BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUỐC KỊP

KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA

KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI

CHÍNH - NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: KẾ TOÁN

Mã số: 60340301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ GIANG TÂN

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Khoảng cách mong đợi về trách

nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính - Nghiên cứu thực

nghiệm tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học của tôi với sự hướng dẫn

của PGS.TS. Trần Thị Giang Tân. Luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ

hình thức nào. Tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đã được công bố đầy đủ.

TP.HCM, ngày 28 tháng 10 năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Kịp

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng biểu

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2

3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 2

4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3

4.1 Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 3

4.2 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3

6. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 4

CHƯƠNG 1: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI

VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BCTC

1.1 Các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi kiểm toán trên thế giới ............ 5

1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam ...........................................................................12

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1 Trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC .................................................15

2.1.1 Trách nhiệm của KTV theo VSA 200 ...........................................................15

2.1.2 Trách nhiệm của KTV theo VSA 240 ...........................................................16

2.1.3 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315 ........................................................19

2.1.4 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 ........................................................20

2.2 Khoảng cách mong đợi kiểm toán ....................................................................21

2.2.1 Khái niệm khoảng cách mong đợi kiểm toán.................................................21

2.2.2 Nguyên nhân hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán ...........................23

2.3 Lý thuyết nền tảng ...........................................................................................24

2.3.1 Lý thuyết ủy nhiệm .......................................................................................24

2.3.2 Lý thuyết niềm tin ký thác ............................................................................25

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Thiết kế nghiên cứu .........................................................................................28

3.2 Đối tượng khảo sát...........................................................................................29

3.3 Nội dung khảo sát ............................................................................................30

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ

TRÁCH NHIỆM CỦA KTV TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI VIỆT NAM

4.1 Tổng quan về hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam .................................33

4.1.1 Lịch sử phát triển ..........................................................................................33

4.1.2 Các quy định pháp lý ....................................................................................34

4.2 Kết quả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm

toán BCTC tại Việt Nam .......................................................................................35

4.2.1 Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát..............................35

4.2.2 Kết quả khảo sát về khoảng cách hợp lý .......................................................37

4.2.3 Kết quả khảo sát về khoảng cách năng lực ....................................................46

4.2.4 Kết quả khảo sát về khoảng cách chuẩn mực ................................................50

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI

5.1 Kết luận ...........................................................................................................57

5.2 Đề xuất quan điểm và định hướng thu hẹp khoảng cách mong đợi ..................60

5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ...........................................69

Kết luận .................................................................................................................72

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Hội kế toán công chứng Anh 1. ACCA

Ban Giám đốc 2. BGĐ

Ban Quản trị 3. BQT

Báo cáo kiểm toán 4. BCKT

Báo cáo tài chính 5. BCTC

Báo cáo thường niên 6. BCTN

Bộ tài chính 7. BTC

Chứng chỉ kiểm toán viên 8. CPA

Đơn vị được kiểm toán 9. ĐVĐKT

Giá trị trung bình 10. GTTB

Kiểm soát chất lượng 11. KSCL

Kiểm toán viên 12. KTV

Nhà Quản lý 13. NQL

Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam 14. VACPA

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 15. VSA

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU

Hình 2.1: Mô hình khoảng cách mong đợi kiểm toán ........................................... 22

Bảng 4.1: Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát .................... 37

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Một BCTC đã được kiểm toán luôn tạo được sự tin cậy cho các Cổ đông và

các bên có quyền lợi liên quan của đơn vị được kiểm toán, đặc biệt đó là cơ sở cho

những nhà đầu tư ra quyết định có nên đầu tư hay không. Tuy nhiên, hiện nay niềm

tin đó đã bị suy giảm đáng kể bởi chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC bị ảnh

hưởng rất lớn sau nhiều vụ sụp đổ lớn trên thế giới như Enron, Worldcom,…Sự chỉ

trích và mất niềm tin của xã hội vào KTV, vào BCTC đã được kiểm toán do nhiều

nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân này là do khoảng cách giữa mong đợi

của xã hội về kiểm toán bao gồm cả mong đợi hợp lý và chưa hợp lý với khả năng

mà nghề nghiệp kiểm toán đáp ứng được. Thuật ngữ “Khoảng cách mong đợi” đã

xuất hiện trong các nghiên cứu từ năm 1970 của thế kỷ trước. Các nghiên cứu kết

luận rằng tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết các KTV về nghề nghiệp của họ so

với nhận thức của những người khác, đặc biệt có sự khác biệt trọng yếu trong nhận

thức về vai trò của KTV đối với việc phát hiện gian lận (Yusuf Munir Sidani, 2007),

có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của nhóm KTV và nhóm lợi ích liên quan

đến báo cáo tài chính như nghiên cứu của Semiu Babatunde Adeyemi và Olayinka

Marte Uadiale, 2011 tại Nigeria, nghiên cứu của Porter bắt đầu từ năm 1989 đến

năm 2008 tại Anh và New Zealand. Nhìn chung, người sử dụng BCTC và các nhóm

lợi ích khác trong xã hội có sự khác biệt về nhận thức liên quan đến chức năng, mục

tiêu kiểm toán hoặc trách nhiệm của KTV. Một số nghiên cứu khác cho thấy nhân

tố thể chế và văn hóa của mỗi nước ảnh hưởng đến kì vọng của xã hội về trách

nhiệm và đánh giá của họ về kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV.

Tuy nhiên các nghiên cứu về khoảng cách mong đợi kiểm toán chưa nhiều tại

Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề về

quy trình lập kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện hoặc

ngăn ngừa gian lận (Lý Trần Kim Ngân, 2011; Trương Thị Yến Nhung, 2012 và

Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013), đánh giá một số thuộc cá nhân của KTV đối với chất

2

lượng kiểm toán (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013), những vấn đề về luân chuyển KTV

và những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC (Lâm

Huỳnh Phương, 2013; Nguyễn Trọng Thể, 2013 và Nguyễn Quốc Cường, 2013),

nâng cao trách nhiệm của KTV (Ngô Thị Thu Hà, 2007) nhưng chưa chú trọng

mong đợi thực tế của xã hội về trách nhiệm của KTV, trách nhiệm đó đã được KTV

thực hiện như thế nào, bản thân KTV nhìn nhận ra sao, ĐVĐKT nghĩ gì về trách

nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. Vì vậy tác giả đã thực hiện nghiên

cứu “Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC -

Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam”. Nghiên cứu này nhằm cung cấp một bằng

chứng thực nghiệm liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt nam, về

sự mong đợi của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm toán BCTC tại

Việt Nam hiện nay, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV hiện nay như

thế nào theo quan điểm của người sử dụng BCTC và có những đề xuất nhằm thu

hẹp khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại

Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu

 Xem xét liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong

cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.

 Tìm hiểu các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của

KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam.

 Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu khoảng cách mong đợi về trách nhiệm

của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC hiện nay tại Việt Nam.

3. Câu hỏi nghiên cứu

Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, luận văn trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu như

sau:

 Có tồn tại khoảng cách sự mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm

toán BCTC tại Việt Nam không?

 Các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong

cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam là gì?

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu: ý kiến của các đối tượng liên quan gồm KTV, công ty

được kiểm toán, người sử dụng BCTC.

 Phạm vi nghiên cứu:

 Luận văn chỉ tập trung vào kiểm toán độc lập, không nghiên cứu về kiểm

toán nhà nước hay kiểm toán nội bộ.

 Không gian: Bảng câu hỏi khảo sát được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí

Minh.

 Thời gian: Thời gian thực hiện nghiên cứu từ tháng 08/2015 đến tháng

10/2015.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp định tính thông qua việc thu thập các dữ liệu ban

đầu từ bảng câu hỏi khảo sát và kết hợp phương pháp thống kê mô tả, phân tích

tổng hợp các số liệu thu thập được. Từ đó đánh giá kết quả khảo sát về khoảng cách

mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam, tìm ra các

nguyên nhân hình thành khoảng cách này nhằm đề ra giải pháp thu hẹp.

Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ bài nghiên cứu của Porter

(2012), “Report on research conducted in the united kingdom and new zealand in

2008 investigating the audit expectation-performance gap and users’ understanding

of, and desired improvements to, the auditor’s report” với một vài thay đổi cho phù

hợp với môi trường pháp lý, văn hóa tại Việt Nam cũng như dựa trên một số nghiên

cứu khác.

Các bảng câu hỏi được gửi trực tiếp và thực hiện khảo sát dựa vào ứng dụng của

Google.docs cho ba nhóm đối tượng có liên quan lợi ích đến kiểm toán:

 Nhóm KTV: là những người có kiến thức chuyên môn về kiểm toán và là

những người trực tiếp thực hiện trong cuộc kiểm toán. Đối tượng này tham

gia khảo sát gồm có KTV chính, chuyên viên kiểm toán và trợ lý kiểm

toán…

4

 Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán: là những cá nhân chịu trách

nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao đổi và giải trình trực

tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán. Nhóm này tham gia khảo sát bao

gồm Ban (Tổng) Giám đốc, Kế toán Trưởng, Kế toán viên…

 Nhóm người sử dụng BCTC: Đây là nhóm có lợi ích liên quan như đánh giá

thông tin tài chính để cho vay hoặc đánh giá tình hình hoạt động để đầu tư

hay đánh giá khả năng đóng góp cho Nhà nước thông qua đóng

thuế,…Nhóm này được khảo sát bao gồm: các nhân viên ngân hàng, các

nhân viên làm việc ở các Công ty Chứng Khoán, các nhân viên làm việc ở

các Cơ quan thuế…

Các số liệu được thu thập, tổng hợp và xử lý bằng phần mềm excel 2010. Từ đó

phân tích thực trạng và đề ra giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi của xã

hội về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.

6. Kết cấu luận văn

Luận văn được kết cấu theo 5 chương:

PHẦN MỞ ĐẦU

Chương 1. Các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của

KTV trong kiểm toán BCTC.

Chương 2. Cơ sở lý thuyết

Chương 3. Phương pháp nghiên cứu

Chương 4. Kết quả nghiên cứu về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV

trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam.

Chương 5. Kết luận, giải pháp và hạn chế của đề tài.

5

CHƯƠNG 1: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH MONG

ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN

BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.1 Các nghiên cứu trước về điều tra khoảng cách mong đợi kiểm toán trên thế

giới

Thuật ngữ “Khoảng cách mong đợi” đã tồn tại từ rất lâu, khoảng 100 năm trước

và là chủ đề được rất nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới:

[1] Lee (1970) có thể là người tiên phong nghiên cứu đầu tiên về khoảng cách

mong đợi kiểm toán được tiến hành ở Anh. Hơn 80% số người được phỏng vấn

(gồm KTV, công ty được kiểm toán và các đối tượng có lợi ích từ kiểm toán) về

mục tiêu kiểm toán. Các đối tượng cho rằng KTV có trách nhiệm trong việc phát

hiện các gian lận và sai sót trên BCTC, đảm bảo các công ty đã tuân thủ tất cả các

yêu cầu pháp lý của Luật doanh nghiệp, xác minh tính chính xác của sổ sách kế toán

và các hồ sơ, và đưa ra ý kiến về các sự trung thực và hợp lý về BCTC của công ty.

Trái với mong đợi của Lee, sự hiểu biết của KTV về mục tiêu kiểm toán dường như

là không khác với công ty được kiểm toán và các bên có lợi ích từ kiểm toán . Kết

quả này cho thấy rằng KTV dường như đã nhầm lẫn và không xác định rõ mục tiêu

cuộc kiểm toán của mình (Forter 2012, trang 10, đoạn 2).

[2] Beck (1973) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở Úc tương tự như của Lee ở

Anh. Kết quả từ nghiên cứu của Beck là cổ đông có mâu thuẫn về tính độc lập của

KTV, đó là các cổ đông tin rằng nếu KTV sở hữu cổ phần trong công ty được kiểm

toán thì lợi ích của KTV sẽ được kết hợp chặt chẽ hơn với những lợi ích của các cổ

đông.

[3] Humphrey, Moizer và Turley (1993) đã tiến hành một cuộc khảo sát tại Anh

để điều tra ý kiến của KTV, công ty được kiểm toán và người sử dụng BCTC về

KTV và công việc mà họ thực hiện. Và cũng giống như các nghiên cứu trước đó,

kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những ý kiến của nhóm KTV khác biệt rõ rệt với

những người là các giám đốc tài chính và những người sử dụng BCTC.

6

[4] Porter (1993) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở New Zealand để xác định ý

kiến đến trách nhiệm của KTV hiện có theo quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn

về sự thực hiện những trách nhiệm đó. Năm 1999, Porter và Gowthorpe (2004)

nhân rộng nghiên cứu năm 1989 của Porter ở cả New Zealand và Anh để so sánh

giữa cơ cấu, thành phần và mức độ của khoảng cách mong đợi kiểm toán ở New

Zealand và Anh 1999, hai nơi có môi trường pháp lý, văn hóa và kinh tế - xã hội

tương tự nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy người sử dụng BCTC vẫn có sự hiểu

lầm về chức năng của kiểm toán và trách nhiệm tồn tại của KTV.

[5] Hian Chye Koh và E-Sah Woo (1998) cho rằng có một sự lo ngại khi KTV

và công chúng có niềm tin khác nhau về trách nhiệm của KTV và các thông điệp

được truyền đạt bởi các báo cáo kiểm toán. Trong những năm gần đây, nhiều công

ty lớn sụp đổ đã làm cho khoảng cách mong đợi kiểm toán càng lớn. Rõ ràng, nhận

thức không hợp lý của công chúng là một nguyên nhân chính của khoảng cách này.

Và điều này phù hợp với các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Nghiên cứu của tác giả đã thực hiện thông qua xem xét các tài liệu về khoảng cách

mong đợi kiểm toán theo chiều dọc như sau: định nghĩa của khoảng cách mong đợi

kiểm toán; bản chất và cấu trúc của khoảng cách mong đợi; và cách để giảm khoảng

cách mong đợi. Nhóm tác giả hy vọng rằng đó là một nỗ lực có thể cung cấp cái

nhìn sâu sắc về khoảng cách mong đợi kiểm toán.

[6] Best, Peter J and Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001) nghiên cứu về

mức độ và tính chất của khoảng cách mong đợi kiểm toán tồn tại ở Singapore vào

giữa những năm 1990 và so sánh các kết quả của nghiên cứu này với Schelluch

(1996) tại Úc. Các kết quả từ nghiên cứu này tìm thấy bằng chứng của một khoảng

cách mong đợi kiểm toán rất lớn ở Singapore, đặc biệt là trách nhiệm của KTV đối

với việc ngăn ngừa và phát hiện gian lận.

[7] Z. Jun Lin và Feng Chen (2004) điều tra việc nổi lên như một hiện tượng của

khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Kết quả cho

thấy rằng vai trò và các lợi ích của kiểm toán được sự công nhận một cách tích cực

bởi những người hưởng lợi ích từ kiểm toán và nhu cầu mở rộng áp dụng kiểm toán

7

ngày càng tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng thu được bằng chứng quan trọng

về sự tồn tại của khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Trung Quốc liên quan đến các

mục tiêu kiểm toán; trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện và báo cáo gian lận;

và trách nhiệm với bên thứ ba. Các nguyên nhân và ý nghĩa thực tế của sự tồn tại

khoảng cách này là do bối cảnh hiện tại về các điều kiện kinh tế và xã hội của Trung

Quốc và các thủ tục được yêu cầu để thực hiện trong cuộc kiểm toán. Nghiên cứu

này đã làm sáng tỏ sự hiểu biết của người sử dụng và giúp ích rất lớn cho các tổ

chức ban hành và phát triển kiểm toán ở Trung Quốc.

[8] Philmore Alleyne và Michael Howard (2006) điều tra về việc làm thế nào

KTV và người sử dụng cảm nhận được trách nhiệm của KTV đối với việc phát hiện

gian lận, tính chất và mức độ gian lận tại Barbados, và các thủ tục kiểm toán được

sử dụng tại Barbados từ sự kiện Enron. Kết quả từ 43 người được hỏi (19 KTV và

24 người sử dụng) đã chỉ ra rằng tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn tại

Barbados vì KTV cảm thấy rằng việc phát hiện gian lận là trách nhiệm NQL, trong

khi người sử dụng và NQL không đồng ý điều này. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng

phát hiện rằng gian lận không phải là một vấn đề lớn ở Barbados vì các công ty có

kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát hữu hiệu và hiệu quả giúp trang bị tốt để đối

phó với việc phòng chống và phát hiện gian lận.

[9] Yusuf Munir Sidani (2007) nghiên cứu xem liệu có sự tồn tại của một

khoảng cách mong đợi giữa KTV và những người không phải KTV tại Lebanon.

Kết quả cho thấy tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết các KTV về nghề nghiệp

của họ so với nhận thức của những người khác, đặc biệt có sự khác biệt trọng yếu

trong nhận thức về vai trò của KTV đối với việc phát hiện gian lận.

[10] Mahdi Salehi (2008) thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để xác định khoảng

cách mong đợi về trách nhiệm của KTV giữa KTV và chủ ngân hàng ở Iran. Theo

quan điểm thực tế, các yếu tố quan trọng trong việc nâng cao sự tín nhiệm là sự

nhận thức của các cổ đông đánh giá BCTC được cung cấp bởi nhà quản lý. Trong

những năm gần đây, nhiều vụ bê bối của công ty lớn đã xảy ra, vì vậy các bên thứ

ba yêu cầu KTV phải là một thẩm phán trung thực. Các bên thứ ba mong đợi KTV

8

cần có nhiều trách nhiệm hơn nữa trong việc phát hiện gian lận. Tuy nhiên KTV thì

hiểu rằng giới hạn trách nhiệm của họ là không thể phát hiện tất cả các loại gian lận.

Vì vậy, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có khoảng cách đáng kể giữa KTV và các

chủ ngân hàng về việc nhận thức trách nhiệm phát hiện gian lận của KTV trong

cuộc kiểm toán BCTC.

[11] Mahdi Salehi (2009) nghiên cứu về sự độc lập của KTV và khoảng cách

mong đợi kiểm toán. Độc lập là cơ sở để đảm bảo độ tin cậy của báo cáo kiểm toán.

Các nguyên nhân để giảm tính độc lập là từ sự phụ thuộc tài chính của KTV với

khách hàng; cạnh tranh thị trường kiểm toán; việc cung cấp các dịch vụ phi kiểm

toán. Từ sự phụ thuộc đó, KTV không thể đưa ra một báo cáo hợp lý. Nghiên cứu

kết luận rằng “sự độc lập của KTV là một yếu tố quan trọng để giảm khoảng cách

mong đợi kiểm toán, bởi vì các nhà đầu tư và những người sử dụng khác đang mong

đợi nhiều hơn từ các KTV và công ty kiểm toán”.

[12] Javed Siddiqui (2009) điều tra những tác động của giáo dục về kiểm toán

trong việc làm giảm khoảng cách mong đợi kiểm toán tại một nền kinh tế mới nổi,

cụ thể là Bangladesh. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng giáo dục về kiểm toán

làm giảm đáng kể khoảng cách mong đợi kiểm toán, tuy nhiên, kết quả cũng chỉ ra

rằng mặc dù đã giới thiệu nhiều trường hợp bê bối trong kiểm toán cho các sinh

viên trong chương trình, nhưng vẫn còn một sự mong đợi không hợp lý liên quan

đến trách nhiệm của KTV.

[13] Dan Stirbu (2009) đã đặt ra câu hỏi: Có phải KTV chịu trách nhiệm cho

việc phát hiện gian lận trong những công ty mà họ kiểm tra? Và kết quả là: hầu hết

công chúng nghĩ là có. Các KTV thường không đồng ý. Trách nhiệm của KTV đối

với việc ngăn ngừa, phát hiện và báo cáo gian lận là một trong những vấn đề gây

tranh cãi nhất trong kiểm toán. Và nghiên cứu này đã tìm hiểu về việc nhận thức của

người sử dụng BCTC về mức độ gian lận ở Romania và trách nhiệm của KTV trong

phát hiện gian lận và các thủ tục kiểm toán có liên quan. Kết quả cho thấy đa số

nhận thức sai lầm về mục tiêu của một cuộc kiểm toán. Điều này là do một số người

9

trả lời đã đặt một sự mong đợi cao vào trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện

và báo cáo gian lận hơn là yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán.

[14] Oyinlola oluwagbemiga (2010) điều tra vai trò của KTV trong việc phát

hiện, ngăn chặn và báo cáo về gian lận. Dữ liệu được lấy từ 184 người được hỏi ở

Nigeria. Kết quả cho thấy rằng những người trả lời rất quan tâm đến các vấn đề gian

lận và đặt mong đợi rất cao về trách nhiệm của KTV về phòng, chống và phát hiện

gian lận. Điều này là trái ngược với nhận thức và mục tiêu chính của KTV. Do đó,

tạo ra một khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn tại Nigeria.

[15] Fowzia Rehana (2010) cũng nghiên cứu thực nghiệm về khoảng cách mong

đợi kiểm toán thông qua nghiên cứu vai trò của giáo dục về kiểm toán tại

Bangladesh. Khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt giữa những gì các

KTV thực sự làm và những gì các bên thứ ba nghĩ rằng KTV làm hoặc nên làm

trong việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Sự mâu thuẫn quan điểm đã được làm rõ

liên quan đến vai trò của giáo dục trong việc thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm

toán này. Nghiên cứu này đã được tiến hành nhằm điều tra xem liệu có bằng chứng

cho thấy việc cung cấp giáo dục về bản chất và giới hạn của kiểm toán như là một

phần trong chương trình đào tạo cử nhân kinh doanh góp phần thu hẹp khoảng cách

mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân từ một sự hiểu lầm các quy định và mục tiêu

kiểm toán. Cũng như kết quả của các nghiên cứu trước, cho thấy rằng giáo dục về

kiểm toán có hiệu quả đáng kể trong việc thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán.

[16] Semiu Babatunde Adeyemi và Olayinka Marte Uadiale (2011) nghiên cứu

về sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Nigeria. Nghiên cứu cho thấy một

khoảng cách mong đợi kiểm toán tồn tại ở Nigeria, đặc biệt là các vấn đề liên quan

đến trách nhiệm KTV. Kết quả cho thấy rằng có sự khác biệt đáng kể trong nhận

thức của nhóm trả lời tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Nigeria. Do đó,

nghiên cứu kiến nghị cần thiết phải thông tin cho công chúng về các đối tượng của

một cuộc kiểm toán, vai trò và trách nhiệm của KTV để thu hẹp khoảng cách mong

đợi kiểm toán.

10

[17] Omid Pourheydari và Mina Abousaiedi (2011) điều tra liệu có tồn tại một

khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa KTV và người sử dụng BCTC tại Iran.

Nghiên cứu sử dụng một công cụ khảo sát để xác định khoảng cách mong đợi kiểm

toán tại Iran. Các phương pháp nghiên cứu tương tự như bởi Schelluch; Best và các

cộng sự; Fadzly và Ahmad; Dixon và các cộng sự. Cũng như các nghiên cứu trước

đó, kết quả đã tìm thấy có sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Iran, đặc

biệt liên quan đến mức độ và tính chất về trách nhiệm KTV đối với phát hiện gian

lận, tính hiệu quả của kiểm soát nội bộ, và trách nhiệm chuẩn bị các BCTC.

[18] Mahdi Salehi (2011) tiếp tục nghiên cứu liên quan đến khoảng cách mong

đợi kiểm toán, lần này tác giả đề cập đến bản chất và kích thước khác nhau của

khoảng cách mong đợi kiểm toán trên toàn thế giới. Nghiên cứu đi đến kết luận rằng

khoảng cách này nên được thu hẹp bởi chính KTV, cải thiện trách nhiệm kiểm toán

trong các chuẩn mực mới và giáo dục cho những người sử dụng khác nhau hiểu về

mục tiêu và bản chất của cuộc kiểm toán.

[19] Fatemeh Saeidi (2012) điều tra sự tồn tại của khoảng cách mong đợi kiểm

toán liên quan đến trách nhiệm của KTV trong việc phòng ngừa và phát hiện gian

lận giữa các đối tượng là KTV, các NQL tài chính và các nhà đầu tư tại Iran. Công

cụ điều tra là một bảng câu hỏi được thiết kế theo Hassink và các cộng sự (2009)

với những thay đổi nhỏ theo chuẩn mực kiểm toán và hội nghề nghiệp kiểm toán ở

Iran. Có 34 câu hỏi được chia thành bốn nhóm: định nghĩa gian lận (Câu hỏi 1-10),

trách nhiệm cho việc phát hiện gian lận (Câu hỏi 11-22), trách nhiệm điều tra nghi

ngờ gian lận (Câu hỏi 23-28), và báo cáo phát hiện gian lận cho sự giám sát của hội

đồng quản trị và xã hội (Câu hỏi 29-34), thu thập 147 bảng trả lời. Kết quả của

nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng của sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán

giữa ba nhóm trả lời liên quan đến trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện gian lận của

KTV.

[20] Rasha Kassem và Dr. Andrew Higson (2012) nghiên cứu sâu vào hai lĩnh

vực. Thứ nhất, nó khám phá những lý do đằng sau khoảng cách mong đợi kiểm

toán, và thứ hai, nó đánh giá những nỗ lực của các nhà ban hành chuẩn mực kiểm

11

toán và KTV để thu hẹp khoảng cách liên quan với việc phát hiện gian lận. Và

nghiên cứu này cung cấp một tập hợp các đề xuất để giúp ích cho nỗ lực chống gian

lận của nhà ban hành chuẩn mực kiểm toán và KTV.

[21] Porter (2012) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở New Zealand và Anh trong

năm 2008 để xác định ý kiến đến trách nhiệm của KTV hiện có theo quy định của

pháp luật, các tiêu chuẩn về sự thực hiện những trách nhiệm đó và để xác định sự

hiểu biết người sử dụng BCTC về những thông điệp được chuyển tải trên báo cáo

kiểm toán. Nghiên cứu này được mở rộng từ chính nghiên cứu của Porter được thực

hiện trong năm 1999 cũng khảo sát tại New Zealand và Anh nhằm xác định và giải

thích sự khác biệt về khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa năm 2008 và 1999 tại

đây. Kết quả của nghiên cứu là các nhóm khảo sát vẫn chưa nhận thức đúng về

trách nhiệm hiện tại của KTV và kỳ vọng KTV thực hiện thêm những trách nhiệm

mà chuẩn mực kiểm toán hiện tại chưa quy định. Điều này cho thấy tồn tại khoảng

cách mong đợi ở Anh và New Zealand. Và khoảng cách này ở New Zealand thì lớn

hơn so với Anh một cách đáng kể. Kết quả này khác so với năm 1999 khi mức độ

chênh lệch khoảng cách mong đợi kiểm toán ở hai quốc gia đã được tìm thấy cơ bản

giống nhau. Từ năm 1999 đến năm 2008, khoảng cách mong đợi ở Anh đã thu hẹp

đáng kể, trong khi đó ở New Zealand mở rộng một chút. Các kết quả nghiên cứu

cho thấy rằng sự thay đổi về khoảng cách mong đợi ở Anh và New Zealand khác

nhau là do việc giám sát hoạt động KTV và công khai cho doanh nghiệp các vấn đề

của BCTC đã kiểm toán tại Anh thì tốt hơn. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy nội

dung của chuẩn mực về báo cáo kiểm toán thì ít tác động đến sự hiểu biết của người

sử dụng BCTC về những thông điệp được chuyển tải trên báo cáo kiểm toán.

[22] Klaus Ruhnke & Martin Schmidt (2014) phân tích nguyên nhân của khoảng

cách mong đợi kiểm toán cũng như tác động của những thay đổi đã được đề xuất

nhằm thu hẹp khoảng cách này của các nghiên cứu trước cho các Cơ quan ban hành

luật kiểm toán. Dựa trên bảng câu hỏi khảo sát được tiến hành trong năm 2011 tại

Đức, nghiên cứu phát hiện rằng công chúng đã có những mong đợi quá mức vào

trách nhiệm của KTV theo chuẩn mực hiện hành. Các nguyên nhân khác liên quan

12

là sự đánh giá quá khó, quá mong đợi của công chúng về hiệu quả hoạt động của

KTV, nhưng mặt khác, cũng do sự thiếu năng lực của KTV trong cuộc kiểm toán.

Kết quả nghiên cứu còn cho thấy KTV không nhận thức đầy đủ trách nhiệm của

mình. Ngược lại với các đề xuất của nghiên cứu trước là bắt buộc xoay vòng KTV

và một lệnh cấm thực hiện các dịch vụ phi kiểm toán cho công ty đang được kiểm

toán, nghiên cứu này kiến nghị phải tăng nội dung thông tin của các ý kiến kiểm

toán sẽ thu hẹp khoảng cách này đến một mức độ cao hơn.

[23] Vidisha Gunesh Ramlugun (2014) cho thấy sự tồn tại của một khoảng cách

mong đợi kiểm toán tại Mauritius, đặc biệt hơn liên quan đến trách nhiệm, độ tin

cậy và minh bạch cần thiết từ các KTV. Nguyên nhân của những khoảng cách mong

đợi phát sinh do thiếu hiểu biết của người sử dụng BCTC về vai trò và trách nhiệm

của KTV.

1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam

Mặc dù thuật ngữ “khoảng cách mong đợi” liên quan đến trách nhiệm của

KTV đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên thế giới nhưng chưa phổ

biến ở Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề

về quy trình lập kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện hoặc

ngăn ngừa gian lận (Lý Trần Kim Ngân, 2011; Trương Thị Yến Nhung, 2012 và

Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013), đánh giá một số thuộc cá nhân của KTV đối với chất

lượng kiểm toán (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013), những vấn đề về luân chuyển KTV

và những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC (Lâm

Huỳnh Phương, 2013; Nguyễn Trọng Thể, 2013 và Nguyễn Quốc Cường, 2013),

nâng cao trách nhiệm của KTV (Ngô Thị Thu Hà, 2007) nhưng chưa chú trọng

mong đợi thực tế của xã hội về trách nhiệm của KTV, trách nhiệm đó đã được KTV

thực hiện như thế nào, bản thân KTV nhìn nhận ra sao, ĐVĐKT nghĩ gì về trách

nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC.

Vì có một khoảng trống trong các nghiên cứu truớc tại Việt Nam nên tác giả

đã chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu cho mình. Nghiên cứu này nhằm cung cấp

một bằng chứng thực nghiệm liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại

13

Việt nam, về sự mong đợi của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm

toán BCTC tại Việt Nam hiện nay, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV

hiện nay như thế nào theo quan điểm của nguời sử dụng BCTC và có những đề xuất

nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán

BCTC tại Việt Nam.

14

Kết luận chương 1

Nghiên cứu về khoảng cách mong đợi kiểm toán là một đề tài cấp thiết và có ý

nghĩa to lớn đối với người sử dụng BCTC nói riêng và xã hội nói chung. Vì việc

nâng cao chất lượng kiểm toán hiện nay không chỉ cố gắng nâng cao năng lực của

KTV, hoàn thiện các thủ tục kiểm toán hay kiểm soát chất lượng của các công ty

kiểm toán mà còn phải tìm hiểu xem mong đợi thực tế của xã hội hiện nay như thế

nào, hợp lý hay không và họ có đánh giá tốt trách nhiệm mà KTV đã thực hiện

trong cuộc kiểm toán BCTC không, từ đó hạn chế những mong đợi không hợp lý

của các nhóm lợi ích vượt quá khả năng thực tế của KTV nhằm thu hẹp khoảng

cách mong đợi kiểm toán.

Và chủ đề này đã được rất nhiều nghiên cứu trên thế giới thực hiện, điển hình

là nghiên cứu của Porter được tiến hành từ năm 1989 tại New Zealand và mở rộng

cả Anh và New Zealand năm 1999 và 2008. Các nghiên cứu đều có một kết luận:

tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Anh và New Zealand mặc dù nghiên

cứu ở các năm khác nhau. Đó cũng là kết quả nghiên cứu của Best, Peter J and

Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001) tại Singapore; Philmore Alleyne và

Michael Howard (2006) tại Barbados; Yusuf Munir Sidani (2007) tại

Lebanon…Tuy nhiên, đề tài này chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Vì vậy,

tác giả đã lựa chọn thực hiện nghiên cứu về vấn đề này để điều tra xem liệu có tồn

tại khoảng cách mong đợi tại Việt Nam.

15

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1 Trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC

2.1.1 Trách nhiệm của KTV theo VSA 200

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 được Ban hành kèm theo Thông tư số

214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của BTC. Theo đoạn 11 của chuẩn

mực này, mục tiêu tổng thể của KTV và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm

toán BCTC là: “Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu BCTC, xét trên phương diện

tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp

KTV đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và

trình bày BCTC được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay không”.

KTV phải đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu BCTC, xét trên phương

diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự

đảm bảo hợp lý là sự đảm bảo ở mức độ cao và chỉ đạt được khi KTV đã thu thập

được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán (là

rủi ro do KTV đưa ra ý kiến không phù hợp khi BCTC còn có những sai sót trọng

yếu) tới một mức độ thấp có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, sự đảm bảo hợp lý

không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những hạn chế vốn có của cuộc

kiểm toán làm cho hầu hết bằng chứng kiểm toán mà KTV dựa vào để đưa ra kết

luận và ý kiến kiểm toán đều mang tính thuyết phục hơn là khẳng định (đoạn 05).

Những hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán do:

 Bản chất của việc lập và trình bày BCTC: việc lập và trình bày BCTC gồm các

xét đoán của BGĐ, nhiều khoản mục trên BCTC liên quan đến các quyết định hoặc

đánh giá chủ quan hoặc có mức độ không chắc chắn dẫn đến kết quả là một số

khoản mục trên BCTC có mức độ thay đổi tiềm tàng, không thể loại trừ hoàn toàn

mà chỉ có thể áp dụng các thủ tục kiểm toán bổ sung để đánh giá.

 Bản chất của các thủ tục kiểm toán: khả năng thu thập bằng chứng kiểm toán

của KTV bị giới hạn về tính khả thi hoặc giới hạn pháp lý như BGĐ ĐVĐKT hoặc

đối tượng khác có thể cố ý hoặc vô ý không cung cấp đầy đủ thông tin; hành vi gian

16

lận có thể được thực hiện tinh vi và kỹ lưỡng để che dấu và KTV không được đào

tạo để làm chuyên gia xác minh chứng từ giả mạo; KTV không có quyền điều tra,

thanh tra, xét hỏi, khám xét như cuộc điều tra của cơ quan pháp luật.

 Sự cân nhắc giữa thời gian và giá phí một cách hợp lý: sự thích hợp của thông

tin, giá trị của thông tin có xu hướng giảm đi theo thời gian và cần cân nhắc sự cân

đối giữa độ tin cậy của thông tin với chi phí bỏ ra để có được thông tin đó.

Theo khoản j, đoạn 13 của chuẩn mực này cũng nêu rõ trách nhiệm của BGĐ

và BQT:

 Lập và trình bày BCTC phù hợp với khuôn khổ quy định;

 Đảm bảo cho việc lập và trình bày BCTC không còn sai sót trọng yếu do gian

lận hoặc nhầm lẫn;

 Cung cấp cho KTV đầy đủ thông tin và quyền hạn cần thiết: tiếp cận với tất cả

tài liệu có liên quan đến quá trình lập và trình bày BCTC như chứng từ kế toán, sổ

kế toán và tài liệu khác; cung cấp và giải trình những yêu cầu của KTV để phục vụ

cho mục đích của cuộc kiểm toán; quyền tiếp cận không hạn chế đối với nhân sự

của ĐVĐKT mà KTV xác định là cần thiết để thu thập bằng chứng kiểm toán.

KTV cũng có trách nhiệm trao đổi thông tin và báo cáo về một số vấn đề phát

sinh từ cuộc kiểm toán với người sử dụng BCTC, BGĐ, BQT hoặc các đối tượng

khác ngoài ĐVĐKT (đoạn 09).

Như vậy, BCTC sử dụng để kiểm toán là báo cáo đã được BGĐ ĐVĐKT lập

với sự giám sát của BQT đơn vị, đã ký tên, đóng dấu theo quy định của pháp luật và

việc kiểm toán BCTC không làm giảm nhẹ trách nhiệm của BGĐ hoặc BQT

ĐVĐKT (đoạn 04).

2.1.2 Trách nhiệm của KTV theo VSA 240

Chuẩn mực này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV đối với gian lận

trong quá trình kiểm toán BCTC. Tuy nhiên ngay đoạn 04 đã xác định: “Việc ngăn

ngừa và phát hiện gian lận trước hết thuộc về trách nhiệm của BQT và BGĐ

ĐVĐKT. Điều quan trọng là BGĐ, với sự giám sát của BQT, phải đặc biệt chú ý

đến việc ngăn ngừa gian lận nhằm làm giảm bớt các cơ hội thực hiện hành vi gian

17

lận và phát hiện gian lận qua đó thuyết phục các cá nhân không thực hiện hành vi

gian lận vì khả năng bị phát hiện và xử phạt”. KTV chỉ chịu trách nhiệm đạt được

sự đảm bảo hợp lý rằng liệu BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót

trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không với những hạn chế vốn có của kiểm

toán (đoạn 05).

Theo đoạn 10 của chuẩn mực này, trách nhiệm của KTV là:

 Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong BCTC do gian lận;

 Thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về các rủi ro có sai sót trọng

yếu do gian lận đã được đánh giá, thông qua việc thiết kế và thực hiện những biện

pháp xử lý thích hợp;

 Có biện pháp xử lý thích hợp đối với gian lận đã được xác định hoặc có nghi

vấn trong quá trình kiểm toán.

Để đánh giá rủi ro và các hoạt động liên quan nhằm tìm hiểu về ĐVĐKT và

môi trường hoạt động của đơn vị, KTV phải phỏng vấn BGĐ ĐVĐKT về đánh giá

của họ về rủi ro có thể có sai sót do gian lận trong BCTC, bao gồm nội dung, phạm

vi và tần suất của các đánh giá đó; quy trình xác định và xử lý rủi ro có gian lận;

quan điểm về gian lận, các hoạt động kinh doanh và hành vi đạo đức. Và KTV cũng

phải phỏng vấn bộ phận kiểm toán nội bộ và các đối tượng khác để xác định xem họ

có biết về bất kỳ gian lận nào trong thực tế, nghi ngờ có gian lận hoặc cáo buộc gian

lận nào ảnh hưởng đến đơn vị hay không, và để tìm hiểu các quan điểm của họ về

rủi ro có gian lận tại đơn vị (đoạn 17 – 19).

KTV phải tìm hiểu cách thức mà BQT thực hiện chức năng giám sát quy trình

xác định và xử lý rủi ro có gian lận trong đơn vị của BGĐ và kiểm soát nội bộ mà

BGĐ thiết lập để giảm thiểu các rủi ro. Sau đó, KTV phải phỏng vấn BQT để xác

định xem BQT có biết về bất kỳ gian lận nào trong thực tế, nghi ngờ có gian lận

hoặc cáo buộc gian lận nào ảnh hưởng đến đơn vị hay không và đối với kết quả đã

phỏng vấn BGĐ xem liệu có sự phù hợp và nhất quán (đoạn 20 - 21).

Sau khi phỏng vấn và thu thập các thông tin cần thiết, KTV phải xác định và

đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận ở cấp độ BCTC và ở cấp độ cơ sở

18

dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh và có

những biện pháp xử lý phù hợp theo quy định của chuẩn mực này. Và khi KTV

khẳng định rằng BCTC có chứa đựng sai sót trọng yếu, hoặc không thể đưa ra kết

luận được rằng BCTC có chứa đựng sai sót trọng yếu do gian lận hay không thì

KTV phải đánh giá các tác động đối với cuộc kiểm toán và cân nhắc thực hiện

những công việc tiếp theo cho phù hợp:

 Thu thập giải trình bằng văn bản của BGĐ và BQT ĐVĐKT về việc thừa nhận

trách nhiệm thiết lập, thực hiện và duy trì kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa và phát

hiện gian lận; đã cung cấp cho KTV các thông tin mà họ biết về bất kỳ cáo buộc

gian lận, hoặc nghi ngờ gian lận nào có ảnh hưởng đến BCTC.

 Trao đổi với Ban Giám đốc: khi đã thu thập được bằng chứng về sự tồn tại

hoặc có thể tồn tại gian lận do các nhân viên thực hiện, KTV cần trao đổi ngay với

Ban Giám đốc, kể cả khi vấn đề phát hiện được có thể được coi là không có ảnh

hưởng đáng kể.

 Trao đổi với Ban Quản trị: nếu KTV xác định được hoặc nghi ngờ rằng hành

vi gian lận có liên quan đến BGĐ; các nhân viên giữ vai trò quan trọng trong kiểm

soát nội bộ; những người khác trong trường hợp hành vi gian lận dẫn đến sai sót

trọng yếu trong BCTC thì KTV phải trao đổi vấn đề này với BQT và thảo luận với

BQT về nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thiết để hoàn

tất cuộc kiểm toán

 Rút khỏi hợp đồng kiểm toán: xác định trách nhiệm nghề nghiệp hoặc trách

nhiệm pháp lý yêu cầu phải báo cáo với đối tượng đã chỉ định thực hiện cuộc kiểm

toán hoặc báo cáo với các cơ quan quản lý có thẩm quyền (nếu có) về việc KTV rút

khỏi hợp đồng kiểm toán và lý do rút khỏi hợp đồng kiểm toán.

 Trao đổi với các cơ quan quản lý và cơ quan pháp luật có liên quan: nếu xác

định được hành vi gian lận hoặc nghi ngờ có hành vi gian lận thì KTV phải xác định

trách nhiệm báo cáo về hành vi gian lận hoặc nghi ngờ có hành vi gian lận đó với

bên thứ ba (nếu có). Mặc dù trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng có thể

không cho phép KTV thực hiện việc báo cáo đó nhưng trong một số trường hợp,

19

trách nhiệm pháp lý của KTV có thể cao hơn trách nhiệm bảo mật đó, tùy theo từng

trường hợp cụ thể, KTV có thể phải xin ý kiến của chuyên gia tư vấn pháp luật để

xác định sự cần thiết phải báo cáo về các gian lận với cơ quan quản lý, cơ quan

pháp luật có liên quan để đảm bảo các bước công việc cần thiết đối với lợi ích công

chúng trước ảnh hưởng của các gian lận đã phát hiện.

2.1.3 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315

Chuẩn mực này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV là xác định và

đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn ở cấp độ BCTC và

cấp độ cơ sở dẫn liệu, thông qua hiểu biết về ĐVĐKT và môi trường của đơn vị,

trong đó có kiểm soát nội bộ, từ đó cung cấp cơ sở cho việc thiết kế và thực hiện

các biện pháp xử lý đối với rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá (đoạn 03).

KTV phải thu thập hiểu biết về khách hàng và môi trường hoạt động để xác

định và hiểu các sự kiện, giao dịch và thông lệ kinh doanh của khách hàng có ảnh

hưởng trọng yếu tới BCTC, qua đó giúp xác định rủi ro có sai sót trọng yếu do gian

lận. KTV phải tìm hiểu các thông tin sau:

 Ngành nghề kinh doanh, các quy định pháp lý.

 Đặc điểm của đơn vị bao gồm lĩnh vực hoạt động; loại hình sở hữu và bộ máy

quản trị; Các hình thức đầu tư mà đơn vị đang và sẽ tham gia; Cơ cấu tổ chức, sản

xuất kinh doanh và quản lý và cơ cấu nguồn vốn của đơn vị.

 Các chính sách kế toán mà đơn vị lựa chọn áp dụng.

 Mục tiêu, chiến lược của đơn vị và những rủi ro kinh doanh có liên quan mà

có thể dẫn đến rủi ro có sai sót trọng yếu.

 Việc đo lường và đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị.

Chuẩn mực này đưa ra một số phương pháp giúp KTV thu thập những hiểu

biết về đơn vị, bao gồm:

 Phỏng vấn BGĐ và các cá nhân khác trong đơn vị mà theo xét đoán của KTV

có khả năng cung cấp thông tin hỗ trợ cho việc xác định rủi ro có sai sót trọng yếu

do gian lận.

 Thực hiện thủ tục phân tích.

20

 Quan sát và điều tra.

 Sử dụng các thông tin thu thập được từ kinh nghiệm của các cuộc kiểm toán

trước.

 Thảo luận giữa các KTV, tận dụng hiểu biết của các KTV có nhiều kinh

nghiệm và chuyên môn lâu năm về khách hàng để đánh giá khả năng BCTC của

đơn vị có dễ xảy ra sai sót trọng yếu do gian lận.

2.1.4 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330

Chuẩn mực này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV là thu thập đầy

đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp liên quan đến các rủi ro có sai sót trọng yếu đã

được đánh giá, thông qua việc thiết kế và thực hiện các biện pháp xử lý phù hợp đối

với các rủi ro. Sau khi xác định và đánh giá rủi ro theo VSA 315, tùy theo rủi ro ở

cấp độ BCTC hay cơ sở dẫn liệu mà KTV có biện pháp xử lý phù hợp.

Biện pháp xử lý tổng thể đối với các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh

giá ở cấp độ BCTC có thể bao gồm:

 Nhấn mạnh với nhóm kiểm toán về sự cần thiết phải duy trì thái độ hoài nghi

nghề nghiệp;

 Bổ nhiệm các thành viên nhóm kiểm toán có kinh nghiệm hoặc có kỹ năng

chuyên môn đặc biệt, hoặc sử dụng chuyên gia;

 Tăng cường giám sát;

 Kết hợp các yếu tố không thể dự đoán trước khi lựa chọn các thủ tục kiểm

toán tiếp theo cần thực hiện;

 Thực hiện những thay đổi chung đối với nội dung, lịch trình và phạm vi các

thủ tục kiểm toán

KTV phải thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán với nội dung, lịch trình

và phạm vi dựa vào kết quả đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn

liệu. KTV có thể sử dụng thử nghiệm kiểm soát nếu mong đợi rằng các kiểm soát

hoạt động hiệu quả, hay thử nghiệm cơ bản đối với từng nhóm giao dịch, số dư tài

khoản và thông tin thuyết minh trọng yếu hoặc phương pháp kết hợp thử nghiệm

kiểm soát và thử nghiệm cơ bản cũng là một phương pháp hữu hiệu.

21

2.2 Khoảng cách mong đợi kiểm toán

2.2.1 Khái niệm khoảng cách mong đợi kiểm toán

Thuật ngữ “khoảng cách mong đợi trong kiểm toán” lần đầu tiên ra đời bởi

Liggio (1974), theo ông, khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt giữa mức

độ mong đợi về sự thực hiện cuộc kiểm toán của người sử dụng BCTC và KTV.

Ủy ban Cohen (1978) mở rộng khái niệm này là khoảng cách giữa sự mong

đợi hoặc yêu cầu của công chúng và những gì mà KTV có thể và nên thực hiện một

các hợp lý.

Theo Guy và Sullivan (1988), khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt

giữa những gì mà công chúng và những người sử dụng BCTC tin rằng KTV chịu

trách nhiệm và những gì mà KTV tin rằng họ có trách nhiệm thực hiện.

Godsel (1992) định nghĩa khoảng cách mong đợi là khoảng cách mà công

chúng tin tưởng về nhiệm vụ và trách nhiệm của KTV và những thông điệp được

thể hiện trong Báo cáo kiểm toán.

Porter (1993) khoảng cách mong đợi kiểm toán được định nghĩa là sự mong

đợi của xã hội về nghề kiểm toán và nhận thức của KTV về khả năng thực hiện

trách nhiệm của mình và những thông điệp truyền tải trên báo cáo Kiểm toán.

Theo Viện Kế toán viên Công chứng Hoa Kỳ (1993), khoảng cách mong đợi

kiểm toán đề cập đến sự khác biệt giữa những gì mà công chúng và người sử dụng

BCTC tin rằng trách nhiệm của KTV phải thực hiện và những gì mà KTV tin rằng

trách nhiệm họ phải thực hiện.

Monroe và Woodliff (1994) cho rằng khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự

khác biệt về niềm tin giữa KTV và công chúng về nhiệm vụ và trách nhiệm mà

KTV đảm nhận và thông điệp trình bày trong báo cáo kiểm toán.

Viện Kế toán viên Công chứng Úc (1994) cho rằng khoảng cách mong đợi

kiểm toán là sự khác biệt về mong đợi của người sử dụng BCTC và chất lượng lập

BCTC và chất lượng dịch vụ kiểm toán thực tế.

Như vậy, tuy có nhiều khái niệm khác nhau nhưng đều thể hiện một vấn đề cốt

lõi: có một sự khác biệt giữa nhận thức của xã hội về trách nhiệm của KTV phải

22

thực hiện và sự nhận thức của chính KTV về trách nhiệm của mình, đó là khoảng

cách mong đợi kiểm toán.

Với các định nghĩa đã nêu, có thể nhận thấy rằng khoảng cách mong đợi kiểm

toán có hai thành phần chính:

 Khoảng cách giữa những gì xã hội mong đợi KTV đạt được và những gì là

hợp lý mà KTV có thể đạt được (gọi là “khoảng cách hợp lý).

 Khoảng cách giữa những gì xã hội mong đợi hợp lý KTV thực hiện và những

gì KTV đạt được (gọi là “khoảng cách thực hiện”). Có thể được chia thành:

 Khoảng cách giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách

nhiệm hiện hữu của KTV được quy định trong Luật và các chuẩn mực

nghề nghiệp (“khoảng cách chuẩn mực”).

 Khoảng cách giữa các tiêu chuẩn mong đợi về trách nhiệm của KTV và

Khoảng cách mong đợi

khả năng thực hiện thực tế của KTV (“khoảng cách năng lực”)

Nhận thức của KTV về trách nhiệm nghề nghiệp Mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV

Khoảng cách hoạt động Khoảng cách hợp lý

Trách nhiệm thực tế của KTV Trách nhiệm của KTV được mong đợi ở mức độ có thể chấp nhận được

Mong đợi không hợp lý Thiếu năng lực Tính không đầy đủ trong chuẩn mực

Hình 2.1: Mô hình về khoảng cách mong đợi kiểm toán (Porter, 1993)

23

2.2.2 Nguyên nhân hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán

Từ mô hình khoảng cách mong đợi kiểm toán của Porter (1993), có thể nhận thấy

các nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán như

sau:

 Mong đợi chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm KTV

Vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng trách nhiệm của KTV, chẳng hạn trách

nhiệm KTV là bảo đảm BCTC được kiểm toán là chính xác tuyệt đối và không có

bất cứ sai sót nào tồn tại; KTV cần phải kiểm tra 100% các nghiệp vụ kinh tế và

phát hiện tất cả các sai sót và gian lận qua đó cảnh báo tất cả các rủi ro có thể xảy ra

đến đơn vị được kiểm toán; BCTC phải trình bày tất cả các thông tin có liên quan

đến mọi hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Đó là những mong đợi mang tính

chủ quan của người sử dụng BCTC về trách nhiệm của KTV và điều đó tạo ra sự

mong đợi chưa hợp lý, nói cách khác, đó là sự nhầm lẫn trong nhận thức của xã hội

về bản chất, mục đích và chức năng của hoạt động kiểm toán cũng như trách nhiệm

của KTV. Nguyên nhân làm khoảng cách này hình thành chủ yếu do sự phức tạp

các thuật ngữ và khái niệm trong chuẩn mực kiểm toán dẫn đến sự hiểu lầm hoặc

nhận thức chưa đầy đủ của xã hội như: khái niệm sự trung thực và hợp lý, mức độ

có thể chấp nhận được, trọng yếu, đầy đủ, đáng tin cậy…, tuy nhiên những thuật

ngữ này lại được dùng để đánh giá hoạt động kiểm toán cũng như kết luận trong báo

cáo kiểm toán (Humphrey, 1997). Và trong cuộc kiểm toán, luôn tồn tại sự hạn chế

vốn có, đó là KTV không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro kiểm toán và không thể đạt

được sự đảm bảo tuyệt đối về việc BCTC hoàn toàn không có sai sót trọng yếu do

gian lận nhưng phần lớn người sử dụng BCTC cho rằng BCTC đã được kiểm toán

là sự bảo đảm tuyệt đối các thông tin phản ánh trên BCTC của đơn vị được kiểm

toán. Vì vậy, không thể thỏa mãn mong đợi của những người sử dụng BCTC theo

quan điểm trên vì mong đợi chưa hợp lý và không thể thực hiện được đối với KTV

và công ty kiểm toán.

24

 Do chuẩn mực chưa đầy đủ

Nguyên nhân tiếp theo hình thành nên khoảng cách mong đợi kiểm toán là do

tính không đầy đủ của chuẩn mực kiểm toán, hàm ý về sự lỏng lẻo trong hệ thống

chuẩn mực kiểm toán so với yêu cầu thực tế của xã hội và sự phát triển, biến đổi

của nền kinh tế. Vì trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán và đưa ra ý kiến về

BCTC của đơn vị được kiểm toán, KTV luôn dựa vào chuẩn mực kiểm toán và các

quy định có liên quan. Nhưng chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như tại Việt Nam

chưa thực sự đầy đủ cho nên gây khó khăn cho KTV và công ty kiểm toán trong

việc thực hiện trách nhiệm và đưa ra ý kiến kiểm toán phù hợp và mang đến thông

tin có ích cho nhu cầu hợp lý của xã hội.

 Do hạn chế năng lực của KTV

Một nguyên nhân quan trọng tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán là KTV

chưa thực sự nhận thức được trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán và cung

cấp dịch vụ chưa thực sự hoàn hảo, chưa đáp ứng được mong đợi của xã hội:

 KTV thiếu năng lực nên BCTC được kiểm toán vẫn còn các sai sót trọng

yếu;

 KTV chưa tuân thủ đầy đủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp về các mối

quan hệ xã hội và quan hệ kinh tế với ĐVĐKT nên tính độc lập bị vi phạm;

 KTV chưa thực hiện đầy đủ các thủ tục kiểm toán theo yêu cầu của

chuẩn mực nhưng vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, trong khi bỏ sót nhiều rủi

ro trọng yếu làm mất niềm tin của xã hội.

2.3 Lý thuyết nền tảng

2.3.1 Lý thuyết ủy nhiệm hay lý thuyết đại diện (Agency Theory)

Nội dung lý thuyết: Lý thuyết ủy nhiệm có nguồn gốc từ lý thuyết kinh tế,

được phát triển bởi Alchial và Demsetz năm 1972 và được Jensen và Meckling phát

triển thêm vào năm 1976. Thuyết ủy nhiệm xuất hiện khi nền kinh tế thế giới phát

triển mạnh mẽ, các công ty đa dạng về loại hình và phát triển về quy mô nên chủ sở

hữu không trực tiếp điều hành công ty mà ủy quyền cho NQL đại diện họ điều hành

công ty thông qua hợp đồng ủy nhiệm. Lý thuyết ủy nhiệm nghiên cứu mối quan hệ

25

giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm, đó là cổ đông hoặc chủ sở hữu. Lý thuyết

ủy nhiệm liên quan đến việc giải quyết hai vấn đề xuất hiện trong mối quan hệ ủy

nhiệm:

 Sự mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu và NQL do mỗi bên đều muốn tối đa hóa

lợi ích của mình. Vì vậy không chắc rằng NQL sẽ luôn hành động để mang lại

lợi ích cao nhất cho chủ sở hữu.

 Việc giám sát NQL là khó khăn hoặc tốn kém vì tồn tại thông tin bất cân xứng

giữa NQL và chủ sở hữu. NQL dễ dàng nhận biết được tình huống nào, hợp

đồng nào, đối tác nào sẽ đem lại nguồn lợi và có khả năng tối đa hoá lợi ích cá

nhân trên cơ sở nguồn lực của công ty – nguồn lực của chủ sở hữu. NQL có

khả năng điều hành doanh nghiệp theo lợi ích của mình hơn là lợi ích của công

ty.

Vì vậy lý thuyết ủy nhiệm nêu ra vấn đề giải quyết làm sao để NQL làm việc

vì lợi ích cao nhất cho chủ sở hữu khi họ có lợi thế về thông tin hơn và có những lợi

ích khác với lợi ích của những chủ sở hữu này.

Vận dụng lý thuyết này vào đề tài: Lý thuyết ủy nhiệm được sử dụng để giải

thích những kỳ vọng quá lớn của cổ đông vào trách nhiệm của KTV trong kiểm

toán BCTC. Bởi cổ đông rất khó khăn hoặc tốn kém trong việc kiểm tra mọi thông

tin tài chính của doanh nghiệp do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và

báo cáo cho họ, do vậy họ đã bổ nhiệm các KTV – những người có đủ năng lực

chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, khách quan - thay thế họ kiểm tra một cách độc lập

và báo cáo lại theo ý kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài

chính. Tuy nhiên luôn tồn tại khoảng cách giữa KTV và cổ đông và những nhóm sử

dụng kết quả kiểm toán vì những mong muốn của các đối tượng này luôn vượt quá

trách nhiệm và khả năng của KTV.

2.3.2 Lý thuyết niềm tin ký thác của Limperg (Theory of Inspired Confidence)

Nội dung lý thuyết: Giáo sư Theodore Limperg (1879-1961) của Đại học

Amsterdam đã đưa ra lý thuyết có tên niềm tin ký thác. Lý thuyết niềm tin ký thác

cho rằng KTV và công ty kiểm toán có chức năng và trách nhiệm cung cấp dịch vụ

26

đảm bảo nhằm nâng cao độ tin cậy thông tin, điều này xuất phát từ nhu cầu của xã

hội về việc cần có người kiểm tra chuyên môn một cách độc lập và đưa ra ý kiến

kiểm toán dựa trên sự kiểm tra đó. Chức năng này được bắt nguồn từ niềm tin của

xã hội về hiệu quả của cuộc kiểm toán và ý kiến của các KTV. Do đó, niềm tin của

xã hội là một điều kiện cho sự tồn tại của chức năng kiểm toán, và do vậy người sử

dụng báo cáo tài chính thường yêu cầu rất cao đối với KTV.

Vận dụng lý thuyết này vào đề tài: Lý thuyết niềm tin ký thác đã giải thích

vì sao xã hội lại có mong đợi cao vì chức năng cơ bản của kiểm toán là cung cấp sự

đảm bảo về thông tin được kiểm tra. Tuy nhiên, do sự kỳ vọng quá mức này mà

KTV không thể đáp ứng được những mong đợi lớn hơn ngoài những trách nhiệm đã

thực hiện, từ đó tạo ra khoảng cách mong đợi kiểm toán.

27

Kết luận chương 2

Trong cuộc kiểm toán BCTC, trách nhiệm của KTV được quy định trong

chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Trong quá trình kiểm toán, KTV dựa vào các thủ

tục kiểm toán được quy định, kết hợp với kinh nghiệm chuyên môn, xét đoán nghề

nghiệp để đánh giá những khả năng xảy ra sai sót hoặc gian lận trọng yếu. Từ đó

đưa ra kết luận BCTC có trung thực và hợp lý hay không.

Tuy nhiên, nhiều thuật ngữ trong chuẩn mực mang tính chuyên ngành gây sự

hiểu lầm hoặc nhận thức chưa đầy đủ của người sử dụng BCTC như: khái niệm sự

trung thực và hợp lý, mức độ có thể chấp nhận được, trọng yếu, đầy đủ, đáng tin

cậy…, Chính điều này đã tạo nên những nhận thức khác nhau của các nhóm lợi ích

về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC và có những mong muốn vượt

quá yêu cầu của KTV. Từ đó hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Ba nguyên nhân chính tạo ra khoảng cách mong đợi kiểm toán là mong đợi

chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm của KTV, do chuẩn mực chưa đầy đủ và do

hạn chế năng lực của KTV. Vì vậy, nghiên cứu các nguyên nhân này tại Việt Nam

và có các biện pháp xử lý nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán, nâng cao

chất lượng kiểm toán và lấy lại niềm tin của xã hội về nghề kiểm toán.

28

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Thiết kế nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định liệu khoảng cách kỳ vọng về

trách nhiệm có xuất hiện tại VN. Đồng thời nghiên cứu cũng điều tra hiểu biết và

mong đợi của xã hội về những trách nhiệm cũng như sự đánh giá kết quả thực hiện

những trách nhiệm đó của KTV. Nghiên cứu chính tác giả dựa vào là nghiên cứu

của Porter. Lý do tác giả lựa chọn vì nghiên cứu của Porter về khoảng cách kỳ vọng

là đầy đủ nhất. Porter đã được thực hiện nghiên cứu tại Anh và New Zealand, hai

quốc gia có nghề kiểm toán phát triển mạnh trên thế giới, đặc biệt tại Anh có Hiệp

hội Kế toán Công chứng Anh quốc (viết tắt là ACCA - Association of Chartered

Certified Accountants) là một tổ chức nghề nghiệp rất uy tín trong ngành kế toán -

kiểm toán toàn cầu. Ngoài ra nghiên cứu đã được Porter thực nghiệm rất nhiều năm

từ 1989, 1999 và 2008 nên bài nghiên cứu đã được hoàn thiện. Hơn nữa, nghiên cứu

về khoảng cách kỳ vọng do Porter thực hiện đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu

khác tham chiếu đến khi thực hiện nghiên cứu cho mình cũng như đã được đưa vào

các sách giáo khoa về Kiểm toán.

Đề tài sử dụng phương pháp định tính thông qua việc thu thập các dữ liệu ban

đầu từ bảng câu hỏi khảo sát và kết hợp phương pháp thống kê mô tả, phân tích

tổng hợp các số liệu thu thập được. Từ đó đánh giá kết quả khảo sát về khoảng cách

mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam, tìm ra các

nguyên nhân hình thành khoảng cách này nhằm đề ra giải pháp thu hẹp.

Để đạt được mục tiêu của nghiên cứu, tác giả đã thiết kế bảng câu hỏi nhằm

thu thập các dữ liệu ban đầu từ các đối tượng khảo sát đã được lựa chọn. Bảng câu

hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ nghiên cứu của Porter (2012), “Report on

research conducted in the united kingdom and new zealand in 2008 investigating

the audit expectation-performance gap and users’ understanding of, and desired

improvements to, the auditor’s report” và tham khảo các nội dung có liên quan với

đề tài từ các nghiên cứu điển hình trên thế giới như Philmore Alleyne và Michael

29

Howard (2006), “An exploratory study of auditors’ responsibility for fraud

detection in Barbados”; Best, Peter J và Buckby, Sherrena và Tan, Clarice (2001);

“Evidence of the Audit Expectation Gap in Singapore”; với một vài sự thay đổi nội

dung cho phù hợp với môi trường pháp lý, văn hóa tại Việt Nam.

3.2 Đối tượng khảo sát

Dựa trên mục tiêu khảo sát, luận văn tập trung khảo sát các đối tượng liên

quan lợi ích kiểm toán và có hiểu biết về BCTC như: KTV, trợ lý kiểm toán, kế

toán, nhân viên ngân hàng. Các đối tượng này được chia thành 3 nhóm cơ bản:

 Nhóm KTV: là những người có kiến thức chuyên môn về kiểm toán và là

những người trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán. Đối tượng này tham gia

khảo sát gồm có KTV chính, chuyên viên kiểm toán và trợ lý kiểm toán.

- KTV chính: Là những KTV có nhiều kinh nghiệm, được giao trách

nhiệm lập kế hoạch kiểm toán, trực tiếp điều hành cuộc kiểm toán và

soạn thảo báo cáo kiểm toán trình cho cấp trên xét duyệt.

- Chuyên viên kiểm toán: là những trợ lý cho kiểm toán viên chính, có

kinh nghiệm từ 2 năm trở lên và thường thực hiện các nội dung chi

tiết của chương trình kiểm toán, thực hiện các phần hành quan trọng

trong cuộc kiểm toán như hàng tồn kho, giá vốn, doanh thu, thuế,…và

giám sát công việc của trợ lý kiểm toán.

- Trợ lý kiểm toán: là những nhân viên kiểm toán mới vào nghề, phụ

giúp cho KTV chính và chuyên viên kiểm toán và thực hiện những

phần hành nhỏ trong cuộc kiểm toán BCTC.

 Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán: là những cá nhân chịu trách

nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao đổi và giải trình trực

tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán. Nhóm này tham gia khảo sát bao

gồm NQL, Kế toán Trưởng, Kế toán viên.

 Nhóm người sử dụng BCTC: Đây là nhóm có lợi ích liên quan như đánh giá

thông tin tài chính để cho vay hoặc đánh giá tình hình hoạt động để đầu

30

tư,…Nhóm này được khảo sát bao gồm: các nhân viên ngân hàng, các nhân

viên làm việc ở các Công ty Chứng khoán…

- Nhân viên ngân hàng: là những cá nhân làm việc tại các ngân hàng ở

nhiều vị trí khác nhau như tín dụng, phân tích BCTC,…

- Nhân viên chứng khoán: là những cá nhân làm việc tại các công ty

chứng khoán với nhiều vị trí khác nhau như môi giới đầu tư,…

Các bảng câu hỏi khảo sát được gửi trực tiếp và thực hiện khảo sát dựa vào

ứng dụng của Google.docs cho ba nhóm đối tượng trên với tổng số 210 bảng câu

hỏi đã được gửi với 70 bảng cho mỗi nhóm. Tỷ lệ phản hồi là 84% tương đương

176 bảng khảo sát nhận lại. Cụ thể, có 70 bảng câu hỏi được gửi đến các KTV, có

52 bảng câu hỏi được gửi về và hợp lệ cho việc phân tích, thống kê, đạt tỷ lệ phản

hồi là 74%. Tương tự, có 70 bảng câu hỏi được gửi đến cho mỗi nhóm còn lại,

nhóm kế toán và NQL và nhóm nhân viên ngân hàng, chứng khoán, với số bảng

hợp lệ nhận về lần lượt là 68 và 56 tương đương tỷ lệ phản hồi là 97% và 80%. Chi

tiết kết quả khảo sát được nêu trong chương 4.

3.3 Nội dung khảo sát

Bảng câu hỏi khảo sát bao gồm 2 phần. Phần một bao gồm các câu hỏi liên

quan đến nhân khẩu học bao gồm thông tin cá nhân, chuyên môn, số năm làm việc

và thông tin về công ty mà đối tượng khảo sát đang công tác. Phần hai bao gồm 30

câu hỏi liên quan trách nhiệm hiện tại và trách nhiệm mong đợi của KTV nhằm thu

thập sự hiểu biết của các đối tượng được khảo sát đối trách nhiệm của KTV trong

kiểm toán BCTC.

Đối với mỗi trách nhiệm đã đề nghị được liệt kê trong bảng câu hỏi, người trả

lời được yêu cầu chỉ ra quan điểm của họ đối với ba câu hỏi:

 Câu 1: KTV có được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?

 Câu 2: Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV đã thực hiện tốt trách

nhiệm này không?

 Câu 3: KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?

31

Kết quả khảo sát đối với câu (1) cho thấy khoảng cách giữa những gì xã hội

mong đợi với trách nhiệm thực sự của KTV trong đó có những mong đợi hợp lý

(gọi là khoảng cách hợp lý). Tương tự, kết quả khảo sát câu (2) cho thấy khoảng

cách giữa mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV và khả năng thực hiện của

KTV (khoảng cách năng lực). Và kết quả khảo sát câu (3) cho biết khoảng cách

giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách nhiệm hiện hữu của KTV

được quy định trong Luật và các chuẩn mực nghề nghiệp (khoảng cách chuẩn mực).

Kế thừa thang đo theo nghiên cứu của Porter, câu trả lời cho câu hỏi (1) và (3)

được sử dụng thang đo 3 mức độ với mỗi câu trả lời là không, không chắc và có

tương đương với số điểm là 1, 2 và 3. Câu hỏi 2 đươc đo lường bởi 4 thang đo,

tương ứng với không chắc, không, đạt và có tương đương với số điểm là 0, 1, 2 và

3. Dữ liệu thu thập được từ kết quả khảo sát sẽ được tập hợp, phân tích, tổng hợp, so

sánh và thống kê mô tả theo các giá trị trung bình nhằm kiểm tra và đánh giá liệu có

tồn tại khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC

tại Việt Nam. Câu trả lời với giá trị trung bình lớn hơn 2 cho thấy rằng nhóm khảo

sát đồng ý là trách nhiệm hiện tại của KTV và đánh giá tốt cho việc thực hiện trách

nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC; giá trị trung bình dưới 2 cho thấy nhóm

khảo sát cho rằng đó không phải là trách nhiệm của KTV và cho rằng KTV thực

hiện chưa tốt. GTTB riêng của mỗi nhóm thể hiện quan điểm của họ liệu có phải là

trách nhiệm hiện tại của KTV. Quan điểm khác nhau của mỗi nhóm tạo nên khoảng

cách mong đợi kiểm toán.

32

Kết luận chương 3

Chương này trình bày phương pháp để điều tra khoảng cách mong cách mong

đợi tại Việt Nam và các nguyên nhân hình thành khoảng cách này. Nghiên cứu sử

dụng phương pháp định tính thông qua bảng câu hỏi để khảo sát về sự hiểu biết,

đánh giá của các nhóm đối tượng có lợi ích với kiểm toán về trách nhiệm của KTV

trong cuộc kiểm toán BCTC. Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ

nghiên cứu của Porter (2012), bởi đây là nghiên cứu hoàn chỉnh và đầy đủ nhất về

khoảng cách mong đợi được tiến hành ở cả Anh và New Zealand.

Ba nhóm đối tượng lựa chọn khảo sát có mối quan hệ khác nhau với KTV

trong kiểm toán BCTC. Cụ thể, Nhóm KTV – là những người có chuyên môn và

thường thực hiện cuộc kiểm toán; Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán -

là những cá nhân chịu trách nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao

đổi và giải trình trực tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán; và cuối cùng là Nhóm

người sử dụng BCTC - đối tượng thụ hưởng trực tiếp của cuộc kiểm toán BCTC.

Tóm lại, chương 3 đã trình bày cụ thể phương pháp được sử dụng, cách thức

điều tra và việc lựa chọn các nhóm khảo sát trong nghiên cứu. Và kết quả của

nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết trong chương tiếp theo.

33

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI

VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KTV TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI VIỆT

NAM

4.1 Tổng quan về hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam

4.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển

Hoạt động kiểm toán tại Việt Nam mặc dù đã có từ rất lâu nhưng chủ yếu do

Nhà nước tiến hành thông qua công tác kiểm tra kế toán. Phải đến cuối những năm

1980, khi Việt Nam từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ khi

có Luật đầu tư nước ngoài, sự xuất hiện của nhà đầu tư nước ngoài đã lại tạo nên

nhu cầu cần có kiểm toán độc lập để kiểm toán BCTC.

Vì vậy từ những năm 1990, khi nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn đầu

của thời kỳ mở cửa và hội nhập, hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam mới bắt

đầu thật sự hình thành với sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) vào

tháng 05/1991. Sự ra đời của VACO không chỉ đánh dấu cho sự ra đời của kiểm

toán độc lập ở Việt Nam mà còn tạo tiền đề cho sự hội nhập của kiểm toán Việt

Nam với kiểm toán quốc tế. Đến 09/1993, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính, Kế

toán và Kiểm toán (AASC) được thành lập. Đây là hai công ty kiểm toán độc lập

đầu tiên của Việt Nam với nhiều đóng góp cho sự phát triển của hoạt động kiểm

toán độc lập tại Việt Nam và mở đường cho hàng loạt các công ty kiểm toán khác

của Việt Nam ra đời. Điều đó đã đáp ứng được mong đợi của xã hội về việc phải có

bên thứ ba độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cung cấp thông tin đáng tin

cậy cho các đối tượng có liên quan thông qua sự kiểm tra tính trung thực và hợp lý

của BCTC.

Sau hơn 20 năm phát triển, số lượng và quy mô các công ty kiểm toán ngày

càng phát triển lớn mạnh, góp phần tích cực vào việc công khai, minh bạch thông

tin kinh tế tài chính doanh nghiệp và tổ chức, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tăng

sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài bởi hoạt động kinh doanh và tình hình

tài chính của các doanh nghiệp đã được kiểm tra, đánh giá và đưa ra ý kiến khách

quan từ kiểm toán, một bên thứ ba độc lập tạo nên sự đáng tin cậy. Do vậy kiểm

34

toán độc lập ra đời đã thu hút nhà đầu tư nước ngoài, góp phần phát triển môi

trường đầu tư và đóng góp chung cho sự phát triển của nền kinh tế – xã hội trong xu

thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Hiện nay, khách

hàng của các công ty kiểm toán cũng gia tăng nhanh chóng và mở rộng ra nhiều loại

hình doanh nghiệp, như các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần niêm yết,

các ngân hàng thương mạị, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo yêu

cầu bắt buộc phải kiểm toán khi nộp BCTC và khi công khai BCTC phải có báo cáo

kiểm toán đính kèm theo Nghị định 17/2012/NĐ-CP hướng dẫn về Luật Kiểm toán

độc lập năm 2011. Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích các doanh nghiệp, tổ

chức khác thực hiện hoạt động kiểm toán trước khi nộp cho cơ quan nhà nước nhằm

góp phần công khai, minh bạch thông tin tài chính đồng thời phát hiện và ngăn chặn

gian lận, vi phạm pháp luật.

4.1.2 Các quy định pháp lý

Quy định pháp lý đầu tiên được ban hành làm nền tảng cho hoạt động kiểm

toán Việt Nam phát triển là Nghị định 07/CP ngày 19/01/1994 và được hướng dẫn

thực hiện bởi thông tư 22/TC/CĐKT ngày 19/03/1994 của BTC. Sau đó, các văn

bản khác lần lượt được ban hành nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt

động kiểm toán như:

 Thông tư 60-TC/CĐKT ngày 01/09/1997 hướng dẫn thực hiện công tác kế

toán và kiểm toán tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

 Tháng 10/1997, BTC đã ban hành Quy chế Kiểm toán nội bộ áp dụng tại các

doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 832 TC/QĐ/CĐKT.

 Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về Kiểm toán độc lập thay thế

cho Nghị định 07/CP; tiếp theo là Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 về

việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105/2004/NĐ-CP.

 Thông tư 64/2004/TT-BTC ngày 29/6/2004 hướng dẫn thực hiện một số điều

của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP và thay thế cho thông tư 22/TC/CĐKT.

 Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 01/12/2005 về việc ban hành và công

bố chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam.

35

 Thông tư 60/2006/TT-BTC ngày 28/6/2006 hướng dẫn tiêu chuẩn, điều kiện

thành lập và hoạt động đối với doanh nghiệp kiểm toán.

 Từ tháng 01/2006, Luật Kiểm toán Nhà nước 2005 bắt đầu có hiệu lực và đánh

dấu một bước ngoặt quan trọng của hoạt động kiểm toán khi mà cơ quan Kiểm toán

Nhà nước không còn trực thuộc chính phủ, trở thành cơ quan chuyên môn hoạt

động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên đến ngày 29/03/2011, Luật kiểm

toán độc lập số 67/2011/QH12 đã được Quốc hội thông qua và trở thành văn bản

pháp luật cao nhất về kiểm toán độc lập được công bố tại Việt Nam. Từ đó đã nâng

cao vị thế của kiểm toán lên tầm cao mới, đặt cơ sở pháp lý bền vững cho sự phát

triển nghề nghiệp kiểm toán tại Việt nam.

 Từ năm 1999 đến 2005, BTC đã ban hành lần lượt các VSA, từ 04 VSA đầu

tiên lúc tháng 09/1999 đến 38 VSA và chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp được ban

hành như hiện nay. Trong nhiều năm qua, hệ thống VSA này là kim chỉ nam cho

hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Tuy nhiên từ ngày 01/01/2014, một hệ thống 37

VSA mới được ban hành theo thông tư 214/2012/T-BTC ngày 06/12/2012 sẽ có

hiệu lực.

 Tháng 05/2015, các chuẩn mực về dịch vụ đảm bảo và khuôn khổ cho dịch vụ

đảm bảo tiếp tục được ban hành, có hiệu lực từ 01/01/2016.

4.2 Kết quả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong

kiểm toán BCTC tại Việt Nam

4.2.1 Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát

Trong phần này, kết quả của cuộc khảo sát tiến hành tại Việt Nam năm 2015

sẽ được thảo luận. Các kết quả được trình bày thể hiện quan điểm của các đối tượng

khảo sát cho các câu hỏi:

(1) KTV có được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?

(2) Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV có thực hiện tốt trách

nhiệm này không?

(3) KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?

36

Kết quả khảo sát đối với câu (1) cho thấy khoảng cách giữa những gì xã hội

mong đợi với trách nhiệm thực sự của KTV trong đó có những mong đợi hợp lý

(gọi là khoảng cách hợp lý). Tương tự, kết quả khảo sát câu (2) cho thấy khoảng

cách giữa mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV và khả năng thực hiện của

KTV (khoảng cách năng lực). Và kết quả khảo sát câu (3) cho biết khoảng cách

giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách nhiệm hiện hữu của KTV

được quy định trong Luật và các chuẩn mực nghề nghiệp (khoảng cách chuẩn mực).

Các bảng câu hỏi khảo sát được thực hiện dựa vào ứng dụng của Google.docs

gửi đến cho cho ba nhóm: các KTV; nhóm kế toán viên và NQL, và nhóm nhân

viên ngân hàng, chứng khoán. Có 70 bảng câu hỏi được gửi đến các KTV, có 52

bảng câu hỏi được gửi về và hợp lệ cho việc phân tích, thống kê, đạt tỷ lệ phản hồi

là 74%. Tương tự, có 70 bảng câu hỏi được gửi đến cho mỗi nhóm còn lại, nhóm kế

toán và NQL và nhóm nhân viên ngân hàng, chứng khoán, với số bảng hợp lệ nhận

về lần lượt là 68 và 56 tương đương tỷ lệ phản hồi là 97% và 80%. Số năm kinh

nghiệm được đánh giá là có ảnh hướng lớn đến kết quả trả lời của bảng câu hỏi

khảo sát vì mức độ kinh nghiệm làm việc sẽ phản ánh mức độ hiểu biết của các đối

tượng khảo sát về trách nhiệm KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. Những người có

kinh nghiệm làm việc từ 5 năm trở lên chiếm 41% và 59% những người làm việc

dưới 5 năm. Hơn 37% BCTC của các đối tượng khảo sát được kiểm toán bởi big 4,

những công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu trên thế giới, 63% còn lại được kiểm

toán bởi các công ty không thuộc big 4.

37

Bảng 4.1: Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát

Các nhóm khảo sát KTV Tổng thể NQL và Kế toán

Nhân viên Ngân hàng, chứng khoán 70 56 80% 64% 36% 88% 13% 70 68 97% 46% 54% 22% 78% 210 176 84% 59% 41% 37% 63% Số bảng hỏi gửi đi Số bảng hỏi nhận về và hợp lệ Tỷ lệ phản hồi Số năm kinh nghiệm làm việc - Dưới 5 năm - Từ 5 năm trở lên BCTC được kiểm toán bởi - Big 4 - Không thuộc big 4 70 52 74% 71% 29% 4% 96%

4.2.2 Kết quả khảo sát về khoảng cách hợp lý

Như đã nêu ở chương 3, bảng câu hỏi gồm 30 câu liên quan trách nhiệm của

KTV. Các đối tượng khảo sát được yêu cầu trả lời cho ba câu hỏi đã nêu trên. Kết

quả khảo sát về khoảng cách hợp lý được tổng hợp riêng theo từng nhóm đối tượng

(xem phụ lục IIA) liên quan câu hỏi số (1): KTV có được yêu cầu thực hiện trách

nhiệm này không? Kết quả này cho thấy có nhiều sự mong đợi hợp lý và chưa hợp

lý của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV cũng như sự nhận thức chưa đầy đủ

của chính KTV về trách nhiệm của mình trong kiểm toán BCTC.

Sử dụng thang đo 3 mức độ, với mỗi câu trả lời là không, không chắc và có

tương đương với số điểm là 1, 2 và 3. Câu trả lời với giá trị trung bình lớn hơn 2

cho thấy rằng nhóm khảo sát đồng ý là trách nhiệm hiện tại của KTV và giá trị

trung bình dưới 2 cho thấy nhóm khảo sát cho rằng đó không phải là trách nhiệm

của KTV. GTTB riêng của mỗi nhóm thể hiện quan điểm của họ liệu có phải là

trách nhiệm hiện tại của KTV. Quan điểm khác nhau của mỗi nhóm tạo nên khoảng

cách mong đợi kiểm toán. Kết quả cụ thể như sau:

Trách nhiệm 1: KTV có trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT

38

Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể các ý kiến đều không đồng ý đây là trách

nhiệm hiện tại của KTV với giá trị trung bình 1,61. Theo đoạn 4 VSA 200 thì việc

lập BCTC là trách nhiệm của BGĐ ĐVĐKT dưới sự giám sát của BQT. Vì vậy, kết

quả khảo sát phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán. Và khi thống kê kết

quả riêng theo từng nhóm đối tượng là KTV, nhóm NQL và kế toán, nhân viên ngân

hàng cũng không có sự khác biệt lớn với giá trị trung bình lần lượt là 1,15; 1,75 và

1,86. Như vậy, trách nhiệm này không góp phần tạo ra khoảng cách mong đợi.

Trách nhiệm 2: KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính

xác

Thống kê kết quả theo từng nhóm đối tượng cho thấy có sự khác biệt lớn giữa

KTV và các nhóm còn lại. KTV không đồng ý đây là trách nhiệm của mình (GTTB

1,29), trong khi NQL và nhân viên ngân hàng thì đồng ý với mức độ cao (GTTB lần

lượt 2,26 và 2,48). Điều này không phù hợp với yêu cầu của VSA 200: “KTV phải

đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có

còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự đảm bảo hợp lý là

sự đảm bảo ở mức độ cao và không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những

hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán”.

Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể do người sử dụng BCTC đã kỳ vọng

quá nhiều vào KTV, trong khi KTV hiểu rõ sự hạn chế vốn có của mình trong cuộc

kiểm toán BCTC: bản chất của các khoản ước tính kế toán, bản chất của các thủ tục

kiểm toán, cân đối giữa thời gian và giá phí kiểm toán,… nên KTV chỉ có đưa ra ý

kiến mang tính thuyết phục nhiều hơn là tính khẳng định chắc chắn hoặc tuyệt đối

về BCTC đã kiểm toán. Điều này đã tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán mà

nguyên nhân có thể do sự mong đợi chưa hợp lý của người sử dụng BCTC.

Trách nhiệm 3: KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp

lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT

Theo quy định hiện hành, đây là trách nhiệm thực tế của KTV. Cụ thể VSA

200 quy định “Mục đích của kiểm toán BCTC là làm tăng độ tin cậy của người sử

dụng đối với BCTC, thông qua việc KTV đưa ra ý kiến về BCTC được lập và trình

39

bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về

lập và trình bày BCTC”. Kết quả khảo sát tổng thể cho thấy các nhóm cũng đồng

tình về trách nhiệm này (2,91) và ý kiến giữa các nhóm cũng tương tự nhau (GTTB

lần lượt là 2,96; 2,96 và 2,80). Điều này còn cho thấy, những đối tượng có liên quan

vừa kỳ vọng BCTC là chính xác vừa kỳ vọng trung thực và hợp lý. Tuy nhiên, trách

nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.

Trách nhiệm 4: KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính

tốt

Theo kết quả thống kê, ý kiến tổng thể (GTTB 1,68) hay ý kiến riêng lẻ của

các KTV, NQL và kế toán hoặc nhân viên ngân hàng, chứng khoán đều cho rằng

đây không phải là trách nhiệm hiện tại của KTV (GTTB lần lượt 1,5; 1,69 và 1,84).

Ý kiến này hoàn toàn đồng nhất với VSA 200 vì kiểm toán BCTC là kiểm tra các

thông tin tài chính quá khứ được trình bày một cách hệ thống của đơn vị tại một

thời điểm hoặc trong một thời kỳ, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày

BCTC. Và KTV chỉ có trách nhiệm đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập

phù hợp với khuôn khổ đó trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Vì vậy đảm bảo

tình hình tài chính tốt mang một ý nghĩa tương lai, điều đó còn phụ thuộc nhiều vào

khả năng điều hành và hoạt động của ĐVĐKT, do đó vượt quá yêu cầu về trách

nhiệm thực hiện của KTV. Trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.

Trách nhiệm 5, 6, 7, 8: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT

về các thông tin phi tài chính, việc quản lý, điều hành của BGĐ, những tác động

tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh, về những ảnh

hưởng đến môi trường của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết các đối tượng khảo sát đều cho rằng đây

không phải là những trách nhiệm của KTV với GTTB lần lượt là 1,86; 1,77; 1,63 và

1,60. Trên thực tế VSA cũng không yêu cầu KTV thực hiện những trách nhiệm này.

Vì đây là những vấn đề do bản thân ĐVĐKT phải kiểm soát và chịu trách nhiệm

công bố trung thực với xã hội. Bên cạnh đó, những vấn này chỉ ảnh hưởng gián tiếp

đến BCTC. Trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.

40

Trách nhiệm 9: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi

nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng

doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu)

Đây là hành vi gian lận nhưng KTV “chỉ quan tâm đến những gian lận dẫn đến

sai sót trọng yếu trong BCTC” theo VSA 240. Vì vậy những hành vi trộm cắp thực

hiện bởi nhân viên với số tiền không trọng yếu không phải là trách nhiệm của KTV.

Tuy nhiên, nhóm nhân viên ngân hàng lại cho rằng phát hiện gian lận là trách nhiệm

thực tế của KTV (GTTB 2,18), mà không quan tâm có trọng yếu hay. Tuy nhiên

nhóm KTV, NQL và kế toán cho rằng đây không hoàn toàn là trách nhiệm của KTV

(GTTB lần lượt là 1,85 và 1,9). Điều này là do KTV am hiểu chuẩn mực cũng như

nhận thức được sự hạn chế của thời gian cho một cuộc kiểm toán nên chỉ yêu cầu

chịu trách nhiệm đối với những ảnh hưởng trọng yếu. Nhóm NQL và kế toán có thể

hiểu được điều này do là người luôn chịu trách nhiệm và tiếp xúc trực tiếp với các

KTV trong các cuộc kiểm toán nên cũng nhận thức được vấn đề này nhưng nhóm

nhân viên ngân hàng mong muốn mọi hành vi gian lận đều phải được phát hiện.

Đây được xem là mong đợi chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC.

Trách nhiệm 10: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện

bởi BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không

Kết quả khảo sát cho thấy các KTV không đồng ý điều này (1,9) nhưng các

nhân viên ngân hàng thì cho rằng KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp

thực hiện bởi BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không (2,18). Điều này tạo nên

khoảng cách mong đợi mà nguyên nhân là do kỳ vọng chưa hợp lý từ người sử dụng

BCTC.

Trách nhiệm 11, 12, 13: KTV có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan

có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin

trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến tổng thể các nhóm mạnh mẽ cho rằng KTV

có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền, công bố trên BCKT

về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT với giá trị

41

trung bình rất cao (lần lượt là 2,76; 2,6 và 2,68). Hành vi cố tình thay đổi số liệu và

thông tin trên BCTC là hành vi gian lận nên theo VSA 240 thì “KTV phải xác định

và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong BCTC do gian lận; thu thập đầy đủ

bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp; có biện pháp xử lý thích hợp đối với

gian lận đã được xác định hoặc có nghi vấn trong quá trình kiểm toán”. Và khi hành

vi gian lận đã được phát hiện thì KTV phải kịp thời trao đổi các vấn đề này với cấp

quản lý thích hợp như BGD, BQT của đơn vị. Hơn nữa, KTV cũng phải xác định

trách nhiệm báo cáo về hành vi gian lận đó với các cơ quan quản lý và cơ quan pháp

luật có liên quan. Mặc dù trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng có thể

không cho phép KTV thực hiện việc báo cáo đó nhưng trong một số trường hợp,

trách nhiệm pháp lý của KTV có thể cao hơn trách nhiệm bảo mật đó và tùy vào

mức độ thu thập được bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp như thế nào và sự

ảnh hưởng của hành vi gian lận này có lan tỏa hay không mà KTV đưa ra ý kiến

trên BCKT một cách phù hợp. Vì vậy, trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách

kỳ vọng.

Trách nhiệm 14: KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các

yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan

Mục tiêu của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC là thu thập đầy đủ bằng chứng

kiểm toán thích hợp liên quan đến việc tuân thủ các điều khoản của pháp luật và các

quy định có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định các số liệu và thuyết minh trọng

yếu trên BCTC; Thực hiện các thủ tục kiểm toán cụ thể để phát hiện các hành vi

không tuân thủ pháp luật và các quy định (đoạn 10 VSA 250). Kết quả khảo sát cho

thấy các KTV nhận thức đúng trách nhiệm này (2,62). Nhóm NQL, kế toán viên và

nhân viên ngân hàng cũng cho rằng đây là trách nhiệm của KTV (2,81 và 2,77).

Trách nhiệm này không góp phần tạo ra khoảng cách mong đợi.

Trách nhiệm 15: KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế

cho Cơ quan thuế

Kết quả khảo sát cho thấy nhóm NQL, kế toán và nhân viên ngân hàng đều

cho rằng KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan thuế về những vi phạm luật thuế

42

của ĐVĐKT (GTTB 2,35 và 2,55). Tuy nhiên KTV nhận thấy rằng đây không phải

trách nhiệm của họ (1,63), có khoảng cách lớn giữa mong đợi của KTV (1,63) với 2

nhóm còn lại (2,35 và 2,55).

Trách nhiệm 16, 17: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ

pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể đều tán thành KTV có trách nhiệm phát

hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ, cho dù có ảnh hưởng trực tiếp hay

gián tiếp trên BCTC với GTTB lần lượt là 2,71 và 2,28. Không quá khó hiểu khi

các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng đồng ý nhận định này (với các

GTTB từ 2,22 đến 2,82) vì họ luôn mong đợi KTV làm được nhiều hơn để mang

đến nhiều thông tin hữu ích hơn, đặc biệt là hành vi không tuân thủ pháp luật của

BGĐ. KTV cũng cho rằng đây là trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán

(GTTB lần lượt 2,54 và 2,23). Vì thực tế KTV chỉ bị yêu cầu phát hiện các hành vi

không tuân thủ có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC theo VSA 250. Điều này cho thấy

sự mong đợi chưa hợp lý từ nhóm NQL, nhân viên ngân hàng và các KTV trong

nhóm khảo sát cũng chưa nhận thức đúng trách nhiệm của mình khi cho rằng KTV

có cả trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh

hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT. Tuy nhiên trách nhiệm này không tạo nên

khoảng cách kỳ vọng do ý kiến của các nhóm tuơng đồng.

Trách nhiệm 18, 19: KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu

không tuân thủ pháp luật và các quy định của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp và gián

tiếp đến BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy các KTV, nhóm NQL, kế toán và ngân hàng đều

cho rằng KTV phải công bố trên BCKT các hành vi không tuân thủ pháp luật mà

không xét tác động trực tiếp hay gián tiếp (GTTB lần lượt là 2,5; 2,74 và 2,9). Theo

đoạn 25 VSA 250: “Nếu KTV kết luận rằng hành vi không tuân thủ có ảnh hưởng

trọng yếu đến BCTC nhưng không được phản ánh đúng trong BCTC thì theo quy

định tại đoạn 07 - 08 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705, KTV phải đưa ra ý

43

kiến kiểm toán dạng ngoại trừ hoặc ý kiến trái ngược trên BCKT”. Trách nhiệm này

không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.

Trách nhiệm 20, 21: Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra

việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và

công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến cả 3 nhóm khảo sát không có khác biệt lớn

khi đều cho rằng đây là trách nhiệm của KTV. Tuy nhiên điều này không phù hợp

với VSA 250 vì chỉ yêu cầu KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu

cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ công bố trên BCKT

các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC. Một lần nữa, kết

quả này cho thấy cho thấy sự mong đợi chưa hợp lý từ nhóm NQL, nhân viên ngân

hàng và các KTV trong nhóm khảo sát cũng chưa nhận thức đúng trách nhiệm của

mình. Tuy nhiên, trách nhiệm này cũng không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.

Trách nhiệm 22: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của

ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính

như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản

Kết quả cho thấy các KTV đồng ý đây là trách nhiệm hiện tại của họ (GTTB

2,33). Tương tự ý kiến của NQL, kế toán và nhân viên ngân hàng cũng cho rằng

KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của ĐVĐKT về sự đầy đủ của

các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và

thanh khoản (GTTB 2,47 và 2,63). Trường hợp này không tồn tại khoảng cách

mong đợi kiểm toán do ý kiến giữa các nhóm không có sự khác biệt lớn. Thật vậy,

KTV phải tìm hiểu liệu đơn vị đã có một quy trình để xác định rủi ro kinh doanh

liên quan tới mục tiêu lập và trình bày BCTC; ước tính mức độ của rủi ro; đánh giá

khả năng xảy ra rủi ro. Nếu đơn vị chưa có một quy trình hoặc đã có quy trình

nhưng chưa được chuẩn hóa, KTV phải trao đổi với BGĐ đơn vị liệu các rủi ro kinh

doanh liên quan tới mục tiêu lập và trình bày BCTC đã được phát hiện hay chưa và

được xử lý thế nào. Vì vậy, trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.

44

Trách nhiệm 23: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của

ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động

như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt

nguyên vật liệu và lao động

Liên quan đến trách nhiệm trao đổi với BGĐ về rủi ro hoạt động thì các KTV

cho rằng không phải trách nhiệm của họ (1,71). Nhóm NQL, kế toán và nhóm nhân

viên ngân hàng, chứng khoán cũng đồng ý (1,65 và 1,7) vì hiểu rằng sự cố máy

móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật

liệu và lao động là trách nhiệm và bản lĩnh quản lý, điều hành của đơn vị, không

thuộc phạm vi và mục tiêu của cuộc kiểm toán BCTC. Điều này thể hiện các nhóm

có cùng quan điểm nên không tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Trách nhiệm 24: KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền

khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến tổng thể cho rằng đây là trách nhiệm của

KTV (2,39). Tuy nhiên các KTV không đồng ý trách nhiệm phải báo cáo cho cơ

quan có thẩm quyền (1,87), trong khi nhóm NQL, kế toán và ngân hàng hoàn toàn

cho rằng điều này thuộc về trách nhiệm KTV (GTTB lần lượt 2,62 và 2,59).

Nguyên nhân của sự khác biệt này vì KTV nắm rõ rằng đánh giá khả năng

hoạt động liên tục của đơn vị rất quan trọng và là một thủ tục kiểm toán bắt buộc.

Tuy nhiên khi xác định là có thể dẫn đến nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động

liên tục của đơn vị, KTV không có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền

mà chỉ yêu cầu phải trao đổi với Ban quản trị đơn vị và cân nhắc ảnh hưởng của vấn

đề này để đưa ra báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần nhưng có đoạn

“Vấn đề cần nhấn mạnh” nhằm lưu ý người sử dụng BCTC về khả năng đơn vị có

thể sẽ không thực hiện được giá trị tài sản và thanh toán các khoản nợ phải trả của

mình trong điều kiện kinh doanh bình thường. Còn nhân viên ngân hàng thì họ thật

sự cần sự chính xác về khả năng tiếp hoạt động của đơn vị để ra quyết định cấp tín

dụng, vì vậy, không những họ cần KTV nhấn mạnh trên BCKT mà còn phải báo

45

cáo cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra về vấn đề này. Đây có thể được xem

khoảng cách do mong đợi chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC.

Trách nhiệm 25: KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về

khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT

Như phân tích trên, đây thực sự là trách nhiệm của KTV. Và các nhóm khảo

sát cũng đồng ý cao (2,84). Ngoài ra, ý kiến giữa các nhóm không có sự khác biệt

đáng kể.

Trách nhiệm 26: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ

tin cậy của những thông tin được đăng tải trên trang web của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể đều không đồng ý (1,72). Tuy nhiên có sự

chênh lệch đáng kể giữa ý kiến các KTV với nhân viên ngân hàng (1,33 đối với

2,23). Có thể các nhân viên ngân hàng cho rằng KTV phải kiểm tra liệu BCTC được

đăng tải bởi đơn vị đúng là BCTC đã được kiểm toán, các thông tin đăng tải là phù

hợp với những thông tin KTV đã thu thập được trong quá trình kiểm toán. Mặc dù

VSA 720 yêu cầu “KTV phải xem xét các thông tin khác để xác định các điểm

không nhất quán trọng yếu so với BCTC đã được kiểm toán”, tuy nhiên bản thân

KTV hiểu rằng “các thông tin khác không bao gồm thông tin trên các trang web của

đơn vị được kiểm toán”. Điều này tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán cũng từ

sự kỳ vọng quá lớn của các đối tượng vào trách nhiệm của KTV.

Trách nhiệm 27, 28, 29, 30: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên

BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT như chính

sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng; chính sách an toàn sản phẩm; chính sách

đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.

Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể ý kiến cho rằng đây không phải trách

nhiệm của KTV (GTTB đều dưới 1,86). VSA 720 có quy định trách nhiệm của

KTV là phải xem xét các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT vì tính tin cậy của

BCTC đã được kiểm toán có thể bị suy giảm nhưng chỉ cần xem xét những thông

tin không nhất quán trọng yếu với BCTC đã được kiểm toán. KTV đã đúng khi

không đồng ý trách nhiệm này (GTTB từ 1,35 đến 1,48). Các NQL và kế toán cùng

46

quan điểm với KTV (GTTB từ 1,46 đến 1,79). Nhưng nhóm nhân viên ngân hàng

thì vẫn cho rằng đây là trách nhiệm của KTV (GTTB trên 2). Vì vậy vẫn tồn tại

khoảng cách mong đợi lớn từ sự kỳ vọng không hợp lý từ người sử dụng BCTC.

Nhìn chung, các nhóm được khảo sát có nhận thức đúng một số các trách

nhiệm hiện tại của KTV. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một khoảng cách mong đợi rất

lớn giữa KTV với NQL, kế toán, nhân viên ngân hàng và chứng khoán. Cụ thể là

các nhân viên ngân hàng, chứng khoán luôn có những kỳ vọng vượt quá yêu cầu

thực hiện của KTV, theo kết quả thống kê, họ cho rằng có 24/30 trách nhiệm đã liệt

kê là trách nhiệm hiện tại của KTV, trong khi thực tế chỉ yêu cầu KTV thực hiện

trách nhiệm là 10/30. Con số này của nhóm NQL, kế toán cũng là 17/30. Còn KTV

nhận định rằng có 13/30 là trách nhiệm hiện tại của KTV. Đó là một sự khác biệt rất

lớn giữa các nhóm, đặc biệt là giữa KTV và nhóm người sử dụng BCTC (ngân

hàng, chứng khoán), thể hiện các nhóm đã mong đợi quá nhiều vào KTV, muốn

KTV thực hiện công việc nhiều hơn để có nhiều thông tin hơn, có nhiều sự đảm bảo

hơn từ KTV đối với BCTC đã được kiểm toán. Tóm lại, khoảng cách mong đợi

kiểm toán thực sự tồn tại tại Việt Nam mà nguyên nhân gây ra khoảng cách mong

đợi này là do người sử dụng BCTC chưa nhận thức đúng nên mong đợi chưa hợp lý

về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm toán BCTC.

4.2.3 Kết quả khảo sát về khoảng cách năng lực

Trong phần này, kết quả khảo sát được tổng hợp kết quả riêng theo từng nhóm

đối tượng (xem phụ lục IIB) liên quan câu hỏi số (2): Các nhóm nghĩ KTV đã thực

hiện trách nhiệm của mình như thế nào?

Câu hỏi 2 được đo lường bởi 4 thang đo, tương ứng với không chắc, không,

đạt và có tương ứng với số điểm là 0, 1, 2 và 3. GTTB riêng của mỗi nhóm được sử

dụng để đánh giá kết quả thực hiện liên quan đến trách nhiệm của KTV. Câu trả lời

với giá trị trung bình lớn hơn 2 cho thấy rằng nhóm khảo sát hài lòng về công việc

mà KTV đã thực hiện, ngược lại giá trị trung bình dưới 2 cho thấy nhóm khảo sát

đánh giá KTV chưa thực hiện tốt trách nhiệm trong cuộc kiểm toán BCTC. Kết quả

sẽ cho thấy liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán mà do KTV chưa thực

47

sự nhận thức được trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán và cung cấp dịch vụ

chưa thực sự hoàn hảo, chưa đáp ứng được mong đợi của xã hội hay không.

Kết quả khảo sát cho thấy có những trách nhiệm dưới đây được xác định là

trách nhiệm của KTV và mức độ thực hiện về trách nhiệm này.

Trách nhiệm 3: KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp

lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy KTV tự tin rằng đã thực hiện tốt trách nhiệm này

(2,88). Ngược lại với ý kiến của KTV, các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân

hàng đánh giá KTV chưa thực hiện tốt trách nhiệm trong việc đảm bảo tính trung

thực và hợp lý của thông tin trên BCTC (1,63 và 1,39). Điều này cho thấy công việc

mà KTV thực hiện vẫn chưa thỏa mãn được người sử dụng BCTC. Vì trên thực tế

có nhiều BCTC đã được KTV kết luận là trung thực và hợp lý nhưng còn chứa sai

sót trọng yếu có thể do gian lận, thông đồng hoặc vừa thực hiện dịch vụ kiểm toán,

vừa làm dịch vụ kế toán, tư vấn của KTV. Vì vậy lợi ích mang lại cho xã hội không

đáp ứng được mong đợi của họ, làm mất niềm tin từ công chúng. Đây được xem là

khoảng cách mong đợi do năng lực của KTV.

Trách nhiệm 11, 12, 13: KTV có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan

có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin

trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy KTV đã thực hiện tốt các trách nhiệm này vì đã thỏa

mãn được tất cả các nhóm khảo sát (GTTB từ 2,67 đến 2,76). Hơn nữa, sự đánh giá

giữa các đối tượng khảo sát không có chênh lệch trọng yếu. Vì vậy không tồn tại

khoảng cách mong đợi kiểm toán liên quan đến các trách nhiệm này.

Trách nhiệm 14: KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các

yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan

Tương tự kết quả của các trách nhiệm trên về sự không tồn tại khoảng cách

mong đợi kiểm toán vì các KTV cho rằng họ đã thực hiện tốt trách nhiệm bảo đảm

tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên

48

quan của đơn vị (GTTB 2,88) và các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng

cũng đánh giá tốt việc thực hiện trách nhiệm này của KTV (2,82 và 2,74).

Trách nhiệm 16, 18: KTV có trách nhiệm phát hiện và công bố trên BCKT về

hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của

ĐVĐKT

Liên quan đến trách nhiệm phát hiện và công bố trên BCKT về hành vi không

tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT, tổng

thể đã đánh giá tốt quá trình thực hiện công việc của KTV (GTTB trên 2). Tuy

nhiên ý kiến giữa các nhóm hoàn toàn trái ngược. Các KTV, NQL và kế toán đánh

giá tốt (GTTB từ 2,11 đến 2,63), trong khi nhóm nhân viên ngân hàng cho rằng

KTV chưa thực sự công bố đầy đủ các hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ

(GTTB từ 1,33 đến 1,72). Điều này cho thấy tồn tại khoảng cách mong đợi mà

nguyên nhân là do các KTV chưa đủ năng lực để phát hiện và báo cáo các hành vi

không tuân thủ của BGĐ hoặc KTV chưa tuân thủ đầy đủ chuẩn mực đạo đức nghề

nghiệp về quan hệ kinh tế với đơn vị được kiểm toán vì để giữ hợp đồng cho năm

sau mà không công bố nên tính độc lập bị vi phạm.

Trách nhiệm 21: Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc

tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ

công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến

BCTC của ĐVĐKT

Các nhóm đều đồng ý rằng KTV đã thực hiện tốt trách nhiệm công bố trên

BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC với

GTTB là 2,83. Cụ thể, KTV tự đánh giá mình đã thỏa mãn được yêu cầu về trách

nhiệm này với GTTB là 2,92. Hai nhóm còn lại cũng đồng ý với sự đánh giá đó mặc

dù GTTB có thấp hơn không đáng kể (2,89 và 2,7). Kết quả cho thấy không tồn tại

khoảng cách mong đợi trong trường hợp này vì quan điểm của các nhóm không có

chênh lệch lớn.

49

Trách nhiệm 22: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của

ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính

như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản

Theo kết quả thống kê, KTV đánh giá đã thực hiện rất tốt trách nhiệm này với

GTTB 2,93. Các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng cũng đánh giá tốt với

GTTB lần lượt là 2,67 và 2,55. Vì vậy, không xuất hiện khoảng cách mong đợi

kiểm toán.

Trách nhiệm 25: KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về

khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy các KTV nhận thấy mình đã làm tốt (2,13), các

NQL, kế toán cũng nhận định như vậy (2,13) nhưng nhóm nhân viên ngân hàng thì

cho rằng KTV chưa thực hiện thỏa đáng như mong đợi của họ (1,34). Trên thực tế

nhiều BCTC vi phạm nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục nhưng KTV không

công bố trên BCKT. Vì KTV chỉ dựa vào những đánh giá và bằng chứng được cung

cấp bởi BGĐ đơn vị như cam kết hỗ trợ vốn mà cho rằng không còn những nghi

ngờ này nên không trình bày trên BCKT. Tuy nhiên theo yêu cầu của VSA 570 thì

ngoài việc thu thập các bằng chứng chứng minh cho việc sử dụng giả định hoạt

động liên tục là phù hợp thì KTV vẫn phải đưa ra báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp

nhận toàn phần có đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” nhằm nêu bật sự tồn tại nghi ngờ

về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị được kiểm toán và lưu ý cho người sử

dụng BCTC về vấn đề này. Vì vậy, có tồn tại khoảng cách mong đợi do KTV chưa

nhận thức đúng và chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo yêu cầu của chuẩn mực.

Tóm lại, tổng thể ý kiến các nhóm đánh giá KTV đã thực hiện tốt các trách

nhiệm hiện tại của mình. Tuy nhiên có hai trách nhiệm KTV không được đánh giá

tốt là đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC và công bố

trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT. Liên quan

đến hai trách nhiệm này KTV đã không làm hài lòng, không đáp ứng được mong

đợi của người sử dụng BCTC. Điều này đã tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm

toán mà nguyên nhân là do KTV nhận thức chưa đúng và chưa thực hiện đầy đủ

50

trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán, chưa đáp ứng được mong đợi của xã

hội.

4.2.4 Kết quả khảo sát về khoảng cách chuẩn mực

Kết quả khảo sát liên quan khoảng cách chuẩn mực từ câu hỏi (3) “KTV nên

được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?”. Câu hỏi này cho thấy khoảng

cách giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách nhiệm hiện hữu của

KTV được quy định trong Luật và các chuẩn mực nghề nghiệp (khoảng cách chuẩn

mực) (kết quả trình bày ở phụ lục IIC). Kết quả khảo sát dưới đây cho thấy những

mong đợi hợp lý và chưa hợp lý của các nhóm khảo sát về trách nhiệm của KTV

trong kiểm toán BCTC.

Trách nhiệm 1: KTV có trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy các KTV cho rằng không nên được yêu cầu thực

hiện trách nhiệm này (GTTB 1,37). Vì nếu thực hiện điều này KTV sẽ vi phạm tính

độc lập, một quy định quan trọng đầu tiên về đạo đức nghề nghiệp mà KTV phải

tránh, không thể vừa làm vừa kiểm tra (nguy cơ tự kiểm tra). KTV hiểu rõ vấn đề

này nhưng các NQL, kế toán mong đợi KTV chuẩn bị giúp họ BCTC để chắc chắn

rằng BCTC được lập và trình bày phù hợp theo quan điểm KTV (GTTB 2,1). Nhóm

ngân hàng cũng tin rằng KTV chuẩn bị BCTC sẽ đáp ứng được mong đợi của họ

(2,21). Hiện tại chuẩn mực không yêu cầu KTV thực hiện trách nhiệm này và tương

lai cũng không được xem xét để bổ sung vào chuẩn mực như là trách nhiệm của

KTV vì sẽ không đạt được mục đích của kiểm toán, có nghĩa là, để cung cấp một

chuyên gia và kiểm tra độc lập BCTC được kiểm toán và đưa ra một ý kiến độc lập

dựa trên sự kiểm tra đó. Điều này tạo nên khoảng cách mong đợi do sự kỳ vọng

chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC.

Trách nhiệm 2: KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính

xác

Kết quả khảo sát cho thấy các NQL, kế toán và ngân hàng đều nghĩ nên yêu

cầu KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác (2,43 và 2,64),

tuy nhiên KTV có ý kiến ngược lại, khẳng định mạnh mẽ rằng KTV không thể đảm

51

bảo BCTC là chính xác (1,48). Hiện tại trách nhiệm này không được chuẩn mực yêu

cầu thực hiện bởi KTV vì là một mong đợi vô lý, không khả thi về mặt kinh tế đối

với KTV để thực hiện một cuộc kiểm toán để đảm bảo tính chính xác của BCTC

của đơn vị. Để làm như vậy sẽ đòi hỏi KTV phải xem xét mọi giao dịch của đơn vị,

điều này sẽ dẫn đến chi phí kiểm toán cao mà không có lợi ích tương xứng và thậm

chí rằng KTV cũng không thể chắc chắn rằng không có gì đã được bỏ qua và không

có sai sót đã xảy ra cho dù kiểm tra mẫu 100%. Đây vẫn là mong đợi chưa hợp lý từ

người lập và sử dụng BCTC.

Trách nhiệm 3: KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp

lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả đều đồng ý KTV có trách nhiệm đưa ra ý

kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC (2,93). Điều này đã quá

quen thuộc với KTV cũng như những đối tượng có liên quan, vì vậy không có gì

ngạc nhiên khi không có sự khác biệt giữa các nhóm. Vì vậy không tồn tại khoảng

cách mong đợi kiểm toán.

Trách nhiệm 4: KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính

tốt

Kết quả khảo sát cho thấy nhóm KTV và NQL cho rằng KTV không nên thực

hiện trách nhiệm này (1,77 và 1,79). Tuy nhiên nhóm nhân viên ngân hàng cho rằng

sau cuộc kiểm toán, KTV phải đảm bảo đơn vị có tình hình tài chính tốt (2,25).

Nguyên nhân là do mục tiêu của các nhóm khác nhau, KTV quan tâm chủ yếu đến

các thông tin quá khứ, ngân hàng quan tâm đến tình hình tương lai. Hiện tại chuẩn

mực không quy định trách nhiệm này cho KTV và thực tế đây là trách nhiệm bất

khả thi vì không thể cân bằng giữa chi phí bỏ ra và lợi ích mang lại để thực hiện thủ

tục kiểm toán đảm bảo đơn vị có tình hình tài chính tốt. Vì vậy, có tồn tại khoảng

cách mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân là do sự mong đợi chưa hợp từ người sử

dụng BCTC.

Trách nhiệm 5, 6, 7, 8: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT

về các thông tin phi tài chính, sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành

52

của BGĐ, những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh

doanh, những ảnh hưởng đến môi trường của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết cho rằng KTV không nên thực hiện những

trách nhiệm này vì nó không ảnh hưởng trực tiếp đến việc lập và trình bày BCTC

theo khuôn khổ (GTTB dưới 2). Ngoài ra ý kiến giữa các nhóm cũng không có

chênh lệch đáng kể. Vì vậy không tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Trách nhiệm 9, 10: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện

bởi nhân viên hoặc BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5%

trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu)

Qua kết quả thống kê, các KTV cho rằng nên thực hiện trách nhiệm phát hiện

hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên hoặc BGĐ không kể trọng yếu hay không

với GTTB 2,17 và 2,23. Nhóm NQL và nhân viên ngân hàng cũng đưa ra ý kiến

nên thực hiện (GTTB 2,24 đến 2,68). Không xuất hiện khoảng cách mong đợi do

quan điểm của các nhóm tương đồng. Tuy nhiên điều này khó có thể bổ sung vào

chuẩn mực vì mục tiêu kiểm toán chỉ quan tâm đến vấn đề trọng yếu để đảm bảo

nguyên tắc cân đối lợi ích – chi phí.

Trách nhiệm 11, 12, 13: KTV có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan

có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin

trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy các KTV cho rằng nên thực hiện trách nhiệm này

với GTTB từ 2,46 đến 2,69. Đó cũng là quan điểm của nhóm NQL và ngân hàng

(GTTB từ 2,69 đến 2,88). Thực tế chuẩn mực cũng quy định rõ đây là trách nhiệm

của KTV. Vì vậy không có khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Trách nhiệm 16, 17, 18, 19: KTV có trách nhiệm phát hiện và công bố trên

BCKT các hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc

gián tiếp trên BCTC của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy các KTV đồng ý nên thực hiện trách nhiệm này

(GTTB từ 2,42 đến 2,75). Các NQL, ngân hàng cũng mong đợi KTV phát hiện và

công bố trên BCKT các hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ không kể có ảnh

53

hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến BCTC vì muốn được cung cấp nhiều thông tin

hơn (GTTB từ 2,54 đến 2,89). Không xuất hiện khoảng cách mong đợi do quan

điểm của các nhóm tương đồng. Chuẩn mực chưa có quy định KTV phải thực hiện

trách nhiệm liên quan những vấn đề có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC. Và cũng sẽ

không hợp lý nếu đề nghị là trách nhiệm của KTV vì chi phí và thời gian bỏ ra lớn

nhưng không có lợi ích tương xứng và không đạt mục tiêu của cuộc kiểm toán

BCTC.

Trách nhiệm 20, 21: Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra

việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và

công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT

Một lần nữa kết quả khảo sát cho thấy các nhóm có cùng quan điểm khi mà

KTV cho rằng phải công bố trên BCKT tất cả các trường hợp, kể cả tuân thủ

(GTTB 2,31 và 2,73). Đó cũng là ý kiến của các NQL, kế toán (2,49 và 2,93), nhóm

ngân hàng (2,68 và 2,86). Thực tế thì chuẩn mực chỉ yêu cầu thực hiện trách nhiệm

công bố các trường hợp không tuân thủ. Tuy nhiên mong đợi của các nhóm về trách

nhiệm báo cáo cả các trường hợp tuân thủ cũng cần được xem xét để quy định trong

chuẩn mực. Vì trách nhiệm của KTV sẽ được mở rộng và lợi ích mang lại sẽ lớn

hơn bởi xã hội mong đợi cả báo cáo tuân thủ của công ty niêm yết so với yêu cầu

của Sở Giao dịch Chứng khoán chứ không phải chỉ báo cáo các trường hợp không

tuân thủ nhằm phục vụ cho mục đích đánh giá và ra quyết định của họ. Đây được

xem là mong đợi hợp lý từ các nhóm khảo sát.

Trách nhiệm 22, 23: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của

ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính và

rủi ro hoạt động

Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể ý kiến cho rằng KTV nên thực hiện trách

nhiệm liên quan đến rủi ro tài chính (2,56) nhưng không cần thực hiện những trách

nhiệm liên quan rủi ro hoạt động (1,85). Phân tích riêng lẻ các nhóm cũng không có

nhiều sự khác biệt. Chuẩn mực hiện tại cũng quy định rõ các trách nhiệm này nên

không tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán.

54

Trách nhiệm 24, 25: KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền

và công bố trên BCKT khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT

Qua kết quả thống kê, các KTV cho rằng nên công bố trên BCKT khi có nghi

ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT (2,85). Ngoài ra phải báo cáo cho

cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này (2,17). Các NQL, kế toán cùng quan điểm

(2,63 và 2,85). Nhóm nhân viên ngân hàng cũng có ý kiến tương tự (2,7 và 2,89).

Trên thực tế, chuẩn mực không yêu cầu KTV phải báo cáo cho cơ quan có thẩm

quyền nhưng khả năng hoạt động liên tục là một vấn đề rất quan trọng liên quan đến

việc lập và trình bày BCTC trung thực và hợp lý khi mà giả định hoạt động liên tục

không còn phù hợp nên Hội ban hành chuẩn mực cũng cần xem xét bổ sung vấn đề

này vì có thể là mong đợi hợp lý từ xã hội.

Trách nhiệm 26, 27, 28, 29, 30: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên

BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng; về độ tin cậy của

tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT

Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể các ý kiến đều cho rằng KTV không nên

thực hiện trách nhiệm này (GTTB đều dưới 2). Tuy nhiên tồn tại khoảng cách mong

đợi khá lớn giữa nhóm nhân viên ngân hàng và KTV (1,58 so với 2,18). Cuộc kiểm

toán có nhiều hạn chế vốn có bao gồm việc cân đối giữa thời gian, hiệu quả và chi

phí. Vì vậy không thể kiểm tra tất cả các thông tin không liên quan hay không ảnh

hưởng trọng yếu đến BCTC đã được kiểm toán đính kèm. Do đó chuẩn mực không

quy định trách nhiệm này và đây được xem là mong đợi chưa hợp lý của các đối

tượng liên quan.

Tóm lại, kết quả cho thấy các nhóm khảo sát, đặc biệt là nhóm nhân viên ngân

hàng mong đợi nhiều hơn nữa từ KTV, để cung cấp cho họ nhiều thông tin cần thiết

và hữu ích hơn giúp được nhiều cho họ trong việc ra quyết định. Tuy nhiên đó là

những mong đợi chưa hợp lý do KTV không thể thực hiện trách nhiệm chuẩn bị

BCTC cho ĐVĐKT; đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác hay đảm bảo

ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt vì không thể cân bằng giữa chi phí bỏ ra và lợi

ích mang lại để thực hiện những trách nhiệm này và cũng không thể chắc chắn rằng

55

không có gì đã được bỏ qua và đảm bảo chính xác cho dù kiểm tra tất cả các giao

dịch phát sinh. Bên cạnh đó, cũng có những mong đợi hợp lý từ các nhóm nhưng do

khiếm khuyết của chuẩn mực như KTV phải báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền

khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT hay cần báo cáo cả

những trường hợp tuân thủ của công ty niêm yết so với yêu cầu của Sở Giao dịch

Chứng khoán chứ không phải chỉ báo cáo các trường hợp không tuân thủ nhằm

phục vụ cho mục đích đánh giá và ra quyết định.

56

Kết luận chương 4

Trong chương này, kết quả của cuộc khảo sát thực hiện tại Việt Nam đã được

trình bày. Các kết quả được trình bày trong ba phần chính là thể hiện các nhóm lợi

ích trả lời cho các câu hỏi: (1) KTV có được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này

không? (2) Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV đã thực hiện tốt trách

nhiệm này không? và (3) KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?

Điều đó thể hiện sự hiểu biết của các nhóm khảo sát về trách nhiệm hiện tại của

KTV, sự đánh giá về công việc mà KTV đã thực hiện trong cuộc kiểm toán BCTC

cũng như sự kỳ vọng hợp lý và chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm của KTV.

Qua kết quả khảo sát cho thấy, nhóm NQL, kế toán và ngân hàng chưa hiểu

đúng về trách nhiệm của KTV hiện tại, yêu cầu KTV thực hiện những trách nhiệm

nằm ngoài những những quy định của chuẩn mực và các luật liên quan. Trong khi

đa số các KTV nắm rõ các trách nhiệm của mình và thực hiện theo đúng yêu cầu

của chuẩn mực. Sự khác biệt về nhận thức này tạo nên một khoảng cách mong đợi

kiểm toán tại Việt Nam. Cụ thể, các nhóm đã mong đợi không hợp lý khi cho rằng

KTV phải có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác; phát hiện hành

vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên và BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không;

báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục

của ĐVĐKT; kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin

được đăng tải trên trang web của ĐVĐKT; kiểm tra và công bố trên BCKT về độ

tin cậy của tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT như chính sách đối với cơ

hội việc làm bình đẳng; chính sách an toàn sản phẩm; chính sách đảm bảo sức khỏe

và an toàn lao động.

Như vậy, Việt Nam có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán và nguyên

nhân chủ yếu là do sự mong đợi chưa hợp lý từ xã hội, do chuẩn mực chưa đầy đủ

và sự thiếu năng lực của KTV.

57

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI

5.1 Kết luận

Trong nghiên cứu này, tác giả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách

nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam.

Qua kết quả khảo sát cho thấy, tương tự như các nghiên cứu trước trên thế giới, tại

Việt Nam có tồn tại khoảng cách này giữa KTV với NQL, kế toán, nhân viên ngân

hàng và chứng khoán. Các nhân viên ngân hàng, chứng khoán luôn có những kỳ

vọng vượt quá yêu cầu thực hiện của KTV và đánh giá không cao kết quả thực hiện

của KTV trong cuộc kiểm toán, đó là trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực

và hợp lý của thông tin trên BCTC và công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả

năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT. Đó là do mong đợi chưa hợp lý từ xã hội, mặt

khác, KTV nhận thức chưa đúng và chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình

trong cuộc kiểm toán nên chưa đáp ứng được kỳ vọng của họ. Tuy nhiên cũng có

những trách nhiệm mà các nhóm khảo sát đã đề nghị cho KTV có thể là mong đợi

hợp lý cần đuợc xem xét để hoàn thiện chuẩn mực như báo cáo việc tuân thủ các

yêu cầu của Sở Giao dịch Chứng khoán của công ty niêm yết được kiểm toán, báo

cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của

ĐVĐKT. Tóm lại, cũng như kết quả nghiên cứu của nhiều nuớc khác trên thế giới,

Việt Nam cũng tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân chủ yếu

xuất phát từ sự kỳ vọng chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm KTV, hạn chế năng

lực của KTV và sự khiếm khuyết của chuẩn mực. Kết quả khảo sát chung có thể

thấy như sau:

5.1.1 Điểm thống nhất

- Phần lớn các nhóm khảo sát đã nhận thức đúng các trách nhiệm hiện tại của

KTV như đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên

BCTC; phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền, công bố trên BCKT

về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT; bảo

đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực

58

và các quy định có liên quan; công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả

năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT.

- Các nhóm KTV, NQL và kế toán, nhân viên ngân hàng cũng có cùng quan

điểm khi cho rằng KTV không có trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT

với GTTB lần luợt là 1,15; 1,75 và 1,86; KTV không có trách nhiệm đảm

bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt (GTTB lần luợt là 1,5; 1,69 và 1,84);

kiểm tra và công bố trên BCKT về các thông tin phi tài chính (GTTB lần luợt

là 1,85; 1,91 và 1,80), việc quản lý, điều hành của BGĐ (GTTB lần luợt là

1,5; 1,84 và 1,95).

- Hầu hết các nhóm khảo sát đều đánh giá tốt kết quả thực hiện các trách

nhiệm hiện tại của KTV trong quá trình kiểm toán. Đó là các trách nhiệm

phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành

vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT; bảo đảm

rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và

các quy định có liên quan.

- Hầu như các nhóm khảo sát đều đề nghị KTV nên thực hiện công việc nhiều

hơn trong kiểm toán BCTC. Trong đó hầu hết là trách nhiệm hiện hữu của

KTV nhưng cũng có nhiều trách nhiệm mà chuẩn mực và luật liên quan

không yêu cầu KTV phải thực hiện như KTV phải báo cáo cho cơ quan có

thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT hay

cần báo cáo cả những trường hợp tuân thủ của công ty niêm yết so với yêu

cầu của Sở Giao dịch Chứng khoán chứ không phải chỉ báo cáo các trường

hợp không tuân thủ,… Những mong đợi này có thể được xem là hợp lý và

các cơ quan chức năng nên xem xét bổ sung vào quy định nhằm phục vụ cho

mục đích đánh giá và ra quyết định của các nhóm lợi ích liên quan, làm thỏa

mãn và tăng giá trị cuộc kiểm toán BCTC đối với xã hội.

59

5.1.2 Điểm khác biệt trong quan điểm tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán

tại Việt Nam

 Sự khác biệt nhận thức về trách nhiệm hiện tại của KTV

- Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các KTV hiểu rõ các trách nhiệm của

mình trong cuộc kiểm toán BCTC. Tuy nhiên các nhóm NQL, kế toán, đặc

biệt là nhóm nhân viên ngân hàng chưa nhận thức đúng trách nhiệm của

KTV khi cho rằng có 24/30 trách nhiệm đã liệt kê là trách nhiệm hiện tại của

KTV, trong khi thực tế chỉ yêu cầu KTV thực hiện trách nhiệm là 10/30. Các

NQL, kế toán cũng chưa nhận thức đúng khi cho rằng có 17/30 là trách

nhiệm hiện tại của KTV. Điều này cho thấy tồn tại khoảng cách mong đợi

kiểm toán tại Việt nam mà nguyên nhân là do hiểu biết còn hạn chế và nhận

thức chưa đầy đủ của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm

toán BCTC nên có những mong đợi chưa hợp lý mà chính KTV không thể

thực hiện và cũng không được quy định trong chuẩn mực kiểm toán và các

luật có liên quan.

- NQL, kế toán, nhân viên ngân hàng có sự kỳ vọng lớn về trách nhiệm hiện

tại của KTV: đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác; phát hiện hành vi

trộm cắp thực hiện bởi BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không; báo cáo

cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục

của ĐVĐKT (GTTB từ 2,18 đến 2,62). Trong khi KTV nhận thức rõ đây

không phải là trách nhiệm mà họ được quy định thực hiện (GTTB từ 1,29

đến 1,9).

 Sự khác biệt trong cách đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm hiện tại của

KTV

- Liên quan đến trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của

thông tin trên BCTC của ĐVĐKT, các KTV tự tin rằng đã thực hiện tốt trách

nhiệm này (2,88). Tuy nhiên đó là không phải là những gì các NQL, kế toán

và nhóm nhân viên ngân hàng đã đánh giá (1,63 và 1,39).

60

- KTV tin rằng đã công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động

liên tục của ĐVĐKT (2,13) nhưng nhóm nhân viên ngân hàng thì cho rằng

KTV chưa làm được như mong đợi của họ (1,34).

- Các KTV luôn tự tin mình đã thực hiện tốt các trách nhiệm hiện tại (GTTB

luôn trên 2). Tuy nhiên các nhóm NQL và ngân hàng vẫn đánh giá KTV thực

hiện chưa tốt. Điều này đã tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán mà

nguyên nhân là do KTV nhận thức chưa đúng và chưa thực hiện đầy đủ trách

nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán, chưa đáp ứng được mong đợi của xã

hội.

 Sự khác biệt việc đề xuất các trách nhiệm mà KTV nên thực hiện

- Về trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT, nhóm ngân hàng đề nghị KTV

thực hiện trách nhiệm này (2,21). Đó cũng là ý kiến của nhóm NQL và kế

toán (2,10). Trong khi KTV cho rằng không thực hiện trách nhiệm này

(1,37). Đây là mong đợi chưa hợp lý từ người lập và sử dụng BCTC. Ngoài

ra, mong đợi KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác

cũng là một sự kỳ vọng chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC vì những hạn

chế vốn có của cuộc kiểm toán.

- Các nhân viên ngân hàng cho rằng các KTV có trách nhiệm kiểm tra và công

bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng; về

độ tin cậy của tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT. Tuy nhiên KTV

hiểu rõ đây không phải là trách nhiệm của họ. Vì không phù hợp với mục

tiêu của cuộc kiểm toán BCTC là đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu

BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu hay không và

cũng không đáp ứng mục tiêu cân đối lợi ích và chi phí. Vì vậy tồn tại

khoảng cách mong đợi kiểm toán từ mong đợi chưa hợp lý của xã hội.

61

5.2 Đề xuất quan điểm và định hướng thu hẹp khoảng cách mong đợi

5.2.1 Đề xuất quan điểm

5.2.1.1 Từng bước tiếp cận thông lệ quốc tế

Hoạt động kiểm toán Việt Nam đang thực hiện theo xu thế toàn cầu hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nâng cao trình độ nghề nghiệp,

nâng cao chất lượng dịch vụ của kiểm toán độc lập Việt Nam tiếp cận ngang tầm

khu vực và quốc tế là một đòi hỏi rất cấp thiết. Vì vậy đại diện của kiểm toán Việt

Nam là VACPA, Hội nghề nghiệp còn rất non trẻ so với các Hội cùng nghề nghiệp

trong khu vực và quốc tế, đã không ngừng nỗ lực duy trì và thắt chặt mối quan hệ

với các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm

hoạt động, nâng cao uy tín, hình ảnh của kiểm toán Việt Nam, ngày càng thể hiện

được vai trò cầu nối giữa nghề nghiệp kiểm toán độc lập của Việt Nam với các tổ

chức nghề nghiệp quốc tế, đưa tiếng nói nghề nghiệp của Việt Nam ra khu vực, thế

giới. Vì vậy các giải pháp được đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm

toán sẽ được xây dựng trên cơ sở tiếp cận từng bước theo thông lệ quốc tế.

5.2.1.2 Phù hợp với đặc điểm Việt Nam

Mặc dù đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế nhưng kiểm toán Việt Nam mới

thực sự phát triển từ những năm 1990, cho dù việc gia nhập làm thành viên các tổ

chức quốc tế uy tín đã thể hiện một bước dài trong việc đưa nghề nghiệp kiểm toán

Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động này vẫn

còn rất non trẻ so với thế giới cả về số lượng KTV và chất lượng kiểm toán. Đa số

các công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ nên có rất nhiều hạn chế

như số lượng nhân viên ít, số lượng KTV càng hiếm, đầu tư cho vấn đề đào tạo cho

nhân viên còn hạn chế, chưa có chương trình KSCL theo yêu cầu của chuẩn mực.

Vì thế các giải pháp đưa ra không những tiếp cận theo thông lệ quốc tế mà còn phải

phù hợp với đặc điểm của Việt Nam hiện nay.

5.2.1.3 Thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán

Nguyên nhân tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán là do mong đợi chưa

hợp lý của xã hội, năng lực thực hiện trách nhiệm của KTV và chuẩn mực chưa đầy

62

đủ. Vì vậy, một số giải pháp được đề xuất về cách thức mà các KTV có thể đáp ứng

tốt hơn mong đợi hợp lý của xã hội, làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức của những

người mong đợi chưa hợp lý, và cung cấp người sử dụng BCTC và những người

khác sự hài lòng nhu cầu thông tin của họ. Do đó, nghiên cứu đóng góp một cách có

ý nghĩa đối với việc thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán, giúp sự thực hiện

trách nhiệm của KTV theo cảm nhận của xã hội là tốt hơn, phù hợp với kỳ vọng của

xã hội, cuộc khủng hoảng về trách nhiệm và uy tín KTV đã từng đối mặt giảm đi và

sự tự tin trong nghề kiểm toán và công việc của KTV dần dần được phục hồi, lấy lại

niềm tin từ công chúng.

5.2.2 Giải pháp thu hẹp khoảng cách mong đợi

5.2.2.1 Những giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán do

năng lực của KTV

Qua kết quả khảo sát cho thấy kết quả thực hiện trách nhiệm trong cuộc

kiểm toán BCTC của KTV chưa được xã hội đánh giá cao. KTV đưa ra ý kiến

BCTC đã được kiểm toán là trung thực và hợp lý nhưng chưa nhận được niềm tin từ

công chúng khi mà các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng chỉ đánh giá

kết quả thực hiện của KTV ở mức 1,63 và 1,39. Thực tế là do năng lực nghề nghiệp

của KTV thực hiện cuộc kiểm toán chưa cao nên chưa phát hiện được các sai phạm

trọng yếu vẫn còn tồn tại trong BCTC đã được kiểm toán. Bản thân các công ty

kiểm toán cũng chưa có hệ thống kiểm soát tốt để kiểm tra chất lượng công việc mà

KTV đã thực hiện. Theo báo cáo kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán năm 2014

của BTC tại 7 doanh nghiệp kiểm toán thì có 3 doanh nghiệp không đạt yêu cầu.

Niềm tin của công chúng vào kiểm toán sụt giảm. Vì vậy, cần thiết phải có những

giải pháp để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện trách nhiệm của KTV và chất lượng

dịch vụ kiểm toán của các công ty kiểm toán để nâng cao năng lực của KTV nhằm

thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán:

 Tăng cường hơn nữa KSCL đối với các KTV và các công ty kiểm toán:

Đây là hoạt động KSCL từ bên ngoài hằng năm của BTC và VACPA. Hoạt động

này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động kiểm toán, nó giúp cho KTV

63

tự ý thức thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo yêu cầu của chuẩn mực, qua đó góp

phần nâng cao chất lượng kiểm toán, gây dựng lại niềm tin cho công chúng, thu hẹp

được khoảng cách mong đợi kiểm toán do năng lực. Tuy nhiên trên thực tế, KSCL

hằng năm của BTC và VACPA vẫn còn nhiều bất cập khi mà số lượng các công ty

kiểm toán bị kiểm tra giảm dần qua các năm gần đây, cụ thể năm 2011 có 30 công

ty được kiểm tra, năm 2012 có 15 công ty, năm 2013 có 15 công ty và năm 2014 chỉ

còn 7 công ty bị kiểm tra. Hơn thế nữa, theo báo cáo kiểm tra chất lượng dịch vụ

kiểm toán năm 2014 của BTC, hầu hết các công ty chưa xây dựng hệ thống KSCL

hoặc có hệ thống KSCL nhưng chưa tuyên truyền, hướng dẫn đầy đủ đến tất cả các

cấp độ nhân viên, dẫn đến tình trạng nhân viên chưa nắm rõ, việc thực hiện qua hồ

sơ kiểm toán còn mang tính hình thức; Có 05 công ty chưa thực hiện việc công khai

báo cáo minh bạch theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 16 Thông tư số

183/2013/TT-BTC ngày 04/12/2013 của BTC về kiểm toán độc lập đối với đơn vị

có lợi ích công chúng; nhiều hồ sơ chưa lưu đầy đủ tài liệu, thông tin theo quy định

như: BCKT, thư quản lý, BCKT năm trước, các tài liệu thư từ liên lạc giữa KTV với

khách hàng, …Tổng hợp kết quả kiểm tra là có đến 43% công ty kiểm toán bị kiểm

tra không đạt yêu cầu, 43% chỉ đạt yêu cầu và 14% là tốt. Qua đó cho thấy để nâng

cao năng lực, trình độ nhận thức và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của KTV trong

việc phát hiện gian lận trên BCTC, BTC và VACPA cần phải tăng số lượng công ty

kiểm toán bị kiểm tra hàng năm hơn nữa, khoảng từ 3 – 5 năm thì một công ty kiểm

toán phải bị kiểm soát chất lượng để phát hiện các KTV chưa thực hiện đầy đủ trách

nhiệm, các công ty kiểm toán không đạt yêu cầu để phê bình nghiêm khắc và hình

thức răn đe thích hợp một cách công khai nhằm tăng niềm tin của xã hội.

 Nâng cao tiêu chuẩn trong việc cho phép các công ty kiểm toán và KTV

đủ năng lực và phẩm chất để kiểm toán cho các công ty niêm yết trên thị trường

chứng khoán: Qua công tác KSCL năm 2014 cho thấy còn nhiều công ty kiểm toán

có chất lượng dịch vụ chưa tốt, hồ sơ không đạt yêu cầu. Vì vậy để kiểm toán cho

các công ty niêm yết, là các công ty phải công bố BCTC và các thông tin cho công

chúng, luôn được các nhà đầu tư theo dõi, đánh giá và ra quyết định đầu tư. Vì vậy

64

các công ty kiểm toán được BTC và VACPA kết luận là tốt nên hãy thực hiện kiểm

toán cho các công ty niêm yết nhằm đảm cho chất lượng cho cuộc kiểm toán, cũng

như nhận được niềm tin về năng lực và uy tín từ xã hội đối với KTV thực hiện cuộc

kiểm toán.

 Nâng cao năng lực của KTV thông qua tổ chức nghề nghiệp: VACPA là

tổ chức nghề nghiệp tập hợp đông đảo đội ngũ KTV độc lập và các doanh nghiệp

kiểm toán ở Việt Nam. Để nâng cao trình độ của KTV, hàng năm VACPA luôn tổ

chức các lớp cập nhật kiến thức cho KTV, KTV bắt buộc phải tham gia đủ 40

giờ/năm, trong đó có 20 giờ về kế toán, kiểm toán; 4 giờ về đạo đức nghề nghiệp và

16 giờ khác. Tuy nhiên vẫn còn nhiều KTV chưa thực hiện đúng yêu cầu này. Cụ

thể, trong năm 2015 đã có 28 KTV bị đình chỉ hành nghề kiểm toán do không có đủ

điều kiện tiếp tục hành nghề, do không tham gia đủ số giờ cập nhật kiến thức. Năm

2014 cũng có 15 KTV bị đình chỉ hành nghề kiểm toán cũng với lý do trên. Qua đó

cho thấy các KTV không đủ yêu cầu càng tăng lên, vì vậy, VACPA cần kiểm soát

chặt chẽ hơn nữa việc tham gia đầy đủ các lớp cập nhật kiến thức của KTV, một

mặt để giúp KTV nắm bắt được các chuẩn mực, thông tư mới có liên quan đến kế

toán, kiểm toán và những vấn đề mang tính thời sự của nghề nghiệp, mặt khác nhằm

loại bỏ những KTV không đủ điều kiện hành nghề để nâng cao chất lượng cuộc

kiểm toán. Ngoài ra VACAPA cần cung cấp kịp thời các văn bản chính sách mới

của Nhà nước qua công cụ hỗ trợ như Ebook, Website, nhằm hỗ trợ tư vấn chuyên

môn cho các KTV.

Ngoài ra, kết quả khảo sát còn cho thấy KTV chưa thực hiện đúng trách

nhiệm của mình trong việc công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt

động liên tục của ĐVĐKT vì nhóm nhân viên ngân hàng thì cho rằng KTV chưa

thực hiện thỏa đáng như mong đợi của họ (1,34). Bên cạnh đó, các KTV cũng chưa

nhận thức đúng trách nhiệm của mình khi cho rằng phải thực hiện trách nhiệm phát

hiện và công bố trên BCKT những hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám

đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC (2,23 và 2,29); công bố trên BCKT tất cả các

trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của công ty niêm yết đối với những yêu cầu

65

công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán (2,23). Vì vậy cần có những giải

pháp giúp KTV nắm rõ hơn trách nhiệm của mình để thực hiện cuộc kiểm toán hữu

hiệu và hiệu quả, cung cấp chất lượng kiểm toán thực sự hoàn hảo và thỏa mãn nhu

cầu và kỳ vọng của những người sử dụng BCTC và các nhóm lợi ích:

 Nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn của KTV thông qua chương

trình đào tạo nội bộ tại các công ty kiểm toán: Trong mỗi công ty kiểm toán, KTV

là tài sản vô hình tạo ra giá trị cốt lỗi cho sự hoạt động của công ty. Vì KTV là

người thực hiện trực tiếp trong mọi cuộc kiểm toán và tạo ra sản phẩm là các báo

cáo kiểm toán được xã hội chờ đợi và đặt nhiều kỳ vọng. Kiểm toán không chỉ là

một ngành dịch vụ đơn thuần mà còn mang một ý nghĩa cao quý, được sự tôn trọng

từ các đối tượng liên quan. Do đó chất lượng sản phẩm của cuộc kiểm toán rất được

xã hội quan tâm và phụ thuộc nhiều vào năng lực và nắm rõ trách nhiệm của các

KTV. Tuy nhiên kết quả khảo sát cho thấy, trình độ và năng lực chuyên môn của

các KTV còn nhiều bất cập, chưa nhận thức đúng hoàn toàn trách nhiệm trong cuộc

kiểm toán. Đó là điều rất đáng lo ngại cho chất lượng của kiểm toán cũng như ảnh

hưởng đến niềm tin của xã hội đối với nghề nghiệp. Vì vậy bên cạnh các chính sách

và quy định của BTC và VACPA, mỗi công ty kiểm toán cần nỗ lực để nâng cao

kiến thức chuyên môn và năng lực thực hiện kiểm toán của các KTV thông qua

những nội dung sau:

- Kiến thức chuyên môn và kỹ năng của các KTV cần được quan tâm ngay từ

khâu tuyển dụng. Công ty cần xây dựng chính sách tuyển dụng rõ ràng, cụ

thể, chú trọng đến chuyên môn kế toán, kiểm toán, tốt nghiệp trường đại học

có uy tín, kết quả học tập và xếp loại hạnh kiểm phải đạt mức tối thiểu mà

công ty đề ra mới có cơ hội được tuyển dụng. Bên cạnh việc chú ý đến

chuyên môn, còn có một số phẩm chất cá nhân và kỹ năng không thể thiếu

của kiểm toán là đánh giá cao những ứng viên có tính chính trực, trung thực

để đảm bảo tuân thủ đạo đức nghề nghiệp theo yêu cầu của chuẩn mực.

Ngoài ra các kỹ năng cần thiết là làm việc nhóm, có tinh thần đồng đội, hỗ

66

trợ các thành viên khác, có tư duy tốt để phục vụ cho sự xét đoán nghề

nghiệp.

- Công ty cần đầu tư cho công tác đào tạo nội bộ, có mời chuyên gia nước

ngoài về giảng dạy hàng năm để các KTV có cơ hội trao đổi các vấn đề phát

sinh, hướng xử lý sau mỗi mùa kiểm toán và cập nhật kiến thức ngày càng

phù hợp với quốc tế. Các khóa học được tổ chức làm nhiều đợt, theo nhiều

chủ đề về kiểm toán, kế toán, thuế thông qua sự tham khảo ý kiến của BGĐ,

những người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán, các KTV để tập

trung vào các vấn đề trọng tâm. Cần đảm bảo các KTV tham gia đầy đủ theo

đúng số giờ quy định về đào tạo nội bộ của Việt Nam và quốc tế.

- Hỗ trợ cho các KTV các khóa đào tạo bên ngoài như ôn và thi CPA Việt

Nam, CPA Úc, ACCA để KTV nâng cao trình độ chuyên môn, hội nhập với

sự tiên tiến của quốc tế về nghề kiểm toán.

- Công ty khuyến khích nhân viên các phòng nghiệp vụ kiểm toán tự nghiên

cứu các chuẩn mực mới, thông tư mới và đào tạo nội bộ tại các phòng ban

nhằm cập nhật kiến thức cũng như xây dựng tinh thần đoàn kết trong mỗi

phòng nói riêng và công ty nói chung.

 Xây dựng quy trình KSCL tại các công ty kiểm toán phù hợp với yêu cầu

của chuẩn mực, VACPA và BTC: Qua kết quả KSCL năm 2014, hầu hết các công

ty kiểm toán chưa xây dựng hệ thống KSCL hoặc có nhưng chưa tuyên truyền,

hướng dẫn đầy đủ đến tất cả các cấp độ nhân viên, dẫn đến tình trạng nhân viên

chưa nắm rõ trách nhiệm, việc thực hiện qua hồ sơ kiểm toán còn mang tính hình

thức; báo cáo phát hành ý kiến kiểm toán chưa phù hợp, BCKT còn nhiều sai sót,

hoặc chưa đầy đủ thông tin. Vì vậy, tại các công ty kiểm toán cần xây dựng ngay

hệ thống KSCL phù hợp theo VSA 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán

BCTC được áp dụng từ 01/01/2014 cũng như phù hợp với các quy định của

VACPA và BTC. Hệ thống này cung cấp cho KTV và công ty kiểm toán sự đảm

bảo hợp lý rằng cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật

và các quy định có liên quan; và báo cáo kiểm toán được phát hành là phù hợp với

67

hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán. Các KTV cần nghiêm túc thực hiện theo quy

trình đã xây dựng và công ty kiểm toán vẫn kiểm soát chặt chẽ nhằm phát hiện các

trường hợp không tuân thủ hoặc thực hiện chưa đầy đủ các trách nhiệm của KTV.

Từ đó nâng cao niềm tin của người sử dụng BCTC và các bên quan tâm khác trong

xã hội về việc thực hiện trách nhiệm của KTV.

5.2.2.2 Những giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán do

mong đợi chưa hợp lý của xã hội

Kết quả khảo sát cho thấy các nhóm NQL, kế toán và nhân viên ngân hàng

còn quá nhiều kỳ vọng vào trách nhiệm của KTV khi cho rằng KTV nên lập BCTC

cho ĐVĐKT (2,1 và 2,21); đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác (2,43 và

2,64); phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên và BGĐ cho dù số tiền

trọng yếu hay không (2,24 và 2,64). Để làm như vậy sẽ đòi hỏi KTV phải xem xét

mọi giao dịch của đơn vị, điều này sẽ dẫn đến chi phí kiểm toán cao mà không có

lợi ích tương xứng và thậm chí rằng KTV cũng không thể chắc chắn rằng không có

gì đã được bỏ qua và không có sai sót đã xảy ra cho dù kiểm tra mẫu 100%. Đây

vẫn là mong đợi chưa hợp lý từ người lập và sử dụng BCTC, là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt Nam. Vì vậy

những giải pháp được đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi này được cụ thể

như sau:

 Đối với KTV và công ty kiểm toán cần phải làm cho ĐVĐKT và các

nhóm lợi ích liên quan nhận thức đúng mục tiêu và trách nhiệm của mình trong

cuộc kiểm toán: Trước khi thực hiện cuộc kiểm toán, công ty kiểm toán cần phân

công các KTV có đủ năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với

từng đơn vị được kiểm toán; giải thích rõ trách nhiệm của KTV và trách nhiệm của

các nhà quản lý trong quá trình kiểm toán, mục tiêu của cuộc kiểm toán BCTC, đặc

biệt là giải thích về hạn chế của KTV trong mọi cuộc kiểm toán như bản chất của

việc lập và trình bày BCTC; bản chất của các thủ tục kiểm toán; sự cân nhắc giữa

thời gian và giá phí một cách hợp lý. Từ đó nâng cao nhận thức của những người sử

dụng BCTC về trách nhiệm thực tế của KTV sẽ giúp giảm bớt khoảng cách kỳ vọng

68

kiểm toán. Ngoài ra các công ty kiểm toán cần thường xuyên tổ chức các buổi hội

thảo tạo cơ hội tốt để các KTV phổ biến kiến thức kiểm toán qua đó tuyên truyền

giải thích cho những người sử dụng các dịch vụ kiểm toán đặc biệt là dịch vụ kiểm

toán BCTC để nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của KTV, các chức năng

kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán cho các đối tượng liên quan mở rộng như

BGĐ, cổ đông và các hiệp hội kinh doanh, và các doanh nghiệp.

 BTC cần tăng cường tư vấn chuyên môn về kiểm toán cho người sử dụng

BCTC: Theo kết quả đã khảo sát, các nhóm khảo sát nói riêng và xã hội nói chung

luôn kỳ vọng KTV thực hiện những gì có thể và cả không thể làm được và không

phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực. Vì vậy, cần giúp xã hội hiểu rõ hơn chức năng

và mục tiêu của cuộc kiểm toán. Đây là một cách hiệu quả để làm giảm kỳ vọng quá

cao của xã hội vào các KTV nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, của các

đối tượng có liên quan về bản chất của nghề nghiệp kiểm toán, mục tiêu và trách

nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán. Một nguyên nhân của khoảng cách mong đợi

kiểm toán là sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng BCTC. Do

đó, BTC có thể ban hành một cuốn sổ tay các vấn đề liên quan đến kiểm toán để

giúp các đối tượng hiểu rõ hơn, từ đó không còn các mong đợi không hợp lý. Tổ

chức các buổi hội thảo về kiểm toán và khuyến khích tranh luận về các vấn đề thời

sự trong các lĩnh vực này bởi phần lớn các đối tượng trong xã hội. Hiện nay khi mà

công nghệ thông tin rất phát triển nên có thể thông qua các kênh truyền thông để

tuyên truyền cho xã hội nói chung về các chức năng kiểm toán và cho họ nhận thức

được rằng những gì có thể mong đợi hợp lý từ KTV. Nhằm nâng cao nhận thức và

hiểu biết của xã hội về trách nhiệm của KTV có thể thông qua các vụ gian lận nổi

tiếng hoặc một doanh nghiệp bất ngờ phá sản hoặc sự kiện tương tự. Ngoài ra, một

cách hiệu quả là tác động đến các nhà báo có ảnh hưởng, một cách chính thức và

không chính thức, để giúp họ hiểu rõ hơn về chức năng kiểm toán và công việc của

KTV. Nếu họ đạt được một số hiểu biết, nhận thức về công việc của nghề kiểm

toán, họ có thể tạo nên những ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của cộng đồng một

69

cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi những bài báo của họ sẽ có tiêu đề ít giật gân hơn

trước kia liên quan đến các vụ gian lận và kiểm toán.

 Bản thân người sử dụng BCTC cần thay đổi nhận thức về trách nhiệm

của KTV: Những người sử dụng BCTC phải nghiên cứu các tài liệu về kiểm toán,

trang bị cho mình những sự hiểu biết nhất định trước khi sử dụng, phân tích BCTC

được kiểm toán. Từ sự am hiểu đó để có sự mong đợi phù hợp đối với trách nhiệm

của KTV. Thường xuyên trao dồi, cập nhật các kiến thức về những sự thay đổi của

kiểm toán thông qua sách báo, truyền hình hoặc các nghiên cứu về kiểm toán để biết

được mặc dù có kiểm toán nhưng BCTC cũng không thể chính xác vì những hạn

chế vốn có của kiểm toán mà có sự kỳ vọng và đánh giá hợp lý hơn.

5.2.2.3 Giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách do chuẩn mực và các quy định

chưa đầy đủ

Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn mong đợi chưa thật sự hợp

lý về những trách nhiệm của KTV. Tuy nhiên cũng có những mong đợi hợp lý từ

các nhóm nhưng do khiếm khuyết của chuẩn mực. Những mong đợi này có thể

được xem xét bổ sung vào chuẩn mực nhằm giảm khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Vì vậy cần thiết phải hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán VSA. Trong quá

trình thực hiện kiểm toán và đưa ra ý kiến về BCTC, KTV luôn dựa vào các quy

định luật pháp và chuẩn mực kiểm toán. Việc nghiên cứu và ban hành chuẩn mực

kiểm toán rõ ràng và đầy đủ sẽ giúp cho KTV tránh được những nhầm lẫn trong

việc tiếp nhận thông tin cũng như thực thi trong quá trình kiểm toán. Việc hoàn

thiện và cập nhật hệ thống VSA cần phù hợp với những thay đổi của chuẩn mực

kiểm toán quốc tế, đáp ứng những mong đợi hợp lý của xã hội.

5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo

Nghiên cứu khảo sát luôn đi kèm với một số hạn chế cố hữu, đặc biệt là bảng

câu hỏi đóng nên đối tượng chưa nêu được những quan điểm khác của mình. Các

câu hỏi trong bảng khảo sát cũng còn sự trùng lắp, chưa thực sự rõ ràng và dễ hiểu

cho người được hỏi. Khảo sát còn hạn chế vì mẫu khảo sát còn ít là 176 mẫu, có thể

70

chưa đại điện được sự mong đợi của toàn xã hội và kết quả khảo sát chỉ được thống

kê, phân tích số học đơn giản.

Một hạn chế tiếp theo của nghiên cứu là phạm vi đối tượng khảo sát cũng

còn hẹp, chủ yếu là các đối tượng có kinh nghiệm dưới 5 năm nên sự hiểu biết về

trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC còn hạn chế, có thể chưa hiểu biết

đúng với các quy định của chuẩn mực kiểm toán.

Một hạn chế khác của nghiên cứu là chỉ thực hiện khảo sát tại Thành phố Hồ

Chí Minh. Vì vậy, nếu thực hiện khảo sát thêm nhiều tỉnh thành thì kết quả có thể

khác do sự khác nhau về kinh tế và điều kiện văn hóa của các vùng miền ở Việt

Nam là khá lớn. Tương tự như thế, điều kiện kinh tế và văn hóa tại Việt Nam có sự

khác biệt so với các nước khác. Do đó, kết quả không sử dụng cho mục đích khái

quát hóa sang các quốc gia khác. Ngoài ra, thời gian thực hiện nghiên cứu ngắn

cũng là một hạn chế.

Bất kỳ một nghiên cứu nào cũng có những giới hạn phạm vi nghiên cứu. Đây

được xem là nền tảng cho các tác giả tiếp theo thực hiện việc nghiên cứu của mình.

Các nghiên cứu tiếp theo cần mở rộng cở mẫu, mở rộng thời gian nghiên cứu hay

mở rộng đối tượng khảo sát như sinh viên, các nhà báo tài chính… để có thể mở

rộng việc đánh giá xem có sự khác biệt về nhận thức giữa KTV và xã hội về vai trò,

trách nhiệm của KTV.

71

Kết luận chương 5

Những phát hiện của nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam từ kết quả khảo

sát đã cung cấp cái nhìn sâu sắc vào sự mong đợi hợp lý và chưa hợp lý của xã hội

về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC. Từ kết quả đó, một số kiến nghị đã

được đề xuất để các KTV có thể đáp ứng tốt hơn mong đợi hợp lý của xã hội, cũng

như làm thay đổi những mong đợi chưa phải là hợp lý, và cung cấp cho người sử

dụng BCTC với một báo cáo kiểm toán chất lượng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông

tin của họ.

Như vậy, các giải pháp được đề xuất đã từng bước tiếp cận thông lệ quốc tế,

phù hợp với đặc điểm Việt Nam đồng thời đóng góp một cách có ý nghĩa đối với

việc thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tại Việt Nam. Nếu việc thực hiện trách

nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC liên kết tốt hơn với kỳ vọng hợp lý

của xã hội thì cuộc khủng hoảng về uy tín của KTV nói riêng và nghề kiểm toán nói

chung sẽ giảm đi và niềm tin của công chung về kiểm toán dần dần được phục hồi.

72

KẾT LUẬN

Một báo cáo tài chính đã được kiểm toán đáng tin cậy và đáp ứng được nhu

cầu thông tin luôn là một mong đợi của xã hội. Tuy nhiên, sau nhiều vụ sụp đổ lớn

trên thế giới và tại Việt Nam như Enron, Worldcom, Bông Bạch Tuyết,... thì chất

lượng hoạt động kiểm toán BCTC ngày càng giảm và niềm tin của xã hội vào KTV

cũng mất dần. Vì phần lớn nguyên nhân xuất phát từ sự gian lận trên BCTC. Và

việc không phát hiện được gian lận có phải là hoàn toàn lỗi của Kiểm toán viên và

của các Công ty kiểm toán? Và trách nhiệm phát hiện gian lận là của Kiểm toán

viên? Đa số người sử dụng BCTC thì trả lời là có, nhưng một số ít và bản thân

Kiểm toán viên thì nói không. Đây là sự khác biệt giữa sự mong đợi của công chúng

và thực tế về trách nhiệm của Kiểm toán viên trong cuộc kiểm toán BCTC. Điều

này tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán.

Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy khoảng cách mong đợi kiểm

toán đang tồn tại tại Anh, New Zealand, Úc, Singapore – các nước phát triển cũng

như tại Barbados, Lebanon – các quốc gia đang phát triển. Trong khi chất lượng

BCTC bị suy giảm và uy tín của hoạt động kiểm toán độc lập bị ảnh hưởng toàn cầu

thì liệu khoảng cách mong đợi kiểm toán có tồn tại tại Việt Nam. Xuất phát từ sự

cấp thiết đó, tác giả đã lựa chọn thực hiện nghiên cứu về vấn đề cấp bách này.

Sau thời gian tập trung nghiên cứu và dựa vào kết quả khảo sát, tác giả có thể

kết luận rằng thật sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt Nam. Vì vậy,

tác giả đã đề xuất những giải pháp thích hợp để thu hẹp khoảng cách này, giúp cho

người sử dụng BCTC có sự nhìn nhận đúng hơn về trách nhiệm của KTV, cũng như

là bổ sung các chuẩn mực để nâng cao trách nhiệm của KTV. Việc thực hiện các

giải pháp đã đề xuất một cách đồng bộ, kịp thời và chặt chẽ giữa KTV, người sử

dụng BCTC và các đối tượng có liên quan sẽ giúp đạt được mục tiêu nhanh chóng

là thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán, nâng cao chất lượng BCTC và lấy lại

niềm tin của công chúng vào nghề nghiệp kiểm toán.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Bộ Tài chính, 2012. Hệ thống các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Hà Nội, ngày

06/12/2012.

2. Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam, 2015. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm

tra chất lượng dịch vụ kiểm toán năm 2014. Hà Nội, ngày 16/09/2015.

3. Lâm Huỳnh Phương, 2013. Ảnh hưởng của việc luân chuyển KTV đến chất

lượng hoạt động kiểm toán BCTC tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh

tế Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Lý Trần Kim Ngân, 2011. Hoàn thiện thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện gian lận

trên BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học

Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Ngô Thị Thu Hà, 2007. Phương huớng và giải pháp nhằm nâng cao trách

nhiệm của kiểm toán viên Ðộc lập Ðối với việc phát hiện gian lận và sai sót

trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Nguyễn Hữu Thọ, 2013. Đo lường chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập và sự

hài lòng của khách hàng – nghiên cứu trường hợp công ty KPMG Việt Nam.

Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Quốc Cường, 2013. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán

BCTC cho các công ty kiểm toán độc lập nhỏ và vừa trên địa bàn Tp.HCM.

Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013. Đánh giá tầm quan trọng của một số thuộc tính cá

nhân của KTV đối với chất lượng kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập ở

Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013. Hoàn thiện thủ tục đánh giá rủi ro nhằm nâng

cao chất lượng của cuộc kiểm toán BCTC tại các công ty kiểm toán độc lập vừa

và nhỏ tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh.

10. Nguyễn Trọng Thể, 2013. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán

độc lập trong điều kiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam mới đã ban

hành. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Trần Mạnh Hùng và Lại Thị Thu Thủy, 2013. Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm

toán. Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số 5-2013 (116)

12. Trương Thị Yến Nhung, 2012. Quy trình lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm

toán BCTC tại các Công ty kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam trên địa bàn

TP. HCM. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

13. Vũ Hữu Đức và các cộng sự, 2007. Kiểm toán. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

14. Beck, C.W., 1973. The Role of the Auditor in Modern Society: An Empirical

Appraisal. Accounting and Business Research, 3(10), 117-122.

15. Best, Peter J and Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001). Evidence of the

Audit Expectation Gap in Singapore. Managerial Auditing Journal, 16(3):pp.

134-144.

16. Dan Stirbu, 2009. Fraud and error. Auditors’ responsibility levels. Annales

Universitatis Apulensis Series Oeconomica, 11(1), 2009.

17. Javed Siddiqui, 2009. The audit expectations gap and the role of audit education:

the case of an emerging economy. Managerial Auditing Journal. Vol. 24 No. 6,

2009, pp. 564-583.

18. Fatemeh Saeidi, 2012. Audit expectations gap and corporate fraud: Empirical

evidence from Iran. African Journal of Business Management. Vol. 6(23), pp.

7031-7041, 13 June, 2012.

19. Fowzia Rehana, 2010. An Empirical Study on Audit Expectation Gap: Role of

Auditing Education in Bangladesh. MPRA Paper No. 22708, posted 15. May

2010 14:31 UTC.

20. Humphrey, C. G., Moizer, P., & Turley, S., 1993. The audit expectations gap in

Britain: an empirical investigation. Accounting and Business Research, 23, No

91A, pp395-411.

21. Klaus Ruhnke & Martin Schmidt, 2014. The audit expectation gap: existence,

causes, and the impact of changes. Accounting and Business Research, 2014

22. Lee, T. A., 1970. The Nature of Auditing and its Objectives. Accountancy,

81(920), 292-296.

23. Mahdi Salehi, 2008. Fraud Detection and Audit Expectation Gap: Empirical

Evidence from Iranian Bankers. International Journal of Business and

Management. Vol. 3, No. 10.

24. Mahdi Salehi, 2009. Audit Independence and Expectation Gap: Empirical

Evidences from Iran. International Journal of Economics and Finance. Vol. 1,

No. 1.

25. Mahdi Salehi, 2011. Audit expectation gap: Concept, nature and trace. African

Journal of Business Management. Vol. 5(21), pp. 8376-8392, 23 September,

2011.

26. Omid Pourheydari & Mina Abousaiedi, 2011. An empirical investigation of the

audit expectations gap in Iran. Journal of Islamic Accounting and Business

Research. Vol. 2 No. 1, 2011, pp. 63-76.

27. Oyinlola oluwagbemiga, 2010. The role of auditors in fraud detection,

prevention and reporting in Nigeria. Library Philosophy and Practice (e-

journal). Paper 517.

28. Philmore, A & Michael, H., 2006. An exploratory study of auditors’

responsibility for fraud detection in Barbados. Managerial Auditing Journal,

Vol. 20 No. 3, 2005, pp. 284-303.

29. Porter, B. A., 1993. An empirical study of the audit expectation-performance

gap. Accounting and Business Research, 24(93), pp49-68.

30. Porter, B. A., 2012. Report on research conducted in the united kingdom and

new zealand in 2008 investigating the audit expectation-performance gap and

users’ understanding of, and desired improvements to, the auditor’s report.

31. Rasha Kassem & Andrew Higson, 2012. Financial Reporting Fraud: Are Standards’ Setters and External Auditors Doing Enough. International Journal of Business and Social Science. Vol. 3 No. 19; October 2012.

32. Semiu Babatunde Adeyemi & Olayinka Marte Uadiale, 2011. An empirical

investigation of the audit expectation gap in Nigeria. African Journal of

Business Management, Vol. 5(19), pp. 7964-7971, 9 September, 2011.

33. Vidisha Gunesh Ramlugun, 2014. Audit Expectation Gap: Evidence From

Mauritius. Research journal of economics and business studies. Vol 03, No. 5,

2014.

34. Yusuf Munir Sidani, 2007. The audit expectation gap: evidence from Lebanon.

Managerial Auditing Journal. Vol. 22 No. 3, 2007, pp. 288-302.

35. Z. Jun Lin & Feng Chen, 2004. An Empirical Study of Audit “Expectation

Gap” in The People’s Republic of China. International Journal of Auditing. Int.

J. Audit. 8: 93–115 (2004).

Phụ lục I - BẢNG KHẢO SÁT NGHIÊN CỨU

KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH – NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM

Kính chào quý anh (chị),

Tôi tên là Nguyễn Quốc Kịp – là học viên cao học chuyên ngành Kế toán tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Hiện tại tôi đang thực hiện nghiên cứu về “Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính – nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam” với mục đích hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ từ quý anh (chị) thông qua việc trả lời các câu hỏi trong bảng khảo sát ý kiến bên dưới. Sự đóng góp của anh (chị) là rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cho việc nghiên cứu của tôi. Tôi xin cam kết mọi dữ liệu thu thập được từ quý anh (chị) chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu và được bảo mật thông tin.

Chân thành cảm ơn quý anh (chị) đã dành thời gian quý báu đọc và hoàn thành bảng câu hỏi khảo sát.

PHẦN 1. THÔNG TIN CƠ BẢN

1. Họ và Tên:

2. Đơn vị làm việc:

3. Vị trí/Chức vụ:

4. Số năm kinh nghiệm làm việc:

5. Công ty kiểm toán BCTC cho Đơn vị của các anh (chị) là:

o Big 4: KPMG, E&Y, PWC, DELOITTE

o Khác: …………………………………….

6. Email:

PHẦN 2. CÂU HỎI KHẢO SÁT

Với mỗi trách nhiệm được liệt kê bên dưới, nhờ Quý anh (chị) nêu quan điểm của mình bằng cách đánh dấu (x) vào ô thích hợp để trả lời 3 câu hỏi sau với 3 mức độ trả lời cho câu hỏi 1 và 3:

 Không  Không chắc  Có

Riêng câu hỏi 2 có 4 mức độ trả lời là:

 Không  Không chắc  Đạt

 Có Câu 1: Kiểm toán viên (KTV) có bị yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không? Câu 2: Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV có thực hiện tốt trách nhiệm này không? Nếu trả lời “không chắc” hoặc “không” ở câu 1 thì bỏ qua câu 2. Câu 3: KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?

Câu hỏi 2

Các trách nhiệm của KTV

Không

Có Không

Đạt

Có Không

Câu hỏi 1 Không chắc

Không chắc

Câu hỏi 3 Không chắc

1. KTV có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo tài chính (BCTC) cho đơn vị được kiểm toán (ĐVĐKT) 2. KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 4. KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt 5. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên báo cáo kiểm toán (BCKT) về các thông tin phi

tài chính của ĐVĐKT 6. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành của Ban Giám đốc ĐVĐKT 7. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh của ĐVĐKT 8. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những ảnh hưởng của ĐVĐKT đến môi trường 9. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu) 10. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi Ban Giám đốc cho dù số tiền trọng yếu hay không 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT

14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 15. KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế cho Cơ quan thuế 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 17. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 19. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 20. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng

khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản. 23. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu và lao động. 24. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 26. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng của ĐVĐKT 27. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin thường niên (BCTN) của trong báo cáo ĐVĐKT

28. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng. 29. KTV có trách nhiệm kiểm tra và và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách an toàn sản phẩm 30. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.

Phụ lục IIA: Bảng kết quả khảo sát về trách nhiệm hiện tại của KTV

Các nhóm khảo sát Tổng thể Kiểm toán viên Ngân hàng, chứng khoán Nhà quản lý và Kế toán

Giá trị trung bình

1,15 1,75 1,86 1,61

1,29 2,26 2,48 2,05

2,96 2,97 2,80 2,91

1,50 1,69 1,84 1,68

1,85 1,91 1,80 1,86

1,50 1,84 1,95 1,77

1,56 1,52 1,82 1,63

1,44 1,57 1,79 1,60

1,85 1,90 2,18 1,97

1,90 2,00 2,18 2,03

2,60 2,82 2,84 2,76 Các trách nhiệm của KTV 1. KTV có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo tài chính (BCTC) cho đơn vị được kiểm toán (ĐVĐKT) 2. KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 4. KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt 5. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên báo cáo kiểm toán (BCKT) về các thông tin phi tài chính của ĐVĐKT 6. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành của Ban Giám đốc ĐVĐKT 7. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh của ĐVĐKT 8. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những ảnh hưởng của ĐVĐKT đến môi trường 9. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu) 10. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi Ban Giám đốc cho dù số tiền trọng yếu hay không 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC

2,31 2,72 2,73 2,60

2,50 2,74 2,77 2,68

2,62 2,81 2,77 2,74

1,63 2,35 2,55 2,20

2,54 2,75 2,82 2,71

2,23 2,22 2,41 2,28

2,50 2,74 2,79 2,68

2,29 2,24 2,39 2,30

2,23 2,71 2,77 2,59

2,60 2,94 2,84 2,81

2,33 2,47 2,63 2,48 của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 15. KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế cho Cơ quan thuế 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 17. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 19. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 20. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ

1,71 1,65 1,70 1,68

1,87 2,62 2,59 2,39

2,77 2,91 2,82 2,84

1,33 1,59 2,23 1,72

1,48 1,79 2,30 1,86

1,35 1,49 2,04 1,62

1,37 1,49 2,05 1,63

1,40 1,46 2,00 1,61

của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản. 23. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu và lao động. 24. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 26. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng của ĐVĐKT 27. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin trong báo cáo thường niên (BCTN) của ĐVĐKT 28. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng. 29. KTV có trách nhiệm kiểm tra và và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách an toàn sản phẩm 30. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.

Phụ lục IIB: Bảng kết quả khảo sát về việc đánh giá thực hiện trách nhiệm của

KTV

Các nhóm khảo sát Tổng thể Kiểm toán viên Ngân hàng, chứng khoán Nhà quản lý và Kế toán

Giá trị trung bình

2,88 1,63 1,39 1,95

2,89 2,82 2,84 2,76

2,83 2,66 2,56 2,67

2,85 2,78 2,60 2,74

2,88 2,82 2,74 2,82

2,62 2,49 1,33 2,13

2,63 2,62 1,72 2,28

2,92 2,89 2,70 2,83

2,93 2,67 2,55 2,70

Các trách nhiệm hiện hữu của KTV 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và

2,13 2,13 1,34 1,88

thanh khoản. 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT

Phụ lục IIC: Bảng kết quả khảo sát về trách nhiệm KTV nên thực hiện

Các nhóm khảo sát Tổng thể Kiểm toán viên Ngân hàng, chứng khoán Nhà quản lý và Kế toán

Giá trị trung bình

1,37 2,10 2,21 1,92

1,48 2,43 2,64 2,22

2,96 2,96 2,86 2,93

1,77 1,79 2,25 1,93

2,02 2,04 1,89 1,99

1,79 1,71 2,04 1,84

1,81 1,79 2,04 1,88

1,85 1,69 2,00 1,84

2,17 2,24 2,64 2,35

Các trách nhiệm của KTV 1. KTV có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo tài chính (BCTC) cho đơn vị được kiểm toán (ĐVĐKT) 2. KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 4. KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt 5. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên báo cáo kiểm toán (BCKT) về các thông tin phi tài chính của ĐVĐKT 6. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành của Ban Giám đốc ĐVĐKT 7. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh của ĐVĐKT 8. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những ảnh hưởng của ĐVĐKT đến môi trường 9. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu)

2,23 2,29 2,68 2,40

2,69 2,84 2,88 2,81

2,46 2,69 2,79 2,65

2,69 2,79 2,84 2,78

2,69 2,90 2,84 2,82

1,96 2,50 2,66 2,39

2,75 2,72 2,89 2,78

2,42 2,57 2,55 2,52

2,65 2,74 2,93 2,77

2,48 2,59 2,54 2,54

2,31 2,72 2,84 2,64

2,73 2,93 2,86 2,85

10. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi Ban Giám đốc cho dù số tiền trọng yếu hay không 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 15. KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế cho Cơ quan thuế 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 17. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 19. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 20. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng

2,52 2,49 2,68 2,56

2,00 1,74 1,86 1,85

2,17 2,63 2,70 2,52

2,85 2,85 2,89 2,86

1,58 1,72 2,27 1,85

1,69 1,87 2,20 1,92

1,71 1,59 2,21 1,82

1,71 1,66 2,20 1,85

1,65 1,71 2,18 1,84

khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản. 23. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu và lao động. 24. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 26. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng của ĐVĐKT 27. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin trong báo cáo thường niên (BCTN) của ĐVĐKT 28. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng. 29. KTV có trách nhiệm kiểm tra và và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách an toàn sản phẩm 30. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.