo Luật doanh nghiệp 2014 định
nghĩa: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở
hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác, không phải là một loại hình doanh
nghiệp và không có tư cách pháp nhân”, vậy SADECO chỉ có thể trở thành thành
viên có sức ảnh hưởng hoặc Công ty mẹ trong một tập đoàn kinh tế chứ không thể
trở thành tập đoàn kinh tế. Mặt khác, vì tập đoàn kinh tế không phải là một pháp
nhân nên không có cơ sở xác định vốn điều lệ (chỉ có thể xác định tổng vốn điều lệ
các Công ty trong tập đoàn), do đó việc “trở thành tập đoàn kinh tế có vốn điều lệ
trên 1.000 tỷ đồng” là không thể đo lường. Thêm vào đó, tầm nhìn nêu thời gian
thực hiện là “trong năm năm tới” nhưng bắt đầu từ thời điểm nào thì không xác
định, mỗi năm đều xác định là “trong năm năm tới” nên từ khi tuyên bố tầm nhìn
điều chỉnh năm 1998 đến nay đã gần 20 năm vẫn không thể đạt được. Trong quá
trình xây dựng kế hoạch năm, Ban Điều hành luôn nhấn mạnh việc thực hiện Chiến
lược Công ty, nhưng thực tế đó là những Mục tiêu kinh tế và chính trị của Công ty,
và đến nay, chưa có văn bản chính thức công bố Chiến lược của Công ty.
Do không có Chiến lược cụ thể, Công ty cũng chưa xác định các yếu tố thành
công cốt yếu CSF nên việc xây dựng mục tiêu và kế hoạch năm cũng mang tính mơ
hồ. Ví dụ như trong quá trình triển khai KPI luôn nhấn mạnh đến việc tập trung thực
hiện các “công việc chính” với định nghĩa “Công việc chính là công việc mang tính
chất quyết định, có tác động nhất định tới hoạt động của Công ty” nhưng Công ty
không có danh mục những “công việc chính” – được đưa vào đánh giá KPI, cũng
không mô tả rõ những đặc tính để xác định thế nào là “mang tính chất quyết định”,
“có tác động nhất định”. Cụ thể, trong mô tả công việc cũng chưa xác định mức độ
51
bao quát của “công việc”, đó có thể là một quy trình (như quy trình thực hiện dự án,
quy trình lựa chọn nhà thầu…), một giai đoạn trong quy trình (giai đoạn chuẩn bị
đầu tư, giai đoạn triển khai thực hiện đầu tư…), một hoạt động trong quy trình (hoạt
động phân tích hiệu quả đầu tư dự án, lập quy hoạch tổng thể…), tầm quan trọng và
mức độ ảnh hưởng của chúng. Sự mơ hồ này tạo điều kiện cho nhân viên có xu
hướng lựa chọn những công việc/ hạng mục có khả năng hoàn thành cao – thay vì
những công việc có tác động chính và trực tiếp đến chiến lược và các yếu tố thành
công cốt yếu CSF vì trên thực tế, bất kỳ hoạt động nào trong một quy trình bị gián
đoạn hoặc đình trệ cũng đều có tác động nhất định lên hoạt động của Công ty.
Các nội dung đánh giá KPI do các Phòng ban đăng ký, đặc biệt là các nội
dung ở hai phương diện Vận hành và Học hỏi phát triển thường rất mơ hồ do không
thể đánh giá dựa vào số liệu tài chính – kế toán. Ví dụ, nếu áp dụng phương pháp
SMART của Drucker (1954) để phân tích các nội dung:
Xây dựng hoàn thiện hệ thống nhận dạng thương hiệu
100% công nhân trong khu lưu trú nắm bắt được quy định về phòng
cháy chữa cháy
Cải tiến vận hành hệ thống ERP
Có thể thấy, các nội dung trên không đáp ứng được các tiêu chí theo phương
pháp SMART nên không đủ cụ thể, chính xác và rõ ràng để giúp Ban Điều hành và
người lao động thấy được định hướng cũng như cách đạt được mục tiêu, cũng
không thể hiện tầm quan trọng của việc thực hiện các nội dung trên. Ba nội dung
trên không được gắn kết với các thước đo cụ thể, cũng không có cơ sở để đánh giá
mức độ hoàn thành (thế nào gọi là “hoàn thiện”, “nắm bắt”,…) và không thể đo
lường cụ thể (không thể khẳng định công nhân thuộc các quy định về phòng cháy
chữa cháy thì hiểu và áp dụng chúng trong thực tế). Vì không rõ ràng cũng không
thể đo lường nên các nội dung trên có tính khả thi thấp, khó truyền đạt chính xác.
Thứ ba là việc thiếu các công cụ phù hợp để triền khai KPI. Qua thực trạng
triển khai KPI đến năm 2018 cho thấy hiện Công ty đang thiếu Quy trình và thang
đo chuẩn, danh mục công việc chính, đồng thời, bảng định hướng KPI chưa đủ chi
52
tiết và nội dung còn hạn chế. Việc thiếu quy trình đánh giá và thang đo chuẩn tạo
điều kiện cho các Phòng ban, cá nhân tự đăng ký kế hoạch mục tiêu mang tính khả
thi (để được khen thưởng) thay vì hướng vào việc hoàn thành mục tiêu chiến lược
của Công ty. Về phía Ban Kiểm soát KPI, đây là một trong những nguyên nhân làm
tăng tính chủ quan khi đánh giá khen thưởng vỉ bị phụ thuộc nhiều vào nội dung
đăng ký KPI của Phòng ban và cá nhân. Điều này dẫn đến kết quả đánh giá KPI
không phù hợp với kết quả thực hiện kế hoạch – do đó, một cách gián tiếp thúc đẩy
Ban Điều hành và các Phòng ban không tuân thủ các nguyên tắc chung khi phải
điều chỉnh việc đánh giá (để thu được kết quả phù hợp hơn giữa các nội dung đánh
giá). Mặt khác, vì không có cơ sở đánh giá thống nhất nên không thể tiến hành so
sánh giữa các Phòng ban, đội nhóm, người lao động… (thời gian xử lý công việc,
năng lực, sự tiến bộ…) dẫn đến không thể cung cấp cơ sở cho Ban Điều hành xây
dựng và triển khai các kế hoạch để thực hiện mục tiêu chiến lược của Công ty.
Một trong những công cụ cần thiết để triển khai hệ thống KPI hiệu quả là
danh mục công việc chính.
Thứ tƣ là quy trình rườm rà kéo dài thời gian đánh giá định kì và làm kết
quả đầu ra không gắn với kế hoạch công ty. Ví dụ: để có bảng đăng ký kế hoạch
mục tiêu KPI tháng 06/2018 (tháng n) của Phòng ban và cá nhân gửi về Ban Kiểm
soát KPI trước ngày 27/05/2018 (tháng n-1), Công ty phải thực hiện các bước sau:
Quản lý Phòng ước kết quả thực hiện trong tháng 05/2018 và lập kế
hoạch cho tháng 06/2018. (1-2 ngày)
Từng cá nhân lập kế hoạch tháng 06/2018 và lựa chọn các nội dung
đăng ký KPI tháng 06/2018 trình Quản lý Phòng phê duyệt. (1-2 ngày)
Quản lý Phòng tập hợp KPI cá nhân, điều chỉnh (nếu có), lập KPI
Phòng tháng 06/2018 gửi chuyên viên KPI xem, góp ý. (1-5 ngày)
Quản lý Phòng điều chỉnh (nếu có) và trình Ban Điều hành chuyên
trách phê duyệt. (1-2 ngày)
53
Ban điều hành chuyên trách xem xét, đánh giá, điều chỉnh KPI (nếu
có) và gửi bảng đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI tháng 06/2018 (tháng
n) của Phòng ban và cá nhân gửi về Ban Kiểm soát KPI (1-5 ngày)
Như vậy, việc đăng ký đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI hằng tháng mất từ 5
đến 16 ngày. Thời gian thực hiện quy trình trên quá dài dẫn đến một vài hệ quả như:
kết quả ước thực hiện tháng không chính xác (vì tiến hành đánh giá kết quả tháng
quá sớm, tại thời điểm ngày 10-11 hàng tháng) nên kế hoạch dự kiến (công việc tiếp
theo) không chính xác; giảm tính linh động thích nghi với thị trường do thị trường
thay đổi không ngừng trong khi kế hoạch KPI đã cố định trước và khó có thể thay
đổi; gia tăng tính chủ quan trong đánh giá do qua nhiều cấp bậc xem xét góp ý dẫn
đến nội dung đánh giá và kết quả đầu ra không gắn với kế hoạch Công ty.
Mặt khác, Bảng 2.1 về việc phân loại KPI nhằm mục tiêu đăng ký và đánh
giá kết quả thực hiện KPI đối với các đối tượng khác nhau trong Công ty, làm cơ sở
chi trả lương 3P và khen thưởng định kỳ cũng thể hiện sự rườm rà không thống nhất
của quy trình hiện tại. Theo đó, có 4 nhóm KPI chỉ không đăng ký kế hoạch mục
tiêu như được đánh giá định kỳ bao gồm: KPI năm của Quản lý Phòng, KPI quý của
Ban Điều hành. Quản lý phòng và nhân viên. Thay vào đó, kết quả đánh giá quý sẽ
được tính bằng trung bình kết quả KPI 3 tháng trong quý và kết quả KPI năm sẽ
tính bằng trung bình kết quả KPI 12 tháng trong năm. Như vậy, theo quy trình đăng
ký KPI đã được mô tả ở 2.2.2. cũng như việc phân loại KPI thể hiện ở Bảng 2.1,
trách nhiệm của Quản lý Phòng không gắn liền với trách nhiệm hoàn thành nhiệm
vụ của Phòng, thay vào đó, phụ thuộc nhiều vào KPI tháng được chính Quản lý
Phòng đăng ký. Điều này tạo điều kiện để Quản lý Phòng thao túng kết quả đánh
giá cũng như tạo nhiều cản trở cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược của Công ty.
Việc đăng ký các nội dung đánh giá KPI theo mốc thời gian (năm, quý,
tháng) một cách độc lập, thay vì áp dụng nguyên tắc phân bổ (Kế hoạch tháng chính
là sự cụ thể kế hoạch quý, kế hoạch năm) làm cho quy trình đánh giá trở nên rườm
rà và không thống nhất. Điều đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến có
sự chênh lệch giữa trung bình kết quả KPI tháng so với kết quả KPI năm (vì các
54
Phòng ban được chủ động đăng ký và đánh giá KPI tháng cũng như việc đăng ký
KPI tháng cá nhân chỉ giới hạn trong 3-5 hạng mục nên sẽ ưu tiên những hạng mục
dễ làm). Việc phải đánh giá từng tháng, quý, năm và thu được những kết quả mâu
thuẫn không chỉ tốn nhiều thời gian mà còn gây khó khăn trong công tác đánh giá
và điều động nhân sự.
Thứ năm là sự thao túng của người lao động nhằm tối đa hóa lợi ích cá
nhân. Việc xây dựng và triển khai KPI sử dụng cơ sở dữ liệu cũ và chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm và cảm tính dẫn đến tình trạng hệ thống KPI vừa thừa vừa thiếu: đánh
giá quá nhiều nội dung nhưng mỗi nội dung lại không sâu, không bám sát thực tế và
không tạo được động lực cho người lao động; kết quả đánh giá KPI nhiều nhưng
không liên kết với nhau, không có nhiều ý nghĩa quản trị, không cung cấp được
định hướng, kế hoạch… cho Ban Điều hành. Cụ thể như việc yêu cầu người lao
động đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI năm, quý và tháng là không cần thiết vì từng
vị trí, chức danh, đơn vị đã có kế hoạch hoạt động và mục tiêu cần đạt theo từng
thời đoạn mục tiêu đó, kết quả của năm là kết quả lũy kế 4 quý và 12 tháng.
Thêm vào đó, việc yêu cầu đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI nhiều lần tạo cơ
hội để người lao động và các Phòng ban thao túng việc đánh giá KPI nhằm tối đa
hóa lợi ích bản thân, bất chấp ảnh hưởng đến hoạt động chung của Công ty. Ví dụ:
mục tiêu Công ty là phải hoàn thành việc xin chấp thuận chủ trương đầu tư dự án
SPK3 trong năm 2018 thì Phòng Bồi thường phải hoàn thành bồi thường 100% đất
trong ranh dự án trước tháng 09/2018 để các Phòng ban khác tiếp tục triển khai thực
hiện các thủ tục liên quan. Phòng Bồi thường đã đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI
như sau:
KPI năm:
Hiệu suất KPI = Tỷ lệ bồi thường thực hiện/ kế hoạch x 100%
KPI quý:
Hiệu suất KPI= Tỷ lệ bồi thường thực hiện/ kế hoạch x A
+ tỷ lệ thực hiện chỉnh lý biến động/kế hoạch x B
+ tỷ lệ thực hiện hồ sơ bồi thường/ kế hoạch x C
55
Trong đó A, B, C là các trọng số do Quản lý Phòng đề xuất, Ban điều
hành quyết định phê duyệt.
KPI tháng (của nhân viên)
Hiệu suất KPI= Tỷ lệ bồi thường thực hiện/ kế hoạch x D
+ tỷ lệ thực hiện chỉnh lý biến động/kế hoạch x E
+ tỷ lệ thực hiện hồ sơ bồi thường/ kế hoạch x F
+ nhiệm vụ cá nhân x G
+ thái độ hành vi, đạo đức… x H
Trong đó D, E, F, G, H là các trọng số do cán bộ nhân viên đăng ký và
Quản lý Phòng quyết định phê duyệt.
Theo cách đăng ký kế hoạch mục tiêu KPI và cách đánh giá như trên, mục
tiêu Công ty khi triển khai đến cá nhân đã bị pha loãng nhiều lần. Thêm vào đó,
người lao động dễ dàng giảm tỷ trọng của nhiệm vụ này xuống (qua việc giảm tỷ
trọng D trong công thức KPI tháng) để hạn chế ảnh hưởng của việc không đạt được
kế hoạch mục tiêu đã đăng ký. Điều này dẫn đến thực trạng là kết quả đánh giá cá
nhân luôn cao, trong khi nhiệm vụ của Phòng ban lại không hoàn thành; kết quả
đánh giá Phòng ban hoàn thành ở mức cao hơn mức chung của Công ty đạt được.
Sự thao túng của người lao động trong hoạt động triển khai và đánh giá KPI
để trục lợi trong ngắn hạn sẽ gây tổn thất tài chính cho Công ty do làm tăng chi phí
hoạt động, giảm hiệu quả hoạt động mà về lâu dài còn trở thành trở ngại trong việc
theo đuổi các mục tiêu chiến lược. Điều đó phù hợp với quan điểm của Parmenter
(2015) khi cho rằng các khoản tiền lương và thưởng không nên bị ràng buộc với các
thước đo hiệu suất, đặc biệt là KPI. Theo ông, các KPI liên quan đến những vấn đề
cực kỳ quan trọng và không nên bị thao túng nhằm thỏa mãn lợi ích cá nhân hoặc
lợi ích nhóm.
Tóm tắt chƣơng 2:
Trong chương 2, tác giả đã mô tả thực trạng triển khai hệ thống KPI, cách
thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO cũng như việc đánh giá, phân tích kết quả
hoạt động kinh doanh của Công ty sau khi áp dụng KPI. Thực trạng về tình hình
56
hoạt động của Công ty trong năm 2018 cho thấy việc triển khai KPI tại Công ty
không chỉ không đạt được những mục tiêu như kỳ vọng mà còn là nguyên nhân dẫn
đến nhiều vấn đề tiêu cực, làm giảm hiệu suất hoạt động của Công ty.
Từ thực trạng và nguyên nhân đã được xác định ở chương 2, trong chương 3,
nghiên cứu này sẽ trình bày giải pháp hoàn thiện hệ thống KPI tại Công ty
SADECO thông qua việc: xây dựng và củng cố những yếu tố nền cho việc triển
khai KPI; xây dựng mục tiêu chiến lược và xác định các chỉ số KPI phù hợp với
tình hình hoạt động của Công ty.
57
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KPI TẠI CTCP
SADECO
Trên cơ sở cơ sở lý thuyết và những kinh nghiệm trong việc triển khai hệ
thống KPI hiệu quả và việc phân tích thực trạng hệ thống KPI đang được triển khai
tại Công ty, tôi đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống KPI tại Công ty SADECO
bằng việc giải quyết các nguyên nhân đã nêu.
3.1. Xây dựng và củng cố những yếu tố nền cho việc triển khai KPI
Theo Parmenter (2015), có 7 yếu tố nền để xây dựng hệ thống KPI hiệu quả
và trên cơ sở lý thuyết, chúng có thể giải quyết các vấn đề Công ty đang gặp phải,
cụ thể như sau:
Thứ nhất, Parmenter (2015) nhấn mạnh việc thiết lập mối quan hệ hợp tác
hiệu quả giữa nhà quản trị, đại diện của người lao động ở từng Phòng ban, đơn vị,
Công đoàn, người lao động và các bên thứ ba (như các khách hàng và nhà cung cấp
lớn). SADECO nên tận dngj nhưng buổi họp mặt người lao động và sinh hoạt tập
thể định kỳ để xác định được chính xác tình hình hoạt động, mức độ nhận thức cũng
như thái độ của người lao động đối với việc triển khai KPI. Thông qua đó, bộ phận
quản trị nhân sự sẽ đề xuất hỗ trợ cụ thể nhằm đảm bảo mức độ nhận thức và cam
kết thực hiện của người lao động đối với việc triển khai KPI được duy trì ở mức
nhất định.
Thứ hai, Parmenter (2015) cho rằng cần trao quyền người lao động, thông
qua đó hỗ trợ công tác phân bổ nguồn lực để đạt chiến lược Công ty. Việc “trao
quyền” theo Parmenter (2015) bao gồm việc thúc đẩy sự giao tiếp hai chiều hiệu
quả, trao quyền hành động cho nhân viên, chuyển giao trách nhiệm xuống các cấp
đội nhóm, đào tạo về KPI và các phương pháp luận cũng như gia tăng sự nhận thức
về khó khăn của người lao động. SADECO đã có những buổi học cung cấp kiến
thức nền tảng cho việc triển khai KPI. Tuy nhiên, Công ty nên bổ sung thêm các
khóa học hoặc buổi tập huấn về sự trao quyền, chuyển giao quyền và trách nhiệm,
hệ thống KPI, các yếu tố thành công cốt yếu CSF… để gia tăng nhận thức của
người lao động Thông qua đó, người lao động được khuyến khích cung cấp những
58
phản hồi về thực trạng hoạt động của Công ty, có quyền hành động ngay để hạn chế
và khắc phục những vấn đề phát sinh có tác động xấu lên KPI. Đồng thời, người lao
động nhận thức được sự hỗ trợ từ Công ty trong việc giải quyết những khó khăn
đang tồn tại, vai trò và trách nhiệm của mình và đơn vị trong quá trình hướng đến
mục tiêu chiến lược của Công ty nên có thểm tự tin ra quyết định nhanh chóng trong
quá trình xử lý sự cố phát sinh. Tuy nhiên, bộ phận Quản trị nhân sự cần tăng cường
giám sát các hoạt động ủy quyền và phân quyền giảm thiểu rủi ro người lao động
thao túng KPI để tối đa hóa lợi ích cá nhân như đã phân tích ở chương 2.
Việc trao quyền này sẽ giúp Công ty SADECO gắn liền lợi ích Phòng ban,
đội nhóm với trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ Công ty, nên giảm được sự thao túng
của người lao động nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân, đồng thời tránh được sự dễ dãi,
bao che, không tuân thủ nguyên tắc chung từ phía Quản lý Phòng. Mặt khác vì gắn
kết quả đầu ra ngắn hạn với mục tiêu chiến lược dài hạn, gắn lợi ích cá nhân với lợi
ích chung nên thúc đẩy các Phòng ban phối hợp tích cực hơn và thúc đẩy các cấp
quản lý xây dựng các nội dung và cơ sở đánh giá hiệu quả hơn để kiểm soát các
nguồn lực thuộc cấp quản lý của mình. Thông qua đó, việc trao quyền sẽ giúp tăng
tính hỗ trợ của hệ thống KPI trong việc phân bổ nguồn lực của Công ty hướng đến
thực hiện nhiệm vụ chung, tăng tính khách quan của của hệ thống KPI trong việc
đánh giá các đối tượng và tăng tính tương thích của kết quả đánh giá KPI với kết
quả hoạt động của Công ty.
Thứ ba, Parmenter (2015) cho rằng chỉ nên đo lường và báo cáo những thứ
quan trọng với tần suất báo cáo phù hợp giúp thúc đẩy việc tinh gọn số lượng báo
cáo, giảm thời gian thực hiện những báo cáo trùng lặp giúp gia tăng khả năng cung
cấp thông tin kịp thời của hệ thống KPI, tạo cơ sở hỗ trợ việc phân bổ nguồn lực
phù hợp. Trên thực tế, SADECO có thể tận dụng hệ thống ERP và hệ thống lưu trữ
thông tin hiện tại để giảm số lượng báo cáo qua nhiều cấp độ, giảm thời gian trích
xuất, đối chiếu số liệu… Việc tinh gọn hệ thống báo cáo này đòi hỏi Ban Điều hành
và các nhà quản lý cấp trung rà soát lại tính liên kết của hệ thống dữ liệu và hệ
thống đăng ký – đánh giá KPI phù hợp với thực tế. Đồng thời, thông qua quá trình
59
rà soát, các nội dung và thước đo được giữ lại có thể chứng minh được vai trò, sự
cần thiết để tồn tại và sự gắn kết của nó với ít nhất một trong các vấn đề như mục
tiêu chiến lược, nhân tố thành công cốt yếu CSF hoặc một kế hoạch cụ thể. Điều đó
giúp tăng tính phù hợp của nội dung đánh giá, giảm tính chủ quan và các cơ hội
thao túng KPI.
Thứ tƣ, Parmenter (2015) cho rằng nên xây dựng các KPI trên cơ sở các
nhân tố thành công cốt yếu CSF. Như đã phân tích ở chương 1, việc xác định các
CSF của một Công ty là vô cùng quan trọng trong việc định hướng hoạt động cũng
như hỗ trợ phân bố các nguồn lực trong tổ chức hướng đến việc thực hiện mục tiêu
chiến lược. Chương 2 cũng chỉ ra việc triển khai hệ thống KPI không gắn với chiến
lược sẽ dẫn đến tình trạng hệ thống đó không giúp định hướng và cũng không hỗ trợ
phân bổ nguồn lực để Công ty đạt được các mục tiêu chiến lược. Nguyên nhân
chính của việc này đến từ sự thao túng của người lao động, sự phụ thuộc vào kinh
nghiệm và cảm tính của nhà quản trị và sự mơ hồ trong việc định nghĩa các CSF và
nội dung đánh giá KPI. Như vậy, muốn cải thiện vấn đề này, trước tiên cần phải xác
định rõ các CSF của Công ty. Mặt khác, Ittner và Larcker (2003) cho rằng việc áp
dụng mô hình Nhân – Quả sẽ giúp xác định những CSF có tính trọng yếu, có tác
động mạnh và trực tiếp lên quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược của Công ty.
Thứ năm, Parmenter (2015) nhấn mạnh vai trò của việc loại bỏ những quy
trình không hiệu quả bao gồm: các thước đo mục tiêu lệch lạc, các báo cáo và cuộc
họp không cần thiết, các thẻ điểm cân bằng không hiệu quả, một số dự án và
chương trình không phù hợp hoặc không cần thiết. Như đã phân tích ở chương 2,
quy trình rườm rà và không hiệu quả là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sai lệch
giữa kết quả đánh giá KPI và kết quả hoạt động của Công ty, đồng thời cũng cản trở
khả năng định hướng và hỗ trợ phân bổ nguồn lực Công ty trong quá trình thực hiện
chiến lược. Việc loại bỏ những quy trình không hiệu quả sẽ giúp hệ thống KPI tinh
gọn, tăng tính thống nhất trong việc đăng ký và đánh giá KPI, thông qua đó cải
thiện tính khách quan của KPI, giúp tăng cường khả năng định hướng, hỗ trợ phân
bổ nguồn lực của Công ty và cải thiện hiệu suất hoạt động của Công ty. Theo Ittner
60
và Larcker (2003), Công ty nên tiến hành đánh giá khách quan và áp dụng mô hình
Nhân – Quả để xác định những thang đo có mối liên kết phù hợp với chiến lược và
mục tiêu công ty rồi mới cân nhắc tỷ trọng giữa những thang đo này, hướng đến
việc phương án phân bổ nguồn lực tối ưu. Mặt khác, việc loại bỏ những quy trình
không phù hợp cũng góp phần xây dựng hệ thống đánh giá mang tính chất toàn diện
và khách quan, được triển khai thống nhất giữa các Phòng ban.
Quan trọng hơn cả, Parmenter (2015) cho rằng nên từ bỏ việc ràng buộc chế
độ lương thưởng với các mục tiêu ngắn hạn để tối thiểu hóa nguy cơ bị thao túng.
Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Aleksey (2013) khi cho rằng nên gắn
việc khen thưởng KPI với các mục tiêu chiến lược.
Thứ sáu, Parmenter (2015) đã bổ sung quan điểm “cần bổ nhiệm người quản
lý chịu trách nhiệm về việc đo lường hiệu suất nội bộ” vào danh mục những yếu tố
nền để xây dựng hệ thống KPI hiệu quả. Ông gọi đó là “vị giám đốc đo lường hiệu
suất nội bộ” (Home-Grown Chief Measurement Officer), thực hiện các trách nhiệm
sau: Kiểm tra các thước đo để tìm ra giá trị, giám sát công tác đo lường và đóng vai
trò là chuyên gia nội bộ trong công tác triển khai KPI. Theo đó, thông qua việc kiểm
tra từng thước đo mới, bao gồm cả việc tham khảo ý kiến người lao động để xác
định những hệ quả không mong muốn có thể xảy ra của các thước đo cũng như đảm
bảo có thể kiểm soát các tác động tiêu cực của chúng, vị giám đốc này đóng vai trò
là người duy nhât tập hợp, xem xét và phê duyệt các thước đo trong tổ chức, tạo cơ
hội để xây dựng một hệ thống các nội dung, thang đo và cơ sở đánh giá KPI thống
nhất trong Công ty. Mặt khác, vị giám đốc này còn đóng vai trò là một chuyên gia
nội bộ cũng là người dẫn dắt và quảng bá việc phát triển, cải tiến các thước đo mục
tiêu cũng như việc loại bỏ các quy trình không hiệu quả trong Công ty.
Cuối cùng, Parmenter (2015) đề cập đến “sự hiểu biết và nhận thức về hệ
hống KPI hiệu quả trong toàn bộ tổ chức”. Theo đó, ông nhấn mạnh việc nhận thức
về vai trò và các đặc điểm của KPI. Đồng thời, ông cũng cho rằng nhà quản lý cần
truyền tải ý nghĩa của việc triển khai KPI, nhanh chóng khắc phục các suy nghĩ sai
lầm và tiêu cực của người lao động và điều chỉnh lại nhận thức của đội ngũ nhân
61
viên và quản lý trực thuộc thông qua việc giúp họ hiểu rõ và phân biệt được sự khác
nhau giữa các định nghĩa KPI (chỉ số đo lường hiệu suất cốt yếu), PI (chỉ số đo
lường hiệu suất), RI (chỉ số đo lường kết quả) và KRI (chỉ số đo lường kết quả cốt
yếu).
Nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống KPI tại CTCP SADECO, nghiên
cứu này chủ yếu áp dụng phương pháp chuyên gia thông qua việc tổ chức buổi trao
đổi với Ban Kiểm soát KPI, lãnh đạo các Phòng ban và nhân viên tổng hợp KPI.
Theo đó, 100% thành viên tham gia buổi thảo luận cho rằng việc cùng lúc thay đổi
toàn bộ hệ thống KPI hiện tại để khắc phục tất cả những nguyên nhân nêu trên là
không khả thi. Do đó, phương án đề ra là Công ty sẽ tiến hành xây dựng mục tiêu
chiến lược và nội dung các chỉ số KPI (bao gồm nội dung và công thức tính) được
đưa vào đánh giá trong năm 2019 để khắc phục những nguyên nhân đã được phân
tích trên; các vấn đề khác (như tỷ trọng các KPI, các giá trị mục tiêu…) sẽ được
xem xét và điều chỉnh (nếu có) sau.
3.2. Xây dựng mục tiêu chiến lƣợc Công ty SADECO
Đề xây dựng hệ thống mục tiêu chiến lược cho Công ty SADECO, tác giả
dùng phương pháp phỏng vấn chuyên gia thông qua việc tổ chức buổi trao đổi với
Ban Kiểm soát KPI, lãnh đạo các Phòng ban và nhân viên tổng hợp KPI dể thảo
luận về các mục tiêu chiến lược của Công ty. Trong buổi thảo luận, phương pháp
Brainstorming được dung để thu thập các ý tưởng và ý kiến đề xuất. Sau đó, nhóm
các Phòng ban tiến hành phản biện để loại bỏ hoặc bảo vệ những nội dung đã được
liệt kê cho đến khi tất cả các thành viên tham gia đều thống nhất với các nội dung
đã chọn. Những nội dung được lựa chọn làm mục tiêu chiến lược của Công ty
không chỉ phù hợp với tầm nhìn và sứ mệnh đã được xác định trước mà còn phải có
lý do tồn tại khách quan, nếu không có bằng chứng cụ thể thì xem xét đến sự đồng
thuận của các chuyên gia.
Kết quả thảo luận được tác giả tập hợp, phân loại và thể hiện ở Bảng 3.1 gồm
14 nội dung. Trong đó bổ sung 3 mục tiêu ở khía cạnh tài chính và 1 mục tiêu ở
khía cạnh khách hàng:
62
Bảng 3.1 Các mục tiêu chiến lược của Công ty SADECO
STT MỤC TIÊU CHIẾN LƢỢC CŨ MỤC TIÊU CHIẾN LƢỢC MỚI
Khía cạnh Tài chính Tăng doanh thu Tăng lợi nhuận sau thuế
Khía cạnh Tài chính Tăng doanh thu Tăng lợi nhuận sau thuế Tiết giảm chi phí hoạt động Tiết giảm chi phí hợp đồng Hoàn tất thủ tục pháp lý dự án
1 1.1 1.2 1.3 1.4 1.5 II Khía cạnh Khách hàng Khía cạnh Khách hàng
Hoàn tất thủ tục pháp lý sản Hoàn tất thủ tục pháp lý sản 2.1 phẩm phẩm
Nâng cao mức độ hài lòng của Nâng cao mức độ hài lòng của
2.2 khách hàng khách hàng
Phát triển đa dạng các dòng sản
2.3
phẩm Khía cạnh Vận hành
III Khía cạnh Vận hành 3.1
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Hoàn thiện hệ thống nhận dạng Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Hoàn thiện hệ thống nhận dạng thương hiệu thương hiệu
3.2 3.3
Duy trì và cập nhật hệ thống ERP Duy trì và cập nhật bộ tiêu chuẩn Duy trì và cập nhật hệ thống ERP Duy trì và cập nhật bộ tiêu chuẩn
3.4 chất lượng ISO
chất lượng ISO Khía cạnh Phát triển đổi mới IV Khía cạnh Phát triển đổi mới
Nâng cao năng lực chuyên môn Nâng cao năng lực chuyên môn 4.1 của người lao động của người lao động
Khuyến khích đề xuất và áp dụng Khuyến khích đề xuất và áp dụng
4.2 sáng kiến trong công việc sáng kiến trong công việc
Nguồn: Tác giả tổng hợp
3.3. Xây dựng chỉ số KPI
Sau khi xây dựng được hệ thống 14 mục tiêu chiến lược như đã trình bày ở
Bảng 3.1, nghiên cứu này áp dụng lại phương pháp của Stannard, A., Tai, N.R.,
Bowley, D.M., Midwinter, M. & Hodgetts, T.J. (2008) để xác định các chỉ số KPI.
Theo đó, nghiên cứu này thực hiện:
63
Bước 1: tổ chức các buổi trao đổi thảo luận với từng nhóm lãnh đạo các
Phòng ban và nhân viên tổng hợp KPI của các Phòng ban trong Công ty nhằm xác
định một bộ KPI trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Trong buổi thảo luận, tác giả
dùng phương pháp Brainstorming để thu thập các ý tưởng và ý kiến đề xuất.
Bước 2: dùng Ms Excel để liệt kê tất cả các ý kiến thu thập được ở bước 1 và
gửi cho tất cả các thành viên tham gia phỏng vấn để xem xét và lựa chọn các KPI
thỏa mãn các tiêu chí của phương pháp SMART và phù hợp với tổ chức. Các KPI
này là KPI cấp Công ty và sẽ được xem xét phân phối xuống cấp độ phòng ban.
Bước 3: thực hiện phương pháp phỏng vấn chuyên gia thông qua việc tổ
chức cuộc trao đổi thảo luận có sự tham gia của tất cả các nhóm lãnh đạo Phòng
ban, các nhân viên tổng hợp KPI của từng Phòng ban và Ban kiểm soát KPI để phân
tích, đánh giá những KPI được đề xuất. Đồng thời đối chiếu với các KPI đang áp
dụng để lựa chọn ra những KPI phù hợp dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tế, nếu
không có bằng chứng cụ thể thì xem xét đến sự đồng thuận của các chuyên gia. Các
KPI được lựa chọn khi và chỉ khi được 100% các chuyên gia tham gia phỏng vấn
đồng ý. Những thay đổi trong nội dung KPI cấp Công ty so với KPI đang được triển
khai được thể hiện ở phụ lục 4. Sau khi hoàn tất bước 3, kết quả thu được các nội
dung chỉ tiêu KPI được liệt kê trong bảng 3.2.
Bảng 3.2 Các nội dung chỉ tiêu KPI được đề xuất áp dụng tại Công ty SADECO
năm 2019
STT MỤC TIÊU CHIẾN LƢỢC STT NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI
1 Khía cạnh Tài chính
1.1 Tăng doanh thu 1.1.1 Doanh thu
1.2 Tăng lợi nhuận sau thuế 1.2.1 Lợi nhuận sau thuế
Tỷ lệ tiết giảm chi phí hoạt động 1.3 Tiết giảm chi phí hoạt động 1.3.1 theo kế hoạch năm
Tỷ lệ tiết giảm giá trên giá chào 1.4 Tiết giảm chi phí hợp đồng 1.4.1 thầu
1.5 Hoàn tất triển khai dự án 1.5.1 Mốc thời gian thực hiện các thủ tục
64
STT MỤC TIÊU CHIẾN LƢỢC STT NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI
pháp lý theo tiến độ
Mốc thời gian bồi thường đất trong 1.5.2 ranh theo kế hoạch
Mốc thời gian thực hiện công tác 1.5.3 thiết kế - thi công
2 Khía cạnh Khách hàng
Hoàn tất thủ tục pháp lý sản Mốc thời gian thực hiện các thủ tục 2.1 2.1.1 phẩm pháp lý theo tiến độ
2.2.1 Số dự án mới được giao
Phát triển đa dạng các dòng Số loại sản phẩm mới được đưa 2.2 2.2.2 sản phẩm vào khai thác
2.2.3 Số dịch vụ mới được thực hiện
Mức độ hài lòng của khách hàng 2.3.1 Nâng cao mức độ hài lòng của (thông qua khảo sát) 2.3 khách hàng 2.3.2 Tỷ lệ khiếu nại của khách hàng
3 Khía cạnh vận hành
Tỷ lệ người lao động nắm rõ mục 3.1.1 tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh Công ty Xây dựng văn hóa doanh 3.1 nghiệp Tỷ lệ người lao động vi phạm nội 3.1.2 quy Công ty
Hoàn thiện hệ thống nhận Mức độ nhận diện thương hiệu của 3.2 3.2.1 dạng thương hiệu khách hàng (thông qua khảo sát)
Duy trì và cập nhật hệ thống Mốc thời gian hoàn tất việc cập 3.3 3.3.1 ERP nhật theo kế hoạch
3.4 Duy trì và cập nhật bộ tiêu 3.4.1 Mốc thời gian thực hiện các cập
65
STT MỤC TIÊU CHIẾN LƢỢC STT NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI
chuẩn chất lượng ISO nhật theo kế hoạch
Khía cạnh Phát triển đổi 4 mới
Tỷ lệ người lao động tham gia các 4.1.1 khóa đào tạo nghiệp vụ Nâng cao năng lực chuyên 4.1 môn của người lao động Tỷ lệ nhân viên mới đủ điều kiện 4.1.2 thực hiện dự án độc lập
Khuyến khích đề xuất và áp
4.2 dụng sáng kiến trong công 4.2.1 Số lượng sáng kiến được áp dụng
việc
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Bước 4: Cụ thể hóa KPI cấp Công ty thành KPI cấp phòng ban.
Buổi thảo luận đã cụ thể hóa các mục tiêu chiến lược (vốn bị nhầm lẫn thành
KPI cấp công ty) thành các nội dung chỉ tiêu KPI cấp thỏa mãn các tiêu chí theo
SMART. Theo đó, có 2 nội dung sẽ được xem xét và cụ thể hóa về từng Phòng ban
sau khi Kế hoạch năm được thông qua, bao gồm bổ sung các chỉ số phụ và các nội
dung đánh giá khác nhằm đạt được nội dung chính hoặc các giá trị định lượng theo
phương pháp SMART. Cụ thể:
KPI 1.1.1 Doanh thu sẽ được chi tiết hóa ở 2 Phòng ban có liên quan, bao
gồm:
Phòng Kinh doanh Tiếp thị sẽ đánh giá các nội dung: doanh thu đến từ
bán sản phẩm theo đúng kế hoạch (loại bỏ phần doanh thu do bán các
sản phẩm tại các dự án khác so với kế hoạch được duyệt), tiến độ bán
hàng so với kế hoạch và tiến độ thu tiền so với kế hoạch (nhằm đảm
bảo điều kiện ghi nhận doanh thu kế toán).
66
Phòng Tài chính Kế toán sẽ đánh giá các nội dung: doanh thu tài
chính, tỷ lệ thu hồi công nợ và tỷ lệ kiểm soát – tập hợp chứng từ liên
quan (nhằm đảm bảo điều kiện ghi nhận doanh thu kế toán).
Việc chi tiết hóa này sẽ giúp hệ thống KPI này bám sát kế hoạch năm, tránh
tình trạng Phòng Kinh doanh Tiếp thị vì muốn đạt được chỉ tiêu về doanh thu và lợi
nhuận mà tập trung bán những sản phẩm có giá thành cao và biên lợi nhuận cao dẫn
đến không thể kết thúc dự án do ở dự án nào cũng đều còn tồn một vài sản phẩm ở
vị trí không thuận lợi, khó bán. Việc bán tùy tiện, không theo kế hoạch đề ra làm
thời gian triển khai đầu tư và khai thác kéo dài còn ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
vốn do đẩy lùi dòng thu, giảm hiện giá thuần NPV và tăng rủi ro thu hồi vốn.
Ở mục tiêu 1.5 Hoàn tất triển khai dự án thì quan trọng nhất là phải đảm bảo
tiến độ triển khai từng giai đoạn, từ lúc xin chủ trương, thực hiện các vấn đề pháp lý
cho đến khi bồi thường giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng và hoàn thiện sản
phẩm. Chính vì vậy, 3 nội dung KPI năm cấp Công ty để thực hiện mục tiêu này
đều là mốc thời gian thực hiện từng giai đoạn, còn để đảm bảo hiệu quả đầu tư dự
án và cân đối dòng tiền, Phòng Kế hoạch Đầu tư có thể phối hợp với Phòng Kinh
doanh tiếp thị để điều chỉnh giá bán và kế hoạch bán hàng cho phù hợp. Tuy vậy, để
đảm bảo chi phí thực hiện dự án, kế hoạch phân bổ nguồn vốn và kiểm soát các vấn
đề pháp lý tài sản liên quan, các KPI 1.5.1 Mốc thời gian thực hiện các thủ tục pháp
lý theo tiến độ, KPI 1.5.2 Mốc thời gian bồi thường đất trong ranh theo kế hoạch và
KPI 1.5.3 Mốc thời gian thực hiện công tác thiết kế - thi công sẽ được chi tiết hóa ở
Phòng Kế hoạch Đầu tư, Phòng Bồi thường và Phòng Kỹ thuật bằng việc bổ sung
các chỉ số KPI phụ như sau:
Phòng Kế hoạch Đầu tư: Số lần thiếu sót trong tập hợp hồ sơ (số lần
hồ sơ bị cơ quan chức năng từ chối), thời gian thực hiện các thủ tục
giải trình liên quan.
Phòng Bồi thường: diện tích bồi thường theo tiến độ (chỉ tính đất
trong ranh, loại bỏ phần đất ngoài ranh và đất công), chi phí bồi
thường theo kế hoạch (phù hợp với từng loại đất), thời gian hoàn
67
thành pháp lý đất (để đủ cơ sở bàn giao cho Phòng Kế hoạc Đầu tư và
Phòng Kỹ thuật thực hiện tiếp giai đoạn sau).
Phòng Kỹ thuật: tiến độ thực hiện công tác thiết kế thi công theo kế
hoạch, tỷ lệ nghiệm thu sản phẩm đạt yêu cầu. Riêng 2 nội dung: tiến
độ giải ngân (theo kế hoạch) và tỷ lệ tiết kiệm chi phí thực hiện dự án
có thể được bổ sung như chỉ tiêu mềm để khuyến khích nâng cao hiệu
quả làm việc của nhân viên.
Ngoài ra, Khi đánh giá một công việc cần có sự tham gia phối hợp giữa
nhiều bộ phận/ đơn vị/ nhân viên thì ngoài việc đánh giá các KPI chính liên quan
đến thời gian thì cần đặt các chỉ tiêu đánh giá phụ (các chỉ số hiệu suất –
performance indicator) liên quan đến sự phối hợp giữa các Phòng ban như: chất
lượng thông tin và tài liệu được cung cấp, tỷ lệ yêu cầu phối hợp (bằng văn bản)
được thực hiện đúng hạn… Mục đích của việc bổ sung các chỉ số phụ như trên
không chỉ nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu chiến lược là thực hiện dự án
đúng tiến độ, hình thành sản phẩm dự trữ theo kế hoạch phát triển của Công ty mà
còn nhằm ghi nhận sự nỗ lực của người lao động đặt biệt là trong trường hợp vì
nhiều lý do mà Công ty không đạt được mục tiêu. Việc cụ thể một chỉ số cũng như
bổ sung các chỉ tiêu phụ không chỉ định hướng cho nhà quản lý mà còn chỉ rõ từng
việc cần làm để thực hiện mục tiêu đã đề ra cho cả nhà quản lý và người lao động.
Thông qua đó, Quản lý Phòng và nhân viên có cơ sở điều chỉnh hoạt động của mình
để phù hợp với tiến độ và các tác động ngoại cảnh, tăng khả năng thực hiện mục
tiêu.
Đồng thời, buổi thảo luận cũng đề xuất thống nhất các phòng ban chịu trách
nhiệm chính trong việc triển khai các chỉ tiêu đặc thù, ví dụ như mục tiêu Công ty
khuyến khích người lao động đề xuất các sáng kiến nâng cao hiệu quả làm việc
nhưng giao cụ thể Bộ phận Quản trị nhân sự chủ trì, tạo điều kiện cho người lao
động thực hiện nghiên cứu và đề xuất áp dụng thực nghiệm.
68
3.4. Một số vấn đề cần lƣu ý khi lập chỉ số chi tiết
Đối với nội dung có dạng: “Mốc thời gian thực hiện … theo tiến độ/ kế
hoạch” thì việc lựa chọn các mốc thời gian để đưa vào kế hoạch mục tiêu và KPI
phải dựa trên các yếu tố sau:
Thứ nhất là các quy định về thời gian theo các văn bản pháp luật. Ví dụ như:
quy trình thực hiện dự án phát triển nhà ở trên diện tích <20ha, sử dụng vốn ngoài
ngân sách từ lúc triển khai nhận thông tin quy hoạch đến lúc được thi công xây
dựng công trình theo luật định hiện hành mất tối thiểu 416 ngày làm việc. Tuy
nhiên, thời gian này có thể thay đổi tùy vào địa phương và đặc trưng pháp lý từng
dự án, do đó, việc xây dựng kế hoạch và xác định các mốc thời gian triển khai từng
giai đoạn phải đảm bảo tính phù hợp với các quy định trên. Ví dụ: trong thời gian
chờ Sở Xây dựng xử lý hồ sơ Cấp phép xây dựng Công trình thì Công ty có thể tiến
hành song song công tác thẩm định hồ sơ và lựa chọn nhà thầu thi công. Như vậy sẽ
giúp giảm thời gian trống giữa các bước thủ tục, tăng tính khả thi của kế hoạch và
tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ hai là quy trình và lịch sử thực hiện công việc tương tự trong quá khứ.
Vì các quy định về thời gian theo quy định của pháp luật thường giới hạn thời gian
từ khi các cơ quan nhận đủ hồ sơ theo quy định nên trên thực tế, thời gian thực hiện
sẽ dài hơn do Công ty cần thời gian tập hợp hồ sơ cũng như thực hiện giải trình khi
có yêu cầu. Do đó, việc xây dựng mốc thời gian triển khai từng giai đoạn phải dựa
trên năng lực của Công ty và phải được tham chiếu với thời gian thực hiện công
việc tương tự trong quá khứ. Ví dụ: Thời gian thực hiện thủ tục giao thuê đất theo
quy định mất khoảng 115 ngày làm việc. Tuy vậy, trong quá khứ, thời gian thực
hiện thủ tục này Công ty mất tối thiểu 150 ngày làm việc do việc xác định giá trị
quyền sử dụng đất thường có yêu cầu giải trình từ phía UBND thành phố nên sẽ mất
nhiều thời gian hơn dự kiến. Do đó, khi xem xét xây dựng mốc thời gian cho thủ tục
giao thuê đất này, Công ty cần cân nhắc giữa giá trị 115 ngày và 150 ngày tùy theo
tính chất của từng dự án, năng lực của nhóm nhân viên nhận nhiệm vụ và tình hình
thực tế của Công ty.
69
Thứ ba là sự phối hợp giữa các Phòng ban. Khi đánh giá một công việc cần
có sự tham gia phối hợp giữa nhiều bộ phận/ đơn vị/ nhân viên thì cần cho phép các
mốc thời gian được thay đổi theo thời gian thực hiện từng giai đoạn nhằm loại bỏ
tác động dây chuyền từ việc chậm tiến độ ở một giai đoạn nào đó. Ví dụ: Thay nội
dung đánh giá của Phòng Kỹ thuật “hoàn tất thi công hạ tầng tại dự án TP trước
ngày 30/09/2018” bằng nội dung “hoàn tất thi công hạ tầng tại dự án TP trong vòng
60 ngày làm việc kể từ ngày nhận bàn giao mặt bằng từ Phòng Bồi thường”. Việc
điều chỉnh này sẽ giúp Phòng Kỹ thuật loại bỏ tác động từ rủi ro Phòng Bồi thường
chậm bàn giao và giúp kết quả KPI khách quan hơn.
3.5. Áp dụng phƣơng án đề xuất đánh giá lại KPI năm 2018
Sau khi thống nhất các cách đăng ký và đánh giá KPI như trên, nghiên cứu
này áp dụng các đề xuất đó (tạm gọi là “phương pháp mới”) để đánh giá lại kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2018 của Công ty SADECO. Kết quả đánh giá
được thể hiện ở Bảng 3.3 (Chi tiết đánh giá lại tham khảo Phụ lục 3) như sau:
Bảng 3.3 So sánh kết quả đánh giá KPI năm 2018 của các phòng ban và CBNV
Công ty SADECO theo phương pháp cũ và mới
KPI trung bình Chênh lệch so với
CBNV KPI Phòng KPI Phòng ban Phƣơng Phƣơng Phƣơng Phƣơng Phòng pháp cũ pháp mới pháp cũ pháp mới
Ban quản lý khu lưu trú 100% 91% 98% 8% 7%
57% Bồi thường 75% 57% 17% 0%
69% Kế hoạch đầu tư 97% 79% 28% 10%
71% Kinh doanh tiếp thị 81% 70% 11% -1%
70% Kỹ thuật 97% 97% 27% 27%
88% Quản trị hành chính 98% 93% 11% 5%
93% Quản trị nhân sự 92% 92% -1% -1%
90% Tài chính kế toán 100% 95% 10% 5%
Nguồn: Tác giả tổng hợp
70
Như vậy có thể thấy, mức chênh lệch giữa trung bình KPI các nhân viên và
KPI Phòng giảm mạnh so với phương pháp cũ. Riêng đối với Phòng Kỹ thuật không
có thay đổi vì việc đánh giá KPI Phòng Kỹ thuật năm 2018 theo phương pháp cũ
hoàn toàn được đánh giá trên số tiền giải ngân, không có điểm tương đồng với việc
đánh giá theo phương pháp mới (theo tiến độ triển khai và chất lượng sản phẩm
nghiệm thu) do đó không có cơ sở đánh giá lại.
Phương pháp đánh giá mới có mức chênh lệch so với KPI Phòng thấp hơn so
với phương pháp cũ, mức độ chênh lệch từ -1% đến 10% do KPI cá nhân từng
tháng được bám sát với KPI năm của Phòng nên trung bình KPI cá nhân sẽ ít chênh
lệch với KPI Phòng hơn.
Số nhân viên có kết quả KPI bị thay đổi do đánh giá lại chủ yếu tập trung ở
Phòng Kinh doanh tiếp thị (8/9 nhân viên), Phòng Kế hoạch Đầu tư (4/6 nhân viên),
Phòng Quản trị hành chính (4/11 nhân viên) và Phòng Bồi thường (3/9 nhân viên) là
những Phòng ban có mức độ chênh lệch giữa trung bình KPI cá nhân theo tháng
lớn. Mức điều chỉnh KPI cá nhân theo tháng của nhân viên 4 Phòng ban này có
tháng lên đến 80% (nhân viên Phòng Kế hoạch Đầu tư) do theo phương pháp cũ,
nhân viên đã cố ý loại bỏ những mục tiêu không thể hoàn thành đúng tiến độ để
được đánh giá hoàn thành KPI cao. Theo Phương pháp mới, mức độ chênh lệch của
4 Phòng ban này giảm 5% đến 17%, mức độ chênh lệch còn trong khoản -1%-10%
so với KPI Phòng.
Tóm tắt chƣơng 3:
Trong chương 3, nghiên cứu này đã áp dụng phương pháp chuyên gia để tìm
ra giải pháp khắc phục những hạn chế và vấn đề còn tồn tại trong quá trình triển
khai KPI tại Công ty SADECO. Vì nguồn lực Công ty có hạn, cũng như thời gian
triển khai KPI tại doanh nghiệp còn ngắn nên không thể cùng lúc thay đổi toàn bộ
hệ thống KPI hiện tại để khắc phục tất cả những nguyên nhân đã nêu. Do đó, nghiên
cứu này đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống KPI tại Công ty SADECO thông qua
3 việc: xây dựng và củng cố 7 yếu tố nền cho việc triển khai KPI; xây dựng 14 mục
71
tiêu chiến lược, xác định nội dung của 21 chỉ số KPI phù hợp với tình hình hoạt
động của Công ty và các nguyên tắc tiên quyết để triển khai thành công KPI.
Nghiên cứu cũng áp dụng các nội dung của 21 chỉ số được đề xuất để đánh
giá lại kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2018 của Công ty SADECO. Kết
quả cho thấy giải pháp được đề xuất giúp cho việc đánh giá KPI phản ánh tốt hơn
kết quả hoạt động của Công ty.
72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trên cơ sở lý thuyết và việc phân tích thực trạng hệ thống KPI đang triển
khai tại CTCP SADECO, nghiên cứu này đã xác định được nguyên nhân những vấn
đề đang tồn tại khiến hệ thống KPI tại SADECO không đạt được hiệu quả như
mong đợi. Dựa trên kinh nghiệm triển khai KPI cũng như xử lý các tình huống phát
sinh từ các nghiên cứu trước, kết hợp với việc tham khảo ý kiến của Ban Kiểm soát
KPI Công ty và người lao động trực tiếp triển khai KPI tại SADECO, nghiên cứu
này đã xây dựng và đề xuất được các mục tiêu chiến lược và các nội dung KPI dự
kiến được đưa vào áp dụng thử nghiệm trong năm 2019.
Tuy vậy, nghiên cứu này cũng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể như vì
nguồn lực và thời gian không cho phép nên không thể đưa ra biện pháp khắc phục
tất cả các nguyên nhân đã được xác định. Đối với những giải pháp được đưa ra, chủ
yếu vẫn là dựa trên cơ sở lý thuyết và số liệu quá khứ nên vẫn cần được kiểm định
trước khi chính thức đưa vào áp dụng. Mặt khác, nghiên cứu này được thực hiện
trên đặc trưng SADECO là một công ty có tiền thân là công ty nhà nước, tuy đã cổ
phần hóa nhưng vẫn có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ chính trị và xã hội cũng
như chịu chi phối bởi nhiều cơ chế đặc biệt. Do đó, việc ứng dụng kết quả nghiên
cứu này cho ngành Bất động sản có thể gặp nhiều hạn chế.
DANH MỤC THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
Kaplan, R.S và Norton, D.P 1996. Thẻ điểm cân bằng – biến chiến lược thành hành
động. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch Lê Đình Chi và Trịnh Thanh Thủy, 2013.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.
Lê Nguyễn Quỳnh Thoa, 2016. Xây dựng chỉ số KPI trong việc đánh giá hiệu quả
thực hiện công việc tại Công ty Cổ phần Quốc tế Phong Phú. Luận văn Thạc sỹ,
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Niven, P.R. 2009. Thẻ điểm cân bằng. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch Dương Thị
Thu Hiền, 2013. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh
Tô Quốc Tuấn, 2018. Ứng dụng thẻ điểm cân bằng (Balanced scorecard) để triển
khai thực hiện chiến lược Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn. Luận văn Thạc sỹ,
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Tài liệu tiếng Anh
Bài nghiên cứu
Boynton, A.C. & Zmud, R.W. 1984, "An Assessment of Critical Success
Factors", Sloan Management Review (pre-1986), vol. 25, no. 4, pp. 17.
https://search.proquest.com/docview/206802329?accountid=63189
Chan, V. 2015. "The Efficacy of Key Performance Indicators in Ontario
Universities as Perceived by Key Informants", The Canadian Journal of Higher
Education, vol. 45, no. 4, pp. 440-456.
https://search.proquest.com/docview/1779935834?accountid=63189
Dumitrescu, L. & Fuciu, M. 2009, "Balance scorecard - a new tool for strategic management", Scientific Bulletin - Nicolae Balcescu Land Forces Academy, vol. 14, no. 2, pp. 37-42.
https://search.proquest.com/docview/228359520?accountid=63189
Hursman, A. 2010. "Measure What Matters", Information Management, vol. 20, no.
4, pp. 24.
https://search.proquest.com/docview/734629652?accountid=63189
Ittner, C.D. & Larcker, D.F. 2003, Coming up short on nonfinancial performance
measurement, Harvard Business Review, Boston.
https://hbr.org/2003/11/coming-up-short-on-nonfinancial-performance-
measurement
Lakiza, V. & Deschamps, I. 2018. "How to Develop Innovation KPIs in an
Execution-Oriented Company", Technology Innovation Management Review, vol.
8, no. 7, pp. 14-30.
https://search.proquest.com/docview/2085780848?accountid=63189
Stannard, A., Tai, N.R., Bowley, D.M., Midwinter, M. & Hodgetts, T.J. 2008, "Key
Performance Indicators in British Military Trauma", World journal of surgery, vol.
32, no. 8, pp. 1870-3.
https://search.proquest.com/docview/219946648?accountid=63189
Sách xuất bản
Baker, Trischa. & AusIndustry. 2002. Key performance indicators manual : a
practical guide for the best practice development, implementation and use of KPIs /
[edited by Trischa Baker] Allen & Unwin Crows Nest, N.S.W
Drucker, P. 1954. The Practice of Management, HarperCollins, New York.
Parmenter, D. 2015. Key performance indicators : developing, implementing, and using winning KPIs. 3RD ed. Hoboken, New Jersey: John Wiley & Sons, Inc.
Rockart, J.F. 1979, Chief Executives Define Their Own Data Needs, Harvard
Business Review, Boston.
Spitzer, D.R 2007. Transforming performance measurement : rethinking the way we
measure and drive organizational success. New York: AMACOM
Trang web và diễn đàn
Aleksey, S 2013, Compensation and Reward KPI Best Practices, truy cập ngày
02/05/2019
https://bscdesigner.com/reward-kpi-best-practices.htm
Thomas, K.W. 2009, "The four intrinsic rewards that drive employee
engagement", Ivey Business Journal (Online), , pp. 1. Truy cập ngày 04/05/2019
https://iveybusinessjournal.com/publication/the-four-intrinsic-rewards-that-drive-
employee-engagement/
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: CÁCH THỨC XÂY DỰNG VÀ ĐÁNH GIÁ KPI TẠI CÔNG TY
SADECO
1. Mô tả cách thức xây dựng KPI tại Công ty SADECO
1.1 KPI năm
Mục tiêu năm của Công ty: do Tổng Giám đốc xây dựng, dựa vào các mục
tiêu chiến lược dài hạn và kế hoạch được HĐQT thông qua.
KPI năm của Công ty: do Ban Tổng Giám đốc chuyên trách và Quản lý
Phòng triển khai họp, thống nhất để xây dựng dựa trên Mục tiêu năm của Công ty.
Khi thị trường và môi trường kinh doanh thay đổi so với giả định khi xây dựng kế
hoạch hoặt Công ty thay đổi định hướng hoạt động kinh doanh thì Tổng Giám đốc
chủ trì tổ chức xác định lại các mục tiêu, chỉ tiêu KPI mới.
KPI của Ban Điều hành: cũng là KPI năm của Công ty.
KPI năm của Phòng: do Quản lý Phòng xây dựng, Tổng Giám đốc phê
duyệt dựa trên mục tiêu năm của Công ty và chức năng nhiệm vụ của Phòng. KPI
năm của Phòng được xem xét hằng quý nhằm đảm bảo Công ty đạt được các mục
tiêu năm. Khi mục tiêu và KPI năm của Công ty thay đổi thì KPI năm của Phòng
được điều chỉnh cho phù hợp.
KPI năm của Quản lý Phòng: Quản lý Phòng không đăng ký kế hoạch KPI
năm nhưng được đánh giá phụ thuộc vào KPI năm của Công ty, Phòng và tiêu chí
năng lực.
KPI năm của Cán bộ nhân viên: do Quản lý Phòng giao cho Cán bộ nhân
viên từ đầu năm dựa trên KPI năm của Phòng, chức năng nhiệm vụ của Cán bộ
nhân viên và phân công của Quản lý Phòng.
1.2 KPI quý
KPI quý của Công ty: Công ty không đăng ký và không thực hiện đánh giá
KPI quý.
KPI quý của Ban Điều hành: Ban Điều hành không đăng ký nhưng được
đánh giá dựa trên kết quả KPI các phòng do thành viên Ban Tổng giám đốc chuyên
trách đó phụ trách.
KPI quý của Phòng: do Quản lý Phòng lập trên cơ sở phân bố KPI năm của
Phòng cho từng quý, được dùng làm cơ sở tính lương hiệu quả bổ sung cho Quản lý
Phòng và Cán bộ nhân viên.
KPI quý của Quản lý Phòng: Quản lý Phòng không đăng ký kế hoạch KPI
quý nhưng được đánh giá dựa trên kết quả KPI quý của Phòng và KPI tháng của
Quản lý Phòng.
KPI quý của Cán bộ nhân viên: Quản lý Phòng không giao cho Cán bộ
nhân viên kế hoạch KPI từng quý mà chỉ giao theo tháng nhưng đánh giá dựa trên
kết quả KPI quý của Phòng và KPI tháng của Cán bộ nhân viên đó.
1.3 KPI tháng
KPI tháng của Công ty, Ban Điều hành và Phòng: không đăng ký và
không thực hiện đánh giá KPI quý.
KPI tháng của Quản lý Phòng và Cán bộ nhân viên: được xây dựng dựa
trên định hướng KPI cá nhân và nhiệm vụ trọng tâm hàng tháng của Phòng quản lý
trực tiếp.
2. Mô tả cách thức đánh giá KPI tại Công ty SADECO
2.1 KPI năm
KPI năm của Công ty: được đánh giá 1 lần, vào cuối năm, kết hợp với việc
đánh giá Kế hoạch năm của Công ty theo công thức:
KPI năm của Công ty = kết quả KPI năm x A
+ kết quả thực hiện kế hoạch năm x B
Trong đó: A và B là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định.
KPI năm của Phòng: được đánh giá 1 lần, vào cuối năm, kết hợp với việc
đánh giá Kế hoạch năm của Phòng theo công thức:
KPI năm của Phòng = kết quả KPI năm của Phòng x A
+ kết quả thực hiện kế hoạch năm của Phòng x B
Trong đó:
A và B là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định
A+B=100%
KPI năm của Quản lý Phòng: được đánh giá 1 lần, phụ thuộc vào KPI năm
của Công ty, KPI năm của Phòng và tiêu chí năng lực, theo công thức:
KPI năm của Quản lý Phòng = kết quả KPI năm của Công ty x A
+ kết quả KPI năm của Phòng x B
+ kết quả đánh giá tiêu chí năng lực quản lý
Phòng x C
Trong đó:
A, B, C là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định
A+B+C=100%
KPI năm của Cán bộ nhân viên: được đánh giá 1 lần cuối năm, kết hợp với
KPI năm của Công ty, KPI năm của Phòng và tiêu chí năng lực, theo công thức:
KPI năm của CBNV= kết quả KPI năm của Công ty x A
+ kết quả KPI năm của Phòng x B
+ kết quả KPI năm của Cán bộ nhân viên x C
+ kết quả đánh giá tiêu chí năng lực quản lý x D
Trong đó:
A, B, C, D là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định
A+B+C+D=100%
2.2 KPI quý
KPI quý của Công ty: không thực hiện đánh giá KPI quý.
KPI quý của Ban Điều hành: Ban Điều hành không đăng ký nhưng được
đánh giá dựa trên kết quả KPI các phòng do thành viên Ban Tổng giám đốc chuyên
trách đó phụ trách theo công thức:
KPI quý của thành viên Ban Điều hành = Trung bình cộng ( kết quả KPI
năm của Phòng A, B, C…)
Trong đó A, B, C… là các phòng do thành viên Ban Điều hành đó phụ trách
(Ban Tổng Giám đốc chuyên trách)
KPI quý của Phòng: được đánh giá vào cuối quý, kết hợp với kế hoạch quý
của Phòng (phân bổ kế hoạch năm của Phòng theo thời gian), theo công thức:
KPI quý của Phòng = kết quả KPI quý của Phòng x A
+ kết quả thực hiện kế hoạch quý của Phòng x B
Trong đó:
A và B là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định
A+B=100%
KPI quý của Quản lý Phòng: đánh giá vào cuối quý, phụ thuộc vào KPI
quý của Phòng và KPI tháng của Quản lý Phòng theo công thức:
KPI quý của Quản lý Phòng = kết quả KPI quý của Phòng x A
+ trung bình 3 tháng KPI của Quản lý Phòng
x B
Trong đó:
A và B là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định
A+B=100%
KPI quý của Cán bộ nhân viên: đánh giá vào cuối quý, phụ thuộc vào KPI
quý của Phòng và KPI tháng của Quản lý Phòng
KPI quý của Cán bộ nhân viên = kết quả KPI quý của Phòng x A
+ trung bình 3 tháng KPI của Cán bộ
nhân viên x B
Trong đó:
A và B là trọng số thành phần do Tổng Giám đốc quyết định
A+B=100%
2.3 KPI tháng
KPI tháng của Công ty, Ban Điều hành và Phòng: không đăng ký và
không thực hiện đánh giá KPI quý.
KPI tháng của Quản lý Phòng và Cán bộ nhân viên: được xây dựng dựa
trên định hướng KPI cá nhân và nhiệm vụ trọng tâm hàng tháng của Phòng quản lý
trực tiếp.
Như vậy, Theo Quy chế Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả công việc (BSC
–KPI) 2018, việc đăng ký và đánh giá KPI tại Công ty SADECO có các nhóm sau:
Đăng ký kế hoạch mục tiêu Đánh giá kết quả thực hiện
KPI KPI KPI KPI KPI KPI Đối tƣợng Năm Quý Tháng Năm Quý Tháng
x Công ty x
x x Ban điều hành x
x x x Phòng x
x x x x Quản lý Phòng
x x x x Cán bộ nhân viên x
PHỤ LỤC 2: TIÊU CHÍ ĐÁNH NĂNG LỰC
1. Đối với nhân viên
Đối với nhân viên, hằng năm, việc đánh giá năng lực được lãnh đạo phòng
đánh giá trên 8 tiêu chí năng lực, được định nghĩa như sau:
Kiến thức: Mức độ hiểu biết về công việc và quy trình làm việc. Vận
dụng hiệu quả kiến thức chuyên môn để hoàn thành công việc được
giao.
Chất lượng công việc: Mức độ chính xác, toàn diện và đạt kết quả cao
so với mục tiêu.
Khả năng tổ chức công việc: Khả năng hoạch định và tự lập kế hoạch;
sắp xếp thứ tự ưu tiên và tổ chức thực hiện công việc hợp lý và hiệu
quả
Khả năng thích ứng: Duy trì tính hiệu quả và mức độ thích ứng với
các thay đổi về điều kiện, môi trường, trách nhiệm công việc như tăng
khối lượng công việc, áp dụng quy trình làm việc mới mà không phải
thường xuyên giải thích hay nhắc nhở.
Khả năng giải quyết vấn đề / sáng tạo: khả năng phát triển các ý
tưởng, phương pháp, quy trình; xác định các nguyên nhân và phát
triển các giải pháp hiệu quả.
Khả năng ra quyết định: Phát triển các giải pháp đối với các vấn đề,
đánh giá các hành động và đưa ra quyết định hợp lý.
Khả năng giao tiếp: Khả năng làm việc một cách hiệu quả với đồng
nghiệp và các cấp quản lý. Rõ ràng khi giao tiếp, truyền đạt hay diễn
đạt ý tưởng hiệu quả
Tính tự giác, kỷ luật: Tuân thủ nội quy, quy định, chỉ đạo. Chuẩn mực
thể hiện đạo đức tác phong, ý thức nâng cao văn hoá doanh nghiệp.
8 tiêu chí này được đánh giá ở 3 mức độ: cần cải thiện, hiệu quả và nổi bật.
Tuy nhiên, từng tiêu chí chưa được gắn kết với một thước đo cụ thể nào nên không
có cơ sở đo lường định lượng nào mà chỉ dựa vào tính chủ quan của người đánh giá
(lãnh đạo phòng hoặc Ban Tổng Giám đốc chuyên trách) nên không có sự đồng nhất
trong đánh giá giữa các phòng ban, bộ phận trong công ty.
2. Đối với quản lý phòng
Đối với lãnh đạo phòng, phần nội dung này được thành viên Ban Tổng giám
đốc chuyên trách đánh giá trên 9 tiêu chí năng lực, được định nghĩa như sau
Trách nhiệm: Mức độ thể hiện sự nỗ lực để bắt đầu thực hiện công
việc trong phạm vi trách nhiệm nhằm hoàn thành công việc theo yêu
cầu trong phạm vi quyền hạn.
Học hỏi và phát triển: Khả năng hiểu, rút kinh nghiệm và ứng dụng
thông tin có thể áp dụng nhằm cải thiện kiến thức và tự phát triển để
có thêm các giá trị gia tăng cho các công việc kế tiếp.
Kiểm soát dữ liệu: Khả năng ghi chép các dữ liệu liên quan đến công
việc và phân tích cũng như sử dụng các dữ liệu này cho việc xây dựng
kế hoạch công việc và báo cáo
Kiểm soát công việc: Khả năng xây dựng các công cụ kiểm soát công
việc theo định hướng của công ty, nhằm chỉnh đốn các tiến trình hay
hoạt động của bộ phận.
Quản lý công việc: Khả năng thiết lập các kế hoạch hoạt động, thực
hiện và đánh giá các kế hoạch này và đề ra các hành động cải thiện
cho các kế hoạch đã thực hiện.
Quản lý nhân viên: Ủy thác một cách phù hợp trách nhiệm và nhiện
vụ cho nhân viên đồng thời với việc thiết lập và truyền đạt các mục
tiêu, tính ưu tiên và các kết quả mong đợi.
K m cặp nhân viên: hướng dẫn và huấn luyện nhân viên về các khả
năng chuyên môn để nhân viên hoàn thành công việc của mình và cải
thiện các kết quả công việc.
Tham vấn cho Công ty: Khả năng phản hồi và thể hiện một cách tích
cực trong việc định vị, xác định, trình bày rõ ràng và thảo luận về vấn
đề, hoàn cảnh và điều kiện của cá nhân liên quan đến tổ chức và về sự
tối ưu hóa các điều kiện môi trường làm việc.
Quản lý nhóm: Khả năng nhanh nhạy nắm bắt các nhu cầu của người
khác; đóng góp và tôn trọng quan điểm của người khác; khả năng giải
quyết các xung đột nội bộ nhằm đạt được các mục tiêu của bộ phận.
9 tiêu chí này được đánh giá ở 3 mức độ: cần cải thiện, hiệu quả và nổi bật.
Tuy nhiên, từng tiêu chí chưa được gắn kết với một thước đo cụ thể nào nên không
có cơ sở đo lường định lượng nào mà chỉ dựa vào tính chủ quan của người đánh giá
(lãnh đạo phòng hoặc Ban Tổng Giám đốc chuyên trách) nên không có sự đồng nhất
trong đánh giá giữa các phòng ban, bộ phận trong công ty.
Đối với cả 2 nhóm tiêu chí (cho CBNV và cho Quản lý Phòng), các mức độ
được định nghĩa như sau:
Cần cải thiện: là khi người lao động đó không đủ năng lực thực hiện
nhiệm vụ được giao.
Hiệu quả: là khi người lao động đó đáp ứng được yêu cầu của nhiệm
vụ được giao ở mức vừa phải
Nổi bật: là khi người lao động thường xuyên hoàn thành nhiệm vụ
được giao đạt chất lượng cao
Việc đánh giá các tiêu chí năng lực được thực hiện vào cuối mỗi năm, là một
trong những nội dung đánh giá KPI năm. Trong đó, nếu tất cả các tiêu chí đều đạt
mức hiệu quả (đủ để đáp ứng nhiệm vụ được giao) thì chỉ đạt 80% KPI. Trong khi
đó việc đánh giá và xếp loại nhân viên còn mơ hồ, không rõ và không có cơ sở để
kiểm chứng.
PHỤ LỤC 3: SO SÁNH KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ KPI NĂM 2018 THEO
PHƢƠNG PHÁP CŨ VÀ MỚI
Như đã phân tích ở chương 2, một trong những nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng có sự chênh lệch lớn giữa trung bình KPI các nhân viên và KPI phòng
ban là do người lao động không tuân theo nguyên tắc ban đầu đã đề ra, tự đăng ký
KPI tháng theo ý kiến chủ quan nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân. Do đó, theo
phương pháp mới, việc đánh giá lại KPI cá nhân sẽ chủ yếu khắc phục nguyên nhân
trên bằng cách:
Thứ nhất: Cụ thể hóa kế hoạch mục tiêu KPI năm theo phương pháp
SMART.
STT MỤC TIÊU CŨ MỤC TIÊU MỚI
Gia hạn thời gian thực hiện dự Hoàn tất thủ tục gia hạn và nhận được văn
1 án TP bản chấp thuận gia hạn dự án TP (của
UBND thành phố) trước ngày 30/09/2018
Thuê đất Khu thể dục thể thao Hoàn tất thủ tục thuê đất Khu thể dục thể
2 dự án SOL thao dự án SOL và nhận được quyết định
giao thuê trước ngày 31/12/2018
Xin chủ trương và công nhận Hoàn tất thủ tục công nhận chủ đầu tư dự
chủ đầu tư dự án S-PK án S-PK và nhận được văn bản công nhận 3 chủ đầu tư dự án S-PK trước ngày
31/12/2018
Tập hợp và lập hồ sơ xin chủ Tập hợp và lập bộ hồ sơ xin chủ trương dự
trương dự án PK2 án PK2 đầy đủ theo Nghị định 4 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của
Chính phủ trước ngày 31/12/2018
Kiểm soát chi phí thương thảo Tỷ lệ giảm giá trung bình khi thương thảo
5 hợp đồng giảm 5% so với kế hợp đồng chỉ định thầu đạt 5% so với giá
hoạch được duyệt trị khái toán được duyệt năm 2018
Thứ hai: Chi tiết hóa KPI năm thành KPI quý (hoặc tháng, tùy theo đặc
trưng công việc) nhằm ghi nhận tiến độ công việc và làm cơ sở đề điều chỉnh kế
hoạch thực hiện cũng như phân bổ các nguồn lực hỗ trợ phù hợp. Đồng thời bỏ giới
hạn về việc KPI tháng của cá nhân chỉ đăng ký 03-05 nội dung công việc để đánh
giá. Ví dụ như:
STT MỤC TIÊU PHÒNG MỤC TIÊU CÁ NHÂN
Hoàn tất thủ tục thuê đất Trình duyệt phương án khai thác Khu
Khu thể dục thể thao dự 2.1 thể dục thể thao dự án SOL trước ngày
án SOL và nhận được 30/06/2018
quyết định giao thuê Lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật khu Khu
trước ngày 31/12/2018 2.2 thể dục thể thao dự án SOL trước ngày
30/09/2018 2 Bổ sung hồ sơ về pháp lý dự án theo
2.3 văn bản hướng dẫn của Ban Quản lý
Khu Nam trước ngày 30/11/2018
Hoàn tất thủ tục thuê đất Khu thể dục
2.4 thể thao dự án SOL và nhận được quyết
định giao thuê trước ngày 31/12/2018
Thứ ba: Đối với những kế hoạch đã đến hạn nhưng không hoàn thành thì
đánh giá là 0% và tiếp tục đánh giá trong tháng tiếp theo, vẫn được chia tỷ trọng
nhưng mặc định kết quả là 0% cho đến khi hoàn thành. Ví dụ:
Tỷ trọng theo quý Tỷ trọng theo quý
năm 2018 theo năm 2018 theo STT MỤC TIÊU CÁ NHÂN Phƣơng pháp cũ Phƣơng pháp mới
Q1 Q2 Q3 Q4 Q1 Q2 Q3 Q4
Trình duyệt phương án khai
thác Khu thể dục thể thao dự - 5% - - - 5% 5% - 2.1 án SOL trước ngày
30/06/2018
Lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật
khu Khu thể dục thể thao dự - - 5% - - - 5% 5% 2.2 án SOL trước ngày
30/09/2018
Bổ sung hồ sơ về pháp lý dự
án theo văn bản hướng dẫn - - - 5% - - - 5% 2.3 của Ban Quản lý Khu Nam
trước ngày 30/10/2018
Hoàn tất thủ tục thuê đất
Khu thể dục thể thao dự án
2.4 SOL và nhận được quyết - - - 10% - - - 10%
định giao thuê trước ngày
31/12/2018
Theo phương pháp mới, nội dung “Trình duyệt phương án khai thác Khu thể
dục thể thao dự án SOL trước ngày 30/06/2018” (mục tiêu cá nhân 2.1) tiếp tục
được đánh giá trong quý 3/2018 và nội dung “Lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật khu Khu
thể dục thể thao dự án SOL trước ngày 30/09/2018” (mục tiêu cá nhân 2.2) tiếp tục
được đánh giá trong quý 4/2018 trong khi theo phương pháp cũ thì được loại bỏ. Vì
mục tiêu 2.1 đặt kế hoạch hoàn thành công việc trước 30/06/2019 nên trước tháng
06/2018 sẽ không bị đánh giá. (Lưu ý: KPI tháng 04/2018-09/2018 bị trừ 5% mỗi
tháng do nhân viên này đi trễ nên bị trừ điểm hành vi). Tuy vậy, đến hết tháng
06/2018, nhân viên vẫn chưa hoàn thành nội dung công việc đã đăng ký (Lập Báo
cáo kinh tế kỹ thuật khu Khu thể dục thể thao dự án SOL) nên nội dung này tiếp tục
được chuyển sang quý 3/2018, giữ nguyên trọng số đánh giá 5% cho đến khi hoàn
thành. Công việc này hoàn thành trong tháng 9/2018 nên KPI giai đoạn 06/2019 –
08/2019 sẽ bị đánh giá là không hoàn thành (chỉ còn 90% - bao gồm trừ 5% không
hoàn thành nhiệm vụ và 5% điểm hành vi ). Đến tháng 9/2018, công việc hoàn
thành thì KPI tháng đạt 95% (do chỉ trừ 5% điểm hành vi).
Tương tự, đối với mục tiêu cá nhân 2.3, kế hoạch “Bổ sung hồ sơ về pháp lý
dự án theo văn bản hướng dẫn của Ban Quản lý Khu Nam trước ngày 30/10/2018”
đến tháng 11/2018 mới hoàn thành nên KPI tháng 10/2018 và tháng 11/2018 bị
đánh giá không hoàn thành (bị trừ 5%), đạt 95%. Đối với mục tiêu cá nhân 2.4, kế
hoạch “Hoàn tất thủ tục thuê đất Khu thể dục thể thao dự án SOL và nhận được
quyết định giao thuê trước ngày 31/12/2018” chưa hoàn thành nên KPI tháng
12/2018 là không hoàn thành (bị trừ 10%), đạt 90%. Theo phương pháp đánh giá
mới, kết quả đánh giá KPI của nhân viên A – phụ trách công việc “Hoàn tất thủ tục
thuê đất Khu thể dục thể thao dự án SOL và nhận được quyết định giao thuê trước
ngày 31/12/2018”, Phòng Kế hoạch Đầu tư sẽ có sự chênh lệch với phương pháp cũ
như sau:
Kết quả đánh giá các tháng năm 2018
1 2 3 4 5 6 7
Phương pháp cũ 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100%
Phương pháp mới 100% 100% 100% 95% 95% 90% 90%
Kết quả đánh giá các tháng năm 2018 Trung bình 8 9 10 11 12
Phương pháp cũ 100% 100% 100% 100% 92% 99%
Phương pháp mới 90% 95% 95% 95% 90% 95%
Đối với mục tiêu cá nhân 2.4, theo phương pháp cũ, Quản lý phòng chỉ trừ
8% (KPI tháng 12/2018 đạt 92%) với lý do “đã hoàn thành một phần công việc”.
Tuy nhiên theo phương pháp mới, việc đánh giá KPI được căn cứ vào thang điểm
và tỷ trọng đã được quy định trước, Quản lý phòng (và cả Ban Điều hành) không
được quyền điều chỉnh nếu không có cơ sở cụ thể và không thuộc những trường hợp
được loại trừ vì lý do bất khả kháng. Do đó, bất kể là nhân viên đã làm được bao
nhiêu công việc nhưng không hoàn thành mục tiêu đúng thời hạn đã đăng ký thì vẫn
bị đánh giá là không hoàn thành, không đạt KPI.
Thực hiện tương tự với 6 Phòng ban còn lại (Việc đánh giá này không thực
hiện đối với Phòng Kỹ thuật vì Kế hoạch mục tiêu của Phòng Kỹ thuật năm 2018
theo phương pháp cũ hoàn toàn được đánh giá trên số tiền giải ngân, không có điểm
tương đồng với việc đánh giá theo phương pháp mới (theo tiến độ triển khai và chất
lượng sản phẩm nghiệm thu) do đó không có cơ sở đánh giá lại.), kết quả thu được
cho thấy:
Phương pháp đánh giá mới có mức chênh lệch so với KPI Phòng thấp
hơn so với phương pháp cũ, mức độ chênh lệch từ -1% đến 10% do
KPI cá nhân từng tháng được bám sát với KPI năm của Phòng nên
trung bình KPI cá nhân sẽ ít chênh lệch với KPI Phòng hơn.
Số nhân viên có kết quả KPI bị thay đổi do đánh giá lại chủ yếu tập
trung ở Phòng Kinh doanh tiếp thị (8/9 nhân viên), Phòng Kế hoạch
Đầu tư (4/6 nhân viên), Phòng Quản trị hành chính (4/11 nhân viên)
và Phòng Bồi thường (3/9 nhân viên) là những Phòng ban có mức độ
chênh lệch giữa trung bình KPI cá nhân theo tháng lớn. Mức điều
chỉnh KPI cá nhân theo tháng của nhân viên 4 Phòng ban này có tháng
lên đến 80% (nhân viên Phòng Kế hoạch Đầu tư) do theo phương
pháp cũ, nhân viên đã cố ý loại bỏ những mục tiêu không thể hoàn
thành đúng tiến độ để được đánh giá hoàn thành KPI cao. Theo
Phương pháp mới, mức độ chênh lệch của 4 Phòng ban này giảm 5%
đến 17%, còn trong khoản -1%-10% so với KPI Phòng.
Riêng Phòng Tài chính kế toán chỉ có 1 nhân viên bị điều chỉnh giảm,
nhưng mức điều chỉnh lớn (50%). Nguyên nhân chính là do đặc trưng
của Phòng Tài chính kế toán chủ yếu là ghi sổ và hỗ trợ thực hiện
thanh toán, công việc mang tính chất lặp đi lặp lại đơn giản và ít bị tác
động từ bên ngoài. Riêng Kế toán trưởng do được giao nhiệm vụ điều
phối nguồn vốn và tham mưu phương án sử dụng vốn hiệu quả nên bị
tác động nhiều từ nguồn thu của Phòng kinh doanh tiếp thị dẫn đến
kết quả KPI bị thay đổi khi đánh giá theo phương pháp mới.
Đánh giá lại KPI theo phƣơng pháp mới Chênh lệch so với KPI Phòng
Số KPI KPI Tổng CBNV bị Mức độ Chênh trung trung nhân thay đổi Phƣơng chênh KPI lệch KPI bình sau Phƣơng Phòng ban bình theo viên tại kết quả pháp lệch Phòng tháng khi đƣợc pháp cũ phƣơng 31/12/20 KPI do mới đƣợc cải cao nhất đánh giá pháp cũ 18 đánh giá thiện lại lại
Ban quản lý khu lưu trú 91% 100% 7 1 -10% 98% 8% 7% 1%
Bồi thường 57% 75% 9 3 -75% 57% 17% 0% 17%
Kế hoạch đầu tư 69% 97% 6 4 -80% 79% 28% 10% 17%
Kinh doanh tiếp thị 71% 81% 9 8 -68% 70% 11% -1% 11%
Kỹ thuật 70% 97% 10 0 0% 97% 27% 27% 0%
Quản trị hành chính 88% 98% 11 4 -15% 93% 11% 5% 5%
Quản trị nhân sự 93% 92% 7 0 0% 92% -1% -1% 0%
Tài chính kế toán 90% 100% 6 1 -50% 95% 10% 5% 5%
PHỤ LỤC 4: NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHỈ TIEU KPI
GHI CHÚ NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI STT MỚI NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI CŨ
TÀI CHÍNH
1.1.1 Doanh thu 1.2.1 Lợi nhuận sau thuế
1.3.1 Tỷ lệ tiết giảm chi phí hoạt động theo kế hoạch năm
1.4.1 Tỷ lệ tiết giảm giá hợp đồng Điều chỉnh Doanh thu Lợi nhuận sau thuế Tỷ lệ tiết giảm chi phí hoạt động theo kế hoạch năm Tỷ lệ tiết giảm giá trên giá chào thầu
Điều chỉnh Mốc thời gian thực hiện các 1.5.1 Hoàn thành thủ tục pháp lý thủ tục pháp lý theo tiến độ
Điều chỉnh Mốc thời gian bồi thường đất 1.5.2 Diện tích bồi thường trong ranh theo kế hoạch
Điều chỉnh Mốc thời gian thực hiện công 1.5.3 Chi phí thực hiện thiết kế - thi công
2.1.1 Điều chỉnh
2.2.1 KHÁCH HÀNG Số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Bổ sung
2.2.2 Bổ sung
2.2.3 Bổ sung
2.3.1 Mức độ hài lòng của khách hàng (thông qua khảo sát)
2.3.2 Bổ sung
VẬN HÀNH
3.1.1 Bổ sung
3.1.2
3.2.1 Tỷ lệ người lao động vi phạm nội quy Công ty Mức độ nhận diện thương hiệu của khách hàng (thông qua khảo sát)
3.3.1 Hoàn tất triển khai ERP Điều chỉnh tác thiết kế - thi công Mốc thời gian thực hiện các thủ tục pháp lý theo tiến độ Số dự án mới được giao Số loại sản phẩm mới được đưa vào khai thác Số dịch vụ mới được thực hiện Mức độ hài lòng của khách hàng (thông qua khảo sát) Tỷ lệ khiếu nại của khách hàng Tỷ lệ người lao động nắm rõ mục tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh Công ty Tỷ lệ người lao động vi phạm nội quy Công ty Mức độ nhận diện thương hiệu của khách hàng (thông qua khảo sát) Mốc thời gian hoàn tất việc cập nhật ERP theo kế hoạch
1
3.4.1 Hoàn tất triển khai ISO Điều chỉnh Mốc thời gian thực hiện các
GHI CHÚ NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI STT NỘI DUNG CHỈ TIÊU KPI CŨ MỚI
cập nhật ISO theo kế hoạch
4.1.1 Tỷ lệ người lao động tham gia các khóa đào tạo nghiệp vụ PHÁT TRIỂN ĐỔI MỚI Tỷ lệ người lao động tham gia các khóa đào tạo nghiệp vụ
Bổ sung 4.1.2
4.2.1 Tỷ lệ nhân viên mới đủ điều kiện thực hiện dự án độc lập Số lượng sáng kiến được áp dụng
Số lượng sáng kiến được áp dụng Sau khi thực hiện phương pháp phỏng vấn chuyên gia để phân tích, đánh giá
những KPI được đề xuất, đối chiếu đề xuất với các KPI đang áp dụng để lựa chọn ra
những KPI phù hợp dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tế, có thể thấy những thay đổi
trong nội dung KPI cấp Công ty so với KPI đang được triển khai bao gồm điều
chỉnh 7 chỉ tiêu và bổ sung 6 chỉ tiêu.
Điều chỉnh thứ nhất: cụ thể hóa “tỷ lệ tiết giảm giá hợp đồng” bằng “Tỷ lệ
tiết giảm giá trên giá chào thầu” cho phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp
và Quy định về quản lý vốn nhà nước. Đồng thời việc thay đổi này đã nêu rõ “Tỷ lệ
tiết giảm giá trên giá chào thầu” tránh cho người lao động thao túng kết quả đánh
giá KPI bằng việc đưa ra “Tỷ lệ tiết giảm giá trên giá khái toán” vì giá khái toán của
từng hạng mục luôn lớn hơn giá chào thầu và chỉ có gia trị trong việc bổ sung hồ sơ
theo quy định của pháp luật chứ không được áp dụng trong việc quản lý vốn nội bộ.
Điều chỉnh thứ hai: cụ thể hóa việc “Hoàn thành thủ tục pháp lý” bằng việc
theo dõi “Mốc thời gian thực hiện các thủ tục pháp lý theo tiến độ”vì tiến độ triển
khai các thủ tục này ảnh hưởng trực tiếp đên việc phân bổ nguồn vốn cũng như triển
khai các hoạt động thiết kế- thi công liên quan, thông qua đó làm thay đổi hiệu quả
dự án được đánh giá.
Điều chỉnh thứ ba: Thay đổi chỉ tiêu “Diện tích bồi thường ” thành “Mốc thời
gian bồi thường đất trong ranh theo kế hoạch” nhằm tránh cho người lao động thao
túng kết quả đánh giá KPI bằng việc bồi thường các lô đất nhỏ lẻ, không phù hợp
với kế hoạch thiết kế thi công và kế hoạch bổ sung thủ tục pháp lý dự án theo quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó, chi tiêu “tỷ lệ tiết kiệm tiền bồi thường thực chi”
sẽ được bổ sung như phần thưởng để động viên người lao động thay cho chỉ tiêu “tỷ
lệ thực chi / chi phí khái toán”. Nguyên nhân đã phân tích chi tiết ở chương 3.
Điều chỉnh thứ tư: Thay đổi chỉ tiêu “Chi phí thực hiện thiết kế - thi công”
thành “Mốc thời gian thực hiện công tác thiết kế - thi công”, dùng chứng từ hoàn
công và chứng nhận chất lượng để ghi nhận năng lực và nổ lực của người lao động.
Nguyên nhân chủ yếu vì chi tiêu “Chi phí thực hiện thiết kế - thi công” đang hướng
người lao động theo hướng tăng sử dụng tiền chứ không phải sử dụng hiệu quả các
nguồn lực. Mặt khác, việc gia tăng chi phí thiết kế thi công so với kế hoạch là trái
với quy chế quản trị tài chính của Công ty, không được phép phê duyệt trừ khi
chứng minh được tính bất khả kháng. Chỉ tiêu mới “Mốc thời gian thực hiện công
tác thiết kế - thi công” không chỉ tăng cường tính phối hợp bắt buộc giữa các phòng
ban mà còn phù hợp với mục tiêu kiểm soát triển khai dự án và tăng hiệu quả sử
dụng dòng tiền.
Điều chỉnh thứ năm: Thay chỉ tiêu “Số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
bằng “Mốc thời gian thực hiện các thủ tục pháp lý theo tiến độ” vì bên cạnh số
lượng, việc hoàn chỉnh các thủ tục pháp lý theo tiến độ còn ảnh hưởng đến việc thu
5% doanh thu bán hàng theo chính sách bán hàng của Công ty và mức độ hài lòng
của khách hàng đối với các chính sách bán hàng và hậu mãi. Ngoài ra, việc hoàn
thành các thủ tục pháp lý theo tiến độ được duyệt cung giúp hạn chế tình trạng
người lao động chủ động lựa chọn thực hiện các thủ tục cấp trước các giấy chứng
nhận ngoài kế hoạch bán để bù đắp số lượng thiếu theo kế hoạch nhằm tối đa hóa
lợi ích từ KPI (tương tự việc bán ngoài kế hoạch và bán đất ngoài ranh).
Điều chỉnh thứ sáu và thứ bảy là cụ thể hóa chỉ tiêu “Hoàn tất triển khai
ERP/ISO” thành “Mốc thời gian hoàn tất việc cập nhật ERP/ISO theo kế hoạch”.
Điều này giúp hạn chế tình trạng các phòng ban thực hiện các yêu cầu phối hợp một
cách đối phó cũng như tình trạng tổ IT, phòng Quản trị hành chính và bộ phận quản
trị nhân sự không theo kịp kế hoạch triển khai hệ thống lại đổ lỗi cho các phòng ban
3
không phối hợp. Sau khi điều chỉnh, thời gian hoàn tất được chính phòng ban đưa ra
yêu cầu phối hợp ghi nhận sau khi đánh giá chất lượng phản hồi. Trong trường hợp
phản hồi không đáp ứng yêu cầu thì phòng ban đưa ra yêu cầu (tổ IT, phòng Quản
trị hành chính hoặc bộ phận quản trị nhân sự) phải từ chối nhận kết quả và yêu cầu
thực hiện lại cho đến khi đạt yêu cầu. Chỉ tiêu này sau khi áp dụng thử nghiệm với
việc triển khai hệ thống ERP và ISO mà đạt được kì vọng từ Ban điều hành sẽ được
xem xét dùng để đánh giá các hoạt động phối hợp giữa các phòng ban.