BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---------------------

NGUYỄN NGỌC HẢI

MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT

VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---------------------

NGUYỄN NGỌC HẢI

MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT

VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2012

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên xin chân thành cám ơn thầy NGUYỄN NGỌC ĐỊNH, thầy

TRẦN NGỌC THƠ người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian thực hiện Luận văn tốt nghiệp này.

Xin chân thành cám ơn quý Thầy, Cô Khoa Tài Chính Doanh Nghiệp

Trường Đại học Kinh Tế TPHCM đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến

thức quí báu cho bản thân tôi nói riêng và cho khoá Cao Học Tài Chính Doanh

Nghiệp nói chung.

Cảm ơn các thành viên trong gia đình, người thân và bạn bè đã động viên

và giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian hoàn thành chương trình học vừa

qua.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2012

NGUYỄN NGỌC HẢI

Tác giả luận văn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM” là công trình nghiên cứu của

chính tác giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và các kết quả

nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, các số liệu sử dụng là trung thực và

có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn

khoa học của Thầy Nguyễn Ngọc Định.

NGUYỄN NGỌC HẢI

Tác giả luận văn

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI CAM ĐOAN

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

1.Tóm tắt ................................................................................................................... 1

2. Đặt vấn đề ............................................................................................................. 1

3. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu .................................................................. 1

CHƯƠNG 1: CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ

GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................................................... 3

1.1 Khái quát những nghiên cứu trước đây .................................................... 3

1.2 Bằng chứng ở các quốc gia .......................................................................... 10

1.3 Kinh nghiệm các nước Châu Á ................................................................... 14

CHƯƠNG 2:PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................... 18

2.1 Mô hình và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 18

2.2 Dữ liệu .............................................................................................................. 19

2.3 Kết quả nghiên cứu ........................................................................................... 21

2.3.1 Thống kê mô tả ................................................................................................ 21

2.3.2 Hệ số tương quan ............................................................................................. 21

2.3.3 Kiểm định nghiệm đơn vị ................................................................................ 22

2.3.4 Kiểm định đồng liên kết .................................................................................. 26

2.3.5 Kiểm định mối quan hệ nhân quả .................................................................... 28

2.3.6 Phân tích mô hình VECM ................................................................................ 31

2.4 Thảo luận kết quả ............................................................................................. 38

Chương 3: Kết luận ................................................................................................ 39

Danh mục các tài liệu tham khảo .......................................................................... 41

Danh mục các bảng

Bảng 1 Tỉ lệ tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam theo quý giai đoạn

1999:1-2012:4.

Bảng 2 Các giá trị thống kê mô tả về tỉ lệ tăng trưởng và lạm phát ở Việt

Nam theo qúy giai đoạn 1999:1-2012:4

Bảng 3 Hệ số tương quan giữa tăng trưởng và lạm phát

Bảng 4 Kiểm định nghiệm đơn vị Augment Dickey-Fuller cho biến CPI

Bảng 5 Kiểm định nghiệm đơn vị Augment Dickey-Fuller cho biến GDP

Bảng 6 Kiểm định hồi qui đồng liên kết Johansen cho I và G

Bảng 7 Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger giữa G và I

Bảng 8 Phân tích mô hình VECM

Bảng 9 Kiểm định nghiệm đơn vị phần dư của mô hình VECM

1

MỞ ĐẦU

1. Tóm tắt

Các dữ liệu nghiên cứu về chỉ số lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong bài

được thu thập trên trang web của Tổng Cục Thống kê và IMF. Kết quả nghiên

cứu cho thấy ở Việt Nam tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ dương (đồng

biến) trong dài hạn. Tuy nhiên, trong ngắn hạn mối quan hệ này vừa đồng biến

và nghịch biến. Ngoài ra, trong ngắn hạn lạm phát còn chịu tác động lớn từ kỳ

vọng lạm phát của công chúng.

2. Đặt vấn đề

Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát luôn là vấn đề thu hút được sự

quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế. Trong thời gian gần đây, sự bất ổn

của kinh tế thế giới sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động đã làm

giảm tốc độ tăng trưởng và gia tăng lạm phát ở nhiều nước, trong đó có Việt

Nam. Ở nhiều quốc gia để có được mức tăng trưởng cao phải đánh đổi với mức

lạm phát cao. Liệu Việt Nam có cần đánh đổi như vậy không? Để trả lời câu hỏi

đó, cần nghiên cứu một cách sâu sắc sự tác động qua lại giữa tăng trưởng và

lạm phát, từ đó tìm ra biện phát nhằm ổn định lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng

và phát triển bền vững cho Việt Nam.

3. Mục tiêu và phƣơng pháp nghiên cứu

Bài viết này nhằm kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng

trong nền kinh tế ở Việt Nam theo quý giai đoạn 1999:1-2012:4. Trong nghiên

cứu của mình, tôi sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test), kiểm định

tính đồng liên kết trong mô hình bằng kiểm định Johansen, kiểm định quan hệ

2

nhân quả Granger và phân tích mô hình VECM để xem xét mối quan hệ giữa

tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam trong thời kỳ 1999-2012. Một bằng chứng

thực nghiệm thu được từ việc chạy mô hình đồng liên kết và mô hình VECM sẽ

cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về mối quan hệ này. Từ đó xác lập mối quan hệ

định hướng giữa tăng trưởng kinh tế - lạm phát và sử dụng lạm phát như một

công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Đồng thời đưa ra những nhận định và một số

kiến nghị cho các cơ quan Chính phủ về kiểm soát lạm phát trong mối quan hệ

với tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.

3

CHƢƠNG 1: CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI

QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ

1.1 Khái quát những nghiên cứu trƣớc đây

Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng vẫn là một tranh cãi cả về lý

thuyết lẫn những nghiên cứu thực nghiệm. Nó bắt nguồn ở những nước Mỹ

Latinh vào những năm 1950, vấn đề này đã tạo ra một cuộc tranh luận dai dẳng

giữa những người theo chủ nghĩa cơ cấu và phái trọng tiền. Những người theo

chủ nghĩa cơ cấu tin rằng lạm phát cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, trong khi

phái trọng tiền cho rằng lạm phát gây bất lợi cho sự phát triển kinh tế. Có hai

khía cạnh trong cuộc tranh luận này: (a) bản chất của mối quan hệ nếu nó tồn tại

và (b) hướng của mối quan hệ nhân quả. Friedman (1973; 41) tóm tắt ngắn gọn

bản chất mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế như sau: lạm phát

xảy ra: có và không có tăng trưởng kinh tế; không có lạm phát: cũng có và

không có tăng trưởng kinh tế.

Tác động của lạm phát đối với tăng trưởng, sản lượng và năng suất là một

trong những vấn đề chính trong nghiên cứu kinh tế vĩ mô. Các mô hình lý

thuyết trong những tài liệu về tiền tệ và tăng trưởng phân tích tác động của lạm

phát đối với tăng trưởng kinh tế tập trung vào những ảnh hưởng của lạm phát

đối với trạng thái cân bằng ổn định, vốn bình quân đầu người và sản lượng (ví

dụ, Orphanides và Solow, 1990) viết về tác động của lạm phát đối với sản

lượng và tăng trưởng: i) không có; ii) tích cực, và iii) tiêu cực. Sidrauski (1967)

đã thiết lập các kết quả đầu tiên, cho thấy tính trung lập và siêu trung lập của

tiền tệ khi nó được kiểm soát một cách tối ưu khi xem xét số dư tiền thực tế

4

(M/P) trong các chức năng của nó. Tobin (1965) cho rằng tiền tệ thay thế cho

vốn, ông phát hiện ra những tác động tích cực của lạm phát đối với tăng trưởng

và kết quả được biết đến như là hiệu ứng Tobin. Những tác động tiêu cực của

lạm phát đến tăng trưởng thường được gọi là hiệu ứng phản Tobin liên quan

chủ yếu đến yếu tố tiền tệ đã được đề cập trong các mô hình trước đó (ví dụ ,

Stockman, 1981) xem tiền tệ như là một sự bổ sung vốn.

Theo nghiên cứu từng đạt giải Nobel của Friedman năm 1977, các nghiên

cứu lý thuyết lẫn thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng sản

lượng được phát triển theo hai hướng riêng biệt. Hướng nghiên cứu đầu tiên,

bắt đầu với giả thuyết cho rằng với một mức lạm phát danh nghĩa cao hơn sẽ

làm tăng lạm phát không chắc chắn, xem xét mối quan hệ giữa lạm phát - lạm

phát không chắc chắn, tăng trưởng và tăng trưởng không chắc chắn. Hướng

nghiên cứu thứ hai, đứng ở góc độ kinh tế vĩ mô truyền thống xem xét các mối

quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng mà không cần tham chiếu đến lạm phát

không chắc chắn và tăng trưởng không chắc chắn.

Nghiên cứu theo hướng thứ hai xem xét bản chất của mối quan hệ giữa lạm

phát và tăng trưởng trong nền kinh tế Ấn Độ. Tuy nhiên hướng nghiên cứu này

cũng chia ra thành hai nhóm riêng biệt, với dự đoán ngược lại về mối quan hệ

giữa lạm phát và tăng trưởng, có sự phân biệt giữa chúng. Các nhà nghiên cứu

của nhóm thứ nhất dựa trên những lập luận của họ về đường cong Phillips và

khoảng cách sản lượng, định nghĩa sự khác biệt giữa sản lượng thực tế và sản

lượng tiềm năng, khẳng định mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và tăng

trưởng. Lý do cơ bản được đưa ra là nếu sản lượng thực tế tăng cao hơn sản

lượng tiềm năng, điều này sẽ tạo ra một áp lực về tiền lương trên thị trường lao

5

động. Lần lượt một mức lương cao hơn sẽ dẫn đến chi phí sản xuất cao hơn và

vì thế giá cả sẽ cao hơn. Kết luận này được hỗ trợ bởi kết quả từ những nghiên

cứu thực nghiệm của Gerloch và Smets (1999), cho thấy sản lượng thực tế tăng

1% so với sản lượng tiềm năng làm lạm phát tăng 0,2% trong quý tiếp theo ở 5

nước EMU (European Monetary Union). Hơn nữa, khi lạm phát có mối tương

quan với tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát trong tương lai cũng sẽ tăng lên. Một

nghiên cứu thú vị được thực hiện bởi Paul et al (1997) với dữ liệu của 70 quốc

gia trong giai đoạn 1960-1989, cho rằng mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và

tăng trưởng chỉ xảy ra ở một số nước. Mallik và Chowdhury (2001) phân tích

các tác động qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát ở bốn quốc gia Nam Á

(Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan and Sri Lanka) và tìm thấy bằng chứng có ý

nghĩa thống kê của một mối quan hệ tích cực giữa hai biến này.

Các nhà nghiên cứu thuộc nhóm thứ hai lập luận trên cơ sở các lý thuyết

chu kỳ kinh doanh thực tế và khẳng định rằng lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến

sự phát triển. Một trong các nghiên cứu xem xét tính tiêu cực của mối quan hệ

giữa lạm phát và tăng trưởng đã được thực hiện bởi Kydland và Prescott (1990).

Các tác giả lập luận rằng chính cú sốc cung, chứ không phải cú sốc cầu là

nguyên nhân dẫn đến sự đảo chiều trong mối quan hệ. Cú sốc cung làm cho giá

phản chu kỳ, trong khi những cú sốc cầu tạo ra tính chu kỳ của giá đối với sản

lượng. Tuy nhiên, điều kiện đi kèm chính là tính linh hoạt của giá. Khi mức giá

cố định, một cú sốc cầu sẽ làm tăng sản lượng trong khi giá ít dịch chuyển. Khi

sản lượng có xu hướng tăng, mức giá có thể tăng. Do đó, một tương quan tiêu

cực giữa các biến này có thể được quan sát thấy ngay cả khi một cú sốc cầu gây

ra những thay đổi. Ball và Mankiw (1994) và Judd và Trehan (1995) đã nghiên

6

cứu các hiệu ứng xảy ra. Ngoài ra, Den Haan và Wouter (2000) bằng cách sử

dụng dự báo dài hạn trong mô hình VAR, lập luận rằng tồn tại một sự tương

quan tiêu cực giữa lạm phát và tăng trưởng.

Tuy nhiên, một nghiên cứu khác của Agenor và Hoffmaister (1997) cho

thấy sự phân kỳ của tăng trưởng từ lạm phát ở các nước đang phát triển, họ sử

dụng mô hình VAR để kiểm tra phân tích các tác động giữa lạm phát, sản

lượng, tiền lương danh nghĩa và tỷ giá hối đoái. Họ nhận thấy rằng một sự sụt

giảm từ từ của tỷ giá làm giảm lạm phát và kích thích sản lượng. Tuy nhiên,

việc mở rộng sản lượng chỉ xảy ra trong ngắn hạn. Kirmanoglu (2001), bằng

cách sử dụng mô hình VAR cho thấy rằng tỷ lệ lạm phát cao ở Thổ Nhĩ Kỳ làm

tăng trưởng kinh tế giảm đi. Mendoza (2003) tìm thấy bằng chứng giữa lạm

phát và sản lượng ở Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách sử dụng các mô hình VAR và

GARCH. Bên cạnh các mô hình VAR, bảng dữ liệu nghiên cứu cũng hỗ trợ mối

quan hệ tiêu cực, đặc biệt là ở các nước có lạm phát cao. Ví dụ nghiên cứu của

Barro (1996) cho thấy một mối quan hệ tiêu cực tồn ở các quốc gia có tỷ lệ lạm

phát trên 15%. Judson và Orphanides (1996) ủng hộ ngưỡng lạm phát 10%.

Bruno và Easterly (1998) thì ủng hộ ngưỡng lạm phát là 40%. Còn Ghosh và

Philips (1998) lại tìm thấy một tác động tích cực cho tỉ lệ lạm phát thấp, nhưng

đối với những nước có tỷ lệ lạm phát trên 5%, họ tìm thấy một hiệu ứng phi

tuyến tính tiêu cực.

Căn cứ bảng hồi quy dữ liệu của các nước và một số nghiên cứu gần đây,

mối tương quan tiêu cực giữa lạm phát và tăng trưởng trong thời gian dài là do

ảnh hưởng của sự sụt giảm trong đầu tư và việc tăng năng suất trước đó. Tập

hợp các nghiên cứu (Bruno & Eastle 1998, Sarel 1996) cho thấy tác động tiêu

7

cực của lạm phát là không phổ biến, chúng chỉ xuất hiện trên ngưỡng lạm phát.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều mối quan tâm từ các nước đang phát triển, đặc biệt là

khu vực EMU vượt quá ngưỡng lạm phát thấp có thể làm tổn thương đến tăng

trưởng kinh tế. Người ta cho rằng các nước phát triển đã phát triển rất tốt thị

trường tài chính và chính phủ ít khi can thiệp vào các thị trường. Nền kinh tế

chủ yếu do cầu chi phối, trong đó kích cầu dẫn đến giá cả tăng cao và giao

thương sụt giảm rõ ràng có thể quan sát ở một mức độ thấp của lạm phát. Mặt

khác, các nước đang phát triển rất dễ bị tổn thương với những cú sốc cung gây

biến đổi lớn trong lạm phát và tiêu dùng, đầu tư và sản xuất. Hơn nữa, sự can

thiệp một cách cứng nhắc của chính phủ vào thị trường tài chính, thị trường

hang hóa và nền kinh tế vĩ mô gây ra những thất bại cho thị trường và tạo ra sự

bất ổn của kinh tế vĩ mô. Do đó, giá cả không phản ánh chính xác mục tiêu của

các chính sách và những phản ứng từ những đại diện của nền kinh tế.

Trong khoảng thời gian gần đây, kinh tế vĩ mô tập trung vào mối quan hệ

tích cực trong ngắn hạn giữa lạm phát và tăng trưởng. Một phát hiện trên lý

thuyết về bản chất mối quan hệ này trong dài hạn là do ảnh hưởng của lạm phát

đối với đầu tư, nếu giả định đầu tư là động cơ của tăng trưởng trong mô hình

tăng trưởng nội sinh, một tác động tiêu cực của lạm phát đối với đầu tư hàm ý

một mối quan hệ nghịch đảo giữa lạm phát và tăng trưởng. Những bằng chứng

thực nghiệm ủng hộ giả thuyết về một mối quan hệ nghịch đảo giữa lạm phát và

tăng trưởng trong dài hạn. Điều này trái ngược trong ngắn hạn, khi lạm phát và

tăng trưởng sản lượng tỷ lệ thuận với nhau.

Hiểu biết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng thực sự là chìa khóa

khi nghiên cứu kinh tế vĩ mô. Theo Rangarajan (1998), câu hỏi đặt ra là liệu có

8

thể dự đoán được khả năng đánh đổi giữa ổn định giá và tăng trưởng trong ngắn

hạn và dài hạn. Các lý thuyết tăng trưởng nội sinh mới phỏng đoán rằng lạm

phát có tác động xấu đến tăng trưởng vì nó làm giảm năng suất và hiệu quả.

Choi, Smith và Boyd (1996) đồng quan điểm khi cho rằng sự hiện diện của

thông tin bất cân xứng có thể gây tổn hại cho tăng trưởng bằng cách đặt ra

những rào cản trên thị trường tài chính. Do đó, nó tác động tiêu cực đến việc

cung cấp và phân bổ đầu tư. Những quan điểm mới đã phê phán quan điểm của

Keynes về tính „trung lập” của tiền tệ bằng cách cho rằng: trong một thị trường

linh hoạt, việc lặp đi lặp lại những cú sốc tiền tệ đồng nghĩa với việc tạo điều

kiện thuận lợi cho tăng trưởng có thể dẫn đến sự gia tăng lạm phát trong thời

gian dài (Rangarajan 1998).

Bruno và Easterly (1998) cho rằng không có bằng chứng về một sự đánh

đổi giữa tăng trưởng và lạm phát trong mẫu có loại trừ cuộc khủng hoảng lạm

phát cao rời rạc. Mặt khác, có bằng chứng cho thấy rằng tăng trưởng trở nên

tiêu cực mạnh khi lạm phát vượt qua một ngưỡng 40% mỗi năm. Họ cho rằng

thất bại của các nhà nghiên cứu khi tìm ra mối quan hệ có ý nghĩa giữa lạm phát

và tăng trưởng có thể là do sự phục hồi nhanh chóng của sản lượng sau lạm

phát, làm cho mối quan hệ thống kê tổng thể có ý nghĩa không đáng kể. Mặt

khác, Sarel (1997) tập trung vào một nghiên cứu thực nghiệm cũng kết luận

rằng lạm phát ảnh hưởng đến tăng trưởng chỉ khi nó vi phạm một "ngưỡng" nào

đó của lạm phát. Ông kết luận rằng tồn tại một ngưỡng lạm phát khoảng 8%

cho một mẫu chung của nhiều nước. Khi ngưỡng ước tính từ một mẫu chung,

nó có thể không chính xác cho một nước cụ thể đặc biệt nếu quốc gia đó bị cô

lập. Do đó, cần phải có thêm một đánh giá thực nghiệm về những vấn đề của

9

việc tìm kiếm các mức độ mà tại đó lạm phát thực sự làm ‘xói mòn’ tăng trưởng

kinh tế .

Những nghiên cứu trước đó (ví dụ, Tun Wai, 1959) không xác nhận bất kỳ

mối quan hệ có ý nghĩa nào giữa lạm phát và tăng trưởng. Một nghiên cứu gần

đây của Paul, Kearney và Chowdhury (1997) gồm 70 quốc gia (trong đó có 48

nền kinh tế đang phát triển) cho giai đoạn 1960-1989 không tìm thấy mối quan

hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở 40% các nước trong mẫu

nghiên cứu; có mối quan hệ nhân quả qua lại khoảng 20% và quan hệ một chiều

(theo hướng lạm phát tác động đến tăng trưởng hoặc ngược lại) cho phần còn

lại. Thú vị hơn, mối quan hệ được tìm thấy là tích cực trong một số trường hợp,

nhưng là tiêu cực ở những trường hợp khác. Gần đây các nghiên cứu ở nhiều

quốc gia cho thấy rằng lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế,

bao gồm Fischer (1993), Barro (1996) và Bruno và Easterly (1998). Fischer

(1993) và Barro (1996) tìm thấy một tác động tiêu cực rất nhỏ của lạm phát đến

tăng trưởng. Fischer (1993: 281) mặc dù bằng chứng tìm thấy khá yếu nhưng

ông mạnh mẽ kết luận: lạm phát không tốt cho tăng trưởng trong dài hạn. Barro

(1996) thích ổn định giá cả hơn bởi vì ông tin rằng nó sẽ tốt cho tăng trưởng

kinh tế.

Nghiên cứu của Bruno và Easterly (1998) cũng rất thú vị. Họ lưu ý rằng

bằng chứng cho thấy tỷ lệ người tin rằng lạm phát là có hại cho tăng trưởng

kinh tế cao một cách bất thường. Theo điều tra của họ xác nhận các quan sát

của Dornbusch (1993), Dornbusch và Reynoso (1989), Levine và Renelt (1992)

và Levine và Zervos (1993) cho rằng mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm

phát bị ảnh hưởng bởi các nước có tỷ lệ lạm phát cá biệt (hoặc là rất cao hoặc

10

rất thấp). Vì vậy, Bruno và Easterly(1998) đã kiểm tra các trường hợp rời rạc

của các nước có tỷ lệ lạm phát cao (từ 40% trở lên) và tìm thấy một kết quả

thực nghiệm mạnh mẽ rằng tăng trưởng giảm mạnh khi xuất hiện khủng hoảng

(lạm phát rất cao), sau đó phục hồi nhanh chóng và mạnh mẽ sau khi lạm phát

giảm xuống.

1.2 Bằng chứng ở các quốc gia

Một số nghiên cứu gần đây đã tìm thấy bằng chứng ở nhiều quốc gia hỗ trợ

quan điểm tăng trưởng trong dài hạn bị ảnh hưởng bởi lạm phát (Kormendi và

Meguire 1985; Fischer 1983, 1991, 1993; De Gregorio 1993; Gylfason 1991;

Roubini và Sala-i-Martin 1992; Grier và Tullock 1989; Levine Zervos 1992).

Các nước (đặc biệt là các quốc gia ở châu Mỹ Latinh) đã trải qua thời kỳ lạm

phát cao và tăng trưởng trong dài hạn thấp (Cardoso và Fishlow năm 1989; De

Gregorio 1992a, 1992b). Tài liệu này là một phần trong các tài liệu về tăng

trưởng nội sinh, họ cố gắng xác định nguyên nhân của sự khác biệt trong tốc độ

tăng trưởng ở các nước khác nhau. Một bằng chứng đáng kể cho rằng đầu tư là

một trong những yếu tố quyết định quan trọng nhất của tăng trưởng dài hạn

(Barro 1991; Levine và Renelt 1992). Người ta thường cho rằng một môi

trường kinh tế vĩ mô ổn định thúc đẩy tăng trưởng bằng cách cung cấp một môi

trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân. Vấn đề này đã được đề cập trong các tài

liệu nghiên cứu sau đó của Fischer 1991, 1993; Easterly và Rebelo 1993;

Frenkel và Khan 1990; và Bleaney 1996.

Ảnh hưởng của sự bất ổn kinh tế vĩ mô đối với tăng trưởng chủ yếu từ sự

không chắc chắn trong đầu tư tư nhân. Bảng dữ liệu nghiên cứu đa quốc gia về

đầu tư đã đo lường sự bất ổn định của kinh tế vĩ mô, giống như những thay đổi

11

trong tỷ giá hối đoái thực hoặc tỷ lệ lạm phát, có tác động xấu đến đầu tư

(Serven và Solimano 1992). Trong một nghiên cứu ở 17 nước của Cordon

(1990) cho thấy rằng những bằng chứng nhìn chung ủng hộ quan điểm cho rằng

tăng trưởng cao liên quan với lạm phát thấp.

Điều này được rút ra từ việc so sánh dữ liệu theo thời gian ở các nước có tỷ

lệ tăng trưởng giảm trong khi tỷ lệ lạm phát tăng. Nghiên cứu của Fischer

(1993) xem xét vai trò của yếu tố kinh tế vĩ mô trong tăng trưởng. Ông tìm thấy

bằng chứng cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng với lạm phát và tích

cực với chính sách tài chính tốt và một thị trường ngoại hối khỏe mạnh. Fischer

cho rằng, do không có lập luận nào cho rằng một mức lạm phát cao là tốt cho

nền kinh tế nên một chính phủ tạo ra lạm phát cao là một chính phủ mất khả

năng kiểm soát. Do đó, tỷ lệ lạm phát được xem như là một chỉ số kinh tế vĩ mô

về sự ổn định và khả năng bao quát của chính phủ trong việc kiểm soát nền

kinh tế.

Fischer cho rằng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, có nghĩa là một tỷ

lệ lạm phát thấp hợp lý, thâm hụt ngân sách nhỏ và một thị trường ngoại hối

không bị can thiệp, có lợi cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Ông đưa ra một mô

hình tăng trưởng, trong đó ông xác định những kênh chính mà thông qua đó lạm

phát làm giảm tăng trưởng. Ông cho rằng sự thay đổi của lạm phát như là một

dấu hiệu của sự không chắc chắn của môi trường kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, ông

gặp khó khăn khi chia tách các mức độ lạm phát từ sự không chắc chắn của lạm

phát ảnh hưởng đến tăng trưởng. Điều này là do tỷ lệ lạm phát và phương sai

của nó có mối liên hệ khá lớn trong dữ liệu của các quốc gia. Bằng chứng ủng

hộ quan điểm kinh tế vĩ mô ổn định, được đo bằng nghịch đảo của tỷ lệ lạm

12

phát và các chỉ số về xu hướng kinh tế vĩ mô, có liên quan với mức tăng trưởng

cao hơn.

Để kiểm tra cơ chế mà qua đó các biến số kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến

tăng trưởng, Fischer hồi quy tỷ lệ tích lũy vốn trên các biến này. Hệ số của tỷ lệ

lạm phát là tiêu cực, cho thấy rằng điều quan trọng mà qua đó lạm phát ảnh

hưởng đến tăng trưởng là giảm sự tích lũy vốn. Fischer thấy rằng tỷ lệ lạm phát

có tương quan âm ( nghịch biến) với tỷ lệ tăng trưởng theo mô hình Solow. Khi

tỷ lệ lạm phát được chia thành ba loại thấp (lên đến 15%), trung bình (15-40%)

và cao (trên 40%) - kết quả cho thấy, trái với những gì được mong đợi, sự kết

hợp giữa lạm phát và tăng trưởng, yếu tố quyết định của nó trung bình giảm khi

lạm phát tăng lên. Điều này cũng được hỗ trợ bởi các kết quả thu được của

Levine và Zervos (1992). Vì vậy đây không phải là trường hợp lạm phát cao là

nguyên nhân của các mối tương quan tiêu cực tổng thể giữa lạm phát và tăng

trưởng, tích lũy vốn và tăng trưởng sản lượng. Thay vào đó, kết quả của Fischer

cho thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng, lạm phát và sự tích lũy vốn mạnh mẽ

hơn ở mức lạm phát thấp và trung bình hơn là ở mức lạm phát cao.

De Gregorio (1993) đưa ra bằng chứng ở 12 quốc gia châu Mỹ La tinh

trong giai đoạn 1950-1985. Ông tìm thấy một mối tương quan tiêu cực giữa lạm

phát và tăng trưởng. Bởi vì chúng có mối tương quan rất cao nên mặc dù lạm

phát và phương sai của nó tác động tiêu cực đối với tăng trưởng nhưng kết quả

không thể phân biệt được mức độ hay sự đa dạng có ảnh hưởng tiêu cực đến

tăng trưởng. Ngay cả khi các nước lạm phát cao đã được loại bỏ khỏi mô hình

hồi quy, tác động của lạm phát vẫn là tiêu cực và đáng kể. Tuy nhiên, kết quả

cho thấy một mối quan hệ nghịch chiều giữa lạm phát và đầu tư vốn, đầu tư

13

nước ngoài, mối quan hệ không khác nhau đáng kể. Mặc dù kết quả của Fischer

cho thấy lạm phát ảnh hưởng đến mức độ đầu tư, De Gregorio cho rằng hiệu

quả đầu tư bị ảnh hưởng và dẫn đến sự ảnh hưởng của lạm phát lên tăng trưởng.

Kết quả này được hỗ trợ bởi bằng chứng xuyên quốc gia trình bày trong nghiên

cứu của Levine và Renelt (1992). Bleaney (1996) thấy rằng chính sách kinh tế

vĩ mô nghèo nàn, được đo lường bởi cân bằng tài chính và biến động tỷ giá hối

đoái thực, xuất hiện mối tương quan âm với tăng trưởng. Trong mẫu nghiên cứu

của ông, lạm phát tương quan thuận với tỷ giá hối đoái thực tế và trong cùng

một mô hình hồi quy lạm phát không xuất hiện để có một ảnh hưởng tiêu cực

đến tăng trưởng. Vì cả hai có tương quan, điều này cho thấy rằng sự lựa chọn

một trong hai biến phụ thuộc vào độ mở của nền kinh tế và ảnh hưởng tương

đối của giá cả trong nước và ngoài nước đối với quyết định đầu tư .

Tỷ lệ lạm phát cao cũng có xu hướng biến động, mối quan hệ tiêu cực và

không thể dự đoán trước được của lãi suất thực không khuyến khích tích lũy

vốn trong nước. Lạm phát cao bất ngờ làm xói mòn giá trị thực của tài sản tài

chính và biến động của lạm phát làm tăng rủi ro của việc nắm giữ những tài sản

đó. Ngược lại, mộ mức lạm phát thấp đến trung bình khuyến khích tiết kiệm

vốn, đặc biệt là ở mức giá ổn định. Fry (1988) và Gleb (1989) tìm thấy trong dữ

liệu nền kinh tế trong 1 khoảng thời gian, một mối quan hệ tích cực và quan

trọng giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lãi suất thực. Để tách rời ảnh hưởng của

lạm phát ra khỏi lãi suất thực, một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới và dự

báo từ các mô trình năm 1993. Bằng chứng từ mẫu của hai mươi quốc gia, cho

thấy tác động của lãi suất thực và tỷ lệ lạm phát đến tốc độ tăng trưởng GNP

được đưa ra. Tỷ lệ lãi suất thực có một tác động có ý nghĩa thống kê và tích cực

14

đến tăng trưởng. Nhưng khi có lạm phát, tỷ lệ lãi suất thực tế không còn ý nghĩa

thống kê, trong khi hệ số của tỷ lệ lạm phát lại có ý nghĩa. Điều này cho thấy

mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ lãi suất và tăng trưởng thực tế đã thực sự phản

ánh mối quan hệ tiêu cực giữa lạm phát và tăng trưởng khi xuất hiện áp lực tài

chính, nơi mà tỷ lệ lãi suất danh nghĩa được giữ cố định. Đó là lý do tại sao, đối

với một mẫu phụ của các nền kinh tế mà tỷ lệ lãi suất thực tốt, các hệ số của cả

tỷ lệ lãi suất thực và lạm phát là tiêu cực, điều đó chỉ ra rằng ở mức lãi suất thực

thấp hơn có thể có một tác động tích cực đối với tăng trưởng. Nghiên cứu cũng

cho thấy rằng một điều kiện đặc biệt quan trọng để đầu tư của chính phủ vào cơ

sở hạ tầng, nếu lạm phát làm giảm tiết kiệm của chính phủ, đầu tư công có thể

sẽ giảm.

1.3 Kinh nghiệm các nƣớc châu Á

Bằng chứng ở các nước hỗ trợ một mối quan hệ tiêu cực ở nhiều quốc gia.

Nói chung, các nước có mức tăng trưởng cao hơn là những nước có tỷ lệ lạm

phát thấp hơn. Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy hiệu quả cao ở

các nước Đông Á, đã duy trì tăng trưởng cao trong ba thập kỷ qua, đã từng có

một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thúc đẩy tỷ lệ đầu tư cao và tăng trưởng

kinh tế (Ngân hàng Thế giới 1993). Ổn định kinh tế vĩ mô đã được định nghĩa

là lạm phát phải chịu sự kiểm soát, các khoản nợ trong và ngoài nước phải được

quản lý và giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô xuất hiện trong vòng một

hoặc hai năm.

Mặc dù các bằng chứng xuyên quốc gia cho thấy mối tương quan giữa lạm

phát và tăng trưởng là tiêu cực, không có sự phân biệt giữa các nền kinh tế mở

hay đóng cửa giữa các quốc gia này. Nó có thể là mối tương quan tiêu cực

15

mạnh mẽ trong trường hợp các nền kinh tế thị trường mở cửa mà dựa vào đầu

tư nước ngoài và được khuyến khích bởi một mức lạm phát thấp, duy trì cạnh

tranh xuất khẩu và ngăn chặn các dòng vốn từ bên ngoài đóng một vai trò quan

trọng hơn. Như Ấn Độ khi chuyển dịch từ một nền kinh tế đóng sang mở cửa,

nơi mà đầu tư trong nước và ngoài nước dự kiến sẽ là động cơ thúc đẩy tăng

trưởng, để kiểm tra tác động của lạm phát đối với đầu tư.

Các bằng chứng thực nghiệm cũng thay đổi giống như trong những quan

điểm. Bằng chứng là một mối quan hệ đảo chiều giữa lạm phát và tăng trưởng

được ủng hộ vào đầu những năm 1980 đối nghịch với những nghiên cứu trước

đó của Johnson (1967) người đã chỉ ra rằng “không có bằng chứng thực nghiệm

hay một kết luận nào khác”. Tuy nhiên, kể từ khi xuất hiện bằng chứng mới về

một mối quan hệ tiêu cực, một nghiên cứu thực nghiệm lớn đã khám phá các

mô hình khác nhau trong phân tích lạm phát. Thật ngẫu nhiên khi phần lớn các

tài liệu thực nghiệm trong các nghiên cứu về lạm phát và tăng trưởng ở các

nước đang phát triển lại cung cấp những thông tin phong phú đa dạng với

những biến đổi thú vị trong kinh tế vĩ mô. Đáng chú ý trong số các tài liệu gần

đây của De Gregorio (1993), Fisher (1993), Barro (1995), Sbordone và Kuttner

(1994) và Smyth (1994), các yếu tố kỹ thuật đều xác nhận rằng lạm phát có ảnh

hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Các kết quả thực nghiệm những nghiên

cứu của Sarel (1997), Bruno và Easterly (1998) đặt ra câu hỏi một cách tổng

quát sâu rộng hơn. Họ tranh luận về tác động tiêu cực của lạm phát đối với tăng

trưởng là không phổ biến nhưng chỉ xuất hiện trên một “ngưỡng lạm phát” nào

đó. Các tác giả này cũng tin rằng một tỷ lệ lạm phát dưới ngưỡng thậm chí có

thể có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

16

Nối tiếp các kết quả trên, rất nhiều các nghiên cứu khác về sự ảnh hưởng

qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát với các phương pháp khác nhau đã được

công bố. Nghiên cứu của Prasanna V Salian (2009) đã sử dụng đồng thời mô

hình hồi quy đồng liên kết (Co-integration), mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM -

Error Correction Model) (2001), kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test) được

đề xuất bởi Dickey Fuuler (DF) và Augmented Dickey Fuller (ADF) (1979) và

phương pháp phân tích phương sai (Variance Decomposition) dựa trên mô hình

VAR (Vector Autoregressive Model) để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng

và lạm phát ở Ấn Độ giai đoạn từ 1976 đến 2007 cho thấy tồn tại một mối quan

hệ nghịch chiều và ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến lạm phát lớn hơn

chiều ngược lại. Những phát hiện này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc

hoạch định chính sách.

Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét mối quan hệ giữa lạm phát tăng

trưởng ở Việt Nam sử dụng dữ liệu theo quý giai đoạn 1999:1-2012:4. Chúng ta

sẽ kiểm tra các mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát. Từ đó xác lập mối

quan hệ định hướng giữa tăng trưởng kinh tế - lạm phát và sử dụng lạm phát

như một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Đồng thời đưa ra những nhận định và

một số kiến nghị cho các cơ quan Chính phủ về kiểm soát lạm phát trong mối

quan hệ với tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.

17

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Sau khi xem xét nhiều quan điểm lý thuyết của các trường phái khác nhau,

tùy mỗi trường phái có một quan điểm riêng, mô hình riêng để chứng minh mối

quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng nhưng quan điểm chung của các trường

phái có thể nhận thấy là mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không phải

là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại. Trong ngắn hạn, khi lạm

phát còn ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thường có mối quan hệ cùng

chiều. Nghĩa là nếu muốn tăng trưởng đạt tốc độ cao hơn thì phải chấp nhận

tăng lạm phát. Tuy nhiên mối quan hệ này không phải tồn tại mãi mãi mà đến

lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ ảnh hưởng làm giảm tăng trưởng.

Trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác

động đến tăng trưởng nữa mà lúc này, lạm phát là hậu quả của việc cung tiền

quá mức vào nền kinh tế.

Dựa trên các kết quả nghiên cứu trên, trong nghiên cứu của mình, tôi sử

dụng kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test), kiểm định tính đồng liên kết

trong mô hình-kiểm định Johansen, kiểm định quan hệ nhân quả Granger và

phân tích mô hình VECM để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát

ở Việt Nam trong thời kỳ 1999 – 2012. Một bằng chứng thực nghiệm thu được

từ việc chạy mô hình đồng liên kết và mô hình VECM sẽ cho chúng ta cái nhìn

rõ hơn về mối quan hệ này.

18

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Mô hình và phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng (G) và lạm phát (I), chúng ta

sử dụng phương pháp hồi quy đồng liên kết được đề nghị bởi Engle và Granger

(1987). Thông thường khi hồi qui 2 biến ngẫu nhiên ví dụ như 2 biến G và I

theo mô hình tuyến tính có dạng:

Gt = λ1 + ɸIt + μt +…(1)

It = λ2 + ɸIt + ηt +…(2)

Ở đây μt và ηt là nhiễu trắng. Khi đó mô hình phản ánh mối quan hệ trong

dài hạn giữa 2 biến G và I. Tuy nhiên. Một vấn đề đặt ra là nếu G và I không

dừng (non-stationary) thì sẽ xảy ra hiện tượng hồi qui giả mạo (spurious

regression) do yếu tố xu thế tạo ra và kết quả thu được không phản ánh đúng

mối quan hệ giữa 2 biến G và I. Vì vậy trước khi tiến hành hồi quy giữa các

chuỗi thời gian (dừng hay không dừng) chúng ta kiểm định xem các chuỗi thời

gian là dừng hay không dừng. Tuy nhiên, nếu G và I không dừng nhưng thỏa

mãn liên kết bậc I (I(1)): First-ordered intergartion, còn gọi là dừng sai phân và

các yếu tố ngẫu nhiên μt và ηt là dừng (I(0): stationary) thì mô hình trên vẫn

phản ánh đúng sự ảnh hưởng giữa G và I và kết quả hồi qui vẫn có ý nghĩa, khi

đó 2 biến G và I được gọi là đồng liên kết (cointergration).

Trong trường hợp này, để kiểm định xem các biến G và I trong mô hình có

dừng hay dừng sai phân hay không, phương pháp được sử dụng phổ biến là

kiểm định nghiệm đơn vị dựa trên tiêu chuẩn kiểm định Augmented Dickey -

Fuller (ADF) do Dickey và Fuller (1979) đề xuất. Đồng thời, Johansen (1988)

19

và Johansen Juselius (1990) cũng đưa ra phương pháp kiểm định tính đồng liên

kết của 2 biến ngẫu nhiên dựa trên phương pháp VAR của Johansen.

2.2 Dữ liệu

Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam, số

liệu sử dụng trong nghiến cứu trên về chỉ số giá tiêu dùng CPI (Customer Price

Index) và tổng thu nhập quốc nội GDP (Gross Domestics Product) theo quý giai

đoạn từ 1999:1 đến 2012:4 do Tổng cục Thống kê Việt Nam và IMF công bố.

Bảng 1. Tỉ lệ tăng trƣởng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1999-2012

CHỈ SỐ CPI QUY VỀ KỲ GỐ C 1999-Q1

CHỈ SỐ GDP QUY VỀ KỲ GỐ C 1999-Q1

TỔ NG SẢ N PHẨ M QUỐ C NỘI - TỶ VND THEO GIÁ NĂM 1994

CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙ NG CỦ A CÁC NƢỚC VÀ VÙNG LÃNH THỔ (Consumer Price Index, 2005 constant price).

t

CPI-gia2005

GDP-gia1994

CPI

GDP

63,916.52

64,310.94

62,815.75

62,860.33

67,511.64

68,631.61

67,159.77

67,613.98

72,333.63

73,367.46

71,820.81

Q1-1999 Q2-1999 Q3-1999 Q4-1999 Q1-2000 Q2-2000 Q3-2000 Q4-2000 Q1-2001 Q2-2001 Q3-2001 Q4-2001

0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

82.11 82.06 81.74 80.90 80.71 80.14 79.86 80.52 79.66 79.46 80.01 80.72

1 0.999431624 0.995435695 0.985258993 0.982986096 0.975941493 0.97255072 0.980626488 0.970183439 0.967706916 0.974462521 0.983057828

1 1.006170862 0.982778005 0.983475477 1.056247117 1.073769504 1.050741968 1.057848268 1.131689116 1.147863807 1.123665838 1.128510438

72,130.46

20

77,098.62

78,532.49

76,929.30

77,491.63

82,338.25

83,605.15

83,170.45

83,600.39

88,087.22

89,524.04

89,826.93

90,968.88

94,644.19

96,722.98

98,145.78

99,243.24

101,600.20

103,898.60

106,760.59

108,043.49

109,381.57

112,198.47

116,080.67

118,074.80

117,607.83

118,729.39

123,593.92

124,855.15

121,281.03

123,983.06

130,000.60

134,120.06

128,477.46

131,778.18

139,622.65

144,419.48

135,468.17

139,299.94

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50

Q1-2002 Q2-2002 Q3-2002 Q4-2002 Q1-2003 Q2-2003 Q3-2003 Q4-2003 Q1-2004 Q2-2004 Q3-2004 Q4-2004 Q1-2005 Q2-2005 Q3-2005 Q4-2005 Q1-2006 Q2-2006 Q3-2006 Q4-2006 Q1-2007 Q2-2007 Q3-2007 Q4-2007 Q1-2008 Q2-2008 Q3-2008 Q4-2008 Q1-2009 Q2-2009 Q3-2009 Q4-2009 Q1-2010 Q2-2010 Q3-2010 Q4-2010 Q1-2011 Q2-2011 Q3-2011

81.77 82.61 83.38 84.36 85.05 85.52 85.64 86.59 88.81 91.57 93.85 95.20 96.96 98.90 100.81 103.33 105.14 106.18 107.93 110.29 112.11 113.96 117.14 122.04 130.57 141.85 149.63 150.78 150.93 150.58 153.53 157.67 162.22 164.09 166.57 174.72 182.94 195.88 204.19

0.995811893 1.006083466 1.015483416 1.027389483 1.035753153 1.041500855 1.043028785 1.054518708 1.081549165 1.115187987 1.142924195 1.159456069 1.18087973 1.204474719 1.227682062 1.258458664 1.280403327 1.293091018 1.31449495 1.343235286 1.365368718 1.387846805 1.426595534 1.486292715 1.590176381 1.727520817 1.822243722 1.836336826 1.838090548 1.833867001 1.869792725 1.920221972 1.975610356 1.998408741 2.028606858 2.127850468 2.227903956 2.385523367 2.486783757

1.206239326 1.228672806 1.203590246 1.212388128 1.288215472 1.308036639 1.30123558 1.307962167 1.378160451 1.400640085 1.405378922 1.423245195 1.480746918 1.513270435 1.53553072 1.552700929 1.589576529 1.625535933 1.670312933 1.690384426 1.711319233 1.755390782 1.816129383 1.847328359 1.840022423 1.857569686 1.93367724 1.953409698 1.897491134 1.939765494 2.033912359 2.09836299 2.010082213 2.061723323 2.184453252 2.259501612 2.11945472 2.179404323 2.31815249

148,168.24

21

153,249.90

141,072.15

51 52 53

209.31 212.06 212.69

2.549145621 2.582566202 2.590278925

2.397657132 2.207131271 2.281218377

Q4-2011 Q1-2012 Q2-2012 145,807.54 *Ghi chú : Tổng sản phẩm quốc nội Viê ̣t Nam theo mức giá năm 1994. Nguồn: IMF, Tổng Cục Thống Kê.

Tỉ lệ lạm phát (I) và tăng trưởng (G) được tính theo công thức:

It = ln(CPIt) – ln (CPIt-1) và

Gt = ln (GDPt) – ln (GDP t-1)

Trong đó It và Gt là tỉ lệ tăng trưởng và lạm phát tại thời điểm t.

ln(CPIt), ln (GDPt) và ln (CPIt-1), ln (GDP t-1) lần lượt là logarit cơ số tự

nhiên tương ứng của các biến tại các thời điểm t và t-1.

2.3 Kết quả nghiên cứu

2.3.1 Thống kê mô tả

Các giá trị thống kê mô tả về tỉ lệ lạm phát (I) và tăng trưởng (G) của Việt

Nam trong giai đoạn này được trình bày trong bảng 2

Bảng 2. Các giá trị thống kê mô tả về tỉ lệ tăng trƣởng và lạm phát

của Việt Nam giai đoạn 1999-2012

Mean

Median

Max

Min

Pro

Obs

Std. Dev.

Sum Sq. Dev.

0.426749

0.434436

0.874492

-0.017372

0.272436

0.147943

3.933735

54

LNGDP

0.308988

0.217508

0.951766

-0.032826

0.324229

0.057154

5.571611

54

LNCPI

2.3.2 Hệ số tƣơng quan

22

Hệ số tương quan (correlation–r) giữa G và I tính được là 0.947 chứng tỏ

G và I có mối tương quan rất mạnh trong giai đoạn này. Điều đó cho thấy khi

lạm phát tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế tăng 0,947% và ngược lại. Ngoài

ra khi bình phương hệ số tương quan ta có giá trị bình phương bằng 0,895. Con

số này cho biết, trong giai đoạn này lạm phát giải thích được 89.5% sự thay đổi

của tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Bảng 3. Hệ số tƣơng quan giữa tăng trƣởng và lạm phát

LNCPI LNGDP

1.000000 0.947367 LNCPI

0.947367 1.000000 LNGDP

2.3.3 Kiểm định nghiệm đơn vị

Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey-Fuller (ADF) cho

các chuỗi số liệu G và I được trình bày trong bảng 4 và bảng 5

Null Hypothesis: LNCPI has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 1 (Fixed)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

Bảng 4. Kiểm định nghiệm đơn vị biến CPI

t-Statistic -2.641731 -4.144584 -3.498692 -3.178578

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Prob.* 0.2644

23

Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LNCPI) Method: Least Squares Date: 04/23/13 Time: 18:49 Sample (adjusted): 3 54 Included observations: 52 after adjustments

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

-0.051374 0.653389 -0.011839 0.001228

0.019447 0.108122 0.005987 0.000420

-2.641731 6.043068 -1.977552 2.922674

Variable LNCPI(-1) D(LNCPI(-1)) C @TREND(1)

0.0111 0.0000 0.0537 0.0053

0.018314 0.019879 -5.909482 -5.759386 -5.851938 1.404506

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.648507 Mean dependent var 0.626539 S.D. dependent var 0.012148 Akaike info criterion 0.007084 Schwarz criterion 157.6465 Hannan-Quinn criter. 29.52016 Durbin-Watson stat 0.000000

So sánh trị tuyệt đối ta tính toán với giá trị tuyệt đối ta tra bảng nhỏ hơn

các giá trị thống kê tương ứng ở các mức ý nghĩ 1%, 5% và 10% => ta chấp

nhận giả thiết H0. Vậy CPI là một chuỗi không dừng. Ta tiến hành lấy sai phân

Null Hypothesis: D1LNCPI has a unit root

Exogenous: Constant, Linear Trend

Lag Length: 1 (Fixed)

t-Statistic

Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic

bậc 1 cho chuỗi này. Kết quả cho thấy sai phân bậc 1 của CPI là 1 chuỗi dừng.

-4.531157

0.0035

Test critical values:

1% level

-4.148465

5% level

-3.500495

10% level

-3.179617

24

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Augmented Dickey-Fuller Test Equation

Dependent Variable: D(D1LNCPI)

Method: Least Squares

Date: 04/23/13 Time: 19:06

Sample (adjusted): 4 54

Included observations: 51 after adjustments

Coefficient

Std. Error

t-Statistic

Prob.

Variable

D1LNCPI(-1)

-0.521136

0.115012

-4.531157

0.0000

D(D1LNCPI(-1))

0.503637

0.134022

3.757876

0.0005

C

-0.000392

0.003516

-0.111610

0.9116

0.000361

0.000146

2.470501

0.0172

@TREND(1)

0.000137

R-squared

0.344620 Mean dependent var

0.013776

Adjusted R-squared

0.302787 S.D. dependent var

-6.017224

S.E. of regression

0.011503 Akaike info criterion

-5.865709

Sum squared resid

0.006219 Schwarz criterion

-5.959326

Log likelihood

157.4392 Hannan-Quinn criter.

2.181381

F-statistic

8.238045 Durbin-Watson stat

Prob(F-statistic)

0.000165

25

Tương tự với biến GDP

Null Hypothesis: LNGDP has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 1 (Fixed)

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

Bảng 5. Kiểm định nghiệm đơn vị biến GDP

t-Statistic -6.465445 -4.144584 -3.498692 -3.178578

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Prob.* 0.0000

Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LNGDP) Method: Least Squares Date: 04/23/13 Time: 18:55 Sample (adjusted): 3 54 Included observations: 52 after adjustments

Coefficient

Std. Error

t-Statistic Prob.

-1.114793 0.529494 -0.049564 0.019404

0.172423 0.142662 0.012804 0.003024

-6.465445 3.711532 -3.871068 6.416917

0.0000 0.0005 0.0003 0.0000

Variable LNGDP(-1) D(LNGDP(-1)) C @TREND(1)

R-squared Adjusted R-squared

0.471005 Mean dependent var 0.437943 S.D. dependent var

S.E. of regression

0.023198 Akaike info criterion

0.015741 0.030943 - 4.615715 - 4.465619 -

Sum squared resid Log likelihood

0.025831 Schwarz criterion 124.0086 Hannan-Quinn criter.

26

F-statistic Prob(F-statistic)

14.24606 Durbin-Watson stat 0.000001

4.558172 1.371312

So sánh trị tuyệt đối ta tính toán với giá trị tuyệt đối ta tra bảng lớn hơn các

giá trị thống kê tương ứng ở cả 3 mức ý ghĩa 1%, 5% và 10%=> ta bác bỏ giả

thiết H0. Vậy G là một chuỗi dừng.

2.3.4 Kiểm định đồng liên kết

Mục đích: Khi hồi quy các chuỗi thời gian không dừng thường dẫn đến

“kết quả hồi quy giả mạo” (spurious regression). Tuy nhiên, Engle và Granger

(1987) cho rằng nếu kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian không dừng có

thể là một chuỗi dừng và các chuỗi thời gian không dừng đó được cho là “đồng

liên kết”. Kết hợp tuyến tính dừng được gọi là phương trình đồng liên kết và có

thể được giải thích như “mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến”. Nói cách

khác, nếu phần dư trong mô hình là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi qui là thực

và thể hiện mối cân bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình.

Date: 04/23/13 Time: 20:34 Sample (adjusted): 3 54 Included observations: 52 after adjustments Trend assumption: Linear deterministic trend (restricted) Series: LNCPI LNGDP Lags interval (in first differences): 1 to 1

Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized No. of CE(s)

Eigenvalue

Trace Statistic

0.05 Critical Value

Prob.**

None * At most 1

0.573975 0.161310

Bảng 6. Kiểm định hồi qui đồng liên kết Johansen cho I và G

53.51695 9.147564

25.87211 12.51798

0.0000 0.1715

27

Trace test indicates 1 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

Unrestricted Cointegration Rank Test (Maximum Eigenvalue)

Hypothesized No. of CE(s)

Eigenvalue

Max-Eigen Statistic

0.05 Critical Value

Prob.**

None * At most 1

0.573975 0.161310

44.36938 9.147564

19.38704 12.51798

0.0000 0.1715

Max-eigenvalue test indicates 1 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values

Unrestricted Cointegrating Coefficients (normalized by b'*S11*b=I):

LNCPI -3.801403 10.43894

LNGDP -54.52537 -4.187955

@TREND(2) 1.013225 -0.173348

Unrestricted Adjustment Coefficients (alpha):

D(LNCPI) D(LNGDP)

-0.000946 0.022969

-0.005068 -0.001407

Log likelihood

283.1948

1 Cointegrating Equation(s): Normalized cointegrating coefficients (standard error in parentheses)

LNCPI 1.000000

@TREND(2) -0.266540 (0.03092)

LNGDP 14.34348 (1.77584) Adjustment coefficients (standard error in parentheses) 0.003597 (0.00694) -0.087316 (0.01103)

D(LNCPI) D(LNGDP)

28

Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen dựa trên 2 tiêu chuẩn kiểm định

riêng cực đại và kiểm định „vết‟ cho thấy với mức ý nghĩa 5%, ta thấy Trace

Statitics > Critical Value nên bác bỏ giả thuyết H0 : không có đồng liên kết giữa

GDP và lạm phát, nghĩa là giữa GDP và lạm phát có tính đồng liên kết và tồn

tại mối quan hệ dài hạn giữa chúng. Do đó không tồn tại hiện tượng hồi qui

tương quan giả trong mô hình trên và các kiểm định thống kê truyền thống vẫn

áp dụng trong các trường hợp này.

* Có 1 mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến

2.3.5 Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger

Để kiểm định liệu có tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger giữa 2 chuỗi

thời gian GDP và CPI hay không, ta sử dụng thống kê F của kiểm định Wald.

Pairwise Granger Causality Tests Date: 04/23/13 Time: 20:21 Sample: 1 54 Lags: 2

Null Hypothesis:

Obs 52

LNGDP does not Granger Cause LNCPI LNCPI does not Granger Cause LNGDP

F-Statistic 4.60143 0.17156

Prob. 0.0150 0.8429

Pairwise Granger Causality Tests Date: 04/23/13 Time: 20:22 Sample: 1 54 Lags: 3

Null Hypothesis:

Obs

F-Statistic

Prob.

Bảng 7. Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger giữa GDP và CPI

29

51

LNGDP does not Granger Cause LNCPI LNCPI does not Granger Cause LNGDP

3.24109 0.68066

0.0309 0.5686

Pairwise Granger Causality Tests Date: 04/23/13 Time: 20:23 Sample: 1 54 Lags: 4

Null Hypothesis:

Obs 50

LNGDP does not Granger Cause LNCPI LNCPI does not Granger Cause LNGDP

F-Statistic 2.64962 9.83099

Prob. 0.0468 1.E-05

Pairwise Granger Causality Tests Date: 04/23/13 Time: 20:25 Sample: 1 54 Lags: 5

Null Hypothesis:

Obs 49

LNGDP does not Granger Cause LNCPI LNCPI does not Granger Cause LNGDP

F-Statistic 2.48075 2.86273

Prob. 0.0486 0.0274

Pairwise Granger Causality Tests Date: 04/23/13 Time: 20:19 Sample: 1 54 Lags: 6

Null Hypothesis:

Obs 48

LNGDP does not Granger Cause LNCPI LNCPI does not Granger Cause LNGDP

F-Statistic 1.62008 2.97076

Prob. 0.1708 0.0188

Kết quả kiểm định cho thấy:

30

- Với mức ý nghĩa 5%: các giá trị thống kê F tính toán đều lớn hơn giá trị

thống kê F phê phán (với độ trễ được xác định từ 2 đến 6) kết quả là bác bỏ giả

thuyết H0 bên Null Hypothesis: tăng trưởng không có quan hệ nhân quả với lạm

phát, nghĩa là tăng trưởng có tác động đến lạm phát.

- Với mức ý nghĩa 5%: tất cả các giá trị thống kê F tính toán đều lớn hơn

giá trị thống kê F phê phán ( với độ trễ được xác định từ 3 đến 6)=> bác bỏ giả

thuyết H0 bên Null Hypothesis. Hay nói cách khác lạm phát cũng có tác động

đến tăng trưởng.

- Như vậy, có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa lạm phát và tăng trưởng.

Tiếp theo, để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, hồi qui G

và I với nhau theo các mô hình (1).

Std. Error

Coefficient

Gt = λt + ϕIt + μt (1) Hay μt = Gt - λt - ϕIt

0.180785 0.796032

Dependent Variable: LNGDP Method: Least Squares Date: 04/24/13 Time: 22:49 Sample: 1 54 Included observations: 54 Variable C LNCPI

0.016627 0.037305

t-Statistic 10.87311 21.33875

Prob. 0.0000 0.0000

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood

0.897505 Mean dependent var 0.895534 S.D. dependent var 0.088055 Akaike info criterion 0.403188 Schwarz criterion 55.60542 Hannan-Quinn criter.

0.426749 0.272436 -1.985386 -1.911720 -1.956976

31

0.151630

F-statistic Prob(F-statistic)

455.3423 Durbin-Watson stat 0.000000

Kết quả cho thấy hệ số đồng liên kết β2 được ước lượng bằng 0.796 là

dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% . Như vậy, có thể thấy mối quan hệ

giữa tăng trưởng và lạm phát trong dài hạn là đồng biến, đồng thời giá trị này

nhỏ hơn 1 cho thấy trong dài hạn tăng trưởng sẽ tăng nhanh hơn lạm phát. Hệ số phù hợp R2 ước lượng được bằng 89,7% cho thấy lạm phát có ảnh hưởng khá

lớn đến tăng trưởng.

2.3.6 Phân tích mô hình VCEM

Sau khi đã tiến hành các kiểm định có liên quan thì ta nhận thấy có mối

quan hệ đồng liên kết giữa 2 chuỗi này, tiếp theo ta sử dụng mô hình VECM để

xem xét mối quan hệ trong ngắn hạn giữa 2 biến này.

Vector Error Correction Estimates Date: 04/24/13 Time: 22:14 Sample (adjusted): 4 54 Included observations: 51 after adjustments Standard errors in ( ) & t-statistics in [ ]

Cointegrating Eq: LNCPI(-1) LNGDP(-1) @TREND(1) C

CointEq1 1.000000 13.54443 (4.26605) [ 3.17493] -0.245695 (0.07393) [-3.32322] 0.671528

Bảng 8. Mô hình VECM

32

Error Correction: CointEq1 D(LNCPI(-1)) D(LNCPI(-2)) D(LNGDP(-1)) D(LNGDP(-2)) C

R-squared Adj. R-squared Sum sq. resids S.E. equation F-statistic Log likelihood Akaike AIC Schwarz SC Mean dependent S.D. dependent

D(LNCPI) 0.014256 (0.00890) [ 1.60120] 1.009726 (0.13737) [ 7.35063] -0.459887 (0.13738) [-3.34761] -0.105844 (0.08414) [-1.25794] -0.029430 (0.08374) [-0.35145] 0.010529 (0.00431) [ 2.44012] 0.668816 0.632018 0.006506 0.012024 18.17525 156.2883 -5.893659 -5.666386 0.018752 0.019822

Determinant resid covariance (dof adj.) Determinant resid covariance Log likelihood Akaike information criterion Schwarz criterion

D(LNGDP) -0.033822 (0.01305) [-2.59144] 0.082548 (0.20137) [ 0.40993] 0.111265 (0.20139) [ 0.55249] 0.097546 (0.12335) [ 0.79083] -0.673750 (0.12276) [-5.48841] 0.022984 (0.00633) [ 3.63349] 0.704138 0.671265 0.013982 0.017627 21.41961 136.7808 -5.128658 -4.901384 0.016511 0.030743 4.18E-08 3.26E-08 294.8990 -10.97643 -10.40825

33

Mô hình VECM là một dạng của mô hình VAR tổng quát, được sử dụng

trong trường hợp chuỗi dữ liệu không dừng và chứa đựng mối quan hệ đồng kết

hợp. Trong đó Eq là phương trình đồng kết hợp. Kết quả ước lượng mô hình có

thể được viết lại như sau:

Estimation Proc: =============================== EC(D,1) 1 2 LNCPI LNGDP VAR Model: =============================== D(LNCPI) = A(1,1)*(B(1,1)*LNCPI(-1) + B(1,2)*LNGDP(-1) + B(1,3)*@TREND(1) + B(1,4)) + C(1,1)*D(LNCPI(-1)) + C(1,2)*D(LNCPI(- 2)) + C(1,3)*D(LNGDP(-1)) + C(1,4)*D(LNGDP(-2)) + C(1,5) D(LNGDP) = A(2,1)*(B(1,1)*LNCPI(-1) + B(1,2)*LNGDP(-1) + B(1,3)*@TREND(1) + B(1,4)) + C(2,1)*D(LNCPI(-1)) + C(2,2)*D(LNCPI(- 2)) + C(2,3)*D(LNGDP(-1)) + C(2,4)*D(LNGDP(-2)) + C(2,5) VAR Model - Substituted Coefficients: =============================== D(LNCPI) = 0.014255684285*( LNCPI(-1) + 13.5444310245*LNGDP(-1) - 0.245694853818*@TREND(1) + 0.671527944337 ) + 1.00972617759*D(LNCPI(-1)) - 0.459887230411*D(LNCPI(-2)) - 0.105843594761*D(LNGDP(-1)) - 0.0294303901313*D(LNGDP(-2)) + 0.0105290024693 D(LNGDP) = - 0.0338220460115*( LNCPI(-1) + 13.5444310245*LNGDP(-1) - 0.245694853818*@TREND(1) + 0.671527944337 ) + 0.0825477839175*D(LNCPI(-1)) + 0.11126492346*D(LNCPI(-2)) + 0.0975458838497*D(LNGDP(-1)) - 0.673750057629*D(LNGDP(-2)) + 0.0229835378894

34

Kết quả ước lượng mô hình CPI trong ngắn hạn cho thấy:

Thứ nhất, hệ số co giãn giữa chỉ số CPI và biến trễ của nó (trễ 1 quý) là

1.009 là lớn nhất so với các hệ số khác trong mô hình, với mức ý nghĩa thống

kê cao (1%). Kết quả này cũng phản ánh chỉ số CPI ở Việt Nam chịu tác động

rất lớn bởi kỳ vọng lạm phát của công chúng. Tuy nhiên, sau thời gian 2 quý,

chỉ số CPI có xu hướng giảm dần và hội tụ về điểm cân bằng trong dài hạn với

tốc độ giảm dần là 1.05% (hệ số VECM là 0.0105).

Thứ hai, hệ số co giãn của giữa GDP và CPI trong ngắn hạn với độ trễ 1

quý là 0.105 cho thấy tăng trưởng kinh tế cũng có tác động đến CPI nhưng khá

ít. Điều này chứng tỏ trong ngắn hạn, ngoài tăng trưởng kinh tế còn có các yếu

tố khác tác động đến CPI. Kéo sang quý 2 thì tăng trưởng kinh tế tác động đến

CPI cũng giảm dần.

Kết quả ước lượng mô hình GDP trong ngắn hạn cho thấy tăng trưởng kinh

tế cũng chịu ảnh hưởng từ những thời kỳ trước đó và có mối quan hệ dương

(cùng chiều) với tốc độ tăng chỉ số CPI với hệ số co giãn là 0.08 ( trễ 1 quý) và

0.11 trong quý tiếp theo. Tuy nhiên hệ số co giãn 0.08 là nhỏ nhất trong mô

hình nên có thể thấy rằng tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng khá ít từ sự thay

đổi của lạm phát.

Sau khi đã ước lượng mô hình thì ta tiếp tục kiểm định sự phù hợp của mô

hình bằng cách kiểm định phần dư hoặc xem xét đồ thị phần dư

Null Hypothesis: E1 has a unit root Exogenous: Constant, Linear Trend Lag Length: 0 (Fixed)

Bảng 9. Kiểm định nghiệm phần dƣ của mô hình VECM

35

Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:

1% level 5% level 10% level

t-Statistic -4.990595 -4.148465 -3.500495 -3.179617

*MacKinnon (1996) one-sided p-values.

Prob.* 0.0009

Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(E1) Method: Least Squares Date: 04/24/13 Time: 22:24 Sample (adjusted): 4 54 Included observations: 51 after adjustments

t-Statistic

Prob.

Coefficient

-0.689389 0.001062 -3.57E-05

0.0000 0.8734 0.8653

-4.990595 0.160251 -0.170496

Variable E1(-1) C @TREND(1)

Std. Error 0.138138 0.006629 0.000210

-0.000201 0.026616 -4.736166 -4.622529 -4.692742 2.072685

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

0.342546 Mean dependent var 0.315152 S.D. dependent var 0.022026 Akaike info criterion 0.023287 Schwarz criterion 123.7722 Hannan-Quinn criter. 12.50444 Durbin-Watson stat 0.000043

36

Đồ thị phần dƣ

Kết quả kiểm định và đồ thị phần dư cho thấy phần dư là một chuỗi dừng.

Như vậy mô hình ta xây dựng là phù hợp.

Ngoài ra, ta có thể xem xét sự tác động của biến này lên biến kia khi có

một sự thay đổi, một cú sốc xảy ra. Ta sử dụng hàm phản ứng đẩy:

37

Đồ thị phản ứng đẩy

Kết quả phản ứng phân rã Cholesky của GDP trước việc gia tăng của lạm

phát cho thấy GDP sẽ giảm trong 2 quý đầu, sau đó tăng trong 2 quý kế tiếp, rồi

giảm rồi tăng nhưng có xu hướng giảm dần do mức tăng thấp hơn mức giảm.

Như vậy, có thể thấy CPI chỉ tác động mạnh đến GDP ngay sau khi CPI tăng.

38

Còn phản ứng của CPI trước sự gia tăng của GDP là tăng dần đều. Điều

này cho thấy trong ngắn hạn, khi gia tăng sản lượng của nền kinh tế sẽ tác động

làm tăng chỉ số CPI.

2.4 Thảo luận kết quả

Từ kết quả phân tích mô hình ở trên, chúng ta thấy giữa tăng trưởng và lạm

phát có mối quan hệ dương (đồng biến) trong dài hạn và sự thay đổi của tăng

trưởng kinh tế trong giai đoạn này nhanh hơn sự thay đổi của lạm phát. Tuy

nhiên, trong ngắn hạn mối quan hệ này không đơn thuần là một chiều mà có

tăng trưởng kinh tế có tăng, có giảm trước sự thay đổi của lạm phát. Ngoài ra,

trong ngắn hạn, lạm phát chịu ảnh hưởng rất lớn bởi kỳ vọng lạm phát của công

chúng. Điều này hàm ý rằng việc tạo niềm tin trong công chúng về nỗ lực kiểm

soát lạm phát của Chính phủ là rất quan trọng.

Kết quả này giống với kết luận Mallik và Chowdhury (2001) khi phân tích

các tác động qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát ở bốn quốc gia Nam Á

(Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan and Sri Lanka) khi tìm thấy bằng chứng có ý

nghĩa thống kê của một mối quan hệ tích cực giữa hai biến này. Đồng thời qua

nghiên cứu, ta cũng thấy được trong ngắn hạn lạm phát còn bị chi phối bởi

nhiều yếu tố khác và tồn tại một „ngưỡng lạm phát‟ nào đó mà khi lạm phát

vượt qua ngưỡng này sẽ có tác động này tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Do

vậy Chính phủ cần thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm ổn định lạm phát,

tạo tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững và tránh những cú sốc

lạm phát không có lợi cho nền kinh tế.

39

CHƢƠNG 3: KẾT LUẬN

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ và

phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là

tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vì vậy, cần chú trọng sự cân đối, mối

quan hệ hài hòa giữa hai vấn đề này mới đảm bảo sự phát triển bền vững của

Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Trong những năm vừa qua Việt

Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế, đó cũng là nhờ một

phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát hợp lý. Tuy nhiên,

những bất ổn và sự mất cân đối giữa lạm phát trong thời gian gần đây là dấu

hiệu để chúng ta cần đưa ra những điều chỉnh và bổ sung trong chính sách có

hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết tốt những vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ

cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam cho những năm sắp tới.

Trong thực tế đều hành đất nước, bất cứ chính phủ của quốc gia nào cũng

muốn nền kinh tế nước mình có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và mức lạm phát

thấp, mức thất nghiệp thấp. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động của nền kinh tế

cũng chỉ rõ kinh tế tăng trưởng cao đồng hành với mức lạm phát cao. Nhưng

lạm cao sẽ triệt tiêu những thành quả của tăng trưởng, sẽ gây khó khăn cho đời

sống kinh tế- xã hội, làm cho tăng trưởng thiếu tính bền vững. Vì vậy, để đạt

mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững nhất thiết phải kiểm sóat lạm phát, phải

đặt mục tiêu tăng trưởng vừa phải. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chấp

nhận đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghĩa là

“hy sinh” mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh

tế vĩ mô, bảo đảm được tăng trưởng ở mức hợp lý, khi có điều kiện thuận lợi

phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn. Đây là một quyết định khó khăn, nhưng

40

lạm phát trong thời gian vừa qua đã đến mức độ báo động và ưu tiên hàng đầu

kiềm chế lạm phát là cần thiết và điều này phù hợp với quan điểm, chủ trương

của Chính phủ: "kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi

sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và

kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.

Hạn chế của đề tài

Số liệu quan sát chưa đủ lớn để có kết quả đáng tin cậy hơn (54 quan sát).

Do thiếu số liệu về các biến khác trong ngắn hạn như chi tiêu chính phủ, nhập

khẩu hàng hóa, tốc độ cung tiền… nên chưa thể nêu bật lên được sự ảnh hưởng

của các yếu tố này đối với lạm phát trong ngắn hạn.

41

Danh mục các tài liệu tham khảo

Nguyễn Trung Chính, 2011. “Quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng qua

phân tích thực nghiệm ở việt Nam”. Đại học Ngoại thương.

Barro, R. J., 1995. Inflation and economic growth. NBER Working Paper

5326. Cambridge,

Bruno, M & Easterly,W., 1998. “Inflation crises and long-run growth”.

Journal of Monertary Economics,41, 3-26.

Balakrishnan P., 2005. “Macroeconomic policy and economic growth in

the 1990s”, Economic and Political Weekly, XXXX, 3969-3977.

Barro, R J., 1995. “Inflation and Economuc Growth”, Bank of England

Quaterly Bulletin, May.

Bruno, M and W Easterly., 1998. “Inflation Crisis and Long Run Growth”,

Journal of Monertary Economics, Vol 41.

Choi, S, B D Smith and J H Boyd., 1996. “inflation, Financial Markets and

Capital Fowmation”, Federal Reserve Bank of St Louis Review, Vol78(3).

Deepak Mohanty, A B Chakraborty, Abhiman Das and Joice Jonh. W P S

(DEPR):18/2011 RBI Working Paper Series (9/2011). “Inflation Threshold in

India: An Empiricial Investigation”.

Fisher, Stanley, eds., 1993: “The Role of Marcoeconomic Factors in

Growth”, Journal of Monertary Economics, Vol 32, 485-512.

Ghost, A.,&Philips, S., 1998. “Inflation, disinflation, and growth”. IMF

Working Paper No.WP/98/68/ and “ Warning: Inflation May Be harmful top

42

your Growth,” IMF Staff Papers, 45,672-710. Washinhton, DC: International

Monertary Fund.

Khan, M. S., & Senhadji, A.S., 2001. “Thresghold Effects in the

Ralationship Between Inflation and growth,” IMF Staff Papers, 48, 1-21.

Prasanna V Salian, Gopakumar.K., 2010. “Inflation ang Economic Growth

in India – An Empricial Analysis”.

Sarel, M., 1996. “Non-linear effects of inflation on economic growth”.

IMF Working Staff Papers, 43, 199-215.