BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM ---------------------- TRẦN TÚ TRINH THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – ngân hàng Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.TRƯƠNG THỊ HỒNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục các hình
Mở đầu
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT .................................. 1
1.1 Tổng quát về lạm phát ......................................................................... 1
1.1.1 Khái niệm lạm phát........................................................................... 1
1.1.2 Phân loại lạm phát: ........................................................................... 2
1.1.2.1 Thiểu phát ................................................................................. 2
1.1.2.2 Lạm phát vừa phải .................................................................... 2
1.1.2.3 Lạm phát cao (lạm phát phi mã) ............................................... 3
1.1.2.4 Siêu lạm phát ............................................................................ 3
1.1.3 Vai trò của lạm phát đối với nền kinh tế .......................................... 4
1.1.3.1 Tác động đến lĩnh vực sản xuất ................................................ 4
1.1.3.2 Đối với lĩnh vực lưu thông ....................................................... 5
1.1.3.3 Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ............................................. 5
1.1.3.4 Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của Nhà
nước .............................................................................................................. 6
1.2 Nguyên nhân lạm phát ......................................................................... 6
1.2.1 Lạm phát do cầu kéo ......................................................................... 6
1.2.2 Lạm phát do cầu thay đổi ................................................................. 7
1.2.3 Lạm phát do chi phí đẩy ................................................................... 7
1.2.4 Lạm phát do yếu tố tiền tệ ................................................................ 8
1.2.5 Lạm phát do cơ cấu........................................................................... 8
1.2.6 Lạm phát sinh ra lạm phát ................................................................ 9
1.3 Đo lƣờng lạm phát ................................................................................ 9
1.3.1 Các loại hàng hóa trong rổ hàng hóa dùng để tính CPI tại Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................ 10
1.3.2 Cách đo lường lạm phát ở Việt Nam thông qua chỉ số giá tiêu dùng
...................................................................................................................... 10
1.4 Lý thuyết về kiềm chế lạm phát .......................................................... 12
1.4.1 Chính sách tài khóa........................................................................... 12
1.4.2 Chính sách tiền tệ ............................................................................. 13
1.4.3 Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa .......................... 14
1.5 Kinh nghiệm về việc kiềm chế lạm phát ở một số nƣớc trong khu vực
Châu Á ......................................................................................................... 15
1.5.1 Các biện pháp kiềm chế lạm phát ở các nước .................................. 15
1.5.2 Các bài học kinh nghiệm .................................................................. 17
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................... 19
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2011 .................................................... 20
2.1 Thực trạng lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011 .................... 20
2.1.1 Diễn biến lạm phát qua các năm....................................................... 20
2.1.2 Tổng sản phẩm trong nước ............................................................... 22
2.1.3 Thu chi ngân sách nhà nước ............................................................. 23
2.1.4 Xuất nhập khẩu ................................................................................. 25
2.1.5 Đầu tư phát triển ............................................................................... 29
2.1.6 Thất nghiệp ....................................................................................... 30
2.1.7 Thị trường chứng khoán ................................................................... 31
2.1.8 Thị trường bất động sản .................................................................... 33
2.2 Các giải pháp Chính phủ đã áp dụng để kiềm chế lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn 2007 – 2011 ........................................................................ 33
2.3 Đánh giá tác động của các biện pháp kiềm chế lạm phát ................ 42
2.4 Phân tích nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát ở Việt Nam giai
đoạn 2007 – 2011 ........................................................................................ 48
2.4.1 Lạm phát do cầu kéo ......................................................................... 48
2.4.1.1 Các biện pháp kích cầu của Chính phủ .................................... 48
2.4.1.2 Bội chi ngân sách thường xuyên qua các năm ......................... 49
2.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy ................................................................... 52
2.4.2.1 Thâm hụt cán cân thương mại cao dẫn đến hiện tượng nhập
khẩu lạm phát từ nước ngoài ........................................................................ 52
2.4.2.2 Giá cả tăng cao ......................................................................... 54
2.4.3 Lạm phát do yếu tố tiền tệ ................................................................ 55
2.4.3.1 Tăng trưởng cung tiền cao ........................................................ 55
2.4.3.2 Sự bất ổn trong quy mô vốn, quan hệ sở hữu và trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng ............................................................................... 56
2.4.3.3 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới ............... 60
2.4.4 Lạm phát sinh ra lạm phát hay còn gọi là kỳ vọng lạm phát của thị
trường ........................................................................................................... 61
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................... 63
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TẠI VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................. 64
3.1 Định hƣớng phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay đến năm
2015 .............................................................................................................. 64
3.1.1 Mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn
hiện nay đến 2015 ........................................................................................ 64
3.1.2 Định hướng của Chính phủ về các biện pháp kiểm soát lạm phát ... 65
3.2 Dự báo lạm phát VN trong thời gian tới ........................................... 67
3.2.1 Sơ lược tình hình lạm phát Việt Nam chín tháng đầu năm 2012 ..... 67
3.2.2 Dự báo lạm phát Việt Nam trong thời gian tới ................................. 68
3.3 Đề xuất giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian
tới ................................................................................................................. 69
3.3.1 Hoạch định chính sách một cách khoa học, sát thực và nhất quán
về mục tiêu chính sách ở các Bộ Ngành trong từng thời kỳ ........................ 69
3.3.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước, giảm thiểu đầu tư công
để giảm bội chi Ngân sách góp phần giảm gánh nặng nợ cho quốc gia ...... 71
3.3.3 Cải thiện cán cân thương mại ........................................................... 74
3.3.4 Nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ ......................................... 75
3.3.5 Tái cơ cấu nền kinh tế ....................................................................... 78
3.3.5.1 Tái cơ cấu đầu tư ...................................................................... 78
3.3.5.2 Tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước ................................... 79
3.3.5.3 Tái cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng thương mại ....................... 80
3.3.6 Tăng quyền tự chủ cho Ngân hàng Trung Ương trong điều hành
chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát ...................................................... 82
3.3.7 Hạ tỷ lệ nợ vay của toàn bộ nền kinh tế về mức < 1 ........................ 83
3.3.8 Hoàn thiện hành lang pháp lý trong quản lý tài chính ..................... 84
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................... 86
Kết luận ....................................................................................................... 87
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Anh:
ADB: Asian Development Bank (Ngân hàng phát triển Châu Á)
APEC: Asia – pacific Economic (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương)
CPI: Consumer Price Index (Chỉ số giá tiêu dùng)
EU: European Union (Liên minh Châu Âu)
FDI: Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
FED: Federal Reserve System (Cục dự trữ liên bang Mỹ)
GDP: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm nội địa)
IMF: International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế)
M2 : Money supply growth (Tăng trưởng cung tiền)
ODA: Offical Development Assistance (Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức)
USD: United states Dollar (Đô la Mỹ)
WTO: World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới)
Tiếng Việt:
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
NHTM: Ngân hàng thương mại
NSNN: Ngân sách Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
Thuế VAT: Thuế giá trị gia tăng
TMCP: Thương mại cổ phần
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
VND: Việt Nam đồng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1: Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ 01/2010 ....... 10
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2007 – 2011 ......................................... 21
Bảng 2.2 : Số liệu về tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm ....................... 23
Bảng 2.3: Dự toán thu chi ngân sách Nhà Nước (NSNN) giai đoạn 2007
– 2011 ........................................................................................................... 23
Bảng 2.4: Thực tế thu chi NSNN giai đoạn 2007 – 2011 ............................ 24
Bảng 2.5: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011 .............. 25
Bảng 2.6: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011 ............. 26
Bảng 2.7: Tỷ trọng kim ngạch các nhóm hàng hóa nhập khẩu qua các
năm ............................................................................................................... 27
Bảng 2.8: Nhập siêu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011................................. 28
Bảng 2.9: Vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2007 – 2011 ........................... 29
Bảng 2.10: Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011 ............... 30
Bảng 2.11: Cơ cấu thu, chi và thâm hụt NSNN ........................................... 50
Bảng 2.12: Tốc độ tăng chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển ............. 51
Bảng 2.13: Nợ công Việt Nam qua các năm (%GDP) ................................. 52
Bảng 2.14: Xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại ................................... 53
Bảng 2.15: Tăng trưởng cung tiền (M2) và tăng trưởng dư nợ tín dụng ..... 56
Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng CPI chín tháng đầu năm 2012 ..................... 67
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Lạm phát giai đoạn 2007 – 2011.................................................. 21
Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2007 – 2011 ......................... 23
MỞ ĐẦU
1. Trình bày vấn đề nghiên cứu:
Theo lý thuyết kinh tế học, tăng trưởng, lạm phát, cán cân thanh toán, thất
nghiệp là những yếu tố kinh tế vĩ mô đáng quan tâm, ảnh hưởng tới cân đối vĩ
mô của nền kinh tế, trong đó yếu tố lạm phát là vấn đề nhận được sự quan tâm
hàng đầu của bất kỳ một quốc gia nào. Lạm phát ở Việt Nam cũng luôn được
Chính phủ quan tâm và dành nhiều nổ lực nhằm kiềm chế ở mức độ hợp lý đồng
thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tốc độ tăng chỉ số CPI
trong những năm gần đây, đặc biệt là giai đoạn 2007 – 2011 lạm phát có diễn
biến phức tạp hơn do chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong việc dự báo và kiềm chế lạm phát
nhưng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011 vẫn gần như diễn biến nằm
ngoài dự đoán của Nhà nước, các giải pháp của Chính phủ chưa mang tính chủ
động đa phần là đi khắc phục và làm giảm nhẹ hậu quả của lạm phát.
Do đó, việc tìm hiểu cụ thể nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như nguyên
nhân làm giảm hiệu quả của các chính sách kiềm chế lạm phát để góp phần dự
báo lạm phát sát hơn với tình hình thực tế, từ đó đưa đến những quyết sách và
giải pháp kiềm chế lạm phát phù hợp hơn, triệt để hơn, góp phần ổn định và phát
triển kinh tế có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trên cơ sở vận dụng
những lý thuyết được học trong chương trình đào tạo bậc cao học – Trường đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh vào tình hình kinh tế tại Việt Nam, Luận
văn này nghiên cứu về “Thực trạng và nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam”.
Đề tài nhằm tìm hiểu diễn biến lạm phát ở nước ta trong thời gian qua, phân tích
nguyên nhân lạm phát trong giai đoạn này, từ đó tìm ra được nguyên nhân cơ
bản gây ra lạm phát ở Việt Nam cũng như nguyên nhân làm giảm hiệu quả các
chính sách kiềm chế lạm phát trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát tốt hơn trong thời gian tới.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Xuất phát từ lý do trên, đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ những quan điểm, lý luận về lạm phát và kiềm chế lạm phát,
đồng thời tìm hiểu cách xác định lạm phát phổ biến ở Việt Nam.
Thứ hai, khái quát lại tình hình kinh tế Việt Nam nói chung và diễn biến lạm
phát nói riêng giai đoạn 2007 – 2011 chủ yếu thông qua các chỉ số kinh tế như:
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình thu chi ngân sách của Nhà nước, tình hình
xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng thất nghiệp. Tập trung tìm hiểu diễn biến các
chỉ số này để làm cơ sở cho việc tìm hiểu nguyên nhân gây ra lạm phát.
Thứ ba, tìm hiểu về các giải pháp Việt Nam đã áp dụng để kiềm chế lạm phát
từ đó đánh giá ưu điểm và những hạn chế của các giải pháp này. Bên cạnh đó,
thông qua các số liệu thực tế phân tích, so sánh làm nổi bật lên nguyên nhân gia
tăng lạm phát trong giai đoạn 2007 – 2011.
Thứ tư, trên cơ sở phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát và dựa trên định
hướng phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát của Chính phủ, Luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp thống kê, sưu tầm các
số liệu từ các Bộ, Ban, Ngành, các số liệu có nguồn gốc đáng tin cậy được phổ
biến trên các phương tiện thông tin đại chúng như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát,
tỷ lệ thất nghiệp…và các số liệu cần thiết khác cho nghiên cứu. Công việc này
tiến hành qua 2 bước: thống kê các số liệu cần thiết cho giai đoạn nghiên cứu (từ
năm 2007 – 2011) và tùy vào mục đích nghiên cứu mà trích dẫn số liệu phù hợp.
Dựa trên số liệu thu thập được, luận văn sử dụng phương pháp so sánh – đối
chiếu nhằm xem xét vấn đề trong mối tương quan, so sánh đối chiếu giữa các
thời kỳ khác nhau. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành để xem xét, nghiên cứu vấn đề dưới nhiều góc độ, nhiều ngành khác nhau;
phương pháp chuyên gia: tìm hiểu vấn đề thông qua hình thức thu thập ý kiến
của những người có nhiều kinh nghiệm, am hiểu trên từng lĩnh vực từ đó rút ra
những kết luận xác thực hay vận dụng kết quả nghiên cứu của một số chuyên gia
kinh tế, tổ chức tài chính lớn về các vấn đề có liên quan.
4. Những kết quả đạt được của Luận văn:
Một là, khái quát tình hình kinh tế nói chung và tình hình lạm phát nói riêng ở
Việt Nam từ 2007 – 2011.
Hai là, làm rõ được nguyên nhân làm giảm hiệu quả chính sách và nguyên
nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2011.
Ba là, dựa trên những nguyên nhân làm giảm hiệu quả chính sách và nguyên
nhân gây ra lạm phát cao cùng với định hướng của Chính phủ đề xuất một số giải
pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong thời gian sắp tới.
5. Nội dung kết cấu của Luận văn:
Toàn bộ nội dung của Luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lạm phát
Chương 2: Thực trạng và nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 –
2011
Chương 3: Các giải pháp kiểm soát lạm phát tại Việt Nam trong thời gian tới
- 1 -
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Tổng quát về lạm phát:
1.1.1 Khái niệm lạm phát:
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua
của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá
tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo
nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi
nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm
phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Như vậy, ta có thể xem sự tăng lên của giá cả là dấu hiệu cơ bản để nhận
biết lạm phát. Để xem xét lạm phát người ta thường tập trung nghiên cứu biểu
hiện của lạm phát, cụ thể là nghiên cứu lạm phát thông qua việc nghiên cứu
sự gia tăng của mức giá chung với tốc độ cao và kéo dài. Để đo lường mức
giá chung trong nền kinh tế, người ta thường dùng các phép đo phổ biến như:
chỉ số giá bán lẻ (chỉ số giá tiêu dùng) – CPI – Consumer Price Index, chỉ số
giá bán buôn – WPI – Wholesale Price Index, chỉ số giá sản xuất – PPI –
Producer Price Index…
Về bản chất, lạm phát là do khối lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá
khối lượng hàng hóa và dịch vụ cung ứng, dẫn đến sự tăng giá đồng loạt, liên
tục và ở mức đáng kể. Do đó, người ta thường lấy chỉ số giá tăng để nói lên
mức độ lạm phát. Lạm phát không phải lúc nào cũng xấu, khi lạm phát ở mức
kiểm soát được sẽ kích thích đầu tư, xuất khẩu và cải thiện công ăn việc làm,
song khi lạm phát tăng quá mức (đến 2 con số trở lên) và ngoài tầm kiểm soát
sẽ gây tổn hại cho nền kinh tế và cuộc sống của người dân.
- 2 -
Thông thường để đo lường lạm phát người ta hay sử dụng Chỉ số giá cả.
Chỉ số giá cả hay còn được gọi là chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index:
CPI) là chỉ số tính theo phần trăm để thống kê, phản ánh xu hướng và mức độ
biến động giá cả chung của một số lượng cố định các loại hàng hóa dịch vụ
(được gọi là “rổ hàng hóa”) đã được chọn đại diện cho tiêu dùng, phục vụ đời
sống bình thường của người dân qua thời gian. Đây là chỉ tiêu được sử dụng
phổ biến nhất để đo lường mức giá, và sự thay đổi của mức giá chính là lạm
phát.
1.1.2 Phân loại lạm phát:
Lạm phát xảy ra ở mỗi giai đoạn với một mức độ khác nhau, mỗi mức độ
có một sức ảnh hưởng riêng đến sự phát triển kinh tế. Có nhiều cách phân loại
lạm phát khác nhau, tuy nhiên cách phổ biến là phân loại lạm phát trên cơ sở
định lượng. Người ta dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được tính trong năm
để phân loại, theo đó lạm phát được chia thành 4 loại: thiểu phát, lạm phát
vừa phải, lạm phát cao (lạm phát phi mã), siêu lạm phát.
1.1.2.1 Thiểu phát:
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Hiện tượng này
xảy ra khi tỷ lệ lạm phát thực tế nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến làm sản lượng
thực nhỏ hơn sản lượng dự kiến. Không có tiêu chí chính xác là tỷ lệ lạm phát
bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Tùy thuộc
vào đặc điểm kinh tế, quan điểm và cách nhìn nhận của từng quốc gia mà xem
tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-
2003 tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhiều nhà kinh tế học đã
xem đây là thiểu phát.
1.1.2.2 Lạm phát vừa phải:
Là mức lạm phát ở mức một con số nguyên (tỷ lệ tăng giá cả hàng hóa
trong khoảng 10 phần trăm một năm trở lại). Khi ở mức lạm phát này đồng
- 3 -
tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Loại
lạm phát này như một chất xúc tác góp phần thúc đẩy cho nền kinh tế phát
triển. Ở mức lạm phát vừa phải, giá cả dao động xung quanh mức tăng tiền
lương, trong điều kiện như thế giá trị tiền tệ không biến đổi nhiều tạo điều
kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển. Khi giá cả tăng ra khỏi mức độ hợp
lý, người ta nói lạm phát đang bước vào giai đoạn tăng cao.
1.1.2.3 Lạm phát cao (lạm phát phi mã):
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba
chữ số một năm được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm
phát. Nguyên nhân là do biến động về phía tổng cung hay tổng cầu. Nếu lạm
phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế
nghiêm trọng. Trong bối cảnh lạm phát phi mã, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh
nên mọi người có xu hướng chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao
dịch hàng ngày, phần tiền còn lại sẽ được đầu tư vào các kênh như: tích trữ
hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ
mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích
lũy của cải.
1.1.2.4 Siêu lạm phát:
Siêu lạm phát là lạm phát mất kiểm soát, một tình trạng giá cả tăng nhanh
chóng khi tiền tệ mất giá trị. Tỷ lệ lạm phát lúc này là rất lớn khoảng
1000%/năm trở lên.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng
này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều
cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội
chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ.
Theo Tiêu chuẩn kế toán Quốc tế, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm
phát, đó là: người dân không muốn giữ tài sản ở dạng tiền; giá cả hàng hóa
- 4 -
trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; các
khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn;
và lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá.
1.1.3 Vai trò của lạm phát đối với nền kinh tế:
Lạm phát có nhiều loại cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của lạm
phát đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế
lạm phát cao là một nỗi lo của toàn xã hội và ta cũng thấy được tác động của
nó đến nền kinh tế.
1.1.3.1 Tác động đến lĩnh vực sản xuất:
Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và
đầu ra biến động không ngừng gây ra sự bất ổn trong quá trình sản xuất. Sự
mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hóa hoạt động hoạch định, dự toán
kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài
doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế. Nếu một
doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ
phá sản rất lớn.
Tuy nhiên, nếu lạm phát ở mức vừa phải phù hợp với đặc điểm kinh tế của
một quốc gia sẽ thúc đẩy cho kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Giả sử một nền kinh tế rơi vào trạng thái giảm phát hay thiểu phát (lạm
phát thấp), lúc này cầu hàng hóa bị suy giảm một cách tương đối tức là tổng
cầu trong nền kinh tế giảm một cách tương đối so với tổng cung. Khi cung lớn
hơn chắc chắn các doanh nghiệp sẽ có một lượng hàng hóa bị tồn kho không
bán được, phản ứng của doanh nghiệp sẽ là thu hẹp quy mô sản xuất, sa thải
bớt nhân công để tiết kiệm chi phí. Từ đó làm cho thất nghiệp tăng, cũng do
đó mà người dân phải chi tiêu một cách tiết kiệm lại, nghĩa là nhu cầu về hàng
hóa của người dân giảm xuống, làm cho tổng cầu giảm. Khi tổng cầu bé hơn
tổng cung lại bắt đầu cho một vòng lẩn quẩn tiếp theo. Như vậy khái quát hóa
- 5 -
lên thì trong toàn nền kinh tế lúc này sẽ bị tác động theo dây chuyền lan từ
ngành này sang ngành khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thừa trầm trọng hơn
và suy thoái toàn nền kinh tế.
Vì vậy mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất
phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản
xuất đầu tư mở rộng sản xuất, việc làm được tạo thêm, tỷ lệ thất nghiệp sẽ
giảm. Từ đó góp phần làm tăng trưởng kinh tế.
1.1.3.2 Đối với lĩnh vực lƣu thông hàng hóa:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hóa. Lúc này những người giàu có, thừa tiền dùng tiền của mình để
thu gom, tích trữ hàng hóa, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối
nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường, làm cho giá cà
hàng hóa tăng lên nhiều hơn.
Ngoài ra, khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực
sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh
vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người
bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông tiền tệ tăng vọt và
điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
1.1.3.3 Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp.
Số tiền mà người gửi tiền gửi vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng
tiền bị giảm xuống. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân
hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với
việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không
làm an tâm những cá nhân, doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt nhàn
rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, hệ
thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Mà lãi suất
- 6 -
thực bằng lãi suất danh nghĩa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng
cao, muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với
tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng
tiền nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình
thưởng nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn
bởi khi có lạm phát cao thì người dân sẽ hạn chế tích trữ tiền dưới hình thức
tiền mặt.
1.1.3.4 Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của
Nhà nƣớc:
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa, khi
lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá hủy do biến động của
giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được
những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho Nhà nước thiếu
vốn, các khoản thu cho Ngân sách Nhà nước không tăng. Do đó, Nhà nước
không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội, các
ngành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại
hoặc không có gì. Một khi ngân sách Nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu
cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện.
1.2 Nguyên nhân lạm phát:
1.2.1 Lạm phát do cầu kéo:
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn
dụng lao động thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ
đường AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ
khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
- 7 -
Còn chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người
ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do
đó có lạm phát.
1.2.2 Lạm phát do cầu thay đổi:
Xảy ra trong trường hợp hai hàng hóa thay thế nhau. Nếu lượng cầu về
một mặt hàng giảm đi trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác tăng lên
trong điều kiện thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất
cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà
lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu
tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
1.2.3 Lạm phát do chi phí đẩy:
Lý thuyết lạm phát chi phí đẩy dựa trên hiện tượng thực tế là một số nhà
sản xuất có khả năng tăng giá bán sản phẩm, công đoàn đại diện cho người
lao động có khả năng đòi tăng tiền lương (giá trị của dịch vụ lao động) cao
hơn giá thực của nó trong thị trường cạnh tranh. Lạm phát chi phí đẩy bắt
nguồn từ các yếu tố bên tổng cung và ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Lạm
phát chi phí đẩy không thể xuất hiện trong nền kinh tế có thị trường cạnh
tranh lành mạnh. Hiện tượng lạm phát loại này có thể bắt nguồn từ nguyên
nhân không thuộc nền kinh tế. Có các dạng lạm phát chi phí đẩy sau:
Khi xuất khẩu tăng cao làm cho tổng cung trong nước bị sụt giảm, nghĩa là
sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị
trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Hoặc do ảnh
hưởng thiên tai, dịch bệnh, thảm họa làm cho tổng cung sụt giảm đột biến,
khiến cho tổng cung không đáp ứng được tổng cầu. Bởi thế nên người ta sẽ
sẵn sàng chi trả số tiền cao hơn để có được hàng hóa, nghĩa là giá cả hàng hóa
sẽ gia tăng. Lúc này lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân
bằng.
- 8 -
Hay lạm phát xảy ra khi chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng (tiền
lương, giá nguyên nhiên vật liệu tăng, lãi suất tăng, thuế tăng…) làm hạn chế
khả năng sản xuất của các doanh nghiệp, làm tổng cung giảm. Bên cạnh đó
các doanh nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành
sản phẩm. Do đó, mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
Hoặc xảy ra trong trường hợp sản phẩm không tự sản suất trong nước
được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước
ngoài tăng giá, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm
đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập
khẩu đội lên.
1.2.4 Lạm phát do yếu tố tiền tệ:
Các nhà kinh tế theo trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng
cung tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra. Khi cung tiền (M2: bao gồm
tổng lượng tiền mặt và tiền mà các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng
Trung Ương cộng với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn) tăng (chẳng hạn Ngân
hàng Trung Ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất
giá so với trong nước; hay chẳng hạn Ngân hàng Trung Ương mua công trái
theo yêu cầu của Nhà nước…) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên,
khi lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó,
nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế, sẽ gây ra sức ép
làm lạm phát tăng lên.
1.2.5 Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao
động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền
công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Từ đó
làm nảy sinh lạm phát.
- 9 -
1.2.6 Lạm phát sinh ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ.
Giá tăng lên người dân tự phán đoán là: đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ
tăng cao. Từ đó tạo nên tâm lý dự trữ, đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại làm cho
tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích
thích giá tăng lên, từ đó gây ra lạm phát.
1.3 Đo lƣờng lạm phát:
Để đo lường lạm phát người ta dùng chỉ số giá. Có 3 loại chỉ số giá thông
dụng: Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI), Chỉ số giá sản xuất (PPI/WPI) và Chỉ
số giảm phát GDP (D%). Ở Việt Nam, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được sử
dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá (lạm
phát).
1.3.1 Các loại hàng hoá trong rổ hàng hoá dùng để tính CPI tại Việt
Nam hiện nay
Việt Nam bắt đầu tính toán và sử dụng CPI để phản ánh mức độ tăng giá
tiêu dùng chung từ 1998 (trước 1998 sử dụng chỉ số bán lẻ - RPI). Từ đó đến
nay, số lượng và quyền số của các mặt hàng trong rổ hang hóa để tính CPI
được cập nhật và mở rộng 5 năm một lần, thời điểm được chọn làm năm gốc
cũng thay đổi theo. Năm gốc 1995 (296 mặt hàng), năm gốc 2000 (390 mặt
hàng), năm gốc 2005 (494 mặt hàng), năm 2010 (573 mặt hàng). Các mặt
hàng trong rổ hàng hóa để tính CPI hiện được chia thành các nhóm, chi tiết
theo các cấp, cấp 1 là 10 nhóm. Do đó, hiện nay số liệu CPI của Việt Nam
được chia làm 4 giai đoạn: 1998-2000, 2001-2005, 2006-2010, 2011-nay.
Để tính chỉ số giá tiêu dùng các năm trong giai đoạn 2011 đến nay ta sẽ
dựa trên kỳ gốc là năm 2010. Các mặt hàng trong rổ hàng hóa để tính CPI cấp
1 hiện nay được chia 10 nhóm gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống; Đồ uống và
thuốc lá; May mặc, mũ nón, giày dép; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu
- 10 -
xây dựng; Thiết bị và đồ dùng gia đình; Thuốc và dịch vụ y tế; Giao thông;
Giáo dục; Văn hóa, giải trí và du lịch; Hàng hóa và dịch vụ khác. Tương ứng
với mỗi nhóm hàng trong cấp 1 là 1 quyền số để tính CPI, cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ 01/2010
Nhóm hàng hóa và dịch vụ Quyền số(%)
Tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng 100,00
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 39,93
- Lương thực 8,18
- Thực phẩm 24,35
- Ăn uống ngoài gia đình 7,40
Đồ uống và thuốc lá 4,03
May mặc, mũ nón, giày dép 7,28
Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng 10,01
Thiết bị và đồ dùng gia đình 8,65
Thuốc và dịch vụ y tế 5,61
Giao thông 8,87
Bưu chính viễn thông 2,73
Giáo dục 5,72
Văn hóa, giải trí và du lịch 3,83
Hàng hóa và dịch vụ khác 3,34
(Nguồn: www.baodientu.chinhphu.vn/Home/cong-bo-cach-tinh-chi-so-gia-
tieu-dung-moi/200912/26019.vgp)[11]
1.3.2 Cách đo lƣờng lạm phát ở Việt Nam thông qua chỉ số giá tiêu
dùng:
Chỉ số giá tiêu dùng thường được đo lường thông qua công thức sau:
- 11 -
Với:
: Chỉ số giá tiêu dùng năm t
: Khối lượng sản phẩm loại i mà một gia đình tiêu dùng ở năm gốc (0) .
: Đơn giá sản phẩm loại i ở năm gốc
: Đơn giá sản phẩm loại i ở năm t
(Nguồn: Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung (2011), Kinh tế vĩ mô, tái bản
lần 2, Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.) [5]
Trên đây là công thức tính CPI so với năm gốc cố định (thay đổi 5 năm
một lần), ngoài ra ta còn có các chỉ số CPI theo 3 gốc so sánh khác: CPI hàng
tháng so với tháng trước, CPI hàng tháng so với tháng 12 năm trước, CPI
hàng tháng so với cùng tháng (cùng kỳ) năm trước.
Ở Việt Nam từ trước đến nay vẫn thường xem tốc độ tăng của CPI hàng
tháng so với tháng 12 năm trước là lạm phát. Chẳng hạn CPI tháng 06/2012
so với tháng 12/2011 là 102,52% - tăng 2,52% thì con số 2,52% cũng được
coi là lạm phát sáu tháng đầu năm 2012; và tương tự, CPI tháng 12/2009 so
với 12/2008 là 106,52% - tăng 6,52% thì con số 6,52% cũng được xem là lạm
phát của năm 2009. Quan niệm này là không chuẩn xác vì sự biến động giá cả
thị trường của 1 tháng nói chung là không thể phản ánh được sự biến động
chung của giá cả 1 năm, vì giá cả thị trường nước ta thường biến động không
giống nhau qua các tháng trong năm do tính thời vụ. Việc lấy CPI của tháng
12 là 1 tháng cuối năm để làm chỉ số lạm phát cho cả năm thì lại càng không
thể đại diện được và phản ánh đúng tình hình cả năm. Vì trong tháng này có
rất nhiều nhu cầu mua sắm, tiêu dùng có tính thời vụ rất lớn tác động đến giá
cả. Đó là nhu cầu mua sắm cuối năm, nhu cầu tiêu dùng mùa đông, nhu cầu
- 12 -
phục vụ các ngày lễ tết… làm cho quan hệ cung – cầu trên thị trường thường
biến động mạnh hơn, giá cả tăng nhiều hơn và CPI tháng 12 hàng năm thường
cao hơn so với nhiều tháng trong năm.
Vì những lý do trên, bắt đầu từ tháng 9/2007, ngoài các gốc so sánh như
lâu nay vẫn công bố, hàng tháng tổng cục thống kê cũng tính toán và công bố
thêm chỉ tiêu CPI các tháng tính từ đầu năm đến tháng báo cáo so với các
tháng cùng kỳ năm trước. Từ các CPI hàng tháng so với cùng kỳ năm trước
này sẽ tính được các CPI bình quân theo các quãng thời gian khác nhau trong
năm như CPI của 2, 3, 4, 5, 6… tháng, quý và cả năm so với cùng kỳ năm
trước. Các CPI này mới thực sự phản ánh sự biến động tăng giảm của mặt
bằng giá cả chung trên thị trường trong năm. Do đó, các CPI này sẽ có đầy đủ
tính chất để làm công cụ so sánh, tính toán loại trừ yếu tố giá đối với các chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp được tính bằng giá trị theo giá thực tế hàng năm và phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Từ cơ sở trên, bài viết này cũng dựa trên các số liệu về CPI 6 tháng và
bình quân cả năm của năm trước so với cùng kỳ để so sánh và phân tích ở
chương 2.
1.4 Lý thuyết về kiềm chế lạm phát:
Theo lý thuyết để kiềm chế lạm phát nhà điều hành chính sách sẽ sử dụng
hai chính sách cơ bản sau:
1.4.1 Chính sách tài khóa:
Chính sách tài khóa là những quyết định của chính phủ đối với việc thay
đổi chi tiêu G và thuế ròng T để điều tiết kinh tế vĩ mô.
Những thay đổi về mức độ, thành phần của thuế và chi tiêu của Chính phủ có
thể ảnh hưởng đến các biến số của nền kinh tế như: tổng cầu và mức độ hoạt
động kinh tế; phân bổ nguồn lực; phân phối thu nhập.
- 13 -
Khi nền kinh tế có lạm phát cao (mức sản lượng thực tế > mức sản lượng
tiềm năng), để giảm mức sản lượng thực tế chính phủ sẽ thực hiện chính sách
tài khóa thu hẹp, tức là sẽ giảm thâm hụt ngân sách. Có 3 cách để giảm thâm
hụt ngân sách: giảm chi tiêu và giữ nguyên thuế, hoặc tăng thuế và giữ
nguyên chi tiêu, hoặc giảm chi tiêu và tăng thuế.
Trường hợp giảm chi tiêu và giữ nguyên thuế: khi chi tiêu của Chính phủ
(G) giảm sẽ tác động làm cho tổng cầu (AD) giảm (do AD = Chi tiêu tiêu
dùng (C) + Chi tiêu đầu tư (I) + Chi tiêu của Chính phủ cho hàng hóa và dịch
vụ (G) + Xuất khẩu (X) – Nhập khẩu (M)), khi tổng cầu hàng hóa tức là nhu
cầu của người dân đối với hàng hóa giảm làm cho giá hàng hóa giảm theo, từ
đó làm giảm áp lực lạm phát.
Trường hợp tăng thuế và giữ nguyên chi tiêu: khi thuế tăng làm cho thu
nhập khả dụng (Yd) của người dân giảm do phải nộp thuế cao hơn trong điều
kiện mức thu nhập không đổi, từ đó làm cho chi tiêu tiêu dùng giảm (do C =
Yd - tiết kiệm (S)), khi chi tiêu cho tiêu dùng giảm kéo theo tổng cầu giảm và
do đó tạo áp lực làm giảm giá hàng hóa và khiến cho lạm phát giảm theo.
Trường hợp vừa giảm chi tiêu vừa tăng thuế: khi kết hợp giảm chi tiêu và
tăng thuế sẽ cho kết quả là cộng hưởng của hai trường hợp nêu trên làm cho
tổng cầu giảm mạnh hơn, kéo theo giá cả hàng hóa giảm nhiều hơn và tạo áp
lực giảm lạm phát nhiều hơn.
1.4.2 Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là những quyết định của Ngân hàng Trung Ương
(NHTW) nhằm tác động đến lượng cung ứng tiền và lãi suất cơ bản để điều
tiết vĩ mô ổn định nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng.
Để tác động đến khối lượng tiền giao dịch NHTW sử dụng 3 công cụ chủ
yếu, đó là: công cụ tỷ lệ dữ trữ bắt buộc theo yêu cầu, công cụ tỷ suất chiết
khấu, công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Vậy khi muốn giảm tỷ lệ lạm phát,
- 14 -
NHTW sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo yêu cầu hoặc tăng tỷ suất chiết khấu
hoặc bán ra các chứng khoán có giá trên thị trường tự do để thu tiền về hoặc
có thể sử dụng kết hợp các công cụ này với nhau để tạo ra tác động mạnh hơn.
Khi nền kinh tế bị lạm phát cao (mức sản lượng thực tế > mức sản lượng
tiềm năng), NHTW sẽ áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp, bằng cách tác động
trực tiếp đến cung tiền tệ làm giảm khối tiền giao dịch (M) trong lưu thông
làm tăng lãi suất từ đó tác động làm giảm chi tiêu và đầu tư trong nền kinh tế
khiến cho tổng cầu hàng hóa giảm, làm giảm sản lượng thực tế về mức như
mong đợi.
1.4.3 Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa:
Chính sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối với
hoạt động kinh tế. Trong khi đó, chính sách tiền tệ chủ yếu tập trung vào ổn
định tiền tệ; tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh toán
có tác dụng kiểm soát lạm phát trong ngắn hạn. Nếu chỉ có chính sách tiền tệ
thì lạm phát khó có thể được kiểm soát về dài hạn. Vì vậy thông thường,
NHTW sẽ kết hợp nhịp nhàng hoạt động hai chính sách này để vừa giải quyết
được các mục tiêu trước mắt, vừa kiểm soát lạm phát về lâu dài.
Theo lý thuyết thì để kiềm chế lạm phát Chính phủ có thể sử dụng chính
sách tài khóa thu hẹp hay chính sách tiền tệ thu hẹp hoặc kết hợp cả hai chính
sách này để tăng hiệu quả của chính sách. Tuy nhiên vẫn có khoảng cách từ lý
thuyết đến thực tế, do trong thực tế nền kinh tế Việt Nam hiện nay chưa hoàn
toàn phát triển theo cơ chế thị trường mà chịu nhiều tác động của các yếu tố
khác như việc sử dụng vốn Nhà nước không hiệu quả, nạn tham nhũng, tình
trạng độc quyền, làm giá, yếu tố lạm phát kỳ vọng của người dân cao, hoạt
động của hệ thống ngân hàng chưa thật sự lành mạnh và minh bạch… đã bóp
méo tác dụng và làm giảm hiệu quả của chính sách.
- 15 -
1.5 Kinh nghiệm về việc kiềm chế lạm phát ở một số nƣớc trong khu
vực Châu Á:
1.5.1 Các biện pháp kiềm chế lạm phát ở các nƣớc:
Thái Lan: Để kiểm soát sự tăng giá hàng hóa quá nhanh, Chính phủ Thái Lan
đã thực hiện đồng bộ hai giải pháp:
Một là, xem bốn loại hàng hóa: lương thực, rượu, sữa, bình ắc-quy thuộc
vào những mặt hàng bắt buộc chịu sự quản lý về sản xuất, kinh doanh, bất cứ
hành vi tăng giá những mặt hàng này đều phải được sự cho phép của Bộ
Thương Mại. Kế hoạch “lá cờ xanh” – Blue Flag do Chính phủ Thái Lan đề ra
yêu cầu các hang cung ứng hàng hóa phải đưa ra thị trường các loại thực
phẩm và đồ đi kèm với sự tiện lợi về dịch vụ giao hàng và giá phải rẻ hơn
những cửa hàng thông thường.
Hai là, Chính phủ đẩy mạnh hoạt động tấn công các hành vi vi phạm giá
bán của hàng hóa và bất cứ ai đầu cơ tích trữ, căn cứ vào luật pháp để phạt
tiền rất cao, nếu nghiêm trọng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, từ năm 2000 Ngân hàng Trung Ương Thái Lan điều hành chính
sách tiền tệ bằng việc áp dụng khung mục tiêu lạm phát linh hoạt. Mục tiêu
chính bao trùm chính sách tiền tệ đó là ổn định giá cả, được biểu hiện thông
qua mức lạm phát thấp và ít biến động. Lấy ổn định giá cả làm mục tiêu trong
điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trong trung dài hạn vì:
ổn định giá là nền tảng cho sự phát triển kinh tế và là nhân tố quan trọng cho
sự tăng trưởng bền vững (tỷ lệ lạm phát thấp sẽ giúp duy trì sức mua của
người dân, đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa Thái Lan); hơn nữa
mục tiêu lạm phát tập trung chủ yếu vào việc duy trì bình ổn giá, điều này có
lợi cho nền kinh tế hướng đến tăng trưởng trong dài hạn. Chính sách này đã
thể hiện hiệu quả của nó thông qua thực tế là trong suốt 10 năm thực hiện
khung lạm phát mục tiêu (2000 – 2010) chỉ số lạm phát đã giảm nhanh so với
- 16 -
trước đó, lạm phát cơ bản được duy trì ở mức thấp dưới 4% và tương đối ổn
định, hầu như nằm trong khung lạm phát mục tiêu đã đề ra.
Trung Quốc: Để đối phó với lạm phát Trung Quốc đã áp dụng các giải pháp
chủ yếu sau:
Thứ nhất, chuyển trọng tâm từ duy trì tăng trưởng sang tăng trưởng ổn
định. Điều chỉnh kết cấu kinh tế và quản lý kỳ vọng về lạm phát tạo điều kiện
nâng cao tiêu dùng.
Thứ hai, đối phó với lạm phát bằng tất cả các giải pháp truyền thống như:
tăng cường cân đối cung – cầu và ổn định giá cả lương thực – thực phẩm,
thực hiện thắt chặt cung ứng tiền tệ, nâng lãi suất và tăng dự trữ bắt buộc.
Thứ ba, kiểm soát các chi phí, giá nhà và giải tỏa bong bóng bất động sản.
Để kiểm soát giá nhà ở, Chỉnh phủ Trung ương tăng cường kiểm tra công việc
của các chính quyền địa phương và áp dụng một hệ thống trách nhiệm giải
trình nghiêm ngặt, đồng thời tăng nguồn cung nhà ở được Chính phủ trợ cấp
và thực hiện đánh thuế bất động sản.
Thứ tư, xúc tiến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các
ngành công nghệ cao.
Hàn Quốc:
Vào đầu năm 2008, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách ổn định
giá cả hàng hóa trong ngắn hạn với các biện pháp như sau:
Thứ nhất, thành lập tổ công tác về chính sách liên ngành đối với sự ổn
định giá cả với sự tham gia của 14 cơ quan Trung Ương như: Bộ Tài chính
kinh tế, Bộ tài nguyên, Bộ Giáo dục, Bộ Nông lâm, Cơ quan y tế thực
phẩm…Ủy ban trao đổi thương mại bình đẳng có nhiệm vụ là theo dõi, kiểm
soát những sản phẩm tăng giá quá nhanh, thành lập nhóm “điều tra hiện
trường” điều tra, theo dõi về việc sản xuất, lưu thông hàng hóa liên quan đến
dân sinh. Chính quyền địa phương cũng thành lập cơ quan chỉ đạo và Ủy ban
- 17 -
đối sách về giá cả để theo dõi xu hướng lên xuống của giá cả và đề ra chính
sách tương ứng.
Thứ hai, tăng cường điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Theo đó, Chính phủ và cơ
quan tài chính sẽ điều chỉnh phù hợp chính sách tiền tệ, kiểm soát thị trường
ngoại hối.
Thứ ba, miễn giảm thuế tăng cường trợ cấp cho những gia đình có thu
nhập thấp, mở rộng phạm vi hỗ trợ cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp
thông qua các quỹ hỗ trợ tài chính cho giáo dục, hỗ trợ phúc lợi, miễn giảm
thuế. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tạo thêm cơ hội việc làm cho
những người nghèo trong xã hội, sử dụng ngân sách chính phủ giúp giảm bớt
áp lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ tư, ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vi bán phá giá không
chính đáng, trọng điểm là những hành động lũng đoạn giá cả, tăng cường
giám sát các hành vi tăng giá cao các sản phẩm hàng hóa như dầu mỏ, lương
thực, phòng ngừa những giao dịch không minh bạch thông qua lợi dụng thị
trường và địa vị chính trị.
1.5.2 Các bài học kinh nghiệm:
Tùy theo đặc điểm nội tại của nền kinh tế mà mỗi nước có những lựa chọn
chính sách phù hợp trong vấn đề xử lý lạm phát. Tuy nhiên qua việc tham
khảo các giải pháp kiểm soát lạm phát ở một số nước nêu trên cho thấy điểm
chung là:
Thứ nhất, các nước rất chú trọng đến việc bình ổn giá các mặt hàng thiết
yếu nhưng ảnh hưởng mạnh đến giá cả tiêu dùng như lương thực thực phẩm,
xăng dầu.
Thứ hai, các nước chú trọng đến việc phối hợp giữa các Bộ-Ngành trong
việc ban hành và thực thi chính sách.
- 18 -
Thứ ba, các nước kiên quyết chống nạn đầu cơ, cạnh tranh không lành
mạnh và lợi dụng chức quyền để tư lợi cá nhân.
Thứ tư, một số nước đã hướng đến điều hành chính sách tiền tệ dựa trên
lạm phát mục tiêu.
Thứ năm, các nước có xu hướng hướng nền kinh tế đến mục tiêu tăng
trưởng bền vững hơn là tăng trưởng nhanh để có thể kiểm soát được lạm phát
trong dài hạn.
Tóm lại, qua kinh nghiệm kiểm soát lạm phát ở một số nước trong khu vực
có thể thấy một số chính sách ở các nước Việt Nam hiện chưa có chủ chương
hoặc có chủ chương nhưng chưa có biện pháp thực hiện hiệu quả. Do đó, các
biện pháp kiểm soát lạm phát ở các nước sẽ là kinh nghiệm quý cho Việt Nam
tham khảo trong vấn đề kiểm soát lạm phát.
- 19 -
Kết luận chƣơng 1:
Mặc dù lạm phát không phải là đề tài mới nhưng do tác động trực tiếp của
nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia nên lạm phát vẫn luôn
là một vấn đề được các quốc gia quan tâm và các nhà điều hành chính sách
theo dõi.
Lạm phát luôn gắn liền với tình trạng giá cả gia tăng. Do đó, để đo lường
lạm phát người ta sử dụng các chỉ số giá trong đó thông dụng nhất là chỉ số
giá tiêu dùng CPI. Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát và lạm phát cũng có
nhiều mức độ khác nhau. Lạm phát tác động tốt hay xấu đến nền kinh tế của
một quốc gia còn tùy thuộc vào mức độ của nó. Bên cạnh đó, tác giả đã trình
bày về cách tính lạm phát của Việt Nam hiện nay, đồng thời cũng đề cập đến
lý thuyết về kiềm chế lạm phát nhằm làm cơ sở để chọn lựa số liệu để tìm
hiểu, phân tích diễn biến lạm phát trong giai đoạn 2007 – 2011 và phân tích
hiệu quả các biện pháp Chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát trong thực tế
ở chương hai. Ngoài ra, luận văn cũng đề cập đến một số giải pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định tình hình tài chính – tiền tệ của một số quốc gia trong khu
vực Châu Á nhằm làm bài học kinh nghiệm để tham khảo cho vấn đề kiểm
soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay và thời gian tới.
- 20 -
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2011
2.1 Thực trạng lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011:
2.1.1 Diễn biến lạm phát qua các năm:
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, chính sách tài
chính tiền tệ và chính sách tài khóa mở rộng đã được sử dụng để khôi phục đà
tăng trưởng kinh tế, hạn chế tình trạng giảm phát thông qua chính sách kích
cầu kéo dài từ năm 1997 đến năm 2003. Kết quả là Việt Nam đã đạt được
tăng trưởng ở mức cao qua nhiều năm, năm 2007 tăng trưởng GDP ở mức
8,46%/năm, tỷ lệ lạm phát bình quân cả năm ở mức 8,3%. Giai đoạn lạm phát
bùng nổ vào năm 2008 như là kết quả tất yếu của chính sách kích cầu trước
đó, lạm phát bình quân năm 2008 ở mức khá cao 22,97%. Sang năm 2009 nền
kinh tế trong nước có dấu hiệu suy thoái cộng với ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã làm cho lạm phát giảm xuống ở mức
6,88%. Tuy nhiên đến năm 2010, lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại và ở mức
9,19%, nguyên nhân chủ yếu là do các gói hỗ trợ mở rộng cung tiền, các biện
pháp mở rộng chi tiêu và đầu tư của Chính phủ giai đoạn cuối 2008 và năm
2009 đã phát huy tác dụng. Với chính sách tài khóa mở rộng nhằm kích thích
tăng trưởng suốt năm 2010 và các giải pháp nới rộng cung tiền các tháng cuối
năm 2010 đã đẩy lạm phát năm 2011 lên mức 18,58%.
- 21 -
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2007 – 2011
Hình 2.1: Lạm phát giai đoạn 2007 – 2011
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Tỷ lệ lạm phát (%) 8,3 22,97 6,88 9,19 18,58
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Niên giám thống kê 2011, Việt Nam) [10]
Thực trạng lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011 biểu hiện cụ thể
thông qua sức khỏe của nền kinh tế trong giai đoạn này. Tình hình kinh tế
Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011 được khái quát sau đây thông qua các chỉ số
kinh tế chủ yếu như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình thu chi Ngân sách
Nhà nước, tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng thất nghiệp và đặc
biệt trong giai đoạn phân tích nền kinh tế chịu tác động không nhỏ của việc
tăng trưởng nóng trong thị trường chứng khoán và bất động sản (hai thị
trường này đã tiêu tốn không ít vốn đầu tư của xã hội) nên tác giả cũng đi
khái quát sơ bộ về tình hình phát triển của hai thị trường này. Tác giả tập
trung vào các chỉ số này để khái quát tình hình kinh tế Việt Nam thông qua đó
cho thấy được diễn biến lạm phát trong giai đoạn này, đồng thời thông qua
các chỉ số này để làm cơ sở phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn 2007 – 2011.
- 22 -
2.1.2 Tổng Sản phẩm trong nƣớc (GDP):
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11/1/2007, người dân có
cái nhìn lạc quan về sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, tốc độ tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ cao đạt 8,46%. Tăng trưởng nóng ở năm
2007 làm lạm phát gia tăng ở cuối 2007 – 2008, đẩy lạm phát bình quân 2008
lên mức 22,97%. Khi lạm phát cao đến lượt nó tác động làm cho GDP giảm.
Khi mức giá chung tăng lên người ta sẽ giảm lượng cầu về các hàng hóa và
dịch vụ do tâm lý giữ tiền lại cho mua sắm trong tương lai, thu hẹp đầu tư sản
xuất và có xu hướng đầu cơ vào những ngành có mức độ rủi ro cao với mong
muốn tìm kiếm mức sinh lợi cao trong thời gian ngắn để bù đắp cho sự mất
giá trị đồng tiền do lạm phát gây ra. Sau giai đoạn tăng trưởng nóng thì vào
nửa cuối năm 2008 và năm 2009 nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng suy
thoái. Cộng hưởng với tác động của lạm phát cao ở năm 2008 là tình trạng
suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng
trưởng GDP năm 2008 đạt 6,31% và năm 2009 là 5,32%. Bước sang năm
2010 các chính sách kích cầu của Chính phủ đã phát huy tác dụng, tình trạng
suy thoái đã được cải thiện nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao đạt 6,78%.
Năm 2011, Chính phủ theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát một cách nhất
quán cả trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, đến cuối năm 2011
nền kinh tế có dấu hiệu đình đốn, GDP năm 2011 đạt 5,89%.
- 23 -
Bảng 2.2: Số liệu về tốc độ tăng trƣởng GDP qua các năm
Hình 2.2: Tốc độ tăng trƣởng GDP giai đoạn 2007 – 2011
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
GDP (%) 8,46 6,31 5,32 6,78 5,89
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Niên giám thống kê 2010, 2011, Việt Nam)[10]
2.1.3 Thu chi ngân sách Nhà Nƣớc:
Bảng 2.3: Dự toán thu chi ngân sách Nhà Nước (NSNN) giai đoạn 2007 –
2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng thu NSNN 300.900 332.080 404.000 462.500 605.000
Tổng chi NSNN 357.400 398.980 491.300 582.200 725.600
Bội chi NSNN -56.500 -66.900 -87.300 -119.700 -120.600
Tỷ lệ bội chi 5% 5% 4,82% 6,2% 5,3%
NSNN so với
GDP
(Nguồn: Cổng thông tin Bộ tài chính, Cân đối dự toán ngân sách Nhà nước
năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011) [17]
- 24 -
Bảng 2.4: Thực tế thu chi NSNN giai đoạn 2007 – 2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng thu NSNN 269.117 339.856 358.202 429.393 684.500
Tổng chi NSNN 333.684 407.533 472.644 538.584 796.000
Bội chi NSNN -64.567 -67.677 -114.442 -109.191 -111.500
Tỷ lệ bội chi 6% 4,58% 6,9% 5,5% 4,9%
NSNN so với
GDP
(Nguồn: Cổng thông tin Bộ tài chính, Quyết toán ngân sách Nhà nước năm
2007, 2008, 2009, 2010 và Cổng thông tin Bộ tài chính, Ngân sách Việt Nam
năm 2012) [17]
Qua hai bảng số liệu trên cho thấy luôn có một sự khác biệt lớn trong việc
lập dự toán thu chi Ngân sách và thực tế thực hiện. Cụ thể như sau:
Năm 2007, Tổng thu NSNN ước tính tăng 21% so với năm 2006 (năm 2006
là: 222.398 tỷ đồng) và bằng 89,44% dự toán cả năm. Tổng chi NSNN ước
tính tăng 23,13% so với năm trước và bằng 93,36% dự toán cả năm. Bội chi
NSNN ước tính bằng 19,35% tổng số chi và bằng 114,28% mức bội chi dự
toán năm, trong đó 79,87% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
20,13% từ nguồn vay nước ngoài.
Năm 2008, Tổng thu NSNN ước tính tăng 26,29% so với 2007 và đạt xấp
xỉ dự toán năm. Tổng chi NSNN ước tính tăng 22,13% so với năm 2007 và
bằng 102,14% dự toán năm. Bội chi NSNN ước tính bằng 16,61% tổng số chi
và bằng 101,16% mức bội chi dự toán năm, trong đó 70,94% được bù đắp
bằng nguồn vay trong nước và 29,06% được bù đắp từ nguồn vay nước ngoài.
Năm 2009, Tổng thu NSNN ước tính tăng 5,40% so với năm 2008 và bằng
88,66% dự toán năm. Tổng chi NSNN ước tính đạt 96,20% dự toán năm. Bội
- 25 -
chi NSNN thực tế ước tính bằng 6,9% GDP, trong đó 68,29% mức bội chi
được bù đắp bằng nguồn vay trong nước, và 31,71% được bù đắp bằng nguồn
vay nước ngoài.
Năm 2010, Tổng thu NSNN ước tính giảm 5,58% so với năm 2009 và
bằng 92,84% dự toán năm. Tổng chi NSNN ước tính giảm 40,32% so với
năm 2009 và bằng 92,51% dự toán năm. Bội chi NSNN ước tính bằng
20,27% tổng số chi và bằng 91,22% mức bội chi dự toán năm và ước tính
bằng 5,5% GDP.
Năm 2011, Tổng thu NSNN ước tính tăng 59,41% so với năm 2010 và
bằng 113,14% dự toán năm. Tổng chi NSNN ước tính tăng 47,79% so với
2010 và bằng 109,70% dự toán năm. Bội chi NSNN thực tế ước tính bằng
14% tổng số chi, bằng 92,45% mức dự toán năm và bằng 4,9% GDP.
Qua thực tế các năm ngân sách của nước ta đều bị thâm hụt. Hầu hết thâm
hụt ngân sách năm sau cao hơn năm trước, bội chi các năm đều nằm trong dự
toán của Nhà nước, riêng năm 2007 và 2009 bội chi ước tính lần lượt bằng
6% và 6,9%GDP vượt dự toán của Nhà nước, năm 2007 là 1% (dự toán là
5%) và năm 2009 là 2,08% (dự toán là 4,82%GDP).
2.1.4 Xuất nhập khẩu:
Bảng 2.5: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Kim ngạch xuất khẩu 48,5 62,7 57,1 72,2 96,9
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Trị giá xuất khẩu hàng hóa theo bảng phân
loại tiêu chuẩn ngoại thương) [15]
Nhìn chung, Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011 qua
các năm đều tăng, kim ngạch tăng chủ yếu là do giá trên thị trường thế giới
tăng. Riêng năm 2009 do kinh tế toàn cầu bị khủng hoảng nên sức tiêu thụ
- 26 -
hàng hóa trên thị trường thế giới thu hẹp làm cho giá cả của nhiều loại hàng
hóa giảm mạnh khiến cho kim ngạch xuất khẩu năm 2009 giảm 8,93% so với
năm 2008.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là các mặt hàng khoáng
sản, nông, lâm, thủy hải sản. Các mặt hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn
mang tính chất gia công. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là: dầu thô, dệt
may, giày dép, thủy sản, cà phê, gạo, cao su, than đá, sản phẩm gỗ, điện tử
máy tính. Qua đó cho thấy Việt Nam xuất khẩu dựa vào lợi thế khai thác sẵn
có, nhiều mặt hàng chưa cạnh tranh được về chất lượng với sản phẩm nội địa
tại các nước nhập khẩu, dễ bị các rào cản thương mại ở các nước lớn.
Bảng 2.6: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Kim ngạch nhập khẩu 62,8 80,7 69,9 84,8 106,7
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Trị giá nhập khẩu hàng hóa theo bảng phân
loại tiêu chuẩn ngoại thương) [15]
Qua bảng số liệu trên cho thấy kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam giai đoạn 2007 – 2011 tăng qua các năm. Năm 2008 tăng 28,5% so với
năm 2007, năm 2010 tăng 21,3% so với năm 2009, năm 2011 tăng 24,8% so
với năm 2010, riêng năm 2009 kim ngạch nhập khẩu giảm 13,38% so với
năm 2008. Kim ngạch nhập khẩu năm 2009 giảm là do ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới giá cả một số mặt hàng nhập khẩu bị giảm giá,
bên cạnh đó kinh tế trong nước đang rơi vào tình trạng suy thoái, nhu cầu
hàng hóa phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng của người dân giảm. Năm 2011
có sự gia tăng đột biến của kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là do đơn giá của
nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao.
- 27 -
Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là nguyên nhiên vật liệu (xăng dầu, sắt thép,
vải, chất dẻo, nguyên phụ liệu dệt may da, hóa chất, thức ăn gia súc và
nguyên phụ liệu, gỗ và nguyên phụ liệu gỗ) và máy móc thiết bị dụng cụ phụ
tùng (điện tử, máy tính và linh kiện, linh kiện phụ tùng ô tô) phục vụ cho nhu
cầu sản xuất trong nước. Tỷ trọng nhập khẩu qua các năm như sau:
Bảng 2.7: Tỷ trọng kim ngạch các nhóm hàng hóa nhập khẩu qua các năm
Đơn vị tính: %
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Tư liệu sản xuất 90,4 88,8 90,8 90,2 90,6
Hàng tiêu dùng 7,5 7,8 8,7 8,6 7,6
Vàng 2,1 3,4 0,5 1,2 1,8
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Thông tin thống kê hàng tháng – Tình hình
kinh tế xã hội năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011) [15]
Qua bảng số liệu về tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu, ta thấy tư liệu sản xuất
luôn chiếm một tỷ trọng lớn qua các năm, điều này nghĩa là nhóm hàng hóa
nhập khẩu của Việt Nam đa phần là nhập tư liệu sản xuất để phục vụ cho nhu
cầu sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, qua bảng số liệu 2.4 và 2.5 cho thấy Cán cân thương mại đều bị
thâm hụt qua các năm. Năm 2007 nhập siêu hàng hóa ước tính 14,3 tỷ USD
bằng 29,5% giá trị xuất khẩu hàng hóa và gấp 2,5 lần năm 2006 (nhập siêu
tăng cao là do tăng nhu cầu nhập khẩu để phát triển kinh tế. Chỉ riêng nhập
khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đã chiếm tới 17,1% tổng giá trị hàng
hóa nhập khẩu và đóng góp 23,5% vào mức tăng chung; xăng dầu chiếm
12,3% và đóng góp 9,6%. Ngoài ra nhập siêu tăng cao cũng do giá của các
mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như: sắt thép, phân bón, xăng dầu, chất dẻo đều
tăng. Bên cạnh đó, giá đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới sụt giảm so với
một số ngoại tệ mạnh cũng là nhân tố làm gia tăng giá trị nhập khẩu khi quy
- 28 -
đổi về USD). Năm 2008 nhập siêu ước tính 18 tỷ USD tăng 25,9% so với
2007 và bằng 28,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (nhập siêu 2008 tăng là do
kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng vào các tháng cuối năm; nhập khẩu
ô tô đạt mức cao với 2,4 tỷ USD, ô tô nguyên chiếc đạt 1 tỷ USD với 50,4
nghìn chiếc; và do nhu cầu nhập khẩu các hàng hóa phục vụ nhu cầu sản xuất
trong nước như: máy móc thiết bị, phụ tùng khác, xăng dầu, sắt thép, vải và
nguyên phụ liệu dệt may, hàng điện tử máy tính và linh kiện đều tăng). Sang
đến năm 2009 nhập siêu ước tính 12,8 tỷ USD tuy giảm 28,9% so với 2008
nhưng đã bằng 22,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm 2009 (do
hầu hết kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nguyên, nhiên liệu phục vụ sản
xuất đều giảm. Tuy nhiên, có một số mặt hàng lại có kim ngạch tăng hơn so
với năm trước như: Điện tử máy tính, linh kiện và ô tô; điều này đã làm cho
nhập siêu chiếm tỷ trọng khá cao so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
2009 mặc dù giá trị nhập siêu giảm). Năm 2010 nhập siêu ước tính 12,6 tỷ
USD bằng 17,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (nhập siêu giảm là do
tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu: kim ngạch xuất khẩu
tăng 26,4% so với 2009, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu tăng 21,3% so với
2009). Năm 2011 nhập siêu ước tính 9,8 tỷ USD bằng 10,1% tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu, đây là mức nhập siêu thấp nhất trong vòng 5 năm (giai
đoạn 2007 – 2011) và là năm có tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu
thấp nhất kể từ năm 2002.
Bảng 2.8: Nhập siêu hàng hóa giai đoạn 2007 – 2011
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Nhập siêu (Tỷ USD) 14,3 18 12,8 12,6 9,8
Nhập siêu so với tổng kim ngạch 29,5 28,7 22,4 17,5 10,1
xuất khẩu (%)
- 29 -
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Trị giá nhập khẩu hàng hóa theo bảng phân
loại tiêu chuẩn ngoại thương và Tổng Cục Thống Kê, Trị giá xuất khẩu hàng
hóa theo bảng phân loại tiêu chuẩn ngoại thương) [15]
2.1.5 Đầu tƣ phát triển:
Bảng 2.9: Vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2007 – 2011
Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Khu vực Nhà nước 200 184,4 245 316,3 341,6
Khu vực ngoài Nhà nước 187,8 263 278 299,5 309,4
Khu vực có vốn đầu tư 74,1 189,9 181,2 214,5 226,9
trực tiếp nước ngoài
Tổng số 461,9 637,3 704,2 830,3 877,9
Vốn đầu tư toàn xã hội so 40,4 43,1 42,8 41,9 34,6
với GDP (%)
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Thông tin thống kê hàng tháng – Tình hình
kinh tế xã hội năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011) [15]
Qua bảng số liệu trên cho thấy vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2007 –
2011 tăng qua các năm. Cụ thể:
Năm 2008 vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh nhất ước tính đạt 637,3 nghìn
tỷ đồng, cao hơn năm 2007 là 175,4 nghìn tỷ đồng, tăng 22,2% so với năm
2007 và bằng 43,1% GDP, trong đó tăng chủ yếu là do khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tăng mạnh ước tính đạt 189,9 nghìn tỷ đồng tăng 46,9%.
Sang năm 2009 tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư toàn xã hội bị chậm lại do
nền kinh tế rơi vào trạng thái suy giảm, ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng cao
hơn năm 2008 là 66,9 nghìn tỷ đồng và bằng 42,8% GDP, trong đó tăng chủ
yếu là do vốn khu vực ngoài Nhà Nước tăng. Nhờ các biện pháp kích cầu của
Chính Phủ nên năm 2010 nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, vốn đầu tư toàn
- 30 -
xã hội năm 2010 đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, cao hơn năm 2009 là 126,1 nghìn
tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP, trong đó vốn đầu
tư của các khu vực đều tăng và tăng mạnh nhất là vốn đầu tư của khu vực
ngoài Nhà nước, ước tính đạt 299,5 nghìn tỷ đồng, tăng 24,7% so với 2009.
Năm 2011 vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá thực tế đạt 877,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 5,7% so với năm 2010 và bằng 34,6% GDP, trong đó vốn khu vực
Nhà nước tăng nhiều nhất tăng 25,3 nghìn tỷ đồng so với năm 2010 (tăng 8%
so với năm trước) và ước tính đạt 341,6 nghìn tỷ đồng.
2.1.6 Thất nghiệp:
Bảng 2.10: Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011
Đơn vị tính: Phần trăm (%)
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng số lao động trong 45,2 46,5 47,7 49 50,4
độ tuổi đang làm việc tại
thời điểm 1/7 hàng năm
(triệu người) (1)
Tỷ lệ thất nghiệp của lực 2,3 2,38 2,4 2,88 2,27
lượng lao động trong độ
tuổi lao động (2)
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực 4,64 4,65 4,6 4,29 3,6
thành thị (3)
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực 1,6 1,53 2,25 2,3 1,6
nông thôn (4)
(Nguồn: (1) Tổng Cục Thống Kê, Niên giám thống kê 2011, Việt Nam; (2)
Tổng Cục Thống Kê, Thông tin thống kê hàng tháng – Tình hình kinh tế xã
hội năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011; (3) Tổng Cục Thống Kê, Dân số và
lao động – Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực
- 31 -
thành thị phân theo vùng; (4) Tổng Cục Thống Kê, Dân số và lao động – Tỷ
lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi phân
theo vùng) [10] & [15]
Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2007 – 2011 đều tăng qua các năm.
Từ cuối năm 2008 đến năm 2009, nhiều doanh nghiệp trong các khu công
nghiệp đã cắt giảm lao động do suy giảm kinh tế làm cho tỷ lệ thất nghiệp
tăng. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2008 ước tính 2,38% (khu vực thành thị là 4,65%,
khu vực nông thôn là 1,53%), năm 2009 tỷ lệ thất nghiệp cả nước ước tính
2,4% (khu vực thành thị là 4,64%, khu vực nông thôn là 2,25%). Đặt biệt vào
năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp cả nước tăng cao, ước tính khoảng 2,88% (cao
nhất trong giai đoạn 5 năm 2007 – 2011), tổng số lao động trong độ tuổi đang
có việc làm ước tính 49 triệu người. Trước tình trạng kinh tế suy thoái và thất
nghiệp cao, giai đoạn 2009 – 2010 Chính Phủ đã có những giải pháp tổng thể,
kịp thời như: “Giải pháp chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm
bảo an sinh xã hội”, giải pháp kích cầu, khuyến khích đầu tư, tiêu dùng…
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển trở lại và tạo thêm việc làm cho người lao
động. Đến năm 2011 tỷ lệ thất nghiệp đã giảm, ước tính khoảng 2,27%, tổng
số lao động trong độ tuổi đang có việc làm ước tính: 50,4 triệu người.
2.1.7 Thị trƣờng chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000. Bắt đầu từ một mô hình thử
nghiệm hết sức đơn giản: 1+1+2+2 (1 trung tâm giao dịch chứng khoán kiêm
chức năng đăng ký và thanh toán bù trừ chứng khoán (HSTC), 1 ngân hàng
thanh toán là BIDV, 2 cổ phiếu niêm yết là REE và SAM, 2 công ty chứng
khoán: BVSC (công ty chứng khoán Bảo Việt) và BSC (công ty cổ phần
chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển). Kết thúc phiên giao dịch đầu
tiên với tổng giá trị giao dịch là 70,4 triệu đồng.
- 32 -
Đến năm 2006, đây là năm thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh
giá là thời kỳ “bùng nổ” thị trường, tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo
giá thị trường đạt 221.156 tỷ đồng, chiếm 22,7% GDP. Nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2006 xuất
phát từ các sự kiện kinh tế chính trị quan trọng: Việt Nam chính thức gia nhập
WTO, sự kiện tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC, 2 sự kiện này đã
tạo ấn tượng tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài và hứa hẹn sẽ có những làn
sóng đầu tư trực tiếp và cả gián tiếp đổ vào Việt Nam. Bên cạnh đó còn là do
tình hình phát triển kinh tế ở các nước lớn như Mỹ, Liên minh Châu Âu,
Trung Quốc, Nhật Bản đều khả quang; lợi nhuận của các xí nghiệp, nhất là
các xí nghiệp đa quốc gia tăng lên và làn sóng mua lại, sáp nhập xí nghiệp
năm 2005 đã làm cho thị trường chứng khoán thế giới sôi nổi hơn từ đó đã
ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán trong nước làm cho thị trường trong
nước cũng tăng trưởng theo.
Sau một thời gian tăng trưởng với tốc độ nhanh chóng, lần đầu tiên trong
lịch sử hoạt động, VN-Index đã đạt mức kỷ lục 1.158,90 điểm (ngày
25/3/2008). Nhưng cũng từ đây thị trường liên tục ở trạng thái rơi tự do và
không thể kiểm soát. Nguyên nhân là do vào cuối quý 1 năm 2008, nền kinh
tế rơi vào lạm phát, các biện pháp mạnh chống lạm phát đã làm ảnh hưởng
đến thị trường. Tiếp theo đó là những tập đoàn, công ty nhà nước có tham gia
thị trường bắt đầu rút vốn đã làm cho thị trường bị hẫng một lượng vốn rất
lớn. Tiếp đến các tổ chức đầu tư, các doanh nghiệp không phải là những tập
đoàn trên cũng bắt đầu tính toán, cấu trúc lại và rút bớt nguồn tiền ra khỏi thị
trường do giá chứng khoán đi xuống mạnh ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của họ. Tất cả những sự kiện này đã làm cho thị trường chứng khoán
suy giảm mạnh vào năm 2008. Tính đến cuối ngày 20/6/2008, chỉ số chứng
khoán ở mức 366 điểm, giảm 68,63% so với thời điểm cao nhất (1.158,90
- 33 -
điểm). Kể từ đó đến nay thị trường chứng khoán vẫn trong trạng thái lình xình
chưa thể phục hồi. Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/12/2011, chỉ số VN-
Index đóng cửa ở mức 351,55 điểm.
2.1.8 Thị trƣờng bất động sản:
Việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007 đã
tạo một xung lực cho thị trường bất động sản thông qua việc nguồn vốn đầu
tư nước ngoài đổ vào Việt Nam. Một sự bùng nổ nhất thời của dòng tiền đã
làm thị trường phát triển mạnh cả về quy mô không gian và cả về giá trị. Tại
TPHCM giá nhà đất trung bình năm 2007 khoảng 600 USD/m2 trong khi đó
thu nhập bình quân của người dân TPHCM mới vào khoảng 200 USD/tháng.
Lúc này hiện tượng bong bóng trên thị trường bất động sản đã xuất hiện rõ.
Đến cuối năm 2008, dưới tác động của khủng hoảng tài chính thế giới có
nguồn gốc từ trái phiếu hóa các khoản thế chấp bất động sản dưới chuẩn đã
buộc thị trường bất động sản Việt Nam phải điều chỉnh. Tuy nhiên vào năm
2009 – 2010, ảnh hưởng của gói kích cầu, thị trường bất động sản đã mở rộng
cục bộ đồng thời cũng là ngành nhận được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đổ vào (đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong năm
2009 ở lĩnh vực bất động sản là 7,3 tỷ USD, năm 2010 là 6,8 tỷ USD). Hệ quả
là năm 2011, thị trường bất động sản buộc phải điều chỉnh theo hướng thu
hẹp, suy giảm, trong đó có biểu hiện luồng vốn nước ngoài rút khỏi thị trường
bất động sản Việt Nam. Kể từ đó cho đến nay thị trường này vẫn trầm lắng và
chưa có dấu hiệu khởi sắc.
2.2 Các giải pháp Chính phủ đã áp dụng để kiềm chế lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn 2007 – 2011:
Để đối phó với lạm phát trong giai đoạn 2007 – 2011 Chính phủ đã áp
dụng nhiều giải pháp kiềm chế, nhiều chính sách khác nhau và thay đổi mục
tiêu ưu tiên theo các thời kỳ. Từ năm 2007 đến năm 2011 ta có thể chia thành
- 34 -
4 giai đoạn khác nhau, với mỗi giai đoạn thì có mục tiêu ưu tiên khác nhau, cụ
thể như sau:
Giai đoạn 2007 – 2008 – giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô, kiềm chế
tốc độ gia tăng lạm phát và tăng trưởng nóng:
Với đà tăng trưởng GDP năm 2007 ở mức cao 8,46%/năm kèm theo tỷ lệ
lạm phát hai con số là 12,6% (tháng 12/2007 so với cùng kỳ năm trước), thêm
vào đó là tác động của sự bất ổn kinh tế thế giới và thiệt hại nặng nề do thiên
tai dịch bệnh trong năm 2007 đã làm cho lạm phát năm 2008 tăng cao. Trước
nguy cơ đó thì Chính phủ đã đưa ra 8 nhóm giải pháp chính nhằm kiềm chế
mức tăng của giá cả, ổn định kinh tế vĩ mô. Sơ lược một số nhóm giải pháp
chủ yếu đã được áp dụng là:
- Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: mức cung tiền trong lưu thông và
dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm
2007 là nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát trong giai đoạn này. Do đó
Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng
dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm 2008. Chính phủ đã sử dụng các công cụ để
thắt chặt tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải
dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn; phát hành 2.300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc của NHNN và quy định các tín phiếu này không được sử dụng để vay tái
cấp vốn tại NHNN; lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12% rồi 14%, hệ
thống lãi suất điều hành gồm cặp lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu
cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13%; khống chế hạn mức tín dụng và
yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao, đặc biệt cho vay
đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản (Thắt chặt cho vay đầu tư
chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng
khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ và hạn chế cho vay lĩnh vực bất động
sản).
- 35 -
- Chính sách tài khóa thắt chặt: cắt giảm đầu tư công và chi phí thường
xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
- Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu: Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ
giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường
giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu,
bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Ngân hàng Nhà
nước đảm bảo đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng
xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến
thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên
quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp
dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết
quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế các mặt hàng
không thiết yếu.
Với chính sách tiền tệ thắt chặt giai đoạn 2007 – 2008 thì đến tháng
5/2008 tổng phương tiện thanh toán tăng 3,73% so với cuối năm 2007, thấp
hơn so với mức tăng 17,57% của cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng dư nợ tín
dụng tăng 18,42% tuy cao so với tốc độ tăng 13,36% của cùng kỳ năm trước
nhưng có xu hướng giảm dần (tháng 1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%,
tháng 3/2008 là 3,78%, tháng 4/2008 là 3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%). So
với năm 2007 tốc độ tăng M2 cả năm 2008 là 19% so với dự toán, dư nợ tín
dụng tăng 25,4% thấp hơn nhiều so với năm 2007 với 39% và 56% tương
ứng.
Bên cạnh đó, mặc dù đã áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt nhưng tổng
chi tiêu của Chính Phủ thực hiện trong năm 2008 vẫn vượt 19% so với dự
- 36 -
toán, tăng hơn 22% so với thực hiện năm 2007 và chiếm 31,75%GDP. Tăng
trưởng kinh tế năm 2008 đạt 6,31% và tốc độ tăng CPI là 22,97%.
Giai đoạn 2009 – giai đoạn kích cầu
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy
kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất
khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh
vực kinh tế - xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra
liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống dân cư.
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng
sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp
nhất trong nhiều năm trước đó. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chuyển từ
chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát năm 2008 sang
kích cầu đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng. Cụ thể như sau:
- Chính sách tiền tệ mở rộng: thông qua một loạt các công cụ của chính sách
tiền tệ như: triển khai thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng
cung tiền; hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái
cấp vốn xuống 7,5% và 9,5%; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền đồng
xuống còn 5%; thực hiện thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu
NHNN, nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là mua giấy tờ có giá để cung ứng
thêm tiền; duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong gần suốt năm 2009 (từ
tháng 2 đến tháng 11/2009), tăng lên 8% từ tháng 11/2009. Từ cuối tháng
11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh tế và trên cơ sở xem xét
mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng và cán cân thanh toán
quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá
xuống +/- 3% kể từ ngày 26/11/2009, đồng thời điều chỉnh tỷ giá bình quân
- 37 -
liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 tăng thêm 5,4% so với ngày
25/11/2009. Bên cạnh việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng Chính phủ
còn tập trung vào các hoạt động hiện đại hóa hoạt động ngân hàng và phát
triển thanh toán không dùng tiền mặt; NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn
ngành tiếp tục triển khai giai đoạn II Chỉ thị 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và Chỉ thị 05 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về trả lương
qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo
hướng tập trung nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ và gia tăng các tiện
ích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Giữa tháng 11/2009, NHNN
cho phép nhập khẩu vàng nhằm bình ổn giá vàng trong nước. Từ thời điểm đó
đến nay, với sự ổn định của tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do và nguồn
cung vàng không còn khan hiếm, giao dịch trên thị trường vàng diễn ra khá
ổn định.
- Chính sách tài khóa mở rộng: Giảm, giãn thuế cho nhiều đối tượng: giảm
30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV/2008 và số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giãn thời hạn nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế phải nộp năm 2009
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (70% số thuế còn lại sau khi giảm) và của
các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thủy
sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử; tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng
đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa
có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ
thanh toán; điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là
nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hoặc có
sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh, điều chỉnh tăng thuế trong
- 38 -
khuôn khổ cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất trong nước
kiềm chế nhập siêu; giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng
phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ (đóng tàu, sản xuất cơ khí…), thực
hiện tốt chính sách về ân hạn thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với
vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Bên cạnh việc giảm, giãn thuế Chính phủ còn đưa ra gói kích cầu đầu tư
tới 160.000 tỷ đồng (gồm cả 17.000 tỷ đồng hỗ trợ lãi suất) chiếm 10% GDP
vào năm 2009 để đầu tư và trợ cấp cho các khu vực bị tổn thương. Cùng với
gói kích cầu là các giải pháp mở rộng chi tiêu và đầu tư: đối với các công
trình, dự án sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước cho phép tiếp tục giải ngân
số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng 6/2009; tạm hoãn thu hồi các
khoản vốn ngân sách Nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009, trừ các
khoản đã tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong năm 2008; cho phép tiếp tục
giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của năm 2008 trong năm
2009, tạm ứng từ nguồn trái phiếu Chính phủ khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư,
xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão
vùng đồng bằng sông Hồng.
- Kích cầu tiêu dùng bằng các biện pháp như: tăng cường các biện pháp
quản lý thị trường, giá cả, chất lượng hàng hóa, khuyến khích người tiêu dùng
trong nước ưu tiên sử dụng hàng nội địa…xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là kinh doanh trái phép,
trốn thuế, liên kết độc quyền. Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các đợt
hạ giá bán hàng để kích thích tiêu dùng.
Kết quả của các chính sách kiềm chế lạm phát được sử dụng năm 2008 đã
phát huy tác dụng của nó vào năm 2009, cộng với tác động của suy thoái kinh
tế toàn cầu từ cuối năm 2008 đã tác động đến kinh tế Việt Nam đã làm cho
tăng trưởng GDP và lạm phát của Việt Nam giảm xuống. Tuy nhiên với nổ
- 39 -
lực kích cầu của Chính Phủ thì tốc độ tăng GDP năm 2009 đạt 5,32% và tốc
độ tăng CPI là 6,88%.
Giai đoạn 2010 – giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mô thận trọng nhằm
ổn định và duy trì mục tiêu tăng trưởng năm 2010
Theo định hướng ban đầu, trong giai đoạn này Chính phủ thực hiện chính
sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng. Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của
Chính phủ xác định cả hai mục tiêu cho năm 2010: kiềm chế mức lạm phát
khoảng 7% (tương tự như 2009) và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng khoảng
6,5%. Trong thực tế, khoảng nửa đầu năm 2010, chính sách tiền tệ tuân thủ
định hướng hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng (mục tiêu tăng trưởng
dư nợ tín dụng là 25% và M2 là 20%), kiểm soát rủi ro, cải thiện chất lượng
tín dụng và cơ cấu dư nợ. Tuy nhiên đến hết nửa đầu năm 2010, tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng chỉ có hơn 10%, hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng
căng thẳng thanh khoản hệ thống, các ngân hàng thiếu nguồn nội tệ cho nhu
cầu vay, tỷ lệ sử dụng vốn ở thị trường thứ cấp lớn. Trước tình trạng đó Chính
phủ đã quay lại với giải pháp nới rộng cung tiền bằng các công cụ như: giữ ổn
định lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn ở mức lần lượt
8%, 6%, 8%/năm đến tháng 10/2009, sau đó đã tăng thêm 1%/năm với các
mức lãi suất điều hành, ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND không quá
14%/năm; nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, chủ yếu là chào
mua giấy tờ có giá ngắn hạn; tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ
thanh khoản trực tiếp cho các NHTM có quy mô nhỏ nhằm ổn định thị
trường.
Chính sách tài khóa theo đuổi mục tiêu mở rộng tổng cầu trong suốt năm
2010 nhằm kích thích tăng trưởng. Nếu như năm 2008, một số dự án bị ngừng
hoặc giãn tiến độ và khu vực xây dựng cơ bản không tăng so với năm 2007
- 40 -
thì năm 2010, giá trị sản xuất xây dựng tăng 23,1% so với năm 2009, vốn đầu
tư khu vực Nhà nước tăng 10% so với năm 2009 (vốn đầu tư khu vực Nhà
nước năm 2009 tăng tới hơn 40% so với năm 2008). Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng
41,9% GDP, trong đó một tỷ lệ lớn nguồn vốn trái phiếu Chính phủ ứng trước
để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ một số dự án hoàn thành trong năm 2010.
Bội chi ngân sách lên tới hơn 6% GDP.
Kết quả là, với các giải pháp nới rộng cung tiền vào nửa cuối năm 2010 đã
đẩy dư nợ tín dụng tăng tới 18% và đưa tổng mức dư nợ tín dụng tăng tới gần
28% so với năm 2009. Các giải pháp nới rộng cung tiền kết hợp với chính
sách tài khóa mở rộng đã làm cho cả 2 mục tiêu tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ
lạm phát của năm 2010 đều vượt chỉ tiêu của Quốc hội: tốc độ tăng trưởng
vượt 104% và tỷ lệ lạm phát vượt 168%.
Giai đoạn 2011 – giai đoạn ưu tiên ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát:
Bước sang năm 2011 thì lạm phát cao đã trở lại, lạm phát cuối năm 2010
đã ở mức 2 con số, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2010 so với tháng 12/2009
tăng 11,75%. Trước tình hình đó thì Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cho năm
2011 là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Theo nghị
quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 thì cả chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa đều được thắt chặt.
Chính sách tiền tệ thắt chặt với mục tiêu là dư nợ tín dụng tăng trưởng
dưới 20%, M2 tăng khoảng 15-16%. NHNN đã triển khai các chính sách cụ
thể nhằm đạt mục tiêu này gồm: yêu cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế
hoạch kinh doanh phù hợp với mục tiêu tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ
cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh, giảm tốc độ và tỷ
trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ xuống mức tối đa
22% đến 30/6/2011 và tối đa 16% đến 31/12/2011; lãi suất chiết khấu tăng từ
- 41 -
7%/năm lên 12 rồi đến 13%/năm, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 10% tăng dần đến 16%/năm;
nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần lớn thời
gian của năm 2011 (tính đến cuối năm 2011 lượng hút ròng 111.365 tỷ đồng);
tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng với các
chế tài xử phạt nghiêm khắc của nội bộ từng ngân hàng; triển khai đồng bộ
các giải pháp đối với thị trường ngoại tệ, thị trường vàng nhằm mục tiêu giảm
sự di chuyển vốn lòng vòng giữa tài sản được coi như tiền – một trong các
yếu tố gây áp lực lên lãi suất nội tệ, triệt tiêu tác động của chính sách tiền tệ.
Song song đó là thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Các giải pháp cắt
giảm chi tiêu công được đưa ra khá quyết liệt: không kéo dài thời gian giải
ngân, không ứng trước kế hoạch năm 2012 vốn ngân sách và trái phiếu chính
phủ, giảm 32% vốn trái phiếu chính phủ, giảm 10% tín dụng đầu tư của Nhà
nước. Dự kiến trong năm 2011, số vốn cắt giảm chiếm 10% GDP (tương
đương 97.000 tỷ đồng, trong đó kế hoạch chi đầu tư công 2011 giảm so với
thực hiện năm 2010 là 50.000 tỷ đồng).
Bên cạnh chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt thì Chính phủ còn thực
hiện một cú đột phá trong việc điều hành tỷ giá, đã điều chỉnh tăng tỷ giá
mạnh trong một lần điều chỉnh để thu hẹp khoảng cách về giá của USD trong
ngân hàng và ở thị trường tự do. Ngày 11/2/2011 ngân hàng Nhà nước tăng tỷ
giá từ 18.932 VND/USD lên 20.693 VND/USD, đồng thời thu hẹp biên độ
giao dịch tỷ giá từ 3% xuống 1%, lúc này giá trị VND đã hạ 9,3% so với
USD.
Như vậy, năm 2011 Chính phủ quay lại với các biện pháp kiềm chế lạm
phát một cách quyết liệt. Với chính sách tiền tệ thắt chặt thì mục tiêu trung
gian là dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới 20%, M2 tăng khoảng 15-16%. Kết
quả là mức tăng M2 và tín dụng của cả năm 2011 đạt dưới 10% và trên 12%.
- 42 -
Đây là mức thắt chặt thấp hơn đáng kể so với mức tăng định hướng đã nêu
trong Nghi quyết 11 nhằm hướng tới giảm tổng cầu. Còn với chính sách tài
khóa thắt chặt thì dự kiến số vốn đầu tư công cắt giảm chiếm khoảng 10%
GDP (tương đương 97.000 tỷ đồng), thực tế thì kết quả ròng của chủ trương
cắt giảm đầu tư công năm 2011 là rất khiêm tốn. Tuy có sự quyết liệt của
Chính phủ trong giảm tổng cầu từ phía chính sách tiền tệ và thắt chặt chi tiêu
công trong chính sách tài khóa nhưng đã không đạt được kết quả như mong
muốn. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 5,89% thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục
tăng cao đến mức gần 19%.
2.3 Đánh giá tác động của các biện pháp kiềm chế lạm phát:
Qua các giải pháp kiềm chế lạm phát mà chủ yếu là sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa để điều tiết vĩ mô và tác động của
các giải pháp nêu trên đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ gia tăng lạm
phát đã bộc lộ những ưu điểm và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Nhìn chung, các giải pháp kiềm chế lạm phát và các giải pháp kích cầu của
Chính phủ đều đã đạt được kết quả tốt trong ngắn hạn. Đối với tình trạng lạm
phát thì điển hình là vào năm 2008, mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tăng khá cao
nhưng có xu hướng giảm vào các tháng cuối năm (giảm dần từ tháng
10/2008), nền kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá trong điều kiện lạm
phát cao (GDP cả năm 2008 ước đạt 6,31%). Nếu như năm 2008 lạm phát đã
ở mức trên 20% thì đến năm 2009, nhờ vào hiệu quả của các chính sách thắt
chặt tiền tệ của Chính phủ vào cuối năm 2008 lạm phát bình quân cả năm vào
khoảng 6,88% và đạt được tốc độ tăng trưởng khá trong bối cảnh khủng
hoảng tài chính toàn cầu (GDP cả năm 2009 ước tính là 5,32%). Còn hiệu quả
của các giải pháp chống suy thoái thì thể hiện cụ thể ở năm 2010, mặc dù sau
khủng hoảng kinh tế toàn cầu phục hồi chậm nhưng nước ta đã ngăn chặn
- 43 -
được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao, GDP cả năm 2010
tăng khoảng 6,78% cao hơn chỉ tiêu Quốc Hội đề ra (GDP đề ra là 6,5%).
Chủ trương mở rộng thị trường nội địa, vận động “người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam” đã hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước
tháo gỡ khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Từ đó đã góp phần kích thích
tăng trưởng kinh tế trong nước, giảm nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng và
giảm bớt áp lực về tỷ giá từ phía cầu.
Việc điều hành tỷ giá linh hoạt, thận trọng (điều chỉnh mạnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng vào năm 2011, tỷ giá USD/VND tăng 9,3% từ 18.932
VND/USD lên 20.693 VND/USD, biên độ giao dịch giảm từ +/- 3% xuống
+/-1%) đã làm cho tỷ giá mới phản ánh sát hơn cung – cầu ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối. Bên cạnh đó, việc áp dụng cơ chế quản lý chặt chẽ hơn lãi
suất huy động USD, hạn chế cho vay bằng ngoại tệ để nhập khẩu những mặt
hàng không thiết yếu, xử lý nghiêm các điểm kinh doanh ngoại tệ và vàng trái
phép đã góp phần hạn chế được hiện tượng đô la hóa trong nền kinh tế, giúp
ổn định tỷ giá giao dịch trên thị trường. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng
thương mại thay đổi xoay quanh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, làm tăng
nguồn cung ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng thương mại do có nhiều cá nhân
và doanh nghiệp đến bán ngoại tệ cho ngân hàng, và giảm áp lực cầu ngoại tệ
cho nền kinh tế (các doanh nghiệp trả nợ vay khi đến hạn hay cầu ngoại tệ của
các đối tượng nhập lậu vàng).
Khuyết điểm:
Bên cạnh các kết quả đạt được, các giải pháp kiềm chế lạm phát tại Việt
Nam vẫn còn tồn tại một số bất cập sau:
Thứ nhất, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa chƣa có sự phối
hợp trong việc hoạch định và thực thi mục tiêu chính sách.
- 44 -
Trong quá trình triển khai, mỗi chính sách thường sử dụng công cụ riêng
của mình và theo đuổi các mục tiêu chính sách riêng. Mặt khác, trong từng
chính sách lại định hướng theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau. Chẳng hạn
như trong thời kỳ lạm phát cao, chính sách tiền tệ một mặt nhằm mục tiêu
kiềm chế lạm phát nhưng vừa phải duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng,
đôi khi các mục tiêu này mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng hoặc tháo gỡ khó
khăn cho hệ thống doanh nghiệp. Song song đó thì chính sách tài khóa vừa
thực hiện mục tiêu cắt giảm chi tiêu vừa thực hiện chức năng hỗ trợ các doanh
nghiệp, tập đoàn Nhà nước, đảm bảo an sinh xã hội. Trong thực tế, rất khó
thực hiện yêu cầu cắt giảm chi tiêu cũng như yêu cầu đảm bảo phân bổ chi
tiêu đúng đối tượng và có hiệu quả bởi tình trạng tham nhũng và các đối
tượng tiếp nhận vốn ngân sách thường sử dụng vốn không hiệu quả. Tóm lại,
về tổng thể mỗi chính sách theo đuổi mục tiêu riêng và từng chính sách lại
theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau nên dẫn tới tình trạng mâu thuẫn và khó
khăn trong việc phối hợp giữa hai chính sách ở Việt Nam.
Thứ hai, việc xây dựng mục tiêu chính sách khá hình thức chƣa sát
với tình hình thực tế.
Việc định lượng các mục tiêu kinh tế vĩ mô thường dựa vào mức đã đạt
được năm trước mà ít có sự dự báo những biến động trong kỳ kế hoạch và độ
trễ của các chính sách trong thời kỳ trước. Đặc biệt từ năm 2008, các chỉ tiêu
vĩ mô phản ánh mục tiêu chính sách thường xuyên bị điều chỉnh. Chẳng hạn
như năm 2011, mục tiêu chỉ số lạm phát Chính phủ trình và được Quốc Hội
thông qua là 7% nhưng lạm phát bình quân cả năm 2010 đã là 9,19%. Trong
quá trình thực hiện, Chính phủ đã phải điều chỉnh chỉ tiêu này tới 3 lần: tháng
5/2011 Chính phủ điều chỉnh mục tiêu lạm phát là 15%, tháng 7/2011 Chính
phủ điều chỉnh mục tiêu lạm phát là 17%, tháng 8/2011 Chính phủ điều chỉnh
mục tiêu lạm phát lên 18% và thực tế là đến tháng 12/2011 chỉ tiêu lạm phát ở
- 45 -
con số 18,13% và bình quân cả năm là 18,58%. Điều này thể hiện việc xây
dựng mục tiêu chính sách khá hình thức, việc thay đổi mục tiêu làm giảm
lòng tin đối với thị trường từ đó làm giảm hiệu quả của các chính sách.
Thứ ba, các yêu cầu ổn định vĩ mô đƣợc thực hiện một cách bị động
khi vấn đề nảy sinh và các chính sách đƣợc sử dụng nhƣ là một giải pháp
tình thế kể cả việc áp dụng các biện pháp hành chính trong điều hành vĩ
mô để giảm nhẹ hậu quả.
Việc điều hành chính sách của Chính phủ năm 2010 và năm 2011 khá bị
động. Nửa đầu năm 2010, Chính phủ theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt
hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng. Kết quả là nửa năm đầu 2010, tốc
độ tăng trưởng dư nợ tín dụng chỉ có hơn 10%, hệ thống ngân hàng rơi vào
tình trạng căng thẳng thanh khoản hệ thống, các ngân hàng thiếu nội tệ để cho
vay, tỷ lệ sử dụng vốn ở thị trường cấp 2 lớn. Chính sách tiền tệ lúc này quá
chặt chẽ đã kiềm chế tăng trưởng kinh tế. Do vậy nên Chính phủ đã chuyển
sang các giải pháp nới rộng cung tiền vào sáu tháng cuối năm. Tương tự cho
năm 2011, chính sách tiền tệ một lần nữa quay lại thực hiện thắt chặt nhưng
đến quý IV năm 2011 do xuất hiện dấu hiệu đình đốn kinh tế, Chính phủ đã
chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang thúc đẩy phục hồi kinh tế
bằng cách sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng.
Sự bị động này còn thể hiện ở chỗ NHNN bị động trong việc thực thi
chính sách tiền tệ. Nguyên nhân chủ yếu là do NHNN thiếu tính độc lập và tự
chủ trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ. Thông thường trước
khi thông qua một quyết định, NHNN phải xin ý kiến Chính phủ. Do đó, việc
triển khai chính sách tiền tệ thường chậm trễ, trong khi đó bản thân các chính
sách tiền tệ để đi vào thực tế luôn có độ trễ nhất định nên các chính sách áp
dụng ở Việt Nam thường có hiệu quả chậm và Chính phủ vẫn thường xuyên
sử dụng các công cụ hành chính để điều hành kinh tế.
- 46 -
Thứ tƣ, giải pháp kiềm chế lạm phát đã đi đúng hƣớng nhƣng nguyên
nhân cơ bản gây ra lạm phát vẫn chƣa giải quyết đƣợc.
Lạm phát năm 2008 đã ở mức hai con số (trên 20%) nhưng nhờ hàng loạt
các biện pháp của Chính phủ cộng hưởng với đà suy giảm kinh tế toàn cầu đã
đưa lạm phát năm 2009 quay về mốc một con số (6,88%). Tuy nhiên các biện
pháp áp dụng chỉ là các biện pháp ngắn hạn và tức thời. Nguyên nhân cơ bản
gây ra lạm phát chính là tư duy của các nhà làm chính sách, luôn đặt trọng
tâm vào tăng trưởng và kinh tế tập thể, tập đoàn trong suốt giai đoạn 2007 đến
nay mà hậu quả đó là dẫn đến những trục trặc mang tính cơ cấu của nền kinh
tế, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư
công và trong hoạt động của các DNNN và tập đoàn lớn. Nếu các vấn đề cơ
bản này vẫn chưa được giải quyết một cách cứng rắn, tích cực và triệt để thì
nguy cơ lạm phát cao vẫn trở lại.
Thứ năm, giải quyết lạm phát quá nôn nóng, thiếu tầm nhìn dài hạn.
Có thể nhận thấy, ở giai đoạn lạm phát cao trong thời gian vừa qua, Chính
phủ đã áp dụng hàng loạt các biện pháp tiền tệ để nhằm kiềm chế giá cả leo
thang như hạn chế tín dụng, tăng lãi suất, rút bớt tiền trong lưu thông…các
biện pháp này có thể hạn chế sự leo thang của giá cả trong ngắn hạn, nhưng
đây một liều thuốc quá mạnh cho nền kinh tế. Minh chứng là cuộc chạy đua
lãi suất huy động giữa các ngân hàng thương mại để giải quyết tình trạng
thiếu hụt vốn ở năm 2010 (lãi suất thỏa thuận một số ngân hàng là
17,9%/năm) và 2011 (lãi suất từ 21 – 24%/năm). Từ đó đã gây ra những xáo
trộn tâm lý của người dân dẫn đến việc rút tiền và chuyển tiền tiết kiệm ở các
ngân hàng. Hậu quả là nguồn vốn trong nền kinh tế không tăng lên mà cứ
chạy lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác và cũng gây khó khăn
cho các ngân hàng thương mại trong việc huy động vốn trong nền kinh tế.
- 47 -
Thực chất sự gia tăng giá cả chủ yếu tập trung vào các mặt hàng thiết yếu
như: lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện, nước – đây là những mặt hàng
mà người dân không thể không tiêu dùng hay có thể hạn chế sử dụng. Mặt
khác, việc lãi suất huy động tăng khiến lãi suất cho vay tăng, vượt quá sức
chịu đựng của hầu hết các tổ chức kinh doanh. Việc tăng lãi suất và hạn chế
tín dụng đã đánh mạnh vào các ngành công nghiệp mà giá cả không tăng đột
biến khiến cho các doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh do
không tiếp cận nổi nguồn vốn vay từ ngân hàng. Điều này đã tạo ra khởi
nguồn cho sự suy thoái kinh tế.
Thứ sáu, việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ
quan chính sách chƣa đƣợc thiết lập một cách chính thức, thiếu nền tảng
kỹ thuật làm căn cứ cho sự phối hợp chính sách
Nhiệm vụ cung cấp thông tin một cách đầy đủ và kịp thời cho thị trường
chưa được tạo thành thói quen cho các cơ quan chính sách ở Việt Nam. Vì
vậy, các nhà làm chính sách mất đi một kênh triển khai chính sách hiệu quả
thông qua kỳ vọng hợp lý của thị trường. Việc cung cấp thông tin không
chính thống cộng với mức độ thấp trong trách nhiệm giải trình đã không tạo
được áp lực trong việc xây dựng và cam kết thực hiện mục tiêu cho các nhà
làm chính sách, đồng thời gây nên sự thiếu tin tưởng của thị trường đôi khi
đã gây ra những phản ứng tiêu cực trong nền kinh tế làm giảm hiệu quả trong
việc thực thi các chính sách.
Hơn nữa, để các chính sách đi vào thực tế có hiệu quả như mong đợi thì
cần có nền tảng kỹ thuật làm căn cứ để lựa chọn quyết sách phù hợp. Như
chúng ta biết, việc dự báo những biến động vĩ mô trên cơ sở nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng trong và ngoài nước là căn cứ quan trọng cho việc xây
dựng mục tiêu, lựa chọn công cụ chính sách và vạch ra lộ trình thực hiện
chính sách. Kết quả dự báo chính xác sẽ giúp kiểm soát được độ trễ trong các
- 48 -
tác dụng của từng chính sách, đồng thời giúp các nhà hoạch định chính sách
có được sự tự tin và bình tĩnh trong việc đưa ra các quyết sách, tránh được
những phản ứng tức thời gây hệ lụy và sửa chữa sau đó. Tuy nhiên, hiện nay
nền tảng kỹ thuật làm căn cứ cho sự phối hợp chính sách chưa được quan tâm
đúng mức. Thiếu nguồn lực dự báo giỏi và phân tán ở các đơn vị khác nhau.
Các kết quả dự báo đôi khi mâu thuẫn, độ tin cậy chưa được kiểm định. Tác
dụng của các kết quả nghiên cứu chưa được tận dụng triệt để và gây nên lãng
phí.
2.4 Phân tích nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát ở Việt Nam giai đoạn
2007 – 2011:
Như đã trình bày ở chương 1, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm
phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011 xảy ra là do bốn nhóm nguyên nhân
chủ yếu: do cầu kéo, do chi phí đẩy, do yếu tố tiền tệ và lạm phát sinh ra lạm
phát. Cụ thể như sau:
2.4.1 Lạm phát do cầu kéo:
2.4.1.1 Các biện pháp kích cầu của Chính phủ:
Sự nóng lên bất thường của các thị trường tài sản (chứng khoán, bất động
sản…) thêm vào đó là sự lãng phí, tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự
phân bổ vốn thiên lệch ở khu vực doanh nghiệp (điển hình như vụ Vinasin) đã
góp phần gây ra lạm phát do nhiều người trở nên giàu có bất thường sẽ gia
tăng chi tiêu của mình rất lớn kéo theo tổng cầu của cả nền kinh tế gia tăng.
Hơn nữa, Chính phủ tung ra các gói kích cầu vào năm 2009 và 2010 nhằm
vực dậy nền kinh tế cũng đã làm gia tăng lạm phát. Năm 2009 Chính phủ thực
hiện gói kích cầu thứ nhất trị giá 160 nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD),
trong đó chi phí dành hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng là 17 nghìn tỷ đồng
(Quyết định 131 hỗ trợ lãi suất cho vay vốn ngắn hạn để sản xuất kinh doanh,
Quyết định 443 hỗ trợ lãi suất cho vay trung dài – hạn, Quyết định 497 hỗ trợ
- 49 -
lãi suất cho nông nghiệp nông thôn), miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, thuế
VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp là 28 nghìn tỷ đồng, tạm hoãn thu hồi vốn
đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước là 3,4 nghìn tỷ đồng, ứng trước dự toán
năm sau là 37,2 nghìn tỷ đồng, chuyển vốn đầu tư năm 2008 sang 2009 là
30,2 nghìn tỷ đồng, phát hành bổ sung trái phiếu chính phủ là 20 nghìn tỷ
đồng, tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17 nghìn
tỷ đồng, các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và
đảm bảo an sinh xã hội là 7,2 nghìn tỷ đồng. Gói kích cầu thứ hai vào năm
2010 trị giá khoảng 145 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ lãi suất các khoản vay vốn
trung và dài hạn theo quyết định 443 và 497 của Thủ tướng Chính phủ sẽ kéo
dài thời gian ký kết và giải ngân các hợp đồng vay vốn đến hết 2010 nhưng
giảm thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất và giảm mức hỗ trợ từ 4% xuống 2%,
tiếp tục áp dụng chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu động cho các thành
phần kinh tế theo quyết định 131 đến hết quý 1/2010 nhưng giảm mức hỗ trợ
xuống 2% và thu hẹp đối tượng thụ hưởng (ưu tiên các doanh nghiệp sản xuất
xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động). Với một kế hoạch chi tiêu lớn được
đưa ra (thông qua 2 gói kích cầu của Chính phủ) đã làm cho tổng cầu của nền
kinh tế gia tăng dẫn đến mức giá gia tăng trong ngắn hạn.
2.4.1.2 Bội chi ngân sách thƣờng xuyên qua các năm:
Xem xét chi tiêu của Chính phủ trong giai đoạn 2007 – 2011 ta thấy: chi
tiêu của Chính phủ luôn ở mức cao và đã gia tăng liên tục trong giai đoạn
2007 – 2010. Từ mức 37,2% GDP trong năm 2007 lên tới mức 39,4% trong
năm 2009 và tăng lên 39,8% trong năm 2010. Sang năm tiếp theo 2011 mặc
dù có giảm (tương đối xét về tỷ lệ so với GDP) nhưng vẫn ở mức cao hơn so
với tổng thu ngân sách (năm 2011 ước thực hiện tổng thu là 30,9% GDP và
tổng chi là 33,5% GDP). Việc tổng thu luôn bé hơn tổng chi đã làm cho tình
- 50 -
trạng bội chi ngân sách luôn hiện hữu ở các năm, mức bội chi trong nhiều
năm vào khoảng 5% GDP.
Bảng 2.11: Cơ cấu thu, chi và thâm hụt NSNN
Tỷ lệ % trong GDP 2007 2008 2009 2010 2011
A. Tổng thu và viện trợ 29,4 29,4 27,8 29,7 30,9
28,9 Tổng thu 28,8 27,3 29,1 30,6
Thu từ viện trợ không 0,5 0,6 0,5 0,6 0,3
hoàn lại
B. Tổng chi ngân sách (i) 37,2 37,2 39,4 39,8 33,5
Chi thường xuyên 20,3 19,8 19,5 20,4 24,0
Chi đầu tư phát triển 9,1 8,1 10,8 9,2 8,5
Trong đó:
7,4 8,1 - Chi đầu tư xây dựng 8,6 10,1 8,7
cơ bản
C. Bội chi ngân sách -4,6 -6,9 -6,0 -5,5 -4,9
D. Bù đắp bội chi ngân - - 6,0 4,6 6,9
sách
Vay trong nước (ròng) 5,0 3,2 5,3 - -
Vay nước ngoài (ròng) 1,0 1,4 1,6 - -
(Nguồn: Cổng thông tin Bộ tài chính, Quyết toán ngân sách Nhà nước năm
2007, 2008, 2009, 2010 và Cổng thông tin Bộ tài chính, Ngân sách Việt Nam
năm 2012,(i) không bao gồm chi trả nợ gốc) [17]
Nếu xem xét cơ cấu chi ngân sách thì: chi thường xuyên luôn ở mức
khoảng 20% GDP và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN của Chính
phủ, trong những năm gần đây thì chi cho đầu tư xây dựng cơ bản ở mức thấp
chưa đến 10% GDP và gần bằng một nửa tổng chi thường xuyên hàng năm.
- 51 -
Nếu so sánh tốc độ tăng chi thường xuyên và tốc độ tăng chi đầu tư phát triển
thì chi thường xuyên luôn chiếm tốc độ tăng cao hơn nếu loại trừ năm 2009.
Bảng 2.12: Tốc độ tăng chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển
Đơn vị tính: %
2007 2008 2009 2010 2011
Chi thường xuyên 28,9 26,0 11,7 23,4 35,5
Chi đầu tư phát triển 18,1 14,5 51,8 1,0 5,8
(Nguồn: Cổng thông tin Bộ tài chính, Quyết toán ngân sách Nhà nước năm
2007, 2008, 2009, 2010 và Cổng thông tin Bộ tài chính, Ngân sách Việt Nam
năm 2012) [17]
Bên cạnh mức chênh lệch lớn giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát
triển thì đầu tư công quá mức, kém hiệu quả cũng đã góp phần gia tăng lạm
phát.
Ta không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công, nhưng Nhà nước chỉ
nên tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế mà tư
nhân không có động cơ để làm hoặc làm không hiệu quả. Trên thực tế Nhà
nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và còn cạnh tranh, chèn
lấn khu vực tư nhân. Mức chi tiêu của khu vực công (chi thường xuyên và chi
đầu tư) trong những năm qua luôn ở mức cao 27 – 33% GDP, với mức này đã
tạo điều kiện cho nạn tham nhũng, những ưu ái trong phân bổ vốn cho doanh
nghiệp Nhà nước hay các doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ từ đó
dẫn đến việc sử dụng vốn sai mục đích và kém hiệu quả, không tạo ra được
giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Hơn nữa, khi đầu tư công quá lớn vượt quá sức chịu đựng của ngân sách
thì sẽ phải đi vay, thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng nhanh
chóng của nợ công.
- 52 -
Bảng 2.13: Nợ công Việt Nam qua các năm (%GDP)
2007 2008 2009 2010 2011 Ngƣỡng
Nợ công (5) 45,0 44,3 48,5 55,4 52,3 65,0
Nợ nước ngoài (6) 32,5 29,8 39,0 42,2 41,5 50,0
(Nguồn: (5)www.economist.com/content/global_debt_clock, (6) Cổng thông
tin Bộ tài chính, Bản tin nợ nước ngoài số 7)[14]&[17]
Nợ công của Việt Nam đã tăng từ 45% GDP từ cuối năm 2007 lên tới hơn
55% GDP vào năm 2010 và chỉ giảm đôi chút vào năm 2011 nhờ lạm phát
cao. Cùng thời gian đó, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng từ 32,5% lên
tới gần 42% GDP. Dù vẫn còn nằm trong ngưỡng cho phép nhưng khi nợ
công quá cao, tăng nhanh thêm vào đó là tình trạng sử dụng vốn vay không
hiệu quả, không làm tăng tốc độ tăng trưởng nghĩa là không tạo ra được
nguồn tiền để trả nợ. Ngược lại, có thể làm đình đốn kinh tế do nguồn để trả
nợ trong nước là từ thuế, khi tăng thuế để tăng nguồn trả nợ thì sẽ không tạo
ra động lực phát triển, lúc này người dân sẽ tìm cách trốn thuế. Kinh tế không
phát triển sẽ đưa đến mất khả năng trả nợ vì thuế thu được giảm trong khi khó
cắt giảm chi tiêu và do đó đưa đến khủng hoảng nợ công như đang xảy ra ở
Châu Âu. Mặt khác, gánh nặng nợ nước ngoài tăng nhanh trong bối cảnh
thâm hụt cán cân thương mại duy trì ở mức độ cao trong nhiều năm liên tục
và dự trữ ngoại hối giảm dần qua các năm (giảm từ 21 tỷ USD năm 2007
xuống còn 13,5 tỷ USD năm 2011) có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng trả
nợ nước ngoài. Từ việc không có nguồn để trả nợ có thể dẫn đến nguy cơ là đi
vay nợ mới về để trả nợ cũ. Tất cả những điều này đưa đến nguy cơ vỡ nợ
quốc gia, kinh tế đi vào suy thoái, đồng tiền bị mất giá và lạm phát tăng cao.
2.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy:
2.4.2.1 Thâm hụt cán cân thƣơng mại cao dẫn đến hiện tƣợng nhập
khẩu lạm phát từ nƣớc ngoài:
- 53 -
Trong thời gian gần đây với xu thế mở cửa và hội nhập với kinh tế thế
giới, Việt Nam đã và đang thực hiện theo lộ trình mở cửa như đã cam kết khi
gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới. Trong quá trình mở cửa phát triển
kinh tế với vị thế là một nền kinh tế nhỏ có mức độ mở cửa lớn (tỷ lệ xuất
khẩu/GDP luôn ở trạng thái trên 70%) trong khi đó hơn 80% hàng hóa nhập
khẩu của Việt Nam là nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất trong nước
và xuất khẩu, ngoài ra ở thị trường nội địa hàng hóa trong nước có tính cạnh
tranh kém hơn so với hàng nhập khẩu. Do vậy nên cán cân thương mại của
Việt Nam luôn ở trạng thái thâm hụt. Năm 2007 tăng 180,4% so với năm
2006, năm 2008 tăng 25,9% so với 2007, mặc dù có xu hướng giảm ở các
năm từ 2008 đến 2011 nhưng cán cân thương mại vẫn ở trạng thái thâm hụt
khá cao, trung bình khoảng 10 tỷ USD. Với tình trạng này thì khi giá cả hàng
hóa nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trên thị trường thế giới tăng sẽ làm tăng
giá cả hàng hóa trong nước cũng như giá cả hàng hóa xuất khẩu, hay nói cách
khác, Việt Nam nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài vào.
Bảng 2.14: Xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại
2007 2008 2009 2010 2011
Kim ngạch (tỷ USD)
Nhập khẩu 62,8 80,7 69,9 84,8 106,7
Xuất khẩu 48,5 62,7 57,1 72,2 96,9
Cán cân thương mại -14,3 -18 -12,8 -12,6 -9,8
Tốc độ tăng (%)
Nhập khẩu 39,8 28,5 -13,4 21,3 25,8
Xuất khẩu 21,9 29,3 -8,9 26,4 34,2
Cán cân thương mại 180,4 25,9 -28,9 -1,6 -22,2
Nhập siêu/Xuất khẩu 29,5 28,7 22,4 17,5 10,1
- 54 -
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Trị giá nhập khẩu hàng hóa theo bảng phân
loại tiêu chuẩn ngoại thương và Tổng Cục Thống Kê, Trị giá xuất khẩu hàng
hóa theo bảng phân loại tiêu chuẩn ngoại thương) [15]
Mặt khác, khi thâm hụt cán cân thương mại duy trì trong thời gian dài,
tức là nguồn thu ngoại tệ thấp hơn so với nhu cầu chi tiêu ngoại tệ để nhập
khẩu, từ đó gây áp lực lên tỷ giá làm cho tỷ giá tăng và góp phần làm cho lạm
phát gia tăng.
2.4.2.2 Giá cả tăng cao:
Nhìn lại mặt bằng giá cả thực tế ở các năm ta có thể thấy được một bức
tranh tổng thể là giá cả hàng hóa giai đoạn 2008 – 2011 liên tục tăng cao, và
có xu hướng là khi đã lập được mặt bằng giá cả mới thì sẽ không giảm giá
hoặc giảm rất chậm cho dù giá cả các yếu tố đầu vào trên thế giới có hạ nhiệt.
Giá cả tăng cao đều có xuất phát điểm là giá năng lượng gia tăng. Trong
giai đoạn từ 2008 đến 2011 qua các lần tăng và giảm giá thì: giá xăng A92 đã
tăng từ mức 14.900 đ/lít lên 20.800 đ/lít, giá dầu hỏa tăng từ 13.900 đ/lít lên
mức 20.200 đ/lít, giá dầu diesel tăng từ 13.950 đ/lít lên mức 20.400 đ/lít. Bên
cạnh giá xăng dầu thì giá điện, giá gaz và lương thực thực phẩm cũng tăng giá
liên tục. Khi đầu vào là xăng dầu và điện tăng giá sẽ dẫn đến giá thành sản
phẩm của các sản phẩm khác trong nền kinh tế tăng, kể cả những mặt hàng
không liên quan nhiều như rau xanh, thực phẩm chưa chế biến cũng có giá
tăng vọt.
Việc giá cả tăng cao đã đóng góp không nhỏ vào việc gia tăng lạm phát
trong giai đoạn 2008 – 2011. Tại thời điểm tháng 7/2008 khi giá xăng tăng
4.500 đ/lít (tăng 30% so với trước đó) thì chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng
8/2008 đã tăng 1,56% so với tháng trước đó (cao hơn mức tăng 1,13% của
tháng 7/2008), trong đó nhóm phương tiện đi lại, bưu điện chịu tác động trực
tiếp nên tăng mạnh ở mức 9,07% (tháng 7 tăng 0,55%), góp phần đưa lạm
- 55 -
phát cả năm 2008 lên gần 23%. Hay việc giá xăng tăng 2.900 đ/lít (24/2/2011)
đã tác động đến CPI tháng 3 với mức tăng 2,17% so với tháng trước. Đặc biệt
với việc giá xăng dầu tăng thêm 2.000 đ/lít – 2.800 đ/lít vào ngày 29/3/2011
đã làm cho CPI tháng 4/2011 tăng 3,32% so với tháng trước – đây là mức cao
nhất kể từ 3/2008.
Những số liệu trên cho thấy giá cả hàng hóa đặc biệt là xăng dầu đã có tác
động không nhỏ làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua và giá cả xăng dầu
luôn có tác động mạnh lên lạm phát mỗi khi được điều chỉnh mạnh.
2.4.3 Lạm phát do yếu tố tiền tệ:
2.4.3.1 Tăng trƣởng cung tiền cao:
Trong giai đoạn 2007 – 2010 tốc độ tăng trưởng cung tiền (M2) và dư nợ
tín dụng liên tục duy trì ở mức cao, bình quân khoảng 30%/năm, đi kèm theo
đó là sự gia tăng của lạm phát cơ bản (CPI đã loại bỏ yếu tố giá cả hàng hóa
lương thực, thực phẩm và năng lượng).
Bảng 2.15 bên dưới cho ta thấy, có sự tương quan giữa tăng trưởng cung
tiền và lạm phát cơ bản. Khi cung tiền tăng ở năm trước thì lạm phát cơ bản
sẽ tăng vào năm sau đó và nếu cung tiền giảm thì lạm phát cơ bản cũng sẽ
giảm vào năm tiếp theo. Vậy khi tăng trưởng cung tiền tăng thì sẽ kéo theo
lạm phát gia tăng.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy được rằng tốc độ tăng cung tiền qua các năm ở
mức cao và cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cung tiền
bình quân qua 5 năm (2007 – 2010) là 29,8% trong khi đó tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân là 6,54%. Sự chênh lệch quá lớn này giữa cung tiền với tăng
trưởng kinh tế cũng đã gây ra áp lực lớn làm gia tăng lạm phát.
- 56 -
Bảng 2.15: Tăng trưởng cung tiền (M2) và tăng trưởng dư nợ tín dụng
Đơn vị tính: %
2007 2008 2009 2010 2011 (7)
Tăng trưởng cung 46,1 20,3 29,0 33,3 20,3
tiền (M2)
Tăng trưởng tín dụng 53,9 25,4 39,6 32,4 19,2
Lạm phát cơ bản 8,0 16,3 6,1 8,8 -
(cuối kỳ)
(Nguồn: www.imf.org/external/np/sec/pn/2011/pn1181.htm, (7) số dự
toán)[16]
2.4.3.2 Sự bất ổn trong quy mô vốn, quan hệ sở hữu và trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng:
Hệ thống ngân hàng với chức năng là trung gian tài chính có tác động đến
sự phát triển của mọi lĩnh vực của nền kinh tế và ổn định xã hội. Vì vậy để có
một nền kinh tế khỏe mạnh, tăng trưởng bền vững thì các tổ chức trung gian
này phải hoạt động có hiệu quả, phát triển vững mạnh và đúng theo cơ chế thị
trường.
Trong thời gian gần đây, cùng với sự khó khăn của nền kinh tế, những tồn
tại hạn chế của hệ thống ngân hàng Việt Nam được tích tụ trong nhiều năm
qua chưa được giải quyết triệt để, ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế và rủi ro:
Quy mô vốn điều lệ và tài sản thấp. Quy mô vốn điều lệ và tài sản của các
ngân hàng còn nhỏ so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điển hình
như, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam – NHTM được thành lập sớm
nhất ở Việt Nam tổng tài sản đến tháng 12/2011 mới đạt 366.722 tỷ đồng
(tương đương 18,3 tỷ USD) thấp hơn nhiều so với ngân hàng Bangkok Bank
của Thái Lan tổng tài sản năm 2011 khoảng 69 tỷ USD và của ngân hàng
BDS ở Singapore là vào khoảng 229 tỷ USD. Số lượng các ngân hàng thời
- 57 -
gian qua tăng khá nhanh nhưng quy mô vốn chưa tăng tương xứng, hầu hết
các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ (các ngân hàng này hầu hết có xuất phát
điểm là các NHTM nông thôn nhưng lại vươn ra hoạt động ở thành thị). Ngay
cả các ngân hàng thuộc loại có quy mô vốn điều lệ cao nhất ở Việt Nam cũng
vẫn còn thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu
vực. Năm 2011, vốn điều lệ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (Agribank) đạt 29.606 tỷ đồng (tương đương: 1,48 tỷ USD), vốn điều lệ
của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Ngoại thương (Vietcombank)
vào khoảng 19.698 tỷ đồng (tương đương 0,98 tỷ USD) và của Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) vào khoảng 12.948 tỷ đồng
(0,65 tỷ USD); trong khi đó tại thời điểm năm 2009 thì vốn điều lệ của một số
ngân hàng lớn trong khu vực như: ngân hàng Băng Cốc Thái Lan đã đạt hơn 3
tỷ USD, Ngân hàng BDS của Singapore hơn 9 tỷ USD, Ngân hàng Mandiri
của Indonesia hơn 2 tỷ USD, Ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4 tỷ.
Tính đến cuối năm 2011, thị trường Việt Nam có 35 NHTM cổ phần ngoài
Nhà nước nhưng trong đó chỉ có 11/35 ngân hàng có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ
đồng.
Do yếu kém về quy mô vốn nên để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh các ngân
hàng đã phá rào, không chấp hành các nguyên tắc kỷ luật thị trường, nâng cao
lãi suất huy động để đáp ứng cho nhu cầu thanh khoản. Những tháng đầu năm
2011, tình hình đua lãi suất huy động đã khiến thanh khoản toàn hệ thống có
nguy cơ rủi ro lớn, luân chuyển vốn trong hệ thống có những thời điểm tắc
nghẽn do thiếu niềm tin trên thị trường liên ngân hàng. Hơn nữa, khi lãi đầu
vào cao thì sẽ làm cho lãi suất cho vay tăng theo, nhiều giai đoạn mặt bằng lãi
suất được xác lập ở mức quá cao vượt sức chịu đựng của nhiều tổ chức kinh
tế và cá nhân có nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh. Điều này đã khiến
cho nhiều khách hàng không tiếp cận được vốn tín dụng, những đối tượng có
- 58 -
khả năng tiếp cận vốn tín dụng lúc này là những nhà đầu cơ vào thị trường bất
động sản. Từ đó dẫn đến hậu quả là vốn tín dụng không thể tạo ra tăng trưởng
kinh tế mà còn rơi vào nguy cơ không trả được nợ khi thị trường bất động sản
đóng băng.
Quan hệ sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng. Trong thời gian
gần đây nhiều ngân hàng tỉnh đã được nâng cấp thành ngân hàng quốc gia, có
sự gia tăng vốn rất nhanh, trong đó có sự góp phần của sở hữu chéo giữa các
ngân hàng thương mại, doanh nghiệp và công ty đầu tư.
Trước hết đó là nhiều tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước đã đầu tư vào các
ngân hàng thương mại, công ty tài chính, bất động sản trong khi đây không
phải là ngành chính cốt lõi của các tập đoàn này. Chẳng hạn như: tập đoàn
Điện lực EVN đầu tư vào Ngân hàng TMCP An Bình với số vốn góp là
24,3%, hai tập đoàn kinh tế Nhà nước là Than-Khoáng sản và tập đoàn Cao su
có phần hùn trong Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, tập đoàn Dầu khí
Petro Việt Nam đầu tư vào Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu,…Mặt khác,
các ngân hàng TMCP Nhà nước như BIDV, Vietcombank, VietinBank,
Agribank đều sở hữu các ngân hàng TMCP khác. Bên cạnh đó thì một số
ngân hàng ở khu vực tư nhân cũng rộ lên tình trạng sở hữu chéo này.
Thông qua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng A có thể vay tiền ngân
hàng B thông qua một công ty đầu tư tài chính của mình để vay ngược lại
ngân hàng A. Điều này đã tạo ra nguồn “vốn ảo” trong hệ thống ngân hàng
thương mại (thực chất là vốn vay lẫn nhau) làm cho quy mô vốn thực của các
NHTM bị che đậy.
Ngoài ra, sở hữu chéo còn dẫn đến hệ lụy là vi phạm về quy định giới hạn
tỷ lệ sở hữu cổ phần của Luật các tổ chức tín dụng. Sở hữu chéo cho phép một
doanh nghiệp hay ngân hàng có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có thể gây
áp lực (một cách hợp pháp như thông qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị
- 59 -
với vị thế cổ đông chiến lược) để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự
án không đạt chuẩn cho vay của ngân hàng. Nguy cơ này đang tiềm ẩn trong
các dự án bất động sản đã gia tăng đáng kể về số lượng trong những năm gần
đây và nay đang đối mặt với nguy cơ không trả được nợ.
Hơn nữa, sở hữu chéo còn giúp ngân hàng giấu nợ xấu của mình bằng
cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng khác (mà ngân hàng này có
quan hệ sở hữu) cho vay, qua đó giảm được mức nợ xấu phải khai báo và
không phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Điều này gây nên nguy cơ vỡ
nợ toàn hệ thống.
Số lượng ngân hàng gia tăng quá nhanh nhưng lại phân bố không đồng
đều mà tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn trong khi hầu hết các ngân
hàng chỉ tập trung khai thác các sản phẩm truyền thống.
Khi tăng trưởng về số lượng quá mức trong thời gian ngắn một số NHTM
không nâng cao kịp năng lực quản trị rủi ro và năng lực điều hành.
Số lượng quá nhiều mà tập trung phần lớn ở các thành phố trung tâm hơn
nữa các sản phẩm dịch vụ cung cấp là những sản phẩm truyền thống nên dẫn
đến cạnh tranh gay gắt và không lành mạnh giữa các ngân hàng. Lợi nhuận
thu được từ các ngân hàng đa số là từ tín dụng nên các ngân hàng tìm cách
tăng trưởng tín dụng dưới mọi hình thức và bất chấp rủi ro để tìm kiếm lợi
nhuận (tăng trưởng trong 5 năm qua trên 30% mỗi năm, tổng dư nợ tín dụng
bằng khoảng 120% GDP).
Hậu quả là tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cho vay của ngân hàng cuối năm 2011
từ mức 3,07% đã tăng lên mức 8,6% tính đến 31/3/2012 (số liệu Ngân hàng
Nhà Nước công bố) và đang có xu hướng gia tăng. Từ đó làm yếu đi tình hình
tài chính của các ngân hàng thương mại.
Tóm lại, tình trạng tồi tệ của các tổ chức tín dụng đã khiến cho dòng vốn
khó đến được nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khu vực sản xuất
- 60 -
kiềm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Đồng thời cũng gây khó khăn trong việc
điều hành chính sách tiền tệ của Chính phủ để kiềm chế lạm phát do kênh dẫn
truyền đã bóp méo hiệu quả của chính sách. Do đó, cần tái cấu trúc lại hệ
thống ngân hàng để hệ thống ngân hàng phát triển bền vững và thực hiện
đúng và có hiệu quả vai trò trung gian tài chính của mình.
2.4.3.3 Ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
Bắt nguồn từ “bong bóng” bất động sản cùng với giám sát tài chính thiếu
hoàn thiện ở Mỹ đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này vào
năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Là một cường quốc kinh tế có
quan hệ rộng khắp toàn cầu, cuộc khủng hoảng từ Mỹ đã lan rộng ra nhiều
nước trên thế giới. Từ những sự bất ổn này đã dẫn đến những đổ vỡ tài chính,
suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Tác động của cuộc khủng hoảng này đến Việt
Nam thể hiện trước hết ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Để hạn chế bớt tình trạng khan hiếm tiền tệ do khủng hoảng tài chính gây
ra, FED đã giảm lãi suất cơ bản từng bước, thả lỏng để USD mất giá. Dưới tác
động của chính sách giảm giá USD và giảm nguồn vốn đầu tư quốc tế của
Mỹ, giá cả các mặt hàng cơ bản tính bằng USD trên thị trường quốc tế như
dầu, lương thực, nguyên vật liệu tăng mạnh. Trong khi đó hơn 70% nguyên
vật liệu cho các ngành sản xuất của Việt Nam phải nhập khẩu từ nước ngoài
nên việc tăng giá thành sản phẩm trong nước và chỉ số giá hàng tiêu dùng là
điều tất yếu.
Bên cạnh đó, khi khủng hoảng tài chính tín dụng xảy ra, kinh tế Mỹ và các
nước Châu Âu gặp khó khăn, sức tiêu dùng giảm. Vì thế nên nhu cầu của thị
trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như
dệt may, đồ gỗ… vào Mỹ và EU đều giảm (đây là hai thị trường xuất khẩu
- 61 -
lớn của Việt Nam), nhiều hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ
mậu dịch của các nước được dựng lên trong khi đó thì trong nước vẫn đang
chịu tác động của lạm phát cao, chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng
cao như lương công nhân và lãi suất ngân hàng. Vì những nguyên nhân này
nên xuất khẩu Việt Nam tăng trưởng chậm vào cuối năm 2008 và năm 2009.
Mặt khác trong giai đoạn này cung các mặt hàng nhập khẩu tăng do các
nhà sản xuất nước ngoài bị giảm thị phần ở các nước phát triển nên tìm cách
mở rộng sang các thị trường khác trong đó có Việt Nam. Kim ngạch nhập
khẩu hàng tiêu dùng có xu hướng tăng vào các tháng cuối năm 2008 tạo sức
ép lớn lên hàng tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. Kết
quả là kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn kim ngạch xuất khẩu: nếu loại
trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch xuất khẩu năm 2008 chỉ tăng 13,5% so với
năm 2007, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu năm 2008 tăng 21,4% so với
năm 2007. Từ đó làm gia tăng thâm hụt thương mại, thâm hụt thương mại
năm 2008 tăng 41,1% so với năm 2007. Khi nhập siêu gia tăng thì sẽ tác động
đến cung cầu ngoại tệ, lượng cung ngoại tệ giảm mà cầu ngoại tệ tăng kéo
theo tỷ giá tăng, đồng nghĩa với Việt Nam đồng bị mất giá điều này góp phần
làm gia tăng lạm phát.
2.4.4 Lạm phát sinh ra lạm phát hay còn gọi là kỳ vọng lạm phát của
thị trƣờng:
Lạm phát ở Việt Nam tăng cao trong những năm qua là sự cộng hưởng của
nhiều yếu tố mà trong đó yếu tố khó khiểm soát hơn cả là sự kỳ vọng lạm
phát của người dân.
Trong kinh tế học, sự biến động của lạm phát trong quá khứ càng cao càng
dai dẳng thì kỳ vọng về lạm phát càng lớn. Khi kỳ vọng lạm phát trong tương
lai lớn, người lao động khi ký hợp đồng sẽ đòi hỏi một mức lương cao hơn
ngay tại thời điểm hiện tại, doanh nghiệp sẽ phải bù đắp lại bằng cách tăng giá
- 62 -
bán sản phẩm, góp phần làm cho giá cả tăng cao hơn. Ngay cả các tiểu thương
ở chợ cũng vậy, với một kỳ vọng lạm phát cao sẽ tăng giá bán ngay tại thời
điểm hiện tại. Như vậy một kỳ vọng lạm phát vào thời điểm hiện tại đã ngay
lập tức ảnh hưởng đến giá cả tiêu dùng và có thể đẩy mức độ lạm phát trong
tương lai càng trầm trọng thêm.
Đi vào thực tế ở Việt Nam, lạm phát luôn ở mức cao và bất ổn kinh tế vĩ
mô thời gian qua (2007 – 2011) đã làm giảm lòng tin của người dân vào đồng
nội tệ, người dân kỳ vọng lạm phát tăng nên góp phần tạo ra áp lực gia tăng
lạm phát (lạm phát sinh ra lạm phát). Việt nam đồng liên tục mất giá so với
giá USD và giá vàng trong nước tăng cao không theo quy luật tăng giảm của
giá thế giới, giá cả các mặt hàng thiết yếu mà điển hình là xăng dầu gia tăng
liên tục trong tình trạng lạm phát cao và bất kể cam kết kiềm chế lạm phát của
Chính phủ trong thời gian qua đã gây nên một hệ lụy là người dân mất lòng
tin vào sự điều hành chính sách của chính phủ cũng như hiệu quả mà chính
sách sẽ mang lại. Do đó đã làm cho người dân kỳ vọng rằng lạm phát sẽ tăng
trong tương lai, điều này gây khó khăn cho khả năng kiểm soát lạm phát của
Chính phủ và góp phần làm gia tăng lạm phát trong thực tế.
- 63 -
Kết luận chƣơng 2:
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế gắn liền với nền kinh tế của Việt Nam
qua các thời kỳ khác nhau, và gắn mỗi thời kỳ thì có tình hình kinh tế - xã hội
tương ứng và do đó lạm phát ở mỗi giai đoạn có diễn biến khác nhau, cách sử
dụng chính sách, xử lý tình huống để kiềm chế lạm phát cũng khác nhau.
Phần đầu chương 2 tác giả đã khái quát lại tình hình kinh tế, thực trạng
lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2011 và các giải pháp đã được
áp dụng để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này. Từ đó đánh giá lại tác
động của các giải pháp kiềm chế lạm phát và hiệu quả của nó.
Chương 2 cũng đi vào phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam
giai đoạn 2007 – 2011; trong đó có nguyên nhân từ phía cầu, có nguyên nhân
xuất phát từ việc gia tăng chi phí đầu vào, có nguyên nhân thuộc về yếu tố
tiền tệ và có nguyên nhân là do sự kỳ vọng lạm phát của thị trường. Từ việc
phân tích nguyên nhân, đánh giá tác động của các giải pháp kiềm chế lạm
phát trong thời gian qua và rút ra được một số vấn đề còn tồn tại trong việc
kiềm chế lạm phát. Từ đó, làm cơ sở đề xuất các giải pháp kiềm soát lạm phát
ở Việt Nam trong thời gian sắp tới.
- 64 -
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TẠI VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1 Định hƣớng phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay đến 2015
3.1.1 Mục tiêu và phƣơng hƣớng phát triển kinh tế Việt Nam giai
đoạn hiện nay đến 2015:
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (bế mạc ngày 19/01/2011) đã thông qua
mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội cho cả nhiệm kỳ 5 năm (2011 –
2015) là: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh. Bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng
cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và trật tự an toàn xã hội. Tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Năm 2012 là năm thứ hai của kế hoạch năm năm, theo nghị quyết về kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012 do Quốc hội thông qua thì mục tiêu
tổng quát của năm 2012 là: “ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đảm bảo
phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn
định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội;
nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.”
Đại hội lần thứ XI Chính phủ cũng đã thông qua một số chỉ tiêu kinh tế
chủ yếu để làm mục tiêu phấn đấu ổn định vĩ mô và phát triển kinh tế trong
thời gian tới, cụ thể là:
- 65 -
- Chỉ tiêu lạm phát: năm 2012 phấn đấu kiềm chế lạm phát dưới 10%, các
năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5 – 7%.
- Chỉ tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP): trong giai đoạn 2011 –
2015 tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,5 – 7 %, phấn đấu đạt 7 %. Năm
2012 tăng GDP khoảng 6 – 6,5%/năm.
- Các chỉ tiêu về bội chi ngân sách Nhà nước và nợ công: Năm 2012 bội chi
ngân sách Nhà nước bằng 4,8% GDP, các năm sau giảm dần để đến năm 2015
giảm xuống còn 4,5% GDP. Đến năm 2015 nợ công khoảng 60 – 65% GDP.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 dự kiến tăng khoảng 12 – 13% so
với năm 2011, nhập siêu 11,5 – 12% tổng kim ngạch xuất khẩu. Phấn đấu đến
năm 2015, nhập siêu khoảng 10% .
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: Năm 2012 bằng khoảng 33,5 –
34% GDP. Bình quân 5 năm khoảng 33,5 – 35% GDP.
3.1.2 Định hƣớng của Chính phủ về các biện pháp kiểm soát lạm phát:
Tại Đại hội lần thứ XI cũng nhận định rõ nguyên nhân lạm phát của Việt
Nam năm 2010, có nguyên nhân bên ngoài do giá nguyên liệu, vật tư nhập
khẩu tăng và do phải điều chỉnh tăng giá theo lộ trình một số hàng hoá và dịch
vụ; nhưng nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của
việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng
yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong khi
cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả; cùng những hạn chế trong
quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý. Để kiểm
soát lạm phát, phải kiên quyết khắc phục các nguyên nhân chủ yếu nêu trên.
Định hướng của Chính phủ về các giải pháp kiểm soát lạm phát là:
- Chính phủ chủ trương điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và
linh hoạt theo tín hiệu thị trường, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát.
- 66 -
- Giữ mặt bằng lãi suất hợp lý. Điều hành tỷ giá chủ động, phù hợp, không
để biến động lớn. Giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại; bảo đảm vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho vay bất động sản
và kinh doanh chứng khoán; kiểm soát nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an
toàn hệ thống ngân hàng.
- Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, phấn đấu giảm bội chi ngân sách.
Bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn.
- Tăng cường quản lý Nhà nước về giá. Ngăn chặn và kiên quyết xử lý các
hành vi tăng giá bất hợp lý.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm nhập siêu và cải thiện cán cân
thanh toán.
- Thực hiện nhất quán chủ trương đối với mô hình tăng trưởng từ phát triển
theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ dựa chủ yếu vào tăng vốn
đầu tư, khai thác tài nguyên lao động chất lượng thấp sang dựa vào hiệu quả,
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở áp dụng
những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao
và kỹ năng quản lý hiện đại.
- Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước.
- Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính, tín dụng
theo hướng tăng hợp lý về quy mô, giảm nhanh số lượng các ngân hàng và tổ
chức tín dụng yếu kém; nâng cao chất lượng tín dụng và phát triển các dịch vụ
ngân hàng.
- Kiên quyết khắc phục tình trạng đô la hóa, thiết lập trật tự kỷ cương trong
việc sử dụng ngoại tệ, nâng giá trị đồng Việt Nam.
- Quản lý có hiệu quả thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị
trường vàng và thị trường ngoại hối.
- 67 -
- Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo tăng nguồn cung các
hàng hóa và dịch vụ góp phần tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và giảm
nhập siêu.
3.2 Dự báo lạm phát VN trong thời gian tới:
3.2.1 Sơ lƣợc tình hình lạm phát Việt Nam chín tháng đầu năm 2012:
Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng CPI chín tháng đầu năm 2012
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9
Tốc độ tăng 1,00 1,37 0,16 0,05 0,18 -0,26 -0,29 0,63 2,2
CPI so với
tháng trước
đó (%)
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê, Thông tin thống kê hàng tháng – Tình hình
kinh tế xã hội tháng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9/2012) [15]
Qua thống kê của Tổng Cục Thống Kê cho thấy, tốc độ tăng CPI có xu
hướng giảm qua các tháng. CPI tháng 1 tăng 1% so với tháng 12/2011; đến
tháng 2 CPI tăng 1,37%; sang các tháng tiếp theo tháng 3, 4 CPI giảm xuống
mức 0,16% rồi xuống mức 0,05%; đến tháng 5 CPI có tăng lên lại và tăng
0,18% so với tháng 4.
Đáng chú ý là CPI đã tăng trưởng âm 0,26% ở tháng 6 và 0,29% ở tháng 7.
Mức giảm 0,29% là mức giảm mạnh nhất kể từ năm 2009 trở lại đây. Theo
báo cáo của cơ quan thống kê, góp phần vào sự suy giảm này là do sự giảm
giá liên tiếp của các mặt hàng xăng, dầu, gas trong tháng 6, 7 và hai vựa lúa
lớn của cả nước đang vào mùa thu hoạch và được mùa lớn. Điều này được thể
hiện qua chỉ số giá cả của các nhóm hàng lương thực giảm 0,78% trong tháng
6 và giảm 1,49% trong tháng 7; thực phẩm giảm 0,31% trong tháng 6 và giảm
0,45% trong tháng 7; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,23% trong tháng 6
- 68 -
và tháng 7 giảm 0,47%; nhóm giao thông giảm lần lượt là 1,64% ở tháng 6 và
2,71% ở tháng 7.
Tuy nhiên đến tháng 8 lạm phát đã tăng trở lại và tăng 0,63% so với tháng
7; tiếp theo lạm phát gia tăng đột biến ở tháng 9 tăng 2,2% so với tháng 8.
Tính cả bảy tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 2,84% riêng tháng 9
đã tăng gần bằng cả 7 tháng cộng lại. Tốc độ tăng lạm phát tháng 9/2012 phần
nhiều là do chi phí đẩy. Mức tăng này chịu ảnh hưởng của tính thời vụ (năm
học mới gây tăng giá giáo dục) cũng như do chịu ảnh hưởng của quyết định
điều hành giá một số mặt hàng cơ bản như tăng đồng loạt giá xăng dầu, giá
điện, giá viện phí. Cụ thể theo Tổng Cục Thống Kê, đóng góp phần lớn vào
mức tăng CPI của tháng 9 gồm: nhóm hàng hóa thuốc và dịch vụ y tế tăng
17,02% làm CPI tăng 0,94%; giáo dục tăng 10,5% làm CPI tăng 0,6%; giao
thông tăng 3,83% làm CPI tăng 0,34%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu
xây dựng tăng 2,28% làm CPI tăng 0,22%. Như vậy, trong mức tăng 2,2%
của CPI tháng 9 so với tháng 8 bốn nhóm hàng trên tác động làm CPI tăng
2,1%.
Cùng với đà tăng lạm phát ở tháng 8, 9 thì việc gia tăng nhu cầu mua sắm
vào cuối năm cộng với thiên tai dịch bệnh đang gia tăng ảnh hưởng đến
nguồn cung lương thực sẽ khiến cho lạm phát có xu hướng tăng cao vào
những tháng cuối năm nếu như Nhà nước không có những chính sách điều
hành vĩ mô cẩn trọng.
3.2.2 Dự báo lạm phát Việt Nam trong thời gian tới:
Hiện nay có nhiều tổ chức đưa ra mức dự báo về triển vọng kinh tế và lạm
phát của Việt Nam trong thời gian tới. Điển hình là hai tổ chức tài chính uy
tín trên thế giới là Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) đưa ra dự báo như sau:
- 69 -
Trong báo cáo “Triển vọng phát triển Châu Á 2012 tại Hà Nội” vào tháng
10/2012 của ADB dự báo rằng tăng trưởng của Việt Nam sẽ ở mức 5,1% và
lạm phát sẽ ở mức khoảng 7% so với cùng kỳ năm trước vào cuối năm 2012,
đưa tỷ lệ trung bình năm lên 9,1%. Đối với năm 2013, tăng trưởng kinh tế
Việt Nam ở mức khoảng 5,7% và lạm phát trung bình sẽ là 9,4% cao hơn so
với 2012 bởi giá lương thực toàn cầu tăng cao, lượng cầu trong nước tăng và
chính sách tài khóa có thể được nới lỏng.
Còn trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu mới công bố vào 10/2012,
IMF dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 và 2013 lần lượt là
5,1% và 5,9%, lạm phát giai đoan này là 8,1% và 6,2%.
Theo quan sát diễn biến CPI của 9 tháng đầu năm 2012, căn cứ vào tình
hình thế giới hiện tại (suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng nợ công đang
lang rộng ở Châu Âu) và dựa trên dự báo của ADB và IMF, tác giả đi đến kết
luận rằng kinh tế Việt Nam khó có thể phục hồi trong năm 2013, lạm phát vẫn
sẽ cao hơn tăng trưởng kinh tế. Điều này càng được khẳng định khi mà mục
tiêu tổng quát được nêu trong Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
năm 2012 của Quốc Hội là “ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì tăng trưởng hợp lý”.
Vậy nguy cơ lạm phát quay trở lại và kinh tế ảm đạm là xu hướng trong
thời gian tới. Do đó cần có những giải pháp và hành động cụ thể để hiện thực
hóa những định hướng mà Chính phủ đã đề ra. Cũng vì lý do này tác giả xin
được đưa ra một số gợi ý về giải pháp kiềm chế lạm phát và khôi phục kinh tế
trong thời gian tới ở phần tiếp theo.
3.3 Đề xuất giải pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới:
3.3.1 Hoạch định chính sách một cách khoa học, sát thực và nhất quán
về mục tiêu chính sách ở các Bộ Ngành trong từng thời kỳ: Thực hiện điều
này sẽ góp phần hạn chế lạm phát do niềm tin của thị trường được củng cố -
- 70 -
khắc phục được nguyên nhân lạm phát do kỳ vọng của thị trường. Cụ thể như
sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà Nước và Bộ Tài chính cần có sự phối hợp trong
việc xác định mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều
phối chung cho mục tiêu đó nhằm đảm bảo sự phối hợp hài hòa giữa chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Thứ hai, Nâng cao chất lượng dự báo kinh tế để có cơ sở xây dựng mục
tiêu chính sách sát với tình hình thực tế, có căn cứ cho các nhà điều hành lựa
chọn công cụ chính sách và vạch ra lộ trình thực hiện chính sách phù hợp
hơn. Từ đó chủ động được trong việc ứng phó với các biến động vĩ mô.
Đề xuất đưa ra là Nhà nước cần xây dựng một trung tâm dự báo kinh tế
quốc gia chính thức quy tụ các chuyên gia đầu ngành về dự báo có đủ năng
lực và nguồn lực thực hiện dự báo cho nền kinh tế trong trung hạn. Các kết
quả dự báo này sẽ là nguồn thông tin chính thức và tin cậy nhất làm căn cứ
cho việc xây dựng mục tiêu chính sách.
Thứ ba, thiết lập cơ chế cho việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, kịp
thời, thống nhất, công khai và minh bạch về tình hình kinh tế và kỳ vọng
chính sách đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan chính
sách.
Như ta đã biết, chính sách tài khóa do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thực
hiện còn chính sách tiền tệ do Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) điều hành, để
phối hợp hai chính sách đồng bộ thì hai cơ quan điều hành này cần phải phối
hợp nhịp nhàng với nhau. Để làm được điều này thì cần lập một đơn vị hoặc
phân công cho một cơ quan nào đó chuyên trách về chính sách tài chính. Đơn
vị chuyên trách về chính sách tài chính này có nhiệm vụ triển khai các yêu
cầu phối hợp giữa NHNN và Bộ Tài chính, xây dựng hệ thống mục tiêu trong
trung hạn và trình Chính phủ. Các dự báo, giải trình căn cứ xây dựng mục tiêu
- 71 -
cần được công khai hóa. Tất cả các bước triển khai thực hiện mục tiêu cần
được giải thích cho thị trường cũng như các cấp có thẩm quyền. Việc công
khai các dự báo và giải trình này giúp tạo dựng và duy trì niềm tin cho thị
trường, làm cho thị trường có kỳ vọng hợp lý và phù hợp với các kỳ vọng
chính sách góp phần nâng cao hiệu quả trong việc triển khai chính sách. Bên
cạnh đó cũng góp phần tạo áp lực trong việc xây dựng và thực hiện mục tiêu
của các nhà làm chính sách.
3.3.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nƣớc, giảm thiểu đầu tƣ
công để giảm bội chi Ngân sách góp phần giảm gánh nặng nợ cho quốc
gia
Để nâng cao hiệu quả sử dung vốn Ngân sách Nhà nước (NSNN), giảm
bội chi Ngân sách Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần thực hiện công khai minh bạch trong đầu tư công, bố trí vốn
đầu tư công trên cơ sở quy hoạch đầu tư công được xây dựng có chất lượng
cao và ổn định. Từ việc lập dự toán, lên danh mục phải có một chế độ hội
đồng công khai, phản biện độc lập, giám sát độc lập, kiểm toán độc lập và
phải có phân định chế độ trách nhiệm rõ ràng.
Việc lập kế hoạch đầu tư công phải được thực hiện một cách chi tiết, cụ
thể và có chất lượng; hạn chế đầu tư công ngoài quy hoạch. Nếu có sự điều
chỉnh và hoàn thiện các quy hoạch đầu tư thì cần được tiến hành nghiêm túc,
có căn cứ xác đáng, có quy trình và thời gian cần thiết nhằm hạn chế thấp
nhất các thiệt hại cho các bên có liên quan.
Nên sử dụng các chuyên gia trong và ngoài nước có trình độ và khách
quan nhằm đánh giá, phản biện độc lập các tác động của dự án đầu tư công
lớn để hạn chế bớt những đầu tư công gắn với lợi ích cục bộ, chủ quan của
các quan chức trong đầu tư công.
- 72 -
Sau khi có quy hoạch cần chủ động xây dựng và công bố danh mục các dự
án, công trình đầu tư cụ thể để huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ
mục tiêu đầu tư phát triển, tạo ra các cơ chế để huy động tối đa, hiệu quả các
nguồn vốn xã hội, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách. Thực hiện đấu thầu
thực chất và rộng rãi cho mọi thành phần kinh tế với các nguồn đầu tư công,
đặc biệt có biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia đấu
thầu thực hiện các dự án có vốn ngân sách Nhà nước và nguồn ngân sách Nhà
nước, kể cả ODA.
Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các dự án đầu
tư công. Kiểm toán nhà nước và các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính cần
tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu, so sánh,
phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiên quyết
xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không
đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Cần thực hiện chế độ trách
nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc
xác nhận thanh toán khối lượng thiếu trung thực, không đúng quy định. Việc
thanh toán vốn đầu tư phải được tiến hành theo đúng quy trình và phương
thức thanh toán theo tiến độ thực hiện.
Làm rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân và thực hiện chế độ trách
nhiệm đối với Thủ trưởng đơn vị trong quản lý đầu tư công. Người tổ chức
quyết định đầu tư sai, gây lãng phí, thất thoát phải bị xử phạt hành chính, cắt
chức hoặc truy cứu trách nhiệm. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện
về hiệu quả, chất lượng của dự án, chấm dứt tình trạng giao cho người không
đủ điều kiện năng lực và chuyên môn nghiệp vụ thực hiện quản lý dự án; phát
hiện kịp thời những vấn đề phát sinh và đề xuất các biện pháp xử lý kịp thời,
nghiêm minh những sai phạm trong việc sử dụng Ngân sách Nhà nước cho
đầu tư công.
- 73 -
Thứ hai, phối hợp tăng cường tái cơ cấu đầu tư công, phân cấp và đa dạng
hóa phương thức, nguồn vốn đầu tư xã hội
Về dài hạn, cần chủ động giảm thiểu dần đầu tư công, tăng cường đầu tư
ngoài NSNN trong tổng đầu tư xã hội. Tái cơ cấu đầu tư công, tăng đầu tư
phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản; khoa
học và công nghệ, đào tạo và y tế; tiết giảm việc cấp vốn ngân sách cho nhu
cầu đầu tư của khối các Tổng công ty; tập đoàn Nhà nước và chuyển trọng
tâm đầu tư công ra ngoài lĩnh vực kinh tế, để tập trung vào phát triển các lĩnh
vực hạ tầng xã hội. Đồng thời, kiên quyết cắt giảm những dự án đầu tư không
đạt các tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội và chưa đảm bảo các yêu cầu về
thủ tục, tập trung vốn cho các dự án bảo đảm hoàn thành trong hạn định và có
hiệu quả cao; cắt giảm các công trình đầu tư công bằng nguồn ngân sách có
quy mô quá lớn, chưa thật cấp bách, có thời gian đầu tư dài.
Bên cạnh đó cần có tiêu chí và thời gian để rà soát lại các dự án đầu tư
công, tránh quyết định vội vã có thể gây ra sai sót, thiệt hại trong tương lai.
Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội cần phối hợp chặt chẽ hơn với
các Bộ, Ngành, địa phương để rà soát việc phân bổ vốn Ngân sách xem có
đúng trình tự pháp luật hay không, cũng như giám sát việc quản lý và sử dụng
nguồn vốn này; cần yêu cầu Chính phủ cung cấp thông tin thường xuyên, tăng
cường giám sát việc quản lý và sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước theo Nghị
quyết của Quốc hội.
Đầu tư công và quản lý đầu tư công kém hiệu quả không chỉ khiến hiệu
quả đầu tư xã hội bị hạn chế, mà còn làm gia tăng nhiều hệ quả tiêu cực to lớn
và kéo dài khác, như: Tăng sức ép lạm phát trong nước; mất cân đối vĩ mô –
trong đó có cân đối ngành, sản phẩm, cán cân xuất - nhập khẩu, cán cân thanh
toán, dự trữ ngoại hối và tích lũy – tiêu dùng, cũng như mất cân đối và gia
tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, địa phương và bộ phận dân
- 74 -
cư trong xã hội; tăng tình trạng tham nhũng và bóp méo cơ chế kinh tế thị
trường; hạn chế sức cạnh tranh và chất lượng phát triển của nền kinh tế trong
hội nhập. Đặc biệt, đầu tư công kém hiệu quả làm tăng gánh nặng nợ nần lên
đất nước, do làm tăng nợ chính phủ, nhất là nợ nước ngoài. Do vậy, việc sử
dụng vốn hiệu quả hơn không những làm giảm bội chi Ngân sách và do đó
làm giảm gánh nặng nợ của quốc gia mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, hạn chế gia tăng lạm phát.
3.3.3 Cải thiện cán cân thƣơng mại:
Để cải thiện cán cân thương mại thì cần phải gia tăng xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu.
Về thúc đẩy xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn ta
cần thực hiện các biện pháp như: Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
theo hướng công nghiệp hóa, gia tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến và
nguyên liệu chứa nhiều hàm lượng kỹ thuật; Thực hiện đồng bộ các biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu thông qua việc tăng cường đầu
tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, từ đó giảm được việc nhập khẩu
nguyên vật liệu đầu vào; Đa dạng hóa các mặt hàng, đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường; Nâng cao hiệu quả và năng
lực sản xuất nhằm giảm giá thành sản phẩm. Tăng trưởng xuất khẩu góp phần
làm tăng nguồn cung ngoại tệ trong nước, tăng dự trữ quốc gia, đồng thời hạn
chế được việc nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài.
Về nhập khẩu, ta có thể hạn chế nhập khẩu bằng cách:
- Điều chỉnh cơ cấu hàng nhập khẩu theo hướng giảm đến mức tối đa nhập
khẩu hàng tiêu dùng đặc biệt là các mặt hàng trong nước có thể sản xuất được,
đồng thời hạn chế và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ.
- 75 -
- Kiểm soát việc nhập khẩu của các doanh nghiệp theo hướng hạn chế tối
đa việc cho phép nhập khẩu hàng tiêu dùng theo phương thức vay trả chậm
(LC trả chậm)
- Kiểm tra chặt chẽ việc nhập khẩu theo các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và các dự án hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Đối với các dự
án FDI, việc kiểm tra này nhằm tránh tình trạng nhập khẩu gian lận. Còn với
các dự án ODA, giải pháp này nhằm giúp cho các nguồn vốn vay có thể tái
tạo nguồn ngoại tệ, đảm bảo khả năng thanh toán trong tương lai.
- Áp dụng các rào cản phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu song song với
cam kết giảm hàng rào thuế quan khi Việt Nam gia nhập WTO để điều tiết
nhập khẩu.
- Việt Nam cần tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, an toàn thực
phẩm đối với hàng nhập từ Trung Quốc và tăng cường công tác quản lý chống
nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên giới giáp với các nước láng giềng, đặc
biệt là Trung Quốc.
3.3.4 Nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ
Vì ngân hàng thương mại là kênh truyền dẫn trực tiếp của chính sách tiền
tệ nên để chính sách tiền tệ đạt được hiệu quả như mong đợi thì cần khai
thông kênh truyền dẫn. Do đó, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thực thi các
biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng; củng cố, sắp xếp lại các tổ chức tín
dụng (TCTD) phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tăng cường tính
công khai minh bạch trong hoạt động ngân hàng; tăng cường thanh tra, giám
sát, đặc biệt là giám sát từ xa, phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động
ngân hàng.
Ngoài ra, khi thay đổi chính sách tài khóa cần phải tuân thủ những quy
trình khá phức tạp, mất thời gian, hiệu quả của chính sách này thường có độ
trễ từ 6 tháng đến 1 năm nên cần chú ý đến độ trễ của chính sách tài khóa
- 76 -
trong việc xác định thời điểm, liều lượng và mức độ tác động hợp lý cho
chính sách tiền tệ.
Trong dài hạn, để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam nên
xem xét lộ trình thực hiện chính sách tiền tệ hướng vào mục tiêu kiểm soát
lạm phát (áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu).
Hiện nay, ở Việt Nam hàng năm Quốc hội thông qua chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế và lạm phát của năm để định hướng và là kim chỉ nam cho các chính
sách vĩ mô; Chính sách tiền tệ được điều hành tập trung vào mục tiêu tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên cơ chế này đã bộc lộ nhiều yếu kém trong thời gian
qua, tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong 5 năm trở lại đây đều ở mức cao
(tăng trưởng kinh tế các năm đạt khoảng 6,0% đến 8,5%, riêng 2009 là
5,32%; lạm phát các năm đều ở mức 2 con số, chỉ có năm 2009 là ở mức 1
con số), và chưa thực sự nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Do đó,
nước ta nên xem xét áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu trong điều hành chính
sách tiền tệ như một số nước trên thế giới đã áp dụng, điển hình là Thái Lan –
nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á áp dụng cơ chế này (từ năm 2000)
và đã đạt được thành công nhất định.
Chính sách lạm phát mục tiêu được xuất phát từ lý luận cho rằng một tỷ lệ
lạm phát thấp và ổn định sẽ góp phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn và giảm thất nghiệp, đồng thời tránh được những mâu
thuẫn trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ (giảm lạm phát, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, đảm bảo sự tăng trưởng GDP, ổn định tỷ giá). Nếu quá tập trung vào
tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn thì sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát
lạm phát.
Hiện nay có nhiều định nghĩa về lạm phát mục tiêu, tác giả xin được đưa
ra một định nghĩa của Thomas Laubach, Rich Mickin và Adam Poxen để
tham khảo và hiểu thêm về lạm phát mục tiêu: “Lạm phát mục tiêu là nền tảng
- 77 -
cơ sở cho chính sách tiền tệ được đặc trưng bởi việc Ngân hàng Trung Ương
công bố với công chúng một mục tiêu định lượng chính thức (thường là một
khung phạm vi) cho tỷ lệ lạm phát trong một hoặc vài thời kỳ, dựa trên quan
điểm ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ trong dài hạn.
Một trong những đặc trưng về quan điểm có tác động mạnh là công khai với
công chúng về những kế hoạch và mục tiêu của các nhà hoạch định chính
sách và trong nhiều trường hợp, là cả về cơ chế truyền dẫn, trong đó nhấn
mạnh đến trách nhiệm của Ngân hàng Trung Ương trong việc theo đuổi mục
tiêu” [6]
Qua nghiên cứu việc áp dụng lạm phát mục tiêu ở nhiều quốc gia của
nhóm nghiên cứu thuộc Ngân hàng Nhà nước thì ưu điểm của chính sách lạm
phát mục tiêu là: “Thứ nhất, lạm phát mục tiêu tạo điều kiện cho chính sách
tiền tệ tập trung đối phó hiệu quả với các vấn đề trong nước và phản ứng với
các cú sốc đối với nền kinh tế từ bên ngoài. Thứ hai, khác với khuôn khổ mục
tiêu tiền tệ, khuôn khổ lạm phát mục tiêu có ưu điểm là tránh được vấn đề
thay đổi đột biến trong tốc độ vòng quay tiền, bởi nó cho phép Ngân hàng
Trung Ương giảm được sự tập trung vào việc xử lý mối quan hệ giữa khối
lượng tiền và thu nhập danh nghĩa. Thứ ba, ưu điểm nổi bật của lạm phát mục
tiêu là công chúng dễ dàng hiểu và do đó tính minh bạch của khuôn khổ này
cao. Thứ tư, thiết lập được một khuôn khổ chính sách tiền tệ minh bạch, một
cơ chế đảm bảo chịu trách nhiệm trước Chính phủ và công chúng. Điều này,
tạo cho Ngân hàng Trung Ương sự độc lập, linh hoạt và chủ động hơn trong
điều hành chính sách tiền tệ. Thứ năm, cơ chế này hướng vào một mục tiêu
duy nhất là lạm phát thấp, ổn định, tạo tiền đề cho các mục tiêu quan trọng
khác trong dài hạn như tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp và ổn định vĩ
mô.” [4]
- 78 -
Từ những ưu điểm nêu trên của chính sách lạm phát mục tiêu, thì để kiểm
soát lạm phát đảm bảo tăng trưởng trong dài hạn Chính phủ nên xem xét áp
dụng chính sách này và từng bước có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để áp
dụng chính sách này cũng như học hỏi thêm kinh nghiệm từ các nước đi
trước.
3.3.5 Tái cơ cấu nền kinh tế:
Để đạt được tăng trưởng bền vững Việt Nam cần quyết tâm trong việc
thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế nhằm giải quyết nguyên nhân gây tái lạm phát
cao trong nền kinh tế. Cần cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ
chiều rộng sang chiều sâu. Trước tiên cần tập trung vào ba lĩnh vực quan
trọng nhất là tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị
trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại;
tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và
các Tổng công ty Nhà nước.
3.3.5.1 Tái cơ cấu đầu tƣ:
Tái cơ cấu đầu tư trước tiên cần chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn đầu tư xã
hội. Bộ kế hoạch và đầu tư cần phối hợp với Bộ tài chính xem xét giảm dần tỷ
trọng vốn đầu tư khu vực Nhà nước, mở rộng các giải pháp huy động vốn của
khu vực ngoài Nhà nước, mở rộng nguồn vốn đầu tư nước ngoài gồm đầu tư
trực tiếp, đầu tư gián tiếp, hỗ trợ phát triển chính thức. Đây cũng là giải pháp
nhằm giảm thâm hụt Ngân sách Nhà nước và giảm gánh nặng nợ quốc gia.
Tiếp theo, cần chuyển dịch cơ cấu thị trường nhập khẩu để đổi mới thiết bị
- công nghệ để có được công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến. Cần ưu tiên
đầu tư cho phát triển công nghiệp hỗ trợ để giảm tính gia công, giảm nhập
siêu, giảm lệ thuộc vào nước ngoài. Đây cũng là một biện pháp giảm nhập
khẩu lạm phát từ nước ngoài vào Việt Nam.
- 79 -
Cuối cùng là Nhà nước nên tái cơ cấu vốn đầu tư theo hướng giảm tỷ lệ
vốn đầu tư toàn xã hội/GDP và nâng cao hiệu quả đầu tư, đặc biệt là đầu tư
công. Nguồn lực kinh tế cần tập trung vào ngành trọng điểm, có tính đột phá
và lan tỏa nhằm nhanh chóng đưa vào sử dụng. Đầu tư công nên tập trung vào
dịch vụ công cộng, giảm dần đầu tư công vào phát triển sản xuất. Ngoài ra,
cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác giám sát các dự án Nhà nước
thông qua việc tăng cường vai trò giám sát của Quốc Hội, công tác kiểm toán
các dự án đầu tư công.
3.3.5.2 Tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nƣớc:
Trong thời gian qua, việc sử dụng vốn kém hiệu quả, thiếu trách nhiệm của
lãnh đạo dẫn đến thua lỗ của các tập đoàn kinh tế và các Tổng công ty Nhà
nước dẫn đến thiệt hại và gia tăng nợ xấu cho nền kinh tế Việt Nam. Do đó,
tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và
các Tổng công ty Nhà nước là việc làm rất cần thiết.
Vấn đề đầu tiên trong tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà
nước đó là: Nhà nước cần phải tăng cường và nâng cao hiệu quả, trách nhiệm
của thanh tra chuyên ngành trực thuộc các Bộ chuyên ngành, cũng như thanh
tra tài chính nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn những sai phạm trong việc
quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước. Đồng thời cần yêu cầu chính
bản thân các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty Nhà nước chủ động đưa ra
phương án cơ cấu lại chính bản thân mình, các Bộ chủ quản, Bộ chuyên
ngành xây dựng và triển khai đề án tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty
thuộc lĩnh vực mình phụ trách, quản lý nhà nước.
Về công tác quản lý điều hành của nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty
thời gian qua còn có sự hạn chế, chậm thay đổi. Trong quản trị doanh nghiệp
còn mang tính chủ quan, duy ý chí, quan liêu và có tâm lý dựa vào nhà
nước… Hoạt động kinh doanh mang tính chất trì trệ, thiếu năng động và linh
- 80 -
hoạt. Do đó, cơ cấu lại quản trị điều hành các tập đoàn, tổng công ty là yêu
cầu cấp bách. Cần nâng cao năng lực lãnh đạo điều hành, thay đổi lãnh đạo,
nên thuê chuyên gia nước ngoài trong một số lĩnh vực mà trong nước chưa có
nhiều kinh nghiệm.
Một nội dung quan trọng nữa trong giải pháp tái cơ cấu các doanh nghiệp
Nhà nước là nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của Nhà nước, hoàn thành dứt
điểm, đúng tiến độ các dự án đầu tư, làm rõ trách nhiệm của các cá nhân và
tập thể để dự án kéo dài, lãng phí và chậm đưa vào khai thác, sử dụng. Yêu
cầu các doanh nghiệp đã đầu tư vốn ngoài ngành có lộ trình rõ ràng, chặt chẽ,
thực hiện nghiêm và đúng kế hoạch việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành. Bên
cạnh đó, nhằm tránh việc huy động vốn vượt quá khả năng tài chính của
doanh nghiệp, Nhà nước cần xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ vấn đề huy
động vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp
này cần chấm dứt việc thành lập nhiều công ty con, hạn chế thành lập các
công ty liên kết, chỉ thành lập các công ty dạng này khi thực hiện các dự án,
hợp đồng thuộc nhiệm vụ chức năng chính hay có liên quan trực tiếp đến
chức năng chính.
3.3.5.3 Tái cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng thƣơng mại:
Sự bùng nổ hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ thống ngân
hàng trong thời gian ngắn vừa qua đã tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy cơ lớn tác
động trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương
mại. Để ngăn chặn rủi ro hệ thống trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài
chính kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống thì Việt Nam cần phải cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng.
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng được thực hiện bằng các biện pháp như:
Tái cơ cấu lại các ngân hàng có khả năng tồn tại bằng cách: Chính phủ
bơm vốn hoặc mua cổ phần để nắm giữ quyền quản lý, thay đổi đội ngũ quản
- 81 -
trị điều hành, giải quyết nợ xấu, xác định lại chiến lược kinh doanh phù hợp
với yêu cầu của thị trường với lợi thế trong việc cung cấp sản phẩm của mỗi
ngân hàng và cắt giảm quy mô;
Đối với các ngân hàng không có khả năng tồn tại thì đóng cửa một cách có
trật tự (đồng thời chi trả bảo hiểm tiền gửi hoặc bán phần hoạt động tốt cho
ngân hàng khác) bằng các biện pháp như: Ngân hàng Nhà nước sẽ tái cấp vốn
cho tổ chức tín dụng thiếu thanh khoản trên cơ sở hồ sơ tín dụng có chất
lượng tốt với mức tối đa tương đương với vốn điều lệ của tổ chức tín dụng
(TCTD) được tái cấp vốn. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng yếu kém này
phải chịu sự giám sát toàn diện của Ngân hàng Nhà nước về quản trị, điều
hành, xử lý tài chính và hoạt động kinh doanh. Sau khi áp dụng các biện pháp
đảm bảo chi trả, TCTD yếu kém sẽ được sáp nhập, hợp nhất, mua lại trên cơ
sở tự nguyện. Nếu không Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp bắt
buộc.
Đối với các ngân hàng tốt thì Chính phủ có thể khuyến khích sáp nhập lại
để tăng lợi thế cạnh tranh nhờ quy mô và cạnh tranh với các ngân hàng nước
ngoài. Chính phủ có thể khuyến khích bằng cách ban hành các quy định nhằm
giảm thiểu các thủ tục sáp nhập, tạo ra các khuyến khích giảm thuế cho các vụ
sáp nhập giữa các tổ chức tài chính. Ví dụ như, giảm thuế thu nhập cho các
công ty hay cá nhân có thu nhập từ việc thanh lý các tổ chức tài chính hay
giảm thuế mua, bán các bất động sản của các thương vụ sáp nhập.
Xử lý nợ xấu của các ngân hàng, trước tiên Nhà nước cần chứng khoán
hóa các khoản nợ khó đòi theo 2 hướng: Thứ nhất, nếu doanh nghiệp có lịch
sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do
các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động thì có thể chuyển một
phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn, điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và
giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển; Thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu
- 82 -
thành cổ phần đồng thời chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ
đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có
khả năng tồn tại và phát triển. Lúc này Nhà nước sẽ hỗ trợ cho các hoạt động
này bằng cách là: miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ nhằm làm giảm
tổn thất về nợ xấu và thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường
mua bán nợ, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái
phiếu doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản nợ.
Bước tiếp theo của việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng là: trong dài hạn,
Chính phủ cũng nên xem xét thành lập công ty mua bán nợ xấu quốc gia
nhằm giảm giúp các tổ chức tín dụng xử lý các khoản nợ xấu đang tồn đọng ở
mức lớn một cách chuyên nghiệp hơn. Công ty này sẽ giúp làm trong sạch
bảng cân đối của các ngân hàng thương mại, đồng thời có thể giúp phục hồi
giá trị của các khoản nợ ở mức cao nhất có thể.
Ngoài việc tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Nhà nước cũng cần sớm có
cơ chế xóa bỏ mọi hình thức sở hữu chéo giữa doanh nghiệp với ngân hàng để
triệt để tôn trọng nguyên tắc “TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của
các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính
TCTD đó” (khoản 5 điều 129 Luật TCTD 2010). Thực hiện điều này nhằm
góp phần lành mạnh hóa về vốn cũng như về hoạt động tín dụng của các
TCTD.
3.3.6 Tăng quyền tự chủ cho Ngân hàng Trung Ƣơng trong điều hành
chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát
Nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm
phát của Ngân hàng Trung Ương cũng như tạo tiền đề cho việc áp dụng chính
sách lạm phát mục tiêu trong thời gian tới thì Chính phủ cần tăng quyền tự
chủ cho Ngân hàng Trung Ương. Chính phủ cần thể hiện rõ chức năng độc
lập của Ngân hàng Trung Ương trong văn bản pháp luật, theo đó quy định:
- 83 -
Thống đốc Ngân hàng là người quyết định việc sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ để thực hiện mục tiêu lạm phát đã đề ra (thực hiện điều này nhằm
nâng cao tinh thần trách nhiệm cho người đứng đầu Ngân hàng Trung Ương,
không bị sự chi phối của Chính phủ trong việc lựa chọn công cụ và biện pháp
để điều hành chính sách tiền tệ, nếu không đạt được mục tiêu đã đề ra thì
Thống đốc sẽ chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân); Ngân hàng Trung Ương (NHTW) không tạm ứng, không cho
Chính phủ vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách (không có nguồn tài trợ từ
NHTW Chính phủ sẽ phải cân nhắc lại việc chi tiêu của mình, góp phần hạn
chế bội chi và giảm áp lực gia tăng lạm phát).
3.3.7 Hạ tỷ lệ nợ vay của toàn bộ nền kinh tế về mức < 1:
Trong những năm gần đây tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của nền kinh
tế Việt Nam tăng lên rất nhanh, hiện đứng ở mức khá cao và đã khiến cho tỷ
lệ nợ nần của các công ty Việt Nam thuộc loại cao nhất thế giới. Theo tiến sĩ
Nguyễn Xuân Thành thuộc trường kinh tế Fullbright, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở
hữu của 647 doanh nghiệp niêm yết không thuộc lĩnh vực tài chính – ngân
hàng của Việt Nam là 1,53 tính trên số liệu tài chính của Quý 2 năm 2012. Tỷ
lệ nợ trên vốn trung bình của các công ty niêm yết ở Mỹ là 1,2 và ở Trung
Quốc là 1,06 theo số liệu cuối năm 2011. Tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu
cao sẽ tạo ra gánh nặng lãi suất cho doanh nghiệp khi nền kinh tế có lạm phát
cao. Hơn nữa khi doanh nghiệp vay nợ nhiều làm cho tăng trưởng tín dụng
của nền kinh tế ở mức cao, điều này làm gia tăng cung tiền trong nền kinh tế
là một trong những nguyên nhân làm gia tăng lạm phát.
Do vậy, hạ tỷ lệ nợ vay của toàn nền kinh tế về mức < 1 là một trong
những giải pháp cần thiết để kiểm soát lạm phát. Để hạ tỷ lệ nợ vay của nền
kinh tế thì bản thân các doanh nghiệp cần tăng vốn chủ sở hữu để sử dụng vốn
tự có tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời dùng lợi nhuận
- 84 -
kinh doanh để trả bớt nợ. Tuy nhiên, việc hạ tỷ lệ nợ vay của nền kinh tế cần
phải có quá trình, quá trình này sẽ không nhanh bởi việc tăng vốn tại thời
điểm này là rất khó khăn bởi thị trường vốn ở Việt Nam trong giai đoạn này
rơi vào tình trạng ngủ đông trong suốt nhiều năm liền khiến cho phần lớn các
nhà đầu tư điều thua lỗ. Còn việc dùng lợi nhuận để giảm nợ cũng chỉ áp dụng
được với các doanh nghiệp còn kinh doanh tốt và số này hiện nay trong nền
kinh tế không còn nhiều. Do đó, bên cạnh quyết tâm của các doanh nghiệp thì
để giảm được tỷ lệ nợ vay của toàn bộ nền kinh tế cần sự hỗ trợ từ Nhà nước,
để các doanh nghiệp có thể huy động vốn chủ sở hữu thì Nhà nước cần có các
biện pháp để vực dậy thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.
Từ trước đến nay Việt Nam luôn xem trọng mục tiêu tăng trưởng cao. Để
đạt được tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững các nhà làm chính sách
cũng như các doanh nghiệp cần có sự chấp nhận đánh đổi sự tăng trưởng cao
để đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
3.3.8 Hoàn thiện hành lang pháp lý trong quản lý tài chính:
Để làm tốt việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Nhà nước cần hoàn thiện
dần hệ thống pháp luật, những quy định về tiêu chuẩn quản trị ngân hàng, các
quy định về an toàn, phòng tránh rủi ro, tăng cường vai trò giám sát của Ngân
hàng Nhà nước với hoạt động ngân hàng cũng như về hoạt động mua bán, sáp
nhập các TCTD. Cần xác lập một cơ chế can thiệp của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi khi cần thiết để tạo lòng tin của người gửi tiền vào ngân hàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để
có thể điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu (mua
bán, xử lý các tài sản xấu), tạo lập một môi trường hoạt động minh bạch, bình
đẳng, thông suốt nhằm tránh trường hợp khi muốn áp dụng một chính sách xử
lý nợ lại gặp phải những rào cản về mặt pháp lý trong việc thực thi cũng như
thu hút các nhà đầu tư.
- 85 -
Về vấn đề nâng cao hiệu quả đầu tư từ vốn Ngân sách Nhà nước, Chính
phủ cần xem xét ban hành luật đầu tư công. Theo đó quy định rõ: nội dung,
trách nhiệm của các cơ quan trong phân cấp quản lý đầu tư, đảm bảo giảm thủ
tục hành chính nhưng vẫn tuân thủ đầy đủ hiệu lực thi hành; nêu rõ các hành
vi bị cấm và các chế tài đủ mạnh để xử lý các hành vi vi phạm ở các mức độ
khác nhau. Luật hóa đầu tư công giúp ngăn chặn những hành vi tiêu cực và
làm cơ sở pháp lý để xử lý các sai phạm trong đầu tư công.
- 86 -
Kết luận chƣơng 3
Chương 3 đã trình bày một cách khái quát về định hướng phát triển kinh tế
của Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2015 và định hướng của Chính phủ về
các giải pháp kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này.
Chương 3 cũng sơ lược lại diễn biến lạm phát giai đoạn chín tháng đầu
năm 2012 và đưa ra một số dự báo của các tổ chức tài chính uy tín trên thế
giới về lạm phát Việt Nam cả năm 2012 và năm 2013. Dựa trên những hạn
chế còn tồn tại trong điều hành chính sách và nguyên nhân lạm phát ở chương
2, kết hợp với dự báo lạm phát và định hướng phát triển kinh tế cũng như định
hướng về các giải pháp kiểm soát lạm phát, tác giả đã đưa ra một số giải pháp
nhằm hạn chế nguy cơ tái lạm phát cao trong tương lai.
- 87 -
KẾT LUẬN
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, những lý
thuyết được học trong chương trình đào tạo bậc cao học – Trường đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh vào tình hình kinh tế Việt Nam, Luận văn đã
thực hiện được các nội dung sau:
Thứ nhất, vận dụng lý luận về lạm phát vào thực tiễn tình hình kinh tế Việt
Nam
Thứ hai, trên cơ sở tìm hiểu về tình hình kinh tế Việt Nam và các giải pháp
kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2011, Luận văn đã làm rõ
được nguyên nhân gây ra lạm phát dai dẳng ở Việt Nam và nguyên nhân làm
giảm hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm phát mà Chính phủ đã sử dụng
trong thời gian qua. Đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các
nguyên nhân đó để góp phần kiểm soát lạm phát tốt hơn và ổn định kinh tế
Việt Nam.
Lạm phát cao luôn là mối đe dọa tiềm ẩn đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô
và tăng trưởng dài hạn. Việc tìm hiểu rõ nguyên nhân sâu xa gây ra lạm phát
sẽ giúp cho Việt Nam có những giải pháp phù hợp hơn và chủ động hơn trong
việc kiềm chế lạm phát góp phần ổn định và phát triển kinh tế một cách bền
vững.
Trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả mong đóng góp một phần nhỏ vào
vấn đề nêu trên. Luận văn này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình
và đầy tâm huyết của PGS.TS.Trƣơng Thị Hồng. Mặc dù đã cố gắng nghiên
cứu tài liệu và vận dụng lý thuyết vào tình huống cụ thể, song do trình độ và
thời gian có hạn mà đặc biệt lạm phát là vấn đề vĩ mô phức tạp, nhạy cảm và
biến động liên tục nên Luận văn không tránh khỏi những sai sót. Rất mong
- 88 -
quý thầy cô trong Hội đồng và PGS.TS.Trƣơng Thị Hồng cảm thông và cho
ý kiến để tác giả nâng cao được kỹ năng nghiên cứu trong thời gian tới.
Xin chân thành cảm ơn!
TPHCM, ngày 19 tháng 10 năm 2012
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Lê Đắc Cù (2012), “Cơ cấu lại ngân hàng thương mại nhiệm vụ trọng tâm
trong giai đoạn 2011 – 2015”. Thị trường tài chính tiền tệ, 6(351), tr.19-21.
2. Lê Quốc Hưng (2012), “Lạm phát Việt Nam, nguyên nhân căn bản và giải
pháp kiềm chế trong thời gian tới”. Tạp chí Ngân hàng, 4, tr. 6-15.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Chỉ thị 05/2007/CT-NHNN ngày
11/10/2007, về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương
từ Ngân sách Nhà nước theo Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007
của Thủ tướng Chính phủ.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Chính sách lạm phát mục tiêu ở
Thái Lan và một số liên hệ với Việt Nam, Việt Nam.
5. Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung (2011), Kinh tế vĩ mô, tái bản lần 2,
Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phạm Văn Hiếu (2012), “Chính sách lạm phát mục tiêu và khả năng áp
dụng tại Việt Nam”. Thị trường tài chính tiền tệ, 8(353), tr. 36-37.
7. Thủ tướng Chính phủ (2007), Chỉ thị 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007, về
việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách
Nhà nước.
8. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010,
về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô không để lạm phát cao
và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010.
9. Thủ tướng Chính phủ (2011), Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011,
về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội.
10. Tổng Cục Thống Kê, Niên giám thống kê 2010, 2011, Việt Nam.
Website:
11. www.baodientu.chinhphu.vn/Home/cong-bo-cach-tinh-chi-so-gia-tieu-
dung-moi/200912/26019.vgp
12. www.cafef.vn: Cổng thông tin dữ liệu tài chính, chứng khoán Việt Nam
13. www.chinhphu.vn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ
14. www.economist.com/content/global_debt_clock
15. www.gso.gov.vn: Cổng thông tin điện tử Tổng cục Thống kê
16. www.imf.org/external/np/sec/pn/2011/pn1181.htm
17. www.mof.gov.vn : Cổng thông tin Bộ tài chính
18. www.sbv.gov.vn: Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước
19. www.wikipedia.org: Bách khoa toàn thư mở
20. website các ngân hàng thương mại Việt Nam và một số trang web khác