BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -----O0O-----
NGUYỄN KIM TUYẾN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ
HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
ĐẾN NĂM 2025
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ MS: 60310102
Người hướng dẫn khoa học TS. LƯU THỊ KIM HOA TP. HCM – NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn xin cam đoan, nội dung luận văn là công trình nghiên cứu độc lập
của tác giả, không sao chép công trình khác, nếu có gì sai sót, tác giả xin chịu trách
nhiệm trước pháp luật của Nhà nước.
Tác giả
Nguyễn Kim Tuyến
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về công tác dân số - KHHGĐ................6
1.1. Khái niệm về dân số, kế hoạch hóa gia đình, công tác DS-KHHGĐ..………6
1.1.1. Dân số………………………………………..................................................6
1.1.2. Kế hoạch hóa gia đình.....................................................................................6
1.1.3. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình.........................................................7
1.2. Vai trò của công tác DS-KHHGĐ đối với sự phát triển của xã hội................7
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, của một số quốc gia và của Đảng,
Nhà nước Việt Nam về công tác DS – KHHGĐ………………………………......7
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin..........................................................7
1.3.2. Quan điểm của một số quốc gia về công tác dân số - KHHGĐ.....................9
1.3.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác DS - KHHGĐ...10
1.4. Khái quát về công tác DS - KHHGĐ ở Việt Nam trong thời gian qua........11
1.4.1. Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1975.............................................................11
1.4.2. Thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1990.............................................................11
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2000.............................................................12
1.4.4. Thời kỳ từ năm 2001 đến nay.......................................................................13
1.5. Nội dung công tác DS - KHHGĐ.....................................................................13
1.5.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác DS-KHHGĐ...............................13
1.5.1.1. Điều kiện tự nhiên....................................................................................13
1.5.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội..........................................................15
1.5.1.3. Chính sách dân số....................................................................................19
1.5.2. Nội dung công tác dân số - KHHGĐ.........................................................20
1.5.2.1. Công tác quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính........................20
1.5.2.2. Công tác tham mưu, phối hợp..................................................................20
1.5.2.3. Công tác quản lý về quy mô, cơ cấu dân số.............................................21
1.5.2.4. Công tác quản lý, thực hiện để nâng cao chất lượng dân số...................21
1.5.2.5. Công tác truyền thông, giáo dục………………………..........................22
1.5.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát………………….........................22
1.6. Một số tiêu chí đánh giá chất lượng công tác DS - KHHGĐ........................22
1.6.1. Một số tiêu chí đánh giá chất lượng.............................................................22
1.6.2. Mức độ thực hiện so với mục tiêu chính sách.............................................23
Tóm tắt chương 1:..................................................................................................24
Chương 2: Thực trạng công tác DS - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ
năm 2010 đến năm 2013..........................................................................................25
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác DS-KHHGĐ của tỉnh ĐN…….….25
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.........................................................................................25
2.1.2. Tình hình kinh tế, xã hội...............................................................................26
2.1.3. Chính sách về dân số....................................................................................30
2.2. Thực trạng công tác DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai..........................................31
2.2.1. Công tác quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính............................31
2.2.2. Công tác tham mưu, phối hợp,chỉ đạo.........................................................42
2.2.3. Công tác quản lý về quy mô, cơ cấu dân số................................................44
2.2.4. Công tác quản lý, thực hiện để nâng cao chất lượng dân số........................50
2.2.5. Công tác truyền thông, giáo dục..................................................................53
2.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát.........................................................55
2.3. Đánh giá chất lượng công tác DS-KHHGĐ tại tỉnh ĐN................................56
2.3.1. Những thành tựu..…....................................................................................56
2.3.2. Những hạn chế…….....................................................................................57
2.3.3. Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế……………………………….57
Tóm tắt chương 2:..................................................................................................60
CHƯƠNG 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác DS -
KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ nay đến năm 2025................................61
3.1. Quan điểm và mục tiêu của công tác DS-KHHGĐ.......................................61
3.1.1. Quan điểm và mục tiêu của công tác DS-KHHGĐ ở Việt Nam.................61
3.1.1.1. Quan điểm.............................................................................................61
3.1.1.2. Mục tiêu tổng quát................................................................................62
3.1.1.3. Mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể....................................................................62
3.1.2. Mục tiêu của công tác DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai....................................66
3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát................................................................................66
3.1.2.2. Mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể........................................................................66
3.2. Một số giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác DS –
KHHGĐ………………………................................................................................70
3.2.1. Về lãnh đạo, tổ chức, quản lý DS-KHHGĐ.................................................70
3.2.2. Về truyền thông, giáo dục............................................................................70
3.2.3. Về nâng cao chất lượng dân số và can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới
tính khi sinh………………………………………………………………………...71
3.2.4. Xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách dân số………... ........................74
3.2.5. Về xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác............................................75
3.2.6. Đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin số liệu......................................76
3.3.7. Giải pháp huy động nguồn lực.....................................................................76
3.3. Một số kiến nghị đối với trung ương và địa phương.....................................77
3.3.1. Đối với trung ương………...........................................................................77
3.3.2. Đối với địa phương………………………………………………………..80
Tóm tắt chương 3...................................................................................................81
KẾT LUẬN...............................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT
AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
BMTE Bà mẹ trẻ em
BPTT Biện pháp tránh thai
BVBMTE Bảo vệ bà mẹ trẻ em
BVSKBMTE Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em
CDTTLG Chiến dịch truyền thông lồng ghép
CBR Mức sinh
CLDS Chiến lược dân số
CSSKSS Chăm sóc sức khỏe sinh sản
CSSKSS/KHHGĐ Chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình
DS Dân số
DS,GĐTE Dân số, gia đình và trẻ em
DS - KHHGĐ Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
DS&PT Dân số và phát triển
Eo Tuổi thọ trung bình
IMR Tỷ suất tử vong trẻ em
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
HIV Vi rút suy giảm miễn dịch ở người
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
PTTT Phương tiện tránh thai
SĐKH Sinh đẻ kế hoạch
SKSS Sức khỏe sinh sản
SKSS/KHHGĐ Sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình
SKSS/SKTD Sức khỏe sinh sản/sức khỏe tình dục
SKTD Sức khỏe tình dục
TTGD Truyền thông giáo dục
TTXH Tiếp thị xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 1.1: Mức sinh của các vùng trên thế giới năm 2008.........................................15
Bảng 1.2:Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và tuổi thọ trung bình trên thế giới giai
đoạn 1995 - 2008 (IMR: %o; Eo: năm).....................................................................16
Bảng 1.3: Biến động mức sinh giữa các nước, các thời kì (CBR‰)...........................17
Bảng 1.4: Cơ cấu tuổi và mức chết của thế giới năm 2008.......................................18
Bảng 2.1:Tổng sản phẩm trong tỉnh Đồng Nai theo giá hiện hành phân theo khu vực
kinh tế........................................................................................................................26
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm trong tỉnh theo giá so sánh 2010………………..………26
Bảng 2.3:Thu ngân sách và vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai..........................27
Bảng 2.4 : Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe (1)................................................28
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe (2).................................................28
Sơ đồ 2.1: Tổ chức Ban DS,GĐ&TE xã, thị trấn......................................................33
Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ.............................................34
Sơ đồ 2.3: Cơ cấu tổ chức Chi cục DS-KHHGĐ.......................................................35
Bảng 2.6: Tình hình cán bộ Dân số-KHHGĐ tỉnh, huyện.........................................36
Bảng 2.7: Kinh phí TW cấp để thực hiện các hoạt động DS-KHHGĐ.....................39
Bảng 2.8: Kinh phí ĐP cấp để thực hiện các hoạt động DS-KHHGĐ..……………40
Bảng 2.9: Tổng nguồn kinh phí TW và ĐP giao để thực hiện công tác DS-KHHGĐ
tại tỉnh Đồng Nai……………………………………………………………………41
Bảng 2.10: Tình hình thực hiện biện pháp tránh thai ở Đồng Nai.............................46
Bảng 2.11: Kết quả thực hiện chỉ tiêu giảm sinh hàng năm......................................47
Bảng 2.12: Tỷ số giới tính khi sinh tại tỉnh Đồng Nai...............................................49
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân số đóng vai trò hai mặt trong quá trình phát triển, một mặt dân số là
lực lượng tiêu thụ sản phẩm, mặt khác dân số là lực lượng tạo ra của cải vật chất
và các dịch vụ cho xã hội. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số có ảnh
hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích luỹ xã hội.
Ở nước ta hiện nay quy mô dân số rất lớn (hơn 90 triệu dân), đang trở
thành một trong những cường quốc trên thế giới về quy mô dân số (đứng hàng
thứ 14 về quy mô dân số trên giới, đứng thứ 8 tại châu Á và thứ 3 ở Đông Nam
Á), mật độ dân số cao và vẫn đang tăng mạnh, bên cạnh việc tạo ra thị trường
lớn, nguồn lao động dồi dào giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư, cũng góp phần không
nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập, cải thiện tình trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn xã hội, tai nạn giao
thông...
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và hết sức quan tâm đến công
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW
của Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
ngày 14 tháng 01 năm 1993 đã chỉ rõ: "Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, là một trong
những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của nước ta là một yếu tố cơ bản để nâng
cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Pháp
lệnh dân số cũng đã khẳng định: " Dân số là một trong những yếu tố quyết định
sự phát triển bền vững của đất nước".
Thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về công tác Dân số -
KHHGĐ trong nhiều năm qua tỉnh Đồng Nai đã đạt nhiều kết quả trong công tác
này. Cuối năm 2013 tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các
biện pháp tránh thai đạt 78,49%, tỷ suất sinh thô là 18,80%0, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên 1,2%, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 5,94%, số phụ nữ có thai được tiêm phòng
uốn ván đạt 99,1%, phụ nữ có thai được khám lần 3 trở lên đạt 96,9%, tỷ lệ bà
mẹ sinh con được cán bộ y tế chăm sóc đạt 97,8%, tỷ lệ nạo phá thai và hút điều
hòa kinh nguyệt còn 27%, tỷ lệ trẻ < 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 10,4%.
2
Bên cạnh các kết quả trên hiện nay công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình của tỉnh Đồng Nai vẫn còn nhiều khó khăn thách thức:
- Mức sinh tuy giảm nhưng chưa thật sự ổn định, đặc biệt những xã vùng
cao, vùng sâu, vùng xa mức sinh vẫn còn cao.
- Cơ cấu dân số biến đổi nhanh từ giai đoạn cơ cấu dân số trẻ sang giai
đoạn cơ cấu dân số vàng và già hóa dân số. Sự biến đổi này đưa đến nhiều cơ hội
nhưng cũng đưa đến nhiều thách thức mới trong thời gian tới.
- Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang trở thành một vấn đề lớn
của xã hội, nếu không được khống chế từ bây giờ thì trong vài thập niên tới sẽ
dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa nam và nữ, để lại những hệ lụy phức tạp cả
về kinh tế và xã hội.
- Chất lượng dân số được cải thiện đáng kể nhưng chưa cao. Với địa bàn
rộng, 04 huyện miền núi, 33% là đồng bào có đạo thiên chúa, mạng lưới Y tế
CSSKSS-KHHGĐ chưa đồng bộ, nhận thức của các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ về Chăm sóc sức khỏe sinh sản- KHHGĐ còn bất cập, tỷ lệ sinh con thứ
3 trở lên vẫn còn cao, đặc biệt ở các vùng miền núi và vùng sâu.
Vì vậy để thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, duy trì
mức sinh thấp hợp lý, giảm áp lực gia tăng dân số tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống cho dân cư trong giai đoạn này đối với tỉnh
Đồng Nai là hết sức cần thiết. Để góp phần vào sự thành công trong công tác
Dân số - KHHGĐ ở địa phương, tác giả xin chọn đề tài “Nâng cao chất lượng
công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm
2025” làm luận văn nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung liên quan đến dân số, công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình đã được một số tác giả nghiên cứu dưới những góc độ đối tượng, phạm vi
thời điểm khác nhau. Qua tham khảo, tác giả thấy có một số tài liệu viết về
những vấn đề liên quan đến dân số có như sau:
-Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012) với đề tài “Sự già
hóa dân số và các vấn đề chăm sóc người cao tuổi ở đô thị - nghiên cứu trường
hợp TPHCM”. Đề tài nghiên cứu những thách thức làm hạn chế khả năng chăm
3
sóc sức khỏe người cao tuổi ở đô thị, đưa ra những kiến nghị cải thiện khả năng
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giúp họ nâng cao tuổi thọ và chất lượng cuộc
sống.
-Luận án TS của tác giả Nguyễn Văn Trãi (2009) với đề tài “Phân tích
thực trạng và dự báo dân số TPHCM đến năm 2019”. Đề tài đi sâu vào phân tích
xây dựng tổng hợp về dân số Hồ Chí Minh trong tương lai.
-TS. Dương Quốc Trọng (2013), với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh với
công tác dân số”, đăng trên tạp chí Dân số phát triển, số 5-2014,tác giả đi sâu vào
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức
khỏe của mọi người dân, về nâng cao trí tuệ con người Việt Nam đó là những nội
dung nâng cao chất lượng dân số và là những nội dung ưu tiên số 1 trong công
tác dân số hiện nay.
-ThS. Nguyễn Ngọc Anh với bài viết “Lợi ích của chương trình KHHGĐ:
phân tích trường hợp Philippin” đăng trên tạp chí Dân số phát triển, số 2-2014,
tác giả phân tích khung lý thuyết về lợi ích của chương trình KHHGĐ với trường
hợp Philipin, đưa ra mối tương quan giữa KHHGĐ và lợi ích kinh tế xã hội, sức
khỏe...
-TS. Nguyễn Quốc Anh với bài viết “Cơ cấu dân số vàng: nguồn nhân lực
lao động trẻ đạt cực đại...” đăng trên tạp chí Dân số phát triển, số 5-2014, đưa ra
những nhận định cơ hội từ cơ cấu “dân số vàng” để thoát bẫy thu nhập trung bình
của Việt Nam và những thách thức để lựa chọn giải pháp phát triển KT-XH nhằm
thoát bẫy thu nhập đồng thời đưa ra các giải pháp phát huy lợi thế cơ cấu “dân số
vàng”.
-Bài viết của ThS Võ Anh Dũng (2014), “Đầu tư cho sức khỏe thanh
niên”, nghiên cứu về đặc điểm tích cực; hành vi có hại cho sức khỏe thanh niên;
các chính sách và chương trình can thiệp, cải thiện sức khỏe thanh niên.
-Tác phẩm sách của Viện dân số và các vấn đề xã hội - Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân “ 50 năm chính sách giảm sinh ở Việt Nam (1961-2011) thành
tựu, tác động và bài học kinh nghiệm” (năm 2012) do GS.TS Nguyễn Đình Cử
chủ biên. Tác phẩm mô tả xu hướng giảm sinh ở Việt Nam, phân tích mức sinh,
4
hệ quả mức sinh đến tình hình dân số, tác động đến phát triển kinh tế xã hội,
những cảnh báo và thách thức...
Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng
sách, tác phẩm, đề tài, chuyên đề, khảo sát và các bài đăng trên các tạp chí,
báo... Nhìn chung trên những bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một
cách cơ bản, đi sâu, phân tích làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với
những kinh nghiệm thực tiễn về chính sách giảm sinh, dân số, biến động dân số,
chất lượng dân số... để thực hiện công tác DS-KHHGĐ. Đây là nguồn tư liệu quý
giá giúp tác giả kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Điểm mới việc nghiên cứu về các vấn đề để nâng cao chất lượng công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Nai vẫn chưa có tác giả
nào thực hiện. Vì vậy tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn
góp phần vào luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã đặt ra.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu của đề tài là trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về lý
luận dân số, công tác dân số - dân số - kế hoạch hóa gia đình; phân tích, đánh giá
làm rõ thực trạng công tác DS - KHHGĐ ở tỉnh Đồng Nai, chỉ ra được những
việc đã làm được, việc chưa làm được; Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công
và hạn chế trong công tác dân số - KHHGĐ, từ đó đề xuất ra những giải pháp
phù hợp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân số - dân số - kế hoạch hóa gia
đình của tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới đến năm 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận và thực tiễn về dân số, công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình, chính sách dân số - KHHGĐ; chất lượng công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình tỉnh Đồng Nai.
- Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở sử dụng
kết quả khảo sát, thu thập, thống kê số liệu trình bày và phân tích thực trạng công
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở Đồng Nai.
5
Đề tài tập trung khai thác số liệu trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến
năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chung: Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lê Nin: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vào qúa
trình phân tích, đánh giá các mặt hoạt động cụ thể của công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình ở Đồng Nai.
- Phương pháp cụ thể: Đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu,
phương pháp quan sát, phương pháp thống kê số liệu thứ cấp; Đặc biệt là phương
pháp tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương và kết cấu
các chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về công tác dân số - kế hoạch hóa
gia đình
Chương 2: Thực trạng công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2010 đến năm 2013
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ nay đến năm 2025
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỂ CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm về dân số, kế hoạch hóa gia đình và công tác DS - KHHGĐ
1.1.1. Dân số
Dân số luôn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học, chuyên gia dân số
và cả các chính phủ, tổ chức xã hội. Không chỉ ngày nay mà ngay cả trước kia,
các nước đều quan tâm đến vấn đề dân số vì sức ép của sự bùng nổ dân số ảnh
hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến sức mạnh quốc
gia. Ngày nay, vấn đề dân số không chỉ hạn chế mà nhiều nước còn khuyến khích
phát triển. Bởi vì dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu thụ sản
phẩm. Quy mô dân số, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số và chất lượng dân số
tác động lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Dân số theo nghĩa thông thường: là số lượng dân số trên một vùng lãnh thổ,
một địa phương nhất định trong một khoảng thời gian xác định.
Dân số theo nghĩa rộng: được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp này
không chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng bao gồm nhiều cá nhân hợp
lại, nó không cố định mà thường xuyên biến động. Ngay cả bản thân mỗi cá nhân
cũng thường xuyên biến động: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già và tử vong.(5)
Dân số thường được định nghĩa như sau: là những tập hợp người sống
trên một lãnh thổ trong một thời gian xác định, được đặc trưng bởi quy mô, kết
cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của việc phân
công lao động và cư trú theo lãnh thổ.
Quy mô dân số: là tổng số người sống trên một lãnh thổ nhất định trong
một khoảng thời gian xác định.
Cơ cấu dân số: là tỉ lệ dân số được phân loại theo giới tính, độ tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác. Đây là những đặc trưng
biểu thị chất lượng dân số, có liên quan chặt chẽ với quy mô và tốc độ gia tăng dân số.
Phân bố dân số: là sự sắp xếp số dân một cách tự phát hoặc tự giác trên một
lãnh thổ phù hợp với điều kiện sống của họ và với các yêu cầu nhất định của xã hội.
1.1.2. Kế hoạch hoá gia đình
Theo định nghĩa của tố chức y tế thế giới (WHO): Kế hoạch hoá gia đình
là bao gồm những thực hành giúp cho những cá nhân hay các cặp vợ chồng để
7
đạt được những mục tiêu: Tránh những trường hợp sinh không mong muốn; Đạt
được những trường hợp sinh theo ý muốn; Điều hoà khoảng cách giữa các lần
sinh; Chủ động thời điểm sinh con cho phù hợp với tuổi của bố, mẹ.
1.1.3. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình là việc quản lý và tổ chức thực
hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số và nâng cao chất
lượng dân số. (14)
1.2. Vai trò của công tác DS - KHHGĐ đối với sự phát triển của xã hội
Dân số vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu dùng của cải của xã
hội. Qui mô, cơ cấu của dân số quyết định qui mô, cơ cấu của sản xuất và tiêu
dùng. Con người - dân số đóng vai trò trung tâm trong mọi chương trình, chiến
lược phát triển, nó vừa là điều kiện, phương tiện, vừa là mục tiêu của phát triển.
Phát triển kinh tế xã hội dù ở đâu và thời kỳ nào đều nhằm hướng tới việc phục
vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện con người. Dân số và phát triển thường
xuyên biến động và bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố tác động
đến dân số và phát triển rất đa dạng, phong phú và không ngừng biến đổi.
Vì vậy công tác dân số - KHHGĐ có vai trò hết sức quan trọng, thực hiện
điều tiết mức sinh thông qua các hoạt động chương trình KHHGĐ để tạo ra quy
mô, cơ cấu dân số ổn định phù hợp với điều kiện điạ lý, kinh tế-xã hội của mỗi
quốc gia, vùng lãnh thổ; Là cở sở quan trọng để nâng cao chất lượng dân số và
nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước. Đồng
thời thực hiện tốt công tác Dân số - KHHGĐ giảm được chi phí do hạn chế được
mức sinh, tăng tích luỹ cho xã hội, là nguồn lực đáng kể để đóng góp vào quá
trình phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư còn là cơ sở thực hiện các chính
sách xã hội như thực hiện công bằng xã hội, tăng cường bình đẳng giới, giải
quyết các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường…
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, của một số quốc gia và của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác Dân Số-KHHGĐ
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
Trong các tác phẩm kinh điển về duy vật lịch sử Mác, Ăngghen, Lênin đã
đề cập nhiều tới vấn đề dân số, quan điểm của Mác hoàn toàn đối lập với luận
điểm của học thuyết MalThus. Ông cho rằng dân số không đơn thuần chỉ là số
dân, mà còn bao hàm cả chất lượng dân cư, hàm chứa những nhân tố nội sinh, có
8
mối quan hệ và chịu tác động đa chiều của các điều kiện tự nhiên và xã hội. Dân
số phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tồn tại trong mọi
hình thái kinh tế - xã hội. Dân số và tái sản xuất dân số là một trong những hoạt
động cơ bản của con người. Bản chất của quá trình dân số, như (sinh, tử, di dân)
trước hết mang tính kinh tế-xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ phù hợp với
một lượng dân cư nhất định và ông cho rằng: “Các điều kiện của một xã hội hay
nói cách khác là các hình thái kinh tế-xã hội chỉ có thế phù hợp với một lượng
dân số nhất định. Trong một hình thái kinh tế-xã hội các điều kiện sản xuất, trình
độ của lực lượng sản xuất sẽ xác định số lượng tối ưu và tương ứng”.(7)
Tán thành với quan điểm của Mác, Ăng Ghen cho rằng: “Theo quan điểm
duy vật nhân tố quyết định trong lịch sử, suy cho cùng là sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống trực tiếp, nhưng bản thân sự sản xuất có hai loại. Một mặt sản xuất ra
tư liệu trong sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo, nhà ở và những dụng cụ cần thiết để
sản xuất ra những thứ đó. Mặt khác là sản xuất ra chính bản thân con người; là sự
truyền giống nòi. Những thiết chế xã hội trong đó những con người của một thời
đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại sản xuất
đó quyết định. Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình” (7).
Theo Lênin thì “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động ".(7)
Học thuyết Mác – Lênin thể hiện tầm nhìn xa, sâu rộng, tư tưởng vĩ đại
của các nhà kinh điển thể hiện quan điểm dân số phát triển có mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Sự phát triển của mỗi quốc gia phụ
thuộc rất nhiều vào chính qúa trình dân số của quốc gia ấy. Các hành vi dân
số của mọi cộng đồng dân cư tương hợp với một trình độ phát triển kinh tế -
xã hội (cả về kinh tế, văn hoá- xã hội, giáo dục, y tế, tâm lý, phong tục tập
quán lối sống ....) của chính cộng đồng dân cư ấy. Học thuyết cũng chỉ ra rằng
Con người có đủ khả năng để điều khiển các quá trình dân số theo mong
muốn của mình nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Đúng như Ăngghen nhận xét, đến một lúc
nào đó xã hội phải điều chỉnh mức sinh của con người hay xã hội nào làm
được việc điều chỉnh sự sinh sản ra con người như đã điều chỉnh kinh tế thì
mới có thể lãnh đạo chủ động xã hội
9
1.3.2. Quan điểm của một số quốc gia về công tác DS-KHHGĐ
Trải qua nhiều kỳ hội nghị quốc tế về vấn đề dân số toàn cầu. Quan điểm
của các quốc gia tại các hội nghị này được thể hiện rõ như sau:
Hội nghị quốc tế Bcucarét có 136 nước tham gia: Quan điểm nổi bật của
nhiều nước đang phát triển tại hội nghị này là: Phát triển là việc thực hiện công
tác tránh thai tốt nhất, các nước đang phát triển đã nhận thấy những tác động tiêu
cực của sự gia tăng dân số nhanh ngay ở tại quốc gia mình. Đồng thời các quốc
gia đang phát triển cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo sự phân
phối công bằng hơn các nguồn lực kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Hội nghị quốc tế Mêhicô CiTy năm 1984, có 146 nước tham gia. Hội nghị
tiến hành trong giai đoạn khi các chương trình KHHGĐ đã đạt được những thành
tựu khá quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình giảm sinh và thực hiện quy mô
gia đình ít con trên thế giới. Vấn đề trọng tâm tại hội nghị này là tìm kiếm các
mô hình thích hợp cho các nỗ lực phát triển kinh tế và KHHGĐ, nhằm đạt đến
các mục tiêu dân số của các quốc gia.
Hội nghị quốc tế Cai rô năm 1994, có 180 nước tham gia. Hội nghị đề ra
chương trình hành động cho 20 năm, vấn đề trọng tâm của chương trình hành
động là đề ra chiến lược mới; Trong đó nhấn mạnh đến mối liên hệ tổng thể giữa
dân số và phát triển; Đặt ra các mục tiêu đáp ứng các nhu cầu cá nhân của cả phụ
nữ và nam giới, chứ không giới hạn bởi các mục tiêu nhân khẩu học thuần tuý,
như giảm mức sinh hay thúc đẩy quy mô gia đình ít con. Nguyên tắc của chương
trình hành động khẳng định con người là trung tâm của những mối quan tâm đối
với phát triển bền vững; Vì con người là nguồn lực quan trọng nhất, có giá trị
nhất của mọi dân tộc. Quyền phát triển phải được thực hiện để đáp ứng được các
mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia ngay hiện tại và trong tương lai.
Loại trừ những hình mẫu sản xuất, tiêu dùng thiếu bền vững; đồng thời tăng
cường các chính sách thích hợp, các chính sách liên quan đến dân số. Thực hiện
công bằng và bình đẳng giới, nâng cao quyền năng cho phụ nữ, loại bỏ tình trạng
bạo lực chống lại phụ nữ. Đảm bảo cho phụ nữ có khả năng kiểm soát vấn đề
sinh đẻ của mình, đây chính là hòn đá tảng của chương trình dân số và phát triển.
Các nước cần tiến hành các biện pháp thích hợp thực hiện công tác dân số-
KHHGĐ để đảm bảo người dân được tiếp cận rộng rãi với các dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ nói chung, trong đó có sức khoẻ sinh sản-KHHGĐ và sức khoẻ tình dục
10
dựa trên cơ sở bình đẳng nam, nữ. Các nguyên tắc cũng khẳng định lại quyền của
các cặp vợ chồng và cá nhân được quyền tự quyết định số lần sinh và khoảng
cách giữa các lần sinh, đồng thời có quyền được yêu cầu cung cấp các thông tin
và các phương tiện KHHGĐ để họ thực hiện điều này. Các nguyên tắc cũng nhấn
mạnh gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, nên cần thường xuyên được củng cố,
đồng thời công nhận các hình thức khác nhau, tuỳ thuộc theo các nền văn hoá,
kinh tế, chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
1.3.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác DS - KHHGĐ
Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác DS - KHHGĐ
được thể hiện rõ ràng tại Nghị quyết IV, ban chấp hành TW Đảng khoá VII Đảng
nhận định “sự gia tăng dân số qúa nhanh là một trong những nguyên nhân quan
trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện
đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của giống
nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta
sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.
Vì vậy làm tốt công tác Dân Số-KHHGĐ, thực hiện gia đình ít con giảm
nhanh tỷ lệ phát triển dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số là vấn đề rất quan
trọng và bức xúc đối với nước ta.
Từ nhận định được tầm quan trọng to lớn của công tác DS- KHHGĐ
Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo như sau:
Công tác dân số- KHHGĐ là bộ phận quan trọng của chiến lược phát
triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của nước ta, là
một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia
đình và của toàn xã hội.
Từ quan điểm trên Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo đưa ra những giải
pháp, định hướng cơ bản và quan trọng để thực hiện công tác dân số - KHHGĐ
đó là vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ KHHGĐ đến
tận người dân; đưa ra những chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp
nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện
KHHGĐ và đầu tư cho công tác Dân Số-KHHGĐ để mang lại hiệu qủa, tăng
mức chi ngân sách cho công tác Dân Số-KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng
góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.Thêm vào đó huy động
lực lượng toàn xã hội tham gia công tác dân số - KHHGĐ, thiết lập bộ máy
11
chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục tiêu, đảm bảo cho các
nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu qủa đến tận người dân.
Thực tế đã chứng minh tầm nhìn xa sâu rộng của Đảng và nhà nước qua
việc nhận định và sự chỉ đạo thực hiện công tác DS-KHHGĐ từng thời kỳ là hết
sức chính xác, đúng đắn, công tác dân số-KHHGĐ có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội, phát triển đất nước Để đạt được mục tiêu
trong thời gian tương đối ngắn, điều đó cần sự tham gia của Đảng, chính quyền
các cấp lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác Dân Số-KHHGĐ theo
chương trình.
1.4. Khái quát về công tác dân số - KHHGĐ ở Việt Nam trong thời gian qua
Theo thời gian, dựa vào đặc điểm tình hình phát triển, có thể chia quá
trình thực hiện công tác DS-KHHGĐ thành 4 thời kỳ
1.4.1. Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1975
Thời kỳ 1961-1975 đánh dấu sự khởi đầu nhận thức về tác động của sự
gia tăng dân số tới sự phát triển KT-XH của đất nước. Ngay từ những năm đầu
thập kỷ 60 thế kỷ trước, mặc dù trong lúc đất nước còn bị chia cắt làm hai miền,
vừa phải song song tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược trọng đại xây dựng
CNXH ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam nhưng công
tác DS-KHHGĐ đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với việc
ban hành Quyết định 226-CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc
sinh đẻ có hướng dẫn.Với Quyết định này,Việt Nam trở thành một trong những
quốc gia đầu tiên ở châu Á tiến hành công tác DS-KHHGĐ, thể hiện tầm nhìn xa
trông rộng của Đảng và Nhà nước ta, của Bác Hồ vĩ đại. Mặc dù được triển khai
trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và cực kỳ khó khăn,cuộc vận động Sinh
đẻ có kế hoạch cũng đã đạt được những thành công nhất định, người dân cũng đã
bắt đầu có ý thức về vấn đề dân số và chấp nhận sinh đẻ có kế hoạch. Tỷ lệ tăng
dân số đã giảm từ 3,8% (năm 1960) xuống còn 2,4% (năm 1975); tổng tỷ suất
sinh (số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) giảm từ 6,3
con/phụ nữ (năm 1960) xuống còn 5,25 con/phụ nữ (năm 1975)
1.4.2. Thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1990
Thời kỳ 1976-1990, sau khi đất nước thống nhất, cuộc vận động sinh đẻ
có kế hoạch tiếp tục được triển khai và đẩy mạnh trên phạm vi cả nước. Nhận
thức rõ tầm quan trọng cùng với sự khó khăn, phức tạp của công tác này, nhiều
12
lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước như Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn
Đồng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt đã từng
giữ cương vị Trưởng ban Chỉ đạo hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch, Chủ tịch Ủy
ban Quốc dân Số Sinh đẻ có kế hoạch, Ủy ban Quốc gia DS-KHHGĐ, thường
xuyên trực tiếp chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ. Các kỳ Đại hội Đảng lần thứ IV,
V và VI luôn xác định công tác DS-KHHGĐ là những chỉ tiêu quan trọng trong
phát triển đất nước, hàng loạt văn bản về chính sách dân số đã được ban hành. Tỷ
lệ tăng dân số giảm từ 2,4% (năm 1975) xuống còn 1,9% (năm 1990).
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1991-2000
Thời kỳ 1991-2000 đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ, toàn diện đối với công
tác DS-KHHGĐ ở nước ta. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa VII) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề “về chính sách DS-KHHGĐ” mở ra
một trang sử mới đối với công tác DS-KHHGĐ ở nước ta. Nghị quyết đã đề ra
mục tiêu mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong
toàn xã hội mỗi gia đình (một cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân
số từ giữa thế kỷ 21; tập trung mọi nỗ lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay trong
thập kỷ 90; phương châm thực hiện là không để một tổ chức cá nhân nào đứng
ngoài cuộc vận động này. Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, Quốc
hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về DS-
KHHGĐ. Từ đây,công tác DS-KHHGĐ nước ta đã có sự thay đổi cơ bản, toàn
diện, cả về nội dung, cách làm, huy động toàn hệ thống chính trị tham gia vào công
tác DS-KHHGĐ; xây dựng và từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy
chuyên trách làm công tác DS-KHHGĐ từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường đầu
tư ngân sách nhà nước thông qua chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ.
Năm 1991 trở thành năm có tổ chức bộ máy chuyên trách đầu tiên trong
lịch sử công tác DS-KHHGĐ. Lần đầu tiên sau hơn 30 năm hoạt động, Ủy ban
DS-KHHGĐ đã trở thành một cơ quan chuyên trách trực thuộc Chính phủ; hệ
thống Ủy ban DS-KHHGĐ cấp tỉnh và huyện với tư cách là một cơ quan chuyên
trách được thành lập; cấp xã có ban DS-KHHGĐ và cán bộ chuyên trách; mạng
lưới cộng tác viên DS-KHHGĐ tại thôn, bản được hình thành và phát triển. Với
phương thức hoạt động “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để tuyên
truyền vận động,vận động và cung cấp các phương tiện tránh thai
13
Những kết quả của công tác DS-KHHGĐ giai đoạn này vượt các mục tiêu
đề ra. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 1,86%(năm 1991) xuống còn 1,36% (năm 2000).
Tổng suất sinh giảm nhanh từ 3.74 con (1992) xuống 2,28 con (2000). Quy mô
dân số tăng từ 67,24 triệu người năm 1991 lên 77,64 triệu người năm 2000, thấp
hơn 4,36 triệu người so với mục tiêu đề ra là khoảng 82 triệu người năm 2000.
Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh đã cơ bản được kiềm chế.
1.4.4. Thời kỳ từ năm 2001- đến nay
Thời kỳ này tổ chức bộ máy có nhiều thay đổi: năm 2002 sáp nhập Ủy ban
DS-KHHGĐ với Ủy ban BVCSTE thành Ủy ban Dân số, gia đình và Trẻ em.
Năm 2007 giải thể Ủy ban Dân số, gia đình và Trẻ em đưa lĩnh vực dân số về
ngành Y tế. Bộ Chính trị, ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt các văn bản lãnh
đạo công tác DS-KHHGĐ.
Thập niên đầu của thế kỷ 21 đã đánh dấu sự trưởng thành của ngành DS-
KHHGĐ. Hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, chỉ tiêu về dân số mà Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X và Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001-
2010 đã đề ra. Tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 1.35% (2001) còn 1.05% (2010),
vượt mục tiêu đề ra là 1.1% vào năm 2010; Tỷ lệ sử dụng BPTT hiện đại đã tăng
từ 61.1% năm 2001 lên 67.5% năm 2010; Tổng tỷ suất sinh từ 2.28 con giảm
xuống 2.09 con năm 2006 (đạt mức sinh thay thế) và xuống còn 2.0 con vào năm
2010. Quy mô dân số đạt mức 86.92 triệu người vào năm 2010, thấp hơn so với
mục tiêu Chiến lược đề ra là dưới 89 triệu người.
Thành công của công tác DS-KHHGĐ đã góp phần đạt và về đích trước
thời hạn các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về nâng cao sức khỏe bà mẹ và
giảm tử vong ở trẻ em. (25)
1.5. Nội dung công tác DS - KHHGĐ
1.5.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác DS - KHHGĐ
Trong các hoạt động của công tác Dân số-KHHGĐ thì hoạt động nhằm
thay đổi quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố và chất lượng dân số là những
hoạt động quan trọng nhất. Các hoạt động này gắn liền với quá trình dân số như
mức sinh, mức chết, di cư... Chính vì vậy mà các nhân tố ảnh hưởng tới mức
sinh, chết, di cư đều ảnh hưởng sâu sắc tới công tác Dân số-KHHGĐ. Để công
tác Dân số-KHHGĐ đạt hiệu qủa mong muốn, ta cần hiểu đúng và đầy đủ các
14
nhân tố ảnh hưởng để có biện pháp tác động phù hợp.
1.5.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đây là yếu tố tiền đề ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống dân sinh, được
biểu thị qua các chỉ số quan trọng trong công tác dân số. Bên cạnh những tác
động đến thể chất và tuổi thọ của con người, điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng
đến quy mô dân số và sự sinh sản của từng khu vực.
Sức khỏe của dân cư nói chung phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên.
Môi trường trong lành sẽ giúp người dân khỏe mạnh hơn, từ đó nâng cao chất
lượng đời sống sinh hoạt và tuổi thọ; ngược lại môi trường ô nhiễm khiến gia tăng
các chất độc hại, nguồn bệnh cùng các sinh vật và vi khuẩn tác động xấu đến dân
cư. Ngày nay, sự phát triển của kinh tế xã hội làm thay đổi nhiều về hình thái của
các yếu tố tự nhiên. Sự đô thị hóa, CNH-HĐH mang đến nhiều thuận lợi nhưng
cũng có nhiều tác động ngược tiêu cực lên điều kiện tự nhiên khi ý thức bảo vệ
môi trường của nhiều cá nhân cùng các tổ chức doanh nghiệp còn thấp. Mức độ ô
nhiễm không khí, nguồn nước cao và thực phẩm không vệ sinh khiến cho người
dân không khỏe mạnh, nhiều bệnh tật, tuổi thọ không cao, mức tử gia tăng.
Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý còn ảnh hưởng đến kết cấu và động lực
tăng dân số, những nơi có khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú,
môi trường sống thuận lợi sẽ tạo lực hút với người di dân, ngược lại điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, đất đai bạc màu, khó kiếm việc làm là nguyên nhân tạo lực
đẩy đối với người di dân…
Các yếu tố như chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, tai nạn cũng là mối đe dọa
khủng khiếp tới sự tồn tại và phát triển của con người cũng như thế giới động vật.
Chiến tranh là nguyên nhân gây chết người hàng loạt trong một thời gian ngắn,
nhất là chiến tranh sử dụng vũ khí hiện đại.
Trước đây khi khoa học, y học chưa phát triển, các dịch bệnh gây chết
người hàng loạt như cúm, bạch hầu, đậu mùa, tiêu chảy...đã ảnh hưởng đến sự tăng
dân số. Mặc dù hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển, đạt được nhiều thành tựu
trong lĩnh vực y tế, có thể làm giảm và hạn chế mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh
đến tình hình tử vong. Tuy vậy, bệnh tật vẫn là nguyên nhân thường xuyên và
đáng lo ngại đối với cuộc sống của xã hội loài người. Tại Việt Nam, trong năm
2013 có 67,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết có 40 trường hợp tử vong;
810 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút: có 17 trường hợp tử vong; 39 trường
15
hợp mắc viêm não mô cầu : 3 trường hợp tử vong; 20 trường hợp tử vong do mắc
bệnh tay chân miệng. Số người tử vong do AIDS tính đến thời điểm 15/11/2013 là
68,5 nghìn người...
Thiên tai, tai nạn giao thông ảnh hường lớn đến dân số, hàng năm, Thế giới và
Việt Nam có hàng triệu người chết vì bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần... Đặc biệt
trong xã hội đương đại, tai nạn giao thông là mối quan ngại của nhiều quốc gia. Tai nạn
giao thông rất đa dạng, tai nạn đường sắt, đường bộ, hàng không...làm cho hàng trăm
ngàn người chết và bị thương mỗi năm, gây tổn thất lớn cho gia đình và xã hội. Tính từ
16/11/2012 đến 15/11/2013 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 31,3 nghìn vụ tai nạn giao
thông, làm chết 9,9 nghìn người và làm bị thương 32,2 nghìn người. Như vậy, điều kiện
tự nhiên và vị trí địa lý có tác động trực tiếp và gián tiếp đến mức sinh, mức chết và quá
trình di dân, là nhân tố tác động không nhỏ đến công tác DS-KHHGĐ.
1.5.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Kinh tế là yếu tố đa dạng và tác động đến công tác DS-KHHGĐ theo
nhiều khía cạnh. Theo quan điểm của đa số các nhà nhân khẩu học và bằng thực
tế, người ta xác minh rằng đời sống thấp thì mức sinh cao và ngược lại. Mức sinh
đẻ trong thời đại phong kiến cao hơn chế độ tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước
kém phát triển tỉ lệ sinh cao hơn so với các nước kinh tế phát triển. Hoặc trong
cùng một nước, một thời kì nhóm xã hội có trình độ phát triển, có mức sống khác
nhau thì mức sinh cũng khác nhau. Bảng 1.1: Mức sinh của các vùng trên thế giới năm 2008
Nguồn: World Population Data Sheet 2008
Toàn thế giới + Trong đó: - Các nước phát triển - Các nước đang phát triển + Theo các châu lục - Châu Phi - Bắc Mĩ - Mĩ Latinh và vùng biển Caribe - Châu Á - Châu Ầu - Châu Đại Dương Dân số (triệu người) 6.705 1.227 5.479 967 338 577 4.052 736 35 CBR (‰) 21 12 23 37 14 21 19 11 18 TFR (con) 2,6 1,6 2,8 4,9 2,1 2,5 2,4 1,5 2,4
16
Số liệu bảng 1.1 cho thấy, nhìn chung, tỉ suất sinh thô và tổng tỉ suất sinh
có quan hệ chặt chẽ với trình độ phát triển của các nước. Đối với các nước phát
triển, tỉ suất sinh thô và tổng tỉ suất sinh thấp hơn nhiều so với các nước đang
phát triển. Ở các châu lục khác nhau, do trình độ phát triển khác nhau nên các chỉ
số này cũng khác nhau.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội được phản ánh qua mức sống của dân
cư. Mức sống, thu nhập bình quân đầu người càng cao thì người dân càng có
điều kiện chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, khám chữa bệnh do đó hạn chế mức chết.
Chính vì vậy, các nước có trình độ phát triển khác nhau có mức chết khác biệt
nhau, đặc biệt là mức chết của trẻ em.
Bảng 1.2: Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và tuổi thọ trung bình trên thế
giới giai đoạn 1995 - 2008 (IMR: %o; Eo: năm)
Nhóm nước
1995 IMR Eo 65 62 75 10 63 67 1999 IMR Eo 66 57 75 8 64 62 2005 IMR Eo 67 54 76 6 65 59 2008 IMR Eo 68 49 77 6 67 54
Toàn thê giới Các nước phát triên Các nước đang phát triên Nguồn: World population data sheet 2008
Bảng 1.2 cho thấy: Các nước kinh tế phát triển thì mức chết trẻ em dưới 1
tuổi thấp hơn rất nhiều so với các nước kinh tế đang phát triển và chậm phát
triển. Sở dĩ các nước đang phát triển và chậm phát triển có mức chết trẻ em cao
bởi vì ở các nước này mức sống còn thấp, trẻ em không được chăm sóc tốt, tình
trạng suy dinh dưỡng cao, bệnh tật không được cứu chữa kịp thời.
Văn hóa - xã hội, cũng ảnh hưởng đến mức sinh, Mỗi nước, mỗi dân tộc, mỗi
thời kì, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có các phong tục tập quán và tâm lí xã
hội khác nhau. Những phong tục, tập quán và tâm lí xã hội này xuất hiện và tồn
tại trên những cơ sở thực tế khách quan. Khi những cơ sở này thay đổi thì phong
tục tập quán và tâm lí xã hội cũng thay đổi. Tuy nhiên, nhiều khi điều kiện vật
chất, tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý thức và tư tưởng trong đó có tập quán,
tâm lí xã hội chưa thay đổi ngay. Phong tục tập quán và tâm lí xã hội có tác động
rất lớn đến mức sinh: nhiều phong tục tập quán và tâm lí xã hội cũ, lạc hậu biểu
kết hôn sớm, muốn có nhiều con, thích con trai, muốn “có nếp có tẻ”, quan niệm
“trời sinh voi, trời sinh cỏ”... chính vì vậy làm tăng mức sinh.
Trình độ học vấn ảnh hưởng đến mức sinh thông thường theo hướng tỉ lệ
17
nghịch. Những người có học vấn cao, nhất là phụ nữ thường sinh ít con hơn so
với nhừng người có trình độ học vấn thấp. Bởi vì khi đã đạt đến một trình độ học
vấn nhất định, người phụ nữ thường kết hôn muộn, đẻ muộn, đẻ ít. Họ hiểu biết
hơn, có điều kiện tiếp cận các biện pháp tránh thai phù hợp, dành thời gian cho
học tập, giao lưu văn hóa, tìm việc làm có thu nhập khá.
Bảng 1.3: Biến động mức sinh (CBR‰) giữa các nước, các thời kì
1960- 1975- 1985- 1999 2002 2008 Thời kỳ
21 1965 33,7 1980 33,1 1990 27 23 21,4
Toàn thê giới Trong đó:
11 - Các nước phát triên 20,4 17,4 15 11,1 12
31 26 23,9 23 - Các nước đang phát triển 39,9 36,4
Nguồn: World population data sheet 2008
Qua số liệu bảng 1.3 ta thấy rằng trong hơn nửa thế kỉ qua, mức sinh giảm một
cách liên tục cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và trong cùng một thời kì
mức sinh của các nước phát triển thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển.
Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cao, người dân có cơ hội và điều kiện
nâng cao trình độ học vấn. Đây là cơ sở thuận lợi để họ nâng cao nhận thức, phá
bỏ những rào cản là phong tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình, chấp
nhận và thực hiện các biện pháp tránh thai làm cho mức sinh thấp, mặt khác việc
có trình độ, biết sử dụng các thành tựu y học thực hiện các biện pháp ngăn ngừa
và phòng chống bệnh tật làm giảm mức chết. Học vấn của người mẹ và khả năng
sống sót của trẻ em có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trình độ học vấn cao tạo
điều kiện để người mẹ nâng cao nhận thức về phương pháp phòng chống bệnh
tật, nhận biết và điều trị có hiệu quả bệnh tình của trẻ em góp phần làm cho mức
chết của trẻ em giảm xuống.
Trình độ phát triển khoa học kĩ thuật, đặc biệt những thành tựu về y học
càng tạo điều kiện cho loài người chủ động điều tiết mức sinh. Y học phát triển
đã sáng chế ra các phương tiện tránh thai hiện đại, đáp ứng kịp thời dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình. Bằng các biện pháp kĩ thuật chuyên môn (triệt sản, đặt vòng,
18
tiêm, uống thuốc...) giúp các cặp vợ chồng sinh đẻ có kế hoạch (sinh muộn, sinh
ít, giãn khoảng cách sinh, thôi sinh đẻ...) thực hiện việc sinh đẻ theo mong muốn.
Việc đẩy nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực y tế giúp khống
chế và đẩy lùi nhiều căn bệnh hiểm nghèo, nhiều dịch bệnh nguy hiểm với tính
chất và quy mô rộng lớn, gây chết người hàng loạt. Điều đó giúp làm giảm mức
tử vong ở các quốc gia trên thế giới.
Bảng 1.4: Cơ cấu tuổi và mức chết của thế giới năm 2008
Nhóm nước Toàn thế giới + Trong đó: - Các nước phát triển - Các nước đang phát triển + Theo các châu lục - Châu Phi - Bắc Mĩ - Mĩ Latinh và vùng biển Caribe - Châu Á - Châu Âu
Tỉ lệ dân sô (%) CDR IMR (‰) < 15 tuôi > 65 tuôi (‰) 49 6 54 82 7 23 45 6
28 17 30 41 20 30 27 16
7 16 6 3 13 6 7 16
8 10 8 14 8 6 7 11
Eo (năm) 68 77 67 54 78 73 69 75
- Châu Đại Dương
25
10
7
25
76
Nguồn: World population data sheet 2008
Bảng 1.4 cho thấy: đối với nhóm nước đang phát triển có cơ cấu dân số
trẻ, tỉ suất chết thô không cao nhưng do tỉ suất chết của trẻ em cao nên tuổi thọ
trung bình còn thấp. Ngược lại, nhóm nước phát triển có cơ cấu dân số già, tỉ
suất chết thô cao nhưng tỉ suất chết của trẻ em rất thấp dẫn đến tuổi thọ trung
bình được nâng cao.
Do điều kiện lịch sử, tự nhiên và xã hội giữa các nước và giữa các vùng
trong một nước được hình thành và phát triển không đồng đều, do sự phân bố
các nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản, khí hậu thời tiết đã dẫn đến sự chênh
lệch lớn về dân cư và nguồn lao động giữa các vùng. Sự phân bố không đồng
đều này cùng với sự chênh lệch về mức sống, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục xã
hội là những nguyên nhân ảnh hưởng tới mức sinh, mức chết và làm xuất hiện
19
các dòng di dân giữa các nước và các vùng, là nhân tố tác động không ít tới công
tác dân số - KHHGĐ.
1.5.1.3. Chính sách dân số
Trong các nhóm nhân tố ảnh hưởng tới công tác DS-KHHGĐ thì nhóm
chính sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó tác động trực tiếp đến tất cả các
nhân tố của các nhóm trên nhằm quản lý dân số, điều tiết mức sinh, giảm nhanh
mức chết, ổn định dân cư và nâng cao chất lượng dân số.
+ Chính sách tác động tới mức sinh: chính sách này được chia thành hai
loại: khuyến khích và hạn chế sinh.
Chính sách khuyến khích sinh: Trong thời xa xưa, khi mức chết còn quá
cao, hầu hết các nước đều khuyến khích sinh. Coi dân số đông là sức mạnh của
quốc gia, kích thích sản xuất phát triển, tăng của cải vật chất cho xã hội. Hiện
nay, những nước phát triển dân số tăng chậm, khả năng phát triển sản xuất lớn
nên thường khuyến khích sinh.
Việt Nam là nước có nhiều tộc người, trong đó có những tộc người chỉ có
vài trăm người, do vậy nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích những tộc người
này tăng mức sinh để duy trì và bảo tồn nòi giống.
Chính sách hạn chế sinh: đa số các nước đang phát triển hiện nay do dân
số tăng quá nhanh, khả năng phát triển sản xuất có hạn, đời sống nhân dân còn
thấp đều tìm cách để hạn chế hoặc duy trì mức sinh thấp, hợp lý ở từng vùng,
miền trong đó có Việt Nam.
+ Chính sách tác động tới giảm tỷ lệ tử vong: Đây là mục tiêu phấn đấu
của mọi quốc gia. Trong chương trình hành động toàn thế giới về lĩnh vực dân số
đã coi nâng cao tuổi thọ bình quân của người dân trên cơ sở giảm tỷ lệ tử vong,
đặc biệt là tỷ lệ tử vong ở trẻ em là mục tiêu hàng đầu. Nó không chỉ có ý nghĩa
kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội và nhân văn. Để giảm tỷ lệ tử vong các
nước quan tâm phát triển thành tựu y học, mở rộng mạng lưới dịch vụ y tế,
phòng trừ dịch bệnh, cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân, cải thiện điều
kiện làm việc.
+ Các chính sách tác động tới di dân: Tuỳ từng thời kỳ, từng quốc gia
khác nhau, nhà nước có những chính sách cụ thể để điều tiết dòng di dân.
20
Khuyến khích người dân di chuyển đến những nơi có khả năng mở rộng và phát
triển sản xuất, nhưng thiếu sức lao động, mật độ dân số thấp. Hạn chế di chuyển
đến những nơi mật độ dân số quá cao, vượt quá nhu cầu khả năng sản xuất và đời
sống. Các biện pháp của chính sách di dân có thể là những biện pháp trực tiếp
thông qua những đạo luật và các quy chế về nơi ở, các thủ tục di chuyển... Các
biện pháp gián tiếp như khuyến khích vật chất thông qua các loại thuế khác nhau
ở các vùng lãnh thổ khác nhau.
+ Các chính sách liên quan đến chất lượng dân số, như chính sách phát
triển y tế, giáo dục, nhà ở, nhà ở và phúc lợi công cộng...Chính sách về cơ cấu
dân số như chính sách kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh...
Có thể khẳng định rằng chính sách có tác động rất lớn đến công tác DS-
KHHGĐ, những chính sách phù hợp đúng đắn có thể biến đổi cơ bản công tác dân
số - KHHGĐ về nội dung, cách làm, kinh phí, tổ chức bộ máy và ngược lại…
1.5.2. Nội dung công tác Dân số - KHHGĐ
Căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các hướng dẫn của
ngành dọc cấp trên, công tác Dân Số-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai được triển khai với
các nội dung như sau:
1.5.2.1. Công tác quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính
- Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; tài chính, tài sản được giao; quản
lý các tổ chức sự nghiệp thuộc Chi cục; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ
chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật theo quy định của pháp luật và phân cấp
quản lý của Sở Y tế.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ cho
cán bộ, công chức, viên chức DS-KHHGĐ tỉnh, huyện, xã và cộng tác viên DS-
KHHGĐ thôn bản.
- Tổ chức thực hiện các nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
- Xây dựng hệ thông tin quản lý; tổ chức thực hiện công tác thống kê,
thông tin và báo cáo về DS-KHHGĐ theo quy định hiện hành.
1.5.2.2. Công tác tham mưu, phối hợp
+ Phối hợp với các cơ quan, ban, ngành xây dựng và trình Tỉnh uỷ, HĐND,
21
UBND tỉnh ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định nhằm chỉ đạo thống nhất và
triển khai đồng bộ các nội dung công tác Dân số - KHHGĐ trên địa bàn; Đồng thời
huy động được đông đảo lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động Dân số -
KHHGĐ.
+ Trình cấp có thẩm quyền ban hành các quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế
hoạch phát triển dài hạn, năm năm và hàng năm, chương trình, đề án về DS-KHHGĐ
của tỉnh; biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, cải cách hành chính,
phân cấp quản lý, xã hội hoá công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh.
+ Tham mưu giúp Giám đốc Sở Y tế trình cấp có thẩm quyền ban hành các
quyết định, chỉ thị cá biệt và chương trình, giải pháp, biện pháp huy động, phối hợp
liên ngành trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các chính sách
DS-KHHGĐ, đào tạo nguồn nhân lực làm công tác DS-KHHGĐ của địa phương.
+ Giúp Giám đốc Sở Y tế hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đánh giá và chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu, chương trình hành động, dự án
về DS-KHHGĐ sau khi được phê duyệt.
+ Xây dựng các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ
trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
1.5.2.3. Công tác quản lý về quy mô, cơ cấu dân số
+ Theo dõi, quản lý biến động tăng, giảm dân số, đề xuất các giải pháp điều
chỉnh mức sinh và tỷ lệ phát triển dân số trên địa bàn tỉnh;
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật đối với các hoạt
động dịch vụ tư vấn kế hoạch hoá gia đình và quản lý các phương tiện tránh thai; quản
lý các dịch vụ KHHGĐ trên địa bàn tỉnh; Hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai thực
hiện các đề án, mô hình liên quan đến quy mô DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh; Theo
dõi, tổng hợp về cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi trên địa bàn tỉnh; Hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật để cân bằng giới tính theo quy luật
sinh sản tự nhiên trên địa bàn tỉnh; Hướng dẫn và kiểm tra việc triển khai thực hiện đề
án, mô hình liên quan đến điều chỉnh cơ cấu dân số trên địa bàn tỉnh.
1.5.2.4. Công tác quản lý, thực hiện nâng cao chất lượng dân số
22
+ Theo dõi, tổng hợp về chất lượng dân số trên địa bàn tỉnh;
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật để bảo đảm
chất lượng dân số đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực, triển khai thực hiện các mô hình
cao chất lượng dân số trên địa bàn tỉnh.
1.5.2.5. Công tác truyền thông, giáo dục
+ Chủ trì, phối hợp với Các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các hoạt động
truyền thông, vận động, giáo dục; cung cấp dịch vụ, tư vấn về các lĩnh vực DS-
KHHGĐ, sức khỏe tình dục, sức khoẻ sinh sản vị thành niên và thanh niên.
1.5.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
- Hướng dẫn, kiểm tra, tạo điều kiện và hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức
dịch vụ công và thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
- Kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong
lĩnh vực DS-KHHGĐ theo thẩm quyền.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Y tế giao.
1.6. Một số tiêu chí đánh chất lượng công tác DS - KHHGĐ
1.6.1. Tiêu chí
Công tác DS - KHHGĐ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, các tiêu thức đánh giá
thường là tiêu thức mang tính tổng hợp, do vậy việc thu thập thông tin, dữ liệu tính
toán gặp nhiều khó khăn. Để có căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, hàng
năm Bộ Y tế, Tổng cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình và Tỉnh ủy, HĐND, UBND
tỉnh Đồng Nai giao các chỉ tiêu cơ bản sau:
Bảng 1.5: Chỉ tiêu kế hoạch công tác DS-KHHGĐ (2010-2013)
Chỉ tiêu kế hoạch giao/năm
2010
2011
2012
2013
1.Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên (%)
1,12
1,108
1,1
1,1
2.Mức giảm tỷ lệ sinh (%0)
0,02
0,02
0,02
0,02
3.Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 (%)
7,0
6,8
6,6
6,4
4.Số người mới thực hiện các BPTT hiện đại.
158.900 153.900 163.280
165.000
5.Tỷ số giới tính khi sinh (số bé trai/100bé gái)
112/100 113/100 113,2/100
6.Tỷ lệ sàng lọc trước sinh (%)
2
2
40
7.Tỷ lệ sàng lọc sơ sinh (%)
8,6
10
30
8.Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em < 5 tuổi (%)
15,0
14,5
14,0
13,5
23,0
21,7
20,4
19,1
9.Giảm tỷ suất tử vong trẻ em < 5 tuổi (%0) Nguồn: Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh ĐN
23
1.6.2. Mức độ thực hiện so với mục tiêu chính sách
Trong các chỉ tiêu trên, có chỉ tiêu được tính theo giai đoạn như tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên vào năm 2010 đạt 1,12%, vào năm 2020 đạt
1,00%, tác giả phân theo từng năm để dễ tính mức độ đạt chỉ tiêu hàng
năm, có chỉ tiêu được Bộ Y tế, Tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình
giao nhiệm vụ hàng năm.
Nhìn chung, chỉ tiêu giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 và số người mới
thực hiện các BPTT hiện đại tỉnh đều đạt vượt so với chỉ tiêu kế hoạch
giao hàng năm, chỉ tiêu mức giảm tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
có năm đạt hoặc vượt, có năm không đạt, nhưng nếu tính theo gia i đoạn
thì tất cả các chỉ tiêu đều đạt so với kế hoạch giao. Chỉ tiêu về tốc độ
tăng tỷ số giới tính khi sinh, đạt trên địa bàn toàn tỉnh, nhưng qua theo
dõi nhiều huyện không đạt, đặc biệt chín tháng đầu năm 2014 chênh lệch
tỷ số giới tính khi sinh phát sinh rất cao, rất có thể chỉ tiêu này không đạt
vào cuối năm 2014, chỉ tiêu sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh mới
được giao từ năm 2012, chỉ tiêu này đạt vượt chỉ tiêu TW giao.
24
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Quá trình phân tích của chương 1 đã khái quát được những điểm sau:
-Thứ nhất là làm rõ được các khái niệm về dân số, kế hoạch hóa gia đình
và công tác dân số kế hoạch hóa gia đình.
-Thứ hai là khẳng định được vai trò quan trọng của công tác dân số - kế
hoạch hóa gia đình đối với sự phát triển của xã hội: Thực hiện tốt công tác Dân
số - KHHGĐ giảm được chi phí do hạn chế được mức sinh, tăng thu nhập cho
dân cư, tăng tích luỹ cho xã hội, là nguồn lực đáng kể để đóng góp vào quá trình
phát triển kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội như thực hiện công bằng xã
hội, tăng cường bình đẳng giới, giải quyết các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi
trường… đồng thời là cở sở quan trọng để nâng cao chất lượng dân số và nguồn
nhân lực có chất lượng cao phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước.
-Thứ ba là trình bày khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, của
một số quốc gia: thực hiện công tác dân số - KHHGĐ cho phù hợp với từng thời
kỳ để phát triển kinh tế xã hội nâng cao cuộc sống người dân. Xã hội nào làm
được việc điều chỉnh sự sinh sản ra con người như đã điều chỉnh kinh tế thì mới
có thể lãnh đạo chủ động xã hội; Quan điểm của Đảng, nhà nước Việt Nam: làm
tốt công tác Dân Số-KHHGĐ, thực hiện gia đình ít con giảm nhanh tỷ lệ phát
triển dân số, tiến tới ổn định quy mô, nâng cao chất lượng dân số là vấn đề hết
sức quan trọng đối với đất nước.
Thứ tư, trình bày khái quát công tác dân số - KHHGĐ từ năm 1961 đến
nay đó là quá trình lâu dài hơn 50 năm được chia làm bốn thời kỳ, dù bất kỳ thời
kỳ nào công tác DS – KHHGĐ đều hết sức quan trọng và chất lượng công tác
DS - KHHGĐ thời kỳ sau đều cao hơn thời kỳ trước.
Thứ năm, phân tích được những nội dung của công tác dân số - KHHGĐ,
các nhân tố ảnh hưởng tới công tác và đưa ra được những tiêu chí cơ bản để
đánh giá chất lượng công tác dân số - KHHGĐ.
Những lí luận trên là những tiền đề để bước vào phân tích thực trạng công
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN SỐ - KHHGĐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐỒNG NAI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác DS - KHHGĐ của tỉnh ĐN
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ có diện tích 5.907.236,3 km2,
chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của
vùng Đông Nam Bộ. Trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 2.764.570 km2, đất
lâm nghiệp là 1.815.033,9 km2. Đất chuyên dùng là 506.058,8 km2, đất ở
169.384,9 km2.
Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa - là
trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện:
Long Thành; Nhơn Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân
Lộc; Định Quán; Tân Phú.
Là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng
Nai tiếp giáp với các vùng sau: Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, Phía Đông Bắc
giáp tỉnh Lâm Đồng, Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh, Phía Tây Bắc giáp
tỉnh Bình Dương và Bình Phước, Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đồng Nai là tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến giao
thông huyết mạch chạy qua như: quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến
đường sắt Bắc - Nam; gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với
cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên.
Với vị trí địa lý đắc đạo, điều kiện tự nhiên thuận lợi Đồng Nai là nơi thu
hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và cũng là nơi có lượng dân nhập cư hàng năm
rất lớn vì vậy dân số thường xuyên biến động tác động rất nhiều đến công tác dân
số - kế hoạch hóa gia đình
26
2.1.2. Tình hình kinh tế, xã hội
-Đồng Nai là một trong những tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị
hóa nhanh. Tổng sản phẩm quốc nội GDP của tỉnh tăng bình quân trong 04 năm
(2010-2013) là 12,07%/năm. Trong đó ngành công nghiệp, xây dựng tăng
12,02%/năm, dịch vụ tăng 15,35%/năm, nông lâm nghiệp thủy sản tăng
3,50%/năm. Quy mô GDP theo giá thực tế năm 2013 dự kiến đạt 140.091,94 tỷ
đồng gấp 1,84 lần năm 2010. GDP bình quân đầu người năm 2013 là 50.598,97
triệu đồng (2.400,33USD). Đây cũng là điều kiện cho việc nâng cao chất lượng
dân số của tỉnh Đồng Nai.
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trong tỉnh Đồng Nai theo giá hiện hành phân theo
khu vực kinh tế Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm Tổng Nông, lâm, ngư nghiệp Công nghiệp, xây dựng Dịch vụ, thuế
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2013
2010 2011 2012 2013 6,537.08 7,409.34 7,984.15 8,825.79 43,488.31 56,589.76 66,926.03 79,712.31 25,999.28 34,760.13 42,503.91 51,553.83 76,024.67 98,759.23 117,414.09 140,091.93
Theo bảng 2.1: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ
trọng các ngành công nghiệp - xây dựng năm 2013 là 56,9%; dịch vụ từ 28%
năm 2005 lên 34,48,8% năm 2013 và giảm ngành nông - lâm - thủy sản từ 14,9%
xuống còn 6,3%.
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm trong tỉnh Đồng Nai theo giá so sánh 2010
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm Tổng Nông, lâm, ngư nghiệp Công nghiệp, xây dựng Dịch vụ, thuế
2010 6,537.08 43,488.31 25,999.28 76,024.67
2011 2012 6,783.91 6,979.43 48,865.26 54,536.16 29,958.71 33,986.24 85,607.88 95,501.83
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2013
2013 7,196.60 60,501.20 38,376.58 106,074.38
Theo bảng 2.2: Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ
27
trọng lao động khu vực nông nghiệp tăng lao động phi nông nghiệp.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 13,5%/năm, năm 2013 đạt
10.924 triệu USD.
Bảng 2.3: Thu ngân sách và vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ số phát triển vốn đầu tư (%)
105,86 92,77 90,20 109,86
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2013.
Năm 2010 2011 2012 2013 Cộng Thu ngân sách NN (trđ) 24,854,274 29,487,573 33,766,670 35,692,228 123,800,745 Vốn đầu tư theo giá hiện hành (trđ) 33,321,000 34,450,409 35,663,410 39,179,740 142,614,559 Vốn đầu tư theo giá so sánh 2010 (trđ) 33,321,000 29,982,950 27,043,754 29,710,206 120,057,910
Bảng 2.3 cho thấy: Trong 4 năm 2010 - 2013 huy động tổng vốn đầu tư
phát triển xã hội đạt 142.614,559 tỷ đồng. Tuy nhiên chỉ số phát triển vốn đầu tư
không tăng hoặc tăng không đáng kể. Tốc độ thu ngân sách (2010-2013) bình
quân 12,95%/năm, tổng thu ngân sách bình quân chiếm tỷ lệ khoảng 28% GDP
hàng năm. Tỉnh có 33 khu công nghiệp với diện tích trên 9.574 ha. Tỷ lệ thất
nghiệp thành thị năm 2013 giảm xuống còn 0,97%. Tổng số lao động đang làm
việc trong các ngành KT-XH của tỉnh Đồng Nai năm 2013 là 1.657.990 người.
Đồng Nai có quy mô dân số lớn đứng thứ 5 trong cả nước và xu hướng
tăng nhanh trong những năm qua. Dân số của tỉnh từ 2.263.787 người năm 2005
tăng lên 2.499.656 người năm 2009 và năm 2013 là 2.768.670 người. bao gồm
884.890 người ở thành phố Biên Hòa và 138.210 người ở thị xã Long Khánh;
1.745.570 người ở các huyện (chiếm 63,04%). Mật độ dân số tỉnh Đồng Nai là 468,69 người/km2, tăng 11,36% so với năm 2001 (420,86 người/km2).
Mặc dù tốc độ gia tăng tự nhiên đã giảm nhưng do tỉnh có nền kinh tế
phát triển nhanh nên có sức hút đối với lao động từ các địa phương khác đến do
đó số lượng dân nhập cư tăng nhanh tập trung tại khu vực thành phố Biên Hòa
và huyện Nhơn Trạch, Trảng Bom, Long Thành khá đông, xung quanh các
KCN, KCX, vì vậy gia tăng cơ học đóng vai trò quan trọng đối với việc phát
triển dân số của tỉnh. Điều đó không chỉ tác động đến quy mô dân số mà còn ảnh
28
hưởng đến cả cơ cấu dân số, chất lượng dân số và tạo ra hàng loạt vấn đề kinh tế
- xã hội cần phải giải quyết.
Công tác y tế chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân được quan tâm
ngày càng tốt hơn, đặc biệt là đối với đối tượng chính sách và người nghèo. Hệ
thống y tế có bước phát triển cả về bộ máy và cơ sở vật chất. Đội ngũ y tế phát
triển khá về số lượng và chất lượng.
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe (1)
Năm 2010 2011 2012 2013 Số giường bệnh/vạn dân 19,0 20,0 21,0 23,5 Số bác sĩ /vạn dân 5,0 5,5 6,0 6,5 Tỷ lệ TYT xã có nữ hộ sinh (%) 100,0 100,0 100,0 100,0 Số ca mắc bệnh dịch 31.824 31.824 42.413 15.787
Tỷ lệ TYT xã có bác sỹ (%) 85,0 90,0 95,0 96,0 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2013
Theo bảng 2.4: Năm 2013, toàn tỉnh có 198 cơ sở y tế. 100% xã, phường
có trạm y tế, có bác sĩ , có nữ hộ sinh; 100 xã phường, trong đó tỷ lệ xã, phường
có bác sĩ ổn định là 96% ; 100% ấp, khu phố có nhân viên y tế được đào tạo và
hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Toàn tỉnh có 19 bệnh viện đa khoa, chuyên
khoa và 13 phòng khám đa khoa khu vực với 6.970 giường bệnh, đạt 23,5 giường
bệnh/vạn dân. Toàn tỉnh có 6.189 cán bộ y tế trong đó 5.492 cán bộ ngành y và
697 cán bộ ngành dược, đạt 22,5 cán bộ y tế/vạn dân. Trong đó số bác sỹ là
1.260 người, đạt 6.5 bác sỹ/vạn dân. - Thu gom xử lý chất thải y tế đạt 100%; thu
gom chất thải nguy hại đạt 60%; thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt đạt 80%.
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe (2)
Tỷ lệ trẻ sơ sinh có trọng lượng dưới 2500gram (%) 4,80 3,80 2,53 2,3 Số người chết vì bệnh dịch 6 6 15 5 Năm 2010 2011 2012 2013 Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng (%) 14,5 12,0 11,5 10,4 Số trẻ em dưới 15 tuổi mắc các bệnh có vắc xin tiêm chủng 197 259 69
Tỷ lệ trẻ em <1tuổi được tiêm chủng (%) 98,62 99,43 99,57 97,10 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2013
29
Theo bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về chăm sóc sức khỏe trẻ em đạt những kết
quả nhất định, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm dần, giảm trung bình là
1,37%/năm. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt cao. Tỷ lệ trẻ
sơ sinh có trọng lượng dưới 2500gram giảm dần.
Công tác khám và điều trị bệnh có nhiều tiến bộ, đã ứng dụng một số
phương pháp điều trị cao nâng chất lượng khám chữa bệnh; phòng chống và điều
trị có kết quả nhiều bệnh dịch, bệnh xã hội, bệnh nghề nghiệp, các bệnh phát sinh
trong quá trình công nghiệp hóa và khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AISD trong cộng
đồng dân cư ở mức dưới 0,3%. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đạt tỷ lệ
cao, Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống 10,4% đạt vượt chỉ tiêu
Nghị quyết đề ra.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo ngày càng được tỉnh quan tâm với hệ thống cơ
sở trường lớp, trang thiết bị dạy và học từng bước hiện đại hóa, chất lượng giáo
dục không ngừng nâng cao. Tỷ lệ học sinh đi học phổ thông phân theo cấp học
tương đối cao đạt 90,95% năm 2013 trong đó tiểu học 106,55%; trung học cơ sở
89,92%; trung học phổ thông 71,67%. Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo
dục bước đầu đạt một số kết quả nhất định. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho
giáo dục đào tạo được quan tâm đầu tư, cơ bản đã xóa được tình trạng lớp học 3
ca, phòng tạm nâng tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%. Kết quả xây dựng trường
đạt chuẩn quốc gia đến năm 2010 là mầm non 12%, tiểu học 12%, THCS 15%,
THPT 20%. Đến năm 2013, trên địa bàn tỉnh có 3 trường đại học, 9 trường cao
đẳng, 6 trường trung cấp chuyên nghiệp, 80 cơ sở dạy nghề với năng lực đào tạo
trên 58.000 học viên.
Văn hóa, thể thao được quan tâm phát triển. Tỉnh tập trung chỉ đạo và
triển khai tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch sôi nổi, phong phú
từ tỉnh đến huyện, xã, phường, thị trấn tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong
quần chúng nhân dân. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao được
nhân dân hưởng ứng tích cực. Đến năm 2013, toàn tỉnh có 509.149 hộ dân cư đạt
chuẩn văn hóa, 97,84% tỷ lệ hộ gia đình, khu phố đạt chuẩn văn hoá; một số hủ
tục trong việc cưới, việc tang, lễ hội từng bước được đẩy lùi.
30
Đặc biệt là chính sách xóa đói, giảm nghèo, trợ giúp cho các đối tượng
khó khăn...đã tác động đáng kể đến việc nâng cao chất lượng dân số. Nhiều hộ
gia đình đã thoát nghèo, vươn lên đủ ăn, khá giả. Đến năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo
giảm còn 2,95%. Tỷ lệ tảo hôn, kết hôn sớm ngày càng ít đi, số trẻ sinh ra là con
thứ ba trở lên ở các gia đình ngày càng giảm. Nhiều khóm, ấp, xã đã phấn đấu
không có gia đình sinh con thứ ba. Các phong trào nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, khu phố, khóm ấp văn hóa, gia đình
nông dân đạt 6 chuẩn mực xã hội…ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng.
Đồng Nai là nơi có hơn 40 dân tộc anh em cùng chung sống mỗi dân tộc
có tín ngưỡng riêng, khiến nơi đây tụ hội nhiều tôn giáo: với 24 tổ chức tôn giáo
được công nhận tư cách pháp nhân và 5 tổ chức tôn giáo được cấp giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động, có số lượng tín đồ đông nhất nước với hơn 1.339.426
tín đồ các tôn giáo, chiếm gần 60% số dân toàn tỉnh. Phần lớn đồng bào tín đồ
các tôn giáo đều phấn khởi trước những thành tựu trong công cuộc đổi mới và
những chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Đa số chức sắc, tu
sỹ, tín đồ các tôn giáo chấp hành đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng và
Nhà nước, sống “Tốt đời, đẹp đạo”, tích cực đóng góp vào sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, có lúc
có nơi, hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, hơn nữa với số
lượng tín đồ đông nhất nước, điều này cũng làm cho việc thực hiện công tác Dân
số - KHHGĐ tại tỉnh gặp không ít khó khăn trở ngại.
Tóm lại, những điều kiện về tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội nêu trên của
tỉnh Đồng Nai đã có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện công tác dân số -
KHHGĐ của tỉnh.
2.1.3. Chính sách về dân số
Chính sách dân số Việt Nam thời gian qua được mở rộng toàn diện về quy
mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số thể hiện trong các văn bản như Pháp
lệnh Dân số, Nghị định, Nghị quyết, Chiến lược Dân số, chương trình, dự án, các
tiêu chuẩn, định mức, biện pháp và các quy định liên quan nhằm điều chỉnh toàn
diện vấn đề dân số.
Thực hiện các văn bản trên Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đều ban hành các
31
văn bản, chỉ thị, nghị quyết thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ tại địa phương.
Các văn bản triển khai thực hiện Pháp lệnh dân số, Nghị định, Thông tư
hướng dẫn, thông tư quy định xử phạt trong lĩnh vực dân số…
Các kế hoạch thực hiện Chiến lược dân số trong từng giai đoạn.
Hàng năm Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đều ban hành nghị quyết, chỉ thị,
quyết định, văn bản để thực hiện các chỉ tiêu về kinh tế xã hội trong đó có các chỉ
tiêu về dân số-KHHGĐ.
Các văn bản trên đặc biệt quan trọng có vai trò định hướng mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp, hoạt động nhằm làm thay đổi xu hướng hiện tại của dân số
cho phù hợp và đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của
tỉnh. Các chính sách về kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, trẻ em...của tỉnh cũng tác
động không ít tới công tác DS-KHHGĐ, góp phần không nhỏ vào sự thành công
của chương trình.
2.2. Thực trạng công tác DS - KHHGĐ tỉnh ĐN
2.2.1. Công tác quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính
Năm 1991 thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, tỉnh đã
thành lập Uỷ ban DS-KHHGĐ trực thuộc UBND do đồng chí Phó Chủ tịch
thường trực UBND tỉnh kiêm Chủ nhiệm.
Tại tuyến huyện thành lập Ban DS-KHHGĐ trực thuộc UBND huyện do
đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện phụ trách, có cán bộ chuyên trách giúp
việc: một cán bộ thuộc Trung tâm Y tế tuyến huyện trực tiếp theo dõi các hoạt
động của chương trình và cũng trong thời gian này, theo chỉ đạo của Ban DS-
KHHGĐ và Sở Y tế, Trung tâm y tế huyện thành lập đội sinh đẻ có kế hoạch.
Nhiệm vụ của Đội sinh đẻ có kế hoạch là tổ chức đáp ứng đầy đủ, kịp thời các
dịch vụ KHHGĐ cho các đối tượng. Làm tốt công tác tư vấn giúp đối tượng lựa
chọn biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện về sức khoẻ, điều kiện về môi
trường sống và với số con hiện có, để điều tiết mức sinh theo kế hoạch.
Ở cấp xã, phường chuyên trách dân số là trách nhiệm của UBND xã do
một phó chủ tịch phụ trách và sử dụng bộ phận chuyên môn giúp việc.
Năm 1993 đến năm 2001 thực hiện nghị quyết Trung ương IV " Kiện toàn
Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Cơ
32
quan thường trực của Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình các cấp được bố
trí đủ cán bộ chuyên trách có năng lực, gắn chặt với các ngành, các cấp trong
việc quản lý và điều phối việc thực hiện chương trình DS-KHHGĐ. Hệ thống
làm công tác dân số -KHHGĐ được bố trí đến tận thôn, ấp, bản, làng, phố
phường để đưa công tác truyền thông DS-KHHGĐ và việc cung cấp các dịch vụ
kế hoạch hoá gia đình đến tận người dân”. Ủy ban Dân số và Kế hoạch hoá gia
đình tỉnh Đồng Nai đã được củng cố về tổ chức và tăng cường cán bộ. Tuyến tỉnh
có 15 cán bộ, tuyến huyện có 4 cán bộ. Hệ thống làm công tác Dân số xã theo mô
hình Ban DS-KHHGĐ tập hợp đại diện các ngành đoàn thể xã do Chủ tịch
UBND xã làm Trưởng ban có một cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ được hưởng
phụ cấp và đội ngũ Cộng tác viên tự nguyện nhưng được bồi dưỡng đảm bảo
nhiệm vụ tuyên truyền vận động các đối tượng trong diện KHHGĐ, cung cấp các
phương tiện tránh thai phi lâm sàng và theo dõi biến động dân số đã được hình
thành. Để hỗ trợ thêm cho mạng lưới này còn có lực lượng tuyên truyền viên tự
nguyện vô cùng đông đảo của các đoàn thể: Phụ nữ, Thanh niên, Nông dân, cựu
chiến binh và các thầy cô giáo. Bộ máy tổ chức này được thực hiện đến năm
2001. Việc củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ nhất
là việc phủ mạng lưới cán bộ chuyên trách và cộng tác viên DS-KHHGĐ ở 100%
xã, phường, thị trấn đã tạo tiền đề hết sức quan trọng đến việc mở rộng và phát
triển công tác DS-KHHGĐ, góp phần quyết định vào kết quả của công tác Dân
số - KHHGĐ. Với phương thức hoạt động “đi từng ngõ, gõ cửa từng nhà, rà từng
đối tượng” để tuyên truyền, vận động và cung cấp các PTTT, đội ngũ cán bộ DS-
KHHGĐ xã và cộng tác viên ở thôn, bản thực sự là lực lượng nòng cốt, quyết
định thành công của chương trình DS-KHHGĐ tại tỉnh Đồng Nai giai đoạn này.
Năm 2001, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Đồng Nai được thành
lập theo Quyết định 1752/2001/QĐ-UBT ngày 6/6/2001 của UBND tỉnh Đồng
Nai trên cơ sở hợp nhất Ủy ban Dân số - KHHGĐ và Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc
trẻ em, bổ sung thêm chức năng Gia đình.
Ngày 26/12/2005, UBND tỉnh Đồng Nai đã ban hành Quyết định
5744/2005/QĐ-UBND quy định về tổ chức và hoạt động của Ủy ban DSGĐTE tỉnh.
33
Tuyến huyện thành lập Ủy ban Dân số gia đình và trẻ em trực thuộc
UBND huyện, chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của UBDS,GĐ,TE tỉnh,
cán bộ chuyên trách DSGĐTE xã trực thuộc UBND xã và chịu sự chỉ đạo về
chuyên môn nghiệp vụ của UBDS,GĐ,TE huyện và mạng lưới cộng tác viên DS-
KHHGĐ ở 100% xã, phường, thị trấn. Mặc dù bước đầu có nhiều xáo trộn về tổ
chức bộ máy, nhưng từng bước được các cấp lãnh đạo quan tâm coi công tác DS-
KHHGĐ là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch phát triển KTXH địa phương,
hàng năm đều ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu
DS-KHHGĐ. Giai đoạn này (2001-2008) các chỉ tiêu thực hiện được TW giao
tỉnh đều đạt hiệu quả cao.
Sơ đồ 2.1: Tổ chức Ban DS,GĐTE xã, phường, thị trấn
Tháng 5 năm 2008 giải thể Ủy ban Dân số gia đình và trẻ em chuyển giao
chức năng nhiệm vụ tổ chức biên chế, cán bộ công chức viên chức làm công tác
DS-KHHGĐ về Sở Y tế. Thời gian này, cơ quan Trung ương có thẩm quyền ban
hành các văn bản hướng dẫn thực hiện mô hình tổ chức bộ máy mới còn chậm, lộ
trình và việc làm cụ thể chưa thật sự rõ ràng nên nhiều cán bộ từng làm công tác
dân số không an tâm chuyển công tác. Đội ngũ cán bộ Dân số - KHHGĐ cấp xã
và cộng tác viên trong tình trạng chờ đợi, một số xin nghỉ việc. Cuối năm 2008
đầu năm 2009 Ban DS-KHHGĐ cấp tỉnh huyện, xã được thành lập và kiện toàn
để lãnh đạo, đảm nhận chức năng điều phối hoạt động của ban, ngành, đoàn thể
34
tạo nên sức mạnh tổng hợp trong việc tổ chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ tại
tỉnh.
Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy làm công tác DS - KHHGĐ tỉnh ĐN
Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai được thành lập tại quyết định số
2054/QĐ-UBND ngày 27/6/2008 của UBND tỉnh và các Trung tâm DS-KHHGĐ
tuyến huyện cũng được thành lập cùng thời điểm trên.
Chi cục DS-KHHGĐ thực hiện chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Y
tế quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ bao gồm các lĩnh vực: quy mô dân số, cơ
cấu dân số và chất lượng dân số; chỉ đạo thực hiện các hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ về DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh. Chi cục chịu sự chỉ đạo, quản lý về
tổ chức biên chế và hoạt động của Sở Y tế. Chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh
tra về chuyên môn nghiệp vụ của Tổng cục DS-KHHGĐ thuộc Bộ Y tế.
35
Sơ đồ 2.3: Cơ cấu tổ chức của chi cục DS - KHHGĐ
Về tổ chức bộ máy: Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh có 20 biên chế và 4 hợp đồng
68, trong đó có 01 Chi cục trưởng, 02 Phó Chi cục trưởng và 03 phòng chuyên
môn nghiệp vụ: Phòng Tổ chức, hành chính, kế hoạch, tài vụ; Phòng Truyền
thông-Giáo dục và phòng DS-KHHGĐ.
Trung tâm DS-KHHGĐ là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục DS-
KHHGĐ có trụ sở đặt tại các huyện, thị xã Long Khánh, TP. Biên Hòa có chức
năng triển khai thực hiện các hoạt động chuyên môn kỹ thuật, truyền thông giáo
dục DS-KHHGĐ trên địa bàn các huyện, thị xã Long Khánh, TP. Biên Hòa.
Trung tâm chịu sự quản lý toàn diện của Chi cục DS-KHHGĐ, đồng thời chịu sự
chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật về dịch vụ KHHGĐ, truyền thông giáo dục của
các Trung tâm liên quan ở cấp tỉnh và chịu sự quản lý nhà nước theo địa bàn của
UBND cấp huyện. Trung tâm có biên chế từ 06 đến 10 cán bộ.
Ngày 21/4/2009 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1128/QĐ-UBND về
việc chuyển nhiệm vụ về DS-KHHGĐ từ UBND cấp xã về Trạm Y tế cấp xã và
bổ sung chỉ tiêu biên chế đối với Trạm Y tế cấp xã làm nhiệm vụ về DS-
36
KHHGĐ. Như vậy cấp xã có 171 viên chức của Trạm Y tế xã làm công tác DS-
KHHGĐ và 3.604 cộng tác viên DS-KHHGĐ.
Bảng 2.6: Tình hình cán bộ dân số - KHHGĐ tỉnh, huyện năm 2013
Tuổi
Trình độ đào tạo
Giới tính
B.chế/ H.đồng
Cấp hành chính
ế h c
g n ồ đ
c á h K
Số Nam
Số Nữ
m ă n 3 i ớ ư D
p ấ c ơ S
0 5 n ê r T
m ă n 0 1 n ê r T
0 3 i ớ ư D
Thâm niên c.tác m ă n 0 1 - 3 ừ T
0 5 - 0 3 ừ T
g n ẳ đ o a C
p ấ c g n u r T
p ợ h ộ b n á c ố S
n ê i b ộ b n á c ố S
n ê l ở r t c ọ h i ạ Đ
11
10
1
6
10
6
16
2
1
0
3
Cấp tỉnh
4
18
21
1
11
10
1
6
10
6
15
3
1
3
Chi cục DS
4
18
21
1
Cấp huyện
13
29 13
29 18
43
33
8
19
5
0
6
60
67
6
1
3
2
0
2
4
1
0
4
0
1
H.Trảng Bom
1
5
6
0
4
1
1
5
1
2
4
H.Thống Nhất
1
5
6
0
2
4
0
0
2
4
1
5
H. Tân Phú
6
6
0
2
3
2
0
1
0
1
1
4
0
1
H Định Quán
2
5
7
0
3
3
1
0
5
2
2
0
4
0
1
H. Cẩm Mỹ
2
5
7
0
4
1
1
1
5
H. Xuân Lộc
2
4
5
1
H.Vĩnh Cửu
4 2
2 3
1
1
3
2
1 2
1
4 3
1
1
6 5
6 6
0 0
H.Long Thành
4
2
2
1
5
3
3
1
5
5
1
H. Nhơn Trạch
3
3
1
2
4
1
3
0
3
0
1
Long Khánh
2
5
5
2
4
4
2
4
2
4
2
3
4
0
1
TP. Biên Hòa
1
9
8
2
7
3
3
4
7
Cấp xã:
6
6
165 165
101 80
50
90 13
143
9
8
0
2
15
0
1
0
14
2
0
H.Trảng Bom
2
15
15
2
6
3
1
2
7
1
10
H.Thống Nhất
10
10
0
9
6
3
3
3
10
17
1
H. Tân Phú
18
18
0
13
1
0
0
0
0
0
0
14
0
0
H Định Quán
14
14
0
7
6
0
2
9
2
0
0
12
0
0
H. Cẩm Mỹ
13
13
6
8
1
4
11
1
9
1
4
H. Xuân Lộc
1
14
11
4
11
20
1
11
1
H.Vĩnh Cửu
12
12
9
6
13
2
1
2
12
H.Long Thành
15
15
9
1
5
5
12
H. Nhơn Trạch
3
9
12
6
9
3
12
13
3
Long Khánh
15
15
0
16
12
2
15
15
0
0
0
30
0
0
TP. Biên Hòa
30
30
0
Nguồn: Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai 2013
37
Bảng số liệu 2.6 cho thấy Chi cục DS-KHHGĐ có 22 công chức và hợp đồng/chỉ
tiêu 24 biên chế, Chi cục thiếu 02 nhân lực trình độ bác sỹ sản khoa, nguyên nhân là bác
sỹ sản khoa nghỉ bệnh, chưa tuyển được bác sỹ mới. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
đội ngũ làm công tác DS-KHHGĐ tuyến tỉnh tương đối cao: 16/22 là trình độ đại học trở
lên đạt 72,73%, có 02 nữ hộ sinh trình độ cao đẳng, 01 trung cấp dược đang theo học Đai
học, 03 hợp đồng 68 thực hiện nhiệm vụ lái xe, bảo vệ và tạp vụ. Đa số tuổi đời còn trẻ,
thâm niên công tác chưa cao, sau khi giải thể UBDS,GĐ&TE số cán bộ làm công tác dân
số - KHHGĐ trước đây còn rất ít, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh chỉ còn 5 công chức, số còn
lại là tuyển mới hoặc điều chuyển công tác từ đơn vị khác về.
Tương tự đối với nhân sự làm công tác DS-KHHGĐ tại tỉnh, Trung tâm dân số -
KHHGĐ tuyến huyện đa số là chuyển công tác từ nơi khác về và tuyển mới. Có những
Trung tâm DS-KHHGĐ tuyển mới hoàn toàn (Trung tâm DS-KHHGĐ huyện Thống
Nhất) chính vì vậy những Trung tâm này việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ đạt kết
quả chưa cao.
Nhân sự làm công tác DS-KHHGĐ tại tuyến xã, sau khi giải thể UBDS,GĐ&TE
bàn giao cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ từ UBND xã về làm tại Trạm Y tế xã, đa số
lực lượng này phải nghỉ việc do không đủ chuẩn, một số cán bộ xin chuyển sang ban
ngành khác. Đến thời điểm hiện tại nhân sự làm công tác tại tuyến cơ sở này đa số là hợp
đồng hoặc là viên chức của Trạm Y tế kiêm nhiệm thêm công tác DS-KHHGĐ.
Trình độ năng lực của đội ngũ viên chức dân số các xã, phường, thị trấn này còn
nhiều hạn chế, số cán bộ có trình độ đại học là 3/171 đạt 1,75%, trình độ trung cấp là
83,6%, sơ cấp và thấp hơn sơ cấp là 6,4 %. Do tổ chức bộ máy không ổn định, số cán bộ
bỏ việc hoặc chuyển công tác hàng năm cao, thế hiện ở tỷ lệ những người có số năm
công tác liên tục từ 10 năm trở lên rất thấp có 7,6% đối với cán bộ chuyên trách dân số
các xã, phường, thị trấn. Đội ngũ cán bộ trẻ có ưu điểm là nhiệt tình, năng nổ, tuy nhiên
cũng có nhiều hạn chế trong công tác tham mưu cho chính quyền và công tác phối hợp
với ban ngành, đoàn thể, phối hợp với cộng đồng tại địa phương.
Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác dân số- KHHGĐ, công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ cho cán bộ, công chức, viên chức DS-
KHHGĐ tỉnh, huyện, xã và cộng tác viên DS-KHHGĐ ấp, khu phố được tỉnh quan tâm
chú trọng:
38
Hàng năm tỉnh có chính sách khuyến khích động viên cán bộ, công chức, viên
chức làm công tác DS-KHHGĐ của tỉnh, huyện, xã tham gia học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ.
Từ năm 2008 đến nay có 8 cán bộ tuyến tỉnh, huyện tham gia học chương trình
trên đại học (Chuyên khoa I, chuyên khoa II, thạc sĩ) và 15 cán bộ tham gia chương trình
cử nhân đại học (cử nhân nữ hộ sinh, kế toán, khoa học nhân văn…).
Phối hợp với Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai mở các lớp đào tạo sơ cấp về Dân
số-KHHGĐ cho 185 viên chức dân số huyện, xã, phường, thị trấn tham gia học tập nâng
cao nghiệp vụ chuyên môn.
Thường xuyên cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các lớp đào tạo, tập huấn
ngắn hạn chương trình dân số do bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ chiêu sinh.
Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh, Trung tâm DS-KHHGĐ các huyện, thị xã Long
Khánh, thành phố Biên Hòa tổ chức tập huấn ngắn hạn cho cán bộ chuyên trách dân số-
KHHGĐ xã và công tác viên dân số hàng năm để có kỹ năng tuyên truyền vận động và
kỹ năng tiếp cận từng nhóm đối tượng, tập huấn kiến thức DS-KHHGĐ, các nội dung
tuyên truyền vận động, cung cấp kỹ năng tuyên truyền, kỹ năng tiếp cận từng nhóm đối
tượng tạo cho tuyên truyền viên có thể xử lý mọi tình huống khi gặp các đối tượng có
nhiều cách khác nhau…
Ngoài việc cử đi học và tổ chức tập huấn ngắn hạn để nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn cho đội ngũ làm công tác DS-KHHGĐ tỉnh còn tổ chức các hoạt động giao lưu kiến
thức kỹ năng cho đội ngũ tuyên truyền viên DS-KHHGĐ, tổ chức hội thi tuyên truyền
viên DS-KHHGĐ điều này mang lại nhiều hiệu quả cao trong công tác.
Bên cạnh đó cũng có những mặt khó khăn, do bộ máy tổ chức thường xuyên thay
đổi dẫn tới nhiều cán bộ không yên tâm công tác có cơ hội là xin điều chuyển làm công
tác khác và chế độ bồi dưỡng cho công tác viên (CTV) còn thấp nên CTV hay bỏ việc do
đó trình độ và kiến thức không đồng đều dẫn tới việc thường xuyên phải tổ chức đào tạo,
tập huấn cho đội ngũ nhân lực này mà hiệu quả công tác chưa cao.
Chế độ, chính sách, kinh phí thực hiện chương trình
Thực hiện chương trình mục tiêu DS-KHHGĐ, hàng năm ngân sách trung ương
cấp và ngân sách tỉnh bổ sung để thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ và các hoạt động dự án:
39
Dự án 1: Đảm bảo hậu cần và cung cấp dịch vụ Kế hoạch hóa gia đình. Kinh phí để
thực hiện cho các hoạt động thuộc dự án này là:
Chi mua thuốc thiết yếu, chi phí để thực hiện dịch vụ KHHGĐ, kinh phí thực hiện
các chính sách hỗ trợ cho đối tượng thực hiện KHHHGĐ, kinh phí cho chiến dịch truyền
thông lồng ghép CSSKSS/KHHGĐ. Năm 2013, 2014 điều chỉnh nội dung chi quản lý
chương trình dân số cấp xã, chi tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, hi kiểm tra,
thanh tra giám sát và quản lý điều hành từ dự án 3 về dự án 1.
Dự án 2: Tầm soát các dị dạng, bệnh, tật bẩm sinh và kiểm soát mất cân bằng giới
tính khi sinh
Kinh phí của dự án này để chi thực hiện 3 đề án Sàng lọc trước sinh, sơ sinh; Tư vấn
khám sức khỏe tiền hôn nhân; Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.
Dự án 3: Nâng cao năng lực, truyền thông và giám sát, đánh giá thực hiện chương
trình
Nội dung chi cho các chính sách khuyến khích tập thể cá nhân đạt thành tích xuất
sắc trong công tác DS-KHHGĐ, chi xây dựng chính sách DS-KHHGĐ, chi hoạt động
Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi; Chi cho hoạt động thu thập, cập nhật thông tin
và duy trì quản lý kho dữ liệu điện tử chuyên ngành DS-KHHGĐ.
Bảng 2.7: Kinh phí TW cấp để thực hiện các hoạt động DS - KHHGĐ
NĂM Đơn vị tính: 1.000đ TỔNG
2010 2011 2012 DA 1 9,444,000 8,124,000 7,783,000 DA 2 1,036,000 1,269,000 1,349,000 DA 3 1,940,000 1,604,000 1,865,000 12,420,000 10,997,000 10,997,000
2013 5,522,000 1,891,000 2,210,000 9,623,000
2014 427,000 893,000 6,951,000
5,631,000 Nguồn: Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh ĐN
Kinh phí được phân bổ cho chi cục Dân số - KHHGĐ, cho 11 Trung tâm
DS-KHHGĐ các huyện, thị xã Long Khánh, thành phố Biên Hòa theo hình thức
phân bổ dự toán và được công khai hàng năm theo đúng quy định của luật và các
văn bản hướng dẫn.
Trong 5 năm (2010-2014) kinh phí Trung ương cấp có xu hướng giảm
mạnh, năm 2010 kinh phí cấp để thực hiện chương trình DS-KHHGĐ là 12.420
triệu đồng thì đến năm 2014 giảm xuống còn 6.951 triệu đồng, như vậy kinh phí
40
của TW năm 2014 giảm đi 44% so với 2010, điều này gây khó khăn rất lớn cho
việc thực hiện công tác dân số-KHHGĐ.
Khó khăn nhiều nhất là kinh phí thực hiện truyền thông giáo dục thuộc
(DA3) năm 2010 định mức kinh phí này cấp về tỉnh là 180 triệu đồng, cấp về
tuyến huyện là 20 triệu đồng/ huyện, tuyến xã là 2triệu đồng/ xã thì đến năm
2014 kinh phí cho hoạt động này bị cắt giảm hoàn toàn.
Kinh phí thực hiện dự án 2 (Tầm soát các dị dạng, dị tật bẩm sinh và kiểm
soát mất cân bằng giới tính khi sinh). Theo lộ trình kế hoạch kinh phí của dự án 2
sẽ tăng lên cho đến hết năm 2015 để triển khai tới toàn bộ các xã, phường, thị
trấn trong tỉnh, nhưng kinh phí lại cắt giảm, mặc dầu tỉnh hỗ trợ bổ sung tăng
kinh phí của dự án này để thực hiện hoạt động nâng cao chất lượng dân số tỉnh
nhà, tuy nhiên việc thực hiện giải ngân kinh phí khó thực hiện bởi sự ràng buộc
của thông tư liên bộ số 20-TTLB/BTC-BYT Thông tư liên bộ giữa Bộ Tài chính
và Bộ Y tế, quy định chỉ hỗ trợ chi phí khám sức khỏe tiền hôn nhân, chi phí
sàng lọc trước sinh và sơ sinh… cho những đối tượng nghèo, cận nghèo trong khi
đó Đồng Nai là tỉnh công nghiệp, đa phần các xã nông thôn thì phấn đấu đạt chỉ
tiêu xã nông thôn mới vì vậy các đối tượng để thụ hưởng chính sách trên rất ít,
mặc dù nhiều người làm việc và sống trong môi trường có nguy cơ độc hại cao,
họ cũng muốn được khám, được sàng lọc nhưng do chi phí của dịch vụ trên còn
rất cao so với thu nhập của họ, vì vậy việc khám sức khỏe tiền hôn nhân cho
thanh niên, hay sàng lọc trước sinh và sơ sinh cho phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh
còn gặp nhiều khó khăn.
Bảng 2.8: Kinh phí ĐP cấp để thực hiện các hoạt động DS - KHHGĐ
Đơn vị tính: 1.000đ
DA 2 DA 3 TỔNG
NĂM 2010 2011 2012 2013 2014 DA 1 2,962,000 2,730,000 2,975,000 2,743,400 2,591,000 125,000 245,100 231,600 200,000 200,000 3,337,000 3,340,100 3,571,600 4,350,000 4,598,000
250,000 365,000 365,000 1,406,600 1,807,000 Nguồn: Chi cục DS - KHHGĐ tỉnh ĐN
41
Bảng 2.8 cho thấy, ngoài kinh phí trung ương phân bổ hàng năm, kinh phí
tỉnh hỗ trợ để thực hiện chương trình DS-KHHGĐ tương đối lớn, trong 5 năm
qua tỉnh hỗ trợ là 19.196.700.000đồng, bình quân mỗi năm tỉnh hỗ trợ gần 4 tỷ
đồng để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHHGĐ, ngoài ra hàng
năm tỉnh phân bổ kinh phí thường xuyên để chi trả lương, các khoản trích theo
lương...cho cán bộ công chức, viên chức làm việc tại Chi cục và Trung tâm DS-
KHHGĐ tuyến huyện gần 9 tỷ đồng.
Bảng 2.9: Tổng nguồn kinh phí TW và ĐP giao để thực hiện công tác
DS - KHHGĐ tại tỉnh ĐN
Đơn vị tính: 1.000đ
2012 2013
2011 2010 1,901,862 1,123,080 819,996 761,984 499,380 730,668 701,050 645,230 961,863 1,015,658 686,270 698,778 704,400 634,629 787,610 770,168 575,060 795,599 465,950 850,510 979,066 1,040,050 679,095 962,018 1,109,310 591,840 908,359 1,012,420 445,620 717,776 692,204 448,950
Năm 1,728,958 1,441,160 TP. Biên Hòa 635,570 Long Khánh 562,870 H. Tân Phú 843,420 H. Định Quán 546,460 H. Xuân Lộc 649,850 H. Cẩm Mỹ 660,640 H. Thống Nhất 844,700 H. Trảng Bom 844,220 H. Long Thành 822,790 H. Nhơn Trạch 575,130 H. Vĩnh Cửu Chi cục Dân số 8,892,125 4,268,298 3,825,266 5,546,190 Tổng Cộng 2014 1,605,700 673,600 590,600 872,200 565,600 617,300 667,300 880,500 910,100 806,800 587,900 2,771,400 15,757,000 14,337,100 14,337,000 13,973,000 11,549,000
Nguồn: Chi cục DS - KHHGĐ tỉnh ĐN
Bảng 2.9 cho thấy mặc dù kinh phí địa phương hỗ trợ hàng năm tăng dần
nhưng không theo kịp đà cắt giảm của ngân sáh Trung ương, mỗi năm kinh phí
một giảm, bình quân trong 5 năm qua giảm 7,25% điều này thực sự gây khó khăn
cho việc thực hiện công tác DS-KHHHGĐ trong những năm gần đây. Tất cả các
nguồn lực được quản lý thống nhất theo luật ngân sách và các văn bản qui định
về quản lý tài chính; đồng thời được phân bổ công khai theo các chương trình, dự
án cho tuyến tỉnh, huyện, xã ngay từ đầu năm, trong đó ưu tiên cho vùng đông
dân có mức sinh cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
42
Hàng năm thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng
kinh phí cho các chương trình, dự án nhằm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các
nguồn lực; đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp tiêu cực, lãng phí.
2.2.2. Công tác tham mưu, phối hợp, chỉ đạo
Bám sát sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, Tổng cục DS-
KHHGĐ và căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Chi cục Dân
số - Kế hoạch hóa gia đình, Sở Y tế tỉnh phối hợp với các sở, ban, ngành tham
mưu Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành các văn bản thực hiện công tác DS-
KHHGĐ và xây dựng kế hoạch các chương trình, dự án thực hiện các mục tiêu
dân số - KHHGĐ. Các Chỉ thị, Nghị quyết, Chiến lược của Chính phủ đã được
Tỉnh cụ thể hóa thành Kế hoạch, văn bản chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện
đạt kết quả. Các đề án, văn bản đã được ban hành:
Ngày 16/7/2009 Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số
141/2009/NQ-HĐND về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác DS-KHHGĐ
tỉnh Đồng Nai đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020;
Ngày 09/12/2009 UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Kế hoạch số 1094/KH-
UBND về việc thực hiện công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Đồng Nai
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
Ngày 09/12/2009 UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số
83/2009/QĐ-UBND quy định về chế độ, chính sách khuyến khích thực hiện công
tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh;
Ngày 17 tháng 04 năm 2009 UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định
số 1062/QĐ-UBND thành lập Ban Chỉ Đạo công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình tỉnh và ngày 16 tháng 09 năm 2010 UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết
định sửa đổi, bổ sung thành viên Ban Chỉ Đạo công tác Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình tỉnh;
Ngày 24/5/2012 UBND tỉnh Đồng Nai ban hành văn bản số 3680/UBND-
VX về việc thực hiện dự án Nâng cao chất lượng giống nòi trên địa bàn tỉnh Giai
đoạn 2011-2015;
43
Ngày 16/07/2012 UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Kế hoạch số 2208/KH-
UBND về việc thực hiện Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015 định hướng đến năm 2020;
Hàng năm tham mưu Ban chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ tỉnh ban hành kịp
thời các văn bản, kế hoạch chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của chương trình:
- Văn bản hướng dẫn các hoạt động kỷ niệm, hướng ứng các sự kiện dân
số trong năm;
- Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chiến dịch tăng cường truyền
thông vận động, lồng ghép dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ đến vùng đông dân có
mức sinh cao, vùng khó khăn năm;
- Văn bản thực hiện kế hoạch về xã hội hóa sàng lọc chẩn đoán trước sinh-sơ sinh.
- Kế hoạch phối hợp thực hiện công tác DS-KHHGĐ với các ban ngành
trong tỉnh giai đoạn 2011-2015;
Công tác phối hợp thực hiện công tác dân số - KHHGĐ được triền khai
rộng rãi hàng năm, các ngành đoàn thể, tổ chức xã hội đã tích cực tham gia với
tinh thần trách nhiệm cao và đưa công tác DS-KHHGĐ là một trong những nội
dung quan trọng trong chương trình hoạt động của ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn
vị, địa phương. Số lượng các lực lượng xã hội, doanh nghiệp và cá nhân tham gia
công tác DS-KHHGĐ trên mặt trận truyền thông, cung cấp dịch vụ KHHGĐ
ngày càng tăng:
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức nhiều lớp tập huấn nhằm đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng nghiệp vụ về DS-KHHGĐ cho cán bộ là công tác tuyên giáo từ
tỉnh đến, huyện, xã.
Sở Tư pháp tham gia vào soạn thảo xây dựng hoặc góp ý thẩm định các văn
bản về Ds-KHHGĐ.
Ủy ban Mặt trận tổ quốc triển khai công tác tuyên truyền vận động thực
hiện chính sách DS-KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở thiết thực và hiệu quả.
Đặc biệt là việc tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức và thay đổi hành
vi của người dân trong việc thực hiện và giám sát thực hiện chính sách dân số-
44
KHHGĐ tại địa bàn dân cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng
bào các tín đồ tôn giáo góp phần quan trọng vào những chuyển biến mạnh mẽ
thực hiện chính sách dân số.
Ký kết hợp đồng trách nhiệm với các ban ngành đoàn thể tổ chức tập huấn,
tuyên truyền thực hiện các dự án, chương trình DS-KHHGĐ. Đồng thời thực
hiện phương châm xã hội hóa công tác DS-KHHGĐ, Đồng Nai đã huy động sự
tham gia của các lực lượng xã hội trong công tác tuyên truyền, phối hợp lồng
ghép mục tiêu dân số với phát triển thông qua các hoạt động và chương trình
công tác của các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, nâng cao hiệu quả mô hình
truyền thông dân số với phát triển.
2.2.3. Công tác quản lý về quy mô, cơ cấu dân số
Tỉnh triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về
thực hiện quy mô gia đình nhỏ, ít con để có cuộc sống ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.
- Thực hiện nhiều hình thức tuyền thông giáo dục để tuyên truyền cho các
bậc ông, bà, cha mẹ không chỉ cần những đứa con khỏe mạnh mà còn được giáo
dục và đào tạo đầy đủ, có học vấn và kỹ năng chuyên môn nhất định có vị thế
trong tương lai…
- Lồng ghép hoạt động DS-KHHGĐ với nhiều hoạt động khác như câu lạc bộ phụ
nữ không sinh con thứ 3, giúp nhau phát triển; dân số với chương trình xóa đói giảm
nghèo; Nam nông dân thực hiện KHHGĐ và gia đình nông dân 6 chuẩn mực…
- Đưa chương trình DS-KHHGĐ vào quy ước, hương ước của thôn, bản…
Các hoạt động trên được đông đảo nhân dân trong tỉnh đồng tình hưởng
ứng. Nhiều cặp vợ chồng trẻ đã tự nguyện chấp nhận quy mô gia đình chỉ có 02
con, tuy nhiên một bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế do điều
kiện sinh sống chưa ổn định, địa bàn rộng, địa hình phức tạp, điều kiện đi lại khó
khăn, tư tưởng “có nếp, có tẻ” vẫn còn trong nhận thức của một số người dân.
- Thực hiện hoạt động tiếp thị xã hội các phương tiện tránh thai phi lâm
sàng và khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ DS-KHHGĐ, từ tỉnh tới cơ
sở được mở rộng. Thị trường hàng hóa phương tiện tránh thai, dịch vụ sức khỏe
45
sinh sản phát triển, tỷ lệ khách hàng tự chi trả ngày càng tăng, phong trào nhân
dân thực hiện KHHGĐ được thúc đẩy.
- Củng cố, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ công cộng
được đồng thời cung cấp các dịch vụ đến từng hộ gia đình và người sử dụng.
- Tổ chức các đợt chiến dịch tăng cường truyền thông vận động lồng ghép
dịch vụ SKSS-KHHGĐ hàng năm để khám SKSS cho chị em phụ nữ và thực
hiện cung cấp dịch vụ KHHGĐ đến những khu vực có mức sinh cao, vùng
nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Chiến dịch thực sự là biện pháp quan
trọng kiềm chế mức tăng sinh đồng thời là biện pháp tích cực để cải thiện sức
khỏe sinh sản.
- Đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ KHHGĐ cho các
cơ sở cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ đảm bảo cho các nhóm đối tượng dễ tiếp
cận, thuận tiện, an toàn.
Tỉnh có 13 Bệnh viện có khoa phụ sản, 01 Trung tâm Chăm sóc sức khỏe
sinh sản, 11 Trung tâm Y tế huyện đều có khoa chăm sóc SKSS, 9/11 Trung tâm
DS-KHHGĐ tuyến huyện thực hiện CSSKSS/KHHGĐ. 171 Trạm Y tế có phòng
là dịch vụ KHHGĐ đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định đủ điều kiện để
cung cấp dịch vụ KHHGĐ.
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật dịch vụ KHHGĐ, SKSS ở các tuyến được đào tạo
cập nhật thường xuyên có kỹ năng cơ bản về CSSKSS/KHHGĐ theo chuẩn quốc
gia, Cán bộ dân số xã và công tác viên được đào tạo tập huấn kỹ năng và thực
hiện cung cấp các dịch vụ tư vấn, BPTT phi lâm sàng. Bên cạnh hệ thống công
lập còn có nhiều cơ sở y tế tư nhân cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ.
Công tác cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ được chú trọng, ngày càng thuận
lợi, an toàn, hiệu quả và đảm bảo tính riêng tư nên đã từng bước đáp ứng nhu cầu
của người sử dụng. Đến nay, 100% cơ sở dịch vụ kế hoạch gia đình cấp tỉnh,
huyện, thị xã, thành phố thực hiện được kỹ thuật đình sản, cấy thuốc tránh thai;
100% trạm y tế xã, phường, thị trấn có đủ điều kiện đặt vòng tránh thai, tiêm
thuốc tránh thai và điều trị phụ khoa. Việc phân phối, cung ứng thuốc uống tránh
thai và bao cao su được thực hiện thông qua mạng lưới cộng tác viên dân số và
46
cán bộ y tế dưới hai hình thức cấp phát miễn phí và tiếp thị xã hội, nhằm đa dạng
hóa phương tiện tránh thai, đáp ứng nhu cầu của đối tượng.
Bảng 2.10: Tình hình thực hiện biện pháp tránh thai ở Đồng Nai
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Tỷ lệ sử dụng BPTT 78,34% 78,34%0% 79,45% 79,50%
Tỷ lệ sử dụng BPTT h/đại 72,75% 72,75%% 73,99% 78,49%
112.455 115.333 139.557 151.741 Số người mới sử dụng BPTT
Đình sản 27,893 27,816 26,863 21,820
Đặt DCTC 498 496 518 582
Thuốc cấy 383 330 222 290
Thuốc tiêm 66,261 69,174 74,088 78,751
Thuốc uống TT 5,809 7,538 8,272 8,524
Bao cao su 78,715 81,689 87,243 78,751
Nguồn: Chi cục DS - KHHGĐ tỉnh ĐN Theo bảng số liệu trên có thể thấy: tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh
đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tăng nhanh từ 65% năm 2001 lên
78,49% vào năm 2013. Tỷ lệ các cặp vợ chồng áp dụng biện pháp tránh thai
chung năm 2013 là 79,50% và tỷ lệ này phát triển theo diện rộng trên phạm vi
toàn tỉnh, kể cả những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nhất. Số người thực
hiện biện pháp tránh thai lâm sàng như đình sản, đặt dụng cụ tử cung hàng năm
vẫn cao, riêng thuốc cấy tránh thai do chi phí cao, đối tượng được sử dụng miễn
phí thấp, nên tỷ lệ thực hiện thấp.
Việc kiểm tra thực hiện quy định của pháp luật đối với các hoạt động dịch
vụ tư vấn kế hoạch hoá gia đình và quản lý các phương tiện tránh thai; quản lý
các dịch vụ KHHGĐ trên địa bàn tỉnh được thực hiện một năm hai lần tại cơ sở y
tế công lập nhà nước. Hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai thực hiện các mô hình
liên quan đến quy mô DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh như mô hình câu lạc bô
không sinh con thứ 3… theo phân cấp địa phương và theo ngành dọc.
Theo dõi, quản lý biến động tăng, giảm dân số được thực hiện thường
xuyên tại tuyến cơ sở, hàng tháng cộng tác viên thực hiện việc thu thập cập nhật
47
số liệu số trẻ sinh ra trên địa bàn, số người chết, số dân chuyển đến, số người
chuyển đi vào phiếu thu thập 3.1 rồi chuyển về trạm Y tế xã cho chuyên trách
dân số xã tổng hợp chuyển về huyện cập nhật vào kho dữ liệu và chuyển về tỉnh.
Mặc dù được trang bị máy vi tính thành lập kho dữ liệu điện tử cấp tỉnh, 11 kho
dữ liệu điện tử cấp huyện và trang bị máy vi tính cho toàn bộ 171 phường xã thực
hiện việc cập nhật thông tin, song khâu nhập dữ liệu đa số thực hiện tại tuyến
huyện do phần mềm hay gặp lỗi và trình độ còn hạn chế của một số cán bộ dân
số xã. Năm 2004 việc thực hiện báo cáo này được thực hiện hoàn toàn trên dữ
liệu điện tử nên số liệu tương đối chính xác, đảm bảo cung cấp kịp thời số liệu về
DS-KHHGĐ phục vụ công tác chỉ đạo điều hành.
Hàng năm, tỉnh tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ,
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ các cấp nhằm thu thập thông tin dữ
liệu đầu vào chính xác, đầy đủ và đủ khả năng xử lý, bảo quản và cung cấp thông
tin dữ liệu kịp thời, tin cậy.
Thực hiện các biện pháp khuyến khích và không khuyến khích: người đăng
ký sử dụng biện pháp tránh thai được cung cấp đầy đủ, thuận tiện phương tiện
tránh thai. Thực hiện tránh thai tại cơ sở y tế công lập trong tỉnh được miễn phí
dịch vụ được cung cấp thuốc thiết yếu. Khuyến khích người đình sản ngoài chế
độ trên còn được bồi dưỡng bằng tiền (500.000đồng/người) nhằm bù đắp phần
thu nhập do phải nghỉ việc để đi làm dịch vụ…Khuyến khích cá nhân thực hiện
tốt chính sách dân số, gia đình có một hoặc hai con gặp khó khăn được vay vốn
lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất tăng thu nhập…Không khuyến khích những
người sinh con thứ 3 trở lên: Đảng viên vi phạm không nâng lương…
Bảng 2.11: Kết quả thực hiện chỉ tiêu giảm sinh hàng năm
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Dân số TB (1.000người) 2.575,06 2.658,03 2.716,29 2,768,67
Tỷ suất sinh thô 18,40%0 16,30%0 17,50%0 18,80%0
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,19% 1,18% 1,09% 1,10%
Tỷ lệ sinh con T3 trở lên 7,44% 7,29% 7,00% 5,94%
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh ĐN và Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh ĐN
48
Bảng số liệu 2.11 thể hiện: việc điều chỉnh quy mô dân số trong thời gian
qua vẫn còn những khó khăn nhất định. Quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao.
Đến cuối năm 2013 theo số liệu dân số của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh là
2.827.842 người, là tỉnh có số dân cao đứng thứ 5/63 tỉnh, thành trong cả nước
chỉ sau TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa và Nghệ An. Tỷ suất sinh thô giảm
không đều có năm giảm, có năm không giảm mà tăng. Theo kế hoạch giao, mỗi
năm giảm 0,05%0 như vậy có thể nói đến năm 2012 tỉnh đạt 18,35%0 là hoàn
thành chỉ tiêu kế hoạch được giao, tỉnh đã thực hiện đạt 17,5%0 là hoàn thành
vượt kế hoạch 0,85%0. Riêng năm 2013, số liệu của Cục Thống kê mới chỉ là sơ
bộ nên chưa chính xác, tuy nhiên nhìn bảng số liệu có thể nhận thấy mức sinh
chưa ồn đinh. Tương tự, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có năm đạt vượt chỉ tiêu giao,
có năm không đạt, điều đó càng chứng tỏ rằng tỷ lệ sinh chưa ổn định. Tỷ lệ sinh
con thứ 3 giảm hàng năm, năm 2010,2011,2012 đều giảm nhưng không đạt chỉ
tiêu do điểm xuất phát thấp, hoặc chỉ tiêu giao cao, tuy nhiên tính theo giai đoạn
từ 2010-2013 thì lại đạt vượt chỉ tiêu, do năm 2013 hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu
giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 nên tỷ lệ này còn 5,94% đạt vượt 7,2%. Như vậy, tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên và tỷ suất sinh thô có năm đạt có năm không đạt và tỷ số vẫn
còn cao, nguyên nhân một phần do điều kiện kinh tế xã hội phát triển, nhiều khu
công nghiệp phát triển mạnh mẽ ở nhiều địa phương trong tỉnh, thu hút một số
lượng lớn lực lượng lao động từ nơi khác đến sinh sống và làm việc, lực lượng
này đa số là lao động trẻ (số phụ nữ trong độ tuổi 15-49 có chồng rất cao:
460.867 người tại thời điểm cuối năm 2013) nên mức sinh hàng năm vẫn cao.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trên địa bàn tỉnh rất cao năm 2012
số lượng này là 2.102 nghìn người. Số người có việc làm là 1.593,03 nghìn người
chiếm 75,79%. Ngành dân số thường xuyên phối hợp liên đoàn lao động tổ chức
cung cấp thông tin dịch vụ về DS - KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản tại các
khu công nghiệp cho các đối tượng trên.
Theo dõi cập nhật số trẻ sinh ra hàng tháng, số bé trai, bé gái để thống kê
số trẻ sinh ra và triển khai thực hiện các hoạt động đề án, mô hình liên quan đến
điều chỉnh cơ cấu dân số trên địa bàn tỉnh, bảo đảm cân bằng giới tính theo quy
luật sinh sản tự nhiên trên địa bàn tỉnh với các hoạt động cụ thể:
49
- Tuyên truyền, tư vấn trực tiếp và trên các phương tiện thông tin đại
chúng, đài phát thanh truyền hình tỉnh, đài truyền thanh huyện, xã, cung cấp
thông tin, hội thảo, nói chuyện chuyên đề với lãnh đạo Đảng, chính quyền, ban
ngành đoàn thể, chuyên trách DS xã, CTV dân số, nhân viên y tế, hộ gia đình,
phụ nữ, trẻ em gái và các đối tượng về quy định việc nghiêm cấm các hành vi lựa
chọn giới tính thai nhi, thực trạng và hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh,
các biện pháp ngăn chặn phân biệt giới, lựa chọn giới tính.
- Xây dựng gia đình văn hoá, biểu dương gia đình sinh con một bề là gái
không sinh con thứ 3. Chia sẻ kinh nghiệm học tập, rèn luyện của các cháu gái có
thành tích học tập giỏi, sống tốt.
- Biên soạn, nhân bản và cung cấp các sản phẩm truyền thông; xây dựng mới
một số panô, khẩu hiệu tuyên truyền về giới tính khi sinh tại các địa điểm trung tâm
huyện, thị xã, thành phố.
- Xây dựng và duy trì hoạt động của các câu lạc bộ.
- Tập huấn kỹ năng truyền thông, các quy định của pháp luật về nghiêm cấm
lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất các cơ sở y tế có dịch
vụ siêu âm, nạo phá thai trong việc thực hiện các quy định nghiêm cấm lựa chọn
giới tính thai nhi; các cơ sở xuất bản, kinh doanh các loại sách, báo, văn hoá
phẩm trong việc thực hiện các quy định nghiêm cấm tuyên truyền phổ biến
phương pháp sinh con theo ý muốn.
Bảng 2.12: Tỷ số giới tính khi sinh tại tỉnh Đồng Nai
Năm
Năm
Năm
Năm
9t năm 2014
Chỉ tiêu
2010
2011
2012
2013
Tổng số sinh
37,388
38,552
42,073
44,039
20,130
Trẻ em nam
19,672
19,978
21,616
22,782
10,793
Tỷ lệ (%)
52.62
51.82
51.38
51.73
53.62
Trẻ em gái
17,716
18,574
20,457
21,257
9,337
Tỷ lệ (%)
47.38
48.18
48.62
48.27
46.38
Cơ cấu giới tính khi sinh
107 bé trai/ 100 bé gái
111 bé trai/ 100 bé gái
106 bé trai/ 100 bé gái
116 bé trai/ 100 bé gái
108 bé trai/ 100 bé gái Nguồn: Báo cáo 2010, 2011, 2012; 2013; 9T/2014 Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh.
50
Bảng số liệu 2.12 cho thấy mất cân bằng giới tính khi sinh của tỉnh trong 4
năm qua không cao, có năm nằm trong giới hạn cho phép. Đạt vượt chỉ tiêu trung
ương giao, tuy nhiên tỷ lệ giới tính khi sinh 9 tháng 2014 tăng cao đang ở hướng
báo động, cần tăng kinh phí để tuyên truyền mạnh mẽ những địa phương có tỷ số
giới tính khi sinh cao. Đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra các nhà sách, các
nhà xuất bản kinh doanh các loại sách báo, văn hóa phẩm trong việc thực hiện
các quy định nghiêm cấm tuyên truyền phổ biến phương pháp sinh con theo ý
muốn. Các cơ sở y tế có dịch vụ siêu âm, nạo phá thai trong việc thực hiện các
quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi
2.2.4. Công tác quản lý, thực hiện để nâng cao chất lượng dân số
Thực hiện mục tiêu "Nâng cao chất lượng dân số tỉnh Đồng Nai về thể chất, trí
tuệ và tinh thần, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển bền vững của địa phương và đất nước".
Hàng năm, tỉnh tổ chức các đợt chiến dịch tăng cường tuyên truyền vận
động lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đến vùng đông dân có mức
sinh cao, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện nâng cao nhận thức,
cải thiện rõ rệt tình trạng sức khỏe sinh sản cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống hậu cần về chăm sóc
SKSS-KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở trên cơ sở sử dụng hợp lý và có hiệu quả mạng
lưới hậu cần sẵn có của ngành y tế. Nâng cao hiệu quả hệ thống cung ứng các
phương tiện tránh thai thông qua mạng lưới y tế nhà nước, y tế tư nhân, phân
phối qua cộng đồng và thương mại.
Triển khai thực hiện dự án nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn tỉnh
gồm đề án Sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh và Tư vấn khám sức khỏe tiền
hôn nhân với các hoạt động chủ yếu:
- Truyền thông dưới mọi hình thức tại xã, huyện, tỉnh và cung cấp sản phẩm
truyền thông (tập trung cho nhóm đối tượng chính là bà mẹ mang thai); theo dõi, tư
vấn, giúp đỡ các trường hợp được xác định là có nguy cơ bệnh lý cao.
- Hỗ trợ chuyển tuyến các trường hợp hộ nghèo, hộ cận nghèo và người
thuộc diện chính sách xã hội; chi phí công lấy máu và gửi mẫu máu theo quy
định; báo cáo tình hình thực hiện và quản lý.
- Tập huấn kỹ năng truyền thông (cho 1 cán bộ/xã và 2 cán bộ/huyện) và
kỹ thuật lấy máu gót chân cho cán bộ kỹ thuật (cho 2 cán bộ/xã và 2 cán
51
bộ/huyện) đối với các xã, huyện mới mở rộng trong năm đầu. Đối với các xã,
huyện đã triển khai sàng lọc thì bố trí kinh phí để tổ chức tập huấn cho cán bộ
cấp xã, huyện nếu có thay đổi mới.
- Kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện của cấp tỉnh, huyện tại
các địa bàn triển khai.
Hoạt động của đề án Mô hình tư vấn tiền hôn nhân (Chăm sóc sức khỏe
sinh sản VTN-TN) cũng được tổ chức với nhiều hoạt động phong phú:
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tư vấn trực tiếp tại cộng đồng;
truyền thông qua hệ thống truyền thanh xã, đài phát thanh truyền hình tỉnh,
huyện; giáo dục đồng đẳng, cung cấp các sản phẩm, tài liệu tuyên truyền về các
BPTT, chăm sóc SKSS vị thành niên, thanh niên; phòng chống, điều trị vô sinh;
làm mẹ an toàn; trách nhiệm làm cha mẹ; nuôi con khỏe, dạy con ngoan.
- Tổ chức và duy trì hoạt động câu lạc bộ tiền hôn nhân tại các xã; xây dựng
góc truyền thông cung cấp kiến thức về DS/SKSS/KHHGĐ nói chung, nhấn mạnh
SKSS thanh niên, vị thành niên tại các trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung
học; cung cấp thông tin cho nam nữ thanh niên tại nơi đăng ký kết hôn.
- Tập huấn kỹ năng truyền thông, kiến thức và kỹ năng thực hiện các hoạt
động cho chủ nhiệm câu lạc bộ, cán bộ cấp xã, huyện, tỉnh; tập huấn kỹ thuật
khám sức khoẻ, xét nghiệm cơ bản cho cán bộ y tế.
- Tổ chức khám sức khỏe và hướng dẫn điều trị cho thanh niên, vị thành
niên; tiến hành một số xét nghiệm cơ bản như viêm gan B, HIV, thử thai sớm,
bệnh lây truyền qua đường sinh sản, vô sinh, bảo vệ sức khỏe bào thai; khám và
chuyển tuyến những trường hợp theo quy định.
- Thực hiện giáo dục dân số, giới tính, SKSS/KHHGĐ thông qua hình
thức sinh hoạt ngoại khóa. Hàng năm, Chi cục DS-KHHGĐ phối hợp với Sở
Giáo dục đào tạo, Tỉnh Đoàn, Liên đoàn Lao động tổ chức hàng trăm cuộc hội
thảo, tập huấn, tư vấn, giao lưu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị
thanh niên, thanh niên trong nhà trường, trong các công ty, nhà máy, khu công
nghiệp, và cho đoàn viên thanh niên các huyện, thị, thành phố trong tỉnh.
- Chủ động kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chương trình do cơ quan
DS-KHHGĐ các cấp trực tiếp quản lý, điều hành; phối hợp với các ngành kiểm
tra, giám sát theo chuyên đề, chú trọng kiểm tra việc sử dụng kinh phí.
52
Như vậy, việc thực hiện nâng cao chất lượng dân số trong 4 năm qua của tỉnh
đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các
ban ngành đoàn thể ở cơ sở, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và kiến thức hiểu
biết của người dân về chất lượng Dân số, sức khỏe sinh sản đã được nâng cao. Từ
năm 2010 đến năm 2013 đã tổ chức khám phụ khoa cho 389.501 lượt phụ nữ và
điều trị phụ khoa cho 308.065 lượt người. Trên 97% phụ nữ mang thai được khám
thai và siêu âm thai từ 3 lần trở lên trong 3 kỳ thai nghén và được tiêm uốn ván
đầy đủ, nhiều phụ nữ được khám được sàng lọc trước sinh. Tỷ lệ phụ nữ sinh con
tại cơ sở y tế hoặc được nhân viên y tế đỡ đẻ đạt trên 95%, phụ nữ được chăm sóc
sau sinh và trẻ sơ sinh được nhân viên y tế khám, chăm sóc đạt tỷ lệ cao. Trẻ em
dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin theo quy định của chương
trình tiêm chủng mở rộng quốc gia đạt 95% trở lên. Trẻ từ 6 tháng đến 36 tháng
tuổi được uống Vitamin A hai lần trong năm đạt trên 95%. Hơn 35.000 trẻ được
sàng lọc sơ sinh tại tỉnh. Kết quả sàng lọc đã phát hiện được trên 200 trẻ thiếu men
G6PD, trên 10 ca suy giáp bẩm sinh. Như vậy, qua 4 năm sàng lọc đã có hơn 200
trẻ sơ sinh bị bệnh di truyền hoặc rối loạn chuyển hóa bẩm sinh được chẩn đoán và
điều trị kịp thời ngay trong giai đoạn chưa có biểu hiện lâm sàng để loại bỏ, giảm
thiểu các di chứng của bệnh, nhờ đó trẻ phát triển bình thường cả về thể chất lẫn
tinh thần. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 10,4%.
Hoạt động của đề án chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên
(Mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân) mang lại nhiều hiệu quả, tổng
số ca nạo phá thai của vị thành niên, thanh niên giảm đáng kể. Kiến thức, kỹ
năng hiểu biết của vị thành niên và thanh niên về dân số SKSS đã có những thay
đổi cơ bản, kỹ năng thực hành chăm sóc SKSS/KHHGĐ của vị thành niên, thanh
niên từng bước được nâng cao. Ngoài ra, các em còn có những kỹ năng sống tốt,
kỹ năng làm việc theo nhóm để các em phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần góp
phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng Dân số, tạo cho thế hệ tương lai
có sức khỏe tốt và có cơ hội trưởng thành toàn diện về mọi mặt phục vụ công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Tuy nhiên để tạo một môi trường tích cực
cho giới trẻ, thúc đẩy cơ hội tiếp cận giáo dục giới tính toàn diện cũng như các
dịch vụ SKSS/SKTD chất lượng, bao gồm cả kế hoạch gia đình và tạo điều kiện
cho giới trẻ được tham gia và lãnh đạo cần có những chính sách chương trình đầu
tư lớn, cụ thể hơn.
53
Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội khá ổn định của tỉnh, chất
lượng dân số trên địa bàn tỉnh đã từng bước được nâng lên. Chỉ số phát triển con
người HDI được tăng lên rõ rệt. Đến năm 2013, thu nhập bình quân đầu người
trên địa bàn tỉnh đạt 50.598,97 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ sử dụng điện sinh
hoạt là 99,6%; tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 95,7%. Cơ sở vật
chất trường lớp, bệnh viện, thiết chế văn hóa, đường giao thông được đầu tư xây
dựng khá hoàn thiện. Các chính sách bảo trợ xã hội, chính sách đối với người
nghèo, người có công với cách mạng được thực hiện tốt. Vấn đề ô nhiễm môi
trường được đặc biệt quan tâm, đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống xử
lý chất thải trong các khu công nghiệp, trong sinh hoạt…
Ngoài kết quả đạt được trên công tác DS-KHHGĐ còn hạn chế số phụ nữ
được khám, điều trị chăm sóc sức khỏe sinh sản trong các đợt chiến dịch giảm
xuống hàng năm do kinh phí đầu tư cho chương trình DS-KHHGĐ giảm xuống.
Tỷ lệ trẻ được sàng lọc sơ sinh đạt chỉ tiêu giao nhưng so với số trẻ được
sinh ra trên địa bàn hàng năm còn thấp. Khám sức khỏe tiền hôn nhân còn rất hạn
chế chưa đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay.
2.2.5. Công tác truyền thông, giáo dục
Công tác DS - KHHGĐ là công tác mang tính xã hội cao, nhiệm vụ cơ bản
của công tác này là cung cấp thông tin kiến thức cho người dân, làm chuyển đổi thái
độ từ tiêu cực đến tích cực và cuối cùng họ hiểu để thực hiện CSSKSS/KHHGĐ đây
là một quá trình phức tạp lâu dài bởi vì quá trình này diễn ra ở từng gia đình, từng
người sống trong cộng đồng làng xã và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cộng đồng ấy
về mặt kinh tế, văn hóa, tâm lý truyền thống, do vậy truyền thông giáo dục là giải
pháp quan trọng để thực hiện tốt công tác DS -KHHGĐ.
Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền
giáo dục với các hình thức như tuyên truyền vận động trực tiếp, tư vấn, tư vấn
nhóm nhỏ, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, chiếu phim, hội nghị, hội
thảo, hội thi, tổ chức các đợt chiến dịch truyền thông lồng ghép với dịch vụ
CSSKSS/KHHGĐ, tổ chức các câu lạc bộ, các mô hình truyền thông để phát huy
thế mạnh của các sở, ban, ngành, đoàn thể đối với từng nhóm đối tượng đặc thù:
Các cặp vợ chồng, nam giới, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, kể cả người chưa kết
hôn và người đã kết hôn; vị thành niên - thanh niên, người di cư tự do, đặc biệt
54
là những người trong độ tuổi sinh đẻ; người cung cấp dịch vụ chăm sóc
SKSS/KHHGĐ; các nhà lãnh đạo và người có uy tín trong cộng đồng..
Các nội dung tuyên truyền bao gồm nhiều chủ đề khác nhau như dân số-
phát triển và chất lượng cuộc sống; dân số - tăng trưởng kinh tế lâu bền; dân số,
nghèo đói-môi trường; Các chính sách của Đảng, nhà nước; Quyền sinh sản;
KHHGĐ; Bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS; SKSS vị thành niên –
thanh niên; Làm mẹ an toàn; Giảm phá thai, phá thai an toàn; Bình đẳng giới;
Sàng lọc trước sinh và sơ sinh; Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh
niên; Đảm bảo cân bằng giới tính khi sinh…
Kết quả hoạt động này là phối hợp với Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh
thực hiện chuyên mục, chuyên đề về Dân số và Phát triển với bình quân lượng
phát sóng trên 26.180 phút, phát sóng chuyên trang và 160 tin, bài ngắn với thời
lượng 26.180 phút, nội dung tuyên truyền về các chính sách DS-KHHGĐ; các
nội dung chính của Đề án mất cân bằng giới tính khi sinh; Sàng lọc trước sinh và
sơ sinh; Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; báo Đồng Nai, báo Lao động
Đồng Nai thực hiện chuyên trang với bình quân khoảng 160 tin, bài với nội dung
tuyên truyền về các chính sách DS-KHHGĐ; các nội dung chính của Đề án mất
cân bằng giới tính khi sinh; Sàng lọc trước sinh và sơ sinh; Tư vấn và khám sức
khỏe tiền hôn nhân; Cơ cấu dân số vàng, già hóa dân số...
Thực hiện nhiều tin, bài về chương trình DS-KHHGĐ trên đài phát thanh
tuyến huyện, xã.
Phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể: Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
tỉnh; Hội Nông dân tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh; Sở Giáo dục và Đào tạo;
Trường Chính trị; Liên đoàn Lao động tỉnh... thực hiện nói chuyện chuyên đề,
hội thảo, tập huấn... để cho từng người dân được tiếp cận với chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ, với bình quân số
lượng hàng năm khoảng 2.612 lượt người tham dự. Ngoài ra, tại các xã, phường,
thị trấn cũng tổ chức hoạt động truyền thông trực tiếp cho người dân với hơn
36.457 lượt người tham dự.
Tổ chức hội thảo, tập huấn DS-KHHGĐ đối với lãnh đạo Đảng, cơ quan,
các ban ngành đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội các cấp, đối với các chức sắc tôn
giáo già làng, trưởng bản để chuyển tải những chủ trương chính sách pháp luật
của Đảng, Nhà nước đến nhân dân trên địa bàn tỉnh.
55
- Ngoài ra thực hiện nhiều cuộc tư vấn qua điện thoại và tư vấn trực tiếp
các nội dung về dân số, giáo dục giới tính, các bệnh lây truyền qua đường tình
dục, SKSS, KHHGĐ…. Thực hiện in ấn sản phẩm truyền thông, phát hành Bản
tin DS-KHHGĐ, hoặc tuyên truyền trên băng rôn, khẩu hiệu, xe cổ động.
Thực hiện nâng cao chất lượng công tác truyền thông, hàng năm tỉnh cử
cán bộ tham gia các lớp đào tạo, tập huấn về Truyền thông giáo dục do trung
ương tổ chức, đồng thời mở các lớp tập huấn cho cán bộ làm công tác truyền
thông huyện, xã nắm bắt được kiến thức căn bản và bổ sung những nội dung mới
trong việc truyền thông giáo dục công tác DS – KHHGD.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả, nhưng hoạt động công tác truyền thông
có xu hướng chững lại do khó khăn về tài chính, ngân sách Trung ương cắt giảm
toàn bộ kinh phí của hoạt động này, mà chỉ lồng ghép vào hoạt động của dự án,
mặc dù ngân sách tỉnh bổ sung kinh phí cho hoạt động này, nhưng để hoạt động
truyền thông hiệu quả cần phải xây dựng kế hoạch các hoạt động và kinh phí đi
kèm đảm bảo cho hoạt động được thường xuyên, liên tục và lâu dài.
2.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
Thực hiện kiểm tra, giám sát chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ
CSSKSS-KHHGĐ và thực hiện chỉ tiêu, kinh phí, tài sản thường xuyên.
Ngoài ra tham gia vào các đoàn kiểm tra giám sát về công tác chăm sóc sức
khỏe sinh sản cho thanh niên, kiểm tra giám sát xã phường đạt chẩn quốc gia về y tế...
Kiểm tra, đôn đốc, hỗ trợ các huyện, thị, thành cập nhật đầy đủ thông tin
về DS-KHHGĐ trên địa bàn vào phần mềm quản lý chuyên ngành DS-KHHGĐ
và tổng hợp dữ liệu báo cáo về Trung ương.
Kiểm tra, giám sát các nhà sách, nhà xuất bản có sách, ấn phẩm, tài liệu có
nội dung tuyên truyền, phổ biến phương pháp lựa chọn giới tính thai nhi.
Kết quả việc thanh, kiểm tra có Nhà sách Nguyễn Văn Cừ Biên Hòa và
Cửa hàng sách, thiết bị trường học Trảng Bom có phát hành sách có nội dung lựa
chọn giới tính thai nhi. Lập biên bản yêu cầu cơ sở ngừng phát hành đối với các
đầu sách có nội dung trên.
56
2.3. Đánh giá chất lượng công tác DS - KHHGĐ tại tỉnh ĐN
2.3.1. Những thành tựu
Quá trình thực hiện công tác DS - KHHGĐ tại tỉnh Đồng Nai thời gian
qua đã có nhiều cố gắng nỗ lực, mặc dù khó khăn do bộ máy còn nhiều bất cập,
kinh phí bị cắt giảm nhưng đã hoàn thành đạt và vượt các chỉ tiêu được giao thực
hiện tốt các hoạt động của công tác dân số - KHHGĐ góp phần to lớn vào việc
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
- Nhờ thực hiện tốt công tác giảm sinh, tốc độ tăng dân số được kiềm chế.
Cơ cấu dân số theo độ tuổi biến đổi nhanh, tỷ lệ những người trong độ tuổi tăng
lên, tỷ lệ nhóm tuổi trẻ em giảm mạnh tạo cơ hội cải thiện tình trạng giáo dục cho
các em và tạo cơ hội phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.
- Thực hiện tốt công tác Truyền thông, giáo dục tư vấn và cung cấp dịch
vụ KHHGĐ ngày càng tốt hơn số lượng và tỷ lệ phụ nữ nạo phá thai giảm mạnh,
mặt khác nhiều phụ nữ sinh ít, sinh thưa đã tránh được nguy cơ tử vong do thai
sản dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong mẹ, và tử vong trẻ em.
- Từ kết quả thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ mà số con của mỗi căp
vợ chồng đã giảm xuống tạo điều kiện thuận lợi cho các gia đình chăm sóc sức
khỏe và cho con đến trường, tỷ lệ nhập học tăng lên nhưng số học sinh phổ thông
giảm, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục.
- Tỷ lệ tăng dân số giảm, tác động tiêu cực của sự gia tăng dân số đến tăng
trưởng kinh tế của tỉnh giảm. Mặt khác việc quản lý tốt quy mô dân số, thực hiện
tốt việc giảm sinh trực tiếp làm tăng thu nhập bình quân đầu người hơn 1% mỗi
năm, giảm tỷ lệ hộ nghèo, ngăn chặn đà giảm sâu một số chỉ tiêu về tài nguyên,
môi trường, góp phần làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế 12,07% mỗi năm.
- Tham mưu được lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo, đầu tư nguồn lực và kiện toàn bộ máy làm công tác DS - KHHGĐ ở các
cấp, nhất là đội ngũ cộng tác viên dân số ở cơ sở.
- Quá trình thực hiện công tác DS - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh nằm trong
bối cảnh đất nước và địa phương phát triển mạnh mẽ, công cuộc đổi mới được
thực hiện toàn diện; hợp tác đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh,
57
nhiều khu công nghiệp mới được xây dựng và đi vào hoạt động tạo đà cho sự
tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh chóng, điều kiện này tạo thuận lợi lớn cho
công tác DS-KHHGĐ trong việc tham mưu đầu tư kinh phí, đầu tư đào tạo nguồn
nhân lực để nâng cao chất lượng dân số.
- Cơ chế quản lý thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về nâng
cao năng lực quản lý, thông tin-giáo dục-truyền thông và cung cấp dịch vụ
KHHGĐ đã tỏ ra có hiệu quả, tạo được sự tập trung nguồn lực cho cơ sở và đảm
bảo sự phối hợp, ủng hộ của các ngành, đoàn thể.
- Công tác DS - KHHGĐ bước đầu đã được xã hội hóa với sự tham gia của
nhiều ngành, đoàn thể và đông đảo các tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ.
2.3.2. Những hạn chế
Tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song trong thực hiện nhiệm vụ
công tác DS - KHHGĐ còn có những hạn chế sau:
-Tỷ lệ giảm sinh được giao trong những năm 2010 – 2013 có năm đạt, có
năm không đạt.
-Tỷ lệ giới tính khi sinh có xu hướng tăng không tốt, năm 2014 có khả năng
không đạt chỉ tiêu.
-Chất lượng dân số tuy đã được cải thiện nhưng chưa cao, chỉ tiêu về sàng
lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh đạt so với chỉ tiêu giao nhưng chưa xứng tầm
với một tỉnh công nghiệp.
2.3.3 Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế
Nguyên nhân thành tựu
- Xác định công tác DS-KHHGĐ là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội của đất nước nên Đảng, Nhà nước quan tâm ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo để thực hiện công tác DS - KHHGĐ. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân
dân, UBND tỉnh cụ thể hóa các văn bản cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương.
- Chính sách DS - KHHGĐ thời gian qua đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân, thực sự đem lại lợi ích kinh tế, tinh thần và sức khỏe cho mỗi cá nhân,
58
gia đình và xã hội, nên đã được đông đảo các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội
và các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và tích cực thực hiện.
- Có bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ từ tỉnh tới cơ sở xã, phường, thị
trấn và đội ngũ 3604 công tác viên dân số tham gia hoạt động. Đội ngũ làm công
tác DS - KHHGĐ tuyến tỉnh, tuyến huyện có trình độ, năng lực, nhiệt tình và yêu
nghề. Đặc biệt đội ngũ làm công tác DS- KHHGĐ tuyến huyện đa số các Trung
tâm Dân số - KHHGĐ đều có nghiệp vụ chuyên môn về Y tế như bác sỹ, nữ hộ
sinh, y sĩ nên công tác khám, chăm sóc sức khỏe sinh sản, làm dịch vụ KHHGĐ
và thực hiện các đợt chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ
CSSKSS/KHHGĐ đều chủ động làm được. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong
công tác tuyên truyền vận động để người dân dễ nghe theo thực hiện.
Nguyên nhân hạn chế
-Chưa có cơ chế chính sách toàn diện về dân số và phát triển; Việc lồng
ghép các yếu tố dân số vào việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của
từng địa phương chưa được chú trọng và thực hiện có hiệu quả.
- Đầu tư nguồn lực cho chương trình DS-KHHGĐ ngày càng bị cắt giảm
gây khó khăn rất lớn cho các hoạt động của công tác DS-KHHGĐ, định mức
kinh phí cho các hoạt động và chính sách cho các đối tượng còn thấp chưa đáp
ứng nhu cầu thực tế hiện nay.
- Chưa có các giải pháp để giải quyết hài hoà các nội dung về quy mô dân
số, chất lượng dân số và phân bổ dân cư. Một số chính sách kinh tế-xã hội còn
chưa đồng bộ với chính sách dân số.
- Chương trình DS - KHHGĐ trong thời gian qua mới chỉ tập trung vào
giảm mức sinh thông qua KHHGĐ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng về quy mô dân
số, chưa chú trọng nhiều đến các vấn đề dân số như chất lượng, cơ cấu dân số và
phân bổ dân cư.
- Hệ thống cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ chưa thật sự bảo đảm tính
thuận tiện, an toàn, đa dạng và chất lượng. Các nội dung khác của chăm sóc sức
khoẻ sinh sản chưa được chú trọng thích đáng.
59
- Bộ máy tổ chức không ổn định và hiện tại còn nhiều bất ổn tại cơ sở
phường, xã, thị trấn dẫn đến cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ tuyến cơ sở chưa
yên tâm công tác. Đội ngũ cán bộ xuất phát từ nhiều ngành, chưa được đào tạo
một cách có hệ thống về chuyên môn, nghiệp vụ. Số lượng cán bộ nói chung
không đủ so với yêu cầu công việc, đặc biệt là những địa phương có số dân đông
hoặc diện tích quá rộng và địa hình khó khăn cho việc đi lại.
- Phong tục tập quán và những yếu tố tâm lý về quy mô gia đình lớn và
giới tính của con cái tại một số địa phương còn nặng nề. Tư tưởng "phải có con
trai" vẫn còn tồn tại ở nhiều người và nhiều vùng, đặc biệt là những vùng sâu,
vùng xa, vùng nghèo dẫn đến chất lượng dân số chưa cao và chênh lệch tỷ số giới
tính khi sinh có nguy cơ tăng cao.
- Những ràng buộc của tôn giáo với tỷ lệ trên 33% dân số của tỉnh là đồng
bào công giáo nên phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình.
- Công tác phối hợp cộng đồng trách nhiệm thực hiện chương trình được
duy trì song còn mờ nhạt. Sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể từ tỉnh đến
cơ sở chưa thật chặt chẽ, liên tục trong năm, thường chỉ theo từng đợt chiến dịch
phát động.
- Đồng Nai là tỉnh công nghiệp nên vấn đề di dân tự do và gia tăng dân số
cơ học trên địa bàn tỉnh trong những năm qua khá lớn, bên cạnh việc tạo ra thị
trường lớn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ có sức hấp dẫn đầu tư, nhưng cũng
góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn trong giải quyết việc
làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn
xã hội, tai nạn giao thông...phần nào ảnh hưởng đến cơ cấu dân số, phân bố dân
cư và chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Chính vì vậy mà tuy đạt những kết
quả nhất định song công tác DS-KHHGĐ thời gian tới vẫn còn gặp những khó
khăn để thực hiện công tác nâng cao chất lượng dân số, duy trì mức sinh và đảm
bảo cân bằng giới tính khi sinh.
60
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Nội dung chương hai của luận văn đã phân tích rõ những nhân tố ảnh
hưởng tới công tác dân số - KHHGĐ Đồng Nai đó là các điều kiện tự nhiên, điều
kiện kinh tế, xã hội, chính sách về dân số của nhà nước và của tỉnh:
-Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng phát triển
kinh tế trọng điểm phía Nam, có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến
giao thông huyết mạch chạy qua tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế
trong vùng cũng như giao thương với cả nước. Với vị trí địa lý đắc đạo, điều kiện
tự nhiên thuận lợi, kinh tế phát triển, xã hội ổn định làm cho Đồng Nai thu hút
mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và cũng là nơi có lượng dân nhập cư hàng năm rất
lớn tác động đến quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số ảnh hưởng rất nhiều đến
công tác dân số-KHHGĐ của tỉnh.
-Chính sách về dân số và một số chính sách về kinh tế xã hội của Đảng,
Nhà nước và của tỉnh ban hành có vai trò hết sức quan trọng để định hướng các
mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ tác động mạnh mẽ tới việc thực hiện công tác dân số
- kế hoạch hóa gia đình tại tỉnh.
Đồng thời, chương hai của luận văn đã phân tích rõ thực trạng công tác
dân số- KHHGĐ tại tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2010 đến 2013 về các mặt:
- Một là công tác quản lý tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính;
- Hai là công tác tham mưu, phối hợp và chỉ đạo;
- Ba là công tác quản lý về quy mô, cơ cấu dân số;
- Bốn là công tác quản lý thực hiện để nâng cao chất lượng dân số;
- Năm là công tác truyền thông, giáo dục;
- Sáu là công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Từ đó luận văn đã đánh giá được chất lượng công tác DS-KHHGĐ tại tỉnh
Đồng Nai, rút ra được những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế.
61
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
DS - KHHGĐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2025
Giai đoạn từ nay đến năm 2025, công tác DS - KHHGĐ của tỉnh Đồng
Nai sẽ chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực tác động đến
tình hình chung của kinh tế chính trị xã hội thế giới, của nước ta cũng như những
ảnh hưởng khác của tỉnh. Đó là xu hướng chung trên thế giới hiện nay: hòa bình,
hợp tác phát triển; cùng những hệ thống thể chế, cơ chế chính sách phát triển
kinh tế xã hội nói chung trong nước và cơ chế chính sách thực hiện công tác DS -
KHHGĐ nói riêng.
3.1. Quan điểm và mục tiêu về công tác DS - KHHGĐ
3.1.1. Quan điểm và mục tiêu về công tác DS - KHHGĐ Việt Nam
3.1.1.1. Quan điểm
Để định hướng thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ trong giai đoạn hiện
nay, Nhà nước ban hành Chiến lược Dân số, sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 –
2020, Chiến lược là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước;
một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là
yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân
số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Chiến lược thể hiện rõ quan
điểm, mục tiêu, chỉ tiêu để thực hiện công tác DS-KHHGĐ trong thời gian tới.
Với quan điểm Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020 là một nội dung quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao
chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Cần phải
giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khỏe sinh sản, tập trung nâng cao chất
lượng dân số, cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi thế của cơ cấu
“dân số vàng”, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát tỷ số giới
tính khi sinh.Với giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số, chăm sóc sức
khỏe sinh sản là sự kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa vận động, giáo dục, truyền
thông chuyển đổi hành vi, cung cấp dịch vụ dự phòng tích cực, chủ động, công
62
bằng, bình đẳng và chế tài kiên quyết, hiệu quả đối với các đơn vị, cá nhân hoạt
động dịch vụ vi phạm các quy định về chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi.
Đồng thời với việc đầu tư cho công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản là đầu
tư cho phát triển bền vững, mang lại hiệu quả trực tiếp về kinh tế, xã hội và môi
trường. Tăng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước, tích cực tranh thủ các nguồn
viện trợ và huy động sự đóng góp của nhân dân; ưu tiên nguồn lực cho vùng sâu,
vùng xa, miền núi, vùng ven biển và hải đảo và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng và chính quyền; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; huy
động sự tham gia của toàn xã hội; tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy để
thực hiện có hiệu quả công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
3.1.1.2. Mục tiêu tổng quát
Từ quan điểm trên Chính phủ đã đưa ra các nhóm mục tiêu tổng quát và
mục tiêu cụ thể. Mục tiêu tổng quát là nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình
trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề
về cơ cấu dân số và phân bố dân số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.1.1.3. Mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể
Với 11 mục tiêu cùng các chỉ tiêu cụ thể được thể hiện từ mục tiêu: Phấn
đấu tốc độ tăng dân số ở mức khoảng 1% vào năm 2015 và ổn định ở mức
khoảng 1% vào năm 2020; chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình
cao của thế giới vào năm 2020. Đến mục tiêu: Nâng cao sức khỏe, giảm bệnh, tật
và tử vong ở trẻ em, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về các chỉ báo sức khỏe trẻ em
giữa các vùng, miền.cùng các chỉ tiêu, mục tiêu:
Chỉ tiêu 1: Giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi xuống 19,3‰ vào năm
2015 và xuống 16‰ vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt 15% vào
năm 2015 và 50% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc đạt 30% vào năm 2015 và
80% vào năm 2020
.- Mục tiêu 3: Nâng cao sức khỏe bà mẹ, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về
các chỉ báo sức khỏe bà mẹ giữa các vùng, miền.
63
+ Chỉ tiêu: Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống
58,3/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và xuống dưới 52/100.000 vào năm 2020.
- Mục tiêu 4: Giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh, đặc biệt tập
trung vào các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tình trạng mất cân bằng
nghiêm trọng về tỷ số giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức 105 -
106 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái khoảng năm 2025.
+ Chỉ tiêu: Tỷ số giới tính khi sinh dưới mức 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ
sơ sinh gái vào năm 2015 và dưới mức 115/100 vào năm 2020.
- Mục tiêu 5: Duy trì mức sinh thấp hợp lý, đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế
hoạch hóa gia đình của người dân, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ sinh sản
có chất lượng.
+ Chỉ tiêu 1: Tổng tỷ suất sinh (số con trung bình của một cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ) giảm xuống 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Quy mô dân số không vượt quá 93 triệu người vào năm 2015
và 98 triệu người vào năm 2020.
- Mục tiêu 6: Giảm tỷ lệ phá thai, cơ bản loại trừ phá thai không an toàn.
+ Chỉ tiêu: Giảm tỷ lệ phá thai xuống 27/100 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và
xuống dưới 25/100 vào năm 2020.
- Mục tiêu 7: Giảm nhiễm khuẩn đường sinh sản, nhiễm khuẩn lây truyền
qua đường tình dục; chủ động phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư
đường sinh sản, chú trọng sàng lọc ung thư đường sinh sản ở phụ nữ trong độ
tuổi 30 - 54 tuổi.
+ Chỉ tiêu 1: Giảm 15% số trường hợp nhiễm khuẩn đường sinh sản vào
năm 2015 và 30% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Giảm 10% số trường hợp nhiễm khuẩn lây truyền qua đường
tình dục vào năm 2015 và 20% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ phụ nữ ở độ tuổi 30 - 54 tuổi được sàng lọc ung thư cổ
tử cung đạt 20% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ phụ nữ trên 40 tuổi được sàng lọc ung thư vú đạt 20%
vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
64
- Mục tiêu 8: Cải thiện sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên và
thanh niên.
+ Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
thân thiện với người chưa thành niên và thanh niên lên 50% tổng số điểm cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản vào năm 2015 và 75% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Giảm 20% số người chưa thành niên có thai ngoài ý muốn
vào năm 2015 và giảm 50% vào năm 2020.
- Mục tiêu 9: Cải thiện sức khỏe sinh sản cho các nhóm dân số đặc thù
(người di cư, người khuyết tật, người nhiễm HIV, người dân thuộc dân tộc có
nguy cơ suy thoái về chất lượng giống nòi); đáp ứng kịp thời nhu cầu chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho người là nạn nhân của bạo lực vì lý do giới tính và trong
trường hợp thảm họa, thiên tai.
+ Chỉ tiêu: Tăng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của các
nhóm dân số đặc thù lên 20% vào năm 2015 và 50% năm 2020.
- Mục tiêu 10: Tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
+ Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ cơ sở y tế tuyến huyện trở lên có điểm cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi lên 20% vào năm 2015 và 50%
vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Tăng tỷ lệ người cao tuổi được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe dựa vào cộng đồng lên 20% vào năm 2015 và 50% năm 2020.
- Mục tiêu 11: Thúc đẩy phân bố dân số phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế - xã hội quốc gia; tăng cường lồng ghép các yếu tố về dân số vào
hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
ở các cấp, các ngành.
Trong thời gian qua, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình Việt Nam đã
có những tiến bộ vượt bậc, đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng trên
chặng đường hướng tới việc giải quyết một cách toàn diện, đồng bộ và vững chắc
các vấn đề dân số, trước mắt Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Hằng năm dân số Việt Nam tăng 1,1 đến 1,2 triệu người. Với hơn 90 triệu người,
quy mô dân số còn khá lớn.
65
Mặt khác, do tác động mức sinh cao những năm trước đây, số phụ nữ
bước vào độ tuổi sinh đẻ hằng năm vẫn gấp gần ba lần số người bước ra khỏi độ
tuổi sinh đẻ. Những yếu tố đó tạo ra áp lực phát triển dân số rất lớn. Bên cạnh đó,
những kết quả nhận thức và hành động về dân số của chúng ta chưa vững chắc.
Nhiều vấn đề trong lĩnh vực dân số như tình trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản vị
thành niên/thanh niên, sự phát triển của đại dịch HIV/AIDS, chất lượng dân số
thấp, di dân và quản lý dân số, an toàn cho các bà mẹ... chưa được giải quyết tốt.
Vì vậy, việc Nhà nước ban hành Chiến lược dân số, sức khỏe sinh sản thay cho
chiến lược Dân số kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2001 – 2010 mang tầm hết
sức quan trọng. Chiến lược định hướng chuyển đổi công tác DS-KHHHGĐ từ
trọng tâm là giảm sinh sang phát triển bền vững mà trọng tâm là nâng cao chất
lượng dân số, bởi suy cho cùng yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh
tế - xã hội là nguồn nhân lực, mà nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền sự biến đổi
dân số cả về số lượng và chất lượng. Mục tiêu của sự phát triển suy cho cùng là
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con
người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng
dân số, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích
cực đến sự phát triển.
Ðể có sự phát triển bền vững, việc đáp ứng tăng nhu cầu và nâng cao chất
lượng cuộc sống của các thế hệ hiện tại không được ảnh hưởng các thế hệ tương
lai trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và chất lượng
của sự phát triển. Trong thực tế, các yếu tố dân số có ảnh hưởng rất lớn đến tài
nguyên thiên nhiên và trạng thái môi trường. Dân số phù hợp sự phát triển đòi
hỏi sự điều chỉnh các xu hướng dân số phù hợp sự phát triển nền kinh tế - xã hội
của đất nước.
Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển nhanh và bền
vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao tiềm lực
của lực lượng sản xuất; là yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tình trạng
thất nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao trình độ học vấn,
nâng cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi trường, mở rộng dịch vụ y
tế, xã hội và huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, khoa
66
học và công nghệ; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
3.1.2. Mục tiêu của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tỉnh Đồng Nai
Từ nay đến năm 2025 tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đồng Nai dự
kiến tăng bình quân khoảng 11% - 12%/năm. GDP đầu người đạt khoảng
9.000USD – 10.000USD. Cơ cấu kinh tế đến năm 2025: khu vực công nghiệp-
xây dựng chiếm 53%-54%, khu vực dịch vụ chiếm 44%-45%, khu vực nông
nghiệp chiếm khoảng 4%-5%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 90%, trong đó
đào tạo nghề đạt 80% vào năm 2025. Tỷ lệ các xã nông thôn mới đạt trên 85%.
Tỷ lệ các hộ gia đình nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%. Quy mô
dân số khoảng 3,3 triệu – 3,4 triệu người với tỷ lệ dân số thành thị chiếm 55%-
56% vào năm 2025. Công tác DS-KHHGĐ của tỉnh sẽ gặp nhiều khó khăn thách
thức khi mà quy mô dân số lớn, chất lượng dân số chưa cao, nguồn kinh phí thực
hiện công tác DS-KHHGĐ trung ương cấp giảm nhiều.
Để có những hành động mạnh mẽ nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ, tích cực hơn nữa trong lĩnh vực dân số, vì một quy mô dân số hợp
lý, từng bước nâng cao chất lượng dân số, chống lại tình trạng đói nghèo; gắn
liền công tác dân số với quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững phù hợp
với xu hướng phát triển của tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch thực
hiện Chiến lược dân số, sức khỏe sinh sản với các mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể.
3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên;
kiểm soát quy mô dân số ở mức hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện
tình trạng SKSS, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, và phân bố dân
số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
3.1.2.2. Mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể
- Mục tiêu 1: Phấn đấu tốc độ tăng dân số ở mức khoảng 1,05% vào năm
2015 và ổn định ở mức khoảng 1,0% vào năm 2020; chỉ số phát triển con người
(HDI) cao hơn mức trung bình của cả nước vào năm 2020.
67
- Mục tiêu 2: Nâng cao sức khỏe, giảm bệnh, tật và tử vong ở trẻ em, thu
hẹp đáng kể sự khác biệt về các chỉ báo sức khỏe trẻ em giữa các vùng, miền
trong tỉnh.
+ Chỉ tiêu 1: Giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 05 tuổi xuống 12‰ vào năm
2015 và xuống 10‰ vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt 10% vào
năm 2015 và 40% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc đạt 25% vào năm 2015 và
60% vào năm 2020.
- Mục tiêu 3: Nâng cao sức khỏe bà mẹ, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về
các chỉ báo sức khỏe bà mẹ giữa các vùng, miền.
+ Chỉ tiêu: Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống
29/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và xuống dưới 25/100.000 vào năm 2020.
- Mục tiêu 4: Giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh, tiến tới đưa
tỷ số này về mức sinh học tự nhiên (105 - 107 trẻ trai/100 trẻ gái).
+ Chỉ tiêu: Tỷ số giới tính khi sinh đạt mức 110 - 112 trẻ sơ sinh trai/100
trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và mức 108 - 110/100 vào năm 2020.
- Mục tiêu 5: Duy trì mức sinh thấp hợp lý, đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế
hoạch hóa gia đình của người dân, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ sinh sản
có chất lượng.
+ Chỉ tiêu 1: Tổng tỷ suất sinh (số con trung bình của một cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ) đạt 1,9 con vào năm 2015, và 1,8 con vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Quy mô dân số không vượt quá 2,9 triệu người vào năm
2015 và 3,2 triệu người vào năm 2020.
- Mục tiêu 6: Giảm tỷ lệ phá thai, cơ bản loại trừ phá thai không an toàn.
+ Chỉ tiêu: Giảm tỷ lệ phá thai xuống dưới 22/100 trẻ đẻ sống vào năm
2015 và xuống dưới 20/100 trẻ đẻ sống vào năm 2020.
- Mục tiêu 7: Giảm nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh lây truyền qua
đường tình dục; chủ động phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư đường sinh
sản, chú trọng sàng lọc ung thư đường sinh sản ở phụ nữ trong độ tuổi 30 - 55 tuổi.
68
+ Chỉ tiêu 1: Giảm 15% số trường hợp nhiễm khuẩn đường sinh sản vào
năm 2015 và 20% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Giảm 12% số trường hợp nhiễm khuẩn lây truyền qua đường
tình dục vào năm 2015 và 15% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ phụ nữ ở độ tuổi 30 - 55 tuổi được sàng lọc ung thư cổ
tử cung đạt 40% vào năm 2015 và 60% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ phụ nữ trên 40 tuổi được sàng lọc ung thư vú đạt 30%
vào năm 2015 và 60% vào năm 2020.
- Mục tiêu 8: Nâng cao nhận thức, kỹ năng thực hành chăm sóc sức khỏe
sinh sản của người chưa thành niên và thanh niên, từng bước góp phần nâng cao
thể chất, trí tuệ, tinh thần cho vị thành niên, thanh niên.
+ Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
thân thiện với người chưa thành niên và thanh niên lên 70% tổng số điểm cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản vào năm 2015 và 85% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Giảm 30% số người chưa thành niên có thai ngoài ý muốn
vào năm 2015 và 60% vào năm 2020.
- Mục tiêu 9: Cải thiện sức khỏe sinh sản cho các nhóm dân số đặc thù
(người di cư, người khuyết tật, người nhiễm HIV, người dân tộc thiểu số); đáp
ứng kịp thời nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người là nạn nhân của bạo
lực vì lý do giới tính và trong trường hợp thảm họa, thiên tai.
+ Chỉ tiêu: Tăng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của các
nhóm dân số đặc thù lên 25% vào năm 2015 và 40% năm 2020.
- Mục tiêu 10: Tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
+ Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ cơ sở y tế tuyến huyện trở lên có điểm cung cấp
dịch vụ CSSK cho người cao tuổi lên 50% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020.
+ Chỉ tiêu 2: Tăng tỷ lệ người cao tuổi được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe dựa vào cộng đồng lên 50% vào năm 2015 và 70% năm 2020.
- Mục tiêu 11: Thúc đẩy phân bố dân số phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tăng cường lồng ghép các yếu tố về dân số vào
hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
ở các cấp, các ngành.
69
Như vậy toàn bộ Kế hoạch của tỉnh đề ra để thực hiện chiến lược Dân số,
Sức khỏe sinh sản có thể nhận thấy với các mục tiêu yêu cầu và nhiệm vụ trọng
tâm được nhấn mạnh là Nâng cao chất lượng dân số: Ngay mục tiêu đầu tiên của
kế hoạch đã đưa ra yêu cầu chỉ số phát triển con người HDI của tỉnh đến năm
2020 phải cao hơn mức trung bình của cả nước, chỉ số này là thước đo về chất
lượng dân số, bởi HDI là trung bình nhân của các chỉ số về kinh tế (thu nhập
quốc dân bình quân đầu người), giáo dục (tỷ lệ người lớn biết chữ và số năm đi
học) và sức khỏe (tuổi thọ). Như vậy việc phải làm là tăng trình độ học vấn, tạo
việc làm, nâng cao sức khỏe giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, tử vong mẹ, chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi để tăng tuổi thọ là điều quan trọng nhất trong việc thực hiện
công tác giai đoạn này. Các mục tiêu kế tiếp từ 2 đến 10 (ngoại trừ mục tiêu 4)
cùng các chỉ tiêu đi kèm hỗ trợ bổ sung và chi tiết rõ ràng hơn cho mục tiêu chính
đầu tiên là nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn tỉnh. Một phần của mục tiêu 1
và mục tiêu 4 đề cập đến quy mô và cơ cấu dân số với nội dung chính là duy trì
mức sinh thấp hợp lý, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh để tiến tới đưa
tỷ số này về mức sinh học tư nhiên. Đây là mục tiêu rất quan trọng, bởi sự mất
cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh thuộc loại mất cân bằng vật chất - nền tảng của sự
tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, tất yếu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, như
khó khăn trong việc kết hôn; nguy cơ lan rộng các bệnh lây nhiễm qua đường
tình dục, gia tăng tội phạm xã hội do khan hiếm phụ nữ nên xảy ra nạn lừa đảo,
bắt cóc, buôn bán phụ nữ, mại dâm,... Hoặc phụ nữ có thể bị ép buộc sinh thêm
con, phá thai nhi gái, bất chấp sức khỏe và tính mạng, bị ngược đãi, phụ tình,
ruồng bỏ khi không sinh được con trai, vì vậy việc đưa mục tiêu này là nhiệm vụ
quan trọng là hết sức cần thiết. Với mục tiêu cuối cùng là tăng cường lồng ghép
các yếu tố về dân số vào hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành. Thúc đẩy phân bố dân số phù hợp
với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đây chính là việc lồng ghép
biến dân số vào kế hoạch hóa phát triển, bảo đảm nguyên tắc con người là trung
tâm của phát triển, để kế hoạch có tính thực tiễn, hiệu quả cao thì phải tiến hành
dự báo dân số và tính đến yếu tố dân số trong kế hoạch hóa phát triển. Trong đó,
trọng tâm là kế hoạch hóa lao động - việc làm tận dụng cơ cấu dân số vàng, kế
70
hoạch hóa giáo dục và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và kế hoạch
hóa y tế có như vậy kinh tế xã hội của tỉnh mới phát triển bền vững.
3.2. Một số giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình
3.2.1. Về lãnh đạo, tổ chức và quản lý DS - KHHGĐ
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của chính
quyền các cấp, sự tham gia tích cực và phối hợp đồng bộ của các sở, các ngành,
các tổ chức đoàn thể trong tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ. Quán triệt
và thực hiện nghiêm các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về dân số, xác định công tác dân số - KHHGĐ là nhiệm vụ chính trị
thường xuyên, là tiêu chí để đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động của cấp các
ngành, các tổ chức đoàn thể; đưa công tác dân số vào chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của từng ngành, địa phương để tổ chức thực hiện. Thường xuyên
theo dõi, kiểm tra đôn đốc, giám sát việc thực hiện công tác dân số - KHHGĐ và
kịp thời chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện.
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ các cấp, bố
trí và ổn định đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ theo hướng chuyên
nghiệp hóa, đảm bảo đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ; nhất là đội ngũ cán
bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, việc thực hiện pháp luật, chính
sách, chế độ chương trình, kế hoạch về DS - KHHGĐ, chú trọng việc quản lý
theo chương trình mục tiêu quốc gia đối với các hoạt động trong lĩnh vực dân số
- KHHGĐ.
3.2.2. Về truyền thông, giáo dục
Công tác DS-KHHGĐ có thành công hay không là nhờ phần lớn vào việc
tuyên truyền, giáo dục, chính vì vậy mà truyền thông giáo dục thời gian tới cần
thực hiện các nội dung:
- Tăng cường cung cấp thông tin về dân số, DS – KHHGĐ, SKSS đến lãnh
đạo các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể để chỉ đạo, phối hợp thực hiện
chiến lược DS-SKSS.
71
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông giáo
dục, với nội dung hình thức và cách tiếp cận phù hợp với từng nhóm đối tượng,
tập trung hướng về cơ sở, ưu tiên các đối tượng khó tiếp cận thông tin, đối tượng
ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và địa bàn trọng điểm.
- Duy trì và đẩy mạnh mô hình và dịch vụ tư vấn trực tiếp, thân thiện cho
đối tượng sinh con một bề, đối tượng nghèo, dân tộc ít người, dân di cư, vị thành
niên, thanh niên. Tuyên truyền vận động cộng đồng, đặc biệt là nhóm phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ tham gia thực hiện mô hình sàng lọc, chẩn đoán và điều trị
sớm một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh.
- Duy trì mô hình chiến dịch tăng cường cung cấp dịch vụ
CSSKSS/KHHGĐ tại các xã khó khăn, có mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở
lên cao. Không ngừng đầu tư trang thiết bị truyền thông, xuất bản các sản phẩm,
tài liệu truyền thông phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Cải tiến, nâng cao chất lượng công tác thống kê, lưu trữ thông tin, tư liệu
phục vụ cho công tác tuyên truyền về dân số - KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh
sản.
3.2.3. Về nâng cao chất lượng dân số và can thiệp giảm thiểu mất cân bằng
giới tính khi sinh.
- Con người là sản phẩm cao nhất, tinh túy nhất của tự nhiên, là chủ thể của
xã hội, là động lực sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần và cũng là người hưởng
thụ những sản phẩm làm ra. Sự phát triển xã hội là sự phát triển của con người về
thể trạng, nhận thức, tư tưởng, quan hệ xã hội, khả năng tác động sâu sắc vào tự
nhiên và về trình độ hưởng thụ những sản phẩm do con người làm ra. Dân số
đông thì sức lao động nhiều (lao động thủ công), sản xuất nhiều của cải vật chất
nhưng cũng tiêu thụ nhiều của cải hơn. Dân số quá thấp thì sức lao động không
đủ, không thể có tồn tại và phát triển xã hội. Do đó phải đảm bảo dân số ổn định,
thực hiện tốt công tác duy trì mức sinh, phát triển kinh tế xã hội bền vững để đảm
bảo chất lượng cuộc sống tốt cho cộng đồng.
- Nâng cao chất lượng dân số cần thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản – KHHGĐ:
72
+ Mở rộng và kiện toàn mạng lưới cung cấp dịch vụ DS và SKSS, áp dụng
các mô hình, phương thức cung cấp dịch vụ riêng biệt, đảm bảo nhu cầu thiết yếu
về dịch vụ DS, CSSKSS, KHHGĐ cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn. Đảm bảo cung cấp các gói dịch vụ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh
sản thiết yếu ở tất cả các tuyến, đặc biệt là tuyến cơ sở. Nâng cao chất lượng dịch
vụ DS và CSSKSS thông qua việc hoàn thiện quy trình kỹ thuật, đầu tư, nâng cấp
cơ sở hạ tầng đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ đồng htời bồi dưỡng, cập nhật
kiến thức cho những người cung cấp dịch vụ dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
+ Đẩy mạnh tiếp thị xã hội các phương tiện tránh thai (PTTT) qua kênh tiếp
thị xã hội, hoàn thiện hệ thống hậu cần PTTT. Củng cố, nâng cấp hệ thống dự
trữ, bảo quản, cung cấp PTTT và thuốc, vật tư, hoá chất, sinh phẩm thiết yếu
phục vụ các dịch vụ SKSS và KHHGĐ.
- Đồng thời thực hiện tốt công tác tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn
nhân, sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh: Mở rộng cung cấp các dịch vụ tư
vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân, tiếp tục triển khai mô hình Chẩn đoán
trước sinh và sàng lọc sơ sinh:chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh, tật trước
khi sinh và sơ sinh để phát hiện và can thiệp sớm một số bệnh bẩm sinh, dị tật sơ
sinh và khuyết tật; phòng tránh, phát hiện sớm các bệnh nhiễm khuẩn, ung thư
đường sinh sản; chăm sóc bà mẹ trước, trong và sau khi sinh; chăm sóc trẻ sơ
sinh và trẻ em nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, giảm tỷ lệ bệnh tật ở
trẻ sau khi ra đời. Xây dựng và triển khai thực hiện mô hình chăm sóc người cao
tuổi. Khuyến khích người cao tuổi có trình độ chuyên môn, kỹ năng, đặc biệt
trong các ngành kỹ thuật, sản xuất, tiếp tục tham gia đóng góp cho việc đào tạo.
- Đặc điểm của Đồng Nai có tỷ lệ cơ cấu dân số trẻ cao, việc đầu tư cho
thanh niên phát triển toàn diện, có trình độ học vấn, nghề nghiệp và việc làm, có
văn hóa, sức khỏe, kỹ năng sống và ý chí vươn lên, hình thành nguồn nhân lực
trẻ có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế sẽ luôn là mục tiêu lớn cần theo đuổi. Vì vậy cần ban
hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện về học tập, lao động, giải trí, phát triển thể
lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ; Tăng cường đầu tư đổi mới hoạt động thể chất và
phong trào thể dục thể thao, tạo điều kiện cho thanh thiếu niên tích cực tham gia
73
hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện thể chất; Nâng cao sức khỏe thể chất và
tinh thần, giáo dục sức khỏe sinh sản và giáo dục tiền hôn nhân cho thanh
niên; Tiếp tục thực hiện các chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về dân
số, chăm sóc sức khỏe, phòng chống HIV/AIDS, ma túy, mại dâm trong thanh
niên; Tạo môi trường và điều kiện để khuyến khích thanh niên tham gia các hoạt
động cộng đồng, nâng cao kỹ năng sống và làm việc cho thanh niên; Khuyến
khích thanh niên tự bảo vệ mình trước các tệ nạn xã hội, các sản phẩm phản văn
hóa, tệ nạn ma túy, mại dâm; Tạo điều kiện để Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh và các tổ chức thanh niên động viên thanh niên xung kích tham gia phòng
chống các tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/AIDS, ma túy, mại dâm, lạm dụng
rượu, bia, thuốc lá; Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cho thanh niên, nâng
cao thể chất và tinh thần, kỹ năng sống, kiến thức về giới và sức khỏe sinh sản
cho thanh niên. Điều này cần có sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn
thể và cộng đồng để thực hiện tốt công tác này.
Trong những năm sắp tới, với sự phát triển kinh tế - xã hội, mức sống của
người dân sẽ tiếp tục được cải thiện nên theo quy luật, mất cân bằng giới tính khi
sinh sẽ có thể ngày càng lan rộng về mặt địa lý và ở các nhóm kinh tế xã hội
khác nhau. Điều này có thể sẽ tiếp tục làm gia tăng tỷ số giới tính khi sinh. Để
giảm tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, cần phải có các giải pháp giải
quyết một cách toàn diện bằng chính sách, pháp luật, bằng công tác truyên truyền
giáo dục và thực hiện chính sách xã hội liên quan đến mất cân bằng giới tính khi
sinh.
.+ Nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến phương pháp chọn lọc giới tính thai
nhi dưới các hình thức: tổ chức nói chuyện, viết, dịch, phát hành các loại sách,
báo, tài liệu, tranh, ảnh, ghi hình, ghi âm; tàng trữ, lưu truyền tài liệu, phương
tiện và các hình thức tuyên truyền, phổ biến khác về phương pháp chọn lọc giới
tính thai nhi.
+ Nghiêm cấm chẩn đoán giới tính thai nhi bằng biện pháp như: xác định
giới tính thai nhi qua triệu chứng, bắt mạch; xét nghiệm máu, gen, nước ối, tế
bào; siêu âm.
74
+ Nghiên cấm loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính bằng các biện
pháp: phá thai, cung cấp, sử dụng các loại hoá chất, thuốc và biện pháp khác.
+ Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt
động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới;
+ Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc
người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.
+ Tăng cường thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật về các nội dung
liên quan đến giới tính khi sinh.
+ Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em gái trong học tập, chăm sóc sức
khoẻ sinh sản và phát triển sản xuất.
+ Can thiệp thông qua việc lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ
an sinh xã hội và thực hiện bình đẳng giới.
- Phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng ở Trung ương và địa
phương tuyên truyền, phản ánh tình hình về giới tính khi sinh.
- Lồng ghép đưa nội dung về giới tính khi sinh vào chương trình phối hợp
giữa Dân số với các ban ngành, đoàn thể.
- Triển khai hoạt động tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng
đồng nhằm cải thiện an sinh xã hội đối với người cao tuổi, góp phần giảm bớt sự
lo lắng khi về già của người cao tuổi sinh con 1 bề gái.
- Đầu tư cho công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình nói chung và giải
quyết các mục tiêu về mất cân bằng giới tính khi sinh nói riêng là đầu tư cho phát
triển bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Để giảm nhanh tốc độ gia tăng
mất cân bằng giới tính khi sinh cần tăng cường và ưu tiên nguồn lực cho việc giải
quyết các mục tiêu về mất cân bằng giới tính khi sinh
3.2.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách dân số
- Xây dựng chế độ chính sách khuyến khích và hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật, tạo điều kiện thực hiện tốt công tác DS - KHHGĐ.
- Xây dựng, sửa đổi và bổ sung các chính sách trong lĩnh vực DS - KHHGĐ
thích ứng với những thay đổi về quy mô, cơ cấu dân số, phân bổ dân cư, nâng
cao chất lượng dân số.
75
- Xây dựng những chính sách và chương trình cụ thể để nâng cao chất
lượng dân số với phát triển kinh tế như:
+ Chính sách đối với những nhóm đặc thù như vị thành niên, người già,
người tàn tật (trong thập niên tới người già sẽ tăng 8-25%), người dân tộc thiểu
số.
+ Chính sách về môi trường – sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường –
phát triển bền vững.
+ Chính sách xã hội về di cư. Thực hiện di cư có quy hoạch, kế hoạch nằm
trong phương hướng chiến lược tái phân bố dân cư và lao động – giảm sức ép nơi
quá đông dân. Di cư tự phát có nguy hại là khai thác bừa bãi, gây đảo lộn về giao
thông, y tế, giáo dục. Tuy nhiên, không thể ngăn cấm được. Vì vậy, vấn đề là
phải quản lý nhân khẩu từ đó quản lý được tài nguyên. Phát huy mặt tích cực, tạo
hòa đồng với dân cư nơi ở mới.
+ Chính sách về đô thị hóa. Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế xã hội – là xu hướng chuyển đổi từ xã hội nông thôn là phổ
biến sang xã hội đô thị là phổ biến tại các nước phát triển và đang phát triển. Đô
thị hóa phải tiến hành trên cơ sở dữ liệu cụ thể, có phương án thực hiện một cách
thấu đáo; phải được thực hiện một cách đồng bộ, có đầy đủ các yếu tố đảm bảo
cho dân cư có cuộc sống ổn định, được hưởng các quyền lợi về chăm sóc y tế,
giáo dục, và văn hóa.
3.2.5. Về xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác
- Đẩy mạnh xã hội hóa công tác DS - KHHGĐ. Lồng ghép chính sách dân
số vào mô hình gia đình văn hoá, cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở
lên. Huy động cộng đồng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp tham gia công tác DS-
KHHGĐ. Khuyến khích các cơ sở ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ DS-
KHHGĐ.
- Tăng cường phối hợp liên ngành, đề cao trách nhiệm của từng cơ quan,
đơn vị trong việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở, xây dựng cơ
chế phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan, đơn vị, thực hiện công tác DS-
KHHGĐ trong triển khai chiến lược. Huy động các tổ chức đoàn thể, tổ chức
chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và cộng đồng dân cư tham gia tích
76
cực vào việc tuyên truyền giáo dục, vận động và tư vấn tổ chức thực hiện công
tác DS-KHHGĐ.
- Hợp tác quốc tế: Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm
tuyên truyền, trao đổi, học tập kinh nghiệm DS - KHHGĐ.
3.2.6. Về đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin số liệu
- Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ DS-SKSS
theo hướng chuyên nghiệp hóa; nâng cao năng lực và tổ chức thực hiện các
nghiên cứu khoa học về DS-SKSS; tăng cường năng lực giám sát, đánh giá, phân
tích và dự báo. Tập huấn cho cán bộ lãnh đạo các cấp về các quy định, hướng
dẫn tổ chức thực hiện các chương trình DS-SKSS.
- Chú trọng công tác quản lý khoa học trong lĩnh vực DS-SKSS, nâng cao
chất lượng thu thập, xử lý thông tin số liệu về DS-SKSS. Đẩy mạnh tin học hóa
hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu chuyên ngành DS và SKSS để cung cấp
thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác. Xây dựng hệ thống số liệu dân số đầy đủ,
tin cậy và dự báo dân số. Do dân số biến đổi nhanh và phức tạp, như di dân, việc
xây dựng hệ thống số liệu dân số đầy đủ, kịp thời, chính xác và dự báo đáng tin
cậy là cơ sở không thể thiếu cho việc lồng ghép biến dân số vào kế hoạch hóa
phát triển và bảo đảm hệ thống chính sách, kế hoạch này sát thực tế, hiệu lực và
hiệu quả.
- Phối hợp với ngành Thống kê để đánh giá những chỉ báo về DS và SKSS
nói riêng và các chỉ báo kiểm định của chiến lược DS-SKSS đến năm 2020.
Đánh giá về quy mô, cơ cấu và chất lượng DS để có những định hướng về phát
triển kinh tế - xã hội. Tiến hành khảo sát đánh giá tỷ lệ giới tính khi sinh, tình
trạng nạo phá thai, tình trạng dị tật, khuyết tật bẩm sinh...
3.2.7. Giải pháp huy động nguồn lực
- Tăng mức đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác DS-KHHGĐ, đáp ứng
nhiệm vụ đề ra. Lồng ghép các hoạt động DS/SKSS vào chương trình hoạt động
thường xuyên của các ngành, các tổ chức đoàn thể, các chương trình, dự án. Huy
động nguồn lực từ cộng đồng, từ các tổ chức để tăng nguồn lực và hiệu quả của
chương trình.
77
- Tăng cường quản lý, giám sát và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí đầu
tư cho cho công tác DS-KHHGĐ; lồng ghép công tác DS-KHHGĐ với việc thực
hiện các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở
mức hợp lý đế có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nâng cao chất lượng dân số, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
3.3. Một số kiến nghị đối với trung ương và địa phương
Nhằm hỗ trợ các giải pháp thực hiện thành công công tác DS-KHHGĐ của
tỉnh đạt được các mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch thực hiện chiến lược 2011-
2020 và dự báo đến năm 2025: duy trì mức giảm sinh vững chắc, đảm bảo cân
bằng giới tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số, đáp ứng với nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh, xin có một kiến nghị đối với chính quyền Trung
ương và UBND tỉnh như sau:
3.3.1. Đối với trung ương
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách DS-KHHGĐ cho phù
hợp với xu hướng phát triển dân số và kinh tế-xã hội. Hơn 10 năm qua thực hiện
Pháp lệnh Dân số đã tổng kết rút ra những bài học quý báu để trong giai đọan này
kịp thời xây dựng ban hành Luật Dân số cho phù hợp với điều kiện đất nước hiện
tại và dự báo tương lai.
Trong khi xây dựng văn bản luật, các chính sách cần có sự phối hợp giữa
các chính sách để tạo ra sự đồng thuận và thống nhất trong hệ thống chính sách.
Chính sách dân số và y tế, chính sách kế hoạch hóa gia đình và chính sách thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế; Chính sách di cư thúc đẩy việc phân bố dân số và phân
công lao động phù hợp hơn cho từng địa phương. Cần những chính sách đầu tư
sâu rộng hơn vào các chương trình chăm sóc bà mẹ và trẻ em. Đẩy mạnh giáo
dục và cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản. Thúc đẩy cộng đồng, các tổ chức
tham gia việc chống lại nạn bạo hành, ngược đãi phụ nữ, trẻ em… Đẩy mạnh
giáo dục kỹ năng, hành vi và kiến thức xã hội, đặc biệt cho thiếu niên, thanh
niên. Cải thiện chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu khách quan.
78
Cần tiếp tục và bổ sung những chính sách khuyến khích trực tiếp về vật chất
và tinh thần đối với các cơ quan, đơn vị, các cơ sở, đặc biệt là các thôn bản và cá
nhân tự giác thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ và với những người làm công
tác DS-KHHGĐ cho phù hợp nh, điều chỉnh chế độ thù lao cho Cộng tác viên
dân số từ 0,2 đến 0,3 lần mức lương tối thiểu để đội ngũ này ổn định yên tâm
công tác.
Để bộ máy đủ mạnh, hợp lý triển khai thực hiện hiệu quả chương trình DS-
KHHGĐ cần thiết tổ chức sắp xếp lại mô hình bộ máy DS-KHHGĐ ở địa
phương đặc biệt là mô hình quản lý công tác DS-KHHGĐ tại cấp huyện, cấp xã:
Nên áp dụng mô hình đưa Trung tâm DS-KHHGĐ về trực thuộc UBND huyện,
thị xã, thành phố và viên chức dân số công tác tại Trạm Y tế xã thuộc viên chức của
Trung tâm DS-KHHGĐ làm việc tại xã. Có như vậy mới mang lại các hiệu quả
sau:
- Về quản lý: Trung tâm DS-KHHGĐ là cấp dưới trực tiếp của UBND
nên UBND chỉ đạo, điều hành các hoạt động của Trung tâm mạnh mẽ và quyết
liệt hơn trong việc thực hiện các chỉ tiêu về công tác DS-KHHGĐ do tỉnh giao
phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; khắc phục được tình
trạng chưa quan tâm đúng mức trong thời gian qua vì coi Trung tâm DS-
KHHGĐ huyện là cơ quan của tỉnh. Là tổ chức thuộc UBND huyện nên Trung
tâm DS-KHHGĐ huyện cũng dễ tranh thủ được sự lãnh đạo của Đảng và Chính
quyền huyện trong việc chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ đối với UBND phường/xã.
- Về phối hợp hoạt động: Trung tâm DS-KHHGĐ thường xuyên cùng
sinh hoạt, hội họp với các phòng, ban trong huyện nên sẽ có mối liên hệ gắn kết
trực tiếp và mật thiết hơn với Lãnh đạo UBND, lãnh đạo các ban, ngành, tổ chức
đoàn thể trên địa bàn huyện và vì vậy sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn trong việc thực
hiện vai trò tham mưu cho cấp Ủy, Chính quyền địa phương. Hoạt động phối hợp
liên ngành trong công tác DS-KHHGĐ có nhiều thuận lợi hơn. Các hoạt động
của chương trình DS-KHHGĐ có cơ hội được lồng ghép trong các giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Về quản lý viên chức: Viên chức của Trung tâm DS-KHHGĐ chịu sự
lãnh đạo, quản lý trực tiếp và toàn diện của cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể
79
của huyện; là người của địa phương phục vụ cho các hoạt động của địa phương,
do đó huyện sẽ tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ sát thực, thực hiện giám sát,
kiểm tra, đánh giá thường xuyên hơn.
- Về tài chính và cơ sở vật chất: Khi tổ chức và cán bộ viên chức của
Trung tâm DS-KHHGĐ thuộc UBND huyện, huyện có trách nhiệm phải đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính để vận hành bộ máy, triển khai các hoạt
động của Trung tâm, nhất là trong bối cảnh nguồn lực của ngành Y tế và Chương
trình mục tiêu Quốc gia về DS-KHHGĐ hết sức khó khăn. Là đơn vị dự toán trực
thuộc UBND huyện nên huyện đầu tư ngân sách cho hoạt động của Trung tâm.
Thực tế thời gian qua cho thấy do Trung tâm DS-KHHGĐ thuộc Chi cục DS-
KHHGĐ tỉnh, nhiều huyện có điều kiện muốn đầu tư cho hoạt động, cơ sở vật
chất cho Trung tâm DS-KHHGĐ huyện nhưng không thực hiện được vì không
phù hợp với luật ngân sách hiện hành.
- Viên chức dân số công tác tại Trạm Y tế xã thuộc viên chức của Trung tâm
DS-KHHGĐ làm việc tại xã vẫn phù hợp với luật Viên chức và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn.
Trung tâm DS-KHHGĐ và UBND cấp xã đều dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
UBND huyện; do đó UBND huyện chỉ đạo Trung tâm và UBND xã phối hợp quản
lý, điều hành viên chức DS-KHHGĐ làm việc tại xã rất thuận lợi và hiệu quả.
Viên chức DS-KHHGĐ làm việc tại xã được sự lãnh đạo, quản lý, điều
hành trực tiếp của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, UBND xã sẽ sâu sát và thiết
thực hơn; viên chức DS-KHHGĐ xã có điều kiện tham mưu tốt, nhanh, không
qua trung gian, huy động được các cấp, các ngành trong xã phối hợp đồng bộ;
được cả hệ thống chính trị ở xã phối hợp thường xuyên, liên tục, kịp thời.
Có sự đầu tư hỗ trợ kinh phí của UBND xã trong các hoạt động vì đó cũng
là trách nhiệm của chính quyền địa phương; viên chức có điều kiện toàn tâm,
toàn lực dành cho công tác DS-KHHGĐ, có điều kiện đi xuống thôn bản nắm
tình hình, vận động người dân thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
Nói tóm lại, việc áp dụng mô hình tổ chức này, không làm tăng biên chế
không làm tăng kinh phí vận hành bộ máy nhưng sẽ tăng cường được sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương đối với công tác
80
DS-KHHGĐ và tăng cường được sự phối hợp mạnh mẽ của các ban, ngành, đoàn
thể do đó chắc chắn sẽ đem lại kết quả cao hơn.
3.3.2. Đối với địa phương
Cần tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền đối với công tác DS-KHHGĐ, nhằm triển khai mạnh mẽ các hoạt
động chương trình của đảng và tạo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện, đồng
thời huy động được cả hệ thống chính trị và cá nhân tham gia, tạo thành phong
trào rộng lớn trong nhân dân. Ngoài các chính sách của Trung ương, tỉnh cần ban
hành những chính sách mới để thực hiện công tác DS-KHHGĐ phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay và dự báo tương lai tại địa phương.
Cần tăng cường thêm kinh phí trong công tác DS-KHHGĐ, đặc biệt là
trong các hoạt động truyền thông, các hoạt động nâng cao chất lượng dân số và
quản lý về dân cư. Kinh phí phải cấp kịp thời đảm bảo cho các hoạt động triển
khai đúng kế hoạch.
-Hỗ trợ cho các đối tượng thuộc gia đình khó khăn, nghèo, cận nghèo,
những đối tượng sinh sống và làm việc trong môi trường độc hại như công nhân
làm việc trong nhà máy hóa chất, bán xăng, thợ uốn tóc được miễn phí chi phí
khám sức khỏe tiền hôn nhân, chi phí sàng lọc trước sinh và sơ sinh góp phần
nâng cao chất lượng dân số. Đồng thời có những chính sách cụ thể khuyến khích
cho gia đình sinh con một bề là gái không sinh con thứ 3 nuôi dạy con tốt,
khuyến khích các em gái học giỏi sống tốt... góp phần giảm thiểu mất cân bằng
giới tính khi sinh.
81
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Giai đoạn từ nay đến năm 2025, công tác DS-KHHGĐ của tỉnh Đồng Nai
sẽ chịu những ảnh hưởng của những tác động tình hình chung của kinh tế chính
trị xã hội thế giới, của nước ta cũng như những ảnh hưởng khác của tỉnh. Đó là
xu hướng chung, xu hướng khu vực hóa toàn cầu hóa đã đưa các nước trên thế
giới hiện nay xích lại gần nhau: hòa bình, hợp tác phát triển; ở trong nước, ở tỉnh
có hệ thống thể chế, cơ chế chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung, cơ chế
chính sách thực hiện công tác DS-KHHGĐ nói riêng. Quy mô dân số Đồng Nai
khoảng 3,3 triệu – 3,4 triệu người, với cơ cấu dân số trẻ tỉnh vẫn tiếp tục có nhiều
lợi thế cho phát triển kinh tế. Nội dung của luân văn chương ba đã thực hiện
được các điểm sau:
Thứ nhất, đã làm rõ quan điểm và mục tiêu của công tác DS-KHHGĐ ở
Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng.
Thứ 2, đề xuất được 7 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công
tác DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai từ nay đến năm 2025: đó là giải pháp về lãnh
đạo, tổ chức, quản lý DS-KHHGĐ; về truyền thông, giáo dục; về nâng cao chất
lượng dân số và can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; xây dựng
hoàn thiện hệ thống chính sách Dân số và SKSS; về xã hội hóa, phối hợp liên
ngành và hợp tác; đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin số liệu; giải pháp
huy động nguồn lực.
Thứ 3, Đề xuất một số kiến nghị đối với trung ương và địa phương để
công tác dân số - KHHGĐ được quan tâm thực hiện hiệu quả hơn nữa.
82
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thực hiện đề tài :” Nâng cao chất lượng công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025” đã đạt được
một số kết quả sau:
-Khái quát được một số lý luận chung liên quan đến dân số, công tác dân
số -KHHGĐ, vai trò quan trọng của công tác DS-KHHGĐ với sự phát triển kinh
tế xã hội: mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ phù hợp với một lượng dân cư nhất
định. Dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau.
Sự phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào chính qúa trình dân số
của quốc gia ấy.
- Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến công tác Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình của tỉnh Đồng Nai như điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã
hội cùng những chính sách dân số thể hiện trong mỗi thời kỳ.
- Phân tích thực trạng công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
từ năm 2010 đến năm 2013 về các mặt tham mưu phối hợp, chỉ đạo; quản lý, tổ
chức bộ máy, biên chế, tài chính; tổ chức thực hiện việc quản lý quy mô, cơ cấu
và nâng cao chất lượng dân số; thực hiện công tác truyền thông, giáo dục và
thanh tra kiểm tra giám sát. Đánh giá được chất lượng công tác DS – KHHGĐ
của tỉnh Đồng Nai, rút ra những thành tựu tỉnh đã đạt được đó là thực hiện tương
đối tốt các hoạt động về công tác DS - KHHGĐ, đa số các chỉ tiêu từ năm 2010
đến năm 2013 được Trung ương giao tỉnh đều đạt hoặc vượt so với kế hoạch.
Mặt khác, luận văn cũng chỉ ra các hạn chế như mức sinh giảm nhưng chưa thật
sự vững chắc, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh đang có xu hướng phát triển
theo chiều hướng xấu, chất lượng dân số được cải thiện nhưng chưa cao và rút ra
được nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trên.
-Luận văn đã đưa ra một số giải pháp và đề xuất một số kiến nghị đối với
trung ương và địa phương để thực hiện thành công công tác DS-KHHGĐ trong
giai đoạn từ nay đến 2015:
Để duy trì mức sinh thấp hợp lý tỉnh cần tập trung vào tuyên truyền giáo
dục mạnh mẽ những địa phương còn có mức sinh cao, những địa phương tỷ lệ
83
sinh con thứ 3 còn quá cao, phát huy vai trò của các vị chức sắc tôn giáo, các vị
già làng, trưởng bản chuyển tải những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước về DS-KHHGĐ đến từng hộ gia đình, từng người dân ở địa bàn dân cư.
Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục về công tác DS-KHHGĐ
nhằm nâng cao sự hiểu biết và khuyến khích các cặp vợ chồng, các cá nhân tự
nguyện tham gia thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, chấp nhận quy
mô gia đình ít con. Đồng thời đẩy mạnh chương trình truyền thông lồng ghép
dịch vụ CSSKSS đến các vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, vùng đông dân, có
mức sinh cao. Chú trọng hình thức vận động tư vấn trực tiếp cho các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam, nữ thanh niên. Nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục dân số trong các bậc học.
Tăng cường quản lý nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ CSSKSS-
KHHGĐ. Đa dạng các biện pháp, kênh phân phối và tiếp thị nhằm đáp ứng đầy
đủ nhu cầu về phương tiện tránh thai. Quản lý tốt các cơ sở thực hiện dịch vụ
CSSKSS-KHHGĐ.
Để nâng cao chất lượng dân số, ngoài việc nâng cao chất lượng đầu vào
dân số với những em bé được sinh ra khỏe mạnh nhất hạn chế tối đa trường hợp
mắc bệnh, ngoài việc triển khai thực hiện đề án tư vấn khám sức khỏe tiền hôn
nhân, sàng lọc và chần đoán trước sinh, sàng lọc và chần đoán sơ sinh, tỉnh cần
triền khai thực hiện đề án phát huy vai trò và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
dựa vào gia đình và cộng đồng.
Tập trung vào các địa bàn có số liệu trẻ sinh ra trong các năm qua có tỷ số
giới tính khi sinh cao như huyện Thống Nhất, huyện Xuân Lộc…để truyền thông
giáo dục, vận động người dân thay đổi nhận thức, chuyển đổi hành vi về bình
đẳng giới về hệ lụy của lựa chọn giới tính khi sinh, đối với sự phát triển bền vững
đất nước và hạnh phúc của thế hệ tương lai ở mỗi gia đình. Tăng cường thực thi
pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Phát hiện, xử lý nghiêm các
cơ sở, cá nhân thực hiện dịch vụ chẩn đoán giới tính thai nhi, phá thai vì lý do
giới tính.
Trong thời gian tới để không ngừng nâng cao chất lượng công tác DS-
KHHGĐ đòi hỏi tiếp tục xây dựng kiện toàn tổ chức bộ máy DS - KHHGĐ các
84
cấp cho phù hợp giai đoạn hiện nay, thường xuyên đào tạo toàn diện đội ngũ cán
bộ làm công tác chuyên môn về dân số, y tế có năng lực cao, yêu và tâm huyết
với nghề. Có chính sách đãi ngộ tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác DS-
KHHGĐ yên tâm công tác hoàn thành tốt nhiệm vụ. Lồng ghép các hoạt động
dân số vào các hoạt động phát triển để tốn ít chi phí mà mang lại hiệu quả cao.
Đảm bảo đủ nguồn lực cho công tác DS-KHHGĐ. Phát huy sức mạnh của cộng
đồng, sự tham gia của các ban ngành đoàn thể, của toàn xã hội trong công tác DS
- KHHGĐ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (2008), Về tình hình thực
hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình và một số giải pháp cấp bách, Thông báo
số: 160-TB/TW ngày 04/06/2008.
2- Ban Khoa giáo – Ban cán sự Đảng UBDSGĐTE (2005), “Thực hiện nghị
quyết số: 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện chính sách DS-
KHHGĐ”, một số chính sách của Đảng và Nhà nước, UBDSGĐTE, Hà Nội,
2005, tr.32.
3- Ban Tuyên giáo TW – Ban cán sự Đảng bộ Y Tế (2009), Thực hiện kết luận
của Bộ Chính trị về chính sách DS-KHHGĐ, Hướng dẫn số 03/BTGTW-
BCSĐB ngày 13/05/2009.
4- Bộ Chính trị (2005), Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ,
nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/03/2005.
5- Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình Dân số và phát triển, Nhà xuất bản
Nông nghiệp.
6- Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7- C.Mác – Ph. Angghen (1984): Tuyển tập, tập VI, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
8- Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai (2010), Báo cáo tổng kết công tác DS-
KHHGĐ của tỉnh Đồng Nai năm 2010.
9- Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai (2011), Báo cáo tổng kết công tác DS-
KHHGĐ của tỉnh Đồng Nai năm 2011.
10- Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai (2012), Báo cáo tổng kết công tác DS-
KHHGĐ của tỉnh Đồng Nai năm 2012.
11- Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai (2013), Báo cáo tổng kết công tác DS-
KHHGĐ của tỉnh Đồng Nai năm 2013.
12- Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Đồng Nai (2014), Báo cáo công tác DS-KHHGĐ
9 tháng của tỉnh Đồng Nai năm 2014.
13- Chính phủ (2003), Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành của pháp lệnh
dân số, nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/09/2003, tr.39.
14- Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2009), Pháp lệnh sửa
đổi điều 10 Pháp lệnh Dân số, Lệnh công bố số 01/2009/L-CT ngày 05/01/2009
15- Cục Thống kê Đồng Nai (2014), Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai, Nhà
xuất bản thống kê Đồng Nai.
16- Đại học Kinh tế Quốc dân (2011), 50 năm chính sách giảm sinh ở Việt Nam
(1961-2011) thành tựu tác động và bài học kinh nghiệm, Nhà xuất bản Đại học
kinh tế Quốc dân.
17- Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-
2010, Văn kiện Đại hội Đảng lần IX, năm 2001, tr.148,160
18- Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), “Kiềm chế tốc độ tăng dân số, chuyển
dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, an sinh xã hội”, Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ 10, NXBCTQG, Hà Nội-2006
19- Mai Kỷ (2008), Quy mô dân số và phát triển kinh tế xã hội, thách thức và
kinh nghiệm, trung tâm nghiên cứu thông tin và tư liệu dân số, Hà Nội, tr.7,8
20- Nguyễn Ngọc Anh (2014), “Lợi ích của chương trình KHHGĐ: phân tích
trường hợp Philippin”, tạp chí Dân số phát triển, số 2-2014, tr25
21- Nguyễn Quốc Anh (2014), “Cơ cấu dân số vàng: nguồn nhân lực lao động
trẻ đạt cực đại...”, tạp chí Dân số phát triển, số 5-2014, tr15.
22- Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), luận văn kinh tế “Sự già hóa dân số và
các vấn đề chăm sóc người cao tuổi ở đô thị - nghiên cứu trường hợp TPHCM”.
23- Nguyễn Văn Trãi (2009), luận án tiến sĩ kinh tế “Phân tích thực trạng và dự
báo dân số TPHCM đến năm 2019”.
24- Thủ tướng Chính phủ (2008), Tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ, Chỉ
thị số 23/2008/CT-TTG ngày 04/08/2008, tr.2
24- Thủ tướng Chính phủ (2011), Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai
đoạn 2011 – 2020.
25- Tổng cục DS-KHHGĐ (2011), Công tác DS-KHHGĐ Việt Nam 50 năm xây
dựng và phát triển.
26- Trần Văn Chiến (2006), “Khái niệm chất lượng dân số Việt Nam”, Tổng
quan các kết quả nghiên cứu về chất lượng dân số Việt Nam, UBDSGĐTE, Hà
Nội – 2007, tr.51.
27- TS. Dương Quốc Trọng (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh với công tác dân
số”, tạp chí Dân số phát triển, số 9-2014, tr7
28- Võ Anh Dũng (2014), “Đầu tư cho sức khỏe thanh niên”, tạp chí Dân số
phát triển, số 4-2014, tr5.
29- World Population Data Sheet 2008