BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------- NGUYỄN KHẢ ĐỒNG ỨNG DỤNG MÔ HÌNH VAR KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------- NGUYỄN KHẢ ĐỒNG ỨNG DỤNG MÔ HÌNH VAR KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 60340201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. TRƯƠNG THỊ HỒNG
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS. Trương Thị Hồng, Cô đã hướng dẫn rất tận tâm và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cũng như động viên giúp tôi hoàn thành luận
văn này.
Trân trọng cảm ơn đến tất cả quý thầy cô vì những kiến thức cũng như kinh
nghiệm từ các bài giảng mà quý thầy cô đã truyền đạt trong quá trình học tập tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Tác giả
Nguyễn Khả Đồng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Trương Thị Hồng. Nguồn số liệu và kết quả thực nghiệm cũng như
các trích dẫn được thực hiện là hoàn toàn trung thực, chính xác.
Tác giả
Nguyễn Khả Đồng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Lời cảm ơn
Lời cam đoan Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các hình
Danh mục các bảng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Vấn đề nghiên cứu ...............................................................................................
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................
5. Kết cấu của luận văn ............................................................................................
6. Những đóng góp của đề tài và hướng mở cho nghiên cứu ..................................
Chƣơng 1: LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT VÀ MÔ HÌNH VAR ......................... 1
1.1 LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT .......................................................................... 1 1.1.1 Khái niệm lạm phát ....................................................................................... 1
1.1.2 Đo lường và phân loại lạm phát ................................................................... 1
1.1.2.1 Đo lường lạm phát ............................................................................... 1
1.1.2.2 Phân loại lạm phát ............................................................................... 6
1.1.3. Một số quan điểm về nguyên nhân lạm phát ............................................... 7 1.1.3.1 Quan điểm lạm phát cầu kéo (Cầu dư thừa tổng quát) ......................... 7
1.1.3.3 Quan điểm lạm phát tiền tệ .......................................................................... 10
1.1.3.2 Quan điểm lạm phát chi phí đẩy .............................................................. 9
1.1.3.4 Quan điểm lạm phát do yếu tố kỳ vọng.................................................. 12
1.1.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế ..................................................... 13 1.1.4.1 Tác động tiêu cực ............................................................................... 13
1.1.4.2 Tác động tích cực ............................................................................... 15
1.1.5. Các yếu tố được xem xét khi nhắc đến lạm phát: ...................................... 16
1.2 KHÁI QUÁT MÔ HÌNH VAR ....................................................................... 16 1.2.1 Lý thuyết mô hình VAR (Vector Autoregression Model) ......................... 16
1.2.2 Ứng dụng mô hình VAR và một số nghiên cứu về lạm phát .................... 17
1.2.3 Ưu nhược điểm của mô hình VAR ............................................................ 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2012
VÀ KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ........................................... 24
2.1.3 Giai đoạn 1999 - 2003 .......................................................................................... 27 2.1.4 Giai đoạn 2004 - 2012 .......................................................................................... 28
2.1. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2012 ......... 24 2.1.1 Giai đoạn 1990 - 1991 .......................................................................................... 26 2.1.2 Giai đoạn 1992 - 1998 .......................................................................................... 26
2.2 NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN NGHIÊN CỨU ............ 30 2.2.1 Đầu tư công kém hiệu quả .......................................................................... 30
2.2.2 Chính sách tiền tệ ....................................................................................... 35
2.2.3 Yếu tố tâm lý, kỳ vọng, đầu cơ ................................................................... 37
2.2.4 Ảnh hưởng của sự thay đổi sản lượng ........................................................ 38
2.2.5 Tác động từ các nguyên nhân bên ngoài .................................................... 40
2.3 XÂY DỰNG MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT .......................................................................................................... 42 2.3.1 Một số nghiên cứu về lạm phát .................................................................. 42
2.3.2 Cơ sở lý thuyết và nguồn số liệu ................................................................ 43 2.3.3 Phương pháp ước lượng ............................................................................. 45
2.3.3.1 Kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu ......................................................... 46
2.3.3.2 Xác định độ trễ tối ưu .............................................................................. 47
2.3.3.3 Ước lượng mô hình VAR ......................................................................... 48
2.3.4 Kết quả ước lượng mô hình VAR .............................................................. 48 2.3.4.1 Ảnh hưởng của yếu tố kỳ vọng .......................................................... 48
2.3.4.2 Sự tác động của lãi suất đến lạm phát .............................................. 50
2.3.4.3 Sự tác động của đầu tư công và cung tiền đến lạm phát .................. 50
2.3.4.4 Tác động của đầu tư công đến các yếu tố khác ................................ 51
2.3.4.5 Tác động của CPI đến các yếu tố trong mô hình .............................. 52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 55
Chƣơng 3: MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH GÓP PHẦN KIỂM SOÁT LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM ........................................................................................ 56
3.1 ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CHUNG CỦA NỀN KINH TẾ .................. 56 3.1.1 Một số hạn chế trong điều hành chính sách kinh tế kiềm chế lạm phát ..... 56
3.1.2 Định hướng phát triển kinh tế thời gian tới ............................................... 58
3.2 MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH KINH TẾ ................................................... 59 3.2.1 Kiểm soát chặt chẽ đầu tư công ................................................................. 59
3.2.2 Thay đổi phương thức quản lý đầu tư ....................................................... 61
3.2.3 Chính sách tiền tệ ...................................................................................... 62
3.2.4 Tập trung vào sản xuất hàng hoá ................................................................ 64
3.2.5 Nâng cao vai trò dự báo và thực hiện đo lường lạm phát kỳ vọng ........... 64
3.2.6 Xây dựng chính sách mục tiêu lạm phát .................................................... 65
3.2.7 Một số gợi ý khác ....................................................................................... 66
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 68 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 71 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 73
Phụ lục 1: Mô hình nghiên cứu ........................................................................... 73
Phụ lục 2: Bảng số liệu ........................................................................................ 81
Phụ lục 3: Kết quả phân tích thực nghiệm ........................................................... 82
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt ADB Nội dung Asian Development Bank
ADF Kiểm định Dickey – Fuller mở rộng
CPI DF Consumer Price Index Kiểm định Dickey – Fuller
DM Đồng Mark Đức
ĐTNN Đầu tư nhà nước
ĐTTN Đầu tư tư nhân
EVN Tổng Công ty Điện lực Việt Nam
FDI Đầu tư nước ngoài (Foreign Direct Investment)
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
GI Đầu tư công - Govement investment
GSO Tổng cục thống kê
IMF International Monetary Fund
IND Sản lượng công nghiệp
IR Interest rate – lãi suất
IRF Impul Response Function – Hàm phản ứng
NGTK Niên giám thông kê
NHNN Ngân hành Nhà nước
PP SLCN Kiểm định Phillips Perron Sản lượng công nghiệp (IND)
SVAR Structural Vector autoregression – Cấu trúc VAR
VAR Vecto autoregression – vecto tự hồi quy
WTO World Trade Organization
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1-1: Lạm phát cầu kéo qua mô hình tổng cung, tổng cầu ................................. 8
Hình 1-2: Lạm phát chi phí đẩy qua mô hình tổng cung tổng cầu ............................. 9
Hình 1-3: Mô hình tổng cung – tổng cầu ................................................................. 11
Hình 2-1: Tỷ trọng đầu tư trong GDP của Việt Nam 1990 – 2012 (%) .................. 27
Hình 2-2: Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng cung tiền so năm trước 2000–2012(%) ..... 28
Hình 2-3: Cơ cấu vốn đầu tư: ĐTNN, ĐTTN, FDI so đầu tư toàn xã hội (%) ........ 31
Hình 2-4: Tỷ trọng Đầu tư/GDP so với các nước Đông và Đông Nam Á (%) ........ 33
Hình 2-5: Đầu tư từ ngân sách nhà nước so GDP của một số nước (%) ................. 34
Hình 2-6: CPI của Việt Nam và các nước giai đoạn 2001 – 2011 (%) .................... 34
Hình 2-7: Tốc độ tăng cung tiền so năm trước của Việt Nam, Thái Lan và Trung
Quốc (%) ................................................................................................. 36
Hình 2-8: CPI và Tốc độ tăng GDP, đầu tư, SLCN so năm trước (%) .................... 38
Hình 2-9: Phản ứng của CPI trước cú sốc từ chính nó ............................................ 49
Hình 2-10: Phản ứng của các nhân tố trước cú sốc của CPI .................................... 54
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2-1: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1987 – 2012 ............................................. 25
Bảng 2-2: Hệ số ICOR và tỷ lệ Đầu tư/GDP của Việt Nam từ 1995-2012 ............. 33
Bảng 2-3: Tốc độ tăng SLCN so năm trước của các thành phần kinh tế ................. 39
Bảng 2-4: Kiểm định ADF đối với các chuỗi dữ liệu .............................................. 46
Bảng 2-5: Kiểm định PP đối với các chuỗi dữ liệu .................................................. 47
Bảng 2-6: Kiểm định độ trễ tối ưu bằng kiểm định AIC, SC, HQ ........................... 47
Bảng 2-7: Mối quan hệ giữa CPI và các biến số ...................................................... 48
Bảng 2-8: Tác động của các yếu tố đến biến giá theo thời gian .............................. 49
Bảng 2-9: Kết quả kiểm định nhân quả Granger ..................................................... 50
Bảng 2-10: Mối quan hệ giữa đầu tư công với các biến số khác ............................. 51
Bảng 2-11: Tác động của đầu tư công lên các biến số khác .................................... 52
Bảng 2-12: Mối quan hệ ngược lại của CPI đến các biến số .................................... 52
Bảng 2-13: Tác động của CPI đến các biến số vĩ mô .............................................. 53
LỜI MỞ ĐẦU
1. Vấn đề nghiên cứu:
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế GDP giai đoạn từ năm 2013 – 2015 là 5,5%,
lạm phát được kiểm soát ở mức 7%-8%, thực tế những năm qua lạm phát luôn ở
mức trên 8%. Ngày 21 tháng 5 năm 2013, diễn ra hội thảo khoa học ở Hà Nội dưới
sự chủ trì của Thứ Trưởng Cao Viết Sinh – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với chuyên đề
được báo cáo “Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, nhóm báo cáo gồm Đào
Văn Hùng, Nguyễn Thạc Hoát và nhóm nghiên cứu Học viện Chính sách đã cho
thấy từ năm 1991 – 2012 Việt Nam đã vượt qua hết tất cả các nước trong khu vực
một chỉ tiêu đó là “Lạm phát”. Bởi vậy, ngày 28/6/2013, tổng kết tình hình thực
hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm 2013, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh mục tiêu
giai đoạn tới vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Điều đó cho thấy
lạm phát vẫn là vấn đề trọng yếu mà các nhà hoạch định chính sách cũng như các
chuyên gia kinh tế luôn phải quan tâm.
Như chúng ta đã biết, việc xảy ra lạm phát năm 2011 là 18,68% đã có nhiều ảnh
hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội như: số doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng sản
xuất gia tăng, tình trạng thất nghiệp khắp nơi, sản lượng sản xuất sụt giảm, và Chính
phủ phải thực thi nhiều giải pháp để kiềm chế lạm phát. Vậy nguyên nhân do đâu đã
gây ra lạm phát? Đó là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm, cần phải nhận biết và xác
định được các nhân tố tác động đến lạm phát trên lý thuyết lẫn thực nghiệm, từ đó
có giải pháp kịp thời để kiềm chế nó và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này không chỉ
có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp các thông tin cho nhà hoạch định chính
sách mà còn đối với cả các nhà kinh doanh trong việc điều chỉnh các chiến lược của
mình. Chính vì vậy, các công cụ kiểm định giúp cho việc nhận dạng và xác định
mức độ ảnh hưởng của những yếu tố vĩ mô đến lạm phát ngày càng được sử dụng
phổ biến. Một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực đó là vận dụng các mô hình kinh
tế hay mô hình toán học để phân tích các biến số vĩ mô và từ đó xác định các nhân
tố có mức tác động khác nhau đến lạm phát. Đồng thời làm cơ sở cho việc đề xuất
các khuyến nghị để điều tiết lạm phát trong thời gian tới.
Chính vì những ý nghĩa quan trọng đó, sau khi học xong chương trình Cao học
chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng của Trường Đại Học Kinh tế Tp Hồ Chí
Minh, tôi quyết định chọn đề tài: “Ứng dụng mô hình VAR kiểm định các nhân
tố tác động lạm phát ở Việt Nam” làm báo cáo nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Các mục tiêu cụ thể như sau:
- Tổng hợp các lý thuyết về lạm phát, mô hình VAR và một số nghiên cứu ứng
dụng trên thế giới;
- Mô tả lạm phát Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012 và nhận định về nguyên
nhân cơ bản tạo áp lực tăng lạm phát;
- Ứng dụng mô hình VAR để kiểm định nhân tố tác động đến lạm phát như:
Đầu tư công, cung tiền M2, sản lượng công nghiệp, lãi suất, CPI;
- Dựa trên kết quả thực nghiệm, tác giả có một số đề xuất chính sách kinh tế
góp phần kiểm soát lạm phát.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Lạm phát và kiểm định các nhân tố gây lạm phát qua
mô hình VAR.
- Phạm vi nghiên cứu: Diễn biến lạm phát Việt Nam từ 1990 - 2012
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp định lượng và định tính:
- Phương pháp định tính bằng bảng: Các chỉ số kinh tế vĩ mô, phân tích mối
tương quan các biến số để thấy được sự biến động của các chỉ số;
- Phương pháp định lượng qua phần mềm Eview: Chạy hồi quy kiểm định các
nhân tố tạo áp lực cho lạm phát;
- Nguồn số liệu: các số liệu sử dụng trong báo cáo gồm có: Sản lượng công
nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng CPI, cung tiền M2, đầu tư công và lãi suất từ
năm 1990 đến 2012 và sẽ được thu thập từ Tổng cục Thống kê, Ngân hàng
Nhà nước, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, ADB và IMF.
5. Kết cấu của luận văn:
Luận văn có kết cấu gồm:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về lạm phát và mô hình VAR
Chƣơng 2: Thực trạng lạm phát giai đoạn 1990 – 2012 và ứng dụng mô hình
VAR kiểm định Lạm phát ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số gợi ý chính sách góp phần kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Kết luận
6. Những đóng góp và hƣớng mở của đề tài:
- Thứ nhất, đề tài cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố tác động
lạm phát;
- Thứ hai, đề tài cũng cung cấp một bằng chứng có cơ sở cho đề nghị chính
sách kinh tế của Việt Nam trong chủ đề lạm phát;
- Thứ ba, do hạn chế của người thực hiện cũng như vấn đề phức tạp của lạm
phát, nên báo cáo gặp không ít hạn chế và thiếu sót, nhưng báo cáo cũng gợi
mở cho việc ứng dụng các mô hình định lượng trong phân tích kinh tế. Đây
cũng là hướng phát triển trong việc vận dụng các mô hình kinh tế phù hợp
hơn (SVAR, VECM, FAVAR…) với hiện tại và mở rộng cho nhiều biến số
kinh tế trong tương lai.
-1-
Chƣơng 1
LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT VÀ MÔ HÌNH TỰ HỒI QUY VÉC TƠ VAR
1.1. LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT:
1.1.1 Khái niệm lạm phát
“Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung trong nền kinh
tế”.(Mankiw, 2003, [26])
Định nghĩa rất ngắn gọn, tuy nhiên phát biểu nêu lên không đơn giản? Ở đây có
các vấn đề đặt ra: Mức giá chung là gì? Tăng lên như thế nào và tăng bao nhiêu lần?
Khi bàn về lạm phát xảy ra, chúng ta đều có quan niệm là sự tăng giá hàng loạt của
các loại hàng hoá trong xã hội chứ không riêng gì một số hàng hoá nào đó. Và giá
hàng hoá tăng liên tục đến chóng mặt chứ không phải tăng một hay vài lần rồi dừng
lại.
Để tính toán và đo lường lạm phát, chúng ta sử dụng các chỉ số kinh tế đại diện
cho mức giá hàng hoá, và thông qua đó xác định sự biến động của lạm phát. Các chỉ
số đều tính toán trung bình của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế, và
chúng có sự khác nhau về trọng số của các hàng hoá nằm trong giỏ hàng hoá dùng
để tính lạm phát.
1.1.2 Đo lƣờng và phân loại lạm phát:
1.1.2.1 Đo lƣờng lạm phát:
Các nhà kinh tế sử dụng các chỉ số đo lường mức giá bình quân (mức giá chung)
để phản ánh xu hướng biến động của các loại lạm phát khác nhau. Không tồn tại
một phép đo chính xác duy nhất về mức giá chung, vì giá trị của các chỉ số phụ
thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hoá nằm trong rổ hàng hoá, cũng
như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các chỉ số phổ
biến được sử dụng để đo lường lạm phát như sau:
-2-
Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator) (Chỉ số giảm phát GDP)
GDP danh nghĩa sử dụng giá hiện hành để tính giá trị sản lượng hàng hoá và
dịch vụ, GDP thực tế sử dụng giá cố định để tính giá trị sản lượng hàng hoá và dịch
vụ sản xuất ra trên lãnh thổ quốc gia. Chỉ số điều chỉnh GDP, còn gọi là chỉ số giảm
phát GDP hay chỉ số có trọng số thay đổi, do đó còn được gọi là chỉ số
Paasche:(Mankiw, 2003, [26])
GDP danh nghĩa Chỉ số điều = *100 = *100 (1.1) chỉnh GDP GDP thực tế
Trong đó: , là giá và sản lượng sản phẩm i trong năm t
là giá sản phẩm i trong năm cơ sở
là số lượng sản phẩm sản xuất trên lãnh thổ quốc gia t là quyền số của chỉ số, quyền số này thay đổi theo thời gian. Lưu ý Qi
Chỉ số điều chỉnh GDP được các nhà kinh tế sử dụng để theo dõi mức giá bình
quân của nền kinh tế.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI - Consumer Price Index)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là thước đo mức giá chung của rổ hàng hoá và dịch
vụ điển hình mà người tiêu dùng mua. Rổ hàng hoá được ấn định với năm cơ sở, chỉ
số CPI là một chỉ số có trọng số cố định, còn được gọi là chỉ số Laspeyres được xác
định bởi công thức:(Mankiw, 2003, [26])
CPI = * 100 (k là số mặt hàng tiêu dùng) (1.2)
Trong đó: là giá sản phẩm i trong năm t
, là giá và lượng sản phẩm i trong năm cơ sở
Quyền số của CPI là lượng sản phẩm ở năm gốc ( )
-3-
Cách tính CPI không phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng lượng hàng
hoá, mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế thể
hiện qua tỷ trọng của nó. Chỉ số giá CPI thường được xem như là phương pháp đo
lường chi phí sinh hoạt liên quan tới giỏ hàng hoá và dịch vụ cụ thể được mua bởi
người tiêu dùng.
Các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách theo dõi cả chỉ số điều chỉnh GDP
và chỉ số giá tiêu dùng CPI nhằm xác định tốc độ gia tăng của giá cả. Tuy nhiên có
vài điểm khác biệt quan trọng làm cho chúng không đồng nhất với nhau:
+ Thứ nhất, chỉ số điều chỉnh GDP phản ánh giá của mọi hàng hoá và dịch
vụ được sản xuất trong nước, trong khi đó CPI phản ánh mức giá của mọi
hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng mua. Sự khác biệt này rất quan
trọng, ví dụ khi giá dầu tăng lên thì chỉ số giá CPI tăng nhiều hơn mức
gia tăng của chỉ số điều chỉnh GDP.
+ Thứ hai, chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số CPI liên quan đến việc gán
quyền số cho các loại giá cả khác nhau. Giỏ hàng hoá khi tính CPI là cố
định, trong khi nhóm hàng hoá và dịch vụ dùng để tính chỉ số điều chỉnh
GDP tự do thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt không quan trọng nếu
mọi giá cả điều thay đổi theo cùng tỷ lệ, song nếu chúng thay đổi với
những tốc độ khác nhau thì cách gán quyền số rất quan trọng khi tính tỷ
lệ lạm phát.
+ Thứ ba, chỉ số điều chỉnh GDP chỉ bao gồm những hàng hoá sản xuất
trong nước, không bao gồm hàng hoá nhập khẩu, hàng nhập khẩu không
phải bộ phận nằm trong GDP. Nhưng giá hàng hoá nhập khẩu vào một
nước nằm trong rổ hàng hoá để xác định chỉ số CPI sẽ tác động đến CPI
của nước đó nhưng lại không tác động đến chỉ số điều chỉnh GDP.
Chỉ số lạm phát cơ bản :
Lạm phát cơ bản (Core Inflation) là tỷ lệ lạm phát thể hiện sự thay đổi mức giá
mang tính chất lâu dài mà loại bỏ những thay đổi mang tính tạm thời nên lạm phát
-4-
cơ bản chính là lạm phát xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ (hay chính lạm phát theo
quan niệm của Friedman).(Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, 2001, [2])
Chỉ số lạm phát cơ bản được tính trên cơ sở chỉ số CPI sau khi loại bỏ một số
nhóm hàng hoá và dịch vụ mà giá của chúng phản ánh sai lệch sự biến động mức
giá chung. Các tiêu chí loại bỏ hàng hoá là:
- Các hàng hoá có sự biến động lớn về giá cả;
- Các hàng hoá mà giá cả hình thành chủ yếu do các nhân tố cung;
- Các hàng hoá mà giá cả hình thành do các quy định hành chính;
- Những thay đổi giá cả gây nhiễu cho ngân hàng trung ương.
So với CPI thì chỉ số lạm phát cơ bản phản ánh chính xác hơn sức mua thực sự
của đồng tiền và cho phép có được dự báo đáng tin cậy hơn về xu hướng biến động
dài hạn của mức giá chung trong nền kinh tế.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác để đo lường lạm phát như:
- Chỉ số giá sản xuất (PPI – Production Price Index): được xây dựng để
tính mức giá chung trong lần bán đầu tiên.
- Chỉ số giá bán buôn (WPI – Whosesale Price Index): đo sự thay đổi trong
giá cả của hàng hoá bán buôn.
- Chỉ số giá bán lẻ (RPI – Retail Price Index): chỉ số phản ánh tình hình giá
bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường theo thời gian.
Trên đây là các chỉ tiêu được dùng để đo lường lạm phát khác nhau, chúng bổ
sung cho nhau chứ không thay thế hay loại trừ lẫn nhau. Và tuỳ theo nền kinh tế của
mỗi quốc gia thì phương pháp nào là tốt nhất.
Đo lường lạm phát trên thế giới:
Ở các nước trên thế giới, mỗi nước có cách chọn lựa chỉ số CPI khác nhau, ở Mỹ
chọn chỉ số trượt giá tổng tiêu dùng cá nhân (Chỉ số giảm phát GDP) làm cơ sở cho
quyết định của mình. Chỉ số này rộng hơn CPI và không bị ảnh hưởng bởi sự thay
đổi thói quen tiêu dùng trong dân chúng nên nó là thước đo rất tốt cho tình trạng
lạm phát ở Mỹ.
-5-
Với các nước khác, ngân hàng trung ương thường dùng chỉ số CPI đã được hiệu
chỉnh yếu tố mùa vụ vì không có được số liệu trượt giá tổng tiêu dùng cá nhân tốt
như Mỹ.
Ở Úc, New Zealand, Nhật Bản thì loại bỏ một số hàng hoá có độ biến thiên lớn
(lương thực, năng lượng…) ra khỏi giỏ hàng hoá tính chỉ số lạm phát cơ bản. Quan
điểm này cho rằng: mặc dù các hàng hoá này có độ biến thiên rộng nhưng về lâu dài
thì không ảnh hưởng đến xu hướng chung của lạm phát. Hơn nữa sự biến thiên của
Tỷ lệ lạm
Chỉ số điều chỉnh GDPt – Chỉ số điều chỉnh GDPt-1
=
* 100% (1.3)
phát
Chỉ số điều chỉnh GDPt-1
các yếu tố này nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng trung ương.
Đo lường lạm phát tại Việt Nam
Lạm phát được đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI là tỷ số phản ánh giá của
rổ hàng hóa trong nhiều năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hóa trong năm
gốc. Chỉ số giá này phụ thuộc vào năm được chọn làm năm gốc và sự lựa chọn rổ
hàng hóa tiêu dùng. Trên cơ sở xác định chỉ số giá tiêu dùng bình quân, tỷ lệ lạm
phát phản ánh sự thay đổi mức giá bình quân của giai đoạn này so với giai đoạn
trước theo công thức:
Mức giá hiện tại – mức giá năm trước Tỷ lệ lạm = * 100% (1.4) phát Mức giá năm trước
Hoặc xấp xỉ : (1.5) t = lnPt – lnPt-1
Trong đó t là tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t
Pt và Pt-1 là mức giá chung của hai thời kỳ t và t-1
Nhược điểm mà chỉ số này gặp phải khi phản ánh giá cả sinh hoạt là không phản
ánh sự biến động của giá cả hàng hóa cơ bản, không phản ánh sự biến đổi trong cơ
cấu hàng hóa tiêu dùng cũng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu
dùng cho những hàng hóa khác nhau về mặt thời gian.
-6-
1.1.2.2 Phân loại lạm phát:
Có nhiều tiêu chí để phân loại lạm phát như: Tốc độ tăng giá, kỳ vọng, nguyên
nhân… Do biểu hiện của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hoá, nên các nhà
kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá phân chia lạm phát ra thành ba mức khác
nhau:
Lạm phát vừa phải:
Mức độ tăng của giá cả cao hơn từ trên vài phần trăm đến mức dưới 10% so với
tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm được gọi là lạm phát vừa phải, lạm phát kiểm
soát được.
Đối với lạm phát này, tùy theo chiến lược phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các
chính phủ có thể chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ
lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế như kích thích tăng trưởng
kinh tế, tăng cường xuất khẩu, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khóa nhất
định.
Lạm phát phi mã:
Mức độ gia tăng của giá cả hàng hóa lúc này là rất nhanh và nếu duy trì trong
thời gian dài sẽ gây ra những biến đổi nền kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó,
đồng tiền sẽ mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lại lượng tiền tối thiểu vừa
đủ cho giao dịch hằng ngày, và họ có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản,
chuyển sang sử dụng vàng và các ngoại tệ mạnh khác để làm phương tiện thanh
toán cho các giao dịch lớn và tích lũy của cải. Khi lạm phát phi mã xảy ra, sản xuất
bị đình trệ, tài chính của nền kinh tế bị phá hoại và nếu không có biện pháp thích
hợp để kiềm giảm nó thì nền kinh tế sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
Lạm phát phi mã xảy ra ở Việt Nam trong thập niên 1980, giá cả hàng hoá tăng
chóng mặt. Lạm phát năm 1985 là 91,6%, năm 1987 là 223,1%, và đây là một trong
số các nguyên nhân để các nhà điều hành đất nước có cách nhìn phải thay đổi chính
sách kinh tế. Bởi vậy, Đại hội Đảng lần VI đã nhìn nhận và bắt đầu thực hiện thay
đổi phương thức điều hành nền kinh tế cho các năm sau đó.
-7-
Siêu lạm phát:
Siêu lạm phát là lạm phát xảy ra ở mức độ lớn hơn lạm phát phi mã. Siêu lạm
phát thường xảy ra do các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội như: chiến
tranh, khủng hoảng chính trị…Khi những biến cố lớn xảy ra, sự thâm hụt ngân sách
khiến chính phủ phải phát hành tiền giấy để bù đắp tạo cơ hội cho siêu lạm phát.
Siêu lạm phát có sức phá hủy toàn bộ hoạt động nền kinh tế, dẫn đến suy thoái
nghiêm trọng.
Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát ở nước Đức: Giá một tờ
báo đã đăng từ 0,3DM vào tháng 1 năm 1922 đã lên đến 70.000.000 DM chỉ trong
chưa đầy 2 năm sau đó. Giá cả các mặt hàng khác cũng tăng tương tự, từ tháng
1/1922 đến tháng 11/1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000 và cuộc siêu
lạm phát này được xem là một trong những nguyên nhân tạo ra cho thế chiến thứ
hai [20].
1.1.3 Một số quan điểm về nguyên nhân lạm phát:
Về cơ bản giá cả hàng hoá là sự cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá,
do đó sự tăng lên về giá của hàng hoá có thể bắt nguồn từ sự tăng lên của tổng cầu
hoặc tổng cung hoặc cũng có thể từ cả hai phía này tạo ra. Nếu giá cả tăng lên bắt
nguồn từ phía cầu nhanh hơn phía cung thì gọi là lạm phát cầu kéo (Demand pull
inflation); ngược lại nếu giá tăng lên do chi phí đầu vào ở các doanh nghiệp sản
xuất hàng hoá tăng lên (như: lãi suất vay vốn, chi phí xăng dầu, thuế, lương nhân
viên…) làm cho tổng cung bị sụt giảm, hàng hoá thiếu hụt và làm cho giá cả hàng
hoá tăng lên thì gọi là lạm phát chi phí đẩy (Cost push inflation).
Các nhà kinh tế học tiếp cận nhiều cách khác nhau về chủ đề lạm phát và mỗi
nhóm có luận cứ riêng của mình để giải thích cho nguyên nhân tác động làm cho giá
hàng hoá tăng lên. Tựu trung lại có các quan điểm sau đây:
1.1.3.1 Quan điểm lạm phát cầu kéo (Hay cầu dư thừa tổng quát)
Lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu là lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng
vượt mức cung hàng hoá của xã hội, dẫn đến áp lực tăng giá cả. Khi tổng cầu tăng,
tức có nhiều người mua và sẵn sàng mua hàng hoá, trong khi đó lượng cung không
-8-
tăng hoặc tăng ít hơn dẫn đến trên thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hoá.
Theo quy luật cung cầu thì giá cả thị trường sẽ tăng lên, tức xuất hiện lạm phát.
Chúng ta có thể giải thích qua mô hình tổng cầu (AD) và tổng cung(AS) như
sau: Khi có sự gia tăng một thành tố nào đó trong tổng chi tiêu, dẫn đến sự gia tăng
tổng cầu làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải từ AD0 đến AD1, làm cho
mức giá tăng lên từ P0 đến P1, và lạm phát xảy ra. (tổng cầu (AD) = chi tiêu hộ gia
đình (C) + chi tiêu chính phủ (G) + đầu tư (I) + xuất nhập khẩu ròng (XM)). Tổng
cầu tăng lên bởi một số nguyên nhân:
- Chi tiêu của chính phủ tăng lên, tăng đầu tư của chính phủ
- Tiêu dùng các hộ gia đình tăng hoặc đầu tư khu vực tư nhân tăng
- Xuất khẩu ròng tăng trong nền kinh tế mở
Nguồn: Trích Mankiw, 2003
Hình 1-1: Lạm phát cầu kéo qua mô hình tổng cung, tổng cầu
Lạm phát hình thành khi có sự thay đổi mạnh mẽ trong tiêu dùng hoặc đầu tư.
Chẳng hạn khi có làn sóng mua sắm mới diễn ra thì giá các hàng hoá này sẽ tăng,
làm cho lạm phát tăng lên hoặc ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng biến động trong
nhu cầu đầu tư, sự lạc quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư, hay việc
tăng đầu tư của chính phủ vào cơ sở hạ tầng cũng như các công trình công cộng
khác làm cho tổng cầu tăng và dẫn đến giá cả hàng hoá tăng, hay lạm phát tăng.
-9-
1.1.3.2 Quan điểm lạm phát chi phí đẩy:
Lạm phát chi phí đẩy xảy ra khi đường tổng cung (AS) dịch chuyển sang trái
(AS0 đến AS1) do chi phí sản xuất tăng nhanh hơn năng suất lao động. Các loại chi
phí có thể gây ra lạm phát chi phí đẩy là tiền lương, thuế gián thu, lãi suất và giá
nguyên liệu nhập khẩu. Lạm phát chi phí đẩy trong nền kinh tế thường xảy ra khi
tiền lương tăng trước mà chưa có sự gia tăng của năng suất lao động hay mức giá
chung. Một khi tiền lương nhân công lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng
giá, nếu họ làm được điều này thì lạm phát sẽ gia tăng.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời tới tất cả các nhà sản
xuất (chẳng hạn thuế nhập khẩu) thì cũng có thể gây ra lạm phát vì nó tác động trực
tiếp đến giá hàng hoá. Ngoài ra, đối với các nước đang phát triển phải nhập khẩu
nhiều nguyên liệu từ bên ngoài mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được,
thì sự thay đổi giá cả của chúng sẽ tác động mạnh đến lạm phát trong nước.
Những yếu tố trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có gây tác động tổng
hợp làm cho lạm phát gia tăng. Khi đó các doanh nghiệp sẽ đối phó lại bằng cách
tăng giá cả hàng hoá để đảm bảo lợi nhuận và lạm phát xuất hiện mặc dù cầu về sản
phẩm của họ không tăng.
Nguồn: Trích Mankiw, 2003
Hình 1-2: Lạm phát chi phí đẩy qua mô hình tổng cung tổng cầu
-10-
1.1.3.3 Quan điểm lạm phát tiền tệ:
Lạm phát tiền tệ là lạm phát do lượng tiền trong lưu thông tăng lên, chẳng hạn
ngân hàng trung ương đưa lượng tiền lớn để mua ngoại tệ nhằm tránh đi sự mất giá
của đồng nội tệ trong nước, hoặc cũng có thể đưa lượng tiền lớn vào thị trường để
kích cầu nền kinh tế sau một thời gian suy giảm. Hoặc lượng tiền tăng lên cũng có
thể do tăng chi tiêu và đầu tư của chính phủ, hay tài trợ cho các khoảng thâm hụt
ngân sách…, từ đó gây áp lực cho lạm phát tăng cao. Chúng ta có thể lý giải vấn đề
này theo 2 lý thuyết sau:
Lý thuyết định lƣợng về tiền:
Gọi M là khối lượng tiền
V là vòng quay của tiền
P là mức giá chung
T là khối lượng giao dịch
Theo các nhà kinh tế học về thuyết lượng tiền thì chúng ta có phương trình
trao đổi như sau:
MV = PT (1.6)
Với giả thuyết T bằng với sản lượng Y của nền kinh tế và đường tổng cung
(AS) được giả định là cho trước và ở mức toàn dụng hay sản lượng đang ở
trạng thái cân bằng dài hạn.
AS = Y (1.7)
Với Y là sản lượng thực được cho bởi hàm sản xuất trong dài hạn, khi đó
tổng cầu AD được xác định
AD =(MV/P) (1.8)
Cân bằng trong thị trường hàng hoá và dịch vụ xảy ra khi AS = AD, do đó ta
có:
MV = PY (1.9)
Biến đổi phương trình (1.9) ta được phương trình sau:
lnM + lnV = lnP + lnY (1.10)
% thay đổi M + % thay đổi V = % thay đổi P + % thay đổi Y (1.11)
-11-
% thay đổi P = % thay đổi M + % thay đổi V - % thay đổi Y (1.12)
Theo các nhà kinh tế học tân cổ điển thì V là một hằng số không đổi trong
ngắn hạn (do yếu tố tài chính thì V trong ngắn hạn không thay đổi ngay
được), và Fisher đưa thêm giả định trong dài hạn Y là không đổi thì theo lý
thuyết lượng tiền điều gì sẽ xảy ra một khi có sự thay đổi của cung tiền. Như
vậy, giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi thì bất cứ sự gia tăng nào
của cung tiền sẽ dẫn đến sự gia tăng của GDP danh nghĩa. Vì các nhân tố sản
xuất và hàm sản xuất quyết định mức GDP thực tế và xem GDP thực tế
không đổi nên mọi sự thay đổi GDP danh nghĩa thể hiện ở sự thay đổi mức
giá. Vì vậy lý thuyết này cho rằng giá cả tỷ lệ thuận với cung tiền.
Lý thuyết ảnh hƣởng khoảng chênh lệch sản lƣợng lên tỷ lệ lạm phát:
Xét chính sách tiền tệ qua mô hình tổng cung tổng cầu như sau:
Nguồn: Trích Mankiw, 2003
Hình 1-3: Mô hình tổng cung – tổng cầu
Trong đó:
AD là tổng cầu; AS là tổng cung
Y là sản lượng thực tế ; Y* là sản lưởng tiềm năng
P là mức giá
-12-
Chính sách tiền tệ sẽ tác động đến tăng trưởng nền kinh tế thông qua các
kênh lan truyền như: tiêu dùng, đầu tư hay xuất nhập khẩu. Nếu mở rộng trên
các kênh này thì tổng cầu sẽ tăng, do đó sản lượng Y tăng. Ngược lại nếu thu
hẹp tiền tệ thì tổng cầu giảm và sản lượng Y giảm. Tuy nhiên, trong ngắn
hạn thì mở rộng tiền tệ làm tăng trưởng kinh tế nhưng trong dài hạn thì sẽ tạo
áp lực tăng giá hàng hoá và gây ra lạm phát. Cụ thể:
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng tại điểm (1) với mức
giá P1 và sản lượng tiềm năng Y*. Khi ngân hàng trung ương thực hiện mở
rộng chính sách tiền tệ (tăng tín dụng, giảm lãi suất) dẫn đến đầu tư, tiêu
dùng, xuất khẩu ròng gia tăng nên làm cho tổng cầu tăng và đường tổng cầu
AD1 được dịch chuyển sang phải AD2, điểm cân bằng mới của thị trường lúc
này là điểm (1’) với mức sản lượng Y’ (Y’>Y*) và mức giá P’(P’>P1). Tuy
nhiên trong dài hạn, khi sản lượng lớn hơn sản lượng tiềm năng (Y’>Y*), vì
các nguồn lực sản xuất đã được sử dụng vượt mức nền kinh tế thực có, do đó
tiền lương và chi phí sản xuất sẽ tăng lên làm cho đường tổng cung AS1 dịch
chuyển sang trái AS2, và điểm cân bằng mới lúc này là (2) và sản lượng quay
trở về sản lượng tiềm năng Y*, nhưng mức giá lúc này là P2 (P2>P1). Nếu
chính sách tiền tệ cứ tiếp tục nới lỏng thì đường tổng cầu AD sẽ tiếp tục dịch
chuyển sang phải và đường tổng cung AS cũng tiếp tục dịch chuyển sang trái
và kéo theo là giá hàng hoá tăng cao.
Như vậy có thể thấy, khi sản lượng đạt được sản lượng tiềm năng, ngân hàng
trung ương thực hiện mở rộng chính sách tiền tệ, làm cho sản lượng gia tăng
vượt mức sản lượng tiềm năng. Điều này trong ngắn hạn có thể tạo tăng
trưởng kinh tế, nhưng trong dài hạn thì sẽ tạo áp lực cho tăng giá hàng hoá và
gây sức ép cho lạm phát gia tăng.
1.1.3.4 Quan điểm lạm phát do yếu tố kỳ vọng:
Những năm 1970 trở lại đây, các nhà kinh tế học như: Robert E. Lucas; Thomas
J. Sargent; Neil Wallace thì cho rằng lạm phát chịu tác động nhiều bởi yếu tố kỳ
vọng. Hàm ý rằng, người ta có thể dự đoán lạm phát trong những năm tới bằng với
-13-
lạm phát của năm vừa qua hoặc trung bình của vài năm gần với hiện tại. Nếu dự
đoán như vậy gọi là kỳ vọng thích nghi. Nhưng họ cũng có thể không dựa vào quá
khứ để dự đoán tương lai mà còn sử dụng những thông tin hiện tại để giúp mình dự
đoán cho giai đoạn kế tiếp, với cách này, các nhà kinh tế học gọi là kỳ vọng hợp lý.
Các nhà kinh tế thuộc quan điểm này cho rằng: Nếu thông tin là đầy đủ thì việc tăng
cung tiền sẽ không ảnh hưởng gì đến sản lượng thực ngay cả trong ngắn hạn bởi vì
giá cả cũng tăng lên theo kỳ vọng của dân chúng. Ví dụ, các nhà quản lý thông báo
sẽ tăng cung tiền thì lập tức người dân sẽ dự báo giá cả hàng hoá sẽ tăng theo cho
dù dữ kiện trong quá khứ cho thấy giá cả đang có xu hướng giảm.
Nhóm các nhà kinh tế trên cũng nêu lên nếu người dân không biết được thông
tin về cung tiền sẽ tăng mà các nhà chức trách đã âm thầm làm việc này, thì sự thâm
hụt ngân sách là một dấu hiệu tích cực để người dân có thể tiên đoán cho lạm phát.
Nếu thâm hụt ngân sách triền miên được tồn tại thì phải có sự tài trợ từ phía ngân
hàng trung ương đồng nghĩa với việc cung tiền được mở rộng để bù đắp cho khoảng
thâm hụt ngân sách đó, điều này cũng rất phù hợp cho việc đáp ứng nhu cầu vốn để
thực hiện đầu tư công và công nghiệp hoá của nhà nước khi mà thị trường vốn còn
eo hẹp. Do vậy nguyên nhân gây lạm phát ở đây không phải là cung tiền mà là do
thâm hụt ngân sách của chính phủ tạo ra, hay khác hơn yếu tố kỳ vọng đóng vai trò
quan trọng trong chiều hướng lạm phát của nền kinh tế.
Trên đây là một số quan điểm của các trường phái kinh tế học bàn về lạm phát.
Mỗi quan điểm có điểm mạnh và điểm yếu khác nhau, nhưng tất cả cũng đã nêu lên
được các vấn đề hết sức phức tạp của lạm phát trong nền kinh tế.
1.1.4 Tác động của lạm phát đến nền kinh tế:
Lạm phát có thể tác động tích cực lẫn tiêu cực đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế
thông qua nhiều kênh khác nhau, với mức độ ảnh hưởng tổng thể khác nhau và phụ
thuộc vào cơ cấu của mỗi nền kinh tế.
1.1.4.1 Tác động tiêu cực:
Khi lạm phát xảy ra ngoài dự tính, nó tạo ra sự biến động thất thường về giá trị
tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các mối quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi
-14-
hoạt động kinh tế - xã hội. Dưới đây là một vài hậu quả của lạm phát gây ra cho nền
kinh tế và xã hội:
Tác động kìm hãm tăng trƣởng kinh tế:
Lạm phát tăng sẽ làm cho thu nhập của người lao động bị sụt giảm và kéo
theo các cuộc đình công đòi tăng lương với quy mô lớn, làm đình trệ hoạt
động sản xuất và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Lạm phát tăng cũng làm cho giá cả vật liệu, hàng hoá tăng theo, dẫn đến khu
vực sản xuất kinh doanh bị thu hẹp dần, buôn bán thương mại dịch vụ khủng
hoảng và trật tự kinh tế bị thay đổi. Bên cạnh đó, các lĩnh vực đầu tư cũng
gặp nhiều khó khăn cho việc xác định mức lợi ích đảm bảo cho các nhà đầu
tư, khiến cho các nhà đầu tư ngần ngại, nhất là các dự án đầu tư dài hạn, dẫn
đến làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Trong lĩnh vực lưu thông và phân phối, giá cả hàng hoá tăng lên gây ra tình
trạng đầu cơ tích trữ hàng hoá dẫn đến mất cân đối quan hệ cung cầu làm cho
rối loạn trong hệ thống phân phối hàng hoá và ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Lạm phát làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, đời sống dân cƣ khó khăn:
Khi lạm phát tăng lên, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên, hàm ý giá cả hàng
hoá tăng trong khi thu nhập của người lao động hầu như không tăng, do đó
đời sống người lao động ngày càng khó khăn hơn, đặc biệt tầng lớp lao động
làm công ăn lương trong các doanh nghiệp sản xuất. Bên cạnh đó, khi mức
giá chung tăng lên, lĩnh vực hoạt động sản xuất bị thu hẹp do chi phí đầu vào
tăng làm giảm đầu tư mở rộng sản xuất hay thu hẹp sản xuất hàng hoá, nên
tổng cầu công ăn việc làm giảm xuống do đó tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, các tệ
nạn xã hội cũng theo đó ngày càng nhiều hơn.
Tác động đến hệ thống tiền tệ:
Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, lạm phát tăng làm cho sức mua đồng tiền
giảm, lưu thông tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng
lên một cách đột biến do đồng nội tệ bị mất giá, làm cho sức mua của đồng
tiền giảm xuống nhanh chóng, hoạt động hệ thống tín dụng rơi vào khủng
-15-
hoảng do nguồn tiền gởi trong hệ thống sụt giảm và có sự chuyển dịch lớn từ
đồng tiền bản địa sang các đồng tiền khác ổn định hơn hay các tài sản khác
đảm bảo hơn (như vàng, bất động sản…). Ảnh hưởng này dẫn đến nhiều
ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và thua lỗ trong kinh
doanh, có thể dẫn đến phá sản, làm cho hệ thống tiền tệ rối loạn và mất kiểm
soát.
Tác động xấu đến cán cân thanh toán
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn lạm phát nước ngoài (có quan hệ mậu
dịch) thì giá cả hàng hoá trong nước trở nên đắt đỏ hơn so với giá cả hàng
hoá nhập khẩu, do đó làm giảm hàng hoá xuất khẩu và tăng nhập khẩu, làm
xấu đi tình trạng tài khoản vãng lai. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với bội chi tài
khoản vãng lai có thể tạo nên tâm lý trông đợi sự giảm giá của đồng nội tệ so
với ngoại tệ, làm cho áp lực tăng tỷ giá. Tỷ giá tăng làm cho mức giá chung
tăng lên ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hoá và tác động đến cán cân
thanh toán của quốc gia.
Các tác động khác
Có thể nói lạm phát đã tác động rất nhiều đến các mặt hoạt động kinh tế - xã
hội, khi lạm phát tăng cao, kéo dài và không dự đoán được làm cho nguồn
thu ngân sách bị giảm sút và nền sản xuất hàng hoá bị suy thoái, hệ thống
thông tin bị phá huỷ, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian từ
đó gây khó khăn về kinh tế và xã hội.
1.1.4.2 Tác động tích cực:
Lạm phát không chỉ có tác động xấu đến nền kinh tế mà nó cũng được xem là
một trong các yếu tố giúp nền kinh tế phát triển thông qua việc khuyến khích huy
động vốn và tăng tính linh hoạt trong giá cả. Tỷ lệ lạm phát vừa phải và có tính ổn
định có thể giúp bôi trơn thị trường hàng hoá, tạo công ăn việc làm, tăng đầu tư sản
xuất và phân bổ hiệu quả nguồn lực kinh tế, tạo động lực để đạt được mục tiêu tăng
trưởng ổn định lâu dài.
-16-
1.1.5 Các yếu tố đƣợc xem xét khi nhắc đến lạm phát:
Từ lý thuyết cho thấy vấn đề lạm phát không phải là mới nhưng khi xem xét thì
khá phức tạp. Lạm phát vẫn luôn là vấn đề nóng và chiếm sự quan tâm đặc biệt cho
các nhà làm chính sách, các nhà kinh tế học và cho cả người lao động. Các nhà
hoạch định chính sách kinh tế luôn nghĩ làm cách nào để có thể tác động và kiểm
soát được lạm phát, các công cụ nào sẽ hỗ trợ cho kiểm soát lạm phát ổn định. Đó là
chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá là hai công cụ hỗ trợ mạnh mẽ cho
chính phủ kiểm soát lạm phát. Việc thay đổi lãi suất thông qua các quyết định của
ngân hàng trung ương được xem là những chìa khoá chủ yếu để giải quyết bài toán
lạm phát. Bên cạnh đó, thông qua thuế, thu chi ngân sách chính phủ cũng có thể tác
động đến lạm phát giúp ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng đạt
được như ý muốn, một chính sách dù tiền tệ hay tài khoá khi đưa ra sẽ tác động đến
nhiều yếu tố trong nền kinh tế, và có thể làm cho chúng ta càng khó kiểm soát hơn.
Do đó, khi đưa ra các chính sách cần chú ý đến sự phản ứng của các yếu tố khác
như: tỷ giá, mức cung tiền, lãi suất, chi tiêu công, chính sách thuế, mức nợ công,
chính sách an sinh xã hội,…
1.2 KHÁI QUÁT MÔ HÌNH VAR: (Còn gọi là mô hình tự hồi quy véc tơ VAR)
1.2.1 Lý thuyết mô hình VAR: (Vector Autoregression – tự hồi quy véc tơ)
Như chúng ta biết, mối quan hệ giữa các biến số kinh tế không đơn thuần chỉ
theo một chiều, biến độc lập (biến giải thích) ảnh hưởng đến biến phụ thuộc và
trong nhiều trường hợp còn có sự ảnh hưởng ngược lại. Do đó, chúng ta phải xét
đến ảnh hưởng qua lại giữa các biến này cùng một lúc. Mô hình kinh tế lượng được
ứng dụng rộng rãi trong phân tích tác động giữa các biến số kinh tế mà ta xét đến
sau đây không phải là mô hình một phương trình mà là mô hình nhiều phương trình.
Tuy nhiên, để ước lượng được các mô hình này ta phải đảm bảo rằng các
phương trình trong hệ được định dạng, một số biến được coi là nội sinh (biến mà
giá trị được xác định bởi mô hình, là biến ngẫu nhiên) và một số biến khác được coi
-17-
là ngoại sinh hay đã xác định trước (ngoại sinh cộng với nội sinh trễ). Việc định
dạng này thường được thực hiện bằng cách giả thiết rằng một số biến được xác định
trước chỉ có mặt trong một số phương trình. Quyết định này thường mang tính chủ
quan và đã bị Chrishtopher Sims chỉ trích.
Albert Christopher Sims, một nhà khoa học kinh tế người Mỹ đã được trao giải
Nobel Kinh tế năm 2011 cùng Thomas J. Sargent với báo cáo nghiên cứu xây dựng
mô hình VAR. Ông cho rằng nếu có đồng thời giữa một tập hợp các biến thì tất cả
phải được xem xét trên cùng một cơ sở, hàm ý các biến được xem xét phải có vai
trò như nhau, không phân biệt biến nội sinh hay ngoại sinh. Dựa trên quan điểm
này, Ông tiến hành xây dựng mô hình VAR của mình:
Xét hai chuỗi thời gian Xt và Yt, mô hình VAR tổng quát với hai biến Xt và Yt
mà Sims xây dựng có dạng:
Trong đó : e là sai số ngẫu nhiên (phần dư)
n là độ trễ của các biến
Mô hình VAR hay còn gọi mô hình tự hồi quy véc tơ là do sự xuất hiện của giá
trị trễ của biến phụ thuộc trong vế phải và chúng ta làm việc với nhiều biến cùng
lúc.
Với hệ phương trình do Sims xây dựng trên đây, VAR đã được sử dụng phổ biến
rộng rãi cho việc phân tích sự tác động qua lại giữa các biến số trong các lĩnh vực
kinh tế, tài chính, đặc biệt là phân tích sự ảnh hưởng giữa các biến số kinh tế vĩ mô
và từ đó đưa ra giải pháp chính sách kinh tế phù hợp.
1.2.2 Ứng dụng mô hình VAR và một số nghiên cứu về lạm phát:
Mô hình VAR được ứng dụng rộng rãi trên khắp thế giới, và nó cũng được giảng
dạy ở các trường đại học và sau đại học. Có rất nhiều công trình nghiên cứu ở bậc
-18-
thạc sỹ và tiến sỹ sử dụng mô hình VAR trong nghiên cứu của mình, và đồng thời
cũng có nhiều ứng dụng trong phân tích biến số vĩ mô nhằm hỗ trợ cho hoạch định
chính sách kinh tế. Sau đây, là một số nghiên cứu ứng dụng cụ thể:
1.2.2.1 Các nghiên cứu ở nước ngoài:
Canova Fabio and Luca Gambetti (2006) với nghiên cứu “The structural dynamics of output growth and inflation: some international evidence” sử
dụng mô hình VAR để phân tích đóng góp của chính sách tiền tệ đến những thay đổi sản lượng và động lực lạm phát ở Mỹ và so sánh với các quốc gia ở
khu vực EURO. Các biến số được sử dụng trong mô hình là lãi suất ngắn hạn, tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng sản lượng và tốc độ gia tăng cung tiền. Nhóm tác giả phân tích các cú sốc chính sách tiền tệ đến nền kinh tế của Mỹ và được thể hiện qua phương trình:
(1.17) Yt = A0,t + A1,tYt-1 + … + Ap,tYt-p + εt
Trong đó: Yt là véc tơ bao gồm các biến: lãi suất, cung tiền, tỷ lệ lạm phát,
tăng trưởng sản lượng và Ai,t là ma trận hệ số của các thời gian khác nhau.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các cú sốc chính sách có dấu hiệu tác động
mạnh mẽ đến động lực tăng trưởng và lạm phát ở Mỹ và giữa các quốc gia.
Mô hình VAR nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát
trên 7 quốc gia Đông Á của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS)
Năm 2002, Bank for International Settlements (by Ben S C Fung, BIS,
2002) sử dụng mô hình VAR để phân tích tác động của chính sách tiền tệ đến
các nước Đông Á bao gồm: Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines,
Singapore, Đài Loan, Trung Quốc và Thái Lan. Ngân hàng thanh toán quốc
tế (dựa theo báo cáo của Bernanke and Mihov, 1998) xây dựng hệ phương
trình cho mô hình kinh tế động như sau:
-19-
Các Bi, Ci, Di, Gi, Ay, và Ap là ma trận hệ số vuông;
Các Yt vector bao hàm các biến phi chính sách vĩ mô như sản lượng, giá cả;
Các Pt vector bao hàm các biến chính sách hay biến tiền tệ như lãi suất.
Các biến sử dụng trong mô hình là: tỷ giá, CPI, cung tiền M2, tín dụng, lãi
suất, giá hàng hoá và cung tiền của Mỹ. Mô hình VAR cơ bản theo BIS trả
lời cho các câu hỏi liệu các yếu tố tiền tệ (lãi suất, tín dụng) có đóng vai trò
quan trọng trong việc xác định lạm phát hay không? Kết quả chứng minh các
biến lãi suất, tín dụng có ảnh hưởng đến lạm phát và có thời gian trễ khác
nhau. Đặc biệt là tỷ giá có tác động khác nhau đến các nền kinh tế của các
nước và có đóng góp nhỏ vào chính sách tiền tệ, ngược lại lãi suất tham gia
nhiều vào thiết lập chính sách tiền tệ cho các nước.
Disyatat and Vongsinsirikul (2003) với báo cáo ” Monetary policy and the
transmission mechanism in Thailand” cũng sử dụng mô hình VAR với số
liệu từ 1993 – 2001 để phân tích cơ chế lan truyền chính sách tiền tệ, sự tác
động của nó đến tăng trưởng và lạm phát ở Thái Lan. Mô hình gồm các biến:
sản lượng, mức giá và biện pháp của chính sách tiền tệ (lãi suất). Báo cáo đi
đến kết luận: chính sách thắt chặt tiền tệ dẫn đến sản lượng sụt giảm, đầu tư
dường như là thành phần nhạy cảm nhất của tổng sản phẩm trong nước
(GDP) với những cú sốc của chính sách tiền tệ.
1.2.2.2 Các nghiên cứu trong nước:
Ở Việt Nam, mô hình VAR cũng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
như tài chính, ngân hàng, chứng khoán hay dự báo. Dưới đây, tác giả chỉ có thể nêu
một vài ứng dụng trong phân tích các biến số kinh tế vĩ mô, đặc biệt là phân tích về
tăng trưởng và lạm phát của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây:
Camen (2006) với báo cáo “Monetary Policy in Vietnam: The Case of a
transition Country” sử dụng mô hình VAR cơ bản với hệ thống gồm tám
biến kinh tế: tỷ giá VND/USD, CPI, cung tiền M2, tín dụng, lãi suất cho vay,
giá xăng, giá gạo, cung tiền M3 của Mỹ, nghiên cứu lạm phát trong thời kỳ
1996 – 2005. Kết quả thực nghiệm cho thấy tín dụng là nhân tố chủ yếu tác
-20-
động đến lạm phát trong 24 tháng. Hệ thống bao gồm cả biến tín dụng và lãi
suất cho vay cho thấy biến tín dụng giải thích đến 18% tỷ lệ lạm phát, trong
khi lãi suất cho vay lại không có ý nghĩa thống kê. Giá xăng, giá gạo cùng
với sự thay đổi trong tỷ giá cũng là nhân tố quan trọng đối với sự biến động
lạm phát. Bên cạnh đó, cung tiền M3 Mỹ cũng cho thấy ý nghĩa thống kê
cao.
Nguyễn Thị Thuỳ Vinh và S. Fujita (2007) với báo cáo “The impact of
real exchange rate on output and inflation in Vietnam: A VAR Approach”.
Tác giả bài viết sử dụng cách tiếp cận mô hình VAR để nghiên cứu sự tác
động của tỷ giá hối đoái thực lên sản lượng đầu ra và lạm phát ở Việt Nam
diễn ra từ 1992 – 2005. Các biến số trong mô hình: Sản lượng công nghiệp,
CPI, tỷ giá, cung tiền, thâm hụt thương mại và lãi suất của Mỹ (Lãi suất Mỹ
xem là biến ngoại sinh). Mô hình quan tâm nhiều về sự tác động của tỷ giá
đến các biến số khác, kết quả cho thấy tác nhân chính gây ra sự biến động
của sản lượng là chính nó, còn tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng mạnh đến cán
cân thương mại và sản lượng hơn là tác động đến lạm phát.
Phạm Thế Anh (2008) với báo cáo “Ứng dụng mô hình SVAR1 trong việc
xác định hiệu ứng chính sách tiền tệ và dự báo lạm phát Việt Nam”. Các
biến số được phân tích trong mô hình gồm: Sản lượng công nghiệp, giá dầu
quốc tế, lạm phát trong nước, cung tiền M2 và lãi suất. Kết quả nghiên cứu
cho thấy tăng trưởng và lạm phát sẽ giảm khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện
thắt chặt tiền tệ, lạm phát phản ứng chậm hơn so với tăng trưởng do tính
cứng nhắc của giá cả hoặc do độ trễ của hiệu ứng chính sách. Đồng thời cũng
cho thấy giá dầu tương đối độc lập với nền kinh tế Việt Nam do chính sách
trợ giá của Chính phủ.
Nguyễn Phi Lân (2008) “Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích
định lượng”. Tác giả dùng mô hình SVAR phân tích sự tác động của các yếu
1 Mô hình SVAR là mô hình cấu trúc VAR
tố (gồm biến bên ngoài: CPI thế giới, sản lượng công nghiệp Hoa Kỳ, chỉ số
-21-
CPI Hoa Kỳ, lãi suất công bố của FED, và biến trong nước gồm: Sản lượng
công nghiệp, chỉ số CPI, cung tiền M2, lãi suất, tỷ giá hối đoái) nhằm đóng
góp cho chính sách tiền tệ phục vụ điều hành kinh tế vĩ mô. Kết quả mô hình
cung tiền có tác động đến tăng trưởng kinh tế nhưng mức độ tác động là chưa
lớn mặc dù cung tiền đã tăng rất mạnh trong thời gian dài. Các yếu tố bên
ngoài có tác động đến tỷ giá nhưng không nhiều do tỷ giá bị động bởi chính
sách điều hành tỷ giá của Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu cũng cho biết CPI
nhạy cảm và phản ứng mạnh bởi động thái thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước.
1.2.3 Ƣu nhƣợc điểm của mô hình VAR:
Ƣu điểm
- Ưu điểm nổi bậc của mô hình VAR là không cần phải xác định biến nội
sinh hay biến ngoại sinh;
- Ứng dụng dễ dàng trong việc khảo sát mối quan hệ nhân quả giữa các
biến số trong nền kinh tế;
- Giá trị của một biến số trong mô hình VAR chỉ phụ thuộc vào giá trị
trong quá khứ của các biến số, do đó việc ước lượng các phương trình
không đòi hỏi các thông tin nào khác ngoài các biến số của mô hình. Vì
không có đồng thời mối quan hệ giữa các biến số nên người ta có thể sử
dụng OLS để ước lượng từng phương trình của mô hình.
- Ứng dụng trong dự báo trung và dài hạn.
Nhƣợc điểm
- Mô hình đòi hỏi tất cả các biến phải có tính dừng hay là biến dừng (Khái
niệm dừng được trình bày trong phụ lục 1).
- Khó khăn mô hình VAR là lựa chọn khoảng trể thích hợp.
- Đòi hỏi của VAR là các biến phải dừng cùng bậc. Đây là việc khó khăn
cho người ứng dụng, nếu các chuỗi dữ liệu không có tính dừng thì chúng
ta phải biến đổi để được các chuỗi dừng và việc này không phải là dễ
dàng.
-22-
- Các hệ số trong mô hình VAR ước lượng thường khó giải thích về dấu
của các hệ số, có thể cùng một biến nhưng ở các độ trễ khác nhau lại có
dấu khác nhau. Do đó người ta thường sử dụng hàm phản ứng (Impulse
Response Function, IRF) để giải thích. IRF phát hiện phản ứng của biến
phụ thuộc trong VAR đối với các cú sốc của các số hạng sai số nhưng giá
trị sử dụng phân tích IRF bị nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ (Chương
trình kinh tế Fulbright, Xuân Thành dịch, 2001, [2]).
-23-
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 đã tổng quan những lý luận cơ bản về lạm phát, đưa ra những quan
điểm khác nhau về vấn đề lạm phát, nguyên nhân gây ra lạm phát và sự tác động
của nó đến tình hình kinh tế xã hội. Các trường phái này đều có lập luận lý thuyết
và thực nghiệm riêng để giải thích cho quan điểm của mình và chúng ta có lẽ không
ai phủ nhận các kết luận của họ mà thậm chí còn nhắc đến nhiều khi bàn luận về
lạm phát. Điều khiến mọi người quan tâm là khi lạm phát tăng lên quá mức sẽ gây
những tác động tiêu cực cho nền kinh tế và đời sống của người dân.
Trong chương 1 này, tác giả cũng khái quát phương pháp mô hình VAR (véc tơ
hồi qui VAR) và một số ứng dụng của nó trong thực tiễn. Và đây cũng là vấn đề mà
tác giả sẽ đề cập ở chương 2 trong việc ứng dụng mô hình phân tích các nhân tố tác
động lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
===========================
-24-
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2012
VÀ KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
2.1. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2012:
Năm 1986, Đại hội Đảng VI diễn ra và xác định rõ phải thay đổi hướng đi cho
nền kinh tế, bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thừa nhận kinh tế tư nhân. Đồng
thời Chính phủ ban hành hàng loạt các quyết định hỗ trợ cho việc đổi mới kinh tế,
cụ thể: xoá bỏ quan liêu bao cấp không chỉ với lĩnh vực đời sống mà còn với lĩnh
vực sản xuất, phân phối nguồn lực, trao quyền tự chủ cho xí nghiệp quốc doanh,
xoá bỏ ngăn sông cấm chợ với thị trường trong nước và bước đầu với thị trường
ngoài nước (Phạm Minh Chánh và cộng sự, 2009, trang 95, [10]). Không lâu sau
khi đổi mới, nền kinh tế đón nhận những dấu hiệu cải thiện tích cực, dường như tất
cả sự dồn nén bấy lâu nay được cởi bỏ, tâm lý hứng khởi đến với mọi người, mọi
nhà trong việc sản xuất hàng hoá, nên nhà nhà đua nhau sản xuất, người dân tăng
gia sản xuất rầm rộ khắp nơi, sản phẩm hàng hoá được làm ra tăng nhanh, lưu thông
hàng hoá diễn ra mạnh mẽ, và tình trạng loạn giá được chấm dứt, lạm phát phi mã
trước đó cũng được chặn đứng và nền kinh tế Việt Nam bắt đầu sang trang.
Cùng thời gian này, thách thức đặt ra đối với các nhà quản lý cũng như các học
giả kinh tế là hoạch định các chính sách hỗ trợ vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị
trường. Từ đó các nhà chức trách cùng các nhà khoa học kinh tế quan tâm nhiều
hơn đến các nhân tố vĩ mô tác động đến nền kinh tế. Một trong các yếu tố đó là lạm
phát, nó được đề cập đến nhiều hơn mỗi khi có sự biến động về giá hàng hoá trong
thị trường (Vì trước đổi mới, nền kinh tế được quản lý và vận hành theo cơ chế giá
tập trung, giá cả được quản lý toàn diện, không do thị trường vận hành và do vậy
không có cơ sở cho sự lo ngại về giá cũng như các biến số kinh tế vĩ mô khác như
lãi suất, thất nghiệp, tăng trưởng…). Bởi thế mà số liệu về lạm phát được thống kê
ghi nhận thường xuyên hơn nhằm hỗ trợ cho việc phân tích và tìm kiếm giải pháp
-25-
cho việc hạn chế lạm phát tăng cao. Số liệu về diễn biến lạm phát trong thời kỳ đổi
mới đến 2012 được mô tả như sau:
Bảng 2-1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1987 – 2012
Lạm phát Tăng trưởng Lạm phát Tăng trưởng Năm Năm (%) (%) (%) (%)
3,63 2000 -0,60 8,40 1987 223,10
6,01 2001 0,80 8,20 1988 393,80
4,68 2002 4,00 8,47 1989 34,70
5,10 2003 3,10 6,23 1990 67,10
5,80 2004 9,50 7,80 1991 67,50
8,60 2005 8,50 8,40 1992 17,50
8,10 2006 6,60 8,20 1993 5,20
8,80 2007 12,63 8,47 1994 11,40
9,60 2008 19,89 6,23 1995 12,70
9,30 2009 6,88 5,32 1996 4,50
8,80 2010 9,21 6,78 1997 3,60
6,10 2011 18,68 5,89 1998 9,20
7,80 2012 6,81 5,03 1999 0,10
Nguồn: Tổng cục thống kê, NGTK thế kỷ 20 và các năm 2004, 2008, 2012
Căn cứ vào xu hướng biến động của tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở
bảng 2-1, luận văn phân kỳ diễn biến lạm phát thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn bắt đầu đổi mới đến 1991 là giai đoạn lạm phát cao. Đặc biệt các
năm 1986, 1987, 1988 là những năm xảy ra siêu lạm phát, tỷ lệ lạm phát tăng
lên 3 con số, với những hậu quả khôn lường, đời sống của đại bộ phận dân
cư bị suy giảm nghiêm trọng.
Giai đoạn 1992 – 1998 là giai đoạn có nền kinh tế ổn định và phát triển.
Thời kỳ này, Chính phủ có những thành công đáng khích lệ trong việc điều
hành chính sách kinh tế, lạm phát được kiểm soát và kinh tế tăng trưởng cao.
-26-
Giai đoạn 1999-2003 là giai đoạn thiểu phát. Giai đoạn này, nước ta đối mặt
với tình hình thiểu phát đi cùng với đà tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Giai đoạn 2004 – 2012 là giai đoạn lạm phát cáo đi kèm có tính chu kỳ của
lạm phát.
2.1.1 Giai đoạn 1990 – 1991:
Số liệu thống kê trong bảng 2-1 cho thấy, trong thập niên 80 lạm phát phi mã đã
diễn ra và hàng loạt các chính sách được vận dụng như: cắt giảm in tiền, tự do hoá
kinh tế, … để đẩy lùi lạm phát. Song song với các chính sách đó là hoạt động tăng
gia sản xuất của nhân dân diễn ra mạnh mẽ, kết quả năm 1988 lạm phát là 393,89%
giảm xuống còn 67,1% năm 1990, thực tế đó tạo cho công chúng có tâm lý tin
tưởng vào một chính sách kinh tế mới mẻ và tươi sáng hơn. Do vậy, người dân
không còn tích trữ hàng hoá, vàng hay đô la nữa mà bắt đầu có sự tích luỹ tiền đồng
trong nước, và tình trạng xuất khẩu được cải thiện. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn chưa
ổn định, lạm phát vẫn còn ở mức cao 67%. Chính phủ đã đẩy mạnh việc thực thi
nhiều chính sách kinh tế khác nhau để bù đắp những tác động tiêu cực từ lãi suất, vì
vậy tỷ lệ lạm phát bắt đầu có xu hướng giảm (1992 lạm phát 17,5%) và tăng trưởng
kinh tế đã tăng lên. Và đặc biệt hơn là Việt Nam đã có xuất khẩu dầu thô trong giai
đoạn này.
2.1.2 Giai đoạn 1992 – 1998:
Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn này tương đối tốt, tăng trưởng cao. Tự do
hoá thương mại và nguồn vốn vào trong nước đã giúp tháo gỡ những vấn đề về cán
cân thanh toán và thâm hụt ngân sách.
Nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô giai đoạn này cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho thâm
hụt ngân sách và giảm sức ép tài trợ cho ngân sách nhà nước, giảm áp lực lên lạm
phát, kết quả là lạm phát giảm xuống còn 17,5% năm 1992 và 12,7% năm 1995.
Đồng thời tăng trưởng thời kỳ này cũng ổn định khoảng 7,6%. Kết quả đạt được
trên là thành tựu to lớn của Việt Nam trong điều hành kinh tế và tạo bước khởi đầu
cho hội nhập ASEAN và quốc tế.
-27-
Những năm 1995, chứng kiến khủng hoảng châu Á nổ ra năm 1997 và hệ quả là
giá cả thế giới và tổng cầu hàng hoá giảm mạnh. Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi
diễn biến này nên tốc độ tăng trưởng giảm và có chiều hướng suy thoái vào năm
1999. Tuy nhiên Việt Nam không phải là quốc gia có tự do hoá hoàn toàn nên các
kênh lan truyền khủng hoảng ảnh hưởng đến nền kinh tế có độ trễ hơn so với các
nước trong khu vực.
2.1.3 Giai đoạn 1999 – 2003:
Lạm phát thời kỳ này được đánh dấu ở mức thấp và thậm chí còn giảm phát nhẹ
vào năm 2000 với tỷ lệ lạm phát -0,6%, và lãi suất cơ bản được áp dụng thay thế
trần lãi suất cho vay vào tháng 8/2000 tạo cơ chế thông thoáng hơn cho hỗ trợ
nguồn vốn nhằm mục đích phục hồi kinh tế.
Nguồn: Tổng cục Thống kê, NGTK thế kỷ 20 và các năm 2004, 2008, 2012
Hình 2-1: Tỷ trọng đầu tƣ trong GDP của Việt Nam 1990 – 2012 (%)
Để ngăn chặn chiều hướng suy thoái của nền kinh tế giai đoạn 1999 - 2000,
Chính phủ nỗ lực bằng việc kích cầu nền kinh tế thông qua đầu tư. Kết quả chương
trình này là đầu tư công và đầu tư tư nhân tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 1995 đầu
tư công chiếm 42% trong tổng đầu tư xã hội thì năm 2001 tỷ lệ này tăng trên 59%.
Hơn nữa, đầu tư tăng nhanh còn thể hiện qua tỷ trọng đầu tư so GDP, năm 1990 tỷ
lệ này là 18,09% thì năm 2004 đã là 40,68%, và năm 2007 là 46,53%. Chính sự
tăng lên của đầu tư, tăng trưởng của Việt Nam đã được khôi phục nhưng đồng thời
-28-
cũng tạo cho áp lực tăng giá hàng hoá. Do đó có nhiều nhận định sự tăng lên của tỷ
trọng đầu tư ngày càng nhiều và kéo dài đã tạo ra giả thuyết rằng đây là nguyên
nhân ban đầu và khơi nguồn cho lạm phát những năm sau (hình 2-1).
2.1.4 Giai đoạn 2004 – 2012:
Sau giai đoạn ổn định ở mức thấp, lạm phát bắt đầu tăng trở lại với tỷ lệ 9,5%
vào năm 2004 vượt mục tiêu kiểm soát 6% mà Chính phủ đề ra. Kết hợp khủng
hoảng châu Á đã đi qua, tổng cầu bắt đầu phục hồi, tổng cầu gia tăng cùng với sự
gia tăng tiền lương danh nghĩa ở khu vực nhà nước và khu vực FDI trong năm 2003
tác động làm cho lạm phát tăng nhẹ, giá các hàng hoá lương thực tăng 15,5%, nhóm
hàng phi lương thực tăng 5,2% trong năm 2004 (Nguyễn Đức Thành, 2011, trang
159, [6]). Chính sự gia tăng của tổng cầu cộng thêm gia tăng của các nhóm hàng
hoá, kết hợp cú sốc từ dịch cúm gia cầm cùng thời điểm đó đã tạo cơ hội cho lạm
phát tăng mạnh lên 9,5% trong năm 2004 (lạm phát năm 2003 là 3,1%).
Nguồn : Tổng cục thống kê GSO và ADB: Key Indicaters for Asia 2013
Hình 2-2: Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng cung tiền so năm trƣớc từ 2000 – 2012 (%)
Trước tình hình đó, lo lắng lạm phát quay trở lại, Ngân hàng Nhà nước thực hiện
thắt chặt tiền tệ bằng việc tăng lãi suất và giữ cố định tỷ giá. Nhưng các giải pháp
giai đoạn này không cho hiệu quả nhiều so với các năm 2000 – 2003, lạm phát sau
khi giảm nhẹ vào năm 2006 đã bắt đầu tăng trở lại vào 2007 là 12,63% và tăng
mạnh vào năm 2008 là 19,89%. Cũng trong năm 2007, Việt Nam chính thức gia
-29-
nhập WTO và dòng vốn đầu tư từ nước ngoài tràn vào làm cung tiền tăng mạnh,
đẩy giá chứng khoán và giá tài sản khác (đặc biệt là bất động sản) lên cao chóng
mặt, làm cho cung tiền tăng mạnh vào năm 2007 và đây được xem là nguyên nhân
chính gây lạm phát cho năm 2008 và được mô tả trong hình 2-2.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 – 2009 đã góp phần làm giảm lạm phát
ở Việt Nam. Giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm giúp Việt Nam đảo ngược xu
thế tăng giá trong năm 2008 và lạm phát được giảm xuống mức 6,88% trong năm
2009. Nhưng ngay sau đó, lạm phát tăng trở lại vào năm 2010 là 9,21% và tăng
mạnh năm 2011 là 18,68%. Theo thống kê, trong năm 2011 có tới 5/11 nhóm hàng
hoá trong rổ tăng giá mạnh từ 12% đến 20% so tháng 12 năm trước, đặc biệt là tăng
giá hàng hoá ở các thành phố lớn. Lúc này, Chính phủ phải thực thi các chính sách
kinh tế như tăng tỷ lệ dự trữ trong ngân hàng, hỗ trợ bình ổn giá hàng hoá, giảm lãi
suất huy động … và lạm phát quay trở lại năm 2012 là 6,81%.
Trong năm 2012, Chính phủ đã thực hiện rất tốt công việc kiềm chế lạm phát,
tuy nhiên khi đánh giá kết quả này, nhiều chuyên gia nhận định lo lắng về sự biến
động thất thường của lạm phát. Theo ông Nguyễn Thạc Hoát cảnh báo: “Nhà nước
phải trả giá bằng việc giãn thời gian điều chỉnh giá một số hàng hoá, dịch vụ do
Nhà nước định giá và kiểm soát và chưa hỗ trợ cải thiện tổng cầu nền kinh tế giảm,
sản xuất kinh doanh khó khăn, thất nghiệp tăng”[16]. Cũng đồng tình với quan
điểm về sự bất thường của lạm phát nêu trên, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho
rằng: “Lạm phát thấp nhưng lo nhiều hơn mừng, bởi giá giảm không phải vì năng
suất, chất lượng, hiệu quả tăng mà do sức mua suy kiệt”[16]. Lạm phát năm 2011
thể hiện rõ gồm lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo, việc tung lượng tiền khá lớn vào
lưu thông cộng với đầu tư công tăng làm nhu cầu về nguyên vật liệu, nhiên liệu và
thiết bị công nghệ tăng, tạo cơ hội cho lạm phát bùng nổ. Và đây cũng là vấn đề mà
thời gian tới chúng ta cũng rất quan tâm, phải nhìn nhận một cách khách quan về
nguyên nhân của lạm phát trong những năm qua và như vậy mới có một chính sách
hợp lý trong việc ổn định lạm phát. Theo bà Ngô Thị Ánh Dương nhận định về
nguyên nhân gây lạm phát: “Mục tiêu thời gian tới vẫn là kiềm chế lạm phát của
-30-
Chính phủ, nhưng về lâu dài phải nhìn nhận nguyên nhân một cách căn cơ để việc
kiềm chế lạm phát mang tính lâu dài và ổn định chứ không phụ thuộc vào yếu tố
chủ quan”.[16]
2.2 NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN NGHIÊN CỨU:
Theo số liệu thống kê cho thấy giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng rất tốt, giai
đoạn thực hiện đổi mới bắt đầu phát huy tác dụng, tự do thương mại giúp nhà nước
tháo gỡ được nguồn vốn, cải thiện thâm hụt ngân sách. Mặc dù nền kinh tế đã được
cải thiện đáng kể nhưng lạm phát vẫn là nguy cơ tiềm ẩn, và một khi lạm phát xảy
ra thì nó ảnh hưởng nặng đến nền kinh tế. Việc xem xét tìm hiểu các nguyên nhân
gây ra lạm phát khá phức tạp và phụ thuộc vào từng giai đoạn kinh tế. Sau đây là
một số nguyên nhân được xem là cơ bản gây ra lạm phát trong thời gian qua:
2.2.1 Đầu tƣ công kém hiệu quả:
Lạm phát cao cứ qua đi rồi trở lại rất nhanh, tại sao là như thế? Với mục tiêu ưu
tiên hàng đầu là tăng trưởng, Chính phủ tập trung vào đầu tư, lượng vốn đầu tư toàn
xã hội tăng dần qua các năm, đặc biệt là vốn đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn và tăng
mạnh mẽ cho lĩnh vực xây dựng cơ bản nhưng lại thiếu đi việc kiểm soát hiệu quả
sử dụng vốn, đây sẽ là một trong các nhân tố đóng góp rất nhiều cho sự biến động
của lạm phát.
Để hỗ trợ cho tăng trưởng theo mục tiêu đề ra, Chính phủ thực hiện kế hoạch
đầu tư rất nhiều và thực sự đầu tư công đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đất
nước. Song việc đầu tư công mạnh mẽ nhưng chưa mang lại hiệu quả như mong
đợi, điều này đã làm cho lượng tiền tăng nhanh và được tích luỹ khá lâu, làm cho
tốc độ tăng lượng tiền nhanh hơn tốc độ tăng sản lượng sản xuất, tạo cơ hội cho giá
cả hàng hoá tăng cao và gây ra lạm phát. Bên cạnh đó, khi tăng đầu tư cũng đồng
nghĩa nhu cầu chi tiêu tăng, làm cho tổng cầu tăng mạnh, trong khi cung chưa đáp
ứng kịp do năng suất lao động thấp, từ đó tạo áp lực cho giá hàng hoá tăng cao.
Chúng ta hãy xem xét vấn đề hiệu quả đầu tư công gây ảnh hưởng đến nền kinh tế,
đặc biệt là tác động đến lạm phát gần đây qua một số điểm như sau:
-31-
Nguồn : Tổng cục Thống kê, NGTK thế kỷ 20, và 2004, 2008, 2012
Hình 2-3: Cơ cấu vốn đầu tƣ: ĐTNN, ĐTTN, FDI trong tổng đầu tƣ xã hội (%)
Thứ nhất, đầu tư công đóng vai trò như là người dẫn đường cho các thành phần
đầu tư khác trong xã hội, do đó nó phải có tỷ trọng nhỏ trong tổng đầu tư. Nhưng
theo số liệu thống kê (hình 2-3) về vốn đầu tư của Việt nam hiện nay, đầu tư công
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư toàn xã hội (đầu tư công chiếm gần 50%, đầu
tư tư nhân chiếm khoảng 30% và đầu tư FDI chiếm 20% trong tổng đầu tư toàn xã
hội), trong khi đó sự đóng góp cho tăng trưởng là rất thấp (đầu tư công đóng góp
khoảng 30%, đầu tư tư nhân đóng góp 48% và FDI đóng góp 22% trong GDP).
Điều đó cho thấy lượng tiền lớn của đầu tư công chỉ mang lại một ít hiệu quả, kết
hợp năng suất lao động thấp làm cho tốc độ tăng của sản phẩm hàng hoá thấp hơn
nhiều so với tốc độ tăng lượng vốn đầu tư, dẫn đến tạo áp lực lớn cho tăng giá sản
phẩm hàng hoá của khối nhà nước, từ đó kéo theo giá các hàng hoá trong xã hội
tăng theo và gây áp lực cho lạm phát. Đồng quan điểm này, một số chuyên gia kinh
tế đưa ra nhận định về hiệu quả của đầu tư công: Chúng ta đang bỏ ra 8 đồng cho
đầu tư công để tăng 1 đồng GDP [18], hay nhận định tại hội thảo báo cáo kinh tế
sau 5 năm gia nhập WTO vào ngày 03/4/2013 của Võ Trí Thành “8 tỉ USD đổi 1%
GDP tăng trưởng: quá đắt”[17]. Điều này càng cho thấy việc đầu tư nhiều và chưa
hợp lý, kết hợp tình trạng tham nhũng khắp nơi đã minh chứng cho hiệu quả đầu tư
-32-
công mang lại là vô cùng thấp, dẫn đến tình trạng lượng vốn lớn đưa vào lưu thông
được tích luỹ và tồn đọng ở các dự án, công trường khá lâu và gây áp lực cho lạm
phát tăng cao.
Thứ hai, việc đầu tư công mang lại hiệu quả thấp gây áp lực cho lạm phát còn
thể hiện qua kế hoạch đầu tư mang tính dàn trải, và phân bổ vốn chưa hợp lý. Theo
báo cáo tại Hội thảo kinh tế mùa Xuân năm 2012 đề cập đến việc đầu tư trên diện
rộng trong thời gian qua: Trong sáu tháng đầu năm 2010 Việt Nam đã có 22.497 dự
án (trong năm 2010 có khoảng 25.000 dự án) đang thực hiện đầu tư, với số vốn
thực hiện khoảng 180 nghìn tỷ đồng. Như vậy, mỗi tỉnh thành phố trực thuộc trung
ương có khoảng gần 400 dự án, mỗi dự án được phân bổ trung bình khoảng 7 tỷ
đồng và trung bình hơn 3 năm mới hoàn thành một dự án (Nguyễn Đình Cung,
2012,[5]). Với thời gian thực hiện các dự án như vậy, chúng ta chưa nói đến có thể
thu hồi vốn được hay không mà trong việc phân bổ vốn cho các dự án lớn nhỏ đã
thấy đây là một việc làm hết sức khó khăn. Điều đó đã dẫn đến tình trạng thiếu và
thừa vốn, gây cho đầu tư thiếu đồng bộ, thiếu bổ sung cho nhau giữa các dự án đầu
tư. Sự phân bổ nguồn vốn chưa hợp lý là một trong số các nguyên nhân làm chậm
tiến độ đầu tư, gây ra công trình dở dang vì thiếu vốn khắp nơi (dự án cảng Cái
Mép, cảng Vũng Rô, cảng Vân Phong…) gây lãng phí và kém hiệu quả. Tình trạng
đường tốt, cầu xấu, có cảng nhưng không có đường vào cảng, có cầu nhưng chưa có
đường lên cầu,.. không phải là hiện tượng cá biệt mà đã kéo dài nhiều năm qua, gây
ảnh hưởng nặng cho nền kinh tế.
Thứ ba, sự thiên lệch trong việc phân bổ nguồn vốn ở khu vực doanh nghiệp đã
gây thất thoát lượng lớn vốn đầu tư, gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, và tạo cơ
hội cho lạm phát tăng cao. Đặc biệt là sự thất thoát từ các doanh nghiệp nhà nước
được Nhà nước bảo lãnh cho vay vốn để thực hiện các kế hoạch nằm ngoài lĩnh vực
chuyên môn của mình. Câu chuyện của Vinashin, Vinalines là bài học đắt giá cho
việc làm đó và hậu quả để lại cho nền kinh tế là không thể diễn tả được.
Thứ tư, đầu tư công kém hiệu quả còn được thể hiện qua chỉ số ICOR từ 1995 –
2012 trong bảng 2-2 và so sánh với các nước khác vùng Đông, và Đông Nam Á,
-33-
qua đó cho thấy đầu tư không đúng hướng, kém hiệu quả trong thời gian dài là cơ
sở cho lạm phát tăng cao.
Bảng 2-2: Hệ số ICOR và tỷ lệ Đầu tƣ/GDP của Việt Nam giai đoạn 1995-2012
ICOR Đầu tƣ/GDP ICOR Đầu tƣ/GDP Năm Năm % % % %
1995 3,1 31,68 2004 4,9 40,68
1996 3,2 32,15 2005 4,7 40,89
1997 3,8 34,57 2006 5,0 41,54
1998 4,7 32,46 2007 5,5 46,53
1999 5,5 32,81 2008 7,8 41,53
2000 4,8 34,24 2009 8,8 42,75
2001 4,9 35,43 2010 5,7 41,92
2002 5,0 37,36 2011 5,9 34,63
2003 5,1 39,01 2012 6,7 30,48
Nguồn : NHNN và Tổng cục Thống kê:GSO
Nguồn: ADB, Key Indicaters for Asia and the Pacific 2013
Hình 2-4: Tỷ trọng Đầu tƣ/GDP so với các nƣớc Đông và Đông Nam Á (%)
Theo số liệu thống kê năm 2005, giai đoạn 2000 – 2005 nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn (64,63%), đóng góp của lao động vào tăng trưởng
là 19,25% (Vũ Tuấn Anh, 2010,[15]). So với một số nước Đông và Đông Nam Á, tỷ
trọng đầu tư trong GDP của Việt Nam thuộc loại đứng đầu (hình 2-4). Trong khi tỷ
trọng đầu tư so GDP ở hầu hết các nước có chiều hướng giảm thì tỷ lệ này của Việt
-34-
Nam lại tăng mạnh về sau, trong khi đó GDP tính trên đầu người của Việt Nam thấp
hơn nhiều so với các nước.
Nguồn : Vũ Tuấn Anh, 2011, “Đầu tư công ở Việt Nam 10 năm qua”
Hình 2-5: Đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc so GDP của một số nƣớc (%)
Nguồn : Tổng cục Thống kê (NGTK 2005, 2010, 2012)
Hình 2-6: CPI của Việt Nam và các nƣớc giai đoạn 2001 – 2011 (%)
Chúng ta cũng có thể so sánh dưới góc độ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và
lạm phát của Việt Nam với một số nước khác (hình 2-5 và hình 2-6). Từ đó có thể
nhận định rằng: Việc kinh tế phát triển nóng và lạm phát lặp đi lặp lại trong chu kỳ
ngắn hạn là khó tránh khỏi vì lượng lớn vốn đầu tư được sử dụng một cách kém
hiệu quả, gây thất thoát vốn và tạo áp lực tăng giá hàng hoá và kéo theo cơ hội cho
lạm phát leo thang.
-35-
Tóm lại, chúng ta không thể phủ nhận đóng góp của đầu tư công mang lại diện
mạo mới cho đất nước, nhưng việc đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn và mang tính dàn
trải đã dẫn tới việc phân bổ vốn thiếu hiệu quả, làm cho các công trình dở dang
ngày càng nhiều, gây thất thoát lớn cho nền kinh tế dẫn tới hiệu quả đầu tư công
thấp. Đầu tư không đúng hướng gây tồn đọng vốn không thu hồi được, kết hợp năng
suất lao động thấp đã làm tăng giá cả hàng hoá, tạo áp lực cho lạm phát leo thang và
kéo dài trong thời gian qua.
2.2.2 Chính sách tiền tệ:
Phải nói rằng nguyên nhân lạm phát được xét đến từ các học giả kinh tế cũng
như các nghiên cứu gần đây hầu hết là từ tiền tệ, tuy nhiên ảnh hưởng của các chính
sách tiền tệ lại có độ trễ, phải mất một thời gian thì mới phát huy hiệu quả của nó.
Việc nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ tác động đến cung tiền, tác động
đến dòng tiền chi tiêu và đầu tư của xã hội và từ đó tác động đến lạm phát. Năm
2000, Ngân hàng Nhà nước chuyển từ lãi suất trần sang lãi suất cơ bản, tạo điều
kiện cho cung cầu về vốn theo cơ chế thị trường và đưa quyền chủ động kinh doanh
về cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời, việc ban hành quy định lãi suất tín
dụng đầu tư phát triển năm 2001 giảm xuống còn 5,4%/năm là cơ hội để lãi suất
tiền gởi của hệ thống ngân hàng giảm, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho tiêu dùng
và đầu tư.
Với chính sách tiền tệ nới lỏng tạo cơ hội cho cung tiền tăng mạnh, bên cạnh đó
việc quản lý tỷ giá một cách cứng nhắc và thiếu linh hoạt so với thế giới đã tạo điều
kiện cho dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào Việt Nam tăng nhanh. Để ổn định tỷ giá
ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã phải mua một lượng lớn ngoại tệ, đồng nghĩa với
việc cung ra lưu thông một lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế và đó là một trong
các nguyên nhân kích thích cho lạm phát tăng cao. Cụ thể, trong hai năm 2006 -
2007, lượng ngoại tệ vào thị trường thông qua đầu tư đã làm cho số tiền dự trữ
chính thức tăng thêm gấp 1,6 lần số ngoại tệ tích luỹ từ trước cộng lại (Nguyễn Đức
Thành, 2011, trang 160,[6]). Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước cung ra một
lượng tiền tương đương 9 tỷ USD để mua ngoại tệ dự trữ nhằm ổn định tỷ giá. Tuy
-36-
nhiên việc ổn định tỷ giá này đã không kiểm soát được lạm phát giai đoạn 2005 –
2007 mà còn gây áp lực cho lạm phát, lượng tiền mặt dư thừa này đã không trung
hoà kịp thời với thị trường cùng với giá nguyên liệu thế giới tăng mạnh khiến cho
lạm phát leo thang.
Song với đó, chính sách kích cầu liên tục được thực hiện để kích thích tăng
trưởng theo mục tiêu và đây cũng là mầm mống gây ra lạm phát cao cho những năm
sau. Việc nới lỏng các chính sách làm tăng cung tiền mạnh trong thời gian dài đã
tạo cơ hội cho lạm phát xảy ra. Năm 2004 lạm phát xuất hiện với mức 9,5%, đến
2007 là 12,63%, tiếp tục năm 2008 là 19,89%.
Hình 2-6, hình 2-7 cho thấy việc điều hành chính sách tiền tệ kém linh hoạt và
chưa hiệu quả đã làm cho cung tiền tăng mạnh, gây áp lực cho lạm phát tăng cao
của Việt Nam so với một số nước khác trong khu vực.
Nguồn: ADB - Key Indicators for Asia and the Pacific 2013 Hình 2-7: Tốc độ tăng cung tiền so năm trƣớc của Việt Nam, Thái Lan và
Trung Quốc (%)
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 – 2009 đã góp phần làm trì
hoãn đà tăng lạm phát ở Việt Nam. Do khủng hoảng này làm cho giá hàng hoá quốc
tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp cho Việt Nam kiềm chế được xu thế gia
tăng đáng ngại của lạm phát trong năm 2008.
Năm 2009, nhằm thực hiện ngăn chặn khủng hoảng làm suy giảm tăng trưởng
kinh tế, Chính phủ tiếp tục đưa ra các gói kích cầu để kích thích phát triển kinh tế
-37-
như: gói hỗ trợ lãi suất 4%, gói hỗ trợ tiêu dùng miễn thuế thu nhập cá nhân và hỗ
trợ người nghèo ăn Tết, gói hỗ trợ đầu tư như miễn, giảm và giãn thuế thu nhập,
thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp, gói đầu tư công xây dựng cơ sở hạ tầng
và nhà ở cho người có thu nhập thấp. Với việc kích thích phát triển kinh tế như vậy,
Chính phủ đã đạt được các mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, cải thiện tính
thanh khoản cho hệ thống các ngân hàng. Nhưng bất ngờ quý 2/2009, cung tiền và
tín dụng bắt đầu tăng mạnh, các ngân hàng trở nên thiếu hụt tiền mặt và họ đều cố
gắng tăng lãi suất nhằm thu hút tiền gởi. Vì vậy cuộc chạy đua lãi suất huy động
diễn ra và lãi suất cho vay cũng được đẩy lên cao, cộng thêm các khoản phí cho
vay, làm cho chi phí đầu vào sản xuất tăng cao gây nguy cơ tái lạm phát. Và đúng
vậy, lạm phát tăng lên 9,21% vào năm 2010, và 18,68% năm 2011. Lúc này, Chính
phủ phải thực thi hàng loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ như tăng dự trữ bắt buộc,
tăng lãi suất huy động, quản lý thị trường vàng, cắt giảm chi tiêu công,…để đối phó
với khủng hoảng kinh tế và lạm phát báo động trong nước.
Ngoài ra, với việc quản lý lỏng lẻo và không mạnh tay với hệ thống ngân hàng
của Chính phủ, nên các ngân hàng lạm dụng cho vay thiếu đảm bảo và cho vay
mang tính đầu cơ trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản và kinh doanh chứng
khoán, cũng như các kỷ xảo ảo thuật “lãi giả - lỗ thật” của các ngân hàng và các tập
đoàn nhà nước góp thêm sức lực vào ngòi nổ cho bất ổn kinh tế.
2.2.3 Yếu tố tâm lý, kỳ vọng, đầu cơ:
Giá cả hàng hoá tăng do chi tiêu, đầu tư tăng, do chi phí đầu vào tăng và một
phần cũng do việc quản lý điều hành vĩ mô chưa thật tốt, các doanh nghiệp kinh
doanh lợi dụng đầu cơ tích trữ và tăng giá, và một khi giá đã tăng thì hầu như không
giảm hoặc giảm rất chậm. Bên cạnh đó, yếu tố tâm lý của người dân thường dựa
vào đám đông, nếu hiện tại lạm phát đang ở mức cao thì dân chúng cho rằng lạm
phát sẽ tiếp tục tăng và như vậy họ sẽ chuyển từ việc giữ tiền sang sở hữu các tài
sản khác và tích cực mua hàng hoá. Hoặc mỗi khi Chính phủ thực hiện tăng giá
xăng, giá điện thì ngay lập tức giá hàng hoá tăng theo, mặc dù việc tăng giá đầu vào
sản xuất thường có độ trễ sau một thời gian mới làm tăng giá sản phẩm đầu ra. Sự
-38-
tăng giá hàng hoá do tâm lý kỳ vọng ngay lập tức tác động và họ tăng cường tích trữ
hàng hoá khiến cầu tăng vượt cung và dẫn đến lạm phát.
Tâm lý tăng giá từ chính sách tiền lương, từ năm 2003 đến nay, thực hiện chính
sách tiền lương theo Nghị quyết Trung ương VIII, Chính phủ đã thực hiện lộ trình
cải cách tiền lương. Tháng 10/2005 điều chỉnh mức lương tối thiểu từ
290.000đ/tháng lên 350.000đ/tháng (tăng 20,7%), sau đó một năm mức lương được
điều chỉnh lên 450.000đ/tháng (tăng 28,6%), đến tháng 5/2012 mức lương tối thiểu
là 1.050.000đ/tháng. Với lộ trình tăng lương điều chỉnh như vậy đã tạo tâm lý người
dân nghĩ rằng rồi đây giá cả sẽ tăng trong ngày mai.
2.2.4 Ảnh hƣởng của sự thay đổi sản lƣợng:
Các nghiên cứu trong giai đoạn 1990 – 2008 cho thấy tăng trưởng cao thường đi
kèm với lạm phát cao. Khi GDP đạt đến mức tiềm năng thì mức sản lượng không
tạo ra sức ép đối với lạm phát, ngược lại GDP thực cao hơn GDP tiềm năng thì gây
áp lực lên lạm phát. Tuy nhiên khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định sẽ
tác động ngược lại lên tăng trưởng.
Qua số liệu, tốc độ tăng sản lượng không tương xứng với tốc độ tăng đầu tư.
Năm 2007, một lượng lớn vốn đầu tư được đưa vào để kích thích tăng trưởng kinh
tế nhưng kết quả sản lượng sản xuất không tăng mà còn có xu hướng giảm, làm cho
lượng tiền đã thừa nay còn thừa thêm góp phần làm cho giá hàng hoá tăng nhanh
hơn và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh lạm phát năm 2008, dẫn đến
hệ quả là sản lượng sản xuất giảm xuống đáng kể trong năm 2009 (hình 2-8).
Nguồn : Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục thống kê: GSO
Hình 2-8: CPI và Tốc độ tăng GDP, đầu tƣ, SLCN so năm trƣớc (%)
-39-
Bảng 2-3: Tốc độ tăng SLCN so năm trƣớc của các thành phần kinh tế
Đơn vị tính: %
Khoản mục 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng số 16,8 16,6 17,1 16,8 16,7 13,9 7,6 13,9
Khu vực nhà nước 11,9 11,9 7,2 5,9 5,0 2,7 3,0 6,0
Trung ương 16,2 14,2 12,4 8,9 6,8 4,8 3,9 9,1
Địa phương 3,5 5,6 -5,2 -2,9 -0,7 -4,5 -7,7 -6,4
Khu vực ngoài nhà 23,3 22,3 25,5 25,7 24,7 19,8 10,1 14,3 nước
Khu vực nước ngoài 18,0 17,4 21,2 19,9 19,7 16,9 9,4 16,9
Nguồn: GSO (2010) và báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2011
Bảng 2-3 cho thấy tốc độ tăng trưởng của sản lượng công nghiệp được phân chia
theo các thành phần kinh tế ngày càng giảm dần. Mặc dù, sản lượng của khu vực
nội địa có sự tăng trưởng vượt bậc, kế đến là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, và khu vực doanh nghiệp nhà nước thì bị thu hẹp dần. Đặc biệt, sản lượng
công nghiệp ở khu vực địa phương bị co bóp lại và chuyển dần về phía khu vực
trung ương. Điều này lý giải những năm gần đây, nhà nước tập trung đầu tư vào các
tập đoàn, tổng công ty trực thuộc trung ương nhiều hơn. Tuy nhiên các tập đoàn này
làm ăn thiếu hiệu quả đi kèm cơ chế quản lý chưa chặt chẽ đã dẫn tới thất thoát vốn.
Việc sử dụng nguồn vốn nhiều nhưng hiệu quả kém làm cho tốc độ tăng sản lượng
rất chậm so với tốc độ tăng cung tiền và đó chính là áp lực cho tăng giá hàng hoá và
gây ra lạm phát.
Một khía cạnh khác khi xem xét yếu tố sản lượng tác động đến lạm phát là năng
suất lao động xã hội của Việt Nam. Năng suất lao động của Việt Nam là rất thấp,
hầu như sản xuất hàng hoá chưa đạt được mong muốn. Tỷ lệ đầu tư của Việt Nam
tăng mạnh hơn so với các nước, nhưng năng suất lao động thì thua xa, cụ thể: Năm
2010 năng suất lao động đạt được 40,3 triệu đồng/người, chỉ tương đương với
2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước (năm 2008 của
-40-
Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc
38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD,
Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD...)[18]. Với việc
đầu tư lớn mà bù lại năng suất lao động rất thấp, sự chênh lệch này sẽ có ảnh hưởng
đến sự cân bằng giữa tiền và hàng trong xã hội, tạo cho áp lực tăng giá hàng hoá và
lạm phát tăng cao.
2.2.5 Tác động từ các nguyên nhân bên ngoài:
Tác động của dòng tiền nóng mang tính đầu cơ từ bên ngoài vào thị trường
tài chính Việt Nam. Dòng vốn này vào và ra trong thời gian ngắn và lưu
thông rất nhanh, nhằm vào mục tiêu lợi nhuận cao nhất, rủi ro bé nhất. Việt
Nam đang trong quá trình hội nhập, mở rộng quan hệ quốc tế, rất cần các
dòng vốn để đầu tư cải thiện tình hình kinh tế, do đó rất cần các dòng vốn
này, đặc biệt là thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên, nếu việc quản lý kém và thiếu
chuyên môn sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trục lợi. Khi tình hình trong
nước chuyển biến xấu, ngay lập tức các dòng tiền nóng sẽ rút khỏi thị trường,
vốn đầu tư nước ngoài đột nhiên dừng lại làm cho hệ thống tài chính gặp rắc
rối trong thanh khoản, gây khủng hoảng thị trường. Các bằng chứng cho thấy
khi thị trường tài chính mới hoạt động, dòng vốn nóng đổ vào thị trường làm
cho giá chứng khoán tăng mạnh, gây cơn sốt giá cổ phiếu và giá bất động
xảy ra năm 2006, 2007. Vào khoản quý 2/2007 các dòng vốn dần rút khỏi
Việt Nam, ngay lập tức giá cổ phiếu đã đảo chiều và từ đó đến nay vẫn chưa
lấy lại thời hoàng kim của chúng. Và điều đó đã làm ảnh hưởng đến nền kinh
tế vốn sơ khai và thiếu bền vững như Việt Nam.
Chi phí vật liệu nhập khẩu gia tăng tác động đến chỉ số giá tiêu dùng thông
qua việc tăng giá sản phẩm đầu ra. Theo thống kê của IMF, từ 2000 – 2006,
chỉ số giá nguyên vật liệu thế giới tăng mạnh từ 13% năm 2003 đến 30%
năm 2006. Điều này dẫn đến giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng và góp phần
làm tăng lạm phát năm 2004. Với nền kinh tế sản xuất dựa vào nguồn vật
-41-
liệu từ bên ngoài thì việc giá vật liệu tăng thì nền kinh tế bị tác động và nó
đóng góp vào việc tăng lạm phát trong thời gian qua ở Việt Nam.
Ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính thế giới, các cuộc khủng hoảng tài
chính gây ảnh hưởng nặng cho nền kinh tế toàn cầu như làm giảm sản lượng,
tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, xuất nhập khẩu bị tác động... Việt Nam cũng
không ngoại lệ, dưới tác động của biến động tài chính thế giới, chính sách
ngoại tệ bị ảnh hưởng, các nguồn vốn đầu tư hay giá các hàng hoá tính bằng
ngoại tệ bị tác động như dầu, lương thực, nguyên vật liệu nhập đã dẫn tới
việc biến động lớn cho chi phí đầu vào sản xuất. Hơn nữa, khi khủng hoảng
tài chính xảy ra, nó còn ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách Nhà nước, ảnh
hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu và sẽ tác động đến giá cả hàng hoá trong
nước và ảnh hưởng đến chỉ số giá chung hàng hoá.
Tóm lại, từ những phân tích trên, chúng ta có thể khái quát nguyên nhân gây lạm
phát nước ta trong thời gian qua như sau:
Thứ nhất: Lượng vốn đầu tư tăng nhanh qua các năm kết hợp việc đầu tư
mang lại hiệu quả thấp, đồng nghĩa với việc sản lượng làm ra hầu như không
tăng, từ đó dẫn đến lượng tiền thừa trong lưu thông nhiều và tạo áp lực cho
tăng giá hàng hoá. Bên cạnh đó, việc thất thoát và nạn tham nhũng kéo dài
làm tăng thêm tính không hiệu quả từ các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là đầu
tư công và đầu tư vào các tập đoàn nhà nước.
Thứ hai: Sự kỳ vọng về lạm phát của dân chúng là rất lớn, họ luôn có tâm lý
hôm nay có lạm phát xảy ra thì ngày mai rồi cũng có tăng giá hàng hoá. Dân
chúng luôn có ấn tượng về giá hàng hoá sẽ tăng mạnh một khi có thông tin
về sự biến động như: tăng lương, tăng giá điện, tăng giá dầu.
Thứ ba: Là do chính sách tiền tệ, lượng cung tiền tăng mạnh không tương
xứng với tốc độ tăng trưởng, làm cho sự cân bằng hàng hoá lưu thông bị
chênh lệch và như vậy áp lực tăng giá hàng hoá diễn ra.
Thứ tư: Sản lượng sản xuất thấp, việc tăng đầu tư nhằm mục đích để tạo ra
các sản phẩm hàng hoá cho xã hội, nhưng năng suất lao động thấp dẫn đến
-42-
sự gia tăng lượng hàng hoá sản xuất ít hơn sự gia tăng của vốn đầu tư. Do đó,
áp lực về tăng giá hàng hoá sẽ được tích luỹ, vấn đề này kéo dài thì lạm phát
có thể xảy ra.
Thứ năm: Sự tác động từ các nhóm như lãi suất, tỷ giá, xuất nhập khẩu, giá
hàng hoá thế giới… cũng đóng góp một phần nhỏ vào áp lực làm tăng lạm
phát.
2.3 XÂY DỰNG MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT:
2.3.1 Một số nghiên cứu về lạm phát:
Lạm phát được nghiên cứu rất sâu trong các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực
nghiệm. Về lý thuyết lạm phát, chúng ta thường dựa vào đường cong Philips nhưng
khi phân tích về các yếu tố tác động, các công trình nghiên cứu thường đi theo 2
hướng để tiếp cận là lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, các nghiên cứu có
thể xem xét đến yếu tố cầu kéo hoặc chi phí đẩy hoặc cả hai phía tác động đến lạm
phát. Bên cạnh 2 cách tiếp cận trên, các nghiên cứu còn đưa ra cách tiếp cận ngang
bằng sức mua (PPP – Purchasing power parity) để xem xét các nhân tố quyết định
lạm phát.
Bên cạnh các nghiên cứu ở nước ngoài, các nghiên cứu về lạm phát ở Việt Nam
cũng kết hợp nhiều nhân tố tác động từ hai phía cầu kéo và chi phí đẩy nhằm giải
thích cho lạm phát. Tuy nhiên các yếu tố cầu được nhắc đến nhiều hơn. Các báo cáo
thường xoay quanh các nhân tố là CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, sản lượng, giá dầu,
giá gạo. Ví dụ các nghiên cứu định lượng về lạm phát ở Việt Nam gồm: Võ Trí
Thành và đồng tác giả (2001), Trương Văn Phước và Chu Hoàng Long (2005),
Camen (2006), Phạm Thế Anh (2008), Nguyễn Đức Thành và Nguyễn Thị Thu
Hằng (2011). Chung lại các nghiên cứu có một số nhận định như sau:
Các nghiên cứu đều đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho thấy lạm phát xảy ra
và kéo dài ở Việt Nam thời gian qua là do các yếu tố tác động từ bên trong
chứ không phải bên ngoài.
Các nghiên cứu cho thấy yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy đều có tác động đến
lạm phát. Tuy nhiên yếu tố cung cho kết quả ảnh hưởng đến lạm phát trong
-43-
thời gian qua nhỏ hơn rất nhiều so với yếu tố cầu, các yếu tố cầu đóng vai trò
chủ đạo cho giải thích về sự biến động của lạm phát.
Các kết quả đều có chung quan điểm là lạm phát quá khứ đóng vai trò quan
trọng cho giải thích lạm phát hiện tại.
Vai trò giải thích cho lạm phát của tỷ giá và giá quốc tế là tương đối nhỏ vì
có sự quản lý và tài trợ giá của Chính phủ nên sự chi phối từ các yếu tố này
hầu như không ảnh hưởng đến biến động giá hàng hoá trong nước.
Các kết quả cũng cho biết vai trò ảnh hưởng của tiền tệ là trái ngược nhau,
điều này có thể là do các giai đoạn thực hiện nghiên cứu khác nhau và tần
suất của các số liệu khác nhau và phương pháp ước lượng thực nghiệm cũng
khác nhau.
Dựa trên khảo sát tài liệu, những kiến thức lý thuyết tiếp cận được kết hợp một
số báo cáo nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài để có
cái nhìn tổng quan về thực trạng lạm phát tại Việt Nam, và từ đó tác giả tiến hành
xây dựng mô hình nghiên cứu cho đề tài.
Sử dụng phương pháp định lượng bằng việc chạy mô hình ước lượng VAR trong
phần mềm Eview 6.0 để đánh giá các nhân tố tác động lên lạm phát. Và thông qua
đó lựa chọn mô hình phù hợp, sau đó so sánh, tổng kết và rút ra kết luận.
2.3.2 Cơ sở lý thuyết và nguồn số liệu:
Có nhiều nhân tố trong nền kinh tế tác động đến lạm phát, tuy nhiên một mô
hình thực nghiệm không thể nào bao hàm được tất cả. Chưa kể đến một mô hình với
quá nhiều biến có thể dẫn đến một kết quả sai lệch do các hạn chế, hay mối tương
quan giữa các biến. Đồng thời, qua phân tích và kết hợp báo cáo của các nghiên cứu
trước đây, chúng ta thấy nguyên nhân cơ bản của lạm phát xảy ra và lặp lại trong
thời gian dài là do các yếu tố trong nước gây ra đồng thời yếu tố cầu tác động mạnh
hơn rất nhiều so với yếu tố cung.
Từ ý nghĩa trên, trong báo cáo này tác giả sử dụng mô hình VAR cơ bản để kiểm
định các yếu tố tác động đến lạm phát, mô hình thường được sử dụng phổ biến
trong phân tích mối quan hệ các biến số vĩ mô trong nền kinh tế. Mô hình được xây
-44-
dựng dựa trên nghiên cứu của Canova Fabio and Luca Gambetti (2006) “The
structural dynamics of output growth and inflation: some international evidence”
(Tác giả sử dụng các biến gồm: lãi suất, cung tiền, CPI và tăng trưởng để phân tích
tác động của chính sách tiền tệ đến tăng trưởng và lạm phát), bài nghiên cứu của
tác giả TS. Phạm Thế Anh (7/2008) “Ứng dụng mô hình SVAR trong việc xác
định hiệu ứng của chính sách tiền tệ và dự báo lạm phát ở Việt Nam” (Bài viết
dùng các biến: Lãi suất, sản lượng công nghiệp, cung tiền, CPI và giá dầu để phân
tích cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ đến tăng trưởng và lạm phát), và kết hợp
cùng phân tích về nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát trong thời gian qua, đề tài đưa ra các biến số trong mô hình nghiên cứu của mình như sau:
Biến Nguồn
Chỉ số giá tiêu dùng Ký hiệu và đơn vị CPI - % TCTK:GSO
Giá trị sản lượng công nghiệp (giá so sánh 1994) IND-tỷ VND TCTK:GSO
Đầu tư công GI - tỷ VND TCTK:GSO
Cung tiền M2 M2 - tỷ VND ADB
Lãi suất tiền gởi kỳ hạn 6 tháng IR - % ADB
Các chuỗi số liệu được biểu diễn dưới dạng logarit cơ số tự nhiên ngoại trừ biến
chỉ số giá tiêu dùng CPI và lãi suất huy động. Số liệu được thu thập từ Tổng cục
Thống kê (GSO) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB – Asian Development
Bank).
Mô tả các biến:
Biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được sử dụng để phân tích sự tác động
của nó đến các yếu tố khác, đồng thời cũng xem xét như là yếu tố lạm
phát quá khứ có ảnh hưởng đến lạm phát hiện tại hay không.
Biến giá trị sản lượng công nghiệp (IND) xem xét yếu tố tăng trưởng tác
động đến mức giá chung của nền kinh tế.
-45-
Biến cung tiền (M2) được xem xét về chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến
lạm phát trong nền kinh tế.
Biến lãi suất (IR) dùng xem xét sự tác động của nó đến lạm phát và
ngược lại công cụ lãi suất sẽ phản ứng thế nào khi lạm phát xảy ra.
Biến đầu tư công (GI) xem xét yếu tố cơ bản của phía cầu sẽ ảnh hưởng
thế nào đến lạm phát. Đồng thời đầu tư công cũng được xem xét như là
kênh lan truyền của chính sách tiền tệ. Theo tác giả nhận định thì yếu tố
này là nhân tố đóng vai trò quyết định cho lạm phát trong thời gian qua,
vấn đề mà các nghiên cứu trước đây thường đề cập đến là cung tiền, hay
cầu chứ chưa xét đến bản chất bên trong của cung tiền hay yếu tố cầu gây
ra cho lạm phát.
2.3.3 Phƣơng pháp ƣớc lƣợng:
Để xác định các nhân tố tác động đến lạm phát trong mô hình thực nghiệm, tác
giả thực hiện theo các bước sau:
Bƣớc 1: Thực hiện kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu thời gian trong
mô hình. Các chuỗi này đều ở dạng logarit, trừ chỉ số giá (CPI) và lãi suất (IR). Nếu
các chuỗi không dừng (hay có nghiệm đơn vị) chúng ta phải lấy sai phân cho tới khi
nó có tính dừng trước khi đưa vào mô hình thực nghiệm. Giữa các chuỗi không
dừng có thể có tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp (mối quan hệ trong dài hạn).
Bƣớc 2: Xác định độ trễ tối ưu và thực hiện ước lượng mô hình
Bƣớc 3: Sử dụng phương pháp phân tích Engle – Granger nhằm kiểm tra mối
quan hệ giữa các biến trong mô hình. Cụ thể: (i) kiểm tra mối quan hệ giữa biến chỉ
số giá và cung tiền; (ii) mối quan hệ giữa biến sản lượng công nghiệp và chỉ số giá;
(iii) kiểm tra mối quan hệ giữa biến đầu tư công và cung tiền; (iiii) kiểm tra mối
quan hệ giữa đầu tư công và chỉ số giá tiêu dùng; (iiiii) kiểm tra mối quan hệ chỉ số
giá và lãi suất.
-46-
Bƣớc 4: Thực hiện khảo sát qua phân rã phương sai để xem sự tác động và giải
thích biến động cho nhau giữa các biến số trong mô hình. Từ đó có thể nhận định
nguyên nhân gây ra lạm phát tăng cao trong thời gian qua.
2.3.3.1 Kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu:
Để kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian, báo cáo dựa vào kiểm định ADF
(Augmented Dickey – Fuller) truyền thống. Kiểm định PP (Phillips Person) cũng
được tham khảo để tăng thêm tính chính xác đối với kết luận về tính dừng của các
chuỗi dữ liệu. Độ trễ trong kiểm định ADF được lựa chọn trên các chỉ tiêu AIC
(Akaike Information Criterion) và SIC (Schwarz Information Criterion). Kết quả
kiểm định tính dừng được trình bày tóm lược trong bảng 2-4 và bảng 2-5.
Qua kết quả, ta có thể kết luận các chuỗi số liệu đều tích hợp bậc 0, I(0) đồng
nghĩa các chuỗi dữ liệu là dừng với các mức ý nghĩa 10% và 5%, (thống kê t tính
toán lớn hơn thống kê t tra bảng tương ứng các mức ý nghĩa 1%, 5% hoặc 10% thì
được coi là dừng) do vậy các biến sẽ được sử dụng trong mô hình xác định các nhân
tố tác động đến lạm phát.
Bảng 2-4: Kiểm định ADF đối với các chuỗi dữ liệu
Augmented Dickey-
CPI
IR
LGIND
LGM2
LGGI
Fuller test
t-Statistic
-4,104495
-3,309728
-11,28784
-4,208152
-3,974531
Prob.*
0,0216
0,0282
0,0000
0,0186
0,0257
Test critical
-4,498307
-3,808546
-4,440739
-4,532598
-4,440739
1%
5%
-3,658446
-3,020686
-3,632896
-3,673616
-3,632896
10%
-3,268973
-2,650413
-3,254671
-3,277364
-3,254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
-47-
Bảng 2-5: Kiểm định PP đối với các chuỗi dữ liệu
Phillips-Perron
CPI
IR
LGIND
LGM2
LGGI
test statistic
t-Statistic
-5,497349
-3,309728
-9,906948
-3,677670
-10,713050
Prob.
0,0011
0,0282
0,0000
0,0459
0,0000
Test critical values:
1% level
-4,440739
-3,808546
-4,440739
-4,440739
-4,440739
5% level
-3,632896
-3,020686
-3,632896
-3,632896
-3,632896
10% level
-3,254671
-2,650413
-3,254671
-3,254671
-3,254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
2.3.3.2 Xác định độ trễ tối ưu:
Để xác định độ trễ tối ưu, tác giả sử dụng các kiểm định AIC, HQ, SC. Kết quả
cho thấy độ trễ tối ưu được lựa chọn cho mô hình là 2 (bảng 2-6). Do vậy bài viết sẽ
sử dụng mô hình VAR với độ trễ là 2.
Bảng 2-6: Kiểm định độ trễ tối ƣu bằng kiểm định AIC, SC, HQ
VAR Lag Order Selection Criteria
Endogenous variables: CPI LGIND LGM2 IR LGGI
Exogenous variables: C
Date: 08/21/13 Time: 15:07
Sample: 1990 2012
Included observations: 19
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ
-102.5278 NA 0.056688 11.31871 11.56725 11.36077 0
-2.360472 137.0710 2.32e-05 3.406365 4.897585 3.658739 1
50.55270 44.55846* 2.49e-06* 0.46813* 3.20203* 0.93082* 2
* indicates lag order selected by the criterion
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
-48-
2.3.3.3 Ước lượng mô hình VAR:
Mô hình ước lượng các nhân tố tác động đến lạm phát được xác định như sau:
Trong đó: k là độ trễ (k=2)
β1i , β2i … là ma trận hệ số vuông
εt là phần dư
2.3.4 Kết quả ƣớc lƣợng mô hình VAR:
Từ mô hình ước lượng đã xây dựng, tiến hành chạy mô hình VAR trên eview
với độ trễ là 2. Kết quả cuối cùng được trình bày trong phụ lục 3, và các biến số
không có ý nghĩa thống kê sẽ được loại ra khỏi mô hình. Từ đó cho ta một số nhận
định như sau:
2.3.4.1 Ảnh hưởng của yếu tố kỳ vọng:
Kết quả ước lượng cho thấy lạm phát quá khứ, lãi suất và đầu tư có ảnh hưởng
đến lạm phát hiện tại có ý nghĩa thống kê. Hàm ý rằng công chúng có khuynh
hướng lưu giữ ấn tượng về lạm phát trong quá khứ đồng thời có kỳ vọng nhạy cảm
về lạm phát trong tương lai. Ký ức hay ấn tượng về một giai đoạn lạm phát cao
trong quá khứ sẽ mờ dần sau một thời gian.
Bảng 2-7: Mối quan hệ giữa CPI và các biến số khác
CPI
(*, ** tương ứng mức ý nghĩa thống kê 10% và 5%)
CPI(-2) IR(-2) LGGI(-1) -0.948234* (0.48151) 2.379554* (1.20017) -61.89997** (30.4289)
Nguồn: Trích từ kết quả chạy eview
-49-
Bên cạnh đó, khi phân tích kết quả phân rã phương sai cho thấy lạm phát quá
khứ có tác động mạnh đến hiện tại, giải thích cho nguyên nhân làm biến động lạm
phát cho kỳ sau (bảng 2-8) và sự ảnh hưởng này giảm dần sau 2 kỳ có lạm phát
thấp. Số liệu trong bảng 2-8 cho biết CPI quá khứ sẽ đóng góp vào giải thích cho sự
thay đổi của lạm phát hiện tại là 88,36%, đầu tư công giải thích cho sự biến động
lạm phát là 11,62% và tương tự các yếu tố khác trong năm đầu tiên. Sau độ trễ 2
năm thì CPI quá khứ giải thích cho biến động của lạm phát hiện tại có xu hướng
giảm xuống, trong khi đầu tư công và các yếu tố khác tăng lên. Tuy nhiên sự đóng
góp chủ yếu cho lạm phát biến động vẫn là lạm phát quá khứ và đầu tư công.
Năm
1
CPI % 88,36
LGIND % 0,00
LGM2 % 0,01
IR % 0,00
LGGI % 11,62
2
54,99
4,96
9,13
2,24
28,65
5
54,29
7,05
10,30
2,45
25,88
Bảng 2-8: Tác động của các yếu tố đến biến giá theo thời gian
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
Hình 2-9: Phản ứng của CPI trƣớc cú sốc từ chính nó
Khi phân tích qua hình 2-9 cho thấy CPI quá khứ có tác động dương đến lạm
phát hiện tại và sau khoản 2 năm thì sự tác động này mờ nhạc dần.
Như vậy, giải quyết vấn đề lạm phát không phải thực hiện trong ngắn hạn mà
phải sử dụng các chính sách kiềm chế mạnh tay và kiên trì, ổn định trong thời gian
dài, chứ không mang tính đối phó, nhất thời. Mặc dù, sự ảnh hưởng của lạm phát kỳ
vọng có xu hướng giảm (năm thứ nhất là 88,36%, năm thứ hai là 54,99%) nhưng
-50-
Việt Nam không duy trì được mức lạm phát ở mức thấp trong thời gian dài. Kết hợp
thực tế, lạm phát Việt Nam cứ qua rồi lại đến trong thời gian ngắn cho thấy các
chính sách sử dụng chỉ mang tính đối phó chưa có chiến lược dài hạn nhằm ổn định
vĩ mô nền kinh tế.
Kết quả phân tích qua hàm phản ứng, cho thấy CPI phản ứng mạnh đối với
chính nó. Điều này càng chứng tỏ nhận định ở trên là hợp lý và cũng phù hợp với
các báo cáo nghiên cứu trước đây về kết luận yếu tố kỳ vọng tác động mạnh đến
lạm phát.
2.3.4.2 Sự tác động của lãi suất đến lạm phát:
Nghiên cứu cho thấy lạm phát thời gian qua cũng chịu ảnh hưởng bởi lãi suất,
tuy nhiên sự ảnh hưởng là không lớn và có độ trễ. Lãi suất đóng góp vào giải thích
cho sự thay đổi CPI vào khoảng 2,24% trong ngắn hạn, và có thể tăng lên trong dài
hạn nhưng sự gia tăng là rất nhỏ. Điều này chứng tỏ lãi suất ảnh hưởng lên lạm phát
mang tính thụ động, và thể hiện sự phản ứng chậm chạp lãi suất trong kiềm chế lạm
phát (bảng 2-7 và bảng 2-8).
2.3.4.3 Sự tác động của đầu tư công và cung tiền đến lạm phát:
Bảng 2-9: Kết quả kiểm định nhân quả Granger
VAR Granger Causality/Block Exogeneity Wald Tests
Dependent variable: CPI
Excluded Chi-sq df Prob.
LGIND 3.337185 2 0.1885
LGM2 11.30234 2 0.0035
IR 4.002527 2 0.1352
LGGI 6.253647 2 0.0439
All 18.73598 8 0.0163
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
Mô hình cho thấy đầu tư công và cung tiền tác động trực tiếp đến CPI qua kết
quả kiểm định nhân quả Granger (bảng 2-9, giá trị Prob < mức ý nghĩa α = 5%).
-51-
Điều này càng rõ hơn qua phân rã phương sai, nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát
là do đầu tư công và cung tiền đã góp thêm vào làm biến động của lạm phát và sự
tác động này có độ trễ nhất định. Sự giải thích cho biến động của lạm phát trong
ngắn hạn thì đầu tư công chiếm trên 28% và cung tiền khoảng 9% (bảng 2-8). Trong
khi sự ảnh hưởng của đầu tư công giảm dần, thì sự giải thích của cung tiền lại tăng
lên, trong dài hạn là 10,3%. Tuy nhiên sự giảm ảnh hưởng của đầu tư công là không
đáng kể, điều này càng chứng tỏ rằng việc đầu tư công chỉ mang lại một ít hiệu quả,
cộng thêm năng suất lao động thấp, sản lượng làm ra chỉ tăng một ít so với lượng
vốn đầu tư, bên cạnh nhu cầu vật liệu cho đầu tư gia tăng và do đó áp lực tăng giá
hàng hoá trong tương lai do nó mang lại là phù hợp.
2.3.4.4 Tác động của đầu tư công đến các yếu tố khác:
Nghiên cứu cho thấy đầu tư công có ý nghĩa tham gia góp phần giải thích sự
biến động hầu hết cho các biến số khác trong mô hình với các mức ý nghĩa thống kê
5% và 10% (bảng 2-10). Mối quan hệ này cũng khá phù hợp với lý thuyết về sự tác
động của đầu tư đến sản lượng, cung tiền và lãi suất.
CPI
LGIND
LGM2
IR
LGGI
LGGI(-1)
0.429258
Bảng 2-10: Quan hệ đầu tƣ công với các biến số khác
-61.89997** -2.281749**
0.688871* -22.20977**
(30.4289)
(0.92445)
(0.38169)
(8.69996)
(0.27867)
LGGI(-2)
0.921264
2.513799***
0.119845
-1.539586
0.512007***
(15.7899)
(0.47971)
(0.19806)
(4.51450)
(0.14460)
(*,**,*** tương ứng các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%)
Nguồn: Trích từ kết quả chạy eview
Bảng 2-11 thể hiện đầu tư công tham gia giải thích cho sự thay đổi của các yếu
tố khác: năm 1 đầu tư công đóng góp cho CPI thay đổi là 11,62%, cung tiền là
10,56%, và sự tác động này tăng lên trong các năm sau. Điều này cho thấy đầu tư
công đóng góp mạnh đến sự thay đổi của các nhân tố khác. Cung tiền phản ứng sớm
nhất và không lớn đối với cú sốc của đầu tư công so với các nhân tố còn lại. Điều
-52-
này có thể được lý giải bởi đầu tư công chỉ đóng góp một phần nhỏ vào sự gia tăng
của cung tiền, và cung tiền còn chịu sự tác động của các yếu tố khác như: tín dụng,
đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài (FDI) hay đầu tư vào thị trường tài chính.
Bảng 2-11: Tác động của đầu tƣ công lên các biến số khác
CPI LGIND LGM2 IR Năm % % % %
1 11,62 0,21 10,56 0,21
2 28,65 20,30 3,89 29,81
5 25,88 14,72 5,39 23,84
8 24,37 14,55 4,79 21,64
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
2.3.4.5 Tác động của CPI đến các yếu tố trong mô hình:
Kết quả phân tích cũng cho thấy sự tác động ngược trở lại của lạm phát lên các
yếu tố khác trong nền kinh tế đều có ý nghĩa thống kê. Tuy sự tác động có độ trễ
khác nhau nhưng đó chính là hệ quả mang lại cho nền kinh tế một khi đã có lạm
phát biến động mạnh và kéo dài trong các năm qua.
CPI
LGM2
IR
LGGI
CPI(-1)
-0.059720
-0.140976
-0.005762
Bảng 2-12: Mối quan hệ ngƣợc lại của CPI đến các biến số
0.013519*
(0.54922)
(0.00689)
(0.15703)
(0.00503)
CPI(-2)
-0.948234*
0.019555***
-0.354813**
0.015510***
(0.48151)
(0.00604)
(0.13767)
(0.00441)
(*,**,*** tương ứng các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%)
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
Kết quả phân rã phương sai cho thấy, CPI góp phần giải thích rất lớn cho sự biến
động đối với các biến số khác: năm 2, lạm phát góp phần giải thích cho sự thay đổi
của chính nó là 54,99%, đầu tư là 3,64%, sản lượng công nghiệp là 11,25%, lãi suất
là 30,67%. Nếu tình trạng lạm phát kéo dài thì sự đóng góp cho biến động kinh tế
-53-
do lạm phát mang lại là ngày càng tăng, trong đó lãi suất là yếu tố phản ứng mạnh
nhất và rõ nét nhất (bảng 2-13).
Bảng 2-13: Tác động của CPI đến các biến số vĩ mô
Năm
2 CPI (%) 54,99 LGGI (%) 3,64 LGM2 (%) 4,70 IR (%) 30,67 LGIND (%) 11,25
5 54,29 38,56 28,86 39,45 27,67
8 55,18 38,88 30,64 41,13 29,31
Nguồn: Trích từ kết quả chạy Eview
Ở trên, khi xem xét lãi suất sẽ giải thích thế nào cho sự biến động của lạm phát,
có nghĩa khi có cú sốc về lãi suất thì lạm phát sẽ biến động thế nào? Và kết quả cho
thấy lãi suất chỉ đóng góp một phần tương đối nhỏ làm cho CPI thay đổi. Nhưng
ngược lại, sự phản ứng của lãi suất đối với cú sốc của CPI là rõ ràng và mạnh hơn
cả trong các biến số (trong 4 đồ thị dưới đây, đồ thị thứ 4 là cho thấy sự khác biệt
với 3 đồ thị còn lại, sự khác biệt này là do sự phản ứng của lãi suất một khi có lạm
phát xảy ra và cho thấy lãi suất nhạy cảm nhất với lạm phát cao), sự phản ứng này
là cùng chiều, khi có cú sốc dương về lạm phát thì lãi suất sẽ phản ứng dương đối
với sự biến động đó, sự phản ứng rõ kỳ đầu tiên, sau gần hai kỳ thì phản ứng này
mờ dần. Vấn đề nhân quả giữa lãi suất và lạm phát này có thể được lý giải qua cú
sốc lạm phát năm 2011, khi đó lãi suất huy động tăng mạnh để kiềm hãm đà tăng
của lạm phát, sau khi lạm phát lắng xuống, đến lúc lãi suất được điều chỉnh hạ thấp
để kích thích tăng trưởng kinh tế và lạm phát chưa có dấu hiệu biến động sau khi
Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất trong năm 2012. Đồng nghĩa việc, lãi
suất giải thích cho biến động của CPI là nhỏ, nhưng ngược lại CPI sẽ giải thích cho
sự biến động của lãi suất là lớn.
-54-
2
1 1
3
4
Nguồn: Trích từ kết quả chạy eview
Hình 2-10: Phản ứng của các nhân tố trƣớc cú sốc của CPI
-55-
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến lạm phát giai đoạn 1990 – 2012
dựa trên các yếu tố cầu đã cho tác giả khái quát được các nguyên nhân gây ra lạm
phát Việt Nam trong thời gian qua. Báo cáo cho thấy vai trò của yếu tố kỳ vọng lên
việc tăng giá trong nước, sự kỳ vọng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, nhưng tựu trung lại là do lạm phát cao trong quá khứ và vấn đề điều hành của
người làm chính sách đã tạo tâm lý tin vào một mô hình kinh tế bền vững ổn định
trước các cú sốc về kinh tế là chưa cao.
Bên cạnh đó, bài viết cũng cho thấy sự tác động của đầu tư công là khá mạnh,
hầu như đầu tư công tham gia giải thích được rất nhiều cho sự biến động của các
yếu tố khác, tuy sự tác động này có độ trễ nhất định. Thông qua đầu tư công, nhà
nước sẽ thực hiện các mục tiêu phát triển, tuy nhiên việc đầu tư công kém hiệu quả
đã và đang để lại nhiều ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế. Đặc biệt là đầu tư vào các
tập đoàn được xem là mũi nhọn, là hướng đi của đất nước, thì các tổ chức này lại
làm ăn một cách yếu kém, gây thất thoát không nhỏ cho nhà nước (Vinashin,
Vinalines,…). Việc đầu tư nhiều nhưng hiệu quả mang lại thấp đã tạo ra tốc độ tăng
lượng tiền không tương xứng với tốc độ tăng sản lượng, hay tăng chi tiêu cho đầu tư
thì nhu cầu tăng, làm tăng tổng cầu và làm tăng áp lực cho biến động về giá hàng
hoá và làm cho lạm phát có thể diễn ra bất cứ lúc nào.
Kết quả phân tích trong chương 2 cũng cho thấy là phù hợp với lý thuyết về đầu
tư, tăng trưởng và lạm phát, đồng thời cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây
khi bàn về lạm phát, nguyên nhân gây ra lạm phát là do kỳ vọng và tiền tệ, đặc biệt
là từ việc đầu tư công dàn trải nhưng cho hiệu quả thấp đã tích luỹ trong hơn hai
thập kỷ qua đã tạo áp lực khá lớn cho lạm phát.
==================
-56-
Chƣơng 3
MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
GÓP PHẦN KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
3.1 ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CHUNG CỦA NỀN KINH TẾ:
Chúng ta phải nói rằng trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang có được điều
kiện hết sức thuận lợi đó là sự ổn định về chính trị - xã hội, lực lượng lao động dồi
dào để phục vụ cho phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, sự hợp tác và hội nhập vào thị
trường quốc tế đang tiến triển tốt đẹp thông qua việc trở thành thành viên của các tổ
chức như AFTA, WTO hay nhận được sự tin tưởng của các tổ chức tài chính quốc
tế (IMF, WB, ADB…) tạo cơ hội rất lớn cho phát triển đất nước. Các điều kiện này
sẽ là những nhân tố quan trọng góp phần ổn định kinh tế trong nước. Đồng thời, với
việc khủng hoảng tài chính đã đi qua, tình hình kinh tế thế giới dần hồi phục sẽ rất
thuận lợi cho Việt Nam thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững trong tương lai.
3.1.1 Một số hạn chế trong điều hành chính sách kinh tế kiềm chế lạm phát:
3.1.1.1 Mô hình phát triển kinh tế thiếu bền vững:
Tính quán tính của lạm phát quá khứ đến hiện tại là rất lớn, hàm ý khẳng định
yếu tố kỳ vọng tăng giá luôn là một trong các nhân tố quyết định đến biến động của
lạm phát. Điều này không những chứng minh nhận định niềm tin bị suy giảm của
dân chúng đối với chính sách điều hành kinh tế của Chính phủ mà quan trọng hơn là
xem xét lại mô hình kinh tế phát triển thiếu ổn định và kém bền vững trong thời
gian qua. Đây cũng là vấn đề mà Việt Nam cần cải thiện rất nhiều trong định hướng
phát triển kinh tế thời gian tới.
3.1.1.2 Vai trò đầu tư công bị lạm dụng quá mức:
Qua phân tích cho thấy đầu tư công có ảnh hưởng đến lạm phát, mặc dù sự tác
động có độ trễ sau một thời gian nhưng đây là nhân tố giải thích được rất nhiều cho
lạm phát giai đoạn 1990 – 2012. Kết hợp việc đầu tư công kém hiệu quả qua chứng
minh chỉ số ICOR và các dẫn chứng cụ thể đã nói lên việc nhận định đầu tư công
-57-
tạo áp lực cho lạm phát là phù hợp với lý thuyết lẫn thực tiễn. Việt Nam cần phải
thay đổi hạn chế này để đưa đầu tư công trở về với vai trò chính của nó, đó là vai trò
của người dẫn đường trong chiến lược phát triển kinh tế chứ không phải là yếu tố cơ
bản để tạo cho tăng trưởng kinh tế.
3.1.1.3 Điều hành chính sách tiền tệ thiếu linh hoạt:
Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ hiện nay của Ngân hàng Nhà nước vẫn cơ
bản chịu sự điều phối của Chính phủ trong việc cung ứng khối lượng tiền với các
hạn mức quy định được phân bổ nhằm hỗ trợ cho việc tăng trưởng kinh tế. Do đó.
Ngân hàng luôn bị động trong việc sử dụng các công cụ: lãi suất, tín dụng… để tác
động đến các biến số vĩ mô trong nền kinh tế, làm cho sự phản ứng các yếu tố này
có độ trễ dài hơn một khi có biến động kinh tế xảy ra. Đặc biệt một khi lạm phát
tăng cao, thì các công cụ tiền tệ luôn phản ứng hết sức bị động và chậm chạp trong
việc kiềm chế lạm phát. Đây là hạn chế mà tất cả chúng đã đề cập rất nhiều nhưng
hầu như vẫn chưa có sự thay đổi từ phía các nhà chức trách.
3.1.1.4 Tư tưởng quản lý còn quan liêu, cục bộ, cá nhân:
Hạn chế này thể hiện rất rõ trong cách điều hành phân bổ nguồn lực, sự ưu ái
quen biết các doanh nghiệp mới được phân bổ vốn của các nhà quản lý đối với các
dự án đầu tư làm cho tình trạng thừa và thiếu vốn xảy ra khắp nơi, và kéo theo đó là
hình thành các lợi ích nhóm, gây ra tình trạng tham nhũng, lãng phí ở các dự án
công ngày càng phổ biến. Theo tác giả thì đây có lẽ là nhân tố cơ bản trong quyết
định thành bại của chiến lược phát triển kinh tế.
3.1.1.5 Năng suất lao động còn thấp:
Yếu tố này đã được phân trích trong chương 2 thông qua việc so sánh mức độ
tăng đầu tư và sản lượng sản xuất kết hợp bình quân GDP đầu người giữa Việt Nam
và các nước, chúng ta thấy năng suất lao động của chúng ta cực kỳ thấp. Do đó,
khối lượng hàng hoá hầu như chỉ được nhập khẩu từ các sản phẩm nông nghiệp cho
đến sản phẩm công nghiệp, trong khi giá thành hàng hoá trong nước thì không cạnh
tranh nổi với hàng hoá các nước. Bởi vậy, quanh chúng ta đâu đâu cũng nhìn thấy
sản phẩm của Hàn Quốc, Trung Quốc … đây sẽ là điểm mà chúng ta sẽ phải cải tiến
-58-
rất nhiều trong vấn đề kiềm chế lạm phát cho thời kỳ tới, và có cải tiến được việc
này thì nền kinh tế mới phát triển được ổn định dựa trên kinh tế thị trường hàng hoá.
3.1.2 Định hƣớng phát triển kinh tế thời gian tới:
Vấn đề kinh tế phát triển và ổn định là vấn đề trọng yếu đối với đất nước. Bài
toán lạm phát đã gây khó khăn cho chúng ta rất nhiều trong việc điều hành chính
sách, hơn nữa để có thể đạt được mục đích tăng trưởng và kinh tế ổn định lâu dài là
việc làm không dễ đối với nhà chức trách cũng như các nhà khoa học kinh tế. Tuy
nhiên nếu chúng ta nhất quán, thực hiện các kế hoạch tăng trưởng một cách bài bản,
có kế hoạch, có chiến lược cụ thể, không quá chạy theo mục tiêu tăng trưởng như
trong thời gian qua mà quên đi tính “bền vững” của cấu trúc nền kinh tế. Một nền
kinh tế phát triển bền vững thì rất khó bị tác động bởi các cú sốc về giá hay biến
động của yếu tố khác mà nó chỉ bị ảnh hưởng nhẹ theo tình hình chung của thế giới
và nhanh chóng trở lại quỹ đạo của nó. Chúng ta hãy nhìn qua Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc hay Malaysia… nền kinh tế của họ hầu như không có biến động về giá
hàng hoá như Việt Nam, và mỗi người dân đều có sự tin tưởng vào sự điều hành của
chính phủ, họ ủng hộ các chính sách kinh tế mà cấp quản lý họ đưa ra vì mục đích
phát triển của đất nước.
Để góp phần nhỏ vào hạn chế những yếu kém trên, báo cáo đưa ra một số định
hướng phát triển kinh tế thời gian tới cụ thể như sau:
Đổi mới phương thức quản lý điều hành kinh tế và kết hợp các chuyên gia
kinh tế xây dựng chiến lược phát triển kinh tế dài hạn trong tương lai.
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại theo hướng nâng cao năng
suất và chất lượng và tập trung vào sản xuất hàng hoá. Xây dựng mô hình
kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất hàng hoá làm nòng cốt.
Cải cách thể chế và hoàn chỉnh pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước tham gia phát triển kinh tế, nâng cao vai trò tăng
cường sản xuất hàng hoá.
-59-
Vận hành chính sách tiền tệ hoà nhập với thông lệ quốc tế và tiến tới đảm
bảo tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước nhằm tăng chức năng cung ứng
tiền cho chiến lược phát triển kinh tế.
Để có thể thực hiện theo định hướng cũng như đóng góp vào sự phát triển đất
nước, luận văn đưa ra một số gợi ý về chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ một phần nhỏ
vào tiến trình phát triển kinh tế ổn định, bền vững và kiểm soát lạm phát ở Việt
Nam.
3.2 MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH KINH TẾ:
Lạm phát là một vấn đề lâu dài, không phải ngày một ngày hai là có thể giải
quyết được, do đó cần có một sự nhất quán trong chính sách dài hạn, một mục tiêu
rõ ràng và cần được thực hiện một cách nghiêm túc chứ không phải là một con số
mang tính chất tham khảo. Qua việc phân tích các nhân tố quyết định đến lạm phát
Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012, và kết quả thực nghiệm mô hình, tác giả có một
số khuyến nghị cho chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ cho kiểm soát lạm phát như sau:
3.2.1 Kiểm soát chặt chẽ đầu tƣ công:
Trong thời gian qua, lạm phát Việt Nam luôn ở mức cao và biến động bất
thường hơn so với các nước (như Trung Quốc, Thái Lan,…), nguyên nhân là từ
đâu? Theo tác giả, vấn đề này bắt nguồn từ cơ cấu đầu tư, trong đó tỷ trọng lớn đầu
tư công trong tổng đầu tư xã hội mang lại hiệu quả thấp đã dẫn tới một mô hình
kinh tế tăng trưởng thiếu ổn định và kém bền vững cộng thêm cách thức mà chúng
ta sử dụng để đạt được mục tiêu tăng trưởng. Việc tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu
tư, nên các công trình dự án được mở rộng đã làm cho việc phân bổ vốn không
đồng đều, từ đó gây thất thoát và tồn đọng vốn không thu hồi được, gây hiệu quả
kém của đầu tư và tạo áp lực cho lạm phát tăng cao. Như vậy để cải thiện tính hiệu
quả của đầu tư công, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, “Cắt giảm đầu tư công và nâng cao vai trò định hướng đầu tư
công”. Do đầu tư công quá mức đã lấn át các thành phần kinh tế khác trong khi sự
đóng góp vào tăng trưởng thì ngược lại, sự đóng góp của đầu tư công là thấp so với
thành phần kinh tế tư nhân. Theo báo cáo nghiên cứu “Đầu tư công lấn át đầu tư tư
-60-
nhân” của Tô Trung Thành năm 2012: “Khi tăng đầu tư công thì khu vực đầu tư tư
nhân bị thu hẹp. Sau một thập niên thì 1% tăng vốn đầu tư công ban đầu sẽ khiến
đầu tư tư nhân bị thu hẹp 0,48%”[12]. Điều này cho thấy việc đầu tư công quá mức
đã hạn chế phần nào cho sự phát triển của khu vực tư nhân - khu vực tạo ra giá trị
gia tăng hàng hoá lớn nhất cho xã hội.
Thứ hai, “Hạn chế phân bổ vốn mang tính cục bộ, lợi ích nhóm”. Nhà nước
không nên có sự ưu đãi lớn trong việc phân bổ vốn cho các tập đoàn kinh tế nhà
nước. Sự quan tâm quá mức của Nhà nước trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh
nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến tình trạng thất thoát và làm
ăn thua lỗ gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế. Nhìn vào nền kinh tế thấy rằng các
tập đoàn kinh tế nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều mối quan
hệ đang là đối tượng dành được sự ưu đãi cực lớn trong việc phân bổ vốn. Câu
chuyện của Vinashin và Vinalines là một minh chứng cho sự ưu ái đó, và cả hai
(Vinashin, Vinalines) đã chi tiêu hoang phí của Nhà nước hơn 4 tỷ đô la trong thời
gian qua và hiện vẫn còn rất nhiều các doanh nghiệp nhà nước khác đang nhận được
sự giúp đỡ này.
Điều đáng quan tâm hơn nữa là hầu hết các doanh nghiệp này không chỉ có các
ngân hàng hay tổ chức tài chính riêng của mình mà còn có quan hệ chặt chẽ với
không ít các tổ chức tài chính ngân hàng lớn hay những mối quan hệ khác. Điều này
làm cho các khoản vay theo mối quan hệ ngày càng phổ biến hơn và một khoảng
vốn lớn trong đó được đưa vào hoạt động đầu cơ gây rủi ro và tạo áp lực tăng giá
hàng hoá.
Thứ ba, “Kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư và thanh lọc DNNN làm ăn thiếu
hiệu quả”. Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà
nước không phải là việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là công việc
thường xuyên và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng. Cơ chế mới về quản lý đầu tư nhà nước như trình bày trên đây không chỉ áp
dụng cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án đầu tư mới mà
còn áp dụng để rà soát, cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư hiện có,
-61-
đổi mới và công khai minh bạch các khoảng vốn đầu tư công, không phân bổ vốn
đầu tư trong các lĩnh vực mà tư nhân có thể thực hiện được.
Từ đó cho thấy một chính sách hợp lý về sử dụng vốn đầu tư, một quy định về
kiểm soát hiệu quả đồng vốn kết hợp việc đầu tư trọng điểm hợp lý thì có thể sẽ giải
quyết được nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội. Đặc biệt là hướng đến một nền kinh tế
phát triển ổn định và bền vững, tạo lòng tin nơi người dân, chúng ta nên mạnh tay,
nhanh chóng xử lý và sẵn sàng loại bỏ các tập đoàn làm ăn kém hiệu quả.
3.2.2 Thay đổi phƣơng thức quản lý đầu tƣ:
Thay đổi phương thức quản lý về đầu tư theo hướng tập trung trọng điểm, không
dàn trải và có chiến lược rõ ràng. Như chúng ta biết, các năm qua việc đầu tư của
Việt Nam hầu như không theo chiến lược kinh tế mà diễn ra theo trào lưu giữa các
địa phương. Cụ thể, những năm trước chúng ta đã chứng kiến diễn ra trào lưu nhà
máy đường khắp nơi, mặc dù nguyên liệu đầu vào ngày một giảm sút. Hiện nay thì
lại diễn ra trào lưu sân gold trải đều, tỉnh này có nhà máy lọc dầu thì tỉnh kia cũng
phải có lọc dầu, tỉnh này có cảng thì tỉnh kia cũng có cảng, tỉnh này có nhà máy
điện thì tỉnh kia cũng thế (Theo thống kê của tác giả về số liệu từ EVN, hiện nay có
68 nhà máy điện lớn nhỏ trải khắp từ Bắc đến Nam), tỉnh bạn có sân bay thì mình
cũng phải bay chứ… cứ thế tỉnh ta phải cố gắng làm cho mình giống tỉnh bạn,
chúng ta có thể liệt kê rất nhiều tương tự cho các lĩnh vực khác. Các dự án diễn ra là
thế, công trình dở dang và kéo dài cũng trải rộng theo chiều dài đất nước. Tất cả
điều này xuất phát từ việc quản lý chưa chặt chẽ của nhà nước, quy trình phê duyệt
dự án đầu tư quá dễ dãi, cứ phê duyệt và cho đầu tư, còn vấn đề thực hiện tới đâu
thì để tới đó, tạo cơ hội cho các nhóm lợi ích hình thành, lãng phí và tham nhũng
khắp nơi gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế. Tất cả đây là vấn đề mà chúng ta cần
phải thay đổi, cần phải xem lại phương thức quản lý của mình để giảm bớt tình
trạng “lạm phát dự án” thực tế như hiện nay. Nếu không, theo tác giả nghĩ trong
tương lai chúng ta sẽ không còn nói đến kiềm chế lạm phát hàng hoá nữa mà thay
vào đó là tìm giải pháp để kiểm soát “lạm phát dự án”.
-62-
Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên tách bạch về quyền quản lý và quyền đầu tư,
hãy trao việc đầu tư lại cho các nhà đầu tư, nhà nước nên tập trung vào quản lý có
hiệu quả, hạn chế tham nhũng và lãng phí.
3.2.3 Chính sách tiền tệ:
Với chính sách tiền tệ, bài viết đưa ra các giải pháp nhằm điều tiết lạm phát
trong thời gian tới như sau:
3.2.3.1 Cơ chế thị trường mở:
Xem xét lại cơ chế thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, hạn chế việc sử
dụng trái phiếu chính phủ để rút tiền của các ngân hàng thương mại một khi có trái
phiếu chính phủ phát hành. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần theo dõi, tính
toán, dự đoán vốn khả dụng cho các ngân hàng, diễn biến lạm phát, lãi suất, đầu
tư… để trên cơ sở đó Ngân hàng Nhà nước có quyết định can thiệp thị trường mở
hợp lý và kịp thời.
3.2.3.2 Cơ chế điều hành lãi suất:
Việc điều chỉnh lãi suất cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc đảm
bảo lợi ích của người gởi tiền, người vay tiền và các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện
tập trung tối đa các nguồn vốn để hỗ trợ cho phát triển kinh tế. Hiện nay, lãi suất là
quá cao, chính vì thế việc sử dụng công cụ lãi suất điều tiết lạm phát không mang
lại hiệu quả mà ngược lại còn gây tác hại xấu cho nền kinh tế. Chính vì vậy, phải
chăng chúng ta nên giữ ổn định lãi suất trong ngắn hạn nhằm tạo niềm tin nơi người
dân đồng thời tăng cơ hội tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp. Tiếp sau đó tiến hành
giảm lãi suất để giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp và giảm áp lực tăng giá.
3.2.3.3 Tăng cường kiểm soát các ngân hàng thương mại:
Ngân hàng Nhà nước cần theo dõi tổng số dư nợ của các ngân hàng thương mại
ở từng thời kỳ khác nhau cụ thể và từ đó sẽ có giải pháp can thiệp giới hạn hay mở
rộng. Có biện pháp quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng của các ngân hàng thương
mại, tránh tình trạng các ngân hàng thương mại bất chấp lợi nhuận để mở rộng tối
đa cho vay lách luật vượt trần lãi suất, gây rủi ro cao, khó thu hồi nợ dẫn đến tình
trạng thất thoát vốn vay do làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp vay vốn.
-63-
3.2.3.4 Sử dụng các công cụ kiểm soát lạm phát kịp thời:
Sử dụng các công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay hạn mức tín dụng phải kịp
thời và hợp lý nhằm kiểm soát tốt lạm phát xảy ra, đồng thời hạn chế độ trễ về thời
gian tác động của các yếu tố này lên lạm phát. Các công cụ này có tác động đến khả
năng huy động vốn và cung ứng tiền cho nền kinh tế, do vậy Ngân hàng Nhà nước
cần phải có cơ chế quản lý chặt chẽ và theo dõi thường xuyên để tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng. Đồng thời vận dụng các
công cụ này phải phù hợp với tình hình diễn biến của thị trường tiền tệ.
3.2.3.5 Thực hiện thắt chặt tiền tệ:
Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay các cuộc hội thảo về tình
hình kinh tế thường đề cập đến: Chúng ta có nên tăng đầu tư hay mở rộng tiền tệ
nhằm kích cầu nền kinh tế hay không? Qua thời gian suy thoái và lạm phát cao,
Chính phủ lại nghỉ đến việc kích cầu cho nền kinh tế, một trong những giải pháp
kích cầu đầu tiên mà các nhà quản lý đưa ra là cứu vớt các doanh nghiệp bất động
sản đang bị chìm sâu trong khủng hoảng thông qua gói hỗ trợ gói 30.000 tỷ hay hỗ
trợ lãi suất 6% để người nghèo vay tiền mua nhà, nhưng có mấy ai là người nghèo
tiếp cận được nguồn vốn vay để mua được căn nhà cho mình? Và như vậy không
khéo lượng vốn này lại được sử dụng để đầu cơ, tích trữ của các mối quan hệ thân
quen vào thị trường bất động sản. Trong khi các ngành sản xuất thì nhận được sự hỗ
trợ rất ít để phục vụ cho tăng cường sản xuất hàng hoá, nơi mà có thể tạo ra giá trị
gia tăng cho xã hội thì chưa được quan tâm đúng mức.
Bởi vậy, theo tác giả thì việc mở rộng tiền tệ trong lúc này chưa hẳn là hợp lý,
chúng ta nên thắt chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư, không nên hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp bất động sản, mà tập trung vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng
hoá, khuyến khích các doanh nghiệp nhìn lại mình, thực hiện cơ cấu lại vốn và quy
trình sản xuất nhằm tăng cường sản xuất hàng hoá, tận dụng tối đa nguồn nội lực để
phục hồi nền sản xuất hàng hoá, tăng tính cạnh tranh với các nước trong khu vực và
thế giới.
-64-
Trên đây là một số ý về chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ cho việc ổn định kinh tế.
Để các giải pháp này thật sự có hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước cần phải có một cơ
chế giám sát chặt chẽ, thưởng phạt công minh. Đồng thời kết hợp với chính sách tài
khoá phù hợp để đảm bảo phục vụ mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát giúp
nền kinh tế ổn định và phát triển bền vững.
3.2.4 Tập trung vào sản xuất hàng hoá:
Khi nhìn lại sau thời gian đổi mới, chúng ta rất phấn khích với kinh tế có sự đổi
mới, đất nước thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, nhưng các sản phẩm mà chúng ta sản
xuất hiện nay trên thị trường là gì? Các hàng hoá chúng ta đang sử dụng có phải của
Việt Nam làm ra hay từ nhập khẩu? Là một đất nước nông nghiệp, trong khi các sản
phẩm nông nghiệp không cạnh tranh nổi với các nước trong khu vực, ngoài các sản
phẩm như cà phê, cao su, dệt may, hoá dầu phục vụ cho xuất khẩu thô, còn lại hầu
như các hàng hoá đều nhập từ các nước khác. Do đó, tình trạng nhập siêu cứ thế
diễn ra, chi tiêu công thì quá lớn làm cho ngân sách luôn ở trạng thái thâm hụt triền
miên gây bất ổn cho nền kinh tế. Tình hình sản xuất không được cải thiện luôn phụ
thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Bên cạnh đó, diện tích đất sản
xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do chuyển sang các khu công nghiệp, khu chế
xuất hay các đô thị. Trong khi khu công nghiệp hình thành thì các doanh nghiệp
không đi sâu vào sản xuất hàng hoá mà tập trung đầu cơ vào các lĩnh vực có rủi ro
cao (bất động sản, chứng khoán). Như vậy phải chăng chúng ta nên rất cần một định
hướng mới, tập trung vào sản xuất hàng hoá, sử dụng tối đa nguồn lực hiện có, tăng
cường hợp tác quốc tế, học hỏi khoa học kỹ thuật công nghệ mới và chuẩn bị đầy đủ
nguồn nội lực. Có như vậy thì nền kinh tế mới có thể ổn định và phát triển dựa trên
kinh tế thị trường hàng hoá. Bài học rất hữu ích từ việc tập trung vào sản xuất hàng
hoá của Hàn Quốc, Trung Quốc, hay Đài Loan…
3.2.5 Nâng cao vai trò dự báo và thực hiện đo lƣờng lạm phát kỳ vọng trong
công chúng:
Các mô hình dự báo hiện nay tuy còn hạn chế nhất định nhưng không phải vì thế
mà chúng ta không thực hiện các mô hình dự báo. Việc sử dụng các dự báo này có
-65-
thể dự phòng các trường hợp xấu có thể xảy ra cho nền kinh tế, từ đó đưa ra những
quyết sách hợp lý và kịp thời. Không những thế, mà các mục tiêu đề ra cũng có cơ
sở và hợp lý hơn, không nên để tình trạng mục tiêu thay đổi liên tục trước các biến
động của lạm phát.
Bên cạnh ứng dụng các mô hình dự báo tiên tiến, tầm quan trọng của lạm phát
kỳ vọng đối với hiệu quả của các chính sách tiền tệ và mục tiêu ổn định giá cả đã
được minh chứng rộng rãi và nó trở thành nhân tố trọng tâm trong vấn đề lạm phát.
Trên thế giới, việc đo lường lạm phát kỳ vọng đã được tiến hành thông qua nhiều
phương pháp khác nhau từ rất sớm, như Mỹ thực hiện khảo sát lạm phát kỳ vọng
trong các hộ gia đình từ năm 1959; Philippines khảo sát trong 5.000 doanh nghiệp
năm 2001. Chính vì thế, báo cáo này khuyến nghị chúng ta nên có chương trình đo
lường lạm phát kỳ vọng để tạo cơ sở cho việc dự báo và xác định lạm phát trong
tương lai nhằm hỗ trợ cho đề xuất các chính sách kinh tế.
3.2.6 Xây dựng chính sách mục tiêu lạm phát:
Lạm phát ảnh hưởng đến nền kinh tế không phải lúc nào cũng xấu, là bất lợi
hoàn toàn. Nếu chúng ta có thể duy trì được tỷ lệ lạm phát vừa phải và hợp lý thì
lạm phát trở thành nhân tố rất hựu ích cho sự phát triển kinh tế. Vì thế, xu hướng
hiện nay đã có nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới định hướng cho chính sách
kiểm soát lạm phát có sự biến động nhưng sự biến động này không ảnh hưởng hay
gây xáo trộn đến các yếu tố khác như đầu tư, tiêu dùng, tăng trưởng, và gọi đó là
chính sách mục tiêu lạm phát. Các quốc gia đã sử dụng và thành công như:
NewZealand áp dụng 1990, Canada áp dụng năm 1991 và các nước khối EU áp
dụng năm 1999. Và các nước này cũng sử dụng công cụ CPI để đo lường lạm phát
giống Việt Nam chúng ta. Bởi vậy, chúng ta nên xem xét xây dựng chính sách mục
tiêu lạm phát nhằm kiểm soát tốt lạm phát và tăng niềm tin của dân chúng vào điều
hành chính sách kinh tế. Điều kiện cơ bản để áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát
là tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước, điều kiện này cho phép Ngân hàng Nhà
nước sẽ dễ dàng thực hiện các chức năng của mình, đó là chủ động trong điều tiết
lượng cung ứng tiền phù hợp với nền kinh tế chứ không phải chỉ để đáp ứng nhu
-66-
cầu chi tiêu và thâm hụt ngân sách của Chính phủ. Đồng thời cũng tăng quyền tự
quyết hơn trong việc sử dụng hiệu quả các công cụ kiểm soát lạm phát. Bên cạnh
đó, minh bạch về thông tin cũng là điều kiện không thể thiếu cho việc thực hiện
chính sách mục tiêu lạm phát.
3.2.7 Một số gợi ý khác:
Thực hiện cải cách thể chế nhanh chóng và triệt để: Hầu hết chúng ta đều
chứng kiến, đất nước đang rơi vào tình trạng suy thoái toàn diện trên mọi
mặt, từ các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, đạo đức, giáo dục y đức cho đến
kỷ cương pháp luật và niềm tin của dân chúng. Tất cả vấn đề này là do sự
khủng hoảng của một thể chế yếu kém đã góp phần quan trọng cho tình trạng
đó. Bên cạnh đó, các vấn đề đưa ra bàn luận liên quan đến người dân thì họ
tham gia theo hình thức cho lấy lệ, vì niềm tin đã bị suy giảm, do đó có nhiều
quyết định đã không nhận được sự ủng hộ của người dân. Đặc biệt hơn là
quyết định đến các vấn đề về phát triển kinh tế thì các nhà khoa học trong
lĩnh vực này không được tham gia với vai trò là người xây dựng chiến lược
mà chỉ mang về hình thức cho đầy đủ các thành phần mà thôi. Phải chăng
chúng ta nên nhìn nhận lại một cách nghiêm túc để từ đó có giải pháp cho
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện tại và tương lai.
Đối với tỷ giả, cần định hướng chính sách tỷ giá hợp lý, tránh tình trạng “hai
giá” như hiện nay, từ đó tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá Việt Nam trên
thị trường quốc tế.
Quan tâm nhiều hơn cho giáo dục, tạo nguồn nhân lực vừa chuyên vừa sâu
hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Đồng thời, các nhà quản lý phải tin
tưởng vào các nhà khoa học trong việc hỗ trợ, đề xuất các chính sách kinh tế
nhằm phục vụ cho phát triển đất nước.
Thực hiện cải cách hành chính theo chiều sâu tạo điều kiện kinh doanh thuận
lợi, tránh chồng chéo trùng lặp giữa các cấp quản lý, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô.
-67-
Đổi mới tư duy quản lý, loại bỏ tư tưởng trục lợi cá nhân: Bên cạnh những
thành tựu đạt được, chúng ta chứng kiến kinh tế Việt Nam còn nhiều điểm
yếu cần khắc phục (chẳng hạn như: kinh tế phát triển chưa bền vững, thiếu
tính ổn định, hiệu quả đầu tư và năng suất lao động thấp, đầu tư mang tính
dàn trải theo trào lưu chưa có trọng điểm, sức cạnh tranh của hàng nội địa
yếu thế so với hàng nhập khẩu, sử dụng nguồn lực chưa hiệu quả, …). Tất cả
những hạn chế và yếu kém đó được gây ra bởi nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân chủ quan là cơ bản. Vấn đề chủ quan này là do đâu? Do
phương thức lãnh đạo của Đảng chưa chịu đổi mới, chưa đáp ứng kịp thời
với nhu cầu phát triển đất nước, bệnh thành tích thì nặng nề, một số cán bộ
công chức còn đọng tư tưởng bảo thủ, lợi ích cá nhân, tạo cơ hội cho lợi ích
nhóm, trong khi kỷ cương luật pháp thì chưa nghiêm nên tình trạng tham
nhũng lãng phí diễn ra khắp nơi gây ảnh hưởng xấu cho phát triển kinh tế.
-68-
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến lạm phát giai đoạn 1990 – 2012,
báo cáo đưa ra một số hạn chế của nền kinh tế và từ đó đề xuất một số khuyến nghị
về chính sách kinh tế hỗ trợ cho kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. Việc áp dụng các
chính sách tiền tệ và tài khoá để điều hành nền kinh tế nhằm phục vụ cho mục tiêu
tăng trưởng là hết sức khó khăn và phụ thuộc vào mỗi giai đoạn khác nhau. Chính
vì thế, vấn đề nghiên cứu các biến số kinh tế vĩ mô và vận hành tốt được coi là một
quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển.
=================
-69-
KẾT LUẬN
Báo cáo trình bày tổng quan lạm phát khi nền kinh tế chuyển đổi từ bao cấp sang
kinh tế mở nhằm có cái nhìn rõ hơn về lạm phát và những nguyên nhân gây ra. Từ
đó xác định các nhân tố cơ bản tác động lên lạm phát và xây dựng mô hình định
lượng. Qua đó đề xuất các giải pháp chính sách nhằm hỗ trợ kiểm soát lạm phát ở
Việt Nam. Sau đây là một số điểm tóm lược từ nghiên cứu:
Yếu tố kỳ vọng chiếm vai trò lớn gây lạm phát tăng cao:
Qua kết quả nghiên cứu, kỳ vọng góp phần giải thích cho lạm phát tương đối lớn
trong thời gian qua. Kết quả này cũng khá phù hợp với các báo cáo trước đây về
nguyên nhân gây lạm phát. Đây là nhân tố mà chúng ta cần cải thiện rất nhiều nhằm
lấy lại niềm tin của dân chúng trong điều hành chính sách kinh tế.
Đầu tƣ công nhiều, hiệu quả thấp trong thời gian dài đã gây áp lực cho
lạm phát:
Việc đầu tư là cần thiết nhưng nó chỉ đóng vai trò chỉ dẫn chứ không phải lấy đó
làm cơ sở cho tăng trưởng. Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng từ đầu tư công,
nhưng việc đầu tư kém hiệu quả kết hợp tình trạng trục lợi vì cá nhân, vì lợi ích
nhóm đã dẫn đến thất thoát vốn tạo áp lực cho giá cả hàng hoá gia tăng và gây áp
lực lớn cho lạm phát leo thang và tái diễn.
Chính sách tiền tệ thiếu linh hoạt tác động đến lạm phát:
Đóng góp vào giải thích lạm phát tăng cao và có tính chu kỳ trong thời gian qua
thì cung tiền đóng góp một phần không nhỏ. Việc tăng nóng cung tiền qua các kênh
như đầu tư, tín dụng, huy động vốn từ bên ngoài ồ ạt được tích luỹ khá lâu đã dẫn
đến áp lực tăng giá hàng hoá và gây bất ổn cho nền kinh tế.
Lãi suất cũng góp phần cho việc giải thích sự gia tăng của lạm phát nhưng sự
đóng góp là tương đối nhỏ và có độ trễ về thời gian. Nhưng một khi có cú sốc lạm
phát xảy ra thì lãi suất phản ứng rất mạnh, điều này lý giải cho việc Ngân hàng Nhà
nước thường sử dụng công cụ lãi suất để tác động sau khi có lạm phát xảy ra, việc
-70-
tăng lãi suất huy động thể hiện thắt chặt tiền tệ nhằm mục đích giảm tiêu dùng, đầu
tư từ đó hạn chế áp lực tăng giá hàng hoá trong thời gian qua.
Hệ quả của lạm phát đối với nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu chưa cho thấy sự tác động của sản lượng lên lạm phát, điều
này hơi nghịch lý so với lý thuyết và các báo cáo trước đây. Ngược lại lạm phát
tham gia vào giải thích sự biến động cho hầu hết các yếu tố khác. Tuy sự tác động
của CPI đến các biến có xu hướng khác nhau, nhưng cũng nói lên được hệ quả của
việc biến động lạm phát. Nếu tình trạng lạm phát kéo dài thì sẽ tác động rất lớn đến
các yếu tố khác như sản lượng, đầu tư, xuất nhập khẩu, thất nghiệp, tăng trưởng,…
Dù đã rất cố gắng để hoàn thành nghiên cứu của mình, báo cáo đã nêu được các
vấn đề của lạm phát khá phù hợp với lý thuyết lẫn thực tiễn, nhưng cũng không thể
tránh khỏi những hạn chế của người nghiên cứu và mô hình thực nghiệm. Dưới đây
là một số điểm yếu cụ thể của báo cáo và mong nhận được sự góp ý của quý Thầy,
Cô giáo và các bạn để đề tài được tốt hơn.
Mô hình dựa trên quan điểm phía cầu để xét đến yếu tố lạm phát, chưa xét
đến các yếu tố cung như tiền lương, năng suất lao động, giá cả các yếu tố đầu
vào sản xuất, hay biến động giá từ bên ngoài nên chưa phản ánh đầy đủ các
mối quan hệ giữa các biến số.
Sự thiếu sót về số liệu đã làm cho việc xây dựng mô hình thiếu nhiều yếu tố
khác có thể ảnh hưởng đến lạm phát.
Báo cáo đã bỏ qua vai trò của các nhân tố vi mô như cấu trúc thị trường, vị
trí địa lý… là những nhân tố có thể giúp giải thích cho sự biến động cũng
như tình trạng kéo dài của lạm phát trong thời gian qua.
Ngoài ra, có thể mở rộng nghiên cứu bằng cách thêm vào biến số (thâm hụt
ngân sách, xuất nhập khẩu, vốn FDI, giá dầu, giá gạo,…) và sử dụng các mô
hình cải tiến hơn như (VECM, SVAR, FAVAR…) để thấy rõ hơn về mối
quan hệ giữa các biến số vĩ mô (thời gian trễ, xu hướng cùng chiều hay
ngược chiều) và hy vọng chúng ta sẽ tìm được nhiều phát hiện mới về
nguyên nhân cũng như đề xuất các giải pháp phù hợp hơn cho lạm phát.
-71-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Nghị quyết 10/NQ-CP, ngày 24 tháng 4 năm 2012, về Triển khai thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát
triển đất nước 5 năm 2011 – 2015.
2. Chương trình kinh tế giảng dạy Fulbright (2001), Kinh tế vĩ mô.
3. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa Xuân (2013), Kinh tế Việt Nam 2013, Tái cơ cấu
nền kinh tế một năm nhìn lại, Nhà xuất bản Tri thức trẻ.
4. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa Xuân (2012), Kinh tế Việt Nam 2012, Khởi động
mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu kinh tế, Nhà xuất bản Tri thức trẻ.
5. Nguyễn Đình Cung (2012), Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước,
một yêu cầu cấp bách của tái cơ cấu kinh tế, ecna.gov.vn/ct/ht/Lists/BaiViet/-
Attachments/93/Tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước - TS.pdf.
6. Nguyễn Đức Thành (2011), Nền kinh tế Việt Nam trước ngã ba đường, Báo cáo
thường niên kinh tế Việt Nam 2011, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), Những bài học từ một thập
kỷ chống lạm phát ở Việt Nam, Báo cáo thường niên kinh tế năm 2011
8. Nguyễn Phi Lân (2010), Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích định
lượng, Tạp chí Ngân hàng số 18/2010
9. Nguyễn Văn Tiến, Vũ Hoàng Phương Quế (2009), Chính sách mục tiêu lạm
phát – kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Việt Nam.
10. Phạm Minh Chánh, Vương Quân Hoàng (2009), Kinh tế Việt Nam thăng trầm và
đột phá, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
11. Phạm Thế Anh (2008), Ứng dụng mô hình SVAR trong việc xác định hiệu ứng
chính sách tiền tệ và dự báo lạm phát ở Việt Nam.
12. Tô Trung Thành (2012), Đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân, góc nhìn từ mô hình
thực nghiệm VECM, VEPR, Bài nghiên cứu NC-27
-72-
13. Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Hữu Tuấn (2013), Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ
ở Việt Nam tiếp cận theo mô hình SVAR, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 10
(20), tháng 05-06/2013.
14. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê thế kỷ 20, niên giám thống kê 2004, 2008,
2012.
15. Vũ Tuấn Anh (2010), Tóm tắt về tình hình đầu tư công ở Việt Nam trong 10 năm
qua, Kỷ yếu hội thảo đầu tư công, Huế 28, 29/12/2010.
CÁC TRANG WEB, BÁO VÀ TẠP CHÍ:
17. Báo Dân trí, ngày 04/4/2013, “8 tỷ USD đổi 1% tăng trưởng GDP, quá đắt”
18. Báo Doanh nhân Sài Gòn, ngày 26/12/2010, “Đầu tư công và lạm phát”.
19. Báo VnEconomy, 12/9/2011, Dương Ngọc, “Lạm phát do đâu?”.
16. Báo Công thương ngày 3/1/2013, “Lạm phát năm 2012: Sau niềm vui là nỗi lo”.
20. http://temviet.com/forum/index.php?threads/kinh-ho%C3%A0ng-
nh%E1%BB%AFng-con-s%E1%BB%91.1998/
DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG ANH
21. ADB – Key Indicators for Asia and the Pacific 2013
22. Ben S C Fung (2002), Bank for International Settlements, A VAR analysis of the
effects of monetary policy in East Asia.
23. Canova Fabio and Luca Gambetti (2006), The structural dynamics of output
growth and inflation: some international evidence.
24. Camen (2006), Monetary Policy in Vietnam: The Case of a transition Country.
25. Disyatat and Vongsinsirikul (2003), Monetary policy and the transmission
mechanism in Thailand.
26. Mankiw (2003), Macroeconomics, Second edition, Worth publisher, New York.
27. Nguyen Thi Thuy Vinh and S. Fujita (2007), The impact of real exchange rate
on output and inflation in Vietnam: A VAR Approach.
-73-
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Mô hình VAR (Vector tự hồi quy VAR - Vector Autoregressions)
Mô hình VAR thông thường được sử dụng trong hệ thống dự báo chuỗi thời
gian có tương quan với nhau và phân tích tính động đối với nhiễu ngẫu nhiên
trong hệ thống các biến. Mô hình VAR là một mô tả tập hợp gồm k các biến
nội sinh (endogenous variables) như là hàm tuyến tính của các biến trong quá
khứ. Mô hình VAR bậc p có dạng:
(1) Yt = A1Yt-1 + A2Yt-2 + … + ApYt-p + BXt + εt
Với Yt là k vector biến nội sinh, trong đó
Yi,t là biến thứ i quan sát tại thời điểm t.
Yt-m là quan sát của vector Y tại độ trễ m.
Xt là d vector biến ngoại sinh (exogenous variables).
εt là vector sai số và có những đặc tính sau:
+ E(εt )=0, trung bình của sai số bằng 0.
+ E(εt, ε’t)=Ω, ma trận hiệp phương sai của sai số (covariance
matrix of error terms) và đây là ma trận xác định dương.
+ E(εt, ε’t-k)=0, với k khác 0, không có tương quan giữa các độ trễ
theo thời gian.
Các ma trận Ai và B là các ma trận hệ số được mô phỏng, Ai là ma trận kxk
và B là vector hằng số.
1.2 Chuỗi dữ liệu dừng – Stationary
1.2.1 Khái niệm
Một khái niệm quan trọng trong các quy trình phân tích chuỗi thời gian là
tính dừng. Một chuỗi dừng là chuỗi có giá trị trung bình, phương sai và hiệp
phương sai không thay đổi theo thời gian. Điều này ngụ ý rằng các giá trị này
giống nhau tại bất kỳ thời điểm t. Các đặc điểm của chuỗi dừng bao gồm:
+ Chuỗi có xu hướng trở lại trạng thái trung bình và dữ liệu dao động xung
-74-
quanh giá trị trung bình trong dài hạn. Hay E(Yt) là hằng số tại tất cả thời
điểm t; E(Yt)=μ với μ là trung bình tổng thể.
+ Chuỗi có giá trị phương sai xác định không thay đổi theo thời gian.
Hay Var(Yt) là hằng số tại tất cả thời điểm t; Var(Yt)=E(Yt-μ)2=ζ2, và ζ
là độ lệch chuẩn của tổng thể.
+ Hiệp phương sai Cov(Yt,Yt+k) là hằng số tại các thời điểm t và phụ thuộc
khoảng cách giữa hai giai đoạn, với k khác 0.
Cov(Yt,Yt+k) = E(Yt - μ)E(Yt+k – μ) = γk
Trong đó: γk là hiệp phương sai ở độ trễ k, là hiệp phương sai giữa các giá trị
Yt và Yt+k (hoặc Yt-k); nghĩa là, giữa hai giá trị Y cách nhau k thời đoạn.
Chuỗi thời gian dừng quan trọng, có hai lý do:
Thứ nhất, Gujarati (2003) cho rằng nếu một chuỗi thời gian không dừng,
chúng ta chỉ có thể nghiên cứu hành vi của nó trong thời gian đang được xem
xét. Mỗi một mẫu dữ liệu thời gian sẽ mang một tình tiết nhất định và chỉ thể hiện
những hành vi cụ thể trong khoảng thời gian đó. Kết quả là, chúng ta không thể
khái quát hóa cho các giai đoạn khác nghĩa là không thể lấy đặc điểm của chuỗi
thời gian giai đoạn này làm đặc điểm của một chuỗi thời gian giai đoạn khác. Đối
với mục đích dự báo, các chuỗi thời gian không dừng như vậy có thể sẽ không có
giá trị thực tiễn. Vì như chúng ta đã biết, trong dự báo chuỗi thời gian, chúng ta
ngầm định xu hướng vận động của dữ liệu trong quá khứ và hiện tại được duy trì
cho các giai đoạn trong tương lai. Thế nhưng, nếu bản thân dữ liệu luôn thay đổi
thì chúng ta không thể dự báo được điều gì cho tương lai. Hơn nữa, đối với phân
tích hồi quy, nếu chuỗi thời gian không dừng thì tất cả các kết quả điển hình của
một phân tích hồi quy tuyến tính cổ điển sẽ không có giá trị cho việc dự báo, và
thường được gọi là hiện tượng “hồi quy giả mạo”. Do vậy, điều kiện cơ bản nhất
cho việc dự báo một chuỗi thời gian là nó phải có tính dừng.
Thứ hai, khi biết dữ liệu dừng hay không, chúng ta sẽ giới hạn được số mô
hình dự báo phù hợp nhất cho dữ liệu.
-75-
1.2.2 Chuỗi dừng sai phân
Nếu chuỗi thời gian là một chuỗi không dừng nhưng sai phân bậc 1 của nó là
chuỗi dừng thì ta ký hiệu là I(1): ΔXt =Xt –Xt-1. Tương tự, một chuỗi dừng ở sai phân bậc 2 được ký hiệu là I(2): Δ2Xt = Xt – Xt-2 . Nếu bản thân chuỗi thời gian là chuỗi dừng thì cũng có thể gọi là chuỗi dừng sai phân bậc 0, ký hiệu I(0). Một
cách tổng quát, một chuỗi dừng ở sai phân bậc k được ký hiệu là I(k):
ΔkXt =Xt –Xt-k.
1.2.3 Phương pháp kiểm định chuỗi dừng
Có hai phương pháp thường được sử dụng để kiểm định chuỗi dừng là sử
dụng giản đồ tự tương quan (dựa vào thống kê t và thống kê Q) và kiểm định
nghiệm đơn vị (dựa vào thống kê t của Dickey-Fuller)
1.2.3.1 Giản đồ tự tương quan
Khi một biến được đo lường theo thời gian, thì các quan sát ở các giai đoạn
thời gian khác nhau thường tương quan với nhau. Sự tương quan này thường
được đo bằng hệ số tự tương quan. Tự tương quan là sự tương quan giữa một biến
trễ một hoặc k giai đoạn với chính bản thân biến đó. Chúng ta sẽ thảo luận các
hệ số tự tương quan cho các độ trễ khác nhau của một chuỗi thời gian nhất định
được sử dụng như thế nào để nhận biết các dạng dữ liệu khác nhau
Hệ số tự tương quan tổng thể có độ trễ bậc k (ký hiệu là ρk) được xác định theo
công thức sau:
(2) ρk =
Nếu chia các từ và mẫu của phương trình trên cho n thì hệ số tự tương quan trên
có thể được viết lại như sau:
(3)
Phương trình (2) và (3) được gọi là hàm tự tương quan, ký hiệu ACF
-76-
Do thực tế ta chỉ làm việc với dữ liệu mẫu, nên ta chỉ có thể ước lượng hệ số
tương quan mẫu (ký hiệu rk) theo công thức sau:
(4) rk =
Trong đó: là giá trị trung bình mẫu của chuỗi Yt
k là độ trễ
n là số quan sát của mẫu
Kiểm định hệ số tương quan là cơ sở để giúp người phân tích dữ liệu biết được
chuỗi thời gian đang xem xét là thuộc dạng dữ liệu nào: ngẫu nhiên, dừng, có yếu tố
xu thế hoặc có yếu tố mùa vụ.
Có hai phương pháp kiểm định hệ số tự tương quan có ý nghĩa thống kê hay
không, đó là thống kê t và thống kê Q
Thống kê t:
Gọi ρk là hệ số tự tương quan tổng thể (rk là ước lượng không chệch của ρk), ta
có các giả thiết sau:
H0: ρk = 0
H1: ρk ≠ 0
Nếu một chuỗi thời gian ngẫu nhiên thì các hệ số tự tương quan là một biến ngẫu
nhiên có phân phối chuẩn với trung bình là 0 và phương sai là 1/N. như vậy với sai
, ta có thể xây dựng cho khoảng tin số chuẩn của hệ số tự tương quan se(rk) là
cậy cho ρk hoặc tìm được giá trị thống kê t tính toán ở một mức ý nghĩa xác định.
Nếu ρk nằm ngoài khoảng tin cậy đó hoặc giá trị t tính toán lớn hơn giá trị t quan sát
ta bác bỏ giả thiết H0. Việc bác bỏ hay không bác bỏ một giả thiết H0 phụ thuộc vào
cỡ mẫu và mức ý nghĩa được chọn.
Thống kê Q:
Hai cột cuối trong biểu đồ tự tương quan là thống kê Q của Ljung-Box và giá trị
-77-
xác suất tương ứng. Thống kê Q kiểm định giả thiết đồng thời là tất cả các hệ số
ρk cho tới một độ trễ đồng thời bằng không. Giá trị thống kê Q tính toán theo
công thức sau đây:
Với cỡ mẫu lớn, Q có phân phối theo Chi bình phương với bậc tự do bằng số
độ trễ. Nếu giá trị thống kê Q tính toán lớn hơn giá trị thống kê Q quan sát ở
một mức ý nghĩa xác định, ta bác bỏ giả thiết H0.
Nếu hệ số tự tương quan đầu tiên khác không nhưng các hệ số tự tương quan
tiếp theo bằng không một cách có ý nghĩa thống kê, thì đó là một chuỗi dừng.
Nếu một số hệ số tự tương quan khác không một cách có ý nghĩa thống kê thì đó
là một chuỗi không dừng.
1.2.3.2 Kiểm định nghiệm đơn vị
Kiểm định nghiệm đơn vị là một kiểm định được sử dụng khá phổ biến để
kiểm định một chuỗi thời gian là dừng hay không dừng. Khi thực hiện nghiên
cứu khoa học với dữ liệu chuỗi thời gian, chúng ta nên áp dụng kiểm định
nghiệm đơn vị (thay vì giản đồ tự tương quan), vì loại kiểm định này có tính
học thuật và chuyên nghiệp cao hơn. Giả sử ta có phương trình tự hồi quy như
sau:
(-1 ≤ ρ ≤ 1) (6) Yt = ρYt-1 + ut
Giả thiết H0: ρ =1 (Yt là chuỗi không dừng)
H1: ρ < 1 (Yt là chuỗi dừng)
Phương trình (1) tương đượng với phương trình sau:
Yt – Yt-1 = ρYt-1 – Yt-1 + ut
= (ρ-1)Yt-1 + ut
(7) ΔYt = δYt-1 + ut
Như vậy các giả thiết trên được viết lại như sau:
Giả thiết H0: δ=0 (Yt là chuỗi không dừng)
H1: δ<0 ( Yt là chuỗi dừng)
-78-
Dickey và Fuller cho rằng giá trị t ước lượng của hệ số Yt-1 sẽ theo phân
phối xác suất η (tau statistic, η = giá trị δ ước lượng/sai số của hệ số δ). Kiểm
định thống kê η còn được gọi là kiểm định Dickey – Fuller (DF).
Kiểm định DF được ước lượng với 3 hình thức:
+ Khi Yt là một bước ngẫu nhiên không có hằng số:
(DF1) ΔYt = δYt-1 + ut
+ Khi Yt là một bước ngẫu nhiên có hằng số:
(DF2) ΔYt = β1 + δYt-1 + ut
+ Khi Yt là một bước ngẫu nhiên với hằng số xoay quanh một đường xu
thế ngẫu nhiên:
(DF3) ΔYt = β1 + β2t + δYt-1 + ut
Để kiểm định H0 ta so sánh giá trị thống kê η tính toán với giá trị thống kê η
tra bảng DF (các phần mềm kinh tế lượng đều cung cấp giá trị thống kê η). Nếu
giá trị tuyệt đối của thống kê η lớn hơn giá trị η tra bảng, ta bác bỏ giả thiết H0,
nghĩa là Yt là một chuỗi dừng. Ngược lại, nếu giá trị tuyệt đối của thống kê η
nhỏ hơn giá trị η tra bảng, ta không bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là Yt là một
chuỗi không dừng.
Do có thể có hiện tượng tương quan chuỗi giữa các ut do thiếu biến, nên
người ta thường sử dụng kiểm định DF mở rộng là ADF (Augmented Dickey –
Fuller Test). Kiểm định này được thực hiện bằng cách đưa thêm vào phương
trình (DF3) các biến trễ của sai phân biến phụ thuộc ∆Yt.
1.3 Các tiêu chí lựa chọn độ trễ tối ƣu
Một số tiêu chí thường được sử dụng để đánh giá mức độ phù hợp của một
mô hình hồi quy như AIC, FPE, SBC, và HQC (có sẵn trong kết quả hồi quy
trên Eviews)
Khi tăng biến số giải thích trong một mô hình hồi quy bội sẽ làm giảm RSS,
-79-
và vì thế R 2 sẽ tăng. Tuy nhiên, cái giá của việc tăng R 2 là giảm số bậc tự do trong mô hình. Một phương pháp khác ngoài R2 cho phép các biến giải thích thay
đổi khi đánh giá mức độ phù hợp là sử dụng các tiêu chí khác cho việc so sánh
giữa các mô hình, chẳng hạn như Akaike Information Criterion (AIC) của Akaike
(1974); Tiêu chí Schwarz Bayesian Criterion (SBC) của Schwarz (1978); Tiêu chí
Finite Prediction Error (FPE) của Akaike (1970); Và tiêu chí Hannan and Quin
Criterion (HQC) của Quin (1979):
Asteriou (2007) cho rằng chúng ta nên chọn mô hình với các tiêu chí trên
sao cho chúng có giá trị nhỏ nhất. Nói chung, thường thì các tiêu chí này có thể
cho các kết quả trái ngược nhau, dẫn đến có thể có các kết luận khác nhau. Tuy
nhiên, nguyên tắc chung là nên chọn mô hình nào có nhiều tiêu chí có giá trị
nhỏ hơn so với các mô hình khác. Tiêu chí AIC là tiêu chí được sử dụng phổ
biến nhất trong phân tích chuỗi thời gian
1.4 Kiểm định quan hệ nhân quả Granger
Để kiểm định liệu có tồn tại mối quan hệ nhân quả Grangergiữa hai chuỗi
thời gian Y và X trên Eviews, ta xây dựng hai phương trình sau:
(8) Yt = α0 + α1Yt-1 + … + αkYt-k + β1Xt-1 + … + βkXt-k + εt
(9) Xt = α0 + α1Xt-1 + … + αkXt-k + β1Yt-1 + … + βkYt-k + εt
Để xem các biến trễ của X có giải thích cho Y (X tác động nhân quả Granger
lên Y) và các biến trễ của Y có giải thích cho X (Y tác động nhân quả Granger lên
X) hay không ta kiểm định giả thiết sau đây cho mỗi phương trình:
H0: β1 = β2 = … = βk = 0
Để kiểm định giả thiết đồng thời này, ta sử dụng thống kê F của kiểm định
Wald và cách quyết định như sau: Nếu giá trị thống kê F tính toán lớn hơn giá trị
thống kê F phê phán ở một mức ý nghĩa xác định, ta bác bỏ giả thiết H0 và ngược
lại. Có 4 khả năng xảy ra:
Nhân quả Granger một chiều từ X sang Y nếu các biến trễ của X có tác
động lên Y, nhưng các biến trễ của Y không có tác động lên X
Nhân quả Granger một chiều từ Y sang X nếu các biến trễ của Y có tác
-80-
động lên X, nhưng các biến trễ của X không có tác động lên Y
Nhân quả Granger hai chiều giữa X và Y nếu các biến trễ của X có tác
động lên Y và các biến trễ của Y có tác động lên X
Không có quan hệ nhân quả Granger giữa X và Y nếu các biến trễ của X
không có tác động lên Y và các biến trễ của Y không có tác động lên X
-81-
Phụ lục 2: Bảng số liệu
Năm
CPI
GI
IND
lggi
lgind
lgm2
IR
M2
GSO
GSO
GSO
ADB
ADB
%
tỷ VND
tỷ VND
%/năm
tỷ VND
67,10
3.047
138 8,02191
4,92725
9,33768
N/A
11.358
1990
1991
67,50
5.115 15.471 8,53993
9,64672
9,91843
N/A
20.301
1992
17,50
8.688 18.117 9,06970
9,80461 10,20891
18,00
27.144
1993
5,20 18.556 20.412 9,82855
9,92388 10,38245
12,00
32.288
1994
11,40 20.796 23.214 9,94252 10,05251 10,66909
12,00
43.006
1995
12,70 30.447 103.375 10,32374 11,54612 10,87256
12,00
52.710
4,50 42.894 118.097 10,66649 11,67926 11,07718
9,60
64.678
1996
3,60 53.570 134.420 10,88874 11,80872 11,30907
8,40
81.558
1997
9,20 65.034 151.233 11,08267 11,92658 11,53680
9,60
102.416
1998
0,10 76.958 168.749 11,25102 12,03617 11,86812
5,40
142.646
1999
2000
(0,60)
89.417 198.326 11,40107 12,19767 12,31440
4,80
222.882
0,80 101.973 227.342 11,53246 12,33421 12,54176
6,24
279.781
2001
4,00 114.738 261.092 11,65041 12,47263 12,70427
7,44
329.150
2002
3,10 126.558 305.080 11,74846 12,62833 12,92691
6,48
411.232
2003
9,50 139.831 355.624 11,84819 12,78163 13,18505
6,96
532.346
2004
8,50 161.635 416.613 11,99310 12,93991 13,44539
7,80
690.652
2005
6,60 185.102 486.637 12,12866 13,09527 13,73503
7,80
922.672
2006
2007
12,63 197.989 568.141 12,19597 13,25012 14,11431
8,19 1.348.244
2008
19,89 209.031 647.244 12,25024 13,38048 14,29925
13,34 1.622.130
6,88 287.534 697.300 12,56910 13,45497 14,55384
10,15 2.092.447
2009
9,21 316.285 794.600 12,66440 13,58559 14,84126
11,14 2.789.184
2010
2011
18,68 341.555 920.371 12,74126 13,73253 14,95525
13,60 3.125.961
2012
6,81 374.300 964.549 12,83281 13,77942 15,13674
10,70 3.519.275
-82-
Phụ lục 3: Kết quả phân tích thực nghiệm
3.1 KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH VAR Mô hình ước lượng các nhân tố tác động đến lạm phát được xác định như sau:
3.2 KIỂM ĐỊNH TÍNH DỪNG THEO ADF
Null Hypothesis: CPI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 2 (Automatic based on SIC, MAXLAG=4)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
t-Statistic -4.104495 -4.498307 -3.658446 -3.268973
1% level 5% level 10% level
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(CPI) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:15 Sample (adjusted): 1993 2012 Included observations: 20 after adjustments
Prob.* 0.0216
Std. Error
t-Statistic
Prob.
Coefficient -0.762801 -0.015707 -0.250771 -1.397619 0.506450
0.185845 0.094693 0.091508 3.260102 0.224127
-4.104495 -0.165876 -2.740415 -0.428704 2.259660
0.0009 0.8705 0.0152 0.6742 0.0392
Variable CPI(-1) D(CPI(-1)) D(CPI(-2)) C @TREND(1990)
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.650200 Mean dependent var 0.556920 S.D. dependent var 4.635243 Akaike info criterion 322.2821 Schwarz criterion -56.17572 Hannan-Quinn criter. 6.970400 Durbin-Watson stat 0.002227
-0.534500 6.963557 6.117572 6.366505 6.166166 2.069432
Null Hypothesis: IR has a unit root Exogenous: Constant
-83-
Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=4)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -3.309728 -3.808546 -3.020686 -2.650413
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(IR) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:16 Sample (adjusted): 1993 2012 Included observations: 20 after adjustments
Prob.* 0.0282
Std. Error
t-Statistic
Prob.
Coefficient -0.467438 4.097628
0.141231 1.421675
-3.309728 2.882254
0.0039 0.0099
Variable IR(-1) C
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.378331 Mean dependent var 0.343793 S.D. dependent var 2.015670 Akaike info criterion 73.13263 Schwarz criterion -41.34419 Hannan-Quinn criter. 10.95430 Durbin-Watson stat 0.003897
-0.365000 2.488279 4.334419 4.433993 4.353857 1.931902
Null Hypothesis: LGIND has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=4)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -11.28784 -4.440739 -3.632896 -3.254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LGIND) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:16
Prob.* 0.0000
-84-
Sample (adjusted): 1991 2012 Included observations: 22 after adjustments
t-Statistic
Coefficient
-11.28784 12.75734 6.495466
Variable LGIND(-1) C @TREND(1990)
Std. Error 0.070903 0.644089 0.021623
Prob. 0.0000 0.0000 0.0000
0.402371 1.007275 0.841255 0.990033 0.876303 1.209682
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
-0.800343 8.216860 0.140452 0.893257 Mean dependent var 0.882020 S.D. dependent var 0.345980 Akaike info criterion 2.274347 Schwarz criterion -6.253802 Hannan-Quinn criter. 79.49848 Durbin-Watson stat 0.000000
Null Hypothesis: LGM2 has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 3 (Automatic based on SIC, MAXLAG=4)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -4.208152 -4.532598 -3.673616 -3.277364
Prob.* 0.0186
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. Warning: Probabilities and critical values calculated for 20 observations and may not be accurate for a sample size of 19
Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LGM2) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:16 Sample (adjusted): 1994 2012 Included observations: 19 after adjustments
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
Variable LGM2(-1) D(LGM2(-1)) D(LGM2(-2)) D(LGM2(-3)) C
-1.425968 1.062117 0.301484 0.538215 13.02879
0.338859 0.277755 0.236515 0.177530 3.031808
-4.208152 3.823940 1.274691 3.031675 4.297366
0.0010 0.0021 0.2247 0.0096 0.0009
-85-
0.372495
0.088882
4.190884
0.0011
@TREND(1990)
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.624946 Mean dependent var 0.480695 S.D. dependent var 0.055755 Akaike info criterion 0.040412 Schwarz criterion 31.49435 Hannan-Quinn criter. 4.332342 Durbin-Watson stat 0.015344
0.250226 0.077370 -2.683616 -2.385372 -2.633141 2.133296
Null Hypothesis: LGGI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=4)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -3.974531 -4.440739 -3.632896 -3.254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LGGI) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:17 Sample (adjusted): 1991 2012 Included observations: 22 after adjustments
Prob.* 0.0257
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
-0.220347 2.396435 0.023434
0.055440 0.493363 0.011364
-3.974531 4.857348 2.062116
0.0008 0.0001 0.0531
Variable LGGI(-1) C @TREND(1990)
0.218677 0.183757 -1.581218 -1.432439 -1.546170 2.704221
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.715501 Mean dependent var 0.685553 S.D. dependent var 0.103043 Akaike info criterion 0.201739 Schwarz criterion 20.39339 Hannan-Quinn criter. 23.89200 Durbin-Watson stat 0.000007
-86-
3.3 KIỂM ĐỊNH TÍNH DỪNG THEO PP
Null Hypothesis: CPI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Bandwidth: 11 (Newey-West using Bartlett kernel)
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -5.497349 -4.440739 -3.632896 -3.254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Residual variance (no correction) HAC corrected variance (Bartlett kernel)
Phillips-Perron Test Equation Dependent Variable: D(CPI) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:10 Sample (adjusted): 1991 2012 Included observations: 22 after adjustments
Prob.* 0.0011 84.72437 13.20420
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
0.0038 0.7612 0.7573
-0.427354 1.728203 0.114770
0.129861 5.605914 0.365997
-3.290848 0.308282 0.313582
Variable CPI(-1) C @TREND(1990)
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.428588 Mean dependent var 0.368439 S.D. dependent var 9.904640 Akaike info criterion 1863.936 Schwarz criterion -80.05008 Hannan-Quinn criter. 7.125485 Durbin-Watson stat 0.004909
-2.740455 12.46325 7.550008 7.698786 7.585055 2.248033
Prob.*
Null Hypothesis: IR has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 0 (Newey-West using Bartlett kernel)
Adj. t-Stat
-87-
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
-3.309728 -3.808546 -3.020686 -2.650413
1% level 5% level 10% level
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Residual variance (no correction) HAC corrected variance (Bartlett kernel)
Phillips-Perron Test Equation Dependent Variable: D(IR) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:12 Sample (adjusted): 1993 2012 Included observations: 20 after adjustments
0.0282 3.656631 3.656631
Coefficient
t-Statistic
Prob.
-0.467438 4.097628
-3.309728 2.882254
0.0039 0.0099
Variable IR(-1) C
Std. Error 0.141231 1.421675
-0.365000 2.488279 4.334419 4.433993 4.353857 1.931902
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.378331 Mean dependent var 0.343793 S.D. dependent var 2.015670 Akaike info criterion 73.13263 Schwarz criterion -41.34419 Hannan-Quinn criter. 10.95430 Durbin-Watson stat 0.003897
Null Hypothesis: LGIND has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Bandwidth: 1 (Newey-West using Bartlett kernel)
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -9.906948 -4.440739 -3.632896 -3.254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Residual variance (no correction) HAC corrected variance (Bartlett kernel)
Prob.* 0.0000 0.103379 0.140461
-88-
Phillips-Perron Test Equation Dependent Variable: D(LGIND) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:13 Sample (adjusted): 1991 2012 Included observations: 22 after adjustments
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
0.070903 0.644089 0.021623
Variable LGIND(-1) C @TREND(1990)
-11.28784 12.75734 6.495466
Prob. 0.0000 0.0000 0.0000
0.402371 1.007275 0.841255 0.990033 0.876303 1.209682
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
-0.800343 8.216860 0.140452 0.893257 Mean dependent var 0.882020 S.D. dependent var 0.345980 Akaike info criterion 2.274347 Schwarz criterion -6.253802 Hannan-Quinn criter. 79.49848 Durbin-Watson stat 0.000000
Null Hypothesis: LGM2 has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Bandwidth: 0 (Newey-West using Bartlett kernel)
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -3.677670 -4.440739 -3.632896 -3.254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Residual variance (no correction) HAC corrected variance (Bartlett kernel)
Phillips-Perron Test Equation Dependent Variable: D(LGM2) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:14 Sample (adjusted): 1991 2012 Included observations: 22 after adjustments
Prob.* 0.0459 0.005255 0.005255
-89-
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
0.192766 1.791619 0.050630
Variable LGM2(-1) C @TREND(1990)
-3.677670 3.856576 3.572855
Prob. 0.0016 0.0011 0.0020
0.263594 0.102484 -2.137911 -1.989132 -2.102863 1.046760
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
-0.708929 6.909514 0.180892 0.475813 Mean dependent var 0.420636 S.D. dependent var 0.078007 Akaike info criterion 0.115617 Schwarz criterion 26.51702 Hannan-Quinn criter. 8.623313 Durbin-Watson stat 0.002163
Null Hypothesis: LGGI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Bandwidth: 11 (Newey-West using Bartlett kernel)
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -10.71305 -4.440739 -3.632896 -3.254671
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Residual variance (no correction) HAC corrected variance (Bartlett kernel)
Phillips-Perron Test Equation Dependent Variable: D(LGGI) Method: Least Squares Date: 08/29/13 Time: 08:14 Sample (adjusted): 1991 2012 Included observations: 22 after adjustments
Prob.* 0.0000 0.009170 0.000960
Coefficient
Std. Error
Prob.
t-Statistic
-0.220347 2.396435 0.023434
0.055440 0.493363 0.011364
0.0008 0.0001 0.0531
Variable LGGI(-1) C @TREND(1990)
-3.974531 4.857348 2.062116
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression
0.715501 Mean dependent var 0.685553 S.D. dependent var 0.103043 Akaike info criterion
0.218677 0.183757 -1.581218
-90-
-1.432439 -1.546170 2.704221
Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.201739 Schwarz criterion 20.39339 Hannan-Quinn criter. 23.89200 Durbin-Watson stat 0.000007
3.4 KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐỘ TRỄ TỐI ƯU
VAR Lag Order Selection Criteria Endogenous variables: CPI LGIND LGM2 IR LGGI Exogenous variables: C Date: 08/21/13 Time: 15:07 Sample: 1990 2012 Included observations: 19
HQ SC 11.36077 11.56725 4.897585 3.658739 3.202039* 0.930822*
Lag 0 1 2
LogL -102.5278 -2.360472 50.55270
LR NA 137.0710 44.55846*
FPE 0.056688 2.32e-05 2.49e-06*
AIC 11.31871 3.406365 0.468137*
* indicates lag order selected by the criterion LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level) FPE: Final prediction error AIC: Akaike information criterion SC: Schwarz information criterion HQ: Hannan-Quinn information criterion
3.5 KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH VAR Vector Autoregression Estimates Date: 08/21/13 Time: 15:05 Sample (adjusted): 1994 2012 Included observations: 19 after adjustments Standard errors in ( ) & t-statistics in [ ] & *, **, *** denote signification at 10%, 5% and 1%
CPI(-1) CPI(-2) LGIND(-1)
CPI -0.059720 (0.54922) [-0.10874] -0.948234* (0.48151) [-1.96929]* 10.51259 (7.11952)
LGIND -0.015986 (0.01669) [-0.95810] 0.023750 (0.01463) [ 1.62353] 0.464630** (0.21630)
LGM2 0.013519* (0.00689) [ 1.96233]* 0.019555*** (0.00604) [ 3.23766]*** -0.238140** (0.08930)
IR -0.140976 (0.15703) [-0.89779] -0.354813** (0.13767) [-2.57729]** 4.671117** (2.03555)
LGGI -0.005762 (0.00503) [-1.14568] 0.015510*** (0.00441) [ 3.51721]*** 0.037142 (0.06520)
-91-
LGIND(-2) LGM2(-1) LGM2(-2) IR(-1) IR(-2) LGGI(-1) LGGI(-2) C
[ 1.47659] 8.667810 (6.06423) [ 1.42933] 25.84669 (18.2427) [ 1.41683] -0.342821 (20.4455) [-0.01677] -1.570304 (1.48436) [-1.05790] 2.379554* (1.20017) [ 1.98267]* -61.89997** (30.4289) [-2.03425]** 0.921264 (15.7899) [ 0.05835] 150.3323 (74.0314) [ 2.03066] 0.735994 0.405987 152.9438 4.372411 2.230238 -46.77333 6.081404 6.628184 7.763158 5.673135
R-squared Adj. R-squared Sum sq. resids S.E. equation F-statistic Log likelihood Akaike AIC Schwarz SC Mean dependent S.D. dependent
[ 2.14811]** -0.226409 (0.18424) [-1.22891] 0.381610 (0.55423) [ 0.68855] -0.199967 (0.62115) [-0.32193] 0.024934 (0.04510) [ 0.55291] 0.009589 (0.03646) [ 0.26299] -2.281749** (0.92445) [-2.46821]** 2.513799*** (0.47971) [ 5.24025]*** 4.654122 (2.24913) [ 2.06930] 0.991105 0.979986 0.141166 0.132837 89.13523 19.61163 -0.906487 -0.359707 12.56222 0.938963 Determinant resid covariance (dof adj.) Determinant resid covariance Log likelihood Akaike information criterion
[-2.66660]** -0.073510 (0.07607) [-0.96638] 0.754818*** (0.22883) [ 3.29860]*** -0.057199 (0.25646) [-0.22303] -0.024967 (0.01862) [-1.34090] -0.011073 (0.01505) [-0.73553] 0.688871 (0.38169) [ 1.80479]* 0.119845 (0.19806) [ 0.60509] -1.294757 (0.92862) [-1.39427] 0.999376 0.998596 0.024065 0.054846 1281.165 36.41894 -2.675678 -2.128897 12.95191 1.463682 2.54E-07 3.36E-09 50.55270 0.468137
[ 2.29477]** 3.213653* (1.73383) [ 1.85350]* 14.67174** (5.21578) [ 2.81295]** -5.000228 (5.84558) [-0.85539] 0.139852 (0.42439) [ 0.32953] 0.802800** (0.34314) [ 2.33955]** -22.20977** (8.69996) [-2.55286]** -1.539586 (4.51450) [-0.34103] 56.25195 (21.1664) [ 2.65761] 0.897978 0.770449 12.50239 1.250119 7.041409 -22.98390 3.577253 4.124033 9.033684 2.609230
[ 0.56966] -0.061071 (0.05554) [-1.09965] 0.074816 (0.16707) [ 0.44782] -0.105189 (0.18724) [-0.56179] 0.035564** (0.01359) [ 2.61621]** -0.026988** (0.01099) [-2.45540]** 0.429258 (0.27867) [ 1.54038] 0.512007*** (0.14460) [ 3.54074]*** 1.430087 (0.67798) [ 2.10933] 0.998956 0.997651 0.012827 0.040043 765.6282 42.39601 -3.304843 -2.758062 11.66902 0.826272
-92-
Schwarz criterion
3.202039
3.6 KIỂM ĐỊNH GRANGER
VAR Granger Causality/Block Exogeneity Wald Tests Date: 08/21/13 Time: 15:06 Sample: 1990 2012 Included observations: 19
Dependent variable: CPI
df 2 2 2 2 8
Excluded LGIND LGM2 IR LGGI All
df 2 2 2 2 8
Chi-sq 3.337185 11.30234 4.002527 6.253647 18.73598 Dependent variable: LGIND Chi-sq 3.067001 1.005518 0.943872 28.17962 61.32377
Excluded CPI LGM2 IR LGGI All
Dependent variable: LGM2
df 2 2 2 2 8
Excluded CPI LGIND IR LGGI All
Chi-sq 17.44161 7.182215 6.058943 7.717022 25.97195
Dependent variable: IR
df 2 2 2
Prob. 0.1885 0.0035 0.1352 0.0439 0.0163 Prob. 0.2158 0.6049 0.6238 0.0000 0.0000 Prob. 0.0002 0.0276 0.0483 0.0211 0.0011 Prob. 0.0131 0.0313 0.0000
Excluded CPI LGIND LGM2
Chi-sq 8.667010 6.930105 24.56807
-93-
2 8
LGGI All
12.00815 34.45424
Dependent variable: LGGI
df 2 2 2 2 8
0.0025 0.0000 Prob. 0.0018 0.3663 0.8444 0.0194 0.0000
Excluded CPI LGIND LGM2 IR All
Chi-sq 12.59606 2.008587 0.338305 7.889465 46.86363
3.7 PHÂN RÃ PHƯƠNG SAI
Variance Decomposition of CPI: Period 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
S.E. 4.372411 5.751348 5.922926 6.280367 6.466018 6.536630 6.715272 6.800522 6.843182 6.890364
CPI 88.36173 54.99494 56.01836 57.41261 54.29770 55.04600 56.53613 55.18550 55.56702 55.76570
LGIND 0.000000 4.964503 4.898636 7.160052 7.055591 6.924925 7.359210 7.237044 7.200455 7.354006
LGM2 0.014549 9.137575 8.626022 7.682603 10.30586 10.14974 9.647959 10.67463 10.56670 10.43746
IR 0.000000 2.247345 2.213109 2.287321 2.453625 2.452184 2.323452 2.524866 2.540439 2.518300
Variance Decomposition of LGIND: Period 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
S.E. 0.132837 0.162447 0.190131 0.191352 0.192546 0.197008 0.206139 0.209756 0.213171 0.216575
CPI 14.71415 11.25499 27.02034 27.38284 27.67809 28.20360 29.41794 29.31305 29.55131 29.49036
LGIND 65.54035 52.40063 39.54657 39.04421 38.67353 36.94280 33.79984 32.64986 31.62558 30.66492
LGM2 19.53035 15.33079 16.69608 16.49434 16.33512 17.20490 19.47170 20.68838 21.65214 22.77236
IR 0.000000 0.710237 1.914245 2.299615 2.591453 2.477637 2.684995 2.794167 2.859034 2.937096
Variance Decomposition of LGM2: Period
S.E.
CPI
LGIND
LGM2
IR
LGGI 11.62372 28.65564 28.24388 25.45741 25.88722 25.42715 24.13325 24.37796 24.12538 23.92453 LGGI 0.215146 20.30335 14.82276 14.77899 14.72181 15.17106 14.62553 14.55454 14.31194 14.13527 LGGI
-94-
0.000000 5.918398 6.577062 4.628991 4.031854 4.017616 3.642864 3.437105 3.374967 3.177041
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
0.054846 0.095406 0.148439 0.176938 0.189660 0.203669 0.216742 0.223418 0.231147 0.240124
0.000000 4.707293 33.97456 31.33571 28.86923 31.42623 31.52446 30.64135 31.74158 32.22490
89.43055 83.41701 54.90131 54.67294 56.30967 54.25229 54.27032 55.22379 54.50623 54.16506
0.000000 2.064463 2.633644 4.215452 5.389611 5.436836 5.651481 5.904444 5.838431 5.851103
LGIND 0.591148 8.706459 7.955964 10.63342 9.393054 9.102371 9.830264 9.316834 9.194745 9.390074
Variance Decomposition of IR: Period 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
S.E. 1.250119 1.688610 1.768688 2.030891 2.177162 2.228354 2.295574 2.359157 2.382296 2.400065
CPI 53.03611 30.67545 34.57020 44.90419 39.45931 40.62797 42.50154 41.13004 41.40799 41.77047
LGM2 26.86318 20.02205 19.74473 15.72199 20.16252 20.30600 19.40389 21.16224 21.32837 21.03386
IR 19.29029 10.77941 9.825584 7.551048 7.138114 7.079225 6.676084 6.750583 6.841255 6.741380
LGIND 0.000000 0.010786 0.788629 1.943459 1.780497 1.514239 1.437143 1.523058 1.470606 1.350815
Variance Decomposition of LGGI: Period 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
S.E. 0.040043 0.055463 0.071313 0.076847 0.083339 0.090384 0.094970 0.099438 0.106632 0.111276
CPI 0.000000 3.643176 34.28444 31.22094 38.56472 40.51217 38.08205 38.88444 39.76571 38.04183
LGM2 0.000000 15.23344 13.80584 18.72463 18.58185 20.99073 25.34866 27.09877 29.17525 32.02333
IR 0.000000 12.39556 7.508594 7.018594 6.084133 5.324232 5.300715 5.048862 4.832516 5.041127
Cholesky Ordering: LGGI LGM2 CPI LGIND IR
10.56945 3.892835 1.913420 5.146905 5.399632 4.867034 4.910871 4.793307 4.538795 4.581893 LGGI 0.219271 29.81663 27.90353 21.18935 23.84700 22.88443 21.58822 21.64031 21.22764 21.06422 LGGI 100.0000 68.71705 43.61250 41.09237 34.98880 31.65863 29.83143 27.44488 24.75592 23.54291
-95-