BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1) (cid:2) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3) ĐÀO THỊ BẢO NGÂN NGUY CƠ TIỀM ẨN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Chuyên Ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số:
60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010
LỜI CÁM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế
TP.HCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn các Thầy Cô Khoa Sau đại học đã tham gia giảng dạy
chương trình. Các Thầy, Cô đã cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu
giúp tôi hoàn thành luận văn và những kiến thức này sẽ là hành trang theo tôi
trong con đường phát triển năng lực và sự nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang đã tận tình hướng
dẫn, đóng góp ý kiến trong quá trình thực hiện luận văn. Những ý kiến của Cô
đã giúp tôi sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện thêm những điều hữu ích cho luận
văn.
Và cuối cùng xin cảm ơn những anh chị, bạn bè đã cùng tôi chia sẻ những
kinh nghiệm, kiến thức trong suốt quá trình học tập cũng như nghiên cứu luận
văn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Tác giả luận văn
Đào Thị Bảo Ngân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “NGUY CƠ TIỀM ẨN KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM” là
công trình nghiên cứu của bản thân, được đúc kết từ quá trình học tập và
nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Nguyễn Thị Ngọc Trang.
Tác giả luận văn
Đào Thị Bảo Ngân
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1.Khủng hoảng tài chính và bản chất ............................................................ 1
1.2.Các loại khủng hoảng tài chính .................................................................. 2
1.2.1.Khủng hoảng ngân hàng .......................................................................... 2
1.2.2.Khủng hoảng tiền tệ ................................................................................. 3
1.2.2.1.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất ........................... 4
1.2.2.2.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai ............................. 5
1.2.2.3.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba .............................. 6
1.2.3.Khủng hoảng nợ ...................................................................................... 8
1.2.4.Khủng hoảng kép ..................................................................................... 9
1.3.Một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu ............................................ 9
1.3.1.Đại suy thoái 1929-1933 .......................................................................... 9
1.3.1.1.Diễn biến khủng hoảng ....................................................................... 9
1.3.1.2.Nguyên nhân ..................................................................................... 11
1.3.2.Khủng hoảng tài chính Mexico 1994 ..................................................... 12
1.3.2.1.Diễn biến khủng hoảng ..................................................................... 12
1.3.2.2.Nguyên nhân ..................................................................................... 14
1.3.3.Khủng hoảng tài chính Thái Lan 1997 ................................................... 15
1.3.3.1.Diễn biến khủng hoảng ..................................................................... 15
1.3.3.2.Nguyên nhân ..................................................................................... 16
1.4.Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ................................................ 17
LỜI MỞ ĐẦU
1.5.Các dấu hiệu của khủng hoảng tài chính ................................................. 18
1.5.1.Về phương diện kinh tế vi mô ................................................................ 18
1.5.2.Về phương diện kinh tế vĩ mô ................................................................ 18
Kết luận chương 1 ............................................................................................ 19
CHƯƠNG 2
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨN
2.1.Nền kinh tế USD hóa .................................................................................. 20
2.2.Mất cân đối trong cán cân thanh toán ..................................................... 21
2.2.1.Thâm hụt tài khoản vãng lai ................................................................... 21
2.2.2.Nguy cơ từ thâm hụt tài khoản vãng lai ................................................. 24
2.3.Thâm hụt ngân sách và nợ công ............................................................... 26
2.3.1.Chính sách tài khóa và tình hình thâm hụt ngân sách ............................ 26
2.3.2.Tài trợ thâm hụt ngân sách và tình hình nợ công ................................... 27
2.3.3.Nguy cơ từ thâm hụt ngân sách và nợ công ........................................... 28
2.4.Lạm phát ..................................................................................................... 29
2.4.1.Tình hình lạm phát và nguyên nhân ....................................................... 29
2.4.2.Nguy cơ tiềm ẩn từ lạm phát .................................................................. 32
2.5.Chính sách tiền tệ - tỷ giá .......................................................................... 34
2.5.1.Lãi suất ................................................................................................... 34
2.5.2.Tỷ giá và việc điều hành tỷ giá ............................................................... 35
2.5.3.Nguy cơ tiền tệ ....................................................................................... 37
2.6.Hệ thống tài chính dễ bị tổn thương ......................................................... 38
2.6.1.Ngân hàng Nhà nước có mức độ độc lập thấp ....................................... 39
2.6.2.Hệ thống ngân hàng yếu kém ................................................................. 40
2.6.3.Đánh giá hệ thống tài chính Việt Nam ................................................... 42
2.7.Đánh giá những nguy cơ tiềm ẩn đối với kinh tế Việt Nam ................... 43
Kết luận chương 2 ............................................................................................ 45
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NGĂN NGỪA KHỦNG
HOẢNG Ở VIỆT NAM
3.1.Cải thiện nền tảng vĩ mô nền kinh tế ........................................................ 46
3.1.1.Thực hiện chính sách tiền tệ kinh hoạt và độc lập ................................. 47
3.1.1.1.Nâng cao tính độc lập cho NHNN .................................................... 47
3.1.1.2.Cơ chế điều hành lãi suất ................................................................. 50
3.1.1.3.Lựa chọn chính sách tỷ giá phù hợp ................................................. 53
3.1.2.Chính sách tài khóa ................................................................................ 56
3.1.3.Xây dựng một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấp ............................ 59
3.2.Bảo vệ hệ thống tài chính nội địa khỏi nguy cơ lây nhiễm từ bên ngoài ......... 60
3.3.Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính ..................... 60
3.4.Hoàn thiện tổ chức bảo hiểm tiền gửi....................................................... 64
Kết luận chương 3 ............................................................................................ 66
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 67
ĐỀ XUẤT HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ....................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng phát triển châu Á
ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NCIEC Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
KH Khủng hoảng
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
NHTW Ngân hàng Trung Ương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
USD Đô la Mỹ
VND Việt Nam đồng
VNBA Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Hình 1.1 Tiến trình KH tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất ............................. 4
Hình 1.2 Tiến trình KH tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai ............................... 5
Hình 1.3 Tiến trình KH tài chính tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba ................. 8
Hình 2.1 Thâm hụt thương mại Việt Nam ......................................................... 22
Hình 2.2 Tình hình dự trữ ngoại hối Việt Nam.................................................. 24
Hình 2.3 Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005-2011 ......................... 26
Hình 2.4 Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ qua các năm ............................................ 27
Hình 2.5 Diễn biến giá tiêu dùng trong năm 2010 ............................................. 29
Hình 2.6: Tốc độ tăng trưởng cung tiền và GDP ............................................... 31
Hình 2.7 Tỷ giá USD/VND thị trường tự do và tỷ giá quy định của NHNN .... 36
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam bước vào thập niên 2011-2020 với những đặc điểm quan trọng: di
sản từ cuộc cải cách hai thập kỷ, gắn liền với những xáo trộn to lớn của nền
kinh tế thế giới sau cuộc khủng khoảng tài chính-kinh tế toàn cầu lớn nhất kể
từ sau cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933. Điều này hàm ý rằng nền kinh tế
Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn mà sự thay đổi từ bên trong vừa đòi
hỏi một sự biến đổi mới về chất, đồng thời lại phải diễn ra trong một môi
trường quốc tế cũng đang thay đổi quyết liệt. Vì vậy, việc hoạch định, xây
dựng một tầm nhìn cho tương lai trong thập kỷ tới vào thời điểm hiện nay có
ý nghĩa bản lề trong con đường phát triển của Việt Nam.
Từ kinh nghiệm phát triển quốc tế và các nghiên cứu lý thuyết về khủng
hoảng kinh tế và tài chính, việc nhận ra những điểm yếu căn bản của nền kinh
tế vĩ mô có thể dẫn đến khủng hoảng mà Việt Nam phải đối mặt là điều cần
thiết.
Nhằm góp phần vào mục tiêu trên, bài luận văn này hướng tới định dạng
những điểm yếu căn bản của nền kinh tế vĩ mô Việt Nam trong bối cảnh mới
của nền kinh tế toàn cầu, trên cơ sở đó phân tích những rủi ro liên quan đến
kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính mà Việt Nam phải đối mặt. Bài nghiên
cứu bước đầu đề xuất các giải pháp để giảm thiểu những rủi ro này, với mục
tiêu ngăn chặn khủng hoảng xảy ra tại Việt Nam, góp phần hướng đến sự tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế trong dài hạn.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã tập trung nghiên cứu lý luận chung về khủng hoảng tài chính và tình
hình kinh tế tài chính Việt Nam hiện nay, tìm ra những rủi ro tiềm ẩn và phân
tích, đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng. Qua đó đề xuất một số
khuyến nghị về mặt chính sách giúp Việt Nam có thể tránh khỏi các rủi ro dẫn
đến khủng hoảng đang tiềm ẩn trong nền kinh tế - tài chính.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng nền kinh tế Việt Nam với
những rủi ro tiềm ẩn
Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự vận động
và những rủi ro bên trong nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, đề tài tập trung
nghiên cứu các vấn đề thuộc kinh tế vĩ mô như lạm phát, chính sách tài khóa,
chính sách tiền tệ. Trên cơ sở phân tích và nhận định, tác giả đề xuất các
khuyến nghị về mặt chính sách cho việc ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng xảy
ra ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong suốt đề tài là phương pháp định
tính, phân tích thống kê và so sánh theo quan điểm biện chứng.
Kết cấu đề tài: gồm 03 chương
Chương 1: tác giả trình bày những vấn đề cơ sở lý luận liên quan đến khủng
hoảng tài chính.
Chương 2: tác giả trình bày thực trạng nền kinh tế Việt Nam và phân tích
những nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế có thể kích hoạt một cuộc khủng
hoảng.
Chương 3: tác giả trình bày một số khuyến nghị về mặt chính sách giúp Việt
Nam có thể tránh khỏi nguy cơ khủng hoảng.
Hạn chế của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã gặp khó khăn trong vấn đề tìm kiếm dữ
liệu thống kê. Số liệu thống kê trong bài viết có thể không thống nhất với số
liệu trích dẫn từ những nguồn khác, tuy nhiên, nó cũng không làm thay đổi
nhiều về bản chất của vấn đề nghiên cứu cũng như nhận định của tác giả. Vì
vậy mong được sự thông cảm của Quý thầy cô và độc giả.
Mặc dù bài viết được tác giả dành nhiều công sức để nghiên cứu tuy nhiên
không thể tránh khỏi những hạn chế. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý
của Quý thầy cô và độc giả để bài viết được hoàn thiện hơn.
1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1.Khủng hoảng tài chính và bản chất:
Khủng hoảng trong tài chính là quá trình thông thường, tiến triển phụ thuộc
sự vận động bên trong của hệ thống tài chính. Khủng hoảng tài chính được
hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó không thể thực hiện
được hai chức năng cơ bản nhất: (1) ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản
tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản, và (2) là trung gian
chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Kéo theo là sự
xấu đi một cách rõ ràng và nhanh chóng của các nhóm chỉ tiêu tài chính trong
nền kinh tế quốc gia (lãi suất ngắn hạn, tỷ giá hối đoái…). Hệ quả là các tổ
chức tài chính hoặc các tài sản tài chính bất ngờ bị mất đi phần lớn giá trị, hệ
thống ngân hàng trục trặc, thị trường chứng khóan và các bong bóng tài chính
đổ vỡ. Vì rằng trong nền kinh tế hiện đại đầu cơ tài chính chiếm một khối
lượng giá trị cao nhất, và mọi hoạt động của các thị trường khác đều chịu sự
chi phối của thị trường tài chính nên khủng hoảng tài chính là khởi nguồn của
suy thoái kinh tế. Từ đó, nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm
năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm
phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
Như vậy, có thể thấy biểu hiện rõ ràng nhất của khủng hoảng tài chính chính
là sự mất giá nhanh với quy mô lớn của đồng nội tệ. Sự phá sản và thua lỗ với
tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia chính
là biểu hiện bên ngoài thứ hai của khủng hoảng tài chính. Cuối cùng là sự
thua lỗ và phá sản hàng loạt của hệ thống doanh nghiệp khiến cho tỷ lệ thất
nghiệp tăng mạnh và tăng trưởng kinh tế quốc gia giảm sút.
Bản chất của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay đó là sự đổ
vỡ, sự mất cân bằng giữa những thành phần cấu thành sự thống nhất trên tất
2
cả các thị trường hiện hữu từ thị trường tài chính, thị trường sản xuất kinh
doanh, đến thị trường lao động.
Khi làn sóng đầu tư vào các thị trường tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là làn
sóng tăng lên của các thị trường phi sản xuất, như thị trường tài chính, thị
trường địa ốc, thị trường ngoại tệ, …. tính ảo của thị trường sẽ xuất hiện.
Nghĩa là người mua ở đây không còn là người “tiêu thụ” sản phẩm mà chủ
yếu là những nhà đầu cơ, kể cả trong thị trường sản xuất. Quá trình này đã
làm cho các thị trường bành trướng mau lẹ, GDP tăng lên nhanh chóng, cho
đến lúc sự mất cân bằng tăng lên đỉnh điểm và thị trường không thể tiếp tục
chứa đựng những hàng hóa – dịch vụ mà nó phải chứa đựng, cũng như sự mất
cân đối đã đạt mức quá sức chịu đựng của thị trường và phải đi đến sự sụp đổ.
Do đó có thể nói sự khủng hoảng đã tiềm ẩn trong các nền kinh tế, ngay cả
trong nền kinh tế nhỏ và mới phát triển như Việt Nam.
1.2.Các loại khủng hoảng tài chính:
1.2.1.Khủng hoảng ngân hàng:
Khủng hoảng ngân hàng xảy ra nếu ít nhất là một các tiêu chí sau xảy ra:
- Tỷ lệ nợ xấu NPLs so với tổng vốn cho vay trong hệ thống ngân hàng vượt
quá 10%.
- Chi phí cho hoạt động cứu trợ ngân hàng tối thiểu bằng 2% GDP.
- Giai đoạn cứu trợ kéo theo hoặc là quốc hữu hóa các ngân hàng ở quy mô
lớn, hoặc là hiện tượng rút tiền gửi ồ ạt khỏi ngân hàng, hoặc các biện
pháp khẩn cấp khác như đóng băng tiền gửi, cho phép ngân hàng nghỉ giao
dịch, phát hành bảo lãnh chính phủ.
Khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra đối với từng ngân hàng riêng lẻ hoặc
lây lan trong hệ thống các ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng truyền thống thường dựa vào sự chênh
lệch giữa các kỳ hạn, có nghĩa là, ngân hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và
3
cho vay dài hạn. Phần lớn lượng tiền gửi huy động sẽ được đem đi cho vay
đầu tư lấy lãi vào những dự án dài hạn, với khả năng thanh khoản thấp. Tình
trạng cho vay bất cẩn và công tác thẩm định dự án không tốt sẽ dẫn đến tình
trạng ngân hàng đổ vốn vào các dự án rủi ro cao, không hiệu quả.
Trong thời kỳ thị trường tài chính phát triển như hiện nay, các ngân hàng có
xu hướng chuyển việc đầu tư số vốn họ huy động được vào các loại chứng
khoán. Như vậy, ngân hàng phải gánh chịu rủi ro khi giá trị thị trường của
các tài sản của họ có thể giảm xuống bằng hoặc thấp hơn giá trị các khoản
nợ tiền gửi của ngân hàng đối với người gửi tiền do những thay đổi không
mong đợi từ tỷ lệ lãi suất, vỡ nợ, tỷ giá hối đoái, thay đổi về quy chế, những
sai phạm…
Khi có sự cố ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng
khiến họ rút tiền ồ ạt, khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Bởi vì ngân hàng cho
vay hầu hết phần tiền gửi mà họ huy động được, và họ không thể lập tức đòi
lại những khoản đã cho vay, do đó sẽ vô cùng khó khăn để ngân hàng có thể
nhanh chóng hoàn trả lại tất cả tiền gửi khi có yêu cầu đột xuất. Với lượng
dự trữ hạn hẹp, các ngân hàng có thể nhanh chóng rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán và phá sản.
Khi bị phá sản, các ngân hàng buộc phải dừng việc thanh toán các cam kết
của mình, do đó, khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra tại một ngân hàng
hoặc lan rộng trong hệ thống.
1.2.2.Khủng hoảng tiền tệ:
Khủng hoảng tiền tệ hay khủng hoảng cán cân thanh toán liên quan đến việc
chính phủ không còn đủ dự trữ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngoại
tệ của các khu vực khác nhau trong nền kinh tế và buộc phải phá giá đồng
nội tệ.
Tiến trình diễn ra khủng hoảng tiền tệ được thể hiện tổng quát trong ba mô
hình khủng hoảng tiền tệ.
4
Thâm hụt ngân sách
Tài trợ bằng phát hành thêm tiền
Sức ép giảm giá nội tệ
KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ
NHTW bán dự trữ ngoại tệ để hỗ trợ tỷ giá
Dự trữ ngoại hối suy giảm
Tấn công đầu cơ vào nội tệ
Hình 1.1 Tiến trình khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất
1.2.2.1.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất:
Dựa trên mô hình tiền tệ đơn giản, lý thuyết của Paul Krugman (1979) và
sau đó là Food&Garber (1984) đã giải thích tiến trình dẫn đến khủng
hoảng tiền tệ khi chính phủ duy trì cơ chế tỷ giá cố định và theo đuổi các
chính sách kinh tế vĩ mô không mang tính bền vững như thâm hụt ngân
sách, tài trợ bằng lạm phát tiến đến mất giá kỳ vọng đồng nội tệ.
Cụ thể là để duy trì tỷ giá, chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại
hối thông qua các hoạt động thị trường mở hay can thiệp vào thị trường
ngoại hối kỳ hạn. Với tỷ lệ thâm hụt ngân sách cao và tài trợ bằng lạm
phát dẫn đến sức ép giảm giá nội tệ, chính phủ sẽ phải bán ngoại tệ liên
tục, dự trữ ngoại hối giảm. Kết quả là cuối cùng chính phủ có thể bị buộc
phải chấm dứt tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá.
Tuy nhiên lý do chính đẩy nhanh và làm trầm trọng khủng hoảng chính là
những cuộc tấn công đầu cơ vào đồng nội tệ, được thực hiện bởi các tổ
5
chức hoặc các cá nhân được hướng dẫn bởi các tín hiệu xuất phát từ sự suy
yếu trong các yếu tố kinh tế vĩ mô căn bản trước khi đồng nội tệ bị mất
giá.
1.2.2.2.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai:
Nếu như mô hình khủng hoảng tiền tệ của Krugman (1979) giải thích quá
trình sụp đổ của tỷ giá hối đoái cố định khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt thì
Obstfeld (1994) đưa ra một cách giải thích khác về khủng hoảng tiền tệ
được gọi là lý thuyết khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai.
Lý thuyết khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai cũng xuất phát trong một
hoàn cảnh chính phủ duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Tuy nhiên, dựa
vào thực tế là rất nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ (đặc biệt là xảy ra ở các
nền kinh tế phát triển) vẫn xảy ra dù các chính phủ có đủ dự trữ ngoại tệ để
bảo vệ tỷ giá, mô hình Obstfeld cho rằng khủng hoảng có thể mang tính
Kỳ vọng thị trường Chính phủ có thể rời bỏ tỷ giá cố định để thực hiện chính sách khác (như giảm thất nghiệp)
Các nhà đầu cơ Tấn công đồng nội tệ
Tấn công xảy ra tạo kỳ vọng đồng nội tệ có thể phá giá và làm tăng lãi suất
Chính phủ Lãi suất tăng lên, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng và tình trạng thất nghiệp nên thả nổi tỷ giá
Hình 1.2 Tiến trình khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai
“tự phát sinh”.
6
Kỳ vọng đầu cơ phụ thuộc vào việc suy đoán về phản ứng của chính phủ
trong việc điều hành tỷ giá, những phản ứng của chính phủ lại phụ thuộc
vào những thay đổi về giá cả và các chỉ số kinh tế khác tác động thế nào
tới tình hình kinh tế và chính trị, nhưng những thay đổi về giá cả và các
chỉ số lại có thể xảy ra đơn giản là vì kỳ vọng của các nhà đầu cơ. Những
yếu tố và tác động xoay vòng này có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng mà
có thể đã không xảy ra, nhưng cuối cùng lại xảy ra khi các đối tượng tham
gia trên thị trường có kỳ vọng như vậy.
Cụ thể, việc quyết định bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định có cả lợi ích và chi
phí. Đứng trước sức ép phải thả nổi tỷ giá, nếu chính phủ quyết định bảo
vệ tỷ giá cố định thì sẽ có lợi ích là uy tín về chính sách trong dài hạn, tuy
nhiên chi phí của quyết định này có thể đến từ những tác động tiêu cực đến
nền kinh tế nội địa khi lãi suất tăng lên. Đứng trước sự cân đối giữa lợi ích
và chi phí, chính phủ có thể lựa chọn bảo vệ hay thả nổi tỷ giá hối đoái.
Ngược lại, các nhà đầu cơ cũng có hai lựa chọn: tấn công đồng nội tệ hoặc
không, tùy theo suy đoán về phản ứng của chính phủ sẽ kiên quyết bảo vệ
tỷ giá cố định hay bằng lòng thả nổi để thực hiện các mục tiêu kinh tế
khác.
Như vậy hai điểm cân bằng trong mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
hai là khi nhà đầu cơ tấn công và chính phủ thả nổi tỷ giá, và khi nhà đầu
cơ không tấn công và chính phủ tiếp tục cố định tỷ giá. Khủng hoảng xảy
ra, không hẳn do yếu tố kinh tế căn bản, mà do thị trường kỳ vọng như
vậy.
1.2.2.3.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba:
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi, M. và Ohno, K.
(1999) xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong
cán cân thanh toán quốc tế. Việc tự do hóa tài khoản vốn thiếu một trình tự
thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép:
7
- Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai: khiến
cán cân thanh toán thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn tới
sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước. Điểm mấu
chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư
kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới hậu quả
là thâm hụt cán cân vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và
mức cung dư thừa. Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém
kể trên và những dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động sản
và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng
loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên
thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một
cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra.
- Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn: trong điều kiện tự do hóa cán cân
vốn, một lượng vốn ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ
ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các khoản
vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã
được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn vào những dự án kém hiệu
quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng. Bảng cân đối tài sản
của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một
cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn của các
nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của
các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng
cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động
vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong
một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy
thoái.
Dòng vốn nước ngoài chảy vào Nợ mệnh giá ngoại tệ và kỳ hạn ngắn gia tăng
Chính sách kinh tế vĩ mô Tỷ giá hối đoái cố định
Hệ thống tài chính nội địa -Tập trung vào ngân hàng -Giám sát yếu kém -Tâm lý ỷ lại
Tình hình kinh tế vĩ mô
Phân bổ vốn sai lệch -Đầu tư quá mức -Bong bóng giá tài sản -Tham nhũng
-Tỷ giá hối đoái thực bị nâng giá. -Thâm hụt thương mại gia tăng
KHỦNG HOẢNG
Tình hình tài chính -Tỷ lệ nợ khó đòi cao -Mất cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có
Hình 1.3 Tiến trình KH tài chính tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba
8
1.2.3.Khủng hoảng nợ:
Khủng hoảng nợ xảy ra khi một quốc gia không có khả năng trả nợ nước
ngoài, bao gồm cả các khoản nợ của chính phủ hay của khu vực tư nhân.
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc
gia là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương
đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì
thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một
thời điểm nào đó. Bên cạnh đó, nợ công còn bao gồm các khoản nợ do chính
phủ bảo lãnh.
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ
người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho
vay ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua
phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu
chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì
9
chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn
lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu
chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn)
có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh
toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có
thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính
quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)... Hình thức vay này thường
được chính phủ của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó
khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ
không cao.
Có thể nói, tất cả các quốc gia trên thế giới đều đang duy trì một mức nợ
nước ngoài nhất định để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc
kiểm soát mức nợ phù hợp với quy mô nền kinh tế và chi tiêu đầu tư có hiệu
quả để tạo nguồn thu trả nợ là điều không phải nền kinh tế nào cũng làm
được. Việc vay nợ tràn lan, thiếu tính toán, không minh bạch và đầu tư
không hiệu quả, thiếu cơ chế giám sát sẽ khiến cho quốc gia lâm vào tình
trạng mất khả năng chi trả và khủng hoảng nợ xảy ra.
1.2.4.Khủng hoảng kép:
Khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng, hoặc khủng hoảng nợ và
khủng hoảng tiền tệ có thể đi liền với nhau, cái nọ dẫn đến cái kia tạo thành
khủng hoảng kép. Đây là trường hợp khủng hoảng tài chính trở nên trầm
1.3.Một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu:
trọng nhất và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
1.3.1.Đại suy thoái 1929-1933:
1.3.1.1.Diễn biến khủng hoảng:
10
Thập niên 20 là thập niên tăng trưởng mạnh tại Mỹ, sản lượng công nghiệp
tăng 40%-50%, nông nghiệp được hiện đại hóa nên năng suất tăng cao,
dẫn đến tình trạng sản xuất thừa. Ngân hàng phát triển tín dụng, cho phép
người dân mua sắm hàng hóa tiêu dùng lâu bền như xe hơi, nhà ở. Nền
kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng bong bóng, bắt đầu từ việc đầu cơ bất động
sản ở Florida, sau đó là việc thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ.
Với các quy định về vay vốn dễ dàng, và lợi nhuận kỳ vọng vào thị trường
chứng khoán quá lớn, người dân Mỹ bắt đầu vay mượn tiền từ ngân hàng
để đầu cơ. Bong bóng chứng khoán ngày càng phồng lên, hoạt động đầu
cơ với quy mô lớn cũng hình thành nhiều vào những năm 1920.
Với tình trạng hàng hóa dư thừa, không tiêu thụ được cộng với việc nguồn
vốn trong nền kinh tế đổ vào chứng khoán, sản xuất sụt giảm, lãi suất bắt
đầu tăng dần, kéo theo nguy cơ mất khả năng trả nợ đối với các nhà đầu cơ
chứng khoán bằng đòn bẩy kinh doanh. Hiện tượng bán cổ phiếu hàng loạt
bắt đầu diễn ra.
Ngày 24 tháng 10 năm 1929, Phố Wall rối loạn. Gần 13 triệu cổ phiếu,
nhiều gấp ba lần số lượng giao dịch thông thường, bị các nhà đầu tư hoảng
loạn bán tháo trên thị trường chứng khoán New York. Ngày này đi vào
lịch sử như ngày thứ Năm đen tối, mở đầu cho cuộc Đại khủng hoảng của
thị trường chứng khoán Mỹ và cuộc Đại suy thoái kéo dài từ năm 1929 tới
năm 1933. Chỉ số Dow Jones đạt điểm đáy ngày 08/07/1932 khi đóng cửa
ở mức 41,2 - giảm gần 90% so với mức đỉnh nó từng đạt được ba năm
trước.
Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã đưa nước Mỹ vào suy thoái. Tiêu
dùng và đầu tư bị ảnh hưởng trực tiếp. Ngân hàng phá sản hàng loạt hoặc
phải sáp nhập lại do một mặt không thu hồi được các khoản nợ đã cho vay
11
đầu tư chứng khoán, mặt khác lại phải đối diện với làn sóng rút tiền của
những người dân đang hoảng loạn trước tình hình kinh tế khó khăn. Trong
khi đó, để bảo vệ chế độ bản vị vàng, chính phủ Mỹ đã không thực hiện
chính sách nới lỏng tiền tệ cần thiết, dẫn đến cung tiền giảm mạnh, gây ra
tình trạng giảm phát, làm trầm trọng thêm cơn suy thoái. Đến năm 1930,
cuộc khủng hoảng chứng khoán đã trở thành khủng hoảng ngân hàng với
9000 ngân hàng phá sản, số lượng ngân hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai
đoạn 1929 đến 1933.
Cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính kéo theo suy thoái kinh tế trầm
trọng trên phạm vi toàn cầu. Riêng tại Mỹ, sản xuất công nghiệp giảm
45%, GDP giảm 30%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25% và 60% người Mỹ
sống dưới ngưỡng nghèo khổ.
1.3.1.2.Nguyên nhân:
Nguyên nhân đầu tiên bắt nguồn từ những chính sách được Chính phủ Mỹ
áp dụng trong thập kỷ 1920. Để thúc đẩy sản xuất, FED giữ lãi suất ở mức
thấp và tăng cấp tín dụng, doanh nghiệp mở rộng sản xuất, dẫn đến việc
sản xuất vượt quá khả năng tiêu dùng của thị trường. Cuối thập kỷ 1920,
khi hàng rào thuế quan của Mỹ tăng cao theo Luật Thuế quan Smoot–
Hawley làm cho việc xuất khẩu vào Mỹ gặp khó khăn, các nước trên thế
giới không còn khả năng mua hàng Mỹ và hoạt động xuất khẩu của Mỹ
cũng bị thiệt hại. Tình trạng khủng hoảng thừa trở nên trầm trọng.
Một nguyên nhân khác là sự dễ dãi trong việc cấp tín dụng đẩy các ngân
hàng tích cực cho vay, dẫn tới bùng nổ quá mức cung tiền ngay trước khi
khủng hoảng. Thứ nhất, việc mở rộng cấp tín dụng đã khiến hệ thống ngân
hàng Mỹ chấp nhận những khoản thế chấp không an toàn như bất động sản
và chứng khoán, khiến cho hệ thống ngân hàng rơi vào trạng thái rủi ro do
12
dự trữ quá ít và đầu tư quá nhiều vào các tài sản không bảo đảm. Thứ hai,
việc tín dụng dư thừa đã khiến nền kinh tế phát triển nóng, đẩy bong bóng
chứng khoán bùng nổ quá mức. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ, không
thu hồi được nợ, việc các ngân hàng bán ra số lượng lớn tài sản thế chấp
với giá rẻ, làm cho tài sản nhìn chung lại càng mất giá, khiến các khoản nợ
còn tồn lại càng giảm chất lượng (do tài sản thế chấp bị giảm giá). Vòng
xoáy này ngày càng lớn, đẩy cả thị trường nợ và tài sản xuống, làm cho
các thể chế tài chính và cá nhân trên thị trường vỡ nợ.
Chính sách tiền tệ của chính phủ Mỹ cũng là một nguyên nhân gây trầm
trọng thêm tình hình. Thay vì tăng cung tiền để cứu hệ thống ngân hàng
khỏi nguy cơ sụp đổ và tăng thanh khoản cho nền kinh tế, FED lại thực
hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tài khóa đúng lúc cuộc khủng hoảng lan
rộng. Sự xiết chặt quá mức của FED đã khiến cho hiện tượng giảm phát
xảy ra, không còn nguồn vốn cho sản xuất, ngân hàng sụp đổ và tiêu dùng
của dân chúng suy giảm, kéo theo sự suy thoái trên diện rộng.
1.3.2.Khủng hoảng tài chính Mexico 1994:
1.3.2.1.Diễn biến khủng hoảng:
Sau khủng hoảng nợ năm 1982, Mexico đã tiến hành một loạt cải cách
giúp khôi phục được nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng, đồng peso Mexico
được neo vào đồng USD, lãi suất của Mexico được giữ cao hơn lãi suất
của Mỹ đã thúc đẩy dòng vốn tư nhân nước ngoài đổ vào nền kinh tế
Mexico. Riêng thời gian từ 1990 đến 1993, Mexico đã thu hút được 93 tỷ
USD đầu tư nước ngoài, chiếm một nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ
Latinh. Điều này đã dẫn tới hiện tượng peso lên giá tới 40% so với USD
trong vòng 5 năm, từ năm 1988 đến năm 1993. Hậu quả là xuất khẩu của
Mexico chịu ảnh hưởng bất lợi trong khi nhập khẩu được thúc đẩy, dẫn tới
13
Mexico bị thâm hụt cán cân thương mại, từ 2,6% GDP vào giữa năm 1989
lên 5% vào năm 1993. Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ
ngắn hạn nước ngoài.
Năm 1994, một loạt sự kiện an ninh trong nước (bầu cử tổng thống, sự nổi
dậy của lực lượng vũ trang Zapatistas, ứng cử viên tổng thống Colosio bị
ám sát) đã khiến hoảng loạn tài chính xảy ra. Các nhà đầu tư trong và
ngoài nước đã giảm nhu cầu về chứng khoán của Mexico khiến cho dòng
vốn vào Mexico suy giảm. Thêm vào đó là sức ép của các khoản nợ đáo
hạn vào năm 1995. Peso chịu sức ép mất giá và chính phủ đã tung khoảng
10 tỷ USD dự trữ ngoại hối nhà nước ra để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.
Khi lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng peso có xu hướng tăng,
chính phủ đã một mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi
suất, một mặt tiến hành đổi các trái phiếu chính phủ từ định danh bằng
peso sang định danh bằng USD. Đối phó với việc giá peso quá cao so với
USD, chính phủ Mexico chọn biện pháp vừa dùng dự trữ ngoại hối để giữ
ổn định tỷ giá, vừa từng bước tiến hành phá giá peso theo từng biên độ
nhỏ.
Các nhà đầu tư trở nên lo ngại về sự bền vững của nền kinh tế Mexico. Thị
trường chứng khoán Mexico chao đảo. Thêm vào đó là hiện tượng lãi suất
quốc tế tăng lên kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục đầu tư của
mình theo hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển. Các nhà
đầu tư rút vốn khỏi Mexico, đồng peso bị mất giá mạnh, trong khi dự trữ
ngoại hối của Mexico không còn nhiều. Kết quả là chính phủ đành tuyên
bố thả nổi đồng peso, nền kinh tế Mexico rơi vào khủng hoảng thật sự. Nợ
nước ngoài của Mexico vượt quá 200 tỷ USD. Lạm phát ít nhất lên tới
60%, thất nghiệp từ 3,6% tăng lên xấp xỉ 10%. Tốc độ tăng trưởng năm
14
1995 là -6,2%. Khi đó chính quyền Mexico phải kêu gọi cộng đồng quốc
tế giúp đỡ Mexico thoát khỏi cuộc khủng hoảng.
1.3.2.2.Nguyên nhân:
Có thể nói, như hầu hết các cuộc khủng hoảng tài chính khác, nền tảng
kinh tế vĩ mô yếu kém và việc điều hành chính sách của chính phủ chính là
nguyên nhân ban đầu của khủng hoảng tài chính Mexico. Đầu tiên là việc
Mexico thực hiện chế độ neo tỷ giá vào đồng USD. Việc duy trì tỷ giá hối
đoái cố định quá lâu này chính là nguyên nhân chính của tình trạng thâm
hụt cán cân thanh toán, đồng thời khi kết hợp với mức lãi suất hấp dẫn của
Mexico đã khiến cho giá trị thực của đồng peso bị lên giá khi các dòng vốn
nước ngoài ồ ạt chảy vào.
Sau đó là một cơ cấu nợ với chủ yếu là nợ ngắn hạn nước ngoài khiến cho
Mexico gặp khó khăn về thanh khoản khi dòng vốn nước ngoài vào nền
kinh tế đột ngột suy giảm.
Kế đến là tình trạng mong manh của hệ thống ngân hàng khiến chính phủ
phải sử dụng chính sách tăng tín dụng nội địa để chống lại việc giảm dự
trữ ngoại hối, dẫn đến sự không nhất quán giữa chính sách tỷ giá và chính
sách tiền tệ.
Với một nền tảng vĩ mô bộc lộ nhiều nguy co rủi ro của Mexico, biến động
chính trị và tác động của việc rút vốn của các nhà đầu tư đã khiến cho cuộc
khủng hoảng đồng peso bùng phát.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ nguyên nhân của khủng hoảng luôn xuất
phát từ nền tảng kinh tế vĩ mô, tức là cái gốc căn bản của nền kinh tế. Một
nền tảng vĩ mô tốt sẽ là một lá chắn hữu hiệu giúp cho nền kinh tế - tài
chính vượt qua những giai đoạn kinh tế khó khăn. Ngược lại, một nền tảng
15
vĩ mô tiềm ẩn nhiều nguy cơ sẽ có cơ hội bùng phát thành rủi ro khủng
hoảng khi bị châm ngòi bởi những biến động trong nền kinh tế. Chúng ta
có thể nhìn thấy rõ hơn điều này khi tiếp tục xem xét cuộc khủng hoảng tài
chính Thái Lan năm 1997.
1.3.3.Khủng hoảng tài chính Thái Lan 1997:
1.3.3.1.Diễn biến khủng hoảng:
Thái Lan thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu từ thập niên
80 bằng cách cố định giá trị đồng baht vào USD và cho phép tự do lưu
chuyển vốn. Tăng trưởng GDP cộng với mức lãi suất trong nước cao hơn
quốc tế để thu hút đầu tư đã khiến cho các dòng vốn đổ vào Thái Lan, tạo
sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, Thái Lan thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát.
Chính sách vô hiệu hóa được áp dụng để chống lạm phát lại tạo điều kiện
cho các dòng vốn đầu tư tài chính chảy vào nền kinh tế.
Việc FED nâng lãi suất của Mỹ để ngăn chặn lạm phát đã khiến cho đồng
USD tăng giá, và do đồng baht được neo vào USD, nên xuất khẩu của Thái
Lan trở nên kém cạnh tranh, khiến cho cán cân thương mại của Thái Lan
bị thâm hụt. Để bù đắp thâm hụt thương mại và có vốn đầu tư cho nền
kinh tế, Thái Lan tăng cường vay nợ nước ngoài. Kết quả là trong tổng số
vốn nước ngoài thuần đã đổ vào Thái Lan thời kỳ 1991 – 1996 là 85.293 tỷ
USD thì đầu tư gián tiếp chiếm 19,23% và tín dụng, vay ngắn hạn chiếm
đến 70,4%, đặc biệt, nợ ngắn hạn vào thời điểm tháng 6 năm 2007 gấp 1,5
lần dự trữ ngoại hối quốc gia.
Nhận thấy đồng baht đang bị định giá cao hơn 30% so với giá trị thực và
cơ chế tự do hóa tài khoản vốn của Thái Lan, các tổ chức tài chính đã thực
16
hiện tấn công đồng baht bằng các hợp đồng bán khống. Dự trữ ngoại hối
của Thái Lan cạn kiệt. Lo ngại về việc chính phủ không còn đủ khả năng
để duy trì tỷ giá, các tổ chức tài chính và nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt
rút vốn khỏi Thái Lan. Khủng hoảng tài chính nổ ra và Thái Lan phải thả
nổi đồng baht.
1.3.3.2.Nguyên nhân:
Khủng hoảng tài chính Thái Lan có điểm chung với khủng hoảng tài chính
Mexico, đó là sự yếu kém của nền tảng vĩ mô, duy trì chế độ neo tỷ giá, lãi
suất cao hơn mặt bằng lãi suất quốc tế khiến cho đồng nội tệ bị lên giá khi
các dòng vốn nước ngoài đổ vào nền kinh tế.
Việc gia tăng nguồn vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối
đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình thâm hụt thương mại. Tình hình
của Thái Lan đặc biệt nguy hiểm khi tại thời điểm trước khủng hoảng,
Thái Lan sử dụng gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính
và tín dụng ngắn hạn. Nguồn vốn này chẳng những không hỗ trợ đầu tư
sản xuất trong nước để giúp kinh tế phát triển mà còn hình thành nên các
bong bóng giá chứng khoán và bất động sản. Đến khi thị trường tạo sức ép
giảm giá đồng tiền, việc Thái Lan tự do hóa tài khoản vốn đã khiến cho
khủng hoảng xảy ra khi các nhà đầu tư nước ngoài đột ngột rút vốn.
Tuy nhiên, cũng như khủng hoảng Mexico xảy ra do có nguyên nhân tác
động là các biến động trong chính trị, nguyên nhân trực tiếp của khủng
hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ vào
đồng bath của các định chế tài chính nước ngoài.
17
1.4.Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính:
Nhìn vào nguyên nhân của một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu,
chúng ta có thể nhận thấy khủng hoảng luôn luôn là kết quả của một quá trình
tích lũy các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong nền kinh tế từ mức thấp đến mức
cao. Quá trình khủng hoảng có thể được khởi động từ rất lâu bởi các thay đổi
có quy mô nhỏ, có vẻ không nguy hiểm hằng năm, được tích lũy dần dần và
tiến tới bùng nổ do sự chín muồi trong nền kinh tế hoặc khi có tác động từ bên
ngoài.
Nhìn chung, những nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính luôn xuất phát
từ bản thân nền kinh tế. Phần lớn các cuộc khủng hoảng bắt đầu bằng sự yếu
kém trong ngành sản xuất vật chất, số còn lại bắt nguồn từ việc thị trường tài
chính phát triển vượt quá khả năng giám sát của chính phủ. Tiếp đến thường
là nguyên nhân đến từ các chính sách cấp tín dụng cho nền kinh tế. Nghiệp vụ
ngân hàng yếu kém, cấp tín dụng dưới chuẩn cho các khoản vay có rủi ro cao
sẽ dẫn đến việc tích nợ xấu nhanh và không bền vững. Làn sóng vốn đầu tư
vào nền kinh tế cộng với cung tín dụng cao sẽ khiến cho nền kinh tế tăng
trưởng nóng, lạm phát cao, hình thành nên các bong bóng tài sản, tỷ giá hối
đoái chịu áp lực. Nền tảng vĩ mô nền kinh tế trở nên suy yếu và sức “đề
kháng” trước khủng hoảng giảm.
Trong giai đoạn này của nền kinh tế, hệ thống các chính sách của chính phủ,
thay vì nên góp phần điều tiết, ngăn ngừa khủng hoảng xảy ra, lại thường vô
hiệu hoặc không đủ năng lực để giải quyết vấn đề. Đây chính là nguyên nhân
đến từ năng lực điều hành chính sách của chính phủ. Nguyên nhân này cũng
gián tiếp dẫn đến giai đoạn cuối cùng, khi mà các chính sách kinh tế vĩ mô và
các cú sốc ngoại sinh làm bùng nổ khủng hoảng. Các chính sách vĩ mô - phần
lớn là các chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái và các chính sách tài khoá -
thường quyết định thời gian và độ lớn của khủng hoảng. Yếu tố làm bùng
phát khủng hoảng có thể là các cú sốc bên ngoài hoặc bên trong nền kinh tế,
18
ví dụ như biến động chính trị của Mexico, sự tấn công đầu cơ vào đồng baht
của các định chế tài chính quốc tế.
1.5.Các dấu hiệu của khủng hoảng tài chính:
Việc nắm được nguyên nhân của khủng hoảng tài chính giúp cho việc xác
định dấu hiệu cảnh báo khủng hoảng được dễ dàng hơn. Nhìn chung, các dấu
hiệu của khủng hoảng có thể được tìm thấy trên phương diện kinh tế vi mô
hoặc thông qua các chỉ số kinh tế vĩ mô.
1.5.1.Về phương diện kinh tế vi mô:
Đầu tiên là tình trạng “sức khỏe” của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Bản chất của hoạt động kinh doanh là chứa đựng rủi ro, do đó, việc các
doanh nghiệp gặp phải rủi ro phá sản là điều dễ hiểu trong nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, nếu như hàng loạt doanh nghiệp trong nền kinh tế đối
diện với nguy cơ phá sản, có nghĩa là các chính sách điều hành nền kinh tế
của chính phủ đang có vấn đề. Mặt khác, việc phá sản của hàng loạt doanh
nghiệp sẽ kéo theo những hệ lụy xấu cho nền kinh tế, như tỷ lệ thất nghiệp,
các khoản nợ không có khả năng chi trả, sản xuất trì trệ….
Kế đến, tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng là chỉ số cần được đặc
biệt lưu ý, bởi vì hệ thống ngân hàng chính là nơi cung cấp thanh khoản cho
nền kinh tế. Những dấu hiệu cần lưu ý là mức lợi nhuận của ngân hàng, sự
tăng nhanh của danh mục cho vay, tỷ lệ các khoản nợ vay khó đòi cao, tỷ lệ
tiền gửi giảm hoặc tăng đột ngột, tỷ lệ vay trên thị trường liên ngân hàng…
1.5.2.Về phương diện kinh tế vĩ mô:
Có ba dấu hiệu báo trước một cuộc khủng hoảng là nền kinh tế tăng trưởng
nóng và tỷ giá hối đoái quá yếu hoặc quá mạnh. Khi nền kinh tế tăng trưởng
quá nóng sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhu cầu đầu tư vào thị trường chứng
khoán, bất động sản, thu hút đầu tư nước ngoài. Còn với tỷ giá hối đoái quá
yếu hoặc quá mạnh trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng quá nóng sẽ thúc
19
đẩy các nhà đầu tư tăng lượng tiền vào những nơi sinh lợi nhanh và đầu cơ.
Hai yếu tố trên thường dẫn đến hiện tượng bong bóng và nổ bong bóng giá
tài sản, dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Bên cạnh đó là những dấu hiệu như: cung tiền mặt dồi dào, quản lý lỏng lẻo,
hệ thống ngân hàng yếu kém, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối mỏng, hệ
thống thể chế chưa hiện đại.
Kết luận Chương 1
Trong chương 1, tác giả đã trình bày khái quát cơ sở lý luận chung về khủng
hoảng tài chính như: bản chất, nguyên nhân, các dấu hiệu…. Việc hiểu rõ về
khủng hoảng tài chính sẽ giúp ích trong việc nhận diện sự hình thành của các
“cơn bão tài chính” trong quá trình vận động của nền kinh tế. Trong chương
tiếp theo, tác giả sẽ trình bày thực trạng nền kinh tế và phân tích những nguy
cơ tiềm ẩn khủng hoảng tài chính tại Việt Nam.
20
CHƯƠNG 2
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨN
Nền kinh tế Việt Nam đã bước vào một giai đoạn tiềm ẩn những nguy cơ bất
ổn. Rủi ro có thể xuất phát từ cả bên trong nền kinh tế lẫn từ bên ngoài, khi
mà nền kinh tế toàn cầu đang có những biến động khó lường. Nếu như những
nguy cơ từ bên trong xuất phát từ nội tại nền kinh tế, đặc biệt là sự yếu kém
của hệ thống tài chính, thì những nguy cơ từ bên ngoài lại xuất phát từ quá
trình hội nhập, mở cửa, tự do hóa tài chính, tự do hóa thương mại, hoặc do lây
nhiễm khủng hoảng. Tuy độ mở của nền kinh tế Việt Nam đã tương đối cao,
nhưng với các biện pháp kiểm soát vốn tương đối chặt chẽ, thị trường tài
chính – tiền tệ còn sơ khai và quá trình tự do hóa thương mại, tự do hóa tài
chính chưa diễn ra mạnh mẽ thì những nguy cơ đối với nền kinh tế Việt Nam
chủ yếu do các nhân tố nội tại gây ra. Phần này của đề tài tập trung trình bày
những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro trong nền kinh tế Việt Nam.
2.1.Nền kinh tế USD hóa:
Việt Nam hiện đang phải đối diện với tình hình USD hóa không chính thức,
khi mà USD được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, phần lớn người dân đã
quen với việc sử dụng đồng USD mặc dù Chính phủ đã có những quy định
ngăn cấm như cấm niêm yết giá hàng hóa bằng USD, cấm dùng USD đối với
hầu hết giao dịch trong nước. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là sự
mất lòng tin vào VND của người dân Việt Nam trong bối cảnh lạm phát cao,
VND liên tục mất giá và khả năng tiếp cận USD trên thị trường tự do, không
thông qua ngân hàng khá dễ dàng.
USD hóa, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn lạm phát cao,
sẽ khiến cho mức cung tiền trong nền kinh tế trở nên khó dự báo hơn và việc
21
kiểm soát giao dịch thanh toán trong nền kinh tế trở nên khó khăn, dẫn đến
việc tính toán vòng quay tiền tệ không chính xác. USD hóa còn khiến cho cầu
ngoại tệ tăng gây sức ép đẩy tỷ giá lên cao, làm giảm giá trị VND và khiến
cho cầu VND không ổn định. Như vậy, USD hóa có tác động không nhỏ đến
hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.
Tuy nhiên, tác động nguy hiểm nhất của USD chính là khả năng Chính phủ
không thể thực hiện tốt vai trò điều tiết tỷ giá, một khi lượng ngoại tệ trên thị
trường tự do quá lớn, vượt quá khả năng tác động lên giá cả ngoại tệ trên thị
trường của Chính phủ.
Ảnh hưởng của tình hình USD hóa đối với nền kinh tế còn được thể hiện rõ
hơn khi phân tích những rủi ro khác của nền kinh tế Việt Nam, như tình trạng
thâm hụt cán cân thanh toán.
2.2.Mất cân đối trong cán cân thanh toán:
2.2.1.Thâm hụt tài khoản vãng lai:
Hiện trạng cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu bao gồm cán cân thương
mại hàng hóa và cán cân chuyển giao, còn dịch vụ và thu nhập tương đối
nhỏ. Thâm hụt thương mại là nhân tố chính đóng góp vào thâm hụt cán cân
tài khoản vãng lai ở Việt Nam hiện nay.
Năm 2010, với xuất khẩu ước đạt 71,6 tỷ USD, nhập khẩu ở mức 84 tỷ
USD, nhập siêu năm 2010 đạt khoảng 12,4 tỷ USD, giảm nhẹ so với năm
2009 (12,85 tỷ USD), nhưng vẫn chiếm khoảng 11,3% GDP.
100
80
60
40
20
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
-20
-40
Xuất khẩu (tỉ USD) Nhập khẩu (tỉ USD) Nhập siêu (tỉ USD)
Hình 2.1 Thâm hụt thương mại Việt Nam (Nguồn : Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010) Nguyên nhân đầu tiên của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại hiện nay
22
đến từ bất cập trong cơ cấu xuất nhập khẩu. Thông thường, nhập siêu nhưng
cơ cấu hàng nhập khẩu tập trung vào hàng hóa phục vụ đầu ra tạo ra năng
lực xuất khẩu mới hoặc dùng để sản xuất ra những mặt hàng có giá trị gia
tăng cao thì việc nhập siêu đó không đáng ngại, bởi nó tạo ra năng lực sản
xuất và sức cạnh tranh trong dài hạn để hỗ trợ xuất khẩu tương lai. Tuy
nhiên, với mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hàng nông lâm sản, than đá, dầu
thô, dệt may và giày da, trong khi cơ cấu nhập khẩu chủ yếu là nguyên,
nhiên, vật liệu và hàng tiêu dùng như trường hợp Việt Nam, thì tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại sẽ vẫn kéo dài và trầm trọng.
Nguyên nhân tiếp theo, mang tính chất quyết định nhất khiến cho cán cân
thương mại của Việt Nam bị thâm hụt ngày càng lớn, đe dọa làm mất cân
đối cán cân thanh toán tổng thể, chính là cơ chế tỷ giá.
Trong cơ chế tỷ giá thả nổi, một mặt tỷ giá phụ thuộc vào cán cân thương
mại trước đó nhưng mặt khác bản thân tỷ giá lại là yếu tố điều chỉnh cán cân
thương mại trong tương lai trở về trạng thái cân bằng trong mối quan hệ
tổng thể với các dòng vốn khác. Khi tỷ giá được thả nổi, khi nhu cầu nhập
23
khẩu tăng cao khiến nhu cầu ngoại tệ trong nước tăng lên tương ứng, giá
ngoại tệ sẽ tăng một cách tương đối so với giá bản tệ. Sự tăng giá ngoại tệ
khiến cho nhập khẩu trở nên đắt đỏ, đồng thời xuất khẩu lại được lợi. Nhờ
cơ chế này khiến cho nhu cầu nhập khẩu giảm, xuất khẩu được lợi dẫn đến
cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết quả là không những nhập siêu giảm mà giá ngoại
tệ cũng giảm trở lại, cả cán cân thương mại và tỷ giá trở về trạng thái cân
bằng.
Việt Nam áp dụng chế độ neo tỷ giá, VND được neo chặt vào USD, tỷ giá
về cơ bản là cố định, khiến cho tỷ giá không thực hiện được chức năng điều
hòa cán cân thương mại theo cơ chế trên. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao, các dòng vốn vào nhiều, lạm phát cao đã khiến cho VND có xu hướng
lên giá so với USD, khiến cho sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam giảm,
làm giảm xuất khẩu, hỗ trợ nhập siêu.
Một điều đặc biệt cần xem xét trong cán cân thanh toán của Việt Nam là dù
cán cân vốn thặng dư do đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 18,6tỷ USD,
kiều hối đạt 8tỷ USD, thì cán cân thanh toán vẫn bị thâm hụt khoảng 4%
GDP, tuy mức thâm hụt này đã giảm khá nhiều so với năm 2009.
Trên lý thuyết, một quốc gia có thâm hụt tài khoản vãng lai nhưng cũng có
mức thặng dư tài khoản vốn cao thì không đáng lo ngại, bởi vì thâm hụt tài
khoản vãng lai sẽ được bù đắp bằng thặng dư trong tài khoản vốn. Tuy
nhiên, vấn đề nằm ở chỗ Việt Nam là một nền kinh tế có mức độ USD hóa
cao, tâm lý người dân ưa thích nắm giữ ngoại tệ, do đó, thặng dư tài khoản
vốn của Việt Nam không được sử dụng để bù đắp thâm hụt tài khoản vãng
lai hay bổ sung dự trữ ngoại hối, mà một số lượng ngoại tệ lớn đã được găm
giữ trong dân chúng, trong các doanh nghiệp… Xét trên khía cạnh này, nếu
như chính phủ không có những biện pháp khắc phục tình trạng suy giảm
niềm tin vào giá trị VND đang hiện hữu trong tâm lý người dân, thì tình
trạng thâm hụt của Việt Nam rất đáng lo ngại.
24
2.2.2.Nguy cơ từ thâm hụt tài khoản vãng lai:
Đối với một nền kinh tế đang trong bước đầu của quá trình phát triển như
Việt Nam, tình hình thâm hụt cán cân thương mại là điều dễ hiểu. Tuy
nhiên, với tỷ lệ thâm hụt trên 10%, cộng với tâm lý găm giữ ngoại tệ của
người dân đã khiến Việt Nam đối diện với nguy cơ sụt giảm dự trữ ngoại
hối.
Sự cân đối của thị trường ngoại hối phụ thuộc vào cung cầu, nút thắt của sự
cân đối luồng ngoại tệ vào và ra chính là nhập siêu, bù đắp nhập siêu là
nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối, do thặng dư trên tài
khoản vốn đã bị găm giữ ngoài hệ thống ngân hàng, khiến cho dự trữ ngoại
Hình 2.2 Tình hình dự trữ ngoại hối Việt Nam (Nguồn : Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010) Dự trữ ngoại hối đóng vai trò “giảm sốc”, giúp cho nền kinh tế chống đỡ
hối của Việt Nam trong thời gian qua đã giảm mạnh.
được các cú sốc trong thương mại quốc tế, và giúp điều hòa những biến
động của cá dòng lưu chuyển vốn và ổn định tỷ giá. Dự trữ ngoại hối còn có
vai trò quan trọng trong việc “bảo hiểm” cho nền kinh tế chống lại những
thay đổi bất lợi trong nền kinh tế nội địa hay toàn cầu.
25
Đối với nền kinh tế áp dụng chế độ neo tỷ giá như Việt Nam, dự trữ ngoại
hối giảm còn dẫn tới việc chính sách tiền tệ khó khăn hơn để tìm được điểm
cân bằng cho cả hai vấn đề: giảm lãi suất và ổn định tỷ giá. Theo lý thuyết,
khi cung tiền M2 tăng lên, đồng nội tệ sẽ rẻ đi và lãi suất giảm xuống,
nhưng tỷ giá sẽ tăng lên, và ngược lại nếu giảm cung tiền M2, đồng tiền sẽ
khan hiếm hơn và đắt lên, đẩy lãi suất tăng cao, cho dù tỷ giá lúc đó sẽ hạ
hơn. Để giảm lãi suất và giảm cả tỷ giá, chỉ có một cách duy nhất là tăng
cung tiền, đồng thời rút bớt dự trữ ngoại hối cung cấp ra thị trường để cân
bằng lại. Tuy nhiên, với khả năng hiện nay dự trữ ngoại hối Việt Nam khá
mỏng, sẽ không dễ dàng để ngân hàng Nhà nước can thiệp khi tỷ giá tiếp tục
có những biến động mạnh.
Dự trữ ngoại hối giảm khiến cho VND chịu áp lực xuống giá cũng tạo áp
lực lên nợ nước ngoài của Việt Nam theo hướng gia tăng rủi ro mất khả
năng thanh toán và sụt giảm mức tín nhiệm về tín dụng. Do đó, dù tình hình
cán cân thanh toán của Việt Nam không bị coi là quá trầm trọng bởi nghĩa
vụ nợ ngắn hạn của Việt Nam tương đối nhỏ, nhưng nếu như Việt Nam
không ổn định được tình hình kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và đảm bảo
môi trường đầu tư hấp dẫn để giành được niềm tin của các nhà đầu tư trong
nước cũng như ngoài nước vào nền kinh tế của mình thì hiện tượng rút vốn
hoàn toàn có thể xảy ra.
Ngoài ra, Việt Nam còn đối diện với nguy cơ “thâm hụt kép” khi mà tình
hình thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng. Thâm hụt ngân sách và thâm
hụt cán cân thanh toán luôn đi liền với nhau, và trong bối cảnh nền kinh tế
Việt Nam, điều này đã làm gia tăng nguy co rủi ro khủng hoảng tiền tệ. Vì
vậy, phần tiếp theo của đề tài sẽ nghiên cứu về thực trạng thâm hụt ngân
sách ở Việt Nam để có một cái nhìn rõ hơn về những nguy cơ này.
26
2.3. Thâm hụt ngân sách và nợ công:
2.3.1.Chính sách tài khóa và tình hình thâm hụt ngân sách:
Năm 2009, nhằm đối phó với nguy cơ suy thoái kinh tế do cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới gây ra, Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế
với quy mô gần 8 tỷ USD, tương đương 8%GDP, thực chi tăng 36.000 tỷ
đồng so với dự toán, đạt 29,3% GDP. Vì vậy, thâm hụt ngân sách năm 2009
8.00%
140000
120000
117200
115900
7.00%
6.90%
120000
6.00%
5.80%
100000
5.50%
5.00%
5%
5%
4.95%
4.85%
80000
66200
4.00%
56500
60000
48500
3.00%
40700
40000
2.00%
20000
1.00%
0.00%
0
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011 (F)
Thâm hụt ngân sách (tỉ đ.)
% GDP
Hình 2.3 Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005-2011 (Nguồn : Bộ Tài chính)
lên tới 6,9% GDP.
Năm 2010, chính sách tài khóa tiếp tục được mở rộng với việc mức bội chi
ngân sách nhà nước tương đương 5,8% GDP, giảm so với năm 2009 và cũng
giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ
trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi
ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều
năm) cho thấy là mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được ưu tiên hàng đầu và
Chính phủ tiếp tục chủ động sử dụng chính sách tài khóa nhằm mở rộng chi
27
tiêu cũng như đầu tư công. Trong bối cảnh tỷ lệ đầu tư của Việt Nam hiện
nay là cao nhất thế giới mà hiệu quả đầu tư lại thuộc dạng thấp (theo tính
toán của Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm
2010 của Việt Nam là 6,2), thì càng đầu tư cao, càng cần vốn, cần tín dụng,
và vì không thể tăng năng suất nên sức ép lạm phát nảy sinh.
Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo
nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng
nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.
2.3.2.Tài trợ thâm hụt ngân sách và tình hình nợ công:
Nguồn tài trợ thâm hụt ngân sách chủ yếu hiện nay là vay nợ, bao gồm nợ
trong nước và nợ nước ngoài, cơ cấu nợ chủ yếu là nợ nước ngoài trung và
dài hạn. Do ngân sách thâm hụt thường xuyên, cộng với đặc thù của một
nước đang phát triển là nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao nên số nợ công của
44.6
41.9
50 45
36.2
33.8
40 35 30
P D G
%
25 20 15 10
5 0
2007
2008
2009
2010
Hình 2.4 Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ qua các năm (Nguồn : Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010) Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ công bằng
Việt Nam tăng nhanh trong những năm qua.
56,6% GDP, dư nợ chính phủ bằng 44,6% GDP và nợ nước ngoài chiếm
28
42,2% GDP. Trong đó, tổng nợ nước ngoài tính đến hết 30/06/2010 là 29 tỷ
USD (so với lượng dự trữ ngoại hối khoảng 14 tỷ USD).
Như vậy, nếu so với các nền kinh tế đang phát triển khác (phổ biến khoảng
30%-40%) thì tỷ lệ nợ công của Việt Nam cao hơn hẳn, tuy là vẫn trong tầm
kiểm soát do chủ yếu là nợ trung và dài hạn. Nếu xét mức nợ công bình
quân đầu người bình quân đầu người trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009),
mức nợ công bình quân đầu người đã tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới
548 USD, tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình
quân đầu người của cùng thời kì chỉ là 6%/năm.
2.3.3.Nguy cơ từ thâm hụt ngân sách và nợ công:
Thâm hụt ngân sách cao và liên tục thể hiện việc nền kinh tế Việt Nam đang
đối mặt với sự mất cân bằng kinh tế lớn, trong đó cốt lõi là mất cân bằng
giữa tiết kiệm và đầu tư trong khu vực công. Điều này là hệ quả của mô hình
tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư mà Việt Nam đang theo đuổi, trong khi
hệ số ICOR không được cải thiện.
Mức bội chi ngân sách cao, trong khi hiệu quả đầu tư thấp chính là một
trong những nguyên nhân khiến cho cung tiền ở Việt Nam tăng cao, gây áp
lực lạm phát. Mặt khác, điều này còn thể hiện dấu hiện thiếu bền vững của
ngân sách vì các khoản chi tiêu, đầu tư của Chính phủ đã không tạo ra
nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới.
Thâm hụt ngân sách còn khiến cho tình hình nợ công ngày càng trầm trọng.
Việc tài trợ thâm hụt ngân sách bằng trái phiếu trong nước cũng chính là
một yếu tố góp phần khiến lãi suất được ghìm giữ ở mức cao, khiến cho đầu
tư tư nhân sụt giảm. Trong khi đó, tài trợ bằng vay nợ nước ngoài tăng cao
trong bối cảnh dự trữ ngoại hối đang suy giảm, thâm hụt cán cân thương mại
lớn, hiệu suất sử dụng vốn vay thấp dẫn đến việc uy tín của Việt Nam bị
giảm trên thị trường thế giới mà tiêu biểu là việc Fitch, công ty định giá tín
nhiệm, đã hạ mức tín nhiệm về nợ dài hạn nước ngoài và đồng nội tệ của
29
Việt Nam xuống mức B+, có nghĩa là mức độ rủi ro tương đối cao và xác
suất vỡ nợ của chính phủ Việt Nam lớn.
Như vậy, có thể nhận thấy Việt Nam đang phải đối diện với rủi ro đến từ tỷ
lệ nợ công đang tăng cao. Tuy tỷ lệ nợ ngắn hạn Việt Nam thấp nên nguy cơ
về khủng hoảng nợ là chưa hiện hữu, tuy nhiên, nếu hệ số ICOR không
được cải thiện, kỷ luật tài khóa không được thực hiện nghiêm túc thì trong
trung và dài hạn, chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ nước ngoài.
Bên cạnh đó, bội chi ngân sách khiến cho cung tiền dư thừa trong nền kinh
tế, là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát tăng cao, khiến Việt Nam
tiếp tục phải đối diện với một rủi ro vĩ mô khác.
2.4.Lạm phát:
2.4.1.Tình hình lạm phát và nguyên nhân:
Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn
bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Từ
năm 2004 đến nay, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đều cao hơn tốc độ tăng
Hình 2.5 Diễn biến giá tiêu dùng trong năm 2010. (Nguồn : Tổng cục Thống kê)
GDP, đặc biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng ba lần tốc độ tăng GDP.
30
Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Tuy
nhiên, do nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố dẫn đến lạm phát cao nên số
liệu lạm phát chính thức của năm 2010 được xác định là 11,75%, cao hơn
rất nhiều so với mục tiêu chính phủ đề ra, và cao gấp gần hai lần tốc độ tăng
trưởng GDP.
Nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam là sự kết hợp của ba nhóm
yếu tố:
- Chi phí đẩy: giá điện, giá xăng dầu đều được điều chỉnh tăng, ảnh huởng
từ việc điều chỉnh tỷ giá, ảnh hưởng của khủng hoảng và xu thế lạm phát
trên toàn cầu.
- Cầu kéo: các gói kích thích kinh tế khiến tăng chi tiêu của chính phủ để
kích thích tổng cầu tăng, trong khi nguồn cung chưa tăng đáp ứng do đầu
tư kém hiệu quả dẫn đến gia tăng giá cả và lạm phát.
- Nguyên nhân tiền tệ:
Đối với lạm phát do chi phí đẩy hoặc do cầu kéo, nếu chính phủ sử dụng
chính sách tiền tệ hợp lý, khiến cho mức tăng cung tiền trong nền kinh tế
phù hợp với mức tăng của hàng hóa thì tác động của hai loại lạm phát trên
sẽ được loại trừ. Hơn nữa, mức lạm phát ở Việt Nam cũng cao hơn nhiều
so với các nước trong khu vực. Do đó, nguyên nhân chính của lạm phát
Việt Nam đến từ lý do nội tại trong nền kinh tế, cụ thể là cung tiền cao.
Lạm phát hiện nay là kết quả của chính sách tìm mọi biện pháp ngắn hạn
(mà chủ yếu là thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư) để kích thích
tăng trưởng của nhiều năm trước trong khi ICOR không được cải thiện.
Hậu quả là nền kinh tế Việt Nam với xuất phát điểm thấp và hoạt động đầu
tư không hiệu quả lại phải hấp thụ một lượng vốn đầu tư tương đối lớn và
áp lực tăng cung tiền để thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng và
tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Hình 2.6: Tốc độ tăng trưởng cung tiền và GDP. (Nguồn: IMF, BMI forecast, EIU, Báo cáo của BVSC)
31
Cụ thể, với tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam khá cao, xoay quanh mức 40%
GDP trong vòng 3 năm trở lại, năm 2009 tăng trưởng tín dụng phải tăng
đến 37.74% và tăng trưởng cung tiền M2 đạt mức 28.7% để tạo ra một
mức tăng trưởng GDP là 5.32%, năm 2010 tăng trưởng tín dụng là 27,65%
và tăng trưởng cung tiền M2 đạt khoảng 25% để tạo ra mức tăng trưởng
GDP là 6,785%. Chênh lệch giữa tổng phương tiện thanh toán và tăng
trưởng GDP thực tế cho thấy lượng hàng hóa sản xuất ra chưa tương xứng
với lượng tiền lớn được đưa vào lưu thông. Khi lượng tiền đổ vào nền kinh
tế quá nhiều, lại không được sử dụng một cách hiệu quả để sản xuất ra
hàng hóa và dịch vụ thì sẽ dẫn tới tình trạng “quá nhiều tiền nhưng quá ít
hàng”, nói cách khác, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng GDP
trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.
Một nguyên nhân tiền tệ dẫn đến lạm phát nữa là việc Việt Nam đang nhập
khẩu lạm phát thông qua việc ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng
USD trong khi đồng tiền này biến động trên thị trường tiền tệ toàn cầu.
Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam đã nhập khẩu một phần ảnh hưởng
32
lạm phát của việc đồng USD mất giá. Thứ hai, trong bối cảnh các đồng
tiền châu Á đang tăng giá so với USD thì VND lại giảm giá so với USD.
Nghịch lý này tạo ra sự tác động luân chuyển và làm cho CPI tăng, ở chỗ:
các đồng tiền châu Á cũng tăng giá mạnh so với VND, mà Việt Nam lại là
nước nhập khẩu nhiều trong khu vực, yếu tố này sẽ truyền dẫn vào giá
hàng hóa làm cho giá cả tăng cao.
Cuối cùng là tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua,
áp lực tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát.
- Nguyên nhân khác:
Tâm lý tiêu dùng của người Việt chuộng đồ ngoại khiến nhập siêu diễn ra
trong nhiều năm đã tích tụ một lượng lạm phát được nhập khẩu tương đối
lớn.
Lạm phát Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tâm lý phát sinh lạm phát kỳ
vọng, khiến cho lạm phát kỳ vọng cao hơn rất nhiều so với lạm phát danh
nghĩa, cho thấy tâm lý người dân Việt Nam không thích nắm giữ VND.
Nếu hiện tại lạm phát ở mức cao và dân chúng cho rằng VND tiếp tục mất
giá (lạm phát tiếp tục tăng) thì họ sẽ chuyển từ giữ VND sang các tài sản
tài chính khác và tích cực mua hàng hóa.
2.4.2.Nguy cơ tiềm ẩn từ lạm phát
Sự ổn định giá cả, tuy không phải là yếu tố duy nhất, nhưng lại là yếu tố
quan trọng nhất để có được môi trường tài chính ổn định. Lạm phát không
chỉ ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tương lai
nền kinh tế do niềm tin của nhà đầu tư bị sụt giảm. Cho dù nguyên nhân nào
đi nữa thì việc chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát tăng cao, kéo dài sẽ có
những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những tác động chủ yếu
bao gồm:
33
Giá cả tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Điều này có
tác động xấu đến tình hình xuất khẩu. Bên cạnh đó, Việt Nam đang duy trì
chế độ neo tỷ giá, tỷ lệ lạm phát cao sẽ hỗ trợ cho việc tiêu dùng hàng nhập
khẩu của nhân dân, làm cho tình hình nhập siêu ngày càng trầm trọng.
Thông qua ảnh hưởng lên hoạt động xuất nhập khẩu, lạm phát gián tiếp tạo
áp lực lên cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, gây sức ép
giảm giá VND.
Điều này đặc biệt nghiêm trọng hơn trong bối cảnh Việt Nam là một nền
kinh tế USD hóa rất cao nên người dân dễ dàng dịch chuyển từ tài sản đánh
giá bằng đồng nội tệ sang tài sản đánh giá bằng ngoại tệ, bao gồm cả vàng.
Quá trình này có diễn ra mạnh mẽ hay không phụ thuộc nhiều vào niềm tin
của người dân đối với thị trường tài chính, vào đồng tiền. Kỳ vọng không tốt
về lạm phát, một tín hiệu cho thấy nền kinh tế bất ổn, sẽ tác động không tốt
đến niềm tin vào giá trị VND. Điều này tiếp tục tạo sức ép trực tiếp lên tỷ
giá và gián tiếp khiến cho lãi suất tiếp tục tăng cao. Mặt khác, với niềm tin
vào giá trị đồng tiền trong tương lai bị xói mòn, áp lực phá giá VND càng
ngày càng đè nặng và lượng dự trữ ngoại hối thấp, Việt Nam đang đối diện
với nguy cơ mất khả năng kiểm soát giá trị VND. Cộng với việc đặc điểm
người dân Việt Nam có tâm lý bầy đàn rất cao, chỉ một cú sốc bất lợi cho
nền kinh tế - tài chính (ví dụ giá dầu, giá vàng thế giới tăng cao) cũng có thể
gây ra một cuộc khủng hoảng, khi cho dù tình hình thực tế không trầm
trọng.
Mặt khác, lạm phát tại Việt Nam sẽ khuyến khích các hoạt động đầu tư
mang tính đầu cơ hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất. Dòng tiền trong
nền kinh tế sẽ chảy vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn như bất động sản và
thị trường chứng khoán, hình thành nên các bong bóng tài sản. Đây là một
hiện tượng rất nguy hiểm cho nền kinh tế và là một trong những nguyên
34
nhân chủ yếu tạo thành khủng hoảng, bởi lẽ sớm hay muộn gì thì các “bong
bóng” cũng phải vỡ, gây mất ổn định nền kinh tế.
2.5.Chính sách tiền tệ - tỷ giá:
2.5.1.Lãi suất:
Trong năm 2009, NHNN đã thực hiện khá nhiều biện pháp nới lỏng tiền tệ,
tổng mức tín dụng, phương tiện thanh toán đã tăng khá mạnh đạt tốc độ 26%
trong năm 2009 (so với mức tăng 16.3% của năm 2008), huy động vốn tăng
27% và cho vay nền kinh tế đã tăng tới 37.7%, một mức khá cao kể cả so
với những năm nền kinh tế diễn biến bình thường như giai đoạn 2006-2007,
dẫn đến nguy cơ lạm phát trong năm 2010.
Sang năm 2010, Chính phủ nhanh chóng chuyển từ chính sách kích thích
tăng trưởng sang ổn định vĩ mô bằng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn cộng
với việc dừng đột ngột chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất. Ngay từ đầu
năm, mặt bằng lãi suất cho vay đã ở mức khá cao, khoảng 15%-16%/năm.
Trong quý II đến đầu quý III, lạm phát tương đối thấp, NHNN thực hiện
chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm hạ lãi suất phục vụ tăng trưởng kinh tế. Khi
lãi suất đầu vào trên thị trường giảm xuống được 11% vào tháng 10, thì
cũng là lúc lạm phát bất ngờ tăng, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước quyết định nâng
mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam lên 9%/năm; theo đó, VNBA và
các Ngân hàng Thương mại đồng thuận trần lãi suất huy động là 12%/năm.
Tuy nhiên, lãi suất thực tế đã vượt xa trần do việc thắt chặt tín tiền tệ phát ra
đúng vào thời điểm cầu tín dụng tăng mạnh (cuối năm) và hạn mức tín dụng
của các ngân hàng đã gần hết. Kể từ đầu tháng 11/2010, lãi suất huy động
VND đã tăng vọt từ 11 - 11,5%/năm lên đến trên 17%/năm ở một số NHTM
đối với một số kỳ hạn ngắn, đồng thời lãi suất cho vay VND cũng tăng từ
13-14%/năm lên tới 19 - 21%/năm tùy từng loại khoản vay.
35
Có thể thấy, lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng nếu không giảm xuống thì
chính sách thắt chặt tiền tệ khiến cho lãi suất tái cấp vốn, lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng đều tăng, đẩy lãi suất đầu ra tăng theo. Lạm phát còn
khiến cho ngân hàng phải tìm mọi cách tăng lãi suất huy động để đủ sức hấp
dẫn và thu hút lượng tiền gửi vào ngân hàng.
Một nguyên nhân nữa khiến lãi suất tăng cao là từ sự khát vốn và tìm mọi
cách để bù đắp thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các
ngân hàng nhỏ. Với biểu đồ lãi suất huy động hiện nay (lãi suất ngắn hạn
hấp dẫn hơn lãi suất dài hạn) và tình hình lạm phát đang tăng cao ảnh hưởng
đến tâm lý sợ rủi ro của người dân, vốn huy động của các ngân hàng chủ
yếu là ngắn hạn, và các khoản huy động này sẽ liên tục đến hạn. Ở đầu ra,
khách hàng vay vốn lại thường chọn vay trung và dài hạn. Điều này ngoài
việc khiến cho các ngân hàng thiếu thanh khoản, còn làm tăng rủi ro thanh
khoản của ngân hàng và vô tình khiến cho các ngân hàng liên tục phải giữ
chân khách hàng, dẫn đến cuộc đua lãi suất căng thẳng.
Mặt bằng lãi suất cao phản ánh tình trạng lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô, sự
kém hiệu quả của nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
2.5.2.Tỷ giá và việc điều hành tỷ giá:
Tỷ giá hối đoái là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, tác
động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư
trực tiếp, gián tiếp, và ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.
Trên lý thuyết, giữ ổn định tỷ giá có thể giúp tăng cường lòng tin vào đồng
nội tệ, buộc chính phủ phải kiểm soát thâm hụt ngân sách và tốc độ tăng tín
dụng, thông qua đó tăng cường mức độ tin cậy vào chính sách của chính
phủ.
Ở Việt Nam, đồng USD gần như được mặc định là đồng tiền neo tỷ giá,
NHNN là cơ quan công bố tỷ giá VND/USD, căn cứ vào tỷ giá quốc tế giữa
USD và các đồng tiền ngoại tệ khác, các NHTM sẽ xác lập tỷ giá giữa các
36
ngoại tệ đó với VND. Việc áp dụng biên độ dao động tương đối chặt đối với
tỷ giá VND/USD do NHNN ấn định có nghĩa là đồng VND tiếp tục không
được tự do chuyển đổi. Trên thực tế, việc điều hành/điều chỉnh tỷ giá của
NHNN thời gian qua thường chỉ chạy theo xu thế của thị trường mà chưa
thật sự song hành kịp thời để mang tính điều tiết rõ hơn. Mỗi khi tỷ giá thị
trường tự do biến động theo chiều hướng không thuận một thời gian, NHNN
mới có biện pháp can thiệp. Trong quá trình đó, việc thiếu minh bạch thông
tin đã làm sứt mẻ niềm tin của công chúng và giới đầu tư – tài chính.
Một đặc điểm khác của cơ chế tỷ giá Việt Nam là chế độ hai tỷ giá. Mặc dù
trên thực tế NHNN áp dụng một tỷ giá chính thức cho tất cả các giao dịch
thương mại trên phạm vi cả nước nhưng tỷ giá thị trường tự do vẫn hiện
diện song song với tỷ giá chính thức. Các cá nhân bị hạn chế tiếp cận nguồn
ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng. Chính điều này là nguyên nhân khiến
cho thị trường ngoại tệ tự do vẫn tiếp tục phát triển với quy mô tương đối
Hình 2.7 Tỷ giá USD/VND thị trường tự do và tỷ giá quy định của NHNN (Nguồn: NHNN) Với thâm hụt cán cân thanh toán cùng với tâm lý găm giữ ngoại tệ, áp lực về
lớn.
cung cầu trên thị trường đã khiến tỷ giá trên thị trường tự do ngày càng rời
xa thị trường chính thức. Kỳ vọng đồng USD sẽ tăng giá do USD có khả
37
năng khan hiếm vì bù đắp nhập siêu đã khiến tạo ra một tâm lý đầu cơ USD
trên diện rộng, bất chấp sự mất giá của USD trên thế giới. Hoạt động này,
đến lượt nó, hiện thực hóa việc đồng USD tăng giá khiến USD tăng giá
nhanh và nghiêm trọng hơn mức vốn có. Tình hình trên đã khiến NHNN
phải thực hiện các biện pháp can thiệp như: ngày 11/2/2010, NHNN cũng đã
có quyết định tăng tỷ giá thêm hơn 3%, lên mức 18.544 VND và cố định từ
đó cho đến ngày 17/8. Ngày 18/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá
liên ngân hàng lên hơn 2% (từ 18.544VND/USD lên 18.932 VND/USD) và
giữ nguyên biên độ. Với sự điều chỉnh trên (biên độ ±3%), mức trần tỷ giá
USD/VND mà các Ngân hàng Thương mại có thể giao dịch trong ngày 18/8
sẽ ở mức 19.500 VND/USD (làm tròn số), thay cho mức tối đa 19.100
VND/USD trước đó.
Cuối tháng 11/2010, do tác động sự tăng vọt của giá vàng thế giới và mặt
bằng lãi suất tăng cao, tỷ giá tăng vọt lên mức 21.380 - 21.450 đồng/USD,
trên thị trường tự do tỷ giá vượt qua mức 21.500 đồng/USD. Chênh lệch tỷ
giá giữa thị trường chợ đen so với tỷ giá chính thức đến 10%. Đây là mức
chênh lệch cao nhất trong lịch sử tài chính Việt Nam từ năm 1990.
2.5.3.Nguy cơ tiền tệ
Do lạm phát tăng cao, nhưng vẫn phải đảm bảo tính thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng, NHNN đã lựa chọn nâng lãi suất, thay vì nâng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc tại tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, lạm phát
tiền tệ ở Việt Nam có nguồn gốc từ việc gia tăng chi tiêu công và đầu tư
công. Do đó, việc lãi suất vẫn đang được giữ ở mức cao sẽ không có tác
dụng kiềm chế lạm phát nếu như không kiểm soát được chính sách tài khóa
và việc chi tiêu công.
Liên quan đến tỷ giá, trong bối cảnh có lạm phát cao và liên tục, nhưng Việt
Nam vẫn theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá danh nghĩa. Điều này góp phần
làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, làm trầm trọng hơn thâm hụt
38
thương mại, đồng thời, tăng rủi ro tỷ giá. Bên cạnh đó, nhu cầu gia tăng về
USD, được củng cố thêm bằng mức thâm hụt thương mại lớn và những lo
ngại về lạm phát ngày càng gia tăng, đã tạo ra kỳ vọng VND mất giá khiến
người dân và doanh nghiệp giảm niềm tin vào việc điều hành chính sách tài
chính – tiền tệ của Chính phủ, NHNN, gây ra những bất ổn trên thị trường.
Hiện tượng USD hóa có thể sẽ là một thách thức, đặc biệt là khi các nhà
chức trách thể hiện không đủ khả năng kiểm soát lạm phát và cơ chế tỷ giá
hối đoái không được tự do hóa.
Trong bối cảnh VND đang chịu sức ép giảm giá, vai trò điều tiết của hệ
thống tài chính là vô cùng quan trọng. Xét trên khía cạnh này, hệ thống tài
chính của Việt Nam có thể không đảm đương được nhiệm vụ của mình.
2.6.Hệ thống tài chính dễ bị tổn thương:
Hệ thống tài chính của Việt Nam đã phát triển rất nhanh, từ một hệ thống sơ
khai trong đó các NHTM quốc doanh chiếm vị trí thống trị, thành một hệ
thống tài chính đa dạng hơn bao gồm cả các NHTM nhà nước, NHTMCP, và
ngân hàng nước ngoài. Đồng thời, các công cụ và thị trường tài chính cũng
trở nên phong phú hơn rất nhiều với sự xuất hiện của nhiều loại trái phiếu
(chính phủ và công ty), hai thị trường chứng khoán, bảo hiểm, thuê mua và
các công ty tài chính phi ngân hàng. Quá trình cải cách hệ thống tài chính của
Việt Nam được thực hiện rất nhanh trong khi hệ thống giám sát và điều tiết lại
không được phát triển một cách tương ứng. Điều này làm cho hệ thống tài
chính của Việt Nam trở nên rất dễ bị tổn thương, trong đó các ngân hàng hiện
là khu vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Ngân hàng là hoạt động kinh doanh có tính rủi ro cao hơn hầu hết các hoạt
động kinh doanh khác vì tài sản tài chính thường có tính thanh khoản cao và
thị trường tài chính chịu tác động của rất nhiều biến số không dự đoán được.
Vì các ngân hàng nằm ở trung tâm của một chuỗi dài các hoạt động huy động
và phân bổ vốn nối liền người tiết kiệm và nhà đầu tư nên thất bại của chúng
39
sẽ khiến bản thân ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế phải gánh chịu hậu
quả. Hành động cho vay bất cẩn của ngân hàng cũng làm cho chính sách tiền
tệ của ngân hàng trung ương trở nên kém hiệu lực.
Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể nhận thấy trên
những khía cạnh sau:
2.6.1.Ngân hàng Nhà nước có mức độ độc lập thấp:
Các bằng chứng thực nghiệm cũng như những lý thuyết kinh tế đã chỉ ra
rằng, trong nền kinh tế thị trường, tính độc lập của NHTW là yếu tố then
chốt để NHTW điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.
Ở nước ta, từ khi thành lập cho đến nay, NHNN là cơ quan của Chính phủ,
chịu sự can thiệp hành chính của Chính phủ. Thống đốc NHNN là thành
viên của Chính phủ, có hàm tương đương với Bộ trưởng, được Chính phủ
bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội. Chính vì vậy,
hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn của Chính phủ. NHNN chỉ
là cơ quan xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ trình
Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có trách
nhiệm điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt.
Tương tự, NHNN Việt Nam không được độc lập thiết lập mục tiêu hay xây
dựng chỉ tiêu hoạt động.
Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam nằm ở
cấp độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc lập thấp
nhất của NHTW đối với Chính phủ. Gần như mọi hoạt động của NHNN đều
phải được sự cho phép của Chính phủ (phát hành tiền, thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia, cho vay ngân sách trung ương, bảo lãnh cho các doanh
nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong trường hợp
đặc biệt). Có thể nhận thấy, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, chứ không phải là
40
một thiết chế đặc biệt dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn
đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an
ninh tiền tệ của một quốc gia.
Điều này phần nào làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong phản
ứng chính sách trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính - tiền
tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền. Bên cạnh đó, do là cơ quan của
Chính phủ nên có trường hợp NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không
phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn như tái cấp vốn cho
các NHTM để khoanh, xoá nợ các khoản vay của các tập đoàn nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn
chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn
định giá trị đồng tiền.
2.6.2.Hệ thống ngân hàng yếu kém:
Trong 10 năm trở lại đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có nhiều bước
phát triển nhanh chóng và đáng ghi nhận, góp phần quan trọng với sự phát
triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xét trong mối tương quan so với các nước
trong khu vực và thế giới thì hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất yếu
so với các nước cả về mức độ cạnh tranh lẫn tính lành mạnh và an toàn hệ
thống.
Tốc độ phát triển hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính của Việt Nam
là tương đối nhanh, chỉ số tín dụng/GDP và tiền gửi/GDP tăng từ 17,7% và
13,6% năm 1991 lên 115% và 130% năm 2010, qua đó cải thiện đáng kể của
độ sâu tài chính. Từ năm 2000 – 2010, số lượng ngân hàng tăng từ 89 lên
120 ngân hàng, chủ yếu là ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Tuy nhiên, quy mô vốn điều lệ của những ngân hàng có
quy mô lớn nhất toàn hệ thống như Agribank (khoảng 1 tỷ USD),
Vietcombank (trên 850 triệu USD) hay Vietinbank (xấp xỉ 800 triệu USD),
41
vẫn còn thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu
vực.
Xuất phát từ năng lực thấp, không đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, lợi
nhuận của hệ thống ngân hàng thương mại chủ yếu đến từ hoạt động tín
dụng. Vì vậy, dù nội lực thấp, hệ thống ngân hàng thương mại vẫn được
khuyến khích cho vay dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng so với GDP tăng
lên rất nhanh chóng, quy mô tín dụng cho nền kinh tế cũng vượt qua tổng
thu nhập quốc dân GDP. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng năm 2010
đã vượt mục tiêu 25% và tăng tới 27,6%, trong đó tín dụng VND tăng
25,3%, tín dụng ngoại tệ tăng 37,7%. Bên cạnh đó, tổng phương tiện thanh
toán cũng tăng 23% so với cuối năm 2009 (mục tiêu là tăng 20%) và huy
động vốn tăng 24,5%. Tiền mặt trong lưu thông tăng khoảng 15%, tỷ trọng
tiền mặt lưu thông so với tổng phương tiện thanh toán khoảng 14%.
Tín dụng tăng tất yếu sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt
Nam tăng cao, nợ xấu tính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2,5% tổng dư nợ
cho vay, nếu tính cả số nợ xấu của Vinashin thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 3,2%.
Nguyên nhân của tình trạng nợ xấu gia tăng đến từ việc các ngân hàng chạy
đua để tăng trưởng tín dụng, chạy theo lợi nhuận và tâm lý chủ quan vào sự
hỗ trợ của NHNN thông qua các nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu và
bơm thanh khoản nếu có tình trạng khó khăn xảy ra. Việc cho vay chủ yếu
dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường
hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp. Bên cạnh đó là
việc cho vay theo chỉ định của Nhà nước và tình trạng hệ thống quản trị rủi
ro hầu như không được các ngân hàng chú trọng.
Về an toàn vốn, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chỉ mới đáp ứng được
đủ yêu cầu về mức an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế Basel II
(8%). Nếu so sánh với mức bình quân 13,1% của các ngân hàng khu vực
châu Á Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) và với tỷ lệ
42
12,3% của các ngân hàng của các nước châu Á mới nổi (gồm 14 ngân hàng
Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) thì tỷ lệ của hệ thống ngân hàng
Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn rất nhiều (giữ ở mức trên 10% với các
NHTM lớn, riêng khối các NHTMNN vẫn chỉ đạt 9,6%).
Điều đáng lưu ý là những tỷ lệ trên được tính theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam (VAS) ít nghiêm ngặt hơn so với các tiêu chuẩn quốc tế (IFRS) nên
khó có thể so sánh và đánh giá chính xác. Điều này khiến hệ thống ngân
hàng Việt Nam bị đánh giá khá thấp về mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự lành
mạnh hệ thống ngân hàng.
2.6.3.Đánh giá hệ thống tài chính Việt Nam:
Tỷ lệ nợ xấu tương đối cao khiến nguy cơ rủi ro tín dụng của các ngân hàng
trở nên hiện hữu. Trước nguy cơ đó, vốn điều lệ có vai trò quan trọng trong
việc tăng cường độ an toàn và bền vững của ngân hàng. Hệ số an toàn vốn
cao sẽ bảo đảm cho ngân hàng tăng sức chống đỡ trong trường hợp hoạt
động kinh doanh ngân hàng không hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh các chỉ
số vĩ mô của Việt Nam đều đang xấu như hiện nay. Xét trên khía cạnh này,
trong bối cảnh mở cửa kinh tế - tài chính, tình trạng yếu kém năng lực về
vốn đã đặt hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vào vị thế dễ bị tổn
thương.
Rủi ro này có thể gia tăng trong bối cảnh Việt Nam dần mở cửa tài khoản
vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Trường hợp xảy ra khủng hoảng tài
chính thì khả năng can thiệp, điều tiết của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam hầu như là rất thấp. Trong khi đó, chốt chặn cuối cùng của hệ
thống tài chính Việt Nam là NHNN lại không có tính độc lập cao và thất bại
trong việc phát triển một hệ thống điều tiết, giám sát và cưỡng chế thực sự
có sức mạnh. Hoạt động điều tiết, giám sát và cưỡng chế bất cập mở ra cơ
hội cho việc tích lũy rủi ro quá mức, và vì vậy đặt toàn bộ hệ thống tài chính
trước những rủi ro to lớn do những cú sốc bất ngờ đem lại.
43
2.7.Đánh giá những nguy cơ tiềm ẩn đối với Việt Nam:
Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn về kinh tế
vĩ mô. Thậm chí, có thể nói rằng những dấu hiệu tiền khủng hoảng đã xuất
hiện ở Việt Nam. Đó là:
- Nền kinh tế USD hóa, dẫn đến nguy cơ không kiểm soát được giá trị
VND.
- Nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán: Thâm hụt cán cân vãng lai, dự trữ
ngoại hối giảm khiến việc giảm lãi suất và ổn định tỷ giá của NHNN gặp
nhiều khó khăn khả năng can thiệp của chính phủ trong bối cảnh đồng
VND sụt giảm nhanh bị giới hạn, làm gia tăng nguy cơ phá giá VND.
- Nguy cơ về nợ công: Với tỷ lệ nợ công chiếm 52% GDP, tuy nợ ngắn hạn
nước ngoài còn thấp đã làm giảm đáng kể sự dễ tổn thương của Việt Nam
trong bối cảnh xảy ra khủng hoảng tiền tệ, tuy nhiên, Việt Nam phải đối
mặt với nhiều yếu tố tiêu cực, bao gồm: phải thực hiện đúng hạn đối với
các cam kết nợ công cả ngoài nước và trong nước, mức dự trữ ngoại hối
của Việt Nam đã giảm mạnh do tình trạng nhập siêu. Chưa kể là nếu trong
trường hợp một cuộc khủng hoảng ngân hàng hoặc khủng hoảng tiền tệ nổ
ra, đặc biệt nếu có cuộc khủng hoảng đôi, thì Chính phủ sẽ phải tham gia
giải cứu hệ thống ngân hàng, khiến vay nợ Chính phủ sẽ tăng lên rất nhanh.
Trong tình huống đó, khủng hoảng nợ có thể là một nguy cơ hiện hữu.
- Nguy cơ lạm phát: trong một nền kinh tế có mức độ USD hóa cao như
Việt Nam, nguy cơ lạm phát sẽ khiến cho niềm tin vào VND giảm sút,
người dân sẽ quay lưng lại với đồng nội tệ và chuyển sang tích trữ vàng và
USD. Mặt khác, VND mất giá sẽ tác động tới việc trả nợ nước ngoài và
cán cân thanh toán, làm tăng chi phí sản xuất và giá thành, tác động tới
lạm phát dưới dạng chi phí đẩy, đối với doanh nghiệp trong nước vay nợ
bằng USD đến hạn trả nợ sẽ phải tăng thêm gánh nặng tài chính.
44
- Nguy cơ về tiền tệ: Việc vận hành chính sách tiền tệ như hiện nay trong
bối cảnh dự trữ ngoại hối đang giảm dẫn đến rủi ro tài chính vĩ mô đáng kể
nhất mà Việt Nam có thể gặp phải trong trung hạn là vấn đề tiền tệ, cụ thể
là việc mất kiểm soát giá trị VND.
- Nguy cơ trong lĩnh vực ngân hàng: với cấu trúc và năng lực tài chính, năng
lực cạnh tranh như hiện nay, hệ thống tài chính mà chủ yếu là hệ thống ngân
hàng rất dễ bị tổn thương. Sự thiếu hụt đáng kể trong việc điều hành và
giám sát ngành tài chính, làm gia tăng nguy cơ về khủng hoảng tiền tệ bắt
nguồn từ các vấn đề trong hệ thống ngân hàng.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt
Nam nếu xảy ra sẽ mang đặc thù sau:
- Khủng hoảng tài chính sẽ có dạng thức của khủng hoảng ngân hàng do
những yếu kém đặc biệt của khu vực này như năng lực vốn thấp, nợ xấu
cao…
- Khủng hoảng tiền tệ là nguy cơ hiện hữu, khi mà hầu hết các chỉ báo đều
đang nghiêng về xu hướng giảm giá VND.
- Với nền tảng kinh tế vĩ mô và điều kiện quốc tế như hiện nay, có thể nói
khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa thể xảy ra ở Việt Nam trên diện rộng.
Nếu có xảy ra thì chỉ có thể là khủng hoảng cục bộ ở một số lĩnh vực của
nền kinh tế. Lý do khủng hoảng tài chính vẫn chưa diễn ra tại Việt Nam
nằm ở 3 điểm: thứ nhất, vay nợ của Việt Nam vẫn nằm trong phạm vi
kiểm soát được, nợ ngắn hạn nước ngoài còn thấp; thứ hai, Việt Nam vẫn
chưa tự do hóa tài khoản vốn; thứ ba, chưa có một cú sốc đủ mạnh từ bên
trong hay bên ngoài nền kinh tế. Tuy nhiên, với việc vay nợ gia tăng, xu
hướng mở cửa và tự do hóa tài chính đang diễn ra mạnh mẽ thì Việt Nam
sẽ phải đối diện với nhiều “ngòi nổ” kích hoạt khủng hoảng trong tương lai
nếu như không có những biện pháp thích hợp. Những rủi ro hay bất ổn tài
45
chính này ít hay nhiều còn phụ thuộc phần lớn vào điều kiện nội tại của
nền kinh tế, đặc biệt là sức mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng.
Kết luận Chương 2
Trong chương 2, tác giả đã phân tích tình hình tài chính Việt Nam hiện nay.
Những diễn biến vừa qua trên thị trường trong và ngoài nước cho thấy Việt
Nam đang phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng, đặc biệt là nguy cơ về
tiền tệ. Chính vì thế, nếu không nhận thức đúng vấn đề và có các biện pháp
kịp thời để giải quyết thì những rủi ro tiềm ẩn nói trên sẽ có cơ hội bùng phát.
Để ngăn ngừa được những nguy cơ tiềm ẩn này, trong chương 3, tác giả trình
bày một số khuyến nghị về mặt chính sách cho Việt Nam.
46
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NGĂN NGỪA
KHỦNG HOẢNG Ở VIỆT NAM
Từ những nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế Việt Nam như đã phân tích ở
trên, để có thể dự báo và tránh được khủng hoảng tài chính, khuyến nghị Việt
Nam cần có những chính sách hợp lý.
3.1.Cải thiện nền tảng vĩ mô nền kinh tế:
Nền tảng vĩ mô kinh tế vững mạnh được điều hành bởi các chính sách đúng
đắn luôn luôn là lá chắn hữu hiệu nhất, bảo vệ toàn bộ hệ thống – tài chính
khỏi nguy cơ khủng hoảng. Qua các phân tích thực trạng nền kinh tế Việt
Nam, có thể thấy rằng rủi ro kinh tế vĩ mô của Việt Nam đang ở mức cao, thể
hiện ở mức lạm phát kỳ vọng cao, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ
ngoại tệ mỏng, thâm hụt ngân sách cao và nợ công đã đến đỉnh điểm. Nền
kinh tế USD hóa, lại có lãi suất VND, kỳ vọng mất giá VND (tỷ giá VND so
với USD) cao và nếu ba yếu tố này không đảm bảo nguyên tắc cân bằng lãi
suất thì rất dễ tạo ra hiệu ứng khuyến khích đầu cơ tài chính vào vàng, chứng
khoán, ngoại tệ, bất động sản, rất nguy hiểm cho sự phát triển ổn định, bền
vững. Trong khi đó, ổn định hệ thống tài chính Việt Nam chưa tốt, không có
sức chống đỡ nếu xảy ra khủng hoảng.
Trong phần này trình bày một số khuyến nghị chính sách có tính định hướng
nhằm giảm lạm phát và tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô. Mục tiêu lớn
nhất hiện nay là thực hiện ngay các biện pháp bình ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt
là giảm lạm phát (thông qua giảm tốc độ tăng cung tiền và tín dụng), giảm
thâm hụt ngân sách, giảm thâm hụt cán cân thương mại, đảm bảo lãi suất thực
47
dương, thắt chặt chi tiêu của nhà nước (thông qua điều chỉnh đầu tư công).
Việc thực hiện những chính sách điều chỉnh vĩ mô được đề xuất dưới đây sẽ
không dễ dàng, nhất là khi chúng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP.
Thế nhưng, trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế buộc phải hy sinh một phần
tăng trưởng ngắn hạn để đổi lấy sự ổn định và bền vững dài hạn. Sự thành
công của chính sách bình ổn cũng sẽ giúp tăng cường niềm tin của các nhà đầu
tư vào năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ, nhờ đó duy trì được dòng vốn
đầu tư ổn định một cách lâu dài và giảm thiểu rủi ro niềm tin vào VND.
Những điều chỉnh vĩ mô được liệt kê có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
cách khác, không thể chỉ điều chỉnh một chính sách trong khi giữ nguyên các
chính sách còn lại. Chẳng hạn như, mặc dù lạm phát và nhập siêu ở Việt Nam
có nguyên nhân tiền tệ (do cung tiền và tín dụng tăng quá nhanh) nhưng cũng
phải thấy rằng, đến lượt mình, tăng trưởng tín dụng lại phụ thuộc vào chính
sách đầu tư công - vốn có quan hệ mật thiết với thâm hụt ngân sách. Như vậy,
để thực hiện được các biện pháp điều chỉnh vĩ mô thì các cơ quan hoạch định
chính sách của Việt Nam cần phải phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, và
sự nhịp nhàng và đồng bộ này chỉ có thể có được nếu như chúng được điều
phối bởi một cơ quan hoạch định chính sách cao cấp duy nhất.
3.1.1.Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và độc lập:
Chính sách tiền tệ phải thật sự là chính sách điều hành lưu thông tiền tệ
trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ của NHTW tác động lan tỏa tới
hệ thống các tổ chức tín dụng và các kênh luân chuyển vốn trên thị trường
tài chính bằng các công cụ của chính sách tiền tệ.
3.1.1.1.Nâng cao tính độc lập cho NHNN
Thực tế cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can
thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong
việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ và
48
hệ thống tài chính thời gian qua. Các bằng chứng thực nghiệm cũng đã cho
thấy rằng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ có sự can thiệp chính
trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn.
Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện
tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả hoạt động và là nền tảng
quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là NHTW và sau đó là tiến
tới một NHTW hiện đại.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, tác giả đưa ra một số đề xuất chính
sách chính nhằm tạo điều kiện và cơ sở để NHNN có thể độc lập hơn, qua
đó kỳ vọng làm cho chính sách tiền tệ trở nên có hiệu lực, hiệu quả hơn
đối với các mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách và ổn
định hệ thống tài chính.
Trong ngắn hạn, NHNN Việt Nam vẫn tiếp tục là một cơ quan ngang bộ,
theo luật NHNN 2010, vì vậy, cần áp dụng cách thức gián tiếp để tăng tính
độc lập của NHTW, đó là xây dựng quy chế cho phép NHNN được lựa
chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu, phù hợp với
điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với các
chính sách khác của Chính phủ. Bên cạnh đó, NHNN cần được trao quyền
lựa chọn mục tiêu này mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ Chính
phủ hay các cơ quan liên quan khác. Điều này sẽ đảm bảo cho việc thực thi
chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát trở nên hiệu quả hơn. Theo đó,
mục tiêu ổn định giá trị VND, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng của
NHNN sẽ là ưu tiên hàng đầu của NHNN, tránh được tình trạng NHNN
phải thực hiện những mục tiêu thuộc về quản lý nhà nước như góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vốn làm hạn chế năng lực và tính chủ
động của một NHTW thật sự.
Để tăng thêm tính độc lập cho NHNN, Thống đốc phải được trao quyền
quyết định trong việc thực thi các chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm
49
về các quyết định đó chứ không nên thông qua Chính phủ. Quyền được
trao cho Thống đốc cũng cần bao gồm việc được phép từ chối những
nhiệm vụ như tạm ứng chi ngân sách vượt quá mục tiêu thâm hụt được phê
duyệt hàng năm… Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ
động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của chính sách tiền tệ -
một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách.
Một biện pháp nữa để nâng cao tính độc lập của NHNN, đó là cơ cấu lại
thành phần của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, theo đó, Hội
đồng sẽ bao gồm các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực tài chính – tiền
tệ, có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTW của các nước, am hiểu
về điều kiện kinh tế Việt Nam. Cơ cấu này sẽ đảm bảo cho việc hoạt động
độc lập và hiệu quả của NHNN Việt Nam.
Để thực hiện tốt những điều trên và điều hành tốt chính sách tiền tệ,
NHNN phải có cơ chế thu hút được đội ngũ lớn những chuyên gia đầu
ngành về tài chính, ngân hàng và cần phải cạnh tranh được với các ngân
hàng thương mại trong việc thu hút chuyên gia về môi trường làm việc và
chế độ lương thưởng. Do đó, cần trao quyền tự chủ thu – chi, đặc biệt là
trong quản lý biên chế các chi nhánh và vụ, cục cho thống đốc NHNN.
Đi đôi với việc nâng cao vị thế và tính độc lập, Thống đốc NHNN cần phải
được giao trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch về các mục tiêu và
quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao
phó, định kỳ và theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội.
Phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy lạm phát cao đi
kèm với bất ổn vĩ mô đã làm bộc lộ nhiều hạn chế trong việc xây dựng và
thực thi các chính sách tiền tệ mà một trong những nguyên nhân quan
trọng là do NHNN thiếu tính độc lập trong việc hoạch địch và thực thi
chính sách. Nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý,
về công cụ và mục tiêu chính sách cũng như về tổ chức, nhân sự và tài
50
chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo cơ sở cho sự can thiệp có hiệu
quả hơn của NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát,
giảm thiểu nguy cơ rủi ro tiền tệ đang tiềm ẩn trong nền kinh tế Việt Nam.
3.1.1.2.Cơ chế điều hành lãi suất:
Hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn, đó là
áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ
mô. Để hạn chế lạm phát, chính sách tiền tệ cần phải tiếp tục thắt chặt, tuy
nhiên, cần đảm bảo việc thắt chặt này không gây ra những cú sốc thanh
khoản cho thị trường, giữ vững tính ổn định cho tăng trưởng kinh tế.
Để thực hiện được điều này, cần xây dựng được một cơ chế lãi suất có
hiệu quả, đủ sức thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để cung cấp
thanh khoản cho nền kinh tế, tránh trường hợp cung tiền trong nền kinh tế
phần lớn xuất phát từ việc NHNN bơm thanh khoản cho hệ thống ngân
hàng thương mại thông qua kênh thị trường mở và lãi suất tái cấp
vốn/chiết khấu như hiện nay. Điều này sẽ giúp cho lượng tiền trong lưu
thông được rút về, giảm nguy cơ lạm phát tiền tệ, đồng thời chống được
khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, việc
nguồn vốn từ dân chúng đổ vào hệ thống ngân hàng cũng thể hiện niềm tin
đối với chính sách tài chính –tiền tệ của chính phủ.
Do vậy, tự do hóa lãi suất để bảo đảm lãi suất thực dương là mục tiêu cần
hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo qui
luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng nền kinh tế
đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp
dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng
những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản linh hoạt, có hiệu
lực, phù hợp, định hướng được lãi suất thị trường. Khi xây dựng được
mức lãi suất cơ bản này, NHNN sẽ có khả năng kiểm soát tốt lãi suất
51
trong hệ thống ngân hàng, từ đó, dần dần điều chỉnh lãi suất huy động
và cho vay trong nền kinh tế. Mức lãi suất cơ bản này cũng giúp cho hệ
thống ngân hàng và doanh nghiệp biết được định hướng của NHNN đối
với lãi suất tiền đồng trong thời gian sắp tới để có kế hoạch kinh doanh
phù hợp. Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức
lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho
vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều
tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên
trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để
đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
- Với lãi suất huy động ở đầu vào, trong thời điểm lạm phát đang có
nguy cơ bùng phát như hiện nay và thực lực các NHTM còn yếu và
không đồng đều, NHNN cần giữ việc quy định trần lãi suất huy động
để tránh việc chạy đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng có thể làm
kỳ vọng lạm phát gia tăng, cũng như hạn chế tình trạng các ngân hàng
tìm mọi cách để huy động vốn cao và đầu tư vào các dự án mạo hiểm,
gây rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, việc quy định trần lãi suất huy động nên
áp dụng theo một cơ chế linh hoạt. Theo đó, NHNN không nên quy
định trần lãi suất huy động bằng một con số cố định như hiện nay mà
nên thực hiện khống chế lãi suất huy động không được phép vượt qua
một giới hạn hay một tỷ lệ nào đó so với lãi suất tái cấp vốn của
NHTW, hoặc so với lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng,
linh hoạt theo thời gian, theo nguyên tắc làm chỗ dựa lan tỏa, đảm bảo
cho lãi suất huy động ngoài thị trường của các NHTM luôn luôn thực
dương. Đối với những tổ chức tín dụng thiếu thanh khoản khi thực thi
quy chế lãi suất huy động, NHNN có thể bơm thanh khoản ngắn hạn
ngay với một tỷ trọng đủ để vượt qua khó khăn và với lãi suất tương
đương với trần lãi suất huy động tại thời điểm đó mà NHNN đã công
bố đang có hiệu lực. Điều này sẽ giúp cho việc công bố trần lãi suất
52
huy động của NHNN trở thành có giá trị, khắc phục tình trạng trần lãi
suất huy động được công bố cho thị trường “tham khảo” để tự thực thi
như hiện tại.
- Đối với thị trường tín dụng ở đầu ra, NHNN cần cho phép các tổ chức
tín dụng tiếp tục dùng cơ chế cho vay thỏa thuận lãi suất. Trong bối
cảnh lạm phát, cơ chế cho vay này có thể khiến cho lãi suất cho vay
tăng cao, tuy nhiên, sẽ góp phần tạo ra một đường cong lãi suất thích
hợp với bối cảnh thực tế của thị trường, góp phần tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp vay vốn, đồng thời ngân hàng cũng có lãi theo nguyên tắc
trung gian và cùng chia sẻ lợi ích. Ngoài ra, cơ chế lãi suất thỏa thuận
còn giúp nâng cao tính cạnh tranh giữa các ngân hàng, và đây cũng
chính là cơ chế để thị trường tự phân phối lại lợi thế của những NHTM
có năng lực huy động vốn tốt.
- Liên quan đến cơ chế này, NHNN cũng cần ban hành chính sách buộc
các NHTM phải trích một tỷ lệ trên vốn huy động đủ an toàn để đầu tư
vào chứng khoán nợ dài hạn của Chính Phủ, hoặc chứng khoán nợ dài
hạn do Chính phủ bảo lãnh và lưu ký tại NHNN làm công cụ tham gia
thị trường mở do NHNN tổ chức. Khi cần khắc phục cung – cầu thanh
khoản thì NHTM sẽ phải sử dụng nguồn lực của mình, tránh trường
hợp NHNN phải phát hành tín phiếu của chính mình để tự biến thành
con nợ của các NHTM khi phải hút tiền lưu thông về khi chống lạm
phát (như năm 2008) hoặc phải thu mua tín phiếu của mình về với giá
lỗ để bơm tiền ra cứu suy giảm kinh tế (như năm 2009).
Như vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt đi đôi với cơ chế điều hành lãi suất
bảo đảm lãi suất thực dương để giảm cung tiền như trên sẽ có tác dụng đối
với lạm phát. Tuy lãi suất sẽ tăng, gây khó khăn cho sản xuất, làm chậm
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, đó lại là cơ hội để nguồn vốn tín
dụng chảy vào những dự án sản xuất có hiệu quả, góp phần làm cho hệ
thống ngân hàng trở nên lành mạnh hơn. Hơn nữa, trong bối cảnh các rủi
53
ro vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam đang cao như hiện nay, đánh đổi tăng
trưởng kinh tế để giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng, kiềm chế lạm phát, ổn
định vĩ mô là điều cần được ưu tiên.
3.1.1.3.Lựa chọn chính sách tỷ giá phù hợp:
Để giảm thiểu được rủi ro mất kiểm soát VND, giữ vững ổn định vĩ mô,
nhất là kiểm soát nhập siêu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo các
cân đối cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán tổng thể,
cân đối cân tiết kiệm đầu tư, cân đối tích lũy tiêu dùng và quản lý nợ nước
ngoài thì chính sách tỷ giá hối đoái giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Chính
sách tỷ giá càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong bối cảnh sự phục hồi kinh
tế toàn cầu còn rất mong manh và tiềm ẩn không ít nguy cơ tạo ra những
cơn chấn động trên thị trường tài chính tiền tệ.
Dự kiến với các sức ép mất cân đối kinh tế giữa trong và ngoài nước như
hiện nay, xu hướng giảm giá VND là tất yếu song mức độ và thời điểm
điều chỉnh giảm cần đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối và chính
sách thương mại, đảm bảo không tạo ra các cú sốc đối với ổn định kinh tế
vĩ mô, đồng thời, không quá kỳ vọng vào việc giải quyết ngay những mất
cân đối vĩ mô đã tích tụ trong khoảng 5 năm gần đây, nhất là chỉ thông qua
công cụ đơn độc như điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Những phân tích trên đã cho thấy chính sách neo tỷ giá, linh hoạt đã không
giúp Việt Nam kiềm chế lạm phát và cũng không giúp cho Việt Nam kiềm
chế nhập siêu, VND vẫn chịu sức ép mất giá. Việc duy trì kiểm soát tỷ giá
trong thời gian quá dài và không linh hoạt đã làm giảm sút lòng tin của
người dân vào VND, USD bị găm giữ trong dân chúng và các doanh
nghiệp, làm trầm trọng thêm hiện tượng USD hóa nền kinh tế, tăng hoạt
động đầu cơ, đẩy tỷ giá thị trường tự do vượt xa tỷ giá chính thức và do đó
gây thêm căng thẳng trên thị trường ngoại hối do khan hiếm “ảo” USD.
54
Trong khuôn khổ của bài viết này, để giảm thiểu rủi ro tỷ giá, tác giả cho
rằng Việt Nam nên xây dựng kế hoạch để chuyển sang cơ chế tỷ giá có thả
nổi có quản lý, tương tự như các nước trong khu vực. NHNN không tuyên
bố trước tỷ giá trung tâm, tỷ giá thương mại hàng ngày về cơ bản được xác
lập hoàn toàn bởi các giao dịch theo cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tuy
nhiên, NHNN có thể dùng các biện pháp can thiệp như mua bán ngoại tệ
trên thị trường liên ngân hàng và/hoặc các biện pháp kiểm soát nguồn vốn
ra vào Việt Nam để làm mềm dao động của tỷ giá.
Việt Nam hiện nay đã thỏa mãn được nhiều điều kiện khiến cho việc áp
dụng cơ chế quản lý tỷ giá thả nổi có quản lý sẽ mang lại nhiều lợi ích so
với cơ chế tỷ giá cố định, đó là:
- Thứ nhất, giá cả của hầu hết các mặt hàng của Việt Nam hiện nay đã
được quyết định theo cơ chế thị trường, việc thả nổi tỷ giá sẽ giúp biến
động của giá cả các mặt hàng trong nước cân bằng với sự biến động
của giá cả các mặt hàng trên thế giới, do đó giúp nền kinh tế phân bổ
tốt hơn.
- Thứ hai, độ mở của nền kinh tế Việt Nam lớn nhưng không bị lệ thuộc
mạnh vào một đối tác cụ thể nào, cho nên việc thả nổi tỷ giá sẽ giúp
Việt Nam ngăn chặn tốt các cú sốc từ thị trường hàng hóa quốc tế.
- Thứ ba, áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nối có kiểm soát sẽ giúp
NHNN không phải giải quyết bài toán về sự đánh đổi của chính sách.
Đó là do khi quyết định giữ tỷ giá hay phá giá, NHNN đều phải cân
nhắc giữa cái lợi và cái hại của quyết định này trong từng hoàn cảnh cụ
thể. Ví dụ như một quyết định phá giá sẽ có lợi cho xuất khẩu, đặc biệt
là những nhóm hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu thấp. Nhưng
phá giá lại làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động nhập khẩu phục vụ phát
triển trong nước và các nhóm hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu
cao. Đồng thời phá giá tạo ra kỳ vọng lạm phát và có thể trở thành lạm
55
phát thực sự trong kỳ sau nếu các chính sách vĩ mô không nhất quán
trong việc kiểm soát lạm phát. Đây vốn là một khó khăn mà NHNN rất
khó giải quyết do áp lực của các nhóm lợi ích trong nền kinh tế đối với
các chính sách của chính phủ ngày càng lớn.
- Thứ tư, dễ thấy rằng chế độ tỷ giá cố định cần một dự trữ ngoại hối cao
hơn so với chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý để NHNN có
thể giữ tỷ giá trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ có biến động.
- Thứ năm, dựa trên lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, trong một thị trường
vốn tương đối tự do như Việt Nam thì một chế độ tỷ giá cố định sẽ làm
cản trở chính sách tiền tệ độc lập, còn việc áp dụng một chế độ tỷ giá
thả nổi sẽ làm cho chính sách tiền tệ độc lập hơn. Tuy nhiên, trong thời
điểm hiện tại, thả nổi hoàn toàn không phải là một lựa chọn tốt cho Việt
Nam vì hệ thống tài chính chưa hoàn chỉnh. Những biến động quá
nhanh và quá mức của tỷ giá, đặc biệt là việc “nhập khẩu” lạm phát và
các biến động tiêu cực của thị trường thế giới có thể thông qua mối
quan hệ với tỷ giá làm ảnh hưởng đến sự ổn định của cán cân thanh
toán, ổn định tài chính cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Trong
trường hợp này, cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý là giải pháp tốt nhất.
Để chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý thực sự phát huy tác dụng, làm
tăng uy tín của VND thì Việt Nam cần phải chuẩn bị thêm một số điều
kiện khác.
- Khi từ bỏ cơ chế neo tỷ giá NHNN phải tìm đến các cơ sở khác để thực
thi chính sách tiền tệ, ví dụ như chính sách kiểm soát cung tiền và kiểm
soát lạm phát theo định hướng. Việc này đòi hỏi NHNN phải độc lập,
tức là một ngân hàng hoạt động trên nguyên tắc công khai, không bị tác
động bởi các chính sách tài khóa và các tổ chức kinh tế, tài chính trên
thị trường. Cụ thể, NHNN cần phải được độc lập về mặt luật pháp, độc
lập về mục tiêu để toàn quyền quyết định chọn mục tiêu của mình giữa
56
kiểm soát lạm phát, kiểm soát cung tiền hay kiểm soát tỷ giá, độc lập về
sử dụng các công cụ tiền tệ và độc lập về quản lý.
- Để cơ chế tỷ giá thả nổi có thể vận hành một cách hiệu quả thì thị
trường ngoại hối phải được hiện đại hóa và có hiệu quả cao. Ngoại tệ
cũng là một loại tài sản, một khi được cho phép, tỷ giá thả nổi ngoại tệ
sẽ được các chủ thể kinh tế tham gia thị trường mua bán trao đổi tương
tự nhu các sản phẩm tài chính khác như chứng khoán và vàng. Một thị
trường phát triển sẽ tạo cơ hội cho việc giao dịch ngoại hối và sự xuất
hiện của các công cụ phái sinh và các định chế tài chính trung gian liên
quan đến tỷ giá sẽ giúp chủ thể kinh tế hạn chế rủi ro.
Trong quá trình chuẩn bị để chuyển hẳn sang cơ chế tỷ giá thả nổi có quản
lý, NHNN cũng cần có những biện pháp nhằm giảm bớt hạn chế của cơ
chế điều hành tỷ giá hiện tại, chẳng hạn như việc điều chỉnh tỷ giá cần linh
hoạt hơn, làm giảm độ chênh lệch giữa lãi suất VND và lãi suất USD,
kiểm soát chặt hơn việc sử dụng USD của người dân. Cần chú ý là công
tác điều hành tỷ giá chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, bởi vậy nếu không có
các phản ứng linh hoạt theo thị trường thì việc can thiệp vào tỷ giá chỉ làm
nhiễu và trầm trọng thêm các vấn đề của nền kinh tế. Trên thị trường ngoại
hối, niềm tin và tâm lý rất quan trọng cho việc ổn định tỷ giá, vì thế,
NHNN nên công khai thường kỳ chính sách điều chỉnh tỷ giá của mình
cho công chúng và những nhà đầu tư, tăng cường hơn nữa tính minh bạch
trong điều hành tỷ giá. Đồng thời điều chỉnh tỷ giá phải đi kèm với việc
kiểm soát lạm phát, nếu không sẽ rơi và vòng xoáy điều chỉnh tỷ giá – lạm
phát – điều chỉnh tỷ giá, sẽ có hại cho nền kinh tế và là một trong những
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khủng hoảng.
3.1.2.Chính sách tài khóa:
Đối diện với nguy cơ lạm phát bùng nổ như hiện nay, trong một nền kinh tế
có chế độ tỷ giá gần như cố định và không gian chính sách tiền tệ hạn chế
57
như Việt Nam, việc điều hành chính sách tài khóa lại càng có ý nghĩa quan
trọng trong chủ động kiểm soát lạm phát, cũng như nỗ lực ổn định vĩ mô cả
trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Thực tế cho thấy, nếu như ngân sách được sử
dụng hiệu quả thì chính sách tài khóa tỏ ra hiệu quả hơn chính sách tiền tệ
trong việc giúp tăng trưởng GDP, đồng thời không gây sức ép quá lớn tới
mặt bằng giá.
Như vậy, để giảm thiểu nguy cơ lạm phát, mức độ nghiêm trọng của thâm
hụt ngân sách hàng năm, nợ công đang gia tăng và vấn đề niềm tin vào giá
trị VND hiện đang trong tình thế rất nguy hiểm như hiện nay, củng cố tài
chính là việc bắt buộc phải làm. Có thể nói, trọng tâm của chính sách tài
khóa hiện nay là thắt chặt hợp lý, tăng hiệu quả của chi ngân sách, nhất là
chi cho đầu tư công nhằm giảm sức ép đối với CPI và giảm rủi ro khi có
những biến động từ bên ngoài. Cụ thể, kỷ luật tài khóa cần được khôi phục,
mà biểu hiện là thâm hụt ngân sách tính theo GDP phải giảm dần trong
những năm kế tiếp. Để làm được điều này, cần giảm sức ép lên chi tiêu công
và đồng thời cải thiện nguồn thu ngân sách.
- Để cải thiện nguồn thu cho ngân sách, cần giảm dần sự phụ thuộc thu
ngân sách vào khu vực DNNN, tăng cường nguồn thu từ khối doanh
nghiệp nói chung, hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân.
- Để giảm sức ép lên chi ngân sách, Nhà nước cần rút khỏi hoạt động kinh
tế một cách vững chắc, thông qua việc bán tài sản trong các doanh
nghiệp (quá trình cổ phần hóa). Mục tiêu của việc bán tài sản không phải
là để tăng thu ngân sách, mà thực chất là để giảm sức ép lên chi ngân
sách trong tương lai, hoặc những biến cố mang tính rủi ro liên quan đến
tài chính. Trên cơ sở thu hẹp DNNN, chất lượng đầu tư ở mức độ xã hội
có thể sẽ được nâng lên, và hiện tượng đầu tư quá mức có thể được giảm
trừ, dẫn đến cải thiện mất cân đối tiết kiệm – đầu tư, nhờ đó giảm thâm
hụt cán cân vãng lai.
58
- Bên cạnh đó, cần xây dựng chiến lược giảm dần nguồn ngân sách chi cho
đầu tư công bằng cách chuyển vai trò đầu tư sang cho khu vực tư nhân.
Với khả năng sử dụng đồng vốn đầu tư mang lại hiệu quả cao, có tiềm
lực tài chính, công nghệ… của khu vực tư nhân, Nhà nước cần có biện
pháp ưu đãi về thuế, tạo mặt bằng sạch, đơn giản hóa thủ tục đầu tư… để
thu hút khu vực này tham gia đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh
tế như: đường xá, cầu, cảng… Đây là giải pháp căn cơ để giảm gánh
nặng tăng ngân sách đầu tư của Nhà nước, từ đó hãm dần "chiếc van" tài
khoá, giúp việc kiểm soát lạm phát chủ động, hiệu quả hơn.
- Việt Nam cần có kế hoạch đầu tư chung cho toàn quốc để dựa vào đó sự
điều phối của các nhà tài trợ sẽ tốt hơn. Hiện nay mỗi dự án chúng ta lập
ra một ban quản lý dự án, khi xong dự án thì ban quản lý đó không còn.
Đến dự án khác thì lập ban quản lý khác, gây nên sự lãng phí về nhân lực
rất lớn. Việc thực hiện dự án nếu chuẩn bị tốt và có điều phối tổng thể thì
nó sẽ không bị chậm như trong quá khứ.
- Nâng cao hiệu quả của chi ngân sách, trong đó có hiệu quả của đầu tư
công, để cung tiền được hấp thụ và sử dụng có hiệu quả, góp phần giảm
sức ép đối với chỉ số giá tiêu dùng. Đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư
lớn đang triển khai. Cần xem xét kỹ cơ cấu vốn đối với các dự án quy mô
lớn đang chuẩn bị triển khai. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án
đầu tư lớn, để sớm đưa vào sử dụng, góp phần cho tăng trưởng kinh tế.
Hạn chế khởi công các dự án lớn, để tránh rủi ro của việc không thu xếp
được nguồn vốn, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính quốc tế vẫn
còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và bất trắc như hiện nay, thay vào đó tập trung
vốn cho hoàn thành các dự án có thể đưa vào sử dụng trong năm 2010 và
2011.
- Triển khai các giải pháp cấp bách, cần tái cấu trúc nền kinh tế, mà bản
chất là tạo ra hành lang pháp lý để đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực
59
đầu tư hiệu quả. Muốn vậy, cần tạo bước đột phá về cổ phần hóa DNNN
và tạo ra môi trường kinh doanh tiết kiệm chi phí hơn cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, chính sách quản lý nợ, cả nợ công và nợ nước ngoài, nên theo
hướng không làm tăng quy mô nợ, đồng thời quản lý nợ trên cơ sở đảm bảo
hiệu quả cả vay và sử dụng các khoản nợ. Đặc biệt chú trọng quản lý rủi ro
về vay nợ, vừa tránh tình trạng không phát hành được các công cụ nợ, vừa
không sử dụng được nguồn thu từ các công cụ nợ đã phát hành như trong
mấy năm gần đây.
3.1.3. Xây dựng một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấp
Hiện nay, thẩm quyền ra quyết định chính sách quá phân tán, và điều này
một mặt cản trở sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan hoạch định chính
sách, mặt khác gây khó khăn cho các nhà lãnh đạo cao nhất khi họ phải phản
ứng một cách quyết đoán nếu khủng hoảng xảy ra. Để có thể duy trì sự nhất
quán và ổn định trong hệ thống chính sách vĩ mô, Việt Nam cần tập trung
thẩm quyền hoạch định chính sách trong tay một cơ quan duy nhất. Cho dù
cơ quan này sẽ được thành lập mới hay hình thành từ một cơ quan có sẵn từ
trước thì nó cũng phải thấu hiểu nền kinh tế nội địa và quốc tế, đồng thời có
đủ thẩm quyền để biến hiểu biết này thành những chính sách cụ thể. Để làm
được điều này, cơ quan hoạch định chính sách cao cấp này phải có thẩm
quyền cao hơn các bộ ban ngành, chính quyền địa phương, và tất nhiên là cả
các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong trường hợp xảy ra khủng hoảng, cơ quan này cũng cần được trao
quyền đình chỉ hay cắt giảm những dự án đầu tư công chưa thực sự cần thiết
hay lãng phí. Cần nhấn mạnh rằng việc xây dựng năng lực phân tích và
hoạch định chính sách cần thiết để cải thiện tình hình cho nền kinh tế vĩ mô
của Việt Nam sẽ không thể thực hiện được nếu chính phủ tiếp tục sử dụng hệ
chế độ tuyển dụng và đãi ngộ nhân sự hiện tại. Để có thể thu hút và giữ chân
được những người thực sự giỏi, cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao
60
cấp phải có thể trả lương tương đương với khu vực tư nhân. Quan trọng
không kém, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, và cất nhắc trong cơ quan này phải
tuyệt đối dựa vào năng lực.
3.2.Bảo vệ hệ thống tài chính nội địa khỏi nguy cơ lây nhiễm từ bên
ngoài:
Nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay đã mở hơn rất
nhiều so với trước và vì vậy chịu ảnh hưởng của những biến động trong nền
kinh tế thế giới. Tuy nhiên, với nền tảng tài chính chưa tốt, cộng với một hệ
thống tài chính còn non kém và năng lực thấp, trước mắt, Việt Nam không
nên thực hiện tự do hóa tài chính và cần áp dụng các biện pháp kiểm soát
vốn để tự bảo vệ trước những nguy cơ từ bên ngoài.
3.3.Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính:
Trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế và nền tảng kinh tế vĩ
mô còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, bên cạnh việc cải thiện nền tảng vĩ mô, khuyến
nghị Việt Nam cần phải có hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả để giúp cho các
nhà làm chính sách có thông tin hữu ích để làm cơ sở cho những phản ứng
chính sách kịp thời.
Theo kinh nghiệm các nước, để xây dựng hệ thống các chỉ tiêu cảnh báo
sớm, thường trải qua các bước tiến hành sau đây:
- Dựa trên phân tích hình mẫu tăng trưởng của nền kinh tế trong khoảng
thời gian dài, thường ít nhất hơn 10 năm để hình thành các giả thiết có
liên quan đến các nhân tố có tác động đến sự tăng/giảm của nền kinh tế
- Nghiên cứu bài học tốt nhất của quốc tế về các chỉ báo cảnh báo sớm để
áp dụng, để thiết kế hệ thống tương tự cho mình.
- Lựa chọn các biến số liên quan và các phương pháp/mô hình thích hợp.
- Thực nghiệm mô hình để chọn lựa mô hình tốt nhất. Thông thường mô
hình tốt nhất phải thoả mãn một số tiêu chuẩn:
61
+ Mức độ đơn giản: Mô hình đơn giản là để dễ cập nhật, dễ hiểu và dễ sử
dụng (đối với người không phải là chuyên gia: tức là những người có
kiến thức cơ bản về kinh tế, nhưng không phải chuyên sâu về kinh tế
lượng và thống kê);
+ Tần xuất của số liệu: các biến sử dụng trong mô hình phải là các chuỗi
thời gian hàng tháng, các chỉ tiêu tính trên cơ sở quý hoặc năm không
được sử dụng để dự báo ngắn hạn;
+ Thông tin định tính: dưới hình thức cơ bản, mô hình không kỳ vọng
cung cấp các dự báo số lượng chính xác cao mà thay vào đó là các biến
định tính, trong giai đoạn đầu có thể là các biến nhị phân 0,1 để phát đi
tín hiệu cảnh báo nếu suy thoái xảy ra;
+ Độ dài dự báo (tầm dự báo);
+ Số lượng các biến;
+ Số liệu thời gian thực: tất cả các biến số sử dụng trong mô hình phải là
các số liệu thực, tức là có thể thu được tại thời điểm áp dụng mô hình.
Khi xây dựng mô hình cảnh báo sớm, có một số đặc trưng của nền kinh tế
cần lưu ý:
- Sự thay đổi nhanh chóng của cơ cấu và thể chế;
- Sự biến động cao;
- Tính dễ tổn thương.
Thách thức chính trong việc dự báo là việc lựa chọn đúng chỉ tiêu chỉ đạo
(leading indicators- LI), tức là những biến có lực dự báo mạnh liên quan đến
sự dịch chuyển chu kỳ kinh tế. Một vấn đề thường gặp là sự thay đổi mối
quan hệ giữa các chỉ tiêu với nhau theo thời gian.
Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, việc xây dựng một mô hình cảnh báo
sớm có thể gồm các bước sau:
62
- Một là phải tiến hành nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu cảnh
báo.
- Hai là phân tích kỹ chu kỳ kinh tế/tăng trưởng của Việt Nam.
- Ba là thường xuyên tiến hành các cuộc điều tra đánh giá lòng tin người
tiêu dùng cùng với cuộc điều tra về nhận thức và sự kỳ vọng của các
doanh nghiệp đối với các điều kiện của môi trường kinh doanh.
- Bốn là thành lập nhóm nghiên cứu nhằm xây dựng, thử nghiệm mô hình
cảnh báo sớm khủng hoảng dựa trên kinh nghiệm các nước.
Mô hình đầu tiên có thể áp dụng cho Việt Nam là các mô hình theo cách tiếp
cận dấu hiệu (signal approach), liên quan đến việc quan sát những thay đổi
của một số chỉ số vào lúc chúng phát tín hiệu – khi chúng vượt qua các
ngưỡng giá trị nhất định. Cách tiếp cận dấu hiệu được phát triển bởi
Kaminsk, Lizondo và Reinhart (1998) bao gồm một mô hình phi tham số,
trong đó một tập hợp các biến số kinh tế có tần số xuất hiện lớn trong một
giai đoạn cụ thể được so sánh với một chỉ số khủng hoảng, vì vậy, khi một
trong các biến này thay đổi lệch so với mức bình thường vượt ra khỏi một
ngưỡng giá trị cụ thể, nó phát đi các tín hiệu nhị phân về khả năng xảy ra
một cuộc khủng hoảng. Hệ thống các chỉ số được Kaminsk và các đồng sự
xây dựng chủ yếu bao gồm:
- Sản lượng thực của nền kinh tế
- Kim ngạch xuất khẩu
- Mức độ chênh lệch giữa tỷ giá thực so với đường xu thế
- Giá cổ phiếu
- Tốc độ tăng chỉ số CPI
- Tốc độ tăng cung tiền, tỷ số cung tiền trên tổng dự trữ ngoại tệ
Mô hình thứ hai có thể áp dụng cho Việt Nam là mô hình mũ (logit mode)
hoặc mô hình dự báo xác suất xảy ra khủng hoảng theo phân phối tích lũy
chuẩn (probit model). Ý tưởng của mô hình này là tính toán mức độ ảnh
63
hưởng của các biến số kinh tế vĩ mô (được đại diện bằng một ma trận X
đóng vai trò biến giải thích trong mô hình) lên xác suất xảy ra khủng hoảng,
để dự báo khủng hoảng. Mô hình này còn được gọi là mô hình tham số và
được phát triển tiên phong bởi Frankel và Rose (1996). Cách tiếp cận này
định nghĩa một biến số khủng hoảng mang giá trị 1 hoặc 0 dựa trên cơ sở
khủng hoảng tiền tệ có diễn ra hay không trong một khoảng thời gian cụ thể.
Trên thực tế, vào cuối năm 2007, nhiệm vụ cảnh báo sớm khủng hoảng đã
được giao cho trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, thuộc
bộ Kế hoạch và đầu tư. Tuy nhiên, cho đến nay, trung tâm này cũng mới chỉ
có những hoạt động dự báo kinh tế mang tính thử nghiệm bởi khó tiếp cận
với các nguồn thông tin chính thức – vốn rất cần cho công tác dự báo kinh
tế.
Sự bất cập trong việc thu thập thông tin chính là rào cản lớn nhất để xây
dựng một hệ thống cảnh báo sớm. Các thông tin của Việt Nam thường bị
phân tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hóa thống nhất giữa các
nguồn và các đơn vị quản lý, chưa kể là các thông tin lại không được công
khai. Đặc biệt, hệ thống các thông tin và dữ liệu chuyên ngành phục vụ trực
tiếp công tác dự báo mới bước đầu được hình thành, nhiều chỉ số còn thiếu
hoặc chưa kết nối được với hệ thống các chỉ số thống kê chính thức quốc gia
hàng năm.
Do sự bất cập về mặt số liệu, trước mắt Việt Nam có thể sử dụng mô hình
phi tham số để dự báo trước nguy cơ khủng hoảng thông qua các chỉ số vĩ
mô. Tiếp theo, Chính phủ, Tổng cục thống kê cần xây dựng một hệ thống
các số liệu kinh tế vĩ mô đầy đủ, nhất quán và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc
tế (tiêu chuẩn phổ biến dữ liệu đặc biệt (SDDS) hoặc hệ thống phổ biến các
dữ liệu chung (GDDS)) để đảm bảo tính minh bạch, tính thường xuyên và
kịp thời về các thông tin về bảng cân đối tài sản của chính phủ và các thông
tin kinh tế vĩ mô. Khi đã tiếp cận được với nguồn thông tin chính xác và đầy
64
đủ, Việt Nam có thể chuyển sang sử dụng mô hình Logit hoặc Probit, vốn có
tác dụng mạnh hơn phương pháp phi tham số.
3.4.Hoàn thiện tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy, ở nước nào có
hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả dường như nước đó vượt qua khủng
hoảng sớm hơn và niềm tin vào thị trường tài chính nhanh chóng phục hồi.
Đó là do chức năng bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo hệ thống tài
chính ngân hàng hoạt động lành mạnh, ngăn chặn đổ vỡ ngân hàng, góp
phần xây dựng thị trường tài chính cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tài
chính với quy mô và loại hình khác nhau, giảm gánh nặng cho Chính phủ
trong xử lý đổ vỡ của tổ chức tín dụng, giảm gánh nặng cho người dân đóng
thuế trong trường hợp ngân hàng đổ bể. Đây là công cụ rất mạnh thể hiện rõ
vai trò cũng như sự phối hợp của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi với các thành
viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Thực tế cho thấy, nếu hệ thống
Bảo hiểm tiền gửi làm tốt vai trò đã nêu sẽ góp phần duy trì hệ thống ngân
hàng lành mạnh, người gửi tiền được bảo vệ triệt để và từ đó nguy cơ của
khủng hoảng sẽ giảm.
Tại Việt Nam, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã được thành lập từ năm 1998, với
những nội dung hoạt động như thu phí bảo hiểm tiền gửi, chi trả bảo hiểm
tiền gửi, hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất
khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc
biệt… Tuy nhiên cho đến nay, kinh nghiệm và quy mô vốn còn tương đối
khiêm tốn (khoảng 6.600 tỷ VND) nên vai trò ổn định tài chính và xử lý khi
có khủng hoảng chưa cao.
Để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều rủi ro như hiện nay,
cần ban hành luật để tạo hành lang pháp lý cho bảo hiểm tiền gửi thực hiện
tốt vai trò của mình. Mặt khác, mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả
nên được thiết kế theo mô hình giảm thiểu rủi ro với 4 mục tiêu đặt ra:
65
- Bảo vệ số đông người gửi tiền và khuyến khích tiết kiệm giảm gánh nặng
cho Chính phủ. Để thực hiện được mục tiêu này, cần phải có biện pháp
nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi thay vì mức hiện nay là tối đa 50
triệu VND/ 01 khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, hạn mức
chi trả bảo hiểm nên được quy định theo một tỷ lệ % trên khoản tiền gửi
tại các tổ chức tín dụng.
- Tạo sự công bằng và động lực cạnh tranh cho các tổ chức tham gia Bảo
hiểm tiền gửi. Muốn vậy, cần xây dựng quy chế đóng phí bảo hiểm tiền
gửi mới, trong đó xây dựng được hệ số an toàn cho từng tổ chức tín dụng
và thu phí dựa trên hệ số an toàn này, tránh tình trạng thu đồng hạng như
hiện nay.
- Tạo cơ chế chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân hàng.
- Góp phần tạo ra một hệ thống thanh toán lành mạnh, đảm bảo sự an toàn
hệ thống tài chính quốc gia, tránh khủng hoảng, thúc đẩy tăng trưởng thị
trường tài chính và nền kinh tế. Mục tiêu này sẽ được thực hiện thông
qua việc xây dựng cơ chế giám sát cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, trong
đó, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể kiểm tra, bảo đảm khả năng hoạt
động lành mạnh của các tổ chức tín dụng với những nội dung: xác định
chất lượng tài sản hiện có, phát hiện các hoạt động phát sinh rủi ro, thẩm
định hoạt động kinh doanh của ngân hàng và phát hiện các dấu hiệu vi
phạm pháp luật.
Để đạt được điều này, hệ thống Bảo hiểm tiền gửi phải nằm trong một kết
cấu tài chính được tổ chức hoàn thiện và an toàn, bao gồm 3 thành phần cấu
thành: Thứ nhất là một nền tảng giám sát và quy định pháp luật ngân hàng
cẩn trọng, thứ hai là một tổ chức đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, và
thứ ba là một cơ quan Bảo hiểm tiền gửi độc lập.
Bên cạnh đó, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan khác trong mạng an toàn tài chính nhằm xây dựng công cụ
66
hữu hiệu ngăn ngừa, xử lý khủng hoảng, đồng thời nâng cao năng lực hoạt
động của mình để giám sát kỹ hơn và đưa ra những khuyến nghị kịp thời
hơn, cảnh báo sớm hơn những rủi ro của từng tổ chức tín dụng nhằm bảo
đảm không có đổ vỡ chứ không phải là đợi đến đổ vỡ mới thanh toán.
Kết luận Chương 3
Như đã phân tích trong chương 2, nền kinh tế Việt Nam đang đối diện với
những nguy cơ tiềm ẩn khủng hoảng tài chính và vấn đề đặt ra là cần phải có
những chính sách để ngăn ngừa rủi ro. Để làm được điều đó, cần phải giữ
vững được nền tảng kinh tế vĩ mô và xây dựng các biện pháp dự báo khủng
hoảng, cũng như các biện pháp để kiểm soát, giám sát tài chính.
Trong quá trình nghiên cứu về khủng hoảng tài chính cũng như kinh nghiệm
của các nước trong quá trình vận hành nền kinh tế trong giai đoạn khủng
hoảng, áp dụng vào thực tế nền kinh tế - tài chính Việt Nam, tác giả đã đề
xuất một số giải pháp về mặt chính sách nhằm giúp Việt Nam có thể lập lại
được cân bằng vĩ mô và phần nào tránh được nguy cơ khủng hoảng.
67
KẾT LUẬN
Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ
hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy
cơ khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính khi xảy ra sẽ gây ra những tác động
không thể lường trước được, kể cả về mức độ nghiêm trọng lẫn quy mô ảnh
hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế của quốc gia cũng như kinh tế
toàn cầu. Sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam
đã có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện, tuy nhiên, những
nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế - tài chính cũng có cơ hội bộc lộ sâu sắc.
Qua phân tích thực trạng nền kinh tế, có thể nhận thấy Việt Nam đang phải
đối diện với những nguy cơ như lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, nợ
công cao và đặc biệt là nguy cơ về tiền tệ khi mà lòng tin vào VND của người
dân đang bị xói mòn trong một hệ thống tài chính mỏng manh, dễ bị tổn
thương.
Với thế và lực mới, trên con đường phát triển của mình, điều tất yếu là Việt
Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, đối
diện với những thách thức mới do quá trình tự do hóa tài chính, thương mại
mang lại. Việc này đồng nghĩa với việc Việt Nam cần thiết phải có những
biện pháp để bình ổn kinh tế vĩ mô để bảo vệ nền kinh tế khỏi những nguy cơ
khủng hoảng. Để làm được điều này, trong khuôn khổ của luận văn này, tác
giả đã đề xuất những giải pháp về mặt chính sách như việc thực hiện chính
sách tiền tệ linh hoạt và độc lập, nâng cao tính tự chủ cho NHNN để giúp cơ
quan này điều hành lãi suất và tỷ giá một cách hiệu quả hơn. Để nâng cao
hiệu quả, chính sách tiền tệ linh hoạt này nên được kết hợp với việc thực thi
chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt hợp lý, giảm chi tiêu công một cách
khoa học. Bên cạnh đó là việc xây dựng một cơ quan hoạch định chính sách
68
kinh tế cao cấp để có được một sự quản lý thống nhất nhằm bảo đảm hiệu quả
của việc thực thi các chính sách. Cuối cùng là nhu cầu cần thiết xây dựng một
hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính và hoàn thiện tổ chức bảo hiểm
tiền gửi.
Hy vọng rằng với sự phối hợp thực hiện các chính sách đồng bộ giữa các cấp,
các ngành, với sự quan tâm Nhà nước, Việt Nam sẽ khắc phục được những
nguy cơ và tránh khỏi một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong tương lai
có thể xảy ra.
69
ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu về khủng hoảng tài chính,
tìm hiểu về thực tế tình hình kinh tế Việt Nam và những nguy cơ tiềm ẩn
khủng hoảng tài chính, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp về mặt chính
sách nhằm khắc phục nguy cơ xảy ra khủng hoảng tại Việt Nam. Nhưng do
hạn chế về kiến thức và thời gian nên vẫn còn nhiều vấn đề mà tầm vóc của
một luận văn Thạc sĩ Kinh tế chưa thể đề cập và trình bày hết được.
Do vậy, tác giả hy vọng rằng trong thời gian tới, các nhà khoa học, các
chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực chứng khoán nói chung và trái phiếu nói
riêng sẽ có những công trình nghiên cứu bao quát hơn, chuyên sâu hơn về các
chủ đề sau:
Xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính tại Việt Nam.
Tự do hóa tài chính và các biện pháp kiểm soát vốn tại Việt Nam.
Nếu được thực hiện, những nghiên cứu trên sẽ rất có ích cho các nhà quản lý
trong việc phát hiện sớm khủng hoảng cũng như có các biện pháp để ngăn
ngừa khủng hoảng xảy ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nhiều tác giả, (2009), Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và giải pháp của
Việt Nam, Nhà xuất bản tổng hợp TpHCM.
2. TS Nguyễn Đức Thành, (2010), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam
2010 – Lựa chọn để tăng trưởng bền vững, Nhà xuất bản Tri thức.
3. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh_Khoa Kinh tế - Luật,
(2010), Tác động của Khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế
Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM.
4. Nguyễn Xuân Thành, Nguyễn Trọng Hoài, Tài chính Phát triển – Bài
giảng 19: Khủng hoảng tài chính, Chương trình giảng dạy kinh tế
Fullbright.
5. Nguyễn Thị Kim Thanh và nhóm tác giả, (2008), Đánh giá, dự báo và
các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và hệ thống ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước.
6. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính Doanh nghiệp, Nhà xuất
bản thống kê.
7. Benedict Bingham – đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam,
(2010), Chính sách tiền tệ và tỷ giá của Việt Nam: một số thách thức,
trình bày tại hội thảo của UBKT Quốc hội.
8. Bất ổn vĩ mô: các triệu chứng và nguyên nhân, Chương trình giảng dạy
kinh tế Fullbright.
9. Websites : http://cafef.vn http://vneconomy.vn http://www.gso.gov.vn http://www.thesaigontimes.vn http://www.tcptkt.ueh.edu.vn http://www.sbv.gov.vn http://www.vietstock.vn
Tiếng Anh
1. Andrew W.Lo (2009), Regulatory reform in the Wake of the Financial
Crisis of 2007-2008.
2. John Morley and Roberta Romano, Editors, The Future of Financial
regulation
http://en.wikipedia.org/wiki/Main_Page 3. Websites :
http://www.ssrn.com/