BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN XUÂN QUÝ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN THU DẦU MỎ, CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NGA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN XUÂN QUÝ

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN THU DẦU MỎ, CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NGA

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 8340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI THỊ MAI HOÀI

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bài nghiên cứu này là do tôi thực hiện với sự

hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Bùi Thị Mai

Hoài. Các số liệu sử dụng trong bài nghiên cứu được thu thập từ thực

tế, tin cậy.

Tác giả luận văn

Trần Xuân Quý

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN THU DẦU MỎ, CHI TIÊU CỦA

CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NGA ................................. 1

Chương I: Giới thiệu ....................................................................................... 1

1.1. Lý do nghiên cứu........................................................................................ 1

1.2. Mục tiêu nghiên và câu hỏi nghiên cứu ..................................................... 1

1.3. Dữ liệu, mô hình và phương pháp nghiên cứu ........................................... 2

1.3.1. Dữ liệu ..................................................................................................... 2

1.3.2. Mô hình ................................................................................................... 2

1.3.3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 2

1.4. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 3

Chương 2: Lý thuyết về mối quan hệ giữa thu-chi ngân sách, các yếu tố tác động lên tăng trưởng kinh tế và lược khảo các nghiên cứu liên quan . 4

2.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài ............................................................ 4

2.1.1. Ngân sách nhà nước ................................................................................ 4

2.1.2. Thu Ngân sách nhà nước ......................................................................... 4

2.1.3. Chi Ngân sách nhà nước ......................................................................... 4

2.1.4. Tổng sản phẩm quốc nội ......................................................................... 4

2.1.5. Tác động của thâm hụt ngân sách đến nền kinh tế ................................. 4

2.1.6. Tăng trưởng kinh tế ................................................................................. 6

2.2. Mối quan hệ giữa thu và chi Ngân sách nhà nước ..................................... 7

2.3. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế ........................................... 9

2.3.1. Các lý thuyết kinh tế ............................................................................... 9

2.3.2. Các mô hình .......................................................................................... 10

2.4. Lược khảo các nghiên cứu cùng chủ đề ................................................... 17

2.4.1 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa thu và chi Ngân sách nhà nước .. 17

2.4.2 Các nghiên cứu tác động của chi tiêu chính phủ và nguồn thu từ tài nguyên đến tăng trưởng kinh tế ...................................................................... 19

2.5. Các đặc điểm Chính sách tài khoá của các nước xuất khẩu dầu mỏ ....... 26

Chương 3: Dữ liệu, mô hình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả thực nghiệm ............................................................................................ 30

3.1. Sơ lược về nước Nga ................................................................................ 30

3.2. Dữ liệu ...................................................................................................... 31

3.3. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 33

3.3.1. Phương pháp nghiên cứu: ..................................................................... 33

3.3.2. Mô hình ................................................................................................. 33

3.4. Chạy mô hình ........................................................................................... 35

3.4.1. Chạy mô hình 1 ..................................................................................... 35

3.4.2. Kết quả mô hình 1: ................................................................................ 40

3.4.3. Chạy mô hình 2 ..................................................................................... 42

3.4.4. Kết quả chạy mô hình 2: ....................................................................... 49

3.4.3. Dự đoán sự biến động của nước Nga trong tương lai ........................... 51

Chương 4: Kết luận và hàm ý chính sách ................................................... 53

4.1. Kết luận .................................................................................................... 53

4.2. Hàm ý chính sách ..................................................................................... 53

4.2.1. Các biện pháp nhằm cân bằng giữa chi tiêu với nguồn thu từ dầu mỏ . 53

4.2.2. Các chính sách phát triển kinh tế Nga .................................................. 54

4.3. Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam ...................................... 55

4.4. Hạn chế của đề tài .................................................................................... 56

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

IMF: International Monetary Fund, Quỹ tiền tệ quốc tế.

ICOR: Incremental capital output ratio, Hệ số sử dụng vốn.

GDP: Gross Domestic Product, Tổng sản phẩm quốc nội.

GNI: Gross Nationnal Income, Tổng thu nhập quốc dân.

GNP: Gross Nationnal Product, Tổng sản phẩm quốc dân.

OEDC: Organization for Economic Co-operation and development, Tổ chức

hợp tác và phát triển kinh tế.

OLS: Ordinary Least Square, Phương pháp bình phương nhỏ nhất.

OPEC: Organization of the Petroleum Exporting Countries, Tổ chức các nước

xuất khẩu dầu mỏ.

Rosstat: Cơ quan thống kê Liên bang Nga.

Ruble: Đơn vị tiền tệ của nước Nga.

VECM: Vector error correction model, Mô hình vector hiệu chỉnh sai số.

WB: World Bank, Ngân hàng Thế giới.

WTO: World Trade Organisation, Tổ chức thương mại thế giới.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1 Tốc độ tăng trưởng của nước nga qua các năm ............................... 30

Bảng 3.2 Cán cân nguồn dầu mỏ, khí đốt và tổng nguồn thu: ....................... 30

Bảng 3.3 Thống kê các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và giá trị lớn nhất,

nhỏ nhất của dữ liệu ........................................................................................ 32

Bảng 3.4 Kiểm tra tính dừng của các biến lnoilrent, lnGov, lnGDP ............. 35

Bảng 3.5 Kết quả xác định độ trễ tối ưu. ..................................................... 36

Bảng 3.6 Kết quả kiểm tra tính đồng liên kết. ................................................ 37

Bảng 3.7 Kết quả chạy dữ liệu mô hình VECM. ......................................... 37

Bảng 3.8 Kết quả kiểm tra mối tương quan giữa các độ trễ. .......................... 39

Bảng 3.9 Kết quả chạy mô hình hồi quy ..................................................... 42

Bảng 3.10 Kết quả kiểm tra sự phù hợp của mô hình .................................... 43

Bảng 3.11 Kết quả Kiểm tra mô hình có bỏ sót biến ..................................... 43

Bảng 3.12 Kết quả Kiểm tra sự tương quan ................................................... 44

Bảng 3.13 Kết quả Kiểm tra phương sai thay đổi .......................................... 44

Bảng 3.14 Kết quả Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến ................................. 45

Bảng 3.15 Kết quả Kiểm sai số ngẫu nhiên trong mô hình có phân phối

chuẩn ............................................................................................................... 46

Bảng 3.16 Kết quả Kiểm tra giá trị thống kê d Durbin-Watson .................... 46

Bảng 3.17. Kết quả Kiểm tra tính dừng của chuỗi ut ..................................... 48

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 3.1 Đồ thị mối quan hệ giữa giá dầu với tăng trưởng kinh tế ................... 31

Hình 3.2 Đồ thị thể hiện biến động của lngov, lngdp, lntygia, lnoilrent ....... 33

Hình 3.3 Kiểm định tính ổn định của mô hình VECM ................................... 38

Hình 3.4 Dự đoán chi tiêu ngân sách của nước Nga từ quý 2.2017 đến quý

1.2019 .......................................................................................................... 51

Hình 3.5 Dự đoán GDP của nước Nga từ quý 2.2017 đến quý 1.2019 ....... 51

1

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN THU DẦU MỎ, CHI TIÊU CỦA CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NGA

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU

1.1. Lý do nghiên cứu

Một số nghiên cứu về các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ thuộc Tổ chức

các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã chỉ ra giữa doanh thu dầu mỏ với

chi tiêu Chính phủ có mối quan hệ chặt chẽ và nguồn thu dầu mỏ ảnh hưởng

mạnh mẽ tới nền kinh tế của các nước OPEC. Vậy nước Nga, một quốc gia

xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu thế giới nằm ngoài OPEC nhưng có các điểm

tương đồng với các quốc gia OPEC như có nguồn thu từ dầu mỏ, khí đốt

đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế (nguồn thu dầu mỏ, khí đốt chiếm

khoảng 40% tổng nguồn thu và chiếm hơn 30% tổng sản phẩm quốc nội của

nước này) thì chi tiêu Chính phủ và nguồn thu dầu mỏ có mối liên hệ như

các quốc gia thuộc OPEC không, ngoài ra không phải mọi quốc gia nào

giàu tài nguyên cũng dẫn tới một nền kinh tế thịnh vượng, các nhà nghiên

cứu kinh tế đã đặt ra một câu hỏi “sự giàu có về tài nguyên có phải là một

một phước lành hay một lời nguyền”, vậy nước Nga nằm trong trường hợp

nào (lời nguyền hay phước lành). Để làm rõ sự tác động của dầu mỏ lên chi

tiêu Chính phủ và nền kinh tế Nga như thế nào, đề tài “Mối quan hệ giữa

nguồn thu dầu mỏ, chi tiêu của chính phủ và tăng trưởng kinh tế Nga” được

tác giả nghiên cứu và phân tích để làm rõ các yếu tố trên.

1.2. Mục tiêu nghiên và câu hỏi nghiên cứu

- Mục tiêu: Kiểm định tác động của nguồn thu dầu mỏ, chi tiêu chính

phủ lên tăng trưởng kinh tế nước Nga và mối quan hệ giữa nguồn thu dầu

mỏ và chi tiêu chính phủ.

2

- Câu hỏi nghiên cứu:

1. Đối với các nước phụ thuộc vào dầu mỏ, chi tiêu chính phủ thường

có mối quan hệ với nguồn thu dầu mỏ, liệu có tồn tại mối quan hệ đồng liên

kết giữa nguồn thu dầu mỏ và chi tiêu chính phủ Nga như các nước xuất

khẩu dầu mỏ khác hay không?

2. Nếu mối quan hệ chi tiêu chính phủ và nguồn thu dầu mỏ là đồng

liên kết thì mối quan hệ đó có tác động như thế nào lên tăng trưởng kinh tế

nước Nga?

1.3. Dữ liệu, mô hình và phương pháp nghiên cứu

1.3.1. Dữ liệu

- Nguồn: Ngân hàng thế giới (Worldbank) và Quỹ tiền tệ quốc tế

(IMF) và Cơ quan thống kê Liên bang Nga (Rosstat), Ngân hàng Trung

ương Nga.

- Thời gian: Dữ liệu theo quí từ quý I 2000 đến quý I 2017.

- Không gian: nước Nga.

1.3.2. Mô hình

Mô hình thứ nhất: kiểm định mối quan hệ đồng liên kết giữa nguồn

thu dầu mỏ và Chi tiêu chính phủ, trong đó gồm các biến là nguồn Thu dầu

mỏ và Chi tiêu chính phủ, GDP là biến kiểm soát.

Mô hình thứ hai: đánh giá tác động của thu dầu mỏ, chi tiêu chính

phủ lên tăng trưởng kinh tế nước Nga. Trong đó biến phụ thuộc Y là tăng

trưởng kinh tế, được đo lường bằng GDP. Biến độc lập: hai biến độc lập

quan tâm chính là nguồn Thu dầu mỏ và Chi tiêu chính phủ, biến kiểm

soát: tỷ giá ngoại tệ giữa đồng Ruble và đồng đô la Mỹ.

1.3.3. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để giải quyết

vấn đề nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:

3

- Để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: tác giả sử dụng Mô hình

vectơ hiệu chỉnh sai số (VECM) cho hai biến chính trong mô hình là nguồn

thu dầu mỏ và chi tiêu chính phủ với vai trò lần lượt là biến phụ thuộc, biến

giải thích và ngược lại nhằm tìm mối quan hệ đồng liên kết giữa 2 biến

nguồn thu dầu mỏ và chi tiêu chính phủ; còn biến GDP được sử dụng là

biến kiểm soát của mô hình.

- Để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ hai: tác giả sử dụng mô hình hồi

qui OLS với biến phụ thuộc GDP và các biến giải thích: chi ngân sách và

nguồn thu dầu mỏ, biến tỷ giá được sử dụng như biến kiểm soát của mô

hình.

1.4. Ý nghĩa của đề tài

- Bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ đồng liên

kết giữa nguồn thu dầu mỏ và Chi tiêu chính phủ; sự tác động chi tiêu,

nguồn thu dầu mỏ lên tăng trưởng kinh tế.

- Dựa vào kết quả nghiên cứu có thể đưa ra một vài hàm ý chính sách

cho nước Nga và rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam

4

CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THU - CHI

NGÂN SÁCH, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH

TẾ VÀ LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

2.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài

2.1.1. Ngân sách nhà nước

Là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực

hiện trong một khoảng thời gian nhất định.

2.1.2. Thu Ngân sách nhà nước

Thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình

để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ Ngân sách

nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước.

2.1.3. Chi Ngân sách nhà nước

Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách

nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của Nhà nước theo những

nguyên tắc nhất định.

2.1.4. Tổng sản phẩm quốc nội

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị thị trường của tất cả

sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất bởi một quốc gia qua một giai

đoạn nhất định. Chỉ số bao gồm sản lượng sản xuất bởi các công ty nước

ngoài đang làm việc trong lãnh thổ quốc gia và loại trừ sản lượng tạo ra bởi

các công ty nội địa ở nước ngoài.

2.1.5. Tác động của thâm hụt ngân sách đến nền kinh tế

Thâm hụt ngân sách là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà

nước lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách.

5

Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là

thặng dư ngân sách.

Các tác động của thâm hụt ngân sách đến kinh tế:

- Nếu như ngân sách chính phủ bị thâm hụt, chứng tỏ tiết kiệm của

chính phủ đang suy giảm, đồng nghĩa với việc tổng tiết kiệm của nền kinh

tế giảm theo. Do đó nguồn cung vốn vay chủ yếu do chính phủ cung cấp

cho nền kinh tế bị suy giảm do thâm hụt ngân sách, điều này sẽ đẩy lãi suất

tăng lên.

- Lãi suất gia tăng sẽ gây khó khăn cho khu vực tư cũng như khu vực

công trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư. Chính vì thế, các hoạt động kinh

doanh sản xuất, đầu tư của khu vực tư, khu vực công sẽ bị hạn chế, thu hẹp

làm ảnh hưởng đến nền kinh tế.

- Việc thâm hụt ngân sách có thể do nguyên nhân chính phủ chi tiêu,

đầu tư không hiệu quả. Đây chính là hiệu ứng đầu tư công lấn át đầu tư tư

nhân.

Các biện pháp khắc phục và tác dụng phụ của các biện pháp khắc

phục:

- Bù đắp thâm hụt ngân sách bằng vay nợ thông qua phát hành trái

phiếu. Tác dụng phụ: làm lãi suất tăng. Nếu lãi suất thực gia tăng sẽ thu hút

giới đầu tư trong nước, ngoài nước nắm giữ tài sản nội địa, điều này làm

dòng vốn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế, làm cho nguồn cung ngoại tệ tăng

lên. Khi cung ngoại tệ tăng lên, giá trị của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội

tệ sẽ giảm đi, hay nói cách khác, đồng nội tệ tăng giá trị. Việc đồng nội tệ

tăng giá sẽ khuyến khích nhập khẩu vì hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn

so với trước kia, trong khi đó hàng hoá xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn trước

6

làm giảm xuất khẩu và điều này sẽ dẫn đến thâm hụt thương mại và thâm

hụt cán cân vãng lai.

- Tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách. Tác dụng phụ: làm tăng

chi phí sản xuất của các doanh nghiệp dẫn tới giảm động lực sản xuất, cạnh

tranh. Hoặc bằng cách in thêm tiền để bù đắp thâm hụt, việc bù đắp thâm

hụt bằng cách in thêm tiền là nguyên nhân tăng lạm phát làm tăng giá cả

càng dẫn tới nhu cầu tiêu dùng giảm sút, tác động đến sản xuất, thu nhập,

ảnh hưởng đến nền kinh tế. Như vậy có thể thấy thâm hụt ngân sách có

những tác động tiêu cực lên nền kinh tế.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, thâm hụt ngân sách do tăng chi

tiêu của Chính phủ có thể làm gia tăng tổng cầu và làm tăng GDP hay nói

cách khác là kích thích tăng trưởng. Đây là điều mà chính phủ các quốc gia

thường làm trong thời gian suy thoái kinh tế, chấp nhận thâm hụt ngân sách

ở một mức nhất định nhằm giúp sản lượng trong nước tăng trở lại. Nhưng

điều này không có nghĩa thâm hụt ngân sách luôn tạo tăng trưởng. Nếu như

nền kinh tế đã ở gần mức sản lượng tiềm năng, sự gia tăng tổng cầu về dài

hạn sẽ kéo theo những hệ quả tiêu cực về lạm phát, lãi suất và cán cân

thương mại như đã giải thích ở trên.

Vậy để hạn chế thâm hụt ngân sách, chính phủ cần tối ưu hoạt động

hiệu hóa toàn bộ nguồn vốn, thực hiện các biện pháp thu chi ngân sách phù

hợp, minh bạch và nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ.

2.1.6. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về giá trị trong phạm vi một nền

kinh tế. Tăng trưởng kinh tế được phản ánh ở nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu

thường được sử dụng là Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm

quốc dân (GNP), thu nhập quốc dân (NI), tăng trưởng vốn, lao động, sự gia

7

tăng dung lượng thị trường...Sự tương tác giữa các bộ phận cấu thành GDP

như tiêu dùng nội địa, đầu tư, chi tiêu chính phủ và cán cân thương mại sẽ

làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Quá trình tăng trưởng thể hiện các nguồn lực tăng trưởng như tài

nguyên thiên nhiên, vốn, lao động, công nghệ, quản lý, thị trường... được

khai thác và sử dụng có hiệu quả cao nhất. Tăng trưởng kinh tế bao hàm cả

tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn

và dài hạn...Nhiều công trình nghiên cứu trong, ngoài nước đã lượng hoá

tác động của các nguồn lực tăng trưởng đến chất lượng và động thái tăng

trưởng thông qua các mô hình như mô hình tái sản xuất giản đơn của

C.Mác, mô hình các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của W.Rostow,

Solow...hoặc hàm sản xuất Cob Douglas.

Tăng trưởng kinh tế thể hiện qua nhiều mô hình khác nhau như tăng

trưởng kinh tế hướng nội, tăng trưởng kinh tế hướng ngoại hoặc sự kết hợp

của cả hai mô hình này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của từng

quốc gia. Một số các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong,

Singapore... trong khoảng thời gian ngắn, các nền kinh tế này được công

nghiệp hoá nhanh chóng. Do các nền kinh tế trên đã đáp ứng các điều kiện

nhân lực, đã tiến hành cải cách mạnh cơ cấu kinh tế và khai thác triệt để

động lực của toàn cầu hoá.

Như vậy tăng trưởng kinh tế là quá trình tích luỹ giá trị gia tăng của

một nền kinh tế từ các nguồn lực trong và ngoài nước và nó được thúc đẩy

bằng những động lực đủ mạnh của chính sách, lòng tự hào dân tộc hoặc

những yếu tố khác trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,

là mục tiêu mà nhiều quốc gia kỳ vọng.

2.2. Mối quan hệ giữa thu và chi Ngân sách nhà nước

8

Có nhiều giả thuyết khác nhau liên quan đến nguồn thu và chi tiêu

chính phủ. Giả thuyết đầu tiên được đề xuất bởi Buchanan và Wagner

(1977), Friedman (1978). Giả thuyết trên khẳng định nguồn thu chính phủ

đơn phương quyết định chi tiêu của chính phủ và chỉ ra một mối quan hệ

một chiều từ nguồn thu đến chi tiêu và được gọi là giả thuyết Thuế - Chi

tiêu.

Giả thuyết thứ hai được đề xuất bởi Barro (1974), Peacock và

Wiseman (1979) cho rằng chính phủ quyết định việc chi tiêu trước nguồn

thu. Peacock và Wiseman khẳng định suốt thời gian khủng hoảng, chính

phủ gia tăng chi tiêu, cuối cùng đưa đến thuế cao hơn. Vì thế, có một quan

hệ một chiều từ chi tiêu chính phủ đến nguồn thu. Giả thuyết trên còn được

gọi là giả thuyết Chi tiêu -Thuế.

Giả thuyết thứ ba được trình bày bởi Musgrave (1966), Meltzer và

Richard (1981). Chính phủ có thể thay đổi chi tiêu và thuế đồng thời, điều

này có nghĩa: có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa nguồn thu và chi tiêu

chính phủ. Giả thuyết trên còn được gọi là giả thuyết đồng bộ hoá tài chính.

Giả thuyết thứ tư là giả thuyết về sự phân chia tổ chức hoặc giả

thuyết trung lập về thuế mà Baghestani và McNown (1994) đưa ra, trong đó

doanh thu và chi tiêu của chính phủ được lập luận là độc lập với nhau do

các chức năng độc lập của các nhánh hành pháp và lập pháp của quốc gia

đó. Quan điểm này cho thấy không có mối quan hệ nhân quả giữa thu nhập

và chi tiêu, nghĩa là chúng độc lập với nhau.

Về mặt chính sách, mối quan hệ giữa nguồn thu và chi tiêu chính phủ

là cần thiết phải làm rõ vì ba lý do:

- Thứ nhất, nếu nguồn thu của chính phủ gây ra chi tiêu của chính

phủ, thâm hụt ngân sách có thể được loại bỏ bởi các chính sách nhằm kích

thích nguồn thu của chính phủ.

9

- Thứ hai, trong trường hợp quan hệ giữa nguồn thu và chi tiêu chính

phủ tuân theo giả thuyết đồng bộ hóa tài chính, tuy nhiên nếu chính phủ

không tuân theo mà thực hiện các quyết định chi tiêu độc lập với các quyết

định về nguồn thu, có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách nghiêm trọng nếu chi

tiêu của chính phủ tăng nhanh hơn thu nhập chính phủ (Narayan, 2005).

- Thứ ba, nếu chi tiêu chính phủ gây ra thu nhập cho chính phủ,

Chính phủ có thể sẽ thực hiện chính sách tài khoá mở rộng để chi tiêu nhiều

hơn nhằm tạo ra nguồn thu nhiều hơn.

2.3. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế

Trong nhiều thập kỷ các nhà kinh tế có nhiều tranh cãi trong việc

nguồn thu từ tài nguyên và chi tiêu Chính phủ có thúc đẩy kinh tế phát triển

hay không vẫn là một câu hỏi. Các nhà kinh tế đã đưa ra các lý thuyết và

mô hình thể hiện các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế như sau.

2.3.1. Các lý thuyết kinh tế

a. Lý thuyết tăng trưởng cổ điển và tân cổ điển:

Lý thuyết tăng trưởng cổ điển có những nội dung căn bản sau: Yếu tố

cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong các yếu tố

trên thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất, do tài nguyên đất đai có hạn làm

giới hạn của sự tăng trưởng. Các nhà kinh tế học cổ điển còn cho rằng, hoạt

động của các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi bàn tay vô hình - cơ chế thị

trường, phủ nhận vai trò của nhà nước, cho rằng đây là yếu tố cản trở cho

phát triển kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển bổ sung thêm yếu tố

công nghệ, việc thay đổi công nghệ có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và

tăng trưởng kinh tế không thể tiếp tục nếu không có tiến bộ trong công nghệ

b. Định luật của Wagner về vai trò mở rộng của nhà nước:

10

Là một mô hình cho thấy rằng chi tiêu công là yếu tố nội sinh để tăng

trưởng kinh tế và có tồn tại xu hướng dài hạn chi tiêu công để phát tăng thu

nhập quốc gia như tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Lý thuyết này cho thấy

sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả giữa chi tiêu công và thu nhập quốc

gia, trong đó thu nhập quốc gia tác động đến chi tiêu công. Định luật của

Wagner gợi ý rằng Chi tiêu chính phủ tăng do tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, lý thuyết của Keynes cho thấy việc mở rộng chi tiêu của

chính phủ làm tăng tốc tăng trưởng kinh tế. Như vậy, chi tiêu của chính phủ

được coi là một lực ngoại sinh làm thay đổi tổng sản lượng. Trường phái tư

duy Keynes cho rằng một chính sách tài khóa chủ động là một công cụ quan

trọng để chính phủ kích thích các hoạt động kinh tế và tăng trưởng kinh tế.

Bằng cách tăng Chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế, chính phủ có thể bù

đắp một phần tốc độ tăng chậm hơn của hoạt động kinh tế; vì thế, Chính

sách tài khóa được xem như là một công cụ chính sách chống lại chu kỳ

giảm nhẹ các biến động trong ngắn hạn về sản lượng và việc làm. Tuy nhiên

tăng chi tiêu của chính phủ mà không phải là kết quả của sự tăng doanh thu

sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách.

c. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp:

“Nền kinh tế hỗn hợp” là nền kinh tế kết hợp giữa kinh tế tư nhân và

kinh tế Nhà nước, nó được điều hành bởi cơ chế thị trường có sự điều tiết

của Nhà nước, thể hiện sự kết hợp cơ chế thị trường (bàn tay vô hình): xác

định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực và sự điều tiết của Chính phủ

(bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ.

2.3.2. Các mô hình

a. Mô hình David Ricardo

Y = f(K, L, R).

11

K: vốn sản xuất.

L: số lượng lao động.

R: đất đai.

Mô hình cho rằng nông nghiệp là quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản

của tăng trưởng là đất đai, lao động và vốn.

b. Mô hình tăng trưởng Tân cổ điển:

Y = f(K, L, R, T).

K: vốn sản xuất.

L: số lượng lao động.

R: nguồn tài nguyên thiên nhiên.

T: khoa học - công nghệ.

Y=T. với trong đó là các hệ số, phản

ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào trong tổng sản phẩm.

Các nhà kinh tế tân cổ điển bác bỏ quan điểm cho rằng sản xuất trong

một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn

của các nhà kinh tế cổ điển. Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng lao động

và vốn có thể thay thế cho nhau và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều

cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào. Đồng thời các nhà kinh tế tân cổ điển

cho rằng yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự

phát triển kinh tế. Do chú trọng đến các yếu tố đầu vào của sản xuất, lý

thuyết tân cổ điển còn được gọi là lý thuyết trọng cung.

c. Mô hình tăng trưởng Keynes với Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và

tiền tệ (1936) đề cập đến vai trò của chính sách kinh tế tới tăng trưởng:

Mô hình nhấn mạnh vai trò của tổng cầu trong xác định sản lượng,

việc làm của nền kinh tế và nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước thông

qua các chính sách kinh tế. Những chính sách kinh tế thể hiện qua việc làm

12

tăng tiêu dùng như tác động vào tổng cầu qua việc sử dụng ngân sách nhà

nước để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước và trợ

cấp vốn cho các doanh nghiệp, giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích

đầu tư của các khu vực tư, công; đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế,

công trái nhà nước để bổ sung ngân sách nhằm tăng đầu tư của nhà nước

vào các công trình phúc lợi, công cộng và một số biện pháp hỗ trợ khác khi

đầu tư tư nhân giảm sút.

Phát triển tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 của thế kỉ 20, hai

nhà kinh tế học là Harod và Domar đã đưa ra mô hình xem xét mối quan hệ

tăng trưởng với các nhu cầu về vốn, thể hiện tại công thức g=s/k=i/k.

Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng, s là tỉ lệ tiết kiệm, i là tỉ lệ đầu tư,

k là hệ số ICOR.

Mô hình Harrod – Dorma đã chỉ ra được vai trò của vốn và hiệu quả

sử dụng vốn trong tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mô hình này có những

hạn chế: tăng trưởng trong thực tế không chỉ duy nhất do đầu tư, ngoài ra

đầu tư không hiệu quả thì sẽ không có tăng trưởng.

d. Mô hình Solow:

Giải pháp của Solow là đưa tiến bộ công nghệ (A) vào hàm sản xuất,

thường dưới dạng hàm sản xuất‚ tích tụ lao động, mô hình này phản ánh

tăng trưởng kinh tế trong dài hạn có dạng: Y = f(K, AL) hoặc Y = Af(K, L)

= AKαLβ

Trong đó: A là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Solow cho rằng: tốc độ tăng trưởng dài hạn được thúc đẩy bởi tăng

vốn, tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động và tốc độ tiến bộ công nghệ; trong

đó tốc độ tiến bộ công nghệ được coi là yếu tố ngoại sinh.

13

Như một hệ quả, mô hình dự đoán rằng trong thế giới với các nền

kinh tế thị trường mở và vốn tài chính toàn cầu, dòng vốn đầu tư sẽ chảy từ

các quốc gia giàu đến các nước nghèo hơn, đơn vị vốn trên lao động K/L và

thu nhập trên lao động Y/L sẽ bằng nhau ở tất cả các quốc gia.

Mô hình Solow có những hạn chế sau:

- Một là mô hình không giải thích được sự chênh lệch về sản lượng

bình quân lao động (hay thu nhập bình quân đầu người) bằng sự chênh lệch

về vốn bình quân lao động ở một số quốc gia.

- Hai là mô hình không đầy đủ vì lực lượng thúc đẩy tăng trưởng

trong dài hạn là tiến bộ công nghệ nhưng trong mô hình lại được xác định

ngoại sinh.

e. Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại của P.A. Samuelson (mô hình

hỗn hợp):

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định

của mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất.

Samuelson cho rằng tổng mức cung (Y) của nền kinh tế được xác định bởi

các yếu tố đầu vào của sản xuất: vốn sản xuất (K), lao động (L), tài nguyên

thiên nhiên được sử dụng (R), khoa học công nghệ (A). Nói cách khác hàm

sản xuất có dạng:

Y= F (L, K, R, A )

Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thể hiện tác

động của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế:

Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP.

k, l, r là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào (vốn, lao động,

14

tài nguyên).

a là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.

α, β, γ: các hệ số, phản ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào trong

tổng sản phẩm.

Để tăng trưởng sản xuất, các nhà sản xuất có thể lựa chọn công nghệ

sử dụng nhiều vốn, hoặc công nghệ sử dụng nhiều lao động. Samuelson cho

rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kỹ thuật

công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó vốn là

cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác: vốn là cơ sở để tạo ra việc

làm, để có công nghệ tiên tiến. Mô hình vẫn sử dụng hệ số ICOR để làm cơ

sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Trong đó:

k - hệ số ICOR.

tương ứng là mức gia tăng vốn và mức gia tăng đầu ra.

s - tỷ lệ tiết kiệm, g - tốc độ tăng trưởng.

Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến tổng mức cầu như

cách tiếp cận của Keynes:

Y = f(C, G, I, NX).

Trong đó: C - Tiêu dùng của các hộ gia đình.

G - Chi tiêu của chính phủ.

I - Tổng đầu tư.

NX - Thặng dư thương mại.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ

bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng cung

và tổng cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm - tỷ lệ thất

nghiệp, mức giá - tỷ lệ lạm phát, đó là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản

15

của nền kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào.

Mặt khác vai trò của Chính phủ ngày càng được coi trọng. Việc mở

rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, không

chỉ vì thị trường có những khuyết tật (độc quyền, thiếu hụt thông tin, ngoại

ứng…), mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có hoạt động tốt

cũng không thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Theo Samuelson, trong

nền kinh tế hiện đại, Chính phủ có bốn chức năng cơ bản: thiết lập khuôn

khổ pháp luật; xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô; tác động vào việc

phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế; thiết lập các chương trình

tác động tới việc phân phối thu nhập nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng

f. Các mô hình tăng trưởng nội sinh:

cao của người dân.

Ngược lại với các lý thuyết tân cổ điển truyền thống, các lý thuyết về

tăng trưởng nội sinh mới đưa ra một vai trò tích cực của chính sách công

trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế thông qua đầu tư trực tiếp và gián

tiếp vào nguồn vốn nhân lực

Các mô hình tăng trưởng nội sinh, đặc biệt là các mô hình xét đến

vốn con người đã góp phần giải thích đáng kể sự chênh lệch về thu nhập

giữa các quốc gia. Các mô hình này cho thấy không có xu hướng các nước

nghèo (ít vốn) có thể đuổi kịp các nước giàu về mức thu nhập bình quân,

cho dù có cùng tỷ lệ tiết kiệm. Nguyên nhân bắt nguồn từ sự chênh lệch

không chỉ ở lượng vốn (có thể bù đắp nhờ đầu tư và viện trợ nước ngoài)

mà quan trọng hơn là ở vốn con người. Bởi thế, ý nghĩa to lớn của các mô

hình tăng trưởng nội sinh là: tốc độ tăng trưởng dài hạn có thể phụ thuộc

vào hành động chính sách của chính phủ (đánh thuế, cung ứng cơ sở hạ

tầng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, cung cấp các dịch vụ công liên quan đến giáo

16

dục, y tế…), vì các chính sách này có thể tác động tới các hoạt động sáng

chế, phát minh và tích lũy vốn con người.

Các mô hình tăng trưởng nội sinh có thể kể đến bao gồm:

- Mô hình học hỏi (Learning-by-doing model) của Kenneth J.Arrow

(1962).

- Mô hình R&D (Research and Development Model).

- Mô hình Mankiw-Romer-Weil.

- Mô hình AK.

- Mô hình “ Học hay làm” (Learning-or-doing model).

- Mô hình AK:

Một mô hình đơn giản xem xét sản xuất có lợi tức không đổi theo quy

mô đối với cả tổ hợp vốn vật chất và vốn con người chính là mô hình AK

do Romer (1986), Barro (1990), Robelo (1991), và nhiều người khác đề

xuất. Mọi đầu vào của mô hình này đều được coi là vốn có thể tái sản xuất,

không chỉ là vốn vật chất mà cả vốn con người. Cụ thể đặt K là thước đo

tổng hợp của vốn, hàm sản xuất có dạng tuyến tính như sau: Y=AK

Trong đó, A là tham số thể hiện mọi nhân tố tác động tới trình độ công

nghệ.

- Mô hình Mankiw, Romer và Weil:

Các tác giả lập luận rằng vấn đề không phải lý thuyết đằng sau mô

hình Solow, mà là định nghĩa về vốn. Họ đề xuất mô hình Solow tăng

cường trong đó bao hàm vốn con người như sau:

Y= AF (K, H, L) =

Trong đó:

- Y là sản lượng, K là vốn, L là số lao động, t là thời gian.

- A là tham số thể hiện mọi nhân tố tác động tới trình độ công nghệ.

- H là lượng vốn con người.

17

- α và β là các tham số hiệu quả của hai loại vốn

Vì α + β < 1 nên mô hình thể hiện suất sinh lợi giảm dần theo tất cả

vốn, do đó sẽ hội tụ đến trạng thái dừng như trong mô hình Solow gốc. Tuy

nhiên khác với mô hình Solow gốc, các tác giả cho rằng đầu tư vào vốn vật

chất và vốn con người cùng tăng trưởng lực lượng lao động lý giải 80%

những khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người giữa các nước. Thu

nhập hội tụ có điều kiện một khi chúng ta tính đến tăng trưởng dân số, tỉ lệ

đầu tư và vốn con người. Cũng như trong mô hình Solow, công nghệ là

hàng hóa công sẵn có cho tất cả và nằm ngoài mô hình. Điều quan trọng cần

nhớ là hội tụ có điều kiện không có nghĩa là các nước nghèo thật sự bắt kịp

các nước giàu. Vì đầu tư vào vốn con người và vật chất, cùng tốc độ tăng

trưởng lực lượng lao động giữa các quốc gia giàu, nghèo là khác nhau, do

đó các nước không đạt đến cùng mức thu nhập ở trạng thái dừng. Kết luận

chính của mô hình là các nước nghèo không đuổi kịp các nước giàu là do

đầu tư không đủ vào giáo dục, chứ không vì mức vốn trên mỗi lao động

thấp.

2.4. Lược khảo các nghiên cứu cùng chủ đề

2.4.1 Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa thu và chi Ngân sách nhà

nước

Trong lĩnh vực tài chính công, mối quan hệ giữa nguồn thu và chi tiêu

của chính phủ đã thu hút mạnh mẽ sự chú ý của các nhà hoạch định chính

sách. Nó đòi hỏi các nhà chính sách phải cân đối giữa nhu cầu đầu tư của

chính phủ liên tục gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, trong khi đó

việc tăng các nguồn thu của chính phủ thông qua thu thuế ngày càng khó

khăn do mức thuế suất ngày càng giảm, các hàng rào về thuế quan ngày

càng được gỡ bỏ, ngoài ra một số quốc gia có thu nhập bình quân đầu người

18

thấp nên việc tăng thuế khó thực hiện. Việc hiểu được mối quan hệ giữa thu

nhập và chi tiêu là một điều rất quan trọng để cân bằng ngân sách, thực hiện

tốt các chính sách tài khoá.

Kollias và Makrydakis (2000) nghiên cứu quốc gia Nhật, Hàn Quốc,

Đài Loan, Vương quốc Anh và Mỹ ủng hộ mối quan hệ nhân quả một chiều

từ nguồn thu đến chi tiêu chính phủ. Mặt khác, giả thuyết chi tiêu và thuế

được ủng hộ bởi các nghiên cứu Peacock và Wiseman (1961), Anderson et

al. (1986) cho Úc và Nam Phi. Giả thuyết về mối quan hệ nhân quả một

chiều giữa nguồn thu và chi tiêu chính phủ được ủng hộ bởi các nghiên cứu

Miller và Russek (1990), Bohn (1991) cho Canada.

Trong trường hợp của Saudi Arabia, Al-Hakami (2002) đã sử dụng

qui trình hai bước để kiểm định tính đồng liên kết và kiểm định Wald để

kiểm định tính nhân quả phát hiện ra mối quan hệ nhân quả một chiều từ

nguồn thu đến chi tiêu chính phủ trong mô hình hai biến và mối quan hệ hai

chiều trong mô hình ba biến khi GDP được thêm vào mô hình.

Von Furstenberg et al. (1986), Anderson và cộng sự (1986) đã tìm

thấy chi tiêu tác động lên doanh thu trong trường hợp của Hoa Kỳ.

Baghestani và McNown (1994) không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào về

mối quan hệ nhân quả giữa doanh thu và chi tiêu.

Nghiên cứu của Yashobanta và Behera (2012) đã kiểm tra mối quan

hệ nhân quả giữa doanh thu và chi tiêu của chính phủ ở Ấn Độ với mô hình

VECM với biến doanh thu và chi tiêu chính phủ (từ năm 1970 - 2008), qua

đó đã phát hiện ra rằng mối quan hệ nhân quả dài hạn hai chiều giữa doanh

thu và chi tiêu của chính phủ Ấn Độ. Tác giả đưa ra kết luận mối quan hệ

giữa doanh thu và chi tiêu của Chính phủ tuân theo giả thuyết đồng bộ hóa

tài chính

19

Sajjad Faraji Dizaji (2014) Kiểm tra các cú sốc của dầu mỏ lên lên

quan hệ thu chi của chính phủ Iran với mô hình SVAR gồm các biến giá

dầu, tỷ lệ doanh thu dầu/GDP và tỷ lệ tổng chi tiêu của chính phủ/GDP từ

năm 1970–2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ nhân quả

mạnh đi từ doanh thu phủ đến chi tiêu chính phủ trong nền kinh tế Iran,

trong khi bằng chứng cho quan hệ nhân quả ngược lại là rất yếu. Nhìn

chung các kết quả ủng hộ cho giả thuyết về thu ngân sách quyết định chi

tiêu của Iran.

Các nghiên cứu trên cho thấy tùy vào từng quốc, từng thời điểm mà

các quốc gia đó áp dụng nguyên tắc nào trong 4 giả thuyết về thu chi ngân

sách. Do có sự áp dụng khác nhau giữa các quốc gia nên không thể có 1 lý

thuyết chung để áp dụng cho tất cả các quốc gia, để áp dụng lý thuyết nào ta

cần kiểm tra mối quan hệ thu chi của nước Nga để từ đó đưa ra các chính

sách phù hợp.

2.4.2 Các nghiên cứu tác động của chi tiêu chính phủ và nguồn thu từ

tài nguyên đến tăng trưởng kinh tế

a. Quan hệ giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế

Sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế là một thực tế khách quan

và đã được thừa nhận rộng rãi. Chính phủ dùng chính sách tài khóa để can

thiệp vào nền kinh tế bằng công cụ thuế và chi tiêu công (Keynes (1936)).

Tuy nhiên, vai trò của chi tiêu công đối với tăng trưởng kinh tế còn là một

chủ đề gây nhiều tranh cãi và cần thêm nhiều nghiên cứu (Grier&Tullock,

1989). Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác động của chi tiêu công lên tăng

trưởng kinh tế là tiêu cực hoặc không có mối liên hệ (Akpan, 2005; Laudau,

1983), trong khi một số nhà nghiên cứu khác lại tin rằng chi tiêu công có

tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế (Korman & Barahmasrene, 2007).

20

Fölster và Henrekson (1999, 2001) khi tiến hành nghiên cứu dữ liệu

bảng trên mẫu các quốc gia OECE trong giai đoạn 1970 – 1995 với mô hình

hồi quy bảng với các dữ liệu: tổng đầu tư, tốc độ tăng trưởng của lực lượng

lao động và sự tăng trưởng của vốn nhân lực, thu nhập, tổng thuế và tổng

chi tiêu của chính phủ. Kết quả cho rằng chi tiêu ngân sách công lớn tác

động âm lên tăng trưởng kinh tế.

Guseh (1997) trong một nghiên cứu về tác động của qui mô chính

phủ lên tốc độ tăng trưởng kinh tế thực hiện hồi qui OLS, bằng cách dùng

dữ liệu chuỗi thời gian trong giai đoạn 1960 – 1985 cho 59 quốc gia đang

phát triển thu nhập trung bình với các biến GDP; vốn cổ phiếu và tỷ lệ lao

động. Kết quả nghiên cứu chỉ ra là tăng trưởng trong qui mô chính phủ có

tác động âm lên tăng trưởng kinh tế, nhưng các tác động âm ở các nước có

hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn gấp ba lần ở các nước có hệ thống khác xã

hội chủ nghĩa.

Sử dụng cách tiếp cận nhân quả Granger, Conte và Darrat (1988)

nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa gia tăng khu vực công và tốc độ tăng

trưởng kinh tế thực cho các quốc gia OECD. Nhấn mạnh đặc biệt là các

hiệu ứng phản hồi từ tăng trưởng kinh tế lên gia tăng chi tiêu chính phủ là

từ chính sách kinh tế vĩ mô. Dựa trên các bằng chứng đạt được, gia tăng chi

tiêu chính phủ có tác động hỗn hợp lên tốc độ tăng trưởng kinh tế, dương

cho một vài quốc gia và âm cho các quốc gia khác. Tuy nhiên với khối các

nền kinh tế OECD, tác động không rõ rệt của gia tăng chi tiêu chính phủ lên

tăng trưởng kinh tế thực được nhìn thấy.

Trong khi đó các nghiên cứu sau chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa chi

tiêu chính phủ với tăng trưởng:

21

Alexiou (2007) trong nghiên cứu cho nền kinh tế Hy Lạp với các biến

sản lượng, chi tiêu, lao động và độ mở của nền kinh tế, khẳng định bằng

chứng cho thấy một mối quan hệ dương giữa gia tăng trong các thành phần

chi tiêu và tăng trưởng GDP.

Theo Mitchell (2005), lý thuyết kinh tế không tự đưa ra các kết luận

mạnh mẽ về tác động của chi tiêu chính phủ đối với các hoạt động kinh tế.

Thật vậy, hầu hết các nhà kinh tế đều đồng ý rằng có những trường hợp

trong đó chi tiêu chính phủ ở mức thấp hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

và ở hoàn cảnh khác, chi tiêu chính phủ ở mức độ cao hơn cũng tạo ra các

kỳ vọng. Do đó tuỳ vào từng trường hợp mà tác động của chi tiêu chính với

tăng trưởng sẽ có những kết quả khác nhau

b. Mối quan hệ giữa nguồn thu từ tài nguyên và tăng trưởng kinh tế

Mối quan hệ trên có nhiều tranh cãi như sau: một số nhà kinh tế cho

rằng một quốc gia có giàu tài nguyên là một điều tốt, một số nhà kinh tế

khác thì cho rằng giàu tài nguyên là một lời nguyền. Vì sao có sự tranh cãi

trên ?. Vì trên thực tế có một số quốc gia giàu tài nguyên như dầu mỏ,

khoáng sản… thì lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xung đột chính

trị… một số quốc gia khác thì phát triển thịnh vượng. Điều này đưa ra câu

hỏi việc giàu có về tài nguyên có một phước lành hay một lời nguyền cho

một quốc gia.

Một số nhà kinh tế lý giải một số quốc gia giàu tài nguyên có thể gặp

những khó khăn như sau:

- Sự giàu có tài nguyên có thể tạo ra sự đánh giá quá cao đối với đồng

tiền của quốc gia đó, làm biến động tỷ giá hối đoái, ngoài ra do tập trung

vào lĩnh vực tài nguyên dẫn đến lĩnh vực sản xuất, công nghiệp khác bị suy

22

giảm làm mặt bằng tổng thể sản xuất, công nghiệp của quốc gia đó suy giảm

so với trước kia.

- Việc giàu tài nguyên có thể dẫn đến tham nhũng, phân bổ không

hiệu quả tài nguyên và nguồn lực; có thể tạo ra các xung đột giữa chính phủ

với người dân, giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương

làm cản trở kinh tế sự tăng trưởng của các quốc gia giàu giàu tài nguyên.

- Nguồn thu tài nguyên có xu hướng biến đổi do sự thay đổi về công

nghệ, về nhu cầu, ngoài ra các nguồn tài nguyên thiên nhiên thường độ co

giãn của cung theo giá thấp dẫn đến khi giá thay đổi thì sản lượng ít thay

đổi kịp thời với sự thay đổi của giá trong ngắn hạn, các yếu tố trên có tương

quan tiêu cực với sự tăng trưởng.

- Sự sẵn có quá mức của tài nguyên, nguồn lực tạo ra một cảm giác

sai lầm về an ninh kinh tế cho người dân và chính phủ, ngoài ra chính phủ

mất đi tầm nhìn để tạo ra một môi trường cho tăng trưởng bền vững. Ngoài

ra việc khai thác tài nguyên có những rủi ro do ô nhiễm môi trường mà lợi

nhuận từ việc khai thác không thể bù đắp được.

- Các quốc gia giàu tài nguyên thường không ưu tiên phát triển nguồn

nhân lực và phân bổ ít thu nhập cho ngành giáo dục. Trong khi đó giáo dục

là một điều kiện kiên quyết quan trọng cho sự phát triển nhanh chóng của

một quốc gia vì giáo dục góp phần chuyển đổi lao động thô thành nguồn

nhân lực.

Từ những nhận xét trên một số nhà nghiên cứu cho rằng sự giàu có tài

nguyên có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế không chỉ thông qua việc

phân bổ sai nguồn lực, gây ra tham nhũng mà còn làm suy yếu nguồn tích

lũy vốn con người.

23

Một số nghiên cứu như Sachs và Warner (1997) tìm thấy giữa mối

quan hệ tiêu cực giữa xuất khẩu dựa vào nguồn tài nguyên tự nhiên (nông

nghiệp, khoáng sản và nhiên liệu) và tăng trưởng trong giai đoạn 1970-1990

từ 95 nước đang phát triển. Auty (2001) cũng nhận thấy rằng thu nhập bình

quân đầu người của các quốc gia nghèo tài nguyên tăng nhanh hơn từ hai

đến ba hơn so với các nước giàu tài nguyên trong giai đoạn 1960-1990. Các

nghiên cứu trên thể hiện nguồn thu từ tài nguyên không góp phần làm tăng

trưởng kinh tế.

Abeysinghe (2001) còn chỉ ra thêm ngay cả các nhà xuất khẩu dầu

mỏ cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng tiêu cực của giá dầu cao gián tiếp

thông qua các cán cân thương mại. Sự biến động giá dầu có thể ảnh hưởng

đến tỷ giá hối đoái thực và gây ra hiện tượng được gọi là “bệnh Hà Lan”.

Bệnh Hà Lan là tác động tiêu cực đến nền kinh tế do sự gia tăng mạnh mẽ

dòng tiền ngoại tệ chảy vào nền kinh tế, chẳng hạn như việc phát hiện trữ

lượng dầu lớn. Dòng tiền đổ vào dẫn đến sự tăng giá tiền tệ, thu hút nguồn

lao động từ các ngành nghề khác, dẫn đến tăng chi phí sản xuất làm cho các

sản phẩm khác của nước này giảm khả năng cạnh tranh về giá trên thị

trường xuất khẩu làm nền kinh tế mất khả năng cạnh tranh dẫn đến suy

giảm về kinh tế.

Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu lại cho rằng:

- Tài nguyên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá

trình sản xuất. Nếu không có tài nguyên, đất đai thì sẽ không có sản xuất.

Tài nguyên trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và sử

dụng một cách hiệu quả.

- Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn

định: Đối với hầu hết nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài,

24

gian khổ liên quan chặt chẽ với tiêu dùng, đầu tư trong nước và thu hút vốn

đầu tư từ nước ngoài.

- Đặc biệt một số quốc gia đã phát triển kết hợp giữa khoa học công

nghệ, giáo dục với nguồn tài nguyên phong phú làm nguồn lực phát triển

kinh tế một cách bền vững như Đức, Mỹ…

Suy luận trên thể hiện qua các nghiên cứu của Schrank, A., 2004 với

nghiên cứu Reconsidering the “Resource Curse” và Stijns, J.P.C., 2005 với

nghiên cứu: Natural resource abundance and economic growth revisited cho

rằng Tài nguyên thiên nhiên có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông

qua cả hai kênh tích cực và tiêu cực. Daniel Lederman và William Maloney

Natural trong nghiên cứu Resources Neither Curse nor Destiny (năm 2007)

đã gợi ý rằng tài nguyên thiên nhiên không phải là lời nguyền hay số phận,

thay vào đó các tác giả khẳng định rằng đó là một cái túi hỗn hợp: một số

nước giàu tài nguyên hoạt động kém, một số nước khác thì không.

Gylfason (2001) trong nghiên cứu của mình đã đưa ra một kết luận:

Điều có vẻ quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế không phải là nguồn tài

nguyên thiên nhiên dồi dào của đất nước đó mà chính là chất lượng trong

quản lý tài nguyên và trong quản lý kinh tế và trong các thể chế nói chung

của đất nước đó.

c. Mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ, nguồn thu từ tài nguyên lên

tăng trưởng kinh tế

Katsuya Ito (2008) trong nghiên cứu về giá dầu và nền kinh tế của

Nga, tác giả sử dụng mô hình VECM, kiểm nghiệm ảnh hưởng của giá dầu

với tỷ giá, lạm phát, GDP, lãi suất trong khoảng thời gian từ quý I 1997 đến

quý IV 2007. Nghiên cứu của tác giả chỉ ra rằng giá dầu tăng 1% góp phần

tăng trưởng GDP thực trong khoảng 0,25% trong 12 quý tới và làm lạm

25

phát tăng 0,36% so với cùng kỳ. Tác giả thấy rằng cú sốc tiền tệ thông qua

kênh lãi suất ngay lập tức ảnh hưởng đến GDP thực và lạm phát theo dự

đoán của lý thuyết và cú sốc tiền tệ đối với nền kinh tế lớn hơn cú sốc giá

dầu.

Cherifa Bouchaour & Hussein Ali Al-Zeaud (2012) sử dụng mô hình

VECM kiểm tra sự tác động kiểm tra tác động của biến động giá dầu lên

nền kinh tế vĩ mô của Algeria trong giai đoạn 1980-2011; bằng cách sử

dụng năm biến số kinh tế vĩ mô chính: GDP thực, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ

lạm phát, tỷ giá hối đoái thực, cung tiền M2. Kết quả cho thấy biến động giá

dầu có ảnh hưởng gián tiếp đến GDP thực; điều đó giải thích do sự tăng giá

dầu tạo thu nhập cao hơn và điều này sẽ ảnh hưởng đến tất cả các thành

phần của GDP. Ngoài ra sự phụ thuộc vào ngành dầu mỏ ở Algeria ngày

càng tăng trong hơn bốn thập kỷ đã dẫn đến sự suy thoái của nhiều ngành

công nghiệp như là ngành công nghiệp sắt thép, công nghiệp dệt và da. Điều

đó đóng góp đáng kể vào gia tăng thất nghiệp và được biết đến như là tác

động của căn bệnh Hà Lan. Ngoài ra cú sốc giá dầu đã làm ảnh hưởng đáng

kể đến tỷ giá thực cũng như cung tiền của Algeria.

Nghiên cứu của Helmi Hamdi, Rashid Sbia (2013), tác giả sử dụng

mô hình VECM nghiên cứu mối quan hệ năng động giữa thu nhập dầu,

chính phủ chi tiêu và tăng trưởng kinh tế ở Vương quốc Bahrain với nguồn

dữ liệu từ năm 1960 đến 2010. Nghiên cứu chỉ ra doanh thu từ dầu mỏ vẫn

là nguồn tạo ra tăng trưởng và là kênh chính tài chính cho chính phủ chi

tiêu, tuy nhiên tác giả cũng cho rằng chi tiêu chính phủ không làm tăng

trưởng nền kinh tế do chi tiêu chính phủ không vào đầu tư mà vào phúc lợi

xã hội.

26

Kegomoditswe Koitsiwe, Tsuyoshi Adachi (2015) Nghiên cứu này

thực nghiệm điều tra mối quan hệ năng động giữa thu nhập từ nguồn thu tài

nguyên, chi tiêu của chính phủ, tỷ giá hối đoái và tăng trưởng kinh tế ở

Botswana. Dữ liệu hàng quý từ năm 1994 đến năm 2012 được phân tích

thông qua việc sử dụng mô hình tự điều chỉnh vector (VAR). Nghiên cứu

cho thấy phản ứng tích cực và tiêu cực đối với các cú sốc của nguồn thu tài

nguyên, chỉ ra rằng doanh thu từ tài nguyên tác động đến thay đổi trong

tăng trưởng kinh tế và chi tiêu của chính phủ. Kết quả thực nghiệm cũng

cho thấy thu nhập từ tài nguyên và tỷ giá hối đoái gây ra tăng trưởng kinh tế

trong khi tiêu dùng của chính phủ là do thu nhập từ tài nguyên và tăng

trưởng kinh tế tạo ra. Qua đó đưa ra kết luận việc khai thác tài nguyên có

vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Botswana.

Qua các nghiên trên đã chỉ ra rằng vẫn còn có sự tranh cãi về tác

động giữa nguồn thu dầu mỏ, chi tiêu chính phủ lên tăng trưởng kinh tế,

trong một số trường hợp nguồn thu từ tài dầu mỏ, chi tiêu chính phủ tác

động tích cực đến tăng trưởng và ngược lại. Mối quan hệ đó phụ thuộc vào

từng quốc gia. Việc nghiên cứu mối quan hệ nhau đó sẽ giúp làm rõ tác

động của từng yếu tố nguồn thu dầu mỏ, chi tiêu chính lên tăng trưởng

nhằm có sự điều chỉnh phù hợp trong việc thực hiện các chính sách.

2.5. Các đặc điểm Chính sách tài khoá của các nước xuất khẩu dầu

mỏ

Ở một số nước xuất khẩu dầu, sự phụ thuộc tài chính vào dầu mỏ dẫn

đến quản lý tài chính có nhiều thách thức với các đặc điểm tài chính như

sau:

- Giá dầu tăng có xu hướng làm các quốc gia xuất khẩu dầu ít thay

đổi, điều chỉnh chính sách tài chính và ít thực hiện chính sách tiết kiệm. Do

27

tích lũy thặng dư ngân sách trong thời kỳ dầu mỏ đang bùng nổ thường

không được ưa chuộng về mặt chính trị và một phần áp lực tăng chi tiêu

công (Talvi & Vegh, 2005) vì Chính phủ các nước xuất khẩu dầu thường có

xu hướng đối mặt với nhu cầu "hiện đại hóa" nền kinh tế để đáp ứng nguyện

vọng của công dân. Hậu quả là chính phủ trực tiếp tham gia vào các dự án

công có quy mô lớn và trải qua các chính sách tài khóa thuận chu kỳ.

Nguồn thu tăng lên thu dầu mỏ đòi hỏi phải được chi tiêu, được đưa vào

đầu tư công nhưng việc tăng cường đầu tư chưa chắc đã làm lợi nhuận tăng

trưởng và không tạo ra lợi ích cho xã hội .

- Nguồn thu từ dầu mỏ quá lớn làm Chính phủ không chú trọng phát

triển các nguồn thu phi dầu mỏ (Bornhorst et al, 2008). Các nước xuất khẩu

dầu thường phải đối mặt với những khó khăn về vay mượn trong suốt chu

kỳ giá dầu thấp, điều đó làm giảm khả năng duy trì mức chi tiêu trước đây

của chính phủ và buộc chính phủ phải cắt giảm các chi phí tốn kém. Việc

cắt giảm trên cũng làm giảm hiệu quả của vốn công.

- Ngoài ra chính sách tài khoá còn phụ thuộc vào yếu tố chính trị dẫn

đến một số trường hợp các kế hoạch đầu tư không mang lại thặng dư cho xã

hội vì các lời hứa hẹn của các nhà chính trị khi tranh cử, chứ không xuất

phát từ các nhu cầu khách quan của nền kinh tế

Ngoài ra các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ có những thách thức như

sau:

Chính sách tài khóa ở các nước xuất khẩu dầu phải đối mặt những

thách thức cụ thể liên quan đến thu nhập từ dầu có thể cạn kiệt, dễ biến

động và không chắc chắn và nguồn thu chủ yếu xuất phát từ mua bán dầu từ

nước ngoài. Các thách thức này có tác động mạnh đối với các quốc gia có

thu nhập từ ngành dầu mỏ chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Ngoài ra

28

việc khai thác dầu mỏ tạo ra những thách thức khó giải quyết trong cả dài

hạn và ngắn hạn: quản lý kinh tế vĩ mô và kế hoạch tài chính trong thời gian

ngắn và sự công bằng giữa các thế hệ và bền vững về tài chính trong dài

hạn

a. Các vấn đề về ngắn hạn: quản lý kinh tế vĩ mô và lập kế hoạch tài

chính

Thách thức ngắn hạn đối với chính sách tài khóa trong các quốc gia

xuất khẩu dầu xuất phát từ sự biến động và khả năng không dự đoán được

của giá dầu. Điều này có nghĩa là tài chính tài khoá phụ thuộc vào biến

động và nằm ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền. Điều này đặt ra

một thách thức cho cả quản lý kinh tế vĩ mô và lập kế hoạch tài chính. Sự

biến động giá dầu, làm thu ngân sách biến đổi, điều này cũng làm chi tiêu

của chính phủ cũng biến động cùng chiều theo và những thay đổi đột ngột

trong chi tiêu của chính phủ, có thể làm biến động kinh tế vĩ mô và giảm

triển vọng tăng trưởng.

b. Các vấn đề dài hạn: công bằng cho các thế hệ sau và tài chính bền

vững

Về lâu dài thách thức bắt nguồn từ sự cạn kiệt trữ lượng dầu và mối

quan tâm của về tính bền vững tài chính và sự phân bổ nguồn lực công

bằng. Chính sách chủ yếu để giải quyết những thách thức này là để tiết kiệm

thu nhập dầu khí nhằm tích lũy tài sản tài chính hoặc đầu tư vào tài sản vật

chất. Sau kết thúc sản xuất dầu, doanh thu từ các tài sản khác có thể được

sử dụng để thay thế nguồn thu nhập dầu và để duy trì mức chi tiêu. Tài sản

dầu do đó dần dần chuyển thành tài sản tài chính, vào cơ sở vật chất hạ tầng

để duy trì sự giàu có của đất nước nói chung và bảo quản nó cho các thế hệ

tương lai sau này. Tuy nhiên, để làm được điều đó có nhiều thách thức. Ví

29

dụ: có sự không chắc chắn về tương lai của giá dầu, về trữ lượng dầu và về

chi phí trong việc sản xuất dầu mỏ như có kỹ thuật mới tạo ra nguồn năng

lượng khác làm thay thế phần lớn dầu hoặc tăng cường đáng kể hiệu quả

trong việc sử dụng dầu, điều đó sẽ làm giảm đáng kể giá trị trữ lượng dầu

mỏ hoặc thậm chí làm cho chúng trở nên lỗi thời.

30

CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU, MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

3.1. Sơ lược về nước Nga

Nga là một nhà nước cộng hòa liên bang, có diện tích lớn nhất thế

giới: 17,075,400 km². Nga cũng là một quốc gia đông dân thứ chín thế giới

với gần 144 triệu người. Nga có trữ lượng khoáng sản và năng lượng lớn

nhất thế giới và được coi là một siêu cường năng lượng. Hiện nay Nga là

quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới.

Các số liệu về tăng trưởng kinh tế và nguồn thu từ dầu mỏ, khí đốt

của nước Nga được thể hiện qua các bảng thống kê sau:

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng của nước Nga qua các năm:

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

%GDP -7.8 4.5 5.2 3.7 1.8 0.7 -2.8 -0.2 1.5

(Nguồn: IMF)

Bảng 3.2: Cán cân nguồn dầu mỏ, khí đốt và tổng nguồn thu:

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2,984 3,830

5,641

6,453

6,534

7,433

5,862

4,844

5,972

Nguồn thu Oil&gas

7,337 8,305 11,367 12,855

13,019 14,496 13,659 13,460 15,089

Tổng nguồn thu

Tỷ lệ %

0.41

0.46

0.50

0.50

0.50

0.51

0.43

0.36

0.39

(Nguồn http://www.gks.ru của Russian Federation với đơn vị tỷ rube)

Nguồn thu từ dầu và khí đốt thường chiếm khoảng 40-50% tổng

nguồn thu của nước Nga qua các năm. Có thể nói Ngân sách Chính phủ Nga

thu được chủ yếu từ dầu mỏ và khí đốt, điều này thể hiện vai trò quan trọng

31

của dầu mỏ, khí đốt cũng như sự phụ thuộc nền kinh tế của nước Nga vào

hai nguồn tài nguyên trên.

Hình 3.1: Đồ thị mối quan hệ giữa giá dầu với tăng trưởng kinh tế.

Qua biểu đồ trên cho ta thấy sự biến động cùng chiều giữa giá dầu và GDP của

nước Nga. Khi giá dầu mỏ tăng thì tốc độ tăng trưởng GDP của Nga tăng và

ngược lại giá giảm thì tốc độ tăng trưởng GDP của Nga suy giảm, điều này thể

hiện nguồn thu từ dầu mỏ có những tác động nhất định tới nền kinh tế Nga

3.2. Dữ liệu

Dữ liệu từ quý I 2000 đến quý I 2017 được trích xuất thông qua dữ

liệu của Ngân hàng thế giới (Worldbank) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và

Cơ quan thống kê Liên bang Nga (Rosstat), Ngân hàng trung ương Nga.

Tổng số lượng quan sát của mô hình là 69. Dữ liệu gồm các thông số sau:

- Oilrent: đại diện cho nguồn thu từ dầu mỏ (là lợi nhuận trước thuế

của hoạt động thăm dò và khai thác dầu mỏ) dữ liệu hàng quý của nước

Nga. Đơn vị: tỷ Ruble.

32

- Gov: chi ngân sách của chính phủ theo giá hiện hành, dữ liệu hàng

quý. Đơn vị: tỷ Ruble.

- GDP: tổng sản phẩm quốc nội theo giá hiện hành, dữ liệu hàng quý.

Đơn vị: tỷ Ruble.

- Tỷ giá: là tỷ giá trao đổi ngoại tệ giữa đồng Đô la Mỹ với đồng

Ruble, dữ liệu hàng quý.

Tổng quan số liệu của các biến quan sát từ quý I 2000 đến quý I

2017:

Bảng 3.3: Thống kê các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và giá trị lớn

nhất, nhỏ nhất của dữ liệu.

Mỗi dữ liệu có 69 quan sát.

Tỷ giá đồng Ruble biến động từ 23.6 đến 72.55 USD/Ruble.

Giá trị GDP biến động từ 1527 đến 24076 tỷ ruble.

Giá trị oilrent biến động từ 185 đến 1900 tỷ ruble.

Giá trị Chi tiêu chính phủ biến động từ 255 đến 4400 tỷ ruble.

Qua dữ liệu trên cho ta thấy tốc độ tăng trưởng vượt bậc của nền kinh

tế Nga trong các năm qua, trong đó chi chính phủ là tăng trưởng nhất trong

các biến được nghiên cứu.

33

Hình 3.2: Đồ thị thể hiện biến động của lngov, lngdp, lntygia, lnoilrent.

Qua biểu đồ trên cho ta thấy 3 biến gov, oilrent, gdp biến động cùng chiều,

biến tỷ giá có biến động nhưng không cùng chiều với 3 biến trên.

3.3. Phương pháp nghiên cứu:

3.3.1. Phương pháp nghiên cứu:

Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để giải quyết

vấn đề nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:

- Để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: tác giả sử dụng mô hình

VECM.

- Để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ hai: tác giả sử dụng mô hình hồi

qui OLS.

3.3.2. Mô hình

Mô hình thứ nhất: Dựa trên các lý thuyết về mối quan hệ thu - chi

ngân sách cho ta thấy nguồn thu và chi ngân sách có những mức tác động

qua lại, để đánh giá những tác động đó, tác giả sử dụng Mô hình vectơ hiệu

chỉnh sai số (VECM) để kiểm định mối quan hệ đồng liên kết giữa thu

nguồn thu và chi ngân sách, tác giả sử dụng nguồn thu từ dầu mỏ để đại

diện cho nguồn thu từ ngân sách quốc gia Nga (do nguồn thu từ dầu mỏ

34

chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của Chính phủ Nga) thông qua biến

Oilrent. Nguồn thu từ dầu mỏ và chi tiêu ngân sách của chính phủ với vai

trò lần lượt là biến phụ thuộc và biến giải thích và ngược lại; còn biến GDP

được sử dụng như là biến kiểm soát của mô hình do thu nhập của chính phủ

và chi tiêu đều phụ thuộc vào mức độ hoạt động của kinh tế thể hiện qua

GDP. Các biến trên được tiến hành lấy logarit. Việc lấy logarit không làm

mất đi các đặc tính của chuỗi dữ liệu mà chỉ để làm trơn chuỗi dữ liệu.

Dựa các lý thuyết và các nghiên cứu trước đó, ta có mô hình sau:

với là giá trị độ trễ của mô hình hiệu chỉnh sai số.

Sau khi có mô hình tác giả sử dụng phần mềm Sata để chạy hồi quy mô

hình và kiểm định mô hình và đưa ra các nhận xét đánh giá mô hình.

Mô hình thứ hai: nhằm đo lường tác động chi tiêu chính phủ và nguồn thu

dầu mỏ lên GDP, tác giả sử dụng Mô hình David Ricardo Y = f(K, L, R).

Trong đó biến chi tiêu chính phủ đóng vai trò như vốn sản xuất (K) và biến

nguồn thu dầu mỏ là nguồn tài nguyên sử dụng, biến lao động (L) không sử

dụng do nguồn lực lao động Nga ổn định, biến tỷ giá được dùng làm biến

kiểm soát để kiểm tra các tác động của thu dầu mỏ, chi tiêu chính phủ lên

tăng trưởng kinh tế nước Nga. Trong đó biến phụ thuộc Y là tăng trưởng

kinh tế, được đo lường bằng GDP. Biến độc lập: hai biến độc lập được quan

tâm chính là nguồn thu dầu mỏ và Chi tiêu chính phủ; tỷ giá giữa đồng USD

với đồng ruble được dùng làm biến kiểm soát.

Lý do sử dụng biến tỷ giá làm biến kiểm soát: Tỷ giá có ý nghĩa quan

trọng đối với nền kinh tế vì sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể làm thay

đổi cán cân thương mại của quốc gia và làm ảnh hưởng đến GDP.

Ta có mô hình hồi qui OLS như sau:

35

+ lnGDPt = lngovt + lnoilrentt + lntygiat + ut

Sau khi có mô hình tác giả sử dụng phần mềm Sata để chạy hồi quy mô hình

và kiểm định mô hình và đưa ra các nhận xét đánh giá mô hình

3.4. Chạy mô hình

3.4.1. Chạy mô hình 1

Ta thực hiện các bước sau:

- Kiểm tra tính dừng.

- Xác định độ trễ tối ưu.

- Kiểm định tính đồng liên kết giữa các biến.

- Chạy mô hình VECM.

- Kiểm tra mô hình:

+ Tính ổn định của mô hình.

+ Mối tương quan giữa các độ trễ.

a. Kiểm tra tính dừng:

Chạy phần mềm Sata và sử dụng phương pháp kiểm định Augmented

Dickey Fuller (ADF test) để kiểm tra tính dừng của các biến trong mô hình.

Chạy phần mềm Sata kiểm định tính dừng có kết quả như sau

Chuỗi dữ liệu Kết luận

LGDP Kiểm định ADF ( Test statistic) - 2 Không dừng

Log của GDP DLGDP -8 Dừng

LGov - 1.8 Không dừng

Log của Gov DLGov -10 Dừng

Loilrent - 1.9 Không dừng

Log của Oilrent DLoilrent -8 Dừng

Bảng 3.4: Kiểm tra tính dừng của các biến lnoilrent, lnGov, lnGDP

36

Kết quả kiểm định tính dừng của các biến như sau:

+ Ba biến lnoilrent, lnGov, lnGDP đều không dừng ở sai phân bậc I(0).

+ Ba biến lnoilrent, lnGov, lnGDP đều dừng I(1).

Các biến đều dừng ở sai phân bậc I(1) là đáp ứng điều kiện ban đầu để chạy

mô hình VECM.

b. Xác định độ trễ tối ưu:

Độ trễ tối ưu được lựa chọn dựa trên các tiêu chuẩn thông tin Akaike (AIC),

tiêu chuẩn thông tin Schwarz (SC) và tiêu chuẩn thông tin Hannan Qiunn

(HQ). Độ trễ nào làm cho các thống kê nói trên nhận giá trị nhỏ nhất thì được

xem là độ trễ tối ưu của mô hình. Việc chọn độ trễ tối ưu nhằm cho kết quả

tốt nhất của mô hình.

Sử dụng phần mềm Sata để lựa chọn độ trễ tối ưu:

Bảng 3.5: Kết quả xác định độ trễ tối ưu.

Qua chạy phần mềm Sata, ta xác định được độ trễ tối ưu là độ trễ 5 (lag 5).

c. Kiểm định tính đồng liên kết giữa các biến.

Việc kiểm định này nhằm xác định mối quan hệ giữa các biến và là điều

kiện cần thiết để chạy mô hình VECM

37

Bảng 3.6: Kết quả kiểm tra tính đồng liên kết.

Kết quả cho thấy có 1 đồng liên kết trong mô hình, ta tiếp tục sử dụng mô

hình VECM để phân tích mối quan hệ trên.

d. Chạy mô hình VECM.

Chạy phần mềm Sata với lệnh vec lngov lnoilrent lngdp, rank(1) lag(5)

Bảng 3.7: Kết quả chạy dữ liệu mô hình VECM.

Kết quả:

Phương trình đồng liên kết thể hiện mối quan hệ trong dài hạn.

38

- Sau khi chạy mô hình, ta kiểm định sự ổn định và sự tương quan

giữa các độ trễ của mô hình.

e. Kiểm tra tính ổn định của mô hình.

Chạy phần mềm Sata, ta có kết quả sau:

Hình 3.3: Kiểm định tính ổn định của mô hình VECM.

Các nghiệm đơn vị đều nằm trong vòng tròn, điều này cho ta thấy mô hình

trên ổn định.

f. Kiểm tra mối tương quan giữa các độ trễ.

Chạy phần mềm Sata, ta có bảng sau

39

Bảng 3.8: Kết quả kiểm tra mối tương quan giữa các độ trễ.

Với giá trị P value ở các độ trễ đều lớn hơn 0.05, ta chấp nhận giả

thuyết H0: không có sự tương quan giữa các độ trễ.

Sau khi kiểm tra mô hình có sự ổn định, không có sự tương quan giữa

các độ trễ, ta kết luận mô hình trên thoả mãn các điều kiện.

Để xác định các biến nào có mối quan hệ đồng liên kết trong mô

hình. Ta lần lượt kiểm định từng cặp biến để xác định mối quan hệ đồng

liên kết:

- Kiểm tra mối quan hệ đồng liên kết giữa biến lngov và lnoilrent:

Chạy phần mềm Sata, ta có kết quả như sau:

Qua kết quả kiểm tra cho ta thấy biến lngov và lnoilrent có mối quan

hệ đồng liên kết.

40

- Kiểm tra mối quan hệ đồng liên kết giữa biến lngov và lngdp: Chạy

phần mềm Sata ta có kết quả như sau:

Qua kết quả kiểm tra cho ta thấy biến lngov và lngdp không có mối quan hệ

đồng liên kết.

- Kiểm tra mối quan hệ đồng liên kết giữa biến lnoilrent và lngdp: Chạy

phần mềm Sata ta có kết quả như sau:

Qua kết quả kiểm tra cho ta thấy biến lnoilrent và lngdp không có

mối quan hệ đồng liên kết.

Vậy từ kết quả chạy mô hình VECM, ta xác định giữa biến lngov và

lnoilrent có mối quan hệ đồng liên kết và có mối tương quan thể hiện qua

phương trình sau:

3.4.2. Kết quả mô hình 1:

Mô hình thể hiện khi nguồn lợi nhuận từ dầu mỏ tăng 1% sẽ làm chi

tiêu của Chính phủ Nga tăng thêm 0.11%.

41

Biến kiểm soát GDP có hệ số dương thể hiện đúng kỳ vọng và thực tế

vì kinh tế phát triển sẽ làm tăng chi tiêu của chính phủ.

Giữa biến lngov và lnoilrent có mối quan hệ đồng liên kết điều này

thể hiện mối quan hệ giữa chi tiêu và nguồn thu dầu mỏ của nước Nga là

mối quan hệ mối quan hệ dài hạn, biến động cùng chiều tuân theo giả thuyết

đồng bộ hoá tài chính. Kết quả trên cũng phù hợp với nghiên cứu về mối

quan hệ thu- chi ngân sách của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ OPEC, điều

này cho thấy, đa số các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ có chi tiêu Chính phủ

và nguồn thu dầu mỏ có mối quan hệ chặt chẽ, cùng chiều.

Kết quả trên giống với nghiên cứu của Sajjad Faraji Dizaji (2014) về

kiểm tra các cú sốc của dầu mỏ lên lên quan hệ thu chi của chính phủ Iran.

Kết quả nghiên cứu của Sajjad Faraji Dizaji cho thấy có mối quan hệ nhân

quả mạnh đi từ doanh thu phủ đến chi tiêu chính phủ trong nền kinh tế Iran.

Nghiên cứu của Kegomoditswe Koitsiwe, Tsuyoshi Adachi (2015) điều tra

mối quan hệ năng động giữa thu nhập từ nguồn thu tài nguyên, chi tiêu của

chính phủ, tỷ giá hối đoái và tăng trưởng kinh tế ở Botswanatrong cho rằng

tiêu dùng của chính phủ là do thu nhập từ tài nguyên và tăng trưởng kinh tế

tạo ra.

Từ mối quan hệ đồng liên kết trên cho ta thấy để tăng chi tiêu chính

phủ thì nguồn thu dầu mỏ phải tăng hoặc tiếp tục tăng trưởng GDP, tuy

nhiên nguồn thu từ dầu mỏ lại phụ thuộc vào giá và sản lượng khai thác,

trong khi giá dầu lại phụ thuộc vào giá dầu thế giới và khó dự đoán, để đảm

bảo chi tiêu điều này đòi hỏi chính phủ Nga phải đảm bảo nguồn thu từ dầu

mỏ ổn định và tăng trưởng GDP hoặc có các biện pháp tăng nguồn thu, vay

nợ để bù đắp khi nguồn thu từ dầu mỏ giảm.

Để đảm bảo chi ngân sách của Chính phủ cần:

42

- Khi giá dầu giảm thì tăng sản lượng, hoặc phát hành trái phiếu để

đảm bảo nguồn thu.

- Thực hiện chính sách phát triển GDP như giảm thuế, khuyến khích

chi tiêu của cá nhân, hỗ trợ xuất khẩu.

3.4.3. Chạy mô hình 2

Bước 1: Chạy hồi quy

Bước 2: Kiểm tra mô hình:

- Kiểm tra độ thích hợp của mô hình

- Kiểm tra mô hình không bỏ sót biến

- Kiểm tra sự tương quan

- Kiểm tra phương sai thay đổi.

- Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến.

- Kiểm sai số ngẫu nhiên trong mô hình có phân phối chuẩn.

- Kiểm tra hồi quy giả mạo.

Chạy hồi quy mô hình

Sử dụng phần mềm Sata chạy hồi quy có kết quả như sau:

Bảng 3.9: Kết quả chạy mô hình hồi quy.

43

Ta có phương trình lngdpt = 0.63lngovt + 0.35lnoilrentt + 0.35lntygiat + 0.78

+ ut

Kiểm tra mô hình 2:

a. Kiểm tra độ thích hợp của mô hình

Chạy phần mềm Sata có kết quả sau:

Bảng 3.10: Kết quả kiểm tra sự phù hợp của mô hình.

Với giả thuyết:

= = = 0. H0:

+ + 0. H1:

Với P value = 0.00, ta bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1, do đó

mô hình hồi quy trên phù hợp (có ít nhất một biến trong mô hình tác động đến

lnGDP).

b. Kiểm tra mô hình không bỏ sót biến.

Chạy phần mềm Sata có kết quả sau:

Bảng 3.11: Kết quả Kiểm tra mô hình không bỏ sót biến.

44

P = 0.0557 > 0.05 chấp nhận giả thuyết H0: mô hình hồi quy không bỏ sót

biến.

c. Kiểm tra sự tương quan

Chạy phần mềm Sata có kết quả sau:

Bảng 3.12: Kết quả Kiểm tra sự tương quan

Với P = 0.051 > 0.05 chấp nhận giả thuyết H0: không có sự tương quan. Kết

luận: Mô hình không có sự tương quan.

d. Kiểm tra phương sai thay đổi

Chạy phần mềm Sata có có kết quả sau:

Bảng 3.13: Kết quả Kiểm tra phương sai thay đổi.

P = 0.2633 > 0.05, chấp nhận giả thuyết H0: phương sai không đổi.

e. Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Chạy phần mềm Sata có kết quả sau:

45

Bảng 3.14: Kết quả Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến.

Mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến cao của biến lngov, tuy nhiên do sai số

của biến lngov là 0.036 rất nhỏ và nhỏ hơn nhiều so với hệ số của biến lngov

là 0.63 nên hiện tượng đa cộng tuyến cao này không gây ra hậu quả nghiêm

trọng làm ảnh hưởng đến các ước lượng của mô hình.

f. Kiểm sai số ngẫu nhiên trong mô hình có phân phối chuẩn.

Kiểm định cặp giả thuyết sau:

H0: phần dư tuân theo phân phối chuẩn.

H1: phần dư không tuân theo phân phối chuẩn.

Sau khi chạy hồi quy, ta tạo ra phần dư của mô hình với lệnh “predict resid,

residual” trong phần mềm Sata. Sau đó dùng kiểm định Jacque – Bera kể

kiểm tra phần dư có tuân theo phân phối chuẩn không, ta có kiểm định Jacque

– Bera như sau:

Với P = 0.0583 > 0.05 chấp nhận giả thuyết H0: phần dư tuân theo phân phối

chuẩn.

Với kiểm định Shapiro Wilk:

46

Bảng 3.15. Kết quả Kiểm sai số ngẫu nhiên trong mô hình có phân phối

chuẩn.

Với P = 0.061 > 0.05 chấp nhận giả thuyết H0: phần dư tuân theo phân phối

chuẩn.

Kết luận: Mô hình có sai số ngẫu nhiên tuân theo quy luật phân phối chuẩn.

g. Kiểm tra hồi quy giả mạo

Với R2 = 0.99 cho ta thấy R2 rất cao, mô hình hồi quy trên có khả năng

xảy ra hiện tượng hồi quy giả mạo.

Hồi quy giả mạo là hiện tượng nếu một biến có xu thế được hồi quy

theo một hoặc nhiều biến có xu thế thì chúng ta thường thấy các thống kê F và

t có ý nghĩa và giá trị R2 cao, nhưng thực sự không có mối quan hệ thực nào

giữa chúng bởi vì mỗi biến có xu hướng tăng lên qua thời gian. Đây được

xem là hồi quy giả mạo hoặc hồi quy không thật.

Thường thì dấu hiệu để nhận biết hồi quy là giả mạo là một giá trị

thống kê d Durbin-Watson thấp. Theo Granger và Newbold, R2 > d là một

quy tắc thực nghiệm tốt để hoài nghi một hồi quy ước lượng là giả .

Ta chạy phần mềm Sata để xác định giá trị thống kê d Durbin-Watson

có kết quả sau:

Bảng 3.16: Kết quả Kiểm tra giá trị thống kê d Durbin-Watson

47

Với kiểm định Durbin-Watson d-statistic (4, 69) = 1.545 > R2 = 0.99 cho ta

thấy hồi quy trên không nằm trong trường hợp R2 > d để xác định hồi quy trên

là hồi quy giả mạo.

Granger cho rằng “Kiểm định đồng liên kết có thể được nghĩ như một

cách kiểm định trước để tránh các tình huống hồi quy giả mạo”. Ở đó hồi quy

giữa một chuỗi không dừng theo một chuỗi không dừng khác không dẫn đến

hồi quy giả mạo. Đây là trường hợp đồng liên kết: Nếu hai chuỗi thời gian có

xu thế ngẫu nhiên (tức chúng là các chuỗi không dừng), một hồi quy của một

biến này theo biến khác có thể triệt tiêu các xu thế ngẫu nhiên chứa trong các

chuỗi dữ liệu, điều này cho chúng ta biết rằng có một mối quan hệ cân bằng

hoặc dài hạn giữa chúng, mặc dù khi tách riêng lẽ chúng là các chuỗi không

dừng.

Ta thực Kiểm định hồi quy đồng kết hợp Durbin-Watson (CRDW)

Giả thuyết H0: d = 0 (đồng liên kết)

Giả thuyết H1: d > 0 (không đồng liên kết)

Các giá trị tới hạn ở mức 1%, 5% và 10% tương ứng là: 0,511; 0,388 và

0,322. Nếu d nhận được từ thống kê Durbin-Watson nhỏ hơn các giá trị trên

thì H0 bác bỏ ở mức xác suất tương ứng.

Ta có d = 1.545 lớn hơn các giá trị tới hạn ở mức 1%, 5% và 10% tương ứng

là: 0,511; 0,388 và 0,322. Ta chấp nhận giả thuyết H0: đồng liên kết

Vậy trong mô hình hồi quy có mối quan hệ đồng liên kết.

Ngoài biện pháp kiểm tra Durbin-Watson (CRDW), ta còn có biện

pháp kiểm tra phần dư. Nguyên tắc kiểm tra phần dư như sau: lngov, lngdp,

lntygia, lnoilrent là các chuỗi không dừng hoặc bước ngẫu nhiên [nhưng đều

dừng ở sai phân bậc đều là I(1)]. Tuy nhiên, có thể sự kết hợp tuyến tính của

các biến trên sẽ là tạo ra chuỗi dừng. Cụ thể hơn, nếu ta viết lại phương trình

- hồi quy như sau ut = lnGDPt - lngovt - lnoilrentt - lntygiat và tìm

48

nếu ut là I(0) hoặc dừng, thì ta nói rằng các biến lngov, lngdp, lntygia,

lnoilrent là đồng kết hợp. Nói một cách nôm na, chúng thuộc cùng một biến.

Về trực giác, ta thấy rằng khi ut trong mô hình hồi quy là I(0), thì “các xu

hướng” trong lngov, lngdp, lntygia, lnoilrent trở nên cân bằng với nhau. Và

chúng sẽ có cùng một bước sóng nếu chúng được kết hợp với nhau ở cùng

một bậc. Như vậy, nếu chuỗi Y là I(1) và một chuỗi khác X cũng là I(1), thì

chúng có thể là đồng kết hợp. Nói rộng ra, nếu Y là I(d) và X cũng là I(d) mà

d có cùng giá trị, thì hai chuỗi này có thể là đồng kết hợp. Nếu đúng là như

thế, thì hồi qui đối với các mức của các biến đó, sẽ là có ý nghĩa (tức là không

phải là không xác thực); và chúng ta sẽ không mất bất kỳ thông tin dài hạn

quí giá nào, cái mà có thể bị mất đi nếu thay vào đó ta sử dụng các sai phân

bậc 1 của chúng. Tóm lại, miễn là chúng ta chắc chắn được rằng những gì có

được từ các hồi qui như ut là I(0) hoặc dừng, thì hệ phương pháp hồi qui

truyền thống (kể cả các kiểm định t và F) mà chúng ta đã biết cho đến nay vẫn

áp dụng được đối với các dữ liệu liên quan tới chuỗi thời gian.

Ta chạy phần dư của mô hình với câu lệnh trong Sata như sau: predict

resid, residual.

Sau đó để kiểm tra phần dư của mô hình có phải là 1 chuỗi dừng

không. Ta sử dụng kiểm tra Dickey-Fuller để xác định:

Bảng 3.17. Kết quả Kiểm tra tính dừng của chuỗi ut

49

Qua kết quả kiểm tra, ut là một chuỗi dừng, ta có thể áp dụng phương

pháp hồi qui truyền thống để hồi quy các chuỗi không dừng.

Qua số liệu, các biến chi tiêu chính phủ, tài nguyên, tỷ giá, GDP có xu

hướng tăng lên qua thời gian và nếu chúng không có mối liên quan, tác động

đến nhau sẽ dẫn đến hiện tượng hồi quy giả mạo, tuy nhiên chi tiêu chính phủ,

tài nguyên, tỷ giá đều có tác động lên tăng trưởng kinh tế là thực chất chứ

không phải là ngẫu nhiên cùng tăng, điều này thể hiện tại các lý thuyết kinh tế

(lý thuyết của Keynes, lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp…), mô hình tăng

trưởng nội sinh nên qua kết quả kiểm tra và dựa vào lý thuyết, mô hình hồi

quy trên không phải là hồi quy giả mạo.

3.4.4. Kết quả chạy mô hình 2:

Qua kết quả kiểm tra mô hình cho ta chấp nhận mô hình với kết quả

như sau:

lngdpt = 0.63lngovt + 0.35lnoilrentt + 0.35lntygiat + 0.78 + ut

Với kết quả trên:

- Khi chi tiêu chính phủ Nga tăng 1%, các yếu tố khác không đổi thì

GDP của Nga tăng 0.63%.

- Khi nguồn thu dầu mỏ tăng 1%, các yếu tố khác không đổi thì GDP

của Nga tăng 0.35%.

- Khi tỷ giá tăng 1%, các yếu tố khác không đổi thì GDP của Nga tăng

0.35%.

Biến tỷ giá thể hiện dấu dương đúng với tình hình thực tế khi tỷ giá

tăng làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và làm giảm tính cạnh

tranh của hàng hoá nhập khẩu, giúp nền kinh tế tăng trưởng. Điều này thể

hiện nguồn thu dầu mỏ và chi tiêu chính phủ là các nhân tố ảnh hưởng đến

nền kinh tế Nga.

50

Kết quả chạy mô hình hồi quy cho thấy GDP của nước Nga chịu sự tác

động của chi tiêu chính phủ, nguồn thu từ dầu mỏ và tỷ giá, điều này phù hợp

với các lý thuyết kinh tế tân cổ điển, Keynes và phù hợp với các nghiên cứu

về các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ như của Helmi Hamdi, Rashid Sbia, 2013,

(Kết quả chỉ ra doanh thu từ dầu mỏ vẫn là nguồn tạo ra tăng trưởng và là

kênh chính tài chính cho chính phủ chi tiêu) và Kegomoditswe Koitsiwe,

Tsuyoshi Adachi (2015) (Nghiên cứu điều tra mối quan hệ năng động giữa

thu nhập từ nguồn thu tài nguyên, chi tiêu của chính phủ, tỷ giá hối đoái và

tăng trưởng kinh tế ở Botswana. Nghiên cứu cho thấy phản ứng tích cực và

tiêu cực đối với các cú sốc của nguồn thu tài nguyên, chỉ ra rằng doanh thu

từ tài nguyên tác động đến thay đổi trong tăng trưởng kinh tế và chi tiêu của

chính phủ. Kết quả thực nghiệm cũng cho thấy thu nhập từ tài nguyên và tỷ

giá hối đoái gây ra tăng trưởng kinh tế).

Để tăng trưởng kinh tế đòi hỏi nước Nga tăng cường chi tiêu và tăng

nguồn thu từ dầu mỏ và thực tế cho thấy những năm gần đây nước Nga liên

tục tăng chi tiêu, tăng cường khai thác dầu mỏ, tuy nhiên có một khó khăn

nếu nguồn thu dầu mỏ suy giảm thì biện pháp nào giúp nền kinh tế Nga

vượt qua khó khăn, vì nguồn thu dầu mỏ với chi tiêu chính phủ có mối quan

hệ đồng liên kết, nguồn thu giảm làm nguồn chi giảm, cả 2 yếu tố trên cùng

làm ảnh hưởng đến GDP của nước Nga. Thực tế cho thấy nền kinh tế Nga

tự điều chỉnh nhằm giảm bớt những suy giảm như đồng tiền ruble của Nga

bị mất giá điều này góp phần tăng nguồn thu từ dầu mỏ khi quy đổi từ ngoại

tệ sang đồng nội tệ (dầu mỏ của Nga chủ yếu xuất khẩu), điều này góp bù

đắp một phần nguồn thu dầu mỏ giảm do giá dầu giảm, từ đó làm hạn chế

suy giảm nguồn chi tiêu chính phủ, ngoài ra tỷ giá giảm làm tăng sức khả

năng cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu, làm hạn chế nhập khẩu từ đó góp

phần khắc phục việc suy giảm kinh tế.

51

3.4.5. Dự đoán sự biến động của nước Nga trong tương lai

Với các dữ liệu từ quý I 2017 đến quý I 2019 và sử dụng phần mềm

Sata, ta có những dự báo về sự phát triển của nền kinh Nga như sau:

Hình 3.4: Dự đoán chi tiêu ngân sách của nước Nga từ quý II 2017 đến quý

I 2019

Hình 3.5: Dự đoán GDP của nước Nga từ quý II 2017 đến quý I 2019

52

Qua biểu đồ cho ta thấy biến lngov, lngdp trong từng giai đoạn có sự

tăng, giảm nhưng có xu hướng chung là tăng dần lên, điều này thể hiện chi

tiêu và nền kinh tế Nga đang có xu hướng phát triển đi lên trong tương lai

dù có trải qua một số thách thức hiện nay như giá dầu giảm, bị các nước

phương Tây cô lập về kinh tế lẫn chính trị. Điều này phù hợp với dự đoán

của các nhà kinh tế khi cho rằng giá dầu giảm chỉ là nhất thời, xu hướng giá

dầu tăng vẫn tiếp tục trong tương lai vì dầu mỏ là nguồn tài nguyên không

tái tạo, trữ lượng cũng có hạn và hiện tại chưa có nguồn tài nguyên thay thế

hiệu quả nguồn dầu mỏ. Trong khi đó nước Nga hiện nay với lợi thế về khai

thác và dự trữ dầu mỏ đã trở thành quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế

giới và Nga cũng đã phối hợp với các nước OPEC kiểm soát nguồn cung để

làm tăng giá dầu lên. Cùng với nguồn thu từ dầu mỏ tăng sẽ làm chi tiêu

chính phủ tăng, các điều trên sẽ góp phần làm quốc gia Nga tiếp tục phát

triển ổn định trong tương lai.

53

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

4.1. Kết luận

Đề tài đã áp dụng mô hình vectơ hiệu chỉnh sai số (VECM) để xem xét

mối quan hệ giữa thu chi ngân sách và ước lượng OLS để đánh giá ảnh

hưởng của chi tiêu chính phủ và nguồn thu từ dầu mỏ lên tổng sản phẩm

quốc nội của quốc gia Nga trong giai đoạn từ quý I 2000 – quý I 2017.

Kết quả phân tích số liệu thông qua các phương pháp định lượng trên cho

thấy:

- Có mối quan hệ đồng liên kết gữa nguồn thu dầu mỏ và chi tiêu chính

phủ Nga, mối quan hệ trên là mối quan hệ mối quan hệ dài hạn, biến động

cùng chiều tuân theo giả thuyết đồng bộ hoá tài chính. Trong đó nguồn thu

dầu mỏ tác động tích cực đến chi tiêu của Chính phủ.

- Qua mô hình hồi quy cho ta thấy chi tiêu Chính phủ và nguồn thu dầu

mỏ ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nước Nga, điều này đòi hỏi phải duy

trì ổn định nguồn thu dầu mỏ để làm động lực phát triển kinh tế.

- Hiện nay giá dầu có xu hướng tăng làm nền kinh tế Nga có những dấu

hiệu khởi sắc (GDP năm 2017 tăng trưởng dương lần đầu từ năm 2015). Điều

này thể hiện hiện nay nước Nga không bị lời nguyền tài nguyên mà có thể coi

đó là một phước lành đối với quốc gia Nga.

4.2. Hàm ý chính sách

4.2.1. Các biện pháp nhằm cân bằng giữa chi tiêu với nguồn thu từ dầu

mỏ

Với mối quan hệ đồng liên kết giữa chi tiêu với nguồn thu từ dầu mỏ

cho ta thấy để đảm bảo chi tiêu nhằm đắp ứng yêu cầu xã hội, Nga cần phải

54

tăng nguồn thu từ dầu mỏ, tuy nhiên như các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra

rằng nguồn thu từ dầu dễ biến động và không chắc chắn trong tương lai vì có

thể cạn kiệt trong tương lai, công nghệ sản xuất, tiêu dùng dầu mỏ biến đổi,

nguồn cung cầu thay đổi làm giá dầu biến động, do đó để đảm bảo chi tiêu

nước Nga ổn định cần phải đa dạng hóa nền kinh tế nhằm tăng nguồn thu,

tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn thu từ ngành dầu mỏ. Nhằm thực hiện

điều này đòi hỏi phải đa dạng hoá công nghiệp, nông nghiệp, thúc đẩy tiến bộ

khoa học kỹ thuật. Ngoài ra để phát triển bền vững tránh việc phụ thuộc vào

tài nguyên, quốc gia Nga cần đầu tư vào giáo dục, đào tạo nhân lực để đáp

ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức.

4.2.2. Các chính sách phát triển kinh tế Nga

- Kết quả cho ta thấy tăng trưởng kinh tế Nga chịu ảnh hưởng từ các

yếu tố Chi ngân sách và thu từ dầu mỏ nên việc tăng cường chi tiêu ngân

sách, tăng cường khai thác dầu mỏ để tăng nguồn thu dầu mỏ và đầu tư và sử

dụng có hiệu quả nguồn thu từ dầu mỏ sẽ giúp nước Nga ngày càng phát triển

hơn.

- Thực hiện chính sách tài khóa linh động, phù hợp với sự biến động

nguồn thu từ tài nguyên, như có thể áp dụng nguyên tắc tài khóa nghịch chu

kỳ để tiết kiệm và chi tiêu từ các quỹ bình ổn tài chính dầu mỏ để đảm bảo

tính bền vững về tài chính trung hạn.

- Chính phủ Nga thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt như có thể phá

giá đồng Ruble một cách có kiểm soát làm cho hàng hoá nhập khẩu trở nên

đắt đỏ giúp cho hàng hoá xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với trước làm tăng sức

cạnh tranh, điều này làm thúc đẩy sản xuất, hơn nữa điều này có thể giúp

điều chỉnh nguồn thu từ dầu mỏ không giảm sút quá mức khi giá dầu giảm,

do dầu mỏ của Nga chủ yếu được xuất khẩu nên nguồn thu từ dầu mỏ phụ

thuộc vào giá dầu, sản lượng, cũng như tỷ giá giữa đồng Ruble Nga với

55

đồng đô la Mỹ nên khi phá giá đồng nội tệ cũng làm nguồn thu dầu mỏ

tăng, cũng như thúc đẩy sản xuất, góp phần làm cân bằng ngân sách quốc

gia.

- Nga cần phối hợp chặt chẽ với OPEC để hạn chế nguồn cung dầu

mỏ dư thừa, góp phần đưa giá dầu tăng.

- Hiện nay, Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2017, xếp hạng

nước Nga đứng thứ 135/180 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc những quốc

gia có tỷ lệ tham nhũng cao, do đó để phát triển bền vững tránh lời nguyền

tài nguyên nước Nga do nguyên nhân tham nhũng gây ra, nước Nga cần phải

thực hiện các biện pháp, chính sách chống tham nhũng, cải cách thể chế, bộ

máy, minh bạch hoá các giao dịch trong sử dụng, khai thác tài nguyên.

4.3. Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam

Việt Nam cũng là quốc gia xuất khẩu dầu mỏ, nguồn thu từ dầu mỏ đã

đóng góp một phần đáng kể cho nguồn thu của chính phủ và tạo tiền đề để

phát triển kinh tế, do đó Việt Nam cần phải rút ra những kinh nghiệm trong

việc sử dụng nguồn thu dầu mỏ như sau:

- Nguồn thu từ dầu mỏ có nhiều biến động, khó dự đoán, nhằm hạn chế

sự ảnh hưởng sự biến động nguồn thu từ dầu mỏ, Việt Nam cần có các quỹ

bình ổn như các Quỹ dự trữ, quỹ phúc lợi trích từ nguồn thu từ dầu mỏ, khí

đốt nhằm đối phó khi nguồn thu từ dầu mỏ giảm. Việc sử dụng hiệu quả các

quỹ trên như một tài sản tài chính cũng góp phần tạo ra các nguồn thu khác

như đầu tư vào các trái phiếu quốc tế để tạo ra nguồn thu dài hạn trong tương

lai. Ngoài ra các quỹ trên có thể xem là của để dành cho các thế hệ sau khi

nguồn tài nguyên dầu mỏ cạn kiệt đi.

- Tránh việc nền kinh tế phụ thuộc quá mức vào nguồn thu từ dầu mỏ,

để làm được điều này cần phải đa dạng hoá nguồn bằng cách đa dạng hoá

công nghiệp, nông nghiệp, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ngoài ra để

56

phát triển bền vững tránh việc phụ thuộc vào tài nguyên, Việt Nam cần đầu tư

vào giáo dục, đào tạo nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế tri

thức.

- Chi tiêu chính phủ nên tập trung vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, khoa

học chứ không tập trung chủ yếu vào tăng tiền lương, an sinh xã hội cũng như

các mục tiêu chính trị một cách quá mức, không cần thiết. Việc chi tiêu vào

cơ sở hạ tầng, giáo dục góp phần tạo ra các nguồn lực để phát triển bền vững

- Việc khai thác dầu mỏ Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn

do sản lượng suy giảm, trong khi việc phát hiện, triển khai khai thác các mỏ

mới còn nhiều hạn chế, do đó cần phải khai thác có hiệu quả dầu mỏ tránh

trường hợp vì sức ép kinh tế, tốc độ tăng trưởng dù giá dầu giảm nhưng vẫn

phải tăng khối lượng khai thác nhằm bù đắp phần giảm do giá dầu để tạo

nguồn thu ổn định như trước, điều này dẫn tới hậu quả cạn kiệt tài nguyên

sớm, làm mất đi chi phí cơ hội khi giá dầu tăng cao.

4.4. Hạn chế của đề tài

Mặc dù đã được đầu tư nhiều thời gian và công sức nhưng nghiên cứu

này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định:

- Cơ sở dữ liệu về nền kinh tế Nga còn hạn chế nên việc thu thập thêm

các biến số khác không được nhiều, số lượng quan sát còn tương đối ít.

- Ngoài ra đối tượng nghiên cứu là nước Nga nên việc đưa ra các chính

sách còn hạn chế, chưa được đầy đủ.

Nếu điều kiện cho phép để tiến hành một nghiên cứu tiếp theo, tác giả

sẽ cố gắng khắc phục những hạn chế này và nghiên cứu sâu hơn, việc sử dụng

mẫu với kích cỡ lớn hơn là cần thiết để nâng cao khả năng tổng quát hóa của

đề tài, đồng thời tác giả sẽ bổ sung thêm các biến số, các yếu tố ảnh hưởng

57

đến nền kinh tế Nga nhằm tiếp tục làm rõ thêm các yếu tố ảnh hưởng đến kinh

tế nước Nga từ đó đưa ra các phân tích chi tiết đầy đủ hơn.

Danh mục Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt

1. Cao Hào Thi, Xuân Thành hiệu đính và biên dịch, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: Các phương pháp định lượng II.

2. Nguyễn Quang Dong, 2013, Giáo trình Kinh tế lượng. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.

3. Thái Thị Cẩm Hợp, 2015, Luận văn Thạc sĩ: Tác động của cú sốc giá dầu lên hoạt động kinh tế vĩ mô Việt Nam và phản ứng của chính sách tiền tệ: Một các tiếp cận theo mô hình SVAR

Tài liệu Tiếng Anh

1. Albatel, A.H., 2002, The Relationship Between Government Revenue and Expenditures in Saudi Arabia, Journal of the Gulf and Arabian Peninsula, 104(28): 13-36.

2. Alexiou, C., 2007, Unraveling the ‘Mystery’ Between Public Expenditure and Growth: Empirical Evidence from Greece, International Journal of Economics 1(1): 21-31.

3. Auty, 2001, The political economy of resource-driven growth

4. Barro, R. J., 1991, Economic Growthin a Cross-Section of Countries, Quarterly Journal of Economics 106: 407-43.

5. Barro, R., 1974, Are Government Bonds Net Worth?, Journal of Political Economy, 81(1): 095-1, 117.

6. Baghestani, H. and McNown, R., 1994, Do Revenues or Expenditures Respond to Budgetary Disequilibria?, Southern Economic Journal, 60: 311- 322.

7. Birdsall, N., D. Ross and R. Sabot, 1995, Inequality and Growth Reconsidered, World Bank Economic Review 9: 477-508.

8. Bohn, H., 1991, Budget Balance Through Revenue or Spending Adjustment? Some Historical Evidence forthe United States, Journal of Monetary Economics, 27: 335-359.

9. Burton, A., 1999, The Effect of Government Size on the Unemployment Rate, Public Choice 99: 3–4.

10. Darrat, A.F., 1998, Tax and spend, or spend and tax? An inquiry into the Turkish budgetary process, Southern Economic Journal, 64: 940-956.

11. Elias Elhannani, 2013, New channel for the “resource curse”

12. Engle, R. F., & Granger, C. W., 1987, Co-integration and error correction: representation, estimation, and testing, Econometrica: journal of the Econometric Society, 251-276

13. Fölster, S. and Henrekson M., 2001, Growth Effects of Government Expenditure and Taxation in Rich Countries, European Economic Review 45(8): 1501–1520.

14. Friedman, M., 1972, An Economist’s Protest, New Jersey; Horton and Co. Friedman, M., 1978, The Limitations of Tax Limitation, Policy Review, 5(78): 7-14.

15. Grier and Tullock, 1989, An empirical analysis of cross-national economic growth, 1951-1980. 16. Ghura, D., 1995, Macro Policies, External Forces, and Economic Growth in Sub-Saharan Africa, Economic Development and Cultural Change 43(4):759-78.

17. Gronwald, M., Mayer, J., Orazbayev, S., 2009. Estimating the effects of oil price shocks on the Kazakh economy.

18. Guseh, J.S., 1997, Government Size and Economic Growth in Developing Countries: A Political-Economy Framework, Journal of Macroeconomics 19(1): 175–192.

19. Jiménez-Rodríguez, R., Sánchez, M., 2005. Oil Price Shocks and Real GDP Growth: Empirical Evidence for Some OECD Countries

20. Jong-Wha, L., 1995, Capital Goods Imports and Long-Run Growth, Journal of Development Economics 48(1): 91–110.

21. Katsuya Ito, 2008, Oil price and macroeconomy in Russia.

22. Kegomoditswe Koitsiwe, Tsuyoshi Adachi, 2015, Relationship between Mining Revenue, Government Consumption, Exchange Rate and Economic Growth in Botswana

23. Kollias, C. and Makrydakis, S., 2000, Tax and spend or spend and tax?. Empirical evidence from Greece, Spain, Portugal and Ireland, Applied Economics, 32(2): 533-546.

24. Komain, J. và Brahmasrene, T 2007, The relationship between government expenditures and economic growth in Thailand, Journal of Economics and Economic Education Research.

25. Heli Simola and Laura Solanko, 2017. Overview of Russia’s oil and gas sector

26. Helmi Hamdi, Rashid Sbia, 2013. Dynamic relationships between oil revenues, government spending and economic growth in an oil-dependent economy

27. Meltzer, A.H. and Richard, S.P., 1981, A Rational Theory of the Size of Government, Journal of Political Economy, 89: 914-927.

Mitchell, 2013, Social Exchange Theory: An Interdisciplinary Review

28. Miller, S. and Russek, F.S., 1990, Cointegration and Error- Correction Models: The Temporal Causality between Government Taxes and Spending, Southern Economic Journal, 57: 617-629.

29. Mukhriz Izraf Azman AZIZ , Jauhari Dahalan, 2015, Oil Price Shocks and Macroeconomic Activities in Asean-5 Countries: A Panel VAR Approach, Eurasian Journal of Business and Economics.

30. Musgrave, R., 1966, Principles of Budget Determination, In Public Finance: Selected Readings, edited by H. Cameron and W. Henderson. New York: Random House.

31. Nienke Oomes and Katerina Kalcheva, 2007, Diagnosing Dutch Disease: Does Russia Have the Symptoms.

32. Peacock, A. and Wiseman, J., 1961, The Growth of Public Expenditures in the United Kingdom, Princeton, NJ: Princeton University Press.

33. Saqlain Latif Satti, 2014, Empirical evidence on the resource curse hypothesis in oil abundant economy

34. Sajjad Faraji Dizaj, 2014, The effects of oil shocks on government expenditures and government revenues nexus (with an application to Iran's sanctions)

35. Talvi & Vegh, 2005, Tax base variability and procyclical fiscal policy in developing countries.

36.Yashobanta và Behera, 2012, Causal Link between Central Government Revenue and Expenditure: Evidence for India

37. Von Furstenberg et al 1986, Causality Between Revenues and Expenditures and the Size of the Federal Budget

PHỤ LỤC

1. Kiểm tra tính dừng biến lngdp

Biến lngdp không dừng tại I(0) và dừng tại I(1)

2. Kiểm tra tính dừng của biến lngov

Biến lngov không dừng tại I(0) và dừng tại I(1)

3. Kiểm tra tính dừng của biến lnoilrent

Biến lnoilrent không dừng tại I(0) và dừng tại I(1)

4. Kiểm tra tính dừng của biến lntygia

Biến lntygia không dừng tại I(0) và dừng tại I(1)

5. Kiểm tra độ trễ

6. Kiểm tra sự đồng liên kết

7. Bảng dữ liệu GDP, oilrent, Chi tiêu Chính phủ của Nga (đơn vị tỷ Ruble);

tỷ giá (USD/Ruble).

STT

gov

gdp

tygia

oilrent

STT

gov

gdp

tygia

oilrent

Q1 2000

255

1527

28.67

206 Q4 2008

1892

10619

28.51

672

Q2 2000

265

1697

28.26

227 Q1 2009

1890

8335

35.22

489

Q3 2000

290

2038

27.81

312 Q2 2009

1961

9245

31.69

717

Q4 2000

293

2044

28.12

304 Q3 2009

1976

10411

31.10

938

Q1 2001

346

1901

28.64

192 Q4 2009

2041

10816

29.57

1066

Q2 2001

365

2105

29.08

224 Q1 2010

2037

9996

29.91

913

Q3 2001

374

2488

29.41

246 Q2 2010

2116

10977

30.46

1033

Q4 2001

385

2450

30.05

185 Q3 2010

2211

12087

30.56

1113

Q1 2002

457

2262

30.96

186 Q4 2010

2307

13249

30.99

1373

Q2 2002

475

2529

31.37

246 Q1 2011

2215

13029

29.04

1363

Q3 2002

483

3013

31.62

315 Q2 2011

2388

14481

27.77

1693

Q4 2002

498

3027

31.86

314 Q3 2011

2479

15806

29.56

1785

Q1 2003

557

2851

31.60

321 Q4 2011

3844

16967

31.06

1849

Q2 2003

580

3102

30.72

290 Q1 2012

3036

15183

29.57

1654

Q3 2003

588

3600

30.46

365 Q2 2012

2893

16472

31.72

1642

Q4 2003

606

3655

29.65

383 Q3 2012

2785

17734

31.91

1787

Q1 2004

684

3516

28.53

328 Q4 2012

3323

18775

30.93

1900

Q2 2004

703

3972

29.03

411 Q1 2013

3168

16375

30.39

1553

Q3 2004

717

4594

29.20

556 Q2 2013

2722

17539

31.96

1516

Q4 2004

744

4946

28.20

638 Q3 2013

3062

19058

32.87

1771

Q1 2005

855

4459

27.86

530 Q4 2013

3502

20162

32.71

1856

Q2 2005

891

5078

28.22

653 Q1 2014

3346

17390

35.42

1678

Q3 2005

909

5845

28.54

895 Q2 2014

3056

19128

34.85

1872

Q4 2005

936

6228

28.70

882 Q3 2014

3127

20759

37.44

1886

Q1 2006

1109

5793

27.95

699 Q4 2014

3691

21923

49.78

1495

Q2 2006

1145

6368

27.03

865 Q1 2015

4130

18569

62.89

1067

Q3 2006

1159

7276

26.79

990 Q2 2015

3289

19858

53.08

1306

Q4 2006

1176

7480

26.43

872 Q3 2015

3376

21967

63.82

1176

Q1 2007

1370

6780

26.19

565 Q4 2015

4121

22840

68.01

1061

Q2 2007

1418

7768

25.77

768 Q1 2016

3549

18816

72.55

588

Q3 2007

1441

8903

25.36

962 Q2 2016

3749

20430

65.11

863

Q4 2007

1517

9797

24.57

1251 Q3 2016

3507

22721

64.74

965

Q1 2008

1700

8878

23.99

997 Q4 2016

4401

24077

62.93

1099

Q2 2008

1783 10238

23.61

1440 Q1 2017

3903

20091

58.24

1001

Q3 2008

1816 11542

24.57

1530