BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------
HOÀNG THỊ HOÀN
SỬ DỤNG MÔ HÌNH SVAR TRONG PHÂN TÍCH CƠ
CHẾ TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA
KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.HCM – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------
HOÀNG THỊ HOÀN
SỬ DỤNG MÔ HÌNH SVAR TRONG PHÂN TÍCH CƠ
CHẾ TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA
KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS BÙI KIM YẾN
TP.HCM – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Sử dụng mô hình SVAR trong phân tích cơ chế
truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng ở Việt Nam” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực,
các nội dung trích dẫn đều ghi rõ nguồn gốc và các kết quả trình bày trong luận văn
chưa được công bố tại bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
TP Hồ Chí Minh, ngày tháng 12 năm 2013
Học viên
HOÀNG THỊ HOÀN
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG ......................................................................4
1.1. Chính sách tiền tệ ............................................................................................ 4
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................4
1.1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ .............................................................4
1.1.2.1. Dự trữ bắt buộc (DTBB):......................................................................4
1.1.2.2. Tái cấp vốn...........................................................................................5
1.1.2.3. Lãi suất.................................................................................................5
1.1.2.4. Thị trường Mở ......................................................................................6
1.1.2.5. Tỷ giá hối đoái......................................................................................7
1.2. Cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ .........................................................7
1.2.1. Kênh lãi suất ..............................................................................................8
1.2.2. Kênh giá cả tài sản ....................................................................................9
1.2.2.1. Kênh tỷ giá hối đoái..............................................................................9
1.2.2.2. Kênh giá cổ phần ..................................................................................9
1.2.2.3. Kênh giá cả tài sản khác .....................................................................10
1.2.3. Kênh tín dụng ..........................................................................................11
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín
dụng ................................................................................................................. 13
1.3.1. Các yếu tố ngoại sinh ...............................................................................13
1.3.1.1. Quy mô và độ mở của nền kinh tế ............................................................ 13
1.3.1.2. Môi trường cho việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ ...................14
1.3.1.3. Trình độ phát triển và cấu trúc thị trường tài chính...................................15
1.3.2. Các yếu tố nội sinh...................................................................................17
1.4. Các nghiên cứu thực nghiệm về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ............ 18
1.5. Mô hình nghiên cứu: ..................................................................................... 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM. .................................................26
2.1. Tổng quan về chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2012........... 26
2.2. Phân tích cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại Việt Nam
giai đoạn 2007 – 2012. .......................................................................................... 29
2.2.1. Tác động truyền dẫn từ chính sách tiền tệ tới hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại. .........................................................................................29
2.2.2. Tác động truyền dẫn từ hoạt động huy động vốn tới hoạt động tín dụng của
NHTM .................................................................................................................35
2.2.3. Tác động truyền dẫn từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại tới
tăng trưởng kinh tế và lạm phát. ............................................................................40
2.3. Kiểm định bằng mô hình SVAR.................................................................... 42
2.3.1 Dữ liệu nghiên cứu...................................................................................42
2.3.2 Các kiểm định ban đầu.............................................................................44
2.3.3 Ước lượng các ma trận hệ số....................................................................45
2.3.4 Phân tích phản ứng xung..........................................................................46
2.3.5 Phân rã phương sai...................................................................................48
2.4. Đánh giá cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng................... 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................53
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM ..............54
3.1. Định hướng cho chính sách tiền tệ tại Việt Nam:........................................... 54
3.2. Giải pháp đối với cơ ché truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại
Việt Nam............................................................................................................... 55
3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ của NHNN tại
Việt Nam...............................................................................................................56
3.2.3.1. Tạo môi trường thuận lợi cho điều hành chính sách tiền tệ.......................56
3.2.3.2. NHNN cần hoàn thiện, phát triển các công cụ của chính sách tiền tệ........56
3.2.3.3. Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN .....................59
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm phát triển thị trường tài chính................................ 60
3.2.3.1. Tái cơ cấu hệ thống các TCTD đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả.......60
3.2.3.2. Đa dạng hoá các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính.......................61
3.2.3.3. Phát triển thị trường vốn tạo sự gắn kết giữa thị trường tiền tệ, thị trường
vốn và thị trường chứng khoán. .............................................................................61
3.2.3.4. Tăng cường công tác thanh tra giám sát thị trường tài chính.....................62
3.2.3.5. Phát triền thị trường tín dụng chính thức ..................................................62
3.2.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ..................................................63
3.2.3.1. Đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng ...................................................63
3.2.3.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng vay vốn................................ 64
3.2.3.3. Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng ......................................................64
3.2.3.4. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng ....................................65
3.2.3.5. Chú trọng công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. ......................65
3.2.3.6. Đào tạo cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao.................................................67
3.2.3.7. Đổi mới quy trình cấp và quản lý tín dụng. ..............................................67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ....................................................................................69
KẾT LUẬN..........................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 71
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Giải thích
CSTT Chính sách tiền tệ
DOT Nguồn dữ liệu thương mại của IMF
DTBB Dự trữ bắt buộc
GDP Gross Domestic Product
IFS Nguồn dữ liệu tài chính quốc tế của IMF
NEER Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
NHTG Ngân hàng Trung gian
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
SVAR Structure Variance Autoregressive
TCTD Tổ chức Tín dụng
USD Đồng đô la Mỹ
VND Đồng Việt Nam
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất cho vay, tăng trưởng tín dụng và
GDP Việt Nam từ năm 2007 – 2012 (đơn vị tính: phần trăm). ............................... 26
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng huy động vốn (tỷ đồng) của NHTM từ 2007 – 2012 ......33
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng huy động vốn (tỷ đồng) của NHTM năm 2011 ..............34
Biểu đồ 2.4: Tổng dư nợ tín dụng (tỷ đồng) của NHTM từ năm 2007 - 2012.........35
Biểu đồ 2.5: Lãi suất huy động, cho vay (%/năm) của các TCTD năm 2008..........36
Biểu đồ 2.6: Tốc độ tăng trưởng tín dụng thực tế (% so với năm trước) so với mục
tiêu đề ra giai đoạn 2007 – 2012. ...........................................................................39
Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ nợ xấu (%/tổng dư nợ) của các NHTM năm 2012.....................40
Biểu đồ 2.8: Tăng trưởng GDP thực (tỷ đồng) và lạm phát (%) tại Việt Nam 2007 –
2012. .................................................................................................................41
Biểu đồ 2.9: Tăng trưởng các chỉ tiêu tiền tệ (tỷ đồng) tại Việt Nam 2007 - 2012..41
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Mục tiêu và kết quả thực hiện tăng trưởng tín dụng (%) (2007 – 2012)..38
Bảng 2.2: Tóm tắt các biến nghiên cứu.................................................................. 42
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn bài nghiên cứu:
Trong thực tiễn xây dựng và điều hành CSTT, nhận thức về các kênh truyền
dẫn CSTT có vai trò hết sức quan trọng. Vì nó cho phép các nhà hoạch định chính
sách lựa chọn các công cụ thích hợp để đạt được mục tiêu điều hành của mình. Sử
dụng công cụ nào, thời gian bao lâu, mức độ tác động như thế nào... để đạt được
điều chỉnh thích hợp tới nền kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của những nhà hoạch
định chính sách.
Đối với Việt Nam hiện nay, trong điều kiện mở cửa hội nhập nền kinh tế, nước
ta đang đứng trước những thách thức to lớn trong việc điều hành CSTT. Trong tình
trạng chưa xác định rõ cơ chế truyền dẫn của CSTT như hiện nay, NHNN gặp rất
nhiều khó khăn trong kiểm soát được các luồng vốn luân chuyển, ổn định tỷ giá và
kiềm chế lạm phát, đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Do đó, nhằm góp phần xác định rõ và hoàn thiện cơ chế truyền dẫn CSTT ở
Việt Nam, tác giả chọn bài nghiên cứu “Sử dụng mô hình SVAR trong phân tích
cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ tại Việt Nam” để nghiên cứu. Vì lý
thuyết về truyền dẫn CSTT là khá rộng và mới ở Việt Nam, bài nghiên cứu chỉ tập
trung vào phân tích cơ chế truyền dẫn của CSTT tới nền kinh tế thông qua kênh tín
dụng của các NHTM đối với nền kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu được thực hiện với bốn mục tiêu chính như sau:
- Xác định cơ chế truyền dẫn từ những thay đổi trong CSTT tới nền kinh tế
thông qua kênh tín dụng của các NHTM.
- Phân tích thực trạng hoạt động của kênh tín dụng của NHTM tại Việt Nam
trong thời gian 2007 – 2012.
- Sử dụng mô hình SVAR trong phân tích thực nghiệm về cơ chế truyền dẫn
CSTT qua kênh tín dụng.
2
- Từ đó, bài nghiên cứu đề xuất một số giải pháp đối với cơ chế truyền dẫn của
CSTT tới nền kinh tế qua kênh tín dụng .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ chế truyền dẫn của CSTT qua kênh
tín dụng tại Việt Nam từ năm 2007 – 2012.
Phạm vi nghiên cứu: Vì những lý thuyết về cơ chế truyền dẫn của CSTT còn
khá mới mẻ tại Việt Nam và những nghiên cứu về lý thuyết này còn ít và khá phức
tạp, bài nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu cơ chế truyền dẫn của CSTT thông qua
kênh tín dụng của các NHTM.
4. Mô hình nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình nghiên cứu kết hợp định tính với định lượng.
- Trong phân tích định tính, bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống
kê, tổng hợp, mô tả, so sánh, và phân tích để nghiên cứu các lý thuyết về truyền dẫn
CSTT.
- Trong phân tích định lượng, bài nghiên cứu được thực hiện thông qua hai
bước: (1) nghiên cứu sơ bộ về sự hoạt động của kênh tín dụng thông qua phân tích
tác động truyền dẫn từ CSTT tới hoạt động huy động vốn, từ hoạt động huy động
vốn tới hoạt động cấp tín dụng của các NHTM và từ hoạt động cấp tín dụng của
NHTM tới sản lượng công nghiệp và lạm phát của Việt Nam; (2) bài nghiên cứu sử
dụng mô hình SVAR (ứng dụng các công cụ tin học Eviews) trong phân tích định
lượng nhằm phân tích dữ liệu và ước lượng, kiểm định mô hình nghiên cứu đã xây
dựng.
5. Kết cấu của bài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu làm ba chương bao gồm:
3
- Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh
tín dụng.
- Chương 2: Thực trạng cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín
dụng tại Việt Nam.
- Chương 3: Một số giải pháp đối với cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ
qua kênh tín dụng tại Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG
1.1. Chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm
Theo Dương Thị Bình Minh và Sử Đình Thành (2004): CSTT là tổng hoà những
phương thức mà NHTW thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng
tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Ở Việt Nam, theo Luật NHNN 46/2010/QH12 năm 2010: “CSTT Quốc gia là
các quyết định về tiền tệ ở tầm Quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao
gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát,
quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Theo đó: “Mục tiêu cao nhất, mục tiêu cuối cùng của CSTT ở Việt Nam hiện
nay là ổn định giá trị đồng tiền”. Đây là sự đổi mới, hoàn thiện đúng hướng của CSTT
ở Việt Nam theo hướng đơn mục tiêu, phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
1.1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHNN có thể sử dụng để điều
chỉnh, tác động trực tiếp hay gián tiếp tới mức cầu tiền tệ, nhằm đạt được mục tiêu
cao nhất của CSTT đã đề ra. Các công cụ của CSTT bao gồm: Dự trữ bắt buộc, tái cấp
vốn, lãi suất, thị trường Mở, tỷ giá hối đoái.
1.1.2.1. Dự trữ bắt buộc (DTBB):
DTBB là công cụ hành chính của NHTW, nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của
NHTW cho nền kinh tế. Đây cũng là phần tiền gửi mà NHTW quy định các NHTG
phải đưa vào dự trữ theo quy định. Mức DTBB cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ
DTBB cao hay thấp.
5
Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà NHTG huy động được và
phải để dưới dạng dự trữ, NHTG chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ
DTBB. Qua đó, việc tăng hay giảm tỷ lệ DTBB của NHTW có thể hạn chế hay mở
rộng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế và tác
động mạnh tới giá cả, tổng cầu và sản lượng quốc gia.
1.1.2.2. Tái cấp vốn
Ngoài DTBB, NHTW có thể sử dụng công cụ tái cấp vốn để điều chỉnh linh hoạt
CSTT mà không tác động mạnh tới khối lượng tiền trong lưu thông. Với công cụ này,
NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với NHTM và các tổ chức tín
dụng khác. NHTW sẽ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho
các NHTG trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố giấy tờ có giá các NHTG.
Nếu chính sách của NHTW là mở rộng khối tiền tệ, NHTW sẽ giảm lãi suất tái
chiết khấu và làm dễ dàng các điều kiện cho vay của mình. Từ đó, NHTW sẽ khuyến
khích các NHTG đi vay. Với chi phí vay vốn rẻ hơn, điều kiện vay dễ dàng hơn, các
NHTG sẽ có xu hướng giảm lãi suất vay và mở rộng tín dụng.
Ngược lai, nếu NHTW muốn theo đuổi một CSTT thắt chặt, NHTW sẽ tăng lãi
suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn, từ đó
gián tiếp buộc các NHTG tăng lãi suất cho vay và thu hẹp hoạt động tín dụng.
1.1.2.3. Lãi suất
Lãi suất là công cụ đi đôi với tái cấp vốn trong điều hành CSTT. Hai công cụ
này đi liền với nhau mới tạo ra hiệu ứng thực sự trong điều chỉnh khối lượng tiền
cung ứng. Tuỳ theo điều kiện thực tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính,
NHTW có thể sử dụng công cụ lãi suất để điều hành CSTT theo các chính sách sau:
- NHTW kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường cho các giao dịch bằng cách
quy định các loại lãi suất:
Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của từng kỳ hạn;
Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay ;
6
Công bố lãi suất cơ bản cộng thêm biên độ giao dịch;
Dựa trên lãi suất mà NHTW công bố, các NHTG quyết định lãi suất giao dịch
với khách hàng.
- NHTW áp dụng chính sách tự do hoá để lãi suất tự hình thành theo cơ chế thị
trường. Để can thiệp vào thị trường, NHTW có thể:
Công bố lãi suất cơ bản để định hướng thị trường
Sử dụng công cụ tái cấp vốn và kết hợp lãi suất thị trường mở để có thể
can thiệp và điều chỉnh thị trường.
Tại Việt Nam, NHNN trực tiếp quyết định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường mở, trần huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho
vay ngắn hạn thuộc bốn đối tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các TCTD. Các
TCTD được thoả thuận lãi suất huy động từ 12 tháng trở lên, lãi suất cho vay ngắn
hạn đối với các đối tượng khác ngoài bốn đối tượng nêu trên và lãi suất cho vay trung
và dài hạn của tất cả các khách hàng.
1.1.2.4. Thị trường Mở
Đây là công cụ linh hoạt và hiệu quả của NHTW, được sử dụng rộng rãi ở những
nước có thị trường tài chính phát triển. Thị trường Mở là nghiệp vụ mà NHTW tiến
hành mua hoặc bán chứng từ có giá ngắn hạn với các NHTM và các thành viên khác
của Thị trường Mở để điều hành CSTT của mình.
- Khi NHTW bán giấy tờ có giá với giá hấp dẫn sẽ làm tăng cung chứng khoán
(giả định các nhân tố khác không đổi). Hành động bán chứng khoán của NHTW
làm giá chứng khoán giảm. Khi đó, các NHTM sẽ mua các chứng khoán này vì có
lợi hơn cho vay. Đồng thời, giá chứng khoán rẻ sẽ thu hút các nhà đầu tư tham gia
thị trường chứng khoán, người dân cũng có xu hướng rút tiền tiết kiệm tại các
NHTM để mua chứng khoán. Điều này khiến NHTM phải tăng lãi suất huy động để
tránh công chúng rút tiền đầu tư chứng khoán và từ đó làm giảm lượng tiền trong
lưu thông.
7
- Ngược lại, khi NHTW mua các giấy tờ có giá và đẩy tiền ra lưu thông, lượng
tiền của các NHTM gia tăng khiến NHTM mở rộng cho vay, đầu tư thúc đẩy kinh tế
phát triển. Đồng thời, cầu chứng khoán tăng khiến giá chứng khoán tăng, lãi suất
chứng khoán giảm kéo theo lãi suất ngân hàng giảm và khuyến khích các NHTM
cho vay, làm tăng lượng tiền trong lưu thông.
Tại Việt Nam, công cụ Thị trường Mở được NHTW đưa vào áp dụng từ tháng
07 năm 2000 và ngày càng trở thành một công cụ quan trọng trong điều hành chính
sách vĩ mô của NHTW trong những năm gần đây.
1.1.2.5. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này, được biểu hiện bằng
một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
Sự biến đổi của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động kinh tế,
từ xuất nhập khẩu tới sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của
giá cả hàng hoá. Do đó, tỷ giá hối đoái cũng có thể coi là một công cụ để NHTW thực
thi CSTT của mình.
Tuy vậy, không giống như những công cụ khác, NHTW không kéo tỷ giá giảm
xuống hoặc đẩy tỷ giá lên mà NHTW có thể ấn định tỷ giá cố định hoặc thả nổi theo
cung cầu ngoại tệ hoặc thả nổi có quản lý. Công cụ này đòi hỏi NHTW phải có một
lượng dự trữ ngoại hối và sự kết hợp, điều hoà các công cụ khác để trung hoà ảnh
hưởng của hoạt động mua bán ngoại hối.
1.2. Cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ
Để đạt được những mục tiêu của CSTT, NHTW sử dụng các công cụ của mình
tác động vào nền kinh tế. Những động thái điều chỉnh này của NHTW sẽ ảnh hưởng
tới tổng thể nền kinh tế thông qua nhiều biến, nhiều thị trường với thời gian và cường
độ khác nhau. Quá trình CSTT tác động đến nền kinh tế thông qua một chuỗi các mắc
xích có mối liên hệ kết nối với nhau gọi là kênh truyền dẫn CSTT và cách thức mà
các kênh này hoạt động hình thành nên cơ chế truyền dẫn của CSTT.
8
Như vậy có thể thấy cơ chế truyền dẫn của CSTT là cách thức quá trình những
thay đổi trong CSTT ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô trọng yếu của nền kinh tế như
tổng tiêu dùng, giá cả, đầu tư, sản lượng...Cơ chế truyền dẫn của CSTT bao gồm hai
giai đoạn:
- Đầu tiên, những điều chỉnh trong CSTT của NHTW sẽ tác động trực tiếp tới
thị trường tiền tệ và tài sản.
- Tiếp theo, những thay đổi trong các thị trường kể trên sẽ tác động tới thị
trường hàng hoá và lao động. Giai đoạn này bao gồm sự hoạt động của các kênh
truyền dẫn, nhờ đó những thay đổi của CSTT sẽ ảnh hưởng tới sản lượng và giá cả
của nền kinh tế. Đến lượt mình, những thay đổi hiện tại và dự kiến của lạm phát và
sản lượng sẽ gây ra tác động phản hồi đến CSTT.
Nghiên cứu của Mishkin (1996) đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về cơ chế
truyền dẫn của CSTT. Theo đó, những tác động của CSTT được truyền tải tới nền
kinh tế thông qua các kênh: kênh lãi suất, kênh tín dụng và kênh giá cả tài sản. Bài
nghiên cứu sẽ lần lượt đi phân tích từng kênh truyền dẫn để làm rõ cơ chế truyền dẫn
của CSTT qua các kênh này.
1.2.1. Kênh lãi suất
Kênh lãi suất là kênh truyền dẫn truyền thống của CSTT. Kênh này hoạt động
như sau:
M ↑ → lãi suất danh nghĩa ngắn hạn ↓ → lãi suất thực ngắn hạn ↓ → lãi suất
thực dài hạn ↓ → I ↑ → Y ↑ (Mishkin 1996)
Tác động của CSTT từ NHTW làm thay đổi cung tiền (M), từ đó làm thay đổi
lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Vì trong ngắn hạn, giá cả là cố định nên mức giá chung
điều chỉnh một các chậm chạp theo thời gian. Do đó một sự điều chỉnh trong lãi suất
danh nghĩa ngắn hạn cũng đồng thời tác động tới lãi suất thực ngắn hạn. Theo học
thuyết kỳ vọng hợp lý về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất (Miskhin 2004): lãi suất dài hạn
là trung bình lãi suất ngắn hạn tương lai kỳ vọng. Điều đó có nghĩa: một lãi suất thực
9
ngắn hạn thấp hơn dẫn tới sự sụt giảm lãi suất thực dài hạn và kích thích đầu tư của
các doanh nghiệp, làm gia tăng sản lượng đầu ra.
Ngay cả khi giả định giá cả cứng nhắc không đúng trong ngắn hạn, một sự gia
tăng cung tiền (M) sẽ làm tăng mức giá kỳ vọng (P) và làm kỳ vọng lạm phát (e)
tăng, từ đó hạ thấp suất thực ngay cả khi lãi suất danh nghĩa bằng không và kích thích
chi tiêu thông qua kênh lãi suất:
M ↑ → P ↑ → e ↑ → ir ↓ → I ↑ → Y ↑ (1.1) (Mishkin 1996)
1.2.2. Kênh giá cả tài sản
Kênh giá cả tài sản nghiên cứu tác động của CSTT tới nền kinh tế thông qua tác
động tới tỷ giá hối đoái, giá cổ phần và giá cả các tài sản khác. Bài nghiên cứu sẽ lần
lượt xem xét ba kênh này:
1.2.2.1. Kênh tỷ giá hối đoái
Sự hoạt động của kênh truyền dẫn này cũng liên quan tới kênh lãi suất đã đề cập
ở trên bởi vì lãi suất thực ngắn hạn (ir) giảm sẽ làm tài sản định giá bằng nội tệ sẽ trở
nên kém hấp dẫn hơn so với tài sản nước ngoài dẫn tới sụt giảm cầu nội tệ và kéo theo
tỷ giá (E) giảm.
Giá trị thấp hơn của đồng nội tệ làm cho hàng hoá trong nước rẻ hơn hàng hoá
nước ngoài, từ đó làm xuất khẩu ròng (NX) tăng và thúc đẩy sản lượng đầu ra tăng.
Có thể tóm tắt cơ chế hoạt động của kênh truyền dẫn này như sau:
M ↑ → ir ↓ → E ↓ → NX ↑ → Y ↑ (Mishkin 1996)
1.2.2.2. Kênh giá cổ phần
Kênh này hoạt động qua tác động của CSTT tới giá cổ phần dựa trên “Lý thuyết
Tobin’s Q”. Theo Tobin (1969): q = Giá trị vốn hoá thị trường/Chi phí sử dụng
vốn thay thế.
Nếu q lớn, nghĩa là giá trị của doanh nghiệp sẽ cao một cách tương đối so với chi
phí sử dụng vốn thay thế, từ đó doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu và thu được
10
giá cao hơn so với chi phí của máy móc, thiết bị mà họ đang mua và làm tăng chi tiêu
đầu tư. Ngược lại, nếu q nhỏ, doanh nghiệp không đầu tư mới (vì giá trị doanh nghiệp
thấp hơn chi phí vốn); từ đó chi đầu tư, mua máy mới sẽ sụt giảm. Khi đó công ty có
thể mua một doanh nghiệp khác rẻ hơn và thu được vốn cũ.
Ở một phương diện khác, khi NHTW thực thi CSTT mở rộng, người dân nắm
giữ nhiều tiền nên có xu hướng chi tiêu cho tiêu dùng nhiều hơn. Họ tham gia thị
trường chứng khoán và làm tăng cầu cổ phiếu (Ps), đẩy giá cố phiếu (a) tăng, từ đó
làm q tăng và tăng chi tiêu đầu tư, hình thành nên kênh truyền dẫn CSTT:
M ↑ → Ps ↑ → a ↑→q↑ → I ↑ → Y ↑ (Mishkin 1996)
1.2.2.3. Kênh giá cả tài sản khác
Ngoài hai kênh tỷ giá hối đoái và giá cổ phần, kênh giá cả tài sản khác đóng vai
trò quan trọng trong truyền dẫn CSTT, đặc biệt ở những quốc gia phát triển. Kênh này
là sự ứng dụng của lý thuyết Tobin q và hiệu ứng giàu có với các tài sản khác như: tài
sản tài chính, nhà cửa và hàng hoá lâu bền.
Hiệu ứng giàu có là một thành phần của kênh giá tài sản, lý thuyết này nổi lên từ
thời kỳ bùng nổ của thị trường chứng khoán và sự sụp đổ của nó vào thời kỳ 1999 –
2000. Theo lý thuyết này, dưới tác động của CSTT mở rộng, giá cổ phiếu tăng làm
tăng giá trị của những của cải tài chính mà các cá nhân, hộ gia đình nắm giữ. Từ đó,
người tiêu dùng có xu hướng chi tiêu nhiều hơn và làm tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng
sản lượng đầu ra:
M ↑ → Pe ↑ → của cải ↑ → tiêu dùng↑ → Y ↑ (Mishkin 1996)
Ứng dụng mô hình Tobin’s q và hiệu ứng của cải với thị trường nhà đất: Giá
nhà tăng làm gia tăng giá so sánh của chúng đối với chi phí thay thế vốn, từ đó làm
tăng Tobin’s q của nhà cửa và kích thích thị trường nhà phát triển. Đồng thời, theo
hiệu ứng giàu có, giá nhà và giá đất là thành phần rất quan trọng trong của cải. Một sự
gia tăng trong giá nhà và giá đất sẽ làm tăng của cải và do đó là tăng tiêu dùng. CSTT
mở rộng làm tăng giá đất và giá nhà theo cơ chế ở trên làm tăng tiêu dùng, dẫn tới
11
tăng tổng cầu nên kênh giá cả tài sản khác cũng đóng vai trò là một kênh truyền dẫn
CSTT.
1.2.3. Kênh tín dụng
Kênh tín dụng hoạt động thông qua tác động của CSTT tới hoạt động cho vay
của các NHTM. Kênh này phát huy tác dụng khi các ngân hàng đóng một vai trò quan
trọng trong hệ thống tài chính và mức độ phụ thuộc của các cá nhân, hộ gia đình và
doanh nghiệp vào nguồn vốn của NHTM là chặt chẽ.
Bernanke và Gertler (1995) cho rằng các do NHTM đóng vai trò quan trọng
trong giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường tín dụng từ đó hình
thành nên mối liên hệ chặt chẽ giữa các NHTM và người đi vay. Do đó một sự thay
đổi trong CSTT sẽ tác động tới cung tín dụng của các NHTM từ đó tác động tới đầu
tư, tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Mặc dù cho vay là một nghiệp vụ của cấp tín dụng, nó chiếm tỷ trọng lớn so với các
hoạt động cấp tín dụng khác, do đó các lý thuyết truyền dẫn chủ yếu tập trung vào
hoạt động cho vay của ngân hàng hơn là xem xét tổng thể hoạt động cấp tín dụng của
NHTM.
Một CSTT mở rộng làm gia tăng tiền gửi ngân hàng, từ đó làm tăng dự trữ của
ngân hàng và làm tăng khả năng cho vay của ngân hàng. Vì người đi vay phụ thuộc
vào ngân hàng nên tín dụng tăng làm gia tăng đầu tư, tiêu dùng và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Có thể tóm tắt cơ chế hoạt động của kênh này như sau:
M ↑ → tiền gửi ngân hàng ↑ → cho vay của các NHTM ↑ → I ↑ → Y ↑
Bernanke và Gertler (1995)
Ở một phương diện khác, kênh tín dụng đóng vai trò truyền dẫn những tác động
của CSTT tới nền kinh tế nhờ làm tăng giá trị ròng của doanh nghiệp, giảm rủi ro đạo
đức và lựa chọn nghịch từ đó thúc đẩy hoạt động cho vay của các NHTM (một số
nghiên cứu gọi tác động này là “Kênh bảng cân đối tài sản” hay “Kênh giá trị ròng
của doanh nghiệp”).
12
Xuất phát từ vấn đề thông tin bất cân xứng của thị trường tín dụng, nếu giá trị
ròng của doanh nghiệp giảm có nghĩa chủ sở hữu đang có ít vốn chủ sở hữu trong
doanh nghiệp. Điều này có thể khuyến khích họ đưa ra các quyết định đầu tư rủi ro và
làm cho người cho vay có thể gánh chịu nhiều rủi ro hơn, vấn đề lựa chọn nghịch và
rủi ro đạo đức khi cho các doanh nghiệp này vay cũng tăng theo và làm các NHTM
hạn chế hoạt động cho vay của mình.
CSTT mở rộng làm tăng giá cổ phiếu, dẫn tới tăng giá trị ròng của doanh nghiệp
và tăng đầu tư, tổng cầu nhờ làm giảm sự lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức; từ đó
hình thành nên kênh truyền dẫn:
M ↑ → Ps ↑ → Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức ↓→ Cho vay ↑ → I ↑ → Y ↑
Bernanke và Gertler (1995)
Đồng thời, CSTT mở rộng làm giảm lãi suất danh nghĩa và cải thiện bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp vì nó làm tăng dòng tiền của doanh nghiệp và giúp
doanh nghiệp tăng thanh khoản. Khi đó lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức sẽ giảm và
làm tăng cho vay và hoạt động kinh tế:
M ↑ → i ↓ → Dòng tiền ↑ → Lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức ↓ → Cho vay ↑
→ I ↑ → Y ↑.
Bernanke và Gertler (1995)
Bernanke và Blinder (1988) khi nghiên cứu nền kinh tế Mỹ đã cho rằng hành
động bán các chứng khoán qua Thị trường Mở với giá hấp dẫn của Fed làm các
NHTM tái cơ cấu lại tài sản của mình theo hướng giảm lượng tiền để cho vay, tăng
mua chứng khoán và hạn chế cung tín dụng. Mô hình của Bernanke dựa trên giả định
cơ bản là các NHTM không thể dễ dàng thay thế lượng tiền đã dùng để mua chứng
khoán bằng các nguồn tiền khác như phát hành chứng chỉ tiền gửi hay phát hành cổ
phiếu mới. Tuy vậy, cùng với sự đổi mới và cải cách của hệ thống tài chính, khả năng
tiếp cận các nguồn vốn của các NHTM đã tăng lên cùng với sự phát triển của thị
trường dành cho các tài sản nợ của NHTM. Do đó, mô hình của Bernanke dường như
13
kém tin cậy hơn trong trường hợp của Mỹ và kênh tín dụng tỏ ra kém hiệu quả trong
việc truyền dẫn CSTT ở các nước có hệ thống tài chính phát triển.
Mặc dù tỏ ra kém hiệu quả tại những nước có nền kinh tế phát triển, kênh tín
dụng nhận được khá nhiều sự quan tâm khi nghiên cứu ở những thị trường mới nổi,
các quốc gia có thu nhập thấp với sự phụ thuộc lớn của tín dụng vào hệ thống NHTM
và hệ thống tài chính kém phát triển Mishra, Montiel và Spilimbergo (2010) trong bài
nghiên cứu “Monetary Transmission in Low Income Countries” đã phân tích môi
trường thực thi CSTT ở các nước thu nhập thấp và đưa ra kỳ vọng kênh tín dụng sẽ là
kênh truyền dẫn có hiệu quả nhất của CSTT tới nền kinh tế tại các quốc gia này.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh
tín dụng
Như trên đã trình bày, CSTT tác động tới nền kinh tế thông qua hai giai đoạn, từ
những thay đổi trong CSTT của NHTW tới thị trường tiền tệ và tài sản và quá trình
hoạt động của các kênh truyền dẫn trong hai thị trường này. Do đó, cơ chế truyền dẫn
của CSTT tới nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào hai chủ thể tham gia vào quá trình truyền
dẫn là CSTT và các thị trường mà nó hoạt động. Các yếu tố chính được xem xét tới
bao gồm các yếu tố ngoại sinh như: CSTT, trình độ phát triển của thị trường tài chính,
quy mô và độ mở của nền kinh tế và các yếu tố nội sinh (xuất phát từ nội tại kênh tín
dụng) như: chất lượng của hoạt động tín dụng; khả năng cấp tín dụng của NHTM và
nhu cầu của nền kinh tế đối với nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bài
nghiên cứu sẽ lần lượt xem xét các yếu tố trên như sau:
1.3.1. Các yếu tố ngoại sinh
1.3.1.1. Quy mô và độ mở của nền kinh tế
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới, một cú sốc xảy ra không
chỉ có tác động tới một quốc gia mà còn truyền dẫn sang các quốc gia khác, đặc biệt
là đối với những quốc gia có quy mô nhỏ và độ mở tương đối. Cơ chế truyền dẫn
CSTT tại các quốc gia này vì thế cũng bị tác động đáng kể.
14
Quy mô và độ mở của nền kinh tế sẽ quyết định mức độ tác động của các cú sốc
bên ngoài tới nền kinh tế. Nghiên cứu của Raghavan và Silvapulle (2007) cho nền
kinh tế nhỏ và mở của Malaysia, nghiên cứu của Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013)
cho nền kinh tế Việt Nam ở hai giai đoạn trước và sau hội nhập kinh tế thế giới, kết
quả đã cho thấy sau khi mở cửa nền kinh tế, ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài đến
nền kinh tế là rõ nét và mạnh hơn trước khi mở cửa. Các nghiên cứu ở các nền kinh tế
nhỏ và mở khác như Ogun (2010) cho nền kinh tế Nigeria, Berkelmans (2006) ở
Austria đều tìm thấy kết quả thực nghiệm đáng tin cậy về tác động lớn của các cú sốc
bên ngoài tới truyền dẫn CSTT tại các quốc gia với nền kinh tế nhỏ và mở này.
Đồng thời, quy mô và độ mở của nền kinh tế với các giao dịch nước ngoài sẽ
quyết định vai trò của các kênh truyền dẫn CSTT và khả năng định hướng lãi suất
trong nước của CSTT. Kênh tỷ giá nhận được khá nhiều sự quan tâm của giới nghiên
cứu khi khảo sát hiệu ứng “pass through” từ tỷ giá sang lạm phát nội địa dưới nhiều
chế độ tỷ giá khác nhau tại các nền kinh tế nhỏ và mở. Đồng thời, độ mở của nền kinh
tế cũng ảnh hưởng tới khả năng định hướng lãi suất trong nước của CSTT. Jain-
Chandra và Unsal (2012) cũng tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho thấy lãi suất dài
hạn của các nước châu Á phần lớn được quyết định bởi các yếu tố bên ngoài, cơ chế
truyền dẫn CSTT có hiệu quả yếu trong ngắn hạn tại các nước châu Á dưới dòng chảy
của các luồng vốn.
1.3.1.2. Môi trường cho việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ
Theo Mishra, Montiel và Spilimbergo (2010) môi trường thể chế và pháp lý của
một quốc gia sẽ ảnh hưởng tới cơ chế truyền dẫn của CSTT ở nước đó. Đối với một
quốc gia có nền chính trị kém ổn định, thiếu vắng những quy định về chuẩn mực kế
toán và công bố thông tin, môi trường pháp lý và hệ thống pháp luật chưa phát triển,
tệ nạn tham nhũng phổ biến… tất cả các yếu tố này sẽ làm tăng chi phí của các định
chế tài chính trung gian và làm giảm hiệu quả tác động của CSTT.
Ở một phương diện khác, các quy định pháp lý của một quốc gia sẽ quyết định
mức độ độc lập của NHTW. Mức độ độc lập của NHTW cho phép các nhà hoạch định
15
CSTT có thể điều hành CSTT để đáp ứng các mục tiêu đã hoạch định hơn là đáp ứng
nhu cầu tài chính của chính phủ và hạn chế sự can thiệp của các nhà chính nhằm điều
chỉnh kinh tế vĩ mô theo những mục tiêu trước mắt. Theo IMF, mức độ độc lập của
NHTW có 4 cấp độ: “độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”, “độc lập trong việc xây
dựng chỉ tiêu hoạt động”, “độc lập trong việc lựa chọn các công cụ điều hành” và thấp
nhất là: “mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí không có” theo đó Chính phủ sẽ quyết
định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình
triển khai thực hiện chính sách
Mishra, Montiel và Spilimbergo (2010) đã thực hiện một nghiên cứu nhằm đo
lường mức độ độc lập của NHTW tại 145 quốc gia, bao gồm các nước phát triển, các
thị trường mới nổi và các quốc gia thu nhập thấp. Kết quả cho thấy NHTW ở các quốc
gia mới nổi và các quốc gia thu nhập thấp có mức độ độc lập kém hơn so với các quốc
gia phát triển. Theo nhóm tác giả: mức độ độc lập của NHTW không chỉ ảnh hưởng
tới mục tiêu của CSTT mà còn ảnh hưởng tới chính CSTT đó ở hiện tại và tương lai.
Một NHTW với mức độ độc lập cao sẽ hoạch định CSTT với những mục tiêu dài hạn
và duy trì nó ổn định theo thời gian và do đó CSTT sẽ truyền dẫn vào nền kinh tế một
cách ổn định, nhất quán và rõ nét.
1.3.1.3. Trình độ phát triển và cấu trúc thị trường tài chính
Một trong những yếu tố đánh giá trình độ phát triển của khu vực tài chính là độ
lớn của khu vực tài chính chính thức. Do CSTTT được truyền dẫn tới nền kinh tế
thông qua thị trường tiền tệ và tài sản nên nếu khu vực thị trường tài chính chính thức
nhỏ, nền kinh tế sẽ không chịu ảnh hưởng lớn từ thị trường chính thức. Hậu quả là các
ảnh hưởng của CSTT tới thị trường tài chính chính thức sẽ có tác động yếu lên tổng
cầu của nền kinh tế.
Ngoài ra sự phát triển của thị trường tiền tệ tác động rất lớn tới cơ chế truyền dẫn
CSTT. Trình độ phát triển của thị trường tiền tệ và đặc biệt là thị trường liên ngân
hàng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả truyền dẫn CSTT. Trong một thị trường liên ngân
hàng kém phát triển, sự thiếu vắng cơ chế quản lý và giám sát đối với các định chế
16
nhỏ và các quy định của pháp luật liên quan làm cho hoạt động cho vay lẫn nhau giữa
các NHTM bị hạn chế, thị trường liên ngân hàng kém phát triển nên các tác động của
CSTT không lan toả tới các trung gian tài chính khác từ đó tác động truyền dẫn CSTT
tới nền kinh tế bị yếu đi.
Đồng thời cấu trúc thị trường tài chính cũng ảnh hưởng lớn đến cơ chế truyền
dẫn CSTT Ehrman và Worms (2001) trong nghiên cứu thị trường liên ngân hàng của
Đức đã nhận thấy cấu trúc thị trường liên ngân hàng của Đức với hai thành phần: (1)
thị trường liên ngân hàng bên ngoài là nơi hoạt động của các NHTM lớn và các định
chế tài chính chủ chốt (head instituation); và (2) thị trường liên ngân hàng bên trong
là nơi các định chế tài chính chủ chốt phân phối lại nguồn vốn cho các định chế tài
chính nhỏ, các ngân hàng tiết kiệm. Đứng trước CSTT thắt chặt, các NHTM của Đức
có xu hướng huy động nguồn vốn từ các NHTM nước ngoài và tiếp tục tái phân phối
lại nguồn vốn này thông qua các định chế tài chính chủ chốt và đảm bảo hoạt động tín
dụng của các tổ chức này không bị ảnh hưởng từ CSTT. Dòng chảy của nguồn vốn
giữa hai thị trường này cho phép các ngân hàng tiết kiệm, các định chế tài chính nhỏ
tiếp tục duy trì danh mục cho vay của mình và làm suy yếu tác động của CSTT qua
kênh tín dụng NHTM.
Trình độ phát triển của thị trường cổ phiếu, bất động sản có thể làm ảnh hưởng
tới tác động của kênh tài sản, thị trường chứng khoán kém phát triển sẽ làm suy yếu
kênh lãi suất cả trong ngắn và dài hạn, sự thiếu vắng Thị trường sơ cấp cho các chứng
khoán của chính phủ sẽ khiến công cụ Thị trường mở hoạt động kém hiệu quả và làm
cho kênh lãi suất không hiệu quả ở những nước có thị trường tài chính chưa phát
triển. Nghiên cứu của Ehrman và Worms (2001) cũng cho thấy môi trường cho việc
điều hành và thực thi CSTT ở các nước có thu nhập thấp là khác xa với các nước công
nghiệp phát triển. Với một thị trường tài chính chính thức quy mô nhỏ, kém phát triển
cả về độ sâu lẫn các công cụ điều hành và sự thiếu vắng những thể chế pháp luật cần
thiết, nhóm tác giả cho rằng kênh tín dụng được kỳ vọng là kênh truyền dẫn hiệu quả
nhất ở những nước thu nhập thấp này.
17
1.3.2. Các yếu tố nội sinh
Ngoài các yếu tố kể trên, mỗi kênh truyền dẫn sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố
riêng, cấu thành nên kênh truyền dẫn đó. Đối với kênh tín dụng, hiệu quả truyền dẫn
của CSTT còn chịu tác động bởi cả hai phía cung và cầu tín dụng.
Về phía cung tín dụng, hiệu quả truyền dẫn của CSTT tới nền kinh tế qua kênh
tín dụng phụ thuộc vào các yếu tố như sau:
- Khả năng tìm kiếm nguồn vốn thay thế để duy trì danh mục cho vay của
NHTM trước các động thái thắt chặt CSTT của NHTW. Để thực thi CSTT thu hẹp,
NHTW sẽ hút tiền từ lưu thông về, làm giảm lượng tiền trong nền kinh tế và làm
giảm lượng tiền để cho vay của NHTM. Khi đó, nếu NHTM có thể dễ dàng tìm
kiếm các nguồn vốn khác để bù đắp và duy trì danh mục cho vay như cũ (thông qua
việc phát hành chứng chỉ tiền gửi hoặc phát hành cổ phần mới...) CSTT thu hẹp của
NHTW không có tác dụng làm giảm cung tín dụng của NHTM. Kishan và Opiela
(2010) trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng: các NHTM nhỏ và mức độ vốn
hóa thấp gặp khó khăn trong việc tăng cường huy động các nguồn vốn để đảm bảo
danh mục cho vay trước CSTT thu hẹp. Do đó, CSTT được kỳ vọng truyền dẫn tốt
tới nền kinh tế thông qua các NHTM này hơn là các NHTM lớn và mức độ vốn hoá
cao.
- Hiệu quả của hoạt động cấp tín dụng quyết định mức độ hiệu quả của kênh
truyền dẫn này. Nếu như thị trường tín dụng không hiệu quả, một CSTT nới lỏng
nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, mở rộng đầu tư phát triển kinh tế có thể gây ra
đầu tư tràn lan dàn trải, đầu tư vào những ngành rủi ro lớn hoặc dẫn tới hiện tượng
đầu cơ mà không mang lại hiệu quả kích thích nền kinh tế. Hơn nữa, nếu nguồn vốn
được sử dụng không hiệu quả, khách hàng không có khả năng trả nợ sẽ làm tăng nợ
xấu của các NHTM. Xử lý nợ xấu là một quá trình lâu dài, tốn kém và nhất định sẽ
gây ra thất thoát nguồn vốn. Vì nguồn vốn của các NHTM là do huy động từ dân
cư, một sự thất thoát vốn sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản và tính an toàn của cả hệ
18
thống NHTM, gây mất ổn định kinh tế vĩ mô và gây thêm áp lực cho điều hành
CSTT của NHNN.
- Sự phát triển của thị trường tín dụng chính thức. Nếu thị trường tín dụng
chính thức là lớn mạnh hơn so với thị trường tín dụng phi chính thức (thị trường tín
dụng đen); các thông tin của CSTT sẽ được truyền tải tới tốt tới thúc đẩy hay hạn
chế hoạt động cho vay, từ đó có tác động kích thích hoặc giảm sức nóng cho nền
kinh tế. Nếu thị trường tín dụng phi chính thức chiếm vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, một CSTT mở rộng nhằm giảm lãi suất và kích thích đầu tư, tiêu dùng chỉ
tác động tới thị trường chính thức và không làm giảm lãi suất của thị trường và
không tác động lên tổng cầu của nền kinh tế.
Về phía cầu tín dụng, hiệu quả của kênh tín dụng phụ thuộc vào mức độ phụ
thuộc của người đi vay đối với các NHTM và nhu cầu vốn của người đi vay. Nếu
người đi vay phụ thuộc chặt chẽ vào các NHTM, một CSTT thắt chặt làm giảm cung
tín dụng của NHTM sẽ có tác động làm giảm đầu tư và chi tiêu của người đi vay và
làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngược lại, một CSTT mở rộng làm tăng
cung tín dụng sẽ không có tác dụng kích thích nền kinh tế nếu hoạt động sản xuất đình
trệ, người đi vay không có nhu cầu vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, tín dụng bị
tắt nghẽn gây khó khăn cho NHTM và làm suy yếu hiệu quả của CSTT.
1.4. Các nghiên cứu thực nghiệm về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ
Nghiên cứu về CSTT và cơ chế truyền dẫn CSTT không phải là đề tài mới tại
các quốc gia phát triển. Theo Mishkin (2004) ở các nước phát triển như Mỹ và các
nước thuộc khu vực châu Âu các kênh truyền dẫn CSTT đã hình thành và có tác động
rõ nét tới nền kinh tế và kênh lãi suất truyền thống đóng vai trò quan trọng trong quá
trình truyền dẫn bên cạnh kênh tài sản hơn là kênh tín dụng và tỷ giá hối đoái. Tuy
vậy, ở các nước có thị trường tài chính chưa phát triển, nghiên cứu về cơ chế truyền
dẫn CSTT vẫn là một thách thức với các nhà nghiên cứu.
Le Viet Hung và Wade D.Pfau (2008) đã đặt nền móng cho các nghiên cứu định
lượng về truyền dẫn CSTT tại Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình VAR rút
19
gọn tập trung vào mối quan hệ giữa hai biến: cung tiền, sản lượng đầu ra và sử dụng 6
biến: mức giá chung, lãi suất thực, NEER, tín dụng của các NHTM trong khoảng thời
gian từ 1996-2005. Nhóm tác giả rút ra kết luận: Mối quan hệ giữa CSTT và sản
lượng; mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát trong trường hợp ở Việt Nam là không
chắc chắn. Trong các kênh truyền dẫn, kênh tín dụng và tỷ giá hối đoái quan trọng
hơn kênh lãi suất truyền thống. Tuy vậy, kết quả thu được là chưa chắc chắn, đồng
thời bài nghiên cứu ở Việt Nam sử dụng dữ liệu theo Quý cho cả giai đoạn từ những
năm 1996 – 2005 nên cần có những nghiên cứu thêm để cập nhật và cung cấp bằng
chứng thực nghiệm cho truyền dẫn CSTT tại Việt Nam.
Đinh Thị Thu Hồng (2013) nghiên cứu về truyền dẫn từ lãi suất chính sách tới
lãi suất bán lẻ ở Việt Nam và một số nền kinh tế mới nổi khác ở châu Á. Theo kết quả
nghiên cứu, tác giả cho rằng lãi suất mục tiêu của các nền kinh tế Châu Á có ảnh
hưởng thấp đối với lãi suất tiền gửi và cho vay. Nghiên cứu này cho thấy kênh lãi suất
không có tác động lớn trong truyền dẫn CSTT ở các nước châu Á (kể cả Việt Nam).
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Jain-Chandra và Unsal (2012) nghiên cứu về
hiệu quả của kênh truyền dẫn lãi suất thị trường tiền tệ tới lãi suất bán lẻ của các ngân
hàng ở châu Á với mẫu gồm: Hong Kong, Indonesia, Korea, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thailand. Điều này ngụ ý rằng chính phủ không có khả năng kiểm soát
có hiệu quả lãi suất thị trường nhằm đạt mục tiêu kinh tế thông qua lãi suất mục tiêu
và kênh lãi suất không phải là kênh truyền dẫn hiệu quả CSTT ở các nước châu Á.
Ứng dụng kết quả này, bài nghiên cứu sẽ không nghiên cứu kênh truyền dẫn lãi suất ở
Việt Nam.
Raghavan và Silvapulle (2007) sử dụng mô hình SVAR với 9 biến cho hai giai
đoạn trước và sau gia nhập WTO của nền kinh tế mở và nhỏ Malaysia. Kết quả cho
thấy, sau WTO nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các cú sốc giá cả hàng hoá thế giới
và cú sốc sản lượng sau giai đoạn khủng hoảng. Nghiên cứu chỉ cho rằng khủng
hoảng đã thay đổi vai trò của các kênh truyền dẫn CSTT ở Malaysia: trước khủng
hoảng, tỷ giá hối đoái và CSTT ảnh hưởng đáng kể tới nền kinh tế, nhưng sau khủng
hoảng, chỉ có những cú sốc tiền tệ có ảnh hưởng mạnh hơn tới sản lượng. Sử dụng mô
20
hình của nghiên cứu trên, Trần Ngọc Thơ và các cộng sự trong bài nghiên cứu: “Cơ
chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam” (2013) đã xây dựng mô hình SVAR cho 7 biến;
bao gồm 2 biến của nhóm biến ngoại sinh (giá dầu giao ngay Dubai và lãi suất cơ bản
Mỹ) và 5 biến trong nước (sản lượng công nghiệp Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng,
cung tiền M2, lãi suất tiền gửi Việt Nam kỳ hạn 3 tháng, tỷ giá danh nghĩa NEER)
cho hai giai đoạn trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhóm tác giả rút ra kết
luận: sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi các cú
sốc bên ngoài và bên trong nền kinh tế. Nền kinh tế trở nên bất ổn hơn, CSTT thắt
chặt để giảm lạm phát phát huy hiệu quả sau khi Việt Nam gia nhập WTO sau khoảng
6 quý. CSTT mở rộng tạo ra sự gia tăng lạm phát cả trước và sau WTO tuy nhiên,
phản ứng ở kỳ sau WTO là lớn hơn. Sử dụng kết quả này, bài nghiên cứu lựa chọn
thời gian nghiên cứu từ năm 2007 – 2012 để tránh sự khác biệt ở hai giai đoạn khác
nhau ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu của mô hình. Bài nghiên cứu cũng tham khảo
mối quan hệ giữa các ràng buộc trong mô hình SVAR từ hai nghiên cứu trên để xây
dựng mô hình SVAR cho nghiên cứu của mình.
Mishra, Montiel và Spilimbergo (2010) đã phân tích môi trường thực thi CSTT ở
các nước thu nhập thấp và đưa ra kỳ vọng kênh tín dụng sẽ là kênh truyền dẫn có hiệu
quả nhất của CSTT tới nền kinh tế. Nhóm tác giả cũng đã tìm thấy bằng chứng thực
nghiệm về sự hoạt động của kênh tín dụng tại Nam Phi, Pakistan và một số nước thu
nhập thấp khác. Berkelmans (2006) sử dụng mô hình SVAR để nghiên cứu truyền dẫn
CSTT qua kênh tín dụng ở nền kinh tế nhỏ (so với Mỹ) và mở Australia. Kết quả đã
tìm thấy tín dụng có ảnh hưởng mạnh tới sản lượng đầu ra hơn là lạm phát ở
Australia. Tuy vậy, CSTT của NHTW Australia hoàn toàn có thể ổn định hoá các cú
sốc của tín dụng. Tại Việt Nam những nghiên cứu về truyền dẫn CSTT qua kênh tín
dụng là ít ỏi, Chu Khánh Lân (2013) trong nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn
CSTT qua kênh tín dụng đã sử dụng 2 mô hình VAR (có kênh tín dụng và không có)
cho giai đoạn từ 2000 – 2011 (dữ liệu Quý). Kết quả như sau:
21
- Đối với quốc gia mà tín dụng ngân hàng chiếm vai trò quan trọng thì tác
động truyền dẫn của kênh tín dụng tới nền kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả của hoạt
động tín dụng.
- Tín dụng có tác động khuếch đại ảnh hưởng của cung tiền tới nền kinh tế.
Tuy nhiên, kênh tín dụng lại chưa có tác động hỗ trợ tăng trưởng kinh tế do những
vướng mắc về phía cung, cầu tín dụng.
Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trên, có thể thấy ở các nước có nền kinh
tế nhỏ và mở, thu nhập thấp như Việt Nam kênh tín dụng được kỳ vọng sẽ là kênh
truyền dẫn hiệu quả CSTT của NHNN tới nền kinh tế. Do đó, bài nghiên cứu tập
trung nghiên cứu cơ chế truyền dẫn CSTT qua kênh tín dụng, cụ thể là kênh tín dụng
của các NHTM.
1.5. Mô hình nghiên cứu:
Trong phần này, tác giả xây dựng cấu trúc mô hình SVAR cho Việt Nam. Tác
giả tham khảo nghiên cứu của Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2013) và nghiên cứu của
các nền kinh tế nhỏ mở cho nền kinh tế Malaysia của Mala (2007). Do trong nước
chưa có nghiên cứu nào về sử dụng mô hình SVAR để đánh giá cơ chế truyền dẫn
CSTT qua kênh tín dụng, tác giả tham khảo mô hình SVAR được Berkelmans năm
(2006) áp dụng nghiên cứu truyền dẫn CSTT cho nền kinh tế mở Austrilia.
Mô hình SVAR sử dụng 7 biến (bao gồm 2 biến ngoại sinh) được chia làm 4
Nhóm biến như sau:
- Nhóm biến ngoại sinh: Giá dầu giao ngay của Dubai, lãi suất cơ bản của
Mỹ.
Theo các nghiên cứu về truyền dẫn CSTT cho nền kinh tế nhỏ và mở như Việt
Nam, các nhân tố bên ngoài có tác động lớn tới nền kinh tế, do đó bài nghiên cứu
lựa chọn biến giá dầu giao ngay Dubai và lãi suất cơ bản của Mỹ để đưa vào mô
hình nghiên cứu. Lựa chọn giá dầu Dubai cho nghiên cứu là thích hợp vì Việt Nam
22
nằm trong khu vực châu Á, chịu ảnh hưởng của giá dầu Dubai nhiều hơn là giá dầu
thế giới.
Việc đưa lãi suất cơ bản của Mỹ vào mô hình là khá phổ biến cho các nghiên
cứu của Việt Nam và các nền kinh tế mở trong khu vực; điều này cũng hợp lý vì sức
khoẻ của nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu.
- Nhóm biến thể hiện lập trường CSTT: Thực tế điều hành CSTT trong thời
gian qua, NHNN đã lựa chọn biến số “Tổng phương tiện thanh toán” và “Mức tăng
trưởng Tín dụng” làm mục tiêu trung gian của CSTT VN. Do đó, bài nghiên cứu lựa
chọn M2 đại diện cho CSTT của NHNN.
- Nhóm biến phản ánh thông tin thị trường: NEER (Nominal Effective
Exchange Rate) được sử dụng để phản ánh tác động của CSTT tới nền kinh tế thông
qua kênh tỷ giá hối đoái. Berkelmans (2006) cho rằng việc bao hàm biến tỷ giá hối
đoái vào mô hình nghiên cứu SVAR sẽ giúp nâng cao mức độ phù hợp của mô hình
và giả thích các “câu đố” về tỷ giá. Việc sử dụng NEER trong nghiên cứu là phù
hợp khi mà từ những năm 2007 trở lại đây, Việt Nam đã giao thương với nhiều đối
tác thương mại trên thế giới. Biến NEER cũng được Trần Ngọc Thơ và cộng sự
(2013) sử dụng cho các nghiên cứu về truyền dẫn CSTT tại Việt Nam.
- Nhóm biến đại diện cho nền kinh tế: Theo Luật NHNN 46/2010/QH12
năm 2010 mục tiêu của CSTT là ổn định kinh tế vĩ mô (thông qua điều chỉnh chỉ
tiêu lạm phát). Đồng thời, đích đến của mọi nền kinh tế đó là gia tăng thu nhập quốc
dân (GDP) tuy nhiên số liệu GDP theo tháng ở Việt Nam không được thống kê đầy
đủ nên tác giả chọn giá trị lượng công nghiệp (IP) để thay thế. Bài nghiên cứu sẽ lựa
chọn CPI và IP là hai biến đại diện cho mục tiêu của CSTT.
- Nhóm biến đại diện cho hoạt động của kênh tín dụng: Bài nghiên cứu lựa
chọn biến khối lượng tín dụng của các NHTM để đánh giá tác động truyền dẫn
CSTT qua kênh tín dụng. Biến tín dụng của các NHTM cũng được Le Viet Hung và
Wade D.Pfau (2008) sử dụng để nghiên cứu về truyền dẫn CSTT tại Việt Nam.
23
Kết hợp với các quy luật kinh tế và các nghiên cứu khác về truyền dẫn CSTT
tại Việt Nam, tác giả thiết lập ma trận A0 cho trường hợp của nền kinh tế nhỏ và mở
W
OP
W
OP
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
u
t
t
I
US
I
US
t
t
IP
IP
1 0
0 1
0 0
0 0
0 0
b 11 0 0
b 22 0
0 0
0 0
0 0
0 0
u u t CPI
t CPI
của Việt Nam với cấu trúc hệ phương trình SVAR dạng ma trận như sau:
t
t
M
2
M
2
a 21 a 31 a 41 0
0 0
0 1
a 47 0
0 0
0 0
0 b 33 0 0
b 44 0
0 0
0 0
u u t DCRE
t DCRE
0 a 36 0 a 56 1
0
0
0
0
0
0 b 55 0
0
u
t
t
N R EE
N R EE
1
0
0
0
0
0
b 66 0
u
a 61 a 71
a 62 a 72
a 43 a 53 a 63 a 73
1 a 54 a 64 a 74
a 65 a 75
a 76
b 77
t
t
X = X
Từ cấu trúc ma trận này và nếu bỏ qua cấu trúc trễ của các tham số thì mối
quan hệ đồng thời của các biến trong cấu trúc mô hình có thể viết lại như sau:
WOP =b11ƐWOP
WOP
(2.1) WOP: ut
+b22 ƐUSI
WOP
DCRE
(2.2) USI: uUSI = - a21 ut
= - a31 ut
- a36ut
+b33 ƐIP.
WOP
NEER
ƐCPI
IP: uIP (2.3)
CPI = -a41 ut
- a43 uIP
- a47ut
+ b44
CPI
DCRE
(2.4) CPI: ut
M2 = - a53 uIP
- a54ut
- a56ut
+ b55 ƐM2
USI
IP
CPI
ƐDCRE
M2 + b66
(2.5) M2: ut
DCRE = -a61 ut
WOP -a62 ut
-a63 ut
- a64ut
-a65 ut
USI
CPI
DCRE
M2 - a76ut
+ b77ƐNEER.
DCRE: ut (2.6)
CPI = -a71 ut
WOP-a72 ut
–a73uIP
- a74ut
-a75ut
NEER: ut (2.7)
Phương trình (1) và (2) thể hiện tác động của kinh tế thế giới đến nền kinh tế
Việt Nam. Vì nền kinh tế Việt Nam là nhỏ và mở nên các biến này không chịu ảnh
hưởng của các biến của nền kinh tế Việt Nam. Giá dầu chỉ chịu ảnh hưởng của
chính nó, trong khi đó lãi suất cơ bản của Mỹ chịu ảnh hưởng của giá dầu và chính
nó. Điều này là thích hợp vì giá dầu được kỳ vọng sẽ ảnh hưởng tới lạm phát thế
giới, từ đó Mỹ sẽ điều chỉnh lãi suất điều hành của mình theo giá dầu nhằm tác
động tới kinh tế trong nước.
24
Phương trình (3) giả định sản lượng công nghiệp chịu ảnh hưởng đồng thời
của giá đầu, khối lượng tín dụng của NHTM và của sản lượng công nghiệp (bao
gồm cả biến trễ của chúng).
Phương trình (4) thể hiện biến động lạm phát Việt Nam. Dựa trên nghiên cứu
của Bhattacharya (2013) nhân tố chủ đạo quyết định lạm phát ở Việt Nam là sự thay
đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa (NEER). Đồng thời, lạm phát của Việt Nam chịu tác
động lớn từ giá dầu thế giới, sản lượng công nghiệp trong nước và chính nó (bao
gồm cả biến trễ của chúng). Do đó, bài nghiên cứu xác định các ràng buộc chính đối
với biến lạm phát là các biến WOP, IP, NEER.
Phương trình (5) mô phỏng quyết định của NHNN về điều hành cung tiền.
NHNN sẽ xem xét tới hoạt động sản xuất và lạm phát cũng như lượng tín dụng để
ra quyết định điều hành lượng tiền cung ứng cho phù hợp với các mục tiêu đã đề ra.
Phương trình (6) xác định mối ràng buộc cho biến khối lượng tín dụng của
NHTM. Vì trong nước chưa có nghiên cứu nào sử dụng mô hình SVAR cho kênh
tín dụng, bài nghiên cứu tham khảo cấu trúc mô hình được Berkelmans (2006) sử
dụng để nghiên cứu nền kinh tế nhỏ và mở (so với Mỹ) Australia, theo đó
DCREDIT phụ thuộc vào WOP, USI, IP, CPI, M2 và chính DCREDIT trong quá
khứ (bao gồm cả biến trễ của chúng).
Phương trình (7) thể hiện sự cân bằng thị trường ngoại hối. Tỷ giá được giả
định chịu ảnh hưởng đồng thời của tất cả các biến trong mô hình. Theo Berkelmans
(2006) việc đưa tỷ giá vào mô hình nghiên cứu SVAR sẽ làm tăng mức độ phù hợp
của mô hình và giúp giải quyết các câu đố về tỷ giá.
Ý nghĩa của các ràng buộc được kiểm định bằng kiểm định nhận dạng LR test
ở (1.5):
(1) với (1) là bậc tự do.
25
Với mô hình SVAR đã thiết lập ta có giả thuyết nghiên cứu H0: những ràng
buộc được thiết lập trong mô hình là thích hợp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận văn đã khái quát những lý luận cơ bản về CSTT, các
công cụ của CSTT và cơ chế lan truyền của CSTT thông qua các kênh truyền dẫn.
Đồng thời, các yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế lan truyền của CSTT, đặc biệt là cơ chế
lan truyền qua kênh tín dụng cũng được tác giả hệ thống hoá lại dựa trên tổng hợp
các nghiên cứu trên thế giới.
Ngoài ra, trong chương 1 tác giả cũng tóm tắt các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm về cơ chế truyền dẫn CSTT trên thế giới, từ đó xây dựng mô hình nghiên
cứu về cơ chế truyền dẫn CSTT qua kênh tín dụng cho Việt Nam.
26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM.
2.1. Tổng quan về chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2012
Giai đoạn 2007 – 2012 là một giai đoạn đầy biến động và nhiều thách thức với
việc điều hành CSTT ở Việt Nam. Sau giai đoạn đạt mức tăng trưởng khá ấn tượng
từ năm 2004 đến năm 2007 nền kinh tế Việt Nam đã làm dấy lên quan ngại về một
nền kinh tế tăng trưởng nóng: cung tiền vẫn tiếp tục tăng, đồng thời lạm phát tăng
60.00
50.00
40.00
30.00
20.00
10.00
-
2007 Q 1
2007 Q 3
2008 Q 1
2008 Q 3
2009 Q 1
2009 Q 3
2010 Q 1
2010 Q 3
2011 Q 1
2011 Q 3
2012 Q 1
2012 Q 3
Lạm phát
Lãi suất cho vay
Cung tiền
GDP
Tín dụng
dần qua các năm. Lãi suất cho vay cũng tăng theo, tín dụng tiếp tục được mở rộng.
Biểu đồ 2.1: Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất cho vay, tăng trưởng tín dụng
và GDP Việt Nam từ năm 2007 – 2012 (đơn vị tính: phần trăm).
“Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của IMF – IFS”
Đầu năm 2007 cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư
nước ngoài đổ vào làm cho cung tiền tăng mạnh, nền kinh tế tăng trưởng nóng, giá
dầu thế giới tăng mạnh và động thái gỡ bỏ trợ cấp giá dầu của chính phủ đã đẩy lạm
phát ở mức hai con số ở cuối năm 2007, tín dụng, tiền gửi đều tăng trưởng ở mức
cao đẩy GDP cuối năm 2007 lên mức tăng trưởng 9.28% so với cùng kỳ năm trước.
27
Bước sang năm 2008 với những hệ luỵ của giai đoạn tăng trưởng nóng ở năm
2007 NHNN đã thực hiện quyết liệt CSTT thắt chặt và sử dụng hầu hết các công cụ
CSTT. Với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu
hút tiền từ lưu thông, M2 năm 2008 chỉ tăng 20.7% so với năm 2007, đồng thời làm
giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Kết quả là lạm phát đã bị chặn
đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5
xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ
lệ lạm phát cả năm 2008 còn là 19, 89%.
Năm 2009 áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
đòi hỏi Việt Nam phải áp dụng CSTT nới lỏng có kiểm soát. Kết quả lạm phát giảm
dần qua các Quý và giảm từ mức 19.98% của năm 2008 xuống còn 6.52% năm
2009, tăng trưởng kinh tế đạt 5.2%. Sau khi hạ các lãi suất chủ chốt, tăng cung tiền,
tín dụng của các NHTM đã tăng mạnh vào cuối năm 2009, tuy vậy lãi suất cho vay
vẫn ở mức cao, chưa đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Những vấn đề cố hữu của nền kinh tế Việt Nam như thâm hụt ngân sách, thâm
hụt thương mại, hiệu quả sử dụng vốn thấp, tính dai dẳng của lạm phát và sự phục
hồi kinh tế chưa chắc chắn của thế giới… đã gây áp lực cho việc thực thi CSTT
năm 2010. Trước bối cảnh đó, NHNN tiếp tục thực thi CSTT thận trọng linh hoạt
theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát, kiểm soát chặt thị trường vàng, ngoại hối và kiểm soát tín dụng, đảm bảo an
toàn cho hệ thống ngân hàng.
Việt Nam bước vào giai đoạn 2011- 2012 trong bối cảnh nền kinh tế trong
nước đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Lạm phát của thế giới có xu hướng tăng
lên, trong đó giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản (đầu vào của sản xuất), giá
lương thực, thực phẩm trên thế giới tăng cao. Giá cả trong nước tăng, áp lực lạm
phát ngày càng tăng làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Đứng
trước bối cảnh đó, năm 2011 NHNN đã thực hiện thắt chặt tiền tệ, tháng 2/2011
Chính phủ Việt Nam đã có Nghị quyết 11 tập trung ưu tiêm kiềm chế lạm phát, ổn
28
định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội với 6 gói các biện pháp chính sách, bao
gồm: “Thắt chặt CSTT; thắt chặt chính sách tài chính; kìm hãm thâm hụt thương
mại; tăng giá điện đồng thời với việc hỗ trợ người nghèo và sử dụng một cơ chế
mang tính thị trường hơn đối với việc định giá xăng dầu; tăng cường an sinh xã hội;
nâng cao hiệu quả việc phổ biến thông tin chính sách”.
Triển khai Nghị quyết 11, NHNN đã điều chỉnh mục tiêu trần tăng trưởng tín
dụng từ 23% xuống còn 20% trong năm, và tăng trưởng nguồn cung tiền (M2) trong
năm 2011 từ 21-24% xuống còn 15-16%. Cả hai mục tiêu này đều được điều chỉnh
thấp hơn khá nhiều so với năm 2010 (năm 2010 tín dụng tăng ở mức 32,4% và M2
tăng 33,3%). Để thực hiện gói giải pháp tài chính thắt chặt, Bộ Tài chính đã sửa đổi
mục tiêu thâm hụt ngân sách năm 2011 xuống mức dưới 5,0% GDP (thấp hơn so
với mức ban đầu là 5,3%).
Năm 2012, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, thương mại
và tăng trưởng toàn cầu phục hồi chậm, ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế đối
ngoại của Việt Nam. Trong nước, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều thách thức như
cầu nội địa giảm mạnh, lượng hàng tồn kho lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp
nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã thực thi một CSTT thận trọng linh
hoạt nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng vẫn ngăn ngừa lạm phát quay lại.
Trong năm 2012, NHNN đã liên tiếp thực hiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh
giảm 4 lần đối với lãi suất tái cấp vốn từ 15% xuống 10%, lãi suất chiết khấu từ
13% xuống 8%. Lãi suất trên thị trường mở giảm 6 lần. Điều chỉnh giảm 4 lần trần
lãi suất tiền gửi tối đa bằng VNĐ, từ 14%/năm xuống 9%/năm đối với tiền gửi có
kỳ hạn 1 tháng đến 12 tháng; từ 6%/năm xuống 2% năm đối với tiền gửi không kỳ
hạn. Đồng thời, áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với bốn
lĩnh vực ưu tiên. Nhờ đó, đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Từ
những tháng cuối năm 2011 hạn mức tín dụng được NHNN xác định phù hợp với
năng lực, quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng và tiếp tục triển khai trong
năm 2012 đã tạo ra những tác động tích cực đến thị trường, lạm phát được kiềm chế
ở mức thấp, thanh khoản thị trường cũng đã được cải thiện, góp phần hạ thấp mặt
29
bằng lãi suất. NHNN đã tạo được sự ổn định cơ bản trên hệ thống tài chính – ngân
hàng, như thanh khoản được cải thiện, kéo giảm mặt bằng lãi suất, chống vàng hóa
và đôla hóa, ổn định tỷ giá… Tuy vậy, công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng, giải
quyết nợ xấu vẫn chưa có nhiều tiến triển đáng kể và diễn biến giá vàng trong nước
còn gây e ngại cho người dân.
2.2. Phân tích cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng tại
Việt Nam giai đoạn 2007 – 2012.
2.2.1. Tác động truyền dẫn từ chính sách tiền tệ tới hoạt động huy động vốn
của Ngân hàng thương mại.
Năm 2007 NHNN thực hiện CSTT mở rộng: Thị trường Mở được điều hành
linh hoạt bám sát mục tiêu điều hành CSTT. Đồng thời, NHNN giữ các mức lãi suất
(lãi suất cơ bản 8,25%/năm, tái cấp vốn 6,5%/năm, chiết khấu 4,5%/năm v.v...) và
tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm ổn định lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, NHNN chủ
động can thiệp mua - bán ngoại tệ và thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát để
tránh việc tăng giá VND và làm cho tỷ giá VND so với USD trên thị trường biến
động tăng ở mức độ thấp. Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, luồng vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh cộng hoạt động huy động vốn của các NHTM
cũng tăng 47,64% so với năm 2006. Nhờ nguồn tiền trong nước, nguồn tiền từ nước
ngoài dồi dào và các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn các NHTM đã huy động
được một nguồn vốn lớn từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Bước sang năm 2008, trước dấu hiệu tăng trưởng nóng của kinh tế, NHNN
thực thi CSTT thắt chặt, NHNN đã: (i) chủ động hút tiền về từ lưu thông, thông qua
các biện pháp: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1%; phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu
NHNN bắt buộc. Đồng thời, hỗ trợ kịp thời vốn ngắn hạn cho các TCTD gặp khó
khăn về thanh khoản thông qua Thị trường Mở và thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn,
nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô nhỏ; (ii) điều chỉnh tăng lãi
suất cơ bản từ 8,75-12-14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5-7,5-13-15%/năm, lãi
suất tái chiết khấu 4,5-6-11-13%/năm.
30
Từ cuối tháng 7/2008, mặc dù kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu khả quan như
lạm phát và nhập siêu có xu hướng giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế có xu hướng
chậm lại. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN tiếp tục điều hành chính sách
tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt trong điều hành và nới lỏng từ tháng 10/2008. Cụ
thể: (i) điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu NHNN bắt buộc từ 7,8%/năm lên 13%/năm
(tháng 7); (ii) tăng 3 lần lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ mức 1,2-3,6-5-10%/năm
(trong tháng 8, tháng 9, tháng 10) và xuống 9% (tháng 12); (iii) từ tháng 10 đến
tháng 12/2008, giảm 4 lần các mức lãi suất chủ đạo như lãi suất cơ bản từ mức 14-
13-12-11-10%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15-14-13-12-11%/năm, lãi suất chiết
khẩu từ 13-12-11-10-9%/năm để tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay;
(iv) điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11-10-8-6%
và giảm dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ từ 11-9-7%; cho phép các
TCTD sử dụng tín phiếu NHNN bắt buộc trong các giao dịch tái cấp vốn và thanh
toán trước hạn nếu có nhu cầu; và (v) Mở rộng từng bước biên độ ấn định tỷ giá
mua - bán đồng USD của các TCTD từ mức +0,75% lên +1%, +2%, +3% so với tỷ
giá bình quân liên ngân hàng; đồng thời, điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng
theo hướng tăng dần phù hợp với cung - cầu ngoại tệ trên thị trường và mục tiêu hỗ
trợ xuất khẩu, hạn chế nhập siêu; không cho phép các TCTD mua, bán USD thông
qua ngoại tệ khác.
Cùng với xu hướng thắt chặt tiền tệ của NHNN, suy thoái kinh tế thế giới đã
tác động tới tiết kiệm đầu tư trong nước làm cho hoạt động huy động vốn của toàn
hệ thống NHTM năm 2008 vì thế chỉ đạt 22.87%, giảm so với mức 47.64% của
năm 2007.
Năm 2009 NHNN đã điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, phù hợp với
diễn biến của thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ: (i) lãi suất cơ bản, lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu giảm xuống mức lần lượt là 7%/năm, 7%/năm và
5%/năm từ tháng 2/2009 và giữ ổn định đến cuối tháng 11/2009; từ ngày 1/12/2009,
điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu lên các
mức lần lượt là 8%/năm, 8%/năm và 6%/năm; ban hành cơ chế lãi suất thỏa thuận
31
của TCTD đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua
nghiệp vụ phát hành, sử dụng thẻ tín dụng; (ii) điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 6 xuống 3%, tiền
gửi VND có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên từ 2 xuống 1%; và (iii) điều hành linh hoạt
Thị trường Mở , cho vay tái cấp vốn để kiểm soát lượng tiền cung ứng, đảm bảo khả
năng an toàn thanh toán hệ thống, ổn định thị trường tiền tệ.
Điều hành công cụ tỷ giá, kết hợp với các biện pháp quản lý ngoại hối và can
thiệp hợp lý trên thị trường ngoại tệ: (i) biên độ tỷ giá được điều chỉnh tăng từ +3%
lên +5% (24/3/2009) và điều chỉnh giảm xuống +3% (26/11/2009); (ii) điều hành tỷ
giá bình quân thị trường liên ngân hàng theo hướng tăng, ngày 26/11/2009 tăng lên
mức 17.961 VND, theo đó mức trần tỷ giá mua bán của ngân hàng thương mại
(NHTM) là 18.500 VND/USD (tăng 3,43% so với ngày 25/11/2009); (iii) can thiệp
bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu và cho các
NHTM có trạng thái ngoại tệ âm trên 5%. Triển khai đồng bộ các cơ chế hỗ trợ lãi
suất đối với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND theo Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ; đi đôi với tăng cường thanh tra, giám sát, hoàn thiện cơ
chế và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc liên quan đến cơ chế hỗ trợ lãi suất. Kiểm
soát tín dụng tăng trưởng ở mức hợp lý điều chỉnh giảm tỷ lệ tối đa sử dụng vốn
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn từ 40% xuống còn 30% của NHTM
Như vậy, mặc dù vẫn quan ngại trước lạm phát, NHNN vẫn nới lỏng CSTT để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, huy động vốn của hệ thống NHTM tăng 29.88% so
với năm 2008, huy động vốn tăng nhanh trong 6 tháng đầu năm đạt mức 3%/tháng
và giảm mạnh ở 6 tháng cuối năm đạt 1.67%/tháng do NHNN có xu hướng thắt chặt
CSTT ở cuối năm.
Năm 2010, để đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và
tăng trưởng kinh tế trong, NHNN đã điều hành các công cụ chính sách tiền tệ kết
hợp với một số biện pháp hành chính. Trong 3 quý đầu năm, lãi suất cơ bản và tái
cấp vốn được giữ nguyên ở mức 7-8%/năm; dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền
32
gửi bằng ngoại tệ được điều chỉnh giảm từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12
tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng; thị trường Mở được điều hành
với khối lượng lớn, lãi suất được điều chỉnh giảm; tăng khối lượng vốn tái cấp vốn,
cho vay qua đêm và hoán đổi ngoại tệ với ngân hàng thương mại nhằm điều tiết lãi
suất giảm theo chỉ đạo của Chính phủ; thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận
đối với VND từ tháng 4/2010.
Trong điều hành, NHNN cũng chỉ đạo các TCTD thực hiện mở rộng tín dụng
đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, tập trung cho lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa; điều chỉnh tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng lên 18.932 VND/USD (ngày 11/02/2010 tăng 3,36%, ngày
18/8/2010 tăng 2,1%, tổng cộng là 5,52%). Chính sách tiền tệ điều chỉnh theo
hướng nới lỏng vẫn tiếp tục cho đến quý 3/2010, kể cả khi lạm phát lại tiếp tục leo
thang. Trong quý IV/2010, trước tình hình lạm phát tăng cao, Chính phủ đã đưa ra
các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường những tháng cuối năm 2010, tiếp tục đẩy
mạnh sản xuất, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, dịch vụ, bình ổn giá cả, thị
trường trong dịp Tết NHNN đã điều chỉnh tăng thêm 1%/năm đối với các mức lãi
suất điều hành như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, điều chỉnh tăng 1-
2%/năm lãi suất trên Thị trường Mở ; chỉ đạo các TCTD ấn định lãi suất huy động
bằng VND không quá 14%/năm. Tuy nhiên, lãi suất liên ngân hàng tăng đến 18-
20% sau khi lãi suất cơ bản tăng cao, NHNN đã can thiệp bằng cách bơm thêm
thanh khoản và làm hạ nhiệt thị trường liên ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ lạm phát trong
tháng 11/2010 cao hơn dự kiến, song NHNN vẫn duy trì lãi suất cơ bản 9% cho đến
hết năm.
Trước CSTT của NHNN, huy động vốn của hệ thống TCTD có tốc độ tăng
trưởng nhanh dần theo tháng và tính chung cả năm 2010 đã tăng 36.24% so với cuối
năm 2009, đạt mức tăng trưởng bình quân 3.02%/tháng. Tăng trưởng huy động vốn
trong thời kỳ này đã đạt mức cao hơn tăng trưởng tín dụng.
33
Tổng nguồn vốn huy động
3,500,000
3,000,000
2,500,000
2,000,000
1,500,000
1,000,000
500,000
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng huy động vốn (tỷ đồng) của NHTM từ 2007 – 2012
“Nguồn:Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Sang năm 2011 NHNN đã thực hiện điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tái chiết khấu và ban hành các quy định
kiểm soát lãi suất huy động của các NHTM. Với công cụ thị trường Mở, NHNN
thực hiện chào mua các giấy tờ có giá với mức lãi suất tăng từ 10%/năm lên
15%/năm trong suốt 9 tháng đầu năm. Nửa cuối tháng 9, khi đã kiểm soát được các
mục tiêu đề ra, NHNN thực hiện giảm lãi suất này xuống còn 14%/năm. Đồng thời,
NHNN cũng tăng DTBB với ngoại tệ và kiểm soát ngoại hối, tín dụng chặt chẽ. Do
vậy, năm 2011 mức tăng huy động vốn so với cùng kỳ của các tháng liên tục giảm
trong điều kiện NHNN điều hành chặt chẽ CSTT theo chủ trương chung của Chính
Phủ, đồng thời thực hiện quyết liệt các biện pháp nhằm giảm đô la hoá. Tính đến
cuối tháng 12.2011, tổng huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống ngân hàng tăng
12.4% so với cuối năm trước, thấp hơn mức tăng 36.2% của năm 2010 và so với
mức tăng bình quân 29.5% của giai đoạn 2000 – 2010. Cơ cấu loại tiền huy động
cũng theo hướng giảm đô la hoá và giảm rõ rệt sau CSTT thắt chặt và các biện pháp
hạ trần lãi suất huy động USD của NHNN vào tháng 04/2011.
34
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng huy động vốn (tỷ đồng) của NHTM năm 2011
“Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Bước sang năm 2012, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng trong suốt
cả năm 2012 thông qua việc lần lượt hạ lãi suất cơ bản gần như mỗi quý 1 điểm
phần trăm. Trong cả năm 2012, mặt bằng lãi suất cơ bản đã thấp hơn 6 điểm phần
trăm so với hồi đầu năm. Lần cắt giảm vào cuối tháng 12 được hậu thuẫn bởi lạm
phát thấp vào những tháng cuối cùng của năm.
Tuy vậy, nền kinh tế tiếp tục rơi vào khó khăn. Tổng phương tiện thanh toán
tăng nhẹ ở mức 18.46% so với năm 2011, NHNN đã điều hành CSTT linh hoạt,
thận trọng và hướng tới giảm lãi suất huy động và cho vay để hạ nhiệt nền kinh tế.
Trong năm 2012, NHNN đã sáu lần liên tiếp hạ lãi suất huy động, lãi suất huy động
giảm nhưng do các kênh đầu tư khác cũng không còn hấp dẫn do đó tiền gửi khu
vực dân cư tăng 34% và của các tổ chức tăng 13.02% so với năm 2011. Nguồn vốn
huy động tăng giúp các NHTM cải thiện thanh khoản và thoát khỏi nguy cơ đỗ vỡ
hệ thống ở cuối năm 2011.
Như vậy, có thể thấy CSTT của NHNN đã có tác động nhất định tới hoạt động
huy động vốn của NHTM. Mặc dù nguồn vốn huy động giữ xu hướng tăng dần qua
các năm trong giai đoạn 2007 – 2012, CSTT mở rộng đã làm tăng nguồn vốn huy
35
động của NHTM và CSTT thu hẹp đã làm tác động làm giảm tỷ lệ tăng nguồn vốn
huy động từ nền kinh tế.
2.2.2. Tác động truyền dẫn từ hoạt động huy động vốn tới hoạt động tín dụng
của NHTM
Năm 2007 huy động vốn của các NHTM tăng 46.12% giúp các NHTM mở
rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế. Dư nợ tín dụng của toàn
hệ thống ngân hàng năm 2007 tăng 53.89% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với
mức 25.44% của năm 2006. Tăng trưởng tín dụng tập trung ở khối Ngân hàng
Thương mại Cổ phần, chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài và các TCTD phi ngân
hàng. Tín dụng ngân hàng đã đi vào phục vụ sản xuất với tỷ trọng của khu vực nông
Tín dụng
3,500,000
3,000,000
2,500,000
2,000,000
1,500,000
1,000,000
500,000
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
nghiệp, dịch vụ đều tăng.
Biểu đồ 2.4: Tổng dư nợ tín dụng (tỷ đồng) của NHTM từ năm 2007 - 2012
“Nguồn:Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Năm 2008, dưới tác động của suy thoái kinh tế và CSTT thắt chặt kiểm soát
lạm phát của NHNN, nguồn vốn huy động của các NHTM tăng 22.87% thấp hơn
năm 2007 nhưng tín dụng tiếp tục tăng trưởng mức 25.43% trước nhu cầu vốn cho
phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn cả tốc độ huy động vốn của
các NHTM kéo theo lãi suất cho vay của các NHTM ở mức khá cao khoảng 18.5-
36
19% ở tháng 03.2008. Trước sức nóng của nên kinh tế, NHNN đã áp dụng lãi suất
trần tối đa 18% /năm vào tháng 5 năm 2008. Tuy vậy, tín dụng có dấu hiệu tiếp tục
tăng trưởng nóng. Cùng với động thái điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 12% lên
14%/năm của NHNN, các NHTM đã điều chỉnh tăng lãi suất cho vay lên tối đa 21%
và đến gần cuối năm 2008 đã giảm xuống mức 10.8– 11.5%/ năm với ngắn hạn, 12
– 12.75% với cho vay trung và dài hạn. Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn này,
tác động của CSTT thắt chặt đã tác động làm giảm tiền gửi ngân hàng nhưng không
phát huy hiệu quả trong kiềm chế tốc độ tăng tín dụng của các NHTM. Nền kinh tế
vẫn khát vốn trong khi lượng tiền huy động giảm đi đã đẩy lãi suất cho vay lên cao
gây khó khăn cho các doanh nghiệp và ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Biểu đồ 2.5: Lãi suất huy động, cho vay (%/năm) của các TCTD năm 2008
“Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Trước dấu hiệu hạ nhiệt của nền kinh tế vào các tháng cuối năm 2008 và suy
thoái kinh tế tác động xấu tới kinh tế vĩ mô, năm 2009 NHNN thực thi CSTT kích
thích kinh tế làm huy động vốn tăng 28.99% và góp phần đẩy tổng dư nợ tín dụng
của hệ thống ngân hàng tăng 37.53% so với mức tăng 23.38% của năm 2008. Trong
hai tháng đầu năm 2009, tín dụng tăng trưởng thấp do ảnh hưởng của năm 2008, và
từ tháng 3/2009 đến tháng 9 năm 2009, tín dụng đã tăng mạnh trở lại để hưởng ứng
37
chính sách kích thích kinh tế của chính phủ nhằm chặn đà suy thoái. Tác động của
CSTT mở rộng đã được truyền tải tới hoạt động huy động vốn và thúc đẩy tín dụng
tăng trưởng mạnh mẽ. Mức tăng trưởng tín dụng cao hơn cả mức tăng huy động vốn
trong thời kỳ này là do các chính sách hỗ trợ lãi suất, khuyến khích mở rộng tín
dụng với các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế của Chính phủ. Đầu năm 2009, Chính
Phủ đã đưa ra gói kích cầu định lượng là 1 tỷ USD. Phần lớn tiền hỗ trợ không được
chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này
Chính phủ đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được
nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phẩm, duy trì ổn định sản xuất, kích
thích được nhu cầu trong nước, ngăn chặn đà suy giảm của tín dụng trong giai đoạn
2009 – 2010 và góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế.
Lãi suất cho vay tăng cao vào cuối năm 2009 đã làm tổng tín dụng tăng chậm
trong 4 tháng đầu năm 2010 nhưng sau đó đã tăng dần ở mức 2%/tháng kể từ tháng
5/2010 sau những nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất của NHNN. Đến cuối năm 2010,
tổng tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng 31.19% so với cuối năm 2009 thấp hơn
mức tăng 35.73% của năm 2009. Từ tháng 11/2010, khi NHNN điều chỉnh tăng lãi
suất điều hành nhằm kiểm soát lạm phát, lãi suất huy động và cho vay VND tăng
khoảng 2%/năm và cuối năm 2010 lãi suất cho vay bình quân khoảng 15.27%, lãi
suất huy động bình quân 12.44%.
Sang năm 2011 NHNN thực hiện thắt chặt tiền tệ, giảm cung tiền tăng lãi suất
điều hành của NHNN, lãi suất thị trường tăng mạnh 6 tháng đầu năm 2011. Trước
mục tiêu ổn định nhanh kinh tế vĩ mô NHNN bắt buộc phải cắt giảm cung tiền và
giảm tăng trưởng tín dụng đột ngột, gây ra các hệ quả không như mong muốn: lãi
suất cho vay và nợ xấu tăng cao, thanh khoản của hệ thống ngân hàng căng thẳng,
hàng loạt ngân hàng nhỏ rơi vào mất khả năng thanh khoản, thị trường chứng khoán
suy kiệt, thị trường bất động sản đóng băng, nhưng lạm phát thực tế vẫn ở 18.13%.
Đồng thời, hoạt động huy động vốn của NHTM suy giảm đã tác động lớn tới hoạt
động tín dụng. Tín dụng của năm 2011 vì thế chỉ tăng 14.4%, thấp hơn mức kế
hoạch của năm và thấp hơn nhiều mức bình quân của giai đoạn 2004 – 2010 là
38
35.11%. Trong 6 tháng cuối năm, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát giảm dần, thị
trường ngoại hối ổn định làm áp lực tăng lãi suất dịu lại, nhưng lãi suất cho vay vẫn
ở mức cao 17-20%/năm đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn.
Tiếp tục tình hình khó khăn của năm 2011, kinh tế năm 2012 không có sự
khởi sắc ở tất cả các lĩnh vực nền kinh tế trì trệ, sản xuất đình đốn hàng tồn kho tăng
cao, tín dụng vì thế chỉ đạt mức tăng 5.5%. Trong khi đó, huy động vốn của năm
2012 tăng 18.46%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng tín dụng. Thực tế cho
thấy, 6 tháng cuối năm 2012, trừ một số ngân hàng trong danh sách phải tái cơ cấu,
còn lại các Ngân hàng đều thừa vốn không cho vay được, nguồn vốn bị ứ đọng
trong hệ thống NHTM nhưng các NHTM không điều chỉnh giảm lãi suất cho vay vì
đã huy động vốn với lãi suất cao trước đó và lo ngại trước những rủi ro càng gia
tăng trong hoạt động tín dụng khi mà tình hình tài chính của các doanh nghiệp
không khả quan.
Bảng 2.1: Mục tiêu và kết quả thực hiện tăng trưởng tín dụng (%) (2007 –
2012)
Tăng trưởng
tín dụng 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Mục tiêu 17 - 21 30 21-23 25 20 15-17
Thực hiện 53.9 25.4 37.5 31.2 14.4 5.5
“Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Nhìn lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2004-2012
cho thấy chưa khi nào Chính phủ đạt được mục tiêu đề ra, hiệu lực chấp hành thấp,
cơ chế điều hành chưa xử lý được tình trạng vượt quá cao hoặc không đạt mức mục
tiêu định hướng. Do đó, chỉ tiêu đề ra mang tính hình thức, tác dụng rất hạn chế.
Ở Việt Nam, với một hệ thống tài chính mờ nhạt và đa dạng hóa kém chủ yếu
phụ vào hệ thống ngân hàng, kênh tín dụng được kỳ vọng là kênh truyền dẫn chính
39
của CSTT. Tuy vậy, có thể thấy trong suốt giai đoạn 2007 – 2012, sự hoạt động của
kênh này không thể hiện vai trò chi phối của mình. Trong suốt giai đoạn này, tăng
trưởng tín dụng luôn có khoảng cách với mục tiêu điều hành của NHNN.
Tăng trưởng tín dụng mục tiêu và kết quả thực hiện
60
50
40
30
20
10
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Mục tiêu
Thực hiện
Biểu đồ 2.6: Tốc độ tăng trưởng tín dụng thực tế (% so với năm trước) so với
mục tiêu đề ra giai đoạn 2007 – 2012.
“Nguồn:Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Kết quả thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng của 2 năm liên tục (2011 –
2012) thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra, đẩy lãi suất cho vay lên cao, hệ thống
ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản, nợ xấu tăng cao, làm suy kiệt tín dụng, tác
động bất lợi cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng cho các năm
sau.
Các quyết định hành chính về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng không đi đôi với
cơ chế kiểm soát chất lượng hiệu quả tín dụng. Vì vậy, nguồn vốn tín dụng đã bị
phân bổ quá mức vào một số lĩnh vực đầu cơ (bao gồm: chứng khoán, bất động
sản), hoặc các lĩnh vực rủi ro cao, các lĩnh vực không có hiệu quả, làm cho tỷ lệ nợ
xấu cao và tăng nhanh; thanh khoản căng thẳng.
40
Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ nợ xấu (%/tổng dư nợ) của các NHTM năm 2012.
“Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
2.2.3. Tác động truyền dẫn từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại tới
tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Năm 2007, trước sự mở rộng của huy động vốn, tín dụng và đầu tư, nền kinh
tế đạt mức tăng trưởng cao, GDP tăng 8.46% mức cao nhất trong suốt giai đoạn
2004 – 2012. Nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng nóng nhưng Chính phủ quan ngại
khi sử dụng các công cụ can thiệp vào thị trường.
Bước sang năm 2008, đứng trước suy thoái kinh tế thế giới và giá cả thế giới
tăng cao kéo theo lạm phát tăng cao trong nước đặc biệt là ở những tháng đầu năm
và duy trì ở mức 19.89% cao hơn mức 12.63% của năm 2007, NHNN buộc phải
thắt chặt tiền tệ làm huy động vốn giảm, tín dụng, đầu tư khó khăn và suy giảm từ
đó làm GDP năm 2008 chỉ tăng 6.31% so với năm 2007.
Năm 2009 – 2010, kinh tế trong nước có dấu hiệu tiếp tục đi xuống do những
ảnh hưởng từ CSTT và tác động xấu của kinh tế thế giới. Tốc độ tăng GDP cả năm
2009 giảm còn 5.32% - mức thấp nhất trong 10 năm qua. Lạm phát năm 2009 có xu
hướng giảm ở những tháng đầu năm do nhu cầu đầu tư, tiêu dùng yếu và có xu
hướng tăng trở lại từ tháng 4/2009 khi Chính phủ thực hiện các biện pháp kích thích
nền kinh tế và giá cả một số mặt hàng thiết yếu tăng so với cùng kỳ năm trước. Đầu
năm 2010, kinh tế có dấu hiệu phục hồi trước các chính sách kích thích của Chính
phủ. GDP năm 2010 đạt 6.78% so với năm trước.
41
Năm 2011, trước cuộc khủng hoảng nợ công ở Hi Lạp và lan rộng ra các nước
châu Âu, nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề lạm phát tăng 18.58% so với
năm 2010 nền kinh tế bất ổn, GDP chỉ tăng 5.89% so với năm trước
Tăng trưởng GDP và lạm phát
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
2,007
2,008
2,009
2,010
2,011
2,012
GDP
Lạm phát
Biểu đồ 2.8: Tăng trưởng GDP thực (tỷ đồng) và lạm phát (%) tại Việt Nam
2007 – 2012.
4,000,000 3,500,000 3,000,000 2,500,000 2,000,000 1,500,000 1,000,000 500,000 0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Tín dụng
Tổng phương tiện thanh toán
Tổng nguồn vốn huy động
“Nguồn:Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Biểu đồ 2.9: Tăng trưởng các chỉ tiêu tiền tệ (tỷ đồng) tại Việt Nam 2007 - 2011
“Nguồn:Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”
Năm 2012, nền kinh tế vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc so với năm 2011, những
khó khăn tiếp diễn. Mặc dù lượng vốn huy động của NHTM vẫn tăng, thanh khoản
dồi dào tại các NHTM lớn khiến lãi suất liên ngân hàng duy trì ở mức thấp trong
suốt nhiều tháng nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng chậm chạp. Năm 2012, tín dụng
42
chỉ tăng so 5.5% với năm 2011 và tác động làm GDP năm 2012 tăng 5.03% so với
năm 2011, lạm phát được giữ ổn định CPI năm 2012 tăng 9.21% so với năm 2011.
CSTT kích thích kinh tế của năm 2012 đã không có tác động thúc đẩy tăng trưởng
tín dụng, nền kinh tế chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ dù lạm phát đã được kiểm
soát.
Như vậy có thể thấy đối với quốc gia mà thị trường tài chính chưa phát triển,
nền kinh tế dựa vào tín dụng nhiều như Việt Nam, kênh tín dụng được kỳ vọng sẽ
chuyển tải tốt các thông điệp của CSTT tới nền kinh tế. Tại Việt Nam, có thể thấy
trong giai đoạn 2007 – 2012, tín dụng đã góp phần đáng kể vào hoạt động đầu tư,
mở rộng sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy vậy không tránh khỏi những
ảnh hưởng tiêu cực và trái chiều trong một số giai đoạn. Ví dụ như năm 2008,
NHNN thực thi CSTT thắt chặt, huy động vốn giảm nhưng tín dụng vẫn tiếp tục
tăng mạnh làm gia tăng sức nóng của nền kinh tế. Đồng thời, CSTTT thắt chặt quá
đột ngột trong năm 2011 đã làm cho tín dụng bị siết chặt bất ngờ làm lãi suất cho
vay lên cao đồng thời làm hàng loạt ngân hàng nhỏ mất khả năng thanh toán dẫn tới
bất ổn kinh tế vĩ mô, tác động tiêu cực tới nền kinh tế.
2.3. Kiểm định bằng mô hình SVAR
2.3.1 Dữ liệu nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Theo nghiên cứu của Trần Ngọc Thơ và các cộng sự
(2013), sau khi gia nhập WTO và mở cửa nền kinh tế tác động truyền dẫn của
CSTT tới nền kinh tế đã thay đổi. Nền kinh tế dễ tổn thương hơn trước các cú sốc từ
nước ngoài, đồng thời các kênh truyền dẫn đã dần phát huy vai trò của mình hơn là
tác động mờ nhạt của giai đoạn trước WTO. Nhằm tiếp tục nghiên cứu tác động
truyền dẫn của CSTT theo xu hướng này và hạn chế ảnh hưởng của giai đoạn trước
tới việc lượng hoá các cú sốc trong mô hình, bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu Việt
Nam cho giai đoạn từ năm 2007-2012 với dữ liệu theo tháng.
Nguồn dữ liệu của các biến được thu thập từ hệ thống cơ sở dữ liệu các chỉ
tiêu thống kê tài chính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IFS-IMF) từ năm 2007 – 2012
43
ngoại trừ số liệu sản lượng công nghiệp Việt Nam (IP) được thu thập từ tổng cục
thống kê Việt Nam. Riêng với dữ liệu NEER, được tính toán với số liệu thu thập từ
IFS và cơ sở dữ liệu Direction of Trade dựa trên 20 đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam theo thống kê của IFS năm 2010.
Tất cả các biến (ngoại trừ lãi suất) được điều chỉnh mùa vụ và lấy logs.
Bảng 2.2: Tóm tắt các biến nghiên cứu
STT Tên Diễn giải Đơn vị
1 CPI Chỉ số giá tiêu dùng của Việ SA, logs
Nam (năm gốc 2005)
DCREDIT Tín dụng của NHTM SA, logs VND 2
IP Sản lượng sản xuất công SA, logs VND 3
nghiệp của Việt Nam (giá so
sánh 2005)
M2 Cung tiền rộng SA, logs VND 4
NEER Tỷ giá danh nghĩa song VND 5
phương (năm gốc 2005)
USI Lãi suất cơ bản Mỹ % 6
WOP Chỉ số giá dầu Dubai SA, Logs 7
(năm gốc 2005)
44
2.3.2 Các kiểm định ban đầu
Kiểm định tính dừng: Kiểm định Augmented Dickey – Fuller cho thấy ngoại
trừ biến USI (dừng tại mức ý nghĩa 5%), các biến còn lại đều không dừng. Sau khi
lấy sai phân bậc 1, tất cả các biến đều dừng (Kết quả kiểm định tại phụ lục)
Lựa chọn độ trễ tối ưu: Kết quả cho thấy tiêu chuẩn LR, FPE, AIC và HQ
đều cho ra kết quả độ trễ tối ưu là 2. Theo các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng mô
hình SVAR độ trễ của mô hình thường được lựa chọn là từ 4 độ trễ trở lên. Do đó,
tác giả thực hiện kiểm định Portmanchu để kiểm định thêm. Kết quả kiểm định
Portmanchu cho thấy độ trễ lựa chọn là 4. Do có sự khác biệt trong cách lựa chọn
độ trễ tối ưu giữa hai tiêu chí, tác giả sẽ tiến hành kiểm định đặc điểm nghiệm đa
thức để xem xét tính ổn định của mô hình. Kết quả cho thấy nghiệm đa thức của mô
hình SVAR với độ trễ là 4 có kết quả trong khoảng +-1 và mô hình đạt mức ổn
định.
Kết quả kiểm định đặc điểm nghiệm đa thức
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của các bài nghiên cứu khác khi sử
dụng SVAR. Do đó, bài nghiên cứu sẽ sử dụng độ trễ 4 cho các biến trong mô hình.
Mục tiêu của bài nghiên cứu là sử dụng mô hình SVAR để phân tích tác động
của qua lại của các biến trong mô hình trong ngắn hạn, do đó tác giả không tiến
hành kiểm định sự tự tương quan trong dài hạn giữa các biến trong mô hình.
45
Kết quả độ trễ tối ưu từ mô hình VAR
Kết quả kiểm định Portmanteau
2.3.3 Ước lượng các ma trận hệ số
Kết quả ước lượng mô hình cho thấy cấu trúc ma trận được chấp nhận trong mức ý nghĩa thống kê X2 (1) =0.0000399 <3.84 tại mức ý nghĩa 5%. Điều này cho
thấy cấu trúc mô hình SVAR được chấp nhận tại mức ý nghĩa 5% và các kết quả
46
của hàm phân tích phản ứng xung, phân rã phương sai là có thể chấp nhận được.
Tuy vậy, trong một số trường hợp, dấu của các hệ số ít có ý nghĩa thống kê và
không như kỳ vọng (kết quả ma trận hệ số được trình bày tại phụ lục).
2.3.4 Phân tích phản ứng xung
Kết quả phân tích hàm phản ứng xung cho thấy tác động truyền dẫn từ CSTT
của NHNN tới hoạt động tín dụng của các NHTM là yếu và không rõ nét. Hoạt
động tín dụng chịu ảnh hưởng của chính nó nhiều hơn là từ CSTT của NHNN. Kết
quả cho thấy tín dụng có tác động tích cực tới hoạt động sản xuất sau 3 tháng, tuy
nhiên mức độ tác động không mạnh và tín dụng không phải là nguyên nhân gây ra
lạm phát ở Việt Nam.
47
Tác động truyền dẫn từ hoạt động mở rộng tín dụng tới lạm phát của Việt Nam
là không chắc chắn. Lạm phát phản ứng khá mạnh trước sự biến động của giá dầu
và lãi suất nước ngoài, hiệu ứng này tăng dần và đạt đỉnh điểm sau tháng thứ 8 và
duy trì tới tận tháng thứ 12. Đối với tỷ giá, phản ứng của lạm phát mạnh hơn và
nhanh hơn so với các yếu tố khác. Lạm phát phản ứng gần như ngay lập tức sau sự
biến động của tỷ giá, đạt đỉnh điểm ở tháng thứ 4 và duy trì ổn định tới tháng thứ
12.
Trước cú sốc mở rộng tín dụng, sản lượng phản ứng nhanh và mạnh nhưng ít ý
nghĩa thống kê trong 2 tháng đầu tiên. Từ tháng thứ ba trở đi, một cú sốc mở rộng
tín dụng làm tăng sản lượng sản xuất công nghiệp, tác động này không lớn nhưng
có ý nghĩa thống kê rõ ràng và được duy trì ổn định tới tận tháng 12.
48
2.3.5 Phân rã phương sai
Kết quả phân tích phương sai của biến tín dụng cho thấy: Hoạt động tín dụng
không chịu tác động lớn từ CSTT của NHNN, M2 giải thích được 26% sự thay đổi
trong hoạt động tín dụng ở tháng đầu tiên nhưng sau đó giảm dần và ổn định ở mức
khoảng 10% trong suốt những tháng sau. Biến sản lượng công nghiệp giải thích
khoảng 43% sự thay đổi của tín dụng ở tháng đầu tiên 34% ở tháng thứ hai , sau đó
giảm dần và ổn định ở mức 18-20% sau 6 tháng. Các yếu tố khác giải thích không
nhiều cho sự thay đổi của tín dụng. Trong khi đó, biến tín dụng giải thích 29% sự
thay đổi của chính nó ở tháng đầu tiên, sau đó giảm dần khoảng 22-24% sau tháng
thứ 4 và đạt mức độ ổn định khoảng 20% từ tháng thứ 8 trở đi.
49
Đối với biến sản lượng công nghiệp, biến tín dụng giải thích khoảng 26% sự
thay đổi của sản lượng công nghiệp sau tháng thứ 3 và duy trì tác động này ổn định
trong những tháng tiếp theo. Trong khi đó, mức độ giải thích của tín dụng trước sự
thay đổi của lạm phát là rất nhỏ và hầu như không đáng kể, chỉ đạt khoảng 9% sau
10 tháng.
Tóm lại, qua phân tích hàm phản ứng xung và phân rã phương sai, có thể kết
luận rằng: CSTT của NHNN không có tác động rõ ràng tới sự mở rộng hay thu hẹp
của hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng của chính những yếu tố
cấu thành nên nó và chịu tác động đáng kể từ sự thay đổi trong sản lượng công
nghiệp hơn là các chính sách điều hành của NHNN. Tuy vậy, kết quả cũng cho thấy
mở rộng tín dụng được truyền dẫn tích cực, làm tăng sản lượng công nghiệp nhưng
50
không gây ra lạm phát. Lạm phát của Việt Nam chịu tác động bởi các nhân tố bên
ngoài nền kinh tế và tỷ giá hối đoái hơn là tín dụng và cung tiền.
2.4. Đánh giá cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng
Thành tựu đạt được: Qua các phân tích sơ bộ và phân tích định lượng ở trên,
có thể nhận thấy cơ chế truyền dẫn CSTT qua kênh tín dụng trong thời gian 2007 –
2012 đã đạt được một số thành tựu nhất định như sau:
- Cơ chế truyền dẫn CSTT tới nền kinh tế qua kênh tín dụng đã được hình
thành tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2012. Những thay đổi trong CSTT mà cụ
thể là cung tiền M2 đã tác động trực tiếp tới hoạt động huy động vốn và lan truyền
sang hoạt động cấp tín dụng của NHTM từ đó ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng
kinh tế và lạm phát của Việt Nam. CSTT mở rộng làm tăng tốc độ huy động vốn và
CSTT thắt chặt đã có tác dụng làm giảm tốc độ tăng huy động vốn của NHTM. Từ
hoạt động huy động vốn, những tín hiệu của CSTT đã được lan truyền tới hoạt động
tín dụng và có tác dụng nhất định trong việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng
và góp phần phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát của Việt Nam.
- Hoạt động mở rộng tín dụng của các NHTM đã được truyền dẫn tích cực tới
nền kinh tế, làm tăng sản lượng công nghiệp sau khoảng thời gian 3 tháng. Mặc dù
luôn có khoảng cách với mục tiêu đề ra của chính phủ, hoạt động mở rộng tín dụng
đã có tác động làm gia tăng đầu tư, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Mở rộng tín dụng không phải là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt
Nam. Kết quả phân tích hàm phản ứng xung cho thấy: Lạm phát ở Việt Nam chịu
tác động của các nhân tố bên ngoài: giá dầu, tỷ giá và lạm phát trong quá khứ hơn là
mở rộng tín dụng.
Hạn chế: Tuy đạt được những thành tựu nhất định, tác động truyền dẫn của
CSTT tới nền kinh tế còn một số hạn chế như sau:
- Tác động truyền dẫn của CSTT tới GDP và CPI còn trái chiều tại một số thời
điểm. Năm 2008 và năm 2011, NHNN thắt chặt CSTT làm lượng vốn huy động
51
giảm sút nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng với mức cao hơn tốc độ tăng huy động
vốn. Năm 2012, NHNN nới lỏng CSTT, huy động vốn tăng mạnh tuy nhiên hoạt
động tín dụng không có sự khởi sắc, tín dụng cả năm chỉ tăng 5.5% so với năm
trước.
- Giữa mục tiêu tăng trưởng tín dụng do NHNN đề ra và kết quả thực hiện
luôn có khoảng cách nhất định. Điều này cho thấy CSTT của NHNN không có tác
động mạnh tới hoạt động tín dụng. Cơ chế truyền dẫn từ CSTT tới nền kinh tế qua
kênh tín dụng dường như chưa phát huy được hiệu quả như kỳ vọng của các nhà
kinh tế và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tại của kênh tín dụng hơn là các yếu tố
ngoại sinh.
- Mặc dù hoạt động mở rộng tín dụng được truyền dẫn tích cực làm gia tăng
sản lượng sản xuất của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn lớn hơn nhiều
so với tốc độ tăng GDP. Việt Nam là nước có tỷ lệ đầu tư/GDP, tỷ lệ tín dụng/GDP
cao so với các nước trong khu vực. Khoảng cách giữa tỷ lệ tín dụng/GDP với tỷ lệ
đầu tư/ cho thấy một phần vốn tín dụng đã không được đưa vào đầu tư phát triển
kinh tế mà thay vào đó là đầu tư vào những ngành mang tính rủi ro cao gây bất ổn
cho nền kinh tế.
Nguyên nhân của thực trạng này như sau:
Thứ nhất là do nguyên nhân khách quan từ diễn biến phức tạp của kinh tế
thế giới: Giai đoạn 2007 – 2012 Việt Nam mở cửa nền kinh tế và chịu tác động lớn
từ các nhân tố bên ngoài. Đây cũng là giai đoạn kinh tế thế giới có nhiều biến động
khó lường: giá cả thế giới tăng cao, giá vàng, giá dầu diễn biến phức tạp, khủng
hoảng tài chính Mỹ, nợ công châu Âu…tất cả dẫn tới suy thoái kinh tế bao trùm cả
thế giới. Do đó, việc điều hành CSTT Việt Nam trong giai đoạn này gặp không ít
khó khăn, NHNN thường xuyên phải đánh đổi giữa ổn định giá cả và thúc đẩy kinh
tế phát triển.
Thứ hai là do điều hành CSTT của NHNN chưa nhất quán, kịp thời và ổn định:
Luật NHNN 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá trị đồng
52
tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều hành
CSTT thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau
như: mức cung tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo
an toàn hệ thống các TCTD. Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều
khi phải ưu tiên giải quyết các mục tiêu trước mắt nhằm hỗ trợ tăng trưởng để ổn
định kinh tế vĩ mô, nên kết quả chưa đảm bảo được tính bền vững và mục tiêu trung
dài hạn. CSTT không ổn định đã làm suy yếu hiệu quả của các kênh truyền dẫn và
làm giảm tác động tới các biến số vĩ mô của nền kinh tế
Thứ ba là do hiệu quả sử dụng vốn thấp:
NHTM Việt Nam chủ yếu huy động vốn từ nền kinh tế để cấp tín dụng. Trong
khi đó, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp (bình quân giai đoạn 2006 – 2010, ICOR
của Việt Nam đã tăng lên 7.43 so với mức 4.89 của giai đoạn 2000 – 2005), nợ xấu
cao và tăng dần qua các năm gây thất thoát nguồn vốn. Điều này là do hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam còn yếu kém, chất lượng tín dụng chưa được kiểm soát, tín
dụng chưa thực sự đi vào sản xuất. Hệ thống ngân hàng với năng lực quản trị điều
hành yếu kém, đầu tư ngoài ngành dàn trải nên đã xảy ra tình trạng mất thanh
khoản, nợ xấu…gây khó khăn thêm cho nền kinh tế.
Thứ tư là do suy thoái kinh tế thế giới làm nhu cầu vốn của nền kinh tế suy giảm.
Cuối năm 2011, mặc dù nền kinh tế đã thoát ra khỏi thời kỳ bất ổn, lạm phát
đã được kiềm chế, tỷ giá được giữ ổn định, dự trữ ngoại hối được tăng cường và chi
phí vốn đã giảm đáng kể. Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam hết năm 2012 vẫn chưa có
dấu hiệu khởi sắc. Suy thoái kinh tế đã làm sản xuất đình đốn, hàng tồn kho tăng
cao các doanh nghiệp khó khăn và năng lực sản xuất vẫn chưa phục hồi.
Nhu cầu vốn của nền kinh tế yếu, cộng với những quan ngại của hệ thống
NHTM trước tình hình không mấy khởi sắc của các doanh nghiệp trong khi nợ xấu
vẫn đang là gánh nặng của ngân hàng. Do đó, CSTT mở rộng của NHNN không có
tác dụng mạnh trong việc thúc đẩy tín dụng phát triển và góp phần vực dậy nền kinh
tế.
53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận văn đi vào phân tích thực trạng cơ chế truyền dẫn CSTT
qua kênh tín dụng tại Việt Nam từ năm 2007 đến 2012. Luận văn đã phân tích tác
động truyền dẫn từ CSTT tới hoạt động huy động vốn; từ hoạt động huy động vốn tới
hoạt động cho vay của NHTM; và từ hoạt động cho vay tới nền kinh tế (thông qua hai
chỉ tiêu đại diện là GDP và CPI). Đồng thời, luận văn đã sử dụng mô hình SVAR
trong nghiên cứu thực nghiệm về cơ chế truyền dẫn CSTT. Ứng dụng hàm phản ứng
xung và phân rã phương sai đã cho phép luận văn đưa ra những kết luận về thực trạng
của cơ chế truyền dẫn CSTT qua kênh tín dụng trong giai đoạn 2007 – 2012.
Thông qua việc phân tích, luận văn cũng đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế của
cơ chế truyền dẫn CSTT và phân tích nguyên nhân của thực trạng này. Từ đó, làm cơ
sở cho việc đưa ra những giải pháp trong chương 3.
54
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CƠ CHẾ TRUYỀN
DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG TẠI VIỆT
NAM
3.1. Định hướng cho chính sách tiền tệ tại Việt Nam:
Nghị quyết số 112/2006/QĐ-TTG ngày 24 tháng 05 năm 2006 đã đề ra định
hướng cho CSTT tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 là:
- Xây dựng và thực thi có hiệu quả CSTT nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm
soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực hiện
thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường thông qua
sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ CSTT gián tiếp.
- CSTT tạo điều kiện huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài
chính. Kết hợp chặt chẽ CSTT với chính sách tài khoá để định hướng và khuyến
khích công chúng tiết kiệm, đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.
- Điều hành CSTT theo nguyên tắc thận trọng, linh hoạt và hiệu quả trên nền
tảng các công cụ CSTT hiện đại và công nghệ tiên tiến. Mục tiêu bao trùm của CSTT
trong giai đoạn này là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn
hệ thống ngân hàng và góp phần tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
- Xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường. Nâng cao năng lực
của NHNN trong điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái thông qua việc đổi
mới, hoàn thiện các công cụ CSTT, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất đồng
bộ với việc phát triển thị trường tiền tệ phù hợp thông lệ quốc tế và điều kiện thực
tiễn Việt Nam. Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ của CSTT và
giữa việc điều hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. NHNN cần kiểm
soát về cơ bản toàn bộ khối lượng tiền và các luồng tiền trong nền kinh tế.
- Thực hiện điều hành CSTT dựa trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền; đồng
thời xây dựng các điều kiện cần thiết để chuyển dần sang thực hiện điều hành CSTT
55
trên cơ sở điều tiết lãi suất. Tạo lập các điều kiện cần thiết để sau năm 2010 NHNN
chuyển sang điều hành CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu”.
Nghị quyết số 10/2011.QH13 ngày 8 tháng 11 năm 2011 đã đề ra định hướng
cho CSTT tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015 là: “Tiếp tục kiên trì kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị sức mua đồng tiền. Thực hiện chính sách
tiền tệ với mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát để bảo đảm tương
thích giữa tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng dư nợ tín dụng với tốc độ tăng
trưởng kinh tế và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng; dự kiến CPI tăng từ 5-7% vào
năm 2015. Giảm dần tỷ lệ huy động vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, từng bước
giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng so với vốn huy động về mức không quá 90% đến năm 2015,
đẩy mạnh kênh huy động vốn qua thị trường chứng khoán và các định chế tài chính
khác”
Như vậy, trong thời gian tới NHNN sẽ tiếp tục thực thi CSTT chủ động, linh
hoạt với mục tiêu cao nhất là ổn định giá trị đồng tiền đồng thời thực hiện các biện
pháp hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phát triển bền vững, đồng thời tiến tới phát
triển thị trường tài chính lành mạnh, hiệu quả.
3.2. Giải pháp đối với cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín
dụng tại Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, hiệu quả truyền dẫn của CSTT phụ thuộc lớn vào chính
CSTT và sự hoạt động của kênh truyền dẫn trong thị trường tài chính, thị trường tài
sản. Đối với kênh tín dụng tại Việt Nam, nghiên cứu thực trạng đã chỉ ra rằng hiệu
quả của kênh truyền dẫn này tại Việt Nam phụ thuộc lớn vào chính hoạt động tín
dụng. Do đó, bài nghiên cứu sẽ tập trung đưa ra các giải pháp gồm ba nhóm chính
nhằm nâng cao hiệu quả điều hành CSTT, phát triển thị trường tài chính và nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng tại Việt Nam.
56
3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ của NHNN tại
Việt Nam
3.2.3.1. Tạo môi trường thuận lợi cho điều hành chính sách tiền tệ
Một CSTT linh hoạt, ổn định và rõ ràng có tác động rất lớn trong truyền dẫn
CSTT. Điều này đòi hỏi NHTW phải có một vị trí độc lập trong hoạt động của mình.
Hiện nay, luật số 46/QH 2010 quy định: “Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ
tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu
CSTT quốc gia theo quy định của Chính phủ”. Điều này cho thấy mức độ độc lập của
NHNN bị hạn chế. Nâng cao tính độc lập của NHNN là điều cần thiết, đảm bảo
NHNN được chủ động quyết định sử dụng các công cụ của CSTT một cách linh hoạt,
mềm dẻo để điều chỉnh thị trường theo những mục tiêu dài hạn và ổn định đã đặt ra.
Hơn nữa, sự độc lập giúp NHNN hạn chế sự can thiệp của các nhà chính trị đến các
quyết sách của nền kinh tế nhằm điều chỉnh kinh tế vĩ mô theo những mục tiêu trước
mắt, NHNN cũng sẽ có quyền chủ động hơn trong hoạch định CSTT cho một giai
đoạn nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể đã vạch ra.
Đồng thời, CSTT cần hướng tới giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát ở mức độ hợp lý, giảm thiểu tác động từ các yếu tố bên ngoài nền kinh tế. Để
làm được điều này, NHNN cần hướng tới xây dựng chính sách lạm phát mục tiêu và
tiến đến thực hiện CSTT theo lạm phát mục tiêu; tự do hoá tỷ giá với lộ trình phù hợp
với sự phát triển của thị trường ngoại hối, mức độ tự do hoá thị trường tài chính và
khuôn khổ CSTT lựa chọn. CSTT hướng theo lạm phát mục tiêu đang nổi lên trong
tranh luận của các nhà kinh tế, tuy nhiên để thực hiện được chính sách này đòi hỏi
Việt Nam phải có một số điều kiện tiền đề và thời gian chuyển đổi nhất định.
3.2.3.2. NHNN cần hoàn thiện, phát triển các công cụ của chính sách tiền tệ
Để đảm bảo cơ chế truyền tải CSTT nói chung và qua kênh tín dụng nói riêng
được thông suốt, hoàn thiện các công cụ CSTT là rất quan trọng, vì đây chính là khâu
57
đầu của cơ chế truyền tải. Sau đây bài nghiên cứu xin đưa ra các kiến nghị về việc
hoàn thiện các công cụ CSTT theo hướng sau:
Công cụ lãi suất: NHNN cần xây dựng được lãi suất cơ bản trở thành lãi suất
chuẩn mực, lãi suất định hướng, cơ chế tác động truyền dẫn của các loại lãi suất
điều hành của NHNN như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, OMO, tín
phiếu… sẽ tác động hiệu quả đến cung cầu vốn và dự trữ của các TCTD, qua đó tác
động đến lãi suất huy động vốn và cho vay của TCTD đối với khách hàng. Việc xác
định lãi suất không chỉ căn cứ vào biến số CPI mà còn phải căn cứ vào cung cầu
vốn thực tế trên thị trường. Do vậy, tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để
đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo qui luật cung cầu, phân bổ
nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với
những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là
cần thiết, và từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị
trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được
tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó phải
xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm
phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân
bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định
hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một
việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
(i) Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo,
như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất Thị
trường Mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay
của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp
lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
(ii) Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay
làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của
58
lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì
mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Đồng thời trong thời gian này, NHNN cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với
NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua
tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Tuy nhiên, về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì
việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các
nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.
Tỷ giá hối đoái: hiệu quả của CSTT sẽ được tăng cường để ngăn chặn những
bất ổn vĩ mô khi mở cửa nền kinh tế nếu tỷ giá hối đoái được định hướng theo nguyên
tắc thị trường, theo đó các giao dịch của các tài khoản vốn sẽ không ảnh hưởng trực
tiếp tới các điều kiện tiền tệ. Trong trường hợp tự do hoá các giao dịch vốn, nếu vẫn
duy trì một chế độ tỷ giá cố định hoặc thiếu linh hoạt, NHNN sẽ không thể sử dụng
CSTT để duy trì sự ổn định giá trong nước vì khi đó cung tiền phải mở rộng để ổn
định tỷ giá làm lạm phát gia tăng. Do vậy đối với CSTT, cần:
(i) Nghiên cứu cơ chế điều hành tỷ giá mới với một số nội dung dự kiến là: Mở
rộng biên độ tỷ giá với cả 2 chiều và tăng tính linh hoạt của tỷ giá, điều này về khuyến
khích các thành viên tham gia thị trường phát triển công cụ tự bảo hiểm và quản lý rủi
ro tỷ giá
(ii) Cải tiến công tác dự báo luồng ngoại tệ vào ra để thực hiện việc cảnh báo
sớm tình trạng mất cân đối tạm thời về ngoại tệ nhằm sử dụng tốt hơn. Dự trữ ngoại
hối trong việc bình ổn tỷ giá và đảm bảo cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng
theo cam kết của Chính phủ. Đây là giải pháp quan trọng khi thực hiện tự do hóa với
các giao dịch vốn.
Dự trữ bắt buộc: công cụ này có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và
cung ứng tín dụng cho nên kinh tế. Do đó, NHNN cần có chính sách DTBB tạo ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng, phù hợp với
59
diễn biến thị trường tiền tệ và đặc điểm của các TCTD. Đồng thời, tăng cường kiểm
tra việc chấp hành duy trì tỷ lệ DTBB của các TCTD nhằm đảm bảo an toàn hệ thống.
Đối với thị trường Mở: đây là công cụ hữu hiệu, linh hoạt và được sử dụng
nhiều ở các nước phát triển. Tại Việt Nam trong năm 2012 NHNN sử dụng hiệu quả
công cụ thị trường Mở trong điều tiết lượng cung tiền cho toàn thị trường. Khi nhu
cầu thanh khoản có dấu hiệu căng thẳng hoặc xuất hiện các thông tin nhạy cảm ảnh
hưởng tới thị trường, NHNN lập tức gia tăng lượng tiền cung ứng trên Thị trường Mở.
Nhờ đó đã đáp ứng được nhu cầu vốn, thị trường ổn định và không gây ra khủng
hoảng hệ thống. Đồng thời khi thanh khoản dồi dào, NHNN đã phát hành tín phiếu
hút tiền về tránh xảy ra các tình trạng đầu cơ ngoại tệ hoặc đầu tư vốn bất hợp pháp
làm rối loạn hệ thống tài chính. Để có thể phát huy vai trò của công cụ này, NHNN
cần theo dõi sát sao tình hình vốn của các TCTD để có động thái điều chỉnh lượng
cung cầu vốn cho thích hợp. NHNN có thể tạo đa dạng hoá các hàng hoá cho thị
trường, giúp các NHTM có thể đa dạng hoá các hình thức đầu tư của mình nhưng vẫn
đảm bảo có thể đem bán lại cho NHNN khi cần thanh khoản ngắn hạn.
Đối với các công cụ kiểm soát trực tiếp: Đây là những công cụ mang tính
mệnh lệnh hành chính của NHNN. Mặc dù có tác dụng nhanh và có hiệu quả nhưng
đồng thời nếu không sử dụng thích hợp sẽ gây sốc cho nền kinh tế, làm mất ổn định
của CSTT. Do đó, NHNN cần cân nhắc kỹ khi sử dụng các công cụ này.
3.2.3.3. Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN
Hoạch định mục tiêu CSTT cần nhất quán và kiên định chuyển từ CSTT đa mục
tiêu sang CSTT theo đuổi một mục tiêu duy nhất trong từng giai đoạn cụ thể của nền
kinh tế. Tại Luật 46/QH2010, NHNN đã xác định mục tiêu cuối cùng cùa CSTT tại
Việt Nam là ổn định giá cả. Do đó, NHNN cần nhất quán quan điểm ưu tiên kiểm soát
lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng bền vững, thúc đẩy quá trình tái cơ cấu toàn diện nền
kinh tế.
Đồng thời để nâng cao hiệu quả điều hành CSTT, hiểu rõ về CSTT và cơ chế
truyền dẫn của nó tới nền kinh tế là rất quan trọng. Do đó, NHNN cần đào tạo cán bộ,
60
nâng cao chất lượng số liệu và năng lực phân tích dự báo sẽ tạo cơ sở để xác định và
lựa chọn hệ thống mục tiêu cũng như cơ chế truyền tải chính sách thị trường một cách
rõ ràng. Với thực trạng công tác phân tích và dự báo hiện nay còn quá đơn giản, chủ
yếu theo cảm tính thiếu sự phân tích định lượng nên khó có thể xác định được các
mục tiêu của CSTT một cách chính xác và có được cơ chế truyền tải hiệu quả. Do
vây, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các giải pháp nhằm nghiên cứu xây dựng mô
hình tính toán, dự báo các chỉ tiêu lạm phát, tổng phương tiện thanh toán và tăng
trưởng tín dụng một cách đồng bộ. Trong đó, cần nghiên cứu định lượng mối quan hệ
và tính toán tỷ lệ thích hợp giữa các chỉ tiêu: lạm phát và tăng trưởng kinh tế; tổng
phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng…
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm phát triển thị trường tài chính
Đối với Việt Nam, thị trường tài chính chưa phát triển, hệ thống tài chính chủ
yếu dựa vào ngân hàng. Điều này dẫn tới sự phụ thuộc lớn vào hệ thống NHTM, đồng
thời, gây cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Cộng với năng lực quản trị
điều hành yếu kém, những diễn biến phức tạp trên thị trường tiền tệ thời gian qua làm
cho một số ngân hàng nhỏ rơi vào mất khả năng thanh khoản, làm rối loạn hệ thống
tài chính, ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế. Để phát triển thị trường tài chính vững
mạnh, hiệu quả cần thực hiện các biện pháp sau:
3.2.3.1. Tái cơ cấu hệ thống các TCTD đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả
Để đảm bảo cho hệ thống TCTD phát triển an toàn hiệu quả, phải tiến hành tái
cơ cấu hệ thống quản trị các TCTD và hoàn thiện thể chế quản lý hoạt động các
TCTD. Vì vậy, năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành đề án cơ cấu lại hệ thống
TCTD giai đoạn 2011 – 2015 nhằm tái cơ cấu lại chức năng các NHTM theo hướng:
“hiện đại, hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về
sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công
nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt
động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của
nền kinh tế”. Thực hiện kiên trì và hiệu quả những mục tiêu và giải pháp của đề án
61
này sẽ giúp hệ thống các TCTD của Việt Nam hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu
quả, từ đó các chính sách điều hành của NHNN sẽ được truyền dẫn hiệu quả tới nền
kinh tế.
3.2.3.2. Đa dạng hoá các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính
Thị trường tài chính nước ta hiện nay còn kém phát triển với sự tham gia chủ yếu
của các NHTM và sự chi phối của một số NHTM Nhà Nước lớn. Tình trạng này đã
gây ra cạnh tranh cao trong lĩnh vực ngân hàng, đồng thời nguồn vốn đầu tư của xã
hội chủ yếu dựa vào ngân hàng đã gây áp lực cho cả hệ thống. Do đó, cần phát triển
định chế tài chính tín dụng phi ngân hàng để tập hợp nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
Đồng thời xây dựng ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ đầu tư và chức năng
chính là tham gia thị trường vốn trung dài hạn. Đối với thị trường trái phiếu cần mở
rộng cho nhiều thành viên tham gia đấu thầu. Đối với Thị trường chứng khoán, cần
khuyến khích công ty lớn làm ăn có hiệu quả phát hành và niêm yết trái phiếu.
3.2.3.3. Phát triển thị trường vốn tạo sự gắn kết giữa thị trường tiền tệ, thị
trường vốn và thị trường chứng khoán.
Thị trường vốn phát triển và liên kết tốt với thị trường chứng khoán sẽ giúp đa
dạng hoá các kênh đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Thị trường vốn (đặc biệt là thị trường trái
phiếu) phát triển sẽ giúp hình thành nên đường cong lãi suất chuẩn, góp phần định giá
các tài sản tài chính và dự báo các lãi suất cho tương lai, giải quyết nhu cầu vốn trung,
dài hạn của nền kinh tế từ đó giảm áp lực với thị trường tín dụng. Thị trường chứng
khoán phát triển sẽ giúp phản ảnh được sức khoẻ của nền kinh tế, luân chuyển vốn
giữa các thị trường được thuận tiện. Từ đó, CSTT sẽ được truyền tải qua kênh tài sản
và NHNN sẽ dễ dàng điểu chỉnh các mục tiêu của mình cho phù hợp với nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò trung gian trong huy động và cho vay, các thị
trường cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển vốn một cách hữu hiệu từ các nhà đầu tư
đến các doanh nghiệp thông qua phát hành và kinh doanh chứng khoán. Đồng thời thị
trường tiền tệ chỉ có thể định giá được hữu hiệu nếu thị trường vốn vận hành tốt và
62
thuận lợi cho các chứng khoán không chứa đựng rủi ro. Thị trường tiền tệ và thị
trường chứng khoán phát triển sẽ như hai bình thông nhau trong sự luân chuyển vốn.
3.2.3.4. Tăng cường công tác thanh tra giám sát thị trường tài chính
Phải xây dựng một môi trường pháp lý hiệu quả, có hiệu lực đảm bảo cho các
NHTM cạnh tranh bình đẳng và thực hiện tái cơ cấu các NHTM Nhà nước và
NHTMCP. NHNN với tư cách là một cơ quan quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng
cần đảm bảo quản lý khu vực ngân hàng tránh không để các ngân hàng chấp nhận
nhiều rủi ro đến mức thành rủi ro hệ thống. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng sẽ
ngày càng gia tăng khi khả năng tạo cạnh tranh được cải thiện, khi các các luồng vốn
qua biên giới gia tăng và các ngân hàng có thêm vốn mới để bổ trợ tăng hoạt động cho
vay. Vì vậy cần phải có những biện pháp mạnh mẽ trong công tác giám sát hoạt động
của các TCTD phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, cơ cấu của hệ thống tài chính
của Việt Nam và mức độ vận dụng các quy luật thị trường để hỗ trợ cho hoạt động
quản lý rủi ro trong các Ngân hàng.
Hoạt động thanh tra, giám sát thị trường tài chính của các cơ quan quản lý cần
phải được tăng cường cả về lực lượng cán bộ và thẩm quyền quyết định, cũng như các
chi phí cho hoạt động thanh tra giám sát này. Đồng thời cũng cần khẩn trương hoàn
chỉnh hệ thống thông tin thống kê về hoạt động của thị trường vốn, làm cơ sở cho việc
xây dựng các cơ chế chính sách quản lý, giám sát các hoạt động của thị trường tài
chính, nhằm phân tích thị trường tài chính ổn định bền vững, tận dụng hiệu quả nhất
nguồn vốn đầu tư gián tiếp.
3.2.3.5. Phát triền thị trường tín dụng chính thức
Khuyến khích các thành phần tham gia vào thị trường tín dụng, đặc biệt là các
NHTM nước ngoài, các định chế tài chính trung gian nhằm cung cấp thêm nhiều sản
phẩm tín dụng, tăng cạnh tranh giữa các NHTM giảm sức mạnh độc quyền của các
NHTM lớn. Đồng thời, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường tín
dụng chính thức, tránh các hình thức tín dụng đen. Từ đó, góp phần làm phát triển thị
63
trường tín dụng và mở rộng quy mô thị trường chính thức, các tác động của CSTT sẽ
thông qua thị trường này truyền dẫn tới nền kinh tế.
Đồng thời, cần tăng cường công tác quản lý, thanh tra giám sát các NHTM nhằm
đảo bảo các NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro. Thực hiện các biện
pháp hỗ trợ an toàn tín dụng như tăng cường chất lượng tín dụng của trung tâm thông
tin tín dụng, đánh giá tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, xây dựng hệ thống cảnh
báo sớm. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và thiết lập chuẩn mực an toàn với
thị trường tín dụng. Một hệ thống các quy định quản lý, giám sát thận trọng các hoạt
động các ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hệ thống tài chính nói
chung và thị trường tín dụng nói riêng. Hiện nay hệ thống giám sát hoạt động tín dụng
của NHNN vẫn dựa trên sự tuân thủ các luật lệ đã đặt ra tức là xem xét TCTD chấp
hành đúng pháp luật, quy trình về chế độ báo cáo hay không. Thực tế việc này không
đáp ứng được yêu cầu kiếm soát sự gia tăng tín dụng một cách thiếu an toàn ở nhiều
TCTD. Sự thiếu an toàn và chất lượng tín dụng thấp đang là điều kiện đáng lo ngại
hiện nay của nhiều TCTD. Nguyên nhân của nó là do sự yếu kém về khả năng kinh
doanh tín dụng của một số TCTD và đồng thời do hệ thống giám sát và các quy định
về an toàn của NHNN còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Do đó
cần phải tăng cường chất lượng hoạt động giám sát, đảm bảo an toàn nâng cao chất
lượng tín dụng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
Qua kênh tín dụng, hiệu quả truyền dẫn CSTT tới mục tiêu kinh tế vĩ mô phụ
thuộc vào chất lượng tín dụng. Do vậy nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng là rất quan trọng trong việc tăng hiệu quả truyền dẫn của kênh tín dụng.
3.2.3.1. Đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các hình thức tín dụng ngày càng được
mở rộng và phát triển. Các NHTM hiện nay mở rộng các hình thức cho vay phổ biến
như cho vay vốn cố định, vốn lưu động, cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng thì cần
phát triển cho vay trả góp, cho vay đồng tài trợ, cho thuê tài chính, tín dụng thế chấp
64
và tín chấp…Đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng giúp NHTM có thể đa dạng sản
phẩm, thu hút nhiều khách hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, giảm thiểu hoạt động
cho vay truyền thống vốn nhiều rủi ro và có thể liên kết toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp với hoạt động ngân hàng để có thể tài trợ hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cho
NHTM.
3.2.3.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng vay vốn.
Khách hàng là người sử dụng và chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay, là người
quyết định hiệu quả khoản vay. Khách hàng là yếu tố quyết định sự thành bại của
ngân hàng. Chính vì vậy mà việc thẩm định khách hàng trước khi quyết định cho vay
là vô cùng quan trọng.
Thẩm định khách hàng để thấy được khả năng tài chính hiện tại và tương lai, khả
năng hoàn trả khoản vay của khách hàng. Khi thẩm định khách hàng vay vốn ngân
hàng phải: tìm hiểu kỹ tư cách pháp nhân, phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của
đơn vị vay vốn thông qua báo cáo kết quả kinh doanh, phân tích tình hình tài chính,
xem xét thừa vốn hay thiếu vốn, việc sử dụng vốn như thế nào… để từ đó ra quyết
định đúng đắn với những khoản cho vay của ngân hàng. Ngân hàng không nên vì mục
đích thu hút nhiều khách hàng mà giảm bớt các điều kiện để cấp tín dụng cho khách
hàng, việc cấp tín dụng của ngân hàng luôn phải đảm bảo an toàn và hiệu quả.
3.2.3.3. Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng
Phân tích thông tin tín dụng giúp ngân hàng lựa chọn khách hàng một cách tốt
nhất. Ngân hàng sẽ hạn chế được rủi ro, thu hồi vốn vay đầy đủ từ đó góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả tín dụng. Những khách hàng được đánh giá là có uy tín
tốt, hiệu quả kinh doanh cao… sẽ được ngân hàng lựa chọn. Trong cơ chế hiện nay
khi sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trở lên gay gắt thì ngân hàng không thể chờ
khách hàng đến với mình mà phải chủ động tìm hiểu khách hàng để biết được khách
hàng nào làm ăn có hiệu quả từ đó tìm cách tiếp cận.
65
3.2.3.4. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng
Các khoản tín dụng phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, thu hồi vốn và lãi đúng hạn.
Do đó tăng cường kiểm tra thanh tra là điều cần thiết để đảm bảo chất lượng khoản
vay, giúp ngân hàng tránh được những rủi ro do hoạt động tín dụng mang lại.Vậy các
ngân hàng phải đề ra các tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng khoản vay. Trên cơ sở đó
bộ phận kiểm tra giám sát tiến hành đánh giá khoản vay, xếp hạng khoản vay một
cách đều đặn từ đó có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay bị xếp hạng thấp.
Bên cạnh đó, các NHTM nên thành lập bộ phận kiểm tra giám sát tín dụng với
mục đích lựa chọn phương án khả thi, có hiệu quả kinh tế cao, khả năng thu hồi nợ
lớn nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Đồng thời công tác kiểm soát nội bộ cũng cần
được tăng cường nhằm thanh lọc bộ phận cán bộ tín dụng thoái hoá biến chất gây thất
thoát tài sản của ngân hàng.
3.2.3.5. Chú trọng công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì vậy để nâng cao
chất lượng hoạt động tín dụng thì công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro phải được
quan tâm. Các NHTM có thể áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro:
- Xác định phương thức cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay phù hợp với
từng đối tượng khách hàng, từng thời kỳ khác nhau.
- Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng, tư cách đạo đức của người cho
vay.
- Khi cho vay, ngân hàng nên yêu cầu tài sản thế chấp của khách hàng. Nếu
có rủi ro không trả được nợ thì ngân hàng có thể thu hồi vốn bằng cách phát mại tài
sản. Song đây không phải là một biện pháp hiệu quả cao vì thế nếu cứ yêu cầu
khách hàng có đủ tài sản thế chấp thì đối với khách hàng là doanh nghiệp tư nhân,
hộ sản xuất có quy mô tài sản nhỏ sẽ không vay được. Như vậy khách hàng thì thiếu
vốn còn ngân hàng thì ứ đọng vốn, kênh tín dụng ngân hàng có thể bị tắc nghẽn. Do
đó ngân hàng phải phân tích khả năng trả nợ của khách hàng, tư cách đạo đức của
66
người vay để xem xét cho vay. Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng là xem xét
cho vay. Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng là xem xét các nguồn thu trong
tương lai của khách hàng khi chuẩn bị đến hạn thanh toán hợp đồng vì các nguồn
thu là nguồn trả nợ chính của khách hàng.
- Kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay bắt đầu từ khi phát tiền vay cho tới khi
khoản vay được hoàn trả nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện theo đúng thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng. Kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay trên thực tế có đúng
với hợp đồng tín dụng không. Kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, phương án sản xuất
kinh doanh của khách hàng. Công tác kiểm tra này giúp cán bộ tín dụng phát hiện ra
những vướng mắc trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng từ đó có biện
pháp xử lý kịp thời.
- Đôn đốc việc thu hồi nợ gốc và lãi phù hợp với thực trạng khoản vay: Với
khách hàng có vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong
kinh doanh thì ngân hàng phải tìm mọi cách để thu hồi nợ. Với nợ quá hạn, ngân
hàng phải thường xuyên đôn đốc nhắc nhở, yêu cầu khách hàng ký nhận nợ và hẹn
thời gian trả nợ cụ thể. Đồng thời tiến hành rà soát, phân loại nợ quá hạn theo
nguyên nhân từ đó đưa ra biện pháp xử lý kịp thời. Với khoản nợ khó đòi, sau khi
đã nhắc nhở nhiều lần bằng văn bản mà khách hàng không trả nợ thì ngân hàng phải
kết hợp với cơ quan chức năng đề nghị hỗ trợ trong việc thu hồi nợ.
- Lập quỹ dự phòng rủi ro, tạo sự yên tâm với những rủi ro có thể xảy ra: Thực
hiện nghiêm túc việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho phù hợp với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng có thể tham gia bảo hiểm tín dụng vì
khi rủi ro xảy ra tổ chức bảo hiểm tín dụng sẽ có nhiệm vụ bồi thường cho ngân
hàng, bên cạnh đó tổ chức bảo hiểm tín dụng có thể phối hợp với các cơ quan chức
năng để có biện pháp đề phòng và ngăn chặn những tổn thất lớn xảy ra.
- Chủ động giải quyết nợ có vấn đề: Trong công tác thu nợ ngân hàng cần chú
ý những dấu hiệu về khoản vay có vấn đề từ đó tìm ra biện pháp ngăn chặn kịp thời
những rủi ro có thể xảy ra chứ không nên để nó phát sinh rồi mới giải quyết. Khi
67
phát hiện những dấu hiệu có thể dẫn đến tới sự đổ vỡ hay phá sản của khách hàng
ngân hàng phải có những biện pháp ngăn chặn kịp thời như mời chuyên gia về tư
vấn cho doanh nghiệp hoặc ngân hàng có thể cơ cấu lại những khoản nợ, nhận thêm
tài sản đảm bảo, bảo lãnh…Tuỳ vào đối tượng khách hàng khác nhau mà ngân hàng
có thể áp dụng các hình thức xử lý khác nhau. Đối với khách hàng có dấu hiệu dối
trá, lừa đảo… thì ngân hàng nên áp dụng biện pháp thanh lý. Còn đối với khách
hàng thành thật và có mong muốn trả nợ thì ngân hàng nên áp dụng biện pháp khai
thác. Các ngân hàng nên thành lập bộ phận xử lý nợ có vấn đề, bộ phận này gồm
những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm để
thu thập thông tin một cách cập nhật.
3.2.3.6. Đào tạo cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao.
Nhân tố con người là nhân tố quyết định mọi hoạt động kinh tế xã hội. Hoạt
động tín dụng ngân hàng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro từ phía khách hàng
hoặc có thể từ phía cán bộ tín dụng. Do đó đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng ngoài
trình độ chuyên môn giỏi, sự năng động sáng tạo thì một phẩm chất không thể thiếu
với cán bộ là phải có đạo đức nghề nghiệp. Có như vậy hoạt động kinh doanh ngân
hàng mới có thể diễn ra hiệu quả, hạn chế rủi ro. Cán bộ tín dụng phải được thường
xuyên tiếp thu những vấn đề mới của nền kinh tế hiện đại đồng thời được đào tạo kỹ
năng cơ bản như kỹ năng phân tích đánh giá, kỹ năng điều tra… Đồng thời các ngân
hàng nên có chế độ thưởng phạt nghiêm minh để cán bộ tín dụng làm việc với tinh
thần và trách nhiệm cao.
3.2.3.7. Đổi mới quy trình cấp và quản lý tín dụng.
Quy trình quản lý tín dụng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng. Việc cán bộ tín dụng đảm nhận toàn bộ quy trình tín dụng không
tránh khỏi những vướng mắc trong thực thi nghiệp vụ và kết quả đôi khi không mang
tính khách quan. Do đó các NHTM nên thành lập các bộ phận chuyên môn hoá trong
quản lý tín dụng đồng thời phải có sự kết hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Trong
ngân hàng nên thành lập ra các bộ phận sau:
68
- Bộ phận kinh doanh: Chuyên nghiên cứu về thị trường, tìm ra phương hướng
kinh doanh phù hợp với nhu cầu của khách hàng; tiếp thị những sản phẩm của ngân
hàng tới khách hàng; hỗ trợ khách hàng hoàn tất thủ tục hồ sơ vay và thực hiện
kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng đúng như cam kết.
- Bộ phận pháp chế: Xem xét tính pháp lý của toàn bộ hồ sơ tín dụng và quá
trình cấp tín dụng; ngoài ra bộ phận này có nhiệm vụ tiếp cận với cơ quan pháp lý
để giải quyết nợ qua thanh lý tài sản khi khách hàng có hành vi chiếm đoạt khoản
vay.
- Bộ phận phân tích tín dụng: Phân tích xem xét, đánh giá khả năng chi trả của
khách hàng qua các báo cáo tài chính, phương án sản xuất kinh doanh, thông tin bên
ngoài về khách hàng. Đây là khâu quan trọng trong quá trình cấp tín dụng của
NHTM. Do đó, bộ phận phân tích tín dụng phải được tổ chức độc lập với bộ phận
kinh doanh để thực hiện phân tích khách quan và chính xác đảm bảo an toàn cho
hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tùy vào giá trị, độ phức tạp và mức độ rủi ro của
hồ sơ, ngân hàng có thể quy định cán bộ thẩm định là nhân viên/chuyên viên hoặc
phải chuyển về các trung tâm phân tích tín dụng để thẩm định.
- Bộ phận phê duyệt hồ sơ tín dụng: Sau khi hồ sơ đã được phân tích, nhân
viên kinh doanh và nhân viên phân tích cùng trình hồ sơ cho bộ phận phê duyệt.
Ngân hàng phải quy định rõ thẩm quyền phê duyệt hồ sơ hồ sơ tín dụng của cán bộ
phê duyệt, ban tín dụng, ủy ban tín dụng, hội đồng quản trị…
- Bộ phận hỗ trợ tín dụng: Xem xét tính pháp lý của thủ tục vay và thiết lập
hợp đồng tín dụng, phối hợp với kế toán và ngân quỹ để giải ngân đúng quy định.
- Bộ phận kiểm tra, giám sát: Xem xét hợp đồng tín dụng có được thực hiện
đúng không để từ đó phát hiện ra những sai phạm và có biện pháp xử lý kịp thời
nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.Tuy nhiên nếu không phối hợp nhịp nhàng
giữa các bộ phận với nhau sẽ gây lãng phí thời gian trong việc cấp tín dụng cho
khách hàng và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của khách hàng.Ngoài ra các
NHTM cần đầu tư vào trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và hiện đại hoá công
69
nghệ ngân hàng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động ngân hàng để khách
hàng có thể hiểu rõ về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cung cấp từ đó thu hút
được nhiều khách hàng hơn. Đồng thời các ngân hàng cũng phải chú trọng vào công
tác marketting nhằm thu hút những khách hàng có chất lượng tốt.
- Bộ phận xử lý nợ: Rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, do đó các NHTM cần thành lập bộ phận xử lý nợ
riêng để xử lý các khoản nợ quá hạn phát sinh. Bộ phận này sẽ kết hợp cùng bộ
phận kinh doanh thực hiện các biện pháp để xử lý các khoản nợ khó đòi, đảm bảo
lợi ích tối đa cho ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng cơ chế truyền dẫn của CSTT qua các kênh trong
thời gian từ 2007 – 2012, từ đó luận văn đề xuất một hệ thống giải pháp mang tính
đồng bộ cho nền kinh tế Việt Nam. Các giải pháp này bao gồm ba nhóm chính: Nhóm
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều hành CSTT tại Việt Nam, nhóm giải pháp
nhằm phát triển thị trường tài chính và nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng tại Việt Nam. Thực hiện tốt các giải pháp này, cơ chế truyền dẫn
từ CSTT tới nền kinh tế sẽ hoàn thiện, các hoạt động điều hành CSTT của NHNN sẽ
phát huy hiệu lực một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính xác hơn.
70
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, CSTT đã trở thành một trong những công
cụ quan trọng của Nhà Nước để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy vậy, cùng với
sự hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đầy biến động, CSTT của Việt Nam đang
đứng trước nhiều thách thức to lớn trong việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, giảm
thiểu tác động của kinh tế thế giới đồng thời phát triển nền kinh tế trong nước. Do đó,
hiểu rõ về cơ chế truyền dẫn của CSTT, kênh truyền dẫn của CSTT, thời gian tác
động, mức độ tác động của CSTT cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả truyền
dẫn của CSTT là một nhu cầu cần thiết trong điều hành CSTT ở Việt Nam.
Trên cơ sở vận dụng các mô hình nghiên cứu, luận văn đã nêu ra các cơ sở lý
luận về cơ chế truyền dẫn CSTT và các yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế truyền dẫn
CSTT. Luận văn đã đi sâu phân tích thực trạng, kết quả đạt được và những hạn chế
của cơ chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam qua kênh tín dụng từ năm 2007 đến năm
2012 cũng như nguyên nhân của thực trạng này. Từ đó, luận văn đưa ra các giải pháp
đối với cơ chế truyền dẫn CSTT qua kênh tín dụng tại Việt Nam, trong đó chú trọng
tới các biện pháp nâng cao hiệu quả điều hành CSTT và nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng của các NHTM.
Mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thiện luận văn nhưng đây là đề tài nghiên cứu khá
mới mẻ và phức tạp nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
sự góp ý của các Thầy, Cô giáo và bạn đọc để giúp luận văn hoàn thiện hơn.
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Cục tin học và thống kê tài chính, Báo cáo kinh tế tài chính Việt Nam 2011,
Hà Nội, năm 2011.
2. Chu Khánh Lân, 2013. Nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn CSTT qua
kênh tín dụng tại Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, số 5, trang 17 - 23.
3. Dương Thị Bình Minh và Sử Đình Thành, 2004. Lý thuyết tài chính tiền tệ.
TP Hồ Chí Minh: NXB Thống Kê.
4. Đinh Thị Thu Hồng, 2013. Hiệu quả của CSTT thông qua kênh truyền dẫn
lãi suất. Tạp chí phát triển và hội nhập, số 12 (22), trang 39 – 47.
5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2007, Hà Nội
năm 2007.
6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2008, Hà Nội
năm 2008.
7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2009, Hà Nội
năm 2009.
8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2010, Hà Nội
năm 2010.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2011, Hà Nội
năm 2011.
10. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Đề án cơ cấu lại hệ thống Tổ chức Tín
dụng giai đoạn 2011 – 2015, Hà Nội năm 2012.
11. Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Thống kê tiền tệ ngân hàng.
http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vim/vipages_trangchu/tkttnh/tpttt/tienguitaitc
td?_adf.ctrl-state=gk2ryo4in_4&_afrLoop=2227278165300. [Ngày truy cập: 24
tháng 7 năm 2013].
72
12. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà
Nước Việt Nam, Hà Nội năm 2010.
13. Tổng Cục Thống Kê. Thông tin thống kê hàng tháng.
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621. [Ngày truy cập: 24 tháng 7 năm
2013].
14. Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 10/2011.QH13, TP Hồ Chí Minh năm
2011.
15. Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 112/2006/QĐ-TTG, TP Hồ Chí Minh
năm 2006.
16. Trần Ngọc Thơ. Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam. TP Hồ
Chí Minh năm 2013.
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
17. Bernanke, Ben and Mark Gertler, 1995. Inside the Black Box: The Credit
Channel of Monetary Policy Transmission. Journal of Economic Perspectives 9 (4),
27-48.
18. Federic S. Mishkin, 1996. The channel of Monetary Transmission
Mechanism: Lessons for monetary policy. National Bureau of economic research
working paper series 5464.
19. Federic S. Mishkin, 2004. Economics of Money, Banking and Financial
Markets. 7th edition, Addison Wesley, ISBN-10: 0321062763.
20. IMF. Data and stastitic. Available at:
[Accessed 20 June 2013].
21. James Tobin, 1969. A General Equilibrium Approach to Monetary Theory.
Journal of Money, Credit and Banking, Vol. 1, No. 1 (Feb., 1969), pp. 15-29.
73
22. Le Viet Hung and Wade D. Pfau, 2008. VAR Analysis of the Monetary
Transmission Mechanism in Vietnam. Applied Econometrics and International
Development. Vol.9.No.1 Available at SSRN: http://ssrn.com/abstract=1257854.
23. Leon Berkelmans, 2006. Credit and monetary policy: An Australian SVAR.
Reserve Bank of Australia Research Discussion Paper No 2005 – 06.
24. Mala Raghavan and Param Silvapulle, 2007. Structural VAR Approach to
Malaysian Monetary Policy Framework: Evidence from the Pre- and Post-Asian
Crisis Periods. Department of Econometrics and Business Statistics Monash
University, Caulfield, VIC 3145, Australia.
25. Michael Ehrman and Andreas Worms, 2001. Interbank lending and
monetary transmission: evidence from Germany. Economic Research Centre of the
Deutsche Bundesbank discussion paper No 11/01.
26. Norman Loayza and Klaus Schmidt, 2002. Monetary policy functions and
transmission mechanisms: an overview. Central bank of Chile.
27. Ogun, T. P. and Akinlo, A. E. 2010. The effectiveness of bank credit channel
of monetary policy transmission: the Nigerian experience. The African Education
and Business Research Institute Working Paper ISSN 1109-5609.
28. Prachi Mishra, Peter J. Montiel, and Antonio Spilimbergo, 2010. Monetary
Transmission in Low Income Countries. IMF working paper Research Department
and European Department No WP/10/223
29. Rina Bhattacharya, 2013. Inflation Dynamics and Monetary Policy
Transmission in Vietnam and Emerging Asia. IMF working paper No WP/13/155,
Monetary and Capital Markets Department.
30. Ruby P. Kishan and Timothy P. Opiela, 2010, Bank Size, Bank Capital, and
the Bank Lending Channel. Journal of Money, Credit and Banking, Vol. 32, No. 1
(Feb., 2000), pp. 121-141
74
31. Sanjay Kalra, 2013, Vietnams Economy in 2012: Restructuring of Finance
and Banking System. The Economic Committee of the National Assembly. Da Nang,
April 9, 2012.
32. Sims, C. A., 1980, Macroeconomics and Reality, Econometrica vol 48, 1-48.
33. Sonali Jain-Chandra and D. Filiz Unsal, 2012, The effectiveness of Monetary
Policy Transmission under Capital Inflows: Evidence from Asia. IMF working
paper No WP/12/265.
34. Stephen G. Cecchetti, 1999, Legal Structure, Financial Structure, and the
Monetary Policy Transmission Mechanism. The Monetary Transmission Process:
Recent Developments and Lessons for Europe. Sponsored by the Deutsche
Bundesbank and held in Frankfurt, Germany, on March 26-27, 1999.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả kiểm định tính dừng:
Phụ lục 2: Kết quả ước lượng các hệ số trong mô hình SVAR
Phụ lục 3: Kết quả phân tích hàm phản ứng xung
Phụ lục 4: Kết quả phân tích phân rã phương sai
Phụ lục 5: Bảng số liệu theo tháng
Đơn vị tính: tỷ đồng, phần trăm (%)
Time WOP USI IP VNCPI VNM2 NEER GCRE DCRE LDR Label
2007 Jan 105.71 5.25 49,212 110.96 872,549 1.01 10,831 742,788 11.18
2007 Feb 113.17 5.25 35,392 113.40 905,455 1.00 12,367 751,645 11.18
2007 Mar 120.02 5.25 45,154 113.10 949,181 0.99 10,000 768,309 11.18
2007 Apr 129.75 5.25 47,345 113.71 979,673 0.98 7,982 790,955 11.18
2007 May 131.17 5.25 47,953 114.52 1,005,314 0.99 8,286 812,973 11.18
2007 Jun 133.65 5.25 50,065 115.53 1,029,562 0.99 11,342 837,905 11.18
2007 Jul 141.17 5.25 50,257 116.65 1,056,451 0.99 9,838 862,527 11.18
2007 Aug 136.60 5.25 42,997 117.26 1,076,896 1.00 10,656 891,713 11.18
2007 Sep 148.88 5.03 49,584 117.87 1,110,983 0.99 10,229 927,617 11.18
2007 Oct 156.78 4.74 49,764 118.78 1,154,499 0.96 10,050 976,689 11.18
2007 Nov 176.27 4.50 51,157 120.20 1,183,135 0.96 17,820 1,021,431 11.18
2007 Dec 174.28 4.33 55,949 123.65 1,253,997 0.96 24,571 1,100,085 11.18
2008 Jan 177.17 3.98 52,874 126.60 1,293,054 0.94 31,275 1,169,741 11.18
2008 Feb 182.84 3.00 47,919 131.17 1,280,506 0.94 42,067 1,179,752 14.60
2008 Mar 196.70 2.66 59,763 135.03 1,300,249 0.91 12,746 1,198,369 14.27
2008 Apr 210.30 2.24 54,694 138.07 1,278,398 0.91 48,175 1,239,285 16.53
2008 May 241.76 2.00 54,620 143.45 1,298,039 0.92 35,179 1,249,053 19.11
2008 Jun 259.32 2.00 56,049 146.50 1,295,492 0.95 49,387 1,252,777 20.25
2008 Jul 266.70 2.00 55,967 148.12 1,300,594 0.95 44,398 1,231,756 20.19
2008 Aug 230.09 2.00 55,590 150.46 1,302,893 0.97 51,373 1,246,264 19.86
2008 Sep 195.05 2.00 54,106 150.76 1,347,514 0.99 24,739 1,251,155 18.00
2008 Oct 139.47 1.56 54,327 150.46 1,367,228 1.03 19,131 1,263,659 13.26
2008 Nov 104.43 1.00 51,014 149.34 1,394,620 1.04 14,085 1,282,178 10.98
2008 Dec 83.33 0.54 55,843 148.32 1,513,544 1.03 17,560 1,403,754 10.08
2009 Jan 91.40 0.13 50,644 151.14 1,561,466 1.07 32,359 1,457,574 9.39
2009 Feb 87.68 0.13 58,212 151.47 1,589,603 1.13 27,795 1,451,188 9.15
2009 Mar 92.64 0.13 53,218 151.24 1,645,309 1.12 17,582 1,501,838 9.15
2009 Apr 101.99 0.13 55,469 150.78 1,693,558 1.07 22,534 1,563,426 9.60
2009 May 116.66 0.13 56,566 151.45 1,737,815 1.04 22,782 1,635,489 9.96
2009 Jun 140.67 0.13 58,382 152.27 1,775,952 1.04 18,988 1,706,594 9.96
2009 Jul 132.05 0.13 59,072 153.07 1,800,854 1.04 27,921 1,768,279 10.26
2009 Aug 144.95 0.13 61,050 153.43 1,806,203 1.03 37,997 1,824,336 10.35
2009 Sep 138.02 0.13 63,296 154.39 1,842,315 1.01 43,058 1,888,724 10.46
2009 Oct 148.94 0.13 63,772 154.95 1,866,069 1.01 45,330 1,917,247 10.46
2009 Nov 157.78 0.13 64,411 155.81 1,884,089 1.01 49,524 1,961,402 12.00
2009 Dec 153.43 0.13 66,045 157.96 1,910,587 1.06 98,822 2,040,049 12.00
2010 Jan 155.77 0.13 62,791 160.11 1,912,147 1.07 97,375 2,028,807 12.00
2010 Feb 149.49 0.13 50,932 163.25 1,948,241 1.11 139,684 2,049,403 12.00
2010 Mar 157.25 0.13 59,692 164.47 1,982,389 1.11 128,579 2,063,083 13.86
2010 Apr 168.65 0.13 62,666 164.70 2,022,800 1.11 123,261 2,113,271 13.23
2010 May 155.73 0.13 64,741 165.15 2,076,120 1.15 139,626 2,155,682 13.23
2010 Jun 150.36 0.13 66,153 165.51 2,166,591 1.15 135,660 2,244,801 13.25
2010 Jul 147.66 0.13 68,524 165.60 2,174,354 1.13 136,002 2,273,041 13.00
2010 Aug 151.11 0.13 69,513 165.98 2,257,348 1.14 148,418 2,356,470 13.25
2010 Sep 153.02 0.13 70,758 168.16 2,325,022 1.13 153,736 2,421,726 13.25
2010 Oct 163.29 0.13 72,095 169.93 2,339,569 1.12 166,977 2,483,599 13.25
2010 Nov 170.20 0.13 71,343 173.09 2,358,708 1.11 165,089 2,560,031 15.30
2010 Dec 181.25 0.13 75,269 176.53 2,478,310 1.11 189,640 2,689,967 15.30
2011 Jan 187.37 0.13 73,745 179.59 2,484,091 1.12 307,556 2,773,799 16.42
2011 Feb 203.00 0.13 70,434 183.35 2,512,947 1.22 226,902 2,799,732 16.42
2011 Mar 220.68 0.13 68,418 187.32 2,495,422 1.21 209,297 2,796,323 17.91
2011 Apr 235.28 0.13 71,631 193.54 2,484,012 1.20 227,402 2,812,311 18.08
2011 May 221.21 0.13 74,035 197.82 2,485,327 1.20 190,237 2,799,939 18.08
2011 Jun 218.53 0.13 75,325 199.97 2,544,739 1.20 154,023 2,818,588 18.09
2011 Jul 223.53 0.13 75,102 202.31 2,580,562 1.19 135,221 2,799,056 18.09
2011 Aug 213.33 0.13 73,545 204.19 2,721,519 1.18 135,123 2,845,966 17.55
`2011 Sep 215.44 0.13 79,249 205.87 2,673,757 1.20 151,170 2,859,059 16.70
2011 Oct 211.13 0.13 75,916 206.61 2,635,058 1.23 161,773 2,880,959 15.51
2011 Nov 220.56 0.13 77,122 207.42 2,652,391 1.23 176,204 2,916,945 15.32
2011 Dec 215.87 0.13 80,914 208.51 2,774,281 1.22 215,921 3,063,869 15.44
2012 Jan 222.63 0.13 71,975 210.60 2,777,058 1.26 276,211 3,050,940 15.36
2012 Feb 236.07 0.13 86,000 213.48 2,774,124 1.23 142,832 2,988,570 15.10
2012 Mar 248.53 0.13 72,865 213.82 2,827,346 1.22 127,052 3,013,313 14.70
2012 Apr 238.57 0.13 77,003 213.94 2,867,599 1.24 131,996 3,021,332 14.30
2012 May 218.39 0.13 79,069 214.32 2,921,575 1.23 122,144 3,040,792 12.60
2012 Jun 191.54 0.13 81,351 213.76 2,987,087 1.26 85,594 3,102,963 12.50
2012 Jul 201.66 0.13 79,684 213.14 3,023,008 1.25 69,117 3,093,362 12.49
2012 Aug 220.30 0.13 76,781 214.48 3,083,581 1.25 86,061 3,139,081 12.49
2012 Sep 225.52 0.13 86,936 219.20 3,149,681 1.22 74,256 3,206,544 12.37
2012 Oct 220.89 0.13 80,243 221.07 3,170,356 1.23 68,402 3,197,016 12.37
2012 Nov 217.68 0.13 84,095 222.10 3,259,071 1.23 45,722 3,250,002 11.94
2012 Dec 214.77 0.13 88,300 222.71 3,455,221 1.24 67,141 3,404,895 12.00
Nguồn IMF (2013) và tính toán của tác giả
Phụ lục 6. Tổng quan về mô hình SVAR
Mô hình SVAR được Sim đề xuất từ những năm 1980 và ngày càng chứng tỏ
được vai trò quan trọng của mình trong nghiên cứu dữ liệu theo chuỗi thời gian, đặc
biệt là các dữ liệu kinh tế vốn có mối liên hệ tương tác với nhau và tương tác với cả
độ trễ của chúng. Mô hình SVAR thích hợp với các nghiên cứu vĩ mô vì nó không
phân biệt biến nào là ngoại sinh, nội sinh tất cả các biến được xem xét trong mốt mối
quan hệ nhân quả đồng thời. Ứng dụng quan trọng nhất của mô hình SVAR đó là
phân tích phản ứng xung và phân rã phương sai trong phân tích mối quan hệ tác động
đồng thời của các biến số vĩ mô.
Mô hình tự hồi quy cấu trúc (SVAR)
Mô hình SVAR (Structure Variance Autoregressive hay identified VAR) là một
hệ thống các hệ phương trình của các biến nội sinh, trong đó, giá trị của mỗi biến ở
hiện tại sẽ phụ thuộc độ trễ của chính nó và độ trễ của các biến còn lại trong quá khứ.
Cụ thể, sự tương tác mang tính động của các chuỗi biến số kinh tế đang nghiên cứu
được mô tả như sau:
Trong đó:
yt là ma trận (nx1) của n biến nội sinh,
A là ma trận (nxn) phản ánh tác động đồng thời giữa các biến kinh tế
đang xem xét,
C là ma trận (nx1) các biến ngoại sinh.
∏(L) là ma trận đa thức trễ:
εt là vecto các cú sốc cơ cấu
Khi s =t:
Khi s ≠ t:
B là ma trận (nxn) phản ánh mối quan hệ đồng thời giữa các cú sốc cơ
cấu với các biến kinh tế vĩ mô.
Ở dạng rút gọn, ta có phương trình sau:
Trong đó, ut là sai số ước lượng thỏa:
Đây có thể hiểu mô hình tổng quát nhất, việc quyết định hệ số nào trong ma trận
hệ số của các biến có bằng 0 hay không là phụ thuộc vào ý nghĩa kinh tế của nó. Nhận dạng chính xác đòi hỏi ma trận A, B phải có 2n2 – n hệ số, trong khi đó ma trận hiệp phương sai ∑u có n(n+1)/2 hệ số. Vì vậy, cần có 2n2 – n - n(n+1)/2 ràng buộc giữa A
và B. Trong mô hình SVAR chuẩn, ma trận A được ràng buộc là một ma trận chéo, áp
đặt n(n-1) ràng buộc, và chúng ta đòi hỏi phải có n(n-1)/2 ràng buộc cho ma trận B.
Mục đích chính của SVAR là xác định được ảnh hưởng của các cú sốc cơ cấu t,
đến các biến số trong nền kinh tế. Để nhận dạng chính xác mô hình mà không cần
phải áp đặt thêm các ràng buộc lên ma trận đa thức trễ φ(L), người ta sử dụng 2 bước
ước lượng hợp lí tối đa (maximum likelihood estimation). Đầu tiên ma trận hiệp
phương sai ∑u được ước lượng qua:
Trong đó ût là phần dư ước lượng bằng mô hình OLS cho mỗi phương trình của mô
hình giản ước.
Các ước lượng cho ma trận A,B sẽ được tiến hành sau đó bằng cách lấy tối đa
hóa hệ số log likelihood cho hệ thống điều kiện của ma trận ∑^
Sau khi mô hình được ước lượng, thông qua các hàm phản ứng đẩy, chúng ta sẽ
xác định được hiệu ứng của cú sốc tiền tệ và hiệu ứng của các cú sốc khác đối với các
biến số trong mô hình. Tiếp theo, chúng ta có thể đánh giá vai trò của các cú sốc đối
với sự dao động của các biến thông qua phân rã phương sai sai số dự báo.
Hàm phản ứng xung
Hàm phản ứng xung (IRF) là một chức năng quan trọng phát sinh từ mô hình
SVAR. Chức năng phản ứng xung được sử dụng để kiểm tra các phản ứng động của
các biến tới các cú sốc biến khác trong hệ thống SVAR. Nó cho phép xác định hiệu
ứng theo thời gian của cú sốc của một biến nội sinh nào đó đối với các biến khác
trong mô hình.
Ta có:
Như vậy hiệu ứng của từng cú sốc theo thời gian chính là đạo hàm riêng phần của
từng biến trong hệ phương trình hệ thống theo thời gian.
Hình minh họa tác động hàm phản ứng đẩy IRF
Khi cấu trúc nhiễu đã chuyển đổi có tính chất trực giao, các hiệp phương sai giữa
các cú sốc gốc sẽ bị giới hạn về 0. Những ảnh hưởng của những cú sốc CSTT lên
những biến trong nước, đặc biệt là biến thu nhập và giá cả có thể đạt được một cách
t có ý
hiệu quả hơn bằng cách tính toán các phản ứng xung ban đầu. Các giá trị
nghĩa kinh tế và do đó phản ứng xung có thể giải thích một cách có ý nghĩa. Ví dụ, cơ
chế truyền dẫn của cú sốc CSTT có thể phân tích được bằng quan sát phản ứng của
các biến khác trong hệ thống khi có cú sốc CSTT.
Phân rã phương sai
Dự báo phân rã phương sai mô tả tỷ lệ của một cú sốc của một biến chịu tác
động của chính nó và của các biến phụ thuộc khác ở các giai đoạn sau s kỳ trong
tương lai.
Phụ lục 6: Danh mục 20 quốc gia sử dụng để tính NEER
STT Quốc gia STT Quốc gia
Australia Korea 11 1
Belgium Malaysia 12 2
China Netherlands 13 3
France Philippines 14 4
Germany Russia 15 5
Hong Kong Singapore 16 6
India Switzerland 17 7
Indonesia Thailand 18 8
Italy United Kingdom 19 9
Japan United STATES 20 10