BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG
VẬN DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI CÁC NHTM CP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ THỊ KIM XUÂN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
PHẦN MỞ ĐẦU
NỘI DUNG TRANG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT VÀ CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT ................................................... 1
1.1 Tổng quan về lãi suất, rủi ro lãi suất, quản trị rủi ro lãi suất ................. 1
1.1.1 Tổng quan về lãi suất .............................................................................. 1
1.1.1.1 Khái niệm lãi suất................................................................................ 1
1.1.1.2 Phân loại lãi suất ................................................................................. 1
1.1.1.3 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường ................................. 3
1.1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất .................................................... 5
1.1.2 Rủi ro lãi suất .......................................................................................... 6
1.1.2.1 Khái quát về rủi ro lãi suất .................................................................. 6
1.1.2.2 Nguyên nhân của rủi ro lãi suất .......................................................... 7
1.1.2.3 Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng .......................................................................................................... 8
1.1.3 Quản trị rủi ro lãi suất ............................................................................. 9
1.1.3.1 Mục tiêu của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ................................... 9
1.1.3.2 Quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất ....................................................... 9
1.1.3.3 Quản lý khe hở kỳ hạn. ..................................................................... 11
1.2 Tổng quan về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất ....... 13
1.2.1 Hợp đồng lãi suất kỳ hạn ...................................................................... 13
1.2.1.1 Khái niệm và đặc điểm ...................................................................... 13
1.2.1.2 Vận dụng FRA trong phòng ngừa rủi ro lãi suất ............................... 13
1.2.2 Hợp đồng lãi suất tương lai ................................................................... 14
1.2.2.1 Khái niệm và đặc điểm ...................................................................... 14
1.2.2.2 Vận dụng hợp đồng lãi suất tương lai trong phòng ngừa rủi ro lãi suất ........................................................................................................... 15
1.2.3 Quyền chọn ........................................................................................... 16
1.2.3.1 Khái niệm và đặc điểm ...................................................................... 16
1.2.3.2 Vận dụng công cụ quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro lãi suất ...... 17
1.2.4 Hoán đổi ................................................................................................ 18
1.2.4.1 Khái niệm ........................................................................................... 18
1.2.4.2 Vận dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất trong phòng ngừa rủi ro lãi suất ........................................................................................................... 19
1.3 Vận dụng các công cụ phái sinh vào quản trị phòng ngừa rủi ro lãi suất một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ............................ 21
1.3.1 suất Vận dụng các công cụ phái sinh vào quản trị phòng ngừa rủi ro lãi ............................................................................................................... 21
1.3.1.1 Tại Mỹ ................................................................................................ 21
1.3.1.2 Tại Anh ............................................................................................... 22
1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ...................................................... 23
1.4 Tính hai mặt của các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất ........................................................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ................................................................................... 25
2.1 Tình hình kinh tế xã hội từ năm 1986 đến nay ....................................... 25
2.2 Tổng quan về chính sách lãi suất của NHNN VN trong thời gian qua . 27
2.2.1 Giai đoạn trước 1996: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương. ................................................................................................. 27
2.2.1.1 Giai đoạn trước tháng 6/1992: lãi suất thực âm .................................. 27
2.2.1.2 Giai đoạn từ tháng 6/1992-1995: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương. ................................................................................. 29
2.2.2 Giai đoạn từ 1996 đến tháng 7/2000: áp dụng mức trần lãi suất cho vay ............................................................................................................... 30
2.2.3 Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002: cơ chế lãi suất cơ bản cộng biên độ dao động trong từng thời kỳ. ......................................................... 32
2.2.4 Giai đoạn từ tháng 6/2002 đến tháng 5/2008: cơ chế lãi suất thỏa thuận ............................................................................................................... 33
2.2.5 Giai đoạn từ tháng 6/2008 đến nay: cơ chế lãi suất cơ bản bên cạnh lãi suất thoả thuận. ................................................................................................... 35
2.3 Thực trạng vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua. ..................................... 40
2.3.1 Thực trạng phát triển hệ thống NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua ............................................................................................................... 40
2.3.2 Thực trạng vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam. .................................................................... 41
2.3.2.1 Tại NHTMCP Á Châu – ACB ............................................................ 41
2.3.2.2Tại NHTMCP Sài Gòn Thương Tín - Sacombank .............................. 43
2.3.2.3Tại NHTMCP Xuất Nhập Khẩu – Eximbank ...................................... 44
2.3.2.4Tại NHTMCP Kỹ Thương – Techcombank ........................................ 45
2.3.2.5Tại NHTM Ngoại Thương – Vietcombank ......................................... 46
2.4 Những hạn chế và nguyên nhân tồn tại trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua .............................................. 47
2.4.1 Hạn chế ................................................................................................. 47
2.4.2 Nguyên nhân các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam chưa phát triển trong thời gian qua ............................ 48
2.4.2.1 Góc độ vĩ mô ....................................................................................... 48
2.4.2.2 Góc độ vi mô ....................................................................................... 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 52
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM ............................................................................................................... 53
3.1 Bối cảnh vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam ........................................................................ 53
3.1.1 Định hướng hội nhập trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ .......................... 53
Phân tích SWOT của các NHTMCP Việt Nam hiện nay trong việc
3.1.2 vận dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất. ............................... 56
3.2 Các giải pháp vận dụng công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất ........................................................................................................... 64
3.2.1 Các điều kiện cần thiết để phát triển các công cụ tài chính phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại Việt Nam. ......................................................... 64
3.2.1.1 Điều kiện về thị trường ....................................................................... 64
3.2.1.2 Điều kiện môi trường pháp lý ............................................................. 65
3.2.1.3 Điều kiện về con người ....................................................................... 66
3.2.1.4 Điều kiện về công nghệ ....................................................................... 66
3.2.2 Về phía cơ quan quản lý ....................................................................... 67
3.2.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý ........................................................... 67
3.2.2.2 Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính, tiền tệ theo chiều sâu .. 71
3.2.2.3 Hiện đại hóa hạ tầng thanh toán liên ngân hàng ................................. 71
3.2.3 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần ......................................... 72
3.2.3.1 Nâng cao nhận thức đội ngũ quản lý ngân hàng về vận dụng sản phẩm phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. ............................................ 72
3.2.3.2 Tâm lý trách nhiệm ............................................................................. 72
3.2.3.3 Đào tạo nguồn nhân lực ngân hàng ..................................................... 73
3.2.3.4 Phổ biến rộng rãi các kiến thức về sản phẩm phái sinh lãi suất .......... 74
3.2.3.5 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng ..................................................... 74
3.2.3.6 Xây dựng chương trình quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng. ...... 74
3.2.3.7 Tăng cường cơ chế kiểm soát nội bộ .................................................. 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 80
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế “VẬN DỤNG CÔNG CỤ PHÁI
SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI CÁC NHTMCP VIỆT
NAM” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu trong luận văn là số
liệu trung thực.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2010
NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG
Học viên cao học khóa 16
Chuyên ngành: Kinh tế - Tài chính – Ngân hàng
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FRA CAP FLOORS COLLAR NIM TSC TSN R NHTMCP TMCP CNXH XHCN WB IMF ADB WTO EU AFTA ASEM APEC CEPT TSC TSN VCB ACB ALCO Sacombank Eximbank Techcombank Vietcombank VPĐD CN, PGD
NHQD NHNNg NHNN NIM ISDA TCTD BIS : Hợp đồng lãi suất kỳ hạn : Quyền chọn lãi suất trần : Quyền chọn lãi suất sàn : Quyền chọn lãi suất trần-sàn : Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên : Tài sản có : Tài sản nợ : Khe hở nhạy cảm lãi suất : Ngân hàng thương mại cổ phần : Thương mại cổ phần : Chủ nghĩa xã hội : Xã hội chủ nghĩa : Ngân hàng thế giới : Quỹ tiền tệ quốc tế : Ngân hàng phát triển châu Á : Tổ chức thương mại thế giới : Liên minh châu Âu : Khu vực thương mại tự do Asean : Diễn đàn Á-Âu : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương : Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung : Tài sản có : Tài sản nợ : Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam : Ngân hàng TMCP Á Châu : Hội đồng quản lý tài sản nợ-có : Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín : Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu : Ngân hàng TMCP Kỹ Thương : Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam : Văn phòng đại diện : Chi nhánh, phòng giao dịch : Ngân hàng quốc doanh : Ngân hàng nước ngoài : Ngân hàng Nhà nước : Khả năng sinh lời : Hiệp hội quốc tế về hoán đổi và phái sinh : Tổ chức tín dụng : Ngân hàng thanh toán quốc tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1. Luồng tiền trong giao dịch hoán đổi lãi suất ............................................ 20
Bảng 2.1. Lãi suất giai đoạn trước 1992 (% tháng, cuối mỗi giai đoạn) ........................ 28
Bảng 2.2. Lãi suất thực giai đoạn từ 1992 đến 1995 ...................................................... 30
Bảng 2.3. Trần lãi suất cho vay từ 1998 đến năm 2000 (%năm) ................................... 31
Bảng 2.4. Biến động lãi suất cơ bản trong năm 2008-2009 (%) .................................... 37
Bảng 2.5. Số lượng các tổ chức tài chính tại Việt Nam ................................................. 41
Bảng 3.1 Mô hình SWOT của các NHTMCP Việt Nam .......................................... 56
DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ
Hình 1.1. Giá trị phái sinh tại ngân hàng Anh ................................................................ 22 Hình 2.1.Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á, Trung Quốc từ 1995-2007 .............................................................................................. 26 Hình 2.2. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2008-2009 .................. 37 Hình 2.3. Độ sâu tài chính (M2/GDP) tại một số quốc gia trong khu vực (%) ............. 48
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo xu hướng hội nhập và phát triển của nền kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt
Nam cũng đang dần phát triển. Sự gia tăng của cải xã hội, mức sống và dân trí của
người dân cũng được nâng dần. Theo đó, thị trường tài chính Việt Nam cũng có
những cải tiến và phát triển theo chiều sâu. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước đang được định hình. Sự can thiệp một cách trực tiếp, hành chính của
Nhà nước đang dần hạn chế. Tự do hoá và hội nhập là một xu thế tất yếu trong sự
phát triển kinh tế Việt Nam. Do đó, công cụ lãi suất trong nền kinh tế sẽ có những
biến động, phản ánh cung và cầu tiền tệ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
Trước sự biến động không thể dự đoán được của lãi suất, các ngân hàng thương
mại cấp thiết phải xây dựng cho mình một chương trình phòng ngừa các rủi ro về
lãi suất nhằm tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận cho ngân hàng.
Việc sử dụng các công cụ phái sinh là một trong những phương cách phòng
ngừa những ảnh hưởng xấu mà lãi suất có thể gây ra. Trong đề tài, tác giả tập trung
nghiên cứu thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân tồn tại của việc vận dụng các công
cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam từ đó đề
ra các giải pháp đồng bộ và cụ thể.
2. Mục đích, ý nghĩa và đối tượng nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đi tìm câu trả lời cho việc vận dụng
các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam.
Luận văn tập trung vào 2 câu hỏi lớn:
- Thực trạng vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các
NHTMCP Việt Nam như thế nào? Những tồn tại và nguyên nhân ra sao?
- Giải pháp nào để các NHTMCP tại Việt Nam có thể sử dụng hiệu quả các
công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất nhằm hạn chế những ảnh hưởng
xấu mà biến động lãi suất gây ra.
Ý nghĩa: Kết quả nghiên cứu nhằm giúp các NHTM tại Việt Nam nhận thức
tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro lãi suất và vận dụng các công cụ phái sinh
trong phòng ngừa những rủi ro mà biến động lãi suất gây ra.
Đối tượng nghiên cứu: là rủi ro lãi suất có thể gây ra đối với các NHTMCP
Việt Nam.
3. Giới hạn đề tài nghiên cứu
Trong quá trình hoạt động của ngân hàng, rủi ro lãi suất là một trong những
rủi ro không thể tránh khỏi nhất là trong xu thế tự do hoá lãi suất. Lãi suất luôn gắn
liền với hoạt động ngân hàng. Đề tài tập trung nghiên cứu công tác quản trị rủi ro
lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam đến năm 2009 mà cụ thể là Ngân hàng TMCP
Á Châu, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương
Việt Nam, Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam, Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết về lãi suất, rủi ro lãi suất cũng như tổng quan về các
công cụ phái sinh, mục tiêu nghiên cứu đã được xác định từ trước, tác giả chủ
yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích nhằm làm rõ các phương thức
quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam; nguyên nhân còn tồn tại của
việc vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
5. Kết cấu luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về lãi suất, rủi ro lãi suất , quản trị rủi ro lãi suất
và các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Chương 2: Thực trạng việc vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi
ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi
suất tại các NHTMCP Việt Nam.
1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT VÀ CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT
1.1 Tổng quan về lãi suất, rủi ro lãi suất, quản trị rủi ro lãi suất
1.1.1 Tổng quan về lãi suất
1.1.1.1 Khái niệm lãi suất
Theo tiến trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa ngày càng rộng khắp, phân công lao động ngày càng sâu sắc, một bộ phận dân cư thừa vốn nhàn rỗi và ngược lại. Chính lúc đó phát sinh nhu cầu vay và cho vay lẫn nhau. Khái niệm lãi suất gắn liền với hoạt động này. Lãi suất bắt nguồn từ khoản lợi tức mà người cho vay được hưởng, nó được hiểu là cái giá mà người đi vay phải trả để sử dụng
khoản vay trong một thời gian nhất định. Ở giác độ người cho vay, lợi tức cũng được hiểu là khoản tăng thêm so với vốn gốc cho vay ban đầu, đó là giá trị tăng lên của tiền tệ theo thời gian.
Lãi suất ở đây được hiểu là tỷ suất lợi tức. Tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lãi
vay (lợi tức) và tổng số tiền đã bỏ ra cho vay trong một khoản thời gian nhất định, thường tính theo năm được gọi là lãi suất. Lãi suất được tính theo công thức như sau: Lãi suất trong kỳ = (Tổng số lợi tức trong kỳ/Tổng số tiền cho vay trong
kỳ)*100%.
Khi việc vay mượn vốn trên thị trường tự do thì lãi suất do cung và cầu về vốn trên thị trường quyết định. Lãi suất cũng được xem là giá cả trên thị trường
tài chính và là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương.
1.1.1.2 Phân loại lãi suất
Để việc tiếp cận lãi suất một cách dễ dàng, chúng ta căn cứ vào các giác
độ khác nhau để phân chia lãi suất ra nhiều loại: -
Căn cứ vào tiêu thức nghiệp vụ tín dụng: + Lãi suất tiền gửi: là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng hay còn gọi là lãi suất huy động vốn. Lãi suất này có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào thời hạn và quy mô khoản tiền gửi.
+ Lãi suất tiền vay: (Lãi suất cho vay), là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng. Các mức lãi suất này tùy thuộc vào loại hình vay, mức độ quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như sự thỏa thuận giữa hai bên. Sự thay
2
đổi lãi suất cho vay có tác dụng đến quy mô cho vay và khả năng cung ứng tiền
vào lưu thông.
+ Lãi suất chiết khấu: lãi suất này phát sinh khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới dạng chiết khấu thương phiếu hay các loại giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Tiền lãi này được ngân hàng khấu trừ
ngay khi cho khách hàng vay. Như vậy, lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không phải trả sau như lãi suất thông thường.
+ Lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng
thương mại. Đó là lãi suất tồn tại khi cho vay dưới hình thức tái chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán. Lãi suất này cũng được tính bằng tỉ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng
thương mại.
+ Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng cho nhau khi các ngân hàng vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất này chịu sự chi phối bởi lãi suất mà ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay.
- Căn cứ vào tiêu thức quản lý vĩ mô:
+ Lãi suất sàn và lãi suất trần: là mức lãi suất thấp nhất và cao nhất mà ngân hàng trung ương ấn định cho các ngân hàng thương mại trong việc huy động
vốn và cho vay.
Từ mức lãi suất sàn và lãi suất trần hình thành khung lãi suất, các ngân
hàng thương mại xây dựng lãi suất kinh doanh trong phạm vi khung này.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất do ngân hàng trung ương công bố làm cơ sở
xác định mức lãi suất kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau ở các quốc gia và ở từng thời kỳ. -
Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất: + Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất được tính theo giá trị danh nghĩa không
kể đến tác động của lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được ghi nhận trên hợp đồng tín dụng. Đó lãi suất thị trường ở các thời kỳ.
+ Lãi suất thực tế: Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những
thay đổi về lạm phát. Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực như sau:
1 PGS.TS Trần Ngọc Thơ, PGS.TS Nguyễn Ngọc Định, Tài Chính Quốc Tế, Nhà Xuất Bản Thống Kê năm 2005 [169]
Theo hiệu ứng Fisher: Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát.1
3
-
Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất: + Lãi suất cố định: là loại lãi suất được quy định cố định trong thời hạn vay. Ưu điểm của lãi suất này là lãi cố định và dự tính trước, tuy nhiên nhược điểm là ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định mặc dầu lãi suất thị trường đã thay đổi. Trong trường hợp lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm thì người đi
vay chịu thiệt và người cho vay có lợi và ngược lại.
+ Lãi suất thả nổi: là lãi suất được quy định có thể thay đổi cùng lãi suất thị trường trong thời hạn tín dụng. Lãi suất thả nổi chứa đựng cả rủi ro và lợi
nhuận. Khi lãi suất tăng lên người đi vay bị thiệt hại so với lãi suất cố định và ngược lại. -
Căn cứ vào loại tiền cho vay: + Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ
+ Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ.
-
Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay nước ngoài: + Lãi suất trong nước: còn gọi là lãi suất quốc gia, là lãi suất áp dụng
trong các hợp đồng tín dụng trong nước.
+ Lãi suất quốc tế: là lãi suất áp dụng đối với các hợp đồng tín dụng quốc
tế. Có các loại lãi suất quốc tế như: LIBOR, NIBOR, TIBOR, SIBOR…
Nếu các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất quốc gia thì lãi
suất quốc gia trở thành lãi suất quốc tế.
Ngoài các tiêu thức trên, người ta còn căn cứ vào thời hạn tín dụng, mức độ
ưu đãi đối với người vay… mà có các phân loại khác nhau.
1.1.1.3Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường
a/ Lãi suất tín dụng là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Lãi suất là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ của quốc gia, điều tiết kinh tế-xã hội. Vai trò của lãi suất được thể hiện trên nhiều mặt:
- Ngân hàng trung ương có thể thông qua công cụ lãi suất để điều tiết khối lượng cung tiền trong nền kinh tế, từ đó tác động đến lượng hàng hóa sản xuất ra, điều tiết kinh tế, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và tạo công ăn việc làm trong xã hội.
- Công cụ lãi suất giúp tác động đến tổng cung và tổng cầu hàng hóa trong nền kinh tế bằng việc ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, sản xuất của doanh nghiệp, tiêu dùng và tiết kiệm trong dân cư. Nếu lãi suất tăng cao sẽ hạn chế hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, tiêu dùng trong dân cư và tăng tiết kiệm còn ngược lại lãi suất tín dụng giảm sẽ giúp mở rộng hoạt động đầu tư cũng như tín
4
dụng tiêu dùng tăng trưởng. Chính động thái này ảnh hưởng đến tổng cung cũng
như tổng cầu hàng hóa trong nền kinh tế. - Lãi suất còn là công cụ điều hòa cung cầu ngoại tệ, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Trong điều kiện lãi suất trong nước tăng so với lãi suất nước ngoài sẽ theo nguyên tắc “nước chảy về chỗ trũng” dẫn đến nguồn ngoại tệ
trong nước tăng lên, cung ngoại tệ tăng và ngược lại. - Trong một chừng mực nhất định nào đó người ta có thể dùng công cụ lãi suất để điều chỉnh cơ cấu ngành, khu vực của nền kinh tế tạo sự phát triển cân
bằng, hài hòa giữa các vùng, miền. Bằng việc thực thi lãi suất tín dụng ưu đãi ở khu vực nông thôn, miền sâu, miền xa giúp tăng trưởng kinh tế ở các khu vực này.
Việc tăng hay giảm lãi suất đặc biệt là lãi suất cho vay khiến cho hoạt
b/ Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế - động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng hoặc thu hẹp. - Lãi suất tín dụng là căn cứ để các chủ thể kinh tế lựa chọn cơ hội đầu tư. Doanh nghiệp chỉ đầu tư khi tỷ suất sinh lợi cao hơn lãi suất tín dụng. Bên cạnh
đó, lãi suất tác động trực tiếp đến tiêu dùng, tiết kiệm trong dân cư. - Ở giác độ vi mô, lãi suất tín dụng là công cụ để thực hiện hoạt động của các tổ chức tín dụng như: tập trung nguồn vốn, cho vay… đảm bảo nguồn lực tài
chính để thực hiện hạch toán kinh doanh.
c/ Lãi suất tín dụng là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng
vốn có hiệu quả
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là công cụ quan
trọng để phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Nếu nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ưu tiên đầu tư phát triển vùng miền thì doanh nghiệp, cá nhân vùng, miền này sẽ được vay vốn với mức lãi suất ưu đãi. Ngược lại để kìm hãm tốc độ phát triển quá nóng của một số
ngành thì áp dụng mức lãi suất cho vay cao.
Nguyên tắc hoạt động của tín dụng là người vay phải trả đầy đủ vốn gốc và lãi đúng thời hạn. Nếu người đi vay không trả nợ đúng hạn thì chịu phạt theo
lãi suất nợ quá hạn. Điều này kích thích người đi vay sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, trả nợ đúng hạn.
d/ Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích cạnh tranh giữa các tổ chức
tín dụng
Trong cơ chế tự do hóa lãi suất thì lãi suất là công cụ quan trọng để kích thích cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Để tăng khối lượng nguồn vốn huy
5
động, mở rộng cho vay, các tổ chức tín dụng có thể nâng lãi suất huy động và hạ
thấp lãi suất cho vay. Chỉ có tổ chức tín dụng nào có mức lãi suất linh hoạt, đủ sức hấp dẫn mới thu hút được nhiều nguồn vốn và mở rộng cho vay.
e/ Lãi suất là một trong những công cụ đánh giá sức khoẻ của nền kinh
tế
Sức khỏe của nền kinh tế được thể hiện thông qua công cụ lãi suất. Mức lãi suất cao tương đối ở các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Tại các nước đang phát triển, nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển là rất lớn. Thêm
vào đó, tỷ suất sinh lợi tương đối cao nên nhìn chung mức lãi suất cao tương đối so với các nước phát triển. Khi lãi suất trong nền kinh tế tăng hoặc giảm một cách đột biến đều ảnh hưởng đến tình hình tăng trưởng kinh tế. Lãi suất tăng làm
hạn chế kênh huy động vốn cho hoạt động đầu tư, phát triển của doanh nghiệp, dân cư. Lãi suất giảm với biên độ rộng cũng phản ánh sự bảo hoà, đang dần suy thoái trong tiến trình phát triển và động thái giảm lãi suất là nhằm kích thích,
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.1.4Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
Như đã nói ở trên, lãi suất chính là “giá cả” của hoạt động vay và cho vay vốn. Do đó, nó chịu ảnh hưởng tác động từ phía cung và cầu về vốn.
Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, hộ gia đình nhằm hình thành vốn đầu
Nhu cầu vốn của chính phủ nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Nhu cầu vốn của các chủ thể nước ngoài như doanh nghiệp, chính phủ
a/ Mức cung, cầu tiền tệ: Cầu về vốn là nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Cầu về vốn lại chịu tác động các nhân tố sau: - tư cũng như trang trãi các chi phí liên quan đến sản xuất và tiêu dùng. - - nước ngoài hoặc các trung gian tài chính nước ngoài.
Tổng hợp các nhu cầu trên chính là nhu cầu về vốn của xã hội và yếu tố
này biến động ngược chiều với lãi suất.
Trong khi đó nguồn cung về vốn là nguồn cung ứng vốn cho nền kinh tế lại
phụ thuộc vào các yếu tố: - Tiền gửi tiết kiệm của hộ gia đình. Trong điều kiện bình thường, lượng tiền gửi tiết kiệm phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ tăng nhu cầu tiết kiệm và ngược lại. Tuy nhiên mức độ nhạy cảm này còn tùy thuộc vào
tình trạng của nền kinh tế như thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của dân cư.
6
Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức như các khoản tiền gửi
- không kỳ hạn. Nguồn vốn này cũng đồng biến với lãi suất. Khi lãi suất tăng khi thì nguồn vốn này tăng và ngược lại. - Các khoản thu chưa sử dụng đến của ngân sách nhà nước. Bộ phận này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng cung vốn vay trong nền kinh tế và hầu như
Nguồn vốn của các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Nguồn vốn này cũng biến
không biến động theo lãi suất. - động cùng chiều với lãi suất.
Như vậy trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, cung về vốn tăng khi
lãi suất tăng và ngược lại.
b/ Lạm phát dự tính Lãi suất rõ ràng chịu tác động của lạm phát. Khi dự tính tỷ lệ lạm phát gia
tăng chắn chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng trong lãi suất danh nghĩa. Trong thời điểm năm 2008, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam có lúc tăng trên 20%năm đã khiến cho sự gia tăng trong lãi suất cơ bản cũng như lãi suất trên thị trường tại thời điểm đó.
c/ Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế Hoạt động của doanh nghiệp là nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó, tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng hợp lý. Thông thường mức lãi suất tín dụng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Lãi
suất tín dụng cũng là cơ sở để xác định tỉ suất hoàn vốn cho các dự án đầu tư.
d/ Các chính sách tài chính của Nhà nước, chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế. Việc thay đổi chính
sách kinh tế của nhà nước như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách thuế…cũng tác động ngược lại đối với lãi suất. Nếu nhằm thực thi chính sách tài khóa mở rộng cho đầu tư phát triển buộc nhà nước phải có sự điều chỉnh giảm trong lãi suất. Chính sách tiền tệ và tài khóa thực hiện cùng một
lúc cho mục tiêu điều tiết vĩ mô của nền kinh tế.
1.1.2 Rủi ro lãi suất
1.1.2.1 Khái quát về rủi ro lãi suất
2 PGS.TS Nguyễn Quang Thu, Quản Trị Rủi Ro và Bảo Hiểm trong doanh nghiệp, Nhà Xuất Bản Thống Kê, 2008 [9]
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro. “Rủi ro là khả năng xảy ra một kết quả có lợi hoặc không có lợi từ mối nguy hiểm hiện hữu”2 hoặc là rủi ro còn có thể được hiểu “là những điều không chắc chắn của những
7
kết quả trong tương lai hay là những khả năng của kết quả bất lợi” 3. Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro mà ngân hàng gặp phải.
Rủi ro lãi suất là những tổn thất phát sinh khi có sự thay đổi lãi suất giữa tài sản sinh lãi và nguồn vốn huy động gây thiệt hại đến ngân hàng. Rủi ro lãi suất càng lớn khi ngân hàng huy động vốn bằng trái phiếu hoặc đầu tư tài chính khá lớn theo lãi suất thị trường.4
Khi lãi suất thay đổi, ngân hàng ít nhất phải đương đầu với hai loại rủi ro lãi
suất: rủi ro về giá và rủi ro tái đầu tư.
Rủi ro về giá phát sinh khi lãi suất thị trường tăng sẽ làm giảm giá trị các khoản đầu tư dài hạn lãi suất cố định của ngân hàng. Nếu ngân hàng muốn bán những công cụ tài chính này trong giai đoạn lãi suất tăng, ngân hàng phải chấp nhận tổn thất.
Rủi ro tái đầu tư xuất hiện khi lãi suất thị trường hạ khiến ngân hàng phải chấp nhận đầu tư nguồn vốn của mình vào những tài sản có mức sinh lợi thấp hơn, hạ thấp thu nhập kỳ vọng trong tương lai của ngân hàng.
Cả hai trường hợp rủi ro về giá và rủi ro tái đầu tư đều tồn tại sự không phù
hợp về kỳ hạn của tài sản và nguồn vốn trong điều kiện các hợp đồng huy động và tài trợ với lãi suất cố định. Tình trạng này kết hợp cùng sự thay đổi lãi suất
ngoài dự kiến của thị trường làm nảy sinh tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2.2Nguyên nhân của rủi ro lãi suất
- Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản.
Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi
suất.
Khe hở lãi suất = tài sản nhạy cảm lãi suất – nguồn vốn nhạy cảm lãi suất.
Các tài sản và nguồn vốn nhạy cảm thường là các loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi. Chẳng hạn khoản tiền gửi ngắn hạn, các khoản cho vay và đi vay trên thị trường liên ngân hàng, chứng
khoán ngắn hạn của chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định.
Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm (kỳ hạn huy động dài hơn sử dụng) và ngược lại có khe hở âm nếu tài sản nhạy
3 PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt, Đầu tư tài chính, NXB Thống Kê năm 2006 [6]. 4 PGS.TS Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp Vụ Ngân hàng Thương Mại, Nhà Xuất Bản Thống Kê, 2008 [1048-1049]
cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm.
8
Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng. -
Lãi suất thị trường thường xuyên thay đổi. Ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ thay đổi của lãi suất.
Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương:
+ Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng + Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm:
-
+ Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm + Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng. Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng. Một nguồn huy động và cho vay có cùng kỳ hạn với mức lãi suất cố định
xét về mặt lý thuyết là không có rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều doanh nghiệp vay lớn có quyền trả nợ trước hạn và vay lại theo lãi suất mới trong trường hợp lãi suất cho vay trên thị trường giảm. Trong điều kiện cạnh tranh về tín dụng, ngân hàng buộc phải chấp nhận yêu cầu của khách hàng. Trong khi đó
chi phí trả lãi cho việc huy động vẫn ở mức cao. Từ đó, thu nhập ngân hàng giảm
sút.
1.1.2.3Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
- Ảnh hưởng đến tài chính: Rủi ro lãi suất có thể làm tăng chi phí nguồn vốn (tài sản có), giảm thu nhập từ tài sản nợ. Từ đó giá trị vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bị hạ thấp, ảnh hưởng đến các giá trị trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng. - Ảnh hưởng đến uy tín: Trong trường hợp rủi ro lãi suất gây ảnh hưởng mạnh đến tình hình tài chính của ngân hàng sẽ mang lại một “hình ảnh xấu” về tình hình hoạt động, chính điều này đã giảm uy tín của ngân hàng. Ngân hàng mà
uy tín bị giảm sút sẽ ảnh hưởng rất xấu đến tình hình kinh doanh của ngân hàng. - Ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, xã hội: Việc rủi ro lãi suất gây ra những tổn thất đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến sự kiệt quệ tài chính của ngân hàng.
“Sức khỏe” của một ngân hàng không đảm bảo sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến các ngân hàng khác trong hệ thống từ đó tác động đến tình hình chung của kinh tế và xã hội. Thị trường tài chính bị “lung lay” tất yếu ảnh hưởng đến các thị trường khác trong nền kinh tế.
9
1.1.3 Quản trị rủi ro lãi suất
1.1.3.1 Mục tiêu của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất
Quản trị rủi ro lãi suất nghĩa là các ngân hàng thương mại sử dụng năng
lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho sự biến động của lãi suất thị
trường hơn là chờ đợi sự biến động rồi mới tìm cách để đối phó lại. Quản trị rủi
ro lãi suất là sự xem xét, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro lãi suất và
phối hợp các phương cách quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và ổn định thu nhập
dự kiến.
Mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản trị rủi ro lãi suất là bảo vệ thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định bất chấp sự thay đổi của lãi suất. Để đạt
được mục tiêu này, ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố định. Đây là hệ số giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Hệ số này cho thấy nếu chi phí huy động vốn tăng nhanh
hơn lãi thu từ cho vay và đầu tư hoặc lãi thu từ cho vay và đầu tư giảm nhanh hơn chi phí huy động vốn sẽ làm cho NIM bị thu hẹp lại, rủi ro lãi suất sẽ lớn.
NIM = (Thu nhập lãi – Chi phí lãi)/Tổng tài sản có (TSC) sinh lời *100
Trong đó:
Thu nhập lãi: lãi cho vay, đầu tư, lãi tiền gửi tại ngân hàng khác, lãi đầu tư chứng khoán,…
Chi phí lãi: chi phí huy động vốn, đi vay,.. Tổng TSC sinh lời = Tổng TSC – Tiền mặt + Tài sản cố định
Thông qua việc duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên chúng ta thấy rằng, việc
phối hợp giữa quản trị TSN và TSC phải luôn luôn được thực hiện song song, hỗ trợ lẫn nhau mới có thể bảo vệ thu nhập dự kiến của Ngân hàng khỏi rủi ro lãi suất. Để có thể thấy rõ hơn quan hệ giữa quản trị TSN và quản trị TSC, chúng
ta xem xét cách phòng chống rủi ro lãi suất thông qua việc xác định - kiểm soát khe hở nhạy cảm lãi suất và việc quản lý khe hở kỳ hạn của các ngân hàng.
1.1.3.2 Quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất
Để thực hiện việc quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất, ngân hàng cần tiến hành
phân tích kỳ hạn, định giá lại các cơ hội gắn với những tài sản sinh lợi của ngân hàng, những khoản tiền gửi cũng như với những khoản vốn vay trên thị trường. Tại bất cứ thời điểm nào, ngân hàng có thể tự bảo vệ trước những thay đổi của lãi suất bằng cách bảo đảm cân bằng sau:
10
Giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất = Giá trị nợ nhạy cảm lãi suất
Trong đó: Tài sản nhạy cảm lãi suất là những TSC thể được định giá lại khi lãi suất thay đổi: các khoản cho vay sắp đến hạn, các khoản cho vay và chứng khoán có lãi suất thả nổi, …
Nợ nhạy cảm lãi suất là những khoản vốn mà lãi suất được điều chỉnh theo
điều kiện thị trường: tiết kiệm ngắn hạn, tiền gửi mang lãi suất thả nổi,…
Khi giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất và giá trị nợ nhạy cảm lãi suất không
cân bằng, khe hở nhạy cảm lãi suất được hình thành:
Khe hở nhạy cảm lãi suất (R) = Giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất - Giá trị nợ nhạy cảm lãi suất
Trong mỗi giai đoạn kế hoạch (ngày, tuần, tháng,…), nếu giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất lớn hơn giá trị nợ nhạy cảm lãi suất, ta có khe hở nhạy cảm lãi
suất dương hay khe hở nhạy cảm tài sản. Và ngược lại, nếu giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn giá trị nợ nhạy cảm lãi suất, ta có khe hở nhạy cảm lãi suất âm hay khe hở nhạy cảm nợ.
Trường hợp R = 0: giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất bằng giá trị nợ nhạy
cảm lãi suất. Khi lãi suất tăng hay giảm cũng không làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
Trường hợp R > 0: giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất lớn hơn giá trị nợ nhạy cảm lãi suất. Khi lãi suất thị trường tăng, lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng. Và
ngược lại, khi lãi suất thị trường giảm, thu nhập từ lãi giảm nhanh hơn chi phí lãi phải trả, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Trường hợp R < 0: Giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất nhỏ hơn giá trị nợ nhạy cảm lãi suất. Khi lãi suất thị trường giảm, lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng. Và
ngược lại, khi lãi suất thị trường tăng, thu lãi tăng chậm hơn chi phí lãi, rủi ro lãi suất xuất hiện làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Như vậy:
Khi R = 0: Rủi ro lãi suất không xuất hiện Khi R > 0: Rủi ro lãi suất xuất hiện khi lãi suất thị trường giảm vì NIM giảm. Lúc đó, ngân hàng có thể không làm gì vì nghĩ lãi suất sẽ tăng lại hoặc ổn định; hoặc kéo dài kỳ hạn của TSC hoặc thu hẹp kỳ hạn của danh mục TSN; hoặc tăng TSN nhạy cảm lãi suất hoặc giảm TSC nhạy cảm lãi suất
Khi R < 0: Rủi ro lãi suất xuất hiện khi lãi suất thị trường tăng vì NIM
giảm. Ngân hàng có thể không làm gì vì nghĩ lãi suất sẽ giảm hoặc ổn định; hoặc thu hẹp kỳ hạn của TSC hoặc kéo dài kỳ hạn của danh mục TSN; hoặc giảm
11
TSN nhạy cảm lãi suất hoặc tăng TSC nhạy cảm lãi suất.
Mức thay đổi lợi nhuận = R * Mức thay đổi lãi suất. Nếu ngân hàng tin vào khả năng dự báo lãi suất của mình, họ thường xuyên thay đổi khe hở nhạy cảm lãi suất, đặt ngân hàng vào trạng thái nhạy cảm TSC hoặc nhạy cảm TSN. Đây được gọi là phương pháp quản lý khe hở năng động:
Kết quả (nếu dự đoán đúng) Phản ứng của các nhà quản lý Những dự đoán của ngân hàng về sự thay Giá trị khe hở nhạy cảm lãi
đổi của lãi suất. suất tối ưu
Tăng tài sản nhạy Thu nhập lãi từ
TSC sẽ tăng nhiều hơn chi phí trả lãi Khe hở dương Lãi suất thị trường tăng
Khe hở âm Lãi suất thị trường giảm Chi phí trả lãi cho các khoản nợ sẽ giảm nhiều hơn thu lãi. cảm lãi suất Giảm nợ nhạy cảm lãi suất Giảm tài sản nhạy c ảm lãi suất Tăng nợ nhạy cảm lãi suất
Tuy nhiên, chiến lược quản lý năng động buộc các ngân hàng phải đối
mặt với nhiều rủi ro hơn vì khả năng dự đoán đúng chiều hướng thay đổi của lãi suất rất thấp nên phần lớn các ngân hàng chỉ sử dụng để phòng ngừa rủi ro chứ
không phải để tăng thu nhập.
Các ngân hàng lớn ngày nay thường sử dụng máy vi tính để xác định giá trị TSC nhạy cảm lãi suất và giá trị TSN nhạy cảm lãi suất trong những khoảng thời gian khác nhau và quản lý mức độ nhạy cảm lãi suất dựa trên quan điểm quản lý
rủi ro và dựa trên sự nhạy cảm về rủi ro của những người quản lý ngân hàng. Tuy nhiên, kỹ thuật quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất còn có nhiều hạn chế. Sự lựa chọn thời gian để phân tích hoàn toàn tùy theo từng ngân hàng. Đồng thời, lãi suất trong hoạt động ngân hàng và lãi suất thị trường thay đổi với những tốc độ khác
nhau. Và cuối cùng, việc quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất không nhằm mục đích bảo vệ giá trị TSC và đặc biệt là không bảo vệ được giá trị ròng của ngân hàng. Để làm được việc đó, chúng ta phải đi vào phân tích khe hở kỳ hạn.
1.1.3.3 Quản lý khe hở kỳ hạn.
Được sử dụng để khắc phục nhược điểm của việc dựa vào khe hở nhạy cảm lãi suất để đánh giá rủi ro lãi suất là chỉ chú trọng vào số liệu trên sổ sách kế toán của vốn mà không nghiên cứu đầy đủ tác động của rủi ro lãi suất đến giá
12
trị thị trường của vốn. Hơn nữa, quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất không đưa ra
một con số cụ thể về mức độ rủi ro lãi suất tổng thể của ngân hàng.
Để đi vào phân tích khe hở kỳ hạn, trước tiên chúng ta làm quen với khái
niệm kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả. Kỳ hạn hoàn vốn của tài sản là thời gian trung bình cần thiết để thu hồi
khoản vốn đã bỏ ra để đầu tư, là thời gian trung bình dựa trên dòng tiền dự tính
sẽ nhận được trong tương lai.
Kỳ hạn hoàn trả của TSN là thời gian trung bình cần thiết để hoàn trả khoản vốn đã huy động, là thời gian trung bình của dòng tiền dự tính ra khỏi
ngân hàng.
Để phòng chống rủi ro lãi suất, các ngân hàng thường cố gắng duy trì cân
đối giữa tài sản và nguồn vốn vay sao cho khe hở kỳ hạn tiến gần tới 0, lúc đó kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản sẽ gần bằng kỳ hạn hoàn trả trung bình của
nguồn vốn.
Bên cạnh đó, trong một ngân hàng, giá trị TSC luôn luôn phải lớn hơn giá trị TSN để đảm bảo khả năng thanh toán, nên nếu ngân hàng muốn có khe hở kỳ hạn bằng 0 cần phải đảm bảo:
= * Tổng giá trị TSN ---------------- Tổng giá trị Kỳ hạn hoàn vốn trung bình theo giá trị Kỳ hạn hoàn trả trung bình theo giá trị của tài sản nợ TSC tài sản
Như vậy, để có thể loại bỏ rủi ro lãi suất, giá trị vốn vay phải thay đổi nhiều
hơn giá trị TSC.
Theo công thức, nếu kỳ hạn hoàn vốn trung bình của TSC không tương đương với kỳ hạn hoàn trả trung bình của TSN thì ngân hàng sẽ phải chịu rủi ro lãi suất, cụ thể:
Khi khe hở kỳ hạn dương: Kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản lớn hơn Kỳ hạn hoàn trả trung bình nợ. Nếu lãi suất tăng sẽ làm giảm giá trị ròng của ngân
hàng bởi vì giá trị TSC giảm nhiều hơn giá trị TSN. Nếu lãi suất giảm sẽ làm tăng giá trị ròng của ngân hàng.
Khi khe hở kỳ hạn âm: Kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản nhỏ hơn kỳ hạn hoàn trả trung bình nợ. Nếu lãi suất tăng sẽ làm tăng giá trị ròng của ngân
hàng. Nếu lãi suất giảm sẽ làm giảm giá trị ròng của ngân hàng.
13
Mặc dù các ngân hàng có thể sử dụng công cụ khe hở kỳ hạn một cách dễ dàng nhưng nó vẫn tồn tại một số hạn chế như là khó khăn trong việc tìm kiếm các TSC, TSN có kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả phù hợp với yêu cầu của ngân hàng. Đối với một số loại tài khoản không thể xác định được chính xác mô hình luồng tiền vào ra làm cho việc tính kỳ hạn hoàn trả, kỳ hạn hoàn vốn rất khó khăn. Chính những hạn chế của các công cụ trên tất yếu dẫn đến sự ra đời và cần thiết vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất.
1.2 Tổng quan về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất
1.2.1 Hợp đồng lãi suất kỳ hạn
1.2.1.1 Khái niệm và đặc điểm
Trong lịch sử phát triển các công cụ phái sinh, hợp đồng lãi suất kỳ hạn (FRA) là hình thức đơn giản và lâu đời nhất của phòng ngừa rủi ro lãi suất. FRA
được giao dịch trên thị trường OTC, giữa các đối tác với nhau, không có thị
trường niêm yết chính thức.
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn là sự thỏa thuận giữa hai bên về việc thanh toán
tại một thời điểm trong tương lai dựa trên mức lãi suất được ấn định trước5
FRA gần giống với quyền chọn lãi suất nhưng quyền chọn cho quyền nhưng không bắt buộc phải thực hiện giao dịch, trong khi người sở hữu FRA bắt
buộc phải thực hiện.
Cũng giống như hợp đồng kỳ hạn, FRA cũng có các đặc điểm:
Rủi ro không có khả năng chi trả (rủi ro tín dụng) của hợp đồng có hai chiều. Lãi suất biến động theo chiều hướng không thuận lợi cho việc thực hiện
hợp đồng nên người mua hoặc người bán không thực hiện hợp đồng trong khi người kia không muốn khởi kiện vì sợ tốn kém. Thêm vào đó, tình hình tài chính của người mua xấu đi nên không có khả năng thực hiện hợp đồng. Giá trị của
FRA chỉ được giao nhận vào ngày đáo hạn của hợp đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Từ đặc điểm này làm cho tính thanh khoản của FRA thấp.
1.2.1.2 Vận dụng FRA trong phòng ngừa rủi ro lãi suất
Giả sử vào tháng 12/2008, Cty AAA dự tính tháng 4/2009 đầu tư dài hạn
5 PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại, Nhà Xuất Bản Tài Chính, 2008 [307]
100.000 USD vào trái phiếu ngân hàng. Do dự kiến lãi suất sẽ giảm, khách hàng
14
AAA đã thỏa thuận và được ngân hàng đồng ý bán trái phiếu với tổng mệnh giá
100.000 USD vào thời điểm tháng 4/2009, lãi suất 10%năm, thanh toán sau 2
năm.
Nếu vào tháng 4/2009, lãi suất thị trường thấp hơn 10%năm, Cty AAA vẫn
đảm bảo cho mình một mức lãi suất 10%năm cho khoản đầu tư 100.000USD.
Ngược lại, bằng hợp đồng bán kỳ hạn 2 năm với lãi suất thỏa thuận trước, ngân hàng có thể yên tâm về giá trái phiếu mà họ đang nắm giữ tại thời điểm 4
tháng sau.
Sở dĩ hai bên khách hàng và ngân hàng có thể tham gia mua bán trong FRA là vì: Ngân hàng thì cho rằng lãi suất có thể tăng trong vòng 4 tháng tới. Do đó, giá trái phiếu sẽ giảm, ngân hàng sẽ có lãi nếu mua trái phiếu trên thị trường giá thấp hơn 100.000USD và bán lại với giá 100.000USD. Trong khi đó Cty AAA thì cho rằng lãi suất sẽ giảm nên quyết định mua từ bây giờ để tránh sự tăng
giá của trái phiếu.
Điều này cho thấy FRA đã giúp người mua và người bán chủ động phòng
ngừa rủi ro lãi suất.
1.2.2 Hợp đồng lãi suất tương lai
1.2.2.1 Khái niệm và đặc điểm
Về bản chất, tính thanh khoản của hợp đồng lãi suất tương lai giống với FRA. Tuy nhiên các hợp đồng lãi suất tương lai được giao dịch trên thị trường có tổ chức gọi là sàn giao dịch giao sau (tương lai) và được thực hiện thông qua các
trung tâm thanh toán bù trừ.
Hợp đồng tương lai là hợp đồng mua bán một lượng các tài sản tại một thời điểm xác định trong tương lai, với một mức giá đã thỏa thuận ngày hôm nay.
Hợp đồng tương lai về lãi suất là hợp đồng tương lai về tài sản mà giá của nó phụ
thuộc duy nhất vào lãi suất.
Giống như FRA, hợp đồng lãi suất tương lai cũng có rủi ro hai chiều.
Nhưng khác biệt với FRA, thị trường giao sau lãi suất sử dụng hai công cụ để loại
bỏ rủi ro tín dụng.
Thứ nhất, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng thông qua việc thanh toán đơn nhất vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị của hợp đồng tương lai được
thực hiện vào cuối mỗi ngày chúng thực hiện giao dịch. Hợp đồng tương lai có
15
tính chất thanh toán tiền mặt, hoặc điều chỉnh theo thị trường. Quá trình thanh
toán hàng ngày giúp bảo đảm tính vẹn toàn của thị trường, bởi khoản thua lỗ trãi ra thành từng khoản nhỏ tại mọi lúc chứ không xảy ra một lúc vào thời điểm cuối
hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng tương lai phải thực hiện một khoản ký quỹ nhất định tại trung tâm thanh toán bù trừ nhằm đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng. Nếu hợp đồng tương lai tăng giá trị trong ngày giao dịch, mức tăng này sẽ được cộng vào tài khoản ký quỹ vào cuối ngày. Nếu hợp đồng giảm giá trị, khoản lỗ sẽ được
trừ ra. Nếu số dư tài khoản ký quỹ giảm xuống dưới mức tối thiếu đã được thỏa thuận, bắt buộc phải nộp một khoản ký quỹ bổ sung hoặc hợp đồng tương lai sẽ
không được thực hiện.
Nguyên lý cơ bản khi sử dụng thị trường tương lai khi phòng ngừa rủi ro là: Nếu giá trị thị trường của tài sản giảm, mức thu lợi từ hợp đồng tương lai sẽ bù đắp lỗ trong kinh doanh thực tế của nhà đầu tư. Nếu giá trị thị trường của tài sản tăng, mức lỗ của hợp đồng tương lai sẽ được bù đắp bởi phần lợi nhuận trong
kinh doanh thực tế của nhà đầu tư.
1.2.2.2 Vận dụng hợp đồng lãi suất tương lai trong phòng ngừa rủi ro lãi suất
Ngày 2/9/2008, ngân hàng đã đầu tư 100.000USD vào trái phiếu chính phủ. Vì lo ngại lãi suất sẽ tăng trong 3 tháng tới, ngân hàng quyết định hợp đồng
tương lai để phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng cách bán hợp đồng tương lai tháng 01/2009 về trái phiếu dài hạn, giá hợp đồng tương lai hiện tại là 95.000USD. Giả sử trong giai đọan từ 2/9/2008 đến 2/12/2008 lãi suất tăng mạnh nên giá trị trái
phiếu giảm từ 100.000USD còn 98.500USD.
Vào ngày 2/12/2008, giá hợp đồng tương lai của trái phiếu dài hạn là 93.000USD, ngân hàng quyết định đóng trạng thái hợp đồng tương lai vào ngày 2/12/2008. Ngân hàng sẽ có lãi trên hợp đồng tương lai là: 95.000 – 93.000 =
2.000.
Khoản lỗ trong hoạt động đầu tư: 100.000-98.500=1.500 USD được bù
đắp một phần lãi trên hợp đồng tương lai giúp ngân hàng cuối cùng lãi 500 USD.
Bên cạnh đó, việc sử dụng hợp đồng tương lai còn để bảo hộ lãi suất thả
nổi.
Giả sử ngày 29/4/2008, ngân hàng vừa vay 15 triệu USD trên thị trường
tiền tệ, thời hạn 3 tháng, lãi suất tính lãi hàng tháng là Libor 1 tháng + 1%. Lãi
16
suất Libor tại thời điểm ký kết hợp đồng là 5%năm. Tháng đầu tiên, ngân hàng trả
lãi với lãi suất 6%năm, tương đương khỏan tiền lãi: 15.000.000*6%/12=75.000
USD.
Tiền lãi ngân hàng phải trả trong 2 tháng tiếp theo tùy thuộc vào Libor của
thị trường, nếu lãi suất tăng thì ngân hàng lỗ và ngược lại. Do vậy, nhằm hạn chế rủi ro về lãi suất, ngân hàng đã chọn vị thế ngắn hạn trên hợp đồng tương lai. Ngân hàng bán 5 hợp đồng tương lai Euro (1triệu Euro/hợp đồng) tháng 6 để bảo hộ rủi ro lãi suất tháng thứ hai và bán 5 hợp đồng tương lai tháng 9 để bảo hộ rủi
ro lãi suất tháng thứ ba. Giá niêm yết của hợp đồng tương lai tháng 6 là
986.700USD, tháng 9 là 985.600USD.
Giả sử ngày 29/5/2008, lãi suất Libor 1 tháng là 5.9%năm, giá hợp đồng
tương lai tháng 6 là 983.500USD, ngân hàng đóng hợp đồng tháng 6 vào ngày 29/5/2008, ngân hàng tiến hành thu lãi: 5x(986.700-983.500)=16.000USD. Khoản lợi này bù đắp cho phần lãi mà ngân hàng phải trả thêm trong tháng thứ hai do lãi suất Libor tăng: 15.000.000x(5.9%-5%)/12=11.250USD. Sau khi bù lỗ
ngân hàng vẫn còn lãi.
Vào ngày 29/6/2008, lãi suất libor 1 tháng tăng lên 6.2%năm, giá trị hợp đồng tương lai tháng 9 là 982.900USD, ngân hàng tiến hành đóng trạng thái hợp
đồng tương lai tháng 9 vào ngày 29/6/2008, ngân hàng cũng chốt lãi trên hợp đồng này là: 5x(985.600-982.900)=13.500USD. Khoản lợi này cũng được bù đắp cho phần lãi mà ngân hàng phải trả thêm trong tháng thứ ba do lãi suất tăng:
15.000.000x(6.2%-5%)/12=15.000USD. Từ đó, giảm lỗ cho ngân hàng.
Trong cả hai trường hợp trên, ngân hàng đã thành công trong việc sử dụng
hợp đồng tương lai trong việc phòng ngừa rủi ro lãi suất.
1.2.3 Quyền chọn
1.2.3.1 Khái niệm và đặc điểm
Quyền chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ có quyền (nhưng không phải nghĩa vụ) mua hoặc bán một lượng xác định các tài sản trước hay tại
thời điểm xác định trong tương lai, với mức giá được xác định ngay tại thời điểm
thỏa thuận hợp đồng.
Để hạn chế rủi ro khi lãi suất tăng, các nhà đầu tư thường mua quyền chọn
bán. Vì khi lãi suất tăng, giá trị thị trường của các chứng khoán, các khoản tín dụng hay các hợp đồng tương lai sẽ giảm. Việc thực hiện quyền chọn bán sẽ
17
mang lại cho người mua quyền một khoản thu nhập, vì họ có thể mua chứng
khoán, tìm kiếm các khoản tín dụng hay mua các hợp đồng tương lai với mức giá thị trường thấp hơn và bán chúng cho người bán quyền với giá cao hơn. Lợi nhuận ròng thu được bằng khoản thu nhập của người mua quyền trừ đi quyền phí và các khoản chi phí khác có liên quan. Ngược lại, để hạn chế rủi ro lãi suất
giảm, các nhà đầu tư sẽ thực hiện mua quyền chọn mua.
Các loại quyền chọn về lãi suất phổ biến được các ngân hàng và khách hàng sử dụng rộng rãi là quyền chọn lãi suất trần (CAP), quyền chọn lãi suất sàn
(FLOORS), quyền chọn lãi suất trần-sàn (COLLAR).
Quyền chọn lãi suất trần được thiết kế để cung cấp sự bảo hiểm chống lại tình trạng lãi suất tăng vượt quá một mức nhất định. Người vay (người mua
quyền) được bảo đảm rằng tổ chức cho vay sẽ không tăng lãi suất của khoản tín dụng vượt quá mức trần, đổi lại người mua quyền phải trả cho người bán quyền
một khoản tiền đảm bảo (được gọi là quyền phí).
Ngược lại, quyền chọn lãi suất sàn đặt ra giới hạn dưới lãi suất sẽ được chi
trả. Quyền chọn lãi suất sàn là danh mục đầu tư của quyền chọn bán về lãi suất.
Quyền chọn lãi suất trần-sàn đặt ra giới hạn trên và dưới của lãi suất. Ngân hàng thường sử dụng hợp đồng trần-sàn lãi suất để bảo vệ thu nhập của mình khi
lãi suất dao động thất thường hay khi ngân hàng không thể dự tính được chính
xác lãi suất trên thị trường.
1.2.3.2 Vận dụng công cụ quyền chọn trong phòng ngừa rủi ro lãi suất
Giả dụ, một công ty có khoản vay 5 năm theo lãi suất thả nổi, lãi suất đi
vay là Libor 6 tháng, lãi suất hiện hành là 6%năm, lo ngại lãi suất Libor sẽ tăng lên. Công ty muốn mua bảo hiểm chống lại tình trạng lãi suất tăng lên vượt quá 7% năm. Công ty đã mua của một đơn vị tài chính mức trần lãi suất 7% trong 5 năm. Đơn vị tài chính đảm bảo rằng lãi suất thả nổi mà công ty phải trả không
vượt quá 7%năm, mức vượt hơn 7% sẽ được đơn vị tài chính thanh toán. Mức
7% ở đây được hiểu là mức trần lãi suất.
Trong giao dịch trên, nếu lãi suất thị trường không tăng quá 7% thì công ty tài chính sẽ có lãi, số lãi này chính bằng phí bán quyền chọn. Nhưng ngược lại, cty tài chính sẽ lỗ. Còn đối với nhà đầu tư, nếu lãi suất thị trường biến động dưới 7%năm thì nhà đầu tư bị lỗ, mức lỗ tối đa bằng phí mua quyền chọn. Nếu lãi suất
18
tăng lên 7%năm thì nhà đầu tư sẽ có lãi, lãi suất càng tăng cao thì mức thu lợi của
nhà đầu tư càng lớn.
Một minh họa khác về vận dụng quyền chọn lãi suất trần-sàn.
Một ngân hàng vừa nhận được một khoản tín dụng 100.000USD trên thị
trường tiền tệ có thể ký hợp đồng quyền chọn lãi suất trần – sàn nằm trong khoảng 5-7%năm với một công ty tài chính. Nếu lãi suất thị trường vượt quá 7%năm thì công ty tài chính sẽ thanh toán cho khoản chi phí lãi tăng thêm. Nếu
lãi suất giảm xuống dưới 5% năm thì ngân hàng thanh toán theo mức lãi suất tối thiểu 5%năm. Trong hợp đồng quyền chọn lãi suất trần-sàn, người mua quyền
chọn sẽ phải trả trần phí, đồng thời nhận sàn phí.
Trong các giao dịch quyền chọn, khi người mua quyền chọn có lãi thì người bán quyền chọn sẽ bị lỗ và ngược lại. Lỗ trong giao dịch quyền chọn đối với người mua chỉ giới hạn ở mức phí mua quyền chọn, trong khi đối với người
bán quyền chọn lỗ thì không có giới hạn.
1.2.4 Hoán đổi
1.2.4.1Khái niệm
Hoán đổi lãi suất là thỏa thuận giữa các bên trong đó mỗi bên cam kết
thanh toán cho bên kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất cố định hay thả nổi trên
cùng một khoản nợ gốc trong cùng một khoảng thời gian.
Theo khoản 2, điều 3 của quyết định số 62/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng quy định: “Giao dịch hoán
đổi lãi suất là việc các bên giao kết hợp đồng với nhau, theo đó mỗi bên cam kết thanh toán cho bên kia khoản tiền lãi tính theo một loại lãi suất hoán đổi đã cam kết trên cùng một khoản vốn gốc nhất định trong cùng một khoản thời gian nhất
định”.
Điều 4 của quyết định số 62/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước cũng quy định các trường hợp hoán đổi lãi suất được phép thực
hiện tại Việt Nam như:
- Hóan đổi lãi suất một đồng tiền (đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ).
- Hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền hay hoán đổi lãi suất tiền tệ chéo, trong đó việc trao đổi vốn gốc đầu kỳ do các bên thỏa thuận thực hiện hoặc
19
không thực hiện, nhưng bắt buộc phải có trao đổi vốn gốc vào cuối kỳ theo tỷ giá
được thỏa thuận từ ngày hợp đồng có hiệu lực.
- Hoán đổi lãi suất bắt đầu trong tương lai, trong đó các bên có thể thỏa thuận về thời điểm trong tương lai mà kể từ thời điểm đó giao dịch bắt đầu có hiệu lực
thanh toán.
- Hoán đổi lãi suất cộng dồn, trong đó số lãi phải trả và được nhận được tính theo các mức lãi suất đã thỏa thuận có kèm theo các điều kiện dựa trên biến động
tỷ giá và lãi suất của thị trường.
Hợp đồng hoán đổi lãi suất thường được các công ty sử dụng vào các mục đích chuyển đổi hình thức thanh toán lãi của tài sản, từ tài sản có lãi suất cố định sang lãi suất thả nổi hoặc ngược lại. Để hạn chế rủi ro về lãi suất các ngân hàng thương mại thường trực tiếp tham gia các hợp đồng hoán đổi lãi suất. Ngoài ra, ngân hàng còn làm trung gian cho các hợp đồng để phục vụ khách hàng và thu
phí dịch vụ.
1.2.4.2 Vận dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất trong phòng ngừa rủi ro lãi suất
Một ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định nhưng lại cho vay với lãi suất thả nổi, ngược lại doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thả nổi. Nhằm hạn chế rủi ro lãi suất, ngân hàng và doanh nghiệp ký kết một hợp đồng hoán đổi lãi suất. Theo đó, ngân hàng đổi lãi suất cố định 5%năm của một số vốn huy động thành
lãi suất thả nổi, doanh nghiệp đổi lãi suất thả nổi bằng libor+1% của khoản vay 100 triệu USD trong 3 năm thành lãi suất cố định. Hợp đồng hoán đổi lãi suất cũng quy định rõ mức lãi suất cố định và thả nổi áp dụng trong thanh toán là
4.5%năm và libor. Giả định các khoản thanh toán thực hiện 6 tháng/lần. Luồng
tiền thực tế trong hóan đổi lãi suất được thể hiện trong bảng sau:
20
Bảng 1.1: Luồng tiền trong giao dịch hoán đổi lãi suất
Số lãi DN trả Số lãi DN nhận
Kỳ thanh Libor (%năm) Lãi ròng DN hưởng (Ngân hàng nhận) (Ngân hàng trả) toán
1 4,2 2,25 2,1 -0,15
2 4,3 2,25 2,15 -0,1
3 4,46 2,25 2,23 -0,02
4 4,8 2,25 2,4 +0,15
5 4,9 2,25 2,45 +0,2
6 5,2 2,25 2,6 +0,35
Tổng 13,5 13,93 +0,43
Từ bảng trên cho thấy, trong ba kỳ thanh toán đầu tiên, lãi suất Libor giảm, thu nhập ngân hàng giảm, bù lại ngân hàng thu được 0,27 triệu USD từ hợp đồng
hoán đổi lãi suất. Ngược lại trong ba kỳ thanh toán cuối cùng, doanh nghiệp cũng nhận được khoản lãi là 0,7 triệu USD từ hợp đồng hoán đổi lãi suất, khoản này cũng bù đắp cho sự tăng lên của chi phí vay vốn do lãi suất thị trường tăng. Sau khi thực hiện hợp đồng hoán đổi lãi suất, mỗi bên tham gia đều có ba dòng tiền
như sau:
Phía ngân hàng:
Trả 5% cho nguồn vốn huy động
Nhận 4,5% từ hợp đồng hoán đổi lãi suất do doanh nghiệp trả
Trả libor cho doanh nghiệp theo hợp đồng hoán đổi lãi suất.
Như vậy, mức lãi suất ròng mà ngân hàng phải trả cho nguồn vốn huy
động là libor + 0,5%.
Phía doanh nghiệp:
Trả libor +1% cho khoản vay 100 triệu USD
Nhận Libor từ ngân hàng theo hợp đồng hoán đổi lãi suất.
21
Trả 4,5% cho ngân hàng theo hợp đồng hoán đổi lãi suất.
Như vậy, mức lãi suất ròng mà doanh nghiệp phải trả là 5,5%, với mức lãi
suất này doanh nghiệp sẽ không bị rủi ro khi lãi suất thị trường tăng lên.
Tóm lại, thông qua giao dịch hoán đổi lãi suất ngân hàng đã chuyển đổi
được các khoản huy động vốn với lãi suất cố định sang tài sản Nợ có lãi suất thả nổi. Trong khi đó, doanh nghiệp cũng chuyển được khoản đi vay với lãi suất thả
nổi sang tài sản Nợ có lãi suất cố định.
1.3 Vận dụng các công cụ phái sinh vào quản trị phòng ngừa rủi ro lãi suất một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Vận dụng các công cụ phái sinh vào quản trị phòng ngừa rủi ro lãi
1.3.1 suất
1.3.1.1 Tại Mỹ
Từ 1995-2003, các ngân hàng thương mại Mỹ trên thị trường NYSE và Amex đang giảm rủi ro lãi suất bằng các công cụ phái sinh. Tại Nasdaq, thị
trường vẫn còn hoài nghi việc sử dụng các công cụ này.
Quản trị rủi ro lãi suất là không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động của các ngân hàng nhằm gia tăng lợi nhuận của ngân hàng. Quản trị rủi ro lải suất lúc đầu thực hiện từ những năm đầu thập niên 1980. Nguyên nhân đầu tiên và quan trọng
nhất xuất phát từ những biến động trong giá cả xăng dầu trong thập niên 1970 đã làm cho lãi suất ở mức 9% trong T07/1978 tăng đến 20% trong T04/1980. T08/1980 giảm xuống 11% và tăng lại 21,5% vào cuối 1980. Từ những biến động về lãi suất đã đặt các ngân hàng trước việc tìm ra phương pháp quản trị rủi ro lãi
suất. Từ thập niên 1980, các ngân hàng bắt đầu tính toán khe hở kỳ hạn. Khe hở kỳ hạn càng tiến gần đến 0 thì phòng vệ được rủi ro của nó. Việc tính toán này được trang bị bởi hệ thống máy tính. Cũng trong thập niên 1980, các công cụ phái sinh cũng được lưu tâm, xem xét cho việc quản trị rủi ro lãi suất trong các
ngân hàng. Hợp đồng hoán đổi lãi suất, hợp đồng tương lai, kỳ hạn, quyền chọn lãi suất trở thành những công cụ thiết yếu ở hầu hết các tổ chức tài chính. Các tổ chức tài chính và giá trị của sản phẩm phái sinh của thị trường gia tăng trong thời gian này. Banc One Corporation là một trong những nhà tiên phong vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất khiến tài sản của nó tăng từ 6 nghìn
tỉ USD năm 1983 lên 74 nghìn tỉ USD năm 1993.
22
Việc sử dụng các công cụ phái sinh tỏ ra khá phức tạp, các hợp đồng phái
sinh mang lại kết quả to lớn làm cho công cụ khe hở kỳ hạn thu hẹp.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ của Mỹ trong năm 2008- 2009 cũng mang nặng dấu ấn của các công cụ tài chính phái sinh. Xét về bản chất
phòng vệ rủi ro thì công cụ này có giá trị hữu ích nhưng xét về mục đích đầu cơ thì nó lại có tác hại khôn lường. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ bắt nguồn từ việc các NHTM cho vay dưới chuẩn vào lĩnh vực bất động sản. Sau đó, các ngân hàng này để phân tán rủi ro đã tiến hành phát hành các chứng khoán phái sinh dựa
trên các hợp đồng vay dưới chuẩn rồi bán lại cho các nhà đầu tư trên thị trường. Các chứng khoán phái sinh này tạo ra một giá trị ảo vượt xa rất nhiều giá trị thực của nó. Khi người vay mất khả năng thanh toán, khủng hoảng bất động sản nổ ra. Bong bóng chứng khoán phái sinh xì hơi, thị trường tài chính đi vào ngõ cụt.
Cuộc khủng hoảng này cũng rút ra kết luận: Công cụ phái sinh là một “điều tốt
đẹp” nhưng quá nhiều điều tốt đẹp ắt sẽ là tai hại.
1.3.1.2 Tại Anh
Việc sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất cũng được
thực thi tại Anh và giá trị thị trường của công cụ này gia tăng theo thời gian. Điều
này được minh chứng qua đồ thị như sau:
Hình 1.1: Giá trị phái sinh lãi suất tại các ngân hàng Anh
ĐVT: Triệu GBP
Nguồn: www.bankofengland.co.uk
Nhìn vào đồ thị trên, chúng ta thấy rằng việc sử dụng các công cụ phái
sinh trong quản trị rủi ro lãi suất ở Vương quốc Anh cũng có một ý nghĩa nhất
định cũng như hiệu quả từ công cụ này.
23
Chính vì thế mà giá trị thị trường của các công cụ phái sinh đối với rủi ro
lãi suất tăng dần từ quý 3/1998 đến quý 1/2009. Trong thời gian này cũng có biểu hiện sụt giảm nhưng không đáng kể. Đặc biệt trong năm 2008 và đầu năm 2009, những biến động về lãi suất khiến giá trị thị trường của các công cụ phái sinh
trong quản trị rủi ro lãi suất tăng “đột biến”.
Trong các công cụ tài chính phái sinh lãi suất, hoán đổi lãi suất là công cụ được sử dụng với tỉ trọng nhiều nhất. Cũng giống như ở Mỹ, việc lạm dụng các công cụ tài chính trong phòng ngừa rủi ro nói chung và lãi suất nói riêng gây
những tác động không nhỏ. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Mỹ trong năm 2008-2009 cũng khiến cho các NHTM Anh “chao đảo” do sử dụng quá mức các
công cụ tài chính phái sinh.
1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Các công cụ phái sinh ra đời trên thế giới từ những năm thập niên 70 và phát triển mạnh trong những năm 90. Do những nhược điểm của quản lý khe hở
nhạy cảm lãi suất và khe hở kỳ hạn nên cần sự kết hợp vận dụng các công cụ phái sinh phần nào hạn chế những rủi ro lãi suất mà ngân hàng thường xuyên đối
mặt.
Với xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng theo lộ trình WTO buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam cần thiết phải vận dụng các biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất mà vận dụng công cụ phái sinh là một trong những biện pháp đó. Có như thế, ngân hàng Việt Nam mới tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa thu nhập. Quản trị rủi ro tốt chính là lợi thế cạnh tranh và là một công cụ tạo ra giá trị, góp phần tạo ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, kinh nghiệm quản trị từ các nước trên thế giới đặc biệt là Mỹ, Anh đặt ra cho Việt Nam chúng ta một bài học không nhỏ về vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. Công cụ phái sinh là tốt nếu được sử dụng với mục đích là phòng ngừa rủi ro. Trong chừng mực nào đó, không nên lạm dụng quá nhiều vào mục đích đầu cơ. Chính điều này sẽ gây ra những hậu quả không thể lường trước được.
1.4
Tính hai mặt của các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất
- Mặt tích cực:
Việc vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất có một ý nghĩa to lớn. Theo thống kê của BIS, đến tháng 12/2008 giá trị ước tính chưa thanh toán là khoảng 684.000 tỉ USD trong đó 67% là hợp đồng lãi suất, 9% là hợp đồng ngoại hối, 2% là hợp đồng hàng hoá, 1% là hợp đồng chứng
24
khoán vốn, 21% là các loại khác. Như chúng ta thấy hợp đồng lãi suất được vận dụng chiếm tỉ trọng cao nhất trong các công cụ tài chính phái sinh bởi do những điều tích cực mà nó mang lại. Chính các công cụ tài chính hiện đại này giúp cho nhà đầu tư giảm thiểu được rủi ro, tăng thu nhập cũng như gia tăng tính thanh khoản của các tài sản cơ sở. Với bản chất phòng vệ rủi ro, công cụ này mang lại sự an tâm cho nhà đầu tư trước những biến động lãi suất của thị trường. Như đã nghiên cứu ở trên, các nước trên thế giới (Mỹ và Anh) nhờ vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất mà có thể giảm thiểu rủi ro và gia tăng thu nhập dự tính. Thế nên, các công cụ phái sinh là một trong những công cụ hữu ích cho việc phòng ngừa rủi ro biến động lãi suất.
- Mặt tiêu cực:
Công cụ phái sinh bao giờ cũng tồn tại mặt trái của nó bên cạnh những tác động tích cực. Công cụ này tiềm ẩn những rủi ro như là việc thua lỗ lớn từ đầu cơ biến động lãi suất thị trường, rủi ro thanh khoản do đối tác không thực hiện hợp đồng (đặc biệt là trong hợp đồng hoán đổi lãi suất), rủi ro đối với những nhà đầu tư nhỏ thiếu kinh nghiệm.
Rõ ràng từ bài học khủng hoảng tài chính-tiền tệ tại Mỹ nói riêng và trên toàn thế giới nói chung, các công cụ phái sinh nói chung đã tạo ra một giá trị ảo quá lớn so với giá trị thực của các tài sản cơ sở của nó. Khi khủng hoảng nổ ra, giá trị này không thể bù đắp được những tổn thất mà nền kinh tế phải gánh chịu. Đó là tác động tiêu cực xuất phát từ mục đích đầu cơ hoặc là kinh doanh hưởng chênh lệnh giá của nhà đầu tư.
Việc đầu cơ quá mức vào công cụ phái sinh cũng tạo ra đòn bẩy nợ trong nền kinh tế. Một tỉ lệ nợ cao là rủi ro trong việc thanh khoản các nghĩa vụ nợ. Khi nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống thì chính các công cụ tài chính hiện đại này là tác nhân đưa nền kinh tế đứng bên bờ vực suy thoái.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu khoa học trong và ngoài nước, tác giả tổng hợp và khái quát hoá những lý luận cơ bản về: những vấn đề chung về lãi suất, rủi ro và rủi ro lãi suất, tổng quan các công cụ phái
sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất, tình hình vận dụng các công cụ phái sinh
trong quản trị rủi ro lãi suất của Mỹ, Anh.
Những lý luận chung trên đây là cơ sở tiền đề cho việc xem xét, phân tích
thực trạng cơ chế lãi suất cũng như tình hình vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP. Điều này tiếp tục được đề cập
trong chương 2 của luận văn.
25
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ
PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Tình hình kinh tế xã hội từ năm 1986 đến nay
Giai đoạn từ sau năm 1986 đánh dấu bước ngoặt thay đổi trong tư duy phát triển kinh tế của Việt Nam. Tại đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, từ tư duy kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp chuyển sang quá độ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo kinh tế thị trường nhưng kinh tế nhà
nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Đây là bước chuyển tiếp, quá độ trong suốt thời kỳ phát triển kinh tế Việt Nam về sau. Trong giai đoạn này, sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, mở rộng giao thương, hội nhập quốc tế cũng được thông qua.
Có thể nói giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay là một bước tiến vượt bậc trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhất là trong thời gian đầu. Cơ sở pháp lý cho nền kinh tế thị trường dần dần được hình thành. Sự ra đời các văn bản pháp Luật như Luật đầu tư nước ngoài (1987), Luật doanh nghiệp tư
nhân và Luật công ty (1991), sửa đổi hiến pháp Việt Nam (1992), Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật phá sản…Cơ chế thị trường cũng dần hình thành tạo tiền đề cho quá trình quá độ của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Đó là sự ra đời và phát triển của thị trường lao động, thị trường tài chính-tiền tệ, thị
trường bất động sản…Giá cả hàng hoá, dịch vụ do cung và cầu trên thị trường quyết định, không còn mang tính chất hành chính, mệnh lệnh như thời bao cấp. Mở rộng, gia tăng sức sản xuất tăng nguồn cung ứng đáp ứng nhu cầu ngày càng
lớn và đa dạng của thị trường. Phát triển giáo dục, dân trí, gia tăng chất lượng
cuộc sống cho người dân.
Song song đó, đường lối kinh tế đối ngoại dần thay đổi theo hướng mở, phát triển mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương dựa trên nền tảng hợp
tác bình đẳng và cùng có lợi.
Tóm lại, với sự thay đổi trong giai đoạn từ năm 1986 và không ngừng cải tiến, hoàn thiện liên tục cho mỗi giai đoạn đã thật sự mở ra một trang mới cho
nền kinh tế Việt Nam. Sự đột phá này có thể cụ thể hoá qua những thành tựu đạt
được trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
26
Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á, Trung Quốc từ 1995 đến 2007.
ĐVT: %
Nguồn: Tổng cục thống kê.
So với các quốc gia trong khu vực Châu Á, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam tương đối cao và ổn định. Mặc dầu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế 1997-1998, các nước trong khu vực Đông Nam Á rơi vào trạng thái suy thoái kinh tế, tốc độ tăng trưởng âm nhưng kinh tế Việt Nam chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng khoảng. Điều này có thể lí giải một phần do “độ mở” kinh tế Việt Nam còn hạn chế và phần khác là do những thành tựu đạt được trong giai đoạn trước đó đã tạo nền tảng cho sự bền vững của nền kinh tế.
Sự phát triển vững chắc của nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước là nền tảng để phát triển đa dạng, đầy đủ các loại thị trường trên con đường hội nhập, phát triển.
Như vậy, những thành tựu đạt được sau hơn 20 năm đổi mới kinh tế Việt Nam là vô cùng to lớn. Tuy nhiên, so với các quốc gia trong khu vực Việt Nam còn tiếp tục phấn đấu không ngừng. Thành tựu này là minh chứng cho đường lối phát triển đúng hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống, dân trí nâng cao, hội nhập kinh tế toàn cầu mở rộng là nền móng cho sự phát triển xa hơn, sâu hơn các loại thị trường vận hành theo cơ chế thị trường.
27
2.2 Tổng quan về chính sách lãi suất của NHNN VN trong thời gian qua
2.2.1 Giai đoạn trước 1996: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế
lãi suất thực dương.
2.2.1.1 Giai đoạn trước tháng 6/1992: lãi suất thực âm
Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới, đường lối kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung, bao cấp, thực thi theo chỉ tiêu và mệnh lệnh hành chính. Chính sách
tiền tệ, tài chính của Việt Nam cũng bị chi phối bởi tư duy kinh tế trong thời gian này. Việc ấn định mức lãi suất cố định chỉ mang tính “tượng trưng”, “hành
chính” và không vận động theo bất kỳ quy Luật nào của kinh tế thị trường.
Trong thời gian này, lãi suất được điều chỉnh cụ thể bởi các văn pháp luật. Nghị định 165/HĐBT được ban hành ngày 23/09/1982 nhằm đưa ra biểu lãi suất huy động và cho vay của Ngân hàng Nhà nước và các hợp tác xã tín dụng. Theo Nghị định này mức lãi suất tiền gửi thay đổi tùy theo đối tượng, theo kỳ hạn.
Mức cụ thể từ 1,8%-3%năm đối với các tổ chức kinh tế quốc doanh, từ 3%-5% đối với các tổ chức kinh tế tập thể, từ 6%-9% đối với tiền gửi của tư nhân. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cũng thay đổi theo kỳ hạn 1 năm, 3 năm, 5 năm. Lãi suất cho vay được phân chia thành lãi suất cho vay bổ sung vốn lưu động và lãi suất
cho vay vốn cố định. Điều đáng nói ở đây ngoài việc quy định một mức lãi suất cụ thể cho từng loại hình, đối tượng, lãi suất cho vay đối với các tổ chức kinh tế quốc doanh thấp hơn hẳn so với các đối tượng khác (tổ chức kinh tế tập thể và tư
nhân) từ 0,6%-7%năm; lãi suất cho vay vốn cố định thấp hơn lãi suất cho vay vốn lưu động từ 1,4%-3%năm. Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Lãi suất cho vay khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp nhằm đáp ứng nhu cầu cho đại bộ phận kinh tế quốc doanh. Điều này không phù hợp với cơ chế thị
trường và mang nặng tính bao cấp, tập trung và hành chính.
Trước tình hình bất ổn của kinh tế vĩ mô và gia tăng tỉ lệ lạm phát, ngày 04/10/1986 Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 119/HĐBT nêu rõ việc gia
tăng tỉ lệ lãi suất (cả huy động và cho vay) nhằm ứng phó với lạm phát. Thế nhưng, biện pháp hành chính này cũng không mang lại kết quả khả quan, tình trạng siêu lạm phát vẫn tồn tại. Trong một thời gian Việt Nam duy trì cơ chế lãi
suất thực âm.
28
Bảng 2.1: Lãi suất giai đoạn trước 1992 (%tháng, cuối mỗi giai đoạn)
1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 Năm
64,5 26,9 32,8 2,7 7,7 4,8 1,1 Tỉ lệ lạm phát
Lãi suất thực tiền gửi tiết kiệm 3
tháng (*) 4,30 (3,70) (1,30) 0,90
Tiền gửi không kỳ hạn (cá nhân) 5 2,4 2,1 1
Tiền gửi tiết kiệm
3 tháng 7 4 3,5 2
Lãi suất cho vay
Nông nghiệp 3,7 2,4 3,3 2,5
Công nghiệp và
giao thông vận tải 2 3,8 2,7 3
Thương mại và du lịch 3,9 2,9 3,7 2,7
Vốn cố định 0,8 0,8 1,8
Vốn lưu động 2,7
Chênh lệch lãi suất (**) -3,3 -1,6 -0,2 0,5
Nguồn: Ngân hàng thế giới, “Vietnam Financial Sector Review”, 1995.
Tổng cục thống kê Việt Nam, niên giám thống kê, các năm từ 1997-2001
(*): Lãi suất thực tính bằng lãi suất danh nghĩa vào cuối mỗi quý trừ tỉ lệ lạm
phát bình quân tháng trong quý.
(**): Chênh lệch lãi suất giữa cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp và lãi suất tiết
kiệm 3 tháng.
Từ 1986 đến 1988, tỉ lệ lạm phát trung bình trong khoảng 27%-65%tháng,
điều này chắc chắn dẫn đến lãi suất thực của tiền gửi trong nền kinh tế âm. Mặc dầu tỉ lệ lạm phát có giảm trong ba năm từ 1989 đến 1991 nhưng lãi suất thực vẫn âm. Từ năm 1992, lãi suất thực bắt đầu dương và lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động vốn. Bảng trên cũng cho thấy các mức lãi suất khác nhau đối với
các đối tượng khách hàng khác nhau.
29
Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục có những động thái tác động đến lãi suất
nhằm phát triển kinh tế. Ngày 29/06/1987, Nghị định số 99/HĐBT quy định mức lãi suất tiền gửi và cho vay, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/07/1987. Kể từ đây, Ngân hàng Nhà nước áp dụng một mức lãi suất cho vay chung giữa loại hình kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh và việc ấn định lãi suất trần và sàn.
Mức lãi suất cho vay vốn lưu động trong hạn mức tín dụng trong khung từ 2,4%- 6%tháng. Mức lãi suất cho vay vốn cố định trong khoảng 2,1%-5,4%tháng. Điều nghịch lý là lãi suất cho vay vốn cố định thấp hơn vốn lưu động vẫn còn tồn tại
nhưng cơ chế lãi suất dần dần được nới lỏng.
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội đồng Bộ trưởng ban hành đánh dấu việc chuyển đổi từ ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp. Đây là một bước chuyển mình của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi và điều
hành cơ chế lãi suất. Cơ sở pháp lý cho việc đổi mới này tiếp tục được khẳng định thông qua Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, có hiệu lực từ ngày 1/10/1990. Việc ấn
định lãi suất của Ngân hàng Nhà nước không phải “phục vụ” cho chính Ngân hàng Nhà nước mà tách bạch chức năng điều hành, quản lý và chức năng kinh doanh giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, tách bạch bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi ngân hàng nhà nước hình thành nên hệ thống kho
bạc nhà nước. Các nghiệp vụ tái cấp vốn, chiết khấu, tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá cũng được quy định rõ
trong các pháp lệnh về ngân hàng.
Đến giữa năm 1992, lạm phát dần đẩy lùi. Lãi suất thực dương và thị
trường tài chính Việt Nam dần dần bình ổn.
2.2.1.2 Giai đoạn từ tháng 6/1992-1995: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương.
Giữa cuối năm 1992, lạm phát được kiểm soát, lãi suất thực dương thay thế cho lãi suất thực âm trước đó. Với cơ chế này, người dân gửi tiền và ngân
hàng là người cho vay đều có lợi.
30
Bảng 2.2: Lãi suất thực giai đoạn từ 1992 đến 1995
Năm 1992 1993 1994 1995
0,9 1,1 0 1,3 Lãi suất thực (%/tháng) (*)
Nguồn: Vietnam: Selected Interest rates, 1992-1997, IMF staff Country Report
No. 98/30.
(*) Lãi suất tiền gửi tiết kiệm 3 tháng. Mức lãi suất này đo lường trên cơ sở lãi suất danh nghĩa vào cuối mỗi quý và mức lạm phát trung bình tháng trong suốt
quý đó.
Lạm phát trong thời gian này thấp hơn lãi suất danh nghĩa khiến mức lãi
suất thực dương.
Giai đoạn này tiếp tục thực thi các cơ sở pháp lý về lãi suất trước đó một cách sâu rộng. Khung lãi suất, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu cũng được quy định trong từng thời kỳ đảm bảo nhu cầu vốn cho sự phát triển. Năm 1993, thị trường liên ngân hàng được định hình và để Ngân hàng Nhà
nước có thể dựa vào đó định các mức lãi suất. Cơ chế lãi suất dần dần vận hành theo cơ chế thị trường và công cụ lãi suất được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để
điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.2 Giai đoạn từ 1996 đến tháng 7/2000: áp dụng mức trần lãi suất cho
vay
Ngày 28/12/1995, Ngân hàng Nhà nước ra quyết định 381/QĐ-NH1 chính
thức bỏ mức sàn lãi suất cho vay mà chỉ quy định trần lãi suất cho vay. Tùy vào từng thời kỳ mà Ngân hàng Nhà nước quy định mức trần lãi suất cho vay và phụ thuộc vào chủ trương phát triển kinh tế ở các vùng, miền mà cũng có mức lãi suất khác nhau. Nhà nước ưu đãi mức lãi suất cho vay đối với vùng sâu, vùng xa,
đối tượng là người nghèo. Nhìn chung, trần lãi suất cho vay áp dụng cho các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân cao hơn so với các tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó, quyết định này cũng quy định rõ tỷ lệ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay bình quân và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%tháng (4,2%năm). Chính quy định này gián tiếp ấn định mức sàn lãi suất huy động vốn. Ngân hàng Nhà nước can thiệp trực tiếp vào lợi nhuận của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vay
vốn.
31
Năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín
dụng ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động ngân hàng cũng như
cơ chế lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn này.
Ngày 17/01/1998, quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN1 của Ngân hàng
Nhà nước quy định chênh lệch lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động vốn bình quân được xoá bỏ, trần lãi suất cho vay tiếp tục được duy trì. Quyết định này cũng quy định cụ thể mức lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ tại các tổ
chức tín dụng.
Đặc biệt trong 2 năm 1998-1999 nhằm khắc phục ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á, Ngân hàng Nhà nước liên tục có những động thái “nới lỏng” kiểm soát lãi suất bằng cách điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo
hướng giảm. Lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh bằng cách quy định cụ thể và giảm từ 1,1% tháng trong năm 1997 xuống còn 0,7%tháng trong năm 1999. Trong giai đoạn này, lãi suất giảm nhưng lượng tiền gửi tại ngân hàng vẫn ổn định. Tín dụng trong nước tăng không hoàn toàn do lãi suất giảm, đó là sự gia
tăng do chỉ đạo thực hiện các chương trình phát triển từ phía các doanh nghiệp nhà nước. Gia tăng tín dụng nhưng tiền gửi không tăng buộc các ngân hàng thương mại giảm tỉ lệ dự trữ hoặc đẩy mạnh vay vốn từ phía Ngân hàng Nhà nước. Trước tình hình trên, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giảm tỉ lệ dự trữ
bắt buộc từ 10%năm xuống 7%năm lượng tiền gửi ngắn hạn vào tháng 2/1999.
Bảng 2.3: Trần lãi suất cho vay từ 1998 đến năm 2000 (%năm).
T6/1998- T2/1999- T9/1999- T11/1999- Thời gian T12/1998 T6/1999 T10/1999 T7/2000
14,4 13,8 11,4 10,2 Trần lãi suất cho vay
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các quyết định của Ngân hàng Nhà nước
Dựa trên nền tảng Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, các nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá được triển khai. Lãi suất tái chiết khấu được quy định ở mức thấp hơn 0,05%tháng so với lãi suất tái cấp vốn. Từ tháng
7/2000, nghiệp vụ thị trường mở cũng được đưa vào áp dụng.
Việc điều chỉnh lãi suất như trên là phù hợp với lộ trình tự do hoá lãi suất và nó là công cụ điều tiết vĩ mô cho sự khuyến khích đầu tư và tiêu dùng. Mặc dầu trên thực tế lãi suất chưa phản ánh đúng cung-cầu về vốn nhưng với sự cải
32
tiến từng bước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là đi đúng hướng với mục
tiêu phát triển chung của nền kinh tế.
2.2.3 Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002: cơ chế lãi suất cơ bản
cộng biên độ dao động trong từng thời kỳ.
Ngày 02/08/2000, quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 công bố lãi suất cơ bản cộng biên độ dao động làm cơ sở hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành từ ngày 05/08/2000. Mức lãi suất cho vay áp dụng
cho các ngân hàng thương mại không vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0,3%tháng đối với vay vốn ngắn hạn và 0,5%tháng đối với vay vốn trung, dài hạn. Mức lãi suất cơ bản này dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay thương mại đối với nhóm khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa
chọn theo quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Lãi suất cơ bản tùy thuộc vào lãi suất của thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, xu hướng biến động cung và cầu về vốn. Tại quyết định này, Ngân hàng Nhà nước cũng quy định lãi suất cho vay đô
la Mỹ và các ngoại tệ khác. Theo đó, lãi suất cho vay đô la Mỹ không vượt quá lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn và kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung, dài hạn tại thời điểm cho vay và cộng biên độ dao động được quy định trong từng thời kỳ. Đối với các
ngoại tệ khác, lãi suất cho vay là dựa trên lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu
vốn trong nước của từng loại ngoại tệ.
Việc ấn định lãi suất cơ bản cùng biên độ dao động không khác nhiều so
với cơ chế trần lãi suất trước đây. Tuy nhiên, biên độ lãi suất tồn tại tạo tính linh hoạt cho ngân hàng trong việc thoả thuận “giá cả” đối với từng đối tượng khách hàng. Lãi suất cơ bản cũng thay đổi theo những tín hiệu của thị trường. Trong 2 năm 2000 và năm 2001, lãi suất cơ bản giảm nhằm kích thích đầu tư và tiêu
dùng, điều này cũng khiến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại giảm theo. Trong khi đó, việc huy động vốn lại rất hạn chế. Nhằm gia tăng tính cạnh tranh trong việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại, lãi suất huy động gia tăng, khoảng chênh lệch giữa cho vay và huy động thu hẹp. Điều này cần
thiết phải có cơ chế lãi suất mới được thông qua.
Cũng trong năm 2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ bị xoá bỏ. Người đi vay và người cho vay có thể thoả thuận mức lãi suất này. Tự do hoá lãi suất dần
dần được thực hiện, trước tiên là ngoại tệ.
33
2.2.4 Giai đoạn từ tháng 6/2002 đến tháng 5/2008: cơ chế lãi suất thỏa
thuận
Ngày 30/05/2002, Ngân hàng Nhà nước
thông qua quyết định 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận cho vay bằng
nội tệ, có hiệu lực kể từ 01/06/2002. Quyết định này nêu rõ bên cạnh lãi suất thoả thuận, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục công bố lãi suất cơ bản mang tính chất tham khảo và định hướng lãi suất thị trường và cũng khẳng định chủ động áp dụng các biện pháp kiểm soát biến động lãi suất của thị trường. Như vậy, đây
chính là bước tiến không nhỏ trong lộ trình tự do hoá lãi suất. Từ đây, lãi suất cho vay Việt Nam Đồng sẽ dựa trên sự gặp gỡ giữa cung và cầu về vốn. Các tổ chức tín dụng tự chủ và có kế hoạch kinh doanh phù hợp hơn trước. Tuy nhiên, lãi suất trên thị trường cũng được kiểm soát bởi Ngân hàng Nhà nước trong
trường hợp cần thiết. Quá trình tự do hoá lãi suất trên thực tế chưa hoàn toàn vận
hành theo cung và cầu trên thị trường.
Cơ chế lãi suất thoả thuận tồn tại từ năm 2002 và ổn định đến năm 2006.
Lãi suất cơ bản trong thời kỳ này thay đổi không nhiều, biến động từ 7,5%năm
trong năm 2004 và lên 8,75%năm trong giữa năm 2008.
Với sự phát triển và “nóng dần” của thị trường chứng khoán Việt Nam
cuối năm 2006 và đỉnh cao là trong năm 2007 gây nên hiệu ứng dây chuyền cho thị trường tiền tệ Việt Nam. Chỉ số VN-Index có thời điểm tăng mạnh và đạt kỷ lục trên 1.000 điểm trong đầu năm 2007. Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường và người người, nhà nhà làm giàu qua con đường kinh doanh chứng
khoán, đây là kênh đầu tư mang lại tỷ suất lợi nhuận cao vào thời điểm này. Lợi nhuận đạt được từ việc kinh doanh chứng khoán được đẩy vào thị trường bất động sản. Ở đâu có tỷ suất sinh lợi cao thì ở đó thu hút những nhà đầu tư, đầu cơ. Trong bối cảnh hiện tại, nhà đầu cơ chứng khoán “nở rộ”. Nhằm gia tăng vốn
cho việc kinh doanh chứng khoán, một lượng vốn được đẩy vào thị trường chứng khoán thông qua kênh tín dụng của ngân hàng. Việc cấp tín dụng thông thoáng hơn và nhiều khách hàng đã “lách” vay vốn phục vụ nhu cầu kinh doanh chứng khoán, bất động sản. Điều này làm dư nợ tín dụng trong năm 2007 tăng trưởng mạnh (tăng 53,8%so với năm trước đó). Nhằm “giảm nhiệt” cho thị trường chứng khoán, ngày 28/05/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành chỉ thị 03/2007/CT-NHNN nhằm kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu
tư, kinh doanh chứng khoán, khống chế mức dư nợ cho vay kinh doanh chứng
khoán là 3%tổng dư nợ tín dụng của tổ chức tín dụng.
34
Với sự tăng trưởng dư nợ tín dụng trong năm 2007, Ngân hàng Nhà nước
thắt chặt tín dụng, gia tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đã đẩy các ngân hàng thương mại vào cuộc chạy đua lãi suất nhằm duy trì khả năng thanh khoản. Trước tiên, cuộc chạy đua diễn ra đối với các ngân hàng quy mô nhỏ, vừa. Sau đó, các ngân hàng lớn không thể đứng ngoài cuộc và tham gia chạy đua lãi suất nhằm duy trì lượng
vốn huy động.
Việc gia tăng lãi suất huy động khởi xướng từ tháng 2/2008 (sau Tết nguyên đán) và gia tăng lên gần 10%năm. “Nổ pháo” đầu tiên là ngân hàng An
Bình, tiếp đến là Đông Á, Eximbank, ngân hàng Phương Đông…Việc gia tăng chi phí đầu vào của các tổ chức tín dụng đã đẩy lãi suất cho vay ngày một tăng
cao.
Với việc hạn chế gia tăng tỉ lệ lạm phát những tháng đầu năm 2008, ngày 13/02/2008 Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc mua đối với các tổ chức tín dụng với tổng giá trị phát hành là 20.300 tỷ đồng, ngày phát hành là ngày
17/03/2008. Động thái này càng khiến khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng bị hạn chế và cuộc chạy đua lãi suất càng quyết liệt hơn. Cũng trong tháng 2/2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại có lúc gia tăng lên đến trên 14%năm, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên đến trên 30%năm. Ngày
26/02/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành công điện 02/CĐ-NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất huy động vốn không quá 12%năm và yêu cầu các ngân hàng thương mại tích cực tham gia các nghiệp vụ trên thị
trường mở và các kênh tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước. Đây là biện pháp “hành chính” nhằm ổn định thị trường tiền tệ, hạn chế dòng tiền chuyển dịch giữa các ngân hàng thương mại. Nhằm bình ổn lãi suất thị trường, ngày 28/04/2008 Hiệp hội ngân hàng Việt Nam cũng có văn bản gửi các hội viên về
việc đồng thuận lãi suất huy động tiền đồng ở mức tối đa là 12%năm cho các kỳ
hạn trên 6 tháng.
Sự thực thi các biện pháp “hành chính” như trên không thể kéo dài. Tại cuộc họp với hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia ngày 15/05/2008, thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo phải để lãi suất trở về vận hành theo cơ chế thị trường. Ngày 16/05/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về việc điều hành lãi suất cơ bản đồng Việt Nam. Theo
đó, lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam là lãi suất cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Mức lãi suất này không vượt quá 150%của lãi
35
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng
thời kỳ. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 19/05/2009 và thay thế quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/05/2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng Đồng Việt Nam của các tổ
chức tín dụng. Cơ chế điều hành lãi suất Việt Nam được sang trang.
Nhìn chung, giai đoạn trước tháng 6/2002 với cơ chế lãi suất cố định theo sự điều chỉnh của NHNN. Các NHTM ít chịu tác động của rủi ro lãi suất có chăng là rủi ro xuất hiện giữa các kỳ điều chỉnh lãi suất của NHNN. Mức độ rủi
ro này chưa ở mức trầm trọng. Ngoài ra, trong giai đoạn này lãi suất chưa chịu tác động của diễn biến cung, cầu về vốn trên thị trường. Mức giá cả mua bán vốn
trên thị trường với sự ấn định và điều tiết từ phía NHNN.
Từ tháng 6/2002, NHNN bắt đầu thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận. Tuy nhiên, mức lãi suất thoả thuận này cũng được sự giám sát từ phía NHNN. Hàng tháng, các NHTM đều gửi báo cáo về tình hình lãi suất huy động và cho vay cho NHNN tham khảo. Trong chừng mực nào đó, lãi suất biến động quá lớn NHNN
sẽ can thiệp kịp thời để điều chỉnh lãi suất trên thị trường. Do đó, mặc dầu trên tinh thần là lãi suất là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán nhưng mức độ biến động lãi suất cũng không nhiều. Rủi ro lãi suất tại các NHTM có tồn tại
nhưng vẫn chưa thấy rõ những tác hại của rủi ro này.
Đến đầu năm 2008, cùng với các giải pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong thời này cũng như việc duy trì tính thanh khoản của các NHTM đã khiến các NHTM tham gia vào cuộc đua lãi suất. Lãi suất tăng một cách đột biến
khiến cho tổn thất mang lại cho các NHTM là không nhỏ. Việc gia tăng chi phí huy động vốn một cách đột ngột và không thể tăng trưởng dư nợ tín dụng thật sự làm giảm thu nhập ròng của các NHTM. Bên cạnh đó, lãi suất huy động tăng cao nhưng lãi suất cho vay của những khoản vay đã giải ngân trước đó lại không thể
điều chỉnh tăng. Rủi ro lãi suất là vô cùng lớn. Điều này khiến các NHTM đứng
trước các khó khăn.
2.2.5 Giai đoạn từ tháng 6/2008 đến nay: cơ chế lãi suất cơ bản bên cạnh lãi
suất thoả thuận.
Về bản chất, cơ chế lãi suất cơ bản cùng với mức khống chế không vượt quá 150% lãi suất cơ bản cũng giống như trần lãi suất. Nó chỉ khác trần lãi suất ở
chỗ việc xác định mức lãi suất cơ bản này còn tuỳ thuộc vào cung-cầu vốn trên thị trường, mặt bằng lãi suất chung của các ngân hàng lớn, mục tiêu chính sách
36
tiền tệ và cơ chế lãi suất cơ bản trên tương đối “thoáng” hơn trần lãi suất. Cũng
phải nói thêm rằng, quyết định này ra đời làm cho lãi suất kinh doanh phù hợp với quy định trong bộ Luật dân sự, lãi suất do các bên thoả thuận không vượt quá
150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định từng thời kỳ.
Ngày 30/05/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 1257/QĐ-NHNN quy định lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam là 12%năm (tăng từ 8,75%năm lên 12%năm). Như vậy, mức trần lãi suất cho vay là 18%năm. Trong thời gian này, Ngân hàng Nhà nước cũng có quyết định gia tăng lãi suất tái cấp
vốn (13%năm) và lãi suất chiết khấu (11%năm). Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2008 đến tháng 9/2008, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nên hầu hết các công cụ điều hành nhằm thực thi cho chính sách này,
lãi suất cũng là một công cụ để Ngân hàng Nhà nước tiến hành.
37
Bảng 2.4: Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN từ tháng 02/2008 đến tháng 12/2009.
ĐVT: %/năm
Lãi suất cho vay tối đa
Lãi suất cơ bản 8.75% 12.0% 14.0% 13.0% 12.0% 11.0% 10.0% 8.5% 7.0% 7.0% 8.0% 18.0% 21.0% 19.5% 18.0% 16.5% 15.0% 12.8% 10.5% 10.5% 12.0% Lãi suất chiết khấu 6.0% 11.0% 13.0% 12.0% 11.0% 10.0% 9.0% 7.5% 6.0% 5.0% 6.0%
Lãi suất tái Thời điểm cấp vốn áp dụng 7.5% 01/02/2008 13.0% 19/05/2008 15.0% 11/06/2008 14.0% 21/10/2008 13.0% 05/11/2008 12.0% 21/11/2008 11.0% 05/12/2008 9.5% 22/12/2008 8.0% 01/02/2009 7.0% 01/10/2009 8.0% 01/12/2009 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (www.sbv.gov.vn)
Từ tháng 05/2008 đến tháng 10/2008, lãi suất căn bản tăng ở mức cao và cuối tháng 10/2008 lãi suất này bắt đầu giảm. Đến tháng 02/2009, lãi suất cơ bản
ở mức 7%năm và khá ổn định suốt năm 2009.
Lãi suất tái cấp vốn cùng lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh theo
chính sách “thắt chặt” tiền tệ trong năm 2008.
Hình 2.2: Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2008-2009.
ĐVT: %/năm
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (www.sbv.gov.vn)
38
Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu có tương quan cùng chiều, đỉnh
cao nhất là vào giữa năm 2008 và giảm dần cuối năm 2008 và trong ba quý đầu của 2009. Việc biến động các mức lãi suất trên đây nhằm thực hiện mục tiêu
“thắt chặt”cũng như “nới lỏng” tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Điều đáng lưu ý, trong thời gian này khi có quy định trần là 150% lãi suất căn bản cuộc đua tăng lãi suất huy động của các ngân hàng lại tái diễn và đẩy lãi suất cho vay “đụng” trần. Cũng chính thời gian này xuất hiện lãi suất huy động kỳ hạn cực ngắn theo tuần, theo ngày và lãi suất huy động kỳ hạn ngắn lại cao
hơn kỳ hạn dài.
Năm 2008 với nhiều biến động và ảnh hưởng suy thoái toàn cầu. Công cụ lãi suất là công cụ để Ngân hàng Nhà nước ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát,
đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề, lạm phát năm 2008 ở mức khoảng 20%năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt như mục tiêu đề ra. Sang năm 2009, trước thực trạng suy thoái kinh tế trong nước, Chính Phủ liên tục đưa ra
gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất (4%năm) cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giúp tăng trưởng kinh tế. Đối với các khoản vốn vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động thì việc hỗ trợ lãi suất kéo dài đến 31/12/2009 và đến 31/12/2011 đối với vốn
vay trung, dài hạn mua sắm tài sản cố định.
Ngày 23/01/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 01/2009/TT- NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các tổ chức tín dụng, có hiệu lực từ ngày 01/02/2009. Theo Thông tư, “tổ chức tín dụng thực hiện lãi suất thoả thuận
đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và trên cơ sở
cung-cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay”.
Từ đầu năm 2009, Việt Nam tồn tại đồng thời cơ chế lãi suất cơ bản áp dụng cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh và lãi suất thoả thuận áp dụng cho các mục đích vay vốn ngoài sản xuất, kinh doanh. Với cơ chế này nhằm hướng vào
việc đầu tư, sản xuất kinh doanh hạn chế suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, cơ chế lãi suất thoả thuận này cũng mang lại nhiều rắc rối như việc áp dụng lãi suất cho vay ở mức cao của các tổ chức tín dụng, vượt quá giới hạn cho phép của quy định lãi suất thoả thuận trong bộ luật dân sự. Mục đích vay chưa phân định rõ
ràng giữa sản xuất, kinh doanh và phi sản xuất, kinh doanh nhằm ấn định lãi suất
39
cho vay một cách đúng đắn. Chẳng hạn khách hàng cần vay tiền với mục đích
sửa chữa nhà, một phần nhà để ở và một phần cho thuê. Ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay như thế nào là thoả đáng?. Trong năm 2009, lãi suất khá bình ổn so với năm trước đó. Lãi suất cơ bản được duy trì ổn định từ đầu năm đến 30/11/2009. Với xu hướng mở rộng tín dụng và kích thích tăng trưởng kinh tế
thông qua các gói kích cầu trong năm 2009, dư nợ tín dụng tăng trưởng mạnh ước tính trên 30% so với 2008. Nhằm gia tăng tính thanh khoản cũng như đáp ứng nguồn vốn nhu cầu cho vay của mình, các tổ chức tín dụng lại gia tăng lãi
suất huy động nhằm hút nguồn vốn nhàn rỗi trong lưu thông. Trước diễn biến lãi suất, cung-cầu về vốn trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước gia tăng lãi suất cơ bản. Ngày 25/11/2009, quyết định 2665/QĐ-NHNN có hiệu lực từ ngày 01/12/2009 quy định mức lãi suất cơ bản áp dụng trong thời gian này là 8%năm,
trần lãi suất kinh doanh là 12%năm. Với mức lãi suất cơ bản này, lãi suất huy
động đến giữa tháng 12/2009 dao động ở mức 10,5%năm cho kỳ hạn 12 tháng.
Tóm lại, cơ chế lãi suất Việt Nam dần dần tiến về tự do hoá, gắn với thị
trường. Trong giai đoạn khó khăn tạm thời của kinh tế, sự tồn tại của bàn tay hữu hình là vô cùng cần thiết nhằm bình ổn lãi suất thị trường, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế vững bền.
Từ giữa năm 2008, lãi suất cơ bản không ngừng biến động. Một tháng có
đến hai lần thay đổi lãi suất cơ bản. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp cũng như thu nhập của các NHTM. Với sự tăng giảm lãi suất cơ bản khiến lãi suất huy động và cho vay cũng biến động theo. Từ
tháng 6/2008 rủi ro lãi suất được nhìn nhận một cách rõ ràng nhất và tác động của nó đến các NHTM là rất lớn. Các NHTM phải liên tục điều chỉnh giảm chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận trong năm. Nhiều hợp đồng cho vay không mang lại lợi nhuận nhưng cũng phải duy trì. Làm gì để đối phó và phòng ngừa rủi ro trước sự
biến động của lãi suất luôn là câu hỏi mà lãnh đạo NHTM cần được giải quyết
một cách thấu đáo.
Bước qua năm 2009, lãi suất tương đối ổn định hơn nhưng những hợp đồng đã ký kết cho vay từ trước đó với mức lãi suất thấp hơn trong năm 2009 cũng không thể điều chỉnh hoặc tất toán trước hạn. Tuy nhiên, với chính sách kích cầu của Chính phủ trong năm 2009 nên lãi suất được duy trì tương đối ổn
định và ở mức vừa phải nhằm kích thích tăng trưởng, gia tăng sản xuất.
40
Nhìn chung, trong giai đoạn này biến động lãi suất là khó dự đoán và
những tổn thất do lãi suất mang lại cho các NHTM là không phải nhỏ. Rủi ro lãi suất hiện hữu và buộc các NHTM phải tìm những phương cách đối phó kịp thời.Việc phòng ngừa rủi ro do những biến động lãi suất gây ra ngày càng trở
nên cấp thiết.
2.3 Thực trạng vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua.
2.3.1 Thực trạng phát triển hệ thống NHTMCP Việt Nam trong thời gian
qua
Dựa trên nền tảng Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng cũng như cam kết trong lộ trình gia nhập WTO của Việt Nam, ngành ngân hàng dần hình thành và phát triển với đa dạng nhiều loại hình. Ngân hàng Việt Nam không những tăng về số lượng mà còn cải thiện về chất lượng. Trước năm 2006,
ngành ngân hàng khá là trầm lắng. Trong khoảng thời gian 2006-2008, nhiều ngân hàng được thành lập đánh dấu bước ngoặt phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nguyên nhân của sự ra đời một cách ồ ạt này là tỉ suất sinh lợi ngành
ngân hàng cao, sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2007 và không loại trừ nguyên nhân thành lập ngân hàng để tiến hành
“mua bán giấy phép” cho các công ty trong và ngoài nước.
“Hàng loạt các ngân hàng cổ phần nông thôn trước đây tưởng như đã giải
thể, nay đã được các tập đoàn kinh tế lớn đổ vốn và nâng cấp thành ngân hàng
đô thị, mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động”.
“Không chỉ thành lập ngân hàng mới, mà nhiều ngân hàng hiện có đang
đua nhau phát hành thêm cổ phiếu, tăng vốn điều lệ, điều mà chính nhiều người
trong ngành cũng tỏ ra lo ngại”
Nguồn: Hà Phan, Đua nhau thành lập ngân hàng, 26/03/2007, báo Tiền
Phong.
Việc ra đời hàng loạt ngân hàng kết hợp sự mở rộng mạng lưới hoạt động của các ngân hàng hiện tại đã khiến thị trường tài chính sôi động hẳn lên. Các phố ngân hàng hình thành và mật độ ngày càng dày đặc, bước ra ngõ gặp ngân
hàng là cách khắc hoạ rõ nét nhất mạng lưới hoạt động. Cùng với việc gia tăng ồ ạt, chất lượng dịch vụ cũng được nâng cao, đa dạng dịch vụ, phục vụ khách hàng
tận tâm.
41
Bảng 2.5: Số lượng các tổ chức tài chính tại Việt Nam
Thời gian Tăng(+) /
Đến 31/12/2008 Đến 31/12/2009 Giảm (-) Loại hình
NHTM Nhà nước 6 5 -1
NHTMCP đô thị 35 39 +4
NHTMCP nông thôn 1 0 -1
CNNH nước ngoài 37 40 +3
NH liên doanh 5 5 0
NH 100% vốn nước ngoài 0 5 +5
54 53 -1 VPĐD ngân hàng nước ngoài
Cty cho thuê tài chính 13 13 0
Cty tài chính 12 17 +5
Tổng 163 177 +14
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (www.sbv.gov.vn)
Bảng số liệu trên cho thấy bên cạnh sự gia tăng số lượng ngân hàng trong nước (tăng 2) đó là sự ra đời các ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài (tăng 12).
Tóm lại, ngành ngân hàng Việt Nam thật sự chuyển mình và phát triển cùng xu hướng hiện đại của các nước trên thế giới. Việc tự do hoá thị trường tài chính vừa là thời cơ vừa là thách thức để các ngân hàng phát triển. Sự cạnh tranh
ngày càng khốc liệt, các yếu tố thị trường biến động khôn lường buộc các tổ chức tài chính phải có chiến lược kiểm soát rủi ro và quản trị đúng đắn nhằm gia
tăng lợi nhuận.
2.3.2 Thực trạng vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi
suất tại các NHTMCP Việt Nam.
2.3.2.1 Tại NHTMCP Á Châu – ACB
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước. Từ ngày 04/06/1993, ACB bắt đầu
42
đi vào hoạt động và là ngân hàng chuyên bán lẻ, tập trung phần lớn vào khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. ACB trong nhiều năm liền được bình chọn là ngân hàng tốt nhất Việt Nam.
ACB không ngừng cải tiến, tiếp cận công nghệ cũng như phương thức quản lý hiện đại trong tiến trình phát triển của mình. Ngay từ đầu, ACB đã nhận thức việc biến động lãi suất trong lĩnh vực hoạt động cũng như những rủi ro của nó ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.
Ngày 08/06/2002, Quyết định số 974/QĐ-VP-02 của chủ tịch hội đồng quản trị thành lập phòng quản lý rủi ro. Đến ngày 05/11/2008, phòng quản lý rủi ro đổi tên thành phòng quản lý rủi ro thị trường. Việc quản lý rủi ro lãi suất của toàn hệ thống ACB được quy định cụ thể trong Quyết định ngày 05/11/2008:
- Giám sát việc tuân thủ các chính sách, quy trình và hạn mức về rủi ro lãi
suất.
- Xây dựng và đề xuất các công cụ đo lường rủi ro lãi suất phù hợp với
hoạt động kinh doanh của ACB.
- Lập các báo cáo đo lường rủi ro lãi suất định kỳ.
- Phân tích ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đối với thu nhập và vốn của ngân
hàng.
- Cảnh cáo và đề xuất các biện pháp ngăn ngừa rủi ro lãi suất.
- Tham gia xây dựng, chỉnh sửa các chính sách, quy trình quản lý rủi ro
lãi suất và các hạn mức quản lý rủi ro lãi suất.
Hiện tại, ACB chưa xây dựng quy trình quản trị rủi ro lãi suất và việc quản lý rủi ro lãi suất cho chính ACB được thực hiện qua các công cụ phân tích độ nhạy, kiểm soát khe hở nhạy cảm lãi suất và việc quản lý khe hở kỳ hạn của lãi suất từ đó mô phỏng phần trăm thay đổi của lãi suất ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Các số liệu này được tổng hợp từ phần mềm và kết xuất cho việc phân tích.
ACB quản lý rủi ro lãi suất theo nguyên tắc cẩn trọng. Hội đồng quản lý tài sản nợ-có (ALCO) sử dụng nhiều công cụ để giám sát và quản lý rủi ro lãi suất bao gồm: Biểu đồ lệch kỳ hạn tái định giá (repricing gap). Thời lượng của tài sản nợ và tài sản có (duration). Hệ số nhạy cảm (factor sensitivity).
Hàng ngày, bộ phận quản lý rủi ro lãi suất của phòng quản lý rủi ro thị trường chịu trách nhiệm thu thập và phân tích biến động của lãi suất, so sánh với hạn mức lỗ tối đa cho phép và báo cáo cho ban điều hành ngân quỹ, ban tổng giám đốc trước 9 giờ sáng mỗi ngày làm việc. Ban điều hành ngân quỹ và ban
43
tổng giám đốc sẽ xem xét và điều chỉnh kịp thời, tác động đến lãi suất nhằm gia tăng thu nhập cho ngân hàng.
Tại thời điểm này, ACB chưa vận dụng các công cụ phái sinh trong việc quản trị rủi ro lãi suất nhằm phòng ngừa rủi ro cho chính mình và kể cả phục vụ khách hàng.
Tóm lại, ngay từ khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng cơ chế lãi suất đồng nội tệ thỏa thuận, ACB đã ý thức việc quản trị rủi ro lãi suất là cần thiết. Tuy nhiên, các công cụ quản trị này chỉ dừng lại ở các công cụ truyền thống, các công cụ quản trị tương đối hiện đại như sản phẩm phái sinh chưa được vận dụng.
2.3.2.2Tại NHTMCP Sài Gòn Thương Tín - Sacombank
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) được thành lập theo giấy phép số 0006/NH-GP ngày 05/12/1991 và bắt đầu hoạt động từ ngày 21/12/1991. Sacombank là một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam. Sau 18 năm hoạt động, Sacombank có hơn 300 chi nhánh và phòng giao dịch tại 45/63 tỉnh thành trong cả nước, 01 văn phòng đại diện tại Trung Quốc, 1 chi nhánh tại Lào và 1 chi nhánh tại Campuchia.
Cũng tương tự các ngân hàng TMCP có thương hiệu tại Việt Nam, Sacombank trong giai đoạn đầu cũng nhận thức sự cần thiết trong công tác quản trị rủi ro lãi suất. Với sự hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn IFC, ngân hàng ANZ và tổ chức CIDA của Canada, Sacombank đã xây dựng hệ thống quản lý rủi ro cho mình từ năm 2005 và dần hoàn thiện vào các năm sau này. Sacombank đã thành lập Ủy ban quản lý tài sản nợ-có (ALCO) nhằm phân tích biến động và mức độ tăng trưởng trên bảng cân đối kế toán, nhất là đối với các tài sản có nhạy cảm và các tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất. Trên cơ sở đó, ALCO tác động đến lãi suất giúp giảm thiểu rủi ro kịp thời cho ngân hàng.
Từ năm 2005, Sacombank đã tiến hành đo lường rủi ro lãi suất bằng các báo cáo chênh lệch thời gian đáo hạn và xác định lại lãi suất phân bổ theo các phân đoạn thời gian khác nhau như dưới 1 tháng, từ 1-3 tháng, từ 3-6 tháng, từ 6- 12 tháng, 1- 5năm, trên 5 năm. Căn cứ trên các báo cáo này cùng với việc nhận định xu hướng, diễn biến biến động lãi suất trên thị trường ALCO sẽ quyết định duy trì các mức chênh lệch thích hợp nhằm định hướng cho hoạt động ngân hàng trên toàn hệ thống.
Trước sự diễn biến phức tạp của lãi suất hiện nay, lãi suất cho vay của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất huy động và cộng biên độ dao động. Đó là phương thức phổ biến nhằm hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động ngân hàng hiện nay.
44
Ở trạng thái VND, Sacombank đang sử dụng vốn huy động ngắn hạn để đầu tư tài sản dài hạn tức là nguồn vốn nhạy cảm lãi suất hơn là tài sản nhạy cảm lãi suất. Vì thế, lãi suất thị trường tăng dẫn đến giảm thu nhập lãi suất và ngược lại. Trong ngắn hạn, thu nhập ròng của ngân hàng sẽ giảm trong trường hợp lãi suất VND tăng.
Hiện tại, Sacombank đã xây dựng được hệ thống báo cáo điều hành và quản lý một cách xuyên suốt, khoa học từ cấp quản lý, cấp điều hành trên toàn hệ thống. Do đó, mỗi biến động lãi suất trên thị trường đều được Sacombank tiếp nhận và xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, Sacombank cũng đã triển khai “Chính sách lãi suất linh hoạt” cho từng địa bàn có chi nhánh trực thuộc, nhằm phát huy khả năng cạnh tranh và phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của từng khu vực. Ngoài ra, phòng nghiệp vụ ngân hàng đã từng bước phát triển và hoàn chỉnh hệ thống điều hành lãi suất cho toàn hệ thống, sử dụng tốt nhất các nguồn vốn huy động, xây dựng các mô hình, chỉ số quản lý rủi ro nhằm phát hiện và cảnh báo kịp thời những rủi ro lãi suất tiềm tàng.
Trong giai đoạn này, Sacombank cũng đang nghiên cứu đưa các sản phẩm phái sinh về lãi suất trong quản trị rủi ro tại ngân hàng như hoán đổi lãi suất, kỳ hạn lãi suất. Hiện tại, các sản phẩm này vẫn chưa được đưa vào áp dụng tại Sacombank.
Tóm lại, cũng giống như các ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam, công tác quản trị rủi ro lãi suất tại Sacombank chỉ dừng lại ở việc sử dụng các công cụ như đo lường độ nhạy cảm và phân tích kỳ hạn lãi suất. Từ đó, chính sách lãi suất được điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế rủi ro lãi suất cho ngân hàng. Các công cụ phái sinh vẫn chưa được vận dụng cho việc quản trị rủi ro lãi suất tại Sacombank.
2.3.2.3Tại NHTMCP Xuất Nhập Khẩu – Eximbank
Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam(Eximbank) là một trong những NHTMCP đầu tiên tại Việt Nam. Năm 1990, ngân hàng chính thức đi vào hoạt động và mang tên NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam từ năm 1992. Eximbank là một trong những ngân hàng của Việt Nam chú trọng nhiều vào lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ tương đối.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Eximbank dần dần hình thành, đổi mới, hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro. Công tác quản lý rủi ro này thật sự chú trọng trong năm 2007 khi Eximbank tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Tại thời gian này, phòng quản lý rủi ro được thành lập. Do công tác quản trị rủi ro lãi suất tại Eximbank còn non trẻ và dẫn đến thực trạng:
45
- Eximbank cũng chưa có quy trình hướng dẫn cụ thể về quản lý rủi ro lãi
suất
- Công nghệ chưa phát triển do đó gây khó khăn cho công tác thu thập, tổng hợp và truy xuất số liệu liên quan đến lãi suất để tổng hợp các báo cáo về quản trị rủi ro lãi suất.
- Các công cụ quản trị rủi ro lãi suất như đo lường độ nhạy cảm lãi suất
đang được vận dụng nhằm phòng ngừa rủi ro cho chính ngân hàng.
Thực tế, để hạn chế rủi ro lãi suất, Eximbank đã quy định lãi suất cho vay cộng biên độ thay đổi lãi suất. Trước biến động khó dự đoán của lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Eximbank “thả nổi” lãi suất cho vay bằng cách ấn định mức lãi suất tại thời điểm giải ngân cộng biên độ cho các khoảng thời gian tiếp theo sau này (biên độ thay đổi 1tháng/lần hoặc 3 tháng/lần tùy theo loại hình vay).
Các công cụ phái sinh chưa được vận dụng tại Eximbank trong quản trị
rủi ro lãi suất.
2.3.2.4Tại NHTMCP Kỹ Thương – Techcombank
Ngân hàng TMCP Kỹ Thương (Techcombank) được thành lập ngày 27/09/1993, trụ sở đặt tại Hà Nội. Techcombank cũng là một trong những ngân hàng đầu tiên được xếp hạng tín nhiệm bởi Moody’s. Từ 2008, đối tác chiến lược HSBC đã tăng tỉ lệ sở hữu từ 15% lên 20% tại ngân hàng này. Do đó trong quá trình hoạt động và quản lý, Techcombank cũng ảnh hưởng khá nhiều từ HSBC.
Từ năm 2003, Techcombank là một trong những ngân hàng đầu tiên áp dụng thành công hệ thống quản trị rủi ro thị trường. Năm 2006, phòng quản trị rủi ro hội sở được thành lập. Năm 2007, trên cơ sở tư vấn của HSBC khối tín dụng và khối quản trị rủi ro được thành lập. Chính sách quản trị rủi ro lãi suất với báo cáo khe hở nhạy cảm được tiến hành từ năm 2006, giúp Techcombank duy trì khe hở lãi suất trong hạn mức an toàn cho phép. Mô hình tiên tiến hơn là các kỹ thuật về khe hở kỳ hạn được nghiên cứu và đưa vào vận dụng trong năm 2008.
Bên cạnh đó, Techcombank cũng đang triển khai các sản phẩm phái sinh cung cấp cho khách hàng. Điều này được lý giải từ việc tiếp cận các phương thức hoạt động của HSBC. HSBC là một trong những ngân hàng hoạt động mạnh về sản phẩm phái sinh trên thế giới. Tại Techcombank, hợp đồng hoán đổi lãi suất và hợp đồng kỳ hạn lãi suất được triển khai cho khách hàng phòng ngừa rủi ro lãi suất. Hợp đồng hoán đổi lãi suất tối thiểu là 100 triệu đồng và 10.000
46
USD quy đổi đối với các ngoại tệ khác. Sản phẩm này sẽ giúp khách hàng tránh được những rủi ro về lãi suất và thay đổi mức rủi ro theo nhu cầu của khách hàng. Song song đó, hợp đồng kỳ hạn lãi suất cũng đưa vào vận dụng. Theo đó, hai bên thoả thuận cố định lãi suất cho một khoản tiền vay hoặc tiền gửi trong tương lai. Trước sự biến động tăng của lãi suất thì việc xác định mức lãi suất cố định sẽ có lợi cho khách hàng vay và ngược lại có lợi cho người gửi tiền.
Tuy nhiên, thực tế các sản phẩm phái sinh này còn hạn chế, các doanh nghiệp thật sự chưa sẵn sàng tiếp cận trong việc phòng ngừa rủi ro lãi suất cho chính mình.
2.3.2.5Tại NHTM Ngoại Thương – Vietcombank
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập trên cơ sở cổ phần hoá ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam thông qua việc bán đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày 26/12/2007 tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Ngân hàng TMCP Ngoại thương được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép thành lập và hoạt động số 138/GP-NHNN ngày 23/05/2008 và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103024468 do Sở Kế Hoạch và Đầu tư TP.Hà Nội cấp ngày 02/06/2008. Đây là NHTMCP có vốn nhà nước chiếm đa số (hơn 90%)
Có thể nói Vietcombank là NHTMCP có vốn điều lệ và tổng tài sản lớn nhất Việt Nam và được tạp chí Asiamoney bầu chọn là “ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam”. Vietcombank có mạng lưới hoạt động trãi dài khắp đất nước Việt Nam, có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng và chiếm thị phần tương đối lớn.
Ngân hàng TMCP Ngoại thương là một trong những ngân hàng “nội địa” tiên phong cùng với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trong phòng ngừa rủi ro cho chính mình cũng như cho khách hàng. Năm 2005, Vietcombank có bốn hợp đồng hoán đổi lãi suất với tổng giá trị là 68,4 triệu USD với 2 khách hàng là SC London và Citibank, SGP kéo dài đến 2014 (SC London) và 2015 (Citibank, SGP).
Trước những biến động lãi suất trên thị trường, năm 2002 Vietcombank đã ý thức được việc quản trị rủi ro lãi suất. Vietcombank thành lập Ủy ban quản lý rủi ro trực thuộc hội đồng quản trị và hội đồng quản lý tài sản nợ-tài sản có trực thuộc ban điều hành với nhiệm vụ theo dõi và quản lý các danh mục trong bảng tổng kết tài sản, quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Cũng giống như các NHTMCP trên, hiện tại Vietcombank vận dụng các công cụ phân tích khe hở nhạy cảm lãi suất và theo dõi khe hở kỳ hạn. Trên cơ sở đó, Vietcombank chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt theo thị
47
trường, thu hẹp chênh lệch kỳ hạn bình quân giữa tài sản có và tài sản nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Từ năm 2003, Vietcombank đã tiến hành phát triển các sản phẩm mới như hoán đổi lãi suất, hợp đồng lãi suất kỳ hạn. Các sản phẩm này vừa phòng ngừa rủi ro lãi suất cho chính ngân hàng, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, số lượng và trị giá hợp đồng thực hiện còn rất hạn chế.
Từ năm 2003 đến nay, việc phát triển các sản phẩm phái sinh về lãi suất cũng không khả quan và thành công bước đầu chỉ mang tính chất thí điểm, thành tựu đạt được còn rất hạn chế.
Như vậy, tại hầu hết các NHTMCP Việt Nam công tác quản trị rủi ro lãi suất được thực hiện bằng việc vận dụng các công cụ theo dõi và phân tích độ nhạy cảm và khe hở kỳ hạn lãi suất. Trên cơ sở đó, các ngân hàng sẽ kịp thời điều chỉnh các mức lãi suất một cách linh hoạt nhằm giảm thiểu rủi ro lãi suất. Dĩ nhiên, các công cụ quản trị này phải được tiến hành trên cơ sở hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đảm bảo dữ liệu phân tích đáng tin cậy. Việc vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất còn hạn chế cả về số lượng lẫn giá trị hợp đồng; chỉ mới dừng lại tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương, ngân hàng TMCP Kỹ Thương và mang tính chất thí điểm.
2.4 Những hạn chế và nguyên nhân tồn tại trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua
2.4.1 Hạn chế
Nhìn chung, việc vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng TMCP tại Việt Nam được triển khai từ 2003. Trong hệ thống NHTMCP, có Vietcombank và Techcombank thực hiện công cụ hoán đổi lãi suất và kỳ hạn lãi suất. Thành tựu đạt được bước đầu là nhỏ bé, mang tính chất thí điểm, đơn lẻ và là nền tảng cho sự phát triển cho các sản phẩm phái sinh về lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam sau này.
Thật sự các công cụ phái sinh về lãi suất là vô cùng thiết thực cho các NHTMCP cũng như các doanh nghiệp tại Việt Nam trong điều kiện biến động về lãi suất. Các công cụ này bảo hiểm rủi ro, giúp giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất và gia tăng lợi nhuận. Thế nhưng, thị trường phái sinh nói chung và các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại Việt Nam nói riêng vẫn chưa phát triển vì nhiều yếu tố tác động từ góc độ vĩ mô lẫn vi mô, từ phía cung lẫn cầu của thị trường.
48
2.4.2 Nguyên nhân các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam chưa phát triển trong thời gian qua
Tìm hiểu nguyên nhân sự kém phát triển của thị trường phái sinh cũng chính là đi tìm câu trả lời cho sự tồn tại các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam.
2.4.2.1 Góc độ vĩ mô
- Thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam chưa phát triển:
Các công cụ phái sinh là một bộ phận không tách rời của thị trường tài chính. Sự phát triển ngày càng sâu, rộng của thị trường tài chính tất yếu dẫn đến sự ra đời các công cụ phái sinh vì càng ở mức độ cao, cần thiết có các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro và thực hiện các mục tiêu khác của nhà đầu tư.
Thị trường tài chính của Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng còn nhiều hạn chế. Sự yếu kém này được phản ánh qua các chỉ số cơ bản đo độ sâu tài chính như: M2/GDP, tín dụng/GDP, tiền gửi/GDP, hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) … Các chỉ số này tương đối thấp so các nước trong khu vực Châu Á và trên thế giới.
Hình 2.3: Độ sâu tài chính (M2/GDP) tại một số quốc gia trong khu vực
ĐVT: %
Nguồn: www.nationmaster.com
Độ sâu tài chính của Việt Nam trong giai đoạn 2002-2005 mà cụ thể là tỉ số M2/GDP tương đối thấp (chưa đến 100%) so với các nước trong khu vực Châu Á. So với các quốc gia này, thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển
49
cao. Đó cũng chính là nhân tố kiềm hãm sự phát triển các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất.
Sự lạc hậu, sơ khai của thị trường tài chính thể hiện qua các công cụ tài chính nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch. Thị trường mở, thị trường liên ngân hàng kém sôi động, mang tính chất một chiều. Một số ngân hàng luôn là người cung ứng vốn còn một số ngân hàng khác thì có nhu cầu vay vốn. Thị trường tiền tệ là nơi cung cấp những thông tin quan trọng về mức lãi suất ngắn hạn để hình thành đường cong lãi suất, làm cơ sở dự báo lãi suất thị trường cũng như định giá các trái phiếu có lãi suất cố định và các hợp đồng phái sinh. Chính sự kém phát triển của thị trường tiền tệ-tài chính là tác nhân hạn chế sự vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng TMCP Việt Nam.
- Mức độ hội nhập của nền kinh tế chưa cao:
Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào ngày 07/11/2007. Việt Nam đang dần hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong thời kỳ 1997-1998, nền kinh tế Việt Nam “nằm ngoài” cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á vì mức độ hội nhập chưa cao. Thời gian gần đây nhất năm 2007-2008, kinh tế Việt Nam cũng “trung lập” với khủng hoảng tài chính thế giới. Sự sụp đổ hàng loạt những tổ chức tài chính lớn “tên tuổi” trên thế giới ít có tác động đến hệ thống tài chính-ngân hàng Việt Nam. Chính sự chưa phát triển đầy đủ của thị trường tài chính khiến Việt Nam thoát khỏi đáng kể ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới và khu vực.
Nhưng cũng chính mức độ hội nhập với nền kinh tế các nước chưa cao, Việt Nam chưa lĩnh hội, tiếp cận được các sản phẩm hiện đại trong sự phát triển của thị trường tài chính. Đây chính là rào cản dẫn đến sự chưa “gia nhập” các sản phẩm phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro lãi suất tại Việt Nam.
- Hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện:
Nhận thức được tầm quan trọng của các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất, ngày 30/09/2003 Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 1133/QĐ-NHNN về việc thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, cho phép các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất với nhau và giữa ngân hàng với các khách hàng, giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng ở nước ngoài. Đây được xem là khung pháp lý cho sự vận hành của nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trong thời gian này.
Trong thời gian sau đó, khung pháp lý trên dần hoàn thiện. Ngày 29/12/2006, quyết định 62/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, nới rộng điều kiện thực hiện, thời hạn hoán đổi lãi
50
suất. Như vậy, khung pháp lý đã dần khuyến khích cho việc thực hiện nghiệp vụ này.
Tuy nhiên, các văn bản pháp Luật liên quan khác đối với việc sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất chưa được xem xét và thông qua như nghiệp vụ kỳ hạn lãi suất, quyền chọn lãi suất: CAP, FLOOR, COLLAR.
Các văn bản hướng dẫn cho việc hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh cũng chưa được xem xét và ban hành một cách chi tiết, cụ thể. Điều này cũng cản trở không nhỏ đến sự vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất trên thực tế.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số:
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 cho rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp Luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo tiêu chí này, số lượng DNVVN tại Việt Nam khá đông đảo, chiếm trên 95%tổng số doanh nghiệp. Đó là lực lượng nòng cốt của kinh tế Việt Nam, tạo ra sản phẩm, giá trị gia tăng cho xã hội. Cũng chính vì lý do này mà việc tồn tại các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam rất ít. DNVVN vừa yếu về tài chính, vừa thiếu kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, sự nhận thức chưa đầy đủ nên việc tiếp cận và sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất hết sức hạn chế và khó khăn. Mặt khác, nhu cầu của việc quản trị rủi ro lãi suất tại các DNVVN hầu như rất hiếm trừ phi ký kết những giá trị hợp đồng tương đối lớn trong tình huống lãi suất trên thị trường biến động. Nhìn chung, các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia với giá trị giao dịch lớn, thời gian dài chỉ cần một lượng nhỏ biến động của lãi suất đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Thế nên, nhu cầu sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các doanh nghiệp này là có thực và bức xúc. Doanh nghiệp có nhu cầu thì mới có thể tìm đến trung gian tài chính là ngân hàng để được đáp ứng. Ngân hàng tham gia trong việc sử dụng các công cụ phái sinh này vừa là phục vụ lợi ích cho khách hàng vừa là phương cách giảm thiểu rủi ro lãi suất cho chính mình. Nhu cầu về sản phẩm phái sinh lãi suất trên thị trường bị hạn chế cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự “ảm đảm” của việc vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam.
51
2.4.2.2 Góc độ vi mô
- Nhận thức của doanh nghiệp, ngân hàng về sản phẩm phái sinh
trong quản trị rủi ro lãi suất còn yếu kém:
Sản phẩm phái sinh nói chung và phòng ngừa rủi ro về lãi suất bằng các công cụ phái sinh nói riêng khá mới lạ tại thị trường tài chính Việt Nam. Một phần do sự kém phát triển của thị trường tài chính-tiền tệ, phần khác là do đại đa số doanh nghiệp, ngân hàng TMCP hoạt động tại Việt Nam chưa nhận thức về sản phẩm mới này. Trong các buổi hội thảo tìm hiểu về sản phẩm phái sinh, các số liệu điều tra cho thấy sự hiểu biết của hầu hết các tổ chức ở mức rất thấp. Nó là một khái niệm hoàn toàn khó hiểu và xa lạ. Trong kỷ nguyên hội nhập và phát triển, nhu cầu tài trợ nguồn vốn bên ngoài của các doanh nghiệp là rất lớn, vốn vay từ ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu trung, dài hạn giá trị lớn. Trong điều kiện biến đổi của lãi suất nếu doanh nghiệp vay với lãi suất cố định của vốc gốc lớn trong thời gian dài thì lãi suất thị trường giảm so với ban đầu, doanh nghiệp bị tổn thất một khoản không nhỏ và ngược lại. Tình trạng tương tự tại các ngân hàng, trong trường hợp ngân hàng cho vay trung, dài hạn với lãi suất cố định, nếu lãi suất thị trường tăng thì ngân hàng cũng phải gánh chịu thiệt hại. Do đó, kể cả khách hàng và ngân hàng đều mong muốn chuyển đổi lãi suất từ cố định sang thả nổi tuỳ theo nhận định chiều hướng lãi suất thị trường. Tại Việt Nam, với sự ổn định tương đối của lãi suất cũng như có sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian dài khiến cho các doanh nghiệp, ngân hàng rất ít có nhận thức về việc phòng ngừa rủi ro lãi suất. Chính vì thế mà họ không “mặn mà” với các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn về lãi suất.
- Công nghệ ngân hàng chưa phát triển:
Công nghệ trong ngành ngân hàng Việt Nam thật sự còn yếu kém so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong thời gian này, các NHTMCP Việt Nam đang cố gắng phấn đấu tiếp cận các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại của các ngân hàng nước ngoài. Việc ứng dụng các phần mềm phục vụ cho quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng cũng còn hạn chế. Trong khi đó, việc hình thành và phát triển các sản phẩm phái sinh đòi hòi mạng lưới công nghệ phải cực kỳ tối tân.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng tốn kém rất nhiều chi phí. Ở mức trung bình cũng cần khoảng 2 triệu USD, ở mức cao hơn có thể xấp xỉ từ 5-10 triệu USD. Theo số liệu khảo sát ngày 17/11/2009, tại địa bàn TP.HCM chỉ có 32% số lượng ngân hàng ứng dụng công nghệ ở mức 70%, 12% ngân hàng đầu tư ở mức 30%-50%. Nguyên nhân xuất phát từ tiềm lực các ngân hàng chưa đủ mạnh, việc đầu tư quá nhiều tốn kém. Từ đó dẫn đến hệ lụy là dịch vụ ngân hàng chưa đa dạng và chưa sánh kịp với các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
52
- Nhân lực ngân hàng còn hạn chế:
Cùng với sự phát triển nhanh của ngành ngân hàng trong ba năm gần đây đã đẩy các ngân hàng Việt Nam rơi vào cuộc chạy đua về nguồn nhân lực. Các ngân hàng đều ra sức chiêu dụ nhân tài, kêu gọi người giỏi đầu quân. Suy cho cùng, nguồn nhân lực lúc nào và ở đâu cũng đóng vai trò khá là quan trọng. Tình cảnh khát nhân lực cũng không ngoại lệ đối với các NHTMCP. Nhân lực thiếu về số lượng và yếu về chất lượng là điều không thể tránh khỏi. Việc đưa vào áp dụng các sản phẩm phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTMCP vì thế mà gặp trở ngại. Với tính chất phức tạp, mới của sản phẩm buộc phải có đội ngũ nhân lực được đào tạo nhuần nhuyễn, chuyên sâu. Công tác đào tạo tại hầu hết các NHTMCP Việt Nam chỉ mới dừng lại ở các nghiệp vụ truyền thống và kỹ năng quản lý thông dụng. Nguồn nhân lực đang trong quá trình hội nhập và phát triển nên những kiến thức về thị trường tài chính hiện đại quả thật còn xa lạ. Bên cạnh đó, sự hạn chế về mặt ngoại ngữ của đội ngũ nhân lực tại các NHTMCP cũng là trở ngại không nhỏ trong việc lĩnh hội những kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất trên thế giới. Việc đưa vào áp dụng các công cụ này bước đầu mang tính chất nghiên cứu là chủ yếu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, tác giả khắc họa tổng thể toàn cảnh nền kinh tế Việt Nam cũng như cơ chế lãi suất đang được áp dụng. Cũng trong chương này, thực trạng vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam cũng được điểm qua. Thực tế, phần lớn các NHTMCP Việt Nam chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu, thực hiện thí điểm các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. Công tác quản trị rủi ro lãi suất ở hầu hết các NHTMCP Việt Nam bằng cách quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất, phân tích khe hở kỳ hạn nhằm điều chỉnh kịp thời chính sách lãi suất, giảm thiểu rủi ro. Thực tế, việc hạn chế vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất bắt nguồn từ một số các nguyên nhân từ phía vĩ mô lẫn vi mô. Từ chỗ phân tích các nguyên nhân tồn tại cũng như tìm hiểu thực trạng vận dụng là nền tảng cho việc tìm ra giải pháp phát triển các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam.
53
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH
TRONG QUẢN TRỊ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM
3.1 Bối cảnh vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam
3.1.1 Định hướng hội nhập trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng toàn cầu hoá ngày càng
ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng trong mọi lĩnh vực. Tài chính, tiền tệ là một trong những lĩnh vực vô cùng nhạy cảm và có tác động rất lớn đối với các lĩnh vực khác. Quá trình hội nhập trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ Việt Nam dần thực hiện thông qua việc tham gia khu mậu dịch tự do Asean (AFTA), diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ (BTA) và gần đây nhất là gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Theo đó, mọi hạn chế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ dần được tháo bỏ, thực hiện bình đẵng giữa các quốc gia, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức
tài chính trong và ngoài nước.
Theo lộ trình được cam kết trong BTA, từ tháng 12/2010 các ngân hàng
Mỹ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Mỹ tại Việt Nam, liên doanh góp vốn với Hoa Kỳ không thấp hơn 30% và không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Trước thời điểm 12/2010 và sau 3 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Mỹ có thể liên doanh với Việt Nam. Trong thời gian đầu,
Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Mỹ tại Việt Nam nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các pháp nhân, thể chế. Sau một thời gian nhất định (từ 8 đến 10 năm), các quy định này được bãi bỏ. Những hạn chế về việc phát hành thẻ tín dụng, đặt máy rút tiền tự động dần dần cũng được tháo gỡ.
Tiến trình tự do hoá trong lĩnh vực tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dần được thực hiện.
Việt Nam chính thức gia nhập WTO năm 2007 đánh dấu một bước ngoặt,
một sự kiện trọng đại trong hội nhập quốc tế. Các cam kết về lộ trình thực hiện trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng cũng được thông qua, chia làm 11 phân ngành và ngành trong đó bao gồm các sản phẩm phái sinh. Với xu thế tự do hoá, việc tiếp cận thị trường là không hạn chế ngoại trừ quy định các tổ chức tín dụng nước
54
ngoài chỉ được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình
thức sau:
- Đối với các ngân hàng thương mại nước ngoài: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thương mại liên doanh trong
đó phần góp vốn của bên nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh, công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài và kể từ ngày 1/4/2007 được phép thành lập ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tháng 09/2008,Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép
thành lập Ngân hàng TNHH 1TV HSBC (Việt Nam) với vốn đăng ký ban đầu là 3,000 tỷ đồng. Ngân hàng TNHH 1TV ANZ (Việt Nam), Ngân hàng TNHH 1 TV Standard Chater (Việt Nam), Ngân hàng TNHH 1 TV Holong (Việt Nam) cũng được cấp giấy phép hoạt động với tư cách ngân hàng 100% vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
- Đối với các công ty tài chính nước ngoài: văn phòng đại diện, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài, công ty cho thuê
tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với các công ty cho thuê tài chính nước ngoài: văn phòng đại diện, công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu
tư nước ngoài.
Việt Nam cũng cam kết trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi
bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn mà ngân hàng mẹ cấp cho chi nhánh phù hợp với lộ trình
cụ thể và bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2011, đối xử quốc gia đầy đủ.
Gia nhập WTO, Việt Nam cũng cam kết tham gia góp vốn dưới hình thức
mua cổ phần, tổng số cổ phần do các thể nhân và pháp nhân nước ngoài nắm giữ tại mỗi NHTMCP của Việt Nam không quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi Luật pháp Việt Nam có quy định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam.
Lúc đầu, việc thành lập chi nhánh của ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam cũng được hạn chế bởi các điều kiện cụ thể về tổng tài sản có của ngân hàng mẹ. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép mở các điểm
giao dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh của mình.
55
Như vậy, theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO có những hạn chế
nhất định trong việc hội nhập ngân hàng và các dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, xu hướng chung là vẫn hướng về tự do hoá, những rào cản dần được bãi bỏ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đối xử quốc gia đầy đủ. Vấn đề chỉ mang tính thời
gian và tất yếu diễn ra.
Trong xu thế hội nhập tài chính, tiền tệ toàn cầu, lãi suất dần tiến sát về cung - cầu thị trường, thể hiện giá thị trường của việc mua bán vốn. Thực tế, việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện
theo hướng “tự do hoá lãi suất” một cách thận trọng, từng bước phù hợp với đặc điểm kinh tế-xã hội, xu thế phát triển của thị trường tiền tệ, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào thị trường tài chính khu vực và thế giới. Từ năm 2000, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được đưa vào vận hành, gắn chặt với thị trường, thay
thế cơ chế “trần lãi suất cho vay”. Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cơ bản
làm cơ sở định hướng cho lãi suất trên thị trường.
Tháng 6/2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, đánh dấu bước
tiến quan trọng trong điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay ngoại tệ được xác định dựa trên nguồn cung và cầu về ngoại tệ trên thị
trường.
Trong bối cảnh cung và cầu tiền tệ có nhiều biến động như hiện nay, NHNN can thiệp trực tiếp vào lãi suất đồng nội tệ bằng cách ấn định lãi suất cơ bản và quy định lãi suất cho vay đối với hoạt động sản xuất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, cách thức này chỉ tồn tại tạm thời
nhằm bình ổn tiền tệ, điều tiết kinh tế vĩ mô và khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước phát triển. Khi tham gia vào sân chơi quốc tế và thị trường tài chính Việt Nam phát triển ở mức độ nhất định, lãi suất tất yếu phải do cung và cầu về vốn xác định. Điều này chắc chắn dẫn đến sự biến động của lãi suất. Với
một tỉ lệ thay đổi trong lãi suất cũng đủ ảnh hưởng đến lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và các doanh nghiệp nói chung. Phòng ngừa rủi ro lãi suất trong lúc này cần được nghiên cứu và xem xét một cách triệt để. Các NHTMCP Việt Nam cần làm gì và đón nhận như thế nào trước những biến động trong xu thế hội nhập toàn cầu nhằm tối đa hoá lợi ích luôn là câu hỏi cần lời giải đáp thấu đáo. Lúc này đây, các NHTMCP Việt Nam không thể cứ nhờ vào sự hỗ trợ từ NHNN mà phải tự mình “vận động” và có những cách thức quản
trị hiệu quả nhất nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
56
Từ những lý lẽ trên, xu thế toàn cầu hoá trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng Việt Nam đang đến gần. Các NHTMCP Việt Nam tham gia vào sân chơi này cần nhìn nhận lại mình một cách toàn diện, biết mình có những mặt mạnh, mặt yếu cũng như trong bối cảnh này mình có những cơ hội, thách thức như thế nào trong vận dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất. Phân tích ma
trận SWOT kết hợp với những nguyên nhân hạn chế sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất nhằm đưa ra những giải pháp khả thi trong việc quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam. Phân tích “nội thân” các
NHTMCP bên cạnh những thời cơ, thách thức cũng là cách để “biết mình” và không ngừng hoàn thiện, hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh, tận dụng thời
cơ, vượt qua thách thức.
3.1.2 Phân tích SWOT của các NHTMCP Việt Nam hiện nay trong việc vận
dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Bảng 3.1: Mô hình SWOT của các NHTMCP Việt Nam
Điểm yếu (Weaknesses)
Điểm mạnh (Strengths)
-Mạng lưới hoạt động rộng khắp, am hiểu văn hoá kinh doanh, thị phần rộng lớn (S1)
-Năng lực quản lý, điều hành, quản trị rủi ro còn hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại. Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém (W1).
-Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại (S2)
-Có sự quan tâm và hỗ trợ từ phía NHNN (S3)
-Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng. Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là hoạt động tín dụng, nợ quá hạn cao (W2).
- Khả năng sinh lời các NHTMCP thấp so các NHNNg. Công nghệ ngân hàng trong quản trị rủi ro chưa phát triển (W3)
Thách thức (Threats)
Cơ hội (Opportunities)
-Cơ hội nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm. Quản trị rủi ro hiệu quả (O1).
-Áp lực cạnh tranh, áp lực cải tiến không ngừng gia tăng trong việc tiến tới xây dựng mô hình ngân hàng hiện đại (T1).
-Thị trường tài chính phát triển nhanh, nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời (O2).
-Rủi ro hệ thống ngân hàng gia tăng, thách thức về nguồn nhân lực (T2)
-Nâng cao vị thế các NHTMCP Việt Nam trên trường quốc tế (O3).
57
a/ Điểm mạnh
- Mạng lưới hoạt động rộng khắp, am hiểu văn hoá kinh doanh, thị phần rộng lớn
Thế mạnh lớn nhất của các NHTMCP Việt Nam là mạng lưới hoạt động rộng khắp các tỉnh, thành trong cả nước nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa, tiếp
cận nhu cầu đa dạng của khách hàng. Sacombank với hơn 300 chi nhánh và phòng giao dịch khắp 45/63 tỉnh, thành trãi dài từ Bắc đến Nam. Ngoài ra, Sacombank còn vươn ra thị trường nước ngoài với 01 VPĐD tại Trung Quốc, 01
chi nhánh tại Lào và 01 chi nhánh tại Campuchia. Trong khi đó ACB đến cuối năm 2009 có khoảng 237 CN, PGD dịch tăng hơn 51 CN, PGD so với năm 2008. Hệ thống hoạt động của Techcombank cũng phủ khắp 24 tỉnh, thành trong cả nước. Eximbank cũng có hơn 140 CN, PGD. Nhìn chung, các NHTMCP Việt
Nam nhận thức rõ xu thế toàn cầu hoá và đã có bước chuẩn bị trong mở rộng mạng lưới hoạt động của mình để có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam.
Mỗi vùng, miền của đất nước có đặc thù, bản sắc văn hoá riêng biệt.
Không ai hết chính người Việt Nam thấu hiểu văn hoá kinh doanh tại mỗi vùng, miền của chính đất nước mình. Điều này cũng được xem là một lợi thế ngay tại “sân nhà” của các NTMCP Việt Nam. Thấu hiểu phong tục, tập quán kinh doanh
cũng là một trong những nhân tố quyết định thành công. Điểm mạnh này không phải bất kỳ một ngân hàng nào hoạt động tại Việt Nam đều có được.
Việc đi tắt, đón đầu cũng như am tường văn hoá kinh doanh đã nâng cao thị phần hoạt động bao gồm thị phần về tín dụng, huy động và dịch vụ của các
ngân hàng TMCP Việt Nam. Tính đến tháng 08/2008, tỉ trọng dư nợ của khối NHTMCP chiếm 39% tổng dư nợ, đứng sau khối NHQD (55% tổng dư nợ) trong khí đó nhóm NHNNg, liên doanh chỉ chiếm 4% tổng dư nợ. Tương tự, thị phần huy động vốn của nhóm ngân hàng trong nước cũng chiếm tỉ trọng cao hơn hẳn
so với khối NHNNg.
Các lợi thế trên nếu được phát huy trong bối cảnh hội nhập tài chính, tiền tệ sẽ tạo động lực, niềm tin trong việc vận dụng các công cụ phái sinh phòng
ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam. Các sản phẩm phái sinh được vận dụng không chỉ nhằm mục đích quản trị rủi ro lãi suất cho chính các ngân hàng mà còn đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, phục vụ nhu cầu khách hàng trong nước bao gồm cả khách hàng cũ và khách hàng tiềm năng. Phạm vi khách hàng
không thu hẹp tại các thành phố lớn mà vươn ra khắp các tỉnh, thành trên lãnh thổ Việt Nam. Điểm mạnh này khiến cho việc phổ biến những kiến thức về sản phẩm
58
phái sinh một cách rộng khắp và nhanh chóng. Khách hàng quan tâm và sử dụng
tạo điều kiện để các NHTMCP Việt Nam vừa có thể thu phí dịch vụ vừa có thể tham gia giảm thiểu rủi ro lãi suất trước những biến động khó lường của lãi suất.
- Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại
Sau gần 3 năm gia nhập WTO, hệ thống NHTMCP Việt Nam không ngừng mở rộng mạng lưới và lớn mạnh. Đội ngũ nhân viên cũng vì thế cũng tăng dần cả về số lượng và chất lượng. Thị trường nhân lực ngành tài chính, ngân hàng
cũng vì thế “nóng” lên và phần lớn là nhân lực trẻ. Tố chất của người trẻ vừa năng động, nhiệt tình, tận tụy và khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức chuyên ngành cũng như vận dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng trong nước tiến hành liên kết với các trường đại học, cơ sở
đào tạo nhằm cung ứng đầu vào cho các ngân hàng. Điểm mạnh này khiến cho việc tiếp thu những sản phẩm mới, khó một cách dễ dàng hơn và cũng chính điều này tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, đào tạo và triển khai các sản phẩm phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam khả thi hơn. Việc
tiếp cận nhanh các sản phẩm và ứng dụng tốt công nghệ ngân hàng của đội ngũ nhân lực trẻ tạo điều kiện cho việc các sản phẩm mới này.
- Có sự quan tâm và hỗ trợ từ phía NHNN
Sự quan tâm, hỗ trợ từ NHNN sẽ giảm dần theo tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng. Hiện tại, các ngân hàng trong nước nói chung và hệ thống NHTMCP nói chung được NHNN “bảo hộ” ở một mức độ nhất định. Trong những tình huống cần thiết, NHNN sẽ ra tay “cứu” để các NHTMCP không bị đổ
vỡ dây chuyền và ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh bình đẵng, các NHTMCP không thể dựa vào NHNN mà hoàn toàn không xét đến các tính hiệu quả trong việc điều hành, quản lý. Điểm mạnh này chỉ thật sự có tác dụng khi hệ thống NHTMCP gặp khó khăn về tài chính.
Trong điều kiện bình thường, các NHTMCP vẫn tự thân và thực hiện chiến lược kinh doanh riêng mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong việc phát triển các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất, NHNN có thể hỗ trợ các
NHTMCP bước đầu về cơ sở pháp lý để thị trường đi vào hoạt động ổn định.
b/ Điểm yếu - Năng lực quản lý, điều hành, quản trị rủi ro còn hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại. Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém.
Hiện tại, hệ thống NHTMCP Việt Nam thiếu nguồn nhân lực quản lý ở trình độ cao. Năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ lãnh đạo còn nhiều hạn
59
chế, chưa bắt kịp với xu thế phát triển nhanh và mạnh của thị trường tài chính. Cơ
cấu bộ máy quản lý còn cồng kềnh, chưa đánh giá đúng năng lực và sự đóng góp của từng nhân viên trong hoạt động ngân hàng. Ở nhiều ngân hàng, chỉ tiêu kinh doanh cho từng nhân viên chỉ mang tính trượng trưng, chưa đánh giá khả năng đóng góp của đội ngũ nhân lực. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng Việt Nam còn non trẻ nên thiếu kinh nghiệm trước việc ứng phó những tình huống phức tạp của thị trường.
Với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, sự phức tạp của thị trường tài
chính, tiền tệ buộc các ngân hàng không chỉ tập trung kinh doanh các sản phẩm truyền thống mà phải xây dựng chương trình quản trị rủi ro nhằm tạo lợi thế so sánh, tối đa hoá lợi nhuận. Nhìn chung, công tác quản trị rủi ro tại các NHTMCP Việt Nam có được xem xét nhưng việc thực thi còn hạn chế, phần lớn dừng lại ở
quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng. Việc quản trị rủi ro lãi suất cũng chưa thật sự hiệu quả và mang lại lợi ích mà mang tính chất đối phó tạm thời. Trước yêu cầu hội nhập, công tác quản trị trong mọi hoạt động ngân hàng cần được lưu tâm và thực hiện một cách đồng bộ, rộng khắp để các NHTMCP Việt Nam nâng
cao khả năng cạnh tranh so với các NHNNg.
Tại các NHTMCP Việt Nam, chính sách xây dựng thương hiệu chưa được chú trọng ngoại trừ những ngân hàng lớn như ACB, Sacombank. Hai ngân hàng
này đang có chiến lược xây dựng thành những tập đoàn tài chính lớn mạnh và tạo được thương hiệu mạnh tại Việt Nam. Việc quảng bá thương hiệu còn hạn chế là do tiềm lực tài chính các ngân hàng chưa mạnh. Mặc dầu vốn điều lệ các NHTMCP có tăng dần theo thời gian nhưng so với các ngân hàng trong khu vực
vẫn còn kém xa. Quy mô nhỏ, phát triển theo chiều rộng cũng chính là điểm yếu trong việc vận dụng các công cụ phái sinh tại các NHTMCP Việt Nam. Nguồn lực tài chính chưa đủ mạnh sẽ là nhân tố cản trở trong việc tiếp cận và áp dụng những sản phẩm hiện đại, phức tạp trong hoạt động của ngân hàng.
- Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng. Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao.
Đặc tính này được thể hiện thông qua thu nhập từ tín dụng chiếm phần lớn
trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng. Theo số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính năm 2008, khối NHTMCP chiếm khoảng 50%-60% thu nhập từ lãi. Các sản phẩm dịch vụ còn tập trung nhiều vào sản phẩm truyền thống. Cơ cấu thu nhập tập trung nhiều vào mảng tín dụng sẽ gây ra rủi ro, không đảm bảo cho sự
phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng. Hoạt động tín dụng vốn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, khi kinh tế ổn định, tín dụng tăng trưởng, gia tăng thu nhập
60
cho ngân hàng. Ngược lại khi kinh tế bất ổn, tín dụng thu hẹp làm sụt giảm thu
nhập ngân hàng. Vì thế, theo xu hướng chung, các NHTMCP đang từng bước điều chỉnh lại cơ cấu thu nhập của mình hướng vào các mảng hoạt động khác, đặc biệt là mảng dịch vụ, đầu tư như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư vào trái phiếu…Việc vận dụng các công cụ phái sinh cũng là nhằm mục đích đa
dạng hoá sản phẩm kinh doanh của ngành ngân hàng giúp giảm thiểu rủi ro lãi suất cho chính khách hàng và ngân hàng. Sản phẩm dịch vụ được đa dạng cũng là phương thức gia tăng lợi nhuận ngân hàng trong trường hợp lãi suất trên thị
trường có nhiều biến động ảnh hưởng đến thu nhập từ lãi vay.
Do nguồn thu nhập chính của các ngân hàng phát sinh từ tín dụng nên tỉ lệ nợ quá hạn luôn tồn tại ở các NHTMCP Việt Nam. Việc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng tất yếu dẫn đến việc kiểm soát các khoản vay thiếu chặt chẽ. Năm
2008, tỉ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam là 3,6% tổng dư nợ. Nguyên nhân này có thể lí giải do sự ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn, không đảm bảo khả năng thanh toán nợ vay; nguyên nhân xuất phát từ sự “đóng băng” của thị trường bất động sản. Trong tình huống,
tín dụng thắt chặt trong năm 2008 và đầu năm 2010 ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận ngân hàng. Trong bối cảnh này, lãi suất huy động tăng cao trong khi thu nhập từ cho vay không trang trãi đủ các chi phí hoạt động, chi phí vận hành, đẩy
mạnh tín dụng đồng nghĩa với việc giảm lợi nhuận ngân hàng. Chính khoảng thời gian này, các NHTMCP Việt Nam cần nhận thức gia tăng lợi nhuận từ việc cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ, phát triển các sản phẩm tài chính hiện đại.
- Khả năng sinh lời các NHTMCP thấp so các NHNNg. Công nghệ ngân hàng trong quản trị rủi ro chưa phát triển.
Do tỉ trọng thu nhập ngành ngân hàng Việt Nam tập trung quá nhiều vào sản phẩm tín dụng, tỉ lệ nợ quá hạn vì thế gia tăng. Khả năng quản trị, điều hành
còn hạn chế góp phần gia tăng chi phí hoạt động, ảnh hưởng đến khả năng sinh lời các NHTMCP Việt Nam. Năm 2008, NIM của nhóm NHTMCP có thương hiệu của Việt Nam giao động từ 2% đến 3,5%. Trong khi đó, NIM của các
NHNNg tại Việt Nam vượt trội. Nguyên nhân xuất phát từ việc quản trị rủi ro hiệu quả và thu nhập không tập trung chủ yếu vào tín dụng mà phân tán những mảng dịch vụ mà ngân hàng trong nước còn kém phát triển. Các sản phẩm phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất được triễn khai tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay
và là thế mạnh của chi nhánh các NHNNg như HSBC, ANZ, Standard Chartered…Điều dễ hiểu là các NNNg này đến từ những quốc gia có thị trường
61
tài chính phát triển, sản phẩm dịch vụ đa dạng và khả năng tiếp cận sản phẩm
mới, hiện đại một cách nhanh chóng.
Trong hội thảo Banking 2009, bà Dương Thu Hương nguyên phó thống đốc NHNN cho rằng “ Công nghệ hiện đại cho ngân hàng không phải là cái xa xôi, khó nhìn thấy gì cả, mà nó có thể đo được ngay, đếm được ngay. Nếu ngân
hàng đưa ra được dịch vụ mới gì thì đó chính là ứng dụng công nghệ mới”. Theo quan điểm chung tại hội thảo, công nghệ ngân hàng Việt Nam cần thiên về công tác quản trị rủi ro. Nhìn chung, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng còn nhiều
yếu kém, sản phẩm chưa đa dạng. Các sản phẩm ngân hàng điện tử như phone banking, home banking, mobile banking internet banking chưa thật phổ biến rộng khắp và chỉ dừng lại ở việc xem thông tin tài khoản, liệt kê giao dịch.
Trong nhóm NHTMCP hàng đầu Việt Nam, ACB tiên phong ứng dụng
công nghệ hiện đại trong hoạt động của mình trong khi các ngân hàng khác công nghệ còn khá đơn điệu và chưa theo kịp. Tuy nhiên, trong công tác kinh doanh tiền tệ và quản trị rủi ro việc ứng dụng công nghệ chỉ dừng lại ở công tác nghiên cứu và thử nghiệm. Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng, là nhân tố
không thể thiếu trong việc vận dụng các công cụ phái sinh, các sản phẩm tài chính hiện đại, phức tạp. Nhận thức tầm quan trọng này, các NHTMCP Việt Nam nổ lực cải tiến, đầu tư vào công nghệ ngân hàng nhằm bắt kịp với xu hướng toàn
cầu hoá đang đến gần.
c/ Cơ hội - Cơ hội nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm, quản trị rủi ro hiệu quả
Bước ra biển lớn, các NHTMCP Việt Nam đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới trong thời mở cửa. Việc kinh doanh trong môi trường cạnh tranh bình đẵng trước những đối thủ mạnh trong ngành đặt các NHTMCP Việt Nam không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm. Các sản phẩm
ngân hàng không chỉ dừng lại ở sản phẩm truyền thống. Theo tiến trình phát triển, các sản phẩm tài chính hiện đại phải được nghiên cứu và đưa vào hoạt động, gia tăng thu nhập cho ngân hàng. Song song cùng với sự phát triển các ngân hàng
trong nước bên cạnh các NHNNg tại Việt Nam tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm, trao dồi kỹ năng quản trị, điều hành, tiếp thu những kiến thức tiên tiến trên thế giới. Khi thị trường tài chính phát triển ở bậc cao thì công tác quản trị rủi ro cần phải được đề cao. Mỗi ngân hàng có một phân khúc thị trường riêng biệt và thị
trường đã bảo hoà thì lợi thế cạnh tranh thuộc về cách thức điều hành, quản trị phòng ngừa những rủi ro xảy ra ở mức thấp nhất.
62
- Thị trường tài chính phát triển nhanh, nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời
Hội nhập tài chính toàn cầu còn là một cơ hội lớn để thị trường tài chính Việt Nam hấp thụ những “tinh hoa” của thế giới. Sự tham gia ồ ạt các NHNNg tạo môi trường cạnh tranh và cải tiến liên tục, những phương cách hoạt động tiên tiến, sản phẩm dịch vụ đa dạng, công nghệ hiện đại ra đời. Thời gian phát triển
trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ được rút ngắn. Các tiện ích trong ngành ngân hàng thật sự đáp ứng cho nhu cầu toàn diện của khách hàng. Vận hội này nếu không nắm bắt và theo kịp thì nó trở thành thách thức, đó là sự thống lĩnh của các ngân
hàng ngoại trên thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam.
- Nâng cao vị thế các NHTMCP Việt Nam trên trường quốc tế
Thị trường tài chính Việt Nam phát triển, các NHTMCP Việt Nam được nâng tầm. Thế giới giờ đây biết đến Việt Nam với những tên tuổi hàng đầu như
ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam, ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng khắp Việt Nam…Trong hoàn cảnh này, sự tín nhiệm và hoạt động kinh doanh của NHTMCP không ngừng gia tăng vượt ra khỏi phạm vi của quốc gia. Lợi thế này không dễ dàng có được trong một thế giới “đóng”.
d/ Thách thức - Áp lực cạnh tranh, áp lực cải tiến không ngừng gia tăng
Câu ngạn ngữ “trong phúc có họa và trong họa có phúc” đúng trong trường
hợp này. Vận hội lớn tiềm ẩn những nguy cơ. Trong bối cảnh mà pha lẫn “truyền thống” và “hiện đại”, mức độ phát triển thấp và cao tất yếu dẫn đến cuộc chạy đua, không ngừng đổi mới. Các NHTMCP Việt Nam không thể cứ kinh doanh những sản phẩm truyền thống, theo những phương thức cũ mà phải hoà mình vào
thế giới sôi động, tích cực, năng động tiếp thu những kiến thức, lĩnh vực mới. Ứng dụng sản phẩm, công nghệ tiên tiến, hoạt động quản trị hiệu quả là cách để các ngân hàng trong nước tồn tại và phát triển. Các ngân hàng dừng lại tức là “tụt hậu” và thua ngay trên “sân nhà” trong cuộc chơi lớn này. Các NHNNg với cung
cách phục vụ tốt hơn, chuyên nghiệp hơn, sản phẩm đa dạng hơn, cách thức giải quyết khoa học hơn, quản trị rủi ro tốt hơn chắc chắn sẽ tạo được uy tín và thương hiệu trên thị trường hơn.
- Rủi ro hệ thống ngân hàng gia tăng, thách thức về nguồn nhân lực
Cuộc chơi lớn mở ra bên cạnh sự phát triển của thị trường tài chính mang theo những rủi ro khôn lường. Sản phẩm phái sinh phát triển nhưng mặt trái của nó là trong trường hợp sử dụng không nhằm mục đích quản trị rủi ro sẽ kéo theo
thiệt hại, ảnh hưởng xấu đến thị trường. Khủng hoảng tài chính thế giới 2007- 2008 cáo buộc sự phát triển các sản phẩm phái sinh. Thực chất cuộc khủng hoảng
63
này xuất phát từ những nghiệp vụ phức tạp trong việc đầu cơ giá hơn là phòng
ngừa rủi ro. Kinh tế vĩ mô trong nước chưa đủ lớn mạnh cùng với sự du nhập các sản phẩm tài chính phức tạp, khó kiểm soát và kiến thức về nó còn mập mờ chắc chắn là một thách thức lớn cho cả hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Ngoài ra, phát triển thị trường tài chính, tiền tệ không thể không nhắc đến
nguồn nhân lực. Nhân lực được xem là nhân tố quan trọng và quyết định sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Hiện tại, nguồn nhân lực trong lĩnh vực này của Việt Nam vừa thừa lại vừa thiếu. Trong khi nguồn nhân lực cấp cao, cấp trung
thiếu trầm trọng thì nhân lực cấp thấp lại thừa. Trong thời gian ngắn, Việt Nam không thể cung ứng đủ nhu cầu lớn về nhân lực của các ngân hàng trong và ngoài nước. Điều này tất yếu dẫn đến sự chảy máu chất xám, nơi nào có mức thu nhập, chế độ đãi ngộ tốt, môi trường thăng tiến sẽ thu hút người lao động hơn. Năm
2007, với sự ra đời hàng loạt các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty tài chính dẫn đến sự chạy đua thu hút nhân lực trong lĩnh vực này. Điều này tất yếu diễn ra và mức độ càng khốc liệt hơn khi có sự tham gia các NHNNg tại Việt Nam. Lẽ thường, tại các NHNNg tạo cơ hội thăng tiến, chế độ
đãi ngộ cho người lao động tốt hơn các NHTMCP Việt Nam. Ở một khía cạnh nào đó, thách thức về nhân lực là không hề nhỏ. Người lao động cảm thấy thoả mãn nhất tại các ngân hàng trong nước là cách để thu hút và cạnh tranh trong việc
phân bổ nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, những hạn chế về ngoại ngữ, kiến thức đào tạo cũng là trở ngại không nhỏ để các NHTMCP tiếp thu và ứng dụng các công nghệ, phương thức hoạt động, vận hành các sản phẩm phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất.
Trên đây là điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức mà NHTMCP Việt Nam nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung đối mặt khi tự do hoá tài chính. Từ những phân tích này, các NHTMCP cần khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh, tận dụng cơ hội và tránh khỏi những thách thức để có thể phát triển nhanh,
bền vững cũng như tận dụng một cách tốt nhất phương thức phòng ngừa rủi ro lãi suất trong điều hành, quản trị rủi ro của mình.
64
3.2 Các giải pháp vận dụng công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi
suất
3.2.1 Các điều kiện cần thiết để phát triển các công cụ tài chính phái sinh
trong quản trị rủi ro lãi suất tại Việt Nam.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực tế nghiệp vụ phái sinh tại các nước trên
thế giới cho thấy để hình thành và phát sinh các nghiệp vụ phái sinh cần tập
trung hoàn thiện các vấn đề sau:
3.2.1.1Điều kiện về thị trường
Việc hình thành và phát triển các nghiệp vụ phái sinh trước hết xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế. Khi nền kinh tế có quá nhiều bất ổn về lãi suất thì cần thiết có nhu cầu phòng ngừa rủi ro, đó cũng chính là điều kiện đầu tiên cho việc vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các
NHTMCP Việt Nam. Một thời gian dài NHNN Việt Nam can thiệp trực tiếp vào lãi suất, lãi suất chưa thật sự phản ánh cung, cầu thị trường với lí do bình ổn kinh tế vĩ mô. Trong tương lai gần, lãi suất sẽ tiến sát hơn với thị trường và biến động.
Cơ cấu tài trợ của các NHTMCP Việt Nam hiện tại mất cân đối. Lãi suất huy động ngắn hạn thì thay đổi theo từng thời điểm cung và cầu về vốn trên thị trường trong khi lãi suất cho vay trung, dài hạn ít thay đổi hoặc thay đổi rất ít so với sự thay đổi của lãi suất huy động. Sự thay đổi lãi suất này gây nên những rủi
ro không nhỏ cho hoạt động ngân hàng. Thời điểm năm 2008, tỉ lệ lạm phát gia tăng cùng sự thắt chặt tín dụng của NHNN đã khiến lãi suất trên thị trường gia tăng, mức trần lãi suất cho vay lên đến 21%năm trong khi lãi suất huy động ở mức cao nhằm thu hút lượng vốn nhàn rỗi đảm bảo khả năng thanh khoản. Trong
trường hợp này, cái giá phải trả cho việc huy động vốn ở mức cao trong khi lãi vay nhận được từ các hợp đồng ký kết trước đó thường cố định và ở mức thấp hơn. Hiện tại, sau một năm mở rộng tín dụng, kích thích tăng trưởng kinh tế của NHNN, các NHTMCP tái diễn cuộc chạy đua gia tăng lãi suất huy động nhằm
cân đối thanh khoản cũng như đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Với mức lãi suất cho vay 12%năm không trang trãi đủ chi phí huy động vốn 10,5% năm cũng như chi phí hoạt động của ngân hàng. Nhằm giảm thiểu rủi ro
lãi suất, các NHTMCP “lách Luật” đưa ra một tỉ lệ phí (phí quản lý tài sản) cộng thêm vào lãi suất cho vay. Tuy nhiên, khoản phí không dễ dàng thực hiện đối với các hợp đồng tín dụng đã ký kết trước đó. Rõ ràng, rủi ro lãi suất đang đến gần. Nhu cầu về phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam thật cấp thiết.
65
Đây chính là điều kiện đầu tiên cho việc lý giải nên vận dụng các công cụ phái
sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam.
Sự phát triển thị trường tiền tệ cũng là một yếu tố quan trọng. Các nhà kinh tế đã chỉ rõ sự phát triển của thị trường tiền tệ của quốc gia là bước tiền đề
để phát triển thị trường trái phiếu và thị trường tài chính phái sinh. Thị trường tiền tệ là nơi cung cấp những thông tin quan trọng về mức lãi suất ngắn hạn để hình thành đường cong lãi suất, là cơ sở dự báo lãi suất thị trường cũng như việc định giá các trái phiếu có lãi suất cố định và các hợp đồng phái sinh. Hiện tại, lãi
suất thị trường Việt Nam còn chưa phản ánh đúng cung và cầu thị trường và
chưa làm cơ sở hình thành đường cong lãi suất, độ cong lãi suất chưa nhiều.
Bên cạnh đó, sản phẩm phái sinh lãi suất phải được dựa trên các tài sản cơ
sở dựa trên lãi suất như là các trái phiếu. Thị trường chứng khoán thật sự sôi động thì thị trường trái phiếu phát triển và nâng cao khả năng thanh khoản. Do đó, việc vận dụng các sản phẩm phái sinh phụ thuộc vào độ lớn mạnh của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Sự phát triển thị
trường tiền tệ, thị trường vốn Việt Nam ở trình độ cao cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự ứng dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam. Với 10 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn tồn tại nhất định,
chưa thật sự phản ánh sức khỏe của nền kinh tế, tính thanh khoản của trái phiếu
trên thị trường chưa cao.
3.2.1.2Điều kiện môi trường pháp lý
Cơ chế pháp lý cho hoạt động thị trường phái sinh phải được quy định
một cách rõ ràng và khuyến khích sự hoạt động ổn định, cạnh tranh bình đẵng. Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng được thực thi khi có sự ban hành các văn bản pháp Luật. Hoạt động của các sản phẩm phái sinh phức tạp và gây ra những
tác động rất lớn đến nền kinh tế nên cần được xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi ban hành các văn bản pháp lý. Ngoài ra, việc tham gia thực hiện các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất buộc các đối tác phải tìm hiểu và ký kết hợp đồng khung ISDA do hiệp hội quốc tế về hoán đổi và phái sinh
đưa ra nhằm chuẩn hoá và hợp lý hoá các giao dịch phái sinh. Hợp đồng này bao gồm nhiều điều khoản chặt chẽ, nhằm giảm thiểu những tranh chấp pháp lý và rủi ro do biến động thị trường. Hợp đồng khung ISDA là một tiêu chí bắt buộc mà tất cả các bên phải ký kết trước khi tiến hành các giao dịch phái sinh, chuẩn
hoá các giấy tờ pháp lý cho các giao dịch này. Điều này giúp các bên trong hợp
66
đồng phái sinh không cần nghiên cứu quá nhiều văn bản khi có giao dịch phái
sinh phát sinh. Tại Việt Nam, các công ty và ngân hàng thường tiến hành giao dịch mà không ký ISDA do đó cả hai bên đều có nguy cơ về pháp lý khi xảy ra tranh chấp, mọi phán xét tuỳ thuộc vào quyết định cuối cùng của toàn án. Theo thông lệ quốc tế, để thực hiện các sản phẩm phái sinh, doanh nghiệp sẽ ký hợp
đồng ISDA (bao gồm hợp đồng khung và phụ lục hợp đồng) với ngân hàng. Hợp đồng khung là một văn bản khá phức tạp. Hiện tại NHNN cũng ban hành một số Thông tư, Quyết định cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phái sinh lãi
suất nhưng việc doanh nghiệp Việt Nam có thực hiện nghiệp vụ phái sinh này với ngân hàng nước ngoài không có hoạt động kinh doanh ở Việt Nam hay
không đến nay chưa có quy định cụ thể.
3.2.1.3Điều kiện về con người
Điều kiện không thể thiếu đó là sự hiểu biết của con người và cụ thể là nhân viên ngân hàng trực tiếp tham gia thực hiện giao dịch phái sinh. Các NHTMCP Việt Nam cần có đủ số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp triển khai nghiệp vụ phái sinh. Những nhân viên này
phải có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường, biến động thị trường, lãi suất, quy cách giao dịch, kỹ thuật định giá, các loại rủi ro có liên quan và Luật lệ thị trường. Để thấu hiểu những kiến thức này, nhân viên ngân hàng cần được đào tạo một cách bài bản và chuyên sâu, ứng xử linh hoạt trước những tình huống phức tạp của thị
trường. Có như thế mới có thể phổ cập kiến thức phái sinh đến các doanh nghiệp, khách hàng và đối tác. Các giao dịch phái sinh sẽ thực hiện một cách nhuần nhuyễn và giảm thiểu rủi ro cho khách hàng có nhu cầu. Nguồn nhân lực này không chỉ phục vụ cho hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh bảo hiểm rủi
ro lãi suất cho khách hàng mà còn giúp ngân hàng thực hiện phòng ngừa rủi ro
trong công tác quản trị lãi suất của chính mình.
3.2.1.4Điều kiện về công nghệ
Ngoài các yếu tố trên ra, việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc
biệt là công nghệ thông tin vào mọi hoạt động trên thị trường là một điều kiện hết sức quan trọng. Các giao dịch công cụ tài chính phái sinh vốn là những công cụ đòi hỏi kỹ thuật định giá phức tạp. Công nghệ hiện đại cần được nghiên cứu
và đưa vào áp dụng mới có thể xử lý dữ liệu, phân tích, định giá và đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời. Sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là không thể thiếu cho sự vận hành của các giao dịch phái sinh. Hệ thống dữ liệu là liên kết từ dữ liệu gốc và cho ra những thông tin hữu dụng đáp ứng cho việc quyết định
67
thực hiện giao dịch phái sinh. Hiện tại, các NHTMCP Việt Nam nhận thức rõ
tầm quan trọng của công nghệ trong quá trình hoạt động của mình nên đang tiến hành xây dựng cho mình lộ trình cụ thể đầu tư vào việc nghiên cứu những giải pháp công nghệ đáp ứng cho nhu cầu phát triển và ứng dụng các công cụ phái
sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
3.2.2 Về phía cơ quan quản lý
3.2.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý
Để tạo môi trường pháp lý cần thiết cho việc thực hiện các nghiệp vụ phái sinh tại các NHTM, Nhà nước cần ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh và phát triển các nghiệp vụ ngân hàng. Các văn bản pháp Luật ban hành phải đảm bảo tạo ra sự cộng tác đồng bộ của các cơ quan quản lý,
giám sát tiền tệ-ngân hàng, đồng thời hạn chế thấp nhất sự chồng chéo, thiếu nhất
quán trong hoạt động quản lý.
Về phía NHNN Việt Nam cần nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy
chế có liên quan đến việc thực hiện nghiệp vụ phái sinh tại các NHTM Việt Nam.
Cụ thể:
- Hạn chế can thiệp trực tiếp vào lãi suất
Lãi suất thị trường tương đối ổn định trong một thời gian dài cũng là trở lực cho việc hạn chế sử dụng các công cụ phái sinh tại các NHTMCP Việt Nam. Trong tương lai gần, NHNN cần để lãi suất thị trường vận hành theo cung, cầu
trên thị trường và chỉ can thiệp ở mức độ gián tiếp, cần thiết nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Tự do hoá lãi suất chính là cách để tạo tính khách quan của thị trường và tạo nền tảng cho thị trường tài chính vận động, phát triển. Biến động lãi suất xảy ra thì tất yếu tạo điều kiện cho nhu cầu phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTM
cũng như các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng tăng lên. Từ đó, việc áp
dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất là giải pháp khả thi.
Cũng nói thêm rằng, từ giữa tháng 4/2010 NHNN đã có “động thái” để lãi
suất thật sự tự do hoá, do cung cầu quyết định. Lãi suất thoả thuận từ trung, dài hạn và ngắn hạn đã là một cơ hội cạnh tranh giữa các ngân hàng và đồng thời tạo điều kiện để khách hàng, doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn một cách hiệu quả
nhất.
68
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thống nhất về nghiệp vụ phái
sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất cho các NHTM
Hiện tại, Quyết định số 62/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 ban hành
quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất. Ngoài ra, các nghiệp vụ khác liên quan đến phòng ngừa rủi ro lãi suất vẫn chưa được ban hành và hướng dẫn cụ thể như nghiệp vụ: kỳ hạn lãi suất, quyền chọn lãi suất, giao sau lãi suất…Cơ sở pháp
lý được thông qua mới tạo điều kiện cho các NHTMCP và khách hàng thấu hiểu, thực thi. Như vậy, các nghiệp vụ phái sinh này mới hạn chế được rủi ro pháp lý ở mức thấp nhất. Lúc đầu NHNN có thể cho phép các ngân hàng thực hiện thí điểm, sau đó sẽ nhân rộng đại trà không chỉ một vài ngân hàng mà ở hầu khắp các
ngân hàng, không chỉ ở các thành phố lớn mà lan ra các tỉnh, thành của đất nước.
Điều cần lưu ý là NHNN cần quy định các NHTM và khách hàng tham gia trong các nghiệp vụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất nên nghiên cứu và ký kết
các hợp đồng khung ISDA, làm cơ sở pháp lý cho các tranh chấp sau này.
- Hoàn thiện quy chế về tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD
Tỷ lệ quy đổi rủi ro cho các hợp đồng phái sinh cần được hình thành. Theo quy định của BIS, mức rủi ro của một danh mục các hợp đồng phái sinh đối với
ngân hàng gồm hai phần: rủi ro hiện tại và rủi ro tiềm năng. Rủi ro hiện tại được căn cứ vào các luồng thanh toán giữa các bên đối tác. Rủi ro tiềm năng của các hợp đồng phái sinh có tính đến xác suất mất khả năng thanh toán của các đối tác trong tương lai khi dự báo sự biến động của thị trường. Điều này lại phụ thuộc vào thời hạn và thời hạn còn lại của các hợp đồng phái sinh. Việc xác định mức rủi ro của danh mục các giao dịch phái sinh của ngân hàng là căn cứ để hình thành tỷ lệ quy đổi rủi ro đối với các giao dịch này cũng như tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro cho phù hợp. Xu hướng sử dụng các công cụ phái sinh để phòng
ngừa rủi ro lãi suất sẽ ngày càng phổ biến trong các NHTM.
- Hoàn thiện quy chế về chế độ kế toán
Đến nay, NHNN chỉ mới ban hành chế độ kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các TCTD: Quyết định số 29/2006/QĐ-NHNN ngày 10/07/2006 của Thống đốc NHNN; Công văn số 7404/NHNN-KTTC ngày 29/08/2006 của NHNN. Tiếp đến, với Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/04/2007 của
Thống đốc NHNN về Chế độ báo cáo tài chính đối với các TCTD, việc công bố thông tin về công cụ tài chính phái sinh trên báo cáo tài chính của các TCTD đã
69
ở mức đầy đủ, chi tiết cần thiết cho những ai quan tâm. Chế độ báo cáo này gần
như quán triệt tuyệt đối các chỉ tiêu cần công bố theo thông lệ quốc tế về trình bày báo cáo tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự. Đáng lưu ý là các thông tin về rủi ro lãi suất cũng được thể hiện rõ ràng trên báo cáo tài chính.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 7 của Luật kế toán về Nguyên tắc kế toán quy định các doanh nghiệp khi mua hay bán công cụ tài chính phái sinh thì ghi nhận: "Giá trị tài sản được tính theo giá gốc..." và nguyên tắc này được cụ
thể hóa bằng các quy định tại Chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành như: Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, tuy nhiên chưa có hướng dẫn trực tiếp về xử lý kế toán, về trình bày chỉ tiêu tài
chính có liên quan trên báo cáo tài chính đối với các nghiệp vụ mua, bán, giao dịch công cụ tài chính phái sinh nói chung và phái sinh về lãi suất nói riêng.
Nếu vận dụng các quy định hiện hành, quy trình xử lý kế toán tại doanh nghiệp như sau: khi doanh nghiệp mua tài sản là công cụ tài chính phái sinh, doanh nghiệp sẽ ghi nhận theo giá gốc; quá trình nắm giữ, nếu giảm giá có thể trích lập dự phòng rủi ro; khi bán hoặc tất toán công cụ tài chính phái sinh, chênh
lệch giữa giá bán và giá trị đang ghi sổ kế toán, doanh nghiệp sẽ được ghi doanh thu khác, chi phí khác. Thêm vào đó, trong công tác kế toán, phần lãi, lỗ thực tế phát sinh thì được chú trọng trong khi lãi, lỗ dự kiến thì chưa được quan tâm. Việc xử lý kế toán như vậy về công cụ tài chính nói chung và công cụ tài chính
phái sinh nói riêng không phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế. Những chỉ tiêu tài chính về công cụ tài chính cần phải trình bày trên báo cáo tài chính doanh nghiệp để cung cấp thông tin cho đối tác, cho người đầu tư, cho cơ quan quản lý... cũng
chưa có.
Đối với một vài TCTD đang thực hiện thí điểm mua, bán các loại công cụ
tài chính phái sinh khác (ngoài phái sinh ngoại tệ), TCTD phải tự vận dụng thông
lệ quốc tế cho việc ghi chép kế toán và xác định kết quả hoạt động kinh doanh.
Đặc biệt, hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam còn chưa có các chuẩn mực tương đồng với các chuẩn mực kế toán quốc tế về công cụ tài chính, đặc biệt
trong đó là các Chuẩn mực IAS 39 "Các công cụ tài chính: Ghi nhận và xác định giá trị"; IAS 32 "Công cụ tài chính: Thuyết minh và trình bày thông tin"; IFRS 7 "Các công cụ tài chính: công bố".
Việc thiếu vắng các tiêu chuẩn kế toán chất lượng cao để ghi nhận, đánh giá giá trị công cụ tài chính nói chung và công cụ tài chính phái sinh nói riêng sẽ
70
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xác định kết quả tài chính, đến quản trị rủi ro
tài chính của doanh nghiệp.
Khi các nghiệp vụ mua, bán, giao dịch về công cụ tài chính phái sinh ở quy mô lớn, khi các biến số cơ sở giao động mạnh, mức độ sai lệch của số liệu kế
toán sẽ lớn và hậu quả xấu có thể không tính được đối với bản thân doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế. Vấn đề cấp bách đặt ra là hoàn thiện chế độ kế
toán Việt Nam, hướng theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Giải pháp lựa chọn để hoàn thiện chế độ kế toán Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và quản trị rủi ro của doanh nghiệp; giám sát an toàn thị trường của cơ quan quản lý nhà nước là hài hòa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế.
Bộ Tài chính cần phải sửa đổi những quy định không phù hợp của Luật Kế toán, của Chế độ kế toán doanh nghiệp đồng thời xây dựng bổ sung các
chuẩn mực kế toán Việt Nam về công cụ tài chính phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Những nguyên tắc kế toán không trọng yếu có thể vận dụng riêng cho Việt Nam nhưng những nguyên tắc trọng yếu cần đảm bảo hoà hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Có như thế, chế độ kế toán Việt
Nam tạo điều kiện thuận lợi, tháo gở vướng mắc trong việc hạch toán các nghiệp vụ phái sinh.
Bên cạnh đó, lãi thu được từ việc thực hiện nghiệp vụ phái sinh cũng phải tính thuế trong khi bản chất các công cụ này là nhằm mục đích chính phòng ngừa rủi ro. Điều này chưa khuyến khích các công cụ phái sinh phát triển. Trong thời gian tới, NHNN cùng Bộ tài chính cùng phối hợp tháo gở rào cản này để việc thực hiện các nghiệp vụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất được thực thi một
cách thuận tiện nhất.
- Hoàn thiện quy chế về thanh tra, giám sát
Công tác thực hiện các nghiệp vụ phái sinh tại các NHTMCP cần phải
được NHNN thanh tra, giám sát. Hoạt động này nhằm mục đích kiểm soát, xem xét tính đúng đắn, hợp lý trong việc thực thi của các NHTM. Thế nên, NHNN cần sớm ban hành các quy chế hướng dẫn công tác thực hiện này để các nghiệp vụ
phái sinh hoạt động theo đúng nghĩa của nó với tinh thần phòng ngừa rủi ro xảy ra, giảm thiểu rủi ro chứ không nhằm mục tiêu đầu cơ, hưởng chênh lệch giá. Công tác thanh tra phải được thực hiện định kỳ, liên tục nhằm kiểm soát tốt nhất việc vận dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất, tránh tình trạng
71
đầu cơ ồ ạt với giá trị lớn gây xáo trộn thị trường. NHNN có thể quy định các giới
hạn giá trị giao dịch tối đa của mỗi nghiệp vụ đối với mỗi ngân hàng nhằm ngăn
chặn sự lạm dụng gây ra hậu quả xấu cho nền kinh tế.
3.2.2.2Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính, tiền tệ theo chiều sâu
Như đã trình bày ở phần trên, chiều sâu của thị trường tài chính, thị trường
tiền tệ của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế vĩ mô, thị trường là một trong những điều kiện cần thiết để phát triển các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất. Vậy nên, Việt Nam cần thiết phát triển thị trường tài chính và thị trường tiền tệ theo chiều sâu. Khi thị
trường tiền tệ được phát triển thì các mức lãi suất ngắn hạn sẽ được tham chiếu dùng để hình thành nên đường cong lãi suất. Thị trường tiền tệ có sôi động thì mới kéo theo sự phát triển của thị trường vốn. Thị trường tài chính bao gồm thị
trường tiền tệ và thị trường vốn. Nhà nước cần tạo điều kiện để thị trường chứng khoán có nhiều sức bật, thật sự phản ánh sức khỏe của nền kinh tế, là kênh huy động vốn đầu tư cho các công ty cổ phần, khuyến khích và gia tăng nguồn cung chứng khoán trên thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam gần 10 năm phát
triển cũng đạt được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên quy mô thị trường còn thật nhỏ bé cộng với tâm lý đầu tư bầy đàn. Do đó, độ sâu của thị trường chứng khoán còn yếu.
Trong khi đó, thị trường trái phiếu kém sôi động, chủng loại và kỳ hạn trái
phiếu chưa đa dạng, chưa thật sự thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư. Bởi thế, Nhà nước cần có những giải pháp thiết thực nhằm kích thích sự tăng trưởng của thị trường trái phiếu theo chiều sâu để nó thực sự là kênh tài trợ vốn trung dài hạn cho Chính phủ và doanh nghiệp. Trên thị trường trái phiếu, các trái phiếu Chính
phủ phát hành chiếm một vị trí rất quan trọng vì nhu cầu thị trường là có và tính thanh khoản cao.
3.2.2.3Hiện đại hóa hạ tầng thanh toán liên ngân hàng
Các nghiệp vụ phái sinh dựa rất nhiều vào hạ tầng viễn thông và công nghệ
thông tin. Hệ thống ngân hàng hiện đại muốn phát triển cần dựa trên hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin ở mức chi phí thấp. Xu thế hội nhập khiến các doanh nghiệp viễn thông ngày càng cạnh tranh trong lĩnh vực này và làm cho
khoảng cách chi phí giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng thu hẹp. Nhà nước cần có những chính sách cụ thể nhằm giảm thấp chi phí viễn thông. Có như thế mới gia tăng tính cạnh tranh của ngân hàng trong việc phát triển các sản phẩm tài chính hiện đại.
72
Hệ thống thanh toán liên ngân hàng hiện tại cũng đạt được kết quả khả thi.
WB đã tài trợ 105 triệu USD cho dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, các NHTM Việt Nam đã xây dựng trục thanh toán quốc gia hiện đại, đáp ứng được yêu cầu tự động hoá, tập trung vốn trong thanh toán, tạo điều kiện để các NHNN kiểm soát các khoản vốn dự trữ, giảm lượng vốn trôi nổi, tăng tốc độ
quay của nguồn vốn và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Hiện tại, trên 40 ngân hàng đang triển khai và phát triển hệ thống ngân hàng lõi, nâng cao chất lượng dịch vụ nhưng phần lớn tập trung vào các
ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh. Từ kết quả gặt hái này, các NHTM Việt Nam cần phát huy và phát triển mạnh mạng lưới trên cũng như ngày càng tăng tính liên kết giữa các ngân hàng nhằm tạo nền tảng cho sự ra đời các sản phẩm tài chính hiện đại trong đó có các công cụ phái sinh. Sản phẩm phái sinh phòng ngừa
rủi ro lãi suất không chỉ được triển khai giữa khách hàng-ngân hàng mà còn được thực hiện giữa các ngân hàng trong hệ thống với nhau.
3.2.3 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần
3.2.3.1Nâng cao nhận thức đội ngũ quản lý ngân hàng về vận dụng sản phẩm phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Trong xu thế tự do hoá lãi suất và những thiệt hại mà biến động lãi suất gây ra cho các NHTM là không nhỏ, các cấp lãnh đạo ngân hàng cần nhận thức
sự cần thiết của việc vận dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất. Các NHTM cần nhận thức một cách đầy đủ những tác động tích cực cũng như hiểu rõ bản chất các công cụ phái sinh một cách tường tận. Việc này được thực hiện trước tiên ở ban điều hành, cán bộ quản lý cấp cao. Từ đó triển khai xuống cấp thấp hơn hình thành nên văn hoá quản trị rủi ro tại ngân hàng. Nếu một ngân hàng thực hiện tốt, mang lại hiệu quả cao thì chắc chắn sẽ tạo sức lan toả sang các ngân hàng khác hình thành nên mắc xích quản trị rủi ro của cả hệ thống ngân hàng.
3.2.3.2Tâm lý trách nhiệm
Ở Việt Nam, việc quy trách nhiệm cho bộ phận chuyên trách chịu một sức ép nặng nề. Thật chất phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng các công cụ phái sinh nhằm tối thiểu hoá những thiệt hại gây ra nếu có biến động lãi suất, nó mang tính chất
là bảo hiểm hơn là đầu cơ. Thế nên, trong tình huống lãi suất thị trường biến động theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng thì chính việc phòng ngừa rủi ro đã không mang lại lợi ích như mong đợi. Điều này được quy trách nhiệm cho bộ phận trực
tiếp thực hiện. Trong tình huống ngược lại thì họ không được tán thưởng. Nói
73
chung, tâm lý trách nhiệm quá nặng nề cho những người thực hiện: làm lợi không
được công nhận trong khi không mang lại lợi ích như mong muốn thì bị quy trách nhiệm. Do đó, các NHTMCP cần có sự thảo luận ngay từ đầu về việc quy định trách nhiệm một cách rõ ràng xem có nên thực hiện hay không việc quản trị rủi ro lãi suất. Thẩm quyền thực hiện này thuộc về hội đồng quản trị ngân hàng. Cán bộ
quản lý ngân hàng cần thấu hiểu và quán triệt giữa đầu cơ và quản trị rủi ro. Quản trị rủi ro lãi suất là chấp nhận một mức rủi ro vừa phải và phải bỏ ra một khoản phí để mua sự “an tâm”.
3.2.3.3Đào tạo nguồn nhân lực ngân hàng
Trong bất kỳ ngành nghề nào, nguồn nhân lực luôn là yếu tố quan trọng. Trong lĩnh vực ngân hàng, nguồn chất xám này trở thành nhân tố tiên quyết cho sự phát triển nhanh, bền vững và mang tính cạnh tranh cao. Việc thấu hiểu các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng và vận dụng một cách chuyên nghiệp vào thực tiễn, nâng cao chất lượng phục vụ của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực.
Như đã đề cập ở trên, nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng còn khá
hạn chế về kiến thức và cách vận hành các sản phẩm mới này. Hầu hết tại các NHTMCP Việt Nam, số lượng nhân viên thông hiểu sản phẩm phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất ở mức độ rất thấp. Vì vậy, trong bối cảnh này các NHTMCP Việt Nam cần đào tạo một cách bài bản những kiến thức cơ bản về sản
phẩm này cho nguồn nhân lực ngân hàng. Các NHTMCP có thể gửi nhân viên ra nước ngoài đào tạo hoặc đào tạo tại chỗ đáp ứng cho việc vận hành nghiệp vụ mới này. Công tác đào tạo được thực hiện từ phổ biến kiến thức tổng quát đến nâng cao, chuyên sâu, hướng dẫn cách vận hành, ứng dụng công nghệ ngân hàng,
theo dõi, xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra. Việc đào tạo từ hạt nhân sau đó sẽ trải khắp nhân viên ngân hàng trên toàn hệ thống thông qua các trung tâm đào tạo tại các NHTMCP Việt Nam.
Các NHTM cần chú trọng công tác tuyển dụng, chiêu mộ những nhân viên giỏi, năng động. Để điều này có thể thực hiện tốt, NHTM cần xây dựng một chính sách cụ thể như tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, chế độ phúc lợi cạnh tranh, tạo điều kiện cho sự thăng tiến và phát triển nghề nghiệp, khuyến khích
nhân viên tận tụy và nâng cao sức sáng tạo, cống hiến cho ngân hàng.
74
3.2.3.4Phổ biến rộng rãi các kiến thức về sản phẩm phái sinh lãi suất
Để hình thành và phát triển các nghiệp vụ phái sinh, doanh nghiệp vừa là đối tác lại là khách hàng của các NHTM. Thế nên, các doanh nghiệp cần thiết phải được trang bị, phổ biến những kiến thức liên quan đến các sản phẩm phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất. Do đó, các NHTMCP Việt Nam cần tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi về những ưu việt, cũng như các vấn đề kỹ thuật liên quan các công cụ phái sinh. Điểm mạnh của các NHTMCP là mạng lưới hoạt động rộng khắp. Điều này hỗ trợ đắc lực trong việc truyền bá các sản phẩm phái sinh đến với khách hàng khắp các tỉnh, thành trong cả nước một cách nhanh
chóng. Bên cạnh các phương pháp tuyên truyền trực tiếp, các NHTMCP Việt Nam có thể sử dụng các hình thức như đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử, xây dựng cẩm nang, tờ rơi, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, hội nghị khách
hàng… nhằm giới thiệu những sản phẩm mới này. Ngoài ra, trung tâm đào tạo các ngân hàng cũng có thể phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức những khoá đào tạo ngắn hạn phổ biến những kiến thức cơ bản về phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng các công cụ phái sinh.
3.2.3.5Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Trong hoạt động ngân hàng, công nghệ ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển sản phẩm, chất lượng sản phẩm, cách thức tổ chức và quản lý rủi ro của ngân hàng. Bên cạnh sự khuyến khích hạ tầng hệ thống liên ngân hàng phát triển
của Chính phủ, các NHTM cần có những đầu tư nhất định về vốn và nhân lực để hiện đại hoá công nghệ. Bởi vì việc phát triễn các sản phẩm phái sinh đòi hỏi công nghệ ngân hàng phải phát triển ở mức độ cao mới có thể cung cấp, xử lý thông tin và ra quyết định một cách kịp thời. Công tác hiện đại hoá ngân hàng đi
đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực có thể hiểu và vận hành tốt hệ thống này. Bởi thế, vốn và nhân lực là hai yếu tố không thể thiếu cho việc hiện đại hoá ngân hàng. Cán bộ lãnh đạo các ngân hàng cần quyết định đầu tư cho hệ thống công nghệ thông suốt làm nền tảng cho sự phát triển nhanh, mạnh các công cụ phái
sinh về lãi suất.
3.2.3.6Xây dựng chương trình quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng.
Các NHTMCP cần thiết lập cho mình một chương trình quản trị rủi ro lãi suất. Nội dung cơ bản của chương trình này là việc kết hợp chuyển đổi linh hoạt
các quyết định kinh doanh với dự báo biến động lãi suất và sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, giao sau. Chương trình này thực hiện linh hoạt và ứng phó tùy theo tình huống cụ thể
75
của thị trường. Bộ phận hoặc phòng quản trị rủi ro lãi suất sẽ phụ trách thực hiện
theo yêu cầu của ALCO và ban tổng giám đốc.
Trong chương trình quản trị rủi ro lãi suất, các NHTMCP cần thiết xây dựng hệ thống các hạn mức và các văn bản hướng dẫn hoạt động rủi ro cho toàn hệ thống của ngân hàng.Việc quản trị rủi ro phải bắt đầu từ cấp cao nhất là hội
đồng quản trị thực hiện và phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận chuyên trách như ban giám đốc, phòng quản lý rủi ro, ban kiểm toán nội bộ...
Quy trình quản trị rủi ro lãi suất bao gồm các bước: Nhận dạng rủi ro: - Rủi ro lãi suất có thể xuất hiện từ nhiều nguồn khác nhau, hệ thống đo lường thì đa dạng trong cách tiếp cận rủi ro. Trước nhất, phòng quản lý rủi ro cần tìm hiểu và xem xét bản chất cũng như độ phức tạp của các sản phẩm để có thể
nhận dạng rõ ràng nguyên nhân của rủi ro lãi suất tồn tại. Sau đó, phòng quản lý rủi ro cần lập hệ thống đo lường rủi ro lãi suất, đánh giá tác động của rủi ro lãi suất đối với toàn bộ hoạt động của ngân hàng, nhận diện và có thể định lượng được những nguyên nhân chính gây nên rủi ro lãi suất.
Đo lường rủi ro: - Việc nhận dạng rủi ro cần thiết phải xây dựng những phương cách có thể đo lường được những rủi ro gặp phải từ đó có thể xác định được những tác động
của rủi ro lãi suất gây ra. Ban điều hành cần có cái nhìn tổng quan về rủi ro trên tất cả các mặt từ các bộ phận kinh doanh và sản phẩm kinh doanh của ngân hàng để có thể đo lường rủi ro một cách tổng quát. Hệ thống đo lường này cũng cần nêu rõ được các nguồn gây nên rủi ro như: rủi ro tái định lãi suất, rủi ro đường
cong lợi nhuận, rủi ro quyền chọn... Cũng nên lưu tâm rằng tác dụng của kỹ thuật đo lường này phụ thuộc vào thời hạn các giả định và mức độ chính xác áp dụng các phương pháp đo lường. Trong quá trình xây dựng hệ thống đo lường này, các ngân hàng cần phải đảm
bảo rằng mức độ chi tiết về bản chất của các hạng mục nhạy cảm lãi suất phải tương thích với mức độ phức tạp và mức độ rủi ro ẩn trong các hạng mục này. Một đặc tính không kém phần quan trọng trong việc đo lường rủi ro này là
tính toàn diện và kịp thời của các hạng mục hiện hành. Ngân hàng cũng cần đảm bảo rằng tất cả các hạng mục đều phải được cập nhật kịp thời vào hệ thống đo lường rủi ro. Để kết quả đo lường tương đối chính xác, ban quản lý điều hành cấp cao của ngân hàng cũng cần hiểu rõ các giả định trong hệ thống cũng như
các kỹ thuật mô phỏng phức tạp được áp dụng vì những điều nảy ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đo lường.
76
- Giám sát rủi ro:
Công tác giám sát rủi ro nhằm đảm bảo rằng tình hình quản lý rủi ro hiện tại và tiềm năng là nhất quán với mục tiêu đặt ra. Việc giám sát này được thực thi thông qua một chiến lược giám sát rõ ràng và báo cáo tình hình thực hiện rủi ro lãi suất mà ngân hàng đang đối mặt với ban điều hành, hội đồng quản trị.
Kiểm soát rủi ro: - Việc giám sát rủi ro nội bộ của ngân hàng đảm bảo chức năng an toàn và hợp lý của quá trình quản lý rủi ro lãi suất cũng như của tổ chức. Công tác kiểm
soát rủi ro là thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát sự tuân thủ các chuẩn mực và tách bạch trách nhiệm một cách hợp lý.
Quá trình kiểm soát hiệu quả bao gồm kiểm toán và cấu trúc hạn mức rủi ro. Việc kiểm toán nhằm kiểm tra lại các bước thực thi trong quy trình để có
hướng xử lý kịp thời. Công tác kiểm toán bao gồm kiểm toán nội bộ thường xuyên và kiểm toán độc lập bên ngoài theo định kỳ. Hạn mức rùi ro là hạn mức cho phép việc chịu đựng của các rủi ro. Hạn mức này xây dựng dựa trên rất nhiều yếu tố như vốn, thu nhập của ngân hàng và được điều chỉnh theo từng thời
kỳ.
Các NHTMCP xây dựng cho mình quy trình quản trị rủi ro lãi suất cụ thể, các bước cần tiến hành trong việc ứng phó với những rủi ro về lãi suất dự kiến
xảy ra. Để có những hành động kịp thời trước những biến động khó lường của lãi suất cần thiết lập các công cụ dự báo lãi suất hiệu quả. Các công cụ đó nhằm vạch rõ xu hướng biến động của lãi suất để kịp thời có những cách phòng ngừa hiệu quả.
3.2.3.7Tăng cường cơ chế kiểm soát nội bộ
Kiểm soát nội bộ nhằm mục đích giám sát việc thực thi công tác quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam. Đó là một bộ phận trung lập có trách nhiệm kiểm soát, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất khi vận hành hệ thống quản trị
rủi ro lãi suất không đúng với quy trình đề ra.
Rủi ro do thiếu kiểm soát hoặc kiểm soát không đầy đủ có xu hướng tăng lên khi thị trường ngày càng phức tạp hơn. Các NHTM cần phải đảm bảo rằng các nghiệp vụ phái sinh được thực hiện trong một giới hạn cho phép, đảm bảo
rằng các rủi ro thực tế và rủi do dự kiến được thẩm định một cách độc lập. Rủi ro với từng đối tác được xem xét và kiểm tra lại một cách thường xuyên. Trong trường hợp lãi suất biến động, các rủi ro tín dụng phải được tái đánh giá nhằm xem xét nó có nằm trong giới hạn được đặt ra hay không. Công tác kiểm toán nội
77
bộ là cách kiểm tra lại mọi vấn đề về kỹ thuật, vận hành để hạn chế rủi ro một
cách kịp thời.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Trên cơ sở phân tích thực trạng quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam cũng như những nguyên nhân tồn tại, định hướng hội nhập trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, tác giả tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam một cách hiệu quả. Các giải pháp được chia làm hai nhóm đứng trên giác độ Nhà nước và ngân hàng. Việc phối hợp thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên góp phần cho việc vận dụng các công cụ phái sinh vào trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam thành hiện thực.
Chính sự vận dụng các công cụ phái sinh vào trong quản trị rủi ro lãi suất một phần hạn chế tác động xấu đến lợi nhuận của ngân hàng do ảnh hưởng của biến động lãi suất đồng thời đa dạng hoá các nghiệp vụ trên thị trường tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTMCP Việt Nam.
78
KẾT LUẬN
Năm 2007, các NHTM Việt Nam phát triển vượt bậc, hoạt động tín dụng được đẩy mạnh cùng sự phát triển của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Trên đà phát triển, các NHTM Việt Nam không ngừng gia tăng chất lượng phục vụ cũng như sự “nở rộ” các kênh phân phối (chi nhánh, phòng giao dịch). Hoạt động các NHTM không ngừng được mở rộng và tín dụng vẫn luôn chiếm tỉ trọng cao trong kinh doanh ngành ngân hàng. Sự bình ổn lãi suất của nền kinh tế Việt Nam kéo dài trong một thời gian với sự điều tiết trực tiếp của Nhà nước. Sự ổn định này hoàn toàn không khơi gợi được ý thức về việc xây dựng một chương trình quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng.
Bước sang năm 2008 và 2009, tuy mức độ hội nhập kinh tế của Việt Nam chưa cao nhưng kinh tế cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế, tài chính trên thế giới. Ngành tài chính, ngân hàng vốn nhạy cảm trước những biến động. Trong năm 2008, ngành ngân hàng Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự suy thoái kinh tế. Cùng với sự gia tăng của lạm phát, sự thiếu hụt nguồn vốn huy động, sự gia tăng tính thanh khoản lãi suất ngân hàng không ngừng gia tăng. Việc gia tăng lãi suất cho vay trong thời gian này nhằm bù đắp sự gia tăng của lãi suất huy động. Tuy nhiên, các hợp đồng tín dụng ký kết trước đó ngân hàng vẫn cho vay với mức lãi suất thấp theo hợp đồng. Do đó, rủi ro lãi suất làm giảm khả năng sinh lãi của ngân hàng là hoàn toàn có thể xảy ra. Các NHTMCP Việt Nam đang đứng trước câu hỏi lớn: Làm gì để giảm thiểu những rủi ro mà biến động lãi suất gây ra? Đề tài vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam nhằm đi tìm một khía cạnh của lời giải đáp trên. Những kết quả đạt được của luận văn như sau:
1. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về lãi suất, rủi
ro lãi suất, quản trị rủi ro lãi suất. Tác giả cũng nghiên cứu, phân tích tổng quan
về các công cụ phái sinh cũng như vận dụng các công cụ phái sinh trong phòng
ngừa rủi ro của lãi suất.
2. Qua luận văn, người đọc nắm bắt được thực trạng phát triển song song với
công tác quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP Việt Nam. Luận văn cũng phân
tích những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân còn tồn tại của việc vận dụng
công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các ngân hàng Việt Nam.
79
3. Cuối củng, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần
vận dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các NHTMCP
Việt Nam. Cụ thể như sau:
- Các NHTMCP Việt Nam cần định vị rõ mình đang ở đâu với điểm mạnh,
điểm yếu, thời cơ và thách thức như thế nào để có thể triển khai từng bước một từ
việc nhận thức, thấu hiểu một cách sâu sắc các sản phẩm phái sinh và đào tạo
nguồn nhân lực kế thừa nhằm lĩnh hội và vận dụng những kiến thức tài chính hiện
đại này vào trong chương trình quản trị rủi ro lãi suất của chính mình.
- Luận văn cũng kiến nghị, đề xuất với các cơ quan quản lý Nhà nước có
liên quan thiết lập, hoàn thiện những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc hình thành
và phát triển các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các
NHTMCP Việt Nam.
Tuy nhiên, do khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên
những giải pháp trình bày trong luận văn này chắc chắn có những thiếu sót và
chưa giải quyết một cách thấu đáo. Kính mong quý thầy, cô và những ai quan
tâm đến vấn đề “Vận dụng công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các
NHTMCP Việt Nam” tham gia đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nữa vấn đề
nghiên cứu.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt: 1. TS. Phan Văn Thưởng (Chủ biên), Lý thuyết tài chính và tiền tệ, Học Viện
Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông, 2000.
2. TS.Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản
thống kê, 2002.
3. Sử Đình Thành, Vũ Minh Hằng, Nhập môn tài chính tiền tệ, Nhà Xuất Bản
Lao Động Xã Hội, 2008
4. PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, Tài Chính Quốc Tế, Nhà Xuất Bản Thống Kê,
2005
5. TS. Nguyễn Minh Kiều, Tài Chính Công Ty, Nhà Xuất Bản Thống Kê,
2006
6. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, Quản trị rủi ro tài chính, Nhà xuất bản thống
kê, 2007
7. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà Xuất Bản
Tài Chính, 2008.
8. PGS.TS Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp Vụ Ngân hàng Thương Mại, Nhà
Xuất Bản Thống Kê, 2008
9. TS. Nguyễn Hữu Tài, Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ, Nhà Xuất Bản Kinh
Tế Quốc Dân, 2008
10. PGS.TS Nguyễn Quang Thu, Quản Trị Rủi Ro và Bảo Hiểm trong doanh
nghiệp, Nhà Xuất Bản Thống Kê, 2008.
11. PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Ngân Hàng Thương Mại, Nhà Xuất Bản Đại
Học Kinh Tế Quốc Dân, 2007
12. GS.TS Vũ Văn Hóa, PGS.TS Đinh Xuân Hạng, Lý Thuyết Tiền Tệ, Nhà
Xuất Bản Tài Chính, 2007
13. Phạm Minh Chính, Vương Minh Hoàng, Kinh tế Việt Nam thăng trầm và
đột phá, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2009.
14. Tiến sĩ Nguyễn Kim Anh, thạc sĩ Nguyễn Hồng Thắng, Nhìn lại lộ trình tự
do hoá lãi suất của Việt Nam, học viện ngân hàng
15. Tiến sĩ Đỗ Quang Trị, Đổi mới điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam,
số 07/2006, tạp chí ngân hàng.
16. Tiến sĩ Đỗ Thị Kim Hảo, Sử dụng các công cụ tài chính phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, học viện ngân hàng.
17. Võ Hùng Dũng, Diễn biến chỉ số giá hàng tiêu dùng từ 1976 đến 2008. 18. Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định 165/HĐBT, 23/09/1982. 19. Hội đồng Bộ trưởng, quyết định 119/HĐBT, 04/10/1986.
81
20. Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định 99/HĐBT, 29/06/1987. 21. Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định 53/HĐBT, 26/03/1988. 22. Hội đồng nhà nước, pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(PL37/HĐNN), 23/05/1990.
23. Hội đồng nhà nước, pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty
tài chính (PL38/HĐNN), 23/05/1990.
24. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 381/QĐ-NH1, 28/12/1995. 25. Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật Ngân hàng Nhà nước số
06/1997/QHX, 12/12/1997.
26. Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX,
12/12/1997.
27. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 39/1998/Q Đ-NHNN1, 17/01/1998. 28. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 241/2000/Q Đ-NHNN1, 02/08/2000. 29. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 546/2002/Q Đ-NHNN, 30/05/2002. 30. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 346/2008/Q Đ-NHNN, 13/02/2008. 31. Ngân hàng Nhà nước, công điện 02/CĐ-NHNN, 26/02/2008. 32. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 16/2008/Q Đ-NHNN, 16/05/2008. 33. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 1257/2008/Q Đ-NHNN, 30/05/2008. 34. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư 01/2009/TT-NHNN, 23/01/2009. 35. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 2665/2009/Q Đ-NHNN, 25/11/2009. 36. Việt Nam: Con đường tự do hoá lãi suất, Xuân Thành, chương trình giảng
dạy Fulbright.
37. Phước Hà, Nguy cơ lớn từ tín dụng tăng cao, 20/11/2009 ( vietnamnet.vn). 38. Hà Phan, Đua nhau thành lập ngân hàng, 26/03/2007, báo Tiền Phong 39. Nền kinh tế Việt Nam đang thừa ngân hàng, 28/08/2008, (vietnamnet.vn) 40. Nguyễn Ngọc Sơn, Tiết kiệm - đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam,
2008
41. TS. Võ Trí Thành, Thị trường tài chính Việt Nam: thực trạng và tác động
của việc Việt Nam gia nhập WTO
42. Báo cáo tài chính quý 3/2009, Eximbank.com.vn 43. Báo cáo tài chính năm 2007, 2008, 2009, techcombank.com.vn 44. Công cụ tài chính bảo vệ doanh nghiệp tránh rủi ro, 18/04/2005,
Vietnamnet
45. Ban hành quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, 10/01/2007, Báo
thanh niên.
46. Ngân hàng Nhà nước, quyết định 1133/QĐ-NHNN, 30/09/2003 47. Thế Lâm, ngân hàng bán lẻ Việt Nam: Còn quá ít dịch vụ, 14/12/2009,
Báo lao động.
48. GS.TS Võ Thanh Thu, bài giảng Hiệp định thương mại Việt Mỹ
82
49. PGS, TS Trần Đình Ty – T.S Nguyễn Văn Cường, Quản lý nhà nước đối với tiền tệ, tín dụng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2008.
50. Cổng thông tin điện tử Chính Phủ, Năm 2009: Năm thuận lợi của các
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, 22/12/2009.
51. Thương mại điện tử, Banking Việt Nam 2009: Giải pháp công nghệ ngân
hàng hiện đại thời khủng hoảng, 29/05/2009.
52. Thuỷ Triều, HSBC, BIDV chuẩn hoá giao dịch phái sinh, 30/01/2008,
cafef.vn
53. Thị trường phái sinh chưa theo thông lệ, 16/07/2009, Báo đầu tư chứng
khoán
54. Chứng khoán phái sinh, nên hay không nên tại Việt Nam, 08/11/2008,
Vneconomy.
55. Công cụ phái sinh: cơ hội và rủi ro, 08/11/2008, Vneconomy 56. WB rót 105 triệu USD cho mạng thanh toán liên ngân hàng, 19/06/2005,
Vneconomy.
57. Thông tin công nghệ ngân hàng, 07/08/2009, ngân hàng quốc tế. Tiếng Anh: 58. Comptroller of the Currency Admistrator of of National Banks, Interest Rate Risk, Comptroller’s Handbook, Narrative, June 1997, Producers March 1998.
59. Department of Finance, Insurance, and Real Estate, Warrington College of Business, University of Florida Gainesville, FL 32611, Interest Rate Risk Management at US Commercial Banks: The Market Beliefs, 15 November 2006.
60. Eleventh Meeting of the IMF Committee on Balance of Payments Statistics, Collecting Statistics on Financial Derivaties in UK, Washington DC, October 1998.
61. Nguyen Tri Hung, The inflation of VietNam in transition, CAS Discussion
paper No 22, January 1999.
62. IMF, VietNam: selected issues and Statistical Annex, IMF staff country
report No. 98/30, April 1998.
63. IMF, VietNam: Statistical Appendix and background Notes, IMF staff
country report No.00/16, August 2000.
64. IMF, Vietnam: selected issues and statistical Appendix, IMF country
report No. 02/05, January 2002.
65. IMF, Vietnam: statistical Appendix, IMF country report No. 03/382,
December 2003.
83
66. IMF, Vietnam: statistical Appendix, IMF country report No. 06/423,
November 2006.
67. IMF, Vietnam: statistical Appendix, IMF country report No. 07/386,
December 2007.
68. IMF, Vietnam: 2008 Article IV consulation-staff report, staff suplement and statement, Public Information Notice on the Executive Board Discussion and Statement by the Executive Director for Vietnam.
69. ADB, Statistics and Data systems Division, Asian Development Bank, 21
July 2000.
70. Financial Development, Human Capital and Political Stability, J.Francois
Outreville, No.142, October 1999.
71. International Financial Statistics, International Monetary Fund, November
2009.
Thông tin tham khảo trên các website:
72. http://www.investorwords.com 73. http://www.businessdictionary.com 74. www.fitchratings.com 75. www.sbv.gov.vn 76. http://search.bankofengland.co.uk 77. http://viet.vietnamembassy.us 78. www.moet.gov.vn 79. www.moh.gov.vn 80. www.tapchikinhtedubao.mpi.gov.vn 81. http://www.tuoitre.com.vn 82. http://vietbao.vn 83. http://www.saga.vn 84. http://vbqppl.moj.gov.vn 85. www. nationmaster.com