BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH ----------------
VŨ THỊ HÀ THƯƠNG
KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH ----------------
VŨ THỊ HÀ THƯƠNG
KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60340201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TẤN HOÀNG
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả tại
Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của
TS.Nguyễn Tấn Hoàng. Nội dung và các thông tin của bài luận văn đều là kết
quả từ quá trình nghiên cứu thực tế của tôi. Trong đó, các tài liệu liên quan và
các nội dung tham khảo được sử dụng trong bài luận văn là hoàn toàn đúng theo
nguồn trích dẫn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 12 năm 2013
Tác giả
Vũ Thị Hà Thương
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT .................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 2
1.1 Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ...................................................................... 3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 4
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
1.5 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
1.6 Cấu trúc của bài nghiên cứu .......................................................................... 5
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ............................................................ 6
2.1 Cơ sở lý thuyết thị trường hiệu quả ............................................................... 6
2.1.1 Tính ngẫu nhiên của thị trường và lý thuyết thị trường hiệu quả ........... 6
2.1.1.1 Tính ngẫu nhiên của thị trường ....................................................... 6
2.1.1.2 Lý thuyết thị trường hiệu quả ........................................................... 7
2.1.2 Các hình thái của thị trường hiệu quả ................................................... 10
2.1.2.1 Thị trường hiệu quả dạng yếu ........................................................ 10
2.1.2.2 Thị trường hiệu quả dạng trung bình............................................. 11
2.1.2.3 Thị trường hiệu quả dạng mạnh .................................................... 13
2.1.3 Các lý thuyết nền tảng cho lý thuyết thị trường hiệu quả ..................... 15
2.1.3.1 Mô hình Lợi suất kỳ vọng hay “Trò chơi công bằng” ................... 15
2.1.3.2 Mô hình martingale dưới ............................................................... 17
2.1.3.3 Mô hình “bước đi ngẫu nhiên” ...................................................... 17
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về kiểm định tính hiệu quả của thị
trường ..................................................................................................................... 18
2.2.1 Kiểm định hình thái dạng yếu ............................................................... 19
2.2.2 Kiểm định hình thái dạng trung bình .................................................... 23
2.2.3 Kiểm định tính hiệu quả dạng mạnh ..................................................... 28
2.3 Một số giải thích cho thị trường không hiệu quả ........................................ 30
2.4 Sơ lược về TTCK Việt Nam ........................................................................ 31
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ............................................................ 37
3.1 Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................... 37
3.1.1 Chọn mẫu và thu thập dữ liệu ............................................................... 37
3.1.2 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 39
3.2 Phương pháp kiểm định đoạn mạch (Runs Test) ........................................ 41
3.2.1 Đoạn mạch tăng hoặc giảm ................................................................... 42
3.2.2 Đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn .................................................. 44
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 47
4.1 Kết quả nghiên cứu ...................................................................................... 47
4.1.1 Đoạn mạch tăng hoặc giảm ................................................................... 47
4.1.2 Đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn .................................................. 49
4.1.2.1 Điểm chặn là giá trị lợi tức trung bình (Mean) ............................. 49
4.1.2.2 Điểm chặn là giá trị trung vị (median) .......................................... 51
4.2 Đánh giá tổng quát về kết quả nghiên cứu .................................................. 53
CHƯƠNG 5: CÁC BIỂU HIỆN THỊ TRƯỜNG KHÔNG HIỆU QUẢ TẠI
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT LÀM TĂNG TÍNH HIỆU
QUẢ CỦA THỊ TRƯỜNG ..................................................................................... 56
5.1 Các biểu hiện thị trường không hiệu quả tại Việt Nam ............................... 56
5.1.1 Chất lượng thông tin không đảm bảo và cơ sở hạ tầng hệ thống thông
tin chưa phát triển phù hợp với yêu cầu của thị trường ..................................... 56
5.1.2 Các nhà đầu tư chưa có đầy đủ kiến thức và còn mang tâm lý “bầy
đàn” .............................................................................................................. 57
5.1.3 Tính công khai và minh bạch trong công bố thông tin chưa đảm bảo
được quyền lợi công bằng cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ ........................................ 58
5.1.4 Quy mô thị trường nhỏ dẫn đến khả năng mất ổn định cao ................. 59
5.1.5 Hệ thống pháp lý chưa thực sự hoàn thiện ........................................... 59
5.2 Một số giải pháp đề xuất làm tăng tính hiệu quả của thị trường ................. 60
5.2.1 Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và mạng lưới thông tin ....................... 60
5.2.2 Áp dụng các biện pháp chặt chẽ nhằm tăng cường tính minh bạch và
công khai trên thị trường .................................................................................... 61
5.2.3 Đào tạo và khuyến khích các nhà đầu tư tìm hiểu, trau dồi trình độ,
nghiệp vụ về chứng khoán .................................................................................. 62
5.2.4 Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật quản lý TTCK Việt Nam ....... 62
5.2.5 Tăng quy mô thị trường ........................................................................ 64
5.2.6 Đa dạng hóa nhà đầu tư trên thị trường ................................................ 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 01: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới giá trị trung bình
(Mean) của chỉ số VN-Index
Phụ lục 02: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới giá trị trung bình
(Mean) của chỉ số HNX-Index
Phụ lục 03: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới giá trị trung vị
(Median) của chỉ số VN-Index
Phụ lục 04: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới giá trị trung vị
(Median) của chỉ số HNX-Index
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Diễn giải
TTCK Thị trường chứng khoán
DNNY Doanh nghiệp niêm yết
EMH Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis)
SGDCK TP.HCM Sở Giao dịch Chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh
SGDCK Hà Nội Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
VN-Index Chỉ số chứng khoán của thị trường Việt Nam
Chỉ số chứng khoán của thị trường Việt Nam HASTC-Index/HNX Index
IOSCO Tổ chức các Ủy ban Chứng khoán quốc tế
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2-1: Giá đóng cửa và khối lượng giao dịch của chỉ số VN-Index giai đoạn
từ năm 2000 đến 2013 ............................................................................................... 35
Biểu đồ 2-2: Giá đóng cửa và khối lượng giao dịch của chỉ số HNX-Index giai đoạn
từ năm 2005 đến 2013 ............................................................................................... 36
Bảng 2-1: Các tiêu chí cơ bản của TTCK Việt Nam sau 13 năm hoạt động ............ 34
Bảng 2-2: Các tiêu chí cơ bản của TTCK Việt Nam từ năm 2005 đến nửa đầu năm
2013 ........................................................................................................................... 35
Bảng 3-1: Tổng hợp giai đoạn khảo sát và số mẫu nghiên cứu ................................ 39
Bảng 3-2: Chuỗi VN-Index từ ngày 26/06/2003 đến 15/07/2003 ............................ 42
Bảng 4-1: Kết quả kiểm định đoạn mạch tăng hoặc giảm trong toàn thời gian khảo
sát .............................................................................................................................. 47
Bảng 4-2: Kết quả kiểm định đoạn mạch tăng hoặc giảm qua các giai đoạn khảo sát
................................................................................................................................... 48
Bảng 4-3: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn là giá trị trung
bình trong toàn thời gian khảo sát ............................................................................. 49
Bảng 4-4: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn là giá trị trung
bình qua các giai đoạn khảo sát ................................................................................ 50
Bảng 4-5: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn là giá trị trung vị
trong toàn thời gian khảo sát ..................................................................................... 51
Bảng 4-6: Kết quả kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn là giá trị trung vị
qua các giai đoạn khảo sát ......................................................................................... 52
1
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu nhằm mục đích kiểm định sự tồn tại của tính hiệu quả về mặt
thông tin trên TTCK Việt Nam. Tác giả sử dụng dữ liệu giá đóng cửa hàng ngày
của hai chỉ số chứng khoán trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2013 đối
với chỉ số VN-Index và từ năm 2005 đến năm 2013 đối với chỉ số HNX-Index với
phương pháp tiếp cận là mô hình kiểm định đoạn mạch (Runs Test), bao gồm kiểm
định đoạn mạch tăng giảm và kiểm định đoạn mạch trên dưới điểm chặn. Ngoài ra,
để có thể đưa ra kết luận chính xác hơn đối với giả thuyết thị trường hiệu quả tại
Việt Nam, tác giả cũng chia toàn bộ giai đoạn khảo sát thành ba giai đoạn nhỏ và
tiếp tục sử dụng các mô hình trên đối với từng giai đoạn nhằm đem lại cái nhìn toàn
diện về tính hiệu quả của thị trường qua mỗi giai đoạn hoạt động. Nhìn chung, kết
quả cho thấy TTCK Việt Nam không thể hiện tính hiệu quả dạng yếu trong suốt
thời gian khảo sát cũng như trong từng giai đoạn phát triển, bao gồm trước, trong và
sau khủng hoảng của thị trường. Bài nghiên cứu nhằm bổ sung vào các nghiên cứu
thực nghiệm về kiểm định tính hiệu quả của thị trường trên các TTCK mới nổi cũng
như đề xuất một số biện pháp căn cơ đối với TTCK Việt Nam nhằm xây dựng một
thị trường hiệu quả, lành mạnh và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Từ khóa: Thị trường hiệu quả, hiệu quả dạng yếu, Lý thuyết Bước đi ngẫu
nhiên, TTCK Việt Nam, Kiểm định đoạn mạch tăng hoặc giảm, Kiểm định đoạn
mạch trên hoặc dưới điểm chặn.
2
CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong những thập kỷ gần đây, vai trò quan trọng của hệ thống tài chính trong
quá trình phát triển kinh tế ngày càng được nhiều chuyên gia công nhận. Các nghiên
cứu đã và đang được thực hiện nhấn mạnh sự cần thiết của các tổ chức tài chính để
chuyển nguồn vốn từ tiền tiết kiệm nhàn rỗi để đầu tư sản xuất một cách hiệu quả.
Trong bối cảnh mạng lưới tài chính toàn cầu càng ngày càng tự do và kết nối chặt
chẽ, hiệu suất của hệ thống tài chính ở các quốc gia càng được quan tâm và cải
thiện. Dòng tài chính hỗ trợ cho các nước đang phát triển cũng đã tăng vọt khi các
nhà đầu tư năng động và nhạy bén trên khắp thế giới, vốn ưa thích các thị trường đa
dạng và sinh lợi cao dịch chuyển các nguồn lực của mình hướng vào những thị
trường mới nổi. Nơi thu hút các dòng vốn đổ vào mạnh mẽ chính là các TTCK –
một bộ phận quan trọng của thị trường vốn trong hệ thống tài chính quốc gia. Với
chức năng và vai trò thiết yếu của mình, mức độ hiệu quả của TTCK có khả năng
phản ánh tương đối sức khỏe của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
Khi xem xét giá cổ phiếu – mối quan tâm chung giữa các công ty niêm yết và
nhà đầu tư thì một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến giá cả cổ
phiếu chính là thông tin thị trường. Nhà đầu tư sử dụng thông tin sẵn có và áp dụng
các phương pháp, công cụ phân tích để có những đánh giá xác đáng về cổ phiếu trên
thị trường, từ đó đưa ra chiến lược đầu tư đúng đắn. Hầu hết những thay đổi, cập
nhật của thông tin đều dẫn đến ít nhiều thay đổi của giá trị cổ phiếu trên thị trường.
Một thị trường mà ở đó thông tin được phản ánh trung thực, nhanh chóng vào giá cả
và lợi suất của một cổ phiếu thì được xem là một thị trường hiệu quả về mặt thông
tin. Vì vậy, việc công bố thông tin phải chuẩn xác, công khai, minh bạch để đảm
bảo tính công bằng và hiệu quả của thị trường. Xét về bề mặt, một thông tin liên
quan đến doanh nghiệp mới thường có xu hướng kéo theo sự thay đổi giá cổ phiếu
3
niêm yết của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, mức độ truyền dẫn của thông tin vào giá
cổ phiếu đến mức nào và liệu TTCK Việt Nam có thật sự hiệu quả là câu hỏi nghiên
cứu cần được đặt ra và là lý do tác giả tác giả chọn đề tài “Kiểm định giả thuyết thị
trường hiệu quả tại Việt Nam”.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng (năm 2011), trong chủ trương phát triển đồng
bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường đã nêu rõ: “Hoàn thiện thể chế bảo
đảm phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch của thị
trường; chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường,
làm cho thị trường này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển”1. Nội dung “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020”
tại Đại hội XI, cũng khẳng định, cần: “Phát triển và kiểm soát có hiệu quả thị
trường chứng khoán”. Vì vậy, bài nghiên cứu này được thực hiện dựa vào lý thuyết
thị trường hiệu quả nhằm mục đích kiểm định sự tồn tại hình thái hiệu quả dạng yếu
trên TTCK Việt Nam. Từ đó, mong được góp phần nhỏ bé của đề tài vào việc làm
tăng tính minh bạch, phát triển và kiểm soát có hiệu quả TTCK Việt Nam.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Bài nghiên cứu nhằm mục tiêu kiểm định tính hiệu quả dạng yếu của TTCK
Việt Nam – một TTCK mới nổi ở Châu Á. Thông qua kết quả kiểm định, ta có thể
nhận diện được sự tồn tại của hình thái hiệu quả dạng yếu ở TTCK Việt Nam trong
suốt thời gian hoạt động cũng như ở những giai đoạn phát triển khác nhau, đặc biệt
là những thăng trầm từ trước và sau cuộc khủng hoảng năm 2007 – đầu năm 2009.
Từ đó, tác giả nhận diện các biểu hiện thị trường không hiệu quả tại Việt Nam nhằm
1 ĐCSVN: Báo cáo chính trị của BCH trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị quốc gia, HN 2011, Tr 71
đề xuất một số biện pháp gia tăng tính hiệu quả của TTCK Việt Nam.
4
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu nhằm giải quyết các câu hỏi sau:
- TTCK Việt Nam về tổng thể có phải là TTCK có hiệu quả về mặt thông tin
không?
- TTCK Việt Nam ở những giai đoạn phát triển khác nhau, chịu ảnh hưởng bởi
những biến động kinh tế tài chính thế giới có biểu hiện hình thái hiệu quả
nào không?
- Những biểu hiện nào cho thấy tính không hiệu quả về mặt thông tin của
TTCK Việt Nam?
- Làm cách nào để nâng cao tính hiệu quả của TTCK Việt Nam?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, tác giả kiểm tra tính hiệu quả dạng yếu của TTCK
Việt Nam bằng cách sử dụng chuỗi dữ liệu của các chỉ số VN-Index và HNX-Index
được xét tổng quát trong khoảng thời gian bắt đầu từ năm 2000 đối với chỉ số VN-
Index; từ năm 2005 đối với chỉ số HNX-Index và kết thúc vào năm 2013. Ngoài
việc xét tính hiệu quả trong một giai đoạn dài liên tục, tác giả cũng chia ra ba giai
đoạn nhỏ: giai đoạn 1 bắt đầu từ tháng 7/2000 đối với chỉ số VN-Index, từ tháng
7/2005 đối với chỉ số HNX-Index và kết thúc vào tháng 12/2006; giai đoạn 2 từ
tháng 1/2007 đến tháng 3/2009 và giai đoạn 3 từ tháng 4/2009 đến tháng 11/2013
để đánh giá cụ thể tính hiệu quả của thị trường ở những giai đoạn phát triển khác
nhau.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp kiểm định đoạn mạch là một kiểm định phi tham số nhằm
kiểm tra sự độc lập về thời gian của chuỗi lợi tức được quan sát, bài nghiên cứu sử
dụng chương trình Excel 2010 để kiểm định đoạn mạch tăng hoặc giảm và phần
mềm phân tích dữ liệu IBM SPSS Statistics phiên bản 20 (SPSS) để tính toán kết
5
quả đối với kiểm định đoạn mạch trên hoặc dưới giá trị tỷ suất lợi nhuận trung bình
và trung vị.
1.6 Cấu trúc của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu được xây dựng theo 05 chương chính như sau:
- Chương 1: Giới thiệu.
- Chương 2: Tổng quan lý thuyết.
- Chương 3: Thiết kế nghiên cứu.
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
- Chương 5: Các biểu hiện thị trường không hiệu quả tại Việt Nam và một số
giải pháp đề xuất làm tăng tính hiệu quả của thị trường.
Ngoài ra, các phần danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu, danh mục biểu
đồ, phụ lục các kết quả phân tích định lượng và tài liệu tham khảo cũng được đưa
vào đầy đủ trong bài nghiên cứu.
6
CHƯƠNG 2:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1 Cơ sở lý thuyết thị trường hiệu quả
2.1.1 Tính ngẫu nhiên của thị trường và lý thuyết thị trường hiệu quả
2.1.1.1 Tính ngẫu nhiên của thị trường
Các nhà đầu tư khi tham gia vào TTCK đều mong muốn mình sẽ dự đoán
được xu hướng của thị trường và giá cả chứng khoán trong tương lai nhằm đạt được
lợi nhuận cao nhất có thể. Tuy nhiên, diễn biến giá cả lại tuân theo quy luật riêng
của nó và thường xuyên khác hẳn kỳ vọng của các nhà đầu tư. Điều này có nguyên
nhân là giá cổ phiếu diễn biến một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Quy luật “Bước đi
ngẫu nhiên” (Random Walk) đã được Maurice Kendall nghiên cứu và công bố vào
năm 1953. Theo đó, giá cổ phiếu thay đổi ngẫu nhiên, không có quy luật và do đó
không thể dự đoán được. Phát hiện này đã gây ra các cuộc tranh cãi vào thời đó và
kéo theo các nghiên cứu chuyên sâu khác về vấn đề này.
Giả sử Kendall khám phá ra rằng giá của cổ phiếu có thể dự đoán được trước
và có thể sử dụng phương pháp của ông để dự đoán được giá cổ phiếu, thì các nhà
đầu tư sẽ nhanh chóng tìm cách đạt được lợi nhuận bằng cách mua khi giá có
khuynh hướng tăng và bán khi giá có khuynh hướng giảm. Nhưng trong thực tiễn,
tình trạng này không thể tồn tại một cách lâu dài. Sự phán đoán về khả năng tăng
giá trong tương lai sẽ ngay lập tức làm giá hiện tại tăng. Nói một cách khác, giá cổ
phiếu sẽ phản ánh ngay đối với bất kỳ thông tin mới nào được tiềm ẩn trong dự
đoán của mô hình.
Một cách khái quát, người ta có thể thấy rằng: bất cứ một thông tin nào được
sử dụng để dự đoán diễn biến của cổ phiếu đã được phản ánh hoàn toàn trong giá
của cổ phiếu đó. Chừng nào còn có những thông tin khác chỉ ra rằng giá cổ phiếu
đang bị đánh giá dưới giá trị, các nhà đầu tư sẽ đổ xô vào việc mua chứng khoán
này và ngay lập tức giá cổ phiếu sẽ được đẩy lên ở mức hợp lý mà tại đó lợi suất
của nó đúng bằng lợi suất bình thường đủ để bù đắp cho rủi ro của cổ phiếu đó.
7
Nhưng giả thiết rằng tất cả những thông tin ta đều có thể tiếp cận được, giá
của cổ phiếu chỉ tăng hay giảm khi xuất hiện những thông tin được coi là mới.
Những thông tin mới là thông tin không thể dự đoán được. Nếu là loại thông tin dự
đoán được thì dự đoán đó đã sẵn sàng được phản ánh vào trong giá cổ phiếu ngày
hôm nay. Vì vậy, giá của cổ phiếu khi nhận được những thông tin mới cũng sẽ thay
đổi không thể dự đoán được. Đây chính là cốt lõi của lý luận cho rằng giá của cổ
phiếu diễn biến một cách ngẫu nhiên.
Cần thiết phân biệt tính ngẫu nhiên của việc thay đổi giá với tính không hợp
lý trong mức giá. Nếu giá được xác lập một cách hợp lý thì chỉ những thông tin mới
mới tạo ra thay đổi giá. Vì vậy tính ngẫu nhiên sẽ là kết quả tất yếu của giá khi giá
này đã bao hàm tất cả những thông tin hiện tại. Nếu giá của cổ phiếu có thể dự đoán
được thì đây là bằng chứng thị trường không hiệu quả bởi vì các thông tin chưa
được phản ánh vào trong giá. Vì vậy, một thị trường được coi là hiệu quả nếu giá
của cổ phiếu phản ánh tất cả các thông tin hiện có trên thị trường.
2.1.1.2 Lý thuyết phân biệt tính ngẫu
Khái niệm tính hiệu quả của thị trường rất phổ biến từ những năm 60 của thế
kỷ 20. Một thị trường được xem là hiệu quả về mặt tổng thể khi nó hiệu quả về mặt
phân phối, hiệu quả về mặt tổ chức hoạt động và hiệu quả về mặt thông tin.
Hiệu quả về mặt phân phối:
Một thị trường được xem là hiệu quả về mặt phân phối khi các nguồn tài
nguyên vốn khan hiếm được phân phối đến người sử dụng sao cho với những tài
nguyên đó thì kết quả đầu ra là lớn nhất, nghĩa là chúng được sử dụng một cách tối
ưu. Người sử dụng tốt nhất cho nguồn lực huy động là người có khả năng trả giá
cao nhất cho quyền được sử dụng nguồn lực đó. Trong TTCK, tính hiệu quả về mặt
phân phối nằm ở chỗ đầu tư các nguồn vốn sao cho có hiệu quả nhất.
Hiệu quả về mặt tổ chức hoạt động:
8
Đối với TTCK, tính hiệu quả về mặt hoạt động được thể hiện trong khả năng
làm cực đại hóa quy mô giao dịch trên thị trường. Để đạt được điều này, thị trường
phải có khả năng sau:
- Mở rộng khả năng lựa chọn hàng hóa là các loại chứng khoán và các dịch vụ
cho khách hàng.
- Tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc tham gia và rút khỏi thị trường.
- Có các biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn tình trạng làm giá, đầu cơ làm
méo mó thị trường và tác động xấu đến các khách hàng khác.
- Tính thanh khoản của thị trường tốt.
Hiệu quả về mặt thông tin:
Thị trường được xem là hiệu quả về mặt thông tin khi giá hiện hành phản ánh
đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin có ảnh hưởng tới thị trường. Trong lý thuyết
thị trường hiệu quả, giả định rằng TTCK đã có hiệu quả về mặt phân phối và hiệu
quả hoạt động. Vì vậy, thị trường có hiệu quả ở đây được hiểu là thị trường hiệu
quả về mặt thông tin. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả sẽ xem xét TTCK Việt
Nam hiệu quả hay không về mặt thông tin.
Khái niệm về Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis -
EMH) được đưa ra lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 20 và được nghiên cứu sâu hơn sau
đó. Năm 1900, nhà thống kê học người Pháp Louis Bachelier đã đề cập đến lý
thuyết này trong luận văn tiến sĩ của ông về Thuyết đầu cơ. Trong đó ông có viết
“Quá khứ, hiện tại và thậm chí là các sự kiện sẽ diễn ra trong tương lai sẽ được
phản ánh trong giá thị trường, nhưng thường cho thấy không có quan hệ rõ ràng
giữa các thay đổi giá”.
Những năm sau đó, có nhiều nhà nghiên cứu khác tiếp tục tìm hiểu về EMH,
trong đó nổi bật là Maurice Kendall với bài báo “The Analytics of Economic Time
Series, Part 1: Prices” được công bố năm 1953. Trong đó, ông cho rằng sự thay đổi
của giá trên TTCK là ngẫu nhiên, nghĩa là chúng sẽ đi lên vào một vài ngày nào đó
và đi xuống vào ngày khác. Năm 1965, Paul Samuelson trình bày quan điểm của
9
ông rằng “…Giá cả cạnh tranh chắc chắn sẽ được thể hiện trong các sự thay đổi
giá… Thể hiện của nó tuân theo “Bước đi ngẫu nhiên” và không thể dự đoán được”.
Trong những năm 1960, giả thuyết “Bước đi ngẫu nhiên”, giả thuyết về mối
liên hệ giữa giá cả trong quá khứ và giá tương lai, được nghiên cứu và tranh cãi
mạnh mẽ trong giới tài chính. Giáo sư Paul Cootner thuộc đại học MIT đã phát triển
giả thuyết này trong tác phẩm “Tính ngẫu nhiên của TTCK” (The Random
Character of Stock Market Prices) năm 1964 và nó được truyền bá rộng rãi hơn nữa
vào năm 1973 với tác phẩm “Bước đi ngẫu nhiên trên phố Wall” (A Random Walk
Down Wall Street) của Burton Malkiel, Giáo sư Kinh tế thuộc Đại học Princeton.
Giả thuyết này sau đó được giải thích bằng lý thuyết thị trường hiệu quả và ngày
nay ta thấy nó thuộc về EMH dạng yếu.
Eugene Fama, người được xem là cha đẻ của lý thuyết thị trường hiệu quả đã
bắt đầu nghiên cứu về EMH bằng luận văn tiến sĩ của mình vào đầu những năm
1960. Trong một bài báo được đăng vào tháng 5 năm 1970 trên Journal of Finance
với tựa đề “Thị trường vốn hiệu quả: Một đánh giá về lý thuyết về thực nghiệm”,
ông đưa ra ý tưởng chủ đạo định nghĩa về thị trường hiệu quả. Fama đề xuất 3 mức
độ hiệu quả: (1) Dạng yếu, (2) Dạng trung bình và (3) Dạng mạnh. Các dạng hiệu
quả này được giải thích dựa trên các tập thông tin ảnh hưởng đến xu thế giá. Ở mức
độ hiệu quả dạng yếu, tập thông tin chỉ bao gồm các dữ liệu lịch sử về các loại
chứng khoán đang phân tích. Ở mức độ hiệu quả dạng trung bình, tập thông tin bao
gồm tất cả các dữ liệu đã được công bố ra công chúng trong quá khứ và hiện tại, ví
dụ như các tuyên bố chính sách hay doanh thu của công ty. Đối với mức độ hiệu
quả dạng mạnh thì tập thông tin bao gồm tất cả các thông tin liên quan và thông tin
mật.
Năm 1978, Michael C. Jensen định nghĩa sự hiệu quả của thị trường như sau:
“Một thị trường được xem là hiệu quả với tập thông tin t nếu như không thể tìm
được lợi nhuận kinh tế khi giao dịch chỉ với việc sử dụng tập thông tin t”. Năm
1992, Malkiel đã đưa ra một khái niệm khá toàn diện về thị trường hiệu quả như
sau: “Một thị trường vốn được cho là hiệu quả nếu nó phản ánh đầy đủ và chính xác
10
tất cả các thông tin có sẵn trong việc xác định giá chứng khoán. Có nghĩa là thị
trường được coi là hiệu quả đối với một tập thông tin Ωt nếu giá chứng khoán
không bị ảnh hưởng bởi việc thông tin được tiết lộ cho tất cả thành viên thị trường.
Hơn nữa, thị trường hiệu quả đối với tập thông tin Ωt hàm ý rằng người đầu tư
không thể kiếm được lợi nhuận bất thường trên cơ sở những thông tin từ tập Ωt”.
Vì vậy, khái niệm thị trường hiệu quả được phát biểu ngắn gọn như sau:
Thị trường hiệu quả về mặt thông tin là thị trường trong đó giá cả của các
loại hàng hóa giao dịch trên thị trường phản ánh đầy đủ và tức thời các thông tin
liên quan hiện có trên thị trường.
Thông tin liên quan đến các loại chứng khoán trên thị trường có thể bao gồm
nhiều loại khác nhau như thông tin về môi trường kinh tế vĩ mô, thông tin về tình
hình kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp niêm yết hay của đối thủ cạnh tranh,
thông tin được công bố công khai hay thông tin nội gián. Nếu thị trường là hiệu quả
về mặt thông tin thì thông tin sẽ được khai thác tối đa và được phản ánh gần như tức
thời vào giá cả chứng khoán.
Xét về nhà đầu tư, nếu thị trường thực sự hiệu quả thì họ sẽ ít có cơ hội kiếm
được lợi nhuận vượt trội so với các nhà đầu tư khác vì mọi người đều có khả năng
tiếp cận thông tin và khai thác chúng như nhau khi đưa ra quyết định.
2.1.2 Các hình thái của thị trường hiệu quả
2.1.2.1 Thị trường hiệu quả dạng yếu
Thị trường hiệu quả ở dạng yếu khi giá chứng khoán hiện tại phản ánh các
thông tin quá khứ của TTCK. Thông tin quá khứ bao gồm giá cả chứng khoán, khối
lượng giao dịch, lợi suất trong quá khứ… Ở mức độ này, giá thị trường hiện tại đã
phản ánh tất cả các thông tin đã có trên thị trường và thu nhập trong quá khứ nên
giả thuyết này có nghĩa là giá cả hay lợi suất của chứng khoán trong quá khứ không
có liên hệ đến giá cả hay lợi suất trong tương lai. Điều đó có nghĩa là nhà đầu tư
không thể dự đoán được giá chứng khoán trong tương lai và kiếm được lợi nhuận
vượt trội bằng cách sử dụng những thông tin trong quá khứ.
11
Giả sử thị trường tồn tại một quy luật trong quá khứ như sau: giá của chứng
khoán giảm vào ngày giao dịch cuối cùng của năm và tăng lên trong ngày giao dịch
đầu tiên của năm mới. Dưới những giả thuyết của hình thái yếu, thị trường sẽ nhanh
chóng nhận thức điều này và các nhà đầu tư sẽ đồng loạt mua chứng khoán vào
ngày cuối năm để bán chúng vào ngày đầu tiên của năm sau. Vì vậy ngay lập tức
quy luật cung – cầu sẽ gây sức ép buộc giá cả trở về trạng thái cân bằng và xóa bỏ
hiện tượng này.
Khi dạng hình thái yếu của thị trường tồn tại thì các nhà phân tích kỹ thuật
trở nên bị vô hiệu hóa. Các nhà phân tích kỹ thuật thường theo dõi sự thay đổi của
giá cổ phiếu qua một loạt các thời điểm khác nhau. Nếu họ nhận ra sự biến động giá
tuân theo một số dạng nhất định, thì dự đoán rằng điều này sẽ lặp lại theo cùng quy
luật trong tương lai. Để làm được điều này, các nhà phân tích sử dụng các phương
pháp phân tích để phân tích giá cả quá khứ của cổ phiếu, từ đó dự đoán cho giá
trong tương lai. Tuy nhiên, nếu trường hợp hình thái yếu của thị trường tồn tại thì
không có bất kỳ những thông tin nào trong quá khứ có tác dụng để dự đoán cho
tương lai. Bất kỳ một thông tin nào có được trong quá khứ đều đã được nghiên cứu
bởi hàng ngàn các nhà phân tích trên thị trường. Những chuyên gia này đã hành
động theo cách mà họ đã tìm ra và điều này rất nhanh được phản ánh trong giá cổ
phiếu. Giả sử những thông tin này chứa đựng những dấu hiệu về tương lai, khi đó
tất cả các nhà đầu tư sẽ tìm cách để khai thác triệt để dấu hiệu này. Cuối cùng,
những thông tin này trở thành sự hiểu biết của tất cả công chúng và do vậy giá của
cổ phiếu sẽ nhanh chóng được điều chỉnh thăng bằng lại.
2.1.2.2 Thị trường hiệu quả dạng trung bình
Ở thị trường hiệu quả dạng trung bình thì giá chứng khoán sẽ điều chỉnh
nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào. Có nghĩa là mức giá hiện tại
phản ánh đầy đủ mọi thông tin công khai trong quá khứ và hiện tại. Mức độ hiệu
quả dạng trung bình đã bao gồm dạng yếu vì tất cả thông tin liên quan đến giá cổ
phiếu, tỷ suất sinh lợi, khối lượng giao dịch trong quá khứ cũng được xem xét.
12
Ngoài ra, các thông tin công khai cũng bao gồm các thông tin khác liên quan như
năng lực sản xuất, chất lượng quản lý, bảng tổng kết tài sản, bí quyết sản xuất, dự
đoán thu nhập, chính sách cổ tức, tỷ lệ P/E, các thông tin kinh tế và chính trị xã hội.
Những thông tin cần thiết của các công ty đang cạnh tranh và những dự đoán khác
về hoạt động và tình hình tài chính... đều đã được phản ánh trong giá cổ phiếu. Nếu
bất cứ nhà đầu tư nào cũng có được những thông tin từ nguồn thông tin đại chúng
thì tức là nó đã sẵn sàng được phản ánh trong giá của chứng khoán. Bên cạnh đó,
những thông tin mang tính chất dự đoán như các đánh giá, dự báo, tin đồn… đều
được nhà đầu tư đưa vào để xác định giá cả.
Khi thị trường có hiệu quả ở mức trung bình thì giá cổ phiếu sẽ được điều
chỉnh nhanh chóng trong một khoảng thời gian rất ngắn theo những thông tin có
được. Và khi đó không có hình thức phân tích nào (kể cả phân tích kỹ thuật lẫn cơ
bản) có khả năng đem lại cho nhà đầu tư lợi nhuận siêu ngạch, các nhà đầu tư hầu
như không thể dự đoán những thay đổi về giá được nữa. Điều này có nghĩa là họ sẽ
không thể thu được lợi nhuận bất thường nào nếu ra quyết định đầu tư dựa trên các
thông tin mới vừa được công bố ra thị trường. Lý do là mức giá hiện tại đã thay đổi
và phản ánh tất cả các thông tin đó. Thị trường hiệu quả dạng trung bình thường
thấy ở các TTCK của các nước phát triển trên thế giới.
Ví dụ, một nhà phân tích sử dụng bảng tổng kết tài sản của công ty nhằm tìm
kiếm lợi nhuận siêu ngạch sẽ không thể mang lại kết quả như mong muốn bởi
những thông tin dạng này dễ dàng kiếm được do hàng ngàn các nhà phân tích trên
thị trường. Hành động của các nhà phân tích này nhanh chóng làm giá cả chứng
khoán được điều chỉnh để phản ánh những thông tin cần thiết trong bảng tổng kết
tài sản. Quá trình tương tự như vậy cũng sẽ diễn ra cho tất cả các thông tin khác đã
được công bố ra công chúng. Do vậy, nếu tồn tại dạng hiệu quả trung bình thì cả hai
dạng phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật sẽ bị vô hiệu hóa.
13
2.1.2.3 Thị trường hiệu quả dạng mạnh
Thị trường đạt hiệu quả dạng mạnh khi giá chứng khoán phản ánh tất cả các
thông tin từ công khai cho đến nội bộ. Khi một thị trường đạt được mức độ hiệu quả
này có nghĩa là các thông tin có liên quan cho dù có được phổ biến ra công chúng
hay chưa cũng có tác động đến giá chứng khoán.
Lý thuyết thị trường hiệu quả dạng mạnh bao gồm cả hiệu quả mức độ trung
bình và yếu. Trong thị trường này, các nhà đầu tư đều bình đẳng trong việc tiếp cận
các thông tin liên quan và không ai có thể dùng nó để tìm kiếm lợi nhuận vượt trội
so với người khác vì thị trường đã phản ứng với các thông tin đó dù là công khai
hay nội bộ. Điều này nói lên rằng các thị trường phản ứng nhanh với bất kỳ thông
tin nào, kể cả những thông tin mang tính chất nội bộ hay cá nhân, làm cho khả năng
tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch khó xảy ra. Như vậy, hình thái này cũng không cho
phép tồn tại phân tích kỹ thuật lẫn cơ bản.
Tuy nhiên, sự tồn tại của thị trường dạng này là rất khó vì đây là một giả
thuyết về thị trường phi thực tế. Một số ý kiến cho rằng chỉ có một bộ phận nhỏ cá
nhân có thể có được những thông tin quan trọng trước khi chúng được công bố ra
công chúng, do đó họ có thể sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng trên thực tế,
hầu như ở tất cả các nước, những hành động như vậy được coi là vi phạm pháp luật.
Do vậy, thị trường hiệu quả dạng mạnh khó đứng vững. Ngay cả các thị trường phát
triển nhất trên thế giới và có lịch sử lâu đời như New York, Tokyo cũng chỉ đạt mức
độ hiệu quả trung bình.
Sơ đồ 1.1 dưới đây tóm tắt những đặc điểm chính của cả ba dạng lý thuyết
thị trường hiệu quả trên:
14
THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
DẠNG YẾU DẠNG TRUNG BÌNH DẠNG MẠNH
Thông tin: giá, lợi suất Thông tin: các thông tin đã Thông tin: mọi thông tin có
được công bố (trong hiện thể (bao gồm cả thông tin
tại và cả quá khứ) nội gián, thông tin được
công bố trong hiện tại và cả
quá khứ)
Đặc điểm: khi thị trường Đặc điểm: khi thị trường Đặc điểm: khi thị trường
hiệu quả dạng vừa, nhà đầu hiệu quả dạng mạnh, mọi hiệu quả dạng yếu, nhà đầu
tư không thể sử dụng thông loại thông tin có thể đều tư không thể sử dụng thông
tin được công bố để đạt không cho phép nhà đầu tư tin quá khứ để đạt được lợi
thu được lợi nhuận vượt trội nhuận cao hơn bình quân được lợi nhuận bất thường
từ việc sử dụng chúng trong quá khứ trên thị trường
Sơ đồ 1-1: Những đặc điểm chính của ba dạng lý thuyết thị trường hiệu quả
Một TTCK được coi là hiệu quả nếu tất cả những thông tin có thể biết đã
được phản ánh trong giá của chứng khoán. Tính hiệu quả của thị trường biểu hiện ở
các cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào loại thông tin được phản ánh trong giá chứng
khoán. Khi một thị trường đạt hiệu quả dạng yếu, những diễn biến về giá trước đó
không cho phép dự đoán được sự thay đổi giá trong tương lai. Hình thái hiệu quả
dạng trung bình có liên quan đến cả các thông tin không phải thuộc về giá trong quá
khứ. Đó là tất cả những thông tin liên quan đến công ty được công bố ra công
15
chúng. Hình thái hiệu quả dạng mạnh là loại có liên quan đến cả nhóm các nhà đầu
tư đặc biệt – những người có những thông tin nội gián.
Tóm lại, một thị trường được coi là hữu hiệu sẽ biểu hiện thông qua các đặc
trưng sau:
- Giá chứng khoán thay đổi kịp thời và chính xác đối với những thông tin mới.
- Sự thay đổi của lợi suất được quyết định bởi sự thay đổi của lãi suất đầu tư
phi rủi ro và phụ phí rủi ro. Mọi sự thay đổi của giá chứng khoán xuất phát
từ các sự kiện khác đều là ngẫu nhiên không dự đoán trước được.
- Những nguyên tắc hoặc kinh nghiệm đều không thể áp dụng để thu được lợi
nhuận siêu ngạch.
- Các nhà đầu tư chuyên nghiệp không thể dùng các hình thức phân tích
chuyên nghiệp (phân tích cơ bản và kỹ thuật) để thu được lợi nhuận siêu
ngạch cả trên hai phương diện cá nhân cũng như tổ chức.
2.1.3 Các lý thuyết nền tảng cho lý thuyết thị trường hiệu quả
Các lý thuyết được trình bày dưới đây là một trong những lý thuyết cơ bản,
tạo tiền đề cho những nghiên cứu và phát triển sau này của lý thuyết thị trường hiệu
quả:
2.1.3.1 Mô hình Lợi suất kỳ vọng hay “Trò chơi công bằng”
Định nghĩa thị trường hiệu quả là nơi giá cả phản ánh đầy đủ các thông tin
liên quan trên thị trường là một định nghĩa mang tính khái quát và khó có thể kiểm
định được. Để xây dựng một mô hình kiểm định, quá trình chuyển tải thông tin trên
giá chứng khoán cần được làm rõ chi tiết hơn. Nghĩa là chúng ta cần phải làm rõ ý
nghĩa của cụm từ “phản ánh đầy đủ” của các tập thông tin ảnh hưởng đến xu thế
giá.
Theo Fama (1970), lý thuyết “Lợi suất kỳ vọng” có thể được mô tả như sau:
(1)
Trong đó: 𝐸𝐸(𝑝𝑝�𝑗𝑗 ,𝑡𝑡+1|Φ𝑡𝑡) = [1 + 𝐸𝐸(𝑟𝑟̃𝑗𝑗 ,𝑡𝑡+1|Φ𝑡𝑡)]𝑝𝑝𝑗𝑗𝑡𝑡
E: kỳ vọng
16
pjt: giá của chứng khoán j tại thời điểm t
pj,t+1: giá của chứng khoán j tại thời điểm t+1
rj,t+1: lợi suất một thời kỳ (=(pj,t+1 – pjt)/ pjt)
Φt: ký hiệu chung cho bất kỳ tập thông tin nào và được giả định là được
“phản ánh đầy đủ” ở trong mức giá tại thời điểm t.
Dấu ngã trên biến số cho biết pj,t+1 và rj,t+1 là các biến ngẫu nhiên tại thời
điểm t.
Gọi chênh lệch giá của chứng khoán j tại thời điểm t +1 với mức giá kỳ vọng
t là xj,t+1
được xác lập tại thời điểm t + 1 trên cơ sở thông tin
Ta có: Φ
t)
(2) xj,t+1 = pj,t+1 – E (pj,t+1|
Khi đó: Φ
j,t+1|
t) = 0
E ( (3)
xác định như vậy là một “trò chơi công bằng” đối với chuỗi Chuỗi 𝑥𝑥̅ Φ
thông tin . Hay chúng ta cho: �xjt �
j,t+1|
t)
(4) zj,t+1 = rj,t+1 – E (
{Φt} Khi đó: 𝑟𝑟̃ Φ
j,t+1|
t)= 0
(5) E (
cũng là một “trò chơi công bằng” đối với chuỗi thông tin Do vậy chuỗi Φ
zj,t+1 là chênh lệch lợi suất tại thời điểm t + 1 so với lợi suất kỳ vọng cân bằng 𝑧𝑧̃ �𝑧𝑧jt �
được xác lập tại thời điểm t. {Φt}.
t)= [
t),
t),…,
t)]
Gọi:
t) tại thời điểm t mà có thể đầu tư vào một trong số n
là lượng tiền 𝛼𝛼1(Φ 𝛼𝛼2(Φ 𝛼𝛼𝑛𝑛 (Φ
chứng khoán hiện có. Một hệ thống như vậy sẽ tạo ra tổng giá trị thị trường vượt 𝛼𝛼(Φ 𝛼𝛼𝑗𝑗 (Φ
𝑛𝑛
trội tại thời điểm t + 1 và giá trị đó bằng:
�𝑟𝑟𝑗𝑗 ,𝑡𝑡+1 − 𝐸𝐸(𝑟𝑟̃𝑗𝑗 ,𝑡𝑡+1|Φ𝑡𝑡)� 𝑉𝑉𝑡𝑡+1 = � 𝛼𝛼𝑗𝑗 (Φ𝑡𝑡) 𝑗𝑗 =1 Cũng dựa vào đặc điểm “trò chơi công bằng” của (5), ta có:
17
𝑛𝑛
𝑗𝑗 =1
�𝑟𝑟𝑗𝑗 ,𝑡𝑡+1 − 𝐸𝐸(𝑟𝑟̃𝑗𝑗 ,𝑡𝑡+1|Φ𝑡𝑡)� 𝐸𝐸�𝑉𝑉�𝑡𝑡+1|Φ𝑡𝑡� = � 𝛼𝛼𝑗𝑗 (Φ𝑡𝑡)
2.1.3.2 Mô hình martingale dưới
Cũng xuất phát từ (1) nhưng nếu:
j,t+1|
t)
j,t+1|
t)
(6) E ( pjt hoặc tương đương E ( pjt
thì chuỗi Φ của chứng khoán j được gọi là tuân theo một martingale dưới Φ ≥ 𝑟𝑟̃ 𝑝𝑝�
t thì mức giá
đối với chuỗi thông tin , nó có nghĩa là trên cơ sở tập thông tin ≥ �pjt �
thời kỳ tới được kỳ vọng sẽ bằng hoặc lớn hơn mức giá hiện tại. Nếu (6) đúng ở {Φt} Φ
dạng phương trình (do vậy lợi suất kỳ vọng và thay đổi giá kỳ vọng bằng không),
khi đó chuỗi giá sẽ tuân theo martingale.
j,t+1|
t) = pjt
E (
𝑝𝑝� Trong đó: Φ
j,t+1|
t) là dự đoán giá chứng khoán tại mốc t + 1 trong khi chỉ có thông
E (
tin đến mốc t. 𝑝𝑝� Φ
pjt là giá chứng khoán tại mốc t
2.1.3.3 Mô hình “bước đi ngẫu nhiên”
Với giả thiết mà Maurise Kendall (1953) đưa ra là giá cổ phiếu biến động
trên TTCK thay đổi một cách ngẫu nhiên, không có quy luật và không thể dự đoán
được, và một giả định nữa là những thay đổi giá tiếp theo được phân phối giống
nhau đã cho ra đời mô hình “bước đi ngẫu nhiên”, có dạng như sau:
t) = f (rj,t+1)
(7) f (rj,t+1|
Phân phối xác suất có điều kiện và phân phối xác suất biên của một biến Φ
ngẫu nhiên độc lập là giống nhau. Ngoài ra, hàm mật độ f phải như nhau đối với
mọi t.
Từ ràng buộc (1) bằng cách giả định lợi suất kỳ vọng của chứng khoán j là
không đổi theo thời gian, khi đó ta có:
j,t+1|
t) = E (
j,t+1)
E ( (8)
𝑟𝑟̃ Φ 𝑟𝑟̃
18
Điều này nói rằng trung bình của phân phối rj,t+1 độc lập với thông tin có tại
t trong khi đó mô hình bước đi ngẫu nhiên của (7) còn cho chúng ta
thời điểm t là
t.
biết thêm rằng phân phối tổng thể độc lập với Φ
Mô hình bước đi ngẫu nhiên là một dạng mở rộng của mô hình thị trường Φ
hiệu quả “trò chơi công bằng” hay lợi suất kỳ vọng dạng khái quát theo nghĩa là
chúng ta có thể đưa ra những nhận định chi tiết hơn về môi trường kinh tế. Mô hình
“trò chơi công bằng” nói rằng điều kiện cân bằng thị trường có thể được biểu thị
dưới dạng lợi suất kỳ vọng, và do vậy nó cho chúng ta biết tương đối ít về chi tiết
của quá trình ngẫu nhiên sinh ra lợi suất. Một bước ngẫu nhiên hình thành trong
một mô hình như vậy khi môi trường phải thỏa mãn điều kiện là sự biến đổi về sở
thích của nhà đầu tư và quá trình hình thành thông tin mới phải kết hợp với nhau để
tạo ra các trạng thái cân bằng, trong đó phân phối lợi suất sẽ tự lặp đi lặp lại theo
suốt thời gian.
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về kiểm định tính hiệu quả của
thị trường
Các nghiên cứu thực nghiệm về lý thuyết thị trường hiệu quả đều gắn với
việc giá có phản ánh đầy đủ các tập thông tin hiện có hay không theo thứ tự từ tập
thông tin lịch sử đến tập thông tin trong quá khứ lẫn hiện tại và cuối cùng là tập
thông tin lớn nhất bao gồm tất cả thông tin liên quan. Tương ứng là các nghiên cứu
về các hình thái hiệu quả của thị trường: các nghiên cứu ban đầu gắn với các kiểm
định dạng yếu và hầu hết các kết quả này đều xuất phát từ lý thuyết bước ngẫu
nhiên; sau đó là các kiểm định dạng trung bình, trong đó vấn đề quan tâm là tốc độ
điều chỉnh giá trước các thông tin hiện có được công bố (ví dụ thông báo về việc
chia cổ tức, báo cáo hàng năm, phát hành chứng khoán mới,…); và cuối cùng, các
kiểm định dạng mạnh trong đó vấn đề quan tâm là liệu gần đây, các nhà đầu tư hay
các nhóm (ví dụ các nhà quản lý các quỹ tương hỗ) có tính độc quyền trong việc
tiếp cận đối với thông tin liên quan về việc định hình giá hay không.
19
2.2.1 Kiểm định hình thái dạng yếu
Là cái nôi của lý thuyết thị trường hiệu quả, các nhà nghiên cứu đã kiểm định
tính hiệu quả dạng yếu đầu tiên tại các TTCK tại các quốc gia phát triển ở Châu Âu
như Anh, Mỹ, Đức... dựa trên nền tảng nguyên lý “Bước đi ngẫu nhiên”. Phương
pháp phổ biến được sử dụng là kiểm định đoạn mạch (runs test). Đa số các nghiên
cứu này đều ủng hộ cho lý thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu tại các thị trường đã
phát triển. Trong nghiên cứu của mình vào năm 1953, Kendall đã sử dụng chuỗi dữ
liệu chỉ số giá hàng ngày của 30 cổ phiếu thuộc trung bình ngành Dow Jones trong
giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1962 để kiểm định giả thiết chuỗi có tính ngẫu
nhiên bằng phương pháp kiểm định tương quan chuỗi (serial correlation), kiểm định
đoạn mạch và một số phương pháp khác như mô hình định giá tài sản (Asset pricing
model), phương pháp chuỗi giá được mô tả bằng các “bước đi ngẫu nhiên” dựa trên
các quan sát, phương pháp mối tương quan giữa mô hình lợi suất kỳ vọng trong lý
thuyết thị trường hiệu quả và lý thuyết “bước đi ngẫu nhiên”. Ngoài bộ dữ liệu hàng
ngày, tác giả cũng sử dụng dữ liệu về mức thay đổi giá mỗi 4 ngày, mỗi 9 ngày và
mỗi 16 ngày. Kết quả là rất ít bằng chứng cho thấy có sự phụ thuộc giữa các thay
đổi của giá.
Cooper (1982) cũng sử dụng phương pháp kiểm định tương quan, kiểm định
đoạn mạch với dữ liệu là chỉ số giá thị trường theo ngày, tuần và tháng để nghiên
cứu tính hiệu quả dạng yếu tại 36 quốc gia. Kết quả là TTCK Mỹ và Anh tuân theo
bước đi ngẫu nhiên và vì vậy có tính hiệu quả dạng yếu.
Các tác giả Sameer, Amer và Mohammed (2012) đã sử dụng phương pháp
kiểm định đoạn mạch tăng giảm, phân bố đoạn mạch theo độ dài, đoạn mạch trên
dưới điểm chặn để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu trên TTCK Amman với bộ dữ
liệu là 5 chỉ số giá hàng ngày theo ngành được truy xuất từ 1/1/2000 đến
31/12/2008. Kết quả là thị trường Amman không tuân theo “bước đi ngẫu nhiên”, vì
vậy không đạt hiệu quả dạng yếu. Bài luận văn này được tham khảo chính từ nghiên
cứu của các tác giả trên.
20
Năm 2012, Nikunj R. Patel, Nitesh Radadia và Juhi Dhawan đã có bài báo
“Nghiên cứu thực nghiệm về tính hiệu quả dạng yếu của các TTCK châu Á” trên
tập san Applied Finance & Banking. Các tác giả đã kiểm định các thị trường Ấn
Độ, Hồng Kông, Nhật Bản, Thượng Hải với dữ liệu từ 1/1/2000 đến 31/3/2011 bằng
phương pháp thống kê mô tả, kiểm định đoạn mạch, kiểm định Dickey Fuller mở
rộng, kiểm định Kolmogorov-Smirnov, kiểm định tự tương quan, kiểm định tỉ lệ
phương sai và ma trận tương quan. Kết quả thu được cho thấy các thị trường có dấu
hiệu đạt hiệu quả dạng yếu trong một số giai đoạn, nhưng trong toàn thời gian khảo
sát thì không.
Tháng 9 năm 2012, Abdullah I. Al Ashikh thực hiện kiểm định tính hiệu quả
dạng yếu của TTCK Saudi với dữ liệu từ 31 tháng 12 năm 1999 đến 1 tháng 1 năm
2010 bằng các phương pháp tự tương quan, Ljung-Box Q-Statistic, kiểm định đoạn
mạch và kết quả cho thấy thị trường Saudi cũng không đạt tính hiệu quả dạng yếu.
Trong năm đó, Saqib Nisar và Muhammad Hanif kiểm định tính hiệu quả dạng yếu
của bốn TTCK ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Sri Lanka. Các
tác giả đã phân tích chỉ số chứng khoán theo tháng, tuần và ngày trong 14 năm từ
1997 đến 2011 và sử dụng 4 phương pháp bao gồm kiểm định đoạn mạch, kiểm
định tương quan, kiểm định nghiệm đơn vị và kiểm định tỷ lệ phương sai. Các kết
quả thu được cho thấy tất cả 4 thị trường đều không tuân theo lý thuyết “Bước đi
ngẫu nhiên” và do đó không đạt tính hiệu quả dạng yếu.
Trong một nghiên cứu khác được thực hiện bởi Francesco Guidi, Rakesh
Gupta và Suneel Maheshwari (2010) nhằm kiểm định tính hiệu quả của các thị
trường châu Âu như Phần Lan, Hungary, Cộng hòa Séc, Slovakia, Romania,
Bulgaria và Slovenia. Các tác giả đã sử dụng dữ liệu từ năm 1999 đến 2009 và các
phương pháp kiểm định tự tương quan, đoạn mạch, tỷ lệ phương sai và mô hình
GARCH. Kết quả đạt được cho thấy hầu hết các thị trường này cũng không đạt tính
hiệu quả dạng yếu.
Sử dụng dữ liệu ngày của các TTCK châu Mỹ La tinh như Argentina, Brazil,
Chile, Colombia, Mexico, Peru và Venezuela, Worthington và Higgs (2008) kiểm
21
tra tính hiệu quả dạng yếu của các thị trường này bằng các phương pháp tham số và
phi tham số khác nhau như kiểm định tương quan, kiểm định đoạn mạch, kiểm định
Augmented Dickey-Fuller (ADF), kiểm định Phillips-Perron (PP), kiểm định
Kwiatkowski, Phillips, Schmidt and Shin (KPSS), và kiểm định tỷ lệ đa phương sai
(Multiple variance ratio – MVR). Trong đó, đối với thị trường Argentina, Brazil,
Chile, Mexico, các tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu chỉ số chứng khoán ngày từ
31/12/1987 đến 28/05/2003 và từ ngày 31/12/1992 đến ngày 28/05/2003 cho các thị
trường Colombia, Peru và Venezuela. Kết quả là không có thị trường nào thỏa lý
thuyết “Bước đi ngẫu nhiên” và do đó cũng không đạt hiệu quả dạng yếu.
Thị trường Trung Quốc cũng được khảo sát tính hiệu quả vào năm 2003 bởi
Bin Liu với dữ liệu từ năm 1996 đến 2002 bằng các phương pháp kiểm định tự
tương quan, mô hình CAMP, mô hình hồi quy MacBeth. Kết quả thực nghiệm cho
thấy không có bằng chứng ủng hộ cho thị trường hiệu quả hiệu quả ở TTCK Trung
Quốc. Thêm vào đó, 10 TTCK ở châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia,
Hàn Quốc, Malaysia, Pakistan, Phiplippines, Sri Lanka, Đài Loan và Thái Lan cũng
đã được Worthington và Higgs (2005) kiểm định bằng các phương pháp đã áp dụng
tương tự tại các TTCK Châu Mỹ La Tinh. Kết quả là các phương pháp khác nhau
đã cho ra những kết luận trái chiều về tính hiệu quả dạng yếu ở các thị trường. Cụ
thể, theo phương pháp kiểm định tương quan và kiểm định đoạn mạch thì các
TTCK được nghiên cứu đều không có đạt hiệu quả dạng yếu. Trong khi đó, phương
pháp kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey-Fuller (ADF), Phillips-Perron
(PP), Kwiatkowski, Phillips, Schmidt and Shin (KPSS) cho thấy các thị trường có
biểu hiện hiệu quả dạng yếu ngoại trừ TTCK Úc và Đài Loan. Còn thông qua kiểm
định tỷ số đa phương sai (MVR), các tác giả kết luận ngoại trừ TTCK Hồng Kông,
Nhật và New Zealand, các thị trường còn lại đều không đạt hiệu quả dạng yếu.
Các kết quả tương tự cũng được tìm thấy với thị trường Nigeria (KaluO,
2008), TTCK Nepal (Pradhan và Upadhyay, 2006) khi các tác giả sử dụng các
phương pháp kiểm định chuỗi tương quan, kiểm định đoạn mạch, thống kê mô tả,
kiểm định tương quan hạng Spearman, kiểm định chi bình phương. Một nghiên cứu
22
khác của Smith và các cộng sự (2002) khảo sát 8 TTCK châu Phi như Botswana, Ai
Cập, Kenya, Mauritius, Morocco, Nigeria, Zimbabwe và Nam Phi bằng cách sử
dụng dữ liệu tuần từ tháng 1/1993 đối với thị trường Ai Cập, từ tháng 1/1994 đối
với thị trường Nigeria và từ tháng 1/1990 cho các thị trường còn lại. Dữ liệu kết
thúc được lấy đến tháng 8/1998. Kết quả cho thấy rằng hầu hết các thị trường không
đạt hiệu quả dạng yếu ngoại trừ Nam Phi.
Đối với TTCK Việt Nam, tính hiệu quả dạng yếu về mặt thông tin của thị
trường cũng được nhiều tác giả kiểm định. Điển hình là các nghiên cứu của các tác
giả Trương Đông Lộc (2007), Hồ Viết Tiến (2006), Lê Đạt Chí (2006). Tác giả
Trương Đông Lộc đã kiểm định tính hiệu quả dạng yếu trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội bằng cách sử dụng phương pháp kiểm định tự tương quan và
kiểm định đoạn mạch chuỗi dữ liệu thu thập theo ngày của chỉ số thị trường
HASTC-Index và 2 loại cổ phiếu niêm yết là GHA và VNR từ ngày 14/7/2005 đến
ngày 14/3/2007. Kết quả nghiên cứu thu được là Trung tâm giao dịch chứng khoán
Hà Nội không hiệu quả ở mức độ yếu. Với cùng kết luận như trên đối với Trung
tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh là kết quả từ nghiên cứu của tác giả
Hồ Viết Tiến khi sử dụng kiểm định hệ số tương quan, kiểm định tương quan, kiểm
định tính phân phối chuẩn đối với chuỗi dữ liệu là lợi suất của các cổ phiếu từ năm
2000 đến năm 2005. Tác giả Lê Đạt Chí cũng đã khảo sát tính hiệu quả dạng yếu
trên Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh với dữ liệu lợi suất 10 cổ
phiếu bluechip trên thị trường từ năm 2005 đến năm 2006 và bằng phương pháp
kiểm định tự tương quan và kiểm định theo quy tắc giao dịch. Kết quả đạt được là
chỉ có một số cổ phiếu có biểu hiện hình thái hiệu quả dạng yếu.
Nhìn chung, lý thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu được ủng hộ mạnh tại
các TTCK đã phát triển như một số TTCK Châu Âu. Trong khi đó, có rất ít bằng
chứng ủng hộ cho hình thái yếu của tính hiệu quả về mặt thông tin tại các TTCK
mới nổi ngoại trừ một số TTCK mới nổi phát triển nhất. Hoặc tính hiệu quả dạng
yếu chỉ tìm thấy ở một số cổ phiếu riêng lẻ của các thị trường, cũng như ở những
giai đoạn nhất định chứ không tồn tại trong suốt thời gian khảo sát.
23
2.2.2 Kiểm định hình thái dạng trung bình
Các kiểm định dạng trung bình của mô hình thị trường hiệu quả đề cập tới
việc liệu mức giá hiện tại có phản ánh đầy đủ tất cả thông tin công bố công khai
không, chẳng hạn thời gian để các thông tin này phản ánh trên giá cả hay loại thông
tin nào nhà đầu tư có thể tận dụng để thu được lợi nhuận vượt trội. Đa số các nghiên
cứu về tính hiệu quả dạng trung bình của thị trường đều cho rằng các thông tin được
công bố công khai không thể được dùng để đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức
bình quân trên thị trường. Các loại thông tin được xét ở đây bao gồm các thông tin
về chia tách cổ phiếu, báo cáo thường niên, thông báo sáp nhập/hợp nhất, thông tin
từ các nhà phân tích chứng khoán, thông tin về các đợt IPO, đăng ký niêm yết chính
thức, các phân tích về chiết khấu dòng tiền tự do DCF và hệ số giá trên thu nhập
P/E, thông tin vĩ mô, các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của chính phủ.
Nghiên cứu lớn đầu tiên về việc chia tách cổ phiếu là của Fama, Fisher,
Jensen và Roll (FFJR), và các nghiên cứu sau đó đều phù hợp hoặc mở rộng hơn
các kỹ thuật đã được xây dựng trong FFJR. Đây là nghiên cứu dữ kiện cổ điển đầu
tiên được sử dụng. Mặc dù giá cổ phiếu không thay đổi nhiều trước thông tin chia
tách cổ phiếu, FFJR tranh luận rằng việc chia tách này có liên quan đến những nhân
tố cơ bản như cổ tức, và chính những nhân tố này có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.
Bản thân thông tin chia tách không đóng vai trò lớn đối với biến động của giá cổ
phiếu.
FFJR xác định thời điểm việc chia tách của cổ phiếu cụ thể diễn ra và gọi là
tháng zero (t=0) và những tháng tiếp theo được xem là tháng có giá trị dương. Sau
đó các tác giả ước lượng lợi nhuận dự kiến cho mỗi tháng t theo mô hình giản đơn:
Ri,t = a + biRm,t + ei,t; trong đó giá trị phần dư kỳ vọng (ei,t) bằng không. FFJR đã
kiểm định việc chia tách của 940 cổ phiếu trong giai đoạn từ năm 1956 đến năm
1960, loại trừ khỏi các tính toán về hệ số rủi ro beta trong dữ liệu thu nhập 15 tháng
trước và sau khi chia tách, sau đó kiểm định phần dư (ei,t) cho mỗi tháng của tất cả
cổ phiếu và tính phần dư trung bình. Tiếp theo, FFJR cộng tích lũy phần dư trung
bình (CAR) bắt đầu từ 30 tháng trước khi chia tách (t=-30) và kết quả cho thấy phần
24
dư lũy kế này tăng lên đáng kể. FFJR cho rằng việc tăng giá cổ phiếu không chắc sẽ
xảy ra vì việc chia tách đã được dự đoán trước. Họ nhận thấy rằng sau khi chia tách,
phần dư lại trở về mức không. Sau đó, FFJR chia mẫu quan sát thành hai nhóm, một
nhóm công ty tăng cổ tức sau khi chia tách và một nhóm thì không tăng. Nhóm đầu
tiên cho thấy phần dư dương (CAR’s) tiếp tục tăng sau ngày thông báo chia tách cổ
phiếu, còn nhóm thứ hai thì ngược lại là CAR giảm. Như vậy cổ tức đã chỉ ra điểm
mạnh cơ bản của mình, trong khi thông tin chia tách cổ phiếu dường như lại không
có liên quan đến biến động của giá. Thông thường, khi việc chia tách được công bố,
phần dư dương (CAR’s) sẽ dừng lại. Tóm lại, FFJR kết luận rằng các kết quả của
họ ủng hộ mạnh mẽ quan điểm thị trường cổ phiếu hiệu quả ở mức trung bình khi
giá phản ánh khá hoàn hảo tích lũy tương lai và các thông tin công bố không tạo ra
thu nhập bất thường cho nhà đầu tư. Nó cũng cho thấy rằng việc thưởng bằng cổ
phiếu cũng như chia nhỏ cổ phiếu không gây ra hiệu ứng quá bất lợi đối với cổ
đông mà chỉ là một hình thức truyền tải thông tin đến thị trường.
Trong các nghiên cứu của mình, Firth (1976) xem xét tính hiệu quả của
TTCK Anh và so sánh giá của cổ phiếu sau khi có thông tin về việc tiếp quản với
giá mời thầu. Firth nhận thấy rằng giá cổ phiếu đã ngay lập tức thay đổi về đúng
mức giá của mình, điều đó có nghĩa là TTCK Anh đạt hiệu quả dạng trung bình.
Đối với thông tin về việc sáp nhập tiềm năng, Firth tính CAR bắt đầu từ 30 ngày
trước khi có thông báo và nhận thấy có một số lớn CAR giữa giao dịch đầu tiên sau
thời điểm công bố và giao dịch trước đó, mặc dù nó vẫn còn tăng nhẹ sau thông
báo. Do đó, một giao dịch mua với khối lượng lớn vẫn có thể tạo ra lợi nhuận vượt
trội. Những người trong nội bộ công ty rõ ràng có thể đạt được mức lợi nhuận này,
trong khi những người không có thông tin nội bộ không thể có được (trừ những nhà
đầu tư thực hiện giao dịch đầu tiên sau thời điểm có thông báo). Vì mức lợi nhuận
thay đổi gần như lập tức, Firth kết luận rằng tồn tại hình thái dạng trung bình của thị
trường hiệu quả đối với thông tin liên quan đến vấn đề hợp nhất, sáp nhập.
Sử dụng Chỉ số hoạt động bất thường (API), Ball và Brown (1968) đã nghiên
cứu tính hữu ích của nội dung thông tin trong các báo cáo thường niên. Khi tập
25
trung chủ yếu vào EPS, các tác giả nhận thấy giá chứng khoán đã phản ánh từ 85%
đến 90% các thông tin chứa trong các báo cáo hàng năm; giá chứng khoán cũng
không có phản ứng đồng nhất đối với việc phát hành các báo cáo này. Họ kết luận
rằng các nhà phân tích đã có được thông tin kịp thời hơn từ các nguồn khác.
Một dạng nghiên cứu khác về tính hiệu quả dạng trung bình của thị trường
liên quan đến việc các nhà phân tích chứng khoán có cung cấp những thông tin hữu
ích cho các nhà đầu tư hay không. Lưu ý các thông tin ở đây là các thông tin sẽ
được công bố công khai. Trong nghiên cứu của mình, Cowles (1933) đã đưa ra kết
luận hầu hết các nhà phân tích không cung cấp các thông tin có thể tạo ra lợi nhuận
bất thường. Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu gần đây lại cho thấy bằng chứng về
khả năng dự báo của một bộ phận các nhà phân tích. Chẳng hạn, sau mỗi sự kiện đã
diễn ra, trung bình 2,4% khuyến nghị của nhà phân tích là đối với giao dịch mua
trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, các đề xuất cho giao dịch bán dẫn đến thiệt hại
9,1% tồn tại trong thời gian lâu hơn. Những phản ứng về giá này thường có ý nghĩa
đối với các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ hơn các doanh nghiệp quy mô vốn
lớn. Ngoài ra, các khuyến nghị bán có thể gây ra tốn kém lớn cho các công ty môi
giới, có khả năng làm tổn hại đến các mối quan hệ đầu tư tiềm năng với các ngân
hàng và giảm khả năng tiếp cận các thông tin sau này. Do đó, các khuyến nghị mua
thường vượt trội hơn các khuyến nghị bán vì một khuyến nghị bán không chính xác
có thể gây ra tổn hại nghiêm trọng đối với các nhà phân tích.
Kaplan và Ruback (1995) đã nghiên cứu 51 giao dịch có sử dụng đòn bẩy tài
chính lớn và nhận thấy rằng các phân tích DCF đã cung cấp ước tính về giá trị hơn
so với số nhân dựa trên giá. Phương pháp chiết khấu dòng tiền tự do mà các tác giả
sử dụng được cung cấp bởi các nhà quản lý theo yêu cầu của SEC đối với các giao
dịch cá nhân. Tỉ lệ chiết khấu được tính toán dựa trên mô hình CAPM. Kaplan và
Ruback nhận thấy khoảng từ 95% đến 97% giá trị công ty được giải thích bằng
DCF (dựa trên r bình phương) và chỉ một phần ít được giải thích bằng số nhân dựa
trên giá – số nhân này đóng vai trò bổ sung thêm thông tin hữu ích đối với quá trình
định giá. Ngoài ra, các nhà phân tích có thế cải thiện hiệu quả của phương pháp
26
DCF bằng cách tinh lọc từ mô hình mà các nhà quản lý đã cung cấp. Hệ số r bình
phương cao cho biết thông tin hợp lý đáng tin cậy và kỹ thuật phân tích đều sẵn có
trên thị trường để các nhà đầu tư và các nhà phân tích có thể sử dụng trong việc
định giá công ty.
Lakshmi và Bijan Roy (2013) đã thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để kiểm
tra mối quan hệ giữa chỉ số P/E và lợi nhuận vốn chủ sở hữu trên TTCK Ấn Độ dựa
trên lợi nhuận hàng tháng đạt được được từ cổ phiếu trong thời gian từ tháng 4/2006
đến tháng 6/2012 và do đó để kiểm định sự tồn tại của tính hiệu quả thị trường dạng
trung bình. Bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp của Jensen, Sharpe và
Treynor, đó là mô hình định giá tài sản vốn CAPM để kiểm tra mối quan hệ giữa rủi
ro – lợi nhuận của những danh mục trên và so sánh với mức độ hiệu quả giữa danh
mục gồm các cổ phiếu có P/E thấp và danh mục các cổ phiếu có P/E cao. Nghiên
cứu này cũng kiểm định sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa lợi nhuận của
danh mục cổ phiếu có P/E thấp nhất và P/E cao nhất bằng cách sử dụng một đặc
điểm kỹ thuật khác của CAPM. Những phát hiện của nghiên cứu này đã giải thích
cho tính hiệu quả cao hơn của danh mục cổ phiếu có P/E thấp là do phần bù rủi ro
của những cổ phiếu giá rẻ.
Ahmet Kara và Karen Craft Denning (1998) đã có nghiên cứu thực nghiệm
về tính hiệu quả dạng mạnh của thị trường vốn ở Mỹ, trong đó đưa ra những bằng
chứng về lợi nhuận thu được từ giao dịch nội gián. Tác giả sử dụng xác suất nhị
thức (binominal probabilities) với giả định những người trong nội bộ công ty là sợ
rủi ro và chi phí mua thông tin bằng không. Mô hình cho thấy một thị trường hiệu
quả nơi mà các bên tham gia giao dịch không thể kiếm được lợi nhuận vượt mức
tương xứng với những rủi ro và chi phí giả định, có độ co giãn của lợi nhuận với rủi
ro và chi phí bằng một. Ý tưởng này dẫn đến mô hình hồi quy log tuyến tính để
kiểm định tính hiệu quả dạng mạnh của thị trường. Dữ liệu là các giao dịch mua bán
chứng khoán nội gián do Ủy Ban giao dịch chứng khoán Mỹ SEC lưu trữ và các
giao dịch trên thị trường. Kết quả là giả thiết H0 bị bác bỏ, đồng nghĩa TTCK Mỹ
không có hiệu quả dạng mạnh. Điều này cho thấy khả năng sinh lợi từ các thông tin
27
nội gián mặc dù trên thực tế có 40% các giao dịch này được xem là không đem lại
lợi nhuận cho người nắm giữ thông tin.
Vấn đề khác cần lưu ý liên quan đến tập thông tin ảnh hưởng đến xu thế giá
là việc công bố công khai các thông tin này. Điển hình là nghiên cứu của Ball và
Brown (1968) với việc sử dụng dữ liệu của 261 doanh nghiệp lớn trong thời kỳ
1946-1966 để nghiên cứu các tác động của việc công bố mức thu nhập hàng năm.
Các tác giả sử dụng phần dư từ hồi quy chuỗi thời gian mức thu nhập hàng năm của
doanh nghiệp theo mức thu nhập trung bình của tất cả các doanh nghiệp để phân
loại thu nhập của doanh nghiệp này trong một năm cụ thể là tăng hay giảm so với
thị trường. Kết quả kiểm định cho thấy: (a) Các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh
công bố thấp hơn dự kiến thì giá cổ phiếu giảm liên tục trong suốt giai đoạn trước
thời điểm công bố kết quả kinh doanh; (b) Các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh
công bố cao hơn dự kiến thì giá cổ phiếu tăng liên tục trong suốt giai đoạn trước
thời điểm công bố kết quả kinh doanh; (c) Sau thời điểm công bố kết quả kinh
doanh, hầu như không có sự thay đổi của giá cổ phiếu.
Tương tự, Waud cũng sử dụng phương pháp phân tích phần dư để xem xét
các tác động của việc công bố thay đổi lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Dự Trữ
Liên Bang đối với sự thay đổi của giá. Ở đây, phần dư là độ lệch giữa lợi tức hàng
ngày của Chỉ số S&P 500 với lợi tức hàng ngày bình quân. Waud nhận thấy lợi tức
cổ phiếu có sự điều chỉnh trong ngày giao dịch đầu tiên sau công bố thông tin mặc
dù mức điều chỉnh này khá nhỏ chưa vượt quá 5%. Vì vậy, tác giả đưa ra kết luận
thị trường dự báo được các công bố hoặc thông tin đã bị tiết lộ ra thị trường từ trước
đó. Kết luận này dựa trên khuôn mẫu phi ngẫu nhiên trong dấu của phần dư lợi suất
bình quân vào những ngày ngay trước khi có công bố.
Cũng với phương pháp phân tích phần dư, Scholes đã tiến hành việc áp dụng
phương pháp phân tích phần dư cho một mẫu gồm 696 đợt phát hành cổ phiếu phổ
thông mới trong thời kỳ 1926-1966. Cũng giống như trong nghiên cứu của FFJR về
việc chia cổ phiếu, phần dư bình quân tích lũy tăng lên ở những tháng trước khi bán
chứng khoán mới (cho thấy rằng phát hành mới có xu hướng diễn ra sau những sự
28
kiện tích cực gần đó) nhưng lại vận động ngẫu nhiên trong những tháng sau khi
chào bán (cho thấy rằng thông tin chứa đựng trong đợt phát hành mới tính trung
bình được phản ánh đầy đủ trong giá của tháng chào bán).
Nhìn chung, các kiểm định đối với lý thuyết thị trường hiệu quả dạng trung
bình đều dựa trên những mô hình ước lượng phù hợp với từng mục đích nghiên cứu
trên nguyên tắc tập thông tin trong quá khứ và hiện tại ảnh hưởng đến xu thế giá.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực tế đối với hình thái dạng trung bình này vẫn còn
hạn chế do các khó khăn trong thu thập thông tin cũng như việc kiểm định tính
chính xác của các thông tin công khai này.
2.2.3 Kiểm định tính hiệu quả dạng mạnh
Finnerty (1976) sử dụng mô hình CAPM để định giá mức lợi nhuận bằng
nhau giữa các giao dịch mua bán nội gián các cổ phiếu NYSE từ năm 1969 đến năm
1972. Tác giả nhận thấy rằng các giao dịch mua hoạt động hiệu quả hơn các tiêu
chuẩn của mô hình CAPM, trong khi các giao dịch bán hoạt động kém hiệu quả
hơn. Điều này có nghĩa các danh mục chứng khoán mua có thể đem lại lợi nhuận
bất thường so với các danh mục chứng khoán bán. Eckbo và Smith (1998) sử dụng
phương pháp định giá hiệu quả hoạt động dựa trên dữ liệu tháng về giá trị nắm giữ
cổ phần của các cổ đông nội bộ ở Na Uy từ năm 1985 đến năm 1992 và nhận thấy
các cổ đông này không đạt được thu nhập bất thường, nghĩa là thị trường đạt hiệu
quả dạng mạnh.
Tomasz PoTocki và Tomasz Swist (2012) đã kiểm định tính hiệu quả dạng
mạnh tại TTCK Warsaw, Balan và sử dụng dữ liệu chỉ số WIG20 bao gồm cổ phiếu
của hai mươi công ty lớn nhất có giá trị vốn hóa cao trên TTCK Warsaw với mẫu
nghiên cứu gồm 3.270 lời khuyến nghị được đưa ra từ 1/1/2005 đến ngày 31/3/2010
của 63 tổ chức tài chính. Kết quả cho thấy hầu hết tính hiệu quả dạng mạnh đều
được tìm thấy trong các cổ phiếu thuộc bộ chỉ số WIG20 của TTCK Warsaw.
Del Brio và các cộng sự (2002) cung cấp cái nhìn về giao dịch nội gián trong
nghiên cứu của họ trên dữ liệu TTCK Tây Ban Nha, TTCK Marid (MSE), TTCK
29
khớp lệnh liên tục của Tây Ban Nha (CM) và đưa ra kết luận rằng những người nắm
giữ thông tin nội gián thu được lợi nhuận từ những giao dịch liên quan đến thông tin
này. Các quy định trong khung pháp lý không hạn chế được vấn đề này. Vì vậy, giả
thiết thị trường hiệu quả dạng mạnh bị bác bỏ.
Hillier và Marshall (2002) dựa trên các dữ liệu về giao dịch hàng ngày và
báo cáo các giao dịch của cổ đông nội bộ để kiểm định tính hiệu quả dạng mạnh
trên TTCK Luân Đôn (LSE). Theo Quy tắc giao dịch trên LSE, các cổ đông nội bộ
không được thực hiện bất kỳ giao dịch nào hai tháng trước khi có các công bố báo
cáo về lợi nhuận tạm thời hay chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, những người nắm
giữ thông tin nội gián này vẫn tìm cách xoay xở để tránh các quy định này nhằm thu
được lợi nhuận bất thường. Vì vậy, nghiên cứu cho thấy không tồn tại tính hiệu quả
dạng mạnh trên TTCK Luân Đôn.
Brown và Walter (1982) cũng đã có nghiên cứu về tính hiệu quả dạng mạnh
trên TTCK Úc bằng phương pháp so sánh thu nhập của 652 khoản đầu tư cá nhân
được tư vấn bởi các chuyên gia từ năm 1973 đến năm 1989 với thu nhập trên thị
trường. Kết quả là các khoản đầu tư này sau khi trừ các chi phí vẫn đem lại lợi
nhuận cao cho các nhà đầu tư. Do đó, giả thiết về thị trường hiệu quả dạng mạnh
cũng bị bác bỏ.
Như vậy, có thể thấy có rất nhiều nghiên cứu ủng hộ mạnh mẽ cho lý thuyết
thị trường hiệu quả. Nhưng trên thực tế, bằng nhiều phương pháp kiểm định khác
nhau, lý thuyết này chỉ mới được phát hiện tồn tại ở một số TTCK đã phát triển
cũng như ở một số ít các TTCK mới nổi đang phát triển ở dạng yếu và dạng trung
bình. Đối với thị trường hiệu quả dạng mạnh, rất khó tìm thấy dấu hiệu ủng hộ cho
hình thái dạng này ngoại trừ một số các nghiên cứu tại các quỹ tương hỗ, cho thấy
hình thái hiệu quả ở mức cao nhất, hoàn hảo nhất này khó tồn tại trên thực tế hoạt
động của các TTCK thế giới.
30
2.3 Một số giải thích cho thị trường không hiệu quả
Trên thị trường chứng khoán phát triển, mặc dù có nhiều các bằng chứng có
thể chứng minh rằng thị trường là hiệu quả, nhưng cũng có một số trường hợp đặc
biệt vẫn có thể tìm thấy trong thực tế để chứng minh rằng thị trường không hiệu
quả. Chúng ta hãy xem xét một số trường hợp như sau:
- Ảnh hưởng theo ngày nghỉ
Đây là một ảnh hưởng nhỏ, chưa thể giải thích rõ ràng nhưng lại rất có ý
nghĩa về mặt thống kê. Qua thống kê, người ta nhận thấy rằng giá cổ phiếu có
khuynh hướng giảm vào ngày thứ sáu cuối tuần và vào phiên giao dịch của sáng thứ
hai đầu tuần. Chính vì hiện tượng này gắn liền với giá mở cửa ngày thứ hai nên tên
gọi được đặt là ảnh hưởng của ngày nghỉ.
Mặc dù cho đến nay vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng cho hiện tượng này,
nhưng một lý do có thể đưa ra là những tin tức xấu có thể thường xuất hiện vào cuối
tuần. Tuy nhiên, sau khi trừ chi phí giao dịch, lợi nhuận thu được từ ảnh hưởng này
hầu như không đáng kể vì giá của cổ phiếu chênh lệch rất thấp.
Chiến lược kinh doanh được đề xuất là nắm giữ cổ phiếu từ chiều thứ hai cho
đến chiều thứ năm. Khoản tiền thu được do bán cổ phiếu chiều thứ năm được tiếp
tục đầu tư trên thị trường tiền tệ trong thời gian nghỉ.
- Ảnh hưởng của tháng giêng
Số lượng thống kê cho thấy thu nhập của cổ phiếu trong tháng giêng thì cao
hơn các tháng khác trong năm. Người ta chưa đưa ra một lý do nào cho vấn đề này.
Một giải thích được đưa ra là các nhà đầu tư muốn bán những chứng khoán bị giảm
giá vào cuối năm để khấu trừ vào thuế trước khi kết thúc năm tài khóa.
Những nhà đầu tư này chưa sử dụng ngay số tiền thu được từ việc bán các cổ
phiếu trên để mua cổ phiếu mới cho tới tận đầu năm sau. Tại thời điểm đầu năm
mới, sức ép cho nhu cầu của việc mua vào cổ phiếu đã tạo ra hiện tượng tăng giá
chứng khoán. Do vậy nếu ai đó mua chứng khoán vào cuối năm và bán chúng vào
đầu năm sau sẽ thu được khoản lợi tức cao hơn, hiện tượng này được gọi là ảnh
hưởng của tháng giêng.
31
- Ảnh hưởng của các công ty nhỏ
Các nghiên cứu nhận thấy rằng đầu tư vào các công ty nhỏ thường cho lợi
suất lớn hơn các công ty lớn. Người ta nhận thấy rằng ảnh hưởng của các công ty
nhỏ và ảnh hưởng của tháng giêng có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Lợi suất phụ trội
trong tháng giêng lại thường xuyên xuất hiện đối với các công ty nhỏ.
Hiện tượng này được giải thích như sau:
• Các công ty nhỏ ít được các nhà phân tích chuyên nghiệp chú ý. Chính
điều này làm cho một số nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận khi khám
phá và khai thác những tin tức có lợi.
• Các công ty nhỏ thường có độ rủi ro cao hơn các công ty lớn. Những nhà
đầu tư tham gia cuộc chơi với loại cổ phiếu này cũng là những người
dám chấp nhận rủi ro hơn và lẽ dĩ nhiên lợi nhuận thu được phải cao hơn
để bù đắp rủi ro này.
Sơ lược về TTCK Việt Nam 2.4
Ngày 11/07/1998, với Nghị định số 48/CP về Chứng khoán và Thị trường
chứng khoán, Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức được khai sinh với sự
ra đời và phát triển của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán (nay là Sở giao dịch
chứng khoán):
- Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (HOSE) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hai
năm sau, vào ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên với 2 mã cổ phiếu niêm yết
đã chính thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử của TTCK Việt Nam.
- Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo Quyết
định số 127/1998/QĐ-TTg và khai trương hoạt động vào ngày 08/03/2005. Ngày
24/06/2009, SGDCK Hà Nội chính thức ra mắt theo Quyết định số 01/2009/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao
32
dịch chứng khoán Hà Nội, hoạt động với mô hình Công ty TNHH một thành viên
do Nhà nước (đại diện là Bộ Tài chính) làm chủ sở hữu.
Các dấu mốc lịch sử trong sự phát triển của TTCK Việt Nam:
- Giai đoạn năm 2000 – 2006
Đây là giai đoạn được xem là giai đoạn khởi động của TTCK. Trong giai
đoạn này quy mô của thị trường còn nhỏ với giá trị vốn hóa nhỏ hơn 5% GDP. Bên
cạnh đó, cơ chế hoạt động của thị trường chưa hoàn chỉnh, năng lực quản lý của thị
trường chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài của thị trường, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật còn yếu đã làm ảnh hưởng đến hệ thống giao dịch, khả năng cập nhật thông
tin, xử lý và dự báo của thị trường. TTCK trong giai đoạn này không thu hút được
sự quan tâm của đông đảo công chúng, diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo
ra tác động lớn để có thể ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới
cuộc sống của mỗi người dân.
Năm 2006 đánh dấu bước phát triển vượt bậc của TTCK Việt Nam với chỉ số
VN-Index tại sàn HOSE tăng 144%, chỉ số HASTC tại sàn HNX tăng 152,4%.
Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỷ USD cuối năm 2006, chiếm 22,7% GDP. Tổng khối
lượng giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC) gấp 6 lần so với trên thị trường
HASTC. Số công ty niêm yết đạt mức 193 công ty, gấp 5 lần so với năm 2005 với
số tài khoản giao dịch gấp 30 lần so với năm 2000 với hơn 10.000 tài khoản. Tính
đến cuối năm, TTGDCK TP.HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ
quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ
đồng. Còn tại TTGDCK Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ
phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn
tỷ đồng. Chỉ trong vòng 1 năm, chỉ số VN-Index đã tăng từ 300 điểm vào cuối năm
2005 lên đến 800 điểm vào cuối năm 2006.
- Giai đoạn năm 2007 – đầu năm 2009
Đầu năm 2007 với sự ra đời của Luật Chứng khoán có hiệu lực vào ngày
2/1/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội
nhập của thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức
33
niêm yết cũng được cải thiện và tăng cường. TTCK Việt Nam phát triển mạnh nhất
vào đầu tháng 3/2007 khi VN-Index đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm và HASTC
Index cũng chinh phục mức đỉnh là 459,36 điểm. Nhưng sau đó từ tháng 4/2007,
các chỉ số của thị trường đều giảm sút mạnh so với đầu năm. Kết thúc phiên giao
dịch cuối năm, VN-Index chỉ còn ở mức 927,02 điểm, còn HASTC-Index duy trì ở
mức 323,55 điểm.
Tính đến ngày 31/12/2008, mức vốn hóa thị trường của cổ phiếu đạt khoảng
50.428 tỷ đồng tại sàn Hà Nội và khoảng 169.346 tỷ đồng tại SGDCK TP.HCM,
chiếm 14,86% GDP. Hiện nay, mức vốn hóa thị trường giảm chủ yếu do các chứng
khoán giảm giá mạnh VN-Index đóng cửa vào ngày 31/12/2008 là 315,62 điểm
giảm 73,04% so với đỉnh của VN-Index (giá đóng cửa ngày 12/3/2007 với 1.170,67
điểm) và giảm 65,73% so với ngày đầu năm 2008.
- Giai đoạn từ năm 2009 - 2013
Năm 2009, dù kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng là một năm đánh dấu bước
phát triển mạnh mẽ của TTCK Việt Nam. Cả hai chỉ số VN-Index và HNX-Index
đã phục hồi mạnh trên 50%. Số lượng công ty mới niêm yết tăng vọt, trong đó
nhiều doanh nghiệp lớn được niêm yết trên sàn. Trung tâm giao dịch chứng khoán
Hà Nội chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán và sàn UPCoM được thành lập.
Năm 2009, sau lần chạm đáy 235 điểm hồi tháng 2, VN-Index quay đầu đảo
chiều và tăng một mạch vượt 500 điểm vào tháng 9. Đỉnh cao nhất VN-Index xác
lập trong năm này là 624,1 điểm, khối lượng giao dịch toàn phiên gần 100 triệu cổ
phiếu, trị giá 4.960 tỷ đồng.
Tuy nhiên, từ năm 2010 đến năm 2012, những bất ổn về vĩ mô như lạm phát,
lãi vay và chi phí đầu vào ở mức cao nhất trong nhiều năm trước đó, cộng thêm tín
dụng bị thắt chặt làm cho kết quả kinh doanh các doanh nghiệp không mấy khả
quan, dòng tiền đổ vào chứng khoán giảm và giá cổ phiếu liên tục đi xuống khiến
nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường.
Sang năm 2013, thị trường chứng khoán như được thổi làn gió mới sau thời
gian dài chìm trong sắc đỏ. Hàng loạt chính sách vĩ mô được Chính phủ ban hành
34
nhằm cải thiện tìn hình kinh tế tác động không nhỏ đến tâm lý các nhà đầu tư như
nới room khối ngoại, tăng biên độ giao dịch hay VAMC, gói kích thích 30.000 tỷ
đồng. VN-Index có bước tăng nhanh hơn dự báo của giới chuyên gia khi xuất hiện
nhiều giao dịch bùng nổ, có phiên khớp lệnh tới cả trăm triệu cổ phiếu.
Năm
2000
2005
2010
2011
2012
6T 2013
1.247
9.356
723.200
538.791
764.946
924.338
Vốn hóa thị trường (tỷ đồng)
0,28% 1,11%
39%
23%
26%
31%
Vốn hóa/GDP
1.239
1.232
1.168
41
5
Số lượng chứng khoán niêm yết
2.5
1.239
1.232
1.168
41
5
+ Cổ phiếu
2.6
5
5
6
5
0
+ Chứng chỉ quỹ
2.7
670
512
528
474
0
+ Trái phiếu
2.8
Giá trị giao dịch bq một phiên (tỷ
1,4
108,9
2.851,5
1.491
2.158
2.962
đồng)
5.387
98.721
99.115
188.516
159.000
0
Huy động vốn (tỷ đồng)
Giá trị DM đầu tư gián tiếp nước
3,2
6,5
6,5
8,1
10,5
0
ngoài (tỷ USD)
15
105
105
105
105
7
Số lượng CTCK
724
257
31.906
35.500
36.901
36.547
Vốn điều lệ các CTCK (tỷ đồng)
5
47
47
47
47
0
Số lượng công ty quản lý quỹ
2
22
25
22
18
0
Số lượng quỹ
2.997 31.316 1.056.027 1.156.243 1.239.833 1.257.505
Số lượng tài khoản nhà đầu tư
Bảng 2-1: Các tiêu chí cơ bản của TTCK Việt Nam sau 13 năm hoạt động
12/2005 12/2006 12/2007 12/2008 12/2009 12/2010 12/2011 12/2012
6/2013
HOSE
0,49
2,59
8,10
12,72
45,47
47,04
33,71
56,13
65,69
KLGD bq/ngày (triệu CP)
102,65 1.442,28 2.906,99
514,33 1.703,47 1.513,85
650,04
877,93 1.086,89
GTGD bq/ngày (tỷ đồng)
28
86
123
155
203
279
309
314
309
Số lượng DNNY
0,74
157,97
364,43
169,35
494,07
591,35
457,82
655,79
804,99
Vốn hóa (nghìn tỷ đồng)
35
12/2005 12/2006 12/2007 12/2008 12/2009 12/2010 12/2011 12/2012
6/2013
HNX
0,01
0,13
2,45
6,05
22,21
34,62
31,98
48,19
54,03
KLGD bq/ngày (triệu CP)
0,21
16,29
252,39
223,83
896,69
955,37
385,92
438,92
419,92
GTGD bq/ngày (tỷ đồng)
13
101
128
184
259
356
393
396
387
Số lượng DNNY
n.a
73,19
129,00
50,43
125,45
143,58
87,97
85,87
98,50
Vốn hóa (nghìn tỷ đồng)
Bảng 2-2: Các tiêu chí cơ bản của TTCK Việt Nam từ năm 2005 đến nửa đầu năm 2013
Index
KLGD
1400
160
140
1200
120
1000
100
800
80
Chỉ số VN-Index từ 28/7/2000 đến 13/11/2013
x e d n I
) u ế i h p ổ c u ệ i r t (
600
60
400
40
D G L K
200
20
0
0
Biểu đồ 2-1: Giá đóng cửa và khối lượng giao dịch của chỉ số VN-Index giai đoạn từ năm 2000 đến 2013
36
500
200
Index
KLGD
450
180
400
160
350
140
300
120
250
100
Chỉ số HNX-Index từ 28/7/2005 đến 13/11/2013
x e d n I
) u ế i h p ổ c u ệ i r T
200
80
(
150
60
100
40
D G L K
50
20
0
-
Biểu đồ 2-2: Giá đóng cửa và khối lượng giao dịch của chỉ số HNX-Index giai đoạn từ năm 2005 đến 2013
37
CHƯƠNG 3:
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Bài nghiên cứu sử dụng các phần mềm phân tích dữ liệu IBM SPSS Statistics
phiên bản 20 (SPSS), Excel 2010 để chạy mô hình kiểm định đoạn mạch (Runs
Test) với bộ dữ liệu thời gian được tổng hợp trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm
2013 đối với chỉ số VN-Index và từ năm 2005 đến năm 2013 đối với chỉ số HNX-
Index trên TTCK Việt Nam.
3.1 Thiết kế nghiên cứu
3.1.1 Chọn mẫu và thu thập dữ liệu
Việc chọn mẫu dữ liệu thời gian được căn cứ trên mốc thời gian hoạt động
của SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội từ ngày đầu tiên cho đến nay. Xét thấy
với khoảng thời gian khảo sát tương đối dài, do vậy việc đánh giá tính hiệu quả
dạng yếu của các thị trường liên tục trong suốt thời gian này có thể khiến kết quả
kiểm định không phản ánh được chính xác thực trạng của TTCK Việt Nam dưới sự
tác động của khủng hoảng, của những biến cố thăng trầm ở trong nước nói riêng và
của thị trường chứng khoán thế giới nói chung. Vì vậy, việc phân chia thời gian
khảo sát thành các giai đoạn nhỏ mang ý nghĩa đánh giá chính xác và đầy đủ tính
chất của thị trường qua từng thời kỳ nhằm đem lại cái nhìn toàn diện về tính hiệu
quả về mặt thông tin. Thị trường chứng khoán luôn có mối quan hệ mật thiết với
nền kinh tế và đều chịu ảnh hưởng bởi những biến động kinh tế tài chính thế giới.
Điểm qua các mốc sự kiện đáng chú ý từ năm 2000 đến 2013, có thể thấy từ sau
năm 2000, kinh tế thế giới xuất hiện hiện tượng bong bóng, với những thiệt hại
nặng nề nhất đối với các ngành nghề, đặc biệt là từ sau sự kiện 11/9, giá dầu thế
giới càng giảm mạnh hơn và ghi nhận một lần điều chỉnh mạnh mẽ của thị trường
chứng khoán. Đến năm 2003, kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi lại, một số khu vực
đạt tỷ lệ tăng trưởng khá. Năm 2007 chứng kiến giá dầu và giá vàng tăng kỷ lục,
38
đồng USD mất giá nghiêm trọng. Nhiều nước có dự trữ ngoại tệ lớn bằng USD và
các nước xuất khẩu dầu mỏ thuộc OPEC phải tính đến khả năng chuyển dần sang sử
dụng các ngoại tệ mạnh khác để tính giá dầu. Giá dầu cao và nguy cơ cạn kiệt
nguồn nhiên liệu đã làm bùng lên những bất ổn tiềm ẩn với các cuộc tranh chấp
giữa các cường quốc về chủ quyền và là tiền đề dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính
lan rộng vào năm 2008. Khủng hoảng khởi đầu từ thị trường bất động sản ở Mỹ,
nhanh chóng lan rộng sang nhiều nước, nhiều khu vực, cùng với khủng hoảng giá
lương thực, biến động giá dầu… đã đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc khủng hoảng
tài chính trầm trọng nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 và đẩy nền kinh tế
thế giới vào suy thoái kéo dài cho đến khi có dấu hiệu hồi phục vào gần cuối năm
2009.
Kết hợp với các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam từ ngày đầu còn
hoạt động sơ khai đến các giai đoạn thăng trầm trong và sau cuộc khủng hoảng, tác
giả đã chia thời gian khảo sát thành những phân đoạn nhỏ cụ thể như sau:
- Giai đoạn tổng quát: từ 28/7/2000 đến 13/11/2013 đối với chỉ số VN-Index
và từ 18/7/2005 đến 13/11/2013 đối với chỉ số HNX-Index.
- Giai đoạn 1: từ 28/7/2000 đến 29/12/2006 đối với chỉ số VN-Index và từ
18/7/2005 đến 29/12/2006 đối với chỉ số HNX-Index.
- Giai đoạn 2: từ 2/1/2007 đến 31/3/2009 đối với cả hai chỉ số VN-Index và
chỉ số HNX-Index.
- Giai đoạn 3: từ 1/4/2009 đến 13/11/2013 đối với cả hai chỉ số VN-Index và
chỉ số HNX-Index.
Dữ liệu quan sát là chỉ số giá đóng cửa hàng ngày của thị trường thể hiện qua
các chỉ số VN-Index từ ngày 28/7/2000 đến ngày 13/11/2013 và từ ngày 18/7/2005
đến ngày 13/11/2013 đối với chỉ số HNX-Index. Do đó số lượng mẫu được xét
trong toàn bộ thời gian khảo sát cũng như trong giai đoạn 1 có sự khác nhau tương
đối tùy thuộc vào thời gian hoạt động thực tế của hai SGDCK, cụ thể như sau:
39
GĐ
Giai đoạn tổng quát
Giai đoạn 1
Giai đoạn 2
Giai đoạn 3
VN-
HNX-
VN-
HNX-
VN-
HNX-
VN-
HNX-
Chỉ số
Index
Index
Index
Index
Index
Index
Index
Index
Thời
28/7/2000-
18/7/2005-
28/7/2000-
18/7/2005-
2/1/2007-
1/4/2009-
gian
13/11/2013
13/11/2013
29/12/2006
29/12/2006
31/3/2009
13/11/2013
khảo
sát
Số mẫu
3.151
1.992
1.443
281
551
554
1.157
quan
sát
Bảng 3-1: Tổng hợp giai đoạn khảo sát và số mẫu nghiên cứu
Các dữ liệu trên được truy xuất từ các website chính thức của Sở giao dịch
chứng khoán TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
3.1.2 Phương pháp nghiên cứu
Các bước phân tích định lượng được thực hiện theo trình tự như sau:
- Bước 1: sử dụng chuỗi dữ liệu giá đóng cửa hàng ngày để tính tỷ suất sinh lợi của thị trường theo công thức: Rt = log(Pt) – log(Pt-1) = log(Pt/Pt-1) 2
Trong đó: Pt là giá đóng cửa ở thời điểm t và Pt-1 là giá đóng cửa tại thời
điểm t-1.
Có nhiều lý do sử dụng log cơ số tự nhiên cho giá thay vì chỉ theo dõi sự
biến động của giá thuần túy. Chứng minh cho lập luận này như sau:
Pt+1/Pt = exp(loge(Pt+1/Pt))
Pt+1 = Pt exp(loge(Pt+1/Pt))
2 Theo Trương Đông Lộc, 2008. Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả ở mức độ yếu cho thị trường
chứng khoán Việt Nam: trường hợp Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế,
số 356, trang 36
= Pt exp(logePt+1 - logePt))
40
Thứ nhất, sự thay đổi theo log của giá chính là lợi tức với lãi suất kép được
tính từ ngày nắm giữ một loại chứng khoán. Thứ hai, Moore (1962) cũng đã chỉ ra
rằng sự đa dạng trong thay đổi giá đơn thuần của một cổ phiếu bất kỳ chỉ là một
chức năng gia tăng trong mức cân bằng giá của cổ phiếu đó. Nghiên cứu của ông
cho rằng việc lấy hàm logarit đã khử được hầu hết các tác động của mức cân bằng
giá. Thứ ba, đối với những thay đổi nhỏ hơn +- 15% thay đổi của log giá thì có vẻ
rất gần với sự thay đổi của giá, vì vậy điều này thuận tiện hơn cho việc xem xét chuỗi dữ liệu ở khía cạnh % thay đổi của giá.3
- Bước 2: kiểm định dữ liệu tỷ suất sinh lợi của từng chỉ số chứng khoán trong
giai đoạn tổng quát.
- Bước 3: kiểm định dữ liệu tỷ suất sinh lợi của từng chỉ số chứng khoán qua
ba giai đoạn.
Ở bước 2 và bước 3, việc kiểm định dữ liệu được thực hiện bằng các thông
qua các phương pháp và mô hình Kiểm định đoạn mạch (Runs test) nhằm kiểm tra
sự độc lập về thời gian của chuỗi lợi tức được quan sát.
Mô hình kiểm định đoạn mạch là một trong những phương pháp phổ biến
nhất để kiểm định bước đi ngẫu nhiên hay tính hiệu quả dạng yếu của thị trường. Vì
mô hình này kiểm định mối quan hệ tương quan của các chuỗi dữ liệu trong quá
khứ nên phù hợp để kiểm định tính hiệu quả dạng yếu.
Theo lý luận về tính chất, đặc điểm của các thị trường có tính hiệu quả ở
những mức độ cao hơn, cũng như thông qua các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy
hình thái dạng vừa và mạnh chỉ tồn tại ở những thị trường đã phát triển hay các quỹ
tương hỗ lớn tại Châu Âu, Châu Mỹ. Đối với những thị trường còn non trẻ như
TTCK Việt Nam mang những đặc điểm như quy mô vốn nhỏ, mức độ giao dịch
thấp, độ biến động cao và mức độ mở cửa còn hạn chế thì khó có thể đạt đến mức
hiệu quả ở các dạng này. Vì vậy, trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả chỉ xét
3 Theo Eugene F. Fama, 1965. The behavior of Stock-Market Prices. Page.45-46
về tính hiệu quả dạng yếu của TTCK Việt Nam với phương pháp kiểm định đoạn
41
mạch nhằm kiểm định tính ngẫu nhiên của các chuỗi tỷ suất lợi nhuận, hay chuỗi
tuân theo “bước đi ngẫu nhiên”. Sau đó, từ kết quả nghiên cứu sẽ đưa đánh giá khả
năng hiệu quả của thị trường Việt Nam ở các mức độ cao hơn.
3.2 Phương pháp kiểm định đoạn mạch (Runs Test)
Kiểm định đoạn mạch là một phép kiểm định thống kê giúp ta xác định xem
có thể coi một dãy các ký hiệu, các khoản mục, các số liệu có phải là kết quả của
một quá trình mang tính ngẫu nhiên hay không. Giả định về tính chuẩn tắc trong
phân phối được bỏ qua khi sử dụng phương pháp này. Vì vậy, đây là một phương
pháp kiểm định tính ngẫu nhiên của dãy số theo thời gian hay tính độc lập của
những thay đổi liên tiếp của giá; và trong phạm vi của bài nghiên cứu này, đó là
chuỗi chỉ số của thị trường nhằm kiểm tra tính ngẫu nhiên trong chuỗi lợi nhuận của
các cổ phiếu trên thị trường. Qua đó, tác giả có cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ giả
thuyết thị trường hiệu quả trên TTCK được xét. Kiểm định đoạn mạch hay chuỗi sẽ
giúp kiểm định giả thuyết rằng dãy số có phải là ngẫu nhiên hay không. Với yêu cầu
lý thuyết thị trường hiệu quả, phương pháp này khá phù hợp và thường được áp
dụng để kiểm tra thị trường có phải hiệu quả ở cấp độ yếu không.
Để chứng minh một TTCK là hiệu quả thì tác giả phải kiểm định được sự
không phụ thuộc của giá cổ phiếu tương lai với giá cổ phiếu trong quá khứ, cũng
như không phụ thuộc vào yếu tố mùa vụ như thời điểm giữa các tuần hay các ngày
trong tuần.
Quan sát một dãy các chỉ số chứng khoán kế tiếp nhau, ta có thể thấy lợi
nhuận mỗi thời điểm sẽ có ba khả năng: tăng, không đổi, hoặc giảm. Từ đây xuất
hiện chuỗi các quan sát giống nhau xảy ra liên tiếp hay còn gọi là đoạn mạch. Giả
thiết H0 trong kiểm định đoạn mạch là chuỗi được quan sát là chuỗi ngẫu nhiên.
Một đoạn mạch được Siegel (1956) định nghĩa là “một chuỗi liên tiếp của những
dấu hiệu giống nhau được theo sau hoặc tiếp nối bằng những dấu hiệu khác hoặc
không có dấu hiệu nào cả”. Có nghĩa là một đoạn mạch là một dãy các phần từ
42
giống nhau mà ở sát trước và sát sau là các phần tử khác chúng hoặc không có phần
tử nào. Chiều dài của một đoạn mạch là số phần tử của nó.
Theo Fama (1965), kiểm định đoạn mạch có thể được thực hiện thông qua
các phương pháp kiểm định đoạn mạch tăng hoặc giảm, phương pháp kiểm định
đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn. Bài nghiên cứu ở đây sử dụng hai phương
pháp này để kiểm định về tính ngẫu nhiên của chuỗi chỉ số VN-Index và HNX-
Index.
3.2.1 Đoạn mạch tăng hoặc giảm
Ví dụ ta có chuỗi chỉ số VN-Index từ ngày 26/06/2003 đến ngày 15/07/2003
như sau:
VN-Index Chuỗi
Tăng
Giảm
Tăng
Tăng Giảm
Tăng
Giảm Ngày 27/06/2003 30/06/2003 01/07/2003 02/07/2003 03/07/2003 04/07/2003 07/07/2003 08/07/2003 09/07/2003 10/07/2003 11/07/2003 14/07/2003 15/07/2003 152 152,27 152,62 151,68 151,84 152,18 152,18 Không đổi 152,26 151,10 151,20 151,22 150,81 150,59
Bảng 3-2: Chuỗi VN-Index từ ngày 26/06/2003 đến 15/07/2003
Với các ngày có chỉ số VN-Index tăng liên tục ta xem là một đoạn mạch tăng
(+), các ngày chỉ số giảm liên tục được xem là một đoạn mạch giảm (-) và các ngày
không đổi kề nhau là các đoạn mạch không đổi. Đoạn mạch có chiều dài i là đoạn
mạch có i phần tử liên tiếp tăng, giảm hoặc không đổi. Như vậy ở đây ta có 8 đoạn
mạch (+,-,+,0,+,-,+,-) với chiều dài tương ứng của từng đoạn mạch là
(3,1,2,1,1,1,2,2).
43
Phương pháp đoạn mạch tăng hoặc giảm nhằm kiểm định liệu khuynh hướng
chuyển động của một quan sát có tác động đến khuynh hướng hiện tại của những
quan sát trước đó hay không. Kiểm định đoạn mạch nhằm tính toán và so sánh số
đoạn mạch thực tế với số đoạn mạch kỳ vọng theo giả thiết giá cả biến động một
cách ngẫu nhiên và độc lập. Nếu chuỗi số liệu là ngẫu nhiên, điều này chứng tỏ thị
trường đang quan sát có hiệu quả về mặt thông tin. Ngược lại, nếu chuỗi không
ngẫu nhiên, nghĩa là sự biến động về lợi nhuận có tương quan với nhau thì ta sẽ có
cơ sở để bác bỏ giả thiết H0.
3
2 𝐸𝐸(𝑁𝑁) = �𝑁𝑁(𝑁𝑁 + 1) − � 𝑛𝑛𝑖𝑖
Ta có kỳ vọng số đoạn mạch E(N) như sau:
𝑖𝑖=1
� /𝑁𝑁 Trong đó N là tổng số đoạn mạch và ni là số đoạn mạch có các quan sát
dương, âm hoặc không đổi.
3
2� 1
3 𝑖𝑖=1
Và sai số chuẩn :
2
3 2 3 [∑ 𝑛𝑛𝑖𝑖 𝑖𝑖=1 + 𝑁𝑁(𝑁𝑁 + 1)] − 2𝑁𝑁 ∑ 𝑛𝑛𝑖𝑖 (𝑁𝑁 − 1)
− 𝑁𝑁 𝜎𝜎 3 2 ∑ 𝑛𝑛𝑖𝑖 𝑖𝑖=1 � 𝜎𝜎 = � 𝑁𝑁
Vì vậy, sự khác biệt giữa số đoạn mạch thực tế và số đoạn mạch kỳ vọng
có thể được thể hiện trong biến chuẩn hóa như sau: 𝑅𝑅
𝑚𝑚 𝑍𝑍
1
2
� − 𝑚𝑚 �𝑅𝑅 + 𝑍𝑍 = Trong đó là hệ số điều chỉnh liên tục. Với các mẫu quan sát lớn, Z xấp xỉ 1 2 𝜎𝜎𝑚𝑚
phân phối chuẩn với kỳ vọng 0 và phương sai 1: Z ~ (0,1). Khi sự khác biệt là có ý
nghĩa thì lợi nhuận hàng ngày là không ngẫu nhiên và các nhà đầu tư có cơ hội đạt
được lợi nhuận vượt trội. Nếu số đoạn mạch thực tế thấp hơn nhiều so với kỳ vọng,
điều này cho thấy phản ứng của thị trường trước các thông tin với một độ trễ nào
đó.
44
Giả thiết H0 cần kiểm định ở đây là chuỗi quan sát về lợi nhuận theo ngày
của chỉ số VN-Index và HNX-Index là ngẫu nhiên.
H0:
H1:
Giá trị thống kê Z được so sánh với Zα/2: 𝜎𝜎𝑚𝑚 = 0 𝜎𝜎𝑚𝑚 ≠ 0
H0 bị bác bỏ nếu |Z| > Zα/2
Khi số đoạn mạch thực tế quá lớn hoặc quá nhỏ so với số đoạn mạch được kỳ
vọng đều sẽ không rơi vào phạm vi H0 được chấp nhận. Tức là dãy số biến động
không theo ngẫu nhiên mà có sự phụ thuộc giữa các quan sát với nhau. Vì vậy, giả
thuyết về thị trường hiệu quả cũng không được chấp nhận trên TTCK Việt Nam.
3.2.2 Đoạn mạch trên hoặc dưới điểm chặn
Ở phương pháp này, số đoạn mạch được đếm dựa trên sự thay đổi lớn hơn
hoặc nhỏ hơn của chuỗi quan sát so với một điểm chặn, đó có thể là giá trị trung
bình (mean), trung vị (median), mode hoặc bất kỳ giá trị nào được chọn. Mỗi quan
sát được phân loại là trên (+) hoặc dưới (–) tùy thuộc vào sự so sánh giữa quan sát
đó với điểm chặn (đối với trường hợp giá trị quan sát bằng với điểm chặn, chương
trình SPSS sẽ mặc định là +). Sau khi phân loại các quan sát, ta có số đoạn mạch
trên (+) hoặc dưới (–) điểm chặn tương ứng. Công thức tính giá trị điểm chặn, số
đoạn mạch và mức ý nghĩa như sau:
- Giá trị điểm chặn:
𝑁𝑁
Nếu điểm chặn là giá trị trung bình:
𝑖𝑖=1
/𝑁𝑁 𝑀𝑀𝑀𝑀𝑀𝑀𝑛𝑛 = � 𝑋𝑋𝑖𝑖 Nếu điểm chặn là giá trị trung vị: