BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LƯU HỒNG HẠNH

PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số: 60.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH QUỐC TRUNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014

TÓM TẮT

Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi bản thân các doanh nghiệp nói chung

phải không ngừng đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, phải có tầm nhìn chiến lược

tốt, phải có năng lực điều hành sản xuất kinh doanh để phù hợp với thị trường và để

cạnh tranh với các doanh nghiệp mới nổi. Như một quy luật bất biến “Không đổi mới,

ắt sẽ bị đào thải”, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao, sẽ nảy sinh

nhiều doanh nghiệp bán các khoản nợ và tài sản “nguồn cung” sẽ rất nhiều và đa dạng.

Do đó, “phát triển thị trường mua bán nợ” là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển

kinh tế thị trường trên thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế.

Nợ trong nền kinh tế là một phạm trù rộng về các loại nợ về nợ vay tín dụng, nợ bảo

lãnh, nợ bao thanh toán, nợ tốt, nợ xấu. Trong giới hạn khả năng nghiên cứu, tác giả chỉ

xin đi sâu vào một phần nhỏ của việc mua bán nợ, cụ thể ở đây sẽ đi sâu vào thực trạng và

nhu cầu gia tăng việc mua bán các khoản nợ xấu và nợ tồn đọng của doanh nghiệp, để từ

đó cho thấy sự phát triển của thị trường mua bán nợ ngay từ bây giờ là rất cần thiết.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, mua bán nợ chính là một trong những

biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát

triển. Khi xử lý được nợ sẽ ổn định tài chính trong nước và nâng cao sức mạnh cho các

định chế tài chính.

Tuy nhiên, hiện nay, các cơ chế, chính sách cho thị trường mua bán nợ ở Việt

Nam cũng chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu về thị trường mua bán nợ ở Việt

Nam hiện nay và đưa ra các kiến nghị và giải pháp để phát triển thị trường này là vô

cùng cần thiết, nhằm giải quyết cơ bản vấn đề nợ tại Việt Nam nói chung và nợ xấu, nợ

tồn đọng nói riêng.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là: Lưu Hồng Hạnh

Sinh ngày: 26 tháng 01 năm 1988, tại TP.HCM

Quê quán: TP.HCM

Là học viên cao học khóa: XIII của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Mã số học viên:

Cam đoan đề tài: “Phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam”

Chuyên ngành: Tài chính, ngân hàng

Mã số: 60.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Trung

Luận văn được thực hiện tại: Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh

Luận văn này chưa từng được trình nộp để lấy học vị thạc sĩ tại bất cứ một trường

đại học nào. Luận văn này là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, kết quả nghiên

cứu là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây hoặc các

nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ trong

luận văn.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.

TP.HCM, ngày tháng năm 2014

Ký tên

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TPHCM

Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp

đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.

Trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trịnh Quốc

Trung đã hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.

Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem lại

cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua.

Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại

học, Đại học Ngân hàng TPHCM, Thầy cô chủ nhiệm đã tạo điều kiện cho tôi trong

quá trình học tập.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè và những người đã luôn

bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của

mình.

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ ............................. 1

1.1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ ............................................ 1

1.1.1 Khái niệm mua bán nợ ....................................................................................... 1

1.1.2 Sự ra đời của hoạt động mua bán nợ ................................................................ 2

1.1.3 Các phương thức mua bán nợ ........................................................................... 3

1.1.4 Nguyên tắc mua bán nợ ...................................................................................... 4

1.1.5 Các bước trong một quá trình thực hiện mua bán nợ ..................................... 4

1.1.6 Lợi ích của hoạt động mua bán nợ đối với hệ thống tài chính ....................... 7

1.2 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ ........................................... 9

1.2.1 Khái niệm thị trường mua bán nợ ..................................................................... 9

1.2.2 Cơ sở để hình thành thị trường mua bán nợ .................................................... 9

1.2.3 Các chủ thể tham gia vào thị trường mua bán nợ ......................................... 10

1.2.3.1 Các công ty có nhu cầu xử lý nợ ................................................................... 10

1.2.3.2 Các công ty có nhu cầu chuyển nhượng nợ ................................................... 11

1.2.3.3 Các định chế tài chính trung gian ................................................................. 14

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thị trường mua bán nợ .............. 15

1.2.5 Sự cần thiết phải phát triển thị trường mua bán nợ ..................................... 17

1.3 KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ

TRÊN THẾ GIỚI ................................................................................................ 19

1.3.1 Kinh nghiệm từ Mỹ ........................................................................................... 19

1.3.2 Kinh nghiệm từ Hàn Quốc ............................................................................... 20

1.3.3 Kinh nghiệm từ Malaysia ................................................................................. 21

1.3.4 Kinh nghiệm từ Australia ................................................................................. 22

1.3.5 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................. 23

TỔNG KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM . 27

2.1 SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA

BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM .................................................................................. 27

2.2 THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM ............... 35

2.2.1 Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam .......... 35

2.2.2 Nhu cầu bán nợ ngày càng gia tăng ................................................................ 38

2.2.3 Quá trình mua nợ bắt đầu tăng ....................................................................... 46

2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ

TẠI VIỆT NAM .................................................................................................. 54

2.3.1 Những mặt đạt được ......................................................................................... 54

2.3.2 Những mặt còn hạn chế .................................................................................... 58

2.3.2.1 Hạn chế về mặt pháp lý ................................................................................. 58

2.3.2.2 Hàng hóa chưa đa dạng ................................................................................ 61

2.3.2.3 Người mua và người bán chưa gặp nhau ...................................................... 62

2.3.2.4 Thiếu sự tư vấn của các định chế tài chính trung gian ................................. 62

2.3.3 Nguyên nhân gây ra những hạn chế đối với sự phát triển của thị trường

mua bán nợ tại Việt Nam ................................................................................. 64

2.3.3.1 Tình hình kinh tế Việt Nam còn bất ổn .......................................................... 64

2.3.3.2 Các chính sách của Nhà nước chưa chặt chẽ ............................................... 66

2.3.3.3 Sự giám sát của Nhà nước còn lỏng lẻo ........................................................ 67

2.3.3.4 Số lượng chủ thể tham gia thị trường còn quá ít ........................................... 68

2.3.3.5 Thiếu sự am hiểu thị trường của các chủ thể tham gia ....................................... 69

2.3.3.6 Thông tin kém minh bạch ...................................................................................... 70

2.3.3.7 Vốn ít ...................................................................................................................... 71

2.3.3.8 Nguồn nhân lực còn hạn chế ................................................................................ 71

2.3.4 Ý kiến của một số chuyên gia về sự phát triển của thị trường mua bán nợ

Việt Nam ............................................................................................................ 72

TỔNG KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 74

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI

VIỆT NAM ................................................................................................................... 75

3.1 DỰ BÁO NHU CẦU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI

VIỆT NAM .......................................................................................................... 75

3.2 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VN ......... 79

3.2.1 Nâng cao sự hiểu biết của các chủ thể tham gia ................................................ 79

3.2.2 Gia tăng số lượng chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ ........................... 80

3.2.3 Tăng tiềm lực về vốn cho các hoạt động mua nợ ........................................... 83

3.2.4 Thêm các giải pháp xử lý nợ xấu sau khi mua về .......................................... 85

3.2.5 Phát triển nguồn nhân lực cho thị trường mua bán nợ ................................. 86

3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHNN VÀ CHÍNH PHỦ ................................... 88

3.3.1 Ổn định tình hình kinh tế ................................................................................. 88

3.3.1.1 Ổn định tình hình kinh tế và cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia ................... 88

3.3.1.2 Ổn định và lành mạnh hóa thị trường chứng khoán ..................................... 90

3.3.2 Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thị trường mua bán nợ ............. 91

3.3.2.1 Xây dựng bộ luật riêng cho hoạt động mua bán, xử lý nợ ............................ 91

3.3.2.2 Quy định pháp lý đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các công ty mua

bán nợ ............................................................................................................ 92

3.3.2.3 Quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của nhà tư vấn trong các giao dịch

mua bán nợ .................................................................................................... 93

3.3.2.4 Xây dựng hệ thống xác định giá bán nợ ........................................................ 94

3.3.2.5 Quy định điều chỉnh về vấn đề kế toán .......................................................... 94

3.3.2.6 Xây dựng chính sách ưu đãi thuế .................................................................. 95

3.3.2.7 Ban hành văn bản quy định hoạt động mua bán nợ có sự tham gia của yếu tố

nước ngoài ..................................................................................................... 96

3.3.3 Phát triển kênh kiểm soát thông tin và tính minh bạch của thông tin ......... 97

3.3.4 Nâng cao chất lượng thanh tra, giám sát ........................................................ 99

TỔNG KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 102

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AMC : Công ty xử lý nợ

CTCK : Công ty chứng khoán

CTCP : Công ty cổ phần

DATC : Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam

DN : Doanh nghiệp

DNNN : Doanh nghiệp nhà nước

FED : Cục Dự trữ liên bang Mỹ

GDP : Tổng sản phẩm quốc nội

NĐT : Nhà đầu tư

NH : Ngân hàng

NHTM : Ngân hàng thương mại

TCT : Tổng công ty

TCTD : Tổ chức tín dụng

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

TTCK : Thị trường chứng khoán

UBCKNN : Ủy ban chứng khoán Nhà nước

USD : Đô la Mỹ

VND : Việt Nam đồng

VAMC : Vietnam Asset Management Company: Công ty quản lý tài

sản của các tổ chức tín dụng

VN : Việt Nam

WTO : Tổ chức thương mại thế giới

WB : World Bank: Ngân hàng thế giới

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ Nội dung Trang

Biểu đồ tăng trưởng nợ xấu ảnh hưởng GDP Biểu đồ 2.1 40 (2007 và 2013)

Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng Biểu đồ 2.2 42 (2008 – 2013)

Biểu đồ tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng

Biểu đồ 2.3 Agribank, BIDV, Vietcombank và Vietinbank tính đến 43

hết năm 2012

Nợ xấu của một số tổ chức tín dụng 44 Biểu đồ 2.4 (2012 và tháng 9/2013)

Tỷ lệ nợ xấu của 10 ngân hàng qua các thời điểm năm 45 Biểu đồ 2.5 2013

Quy mô vốn của một số công ty mua bán nợ trực thuộc 47 Biểu đồ 2.6 NHTM (2013)

Biểu đồ thể hiện vốn của AMC thuộc các ngân hàng lớn 48 Biểu đồ 2.7 (2013)

Khảo sát sự hấp dẫn đầu tư tại Việt Nam 78 Biểu đồ 3.1 (2009)

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tổng quan nghiên cứu

Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động không thể tránh khỏi những rủi ro

tiềm tàng xảy ra đối với mình, việc kinh doanh không thuận lợi sẽ dẫn tới nợ lần không

trả đúng hạn, hoặc mất khả năng trả nợ sẽ đi tới phá sản. Để giảm thiểu tối đa thiệt hại,

các công ty tìm đến dịch vụ xử lý nợ với hi vọng giải quyết tình trạng theo một hướng

tốt nhất. Khó khăn nào cũng sẽ có hướng giải quyết. Trong bối cảnh đó, thị trường mua

bán nợ trở thành vị cứu tinh khi nó có thể giải quyết được tình trạng bế tắc về nợ nần,

giúp công ty chủ nợ thu hồi vốn để hoạt động. Thường thì trước những khoản nợ xấu

khó có khả năng thu hồi được vốn, đa số thường nghĩ rằng sẽ bị mất trắng khoản tiền

này, may ra thì cũng chỉ thu hồi được một chút nhưng không đáng kể. Vậy nhưng

những khoản nợ đó lại đang trở thành nguyên do chính cho sự cần thiết phải “Phát triển

thị trường mua bán nợ”.

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngày càng đa dạng và phong phú sẽ tạo ra

một khối lượng lớn nhu cầu xử lý nợ, nó sẽ vừa là động lực vừa là mục đích hướng tới

của thị trường mua bán nợ tồn tại và phát triển.

2. Tính cấp thiết của đề tài

Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt khi Việt Nam là thành

viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO đã tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh. Trong

bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập vào nền

kinh tế của khu vực và thế giới. Nợ xấu là một trong những vấn đề thường trực luôn đe

dọa sự tồn tại và phát triển ổn định của hệ thống tài chính ở các quốc gia. Đặc biệt

trong các cuộc khủng hoảng hay thời kỳ tái cấu trúc hệ thống tài chính, nợ xấu lại được

bàn đến như một trong những vấn đề cốt lõi nhất cần giải quyết. Nhưng đến nay, con

số nợ xấu chính xác là bao nhiêu vẫn là một ẩn số. Đây thực sự là một trong những khó

khăn lớn để giải quyết vấn đề nợ xấu.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, mua bán nợ chính là một trong những

biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng. Khi xử lý được nợ xấu sẽ ổn định tài

chính trong nước và nâng cao sức mạnh cho các định chế tài chính. Do vậy, “phát triển

thị trường mua bán nợ” là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thị trường

trên thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực tế cho thấy, thị trường này phát triển, góp phần tạo thêm kênh giải quyết nợ xấu

và nợ tồn đọng trong nền kinh tế, từ đó sẽ giúp cho tình hình tài chính trong các doanh

nghiệp và cả các ngân hàng thương mại được lành mạnh, minh bạch, giảm rủi ro trong

hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Tuy nhiên, hiện nay, các cơ chế, chính sách cho thị trường mua bán nợ ở Việt

Nam cũng chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu về thị trường mua bán nợ ở Việt

Nam hiện nay và đưa ra các kiến nghị và giải pháp để phát triển thị trường này là vô

cùng cần thiết, nhằm giải quyết cơ bản vấn đề nợ tại Việt Nam nói chung và nợ xấu, nợ

tồn đọng nói riêng.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau đây:

 Thứ nhất: Làm rõ các khái niệm học thuật liên quan đến vấn đề mua bán nợ,

sự ra đời, các phương thức, nguyên tắc và các bước trong một quá trình thực

hiện mua bán nợ. Làm rõ các khái niệm liên quan đến vấn đề thị trường mua

bán nợ, cơ sở hình thành, các chủ thể, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả

của thị trường. Đưa ra bài học kinh nghiệm từ mô hình hoạt động mua bán

nợ của các nước trên thế giới. Để từ đó đúc rút ra được sự cần thiết cần phát

triển thị trường mua bán nợ.

 Thứ hai: Tác giả đi vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng thị trường

mua bán nợ tại Việt Nam thời gian qua để thấy rằng với đặc điểm là một thị

trường non trẻ, hoạt động mua bán nợ vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần

khắc phục. Làm cách nào để phát triển lành mạnh thị trường mua bán nợ tại

Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế, nhằm góp phần nâng cao và

phát triển thị trường tài chính Việt Nam tiến lên ngang tầm khu vực và thế

giới. Từ đó cho thấy, tiềm năng phát triển thị trường mua bán nợ này trong

tương lai còn rất nhiều khi mà nhu cầu về mua nợ ngày càng gia tăng và nhu

cầu bán nợ, xử lý nợ cũng tăng…

 Thứ ba: Xác định tiềm năng của thị trường này đối sự phát triển của nền kinh

tế đất nước nói chung và hệ thống doanh nghiệp nói riêng, cùng với dự báo

nhu cầu phát triển trong tương lai của thị trường mua bán nợ, thúc đẩy sự

phát triển của thị trường dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các

doanh nghiệp Việt Nam. Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy

sự phát triển của thị trường mua bán nợ tại Việt Nam trong tương lai.

4. Đối tượng nghiên cứu

Công trình nghiên cứu thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam thời gian

qua. Qua đó, chỉ rõ bản chất của việc phát triển thị trường mua bán nợ chính là giải

quyết nợ xấu của ngân hàng và nợ tồn đọng của doanh nghiệp, đặc điểm và những hạn

chế của thị trường non trẻ mua bán nợ Việt Nam. Đưa ra hướng phát triển thị trường

mua bán nợ Việt Nam một cách chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp phân tích – thống kê,

phương pháp so sánh, phương pháp mô hình hóa – đồ thị, để rút ra những luận cứ logic

nhất, từ đó luận giải đối tượng được nghiên cứu. Bên cạnh đó, nhằm mang lại giá trị

thực tiễn cho đề tài, tác giả đã khảo sát để thu thập thông tin thực tế từ các doanh

nghiệp điển hình và tổng hợp, phân tích các thương vụ mua bán nợ điển hình trên thế

giới để đúc kết kinh nghiệm. Dựa trên các nguồn thông tin được công bố trên các

phương tiện thông tin đại chúng, cũng như những thông tin thống kê thị trường và kết

quả giao dịch của các thương vụ mua bán nợ đã thực hiện trong thời gian qua, cùng với

kênh công bố thông tin từ các cơ quan Nhà nước, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng

nhằm xác định những hạn chế của thị trường mua bán nợ Việt Nam nhằm hướng đến

việc xây dựng một hệ thống giải pháp phát triển thị trường này.

6. Phạm vi nghiêm cứu

Nợ trong nền kinh tế là một phạm trù rộng về các loại nợ về nợ vay tín dụng, nợ

bảo lãnh, nợ bao thanh toán, nợ tốt, nợ xấu. Trong giới hạn khả năng nghiên cứu, tác

giả chỉ xin đi sâu vào một phần nhỏ của việc mua bán nợ, chủ yếu tập trung vào mảng

nhu cầu mua bán nợ xấu của ngân hàng và nợ tồn đọng của các doanh nghiệp, sẽ đi sâu

vào thực trạng và nhu cầu gia tăng việc mua bán các khoản nợ xấu và nợ tồn đọng, để

từ đó cho thấy sự phát triển của thị trường mua bán nợ ngay từ bây giờ là rất cần thiết.

7. Những hạn chế của đề tài

iện nay khung pháp lý, cơ sở lý luận và các công trình nghiên cứu về hoạt động

mua bán nợ còn khá hạn chế. ặt khác, đối với nền kinh tế nói chung và các chủ thể

tham gia nói riêng thì thị trường mua bán nợ chưa được quan tâm tương xứng với tiềm

năng và lợi ích của hoạt động đem lại. Nợ trong nền kinh tế là một phạm trù rộng về

các loại nợ về nợ vay tín dụng, nợ bảo lãnh, nợ bao thanh toán, nợ tốt, nợ xấu. Trong

giới hạn khả năng nghiên cứu, tác giả chỉ xin đi sâu vào một phần nhỏ của việc mua

bán nợ, cụ thể ở đây sẽ đi sâu vào thực trạng và nhu cầu gia tăng việc mua bán các

khoản nợ xấu và nợ tồn đọng của doanh nghiệp, để từ đó cho thấy sự phát triển của thị

trường mua bán nợ ngay từ bây giờ là rất cần thiết.

Số liệu được sử dụng để phân tích trong luận văn phần lớn từ nguồn các bài báo,

tạp chí, các ấn phẩm và các báo cáo của các chuyên gia kinh tế cùng với những số liệu

chính thống được cung cấp từ phía N NN và Tổng cục thống kê. oạt động mua bán

nợ tại Việt Nam chưa thật sự được quan tâm đúng mức nên số liệu tìm kiếm rất hạn

chế, do vậy tác giả chưa có cơ sở về sự gia tăng nợ xấu và nợ tồn đọng, đòi hỏi các chủ

thể tham gia phải có phương án xử lý thích hợp, và một trong những phương án đó là

tham gia vào hoạt động mua bán nợ, từ đó giúp tác giả đánh giá và đưa ra các giải pháp

để phát triển thị trường mua bán nợ trong tương lai.

8. Kết cấu của đề tài

Đề tài được trình bày thành ba chương sau:

 Chương 1: Tổng quan về thị trường mua bán nợ.

 Chương 2: Thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.

 Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.

1

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ

1.1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ

1.1.1 Khái niệm mua bán nợ

Trong tiếng anh hoạt động mua bán nợ được gọi là ‘’factoring’’. Từ “factor” bắt

nguồn từ “factare” trong tiếng Latinh, có nghĩa là “thực hiện” hay “làm”. Công cụ tài

chính này xuất hiện từ thế kỷ 18 trước Công nguyên ở Babilonia dưới thời vua

Hammurabi và là một phần của những giao dịch mua bán vải vóc trên con đường tơ lụa

năm xưa. Khái niệm mua bán nợ phát triển liên tục và ngày nay đã trở nên quen thuộc

trong kinh doanh, thương mại, tài chính ngân hàng hay xuất nhập khẩu.

Theo từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass & Bryan

Lones): “Mua bán nợ là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên

nghiệp (công ty mua nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền

ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được

của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là

nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được

những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả”.

Theo từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì “Mua bán nợ là một loại hình

tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần

khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một

công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi

các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông

thường, công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ”.

2

Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng: “Mua bán nợ là

việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên

cơ sở không truy đòi và tiến hành một số dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản

nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng

(người bán) và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu

gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước thường từ 80% -

90% trị giá hoá đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng

ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc các yêu cầu khác của người mua. Thường

thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư trên các

khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng”.

Qua các khái niệm về mua bán nợ trên đây, chúng ta có thể hiểu: Mua bán nợ là

việc chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ khoản nợ trên cơ sở hợp đồng mua, bán

nợ, trong đó bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ tương ứng cho bên mua nợ và nhận

thanh toán từ bên mua nợ.

Bên mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về không trả nợ hoặc không có

khả năng trả nợ của người mua. Bên mua nợ có thể trả trước thời hạn toàn bộ hay một

phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ.

Mọi rủi ro không thu được đều do người tài trợ gánh chịu. Từ đó hình thành một quan

hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm bên mua nợ (ngân hàng, tổ chức tài chính, công

ty mua nợ), người bán hàng hoá hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng hoá hay

nhận dịch vụ. Ngoài ra, hoạt động mua bán nợ có thể biến hoá thành một số dịch vụ

phụ như quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền

tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.

1.1.2 Sự ra đời của hoạt động mua bán nợ

Trong thời đại ngày nay, kinh doanh ngày một phát triển kéo theo sự đa dạng

cũng như mức độ phức tạp của mối quan hệ Ngân hàng - Người vay. Không một doanh

3

nghiệp nào tránh khỏi những khoản nợ phát sinh, và điều này đã trở thành một yếu tố

tất nhiên trong các hoạt động kinh doanh thường nhật của doanh nghiệp.

Các công ty có thể vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ cho hoạt động

kinh doanh của mình, nhưng vào lúc đó thì tình trạng nợ khó đòi đã trở thành một vấn

đề nan giải đối với nhiều doanh nghiệp chủ nợ. Nhiều công ty đang phải đối mặt với

mức độ rủi ro tín dụng rất cao, trong đó rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong

những nhân tố cần được kiểm soát chặt chẽ. Không ít trường hợp, tổn thất do các

khoản nợ bị "ngâm" của các công ty liên tục gia tăng, làm suy giảm năng lực cạnh

tranh, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản.

Khó khăn nào cũng sẽ có hướng giải quyết. Trong bối cảnh đó, hoạt động mua bán nợ

trở thành vị cứu tinh khi nó có thể giải quyết được tình trạng bế tắc về nợ nần, giúp công ty

chủ nợ thu hồi vốn để hoạt động. Thường thì trước những khoản nợ xấu khó có khả năng

thu hồi được vốn đa số thường nghĩ rằng sẽ bị mất trắng khoản tiền này, may ra thì cũng chỉ

thu hồi được một chút nhưng không đáng kể. Vậy nhưng những khoản nợ đó lại đang trở

thành những cơ hội làm ăn của một loại hình kinh doanh đặc biệt “Mua bán nợ”.

1.1.3 Các phương thức mua bán nợ

Các bên mua bán nợ được lựa chọn một trong hai phương thức sau:

 Phương thức mua bán nợ thông qua đấu giá các khoản nợ thực hiện theo quy

định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.

 Phương thức mua bán nợ thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và

bên mua nợ hoặc thông qua môi giới.

Trong việc mua bán nợ này, giá mua nợ, bán nợ là do các bên thỏa thuận trực tiếp

hoặc thông qua bên môi giới. Riêng đối với các khoản nợ thuộc nhóm 1 theo quy định

hiện hành của cơ quan chủ quản về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử

lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng thì giá mua, bán

4

nợ không được thấp hơn giá trị khoản nợ được mua, bán. Đồng thời, giá mua bán nợ là

giá mua cao nhất trong trường hợp khoản nợ được bán theo phương thức đấu giá.

1.1.4 Nguyên tắc mua bán nợ

Bảo đảm công khai, minh bạch và phản ánh đúng thực trạng khoản nợ.

Các bên liên quan đến giao dịch mua, bán nợ phải tự chịu trách nhiệm trong các

quyết định liên quan đến giao dịch mua, bán nợ.

Đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài, phù hợp với quy định của pháp luật.

Đảm bảo sự thỏa thuận và tự nguyện giữa bên mua nợ và bên bán nợ, đảm bảo

các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mua, bán nợ.

Việc chuyển giao khoản nợ được mua, bán được tiến hành đồng thời với việc

chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ (kể cả các

quyền gắn liền với các bảo đảm cho khoản nợ) từ bên bán nợ sang bên mua nợ.

Việc mua bán nợ có liên quan tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài và thanh toán

bằng ngoại tệ thì các bên mua, bán nợ phải chấp hành các quy định của pháp luật hiện

hành về quản lý ngoại hối và các quy định liên quan khác của pháp luật.

Một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ

và có thể được mua bán nhiều lần.

Trường hợp mua, bán nợ lại các khoản nợ đã được mua, bán, thì mỗi lần mua,

bán đều phải lập và ký kết hợp đồng mua, bán nợ.

1.1.5 Các bước trong một quá trình thực hiện mua bán nợ

Không có một quá trình cụ thể cho một hoạt động mua bán nợ vì quá trình thực

hiện này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: bản chất của giao dịch, hoạt động kinh

doanh của bên mua và bên bán và các yếu tố khác, cần phải được xem xét từ khía cạnh

5

của luật cạnh tranh (như các vấn đề liên quan đến tập trung kinh tế) và luật chứng

khoán (nghĩa vụ công bố thông tin).

Khi xem xét các bước trong từng giai đoạn của quá trình mua bán nợ, nhìn dưới

góc độ của người mua và người bán, thì cần phải hiểu được mong đợi của cả người

mua và người bán khi tham tham gia vào quá trình này:

 Với người bán: Ưu tiên chính là bán nợ và bán cho người mua có khả năng

tiếp tục duy trì hoạt động của DN một cách hiệu quả nhất, tạo ra những khoản

đầu tư phù hợp với công việc kinh doanh và giữ được nguồn nhân lực hiện có.

 Với người mua: Ngoài lý do chiến lược, còn là để mua nợ với mức giá đúng

với giá trị của nó, mức giá này giúp bên mua tạo ra lợi nhuận trong dài hạn

cho một khoản đầu tư chiến lược hoặc trong ngắn hạn cho một khoản đầu tư

tài chính. Do đó, bên mua luôn quan tâm đến việc làm thế nào để giảm đi

những thông tin bất cân xứng giữa người mua và người bán, và gia tăng tính

minh bạch cho toàn bộ quá trình.

Mục tiêu của hoạt động mua bán nợ là tối thiểu hóa tổn thất rủi ro do các khoản

nợ quá hạn mang lại, kinh doanh thu lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu xã hội. Do

hoạt động mua bán nợ còn khá mới mẻ ở VN, nên việc xây dựng một quy trình mua

bán nợ gặp khá nhiều khó khăn, làm sao cho quy trình có thể phù hợp với thực tế ở

VN, sau đây là 3 giai đoạn cơ bản trong hoạt động mua bán nợ:

 Hoạt động mua nợ:

Hàng hóa của các công ty mua bán nợ chủ yếu là các khoản nợ có vấn

để của các ngân hàng và tài sản tồn đọng của DN bao gồm cả tài sản và

quyền sử dụng đất được sử dụng để bảo đảm cho các khoản nợ. Tiếp

nhận để xử lý các khoản nợ và tài sản đã loại trừ không tính vào giá trị

DN khi thực hiện chuyển đổi sở hữu. Nợ có thể được xét thành 2 loại:

6

o Nợ trong hạn: bên bán nợ, bên nợ đang hoạt động; khoản nợ còn

trong hạn thanh toán; bên bán nợ cần thu hồi vốn để đầu tư hoặc

đang gặp khó khăn tạm thời về nguồn vốn.

o Nợ quá hạn: bên nợ đang hoạt động, khoản nợ có khả năng thu hồi,

nhưng gặp khó khăn tạm thời về tình hình sản xuất kinh doanh

chưa trả được nợ gốc hoặc lãi hoặc cả gốc và lãi khi đến hạn.

Định giá khoản nợ : dựa trên sự điều tra, phân loại nợ, từ đó xác định

mức giá mua hợp lý bằng các hình thức: thỏa thuận trực tiếp, đấu thầu,

đấu giá hoặc theo chỉ định.

 Hoạt động xử lý: Xử lý các khoản nợ đã mua bằng nhiều cách:

Đối với những khoản nợ có nguy cơ phá sản, hoạt động kinh doanh quá yếu

kém không còn khả năng phục hồi thì đề nghị cho phá sản, thanh lý tài sản.

Đối với những khoản nợ có khả năng phục hồi tình hình kinh doanh trong

tương lai đang gặp khó khăn nhất thời thì có thể can thiệp điều hành vào hoạt

động, tư vấn cho DN.

Đối với những khoản nợ gặp khó khăn nhất thời về tài chính nhưng có

tiềm năng phát triển, công ty có thể chuyển nợ thành vốn góp, đầu tư

thêm vốn vào DN.

Xử lý tài sản đã mua, tiếp nhận: Bảo quản, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán,

cho thuê, đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh, liên doanh khai thác tài sản.

 Hoạt động bán nợ:

Sau khi tổ chức xử lý, khai thác, công ty mua bán nợ sẽ thu hồi vốn và lợi

nhuận bằng cách bán ra các khoản nợ và tài sản bằng các hình thức như:

thỏa thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá hay bán qua thị trường chứng khoán.

7

Ngoài ra, còn thực hiện các nghiệp vụ như: Tư vấn, môi giới xử lý nợ và

tài sản tồn đọng. Huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu mua

nợ để mua một khoản nợ nhất định có giá trị lớn, có tài sản bảo đảm.

1.1.6 Lợi ích của hoạt động mua bán nợ đối với hệ thống tài chính

Tránh rủi ro tài chính: Một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng khó

khăn, phá sản ở phần lớn các NH là việc bị chiếm dụng vốn do khách hàng không thanh

toán các khoản nợ. Do đó, việc quản lý rủi ro các khoản nợ không có khả năng thanh

toán của khách hàng trong tín dụng thương mại là một trong những mối quan tâm hàng

đầu của các NH. Và rủi ro này có thể tránh được khi bán các khoản nợ của mình cho một

công ty chuyên biệt chuyên mua các khoản nợ. Chính các công ty này với nghiệp vụ

kinh doanh chuyên nghiệp của mình có thể mua lại các khoản nợ, bù lại họ sẽ được

hưởng lợi nhuận từ việc mua các khoản nợ thấp hơn giá trị thực của các khoản nợ đó.

Tạo vốn trong kinh doanh: Điều này có nghĩa là công ty mua nợ sẽ trả tiền ngay tức

thì khi chuyển quyền sở hữu các khoản phải thu. Đây là những khoản tài trợ không thể truy

đòi. Bởi lẽ khoản tiền công ty mua nợ chuyển cho khách hàng không phải là các khoản ứng

trước mà là khoản bán hết món nợ đó cho công ty mua nợ và khách hàng không phải hoàn

lại cho công ty mua nợ nếu người mua không có khả năng thanh toán. Thông qua hình thức

này, nhiều công ty không những giải phóng được các khoản nợ khó đòi mà còn có thêm

nguồn vốn tái đầu tư cũng như sử dụng vốn có hiệu quả hơn từ việc bán khoản nợ.

Trợ giúp quản lý tài chính: Với đặc thù là công ty tài chính chuyên biệt, các công

ty mua bán nợ đã mang lại một giải pháp toàn diện cho việc quản lý tài khoản vãng lai

cho nhiều công ty khách hàng: một mặt, đơn giản hoá hoạt động kế toán của công ty,

mặt khác, bảo đảm thu nợ và xác định các khoản thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra,

công ty mua nợ sẽ cung cấp những nhận định phân tích một cách toàn diện cũng như

xác định những bất thường, từ đó đưa ra khuyến cáo cho khách hàng. Khi đó, công việc

của công ty mua nợ là theo dõi các khoản kỳ hạn thanh toán, kiểm tra các quy định

8

thanh toán, nhắc nhở qua điện thoại, điện tín và cuối cùng là quản lý các khoản nợ khó

đòi. Với hệ thống kỹ thuật hiện đại, các công ty mua nợ sẽ thực hiện việc nhắc nhở các

khoản nợ qua các thư nhắc nhở tự động, hoặc hệ thống nhắc nhở tự động qua điện

thoại. Nhờ thế, công ty đã rút ngắn dần những khoản nợ chậm trả và tạo thói quen cho

người mua hàng thanh toán đúng hạn.

Ngoài những lợi ích phong phú mà hoạt động mua bán nợ đem lại, còn nhiều lý

do để các doanh nghiệp quan tâm đến dịch vụ này như: tận dụng khả năng chuyên môn

của các công ty mua bán nợ để đem lại lợi ích cho mình, hay sẽ có nhiều sự lựa chọn

phương pháp thanh toán sớm hơn cho các nhà cung cấp hàng hoá (đặc biệt là trong

xuất nhập khẩu, từ đó nhanh chóng có nguồn vốn tái đầu tư để không bỏ lỡ những cơ

hội kinh doanh mới. Kể từ khi các công ty mua bán nợ có những đánh giá chuẩn xác về

mức độ rủi ro tín dụng, đồng thời sẵn sàng mua lại các khoản nợ với giá chiết khấu

không cao (khoảng 10% đến 20% khoản nợ), rất nhiều công ty đã để mắt tới dịch vụ

này. Không những vậy, có nhiều khách hàng còn sẵn sàng trả phí để nhờ các công ty

mua bán nợ điều tra và cung cấp thông tin nhằm đảm bảo quản lý tín dụng một cách

hiệu quả nhất, từ đó tăng vòng luân chuyển vốn cũng như hạn chế rủi ro tài chính.

Điều cốt lõi của hoạt động mua bán nợ là tạo ra lòng tin về khả năng thanh toán

nợ của nhiều công ty cho vay, nhờ vậy, các công ty này sẽ yên tâm và tập trung vào

công việc kinh doanh của mình để đẩy mạnh doanh thu và lợi nhuận. Không quan tâm

đến mọi diễn tiến xung quanh (thậm chí cả trong trường hợp phá sản), với hoạt động

mua bán nợ, những khoản tiền mặt “nóng” sẽ luôn sẵn sàng. Ngoài ra, hoạt động mua

bán nợ không chỉ là sự lựa chọn cho những khoản nợ khó đòi, việc sử dụng dịch vụ này

còn có thể đẩy nhanh những khoản thanh toán từ khách hàng mua hàng trả chậm. Dịch

vụ của các công ty mua bán nợ không giống nhau mà có thể có những khác biệt về điều

khoản, điều kiện mua bán nợ cũng như tỷ lệ chiết khấu tuỳ theo nhu cầu của khách

hàng, con số nợ nần, khả năng thu hồi nợ…

9

1.2 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ

1.2.1 Khái niệm thị trường mua bán nợ

Thị trường, trong kinh tế học và kinh doanh, là nơi người mua và người bán (hay

người có nhu cầu và người cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi,

mua bán hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, thị truờng mua bán nợ cũng là nơi mà bên có nhu

cầu mua nợ và bên có nhu cầu bán nợ gặp nhau, bằng cách tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp

(thông qua bên trung gian) để trao đổi, mua bán một loại hàng hóa đặc biệt, đó là “nợ”.

1.2.2 Cơ sở để hình thành thị trường mua bán nợ

Để hình thành thị trường mua bán nợ, cần phải có:

 Hàng hóa “nợ”: Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi bản thân các DN

nói chung phải không ngừng đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, phải có

tầm nhìn chiến lược tốt, phải có năng lực điều hành sản xuất kinh doanh để

phù hợp với thị trường và để cạnh tranh với các DN mới nổi. Như một quy

luật bất biến “Không đổi mới, ắt sẽ bị đào thải”, các DN sẽ phải đối mặt với

nguy cơ rủi ro cao, sẽ nảy sinh nhiều DN bán các khoản nợ và tài sản “nguồn

cung” sẽ rất nhiều và đa dạng.

 Bên mua nợ: là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài có nhu cầu

mua khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ. Để

hình thành thị trường mua bán nợ, cần phải phát triển các công ty chuyên

mua bán nợ và tài sản tồn đọng của các thành phần kinh tế. Nghĩa là phải có

những công ty sinh ra với sứ mạng là mua bán các tài sản, khoản nợ của các

công ty sản xuất kinh doanh đang gặp rủi ro lớn về vốn, nhằm tạo điều kiện

để công ty nợ có vốn để tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh.

 Bên bán nợ: là các tổ chức, cá nhân có các khoản nợ đang tồn đọng, có nhu

cầu xử lý. Để hình thành thị trường mua bán nợ, cần phải có những công ty

10

do nhiều nguyên nhân (cả chủ quan và khách quan) dẫn đến nảy sinh những

khoản nợ không thể tự mình trả được, sẵn sàng bán các tài sản, khoản nợ đó

cho các công ty mua bán nợ. Hoạt động mua bán nợ đang được xem là một

lối thoát cho các DN đang gặp phải nhiều khó khăn về tài chính trong sản

xuất kinh doanh hiện nay. Nếu không có công ty nào tham gia vào việc mua

các khoản nợ đó thì các công ty sẽ lâm vào sản xuất, kinh doanh cầm chừng,

hoặc thu hẹp, thậm chí chờ xin phá sản.

 Các định chế tài chính trung gian: là các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng

làm chức năng trung gian, dàn xếp việc mua, bán nợ giữa các bên mua, bán

nợ và được hưởng phí dịch vụ môi giới theo thỏa thuận. Các tổ chức trung

gian này xuất hiện như là chiếc cầu nối, tạo điều kiện cho người mua và

người bán có thể dễ dàng gặp nhau, đồng thời với những am hiểu chính

thống và sâu sát nhất về hoạt động mua bán nợ từ phía các chuyên gia trung

gian này, sẽ giúp cho người bán nợ và người mua nợ giảm bớt nhiều chi phí

để có thể hoàn thiện được một thương vụ mua bán nợ.

 Khuôn khổ pháp lý: Có sân chơi, thì phải có người điều khiển, đưa ra các

quy luật để điều khiển cuộc chơi và giữ vai trò làm trọng tài giám sát người

tham gia. Tương tự như vậy, ở thị trường mua bán nợ cũng cần phải có hệ

thống luật, cơ chế vận hành và các chính sách vĩ mô để tạo hành lang pháp lý

cho thị trường vận hành trôi chảy như những thị trường khác.

1.2.3 Các chủ thể tham gia vào thị trường mua bán nợ

1.2.3.1 Các công ty có nhu cầu xử lý nợ

Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động không thể tránh khỏi những rủi ro tiềm

tàng xảy ra đối với mình, việc kinh doanh không thuận lợi sẽ dẫn tới nợ lần không trả đúng

hạn, hoặc mất khả năng trả nợ sẽ đi tới phá sản. Để giảm thiểu tối đa thiệt hại các công ty

tìm đến dịch vụ xử lý nợ với hy vọng giải quyết tình trạng theo một hướng tốt nhất.

11

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngày càng đa dạng và phong phú sẽ tạo ra

một khối lượng lớn nhu cầu xử lý nợ, nó sẽ vừa là động lực vừa là mục đích hướng tới

của thị trường mua bán nợ tồn tại và phát triển.

1.2.3.2 Các công ty có nhu cầu chuyển nhượng nợ

 Các công ty mua bán và xử lý nợ (AMC) của ngân hàng:

Hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong hơn một thập kỷ

đổi mới kinh tế vừa qua. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, các NH đang bộc lộ một

số yếu kém đó là: rủi ro cao về tài sản, khả năng sinh lời thấp, hoạt động kinh doanh

chủ yếu dựa vào tín dụng, hệ thống thông tin quản lý yếu. Vấn đề tái cơ cấu hệ thống

ngân hàng đã được Chính phủ xác định là vấn đề rất quan trọng.

Các vấn đề chính cần phải giải quyết cho hệ thống ngân hàng trong quá trình tái

cơ cấu là: xoá sạch các khoản cho vay không sinh lời khỏi bảng tổng kết tài sản; tái cơ

cấu về tài chính và thể chế; tái cấp vốn.

Để thực hiện các nội dung chính trong tái cơ cấu nêu trên, một trong những cơ

chế xử lý nợ, tài sản tồn đọng đã được thiết lập là thành lập các AMC trực thuộc NH.

Các AMC trực thuộc ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác

tài sản đảm bảo nợ tồn đọng trên hai phương diện:

Làm dịch vụ uỷ thác về quản lý và xử lý nợ, tài sản đảm bảo nợ tồn đọng

cho chính NHTM thành lập công ty.

Kinh doanh mua bán nợ tồn đọng, tài sản đảm bảo nợ tồn đọng với các

Tổ chức tín dụng (TCTD) và các AMC của ngân hàng khác.

Cụ thể, các AMC thuộc ngân hàng sẽ:

Tiếp nhận, quản lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm nợ vay liên

quan đến các khoản nợ để xử lý, thu hồi vốn nhanh nhất cho ngân hàng.

12

Hoàn thiện hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ theo quy định của pháp

luật trình Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính ngân hàng của Chính phủ xem

xét, trình thủ tướng Chính phủ cho phép xoá nợ cho khách hàng.

Chủ động bán các tài sản bảo đảm nợ vay thuộc quyền định đoạt của

ngân hàng theo giá thị trường bằng các hình thức: Tự bán công khai trên

thị trường; bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, bán cho Công

ty mua bán nợ của Nhà nước.

Cơ cấu lại nợ tồn đọng bằng các biện pháp, giãn nợ, miễn giảm lãi suất,

đầu tư thêm, chuyển đổi nợ thành vốn góp.

Xử lý tài sản đảm bảo nợ vay bằng các biện pháp thích hợp: cải tạo, sửa

chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn

liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ.

Trực tiếp mua bán nợ tồn đọng, làm môi giới, cấu trúc lại nợ tồn đọng

của ngân hàng mẹ, của các tổ chức tín dụng khác và của các AMC khác.

Thực hiện các hoạt động khác theo ủy quyền của ngân hàng mẹ.

 Các công ty mua bán nợ độc lập thuộc sở hữu Nhà nước:

Các AMC độc lập thuộc sở hữu nhà nước có thực lực lớn có thể mua hay nhận xử

lý nợ từ nhiều tổ chức tín dụng khác nhau, tạo ra lợi thế kinh tế do quy mô lớn (tập

trung các kỹ năng tái cơ cấu tài chính và nguồn lực khan hiếm vào một tổ chức), dễ

dàng chứng khoán hoá các khoản nợ do AMC độc lập có danh mục tài sản lớn và đa

dạng hơn.

Ưu điểm của AMC độc lập là:

Tránh được các mối quan hệ không lành mạnh giữa NH với DN vay nợ.

Cho phép NH tập trung vào hoạt động kinh doanh nòng cốt của mình.

13

Có thể áp dụng các thông lệ thống nhất để xử lý nợ cho các doanh nghiệp

tương tự nhau (ví dụ như trong cùng một ngành).

Nhược điểm của AMC độc lập là:

AMC có thể làm mất đi kỷ cương trả nợ và làm cho giá trị tài sản giảm

nhiều hơn nữa nếu hoạt động không hiệu quả.

AMC cho dù độc lập cũng khó tránh khỏi áp lực chính trị, nhất là nếu cơ

quan đó quản lý một tỷ lệ lớn tài sản của hệ thống ngân hàng.

 Các công ty mua bán nợ tư nhân (không thuộc sở hữu của Nhà nước):

Các AMC tư nhân này chuyên kinh doanh các khoản nợ của các doanh nghiệp,

các ngân hàng cũng như thuê bao tài chính cho các doanh nghiệp khi họ có nhu cầu về

vốn, hoặc gặp khó khăn về tài chính nhưng vẫn còn khả năng phát triển.

Công ty chủ trương sẽ mua thanh lý các loại hình công ty, dùng khả năng tài

chính và quản trị để phục hồi sản xuất và kinh doanh đơn vị được mua, khai thác các

tiềm năng về đất đai, vị trí, thương hiệu.

Ưu điểm của các AMC tư nhân là:

Tạo sự công bằng, không làm mất đi kỷ cương trả nợ và đánh giá tương

đối chính xác về giá trị tài sản.

Không chịu bất cứ áp lực từ phía chủ thể nào, hoạt động chủ yếu vì lợi

nhuận của công ty.

Nhược điểm của các AMC tư nhân là:

Tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh.

Có sự đánh giá tương đối chính xác về giá trị các khoản nợ, tạo động lực

cho bên bên bán nợ sẵn sàng bán với mức giá thích hợp.

14

Có thể linh hoạt xử lý và áp dụng nhiều biện pháp xử lý nợ phù hợp cho

cả bên bán nợ.

1.2.3.3 Các định chế tài chính trung gian

Là các tổ chức kinh tế, các công ty mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ thuộc các thành

phần kinh tế khác, các dịch vụ tư vấn về hoạt động mua, bán, xử lý nợ... Hoạt động

chính của các tổ chức trung gian này như là cầu nối giữa bên mua nợ và bên bán nợ, có

vai trò là nhà tư vấn, dàn xếp việc mua bán nợ, góp phần thúc đẩy cho quá trình mua

bán nợ diễn ra nhanh chóng và đạt được kết quả tốt đẹp. Các tổ chức trung gian này sẽ

được hưởng phí dịch vụ môi giới theo thỏa thuận. Hoạt động tư vấn mua bán nợ có

thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ và kinh nghiệm của tổ

chức tư vấn. Có thể kể tên một số tổ chức trung gian sau:

 Các công ty môi giới: Giữ vai trò trung gian, làm nhiệm vụ tìm kiếm bên có

nhu cầu mua nợ và bên có nhu cầu bán nợ, giúp cho hai bên gặp nhau và xác

lập giao dịch. Hỗ trợ tư vấn cho cả bên mua nợ và bên bán nợ về các vấn đề

nảy sinh trong quá trình mua bán nợ, đưa ra các ý kiến, tháo gỡ các khó khăn

và lên phương án giúp cho thương vụ mua bán nợ được hoàn tất tốt đẹp.

 Các công ty kiểm toán: Làm nhiệm vụ hỗ trợ cho các bên có nhu cầu mua và

bán nợ về mặt kiểm toán số liệu tài chính và đánh giá tình trạng sức khỏe của

các khoản nợ. Nhờ các kết quả kiểm tra đáng tin cậy của các công ty kiếm

toán, sẽ giúp cho bên mua nợ có niềm tin vào các khoản nợ sắp mua, qua đó

giúp cho bên mua nợ đánh giá được tiềm năng lợi nhuận của khoản nợ sắp

mua về, góp phần đẩy nhanh tiến trình mua bán nợ. Mức độ uy tín của các

công ty kiểm toán là vấn đề mà bên mua nợ quan tâm hàng đầu.

 Các công ty thẩm định giá: Làm nhiệm vụ xác định cụ thể về giá trị thực của

các tài sản bảo đảm cho các khoản nợ. Đây là điều hết sức cần thiết trong

một giao dịch xác lập mua bán nợ, vì nó giúp bên mua nợ định giá được

15

chính xác những rủi ro có thể xảy ra khi mua khoản nợ đó, đồng thời giúp

cho bên mua nợ xác định được giá trị tương lai của những khoản bảo đảm

cho các khoản nợ trên.

 Công ty tư vấn luật: Hỗ trợ tư vấn và hướng dẫn các thủ tục pháp lý khi tiến

hành một thương vụ mua bán nợ cho cả bên mua và bên bán, hỗ trợ về mặt

pháp lý trong việc chuyển giao quyền sở hữu các khoản nợ và quyền chủ nợ

đối với các tài sản bảo đảm cho khoản nợ đó.

 Ngoài ra còn có các tổ chức tài chính nước ngoài, các công ty thuê bao tài

chính, các công ty đòi nợ thuê… với tiềm lực về vốn cùng đội ngũ chuyên

gia nhiều kinh nghiệm trong hoạt động mua bán nợ, sẽ góp phần tham gia và

làm sôi động hơn thị trường mua bán nợ.

Hoạt động chính của các tổ chức trung gian này như là cầu nối giữa bên mua nợ

và bên bán nợ, có vai trò là nhà tư vấn, dàn xếp việc mua bán nợ, góp phần thúc đẩy

cho quá trình mua bán nợ diễn ra nhanh chóng và đạt được kết quả tốt đẹp. Các tổ chức

trung gian này sẽ được hưởng phí dịch vụ môi giới theo thỏa thuận. Hoạt động tư vấn

mua bán nợ có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ và kinh

nghiệm của tổ chức tư vấn.

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thị trường mua bán nợ

 Quy định về pháp luật của các cơ quan chủ quản:

Đây có thể coi là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thị trường mua bán nợ

của các DN đặc biệt là các DN thuộc nhà nước.

Hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán nợ là cơ sở chủ yếu để các bên tham

gia đưa ra các quy định, hướng dẫn cụ thể và áp dụng trong thực tế.

Bản thân quy định của các cơ quan chủ quản cũng sẽ ảnh hưởng đến thị trường

mua bán nợ. Có những NH chú trọng đến việc xử lý nợ xấu bằng biện pháp bán nợ thì sẽ

16

có những quy định, hướng dẫn cụ thể. Bản thân các NH này lại có những quy định riêng

biệt so với quy định chung do đặc thù kinh doanh của NH, do quan điểm xử lý nợ...

Tuy nhiên, có những NH thì nghiệp vụ bán nợ hầu như chưa thực hiện, chỉ thực hiện

việc chuyển giao khoản nợ trong nội bộ (cho công ty quản lý và khai thác tài sản của NH).

 Thực trạng các khoản nợ bao gồm:

Trạng thái của khoản nợ: Nợ tốt hay nợ xấu; nợ có khả năng thu hồi hay

không; các khoản nợ hiện đang hạch toán nội bảng hoặc đang hạch toán

ngoại bảng. Thông thường, các khoản nợ hạch toán ngoại bảng là các

khoản nợ đã được các NH sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý có khả

năng thu hồi thấp hơn nhiều so với các khoản nợ hiện đang hạch toán nội

bảng.

Tình hình tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo hầu như là nguồn thu chủ yếu

và duy nhất của các khoản nợ (đối với các khoản nợ có tài sản đảm bảo).

Việc nắm bắt được chính xác tình hình tài sản đảm bảo của khoản nợ sẽ

gia tăng khả năng đàm phán mức giá bán nợ cũng như sẽ đảm bảo một

mức giá bán nợ phù hợp cho Ngân hàng.

Tình hình khách hàng: thiện chí trả nợ của khách hàng, tình hình hoạt

động sản xuất kinh doanh, khả năng phục hồi...cũng là những yếu tố ảnh

hưởng đến việc mua, bán một khoản nợ.

Khả năng thu hồi các khoản nợ: đây chính là một trong các yếu tố cơ bản

để xác định giá bán một khoản nợ. Khả năng thu hồi càng cao, thời gian

thu hồi càng ngắn thì giá mua, bán nợ càng gần với giá trị của khoản nợ

(gốc + lãi + phí phát sinh). Bên cạnh việc xác định khả năng thu hồi các

khoản nợ từ việc xử lý tài sản đảm bảo của khoản vay còn có thể xác

định từ việc dự đoán các nguồn thu nhập khác của khách hàng.

17

Tuy nhiên, có những trường hợp, việc xác định khả năng thu hồi một khoản nợ là

không hề dễ dàng, việc dự đoán đôi khi không chính xác, thậm chí còn sai lệch hoàn

toàn. Đây là rủi ro trong quá trình bán nợ của ngân hàng, vì nếu dự báo không chính

xác thì có thể mức giá bán nợ sẽ rất thấp so với mức giá trị còn lại của khoản nợ và như

thế thì gây thất thoát vốn cho ngân hàng.

Tóm lại, trên cơ sở thực trạng các khoản nợ, các ngân hàng sẽ có các biện pháp

ứng xử phù hợp. Trong trường hợp dự định bán nợ, tuỳ từng thực trạng, tính chất khoản

nợ mà ngân hàng thoả thuận mức giá bán phù hợp cũng như chọn lựa đối tác mua nợ.

 Sự minh bạch của thông tin:

Sự minh bạch của thông tin cũng có thể được coi là một trong các nhân tố ảnh

hưởng đến thị trường mua bán nợ. Sự minh bạch thông tin ở đây được hiểu là sự minh

bạch về thông tin khách hàng, thông tin tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng...

Khi có đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin liên quan đến khoản nợ mà

ngân hàng dự kiến bán thì khả năng thu hồi vốn, khả năng đàm phán tăng giá bán nợ sẽ

tăng, hiệu quả của nghiệp vụ bán nợ tăng lên nhiều so với tình trạng thông tin không rõ

ràng, minh bạch.

Thông tin chung về nợ tồn đọng của các doanh nghiệp (đặc biệt là các DNNN)

chưa được thu thập, theo dõi, cập nhật một cách thường xuyên và có hệ thống, chưa có

đủ chế tài cho chủ nợ và khách nợ theo dõi và báo cáo tình hình nợ tồn đọng một cách

thường xuyên. Ngay cả trong các văn bản chính thức còn chưa phân biệt được các khái

niệm như nợ tồn đọng, nợ xấu, nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ dưới chuẩn...

1.2.5 Sự cần thiết phải phát triển thị trường mua bán nợ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, nợ xấu là một trong những vấn đề

thường trực luôn đe dọa sự tồn tại và phát triển ổn định của hệ thống tài chính ở các

quốc gia. Đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng hay thời kỳ tái cấu trúc hệ thống tài

18

chính, nợ xấu lại được bàn đến như một trong những vấn đề cốt lõi nhất cần giải quyết.

Nhưng đến nay, con số nợ xấu chính xác là bao nhiêu vẫn là một ẩn số. Đây thực sự là

một trong những khó khăn lớn để giải quyết vấn đề nợ xấu.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, mua bán nợ chính là một trong những

biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng. Khi xử lý được nợ xấu sẽ ổn định tài

chính trong nước và nâng cao sức mạnh cho các định chế tài chính. Do vậy, “phát triển

thị trường mua bán nợ” là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thị trường trên

thế giới cũng như nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế

cho thấy, thị trường này phát triển, góp phần tạo thêm kênh giải quyết nợ xấu và nợ tồn

đọng trong nền kinh tế, từ đó sẽ giúp cho tình hình tài chính trong các DN và cả các

NHTM được lành mạnh, minh bạch, giảm rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia cho rằng, xử lý nợ xấu là việc nên quyết định và

hành động nhanh thông qua thị trường mua bán nợ, để tránh những hệ lụy tiêu cực cho

nền kinh tế. Thị trường mua bán nợ là một bộ phận nằm trong thị trường tài chính, nên

nó mang đầy đủ vai trò của thị trường tài chính, như: thông qua hoạt động NHTM tạo

lập nguồn vốn cho nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế,

đẩy nhanh quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó thị trường

mua bán nợ cũng có những vai trò nổi bật, cụ thể như sau:

 Đối với các TCTD, đi liền với tăng trưởng tín dụng là tỷ lệ nợ xấu ngày càng

tăng. Như vậy, một khi các khoản nợ xấu, nợ khó đòi được xử lý thì hệ

thống tài chính trong NH càng trở nên liền mạch, từ đó nâng cao uy tín và

sức mạnh trong kinh doanh.

 Đối với các DN nói chung, thông qua thị trường mua bán nợ, các DN có thể

mua bán các khoản nợ để từ đó tiến hành tái cơ cấu, tổ chức lại công ty để

thu lợi nhuận, hoặc tiến hành cổ phần hóa DN hòa nhập với xu hướng phát

triển chung hiện nay.

19

Như vậy, phát triển thị trường mua bán nợ là vấn đề cần thiết, giúp cho tình hình

tài chính của doanh nghiệp trở nên lành mạnh hơn. Tuy nhiên, hiện nay, các cơ chế,

chính sách cho thị trường mua bán nợ ở Việt Nam cũng chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, việc

nghiên cứu về thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay và đưa ra các kiến nghị và

giải pháp để phát triển thị trường này là vô cùng cần thiết, nhằm giải quyết cơ bản vấn

đề nợ tại Việt Nam nói chung và nợ xấu, nợ tồn đọng nói riêng.

1.3 KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ

TRÊN THẾ GIỚI

Hoạt động mua bán nợ là một lĩnh vực kinh doanh đã xuất hiện từ lâu trên thế

giới.Tại Mỹ và Châu Âu, các công ty kinh doanh chuyên mua bán nợ được hình thành

từ khá sớm và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong quản lý nợ khó đòi của các công

ty. Ngay trong khu vực Châu Á một số quốc gia như Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan…

cũng đã có hoạt động mua bán nợ kể từ khi bùng phát cuộc khủng hoảng tài chính năm

1997. Đến nay hoạt động mua bán nợ trên thế giới đã trở thành một ngành kinh doanh

cực kỳ sôi động và chuyên nghiệp, có thể mang lại nhiều lợi nhuận, đồng thời cung cấp

nhiều giải pháp chuyên môn hóa cho cả chủ nợ lẫn khách nợ.

1.3.1 Kinh nghiệm từ Mỹ

Theo ông Sanjay Kalra đại diện của Quỹ Tiền tệ IMF tại VN, với Mỹ, cuộc khủng

hoảng tài chính phố Wall năm 2008 bắt nguồn từ bong bóng bất động sản, tình cảnh khá

tương đồng với VN hiện nay. Để giải cứu những TCTD sắp "chết", Cục Dự trữ Liên bang

Mỹ (FED) quyết định bơm 700 tỉ USD. Lượng tiền này được phân bổ một phần để mua lại

nợ xấu NHTM, một phần dùng để giải quyết thanh khoản tạm thời cho những đơn vị yếu

kém. Phần còn lại, nhưng chiếm tỉ trọng lớn, là để mua cổ phiếu ưu đãi của các NH.

Với mục đích thứ ba, FED lựa chọn mua cổ phiếu ưu đãi thay vì loại phổ thông.

Cổ phiếu ưu đãi được hưởng mức cổ tức cố định, không phụ thuộc vào khả năng sinh

lời nhưng lại không có quyền tham gia vào việc điều hành ngân hàng.

20

Về mặt bản chất chính là FED cho vay, nhưng chủ trương nắm quyền kiểm soát

các NH nên việc họ chọn loại cổ phiếu ưu đãi như phân tích ở trên là rất thích hợp.

Nhiều chuyên gia cho rằng VN nên học cách làm của Mỹ để giải quyết bài toán

nợ xấu của NH hiện nay. Trao đổi với diễn đàn doanh nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu

- Chuyên gia ngân hàng cho rằng, cả 3 phương án của Mỹ đều phù hợp. Theo tính toán,

VN cần khoảng 7 tỉ USD để mua lại nợ xấu. Nếu để NH tự bán nợ xấu sẽ gây thiệt hại

rất lớn…Tuy nhiên, với VN cần lưu ý để không tạo nên cơ chế xin - cho giữa NH và

công ty mua bán nợ của Chính phủ hay NHNN. Có thể xảy ra chuyện NH bán một

khoản nợ đáng lẽ phải chiết khấu 50% thì họ chỉ cắt 30% thôi. Như vậy, sẽ gây thiệt

hại cho nền kinh tế và tư lợi cho NH…

1.3.2 Kinh nghiệm từ Hàn Quốc

KAMCO vốn là một công ty quản lý tài sản nợ thuộc NH phát triển Hàn Quốc

(KDB), tháng 8/1997 được Chính phủ Hàn Quốc cho phép mua – bán nợ xấu của toàn bộ hệ

thống tín dụng, nhằm đối phó với tình trạng nợ xấu nước này tăng mạnh từ cuối năm 1997.

Cơ chế hoạt động của KAMCO là mua nợ tồn đọng theo chính sách của Chính

phủ, chủ yếu thực hiện theo yêu cầu, chỉ định của Bộ Tài chính- Kinh tế Hàn Quốc. Cơ

chế xử lý nợ của KAMCO cũng hết sức linh hoạt với nhiều phương thức như: bán tài

sản để thu hồi nợ; thành lập các liên doanh AMC với các đối tác nước ngoài với mục

đích huy động nguồn lực và kinh nghiệm để quản lý, khai thác, bán hoặc cho thuê tài

sản. KAMCO còn thành lập các liên doanh CRC (Công ty tái cơ cấu doanh nghiệp)

nhằm tài trợ vốn hoặc chuyển nợ thành vốn cổ phần...

Các khoản nợ xấu sẽ được mua bán dựa trên phân tích, định giá, đàm phán theo

các tiêu chí cũng như phương pháp phù hợp KAMCO áp dụng trong từng thời kỳ. Thời

gian đầu, KAMCO định giá nợ xấu dựa trên khả năng mất vốn theo quy định về an

toàn vốn của các khoản nợ. Giai đoạn sau, KAMCO tiến hành định giá nợ xấu dựa trên

đặc điểm của từng khoản nợ.

21

Nhìn chung, KAMCO định giá cao hơn mức giá trung bình trong giai đoạn đầu.

Sau đó, việc định giá sát với thị trường hơn, kích thích các công ty mua bán nợ xấu tư

nhân tham gia mạnh hơn vào quá trình này. Việc thanh lý các khoản nợ xấu được tiến

hành dưới nhiều hình thức, từ đấu thầu quốc tế cho đến bán buôn, bán lẻ, và tiến hành

tái cấu trúc doanh nghiệp, chủ yếu được thực hiện vào cuối năm 2008 khi tình hình

kinh tế của Hàn Quốc có những cải thiện đáng kể.

KAMCO xét về tổng thể hoạt động được coi là thành công, khi giúp các công ty

mua bán nợ xấu tư nhân Hàn Quốc mạnh dạn tham gia vào thị trường hơn.

Việt Nam có thể học hỏi bài học từ KAMCO: Thành lập công ty mua bán nợ tầm cỡ

quốc gia kích thích quá trình xử lý nợ xấu, đồng thời xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng.

Nếu việc này được thực hiện tốt, sẽ thúc đẩy 20 công ty mua bán nợ trực thuộc các ngân

hàng thương mại tham gia giải quyết nợ xấu của hệ thống tín dụng Việt Nam, có thể giúp

giảm nợ xấu của Việt Nam trở lại mức bình thường, dưới 3%, trong vòng 2 - 3 năm tới.

1.3.3 Kinh nghiệm từ Malaysia

Giải pháp chính phủ Malaysia đã thực hiện để giải quyết nợ xấu chính là thành

lập một công ty mua bán nợ quốc gia, một công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

Ngoài ra, Malaysia còn đưa ra kế hoạch sáp nhập 58 tổ chức tài chính vào 6

nhóm. Kế hoạch này được sự hỗ trợ của Ngân hàng Trung ương Malaysia và được thực

hiện dựa trên những cam kết với WTO trong lĩnh vực tài chính.

Sau khi tiến hành những các bước trên, Malaysia đã tập trung xây dựng thị

trường trái phiếu để tránh cho việc thị trường tài chính bị mắc kẹt trong nợ xấu.

Bài học từ Malaysia: Việt Nam cần ưu tiên phát triển thị trường trái phiếu vì nó

là một kênh huy động vốn thay thế cho ngân hàng. Thị trường trái phiếu còn thiếu sót

và khiếm khuyết là nguyên nhân quan trọng của tình trạng nợ xấu của Malaysia năm

22

1997 (và cả Việt Nam trong thời gian vừa qua). Một số chính sách thực hiện thúc đẩy

thị trường trái phiếu:

 Đơn giản quy trình đăng ký phát hành trái phiếu để các doanh nghiệp có thể

phát hành nhiều loại trái phiếu theo mức độ chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư,

các loại trái phiếu với kỳ hạn dài.

 Tập trung phát triển thị trường repo và mở rộng đối tượng khách hàng.

 Kế hoạch dài hạn phát triển để thị trường trái phiếu sôi động với nhiều nhà

phát hành, nhà đầu tư, trung gian tài chính.

 Bảo hiểm cho thị trường trái phiếu để hỗ trợ hồ sơ tín dụng của DN.

Malaysia có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam về kinh tế, văn hóa, lịch

sử, cơ cấu dân số… Với những chính sách hợp lý, đất nước này đã có những bước tiến

mạnh mẽ trong thời gian qua. Điều đó, có nghĩa là kinh nghiệm của Malaysia rất hữu

dụng với nền kinh tế Việt Nam.

1.3.4 Kinh nghiệm từ Australia

Australia là một quốc gia phát triển với GDP bình quân đầu người năm 2012 là

67.000 USD và có nhiều kinh nghiệm trong quản lý thu, mua nợ. Australia đã giao hai

cơ quan chịu trách nhiệm ban hành pháp luật và quản lý, giám sát thu, mua nợ xấu là

Ủy ban Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (ACCC) và Ủy ban Đầu tư và Chứng

khoán (ASIC). ACCC chịu trách nhiệm về các khoản nợ phát sinh từ việc cung cấp các

hàng hóa và dịch vụ phi tài chính. ASIC chịu trách nhiệm về thu, mua các khoản nợ

phát sinh từ các dịch vụ tài chính.

Hai cơ quan này giám sát và báo cáo định kỳ về hoạt động của tất cả các chủ thể

liên quan thu, mua như Hiệp hội các tổ chức thu, mua nợ, Hiệp hội các cơ quan điều

tra, Hiệp hội thương mại… Hai cơ quan này chịu trách nhiệm phối hợp với các cơ quan

liên quan để đề xuất những giải pháp tối thiểu hóa những hành vi thu, mua nợ bất hợp

23

pháp. Để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của hệ thống, hai cơ quan này có trách

nhiệm công khai các luật và quy định về thu, mua nợ.

Đồng thời, hai cơ quan này tiếp nhận và xử lý những khiếu nại, ví dụ như khiếu

nại của các cơ quan mua nợ về việc không được cung cấp đầy đủ thông tin liên quan

tới khoản nợ. Đặc biệt, để giám sát hoạt động thu mua, khuyến khích việc đưa ra nhiều

sáng kiến về thu, mua nợ xấu, năm 2008, hai cơ quan này còn cung cấp dịch vụ đường

dây nóng để mọi người gọi điện, phán ánh các hành vi và vấn đề phát sinh trong quá

trình thu mua nợ...

Như vậy, từ kinh nghiệm của Australia, Việt Nam có thể tham khảo áp dụng một

số giải pháp như: xây dựng pháp luật, hướng dẫn về thu, mua nợ; phân công rõ trách

nhiệm của các chủ thể liên quan đến thu mua nợ; quy định các hành vi bị cấm như hù

dọa, cố tình làm con nợ hiểu sai về hậu quả của việc không thanh toán…. Đồng thời,

xây dựng quy chế tiếp nhận và giải quyết nhanh chóng các đơn khiếu nại về các hành

vi phạm pháp trong thu, mua nợ; đảm bảo nguyên tắc minh bạch thông qua việc công

khai các quy định về thu, mua nợ; đặc biệt là xây dựng đường dây nóng để giải đáp các

mắc thắc trong các quy định thu, mua nợ và giải quyết các bức xúc liên quan tới thu,

mua nợ và để tiếp nhận các góp ý của mọi người về việc hoàn thiện hệ thống thu, mua

nợ. Đường dây nóng là một biện pháp quan trọng để Chính phủ nâng cao hiệu quả hoạt

động thu, mua nợ, thể hiện kiên quyết của Chính phủ trong vấn đề này và nâng cao

niềm tin của xã hội đối với quyết tâm này của Chính phủ.

1.3.5 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Các mô hình quản lý tài sản và kinh nghiệm áp dụng các mô hình nói trên trong

việc xử lý nợ xấu ở các nước châu Á sau khủng hoảng tài chính năm 1997, để từ đó rút

ra mô hình thích hợp xử lý nợ có hiệu quả cho Việt Nam. Qua kinh nghiệm xử lý nợ

của AMCs ở Thái Lan cho thấy, AMCs có vốn sở hữu nhà nước có hành vi rủi ro đạo

đức cao nhất. Trong các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì mô hình quản lý tài

24

sản quốc doanh vẫn là ưu tiên lựa chọn. Khi khung pháp lý để xử lý nợ xấu vẫn còn

chưa mạnh thì quy trình xử lý nợ có thể được rút ngắn và rất phù hợp đối với các khoản

nợ xấu mang tính hệ thống. Đồng thời, khi thị trường mua bán nợ ế ẩm thì AMCs quốc

doanh sẽ là nơi lý tưởng để tiêu thụ nợ xấu ngân hàng. Hơn nữa, khi Chính phủ mua lại

nợ xấu của ngân hàng thông qua các AMCs quốc doanh thì Chính phủ có thể dễ dàng

áp đặt các điều kiện cần thiết cho việc tái cấu trúc các ngân hàng chất đầy nợ nần.

Ngoài ra, kết quả hoạt động kinh doanh của 4 AMCs quốc doanh ở Indonesia,

Malaysia, Hàn Quốc, và Thái Lan cũng chỉ ra rằng các tỷ số xử lý nợ xấu và tỷ số thu

hồi tiền mặt tương đối cao trong các AMC quốc doanh.

Để các AMC thành công thì kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quy trình xử lý nợ

xấu của các AMC gồm 2 khâu chính quan trọng là khâu thu mua các khoản nợ xấu và

khâu xử lý các khoản nợ xấu đã được mua lại. Dù rằng mục đích của các AMC thường

được cho là làm trong sạch bảng cân đối của các NHTM, các tổ chức tài chính thông

qua nghiệp vụ mua lại nợ xấu, nhưng trong thực tế nó còn phải tìm cách phục hồi giá

trị của các tài sản thanh lý và nợ xấu đã mua ở mức cao nhất có thể. Để làm được điều

này thì một trong những yếu tố quan trọng là:

 Phải đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng ảm đạm và suy thoái. Nếu không làm

được điều đó thì nợ xấu của các ngân hàng sẽ không thực sự mất đi mà nó

chỉ chuyển lòng vòng trong nền kinh tế.

 Nhà nước cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể

điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một

môi trường hoạt động minh bạch, bình đẳng, thông suốt. Chứ không chỉ hỗ

trợ nguồn vốn ban đầu rồi để các AMC tự xử lý nợ xấu.

 Cơ chế định giá các khoản nợ xấu một cách công khai và minh bạch

giảm bất cân xứng thông tin giữa AMC và các NH, bởi vì các NH luôn có

nhiều thông tin hơn AMC về những khoản nợ xấu để không thất thoát vốn nhà

25

nước mà không đạt được hiệu quả. Và các quyết định mua bán nợ cần phải

được độc lập về chính trị để đảm bảo các AMC có thể đạt mục tiêu xử lý nợ.

 Các AMC phù hợp về qui mô, phải có đầy đủ các nguồn lực về vốn,

nhân sự, năng lực đánh giá được rủi ro và xếp loại các tài sản, nợ xấu mà các

NH mang đến bán cho mình. Đồng thời phải ngăn ngừa được rủi ro đạo đức,

tâm lý ỷ lại của các NH khi bán nợ xấu cho AMC. Không để phát sinh nhiều

nợ xấu mới trong nền kinh tế trong khi nợ xấu cũ vẫn chưa xử lý xong.

Đối với Việt Nam, lựa chọn, áp dụng phương thức nào để xử lý nợ xấu vẫn là vấn

đề còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, dù áp dụng phương thức nào trước hết cần có đánh giá toàn

diện về khả năng thực hiện các biện pháp để tái cấu trúc và xử lý nợ xấu, trong đó bao

gồm các vấn đề sau:

 Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc thực hiện tái cấu trúc và xử lý

nợ xấu. Hiện nay, cơ sở pháp lý cho hoạt động của công ty quản lý tài sản và

hoạt động chúng khoán hóa chưa có. Trong một số trường hợp, có thể phải

cân nhắc tới việc ban hành một đạo luật khẩn cấp cho hoạt động của AMC.

 Chính phủ có thể cân nhắc việc thành lập công ty AMC nhưng xác định rõ

mục tiêu chỉ để thực hiện tái cấu trúc và xử lý nợ xấu. Trong đó, cơ sở của

nguồn vốn hoạt động và lộ trình hoạt động của côn ty cần được làm rõ.

 Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cần được triển khai đồng bộ với xử lý nợ

xấu bao gồm những nội dung liên quan đến kiểm kê đánh giá các khoản nợ,

mua bán nợ xấu và đóng cửa các ngân hàng yếu kém, đồng thời hỗ trợ thanh

khoản cho các ngân hàng tốt.

 Phát triển thị trường trái phiếu, mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu

vực ngân hàng. Đây được coi là kênh huy động vốn hữu hiệu trong thời điểm

nguồn lực nội tại của ngân hàng trong nước gặp khó khăn.

26

 Cần xây dựng mạng an toàn tài chính quốc gia, trong đó có phân định trách

nhiệm và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các thành viên như NHNN, Bộ Tài

chính, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi.

Việc xử lý nợ xấu của Việt Nam hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm của các quốc

gia trên thế giới đã thực hiện. Tuy nhiên, việc vận dụng các kinh nghiệm trên phải tính

đến điều kiện cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như: Kinh ttế vĩ mô chưa

thực sự ổn định; Hoạt động cho vay phần lớn dựa trên tài sản bảo đảm là bất động sản,

trong khi thị trường này chưa thể phục hồi ngay; Xử lý nợ xấu không được gây tổn thất

lớn cho Chính phủ và bản thân các ngân hàng. Với kinh nghiệm của các nước ở châu Á

trong xử lý nợ xấu trên và những hàm ý cho Việt Nam, hy vọng rằng Việt Nam sẽ đưa

ra cho mình giải pháp phù hợp trong bối cảnh hiện nay.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 1

Chương một của luận văn cung cấp cái nhìn tổng quát hoạt động mua bán nợ,

những cơ sở lý luận để phát triển thị trường mua bán nợ thông qua các khái niệm,

những loại hình cơ bản, phương thức thực hiện. Bằng những lập luận của mình, tác giả

đã cho thấy những lý do để các doanh nghiệp tiến hành mua bán nợ, phục vụ cho lợi

ích kinh doanh. Theo sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của thị trường, cho thấy

nhu cầu của hoạt động này đang ngày càng mạnh mẽ và việc đẩy mạnh sự phát triển

của thị trường này trong tương lai là tất yếu, góp phần phát triển thị trường dịch vụ tài

chính hiện đại.

27

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

2.1 SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA

BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

Theo tiến trình phát triển kinh tế thị trường ở VN đến năm 2020, chúng ta sẽ tăng số

lượng DN với khoảng 1.000.000 DN, quy mô DN sẽ tăng lên, thị trường SXKD không

phải chỉ trong nước mà phải ra thị trường toàn cầu. Do tình hình SXKD này càng phức

tạp, đòi hỏi các DN phải có tầm nhìn chiến lược tốt, đòi hỏi phải có năng lực tốt điều hành

SXKD nếu không nguy cơ rủi ro cao, sẽ nảy sinh nhiều DN có nhu cầu bán các khoản nợ

và tài sản “nguồn cung” sẽ rất nhiều và đa dạng. Về nhu cầu mua lại các khoản nợ đó cũng

rất lớn. Theo TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung

ương, cho rằng mua bán nợ đã diễn ra tại Việt Nam từ năm 1990 đến nay, song song với

quá trình xử lý nợ của các NH. Hoạt động này diễn ra ngay trong điều kiện bình thường

nhưng đặc biệt quan trọng khi nền kinh tế cần cải tổ, xử lý các vấn đề khủng hoảng NH.

Năm 1990, đánh dấu sự hình thành của thị trường cũa thị trường mua bán nợ tại

Việt Nam bằng sự ra đời của Ban chỉ đạo thanh toán công nợ theo Quyết định số

401/QĐ – UB của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/11/1990. Theo

Quyết định này thì nhiệm vụ của Ban chỉ đạo thanh toán công nợ thành phố là giúp Ủy

ban Nhân dân thành phố thực hiện:

 Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thanh toán nợ nần dây dưa, chiếm dụng

vốn lẫn nhau giữa các đơn vị kinh tế thành phố với Trung ương và tỉnh bạn

cụ thể là:

Tập hợp công nợ của tất cả các ngành các cấp thuộc thành phố và quận

huyện quản lý về số nợ phải thu và số nợ phải trả.

28

Đề ra các biện pháp tích cực để xử lý công nợ, có quy định thời hạn

thanh toán dứt điểm.

 Quan hệ với các cơ quan, đơn vị kinh tế Trung ương và tỉnh bạn để hỗ trợ

trong việc thanh toán công nợ.

 Kiến nghị với các cơ quan pháp luật để xử lý các trường hợp cố ý chiếm

dụng vốn lẫn nhau.

Năm 2000, thị trường mua bán nợ tiếp tục phát triển với sự ra đời của Quyết định

của Ngân hàng Nhà nước số 305/2000/QĐ – NHNN5 ngày 15/09/2000 về việc thành lập

Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của NHTM. Năm 2001, thay thế cho

Quyết định số 305/2000/QĐ – NHNN5 ở trên, là Quyết định 1389/2001/QĐ – NHNN

ngày 07/11/2001 của NHNN ban hành, quy định về việc thành lập Công ty quản lý nợ và

khai thác tài sản thế chấp của NHTM. Hiện nay, nhiều công ty quản lý nợ và khai thác tài

sản của các NHTM quốc doanh và cả NHTM cổ phần đã được thành lập như Công ty

quản lý nợ và khai thác tài sản của NH Đầu tư và Phát triển, NH Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, NH Sài Gòn Thương Tín… Các công ty này chỉ hoạt động giới hạn trong

việc mua, bán đối với các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay, chứ chưa

được phép mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực mua, bán nợ của DN, tổ chức và

cá nhân trong xã hội. Hiện có khoảng 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc các

NHTM có chức năng tiếp nhận và xử lý nợ xấu cho các NH mẹ. Trong quý I năm nay,

hoạt động mua bán nợ trở nên sôi động hơn do ngày càng có nhiều DN phá sản, ngừng

hoạt động. Nhiều tổ chức mua bán nợ của các NHTM đã xúc tiến giao dịch để giải quyết

nợ xấu của các DN nhằm cứu DN và ổn định “sức khỏe” cho chính NH cho vay.

Năm 2003, sự phát triển của thị trường mua bán nợ được đánh dấu bởi một cột

mốc quan trọng đó ra sự đời của Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh

nghiệp (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính, thông qua Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg

do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 05/06/2003 về việc thành lập Công ty Mua,

29

bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) với mục đích hỗ trợ các DNNN

lành mạnh hoá tình hình tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông

qua các hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Việc thành lập DATC hi vọng sẽ

góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ

phần hoá, giao, bán khoán và cho thuê doanh nghiệp thông qua việc xử lý tài sản và

các khoản nợ tồn đọng trước khi thực hiện chuyển đổi DN, xử lý các khoản nợ và tài

sản được loại trừ khi xác định giá trị DN. Đồng thời, thúc đẩy tiến trình hình thành,

phát triển và tạo thêm nguồn hàng hoá cho thị trường tài sản và thị trường vốn. Qua đó

thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong nền kinh tế quốc dân đi đôi

với việc tạo lập khung pháp luật đảm bảo sự quản lý và giám sát của Nhà nước. Xây

dựng mô hình mẫu và định hướng cho việc hình thành và phát triển của một số định

chế tài chính trung gian như công ty mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ thuộc một số thành

phần kinh tế khác. Hoạt động của DATC trong thời gian qua:

 Ngày 13/1/2014, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) đã tổ chức Hội nghị

Tổng kết công tác năm 2013, triển khai nhiệm vụ công tác năm 2014 và tổ chức

Hội nghị Người lao động. Theo báo cáo của DATC tại Hội nghị, năm 2013,

Công ty đã ký được 15 hợp đồng với giá trị các khoản nợ là 1.793 tỷ đồng, đạt

101% so với kế hoạch, tăng gấp 2 lần sơ với thực hiện năm 2012. Lũy kế từ

năm 2004 đến năm 2013, DATC đã thực hiện 136 phương án mua bán nợ theo

theo hình thức thỏa thuận và chỉ định để xử lý tài chính tái cơ cấu DN và thu

hồi nợ. Giá trị sổ sách của các khoản nợ là 10.172,9 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là

2.996,6 tỷ đồng, thu hồi được 3.172,2 tỷ đồng, đạt tỷ lệ thu hồi 106%.

 Trong hoạt động mua bán nợ gắn với tái cơ cấu DN năm 2013, Công ty đã mua

bán nợ, xử lý tài chính, tái cơ cấu thành công 8 DN, thông qua đó đã giúp chuyển

đổi, cổ phần hóa được 5 DNNN trong tổng số 41 DNNN được cổ phần hóa trên

phạm vi cả nước trong năm 2013 (năm 2012, cả nước cổ phần hóa được 13

30

DNNN, trong đó DATC đã tái cơ cấu được 9 DN; năm 2011, cả nước cổ phần

hóa được 16 DNNN, trong đó DATC đã tái cơ cấu được 8 DN). Trong bối cảnh

khó khăn chung hiện nay, những con số kể trên là hết sức ấn tượng và xứng đáng

được ghi nhận. Lũy kế từ năm 2007 đến năm 2013, DATC đã mua nợ, xử lý tài

chính, tái cơ cấu cho 89 DN, trong đó chuyển đổi thành công được 62 DN và 27

DN đang triển khai thực hiện. Trong năm 2013, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng

Chính phủ và Bộ Tài chính, DATC cũng đã phát hành và niêm yết thành công

trái phiếu có bảo lãnh của Chính phủ để tái cơ cấu nợ của Tập đoàn Công nghiệp

Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) vay của TCTD trong nước và nước ngoài.

 Trong công tác tiếp nhận, xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ ra khỏi giá trị DN

khi cổ phần hóa DNNN, năm 2013, Công ty đã ký biên bản bàn giao, tiếp nhận

tài sản và nợ loại trừ của 37 DN với giá trị tiếp nhận là 54,4 tỷ đồng. Công ty đã

tiến hành xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận của 39 DN, giá trị tiếp

nhận đã xử lý là 34,4 tỷ đồng, giá trị thực tế thu hồi là 15,1 tỷ đồng, đạt 151%

so với kế hoạch năm 2013. Lũy kế từ năm 2004 đến năm 2013, DATC đã tiến

hành xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận khi CPH các DN 100%

vốn nhà nước, giá trị thực tế thu hồi cho ngân sách nhà nước đạt 534 tỷ đồng.

 Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động tiếp nhận, mua bán và xử lý nợ tồn đọng,

đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, Công ty đã chú trọng mở rộng hợp tác

kinh doanh với đối tác trong và ngoài nước, nâng cao hình ảnh, vị thế của

Công ty trên thương trường. Công ty đã tổ chức Lễ ký Thỏa thuận Hợp tác với

Công ty Quản lý tài sản quốc gia Hàn Quốc (KAMCO), tăng cường và nâng

cao hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa hai bên trong việc trao đổi kinh nghiệm

xử lý nợ tồn đọng, bao gồm quản lý nợ xấu và tái cơ cấu DN đồng thời tổ

chức các hoạt động trao đổi nhân sự, quảng bá thương hiệu, tư vấn, đào tạo

thông qua Quỹ Chia sẻ Tri thức (KSP) hướng tới mục tiêu xử lý nợ tồn đọng

31

có hiệu quả. Bên cạnh đó, DATC đã tham gia thành lập Diễn đàn các công ty

mua bán xử lý nợ trong khu vực (IPAF) nhằm chia sẻ kinh nghiệm xử lý nợ,

tạo ra mối liên kết hỗ trợ chặt chẽ giữa các AMC công nhằm đối phó với

khủng hoảng tài chính và hỗ trợ quá trình tái cơ cấu các DN.

 Năm 2013 cũng là năm ghi nhận những dấu ấn nổi bật của DATC. Trong

năm qua, DATC đã vinh dự đứng ở vị trí 268 trong bảng xếp hạng Top

1.000 DN đóng thuế thu nhập DN lớn nhất Việt Nam V-1.000. Đây là năm

thứ 3 DATC lọt vào trong Bảng xếp hạng V-1000, trong năm 2012 ở vị trí

236 và với vị trí 119 năm 2010. Bên cạnh đó, Công ty CP Đường Kontum

(KTS) và Công ty CP Mía đường Sơn La (SLS) là hai doanh nghiệp được

DATC thực hiện tái cơ cấu thành công cũng đã vinh dự lọt vào bảng xếp

hạng với thứ tự xếp hạng lần lượt là 419 và 706.

 Năm 2013, DATC cũng đã vinh dự được Liên hiệp các Hội UNESCO Việt

Nam trao tặng Bảng vàng danh hiệu “Doanh nghiệp Văn hóa UNESCO năm

2013”. Đây là giải thưởng cao quý của Ban Tổ chức ghi nhận những nỗ lực

không ngừng của tập thể cán bộ, nhân viên DATC, vượt qua mọi thách thức

trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, hoàn thành nhiệm vụ sản

xuất kinh doanh và nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với Nhà nước, có

đóng góp tích cực của Công ty đối với nền kinh tế, đối với xã hội trong việc

góp phần lành mạnh tình hình tài chính các DN và thúc đẩy tiến trình sắp

xếp lại, chuyển đổi sở hữu các DNNN, là đơn vị điển hình thực hiện tốt trách

nhiệm xã hội và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam.

Năm 2007, thị trường mua bán nợ tiếp tục được củng cố bằng sự ra đời của Nghị

định của Chính phủ số 104/2007/NĐ-CP ngày 14/06/2007 về kinh doanh dịch vụ đòi

nợ. Nghị định này góp phần hướng dẫn và đánh dấu sự ra đời của các công ty kinh

32

doanh dịch vụ đòi nợ chuyên nghiệp hơn. Theo đó thì số vốn pháp định đối với các

công ty này là 2 tỷ đồng với nội dung hoạt động chủ yếu là:

 Đại diện chủ nợ để xác định các khoản nợ, các nội dung liên quan đến việc

thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách nợ; đôn đốc khách nợ trả nợ; thu nợ.

 Đại diện chủ nợ làm việc với tổ chức hoặc cá nhân có liên quan để thu nợ.

 Đại diện khách nợ để xác định các khoản nợ, biện pháp xử lý nợ với chủ nợ.

 Tư vấn pháp luật cho chủ nợ hoặc khách nợ về việc xác định nợ; biện pháp,

quy trình, thủ tục xử lý nợ.

Năm 2013, thị trường mua bán nợ đánh dấu sự phát triển bằng sự ra đời của Công

ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được thành lập và hoạt

động theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ và

Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/06/2013 của Ngân hàng Nhà nước. Công ty ra

đời với trọng tâm là giải quyết nợ xấu đang tồn đọng trong hệ thống NHVN để mua

bán nợ suôn sẻ theo kinh nghiệm một số quốc gia đã triển khai thành công thì không

nên đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận mà chỉ đòi hỏi phải tối đa hóa giá trị nợ

thu về. Hoạt động của VAMC trong thời gian qua:

 Chính thức mua nợ xấu từ 1/10/2013, đến 31/12/2013, VAMC đã mua gần

39.000 tỷ đồng dư nợ gốc của 35 tổ chức tín dụng, tương đương 32.400 tỷ

đồng giá trị trái phiếu đặc biệt, vượt kế hoạch 35.000 tỷ đồng được giao..

Năm 2014, VAMC lên kế hoạch mua nợ từ 70.000 - 100.000 tỷ đồng bằng

trái phiếu đặc biệt. Sau khi mua, VAMC đang thực hiện tổng hợp, phân loại

và xây dựng danh mục các khoản nợ để có thể chào bán ra thị trường trong

nước và quốc tế trong thời gian tới.

 Hoạt động mua, bán, xử lý nợ xấu của VAMC nhận được sự quan tâm rất

lớn từ các tổ chức tài chính trong nước cũng như quốc tế. Trong quá trình

33

hoạt động, VAMC đã có nhiều lượt làm việc với các đoàn đại diện của

những tổ chức tài chính quốc tế uy tín đến trao đổi về khả năng hợp tác trong

việc mua, bán nợ. Đây là cơ hội lớn đối với VAMC nói riêng và đối với các

tổ chức tài chính trong nước nói chung để học hỏi kinh nghiệm quốc tế, vận

dụng có hiệu quả vào thị trường Việt Nam. Cụ thể trong thời gian qua,

VAMC đã thực hiện các vụ mua bán nợ từ các Ngân hàng như sau:

VAMC và Agribank: Ngày 01/10/2013, VAMC đã chính thức ký hợp

đồng với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

(Agribank) mua lại 27 khoản nợ xấu từ 11 khách hàng DN với giá 1.723 tỷ

đồng. VAMC tuyên bố từ nay đến hết năm sẽ mua về 35.000 - 40.000 tỷ

đồng nợ xấu, nhưng nhiều chuyên gia kinh tế đang lo ngại về đầu ra của

các khoản nợ xấu sau khi VAMC mua về. Giá trị phát hành của trái phiếu

đặc biệt cho hợp đồng là 1.723 tỷ đồng. Giá trị của khoản nợ trên sổ sách

là 2.451 tỷ đồng. Giá trị của tài sản đảm bảo các khoản nợ trong hợp đồng

khung có tổng 3.640 tỉ đồng. Các điều kiện của các khoản nợ đảm bảo

được yêu cầu đặt ra của Thông tư 19/2013 quy định về việc mua, bán, xử

lý nợ xấu của VAMC. Sau hợp đồng khung này, các hợp đồng con giữa

VAMC và Agribank về các khoản nợ cụ thể cũng sẽ được ký kết riêng

biệt. Cũng trong ngày này, VAMC và Agribank đã ký một số hợp đồng

mua nợ cụ thể với từng khoản nợ trong hợp đồng khung này và các hợp

đồng con tiếp theo sẽ được tiếp tục ký ngay khi thủ tục hoàn tất. VAMC sẽ

thanh toán cho Agribank bằng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành.

Agribank được sử dụng trái phiếu đặc biệt này để vay tái cấp vốn tại

NHNN Việt Nam. Agribank sẽ tiếp tục cho vay các dự án có hiệu quả, tập

trung cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn mà trực tiếp là các

DN và hộ sản xuất kinh doanh. Với việc bán các khoản nợ xấu cho VAMC

đợt này, Agribank giảm được 7,56% tổng nợ xấu của toàn hệ thống.

34

VAMC và SHB, PGBank và SCB: Ngày 04/10/2013, VAMC hoàn tất

hợp đồng ký kết mua nợ xấu của 3 NH là Sài Gòn Hà Nội (SHB), Xăng

dầu (PGBank) và Sài Gòn (SCB). Tổng giá trị sổ sách của các món nợ

xấu là 1.159 tỷ đồng nhưng được VAMC mua lại với giá 846 tỷ. Hiện tại,

nợ xấu của SHB đang ở mức 9%, PGBank là 8%. Và dự kiến trong thời

gian tới, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) sẽ tiến hành ký kết

hợp đồng mua bán nợ xấu với VAMC với tổng giá trị dự kiến hơn 1.000

tỉ đồng, hầu hết các món nợ xấu này đều là của Habubank chuyển về sau

khi sáp nhập vào SHB. Ngoài những khoản nợ đã bán cho VAMC chiều

4-10, còn những khoản nợ khác mà VAMC đang trong quá trình rà soát.

VAMC và ACB: ACB hiện đang có 3.090 tỷ đồng nợ xấu, chiếm khoảng

2,9% tổng dư nợ. So với cùng kỳ, số nợ xấu của ACB đã tăng thêm 20%.

Tuy tỷ lệ nợ xấu của ACB vẫn thấp hơn 3%, mức bắt buộc phải bán lại nợ

cho VAMC nhưng ACB đang là ngân hàng đầu tiên dám lên tiếng về khả

năng bán lại nợ xấu cho VAMC, với khoản nợ trị giá khoảng 1.500 tỷ

đồng, tức là một nửa số nợ xấu. Trên thực tế chưa có một cuộc tiếp xúc

chính thức nào giữa ACB với VAMC. Con số 1.500 tỷ đồng ngân hàng dự

kiến của ACB đưa ra mới chỉ là con số nợ xấu đáp ứng được các tiêu chí

mua lại mà VAMC đặt ra. Còn việc bán nợ hiện mới chỉ là một khả năng.

Hình hài một thị trường mua bán nợ ở Việt Nam vẫn chưa rõ rệt. Dù NHNN đã

nói rằng sẽ cho phép nhà đầu tư trong và ngoài nước mua lại nợ của VAMC khi công

ty này đi vào hoạt động. Tức VAMC sẽ là tổ chức trung gian thu gom nợ từ các TCTD

và bán lại trên thị trường. Đã có ý kiến cho rằng điều này sẽ giúp hình thành một thị

trường mua bán nợ tại Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy kết luận điều này là hơi sớm

bởi thị trường mua bán nợ của Việt Nam hiện không có hình thù rõ ràng và khá phức

tạp. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tạo ra một thị trường mua bán nợ là bởi vì

35

khi đã có thị trường, các công ty mua bán nợ của các tổ chức trong và ngoài nước sẽ

tham gia. Nhưng hiện nay, chúng ta đang ở thế bị động, các giải pháp đưa ra chỉ là tình

thế. Các tổ chức đang kêu gọi nhà đầu tư tham gia vào thị trường này, song khi chưa có

thị trường chuyên nghiệp, dù có muốn cũng khó phát triển. Ở Việt Nam việc mua bán

nợ chỉ mới bắt đầu hình thành, chưa phát triển mạnh thành một thị trường sôi động với

nhiều thành phần tham gia do Việt Nam còn thiếu khung pháp hoàn thiện, đầy đủ cũng

như nhân lực để phát triển thị trường này. Việc hình thành thị trường mua bán nợ xấu

ngân hàng là một tất yếu khách quan của nền kinh tế. Đó là một trong những giải giúp

lành mạnh hóa tài chính cho các DN cũng như NHTM. Do đó, trong thời gian tới ở

Việt Nam cũng sẽ phát triển thị trường này.

2.2 THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

2.2.1 Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam

Hiện nay, hoạt động mua bán nợ bị chi phối bởi các văn bản pháp lý có liên quan

như: Quyết định 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

vừa ban hành, quy định quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng. Cụ thể như sau:

 Phạm vi mua bán nợ: Các khoản nợ được hạch toán nội bảng. Các khoản nợ

được các TCTD xử lý bằng dự phòng rủi ro hoặc bằng nguồn vốn khác hiện

đang được hạch toán theo dõi ngoại bảng.

 Phương thức mua bán nợ: Thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và

bên mua nợ hay thông qua môi giới. Thông qua đấu giá.

 Giá mua bán: Do các bên thỏa thuận trực tiếp hoặc thông qua bên môi giới. Là

giá mua cao nhất trong trường hợp khoản nợ được bán theo phương thức đấu giá.

 Quy trình thực hiện mua bán nợ: Các TCTD xây dựng quy trình thực hiện

mua bán nợ phù hợp với quy định của quy chế.

36

 Quy định về nghĩa vụ thông báo cho bên nợ: Bên mua nợ và bên bán nợ được

thỏa thuận mua bán nợ nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên nơ biết.

Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/09/2013 quy định việc mua, bán các

khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam:

 Thông tư này áp dụng đối với TCTD Việt Nam, ngoại trừ cho các NH 100%

vốn nước ngoài, NH liên doanh Tham gia và chi nhánh NH nước ngoài.

 Thông tư này hướng dẫn về việc mua, bán, xử lý nợ xấu, phát hành, quản lý

và thanh toán trái phiếu đặc biệt đối với Công ty quản lý tài sản (VAMC).

 Liên quan đến việc mua bán nợ xấu giữa VAMC và các TCTD: Thông tư

này quy định các nguyên tắc mua bán nợ xấu, quyền và trách nhiệm giữa các

bên, phát hành trái phiếu đặc biệt của VAMC để mua các khoản nợ xấu, điều

kiện và thủ tục mua bán nợ xấu giữa VAMC và các TCTD, chuyển dịch cơ

cấu cho vay và hỗ trợ khách hàng vay. Thông tư này cũng quy định các tỷ lệ

bảo đảm an toàn, kiểm soát rủi ro của VAMC.

 Đối với các khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của VAMC: Thông tư này quy định

chi tiết các biện pháp để xử lý các khoản nợ xấu, tài sản thế chấp bao gồm bán nợ

xấu, tài sản bảo đảm, góp vốn điều lệ, mua cổ phần cho khách hàng vay là DN.

 Thông tư này quy định việc giải quyết số tiền thu được từ các khoản nợ xấu,

các thủ tục thanh toán trái phiếu đặc biệt do AMC, dự phòng rủi ro và sử

dụng, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan.

 Điểm quan trọng nhất là nếu TCTD có tỷ lệ nợ xấu trên 3%, họ phải bán các

khoản nợ xấu của họ để AMC, nếu không, NHNN sẽ áp dụng các quy định tại

điểm 5, Điều 14 Nghị định 53/2013/ND-CP của chính phủ (có nghĩa là họ sẽ bị

thanh tra bởi NHNN hoặc kiểm toán bởi kiểm toán độc lập để xác định xem có

bán nợ xấu cho AMC hay không để đảm bảo hoạt động an toàn của TCTD).

37

Thông tư số 79/2011/TT-BTC ngày 8/6/2011 do Bộ Tài chính ban hành quy định

điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mua bán

nợ Việt Nam (DATC)

Quyết định 1590/QĐ-NHNN: Về việc phê duyệt Điều lệ Tổ chức và hoạt động

của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín

dụng Việt Nam (VAMC).

Quyết định 1389/2001/QĐ – NHNN ngày 07/11/2001 của NHNN ban hành, quy

định về việc thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của NHTM

Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/09/2013 Quy định về việc mua, bán và

xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý Tài sản của các Tổ chức tín dụng.

Thông tư số 20/2013/TT-NHNN ngày 09/09/2013 Quy định về cho vay tái cấp vốn

trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam.

Quyết định 780/QĐ-NHNN thực sự có ý nghĩa hỗ trợ cho DN trong việc tiếp tục

được vay vốn NH với lãi suất hợp lý hơn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu tăng trở lại

nếu kinh tế vĩ mô và điều kiện sản xuất kinh doanh, thị trường bất động sản chậm được

cải thiện. Nếu tính toán một cách thận trọng, nợ xấu bao gồm cả nợ xấu được cơ cấu lại

theo Quyết định 780/QĐ-NHNN thì tỷ lệ nợ xấu cũng chỉ khoảng 9%.

Thông tư số 09/2014/TT-NHNN (Thông tư 09) sửa đổi, bổ sung một số điều của

Thông tư 02, quy định ngân hàng được cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ

đến ngày 1/4/2015, nghĩa là gần một năm nữa việc tái cơ cấu lại nợ mà không phải

chuyển nhóm sẽ phải chấm dứt.

Theo đúng lộ trình thì vào ngày 01/06/2014, Thông tư 02/2013/TT-NHNN do

NHNN ban hành về việc “Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp

trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” sẽ chính thức có hiệu lực.

38

Nghị định số 17/2010/NĐ – CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về việc bán đấu

giá tài sản.

Ngoài ra, hoạt động tại Việt Nam còn được điều chỉnh bởi các luật có liên quan

như: Luật Doanh nghiệp 2005, Luật chứng khoán 2006, Luật các tổ chức tín dụng

2010, Luật đầu tư 2005, Luật cạnh tranh 2004, Chuẩn mực kế toán, Luật về thẩm định

giá tài sản bảo đảm.

Luật đầu tư 2005: đã có hiệu lực, những quy định về mua bán nợ có những bước

tiến mới, tích cực, cho phép nhà đầu tư tự chủ trong các quyết định đầu tư của mình,

đặc biệt trong việc lựa chọn hình thức đầu tư và đây là một phương thức hữu hiệu để

tạo thêm điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. Song, luật vẫn còn những rào cản nhất

định và có những điểm còn chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ, dễ gây hiểu lầm. Tỷ lệ đầu tư

nước ngoài: Luật vẫn đang hạn chế quyền nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước

ngoài đối với DN đại chúng hoạt động sản xuất là 49% và các Ngân hàng là 30%.

Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 do Chính phủ ban hành quy định

về việc NĐT nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam. Nghị định này quy định

điều kiện, thủ tục mua cổ phần, tổng mức sở hữu cổ phần tối đa của các nhà đầu tư

nước ngoài, tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của một NĐT nước ngoài tại một TCTD Việt

Nam; điều kiện đối với TCTD Việt Nam bán cổ phần cho NĐT nước ngoài.

2.2.2 Nhu cầu bán nợ ngày càng gia tăng

Tình hình kinh tế xã hội nước ta tính đến năm 2014 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất

ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Hoạt

động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp.

Suy thoái trong khu vực đồng Euro cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp

gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn. Một số nước và khối nước lớn

có vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại với nước ta như Mỹ, Nhật bản, Trung Quốc

và các nước EU đối mặt với nhiều khó khăn nên có tốc độ tăng trưởng chậm. Thị trường tiêu

39

thụ hàng hóa bị thu hẹp, sức mua giảm. Tỷ lệ nợ xấu NH ở mức đáng lo ngại. Nhiều DN,

nhất là DN vừa và nhỏ phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.

Tình trạng nợ xấu đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ cho các DN mắc

nợ, TCTD mà còn mang lại không khí u ám chung cho cả nền kinh tế. Nợ xấu kéo dài

do nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hồi phục sau khủng hoảng; các DN kinh

doanh thua lỗ không còn khả năng trả nợ, trong khi đó một phần không nhỏ xuất phát

từ việc thẩm định vốn vay, quản lý nợ chưa tốt của các TCTD và hệ thống ngân hàng.

Năm 2011 đến hết năm 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 DN, trong đó CPH 99 DN

và sắp xếp theo các hình thức khác 81 DN. Tổng số DN CPH từ trước đến nay là 4.065 DN,

bao gồm 3.650 DN và 415 bộ phận DN, số DN 100% vốn nhà nước tính đến 31/12/2013

còn 949 DN (chưa kể nông, lâm trường quốc doanh). Trong 99 DN kể trên, có 19 TCT. Các

DN này hầu hết có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành, tài chính

phức tạp. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế trong nước khó khăn, TTCK

chưa phục hồi, việc cổ phần hóa được số DN nói trên với số cổ phần chào bán trị giá gần

19.000 tỷ đồng là nỗ lực, cố gắng rất lớn đáng ghi nhận. Bên cạnh đó, thực hiện tái cơ cấu

thông qua mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN để chuyển sang công ty cổ phần được 28

DN. Các DN này hoạt động hết sức khó khăn, không còn vốn nhà nước, có DN đã lâm vào

tình trạng phá sản. Hiện nay, DATC đang thực hiện tái cơ cấu tài chính thêm 11 DNNN.

Theo các chuyên gia kinh tế, nợ xấu của các DNNN chiếm đến 70% tổng nợ xấu của

toàn hệ thống tín dụng, trong đó, có các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chiếm 53% số

nợ xấu. Nguyên nhân chủ yếu do sự ưu đãi của Nhà nước đối với khu vực này, nhất là ưu đãi

về tín dụng. Ngoài ra, nợ xấu của khu vực DNNN còn xuất phát từ việc đầu tư ngoài ngành

một cách tràn lan của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Trong suốt 2011, khi thị trường bất

động sản, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ - ngân hàng phát triển nóng, thu nhiều lợi

nhuận làm cho các DNNN không chuyên vào các lĩnh vực này cũng chạy theo lợi nhuận, mở

rộng đầu tư. Do không am hiểu chuyên môn trong lĩnh vực này cũng chạy theo lợi nhuận, mở

40

rộng dầu tư. Do không am hiểu chuyên môn trong lĩnh vực này DNNN rất dễ rơi vào khủng

hoảng, khó khăn bởi tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới đến thị

trường Việt Nam, làm cho các thị trường này sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí mất cả vốn đầu

tư, dẫn đến tình trạng không có khả năng trả nợ NH và vô hình chung biến thành nợ xấu.

Hoạt động của các NHTM trong những năm gần đây đã bộc lộ nhiều yếu kém,

thiếu tính bền vững, nhiều rủi ro liên quan đến chất lượng tín dụng, nợ xấu gia tăng, rủi

ro thanh khoản, và đặc biệt là trong năm 2012 và 2013 hàng loạt các vụ thao túng, lũng

đoạn được phanh phui trong hệ thống các NHTM gây hoang mang và mất lòng tin trầm

trọng đối với dân cư và các doanh nghiệp trong cả nước.

Trong giai đoạn 2007-2013, theo số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam, nợ xấu tăng từ 1,55% lên 3,63% (với thang đo và tiêu chuẩn quốc tế của

Moody’s thì nợ xấu của Việt Nam được “báo động” không dưới 15%) đã làm giảm tốc

độ tăng trưởng GDP từ 8,48% xuống còn 5,42%.

Đơn vị: %

(Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê và NHNN)

Biểu đồ 2.1: Biểu đồ tăng trưởng nợ xấu ảnh hưởng GDP (2007 – 2013)

41

Kết quả biểu đồ 2.1 được giải thích bởi nợ xấu tăng trưởng gây áp lực thanh

khoản lớn lên các ngân hàng thương mại dẫn đến hạn chế cấp tín dụng cho các cá nhân,

doanh nghiệp tiêu dùng cũng như sản xuất cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng vì áp lực

thanh khoản, ngân hàng gia tăng lãi suất cho vay làm nhiều doanh nghiệp đình đốn vì

không còn khả năng vay vốn tiếp tục duy trì hoạt động do nợ xấu tăng cao. Chính

những nguyên nhân trên dẫn đến giảm mạnh tăng trưởng GDP trong cuối năm 2013.

Thị trường mua bán nợ ở Việt Nam đang trong tiến trình phát triển nên nhu cầu

bán nợ (nguồn cung) khá nhiều từ:

 Tổng số nợ xấu và nợ cơ cấu lại từ các Tổng công ty, DNNN (các Tổng công

ty xây dựng giao thông thuộc Bộ giao thông và vận tải, các Tổng công ty xây

dựng thuộc Bộ xây dựng, một số Tổng công ty thuộc Bộ nông nghiệp và

phát triển nông thôn, các đơn vị thành viên thuộc Vinashin…) chưa kể đến

các DN tư nhân, cổ phần, và liên doanh đến cuối 2012 ước tính là 73.000 tỷ

đồng, tương đương 3.4 tỷ đôla Mỹ. Với sự phát triển nhanh của kinh tế thị

trường toàn cầu hóa, sự cạnh tranh gắt gao, với năng lực điều hành không

theo kịp thì nợ của các DN sẽ tăng lên. Do đó, nhu cầu về bán tài sản và

khoản nợ sẽ ngày càng tăng về số lượng, quy mô và tính đa dạng. Trích dẫn

số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, báo cáo cho biết, đến cuối

2012, nợ xấu của DNNN (chưa tính Vinashin) chiếm 11,8% tổng nợ xấu của

hệ thống TCTD và 5% dư nợ đối với DNNN. Với số liệu trên, ước tính nợ

xấu của DNNN khoảng 24.950 tỷ đồng. Con số này chưa bao gồm nợ xấu

của Vinashin tại các TCTD trong nước (ước tính khoảng 19.800 tỷ đồng năm

2010) và nợ đã được cơ cấu lại theo Quyết định 780 của NHNN (ước chiếm

khoảng 10% tổng dư nợ năm 2012). Các khoản nợ xấu nêu trên cũng được

đánh giá là rất khó giải quyết. DN tư nhân có thể dễ dàng bán tài sản hoặc

nhượng cổ phần cho các DN khác để có tiền trả nợ NH. Nhưng DNNN rất

42

khó có thể bán theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy giảm. Vì vậy,

các khoản nợ mà các DNNN vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của

ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ

sung vốn...

 Theo biểu đồ 2.2 thì tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống NHTM tăng rất nhanh từ

hơn 3% (cuối năm 2011), lên 4,08% (cuối năm 2012) và 3,63% (cuối năm

2013). Các ngân hàng thuộc nhóm 3 và nhóm 4 có tỷ lệ nợ xấu tập trung

nhiều nhất. Bên cạnh đó, cũng không loại trừ các ngân hàng thuộc nhóm 1

và nhóm 2. Ngân hàng có thể tránh được việc hạch toán các khoản nợ vào

nhóm 3, 4, 5 bằng các nghiệp vụ kế toán tinh vi. Điều này phản ánh thực tế,

trong thời gian qua số liệu về nợ xấu công bố luôn ở mức an toàn.

Đơn vị: %

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng (2008 – 2013)

(Nguồn: Tổng hợp từ NHNN)

43

Từ phía Ngân hàng nhà nước, nợ xấu theo báo cáo tài chính của các NHTM

(khoảng 125.000 tỷ) và nợ “tái cơ cấu” theo quyết định 780 (khoảng 317.000 tỷ), thì

con số nợ xấu thực tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam phải vào khoảng 440.000 tỷ

đồng, tương đương 20,8 tỷ USD, xấp xỉ 13,6% tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối năm

2013, và bằng khoảng 12,3% GDP.

Đến cuối năm 2012: Tổng nợ xấu của Agribank, BIDV, Vietcombank và

Vietinbank là hơn 46.600 tỷ đồng, gồm: BIDV nợ xấu ở mức 2,77% (tương đương

8.980 tỷ đồng); VCB nợ xấu chiếm 2,25% (khoảng 5.398 tỷ đồng); Vietinbank nợ xấu

ở mức 1,35% (khoảng 4.464 tỷ đồng); Agribank nợ xấu ở mức 5,8% (khoảng 27.866 tỷ

đồng) được biểu diễn cụ thể ở biểu đồ 2.3:

Biểu đồ 2.3: Biểu đồ tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng Agribank,

Đơn vị: tỷ đồng

(Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các NH và NHNN)

BIDV, Vietcombank và Vietinbank tính đến hết năm 2012

44

Đến tháng 9/2013: Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước ở biểu đồ 2.4 thì tỷ lệ

nợ xấu của hệ thống các TCTD đến cuối tháng 9/2013 là 4,62%, tương đương 152.655

tỷ đồng. Trong khi đó, số liệu đến 30/9/2013 của 14 ngân hàng, chiếm hơn 51% tổng

tài sản hệ thống TCTD, nợ xấu của 14 ngân hàng này là 49.526 tỷ đồng. So với thời

điểm 31/12/2012, nợ xấu của 14 ngân hàng trong 9 tháng đầu năm 2013 đã tăng thêm

10.787 tỷ đồng, tương đương 27,8%. Nợ xấu đang là “cục máu đông” của nền kinh tế

và xử lý sớm “cục máu đông” này là việc cấp bách để tái cơ cấu nền kinh tế và hệ

thống NHTM.

Đơn vị: tỷ đồng

Biểu 2.4: Nợ xấu của một số tổ chức tín dụng (2012 và tháng 9/2013)

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo tài chính của các NHTM)

45

Đến cuối năm 2013: tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống NHVN là 3,63%, giảm gần 1%

so với hồi đầu năm 2013. Gần 40.000 tỷ đồng nợ xấu đã được VAMC mua lại từ các

ngân hàng. Báo cáo về tỉ lệ nợ xấu của một số ngân hàng cuối năm 2013 so vối cuối

năm 2012: Nợ xấu của Agribank giảm 7,56%; tỉ lệ nợ xấu của một số ngân hàng cuối

2013 như: SHB là 4,1%; TCB là 3,6%; ACB là 3,02%; MBBank là 2,45%....

Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ nợ xấu của 10 ngân hàng qua các thời điểm năm 2013

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo tài chính của các NHTM)

Đơn vị: %

Báo cáo tài chính quý I/2014 của nhiều NHTM vừa công bố cũng cho thấy xu

hướng nợ xấu tăng lên… Như tại, Sacombank nợ xấu đã tăng lên đáng kể từ 1,45%

cuối 2013 lên 1,86% khi kết thúc quý I/2014; tại DongABank nợ xấu tăng lên gần 4%;

tại ACB tỷ lệ nợ xấu chính thức vọt từ mức 3% lên 3,27%. Nợ xấu của các NHTM

cũng phần nào đánh giá được phần nào nợ xấu của một số DN hiện nay.

Bài toán giải quyết nợ xấu, sẽ góp phần thôi thúc các DNNN, NHTM và các DN

đang hoạt động tại Việt Nam phải tìm mọi cách để xử lý khoản nợ xấu này. Và hoạt

46

động mua bán nợ là một trong những giải pháp sẽ giúp cho các chủ thể này tìm được

hướng giải quyết cho bài toán khó khăn trước mắt này. Từ đó sẽ làm gia tăng số luợng

cung hàng hóa trên thị trường mua bán nợ, tức là sẽ có thêm nhiều chủ thể có nhu cầu

bán các khoản nợ xấu trên thị trường. Sự gia tăng nợ xấu (tức là những khoản nợ khó

thu hồi) sẽ làm gia tăng lượng hàng hóa trên thị trường mua bán nợ, bên cạnh những

khoản nợ có thể thu hồi.

Bài toán giải quyết nợ tốt, người bán chưa sẵn sàng và chưa thật sự muốn bán vì

những lí do chủ quan từ phía các chủ thể này như: sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh

doanh của công ty, cách nhìn chưa đúng về việc bán nợ…

2.2.3 Quá trình mua nợ bắt đầu tăng

Có bán thì sẽ có mua, do vậy cần một thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam và

vấn đề đặt ra là mua bán như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Năm 2014, giải quyết

nợ xấu vẫn là mục tiêu quan trọng và cấp bách của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các

hệ thống NH và TCTD. Các tổ chức thu mua nợ với nghiệp vụ xử lý nợ chuyên nghiệp

ra đời để giúp các NHTM, DNNN và doanh nghiệp tư nhân càng trở thành tiêu điểm

“hot” được quan tâm trên thị trường tài chính.

Hiện nay, tại Việt Nam đang có hơn 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản

(AMC) của các NHTM và một công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh

nghiệp (DATC) thuộc Bộ Tài chính và một công ty mua bán nợ của các TCTD

(VAMC). Đây là những cơ sở và điều kiện để thúc đẩy thị trường mua bán nợ tại VN.

Việc mua bán nợ của DNNN mới chỉ có Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam

(DATC) của Bộ Tài chính thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ. Việc mua bán nợ của

các TCTD chỉ có Công ty quản lý tài sản (VAMC) theo chỉ đạo của NHNN và các

công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM thực hiện. Các công ty mua bán nợ

của các thành phần kinh tế chưa có sự tham gia nhiều. Biểu đồ 2.6 thể hiện vốn điều lệ

của một số công ty mua bán nợ tại Việt Nam hiện nay:

47

(Nguồn: Tổng hợp từ NHNN)

Biểu đồ 2.6: Quy mô vốn của một số công ty mua bán nợ trực thuộc NHTM (2013) Đơn vị: tỷ đồng

 Các công ty quản lý và khai thác tài sản ở VN hiện nay hầu như là do các

ngân hàng thương mại (NHTM) đứng ra thành lập và quản lý. Một số ngân

hàng như: Vietinbank, Vietcombank, BIDV, Agribank, ACB, MBBank,

Lienvietpostbank……đã thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, để

chuyên lo xử lý nợ xấu của NH. Hoạt động của những công ty này góp phần

giải quyết một phần nợ tồn đọng, nhưng việc triển khai hoạt động của các

công ty này còn gặp nhiều khó khăn và tốc độ xử lý nợ còn chậm, chưa đạt

kế hoạch đặt ra. Thực chất các công ty này chỉ theo sự ủy thác của các

NHTM tiếp nhận các khoản nợ xấu để làm sạch bảng cân đối kế toán của

NH mẹ. Hoạt động chủ yếu là bán tài sản hoặc khai thác tài sản, hạn chế tổn

thất, và chưa theo tín hiệu của thị trường, mà chỉ tập trung vào xử lý các

khoản nợ xấu bằng việc thực hiện giải pháp xóa nợ.

48

Đơn vị: tỷ đồng

(Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các AMC thuộc NHTM)

Bảng 2.8: Biểu đồ thể hiện vốn của AMC thuộc các ngân hàng lớn (2013)

 Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam – DATC (tiền thân là Công ty mua

bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp) trực thuộc Bộ Tài chính theo

Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/06/2003 của Thủ tướng Chính

phủ: DATC ra đời với trọng tâm là thúc đẩy cổ phần hóa các DNNN và với

hình thức mua bán nợ vẫn chủ yếu là thỏa thuận để lành mạnh hóa tài chính

của DNNN và các NHTM:

Vốn điều lệ ban đầu: 2.000 tỷ đồng.

Ngành nghề kinh doanh chính:

o Mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DN (bao gồm cả tài sản và

quyền sử dụng đất được sử dụng để bảo đảm cho các khoản nợ).

o Tiếp nhận để xử lý các khoản nợ và tài sản đã loại trừ không tính vào

giá trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN.

o Xử lý các khoản nợ và tài sản đã mua, đã tiếp nhận theo quy định.

49

o Tư vấn, môi giới xử lý nợ và tài sản tồn đọng.

Mục tiêu của công ty là thông qua hoạt động mua, bán, xử lý nợ và tài

sản tồn đọng để:

o Hỗ trợ các doanh nghiệp lành mạnh hóa tình hình tài chính trong quá

trình hoạt động sản xuất kinh doanh.

o Góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình

sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp.

o Góp phần thúc đẩy tiến trình hình thành, phát triển của thị trường

chứng khoán, thị trường vốn.

o Tạo mô hình mẫu và định hướng cho việc hình thành và phát triển của

một số định chế tài chính trung gian như công ty mua bán nợ, dịch vụ

đòi nợ thuộc các thành phần kinh tế khác, các dịch vụ tư vấn tài chính...

Hoạt động mua bán nợ của DATC trong thời gian qua:

o Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay chủ yếu

theo hình thức thỏa thuận giữa các bên. Đến nay, tổng nợ xấu mà

DATC đã mua lại từ phía các NHTM khoảng 10.000 tỷ đồng. Nợ xấu ở

đây chủ yếu tập trung vào các DNNN đang cổ phần hóa, ngoài ra là ở

một số các DN tư nhân. Tính đến đầu năm 2014, DATC đã mua và xử

lý được gần 10.000 tỷ đồng nợ xấu.

o Trong năm 2013 vừa qua, DATC đã ký 15 hợp đồng mua nợ với giá trị

1.793 tỷ đồng, giá mua 537 tỷ đồng, gấp 2 lần năm 2012. Lũy kế giai

đoạn 2004 - 2013, Công ty đã thực hiện tổng cộng 136 phương án mua

bán nợ với giá trị tính theo sổ sách là 10.172,9 tỷ đồng, giá vốn mua nợ

là 2.996,6 tỷ đồng, thu hồi được 3.172,2 tỷ đồng, đạt tỷ lệ thu hồi 106%.

50

o Các vụ mua nợ của DATC như: Công ty cà phê Buôn Ma Thuột với nợ

đọng lên tới hàng nghìn tỷ đồng, hay hợp tác xã cà phê Đức Lập (Đăk

Nông) gần như phá sản phải bán thương hiệu để được vay vốn ngân

hàng. Đây là hai doanh nghiệp mà DATC đã và đang lên phương án

mua lại nợ và tài sản. Mới gần đây nhất là Công ty CP Thủy sản Bình

An đã được DATC phối hợp với các NHTM mua lại các khoản nợ để

hỗ trợ tái cơ cấu, phục hồi sản xuất kinh doanh.

Với các mục tiêu đạt được, DATC hiện đang giữ vai trò rất quan trọng

trong việc phát triển thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay.

 Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC): được thành

lập và hoạt động theo Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ

tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/06/2013 của

Ngân hàng Nhà nước. Công ty ra đời với trọng tâm là giải quyết nợ xấu đang

tồn đọng trong hệ thống NH Việt Nam để mua bán nợ suôn sẻ theo kinh

nghiệm một số quốc gia đã triển khai thành công thì không nên đặt vấn đề

bảo toàn vốn và có lợi nhuận mà chỉ đòi hỏi phải tối đa hóa giá trị nợ thu về:

Vốn điều lệ: 500 tỷ đồng.

Ngành nghề kinh doanh chính là:

o Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

o Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm.

o Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn

góp, vốn cổ phần của khách hàng vay.

o Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo

đảm đã được Công ty Quản lý tài sản thu nợ.

51

o Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có

liên quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến

khoản nợ xấu và bảo đảm tiền vay.

o Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản.

o Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần.

o Tổ chức bán đấu giá tài sản.

o Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của TCTD.

o Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VAMC sau khi

được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.

Mục tiêu của công ty:

o Góp phần xử lý nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính.

o Giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp.

o Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế.

Hoạt động mua bán nợ của DATC trong thời gian qua:

o Hiện VAMC mua nợ xấu với giá trị sổ sách bằng trái phiếu đặc biệt.

Với số nợ mua vào, VAMC sẽ xem xét điều chỉnh đưa lãi suất cho

vay về mặt bằng lãi suất hợp lý, tạo điều kiện cho DN trả nợ. Đồng

thời tham gia tiến hành tái cấu trúc, tạo điều kiện cho DN vay thêm

vốn mới, tiếp tục đầu tư sản xuất kinh doanh để có thể trả nợ cho NH.

o Đến cuối 2013, VAMC đã mua nợ xấu của 35 TCTD, với số nợ xấu

đã mua trên 45.000 tỷ đồng. Với số nợ xấu đã mua này, VAMC đã

phân loại được 983 khách hàng với tổng số nợ gốc hơn 37.680 tỷ

đồng; trong đó, bán nợ, bán tài sản đảm bảo là 1.400 tỷ đồng, cơ cấu

52

lại nợ đối với 145 khách hàng là 14.700 tỷ đồng, thu hồi nợ với số nợ

là 6.800 tỷ đồng.

o Nổi bật hơn trong đầu năm 2014, VAMC đã mua được 3.929 tỷ đồng

nợ gốc từ các TCTD tính trong Quý I, 2014 bằng phát hành trái phiếu

đặc biệt. Năm 2014, VAMC lên kế hoạch mua nợ từ 70.000 - 100.000

tỷ đồng bằng trái phiếu đặc biệt.

o Vấn đề dư luận quan tâm đó là số nợ xấu được xử lý qua VAMC thực

chất là bao nhiêu? Theo như dự kiến, tổng số nợ xấu được xử lý qua

VAMC chiếm khoảng 40-50% nợ xấu của các TCTD. Nhưng đến hết

30/4/2014 số nợ xấu được xử qua VAMC chỉ ở mức 445 tỷ đồng

(1/10 so với con số nợ xấu mua vào).

o VAMC tiếp tục phối hợp với các tổ chức tín dụng hình thành thị

trường thứ cấp bán nợ. VAMC có thể được trao thêm quyền để xử lý

nợ hiệu quả nhất, nhanh nhất trong bối cảnh VAMC bán nợ, tài sản

đảm bảo cho cả các tổ chức nước ngoài. Sau khi mua nợ, VAMC thực

hiện tổng hợp, phân loại và xây dựng danh mục các khoản nợ để có

thể chào bán ra thị trường trong nước và quốc tế. Hoạt động mua,

bán, xử lý nợ xấu của VAMC nhận được sự quan tâm rất lớn từ các tổ

chức tài chính trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, VAMC đã

có nhiều cuộc làm việc với đoàn đại diện các tổ chức tài chính quốc tế

đến trao đổi về khả năng hợp tác trong việc mua, bán nợ.

 Các công ty mua bán nợ tư nhân: Hiện nay có Công ty mua bán nợ và thuê

bao tài chính là công ty chuyên kinh doanh các khoản nợ của các DN, các

NH cũng như thuê bao tài chính cho các DN khi họ có nhu cầu về vốn , hoặc

gặp khó khăn về tài chính nhưng vẫn còn khả năng phát triển. Đi đầu và nổi

bật nhất của mô hình này là công ty Cổ phần Doanh nghiệp trẻ tỉnh Đồng

53

Nai (DONACORP) thuộc hội doanh nghiệp trẻ tỉnh Đồng Nai, được cấp

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 21/6/2006, với vốn điều lệ 50 tỷ

đồng. Ba cổ đông sáng lập, chiếm 54% vốn điều lệ, đều là những doanh

nghiệp làm ăn hiệu quả, có uy tín ở Tỉnh và hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam.

Phạm vi hoạt động của công ty là: ngoài đầu tư và dịch vụ về nhà xưởng

sản xuất, sinh hoạt và kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản hàng hóa

cung ứng cho các nhà sản xuất. Công ty chủ trương sẽ mua thanh lý các

loại hình công ty, dùng khả năng tài chính và quản trị để phục hồi sản

xuất và kinh doanh đơn vị được mua, khai thác các tiềm năng về đất đai,

vị trí, thương hiệu. Sau đó chuyển thành công ty cổ phần và đưa lên sàn

chứng khoán. DONACORP hoạt động có hiệu quả kể từ khi thành lập,

luôn chú trọng vào đầu tư và nắm quyền chủ động kiểm soát cơ sở kinh

doanh của con nợ, sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất và các thế mạnh của

con nợ, dưới sự điều hành quản lý của những nhà quản trị trẻ, có năng

lực cao để có thể tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp.

Thương vụ ồn ào nhất năm 2006 là việc Công ty Cổ phần doanh nghiệp Trẻ

Đông Nai (DONACORP) mua lại Công ty Cheerfield Vina với giá chỉ 1

USD. Trước đó, Cheerfield Vina đã rao bán qua nhiều kênh và có gần 10

NĐT quan tâm vì cái giá rẻ bất ngờ - 1 USD. Tuy nhiên, sau đó các DN

nhận ra rằng đằng sau giá bán 1 USD là một khoản nợ khổng lồ lên đến 34

tỷ đồng mà Cheerfield đang gánh. Mua lại Cheerfield cũng đồng nghĩa với

việc phải nhận khoản nợ nói trên và gánh luôn những rủi ro trong quá trình

kinh doanh của công ty này. Với vốn điều lệ 2 triệu USD, chuyên sản xuất

khuôn mẫu đế giày, đầu tư thực tế của công ty này đến thời điểm bán đã là

3,6 triệu USD, nhưng sau 3 năm hoạt động, do những sai lầm trong quản lý

và thiếu chiến lược kinh doanh, Cheerfield đã mất khả năng thanh toán các

54

khoản nợ. Tâm lý của các DN rơi vào tình thế này là chấp nhận thua lỗ, đẩy

“của nợ” đi để đầu tư vào việc khác. Tất nhiên, họ không muốn mang tiếng

là nhà DN phá sản bởi vì sau đó làm ăn với đối tác sẽ khó khăn, hơn nữa

chủ DN tránh được những rắc rối pháp lý cho những kế hoạch làm ăn về

sau… nên cách giải quyết “thượng sách” của Cheerfield là bán trao tay.

Sau một thời gian ngắn tìm hiểu, DONACORP mạnh dạn ký hợp đồng

mua Cheerfield. Sau khi nghiên cứu kỹ khả năng phục hồi của Cheerfield

và quyết tâm khôi phục lại công ty. Ngoài việc lo hoàn tất thủ tục để đưa

Cheerfield đi vào hoạt động trở lại, DONACORP có tham vọng săn lùng

các công ty “cùng đường” để kiếm lợi với quan niệm khá rõ ràng: đó là

một trong những cách làm ăn của DONACORP, cũng là cách “cứu” những

DN sắp phá sản, giành giật lại việc làm, thu nhập cho hàng ngàn người lao

động. “Thương vụ 1 USD” là bước khởi động của DONACORP trong việc

mạnh dạn khai phá thị trường mới nhiều lợi nhuận nhưng cũng không ít rủi

ro này. Tuy nhiên, hoạt động của công ty này vẫn còn hạn chế, do phạm vi

hoạt động hạn hẹp, chỉ trong một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định.

Đặc trưng của các công ty mua bán nợ hiện nay là vốn tự có thấp, chưa

huy động được vốn từ thị trường, nên năng lực hoạt động của các công

ty này không cao, khó có thể hiện các nghiệp vụ mua nợ, đặc biệt là tái

cơ cấu cho các khoản nợ.

2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ

TẠI VIỆT NAM

2.3.1 Những mặt đạt được

Thị trường nợ tồn đọng VN đang rất tiềm năng theo số liệu thống kê và ước tính

của các tổ chức quốc tế cho thấy nợ tồn đọng đang tích tụ trong nền kinh tế quy mô lớn,

khoảng vài tỷ đô Mỹ. Đây là nguồn cung rất quan trọng cho thị trưòng mua bán nợ.

55

Đuợc sự quan tâm của Chính phủ, của Bộ tài chính và các cơ quan chức năng

trong việc chỉ đạo xử lý các khoản nợ tồn đọng, đã tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn

các văn bản pháp lý để công ty đi vào hoạt động.

Các công ty mua bán nợ có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập. Đây là thuận

lợi cơ bản tạo cho công ty có quyền chủ động trực tiếp làm việc với cơ quan hữu quan,

từ đó thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ và tài sản tồn đọng.

Các công ty mua bán nợ chỉ hoạt động trong lĩnh vực quản lý và xử lý nợ tồn

đọng. Do vậy, hoạt động của công ty mua bán nợ mang tính chuyên môn hoá cao đòi

hỏi các kỹ năng khác với kỹ năng thông thường sử dụng tại các bộ phận xử lý rủi ro tại

các ngân hàng như các kỹ năng về bất động sản, về thanh lý, cơ cấu lại nợ các lĩnh vực,

ngành khác nhau.

Đã có một số văn bản pháp lý cơ bản, quy định và hướng dẫn cụ thể cho hoạt

động của thị trường mua bán nợ. Từ đó giúp cho các chủ thể tham gia thị trường mua

bán nợ có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện các thương vụ mua bán nợ trên thị trường.

Đã giải quyết và xử lý được tương đối một số lượng nợ xấu và nợ tồn đọng trong

nền kinh tế. Thông qua việc đánh giá hoạt động và những kết quả đạt được của 2 tổ

chức là DATC và VAMC, sẽ cho thấy cái nhìn tổng quát hơn về những gì mà thị

trường mua bán nợ đã đạ được trong thời gian qua, cụ thể là:

 Đánh giá hoạt động và kết quả đạt được của DATC:

Việc thành lập DATC hi vọng sẽ góp phần giải quyết những tồn tại về tài

chính nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hoá, giao, bán khoán và

cho thuê DN thông qua việc xử lý tài sản và các khoản nợ tồn đọng trước

khi thực hiện chuyển đổi DN, xử lý các khoản nợ và tài sản được loại trừ

khi xác định giá trị DN. Đồng thời, thúc đẩy tiến trình hình thành, phát

triển và tạo thêm nguồn hàng hoá cho thị trường tài sản và thị trường vốn.

56

Qua đó thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong nền kinh

tế quốc dân đi đôi với việc tạo lập khung pháp luật đảm bảo sự quản lý và

giám sát của Nhà nước. Xây dựng mô hình mẫu và định hướng cho việc

hình thành và phát triển của một số định chế tài chính trung gian như công

ty mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ thuộc một số thành phần kinh tế khác.

Từ khi đi vào hoạt động đến nay, Công ty đã hoàn thành việc tiếp nhận nợ

và tài sản tồn đọng loại trừ khỏi giá trị DN khi cổ phần hóa DNNN gần

3.000 DN, trong đó, có hơn 1.000 DN của Trung ương. Về cơ bản, Công

ty đã tiếp nhận nợ và tài sản tồn đọng loại trừ ra khỏi giá trị DN khi cổ

phần hóa của hầu hết các DNNN. Song song với việc tiếp nhận, DATC đã

chủ động, tích cực xử lý nhanh các khoản nợ và tài sản tồn đọng để tăng

cường khả năng thu hồi vốn về cho Nhà nước. Công ty đã hoàn thành việc

xử lý tài sản và thu hồi nợ loại trừ đã tiếp nhận khi cổ phần hóa các

DNNN, đã thu cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ đồng, góp phần giải

phóng nhanh kho bãi, mặt bằng… tạo thuận lợi cho các DN đã cổ phần

hóa sớm triển khai được các kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh

doanh đã đề ra; đồng thời đã tận thu cho ngân sách nhà nước từ số nợ và

tài sản tồn đọng đã loại trừ khỏi giá trị DN khi cổ phần hóa.

Nếu như hoạt động tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng loại trừ khỏi

giá trị DN khi cổ phần hóa giúp Nhà nước xử lý dứt điểm các vấn đề còn

tồn tại của công tác cổ phần hóa tại các DN đã được cổ phần, thì hoạt

động mua bán nợ mới thực sự là giải pháp quan trọng để Công ty thực

hiện nhiệm vụ lành mạnh hóa tình chình tài chính cho các DN và góp

phần thúc đẩy tiến trình sắp xếp lại chuyển đổi sở hữu DNNN. Tính đến

nay, Công ty đã thực hiện hàng trăm phương án mua bán nợ theo thỏa

thuận và chỉ định của Thủ tướng Chính phủ để xử lý tài chính tái cơ cấu

57

doanh nghiệp và thu hồi nợ, giúp các NHTM nhà nước xử lý nhanh được

một khối lượng lớn nợ tồn đọng, góp phần cải thiện và nâng cao năng lực

tài chính để chuẩn bị cho công tác cổ phần hóa, tăng cường tính an toàn

của hệ thống tài chính NH trong quá trình cải cách và hội nhập.

Tái cơ cấu DNNN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đề án tổng

thế tái cơ cấu nền kinh tế đã được Đảng, Chính phủ xác định, triển khai

và thực hiện quyết liệt đến năm 2015. Theo đó, vấn đề xử lý dứt điểm nợ

xấu được đặt lên hàng đầu và vai trò của DATC trong xử lý nợ xấu của

các doanh nghiệp, các ngân hàng đã được đề cao.

Trước đây, nợ xấu được xử lý theo mô hình phân tán, nghĩa là từng NH

tự thành lập công ty quản lý nợ và từ 2006 – 2007 đã có khoảng 20 công

ty quản lý nợ được thành lập, nhưng hiệu quả không được như mong đợi.

Nợ xấu tích tụ, kéo dài, trong đó có những khoản nợ dai dẳng tới cả 10 –

15 năm. Việc thành lập DATC góp phần thúc đẩy công tác xử lý nợ theo

mô hình tập trung. Cách làm của DATC là sau khi mua nợ sẽ giúp DN tái

cơ cấu tài chính, quản trị điều hành, hoạt động sản xuất kinh doanh…

 Đánh giá hoạt động và kết quả đạt được của VAMC:

DN được vay vốn, NH lành mạnh hơn và kích hoạt được tín dụng, nền

kinh tế được kích cầu khi dòng vốn được kích hoạt. Cụ thể, sau khi bán

nợ, NH có cơ hội cơ cấu lại chính mình để đảm bảo hoạt động an toàn.

NH có thể sử dụng trái phiếu đặc biệt vay vốn của NHNN tối đa 70% để

đảm bảo nguồn vốn cho vay tới DN.

Khi nợ xấu giảm, trong điều kiện trích dự phòng rủi ro tối thiểu chỉ

20%/năm sẽ giúp họ đạt chuẩn nợ xấu theo quy định, nâng được uy tín

trong và ngoài nước.

58

Đối với TCTD sau khi bán nợ cũng được lợi là có cơ hội để tái cơ

cấu lại nợ và cơ cấu lại chính bản thân TCTD để từng bước ổn định hoạt

động. Thêm nữa, tài sản đảm bảo của khách hàng không phải bán rẻ nên

họ và ngân hàng đều được lợi. Đặc biệt, tại thời điểm này lĩnh vực bất

động sản đanh rất trầm lắng thì bán rẻ rất phí nên thông qua xử lý nợ, NH

và DN đều giữ được tài sản, vẫn có vốn để hoạt động. Ngoài ra, sau khi

bán được nợ các DN cũng được xem xét vay các khoản mới.

2.3.2 Những mặt còn hạn chế

Như mọi thị trường khác, thị trường mua bán nợ sẽ chịu sự chi phối và tác động

bởi các lực của thị trường: một bên là các công ty mua bán nợ (bên cung) và một bên là

các công ty chuyển nhượng nợ (bên cầu). Hiện nay, thị trường mua bán nợ của Việt

Nam đang vướng phải một số hạn chế sau:

2.3.2.1 Hạn chế về mặt pháp lý

Một trong những rào cản lớn đối với việc xử lý nợ xấu là Việt Nam đang thiếu

một khung pháp lý hoàn thiện cho việc mua bán và xử lý nợ. Hiện nay, các khung pháp

lý cho hoạt động của một công ty mua bán nợ vẫn hết sức “sơ khai”.

Hoạt động mua bán nợ trên nguyên tắc là được phép nhưng vẫn còn đang được

quy định rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, những quy định một cách chung

chung, chưa có hệ thống chi tiết, cơ chế và thủ tục để thực hiện mua bán nợ hết sức

lằng nhằng. Điều này làm cho các bên tham gia hoạt động mua bán nợ gặp khó khăn

trong việc thực hiện và làm cho các cơ quan quản lý khó kiểm soát các hoạt động mua

bán nợ. Do đó thị trường mua bán nợ không khai thông được.

Khuôn khổ pháp lý và trình tự thủ tục mua bán và xử ý nợ xấu chưa hoàn thiện.

Hiện nay, các hoạt động mua bán nợ chủ yếu chịu sự điều chỉnh của Quyết định

59/2006/QĐ - NHNN về quy chế mua bán nợ của các TCTD, quy chế này chỉ giới hạn

59

ở quy định mang tính quy trình đối với hoạt động mua bán nợ mà thiếu đi những yêu

cầu có tính bắt buộc bán nợ ở các TCTD nếu nợ xấu vượt quá tỷ lệ nhất định hoặc kéo

dài quá thời hạn cho phép mà không được xử lý, gây lãng phí nguồn lực xã hội.. Cơ

chế, chính sách về hoạt động mua bán nợ gắn với tái cơ cấu DN vẫn còn nhiều khó

khăn, vướng mắc. Hệ thống tòa án hiện nay làm việc chưa hiệu quả khiến cho việc kiện

tụng, tranh chấp kéo dài và chi phí tốn kém. Do vậy, chủ nợ rất khó thu hồi nợ và chi

phí vô cùng cao. Chính việc thiếu những quy định như vậy cũng như trình tự thủ tục xử

lý nợ xấu rất khó khăn từ việc lập hồ sơ, khởi kiện, đến khi thi hành kéo dài, phức tạp

đã làm cho những công ty mua bán nợ chuyên nghiệp nản lòng khi tham gia thị trường.

Thêm vào đó thị trường mua bán nợ chưa có người mua lại nợ. Vì hệ thống pháp

lý chưa hỗ trợ đầy đủ cho thị trường nợ.

Chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về việc đấu giá các khoản nợ tại Trung tâm

đấu giá tài sản, còn thực hiện đấu giá khoản nợ tại Hội đồng bán đấu giá tài sản thì phải

có quyết định của Thủ tướng chính phủ, như vậy tính khả thi sẽ không cao vì sẽ có

nhiều phiền hà về thủ tục, gây chậm trễ trong quá trình mua bán nợ, làm mất cơ hội của

TCTD trong việc thay đổi cơ cấu đầu tư, kinh doanh.

Đồng thời, còn hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp đến thị trường mua bán nợ mà

pháp luật nước ta còn chưa có quy định cụ thể như kiểm toán, định giá, tư vấn, môi

giới, bảo mật, thông tin, cơ chế giải quyết tranh chấp...

Thiếu khung pháp lý cho việc định giá:

 Hiện tại, trong giao dịch mua bán nợ có sự chênh lệch lớn giữa giá chào mua và giá

chấp nhận bán làm kéo dài thời gian đàm phán và dẫn đến thất bại trong giao dịch.

 Thực tế mua bán nợ trên thị trường, cơ chế xử lý có nhiều điểm không rõ ràng,

nhất là chưa có hướng dẫn cụ thể về định giá các khoản nợ để bán. Một số

vướng mắc trong việc xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý trong tính toán, xác

60

định giá trị DN khi thực hiện chuyển đổi sở hữu không có hướng dẫn cụ thể

hay không được quy định trong các văn bản pháp lý. Cơ chế hướng dẫn bán

nợ của NH chưa đồng bộ, đặc biệt là Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB).

Việc mua bán nợ với các NHTM (nhà nước và cổ phần) đã được thực hiện

trong nhiều năm, nhưng với đặc thù của VDB, việc bán nợ phải được Bộ Tài

chính thông qua và phê duyệt. Trong nhiều trường hợp, để tạo điều kiện thuận

lợi cho hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp, DATC đã phải chấp nhận mua nợ

từ VDB với giá 100% giá trị nợ gốc, song quá trình phê duyệt bán nợ thường

kéo dài, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của phương án tái cấu trúc DN.

 Việc thiếu các khung pháp lý cơ bản cho việc định giá các khoản nợ, chứng

khoán hóa các khoản nợ, hoạt động của thị trường mua bán chứng khoán

nợ…sẽ khiến cho công ty mua bán nợ rất khó hoạt động với quy mô lớn.

Chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về việc đấu giá các khoản nợ: tại Trung tâm

đấu giá tài sản, còn thực hiện đấu giá khoản nợ tại Hội đồng bán đấu giá tài sản thì phải

có quyết định của Thủ tướng chính phủ, như vậy tính khả thi sẽ không cao vì sẽ có

nhiều phiền hà về thủ tục, gây chậm trễ trong quá trình mua bán nợ, làm mất cơ hội của

TCTD trong việc thay đổi cơ cấu đầu tư, kinh doanh.

Thiếu khung pháp lý cho việc xử lý các vấn đề về kế toán:

 Đối với việc trích lập các quỹ dự phòng trong doanh nghiệp và cách xử lý

cũng như việc sử dụng các quỹ này, hiện tại Luật kế toán VN quy định chưa

chặt chẽ nên đã tạo điều kiện cho một số công ty lợi dụng lách luật bằng

cách trích lập dự phòng rất lớn nhằm làm giảm giá trị của doanh nghiệp…

 Việc xử lý các vấn đề kế toán trong các thương vụ mua bán nợ rất phức tạp

vì nó liên quan đến lợi ích của 2 bên tham gia và của cả Nhà nước (thuế,

chuyển nhượng tài sản…) nhưng hiện nay, chưa có văn bản nào quy định

61

vấn đề này một cách đầy đủ và chi tiết, đây là thiếu sót trong việc hoàn thiện

cơ chế của hoạt động mua bán nợ.

 Thực tế cho thấy các chuẩn mực kế toán của VN vẫn còn nhiều điểm khác

biệt khá lớn so với các chuẩn mực kế toán quốc tế.

Các trở ngại chính về các vấn đề pháp lý có thể kể đến:

 Thiếu rõ ràng về các quy định sở hữu (bao gồm việc nâng hạn mức sở hữu

của nhà đầu tư nước ngoài theo các cam kết WTO).

 Các vấn đề liên quan đến xử lý tài sản.

 Cơ quan chức năng chưa quen sử dụng một số cấu trúc mô hình kinh doanh

hay các công cụ vốn mặc dù đã được pháp luật cho phép.

 Thiếu các thông tin công khai, minh bạch.

 Các vấn đề liên quan đến việc cấp và sửa đổi giấy phép, các thủ tục hành

chính làm chậm quá trình hoàn tất giao dịch.

Có rất nhiều vấn đề phát sinh từ phía cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt

động mua bán nợ, điều đó gây đến một thực trạng hiện nay là khung pháp lý cho hoạt

động này còn bỏ trống rất nhiều chỗ. Vấn đề mấu chốt trong những bất cập của hoạt

động này hiện nay ở thị trường Việt Nam đó chính là sự hiểu biết hạn chế của các nhà

lãnh đạo, các nhà làm luật về thị trường mua bán nợ, một thị trường khá mới mẻ, là hệ

quả tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế.

2.3.2.2 Hàng hóa chưa đa dạng

Có thể nói, ở Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ theo đúng nội hàm của

nó, cái thiếu nhất là hàng hóa nợ mà các doanh nghiệp muốn bán chưa phong phú, lành

mạnh, mà chủ yếu là DNNN và NHTM, trong đó tỷ lệ góp vốn của Nhà nước vẫn

chiếm ưu thế, đóng vai trò chủ đạo chi phối thị trường. Trên thị trường vẫn chưa có

62

nhiều các DN thành lập với chức năng chuyên mua bán nợ và nếu có thì số vốn quá

nhỏ không đủ mua các khoản nợ quy mô lớn.

Hiện nay, vẫn có tình trạng doanh nghiệp được phân loại nợ xấu nhóm 5 (nợ có

khả năng mất vốn) ở ngân hàng này, nhưng lại được phân loại và xếp nhóm 1 (nợ đủ

tiêu chuẩn) ở ngân hàng khác, dẫn đến khó khăn trong việc bán nợ xấu khi thiếu sự hợp

tác và thống nhất giữa các TCTD đồng tài trợ vốn.

2.3.2.3 Người mua và người bán chưa gặp nhau

Thực tế là có nhiều công ty có các khoản nợ tồn đọng cần muốn bán nhưng gặp

phải một số khó khăn và vướng mắc từ trong cơ chế, chính sách của các cơ quan nhà

nước, cụ thể như các DNNN đang có lượng nợ xấu và nợ tồn đọng ước tính đến cuối

năm 2012 là 73.000 tỷ đồng. Các khoản nợ xấu nêu trên cũng được đánh giá là rất khó

giải quyết. Doanh nghiệp tư nhân có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho

các doanh nghiệp khác để có tiền trả nợ ngân hàng. Nhưng doanh nghiệp Nhà nước rất

khó có thể bán theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy giảm. Vì vậy, các khoản

nợ mà các doanh nghiệp Nhà nước vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân

sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn...

Hiện tại có rất nhiều DN tại VN có nhu cầu thực hiện mua bán nợ nhưng do sự

hiểu biết về thị trường cũng như trình độ kiến thức còn yếu kém nên việc tiếp xúc và

tiến hành hoạt động mua bán nợ gặp nhiều khó khăn. Các chủ thể tham gia vào thị

trường mua bán nợ bao gồm: các chủ thể có nhu cầu mua và bán nợ tại VN; các nhà

đầu tư nước ngoài; các nhà đầu tư chuyên nghiệp; các tổ chức tư vấn, môi giới.

2.3.2.4 Thiếu sự tư vấn của các định chế tài chính trung gian

Sự nhận thức về quy trình mua bán nợ của các DN rất hạn chế. Các DN Việt

Nam vẫn chưa có thói quen dùng các dịch vụ chuyên nghiệp như kiểm toán, tư vấn tài

chính, tư vấn pháp lý, tư vấn thuế, nghiên cứu thị trường. Hầu hết các nhà quản lý DN

63

Việt Nam chưa được đào tạo về nghiệp vụ mua bán nợ và chưa có nhận thức đầy đủ về

mọi khía cạnh của vấn đề. Việc không sử dụng các dịch vụ chuyên nghiệp có thể dẫn

đến việc đưa ra các quyết định không tối ưu đối với quyền lợi của các cổ đông. Việc bỏ

ra một khoản chi phí dịch vụ chuyên nghiệp để giảm thiểu các thua thiệt khác lớn hơn

nhiều là một việc rất đáng nên làm. Thiếu hoạt động tư vấn chuyên nghiệp của các nhà

môi giới tại Việt Nam, thông thường đó là các công ty mua bán nợ tư nhân có chức

năng tư vấn, môi giới…các dịch vụ này được cung cấp riêng rẽ bởi các công ty khác

nhau có thể đẩy chi phí tư vấn lên cao và làm nản lòng các bên tham gia.

Các nhà đầu tư tổ chức (bao gồm các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, công ty

tài chính): Hiện tượng thoái vốn gần đây của các quỹ đầu tư trên TTCK, cho thấy một

động thái mới của các quỹ này, dự báo các quỹ này sẽ tập trung vào mảng mua bán

những ngành mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiên một số quỹ cho biết khả năng huy động

vốn trong năm sau gặp khá nhiều khó khăn, nên kì vọng tìm kiếm lợi nhuận từ nhóm

khách hàng này cũng sẽ gặp khá nhiều khó khăn.:

 Các công ty Big Four (như PriceWaterHouse, KPMG…): có lợi thế về kiến

thức và kinh nghiệm; Là công ty đa quốc gia nên họ có sân chơi rộng lớn

hơn, nguồn khách hàng/thông tin dồi dào hơn.

 Các ngân hàng đầu tư/quỹ đầu tư: có lợi thế về mặt tài chính, có thể tài trợ

cho các thương vụ mua bán nợ (trở thành một cổ đông chiến lược là một ví

dụ), nhắm chủ yếu vào các khách hàng lớn.

 Các công ty kiểm toán khác: có điểm thuận lợi là họ có nhân sự và sản phẩm

dịch vụ để thực hiện trọn gói (chẳng hạn như dịch vụ Due Diligence), nhắm

chủ yếu vào đối tượng khách hàng nhỏ hơn.

 Các công ty chứng khoán: là đối tượng cạnh tranh chủ yếu lẫn nhau do tính

tương đồng cao về loại hình dịch vụ, đối tượng khách hàng mục tiêu.

64

 Các công ty chuyên về dịch vụ mua bán nợ: có lợi thế về thông tin do đang

sở hữu các trang web đăng tải các thông tin mua bán doanh nghiệp như cổng

www.muabandoanhnghiep.com.vn do công ty tư vấn đầu tư tài chính IDJ

Financial quản lý và www.muabancongty.com do công ty TigerInvest quản

lý. Hiện giờ chưa có nhiều ở VN nhưng trong tương lai sẽ phát triển mạnh

khi nhu cầu mua bán nợ bùng nổ.

2.3.3 Nguyên nhân gây ra những hạn chế đối với sự phát triển của thị trường

mua bán nợ tại Việt Nam

2.3.3.1 Tình hình kinh tế Việt Nam còn bất ổn

Tình hình kinh tế vĩ mô:

 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với

năm 2012, trong đó quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III tăng

5,54%; quý IV tăng 6,04%. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mục tiêu

tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và có tín hiệu

phục hồi. Trong bối cảnh kinh tế thế giới những năm qua có nhiều bất ổn,

sản xuất trong nước gặp khó khăn, lạm phát tăng cao, Chính phủ tập trung

chỉ đạo quyết liệt các ngành, các cấp thực hiện ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn

định kinh tế vĩ mô nên đây là mức tăng hợp lý, khẳng định tính đúng đắn,

kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Chính phủ ban hành.

 Trong mức tăng 5,42% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và

thủy sản tăng 2,67%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,43%, khu vực

dịch vụ tăng 6,56%. Như vậy mức tăng trưởng năm nay chủ yếu do đóng

góp của khu vực dịch vụ, trong đó một số ngành chiếm tỷ trọng lớn có mức

tăng khá là: Bán buôn và bán lẻ tăng 6,52%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng

9,91%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,89%.

65

 Ước tính năm 2013, tổng số DN đăng ký thành lập mới là 76.955 DN, tăng

10,1% so với năm 2012 với tổng vốn đăng ký là 398,7 nghìn tỷ đồng, giảm

14,7%. Số DN gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm nay là

60.737 DN, tăng 11,9% so với năm trước, trong đó số DN đã giải thể là 9.818

DN, tăng 4,9%; số DN đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803 DN, tăng 35,7%;

số DN ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40.116 DN, tăng 8,6%.

 Về hoạt động của các DNNN, theo kết quả điều tra tại thời điểm 01/01/2013

cả nước có 3135 DNNN, bao gồm: 405 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và

thủy sản, chiếm 12,9%; 1401 doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng, chiếm

44,7% và 1329 doanh nghiệp dịch vụ, chiếm 42,4%.

 Đến ngày 12/12/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 14,64%; huy động

vốn tăng 15,61%; tăng trưởng tín dụng tăng 8,83% so với cuối năm 2012 và

dự kiến sẽ cao hơn mức tăng của năm 2012 nhưng vẫn thấp hơn mức kế

hoạch đặt ra là khoảng 12%; thanh khoản của hệ thống NHTM được cải

thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống; tỷ giá ngoại tệ

ổn định, dự trữ ngoại hối tăng cao.

Hệ số tín nhiệm của Việt Nam trong thời gian qua: Định hạng tín nhiệm cho trái

phiếu (bond rating) là việc các tổ chức xếp hạng đưa ra "đánh giá" của mình về khả

năng thanh toán nợ và "sức khỏe" tài chính của các nhà phát hành các công cụ nợ...

Việc xếp hạng tín nhiệm không chỉ cho thấy sự đáng tin cậy của công ty phát hành trái

phiếu (hoặc các công cụ nợ khác) mà còn là công cụ cho thấy nhà phát hành có cần

những hình thức bảo đảm khác như là sự bảo lãnh bởi bên thứ 3 hay các khoản ký quỹ

đi kèm với trái phiếu.Theo đó, S&P quyết định giữ nguyên xếp hạng nợ dài hạn của

Việt Nam ở mức BB- và nợ ngắn hạn ở mức B. Trong tương quan với các nước

ASEAN khác, xếp hạng dài hạn của Việt Nam vẫn được giữ ở mức axBB+ và xếp hạng

ngắn hạn duy trì ở axB. S&P cũng đặt triển vọng ổn định cho Việt Nam. Mức xếp hạng

66

mà S&P đặt cho Việt Nam phản ánh Việt Nam vẫn là một nền kinh tế có thu nhập thấp,

vị thế tài khóa yếu, khung tiền tệ và tài chính vẫn đang trong quá trình hoàn thiện.

Đồng thời, khung chính sách vẫn còn nhiều thay đổi có thể khiến các chỉ số xếp hạng

yếu đi. Theo chuyên gia phân tích đến từ S&P Agost Benard, các điều kiện kinh tế vĩ

mô của Việt Nam phản ánh sự lựa chọn chính sách của chính phủ. Chính phủ Việt Nam

đang tập trung vào sự ổn định và giải quyết những điểm yếu mang tính cấu trúc trong

hệ thống ngân hàng và các DNNN. Các biện pháp bình ổn được thực hiện kể từ năm

2011 đã làm giảm đáng kể những điểm mất cân đối trong nền kinh tế vĩ mô, tăng niềm

tin vào đồng nội tệ cũng như chính sách.

Thị trường chứng khoán (TTCK): có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường mua bán

nợ và việc tái cấu trúc nền kinh tế. Doanh nghiệp sau khi được mua bán sẽ được đầu tư

vốn để khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh, đến khi có đủ điều kiện, chủ nợ mới

sẽ tiến hành phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) và đưa doanh nghiệp lên

niêm yết trên sàn chứng khoán để thu hồi vốn. Đây là cách phổ biến được các nước

phát triển áp dụng để xử lý nợ xấu, trường hợp tiêu biểu nhất gần đây chính là Công ty

General Motors đã niêm yết trở lại TTCK Mỹ sau hơn 1 năm nộp đơn tuyên bố phá sản

(Chính phủ Mỹ đã bỏ ra gần 50 tỷ USD và tiếp nhận 61% cổ phần của Công ty). Một

TTCK minh bạch, tăng trưởng tốt sẽ là thước đo chính xác sức khỏe của các doanh

nghiệp niêm yết nói riêng và nền kinh tế nói chung, đồng thời làm tăng niềm tin của

các NĐT mua nợ, bởi TTCK là một trong những biện pháp thu hồi vốn đầu tư.

2.3.3.2 Các chính sách của Nhà nước chưa chặt chẽ

Cơ chế minh bạch hoá thông tin yếu kém cũng làm giảm hiệu quả của cơ chế

giám sát từ bên ngoài, khiến các cơ quan quản lý, nhà đầu tư tiềm năng và công luận

khó đưa ra đánh giá đúng và khách quan về thực trạng hiệu quả hoạt động của DN.

Về thuế:

67

 Nhiều nhà đầu tư sau khi mua nợ không bán lại nợ, mà trực tiếp cấp thêm

vốn để khôi phục và phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN,

trước khi bán lại để thu hồi vốn. Vì thế, chính sách ưu đãi thuế đối với hoạt

động mua bán nợ sẽ khuyến khích và tạo động lực cho các NĐT tham gia.

 Chính sách thuế về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN… góp phần gây

nên áp lực tài chính cho cả bên mua và bên bán nợ. Rào cản về thuế trong

hoạt động mua bán nợ sẽ làm tăng tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các NĐT tư

nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện giải pháp

này sẽ không làm tốn kém ngân sách nhà nước.

Hiện nay, vẫn có tình trạng DN được phân loại nợ xấu nhóm 5 (nợ có khả năng

mất vốn) ở NH này, nhưng lại được phân loại và xếp nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) ở NH

khác, dẫn đến khó khăn trong việc bán nợ xấu khi thiếu sự hợp tác và thống nhất giữa

các TCTD đồng tài trợ vốn.

2.3.3.3 Sự giám sát của Nhà nước còn lỏng lẻo

Việc thiếu giám sát dẫn đến hệ quả nhiều doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn

như Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) và Tổng Công ty Hàng hải

Việt Nam (Vinalines) lún sâu vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thậm

chí bên bờ phá sản mà không có cảnh báo sớm..

Hiện nay tại Việt Nam, cơ quan giám sát hoạt động mua bán nợ là Bộ Tài chính

và Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên hoạt động này chưa được quan tâm đúng mực. Cần

tăng cường sự kiểm tra giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước và xử lý nghiêm

những trường hợp vi phạm. Bên cạnh những vướng mắc còn đòi hỏi quyết tâm chính

trị rất lớn của Chính phủ trong việc xử lý nợ xấu.

68

Nhiều nhà quản lý cho rằng nếu không có thị trường mua bán nợ, thì Công ty quản

lý nợ và khai thác tài sản quốc gia trở thành độc quyền. Mà độc quyền thì sẽ dẫn đến

hàng loạt vấn đề về tính minh bạch, vấn đề lợi ích nhóm, hiệu quả hoạt động, tiêu cực…

Thiếu đồng bộ giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ: Để thị trường mua

bán nợ hoạt động hiệu quả, lãi suất phải thấp, các doanh nghiệp phải có nhiều cơ hội tiếp

cận vốn vay, để DATC tái cấu trúc tài chính các khách nợ. Chính sách tài khóa đang cố

gắng hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc giãn thuế, nâng mức khởi điểm chịu thuế, trong

khi chính sách tiền tệ từ năm 2010 đến nay luôn duy trì khống chế trần huy động, thỏa

thuận lãi vay, làm lãi suất cho vay ở mức rất cao, dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao như

hiện nay, đồng thời làm giảm khả năng tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp là khách nợ,

làm chậm tiến trình tái cấu trúc kinh tế.

2.3.3.4 Số lượng chủ thể tham gia thị trường còn quá ít

Hiện có rất ít công ty mua bán nợ hoạt động. Để giải quyết nợ xấu của toàn nền

kinh tế và hệ thống ngân hàng, đã có DATC và VAMC. Ngoài 2 công ty này còn có

khoảng hơn 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) do các NHTM thành lập

(như các AMC của Vietinbank, Vietcombank, BIDV, Agribank, ACB, MBBank,

Lienvietpostbank…) cũng có chức năng mua bán nợ xấu. Trong khi đó, nguồn cung

trên thị trường mua bán nợ lại chủ yếu là các NHTM. Các DNNN, ngoài vay vốn từ

các NHTM, còn vay từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, Ngân

hàng Phát triển Việt Nam chưa được phép mua bán nợ, vì vậy, có thể nói rằng, Ngân

hàng Phát triển Việt Nam chỉ là chủ thể tiềm năng của bên cung.

Ngoài ra còn có các công ty mua bán nợ mua bán nợ tư nhân, ra đời với mục tiêu

góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính cho các TCTD và DN, đa dạng hóa các sản

phầm tài chính, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống doanh nghiệp.có

thể kể đến như: DONACORP, Công ty cổ phần mua bán nợ Miền Nam – SDTC…

69

2.3.3.5 Thiếu sự am hiểu thị trường của các chủ thể tham gia

Thiếu kiến thức, thiếu tầm nhìn kinh nghiệm trong hoạt động mua bán nợ là một

nhược điểm làm cho DN Việt Nam sẽ gặp khó khăn, thua thiệt khi tham gia vào thị

trường mua bán nợ. Trong quá trình tiến hành mua bán nợ, các chủ thể này đã bộc lộ

một số hạn chế sau:

 Đối với các chủ thể trong nước:

Về phía các doanh nghiệp có nhu cầu xử lý nợ (bên bán nợ): Người Việt

Nam còn mang nặng tâm lý Á Đông, coi công ty là đứa con của mình nên

ít khi muốn bán. Chính vì vậy, mà nhiều DN trong nước vẫn còn dè dặt

với hoạt động mua bán nợ. Điều này khiến cho các thương vụ mua bán

nợ vẫn còn hạn chế. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải làm cho các DN trong

nước có cái nhìn thoáng hơn về hoạt động mua bán nợ, nhằm đem lại

những lợi ích về kinh tế và xã hội, cả cho bản thân họ và cho đất nước.

Sự thiếu hiểu biết cơ bản về mua bán nợ khiến cho các chủ thể lúng túng

khi muốn tham gia vào thị trường. Các chủ thể cũng không có nhiều kinh

nghiệm trong việc thẩm định giá trị và hồ sơ pháp lý. Hơn nữa, các chủ

thể cũng thiếu thông tin về thị trường cũng như về các đối tác để có thể

tự mình đưa ra các quyết định. Ngoài ra nhiều DN muốn bán nợ ngại tiếp

xúc với công ty mua bán nợ là vì thông qua các hoạt động mua bán nợ thì

các thông tin tài chính của DN sẽ được công bố rộng rãi và điều này sẽ

ảnh hưởng không tốt cho công việc kinh doanh của DN.

 Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, sự am hiểu về phong tục, văn hoá, thị

trường, pháp luật VN chưa cao, điều này làm phát sinh nhiều vấn đề trong và

sau quá trình mua bán nợ.

70

 Đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp, các tổ chức tư vấn, môi giới, đây là

những chủ thể đóng vai trò dẫn dắt, làm trung gian thiết lập thị trường cho

hoạt động mua bán nợ. Bản thân các tổ chức này chưa có đủ năng lực cũng

như đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu để cung cấp

dịch vụ trọn gói cho thị trường mua bán nợ.

2.3.3.6 Thông tin kém minh bạch

Có một tiền lệ tồn tại nhiều năm tại Việt Nam, gây cản trở cho quá trình xử lý nợ

xấu là nợ xấu của các NH luôn là câu hỏi không có trả lời chính xác. Trong khi các

công ty kiểm toán, các định chế tài chính quốc tế nhận định số nợ khó đòi của các NH

Việt Nam rất cao, thì bản thân các TCTD công bố luôn ở mức thấp. Tại sao có sự bất

nhất này, nếu không nói là sự kém minh bạch để đi đến thống nhất thông tin, bên cạnh

sự khác biệt về tiêu chí phân loại. Do đó, minh bạch thông tin nợ xấu được xem là chìa

khoá để khách nợ và chủ nợ, vai trò của định chế trung gian gặp nhau và tìm được giải

pháp. Thực tế, đã có nhiều con số khác nhau về tình trạng nợ xấu được công bố trong

thời gian qua, cụ thể:

 Theo NHNN tổng hợp báo cáo tài chính của các TCTD cuối tháng 05/2014

thì tỷ lệ nợ xấu là 4,47%.

 Theo thanh tra NHNN thì tỷ lệ nợ xấu là 8,6%.

 Theo Thống đốc NHNN thì tỷ lệ nợ xấu là là 10%.

 Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia thì tỷ lệ nợ xấu là 11,8%.

 Theo Báo cáo triển vọng hệ thống ngân hàng 2014 của Moody’s công bố

ngày 18/02/2014 thì tỷ lệ nợ xấu là không dưới 15%.

Các số liệu trên cho thấy tỷ lệ nợ do NHNN đưa ra thấp hơn so với thông tin từ

các tổ chức khác. Thông tin bị méo mó gây ảnh hưởng đến tính minh bạch của thị

trường, từ đó sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường mua bán nợ.

71

2.3.3.7 Vốn ít

Quy mô công ty mua nợ quá nhỏ: Ước tính, giá trị các khoản nợ xấu của hệ thống

NHTM Việt Nam vào khoảng 14 tỷ USD, để AMC có thể hoạt động thì cần 5 - 7 tỷ

USD để xử lý các khoản nợ xấu. Trong khi các công ty mua bán nợ với số vốn điều lệ

ít ỏi, chẳng hạn như: vốn điều lệ của các công ty mua bán nợ trực thuộc NH cũng chỉ

vài trăm tỷ đồng (như: MBAMC (617 tỷ đồng), Vietinbank AMC (500 tỷ đồng),

SacombankAMC (500 tỷ đồng)…), vốn của VAMC là 500 tỷ đồng, lớn nhất là DATC

cũng chỉ đạt 2.000 tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy, quy mô của các AMC hiện tại là

không tương xứng. Để có thể xử lý, mua bán nợ xấu hiệu quả, cần nhiều hơn các giải

pháp, nguồn vốn huy động khác, mà từ các NĐT nước ngoài là một kênh tiềm năng.

Tại Hội thảo “Chuyển động kinh tế vĩ mô và triển vọng tái cấu trúc hệ thống

TCTD Việt Nam” mới đây, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, mặc dù VAMC mới ra đời,

nhưng đã có rất nhiều NĐT nước ngoài muốn mua nợ xấu của Việt Nam, trong số đó

có những NĐT lớn của thế giới như Blackstone Group, Deutsche Bank Capital... Thực

lực của các công ty mua bán nợ tại Việt Nam hiện không đủ sức để xử lý khoản nợ xấu

lớn với giá trị khoảng 14 tỷ USD, vì vậy Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích

các NĐT nước ngoài tham gia thị trường mua bán nợ. Với nguồn vốn lớn và kinh

nghiệm hàng chục năm phát triển thị trường mua bán nợ, các NĐT ngoại sẽ là một

trong những đối tác tham gia hoạt động hiệu quả trên thị trường Việt Nam.

2.3.3.8 Nguồn nhân lực còn hạn chế

Nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của

thị trường về hoạt động mua bán nợ. Việc thiếu các quản trị viên cấp cao để có thể làm

giám đốc những cơ sở mới cũng là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng các doanh

nghiệp vẫn còn dè chừng trong quyết định mua bán nợ.

Doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin, hiểu biết về các điều kiện, thủ

tục mua bán nợ. Ngoài ra, việc tính toán, xác định chi phí thực hiện giao dịch mua lại

72

nợ chưa rõ ràng, thông tin về các công ty mua bán nợ chưa được cập nhật đầy đủ, thiếu

tính minh bạch. Nhiều DN chưa tham gia vào TTCK, vai trò kiểm toán chưa được quan

tâm gây khó khăn cho việc tìm hiểu tình hình hoạt động và tài chính của công ty. Vì

vậy, Chính phủ cần có những can thiệp cụ thể hơn nữa để minh bạch hóa hệ thống

thông tin, đặc biệt là về tình hình hoạt động tài chính của các DN. Hơn nữa, cần có

thêm các tổ chức trung gian uy tín chuyên đứng ra phụ trách để thực hiện các vụ mua

bán nợ, từ đó góp phần làm giảm thiểu rủi ro cho các DN.

2.3.4 Ý kiến của một số chuyên gia về sự phát triển của thị trường mua bán nợ

Việt Nam

Theo chuyên gia kinh tế - TS Lê Đăng Doanh, nguồn lực để thực hiện mua bán

nợ hiện nay còn yếu nên trên thị trường mua bán nợ, cung đã có nhưng cầu lại chưa sẵn

sàng. Một mình DATC với vốn điều lệ hơn 2.000 tỉ đồng không thể đáp ứng nổi nhu

cầu được cứu của rất nhiều DN đang thoi thóp. Năng lực tài chính của những công ty

quản lý nợ và khai thác tài sản cũng như các công ty cổ phần quản lý quỹ hiện nay còn

khá khiêm tốn. Vì thế, theo TS Lê Đăng Doanh, cần thành lập ngay quỹ mua nợ xấu

DN. Quỹ này sẽ mua lại nợ của các DN đang khó khăn nhưng vẫn có hướng ra như có

dự án kinh doanh tốt, công nghệ tốt, nhiều lao động giỏi…

Theo chuyên gia kinh tế - TS Đinh Thế Hiển, mua bán nợ là hoạt động đỉnh cao

của hệ thống tài chính, đòi hỏi tính chuyên nghiệp và chịu trách nhiệm về đồng vốn của

mình nên tốt nhất DN hoạt động trong lĩnh vực này phải là các đơn vị tư nhân. Hiện tại,

một số NHTM đã thành tập đoàn tài chính, công ty mua nợ (công ty con) nhưng các

NHTM lại chưa có thói quen bán nợ xấu, thiếu chuyên môn về quản trị... Ngoài ra, tại

Việt Nam mới chỉ có mua bán nợ dưới dạng tài chính, chưa có đội ngũ nhân sự tham

gia làm mới, thay đổi cấu trúc công ty để hoạt động hiệu quả hơn. Cũng theo ông Hiển,

trước đòi hỏi cấp bách về tái cấu trúc NH, DATC hiện chưa đủ lực. Vì vậy, nên kêu gọi

73

sự tham gia của các nhà đầu tư, các định chế tài chính nước ngoài. Đặc biệt, phải có

hành lang pháp lý rõ ràng cho hoạt động mua bán nợ.

Theo TS Võ Trí Thành cho rằng trong hoàn cảnh đặc biệt, Nhà nước cần can

thiệp về kỹ thuật và giám sát việc mua bán nợ để giảm thiểu thiệt hại. Đây là cách một

số nước như Mỹ, Nhật Bản… đã làm.

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính Marketing TP Hồ Chí Minh – Ông

Phạm Hữu Hồng Thái cho biết, từ năm 1998 đến 2002, Thái Lan đã thành lập bốn công

ty xử lý nợ quốc doanh để mua lại nợ của năm ngân hàng thương mại Nhà nước thông

qua mô hình tái cấp vốn. Tuy nhiên, nhược điểm của công ty mua bán nợ quốc gia là

xét duyệt mua những khoản nợ dễ dãi, hoặc có thể thiếu cơ chế cung cấp thông tin để

nhiều đơn vị khác tham gia giám sát xem họ hoạt động hiệu quả không. Song nếu đặt

lên bàn cân so sánh với nhiều biện pháp khác, ông Phạm Hữu Hồng Thái vẫn cho rằng,

nên thành lập công ty mua bán nợ quốc gia, hay còn gọi là AMC quốc gia. Và nếu so

sánh giữa các hình thức AMC tư nhân và AMC quốc gia, thì mô hình công ty xử lý nợ

tập trung cấp quốc gia để xử lý nợ xấu ngân hàng sẽ phù hợp với tình hình của nước ta.

Vì mô hình này tuy có rủi ro, nhưng cũng có nhiều ưu thế, đặc biệt là trong bối cảnh

khung pháp lý xử lý nước ta chưa được hoàn thiện. Đề xuất này cũng được nhiều

chuyên gia kinh tế đồng tình do Công ty mua bán nợ Việt Nam (DATC) trực thuộc Bộ

Tài chính hiện naykhông đủ khả năng giải quyết được khoản nợ xấu khổng lồ hiện nay.

Hơn nữa, chức năng, nhiệm vụ của công ty này cũng chỉ là giải quyết nợ và tài sản tồn

đọng cho các doanh nghiệp Nhà nước.

Theo Giám đốc Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của NHTM cổ

phần công thương Việt Nam Nguyễn Thị Mùi, điểm cần lưu ý là vốn hoạt động của

Công ty mua bán nợ quốc gia được huy động từ nguồn nào. Song, có thể thấy, dù là

nguồn từ NHNN, Bộ Tài chính hay phát hành trái phiếu để bán cho NHTM đang dư dật

vốn đều phải bàn kỹ. Bởi mỗi nguồn này có ưu điểm, hạn chế, nhất là phải đặt nguồn

74

này trong bối cảnh có thể xảy ra tái lạm phát cao. Đặc biệt là có cơ chế kiểm soát chi

tiêu nguồn này, vì dù là nguồn vốn nào, thì cũng là nguồn lực quốc gia.

Theo ông Trương Đình Tuyển, NHNN cũng có thể ứng vốn trước cho định chế

tài chính mua bán nợ quốc gia, nhưng bản thân định chế tài chính này sau khi thành lập

cần phát hành chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn. Sau đó, dùng

nguồn vốn đó xử lý nợ xấu.

Dưới góc nhìn của một nhà tư vấn thuế, Chủ tịch Hiệp hội tư vấn thuế Nguyễn

Thị Cúc cho rằng, thay vì hình thành một công ty mua bán nợ quốc gia mới hoàn toàn,

nên phát triển Công ty mua bán nợ Việt Nam trở thành DN này. Bởi ở góc nhìn nào đó,

chức năng của DATC cũng là mua bán nợ. Nếu hiện tại chức năng này chỉ là xử lý nợ

xấu của DNNN, thì có thể bổ sung chức năng mua bán nợ để cải cách cả DN tư nhân.

Từ một số ý kiến của các chuyên gia kinh tế (những nhà nghiên cứu hay những

người trực tiếp tham gia vào hoạt động của thị trường mua bán nợ), sẽ cho ta cái nhìn

thực tế hơn tổng quan về một số giải pháp để phát triển thị trường mua bán nợ.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 2

Chương hai của luận văn cho ta cái nhìn thực tế và đi sâu vào sự gia tăng nhu cầu

bán nợ và mua nợ. Từ đó giúp cho ta thấy được sự cần thiết để phát triển thị trường

mua bán nợ này trong tương lai. Song song đó, chương hai của luận văn cũng làm rõ về

những rào cản và nguyên nhân của những hạn chế này đối với thị trường mua bán nợ,

tạo tiền đề cho việc xây dựng những giải pháp thích hợp để phát triển thị trường mua

bán nợ trong chương 3.

75

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

3.1 DỰ BÁO NHU CẦU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI

VIỆT NAM

Với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm lên đến 7.26%/năm, Việt Nam

đang là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất Châu Á trong

10 năm qua. Ngoài ra, trong chiến lược phát triển 10 năm từ 2011 đến 2020, Việt Nam

tiếp tục đề ra mục tiêu tăng trưởng GDP hàng năm trung bình từ 7 - 8%/năm và phấn

đấu đến năm 2020, GDP sẽ tăng gấp 2,2 lần so với GDP năm 2010. Bên cạnh đó,

Chính phủ cũng định hướng chiến lược phát triển nền kinh tế đất nước theo hướng phát

triển bền vững, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đồng thời

đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng,

năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều

sâu, phát triển kinh tế tri thức. Đây chính là cơ hội tốt để tất cả các DN trong nền kinh

tế Việt Nam nói chung có thể tận dụng để phát triển và từng bước tạo dựng tên tuổi

trong những năm tới.

Môi trường đầu tư và cơ hội kinh doanh của Việt Nam sẽ tiếp tục được cải thiện nhờ

xu hướng hồi phục kinh tế thế giới và cộng hưởng hiệu ứng tích cực của một loạt chính

sách vĩ mô mới, nhất là từ chính sách giảm thuế, giảm lãi suất, nới lỏng linh hoạt tài chính

và tín dụng, mở rộng và tăng tốc giải ngân đầu tư công cho các dự án trong kế hoạch; dự

trữ ngoại hối tăng và tỷ giá ổn định. Các hoạt động mua bán DN và chuyển nhượng các dự

án, thu hút FDI sẽ tăng mạnh trong năm 2014, nhất là những lĩnh vực giàu tiềm năng của

Việt Nam, như ngân hàng, chứng khoán, nông nghiệp, bất động sản, tiêu dùng…

76

Quá trình này còn được cộng hưởng bởi sự tăng tốc quá trình cổ phần hóa DNNN

trong năm, với cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về đẩy mạnh tái cơ cấu chung, tăng

cường công tác quản lý, giám sát, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, cùng với

nỗ lực của các DN, cho phép tăng thêm kỳ vọng vào sự thành công của chặng đường

tái cơ cấu DNNN nói riêng và tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế nói chung, từ đó tạo động

lực và cơ hội mới phát triển hiệu quả hơn.

Điều đáng chú ý là, dù sức ép nợ xấu còn nặng nề, nhưng tổng thể bức tranh nợ xấu

năm 2014 có thể được cải thiện không chỉ bởi nỗ lực của mỗi DN, dự phòng rủi ro của các

TCTD và thông qua Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC); mà còn

từ sự cân nhắc thực hiện Thông tư 02 của Nhân hàng Nhà nước và triển vọng xóa nợ tiền

thuế, tiền phạt không có khả năng thu hồi phát sinh trước ngày 01/07/2007 của Chính phủ

cho 5 đối tượng, gồm: hộ gia đình, cá nhân gặp khó khăn, không thanh toán được số tiền

thuế nợ, đã ngừng kinh doanh và 4 nhóm DNNN đặc thù DNNN và hộ gia đình theo tinh

thần Thông tư số 179 của Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 17/01/2014.

Năm 2014, Chính phủ đã sớm thông qua Nghị quyết 01/NQ-CP/2014 tập trung

vào tiếp tục kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, cải thiện môi trường sản xuất kinh

doanh, tăng cường hỗ trợ thị trường, giải quyết hàng tồn kho, xử lý nợ xấu và khả năng

tiếp cận tín dụng, đẩy nhanh tiến độ triển khai gói hỗ trợ tín dụng nhà ở xã hội; tiếp tục

giãn, hoãn, miễn, giảm thuế; tạo mọi thuận lợi cho các DN có khả năng phát triển được

vay vốn; phát huy hiệu quả Quỹ hỗ trợ phát triển DN; đẩy mạnh và thực thi quyết liệt

lộ trình tái cấu trúc DNNN; tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, cung cấp

thông tin, hỗ trợ DN tìm kiếm phát triển thị trường; tạo điều kiện thuận lợi cho các DN

tiếp cận và chuyển giao công nghệ phù hợp.

Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam đang dần hình thành như một tất yếu khách

quan của phát triển kinh tế. Thực tế, hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam đã xuất hiện

từ năm 2003 với sự ra đời và hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng

77

của DN - Bộ Tài chính (DATC) theo Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003

của Thủ tướng Chính phủ.

Tháng 6/2013, Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)

được thành lập và hoạt động theo Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.

VAMC chính thức bắt đầu mua nợ xấu từ ngày 01/10/2013, đến cuối năm 2013,

công ty đã mua được 38.900 tỷ đồng nợ xấu của 35 tổ chức tín dụng, tương đương

32.400 tỷ đồng giá trị trái phiếu đặc biệt.

Năm 2014, dự kiến VAMC sẽ tiếp tục mua thêm khoảng 70.000 - 100.000 tỷ đồng

nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, làm thế nào để bán, xử lý được khoản nợ chứ

không phải chỉ mua về để đấy. Do đó, ngoài việc mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt, VAMC

tính toán xây dựng đề án mua nợ theo giá thị trường - khoản nợ sẽ được mua hẳn, bán hẳn

cho các NĐT trong và ngoài nước. Đồng thời, chủ động đẩy mạnh hoạt động mua, xử lý

nợ xấu của VAMC để thực sự trở thành công cụ đặc biệt của Nhà nước trong việc xử lý

nhanh nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các TCTD cũng như DN và

thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế, qua đó dần tạo lập thị trường mua

bán nợ tập trung, góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.

Đánh giá của Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cũng cho thấy, việc

mua bán nợ xấu sẽ diễn ra sôi nổi hơn, với quy mô lớn hơn từ nay đến hết quý II do

1/6/2014 là thời điểm áp dụng Thông tư 02 về việc phân loại nợ theo hướng chặt chẽ

hơn. Đối với khoản nợ xấu VAMC dự kiến mua trong năm nay - vấn đề mấu chốt vẫn

nằm ở việc VAMC có thể xử lý (bán, tái cơ cấu) các khoản nợ xấu này sau đó hay

không và thời gian xử lý trong bao lâu.

Thực tế cho thấy thì Việt Nam vẫn rất hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước

ngoài, có thể thấy điều đó qua cuộc khảo sát “Lĩnh vực tư nhân – Khảo sát về môi

trường đầu tư và triển vọng tương lai tại Việt Nam” của Grant Thorton.

78

Biểu đồ 3.1: Khảo sát sự hấp dẫn đầu tư tại Việt Nam (2009)

(Nguồn: Báo cáo tại Hội Nghị M&A tại Việt Nam 2009 của Grant Thornton)

Vấn đề đặt ra cần sớm giải quyết để phát triển thị trường mua bán nợ: Nếu phát

triển thị trường mua bán nợ chỉ thông qua việc thành lập các công ty mua bán nợ trực

thuộc NHNN nhằm giải quyết các khoản nợ mà doanh nghiệp vay ngân hàng không có

khả năng trả, sẽ nảy sinh các vấn đề sau:

Một là, công ty mua bán nợ xấu sẽ mua các khoản nợ xấu của NHTM và TCTD

khác. Hệ quả tỉ lệ nợ xấu của các NHTM giảm đi. Nhưng xét trên bình diện tổng thể

nền kinh tế, nhất là NHNN, thì Công ty mua bán nợ xấu là thuộc NHNN, nên các

khoản nợ xấu của các NHTM chỉ chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác trong hệ

thống ngân hàng mà thôi và cuối cùng Nhà nước phải gánh chịu các khoản nợ đó.

Hai là, các DN vay vốn của NHTM, do gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh nên

không trả được nợ đúng hạn. Do đó, DN không thể tiếp tục vay vốn sản xuất kinh doanh. Và

đó là một nguyên nhân quyết định phát sinh nợ xấu của NHTM. Khi Công ty mua bán nợ

xấu mua một khoản nợ xấu của NHTM thì DN vay vốn chưa trả được nợ sẽ trở thành “con

nợ” của Công ty mua bán nợ xấu. Khi “chuyển chủ nợ” thì các DN là con nợ về bản chất

không gì thay đổi lớn. Liệu khoản nợ đã “chuyển chủ” có được khoanh lại và DN sẽ tiếp tục

được vay vốn ở các NHTM? Chỉ có NHTM nào cho vay mới quyết định vấn đề này.

79

Ba là, sau khi mua các khoản nợ xấu của các NHTM, Công ty mua bán nợ xấu sẽ

làm gì với khoản nợ mà DN chuyển sang. Bằng cách nào và bao lâu sẽ thu hồi số hàng hóa

nợ xấu đã mua. Rất có thể đem khoản nợ đã mua bán cho một công ty mua bán nợ khác

khi họ có nhu cầu. Đây là điều rất diễn ra trong thị trường mua bán nợ. Nếu không thực

hiện được những vấn đề trên, thì Công ty mua bán nợ xấu sẽ khó mà tồn tại được lâu dài.

Cơ chế, chính sách, nhất là hệ thống luật pháp chưa đủ để tạo hành lang cho thị

trường phát triển. Chẳng hạn, Công ty mua bán nợ Việt Nam nhận sứ mạng mua các

món nợ của các công ty nhà nước và công ty cổ phần. Vậy thì lợi ích về kinh tế - tài

chính mà công ty này nhận được là gì, nếu rủi ro ai sẽ gánh chịu, chẳng lẽ Nhà nước.

Nghĩa là lợi ích mà Nhà nước, công ty mua, công ty bán nhận được là gì, nếu không

quản lý tốt sẽ phục vụ cho lợi ích nhóm.

Để hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ thì cần có những giải pháp từ

phía Nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển cùng với việc qui định

hệ thống pháp luật chặt chẽ để hỗ trợ cho hoạt động này, ngoài ra còn là những giải

pháp cho những bên tham gia vào hoạt động mua bán nợ: phải có người mua, người

bán; phải có khuôn khổ pháp lý tốt cho thị trường hoạt động. Đặc biệt, muốn thu hút

các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường này thì khuôn khổ pháp lý cũng phải tạo

thuận lợi cho họ, đặc biệt là vấn đề trần tỷ lệ sở hữu tại các DN, nhất là các ngân hàng;

việc sở hữu tài sản tại Việt Nam, đặc biệt là bất động sản...

3.2 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

3.2.1 Nâng cao sự hiểu biết của các chủ thể tham gia

Mua bán nợ đang trở nên phổ biến trên toàn thế giới. VN cũng không nằm ngoài

xu hướng này. Các nhà quản trị DN không nên xem mua bán nợ là xấu, buộc phải thực

hiện chỉ khi DN sắp đứng bên bờ vực phá sản, mà cần xem mua bán nợ là một khía

cạnh mới của hoạt động đầu tư. Sau khi tiến hành mua bán nợ, các DN sẽ cải thiện

đáng kể tiềm lực tài chính, đồng thời còn mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh

80

tranh. Do đó, các nhà quản trị nên bỏ qua cái tôi cá nhân, đặt lợi ích của tập thể và đại

bộ phận cổ đông của công ty lên hàng đầu, sẵn sàng đưa ra quyết định mua bán nợ khi

thấy được những lợi ích mà hoạt động này sẽ mang lại cho DN trong tương lai.

Các chủ nợ và khách nợ cần nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về khái niệm nợ

và tài sản tồn đọng, phần lớn doanh nghiệp chỉ coi công ty mua bán nợ như một tổ

chức đòi nợ thuê mà không phải là tổ chức để hỗ trợ doanh nghiệp xử lý nợ và tài sản

tồn đọng trong quá trình hoạt động và chuyển đổi sở hữu.

Đối với các DN tham gia vào thị trường mua bán nợ: Khi thực hiện mua bán các

khoản nợ cần phải đặt ra nhiều tiêu chí để đảm bảo thực hiện mua bán nợ thành công,

như phải chủ động tìm hiểu thông tin về DN và chủ nợ; DN có tiềm năng phát triển và

có thể phát triển hiệu quả nếu được hỗ trợ giải quyết những khó khăn tạm thời đang

gặp phải; bản thân DN và chủ sở hữu DN, chủ nợ sẵn sàng hợp tác trong việc áp dụng

các biện pháp thích hợp nhằm xử lý khó khăn trước mắt để tiếp tục tồn tại và phát triển.

Để hoạt động mua bán nợ ngày càng phát triển hơn ở nước ta, cần những nhà quản

trị có năng lực lãnh đạo, tư tưởng mới mẻ và tầm nhìn chiến lược. Thêm nữa, các nhà quản

trị DN cần nâng cao kiến thức, tích cực nghiên cứu, tìm hiểu lợi ích và khó khăn mà hoạt

động mua bán nợ mang lại. Các nhà quản trị cần học hỏi kinh nghiệm về mua bán nợ của

các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực có điều kiện phát triển tương

đồng với nước ta. Nhờ vậy, các nhà quản trị DN mới có đủ tự tin, năng lực để nắm bắt,

đưa ra các quyết định đúng đắn khi cơ hội từ hoạt động mua bán nợ xuất hiện.

3.2.2 Gia tăng số lượng chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ

Muốn thực hiện xã hội hóa hoạt động mua bán nợ cần cho phép nhiều công ty

trong nước và nước ngoài tham gia vào thị trường mua bán nợ. Toàn hệ thống NHTM

hiện có hơn 20 công ty mua bán nợ nhưng xét về cung cầu, các công ty mua bán nợ của

NH không đủ lực cả về tài chính, cơ chế hoạt động và kỹ năng xử lý. Cần thiết phải

cho phép thành lập thêm các công ty mua bán nợ khác theo hướng xã hội hóa. Theo đó,

81

không chỉ có DNNN mới được tham gia vào thị trường này mà sẽ mở rộng hơn, tư

nhân cũng có thể được tham gia.

Cần phát triển thị trường trái phiếu để công ty mua bán nợ mua nợ rồi bán cho

nước ngoài, hoặc tổ chức đầu tư khác để tổ chức đầu tư đó dùng tài sản đảm bảo phát

hành trái phiếu ra thị trường, hay là chứng khoán hóa tài sản xấu. Do đó, Chính phủ

cần cho phép một số NH nước ngoài có tiểm lực tài chính mạnh, quản trị DN tốt mua

lại những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ xấu rất cao

Thúc đẩy phạm vi hoạt động của các AMC: Các công ty quản lý nợ và khai thác

tài sản (AMC) của các ngân hàng thường chỉ co hẹp hoạt động trong việc xử lý nợ của

NH mẹ. Nếu các công ty này không tham gia mua bán các khoản nợ của các NH khác,

thì không thể hình thành thị trường mua bán nợ tập trung. NHNN nên có quy định, các

TCTD có nợ xấu trên 3% phải thành lập AMC riêng, phạm vi hoạt động là toàn bộ tài

sản và các khoản nợ xấu trên thị trường.

Thành lập Hiệp hội Các công ty mua bán nợ: Thực tế cho thấy, mô hình hiệp hội

hoạt động tương đối hiệu quả tại Việt Nam. Tuy đã có Hiệp hội Ngân hàng, nhưng việc

thành lập Hiệp hội Các công ty mua bán nợ có thể là nhân tố cần thiết để thị trường

mua bán nợ Việt Nam có điều kiện phát triển. Hiệp hội là đại diện cho tiếng nói của

các công ty mua bán nợ, bao gồm VAMC, DATC và các AMC của các TCTD cũng

như các tổ chức, doanh nghiệp khác có chức năng mua bán nợ.

Để hình thành thị trường thì phải có người bán và người mua, nhưng để thị

trường có thể phát triển trong tương lai cần có bên thứ ba, đóng vai trò trung gian, tuy

không phải là nguồn lực chính, nhưng có yếu tố tác động và giúp cho người mua và

người bán dễ dàng gặp được nhau và giúp cho các giao dịch dễ được xác lập.

 Nắm bắt được xu hướng phát triển của thị trường, rất nhiều các tổ chức tài

chính, tổ chức kinh tế, các công ty mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ thuộc các thành

phần kinh tế khác, các dịch vụ tư vấn về hoạt động mua, bán, xử lý nợ ở các

82

công ty chứng khoán… đứng ra làm tư vấn, môi giới cho các bên trong hoạt

động. Hoạt động chính của các tổ chức trung gian này như là cầu nối giữa bên

mua nợ và bên bán nợ, có vai trò là nhà tư vấn, dàn xếp việc mua bán nợ, góp

phần thúc đẩy cho quá trình mua bán nợ diễn ra nhanh chóng và đạt được kết

quả tốt đẹp. Các tổ chức trung gian này sẽ được hưởng phí dịch vụ môi giới

theo thỏa thuận. Hoạt động tư vấn mua bán nợ có thành công hay không phụ

thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ và kinh nghiệm của tổ chức tư vấn.

 Tuy nhiên, do đặc tính phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều chuyên gia

trong các lĩnh vực như luật, tài chính, thuế, kiểm toán, thẩm định giá, nhân

sự… nên bản thân các tổ chức này chưa có đủ năng lực cũng như đội ngũ

nhân sự có kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu để cung cấp dịch vụ trọn gói

cho thị trường mua bán nợ.

 Cần đẩy mạnh sự hoạt động của các công ty định giá có chức năng định giá

độc lập các khoản nợ như mô hình các công ty định giá hiện tại. Việc ra đời

các công ty dạng này sẽ giúp cả bên mua nợ và bên bán nợ có cơ sở để xem

xét, quyết định việc mua bán và đảm bảo việc mua bán nợ được thực hiện

khách quan. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các TCTD nhà nước, khi

trách nhiệm về sử dụng và mất vốn luôn rất nặng nề.

 Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động của các bên môi giới là:

Nâng cao tiềm lực tài chính để hỗ trợ cho hoạt động tư vấn mua bán nợ:

Hoạt động tư vấn chỉ đòi hỏi một mức vốn pháp định thấp. Nhưng công

ty nào có khả năng gia tăng tiềm lực tài chính thì sẽ tạo được lợi thế cạnh

tranh lớn hơn trong việc cung cấp một dịch vụ tư vấn trọn gói từ cơ sở

pháp lý cho đến vấn đề kiểm toán, định giá, thuế…và còn có thể tạo điều

kiện đầu tư trong việc tìm kiếm và thu thập những thông tin DN muốn

mua nợ và DN cần bán nợ, từ đó sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển

83

mạng lưới khách hàng tốt hơn. Ngoài ra, tiềm lực tài chính tốt còn có thể

hỗ trợ giúp cho các DN bên mua có được dòng tiền kịp thời để chi trả

trong thương vụ mua bán nợ khi mà các DN này chưa thể xoay sở kịp.

Điều này sẽ góp phần gia tăng thêm dịch vụ cho khách hàng và giúp

khách hàng phần nào giải quyết được khó khăn trước mắt.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Hoạt động mua bán nợ luôn cần

nhà môi giới, tư vấn chuyên nghiệp. Họ sống bằng “nghề” làm xúc tác để

nhu cầu mua bán nợ của các bên gặp nhau, do đó họ phải “thạo nghề” với

việc cung ứng các dịch vụ và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật

về hoạt động môi giới, tư vấn cho một hoạt động mua bán nợ bất kỳ trên

thị trường, hoạt động của họ được mua bảo hiểm để phòng ngừa các

trường hợp rủi ro xảy ra do tư vấn của họ.

3.2.3 Tăng tiềm lực về vốn cho các hoạt động mua nợ

Con số ước tính của NHNN cho thấy có thể cần 100.000 tỷ đồng để mua nợ xấu.

Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa xác định được lấy nguồn tiền này từ đâu?

Khả năng góp vốn của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính trong nước

là rất khó vì quy mô vốn của Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Bảo hiểm tiền gửi Việt

Nam khá nhỏ, chỉ ở mức 5.000 tỷ đồng. Mặt khác, việc góp vốn của các TCTD cũng có

thể dẫn đến mâu thuẫn lợi ích giữa các công ty mua bán nợ luôn muốn mua nợ với giá

thấp, ngược lại các TCTD lại muốn bán nợ với giá cao.

Giải pháp khả dĩ nhất là tiền từ ngân sách. Tuy nhiên, với số tiền quá lớn đó thì

chắc chắn phải thông qua sự phê chuẩn của Quốc hội. Vấn đề là, để được Quốc hội

thông qua lại là một điều không dễ dàng vì thâm hụt ngân sách của VN trong nhiều

năm qua đã quá lớn. Việc chứng minh sự hiệu quả, công bằng, minh bạch và cần thiết

để bỏ ra hàng chục nghìn tỷ đồng mua nợ là một nhiệm vụ rất khó hiện nay của Chính

phủ. Tuy nhiên, Chính phủ cần nhận thấy được lợi ích của việc chi ngân sách nhà nước

84

để giải quyết tình trạng nợ xấu là vấn đề cấp bách và cần thiết (chẳng hạn như Mỹ lúc

khủng hoảng thì FED đã chi 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của hệ thống NH).

Ngoài ra, một giải pháp khác được nhiều người đề cập là bán cổ phần DNNN để

lấy tiền xử lý nợ. Đây là một giải pháp đúng đắng về mặt kinh tế và có thể đem lại hiệu

quả cao, được nhiều nhà kinh tế ủng hộ. Tuy nhiên, đặt trong mối quan hệ tổng thể về

tình hình hiện nay thì đây là một giải pháp rất khó thực hiện.

Tăng quy mô vốn cho các AMC: Theo chủ trương của NHNN, trong năm 2014

sẽ thực hiện tăng quy mô của Công ty quản lý tài sản VAMC lên khoảng 70.000 –

100.000 tỷ đồng, để kịp thời đáp ứng về vốn trong việc thu mua thu mua nợ xấu của hệ

thống ngân hàng. Đây được coi là động thái tốt từ phía cơ quan chủ quản trong việc

đẩy mạnh tiến trình xử lý nợ xấu tại các ngân hàng.

Mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài: Nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực tài chính

lớn sẽ là nhân tố quan trọng góp phần giải quyết bài toán về vốn, để mua lại các khoản

nợ của chủ thể có nhu cầu xử lý nợ. Bên cạnh đó, sự góp mặt của nhà đầu tư nước

ngoài sẽ tăng cường nguồn cầu, làm cho thị trường mua bán nợ phát triển:

 Để được hoạt động đầu tư ở Việt Nam, nhiều trường hợp, luật pháp đòi hỏi

công ty nước ngoài phải thành lập liên doanh với các đối tác trong nước. Khi

nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, phát triển ổn định, thị trường 80 triệu

dân với mức tiêu thụ tốt khiến Việt Nam trở thành môi trường đầu tư tốt cho

các tập đoàn kinh tế muốn phát triển thị phần. Cách đơn giản với họ khi tham

gia vào thị trường mới là mua lại một công ty đã có thị phần ở thị trường này.

 Nhà đầu tư nước ngoài có ưu thế về kinh nghiệm và trình độ quản lý trong

việc tiến hành thuần thục các hoạt động mua bán nợ, trong khi doanh nghiệp

Việt Nam còn bỡ ngỡ, nên không thể nắm thế chủ động trong hoạt động này.

 Tiềm lực tài chính lớn là nguyên nhân làm cho nhà đầu tư nước ngoài mới

chính là khách hàng mua nợ của những khoản nợ lớn. Đây cũng là một nhân

85

tố quyết định khi chính nhà đầu tư nước ngoài là người tạo ra cung và cầu

cho thị trường mua bán nợ hiện nay và trong tương lai.

 Việt Nam là nước đang phát triển, tiềm năng còn rất lớn và mua bán nợ là

một hình thức đầu tư nước ngoài hiệu quả và phổ biến giúp các nhà đầu tư

nước ngoài thâm nhập thị trường nội địa mà không phải chịu phí tổn thành

lập, xây dựng thương hiệu và thị phần ban đầu. Đặc biệt trong bối cảnh thị

trường dịch vụ được bảo hộ theo lộ trình cam kết WTO thì mua bán nợ là

một trong những con đường ngắn nhất để các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận

mạng lưới bán lẻ của Việt Nam.

3.2.4 Thêm các giải pháp xử lý nợ xấu sau khi mua về

Đây là điều mà các bên mua nợ khá quan tâm, nhất là trong tình hình nợ xấu mua

về, quá nhiều mà chưa thể xử lý hết, như trường hợp của VAMC, cụ thể:

 Việc thành lập VAMC đang bắt đầu phát huy tác dụng khi đã có nhiều

TCTD đánh tiếng muốn bán nợ xấu. Đến nay, VAMC đã mua được 38.900

tỷ đồng nợ xấu, tương đương 32.400 tỷ đồng giá trị trái phiếu đặc biệt. Tuy

nhiên, sau khi mua nợ xấu, VAMC làm gì thì vẫn chưa rõ ràng. Đối với

những khoản nợ này, các TCTD vẫn phải trích lập 20% dự phòng rủi ro

trong vòng 5 năm và có trách nhiệm thu đòi nợ.

 Trường hợp VAMC không bán được nợ xấu, các TCTD sẽ phải mua lại các

khoản nợ xấu đã bán và tiếp tục xử lý. Như vậy, nợ xấu không được xử lý

dứt điểm, mà chỉ tạm thời chuyển khỏi bảng cân đối kế toán của doanh

nghiệp chuyển sang VAMC trong vòng 5 năm. Đây chỉ là biện pháp tạm thời

để giảm bớt tỷ lệ nợ xấu, giúp các ngân hàng giải quyết một phần vốn tồn

đọng trong nợ xấu để đưa dòng tiền vào lưu thông trong nền kinh tế.

 Để biện pháp bán nợ thực sự có hiệu quả, cần có sự phối hợp giữa các tổ

chức mua nợ với các hiệp hội doanh nghiệp (để tìm đối tác quan tâm mua lại

86

hoặc phối hợp cấp thêm vốn để khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh),

hoặc thúc đẩy liên hệ với các NĐT để bán lại nợ cho nước ngoài, hoặc phối

hợp với chính các TCTD để chứng khoán hóa khoản nợ xấu của TCTD đó

trên cơ sở cùng tái cơ cấu DN (NH tài trợ vốn, đối tác mua nợ phụ trách quá

trình tái cơ cấu hoạt động kinh doanh)…, nhằm giải quyết dứt điểm nợ xấu.

Nỗ lực giảm nợ xấu từ trong nội bộ chủ thể có nhu cầu bán nợ: Các lãnh đạo DN

và NHTM cần có nỗ lực trong việc giảm bớt sự gia tăng nợ xấu và tìm cách xử lý các

khoản nợ xấu đã phát sinh. Các NHTM cần đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ vì:

 Các NHTM cần nhận thức được việc mua bán nợ là một nghiệp vụ quan

trọng vì hoạt động mua bán nợ giúp NH giải phóng được một lượng tài sản

lớn, qua đó tăng cường và cải thiện tính thanh khoản trong từng thời kỳ.

 Đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng và tăng cường hiệu quả hoạt

động, việc mua bán các khoản nợ giúp đẩy nhanh quá trình đưa dòng tiền

vào phát triển kinh tế xã hội.

 Các NHTM cần tuân thủ và áp dụng triệt để các tiêu chí định lượng và định

tính vào việc phân loại nợ NH, đặc biệt là tiêu chí định lượng như tình hình

tài chính của khách hàng, dòng tiền, tính khả thi của dự án sản xuất kinh

doanh… để phản ánh đúng tình hình nợ. Do đó, cần phải có một môi trường

công khai, minh bạch về thông tin, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài

chính của DN, khách hàng của NH. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng

hoạt động của hệ thống kiểm toán độc lập, kiểm soát nội bộ của NH.

3.2.5 Phát triển nguồn nhân lực cho thị trường mua bán nợ

Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong công ty:

 Tuyển dụng các chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu về các lĩnh vực khác

nhau như pháp luật, tài chính, thương hiệu... tham gia vào các hiệp hội, đoàn

87

thể môi giới, tư vấn mua bán nợ và đã tham gia sâu ít nhất 2 dự án, cải tiến

các chính sách nhằm thu hút được nguồn nhân lực chất xám cao.

 Xây dựng môi trường làm việc năng động và đầy thách thức: Không ngừng

hoàn thiện quy trình tuyển dụng một cách chuyên nghiệp.

 Tổ chức đào tạo thường xuyên và định kỳ: phải có những chương trình, kế

hoạch đào tạo để có được đội ngũ chuyên gia tư vấn, môi giới chuyên

nghiệp. Huấn luyện đội ngũ tư vấn thái độ chủ động và tinh thần độc lập

trong khi thực hiện tư vấn trên cơ sở nắm chắc, bám sát diễn biến thị trường,

các thông tin về DN và các quy định pháp lý liên quan.

 Tạo sự gắn kết trong toàn thể nhân viên

Biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hữu hiệu nhất nhằm gia tăng năng

lực cạnh tranh với các đối thủ khác và nhằm đem lại chất lượng dịch vụ tốt nhất cho

khách hàng (một dịch vụ trọn gói bao hàm các khâu trong quy trình mua bán nợ) đó là

cần có sự hợp tác giữa các DNNN, các ngân hàng (xác định những mục tiêu tiềm năng,

kiến tạo những cuộc gặp ban đầu giữa các bên giao dịch, định giá, cơ cấu lại về mặt tài

chính và những lựa chọn tài chính cho vụ giao dịch) với các nhà tư vấn khác như: luật

sư (tư vấn luật), các công ty kiểm toán (tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế…),

các nhà môi giới chứng khoán (hỗ trợ những thông tin hữu ích trong quá trình đánh giá

và định giá giao dịch),…Thông thường, các DN khi muốn thực hiện mua bán nợ lo

ngại rất nhiều điều về luật, kế toán…thường tìm đến các nhà tư vấn để tham khảo, điều

đó gây mất thời gian và công sức của các DN. Khi bên môi giới cung cấp dịch vụ này

thì sẽ giúp khách hàng giảm thiểu được thời gian và chi phí, vì nếu như khách hàng

thuê nhiều chuyên gia tư vấn trong một giao dịch sẽ mất nhiều chi phí và thời gian.

Khi chất lượng nguồn nhân lực của đội ngũ tư vấn được nâng cao thì thị trường

mua bán nợ Việt Nam mới hoạt động tốt và đi vào chuyên nghiệp, qua đó sẽ bảo vệ

được quyền lợi hợp pháp của các bên trong giao dịch mua bán nợ.

88

3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ CHÍNH PHỦ

3.3.1 Ổn định tình hình kinh tế

3.3.1.1 Ổn định tình hình kinh tế và cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia

Ổn định tình hình kinh tế vĩ mô: Cần có các giải pháp chính sách không chỉ cho

năm 2014 mà còn cả trong những năm tiếp theo với nhiệm vụ ưu tiên là: ổn định vĩ mô,

kiềm chế lạm phát và tái cấu trúc, cụ thể là:

 Việt Nam cần có các biện pháp tập trung ổn định kinh tế vĩ mô hơn là tăng

trưởng nhanh, đồng thời cải thiện hiệu quả nền kinh tế nhằm bảo đảm tăng

trưởng bền vững với tư cách là một nước có thu nhập trung bình.

 Năm 2014 là năm vấn đề lạm phát cần coi trọng hơn do kinh tế đã từng bước

phục hồi và các yếu tố hậu thuẫn cho mức giá thấp không còn nữa. Tuy nhiên,

không nên thắt chặt tiền tệ một cách hoàn toàn cứng rắn, mà cần linh hoạt để

duy trì thanh khoản cho nền kinh tế; cần tiến đến mục tiêu điều chỉnh tỷ giá

theo hướng linh hoạt với thị trường hơn thay vì giữ tỷ giá chính thức cố định.

 VN cần tập trung vào tái cơ cấu DNVN. Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu,

chúng ta thấy rõ được những điểm yếu của nền kinh tế, do đó đây là cơ hội

để tái cấu trúc nền kinh tế. Khi thực hiện việc này sẽ góp phần giúp cho hoạt

động mua bán nợ trở nên sôi động hơn. Mức độ và hiệu quả của tái cơ cấu

nền kinh tế lại phục thuộc vào việc giải quyết các “nút thắt” của nền kinh tế,

đó là cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ và bộ máy quản lý hành

chính. Do đó, cần đẩy mạnh cải cách và tập trung giải toả các “nút thắt” này.

 VN cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để nhu cầu mua bán nợ của các

DN ngày càng tăng; cần tạo ra nhu cầu nội tại của thị trường, trong môi

trường kinh doanh đó phải có sự cạnh tranh cao giữa các DN. Đó là động lực

để DN vươn lên, khi đó sẽ có DN tồn tại, phát triển, có DN bị phá sản.Tất

89

yếu, môi trường đó sẽ hình thành nhu cầu mua bán nợ, liên doanh, liên kết

giữa các DN để lớn mạnh hơn, phát triển hơn và hỗ trợ cho nhau tốt hơn.

 Nhà nước cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN để thu hút các nhà

đầu tư chiến lược, nhằm tạo thêm nguồn hàng hóa có giá trị lớn cho hoạt

động mua bán nợ.

 Cần cân nhắc về chính sách chuyển tiền ra nước ngoài như thế nào, Việt

Nam có tiếp tục phá giá đồng nội tệ hay không. Các NĐT nước ngoài cũng

sẽ cân nhắc nhiều về vấn đề này bởi nhiều dự án người nước ngoài đã đầu tư

vào VN không đạt được như những gì họ mong đợi. VN ưa bán những kỳ

vọng, còn thực tế, chưa có những dự án thành công lớn, điển hình cho tính

hiệu quả của dòng vốn nước ngoài vào DNVN.

 Tóm lại, nhà nước cần phải có những chính sách thích hợp để duy trì tốc độ

tăng trưởng kinh tế, gia tăng tính cạnh tranh, đồng thời tạo điều kiện vĩ mô

thuận lợi giúp cho TTCK VN ngày càng phát triển ổn định hơn. Khi mà tốc

độ tăng trưởng kinh tế được duy trì sẽ giúp gia tăng tính cạnh tranh giữa các

DN trong nền kinh tế, góp phần cho sự phát triển của hoạt động mua bán nợ

trong thời gian sắp tới.

Hệ số tín nhiệm quốc gia là chỉ số quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài

trong việc đánh giá chi phí vay mượn của Việt Nam tại thị trường vốn quốc tế. Thông

qua việc tiếp xúc với các công ty đánh giá xếp hạng tín nhiệm nhằm thúc đẩy, tuyên

truyền và giới thiệu sâu rộng hơn về tình hình Việt Nam cho các nhà đầu tư quốc tế.

Theo đề án của Bộ Tài Chính dự thảo, để nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia, ngoài

yếu tố quyết định là tiếp tục nâng cao nội lực của nền kinh tế, tăng cường tính chủ

động và chuyên nghiệp còn đòi hỏi đáp ứng một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Xây dựng

mục tiêu đề ra là phấn đấu từng bước nâng bậc xếp hạng tín nhiệm và đến năm 2020

đạt mức xếp hạng tín nhiệm tối thiểu là Baa3 do Moody’s xếp hạng hoặc BBB- do

90

S&P và Fitch xếp hạng. Đó là, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong

nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2

lần so với năm 2010, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000

USD. Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội duy trì trong khoảng từ 33 - 35% GDP, nâng cao

hiệu quả đầu tư công, phấn đấu đưa chỉ số ICOR về mức trung bình so với các nước có

cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.

3.3.1.2 Ổn định và lành mạnh hóa thị trường chứng khoán

Đây là kênh chủ chốt trong hoạt dộng mua bán nợ, một thị trường chứng khoán

minh bạch, tăng trưởng tốt sẽ là thước đo chính xác sức khỏe của các doanh nghiệp

niêm yết nói riêng và nền kinh tế nói chung, thông qua đó các cơ quan quản lý cũng có

thể kiểm tra, điều tiết, xử lý hoạt động mua bán nợ trên thị trường hiệu quả hơn.

Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương án:

 Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về

nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào

hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều

này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.

 Chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các NH

đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái

cấu trúc DN có khả năng tồn tại và phát triển. Đối với VN, từ trước tới nay

đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được DN khỏi

nguy cơ giải thể, phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các NH.

 Để tiến trình chứng khoán hóa thành công, trong vai trò đồng chủ nợ các NH

tích cực nâng cao tính cộng đồng, phối hợp với DN để xử lý nợ xấu. Các NH

nên sử dụng công ty con như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng

khoán, công ty quản lý quỹ để tham gia vào tiến trình chứng khoán hóa.

91

3.3.2 Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thị trường mua bán nợ

Một hành lang pháp lý hoàn thiện sẽ góp phần thúc đẩy các giao dịch mua bán nợ

phát triển, nó sẽ tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị pháp lý của các bên trong giao

dịch và hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Mua bán nợ là một giao dịch thương

mại, tài chính, nó đòi hỏi phải có quy đinh cụ thể, có một cơ chế thị trường để chào bán,

chào mua nợ, giá cả, cung cấp thông tin, chuyển giao và xác lập sở hữu, chuyển dịch tư

cách pháp nhân, cổ phần, các nghĩa vụ tài chính, đất đai người lao động, thương hiệu...

Đồng thời, còn các vấn đề liên quan trực tiếp đến mua bán nợ mà pháp luật nước ta chưa

quy định cụ thể như kiểm toán, định giá, tư vấn, môi giới, bảo mật, thông tin, cơ chế giải

quyết tranh chấp... Do đó VN phải hoàn thiện hành lang pháp lý về mặt mua bán nợ

trong thời gian tới đây. Để ban hành văn bản pháp luật cho hoạt động mua bán nợ ở VN

thì cần tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến từ các nhóm đối tượng như: các công ty

đang thực hiện tư vấn cho hoạt động mua bán nợ, các nhà chuyên gia nghiên cứu kinh tế

trong và ngoài nước và các bên đã và đang có ý định thực hiện mua bán nợ trong tương

lai. Khung pháp lý cho hoạt động mua bán nợ ở VN cần lưu ý đến những nội dung:

3.3.2.1 Xây dựng bộ luật riêng cho hoạt động mua bán, xử lý nợ

Nhằm tạo ra môi trường pháp lý chặt chẽ và nâng cao năng lực hoạt động cho các

bên trong quá trình xử lý nợ và tài sản Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán nợ bằng một hệ thống cơ chế chính sách xử

lý đầy đủ, đồng bộ và rõ ràng:

 Cơ chế đó cần xác định rõ trách nhiệm của ban giám đốc DN trong việc xử lý

nợ; có chế tài đủ mạnh nếu giám đốc DN không tự xử lý được nợ tồn đọng

hay cố tình để công nợ tồn đọng dây dưa, kéo dài; bắt buộc DN phải xử lý nợ

nếu không sẽ tiến hành giải thể, phá sản theo đúng quy định của pháp luật.

 Tinh gọn thủ tục hành chính trong cơ chế xử lý nợ và tài sản. Cơ chế cần

đảm bảo và trao các chủ nợ và nhất là Công ty mua bán nợ các quyền đặc

92

biệt hơn như quyền yêu cầu khách nợ và các bên có liên quan khác phải cung

cấp thông tin về hoạt động, tài chính, nhân sự, quyền giám sát, phong tỏa tài

khoản và kê biên phát mại tài sản đảm bảo nếu khách nợ cố tình không hợp

tác thanh toán.

 Cần sớm ban hành đồng bộ và hoàn thiện các cơ chế mua bán một phần hoặc

toàn bộ DN, cơ cấu lại tài chính và hoạt động của DN; xử lý tài chính trong

quá trình mua bán, cơ cấu, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu cả DN.

3.3.2.2 Quy định pháp lý đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các công ty mua

bán nợ

Hoàn thiện luật các tổ chức tín dụng để chính thống hóa thị trường mua bán nợ và

có những cơ chế khuyến khích đối với các chủ thể tham gia, từ đó tăng tính hiệu quả

của thị trường. Trong đó, cần:

 Xây dựng thành công mô hình xử lý nợ xấu phù hợp và phát triển hoàn

thiện, nhanh chóng cải thiện khung pháp lý và các rào cản nhằm tạo môi

trường thuận lợi cho các AMC hoạt động hiệu quả. Rà soát lại và xây dựng

các văn bản quy phạm pháp luật về mua bán nợ, về quan hệ giữa công ty xử

lý nợ với các NH và DN (con nợ). NHNN cần triển khai theo Thông tư

02/2013/TT-NHNN đúng lộ trình (được ban hành vào ngày 01/06/2014) về

việc “Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự

phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”, để thống nhất việc phân

loại nhóm nợ các khách hàng, tránh trường hợp các NH hiện nay vẫn giấu nợ

xấu, thông qua điều chỉnh xếp hạng tín dụng của DN vay vốn. Khi đã có sự

thống nhất về cách phân loại nợ và tỷ lệ nợ xấu thì quy định buộc các TCTD

phải bán nợ cho VAMC nếu tỷ lệ nợ xấu trên 3% mới phát huy được hiệu

quả, buộc các TCTD phải thực hiện bán nợ, làm tăng cung của thị trường.

93

 Cần hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ và đồng bộ, tạo môi trường thuận lợi

để khuyến khích thành lập các AMC tư nhân bằng cách tạo điều kiện thuận

lợi thông qua các quyền hạn đặc thù nhằm rút ngắn thủ tục pháp lý, thời gian

trong quá trình xử lý nợ xấu. Việc này sẽ giảm thiểu chi phí hoạt động vì quá

trình tái cấu trúc tài chính và cơ cấu lại hoạt động DN (con nợ) nhanh hơn.

 Sớm luật hóa và sử dụng rộng rãi các công cụ tài chính của kinh tế thị trường

như hối phiếu, chiết khấu, bảo hiểm kinh doanh, cưỡng chế, xử lý tranh

chấp…tạo giá trị gia tăng trong việc mua bán, xử lý nợ . Nhất là các cơ chế

đối với doanh nghiệp nhà nước trong quá trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu

hiện nay nếu không cổ phần hóa được cần giao lại cho Công ty mua bán nợ

tiến hành tái cơ cấu lại doanh nghiệp thông qua các giải pháp như giao, bán

khoán, cho thuê trước khi thực hiện việc giải thể hoặc phá sản.

3.3.2.3 Quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của nhà tư vấn trong các giao

dịch mua bán nợ

Những quy định cụ thể này sẽ giúp tăng thêm mức độ an toàn cho DN khi tham

gia vào hoạt động mua bán nợ:

 Quy định trách nhiệm và quyền lợi của các đối tượng này đối với DN trực

tiếp thuê họ làm tư vấn.

 Cần qui định thêm những điều kiện để chứng nhận là có đủ tư cách để thực

hiện tư vấn cho DN. Chẳng hạn:

Luật sư, nhân viên kiểm toán phải có giấy phép hành nghề.

Chuyên gia tư vấn tài chính phải có trình độ chuyên môn và số năm kinh

nghiệm nhất định hoạt động trong lĩnh vực tài chính.

Cần có điều kiện đối với các tổ chức muốn thực hiện cung cấp những

dịch vụ liên quan đến hoạt động mua bán nợ. Ví dụ, để cung cấp dịch vụ

94

tài trợ vốn cho DN thực hiện hoạt động mua bán nợ thì tổ chức cung cấp

dịch vụ phải được phép thực hiện dịch vụ tín dụng, đồng thời tổ chức này

cần phải có điều kiện về lượng vốn hoạt động kinh doanh đủ lớn so với

lượng vốn tài trợ cho hoạt động mua bán nợ để đảm bảo việc cung cấp

vốn cho hoạt động mua bán nợ được diễn ra đúng như kế hoạch của DN.

3.3.2.4 Xây dựng hệ thống xác định giá bán nợ

Bộ Tài chính, NHNN và các cơ quan liên quan cần thống nhất trong việc xây

dựng hệ thống cơ sở xác định giá trị khoản nợ để làm cơ sở đàm phán giữa bên mua và

bên bán. Bởi hiện tại, trong giao dịch mua bán nợ, sự chênh lệch lớn giữa giá chào mua

và giá chấp nhận bán làm kéo dài thời gian đàm phán, dẫn đến thất bại trong giao dịch.

Biện pháp này sẽ xem các khoản nợ cần thu hồi tương tự như các gói thầu được

đem ra đấu giá, việc tổ chức đấu giá các khoản nợ sẽ được thực hiện theo quy định của

pháp luật về đấu giá. Các TCTD sẽ tổ chức bán đấu giá các khoản nợ cho các NĐT hay

đối tác muốn quan tâm. Giá được đưa ra đấu giá là giá do TCTD hoặc một công ty có

chức năng định giá khoản nợ đưa ra. Nếu được quy định và hướng dẫn rõ ràng, cụ thể,

biện pháp này sẽ tăng thêm kênh mua bán có hiệu quả cho thị trường mua bán nợ.

Bên cạnh đó, nên nghiên cứu việc cho ra đời hoạt động của các công ty định giá

có chức năng định giá độc lập các khoản nợ như mô hình các công ty định giá hiện tại.

Việc ra đời các công ty dạng này sẽ giúp cả bên mua nợ và bên bán nợ có cơ sở để xem

xét, quyết định việc mua bán và đảm bảo việc mua bán nợ được thực hiện khách quan.

Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các TCTD nhà nước, khi trách nhiệm về sử dụng

và mất vốn luôn rất nặng nề.

3.3.2.5 Quy định điều chỉnh về vấn đề kế toán

Chính phủ cần xây dựng và có thông tư hướng dẫn cụ thể các hoạt động kế toán,

kiểm toán sao cho tương đồng và đồng nhất với các chuẩn mực của quốc tế, sẽ làm cho

95

các nhà đầu tư nước ngoài dễ tiếp cận và đánh giá được các tình trạng của doanh

nghiệp và các khoản nợ được doanh nghiệp hạch toán trên báo cáo tài chính, góp phần

tạo hành lang cho thị trường mua bán nợ hoạt động hiệu quả.

Thực tế cho thấy các chuẩn mực kế toán của VN vẫn còn nhiều điểm khác biệt

khá lớn so với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Chính vì vậy, trong bối cảnh hội nhập

ngày càng sâu rộng của kinh tế VN nói chung và hoạt động mua bán nợ nói riêng, VN

cần quốc tế hóa các chuẩn mực kế toán của mình. Điều này sẽ giúp cho các bên thuận

tiện hơn rất nhiều trong việc chuyển đổi các chuẩn mực kế toán và cũng giúp xử lý

chính xác hơn các khoản mục tài chính trong báo cáo tài chính, làm cơ sở cho công tác

định giá, mua bán nợ diễn ra thuận lợi, dễ dàng và hiệu quả hơn.

3.3.2.6 Xây dựng chính sách ưu đãi thuế

Miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp...) cho các hoạt

động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ.

Việc miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc

đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện

giải pháp này sẽ không làm tốn kém ngân sách nhà nước.

Kinh nghiệm các nước đã thành lập các công ty mua bán nợ quốc gia thì nguồn

tiền xử lý nợ xấu gồm một hoặc tất cả các nguồn sau:

 Nguồn vốn ngân sách nhà nước bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ

hoặc trái phiếu chính phủ bảo lãnh.

 Nguồn vốn đi vay từ ngân hàng trung ương hoặc ngân hàng phát triển.

 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp được bảo lãnh bởi Chính phủ. Phần lớn

các công ty mua bán nợ đều mua nợ tồn đọng theo giá thị trường.

Tuy nhiên, việc áp dụng vào thị trường VN có thể gặp vướng mắc nhiều mặt.

96

3.3.2.7 Ban hành văn bản quy định hoạt động mua bán nợ có sự tham gia của

yếu tố nước ngoài

Với nguồn vốn lớn và kinh nghiệm hàng chục năm phát triển thị trường mua bán

nợ, các nhà đầu tư ngoại sẽ là một trong những đối tác tham gia hoạt động hiệu quả

trên thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, cần rà soát và xây dựng các văn bản quy phạm

pháp luật về mua bán nợ, về quan hệ giữa công ty xử lý nợ với các tổ chức tín dụng.

Muốn thu hút các NĐT nước ngoài tham gia thị trường này thì Nhà nước cần có

các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường mua bán

nợ và có ác khuôn khổ pháp lý phải tạo thuận lợi cho họ, đặc biệt là vấn đề trần tỷ lệ sở

hữu tại các doanh nghiệp, nhất là các ngân hàng, cũng như việc sở hữu tài sản tại Việt

Nam, nhất là bất động sản. Các vấn đề liên quan đến giới hạn sở hữu của nhà đầu tư

nước ngoài trong các DNVN chưa cụ thể và minh bạch, do đó cần thống nhất những

quy định trên, cụ thề là:

 Cần xem xét lại quy định về giới hạn quyền sở hữu nước ngoài tại các công

ty trong lĩnh vực phân phối: Hiện vẫn áp dụng mức giới hạn ở mức 49% cho

công ty niêm yết và chưa niêm yết (trừ lĩnh vực ngân hàng là 30%) nhưng

trong nghị định 139/2007/NĐ-CP và cam kết WTO lại quy định mức sở hữu

này lên tới 99%.

 Cần phải làm rõ ràng những vấn đề sau:

Thế nào là DN có vốn đầu tư nước ngoài? Nếu như DN 100% vốn nước

ngoài nhưng mang "quốc tịch" VN vẫn được xem là DNVN. Vậy, nếu

một DN chỉ có 1% vốn đầu tư nước ngoài thì có được xem là DNVN hay

đó là DN có vốn đầu tư nước ngoài, và đây là một cách để các nhà đầu tư

nước ngoài lách luật góp vốn và trốn thuế.

97

Cần phải làm rõ DN có vốn đầu tư nước ngoài có được xem là nhà đầu tư

nước ngoài hay không? Chính sự không rõ ràng của vấn đề này trong thời

gian qua mà các NĐT nước ngoài đã lách các qui định về quyền sở hữu

trong các DN Việt Nam.

Cần xác lập rõ ràng quy định sở hữu của Nhà nước trong từng lĩnh vực.

Yếu tố nước ngoài trong hoạt động mua bán nợ có thể chia làm 2 trường hợp:

 Một là, phía nước ngoài là các tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động

tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại VN. Đối với đối tượng này thì

thủ tục và điều kiện để thực hiện hoạt động mua bán nợ tại VN tiến hành

theo những qui định chung.

 Hai là, phía nước ngoài là các tổ chức, cá nhân nước ngoài chưa từng hoạt

động kinh doanh tại VN hoặc hoạt động kinh doanh tại VN nhưng không

theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại VN. Trong trường hợp này, tiến

trình và thủ tục thực hiện hoạt động mua bán nợ cũng thực hiện như những

gì đã qui định.

Tóm lại, việc ban hành một văn bản pháp luật qui định những vấn đề liên quan

đến hoạt động mua bán nợ là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Đây là một giải pháp

quan trọng để tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động mua bán nợ và hỗ trợ cho sự hình thành

thị trường mua bán nợ, phát triển theo đúng tiềm năng thực tế ở thị trường Việt Nam.

3.3.3 Phát triển kênh kiểm soát thông tin và tính minh bạch của thông tin

Các DNNN và các TCTD cần có sự minh bạch về tỉ lệ nợ xấu và hồ sơ pháp lý về

các khoản nợ xấu. Tuyên truyền và học tập nâng cao nhận thức về hoạt động mua bán,

xử lý nợ và tài sản tồn đọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh; coi việc

mua bán, xử lý nợ và tài sản là một hoạt động tái cơ cấu lại doanh nghiệp để nhằm

củng cố năng lực tài chính trong quá trình hội nhập và phát triển.

98

Cần xây dựng được kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch trong hoạt động

kinh doanh nói chung, hoạt động mua bán nợ nói riêng, bởi vì trong hoạt động mua bán

nợ, thông tin về giá cả, thương hiệu, thị trường, thị phần, quản trị, con người, tài chính,

tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong của DN... là rất cần thiết cho cả bên

mua, bên bán. Nếu thông tin không được kiểm soát, không minh bạch thì có thể gây

nhiều thiệt hại cho cả bên mua, bên bán, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các thị trường

khác. Hơn nữa, mua bán nợ có thể dẫn đến độc quyền, do đó rất cần sự kiểm soát của

nhà nước để không ảnh hưởng đến nền kinh tế, người tiêu dùng.

Việc xây dựng một cơ chế và kênh cung cấp thông tin về DN đầy đủ, chính xác,

minh bạch là một biện pháp nhằm tăng tính chuyên nghiệp cho thị trường. Để làm tăng

tính minh bạch cho các thông tin được công bố thì cần nhanh chóng thực thi các chuẩn

mực kế toán, kiểm soát sổ sách kế toán của DN chặt chẽ hơn thông qua công tác kiểm

toán nội bộ và độc lập; về phía DN cần sớm làm quen với việc hoạt động sản xuất kinh

doanh trong một môi trường thông tin hiệu quả. DN cần phải có nghĩa vụ cung cấp các

thông tin cơ bản về tình hình hoạt động kinh doanh của mình.

Biện pháp đưa ra phải giải quyết vấn đề từ trong trứng nước mà ra. Nợ xấu xuất

phát từ trong chính bản thân các NHTM. Vì thế:

 Các NHTM (bản thân là người trong cuộc) phải nhận thức được ảnh hưởng

của việc cung cấp thông tin chính xác, mà từ đó phấn đấu vươn lên, phải

mạnh dạn nói lên cái xấu của bản thân.

 Hội sở của các NHTM phải nhận thức được ảnh hưởng của vấn đề này lên

tình hình kinh tế, không che giấu, bao che sự thật cho các chi nhánh con,

không để cho các chi nhánh làm sai; cần nhìn nhận những khoản nợ để con

số nợ xấu là thật, chứ không chỉ để làm đẹp báo cáo tài chính Điều này giúp

cơ quan chức năng đưa ra những điều chỉnh phù hợp.

99

 Ngân hàng Nhà nước (bản thân là người điều hành hệ thống NH) với tư

cách là quản lý thì phải có trách nhiệm, thực hiện nghiêm khắc để nợ xấu

bộc lộ toàn bộ nhằm xử lý triệt để.

 Thanh tra NHNN giám sát hoạt động của các NH, phải có trách nhiệm và có

hướng xử lý kiên quyết những NH cố tình làm lệch lạc thông tin và phải

buộc các NHTM đưa ra số liệu cần nói rõ nguồn, phương pháp xác định và

thời điểm xác định, từ đó mới xác định được số nợ xấu chính xác.

 Thanh tra Chính phủ cũng phải giám sát, thường xuyên theo dõi và định kỳ

kiểm tra về tình hình minh bạch thông tin của toàn hệ thống và mạnh tay hơn

đối với các NH (giấu nợ xấu) để từ đó Nhà nước mới có những chính sách

phù hợp nhất để giúp giải quyết vấn đề nợ xấu một cách triệt để nhất.

 Các DN (đặc biệt là DNNN) cần thu thập, theo dõi, cập nhật một cách thường

xuyên và có hệ thống, cần biện pháp chế tài cho chủ nợ và khách nợ về việc

không theo dõi và báo cáo tình hình nợ tồn đọng một cách thường xuyên.

Khi có đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin liên quan đến khoản nợ mà NH

và DN dự kiến bán thì khả năng thu hồi vốn, khả năng đàm phán tăng giá bán nợ sẽ

tăng. Từ đó sẽ làm cho hiệu quả của hoạt động mua bán nợ tăng lên nhiều so với tình

trạng thông tin không rõ ràng, minh bạch.

3.3.4 Nâng cao chất lượng thanh tra, giám sát

NHNN cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát trong lĩnh

vực hoạt động mua bán nợ của các chủ thể tham gia, nhằm kịp thời phát hiện những

hành vi không tuân thủ và vi phạm pháp luật, từ đó giúp cho hoạt động mua bán nợ

phát triển một cách lành mạnh và bền vững.

NHNN cần tiếp tục thường xuyên giám sát, đánh giá mức độ nợ xấu của từng

TCTD để cảnh báo, khuyến nghị các TCTD chủ động có kế hoạch cụ thể bán nợ xấu

100

cho VAMC để lành mạnh hóa tài chính cho chính các TCTD, và cung thêm hàng hóa

cho thị trường sơ cấp trong ngắn hạn và thị trường thứ cấp trong dài hạn.

NHNN nên thường xuyên tổ chức các chương trình hội thảo, các buổi tập huấn

nghiệp vụ, để giữa các TCTD trong và ngoài nước có dịp gặp gỡ và trao đổi kinh

nghiệm về hoạt động mua bán nợ và quốc tế. Đồng thời, NHNN cũng cần phải nghiên

cứu và trả lời một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời những vướng mắc, kiến nghị của

các NHTM phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Tăng cường giám sát hiệu quả, chống nguy cơ lũng đoạn thị trường mua bán nợ:

Hiện tại và trong tương lai, khi mà xu hướng mua bán nợ diễn ra mạnh mẽ hơn, sẽ tồn

tại 2 xu hướng chính:

 Thứ nhất, các cuộc mua bán nợ giữa các công ty vừa và nhỏ nhằm nâng cao

sức cạnh tranh trong cuộc chiến sinh tồn khắc nghiệt của cơ chế thị trường

 Thứ hai, các cuộc mua bán nợ của các “đại gia” trong các ngành nghề sản

xuất nhằm củng cố hơn vị thế của mình tại thị trường trong nước và vươn ra

thị trường quốc tế. Từ đó, thực tế khách quan sẽ tạo ra các tập đoàn kinh tế

lớn, có khả năng thâu tóm và chi phối độc quyền đối với sự phát triển của

ngành, tác động không tốt đến nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập.

Vì vậy, Nhà nước cần chú ý, một mặt khuyến khích các doanh nghiệp tiến

hành các thương vụ mua bán nợ, nhưng mặt khác, cũng cần phải ban hành

các quy định pháp luật để kiểm soát mức độ độc quyền, chống nguy cơ lũng

đoạn thị trường của công ty sau khi mua bán nợ.

Nhà nước cần có quy định cụ thể về xử lý các khoản nợ xấu của NHTM và

TCTD theo hướng tập trung bán nợ, khống chế thời gian xử lý nợ, nếu quá thời hạn thì

phải bán theo giá của tổ chức thẩm định trung gian:

101

 Trong trường hợp Công ty mua bán nợ Việt Nam (DATC) không có đủ

nguồn vốn để mua nợ gắn với tái cấu doanh nghiệp thì đề nghị Nhà nước hỗ

trợ vốn (có hoàn trả) cho DATC, hoặc phát hành trái phiếu công ty mua bán

nợ Việt Nam (được định kỳ định giá lại) để thực hiện xử lý nợ.

 Cần sớm sửa đổi quy định về xử lý nợ xấu của Ngân hàng Phát triển VN

(VDB) theo hướng tạo quyền chủ động cho VDB như các NHTM.

Nhà nước cần tiến hành đồng bộ giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ:

 Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ với sự kiểm soát trần lãi suất cho vay

từ NHNN phối hợp với chính sách tài khóa nới lỏng, và các giải pháp để tái

cấu trúc nền kinh tế, xử lý nợ xấu.

 Thay đổi quan điểm về các công ty mua bán nợ trên thị trường theo hướng

không nên tuyệt đối hóa, vì đây được xem như một công cụ giải quyết nợ xấu.

Hoàn thiện mô hình công ty mua bán nợ trong tương lai:

 Theo nhiều chuyên gia kinh tế thì công ty mua bán nợ bên là một pháp nhân

độc lập, tự hạch toán thu chi và mục tiêu phải vì lợi nhuận. Chỉ khi công ty

mua bán nợ sinh lời và hoạt động hiệu quả thì mới giải quyết được nợ xấu.

Bên cãnh đó, công ty mua bán nợ chỉ nên nằm dưới sự giám sát của NHNN

và không nên chịu ảnh hườn từ bất kỳ nhóm lợi ích nào.

 Để huy động vốn, công ty có thể tìm kiếm nguồn vốn từ ngân sách hoặc phát

hành trái phiếu do chính phủ bảo lãnh. Như vậy, nguồn vốn của công ty mua

bán nợ sẽ là lấy tiền của người dân để khắc phục sửa chữa những sai lầm của

các ông chủ NH. Để bảo đảm các yếu tố như rủi ro đạo đức, bất cân xứng về

thông tin, cơ quan giám sát cần đưa ra những cơ chế quy trách nhiệm và cơ

chế báo cáo thường xuyên để tiền của dân được sử dụng đúng mục đích.

102

 Ngoài ra, Công ty mua bán nợ điển hình trong tương lai không nhất thiết

phải tập trung hoàn toàn nguồn vốn vào một công ty mà có thể tạo ra cùng

lúc hai hoặc ba công ty mua bán nợ. Bằng cách này có thể tạo ra được môi

trường cạnh tranh, phân tán rủi ro trong quá trình xử lý nợ.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 3

Chương ba cho ta cái nhìn chung về dự báo nhu cầu phát triển thị trường mua bán

nợ trong tương lai, cùng với nhóm giải pháp và kiến nghị để góp phần thúc đẩy, tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường mua bán nợ. Với những tiềm

năng tương lai của Việt Nam về con người, môi trường, đầu tư, sự phát triển khoa học

công nghệ, việc gia nhập tổ chức WTO…hoạt động mua bán nợ cho thấy sẽ còn có

những bước phát triển thần kỳ hơn. Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này

tại Việt Nam, dự đoán sẽ nở rộ, dần đi vào chuyên nghiệp, thậm chí phát triển vượt ra

khỏi biên giới của quốc gia cùng với khả năng phát triển những phương thức mới Trên

cơ sở đó, tác giả đã đề ra một số kiến nghị ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm giúp hoàn thiện

và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ hiện nay.

KẾT LUẬN

Sự phát triển thị trường mua bán nợ là khách quan hiện nay ở Việt Nam. Cũng

như các thị trường khác, thị trường mua bán nợ gồm: doanh nghiệp có nhu cầu bán

(cung) và doanh nghiệp có nhu cầu mua (cầu). Nghĩa là phải có nhiều chủ thể mua bán

trên thị trường và cơ chế, chính sách, luật pháp tạo môi trường, hành lang cho thị

trường phát triển.

Ở Việt Nam, thị trường mua bán nợ chưa phát triển theo đúng nội hàm của nó, cái

thiếu nhất là hàng hóa nợ mà các doanh nghiệp muốn bán chưa phong phú, lành mạnh,

chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại mà trong đó tỉ lệ góp vốn

của nhà nước chiếm ưu thế, chi phối. Trong khi thị trường vẫn chưa có nhiều các doanh

nghiệp thành lập với chức năng chuyên mua bán nợ và nếu có thì số vốn bé nhỏ không

đủ mua các khoản nợ lớn. Cơ chế vận hành, hệ thống pháp luật, cơ cấu tổ chức trên thị

trường, các chính sách tạo hành lang, môi trường cho thị trường phát triển chưa đồng

bộ, chưa đầy đủ.

Tất cả vấn đề chỉ được giải quyết khi chỉ ra được các giải quyết khi chúng ta hình

thành được thị trường mua bán nợ đầy đủ với các bộ phận: hàng hóa của công ty có

nhu cầu bán và nhu cầu của công ty mua và cơ chế vận hành và luật pháp cũng như

chính quản lý hiệu quả thị trường này của Nhà nước và sự tham gia có trách nhiệm của

các bên trên thị trường.

Luận văn chỉ đóng góp một phần bé nhỏ những kiến nghị và một số giải pháp về

mặt vĩ mô và vi mô để cho thị trường phát triển một cách toàn điện hơn trong tương lai.

Dù đã cố gắng hết sức của người viết, luận văn chắc chắn vẫn không tránh khỏi

việc còn có những điểm thiếu sót, chưa hoàn thiện. Rất mong nhận được sự thông cảm

cũng như ý kiến đóng góp, sửa chữa của thầy cô và bạn bè.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1. Luật Ngân hàng nhà nước 2006

2. Luật Tổ chức tín dụng 2010

3. Luật cạnh tranh 2004

4. Luật doanh nghiệp 2005

5. Luật đầu tư 2005

6. Luật chứng khoán 2006

7. Quyết định số 401/QĐ – UB của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày

22/11/1990 về việc thành lập Ban chỉ đạo thanh toán công nợ thành phố.

8. Quyết định 1389/2001/QĐ – NHNN ngày 07/11/2001 của Ngân hàng nhà nước

ban hành, quy định về việc thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế

chấp của Ngân hàng thương mại.

9. Nghị định của Chính phủ số 104/2007/NĐ-CP ngày 14/06/2007 về kinh doanh

dịch vụ đòi nợ.

10. Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày

05/06/2003 về việc thành lập Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của

doanh nghiệp (DATC).

11. Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/06/2013 do Thống đốc NHNN ban

của các tổ chức tín dụng Việt Nam (Công ty VAMC).

hành, về việc thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản

12. Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/09/2013 quy định việc mua, bán các

khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

13. Nghị định số 17/2010/NĐ – CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về việc bán đấu

giá tài sản.

14. Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 01/06/2014 do NHNN ban hành về việc

“Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng

rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

BÁO CÁO PHÂN TÍCH

1. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 của Tổng cục thống kê

2. Báo cáo M&A Vietnam 2009 và triển vọng 2010 của Avalue Vietnam

3. Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, Báo cáo tài chính 2012; 2013

4. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Báo cáo tài chính 2012; 2013

5. Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, Báo cáo tài chính 2012; 2013

6. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, Báo cáo tài chính 2012; 2013

7. Ngân hàng TMCP Á Châu, Báo cáo tài chính 2012; 2013

8. Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam năm 2013, do Công ty CP Xếp

hạng tín nhiệm DN Việt Nam (CRV) phối hợp với Nhà xuất Bản thông tin và

truyền thông công bố ngày 30/09/2013.

SÁCH

1. TS. Nguyễn Văn Tiến, Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân

hàng, NXB Thống kê Hà Nội, 2003.

2. Trần Huy Hoàng, Giáo trình Quản Trị Ngân Hàng, NXB Thống kê, 2012.

Education, 1999.

3. Peter S.Rose, Commercail Bank Management (4th) USA, TimeMirrror Higher

BÁO VÀ TẠP CHÍ

1. PGS.TS.Đào Duy Hân, “Hiện trạng thị trường mua bán nợ VN và chính sách

phát triển”, Tạp chí Hội nhập và phát triển số 8 năm 2013.

2. TS. Phạm Hồng Thái, “Kinh nghiệm xử lý nợ xấu tại một số nước và hàm ý cho

Việt Nam”, Tạp chí tài chính năm 2012.

3. ThS. Lê Hà Trang, “Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam sau

khủng hoảng tài chính toàn cầu”, Tạp chí tài chính số 05 năm 2014.

4. Thông tin phục vụ lãnh đạo 10/2012, “Xủ lý nợ xấu: Đảm bảo anh ninh tài

chính trong hệ thống ngân hàng”

5. Phòng thị trường tài chính, “Thực trạng nợ xấu ngân hàng thương mại Việt Nam

và kiến nghị xử lý”, 2012.

6. Đào Duy Hân, “Thị trường mua bán nợ Việt Nam vấn đề nảy sinh và chính sách

phát triển”, 2012.

7. Trần Nguyễn Anh Thư, “Thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam và kiến

nghị xử lý”, 2012.

8. Trịnh Xuân Đoan, “Sử dụng nghiệp vụ phát sinh nhằm hạn chế rủi ro tín dụng ở

các NHTM”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo NH số 58, 2007.

9. Phan Minh Ngọc, “Nợ khó đòi trong Ngân hàng Trung Quốc – Một số liên hệ

với Việt Nam”, Tạp chí Công Nghệ Ngân hàng số 2, 2007.

10. Trần Thanh Long, “Hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

Trường Tài Chính Tiền Tệ số 54, 2006.

11. Trần Thanh Long, “Phát triển loại hình công ty Mua bán nợ và thuê bao tài

chính ở Việt Nam”, Tạp chí Trường Tài Chính Tiền Tệ số 49, 2006.

12. Nguyễn Trung Kiên, “Chứng khoán hóa các khoản vay”, Tạp chí Thị Trường

Tài Chính Tiền Tệ số 7, 2007.

13. Nguyễn Thị Hà, “Xử lý nợ và tài sản tồn đọng tại doanh nghiệp vẫn là bài toán

khó”, Tạp chí Ngân hàng số 8, 2003.

WEBSITE

1. www.gso.gov.vn (Tổng cục thống kê)

2. www.qlct.gov.vn (Cục quản lý cạnh tranh)

3. www.sbv.gov.vn (Ngân hàng nhà nước)

4. www.datc.com.vn (Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam)

5. www.sbvamc.vn (Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam)

6. www.thuvienphapluat.vn (Các văn bản pháp luật có liên quan)

7. www.ssc.gov.vn (Ủy ban chứng khoán Nhà nước)

8. www.mbamc.com.vn (Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản – NH Quân đội)

9. www.vietinbankamc.vn/ (Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản – Vietinbank)

10. www.vietcombank.com.vn (Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam)

11. www.sdtc.com.vn (Công ty cổ phần xử lý nợ miền Nam)

12. www.wikipedia.com

13. www.tapchitaichinh.vn

14. www.muabandoanhnghiep.com.vn (Công ty đầu tư tài chính đa ngành - IDJ)

15. www.muabancongty.com (CTCP Đầu tư tài chính Việt Nam- TigerInvest)

16. www.pwc.com (Công ty kiểm toán quốc tế PricewaterhouseCpopers)

17. www.thomsonreuters.com

18. www.vneconomy.vn

19. www.cafef.vn

20. www.timnhanhchungkhoan.vn (Báo Đầu tư chứng khoán)

21. www.thesaigontimes.vn (Thời báo kinh tế Sài Gòn)

22. www.sgtt.com.vn (Báo Sài Gòn tiếp thị)