BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1) (cid:2) (cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3) ĐÀO THỊ BẢO NGÂN NGUY CƠ TIỀM ẨN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

Chuyên Ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng

Mã số:

60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2010

LỜI CÁM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế

TP.HCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.

Chân thành cảm ơn các Thầy Cô Khoa Sau đại học đã tham gia giảng dạy

chương trình. Các Thầy, Cô đã cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu

giúp tôi hoàn thành luận văn và những kiến thức này sẽ là hành trang theo tôi

trong con đường phát triển năng lực và sự nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang đã tận tình hướng

dẫn, đóng góp ý kiến trong quá trình thực hiện luận văn. Những ý kiến của Cô

đã giúp tôi sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện thêm những điều hữu ích cho luận

văn.

Và cuối cùng xin cảm ơn những anh chị, bạn bè đã cùng tôi chia sẻ những

kinh nghiệm, kiến thức trong suốt quá trình học tập cũng như nghiên cứu luận

văn.

Xin trân trọng cảm ơn.

Tác giả luận văn

Đào Thị Bảo Ngân

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “NGUY CƠ TIỀM ẨN KHỦNG HOẢNG TÀI

CHÍNH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM” là

công trình nghiên cứu của bản thân, được đúc kết từ quá trình học tập và

nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS

Nguyễn Thị Ngọc Trang.

Tác giả luận văn

Đào Thị Bảo Ngân

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG, HÌNH

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

1.1.Khủng hoảng tài chính và bản chất ............................................................ 1

1.2.Các loại khủng hoảng tài chính .................................................................. 2

1.2.1.Khủng hoảng ngân hàng .......................................................................... 2

1.2.2.Khủng hoảng tiền tệ ................................................................................. 3

1.2.2.1.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất ........................... 4

1.2.2.2.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai ............................. 5

1.2.2.3.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba .............................. 6

1.2.3.Khủng hoảng nợ ...................................................................................... 8

1.2.4.Khủng hoảng kép ..................................................................................... 9

1.3.Một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu ............................................ 9

1.3.1.Đại suy thoái 1929-1933 .......................................................................... 9

1.3.1.1.Diễn biến khủng hoảng ....................................................................... 9

1.3.1.2.Nguyên nhân ..................................................................................... 11

1.3.2.Khủng hoảng tài chính Mexico 1994 ..................................................... 12

1.3.2.1.Diễn biến khủng hoảng ..................................................................... 12

1.3.2.2.Nguyên nhân ..................................................................................... 14

1.3.3.Khủng hoảng tài chính Thái Lan 1997 ................................................... 15

1.3.3.1.Diễn biến khủng hoảng ..................................................................... 15

1.3.3.2.Nguyên nhân ..................................................................................... 16

1.4.Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ................................................ 17

LỜI MỞ ĐẦU

1.5.Các dấu hiệu của khủng hoảng tài chính ................................................. 18

1.5.1.Về phương diện kinh tế vi mô ................................................................ 18

1.5.2.Về phương diện kinh tế vĩ mô ................................................................ 18

Kết luận chương 1 ............................................................................................ 19

CHƯƠNG 2

NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨN

2.1.Nền kinh tế USD hóa .................................................................................. 20

2.2.Mất cân đối trong cán cân thanh toán ..................................................... 21

2.2.1.Thâm hụt tài khoản vãng lai ................................................................... 21

2.2.2.Nguy cơ từ thâm hụt tài khoản vãng lai ................................................. 24

2.3.Thâm hụt ngân sách và nợ công ............................................................... 26

2.3.1.Chính sách tài khóa và tình hình thâm hụt ngân sách ............................ 26

2.3.2.Tài trợ thâm hụt ngân sách và tình hình nợ công ................................... 27

2.3.3.Nguy cơ từ thâm hụt ngân sách và nợ công ........................................... 28

2.4.Lạm phát ..................................................................................................... 29

2.4.1.Tình hình lạm phát và nguyên nhân ....................................................... 29

2.4.2.Nguy cơ tiềm ẩn từ lạm phát .................................................................. 32

2.5.Chính sách tiền tệ - tỷ giá .......................................................................... 34

2.5.1.Lãi suất ................................................................................................... 34

2.5.2.Tỷ giá và việc điều hành tỷ giá ............................................................... 35

2.5.3.Nguy cơ tiền tệ ....................................................................................... 37

2.6.Hệ thống tài chính dễ bị tổn thương ......................................................... 38

2.6.1.Ngân hàng Nhà nước có mức độ độc lập thấp ....................................... 39

2.6.2.Hệ thống ngân hàng yếu kém ................................................................. 40

2.6.3.Đánh giá hệ thống tài chính Việt Nam ................................................... 42

2.7.Đánh giá những nguy cơ tiềm ẩn đối với kinh tế Việt Nam ................... 43

Kết luận chương 2 ............................................................................................ 45

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NGĂN NGỪA KHỦNG

HOẢNG Ở VIỆT NAM

3.1.Cải thiện nền tảng vĩ mô nền kinh tế ........................................................ 46

3.1.1.Thực hiện chính sách tiền tệ kinh hoạt và độc lập ................................. 47

3.1.1.1.Nâng cao tính độc lập cho NHNN .................................................... 47

3.1.1.2.Cơ chế điều hành lãi suất ................................................................. 50

3.1.1.3.Lựa chọn chính sách tỷ giá phù hợp ................................................. 53

3.1.2.Chính sách tài khóa ................................................................................ 56

3.1.3.Xây dựng một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấp ............................ 59

3.2.Bảo vệ hệ thống tài chính nội địa khỏi nguy cơ lây nhiễm từ bên ngoài ......... 60

3.3.Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính ..................... 60

3.4.Hoàn thiện tổ chức bảo hiểm tiền gửi....................................................... 64

Kết luận chương 3 ............................................................................................ 66

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 67

ĐỀ XUẤT HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ....................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng phát triển châu Á

ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

CPI Chỉ số giá tiêu dùng

DNNN Doanh nghiệp nhà nước

NCIEC Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế

KH Khủng hoảng

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

NHTW Ngân hàng Trung Ương

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần

USD Đô la Mỹ

VND Việt Nam đồng

VNBA Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới

DANH MỤC BẢNG, HÌNH

Hình 1.1 Tiến trình KH tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất ............................. 4

Hình 1.2 Tiến trình KH tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai ............................... 5

Hình 1.3 Tiến trình KH tài chính tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba ................. 8

Hình 2.1 Thâm hụt thương mại Việt Nam ......................................................... 22

Hình 2.2 Tình hình dự trữ ngoại hối Việt Nam.................................................. 24

Hình 2.3 Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005-2011 ......................... 26

Hình 2.4 Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ qua các năm ............................................ 27

Hình 2.5 Diễn biến giá tiêu dùng trong năm 2010 ............................................. 29

Hình 2.6: Tốc độ tăng trưởng cung tiền và GDP ............................................... 31

Hình 2.7 Tỷ giá USD/VND thị trường tự do và tỷ giá quy định của NHNN .... 36

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam bước vào thập niên 2011-2020 với những đặc điểm quan trọng: di

sản từ cuộc cải cách hai thập kỷ, gắn liền với những xáo trộn to lớn của nền

kinh tế thế giới sau cuộc khủng khoảng tài chính-kinh tế toàn cầu lớn nhất kể

từ sau cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933. Điều này hàm ý rằng nền kinh tế

Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn mà sự thay đổi từ bên trong vừa đòi

hỏi một sự biến đổi mới về chất, đồng thời lại phải diễn ra trong một môi

trường quốc tế cũng đang thay đổi quyết liệt. Vì vậy, việc hoạch định, xây

dựng một tầm nhìn cho tương lai trong thập kỷ tới vào thời điểm hiện nay có

ý nghĩa bản lề trong con đường phát triển của Việt Nam.

Từ kinh nghiệm phát triển quốc tế và các nghiên cứu lý thuyết về khủng

hoảng kinh tế và tài chính, việc nhận ra những điểm yếu căn bản của nền kinh

tế vĩ mô có thể dẫn đến khủng hoảng mà Việt Nam phải đối mặt là điều cần

thiết.

Nhằm góp phần vào mục tiêu trên, bài luận văn này hướng tới định dạng

những điểm yếu căn bản của nền kinh tế vĩ mô Việt Nam trong bối cảnh mới

của nền kinh tế toàn cầu, trên cơ sở đó phân tích những rủi ro liên quan đến

kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính mà Việt Nam phải đối mặt. Bài nghiên

cứu bước đầu đề xuất các giải pháp để giảm thiểu những rủi ro này, với mục

tiêu ngăn chặn khủng hoảng xảy ra tại Việt Nam, góp phần hướng đến sự tăng

trưởng bền vững của nền kinh tế trong dài hạn.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đề tài đã tập trung nghiên cứu lý luận chung về khủng hoảng tài chính và tình

hình kinh tế tài chính Việt Nam hiện nay, tìm ra những rủi ro tiềm ẩn và phân

tích, đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng. Qua đó đề xuất một số

khuyến nghị về mặt chính sách giúp Việt Nam có thể tránh khỏi các rủi ro dẫn

đến khủng hoảng đang tiềm ẩn trong nền kinh tế - tài chính.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng nền kinh tế Việt Nam với

những rủi ro tiềm ẩn

Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự vận động

và những rủi ro bên trong nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, đề tài tập trung

nghiên cứu các vấn đề thuộc kinh tế vĩ mô như lạm phát, chính sách tài khóa,

chính sách tiền tệ. Trên cơ sở phân tích và nhận định, tác giả đề xuất các

khuyến nghị về mặt chính sách cho việc ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng xảy

ra ở Việt Nam hiện nay.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong suốt đề tài là phương pháp định

tính, phân tích thống kê và so sánh theo quan điểm biện chứng.

Kết cấu đề tài: gồm 03 chương

Chương 1: tác giả trình bày những vấn đề cơ sở lý luận liên quan đến khủng

hoảng tài chính.

Chương 2: tác giả trình bày thực trạng nền kinh tế Việt Nam và phân tích

những nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế có thể kích hoạt một cuộc khủng

hoảng.

Chương 3: tác giả trình bày một số khuyến nghị về mặt chính sách giúp Việt

Nam có thể tránh khỏi nguy cơ khủng hoảng.

Hạn chế của đề tài

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã gặp khó khăn trong vấn đề tìm kiếm dữ

liệu thống kê. Số liệu thống kê trong bài viết có thể không thống nhất với số

liệu trích dẫn từ những nguồn khác, tuy nhiên, nó cũng không làm thay đổi

nhiều về bản chất của vấn đề nghiên cứu cũng như nhận định của tác giả. Vì

vậy mong được sự thông cảm của Quý thầy cô và độc giả.

Mặc dù bài viết được tác giả dành nhiều công sức để nghiên cứu tuy nhiên

không thể tránh khỏi những hạn chế. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý

của Quý thầy cô và độc giả để bài viết được hoàn thiện hơn.

1

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

1.1.Khủng hoảng tài chính và bản chất:

Khủng hoảng trong tài chính là quá trình thông thường, tiến triển phụ thuộc

sự vận động bên trong của hệ thống tài chính. Khủng hoảng tài chính được

hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó không thể thực hiện

được hai chức năng cơ bản nhất: (1) ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản

tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản, và (2) là trung gian

chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Kéo theo là sự

xấu đi một cách rõ ràng và nhanh chóng của các nhóm chỉ tiêu tài chính trong

nền kinh tế quốc gia (lãi suất ngắn hạn, tỷ giá hối đoái…). Hệ quả là các tổ

chức tài chính hoặc các tài sản tài chính bất ngờ bị mất đi phần lớn giá trị, hệ

thống ngân hàng trục trặc, thị trường chứng khóan và các bong bóng tài chính

đổ vỡ. Vì rằng trong nền kinh tế hiện đại đầu cơ tài chính chiếm một khối

lượng giá trị cao nhất, và mọi hoạt động của các thị trường khác đều chịu sự

chi phối của thị trường tài chính nên khủng hoảng tài chính là khởi nguồn của

suy thoái kinh tế. Từ đó, nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm

năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm

phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.

Như vậy, có thể thấy biểu hiện rõ ràng nhất của khủng hoảng tài chính chính

là sự mất giá nhanh với quy mô lớn của đồng nội tệ. Sự phá sản và thua lỗ với

tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia chính

là biểu hiện bên ngoài thứ hai của khủng hoảng tài chính. Cuối cùng là sự

thua lỗ và phá sản hàng loạt của hệ thống doanh nghiệp khiến cho tỷ lệ thất

nghiệp tăng mạnh và tăng trưởng kinh tế quốc gia giảm sút.

Bản chất của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay đó là sự đổ

vỡ, sự mất cân bằng giữa những thành phần cấu thành sự thống nhất trên tất

2

cả các thị trường hiện hữu từ thị trường tài chính, thị trường sản xuất kinh

doanh, đến thị trường lao động.

Khi làn sóng đầu tư vào các thị trường tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là làn

sóng tăng lên của các thị trường phi sản xuất, như thị trường tài chính, thị

trường địa ốc, thị trường ngoại tệ, …. tính ảo của thị trường sẽ xuất hiện.

Nghĩa là người mua ở đây không còn là người “tiêu thụ” sản phẩm mà chủ

yếu là những nhà đầu cơ, kể cả trong thị trường sản xuất. Quá trình này đã

làm cho các thị trường bành trướng mau lẹ, GDP tăng lên nhanh chóng, cho

đến lúc sự mất cân bằng tăng lên đỉnh điểm và thị trường không thể tiếp tục

chứa đựng những hàng hóa – dịch vụ mà nó phải chứa đựng, cũng như sự mất

cân đối đã đạt mức quá sức chịu đựng của thị trường và phải đi đến sự sụp đổ.

Do đó có thể nói sự khủng hoảng đã tiềm ẩn trong các nền kinh tế, ngay cả

trong nền kinh tế nhỏ và mới phát triển như Việt Nam.

1.2.Các loại khủng hoảng tài chính:

1.2.1.Khủng hoảng ngân hàng:

Khủng hoảng ngân hàng xảy ra nếu ít nhất là một các tiêu chí sau xảy ra:

- Tỷ lệ nợ xấu NPLs so với tổng vốn cho vay trong hệ thống ngân hàng vượt

quá 10%.

- Chi phí cho hoạt động cứu trợ ngân hàng tối thiểu bằng 2% GDP.

- Giai đoạn cứu trợ kéo theo hoặc là quốc hữu hóa các ngân hàng ở quy mô

lớn, hoặc là hiện tượng rút tiền gửi ồ ạt khỏi ngân hàng, hoặc các biện

pháp khẩn cấp khác như đóng băng tiền gửi, cho phép ngân hàng nghỉ giao

dịch, phát hành bảo lãnh chính phủ.

Khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra đối với từng ngân hàng riêng lẻ hoặc

lây lan trong hệ thống các ngân hàng.

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng truyền thống thường dựa vào sự chênh

lệch giữa các kỳ hạn, có nghĩa là, ngân hàng huy động tiền gửi ngắn hạn và

3

cho vay dài hạn. Phần lớn lượng tiền gửi huy động sẽ được đem đi cho vay

đầu tư lấy lãi vào những dự án dài hạn, với khả năng thanh khoản thấp. Tình

trạng cho vay bất cẩn và công tác thẩm định dự án không tốt sẽ dẫn đến tình

trạng ngân hàng đổ vốn vào các dự án rủi ro cao, không hiệu quả.

Trong thời kỳ thị trường tài chính phát triển như hiện nay, các ngân hàng có

xu hướng chuyển việc đầu tư số vốn họ huy động được vào các loại chứng

khoán. Như vậy, ngân hàng phải gánh chịu rủi ro khi giá trị thị trường của

các tài sản của họ có thể giảm xuống bằng hoặc thấp hơn giá trị các khoản

nợ tiền gửi của ngân hàng đối với người gửi tiền do những thay đổi không

mong đợi từ tỷ lệ lãi suất, vỡ nợ, tỷ giá hối đoái, thay đổi về quy chế, những

sai phạm…

Khi có sự cố ảnh hưởng đến niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng

khiến họ rút tiền ồ ạt, khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Bởi vì ngân hàng cho

vay hầu hết phần tiền gửi mà họ huy động được, và họ không thể lập tức đòi

lại những khoản đã cho vay, do đó sẽ vô cùng khó khăn để ngân hàng có thể

nhanh chóng hoàn trả lại tất cả tiền gửi khi có yêu cầu đột xuất. Với lượng

dự trữ hạn hẹp, các ngân hàng có thể nhanh chóng rơi vào tình trạng mất

khả năng thanh toán và phá sản.

Khi bị phá sản, các ngân hàng buộc phải dừng việc thanh toán các cam kết

của mình, do đó, khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra tại một ngân hàng

hoặc lan rộng trong hệ thống.

1.2.2.Khủng hoảng tiền tệ:

Khủng hoảng tiền tệ hay khủng hoảng cán cân thanh toán liên quan đến việc

chính phủ không còn đủ dự trữ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngoại

tệ của các khu vực khác nhau trong nền kinh tế và buộc phải phá giá đồng

nội tệ.

Tiến trình diễn ra khủng hoảng tiền tệ được thể hiện tổng quát trong ba mô

hình khủng hoảng tiền tệ.

4

Thâm hụt ngân sách

Tài trợ bằng phát hành thêm tiền

Sức ép giảm giá nội tệ

KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ

NHTW bán dự trữ ngoại tệ để hỗ trợ tỷ giá

Dự trữ ngoại hối suy giảm

Tấn công đầu cơ vào nội tệ

Hình 1.1 Tiến trình khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất

1.2.2.1.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ nhất:

Dựa trên mô hình tiền tệ đơn giản, lý thuyết của Paul Krugman (1979) và

sau đó là Food&Garber (1984) đã giải thích tiến trình dẫn đến khủng

hoảng tiền tệ khi chính phủ duy trì cơ chế tỷ giá cố định và theo đuổi các

chính sách kinh tế vĩ mô không mang tính bền vững như thâm hụt ngân

sách, tài trợ bằng lạm phát tiến đến mất giá kỳ vọng đồng nội tệ.

Cụ thể là để duy trì tỷ giá, chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại

hối thông qua các hoạt động thị trường mở hay can thiệp vào thị trường

ngoại hối kỳ hạn. Với tỷ lệ thâm hụt ngân sách cao và tài trợ bằng lạm

phát dẫn đến sức ép giảm giá nội tệ, chính phủ sẽ phải bán ngoại tệ liên

tục, dự trữ ngoại hối giảm. Kết quả là cuối cùng chính phủ có thể bị buộc

phải chấm dứt tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá.

Tuy nhiên lý do chính đẩy nhanh và làm trầm trọng khủng hoảng chính là

những cuộc tấn công đầu cơ vào đồng nội tệ, được thực hiện bởi các tổ

5

chức hoặc các cá nhân được hướng dẫn bởi các tín hiệu xuất phát từ sự suy

yếu trong các yếu tố kinh tế vĩ mô căn bản trước khi đồng nội tệ bị mất

giá.

1.2.2.2.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai:

Nếu như mô hình khủng hoảng tiền tệ của Krugman (1979) giải thích quá

trình sụp đổ của tỷ giá hối đoái cố định khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt thì

Obstfeld (1994) đưa ra một cách giải thích khác về khủng hoảng tiền tệ

được gọi là lý thuyết khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai.

Lý thuyết khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai cũng xuất phát trong một

hoàn cảnh chính phủ duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Tuy nhiên, dựa

vào thực tế là rất nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ (đặc biệt là xảy ra ở các

nền kinh tế phát triển) vẫn xảy ra dù các chính phủ có đủ dự trữ ngoại tệ để

bảo vệ tỷ giá, mô hình Obstfeld cho rằng khủng hoảng có thể mang tính

Kỳ vọng thị trường Chính phủ có thể rời bỏ tỷ giá cố định để thực hiện chính sách khác (như giảm thất nghiệp)

Các nhà đầu cơ Tấn công đồng nội tệ

Tấn công xảy ra tạo kỳ vọng đồng nội tệ có thể phá giá và làm tăng lãi suất

Chính phủ Lãi suất tăng lên, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng và tình trạng thất nghiệp nên thả nổi tỷ giá

Hình 1.2 Tiến trình khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ hai

“tự phát sinh”.

6

Kỳ vọng đầu cơ phụ thuộc vào việc suy đoán về phản ứng của chính phủ

trong việc điều hành tỷ giá, những phản ứng của chính phủ lại phụ thuộc

vào những thay đổi về giá cả và các chỉ số kinh tế khác tác động thế nào

tới tình hình kinh tế và chính trị, nhưng những thay đổi về giá cả và các

chỉ số lại có thể xảy ra đơn giản là vì kỳ vọng của các nhà đầu cơ. Những

yếu tố và tác động xoay vòng này có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng mà

có thể đã không xảy ra, nhưng cuối cùng lại xảy ra khi các đối tượng tham

gia trên thị trường có kỳ vọng như vậy.

Cụ thể, việc quyết định bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định có cả lợi ích và chi

phí. Đứng trước sức ép phải thả nổi tỷ giá, nếu chính phủ quyết định bảo

vệ tỷ giá cố định thì sẽ có lợi ích là uy tín về chính sách trong dài hạn, tuy

nhiên chi phí của quyết định này có thể đến từ những tác động tiêu cực đến

nền kinh tế nội địa khi lãi suất tăng lên. Đứng trước sự cân đối giữa lợi ích

và chi phí, chính phủ có thể lựa chọn bảo vệ hay thả nổi tỷ giá hối đoái.

Ngược lại, các nhà đầu cơ cũng có hai lựa chọn: tấn công đồng nội tệ hoặc

không, tùy theo suy đoán về phản ứng của chính phủ sẽ kiên quyết bảo vệ

tỷ giá cố định hay bằng lòng thả nổi để thực hiện các mục tiêu kinh tế

khác.

Như vậy hai điểm cân bằng trong mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ

hai là khi nhà đầu cơ tấn công và chính phủ thả nổi tỷ giá, và khi nhà đầu

cơ không tấn công và chính phủ tiếp tục cố định tỷ giá. Khủng hoảng xảy

ra, không hẳn do yếu tố kinh tế căn bản, mà do thị trường kỳ vọng như

vậy.

1.2.2.3.Khủng hoảng tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba:

Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi, M. và Ohno, K.

(1999) xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong

cán cân thanh toán quốc tế. Việc tự do hóa tài khoản vốn thiếu một trình tự

thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép:

7

- Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai: khiến

cán cân thanh toán thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn tới

sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước. Điểm mấu

chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư

kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới hậu quả

là thâm hụt cán cân vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và

mức cung dư thừa. Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém

kể trên và những dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động sản

và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng

loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên

thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một

cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra.

- Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn: trong điều kiện tự do hóa cán cân

vốn, một lượng vốn ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ

ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các khoản

vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã

được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn vào những dự án kém hiệu

quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng. Bảng cân đối tài sản

của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một

cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn của các

nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của

các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng

cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động

vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong

một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy

thoái.

Dòng vốn nước ngoài chảy vào Nợ mệnh giá ngoại tệ và kỳ hạn ngắn gia tăng

Chính sách kinh tế vĩ mô Tỷ giá hối đoái cố định

Hệ thống tài chính nội địa -Tập trung vào ngân hàng -Giám sát yếu kém -Tâm lý ỷ lại

Tình hình kinh tế vĩ mô

Phân bổ vốn sai lệch -Đầu tư quá mức -Bong bóng giá tài sản -Tham nhũng

-Tỷ giá hối đoái thực bị nâng giá. -Thâm hụt thương mại gia tăng

KHỦNG HOẢNG

Tình hình tài chính -Tỷ lệ nợ khó đòi cao -Mất cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có

Hình 1.3 Tiến trình KH tài chính tiền tệ theo lý thuyết thế hệ thứ ba

8

1.2.3.Khủng hoảng nợ:

Khủng hoảng nợ xảy ra khi một quốc gia không có khả năng trả nợ nước

ngoài, bao gồm cả các khoản nợ của chính phủ hay của khu vực tư nhân.

Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc

gia là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương

đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì

thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một

thời điểm nào đó. Bên cạnh đó, nợ công còn bao gồm các khoản nợ do chính

phủ bảo lãnh.

Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ

người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho

vay ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua

phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu

chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì

9

chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn

lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu

chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn)

có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh

toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái.

Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có

thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính

quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)... Hình thức vay này thường

được chính phủ của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó

khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ

không cao.

Có thể nói, tất cả các quốc gia trên thế giới đều đang duy trì một mức nợ

nước ngoài nhất định để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc

kiểm soát mức nợ phù hợp với quy mô nền kinh tế và chi tiêu đầu tư có hiệu

quả để tạo nguồn thu trả nợ là điều không phải nền kinh tế nào cũng làm

được. Việc vay nợ tràn lan, thiếu tính toán, không minh bạch và đầu tư

không hiệu quả, thiếu cơ chế giám sát sẽ khiến cho quốc gia lâm vào tình

trạng mất khả năng chi trả và khủng hoảng nợ xảy ra.

1.2.4.Khủng hoảng kép:

Khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng, hoặc khủng hoảng nợ và

khủng hoảng tiền tệ có thể đi liền với nhau, cái nọ dẫn đến cái kia tạo thành

khủng hoảng kép. Đây là trường hợp khủng hoảng tài chính trở nên trầm

1.3.Một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu:

trọng nhất và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.

1.3.1.Đại suy thoái 1929-1933:

1.3.1.1.Diễn biến khủng hoảng:

10

Thập niên 20 là thập niên tăng trưởng mạnh tại Mỹ, sản lượng công nghiệp

tăng 40%-50%, nông nghiệp được hiện đại hóa nên năng suất tăng cao,

dẫn đến tình trạng sản xuất thừa. Ngân hàng phát triển tín dụng, cho phép

người dân mua sắm hàng hóa tiêu dùng lâu bền như xe hơi, nhà ở. Nền

kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng bong bóng, bắt đầu từ việc đầu cơ bất động

sản ở Florida, sau đó là việc thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ.

Với các quy định về vay vốn dễ dàng, và lợi nhuận kỳ vọng vào thị trường

chứng khoán quá lớn, người dân Mỹ bắt đầu vay mượn tiền từ ngân hàng

để đầu cơ. Bong bóng chứng khoán ngày càng phồng lên, hoạt động đầu

cơ với quy mô lớn cũng hình thành nhiều vào những năm 1920.

Với tình trạng hàng hóa dư thừa, không tiêu thụ được cộng với việc nguồn

vốn trong nền kinh tế đổ vào chứng khoán, sản xuất sụt giảm, lãi suất bắt

đầu tăng dần, kéo theo nguy cơ mất khả năng trả nợ đối với các nhà đầu cơ

chứng khoán bằng đòn bẩy kinh doanh. Hiện tượng bán cổ phiếu hàng loạt

bắt đầu diễn ra.

Ngày 24 tháng 10 năm 1929, Phố Wall rối loạn. Gần 13 triệu cổ phiếu,

nhiều gấp ba lần số lượng giao dịch thông thường, bị các nhà đầu tư hoảng

loạn bán tháo trên thị trường chứng khoán New York. Ngày này đi vào

lịch sử như ngày thứ Năm đen tối, mở đầu cho cuộc Đại khủng hoảng của

thị trường chứng khoán Mỹ và cuộc Đại suy thoái kéo dài từ năm 1929 tới

năm 1933. Chỉ số Dow Jones đạt điểm đáy ngày 08/07/1932 khi đóng cửa

ở mức 41,2 - giảm gần 90% so với mức đỉnh nó từng đạt được ba năm

trước.

Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã đưa nước Mỹ vào suy thoái. Tiêu

dùng và đầu tư bị ảnh hưởng trực tiếp. Ngân hàng phá sản hàng loạt hoặc

phải sáp nhập lại do một mặt không thu hồi được các khoản nợ đã cho vay

11

đầu tư chứng khoán, mặt khác lại phải đối diện với làn sóng rút tiền của

những người dân đang hoảng loạn trước tình hình kinh tế khó khăn. Trong

khi đó, để bảo vệ chế độ bản vị vàng, chính phủ Mỹ đã không thực hiện

chính sách nới lỏng tiền tệ cần thiết, dẫn đến cung tiền giảm mạnh, gây ra

tình trạng giảm phát, làm trầm trọng thêm cơn suy thoái. Đến năm 1930,

cuộc khủng hoảng chứng khoán đã trở thành khủng hoảng ngân hàng với

9000 ngân hàng phá sản, số lượng ngân hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai

đoạn 1929 đến 1933.

Cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính kéo theo suy thoái kinh tế trầm

trọng trên phạm vi toàn cầu. Riêng tại Mỹ, sản xuất công nghiệp giảm

45%, GDP giảm 30%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25% và 60% người Mỹ

sống dưới ngưỡng nghèo khổ.

1.3.1.2.Nguyên nhân:

Nguyên nhân đầu tiên bắt nguồn từ những chính sách được Chính phủ Mỹ

áp dụng trong thập kỷ 1920. Để thúc đẩy sản xuất, FED giữ lãi suất ở mức

thấp và tăng cấp tín dụng, doanh nghiệp mở rộng sản xuất, dẫn đến việc

sản xuất vượt quá khả năng tiêu dùng của thị trường. Cuối thập kỷ 1920,

khi hàng rào thuế quan của Mỹ tăng cao theo Luật Thuế quan Smoot–

Hawley làm cho việc xuất khẩu vào Mỹ gặp khó khăn, các nước trên thế

giới không còn khả năng mua hàng Mỹ và hoạt động xuất khẩu của Mỹ

cũng bị thiệt hại. Tình trạng khủng hoảng thừa trở nên trầm trọng.

Một nguyên nhân khác là sự dễ dãi trong việc cấp tín dụng đẩy các ngân

hàng tích cực cho vay, dẫn tới bùng nổ quá mức cung tiền ngay trước khi

khủng hoảng. Thứ nhất, việc mở rộng cấp tín dụng đã khiến hệ thống ngân

hàng Mỹ chấp nhận những khoản thế chấp không an toàn như bất động sản

và chứng khoán, khiến cho hệ thống ngân hàng rơi vào trạng thái rủi ro do

12

dự trữ quá ít và đầu tư quá nhiều vào các tài sản không bảo đảm. Thứ hai,

việc tín dụng dư thừa đã khiến nền kinh tế phát triển nóng, đẩy bong bóng

chứng khoán bùng nổ quá mức. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ, không

thu hồi được nợ, việc các ngân hàng bán ra số lượng lớn tài sản thế chấp

với giá rẻ, làm cho tài sản nhìn chung lại càng mất giá, khiến các khoản nợ

còn tồn lại càng giảm chất lượng (do tài sản thế chấp bị giảm giá). Vòng

xoáy này ngày càng lớn, đẩy cả thị trường nợ và tài sản xuống, làm cho

các thể chế tài chính và cá nhân trên thị trường vỡ nợ.

Chính sách tiền tệ của chính phủ Mỹ cũng là một nguyên nhân gây trầm

trọng thêm tình hình. Thay vì tăng cung tiền để cứu hệ thống ngân hàng

khỏi nguy cơ sụp đổ và tăng thanh khoản cho nền kinh tế, FED lại thực

hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tài khóa đúng lúc cuộc khủng hoảng lan

rộng. Sự xiết chặt quá mức của FED đã khiến cho hiện tượng giảm phát

xảy ra, không còn nguồn vốn cho sản xuất, ngân hàng sụp đổ và tiêu dùng

của dân chúng suy giảm, kéo theo sự suy thoái trên diện rộng.

1.3.2.Khủng hoảng tài chính Mexico 1994:

1.3.2.1.Diễn biến khủng hoảng:

Sau khủng hoảng nợ năm 1982, Mexico đã tiến hành một loạt cải cách

giúp khôi phục được nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng, đồng peso Mexico

được neo vào đồng USD, lãi suất của Mexico được giữ cao hơn lãi suất

của Mỹ đã thúc đẩy dòng vốn tư nhân nước ngoài đổ vào nền kinh tế

Mexico. Riêng thời gian từ 1990 đến 1993, Mexico đã thu hút được 93 tỷ

USD đầu tư nước ngoài, chiếm một nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ

Latinh. Điều này đã dẫn tới hiện tượng peso lên giá tới 40% so với USD

trong vòng 5 năm, từ năm 1988 đến năm 1993. Hậu quả là xuất khẩu của

Mexico chịu ảnh hưởng bất lợi trong khi nhập khẩu được thúc đẩy, dẫn tới

13

Mexico bị thâm hụt cán cân thương mại, từ 2,6% GDP vào giữa năm 1989

lên 5% vào năm 1993. Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ

ngắn hạn nước ngoài.

Năm 1994, một loạt sự kiện an ninh trong nước (bầu cử tổng thống, sự nổi

dậy của lực lượng vũ trang Zapatistas, ứng cử viên tổng thống Colosio bị

ám sát) đã khiến hoảng loạn tài chính xảy ra. Các nhà đầu tư trong và

ngoài nước đã giảm nhu cầu về chứng khoán của Mexico khiến cho dòng

vốn vào Mexico suy giảm. Thêm vào đó là sức ép của các khoản nợ đáo

hạn vào năm 1995. Peso chịu sức ép mất giá và chính phủ đã tung khoảng

10 tỷ USD dự trữ ngoại hối nhà nước ra để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.

Khi lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng peso có xu hướng tăng,

chính phủ đã một mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi

suất, một mặt tiến hành đổi các trái phiếu chính phủ từ định danh bằng

peso sang định danh bằng USD. Đối phó với việc giá peso quá cao so với

USD, chính phủ Mexico chọn biện pháp vừa dùng dự trữ ngoại hối để giữ

ổn định tỷ giá, vừa từng bước tiến hành phá giá peso theo từng biên độ

nhỏ.

Các nhà đầu tư trở nên lo ngại về sự bền vững của nền kinh tế Mexico. Thị

trường chứng khoán Mexico chao đảo. Thêm vào đó là hiện tượng lãi suất

quốc tế tăng lên kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục đầu tư của

mình theo hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển. Các nhà

đầu tư rút vốn khỏi Mexico, đồng peso bị mất giá mạnh, trong khi dự trữ

ngoại hối của Mexico không còn nhiều. Kết quả là chính phủ đành tuyên

bố thả nổi đồng peso, nền kinh tế Mexico rơi vào khủng hoảng thật sự. Nợ

nước ngoài của Mexico vượt quá 200 tỷ USD. Lạm phát ít nhất lên tới

60%, thất nghiệp từ 3,6% tăng lên xấp xỉ 10%. Tốc độ tăng trưởng năm

14

1995 là -6,2%. Khi đó chính quyền Mexico phải kêu gọi cộng đồng quốc

tế giúp đỡ Mexico thoát khỏi cuộc khủng hoảng.

1.3.2.2.Nguyên nhân:

Có thể nói, như hầu hết các cuộc khủng hoảng tài chính khác, nền tảng

kinh tế vĩ mô yếu kém và việc điều hành chính sách của chính phủ chính là

nguyên nhân ban đầu của khủng hoảng tài chính Mexico. Đầu tiên là việc

Mexico thực hiện chế độ neo tỷ giá vào đồng USD. Việc duy trì tỷ giá hối

đoái cố định quá lâu này chính là nguyên nhân chính của tình trạng thâm

hụt cán cân thanh toán, đồng thời khi kết hợp với mức lãi suất hấp dẫn của

Mexico đã khiến cho giá trị thực của đồng peso bị lên giá khi các dòng vốn

nước ngoài ồ ạt chảy vào.

Sau đó là một cơ cấu nợ với chủ yếu là nợ ngắn hạn nước ngoài khiến cho

Mexico gặp khó khăn về thanh khoản khi dòng vốn nước ngoài vào nền

kinh tế đột ngột suy giảm.

Kế đến là tình trạng mong manh của hệ thống ngân hàng khiến chính phủ

phải sử dụng chính sách tăng tín dụng nội địa để chống lại việc giảm dự

trữ ngoại hối, dẫn đến sự không nhất quán giữa chính sách tỷ giá và chính

sách tiền tệ.

Với một nền tảng vĩ mô bộc lộ nhiều nguy co rủi ro của Mexico, biến động

chính trị và tác động của việc rút vốn của các nhà đầu tư đã khiến cho cuộc

khủng hoảng đồng peso bùng phát.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ nguyên nhân của khủng hoảng luôn xuất

phát từ nền tảng kinh tế vĩ mô, tức là cái gốc căn bản của nền kinh tế. Một

nền tảng vĩ mô tốt sẽ là một lá chắn hữu hiệu giúp cho nền kinh tế - tài

chính vượt qua những giai đoạn kinh tế khó khăn. Ngược lại, một nền tảng

15

vĩ mô tiềm ẩn nhiều nguy cơ sẽ có cơ hội bùng phát thành rủi ro khủng

hoảng khi bị châm ngòi bởi những biến động trong nền kinh tế. Chúng ta

có thể nhìn thấy rõ hơn điều này khi tiếp tục xem xét cuộc khủng hoảng tài

chính Thái Lan năm 1997.

1.3.3.Khủng hoảng tài chính Thái Lan 1997:

1.3.3.1.Diễn biến khủng hoảng:

Thái Lan thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu từ thập niên

80 bằng cách cố định giá trị đồng baht vào USD và cho phép tự do lưu

chuyển vốn. Tăng trưởng GDP cộng với mức lãi suất trong nước cao hơn

quốc tế để thu hút đầu tư đã khiến cho các dòng vốn đổ vào Thái Lan, tạo

sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, Thái Lan thực hiện chính

sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát.

Chính sách vô hiệu hóa được áp dụng để chống lạm phát lại tạo điều kiện

cho các dòng vốn đầu tư tài chính chảy vào nền kinh tế.

Việc FED nâng lãi suất của Mỹ để ngăn chặn lạm phát đã khiến cho đồng

USD tăng giá, và do đồng baht được neo vào USD, nên xuất khẩu của Thái

Lan trở nên kém cạnh tranh, khiến cho cán cân thương mại của Thái Lan

bị thâm hụt. Để bù đắp thâm hụt thương mại và có vốn đầu tư cho nền

kinh tế, Thái Lan tăng cường vay nợ nước ngoài. Kết quả là trong tổng số

vốn nước ngoài thuần đã đổ vào Thái Lan thời kỳ 1991 – 1996 là 85.293 tỷ

USD thì đầu tư gián tiếp chiếm 19,23% và tín dụng, vay ngắn hạn chiếm

đến 70,4%, đặc biệt, nợ ngắn hạn vào thời điểm tháng 6 năm 2007 gấp 1,5

lần dự trữ ngoại hối quốc gia.

Nhận thấy đồng baht đang bị định giá cao hơn 30% so với giá trị thực và

cơ chế tự do hóa tài khoản vốn của Thái Lan, các tổ chức tài chính đã thực

16

hiện tấn công đồng baht bằng các hợp đồng bán khống. Dự trữ ngoại hối

của Thái Lan cạn kiệt. Lo ngại về việc chính phủ không còn đủ khả năng

để duy trì tỷ giá, các tổ chức tài chính và nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt

rút vốn khỏi Thái Lan. Khủng hoảng tài chính nổ ra và Thái Lan phải thả

nổi đồng baht.

1.3.3.2.Nguyên nhân:

Khủng hoảng tài chính Thái Lan có điểm chung với khủng hoảng tài chính

Mexico, đó là sự yếu kém của nền tảng vĩ mô, duy trì chế độ neo tỷ giá, lãi

suất cao hơn mặt bằng lãi suất quốc tế khiến cho đồng nội tệ bị lên giá khi

các dòng vốn nước ngoài đổ vào nền kinh tế.

Việc gia tăng nguồn vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối

đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình thâm hụt thương mại. Tình hình

của Thái Lan đặc biệt nguy hiểm khi tại thời điểm trước khủng hoảng,

Thái Lan sử dụng gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính

và tín dụng ngắn hạn. Nguồn vốn này chẳng những không hỗ trợ đầu tư

sản xuất trong nước để giúp kinh tế phát triển mà còn hình thành nên các

bong bóng giá chứng khoán và bất động sản. Đến khi thị trường tạo sức ép

giảm giá đồng tiền, việc Thái Lan tự do hóa tài khoản vốn đã khiến cho

khủng hoảng xảy ra khi các nhà đầu tư nước ngoài đột ngột rút vốn.

Tuy nhiên, cũng như khủng hoảng Mexico xảy ra do có nguyên nhân tác

động là các biến động trong chính trị, nguyên nhân trực tiếp của khủng

hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ vào

đồng bath của các định chế tài chính nước ngoài.

17

1.4.Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính:

Nhìn vào nguyên nhân của một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu,

chúng ta có thể nhận thấy khủng hoảng luôn luôn là kết quả của một quá trình

tích lũy các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong nền kinh tế từ mức thấp đến mức

cao. Quá trình khủng hoảng có thể được khởi động từ rất lâu bởi các thay đổi

có quy mô nhỏ, có vẻ không nguy hiểm hằng năm, được tích lũy dần dần và

tiến tới bùng nổ do sự chín muồi trong nền kinh tế hoặc khi có tác động từ bên

ngoài.

Nhìn chung, những nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính luôn xuất phát

từ bản thân nền kinh tế. Phần lớn các cuộc khủng hoảng bắt đầu bằng sự yếu

kém trong ngành sản xuất vật chất, số còn lại bắt nguồn từ việc thị trường tài

chính phát triển vượt quá khả năng giám sát của chính phủ. Tiếp đến thường

là nguyên nhân đến từ các chính sách cấp tín dụng cho nền kinh tế. Nghiệp vụ

ngân hàng yếu kém, cấp tín dụng dưới chuẩn cho các khoản vay có rủi ro cao

sẽ dẫn đến việc tích nợ xấu nhanh và không bền vững. Làn sóng vốn đầu tư

vào nền kinh tế cộng với cung tín dụng cao sẽ khiến cho nền kinh tế tăng

trưởng nóng, lạm phát cao, hình thành nên các bong bóng tài sản, tỷ giá hối

đoái chịu áp lực. Nền tảng vĩ mô nền kinh tế trở nên suy yếu và sức “đề

kháng” trước khủng hoảng giảm.

Trong giai đoạn này của nền kinh tế, hệ thống các chính sách của chính phủ,

thay vì nên góp phần điều tiết, ngăn ngừa khủng hoảng xảy ra, lại thường vô

hiệu hoặc không đủ năng lực để giải quyết vấn đề. Đây chính là nguyên nhân

đến từ năng lực điều hành chính sách của chính phủ. Nguyên nhân này cũng

gián tiếp dẫn đến giai đoạn cuối cùng, khi mà các chính sách kinh tế vĩ mô và

các cú sốc ngoại sinh làm bùng nổ khủng hoảng. Các chính sách vĩ mô - phần

lớn là các chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái và các chính sách tài khoá -

thường quyết định thời gian và độ lớn của khủng hoảng. Yếu tố làm bùng

phát khủng hoảng có thể là các cú sốc bên ngoài hoặc bên trong nền kinh tế,

18

ví dụ như biến động chính trị của Mexico, sự tấn công đầu cơ vào đồng baht

của các định chế tài chính quốc tế.

1.5.Các dấu hiệu của khủng hoảng tài chính:

Việc nắm được nguyên nhân của khủng hoảng tài chính giúp cho việc xác

định dấu hiệu cảnh báo khủng hoảng được dễ dàng hơn. Nhìn chung, các dấu

hiệu của khủng hoảng có thể được tìm thấy trên phương diện kinh tế vi mô

hoặc thông qua các chỉ số kinh tế vĩ mô.

1.5.1.Về phương diện kinh tế vi mô:

Đầu tiên là tình trạng “sức khỏe” của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Bản chất của hoạt động kinh doanh là chứa đựng rủi ro, do đó, việc các

doanh nghiệp gặp phải rủi ro phá sản là điều dễ hiểu trong nền kinh tế thị

trường. Tuy nhiên, nếu như hàng loạt doanh nghiệp trong nền kinh tế đối

diện với nguy cơ phá sản, có nghĩa là các chính sách điều hành nền kinh tế

của chính phủ đang có vấn đề. Mặt khác, việc phá sản của hàng loạt doanh

nghiệp sẽ kéo theo những hệ lụy xấu cho nền kinh tế, như tỷ lệ thất nghiệp,

các khoản nợ không có khả năng chi trả, sản xuất trì trệ….

Kế đến, tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng là chỉ số cần được đặc

biệt lưu ý, bởi vì hệ thống ngân hàng chính là nơi cung cấp thanh khoản cho

nền kinh tế. Những dấu hiệu cần lưu ý là mức lợi nhuận của ngân hàng, sự

tăng nhanh của danh mục cho vay, tỷ lệ các khoản nợ vay khó đòi cao, tỷ lệ

tiền gửi giảm hoặc tăng đột ngột, tỷ lệ vay trên thị trường liên ngân hàng…

1.5.2.Về phương diện kinh tế vĩ mô:

Có ba dấu hiệu báo trước một cuộc khủng hoảng là nền kinh tế tăng trưởng

nóng và tỷ giá hối đoái quá yếu hoặc quá mạnh. Khi nền kinh tế tăng trưởng

quá nóng sẽ thúc đẩy tăng trưởng nhu cầu đầu tư vào thị trường chứng

khoán, bất động sản, thu hút đầu tư nước ngoài. Còn với tỷ giá hối đoái quá

yếu hoặc quá mạnh trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng quá nóng sẽ thúc

19

đẩy các nhà đầu tư tăng lượng tiền vào những nơi sinh lợi nhanh và đầu cơ.

Hai yếu tố trên thường dẫn đến hiện tượng bong bóng và nổ bong bóng giá

tài sản, dẫn đến khủng hoảng tài chính.

Bên cạnh đó là những dấu hiệu như: cung tiền mặt dồi dào, quản lý lỏng lẻo,

hệ thống ngân hàng yếu kém, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối mỏng, hệ

thống thể chế chưa hiện đại.

Kết luận Chương 1

Trong chương 1, tác giả đã trình bày khái quát cơ sở lý luận chung về khủng

hoảng tài chính như: bản chất, nguyên nhân, các dấu hiệu…. Việc hiểu rõ về

khủng hoảng tài chính sẽ giúp ích trong việc nhận diện sự hình thành của các

“cơn bão tài chính” trong quá trình vận động của nền kinh tế. Trong chương

tiếp theo, tác giả sẽ trình bày thực trạng nền kinh tế và phân tích những nguy

cơ tiềm ẩn khủng hoảng tài chính tại Việt Nam.

20

CHƯƠNG 2

NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨN

Nền kinh tế Việt Nam đã bước vào một giai đoạn tiềm ẩn những nguy cơ bất

ổn. Rủi ro có thể xuất phát từ cả bên trong nền kinh tế lẫn từ bên ngoài, khi

mà nền kinh tế toàn cầu đang có những biến động khó lường. Nếu như những

nguy cơ từ bên trong xuất phát từ nội tại nền kinh tế, đặc biệt là sự yếu kém

của hệ thống tài chính, thì những nguy cơ từ bên ngoài lại xuất phát từ quá

trình hội nhập, mở cửa, tự do hóa tài chính, tự do hóa thương mại, hoặc do lây

nhiễm khủng hoảng. Tuy độ mở của nền kinh tế Việt Nam đã tương đối cao,

nhưng với các biện pháp kiểm soát vốn tương đối chặt chẽ, thị trường tài

chính – tiền tệ còn sơ khai và quá trình tự do hóa thương mại, tự do hóa tài

chính chưa diễn ra mạnh mẽ thì những nguy cơ đối với nền kinh tế Việt Nam

chủ yếu do các nhân tố nội tại gây ra. Phần này của đề tài tập trung trình bày

những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro trong nền kinh tế Việt Nam.

2.1.Nền kinh tế USD hóa:

Việt Nam hiện đang phải đối diện với tình hình USD hóa không chính thức,

khi mà USD được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, phần lớn người dân đã

quen với việc sử dụng đồng USD mặc dù Chính phủ đã có những quy định

ngăn cấm như cấm niêm yết giá hàng hóa bằng USD, cấm dùng USD đối với

hầu hết giao dịch trong nước. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là sự

mất lòng tin vào VND của người dân Việt Nam trong bối cảnh lạm phát cao,

VND liên tục mất giá và khả năng tiếp cận USD trên thị trường tự do, không

thông qua ngân hàng khá dễ dàng.

USD hóa, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn lạm phát cao,

sẽ khiến cho mức cung tiền trong nền kinh tế trở nên khó dự báo hơn và việc

21

kiểm soát giao dịch thanh toán trong nền kinh tế trở nên khó khăn, dẫn đến

việc tính toán vòng quay tiền tệ không chính xác. USD hóa còn khiến cho cầu

ngoại tệ tăng gây sức ép đẩy tỷ giá lên cao, làm giảm giá trị VND và khiến

cho cầu VND không ổn định. Như vậy, USD hóa có tác động không nhỏ đến

hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.

Tuy nhiên, tác động nguy hiểm nhất của USD chính là khả năng Chính phủ

không thể thực hiện tốt vai trò điều tiết tỷ giá, một khi lượng ngoại tệ trên thị

trường tự do quá lớn, vượt quá khả năng tác động lên giá cả ngoại tệ trên thị

trường của Chính phủ.

Ảnh hưởng của tình hình USD hóa đối với nền kinh tế còn được thể hiện rõ

hơn khi phân tích những rủi ro khác của nền kinh tế Việt Nam, như tình trạng

thâm hụt cán cân thanh toán.

2.2.Mất cân đối trong cán cân thanh toán:

2.2.1.Thâm hụt tài khoản vãng lai:

Hiện trạng cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu bao gồm cán cân thương

mại hàng hóa và cán cân chuyển giao, còn dịch vụ và thu nhập tương đối

nhỏ. Thâm hụt thương mại là nhân tố chính đóng góp vào thâm hụt cán cân

tài khoản vãng lai ở Việt Nam hiện nay.

Năm 2010, với xuất khẩu ước đạt 71,6 tỷ USD, nhập khẩu ở mức 84 tỷ

USD, nhập siêu năm 2010 đạt khoảng 12,4 tỷ USD, giảm nhẹ so với năm

2009 (12,85 tỷ USD), nhưng vẫn chiếm khoảng 11,3% GDP.

100

80

60

40

20

0

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

-20

-40

Xuất khẩu (tỉ USD) Nhập khẩu (tỉ USD) Nhập siêu (tỉ USD)

Hình 2.1 Thâm hụt thương mại Việt Nam (Nguồn : Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010) Nguyên nhân đầu tiên của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại hiện nay

22

đến từ bất cập trong cơ cấu xuất nhập khẩu. Thông thường, nhập siêu nhưng

cơ cấu hàng nhập khẩu tập trung vào hàng hóa phục vụ đầu ra tạo ra năng

lực xuất khẩu mới hoặc dùng để sản xuất ra những mặt hàng có giá trị gia

tăng cao thì việc nhập siêu đó không đáng ngại, bởi nó tạo ra năng lực sản

xuất và sức cạnh tranh trong dài hạn để hỗ trợ xuất khẩu tương lai. Tuy

nhiên, với mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hàng nông lâm sản, than đá, dầu

thô, dệt may và giày da, trong khi cơ cấu nhập khẩu chủ yếu là nguyên,

nhiên, vật liệu và hàng tiêu dùng như trường hợp Việt Nam, thì tình trạng

thâm hụt cán cân thương mại sẽ vẫn kéo dài và trầm trọng.

Nguyên nhân tiếp theo, mang tính chất quyết định nhất khiến cho cán cân

thương mại của Việt Nam bị thâm hụt ngày càng lớn, đe dọa làm mất cân

đối cán cân thanh toán tổng thể, chính là cơ chế tỷ giá.

Trong cơ chế tỷ giá thả nổi, một mặt tỷ giá phụ thuộc vào cán cân thương

mại trước đó nhưng mặt khác bản thân tỷ giá lại là yếu tố điều chỉnh cán cân

thương mại trong tương lai trở về trạng thái cân bằng trong mối quan hệ

tổng thể với các dòng vốn khác. Khi tỷ giá được thả nổi, khi nhu cầu nhập

23

khẩu tăng cao khiến nhu cầu ngoại tệ trong nước tăng lên tương ứng, giá

ngoại tệ sẽ tăng một cách tương đối so với giá bản tệ. Sự tăng giá ngoại tệ

khiến cho nhập khẩu trở nên đắt đỏ, đồng thời xuất khẩu lại được lợi. Nhờ

cơ chế này khiến cho nhu cầu nhập khẩu giảm, xuất khẩu được lợi dẫn đến

cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết quả là không những nhập siêu giảm mà giá ngoại

tệ cũng giảm trở lại, cả cán cân thương mại và tỷ giá trở về trạng thái cân

bằng.

Việt Nam áp dụng chế độ neo tỷ giá, VND được neo chặt vào USD, tỷ giá

về cơ bản là cố định, khiến cho tỷ giá không thực hiện được chức năng điều

hòa cán cân thương mại theo cơ chế trên. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng

cao, các dòng vốn vào nhiều, lạm phát cao đã khiến cho VND có xu hướng

lên giá so với USD, khiến cho sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam giảm,

làm giảm xuất khẩu, hỗ trợ nhập siêu.

Một điều đặc biệt cần xem xét trong cán cân thanh toán của Việt Nam là dù

cán cân vốn thặng dư do đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 18,6tỷ USD,

kiều hối đạt 8tỷ USD, thì cán cân thanh toán vẫn bị thâm hụt khoảng 4%

GDP, tuy mức thâm hụt này đã giảm khá nhiều so với năm 2009.

Trên lý thuyết, một quốc gia có thâm hụt tài khoản vãng lai nhưng cũng có

mức thặng dư tài khoản vốn cao thì không đáng lo ngại, bởi vì thâm hụt tài

khoản vãng lai sẽ được bù đắp bằng thặng dư trong tài khoản vốn. Tuy

nhiên, vấn đề nằm ở chỗ Việt Nam là một nền kinh tế có mức độ USD hóa

cao, tâm lý người dân ưa thích nắm giữ ngoại tệ, do đó, thặng dư tài khoản

vốn của Việt Nam không được sử dụng để bù đắp thâm hụt tài khoản vãng

lai hay bổ sung dự trữ ngoại hối, mà một số lượng ngoại tệ lớn đã được găm

giữ trong dân chúng, trong các doanh nghiệp… Xét trên khía cạnh này, nếu

như chính phủ không có những biện pháp khắc phục tình trạng suy giảm

niềm tin vào giá trị VND đang hiện hữu trong tâm lý người dân, thì tình

trạng thâm hụt của Việt Nam rất đáng lo ngại.

24

2.2.2.Nguy cơ từ thâm hụt tài khoản vãng lai:

Đối với một nền kinh tế đang trong bước đầu của quá trình phát triển như

Việt Nam, tình hình thâm hụt cán cân thương mại là điều dễ hiểu. Tuy

nhiên, với tỷ lệ thâm hụt trên 10%, cộng với tâm lý găm giữ ngoại tệ của

người dân đã khiến Việt Nam đối diện với nguy cơ sụt giảm dự trữ ngoại

hối.

Sự cân đối của thị trường ngoại hối phụ thuộc vào cung cầu, nút thắt của sự

cân đối luồng ngoại tệ vào và ra chính là nhập siêu, bù đắp nhập siêu là

nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối, do thặng dư trên tài

khoản vốn đã bị găm giữ ngoài hệ thống ngân hàng, khiến cho dự trữ ngoại

Hình 2.2 Tình hình dự trữ ngoại hối Việt Nam (Nguồn : Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010) Dự trữ ngoại hối đóng vai trò “giảm sốc”, giúp cho nền kinh tế chống đỡ

hối của Việt Nam trong thời gian qua đã giảm mạnh.

được các cú sốc trong thương mại quốc tế, và giúp điều hòa những biến

động của cá dòng lưu chuyển vốn và ổn định tỷ giá. Dự trữ ngoại hối còn có

vai trò quan trọng trong việc “bảo hiểm” cho nền kinh tế chống lại những

thay đổi bất lợi trong nền kinh tế nội địa hay toàn cầu.

25

Đối với nền kinh tế áp dụng chế độ neo tỷ giá như Việt Nam, dự trữ ngoại

hối giảm còn dẫn tới việc chính sách tiền tệ khó khăn hơn để tìm được điểm

cân bằng cho cả hai vấn đề: giảm lãi suất và ổn định tỷ giá. Theo lý thuyết,

khi cung tiền M2 tăng lên, đồng nội tệ sẽ rẻ đi và lãi suất giảm xuống,

nhưng tỷ giá sẽ tăng lên, và ngược lại nếu giảm cung tiền M2, đồng tiền sẽ

khan hiếm hơn và đắt lên, đẩy lãi suất tăng cao, cho dù tỷ giá lúc đó sẽ hạ

hơn. Để giảm lãi suất và giảm cả tỷ giá, chỉ có một cách duy nhất là tăng

cung tiền, đồng thời rút bớt dự trữ ngoại hối cung cấp ra thị trường để cân

bằng lại. Tuy nhiên, với khả năng hiện nay dự trữ ngoại hối Việt Nam khá

mỏng, sẽ không dễ dàng để ngân hàng Nhà nước can thiệp khi tỷ giá tiếp tục

có những biến động mạnh.

Dự trữ ngoại hối giảm khiến cho VND chịu áp lực xuống giá cũng tạo áp

lực lên nợ nước ngoài của Việt Nam theo hướng gia tăng rủi ro mất khả

năng thanh toán và sụt giảm mức tín nhiệm về tín dụng. Do đó, dù tình hình

cán cân thanh toán của Việt Nam không bị coi là quá trầm trọng bởi nghĩa

vụ nợ ngắn hạn của Việt Nam tương đối nhỏ, nhưng nếu như Việt Nam

không ổn định được tình hình kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và đảm bảo

môi trường đầu tư hấp dẫn để giành được niềm tin của các nhà đầu tư trong

nước cũng như ngoài nước vào nền kinh tế của mình thì hiện tượng rút vốn

hoàn toàn có thể xảy ra.

Ngoài ra, Việt Nam còn đối diện với nguy cơ “thâm hụt kép” khi mà tình

hình thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng. Thâm hụt ngân sách và thâm

hụt cán cân thanh toán luôn đi liền với nhau, và trong bối cảnh nền kinh tế

Việt Nam, điều này đã làm gia tăng nguy co rủi ro khủng hoảng tiền tệ. Vì

vậy, phần tiếp theo của đề tài sẽ nghiên cứu về thực trạng thâm hụt ngân

sách ở Việt Nam để có một cái nhìn rõ hơn về những nguy cơ này.

26

2.3. Thâm hụt ngân sách và nợ công:

2.3.1.Chính sách tài khóa và tình hình thâm hụt ngân sách:

Năm 2009, nhằm đối phó với nguy cơ suy thoái kinh tế do cuộc khủng

hoảng tài chính thế giới gây ra, Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế

với quy mô gần 8 tỷ USD, tương đương 8%GDP, thực chi tăng 36.000 tỷ

đồng so với dự toán, đạt 29,3% GDP. Vì vậy, thâm hụt ngân sách năm 2009

8.00%

140000

120000

117200

115900

7.00%

6.90%

120000

6.00%

5.80%

100000

5.50%

5.00%

5%

5%

4.95%

4.85%

80000

66200

4.00%

56500

60000

48500

3.00%

40700

40000

2.00%

20000

1.00%

0.00%

0

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011 (F)

Thâm hụt ngân sách (tỉ đ.)

% GDP

Hình 2.3 Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005-2011 (Nguồn : Bộ Tài chính)

lên tới 6,9% GDP.

Năm 2010, chính sách tài khóa tiếp tục được mở rộng với việc mức bội chi

ngân sách nhà nước tương đương 5,8% GDP, giảm so với năm 2009 và cũng

giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ

trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi

ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều

năm) cho thấy là mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được ưu tiên hàng đầu và

Chính phủ tiếp tục chủ động sử dụng chính sách tài khóa nhằm mở rộng chi

27

tiêu cũng như đầu tư công. Trong bối cảnh tỷ lệ đầu tư của Việt Nam hiện

nay là cao nhất thế giới mà hiệu quả đầu tư lại thuộc dạng thấp (theo tính

toán của Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm

2010 của Việt Nam là 6,2), thì càng đầu tư cao, càng cần vốn, cần tín dụng,

và vì không thể tăng năng suất nên sức ép lạm phát nảy sinh.

Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo

nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng

nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.

2.3.2.Tài trợ thâm hụt ngân sách và tình hình nợ công:

Nguồn tài trợ thâm hụt ngân sách chủ yếu hiện nay là vay nợ, bao gồm nợ

trong nước và nợ nước ngoài, cơ cấu nợ chủ yếu là nợ nước ngoài trung và

dài hạn. Do ngân sách thâm hụt thường xuyên, cộng với đặc thù của một

nước đang phát triển là nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao nên số nợ công của

44.6

41.9

50 45

36.2

33.8

40 35 30

P D G

%

25 20 15 10

5 0

2007

2008

2009

2010

Hình 2.4 Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ qua các năm (Nguồn : Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010) Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ công bằng

Việt Nam tăng nhanh trong những năm qua.

56,6% GDP, dư nợ chính phủ bằng 44,6% GDP và nợ nước ngoài chiếm

28

42,2% GDP. Trong đó, tổng nợ nước ngoài tính đến hết 30/06/2010 là 29 tỷ

USD (so với lượng dự trữ ngoại hối khoảng 14 tỷ USD).

Như vậy, nếu so với các nền kinh tế đang phát triển khác (phổ biến khoảng

30%-40%) thì tỷ lệ nợ công của Việt Nam cao hơn hẳn, tuy là vẫn trong tầm

kiểm soát do chủ yếu là nợ trung và dài hạn. Nếu xét mức nợ công bình

quân đầu người bình quân đầu người trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009),

mức nợ công bình quân đầu người đã tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới

548 USD, tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình

quân đầu người của cùng thời kì chỉ là 6%/năm.

2.3.3.Nguy cơ từ thâm hụt ngân sách và nợ công:

Thâm hụt ngân sách cao và liên tục thể hiện việc nền kinh tế Việt Nam đang

đối mặt với sự mất cân bằng kinh tế lớn, trong đó cốt lõi là mất cân bằng

giữa tiết kiệm và đầu tư trong khu vực công. Điều này là hệ quả của mô hình

tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư mà Việt Nam đang theo đuổi, trong khi

hệ số ICOR không được cải thiện.

Mức bội chi ngân sách cao, trong khi hiệu quả đầu tư thấp chính là một

trong những nguyên nhân khiến cho cung tiền ở Việt Nam tăng cao, gây áp

lực lạm phát. Mặt khác, điều này còn thể hiện dấu hiện thiếu bền vững của

ngân sách vì các khoản chi tiêu, đầu tư của Chính phủ đã không tạo ra

nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới.

Thâm hụt ngân sách còn khiến cho tình hình nợ công ngày càng trầm trọng.

Việc tài trợ thâm hụt ngân sách bằng trái phiếu trong nước cũng chính là

một yếu tố góp phần khiến lãi suất được ghìm giữ ở mức cao, khiến cho đầu

tư tư nhân sụt giảm. Trong khi đó, tài trợ bằng vay nợ nước ngoài tăng cao

trong bối cảnh dự trữ ngoại hối đang suy giảm, thâm hụt cán cân thương mại

lớn, hiệu suất sử dụng vốn vay thấp dẫn đến việc uy tín của Việt Nam bị

giảm trên thị trường thế giới mà tiêu biểu là việc Fitch, công ty định giá tín

nhiệm, đã hạ mức tín nhiệm về nợ dài hạn nước ngoài và đồng nội tệ của

29

Việt Nam xuống mức B+, có nghĩa là mức độ rủi ro tương đối cao và xác

suất vỡ nợ của chính phủ Việt Nam lớn.

Như vậy, có thể nhận thấy Việt Nam đang phải đối diện với rủi ro đến từ tỷ

lệ nợ công đang tăng cao. Tuy tỷ lệ nợ ngắn hạn Việt Nam thấp nên nguy cơ

về khủng hoảng nợ là chưa hiện hữu, tuy nhiên, nếu hệ số ICOR không

được cải thiện, kỷ luật tài khóa không được thực hiện nghiêm túc thì trong

trung và dài hạn, chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ nước ngoài.

Bên cạnh đó, bội chi ngân sách khiến cho cung tiền dư thừa trong nền kinh

tế, là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát tăng cao, khiến Việt Nam

tiếp tục phải đối diện với một rủi ro vĩ mô khác.

2.4.Lạm phát:

2.4.1.Tình hình lạm phát và nguyên nhân:

Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn

bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Từ

năm 2004 đến nay, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đều cao hơn tốc độ tăng

Hình 2.5 Diễn biến giá tiêu dùng trong năm 2010. (Nguồn : Tổng cục Thống kê)

GDP, đặc biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng ba lần tốc độ tăng GDP.

30

Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Tuy

nhiên, do nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố dẫn đến lạm phát cao nên số

liệu lạm phát chính thức của năm 2010 được xác định là 11,75%, cao hơn

rất nhiều so với mục tiêu chính phủ đề ra, và cao gấp gần hai lần tốc độ tăng

trưởng GDP.

Nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam là sự kết hợp của ba nhóm

yếu tố:

- Chi phí đẩy: giá điện, giá xăng dầu đều được điều chỉnh tăng, ảnh huởng

từ việc điều chỉnh tỷ giá, ảnh hưởng của khủng hoảng và xu thế lạm phát

trên toàn cầu.

- Cầu kéo: các gói kích thích kinh tế khiến tăng chi tiêu của chính phủ để

kích thích tổng cầu tăng, trong khi nguồn cung chưa tăng đáp ứng do đầu

tư kém hiệu quả dẫn đến gia tăng giá cả và lạm phát.

- Nguyên nhân tiền tệ:

Đối với lạm phát do chi phí đẩy hoặc do cầu kéo, nếu chính phủ sử dụng

chính sách tiền tệ hợp lý, khiến cho mức tăng cung tiền trong nền kinh tế

phù hợp với mức tăng của hàng hóa thì tác động của hai loại lạm phát trên

sẽ được loại trừ. Hơn nữa, mức lạm phát ở Việt Nam cũng cao hơn nhiều

so với các nước trong khu vực. Do đó, nguyên nhân chính của lạm phát

Việt Nam đến từ lý do nội tại trong nền kinh tế, cụ thể là cung tiền cao.

Lạm phát hiện nay là kết quả của chính sách tìm mọi biện pháp ngắn hạn

(mà chủ yếu là thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư) để kích thích

tăng trưởng của nhiều năm trước trong khi ICOR không được cải thiện.

Hậu quả là nền kinh tế Việt Nam với xuất phát điểm thấp và hoạt động đầu

tư không hiệu quả lại phải hấp thụ một lượng vốn đầu tư tương đối lớn và

áp lực tăng cung tiền để thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng và

tài trợ cho thâm hụt ngân sách.

Hình 2.6: Tốc độ tăng trưởng cung tiền và GDP. (Nguồn: IMF, BMI forecast, EIU, Báo cáo của BVSC)

31

Cụ thể, với tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam khá cao, xoay quanh mức 40%

GDP trong vòng 3 năm trở lại, năm 2009 tăng trưởng tín dụng phải tăng

đến 37.74% và tăng trưởng cung tiền M2 đạt mức 28.7% để tạo ra một

mức tăng trưởng GDP là 5.32%, năm 2010 tăng trưởng tín dụng là 27,65%

và tăng trưởng cung tiền M2 đạt khoảng 25% để tạo ra mức tăng trưởng

GDP là 6,785%. Chênh lệch giữa tổng phương tiện thanh toán và tăng

trưởng GDP thực tế cho thấy lượng hàng hóa sản xuất ra chưa tương xứng

với lượng tiền lớn được đưa vào lưu thông. Khi lượng tiền đổ vào nền kinh

tế quá nhiều, lại không được sử dụng một cách hiệu quả để sản xuất ra

hàng hóa và dịch vụ thì sẽ dẫn tới tình trạng “quá nhiều tiền nhưng quá ít

hàng”, nói cách khác, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng GDP

trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.

Một nguyên nhân tiền tệ dẫn đến lạm phát nữa là việc Việt Nam đang nhập

khẩu lạm phát thông qua việc ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng

USD trong khi đồng tiền này biến động trên thị trường tiền tệ toàn cầu.

Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam đã nhập khẩu một phần ảnh hưởng

32

lạm phát của việc đồng USD mất giá. Thứ hai, trong bối cảnh các đồng

tiền châu Á đang tăng giá so với USD thì VND lại giảm giá so với USD.

Nghịch lý này tạo ra sự tác động luân chuyển và làm cho CPI tăng, ở chỗ:

các đồng tiền châu Á cũng tăng giá mạnh so với VND, mà Việt Nam lại là

nước nhập khẩu nhiều trong khu vực, yếu tố này sẽ truyền dẫn vào giá

hàng hóa làm cho giá cả tăng cao.

Cuối cùng là tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua,

áp lực tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát.

- Nguyên nhân khác:

Tâm lý tiêu dùng của người Việt chuộng đồ ngoại khiến nhập siêu diễn ra

trong nhiều năm đã tích tụ một lượng lạm phát được nhập khẩu tương đối

lớn.

Lạm phát Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tâm lý phát sinh lạm phát kỳ

vọng, khiến cho lạm phát kỳ vọng cao hơn rất nhiều so với lạm phát danh

nghĩa, cho thấy tâm lý người dân Việt Nam không thích nắm giữ VND.

Nếu hiện tại lạm phát ở mức cao và dân chúng cho rằng VND tiếp tục mất

giá (lạm phát tiếp tục tăng) thì họ sẽ chuyển từ giữ VND sang các tài sản

tài chính khác và tích cực mua hàng hóa.

2.4.2.Nguy cơ tiềm ẩn từ lạm phát

Sự ổn định giá cả, tuy không phải là yếu tố duy nhất, nhưng lại là yếu tố

quan trọng nhất để có được môi trường tài chính ổn định. Lạm phát không

chỉ ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tương lai

nền kinh tế do niềm tin của nhà đầu tư bị sụt giảm. Cho dù nguyên nhân nào

đi nữa thì việc chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát tăng cao, kéo dài sẽ có

những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những tác động chủ yếu

bao gồm:

33

Giá cả tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả

năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Điều này có

tác động xấu đến tình hình xuất khẩu. Bên cạnh đó, Việt Nam đang duy trì

chế độ neo tỷ giá, tỷ lệ lạm phát cao sẽ hỗ trợ cho việc tiêu dùng hàng nhập

khẩu của nhân dân, làm cho tình hình nhập siêu ngày càng trầm trọng.

Thông qua ảnh hưởng lên hoạt động xuất nhập khẩu, lạm phát gián tiếp tạo

áp lực lên cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, gây sức ép

giảm giá VND.

Điều này đặc biệt nghiêm trọng hơn trong bối cảnh Việt Nam là một nền

kinh tế USD hóa rất cao nên người dân dễ dàng dịch chuyển từ tài sản đánh

giá bằng đồng nội tệ sang tài sản đánh giá bằng ngoại tệ, bao gồm cả vàng.

Quá trình này có diễn ra mạnh mẽ hay không phụ thuộc nhiều vào niềm tin

của người dân đối với thị trường tài chính, vào đồng tiền. Kỳ vọng không tốt

về lạm phát, một tín hiệu cho thấy nền kinh tế bất ổn, sẽ tác động không tốt

đến niềm tin vào giá trị VND. Điều này tiếp tục tạo sức ép trực tiếp lên tỷ

giá và gián tiếp khiến cho lãi suất tiếp tục tăng cao. Mặt khác, với niềm tin

vào giá trị đồng tiền trong tương lai bị xói mòn, áp lực phá giá VND càng

ngày càng đè nặng và lượng dự trữ ngoại hối thấp, Việt Nam đang đối diện

với nguy cơ mất khả năng kiểm soát giá trị VND. Cộng với việc đặc điểm

người dân Việt Nam có tâm lý bầy đàn rất cao, chỉ một cú sốc bất lợi cho

nền kinh tế - tài chính (ví dụ giá dầu, giá vàng thế giới tăng cao) cũng có thể

gây ra một cuộc khủng hoảng, khi cho dù tình hình thực tế không trầm

trọng.

Mặt khác, lạm phát tại Việt Nam sẽ khuyến khích các hoạt động đầu tư

mang tính đầu cơ hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất. Dòng tiền trong

nền kinh tế sẽ chảy vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn như bất động sản và

thị trường chứng khoán, hình thành nên các bong bóng tài sản. Đây là một

hiện tượng rất nguy hiểm cho nền kinh tế và là một trong những nguyên

34

nhân chủ yếu tạo thành khủng hoảng, bởi lẽ sớm hay muộn gì thì các “bong

bóng” cũng phải vỡ, gây mất ổn định nền kinh tế.

2.5.Chính sách tiền tệ - tỷ giá:

2.5.1.Lãi suất:

Trong năm 2009, NHNN đã thực hiện khá nhiều biện pháp nới lỏng tiền tệ,

tổng mức tín dụng, phương tiện thanh toán đã tăng khá mạnh đạt tốc độ 26%

trong năm 2009 (so với mức tăng 16.3% của năm 2008), huy động vốn tăng

27% và cho vay nền kinh tế đã tăng tới 37.7%, một mức khá cao kể cả so

với những năm nền kinh tế diễn biến bình thường như giai đoạn 2006-2007,

dẫn đến nguy cơ lạm phát trong năm 2010.

Sang năm 2010, Chính phủ nhanh chóng chuyển từ chính sách kích thích

tăng trưởng sang ổn định vĩ mô bằng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn cộng

với việc dừng đột ngột chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất. Ngay từ đầu

năm, mặt bằng lãi suất cho vay đã ở mức khá cao, khoảng 15%-16%/năm.

Trong quý II đến đầu quý III, lạm phát tương đối thấp, NHNN thực hiện

chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm hạ lãi suất phục vụ tăng trưởng kinh tế. Khi

lãi suất đầu vào trên thị trường giảm xuống được 11% vào tháng 10, thì

cũng là lúc lạm phát bất ngờ tăng, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt thực

hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước quyết định nâng

mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam lên 9%/năm; theo đó, VNBA và

các Ngân hàng Thương mại đồng thuận trần lãi suất huy động là 12%/năm.

Tuy nhiên, lãi suất thực tế đã vượt xa trần do việc thắt chặt tín tiền tệ phát ra

đúng vào thời điểm cầu tín dụng tăng mạnh (cuối năm) và hạn mức tín dụng

của các ngân hàng đã gần hết. Kể từ đầu tháng 11/2010, lãi suất huy động

VND đã tăng vọt từ 11 - 11,5%/năm lên đến trên 17%/năm ở một số NHTM

đối với một số kỳ hạn ngắn, đồng thời lãi suất cho vay VND cũng tăng từ

13-14%/năm lên tới 19 - 21%/năm tùy từng loại khoản vay.

35

Có thể thấy, lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng nếu không giảm xuống thì

chính sách thắt chặt tiền tệ khiến cho lãi suất tái cấp vốn, lãi suất trên thị

trường liên ngân hàng đều tăng, đẩy lãi suất đầu ra tăng theo. Lạm phát còn

khiến cho ngân hàng phải tìm mọi cách tăng lãi suất huy động để đủ sức hấp

dẫn và thu hút lượng tiền gửi vào ngân hàng.

Một nguyên nhân nữa khiến lãi suất tăng cao là từ sự khát vốn và tìm mọi

cách để bù đắp thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các

ngân hàng nhỏ. Với biểu đồ lãi suất huy động hiện nay (lãi suất ngắn hạn

hấp dẫn hơn lãi suất dài hạn) và tình hình lạm phát đang tăng cao ảnh hưởng

đến tâm lý sợ rủi ro của người dân, vốn huy động của các ngân hàng chủ

yếu là ngắn hạn, và các khoản huy động này sẽ liên tục đến hạn. Ở đầu ra,

khách hàng vay vốn lại thường chọn vay trung và dài hạn. Điều này ngoài

việc khiến cho các ngân hàng thiếu thanh khoản, còn làm tăng rủi ro thanh

khoản của ngân hàng và vô tình khiến cho các ngân hàng liên tục phải giữ

chân khách hàng, dẫn đến cuộc đua lãi suất căng thẳng.

Mặt bằng lãi suất cao phản ánh tình trạng lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô, sự

kém hiệu quả của nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng.

2.5.2.Tỷ giá và việc điều hành tỷ giá:

Tỷ giá hối đoái là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, tác

động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư

trực tiếp, gián tiếp, và ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.

Trên lý thuyết, giữ ổn định tỷ giá có thể giúp tăng cường lòng tin vào đồng

nội tệ, buộc chính phủ phải kiểm soát thâm hụt ngân sách và tốc độ tăng tín

dụng, thông qua đó tăng cường mức độ tin cậy vào chính sách của chính

phủ.

Ở Việt Nam, đồng USD gần như được mặc định là đồng tiền neo tỷ giá,

NHNN là cơ quan công bố tỷ giá VND/USD, căn cứ vào tỷ giá quốc tế giữa

USD và các đồng tiền ngoại tệ khác, các NHTM sẽ xác lập tỷ giá giữa các

36

ngoại tệ đó với VND. Việc áp dụng biên độ dao động tương đối chặt đối với

tỷ giá VND/USD do NHNN ấn định có nghĩa là đồng VND tiếp tục không

được tự do chuyển đổi. Trên thực tế, việc điều hành/điều chỉnh tỷ giá của

NHNN thời gian qua thường chỉ chạy theo xu thế của thị trường mà chưa

thật sự song hành kịp thời để mang tính điều tiết rõ hơn. Mỗi khi tỷ giá thị

trường tự do biến động theo chiều hướng không thuận một thời gian, NHNN

mới có biện pháp can thiệp. Trong quá trình đó, việc thiếu minh bạch thông

tin đã làm sứt mẻ niềm tin của công chúng và giới đầu tư – tài chính.

Một đặc điểm khác của cơ chế tỷ giá Việt Nam là chế độ hai tỷ giá. Mặc dù

trên thực tế NHNN áp dụng một tỷ giá chính thức cho tất cả các giao dịch

thương mại trên phạm vi cả nước nhưng tỷ giá thị trường tự do vẫn hiện

diện song song với tỷ giá chính thức. Các cá nhân bị hạn chế tiếp cận nguồn

ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng. Chính điều này là nguyên nhân khiến

cho thị trường ngoại tệ tự do vẫn tiếp tục phát triển với quy mô tương đối

Hình 2.7 Tỷ giá USD/VND thị trường tự do và tỷ giá quy định của NHNN (Nguồn: NHNN) Với thâm hụt cán cân thanh toán cùng với tâm lý găm giữ ngoại tệ, áp lực về

lớn.

cung cầu trên thị trường đã khiến tỷ giá trên thị trường tự do ngày càng rời

xa thị trường chính thức. Kỳ vọng đồng USD sẽ tăng giá do USD có khả

37

năng khan hiếm vì bù đắp nhập siêu đã khiến tạo ra một tâm lý đầu cơ USD

trên diện rộng, bất chấp sự mất giá của USD trên thế giới. Hoạt động này,

đến lượt nó, hiện thực hóa việc đồng USD tăng giá khiến USD tăng giá

nhanh và nghiêm trọng hơn mức vốn có. Tình hình trên đã khiến NHNN

phải thực hiện các biện pháp can thiệp như: ngày 11/2/2010, NHNN cũng đã

có quyết định tăng tỷ giá thêm hơn 3%, lên mức 18.544 VND và cố định từ

đó cho đến ngày 17/8. Ngày 18/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá

liên ngân hàng lên hơn 2% (từ 18.544VND/USD lên 18.932 VND/USD) và

giữ nguyên biên độ. Với sự điều chỉnh trên (biên độ ±3%), mức trần tỷ giá

USD/VND mà các Ngân hàng Thương mại có thể giao dịch trong ngày 18/8

sẽ ở mức 19.500 VND/USD (làm tròn số), thay cho mức tối đa 19.100

VND/USD trước đó.

Cuối tháng 11/2010, do tác động sự tăng vọt của giá vàng thế giới và mặt

bằng lãi suất tăng cao, tỷ giá tăng vọt lên mức 21.380 - 21.450 đồng/USD,

trên thị trường tự do tỷ giá vượt qua mức 21.500 đồng/USD. Chênh lệch tỷ

giá giữa thị trường chợ đen so với tỷ giá chính thức đến 10%. Đây là mức

chênh lệch cao nhất trong lịch sử tài chính Việt Nam từ năm 1990.

2.5.3.Nguy cơ tiền tệ

Do lạm phát tăng cao, nhưng vẫn phải đảm bảo tính thanh khoản cho hệ

thống ngân hàng, NHNN đã lựa chọn nâng lãi suất, thay vì nâng tỷ lệ dự trữ

bắt buộc tại tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, lạm phát

tiền tệ ở Việt Nam có nguồn gốc từ việc gia tăng chi tiêu công và đầu tư

công. Do đó, việc lãi suất vẫn đang được giữ ở mức cao sẽ không có tác

dụng kiềm chế lạm phát nếu như không kiểm soát được chính sách tài khóa

và việc chi tiêu công.

Liên quan đến tỷ giá, trong bối cảnh có lạm phát cao và liên tục, nhưng Việt

Nam vẫn theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá danh nghĩa. Điều này góp phần

làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, làm trầm trọng hơn thâm hụt

38

thương mại, đồng thời, tăng rủi ro tỷ giá. Bên cạnh đó, nhu cầu gia tăng về

USD, được củng cố thêm bằng mức thâm hụt thương mại lớn và những lo

ngại về lạm phát ngày càng gia tăng, đã tạo ra kỳ vọng VND mất giá khiến

người dân và doanh nghiệp giảm niềm tin vào việc điều hành chính sách tài

chính – tiền tệ của Chính phủ, NHNN, gây ra những bất ổn trên thị trường.

Hiện tượng USD hóa có thể sẽ là một thách thức, đặc biệt là khi các nhà

chức trách thể hiện không đủ khả năng kiểm soát lạm phát và cơ chế tỷ giá

hối đoái không được tự do hóa.

Trong bối cảnh VND đang chịu sức ép giảm giá, vai trò điều tiết của hệ

thống tài chính là vô cùng quan trọng. Xét trên khía cạnh này, hệ thống tài

chính của Việt Nam có thể không đảm đương được nhiệm vụ của mình.

2.6.Hệ thống tài chính dễ bị tổn thương:

Hệ thống tài chính của Việt Nam đã phát triển rất nhanh, từ một hệ thống sơ

khai trong đó các NHTM quốc doanh chiếm vị trí thống trị, thành một hệ

thống tài chính đa dạng hơn bao gồm cả các NHTM nhà nước, NHTMCP, và

ngân hàng nước ngoài. Đồng thời, các công cụ và thị trường tài chính cũng

trở nên phong phú hơn rất nhiều với sự xuất hiện của nhiều loại trái phiếu

(chính phủ và công ty), hai thị trường chứng khoán, bảo hiểm, thuê mua và

các công ty tài chính phi ngân hàng. Quá trình cải cách hệ thống tài chính của

Việt Nam được thực hiện rất nhanh trong khi hệ thống giám sát và điều tiết lại

không được phát triển một cách tương ứng. Điều này làm cho hệ thống tài

chính của Việt Nam trở nên rất dễ bị tổn thương, trong đó các ngân hàng hiện

là khu vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.

Ngân hàng là hoạt động kinh doanh có tính rủi ro cao hơn hầu hết các hoạt

động kinh doanh khác vì tài sản tài chính thường có tính thanh khoản cao và

thị trường tài chính chịu tác động của rất nhiều biến số không dự đoán được.

Vì các ngân hàng nằm ở trung tâm của một chuỗi dài các hoạt động huy động

và phân bổ vốn nối liền người tiết kiệm và nhà đầu tư nên thất bại của chúng

39

sẽ khiến bản thân ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế phải gánh chịu hậu

quả. Hành động cho vay bất cẩn của ngân hàng cũng làm cho chính sách tiền

tệ của ngân hàng trung ương trở nên kém hiệu lực.

Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể nhận thấy trên

những khía cạnh sau:

2.6.1.Ngân hàng Nhà nước có mức độ độc lập thấp:

Các bằng chứng thực nghiệm cũng như những lý thuyết kinh tế đã chỉ ra

rằng, trong nền kinh tế thị trường, tính độc lập của NHTW là yếu tố then

chốt để NHTW điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.

Ở nước ta, từ khi thành lập cho đến nay, NHNN là cơ quan của Chính phủ,

chịu sự can thiệp hành chính của Chính phủ. Thống đốc NHNN là thành

viên của Chính phủ, có hàm tương đương với Bộ trưởng, được Chính phủ

bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội. Chính vì vậy,

hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn của Chính phủ. NHNN chỉ

là cơ quan xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ trình

Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có trách

nhiệm điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt.

Tương tự, NHNN Việt Nam không được độc lập thiết lập mục tiêu hay xây

dựng chỉ tiêu hoạt động.

Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam nằm ở

cấp độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc lập thấp

nhất của NHTW đối với Chính phủ. Gần như mọi hoạt động của NHNN đều

phải được sự cho phép của Chính phủ (phát hành tiền, thực hiện chính sách

tiền tệ quốc gia, cho vay ngân sách trung ương, bảo lãnh cho các doanh

nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong trường hợp

đặc biệt). Có thể nhận thấy, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan

quản lý hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, chứ không phải là

40

một thiết chế đặc biệt dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn

đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an

ninh tiền tệ của một quốc gia.

Điều này phần nào làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực hiện

chính sách tiền tệ quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong phản

ứng chính sách trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính - tiền

tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền. Bên cạnh đó, do là cơ quan của

Chính phủ nên có trường hợp NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không

phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn như tái cấp vốn cho

các NHTM để khoanh, xoá nợ các khoản vay của các tập đoàn nhà nước và

doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn

chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn

định giá trị đồng tiền.

2.6.2.Hệ thống ngân hàng yếu kém:

Trong 10 năm trở lại đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có nhiều bước

phát triển nhanh chóng và đáng ghi nhận, góp phần quan trọng với sự phát

triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xét trong mối tương quan so với các nước

trong khu vực và thế giới thì hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất yếu

so với các nước cả về mức độ cạnh tranh lẫn tính lành mạnh và an toàn hệ

thống.

Tốc độ phát triển hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính của Việt Nam

là tương đối nhanh, chỉ số tín dụng/GDP và tiền gửi/GDP tăng từ 17,7% và

13,6% năm 1991 lên 115% và 130% năm 2010, qua đó cải thiện đáng kể của

độ sâu tài chính. Từ năm 2000 – 2010, số lượng ngân hàng tăng từ 89 lên

120 ngân hàng, chủ yếu là ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân

hàng nước ngoài. Tuy nhiên, quy mô vốn điều lệ của những ngân hàng có

quy mô lớn nhất toàn hệ thống như Agribank (khoảng 1 tỷ USD),

Vietcombank (trên 850 triệu USD) hay Vietinbank (xấp xỉ 800 triệu USD),

41

vẫn còn thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu

vực.

Xuất phát từ năng lực thấp, không đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, lợi

nhuận của hệ thống ngân hàng thương mại chủ yếu đến từ hoạt động tín

dụng. Vì vậy, dù nội lực thấp, hệ thống ngân hàng thương mại vẫn được

khuyến khích cho vay dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng so với GDP tăng

lên rất nhanh chóng, quy mô tín dụng cho nền kinh tế cũng vượt qua tổng

thu nhập quốc dân GDP. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng năm 2010

đã vượt mục tiêu 25% và tăng tới 27,6%, trong đó tín dụng VND tăng

25,3%, tín dụng ngoại tệ tăng 37,7%. Bên cạnh đó, tổng phương tiện thanh

toán cũng tăng 23% so với cuối năm 2009 (mục tiêu là tăng 20%) và huy

động vốn tăng 24,5%. Tiền mặt trong lưu thông tăng khoảng 15%, tỷ trọng

tiền mặt lưu thông so với tổng phương tiện thanh toán khoảng 14%.

Tín dụng tăng tất yếu sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt

Nam tăng cao, nợ xấu tính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2,5% tổng dư nợ

cho vay, nếu tính cả số nợ xấu của Vinashin thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 3,2%.

Nguyên nhân của tình trạng nợ xấu gia tăng đến từ việc các ngân hàng chạy

đua để tăng trưởng tín dụng, chạy theo lợi nhuận và tâm lý chủ quan vào sự

hỗ trợ của NHNN thông qua các nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu và

bơm thanh khoản nếu có tình trạng khó khăn xảy ra. Việc cho vay chủ yếu

dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường

hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp. Bên cạnh đó là

việc cho vay theo chỉ định của Nhà nước và tình trạng hệ thống quản trị rủi

ro hầu như không được các ngân hàng chú trọng.

Về an toàn vốn, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chỉ mới đáp ứng được

đủ yêu cầu về mức an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế Basel II

(8%). Nếu so sánh với mức bình quân 13,1% của các ngân hàng khu vực

châu Á Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) và với tỷ lệ

42

12,3% của các ngân hàng của các nước châu Á mới nổi (gồm 14 ngân hàng

Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines) thì tỷ lệ của hệ thống ngân hàng

Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn rất nhiều (giữ ở mức trên 10% với các

NHTM lớn, riêng khối các NHTMNN vẫn chỉ đạt 9,6%).

Điều đáng lưu ý là những tỷ lệ trên được tính theo chuẩn mực kế toán Việt

Nam (VAS) ít nghiêm ngặt hơn so với các tiêu chuẩn quốc tế (IFRS) nên

khó có thể so sánh và đánh giá chính xác. Điều này khiến hệ thống ngân

hàng Việt Nam bị đánh giá khá thấp về mức độ bảo vệ nhà đầu tư và sự lành

mạnh hệ thống ngân hàng.

2.6.3.Đánh giá hệ thống tài chính Việt Nam:

Tỷ lệ nợ xấu tương đối cao khiến nguy cơ rủi ro tín dụng của các ngân hàng

trở nên hiện hữu. Trước nguy cơ đó, vốn điều lệ có vai trò quan trọng trong

việc tăng cường độ an toàn và bền vững của ngân hàng. Hệ số an toàn vốn

cao sẽ bảo đảm cho ngân hàng tăng sức chống đỡ trong trường hợp hoạt

động kinh doanh ngân hàng không hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh các chỉ

số vĩ mô của Việt Nam đều đang xấu như hiện nay. Xét trên khía cạnh này,

trong bối cảnh mở cửa kinh tế - tài chính, tình trạng yếu kém năng lực về

vốn đã đặt hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vào vị thế dễ bị tổn

thương.

Rủi ro này có thể gia tăng trong bối cảnh Việt Nam dần mở cửa tài khoản

vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Trường hợp xảy ra khủng hoảng tài

chính thì khả năng can thiệp, điều tiết của hệ thống ngân hàng thương mại

Việt Nam hầu như là rất thấp. Trong khi đó, chốt chặn cuối cùng của hệ

thống tài chính Việt Nam là NHNN lại không có tính độc lập cao và thất bại

trong việc phát triển một hệ thống điều tiết, giám sát và cưỡng chế thực sự

có sức mạnh. Hoạt động điều tiết, giám sát và cưỡng chế bất cập mở ra cơ

hội cho việc tích lũy rủi ro quá mức, và vì vậy đặt toàn bộ hệ thống tài chính

trước những rủi ro to lớn do những cú sốc bất ngờ đem lại.

43

2.7.Đánh giá những nguy cơ tiềm ẩn đối với Việt Nam:

Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn về kinh tế

vĩ mô. Thậm chí, có thể nói rằng những dấu hiệu tiền khủng hoảng đã xuất

hiện ở Việt Nam. Đó là:

- Nền kinh tế USD hóa, dẫn đến nguy cơ không kiểm soát được giá trị

VND.

- Nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán: Thâm hụt cán cân vãng lai, dự trữ

ngoại hối giảm khiến việc giảm lãi suất và ổn định tỷ giá của NHNN gặp

nhiều khó khăn khả năng can thiệp của chính phủ trong bối cảnh đồng

VND sụt giảm nhanh bị giới hạn, làm gia tăng nguy cơ phá giá VND.

- Nguy cơ về nợ công: Với tỷ lệ nợ công chiếm 52% GDP, tuy nợ ngắn hạn

nước ngoài còn thấp đã làm giảm đáng kể sự dễ tổn thương của Việt Nam

trong bối cảnh xảy ra khủng hoảng tiền tệ, tuy nhiên, Việt Nam phải đối

mặt với nhiều yếu tố tiêu cực, bao gồm: phải thực hiện đúng hạn đối với

các cam kết nợ công cả ngoài nước và trong nước, mức dự trữ ngoại hối

của Việt Nam đã giảm mạnh do tình trạng nhập siêu. Chưa kể là nếu trong

trường hợp một cuộc khủng hoảng ngân hàng hoặc khủng hoảng tiền tệ nổ

ra, đặc biệt nếu có cuộc khủng hoảng đôi, thì Chính phủ sẽ phải tham gia

giải cứu hệ thống ngân hàng, khiến vay nợ Chính phủ sẽ tăng lên rất nhanh.

Trong tình huống đó, khủng hoảng nợ có thể là một nguy cơ hiện hữu.

- Nguy cơ lạm phát: trong một nền kinh tế có mức độ USD hóa cao như

Việt Nam, nguy cơ lạm phát sẽ khiến cho niềm tin vào VND giảm sút,

người dân sẽ quay lưng lại với đồng nội tệ và chuyển sang tích trữ vàng và

USD. Mặt khác, VND mất giá sẽ tác động tới việc trả nợ nước ngoài và

cán cân thanh toán, làm tăng chi phí sản xuất và giá thành, tác động tới

lạm phát dưới dạng chi phí đẩy, đối với doanh nghiệp trong nước vay nợ

bằng USD đến hạn trả nợ sẽ phải tăng thêm gánh nặng tài chính.

44

- Nguy cơ về tiền tệ: Việc vận hành chính sách tiền tệ như hiện nay trong

bối cảnh dự trữ ngoại hối đang giảm dẫn đến rủi ro tài chính vĩ mô đáng kể

nhất mà Việt Nam có thể gặp phải trong trung hạn là vấn đề tiền tệ, cụ thể

là việc mất kiểm soát giá trị VND.

- Nguy cơ trong lĩnh vực ngân hàng: với cấu trúc và năng lực tài chính, năng

lực cạnh tranh như hiện nay, hệ thống tài chính mà chủ yếu là hệ thống ngân

hàng rất dễ bị tổn thương. Sự thiếu hụt đáng kể trong việc điều hành và

giám sát ngành tài chính, làm gia tăng nguy cơ về khủng hoảng tiền tệ bắt

nguồn từ các vấn đề trong hệ thống ngân hàng.

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt

Nam nếu xảy ra sẽ mang đặc thù sau:

- Khủng hoảng tài chính sẽ có dạng thức của khủng hoảng ngân hàng do

những yếu kém đặc biệt của khu vực này như năng lực vốn thấp, nợ xấu

cao…

- Khủng hoảng tiền tệ là nguy cơ hiện hữu, khi mà hầu hết các chỉ báo đều

đang nghiêng về xu hướng giảm giá VND.

- Với nền tảng kinh tế vĩ mô và điều kiện quốc tế như hiện nay, có thể nói

khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa thể xảy ra ở Việt Nam trên diện rộng.

Nếu có xảy ra thì chỉ có thể là khủng hoảng cục bộ ở một số lĩnh vực của

nền kinh tế. Lý do khủng hoảng tài chính vẫn chưa diễn ra tại Việt Nam

nằm ở 3 điểm: thứ nhất, vay nợ của Việt Nam vẫn nằm trong phạm vi

kiểm soát được, nợ ngắn hạn nước ngoài còn thấp; thứ hai, Việt Nam vẫn

chưa tự do hóa tài khoản vốn; thứ ba, chưa có một cú sốc đủ mạnh từ bên

trong hay bên ngoài nền kinh tế. Tuy nhiên, với việc vay nợ gia tăng, xu

hướng mở cửa và tự do hóa tài chính đang diễn ra mạnh mẽ thì Việt Nam

sẽ phải đối diện với nhiều “ngòi nổ” kích hoạt khủng hoảng trong tương lai

nếu như không có những biện pháp thích hợp. Những rủi ro hay bất ổn tài

45

chính này ít hay nhiều còn phụ thuộc phần lớn vào điều kiện nội tại của

nền kinh tế, đặc biệt là sức mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng.

Kết luận Chương 2

Trong chương 2, tác giả đã phân tích tình hình tài chính Việt Nam hiện nay.

Những diễn biến vừa qua trên thị trường trong và ngoài nước cho thấy Việt

Nam đang phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng, đặc biệt là nguy cơ về

tiền tệ. Chính vì thế, nếu không nhận thức đúng vấn đề và có các biện pháp

kịp thời để giải quyết thì những rủi ro tiềm ẩn nói trên sẽ có cơ hội bùng phát.

Để ngăn ngừa được những nguy cơ tiềm ẩn này, trong chương 3, tác giả trình

bày một số khuyến nghị về mặt chính sách cho Việt Nam.

46

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NGĂN NGỪA

KHỦNG HOẢNG Ở VIỆT NAM

Từ những nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế Việt Nam như đã phân tích ở

trên, để có thể dự báo và tránh được khủng hoảng tài chính, khuyến nghị Việt

Nam cần có những chính sách hợp lý.

3.1.Cải thiện nền tảng vĩ mô nền kinh tế:

Nền tảng vĩ mô kinh tế vững mạnh được điều hành bởi các chính sách đúng

đắn luôn luôn là lá chắn hữu hiệu nhất, bảo vệ toàn bộ hệ thống – tài chính

khỏi nguy cơ khủng hoảng. Qua các phân tích thực trạng nền kinh tế Việt

Nam, có thể thấy rằng rủi ro kinh tế vĩ mô của Việt Nam đang ở mức cao, thể

hiện ở mức lạm phát kỳ vọng cao, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ

ngoại tệ mỏng, thâm hụt ngân sách cao và nợ công đã đến đỉnh điểm. Nền

kinh tế USD hóa, lại có lãi suất VND, kỳ vọng mất giá VND (tỷ giá VND so

với USD) cao và nếu ba yếu tố này không đảm bảo nguyên tắc cân bằng lãi

suất thì rất dễ tạo ra hiệu ứng khuyến khích đầu cơ tài chính vào vàng, chứng

khoán, ngoại tệ, bất động sản, rất nguy hiểm cho sự phát triển ổn định, bền

vững. Trong khi đó, ổn định hệ thống tài chính Việt Nam chưa tốt, không có

sức chống đỡ nếu xảy ra khủng hoảng.

Trong phần này trình bày một số khuyến nghị chính sách có tính định hướng

nhằm giảm lạm phát và tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô. Mục tiêu lớn

nhất hiện nay là thực hiện ngay các biện pháp bình ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt

là giảm lạm phát (thông qua giảm tốc độ tăng cung tiền và tín dụng), giảm

thâm hụt ngân sách, giảm thâm hụt cán cân thương mại, đảm bảo lãi suất thực

47

dương, thắt chặt chi tiêu của nhà nước (thông qua điều chỉnh đầu tư công).

Việc thực hiện những chính sách điều chỉnh vĩ mô được đề xuất dưới đây sẽ

không dễ dàng, nhất là khi chúng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP.

Thế nhưng, trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế buộc phải hy sinh một phần

tăng trưởng ngắn hạn để đổi lấy sự ổn định và bền vững dài hạn. Sự thành

công của chính sách bình ổn cũng sẽ giúp tăng cường niềm tin của các nhà đầu

tư vào năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ, nhờ đó duy trì được dòng vốn

đầu tư ổn định một cách lâu dài và giảm thiểu rủi ro niềm tin vào VND.

Những điều chỉnh vĩ mô được liệt kê có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói

cách khác, không thể chỉ điều chỉnh một chính sách trong khi giữ nguyên các

chính sách còn lại. Chẳng hạn như, mặc dù lạm phát và nhập siêu ở Việt Nam

có nguyên nhân tiền tệ (do cung tiền và tín dụng tăng quá nhanh) nhưng cũng

phải thấy rằng, đến lượt mình, tăng trưởng tín dụng lại phụ thuộc vào chính

sách đầu tư công - vốn có quan hệ mật thiết với thâm hụt ngân sách. Như vậy,

để thực hiện được các biện pháp điều chỉnh vĩ mô thì các cơ quan hoạch định

chính sách của Việt Nam cần phải phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, và

sự nhịp nhàng và đồng bộ này chỉ có thể có được nếu như chúng được điều

phối bởi một cơ quan hoạch định chính sách cao cấp duy nhất.

3.1.1.Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và độc lập:

Chính sách tiền tệ phải thật sự là chính sách điều hành lưu thông tiền tệ

trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ của NHTW tác động lan tỏa tới

hệ thống các tổ chức tín dụng và các kênh luân chuyển vốn trên thị trường

tài chính bằng các công cụ của chính sách tiền tệ.

3.1.1.1.Nâng cao tính độc lập cho NHNN

Thực tế cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can

thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những

nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong

việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ và

48

hệ thống tài chính thời gian qua. Các bằng chứng thực nghiệm cũng đã cho

thấy rằng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ có sự can thiệp chính

trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn.

Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện

tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả hoạt động và là nền tảng

quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là NHTW và sau đó là tiến

tới một NHTW hiện đại.

Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, tác giả đưa ra một số đề xuất chính

sách chính nhằm tạo điều kiện và cơ sở để NHNN có thể độc lập hơn, qua

đó kỳ vọng làm cho chính sách tiền tệ trở nên có hiệu lực, hiệu quả hơn

đối với các mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách và ổn

định hệ thống tài chính.

Trong ngắn hạn, NHNN Việt Nam vẫn tiếp tục là một cơ quan ngang bộ,

theo luật NHNN 2010, vì vậy, cần áp dụng cách thức gián tiếp để tăng tính

độc lập của NHTW, đó là xây dựng quy chế cho phép NHNN được lựa

chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu, phù hợp với

điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với các

chính sách khác của Chính phủ. Bên cạnh đó, NHNN cần được trao quyền

lựa chọn mục tiêu này mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ Chính

phủ hay các cơ quan liên quan khác. Điều này sẽ đảm bảo cho việc thực thi

chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát trở nên hiệu quả hơn. Theo đó,

mục tiêu ổn định giá trị VND, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng của

NHNN sẽ là ưu tiên hàng đầu của NHNN, tránh được tình trạng NHNN

phải thực hiện những mục tiêu thuộc về quản lý nhà nước như góp phần

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vốn làm hạn chế năng lực và tính chủ

động của một NHTW thật sự.

Để tăng thêm tính độc lập cho NHNN, Thống đốc phải được trao quyền

quyết định trong việc thực thi các chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm

49

về các quyết định đó chứ không nên thông qua Chính phủ. Quyền được

trao cho Thống đốc cũng cần bao gồm việc được phép từ chối những

nhiệm vụ như tạm ứng chi ngân sách vượt quá mục tiêu thâm hụt được phê

duyệt hàng năm… Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ

động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của chính sách tiền tệ -

một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách.

Một biện pháp nữa để nâng cao tính độc lập của NHNN, đó là cơ cấu lại

thành phần của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, theo đó, Hội

đồng sẽ bao gồm các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực tài chính – tiền

tệ, có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTW của các nước, am hiểu

về điều kiện kinh tế Việt Nam. Cơ cấu này sẽ đảm bảo cho việc hoạt động

độc lập và hiệu quả của NHNN Việt Nam.

Để thực hiện tốt những điều trên và điều hành tốt chính sách tiền tệ,

NHNN phải có cơ chế thu hút được đội ngũ lớn những chuyên gia đầu

ngành về tài chính, ngân hàng và cần phải cạnh tranh được với các ngân

hàng thương mại trong việc thu hút chuyên gia về môi trường làm việc và

chế độ lương thưởng. Do đó, cần trao quyền tự chủ thu – chi, đặc biệt là

trong quản lý biên chế các chi nhánh và vụ, cục cho thống đốc NHNN.

Đi đôi với việc nâng cao vị thế và tính độc lập, Thống đốc NHNN cần phải

được giao trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch về các mục tiêu và

quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao

phó, định kỳ và theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội.

Phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy lạm phát cao đi

kèm với bất ổn vĩ mô đã làm bộc lộ nhiều hạn chế trong việc xây dựng và

thực thi các chính sách tiền tệ mà một trong những nguyên nhân quan

trọng là do NHNN thiếu tính độc lập trong việc hoạch địch và thực thi

chính sách. Nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý,

về công cụ và mục tiêu chính sách cũng như về tổ chức, nhân sự và tài

50

chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo cơ sở cho sự can thiệp có hiệu

quả hơn của NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát,

giảm thiểu nguy cơ rủi ro tiền tệ đang tiềm ẩn trong nền kinh tế Việt Nam.

3.1.1.2.Cơ chế điều hành lãi suất:

Hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn, đó là

áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ

mô. Để hạn chế lạm phát, chính sách tiền tệ cần phải tiếp tục thắt chặt, tuy

nhiên, cần đảm bảo việc thắt chặt này không gây ra những cú sốc thanh

khoản cho thị trường, giữ vững tính ổn định cho tăng trưởng kinh tế.

Để thực hiện được điều này, cần xây dựng được một cơ chế lãi suất có

hiệu quả, đủ sức thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để cung cấp

thanh khoản cho nền kinh tế, tránh trường hợp cung tiền trong nền kinh tế

phần lớn xuất phát từ việc NHNN bơm thanh khoản cho hệ thống ngân

hàng thương mại thông qua kênh thị trường mở và lãi suất tái cấp

vốn/chiết khấu như hiện nay. Điều này sẽ giúp cho lượng tiền trong lưu

thông được rút về, giảm nguy cơ lạm phát tiền tệ, đồng thời chống được

khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, việc

nguồn vốn từ dân chúng đổ vào hệ thống ngân hàng cũng thể hiện niềm tin

đối với chính sách tài chính –tiền tệ của chính phủ.

Do vậy, tự do hóa lãi suất để bảo đảm lãi suất thực dương là mục tiêu cần

hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo qui

luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng nền kinh tế

đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp

dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng

những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.

- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản linh hoạt, có hiệu

lực, phù hợp, định hướng được lãi suất thị trường. Khi xây dựng được

mức lãi suất cơ bản này, NHNN sẽ có khả năng kiểm soát tốt lãi suất

51

trong hệ thống ngân hàng, từ đó, dần dần điều chỉnh lãi suất huy động

và cho vay trong nền kinh tế. Mức lãi suất cơ bản này cũng giúp cho hệ

thống ngân hàng và doanh nghiệp biết được định hướng của NHNN đối

với lãi suất tiền đồng trong thời gian sắp tới để có kế hoạch kinh doanh

phù hợp. Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức

lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho

vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều

tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên

trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để

đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.

- Với lãi suất huy động ở đầu vào, trong thời điểm lạm phát đang có

nguy cơ bùng phát như hiện nay và thực lực các NHTM còn yếu và

không đồng đều, NHNN cần giữ việc quy định trần lãi suất huy động

để tránh việc chạy đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng có thể làm

kỳ vọng lạm phát gia tăng, cũng như hạn chế tình trạng các ngân hàng

tìm mọi cách để huy động vốn cao và đầu tư vào các dự án mạo hiểm,

gây rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, việc quy định trần lãi suất huy động nên

áp dụng theo một cơ chế linh hoạt. Theo đó, NHNN không nên quy

định trần lãi suất huy động bằng một con số cố định như hiện nay mà

nên thực hiện khống chế lãi suất huy động không được phép vượt qua

một giới hạn hay một tỷ lệ nào đó so với lãi suất tái cấp vốn của

NHTW, hoặc so với lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng,

linh hoạt theo thời gian, theo nguyên tắc làm chỗ dựa lan tỏa, đảm bảo

cho lãi suất huy động ngoài thị trường của các NHTM luôn luôn thực

dương. Đối với những tổ chức tín dụng thiếu thanh khoản khi thực thi

quy chế lãi suất huy động, NHNN có thể bơm thanh khoản ngắn hạn

ngay với một tỷ trọng đủ để vượt qua khó khăn và với lãi suất tương

đương với trần lãi suất huy động tại thời điểm đó mà NHNN đã công

bố đang có hiệu lực. Điều này sẽ giúp cho việc công bố trần lãi suất

52

huy động của NHNN trở thành có giá trị, khắc phục tình trạng trần lãi

suất huy động được công bố cho thị trường “tham khảo” để tự thực thi

như hiện tại.

- Đối với thị trường tín dụng ở đầu ra, NHNN cần cho phép các tổ chức

tín dụng tiếp tục dùng cơ chế cho vay thỏa thuận lãi suất. Trong bối

cảnh lạm phát, cơ chế cho vay này có thể khiến cho lãi suất cho vay

tăng cao, tuy nhiên, sẽ góp phần tạo ra một đường cong lãi suất thích

hợp với bối cảnh thực tế của thị trường, góp phần tạo thuận lợi cho

doanh nghiệp vay vốn, đồng thời ngân hàng cũng có lãi theo nguyên tắc

trung gian và cùng chia sẻ lợi ích. Ngoài ra, cơ chế lãi suất thỏa thuận

còn giúp nâng cao tính cạnh tranh giữa các ngân hàng, và đây cũng

chính là cơ chế để thị trường tự phân phối lại lợi thế của những NHTM

có năng lực huy động vốn tốt.

- Liên quan đến cơ chế này, NHNN cũng cần ban hành chính sách buộc

các NHTM phải trích một tỷ lệ trên vốn huy động đủ an toàn để đầu tư

vào chứng khoán nợ dài hạn của Chính Phủ, hoặc chứng khoán nợ dài

hạn do Chính phủ bảo lãnh và lưu ký tại NHNN làm công cụ tham gia

thị trường mở do NHNN tổ chức. Khi cần khắc phục cung – cầu thanh

khoản thì NHTM sẽ phải sử dụng nguồn lực của mình, tránh trường

hợp NHNN phải phát hành tín phiếu của chính mình để tự biến thành

con nợ của các NHTM khi phải hút tiền lưu thông về khi chống lạm

phát (như năm 2008) hoặc phải thu mua tín phiếu của mình về với giá

lỗ để bơm tiền ra cứu suy giảm kinh tế (như năm 2009).

Như vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt đi đôi với cơ chế điều hành lãi suất

bảo đảm lãi suất thực dương để giảm cung tiền như trên sẽ có tác dụng đối

với lạm phát. Tuy lãi suất sẽ tăng, gây khó khăn cho sản xuất, làm chậm

tốc độ tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, đó lại là cơ hội để nguồn vốn tín

dụng chảy vào những dự án sản xuất có hiệu quả, góp phần làm cho hệ

thống ngân hàng trở nên lành mạnh hơn. Hơn nữa, trong bối cảnh các rủi

53

ro vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam đang cao như hiện nay, đánh đổi tăng

trưởng kinh tế để giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng, kiềm chế lạm phát, ổn

định vĩ mô là điều cần được ưu tiên.

3.1.1.3.Lựa chọn chính sách tỷ giá phù hợp:

Để giảm thiểu được rủi ro mất kiểm soát VND, giữ vững ổn định vĩ mô,

nhất là kiểm soát nhập siêu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo các

cân đối cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán tổng thể,

cân đối cân tiết kiệm đầu tư, cân đối tích lũy tiêu dùng và quản lý nợ nước

ngoài thì chính sách tỷ giá hối đoái giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Chính

sách tỷ giá càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong bối cảnh sự phục hồi kinh

tế toàn cầu còn rất mong manh và tiềm ẩn không ít nguy cơ tạo ra những

cơn chấn động trên thị trường tài chính tiền tệ.

Dự kiến với các sức ép mất cân đối kinh tế giữa trong và ngoài nước như

hiện nay, xu hướng giảm giá VND là tất yếu song mức độ và thời điểm

điều chỉnh giảm cần đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối và chính

sách thương mại, đảm bảo không tạo ra các cú sốc đối với ổn định kinh tế

vĩ mô, đồng thời, không quá kỳ vọng vào việc giải quyết ngay những mất

cân đối vĩ mô đã tích tụ trong khoảng 5 năm gần đây, nhất là chỉ thông qua

công cụ đơn độc như điều chỉnh tỷ giá hối đoái.

Những phân tích trên đã cho thấy chính sách neo tỷ giá, linh hoạt đã không

giúp Việt Nam kiềm chế lạm phát và cũng không giúp cho Việt Nam kiềm

chế nhập siêu, VND vẫn chịu sức ép mất giá. Việc duy trì kiểm soát tỷ giá

trong thời gian quá dài và không linh hoạt đã làm giảm sút lòng tin của

người dân vào VND, USD bị găm giữ trong dân chúng và các doanh

nghiệp, làm trầm trọng thêm hiện tượng USD hóa nền kinh tế, tăng hoạt

động đầu cơ, đẩy tỷ giá thị trường tự do vượt xa tỷ giá chính thức và do đó

gây thêm căng thẳng trên thị trường ngoại hối do khan hiếm “ảo” USD.

54

Trong khuôn khổ của bài viết này, để giảm thiểu rủi ro tỷ giá, tác giả cho

rằng Việt Nam nên xây dựng kế hoạch để chuyển sang cơ chế tỷ giá có thả

nổi có quản lý, tương tự như các nước trong khu vực. NHNN không tuyên

bố trước tỷ giá trung tâm, tỷ giá thương mại hàng ngày về cơ bản được xác

lập hoàn toàn bởi các giao dịch theo cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tuy

nhiên, NHNN có thể dùng các biện pháp can thiệp như mua bán ngoại tệ

trên thị trường liên ngân hàng và/hoặc các biện pháp kiểm soát nguồn vốn

ra vào Việt Nam để làm mềm dao động của tỷ giá.

Việt Nam hiện nay đã thỏa mãn được nhiều điều kiện khiến cho việc áp

dụng cơ chế quản lý tỷ giá thả nổi có quản lý sẽ mang lại nhiều lợi ích so

với cơ chế tỷ giá cố định, đó là:

- Thứ nhất, giá cả của hầu hết các mặt hàng của Việt Nam hiện nay đã

được quyết định theo cơ chế thị trường, việc thả nổi tỷ giá sẽ giúp biến

động của giá cả các mặt hàng trong nước cân bằng với sự biến động

của giá cả các mặt hàng trên thế giới, do đó giúp nền kinh tế phân bổ

tốt hơn.

- Thứ hai, độ mở của nền kinh tế Việt Nam lớn nhưng không bị lệ thuộc

mạnh vào một đối tác cụ thể nào, cho nên việc thả nổi tỷ giá sẽ giúp

Việt Nam ngăn chặn tốt các cú sốc từ thị trường hàng hóa quốc tế.

- Thứ ba, áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nối có kiểm soát sẽ giúp

NHNN không phải giải quyết bài toán về sự đánh đổi của chính sách.

Đó là do khi quyết định giữ tỷ giá hay phá giá, NHNN đều phải cân

nhắc giữa cái lợi và cái hại của quyết định này trong từng hoàn cảnh cụ

thể. Ví dụ như một quyết định phá giá sẽ có lợi cho xuất khẩu, đặc biệt

là những nhóm hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu thấp. Nhưng

phá giá lại làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động nhập khẩu phục vụ phát

triển trong nước và các nhóm hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu

cao. Đồng thời phá giá tạo ra kỳ vọng lạm phát và có thể trở thành lạm

55

phát thực sự trong kỳ sau nếu các chính sách vĩ mô không nhất quán

trong việc kiểm soát lạm phát. Đây vốn là một khó khăn mà NHNN rất

khó giải quyết do áp lực của các nhóm lợi ích trong nền kinh tế đối với

các chính sách của chính phủ ngày càng lớn.

- Thứ tư, dễ thấy rằng chế độ tỷ giá cố định cần một dự trữ ngoại hối cao

hơn so với chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý để NHNN có

thể giữ tỷ giá trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ có biến động.

- Thứ năm, dựa trên lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, trong một thị trường

vốn tương đối tự do như Việt Nam thì một chế độ tỷ giá cố định sẽ làm

cản trở chính sách tiền tệ độc lập, còn việc áp dụng một chế độ tỷ giá

thả nổi sẽ làm cho chính sách tiền tệ độc lập hơn. Tuy nhiên, trong thời

điểm hiện tại, thả nổi hoàn toàn không phải là một lựa chọn tốt cho Việt

Nam vì hệ thống tài chính chưa hoàn chỉnh. Những biến động quá

nhanh và quá mức của tỷ giá, đặc biệt là việc “nhập khẩu” lạm phát và

các biến động tiêu cực của thị trường thế giới có thể thông qua mối

quan hệ với tỷ giá làm ảnh hưởng đến sự ổn định của cán cân thanh

toán, ổn định tài chính cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Trong

trường hợp này, cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý là giải pháp tốt nhất.

Để chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý thực sự phát huy tác dụng, làm

tăng uy tín của VND thì Việt Nam cần phải chuẩn bị thêm một số điều

kiện khác.

- Khi từ bỏ cơ chế neo tỷ giá NHNN phải tìm đến các cơ sở khác để thực

thi chính sách tiền tệ, ví dụ như chính sách kiểm soát cung tiền và kiểm

soát lạm phát theo định hướng. Việc này đòi hỏi NHNN phải độc lập,

tức là một ngân hàng hoạt động trên nguyên tắc công khai, không bị tác

động bởi các chính sách tài khóa và các tổ chức kinh tế, tài chính trên

thị trường. Cụ thể, NHNN cần phải được độc lập về mặt luật pháp, độc

lập về mục tiêu để toàn quyền quyết định chọn mục tiêu của mình giữa

56

kiểm soát lạm phát, kiểm soát cung tiền hay kiểm soát tỷ giá, độc lập về

sử dụng các công cụ tiền tệ và độc lập về quản lý.

- Để cơ chế tỷ giá thả nổi có thể vận hành một cách hiệu quả thì thị

trường ngoại hối phải được hiện đại hóa và có hiệu quả cao. Ngoại tệ

cũng là một loại tài sản, một khi được cho phép, tỷ giá thả nổi ngoại tệ

sẽ được các chủ thể kinh tế tham gia thị trường mua bán trao đổi tương

tự nhu các sản phẩm tài chính khác như chứng khoán và vàng. Một thị

trường phát triển sẽ tạo cơ hội cho việc giao dịch ngoại hối và sự xuất

hiện của các công cụ phái sinh và các định chế tài chính trung gian liên

quan đến tỷ giá sẽ giúp chủ thể kinh tế hạn chế rủi ro.

Trong quá trình chuẩn bị để chuyển hẳn sang cơ chế tỷ giá thả nổi có quản

lý, NHNN cũng cần có những biện pháp nhằm giảm bớt hạn chế của cơ

chế điều hành tỷ giá hiện tại, chẳng hạn như việc điều chỉnh tỷ giá cần linh

hoạt hơn, làm giảm độ chênh lệch giữa lãi suất VND và lãi suất USD,

kiểm soát chặt hơn việc sử dụng USD của người dân. Cần chú ý là công

tác điều hành tỷ giá chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, bởi vậy nếu không có

các phản ứng linh hoạt theo thị trường thì việc can thiệp vào tỷ giá chỉ làm

nhiễu và trầm trọng thêm các vấn đề của nền kinh tế. Trên thị trường ngoại

hối, niềm tin và tâm lý rất quan trọng cho việc ổn định tỷ giá, vì thế,

NHNN nên công khai thường kỳ chính sách điều chỉnh tỷ giá của mình

cho công chúng và những nhà đầu tư, tăng cường hơn nữa tính minh bạch

trong điều hành tỷ giá. Đồng thời điều chỉnh tỷ giá phải đi kèm với việc

kiểm soát lạm phát, nếu không sẽ rơi và vòng xoáy điều chỉnh tỷ giá – lạm

phát – điều chỉnh tỷ giá, sẽ có hại cho nền kinh tế và là một trong những

nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khủng hoảng.

3.1.2.Chính sách tài khóa:

Đối diện với nguy cơ lạm phát bùng nổ như hiện nay, trong một nền kinh tế

có chế độ tỷ giá gần như cố định và không gian chính sách tiền tệ hạn chế

57

như Việt Nam, việc điều hành chính sách tài khóa lại càng có ý nghĩa quan

trọng trong chủ động kiểm soát lạm phát, cũng như nỗ lực ổn định vĩ mô cả

trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Thực tế cho thấy, nếu như ngân sách được sử

dụng hiệu quả thì chính sách tài khóa tỏ ra hiệu quả hơn chính sách tiền tệ

trong việc giúp tăng trưởng GDP, đồng thời không gây sức ép quá lớn tới

mặt bằng giá.

Như vậy, để giảm thiểu nguy cơ lạm phát, mức độ nghiêm trọng của thâm

hụt ngân sách hàng năm, nợ công đang gia tăng và vấn đề niềm tin vào giá

trị VND hiện đang trong tình thế rất nguy hiểm như hiện nay, củng cố tài

chính là việc bắt buộc phải làm. Có thể nói, trọng tâm của chính sách tài

khóa hiện nay là thắt chặt hợp lý, tăng hiệu quả của chi ngân sách, nhất là

chi cho đầu tư công nhằm giảm sức ép đối với CPI và giảm rủi ro khi có

những biến động từ bên ngoài. Cụ thể, kỷ luật tài khóa cần được khôi phục,

mà biểu hiện là thâm hụt ngân sách tính theo GDP phải giảm dần trong

những năm kế tiếp. Để làm được điều này, cần giảm sức ép lên chi tiêu công

và đồng thời cải thiện nguồn thu ngân sách.

- Để cải thiện nguồn thu cho ngân sách, cần giảm dần sự phụ thuộc thu

ngân sách vào khu vực DNNN, tăng cường nguồn thu từ khối doanh

nghiệp nói chung, hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân.

- Để giảm sức ép lên chi ngân sách, Nhà nước cần rút khỏi hoạt động kinh

tế một cách vững chắc, thông qua việc bán tài sản trong các doanh

nghiệp (quá trình cổ phần hóa). Mục tiêu của việc bán tài sản không phải

là để tăng thu ngân sách, mà thực chất là để giảm sức ép lên chi ngân

sách trong tương lai, hoặc những biến cố mang tính rủi ro liên quan đến

tài chính. Trên cơ sở thu hẹp DNNN, chất lượng đầu tư ở mức độ xã hội

có thể sẽ được nâng lên, và hiện tượng đầu tư quá mức có thể được giảm

trừ, dẫn đến cải thiện mất cân đối tiết kiệm – đầu tư, nhờ đó giảm thâm

hụt cán cân vãng lai.

58

- Bên cạnh đó, cần xây dựng chiến lược giảm dần nguồn ngân sách chi cho

đầu tư công bằng cách chuyển vai trò đầu tư sang cho khu vực tư nhân.

Với khả năng sử dụng đồng vốn đầu tư mang lại hiệu quả cao, có tiềm

lực tài chính, công nghệ… của khu vực tư nhân, Nhà nước cần có biện

pháp ưu đãi về thuế, tạo mặt bằng sạch, đơn giản hóa thủ tục đầu tư… để

thu hút khu vực này tham gia đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh

tế như: đường xá, cầu, cảng… Đây là giải pháp căn cơ để giảm gánh

nặng tăng ngân sách đầu tư của Nhà nước, từ đó hãm dần "chiếc van" tài

khoá, giúp việc kiểm soát lạm phát chủ động, hiệu quả hơn.

- Việt Nam cần có kế hoạch đầu tư chung cho toàn quốc để dựa vào đó sự

điều phối của các nhà tài trợ sẽ tốt hơn. Hiện nay mỗi dự án chúng ta lập

ra một ban quản lý dự án, khi xong dự án thì ban quản lý đó không còn.

Đến dự án khác thì lập ban quản lý khác, gây nên sự lãng phí về nhân lực

rất lớn. Việc thực hiện dự án nếu chuẩn bị tốt và có điều phối tổng thể thì

nó sẽ không bị chậm như trong quá khứ.

- Nâng cao hiệu quả của chi ngân sách, trong đó có hiệu quả của đầu tư

công, để cung tiền được hấp thụ và sử dụng có hiệu quả, góp phần giảm

sức ép đối với chỉ số giá tiêu dùng. Đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư

lớn đang triển khai. Cần xem xét kỹ cơ cấu vốn đối với các dự án quy mô

lớn đang chuẩn bị triển khai. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án

đầu tư lớn, để sớm đưa vào sử dụng, góp phần cho tăng trưởng kinh tế.

Hạn chế khởi công các dự án lớn, để tránh rủi ro của việc không thu xếp

được nguồn vốn, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính quốc tế vẫn

còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và bất trắc như hiện nay, thay vào đó tập trung

vốn cho hoàn thành các dự án có thể đưa vào sử dụng trong năm 2010 và

2011.

- Triển khai các giải pháp cấp bách, cần tái cấu trúc nền kinh tế, mà bản

chất là tạo ra hành lang pháp lý để đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực

59

đầu tư hiệu quả. Muốn vậy, cần tạo bước đột phá về cổ phần hóa DNNN

và tạo ra môi trường kinh doanh tiết kiệm chi phí hơn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, chính sách quản lý nợ, cả nợ công và nợ nước ngoài, nên theo

hướng không làm tăng quy mô nợ, đồng thời quản lý nợ trên cơ sở đảm bảo

hiệu quả cả vay và sử dụng các khoản nợ. Đặc biệt chú trọng quản lý rủi ro

về vay nợ, vừa tránh tình trạng không phát hành được các công cụ nợ, vừa

không sử dụng được nguồn thu từ các công cụ nợ đã phát hành như trong

mấy năm gần đây.

3.1.3. Xây dựng một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấp

Hiện nay, thẩm quyền ra quyết định chính sách quá phân tán, và điều này

một mặt cản trở sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan hoạch định chính

sách, mặt khác gây khó khăn cho các nhà lãnh đạo cao nhất khi họ phải phản

ứng một cách quyết đoán nếu khủng hoảng xảy ra. Để có thể duy trì sự nhất

quán và ổn định trong hệ thống chính sách vĩ mô, Việt Nam cần tập trung

thẩm quyền hoạch định chính sách trong tay một cơ quan duy nhất. Cho dù

cơ quan này sẽ được thành lập mới hay hình thành từ một cơ quan có sẵn từ

trước thì nó cũng phải thấu hiểu nền kinh tế nội địa và quốc tế, đồng thời có

đủ thẩm quyền để biến hiểu biết này thành những chính sách cụ thể. Để làm

được điều này, cơ quan hoạch định chính sách cao cấp này phải có thẩm

quyền cao hơn các bộ ban ngành, chính quyền địa phương, và tất nhiên là cả

các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Trong trường hợp xảy ra khủng hoảng, cơ quan này cũng cần được trao

quyền đình chỉ hay cắt giảm những dự án đầu tư công chưa thực sự cần thiết

hay lãng phí. Cần nhấn mạnh rằng việc xây dựng năng lực phân tích và

hoạch định chính sách cần thiết để cải thiện tình hình cho nền kinh tế vĩ mô

của Việt Nam sẽ không thể thực hiện được nếu chính phủ tiếp tục sử dụng hệ

chế độ tuyển dụng và đãi ngộ nhân sự hiện tại. Để có thể thu hút và giữ chân

được những người thực sự giỏi, cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao

60

cấp phải có thể trả lương tương đương với khu vực tư nhân. Quan trọng

không kém, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, và cất nhắc trong cơ quan này phải

tuyệt đối dựa vào năng lực.

3.2.Bảo vệ hệ thống tài chính nội địa khỏi nguy cơ lây nhiễm từ bên

ngoài:

Nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay đã mở hơn rất

nhiều so với trước và vì vậy chịu ảnh hưởng của những biến động trong nền

kinh tế thế giới. Tuy nhiên, với nền tảng tài chính chưa tốt, cộng với một hệ

thống tài chính còn non kém và năng lực thấp, trước mắt, Việt Nam không

nên thực hiện tự do hóa tài chính và cần áp dụng các biện pháp kiểm soát

vốn để tự bảo vệ trước những nguy cơ từ bên ngoài.

3.3.Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính:

Trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế và nền tảng kinh tế vĩ

mô còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, bên cạnh việc cải thiện nền tảng vĩ mô, khuyến

nghị Việt Nam cần phải có hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả để giúp cho các

nhà làm chính sách có thông tin hữu ích để làm cơ sở cho những phản ứng

chính sách kịp thời.

Theo kinh nghiệm các nước, để xây dựng hệ thống các chỉ tiêu cảnh báo

sớm, thường trải qua các bước tiến hành sau đây:

- Dựa trên phân tích hình mẫu tăng trưởng của nền kinh tế trong khoảng

thời gian dài, thường ít nhất hơn 10 năm để hình thành các giả thiết có

liên quan đến các nhân tố có tác động đến sự tăng/giảm của nền kinh tế

- Nghiên cứu bài học tốt nhất của quốc tế về các chỉ báo cảnh báo sớm để

áp dụng, để thiết kế hệ thống tương tự cho mình.

- Lựa chọn các biến số liên quan và các phương pháp/mô hình thích hợp.

- Thực nghiệm mô hình để chọn lựa mô hình tốt nhất. Thông thường mô

hình tốt nhất phải thoả mãn một số tiêu chuẩn:

61

+ Mức độ đơn giản: Mô hình đơn giản là để dễ cập nhật, dễ hiểu và dễ sử

dụng (đối với người không phải là chuyên gia: tức là những người có

kiến thức cơ bản về kinh tế, nhưng không phải chuyên sâu về kinh tế

lượng và thống kê);

+ Tần xuất của số liệu: các biến sử dụng trong mô hình phải là các chuỗi

thời gian hàng tháng, các chỉ tiêu tính trên cơ sở quý hoặc năm không

được sử dụng để dự báo ngắn hạn;

+ Thông tin định tính: dưới hình thức cơ bản, mô hình không kỳ vọng

cung cấp các dự báo số lượng chính xác cao mà thay vào đó là các biến

định tính, trong giai đoạn đầu có thể là các biến nhị phân 0,1 để phát đi

tín hiệu cảnh báo nếu suy thoái xảy ra;

+ Độ dài dự báo (tầm dự báo);

+ Số lượng các biến;

+ Số liệu thời gian thực: tất cả các biến số sử dụng trong mô hình phải là

các số liệu thực, tức là có thể thu được tại thời điểm áp dụng mô hình.

Khi xây dựng mô hình cảnh báo sớm, có một số đặc trưng của nền kinh tế

cần lưu ý:

- Sự thay đổi nhanh chóng của cơ cấu và thể chế;

- Sự biến động cao;

- Tính dễ tổn thương.

Thách thức chính trong việc dự báo là việc lựa chọn đúng chỉ tiêu chỉ đạo

(leading indicators- LI), tức là những biến có lực dự báo mạnh liên quan đến

sự dịch chuyển chu kỳ kinh tế. Một vấn đề thường gặp là sự thay đổi mối

quan hệ giữa các chỉ tiêu với nhau theo thời gian.

Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, việc xây dựng một mô hình cảnh báo

sớm có thể gồm các bước sau:

62

- Một là phải tiến hành nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu cảnh

báo.

- Hai là phân tích kỹ chu kỳ kinh tế/tăng trưởng của Việt Nam.

- Ba là thường xuyên tiến hành các cuộc điều tra đánh giá lòng tin người

tiêu dùng cùng với cuộc điều tra về nhận thức và sự kỳ vọng của các

doanh nghiệp đối với các điều kiện của môi trường kinh doanh.

- Bốn là thành lập nhóm nghiên cứu nhằm xây dựng, thử nghiệm mô hình

cảnh báo sớm khủng hoảng dựa trên kinh nghiệm các nước.

Mô hình đầu tiên có thể áp dụng cho Việt Nam là các mô hình theo cách tiếp

cận dấu hiệu (signal approach), liên quan đến việc quan sát những thay đổi

của một số chỉ số vào lúc chúng phát tín hiệu – khi chúng vượt qua các

ngưỡng giá trị nhất định. Cách tiếp cận dấu hiệu được phát triển bởi

Kaminsk, Lizondo và Reinhart (1998) bao gồm một mô hình phi tham số,

trong đó một tập hợp các biến số kinh tế có tần số xuất hiện lớn trong một

giai đoạn cụ thể được so sánh với một chỉ số khủng hoảng, vì vậy, khi một

trong các biến này thay đổi lệch so với mức bình thường vượt ra khỏi một

ngưỡng giá trị cụ thể, nó phát đi các tín hiệu nhị phân về khả năng xảy ra

một cuộc khủng hoảng. Hệ thống các chỉ số được Kaminsk và các đồng sự

xây dựng chủ yếu bao gồm:

- Sản lượng thực của nền kinh tế

- Kim ngạch xuất khẩu

- Mức độ chênh lệch giữa tỷ giá thực so với đường xu thế

- Giá cổ phiếu

- Tốc độ tăng chỉ số CPI

- Tốc độ tăng cung tiền, tỷ số cung tiền trên tổng dự trữ ngoại tệ

Mô hình thứ hai có thể áp dụng cho Việt Nam là mô hình mũ (logit mode)

hoặc mô hình dự báo xác suất xảy ra khủng hoảng theo phân phối tích lũy

chuẩn (probit model). Ý tưởng của mô hình này là tính toán mức độ ảnh

63

hưởng của các biến số kinh tế vĩ mô (được đại diện bằng một ma trận X

đóng vai trò biến giải thích trong mô hình) lên xác suất xảy ra khủng hoảng,

để dự báo khủng hoảng. Mô hình này còn được gọi là mô hình tham số và

được phát triển tiên phong bởi Frankel và Rose (1996). Cách tiếp cận này

định nghĩa một biến số khủng hoảng mang giá trị 1 hoặc 0 dựa trên cơ sở

khủng hoảng tiền tệ có diễn ra hay không trong một khoảng thời gian cụ thể.

Trên thực tế, vào cuối năm 2007, nhiệm vụ cảnh báo sớm khủng hoảng đã

được giao cho trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, thuộc

bộ Kế hoạch và đầu tư. Tuy nhiên, cho đến nay, trung tâm này cũng mới chỉ

có những hoạt động dự báo kinh tế mang tính thử nghiệm bởi khó tiếp cận

với các nguồn thông tin chính thức – vốn rất cần cho công tác dự báo kinh

tế.

Sự bất cập trong việc thu thập thông tin chính là rào cản lớn nhất để xây

dựng một hệ thống cảnh báo sớm. Các thông tin của Việt Nam thường bị

phân tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hóa thống nhất giữa các

nguồn và các đơn vị quản lý, chưa kể là các thông tin lại không được công

khai. Đặc biệt, hệ thống các thông tin và dữ liệu chuyên ngành phục vụ trực

tiếp công tác dự báo mới bước đầu được hình thành, nhiều chỉ số còn thiếu

hoặc chưa kết nối được với hệ thống các chỉ số thống kê chính thức quốc gia

hàng năm.

Do sự bất cập về mặt số liệu, trước mắt Việt Nam có thể sử dụng mô hình

phi tham số để dự báo trước nguy cơ khủng hoảng thông qua các chỉ số vĩ

mô. Tiếp theo, Chính phủ, Tổng cục thống kê cần xây dựng một hệ thống

các số liệu kinh tế vĩ mô đầy đủ, nhất quán và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc

tế (tiêu chuẩn phổ biến dữ liệu đặc biệt (SDDS) hoặc hệ thống phổ biến các

dữ liệu chung (GDDS)) để đảm bảo tính minh bạch, tính thường xuyên và

kịp thời về các thông tin về bảng cân đối tài sản của chính phủ và các thông

tin kinh tế vĩ mô. Khi đã tiếp cận được với nguồn thông tin chính xác và đầy

64

đủ, Việt Nam có thể chuyển sang sử dụng mô hình Logit hoặc Probit, vốn có

tác dụng mạnh hơn phương pháp phi tham số.

3.4.Hoàn thiện tổ chức bảo hiểm tiền gửi:

Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy, ở nước nào có

hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả dường như nước đó vượt qua khủng

hoảng sớm hơn và niềm tin vào thị trường tài chính nhanh chóng phục hồi.

Đó là do chức năng bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo hệ thống tài

chính ngân hàng hoạt động lành mạnh, ngăn chặn đổ vỡ ngân hàng, góp

phần xây dựng thị trường tài chính cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tài

chính với quy mô và loại hình khác nhau, giảm gánh nặng cho Chính phủ

trong xử lý đổ vỡ của tổ chức tín dụng, giảm gánh nặng cho người dân đóng

thuế trong trường hợp ngân hàng đổ bể. Đây là công cụ rất mạnh thể hiện rõ

vai trò cũng như sự phối hợp của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi với các thành

viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Thực tế cho thấy, nếu hệ thống

Bảo hiểm tiền gửi làm tốt vai trò đã nêu sẽ góp phần duy trì hệ thống ngân

hàng lành mạnh, người gửi tiền được bảo vệ triệt để và từ đó nguy cơ của

khủng hoảng sẽ giảm.

Tại Việt Nam, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã được thành lập từ năm 1998, với

những nội dung hoạt động như thu phí bảo hiểm tiền gửi, chi trả bảo hiểm

tiền gửi, hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất

khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc

biệt… Tuy nhiên cho đến nay, kinh nghiệm và quy mô vốn còn tương đối

khiêm tốn (khoảng 6.600 tỷ VND) nên vai trò ổn định tài chính và xử lý khi

có khủng hoảng chưa cao.

Để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều rủi ro như hiện nay,

cần ban hành luật để tạo hành lang pháp lý cho bảo hiểm tiền gửi thực hiện

tốt vai trò của mình. Mặt khác, mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả

nên được thiết kế theo mô hình giảm thiểu rủi ro với 4 mục tiêu đặt ra:

65

- Bảo vệ số đông người gửi tiền và khuyến khích tiết kiệm giảm gánh nặng

cho Chính phủ. Để thực hiện được mục tiêu này, cần phải có biện pháp

nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi thay vì mức hiện nay là tối đa 50

triệu VND/ 01 khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, hạn mức

chi trả bảo hiểm nên được quy định theo một tỷ lệ % trên khoản tiền gửi

tại các tổ chức tín dụng.

- Tạo sự công bằng và động lực cạnh tranh cho các tổ chức tham gia Bảo

hiểm tiền gửi. Muốn vậy, cần xây dựng quy chế đóng phí bảo hiểm tiền

gửi mới, trong đó xây dựng được hệ số an toàn cho từng tổ chức tín dụng

và thu phí dựa trên hệ số an toàn này, tránh tình trạng thu đồng hạng như

hiện nay.

- Tạo cơ chế chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân hàng.

- Góp phần tạo ra một hệ thống thanh toán lành mạnh, đảm bảo sự an toàn

hệ thống tài chính quốc gia, tránh khủng hoảng, thúc đẩy tăng trưởng thị

trường tài chính và nền kinh tế. Mục tiêu này sẽ được thực hiện thông

qua việc xây dựng cơ chế giám sát cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, trong

đó, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể kiểm tra, bảo đảm khả năng hoạt

động lành mạnh của các tổ chức tín dụng với những nội dung: xác định

chất lượng tài sản hiện có, phát hiện các hoạt động phát sinh rủi ro, thẩm

định hoạt động kinh doanh của ngân hàng và phát hiện các dấu hiệu vi

phạm pháp luật.

Để đạt được điều này, hệ thống Bảo hiểm tiền gửi phải nằm trong một kết

cấu tài chính được tổ chức hoàn thiện và an toàn, bao gồm 3 thành phần cấu

thành: Thứ nhất là một nền tảng giám sát và quy định pháp luật ngân hàng

cẩn trọng, thứ hai là một tổ chức đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, và

thứ ba là một cơ quan Bảo hiểm tiền gửi độc lập.

Bên cạnh đó, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ

với các cơ quan khác trong mạng an toàn tài chính nhằm xây dựng công cụ

66

hữu hiệu ngăn ngừa, xử lý khủng hoảng, đồng thời nâng cao năng lực hoạt

động của mình để giám sát kỹ hơn và đưa ra những khuyến nghị kịp thời

hơn, cảnh báo sớm hơn những rủi ro của từng tổ chức tín dụng nhằm bảo

đảm không có đổ vỡ chứ không phải là đợi đến đổ vỡ mới thanh toán.

Kết luận Chương 3

Như đã phân tích trong chương 2, nền kinh tế Việt Nam đang đối diện với

những nguy cơ tiềm ẩn khủng hoảng tài chính và vấn đề đặt ra là cần phải có

những chính sách để ngăn ngừa rủi ro. Để làm được điều đó, cần phải giữ

vững được nền tảng kinh tế vĩ mô và xây dựng các biện pháp dự báo khủng

hoảng, cũng như các biện pháp để kiểm soát, giám sát tài chính.

Trong quá trình nghiên cứu về khủng hoảng tài chính cũng như kinh nghiệm

của các nước trong quá trình vận hành nền kinh tế trong giai đoạn khủng

hoảng, áp dụng vào thực tế nền kinh tế - tài chính Việt Nam, tác giả đã đề

xuất một số giải pháp về mặt chính sách nhằm giúp Việt Nam có thể lập lại

được cân bằng vĩ mô và phần nào tránh được nguy cơ khủng hoảng.

67

KẾT LUẬN

Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ

hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy

cơ khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính khi xảy ra sẽ gây ra những tác động

không thể lường trước được, kể cả về mức độ nghiêm trọng lẫn quy mô ảnh

hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế của quốc gia cũng như kinh tế

toàn cầu. Sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam

đã có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện, tuy nhiên, những

nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế - tài chính cũng có cơ hội bộc lộ sâu sắc.

Qua phân tích thực trạng nền kinh tế, có thể nhận thấy Việt Nam đang phải

đối diện với những nguy cơ như lạm phát, thâm hụt cán cân thanh toán, nợ

công cao và đặc biệt là nguy cơ về tiền tệ khi mà lòng tin vào VND của người

dân đang bị xói mòn trong một hệ thống tài chính mỏng manh, dễ bị tổn

thương.

Với thế và lực mới, trên con đường phát triển của mình, điều tất yếu là Việt

Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, đối

diện với những thách thức mới do quá trình tự do hóa tài chính, thương mại

mang lại. Việc này đồng nghĩa với việc Việt Nam cần thiết phải có những

biện pháp để bình ổn kinh tế vĩ mô để bảo vệ nền kinh tế khỏi những nguy cơ

khủng hoảng. Để làm được điều này, trong khuôn khổ của luận văn này, tác

giả đã đề xuất những giải pháp về mặt chính sách như việc thực hiện chính

sách tiền tệ linh hoạt và độc lập, nâng cao tính tự chủ cho NHNN để giúp cơ

quan này điều hành lãi suất và tỷ giá một cách hiệu quả hơn. Để nâng cao

hiệu quả, chính sách tiền tệ linh hoạt này nên được kết hợp với việc thực thi

chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt hợp lý, giảm chi tiêu công một cách

khoa học. Bên cạnh đó là việc xây dựng một cơ quan hoạch định chính sách

68

kinh tế cao cấp để có được một sự quản lý thống nhất nhằm bảo đảm hiệu quả

của việc thực thi các chính sách. Cuối cùng là nhu cầu cần thiết xây dựng một

hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính và hoàn thiện tổ chức bảo hiểm

tiền gửi.

Hy vọng rằng với sự phối hợp thực hiện các chính sách đồng bộ giữa các cấp,

các ngành, với sự quan tâm Nhà nước, Việt Nam sẽ khắc phục được những

nguy cơ và tránh khỏi một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong tương lai

có thể xảy ra.

69

ĐỀ XUẤT CHO HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu về khủng hoảng tài chính,

tìm hiểu về thực tế tình hình kinh tế Việt Nam và những nguy cơ tiềm ẩn

khủng hoảng tài chính, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp về mặt chính

sách nhằm khắc phục nguy cơ xảy ra khủng hoảng tại Việt Nam. Nhưng do

hạn chế về kiến thức và thời gian nên vẫn còn nhiều vấn đề mà tầm vóc của

một luận văn Thạc sĩ Kinh tế chưa thể đề cập và trình bày hết được.

Do vậy, tác giả hy vọng rằng trong thời gian tới, các nhà khoa học, các

chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực chứng khoán nói chung và trái phiếu nói

riêng sẽ có những công trình nghiên cứu bao quát hơn, chuyên sâu hơn về các

chủ đề sau:

Xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính tại Việt Nam.

Tự do hóa tài chính và các biện pháp kiểm soát vốn tại Việt Nam.

Nếu được thực hiện, những nghiên cứu trên sẽ rất có ích cho các nhà quản lý

trong việc phát hiện sớm khủng hoảng cũng như có các biện pháp để ngăn

ngừa khủng hoảng xảy ra.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nhiều tác giả, (2009), Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và giải pháp của

Việt Nam, Nhà xuất bản tổng hợp TpHCM.

2. TS Nguyễn Đức Thành, (2010), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam

2010 – Lựa chọn để tăng trưởng bền vững, Nhà xuất bản Tri thức.

3. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh_Khoa Kinh tế - Luật,

(2010), Tác động của Khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế

Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM.

4. Nguyễn Xuân Thành, Nguyễn Trọng Hoài, Tài chính Phát triển – Bài

giảng 19: Khủng hoảng tài chính, Chương trình giảng dạy kinh tế

Fullbright.

5. Nguyễn Thị Kim Thanh và nhóm tác giả, (2008), Đánh giá, dự báo và

các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và hệ thống ngân hàng,

Ngân hàng Nhà nước.

6. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính Doanh nghiệp, Nhà xuất

bản thống kê.

7. Benedict Bingham – đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam,

(2010), Chính sách tiền tệ và tỷ giá của Việt Nam: một số thách thức,

trình bày tại hội thảo của UBKT Quốc hội.

8. Bất ổn vĩ mô: các triệu chứng và nguyên nhân, Chương trình giảng dạy

kinh tế Fullbright.

9. Websites : http://cafef.vn http://vneconomy.vn http://www.gso.gov.vn http://www.thesaigontimes.vn http://www.tcptkt.ueh.edu.vn http://www.sbv.gov.vn http://www.vietstock.vn

Tiếng Anh

1. Andrew W.Lo (2009), Regulatory reform in the Wake of the Financial

Crisis of 2007-2008.

2. John Morley and Roberta Romano, Editors, The Future of Financial

regulation

http://en.wikipedia.org/wiki/Main_Page 3. Websites :

http://www.ssrn.com/