BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN QUỐC KỊP
KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH - NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: KẾ TOÁN
Mã số: 60340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ GIANG TÂN
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Khoảng cách mong đợi về trách
nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính - Nghiên cứu thực
nghiệm tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học của tôi với sự hướng dẫn
của PGS.TS. Trần Thị Giang Tân. Luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ
hình thức nào. Tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đã được công bố đầy đủ.
TP.HCM, ngày 28 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Quốc Kịp
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 2
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3
4.1 Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 3
4.2 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
6. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI
VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1 Các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi kiểm toán trên thế giới ............ 5
1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam ...........................................................................12
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC .................................................15
2.1.1 Trách nhiệm của KTV theo VSA 200 ...........................................................15
2.1.2 Trách nhiệm của KTV theo VSA 240 ...........................................................16
2.1.3 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315 ........................................................19
2.1.4 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 ........................................................20
2.2 Khoảng cách mong đợi kiểm toán ....................................................................21
2.2.1 Khái niệm khoảng cách mong đợi kiểm toán.................................................21
2.2.2 Nguyên nhân hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán ...........................23
2.3 Lý thuyết nền tảng ...........................................................................................24
2.3.1 Lý thuyết ủy nhiệm .......................................................................................24
2.3.2 Lý thuyết niềm tin ký thác ............................................................................25
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thiết kế nghiên cứu .........................................................................................28
3.2 Đối tượng khảo sát...........................................................................................29
3.3 Nội dung khảo sát ............................................................................................30
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ
TRÁCH NHIỆM CỦA KTV TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI VIỆT NAM
4.1 Tổng quan về hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam .................................33
4.1.1 Lịch sử phát triển ..........................................................................................33
4.1.2 Các quy định pháp lý ....................................................................................34
4.2 Kết quả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm
toán BCTC tại Việt Nam .......................................................................................35
4.2.1 Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát..............................35
4.2.2 Kết quả khảo sát về khoảng cách hợp lý .......................................................37
4.2.3 Kết quả khảo sát về khoảng cách năng lực ....................................................46
4.2.4 Kết quả khảo sát về khoảng cách chuẩn mực ................................................50
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
5.1 Kết luận ...........................................................................................................57
5.2 Đề xuất quan điểm và định hướng thu hẹp khoảng cách mong đợi ..................60
5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ...........................................69
Kết luận .................................................................................................................72
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Hội kế toán công chứng Anh 1. ACCA
Ban Giám đốc 2. BGĐ
Ban Quản trị 3. BQT
Báo cáo kiểm toán 4. BCKT
Báo cáo tài chính 5. BCTC
Báo cáo thường niên 6. BCTN
Bộ tài chính 7. BTC
Chứng chỉ kiểm toán viên 8. CPA
Đơn vị được kiểm toán 9. ĐVĐKT
Giá trị trung bình 10. GTTB
Kiểm soát chất lượng 11. KSCL
Kiểm toán viên 12. KTV
Nhà Quản lý 13. NQL
Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam 14. VACPA
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 15. VSA
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU
Hình 2.1: Mô hình khoảng cách mong đợi kiểm toán ........................................... 22
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát .................... 37
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một BCTC đã được kiểm toán luôn tạo được sự tin cậy cho các Cổ đông và
các bên có quyền lợi liên quan của đơn vị được kiểm toán, đặc biệt đó là cơ sở cho
những nhà đầu tư ra quyết định có nên đầu tư hay không. Tuy nhiên, hiện nay niềm
tin đó đã bị suy giảm đáng kể bởi chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC bị ảnh
hưởng rất lớn sau nhiều vụ sụp đổ lớn trên thế giới như Enron, Worldcom,…Sự chỉ
trích và mất niềm tin của xã hội vào KTV, vào BCTC đã được kiểm toán do nhiều
nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân này là do khoảng cách giữa mong đợi
của xã hội về kiểm toán bao gồm cả mong đợi hợp lý và chưa hợp lý với khả năng
mà nghề nghiệp kiểm toán đáp ứng được. Thuật ngữ “Khoảng cách mong đợi” đã
xuất hiện trong các nghiên cứu từ năm 1970 của thế kỷ trước. Các nghiên cứu kết
luận rằng tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết các KTV về nghề nghiệp của họ so
với nhận thức của những người khác, đặc biệt có sự khác biệt trọng yếu trong nhận
thức về vai trò của KTV đối với việc phát hiện gian lận (Yusuf Munir Sidani, 2007),
có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của nhóm KTV và nhóm lợi ích liên quan
đến báo cáo tài chính như nghiên cứu của Semiu Babatunde Adeyemi và Olayinka
Marte Uadiale, 2011 tại Nigeria, nghiên cứu của Porter bắt đầu từ năm 1989 đến
năm 2008 tại Anh và New Zealand. Nhìn chung, người sử dụng BCTC và các nhóm
lợi ích khác trong xã hội có sự khác biệt về nhận thức liên quan đến chức năng, mục
tiêu kiểm toán hoặc trách nhiệm của KTV. Một số nghiên cứu khác cho thấy nhân
tố thể chế và văn hóa của mỗi nước ảnh hưởng đến kì vọng của xã hội về trách
nhiệm và đánh giá của họ về kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV.
Tuy nhiên các nghiên cứu về khoảng cách mong đợi kiểm toán chưa nhiều tại
Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề về
quy trình lập kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện hoặc
ngăn ngừa gian lận (Lý Trần Kim Ngân, 2011; Trương Thị Yến Nhung, 2012 và
Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013), đánh giá một số thuộc cá nhân của KTV đối với chất
2
lượng kiểm toán (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013), những vấn đề về luân chuyển KTV
và những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC (Lâm
Huỳnh Phương, 2013; Nguyễn Trọng Thể, 2013 và Nguyễn Quốc Cường, 2013),
nâng cao trách nhiệm của KTV (Ngô Thị Thu Hà, 2007) nhưng chưa chú trọng
mong đợi thực tế của xã hội về trách nhiệm của KTV, trách nhiệm đó đã được KTV
thực hiện như thế nào, bản thân KTV nhìn nhận ra sao, ĐVĐKT nghĩ gì về trách
nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. Vì vậy tác giả đã thực hiện nghiên
cứu “Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC -
Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam”. Nghiên cứu này nhằm cung cấp một bằng
chứng thực nghiệm liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt nam, về
sự mong đợi của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm toán BCTC tại
Việt Nam hiện nay, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV hiện nay như
thế nào theo quan điểm của người sử dụng BCTC và có những đề xuất nhằm thu
hẹp khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại
Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xem xét liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong
cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
Tìm hiểu các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của
KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu khoảng cách mong đợi về trách nhiệm
của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC hiện nay tại Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, luận văn trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu như
sau:
Có tồn tại khoảng cách sự mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm
toán BCTC tại Việt Nam không?
Các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong
cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam là gì?
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: ý kiến của các đối tượng liên quan gồm KTV, công ty
được kiểm toán, người sử dụng BCTC.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung vào kiểm toán độc lập, không nghiên cứu về kiểm
toán nhà nước hay kiểm toán nội bộ.
Không gian: Bảng câu hỏi khảo sát được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí
Minh.
Thời gian: Thời gian thực hiện nghiên cứu từ tháng 08/2015 đến tháng
10/2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp định tính thông qua việc thu thập các dữ liệu ban
đầu từ bảng câu hỏi khảo sát và kết hợp phương pháp thống kê mô tả, phân tích
tổng hợp các số liệu thu thập được. Từ đó đánh giá kết quả khảo sát về khoảng cách
mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam, tìm ra các
nguyên nhân hình thành khoảng cách này nhằm đề ra giải pháp thu hẹp.
Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ bài nghiên cứu của Porter
(2012), “Report on research conducted in the united kingdom and new zealand in
2008 investigating the audit expectation-performance gap and users’ understanding
of, and desired improvements to, the auditor’s report” với một vài thay đổi cho phù
hợp với môi trường pháp lý, văn hóa tại Việt Nam cũng như dựa trên một số nghiên
cứu khác.
Các bảng câu hỏi được gửi trực tiếp và thực hiện khảo sát dựa vào ứng dụng của
Google.docs cho ba nhóm đối tượng có liên quan lợi ích đến kiểm toán:
Nhóm KTV: là những người có kiến thức chuyên môn về kiểm toán và là
những người trực tiếp thực hiện trong cuộc kiểm toán. Đối tượng này tham
gia khảo sát gồm có KTV chính, chuyên viên kiểm toán và trợ lý kiểm
toán…
4
Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán: là những cá nhân chịu trách
nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao đổi và giải trình trực
tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán. Nhóm này tham gia khảo sát bao
gồm Ban (Tổng) Giám đốc, Kế toán Trưởng, Kế toán viên…
Nhóm người sử dụng BCTC: Đây là nhóm có lợi ích liên quan như đánh giá
thông tin tài chính để cho vay hoặc đánh giá tình hình hoạt động để đầu tư
hay đánh giá khả năng đóng góp cho Nhà nước thông qua đóng
thuế,…Nhóm này được khảo sát bao gồm: các nhân viên ngân hàng, các
nhân viên làm việc ở các Công ty Chứng Khoán, các nhân viên làm việc ở
các Cơ quan thuế…
Các số liệu được thu thập, tổng hợp và xử lý bằng phần mềm excel 2010. Từ đó
phân tích thực trạng và đề ra giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi của xã
hội về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu theo 5 chương:
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1. Các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của
KTV trong kiểm toán BCTC.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV
trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam.
Chương 5. Kết luận, giải pháp và hạn chế của đề tài.
5
CHƯƠNG 1: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH MONG
ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Các nghiên cứu trước về điều tra khoảng cách mong đợi kiểm toán trên thế
giới
Thuật ngữ “Khoảng cách mong đợi” đã tồn tại từ rất lâu, khoảng 100 năm trước
và là chủ đề được rất nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới:
[1] Lee (1970) có thể là người tiên phong nghiên cứu đầu tiên về khoảng cách
mong đợi kiểm toán được tiến hành ở Anh. Hơn 80% số người được phỏng vấn
(gồm KTV, công ty được kiểm toán và các đối tượng có lợi ích từ kiểm toán) về
mục tiêu kiểm toán. Các đối tượng cho rằng KTV có trách nhiệm trong việc phát
hiện các gian lận và sai sót trên BCTC, đảm bảo các công ty đã tuân thủ tất cả các
yêu cầu pháp lý của Luật doanh nghiệp, xác minh tính chính xác của sổ sách kế toán
và các hồ sơ, và đưa ra ý kiến về các sự trung thực và hợp lý về BCTC của công ty.
Trái với mong đợi của Lee, sự hiểu biết của KTV về mục tiêu kiểm toán dường như
là không khác với công ty được kiểm toán và các bên có lợi ích từ kiểm toán . Kết
quả này cho thấy rằng KTV dường như đã nhầm lẫn và không xác định rõ mục tiêu
cuộc kiểm toán của mình (Forter 2012, trang 10, đoạn 2).
[2] Beck (1973) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở Úc tương tự như của Lee ở
Anh. Kết quả từ nghiên cứu của Beck là cổ đông có mâu thuẫn về tính độc lập của
KTV, đó là các cổ đông tin rằng nếu KTV sở hữu cổ phần trong công ty được kiểm
toán thì lợi ích của KTV sẽ được kết hợp chặt chẽ hơn với những lợi ích của các cổ
đông.
[3] Humphrey, Moizer và Turley (1993) đã tiến hành một cuộc khảo sát tại Anh
để điều tra ý kiến của KTV, công ty được kiểm toán và người sử dụng BCTC về
KTV và công việc mà họ thực hiện. Và cũng giống như các nghiên cứu trước đó,
kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những ý kiến của nhóm KTV khác biệt rõ rệt với
những người là các giám đốc tài chính và những người sử dụng BCTC.
6
[4] Porter (1993) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở New Zealand để xác định ý
kiến đến trách nhiệm của KTV hiện có theo quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn
về sự thực hiện những trách nhiệm đó. Năm 1999, Porter và Gowthorpe (2004)
nhân rộng nghiên cứu năm 1989 của Porter ở cả New Zealand và Anh để so sánh
giữa cơ cấu, thành phần và mức độ của khoảng cách mong đợi kiểm toán ở New
Zealand và Anh 1999, hai nơi có môi trường pháp lý, văn hóa và kinh tế - xã hội
tương tự nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy người sử dụng BCTC vẫn có sự hiểu
lầm về chức năng của kiểm toán và trách nhiệm tồn tại của KTV.
[5] Hian Chye Koh và E-Sah Woo (1998) cho rằng có một sự lo ngại khi KTV
và công chúng có niềm tin khác nhau về trách nhiệm của KTV và các thông điệp
được truyền đạt bởi các báo cáo kiểm toán. Trong những năm gần đây, nhiều công
ty lớn sụp đổ đã làm cho khoảng cách mong đợi kiểm toán càng lớn. Rõ ràng, nhận
thức không hợp lý của công chúng là một nguyên nhân chính của khoảng cách này.
Và điều này phù hợp với các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Nghiên cứu của tác giả đã thực hiện thông qua xem xét các tài liệu về khoảng cách
mong đợi kiểm toán theo chiều dọc như sau: định nghĩa của khoảng cách mong đợi
kiểm toán; bản chất và cấu trúc của khoảng cách mong đợi; và cách để giảm khoảng
cách mong đợi. Nhóm tác giả hy vọng rằng đó là một nỗ lực có thể cung cấp cái
nhìn sâu sắc về khoảng cách mong đợi kiểm toán.
[6] Best, Peter J and Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001) nghiên cứu về
mức độ và tính chất của khoảng cách mong đợi kiểm toán tồn tại ở Singapore vào
giữa những năm 1990 và so sánh các kết quả của nghiên cứu này với Schelluch
(1996) tại Úc. Các kết quả từ nghiên cứu này tìm thấy bằng chứng của một khoảng
cách mong đợi kiểm toán rất lớn ở Singapore, đặc biệt là trách nhiệm của KTV đối
với việc ngăn ngừa và phát hiện gian lận.
[7] Z. Jun Lin và Feng Chen (2004) điều tra việc nổi lên như một hiện tượng của
khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Kết quả cho
thấy rằng vai trò và các lợi ích của kiểm toán được sự công nhận một cách tích cực
bởi những người hưởng lợi ích từ kiểm toán và nhu cầu mở rộng áp dụng kiểm toán
7
ngày càng tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng thu được bằng chứng quan trọng
về sự tồn tại của khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Trung Quốc liên quan đến các
mục tiêu kiểm toán; trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện và báo cáo gian lận;
và trách nhiệm với bên thứ ba. Các nguyên nhân và ý nghĩa thực tế của sự tồn tại
khoảng cách này là do bối cảnh hiện tại về các điều kiện kinh tế và xã hội của Trung
Quốc và các thủ tục được yêu cầu để thực hiện trong cuộc kiểm toán. Nghiên cứu
này đã làm sáng tỏ sự hiểu biết của người sử dụng và giúp ích rất lớn cho các tổ
chức ban hành và phát triển kiểm toán ở Trung Quốc.
[8] Philmore Alleyne và Michael Howard (2006) điều tra về việc làm thế nào
KTV và người sử dụng cảm nhận được trách nhiệm của KTV đối với việc phát hiện
gian lận, tính chất và mức độ gian lận tại Barbados, và các thủ tục kiểm toán được
sử dụng tại Barbados từ sự kiện Enron. Kết quả từ 43 người được hỏi (19 KTV và
24 người sử dụng) đã chỉ ra rằng tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn tại
Barbados vì KTV cảm thấy rằng việc phát hiện gian lận là trách nhiệm NQL, trong
khi người sử dụng và NQL không đồng ý điều này. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng
phát hiện rằng gian lận không phải là một vấn đề lớn ở Barbados vì các công ty có
kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát hữu hiệu và hiệu quả giúp trang bị tốt để đối
phó với việc phòng chống và phát hiện gian lận.
[9] Yusuf Munir Sidani (2007) nghiên cứu xem liệu có sự tồn tại của một
khoảng cách mong đợi giữa KTV và những người không phải KTV tại Lebanon.
Kết quả cho thấy tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết các KTV về nghề nghiệp
của họ so với nhận thức của những người khác, đặc biệt có sự khác biệt trọng yếu
trong nhận thức về vai trò của KTV đối với việc phát hiện gian lận.
[10] Mahdi Salehi (2008) thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để xác định khoảng
cách mong đợi về trách nhiệm của KTV giữa KTV và chủ ngân hàng ở Iran. Theo
quan điểm thực tế, các yếu tố quan trọng trong việc nâng cao sự tín nhiệm là sự
nhận thức của các cổ đông đánh giá BCTC được cung cấp bởi nhà quản lý. Trong
những năm gần đây, nhiều vụ bê bối của công ty lớn đã xảy ra, vì vậy các bên thứ
ba yêu cầu KTV phải là một thẩm phán trung thực. Các bên thứ ba mong đợi KTV
8
cần có nhiều trách nhiệm hơn nữa trong việc phát hiện gian lận. Tuy nhiên KTV thì
hiểu rằng giới hạn trách nhiệm của họ là không thể phát hiện tất cả các loại gian lận.
Vì vậy, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có khoảng cách đáng kể giữa KTV và các
chủ ngân hàng về việc nhận thức trách nhiệm phát hiện gian lận của KTV trong
cuộc kiểm toán BCTC.
[11] Mahdi Salehi (2009) nghiên cứu về sự độc lập của KTV và khoảng cách
mong đợi kiểm toán. Độc lập là cơ sở để đảm bảo độ tin cậy của báo cáo kiểm toán.
Các nguyên nhân để giảm tính độc lập là từ sự phụ thuộc tài chính của KTV với
khách hàng; cạnh tranh thị trường kiểm toán; việc cung cấp các dịch vụ phi kiểm
toán. Từ sự phụ thuộc đó, KTV không thể đưa ra một báo cáo hợp lý. Nghiên cứu
kết luận rằng “sự độc lập của KTV là một yếu tố quan trọng để giảm khoảng cách
mong đợi kiểm toán, bởi vì các nhà đầu tư và những người sử dụng khác đang mong
đợi nhiều hơn từ các KTV và công ty kiểm toán”.
[12] Javed Siddiqui (2009) điều tra những tác động của giáo dục về kiểm toán
trong việc làm giảm khoảng cách mong đợi kiểm toán tại một nền kinh tế mới nổi,
cụ thể là Bangladesh. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng giáo dục về kiểm toán
làm giảm đáng kể khoảng cách mong đợi kiểm toán, tuy nhiên, kết quả cũng chỉ ra
rằng mặc dù đã giới thiệu nhiều trường hợp bê bối trong kiểm toán cho các sinh
viên trong chương trình, nhưng vẫn còn một sự mong đợi không hợp lý liên quan
đến trách nhiệm của KTV.
[13] Dan Stirbu (2009) đã đặt ra câu hỏi: Có phải KTV chịu trách nhiệm cho
việc phát hiện gian lận trong những công ty mà họ kiểm tra? Và kết quả là: hầu hết
công chúng nghĩ là có. Các KTV thường không đồng ý. Trách nhiệm của KTV đối
với việc ngăn ngừa, phát hiện và báo cáo gian lận là một trong những vấn đề gây
tranh cãi nhất trong kiểm toán. Và nghiên cứu này đã tìm hiểu về việc nhận thức của
người sử dụng BCTC về mức độ gian lận ở Romania và trách nhiệm của KTV trong
phát hiện gian lận và các thủ tục kiểm toán có liên quan. Kết quả cho thấy đa số
nhận thức sai lầm về mục tiêu của một cuộc kiểm toán. Điều này là do một số người
9
trả lời đã đặt một sự mong đợi cao vào trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện
và báo cáo gian lận hơn là yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán.
[14] Oyinlola oluwagbemiga (2010) điều tra vai trò của KTV trong việc phát
hiện, ngăn chặn và báo cáo về gian lận. Dữ liệu được lấy từ 184 người được hỏi ở
Nigeria. Kết quả cho thấy rằng những người trả lời rất quan tâm đến các vấn đề gian
lận và đặt mong đợi rất cao về trách nhiệm của KTV về phòng, chống và phát hiện
gian lận. Điều này là trái ngược với nhận thức và mục tiêu chính của KTV. Do đó,
tạo ra một khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn tại Nigeria.
[15] Fowzia Rehana (2010) cũng nghiên cứu thực nghiệm về khoảng cách mong
đợi kiểm toán thông qua nghiên cứu vai trò của giáo dục về kiểm toán tại
Bangladesh. Khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt giữa những gì các
KTV thực sự làm và những gì các bên thứ ba nghĩ rằng KTV làm hoặc nên làm
trong việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Sự mâu thuẫn quan điểm đã được làm rõ
liên quan đến vai trò của giáo dục trong việc thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm
toán này. Nghiên cứu này đã được tiến hành nhằm điều tra xem liệu có bằng chứng
cho thấy việc cung cấp giáo dục về bản chất và giới hạn của kiểm toán như là một
phần trong chương trình đào tạo cử nhân kinh doanh góp phần thu hẹp khoảng cách
mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân từ một sự hiểu lầm các quy định và mục tiêu
kiểm toán. Cũng như kết quả của các nghiên cứu trước, cho thấy rằng giáo dục về
kiểm toán có hiệu quả đáng kể trong việc thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán.
[16] Semiu Babatunde Adeyemi và Olayinka Marte Uadiale (2011) nghiên cứu
về sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Nigeria. Nghiên cứu cho thấy một
khoảng cách mong đợi kiểm toán tồn tại ở Nigeria, đặc biệt là các vấn đề liên quan
đến trách nhiệm KTV. Kết quả cho thấy rằng có sự khác biệt đáng kể trong nhận
thức của nhóm trả lời tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Nigeria. Do đó,
nghiên cứu kiến nghị cần thiết phải thông tin cho công chúng về các đối tượng của
một cuộc kiểm toán, vai trò và trách nhiệm của KTV để thu hẹp khoảng cách mong
đợi kiểm toán.
10
[17] Omid Pourheydari và Mina Abousaiedi (2011) điều tra liệu có tồn tại một
khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa KTV và người sử dụng BCTC tại Iran.
Nghiên cứu sử dụng một công cụ khảo sát để xác định khoảng cách mong đợi kiểm
toán tại Iran. Các phương pháp nghiên cứu tương tự như bởi Schelluch; Best và các
cộng sự; Fadzly và Ahmad; Dixon và các cộng sự. Cũng như các nghiên cứu trước
đó, kết quả đã tìm thấy có sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Iran, đặc
biệt liên quan đến mức độ và tính chất về trách nhiệm KTV đối với phát hiện gian
lận, tính hiệu quả của kiểm soát nội bộ, và trách nhiệm chuẩn bị các BCTC.
[18] Mahdi Salehi (2011) tiếp tục nghiên cứu liên quan đến khoảng cách mong
đợi kiểm toán, lần này tác giả đề cập đến bản chất và kích thước khác nhau của
khoảng cách mong đợi kiểm toán trên toàn thế giới. Nghiên cứu đi đến kết luận rằng
khoảng cách này nên được thu hẹp bởi chính KTV, cải thiện trách nhiệm kiểm toán
trong các chuẩn mực mới và giáo dục cho những người sử dụng khác nhau hiểu về
mục tiêu và bản chất của cuộc kiểm toán.
[19] Fatemeh Saeidi (2012) điều tra sự tồn tại của khoảng cách mong đợi kiểm
toán liên quan đến trách nhiệm của KTV trong việc phòng ngừa và phát hiện gian
lận giữa các đối tượng là KTV, các NQL tài chính và các nhà đầu tư tại Iran. Công
cụ điều tra là một bảng câu hỏi được thiết kế theo Hassink và các cộng sự (2009)
với những thay đổi nhỏ theo chuẩn mực kiểm toán và hội nghề nghiệp kiểm toán ở
Iran. Có 34 câu hỏi được chia thành bốn nhóm: định nghĩa gian lận (Câu hỏi 1-10),
trách nhiệm cho việc phát hiện gian lận (Câu hỏi 11-22), trách nhiệm điều tra nghi
ngờ gian lận (Câu hỏi 23-28), và báo cáo phát hiện gian lận cho sự giám sát của hội
đồng quản trị và xã hội (Câu hỏi 29-34), thu thập 147 bảng trả lời. Kết quả của
nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng của sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán
giữa ba nhóm trả lời liên quan đến trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện gian lận của
KTV.
[20] Rasha Kassem và Dr. Andrew Higson (2012) nghiên cứu sâu vào hai lĩnh
vực. Thứ nhất, nó khám phá những lý do đằng sau khoảng cách mong đợi kiểm
toán, và thứ hai, nó đánh giá những nỗ lực của các nhà ban hành chuẩn mực kiểm
11
toán và KTV để thu hẹp khoảng cách liên quan với việc phát hiện gian lận. Và
nghiên cứu này cung cấp một tập hợp các đề xuất để giúp ích cho nỗ lực chống gian
lận của nhà ban hành chuẩn mực kiểm toán và KTV.
[21] Porter (2012) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở New Zealand và Anh trong
năm 2008 để xác định ý kiến đến trách nhiệm của KTV hiện có theo quy định của
pháp luật, các tiêu chuẩn về sự thực hiện những trách nhiệm đó và để xác định sự
hiểu biết người sử dụng BCTC về những thông điệp được chuyển tải trên báo cáo
kiểm toán. Nghiên cứu này được mở rộng từ chính nghiên cứu của Porter được thực
hiện trong năm 1999 cũng khảo sát tại New Zealand và Anh nhằm xác định và giải
thích sự khác biệt về khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa năm 2008 và 1999 tại
đây. Kết quả của nghiên cứu là các nhóm khảo sát vẫn chưa nhận thức đúng về
trách nhiệm hiện tại của KTV và kỳ vọng KTV thực hiện thêm những trách nhiệm
mà chuẩn mực kiểm toán hiện tại chưa quy định. Điều này cho thấy tồn tại khoảng
cách mong đợi ở Anh và New Zealand. Và khoảng cách này ở New Zealand thì lớn
hơn so với Anh một cách đáng kể. Kết quả này khác so với năm 1999 khi mức độ
chênh lệch khoảng cách mong đợi kiểm toán ở hai quốc gia đã được tìm thấy cơ bản
giống nhau. Từ năm 1999 đến năm 2008, khoảng cách mong đợi ở Anh đã thu hẹp
đáng kể, trong khi đó ở New Zealand mở rộng một chút. Các kết quả nghiên cứu
cho thấy rằng sự thay đổi về khoảng cách mong đợi ở Anh và New Zealand khác
nhau là do việc giám sát hoạt động KTV và công khai cho doanh nghiệp các vấn đề
của BCTC đã kiểm toán tại Anh thì tốt hơn. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy nội
dung của chuẩn mực về báo cáo kiểm toán thì ít tác động đến sự hiểu biết của người
sử dụng BCTC về những thông điệp được chuyển tải trên báo cáo kiểm toán.
[22] Klaus Ruhnke & Martin Schmidt (2014) phân tích nguyên nhân của khoảng
cách mong đợi kiểm toán cũng như tác động của những thay đổi đã được đề xuất
nhằm thu hẹp khoảng cách này của các nghiên cứu trước cho các Cơ quan ban hành
luật kiểm toán. Dựa trên bảng câu hỏi khảo sát được tiến hành trong năm 2011 tại
Đức, nghiên cứu phát hiện rằng công chúng đã có những mong đợi quá mức vào
trách nhiệm của KTV theo chuẩn mực hiện hành. Các nguyên nhân khác liên quan
12
là sự đánh giá quá khó, quá mong đợi của công chúng về hiệu quả hoạt động của
KTV, nhưng mặt khác, cũng do sự thiếu năng lực của KTV trong cuộc kiểm toán.
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy KTV không nhận thức đầy đủ trách nhiệm của
mình. Ngược lại với các đề xuất của nghiên cứu trước là bắt buộc xoay vòng KTV
và một lệnh cấm thực hiện các dịch vụ phi kiểm toán cho công ty đang được kiểm
toán, nghiên cứu này kiến nghị phải tăng nội dung thông tin của các ý kiến kiểm
toán sẽ thu hẹp khoảng cách này đến một mức độ cao hơn.
[23] Vidisha Gunesh Ramlugun (2014) cho thấy sự tồn tại của một khoảng cách
mong đợi kiểm toán tại Mauritius, đặc biệt hơn liên quan đến trách nhiệm, độ tin
cậy và minh bạch cần thiết từ các KTV. Nguyên nhân của những khoảng cách mong
đợi phát sinh do thiếu hiểu biết của người sử dụng BCTC về vai trò và trách nhiệm
của KTV.
1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam
Mặc dù thuật ngữ “khoảng cách mong đợi” liên quan đến trách nhiệm của
KTV đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên thế giới nhưng chưa phổ
biến ở Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề
về quy trình lập kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện hoặc
ngăn ngừa gian lận (Lý Trần Kim Ngân, 2011; Trương Thị Yến Nhung, 2012 và
Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013), đánh giá một số thuộc cá nhân của KTV đối với chất
lượng kiểm toán (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013), những vấn đề về luân chuyển KTV
và những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC (Lâm
Huỳnh Phương, 2013; Nguyễn Trọng Thể, 2013 và Nguyễn Quốc Cường, 2013),
nâng cao trách nhiệm của KTV (Ngô Thị Thu Hà, 2007) nhưng chưa chú trọng
mong đợi thực tế của xã hội về trách nhiệm của KTV, trách nhiệm đó đã được KTV
thực hiện như thế nào, bản thân KTV nhìn nhận ra sao, ĐVĐKT nghĩ gì về trách
nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC.
Vì có một khoảng trống trong các nghiên cứu truớc tại Việt Nam nên tác giả
đã chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu cho mình. Nghiên cứu này nhằm cung cấp
một bằng chứng thực nghiệm liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại
13
Việt nam, về sự mong đợi của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm
toán BCTC tại Việt Nam hiện nay, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV
hiện nay như thế nào theo quan điểm của nguời sử dụng BCTC và có những đề xuất
nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán
BCTC tại Việt Nam.
14
Kết luận chương 1
Nghiên cứu về khoảng cách mong đợi kiểm toán là một đề tài cấp thiết và có ý
nghĩa to lớn đối với người sử dụng BCTC nói riêng và xã hội nói chung. Vì việc
nâng cao chất lượng kiểm toán hiện nay không chỉ cố gắng nâng cao năng lực của
KTV, hoàn thiện các thủ tục kiểm toán hay kiểm soát chất lượng của các công ty
kiểm toán mà còn phải tìm hiểu xem mong đợi thực tế của xã hội hiện nay như thế
nào, hợp lý hay không và họ có đánh giá tốt trách nhiệm mà KTV đã thực hiện
trong cuộc kiểm toán BCTC không, từ đó hạn chế những mong đợi không hợp lý
của các nhóm lợi ích vượt quá khả năng thực tế của KTV nhằm thu hẹp khoảng
cách mong đợi kiểm toán.
Và chủ đề này đã được rất nhiều nghiên cứu trên thế giới thực hiện, điển hình
là nghiên cứu của Porter được tiến hành từ năm 1989 tại New Zealand và mở rộng
cả Anh và New Zealand năm 1999 và 2008. Các nghiên cứu đều có một kết luận:
tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Anh và New Zealand mặc dù nghiên
cứu ở các năm khác nhau. Đó cũng là kết quả nghiên cứu của Best, Peter J and
Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001) tại Singapore; Philmore Alleyne và
Michael Howard (2006) tại Barbados; Yusuf Munir Sidani (2007) tại
Lebanon…Tuy nhiên, đề tài này chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Vì vậy,
tác giả đã lựa chọn thực hiện nghiên cứu về vấn đề này để điều tra xem liệu có tồn
tại khoảng cách mong đợi tại Việt Nam.
15
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC
2.1.1 Trách nhiệm của KTV theo VSA 200
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 được Ban hành kèm theo Thông tư số
214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của BTC. Theo đoạn 11 của chuẩn
mực này, mục tiêu tổng thể của KTV và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm
toán BCTC là: “Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu BCTC, xét trên phương diện
tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp
KTV đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và
trình bày BCTC được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay không”.
KTV phải đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu BCTC, xét trên phương
diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự
đảm bảo hợp lý là sự đảm bảo ở mức độ cao và chỉ đạt được khi KTV đã thu thập
được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán (là
rủi ro do KTV đưa ra ý kiến không phù hợp khi BCTC còn có những sai sót trọng
yếu) tới một mức độ thấp có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, sự đảm bảo hợp lý
không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những hạn chế vốn có của cuộc
kiểm toán làm cho hầu hết bằng chứng kiểm toán mà KTV dựa vào để đưa ra kết
luận và ý kiến kiểm toán đều mang tính thuyết phục hơn là khẳng định (đoạn 05).
Những hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán do:
Bản chất của việc lập và trình bày BCTC: việc lập và trình bày BCTC gồm các
xét đoán của BGĐ, nhiều khoản mục trên BCTC liên quan đến các quyết định hoặc
đánh giá chủ quan hoặc có mức độ không chắc chắn dẫn đến kết quả là một số
khoản mục trên BCTC có mức độ thay đổi tiềm tàng, không thể loại trừ hoàn toàn
mà chỉ có thể áp dụng các thủ tục kiểm toán bổ sung để đánh giá.
Bản chất của các thủ tục kiểm toán: khả năng thu thập bằng chứng kiểm toán
của KTV bị giới hạn về tính khả thi hoặc giới hạn pháp lý như BGĐ ĐVĐKT hoặc
đối tượng khác có thể cố ý hoặc vô ý không cung cấp đầy đủ thông tin; hành vi gian
16
lận có thể được thực hiện tinh vi và kỹ lưỡng để che dấu và KTV không được đào
tạo để làm chuyên gia xác minh chứng từ giả mạo; KTV không có quyền điều tra,
thanh tra, xét hỏi, khám xét như cuộc điều tra của cơ quan pháp luật.
Sự cân nhắc giữa thời gian và giá phí một cách hợp lý: sự thích hợp của thông
tin, giá trị của thông tin có xu hướng giảm đi theo thời gian và cần cân nhắc sự cân
đối giữa độ tin cậy của thông tin với chi phí bỏ ra để có được thông tin đó.
Theo khoản j, đoạn 13 của chuẩn mực này cũng nêu rõ trách nhiệm của BGĐ
và BQT:
Lập và trình bày BCTC phù hợp với khuôn khổ quy định;
Đảm bảo cho việc lập và trình bày BCTC không còn sai sót trọng yếu do gian
lận hoặc nhầm lẫn;
Cung cấp cho KTV đầy đủ thông tin và quyền hạn cần thiết: tiếp cận với tất cả
tài liệu có liên quan đến quá trình lập và trình bày BCTC như chứng từ kế toán, sổ
kế toán và tài liệu khác; cung cấp và giải trình những yêu cầu của KTV để phục vụ
cho mục đích của cuộc kiểm toán; quyền tiếp cận không hạn chế đối với nhân sự
của ĐVĐKT mà KTV xác định là cần thiết để thu thập bằng chứng kiểm toán.
KTV cũng có trách nhiệm trao đổi thông tin và báo cáo về một số vấn đề phát
sinh từ cuộc kiểm toán với người sử dụng BCTC, BGĐ, BQT hoặc các đối tượng
khác ngoài ĐVĐKT (đoạn 09).
Như vậy, BCTC sử dụng để kiểm toán là báo cáo đã được BGĐ ĐVĐKT lập
với sự giám sát của BQT đơn vị, đã ký tên, đóng dấu theo quy định của pháp luật và
việc kiểm toán BCTC không làm giảm nhẹ trách nhiệm của BGĐ hoặc BQT
ĐVĐKT (đoạn 04).
2.1.2 Trách nhiệm của KTV theo VSA 240
Chuẩn mực này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV đối với gian lận
trong quá trình kiểm toán BCTC. Tuy nhiên ngay đoạn 04 đã xác định: “Việc ngăn
ngừa và phát hiện gian lận trước hết thuộc về trách nhiệm của BQT và BGĐ
ĐVĐKT. Điều quan trọng là BGĐ, với sự giám sát của BQT, phải đặc biệt chú ý
đến việc ngăn ngừa gian lận nhằm làm giảm bớt các cơ hội thực hiện hành vi gian
17
lận và phát hiện gian lận qua đó thuyết phục các cá nhân không thực hiện hành vi
gian lận vì khả năng bị phát hiện và xử phạt”. KTV chỉ chịu trách nhiệm đạt được
sự đảm bảo hợp lý rằng liệu BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót
trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không với những hạn chế vốn có của kiểm
toán (đoạn 05).
Theo đoạn 10 của chuẩn mực này, trách nhiệm của KTV là:
Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong BCTC do gian lận;
Thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về các rủi ro có sai sót trọng
yếu do gian lận đã được đánh giá, thông qua việc thiết kế và thực hiện những biện
pháp xử lý thích hợp;
Có biện pháp xử lý thích hợp đối với gian lận đã được xác định hoặc có nghi
vấn trong quá trình kiểm toán.
Để đánh giá rủi ro và các hoạt động liên quan nhằm tìm hiểu về ĐVĐKT và
môi trường hoạt động của đơn vị, KTV phải phỏng vấn BGĐ ĐVĐKT về đánh giá
của họ về rủi ro có thể có sai sót do gian lận trong BCTC, bao gồm nội dung, phạm
vi và tần suất của các đánh giá đó; quy trình xác định và xử lý rủi ro có gian lận;
quan điểm về gian lận, các hoạt động kinh doanh và hành vi đạo đức. Và KTV cũng
phải phỏng vấn bộ phận kiểm toán nội bộ và các đối tượng khác để xác định xem họ
có biết về bất kỳ gian lận nào trong thực tế, nghi ngờ có gian lận hoặc cáo buộc gian
lận nào ảnh hưởng đến đơn vị hay không, và để tìm hiểu các quan điểm của họ về
rủi ro có gian lận tại đơn vị (đoạn 17 – 19).
KTV phải tìm hiểu cách thức mà BQT thực hiện chức năng giám sát quy trình
xác định và xử lý rủi ro có gian lận trong đơn vị của BGĐ và kiểm soát nội bộ mà
BGĐ thiết lập để giảm thiểu các rủi ro. Sau đó, KTV phải phỏng vấn BQT để xác
định xem BQT có biết về bất kỳ gian lận nào trong thực tế, nghi ngờ có gian lận
hoặc cáo buộc gian lận nào ảnh hưởng đến đơn vị hay không và đối với kết quả đã
phỏng vấn BGĐ xem liệu có sự phù hợp và nhất quán (đoạn 20 - 21).
Sau khi phỏng vấn và thu thập các thông tin cần thiết, KTV phải xác định và
đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận ở cấp độ BCTC và ở cấp độ cơ sở
18
dẫn liệu của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh và có
những biện pháp xử lý phù hợp theo quy định của chuẩn mực này. Và khi KTV
khẳng định rằng BCTC có chứa đựng sai sót trọng yếu, hoặc không thể đưa ra kết
luận được rằng BCTC có chứa đựng sai sót trọng yếu do gian lận hay không thì
KTV phải đánh giá các tác động đối với cuộc kiểm toán và cân nhắc thực hiện
những công việc tiếp theo cho phù hợp:
Thu thập giải trình bằng văn bản của BGĐ và BQT ĐVĐKT về việc thừa nhận
trách nhiệm thiết lập, thực hiện và duy trì kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa và phát
hiện gian lận; đã cung cấp cho KTV các thông tin mà họ biết về bất kỳ cáo buộc
gian lận, hoặc nghi ngờ gian lận nào có ảnh hưởng đến BCTC.
Trao đổi với Ban Giám đốc: khi đã thu thập được bằng chứng về sự tồn tại
hoặc có thể tồn tại gian lận do các nhân viên thực hiện, KTV cần trao đổi ngay với
Ban Giám đốc, kể cả khi vấn đề phát hiện được có thể được coi là không có ảnh
hưởng đáng kể.
Trao đổi với Ban Quản trị: nếu KTV xác định được hoặc nghi ngờ rằng hành
vi gian lận có liên quan đến BGĐ; các nhân viên giữ vai trò quan trọng trong kiểm
soát nội bộ; những người khác trong trường hợp hành vi gian lận dẫn đến sai sót
trọng yếu trong BCTC thì KTV phải trao đổi vấn đề này với BQT và thảo luận với
BQT về nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thiết để hoàn
tất cuộc kiểm toán
Rút khỏi hợp đồng kiểm toán: xác định trách nhiệm nghề nghiệp hoặc trách
nhiệm pháp lý yêu cầu phải báo cáo với đối tượng đã chỉ định thực hiện cuộc kiểm
toán hoặc báo cáo với các cơ quan quản lý có thẩm quyền (nếu có) về việc KTV rút
khỏi hợp đồng kiểm toán và lý do rút khỏi hợp đồng kiểm toán.
Trao đổi với các cơ quan quản lý và cơ quan pháp luật có liên quan: nếu xác
định được hành vi gian lận hoặc nghi ngờ có hành vi gian lận thì KTV phải xác định
trách nhiệm báo cáo về hành vi gian lận hoặc nghi ngờ có hành vi gian lận đó với
bên thứ ba (nếu có). Mặc dù trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng có thể
không cho phép KTV thực hiện việc báo cáo đó nhưng trong một số trường hợp,
19
trách nhiệm pháp lý của KTV có thể cao hơn trách nhiệm bảo mật đó, tùy theo từng
trường hợp cụ thể, KTV có thể phải xin ý kiến của chuyên gia tư vấn pháp luật để
xác định sự cần thiết phải báo cáo về các gian lận với cơ quan quản lý, cơ quan
pháp luật có liên quan để đảm bảo các bước công việc cần thiết đối với lợi ích công
chúng trước ảnh hưởng của các gian lận đã phát hiện.
2.1.3 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315
Chuẩn mực này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV là xác định và
đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn ở cấp độ BCTC và
cấp độ cơ sở dẫn liệu, thông qua hiểu biết về ĐVĐKT và môi trường của đơn vị,
trong đó có kiểm soát nội bộ, từ đó cung cấp cơ sở cho việc thiết kế và thực hiện
các biện pháp xử lý đối với rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá (đoạn 03).
KTV phải thu thập hiểu biết về khách hàng và môi trường hoạt động để xác
định và hiểu các sự kiện, giao dịch và thông lệ kinh doanh của khách hàng có ảnh
hưởng trọng yếu tới BCTC, qua đó giúp xác định rủi ro có sai sót trọng yếu do gian
lận. KTV phải tìm hiểu các thông tin sau:
Ngành nghề kinh doanh, các quy định pháp lý.
Đặc điểm của đơn vị bao gồm lĩnh vực hoạt động; loại hình sở hữu và bộ máy
quản trị; Các hình thức đầu tư mà đơn vị đang và sẽ tham gia; Cơ cấu tổ chức, sản
xuất kinh doanh và quản lý và cơ cấu nguồn vốn của đơn vị.
Các chính sách kế toán mà đơn vị lựa chọn áp dụng.
Mục tiêu, chiến lược của đơn vị và những rủi ro kinh doanh có liên quan mà
có thể dẫn đến rủi ro có sai sót trọng yếu.
Việc đo lường và đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị.
Chuẩn mực này đưa ra một số phương pháp giúp KTV thu thập những hiểu
biết về đơn vị, bao gồm:
Phỏng vấn BGĐ và các cá nhân khác trong đơn vị mà theo xét đoán của KTV
có khả năng cung cấp thông tin hỗ trợ cho việc xác định rủi ro có sai sót trọng yếu
do gian lận.
Thực hiện thủ tục phân tích.
20
Quan sát và điều tra.
Sử dụng các thông tin thu thập được từ kinh nghiệm của các cuộc kiểm toán
trước.
Thảo luận giữa các KTV, tận dụng hiểu biết của các KTV có nhiều kinh
nghiệm và chuyên môn lâu năm về khách hàng để đánh giá khả năng BCTC của
đơn vị có dễ xảy ra sai sót trọng yếu do gian lận.
2.1.4 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330
Chuẩn mực này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV là thu thập đầy
đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp liên quan đến các rủi ro có sai sót trọng yếu đã
được đánh giá, thông qua việc thiết kế và thực hiện các biện pháp xử lý phù hợp đối
với các rủi ro. Sau khi xác định và đánh giá rủi ro theo VSA 315, tùy theo rủi ro ở
cấp độ BCTC hay cơ sở dẫn liệu mà KTV có biện pháp xử lý phù hợp.
Biện pháp xử lý tổng thể đối với các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh
giá ở cấp độ BCTC có thể bao gồm:
Nhấn mạnh với nhóm kiểm toán về sự cần thiết phải duy trì thái độ hoài nghi
nghề nghiệp;
Bổ nhiệm các thành viên nhóm kiểm toán có kinh nghiệm hoặc có kỹ năng
chuyên môn đặc biệt, hoặc sử dụng chuyên gia;
Tăng cường giám sát;
Kết hợp các yếu tố không thể dự đoán trước khi lựa chọn các thủ tục kiểm
toán tiếp theo cần thực hiện;
Thực hiện những thay đổi chung đối với nội dung, lịch trình và phạm vi các
thủ tục kiểm toán
KTV phải thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán với nội dung, lịch trình
và phạm vi dựa vào kết quả đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn
liệu. KTV có thể sử dụng thử nghiệm kiểm soát nếu mong đợi rằng các kiểm soát
hoạt động hiệu quả, hay thử nghiệm cơ bản đối với từng nhóm giao dịch, số dư tài
khoản và thông tin thuyết minh trọng yếu hoặc phương pháp kết hợp thử nghiệm
kiểm soát và thử nghiệm cơ bản cũng là một phương pháp hữu hiệu.
21
2.2 Khoảng cách mong đợi kiểm toán
2.2.1 Khái niệm khoảng cách mong đợi kiểm toán
Thuật ngữ “khoảng cách mong đợi trong kiểm toán” lần đầu tiên ra đời bởi
Liggio (1974), theo ông, khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt giữa mức
độ mong đợi về sự thực hiện cuộc kiểm toán của người sử dụng BCTC và KTV.
Ủy ban Cohen (1978) mở rộng khái niệm này là khoảng cách giữa sự mong
đợi hoặc yêu cầu của công chúng và những gì mà KTV có thể và nên thực hiện một
các hợp lý.
Theo Guy và Sullivan (1988), khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt
giữa những gì mà công chúng và những người sử dụng BCTC tin rằng KTV chịu
trách nhiệm và những gì mà KTV tin rằng họ có trách nhiệm thực hiện.
Godsel (1992) định nghĩa khoảng cách mong đợi là khoảng cách mà công
chúng tin tưởng về nhiệm vụ và trách nhiệm của KTV và những thông điệp được
thể hiện trong Báo cáo kiểm toán.
Porter (1993) khoảng cách mong đợi kiểm toán được định nghĩa là sự mong
đợi của xã hội về nghề kiểm toán và nhận thức của KTV về khả năng thực hiện
trách nhiệm của mình và những thông điệp truyền tải trên báo cáo Kiểm toán.
Theo Viện Kế toán viên Công chứng Hoa Kỳ (1993), khoảng cách mong đợi
kiểm toán đề cập đến sự khác biệt giữa những gì mà công chúng và người sử dụng
BCTC tin rằng trách nhiệm của KTV phải thực hiện và những gì mà KTV tin rằng
trách nhiệm họ phải thực hiện.
Monroe và Woodliff (1994) cho rằng khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự
khác biệt về niềm tin giữa KTV và công chúng về nhiệm vụ và trách nhiệm mà
KTV đảm nhận và thông điệp trình bày trong báo cáo kiểm toán.
Viện Kế toán viên Công chứng Úc (1994) cho rằng khoảng cách mong đợi
kiểm toán là sự khác biệt về mong đợi của người sử dụng BCTC và chất lượng lập
BCTC và chất lượng dịch vụ kiểm toán thực tế.
Như vậy, tuy có nhiều khái niệm khác nhau nhưng đều thể hiện một vấn đề cốt
lõi: có một sự khác biệt giữa nhận thức của xã hội về trách nhiệm của KTV phải
22
thực hiện và sự nhận thức của chính KTV về trách nhiệm của mình, đó là khoảng
cách mong đợi kiểm toán.
Với các định nghĩa đã nêu, có thể nhận thấy rằng khoảng cách mong đợi kiểm
toán có hai thành phần chính:
Khoảng cách giữa những gì xã hội mong đợi KTV đạt được và những gì là
hợp lý mà KTV có thể đạt được (gọi là “khoảng cách hợp lý).
Khoảng cách giữa những gì xã hội mong đợi hợp lý KTV thực hiện và những
gì KTV đạt được (gọi là “khoảng cách thực hiện”). Có thể được chia thành:
Khoảng cách giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách
nhiệm hiện hữu của KTV được quy định trong Luật và các chuẩn mực
nghề nghiệp (“khoảng cách chuẩn mực”).
Khoảng cách giữa các tiêu chuẩn mong đợi về trách nhiệm của KTV và
Khoảng cách mong đợi
khả năng thực hiện thực tế của KTV (“khoảng cách năng lực”)
Nhận thức của KTV về trách nhiệm nghề nghiệp Mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV
Khoảng cách hoạt động Khoảng cách hợp lý
Trách nhiệm thực tế của KTV Trách nhiệm của KTV được mong đợi ở mức độ có thể chấp nhận được
Mong đợi không hợp lý Thiếu năng lực Tính không đầy đủ trong chuẩn mực
Hình 2.1: Mô hình về khoảng cách mong đợi kiểm toán (Porter, 1993)
23
2.2.2 Nguyên nhân hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán
Từ mô hình khoảng cách mong đợi kiểm toán của Porter (1993), có thể nhận thấy
các nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán như
sau:
Mong đợi chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm KTV
Vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng trách nhiệm của KTV, chẳng hạn trách
nhiệm KTV là bảo đảm BCTC được kiểm toán là chính xác tuyệt đối và không có
bất cứ sai sót nào tồn tại; KTV cần phải kiểm tra 100% các nghiệp vụ kinh tế và
phát hiện tất cả các sai sót và gian lận qua đó cảnh báo tất cả các rủi ro có thể xảy ra
đến đơn vị được kiểm toán; BCTC phải trình bày tất cả các thông tin có liên quan
đến mọi hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Đó là những mong đợi mang tính
chủ quan của người sử dụng BCTC về trách nhiệm của KTV và điều đó tạo ra sự
mong đợi chưa hợp lý, nói cách khác, đó là sự nhầm lẫn trong nhận thức của xã hội
về bản chất, mục đích và chức năng của hoạt động kiểm toán cũng như trách nhiệm
của KTV. Nguyên nhân làm khoảng cách này hình thành chủ yếu do sự phức tạp
các thuật ngữ và khái niệm trong chuẩn mực kiểm toán dẫn đến sự hiểu lầm hoặc
nhận thức chưa đầy đủ của xã hội như: khái niệm sự trung thực và hợp lý, mức độ
có thể chấp nhận được, trọng yếu, đầy đủ, đáng tin cậy…, tuy nhiên những thuật
ngữ này lại được dùng để đánh giá hoạt động kiểm toán cũng như kết luận trong báo
cáo kiểm toán (Humphrey, 1997). Và trong cuộc kiểm toán, luôn tồn tại sự hạn chế
vốn có, đó là KTV không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro kiểm toán và không thể đạt
được sự đảm bảo tuyệt đối về việc BCTC hoàn toàn không có sai sót trọng yếu do
gian lận nhưng phần lớn người sử dụng BCTC cho rằng BCTC đã được kiểm toán
là sự bảo đảm tuyệt đối các thông tin phản ánh trên BCTC của đơn vị được kiểm
toán. Vì vậy, không thể thỏa mãn mong đợi của những người sử dụng BCTC theo
quan điểm trên vì mong đợi chưa hợp lý và không thể thực hiện được đối với KTV
và công ty kiểm toán.
24
Do chuẩn mực chưa đầy đủ
Nguyên nhân tiếp theo hình thành nên khoảng cách mong đợi kiểm toán là do
tính không đầy đủ của chuẩn mực kiểm toán, hàm ý về sự lỏng lẻo trong hệ thống
chuẩn mực kiểm toán so với yêu cầu thực tế của xã hội và sự phát triển, biến đổi
của nền kinh tế. Vì trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán và đưa ra ý kiến về
BCTC của đơn vị được kiểm toán, KTV luôn dựa vào chuẩn mực kiểm toán và các
quy định có liên quan. Nhưng chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như tại Việt Nam
chưa thực sự đầy đủ cho nên gây khó khăn cho KTV và công ty kiểm toán trong
việc thực hiện trách nhiệm và đưa ra ý kiến kiểm toán phù hợp và mang đến thông
tin có ích cho nhu cầu hợp lý của xã hội.
Do hạn chế năng lực của KTV
Một nguyên nhân quan trọng tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán là KTV
chưa thực sự nhận thức được trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán và cung
cấp dịch vụ chưa thực sự hoàn hảo, chưa đáp ứng được mong đợi của xã hội:
KTV thiếu năng lực nên BCTC được kiểm toán vẫn còn các sai sót trọng
yếu;
KTV chưa tuân thủ đầy đủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp về các mối
quan hệ xã hội và quan hệ kinh tế với ĐVĐKT nên tính độc lập bị vi phạm;
KTV chưa thực hiện đầy đủ các thủ tục kiểm toán theo yêu cầu của
chuẩn mực nhưng vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, trong khi bỏ sót nhiều rủi
ro trọng yếu làm mất niềm tin của xã hội.
2.3 Lý thuyết nền tảng
2.3.1 Lý thuyết ủy nhiệm hay lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Nội dung lý thuyết: Lý thuyết ủy nhiệm có nguồn gốc từ lý thuyết kinh tế,
được phát triển bởi Alchial và Demsetz năm 1972 và được Jensen và Meckling phát
triển thêm vào năm 1976. Thuyết ủy nhiệm xuất hiện khi nền kinh tế thế giới phát
triển mạnh mẽ, các công ty đa dạng về loại hình và phát triển về quy mô nên chủ sở
hữu không trực tiếp điều hành công ty mà ủy quyền cho NQL đại diện họ điều hành
công ty thông qua hợp đồng ủy nhiệm. Lý thuyết ủy nhiệm nghiên cứu mối quan hệ
25
giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm, đó là cổ đông hoặc chủ sở hữu. Lý thuyết
ủy nhiệm liên quan đến việc giải quyết hai vấn đề xuất hiện trong mối quan hệ ủy
nhiệm:
Sự mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu và NQL do mỗi bên đều muốn tối đa hóa
lợi ích của mình. Vì vậy không chắc rằng NQL sẽ luôn hành động để mang lại
lợi ích cao nhất cho chủ sở hữu.
Việc giám sát NQL là khó khăn hoặc tốn kém vì tồn tại thông tin bất cân xứng
giữa NQL và chủ sở hữu. NQL dễ dàng nhận biết được tình huống nào, hợp
đồng nào, đối tác nào sẽ đem lại nguồn lợi và có khả năng tối đa hoá lợi ích cá
nhân trên cơ sở nguồn lực của công ty – nguồn lực của chủ sở hữu. NQL có
khả năng điều hành doanh nghiệp theo lợi ích của mình hơn là lợi ích của công
ty.
Vì vậy lý thuyết ủy nhiệm nêu ra vấn đề giải quyết làm sao để NQL làm việc
vì lợi ích cao nhất cho chủ sở hữu khi họ có lợi thế về thông tin hơn và có những lợi
ích khác với lợi ích của những chủ sở hữu này.
Vận dụng lý thuyết này vào đề tài: Lý thuyết ủy nhiệm được sử dụng để giải
thích những kỳ vọng quá lớn của cổ đông vào trách nhiệm của KTV trong kiểm
toán BCTC. Bởi cổ đông rất khó khăn hoặc tốn kém trong việc kiểm tra mọi thông
tin tài chính của doanh nghiệp do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và
báo cáo cho họ, do vậy họ đã bổ nhiệm các KTV – những người có đủ năng lực
chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, khách quan - thay thế họ kiểm tra một cách độc lập
và báo cáo lại theo ý kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài
chính. Tuy nhiên luôn tồn tại khoảng cách giữa KTV và cổ đông và những nhóm sử
dụng kết quả kiểm toán vì những mong muốn của các đối tượng này luôn vượt quá
trách nhiệm và khả năng của KTV.
2.3.2 Lý thuyết niềm tin ký thác của Limperg (Theory of Inspired Confidence)
Nội dung lý thuyết: Giáo sư Theodore Limperg (1879-1961) của Đại học
Amsterdam đã đưa ra lý thuyết có tên niềm tin ký thác. Lý thuyết niềm tin ký thác
cho rằng KTV và công ty kiểm toán có chức năng và trách nhiệm cung cấp dịch vụ
26
đảm bảo nhằm nâng cao độ tin cậy thông tin, điều này xuất phát từ nhu cầu của xã
hội về việc cần có người kiểm tra chuyên môn một cách độc lập và đưa ra ý kiến
kiểm toán dựa trên sự kiểm tra đó. Chức năng này được bắt nguồn từ niềm tin của
xã hội về hiệu quả của cuộc kiểm toán và ý kiến của các KTV. Do đó, niềm tin của
xã hội là một điều kiện cho sự tồn tại của chức năng kiểm toán, và do vậy người sử
dụng báo cáo tài chính thường yêu cầu rất cao đối với KTV.
Vận dụng lý thuyết này vào đề tài: Lý thuyết niềm tin ký thác đã giải thích
vì sao xã hội lại có mong đợi cao vì chức năng cơ bản của kiểm toán là cung cấp sự
đảm bảo về thông tin được kiểm tra. Tuy nhiên, do sự kỳ vọng quá mức này mà
KTV không thể đáp ứng được những mong đợi lớn hơn ngoài những trách nhiệm đã
thực hiện, từ đó tạo ra khoảng cách mong đợi kiểm toán.
27
Kết luận chương 2
Trong cuộc kiểm toán BCTC, trách nhiệm của KTV được quy định trong
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Trong quá trình kiểm toán, KTV dựa vào các thủ
tục kiểm toán được quy định, kết hợp với kinh nghiệm chuyên môn, xét đoán nghề
nghiệp để đánh giá những khả năng xảy ra sai sót hoặc gian lận trọng yếu. Từ đó
đưa ra kết luận BCTC có trung thực và hợp lý hay không.
Tuy nhiên, nhiều thuật ngữ trong chuẩn mực mang tính chuyên ngành gây sự
hiểu lầm hoặc nhận thức chưa đầy đủ của người sử dụng BCTC như: khái niệm sự
trung thực và hợp lý, mức độ có thể chấp nhận được, trọng yếu, đầy đủ, đáng tin
cậy…, Chính điều này đã tạo nên những nhận thức khác nhau của các nhóm lợi ích
về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC và có những mong muốn vượt
quá yêu cầu của KTV. Từ đó hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Ba nguyên nhân chính tạo ra khoảng cách mong đợi kiểm toán là mong đợi
chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm của KTV, do chuẩn mực chưa đầy đủ và do
hạn chế năng lực của KTV. Vì vậy, nghiên cứu các nguyên nhân này tại Việt Nam
và có các biện pháp xử lý nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán, nâng cao
chất lượng kiểm toán và lấy lại niềm tin của xã hội về nghề kiểm toán.
28
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thiết kế nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định liệu khoảng cách kỳ vọng về
trách nhiệm có xuất hiện tại VN. Đồng thời nghiên cứu cũng điều tra hiểu biết và
mong đợi của xã hội về những trách nhiệm cũng như sự đánh giá kết quả thực hiện
những trách nhiệm đó của KTV. Nghiên cứu chính tác giả dựa vào là nghiên cứu
của Porter. Lý do tác giả lựa chọn vì nghiên cứu của Porter về khoảng cách kỳ vọng
là đầy đủ nhất. Porter đã được thực hiện nghiên cứu tại Anh và New Zealand, hai
quốc gia có nghề kiểm toán phát triển mạnh trên thế giới, đặc biệt tại Anh có Hiệp
hội Kế toán Công chứng Anh quốc (viết tắt là ACCA - Association of Chartered
Certified Accountants) là một tổ chức nghề nghiệp rất uy tín trong ngành kế toán -
kiểm toán toàn cầu. Ngoài ra nghiên cứu đã được Porter thực nghiệm rất nhiều năm
từ 1989, 1999 và 2008 nên bài nghiên cứu đã được hoàn thiện. Hơn nữa, nghiên cứu
về khoảng cách kỳ vọng do Porter thực hiện đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu
khác tham chiếu đến khi thực hiện nghiên cứu cho mình cũng như đã được đưa vào
các sách giáo khoa về Kiểm toán.
Đề tài sử dụng phương pháp định tính thông qua việc thu thập các dữ liệu ban
đầu từ bảng câu hỏi khảo sát và kết hợp phương pháp thống kê mô tả, phân tích
tổng hợp các số liệu thu thập được. Từ đó đánh giá kết quả khảo sát về khoảng cách
mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam, tìm ra các
nguyên nhân hình thành khoảng cách này nhằm đề ra giải pháp thu hẹp.
Để đạt được mục tiêu của nghiên cứu, tác giả đã thiết kế bảng câu hỏi nhằm
thu thập các dữ liệu ban đầu từ các đối tượng khảo sát đã được lựa chọn. Bảng câu
hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ nghiên cứu của Porter (2012), “Report on
research conducted in the united kingdom and new zealand in 2008 investigating
the audit expectation-performance gap and users’ understanding of, and desired
improvements to, the auditor’s report” và tham khảo các nội dung có liên quan với
đề tài từ các nghiên cứu điển hình trên thế giới như Philmore Alleyne và Michael
29
Howard (2006), “An exploratory study of auditors’ responsibility for fraud
detection in Barbados”; Best, Peter J và Buckby, Sherrena và Tan, Clarice (2001);
“Evidence of the Audit Expectation Gap in Singapore”; với một vài sự thay đổi nội
dung cho phù hợp với môi trường pháp lý, văn hóa tại Việt Nam.
3.2 Đối tượng khảo sát
Dựa trên mục tiêu khảo sát, luận văn tập trung khảo sát các đối tượng liên
quan lợi ích kiểm toán và có hiểu biết về BCTC như: KTV, trợ lý kiểm toán, kế
toán, nhân viên ngân hàng. Các đối tượng này được chia thành 3 nhóm cơ bản:
Nhóm KTV: là những người có kiến thức chuyên môn về kiểm toán và là
những người trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán. Đối tượng này tham gia
khảo sát gồm có KTV chính, chuyên viên kiểm toán và trợ lý kiểm toán.
- KTV chính: Là những KTV có nhiều kinh nghiệm, được giao trách
nhiệm lập kế hoạch kiểm toán, trực tiếp điều hành cuộc kiểm toán và
soạn thảo báo cáo kiểm toán trình cho cấp trên xét duyệt.
- Chuyên viên kiểm toán: là những trợ lý cho kiểm toán viên chính, có
kinh nghiệm từ 2 năm trở lên và thường thực hiện các nội dung chi
tiết của chương trình kiểm toán, thực hiện các phần hành quan trọng
trong cuộc kiểm toán như hàng tồn kho, giá vốn, doanh thu, thuế,…và
giám sát công việc của trợ lý kiểm toán.
- Trợ lý kiểm toán: là những nhân viên kiểm toán mới vào nghề, phụ
giúp cho KTV chính và chuyên viên kiểm toán và thực hiện những
phần hành nhỏ trong cuộc kiểm toán BCTC.
Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán: là những cá nhân chịu trách
nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao đổi và giải trình trực
tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán. Nhóm này tham gia khảo sát bao
gồm NQL, Kế toán Trưởng, Kế toán viên.
Nhóm người sử dụng BCTC: Đây là nhóm có lợi ích liên quan như đánh giá
thông tin tài chính để cho vay hoặc đánh giá tình hình hoạt động để đầu
30
tư,…Nhóm này được khảo sát bao gồm: các nhân viên ngân hàng, các nhân
viên làm việc ở các Công ty Chứng khoán…
- Nhân viên ngân hàng: là những cá nhân làm việc tại các ngân hàng ở
nhiều vị trí khác nhau như tín dụng, phân tích BCTC,…
- Nhân viên chứng khoán: là những cá nhân làm việc tại các công ty
chứng khoán với nhiều vị trí khác nhau như môi giới đầu tư,…
Các bảng câu hỏi khảo sát được gửi trực tiếp và thực hiện khảo sát dựa vào
ứng dụng của Google.docs cho ba nhóm đối tượng trên với tổng số 210 bảng câu
hỏi đã được gửi với 70 bảng cho mỗi nhóm. Tỷ lệ phản hồi là 84% tương đương
176 bảng khảo sát nhận lại. Cụ thể, có 70 bảng câu hỏi được gửi đến các KTV, có
52 bảng câu hỏi được gửi về và hợp lệ cho việc phân tích, thống kê, đạt tỷ lệ phản
hồi là 74%. Tương tự, có 70 bảng câu hỏi được gửi đến cho mỗi nhóm còn lại,
nhóm kế toán và NQL và nhóm nhân viên ngân hàng, chứng khoán, với số bảng
hợp lệ nhận về lần lượt là 68 và 56 tương đương tỷ lệ phản hồi là 97% và 80%. Chi
tiết kết quả khảo sát được nêu trong chương 4.
3.3 Nội dung khảo sát
Bảng câu hỏi khảo sát bao gồm 2 phần. Phần một bao gồm các câu hỏi liên
quan đến nhân khẩu học bao gồm thông tin cá nhân, chuyên môn, số năm làm việc
và thông tin về công ty mà đối tượng khảo sát đang công tác. Phần hai bao gồm 30
câu hỏi liên quan trách nhiệm hiện tại và trách nhiệm mong đợi của KTV nhằm thu
thập sự hiểu biết của các đối tượng được khảo sát đối trách nhiệm của KTV trong
kiểm toán BCTC.
Đối với mỗi trách nhiệm đã đề nghị được liệt kê trong bảng câu hỏi, người trả
lời được yêu cầu chỉ ra quan điểm của họ đối với ba câu hỏi:
Câu 1: KTV có được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?
Câu 2: Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV đã thực hiện tốt trách
nhiệm này không?
Câu 3: KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?
31
Kết quả khảo sát đối với câu (1) cho thấy khoảng cách giữa những gì xã hội
mong đợi với trách nhiệm thực sự của KTV trong đó có những mong đợi hợp lý
(gọi là khoảng cách hợp lý). Tương tự, kết quả khảo sát câu (2) cho thấy khoảng
cách giữa mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV và khả năng thực hiện của
KTV (khoảng cách năng lực). Và kết quả khảo sát câu (3) cho biết khoảng cách
giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách nhiệm hiện hữu của KTV
được quy định trong Luật và các chuẩn mực nghề nghiệp (khoảng cách chuẩn mực).
Kế thừa thang đo theo nghiên cứu của Porter, câu trả lời cho câu hỏi (1) và (3)
được sử dụng thang đo 3 mức độ với mỗi câu trả lời là không, không chắc và có
tương đương với số điểm là 1, 2 và 3. Câu hỏi 2 đươc đo lường bởi 4 thang đo,
tương ứng với không chắc, không, đạt và có tương đương với số điểm là 0, 1, 2 và
3. Dữ liệu thu thập được từ kết quả khảo sát sẽ được tập hợp, phân tích, tổng hợp, so
sánh và thống kê mô tả theo các giá trị trung bình nhằm kiểm tra và đánh giá liệu có
tồn tại khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC
tại Việt Nam. Câu trả lời với giá trị trung bình lớn hơn 2 cho thấy rằng nhóm khảo
sát đồng ý là trách nhiệm hiện tại của KTV và đánh giá tốt cho việc thực hiện trách
nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC; giá trị trung bình dưới 2 cho thấy nhóm
khảo sát cho rằng đó không phải là trách nhiệm của KTV và cho rằng KTV thực
hiện chưa tốt. GTTB riêng của mỗi nhóm thể hiện quan điểm của họ liệu có phải là
trách nhiệm hiện tại của KTV. Quan điểm khác nhau của mỗi nhóm tạo nên khoảng
cách mong đợi kiểm toán.
32
Kết luận chương 3
Chương này trình bày phương pháp để điều tra khoảng cách mong cách mong
đợi tại Việt Nam và các nguyên nhân hình thành khoảng cách này. Nghiên cứu sử
dụng phương pháp định tính thông qua bảng câu hỏi để khảo sát về sự hiểu biết,
đánh giá của các nhóm đối tượng có lợi ích với kiểm toán về trách nhiệm của KTV
trong cuộc kiểm toán BCTC. Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ
nghiên cứu của Porter (2012), bởi đây là nghiên cứu hoàn chỉnh và đầy đủ nhất về
khoảng cách mong đợi được tiến hành ở cả Anh và New Zealand.
Ba nhóm đối tượng lựa chọn khảo sát có mối quan hệ khác nhau với KTV
trong kiểm toán BCTC. Cụ thể, Nhóm KTV – là những người có chuyên môn và
thường thực hiện cuộc kiểm toán; Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán -
là những cá nhân chịu trách nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao
đổi và giải trình trực tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán; và cuối cùng là Nhóm
người sử dụng BCTC - đối tượng thụ hưởng trực tiếp của cuộc kiểm toán BCTC.
Tóm lại, chương 3 đã trình bày cụ thể phương pháp được sử dụng, cách thức
điều tra và việc lựa chọn các nhóm khảo sát trong nghiên cứu. Và kết quả của
nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết trong chương tiếp theo.
33
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI
VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KTV TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI VIỆT
NAM
4.1 Tổng quan về hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam
4.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Hoạt động kiểm toán tại Việt Nam mặc dù đã có từ rất lâu nhưng chủ yếu do
Nhà nước tiến hành thông qua công tác kiểm tra kế toán. Phải đến cuối những năm
1980, khi Việt Nam từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ khi
có Luật đầu tư nước ngoài, sự xuất hiện của nhà đầu tư nước ngoài đã lại tạo nên
nhu cầu cần có kiểm toán độc lập để kiểm toán BCTC.
Vì vậy từ những năm 1990, khi nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn đầu
của thời kỳ mở cửa và hội nhập, hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam mới bắt
đầu thật sự hình thành với sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) vào
tháng 05/1991. Sự ra đời của VACO không chỉ đánh dấu cho sự ra đời của kiểm
toán độc lập ở Việt Nam mà còn tạo tiền đề cho sự hội nhập của kiểm toán Việt
Nam với kiểm toán quốc tế. Đến 09/1993, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính, Kế
toán và Kiểm toán (AASC) được thành lập. Đây là hai công ty kiểm toán độc lập
đầu tiên của Việt Nam với nhiều đóng góp cho sự phát triển của hoạt động kiểm
toán độc lập tại Việt Nam và mở đường cho hàng loạt các công ty kiểm toán khác
của Việt Nam ra đời. Điều đó đã đáp ứng được mong đợi của xã hội về việc phải có
bên thứ ba độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cung cấp thông tin đáng tin
cậy cho các đối tượng có liên quan thông qua sự kiểm tra tính trung thực và hợp lý
của BCTC.
Sau hơn 20 năm phát triển, số lượng và quy mô các công ty kiểm toán ngày
càng phát triển lớn mạnh, góp phần tích cực vào việc công khai, minh bạch thông
tin kinh tế tài chính doanh nghiệp và tổ chức, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tăng
sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài bởi hoạt động kinh doanh và tình hình
tài chính của các doanh nghiệp đã được kiểm tra, đánh giá và đưa ra ý kiến khách
quan từ kiểm toán, một bên thứ ba độc lập tạo nên sự đáng tin cậy. Do vậy kiểm
34
toán độc lập ra đời đã thu hút nhà đầu tư nước ngoài, góp phần phát triển môi
trường đầu tư và đóng góp chung cho sự phát triển của nền kinh tế – xã hội trong xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Hiện nay, khách
hàng của các công ty kiểm toán cũng gia tăng nhanh chóng và mở rộng ra nhiều loại
hình doanh nghiệp, như các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần niêm yết,
các ngân hàng thương mạị, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo yêu
cầu bắt buộc phải kiểm toán khi nộp BCTC và khi công khai BCTC phải có báo cáo
kiểm toán đính kèm theo Nghị định 17/2012/NĐ-CP hướng dẫn về Luật Kiểm toán
độc lập năm 2011. Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích các doanh nghiệp, tổ
chức khác thực hiện hoạt động kiểm toán trước khi nộp cho cơ quan nhà nước nhằm
góp phần công khai, minh bạch thông tin tài chính đồng thời phát hiện và ngăn chặn
gian lận, vi phạm pháp luật.
4.1.2 Các quy định pháp lý
Quy định pháp lý đầu tiên được ban hành làm nền tảng cho hoạt động kiểm
toán Việt Nam phát triển là Nghị định 07/CP ngày 19/01/1994 và được hướng dẫn
thực hiện bởi thông tư 22/TC/CĐKT ngày 19/03/1994 của BTC. Sau đó, các văn
bản khác lần lượt được ban hành nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt
động kiểm toán như:
Thông tư 60-TC/CĐKT ngày 01/09/1997 hướng dẫn thực hiện công tác kế
toán và kiểm toán tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tháng 10/1997, BTC đã ban hành Quy chế Kiểm toán nội bộ áp dụng tại các
doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 832 TC/QĐ/CĐKT.
Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về Kiểm toán độc lập thay thế
cho Nghị định 07/CP; tiếp theo là Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105/2004/NĐ-CP.
Thông tư 64/2004/TT-BTC ngày 29/6/2004 hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP và thay thế cho thông tư 22/TC/CĐKT.
Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 01/12/2005 về việc ban hành và công
bố chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam.
35
Thông tư 60/2006/TT-BTC ngày 28/6/2006 hướng dẫn tiêu chuẩn, điều kiện
thành lập và hoạt động đối với doanh nghiệp kiểm toán.
Từ tháng 01/2006, Luật Kiểm toán Nhà nước 2005 bắt đầu có hiệu lực và đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng của hoạt động kiểm toán khi mà cơ quan Kiểm toán
Nhà nước không còn trực thuộc chính phủ, trở thành cơ quan chuyên môn hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên đến ngày 29/03/2011, Luật kiểm
toán độc lập số 67/2011/QH12 đã được Quốc hội thông qua và trở thành văn bản
pháp luật cao nhất về kiểm toán độc lập được công bố tại Việt Nam. Từ đó đã nâng
cao vị thế của kiểm toán lên tầm cao mới, đặt cơ sở pháp lý bền vững cho sự phát
triển nghề nghiệp kiểm toán tại Việt nam.
Từ năm 1999 đến 2005, BTC đã ban hành lần lượt các VSA, từ 04 VSA đầu
tiên lúc tháng 09/1999 đến 38 VSA và chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp được ban
hành như hiện nay. Trong nhiều năm qua, hệ thống VSA này là kim chỉ nam cho
hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Tuy nhiên từ ngày 01/01/2014, một hệ thống 37
VSA mới được ban hành theo thông tư 214/2012/T-BTC ngày 06/12/2012 sẽ có
hiệu lực.
Tháng 05/2015, các chuẩn mực về dịch vụ đảm bảo và khuôn khổ cho dịch vụ
đảm bảo tiếp tục được ban hành, có hiệu lực từ 01/01/2016.
4.2 Kết quả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong
kiểm toán BCTC tại Việt Nam
4.2.1 Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát
Trong phần này, kết quả của cuộc khảo sát tiến hành tại Việt Nam năm 2015
sẽ được thảo luận. Các kết quả được trình bày thể hiện quan điểm của các đối tượng
khảo sát cho các câu hỏi:
(1) KTV có được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?
(2) Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV có thực hiện tốt trách
nhiệm này không?
(3) KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?
36
Kết quả khảo sát đối với câu (1) cho thấy khoảng cách giữa những gì xã hội
mong đợi với trách nhiệm thực sự của KTV trong đó có những mong đợi hợp lý
(gọi là khoảng cách hợp lý). Tương tự, kết quả khảo sát câu (2) cho thấy khoảng
cách giữa mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV và khả năng thực hiện của
KTV (khoảng cách năng lực). Và kết quả khảo sát câu (3) cho biết khoảng cách
giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách nhiệm hiện hữu của KTV
được quy định trong Luật và các chuẩn mực nghề nghiệp (khoảng cách chuẩn mực).
Các bảng câu hỏi khảo sát được thực hiện dựa vào ứng dụng của Google.docs
gửi đến cho cho ba nhóm: các KTV; nhóm kế toán viên và NQL, và nhóm nhân
viên ngân hàng, chứng khoán. Có 70 bảng câu hỏi được gửi đến các KTV, có 52
bảng câu hỏi được gửi về và hợp lệ cho việc phân tích, thống kê, đạt tỷ lệ phản hồi
là 74%. Tương tự, có 70 bảng câu hỏi được gửi đến cho mỗi nhóm còn lại, nhóm kế
toán và NQL và nhóm nhân viên ngân hàng, chứng khoán, với số bảng hợp lệ nhận
về lần lượt là 68 và 56 tương đương tỷ lệ phản hồi là 97% và 80%. Số năm kinh
nghiệm được đánh giá là có ảnh hướng lớn đến kết quả trả lời của bảng câu hỏi
khảo sát vì mức độ kinh nghiệm làm việc sẽ phản ánh mức độ hiểu biết của các đối
tượng khảo sát về trách nhiệm KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. Những người có
kinh nghiệm làm việc từ 5 năm trở lên chiếm 41% và 59% những người làm việc
dưới 5 năm. Hơn 37% BCTC của các đối tượng khảo sát được kiểm toán bởi big 4,
những công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu trên thế giới, 63% còn lại được kiểm
toán bởi các công ty không thuộc big 4.
37
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát
Các nhóm khảo sát KTV Tổng thể NQL và Kế toán
Nhân viên Ngân hàng, chứng khoán 70 56 80% 64% 36% 88% 13% 70 68 97% 46% 54% 22% 78% 210 176 84% 59% 41% 37% 63% Số bảng hỏi gửi đi Số bảng hỏi nhận về và hợp lệ Tỷ lệ phản hồi Số năm kinh nghiệm làm việc - Dưới 5 năm - Từ 5 năm trở lên BCTC được kiểm toán bởi - Big 4 - Không thuộc big 4 70 52 74% 71% 29% 4% 96%
4.2.2 Kết quả khảo sát về khoảng cách hợp lý
Như đã nêu ở chương 3, bảng câu hỏi gồm 30 câu liên quan trách nhiệm của
KTV. Các đối tượng khảo sát được yêu cầu trả lời cho ba câu hỏi đã nêu trên. Kết
quả khảo sát về khoảng cách hợp lý được tổng hợp riêng theo từng nhóm đối tượng
(xem phụ lục IIA) liên quan câu hỏi số (1): KTV có được yêu cầu thực hiện trách
nhiệm này không? Kết quả này cho thấy có nhiều sự mong đợi hợp lý và chưa hợp
lý của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV cũng như sự nhận thức chưa đầy đủ
của chính KTV về trách nhiệm của mình trong kiểm toán BCTC.
Sử dụng thang đo 3 mức độ, với mỗi câu trả lời là không, không chắc và có
tương đương với số điểm là 1, 2 và 3. Câu trả lời với giá trị trung bình lớn hơn 2
cho thấy rằng nhóm khảo sát đồng ý là trách nhiệm hiện tại của KTV và giá trị
trung bình dưới 2 cho thấy nhóm khảo sát cho rằng đó không phải là trách nhiệm
của KTV. GTTB riêng của mỗi nhóm thể hiện quan điểm của họ liệu có phải là
trách nhiệm hiện tại của KTV. Quan điểm khác nhau của mỗi nhóm tạo nên khoảng
cách mong đợi kiểm toán. Kết quả cụ thể như sau:
Trách nhiệm 1: KTV có trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT
38
Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể các ý kiến đều không đồng ý đây là trách
nhiệm hiện tại của KTV với giá trị trung bình 1,61. Theo đoạn 4 VSA 200 thì việc
lập BCTC là trách nhiệm của BGĐ ĐVĐKT dưới sự giám sát của BQT. Vì vậy, kết
quả khảo sát phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán. Và khi thống kê kết
quả riêng theo từng nhóm đối tượng là KTV, nhóm NQL và kế toán, nhân viên ngân
hàng cũng không có sự khác biệt lớn với giá trị trung bình lần lượt là 1,15; 1,75 và
1,86. Như vậy, trách nhiệm này không góp phần tạo ra khoảng cách mong đợi.
Trách nhiệm 2: KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính
xác
Thống kê kết quả theo từng nhóm đối tượng cho thấy có sự khác biệt lớn giữa
KTV và các nhóm còn lại. KTV không đồng ý đây là trách nhiệm của mình (GTTB
1,29), trong khi NQL và nhân viên ngân hàng thì đồng ý với mức độ cao (GTTB lần
lượt 2,26 và 2,48). Điều này không phù hợp với yêu cầu của VSA 200: “KTV phải
đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có
còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự đảm bảo hợp lý là
sự đảm bảo ở mức độ cao và không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những
hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán”.
Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể do người sử dụng BCTC đã kỳ vọng
quá nhiều vào KTV, trong khi KTV hiểu rõ sự hạn chế vốn có của mình trong cuộc
kiểm toán BCTC: bản chất của các khoản ước tính kế toán, bản chất của các thủ tục
kiểm toán, cân đối giữa thời gian và giá phí kiểm toán,… nên KTV chỉ có đưa ra ý
kiến mang tính thuyết phục nhiều hơn là tính khẳng định chắc chắn hoặc tuyệt đối
về BCTC đã kiểm toán. Điều này đã tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán mà
nguyên nhân có thể do sự mong đợi chưa hợp lý của người sử dụng BCTC.
Trách nhiệm 3: KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp
lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT
Theo quy định hiện hành, đây là trách nhiệm thực tế của KTV. Cụ thể VSA
200 quy định “Mục đích của kiểm toán BCTC là làm tăng độ tin cậy của người sử
dụng đối với BCTC, thông qua việc KTV đưa ra ý kiến về BCTC được lập và trình
39
bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về
lập và trình bày BCTC”. Kết quả khảo sát tổng thể cho thấy các nhóm cũng đồng
tình về trách nhiệm này (2,91) và ý kiến giữa các nhóm cũng tương tự nhau (GTTB
lần lượt là 2,96; 2,96 và 2,80). Điều này còn cho thấy, những đối tượng có liên quan
vừa kỳ vọng BCTC là chính xác vừa kỳ vọng trung thực và hợp lý. Tuy nhiên, trách
nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.
Trách nhiệm 4: KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính
tốt
Theo kết quả thống kê, ý kiến tổng thể (GTTB 1,68) hay ý kiến riêng lẻ của
các KTV, NQL và kế toán hoặc nhân viên ngân hàng, chứng khoán đều cho rằng
đây không phải là trách nhiệm hiện tại của KTV (GTTB lần lượt 1,5; 1,69 và 1,84).
Ý kiến này hoàn toàn đồng nhất với VSA 200 vì kiểm toán BCTC là kiểm tra các
thông tin tài chính quá khứ được trình bày một cách hệ thống của đơn vị tại một
thời điểm hoặc trong một thời kỳ, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày
BCTC. Và KTV chỉ có trách nhiệm đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập
phù hợp với khuôn khổ đó trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Vì vậy đảm bảo
tình hình tài chính tốt mang một ý nghĩa tương lai, điều đó còn phụ thuộc nhiều vào
khả năng điều hành và hoạt động của ĐVĐKT, do đó vượt quá yêu cầu về trách
nhiệm thực hiện của KTV. Trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.
Trách nhiệm 5, 6, 7, 8: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT
về các thông tin phi tài chính, việc quản lý, điều hành của BGĐ, những tác động
tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh, về những ảnh
hưởng đến môi trường của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết các đối tượng khảo sát đều cho rằng đây
không phải là những trách nhiệm của KTV với GTTB lần lượt là 1,86; 1,77; 1,63 và
1,60. Trên thực tế VSA cũng không yêu cầu KTV thực hiện những trách nhiệm này.
Vì đây là những vấn đề do bản thân ĐVĐKT phải kiểm soát và chịu trách nhiệm
công bố trung thực với xã hội. Bên cạnh đó, những vấn này chỉ ảnh hưởng gián tiếp
đến BCTC. Trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.
40
Trách nhiệm 9: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi
nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng
doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu)
Đây là hành vi gian lận nhưng KTV “chỉ quan tâm đến những gian lận dẫn đến
sai sót trọng yếu trong BCTC” theo VSA 240. Vì vậy những hành vi trộm cắp thực
hiện bởi nhân viên với số tiền không trọng yếu không phải là trách nhiệm của KTV.
Tuy nhiên, nhóm nhân viên ngân hàng lại cho rằng phát hiện gian lận là trách nhiệm
thực tế của KTV (GTTB 2,18), mà không quan tâm có trọng yếu hay. Tuy nhiên
nhóm KTV, NQL và kế toán cho rằng đây không hoàn toàn là trách nhiệm của KTV
(GTTB lần lượt là 1,85 và 1,9). Điều này là do KTV am hiểu chuẩn mực cũng như
nhận thức được sự hạn chế của thời gian cho một cuộc kiểm toán nên chỉ yêu cầu
chịu trách nhiệm đối với những ảnh hưởng trọng yếu. Nhóm NQL và kế toán có thể
hiểu được điều này do là người luôn chịu trách nhiệm và tiếp xúc trực tiếp với các
KTV trong các cuộc kiểm toán nên cũng nhận thức được vấn đề này nhưng nhóm
nhân viên ngân hàng mong muốn mọi hành vi gian lận đều phải được phát hiện.
Đây được xem là mong đợi chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC.
Trách nhiệm 10: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện
bởi BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không
Kết quả khảo sát cho thấy các KTV không đồng ý điều này (1,9) nhưng các
nhân viên ngân hàng thì cho rằng KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp
thực hiện bởi BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không (2,18). Điều này tạo nên
khoảng cách mong đợi mà nguyên nhân là do kỳ vọng chưa hợp lý từ người sử dụng
BCTC.
Trách nhiệm 11, 12, 13: KTV có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan
có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin
trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến tổng thể các nhóm mạnh mẽ cho rằng KTV
có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền, công bố trên BCKT
về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT với giá trị
41
trung bình rất cao (lần lượt là 2,76; 2,6 và 2,68). Hành vi cố tình thay đổi số liệu và
thông tin trên BCTC là hành vi gian lận nên theo VSA 240 thì “KTV phải xác định
và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong BCTC do gian lận; thu thập đầy đủ
bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp; có biện pháp xử lý thích hợp đối với
gian lận đã được xác định hoặc có nghi vấn trong quá trình kiểm toán”. Và khi hành
vi gian lận đã được phát hiện thì KTV phải kịp thời trao đổi các vấn đề này với cấp
quản lý thích hợp như BGD, BQT của đơn vị. Hơn nữa, KTV cũng phải xác định
trách nhiệm báo cáo về hành vi gian lận đó với các cơ quan quản lý và cơ quan pháp
luật có liên quan. Mặc dù trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng có thể
không cho phép KTV thực hiện việc báo cáo đó nhưng trong một số trường hợp,
trách nhiệm pháp lý của KTV có thể cao hơn trách nhiệm bảo mật đó và tùy vào
mức độ thu thập được bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp như thế nào và sự
ảnh hưởng của hành vi gian lận này có lan tỏa hay không mà KTV đưa ra ý kiến
trên BCKT một cách phù hợp. Vì vậy, trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách
kỳ vọng.
Trách nhiệm 14: KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các
yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan
Mục tiêu của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC là thu thập đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp liên quan đến việc tuân thủ các điều khoản của pháp luật và các
quy định có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định các số liệu và thuyết minh trọng
yếu trên BCTC; Thực hiện các thủ tục kiểm toán cụ thể để phát hiện các hành vi
không tuân thủ pháp luật và các quy định (đoạn 10 VSA 250). Kết quả khảo sát cho
thấy các KTV nhận thức đúng trách nhiệm này (2,62). Nhóm NQL, kế toán viên và
nhân viên ngân hàng cũng cho rằng đây là trách nhiệm của KTV (2,81 và 2,77).
Trách nhiệm này không góp phần tạo ra khoảng cách mong đợi.
Trách nhiệm 15: KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế
cho Cơ quan thuế
Kết quả khảo sát cho thấy nhóm NQL, kế toán và nhân viên ngân hàng đều
cho rằng KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan thuế về những vi phạm luật thuế
42
của ĐVĐKT (GTTB 2,35 và 2,55). Tuy nhiên KTV nhận thấy rằng đây không phải
trách nhiệm của họ (1,63), có khoảng cách lớn giữa mong đợi của KTV (1,63) với 2
nhóm còn lại (2,35 và 2,55).
Trách nhiệm 16, 17: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ
pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể đều tán thành KTV có trách nhiệm phát
hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ, cho dù có ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp trên BCTC với GTTB lần lượt là 2,71 và 2,28. Không quá khó hiểu khi
các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng đồng ý nhận định này (với các
GTTB từ 2,22 đến 2,82) vì họ luôn mong đợi KTV làm được nhiều hơn để mang
đến nhiều thông tin hữu ích hơn, đặc biệt là hành vi không tuân thủ pháp luật của
BGĐ. KTV cũng cho rằng đây là trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán
(GTTB lần lượt 2,54 và 2,23). Vì thực tế KTV chỉ bị yêu cầu phát hiện các hành vi
không tuân thủ có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC theo VSA 250. Điều này cho thấy
sự mong đợi chưa hợp lý từ nhóm NQL, nhân viên ngân hàng và các KTV trong
nhóm khảo sát cũng chưa nhận thức đúng trách nhiệm của mình khi cho rằng KTV
có cả trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh
hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT. Tuy nhiên trách nhiệm này không tạo nên
khoảng cách kỳ vọng do ý kiến của các nhóm tuơng đồng.
Trách nhiệm 18, 19: KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu
không tuân thủ pháp luật và các quy định của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp đến BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy các KTV, nhóm NQL, kế toán và ngân hàng đều
cho rằng KTV phải công bố trên BCKT các hành vi không tuân thủ pháp luật mà
không xét tác động trực tiếp hay gián tiếp (GTTB lần lượt là 2,5; 2,74 và 2,9). Theo
đoạn 25 VSA 250: “Nếu KTV kết luận rằng hành vi không tuân thủ có ảnh hưởng
trọng yếu đến BCTC nhưng không được phản ánh đúng trong BCTC thì theo quy
định tại đoạn 07 - 08 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705, KTV phải đưa ra ý
43
kiến kiểm toán dạng ngoại trừ hoặc ý kiến trái ngược trên BCKT”. Trách nhiệm này
không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.
Trách nhiệm 20, 21: Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra
việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và
công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến cả 3 nhóm khảo sát không có khác biệt lớn
khi đều cho rằng đây là trách nhiệm của KTV. Tuy nhiên điều này không phù hợp
với VSA 250 vì chỉ yêu cầu KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu
cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ công bố trên BCKT
các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC. Một lần nữa, kết
quả này cho thấy cho thấy sự mong đợi chưa hợp lý từ nhóm NQL, nhân viên ngân
hàng và các KTV trong nhóm khảo sát cũng chưa nhận thức đúng trách nhiệm của
mình. Tuy nhiên, trách nhiệm này cũng không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.
Trách nhiệm 22: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của
ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính
như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản
Kết quả cho thấy các KTV đồng ý đây là trách nhiệm hiện tại của họ (GTTB
2,33). Tương tự ý kiến của NQL, kế toán và nhân viên ngân hàng cũng cho rằng
KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của ĐVĐKT về sự đầy đủ của
các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và
thanh khoản (GTTB 2,47 và 2,63). Trường hợp này không tồn tại khoảng cách
mong đợi kiểm toán do ý kiến giữa các nhóm không có sự khác biệt lớn. Thật vậy,
KTV phải tìm hiểu liệu đơn vị đã có một quy trình để xác định rủi ro kinh doanh
liên quan tới mục tiêu lập và trình bày BCTC; ước tính mức độ của rủi ro; đánh giá
khả năng xảy ra rủi ro. Nếu đơn vị chưa có một quy trình hoặc đã có quy trình
nhưng chưa được chuẩn hóa, KTV phải trao đổi với BGĐ đơn vị liệu các rủi ro kinh
doanh liên quan tới mục tiêu lập và trình bày BCTC đã được phát hiện hay chưa và
được xử lý thế nào. Vì vậy, trách nhiệm này không tạo nên khoảng cách kỳ vọng.
44
Trách nhiệm 23: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của
ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động
như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt
nguyên vật liệu và lao động
Liên quan đến trách nhiệm trao đổi với BGĐ về rủi ro hoạt động thì các KTV
cho rằng không phải trách nhiệm của họ (1,71). Nhóm NQL, kế toán và nhóm nhân
viên ngân hàng, chứng khoán cũng đồng ý (1,65 và 1,7) vì hiểu rằng sự cố máy
móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật
liệu và lao động là trách nhiệm và bản lĩnh quản lý, điều hành của đơn vị, không
thuộc phạm vi và mục tiêu của cuộc kiểm toán BCTC. Điều này thể hiện các nhóm
có cùng quan điểm nên không tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Trách nhiệm 24: KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền
khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến tổng thể cho rằng đây là trách nhiệm của
KTV (2,39). Tuy nhiên các KTV không đồng ý trách nhiệm phải báo cáo cho cơ
quan có thẩm quyền (1,87), trong khi nhóm NQL, kế toán và ngân hàng hoàn toàn
cho rằng điều này thuộc về trách nhiệm KTV (GTTB lần lượt 2,62 và 2,59).
Nguyên nhân của sự khác biệt này vì KTV nắm rõ rằng đánh giá khả năng
hoạt động liên tục của đơn vị rất quan trọng và là một thủ tục kiểm toán bắt buộc.
Tuy nhiên khi xác định là có thể dẫn đến nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động
liên tục của đơn vị, KTV không có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền
mà chỉ yêu cầu phải trao đổi với Ban quản trị đơn vị và cân nhắc ảnh hưởng của vấn
đề này để đưa ra báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần nhưng có đoạn
“Vấn đề cần nhấn mạnh” nhằm lưu ý người sử dụng BCTC về khả năng đơn vị có
thể sẽ không thực hiện được giá trị tài sản và thanh toán các khoản nợ phải trả của
mình trong điều kiện kinh doanh bình thường. Còn nhân viên ngân hàng thì họ thật
sự cần sự chính xác về khả năng tiếp hoạt động của đơn vị để ra quyết định cấp tín
dụng, vì vậy, không những họ cần KTV nhấn mạnh trên BCKT mà còn phải báo
45
cáo cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra về vấn đề này. Đây có thể được xem
khoảng cách do mong đợi chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC.
Trách nhiệm 25: KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về
khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT
Như phân tích trên, đây thực sự là trách nhiệm của KTV. Và các nhóm khảo
sát cũng đồng ý cao (2,84). Ngoài ra, ý kiến giữa các nhóm không có sự khác biệt
đáng kể.
Trách nhiệm 26: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ
tin cậy của những thông tin được đăng tải trên trang web của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể đều không đồng ý (1,72). Tuy nhiên có sự
chênh lệch đáng kể giữa ý kiến các KTV với nhân viên ngân hàng (1,33 đối với
2,23). Có thể các nhân viên ngân hàng cho rằng KTV phải kiểm tra liệu BCTC được
đăng tải bởi đơn vị đúng là BCTC đã được kiểm toán, các thông tin đăng tải là phù
hợp với những thông tin KTV đã thu thập được trong quá trình kiểm toán. Mặc dù
VSA 720 yêu cầu “KTV phải xem xét các thông tin khác để xác định các điểm
không nhất quán trọng yếu so với BCTC đã được kiểm toán”, tuy nhiên bản thân
KTV hiểu rằng “các thông tin khác không bao gồm thông tin trên các trang web của
đơn vị được kiểm toán”. Điều này tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán cũng từ
sự kỳ vọng quá lớn của các đối tượng vào trách nhiệm của KTV.
Trách nhiệm 27, 28, 29, 30: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên
BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT như chính
sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng; chính sách an toàn sản phẩm; chính sách
đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.
Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể ý kiến cho rằng đây không phải trách
nhiệm của KTV (GTTB đều dưới 1,86). VSA 720 có quy định trách nhiệm của
KTV là phải xem xét các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT vì tính tin cậy của
BCTC đã được kiểm toán có thể bị suy giảm nhưng chỉ cần xem xét những thông
tin không nhất quán trọng yếu với BCTC đã được kiểm toán. KTV đã đúng khi
không đồng ý trách nhiệm này (GTTB từ 1,35 đến 1,48). Các NQL và kế toán cùng
46
quan điểm với KTV (GTTB từ 1,46 đến 1,79). Nhưng nhóm nhân viên ngân hàng
thì vẫn cho rằng đây là trách nhiệm của KTV (GTTB trên 2). Vì vậy vẫn tồn tại
khoảng cách mong đợi lớn từ sự kỳ vọng không hợp lý từ người sử dụng BCTC.
Nhìn chung, các nhóm được khảo sát có nhận thức đúng một số các trách
nhiệm hiện tại của KTV. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một khoảng cách mong đợi rất
lớn giữa KTV với NQL, kế toán, nhân viên ngân hàng và chứng khoán. Cụ thể là
các nhân viên ngân hàng, chứng khoán luôn có những kỳ vọng vượt quá yêu cầu
thực hiện của KTV, theo kết quả thống kê, họ cho rằng có 24/30 trách nhiệm đã liệt
kê là trách nhiệm hiện tại của KTV, trong khi thực tế chỉ yêu cầu KTV thực hiện
trách nhiệm là 10/30. Con số này của nhóm NQL, kế toán cũng là 17/30. Còn KTV
nhận định rằng có 13/30 là trách nhiệm hiện tại của KTV. Đó là một sự khác biệt rất
lớn giữa các nhóm, đặc biệt là giữa KTV và nhóm người sử dụng BCTC (ngân
hàng, chứng khoán), thể hiện các nhóm đã mong đợi quá nhiều vào KTV, muốn
KTV thực hiện công việc nhiều hơn để có nhiều thông tin hơn, có nhiều sự đảm bảo
hơn từ KTV đối với BCTC đã được kiểm toán. Tóm lại, khoảng cách mong đợi
kiểm toán thực sự tồn tại tại Việt Nam mà nguyên nhân gây ra khoảng cách mong
đợi này là do người sử dụng BCTC chưa nhận thức đúng nên mong đợi chưa hợp lý
về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm toán BCTC.
4.2.3 Kết quả khảo sát về khoảng cách năng lực
Trong phần này, kết quả khảo sát được tổng hợp kết quả riêng theo từng nhóm
đối tượng (xem phụ lục IIB) liên quan câu hỏi số (2): Các nhóm nghĩ KTV đã thực
hiện trách nhiệm của mình như thế nào?
Câu hỏi 2 được đo lường bởi 4 thang đo, tương ứng với không chắc, không,
đạt và có tương ứng với số điểm là 0, 1, 2 và 3. GTTB riêng của mỗi nhóm được sử
dụng để đánh giá kết quả thực hiện liên quan đến trách nhiệm của KTV. Câu trả lời
với giá trị trung bình lớn hơn 2 cho thấy rằng nhóm khảo sát hài lòng về công việc
mà KTV đã thực hiện, ngược lại giá trị trung bình dưới 2 cho thấy nhóm khảo sát
đánh giá KTV chưa thực hiện tốt trách nhiệm trong cuộc kiểm toán BCTC. Kết quả
sẽ cho thấy liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán mà do KTV chưa thực
47
sự nhận thức được trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán và cung cấp dịch vụ
chưa thực sự hoàn hảo, chưa đáp ứng được mong đợi của xã hội hay không.
Kết quả khảo sát cho thấy có những trách nhiệm dưới đây được xác định là
trách nhiệm của KTV và mức độ thực hiện về trách nhiệm này.
Trách nhiệm 3: KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp
lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy KTV tự tin rằng đã thực hiện tốt trách nhiệm này
(2,88). Ngược lại với ý kiến của KTV, các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân
hàng đánh giá KTV chưa thực hiện tốt trách nhiệm trong việc đảm bảo tính trung
thực và hợp lý của thông tin trên BCTC (1,63 và 1,39). Điều này cho thấy công việc
mà KTV thực hiện vẫn chưa thỏa mãn được người sử dụng BCTC. Vì trên thực tế
có nhiều BCTC đã được KTV kết luận là trung thực và hợp lý nhưng còn chứa sai
sót trọng yếu có thể do gian lận, thông đồng hoặc vừa thực hiện dịch vụ kiểm toán,
vừa làm dịch vụ kế toán, tư vấn của KTV. Vì vậy lợi ích mang lại cho xã hội không
đáp ứng được mong đợi của họ, làm mất niềm tin từ công chúng. Đây được xem là
khoảng cách mong đợi do năng lực của KTV.
Trách nhiệm 11, 12, 13: KTV có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan
có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin
trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy KTV đã thực hiện tốt các trách nhiệm này vì đã thỏa
mãn được tất cả các nhóm khảo sát (GTTB từ 2,67 đến 2,76). Hơn nữa, sự đánh giá
giữa các đối tượng khảo sát không có chênh lệch trọng yếu. Vì vậy không tồn tại
khoảng cách mong đợi kiểm toán liên quan đến các trách nhiệm này.
Trách nhiệm 14: KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các
yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan
Tương tự kết quả của các trách nhiệm trên về sự không tồn tại khoảng cách
mong đợi kiểm toán vì các KTV cho rằng họ đã thực hiện tốt trách nhiệm bảo đảm
tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên
48
quan của đơn vị (GTTB 2,88) và các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng
cũng đánh giá tốt việc thực hiện trách nhiệm này của KTV (2,82 và 2,74).
Trách nhiệm 16, 18: KTV có trách nhiệm phát hiện và công bố trên BCKT về
hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của
ĐVĐKT
Liên quan đến trách nhiệm phát hiện và công bố trên BCKT về hành vi không
tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT, tổng
thể đã đánh giá tốt quá trình thực hiện công việc của KTV (GTTB trên 2). Tuy
nhiên ý kiến giữa các nhóm hoàn toàn trái ngược. Các KTV, NQL và kế toán đánh
giá tốt (GTTB từ 2,11 đến 2,63), trong khi nhóm nhân viên ngân hàng cho rằng
KTV chưa thực sự công bố đầy đủ các hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ
(GTTB từ 1,33 đến 1,72). Điều này cho thấy tồn tại khoảng cách mong đợi mà
nguyên nhân là do các KTV chưa đủ năng lực để phát hiện và báo cáo các hành vi
không tuân thủ của BGĐ hoặc KTV chưa tuân thủ đầy đủ chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp về quan hệ kinh tế với đơn vị được kiểm toán vì để giữ hợp đồng cho năm
sau mà không công bố nên tính độc lập bị vi phạm.
Trách nhiệm 21: Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc
tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ
công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến
BCTC của ĐVĐKT
Các nhóm đều đồng ý rằng KTV đã thực hiện tốt trách nhiệm công bố trên
BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC với
GTTB là 2,83. Cụ thể, KTV tự đánh giá mình đã thỏa mãn được yêu cầu về trách
nhiệm này với GTTB là 2,92. Hai nhóm còn lại cũng đồng ý với sự đánh giá đó mặc
dù GTTB có thấp hơn không đáng kể (2,89 và 2,7). Kết quả cho thấy không tồn tại
khoảng cách mong đợi trong trường hợp này vì quan điểm của các nhóm không có
chênh lệch lớn.
49
Trách nhiệm 22: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của
ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính
như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản
Theo kết quả thống kê, KTV đánh giá đã thực hiện rất tốt trách nhiệm này với
GTTB 2,93. Các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng cũng đánh giá tốt với
GTTB lần lượt là 2,67 và 2,55. Vì vậy, không xuất hiện khoảng cách mong đợi
kiểm toán.
Trách nhiệm 25: KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về
khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy các KTV nhận thấy mình đã làm tốt (2,13), các
NQL, kế toán cũng nhận định như vậy (2,13) nhưng nhóm nhân viên ngân hàng thì
cho rằng KTV chưa thực hiện thỏa đáng như mong đợi của họ (1,34). Trên thực tế
nhiều BCTC vi phạm nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục nhưng KTV không
công bố trên BCKT. Vì KTV chỉ dựa vào những đánh giá và bằng chứng được cung
cấp bởi BGĐ đơn vị như cam kết hỗ trợ vốn mà cho rằng không còn những nghi
ngờ này nên không trình bày trên BCKT. Tuy nhiên theo yêu cầu của VSA 570 thì
ngoài việc thu thập các bằng chứng chứng minh cho việc sử dụng giả định hoạt
động liên tục là phù hợp thì KTV vẫn phải đưa ra báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp
nhận toàn phần có đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” nhằm nêu bật sự tồn tại nghi ngờ
về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị được kiểm toán và lưu ý cho người sử
dụng BCTC về vấn đề này. Vì vậy, có tồn tại khoảng cách mong đợi do KTV chưa
nhận thức đúng và chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo yêu cầu của chuẩn mực.
Tóm lại, tổng thể ý kiến các nhóm đánh giá KTV đã thực hiện tốt các trách
nhiệm hiện tại của mình. Tuy nhiên có hai trách nhiệm KTV không được đánh giá
tốt là đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC và công bố
trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT. Liên quan
đến hai trách nhiệm này KTV đã không làm hài lòng, không đáp ứng được mong
đợi của người sử dụng BCTC. Điều này đã tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm
toán mà nguyên nhân là do KTV nhận thức chưa đúng và chưa thực hiện đầy đủ
50
trách nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán, chưa đáp ứng được mong đợi của xã
hội.
4.2.4 Kết quả khảo sát về khoảng cách chuẩn mực
Kết quả khảo sát liên quan khoảng cách chuẩn mực từ câu hỏi (3) “KTV nên
được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?”. Câu hỏi này cho thấy khoảng
cách giữa các nhiệm vụ được mong đợi hợp lý ở KTV và trách nhiệm hiện hữu của
KTV được quy định trong Luật và các chuẩn mực nghề nghiệp (khoảng cách chuẩn
mực) (kết quả trình bày ở phụ lục IIC). Kết quả khảo sát dưới đây cho thấy những
mong đợi hợp lý và chưa hợp lý của các nhóm khảo sát về trách nhiệm của KTV
trong kiểm toán BCTC.
Trách nhiệm 1: KTV có trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy các KTV cho rằng không nên được yêu cầu thực
hiện trách nhiệm này (GTTB 1,37). Vì nếu thực hiện điều này KTV sẽ vi phạm tính
độc lập, một quy định quan trọng đầu tiên về đạo đức nghề nghiệp mà KTV phải
tránh, không thể vừa làm vừa kiểm tra (nguy cơ tự kiểm tra). KTV hiểu rõ vấn đề
này nhưng các NQL, kế toán mong đợi KTV chuẩn bị giúp họ BCTC để chắc chắn
rằng BCTC được lập và trình bày phù hợp theo quan điểm KTV (GTTB 2,1). Nhóm
ngân hàng cũng tin rằng KTV chuẩn bị BCTC sẽ đáp ứng được mong đợi của họ
(2,21). Hiện tại chuẩn mực không yêu cầu KTV thực hiện trách nhiệm này và tương
lai cũng không được xem xét để bổ sung vào chuẩn mực như là trách nhiệm của
KTV vì sẽ không đạt được mục đích của kiểm toán, có nghĩa là, để cung cấp một
chuyên gia và kiểm tra độc lập BCTC được kiểm toán và đưa ra một ý kiến độc lập
dựa trên sự kiểm tra đó. Điều này tạo nên khoảng cách mong đợi do sự kỳ vọng
chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC.
Trách nhiệm 2: KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính
xác
Kết quả khảo sát cho thấy các NQL, kế toán và ngân hàng đều nghĩ nên yêu
cầu KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác (2,43 và 2,64),
tuy nhiên KTV có ý kiến ngược lại, khẳng định mạnh mẽ rằng KTV không thể đảm
51
bảo BCTC là chính xác (1,48). Hiện tại trách nhiệm này không được chuẩn mực yêu
cầu thực hiện bởi KTV vì là một mong đợi vô lý, không khả thi về mặt kinh tế đối
với KTV để thực hiện một cuộc kiểm toán để đảm bảo tính chính xác của BCTC
của đơn vị. Để làm như vậy sẽ đòi hỏi KTV phải xem xét mọi giao dịch của đơn vị,
điều này sẽ dẫn đến chi phí kiểm toán cao mà không có lợi ích tương xứng và thậm
chí rằng KTV cũng không thể chắc chắn rằng không có gì đã được bỏ qua và không
có sai sót đã xảy ra cho dù kiểm tra mẫu 100%. Đây vẫn là mong đợi chưa hợp lý từ
người lập và sử dụng BCTC.
Trách nhiệm 3: KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp
lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy, tất cả đều đồng ý KTV có trách nhiệm đưa ra ý
kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC (2,93). Điều này đã quá
quen thuộc với KTV cũng như những đối tượng có liên quan, vì vậy không có gì
ngạc nhiên khi không có sự khác biệt giữa các nhóm. Vì vậy không tồn tại khoảng
cách mong đợi kiểm toán.
Trách nhiệm 4: KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính
tốt
Kết quả khảo sát cho thấy nhóm KTV và NQL cho rằng KTV không nên thực
hiện trách nhiệm này (1,77 và 1,79). Tuy nhiên nhóm nhân viên ngân hàng cho rằng
sau cuộc kiểm toán, KTV phải đảm bảo đơn vị có tình hình tài chính tốt (2,25).
Nguyên nhân là do mục tiêu của các nhóm khác nhau, KTV quan tâm chủ yếu đến
các thông tin quá khứ, ngân hàng quan tâm đến tình hình tương lai. Hiện tại chuẩn
mực không quy định trách nhiệm này cho KTV và thực tế đây là trách nhiệm bất
khả thi vì không thể cân bằng giữa chi phí bỏ ra và lợi ích mang lại để thực hiện thủ
tục kiểm toán đảm bảo đơn vị có tình hình tài chính tốt. Vì vậy, có tồn tại khoảng
cách mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân là do sự mong đợi chưa hợp từ người sử
dụng BCTC.
Trách nhiệm 5, 6, 7, 8: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT
về các thông tin phi tài chính, sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành
52
của BGĐ, những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh
doanh, những ảnh hưởng đến môi trường của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết cho rằng KTV không nên thực hiện những
trách nhiệm này vì nó không ảnh hưởng trực tiếp đến việc lập và trình bày BCTC
theo khuôn khổ (GTTB dưới 2). Ngoài ra ý kiến giữa các nhóm cũng không có
chênh lệch đáng kể. Vì vậy không tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Trách nhiệm 9, 10: KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện
bởi nhân viên hoặc BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5%
trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu)
Qua kết quả thống kê, các KTV cho rằng nên thực hiện trách nhiệm phát hiện
hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên hoặc BGĐ không kể trọng yếu hay không
với GTTB 2,17 và 2,23. Nhóm NQL và nhân viên ngân hàng cũng đưa ra ý kiến
nên thực hiện (GTTB 2,24 đến 2,68). Không xuất hiện khoảng cách mong đợi do
quan điểm của các nhóm tương đồng. Tuy nhiên điều này khó có thể bổ sung vào
chuẩn mực vì mục tiêu kiểm toán chỉ quan tâm đến vấn đề trọng yếu để đảm bảo
nguyên tắc cân đối lợi ích – chi phí.
Trách nhiệm 11, 12, 13: KTV có trách nhiệm phát hiện, báo cáo cho cơ quan
có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin
trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy các KTV cho rằng nên thực hiện trách nhiệm này
với GTTB từ 2,46 đến 2,69. Đó cũng là quan điểm của nhóm NQL và ngân hàng
(GTTB từ 2,69 đến 2,88). Thực tế chuẩn mực cũng quy định rõ đây là trách nhiệm
của KTV. Vì vậy không có khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Trách nhiệm 16, 17, 18, 19: KTV có trách nhiệm phát hiện và công bố trên
BCKT các hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp trên BCTC của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy các KTV đồng ý nên thực hiện trách nhiệm này
(GTTB từ 2,42 đến 2,75). Các NQL, ngân hàng cũng mong đợi KTV phát hiện và
công bố trên BCKT các hành vi không tuân thủ pháp luật của BGĐ không kể có ảnh
53
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến BCTC vì muốn được cung cấp nhiều thông tin
hơn (GTTB từ 2,54 đến 2,89). Không xuất hiện khoảng cách mong đợi do quan
điểm của các nhóm tương đồng. Chuẩn mực chưa có quy định KTV phải thực hiện
trách nhiệm liên quan những vấn đề có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC. Và cũng sẽ
không hợp lý nếu đề nghị là trách nhiệm của KTV vì chi phí và thời gian bỏ ra lớn
nhưng không có lợi ích tương xứng và không đạt mục tiêu của cuộc kiểm toán
BCTC.
Trách nhiệm 20, 21: Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra
việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và
công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT
Một lần nữa kết quả khảo sát cho thấy các nhóm có cùng quan điểm khi mà
KTV cho rằng phải công bố trên BCKT tất cả các trường hợp, kể cả tuân thủ
(GTTB 2,31 và 2,73). Đó cũng là ý kiến của các NQL, kế toán (2,49 và 2,93), nhóm
ngân hàng (2,68 và 2,86). Thực tế thì chuẩn mực chỉ yêu cầu thực hiện trách nhiệm
công bố các trường hợp không tuân thủ. Tuy nhiên mong đợi của các nhóm về trách
nhiệm báo cáo cả các trường hợp tuân thủ cũng cần được xem xét để quy định trong
chuẩn mực. Vì trách nhiệm của KTV sẽ được mở rộng và lợi ích mang lại sẽ lớn
hơn bởi xã hội mong đợi cả báo cáo tuân thủ của công ty niêm yết so với yêu cầu
của Sở Giao dịch Chứng khoán chứ không phải chỉ báo cáo các trường hợp không
tuân thủ nhằm phục vụ cho mục đích đánh giá và ra quyết định của họ. Đây được
xem là mong đợi hợp lý từ các nhóm khảo sát.
Trách nhiệm 22, 23: KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với BGĐ của
ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính và
rủi ro hoạt động
Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể ý kiến cho rằng KTV nên thực hiện trách
nhiệm liên quan đến rủi ro tài chính (2,56) nhưng không cần thực hiện những trách
nhiệm liên quan rủi ro hoạt động (1,85). Phân tích riêng lẻ các nhóm cũng không có
nhiều sự khác biệt. Chuẩn mực hiện tại cũng quy định rõ các trách nhiệm này nên
không tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán.
54
Trách nhiệm 24, 25: KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền
và công bố trên BCKT khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT
Qua kết quả thống kê, các KTV cho rằng nên công bố trên BCKT khi có nghi
ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT (2,85). Ngoài ra phải báo cáo cho
cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này (2,17). Các NQL, kế toán cùng quan điểm
(2,63 và 2,85). Nhóm nhân viên ngân hàng cũng có ý kiến tương tự (2,7 và 2,89).
Trên thực tế, chuẩn mực không yêu cầu KTV phải báo cáo cho cơ quan có thẩm
quyền nhưng khả năng hoạt động liên tục là một vấn đề rất quan trọng liên quan đến
việc lập và trình bày BCTC trung thực và hợp lý khi mà giả định hoạt động liên tục
không còn phù hợp nên Hội ban hành chuẩn mực cũng cần xem xét bổ sung vấn đề
này vì có thể là mong đợi hợp lý từ xã hội.
Trách nhiệm 26, 27, 28, 29, 30: KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên
BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng; về độ tin cậy của
tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT
Kết quả khảo sát cho thấy tổng thể các ý kiến đều cho rằng KTV không nên
thực hiện trách nhiệm này (GTTB đều dưới 2). Tuy nhiên tồn tại khoảng cách mong
đợi khá lớn giữa nhóm nhân viên ngân hàng và KTV (1,58 so với 2,18). Cuộc kiểm
toán có nhiều hạn chế vốn có bao gồm việc cân đối giữa thời gian, hiệu quả và chi
phí. Vì vậy không thể kiểm tra tất cả các thông tin không liên quan hay không ảnh
hưởng trọng yếu đến BCTC đã được kiểm toán đính kèm. Do đó chuẩn mực không
quy định trách nhiệm này và đây được xem là mong đợi chưa hợp lý của các đối
tượng liên quan.
Tóm lại, kết quả cho thấy các nhóm khảo sát, đặc biệt là nhóm nhân viên ngân
hàng mong đợi nhiều hơn nữa từ KTV, để cung cấp cho họ nhiều thông tin cần thiết
và hữu ích hơn giúp được nhiều cho họ trong việc ra quyết định. Tuy nhiên đó là
những mong đợi chưa hợp lý do KTV không thể thực hiện trách nhiệm chuẩn bị
BCTC cho ĐVĐKT; đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác hay đảm bảo
ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt vì không thể cân bằng giữa chi phí bỏ ra và lợi
ích mang lại để thực hiện những trách nhiệm này và cũng không thể chắc chắn rằng
55
không có gì đã được bỏ qua và đảm bảo chính xác cho dù kiểm tra tất cả các giao
dịch phát sinh. Bên cạnh đó, cũng có những mong đợi hợp lý từ các nhóm nhưng do
khiếm khuyết của chuẩn mực như KTV phải báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền
khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT hay cần báo cáo cả
những trường hợp tuân thủ của công ty niêm yết so với yêu cầu của Sở Giao dịch
Chứng khoán chứ không phải chỉ báo cáo các trường hợp không tuân thủ nhằm
phục vụ cho mục đích đánh giá và ra quyết định.
56
Kết luận chương 4
Trong chương này, kết quả của cuộc khảo sát thực hiện tại Việt Nam đã được
trình bày. Các kết quả được trình bày trong ba phần chính là thể hiện các nhóm lợi
ích trả lời cho các câu hỏi: (1) KTV có được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này
không? (2) Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV đã thực hiện tốt trách
nhiệm này không? và (3) KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?
Điều đó thể hiện sự hiểu biết của các nhóm khảo sát về trách nhiệm hiện tại của
KTV, sự đánh giá về công việc mà KTV đã thực hiện trong cuộc kiểm toán BCTC
cũng như sự kỳ vọng hợp lý và chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm của KTV.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, nhóm NQL, kế toán và ngân hàng chưa hiểu
đúng về trách nhiệm của KTV hiện tại, yêu cầu KTV thực hiện những trách nhiệm
nằm ngoài những những quy định của chuẩn mực và các luật liên quan. Trong khi
đa số các KTV nắm rõ các trách nhiệm của mình và thực hiện theo đúng yêu cầu
của chuẩn mực. Sự khác biệt về nhận thức này tạo nên một khoảng cách mong đợi
kiểm toán tại Việt Nam. Cụ thể, các nhóm đã mong đợi không hợp lý khi cho rằng
KTV phải có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác; phát hiện hành
vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên và BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không;
báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục
của ĐVĐKT; kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin
được đăng tải trên trang web của ĐVĐKT; kiểm tra và công bố trên BCKT về độ
tin cậy của tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT như chính sách đối với cơ
hội việc làm bình đẳng; chính sách an toàn sản phẩm; chính sách đảm bảo sức khỏe
và an toàn lao động.
Như vậy, Việt Nam có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán và nguyên
nhân chủ yếu là do sự mong đợi chưa hợp lý từ xã hội, do chuẩn mực chưa đầy đủ
và sự thiếu năng lực của KTV.
57
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
5.1 Kết luận
Trong nghiên cứu này, tác giả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách
nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, tương tự như các nghiên cứu trước trên thế giới, tại
Việt Nam có tồn tại khoảng cách này giữa KTV với NQL, kế toán, nhân viên ngân
hàng và chứng khoán. Các nhân viên ngân hàng, chứng khoán luôn có những kỳ
vọng vượt quá yêu cầu thực hiện của KTV và đánh giá không cao kết quả thực hiện
của KTV trong cuộc kiểm toán, đó là trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực
và hợp lý của thông tin trên BCTC và công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả
năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT. Đó là do mong đợi chưa hợp lý từ xã hội, mặt
khác, KTV nhận thức chưa đúng và chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình
trong cuộc kiểm toán nên chưa đáp ứng được kỳ vọng của họ. Tuy nhiên cũng có
những trách nhiệm mà các nhóm khảo sát đã đề nghị cho KTV có thể là mong đợi
hợp lý cần đuợc xem xét để hoàn thiện chuẩn mực như báo cáo việc tuân thủ các
yêu cầu của Sở Giao dịch Chứng khoán của công ty niêm yết được kiểm toán, báo
cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của
ĐVĐKT. Tóm lại, cũng như kết quả nghiên cứu của nhiều nuớc khác trên thế giới,
Việt Nam cũng tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân chủ yếu
xuất phát từ sự kỳ vọng chưa hợp lý của xã hội về trách nhiệm KTV, hạn chế năng
lực của KTV và sự khiếm khuyết của chuẩn mực. Kết quả khảo sát chung có thể
thấy như sau:
5.1.1 Điểm thống nhất
- Phần lớn các nhóm khảo sát đã nhận thức đúng các trách nhiệm hiện tại của
KTV như đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên
BCTC; phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền, công bố trên BCKT
về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT; bảo
đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực
58
và các quy định có liên quan; công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả
năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT.
- Các nhóm KTV, NQL và kế toán, nhân viên ngân hàng cũng có cùng quan
điểm khi cho rằng KTV không có trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT
với GTTB lần luợt là 1,15; 1,75 và 1,86; KTV không có trách nhiệm đảm
bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt (GTTB lần luợt là 1,5; 1,69 và 1,84);
kiểm tra và công bố trên BCKT về các thông tin phi tài chính (GTTB lần luợt
là 1,85; 1,91 và 1,80), việc quản lý, điều hành của BGĐ (GTTB lần luợt là
1,5; 1,84 và 1,95).
- Hầu hết các nhóm khảo sát đều đánh giá tốt kết quả thực hiện các trách
nhiệm hiện tại của KTV trong quá trình kiểm toán. Đó là các trách nhiệm
phát hiện, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền, công bố trên BCKT về hành
vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT; bảo đảm
rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và
các quy định có liên quan.
- Hầu như các nhóm khảo sát đều đề nghị KTV nên thực hiện công việc nhiều
hơn trong kiểm toán BCTC. Trong đó hầu hết là trách nhiệm hiện hữu của
KTV nhưng cũng có nhiều trách nhiệm mà chuẩn mực và luật liên quan
không yêu cầu KTV phải thực hiện như KTV phải báo cáo cho cơ quan có
thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT hay
cần báo cáo cả những trường hợp tuân thủ của công ty niêm yết so với yêu
cầu của Sở Giao dịch Chứng khoán chứ không phải chỉ báo cáo các trường
hợp không tuân thủ,… Những mong đợi này có thể được xem là hợp lý và
các cơ quan chức năng nên xem xét bổ sung vào quy định nhằm phục vụ cho
mục đích đánh giá và ra quyết định của các nhóm lợi ích liên quan, làm thỏa
mãn và tăng giá trị cuộc kiểm toán BCTC đối với xã hội.
59
5.1.2 Điểm khác biệt trong quan điểm tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán
tại Việt Nam
Sự khác biệt nhận thức về trách nhiệm hiện tại của KTV
- Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các KTV hiểu rõ các trách nhiệm của
mình trong cuộc kiểm toán BCTC. Tuy nhiên các nhóm NQL, kế toán, đặc
biệt là nhóm nhân viên ngân hàng chưa nhận thức đúng trách nhiệm của
KTV khi cho rằng có 24/30 trách nhiệm đã liệt kê là trách nhiệm hiện tại của
KTV, trong khi thực tế chỉ yêu cầu KTV thực hiện trách nhiệm là 10/30. Các
NQL, kế toán cũng chưa nhận thức đúng khi cho rằng có 17/30 là trách
nhiệm hiện tại của KTV. Điều này cho thấy tồn tại khoảng cách mong đợi
kiểm toán tại Việt nam mà nguyên nhân là do hiểu biết còn hạn chế và nhận
thức chưa đầy đủ của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm
toán BCTC nên có những mong đợi chưa hợp lý mà chính KTV không thể
thực hiện và cũng không được quy định trong chuẩn mực kiểm toán và các
luật có liên quan.
- NQL, kế toán, nhân viên ngân hàng có sự kỳ vọng lớn về trách nhiệm hiện
tại của KTV: đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác; phát hiện hành vi
trộm cắp thực hiện bởi BGĐ cho dù số tiền trọng yếu hay không; báo cáo
cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục
của ĐVĐKT (GTTB từ 2,18 đến 2,62). Trong khi KTV nhận thức rõ đây
không phải là trách nhiệm mà họ được quy định thực hiện (GTTB từ 1,29
đến 1,9).
Sự khác biệt trong cách đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm hiện tại của
KTV
- Liên quan đến trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của
thông tin trên BCTC của ĐVĐKT, các KTV tự tin rằng đã thực hiện tốt trách
nhiệm này (2,88). Tuy nhiên đó là không phải là những gì các NQL, kế toán
và nhóm nhân viên ngân hàng đã đánh giá (1,63 và 1,39).
60
- KTV tin rằng đã công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động
liên tục của ĐVĐKT (2,13) nhưng nhóm nhân viên ngân hàng thì cho rằng
KTV chưa làm được như mong đợi của họ (1,34).
- Các KTV luôn tự tin mình đã thực hiện tốt các trách nhiệm hiện tại (GTTB
luôn trên 2). Tuy nhiên các nhóm NQL và ngân hàng vẫn đánh giá KTV thực
hiện chưa tốt. Điều này đã tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán mà
nguyên nhân là do KTV nhận thức chưa đúng và chưa thực hiện đầy đủ trách
nhiệm của mình trong cuộc kiểm toán, chưa đáp ứng được mong đợi của xã
hội.
Sự khác biệt việc đề xuất các trách nhiệm mà KTV nên thực hiện
- Về trách nhiệm chuẩn bị BCTC cho ĐVĐKT, nhóm ngân hàng đề nghị KTV
thực hiện trách nhiệm này (2,21). Đó cũng là ý kiến của nhóm NQL và kế
toán (2,10). Trong khi KTV cho rằng không thực hiện trách nhiệm này
(1,37). Đây là mong đợi chưa hợp lý từ người lập và sử dụng BCTC. Ngoài
ra, mong đợi KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác
cũng là một sự kỳ vọng chưa hợp lý từ người sử dụng BCTC vì những hạn
chế vốn có của cuộc kiểm toán.
- Các nhân viên ngân hàng cho rằng các KTV có trách nhiệm kiểm tra và công
bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng; về
độ tin cậy của tất cả các thông tin trong BCTN của ĐVĐKT. Tuy nhiên KTV
hiểu rõ đây không phải là trách nhiệm của họ. Vì không phù hợp với mục
tiêu của cuộc kiểm toán BCTC là đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu
BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu hay không và
cũng không đáp ứng mục tiêu cân đối lợi ích và chi phí. Vì vậy tồn tại
khoảng cách mong đợi kiểm toán từ mong đợi chưa hợp lý của xã hội.
61
5.2 Đề xuất quan điểm và định hướng thu hẹp khoảng cách mong đợi
5.2.1 Đề xuất quan điểm
5.2.1.1 Từng bước tiếp cận thông lệ quốc tế
Hoạt động kiểm toán Việt Nam đang thực hiện theo xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nâng cao trình độ nghề nghiệp,
nâng cao chất lượng dịch vụ của kiểm toán độc lập Việt Nam tiếp cận ngang tầm
khu vực và quốc tế là một đòi hỏi rất cấp thiết. Vì vậy đại diện của kiểm toán Việt
Nam là VACPA, Hội nghề nghiệp còn rất non trẻ so với các Hội cùng nghề nghiệp
trong khu vực và quốc tế, đã không ngừng nỗ lực duy trì và thắt chặt mối quan hệ
với các cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm
hoạt động, nâng cao uy tín, hình ảnh của kiểm toán Việt Nam, ngày càng thể hiện
được vai trò cầu nối giữa nghề nghiệp kiểm toán độc lập của Việt Nam với các tổ
chức nghề nghiệp quốc tế, đưa tiếng nói nghề nghiệp của Việt Nam ra khu vực, thế
giới. Vì vậy các giải pháp được đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm
toán sẽ được xây dựng trên cơ sở tiếp cận từng bước theo thông lệ quốc tế.
5.2.1.2 Phù hợp với đặc điểm Việt Nam
Mặc dù đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế nhưng kiểm toán Việt Nam mới
thực sự phát triển từ những năm 1990, cho dù việc gia nhập làm thành viên các tổ
chức quốc tế uy tín đã thể hiện một bước dài trong việc đưa nghề nghiệp kiểm toán
Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động này vẫn
còn rất non trẻ so với thế giới cả về số lượng KTV và chất lượng kiểm toán. Đa số
các công ty kiểm toán Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ nên có rất nhiều hạn chế
như số lượng nhân viên ít, số lượng KTV càng hiếm, đầu tư cho vấn đề đào tạo cho
nhân viên còn hạn chế, chưa có chương trình KSCL theo yêu cầu của chuẩn mực.
Vì thế các giải pháp đưa ra không những tiếp cận theo thông lệ quốc tế mà còn phải
phù hợp với đặc điểm của Việt Nam hiện nay.
5.2.1.3 Thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán
Nguyên nhân tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán là do mong đợi chưa
hợp lý của xã hội, năng lực thực hiện trách nhiệm của KTV và chuẩn mực chưa đầy
62
đủ. Vì vậy, một số giải pháp được đề xuất về cách thức mà các KTV có thể đáp ứng
tốt hơn mong đợi hợp lý của xã hội, làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức của những
người mong đợi chưa hợp lý, và cung cấp người sử dụng BCTC và những người
khác sự hài lòng nhu cầu thông tin của họ. Do đó, nghiên cứu đóng góp một cách có
ý nghĩa đối với việc thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán, giúp sự thực hiện
trách nhiệm của KTV theo cảm nhận của xã hội là tốt hơn, phù hợp với kỳ vọng của
xã hội, cuộc khủng hoảng về trách nhiệm và uy tín KTV đã từng đối mặt giảm đi và
sự tự tin trong nghề kiểm toán và công việc của KTV dần dần được phục hồi, lấy lại
niềm tin từ công chúng.
5.2.2 Giải pháp thu hẹp khoảng cách mong đợi
5.2.2.1 Những giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán do
năng lực của KTV
Qua kết quả khảo sát cho thấy kết quả thực hiện trách nhiệm trong cuộc
kiểm toán BCTC của KTV chưa được xã hội đánh giá cao. KTV đưa ra ý kiến
BCTC đã được kiểm toán là trung thực và hợp lý nhưng chưa nhận được niềm tin từ
công chúng khi mà các NQL, kế toán và nhóm nhân viên ngân hàng chỉ đánh giá
kết quả thực hiện của KTV ở mức 1,63 và 1,39. Thực tế là do năng lực nghề nghiệp
của KTV thực hiện cuộc kiểm toán chưa cao nên chưa phát hiện được các sai phạm
trọng yếu vẫn còn tồn tại trong BCTC đã được kiểm toán. Bản thân các công ty
kiểm toán cũng chưa có hệ thống kiểm soát tốt để kiểm tra chất lượng công việc mà
KTV đã thực hiện. Theo báo cáo kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán năm 2014
của BTC tại 7 doanh nghiệp kiểm toán thì có 3 doanh nghiệp không đạt yêu cầu.
Niềm tin của công chúng vào kiểm toán sụt giảm. Vì vậy, cần thiết phải có những
giải pháp để kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện trách nhiệm của KTV và chất lượng
dịch vụ kiểm toán của các công ty kiểm toán để nâng cao năng lực của KTV nhằm
thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán:
Tăng cường hơn nữa KSCL đối với các KTV và các công ty kiểm toán:
Đây là hoạt động KSCL từ bên ngoài hằng năm của BTC và VACPA. Hoạt động
này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động kiểm toán, nó giúp cho KTV
63
tự ý thức thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo yêu cầu của chuẩn mực, qua đó góp
phần nâng cao chất lượng kiểm toán, gây dựng lại niềm tin cho công chúng, thu hẹp
được khoảng cách mong đợi kiểm toán do năng lực. Tuy nhiên trên thực tế, KSCL
hằng năm của BTC và VACPA vẫn còn nhiều bất cập khi mà số lượng các công ty
kiểm toán bị kiểm tra giảm dần qua các năm gần đây, cụ thể năm 2011 có 30 công
ty được kiểm tra, năm 2012 có 15 công ty, năm 2013 có 15 công ty và năm 2014 chỉ
còn 7 công ty bị kiểm tra. Hơn thế nữa, theo báo cáo kiểm tra chất lượng dịch vụ
kiểm toán năm 2014 của BTC, hầu hết các công ty chưa xây dựng hệ thống KSCL
hoặc có hệ thống KSCL nhưng chưa tuyên truyền, hướng dẫn đầy đủ đến tất cả các
cấp độ nhân viên, dẫn đến tình trạng nhân viên chưa nắm rõ, việc thực hiện qua hồ
sơ kiểm toán còn mang tính hình thức; Có 05 công ty chưa thực hiện việc công khai
báo cáo minh bạch theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 16 Thông tư số
183/2013/TT-BTC ngày 04/12/2013 của BTC về kiểm toán độc lập đối với đơn vị
có lợi ích công chúng; nhiều hồ sơ chưa lưu đầy đủ tài liệu, thông tin theo quy định
như: BCKT, thư quản lý, BCKT năm trước, các tài liệu thư từ liên lạc giữa KTV với
khách hàng, …Tổng hợp kết quả kiểm tra là có đến 43% công ty kiểm toán bị kiểm
tra không đạt yêu cầu, 43% chỉ đạt yêu cầu và 14% là tốt. Qua đó cho thấy để nâng
cao năng lực, trình độ nhận thức và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của KTV trong
việc phát hiện gian lận trên BCTC, BTC và VACPA cần phải tăng số lượng công ty
kiểm toán bị kiểm tra hàng năm hơn nữa, khoảng từ 3 – 5 năm thì một công ty kiểm
toán phải bị kiểm soát chất lượng để phát hiện các KTV chưa thực hiện đầy đủ trách
nhiệm, các công ty kiểm toán không đạt yêu cầu để phê bình nghiêm khắc và hình
thức răn đe thích hợp một cách công khai nhằm tăng niềm tin của xã hội.
Nâng cao tiêu chuẩn trong việc cho phép các công ty kiểm toán và KTV
đủ năng lực và phẩm chất để kiểm toán cho các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán: Qua công tác KSCL năm 2014 cho thấy còn nhiều công ty kiểm toán
có chất lượng dịch vụ chưa tốt, hồ sơ không đạt yêu cầu. Vì vậy để kiểm toán cho
các công ty niêm yết, là các công ty phải công bố BCTC và các thông tin cho công
chúng, luôn được các nhà đầu tư theo dõi, đánh giá và ra quyết định đầu tư. Vì vậy
64
các công ty kiểm toán được BTC và VACPA kết luận là tốt nên hãy thực hiện kiểm
toán cho các công ty niêm yết nhằm đảm cho chất lượng cho cuộc kiểm toán, cũng
như nhận được niềm tin về năng lực và uy tín từ xã hội đối với KTV thực hiện cuộc
kiểm toán.
Nâng cao năng lực của KTV thông qua tổ chức nghề nghiệp: VACPA là
tổ chức nghề nghiệp tập hợp đông đảo đội ngũ KTV độc lập và các doanh nghiệp
kiểm toán ở Việt Nam. Để nâng cao trình độ của KTV, hàng năm VACPA luôn tổ
chức các lớp cập nhật kiến thức cho KTV, KTV bắt buộc phải tham gia đủ 40
giờ/năm, trong đó có 20 giờ về kế toán, kiểm toán; 4 giờ về đạo đức nghề nghiệp và
16 giờ khác. Tuy nhiên vẫn còn nhiều KTV chưa thực hiện đúng yêu cầu này. Cụ
thể, trong năm 2015 đã có 28 KTV bị đình chỉ hành nghề kiểm toán do không có đủ
điều kiện tiếp tục hành nghề, do không tham gia đủ số giờ cập nhật kiến thức. Năm
2014 cũng có 15 KTV bị đình chỉ hành nghề kiểm toán cũng với lý do trên. Qua đó
cho thấy các KTV không đủ yêu cầu càng tăng lên, vì vậy, VACPA cần kiểm soát
chặt chẽ hơn nữa việc tham gia đầy đủ các lớp cập nhật kiến thức của KTV, một
mặt để giúp KTV nắm bắt được các chuẩn mực, thông tư mới có liên quan đến kế
toán, kiểm toán và những vấn đề mang tính thời sự của nghề nghiệp, mặt khác nhằm
loại bỏ những KTV không đủ điều kiện hành nghề để nâng cao chất lượng cuộc
kiểm toán. Ngoài ra VACAPA cần cung cấp kịp thời các văn bản chính sách mới
của Nhà nước qua công cụ hỗ trợ như Ebook, Website, nhằm hỗ trợ tư vấn chuyên
môn cho các KTV.
Ngoài ra, kết quả khảo sát còn cho thấy KTV chưa thực hiện đúng trách
nhiệm của mình trong việc công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt
động liên tục của ĐVĐKT vì nhóm nhân viên ngân hàng thì cho rằng KTV chưa
thực hiện thỏa đáng như mong đợi của họ (1,34). Bên cạnh đó, các KTV cũng chưa
nhận thức đúng trách nhiệm của mình khi cho rằng phải thực hiện trách nhiệm phát
hiện và công bố trên BCKT những hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám
đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC (2,23 và 2,29); công bố trên BCKT tất cả các
trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của công ty niêm yết đối với những yêu cầu
65
công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán (2,23). Vì vậy cần có những giải
pháp giúp KTV nắm rõ hơn trách nhiệm của mình để thực hiện cuộc kiểm toán hữu
hiệu và hiệu quả, cung cấp chất lượng kiểm toán thực sự hoàn hảo và thỏa mãn nhu
cầu và kỳ vọng của những người sử dụng BCTC và các nhóm lợi ích:
Nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn của KTV thông qua chương
trình đào tạo nội bộ tại các công ty kiểm toán: Trong mỗi công ty kiểm toán, KTV
là tài sản vô hình tạo ra giá trị cốt lỗi cho sự hoạt động của công ty. Vì KTV là
người thực hiện trực tiếp trong mọi cuộc kiểm toán và tạo ra sản phẩm là các báo
cáo kiểm toán được xã hội chờ đợi và đặt nhiều kỳ vọng. Kiểm toán không chỉ là
một ngành dịch vụ đơn thuần mà còn mang một ý nghĩa cao quý, được sự tôn trọng
từ các đối tượng liên quan. Do đó chất lượng sản phẩm của cuộc kiểm toán rất được
xã hội quan tâm và phụ thuộc nhiều vào năng lực và nắm rõ trách nhiệm của các
KTV. Tuy nhiên kết quả khảo sát cho thấy, trình độ và năng lực chuyên môn của
các KTV còn nhiều bất cập, chưa nhận thức đúng hoàn toàn trách nhiệm trong cuộc
kiểm toán. Đó là điều rất đáng lo ngại cho chất lượng của kiểm toán cũng như ảnh
hưởng đến niềm tin của xã hội đối với nghề nghiệp. Vì vậy bên cạnh các chính sách
và quy định của BTC và VACPA, mỗi công ty kiểm toán cần nỗ lực để nâng cao
kiến thức chuyên môn và năng lực thực hiện kiểm toán của các KTV thông qua
những nội dung sau:
- Kiến thức chuyên môn và kỹ năng của các KTV cần được quan tâm ngay từ
khâu tuyển dụng. Công ty cần xây dựng chính sách tuyển dụng rõ ràng, cụ
thể, chú trọng đến chuyên môn kế toán, kiểm toán, tốt nghiệp trường đại học
có uy tín, kết quả học tập và xếp loại hạnh kiểm phải đạt mức tối thiểu mà
công ty đề ra mới có cơ hội được tuyển dụng. Bên cạnh việc chú ý đến
chuyên môn, còn có một số phẩm chất cá nhân và kỹ năng không thể thiếu
của kiểm toán là đánh giá cao những ứng viên có tính chính trực, trung thực
để đảm bảo tuân thủ đạo đức nghề nghiệp theo yêu cầu của chuẩn mực.
Ngoài ra các kỹ năng cần thiết là làm việc nhóm, có tinh thần đồng đội, hỗ
66
trợ các thành viên khác, có tư duy tốt để phục vụ cho sự xét đoán nghề
nghiệp.
- Công ty cần đầu tư cho công tác đào tạo nội bộ, có mời chuyên gia nước
ngoài về giảng dạy hàng năm để các KTV có cơ hội trao đổi các vấn đề phát
sinh, hướng xử lý sau mỗi mùa kiểm toán và cập nhật kiến thức ngày càng
phù hợp với quốc tế. Các khóa học được tổ chức làm nhiều đợt, theo nhiều
chủ đề về kiểm toán, kế toán, thuế thông qua sự tham khảo ý kiến của BGĐ,
những người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán, các KTV để tập
trung vào các vấn đề trọng tâm. Cần đảm bảo các KTV tham gia đầy đủ theo
đúng số giờ quy định về đào tạo nội bộ của Việt Nam và quốc tế.
- Hỗ trợ cho các KTV các khóa đào tạo bên ngoài như ôn và thi CPA Việt
Nam, CPA Úc, ACCA để KTV nâng cao trình độ chuyên môn, hội nhập với
sự tiên tiến của quốc tế về nghề kiểm toán.
- Công ty khuyến khích nhân viên các phòng nghiệp vụ kiểm toán tự nghiên
cứu các chuẩn mực mới, thông tư mới và đào tạo nội bộ tại các phòng ban
nhằm cập nhật kiến thức cũng như xây dựng tinh thần đoàn kết trong mỗi
phòng nói riêng và công ty nói chung.
Xây dựng quy trình KSCL tại các công ty kiểm toán phù hợp với yêu cầu
của chuẩn mực, VACPA và BTC: Qua kết quả KSCL năm 2014, hầu hết các công
ty kiểm toán chưa xây dựng hệ thống KSCL hoặc có nhưng chưa tuyên truyền,
hướng dẫn đầy đủ đến tất cả các cấp độ nhân viên, dẫn đến tình trạng nhân viên
chưa nắm rõ trách nhiệm, việc thực hiện qua hồ sơ kiểm toán còn mang tính hình
thức; báo cáo phát hành ý kiến kiểm toán chưa phù hợp, BCKT còn nhiều sai sót,
hoặc chưa đầy đủ thông tin. Vì vậy, tại các công ty kiểm toán cần xây dựng ngay
hệ thống KSCL phù hợp theo VSA 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
BCTC được áp dụng từ 01/01/2014 cũng như phù hợp với các quy định của
VACPA và BTC. Hệ thống này cung cấp cho KTV và công ty kiểm toán sự đảm
bảo hợp lý rằng cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật
và các quy định có liên quan; và báo cáo kiểm toán được phát hành là phù hợp với
67
hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán. Các KTV cần nghiêm túc thực hiện theo quy
trình đã xây dựng và công ty kiểm toán vẫn kiểm soát chặt chẽ nhằm phát hiện các
trường hợp không tuân thủ hoặc thực hiện chưa đầy đủ các trách nhiệm của KTV.
Từ đó nâng cao niềm tin của người sử dụng BCTC và các bên quan tâm khác trong
xã hội về việc thực hiện trách nhiệm của KTV.
5.2.2.2 Những giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán do
mong đợi chưa hợp lý của xã hội
Kết quả khảo sát cho thấy các nhóm NQL, kế toán và nhân viên ngân hàng
còn quá nhiều kỳ vọng vào trách nhiệm của KTV khi cho rằng KTV nên lập BCTC
cho ĐVĐKT (2,1 và 2,21); đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác (2,43 và
2,64); phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên và BGĐ cho dù số tiền
trọng yếu hay không (2,24 và 2,64). Để làm như vậy sẽ đòi hỏi KTV phải xem xét
mọi giao dịch của đơn vị, điều này sẽ dẫn đến chi phí kiểm toán cao mà không có
lợi ích tương xứng và thậm chí rằng KTV cũng không thể chắc chắn rằng không có
gì đã được bỏ qua và không có sai sót đã xảy ra cho dù kiểm tra mẫu 100%. Đây
vẫn là mong đợi chưa hợp lý từ người lập và sử dụng BCTC, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt Nam. Vì vậy
những giải pháp được đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi này được cụ thể
như sau:
Đối với KTV và công ty kiểm toán cần phải làm cho ĐVĐKT và các
nhóm lợi ích liên quan nhận thức đúng mục tiêu và trách nhiệm của mình trong
cuộc kiểm toán: Trước khi thực hiện cuộc kiểm toán, công ty kiểm toán cần phân
công các KTV có đủ năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với
từng đơn vị được kiểm toán; giải thích rõ trách nhiệm của KTV và trách nhiệm của
các nhà quản lý trong quá trình kiểm toán, mục tiêu của cuộc kiểm toán BCTC, đặc
biệt là giải thích về hạn chế của KTV trong mọi cuộc kiểm toán như bản chất của
việc lập và trình bày BCTC; bản chất của các thủ tục kiểm toán; sự cân nhắc giữa
thời gian và giá phí một cách hợp lý. Từ đó nâng cao nhận thức của những người sử
dụng BCTC về trách nhiệm thực tế của KTV sẽ giúp giảm bớt khoảng cách kỳ vọng
68
kiểm toán. Ngoài ra các công ty kiểm toán cần thường xuyên tổ chức các buổi hội
thảo tạo cơ hội tốt để các KTV phổ biến kiến thức kiểm toán qua đó tuyên truyền
giải thích cho những người sử dụng các dịch vụ kiểm toán đặc biệt là dịch vụ kiểm
toán BCTC để nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của KTV, các chức năng
kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán cho các đối tượng liên quan mở rộng như
BGĐ, cổ đông và các hiệp hội kinh doanh, và các doanh nghiệp.
BTC cần tăng cường tư vấn chuyên môn về kiểm toán cho người sử dụng
BCTC: Theo kết quả đã khảo sát, các nhóm khảo sát nói riêng và xã hội nói chung
luôn kỳ vọng KTV thực hiện những gì có thể và cả không thể làm được và không
phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực. Vì vậy, cần giúp xã hội hiểu rõ hơn chức năng
và mục tiêu của cuộc kiểm toán. Đây là một cách hiệu quả để làm giảm kỳ vọng quá
cao của xã hội vào các KTV nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, của các
đối tượng có liên quan về bản chất của nghề nghiệp kiểm toán, mục tiêu và trách
nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán. Một nguyên nhân của khoảng cách mong đợi
kiểm toán là sự khác biệt trong nhận thức giữa KTV và người sử dụng BCTC. Do
đó, BTC có thể ban hành một cuốn sổ tay các vấn đề liên quan đến kiểm toán để
giúp các đối tượng hiểu rõ hơn, từ đó không còn các mong đợi không hợp lý. Tổ
chức các buổi hội thảo về kiểm toán và khuyến khích tranh luận về các vấn đề thời
sự trong các lĩnh vực này bởi phần lớn các đối tượng trong xã hội. Hiện nay khi mà
công nghệ thông tin rất phát triển nên có thể thông qua các kênh truyền thông để
tuyên truyền cho xã hội nói chung về các chức năng kiểm toán và cho họ nhận thức
được rằng những gì có thể mong đợi hợp lý từ KTV. Nhằm nâng cao nhận thức và
hiểu biết của xã hội về trách nhiệm của KTV có thể thông qua các vụ gian lận nổi
tiếng hoặc một doanh nghiệp bất ngờ phá sản hoặc sự kiện tương tự. Ngoài ra, một
cách hiệu quả là tác động đến các nhà báo có ảnh hưởng, một cách chính thức và
không chính thức, để giúp họ hiểu rõ hơn về chức năng kiểm toán và công việc của
KTV. Nếu họ đạt được một số hiểu biết, nhận thức về công việc của nghề kiểm
toán, họ có thể tạo nên những ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của cộng đồng một
69
cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi những bài báo của họ sẽ có tiêu đề ít giật gân hơn
trước kia liên quan đến các vụ gian lận và kiểm toán.
Bản thân người sử dụng BCTC cần thay đổi nhận thức về trách nhiệm
của KTV: Những người sử dụng BCTC phải nghiên cứu các tài liệu về kiểm toán,
trang bị cho mình những sự hiểu biết nhất định trước khi sử dụng, phân tích BCTC
được kiểm toán. Từ sự am hiểu đó để có sự mong đợi phù hợp đối với trách nhiệm
của KTV. Thường xuyên trao dồi, cập nhật các kiến thức về những sự thay đổi của
kiểm toán thông qua sách báo, truyền hình hoặc các nghiên cứu về kiểm toán để biết
được mặc dù có kiểm toán nhưng BCTC cũng không thể chính xác vì những hạn
chế vốn có của kiểm toán mà có sự kỳ vọng và đánh giá hợp lý hơn.
5.2.2.3 Giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách do chuẩn mực và các quy định
chưa đầy đủ
Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn mong đợi chưa thật sự hợp
lý về những trách nhiệm của KTV. Tuy nhiên cũng có những mong đợi hợp lý từ
các nhóm nhưng do khiếm khuyết của chuẩn mực. Những mong đợi này có thể
được xem xét bổ sung vào chuẩn mực nhằm giảm khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Vì vậy cần thiết phải hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán VSA. Trong quá
trình thực hiện kiểm toán và đưa ra ý kiến về BCTC, KTV luôn dựa vào các quy
định luật pháp và chuẩn mực kiểm toán. Việc nghiên cứu và ban hành chuẩn mực
kiểm toán rõ ràng và đầy đủ sẽ giúp cho KTV tránh được những nhầm lẫn trong
việc tiếp nhận thông tin cũng như thực thi trong quá trình kiểm toán. Việc hoàn
thiện và cập nhật hệ thống VSA cần phù hợp với những thay đổi của chuẩn mực
kiểm toán quốc tế, đáp ứng những mong đợi hợp lý của xã hội.
5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu khảo sát luôn đi kèm với một số hạn chế cố hữu, đặc biệt là bảng
câu hỏi đóng nên đối tượng chưa nêu được những quan điểm khác của mình. Các
câu hỏi trong bảng khảo sát cũng còn sự trùng lắp, chưa thực sự rõ ràng và dễ hiểu
cho người được hỏi. Khảo sát còn hạn chế vì mẫu khảo sát còn ít là 176 mẫu, có thể
70
chưa đại điện được sự mong đợi của toàn xã hội và kết quả khảo sát chỉ được thống
kê, phân tích số học đơn giản.
Một hạn chế tiếp theo của nghiên cứu là phạm vi đối tượng khảo sát cũng
còn hẹp, chủ yếu là các đối tượng có kinh nghiệm dưới 5 năm nên sự hiểu biết về
trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC còn hạn chế, có thể chưa hiểu biết
đúng với các quy định của chuẩn mực kiểm toán.
Một hạn chế khác của nghiên cứu là chỉ thực hiện khảo sát tại Thành phố Hồ
Chí Minh. Vì vậy, nếu thực hiện khảo sát thêm nhiều tỉnh thành thì kết quả có thể
khác do sự khác nhau về kinh tế và điều kiện văn hóa của các vùng miền ở Việt
Nam là khá lớn. Tương tự như thế, điều kiện kinh tế và văn hóa tại Việt Nam có sự
khác biệt so với các nước khác. Do đó, kết quả không sử dụng cho mục đích khái
quát hóa sang các quốc gia khác. Ngoài ra, thời gian thực hiện nghiên cứu ngắn
cũng là một hạn chế.
Bất kỳ một nghiên cứu nào cũng có những giới hạn phạm vi nghiên cứu. Đây
được xem là nền tảng cho các tác giả tiếp theo thực hiện việc nghiên cứu của mình.
Các nghiên cứu tiếp theo cần mở rộng cở mẫu, mở rộng thời gian nghiên cứu hay
mở rộng đối tượng khảo sát như sinh viên, các nhà báo tài chính… để có thể mở
rộng việc đánh giá xem có sự khác biệt về nhận thức giữa KTV và xã hội về vai trò,
trách nhiệm của KTV.
71
Kết luận chương 5
Những phát hiện của nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam từ kết quả khảo
sát đã cung cấp cái nhìn sâu sắc vào sự mong đợi hợp lý và chưa hợp lý của xã hội
về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC. Từ kết quả đó, một số kiến nghị đã
được đề xuất để các KTV có thể đáp ứng tốt hơn mong đợi hợp lý của xã hội, cũng
như làm thay đổi những mong đợi chưa phải là hợp lý, và cung cấp cho người sử
dụng BCTC với một báo cáo kiểm toán chất lượng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông
tin của họ.
Như vậy, các giải pháp được đề xuất đã từng bước tiếp cận thông lệ quốc tế,
phù hợp với đặc điểm Việt Nam đồng thời đóng góp một cách có ý nghĩa đối với
việc thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tại Việt Nam. Nếu việc thực hiện trách
nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC liên kết tốt hơn với kỳ vọng hợp lý
của xã hội thì cuộc khủng hoảng về uy tín của KTV nói riêng và nghề kiểm toán nói
chung sẽ giảm đi và niềm tin của công chung về kiểm toán dần dần được phục hồi.
72
KẾT LUẬN
Một báo cáo tài chính đã được kiểm toán đáng tin cậy và đáp ứng được nhu
cầu thông tin luôn là một mong đợi của xã hội. Tuy nhiên, sau nhiều vụ sụp đổ lớn
trên thế giới và tại Việt Nam như Enron, Worldcom, Bông Bạch Tuyết,... thì chất
lượng hoạt động kiểm toán BCTC ngày càng giảm và niềm tin của xã hội vào KTV
cũng mất dần. Vì phần lớn nguyên nhân xuất phát từ sự gian lận trên BCTC. Và
việc không phát hiện được gian lận có phải là hoàn toàn lỗi của Kiểm toán viên và
của các Công ty kiểm toán? Và trách nhiệm phát hiện gian lận là của Kiểm toán
viên? Đa số người sử dụng BCTC thì trả lời là có, nhưng một số ít và bản thân
Kiểm toán viên thì nói không. Đây là sự khác biệt giữa sự mong đợi của công chúng
và thực tế về trách nhiệm của Kiểm toán viên trong cuộc kiểm toán BCTC. Điều
này tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán.
Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy khoảng cách mong đợi kiểm
toán đang tồn tại tại Anh, New Zealand, Úc, Singapore – các nước phát triển cũng
như tại Barbados, Lebanon – các quốc gia đang phát triển. Trong khi chất lượng
BCTC bị suy giảm và uy tín của hoạt động kiểm toán độc lập bị ảnh hưởng toàn cầu
thì liệu khoảng cách mong đợi kiểm toán có tồn tại tại Việt Nam. Xuất phát từ sự
cấp thiết đó, tác giả đã lựa chọn thực hiện nghiên cứu về vấn đề cấp bách này.
Sau thời gian tập trung nghiên cứu và dựa vào kết quả khảo sát, tác giả có thể
kết luận rằng thật sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt Nam. Vì vậy,
tác giả đã đề xuất những giải pháp thích hợp để thu hẹp khoảng cách này, giúp cho
người sử dụng BCTC có sự nhìn nhận đúng hơn về trách nhiệm của KTV, cũng như
là bổ sung các chuẩn mực để nâng cao trách nhiệm của KTV. Việc thực hiện các
giải pháp đã đề xuất một cách đồng bộ, kịp thời và chặt chẽ giữa KTV, người sử
dụng BCTC và các đối tượng có liên quan sẽ giúp đạt được mục tiêu nhanh chóng
là thu hẹp khoảng cách kỳ vọng kiểm toán, nâng cao chất lượng BCTC và lấy lại
niềm tin của công chúng vào nghề nghiệp kiểm toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Bộ Tài chính, 2012. Hệ thống các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Hà Nội, ngày
06/12/2012.
2. Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam, 2015. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm
tra chất lượng dịch vụ kiểm toán năm 2014. Hà Nội, ngày 16/09/2015.
3. Lâm Huỳnh Phương, 2013. Ảnh hưởng của việc luân chuyển KTV đến chất
lượng hoạt động kiểm toán BCTC tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh
tế Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Lý Trần Kim Ngân, 2011. Hoàn thiện thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện gian lận
trên BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ngô Thị Thu Hà, 2007. Phương huớng và giải pháp nhằm nâng cao trách
nhiệm của kiểm toán viên Ðộc lập Ðối với việc phát hiện gian lận và sai sót
trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Hữu Thọ, 2013. Đo lường chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập và sự
hài lòng của khách hàng – nghiên cứu trường hợp công ty KPMG Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Quốc Cường, 2013. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán
BCTC cho các công ty kiểm toán độc lập nhỏ và vừa trên địa bàn Tp.HCM.
Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013. Đánh giá tầm quan trọng của một số thuộc tính cá
nhân của KTV đối với chất lượng kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập ở
Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013. Hoàn thiện thủ tục đánh giá rủi ro nhằm nâng
cao chất lượng của cuộc kiểm toán BCTC tại các công ty kiểm toán độc lập vừa
và nhỏ tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh.
10. Nguyễn Trọng Thể, 2013. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán
độc lập trong điều kiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam mới đã ban
hành. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Trần Mạnh Hùng và Lại Thị Thu Thủy, 2013. Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm
toán. Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số 5-2013 (116)
12. Trương Thị Yến Nhung, 2012. Quy trình lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm
toán BCTC tại các Công ty kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam trên địa bàn
TP. HCM. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Vũ Hữu Đức và các cộng sự, 2007. Kiểm toán. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
14. Beck, C.W., 1973. The Role of the Auditor in Modern Society: An Empirical
Appraisal. Accounting and Business Research, 3(10), 117-122.
15. Best, Peter J and Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001). Evidence of the
Audit Expectation Gap in Singapore. Managerial Auditing Journal, 16(3):pp.
134-144.
16. Dan Stirbu, 2009. Fraud and error. Auditors’ responsibility levels. Annales
Universitatis Apulensis Series Oeconomica, 11(1), 2009.
17. Javed Siddiqui, 2009. The audit expectations gap and the role of audit education:
the case of an emerging economy. Managerial Auditing Journal. Vol. 24 No. 6,
2009, pp. 564-583.
18. Fatemeh Saeidi, 2012. Audit expectations gap and corporate fraud: Empirical
evidence from Iran. African Journal of Business Management. Vol. 6(23), pp.
7031-7041, 13 June, 2012.
19. Fowzia Rehana, 2010. An Empirical Study on Audit Expectation Gap: Role of
Auditing Education in Bangladesh. MPRA Paper No. 22708, posted 15. May
2010 14:31 UTC.
20. Humphrey, C. G., Moizer, P., & Turley, S., 1993. The audit expectations gap in
Britain: an empirical investigation. Accounting and Business Research, 23, No
91A, pp395-411.
21. Klaus Ruhnke & Martin Schmidt, 2014. The audit expectation gap: existence,
causes, and the impact of changes. Accounting and Business Research, 2014
22. Lee, T. A., 1970. The Nature of Auditing and its Objectives. Accountancy,
81(920), 292-296.
23. Mahdi Salehi, 2008. Fraud Detection and Audit Expectation Gap: Empirical
Evidence from Iranian Bankers. International Journal of Business and
Management. Vol. 3, No. 10.
24. Mahdi Salehi, 2009. Audit Independence and Expectation Gap: Empirical
Evidences from Iran. International Journal of Economics and Finance. Vol. 1,
No. 1.
25. Mahdi Salehi, 2011. Audit expectation gap: Concept, nature and trace. African
Journal of Business Management. Vol. 5(21), pp. 8376-8392, 23 September,
2011.
26. Omid Pourheydari & Mina Abousaiedi, 2011. An empirical investigation of the
audit expectations gap in Iran. Journal of Islamic Accounting and Business
Research. Vol. 2 No. 1, 2011, pp. 63-76.
27. Oyinlola oluwagbemiga, 2010. The role of auditors in fraud detection,
prevention and reporting in Nigeria. Library Philosophy and Practice (e-
journal). Paper 517.
28. Philmore, A & Michael, H., 2006. An exploratory study of auditors’
responsibility for fraud detection in Barbados. Managerial Auditing Journal,
Vol. 20 No. 3, 2005, pp. 284-303.
29. Porter, B. A., 1993. An empirical study of the audit expectation-performance
gap. Accounting and Business Research, 24(93), pp49-68.
30. Porter, B. A., 2012. Report on research conducted in the united kingdom and
new zealand in 2008 investigating the audit expectation-performance gap and
users’ understanding of, and desired improvements to, the auditor’s report.
31. Rasha Kassem & Andrew Higson, 2012. Financial Reporting Fraud: Are Standards’ Setters and External Auditors Doing Enough. International Journal of Business and Social Science. Vol. 3 No. 19; October 2012.
32. Semiu Babatunde Adeyemi & Olayinka Marte Uadiale, 2011. An empirical
investigation of the audit expectation gap in Nigeria. African Journal of
Business Management, Vol. 5(19), pp. 7964-7971, 9 September, 2011.
33. Vidisha Gunesh Ramlugun, 2014. Audit Expectation Gap: Evidence From
Mauritius. Research journal of economics and business studies. Vol 03, No. 5,
2014.
34. Yusuf Munir Sidani, 2007. The audit expectation gap: evidence from Lebanon.
Managerial Auditing Journal. Vol. 22 No. 3, 2007, pp. 288-302.
35. Z. Jun Lin & Feng Chen, 2004. An Empirical Study of Audit “Expectation
Gap” in The People’s Republic of China. International Journal of Auditing. Int.
J. Audit. 8: 93–115 (2004).
Phụ lục I - BẢNG KHẢO SÁT NGHIÊN CỨU
KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH – NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM
Kính chào quý anh (chị),
Tôi tên là Nguyễn Quốc Kịp – là học viên cao học chuyên ngành Kế toán tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Hiện tại tôi đang thực hiện nghiên cứu về “Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính – nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam” với mục đích hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ từ quý anh (chị) thông qua việc trả lời các câu hỏi trong bảng khảo sát ý kiến bên dưới. Sự đóng góp của anh (chị) là rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cho việc nghiên cứu của tôi. Tôi xin cam kết mọi dữ liệu thu thập được từ quý anh (chị) chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu và được bảo mật thông tin.
Chân thành cảm ơn quý anh (chị) đã dành thời gian quý báu đọc và hoàn thành bảng câu hỏi khảo sát.
PHẦN 1. THÔNG TIN CƠ BẢN
1. Họ và Tên:
2. Đơn vị làm việc:
3. Vị trí/Chức vụ:
4. Số năm kinh nghiệm làm việc:
5. Công ty kiểm toán BCTC cho Đơn vị của các anh (chị) là:
o Big 4: KPMG, E&Y, PWC, DELOITTE
o Khác: …………………………………….
6. Email:
PHẦN 2. CÂU HỎI KHẢO SÁT
Với mỗi trách nhiệm được liệt kê bên dưới, nhờ Quý anh (chị) nêu quan điểm của mình bằng cách đánh dấu (x) vào ô thích hợp để trả lời 3 câu hỏi sau với 3 mức độ trả lời cho câu hỏi 1 và 3:
Không Không chắc Có
Riêng câu hỏi 2 có 4 mức độ trả lời là:
Không Không chắc Đạt
Có Câu 1: Kiểm toán viên (KTV) có bị yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không? Câu 2: Nếu bạn trả lời “có” ở Câu 1 thì bạn nghĩ KTV có thực hiện tốt trách nhiệm này không? Nếu trả lời “không chắc” hoặc “không” ở câu 1 thì bỏ qua câu 2. Câu 3: KTV nên được yêu cầu thực hiện trách nhiệm này không?
Câu hỏi 2
Các trách nhiệm của KTV
Không
Có Không
Đạt
Có Không
Có
Câu hỏi 1 Không chắc
Không chắc
Câu hỏi 3 Không chắc
1. KTV có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo tài chính (BCTC) cho đơn vị được kiểm toán (ĐVĐKT) 2. KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 4. KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt 5. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên báo cáo kiểm toán (BCKT) về các thông tin phi
tài chính của ĐVĐKT 6. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành của Ban Giám đốc ĐVĐKT 7. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh của ĐVĐKT 8. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những ảnh hưởng của ĐVĐKT đến môi trường 9. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu) 10. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi Ban Giám đốc cho dù số tiền trọng yếu hay không 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT
14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 15. KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế cho Cơ quan thuế 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 17. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 19. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 20. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng
khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản. 23. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu và lao động. 24. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 26. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng của ĐVĐKT 27. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin thường niên (BCTN) của trong báo cáo ĐVĐKT
28. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng. 29. KTV có trách nhiệm kiểm tra và và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách an toàn sản phẩm 30. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.
Phụ lục IIA: Bảng kết quả khảo sát về trách nhiệm hiện tại của KTV
Các nhóm khảo sát Tổng thể Kiểm toán viên Ngân hàng, chứng khoán Nhà quản lý và Kế toán
Giá trị trung bình
1,15 1,75 1,86 1,61
1,29 2,26 2,48 2,05
2,96 2,97 2,80 2,91
1,50 1,69 1,84 1,68
1,85 1,91 1,80 1,86
1,50 1,84 1,95 1,77
1,56 1,52 1,82 1,63
1,44 1,57 1,79 1,60
1,85 1,90 2,18 1,97
1,90 2,00 2,18 2,03
2,60 2,82 2,84 2,76 Các trách nhiệm của KTV 1. KTV có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo tài chính (BCTC) cho đơn vị được kiểm toán (ĐVĐKT) 2. KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 4. KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt 5. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên báo cáo kiểm toán (BCKT) về các thông tin phi tài chính của ĐVĐKT 6. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành của Ban Giám đốc ĐVĐKT 7. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh của ĐVĐKT 8. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những ảnh hưởng của ĐVĐKT đến môi trường 9. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu) 10. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi Ban Giám đốc cho dù số tiền trọng yếu hay không 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC
2,31 2,72 2,73 2,60
2,50 2,74 2,77 2,68
2,62 2,81 2,77 2,74
1,63 2,35 2,55 2,20
2,54 2,75 2,82 2,71
2,23 2,22 2,41 2,28
2,50 2,74 2,79 2,68
2,29 2,24 2,39 2,30
2,23 2,71 2,77 2,59
2,60 2,94 2,84 2,81
2,33 2,47 2,63 2,48 của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 15. KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế cho Cơ quan thuế 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 17. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 19. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 20. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ
1,71 1,65 1,70 1,68
1,87 2,62 2,59 2,39
2,77 2,91 2,82 2,84
1,33 1,59 2,23 1,72
1,48 1,79 2,30 1,86
1,35 1,49 2,04 1,62
1,37 1,49 2,05 1,63
1,40 1,46 2,00 1,61
của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản. 23. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu và lao động. 24. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 26. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng của ĐVĐKT 27. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin trong báo cáo thường niên (BCTN) của ĐVĐKT 28. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng. 29. KTV có trách nhiệm kiểm tra và và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách an toàn sản phẩm 30. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.
Phụ lục IIB: Bảng kết quả khảo sát về việc đánh giá thực hiện trách nhiệm của
KTV
Các nhóm khảo sát Tổng thể Kiểm toán viên Ngân hàng, chứng khoán Nhà quản lý và Kế toán
Giá trị trung bình
2,88 1,63 1,39 1,95
2,89 2,82 2,84 2,76
2,83 2,66 2,56 2,67
2,85 2,78 2,60 2,74
2,88 2,82 2,74 2,82
2,62 2,49 1,33 2,13
2,63 2,62 1,72 2,28
2,92 2,89 2,70 2,83
2,93 2,67 2,55 2,70
Các trách nhiệm hiện hữu của KTV 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và
2,13 2,13 1,34 1,88
thanh khoản. 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT
Phụ lục IIC: Bảng kết quả khảo sát về trách nhiệm KTV nên thực hiện
Các nhóm khảo sát Tổng thể Kiểm toán viên Ngân hàng, chứng khoán Nhà quản lý và Kế toán
Giá trị trung bình
1,37 2,10 2,21 1,92
1,48 2,43 2,64 2,22
2,96 2,96 2,86 2,93
1,77 1,79 2,25 1,93
2,02 2,04 1,89 1,99
1,79 1,71 2,04 1,84
1,81 1,79 2,04 1,88
1,85 1,69 2,00 1,84
2,17 2,24 2,64 2,35
Các trách nhiệm của KTV 1. KTV có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo tài chính (BCTC) cho đơn vị được kiểm toán (ĐVĐKT) 2. KTV có trách nhiệm đảm bảo BCTC của ĐVĐKT là chính xác 3. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 4. KTV có trách nhiệm đảm bảo ĐVĐKT có tình hình tài chính tốt 5. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên báo cáo kiểm toán (BCKT) về các thông tin phi tài chính của ĐVĐKT 6. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT sự hữu hiệu và hiệu quả của việc quản lý, điều hành của Ban Giám đốc ĐVĐKT 7. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng tại nơi hoạt động kinh doanh của ĐVĐKT 8. KTV có trách nhiệm xem xét và công bố trên BCKT về những ảnh hưởng của ĐVĐKT đến môi trường 9. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi nhân viên cho dù số tiền trọng yếu hay không (ví dụ như lớn hơn 5% trên tổng doanh thu hoặc tổng tài sản là trọng yếu)
2,23 2,29 2,68 2,40
2,69 2,84 2,88 2,81
2,46 2,69 2,79 2,65
2,69 2,79 2,84 2,78
2,69 2,90 2,84 2,82
1,96 2,50 2,66 2,39
2,75 2,72 2,89 2,78
2,42 2,57 2,55 2,52
2,65 2,74 2,93 2,77
2,48 2,59 2,54 2,54
2,31 2,72 2,84 2,64
2,73 2,93 2,86 2,85
10. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi trộm cắp thực hiện bởi Ban Giám đốc cho dù số tiền trọng yếu hay không 11. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 12. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 13. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT về hành vi cố tình thay đổi số liệu và thông tin trên BCTC của ĐVĐKT 14. KTV có trách nhiệm bảo đảm rằng ĐVĐKT tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin theo chuẩn mực và các quy định có liên quan 15. KTV có trách nhiệm báo cáo những vi phạm luật về thuế cho Cơ quan thuế 16. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp trên BCTC của ĐVĐKT 17. KTV có trách nhiệm phát hiện hành vi không tuân thủ pháp luật của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 18. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng trực tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 19. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT các dấu hiệu không tuân thủ pháp luật và các quy định của Ban Giám đốc có ảnh hưởng gián tiếp đến BCTC của ĐVĐKT 20. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố trên BCKT tất cả các trường hợp tuân thủ và không tuân thủ của ĐVĐKT 21. Đối với công ty niêm yết, KTV có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu công bố thông tin của Sở Giao dịch Chứng
2,52 2,49 2,68 2,56
2,00 1,74 1,86 1,85
2,17 2,63 2,70 2,52
2,85 2,85 2,89 2,86
1,58 1,72 2,27 1,85
1,69 1,87 2,20 1,92
1,71 1,59 2,21 1,82
1,71 1,66 2,20 1,85
1,65 1,71 2,18 1,84
khoán và chỉ công bố trên BCKT các trường hợp không tuân thủ có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của ĐVĐKT 22. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro tài chính như rủi ro tín dụng, lãi suất và thanh khoản. 23. KTV có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo với Ban Giám đốc của ĐVĐKT về sự đầy đủ của các thủ tục để xác định và quản lý các rủi ro hoạt động như sự cố máy móc, rủi ro khi thâm nhập vào các thị trường mới hay rủi ro thiếu hụt nguyên vật liệu và lao động. 24. KTV có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 25. KTV có trách nhiệm công bố trên BCKT những nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của ĐVĐKT 26. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của những thông tin được đăng tải trên mạng của ĐVĐKT 27. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của tất cả các thông tin trong báo cáo thường niên (BCTN) của ĐVĐKT 28. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đối với cơ hội việc làm bình đẳng. 29. KTV có trách nhiệm kiểm tra và và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách an toàn sản phẩm 30. KTV có trách nhiệm kiểm tra và công bố trên BCKT về độ tin cậy của thông tin trong BCTN của ĐVĐKT về chính sách đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động.