BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
TẠ MINH ĐỨC
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI – 2014
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
TẠ MINH ĐỨC
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS CHỬ VĂN TUYÊN
HÀ NỘI - 2014
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
Giáo dục và đào tạo GD&ĐT
Khoa học và công nghệ KH&CN
Kinh tế - xã hội KT - XH
Nguồn nhân lực NNL
Uỷ ban Nhân dân UBND
Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
10
HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI Những vấn đề chung về sử dụng nguồn nhân lực 1.1
10
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực trong quá 1.2
trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai 26
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
42
THỜI GIAN TỚI Những quan điểm cơ bản về sử dụng nguồn nhân 2.1
42
lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai Một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả 2.2
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở
Đồng Nai thời gian tới
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 60 91 92 95
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, dù trong thời kỳ đấu tranh
giành độc lập hay hoà bình xây dựng, Đảng ta luôn xác định yếu tố con người
có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế,
xã hội. Phát huy nguồn lực con người và vì hạnh phúc của con người luôn là
điểm xuất phát, là đích cuối cùng trong toàn bộ đường lối, chiến lược phát
triển của đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nguồn lực con người -
nguồn nhân lực, là nguồn lực của mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế và
tiến bộ xã hội. Vì vậy, phát triển và sử dụng có hiệu quả NNL là yếu tố quyết
định cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
cơ chế thị trường, đặc biệt trong điều kiện cách mạng KH&CN hiện đại, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế... đòi hỏi chúng ta không chỉ đào tạo được đội ngũ người lao
động đủ khả năng, trình độ đáp ứng những đòi hỏi khách quan của quá trình
ấy, mà điều có tính chất quyết định nhất là quy hoạch sử dụng một cách tối ưu
NNL hiện có vào các lĩnh vực, các mục tiêu, các nhiệm vụ KT - XH của đất
nước. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như một số hạn chế, bất cập trong
sử dụng NNL cho phát triển KT - XH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã khẳng định “Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền
lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ công chức, người lao động gắn
bó, tận tâm với công việc” [VK ĐHXI, tr.168]. Điều đó cho thấy, đào tạo đi
đôi với phân bổ, sử dụng NNL một cách hợp lý, hiệu quả đã và đang trở thành
một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy KT - XH phát triển.
Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng phát triển
kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích 5.903,940 km2, chiếm 1,76% diện
tích tự nhiên cả nước; 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ.
4
Đồng Nai là một tỉnh có tốc độ CNH, HĐH và đô thị hóa nhanh, góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Năm 2010, dân số của Đồng Nai là 2.559.673, có 1.250.000 người trong độ
tuổi lao động và gần 1.000.000 người đang làm việc trong các lĩnh vực kinh tế xã
hội khác nhau trên địa bàn Tỉnh. Hiện tại NNL ở Đồng Nai vừa thừa, vừa thiếu,
mất cân đối cả từ quá trình đào tạo đến việc phân bổ, sử dụng và chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế. Các chủ trương, chính sách
và việc tổ chức thực hiện trên thực tế những vấn đề liên quan đến người lao động
và người sử dụng lao động; đến nghĩa vụ và quyền lợi của tất cả những người lao
động nói chung, còn nhiều bất cập, chưa thật sự tạo thêm động lực mới cho kinh
tế xã hội của Đồng Nai phát triển nhanh, bền vững hơn.
Với thực trạng trên, việc nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và phân tích thực trạng sử dụng NNL; đề xuất phương hướng và
những giải pháp cơ bản trong quá trình quy hoạch, sử dụng NNL đáp ứng yêu
cầu phát triển KT - XH ở Đồng Nai hiện nay trở thành yêu cầu cấp thiết cả về
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Sử dụng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai ”, làm luận văn thạc sĩ kinh
tế - chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đào tạo, sử dụng, phát triển NNL cho CNH, HĐH và phát triển KT -
XH nói chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ, phạm vi khác
nhau, có thể khái quát thành các nhóm công trình sau:
* Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực nói chung
Chương trình KH&CN cấp nhà nước KX-07, HN.1994. Vấn đề con
người trong công cuộc đổi mới của Giáo sư Phạm Minh Hạc. Trên cơ sở
nghiên cứu các tài liệu trong nước và quốc tế, đề tài phân tích làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn về vai trò của con người trong tiến trình vận động, phát triển
của xã hội nói chung, trong đó chỉ ra: Con người là nguồn lực quan trọng nhất
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Từ đó, đề tài đưa ra nhưng dự báo, phương
5
hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Con người và nguồn lực con người trong phát triển (Nhiều tác giả)
Trung tâm Khoa học Xã hội nhân văn quốc gia, H, 1995.
Cuốn sách đã tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác
giả trên thế giới bàn về vấn đề con người theo các góc độ khác nhau; về động
cơ hoạt động của con người; mô hình mới về sử dụng nguồn lực con người;
trí tuệ hóa lao động và đào tạo chuyên môn; tiếp cận mới đối với chính sách
việc làm, con người và môi trường.
Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta,
của tiến sĩ Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, H.1998. Cuốc sách đã khái quát
những kinh nghiệm về phát triển NNL của các nước trên thế giới, trong đó tập
trung vào lĩnh vực GD&ĐT - yếu tố quyết định phát triển NNL.
Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân
lực, Viện Phát triển Giáo dục, H. 2002. Cuốn sách này đã tập hợp kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học và các nhà quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế
và xã hội khác nhau với mục tiêu thống nhất quan điểm, chính sách về phát triển
NNL. Đồng thời, đề xuất một khung chính sách phát triển NNL nhằm triển khai
thành công các mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển GD&ĐT.
* Nhóm công trình nghiên cứu về đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực ở một số địa phương, ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế
Tác động của đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH đến
cũng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay, Bùi Thúc Vịnh, luận văn thạc sĩ, Học
viện Chính trị Quân sự, H. 2000. Tác giả chỉ ra sự cần thiết, nội dung và thực
trạng đào tạo NNL cho CNH, HĐH và tác động của nó đối với củng cố quốc
phòng ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo NNL đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH và
củng cố nền quốc phòng toàn dân.
6
Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở thành
phố Đà Nẵng, Lê Quang Hùng, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, H. 2006. Tác giả khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL ở
thành phố Đà Nẵng, phân tích làm rõ vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và nâng
cao chất lượng NNL. Luận giải một cách khoa học NNL chất lượng cao là động
lực cho quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế trí thức ở Việt Nam.
Đào tạo, bồi dưỡng công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
(qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội), Tạ Quang Ngải, luận văn thạc sĩ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2006. Tác giả đã đánh giá thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay (qua thực tiễn ở thành
phố Hà Nội), đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
công chức góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng.
Vai trò của quân đội trong phát triển nguồn nhân lực phục vục CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay, Hoàng Văn Phai, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị Quân sự 2008. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của
quân đội trong phát triển NNL phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trên
cơ sở đó đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của
quân đội trong quá trình này.
Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng hiện
nay, Lê Văn Hiền, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, H
2010. Tác giả luận văn đã đề cập và luận giải một số vấn đề về đào tạo NNL ở
thành phố Đà Nẵng thời gian 2001 đến 2010; phân tích làm rõ sự cần thiết
phải đào tạo, đào tạo lại NNL; thực trạng về quy mô, phương thức, kết quả
đào tạo chuyên môn ngành nghề cho người lao động; đề xuất một số quan
điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu
phát triển KT - XH của thành phố đến năm 2020.
7
* Nhóm các công trình nghiên cứu về sử dụng nguồn nhân lực
Sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, Trần Kim Hải,
Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H. 1999.
Tác giả đã tổng quan các khái niệm về NNL và những vấn đề cơ bản trong sử
dụng NNL; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NNL ở
Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Tổ chức và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội của Việt Nam
trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Phạm Kiên
Cường, luận án tiến sĩ. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2002.
Tác giả đã trình bày những giải pháp quan trọng nhằm mở rộng về số lượng,
nâng cao về chất lượng nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài trong điều
kiện Việt Nam mở cửa, hội nhập quốc tế.
Sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Ninh Bình, Lê Thị Bích
Hạnh, Luận văn thạc sĩ, Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng Giảng viên LLCT. Hà
Nội 2011. Tác giả luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về NNL và
sử dụng NNL trong quá trình phát triển kinh tế. Luận giải yêu cầu, xu hướng,
đặc điểm của sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH. Đánh giá những
thành tựu, thuận lợi; những khó khăn và hạn chế trong sử dụng NNL; đề xuất
phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong quá trình
CNH, HĐH ở Ninh Bình.
Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nxb Giáo dục 2007, Phan Văn Kha, sách tham khảo. Tác giả đề cập và luận
giải mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Thực trạng và giải pháp tăng
cường mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực ở các trình độ khác nhau.
Tuy tiếp cận và luận giải ở những góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung
các tác giả đều khẳng định vai trò quan trọng của NNL và sử dụng có hiệu
quả NNL là yêu cầu tất yếu để thực hiện các mục tiêu KT - XH.
8
Có thể chưa thống kê được hết các công trình nghiên cứu có liên quan,
nhưng các công trình, đề tài nghiên cứu (mà tác giả được biết) đến nay chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề chung về đào tạo, phát triển NNL; hoặc
nghiên cứu NNL ở những ngành nghề cụ thể; hoặc ở một số địa phương. Các
công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh, với cách tiếp cận phong
phú, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu sử dụng NNL cho phát
triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn không
trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng NNL trong phát
triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm, giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển KT
- XH ở Đồng Nai trong những năm tới.
* Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về sử dụng NNL trong phát triển KT -
XH ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng NNL trong quá trình phát triển
KT - XH ở tỉnh Đồng Nai.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả NNL
cho phát triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
“Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội”.
* Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến sử dụng NNL trong quá trình phát triển
KT - XH ở Đồng Nai từ 2005 - 2013 (tập trung luận giải thực trạng sử dụng
9
nhân lực trong ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và khu vực
kinh tế ngoài nhà nước; mối quan hệ người sử dụng lao động và người lao
động). Tư liệu, số liệu minh họa, phân tích, so sánh, khảo sát có liên quan đến
một số địa phương trong Tỉnh, thời gian từ năm 2006 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở nguyên lý kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai, những nghị
quyết, chủ trương của Tỉnh ủy, chỉ thị, quyết định của UBND tỉnh trong
những năm gần đây có liên quan đến sử dụng NNL cho phát KT - XH.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế học chính trị:
trừu tượng hóa khoa học; kết hợp lô-gíc với lịch sử; so sánh, phân tích, tổng
hợp, thống kê; phương pháp chuyên gia cùng một số phương pháp khác trong
thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm tài liệu tham
khảo về sử dụng NNL, sự cần thiết phải tối ưu hóa sử dụng NNL; thực trạng
và quan điểm, giải pháp cơ bản về sử dụng NNL cho phát triển KT - XH ở
Đồng Nai. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng; đồng thời cung
cấp luận cứ khoa học để các cấp lãnh đạo tỉnh hoạch định chính sách và
biện pháp đào tạo, quy hoạch, sử dụng NNL cho phát triển KT - XH trong
thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung (2 chương, 4 tiết); Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
1.1. Những vấn đề chung về sử dụng nguồn nhân lực trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế - xã hội
Quan niệm về nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực trong phát
triển kinh tế - xã hội
Nguồn nhân lực
Trước đây người ta đã thấy được vai trò của yếu tố con người (nguồn
lực con người, nguồn nhân lực) nhưng nhìn nhận nó chỉ đơn thuần là phương
tiện, là một nguồn lực cho phát triển như mọi nguồn lực vật chất khác. Ngày
nay, sự nhận thức trên không còn phù hợp, con người - NNL, không chỉ là
động lực chủ yếu mà còn là thước đo, là mục tiêu của sự phát triển. Chính vì
lẽ đó, NNL hay nguồn lực con người trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học (khoa học tự nhiên, y học, khoa học xã hội...).
NNL là khái niệm đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa học đã đưa ra nhiều khái niệm về
NNL dưới những góc độ khác nhau:
Có nhiều ý kiến cho rằng: NNL là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập cao
trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, NNL là kết quả đầu tư
trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Cách hiểu này
còn hạn hẹp, chỉ giới hạn trong trình độ chuyên môn của con người và chưa
đặt ra giới hạn về mặt phạm vi không gian của NNL.
11
Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc: Dù xem xét trên bình diện quốc
gia hay địa phương, NNL được xác định là “tổng thể các nguồn lao động
được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói
chung) đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân”.
Theo tác giả Lê Thị Bích Hạnh, NNL là tổng hợp những con người cụ
thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí
lực, tâm lực; tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc
gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và
tính năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng,
quốc gia. Tính thống nhất đó, được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con
người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam trình bày trong
chương trình cấp Nhà nước KX-07, NNL được hiểu là “số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực
phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc”.
Như vậy, NNL đựơc biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng:
Về số lượng: NNL phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể có được của
cá nhân và quy định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Số lượng NNL đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT - XH. Số lượng không tương xứng
với sự phát triển (thừa hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội nói chung. Nếu thừa sẽ dẫn
đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu thì
không có đủ lực lượng lao động cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Về chất lượng: NNL được biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh thần thái độ,
động cơ, ý thức lao động, văn hóa lao động công nghiệp, phẩm chất tốt đẹp
của người công dân đó là yêu nước, yêu lao động (có ý thức trách nhiệm với
12
cuộc sống của chính mình và cộng đồng). Trong ba mặt: thể lực, trí lực, tinh
thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là phương thức để
chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn, hình thành và phát triển kỹ năng
lao động. Ý thức tinh thần đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt
động chuyển hóa của trí lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan
trọng hàng đầu của NNL, bởi con người có năng lực, có trí tuệ mới có thể
nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa học vào quá trình hoạt động
sản xuất và cải biến xã hội.
Tổng quan một số quan niệm về NNL, tác giả luận văn cho rằng, NNL
có thể tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau, tùy theo mục đích, phạm vi
nghiên cứu. Trong giới hạn một luận văn thạc sĩ kinh tế, chúng tôi cho rằng:
Theo nghĩa chung nhất, nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là vốn
người. Gọi NNL là vốn tức là coi con người như một thứ tài nguyên đặc biệt,
một thứ vốn quý giá nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực về con
người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn
lực, có khả năng huy động tổ chức để tham gia vào quá trình phát triển KT -
XH, nhờ nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực được hiểu là lực lượng lao động xã
hội. Đó là một bộ phận của dân số đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế quốc dân hoặc trong một ngành, ở một vùng, một địa
phương... bao gồm những người trong độ tuổi lao động theo quy định của
từng quốc gia.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn tiếp cận NNL theo
nghĩa hẹp, đó là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng tham gia vào
quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực; tiềm năng lao
động của một tổ chức, một địa phương, một ngành kinh tế trong thể thống
13
nhất hữu cơ giữa năng lực cá nhân và tính chất xã hội của con người, nhóm
người, tổ chức, địa phương, ngành đó. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá
trình biến nguồn lực con người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu tăng
trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Sử dụng NNL là việc phân bổ, quản lý khai thác lực lượng lao động ở
các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế... Sử dụng NNL có hiệu quả cao nhất chính
là huy động, khai thác tối đa nguồn lực con người (lực lượng lao động) phù
hợp với điều kiện của nền kinh tế cũng như của từng địa phương, đơn vị kinh
tế... để người lao động có thể đảm nhận và làm tốt nhất công việc được giao
góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ KT - XH.
Hiện nay kinh tế đất nước đang chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, vì
vậy việc sử dụng NNL cho phát triển KT - XH nói chung, ở tỉnh Đồng Nai
nói riêng, không thể không vận dụng các quy luật của thị trường trong giải
quyết các mối quan hệ về lao động (quy luật cung cầu, cạnh tranh, tiết kiệm
và hiệu quả...). Cơ sở lý luận cho việc nhận thức cần và phải sử dụng tối ưu
nguồn lực con người trong phát triển KT - XH chính là quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong hoạt
động thực tiễn.
Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng mục đích của sản xuất tư bản là giá trị thặng dư, là lợi
nhuận, nhưng đó là nhìn chung và xét đến cùng. Để có giá trị thặng dư, trước
hết nhà tư bản phải bán được hàng hóa, phải đứng vững được trong cơ chế thị
trường. Điều đó cũng có nghĩa là từng nhà tư bản phải tìm mọi cách ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, phải không ngừng hoàn
thiện cơ chế và phương thức quản lý kinh tế để khai thác tối đa nguồn lực con
người cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản. Trên thực tế, giai cấp tư sản
14
thông qua nhà nước của họ đã rất thành công trong việc khai thác nguồn lực
con người trong các hoạt động kinh tế xã hội.
Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế của nước Nga giai đoạn
1918 - 1924, VI. Lê-nin rất quan tâm đến vai trò làm chủ về kinh tế của
người lao động và tổ chức các phong trào thi đua. Trong “Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền Xô-viết”, “Sáng kiến vĩ đại”... VI. Lê-nin đã
nhận thấy sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng lao động một khi họ
được làm chủ những công xưởng, hầm mỏ... và được tổ chức quản lý một
cách khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về người lao động và sử dụng người lao động
trong hoạt động KT - XH (cách dùng người...) cũng đã để lại nhiều điều
cần được nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn. Trong kháng chiến chống
Pháp (1946 - 1954), và chống Mỹ (giai đoạn 1954 - 1969), Người thường
động viên mọi tầng lớp nhân dân (trước hết là nông dân, công nhân, trí
thức) hăng hái thi đua lao động sản xuất với tính thần “nhà nông cũng là
chiến sĩ”, “mỗi người làm việc bằng hai”, “tay cày tay súng, tay búa tay
súng”... Vì vậy, chúng ta đã huy động tối đa sức người, sức của cho sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sử dụng NNL theo quan điểm của các nhà kinh tế học (khoa học
quản lý kinh tế, quản trị nhân lực) là nghiên cứu, ứng dụng những thành
tựu của các ngành khoa học kỹ thuật (cơ giới hóa, tự động hóa) các
ngành sinh học, tâm lý học, đạo đức học, nhân chủng học... nhằm tăng
năng suất lao động, nâng cao hiệu suất sử dụng lao động sống, tạo nhiều
giá trị mới (giá trị gia tăng) trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều
chuyên gia kinh tế cho rằng, trong thời đại cách mạng khoa học công
nghệ và cơ chế thị trường, quản lý và sử dụng NNL ngày nay là một
ngành khoa học giàu tính nghệ thuật, đồng thời cũng là một môn nghệ
thuật mang đậm tính khoa học.
15
Mối quan hệ giữa đào tạo, phát triển với sử dụng nguồn nhân lực
Muốn sử dụng có hiệu quả NNL trước hết phải đào tạo một đội ngũ
những người lao động hội tụ đủ những yếu tố cần thiết nhất cho hoạt động
thực tiễn KT - XH. Đó là tập hợp những cá nhân có sức khỏe, có tri thức,
có kỹ năng lao động, có ý thức trách nhiệm với chính mình và cộng đồng;
đồng thời phải được tổ chức thành những đơn vị, những tập thể được quản
lý một cách khoa học. Khi đề cập đến yếu tố con người, không chỉ chú ý
đến kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm trong lao động và trong cuộc
sống, mà còn là những con người ngày càng phát triển cao về thể chất,
mạnh mẽ vững vàng về tinh thần, trong sáng về đạo đức, linh hoạt, văn
minh về ứng xử với tự nhiên và xã hội. Trong đó, trí tuệ không chỉ là
những tri thức trừu tượng, mà trước hết là những năng lực chuyên môn
được đào tạo và đào tạo lại trong quá trình sản xuất. Khỏe mạnh về thể chất
không chỉ đơn thuần là sự cường tráng về thể lực, mà nó bao hàm trong đó
sự phát triển tốt về trí lực, tư chất thông minh, tâm lý, thần kinh và trí sáng
tạo cao trong lao động sản xuất, trong công tác. Đạo đức cũng không chỉ là
lương tâm, danh dự, trách nhiệm nói chung, mà trước hết nó được gắn bó
với nghề nghiệp của mỗi người theo sự phân công của xã hội. Linh hoạt và
văn minh về ứng xử là thích ứng nhanh trong mọi hoàn cảnh, luôn giữ thế
chủ động trong mọi tình huống, xử sự một cách thông minh và lịch sự, đầy
lòng nhân ái, vị tha và mang đậm tính nhân văn. Người lao động phải được
đào tạo chuyên môn ngành nghề, bồi dưỡng, giáo dục năng lực, phẩm chất
đạo đức. Con người phải được đào luyện để phát triển toàn diện. NNL phải
được đào tạo để đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH. Tất cả những lập
luận trên đã được khẳng định, trên thực tế, con người là không chỉ là chủ
thể, mà còn đối tượng nghiên cứu (trực tiếp hoặc gián tiếp) của tất cả các
ngành khoa học.
16
Vì sao có thể khẳng định, muốn sử dụng tối ưu (hiệu quả cao nhất)
NNL hiện có cần quan tâm đến hai vấn đề là: đào tạo, phát triển nhân lực
quản lý, lãnh đạo (người sử dụng lao động); đào tạo lại đội ngũ người lao
động (trực tiếp lao động sản xuất).
Đào tạo NNL nói chung là toàn bộ những hoạt động có mục đích, có tổ
chức, nhằm trang bị và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái
độ trách nhiệm tình cảm, đạo đức, để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân,
nâng cao chất lượng nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH.
Quan niệm trên đã cho thấy, đây là hoạt động có mục đích của các tổ
chức chính trị, kinh tế, xã hội; các nhà trường, trung tâm GD&ĐT, các doanh
nghiệp và người lao động nhằm phát triển NNL. Đồng thời quan niệm trên
cũng chỉ rõ mục đích của quá trình này là nâng cao chất lượng NNL (năng lực
làm việc của người lao động) đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH.
Phát triển NNL nói chung và đào tạo NNL nói riêng là một việc làm rất
quan trọng, vừa mang tính chiến lược lâu dài vừa là những vấn đề mang tính
thời sự cấp thiết của mọi quốc gia, mọi nền kinh tế. Đào tạo để phát triển
NNL và phân bổ hợp lý NNL hiện có là cơ sở cho khai thác, sử dụng tối ưu
nguồn lực con người trong hoạt động thực tiễn. Ngược lại, sử dụng tối ưu
NNL sẽ có tác động tích cực đến quy mô, phương thức, kết quả đào tạo, phát
triển và phân bổ lại NNL.
Trong thực tiễn, sử dụng NNL tức là quá trình tạo điều kiện cho con
người tham gia vào hoạt động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, phi vật chất
phục vụ các nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Quá trình lao
động sản xuất là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực
lượng sản xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ
chức nền sản xuất cũng như xác định mục tiêu, phương thức của sự phát triển
KT - XH. Bởi vậy, sử dụng NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất
17
cả các khả năng của con người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao
động trong quá trình phát triển KT - XH.
Trên cơ sở phân tích một số vấn đề về NNL, người học cho rằng, đối
với cả nước nói chung, từng địa phương - trong đó có tỉnh Đồng Nai nói
riêng, trong quá trình CNH, HĐH và trong bất kỳ giai đoạn nào để phát
triển KT - XH cũng cần coi trọng việc khai thác, nâng cao hiệu quả sử
dụng NNL phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương,
từng vùng miền. Mục đích của quá trình này là huy động tối đa và khai
thác tối ưu lực lượng lao động trên địa bàn Tỉnh cho các nhiệm vụ, mục
tiêu KT - XH đã được xác định. Trong quá trình phát triển KT - XH trên
địa bàn Tỉnh, cần quan tâm đến những nhân tố chi phối quá trình sử dụng
NNL. Đó là quy mô, trình độ, mục tiêu phát triển KT - XH; số lượng, chất
lượng, cơ cấu NNL hiện có; tỷ lệ tăng dân số, phân bổ dân cư và kết quả
đào tạo lực lượng lao động trên địa bàn Tỉnh; sự tác động của thể chế vĩ
mô, các chính sách của tỉnh, địa phương (đất đai, quản lý hành chính về
con người, xuất khẩu lao động, tiền lương); nhận thức của chính những
người lao động về việc làm, thu nhập trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Sự cần thiết và nội dung đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai
Sử dụng NNL trong phát triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai là khái niệm
chỉ Toàn bộ hoạt động có chủ đích, có kế hoạch của các cấp chính quyền,
các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, đội ngũ doanh nhân và người sử
dụng lao động... thực hiện việc phân bổ, sắp xếp hợp lý việc làm cho lực
lượng lao động trong từng ngành, địa phương, đơn vị cũng như trên phạm
vi toàn tỉnh nhằm tạo đủ việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động
thúc đẩy KT - XH phát triển.
Sử dụng có hiệu quả NNL trong phát triển KT - XH ở Đồng Nai là
yêu cầu khách quan bởi những lý do sau:
18
Thứ nhất, Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng về vai trò của nguồn lực con
người trong hoạt động thực tiễn.
Trong học thuyết của mình, phần lý luận về hàng hóa sức lao động
C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ
những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó” [3, tr.251]. Như vậy, theo quan điểm của C. Mác, để có năng
lực lao động tốt thì người lao động phải có năng lực thể chất (gồm sức
khỏe, kỹ năng nghề nghiệp), tinh thần tốt và được đem ra vận dụng trong
hoạt động; để có năng lực thể chất và tinh thần tốt thì con người phải
không ngừng học tập, rèn luyện.
Khi nghiên cứu về giá trị của sức lao động, C. Mác viết: “Giá trị của
sức lao động, cũng như giá trị của mọi hàng hóa khác, được quyết định bởi số
thời gian lao động cần thiết để sản xuất, và do đó, để tái sản xuất ra thứ sản
phẩm đặc biệt ấy” [3, tr.255]. Ở đây, C. Mác đã khẳng định giá trị của sức
lao động cao hay thấp, phụ thuộc vào chi phí đầu tư sản sinh ra nó nhiều
hay ít; chúng ta muốn có nhiều sức lao động có giá trị cao đòi hỏi chúng ta
phải đầu tư cho nó nhiều hơn. C. Mác cũng chỉ ra rằng việc giá trị của sức
lao động bao hàm yếu tố lịch sử và tinh thần; mỗi công việc khác nhau,
mỗi quốc gia khác nhau và mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì giá trị của sức
lao động cũng khác nhau, khả năng nâng cao giá trị sức lao động của mỗi con
người cũng khác nhau.
Để nâng cao năng lực lao động của con người, C. Mác khẳng định cần
phải có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó và tùy theo tính chất phức
tạp của lao động mà phải chi phí nhiều hay ít để đào tạo chuyên môn kỹ thuật
cho người lao động. C. Mác cho rằng, muốn cải tạo bản tính chung của con
19
người để làm cho nó có được kiến thức và những thói quen khéo léo trong
một ngành lao động nhất định, nghĩa là muốn cho nó trở thành một sức lao
động phát triển và đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo
dục nào đó, mà muốn thế thì lại phải tốn một số nhiều hay ít vật ngang giá
nào đó. Những chi phí đào tạo ấy khác nhau tùy theo tính chất phức tạp của
sức lao động.
Là người mác-xít, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong
việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa,
nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn
diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức khỏe, thẩm
mỹ, có khát vọng làm giàu cho mình, cho xã hội và cộng đồng. Rõ ràng, mục
tiêu của nền giáo dục mới, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đào tạo “những
người công dân có ích cho nước Việt Nam”, “những cán bộ làm công bộc cho
dân”, “những công dân tốt và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của
nước nhà”. Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải đa dạng
hóa các loại hình đào tạo, mở trường vừa học vừa làm để tạo điều kiện cho
người lao động, cán bộ chiến sĩ được đi học. Người yêu cầu: phải quan tâm
đến giáo dục, đào tạo NNL, nhân tài cho đồng bào các dân tộc ít người, tẩy
rửa những thành kiến giữa các dân tộc, đoàn kết thương yêu nhau như anh em
một nhà, thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình.
Thứ hai, Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT - XH, tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh ở Đồng Nai trong những năm tới.
Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (gồm Thành
phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước,
Tây Ninh, Long An và Tiền Giang) và là một trong những địa phương có
nhiều lợi thế cho phát triển KT - XH với tốc độ, trình độ cao hơn trung bình
của cả vùng. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 9 (tháng 9 năm 1010)
20
đã xác định: Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011 - 2015 là phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền
vững. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập
quốc tế; đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH. Nâng cao chất lượng phát triển các
lĩnh vực KT - XH, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành Tỉnh CNH, HĐH.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai đã xác định nhiệm vụ đột phá giai đoạn 2011 - 2015 như:
Tập trung thu hút, đãi ngộ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi đầu ngành đáp ứng yêu cầu phát triển.
Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nâng cao tiềm lực
khoa học và công nghệ gắn với nâng cao hiệu quả ứng dụng vào thực tiễn.
Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các tuyến giao thông kết
nối vào các khu vực tập trung đô thị và khu công nghiệp trong Tỉnh, các tuyến
giao thông kết nối các tuyến đường cao tốc.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ chất lượng cao (tài chính, ngân
hàng, vận tải - kho bãi, thông tin liên lạc, khách sạn nhà hàng).
Thu hút đầu tư các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, các ngành công
nghiệp tạo ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và có giá trị gia tăng
cao. Xây dựng thương hiệu sản phẩm công nghiệp.
Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn và nâng cao chất lượng, phát
triển thương hiệu nông sản hàng hóa.
Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các nhân tố của nền kinh tế tri
thức, ưu tiên các lĩnh vực tạo sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị và trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn và toàn vùng; bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh
quốc phòng, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT - XH. Phát triển KT -
21
XH đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị. Nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự [10].
Đây là những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, xã hội; quốc phòng và an ninh
rất quan trọng của Tỉnh, muốn mục tiêu trên trở thành hiện thực đòi hỏi phải huy
động tối đa, sử dụng tối ưu các nguồn lực, trong đó trước hết và cơ bản nhất là
nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong tất cả các lĩnh vực KT - XH của Tỉnh.
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng sử dụng lực lượng lao động trong quá
trình phát triển KT - XH của tỉnh Đồng Nai thời gian qua.
Trước hết phải khẳng định rằng, muốn một nền kinh tế tăng trưởng,
phát triển nhanh và bền vững, cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là: áp dụng công
nghệ mới, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đào tạo và sử dụng NNL
theo hướng hiện đại, hợp lý, hiệu quả.
Sử dụng hợp lý (tối ưu) NNL ở Đồng Nai hiện nay không chỉ là điều
kiện góp phần quan trọng cho giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập của người
lao động mà trực tiếp cung ứng một lực lượng lao động với những trình độ
chuyên môn, ngành nghề khác nhau cho các tỉnh khác trong vùng mà trước
hết là thành phố Hồ Chí Minh và thị trường xuất khẩu lao động.
Trên thực tế, việc phân bổ và sử dụng NNL ở tỉnh Đồng Nai được tiến
hành theo cơ chế thị trường (quan hệ cung - cầu lao động) và đã đem lại nhiều
kinh nghiệm quý cho các địa phương khác trong cả nước. Tuy vậy, cũng còn
nhiều bất cập, hạn chế (sẽ đề cập và luận giải ở phần đánh giá thực trạng). Vì
vậy, sử dụng có hiệu quả NNL hiện có của Tỉnh vừa là vấn đề có tính cơ bản
lâu dài vừa mang tính thời sự cấp thiết.
Nội dung đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế xã hội ở Đồng Nai
Từ khái niệm sử dụng NNL và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử
dụng NNL ở Đồng Nai như đã trình bày ở phần trên, tác giả luận văn cho rằng
22
đánh giá sự hợp lý, tính hiệu quả trong sử dụng NNL cho phát triển KT - XH
cần dựa trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, công tác quy hoạch, phân bổ lực lượng lao động được thực
hiện một cách cơ bản, gắn sát với các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế của Tỉnh,
từng huyện từng cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tỷ lệ thất nghiệp và thời gian không có việc làm cho người lao động
trong những ngành, lĩnh vực, đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ
giảm xuống.
Thứ hai, việc phân bổ, quản lý lực lượng lao động, trình độ quản trị
nhân lực trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, đơn vị hành chính sự nghiệp,
bộ máy hành chính công... ngày càng hợp lý, hiệu quả hơn. Đảm bảo tính cân
đối và sự hợp lý trong phân bổ, quản lý lực lượng lao động, trình độ quản trị
nhân lực trong các ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Tỉnh, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của địa phương hoặc đơn vị, cơ sở sản xuất; thu nhập và mức
sống của người lao động so với mức trung bình hàng năm của cả vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam.
Đây vừa là nội dung, vừa là tiêu chí có thể lượng hóa để đánh giá hiệu
quả sử dụng NNL của Tỉnh. Bởi vì, NNL là nguồn lực của mọi nguồn lực, có
sử dụng hợp lý NNL mới khai thác tối đa nguồn lực khác cho các nhiệm vụ
kinh tế, xã hội. Trong phạm vi từng đơn vị kinh tế, từng địa phương, thu nhập
của người lao động, lợi nhuận doanh nghiệp, mức thu ngân sách đều tăng thì
kinh tế tăng trưởng, xã hội phát triển.
Thứ tư, sự đồng thuận về mặt xã hội trong môi trường lao động,
phương thức và kết quả giải quyết các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa
người lao động và người sử dụng lao động, giữa các tổ chức kinh tế xã hội với
bộ máy chính quyền các cấp.
23
Xét cho cùng sản xuất để tiêu dùng; CNH, HĐH nền kinh tế là nhằm
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển KT -
XH, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu vật chất tinh thần ngày càng tăng của con
người. Khi lợi ích kinh tế của người lao động được quan tâm và thực hiện tốt
hơn sẽ tạo thêm động lực mới cho tăng trưởng, phát triển.
Kinh nghiệm một số địa phương sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua
Cần phải khẳng định, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đều lựa
chọn những phương thức sử dụng NNL hướng tới sự tối ưu hóa, phù hợp với
điều kiện, mục tiêu phát triển KT - XH, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh,
Thủ đô Hà Nội, Thành phố Đà Nẵng... có nhiều thành công hơn cả và để lại
nhiều kinh nghiệm có giá trị tham khảo tốt cho các địa phương khác trong đó
có tỉnh Đồng Nai.
Trên bản đồ địa kinh tế Việt Nam, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng là những đô thị lớn nhất nước, có tốc độ tăng trưởng, phát triển nhanh
cả về kinh tế, xã hội. Quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa, một mặt làm thay
đổi vị thế, diện mạo của Thủ đô Hà Nội, các thành phố trung tâm miền Nam,
miền Trung đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề về việc làm, thu nhập cho các
tầng lớp dân cư, nhất là những nông dân bị thu hồi đất để xây dựng khu công
nghiệp, khu đô thị, hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội.
Đối với Thành phố Đà Nẵng, để làm tốt công tác giải phóng mặt bằng,
ngoài việc đền bù thỏa đáng theo tinh thần công khai minh bạch, công bằng,
Đà Nẵng còn ban hành những quy định cụ thể về tuyển dụng lao động, dạy
nghề, chuyển đổi việc làm cho người lao động... nhờ đó tỉ lệ thất nghiệp luôn
ở mức trung bình so với cả nước (theo Tổng cục Thống kê, năm 2013 tỉ lệ
thất nghiệp của nước ta là 1,68% - thấp hơn rất nhiều so với các nước phát
triển vì cách tiếp cận, tiêu chí xem xét khác nhau).
24
Đối với Thủ đô Hà Nội, sau khi mở rộng địa giới hành chính (gồm tỉnh
Hà Tây cũ), Hà Nội đã thành công trong việc giải quyết việc làm tại chỗ cho
hàng chục nghìn lao động thông qua phát triển các loại hình dịch vụ cho sản
xuất, đời sống; khuyến khích phát triển ngành, nghề truyền thống, mở rộng thị
trường xuất khẩu lao động. Vì vậy, việc di dân tự do vào thành phố được
kiểm soát, dòng người hàng ngày đổ vào thành phố mưu sinh không tăng đột
biến (tỉ lệ, mật đô dân cư thành phố tăng nhanh là vấn đề có tính quy luật của
công nghiệp hóa, đô thị hóa).
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm Kinh tế, Tài chính lớn
nhất nước, lại rất thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các
lĩnh vực công nghệ cao, sản xuất hàng tiêu dùng, liên kết với các tỉnh trong
vùng để phát triển du lịch... Mặc dù, số lượng lao động ngoại tỉnh (kể cả từ
Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai) đến cư trú và làm việc tại thành phố Hồ Chí
Minh là không nhỏ, nhưng các vấn đề về việc làm, thu nhập, an sinh xã hội,
an ninh quốc phòng trên địa bàn vẫn được đảm bảo tốt. Thành phố Hồ Chí
Minh luôn là đầu tầu kinh tế không chỉ cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
mà còn cho cả nước nói chung.
Từ thực tiễn sử dụng NNL trong xây dựng, phát triển KT - XH của thủ
đô Hà Nội, thành phố Đà Nẵng, các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
trước hết là thành phố Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm
về sử dụng NNL cho Đồng Nai như sau:
Một là, thống nhất trong nhận thức về vai trò của NNL (yếu tố con
người) trong hoạt động thực tiễn KT - XH.
Con người là chủ thể của mọi quá trình kinh tế, nhưng con người chỉ
giữ vai trò là nguồn lực của mọi nguồn lực, con người quyết định năng suất,
chất lượng, hiệu quả lao động sản xuất khi hội tụ đầy đủ các yếu tố về sức
khỏe, tri thức, kỹ năng, ý thức trách nhiệm với chính mình và cộng đồng và
25
được tổ chức thành những tập thể thống nhất với sự quản lý khoa học. Điều
đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng chương trình, đề án phát triển giáo dục và
đào tạo, y tế, an sinh xã hội. Thực sự quan tâm giải quyết và giải quyết một
cách thỏa đáng những nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, các chính
sách, các quyết định quản lý (cả tầm vĩ mô và vi mô) đều hướng tới lợi ích
của con người, trước hết là người lao động. Việc tuyển dụng, sử dụng, trả
lương... căn cứ vào năng lực, kết quả đóng góp cho tập thể, xã hội; không có
sự phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, làm việc trong hay ngoài khu vực
kinh tế nhà nước...
Hai là, định kỳ 3 - 5 năm tiến hành khảo sát đánh giá số lượng, chất
lượng lực lượng lao động xã hội trên địa bản toàn tỉnh cũng như từng thành
phố, thị xã, huyện trực thuộc; từng ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trên cơ sở
những số liệu điều tra, tiến hành phân bổ lại lực lượng lao động giữa các địa
phương, giữa các ngành trong tỉnh theo hướng lao động nông nghiệp, lao
động trực tiếp giảm; lao động dịch vụ, lao động gián tiếp tăng. Tăng tỷ lệ
người lao động được đào tạo chuyên môn ngành nghề và làm việc đúng ngành
nghề chuyên môn đào tạo, để tránh sự lãng phí vô hình cho người lao động,
người sử dụng lao động và xã hội.
Quan tâm xây dựng đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý vì họ là những
người trực tiếp lập các phương án sản xuất kinh doanh (trên tất cả các lĩnh
vực với những quy mô khác nhau) và sử dụng lực lượng lao động thực hiện
các phương án đó. Nếu có một đội ngũ doanh nhân và cán bộ quản lý giỏi,
chèo lái doanh nghiệp đứng được trong cơ chế thị trường và mở rộng thị
phần... thì họ không chỉ làm giàu cho mình, cho địa phương mà còn thu hút
thêm lao động vào làm việc góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp, tạo sự tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
26
Ba là, hình thành và phát triển thị trường sức lao động. Thực chất là
vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường trong tuyển dụng, sử dụng NNL.
Đất nước nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng đang xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường; song trên thực tế lại chưa có thị trường sức lao
động theo đúng nghĩa của nó. Đây có thể coi là lực cản cho việc nâng cao
hiệu quả sử dụng lao động trong tất cả các lĩnh vực KT - XH. Vì sức lao động
chưa là hàng hóa nên người lao động và người sử dụng lao động không cần
quan tâm đến cạnh tranh, đến quan hệ cung cầu, điều đó cũng có nghĩa là tự
đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giải quyết hài hòa các
quan hệ lợi ích của các chủ thể liên quan cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Sử dụng có hiệu quả NNL cho phát triển KT - XH nói chung, là huy
động tối đa, sử dụng tối ưu lực lượng lao động xã hội hiện có vào thực hiện
các nhiệm vụ KT - XH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Vì vậy, hình thành và phát triển thị trường sức lao động sẽ
trực tiếp nâng cao chất lượng NNL và hiệu quả sử dụng NNL.
1.2. Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
1.2.1. Tổng quan nguồn nhân lực và đặc điểm tự nhiên, xã hội chi
phối đến sử dụng nguồn nhân lực ở Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 5.903, 940
km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự
nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm:
Thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của tỉnh; thị xã
Long Khánh và 9 huyện: Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Thống Nhất,
Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Định Quán, Tân Phú.
Là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam,
Đồng Nai tiếp giáp với các vùng sau: Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, Phía
27
Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh, Phía
Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước, Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu.
Đồng Nai là tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến giao
thông huyết mạch chạy qua như: Quốc lô ̣ 1A, Quốc lô ̣ 20, Quốc lô ̣ 51; tuyến
đường sắt Bắc - Nam; gần cảng Sài Gòn, Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo
điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi cho hoạt đô ̣ng kinh tế trong vùng cũng như giao thương với
cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên.
Về Đất đai
Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Tuy nhiên theo
nguồn gốc và chất lượng đất có thể chia thành 3 nhóm chung sau:
Các loại đất hình thành trên đá Bazan: Gồm đất đá bọt, đất đen, đất đỏ
có độ phì nhiêu cao, chiếm 39,1% diện tích tự nhiên (229.416 ha), phân bố ở
phía Bắc và Đông Bắc của tỉnh. Các loại đất này thích hợp cho các cây công
nghiệp ngắn và dài ngày như: cao su, cà phê, tiêu.
Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét như: đất
xám, nâu xám, loang lổ chiếm 41,9% diện tích tự nhiên (246.380 ha), phân bố
ở phía Nam, Đông Nam của tỉnh (huyện Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Biên Hoà,
Long Thành, Nhơn Trạch). Các loại đất này thường có độ phì nhiêu kém,
thích hợp cho các loại cây ngắn ngày như đậu, đỗ… một số cây ăn trái và cây
công nghiệp dài ngày như cây điều, cà phê, hồ tiêu…
Các loại đất hình thành trên phù sa mới như: đất phù sa, đất cát. Phân
bố chủ yếu ven các sông như sông Đồng Nai, La Ngà. Chất lượng đất tốt,
thích hợp với nhiều loại cây trồng như cây lương thực, hoa màu, rau quả…
Tổng diện tích toàn Tỉnh có: 590.723 ha. Bao gồm: đất nông nghiệp:
277.641 ha; đất lâm nghiệp: 181.578 ha; đất chuyên dùng: 49.717 ha; đất ở:
16.763 ha; đất chưa sử dụng: 897 ha; đất sông suối và mặt nước chuyên dùng:
52.715 ha.
28
Tình hình sử dụng đất của Tỉnh những năm qua có biến động ít nhiều,
nhưng Đồng Nai vẫn là tỉnh có quy mô đất nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ.
Về khí hậu
Đồng Nai nằm trong khu vực nhiê ̣t đới gió mùa cận xích đạo, với khí
hâ ̣u ôn hòa, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai, đất đai màu mỡ (phần lớn là đất
đỏ Bazan), có hai mùa tương phản nhau (mùa khô và mùa mưa).
Nhiệt độ cao quanh năm là điều kiện thích hợp cho phát triển cây trồng
nhiệt đới, đặc biệt là các cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao.
Nhiệt độ bình quân sơ bộ năm 2009 là: 25,90C.
Số giờ nắng trung bình trong sơ bộ năm 2009 là: 2.454 giờ.
Lượng mưa tương đối lớn và phân bố theo vùng và theo vụ tương đối
lớn khoảng 2.301,6mm phân bố theo vùng và theo vụ. Vì thế, Đồng Nai đã
sớm hình thành những vùng chuyên canh cây công nghiê ̣p ngắn và dài ngày,
những vùng cây ăn quả nổi tiếng,... cùng với nhiều cảnh quang thiên nhiên
đẹp, tạo điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi cho ngành du lịch phát triển.
Độ ẩm trung bình sơ bộ năm 2009 là 82%.
Về tài nguyên
Đồng Nai có nhiều nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú gồm tài
nguyên khoáng sản có vàng, thiếc, kẽm; nhiều mỏ đá, cao lanh, than bùn, đất
sét, cát sông; tài nguyên rừng và nguồn nước.
Ngoài ra Đồng Nai còn phát triển thủy sản dựa vào hệ thống hồ đập và
sông ngòi. Trong đó, hồ Trị An diện tích 323km2 và trên 60 sông, kênh rạch,
rất thuận lợi cho việc phát triển một số thủy sản như: cá nuôi bè, tôm nuôi…
Về dân số
Dân số toàn Tỉnh tính đến tháng 7 năm 2010 là 2.559.670 người. Trong
đó: Phân theo khu vực thành thị - nông thôn: Thành thị là: 855.703 người;
Nông thôn là 1.703.970 người. Phân theo giới tính: Nam: 1.270.120 người,
29
chiếm 49,62%; Nữ: 1.289.554 người, chiếm 50,38%. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên năm 2010 là 1,12%.
Vị trí địa lý, tài nguyên đất, khí hậu, dân số, theo thống kê trên là
những điều kiện cần và đủ để Đồng Nai phát triển một cơ cấu kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ theo hướng đa dạng, hiện đại. Điều đó cũng
có nghĩa là tỉnh Đồng Nai có nhiều thuận lợi trong sử dụng NNL trong phát
triển KT - XH.
Về kinh tế - xã hội
Tổng sản phẩm quốc nội GDP của Tỉnh tăng bình quân 13,2%/năm.
Trong đó ngành công nghiệp, xây dựng tăng 14,5%/năm, dịch vụ tăng
15%/năm, nông lâm nghiệp thủy sản tăng 4,5%/năm. Quy mô GDP theo giá
thực tế năm 2010 dự kiến đạt 75.137 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD), gấp
2,5 lần năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 là 29,65 triệu đồng
(1.147,63$), tăng gấp 2,1 lần năm 2005. Năm 2013 đạt 50.598. 970 triệu đồng
(2.400,33$) [xem Phụ lục 5].
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ trọng các ngành
công nghiệp - xây dựng tăng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ
từ 28% lên 34% và giảm ngành nông - lâm - thủy sản từ 14,9% xuống còn
8,7%. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng lao
động khu vực nông nghiệp từ 45,5% năm 2005 xuống còn 30% năm 2010, lao
động phi nông nghiệp tăng từ 54,5% năm 2005 lên 70% năm 2010.
Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 17,2%/năm, cao hơn mức tăng
của giai đoạn 2001 - 2005.
Điều kiện tự nhiên, xã hội của Đồng Nai nhìn chung rất thuận lợi cho
huy động, sử dụng ở mức cao nhất lực lượng lao động vào các lĩnh vực khác
nhau của nền kinh tế. Đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiêp, công nghiệp chế
biến và dịch vụ.
30
1.2.2. Kết quả sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã
hội ở Đồng Nai thời gian qua
Kết quả sử dụng NNL cho phát triển KT - XH của Đồng Nai gắn liền
với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thành tựu tăng trưởng kinh tế của tỉnh
cũng như từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực, từng cơ sở sản xuất
kinh doanh. Điều đó được biểu hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, công tác quy hoạch, phân bổ lực lượng lao động được thực
hiện một cách cơ bản, gắn sát với các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế của tỉnh,
từng huyện từng cơ sở sản xuất kinh doanh.
Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai, từ năm 2010 đến 2013, tỷ lệ
thất nghiệp cả khu vực thành thị và nông thôn của Tỉnh đều thấp hơn mức
trung bình của cả nước (thất nghiệp khu vực thành thị năm 2010 giảm còn
2,6%, năm 2013 còn 2,2%).
Cùng với tỷ lệ thất nghiệp thấp, thời gian không có hoặc không đủ việc
làm cho người lao động trong những ngành, lĩnh vực, đơn vị sản xuất kinh
doanh mang tính thời vụ như nông nghiệp, xây dựng cơ bản, du lịch có xu
hướng giảm do các cơ sở sản xuất đa dạng hóa loại hình sản xuất kinh doanh.
Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân 19,1%/năm.
Trong 5 năm 2006 - 2010 huy động tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt
121.500 tỷ đồng. Tốc độ thu ngân sách bình quân 12,5%/năm, tổng thu ngân
sách bình quân chiếm tỷ lệ khoảng 23% GDP hàng năm.
Trong 5 năm 2006 - 2010, đã phát triển thêm 11 Khu công nghiệp,
nâng tổng số Khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu,
với diện tích 9.573 ha. Về phát triển các cụm công nghiệp, đến cuối năm 2010
toàn tỉnh có 43 cụm công nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích là 2.143
ha trong đó có 2 cụm công nghiệp đã đầu tư hoàn thiện hạ tầng, 6 cụm công
nghiệp đang đầu tư hạ tầng số còn lại đang trong quá trình bồi thường giải
phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu tư.
31
Cơ cấu lao động năm 2010 là: khu vực công nghiệp - xây dựng 39,1%,
khu vực dịch vụ 30,9%, khu vực nông nghiệp 30%.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2010 còn 14,5%.
Năm 2010, toàn tỉnh có 257 cơ sở y tế. 100% xã, phường có trạm y tế;
100% trạm y tế có nữ hộ sinh; 100% ấp, khu phố có nhân viên y tế được đào
tạo và hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Toàn tỉnh có 19 bệnh viện đa khoa,
chuyên khoa và 13 phòng khám đa khoa khu vực với 5.675 giường bệnh, đạt
19 giường bệnh/vạn dân. Toàn tỉnh có 5.703 cán bộ y tế, đạt 22,5 cán bộ y tế/
vạn dân. Trong đó, số bác sỹ là 1.267 người, đạt 5 bác sỹ/vạn dân. Những số
liệu về y tế, giáo dục và chất lượng dân cư đều có liên quan đến thực trạng sử
dụng NNL trong phát triển KT - XH ở Đồng Nai thời gian qua.
Kết quả Chương trình đào tạo phát triển NNL ở Đồng Nai giai đoạn
2005 - 2010 cho thấy:
Mục tiêu 5 năm 40% người lao động được đào tạo nghề, năm 2010 là
42,66%, đạt 106,65% chỉ tiêu. Số người tham dự các khóa bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ 244.000 người, đến tháng 12/2010 là 241.000 đạt 98,55% chỉ
tiêu [Nguồn: Cổng thông tin điện tử - UBND tỉnh Đồng Nai].
Về nhân lực: lực lượng lao động tăng thêm từ dân số của tỉnh hàng năm
khoảng 21 - 22 ngàn người trong độ tuổi lao động (bao gồm cả lực lượng học
sinh, sinh viên ra trường), lực lượng lao động cần việc làm mới từ quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế khoảng 16 - 17 ngàn người/năm, lực lượng lao
động thất nghiệp thành thị hiện có khoảng 27 - 28 ngàn người (năm 2010 tỷ lệ
thất nghiệp thành thị chiếm 2,6% và tỷ lệ này ngày càng giảm), thu hút lao
động từ các địa phương khác khoảng 10 - 12 ngàn lao động. Như vậy, lực
lượng lao động mỗi năm tăng thêm khoảng 75 - 80 ngàn người, cơ bản đáp
ứng đủ nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn. Về cơ bản đã
đảm bảo cân đối nhu cầu lao động của doanh nghiệp và lao động tìm kiếm
32
việc làm (cả lao động ngoại tỉnh và lao động là người nước ngoài), kiểm soát
tỷ lệ thất nghiệp thành thị ở mức thấp, gia tăng thời gian lao động nông
nghiệp, nông thôn. Trong phát triển KT - XH, cơ cấu lao động chuyển dịch
theo hướng ngày càng hợp lý, hiện đại hơn (năm 2010: khu vực công nghiệp -
xây dựng là 39,1%; khu vực dịch vụ là 30,9%; khu vực nông nghiệp là 30%).
Thứ hai, việc phân bổ, quản lý lực lượng lao động, trình độ quản trị
nhân lực trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, đơn vị hành chính sự
nghiệp, bộ máy hành chính công... ngày càng hợp lý, hiệu quả hơn.
Đối với bộ máy hành chính công, các đơn vị hành chính sự nghiệp,
Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các cơ quan chức năng (Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội...) có nhiều chủ trương, đề án thực hiện
tinh giản bộ máy hành chính, bộ phận trung gian. Cụ thể:
Xây dựng biểu biên chế bộ máy quản lý, xác định định mức lao động
cho những ngành, lĩnh vực theo hướng hợp lý, hiệu quả.
Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào quản lý sản xuất kinh
doanh, quản trị nhân lực.
Tạo thêm những điều kiện thuận lợi hơn cho lao động ngoại tỉnh đến
Đồng Nai làm việc và người lao động của Đồng Nai đi làm việc ở các tỉnh,
thành phố khác (lên Lâm Đồng, vào thành phố Hồ Chí Minh) hoặc xuất khẩu
lao động...
Đối với các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ... thực hiện rộng rãi hợp đồng lao động dài hạn hoặc theo thời
vụ; liên kết chặt chẽ với các cơ sở đào tạo, các trung tâm giới thiệu việc làm
để giải quyết quan hệ cung - cầu lao động.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Tỉnh thường cao hơn
mức trung bình của cả nước và của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, giai đoạn 2005, 2010 đạt tốc
độ tăng trưởng GDP ngành công nghiệp - xây dựng bình quân 13%/năm, giá
33
trị sản xuất (giá cố định 1994) tăng trưởng đạt 16%/năm; trong đó giá trị sản
xuất ngành công nghiệp đạt 17%/năm. Cụ thể:
Tỉnh đã tập trung phát triển công nghiệp - xây dựng đạt tốc độ tăng
trưởng ổn định, hiệu quả, bền vững theo hướng hiện đại và cơ bản giữ được
vai trò là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế và thực hiện mục tiêu
cơ bản CNH, HĐH trên địa bàn. Tập trung duy trì phát triển các ngành công
nghiệp chủ lực, có lợi thế so sánh, phát triển các ngành công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Có nhiều biện pháp
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về địa
bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Chuyển một số ngành công nghiệp từ hình
thức gia công sang sản xuất thành phẩm, xuất khẩu trực tiếp, nhằm gia tăng
giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Đã rà soát và xác định lại các ngành công nghiệp chủ lực có lợi thế so
sánh của địa phương. Tập trung thu hút và phát triển các ngành công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp chế tạo, công nghiệp cơ khí sản xuất phụ kiện,
phụ liệu thay thế nhập khẩu, công nghiệp dược, công nghiệp phụ trợ phục vụ
các ngành công nghiệp chủ lực. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông
nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc phục vụ
sản xuất và thu hoạch nông sản, công nghiệp bảo quản sau thu hoạch, công
nghiệp chế biến cao su, cà phê và các loại nông sản, thực phẩm với trình độ
công nghệ ngày càng cao, công nghệ sạch, tăng sức cạnh tranh. Thu hút
đầu tư các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về địa bàn nông thôn
góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động. Phân bố hợp lý sự phát triển
công nghiệp trên các vùng của tỉnh và khai thác hiệu quả các khu, cụm
công nghiệp hiện có. Chuyển các ngành công nghiệp từ hình thức gia công
sang sản xuất thành phẩm xuất khẩu trực tiếp, tạo nhiều giá trị gia tăng,
tăng thu nhập của người lao động và đóng góp ngân sách nhà nước cũng
như ngân sách địa phương.
34
Triển khai thực hiện nhiều giải pháp để nâng tỷ lệ lấp đầy diện tích đất
dùng cho thuê ở các khu công nghiệp trên 60%; đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng
trong các khu công nghiệp và quan tâm đầu tư kết nối hạ tầng ngoài hàng rào
khu công nghiệp. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư; kiên trì thực hiện thực
hiện phương châm “chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp”; nâng cao
chất lượng các dịch vụ phục vụ khu công nghiệp... [Hiện tại, Đồng Nai có 27
khu công nghiệp (tập trung chủ yếu ở thành phố Biên Hòa, huyện Long
Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom) và 36 cụm công nghiệp tập trung chủ yếu ở
các huyện còn lại].
Trong lĩnh vực nông nghiệp, giá trị gia tăng của ngành nông, lâm, ngư
nghiệp 5 năm 2005 - 2010 bình quân là 3,4%/năm, giá trị sản xuất của ngành
nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ 4,5%/năm.
Trên phạm vi toàn Tỉnh, đã tiến hành cơ giới hóa, hiện đại hóa trong
sản xuất nông nghiệp, nâng tỷ trọng nông sản qua sơ chế và chế biến lên trên
70% (riêng cao su, cà phê, hồ tiêu đạt trên 90%; thủy hải sản 86%). Ứng dụng
công nghệ sinh học, quy trình sản xuất nông nghiệp hiện đại nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế. Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững. Tạo chuyển biến mạnh mẽ khu vực nông nghiệp, nông thôn theo hướng
xây dựng nông thôn mới hiện đại, có kinh tế phát triển, nâng cao thu nhập
người nông dân, có kết cấu hạ tầng KT - XH đồng bộ, phát huy truyền thống
bản sắc văn hóa dân tộc và có môi trường sinh thái tốt. Xây dựng hoàn chỉnh
đề án khu bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai, triển khai các nhiệm vụ
bảo vệ phát triển rừng. Đầu tư đồng bộ hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đi đôi
với đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp nông thôn, phát triển kinh tế
nông thôn bền vững. Tạo được sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nội bộ ngành
nông nghiệp theo hướng hiện đại. Xây dựng và phát triển thương hiệu nông
sản hàng hóa trên địa bàn Tỉnh. Những thành tựu trong lĩnh vực nông nghiệp
35
đã thống kê trên cũng đồng thời phản ánh thời gian nông nhàn (không sản
xuất) của nông dân, lao động nông thôn trên địa bàn Đồng Nai giảm xuống;
ngành nghề đa dạng, nhu cầu sử dụng lao động tăng, thu nhập tăng lại có tác
dụng thúc đẩy phân công lao động phát triển.
Kiên trì thực hiện phương hướng phát triển nông nghiệp toàn diện theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng, hiệu quả cao trên cơ sở khuyến
khích tập trung đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng kỹ thuật hiện đại vào
sản xuất; bố trí lại cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp đặc điểm sinh thái và tập
quán sản xuất từng vùng; mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng các loại
rau màu, cây ăn trái và cây công nghiệp.
Trong lĩnh vực dịch vụ, giai đoạn 2005 - 2010, Đồng Nai đã tập trung
các nguồn lực nhất là NNL cho phát triển các ngành dịch vụ, chú trọng phát
triển các ngành dịch vụ chất lượng cao, tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu
GDP của Tỉnh năm 2010 đạt 38% đến 39%. Phát triển mạnh các loại hình
thương mại, du lịch và các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao để trở thành
ngành kinh tế quan trọng đóng góp lớn vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Phấn đấu lĩnh vực thương mại và dịch vụ luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn so với tốc độ tăng tưởng nền kinh tế. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ,
trong đó chú trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân
hàng, vận tải - kho bãi, thông tin liên lạc, khách sạn nhà hàng… Đầu tư phát
triển mạnh hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành dịch vụ. Đã
tạo được sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động ngành dịch vụ; năm 2013
tỷ trọng lao động được đào tạo chuyên môn ngành nghề là 87,6% và làm việc
đúng ngành đào tạo đạt 78% trên tổng số lực lượng lao động làm việc trong
lĩnh vực này.
Thứ tư, đã tạo ra được sự đồng thuận trong môi trường lao động do giải
quyết tốt các mối quan hệ về lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội giữa người lao
36
động và người sử dụng lao động; giữa bộ máy quản lý và các chủ thể kinh tế.
Vấn đề dân chủ hóa về kinh tế trong khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể
được quan tâm. Kết cấu hạ tầng xã hội (bao gồm cơ sở vật chất phục vụ trực
tiếp cho giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao...) được xây mới và nâng cấp theo
hướng đồng bộ, hiện đại.
Đến tháng 12 năm 2010, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%. Kết quả
xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia là: mầm non 12%, tiểu học 12%, THCS
15%, THPT 20%. Năm học 2010 - 2011, trên địa bàn Tỉnh có 2 trường đại
học, 9 trường cao đẳng, 6 trường trung cấp chuyên nghiệp, 80 cơ sở dạy nghề
với năng lực đào tạo trên 58.000 học viên.
Cuối năm 2010, toàn Tỉnh có 86% ấp, khu phố và 94% hộ gia đình đạt
danh hiệu ấp, khu phố, gia đình văn hóa; 98% cơ quan, đơn vị có đời sống
văn hóa lành mạnh, phong phú.
Tỷ lệ hộ dùng điện năm 2010 đạt 99%. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch
năm 2010 khu vực thành thị đạt 98%, khu vực nông thôn 90%. Những số liệu
trên trực tiếp phản ánh môi trường kinh tế xã hội có sự đồng thuận cao.
Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn năm 2006, đến cuối năm 2009 còn dưới
1%. Nếu tính theo chuẩn 2009 của tỉnh đến cuối năm 2010 còn 4,27%. Những
số liệu trên là minh chứng cho việc sử dụng có hiệu quả NNL hiện có trên địa
bàn. Do toàn dụng nhân công nên việc làm và thu nhập của người lao động
được cải thiện, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư
trên toàn Tỉnh cũng như của từng địa phương được nâng lên. Cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ GD&ĐT, chăm sóc y tế được tăng cường.
Nói đến sử dụng NNL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng cần đề cập đến mối
quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong khu vực kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì, Đồng Nai là tỉnh có nhiều khu
công nghiệp và các loại hình doanh nghiệp. Theo đánh giá chung của các cơ quan
37
chức năng (Sở Kế hoạch - Đầu tư, Cục thuế, Liên đoàn Lao động tỉnh...) thì mối
quan hệ giữa chính quyền với doanh nghiệp; giữa các chủ doanh nghiệp với người
lao động nhìn chung được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật và
hình thực tiễn của tỉnh. Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đầu
tháng 5 năm 2014, nảy sinh một số vụ việc liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh và lợi ích của chủ đầu tư cũng như việc làm, thu nhập của người lao động.
Song do có chỉ đạo kịp thời từ Trung ương và sự vào cuộc nhanh chóng, quyết liệt
của các cơ quan chức năng nên mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với
các đơn vị, các cơ sở sản xuất kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài; giữa các nhà
đầu tư nước ngoài với người lao động, đã được giải quyết ổn thỏa. Cuối tháng 6
năm 2014 hầu hết người lao động trong các khu công nghiệp Biên Hòa 1, Biên
Hòa 2, Long Thành trở lại làm việc bình thường.
Nguyên nhân trực tiếp của những thành tựu trên là do tỉnh và các địa
phương đã huy động nguồn vốn (tài chính) thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của địa phương hoặc đơn vị, cơ sở sản xuất
được nâng lên, doanh thu, lợi nhuận trước thuế, mức nộp ngân sách tỉnh, địa
phương tăng dần từng năm. Theo Cục Thống kê tỉnh, tổng vốn đầu tư năm
2010 bằng 105,86% so với năm 2009; năm 2013 bằng 109,73% so với 2012...
Cùng với những kết quả tích cực trên, việc sử dụng NNL trong phát
triển KT - XH ở Đồng Nai thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục
xem xét giải quyết.
1.2.3. Hạn chế, bất cập của sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế - xã hội ở Đồng Nai; nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần
quan tâm giải quyết
Hạn chế bất cập
Việc làm và thu nhập của người lao động trong một số ngành, một số
doanh nghiệp, hộ gia đình (nông nghiệp thuần túy, thủ công nghiệp, dệt may,
38
cơ khí, xây dựng, khai thác cây công nghiệp ở vùng sâu, dân tộc ít người)
thiếu ổn định và còn thấp. Ở nhiều Công ty cao su trên địa bàn tỉnh, thời gian
2005 - 2009 bình quân 4.500.000đ/người/tháng; giai đoạn 2010 - 2013,
còn 3.000.000đ/người/tháng. Nguyên nhân chủ yếu là do biến động của
thị trường, giá cao su nguyên liệu xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 50%.
Tỷ lệ người lao động không đủ việc làm còn cao. Ngoại trừ thành
phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh, huyện Long Thành (giáp thành phố
Hồ Chí Minh) có tỉ lệ thất nghiệp thấp (2,2 đến 2,6%) còn các huyện
khác như Vĩnh Cửu (giáp Bình Phước); Tân Phú (giáp Lâm Đồng); Định
Quán (giáp Bình Thuận) người lao động thiếu việc làm và người có việc
làm nhưng thu nhập thấp (nằm trong diện nghèo và cận nghèo) còn tương
đối nhiều.
Về tổ chức kinh tế - xã hội, sự xung đột về mặt lợi ích giữa chủ sử
dụng lao động với người lao động diễn ra không phải là cá biệt (hiện tượng
bãi công, bỏ việc, thiếu sự mẫn cán và tính sáng tạo trong công việc...).
Điều này phản ánh sự đồng thuận giữa người sử dụng lao động và người
lao động còn có những vấn đề tiếp tục quan tâm theo dõi, giải quyết.
Tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh; sự phát triển sản xuất kinh doanh
của một số doanh nghiệp, địa phương chưa ổn định. Số doanh nghiệp đăng
ký phá sản và số lao động đăng ký trợ cấp thất nghiệp có xu hướng tăng.
Cơ quan quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý chưa tạo ra được những
“nội lực” mới từ lực lượng lao động có trình độ học vấn và kỹ năng
chuyên ngành cao. Sự lãng phí nhân lực do không bố trí đúng người, đúng
việc, nạn chảy chất xám vẫn còn diễn ra. Theo Cục Thống kê Đồng Nai,
khối cán bộ công chức thuộc bộ máy đảng, chính quyền các cấp của Tỉnh,
người có trình độ sau đại học năm 2006 là 58; năm 2010 là 151. Trình độ
đại học với các số tương ứng là 1.562 và 2.229. [Xem phụ lục 7, 8, 9].
39
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên
Công tác dự báo sự biến động về số lượng, chất lượng, cơ cấu NNL của
tỉnh, từng huyện, thị, từng lĩnh vực... chưa kịp thời, chưa gắn quy hoạch NNL
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng.
Trình độ, phương thức quản trị nhân lực ở một số đơn vị, địa phương,
ngành, lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH trong nền kinh tế
thị trường. Có địa phương, cơ quan hoặc doanh nghiệp, người quản lý hạn chế
về “tầm” hoặc về “tâm”, thậm chí thiếu cả “tâm lẫn tầm”. Điều đó, không chỉ
gây hậu quả về mặt kinh tế như làm thất thoát tiền ngân sách, của cải vật chất
của nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề việc làm và thu nhập
của một bộ phận người lao động trên địa bàn tỉnh.
Cũng như nhiều tỉnh, thành phố khác, ở Đồng Nai hệ thống văn bản
pháp quy chưa đồng bộ; chế tài xử lý những vi phạm hợp đồng lao động còn
thiên về lợi ích của “giới chủ”. Việt Nam nói chung cũng như tỉnh Đồng Nai
nói riêng, chưa thực sự có thị trường sức lao động.
Ngoài ra, tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế, của cơ chế “xin cho”
thời bao cấp cũng là một nguyên nhân trực tiếp tác động tiêu cực tới quá trình
sử dụng NNL cho phát triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai. Người lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thường không tha thiết với khu vực kinh tế
nhà nước và bộ máy hành chính công.
Một số vấn đề đặt ra cần quan tâm nghiên cứu giải quyết
Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa khả năng tạo thêm việc làm mới với tốc độ
tăng cung của thị trường sức lao động (bao gồm cả lao động ngoại tỉnh đến
Đồng Nai làm việc - tăng cơ học). Cung về lao động sẽ tăng nhanh hơn cầu,
dẫn đến tính cạnh tranh cũng như áp lực về giải quyết việc làm tăng lên.
Người sử dụng lao động có thêm cơ hội để tuyển chọn nhân lực theo nhu cầu
sản xuất kinh doanh. Người lao động phải tự đào tạo để có trình độ nhất định
đáp ứng nhu cầu thị trường sức lao động.
40
Thứ hai: Mâu thuẫn giữa nhiệm vụ, mục tiêu phát triển KT - XH của
Tỉnh với chất lượng, cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực hiện có.
Mục tiêu của Đồng Nai đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công
nghiệp với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nô ̣i (GDP) 5 năm 2011 -
2015 bình quân từ 13 đến 14%/năm. Trong đó: giá trị tăng thêm (GDP) của
ngành công nghiệp và xây dựng từ 13% đến 14%; dịch vụ từ 15% đến 16%;
nông, lâm, ngư, nghiệp từ 3,5% đến 4%... Trong khi đó, NNL hiện có và quy
mô, tốc độ, trình độ đào tạo, phát triển trong thời gian tới vẫn chưa đáp ứng
nhu cầu. Sự mất cân đối trong cơ cấu NNL còn khá lớn. Đội ngũ doanh nhân
giỏi, thợ lành nghề, các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý kinh tế, công nghệ
thông tin, phiên dịch, tìm kiếm thị trường còn thiếu. Cũng như nhiều tỉnh,
thành khác trong cả nước, tình trạng này là yếu tố cản trở cho tăng trưởng và
phát triển KT - XH.
Thứ ba: Mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các ngành các địa phương với
nhau; giữa người sử dụng lao động với người lao động là tất yếu và tiềm ẩn sự
bất ổn về mặt xã hội.
Trong kinh tế thị trường, tối đa hóa lợi ích là mục tiêu, là động lực của
sự tăng trưởng, đồng thời nó cũng tạo ra những mâu thuẫn giữa các chủ thể
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, dù là kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thì các ngành, vùng, các tổ chức kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh
tranh với nhau. Điều đó, cũng có nghĩa là về mặt lợi ích, nó vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn với nhau. Trong những phạm vi không gian, thời gian nhất
định có thể có sự xung đột về mặt lợi ích, tiềm ẩn sự bất ổn về xã hội.
*
* *
Từ lý luận và thực tiễn về sử dụng NNL phát triển KT - XH ở Đồng
Nai những năm qua, có thể khẳng định: NNL - nguồn lực con người có vai trò
to lớn trong quá trình phát triển KT - XH. Quá trình sử dụng NNL phải góp
41
phần tạo thêm những động lực mới cho tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội
giai đoạn 2010 - 2015 và tầm nhìn 2020. Nhận thức được sự cần thiết và tầm
quan trọng của việc sử dụng tối ưu NNL trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
KT - XH, thời gian qua Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các tổ chức kinh tế, xã hội ở
Đồng Nai đã có nhiều chủ trương và biện pháp giải quyết vấn đề việc làm cho
người lao động. Có đủ việc làm, thu nhập tăng, đời sống vật chất và tinh thần
của một đại bộ phận dân cư được cải thiện và nâng lên sẽ tiếp tục tạo thêm
những động lực mới, những lợi thế mới trong quá trình phát triển KT - XH
của Đồng Nai.
Tuy nhiên, việc phân bổ và sử dụng NNL của Đồng Nai vẫn còn nhiều
bất cập. Trong ngắn hạn, có ngành, địa phương còn để xảy ra tình trạng lãng
phí nhân lực chất lượng cao. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng
phát triển kinh tế của ngành, địa phương đó, mà còn để lại hệ lụy về mặt xã
hội như nạn “chảy máu chất xám”, cạnh tranh không lành mạnh kiểu “chụp
giật”. Vấn đề đặt ra là, tỉnh Đồng Nai cần có những quan điểm và giải pháp
cụ thể, đồng bộ, nhằm phát huy những thế mạnh của mình, tìm cách khắc
phục hạn chế, bất cập trong quá trình phân bổ, sử dụng NNL, tạo động lực
mạnh mẽ cho kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững, đưa Đồng Nai cơ
bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015.
42
Chương 2
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI
2.1. Những quan điểm cơ bản về sử dụng nguồn nhân lực trong
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
2.1.1. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là yêu cầu khách quan, là
nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai
Muốn sử dụng tối ưu NNL trong phát triển KT - XH, trước hết phải
nhận thức đầy đủ vai trò của NNL. Chủ thể của quá trình này là cơ quan quản
lý nhà nước về kinh tế, các doanh nhân, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội
trên địa bàn Tỉnh.
Cơ sở để xác định quan điểm này trước hết và cơ bản nhất là mục tiêu
phát triển KT - XH của Đồng Nai thời kỳ 2011 - 2015. Liên quan đến giải
quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn Đồng Nai, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (tháng 10 năm 2010) xác định: Tổng sản phẩm quốc
nô ̣i (GDP) 5 năm 2011 - 2015 tăng bình quân từ 13% đến 14%/năm. Trong
đó: giá trị tăng thêm (GDP) của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 13%
đến 14%; dịch vụ tăng từ 15% đến 16%; nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ 3,5%
đến 4%. GDP bình quân đầu người năm 2015 (theo giá hiện hành) khoảng
2.900 đến 3.000 USD.
Với mục tiêu tăng trưởng như trên, tổng nhu cầu lao động tăng thêm
trong giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 70.000 đến 75.000 lượt lao động mỗi
năm chủ yếu từ các doanh nghiệp thành lập mới và nhu cầu lao động tăng
thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn. Nhu cầu về lao động
đặt ra bài toán giải quyết việc làm cho số lao động tăng thêm (tăng do nguồn
cung tại chỗ và do ngoại tỉnh đến tìm việc làm) đồng thời sử dụng có hiệu quả
tốt hơn lực lượng lao động hiện có nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp.
43
Thực hiện quan điểm này theo tác giả cần làm tốt những nội dung sau:
Thứ nhất, Cơ quan lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội, đội ngũ doanh
nhân nhận thức đầy đủ ý nghĩa việc sử dụng có hiệu quả NNL.
NNL là nguồn lực của mọi nguồn lực. Đào tạo và phát triển NNL có
chất lượng cao, số lượng hợp lý là nhiệm vụ khó khăn phức tạp; song sử dụng
NNL hiện có như thế nào? Cũng là câu hỏi mà lời giải đáp không hề đơn giản,
trong đó tiết kiệm NNL trong hoạt động kinh tế, xã hội là mục tiêu đặt lên
hàng đầu.
Về lô-gíc hình thức, tiết kiệm NNL trước hết phải tạo đủ công ăn việc
làm cho người trong độ tuổi, có khả năng và có nhu cầu lao động. Trên thực
tế tỉ lệ thất nghiệp ở Đồng Nai (3%) thấp hơn so với tỉ lệ chung của cả nước
(5,95%) nhưng số người có đủ việc làm theo thời gian quy chuẩn (trung bình
6 giờ/ngày, 5 ngày/tuần và 248 ngày/năm) còn khá nhiều. Số lao động này
chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng Nai nằm trong khu vực
thời tiết phân thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11 hàng
năm) là thời vụ gieo trồng các loại cây lương thực, cây công nghiệp ngắn
ngày (đậu phộng, mè, đậu tương...) và khai thác các loại cây công nghiệp lâu
năm (cao su, cà phê...) còn mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau)
thường là thời gian “đất nghỉ, người nghỉ” nghĩa là người lao động không có
việc làm, không có thu nhập. Mặt khác, diện tích đất canh tác bình quân đầu
người không cao, những hộ nông dân thuần túy ở các huyện Cẩm Mỹ, Tân
Phú, Định Quán sử dụng diên tích đất canh tác 1ha/hộ không nhiều, trong khi
đó lại có một số người đầu tư đất đai nhằm kinh doanh bất động sản hoặc mở
trang trại trồng cao su, cà phê... nhưng do khó khăn về thị trường tiêu thụ
hoặc thiếu vốn nên hiệu quả kinh tế thấp, nhiều diện tích bỏ hoang. Ở huyện
Xuân Lộc, huyện Thống Nhất nhiều vườn điều, cà phê không được tiếp tục
chăm sóc chỉ khai thác kiểu quảng canh, hoặc bỏ hoang.
44
Lợi thế rất lớn của Đồng Nai là tài nguyên đất đỏ Bazan và có diện tích
trồng cao su lớn nhất miền Đông Nam Bộ. Đã có khoảng thời gian dài (1991 -
1997; 2002 - 2008; 2005 - 2010) khi giá cao su trên thị trường thế giới tăng
cao, nhiều nơi người dân phá cà phê, hồ tiêu để trồng cao su. Khi đến thời
gian khai thác (5 đến 7 năm) giá giảm mạnh nên có nơi người dân lại chuyển
đổi cây trồng theo thời giá. Cứ như vậy, với một bộ phận người dân, việc làm
thì có nhưng thu nhập lại không tương xứng với những gì đã bỏ ra.
Trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, tuy là Tỉnh có số lượng khu
công nghiệp lớn nhất nhì trong cả nước, nhưng tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành
thị thường ở mức trên dưới 3%. Chưa có số liệu thống kê chính thức của các
cơ quan chức năng, nhưng qua tìm hiểu một số doanh nghiệp và một số địa
phương trên địa bàn huyện Long Thành, Trảng Bom, thị xã Long Khánh... thì
số lao động ngoại Tỉnh vào tìm việc ở Đồng Nai tương đương số lao động là
người Đồng Nai làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Dưới
góc độ kinh tế học thị trường thì đó là điều bình thường, hợp quy luật. Nhưng
xem xét dưới góc độ kinh tế NNL thì chưa hiệu quả về kinh tế và có thể để lại
hệ lụy về xã hội.
Cũng trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, ngành công nghiệp chế
biến nông sản (thủy hải sản, lâm sản, cao su, cà phê...), sản xuất vật liệu xây
dựng, dệt may, cơ khí, điện tử, điện lạnh... tuy việc làm và thu nhập tương đối
ổn định nhưng chưa mang tính bền vững. Ngành điện tử, dệt may, cơ khí chủ
yếu là doanh nghiệp lắp ráp hoặc gia công cho chủ đầu tư nước ngoài nên
lượng giá trị gia tăng, lợi nhuận trước thuế, thu nhập của người lao động phụ
thuộc vào đơn đặt hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm và ý muốn chủ quan của
chủ đầu tư.
Đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, mặc dù đã
chuyển đổi mô hình sản xuất kinh doanh (chuyển thành công ty trách nhiệm
45
hữu hạn một thành viên - 100% vốn sở hữu nhà nước; công ty cổ phần nhà
nước nắm lượng cổ phiếu chi phối) những năm qua tốc độ tăng trưởng chưa
tương xứng với vai trò, sự quan tâm tạo điều kiện thuận lợi về vốn, lao động, thị
trường tiêu thụ sản phẩm từ nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp này.
Khắc phục bất cập trên trước hết cơ quan quản lý nhà nước cần tinh giản các bộ
phận, các lực lượng trung gian, hành chính sự vụ, cồng kềnh. Đồng thời tạo sự
tương thích giữa số chất lượng, số lượng người lao động với các mục tiêu, nhiệm
vụ kinh tế của Tỉnh, của từng địa phương và từng tổ chức kinh tế.
Thứ hai, Trách nhiệm của người lao động trong việc tìm, giữ được việc
làm trong cơ chế thị trường.
Thông thường khi nói tới sử dụng NNL trong phát triển KT - XH,
người ta thường tập trung nghiên cứu vai trò, trách nhiệm, giải pháp thực hiện
của cơ quan quản lý nhà nước (ở cấp Tỉnh là các Sở: Tài chính, Kế hoach -
Đầu tư, Lao động - Thương binh và Xã hội, Nội vụ...) mà ít đề cập đến trách
nhiệm của chính người lao động - kể cả lao động quản lý.
Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là thuộc tính vốn có của nó. Đối
với thị trường sức lao động, tính chất cạnh tranh lại rất quyết liệt và thường
tạo áp lực lớn cho cả người sử dụng lao động và người lao động.
Với người lao động, đặc biệt là những người làm việc trong các lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ, muốn có việc làm ổn định trước hết phải hội tụ
đủ các điều kiện về sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp... nghĩa là phải
đáp ứng nhu cầu của người sử dụng lao động. Điều đó cũng có nghĩa là người
lao động phải được đào tạo để có một trình độ nhất định và trong quá trình lao
động phải xây dựng được tác phong làm việc theo hướng chuyên nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Sự cần mẫn, tính sáng tạo, hiệu suất công việc cao... là đức tính
cần có của người lao động trong kinh tế thị trường. Sự phát triển của khoa học
công nghệ, nhu cầu mở cửa và hội nhập, tính chất cạnh tranh khốc liệt của cơ
46
chế thị trường... buộc người lao động luôn tự hoàn thiện năng lực lao động
của mình, phải tự đào tạo và đào tạo lại chuyên môn ngành nghề, mới có điều
kiện giữ được nơi làm, việc làm cho chính mình.
Với người sử dụng lao động, cơ chế thị trường giúp họ có cơ hội lựa
chọn nhân lực theo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Song họ cũng phải đối mặt
với sự cạnh tranh trên thị trường sức lao động. Họ phải ưu ái nhiều hơn những
người có tài, phải dành một phần lợi nhuận để tăng lương và giải quyết các
vấn đề về phúc lợi xã hội... Chính điều đó buộc người sử dụng lao động phải
tối ưu hóa công tác quản trị nhân sự.
2.1.2. Sử dụng nguồn nhân lực ở Đồng Nai phải gắn với đặc điểm,
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh
trên địa bàn Tỉnh
Cơ sở để xác định quan điểm này là căn cứ vào thực trạng sử dụng lực
lượng lao động hiện có cũng như xu hướng phát triển NNL của Đồng Nai
trong thời gian tới.
Xét cho cùng thì con người vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể của mọi hoạt
động thực tiễn. Con người là điểm xuất phát và là đích hướng tới của mọi chính
sách kinh tế, xã hội nói chung. Vì vậy, quá trình đào tạo, phân bổ, sử dụng
nguồn lực con người phải gắn sát với mục tiêu nhiệm vụ đã được xác định đồng
thời phù hợp với đặc điểm khách quan. Có như vậy mới thực sự phát huy nhân
tố con người - vai trò NNL với tư cách là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Thực tiễn đã chứng minh, trong phạm vi một quốc gia hay một vùng,
một ngành, một đơn vị kinh tế nhất định, nếu sử dụng lãng phí lực lượng lao
động do phân bổ không hợp lý dẫn đến nơi thừa, nơi thiếu; người có thì
không cần, người cần thì lại không có hoặc sử dụng không hiệu quả do bố trí
không đúng người, đúng việc... Sự lãng phí đó dẫn đến mọi tiềm năng thế
mạnh không được khai thác tối đa, năng suất lao động thấp, thu nhập của
người lao động, lợi nhuận của người sử dụng lao động không cao.
47
Thực hiện quan điểm này cần tập trung vào những nội chủ yếu sau:
Thứ nhất, thực hiện phân bổ NNL phù hợp với đặc điểm, tiềm năng thế
mạnh, cơ cấu kinh tế của từng vùng, ngành trên địa bàn Tỉnh.
Việc phân bổ dân cư và phân công lao động xã hội theo hướng hợp lý
và hiệu quả hơn là yêu cầu khách quan của mọi nền kinh tế, mọi vùng lãnh
thổ nhưng đồng thời cũng mang tính chủ quan của con người. Khi con người
nhận thức được những yêu cầu khách quan đó thì họ sẽ có những quyết định
đúng và đem lại kết quả như mong muốn.
Đối với các cơ quan hoạch định chính sách có liên quan đến sử dụng
lực lượng lao động xã hội, trên cơ sở đặc điểm mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế đã
được xác định, cần khảo sát đánh giá một cách chính xác số lượng, chất lượng
NNL hiện có và thực trạng sử dụng NNL đó như thế nào? Ngoài những yếu tố
hợp lý, những thành tựu, thì điều quan trọng hơn là nhận ra những vấn đề,
những yếu tố chưa hợp lý, những khó khăn bất cập trong sử dụng NNL trong
phát triển KT - XH trên địa bàn toàn Tỉnh, cũng như từng địa phương, trên cơ
sở đó lập quy hoạch tổng thể, các chương trình, dự án phân bổ lại dân cư và
điều chuyển lực lượng lao động theo mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế và quy luật
cung - cầu của kinh tế thị trường.
Quá trình phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH, HĐH của cả nước
nói chung, ở Đồng Nai nói riêng, đều nảy sinh vấn đề có tính quy luật là tốc độ
đô thị hóa - cùng với nó là lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ tăng nhanh; khu vực nông thôn và lao động nông nghiệp giảm tương
ứng. Điều đó làm thay đổi quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường. [Xem
phụ lục 2 & 3]. Hiện tại thành phố Biên Hòa, huyện Nhơn Trạch, huyện Long
Thành có mật độ dân số trung bình và có số lượng lao động làm việc trong
ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ cao nhất Tỉnh. Trong khi đó, các huyện
Tân Phú, Vĩnh Cửu, Cẩm Mỹ, Xuân Lộc thì mật độ dân cư thấp hơn, lao động
48
làm việc chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm cả nông
nghiệp theo nghĩa hẹp, lâm nghiệp, ngư nghiệp) mặc dù thiên nhiên ưu đãi,
nhưng do nhiều yếu tố như thị trường tiêu thụ nông phẩm, hiệu quả sử dụng đất,
việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh...
nên năng suất lao động thấp, hiệu quả KT - XH trong sử dụng NNL chưa cao.
Trình độ và tốc độ phát triển kinh tế, xã hội ở những huyện trên thấp hơn mức
trung bình của toàn tỉnh. Đây cũng là lực cản trên con đường hướng tới mục
tiêu trở thành tỉnh cơ bản CNH, HĐH vào năm 2015.
Giải quyết vấn đề này, cơ quan hoạch định chính sách về lao động xã
hội (Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Nội
vụ, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Tài chính...) cần điều chuyển,
kiện toàn đủ đội ngũ cán bộ quản lý hành chính công, cán bộ khoa học kỹ
thuật, quản lý sản xuất kinh doanh cho vùng sâu, vùng xa của Tỉnh.
Muốn kiện toàn đủ nhân lực cho bộ máy quản lý hành chính công và
các cơ quan chuyên môn, Tỉnh ủy, UBND tỉnh cần có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng NNL đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển KT - XH trên địa bàn, tập
trung đào tạo theo địa chỉ theo quy hoạch để sớm có đủ cán bộ, chuyên viên
giỏi, tận tụy với công việc và làm việc với năng lực và trách nhiệm cao nhất
của người thủ lĩnh, người đứng đầu một địa phương, một lĩnh vực, một đơn
vị... với tâm niệm “một người biết lo, bằng một kho người làm” như triết lý
cha ông ta đã để lại.
Đi cùng với các chương trình, dự án đào tạo, phát triển và sử dụng
NNL theo hướng hiện đại và hiệu quả, cần bổ sung các chính sách đãi ngộ
thỏa đáng nhằm thu hút NNL có chất lượng cao đến Đồng Nai làm việc và
những người có điều kiện, năng lực, khát vọng làm giàu từ Biên Hòa, Long
Khánh, Nhơn Trạch, Long Thành... đến các huyện vùng xa, vùng sâu của
Tỉnh để khai thác tiềm năng lao động, đất, nước, thị trường phục vụ mục tiêu
phát triển KT - XH của Tỉnh.
49
Làm tốt công tác phân bổ lại dân cư và lực lượng lao động xã hội trên địa
bàn Đồng Nai cần quan tâm việc đào tạo nghề tại chỗ cho thanh niên và người lao
động nói chung. Bởi vì, lực lượng lao động tăng thêm từ dân số của Tỉnh hàng
năm khoảng 21 đến 22 ngàn người trong độ tuổi lao động (bao gồm cả lực lượng
học sinh, sinh viên ra trường), lực lượng lao động cần việc làm mới từ quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế khoảng 16 đến 17 ngàn người/năm, lực lượng lao động
thất nghiệp thành thị hiện có khoảng 27 đến 28 ngàn người, thu hút lao động từ
các địa phương khác khoảng 10 đến 12 ngàn lao động... Trong khi đó, số học sinh
tốt nghiệp trung học phổ thông, tiếp tục theo học các trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề khoảng 4 đến 5 ngàn người chiếm 25% số người đến tuổi lao động và
cần có việc làm. Giải pháp tốt nhất là đào tạo nghề tại chỗ thông qua các trung tâm
khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm; các cơ sở dạy nghề của huyện, doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội khác. Mục đích của các hoạt động dạy nghề tại
chỗ là nhằm trang bị cho người lao động những kiến thức, kỹ năng cần thiết một
mặt đáp ứng nhu cầu thị trường sức lao động mặt khác để người lao động trực tiếp
nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp nhỏ và
vừa, các nông trại, trang trại trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản). Phấn đấu
nâng “tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 đạt trên 65% (trong đó 45% được đào
tạo nghề). Giải quyết việc làm giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 350.000 lượt lao
động. Giảm tỷ lệ lao đô ̣ng không có viê ̣c làm ở khu vực đô thị xuống dưới 2,6%
vào năm 2015. Cơ cấu lao động đến năm 2015: khu vực công nghiệp và xây dựng
39 đến 40%, khu vực thương mại, dịch vụ 38 đến 39%, khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản 21 đến 22%” [9].
Thứ hai, sử dụng NNL cho phát triển KT - XH gắn với củng cố quốc
phòng, an ninh.
Tiếp tục quán triệt Nghị quyết và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương
8 (Khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ 9
50
(2010) đã xác định “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và toàn vùng; bảo vệ vững chắc
độc lập, an ninh quốc phòng, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT - XH.
Phát triển KT - XH đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính
trị. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự” [9]. Trong thời gian
tới, toàn tỉnh cũng như từng địa phương, các ngành, các cấp, các tổ chức chính
trị, xã hội cần thực hiện tốt chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh
trong sử dụng NNL trong phát triển KT - XH. Thực chất của nội dung này là xây
dựng đi đôi với bảo vệ; giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế với lợi ích
quốc phòng an ninh tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Thực hiện nội dung này, trước hết khi tiến hành việc phân bổ dân cư và
lực lượng lao động xã hội giữa các ngành, các vùng phải tính đến cả nhiệm vụ
kinh tế và nhiệm vụ quân sự quốc phòng, an ninh. Cần thường xuyên bổ sung,
sắp xếp lại lực lượng lao động tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế (ngành,
vùng) đồng thời xây dựng kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở và lực lượng
dân quân tự vệ, an ninh nhân dân trên địa bàn đủ mạnh để góp phần xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh vững mạnh mà trực tiếp nhất là giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh
doanh và có một môi trường ổn định cho phát triển KT - XH. Tập trung xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị động viên ở từng địa bàn dân cư,
trong các doanh nghiêp; quan tâm giải quyết lợi ích người lao động để giảm
thiểu mâu thuẫn giữa chủ doanh nghiệp với người lao động; giữa các doanh
nghiệp với chính quyền và người dân địa phương (như vụ Vedan - sông Thị
Vải) không để tình trạng doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, người lao động mất
việc làm, tỉ lệ thất nghiệp tăng lên.
Trên thực tế, khi doanh nghiệp và người dân ở những địa bàn có nhiều
tệ nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm, tội phạm hình sự hoành
51
hành thì người lao động, các chủ đầu tư không yên tâm sản xuất kinh doanh.
Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm
hàng hóa. Hiệu quả sản xuất kinh doanh bị giảm sút, tác động trực tiếp đến
thu nhập của người lao động, lợi nhuận của nhà đầu tư cũng như mọi sự tăng
trưởng, phát triển KT - XH hội nói chung.
Trong kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, cùng với những thời cơ
vận hội, là những loại hình tội phạm mới xuất hiện. Trước đây cũng như hiện
nay, nhiều trang trại, nông trại, hộ sản xuất gia đình, nhiều cơ sở sản xuất
kinh doanh phải đầu tư khoản kinh phí không nhỏ để bảo vệ sản xuất. Đầu
tháng 5 năm 2014, lợi dụng sự bất bình của người nhân dân về hành động sai
trái của Trung Quốc ở Biển Đông, một số phần tử xấu đã tiến hành gây rối
đập phá máy móc, trộm cắp tài sản làm ngừng trệ sản xuất của nhiều doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Sau những vụ việc trên,
Chính phủ và Tỉnh phải giải quyết thiệt hại cho các nhà đầu tư nước ngoài
nhằm xóa đi tâm lý lo ngại để họ yên tâm sản xuất kinh doanh lâu dài.
2.1.3. Sử dụng nguồn nhân lực theo hướng khai thác tối đa nguồn
lực con người cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đồng Nai
Cơ sở để xác định quan điểm này là yêu cầu khách quan đặt ra cho tổ
chức đảng và bộ máy chính quyền các cấp phải phát huy sức mạnh tổng hợp,
huy động tối đa, khai thác tối ưu các nguồn lực mà trước hết và quyết định nhất
là sử dụng một cách hợp lý NNL cho quá trình CNH, HĐH nền kinh tế, để Đồng
Nai cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015.
Thực trạng sử dụng NNL ở Đồng Nai hiện tại còn nhiều bất cập. Xét ở
góc độ quản lý nhà nước - tầm vĩ mô, việc phân bổ lực lượng lao động xã hội
giữa các ngành, các vùng khác nhau còn chưa hợp lý. Bộ máy công quyền, các
đoàn thể chính trị xã hội biên chế nhìn chung là cồng kềnh, chức năng chồng
chéo, hiệu lực hiệu quả quản lý về kinh tế xã hội chưa cao. Lực lượng lao động
52
trực tiếp trong các ngành sản xuất vật chất - những người tạo phần giá trị gia
tăng cho nền kinh tế thường có thu nhập thấp, dễ bị tổn thương bởi cơ chế thị
trường. Vì vậy, các quan hệ về lợi ích kinh tế và sự phân hóa về thu nhập giữa
các ngành, lĩnh vực tác động trực tiếp theo chiều hướng tiêu cực đến sử dụng
NNL cũng như động lực của của sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Xét ở góc độ sản xuất kinh doanh - tầm vi mô, của các doanh nghiệp,
các lâm trường, nông trường, các hợp tác xã, các trang trại, nông trại, hộ gia
đình và người lao động nhìn chung còn nhiều khó khăn về vốn, lao động,
công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài một số doanh nghiệp 100%
vốn FDI hoặc các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao, sản
phẩm có tính độc quyền... nên tỉ suất lợi nhuận cao, khả năng tái sản xuất mở
rộng và tỉ lệ vốn tự có trên tổng vốn sử dụng tăng, còn lại là những doanh
nghiệp dựa nhiều vào vốn vay ngân hàng. Mặc dù, nhà nước và các ngân hàng
thương mại có nhiều chính sách, quy định, quy chế có tính ưu đãi doanh
nghiệp song các doanh nghiệp tiếp cận được giải ngân nguồn vốn tín dụng với
lãi suất ưu đãi, dài hạn, dư nợ lớn... vẫn còn nhiều khó khăn trở ngại. Về lực
lượng lao động có chất lượng cao, các hoạt động nhận chuyển giao công nghệ
mới, xúc tiến thương mại để mở rộng thị phần... các doanh nghiệp ở Đồng
Nai cũng còn nhiều bất cập.
Thực hiện quan điểm này cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung
chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần tối ưu hóa việc sử dụng NNL trong phát triển KT - XH.
Thực chất của yêu cầu này là sử dụng một cách có hiệu quả cao nhất lực
lượng lao động xã hội hiện có vào các lĩnh vực, các ngành, các nhiệm vụ kinh tế
xã hội của Tỉnh cũng như từng huyện, thị, doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế.
Muốn sử dụng có hiệu quả NNL hiện có ở Đồng Nai, trước hết cần tiếp
tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về dân cư, lao động và quản trị nhân
53
lực ở các đơn vị kinh tế. Thường xuyên đổi mới và nâng cao năng lực tham
mưu, giúp việc về công tác thống kê, quản lý, phân bổ, điều chuyển nhân lực
trong phát tiển kinh tế, xã hội. Cần tiếp tục ban hành các quy chế phân định rõ
thẩm quyền và trách nhiệm quản lý và sử dụng NNL của UBND các cấp, các
sở, ban ngành trong dự báo, theo dõi, xây dựng chiến lược đào tạo, phát triển
NNL trong phạm vi toàn Tỉnh.
Nhằm đảm bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng NNL ở Đồng Nai, cơ
quan chức năng định kỳ tổ chức các hội thảo khoa học, hội nghị tổng kết đánh
giá hiệu quả sử dụng NNL, những thành tựu, những kinh nghiệm hay và
những bất cập, hạn chế yếu kém để tìm giải pháp khắc phục.
Đổi mới phương thức và tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp, các địa phương, các doanh nghiệp trong tuyển dụng, sử dụng NNL, nhất
là NNL chất lượng cao trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, xã
hội. Cần tìm hiểu và học tập một số kinh nghiệm hay về sử dụng NNL trong
nền kinh tế thị trường của các tỉnh, thành phố trong cả nước, trước hết là
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, thủ đô Hà Nội... trong giải quyết bài toán
về lợi ích kinh tế để thu hút thêm lao động có trình độ cao và tạo động lực cho
sự tăng trưởng, phát triển.
Tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỉ
trọng nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ tăng, đồng thời quan tâm đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế theo hướng đồng bộ, hiện đại để thu hút
thêm đầu tư (cả trong và ngoài nước) mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh,
giải quyết việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất. Các chính
sách về thể chế, tài chính, đất đai, đào tạo và phát triển NNL của Đồng Nai
phải hướng tới mục tiêu toàn dụng nhân công và tối ưu hóa sử dụng NNL.
Thứ hai, nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế thị trường tạo sự
canh tranh lành mạnh trên thị trường sức lao động.
54
Một trong những bất cập lớn nhất để sử dụng tối ưu NNL trong phát
triển KT - XH ở Đồng Nai là tính tự phát trên thị trường sức lao động. Chính
nền kinh tế thị trường tạo sự chuyển dịch và lựa chọn NNL một cách thường
xuyên với tính cạnh tranh cao. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã khẳng định: “cơ chế thị trường được vận dụng linh hoạt để phát
huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” [11.tr.34]. Tuy nhiên, tính tự phát của cơ chế thị trường cũng có
những tác động không thuận chiều đến hiệu quả sử dụng NNL. Không chỉ
NNL chất lượng cao (các nhà quản lý giỏi, chuyên gia tin học, ngoại ngữ;
thợ cả, kỹ sư thực hành…) có thể rời bỏ nơi đang làm việc đến nơi có có
thu nhập cao hơn mà người lao động phổ thông cũng thường có thói quen
thích thì làm, không thích thì nghỉ. Điều này gây khó khăn cho người sử
dụng lao động nhất là những doanh nghiệp sản xuất dưới hình thức gia
công hàng hóa cho nước ngoài. Nhiều năm trở lại đây, sau mỗi đợt nghỉ tết
Nguyên đán, số lao động hợp đồng không trở lại hoặc chậm trở lại làm việc
tại các khu công nghiệp Loteco, Amata, Thạnh Phú, Sông Mây tới 13% đến
16%, làm cho chủ doanh nghiệp phải gấp rút tuyển mới lao động hoặc điều
chỉnh quy mô sản xuất kinh doanh.
Để khắc phục tình trạng này trước hết những người sử dụng lao động
với số lượng lớn cần nhận thức đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường trước
hết là quy luật cung - cầu của thị trường sức lao động. Cần có chế độ trả
lương phù hợp có tính cạnh tranh để thu hút lao động có trình độ tay nghề
cao, chuyên môn giỏi và cả những lao động phổ thông, có tính thời vụ.
Quan tâm thực sự đến nhu cầu cuộc sống, điều kiện làm việc, khả năng đào
tạo, tự đào tạo để nâng cao trình độ về mọi mặt của đội ngũ những người
55
lao động nói chung, nhằm xây dựng môi trường làm việc thân thiện, yên
bình để mỗi “Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là một môi
trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất
và hiệu quả cao” [11.tr.77].
2.1.4. Sử dụng đi đôi với đào tạo và đạo tạo lại nguồn nhân lực phù
hợp, điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập của Đồng Nai
Tính cạnh tranh trên thị trường sức lao động được biểu hiện: người lao
động muốn có việc làm trong môi trường thuận lợi và thu nhập cao nhất;
người sử dụng lao động tuyển dụng được một tập thể những người lao động
tài năng, mẫn cán và đem lại nhiều sản phẩm nhất cho doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, địa phương, ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc kết
hợp giữa sử dụng với đào tạo; giữa đào tạo và đào tạo lại đội ngũ người lao
động trong nền kinh tế thị trường là yêu cầu khách quan để nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường sức lao động.
Thực hiện quan điểm này cần làm tốt những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, gắn đào tạo với sử dụng, gắn sử dụng với đào tạo và đào tạo
lại lực lượng lao động làm việc trong những ngành đòi hỏi chuyên môn kỹ
thuật hoặc có tính cạnh tranh cao.
Theo điều tra, khảo sát thực tế và dự báo của trường Đại học Lạc Hồng,
nhu cầu sử dụng lao động trong lĩnh vực công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, trước hết là các khu công nghiêp tập trung giai đoạn 2011 - 2015 là rất
lớn, vì các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Tỉnh gồm nhiều công ty
vốn nước ngoài. Hiện đang có 36 quốc gia và vùng lãnh thổ hoạt động đầu tư
với 867 dự án FDI thu hút vốn là 14.539 triệu USD (khoảng 90% vốn) so với
325 dự án/35.085 tỷ đồng vốn trong nước. Do vậy, số lao động Việt Nam
đang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài đang rất lớn (doanh nghiệp
Hàn Quốc khoảng 120 ngàn, Đài Loan: 62,7 ngàn, Trung Quốc: 59,5 ngàn,
56
Nhật: 41,2 ngàn, Việt Nam: 30,8 ngàn, còn lại là các nước khác). Riêng năm
nay, các doanh nghiệp Nhật Bản cần tới 10.000 lao động Việt Nam, lĩnh vực
được tuyển dụng nhiều là nông nghiệp và chế biến thủy - hải sản. Ngoài trả
lương cao, các công ty của Nhật còn thực hiện rất tốt các chế độ phụ cấp,
thưởng cho người lao động. Tính đến tháng 9 năm 2012 tổng số lao động làm
việc tại 31 khu công nghiệp Đồng Nai là 414.940 người, trong đó tỉ lệ trình độ
cao đẳng, đại học, công nhân kỷ thuật, lao động phổ thông là 1/4,47/9,54 (có
5.261 người là lao động nước ngoài) và người ngoài tỉnh chiếm 41%.
Kế hoạch tuyển dụng hiện nay (2014, 2015) của các khu công nghiệp
Đồng Nai là 41.978 người (nữ 26.828 người), trong đó cao đẳng, đại học:
1.873 người; Công nhân kỹ thuật: 6.917 người; Lao động phổ thông: 33.180
người. Để tuyển dụng được lao động chất lượng cao, bên cạnh kiến thức và
kỹ năng đã được đào tạo tại các trường Cao đẳng, Đại học, một số tiêu chí
thường được đề cập khi thực hiện thông báo tuyển dụng lao động trình độ Cao
đẳng, Đại học của một số doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công
nghiệp Đồng Nai và lân cận gồm: 1. Kinh nghiệm làm việc. 2. Trình độ ngoại
ngữ, vi tính. 3. Kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm. 4. Có khả năng làm việc
độc lập và làm được báo cáo kết quả thực hiện công việc. 5. Có khả năng
trình bày vấn đề rõ ràng, thuyết phục. 6. Có khả năng tìm đọc và hiểu được
các tài liệu liên quan lĩnh vực nhiệm vụ được giao để đề xuất giải pháp thực
hiện nhiệm vụ.
Ngoài ra, trong thông tin tuyển dụng, mỗi tiêu chí này thường kèm theo
các chi tiết cụ thể thêm như: 1. Nghe nói thành thạo tiếng Anh trong giao tiếp;
2. Giỏi về ngôn ngữ lập trình ASP.NET, SQL 2005; 3. Sử dụng thành thạo
các phần mềm thuộc lĩnh vực chuyên môn như Auto Cad; Microsoft Project;
4. Cẩn thận và có trách nhiệm với công việc;… Đối chiếu với một số phản
ánh từ thông tin tuyển dụng của các công ty đang có nhu cầu tuyển dụng như:
57
Robert Bosch, Musachi Paint, Best Sun Technology… các tiêu chí tin học,
ngoại ngữ, khả năng trình bày, khả năng giao tiếp… đều rất cần thiết, nhưng
số đáp ứng nhu cầu cần tuyển thường ở trạng thái cung nhỏ hơn cầu.
Số lượng thống kê tại các KCN có tuyển nhiều lao động (01/2014)
SỐ LƯỢNG TUYỂN LAO ĐỘNG
KHU CÔNG NGHIỆP
Tổng số lượng tuyển dụng
Trong đó CĐ - ĐH
SÔNG MÂY HỐ NAI KCN BIÊN HÒA 1 KCN BIÊN HÒA 2 LOTECO AMATA LONG THÀNH NHƠN TRẠCH 1 NHƠN TRẠCH 2 NHƠN TRẠCH 3 TAM PHƯỚC XUÂN LỘC THẠNH PHÚ
2.419 1.237 2.705 6.841 3.021 3.922 1.200 4.572 2.819 2.585 4.378 1.600 630 37.929
41 158 237 340 52 111 148 142 111 97 86 20 15 1.558
TỔNG CỘNG
Nguồn: http//dntu.edu.vn/NewsDetail=723
Thứ hai, đa dạng hóa, xã hội hóa các loại hình đào tạo nghề, khuyến
khích người lao động tự đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn nghề
nghiệp đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng.
Quá trình đào tạo, sử dụng và đào tạo lại NNL trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai, nếu không gắn chiến lược phát triển NNL với quy hoạch, kế
hoạch, mục tiêu, nhiệm phát triển KT - XH, dễ dẫn đến mất cân đối về cơ
cấu lao động và cơ cấu ngành, vùng kinh tế của tỉnh; dễ làm cho biên chế
tổ chức của bộ máy quản lý hành chính công, bộ máy quản lý kinh tế, các
tổ chức chính trị, xã hội cồng kềnh nhưng hiệu lực, hiệu quả quản lý
không cao; lực lượng lao động của các đơn vị sản xuất kinh doanh vừa
thừa, vừa thiếu; thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu lao động có
58
chuyên môn ngành nghề giỏi, dẫn đến mất cân đối giữa cơ cấu NNL với
cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu vùng kinh tế của Tỉnh.
Điều nhận định trên được minh chứng trên thực tế, Đồng Nai là một trong
những tỉnh có ngành công nghiệp khá phát triển ở khu vực Đông Nam Bộ. Tuy
nhiên, ngành công nghiệp của Đồng Nai phát triển không đồng đều, chỉ tập trung
ở một số huyện như: Long Thành,Trảng Bom, Nhơn Trạch và thành phố Biên
Hòa, những địa phương còn lại đặc biệt là 5 huyện miền núi phía Bắc của tỉnh
(Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Thống Nhất, Vĩnh Cửu) sản xuất nông nghiệp
vẫn là chủ yếu, dẫn đến sự chênh lệch khá lớn trong mặt bằng phát triển kinh tế -
xã hội giữa các địa phương trong tỉnh. Vì vậy, yêu cầu về một ngành công
nghiệp nông thôn và dịch vụ nông nghiệp đồng bộ, hiện đại cũng như việc nâng
cao trình độ chuyên môn nghành nghề, chất lượng cuộc sống của người lao động
nhất là lao động khu vực nông thôn, miền núi để cân bằng sự phát triển giữa các
địa phương trong tỉnh là vấn đề lớn của Đồng Nai.
Việt Nam nói chung, cũng như tất cả các tỉnh, thành của cả nước trong
đó có Đồng Nai, đang thực hiện mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào
các nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Điều đó đặt ra yêu cầu phải không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng NNL trong quá trình
CNH, HĐH và phát triển KT - XH nói chung. Bởi vì, nếu không nâng cao
chất lượng đào tạo NNL, Đồng Nai sẽ thiếu lao động kỹ thuật, thiếu những
nhà quản lý giỏi dẫn đến việc người ngoại Tỉnh và người nước ngoài đến
Đồng Nai sẽ nhiều hơn. Điều đó cũng có nghĩa là tỉ lệ thất nghiệp ở Đồng Nai
sẽ cao hơn. Mặt khác, theo lộ trình đến 2015 các nước Đông Nam Á
(ASEAN) sẽ nhất thể hóa trở thành thực thể kinh tế theo mô hình Liên minh
Châu Âu (EC). Lúc đó các rào cản về thuế quan và phi thuế quan sẽ bị tháo
dỡ, các nguồn lực về vốn, lao động tự do dịch chuyển trong nội khối. Nếu
người lao động Đồng Nai không được đào tạo nâng cao chất lượng chuyên
59
môn, kỹ năng và thái độ lao động thì khả năng tìm kiếm việc làm và giữ được
việc làm cũng gặp nhiều sự cạnh tranh từ lao động ngoại tỉnh và ngoại quốc.
Tất nhiên người Thái, người Lào, người Indonexia vào Việt Nam và Đồng
Nai tìm kiếm việc làm không phải dễ dàng nếu không cùng quốc tịch với chủ
đầu tư như người lao động phổ thông Trung Quốc làm việc trong các dự án do
người Trung Quốc làm chủ đầu tư tại Việt Nam và một số quốc gia khác.
Thực tiễn phát triển KT - XH ở Đồng Nai cũng như các tỉnh khác trong
vùng cho thấy giữa đào tạo, phân bổ, sử dụng và đào tạo lại... có mối quan hệ
nhân quả, tác động qua lại lẫn nhau. Đào tạo NNL bao gồm giáo dục đào tạo,
đào tạo lại, đào tạo tại chỗ, tự đào tạo, liên kết đào tạo, đào tạo liên thông...
phải được tiến hành thường xuyên, phải xuất phát từ đặc điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ kinh tế xã hội của Tỉnh, của từng ngành, từng địa phương và nhu
cầu của mỗi doanh nghiệp, đơn vị kinh tế và cá nhân người lao động và điều
quan trọng hơn là phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội
nhập quốc tế. Sử dụng có hiệu quả NNL bao gồm việc tuyển dụng, sàng lọc,
bố trí sắp xếp nhân lực trên cơ sở chất lượng NNL, năng lực và kết quả đóng
góp thực tiễn của người lao động cho doanh nghiệp, cho xã hội. Cùng với đó,
việc xây dựng môi trường sống và mối quan hệ làm việc thân thiện, hợp tác
giữa người sử dụng lao động và người lao động; người quản lý và người được
quản lý; giữa chính quyền và doanh nghiệp, giữa các chủ thể kinh tế với
nhau... là yêu cầu khách quan đồng thời cũng mang tính chủ quan của con
người. Có như vậy, mới phát huy tối đa sự năng động, tính sáng tạo của mỗi
cá nhân đảm bảo cho họ có điều kiện phát triển, hoàn thiện hơn.
Để thực hiện những quan điểm có tính định hướng trên, cần xác định hệ
thống giải pháp và tổ chức thực hiện các giải pháp đó một cách toàn diện,
đồng bộ, tạo sự thống nhất trong nhận thức, sự quyết tâm ở mỗi người, sự
đồng tâm trong từng đơn vị sản xuất kinh doanh, từng tổ chức chính trị xã hội
60
trong khai thác, sử dụng nguồn lực lao động một cách có hiệu nhất cho các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT - XH của tỉnh trong thời gian tới.
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai thời gian tới
2.2.1. Khảo sát đánh giá đúng số lượng, chất lượng, cơ cấu lực
lượng lao động gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh, từng địa
phương, ngành, lĩnh vực
Việc xác định một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn lực lao động trong phát triển KT - XH trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
không thể tách rời thực tiễn kinh tế, xã hội, nhất là thực trạng về dân số, lao
động việc làm của người lao động trong khi các yếu tố đó lại luôn vận động,
thay đổi theo các xu hướng khác nhau. Vì vậy, việc khảo sát, đánh giá đúng,
đủ về số lượng, chất lượng, cơ cấu lực lượng lao động xã hội và cơ cấu kinh
tế của tỉnh, từng ngành, địa phương là giải pháp rất quan trọng.
Thứ nhất, về công tác dân số và phân bổ dân cư trên địa bàn Tỉnh.
Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê Đồng Nai, ở thời điểm tháng
01 năm 2013, diện tích đất tự nhiên của Tỉnh là 5.907,24 km 2; dân số là
2.768.670 người với mật độ trung bình là 470 người/1km2, nhưng phân bổ
không đều. Thành phố Biên Hòa có mật độ trung bình là 3.358 người, huyện
Trảng Bom là 870 người, Thị xã Long Khánh là 720 người/1km2. Trong khi
đó huyện Vĩnh Cửu có mật độ trung bình là 128 người, huyện Tân Phú là 215
người, huyện Định Quán là 216 người/1km2 [Xem phụ lục 1]. Sự phân bố
không đều (mật độ dân cư trung bình của thành phố Biên Hòa đông gấp 28
lần so với mật độ trung bình của huyện Vĩnh Cửu) không chỉ ảnh hưởng tới
môi trường sống, áp lực về kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội mà còn ảnh hưởng
trực tiếp đến việc quy hoạch, sử dụng NNL cho thực hiện các nhiệm vụ KT -
XH, quốc phòng và an ninh trên địa bàn ở cả những nơi có mật độ dân cư
thấp cũng như cao.
61
Mật độ dân cư phân bổ quá không đều, lại thường xuyên biến động nên
việc sử dụng lao động khai thác các nguồn lực về đất, rừng và các tài nguyên
thiên nhiên khác trên các huyện phía Bắc của tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn,
trở ngại. Thực trạng quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng cơ học nhanh là thách
thức về đảm bảo nâng cao mức sống, các điều kiện về an sinh xã hội như nhà
ở, giáo dục, y tế việc làm, thu nhập của dân cư cả khu vực nông thôn lẫn
thành thị nhất là khu vực vùng xa, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc của Tỉnh.
Dân số tăng nhanh còn gây sức ép lớn lên quỹ đất, ảnh hưởng đến công tác
giải phóng mặt bằng, tiến độ xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới,
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội sẽ chậm lại và tác động và tác động
tiêu cực đến vấn đề việc làm, đến sử dụng NNL trên địa bàn Tỉnh.
Một thực tế nữa là, số dân trong độ tuổi lao động của Đồng Nai có tỉ
trọng lớn nhưng chất lượng NNL chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
CNH, HĐH, chưa đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của những lĩnh vực
kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao cần được hiện đại hóa nhanh đi tắt đón đầu
trình độ tiên tiến của thế giới như tự động hóa, công nghệ thông tin, vật liệu
mới... Những địa phương có nhiều khu công nghiệp tập trung như Biên Hòa,
Long Thành, Nhơn Trạch đồng thời cũng là những khu vực có mật độ dân số
cao nhất tỉnh và nằm trong lưu vực sông Đồng Nai nên nguy cơ ô nhiễm môi
trường sinh thái là rất cao. Sự biến đổi khí hậu theo chiều hướng tiêu cực, hệ
thống các nhà máy thủy điện thượng nguồn sông Đồng Nai, nạn chặt phá rừng,
hạn hán, nước mặn xâm nhập vào nội địa sâu hơn... Đây là những thách thức rất
lớn đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, cho sự phát triển bền
vững của Tỉnh. Nhiều người nông dân, ngư dân vùng sông Thị Vải hiện nay
không thể mưu sinh nổi, vì sự ô nhiễm nguồn nước không thể khắc phục được.
Về cơ cấu và chất lượng lao động
Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai, năm 2013, tổng số lao động
của Tỉnh là 1.657.990 người được phân chia: khu vực kinh tế nhà nước là
62
111.090 người; ngoài nhà nước là 1.115.160 người; khu vực vốn đầu tư nước
ngoài là 413.740 người [Xem phụ lục 3, 4, 6].
Về chất lượng, ở thời điểm tháng 01 năm 2013, tỉ lệ người trong độ tuổi
lao động được đào tạo từ trung cấp nghề trở lên chiếm 15,5%. Trong đó, khu
vực phân theo khu vực: thành thị là 26,6%, nông thôn là 10,1%; phân theo
giới tính: nam là 17,6%, nữ là 13,4% [Cục Thống kê Đồng Nai, niên giám
thống kê 2012. bảng 25].
Số lao động được đào tạo chuyên môn ngành nghề hoặc có trình độ học
vấn cao chiếm tỉ lệ không cao trong tổng số lực lượng lao động của Tỉnh (15,5%)
nhưng phân bổ và sử dụng còn chưa hợp lý, chủ yếu tập trung ở khu vực bộ máy
hành chính công, khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Riêng bộ máy hành chính Tỉnh và huyện có tới 91,74% công chức, viên chức có
văn bằng, chứng chỉ giáo dục đào tạo trong đó: trình độ trung cấp là 15,26%, cao
đẳng là 3,4%, đại học là 68,44%, sau đại học là 4,46% [Xem phụ lục 7, 8].
Những số liệu thống kê về dân số, lao động của Đồng Nai phản ánh sức
ép về sử dụng hiệu quả NNL là rất lớn; mặt khác trên thực tế việc phân bổ (có
thể do cả yếu tố khách quan chi phối) là chưa hợp lý. Điều đó cũng có nghĩa
là việc sử dụng tối ưu NNL ở Đồng Nai còn nhiều vấn đề cần giải quyết một
cách đồng bộ và quyết liệt hơn. Vì vậy, xây dựng kế hoạch tổng thể về dân số,
việc làm, đào tạo nhân lực, phân bổ dân cư, dịch chuyển lao động là cần
thiết... Hiện nay nhiều công ty vẫn muốn thay thế số lao động người nước
ngoài đang làm việc tại Việt Nam ở những vị trí cao, hoặc thay thế lao động
là người địa phương để thuận tiện trong việc điều hành quản lý trong những
thời điểm nhạy cảm với biến động lao động như lễ, tết… gần đây nhất là quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981. Đầu tháng
5 năm 2014 các cuộc biểu tình chống Trung Quốc bị một số kẻ xấu lợi dụng
để cướp phá tài sản của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gây hậu
quả không tốt đến trật tự xã hội, đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các khu
63
công nghiệp tập trung trên địa bàn Tỉnh. Để thực sự đáp ứng được những yêu
cầu sử dụng lao động trên thị trường, chúng ta cần tiếp tục khảo sát đánh giá
đúng số lượng, chất lượng, cơ cấu lực lượng lao động của tỉnh, từng địa phương,
ngành, lĩnh vực để thông tin đầy đủ và đưa ra những khuyến cáo cho doanh
nghiệp các cơ quan liên quan và người lao động biết để xử lý kịp thời chính xác.
Thứ hai, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng hợp
lý, hiện đại để khai thác tối đa lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối của tỉnh.
Trên cơ sở đó thực hiện phân công lại lực lượng lao động trên địa bàn Tỉnh.
Nhận thức đầy đủ vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn với
sử dụng NNL một cách có hiệu quả nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai (khóa IX) tháng 10 năm 2010 đã xác định nhiệm vụ phát triển các
ngành kinh tế chủ yếu của Tỉnh với nội dung cụ thể:
Về công nghiệp, giai đoạn 2006 - 2010, Tỉnh đã tập trung xây dựng và
đưa vào hoạt động các khu công nghiệp công nghệ cao, khu công nghệ cao
chuyên ngành công nghệ sinh học, khu công nông nghiệp Donataba. Nâng
cao hiệu quả hoạt động các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Phát triển mạnh lĩnh vực xây dựng, đầu tư máy móc, trang thiết bị đủ
sức thực hiện các công trình lớn, hiện đại, đáp ứng nhu cầu về xây dựng cho
phát triển KT - XH và nhu cầu của nhân dân. Từng bước nâng cao trình độ
thiết kế và chất lượng quy hoạch, hiện đại hóa công nghiệp xây dựng đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực đáp ứng yêu cầu xây dựng trong nước.
Về nông nghiệp, tăng cường quản lý bảo vệ rừng, thực hiện tốt khoanh
nuôi và trồng rừng. Trong đó, tổ chức quản lý và xây dựng khu bảo tồn thiên
nhiên- văn hóa Đồng Nai và toàn bộ hệ thống phục vụ Khu ủy Miền Đông.
Đến năm 2015 nâng độ che phủ xây xanh đạt 56%, trong đó giữ vững 29,76%
diện tích rừng và trên 26% diện tích cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả.
Tiếp tục rà soát chương trình cây, con chủ lực của Tỉnh để bổ sung
nhiệm vụ phát triển trồng trọt, chăn nuôi, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
64
nuôi giai đoạn 2010 - 2015. Gắn sản xuất với chế biến và thị trường; đặc biệt
là thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ trên cơ sở giải quyết hài hòa lợi ích “4
nhà” (nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước). Tập trung xây
dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Nâng cao chất lượng các vùng cây
chuyên canh: cao su, cà phê, điều, cây ăn trái, mì, bắp, mía và các vùng
chuyên canh rau (theo tinh thần Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29-8-2005
của Bộ Chính trị), gắn với việc tăng cường sử dụng giống mới, phát triển thủy
lợi và công nghiệp bảo quản, chế biến có trình độ công nghệ cao. Chủ động
thực hiện chính sách điều tiết, hỗ trợ tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
cho nông dân.
Tỉnh sẽ ban hành thêm những chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp; phát triển các mô hình kinh tế
trang trại, kinh tế gia trại, hợp tác xã, tổ hợp tác có mức độ chuyên môn hóa
và thâm canh cao. Tiếp tục phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng
chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến, an toàn dịch
bệnh, đảm bảo vệ sinh môi trường. Phát triển mạnh đàn heo và chăn nuôi đại
gia súc ở những vùng theo quy hoạch. Quản lý chặt chẽ hoạt động giết mổ gia
súc, gia cầm. Thực hiện tốt công tác phòng, chống thiên tai và dịch bệnh trong
chăn nuôi. Mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ theo quy
hoạch gắn với bảo vệ môi trường nước. Đầu tư nâng cao chất lượng các hoạt
động dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp để hỗ trợ cho sản xuất và đẩy mạnh cơ
giới hóa nông nghiệp trong các khâu, nhất là ở khâu sơ chế và bảo quản sản
phẩm sau thu hoạch. Đầu tư hiện đại hóa khâu bảo quản, chế biến nông, lâm
sản. Tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm nông nghiệp, xây dựng và phát
triển thương hiệu nông sản hàng hóa có thế mạnh của Tỉnh.
Tăng cường quản lý đất đai, quản lý tài nguyên khoáng sản, tài nguyên
nước, bảo vệ diện tích rừng phòng hộ, đặc biệt là rừng ngập mặn khu vực
65
Long Thành - Nhơn Trạch, rừng đầu nguồn sông Đồng Nai, hồ Trị An và các
khu bảo tồn thiên nhiên; trồng rừng; đẩy mạnh trồng cây xanh trong khu vực
doanh nghiệp và dân cư để tạo môi trường thiên nhiên trong lành.
Tiếp tục phát triển kinh tế nông thôn theo hướng khuyến khích, hỗ trợ
phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển dịch vụ và phát triển mạnh các
ngành nghề, nhất là ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Gắn kết chặt chẽ,
hài hòa lợi ích giữa người sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ. Quy
hoạch xây dựng một số vùng nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
đồng bộ và môi trường sinh thái tốt. Xây dựng và phát triển nông thôn mới,
đến năm 2015, toàn Tỉnh có trên 40% xã đạt chuẩn nông thôn mới theo tiêu
chí của Tỉnh.
Về dịch vụ, cần tiếp tục ưu tiên phát triển và hiện đại hóa các loại hình
thương mại và dịch vụ chất lượng cao như: tài chính, ngân hàng, công nghệ -
thông tin, viễn thông, bảo hiểm, y tế, tư vấn, GD&ĐT, KH&CN. Trong đó,
tập trung sức phát triển mạnh các loại hình dịch vụ có lợi thế so sánh của Tỉnh
(dịch vụ Logistics, dịch vụ kho bãi, dịch vụ cảng, dịch vụ vui chơi giải trí và
du lịch) ở những địa bàn có điều kiện.
Chú trọng mở rộng hệ thống bưu chính - viễn thông ở khu vực nông
thôn. Tiếp tục phát triển mạng lưới xe buýt theo quy hoạch, phát triển mạng lưới
vận tải đường thủy nội địa. Đẩy mạnh phát triển dịch vụ nhà ở, dịch vụ giải trí,
văn hóa cho công nhân. Phát triển mạnh dịch vụ KH&CN, GD&ĐT, văn hóa
thông tin, thể thao, dịch vụ y tế, việc làm và các dịch vụ an sinh xã hội.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham
gia phát triển các loại hình du lịch theo quy hoạch trên địa bàn Tỉnh, trong đó
chú trọng phát triển mạnh các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa gắn với
lễ hội. Huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để đầu tư kết cấu hạ
tầng, nhằm khai thác đạt hiệu quả các tuyến, điểm du lịch đã quy hoạch.
66
Tập trung mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại trong
nước ở tất cả các vùng. Phát triển và hoàn thiện hệ thống phân phối thị trường
bán lẻ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước chiếm vị trí vững chắc
trên thị trường nội địa.
Có giải pháp huy động các nguồn lực để nâng cấp, phát triển hệ thống
chợ theo quy hoạch. Đầu tư phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị quy
mô lớn, hiện đại tại các địa bàn trọng điểm có đông dân cư và các đô thị mới.
Tổ chức tốt công tác thông tin thị trường, giá cả, quảng cáo. Nâng cao
năng lực dự báo thị trường để có biện pháp điều hành kịp thời và hiệu quả.
Đổi mới công tác xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức
và cung cấp thông tin thị trường, tập trung xúc tiến thương mại tại các thị
trường trọng điểm có kim ngạch xuất khẩu lớn. Chú trọng xây dựng và quảng
bá thương hiệu hàng hóa, sản phẩm của địa phương ra nước ngoài. Thực hiện
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những
mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao, các sản phẩm chế biến
nông sản, sản phẩm có công nghệ cao; hạn chế tối đa xuất khẩu nguyên liệu
và sản phẩm thô. Đồng thời tăng cường kiểm soát cơ cấu hàng nhập khẩu
trong tiến trình hội nhập kinh tế, từng bước hạn chế nhập siêu.
Phát triển mạnh thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, thị trường bất
động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ nhằm thu hút
các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, tiếp
thị đầu tư và tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, đồng bộ, thuận lợi để
kêu gọi thu hút đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên của Tỉnh.
Để thực hiện giải pháp này cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ
quan tham mưu các cấp trong xác định mục tiêu, hoạch định chính sách dân
số, lao động và chính sách kinh tế xã hội của tỉnh, từng huyện, thị xã.
2.2.2. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến sử dụng
nguồn nhân lực
67
Về mặt nhận thức, đây là trách nhiệm và quyền hạn của UBND tỉnh,
trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu rộng và triển khai thực hiện có
hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có
liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động...
trong đó trực tiếp và quan trọng nhất là các chính sách về dân số, lao động,
đất đai, giáo dục đào tạo khoa học công nghệ, tài chính tín dụng... (Luật Lao
động, Luật Đất đai...) nhằm góp phần “Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để
tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng lao động và người lao động” theo
quan điểm Đại hội XI của Đảng [11. tr.111].
Thực hiện giải pháp này cơ quan chức năng và các cấp có thẩm quyền
tiếp tục ra soát các văn bản pháp quy của nhà nước, các văn bản dưới luật đã
ban hành, nội dung các hướng dẫn, quy định, quy chế trước đây có thể phát
huy tác dụng tốt nhưng nay không còn phù hợp cần phải sửa đổi bổ sung và
hoàn thiện. Ví dụ: Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung 2013) được Quốc hội thông
qua ngày 29 tháng 11 năm 2013, đã quy định rõ quyền sở hữu, sử dụng đất
đai; quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, các tổ chức kinh tế xã hội liên quan
đến đất đai... trong đó khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do nhà
nước thống nhất quản lý và giao quyền sử dụng lâu dài cho cá nhân, tập thể,
các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội... Với Đồng Nai, một tỉnh nằm trong
vùng Đông Nam bộ có nguồn tài nguyên đất đỏ bazan và diện tích trồng cao
su lớn nhất miền Đông Nam Bộ nên Tỉnh cần có những chính sách liên quan
đến tín dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, cơ sở công nghiệp chế biến,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm... để các công ty, nông lâm trường, hộ
gia đình trồng cao su, cà phê, trồng rừng có thêm điều kiện thuận lợi sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả cao, ổn định và bền vững.
Hoặc trong lĩnh vực GD&ĐT, để gắn quyền tự chủ với việc tự chịu
trách nhiệm về chương trình, nội dung, nhân sự cho các nhà trường, đơn vị
68
hoạt động giáo dục, đào tạo Đồng Nai cần tiếp tục triển khai thực hiện Thông
tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về “Quy chế thực hiện công khai đối với các cơ sở giáo dục của hệ
thống giáo dục quốc dân” để người dân và xã hội giám sát. Nhưng tỉnh cần có
những quy định cụ thể đối với hệ thống các trường công lập (từ mầm non đến
đại học) vì những cơ sở này được cấp ngân sách, còn các trường ngoài công
lập, việc công khai là điều cần thiết phải làm vì nó liên quan đến sự sống còn
của nhà trường.
Nói đến sử dụng có hiệu quả NNL trong phát triển KT - XH, tỉnh Đồng
Nai cần có chính sách thu hút nhân tài, quan tâm giải quyết những nhu cầu,
lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động; có cơ chế chính sách đãi
ngộ thỏa đáng người đóng góp nhiều cho xã hội, doanh nghiệp, địa phương;
hạn chế nạn “chảy máu chất xám”.
Trong kinh tế thị trường, việc hình thành và phát triển thị trường sức
lao động là một nội dung không thể thiếu. Cơ chế thị trường tạo sự cạnh tranh
và tạo động lực cho sự phát triển nói chung. Thông qua thị trường sức lao
động và thị trường hàng hóa, người sử dụng lao động và người lao động sẽ có
sự lựa chọn tối ưu về lao động, việc làm, ngành, lĩnh vực, quy mô sản xuất
kinh doanh.
Để giành ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường sức lao động, đối với
cơ quan quản lý nhà nước ở Đồng Nai, UBND tỉnh cần tiếp tục ban hành các
chính sách về NNL, trong đó có chính sách thu hút nhân tài, tạo điều kiện tốt
nhất cho việc làm, thu nhập, cuộc sống của người lao động có trình độ chuyên
môn nghề nghiệp và năng lực làm việc với hiệu quả cao đó là các doanh nhân,
các chuyên gia giỏi. Chính sách thu hút nhân tài ở Đồng Nai hướng tới hai đối
tượng chính. Thứ nhất, những người dân Đồng Nai mà tài nghệ của họ có thể
được đào tạo, trưởng thành từ Đồng Nai hay bất cứ nơi nào khác kể cả từ
69
nước ngoài; thứ hai, những người có tài năng từ nơi khác đến Đồng Nai làm
việc, sinh sống và lập nghiệp, nhất là người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Một số liệu khảo sát gần đây cho thấy, qua điều tra xã hội học 1.160 Việt kiều
về nước thăm thân nhân và tìm hiểu cơ hội đầu tư: về trình độ học vấn có 543
người tốt nghiệp đại học trở lên trong đó cử nhân là 348 người, thạc sĩ là 32
người, tiến sĩ là 33. Về nghề nghiệp: công chức là 101 người; kinh doanh là
177 người; nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học là 37 người; công tác
xã hội, từ thiện là 17 người; kỹ sư, bác sĩ làm việc trong cơ sở tư nhân là 11
người còn lại làm các công việc khác [15, tr.72]. Nhiều đề tài nghiên cứu đã
khẳng định, tiềm năng lớn nhất của người Việt Nam ở nước ngoài là tri thức
và tài chính, nhất là những người đang định cư ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Đông
Bắc Á. Vì vậy, muốn huy động và khai thác được nguồn lực to lớn này, Đồng
Nai cũng như cả nước nói chung cần tiến hành điều tra, khảo sát, xây dựng kế
hoạch tiếp cận các nhóm đối tượng, tìm hiểu năng lực tài chính, nhu cầu đầu
tư của từng con người cụ thể để có giải pháp khuyến khích họ đầu tư về nước,
tạo hiệu ứng domino đối với các nguồn lực khác, góp phần giải quyết việc
làm, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Đồng Nai, UBND tỉnh cần
chỉ đạo các cơ quan chức năng: Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài nguyên Môi
trường, Sở Tài chính, Ban Quản lý các Khu công nghiệp... xây dựng các quy
định, quy chế theo đúng Luật Đầu tư nước ngoài và phù hợp với điều kiện cụ
thể của Đồng Nai. Theo một số liệu thống kê gần đây cho thấy, thu hút FDI
tại tỉnh Đồng Nai đứng thứ 4 trong cả nước và hoạt động của FDI tại các Khu
công nghiệp là hoạt động mang lại GDP chủ yếu cho tỉnh Đồng Nai. Vì vậy,
việc thu hút FDI vào các Khu công nghiệp là vấn đề cần thiết mà tỉnh Đồng
Nai cần thực hiện, nhưng vấn đề được đặt ra đó là việc thu hút FDI như thế
nào để đem lại hiệu quả cao nhất và giúp Đồng Nai phát triển bền vững theo
70
định hướng CNH, HĐH đất nước. Theo số liệu của Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội, trong hai năm 2014 và 2015, các doanh nghiệp FDI trên địa
bàn Đồng Nai sẽ thu hút thêm 210.000 lao động, trong đó có 55% qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh còn cho biết: Năm 2013, tại
Đồng Nai có hơn 150 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký mới và tăng vốn.
Dự kiến trong năm 2014 thu hút thêm nhiều dự án mới, vì thế cần một lượng lớn
lao động bổ sung cho khu vực FDI. Trong khi đó, Đồng Nai vẫn đang thiếu nhiều
lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động kỹ thuật. Cũng theo Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai, trong giai đoạn từ năm 2015 - 2020, nhu
cầu của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn Tỉnh cần tuyển khoảng 260.000 lao
động, trong đó doanh nghiệp FDI tuyển 60% lao động đã qua đào tạo nghề, tương
đương khoảng 20.000 người/năm. Riêng nhu cầu này đối với các doanh nghiệp
không có vốn nhà nước khoảng 9.000 lao động/năm. Hầu hết, các doanh nghiệp
cần lượng lớn lao động đã qua đào tạo nghề, tuy nhiên trong nhiều năm qua và cả
trong tương lai nhu cầu này vẫn chưa được đáp ứng đủ. Trong khi đó, từ nay đến
năm 2020, cơ cấu lao động của tỉnh chỉ có hơn 40% công nhân kỹ thuật đã qua
đào tạo. Do đó, doanh nghiệp vẫn phải cần lượng lớn lao động từ các địa phương
khác. Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, để giải quyết bài toán
thiếu lao động có tay nghề, ngành giáo dục cần làm tốt công tác phân luồng học
sinh từ cấp trung học. Hệ thống trường nghề cần đổi mới việc dạy và học, đầu tư
trang thiết bị để học viên, sinh viên có thời gian thực hành nhiều hơn
[http://.www.baomoi.com/Doanhnghiep FDI].
Làm tốt công tác thu hút vốn đầu tư nói chung trong đó có vốn đầu tư
nước ngoài nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết việc làm
cho người lao động. Bởi vì, để các nhà đầu tư triển khai dự án mới hay tăng
vốn điều lệ cho các doanh nghiệp hiện có, Tỉnh cần hoàn thiện nâng cấp cơ sở
71
hạ tầng phục vụ và thu hút đầu tư; thu hút nhiều đầu tư để phát triển công
nghiệp hỗ trợ và công nghệ cao, xây dựng NNL đáp ứng nhu cầu thu hút FDI.
Trong thu hút đầu tư, việc đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, đổi mới
quản lý thủ tục hành chính, giảm các bộ phận, tầng nấc trung gian, tinh giản
biên chế ở tất cả ngành, lĩnh vực, địa phương các tổ chức kinh tế, xã hội chính
là tiết kiệm NNL hiện có. Tăng đầu tư là mở rộng quy mô sản xuất, sẽ thúc
đẩy phân công lao động xã hội, thu hút thêm việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp
hướng tới sự toàn dụng nhân công là tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng
nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Mặt khác, mở rộng quy mô đầu tư
sẽ thu hút thêm lực lượng lao động ngoại tỉnh đến Đồng Nai tìm kiếm việc
làm tạo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường sức lao động. Nhà đầu tư có
nhiều cơ hội tuyển chọn; người lao động phải buộc phải tự đào tạo và đào tạo
lại để nâng cao năng lực lao động, thái độ tác phong làm việc chuyên nghiệp,
hiện đại. Trước mắt, người lao động - nhất là lao động phổ thông chưa được
đào tạo chuyên môn ngành nghề, có thể có khó khăn và chịu nhiều áp lực
trong tìm kiếm việc làm. Nhưng về lâu dài, xã hội, nhà đầu tư, người lao động
sẽ đều có lợi. Vì chất lượng nhân lực tăng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nâng
lên, lợi nhuận của nhà đầu tư, tiền công của người lao động tăng, kinh tế tăng
trưởng, xã hội sẽ phát triển bền vững.
Quá trình sử dụng NNL trong phát triển KT - XH ở Đồng Nai, cần tăng
cường vai trò của công đoàn và các tổ chức quần chúng. Thường xuyên làm
tốt công tác thanh tra lao động, phát hiện và giải quyết kịp thời các tranh chấp
về hợp đồng lao động.
Trong kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động và
người lao động vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Thống nhất, vì sản
xuất kinh doanh có lãi thì nhà đầu tư có lợi nhuận, người lao động có thu nhập
kiểu người có công, kẻ có của. Nếu thua lỗ, thì người lao động sẽ thất nghiệp,
72
người sử dụng lao động - nhà đầu tư, sẽ phá sản. Về mối quan hệ này, trong
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848, C. Mác và Ph. Ăngghen đã cho rằng,
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không chỉ nhà tư bản cần công
nhân mà công nhân cũng cần nhà tư bản. Nhưng công nhân sẽ chết trước nếu
không có nhà tư bản hơn là nhà tư bản không có công nhân.
Mâu thuẫn về mặt lợi ích kinh tế giữa nhà đầu tư và người lao động,
dưới góc độ kinh tế học chính trị, được biểu hiện thông qua việc phân chia
phần giá trị mới tăng thêm giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Nếu phần thu nhập (lợi nhuận) của người sử dụng lao động tăng thì phần thu
nhập (tiền công) của người lao động sẽ giảm và ngược lại. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự mâu thuẫn này không hoàn toàn
mang tính đối kháng, bởi có sự điều tiết, quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa và đích hướng tới của nền kinh tế là: dân giàu, nước mạnh công bằng,
dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, tính tự phát của cơ chế thị trường và nhu cầu
tối đa hóa lợi nhuận của nhà đầu tư có thể làm nảy sinh mâu thuẫn phức tạp
hơn, tiềm ẩn sự bất ổn về mặt xã hội. Để ngăn ngừa những vụ việc phức tạp
có thể xảy ra liên quan đến lợi ích của các tập thể người lao động, giữa
người sử dụng lao động và người lao động, cần phát huy vai trò của tổ chức
công đoàn (trong doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ), các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức xã hội trong việc thanh tra lao động, phát hiện và giải
quyết kịp thời các tranh chấp về hợp đồng lao động. Nhất là các doang
nghiệp ngoài khu vực kinh tế nhà nước và đặc biệt là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian vừa qua, một số vụ đình công
biểu tình có quy mô lớn tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
đã nổ ra và cho thấy những yếu kém trong hoạt động của tổ chức công đoàn
cơ sở trong doanh nghiệp. Có cả người sử dụng và nhiều người lao động
73
không biết đến vai trò của Công đoàn. Có cơ quan chức năng, nhà nghiên cứu
đã đặt câu hỏi: trách nhiệm của tổ chức công đoàn, cán bộ công đoàn đến đâu
và ở đâu khi xảy những vụ việc lợi dụng biểu tình để phá hoại sản xuất như
hồi đầu tháng 5 năm 2014 vừa qua? Câu trả lời có thể sẽ là, ngoài sự phẫn nộ
của người lao động liên quan đến vấn đề quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên
biển Đông bị một số phần tử xấu lợi dụng kích động gây rối để cướp bóc, còn
là những bức xúc về tiền lương, đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động không đảm bảo, công đoàn cơ sở chưa phát huy vai trò, doanh nghiệp và
người lao động thiếu hiểu biết pháp luật… là những nguyên nhân chính dẫn
đến các cuộc đình công, biểu tình quy mô lớn trên địa bàn Tỉnh trong thời
gian qua. Qua kết quả khảo sát của Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai tại một
số địa phương có nhiều doanh nghiệp FDI như Thành phố Biên Hòa, Long
Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom cho thấy, người lao động ở khu vực FDI phải
làm việc với cường độ cao, thời gian kéo dài, song thu nhập bình quân của
người lao động không cao hơn so với mặt bằng thu nhập của lao động trong
các loại hình doanh nghiệp khác trên địa bàn. Liên quan đến việc làm và thu
nhập của người lao động trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài, khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam cho thấy, tại một số Khu công nghiệp tập trung nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (nay còn được gọi là Vùng thành phố Hồ
Chí Minh, theo Quyết định Số 589/QĐ-TTg ngày 20-5-2008 của Thủ tướng
Chính phủ bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang với dân số là 22
triệu người, diện tích 30.000 km2 vào năm 2020) chỉ có khoảng 74% lao động
trong các doanh nghiệp FDI có việc làm ổn định, 22% không có việc làm ổn
định và 4% thiếu việc làm. 16,6% số lao động làm việc trong doanh nghiệp
FDI có tâm trạng thoải mái khi làm việc. 26,3% số lao động cho biết có quan
74
hệ tốt với người sử dụng lao động. 44,4% số lao động cho rằng doanh nghiệp
trả lương thấp, không đủ sống. 15,4% số lao động bức xúc vì phải làm dãn ca,
kíp, tăng giờ thường xuyên. Góp phần khắc phục tình trạng này, trước hết,
UBND tỉnh và các đơn vị trực thuộc trên cơ sở Luật Lao động và các văn bản
pháp quy của nhà nước, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá tình hình sử
dụng lao động của các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị hoạt động sản xuất kinh
doanh trên địa bàn; tuyên truyền vận động người lao động và người sử dụng
lao động hợp tác giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh. Những vi phạm về
hợp đồng kinh tế phải được xử lý kịp thời, có tình, đúng luật, đảm bảo hài hòa
về mặt lợi ích của mọi người, cả trước mắt và lâu dài.
Phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong bảo vệ lợi ích chính đáng
của người lao động. Cán bộ công đoàn phải có trình độ nhất định về luật
pháp, chính trị, xã hội; am hiểu chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn,
đổi mới phương thức hoạt động và công tác tuyên truyền, thường xuyên nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng của người lao động để kiến nghị, đề xuất với người
sử dụng lao động và các cơ quan chức năng biết để có phương hướng giải
quyết, nhằm hạn chế những vấn đề nảy sinh từ cơ sở.
Một yêu cầu nữa là phải thực hiện tốt chức năng của tổ chức Công đoàn
trong việc tham gia quản lý doanh nghiệp, phối hợp với chủ doanh nghiệp xây
dựng các phương án sản xuất kinh doanh, định mức lao động, chế độ tiền
lương, hợp đồng lao động. Phát huy tốt vai trò của tổ chức công đoàn cũng
đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Tiếp tục sửa đổi
bổ sung về pháp lý trong giải quyết tranh chấp lao động và đình công, biểu
tình. Hiện tại những quy định về đình công còn rất rườm rà, rất khó cho một
cuộc đình công được cho là hợp pháp trong điều kiện hiện nay ở Đồng Nai.
Như vậy, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách có liên quan đến sử dụng
NNL ở Đồng Nai trong thời gian tới là vấn đề vừa có tính thời sự cấp thiết,
75
vừa là nhiệm vụ lâu dài. Trách nhiệm trước hết là tổ chức đảng, chính quyền
các cấp; đồng thời nó cũng là quyền lợi, nghĩa vụ của các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, xã hội và của cả người lao động.
2.2.3. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở Đồng Nai thông qua lồng
ghép chương trình xúc tiến việc làm với các chính sách an sinh xã hội khác
Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động ở Đồng Nai qua quỹ giải quyết
việc làm từ cấp quốc gia đến tỉnh, huyện, thành phố, thị xã trực thuộc Tỉnh.
Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở Đồng Nai những năm qua đã phát huy
tốt tác dụng và được thực hiện lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội
của Tỉnh như: giảm nghèo, mô hình tổ, nhóm giúp nhau làm kinh tế trong các
đoàn thể Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân... Trong thời gian tới
(2015 - 2020) để phát huy hơn nữa hiệu quả của nguồn lực và mô hình này
nhằm giải quyết nhiều việc làm cho lao động, tỉnh Đồng Nai cần tiếp tục
tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, đồng thời chủ động khai thác
những nguồn vốn nhàn rỗi, tại các địa phương, các chương trình dự án tài trợ
trong nước, quốc tế, nguồn vốn ngân sách địa phương dành cho chương trình
giảm nghèo, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động có việc làm ổn định, có
thu nhập và thoát nghèo. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và tính hiệu quả
trong việc phối hợp giải quyết việc làm cho người lao động giữa các cấp lãnh
đạo, chính quyền địa phương, ngành lao động thương binh xã hội, các tổ chức
chính trị xã hội, cơ sở đào tạo, trung tâm giới thiệu việc làm... với các doanh
nghiệp, các đơn vị, tổ chức kinh tế. Có thể lập và duy trì hoạt động của Ban
giải quyết việc làm các cấp. Thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện,
kịp thời phát hiện và khắc phục những khó khăn, bất cập trong phân bổ dân
cư và phân công lại lực lượng lao động trong từng ngành, trên từng lĩnh vực
và ở từng địa phương của Tỉnh. Cố gắng ở mức cao nhất để đảm bảo không
76
xảy ra tình trạng nơi thừa, nơi thiếu những lao động có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, tay nghề giỏi.
Thứ hai, cần làm tốt công tác thẩm định các chương trình, dự án phát
triển KT - XH. Lựa chọn những chương trình, dự án có tính khả thi, thu hút
nhiều lao động vào làm việc để có chính sách ưu đãi về cấp phép đầu tư, vay
vốn, giải phóng mặt bằng, thuế, phí... đảm bảo các các chương trình, dự án đó
triển khai thực hiện trong thời gian sớm nhất và hoàn thành đưa vào khai thác
đúng tiến độ. Cần ưu tiên mọi nguồn lực cho các khu công nghiệp tập trung,
khu sản xuất công nghệ cao, các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô vừa và
nhỏ ở địa bàn nông thôn hoạt động trong các lĩnh vực thủ công nghiệp, khai
thác vật liệu xây dựng, chế biến cao su, cà phê, thủy sản, thức ăn gia súc phục
vụ các trang trại chăn nuôi tập trung, góp phần tạo nhiều việc làm cho người
lao động khu vực này. Tuyên truyền vân động các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế xã hội và người lao động thực hành tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng
để đầu tư tái sản xuất mở rộng thu hút thêm lao động vào làm việc.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho người lao động qua các trung tâm giới
thiệu việc làm.
Hiện tại, người lao động ở Đồng Nai nói chung có nhiều cơ hội lựa
chọn việc làm hơn một số tỉnh, thành phố khác trong vùng. Riêng những
người lao động phổ thông và lao động trong nông nghiệp, quá trình CNH,
HĐH và đô thị hóa với quy mô và tốc độ khá lớn đã gây ra nhiều khó khăn về
thông tin và khả năng tìm kiếm việc làm trong cơ chế thị trường. Một số liệu
khảo sát gần đây cho thấy, giai đoạn 2005 - 2010, ở các huyện Long Thành,
Nhơn Trạch, Trảng Bom, Thống Nhất trung bình mỗi năm có từ 3% đến 5%
diện tích đất nông nghiệp (phần lớn là đất trồng cây cao su đang khai thác)
chuyển đổi mục đích sử dụng thành các khu công nghiệp, khu dân cư hoặc
khu đô thị, hệ thống giao thông, công trình phúc lợi xã hội. Điều đó cũng có
77
nghĩa là 3% đến 5% lực lượng lao động trên địa bàn sẽ mất hoặc không đủ
việc làm. Cùng với đó, việc tự tìm kiếm và lựa chọn việc làm của họ còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, vấn đề sử dụng NNL rất cần đến hoạt
động hướng dẫn, tư vấn về lao động và việc làm của các cơ quan, đoàn thể,
trong đó những trung tâm dịch vụ việc làm có vai trò rất quan trọng.
Trong kinh tế thị trường, tung tâm dịch vụ việc làm là nơi cung cấp
thông tin, tư vấn cho người lao động và người sử dụng lao động những thông
tin cần thiết về thị trường sức lao động, những số liệu, những địa chỉ cần tìm
để người lao động và người sử dụng lao động gặp nhau tiến hành ký kết giao
dịch lao động. Các trung tâm dịch vụ việc làm còn là nơi đào tạo ngắn hạn và
bổ túc nghề cho người lao động, là chiếc cầu nối giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Đổi mới phương thức hoạt động của các trung tâm
dịch vụ việc làm, mở rộng các giao dịch việc làm là cơ hội để người lao động
tìm được việc làm và đem cơ hội việc làm đến cho người lao động. Đặc biệt,
trong quá trình phát triển KT - XH với mục tiêu Đồng Nai cơ bản trở thành
Tỉnh công nghiệp vào năm 2015, thì vấn đề việc làm của người lao động và
sử dụng tối ưu NNL hiện có là vấn đề thời sự cần được quan tâm giải quyết
của các tổ chức đảng, chính quyền và rất cần đến sự hỗ trợ đắc lực của các
trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn Tỉnh.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, hệ thống các trung tâm dịch vụ
việc làm ở Đồng Nai phát triển mang nhiều tính tự phát, chưa đáp ứng được
yêu cầu giải quyết việc làm. Hoạt động của các trung tâm chưa trở thành một
hệ thống liên hoàn, kinh phí của các trung tâm còn hạn hẹp, tính chuyên
nghiệp chưa cao, gây trở ngại lớn cho các hoạt động của trung tâm.
Khắc phục sự hạn chế này, thời gian tới, Đồng Nai cần đẩy mạnh phát
triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, tăng cường hoạt động dịch vụ giới
thiệu việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động phổ thông, lao động
78
khu vực nông thôn đang đô thị hóa, học sinh, sinh viên tốt nghiệp phổ thông,
đại học, cao đẳng tốt nghiệp nhưng chưa tìm kiếm được việc làm và cũng
không có điều kiện học tiếp.
Cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiện đại hóa các trung tâm dịch vụ
việc làm, xây dựng cơ sở vật chất theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động dịch vụ việc làm, nâng cấp trang thiết bị dạy nghề, bổ
túc nghề cho người lao động đồng thời nâng cao năng lực và trình độ của đội
ngũ cán bộ làm công tác dịch vụ việc làm.
Quy hoạch mạng lưới dịch vụ việc làm phù hợp với cơ chế thị trường.
Củng cố các trung tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm đã có trên địa bàn. Đồng thời
xây dựng các cơ sở mới, nhất là ở những nơi có làn sóng di dân tự do đến tìm
kiếm việc làm đông, vùng đô thị hóa nhanh, những địa phương có làng nghề
phát triển. Những huyện Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc trong tương
lai gần, số lượng lao động nông thôn thiếu hoặc không có việc làm tăng nhanh
do bị thu hồi đất phục vụ cho quá trình xây dựng khu, cụm công nghiệp và phát
triển hạ tầng đô thị. Đặc biệt là huyện Long Thành, nếu dự án xây dưng sân bay
quốc tế Long Thành được triển khai, việc làm cho người lao động trong vùng
cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được dự báo và xây dựng các phương án giải quyết
nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động hiện tại.
Khuyến khích các tổ chức đoàn thể, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…
và các doanh nghiệp tham gia họat động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ
việc làm, xây dựng một số văn phòng đại diện ở các tỉnh, thành phố trong
vùng và các chi nhánh, mạng lưới cộng tác viên ở huyện, thị, các tụ điểm dân
cư, phối hợp với các trung tâm dịch vụ việc làm từ huyện, thị, xã đến cơ sở.
Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc
làm như tổ chức hội chợ việc làm tạo sự giao lưu gặp gỡ giữa người lao động
và người sử dụng lao động, các cơ sở dạy nghề, Sở Lao động - Thương binh
79
và Xã hội Đồng Nai duy trì trang Website cung cấp thông tin về thị trường lao
động, tự quảng bá năng lực hoạt động của trung tâm qua các cuộc hội thảo,
nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cộng tác
viên, mở rộng các hình thức dịch vụ việc làm theo hướng chuyên nghiệp hóa,
thị trường hóa.
Thực hiện tốt vấn đề quản lý nhà nước đối với hệ thống các trung tâm
dịch vụ việc làm. Một mặt, giám sát sự hoạt động của các trung tâm theo luật
định, mặt khác bổ sung các quy định mới về thành lập và hoạt động của các
chi nhánh, quy định hoạt động tài chính... đồng thời tăng thêm nguồn kinh phí
để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao trình độ chuyên môn cho cán
bộ nhân viên. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức
năng đối với các Trung tâm dịch vụ việc làm, kiên quyết xử lý kịp thời các
hành vi lừa đảo trong môi giới dịch vụ việc làm. Thúc đẩy phát triển thị
trường sức lao động theo hướng tăng cường các giao dịch trực tiếp giữa người
lao động và người sử dụng lao động, nối cung - cầu lao động trong Tỉnh với
cả nước, giải quyết việc làm nhanh chóng cho người lao động. Tuyên truyền
giáo dục và nâng cao nhận thức cho người lao động để họ hiểu và coi các
trung tâm dịch vụ việc làm là địa chỉ đáng tin cậy trong lựa chọn việc làm,
học nghề. Cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí đối với người thất nghiệp,
người thiếu việc làm đã đăng ký việc làm.
Thứ tư, giải quyết việc làm cho lao động Đồng Nai thông qua xuất khẩu
lao động. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với ưu thế là một
Tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa nhanh lại cận kề thành phố Hồ Chí Minh
trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước nên Đồng Nai có thế mạnh xuất khẩu
lao động tại chỗ (làm việc trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).
Xuất khẩu lao động tại chỗ được xác định là là giải pháp quan trong tạo việc
làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp và sử dụng có hiệu quả NNL của Đồng Nai hiện tại
80
cũng như trong thời gian tới. Thực hiện mục tiêu từng bước tăng quy mô xuất
khẩu lao động, cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Thường xuyên tuyên truyền và tuyên truyền một cách rộng rãi các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản hướng dẫn về xuất
khẩu lao động trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các tổ chức
đoàn thể, các tổ chức xã hội. thông báo công khai, cụ thể về nhu cầu thị
trường lao động, số lượng, thời gian, tiêu chuẩn tuyển chọn, điều kiện lao
động, tiền lương... để người lao động lựa chọn phù hợp với khả năng sức
khỏe, chuyên môn nghề nghiệp. Cùng với xuất khẩu tại chỗ, cần quan tâm
xuất khẩu lao động ra nước ngoài, vì nhiều người dân Đồng Nai có người thân
định cư ở các nước có nền kinh tế phát triển cao, nhu cầu sử dụng lao động
lớn (Mỹ, Canada, Oxtralia). Có người thân định cư ở nước ngoài là điều kiện
thuận lợi để một bộ phận lao động Đồng Nai nhất là lao động nông thôn các
huyện phía Bắc của Tỉnh có việc làm, thu nhập cao hơn trong nước.
Để xuất khẩu lao động một cách đúng hướng, hiệu quả, cần coi trọng
công tác đào tạo nguồn và giới thiệu người lao động, người trực tiếp xuất
khẩu lao động phải là người có tay nghề, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành
tốt các quy định của pháp luật, kể cả luật pháp trong nước và luật pháp của
nước sang làm việc. Công tác tạo nguồn và giới thiệu người đi lao động ở
nước ngoài phải gắn với chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu lao động,
phù hợp với quan hệ cung - cầu và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của thị
trường xuất khẩu lao động.
Để công tác xuất khẩu lao động thực sự là một kênh quan trọng trong
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư
và lao động nông nghiệp không có việc làm do tác động của đô thị hóa, góp
phần phát triển KT - XH của từng địa bàn cũng như của toàn Tỉnh, cần xây
dựng chương trình hậu xuất khẩu lao động. Đây là một hình thức tổ chức mới
81
để một mặt tận dụng nguồn vốn, tay nghề của người lao động ở nước ngoài
về, mặt khác tạo sự ổn định kinh tế, xã hội cho địa phương có xuất khẩu lao
động. Khuyến khích người đi xuất khẩu lao động gửi tiền về hoặc khi trở về,
đầu tư kinh doanh những ngành nghề thiết thực, khai thác tiềm năng thế mạnh
của địa phương tạo thêm việc làm mới cho người thân, người dân trong vùng.
2.2.4. Mở rộng liên kết, hợp tác trong phát triển thị trường sức lao
động để tạo thêm nhiều việc làm và việc làm ổn định cho người lao động
Kinh tế thị trường phát triển sẽ thúc đẩy xã hội hóa lực lượng sản xuất.
Biểu hiện tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất là tập trung hóa, chuyên
môn hóa, hiệp tác hóa. Tập trung hóa được thực hiện thông qua việc thành lập
các Khu công nghiệp tập trung, các vùng sản xuất chuyên canh, thâm canh
cây trồng, vật nuôi với quy mô lớn. Chuyên môn hóa được được thực hiện
trên cơ sở từng đơn vị sản xuất kinh doanh, từng ngành, địa phương xác định
thế mạnh có sẵn, nhu cầu của thị trường để lựa chọn chiến lược sản phẩm phù
hợp nhất. Trong ba yếu tố phản ánh tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất,
tập trung hóa và chuyên môn hóa thường được hình thành trong một thời gian
dài và khi đã thực hiện được thì lại mang tính ổn định cao hơn (trạng thái tĩnh
nhiều hơn). Còn yếu tố thứ ba: hiệp tác hóa hay liên kết, hợp tác giữc các các
ngành, vùng, các chủ thể kinh tế với nhau trong sản xuất kinh doanh, phát
triển KT - XH, nó được hình thành nhanh hơn và thường xuyên có sự biến đổi
(luôn trong trạng thái động). Nói một cách khác cụ thể hơn, hiệp tác hóa là sự
hợp tác phổ biến, liên kết thường xuyên giữa các ngành, vùng, các cơ sở sản
xuất với nhau; giữa các đơn vị sản xuất với các tổ chức tài chính, tín dụng
ngân hàng; giữa các doanh nghiệp, những người sử dụng lao động và người
lao động với các trung tâm nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật, các cơ sở đào tạo nghề, trung tâm giới thiệu việc làm... Liên kết kinh tế
82
sẽ mở rộng không gian giao lưu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội
phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng NNL.
Thực hiện giải pháp này, cần tập trung thực hiện những nội dung chủ
yếu sau:
Thứ nhất, liên kết, hợp tác trong phân công lao động xã hội.
Muốn quá trình hợp tác, liên kết trong sử dụng NNL ở Đồng Nai đạt
hiệu quả cao, trước hết phải khai thác, chia sẻ và xử lý thông tin thông qua tín
hiệu của thị trường sức lao động, đồng thời phải tuân theo những quy luật của
kinh tế thị trường như: cạnh tranh, giá trị, cung - cầu, tối đa hóa lợi ích để
đảm bảo sự liên kết được thực hiện một cách bền vững. Quá trình liên kết
phải tính đến các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội; cả lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài; gắn quá trình sử dụng lao động với quá trình đào tạo, phát triển
NNL của Tỉnh.
Tỉnh Đồng Nai cần thực hiện sự liên kết giữa các ngành, các địa
phương trong Tỉnh với nhau để giải quyết bài toán hiệu quả sử dụng NNL
hiện có trong quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa với tốc độ nhanh, phạm vi
rộng như hiện nay.
Quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa nói chung, đều dẫn đến vấn đề có
tính quy luật là nhu cầu sử dụng lao động trong nông nghiệp giảm còn trong
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. Lao động nông nghiệp, nông
thôn ra thành phố, thị xã, các khu công nghiệp tập trung để tìm kiếm việc làm
là rất lớn. Điều này làm nảy sinh những vấn đề về an sinh xã hội, môi trường,
điều kiện sống và việc làm cho người đang có việc và đến tìm việc làm. Giải
quyết vấn đề này cần bổ sung, hoàn thiện quy hoạch các khu dân cư, các khu
đô thị, khu công nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng đồng bộ,
hiện đại đáp ứng mục tiêu nhiệm vụ phát triển KT - XH, tăng cường an ninh
quốc phòng. UBND, các ban ngành chức năng của tỉnh cần có chủ trương,
83
chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng ngành nghề
sản xuất kinh doanh tại những địa bàn vùng sâu, vùng xa của Tỉnh (4 huyện
phía Bắc: Tân Phú, Vĩnh Cửu, Định Quán, Xuân Lộc) nhằm khai thác nguồn
lực tại chỗ (đất đai, lao động) tạo nhiều việc làm cho người lao động. Các địa
phương có nhiều đất nông nghiệp được chuyển đổi thành đất đô thị, khu công
nghiệp cần làm tốt công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, chuyển đổi nghề
cho người không còn đất sản xuất. Chính quyền cơ sở, các đoàn thể tổ chức
xã hội, các doanh nghiệp cần có chính sách đền bù, giúp đỡ, hỗ trợ người lao
động tìm kiếm việc làm trong cơ chế thị trường.
Tỉnh Đồng Nai cũng cần mở rộng sự hợp tác, liên kết với các tỉnh,
thành phố khác trong vùng, nhất là với thành phố Hồ Chí Minh.
Không chỉ là Trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học - công nghệ năng
động, có trình độ và tốc độ phát triển nhanh, thành phố Hồ Chí Minh còn là
thành phố lớn nhất nước có nhiều trường đại học cao đẳng, trung tâm nghiên
cứu khoa học và có các cơ sở sản xuất kinh doanh, văn phòng đại diện của
nhiêu tập đoàn kinh tế, tài chính hàng đầu thế giới. Đây không chỉ là thế mạnh
riêng của thành phố mà còn là thế mạnh chung của cả vùng theo lý thuyết
“đầu tàu”, “lan tỏa” kinh tế.
Hợp tác giữa Đồng Nai với thành phố Hồ Chí Minh có thể được thực
hiện thông qua các chương trình liên kết đào tạo NNL chất lượng cao, nghiên
cứu chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư sản xuất kinh doanh, trao
đổi thông tin, kinh nghiệm sử dụng NNL, thu hút vốn đầu tư... tạo thêm điều
kiện thuận lợi để sử dụng tối ưu NNL cho phát triển kinh tế, xã hội cho cả
Đồng Nai cùng thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình hợp tác cần tiếp đổi mới tư duy về quản trị nhân lực
theo hướng thông thoáng hơn để người lao động nhiều quyền tự do lựa chọn
nơi làm việc xuất thông qua cải cách thủ tục hành chính (điều kiện về thường
trú, tạm trú, hộ khẩu, nhà đất, bảo hiểm, giáo dục, y tế...).
84
Thứ hai, phát triển đồng bộ các loại thị trường dịch vụ nhất là thị
trường sức lao động.
Tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh thu hút thêm lao động từ nông nghiệp, nông
thôn vào làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ để giảm giảm tỷ lệ thất
nghiệp và thiếu việc làm. Đây là việc làm quan trọng để sử dụng có hiệu quả
hơn NNL từ nông nghiệp, nông thôn.
Tỉnh cùng các địa phương, các ngành, các đơn vị tiếp tục quan tâm đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao
động, năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ có xuất xứ từ Đồng Nai nhằm
mở rộng thị phần các loại hàng hóa, thực hiện tích lũy tái sản xuất mở rộng.
Một vấn đề cần quan tâm thực hiên là phải thường xuyên đảm bảo sự
ổn định môi trường sản xuất kinh doanh, lành mạnh hóa lĩnh vực tài chính
tiền tệ, xúc tiến thương mại, đầu tư, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư cả trong,
ngoài tỉnh và người nước ngoài, tạo sự tăng trưởng và phát triển nhanh, bền
vững. Chủ thể thực hiện giải pháp này là các cơ quan quản lý nhà nước, các
ngành, các cấp, đội ngũ doanh nhân, tất cả người lao động.
Thứ ba, Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền để người lao động tự
tạo thêm việc làm trong nền kinh tế thị trường.
Trước hết các cơ quan chức năng phải cung cấp kịp thời đầy đủ những
thông tin về thị trường, tình hình kinh tế xã hội, các chương trình, dự án trên
địa bàn theo hướng công khai hóa, chính xác hóa giúp người lao động và
người sử dụng lao động có nhiều sự lựa chọn về tuyển dụng, tìm việc. Đồng
thời, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để người lao động có quan niệm đúng
về vấn đề việc làm, thu nhập; từng bước hình thành tác phong lao động công
nghiệp, kỷ luật, hiệu quả cao. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
người lao động thường có tư tưởng thích làm việc trong khu vực kinh tế nhà
85
nước, lĩnh vực hành chính sự nghiệp; làm việc thường thiếu tính chủ động
sáng tạo, ít có động lực, khát vọng vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội.
Nhưng với cơ chế thị trường, lợi ích kinh tế đã thực sự trở thành động lực to
lớn thúc đẩy mọi người, mọi đơn vị, tổ chức kinh tế vươn lên để làm việc tốt
hơn với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất.
Hoạt động tuyên truyền giáo dục phải hướng tới mục tiêu là từng bước phát
triển tư duy về kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động.
Bởi vì, kinh tế thị trường hoạt động theo những quy luật vốn có của nó. Khi người
sử dụng lao động và người lao động nhận thức được quy luật và những vấn đề có
tính quy luật của kinh tế thị trường thì họ sẽ hành động theo đúng quy luật để
không bị thị trường “trừng phạt”, nghĩa là sẽ tránh được hậu quả là sự thua lỗ, phá
sản đối với doanh nghiệp và mất việc làm đối với người lao động.
Để hình thành và phát triển tư duy về kinh tế thị trường trong đội ngũ
các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản trị nhân lực và đội ngũ người lao
động nói chung thì việc thông tin, tuyên truyền, giáo dục các vấn đề về kinh
tế, xã hội, thị trường, phải được tiến hành thường xuyên, với nhiều hình thức
phong phú, thiết thực. Như xây dựng các chuyên đề về kinh tế thị trường
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo nghề; lồng ghép công tác tuyên truyền với các
chương trình an sinh xã hội như xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn
mới... để người lao động có quan niệm đúng về vấn đề việc làm trong nền
kinh tế thị trường: lao động không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà nó còn là
nhu cầu, là quyền lợi là niềm vui của người công dân. Trên cơ sở đó người lao
động tự tìm kiếm việc lầm và sẽ làm tất cả những công việc phù hợp với khả
năng, nhu cầu và không sai trái về pháp lý và đạo lý.
2.2.5. Đổi mới phương thức, nội dung, cấp độ đào tạo; đào tạo lại và
đào tạo nâng cao chuyên môn nghề nghiệp cho người lao động phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Đồng Nai
Hiện tại NNL của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung, ở tỉnh
Đồng Nai nói riêng, có số lượng đông đảo nhưng chất lượng lao động chưa
86
cao, trong đó trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý,
tố chất về thể lực, ý thức tổ chức, tác phong làm việc của người lao động còn
nhiều bất cập. Vì vậy, chưa đáp ứng được yêu cầu mới của quá trình CNH,
HĐH, phát triển KT - XH. Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của người lao
động phần lớn rơi vào bộ phận dân cư chưa qua đào tạo, trình độ văn hóa, kỹ
thuật, tay nghề thấp.
Kinh tế công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai giai đoạn 2010 - 2015 đã
và đang phát triển nhanh theo hướng sản xuất hàng hóa lớn với một số sản
phẩm có hàm lượng chất xám cao, giá trị kinh tế lớn và được xuất khẩu sang
thị trường khó tính như Bắc Mỹ, Tây Âu. Việc sử dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật vào sản xuất công nghiệp đang từng bước thúc đẩy sản xuất gắn
với thị trường, cơ cấu sản phẩm của ngành công nghiệp có nhiều biến đổi, các
sản phẩm ngành công nghệ điện tử, tin học, máy công cụ, hóa chất, thiết bị
văn phòng, hang tiêu dùng chất lượng cao... gia tăng nhanh chóng về sản
lượng, chất lượng, chủng loại. Vì vậy, đòi hỏi lưc lượng lao động phải được
đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trong quá trình
đào tạo, không chỉ tập trung nâng cao tay nghề, mà còn phải quan tâm đến
việc hình thành, phát triển ý thức trách nhiệm, tác phong làm việc theo hướng
chuyên nghiệp, hợp lý, hiệu quả.
Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế xã hội Đồng Nai thực sự
cần có một lượng lớn lao động chất lượng cao để cung ứng cho các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ quan hành chính sự
nghiệp, các ngành dịch vụ... đây chính là cơ hội rất lớn để giải quyết việc làm
tại chỗ cho lao động chưa tìm kiếm được việc làm mặc dù họ đã qua con
đường học vấn, được đào tạo chuyên môn nghề nghiệp chính quy. Tuy nhiên,
nhà tuyển dụng lao động (nhất là doanh nhân nước ngoài) vào các nhà máy,
cơ sở... cơ bản phải là những người lao động hội tụ đủ các yếu tố về sức khỏe,
tri thức, kỹ năng thực hành, ý thức trách nhiệm và kinh nghiệm làm việc,
87
ngoại ngữ, tin học... Nếu người lao động tại chỗ không đáp ứng được yêu cầu
của người sử dụng lao động thì khả năng tìm kiếm công ăn việc làm của họ
rất khó khăn. Vì vậy, muốn có việc làm trong các khu công nghiệp, các
ngành, lĩnh vực cũng phải được đổi mới căn bản, mạnh mẽ theo triết lý nhà
trường phải dạy những gì mà người học cần, người học phải học cái gì mà
việc làm và cuộc sống của chính họ đòi hỏi. Hay có thể diễn đạt một cách
khác là GD&ĐT cần gắn lý luận với thực tiễn, nhà trường với thương trường.
Trong thực tiễn cần coi đây là con đường, biện pháp rất cơ bản để cung ứng
được NNL có chất lượng cao cho thị trường sức lao động phục vụ quá trình
CNH, HĐH phát triển kinh tế xã hội ở Đồng Nai.
Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo nâng cao năng lực về mọi
mặt cho người lao động ở Đồng Nai, những năm tới cần tập trung vào
những vấn đề sau:
Thứ nhất, trang bị kiến thức về nền kinh tế thị trường cho người lao động.
Việc trang bị kiến thức về nền kinh tế thị trường cho người lao động, là
việc làm hết sức cần thiết. Bởi vì, người lao động của cả nước nói chung và
của Đồng Nai nói riêng đã ảnh hưởng nhiều của tư duy nền kinh tế hiện
vật, với thói quen làm việc theo kinh nghiệm, thụ động. Chính vì thế, chỉ
có dựa trên những tri thức, sự hiểu biết về nền kinh tế thị trường, người lao
động mới tự thu thập, xử lý thông tin, thấy được nhu cầu của thị trường sức
lao động, sự vận động của thị trường, đồng thời lựa chọn việc làm hợp lý,
có việc làm ổn định và có thu nhập tương ứng với khả năng, công lao đóng
góp của họ cho xã hội.
Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực làm việc
cho người lao động.
Việc nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng làm việc cho người lao
động, giúp họ thích ứng với yêu cầu của công việc là rất cần thiết. Khi trình
độ chuyên môn và tay nghề được nâng cao cho phép người lao động trực tiếp
88
tham gia vào việc tạo ra chuỗi giá trị gia tăng và khối lượng lợi nhuận ngày
càng lớn hơn, trên cơ sở tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã, nâng cao
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Từ đó, tạo khả năng doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất hạ giá bán của sản phẩm ra thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, duy trì, mở rộng sản xuất, tạo nhiều việc
làm mới cho người lao động.
Thực hiện tốt nội dung này đòi hỏi chính quyền, các tổ chức chính trị
xã hội từ tỉnh đến cơ sở cần tiếp tục củng cố hệ thống giáo dục phổ thông và
dạy nghề cho người người lao động, trên từng địa bàn cũng như trong phạm
vi toàn Tỉnh. Từng tổ chức đảng, chính quyền, các cơ quan chức năng cần
phải kiểm tra xem xét lại hệ thống các trường (cao đẳng, cao đẳng nghề; trung
cấp, trung cấp nghề, giáo dục phổ thông) do tỉnh quản lý. Cần đổi mới và
quản lý nội dung, chương trình, thời gian đào tạo một cách đồng bộ, chặt chẽ.
Có như vậy, mới góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động và
hiệu quả sử dụng NNL cho phát triển KT - XH của Đồng Nai.
Thường xuyên đổi mới nội dung giảng dạy ở bậc giáo dục phổ thông.
Trên cơ sở quy chế, quy định của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT có thể tham mưu
cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành một số chương trình dạy - học có tính thử
nghiệm cải cách giáo dục nhằm đem lại hiệu quả như mong muốn. Hiện tại,
giáo dục phổ thông cũng như giáo dục ở bậc đại học (Đồng Nai hiện có hai
trường đại học: đại học công lập Đồng Nai và đại học dân lập Lạc Hồng)
phần lớn đang dạy - học theo các chương trình do Bộ GD&ĐT xây dựng với
đặc điểm - như một số nhà giáo dục đã nhận xét, là quá tải, nặng về lý thuyết,
chưa sát thực tiễn. Thực trạng nhiều cử nhân, thậm chí có cả những người đã
có bằng thạc sĩ, nhưng lại phải đăng ký học trung cấp, cao đẳng nghề (kế
toán, du lịch, nấu ăn, kỹ thuật điện tử, điện lạnh…) để có thêm cơ hội tìm
89
kiếm việc làm là điều các nhà quản lý giáo dục đào tạo, sử dụng NNL cần
quan tâm xem xét.
Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục đào tạo là vấn đề hết sức cần
thiết. Nhiệm vụ của việc đổi mới này là: cùng với việc cung cấp đầy đủ các tri
thức khoa học, kiến thức cần thiết về kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc
tế... còn phải từng bước phát triển kỹ năng ứng dựng tri thức vào cuộc sống để
người lao động có đủ năng lực và bản lĩnh hoàn thành tốt công việc của mình
trong điều kiện cạnh tranh của thị trường sức lao động.
Để sử dụng có hiệu quả NNL trong phát triển KT - XH, các địa
phương, các doanh nghiệp, các đoàn thể, tổ chức xã hội cần có cơ chế, chính
sách khuyến khích người lao động tham gia quá trình tự đào tạo và đào tạo lại
nhằm nâng cao trình độ, năng lực và hiệu quả lao động của chính mình.
UBND tỉnh, huyện, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội cần hỗ trợ một
phần kinh phí, hoặc mở các lớp miễn phí đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ
chuyên môn cho người lao động thông qua việc lồng ghép việc đào tạo nghề
với các chương trình khuyến nông, khuyến công, ưu đãi tín dụng, xóa đói
giảm nghèo, hỗ trợ xuất khẩu lao động, xây dựng nông thôn mới... Mặt khác,
tỉnh cũng cần có chủ trương, biện pháp buộc các khu công nghiệp, các chủ
đầu tư, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tại chổ, tổ chức đào tạo nghề
cho lao động được tuyển dụng. Trong thời gian lao động làm việc phải có
trách nhiệm về trả lương, công theo quy định, đảm bảo an toàn lao động và
các chế độ khác đối với người lao động. Đặc biệt, có chế độ đối với lao động
bị thất nghiệp, thiếu việc làm của doanh nghiệp cũng như xã hội.
*
* *
Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế ở tỉnh Đồng Nai là một hệ thống
90
thống nhất. Nó khẳng định: sử dụng NNL hợp lý, hiệu quả không đơn thuần
là một chính sách xã hội mà còn là nhiệm vụ kinh tế rất quan trọng. Đó là yêu
cầu khách quan, đồng thời là động lực cơ bản và là yếu tố có tính quyết định
thúc đẩy quá trình phát triển KT - XH cũng như củng cố quốc phòng - an ninh
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng cũng như của cả nước nói chung.
Trong quá trình thực hiện cần tạo sự thống nhất trong nhận thức, từng
tổ chức, đơn vị, địa phương và cá nhân người lao động; cần phát huy tính
năng động, sáng tạo trong phân bổ; đào tạo lại, tự đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, người lao động xây tác phong lao động chuyên
nghiệp, hiệu quả; phát triển thị trường sức lao động, góp phần phát triển kinh
tế xã hội của Tỉnh.
91
KẾT LUẬN
Lựa chọn và triển khai nghiên cứu đề tài “Sử dụng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai” tác giả luận văn đã xác
định mục tiêu và mong muốn có những đóng góp sau:
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về NNL, sử dụng NNL trong quá
trình phát triển KT - XH. Trong đó đề cập, luận giải một số khái niệm về sử
dụng NNL, sự cần thiết khách quan sử dụng có hiệu quả cao NNL ở tỉnh
Đồng Nai. Đồng thời luận văn cũng đã làm rõ những nội dung của sử dụng
NNL trên các góc độ khác nhau (quản lý hành chính, quản lý chất lượng công
việc, hiệu quả lao động cuối cùng). Quá trình đào tạo, đào tạo lại trong phát
triển KT - XH cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sử dụng
NNL. Luận văn cũng làm rõ tác động của sử dụng NNL đối với sự phát triển
kinh tế ở Đồng Nai trong thời gian qua.
Xuất phát từ mục tiêu phát triển KT - XH của Tỉnh và những vấn đề đặt
ra cần quan tâm giải quyết, luận văn bước đầu đề xuất một số quan điểm và
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của tỉnh Đồng Nai trong thời
gian tới. Trong quá trình phát triển KT - XH, các tổ chức chính trị, xã hội và
người lao động cần tiếp tục giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ chế
chính sách với tổ chức thực hiện; giữa người sử dụng lao động và người lao
động; giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội;
giữa thực trạng NNL hiện có và mục tiêu, nhiệm vụ KT - XH của Đồng Nai...
nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, đưa Đồng Nai cơ bản trở thành một tỉnh
công nghiệp vào năm 2015. Trước mắt, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế,
các địa phương và chính người lao động tiếp tục tạo và tự tạo nhiều việc làm
mới; quan tâm đến năng suất lao động và hiệu quả sử dụng lực lượng lao
động xã hội; hình thành và phát triển thị trường sức lao động; tăng cường vai
trò lãnh đạo quản lý của tổ chức đảng, chính quyền các cấp đối với việc hoàn
thiện cơ chế chính sách sử dụng lao động trên địa bàn toàn Tỉnh cũng như
từng địa phương.
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2006) “Giải quyết tốt các vấn đề văn
hóa xã hội và con người”, Chuyên đề nghiên cứu nghị quyết Đại hội X
của Đảng. Nxb CTQG, H., 2006.
2. C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Tập I, Quyển I, Nxb Sự thật, H. 1998.
3. C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23. Nxb CTQG, H., 2002.
4. C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 25. Nxb CTQG H., 2002.
5. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb, CTQG, H.
6. Vũ Minh Chi (2002) “Nghiên cứu giáo dục, con người và nguồn nhân lực
Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu
con người, số 5.
7. Trần Đình Chính, “Nhiều người có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp đang giảm”,
Báo Nhân dân 8/02/2000.
8. Cục Thống kê Đồng Nai, Niêm giám Thống kê năm 2012, Nxb,TK. 2013.
9. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ IX.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, H, 2006.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb CTQG, H, 2011.
12. Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb CTQG, H., 1996.
13. Trần Kim Hải, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, H. 1999.
14. Lê Thị Bích Hạnh, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Ninh Bình. Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trung tâm Đào
tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, H. 2011.
93
15. Nguyễn Đức Hiền, Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội
ở Đà Nẵng hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, 2011.
16. Lương Xuân Khai, “Vấn đề đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Thông tin lý luận, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, tháng 10/1999.
17. Đoàn Văn Khái (2000), “Bàn thêm về khái niệm nguồn lực con người”,
Tạp chí Triết học, số 3.
18. Bùi Thị Ngọc Lan (2007), “Một số bổ sung, phát triển trong chiến lược
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, 02/2007.
19. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
20. Lương Công Lý (2010), “Vai trò và những quy chuẩn đào tạo nguồn nhân
lực trong các trường đại học, cao đẳng của ngành giao thông vận tải”,
Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 7.
21. Trần Thị Tuyết Mai (1995), Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam, luận án tiến sĩ, HVCTQGHCM.
22. Hồ Chí Minh (1945), “Bài học chống nạn thất học”, Hồ Chí Minh toàn
tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 2000.
23. Lê Khương Minh, Trương Vĩnh Đạt (2010), “Phát triển nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH ở Cà Mau”, Tạp chí Phát trển kinh tế, tháng 8-2010.
24. Đỗ Mười (1996), “Phát triển giáo dục đào tạo phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu
giáo dục, số 2.
25. Phạm Công Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 03.
26. Nguyễn Thị Hồng Ninh (2006), Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà
Tĩnh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hành chính quốc gia.
27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Lao động.
94
28. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2005),
Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005. Nxb Lý
luận chính trị.
29. Danh Sơn, “Mối liên hệ giữa phát triển nguồn nhân lực - khoa học- công
nghệ với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,
tháng 7/1997.
30. Lê Doãn Thái, Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, Luận án tiến
sĩ kinh tế, Hà Nội. 2001.
31. Nguyễn Bá Thể, Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb Lao động - xã hội, H. 2005.
32. Nguyễn Tiệp (2006), “Đào tạo và phát triển lao động chuyên môn kỹ
thuật - tiền đề quan trong để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực”, Tạp chí
nghiên cứu kinh tế, số 2-333.
33. Hà Quý Tình (1999), Vai trò Nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, luận án tiến sĩ, H.
34. Nguyễn Thị Trâm (1999), Vai trò Nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, luận án tiến sĩ. H.
35. Đinh Thị Tuyết, “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Tạp chí Thông tin khoa học thanh niên, tháng 4/1999.
36 Trần Thị Tuyết, Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn nhằm tạo việc
làm, sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng bằng sông Hồng, Luận
án PTS khoa học kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996.
37. Nghiêm Đình Vì (2006), “Giáo dục Việt Nam khi gia nhập thương mại
thế giới”, Tạp chí Cộng sản, số 22.
38. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (2002), Từ chiến lược phát triển giáo
dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, H.
39. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hướng tới một chiến lược
phát triển con người, Sách tham khảo, H., 1999.
95
PHỤ LỤC
96
PHỤ LỤC 1
Số đơn vị hành chính có đến 31/12/2013 phân theo huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh Number of administrative units as of dec, 31th 2013 by district
Chia ra - Of which
Phường Thị trấn
Xã
Tổng số Total
Wards
Communes
Town under district
TỔNG SÔ - TOTAL
171
136
29
6
Phân theo huyện - By districts
1. Thành phố Biên Hòa - Bien Hoa city
30
23
-
7
2. Huyện Vĩnh Cửu - Vinh Cuu district
12
-
1
11
3. Huyện Tân Phú - Tan Phu district
18
-
1
17
4. Huyện Định Quán - Dinh Quan district
14
-
1
13
5. Huyện Xuân Lộc - Xuan Loc district
15
-
1
14
15
6
-
9
6. Thị xã Long Khánh - Long Khanh township
7. Huyện Thống Nhất - Thong Nhat district
10
-
-
10
8. Huyện Long Thành - Long Thanh district
15
-
1
14
9. Huyện Nhơn Trạch - Nhon Trach district
12
-
-
12
10. Huyện Trảng Bom - Trang Bom district
17
-
1
16
11. Huyện Cẩm Mỹ - Cam My district
13
-
-
13
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
97
PHỤ LỤC 2
Diện tích, dân số và mật độ dân số phân theo huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh Area, population and population density by district
Năm
Diện tích Area (Km2)
Dân số trung bình (Nghìn người) Average population (Thous. persons)
Mật độ dân số (Người/km2) Population density (Person/km2)
5.907,24
2010
2.575,06
435,92
5.907,24
2011
2.658,03
449,96
5.907,24
2012
2.716,29
459,82
5.907,24
Sơ bộ - Prel 2013
2.768,67
468,69
TỔNG SỐ - TOTAL
Phân theo huyện - By districts
1. Thành phố Biên Hòa - Bien Hoa city
263,55
884,89
3.357,62
2. Huyện Vĩnh Cửu - Vinh Cuu district
1.095,71
140,54
128,27
3. Huyện Tân Phú - Tan Phu district
776,93
167,20
215,21
971,09
209,95
216,20
4. Huyện Định Quán - Dinh Quan district
5. Huyện Xuân Lộc - Xuan Loc district
727,20
232,01
319,05
191,86
138,21
720,39
6. Thị xã Long Khánh - Long Khanh township
247,24
159,39
644,69
7. Huyện Thống Nhất - Thong Nhat district
430,66
214,03
496,99
8. Huyện Long Thành - Long Thanh district
410,78
189,20
460,58
9. Huyện Nhơn Trạch - Nhon Trach district
323,69
281,66
870,15
10. Huyện Trảng Bom - Trang Bom district
11. Huyện Cẩm Mỹ - Cam My district
468,55
151,58
323,51
98
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
PHỤ LỤC 3
ĐVT: Nghìn người - Unit: Thous. persons.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính và phân theo thành thị, nông thôn Labour force aged 15 and over by sex and by risedence
2010
2011
2012
Sơ bộ Prel 2013
TỔNG SỐ - TOTAL
1.452
1.554
1.621
1.687
Phân theo giới tính - By sex
Nam - Male
758
815
851
886
Nữ - Female
694
739
770
801
Phân theo thành thị, nông thôn - By residence
Thành thị - Urban
472
501
516
527
Nông thôn - Rural
980
1.053
1.105
1.159
Cơ cấu - Structure (%)
TỔNG SỐ - TOTAL
100,00 100,00 100,00
100,00
Phân theo giới tính - By sex
Nam - Male
52,18
52,46
52,49
52,51
Nữ - Female
47,82
47,54
47,51
47,49
Phân theo thành thị, nông thôn - By residence
Thành thị - Urban
32,51
32,26
31,82
31,26
Nông thôn - Rural
67,49
67,74
68,18
68,74
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
99
PHỤ LỤC 4
ĐVT: Nghìn người - Thous. Persons
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo loại hình kinh tế Employed population aged 15 and over as of annual 1 July by types of ownership
Chia ra - Of which
Tổng số Total
Nhà nước State
Ngoài Nhà nước Non-state
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Foreign investment sector
Năm
1.435,52
98,25
993,84
343,42
2010
1.532,39
102,67
1.061,95
367,78
2011
1.594,82
106,73
1.091,47
396,62
2012
Sơ bộ - Prel 2013
1.657,99
111,09
1.115,16
431,74
Chỉ số phát triển (Năm trước = 100) - % Index (Previous = 100) %
Năm
107,31
100,28
109,05
104,60
2010
106,75
104,50
106,85
107,09
2011
104,07
103,96
102,78
107,84
2012
103,96
104,08
102,17
108,86
Sơ bộ - Prel 2013
Cơ cấu - Structure - (%)
Năm
100,00
6,84
69,23
23,92
2010
100,00
6,70
69,30
24,00
2011
100,00
6,69
68,44
24,87
2012
100,00
6,70
67,26
26,04
Sơ bộ - Prel 2013
100
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
PHỤ LỤC 5
Đơn vị tính - Unit: %
Tỷ lệ thất nghiệp phân theo giới tính, thành thị, nông thôn Unemployment rate by sex and by residence
Phân theo giới tính By sex
Phân theo thành thị, nông thôn By residence
Năm
Tổng số Total
Nam Male
Nữ Female
Thành thị Urban
Nông thôn Rural
2010
2,21
1,83
2,65
1,63
0,91
2011
1,41
1,41
1,41
2,01
1,11
2012
1,58
1,69
1,46
1,35
1,69
Sơ bộ - Prel 2013
1,70
1,78
1,61
0,97
2,08
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
PHỤ LỤC 6
Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người Gross domestic product per capita
Tiền Việt Nam, theo giá hiện hành Vietnam currency, at current prices
Ngoại tệ, theo tỷ giá hối đoái bình quân Foreign currency, at average exchange rate
Năm
Nghìn đồng - Thous dongs
Đô la Mỹ - USD
2010
29.523,46
1.417,63
2011
37.183,02
1.782,33
43.225,91
2.066,94
2012
50.598,97
2.400,33
Sơ bộ - Prel 2013
101
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
ĐVT: Người - Unit: Person
PHỤ LỤC 7 Số lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12 phân theo loại hình doanh nghiệp Number of employees in acting enterprises as of annual 31 Dec by type of enterprise
2010
2011
2012
Tổng số - Total
562.087
625.387
634.499
Doanh nghiệp Nhà nước - State owned enterprise
41.601
35.446
41.168
Trung ương - Central
25.053
25.328
26.515
Địa phương - Local
16.548
10.118
14.653
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước - Non-state enterprise
163.090
183.225
192.859
Tập thể - Collective
4.025
4.453
3.177
Tư nhân - Private
29.700
27.341
30.833
Công ty TNHH - Limited Co.
107.940
124.038
95.715
17.359
14.999
15.280
Công ty cổ phần có vốn Nhà nước Joint stock Co. having capital of State
16.006
26.561
21.747
Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước Joint stock Co. without capital of State
357.829
400.561
406.194
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Foreign investment enterprise
DN 100% vốn nước ngoài - 100% foreign capital
349.273
389.501
395.956
DN liên doanh với nước ngoài - Joint venture
8.556
11.060
10.238
Cơ cấu - Structure (%)
TỔNG SỐ - TOTAL
100,0
100,0
100,0
Doanh nghiệp Nhà nước - State owned enterprise
6,65
5,59
7,32
Trung ương - Central
4,01
3,99
4,72
Địa phương - Local
2,65
1,59
2,61
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước - Non-state enterprise
29,30
30,40
29,02
Tập thể - Collective
0,64
0,70
0,57
Tư nhân - Private
4,75
4,31
5,49
Công ty TNHH - Limited Co.
17,26
19,55
17,03
2,40
2,41
3,09
Công ty cổ phần có vốn Nhà nước Joint stock Co. having capital of State
Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước
4,25
3,43
2,85
Joint stock Co. without capital of State
102
63,66
64,05
64,02
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Foreign investment enterprise
DN 100% vốn nước ngoài - 100% foreign capital
62,14
62,28
62,40
DN liên doanh với nước ngoài - Joint venture
1,77
1,61
1,52 (Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
PHỤ LỤC 8
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 2361/QĐ-UBND
Đồng Nai, ngày 21 tháng 9 năm 2011
QUYẾT ĐỊNH phê duyệt Chương trình tổng thể đào tạo phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 - 2015
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân được Quốc hội
thông qua ngày 26/11/2003;
Căn cứ Nghị quyết số 51/2005/NQ-HĐND ngày 21/7/2005 của Hội đồng Nhân dân tỉnh thông qua Đề án Phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Nội vụ tại Tờ trình số 1463/TTr-SNV ngày
24/8/2011.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Chương trình tổng thể đào tạo phát
triển nguồn nhân lực tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 - 2015.
Điều 2. Giao Giám đốc Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các thành viên Ban Chủ nhiệm Chương trình triển khai thực hiện các nội dung và đạt được các mục tiêu đề ra trong Chương trình, đồng bộ với các Chương trình khác thuộc 08 Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011 - 2015.
Điều 3. Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm thẩm định, cấp phát và quyết toán kinh phí thực hiện Chương trình từ nguồn ngân sách của tỉnh cho Ban Chủ nhiệm Chương trình theo đúng quy định hiện hành.
Điều 4. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc các Sở: Nội vụ, Lao động - Thương binh và Xã hội, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Tài chính và Thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký./.
103
T/M ỦY BAN NHÂN DÂN CHỦ TỊCH (Đã ký) Đinh Quốc Thái
Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai - Cổng thông tin điện tử (www.dongnai.gov.vn)
PHỤ LỤC 9
THỐNG KẾ CHẤT LƯỢNG CBCC KHỐI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH (đến 31/12/2010)
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG CBCC HÀNH CHÍNH TỈNH, HUYỆN
2006
2010
Tăng/giảm
Năm
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
1
2
3
4
5
6 = 4 - 2
7
Tổng số CBCC
2.418
100%
3.257
100%
839
34,70%
Trình độ chuyên môn
Sau Đại học
58
2,40%
151
4,64%
93
160,34%
Đại học
1.502
62,12%
2.229
68,44%
727
48,40%
3,60%
113
3,47%
26
29,89%
Cao đẳng
87
20,80%
495
15,20%
-8
-1,59%
Trung cấp
503
11,08%
269
8,26%
1
0,37%
Còn lại
268
Trình độ chính trị
Cao cấp
358
14,81%
932
28,62%
574
160,34%
Trung cấp
722
29,86%
1.906
58,52%
1.184
163,99%
Sơ cấp
621
25,68%
150
4,61%
-471
-75,85%
Còn lại
717
29,65%
269
8,26%
-448
-62,48%
(Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai - Cổng thông tin điện tử)
104
PHỤ LỤC 10
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG CBCC HÀNH CHÍNH CẤP XÃ
2006
2010
Tăng/giảm
Năm
1 Tổng số CBCC
Số lượng 2 3.037
Tỷ lệ 3 100%
Số lượng 4 3.210
Tỷ lệ 5 100%
Số lượng 6 = 4 - 2 173
Tỷ lệ 7 5,70%
Trình độ chuyên môn
1 205 45 973 1.813
0,04% 8,48% 1,86% 40,24% 74,98%
2 353 48 1.261 1.546
0,06% 10,84% 1,47% 38,72% 47,47%
1 148 3 288 -267
100,00% 72,20% 6,67% 29,60% -14,73%
Sau Đại học Đại học Cao đẳng Trung cấp Còn lại Trình độ chính trị Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Còn lại
80 959 729 1.269
3,36% 36,76% 29,66% 30,22%
3,32% 36,23% 29,23% 29,78%
108 1.180 952 970
28 221 223 -299
35,00% 23,04% 30,59% -23,56% (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai - Cổng thông tin điện tử)
105
PHỤ LỤC 11
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG CCVC KHỐI SỰ NGHIỆP (đến 31/12/2010)
2006
2010
Tăng/giảm
Năm
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng tăng
Tỷ lệ tăng
1
2
3
4
5
6 = 4 - 2
7
Tổng số CBCC
27.881
100%
41.660
100%
13.779
49,42%
Trình độ chuyên môn
Sau Đại học
101
0,36%
679
1,63%
578
572,28%
Đại học
5.648
20,26%
20.058
48,15%
14.410
255,13%
Cao đẳng
3.950
14,17%
1.036
2,49%
-2.914
-73,77%
Trung cấp
12.384
44,42%
15.388
36,94%
3.004
24,26%
Còn lại
5.798
20,80%
4.499
10,80%
-1.299
-22,40%
Trình độ chính trị
Cao cấp
236
0,85%
748
1,80%
512
216,95%
Trung cấp
1.239
4,44%
1.620
3,89%
381
30,75%
Sơ cấp
4.274
15,33%
18.555
44,54%
14.281
334,14%
Còn lại
22.132
79,38%
20.737
49,78%
-1.395
-6,30%
(Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai - Cổng thông tin điện tử)
106
PHỤ LỤC 12
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Đồng Nai từ 2007 đến 2013 Foreign direct investment projects licensed Dong Nai from 2007 to 2013
Số dự án được cấp phép Number of projects
Tổng vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) Registered capital (Mill. USD)
Vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ) Implemented capital (Mill. USD)
TỔNG SỐ - TOTAL
504
9.814,9
5.580
2007
138
1.983,9
1.300
2008
89
2.299,1
1.500
2009
35
2.406,4
800
2010
70
1.518,5
1.000
2011
37
239,0
200
2012
60
672,0
360
2013
75
696,0
420
Ghi chú: chỉ tính số lượng dự án được cấp phép không trừ các dự án đã giải thể hoặc ngừng hoạt động.
(Nguồn: Cục Thống kê Đồng Nai, Niên giám thống kê 2013)
107
PHỤ LỤC 13
ĐVT: Doanh nghiệp - Unit: Enterprise
Số doanh nghiệp đang hoạt động phân theo ngành kinh tế Number of acting enterprises by kind of economic activity
2010
2011
2012
7.144
8.100
8.420
Tổng số - Total
Phân theo ngành cấp II - By secondery industrial activity
Nông, lâm, thủy sản - Agriculture, forestry and fishing
57
80
83
43
59
66
Nông nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan Argiculture and related activities
8
14
11
Lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan Forestry and releted service activiies
Khai thác, nuôi trồng thủy sản - Fishing and aquaculture
6
7
6
Khai khoáng - Mining and quarrying
75
87
73
Khai khoáng khác - Other mining and quarrying
75
87
73
Công nghiệp chế biến, chế tạo - Manufactring
1.862
2.235
2.375
80
105
117
Sản xuất, chế biến thực phẩm - Manufacture of food products
Sản xuất đồ uống - Manufacture of beverages
35
38
44
2
3
3
Sản xuất sản phẩm thuốc lá - Manufacture of tobacco products
Dệt - Manufacture of textiles
71
85
87
Sản xuất trang phục - Manufacture of wearing apparel
86
99
115
59
78
89
Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan ..Manufacture of leather and related products
197
266
271
Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) - Manufacture of wood and of products of wood and cork (except furniture)
108
2010
2011
2012
56
83
83
Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy Manufacture of paper and paper products
53
61
67
In, sao chép bảng ghi các loại Printing and reproduction recorded media
0
3
4
Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế Manufacture of coke and petroleum products
109
114
125
Sản xuấ hóa chất và sản phẩm hóa chất Manufacture of chemical products
9
8
13
Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu Manufacture of pharmaceuticals, medicinal chemical and botanical products