BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*******

NGUYỄN QUỐC THẮNG

KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ

NĂNG KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT

NAM DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*******

NGUYỄN QUỐC THẮNG

KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH –NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hỗ trợ từ

Giảng viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung

thực vả chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Quốc Thắng

ii

LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ từ rất nhiều

người.

Trước hết, tôi xin cảm ơn Giảng viên hướng dẫn của tôi, Phó Giáo Sư - Tiến

Sĩ Lê Phan Thị Diệu Thảo, đã hướng dẫn tận tình và cho tôi những nhận xét chân

thành, khuyến khích tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.

Bên cạnh đó là lời cám ơn chân thành đến Quý thầy, cô những người đã tận

tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt những năm cao học vừa qua. Và đặc biệt

là bạn Lương Duy Quang, Thạc sỹ chương trình Việt Nam-Hà Lan (Vietnam-

Netherlands Program), đã hỗ trợ tích cực cho tôi những tài liệu rất hữu ích trong quá

trình hoàn thành luận văn.

Và cuối cùng tôi chân thành cám ơn Thầy Nguyễn Từ Hàn, Trưởng phòng

Tài chính – Kế toán, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, các anh chị tại

đơn vị, đã hỗ trợ và khuyến khích tôi trong quá trình học và hoàn thành luận văn.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Quốc Thắng

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHTG Bảo hiểm tiền gửi

IADI (Internation Association of Deposit Insurance ) tổ chức nghiên

cứu về bảo hiểm tiền gửi quốc tế

IFS (international Financial Statistic) Các chỉ số tài chính quốc tế

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế

NH Ngân hàng

NHNN Ngân hàng nhà nước

KHNH khủng hoảng ngân hàng

USD Đồng đôla Mỹ

VND Việt Nam đồng

WDI (World-development-indicators) Các chỉ số thế giới

WB (World Bank) Ngân hàng thế giới

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng tại các

nước đang phát triển, loại bỏ các quan sát ngay sau các năm kết thúc khủng hoảng

…………………………………………………………………………………….. 36

Bảng 2: Tỷ giá hối đoái bình quân năm (1996-1997) khu vực ĐNÁ …………….44

Bảng 3: Tình hình thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính khu vực

Đông Nam Á(01/04/1997-31/03/1998) ………………………..…………………..44

Bảng 4: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp năm 1997 tại khu vực ĐNÁ

…………………………………………………………………………………...…45

Bảng 5: Tổng hợp số liệu nghiên cứu trường hợp của Thái Lan và Uruguay (giai

đoạn 1996-2003) ………………………………………………………………… 48

Bảng 6: So sánh vốn điều lệ và Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng lớn tại Việt Nam

(tháng 05/2013) ……………………………………………………………..……..50

Bảng 7: Quy mô vốn của các NH hàng đầu khu vực ĐNÁ ………………………51

Bảng 8: Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất khủng hoảng ngân

hàng tại Việt Nam (giai đoạn 1996-2011) …………………………………………59

v

DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Đường cong Logit ……………………………………………………......23

Hình 2: Tính nghiêm trọng của khủng hoảng ngân hàng ……………………….. 56

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng tại Thái Lan và Uruguay giai

đoạn 1996-2003 ……………………………………………………………………47

Biểu đồ 2: Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng ngân hàng

tại Việt Nam ……………………………………………………………………….60

vi

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………….…….. 1

CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG NGÂN

HÀNG TRÊN THẾ GIỚI

1.1 Lý thuyết tổng quan .................……………………………………….4

1.1.1 Từ khóa chính ……………………………..…………………….4

1.1.2 Lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng ….………………………. 6

1.2 Nghiên cứu thực nghiệm …………………………………...…….......13

1.3 Tóm tắt chƣơng 1 ………………………………………………..……18

CHƢƠNG 2: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP DỮ LIỆU

2.1 Lựa chọn mô hình nghiên cứu ……………………………………… 20

2.2 Lý thuyết mô hình và mô hình chi tiết ……………………………… 23

2.2.1 Lý thuyết mô hình ………………………….………..…………. 23

2.2.2 Mô hình chi tiết …………………….……………………….…...24

2.2.2.1 Biến Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (Growth) ………………….. .24

2.2.2.2 Biến lãi suất thực (real interest) …………………….……… 25

2.2.2.3 Biến tỷ giá hối đoái (exchange rate) ……………………..… 25

2.2.2.4 Biến lạm phát (inflation) ………………………….………....26

2.2.2.5 Biến tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (terms of trade) ……26

2.2.2.6 Biến tấn công tiền tệ (M2/Reserve) ……………………..….. 27

2.2.2.7 Biến bảo hiểm tiền gửi (deposit) …………………………… 27

2.2.2.8 Biến tự do hóa tài chính (credit) ……………………………. 28

2.3 Ƣớc lƣợng và kiểm định mô hình đề nghị ………………………….. 29

2.4 Nguồn dữ liệu và trích lọc dữ liệu….………………………………....31

2.5 Kết quả hồi quy và kiểm định các giả thuyết ……………………… 32

2.5.1 Xây dựng mô hình ……………………………..……….……… 32

2.5.2 Ý nghĩa của các biến giải thích …….………………………….. 39

vii

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM

KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

DỰA TRÊN KINH NGHIỆM THẾ GIỚI

3.1 Khủng hoảng Thái Lan ………………………………………………43

3.2 Khủng hoảng tại Uruguay …………………………………………..45

3.3 Áp dụng mô hình nghiên cứu trong các trƣờng hợp tại Thái Lan và

Uruguay ………………………………………………………………….. 46

3.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng

tại Việt Nam ……………………………………………………………….49

3.4.1 Thực trạng hệ thống ngân hàng tại Việt Nam ….……………….49

3.4.2 Những thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam……….52

3.4.3 Các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng của Ngân hàng nhà nước

trong thời gian qua ………………………………………………………… 54

3.4.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân

hàng và sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm ………..… 55

3.4.5 Xây dựng mô hình ……..………………………………………. 57

CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1 Kết luận ………………………………………………………………..61

4.2 Kiến nghị ………………………………………………………………63

Tài liệu tham khảo………………………………………………………………….68

Phụ lục ……………………………………………………………………………..70

viii

TÓM TẮT ĐỀ TÀI

Đề tài: ”Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng

ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới” sẽ gồm bốn chương:

Chương 1, trong chương này tôi ưu tiên tập trung làm rõ định nghĩa về khủng

hoảng ngân hàng. Kế đến là đề cập đến các khung lý thuyết khác nhau vể khủng

hoảng ngân hàng từ đó có được các giả thuyết về việc làm thế nào các yếu tố quyết

định ảnh hưởng đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Bên cạnh đó là xem

xét các nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng của các nhà nghiên cứu

trước đây, nhằm giúp người đọc hiểu các nhà nghiên cứu khác đã tiếp cận vấn đề

nghiên cứu này như thế nào, những số liệu đã thu thập được cũng như các mô hình

và phương pháp thống kê mà họ đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu.

Chương 2, Kinh nghiệm xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân

hàng tại một số quốc gia trên thế giới. Các giả thuyết thể hiện mối liên hệ giữa

khủng hoảng ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô được đề cập và thảo luận trong

lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng. Trong chương này, trên cơ sở xem xét lại các

nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng trên thế giới, tiếp theo đề xuất

mô hình phù hợp, thu thập dữ liệu, phương pháp thống kê và các phần có liên quan

khác nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu. Chương này sẽ phác thảo và sắp xếp

thành 3 phần có liên quan: lựa chọn mô hình nghiên cứu, định rõ mô hình và nguồn

thu thập dữ liệu.

Chương 3, với mục tiêu xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cho hệ thống ngân

hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Thái Lan và Uruguay. Đề tài sử dụng

mô hình tối ưu trong nghiên cứu thực nghiệm khủng hoảng hệ thống ngân hàng tại

Thái Lan và Uruguay. Từ đó, bài viết rút ra một số kinh nghiệm trong việc xây dựng

mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng. Bài viết phân tích thực trạng của hệ thống

ngân hàng của Việt Nam cũng như sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo

sớm khủng hoảng ngân hàng.

ix

Chương 4, Kết luận và kiến nghị một số giải pháp trong việc xây dựng mô

hình cảnh báo sớm các tác nhân tác động đến hoạt động của hệ thống ngân hàng

Việt Nam. Từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục và phòng ngừa các tác động xấu

đến hệ thống ngân hàng Việt Nam

- 1-

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra ngày càng thường xuyên hơn với

hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn. Từ cuối những năm 1970 đến 2007 đã có 124

cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Trong giai đoạn này các cuộc khủng hoảng

ngân hàng vào những năm 1980 và 1990 được coi là trầm trọng nhất so với bất kỳ

giai đoạn nào trước đây. Theo thống kê của của tổ chức IMF, đã có khoảng 130

quốc gia trải qua khủng hoảng ngân hàng trong giai đoạn từ năm 1980-1996. Khủng

hoảng ngân hàng xảy ra có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống thanh toán, suy

giảm mạnh mẽ lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thu hẹp sản lượng

đầu ra của khu vực sản xuất, tạo sức ép nặng nề về mặt chính trị.

Theo sau các cuộc khủng hoảng gần đây, vấn đề những yếu tố nào quyết định

(ảnh hưởng) đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng đã và đang là đề tài nóng bỏng

cho các nhà nghiên cứu kinh tế tại cả các nước đã và đang phát triển trên thế giới.

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm ra giải pháp, qua đó giúp cho các

nhà hoạch định chính sách có thêm cơ sở trong việc ban hành chính sách, bên cạnh

đó họ có thể xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, việc

nắm rõ các yếu tố quyết định của cuộc khủng hoảng ngân hàng là một việc không

thực sự đơn giản. Ngày nay, nền kinh tế của một quốc gia có sự ảnh hưởng qua lại

lẫn nhau, do đó, sự lan truyền rộng của các cuộc khủng hoảng, đặc biệt ở lĩnh vực

ngân hàng, vừa rõ ràng vừa khó nắm bắt, chính vì vậy, mới thấy được vai trò quan

trò quan trọng của việc nghiên cứu về các yếu tố quyết định của các cuộc khủng

hoảng. Mặc dù đây không phải là một vấn đề mới, nhưng cũng là một đề tài xứng

đáng để quan tâm.

Trong bài nghiên cứu này, tôi sẽ tập trung nghiên cứu các nguyên nhân tác

động đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng tại các nước đang phát triển. Xây dựng

mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại các nước đang phát triển, áp

dụng mô hình này vào nghiên cứu tại các quốc gia: Thái Lan và Uruguay trong giai

- 2-

đoạn từ 1996 đến 2003. Tiếp đó, “Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng

khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới”

2. Mục đích nghiên cứu, bài nghiên cứu nhằm

- Xác định các yếu tố ảnh hưởng (tác động) đến các cuộc khủng hoảng

ngân hàng trên thế giới,

- Kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất xảy ra khủng hoảng ngân

hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của thế giới

- Các đề xuất chính sách nhằm ngăn chặn các cuộc khủng hoảng ngân

hàng (có thể xảy ra) ở Việt Nam,

3. Câu hỏi nghiên cứu

- Các yếu tố chính nào tác động đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng?

- Các nhân tố nào có thể sẽ là nhân tố chính “góp phần” gây ra khủng

hoảng ngân hàng tại Việt Nam (nếu có)?

- Xác suất hệ thống ngân hàng Việt Nam rơi vào khủng hoảng vào năm

2008 là cao hay thấp ?

- Ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân

hàng tại Việt Nam như thế nào ?

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài có kế thừa và sử dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài về mô hình

cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng nước ngoài để làm cơ sở lý luận và tham

khảo

Do khủng hoảng ngân hàng chịu tác động của nhiều yếu tố tổng hợp bên

trong và bên ngoài hệ thống ngân hàng, phương pháp phân tích được sử dụng, đồng

thời kết hợp thu thập dữ liệu, phân tích tình huống để so sánh, đánh giá hiệu quả

mô hình nghiên cứu.

Bài viết sử dụng mô hình logit và phần mềm Eviews trong việc phân tích các

số liệu cũng như xem xét các nhân tố chính tác động đến khả năng xảy ra khủng

- 3-

hoảng ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển và trong các trường hợp cụ thể của

Thái Lan, Uruguay và Việt Nam.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành Tài Chính, tập trung chuyên sâu vào

những vấn đề về khủng hoảng ngân hàng, đề tài chủ yếu nghiên cứu hệ thống ngân

hàng tại Thái Lan, Uruguay, Việt Nam. Do giới hạn dữ liệu, phạm vi nghiên cứu

được thu hẹp ở các nước đang phát triển trong giai đoạn 1974-2010.

6. Cấu trúc bài nghiên cứu, bài viết bao gồm

Chƣơng 1: Lý thuyết tổng quan về khủng hoảng ngân hàng và xây dựng

mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng trên thế giới.

Chƣơng 2: Mô hình nghiên cứu và thu thập dữ liệu

Chƣơng 3: Giải pháp xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng

ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia là Thái Lan và

Uruguay

Chƣơng 4: Kết luận và đề xuất kiến nghị

7. Ý nghĩa công trình nghiên cứu

Đề tài này giúp cho chúng ta có một cái nhìn sâu hơn về khủng hoảng ngân

hàng tại các nước đang phát triển thông qua các lý thuyết về khủng hoảng ngân

hàng. Về mặt lý luận, đề tài này tập trung nghiên cứu các nguyên nhân chính có khả

năng tác động đến “sự an toàn” của hệ thống ngân hàng của một số quốc gia đang

phát triển trên thế giới. Về mặt thực tiễn, đề tài này hy vọng sẽ đóng góp một công

cụ cảnh báo sớm khủng hoảng hệ thống ngân hàng cho Việt Nam (mặc dù rất may

mắn là điều này được các chuyên gia đánh giá là chưa từng xảy ra đối với Việt

Nam), giúp cho các nhà điều hành chính sách vĩ mô có một cái nhìn rõ hơn về khả

năng dễ tổn thương của các bộ phận trong thị trường tài chính để từ đó có các giải

pháp điều chỉnh chính sách thích hợp giúp cho nền kinh tế phát triển tốt. Cuối cùng,

tôi cũng đề xuất những chính sách cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ổn

định và bền vững trong cả ngắn hạn và dài hạn

- 4-

CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG

NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI

Trong chương này tôi ưu tiên tập trung làm rõ định nghĩa về khủng hoảng

ngân hàng. Kế đến là đề cập đến các khung lý thuyết khác nhau về khủng hoảng

ngân hàng, từ đó có được các giả thuyết về việc làm thế nào các yếu tố quyết định

ảnh hưởng đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Bên cạnh đó, chương này

xem xét các nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng của các nhà nghiên

cứu trước đây, nhằm giúp người đọc hiểu các nhà nghiên cứu khác đã tiếp cận vấn

đề nghiên cứu này như thế nào, những số liệu đã thu thập được cũng như các mô

hình và phương pháp thống kê mà họ đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu.

1.1 Lý thuyết tổng quan

1.1.1 Khái niệm: Khủng hoảng ngân hàng

Tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng ngân hàng đến sự phát triển

kinh tế của một quốc gia là rất lớn và chính phủ các nước tiêu tốn rất nhiều chi phí

cho việc phục hồi nền kinh tế. Mặc dù các nền kinh tế có thể có các kinh nghiệm

khác nhau trong việc ứng phó đối với khủng hoảng, nhưng có một quy luật chung là

khi các tác động xấu ảnh hưởng đến thị trường tài chính, có khả năng làm sụp đổ

nền kinh tế, chính phủ buộc phải nỗ lực can thiệp. Vài thập kỷ trước, các nhà kinh tế

học theo trường phái trọng tiền, khởi xướng là Friedman và Schwartz (1963), đã

gắn các cuộc khủng hoảng tài chính với khủng hoảng ngân hàng. Họ đã khai thác một

khái niệm hẹp về khủng hoảng tài chính và cho rằng một cuộc khủng hoảng tài chính

thường gắn liền với một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Khi sự ổn định của hệ thống

ngân hàng bị đe dọa, hệ thống tài chính đó có thể bị sụp đổ nếu thiếu sự can thiệp của

ngân hàng trung ương. Sự đổ vỡ của một tập đoàn tài chính lớn thường là yếu tố thúc

đẩy hiện tượng rút tiền hàng loạt tại các ngân hàng. Người gửi tiền thường hoảng loạn

vì không phân biệt được ngân hàng đang hoạt động tốt và ngân hàng có vấn đề, vì vậy

họ đổ xô rút hết tiền gửi của mình tại các ngân hàng. Khoản dự trữ tiền mặt của các

ngân hàng vốn đã chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản càng trở nên “muối bỏ biển”

- 5-

khi xuất hiện đột biến rút tiền gửi. Nếu không có sự can thiệp của ngân hàng trung

ương, thường thông qua hoạt động hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng có khả năng

thanh toán nhưng mất khả năng thanh khoản, thì ngay cả những ngân hàng đang hoạt

động tốt cũng có thể đổ vỡ.

Đổi mới tài chính và gia tăng hội nhập thị trường tài chính toàn cầu đã làm

xuất hiện một số yếu tố mới và những quan ngại mới. Do vậy, mặc dù có vài điểm

tương đồng, những cuộc khủng hoảng trong những năm gần đây đã khác so với các

cuộc khủng hoảng trước đây trên nhiều phương diện. Đặc biệt, hệ lụy và sự lan

truyền rộng của các cuộc khủng hoảng dường như đã trở nên vừa rõ ràng vừa khó

nắm bắt. Chính vì vậy, ngày nay, khủng hoảng ngân hàng chỉ còn được đề cập đến

như một dạng của khủng hoảng tài chính, có thể xảy ra đơn lẻ hoặc xảy ra đồng thời

cùng với khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng nợ.

Theo Ergungor và Thomson (2005), cho rằng nếu vốn của hệ thống ngân

hàng trong một nước bị xói mòn và chi phí chống khủng hoảng quá cao thì xác suất

xảy ra khủng hoảng ngân hàng là rất cao. Khi một cú sốc trong hệ thống tài chính có

thể lan truyền thành vấn đề trong cả hệ thống kinh tế, đồng thời các nhà hoạch định

chính sách tiền tệ bắt đầu có những hành động ứng phó, hệ thống ngân hàng có thể

xem như là khủng hoảng. Hay nói cách khác, khủng hoảng ngân hàng có thể được

xác định thông qua việc xem xét các hoạt động của ngân hàng nhà nước. Kaminsky

và Reinhart (1996) chia sẻ quan điểm này trong nghiên cứu của mình thông qua việc

quan sát các chính sách của ngân hàng trung ương trong thời kỳ khủng hoảng. Theo

quan điểm của hai tác giả này, khủng hoảng ngân hàng liên quan mật thiết đến các

hoạt động của ngân hàng nhà nước như: việc người gửi rút tiền gửi tăng đột biến, có

thể xuất hiện các hoạt động: đóng cửa, sáp nhập, mua lại, hoặc trợ giúp của chính

phủ đối với một hoặc nhiều tổ chức tài chính (như trường hợp của Venezuela năm

1993), còn nếu không có việc rút tiền gửi đột biến, nhưng hành động đóng cửa, sáp

nhập, mua lại, hoặc trợ giúp của chính phủ với quy mô lớn đối với một tổ chức tài

chính quan trọng (hoặc một nhóm các tổ chức), cũng là sự đánh dấu khởi đầu của

một chuỗi các kết quả tương tự đối với các tổ chức tài chính khác.

- 6-

Trong bài nghiên cứu vào năm 1998 của 2 tác giả Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998) họ đã đề xuất rằng một giai đoạn được coi là khủng hoảng

ngân hàng khi: Các khoản nợ xấu chiếm ít nhất 10% tổng tài sản của toàn hệ thống

ngân hàng, qua đó chi phí để giải cứu các ngân hàng lớn hơn 2% GDP và đi kèm

theo đó là nhiều vấn đề khó khăn của hệ thống ngân hàng dẫn đến cần được quốc

hữu hóa trên diện rộng. Bài viết sử dụng định nghĩa về khủng hoảng ngân hàng của

2 tác giả Ergungor và Thomson (2005)

1.1.2 Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng

Rất nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề này trên thế giới đã cung cấp

cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc cũng như qua đó giải thích hợp lý các vấn đề bên

trong của lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, điều thú vị là rất khó hy vọng có thể tìm

được lý thuyết nghiên cứu nào đủ sức giải thích đầy đủ các vấn đề này. Vì lý do đó,

để có thể nắm bắt toàn cảnh của các cuộc khủng hoảng ngân hàng, cần phải xem xét

các nghiên cứu thực nghiệm khác nhau. Trong bài viết này, tôi sẽ giới thiệu các

khung lý thuyết chính về khủng hoảng ngân hàng qua các bài nghiên cứu của

Ergungor và Thomson (2005) và Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) bởi đây là

các bài nghiên cứu cập nhật và dễ hiểu. Tôi bắt đầu bằng việc xem xét khung lý

thuyết của các tác giả thuộc trường phái cổ điển, kế tiếp theo là quan điểm của

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a), và cuối cùng là quan điểm của Ergungor

và Thomson (2005)

Theo quan điểm cổ điển, khủng hoảng hệ thống ngân hàng là kết quả của

một chuỗi các sự kiện bất ổn của tình hình kinh tế vĩ mô. Theo quan điểm này, tình

trạng mất khả năng chi trả tại một ngân hàng có thể là nguyên nhân khiến người gửi

đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng khác trong hệ thống tài chính. Một lý giải khác

cho hiện tượng này cho rằng nguyên nhân do kết quả của sự kích động tâm lý của

đám đông (Kindleberger - 1978, Diamond, Dybvid - 1983). Các lý thuyết này cho

rằng tính không thanh khoản của tài sản do ngân hàng nắm giữ sẽ gây nên khả năng

hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương bởi việc khách hàng rút tiền đồng loạt. Lý

- 7-

thuyết này cũng giải thích hiện tượng rút tiền đồng loạt xuất phát từ yếu tố tâm lý

bầy đàn, các cá nhân và tổ chức tham gia thị trường hành động theo xu hướng chung

của thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính, thậm chí tác động

đến cả các ngân hàng đang hoạt động tốt. Nếu không có được sự bảo lãnh hoặc đảm

bảo từ các nhà hoạch định chính sách tiền tệ, việc mất khả năng thanh toán của một

ngân hàng sẽ lan rộng ra toàn hệ thống ngân hàng và dưới áp lực thanh khoản có thể

dẫn đến sự sụp đỗ của cả hệ thống ngân hàng. Cuộc tháo chạy rút vốn khỏi hệ thống

ngân hàng của những người gửi tiền được thể hiện theo các dấu hiệu sau: đầu tiên là

việc không có đầy đủ các thông tin (thông tin bất cân xứng) của những người gửi

tiền làm cho họ không thể phân biệt các ngân hàng đang hoạt động tốt, do đó, một

cuộc rút vốn tại các ngân hàng đang hoạt động kém qua đó có thể ảnh hưởng dây

chuyền đến các ngân hàng khác đang hoạt động bình thường, tiếp theo là việc đồng

loạt rút vốn của khách hàng buộc ngân hàng phải chi trả cho tới khi buộc phải tuyên

bố phá sản. Điều kiện sau nữa là do các nhà quản trị ngân hàng thiếu các kế hoạch

để phòng ngừa trong việc cung cấp thanh khoản khi ngân hàng đối mặt với việc rút

vốn hàng loạt. Theo quan điểm này, khủng hoảng hệ thống ngân hàng xuất phát từ

phản ứng của khách hàng trong trường hợp có những thông tin xấu, tác động đến

tâm lý của người gửi. Hai tác giả Ergungor và Thomson (2005) cũng đồng ý với các

quan điểm này và cho rằng quan điểm cổ điển giải thích tương đối hợp lý các vấn đề

bên trong của cuộc khủng hoảng, nhưng lý thuyết này chưa thể giải thích được

nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng ngân hàng trong thời gian 20 năm trở lại đây.

Đồng thời tại các nước đang phát triển, những cú sốc do lãi suất, tỷ giá

hối đoái và giá cổ phiếu hoặc tăng trưởng chậm và suy thoái cũng có thể góp phần

tạo ra khủng hoảng của cho hệ thống ngân hàng. Sự sụp đổ của một ngân hàng có

thể gây nên những hạn chế về thanh khoản trong cả hệ thống ngân hàng, từ đó có

thể gây nên những hạn chế trong việc thanh toán cho khách hàng của các ngân hàng

khác, qua đó dẫn đến sự suy sụp của cả hệ thống ngân hàng.

Các yếu tố vi mô cũng có thể trở thành những yếu tố quan trọng gây nên

sự suy sụp của hệ thống ngân hàng, cụ thể là chất lượng của toàn bộ khuôn khổ thể

- 8-

chế của đất nước. Qui chế thị trường yếu kém do những yếu tố về hành vi, công bố

thông tin hạn chế, quản trị công ty yếu kém, bảo hiểm tiền gửi quan mức hoặc hệ

thống giám sát yếu kém có thể quyết định tới mức độ lệch lạc của thông tin, chất

lượng quản lý ngân hàng và tạo ra những yếu tố dễ bị tổn thương và cuối cùng là

gây nên khủng hoảng hệ thống ngân hàng.

Lý thuyết chỉ ra rằng ngân hàng với vai trò trung gian thanh toán và quản

lý các phương tiện thanh toán, tập trung và cung cấp vốn cho nền kinh tế, giữ vai trò

là trung gian tài chính là các tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và

thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng

số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh

toán. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng truyền thống thường dựa vào sự chênh

lệch giữa các kỳ hạn, có nghĩa là, ngân hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và cho vay

dài hạn. Phần lớn lượng tiền gửi huy động sẽ được đem đi cho vay đầu tư lấy lãi vào

những dự án dài hạn, với khả năng thanh khoản thấp [Heffernan, 2005, tr.105].

Trong trạng thái kinh doanh thông thường, khi người gửi tiền tin tưởng vào hệ thống

ngân hàng, khủng hoảng ngân hàng sẽ không xuất hiện. Nhưng khi niềm tin bị “lung

lay”, ví dụ khi một hoặc nhiều ngân hàng gặp khó khăn về vấn đề thanh toán do các

khoản nợ xấu gia tăng, đột biến rút tiền gửi có thể xảy ra. Khủng hoảng thanh khoản

có thể bùng nổ và làm cho hiệu quả của hệ thống ngân hàng giảm. Tuy nhiên, vấn

đề không chỉ dừng lại ở đây. Việc bán gấp tài sản để đối phó với việc rút tiền gửi

của những ngân hàng hoạt động tốt khi nhu cầu rút tiền gửi tăng đã làm giảm giá tài

sản, nghĩa là giảm giá trị của tài sản ngân hàng. Hậu quả, vốn cơ sở của ngân hàng

giảm và dẫn tới những vấn đề về thanh toán. Vấn đề thanh toán của những ngân

hàng này xảy ra tới cao trào có thể thổi bùng thành một cuộc khủng hoảng thanh

khoản mới, cuối cùng sẽ là khủng hoảng ngân hàng. Theo lý thuyết đã được học thì

các ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro tín dụng bằng nhiều cách bao gồm cả đa

dạng hóa danh mục đầu tư, họ có thể cho vay đối với các lĩnh vực rủi ro khác nhau,

hoặc đòi hỏi tài sản thế chấp vay nhưng trên thực tế, đa dạng hóa danh mục đầu tư

cho vay là không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng cho các ngân hàng, hơn nữa

- 9-

việc quản lý tài sản thế chấp khi cho vay là không hiệu quả do việc khó khăn trong

đánh giá giá trị thực của nó và tốn kém nguồn lực để theo dõi và thường phải chịu

sự biến động. Vì vậy, rủi ro tín dụng luôn luôn tồn tại bất chấp nỗ lực quản lý của

ngân hàng. Lý thuyết này nêu ra bất kỳ cú sốc bất lợi nào ảnh hưởng đến người đi

vay đều có mối quan hệ với khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Yếu tố khác dẫn đến việc làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó

là tỷ suất lợi nhuận không phù hợp với chi phí huy động vốn. Phần lớn các ngân

hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và cho vay dài hạn. Lượng lớn tiền gửi huy động

sẽ được đem đi cho vay đầu tư lấy lãi vào những dự án dài hạn, với khả năng thanh

khoản thấp. Các ngân hàng này thường kết hợp hoạt động của ngân hàng truyền

thống và ngân hàng đầu tư và bị lôi cuốn hoàn toàn vào hoạt động của thị trường tài

chính. Họ thường thu hút hầu hết số vốn của họ bằng cách bán những chứng khoán

nợ ngắn hạn có giá trị cố định (các khoản tiền gửi). Trong số đó rất nhiều khoản tiền

gửi bao gồm quyền đòi hoàn trả của người gửi tiền theo nguyên tắc ngang giá vào

bất kỳ thời điểm nào (có tính thanh khoản cao). Ngân hàng lại đầu tư số vốn họ huy

động được vào các loại chứng khoán, thường không có giá trị cố định và không bao

gồm các quyền đòi hoàn trả của ngân hàng theo nguyên tắc ngang giá vào bất kỳ

thời điểm nào (tính thanh khoản của các khoản đầu tư này không cao). Như vậy,

ngân hàng phải gánh chịu rủi ro khi giá trị thị trường của các tài sản của họ có thể

giảm xuống bằng hoặc thấp hơn giá trị các khoản nợ tiền gửi của ngân hàng đối với

người gửi tiền do những thay đổi không mong đợi từ tỉ lệ lãi suất, vỡ nợ, tỉ giá hối

đoái, thay đổi về quy chế, những sai phạm …Do hầu hết là các khoản đầu tư dài

hạn, nên khi có sự gia tăng của lãi suất tiền gửi, ngân hàng buộc phải tăng chi phí sử

dụng vốn, trong khi các khoản cho vay từ các hợp đồng dài hạn thường cố định và

rất khó thay đổi. Và khi ngân hàng yêu cầu tỷ lệ tiền vay cao hơn sẽ tác động tiêu

cực đến khách hàng, lúc này khách hàng khó tiếp cận nguồn vốn vay, đồng thời các

khoản nợ xấu gia tăng. Việc gia tăng lãi suất trong ngắn hạn có thể xuất phát từ việc

các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trong nỗ lực nhằm thắc chặt tiền tệ, hay chống

- 10-

lại các hoạt động đầu cơ hay từ các hoạt động nhằm đẩy mạnh tự do tài chính của

chính phủ.

Ngoài ra tính an toàn của hệ thống ngân hàng còn phụ thuộc vào các nguy

cơ tiềm ẩn từ tiền gửi nước ngoài, yếu tố này cũng có các tác động tiêu cực đến các

hoạt động của ngân hàng. Tự do hóa tài chính mang lại không ít lợi ích, xét về

phương diện dài hạn, đối với những nước đang phát triển. Nhưng những cuộc cải

cách như vậy cũng sẽ đưa đến những rủi ro mới cho hệ thống ngân hàng – có thể

tăng nguy cơ của khủng hoảng ngân hàng. Trong khi ngân hàng vay ngoại tệ cho

các khoản vay trong nước, đồng thời NHNN thực hiện việc phá giá mạnh tỷ giá hối

đoái cũng có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Trong trường hợp này các ngân

hàng chỉ có thể loại bỏ rủi ro tỷ giá bằng việc chủ yếu huy động tiền gửi tiết kiệm

trong nước. Tuy nhiên không có hy vọng rằng nguy cơ này biến mất hoàn toàn, do

trong nền kinh tế mở, rủi ro tỷ giá có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động

của ngân hàng. Vấn đề là các nhà quản trị ngân hàng phải kịp thời nắm bắt, phân

tích nguyên nhân biến động tỷ giá, làm tốt công tác dự báo tỷ giá, trên cơ sở đó lựa

chọn các giải pháp quản lý rủi ro tỷ giá phù hợp, hạn chế đến mức thấp nhất tác

động từ biến động tỷ giá, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng ổn định, bền vững của

mình, qua đó cũng tránh làm gia tăng các khoản nợ xấu cho ngân hàng.

Một cuộc rút vốn hàng loạt, đột ngột của những người gửi tiền nước ngoài

sau một thời gian dài đầu tư được xem như nguồn vốn đầu tư vào trong nước cũng

được xem như là nguồn gốc của những bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng(theo

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a)), cho rằng dòng vốn chảy vào trong nước

tăng cao là nhờ sự tác động kết hợp của hai hoạt động đó là tự do hóa tài chính và

lãi suất đồng nội tệ cao. Khi các nhà đầu tư nước ngoài mất lòng tin hoặc lãi suất

ngoại tệ tăng cao, lúc đó họ sẽ đồng loạt rút các khoản tiền gửi của mình, điều đó

làm cho các ngân hàng trong nước trở nên kém thanh khoản.

Ở các nước, khi mà các nhà đầu tư tài chính trong nước lẫn trốn đồng tiền

nội địa như một kỳ vọng vào sự mất giá của đồng nội tệ sẽ sớm xảy ra, hành động

này cũng góp phần nguy cơ xảy ra khủng hoảng. Quan điểm này lần đầu tiên được

- 11-

đề cập đến trong nghiên cứu của Krugman về mô hình khủng hoảng cán cân thanh

toán. Theo quan điểm của mình, ông cho rằng các nhà đầu tư để tránh việc tổn thất

trong đầu tư tài chính, họ thường có khuynh hướng sử dụng đồng nội tệ để mua các

đồng ngoại tệ của các nước có nền kinh tế phát triển. Theo Sach et al (1996), vấn đề

của các ngân hàng trong trường hợp này là khách hàng sẽ giảm bớt các khoản tiền

gửi tại các ngân hàng, và khi đó hệ thống ngân hàng sẽ gặp vấn đề về thanh khoản

khi hiện tượng rút vốn đồng loạt diễn ra.

Ngoài ra nguyên nhân có thể xuất phát tử quá trình thực hiện chính sách

tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng, các nhà hoạch định chính sách thông thường

thực hiện các biện pháp tự do hóa tài chính, đây lại được xem là một trong những

nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng (Ergungor và Thomson (2005). Việc hệ

thống tài chính ngày càng được quốc tế hóa, bên cạnh những mặt thuận lợi còn là

những thách thức không nhỏ dành cho hệ thống ngân hàng. Giannetti (2006) đã

nhận xét, nhờ việc tự do hóa trong lĩnh vực tài chính, các công ty mà trước đây phụ

thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng, có thể dễ dàng tiếp cận thị trường tài chính

thông qua các công cụ là trái phiếu doanh nghiệp hoặc thương phiếu. Xét về mặt

cung, các nhà đầu tư quốc tế sẵn lòng cung cấp một lượng vốn lớn với một chi phí

thấp hơn. Dưới áp lực cạnh tranh cao hơn, thị trường tiền gửi bị nhỏ lại, buộc các

ngân hàng phải trả thêm tiền để thu hút người gửi tiền từ các đối thủ cạnh tranh. Do

đó, lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm, chi phí tăng, các tổ chức ngân hàng yếu kém sẽ rơi

vào thua lỗ và đối mặt với viễn cảnh phải sụp đỗ hoặc sát nhập.

Một yếu tố khác liên quan đến khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng là

việc áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng với lãi suất thấp trong thời gian dài. Việc

tăng trưởng tiền tệ quá mức thường dẫn đến việc gia tăng trong giá trị tài sản: bất

động sản, cổ phiếu và các khoản vay tiêu dùng. Các ngân hàng ứng phó với những

thay đổi này bằng việc gia tăng thị phần của họ trên thị trường do việc tăng giá của

tài sản là tín hiệu tốt cho thấy việc đầu tư trên thị trường đang tăng trong khi rủi ro

đang ở mức thấp. Xu hướng này cứ tiếp tục như thế do những người tham gia trên

thị trường đều tin tưởng rằng giá trị các tài sản sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

- 12-

Tuy nhiên, ngay cả khi các ngân hàng nhận ra rằng xu hướng này là thực sự không

bền vững, họ vẫn có thể tiếp tục phải cho vay với hy vọng họ có thể tự tháo gỡ khỏi

các khoản nợ và đầu tư xấu trước khi thị trường sụp đỗ (đây là cách nghĩ quá tự

tin).Trong bài nghiên cứu “Bubbles in Real Estate Markets” (Bong bóng trên các thị

trường Bất động sản), Herring và Wachter (2002), chỉ ra rằng động cơ để cho vay và

đầu tư vào các lĩnh vực nhiều rủi ro làm giá của thị trường bất động sản tăng nhanh

là bởi các cú sốc lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế không thường xuyên xảy ra, do đó

các ngân hàng thường không ước đoán được khả năng tác động. Dù là cách nghĩ quá

tự tin hoặc đánh giá thấp các cú sốc không dự đoán thì những điều này cũng đóng

vai trò quan trọng trong khả năng xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Dù là lý

do nào đi nữa thì kết quả cuối cùng thường là như nhau.

Ngoài ra, nền kinh tế với mức lạm phát cao do sự tác động từ việc gia tăng

giá tài sản và sự bùng nổ tín dụng trong thời gian dài, buộc chính phủ phải có những

chính sách can thiệp mạnh mẽ (Ergungor và Thomson (2005), cũng được xem như

một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng ngân hàng. Trong trường hợp

này, chính phủ ban hành các chính sách quy định lãi suất và hạn chế các khoản vay

là một trong các biện pháp chính phủ có thể áp dụng để làm nguội nền kinh tế. Kết

quả của việc này có thể làm tăng trưởng kinh tế chậm lại, kéo theo sự suy giảm giá

trị của tài sản cũng nhưng giảm khả năng trả nợ của người đi vay, lợi nhuận của

ngân hàng giảm xuống và các khoản nợ xấu gia tăng làm xói mòn nguồn vốn của

họ, tác động xấu đến hệ thống ngân hàng.

Công tác quản lý, quản trị tốt trong hệ thống ngân hàng được xem là một

trong những yếu tố quyết định quan trong việc làm giảm các thiệt hại từ cuộc khủng

hoảng, vai trò của người quản trị trong ngân hàng là phải giám sát và duy trì hệ

thống ngân hàng trong môi trường lành mạnh, nhưng đôi khi mục tiêu đó không

được thực hiện đầy đủ. Trong một vài trường hợp, hạn chế về ngân sách và trình độ

đội ngũ quản lý là những rào cản, hạn chế khả năng kiểm soát của họ. Một khả năng

khác cũng thường được đề cập như là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng

đến khả năng kiểm soát của các ngân hàng đó là áp lực tăng trưởng, đặc biệt là trong

- 13-

giai đoạn phát triển nóng của nền kinh tế. Ví dụ: trong giai đoạn chính phủ thực hiện

chính sách tự do hóa tài chính kết hợp với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhà

quản lý ngân hàng không hoàn toàn dễ dàng đóng cửa các ngân hàng mất khả năng

thanh toán và điều chỉnh các mục tiêu đầu tư của ngân hàng để họ không quá lao

vào các dự án có mức độ rủi ro cao, mặc dù điều này có thể đem lại cho ngân hàng

lợi nhuận cao hơn. Các lý do kể trên làm cho công tác quản trị tại các ngân hàng trở

nên tệ hơn và khởi đầu cho khủng hoảng ngân hàng. Trong bài nghiên cứu về lý

thuyết khủng hoảng ngân hàng, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cũng tán

đồng quan điểm này, tại các quốc gia mà lĩnh vực tài chính ngân hàng, hệ thống

pháp luật còn thiếu và yếu kém và chất lượng kiểm soát hoạt động ở mức thấp là

những điều kiện tốt cho khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Trong điều kiện đó, các nhà

quản lý ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án đẩy rủi ro, cũng như họ có thể sử

dụng tiền vào các mục đích cá nhân, gây tổn thất cho ngân hàng, làm gia tăng khả

năng xảy ra khủng hoảng

1.2 Nghiên cứu thực nghiệm

Trong một nghiên cứu về các mô hình khủng hoảng kinh tế và tài chính,

Roberto et al (2005) đã chỉ ra rằng một trong những các tiếp cận trong việc dự đoán

khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng là việc sử dụng mô hình logic hay mô hình

probit để xem xét các chỉ số cảnh báo. Mô hình này đòi hỏi phải có một biến khủng

hoảng giả có vai trò như một biến phụ thuộc và xây dựng các biến giải thích là các

biến liên quan đến lĩnh vực tài chính, kinh tế vĩ mô. Theo Roberto et al (2005)

phương pháp này được sử dụng rộng rãi hơn các phương pháp khác do có lợi thế

hiệu quả hơn và còn có lợi thế trong việc ước lượng thống kê tác động của các biến

giải thích khác nhau lên biến phụ thuộc. Hơn nữa, phương pháp này còn có thể dùng

trong việc dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng trong tương lai.

Trong nghiên cứu về các yếu tố tác động đến các cuộc khủng hoảng ngân

hàng, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đã xây dựng lý thuyết về khủng

hoảng ngân hàng bằng việc tập trung nghiên cứu về vai trò của hệ thống ngân hàng

- 14-

trong nền kinh tế cũng như tập trung xem xét các vấn đề tài chính các ngân hàng.

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đã sử dụng phương pháp này trong bài

nghiên cứu về các nhân tố quan trọng tác động đến khủng hoảng ngân hàng của họ.

Cách tiếp cận bằng mô hình logit cho phép các tác giả nối kết các biến giải thích để

làm rõ có hay không khả năng xảy ra khủng hoảng. Biến giả (biến khủng hoảng

ngân hàng) nhận các giá trị 1 (tương ứng với khủng hoảng xảy ra), 0 (không có

khủng hoảng). Các tham số khác của hàm logit thu được bằng phương pháp ước

lượng hợp lý cực đại.

Giống như quan điểm của trường phái cổ điển đã được đề cập ở trên,

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cũng đồng ý là nguyên nhân khủng hoảng

là sự phản ứng lại các thông tin bất đối xứng giữa người gửi tiền và ngân hàng.

Trong trạng thái kinh doanh thông thường, khi người gửi tiền tin tưởng vào hệ thống

ngân hàng, khủng hoảng ngân hàng sẽ không xuất hiện. Nhưng khi niềm tin bị “lung

lay”, ví dụ khi một hoặc nhiều ngân hàng gặp khó khăn về vấn đề thanh toán do các

khoản nợ xấu, đột biến rút tiền gửi có thể xảy ra. Khủng hoảng thanh khoản có thể

bùng nổ và làm cho hiệu quả của hệ thống ngân hàng giảm. Việc đồng loạt rút vốn

khỏi một ngân hàng có thể chưa dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, nhưng trong điều

kiện nhất định, người gửi tiền không phân biệt ngân hàng nào đang hoạt động tốt,

lúc này sẽ dẫn đến việc rút vốn dây chuyền, gây khó khăn cho cả hệ thống ngân

hàng. Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cho rằng thiết lập cơ chế bảo hiểm

tiền gửi giảm nguy cơ gây hoảng loạn ngân hàng, Hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp

phần củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, có thể ngăn

ngừa và hạn chế được các cuộc rút tiền ồ ạt gây nên hậu quả rất nghiêm trọng đối

với bản thân các ngân hàng xảy ra đột biến rút tiền gửi nói riêng và cả hệ thống nói

chung. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi cũng giúp các ngân hàng hoạt động yếu kém,

không thể tiếp tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng

một cách có trật tự, không ảnh hưởng đến các ngân hàng khác và toàn hệ thống. Tuy

nhiên việc này có khi lại đem đến tác động ngược, khi tiền gửi được bảo hiểm thì

người gửi tiền sẽ không mặn mà với việc giám sát hoạt động của các ngân hàng,

- 15-

ngân hàng có thể cho vay mạo hiểm hơn (liên quan đến rủi ro đạo đức), lại ảnh

hưởng đến an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Theo Kane (1989), tại nhiều

nước, việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi nhưng chưa chuẩn bị đầy đủ cho tự do hóa

tài chính lại là “điều kiện tốt” cho các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Có thể

kể ra đây một số cuộc khủng hoảng ngân hàng gắn liền với việc chưa chuẩn bị đầy

đủ cho tự do hóa tài chính là khủng hoảng ngân hàng tại Brazil, Chile, Mexico.

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) dựa vào lý thuyết khủng hoảng

ngân hàng để xác định các yếu tố quyết định ảnh hưởng đến khả năng xảy ra khủng

hoảng bao gồm các yếu tố thuộc về kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng GDP thực,

thay đổi trong tỷ giá thương mại, tỷ lệ thay đổi của tỷ giá hối đoái, lãi suất thực, tỷ

lệ thặng dư ngân sách của chính phủ so với GDP), các biến tài chính (tỷ lệ cung

tiền M2 so với dự trữ ngoại hối, tỷ lệ tín dụng khu vực tư nhân nội địa so với GDP,

tỷ lệ dự trữ thanh khoản so với tài sản của ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tín dụng

thực trong nước) và các biến thuộc về thể chế (bảo hiểm tiền gửi, GDP thực bình

quân đầu người, ..). Họ sử dụng các dữ liệu vĩ mô của các nước đã và đang phát

triển trong giai đoạn 1980-1994 cho bài nghiên cứu của mình, dữ liệu chủ yếu được

trích xuất từ IFS (international Financial Statistic). Bài nghiên cứu bắt đầu từ danh

sách các thành viên thuộc IMF. Một vài quốc gia bị loại trừ do việc thiếu các dữ liệu

cần thiết cho bài nghiên cứu, cuối cùng danh sách chốt lại là dữ liệu của 45 quốc gia

được sử dụng vào mô hình nghiên cứu của họ.

Kết quả hồi quy họ đạt được qua mô hình: tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ

lạm phát cao và tình hình quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém là những nguyên nhân chủ

yếu gây ra khủng hoảng, bên cạnh đó lãi suất thực ở mức cao cũng có liên quan đến

vấn đề này. Và việc thực thi pháp luật yếu kém cũng có liên quan mật thiết đến rủi

ro khủng hoảng.

Các tác động ngược lại, do chịu ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng ngân

hàng, đến các yếu tố được đại diện thông qua các biến giải thích, cũng đã được hai

ông Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) đề cập đến trong bài nghiên cứu của

mình cũng vẫn còn hữu dụng cho các nghiên cứu tiếp theo sau này. Theo bài nghiên

- 16-

cứu của mình, hai ông đã tranh luận về quan điểm cho rằng các cuộc khủng hoảng

ngân hàng có thể gây ra các tác động lên chính các yếu tố, được đại diện qua các

biến giải thích. Minh chứng cho việc này là tỷ lệ tín dụng trên GDP, tỷ lệ này có xu

hướng đi xuống sau khi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra, và việc giảm sút

của tín dụng kéo theo các tác động xấu đến các biến khác, ví dụ: sự sụt giảm của

GDP. Biến lãi suất thực cũng là một ví dụ khác cho vấn đề này, theo các lý thuyết

trước đó, khủng hoảng ngân hàng có thể gây nên từ lãi suất thực thấp, đó có thể là

kết quả trong thời gian dài từ các chính sách thắt chặt tiền tệ hoặc do các hoạt động

trong quá trình giải cứu các ngân hàng. Theo tác giả, kết quả hồi quy phải loại trừ

tất cả các quan sát sau giai đoạn khủng hoảng. Hay nói cách khác, một cách tiếp cận

khác là thiết lập mô hình hồi quy bao gồm tất cả các quan sát tới ngày kết thúc của

cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên việc này không dễ, để xác định ngày cuối cùng của

các cuộc khủng hoảng ngân hàng có thể quá trễ hoặc quá sớm.

Trong bài viết của mình, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) lại tìm

thấy rằng khả năng xảy ra khủng hoảng tại một nước đã có kinh nghiệm đối phó với

vấn đề lại cao hơn so với những nước chưa từng có kinh nghiệm. Vì lý do đó, các

ông đề xuất đến việc các mô hình ước lượng nghiên cứu khác có thể thêm vào các

biến: số lượng các cuộc khủng hoảng trong quá khứ cũng như khoảng thời gian trải

qua khủng hoảng lần cuối.

Một kỹ thuật khác cũng được sử dụng trong phương pháp dự báo khủng

hoảng ngân hàng được xây dựng bởi Roberto et al (2005) là phương pháp tiếp cận

dựa trên các dấu hiệu cảnh báo. Phương pháp này đòi hỏi cần phải xây dựng một giá

trị ngưỡng cho mỗi biến giải thích, tạm gọi là ngưỡng an toàn. Khả năng xảy ra cuộc

khủng hoảng được cho là tăng lên khi các chỉ số của các biến vượt quá ngưỡng an

toàn và ngược lại. Lý tưởng nhất là giá trị ngưỡng phải được chọn sao cho khi các

chỉ số của các biến vượt qua ngưỡng này thì có nghĩa là xảy ra khủng hoảng. Vấn đề

của phương pháp này là làm sao để xây dựng được các giá trị ngưỡng này và lấy nó

làm chuẩn cho việc cảnh báo sớm khủng hoảng. Trong bài nghiên cứu của mình,

Kaminsky và Reinhart (1996) đã tiếp cận vấn đề về khủng hoảng ngân hàng bằng

- 17-

vận dụng tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo tối thiểu (minizing signal-to-noise ratio). Tỷ lệ

này được xác định như là tỷ lệ của các dự báo khủng hoảng sai lầm so với tỷ lệ cảnh

báo thành công. Do đó, tỷ lệ này càng nhỏ, hiệu quả dự báo khủng hoảng càng cao.

Theo cách này, Kaminsky and Reinhart (1996), đã tiếp tục công việc bằng việc thay

thế các giá trị ngưỡng khác nhau qua đó tìm được giá trị nhỏ nhất của tỷ lệ cảnh

báo. Roberto et al (2005) lập luận rằng với phương pháp này rất dễ để tìm nguồn

gốc của các cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm đó, phương pháp này

không tính đến các tương tác giữa các biến với nhau và không cung cấp một khuôn

khổ nào cho việc thử nghiệm thống kê và tính toán đến các khả năng khủng hoảng

trong tương lai.

Kaminsky và Reinhart (1996), trong nghiên cứu của mình về các nguyên

nhân có tác động đến hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng, các tác giả đã thông

qua việc quan sát các chính sách của ngân hàng trung ương trong thời kỳ khủng

hoảng. Theo quan điểm của hai tác giả này, khủng hoảng ngân hàng liên quan mật

thiết đến các hoạt động của ngân hàng nhà nước như: việc người gửi rút tiền gửi

tăng đột biến, có thể xuất hiện các hoạt động: đóng cửa, sáp nhập, mua lại, hoặc trợ

giúp của chính phủ đối với một hoặc nhiều tổ chức tài chính

Bài viết của Kaminsky và Reinhart (1996), không phải không có mặt hạn

chế. Bài viết có thể đề cập đến các cuộc khủng hoảng quá muộn, bởi vì các vấn đề

tài chính thường bắt đầu trước khi một ngân hàng buộc phải đóng cửa hoặc sát nhập,

hoặc cũng có thể là quá sớm do những tác động xấu nhất của cuộc khủng hoảng có

thể chỉ đến trong thời gian sau đó. Hơn nữa, bài nghiên cứu này còn bị hạn chế

trong việc thu thập dữ liệu, Kaminsky và Reinhart (1996), chỉ liệt kê danh sách

khủng hoảng hệ thống ngân hàng của hơn 20 quốc gia, việc này gây khó khăn cho

các nhà nghiên cứu tiếp theo trong việc mở rộng phạm vi nghiên cứu.

Trong bài nghiên cứu về khủng hoảng ngân hàng của hai tác giả Caprio và

Klingebiel (1996b), theo quan điểm của mình, hai ông đã định nghĩa về khủng

hoảng ngân hàng là trường hợp mà giá trị thực của hệ thống ngân hàng đã gần như

hoàn toàn bị loại bỏ, điều này khác biệt với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu

- 18-

khác: các ngân hàng tại nhiều nước vẫn có vấn đề mặc dù hệ thống ngân hàng đang

có dấu hiệu lạc quan. Tuy nhiên, theo hai tác giả đề cập vấn đề khủng hoảng ngân

hàng sẽ dễ dàng được xác định hơn nếu kết hợp khủng hoảng ngân hàng cùng với

việc mất khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng. Khi các ngân hàng nắm giữ

quá nhiều các khoản nợ xấu, các khoản nợ này đủ sức thổi bay vốn của hệ thống

ngân hàng. Dựa trên dữ liệu của khu vực ngân hàng tại các nước đang phát triển

trong những năm 1980, Caprio và Klingebiel (1996b), cho thấy tỷ lệ nợ xấu tối thiểu

chiếm 5% tổng số nợ vay là đủ để gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng. Trong bài

nghiên cứu của mình, các tác giả Caprio và Klingebiel (1996b) đã xem xét hơn 80

cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới thông qua việc cập nhập dữ liệu từ các

cuộc nghiên cứu khác bao gồm các nghiên cứu của Caprio và Klingebiel (1996c) và

Honohan et al (2005), Trong dữ liệu nghiên cứu của mình, hai nhà nghiên cứu này

cũng đã chỉ ra được 75% các nước gặp khủng hoảng ngân hàng, tỷ lệ giá trị thương

mại xuất khẩu giảm gần 10% trong những năm trước khi khủng hoảng.

1.3 Tóm tắt chƣơng 1

Tóm lại, các yếu tố quyết định đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng có thể

phân chia thành ba nhóm lớn riêng biệt, bao gồm nhóm các yếu tố vĩ mô (các khó

khăn của người đi vay, lãi suất danh nghĩa, các chính sách mở rộng tiền tệ), nhóm

các yếu tố tài chính (các cuộc tấn công đầu cơ, tự do hóa tài chính) và cuối cùng là

nhóm các yếu tố do thể chế (chất lượng quản trị của hệ thống ngân hàng, chính

sách bảo hiểm tiền gửi). Mặc dù từ các nguồn tài chính khác nhau, các yếu tố góp

phần vào trong cuộc khủng hoảng theo những cách khác nhau và đôi khi có thể thấy

được các tương tác của hai hay ba yếu tố đồng thời tác động tạo thành khủng hoảng

(ví dụ biến lãi suất thực). Điều này làm vấn đề trở nên phức tạp và qua đó giới hạn

đáng kể khả năng của đề tài trong việc tiếp cận đánh giá tác động riêng rẽ của từng

yếu tố riêng biệt. Qua đó, thảo luận xa hơn về các phương pháp tập trung vào tác

động của mỗi yếu tố đến khủng hoảng sẽ được tập trung đề cập đến trong phần tiếp

theo. Bên cạnh đó, xem xét lại các nghiên cứu thực nghiệm cũng ít nhất cung cấp

- 19-

hai giải pháp (mô hình logit và mô hình sử dụng tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo tối thiểu)

để tiếp cận mục tiêu chính của bài nghiên cứu này. Điều quan trọng là mỗi phương

pháp đều có thuận lợi cũng như bất lợi riêng của nó. Do đó, trong chương tiếp theo

đề tài này cần xem xét một cách cẩn trọng trong việc lựa chọn mô hình cho bài

nghiên cứu.

- 20-

CHƢƠNG 2: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ THU THẬP DỮ LIỆU

Trong phần trước, các giả thuyết thể hiện mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân

hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô đã được đề cập và thảo luận trong lý thuyết về

khủng hoảng ngân hàng. Bên cạnh đó, trong chương này tôi đã xem xét lại các

nghiên cứu thực nghiệm về khủng hoảng ngân hàng trên thế giới.

Dựa trên cơ sở đã đề cập trong phần trước, bước tiếp theo trong chương này

là việc đề xuất mô hình phù hợp, thu thập dữ liệu, phương pháp thống kê và các

phần có liên quan khác nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu. Chương này sẽ được

phác thảo và sắp xếp thành 3 phần có liên quan: lựa chọn mô hình nghiên cứu, định

rõ mô hình và nguồn thu thập dữ liệu.

2.1 Lựa chọn mô hình nghiên cứu

Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng trong chương trước đã hoàn thành một vấn

đề rất cơ bản của bài nghiên cứu này, đó là làm rõ khả năng của các biến vĩ mô khác

nhau tác động đến các cuộc khủng hoảng. Điều này rất quan trọng nhờ đó cung cấp

khuôn khổ cho việc áp dụng các phương pháp thống kê vào việc dự đoán khả năng

xảy ra khủng hoảng.

Xem xét các công trình nghiên cứu thực nghiệm đã đề cập đến hai khả năng

có thể sử dụng để đạt được mục tiêu thứ hai của bài nghiên cứu này, đó là việc xác

định giá trị giới hạn cho mỗi biến nhằm tối thiểu hóa khả năng xảy ra khủng hoảng

ngân hàng. Phương pháp thứ nhất là dựa trên tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo tối thiểu. Như

đã nói ở trên, việc giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ dấu hiệu cảnh báo bằng việc thay thế

các ngưỡng khác nhau cho phép Kaminsky and Reinhart (1996) hiểu được cách hạn

chế tần suất của các cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, kết quả của phương pháp này là

có thể chấp nhận về mặt tối thiểu hóa được khả năng xảy ra khủng hoảng. Do đó, có

lẽ cách tiếp cận tốt nhất cho trường hợp này là sử dụng mô hình logit đa biến. Mô

hình này cung cấp nền tảng cho việc đánh giá tác động biên của mỗi biến lên khả

năng gây ra khủng hoảng và qua đó khả năng khủng hoảng có thể giảm bớt. Hơn

- 21-

nữa, mô hình logit còn có thể được xử lý bằng các phần mềm kinh tế như: Sata,

Eviews…nhờ đó quá trình xử lý dữ liệu được rút ngắn. Từ các lý do trên, trong bài

viết này, mô hình logit đa biến được chọn cho việc xử lý các câu hỏi nghiên cứu.

Mục tiêu của mô hình logit là nghiên cứu mối tương quan giữa một (hay

nhiều) yếu tố nguy cơ và đối tượng phân tích. Chẳng hạn như đối với bài nghiên cứu

này là mối tượng quan giữa khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng đến từ các yếu

tố kinh tố vĩ mô, các yếu tố tài chính, và các yếu tố từ thể chế… Trong mô hình hồi

quy logit thì các đối tượng nghiên cứu thường được thể hiện qua các biến số nhị

phân (binary) như xảy ra/không xảy ra, có/không… Nếu một mô hình hồi quy thông

thường nào đó được sử dụng trong trường hợp này thì không có gì đảm bảo rằng giá

trị dự báo trước sẽ nằm trong khoảng 0 và 1, tức là có hoặc không việc xảy ra khủng

hoảng ngân hàng

Dựa trên Bài kinh tế lượng cơ bản của Gujarati (2003), mô hình logit dựa

trên hàm phân phối xác suất logistic. Mô hình này có thể được tính toán bằng công

(2.1)

thức sau:

Do đó có thể viết lại công thức trên dưới dạng: Với Zi=β1+ β2X2+…+ βkXk+Ui (2.2) Công thức có thể được viết lại như sau:

(2.3)

Không khó để nhận thấy trong khi Zi nhận các giá trị (-∞, +∞) thì Pi nhận

các giá trị trong khoảng (0,1) và Pi có quan hệ phi tuyến với Zi.

Với Pi là khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng và (1-Pi) là khả năng

không xảy ra khủng hoảng, công thức có thể viết

(2.4)

- 22-

Hay

(2.5)

Với Pi/(1-Pi) là tỷ số nguy cơ (Odds Ratio-OR) là chỉ số thống kê quan

trọng trong hồi quy logit, tạm dịch là khả năng, (là tỷ số giữa p (là xác suất để biến

phụ thuộc nhận giá trị là 1) và 1-p là xác suất còn lại để biến phụ thuộc nhận giá trị

là 0

Lấy ln cả hai vế, phương trình:

(2.6)

L không chỉ tuyến tính đối với biến số mà còn tuyến tính với các tham số.

Khi Z biến thiên (-∞, +∞) thì P biến thiên từ (0,1), L biến thiên từ (-∞, +∞). Như

vậy dù P chỉ lấy giá trị thuộc khoảng (0, 1) nhưng L không bị giới hạn

Trong mô hình logit, các nhà kinh tế không nghiên cứu ảnh hưởng trực tiếp

của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc mà xem xét ảnh hưởng của các biến độc

lập đến khả năng xảy ra khủng hoảng hay kỳ vọng của P. Một điều cần lưu ý là việc

thay đổi một đơn vị của các biến giải thích không ảnh hưởng đến khả năng xảy ra

khủng hoảng. Công thức (2.6) cho thấy rằng, các hệ số thể hiện tác động của việc

thay đổi một đơn vị của các biến giải thích lên hàm log của tỷ số odd (tỷ số khả

năng). Vì vậy, tác động biên của mỗi biến lên khả năng xảy ra khủng hoảng thay đổi

theo thời gian tùy thuộc vào các hệ số của nó. Bên cạnh đó, hình dạng của hàm logic

(hình dạng S) cũng cho thấy điều thú vị, đó là sự thay đổi của các biến giải thích có

tác động khác nhau lên khả năng xảy ra khủng hoảng tùy thuộc vào tình trạng ban

đầu của nó. Hay nói cách khác, nếu khả năng xảy ra khủng hoảng của một nước

đang ở mức độ thấp (khó xảy ra), tác động biên của các biến độc lập lên khả năng

xảy ra khủng hoảng là thật sự không đáng kể, nhưng cùng một mức độ tác động

- 23-

biên đó sẽ ảnh hưởng mạnh hơn lên khả năng khủng hoảng nếu các nước đó đang

có dấu hiệu cảnh báo khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.

Hình 1: Đường cong Logit

2.2 Lý thuyết mô hình và mô hình chi tiết

2.2.1 Lý thuyết mô hình

Trong cuốn sách viết về kinh tế của mình Gujarati (2003) đã nhận định khi

xây dựng bất kỳ mô hình nào thì cũng cần có sự kết hợp của các yếu tố sau: lý

thuyết kinh tế, hành vi con người, các nghiên cứu trước đó và các kinh nghiệm thực

tiễn được rút ra trong quá khứ. Tuy nhiên, việc sai số trong việc nghiên cứu vẫn có

thể xảy ra do các nguyên nhân sau: (1) Mô hình xem xét thiếu các biến có liên quan

hoặc cũng có thể bao gồm cả những biến không có liên quan hay (2) do mô hình

nghiên cứu đề nghị xem xét không phù hợp. Đối với sai số (2) các nghiên cứu thực

nghiệm của nhiều tác giả trên thế giới thừa nhận rằng phương trình logit là phù hợp

cho việc nghiên cứu xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Đối với sai số (1), bài

nghiên cứu này được tiến hành theo cách sẽ lập mô hình từ tổng quát đến đơn giản,

để qua đó có được mô hình chất lượng và có được các kết quả đáng tin cậy. Điểm

mấu chốt của vấn đề này là mô hình đề xuất ban đầu sẽ bao gồm bao nhiêu hệ số hồi

quy. Theo Gujarati (2003) việc lập mô hình từ tổng quát đến đơn giản có thể dẫn

đến sự có mặt của các biến không phù hợp trong mô hình, tuy nhiên việc này không

quan trọng, bởi người nghiên cứu sẽ từng bước hướng đến mô hình không chệch và

- 24-

ước lượng các hệ số đáng tin cậy. Xa hơn nữa, là việc ước lượng chính xác các sai

số và phương pháp kiểm định giả thuyết vẫn tiếp tục được thực hiện. Điểm bất lợi

của phương pháp này là việc có mặt của các biến không thực sự cần thiết, điều này

có thể làm việc dự báo thiếu đi chính xác. Bằng các phương pháp kiểm định, qua đó

từng bước sẽ tìm ra phương trình phù hợp theo yêu cầu. Theo cách nhìn nhận như

trên thì phương thức sử dụng mô hình từ tổng quát đến đơn giản dường như là sự

lựa chọn tốt nhất trong trường hợp này.

2.2.2 Mô hình chi tiết

Như vậy, nhìn chung phương thức để xây dựng mô hình cảnh báo sớm

khủng hoảng ngân hàng là tập hợp tất cả các biến mà tôi có thể thu thập được. Dựa

trên khung lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng và các dữ liệu có sẵn, mô hình

nghiên cứu đề nghị cho bài viết này như sau: Phương trình (2.7)

Với: Growth là đại diện của biến các yếu tố tăng trưởng của một quốc gia

Real interest là đại diện của biến nhân tố lãi suất

Ex là đại diện của biến nhân tố tỷ giá

Inflation là đại diện của biến nhân tố lạm phát

TOT là đại diện của biến nhân tố tỷ giá thương mại

M2/Reserve là đại diện của biến các nhân tố tấn công tiền tệ

Deposit là đại diện của biến các nhân tố bảo hiểm tiền gửi

Creditgrowth là đại diện của biến các nhân tố tự do hóa thương mại

Và u là đại diện các biến không quan sát được và góp phần gây ra

khủng hoảng ngân hàng.

2.2.2.1 Biến Tỷ lệ tăng trƣởng kinh tế (Growth)

Biến được đề cập đến đầu tiên trong mô hình nghiên cứu là biến tỷ lệ tăng

trưởng GDP thực. Từ lý thuyết của khủng hoảng ngân hàng mà tôi đã đề cập từ

- 25-

trước chỉ ra rằng các tác động tiêu cực của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tình trạng

tài chính của những người đi vay và cả hệ thống ngân hàng. Vì thế, sẽ làm gia tăng

các các khoản nợ xấu và là điều kiện để xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Trong nhiều

trường hợp, phương pháp đa dạng hóa các khoản nợ và đầu tư ở nhiều lĩnh vực khác

nhau là biện pháp khôn khéo để giảm rủi ro nhưng trong điều kiện mọi thứ đang trở

nên trì trệ, khó cứu vãng thì biện pháp này dường như cũng không hiệu quả. Đại

diện cho việc ghi nhận các cú sốc của kinh tế vĩ mô, bài nghiên cứu này sử dụng tỷ

lệ tăng trưởng kinh tế trong nước (GDP). Biến này sử dụng dữ liệu trong dòng

99bvp của IFS, được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực của từng

quốc gia qua các năm

2.2.2.2 Biến Lãi suất thực (real interest)

Đây là biến thứ hai được đề cập đến trong mô hình đề nghị (2.1). Như đã

thảo luận ở trên, việc gia tăng đột ngột lãi suất thực trong ngắn hạn sẽ tác động xấu

lên tình trạng tài chính của cả người đi vay và người cho vay. Qua đó, cũng góp

phần làm gia tăng khả năng xảy ra khủng hoảng cho hệ thống ngân hàng. Theo lý

thuyết đã đề cập, việc gia tăng lãi suất thực trong ngắn hạn chỉ ra rằng hệ thống

ngân hàng bị đặt dưới áp lực thanh khoản, việc này có thể là hậu quả của cuộc tấn

công tiền tệ của các nhà đầu cơ hoặc các chính sách tiền tệ mở rộng trong dài hạn

hoặc do việc thực hiện chính sách tự do hóa tài chính của chính phủ. Nói cách khác,

sử dụng biến này để dự báo khả năng khủng hoảng ngân hàng là rất cần thiết bởi vì

nó đại diện cho các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến cuộc khủng hoảng. Đây được

kỳ vọng là biến sẽ có tác động mạnh trong các yếu tố cần nghiên cứu trong bài

nghiên cứu này. Biến này sử dụng dữ liệu từ dòng 60L, trong bộ dữ liệu của IFS.

Biến này đo lường tỷ lệ phần trăm thay đổi của lãi suất thực (lãi suất danh nghĩa loại

bỏ đi tỷ lệ lạm phát) qua các năm của các quốc gia

2.2.2.3 Biến Tỷ giá hối đoái (exchange rate)

- 26-

Biến tiếp theo trong mô hình là biến tỷ giá hối đoái (biến tỷ giá), biến này

được cho là chỉ làm tăng rủi ro khủng hoảng trong điều kiện cả người gửi và ngân

hàng có các khoản nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn. Trong hoàn cảnh này, chỉ cần

một sự mất giá đột ngột của đồng nội tệ sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của họ (cả

người gửi và ngân hàng), vì vậy lúc này khu vực tài chính trở nên dễ sụp đỗ. Để

kiểm nghiệm giả thuyết này, trong bài nghiên cứu này tôi sử dụng tỷ lệ mất giá của

tỷ giá hối đoái, được đo lường bằng phần trăm thay đổi qua từng năm của tỷ giá trao

đổi của tỷ giá của một quốc gia so với đồng đôla mỹ. Dữ liệu được chiết xuất từ

dòng ae cùa IFS

2.2.2.4 Biến Lạm phát (inflation)

Một nhân tố khác được đề xuất trong mô hình nghiên cứu này để dự đoán

khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng là yếu tố liên quan đến lạm phát. Trong bài

nghiên cứu của mình, Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) sử dụng tỷ lệ này như

là biến đại diện cho các hoạt động quản lý yếu kém của chính phủ, chính việc quản

lý yếu kém này tác động lên nền kinh tế trên nhiều phương diện khác nhau. Nhưng

có lẽ, lý do thuyết phục nhất là tình trạng lạm phát cao kéo dài gây tác động xấu đến

tình hình kinh tế của một quốc gia, cũng như tình hình kinh doanh của ngân hàng và

của doanh nghiệp. Vì lý do đó, yếu tố lạm phát cũng được kỳ vọng góp phần làm

tăng khả năng xảy ra khủng hoảng. Nhân tố này đo lường bằng tỷ lệ thay đổi của chỉ

số giá tiêu dùng của từng quốc gia qua các năm, bài viết sử dụng dữ liệu tại dòng

64.x trong bộ dữ liệu IFS

2.2.2.5 Biến Tỷ lệ giá trị thƣơng mại xuất khẩu (Terms Of Trade)

Như đã đề cập ở trên, Biến động của tỷ giá thương mại phản ánh thay đổi thu

nhập của quốc gia tính theo hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài. Khi tỷ giá thương

mại giảm, đồng nghĩa với thu nhập quốc gia giảm vì cần phải tăng thêm hàng xuất

khẩu để mua được một đơn vị hàng nhập khẩu định trước, một cú sốc bất chợt của

tỷ giá thương mại đối với các khách hàng của ngân hàng cũng đồng thời làm gia

- 27-

tăng mối lo ngại đến khả năng khủng hoảng ngân hàng. Khi tỷ lệ giá trị thương mại

xuất khẩu thay đổi đáng kể, các khách hàng càng gặp khó khăn hơn trong việc tìm

nguồn vốn vay. Chỉ số này đặc biệt cao và có mối tương quan với các cuộc khủng

hoảng tài chính tại các nước đang phát triển, nơi mà các ngân hàng chưa quan tâm

nhiều đến các lĩnh vực công nghiệp. Biến này đo lường việc thay đổi tỷ lệ thương

mại của từng quốc gia qua các năm, dữ liệu được thu thập từ WDI 2012.

2.2.2.6 Biến Tỷ lệ cung tiền trên dự trữ ngoại hối (M2/Reserve) đại diện

cho biến các hoạt động tấn công tiền tệ

Trong bài nghiên cứu của Sachs et al (1996) gợi ý rằng việc lo ngại tỷ giá sẽ

mất giá có thể bắt nguồn cho việc tháo vốn khỏi ngân hàng. Từ quan điểm này, nếu

quốc gia đó có mức dự trữ ngoại hối thấp sẽ tạo động cơ cho những người đang nắm

giữ đồng nội tệ có xu hướng chuyển sang nắm giữ đồng ngoại tệ. Hệ thống ngân

hàng sẽ đối mặt với khó khăn nếu xu hướng này dẫn đến người gửi tiền đồng loạt

rút tiền của họ khỏi ngân hàng. Kết quả có thể dẫn đến các ngân hàng rơi vào tình

trạng mất khả năng thanh toán. Trong bài nghiên cứu của Demirguc-Kunt and

Detragrache (1998a) đã sử dụng tỷ lệ M2 (tiền cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm

tại ngân hàng thương mại) trên lượng dự trữ ngoại hối để đánh giá tác động của

cuộc tấn công tiền tệ lên hệ thống ngân hàng. Theo tác giả Calvo (1996) cho rằng tỷ

lệ này là một yếu tố quyết định để dự đoán cuộc khủng hoảng ngân hàng có nguồn

gốc từ sự mất cân đối của cán cân thanh toán. Dữ liệu trong bài viết của tôi được

chiết xuất từ dòng 34-35 của bộ dữ liệu IFS để đo lường cho biến M2 (gồm tiền và

các khoản tiền cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại) trên

lượng dự trữ ngoại hối của ngân hàng nhà nước (hoặc ngân hàng trung ương) của

các quốc gia qua từng năm (dữ liệu thu thập từ dòng 1d.d của IFS)

2.2.2.7 Biến Bảo hiểm tiền gửi (Deposit)

Lựa chọn tiếp theo được đề cập là việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi tại các

nước. Tác giả Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a) cho rằng bảo hiểm có thể tồn

- 28-

tại ở 2 dạng là rõ ràng hoặc không rõ ràng. Bảo hiểm tiền gửi được xem là rõ ràng

nếu như các ngân hàng mua bảo hiểm đầy đủ hoặc một phần cho các khoản tiền gửi

của khách hàng hoặc chính phủ cam kết bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền trong

trường hợp ngân hàng gặp khó khăn. Trong trường hợp này, người gửi tiền tin

tưởng rằng chính phủ sẽ giải quyết các vấn đề khó khăn của ngân hàng trong trường

hợp khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Trong bài viết này, biến này được xem là một

biến giả trong mô hình nghiên cứu (biến Dummy), biến nhận giá trị là 1 nếu quốc

gia đó có thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi một cách rõ ràng và 0 cho trường hợp

khác. Chúng ta thường dự đoán rằng việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi sẽ góp phần

hạn chế việc xảy ra khủng hoảng, nhưng như đã nêu trong phần các nghiên cứu có

liên quan, mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi và khủng hoảng ngân hàng lại không

thực sự rõ ràng. Điều này có thể được hiểu như là việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi

làm giảm đáng kể nổi lo sợ tình trạng hoảng loạn của ngân hàng. Tuy nhiên, hiệu

quả của việc bảo hiểm tiền gửi sẽ không có tác dụng khi có hiện tượng rủi ro đạo

đức, khi ngân hàng (các tổ chức tài chính) sử dụng nguồn vốn vay vào các khoản

đầu tư có rủi ro cao. Biến này được chiết xuất từ báo cáo thường niên của tổ chức

IADI (2012), tổ chức nghiên cứu về bảo hiểm tiền gửi quốc tế (Internation

association of deposit insurance (2012)

2.2.2.8 Biến Tự do hóa tài chính (credit)

Biến cuối cùng được đề xuất trong mô hình nghiên cứu là Biến đại diện cho

việc tự do hóa tài chính tại mỗi quốc gia. Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng chỉ ra

rằng sau khi thực hiện tự do hóa lĩnh vực tài chính, thị trường tiền gửi trở nên mang

tính cạnh tranh cao hơn khi mà các nhà đầu tư nước ngoài sẵn lòng cung cấp lượng

lớn các nguồn vốn với chi phí thấp. Điều này khiến các ngân hàng buộc phải tăng

chi phí hoạt động nhằm giữ khách hàng của mình. Khi thu nhập giảm, ngân hàng có

thể phải đối mặt với tình trạng khó khăn, có khả năng sẽ không chi trả đúng hạn các

khoản nợ. Thêm vào đó, nếu các nhà đầu tư tháo chạy khỏi ngân hàng, lúc này hệ

thống ngân hàng sẽ dễ tổn thương hơn. Theo Allegret et al (2003) đã chỉ ra dường

- 29-

như có 3 kênh mà tự do hóa tài chính có thể ảnh hưởng đến sự bền vững của ngân

hàng bao gồm: mở cửa hệ thống tài chính, bãi bỏ các quy định về lãi suất và bãi bỏ

các quy định về các khoảng nợ vay ngân hàng. Điều này có nghĩa là tự do hóa tài

chính có thể có thể được đánh giá thông qua các tác động của những kênh này trên

thị trường tài chính. Theo Galbis (1993) đã cho rằng lãi suất thực (lãi suất đã loại bỏ

lạm phát) có thể là đại diện tốt nhất cho tự do hóa tài chính bởi vì bãi bỏ các quy

định về lãi suất thường dẫn đến việc gia tăng 1 cách nhanh chóng của lãi suất thực.

Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần lý thuyết trên, lãi suất thực tăng cao có thể là kết

quả của các nhân tố khác như: tấn công tiền tệ theo (Kaminsky and Reinhart, 1996)

hoặc do chính sách thắt chặt tiền tiền tệ (Ergungor and Thomson, 2005). Vì vậy, lãi

suất thực có thể không đánh giá tốt cho việc tự do hóa tài chính cũng như các hiện

tượng xảy ra. Để đại diện cho tiến trình tự do hóa tài chính, bài viết này đánh giá tác

động của hai kênh còn lại bằng việc sử dụng các biến tin cậy liên quan, Pill và

Pradhan (1995) đề nghị sử dụng tỷ lệ tín dụng trong nước trên GDP. Demirguc-

Kunt and Detragrache (1998a) đưa ra tỷ lệ tín dụng trên GDP và tốc độ tăng trưởng

tín dụng trong nước. Do giới hạn về dữ liệu, bài viết này sử dụng tốc độ tăng trưởng

tín dụng trong nước trên GDP như là một biến giải thích cho tự do hóa tài chính

trong mô hình. Dữ liệu thu thập từ dòng 32d và dòng 99b của bộ dữ liệu IFS.

2.3 Ƣớc lƣợng và kiểm định mô hình đề nghị

Trong phần trước, mô hình từ tổng quát đến đơn giản được xem là phương

cách tốt nhất để có được mô hình phù hợp theo yêu cầu. Cụ thể, mục tiêu này được

thực hiện theo bốn bước:

- Đầu tiên, sử dụng các lý thuyết kinh tế, các nghiên cứu từ trước và kể

cả kinh nghiệm để xác định mô hình tổng quát, trong đó bao gồm tất cả các hệ số

hồi quy liên quan có thể.

- Ước lượng mô hình đề xuất.

- Bước tiếp theo là loại bỏ các tham số không có ý nghĩa thống kê ra

khỏi mô hình nghiên cứu. Bước này bắt đầu từ các biến ít có ý nghĩa thống kê nhất.

- 30-

Hiệu quả của việc loại bỏ bớt các biến không có ý nghĩa thống kê, có thể cải thiện

mức ý nghĩa của các biến còn lại. Vì vậy, các biến không phù hợp được bỏ qua từng

biến một.

Mô hình cuối cùng sau sẽ được dùng để kiểm định các giả thuyết là mục tiêu

nghiên cứu được đề cập đến trong các phần trước. Như Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998a) đã đề cập việc ngân hàng bị khủng hoảng có thể có tác động

trở lại đến các yếu tố được đề cập đến trong mô hình (mà đại diện là các biến giải

thích). Đây là điều khó khăn nếu muốn xem xét tác động của các biến độc lập đến

khả năng xảy ra khủng hoảng. Để giải quyết các vấn đề này, Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998a) đề xuất bỏ qua tất cả các quan sát xảy ra sau các cuộc khủng

hoảng. Điểm bất lợi của cách tiếp cận này là mẫu nghiên cứu sẽ trở nên nhỏ hơn do

nhiều quan sát bị loại bỏ. Một phương cách khác là nhằm hạn chế ảnh hưởng trở

ngược lại của các cuộc khủng hoảng, là cần định rõ khoảng thời gian mà cuộc khủng

hoảng đó diễn ra, và nhờ đó mô hình hồi quy sẽ bao gồm tất cả các quan sát đến khi

khủng hoảng kết thúc. Tuy nhiên việc xác định ngày kết thúc của cuộc khủng hoảng

là không đơn giản và vẫn tiếp tục là vấn đề tranh cãi của giới nghiên cứu.

Trong bài nghiên cứu của mình, Gujarati (2003) nêu ba tiêu chuẩn để đánh

giá chất lượng của mô hình logit bao gồm: thống kê Z (Z-statistic), chỉ số R bình

phương (Mac Fadden R square) và kiểm định tỷ số thích hợp (likelihood ratio (LR)

statistic). Do mô hình logit được ước lượng bằng phương pháp hợp lý cực đại

(maximum likelihood methol), thay cho việc sử dụng chỉ số thống kê t trong việc đo

lường ý nghĩa của một tham số, bài nghiên cứu này sử dụng tỷ số thống kê Z. Một

trong những biện pháp phổ biến nhất là chỉ số R bình phương, hệ số xác định, được

ước tính từ hai nguồn tổng bình phương. Tuy nhiên, chỉ số này lại không hiệu quả

trong mô hình hồi quy biến nhị nguyên. Eviews cung cấp một thông số thay thế, là

chỉ số R bình phương (MacFadden R square), để đánh giá độ phù hợp của mô hình.

Cũng giống như chỉ số R bình phương, chỉ số này cũng giao động trong khoảng

(0,1)

- 31-

Chỉ số Log likehood (LL) là khoảng cách giữa giá trị tiên lượng và giá trị

quan sát, là một hệ số thể hiện độ phù hợp của mô hình tổng thể, giá trị này càng

nhỏ càng thể hiện độ phù hợp cao.

Một mô hình được cho là hoàn hảo khi LL=0, nhưng trong thực tế thì không

có mô hình hoàn hảo (nếu có thì đó không còn là mô hình nữa). Vì thế, trong mô

hình hồi qui logistic, LL thường có giá trị âm. Một mô hình tốt hơn sẽ có giá trị LL

gần với 0. Chỉ số thống kê hợp lý là bước kiểm định tiếp theo để kiểm tra mức ý

nghĩa của toàn bộ mô hình.

2.4 Nguồn dữ liệu và trích lọc dữ liệu

Dữ liệu được cập nhật từ nghiên cứu của Caprio-Klingebiel (1996b) về các

cuộc khủng hoảng ngân hàng, sau đó là được thể hiện tiếp theo theo bài nghiên cứu

của Honohan et al (2005) là nguồn dữ liệu chính để thu nhập về biến khủng hoảng.

Bài nghiên cứu này thống kê dữ liệu mới về các cuộc khủng hoảng ngân hàng của

các nước trên thế giới theo trình tự thời gian từ năm 1970-2010 và các chính sách

của các chính phủ để giải quyết vấn đề này.

Biến bảo hiểm tiền gửi (biến dummy) được lấy từ nguồn dữ liệu từ bài

nghiên cứu của Demirgüç-Kunt et al (2006b), và Tổ chức thế giới về bảo hiểm tiền

gửi IADI (International association of deposit insurance (2012). Trong bài nghiên

cứu của Demirgüç-Kunt et al (2006b) cung cấp chi tiết việc thực hiện bảo hiểm tiền

gửi tại mỗi nước bao gồm năm đầu tiên hệ thống bảo hiểm được công bố và cả tên

của các tổ chức chính phủ thực hiện, tác giả đã liệt kê danh sách của hơn 180 nước

thực hiện việc bảo hiểm tiền gửi rõ ràng và cả không rõ ràng. Dữ liệu này tiếp tục

được tổ chức quốc tế về bảo hiểm tiền gửi IADI cập nhật thông qua một bài nghiên

cứu. Tổ chức này đã xây dựng một bảng câu hỏi với hơn 160 câu hỏi bao gồm 14

lĩnh vực liên quan đến bảo hiểm tiền gửi như: thông tin cơ bản, mục tiêu, nhiệm vụ,

quyền hạn, nguồn nhân lực…… để qua đó hình thành các tiêu chí để đánh giá việc

thực hiện bảo hiểm tiền gửi của các nước.

- 32-

Dữ liệu chính được sử dụng trong bài viết được chiết xuất chủ yếu từ thống

kê tài chính quốc tế (International Financial Statistic-IFS) - đây là nguồn dữ liệu

đáng tin cậy của tổ chức IMF. IFS được giới thiệu thông qua nguồn CD-ROM và

Internet. Đây là bộ dữ liệu thống kê số liệu của hơn 200 quốc gia trên thế giới và

chứa khoảng 32.000 các chỉ tiêu kinh tế xã hội theo thời gian và được cập nhật

thường xuyên. Các dữ liệu trong IFS có thể truy xuất theo thông tin quốc gia hoặc

thông tin chung toàn thế giới, hoặc có thể truy xuất các chỉ tiêu có so sánh chéo giữa

các.

Trong bài viết này, các biến được rút trích từ IFS bao gồm: biến tỷ giá hối

đoái, biến lạm phát, lãi suất thực, tốc độ tăng trưởng, biến tín dụng cá nhân trên

GDP và biến M2 trên GDP. Thông tin cụ thể về các biến được thể hiện trong bảng

phụ lục.

Dữ liệu được lọc bắt nguồn từ danh sách 180 nước được cho là thực hiện

việc bảo hiểm tiền gửi. Sau đó, 75 nước bị loại bỏ do việc thiếu hụt các dữ liệu về

kinh tế vĩ mô và các yếu tố tài chính. Tiếp theo đó là 22 nước là các nước thành viên

của OECD (là các quốc gia có thu nhập cao) bị loại bỏ do bài nghiên cứu này chỉ tập

trung nghiên cứu trong trường hợp các quốc gia đang phát triển. Tiếp theo đó là 3

quốc gia (Argentina, Brazil và Bolivia) bị loại bỏ do việc không thu thập được dữ

liệu về lạm phát và tỷ lệ lãi suất thực. Sau quá trình lọc bỏ, mẫu nghiên cứu trong

bài viết được giới hạn trong phạm vi 80 nước đang phát triển. Danh sách các nước

được thể hiện trong bảng phụ lục.

2.5 Kết quả hồi quy và kiểm định các lý thuyết

2.5.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu về các tác nhân tác động đến

khủng hoảng ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển

Theo kinh nghiệm nghiên cứu của nhiều tác giả, khi xây dựng bất kỳ mô

hình hồi quy nào, mục tiêu cần hướng đến là tìm kiếm để ước lượng hệ số hồi quy

của các mô hình mang lại một số tính chất mong muốn sau: ước lượng là (1) không

thiên lệch, (2) có tính chất nhất quán và (3) có hiệu quả nhất. Để đạt được mô hình

- 33-

cuối cùng phù hợp nhất cần có sự kết hợp hài hòa giữa kinh nghiệm thực tiễn, lý

thuyết kinh tế và các kiểm định thống kê. Hay nói cách khác, mô hình kỳ vọng phải

có ý nghĩa về mặt thống kê (các β đúng với kỳ vọng) và phù hợp với các tiêu chuẩn

lý thuyết đề ra. Do đó, trước khi ước lượng mô hình, việc thảo luận các dấu (hay sự

tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến giải thích) của các hệ số hồi quy kỳ

vọng là rất hữu ích, công việc này dựa vào các lý thuyết kinh tế, trực quan và kinh

nghiệm trong quá khứ.

Mô hình nghiên cứu dự kiến phương trình (2.7):

Theo như các lý thuyết về khủng hoảng ngân hàng, tốc độ tăng trưởng

kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến khủng hoảng, một tác động xấu

của kinh tế vĩ mô sẽ tác động đến nền kinh tế trong khi nếu hệ thống ngân hàng

không thực hiện việc đa dạng hóa thường dẫn đến việc gia tăng các khoản nợ xấu và

do đó, cũng đồng thời gia tăng khả năng xảy ra khủng hoảng, nên tôi kỳ vọng hệ số

sẽ âm. Trong khi đó, trong lĩnh vực ngân hàng các tác động của: tấn công tiền tệ,

các chính sách mở rộng tiền tệ trong dài hạn và chính sách tự do hóa tài chính, có

khả năng dẫn đến cuộc đua lãi suất trong ngắn hạn giữa các ngân hàng và qua đó,

các ngân hàng phải đối mặt với áp lực thanh khoản. Như vậy, lãi suất trong ngắn

hạn được kỳ vọng có khả năng giải thích nguy cơ khủng hoảng ngân hàng, điều này

có nghĩa tôi kỳ vọng một hiệu ứng tích cực ở đây, hệ số được kỳ vọng sẽ dương.

Khi thị trường vốn quốc tế mất lòng tin vào thị trường nội địa, điều này có

khả năng cao dẫn đến việc người gửi tiền đồng loạt rút vốn khỏi hệ thống ngân

hàng, làm tăng sự bất ổn của thị trường tài chính, dẫn đến sự biến động của tỷ giá

hối đoái. Do đó, hệ số kỳ vọng sẽ âm.

Tại các thị trường mới nổi, việc các nhà hoạch định chính sách áp dụng tự

do hóa tài chính đưa đến việc bãi bỏ một số quy định của lĩnh vực tài chính, nhằm

- 34-

mục đích tăng khả năng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng trong nước. Dưới áp

lực cạnh tranh, các ngân hàng hoạt động kém có thể buộc phải sáp nhập hoặc phá

sản. Theo lý thuyết đã đề cập ở trên, biến đại diện cho việc tự do hóa tài chính làm

gia tăng khả năng đỗ vỡ của ngân hàng, qua đó, hệ số được kỳ vọng có tương

quan dương với xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Trong phần lý thuyết ở trên, yếu tố lạm phát được đề cập đến không chỉ là

biến đại diện cho khả năng quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ mà còn là một thành

phần của nhân tố lãi suất. Vì thế, hệ số có cùng khuynh hướng với biến lãi suất

thực hệ số , và được kỳ vọng sẽ có tương quan dương với khả năng xảy ra khủng

hoảng. Biến tỷ lệ thay đổi của tỷ giá hối đoái và tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu là

các yếu tố có khả năng giải thích cao tình trạng khó khăn của ngân hàng. Sự mất giá

của tỷ giá hối đoái làm gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài của ngân hàng và của cả

những người đi vay. Trong khi đó việc suy giảm của tỷ lệ giá trị thương mại xuất

khẩu làm giảm khả năng tài chính của những người vay tiền của ngân hàng. Mặc dù

vậy, ở đây có sự khác biệt trong cách tác động của những yếu tố này đến khu vực

ngân hàng, nhưng hậu quả dường như là như nhau, đó là ngân hàng trở nên dễ đổ vỡ

hơn. Không có gì là ngạc nhiên khi hệ số tỷ giá hối đoái được kỳ vọng là dương

và dấu hiệu kỳ vọng của biến tỷ giá thương mại là tương quan âm. Cuối cùng,

theo lý thuyết khủng hoảng ngân hàng thì dấu hiệu tác động của bảo hiểm tiền gửi là

không thực sự rõ nét trong việc giải thích tác động đến khả năng gây ra khủng

hoảng. Một mặt sự có mặt của biến bảo hiểm tiền gửi sẽ hạn chế sự xuất hiện của

khủng hoảng. Mặt khác, dù thực hiện việc bảo hiểm tiền gửi, khủng hoảng ngân

hàng vẫn có thể xảy ra bởi việc bảo hiểm ngân hàng làm gia tăng động cơ cho các

ngân hàng thực hiện các dự án có tính rủi ro cao hơn. Theo nghiên cứu của

Demirguc-Kunt và Detragrache (2002) cho thấy rằng rủi ro của hệ thống ngân hàng

lại dường như tăng cao tại các quốc gia có thực hiện việc bảo hiểm tiền gửi, trong

khi đó, hai tác giả Hagen và Ho (2003) trong bài nghiên cứu của mình, họ không tìm

thấy bất kỳ kết quả thuyết phục nào liên quan đến yếu tố tiền gửi ngân hàng. Vì vậy,

dấu hiệu kỳ vọng của được dự đoán là không rõ ràng.

- 35-

DẤU HIỆU KỲ VỌNG CÁC BIẾN TRONG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Tên biến Nội dung Nguồn Dấu hiệu kỳ vọng Đơn vị tính

Tỷ lệ thay đổi GDP thực - IFS dòng 99bvp Growth

Biến bảo hiểm tiền gửi (Biến International association Dummy trong mô hình logit Không rõ of deposit insurance (biến giả) nhận giá trị là 1 khi Deposit ràng (2012) quốc gia thực hiện bảo hiểm

tiền gửi, và ngược lại giá trị 0)

Credit Biến tự do hóa tài chính (Tỷ lệ GDP- IFS dòng 99B. + growth tín dụng trên GDP)

Biến tấn công tiền tệ (Tỷ lệ M2, IFSdòng 34+35, dự M2/Reser M2 trên dự trữ ngoại tệ của trữ ngoại tệ từ dòng IFS + ve ngân hàng nhà nước) 1d.d

Lãi suất thực (Lãi suất danh IFS- dòng 60L trừ tỷ lệ Real % + nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát) lạm phát từ WDI 2012 Interest

Biến tỷ giá hối đoái (tỷ lệ thay IFS-dòng ae (tỷ giá cuối %

năm của đồng tiền 1 QG Ex đổi của tỷ giá) +

so với đola Mỹ

Biến tỷ lệ lạm phát (Tỷ lệ thay % IFS- dòng 64.x Inflation + đổi của chỉ số giá tiêu dung)

Biến tỷ lệ giá trị thương mại WDI 2012 - TOT xuất khẩu

- 36-

Kết quả mô hình nghiên cứu

Bảng 1: Kết quả hồi quy các nhân tố tác động đến khủng hoảng ngân hàng: Loại bỏ các quan sát ngay sau các năm kết thúc khủng hoảng

(1)

(2)

(3)

(4)

Biến

Hệ số

Kết quả sau khi bỏ biến M2

Kết quả sau khi bỏ biến M2 và Credit

Kết quả sau khi bỏ biến M2 và TOT

(5) Kết quả sau khi bỏ biến M2, Credit và TOT -0.02698**

-0.02644**

-0.02533** 2.40E-14

-0.02344*** 2.75E-14 7.26E-05 0.018093***

-0.01056 1.36E-14 0.000145** 0.000116** 0.01828*** 0.01791*** 0.018088***

0.000149** 0.000168*** 0.006342 0.018077*** 0.018151*** 0.017963** 0.006536 0.017893***

2.45E-07

0.000246 -5.62E-07

1.06E-07 0.735357*** 0.766834*** 0.357668** 0.766113*** -2.05208

-2.05633

-2.07402

-1.3852

0.77133*** -2.05047

0.056425 60.24826 0

0.047494 50.71278 0

0.001976 2.110404 0.90927

0.045878 48.98678 0

0.045383 48.45878 0

1217

1217

1217

1217 1217

GROWTH TOT EX REALINTEREST INFLATION M2_RESERVE CREDIT DEPOSIT C McFadden R- squared LR statistic Prob(LR statistic) SL quan sát Ghi chú:

- Một, hai và ba sao (*) chỉ các mức ý nghĩa lần lượt của 10%, 5% và 1% - Kết quả hồi quy có được của (1) với đầy đủ các hệ số, (2) sau khi lượt bỏ biến M2/Reserve, (3) sau khi lượt bỏ biến M2/Reserve và Credit growth, (4) sau khi lượt bỏ các biến M2/Reserve và TOT, (5) sau khi loại bỏ các biến M2/Reserve, Credit growth và TOT

Bảng 1, mô tả các bước thực hiện của mô hình từ tổng quát đến đơn giản.

như đã thảo luận ở trên, phương pháp này bắt đầu từ việc loại bỏ các hệ số không

thật sự có ý nghĩa để qua đó cuối cùng đạt được mô hình không chệch tốt nhất. Theo

kết quả hồi quy thu được từ bảng (1), các biến tỷ giá, biến tấn công tiền tệ, biến tự

do hóa tài chính là những biến có khả năng bị loại trừ do các mức ý nghĩa của các

biến này có p-value >10%, nên ít có khả năng ảnh hưởng hay tác động đến khủng

- 37-

hoảng ngân hàng. Từ kết quả hồi quy (1) tất cả hệ số của các biến đều phù hợp với

kỳ vọng đặt ra, ngoại trừ biến Biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (TOT), theo

lý thuyết tôi đã đề cập ở trên thì biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (TOT) kỳ

vọng sẽ có dấu hiệu âm (-) bởi vì sự sụt giảm của Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu

(TOT) được dự đoán sẽ làm tăng các khoản nợ xấu của ngân hàng, qua đó, góp phần

làm tăng rủi ro xảy ra khủng hoảng. Qua dấu hiệu đó, cho thấy biến Tỷ lệ giá trị

thương mại xuất khẩu (TOT) cũng có khả năng sẽ bị loại ra khỏi mô hình nghiên

cứu, đồng thời từ các nghiên cứu của các tác giả trước là Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998a), Caprio và Klingebiel (1996c) cũng cho thấy chưa bao giờ

biến này được xem như là nhân tố quan trọng tác động đến khủng hoảng ngân hàng,

theo quan điểm của các tác giả này thì biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu

(TOT) cũng cần được loại bỏ ngay cả khi biến có p-value là nhỏ, điều này sẽ được

tôi kiểm chứng qua các bước tiếp theo.

Theo kết quả hồi quy (2) biến tự do hóa tài chính (biến có mức ý nghĩa

38%, cao nhất) bị loại bỏ khỏi mô hình. Các hệ số của các biến thay đổi theo hướng

tốt hơn so với kết quả hồi quy (1), trong trường hợp này biến Tỷ lệ giá trị thương

mại xuất khẩu (TOT) vẫn mang dấu dương (+) và có mức ý nghĩa tăng từ 15,65 %

lên 20.86%, ngược với kỳ vọng ban đầu. Các hệ số khác có thay đổi nhưng không

đáng kể, ví dụ như hệ số McFadden R-squared giảm từ 0.056 còn 0.047. Những

thay đổi này không làm giảm nhiều giá trị của mô hình. Trước khi chuyển sang kết

quả hồi quy (3), kết quả hồi quy cho thấy cần chú ý đến hai biến có thể phải loại bỏ

tiếp theo là biến Tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu (TOT) và biến tự do hóa tài

chính với các mức ý nghĩa lần lượt: 21.96% và 20.86%. Phương pháp mô hình từ

tổng quát đến đơn giản thực hiện theo cách lượt bỏ các hệ số ít có ý nghĩa thống kê

trước để hướng đến mô hình tốt nhất. Do đó, bước tiếp theo tôi sẽ lượt bỏ biến tự do

hóa tài chính (là biến có mức ý nghĩa 21.96%). Thật bất ngờ, mô hình nghiên cứu

trở nên xấu đi hẳn, kết quả hồi quy (3) chỉ ra rằng các nhân tố tỷ lệ tăng trưởng kinh

tế, biến tỷ lệ giá trị thương mại xuất khẩu, lãi suất thực và lạm phát lại trở nên

không có ý nghĩa thống kê với các giá trị p-value tăng đột biến, bên cạnh đó, hệ số

- 38-

McFadden R-squared giảm mạnh ở mức 0.0019. Các biểu hiện này cho thấy, việc

loại bỏ biến tự do hóa tài chính có thể là một sai lầm trong nghiên cứu mà tôi gặp

phải.

Bước tiếp theo để đạt được mô hình tốt nhất, tôi sẽ loại bỏ hai biến là tỷ lệ

giá trị thương mại xuất khảu và biến tấn công tiền tệ (M2/Reserve) ra khỏi mô hình

tổng quát ban đầu. Trong trường hợp này, mức ý nghĩa của hầu hết các biến trong

mô hình dự kiến đều rất tốt (mức ý nghĩa dưới 5%), ngoại trừ biến tự do hóa tài

chính (Credit), đồng thời hệ số McFadden R-squared đạt 0.0458. Bước tiếp theo là

biến biến tự do hóa tài chính (Credit) cũng cần được loại bỏ khỏi mô hình dự kiến.

Theo kết quả hồi quy (5) khi loại bỏ các biến M2, TOT và Credit, các biến còn lại

trong mô hình dự kiến đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và dấu hiệu phù hợp với

kỳ vọng ban đầu của tôi, các chỉ số LR test và McFadden R-squared đạt mức có ý

nghĩa thống kê rất cao. Nhìn chung, nếu so sánh kết quả hồi quy từ mô hình tổng

quát (kết quả thống kê 1) đến mô hình đơn giản (kết quả thống kê 5) qua việc quan

sát các kết quả hồi quy đạt được là không có nhiều sự thay đổi về giá trị của các hệ

số trong quá trình lọc bỏ các biến không phù hợp. Điều đó cho thấy, cách thực hiện

của tôi đã thực sự đi đúng hướng và so với mô hình tổng quát ban đầu, kết quả hồi

quy (5) dường như là mô hình tối ưu tốt nhất, là mô hình tôi cần thiết lập trong

nghiên cứu nảy. Các nhân tố có trong mô hình (5) phù hợp với các giả thuyết mà tôi

đã đề cập ở trên, các hệ số đều đạt dấu hiệu phù hợp với kỳ vọng ban đầu và đều có

ý nghĩa thống kê. Mặc dù hệ số Mc Fadden R-squared có giảm nhẹ do việc loại bỏ

ba biến, tuy nhiên có thể kết luận mô hình (5) được xem là hình tốt nhất đạt được

bởi tiêu chuẩn cho việc lựa chọn mô hình không chỉ dựa trên hệ số Mc Fadden R-

squared mà mô hình đó cần phù hợp với lý thuyết. Từ những lý do đó, mô hình (5)

được chọn để đi đến các kết luận chung và sử dụng cho các chương tiếp theo.

Mô hình nghiên cứu tốt nhất của đề tài được chọn theo phương pháp từ

tổng hợp đến đơn giản, phương trình (2.8) :

- 39-

2.5.2 Ý nghĩa của các biến giải thích

Như đã dự đoán trong phần lý thuyết, kết quả hồi quy từ bảng 1 cho thấy

cả biến lãi suất thực và lạm phát đều có ý nghĩa thống kê khá cao và phù hợp với kỳ

vọng ban đầu. Điều này cho thấy hệ thống ngân hàng tại các nước đang phát triển

không thật sự ổn định khi nền kinh tế phải trải qua các cú sốc có liên quan đến lãi

suất thực và lạm phát. Nếu không có sự quan tâm thích đáng đến việc quản lý

RRLS, không dự báo được xu hướng biến động của lãi suất thì các NHTM có thể bị

thiệt hại nặng nề từ các tác động tiêu cực của các nhân tố này. Bên cạnh đó, một

nhân tố được dự báo có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng gây ra khủng hoảng là

yếu tố tỷ giá hối đoái. Kết quả hồi quy bên trên cho thấy rõ ràng có sự tác động đáng

kể của việc mất giá của tỷ giá hối đoái đến khả năng gây ra khủng hoảng ngân hàng

tại các nước đang phát triển. Điều này cũng phù hợp với nền kinh tế quốc tế hiện

nay, nền kinh tế có mức độ đôla hóa cao thì tác động của yếu tố tâm lý đến ổn định

tỷ giá là rất lớn có thể dẫn đến những phản ứng thái quá của thị trường, việc kỳ

vọng bất hợp lý của thị trường được tạo lập trên cơ sở các thông tin bất đối xứng và

không đáng tin cậy là nguyên nhân chính dẫn đến việc biến động về tỷ giá hối đoái,

có thể dẫn đến những phản ứng thái quá của thị trường, ảnh hưởng đến thị trường tài

chính của một quốc gia. Tuy nhiên, yếu tố thú vị lại ở thể hiện trong biến bảo hiểm

tiền gửi, kết quả hồi quy ở trên cho thấy việc bảo hiểm tiền gửi là công cụ hữu ích

để hạn chế các rủi ro cho ngân hàng. Trên thực tế, ảnh hưởng thật sự của việc bảo

hiểm tiền gửi trong việc hạn chế các rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng vẫn còn những

quan điểm khác nhau trong giới nghiên cứu kinh tế trên thế giới. Theo nghiên cứu

của Demirguc-Kunt và Detragrache (2002) cho thấy rằng rủi ro của hệ thống ngân

hàng lại dường như tăng cao tại các quốc gia có thực hiện việc bảo hiểm tiền gửi,

trong khi đó, hai tác giả Hagen và Ho (2003) trong bài nghiên cứu của mình, họ

- 40-

không tìm thấy bất kỳ kết quả thuyết phục nào liên quan đến yếu tố tiền gửi ngân

hàng. Điều này cũng không hoàn toàn khó để giải thích, bởi việc các tác giả thường

sử dụng nhiều phương cách khác nhau trong việc tiếp cận các vấn đề về rủi ro trong

lĩnh vực ngân hàng. Ví dụ như hai tác giả Hagen và Ho (2003), dựa trên thị trường

tiền tệ trong nghiên cứu về các vấn đề khủng hoảng ngân hàng. Trong khi đó, hai tác

giả Demirguc-Kunt và Detragrache (2002) áp dụng một nhóm bốn tiêu chí để xác

định xem cuộc khủng hoảng ngân hàng có xảy ra hay không. Với những cách tiếp

cận khác nhau, dĩ nhiên sẽ có những kết quả khác nhau. Mặc dù có nhiều cách tiếp

cận khi nghiên cứu về vấn đề khủng hoảng ngân hàng, nhìn chung nhiều nhà nghiên

cứu kinh tế trên thế giới (như Demirguc-Kunt và Detragrache (2002), Hagen và Ho

(2003)) đều có những điểm chung, cho rằng khủng hoảng ngân hàng thường xảy ra

tại các quốc gia đang phải đối mặt với điều kiện lạm phát cao và tăng trưởng GDP

thấp. Bên cạnh đó, các nhà kinh tế cũng đồng ý rằng tỷ giá hối đoái cũng là một

nhân tố tốt cho việc nghiên cứu các vấn đề về khủng hoảng trong lĩnh vực ngân

hàng. Mặt khác, nhân tố biến tấn công tiền tệ là nhân tố không thực sự giúp ích cho

quá trình nghiên cứu về vấn đề này (mức ý nghĩa không đạt đến mức cần thiết), điều

này bác bỏ giả thuyết cho rằng việc rút đồng loạt vốn đầu tư có thể dẫn đến khủng

hoảng ngân hàng. Rút kết này có thể xem là điểm khác với bài nghiên cứu của

Demirguc-Kunt và Detragrache (1998a). Điều này có thể xuất phát từ việc thực hiện

chọn mẫu nghiên cứu. Hai tác giả này sử dụng mẫu là các quốc gia đã và đang phát

triển trong khi bài nghiên cứu của tôi tập trung nghiên cứu lĩnh vực này tại các nước

đang phát triển. Điều này có thể giải thích thông qua các đặc tính của các nước đang

phát triển, tại các quốc gia này, các nhà điều hành kinh tế khó có thể thực hiện tỷ giá

linh hoạt, điều này đồng nghĩa với việc họ thường xuyên đối mặt với việc gia tăng

các khoản nợ hoặc nếu họ thực hiện việc cố định tỷ giá lại đồng thời tạo cơ hội cho

nhóm đầu cơ kiếm lợi nhuận, nói cách khác, các quốc gia đang phát triển buộc phải

áp dụng linh hoạt hai biện pháp tỷ giá này. Chính điều này sẽ góp phần giảm thiểu

các rủi ro tỷ giá do các hoạt động đầu cơ, do mẫu của tôi chỉ lựa chọn các quốc gia

- 41-

đang phát triển, nơi mà các nhà đầu cơ rất khó trong việc thực hiện tấn công tiền tệ,

đó là lý do phát hiện của tôi khác so với Demirguc-Kunt và Detragrache.

- 42-

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM

KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

DỰA TRÊN KINH NGHIỆM THẾ GIỚI

Trong hầu hết các cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng đã xảy ra trên thế

giới đã được rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu rất kỹ lưỡng thì các cuộc khủng hoảng

tại khu vực Đông Á và khu vực Mỹ latinh luôn nhận được sự chú ý đặc biệt của các

nhà nghiên cứu về kinh tế. Đây không chỉ là việc các quốc gia phải hao tổn các

khoảng chi phí cực lớn để vực dậy nền kinh tế tại các khu vực này mà còn tính lây

lan đối với các quốc gia lân cận. Một câu hỏi thú vị nếu như mô hình nghiên cứu

vừa thu nhận được có thể dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng để qua đó hạn chế

mức thấp nhất tác động lây lan của các cuộc khủng hoảng này, điều này, về mặt lý

thuyết mô hình logit có khả năng thực hiện được nhiệm vụ này. Tuy nhiên, như đã

thảo luận từ trước, luôn có những giới hạn trong các mô hình nghiên cứu về lĩnh vực

này: về nguồn dữ liệu có sẵn, về tác động ngược (có thể có) đối với các chỉ số trong

quá trình xây dựng mô hình. Do đó bất kỳ kết luận nào từ mô hình của tôi cũng đều

thiếu sự chắc chắn. Để làm rõ ý này, trong phần tiếp theo, tôi xem xét hai cuộc

khủng hoảng hệ thống ngân hàng điển hình trong khu vực Đông Á và Mỹ Latinh: tại

Thái Lan và tại Uruguay để làm rõ thời gian cũng như các điểm quan trọng của các

cuộc khủng hoảng, sau đó, kết quả dự báo sẽ được trình bày để so sánh. Từ những

phân tích trên kết hợp với các nghiên cứu thực nghiệm đáng tin cậy trên thế giới, mô

hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tối ưu được đưa ra từ mô hình logit,

được áp dụng vào các trường hợp cụ thể của Thái Lan, Uruguay và Việt Nam. Để

qua đó có thể kiểm định khả năng dự báo khủng hoảng ngân hảng của phương trình

nghiên cứu (2.7), trong phần tiếp theo, bài viết sử dụng các dữ liệu thu thập trong

trường hợp Thái Lan và Uruguay trong những năm đã qua (trong giai đoạn 1996-

2003), đây là giai đoạn được ghi nhận có xảy ra các cuộc khủng hoảng ngân hàng tại

Thái Lan (năm 1997) và Uruguay (2002).

- 43-

Tiếp theo là sử dụng các số liệu để kiểm định các nhân tố tác động đến

khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam dựa trên kinh nghiệm từ các nước đang phát

triển, của Thái Lan và Uruguay

3.1 Khủng hoảng tại Thái Lan

Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình

là hàng năm là 8%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng kinh tế Thế giới của IMF đã

cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bong kinh tế có thể

không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự

điều chỉnh, cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều

giảm đi. Ngày 14/05/1997, đồng bath Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn, Thủ

tướng Thái Lan tuyên bố không phá giá đồng bath, song rốt cuộc lại thả nổi đồng

bath vào ngày 02/07/1997, đồng bath ngay lập tức mất giá gần 50%, chỉ số thị

trường chứng khoán đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm

1997. Đồng thời mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141.5 tỷ USD xuống còn 23.5

tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất Thái lan bị phá sản. Ngày

11/08/1997, IMF tuyên bốn sẽ cung cấp gói cứu trợ trị giá 16 tỷ đola cho Thái lan.

Ngày 20/08/1997, IMF thông qua gói cứu trợ nữa trị giá 3.9 tỷ đola

Tại các nước láng giềng, ngày 11/07/1997, Philippin tuyên bố thả nồi đồng

Pesô. Ngày 11/08/1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường hối đoái

(thực chất là thả nổi đồng Ringgit). Ngày 14/08/1997 Indonesia tuyên bố thả nổi

đồng Rupiah. Có thể nói, sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của những

đồng tiền Thái Lan, Philippin, Malaysia, Indonesia là biểu hiện bên ngoài dễ nhận

thấy nhất của sự bùng nổ khủng hoảng ở các nước này

- 44-

Bảng 2: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 -1997 khu vực Đông Nam Á

Năm 1996 Năm 1997 Nước Tỷ giá

Thái Lan Bath/USD 25.61 47.25

Philippin Peso/USD 26.29 39.5

Malaysia Ringgit/USD 2.52 3.88

Indonesia Rupiah/USD 2.308 5

Nguồn: Tổng hợp từ nhiều tài liệu của tác giả

Biểu hiện tiếp bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng này là sự

thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng, tài

chính quốc gia

Bảng 3: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài

chính các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á(trong năm tài chính từ 01/04/1997

đến 31/03/1998)

Số

Số NH bị NH bị Tổng Số NH bị Số NH Tổng quốc hữu bán cho số NH Nước đình chỉ bị sát số NH hóa/Chính công ty “có vấn hoạt động nhập phủ giám sát nước đề”

ngoài

64 Thái Lan 108 56 4 (59%)

41 Malaysia 60 41 (68%)

83 Indonesia 228 16 56 11 (36%)

Nguồn: Tổng hợp từ nhiều tài liệu của tác giả

Sự phá sản của hàng loạt ngân hàng, doanh nghiệp sẽ dẫn đến hậu quả trực

tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh và tăng trưởng kinh tế quốc gia giảm sút

- 45-

Bảng 4: Tăng trƣởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng tài chính

năm 1997 tại khu vực Đông Nam Á

Tăng trưởng kinh tế Tỷ lệ thất nghiệp Nước

1996 1997 1998 1996 1997 1998

Thái Lan 6.7 -0.4 -8.3 8.8

Malaysia 8.2 7.0 2

Indonesia 7.8 4.6 -13.7

Philippin 5.8 5.2 -0.5 9.5 10.4 3.3

Nguồn: Tổng hợp từ nhiều tài liệu của tác giả

Hậu quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng gây ra là quá rõ ràng, toàn diện và

hết sức nặng nề không chỉ đối với Thái Lan mà còn nhiều quốc gia khác trong khu

vực và thế giới biểu hiện dễ nhận thấy nhất là: Tỷ giá hối đoái tăng mạnh, ngoài tầm

kiểm soát, việc phá sản của hàng loạt các ngân hàng, công ty tài chính, tăng trưởng

kinh tế giảm mạnh.

3.2 Khủng hoảng ở Uruguay

Trong năm 2001, hệ thống Ngân hàng tại Uruguay được đánh giá là một

trong những hệ thống hoạt động tốt tại khu vực Mỹ Latinh. Hệ thống này có thể tạm

chia thành hai phần: các ngân hàng thuộc chính phủ (số này chiếm 40%) và một

nhóm thuộc các ngân hàng tư nhân nước ngoài (chiếm 30%). Trong đó, Galicia

Uruguay (BGU) và Banco Comercial (BC) là các tổ chức lớn, chiếm gần 20% thị

phần trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Với trách nhiệm và lượng tài chính nắm

giữ lớn trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng tại Uruguay trở nên nhạy cảm với

những cú sốc từ bên ngoài và bên cạn đó là sự mất giá của đồng bản địa.

Khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2001 khi các vấn đề trong hệ thống ngân

hàng tại Argentina, buộc chính phủ nước này thực hiện các chính sách kiểm soát

nguồn vốn. ngay lập tức Galicia Uruguay (BGU) và Banco Comercial (BC), là hai

ngân hàng tư nhân lớn nhất tại Uruguay gặp ngay vấn đề về thanh khoản, đến tháng

02/2002, ngân hàng trung ương Uruguay quyết định đóng cửa BGU, điều này cũng

- 46-

dễ dàng được giải thích, bởi các tổ chức tài chính tại Argentina nắm giữ một lượng

lớn nguồn vốn của BGU, và hoạt động của tổ chức lập tức gặp khó khăn khi các nhà

đầu tư Argentina rút vốn của mình từ Uruguay,

Một nạn nhân khác chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng của Argentina, đó

là trường hợp của tổ chức BC, một ngân hàng tư nhân lớn khác của Uruguay. Không

giống với trường hợp của BGU, BC lại chịu tác động do việc nắm giữ nhiều khoản

nợ từ chính phủ cũng như các tổ chức tài chính của Argentina, do đó việc đối diện

với khó khăn về thanh khoản là điều khó tránh khỏi của tổ chức này. Sau nhiều nổ

lực nhằm tái cấu trúc thì cuối cùng NH trung ương Uruguay buộc phải can thiệp vào

BC. Và khi tình hình tại Argentina trở nên xấu đi, người dân đồng loạt rút tiền khỏi

ngân hàng, mặc dù trong thời gian này Uruguay nhận được sự trợ giúp từ IMF để

đối phó với tình trạng thiếu thanh khoản, tuy nhiên với phần đông người dân thì họ

lại tin rằng cuộc khủng hoảng sắp xảy ra, buộc chính phủ phải tiến hành phá giá

đồng bản địa. Có thể xem Uruguay trở thành nạn nhân do các tác động tiêu cực từ

cuộc khủng hoảng trước đó của Argentina.

3.3 Áp dụng mô hình nghiên cứu tối ƣu vào các trƣờng hợp của Thái

Lan và Uruguay:

Mô hình thất bại trong việc giải thích khủng hoảng bắt nguồn từ khủng hoảng

cán cân thanh toán tại Thái Lan

Để kiểm định khả năng dự báo của mô hình nghiên cứu, tôi sử dụng phương

trình nghiên cứu (2.8) để tiến hành nghiên cứu thực tiễn trong trường hợp của Thái

Lan và Uruguay từ năm 1996 đến 2003.

Dữ liệu các biến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (growth), biến lãi suất thực (real

interest), biến tỷ giá hối đoái (Ex), biến lạm phát (inflation) và biến bảo hiểm tiền

- 47-

gửi (deposit) được thu thập từ bảng tổng hợp dữ liệu nghiên cứu của các quốc gia

đang phát triển.

Dữ liệu phía dưới cho thấy khả năng dự báo khủng hoảng cho trường hợp của

Thái Lan lại không như kỳ vọng ban đầu. Theo số liệu từ mô hình nghiên cứu đạt

được, trong trường hợp của Thái Lan, biểu đồ đạt cực đại tại 0.31 trong năm 1997

(là năm được xem như bắt đầu khủng hoảng tại Thái Lan) và giảm nhẹ vào các năm

tiếp theo. Trong khi đó, theo giả thuyết của mô hình nghiên cứu thì một quốc gia

được xem như khủng khoảng khi kết quả của mô hình là xấp xỉ hoặc lớn hơn 0.5.

Đối với trường hợp Uruguay, biểu đồ lại có xu hướng biến động nhẹ trước khi đạt

đỉnh tại mức 0.451 vào năm 2002 (năm được xem như bắt đầu cuộc khủng hoảng tại

Uruguay), đây có thể xem như mô hình đã dự báo khá tốt cuộc khủng hoảng ngân

hàng tại Uruguay.

Nguồn: từ nguồn số liệu tổng hợp của tác giả

Biểu đồ 1: Xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng tại Thái Lan và

Uruguay giai đoạn 1996-2003

- 48-

Bảng 5: Bảng tổng hợp số liệu nghiên cứu trƣởng hợp của Thái Lan và

Quốc gia

năm

hệ số e mũ

Biến khủng hoảng

Biến Lạm phát

Xác suất khủng hoảng

Biến bảo hiểm tiền gửi

Biến tỷ giá hối đoái

Biến lãi suất thực

Biến tốc độ tăng trưởng GDP

URUGUAY URUGUAY

URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY

14.43 9.57 11.76 15.49 13.26 17.6 48.58 10.69

4.8 4.54 -2.98 -1.46 -3.38 -10.66 1.87 10.38

0.244749 0.193681 0.210007 0.196656 0.195736 0.255993 0.825056 0.36345

0.196625 0.162256 0.173558 0.164338 0.163695 0.203817 0.452072 0.266567

0 0 0 0 0 0 1 1

28.34 19.82 10.81 5.66 4.76 4.36 13.97 19.38

8.71 10.04 10.82 11.62 12.52 14.77 27.2 29.3

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

0 0 0 0 0 0 1 0

THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND

THAILAND THAILAND THAILAND

4.5 6.5 4.5 4 1 1.75 2.25 0.75

-1.43 -10.73 4.07 4.53 2.17 5.43 7.57 7.11

0.161834 0.466204 0.314697 0.267919 0.27691 0.257435 0.240712 0.242108

0.139292 0.317967 0.239369 0.211306 0.216859 0.20473 0.194011 0.194917

0 1 1 1 1 1 1 1

5.83 5.6 8.07 0.3 1.57 1.64 0.62 1.8

25.61 47.25 36.69 37.47 43.27 44.22 43.15 39.59

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

0 1 0 0 0 0 0 0

Uruguay giai đoạn (1996-2003)

Như đã thấy trong biểu đồ, mô hình đã làm tốt việc dự báo khủng hoảng

trong trường hợp của Uruguay hơn so với Thái Lan. Việc mô hình không giải thích

được cuộc khủng hoảng tại Thái Lan có thể xem là bất ngờ, kể cả có những dấu hiệu

rõ ràng từ sự biến động theo chiều hướng bất lợi của hai biến: tỷ giá hối đoái và tốc

độ tăng trưởng (đây được xem là hai biến quan trọng trong mô hình của tôi). Như đã

đề cập ở trên, nền kinh tế Thái Lan bắt đầu có những dấu hiệu bất ổn trong hệ thống

ngân hàng từ những năm 1990. Trong thời gian này, Thái Lan đang áp dụng chế độ

tỷ giá cố định và bên cạnh đó còn có sự hậu thuận lớn từ IMF và chính phủ Thái

Lan, do đó, quốc gia này trở thành quốc gia giàu tiềm năng cho các nhà đầu tư tìm

kiếm lợi nhuận, cũng trong lúc này các nhà đầu tư nhận thấy đồng bath đang được

định giá quá cao, nên ngay sau đó họ tiến hành các cuộc tấn công đầu cơ. Kết quả là

cuộc khủng hoảng xảy ra, chế độ tỷ giá cố định bị phá bỏ, tỷ giá được điều chỉnh từ

- 49-

mức 25.61 lên 47.65 (gần 54%) trong năm 1997 và đi kèm theo đó là việc lãi suất

được đẩy cao. Đây có thể xem là điểm lưu ý của mô hình nghiên cứu của tôi trong

việc nghiên cứu các tác nhân tác động đến khủng hoảng ngân hàng trong trưởng hợp

của Việt Nam, đặc biệt là trong việc tiếp cận các cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ

khủng hoảng cán cân thanh toán.

Việc không dự đoán được khủng hoảng ngân hàng trong trường hợp Thái

Lan, bất kể tín hiệu rõ ràng từ việc giảm giá mạnh của tỷ giá hối đoái, hoặc tín hiệu

từ việc tốc độ tăng trưởng bị giảm trong khoảng thời gian này. Điều đó có thề giải

thích như sau, theo tìm hiểu của tác giả tác dụng biên của nhân tố tỷ giá đến xác suất

xảy ra khủng hoảng là khá thấp, vì thế làm sức mạnh dự đoán của mô hình giảm đi

đáng kể, mặc dù các cuộc tấn công đầu cơ tháng 07 năm 1997 dẫn đến sự gia tăng

của tỷ giá hối đoái từ 25.61 lên 47.65 (gần 54%). Trên thực tế, trong nghiên cứu gần

đây về cuộc khủng hoảng ngân hàng của các tác giả như Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998a), Hagen và Ho (2002), họ vẫn ưu tiên hàng đầu việc sử dụng giá

trị tuyệt đối để đánh giá tác động của tỷ giá hối đoái trên vấn đề ngành ngân hàng,

điều này mở ra một hướng nghiên cứu mới cho các nghiên cứu tiếp theo về các nhân

tố có “góp phần” đến khủng hoảng ngân hàng

3.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng

tại Việt Nam

3.4.1 Thực trạng hệ thống ngân hàng tại Việt Nam

Ngân hàng là ngành có mối quan hệ mật thiết với các biến động của nền kinh

tế của một quốc gia. Đây là ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên khi nền kinh tế gặp khó

khăn nhưng cũng là ngành hồi phục trước tiên để tạo điều kiện cho nền kinh tế phục

hồi và đi vào ổn định. Hiện nạy, với đà tăng trưởng mạnh sau khi hội nhập, hệ thống

ngân hàng Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định như: gia tăng số lượng

NHTM, tăng cường được vốn điều lệ cũng như tài sản, tổng tín dụng cho nền kinh

tế cũng tăng trưởng mạnh trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống

ngân hàng Việt Nam vẫn gặp phải những hạn chế sau đây:

- 50-

Thứ nhất, hệ thống ngân hàng của Việt nam còn phát triển khá khiêm tốn so

với các nước trong khu vực và thế giới. Ngoại trừ các ngân hàng có xuất phát từ

ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần đều bắt đầu từ con số

không và cũng đã rất nỗ lực để có được quy mô hiện tại. Tuy nhiên so với nhu cầu

trong nước, đóng góp của một ngân hàng nhỏ bé sẽ ít hiệu quả hơn. Thậm chí, ngay

một "ông lớn" trong ngành ngân hàng cũng khó có đủ khả năng tài trợ một tập đoàn

quốc gia. Năng lực tài chính của các NHTM thể hiện trước hết ở quy mô vốn tự có

của mỗi ngân hàng. Có thể nói, quy mô vốn tự có của các NHTM tại Việt Nam còn

rất nhỏ bé. Quy mô nhỏ bé này được thể hiện thông qua chỉ tiêu quy mô vốn điều lệ,

thành phần chính của vốn chủ sở hữu.

Bảng 6: So sánh vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam (tại thời điểm tháng 5/2013)

Đơn vị tính: tỷ đồng

Vốn điều lệ

Ngân hàng VietinBank Agribank Vietcombank BIDV EIB Sacombank ACB

32.661 29.154 23.174 23.011 12.355 10.739 9.376

Vốn chủ sở hữu ~ 45.000 ~42.000 42.336 26.902 15.832 13.412 12.763

Nguồn: từ nguồn số liệu tổng hợp của tác giả

Quy mô này nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô của các NHTM trong khu vực

ASEAN và càng nhỏ bé hơn nếu so sánh với các ngân hàng lớn tại khu vực châu Á.

Qua đó, có thể thấy rõ sự nhỏ bé của các NHTM Việt Nam khi so sánh với quy mô

của các ngân hàng lớn nhất trong khu vực ASEAN theo bình chọn của tạp chí The

Banker, một thành viên của tờ Finance Times, một tạp chí có uy tín trên thế giới

trong lĩnh vực ngân hàng bình chọn năm 2010 được trình bày trong bảng dưới đây:

- 51-

Bảng 7: Quy mô vốn của các ngân hàng hàng đầu khu vực ĐNA năm 2010

Đơn vị tính: trUSD

STT Tên Ngân hàng Quốc gia

Maybank Publicbank Krung Thai Bank Bangkok Bank Bank Mandiri RHB Bank Berhad Bumiputra-Comerce Bank AMMB Holdings Kasikoronbank Bank of the Philippine Island Bank Central Asia Siam City Bank Hong Leong Bank Bank BNI Bank of Ayudhya

DSB Oversea Vốn điều lệ 4.833 3.970 1 2

3.095 2.021 1.337 1.335 1.232 1.211 1.117 1.005 996 937 849 735 714 638 550

Singapore Chine Banking Corp Singapore Malaysia Malaysia Thái Lan Thái Lan Indonesia Malaysia Malaysia Malaysia Thái Lan Philippines Indonesia Thái Lan Malaysia Indonesia Thái Lan 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

Có thể thấy, quy mô vốn chủ sở hữu như là tấm đệm để đảm bảo cho mỗi

ngân hàng có khả năng chống đỡ trước những rủi ro trong hoạt động ngân hàng

cũng như những rủi ro của môi trường kinh doanh.Vốn chủ sở hữu của các ngân

hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng chống đỡ cao hơn với những cú sốc

của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện

môi trường kinh doanh có nhiều biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau

của các nền kinh tế ngày càng tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay luôn tiềm

ẩn những rủi ro bất ngờ.Vốn tự có còn ảnh hưởng đến mức đầu tư vào công nghệ

của ngân hàng vì ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư vào công

nghệ.Vì thế, có thể nói, quy mô vốn tự có nhỏ sẽ là một bất lợi lớn trong lĩnh vực

ngân hàng.

Thứ hai, việc quản lý và giám sát của NHTW còn bộc lộ nhiều thiếu sót, theo

“báo cáo về phát triển tài chính” của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì chỉ số về

“độ chặt chẽ của tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán” của Việt Nam xếp hạng thứ 59/60.

- 52-

Như vậy có thể thấy, chính những hạn chế trong khung pháp lý, công nghệ và tiêu

chuẩn an toàn hoạt động đã khiến cho việc quản lý và giám sát của NHNN đối với

các hoạt động của các NHTM trở nên kém hiệu quả và không nhạy bén.

Thứ ba, hệ thống bảo hiểm tiền gửi hoạt động chưa thật sự hiệu quả. Như đã

đề cập bên trên bảo hiểm tiền gửi là công cụ cần thiết và hiệu quả trong việc hạn chế

những rủi ro cho cả người gửi tiền cũng như các NHTM, đồng thời làm giảm mức

độ nghiêm trọng của một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay có

nhiều ý kiến cho rằng bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam còn rất thấp. Bên cạnh đó,

chính sách quản lý, và hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng chưa có

hiệu quả và hiệu lực cao trong bối cảnh các TCTD phát triển nhanh về số lượng và

quy mô, đồng thời hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều quy định, chuẩn mực về an

toàn hoạt động ngân hàng đã được đổi mới theo hướng tiếp cận các chuẩn mực quốc

tế, tuy nhiên vẫn còn rất chậm so với các hệ thống ngân hàng trong khu vực và tụt

hậu so với sự tiến bộ của các chuẩn mực quốc tế. Các tiêu chuẩn cấp phép, các

chuẩn mực an toàn chưa chặt chẽ, chưa kiềm chế mức độ rủi ro gia tăng trong hoạt

động ngân hàng và chưa được bảo đảm tuân thủ nghiêm đã thúc đẩy quy mô hệ

thống các TCTD tăng nhanh cùng với sự tích lũy ngày càng lớn rủi ro.

3.4.2 Những thách thức đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam

Thứ nhất, tình hình thanh khoản của các NHTM đôi lúc còn bấp bênh: năm

2011, tỷ lệ sử dụng vốn trong hệ thống ngân hàng lên tới hơn 100% dẫn đến việc

thiếu thanh khoản, hiện nay tình hình có khả quan đôi chút, nhưng vẫn chưa chắc

chắn, tại các NHTM hàng đầu trên thế giới thì tỷ lệ sử dụng vốn chỉ khoảng 30-

70%, tỷ lệ còn lại 30-40% sẽ dùng đầu tư vào công cụ có tính thanh khoản cao,

trong khi các ngân hàng VN dùng chủ yếu đầu tư vào tín dụng. Tính thanh khoản

của các NHTM ngày càng giảm sút thể hiện tỷ lệ tổng vốn tính dụng/tổng vốn huy

động tăng liên tục nhưng nguồn vốn huy động vào lại có biểu hiện giảm. Ngoài ra,

tỷ lệ này ở hầu hết các quốc gia châu Á đều thấp hơn 80% trong khi VN có thời

điểm lên đến hơn 130%, vì vậy NHNN đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN

- 53-

có hiệu lực vào tháng 10/2010 quy định tỷ lệ này ở mức tối đa 80% cho các ngân

hàng và 85% cho các tổ chức tín dụng khác nhưng cho đến nay tỷ lệ này vẫn chưa

giảm và vấn đề vẫn chưa được giải quyết triệt để. Đồng thời, tỷ lệ tín dụng cho

vay/vốn huy động lại có xu hướng tăng lên, năm 2008 là 0,95%, năm 2009 là

1,01%, năm 2010 là 1,01% và năm 2011là 1,03% trong khi tín dụng tăng trưởng

cao hơn mức tăng trưởng vốn huy động. Đây là điều không tốt để tăng tính thanh

khoản trong hoạt động cho vay của ngân hàng (Ngô Xuân Thanh, 2012).

Hai là, những rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: những bất ổn về kinh tế vĩ mô

ở trong nước và trên thế giới, đặc biệt là lạm phát cao trong những năm trở lại đây

và những chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ

thống NHTM trước những rủi ro rất lớn về lãi suất. Bên cạnh đó, những biến động

lớn và đột ngột về lãi suất, cùng với những biện pháp điều hành lãi suất còn mang

nặng tính hành chính đã khiến cho các NHTM thường xuyên trong trạng thái đối

phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi suất cho vay ở mức rất

cao để phòng ngừa biến động lãi suất. Vì vậy, hiện tượng vượt trần lãi suất diễn ra

tương đối phổ biến làm giảm hiệu lực của các chính sách tiền tệ, đồng thời làm suy

giảm đạo đức kinh doanh của không ít cán bộ quản lý cũng như cán bộ tác nghiệp

trong hệ thống ngân hàng... (Ngô Thanh Xuân, 2012).

Ba là, tình hình nợ xấu tại các ngân hàng đang đứng ở mức cao: Theo báo

cáo của một số ngân hàng thương mại, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đều tăng

trong 9 tháng đầu năm 2012; nợ xấu đặc biệt tăng mạnh tại các ngân hàng như ACB

từ 0,9% lên 2,1%; của Sacombank từ 0,57% lên 1,4%; của BaoVietBank từ 4,56%

lên 6,13%; của NaviBank từ 2,92% lên 3,97%. Một số ngân hàng giữ được tốc độ

nợ xấu tăng không quá mạnh, như ở Techcombank từ 2,82% lên 2,94%;

KienLongBank từ 2,77% lên 2,78%. Riêng ngân hàng PGBank giảm được nợ xấu từ

3,06% cuối năm ngoái xuống còn 2,96% (Thành Hưng, 2012). Nợ xấu ở một số

ngân hàng lớn cũng không mấy sáng sủa, theo công bố của Ngân hàng Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn (Argribank), tính đến ngày 31/12/2012, nợ xấu toàn hệ

thống Agribank hơn 27.800 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ nợ xấu 5,8% trên tổng dư

- 54-

nợ. Trong khi đó, Ngân hàng Đầu tư Phát triển VN (BIDV) công bố, tính đến ngày

31/12/2012, nợ xấu ở mức 2,77% so với tổng dư nợ, tương đương 8.980 tỷ đồng.

Theo công bố của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương (Vietcombank),

tính đến ngày 31/12/2012, tổng nợ của ngân hàng này là 5.398 tỷ đồng, chiếm

2,25% tổng dư nợ. Còn nợ xấu của Viettinbank ở mức 1,35%/tổng dư nợ, số tiền

khoảng 4.464 tỷ đồng (Nguyễn Hiền, 2013). Tuy nhiên, những con số mà các

ngân hàng đã công bố được rất nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đánh

giá là chưa đáng tin cậy, con số thực có thể cao hơn nhiều. Mới đây, theo công bố

của Văn phòng Chính phủ, nợ xấu trước đây được xác định theo thanh tra NHNN

khoảng 8% (làm tròn số) đã giảm xuống còn 6%. Ngoài ra còn nhiều thách thức

khác ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các hoạt động của ngành ngân hàng

3.4.3 Các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng ngân hàng của Ngân hàng

nhà nƣớc trong thời gian qua

Để đối phó với các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

khu vực Đông Á năm 1997, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện các biện pháp đối

phó trong các năm từ 1997-1999, từng bước phá giá VNĐ va tiến tới thay đổi cơ chế

điều hành tỷ giá, trong các năm 1999-2000, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ nới

lỏng, thực hiện giảm lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buột

bằng VNĐ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buột bằng USD. Trong năm 2000, NHNN củng cố

năng lực điều hành chính sách tiền tệ, bằng việc đổi mới cơ chế điều hành lãi suất,

thực hiện một bước tự do hóa lãi suất, chuyển sang áp dụng cơ chế lãi suất thỏa

thuận bằng VNĐ. Trong năm 2000, NHNN đưa vào hoạt động thị trường mở, đây

được xem là bước tiến mới trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, góp phần

điều tiết vốn của các tổ chức tín dụng.

Năm 2004-2007, để đối phó với tình trạng lạm phát gia tăng trong bối cảnh

dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, NHNN đã thực hiện việc nâng biên độ tỷ

giá, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, kiểm soát dòng vốn từ hệ thống ngân hàng sang thị

trường chứng khoán

- 55-

Bên cạnh đó, NHNN cũng tiến hành thực hiện các biện pháp phòng ngừa

khủng hoảng ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống, bằng việc tăng cường công tác

thanh tra đối với các NHTM, thực hiện các giải pháp cơ cấu lại đối với NHTM cổ

phần hoạt động không hiệu quả, thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp nhất đối với một

số NHTM, yêu cầu tăng vốn điều lệ, áp dụng các biện pháp ngăn ngừa nợ xấu phát

sinh, thực hiện cổ phần hóa các NHTM nhà nước. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng

kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, đảm bảo tốc độ tăng trưởng phù hợp với tốc

độ tăng trưởng huy động vốn thực tế.

3.4.4 Thực trạng xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân

hàng Việt Nam và sự cần thiết của việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng

hoảng

Trong phạm vi bài nghiên cứu, tôi cho rằng tại Việt Nam chưa có nhiều mô

hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng nào được áp dụng một cách chính thức,

cũng như có rất ít các cá nhân hoặc tổ chức nào chịu trách nhiệm nghiên cứu và xây

dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam. Các bài nghiên

cứu này phần lớn chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và phân tích khủng hoảng tiền tệ

dựa trên việc xem xét các mô hình của các nước, chưa thật sự đi sâu vào việc tìm

hiểu các nhân tố nào thật sự tác động đến khủng hoảng ngân hàng để qua đó xây

dựng mô hình cảnh sớm khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên, sau các cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ tại các nước trong khu vực trong thời gian gần đây, công tác

dự báo thực sự được chú trọng và cho đến nay công tác này ngày càng được hoàn

thiện và góp phần bảo đảm sự ổn định tiền tệ quốc gia và sự an toàn của hệ thống tài

chính.

Ngoài ra, chi phí ngân sách của các nước dành để giải quyết những cuộc

khủng hoảng này khá cao (Xem hình). Chi phí cho các cuộc khủng hoảng ngân hàng

và trợ giúp để phục hồi hoạt động ngân hàng liên quan đến các cuộc khủng hoảng ở

mức trung bình chiếm khoảng 13,3% GDP và mức cao lên tới 55,1% GDP. Cụ thể:

2-3% GDP của Mỹ trong trường hợp khủng hoảng của các tổ chức tiết kiệm và cho

- 56-

vay trong giai đoạn 1980-1990; 2-8% GDP đối với các nước Bắc Âu; 17% GDP cho

cuộc khủng hoảng của Tây Ban Nha (1977-1985); trên 25% GDP cho cuộc khủng

hoảng ngân hàng Argentina. Cuộc khủng hoảng Đông Á 1997-1999 đã mất khoản

phí tổn tài chính rất lớn để cải tổ lại hệ thống ngân hàng: Hàn Quốc khoảng 15-16%

GDP, Thái Lan được ước tính khoảng 32% GDP; Indonesia khoảng 48-50% GDP.

Hình 2: Tính nghiêm trọng của khủng hoảng ngân hàng

Với một đất nước đang phát triển như Việt Nam, việc xây dựng mô hình cảnh

báo sớm các khả năng xấu có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế cũng như đến ngành

ngân hàng là thật sự cần thiết, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn

mở cửa, có nhiều cơ hội để hội nhập nhưng đồng thời với đó cũng là những rủi ro từ

các tác động của môi trường kinh tế quốc tế. Như đã đề cập ở trên, chi phí để chính

phủ của những nước chịu tác động của khủng hoảng ngân hàng là rất lớn và khó mà

có thể đo lường được chính xác tổn thất mà các quốc gia này chi trả để khôi phục

nền kinh tế. Kinh tế Việt Nam trong những năm trở lại đây, nhất là ngành ngân hàng

tuy chưa thật sự xảy ra cuộc khủng hoảng chính thức nào, nhưng vẫn không tránh

khỏi chịu tác động tiêu cực từ những khó khăn của kinh tế thế giới, khiến hệ thống

- 57-

ngân hàng gặp nhiều khó khăn và việc tái cơ cấu hệ thống là nhiệm vụ rất được

quan tâm của các cấp quản lý.

Bên cạnh đó, nếu mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng thật sự hoạt động có

hiệu quả sẽ góp phần giúp các nhà hoạch định chính đưa ra các biện pháp đối phó

kịp thời, hạn chế các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Do đó, việc xây dựng mô

hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam, dựa trên kinh nghiệm của

các nước trên thế giới, là việc làm cần thiết.

3.4.5 Xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân hàng tại Việt

Nam

Qua việc nghiên cứu việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng

ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển, qua đó, xây dựng được mô hình cảnh

báo tối ưu tại các quốc gia này, bên cạnh đó là việc nghiên cứu thực tế tại Thái Lan

và Uruguay trong chương tiếp theo đã giúp tôi có cái nhìn khái quát trong việc vận

dụng mô hình tối ưu đối với trường hợp Việt Nam,

Việt Nam là quốc gia thuộc nhóm các nước có nền kinh tế đang phát triển, có

các điều kiện phát triển kinh tế được xem là tương đồng với các quốc gia được xếp

trong bảng nghiên cứu trên, do đó việc áp dụng phương pháp nghiên cứu theo mô

hình logit phù hợp trong việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng ngân

hàng tại Việt Nam. Hơn nữa, với quốc gia chưa chính thức xác nhận bất kỳ một

cuộc khủng hoảng ngân hàng nào như Việt Nam, sẽ thuận lợi hơn nếu vận dụng mô

hình logit nhằm kiểm định xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam

trong các năm đã qua, qua đó để kiểm tra tính xác thực của mô hình nghiên cứu đạt

được ở trên tại các nước đang phát triển, hướng đến việc áp dụng mô hình này cho

trường hợp của Việt Nam

Từ kết quả hồi quy các nhân tố tác động (hay ảnh hưởng) đến xác suất xảy ra

khủng hoảng ngân hàng của các nước đang phát triển, kết hợp với đó là việc áp

dụng nghiên cứu thực nghiệm mô hình nghiên cứu vào 2 trường hợp là Thái Lan và

Uruguay, tác giả đề xuất mô hình kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất xảy

- 58-

ra khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2011, Từ

phương trình (2.8)

Trong phần này tôi sẽ sử dụng mô hình nghiên cứu tại các quốc gia đang

phát triển, qua đó, kiểm định sự tác động của các nhân tố này đến khả năng khủng

hoảng ngân hàng tại Việt Nam, đồng thời kiểm tra khả năng giải thích của mô hình

trong điều kiện kinh tế Việt Nam.

Như đã đề cập ở trên, chỉ cần NHNN thực hiện các động thái sáp nhập,

mua lại, hợp nhất một số NHTM cổ phần, thu hồi giấy phép hoạt động, áp dụng biện

pháp kiểm soát đặc biệt, thay đổi nhân sự, tăng vốn điều lệ…Trong trường hợp đó,

nền kinh tế của nước đó nói chung và ngành ngân hàng nói riêng được xem như

đang rơi vào khủng hoảng. Các chuyên gia nghiên cứu nền kinh tế Việt Nam vẫn

đang có những ý kiến trái chiều về việc ngành ngân hàng Việt Nam có thực sự rơi

vào khủng hoảng trong những năm 2008 hay không? Tôi sẽ xem xét điều này bằng

mô hình nghiên cứu

Do gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các số liệu phân tích của Việt

Nam, nên đề tài chỉ giới hạn các số liệu từ các năm 1996 đến năm 2011. Nguồn dữ

liệu của các biến giải thích có liên quan biến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (growth), biến

lãi suất thực (real interest), biến tỷ giá hối đoái (Ex), biến lạm phát (inflation) và

biến bảo hiểm tiền gửi (deposit) được tổng hợp từ dữ liệu của World-development-

indicators (WDI), cơ sở dữ liệu của ngân hàng thế giới (WB) (từ

http://data.worldbank.org/country/vietnam). Bảng tổng hợp số liệu được trình bày

trong bảng sau:

- 59-

Năm

Biến lãi suất thực

hệ số e mũ

Biến lạm phát

Xác suất khủng hoảng

Tỷ lệ biến đổi tỷ giá hối đoái

Biến bảo hiểm tiền gửi

Biến tốc độ tăng trưởng GDP

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011

Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam

0 0.17237 0.147027 0 0.21969 0.180121 0 0.35533 0.262173 0.2485 0.199037 0 1 0.09804 0.089285 1 0.30241 0.232193 1 0.30339 0.232769 0.28 0.218749 1 1 0.27848 0.217821 1 0.27021 0.212727 1 0.36345 0.266566 1 0.31502 0.239553 1 0.76069 0.432041 1 0.51662 0.340637 1 0.1592 0.137337 1 0.50981 0.337665

10.49086 -13% 7.335317 -29% 5.110482 -17% 6.587526 42% 6.905767 2% 7.328883 3% 4.928542 4% 2.618547 6% 1.427171 8% 2.621596 -3% 3.645095 3% 2.71677 -25% -5.20092 -16% 3.810574 27% 1.139973 -3.22281 -12%

5.675 6% 3.20953 7.2662 14% 4.1171 5% -1.7103 2% 4% -0.4315 4% 3.83083 2% 3.21989 2% 7.75913 1% 8.28142 1% 7.38579 1% 8.30379 1% 23.1163 5% 7.05456 8.8616 9% 10% 18.6775 Bảng 8: Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến xác suất khủng

hoảng ngân hàng tại Việt Nam (giai đoạn 1996-2011)

Trong giai đoạn những năm 1997-1998, khu vực Châu Á đối mặt với cuộc

khủng hoảng tài chính tiền tệ, và các quốc gia trong khu vực Đông Nam chịu ảnh

hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nền kinh

tế Việt Nam chưa thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới, qua đó ít chịu ảnh

hưởng từ các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, kết quả của mô hình 2 trong

giai đoạn cũng thể hiện điều này (xác suất chỉ vào khoảng <20%)

Kết quả thu được từ mô hình nghiên cứu cho thấy, trong các năm 2008-2009,

xác suất để ngân hàng Việt Nam rơi vào khủng hoảng là khá cao (>43%), nhưng vẫn

chưa thực sự đạt đến mức báo động, ở tỷ lệ này chỉ có thể cho thấy dường như Việt

Nam chỉ mới ở mức nguy cơ có thể xảy ra khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính,

ngân hàng (rất may là điều này đã không xảy ra). Như vậy, qua các kiểm định thực

tế của tác giả, các nhân tố kỳ vọng về cơ bản rất có ý nghĩa, có thể áp dụng vào tình

hỉnh thực tế tại Việt Nam.

- 60-

0.45

0.4

0.35

0.3

0.25

0.2

Xác suất xảy ra khủng hoảng

0.15

0.1

0.05

0

1996

98

2000

02

04

06

08

2010

Nguồn: từ nguồn số liệu tổng hợp của tác giả

Biểu đồ 2: Kiểm định các nhân tố tác động đến khả năng khủng hoảng

ngân hàng tại Việt Nam (giai đoạn 1996-2010)

Tóm lại, trên cơ sở phân tích kết quả kiểm định mô hỉnh cảnh báo sớm khủng

hoảng theo mô hình logit tại Việt Nam và các lý thuyết vể mô hình cảnh báo sớm từ

các nghiên cứu khác trước đây, cho thấy các vấn đề khó khăn mà nền kinh tế Việt

Nam đang phải đối mặt: Rủi ro xảy ra khủng hoảng ngân hàng càng cao khi mức độ

tăng trưởng GDP càng thấp, đi kèm với lãi suất thực trong nước, lạm phát, tỷ lệ thay

đổi của tỷ giá hối đoái và chính sách bảo hiểm tiền gửi của ngân hàng. Bài viết chỉ

tập trung nghiên cứu trên phạm vi vĩ mô, tìm hiểu các nhân tố chính có tác động đến

khả năng xảy ra khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Chưa đi

sâu vào việc phân tích tìm hiểu các nguyên nhân tìm ẩn bên trong của từng hệ thống

ngân hàng của từng quốc gia, từ đây mở ra hướng nghiên cứu cho các nghiên cứu

tiếp theo về các vấn để của khủng hoảng ngân hàng.

- 61-

CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1 Kết luận

Từ những năm 1980, nhu cầu xác định các nhân tố tác động đến khủng hoảng

ngân hàng đã trở nên ngày càng cần thiết. những tác động tiêu cực đến hệ thống

ngân hàng xuất hiện thường xuyên hơn trên thế giới và những tác động của nó ngày

càng lan truyền sâu rộng ra nhiều quốc gia, do mối quan hệ ngày càng sâu rộng giữa

các nước, đi kèm với đó là những tổn thất khó có thể đo lường được để chính phù

một nước có thể vực dậy nền kinh tế của nước mình. Các nghiên cứu khác nhau về

vấn đề khủng hoảng ngân hàng đều cho rằng mặc dù các cuộc khủng hoảng ngân

hàng có đặc điểm khác nhau tại mỗi nước, và mỗi khu vực, tuy nhiên trong số đó có

những nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích nguyên nhân phía sau

của các cuộc khủng hoảng. Trong bài nghiên cứu này, việc áp dụng mô hình logit đa

biến góp phần vào việc xác định các nhân tố chính này.

Các nhà kinh tế cho rằng, dường như khủng hoảng ngân hàng xảy ra trong

bối cảnh các điều kiện tế vĩ mô chịu tác động tiêu cực, đặc biệt khi nền kinh tế đó có

tốc độ tăng trưởng GDP thấp. Kết quả hồi quy của bài viết cũng chỉ ra rằng tỷ lệ lạm

phát cao cũng góp phần làm tăng nguy cơ khủng hoảng của ngân hàng. Vì vậy,

chính sách tiền tệ chặt chẽ là khá cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát. Tuy

nhiên, việc áp dụng chính sách ổn định lạm phát lại có thể gây ra sự gia tăng biến

động về lãi suất thực. Bằng chứng thực nghiệm chương trước cho biết rằng nguy cơ

gia tăng các vấn đề của ngành ngân hàng có thể là kết quả của lãi suất thực tế cao.

Do đó, chương trình kiểm soát lạm phát cần phải được xem xét một cách cẩn thận,

Theo kết quả của mô hình nghiên cứu, việc phá giá mạnh của tỷ giá hối đoái

cũng có liên quan đến biến động ngân hàng. Trong trường hợp này, rủi ro tỷ giá sẽ

tăng nghĩa vụ nợ của ngân hàng với người gửi. Một phát hiện mới trong nghiên cứu

này là việc đánh giá tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái đến nguy cơ khủng hoảng

ngân hàng trong mô hình là dường như không phù hợp. Bằng chứng thống kê mô tả

cho thấy mặc dù rủi ro tỷ giá được công nhận là một trong những yếu tố quan trọng

gây bất ổn trong hệ thống ngân hàng Thái Lan, Tuy nhiên , trong nghiên cứu thực tế

- 62-

về trường hợp này thì gần như ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái trên cuộc khủng hoảng

ngân hàng được phản ánh một cách ít chính xác hơn. Nói cách khác, mô hình nghiên

cứu có xu hướng bỏ qua ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái.

Không giống với nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998a), mô hình trong bài viết cho thấy ít có cơ sở để có thể kết luận

cho việc có tác động của việc thực hiện bảo hiểm ngân hàng đến khả năng cảnh báo

sớm khủng hoảng. Điều này có thể giải thích thông qua cách tiếp cận vấn đề khác

nhau bằng các phương pháp nghiên cứu khác nhau, sẽ có những kết luận trái chiều

nhau là vấn đề có thể hiểu được. Theo hai tác giả này thì khủng hoảng ngân hàng lại

dường như có nhiều khả năng xảy ra tại các quốc gia thực hiện chính sách bảo hiểm

tiền gửi, trong khi đó, trong bài nghiên cứu của mình các tác giả Hagen và Ho

(2003) lại không tìm thấy bất bằng chứng nào cho thấy tác động của nhân tố này đối

với vấn đề cần nghiên cứu. Sự khác biệt này không chỉ đến từ việc thực hiện các

phương pháp tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu của họ, nhưng nó cũng thuộc khá

nhiều vào các yếu tố quan trọng mà họ sử dụng. Ví dụ, Demirguc-Kunt và

Detragrache (1998a) sử dụng biến giả và chất lượng thực thi pháp luật để kiểm tra

hiệu quả của chương trình bảo hiểm tiền gửi, nhưng Hagen và Hồ (2003) chỉ sử

dụng biến giả, đó là sự khác biệt giữa hai bài nghiên cứu. Xa hơn, nhiều chuyên gia

nghiên cứu kinh tế cũng tin rằng biến bảo hiểm tiền gửi thật sự có rất ít ý nghĩa

trong việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến khủng hoảng của hệ thống ngân

hàng.

Một nhân tố quan trọng khác được dự kiến sẽ có “góp phần” vào những biến

động của ngành ngân hàng là việc tự do hóa tài chính. Theo lý thuyết về khủng

hoảng ngân hàng đã chỉ ra rằng tác động từ việc tự do hóa tài chính làm gia tăng

mạnh của lãi suất thực và tín dụng bùng nổ trong nước. Trong bài nghiên cứu của

mình, cả lãi suất thực và bùng nổ về tín dụng đều được sử dụng để tìm hiểu mối

quan hệ giữa việc thực hiện tự do hóa tài chính với nguy cơ xảy ra khủng hoảng.

Kết quả hồi quy của tôi chỉ ra rằng (không phải là rất mạnh mẽ) hệ thống tài chính

tự do hóa có thể tạo ra rủi ro cho thị trường tín dụng.

- 63-

Qua trường hợp của Thái Lan, cho thấy việc sử dụng tỷ lệ thay đổi của tỷ giá

hối đoái là kỹ thuật chưa phù hợp để tiếp cận vấn đề ngành ngân hàng, đặc biệt là

liên quan đến khả năng dự báo của mô hình. Mô hình trong bài viết này có xu

hướng bỏ qua các cuộc khủng hoảng ngân hàng có nguồn gốc từ sự biến động của tỷ

giá. Do đó, thực hiện đo lường bằng giá trị tuyệt đối với nhân tố tỷ giá là giải pháp

thay thế rõ ràng là tốt. Chắc chắn, đây không phải là phát hiện tuyệt vời, nhưng rất

đáng để lưu ý trong nghiên cứu tiếp theo.

Nhìn chung, có một số hạn chế trong nghiên cứu của bài viết. Thứ nhất, định

nghĩa của đề tài về khủng hoảng có thể là không chính xác. Trong nghiên cứu của

Hagen và Hồ (2003) cho thấy định nghĩa như vậy có thể dẫn đến việc xác định cuộc

khủng hoảng quá muộn vì cuộc khủng hoảng có thể bắt đầu trước khi nó tác động

đến hệ thống ngân hàng. Thứ hai, khai thác dữ liệu hàng năm để giải thích cuộc

khủng hoảng ngân hàng rõ ràng là một hạn chế khi chứng cứ ở Thái Lan và

Uruguay trong thời kỳ khủng hoảng chỉ ra rằng cuộc khủng hoảng có thể phải được

nghiên cứu thông qua số liệu tháng.

4.2 Một số kiến nghị

Qua tìm hiểu của tác giả, đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một định hướng

cụ thề nào đối với việc xây dựng mô hình cảnh báo sớm cho ngành ngân hàng. Hiện

nay, ngành ngân hàng đang thực hiện việc tái cấu trúc lại hệ thống với mục tiêu đến

năm 2015 sẽ tập trung vào việc nâng cao các hiệu quả an toàn, tuân thủ các chuẩn

mực quốc tế, tạo nên các ngân hàng có tiềm lực thực sự, đủ khả năng thực hiện tốt

các nhiệm vụ của mình đối với nền kinh tế, có khả năng cạnh tranh với các ngân

hàng khác trong khu vực…Để thực hiện được các mục tiêu trên, trước hết chính phủ

cần đảm bảo cho hệ thống này tránh được các tác động tiêu cực bằng việc định

hướng xây dựng một mô hình cảnh sớm các rủi ro cho hệ thống ngân hàng, góp

phần thúc đẩy ngành ngân hàng phát triển lành mạnh và bền vững.

Chính phủ cần thống nhất các quy định đối với các ngân hàng: hiện nay trong

hệ thống ngân hàng của Việt Nam đang áp dụng song song hai hệ thống kế toán.

- 64-

Mặc dù đã có những khuyến khích sử dụng chung theo chuẩn mực kế toán quốc tế,

nhưng vẫn còn khá nhiều ngân hàng trong nước sử dụng các tiêu chuẩn kế toán của

Việt Nam trong việc tính toán và công bố các chỉ số, điều này dẫn đến việc sai lệch

trong các thông tin và số liệu khi thực hiện công bố, gây khó khăn trong công tác

nghiên cứu và quản lý chung của ngành ngân hàng.

4.2.1 Kiến nghị liên quan đến chính sách kiểm soát cung tiền M2:

Để kiểm soát tốt được yếu tố này thì có thề sử dụng công cụ: quy định tỷ lệ

dự trữ bắt buộc một cách hợp lý, khi cần thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt giảm

lượng cung tiền, NHTW tăng dự trữ bắt buộc và ngược lại. Chính sách này cần áp

dụng linh hoạt tùy theo yêu cầu nền kinh tế. Một cách khác để kiểm soát cung tiền

M2 là thực hiện quy định lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn

4.2.2 Kiến nghị liên quan đến chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG)

Hoạt động BHTG góp phần củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ

thống ngân hàng, có thể ngăn ngừa và hạn chế được các cuộc rút tiền ồ ạt gây nên

hậu quả rất nghiêm trọng đối với bản thân các ngân hàng xảy ra đột biến rút tiền gửi

nói riêng và cả hệ thống nói chung. Hoạt động BHTG cũng giúp các ngân hàng hoạt

động yếu kém, không thể tiếp tục duy trì hoạt động có thể rút khỏi lĩnh vực kinh

doanh ngân hàng một cách có trật tự, không ảnh hưởng đến các ngân hàng khác và

toàn hệ thống. Một hệ thống BHTG được tổ chức theo hình thức đóng góp sau, như

tổ chức BHTG cho các ngân hàng tư nhân ở Đức, khuyến khích các ngân hàng tham

gia bảo hiểm nỗ lực giám sát hoạt động kinh doanh của nhau để tránh tình trạng

ngân hàng hoạt động an toàn đóng góp để hỗ trợ ngân hàng có hoạt động rủi ro cao.

Tuy nhiên, khi tiền gửi được bảo hiểm thì người gửi tiền sẽ không mặn mà với việc

giám sát hoạt động của các ngân hàng, ngân hàng có thể cho vay mạo hiểm hơn (rủi

ro đạo đức), ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Để ngăn

chặn hiện tượng rủi ro đạo đức, cần xây dựng chính sách BHTG theo cơ chế đồng

bảo hiểm (tổ chức BHTG và người gửi tiền cùng chia sẻ rủi ro). Đồng thời, các tổ

- 65-

chức bảo hiểm tiền gửi cần tiến hành các hoạt động giám sát chặt chẽ đối với hoạt

động ngân hàng và tuân thủ các nguyên tắc giám sát.

Để đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững thì sự ổn định của hệ

thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng là một trong những điều

kiện tiên quyết. Với mức độ đặc biệt nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn,

KHNH là vấn đề nhạy cảm nên cần được quan tâm một cách đặc biệt để đảm bảo sự

an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng. Các biện pháp ngăn chặn KHNH xảy ra

cần được thực hiện một cách đầy đủ và toàn diện, giúp phòng tránh những tổn thất

đối với hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế của một quốc gia.

4.2.3 Kiến nghị liên quan đến chính sách tỷ giá

Trong thời gian qua, cơ chế tỷ giá của Việt Nam về cơ bản là neo tỷ giá

(VND/USD), mặc dù có không ít lần điều chỉnh tỷ giá tham chiếu và biên độ giao

động. Tuy nhiên, cách thức điều hành (phá giá danh nghĩa) là một nhân tố làm tăng

lạm phát, trong khi không giúp kiềm chế nhập siêu, và VNĐ vẫn chịu nhiều sức ép

mất giá. Trong thời gian tới, Việt Nam chưa thể theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi. Một

chế độ tỷ giá thích hợp phải đảm bảo điều kiện: Giúp duy trì khả năng cạnh tranh

của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Như đã phân tích, phá giá tỷ giá

danh nghĩa không giúp thúc đẩy xuất khẩu và giảm nhập khẩu do phá giá danh

nghĩa không đi kèm với mất giá tỷ giá thực. Ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì

khả năng cạnh tranh xuất khẩu thông qua điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa là việc ổn

định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát xuống mức đủ thấp (khoảng trên dưới 5%/năm).

Điều này chỉ thực hiện được với một chính sách vĩ mô (tiền tệ, tài khóa) chặt chẽ.

Nói cách khác, vấn đề chính không nằm ở chỗ nên thực hiện phá giá tỷ giá danh

nghĩa VND/USD hay không, mà lại là đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh

để việc phá giá tỷ giá danh nghĩa (khi cần) cũng đi kèm với việc phá giá tỷ giá thực.

NHNN có thể chủ động để dải tỷ giá dao động đủ rộng, có thể 3%-5%. Ngược lại,

NHNN cũng có thể lựa chọn dải tỷ giá hẹp hơn, nhưng khi ấy NHNN phải ứng xử

- 66-

linh hoạt hơn với những diễn biến trên thị trường ngoại hối. hoạt động của hệ thống

ngân hàng nói riêng.

Theo một cách gián tiếp hơn, Việt Nam cần sử dụng có hiệu quả công cụ lãi

suất để tác động đến tỷ giá. Quá trình tự do hóa lãi suất cần tiếp tục được thực hiện,

để lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa

cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những

quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. Các công cụ hoán đổi lãi suất và

tiền tệ cũng cần được hoàn thiện, nhằm cung cấp thêm lựa chọn cho các tác nhân

trên thị trường phù hợp với mục đích của họ (đầu cơ, phòng ngừa rủi ro) và tạo thêm

nền tảng thị trường cho các diễn biến lãi suất. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi một cách

tiếp cận hệ thống hơn trong việc điều hành chính sách tiền tệ nói chung.

Bên cạnh đó, với kết quả nghiên cứu, nhân tố lãi suất là một trong những chỉ

tiêu có tác động đến xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng của một quốc gia, do

đó, NHNN cần tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, nhằm thực hiện có

hiệu quả các mục tiêu của chính sách tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định

kinh tế chính trị, xã hội, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp.

Ở cấp độ rộng hơn, Việt Nam cần chủ động và tích cực hợp tác với các nước

trong khu vực nhằm ứng phó với những rủi ro chung đối với an ninh tài chính và

tiền tệ ở cấp độ khu vực. Rõ ràng, cùng với quá trình hội nhập ngày một sâu rộng

hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đang và sẽ chịu ảnh hưởng lây

lan lớn hơn một khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ xảy ra ở các nước trong khu vực.

Tăng cường hợp tác nhằm ứng phó với rủi ro an ninh và tài chính ở cấp độ khu vực

trở nên ngày một cấp thiết. Trong quá trình hợp tác ấy, Việt Nam cần học hỏi kinh

nghiệm từ các nước trong khu vực, nhằm chủ động hơn trong quá trình phòng ngừa

rủi ro tài chính - tiền tệ.

Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới cho thấy khi quá trình toàn cầu hóa và

dòng chu chuyển vốn trên thị trường toàn cầu tăng lên, sự yếu kém trong công tác

điều hành chính sách kinh tế vĩ mô đã đặt nền kinh tế thế giới nói chung và các nước

nói riêng đứng trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Do đó, việc xây dựng các mô

- 67-

hình cảnh báo sớm và dự báo về nguy cơ trong các hoạt động của ngành ngân hàng

và kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực là cần thiết và cần được

nghiên cứu một cách toàn diện để giúp Việt Nam tránh được các cuộc khủng hoảng

trong tương lai.

- 68-

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Báo điện tử, Đảng Công Sản Việt Nam, “Nhận diện khủng hoảng ngân

=34015

hàng”, tại http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?d=30363&cn_id

2. Lê Thị Nguyệt Anh – Nguyễn Tuấn Anh, “Khủng hoảng ngân hàng và

chính sách bảo hiểm tiền gửi”, báo điện tử luật tài chính

http://luattaichinh.wordpress.com/2009/04/28/kh%E1%BB%A7ngho%E1%BA%A3n

g-ngn-hng-v-chnh-sch-b%E1%BA%A3o-hi%E1%BB%83m-ti%E1%BB%81ng%

E1%BB%ADi/

3. Nguyễn Kim Lân, “mô hình cảnh báo sớm và chính sách hướng tới ổn định

kinh tế vi mô”

4. Nguyễn Thị Kim Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ Ngân hàng

Nhà nước, “đánh giá, dự báo khủng hoảng tiền tệ - ngân hàng, những biện pháp phòng

ngừa”, tại Diễn đàn kinh tế và tài chính

5.Trang web dữ liệu của Ngân hàng thế giới (WB):

http://data.worldbank.org/country/vietnam

6. Vũ Thị Kim Thanh, “Đánh giá và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng

tiền tệ và hệ thống ngân hàng”, diễn đàn kinh tế và tài chính họp lần thứ 7 năm 2008

Tiếng Anh

7. Caprio, G. & Klingebiel, D., 1996b, Bank Insolvency: Bad Luck, Bad

Policy, or Bad Banking?. [online]. Tại www.siteresources.worldbank.org/DEC/

Resources/187

8. Caprio, G., Klingebiel, D., Laeven, L., and Noguera, G., 2008, Systemic

Banking Crises: A New Database. IMF Working Paper.

9. Demirgüç-Kunt, A. & Detragiache, E., 1998, The Determinants of

Banking Crises in Developing and Developed Countries, IMF staff paper, 45, pp. 81-

109.

- 69-

10. Demirgüç-Kunt, A. & Detragiache, E., 1998, Financial Liberalization and

Financial Fragility, IMF Working Paper,Trang.1-36,1998.Tại

www.worldbank.org/html/rad/abcde/demirguc.pdf [accessed june 17 2009].

11. Diamond, D.,W., & Dybvig, P., H., 1983, Bank Run, Deposit insurance,

and Liquidity, Journal of Political Economy, University of Chicago Press, vol. 91(3),

pages 401-19. Tại www.minneapolisfed.org/Research/qr/qr2412.pdf, [accessed May

20 2009]

12. Diamond D.,W, 2007, Banks and liquidity creation: a simple exposition of

the Diamond-Dybvig model, Economic Quarterly - Federal Reserve Bank of

Richmond.Available at www.rich.frb.org/publications/research/economic.../

diamond.pdf, [accessed june 30 2009].

13. Dominic Barton, Roberto Neweill, và Gregory Wilson, “Hệ thống cảnh

bảo sớm các khủng hoảng tài chính”, Trích từ cuốn sách "Các thị trường nguy hiểm,

cung cấp các chỉ số nhằm phát hiện các cơn bão sắp xảy ra"

Thu Hà (biên dịch)

14. Ergungor, O., E., & Thomson, J.,B., 2005, Systemic Banking Crises,

Policies discussion papers of Federal Reserve Bank Of Cleveland. Available at

www.clevelandfed.org/research/POLICYDIS/No9Jan05.pdf, accessed on 04 Aug,

2009.

15. Gujarati, D., N., 2003, Basic Econometrics, 4th ed, United States: Gary

Burke

16. Hagen, J., V., & Ho,T., 2003, Money Market Pressure and the

Determinants of Banking Crises, Journal of Money, Credit and Banking, Blackwell

Publishing, vol. 39(5), pages 1037-1066. Tại www.wiwi.uni-

marburg.de/ZentrEinr/Dekanat/ fk_paper_hagen.pdf.

17. Herring, R., J., & Wachter, S., 2002. Bubbles in Real Estate Markets,

Zell/Lurie Real Estate Center working papers No 402.. Available at

www.realestate.wharton.upenn.edu/newsletter/bubbles.pdf. [accessed July 26 2009].

18. Kane, E., J., 1989, The S&L Insurance Mess: How Did it Happen?

Washington, D.C.: Urban Institute Press.

- 70-

PHỤ LỤC

CÁC QUỐC GIA NGHIÊN CỨU

STT Quốc gia STT Quốc gia

1 Albania 41 Latvia

2 Bangladesh 42 Lesotho

3 Barbados 43 Libya

4 Belize 44 Malawi

5 Benin 45 Mali

6 Bhutan 46 Mauritania

7 Botswana 47 Mauritius

8 Burkina Faso 48 Mexico

9 Burundi 49 Moldova

10 Cambodia 50 Mongolia

11 Cameroon 51 Morocco

12 Cape Verde 52 Mozambique

13 Central African Rep. 53 Myanmar

14 Chad 54 Niger

15 Chile 55 Nigeria

16 Colombia 56 Oman

17 Congo, Republic of 57 Pakistan

18 Costa Rica 58 Panama

19 Côte d'Ivoire 59 Papua New Guinea

20 Cyprus 60 Paraguay

21 Dominican Republic 61 Peru

- 71-

62 Philippines 22 Egypt

23 Equatorial Guinea 63 Rwanda

64 Saudi Arabia 24 Estonia

65 Senegal 25 Ethiopia

66 Seychelles 26 Fiji

67 Sierra Leone 27 Ghana

68 Solomon 28 Grenada

69 Sri Lanka 29 Guatemala

70 Sudan 30 Guinea-Bissau

71 Swaziland 31 Guyana

72 Thailand 32 Honduras

73 Togo 33 Hk

74 Trinidad and Tobago 34 India

75 Tunisia 35 Indonesia

76 Uganda 36 Israel

77 Uruguay 37 Jordan

38 Kazakhstan 78 Venezuela, Rep. Bol.

39 Kenya 79 Yemen, Republic of

40 Kuwait 80 Zambia

41 Lao People's Dem.Rep

năm

Biến khủng hoảng

Biến bảo hiểm tiền gửi

Biến Lạm phát

Biến tỷ giá hối đoái hối đoái

Biến lãi suất thực

Biến tốc độ tăng trưởng GDP

Quốc gia URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY URUGUAY

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

0 0 0 0 0 0 1 0

0 0 0 0 0 0 1 1

28.34 19.82 10.81 5.66 4.76 4.36 13.97 19.38

8.71 10.04 10.82 11.62 12.52 14.77 27.2 29.3

hệ số e mũ 4.8 0.244749 4.54 0.193681 -2.98 0.210007 -1.46 0.196656 -3.38 0.195736 -10.66 0.255993 1.87 0.825056 0.36345

10.38

14.43 9.57 11.76 15.49 13.26 17.6 48.58 10.69

THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND THAILAND

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

0 1 0 0 0 0 0 0

0 1 1 1 1 1 1 1

5.83 5.6 8.07 0.3 1.57 1.64 0.62 1.8

25.61 47.25 36.69 37.47 43.27 44.22 43.15 39.59

-1.43 0.161834 -10.73 0.466204 4.07 0.314697 4.53 0.267919 0.27691 2.17 5.43 0.257435 7.57 0.240712 7.11 0.242108

4.5 6.5 4.5 4 1 1.75 2.25 0.75

Xác suất khủng hoảng

0.196625 0.162256 0.173558 0.164338 0.163695 0.203817 0.452072 0.266567

0.139292 0.317967 0.239369 0.211306 0.216859 0.20473 0.194011 0.194917