BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________

NGUYỄN THỊ TUYẾT CHI

SỰ TRUYỀN DẪN LÃI SUẤT CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

ĐẾN LÃI SUẤT CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI VIỆT NAM KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS TRẦN HOÀNG NGÂN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu và kết

quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung khoa học của đề tài nghiên cứu

này.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 01 năm 2015

Người thực hiện

Nguyễn Thị Tuyết Chi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết Tắt Tên Đầy Đủ Tiếng Việt Tên Đầy Đủ Tiếng Anh

ABBank Ngân hàng TMCP An Bình

Ngân hàng TMCP Á Châu ACB

Kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey Fuller ADF

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Agribank Nông thôn Việt Nam

Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển BIDV Việt Nam

Chỉ số giá tiêu dùng CPI

Kiểm định nghiệm đơn vị Dickey Fuller DF

Ngân hàng Trung ương Châu Âu European Central Bank ECB

Cục dự trữ liên bang Mỹ Federal Reserve System FED

Phương pháp bình phương tối thiểu tổng Feasible Generalized Least FGLS quát khả thi Squares

GDP Gross Domestic Product

Phương pháp bình phương bé nhất tổng GLS Generalized Least Squares quát

Ngân hàng TMCP Phát triển nhà HDBank TP.HCM

MPS Mô hình vòng đời

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTW Ngân hàng Trung ương

NVTTM Nghiệp vụ thị trường mở

Organization for Economic

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Co-operation and

Development

OLS Phương pháp bình phương bé nhất Ordinary Least Squares

Reserve Bank of New RBNZ Ngân hàng Trung ương New Zealand Zealand

USD

Sacombank Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

SHB Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội

Phương pháp hồi quy có vẻ không liên Seemingly Unrelated SUR Regression quan

Tư bản chủ nghĩa TBCN

Tổ chức tín dụng TCTD

Việt nam đồng VNĐ

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với lãi suất cho vay

Bảng 2.2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với lãi suất tái chiết khấu

Bảng 2.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với lãi suất tái cấp vốn

Bảng 2.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn

Bảng 2.5: Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái chiết

khấu

Bảng 2.6: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi của lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp

vốn

Bảng 2.7: Kết quả kiểm định phương sait hay đổi của lãi suất cho vay và lãi suất tái

chiết khấu

Bảng 2.8: Kết quả kiểm định tự tương quan đối với lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp

vốn

Bảng 2.9: Kết quả kiểm định tự tương quan đối với lãi suất cho vay và lãi suất tái chiết

khấu

Bảng 2.10: Phương trình hồi quy giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn

Bảng 2.11: Phương trình hồi quy giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái chiết khấu.

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 2.1: Biểu đồ biến động lãi suất cơ bản

Hình 2.2: Biển đồ biến động lãi suất chính sách

Hình 2.3: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2008

Hình 2.4: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2010

Hình 2.5: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2011

Hình 2.6: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2012.

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời gian vừa qua, lãi suất là một vấn đề nhức nhối không chỉ đối với

người đi vay, người gửi tiền, các định chế tài chính trung gian mà còn cả Ngân hàng

nhà nước. Nhiều ngân hàng huy động vốn vượt trần lãi suất 14% lên đến 17%, 18%

một năm, cũng như hiện tượng các doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay do lãi

suất quá cao. Vì vậy, để điều chỉnh những xáo trộn trên và góp phần ổn định tình hình

kinh tế, Ngân hàng nhà nước đã đưa ra những biện pháp nhằm cải thiện tình hình như:

điều chỉnh lãi suất chính sách (lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp

vốn), trần lãi suất huy động từ 14% xuống còn 12%/năm.

Dễ dàng nhận ra rằng, lãi suất không còn là một công cụ điều tiết thị trường mà

còn là động thái phát tín hiệu của Chính Phủ về phương thức điều hành chính sách tiền

tệ. Hơn nữa, lãi suất đã và đang là một chỉ số kinh tế quan trọng được các nhà làm

chính sách, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi và giám sát

chặt chẽ.

Chính vì tầm quan trọng của biến lãi suất đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô, đã có

khá nhiều báo cáo phân tích về chỉ số này và cụ thể hơn là vấn đề truyền dẫn từ lãi suất

chính sách sang lãi suất cho vay. Rõ ràng hiệu lực trong việc điều hành chính sách tiền

tệ của Ngân hàng nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào sự truyền dẫn này, nếu mức truyền

dẫn là nhỏ và không tương xứng với những thay đổi của Ngân hàng nhà nước, thì

những hành động của Ngân hàng nhà nước tác động tới thị trường sẽ không đạt hiệu

quả cao nữa. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều bài nghiên cứu về sự truyền

dẫn lãi suất này, do vậy em chọn đề tài này để làm bài luận văn.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Làm rõ khái niệm như thế nào là sự truyền dẫn lãi suất, sự truyền dẫn lãi suất

xảy ra như thế nào và những nhân tố tác động đến sự truyền dẫn lãi suất.

2

- Phân tích thực trạng tác động của lãi suất chính sách đến lãi suất huy động và lãi

suất cho vay. Để thấy mối quan hệ và tác động thực tế của lãi suất chính sách và

lãi suất cho vay.

- Ước lượng mức độ truyền dẫn lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay cả trong

ngắn hạn và dài hạn.

- Xem xét, phân tích, đánh giá mức độ truyền dẫn từ lãi suất chính sách (lãi suất

tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn) đến lãi suất cho vay của các Ngân hàng

thương mại trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Qua đó thấy được nguyên nhân dẫn đến sự không hiệu quả của chính sách tiền

tệ trong giai đoạn hiện nay, để từ đó đề tài có những đóng góp nhằm góp phần

nâng cao khả năng truyền dẫn lãi suất trong nền kinh tế thị trường và qua đó cải

thiện tính hiệu quả trong chính sách tiền tệ.

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chính được sử dụng trong bài nghiên cứu là phương pháp bình

phương bé nhất (OLS) để ước lượng mức độ truyền dẫn lãi suất cả trong ngắn và dài

hạn. Và ngoài ra, bài nghiên cứu còn sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller

(ADF) Test để kiểm định nghiệm đơn vị, kiểm định đồng liên kết, kiểm định phương

sai thay đổi, kiểm định tự tương quan để kiểm định tính BLUE trong bộ dữ liệu và làm

thỏa mãn được các yêu cầu trước khi tiến hành ước lượng OLS và đích đến cuối cùng

là để làm cho kết quả kiểm định đáng tin cậy.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng của bài nghiên cứu là lãi suất chính sách bao gồm: lãi suất tái chiết

khấu và lãi suất tái cấp vốn; và lãi suất cho vay.

3

Xem xét sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay giai đoạn từ

năm 2008 đến năm 2013 và của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn khu vực Thành

phố Hồ Chí Minh.

5. Ý nghĩa thực tiễn và kết cấu của đề tài

Như chúng ta đã biết, chính sách tiền tệ có một vai trò rất quan trọng trong điều

hành nền kinh tế của Ngân hàng nhà nước. Khi nền kinh tế có những thay đổi, biến

động, thì Ngân hàng nhà nước phải có những chính sách phù hợp và kịp thời để tác

động vào nền kinh tế để đưa nó về trạng thái cân bằng. Do vậy để có thể làm được điều

đó thì tính hiệu quả trong việc thực thị chính sách tiền tệ là rất cần thiết. Vì thế nên,

thông qua bài nghiên cứu, có thể thấy được mức độ cao, thấp của sự truyền dẫn lãi suất

chính sách để từ đó có những đề xuất, kiến nghị góp phần làm cho việc thực thi chính

sách tiền tệ hiệu quả hơn, môi trường hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương

mại thông suốt và kịp thời đáp ứng được sự thay đổi và biến động của nền kinh tế.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài gồm có ba chương với nội dung

cụ thể như sau:

Chương 1: Cơ sở lý thuyết về sự truyền dẫn lãi suất của chính sách tiền tệ

Chương 2: Thực trạng về sự truyền dẫn lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay

tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng truyền dẫn lãi suất của

chính sách tiền tệ.

4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ SỰ TRUYỀN DẪN LÃI SUẤT CỦA

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1.1 Tổng quan về lãi suất

1.1.1 Khái niệm và một số lý thuyết về lãi suất

1.1.1.1 Lý thuyết của C.Mác

Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế hàng hóa

Tư Bản Chủ Nghĩa (TBCN): Qua quá trình nghiên cứu bản chất của TBCN, Mác đã

vạch ra rằng: quy luật giá trị thặng dư tức là giá trị lao động không của công nhân làm

thuê tạo ra là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc của mọi lãi

suất đều xuất phát từ giá trị thặng dư.

Theo Mác, khi xã hội phát triển thì tư bản tài sản tách rời tư bản chức năng, tức

là quyền sở hửu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản, nhưng mục đích của tư bản là

giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không thay đổi. Vì vậy, trong xã hội phát sinh quan

hệ cho vay và đi vay, đã là tư bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử

dụng, tư bản cho vay được hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng

thêm gọi là lợi tức.

Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi

vay phải cho nhà tư bản cho vay. Trên thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận bình

quân mà các nhà tư bản công thương nghiệp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho

vay. Do đó nó là biểu hiện quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được mở rộng trong lĩnh

vực phân phối và giới hạn tối đa của lợi tức là lợi nhuận bình quân, còn giới hạn tối

thiểu thì không có nhưng luôn lớn hơn không.

Vì vậy sau khi phân tích công thức chung của tư bản và hình thái vận động đầy

đủ của tư bản Mác đã kết luận: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả

bóc lột lao động làm thuê bị tư bản – chủ ngân hàng chiếm đoạt”.

5

Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế Xã Hội Chủ

Nghĩa (XHCN): Các nhà kinh tế học Mác xít nhìn nhận trong nền kinh tế XHCN cùng

với tín dụng, sự tồn tại của lãi suất và tác động của nó do mục đích khác quyết định, đó

là mục đích thỏa mãn đầy đủ nhất các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội.

Lãi suất không chỉ là động lực tín dụng mà tác dụng của nó đối với nhà kinh tế phải

bám sát các mục tiêu kinh tế. Trong XHCN không còn phạm trù tư bản và chế độ

người bóc lột người, song điều đó không có nghĩa là ta không thể xác định bản chất của

lãi suất. Bản chất của lãi suất trong xã hội chủ nghĩa là “giá cả của vốn cho vay mà nhà

nước sử dụng với tư cách là công cụ điều hòa hoạt động hạch toán kinh tế”.

Qua những lý luận trên ta thấy các nhà kinh tế học Mác xít đã chỉ rõ nguồn gốc

và bản chất của lãi suất. Tuy nhiên quan điểm của họ không thể hiện được vai trò của

lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác. Ngày nay, trước sự đổ vỡ của hệ thống

XHCN, cùng với chính sách làm giàu chính đáng, chính sách thu hút đầu tư lâu dài...

đã không phù hợp với các chính sách trước đây vì nó tôn trọng quyền lợi người đầu tư,

người có vốn, thừa nhận thu nhập từ tư bản.

1.1.1.2 Lý thuyết của J.M.KEYNES

J.M.KEYNES (1883 – 1964) là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh, ông cho

rằng lãi suất không phải là số tiền trả cho công việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu, vì khi

tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả trường

hợp tích trữ rất nhiều trong một khoản thời gian nhất định nào đó. Vì vậy, lãi suất

chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản”. Lãi

suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải, tiền tệ.

Sự phân tích bản chất lãi suất như trên cho thấy nếu lãi suất thấp thì tổng số nhu

cầu về tiền mặt của dân chúng sẽ vượt quá số cung tiền và nếu lãi suất cao thì sẽ có

một lượng tiền mặt dư thừa khi đó không ai muốn giữ tiền.

6

Vào những năm 30 của thế kỷ 20, khủng hoàng kinh tế, thất nghiệp diễn ra

thường xuyên và nghiêm trọng tại các nền kinh tế Tây Âu và Hoa Kỳ. Cuộc khủng

hoảng kinh tế Thế Giới 1929-1933 cho thấy học thuyết “tự điều tiết” của trường phái

cổ điển thiếu xác đáng. Lý thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith, học thuyết “cân bằng

tổng quát” của L.Walras cũng không phát huy được hiệu quả và bảo đảm nền kinh tế

phát triển khỏe mạnh. Đồng thời, sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất đòi

hỏi Nhà nước can thiệp nhiều hơn vào nền kinh tế. Đây chính là các cơ sở hình thành

và phát triển lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes. John Maynard Keynes (1884-

1946) là nhà kinh tế học người Anh, giáo sư Đại học Tổng Hợp Cambridge, chuyên gia

trong lĩnh vực tài chính tín dụng và lưu thông tiền tê, cố vấn ngân khố quốc gia, thành

viên Ban giám đốc ngân hàng Anh, chủ bút một tạp chí kinh tế. Tác phẩm nổi tiếng

nhất của J.M Keynes là “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936). Theo

đó, Ông cho rằng lãi suất có ý nghĩa rất lớn đối với đầu tư, do đó tác động đến công ăn

việc làm và thu nhập trong xã hội.

Về bản chất, Keynes cho rằng lãi suất là số tiền trả cho việc không sử dụng tiền

mặt trong một khoản thời gian nhất định. Có hai nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:

 Thứ nhất, khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông.

Nếu khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông càng tăng thì lãi suất càng giảm và

ngược lại. Đây là một công cụ quan trọng để đưa ra chính sách điều tiết kinh tế của

Nhà Nước. Để kích thích đầu tư cần hạ lãi suất, muốn hạ lãi suất thì phải tăng số lượng

tiền trong lưu thông. Thực ra, Keynes phân tích thị trường tiền tệ ở đó lãi suất là giá cả.

Khi cung tiền tệ gặp cầu tiền tệ thì hình thành nên lãi suất thị trường. Cung tiền tệ phụ

thuộc vào chính sách cung tiền của NHTW. Nếu lượng cung tiền tăng mà cầu tiền

không thay đổi hoặc tăng theo không kịp tốc độ tăng của cung tiền thì lãi suất thị

trường sẽ giảm xuống.

 Thứ hai, sự ưa thích tiền mặt.

7

Đây chính là mức cầu tiền tiền tệ. Theo Keynes, người ta có thể giữ tài sản với

nhiều hình thức như: giữ dưới dạng tiền, dưới dạng các loại chứng khoán có giá…

Trong đó, Keynes cho rằng của cải dưới dạng tiền là thuận lợi nhất. Do vậy con người

có khuynh hướng gắn liền với nó, mà lãi suất là phần thưởng cho sự xa rời đối với tiền

mặt. Lãi suất là chi phí cơ hội cho việc giữ tiền mặt. Lãi suất cao tức chi phí cơ hội cho

việc giữ tiền mặt cao nên người ta giảm việc giữ tiền mặt và ngược lại. Vì vậy, ưa thích

tiền mặt là một khuynh hướng ấn định tiền mặt mà người ta muốn giữ lại theo lãi suất

nhất định.

Với những phân tích trên Keynes cho rằng cần phải giảm lãi suất để kích thích

đầu tư. Việc giảm lãi suất được thực hiện bằng chính sách tiền tệ mở rộng, tạo ra lạm

phát và từ đó kích thích người ta tiêu dùng, đầu tư kinh doanh và nhất là mở rộng thị

trường chứng khoán cho hoạt động đầu tư gián tiếp phát triển. Qua đó sẽ kích thích nền

kinh tế tăng trưởng.

1.1.1.3 Lý thuyết của trường phái trọng tiền

M.Friedman, đại diện tiêu biểu của trường phái trọng tiền hiện đại, cũng có

quan điểm tương tự J.M.KEYNES rằng lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ. Tuy

nhiên, quan điểm của M.Friedman khác cơ bản với Keynes ở việc xác định vai trò của

lãi suất. Nếu Keynes cho rằng cầu tiền là một hàm của lãi suất còn M.Friedman dựa

vào nghiên cứu các tài liệu thực tế thống kê trong một thời gian dài, ông đi đến khẳng

định mức lãi suất không có ý nghĩa tác động đến lượng cầu tiền mà cầu tiền biểu hiện

là một hàm của thu nhập và đưa ra khái niệm tính ổn định cao của cầu tiền tệ.

Tóm lại, lãi suất là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để có

quyền sử dụng quỹ tiền của người cho vay trong khoảng thời gian đã thỏa thuận.

Lãi suất có thể quy định theo hai cách, cách thứ nhất và phổ biến nhất là tỷ lệ

phần trăm (%), cách thứ hai, ít sử dụng hơn là tính theo điểm cơ bản (basis point) – ký

hiệu bps, một điểm cơ bản có giá trị bằng 0,01%.

8

1.1.2 Phân loại lãi suất:

1.1.2.1 Căn cứ vào tiêu thức quản lý vĩ mô

Lãi suất trần và lãi suất sàn: Là lãi suất thấp nhất và cao nhất do Ngân hàng

Trung ương (NHTW) ấn định cho các Ngân hàng Thương mại (NHTM) hoặc do các

NHTM quy định trong hệ thống của nó, trong nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. Lãi

suất trần và lãi suất sàn hình thành khung lãi suất, các NHTM xây dựng lãi suất kinh

doanh trong phạm vi của khung này.

Lãi suất cơ bản: là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các NHTM và các

tổ chức tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế.

1.1.2.2 Căn cứ vào tiêu thức nghiệp vụ tín dụng

Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất huy động vốn, dùng để tính lãi phải trả cho người

gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào thời hạn tiền gửi. Sự

biến động của lãi suất tiền gửi không chỉ ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn của ngân

hàng, mà còn ảnh hưởng mạnh tới khối tiền và qua đó tới lạm phát. Chính vì vậy, việc

áp dụng chính sách tăng lãi suất tiền gửi có hiệu quả cao trong kiềm chế đẩy lùi lạm

phát.

Lãi suất cho vay: Được áp dụng để tính lãi tiền vay mà người vay phải trả cho

người cho vay. Về nguyên tắc mức lãi suất cho vay bình quân phải cao hơn mức lãi

suất tiền gửi bình quân và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn cho vay và

mức độ rủi ro. Sự thay đổi lãi suất cho vay có tác dụng đến quy mô cho vay và khả

năng cung ứng tiền vào lưu thông.

Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với khách

hàng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh toán. Lãi

suất tái chiết khấu do NHTW ấn định cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu chính sách

tiền tệ. Lãi suất này dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động của lãi suất trên thị

9

trường. Đối với NHTM lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ấn định lãi suất

chiết khấu và lãi suất cho vay khác.

Lãi suất thị trường liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi

cho nhau vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất thị trường liên ngân hàng

được ấn định hằng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu

vốn của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái

chiết khấu.

1.1.2.3 Căn cứ vào tiêu thức biến động của giá trị tiền tệ

Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất chưa loại trừ tỷ lệ lạm phát

Lãi suất thực: Là lãi suất sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát.

Những người cho vay, điều cần quan tâm nhất là lãi suất thực, chứ không phải là

lãi suất danh nghĩa. Bởi lẽ khi cho vay họ cần phải tính là sau một thời hạn cho vay có

lãi hay lỗ.

1.1.2.4 Căn cứ vào loại tiền cho vay

Lãi suất nội tệ: Đây là lãi suất được tính trên cơ sở đồng tiền của quốc gia sử

dụng, được áp dụng trong khuôn khổ cho vay hoặc đi vay bằng đồng tiền của quốc gia

đó.

Lãi suất ngoại tệ: Đây là loại lãi suất được tính trên cơ sở những đồng tiền của

nước ngoài được thực hiện khi vay hoặc cho vay bằng ngoại tệ.

1.1.2.5 Căn cứ theo phương pháp tính lãi

Lãi suất đơn: Là lãi suất được xác định trên số vốn gốc ban đầu mà không tính

thêm tiền lãi tích lũy kỳ trước, tức là không ghép lãi vào vốn. Lãi suất đơn thường là lãi

suất danh nghĩa, lãi suất ghi trên hợp đồng tín dụng.

Lãi suất ghép: Là lãi suất được hình thành bởi sự ghép lãi đơn trong kỳ vào vốn

để tính lãi trong thời kỳ kế tiếp theo và có thể tiếp tục mãi.

10

1.1.2.6 Căn cứ vào mức ổn định của lãi suất

Lãi suất ổn định: Là lãi suất áp dụng cố định trong suốt thời hạn vay. Nó có ưu

điểm là người gửi tiền và vay tiền đều biết trước số tiền lãi được trả và phải trả. Bên

cạnh đó, nó có nhược điểm là bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một thời

hạn nào đó dù cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào.

Lãi suất thả nổi: Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc

không báo trước. Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả tiền đều theo

một mức giá chung là lãi suất hiện tại.

1.1.2.7 Căn cứ vào thời hạn tín dụng

Lãi suất ngắn hạn: Áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn từ 12 tháng trở

xuống.

Lãi suất trung hạn: Áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn trên 12 tháng

đến 5 năm.

Lãi suất dài hạn: Áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn trên 5 năm.

1.2 Tổng quan về sự truyền dẫn của chính sách tiền tệ

1.2.1 Sự truyền dẫn của chính sách tiền tệ

1.2.1.1 Khái niệm

Truyền dẫn chính sách tiền tệ là một quá trình mà thông qua đó thay đổi trong

chính sách tiền tệ được truyền sang các mục tiêu cuối cùng là lạm phát và tăng trưởng.

1.2.1.2 Các kênh truyền dẫn cơ chế tác động của chính sách tiền tệ

1.2.1.2.1 Kênh lãi suất truyền thống

Kênh lãi suất là kênh cơ bản được đề cập tới trong nhiều lý thuyết kinh tế trong

hơn hai mươi năm qua và là cơ chế truyền dẫn tiền tệ quan trọng trong mô hình IS-LM

11

của phái Keynes, một nền tảng cho lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện nay. Quan điểm

của phái Keynes với mô hình IS-LM phát biểu rằng khi nới lỏng chính sách tiền tệ,

khiến lãi suất thực giảm, do đó làm giảm chi phí vốn, dẫn đến tăng chi tiêu cho đầu tư,

từ đó dẫn đến tăng tổng cầu và tăng sản lượng.

Một điểm quan trọng của kênh lãi suất này là nhấn mạnh vào lãi suất thực hơn

lãi suất danh nghĩa, khi lãi suất có ảnh hưởng đến quyết định của doanh nghiệp và

người tiêu dùng. Thêm vào đó, cơ chế này cho rằng lãi suất thực tế dài hạn chứ không

phải lãi suất thực tế ngắn hạn mới tác động mạnh đến chi tiêu. Làm thế nào để sự thay

đổi lãi suất danh nghĩa ngắn hạn mà NHTW đưa ra dẫn đến một sự thay đổi tương ứng

ở mức lãi suất thực trên cả trái phiếu ngắn và dài hạn? Điểm quan trọng ở đây là giá cả

có tính cố định, do đó khi chính sách tiền tệ nới lỏng làm giảm lãi suất danh nghĩa

trong ngắn hạn cũng đồng thời làm giảm lãi suất thực ngắn hạn; điều này sẽ vẫn đúng

ngay cả khi có các kỳ vọng hợp lý. Lý thuyết kỳ vọng về cấu trúc kỳ hạn phát biểu

rằng lãi suất dài hạn là trung bình của các lãi suất ngắn hạn trong tương lai, tức là việc

giảm lãi suất thực ngắn hạn sẽ làm giảm lãi suất thực dài hạn. Mức lãi suất thực thấp

hơn này sẽ làm tăng đầu tư tài sản cố định của doanh nghiệp, đầu tư nhà ở, chi tiêu

hàng lâu bền và đầu tư hàng tồn kho và kết quả là làm tăng tổng sản lượng.

Việc lãi suất thực có tác động đến chi tiêu chứ không phải là lãi suất danh nghĩa

cho thấy một cơ chế quan trọng trong chính sách tiền tệ kích thích nền kinh tế như thế

nào, ngay cả trong trường hợp lãi suất danh nghĩa chạm sàn trong thời kỳ lạm phát. Khi

lãi suất danh nghĩa ở mức 0%, một sự mở rộng cung tiền tệ có thể làm tăng mức giá dự

kiến khiến lạm phát dự kiến tăng, qua đó giảm mức lãi suất thực; ngay cả khi lãi suất

danh nghĩa cố định ở 0%, vẫn khuyến khích chi tiêu thông qua kênh truyền dẫn bằng

lãi suất đã nêu ở trên.

Vì vậy cơ chế này chỉ ra rằng chính sách tiền tệ vẫn có thể có hiệu quả ngay cả

khi lãi suất danh nghĩa bị đẩy xuống 0%.

1.2.1.2.2 Những kênh giá tài sản khác

12

Một số quan điểm phê phán phái trọng tiền đối với thuyết IS-LM trong phân

tích của chính sách tiền tệ lên nền kinh tế, cho rằng nó chỉ tập trung chủ yếu vào giá

của một loại tài sản là tiền tệ, tức là lãi suất, mà không đề cập đến giá của các tài sản

khác. Bên cạnh trái phiếu, có hai loại tài sản chính được quan tâm đặc biệt trong lý

thuyết về cơ chế truyền dẫn là ngoại hối và cổ phiếu.

1.2.1.2.2.1 Kênh tỷ giá hối đoái

Kênh này cũng liên quan tới những tác động của lãi suất, vì khi lãi suất thực

trong nước giảm, tiền gửi bằng nội tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so với những khoản tiền

gửi bằng các ngoại tệ khác, dẫn tới sự sụt giảm trong giá trị của tiền gửi bằng nội tệ so

với tiền gửi bằng các đồng tiền khác, đó chính là sự giảm giá của đồng nội tệ. Giá trị

của đồng nội tệ thấp hơn làm cho hàng hóa nước đó trở nên rẻ hơn so với hàng hóa

nước ngoài, và do đó làm tăng xuất khẩu ròng và GDP. Vai trò quan trọng của kênh tỷ

giá hối đoái trong việc truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ lên nền kinh tế trong

nước đã được dẫn chứng trong những nghiên cứu gần đây của Bryant, Hooper và Mann

(1993); Taylor (1993).

1.2.1.2.2.2 Những kênh giá cổ phiếu

Có hai kênh quan trọng có liên quan đến giá cổ phiếu trong cơ chế truyền dẫn

tiền tệ: kênh liên quan đến học thuyết q của Tobin về đầu tư và những tác động của

mức độ giàu có lên tiêu dùng.

Học thuyết q của Tobin. Học thuyết q của Tobin đưa ra một cơ chế sử dụng các

công cụ chính sách tiền tệ tác động tới nền kinh tế thông qua tác động lên giá trị của

vốn cổ phần (Tobin, 1969). Tobin định nghĩa q là giá thị trường của doanh nghiệp chia

cho chi phí thay thế vốn. Nếu q cao, giá thị trường của công ty sẽ cao so với chi phí

thay thế vốn hay vốn mở nhà xưởng mới và thiết bị mới sẽ rẻ hơn so với giá trị thị

trường của công ty. Các công ty khi đó có thể phát hành vốn cổ phần và thu được giá

cao so với chi phí trang thiết bị và nhà xưởng mà họ đang mua. Do đó, đầu tư sẽ nhiều

13

hơn vì doanh nghiệp có thể mua được rất nhiều hàng hóa đầu tư mới bằng một lượng

nhỏ vốn cổ phần phát hành. Mặc khác, khi q thấp, công ty sẽ không mua hàng hóa đầu

tư mới vì giá trị thị trường của công ty là thấp so với chi phí vốn. Nếu công ty muốn

thu được vốn khi q thấp, họ mua một công ty khác với giá rẻ và nhận được lượng vốn

cũ thay thế. Đầu tư vì thế mà giảm sút.

Điểm then chốt của cuộc tranh luận này đó là mối liên hệ q và chi phí đầu tư.

Nhưng chính sách tiền tệ tác động lên giá cổ phiếu như thể nào? Trong lý thuyết tiền

tệ, khi cung tiền tệ tăng, công chúng nhận thấy họ có nhiều tiền hơn so với họ muốn và

vì vậy họ cố gắng giảm lượng tiền nắm giữ bằng cách tăng mức tiêu dùng và đầu tư.

Nơi mà công chúng có thể chọn để đầu tư nhiều hơn cả là thị trường chứng khoán, nhu

cầu nắm giữ chứng khoán gia tăng cho nên giá của chúng tăng. Thuyết của Keynes

cũng dẫn tới một kết luận tương tự, bởi vì lãi suất giảm do chính sách tiền tệ nới lỏng

đã làm trái phiếu kém hấp dẫn hơn so với cổ phiếu, do đó làm tăng giá cổ phiếu. Khi

giá cổ phiếu cao hơn, sẽ dẫn đến hệ số q cao hơn và do đó đầu tư cao hơn lại dẫn đến

một cơ chế chuyển dịch tiếp theo của chính sách tiền tệ đến biến thu nhập.

Những tác động của sự giàu có: Một kênh khác thực hiện quá trình truyền dẫn

tác động của chính sách tiền tệ thông qua giá cổ phiếu được mô tả qua tác động của sự

giàu có lên tiêu dùng. Kênh này đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Franco

Modigliani và mô hình vòng đời (MPS) của ông, và một phiên bản của nó đang được

ứng dụng tại hệ thống Dự Trữ Liên Ban (FED). Trong mô hình vòng đời của

Modigliani, chi tiêu tiêu dùng được quyết định bởi những nguồn lực trong suốt cuộc

đời của cá nhân, bao gồm cả nguồn vốn con người, tài sản thực và tài sản tài chính.

Trong cấu phần của tài sản tài chính bao gồm cả cổ phiếu phổ thông. Khi giá cổ phiếu

tăng, giá trị của tài sản tài chính cũng tăng, do vậy làm tăng nguồn lực của người tiêu

dùng và vì vậy chi tiêu tiêu dùng sẽ tăng.

1.2.1.2.3 Các kênh tín dụng

14

Có hai kênh truyền dẫn tiền tệ cơ bản đều xuất phát từ kết quả của vấn đề thông

tin không cân xứng trong thị trường tín dụng là: Kênh cho vay ngân hàng và kênh bảng

cân đối tài sản.

1.2.1.2.3.1 Kênh cho vay ngân hàng

Kênh này dựa trên quan điểm ngân hàng đóng vai trò đặc biệt trong hệ thống tài

chính bởi vì các ngân hàng có đủ các điều kiện tốt để giải quyết các vấn đề thông tin

không cân xứng trong thị trường tín dụng. Do vai trò đặc biệt của ngân hàng, một số

người vay nhất định sẽ không thể gia nhập vào thị trường tín dụng trừ phi họ vay từ

ngân hàng. Chừng nào mà chưa có khả năng thay thế hoàn hảo các khoản tiền gửi ngân

hàng bán lẻ bằng các nguồn vốn khác của các quỹ, kênh truyền dẫn tiền tệ qua cho vay

ngân hàng hoạt động như sau: Chính sách tiền tệ nới lỏng làm tăng dự trữ ngân hàng và

tiền gửi ngân hàng, tăng chất lượng các khoản vay ngân hàng hiện có. Do ngân hàng có

vai trò đặc biệt quan trọng là người cho vay của những người đi vay ngân hàng, chính

việc tăng các khoản vay sẽ dẫn đến đầu tư tăng và theo đó tổng cầu tăng.

1.2.1.2.3.2 Bảng cân đối tài sản

Giá trị ròng của các công ty càng thấp đi thì các vấn đề lựa chọn nghịch và rủi

ro đạo đức khi tiến hành cho các công ty này vay càng trầm trọng hơn. Giá trị ròng

thấp hơn nghĩa là người cho vay có ít tài sản thế chấp cho các khoản vay của họ, và vì

vậy thua lỗ từ sự lựa chọn đối nghịch sẽ cao hơn. Giá trị ròng thấp của các công ty kinh

doanh cũng làm tăng vấn đề rủi ro đạo đức, bởi vì điều này có nghĩa là những người

chủ sở hữu có tiền đóng góp cổ phần thấp trong công ty của họ, khiến cho họ có nhiều

động lực tham gia vào các dự án đầu tư rủi ro. Do thực hiện các dự án đầu tư rủi ro hơn

có thể dẫn đến việc không trả được nợ, làm giảm giá trị ròng của các công ty sẽ dẫn

đến giảm cho vay và vì thế giảm chi đầu tư. Chính sách tiền tệ nới lỏng dẫn đến giá cổ

phần tăng như đã mô tả ở phần trước, làm tăng giá trị ròng của công ty và vì vậy dẫn

15

đến chi đầu tư cao hơn và tăng tổng cầu (Y), nhờ giảm lựa chọn đối nghịch và rủi ro

đạo đức.

Hình 1.1: Cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ

(Nguồn:http://www.oenb.at/en/geldp_volksw/geldpolitik/wirtschaft/how_does_monetar

y_policy_impact_the_economy_.jsp)

1.3 Tổng quan về sự truyền dẫn lãi suất của chính sách tiền tệ

1.3.1 Khái niệm

Sự truyền dẫn lãi suất có thể được hiểu là thay đổi lãi suất của các cơ quan quản

lý tiền tệ có thể gây ra biến động về giá tài sản để tạo ra ảnh hưởng mạnh về giá thị

trường của tài sản tài chính và nợ phải trả. Lãi suất cao hơn có thể gây ra một sự đánh

giá của đồng nội tệ, lần lượt có thể ảnh hưởng để xuất khẩu ròng, và do đó, tác động

đến tổng cầu và sản lượng. Đồng thời, hoạt động và thông báo chính sách ảnh hưởng

đến kỳ vọng về tương lai của nền kinh tế và mức độ của sự tự tin với những kỳ vọng

này được thiết lập.

Đối với sản lượng, những thay đổi lãi suất này ảnh hưởng đến các hành vi chi

tiêu, tiết kiệm và đầu tư của các cá nhân và các công ty trong nền kinh tế. Đơn giản là

các nhân tố khác không thay đổi thì khi lãi suất cao hơn có xu hướng khuyến khích tiết

kiệm hơn là chi tiêu. Tương tự như vậy, giá trị tiền tệ cao hơn trong thị trường ngoại

16

hối khuyến khích chi tiêu bằng cách làm hàng hóa nước ngoài rẻ hơn so với hàng hóa

sản xuất trong nước. Vì vậy, những thay đổi trong lãi suất và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng

đến nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ sản xuất.

Về phía lạm phát, mức độ nhu cầu liên quan đến khả năng cung ứng trong nước,

trong thị trường lao động và các nơi khác, là một ảnh hưởng quan trọng về áp lực lạm

phát trong nước. Nếu nhu cầu lao động vượt quá nguồn cung cấp, sẽ có áp lực về tiền

lương, trong đó một số công ty sẽ đưa giá cao hơn vào tính cho người tiêu dùng. Ngoài

ra, biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả trong nước của hàng

hóa và dịch vụ nhập khẩu, và tác động gián tiếp vào giá của những hàng hóa và dịch vụ

cạnh tranh với hàng nhập khẩu hoặc sử dụng đầu vào nhập khẩu, và do đó tác động đến

các thành phần của lạm phát tổng thể.

1.3.2 Cơ chế truyền dẫn lãi suất

Những thay đổi trong chính sách tiền tệ của NHTW được chuyển tải tới các mục

tiêu cuối cùng của nền kinh tế được thực hiện thông qua những tác động về mặt lượng

và tác động về giá (lãi suất). Với mỗi thay đổi của chính sách tiền tệ, cả hai cơ chế này

đều phát huy tác dụng bởi những thay đổi về khối lượng tiền cũng sẽ dẫn tới những

thay đổi về lãi suất và ngược lại. Tuy nhiên, trong những điều kiện cụ thể của nền kinh

tế gắn với mức độ phát triển kinh tế, mức độ hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính

và mức độ can thiệp của Chính phủ vào các quan hệ kinh tế thì khả năng phát huy hiệu

quả của các cơ chế điều chỉnh này khác nhau trong đó, cơ chế điều chỉnh bằng lãi suất

đang ngày càng chiếm ưu thế.

Cơ chế tác động về lượng được thực hiện thông qua những ảnh hưởng trực tiếp

của khối lượng tiền cung ứng tới tổng đầu tư và tiêu dùng của xã hội và được thể hiện

rõ rệt trong cơ chế kiểm soát tiền tệ trực tiếp. Cơ chế tác động này thường phát huy

hiệu quả khi các điều kiện thị trường chưa phát triển và quan hệ cung cầu của thị

trường bị chi phối mạnh bởi các yếu tố phi lãi suất và vì thế mà thiếu nhạy cảm với các

17

biến động của lãi suất. Những tác động về mặt lượng thường là trực tiếp nên nó khó lan

tỏa đến mọi đối tượng cần tác động. Vì thế, để cơ chế này phát huy hiệu quả, NHTW

thường sử dụng phối hợp hệ thống chính sách hỗ trợ như hạn mức tín dụng hoặc quy

định các chỉ tiêu phân bổ tín dụng cụ thể đến từng đối tượng.

Cơ chế tác động qua lãi suất là cơ chế chuyển tải ảnh hưởng của chính sách tiền

tệ tới nền kinh tế thông qua phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất và giữa các loại

giá cả trên thị trường tài chính. Đây là cơ chế kiểm soát sự biến động lãi suất của nền

kinh tế một cách gián tiếp mà theo đó chính sách tiền tệ có thể tác động tới các bộ phận

cấu thành tổng cầu thông qua những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của lãi suất tới

hành vi chi tiêu của các chủ thể kinh tế. Quá trình tác động này thể hiện sự kết hợp

giữa khả năng chi phối trực tiếp của NHTW đối với các mức lãi suất ngắn hạn và mức

độ ảnh hưởng của các mức lãi suất ngắn hạn tới các mức lãi suất trung, dài hạn cũng

như toàn bộ nền kinh tế.

Như vậy, cơ chế tác động bằng lãi suất có thể chia thành ba khâu với các tác

nhân tham gia khác nhau. Khâu đầu tiên thể hiện sự tác động trực tiếp của NHTW tới

mức lãi suất ngắn hạn được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động. Tiếp theo là sự chuyển

tải những ảnh hưởng của các mức lãi suất ngắn hạn tới mặt bằng lãi suất thị trường và

khâu cuối cùng là tác động của lãi suất thị trường tới hành vi tiêu dùng và đầu tư của

các chủ thể kinh tế qua đó mà ảnh hưởng tới tổng cầu của nền kinh tế. Điều này ngụ ý

rằng hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ là sự kết hợp giữa khả năng can thiệp của

NHTW trên thị trường tiền tệ và mức độ nhạy cảm của nhu cầu chi tiêu trong xã hội

đối với những thay đổi của mặt bằng lãi suất thị trường.

Trong quy trình tác động đó, khả năng kiểm soát mặt bằng lãi suất là yếu tố

quan trọng nhất, phản ứng mức độ chủ động của NHTW trong điều hành chính sách

tiền tệ. Kinh nghiệm của hầu hết các nước trên thế giới cho thấy rằng khả năng đó phụ

thuộc vào việc lựa chọn một mức lãi suất mục tiêu thích hợp và thiết kế được một mô

hình kiểm soát mức lãi suất mục tiêu đó một cách hiệu quả.

18

1.3.2.1 Lựa chọn mức lãi suất mục tiêu.

Xu thế sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động thay cho lượng

dự trữ của hệ thống ngân hàng đang trở nên phổ biến ở cả những nước đang phát triển

khi mối quan hệ truyền thống mặt lượng giữa khối tiền cơ sở và khối tiền cung ứng

đang trở nên thiếu ổn định. Sự lớn mạnh nhanh chóng của các trung gian tài chính phi

ngân hàng và xu hướng pha trộn các hoạt động ngân hàng và các hoạt động phi ngân

hàng đang làm cho khối lượng tiền cung ứng vượt khỏi khả năng kiểm soát của

NHTW. Trong điều kiện này, việc kiểm soát khối tiền dự trữ không cho phép dự đoán

chính xác những biến động của khối tiền cung ứng. Mặt khác, về bản chất, nhu cầu dự

trữ của các tổ chức tín dụng (TCTD) là ít nhạy cảm với lãi suất nên sự thay đổi lãi suất

mục tiêu ít gây nên biến động lớn đối với nhu cầu dự trữ vì chỉ có bộ phận dự trữ vượt

mức nhằm thỏa mãn các nghĩa vụ tài chính thường xuyên là có phản ứng với sự thay

đổi lãi suất thị trường. Tuy nhiên, nhu cầu này đang có xu hướng giảm đi bởi: thứ nhất,

hoạt động thị trường liên ngân hàng trở nên tích cực; thứ hai, các TCTD có thể bổ sung

nhu cầu vốn khả dụng nhanh chóng thông qua các nguồn vốn cho vay thanh toán hoặc

tín dụng thấu chi của NHTW; thứ ba, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong

thanh toán bù trừ qua NHTW làm tăng nhanh tốc độ thanh toán. Hơn nữa, phần lớn các

NHTW trả lãi cho khoản tiền gửi của các TCTD vì thế giảm chi phí cơ hội của việc

duy trì dự trữ và hạn chế những ảnh hưởng của sự biến động lãi suất đến nhu cầu dự

trữ.

1.3.2.2 Lựa chọn mô hình kiểm soát lãi suất mục tiêu

Khi lãi suất mục tiêu được lựa chọn và công bố có nghĩa là NHTW sẵn sàng đáp

ứng nhu cầu dự trữ hoặc hấp thụ lượng dự trữ dư thừa với các đối tác tham gia giao

dịch nhằm duy trì mức mục tiêu đó. Để hạn chế các giao dịch của lãi suất thị trường so

với mức lãi suất mục tiêu, một hệ thống các mức lãi suất chủ đạo của NHTW thường

được sử dụng phối hợp theo một số mô hình sau:

19

 Thứ nhất, mô hình khung lãi suất chỉ đạo sử dụng các phương tiện

thường xuyên. (Úc, Canada, New Zealand...)

Theo mô hình này, mức lãi suất liên ngân hàng mục tiêu được kiểm soát thông

qua hệ thống “kênh” lãi suất của NHTW bao gồm: lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất

tiền gửi qua đêm. NHTW các nước này sử dụng loại cho vay qua đêm nhằm đáp ứng

nhu cầu vốn khả dụng của các TCTD tại một mức lãi suất ấn định cao hơn mức lãi suất

mục tiêu khoảng 25bp. Trong trường hợp các TCTD dư thừa vốn khả dụng so với nhu

cầu, nó có thể gửi qua đêm tại NHTW và được hưởng mức lãi suất tiền gửi thấp hơn

mức lãi suất mục tiêu khoảng 25bp. Với cơ chế này, sự biến động của mức lãi suất liên

ngân hàng mục tiêu sẽ được kiềm giữ thường xuyên trong một biên độ dao động tối đa

là 50bp. Sự thay đổi lãi suất liên ngân hàng được thực hiện bằng cách thông báo mức

lãi suất mục tiêu. Với biên độ dao động tối đa là 50bp, sự thông báo này cũng ngụ ý

rằng, các mức lãi suất của các phương tiện thường xuyên thay đổi. Sự điều chỉnh

“kênh” lãi suất sẽ giữ cho mức lãi suất liên ngân hàng phù hợp với mức mục tiêu mà

không có bất kỳ một sự điều chỉnh nào đối với lượng dự trữ của các TCTD. Nghiệp vụ

thị trường mở (NVTTM) vẫn được sử dụng nhưng không nhằm đạt được mục tiêu lãi

suất liên ngân hàng mà chủ yếu để đáp lại những thay đổi hàng ngày của dự trữ do

những biến động của các yếu tố ngoại sinh.

 Thứ hai, Mô hình kết hợp giữa phương tiện thường xuyên và nghiệp vụ

thị trường mở (ECB).

Theo mô hình này, NHTW Châu Âu (ECB) có thể chọn lãi suất liên ngân hàng

hoặc mức lãi suất nào đó của NHTW làm mục tiêu chủ đạo. Hệ thống các phương tiện

thường xuyên sẽ được sử dụng để khống chế biên độ biến động của lãi suất liên ngân

hàng phù hợp với mục tiêu. Khác với mô hình trên, chênh lệch của mức lãi suất trần và

sàn của “kênh” lãi suất cao hơn. Vì thế, NHTW được sử dụng phối hợp để can thiệp

vào sự biến động của lãi suất khi cần thiết nhằm giữ cho nó nằm trong kênh điều tiết.

20

ECB đặt mục tiêu cho lãi suất đấu thầu tối thiểu trong hoạt động tái cấp vốn chính và

sử dụng nó để đưa ra dấu hiệu về tình trạng chính sách tiền tệ. Khung lãi suất chủ đạo

của ECB được thiết lập bởi phương tiện cho vay và tiền gửi thường xuyên nhằm cung

ứng và hấp thụ khả năng thanh toán qua đêm của các đối tác. Mức lãi suất của phương

tiện cho vay qua đêm được quy định cao hơn lãi suất mục tiêu 100bp, trong khi lãi suất

tiền gửi qua đêm thấp hơn lãi suất mục tiêu 100bp. Vì khoảng cách giữa mức lãi suất

trần và sàn là tương đối lớn tới 200bp nên NVTTM với các công cụ đa dạng được sử

dụng để duy trì lãi suất liên ngân hàng gần với lãi suất đấu thầu tối thiểu trong từng

thời kỳ.

 Thứ ba, Mô hình kiểm soát lãi suất thông qua nghiệp vụ thị trường mở

(Mỹ, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia...)

Sự biến động của lãi suất liên ngân hàng qua đêm được kiểm soát thông qua

nghiệp vụ thị trường mở. Theo cơ chế này, NHTW thực hiện các giao dịch mua bán

chứng từ có giá (chủ yếu là tín phiếu kho bạc) ngắn hạn với các đối tác để tác động vào

mức cung dự trữ nhằm điều chỉnh thường xuyên mức lãi suất thị trường phù hợp với

mức lãi suất mục tiêu trong từng thời kỳ. Vì thế, lượng dự trữ của hệ thống TCTD sẽ

thay đổi liên tục phụ thuộc vào mức độ biến động của cầu dự trữ.

1.3.3 Một số bài nghiên cứu trước đây về sự truyền dẫn lãi suất

Cottarelli và Kourelis (1994) là những người đầu tiên nghiên cứu sự dẫn truyền

đến lãi suất cho vay. Họ thấy rằng sự truyền dẫn lãi suất khác nhau giữa các nước và

tính cứng lãi suất cho vay này có thể giảm xuống nhờ một vài nhân tố như sự tồn tại

của thị trường đối với thương phiếu, lãi suất thị trường tiền tệ ít biến động và rào cản

khá yếu để cạnh tranh hay gia nhập ngành.

Paisley (1994) không tìm thấy sự truyền dẫn hoàn toàn trong lãi suất thế chấp ở

tổ chức xây dựng Anh.

21

Heffernan (1997) tìm thấy sự truyền dẫn lãi suất hoàn toàn trong việc hoàn trả

thế chấp nhưng sự truyền dẫn lãi suất không hoàn toàn cho tài khoản tiết kiệm và tài

khoản vãng lai của ngân hàng Anh và tổ chức xây dựng.

Hofmann và Mizen (2004) nghiên cứu 13 sản phẩm huy động và thế chấp của

định chế tài chính tư nhân Anh sử dụng mô hình phi tuyến và tìm thấy sự truyền dẫn

hoàn toàn cho lãi suất huy động và không hoàn toàn cho lãi suất thế chấp.

Mojon (2000) kiểm tra sự truyền dẫn ngắn hạn đến lãi suất cho vay và huy động

ở 5 nước khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Bỉ, Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Hà Lan),

giả định rằng có sự truyền dẫn hoàn toàn trong dài hạn. Ông thấy rằng lãi suất cho vay

phản ứng chậm đối với thay đổi trong lãi suất thị trường tiền tệ; lãi suất dài hạn phản

ứng chậm hơn so với lãi suất ngắn hạn, và có sự bất cân xứng trong mức độ dẫn truyền.

Sự dẫn truyền đến lãi suất cho vay cao hơn khi lãi suất thị trường đang tăng hơn là khi

nó đang giảm xuống, nhưng điều ngược lại là đúng cho lãi suất tiền gửi.

Bondt (2002) kiểm tra mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu chính phủ và lãi suất

huy động cũng như lãi suất cho vay trên cơ sở kỳ hạn phù hợp cho khu vực Euro. Ông

ta tìm thấy rằng sự dẫn truyền là hoàn toàn cho hầu hết lãi suất cho vay nhưng không

hoàn toàn lên tác động của cả lãi suất tiền gửi và một số lãi suất cho vay.

Sander và Kleimeier (2004) kiểm tra sự dẫn truyền trong thị trường bán lẻ của

ngân hàng đối với khu vực đồng Euro và thấy rằng lãi suất cho vay phản ứng nhanh

hơn đối với sự thay đổi trong chính sách tiền tệ dự đoán. Bài này cũng đã rút ra được

một số kết luận như sau: lãi suất ngân hàng có “tính cứng” và có sự khác nhau cần xem

xét trong sự dẫn truyền giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi ở các ngân hàng khác

nhau, cụ thể là lãi suất cho vay sẽ dẫn truyền nhanh hơn. Dẫn truyền là hoàn chỉnh nhất

trong cho vay ngắn hạn doanh nghiệp và có sự khác nhau trong cơ chế dẫn truyền của

các nước trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu.

Chong và cộng sự (2006) kiểm tra lãi suất huy động ở các kỳ hạn khác nhau và

lãi suất cho vay ở cả ngân hàng thương mại và công ty tài chính ở Singapore và thấy

22

rằng định chế tài chính điều chỉnh lãi suất của họ tăng lên chậm hơn so với điều chỉnh

giảm. Họ cũng thấy rằng tốc độ điều chỉnh khác nhau qua các sản phẩm tài chính và

khác nhau giữa các ngân hàng và công ty tài chính. Họ không tìm thấy sự dẫn truyền

hoàn toàn của lãi suất.

1.3.4 Các nhân tố tác động đến sự truyền dẫn lãi suất

1.3.4.1 Tính minh bạch của chính sách tiền tệ

Một điểm khởi đầu hữu ích cho các cuộc thảo luận về sự minh bạch trong chính

sách tiền tệ là việc chấp nhận rằng đây là một khái niệm với nhiều khía cạnh, bao gồm

năm loại chính sau đây: Đó là chính trị, kinh tế, thủ tục, chính sách và hoạt động. Tuy

nhiên một số nghiên cứu tiếp theo đã lập luận rằng có một mức độ thay thế nhất định

giữa các khía cạnh của sự minh bạch. Sau đó một nghiên cứu mới đã đề xuất một sự

phân loại năm khía cạnh trên thành ba loại: minh bạch về mục tiêu, minh bạch về thông

tin và minh bạch trong hoạt động (Hahn, 2002). Minh bạch về mục tiêu: Liên quan đến

tính minh bạch về mục tiêu tổng thể của NHTW, thể hiện qua việc mở rộng mục tiêu

chính sách. Cụ thể hơn nữa là mục tiêu hoạt động từng ngày, ví dụ như việc duy trì lãi

suất tiền mặt qua đêm tại mức mục tiêu mong muốn. Các mục tiêu nhỏ trong ngắn hạn

này sẽ bao gồm đặc điểm của mục tiêu lạm phát được đưa ra. Minh bạch về thông tin:

liên quan đến các thông tin mà NHTW cung cấp cho công chúng. Chủ yếu về ba nhóm

thông tin sau: Thứ nhất, các dữ liệu mà NHTW dựa vào để xây dựng chiến lược nhằm

đạt mục tiêu tổng thể gồm những gì ? Tiếp đó, là việc các dữ liệu này được sử dụng

như thế nào trong chiến lược tổng thể. NHTW để minh bạch điều này có thể phát hành

định kỳ những dự báo liên quan đến các biến quan trọng của thị trường như tỷ giá hay

lãi suất…. Hoặc việc đưa ra những lí lo nhằm giải thích về những dự báo này cho công

chúng biết. Cuối cùng, chính là câu hỏi: những dự báo này của NHTW ảnh hưởng đến

lập trường của chính sách hiện hành như thế nào? Minh bạch trong hoạt động: chủ yếu

được thể hiện qua sự cởi mở của NHTW trong quá trình sử dụng các công cụ của mình

23

để thực hiện chính sách tiền tệ. Ví dụ, NHTW công bố cho công chúng các quyết định

liên quan đến mức lãi suất mục tiêu ngắn hạn. Hay vấn đề thủ tục cách thức trong quá

trình ra các quyết định về chính sách tiền tệ. Ngân hàng Trung ương có thể công khai

những biên bản, hồ sơ, hay các loại giấy tờ có liên quan trong quá trình ra quyết định

về chính sách tiền tệ ra công chúng.

Để đánh giá các khía cạnh kinh tế cụ thể của tính minh bạch cần lưu ý rằng, tài

liệu về vấn đề này dựa vào lý thuyết nhiều hơn thực nghiệm. Những nghiên cứu lý

thuyết phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của khuôn khổ mô hình được sử dụng, đặc

biệt là: việc nghiên cứu về tính không chắc chắn, cách thức chính sách tiền tệ ảnh

hưởng đến nền kinh tế thực, tính chính xác về các mục tiêu của NHTW. Các nghiên

cứu thường phân tích dựa trên rất nhiều các giả định khác nhau.

Hai vấn đề trung tâm từ những nghiên cứu về sự minh bạch mục tiêu là: sự

không thống nhất về mặt thời gian và tác động của sự minh bạch tới kỳ vọng hình

thành. Trong trường hợp NHTW có sự không chắc chắn về lạm phát và sản lượng,

minh bạch sẽ có lợi vì nó giúp sữa chữa kỳ vọng lạm phát, làm giảm lạm phát trung

bình và phương sai lạm phát. Sử dụng mô hình tương tự thì một nghiên cứu nữa tìm

thấy rằng việc tăng tính minh bạch cũng giúp vượt qua vấn đề tiến thoái lưỡng nan khi

thống nhất về mặt thời gian mà NHTW phải đối mặt đó là sự cám dỗ tìm kiếm một kết

quả cao, bằng cách nói một đằng làm một nẻo (Canzoneri,1985). Mô hình chính sách

tiền tệ không thống nhất về thời gian có thể gây thiệt hại về uy tín của NHTW. Tăng

tính minh bạch có thể làm giảm động cơ hành xử theo cách này.

Vấn đề tiếp theo liên quan đến hiệu quả giao tiếp của NHTW. Mặc dù nền kinh

tế rất rộng lớn và phức tạp, công chúng đôi khi không thể biết được chính xác tất cả các

thông tin cần thiết, nhưng họ có thể phán đoán thông qua việc quan sát hành động của

NHTW. Đặc biệt sự thích ứng của công chúng khi đối mặt với những hành động của

NHTW, có thể làm cho nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng mà trong đó lạm phát mong

đợi của công chúng trở nên tách biệt với mục tiêu chính sách của NHTW dẫn đến tình

24

trạng lạm phát đi kèm với suy thoái. Điều này làm nổi bật giá trị của giao tiếp hiệu quả

đối với một mục tiêu lạm phát của NHTW và chú ý cảnh giác chống lại lạm phát neo

theo kỳ vọng.

Trong bài nghiên cứu về sự minh bạch của chính sách tiền tệ và sự dẫn truyền

của lãi suất cho vay, các tác giả xem xét đến ảnh hưởng của chính sách minh bạch và

cấu trúc tài chính trong cơ chế dẫn truyền Ming-Hua Liu et al. (2005). New Zealand là

quốc gia đầu tiên của Tổ Chức Hợp Tác Và Phát Triển Kinh Tế (OECD) thông qua chế

độ lạm phát mục tiêu chính thức với trách nhiệm cụ thể và các quy định minh bạch.

Tác giả phân tích liệu sự thay đổi trong chính sách tiền tệ, cụ thể là gia tăng tính

minh bạch của nó, có gây ra một tác động nào đến sự dẫn truyền và tốc độ điều chỉnh

của các lãi suất bản lẻ ở New Zealand hay không? Chính sách tiền tệ ở New Zealand đã

trải qua một sự thay đổi lớn: Chuyển từ mục tiêu số lượng tiền tệ (tài khoản thanh toán)

sang mục tiêu lãi suất trong điều hành thị trường. Điều này được thể hiện rõ trong tiến

trình 3 giai đoạn. Đầu tiên là gián tiếp sử dụng tỷ giá để thực hiện chính sách tiền tệ.

Sau đó, từ tháng 7/1997 đến tháng 3/1999, NHTW New Zealand sử dụng chỉ số tiền tệ

có điều kiện như một phương tiện thông tin cho các yêu cầu của chính sách tiền tệ.

Cuối cùng, tháng 3 năm 1999, NHTW New Zealand điều khiển thị trường thông qua

lãi suất tiền mặt chính thức. Bài viết cho rằng, sự thay đổi này làm cho chính sách tiền

tệ trở nên minh bạch hơn, để kiểm tra tác động của sự thay đổi này, ông đã dùng các

mô hình kinh tế lượng để phân tích sự dẫn truyền của các lãi suất cho vay trước và sau

khi có lãi suất tiền mặt chính thức.

Kết quả cho thấy rằng chính sách tiền tệ gây ảnh hưởng lớn hơn đối với các mức

lãi suất trong ngắn hạn. Gia tăng tính minh bạch trong chính sách tiền tệ làm giảm biến

động đối với lãi suất chính thức và làm ngành ngân hàng trở nên cạnh tranh hơn. Với

sự gia tăng tính minh bạch trong chính sách tiền tệ và lãi suất biến động ít hơn dẫn đến

sự thay đổi trong tương lai của lãi suất ngắn hạn sẽ trở nên ít biến động hơn, từ đó làm

25

tăng mức độ dẫn truyền của lãi suất chính thức đến lãi suất cho vay đồng thời góp phần

gia tăng hiệu quả của chính sách tiền tê.

1.3.4.2 Tính cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng

Hệ thống ngân hàng giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế, là một mắc

xích không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó có thể thấy một

số vai trò chính sau đây: Thứ nhất, tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền

kinh tế, sau đó tiến hành cho vay đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, giúp cho

nguồn lực của xã hội được khai thác và sử dụng hiệu quả. Thứ hai, với vị trí là một

trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường giúp giảm chi phí giao dịch, an toàn

trong thanh toán, giúp đẩy nhanh quá trình thanh toán, từ đó tạo điều kiện rút ngắn chu

kỳ tái sản xuất xã hội. Đồng thời, sáng tạo ra các công cụ thanh toán mới, làm tăng tính

tiện ích cho các khách hàng tạo nhiều cơ hội lựa chọn với các công cụ thanh toán phù

hợp; điều này đồng thời cũng đem lại lợi ích lớn cho xã hội. Thứ ba, hoạt động của

NHTW giúp tạo lập môi trường vĩ mô ổn định lành mạnh, kiểm soát lạm phát, ổn định

giá trị đối nội lẫn đối ngoại của đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, hoạt

động của hệ thống ngân hàng giúp đất nước hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng hiệu

quả.

Bên cạnh đó, các ngân hàng nâng cao vốn hoạt động chủ yếu thông qua cung

cấp dịch vụ tiền gửi và đầu tư tài sản dài hạn, điều này tồn tại nhiều nguy cơ bất ổn và

khủng hoảng hệ thống. Hơn nữa sự phụ thuộc quá nhiều vào đòn bẩy tài chính và thông

tin bất cân xứng có thể gây ra nhiều rủi ro. Sự bất ổn tài chính làm gia tăng một chi phí

lớn, vì vậy các nhà làm chính sách ưu tiên cao cho việc tránh các cuộc khủng hoảng tài

chính. Vì những lý do này mà trong một thời gian dài tính cạnh tranh ít được chú ý

đến, thay vào đó nhà quản trị theo đuổi mục tiêu ổn định tài chính. Cạnh tranh hơn thì

tác động đến hiệu quả hoạt động nhưng tác động xấu cho sự ổn định tài chính. Lý

thuyết cho rằng mức độ tập trung kinh tế trên thị trường cao hơn và cạnh tranh thấp

26

hơn sẽ dẫn đến sự dẫn truyền nhanh hơn và mạnh hơn (Sander and Kleimeier 2004,

p.470).

Tuy nhiên trong hai thập kỷ qua xu thế đã bị đảo ngược, chính sách cạnh tranh

đã được sử dụng hiệu quả trong nhiều lĩnh vực tài chính. Bởi vì trong thực tế, sự không

chắc chắn về chi phí để tập trung kinh tế trên thị trường cùng với nhận thức tiêu cực về

mức độ thỏa hiệp giữa cạnh tranh và ổn định tài chính có thể khiến các nhà hoạch định

chính sách tập trung vào chính sách cạnh tranh. Các chi phí của cuộc khủng hoảng tài

chính chắc chắn cao, nhưng không có nghĩa giảm cạnh tranh để tránh những chi phí đó.

Các chi phí của khủng hoảng tài chính diễn ra không thường xuyên có thể hàng thập kỷ

hoặc vài thập kỷ trong khi chi phí tập trung không hiệu quả xảy ra liên tục. Phạm vi dự

toán chi phí hiệu quả từ sự tập trung ít phù hợp với hiệu quả của các đổi thủ cạnh tranh.

Có một chính sách lớn dựa trên quan điểm cho rằng có sự thỏa hiệp giữa cạnh

tranh và ổn định tài chính. Kể từ khi cạnh tranh được mong đợi tỏ ra có hiệu quả, sự

thỏa hiệp giữa cạnh tranh và ổn định tài chính buộc các ngân hàng phải tăng cường các

quy định để điều tiết. Một công cụ hiệu quả được sử dụng là kiểm soát vốn (áp đặt các

yêu cầu vốn tối thiểu đối với các ngân hàng). Ngoài kiểm soát vốn, kiểm soát lãi suất

huy động cũng là cần thiết. Ngụ ý rằng khi có sự thỏa hiệp giữa cạnh tranh và ổn định

tài chính lãi suất được kiểm soát chặt hơn làm giảm sự truyền dẫn từ lãi suất thị trường

sang các loại lãi suất cho vay khác. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng đôi khi cạnh tranh

làm gia tăng ổn định tài chính. Tính cạnh tranh gia tăng buộc ngân hàng phải giảm lãi

suất cho vay do vậy làm gia tăng lợi nhuận cho nhà đầu tư, đồng thời tác động làm

giảm rủi ro mất khả năng thanh toán do vậy làm cấu trúc tài chính ổn định hơn.

Thực vậy trong thị trường tiền gửi, biến động nhiều hơn, cạnh tranh hơn, làm

tăng sự dẫn truyền cả trong ngắn hạn và dài hạn (Sander and Kleimeiner 2004, p.473).

Theođó cạnh tranh có tác động đáng kể đến sự dẫn truyền của lãi suất huy động

(Bojon, 2000). Lãi suất ngân hàng trong thị trường cạnh tranh hơn, phản ứng mạnh và

nhanh hơn với sự thay đổi lãi suất thị trường. Do vậy tăng tính cạnh tranh để sự dẫn

27

truyền của chính sách tiền tệ hiệu quả hơn. Thị trường ngân hàng cạnh tranh hơn dẫn

tới kỳ vọng lãi suất cho vay ngân hàng giảm, điều này làm tăng phúc lợi cho cá nhân

và doanh nghiệp. Áp lực cạnh tranh là cao hơn ở thị trường cho vay hơn là thị trường

tiền gủi ở khu vực Euro, tuy nhiên ở nước ta, do hệ thống ngân hàng còn phụ thuộc

nhiều vào hệ thống ngân hàng có vốn góp cao của nhà nước nên lãi suất cho vay chưa

được linh hoạt nhiều do nhà nước áp trần lãi suất cho vay không quá cao để cứu doanh

nghiệp.

1.3.4.3 Cấu trúc tài chính của ngân hàng

Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn

vốn bao gồm: tài chính doanh nghiệp, ngân sách nhà nước, thị trường tài chính và các

tổ chức tài chính trung gian, tài chính dân cư và các tổ chức xã hội, tài chính đối ngoại.

Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời cũng là

nơi thu hút trở lại nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Trong

hoạt động kinh tế, các tụ điểm vốn này có mối liên hệ thường xuyên với nhau chính

thông qua những mối quan hệ nhất định.

Một quốc gia có nền kinh tế nhỏ, mở, nếu phụ thuộc quá nhiều vào nợ nước

ngoài, sẽ làm giảm đi rõ rệt hiệu quả của chính sách tiền tệ Ming-Hua Liu et al. (2005).

Dẫn chứng cụ thể là New Zealand, quốc gia này có tỷ lệ nợ trên GDP lên đến 10% (số

liệu năm 2005), thực tế cho thấy, hiệu quả của việc thực hiện chính sách tiền tệ ở nước

này đã giảm đi đáng kể.

Giải thích cho điều này, có thể dựa trên quan điểm cho rằng: sự dẫn truyền từ lãi

suất thị trường tiền tệ sang lãi suất cho vay chủ yếu qua ba kênh sau: kênh lãi suất,

kênh hạn mức tín dụng và kênh giá tài sản. Do đó, nếu một quốc gia vay nợ nước ngoài

quá nhiều, vượt xa ngưỡng an toàn cho phép, thì kênh cho vay trong nước của quốc gia

đó cũng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất cho vay của các chủ nợ của mình. Một khi

cần có sự thay đổi ở kênh cho vay trong nước, thì rất khó đạt được mức độ thay đổi

28

mong muốn của các nhà làm chính sách. Nói một cách dễ hiểu, khi phải chịu một mức

lãi suất cho vay là 15% chẳng hạn từ các ngân hàng nước ngoài, thì dù muốn dù không

các nhà làm chính sách trong nước khó lòng có thể hạ lãi suất cho vay trong nước còn

12% hay 13%, điều này càng khó khăn hơn khi muốn nâng mức lãi suất cho vay trong

nước. Hay nói cách khác, kênh cho vay trong nước đã chịu một cái neo danh nghĩa vào

lãi suất thị trường tiền tệ đến lãi suất cho vay thông qua kênh cho vay. Kết quả có thể

thấy trước mắt là hiệu quả của chính sách tiền tệ đã giảm đi đáng kể. Đã có nhiều luồng

ý kiến khác nhau để khắc phục tình trạng này, nhưng nổi bật hơn cả là hai ý kiến sau:

Thứ nhất, tiến hành tái cấu trúc tài chính quốc gia, dần dần thoát khỏi phụ thuộc

quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài. Có hai phương pháp thực hiện cải cách cấu trúc

tài chính là: cải cách đồng bộ hoặc cải cách từng bước hệ thống tài chính. Cải cách

đồng bộ hệ thống tài chính là sự chuyển hướng từ kiềm chế tài chính sang tự do hóa tài

chính mà theo đó các biện pháp được tiến hành một cách đồng bộ, tức thời. Các chính

sách tài chính chuyển từ cố định lãi suất sang tự do hóa lãi suất, từ tỷ giá cố định sang

tự do hóa tỷ giá.... Hệ thống các ngân hàng được cổ phần hóa hàng loạt. Phương pháp

này thường gây ra phản ứng sốc đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế. Phản ứng

này có thể có tác dụng tốt đối với nền kinh tế có sự chuẩn bị kỹ càng. Tuy nhiên hầu

hết các quốc gia khi chuyển đổi từ kiềm chế tài chính sang tự do hóa tài chính đều có

hệ thống tài chính rất yếu kém. Chính vì vậy biện pháp này nhiều khi lại gây ra tác

động xấu dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính của các quốc gia áp dụng biện pháp

này. Biện pháp cải cách từng bước hệ thống tài chính thường được các quốc gia lựa

chọn vì nó không gây ra các phản ứng sốc quá mạnh đối với các hệ thống tài chính và

nền kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, để biện pháp này tiến hành có hiệu quả thì tiến

độ thực hiện cải cách hệ thống tài chính phải được đẩy nhanh tránh để lâu dài sẽ không

hiệu quả vì sức ỳ của nền kinh tế quá lớn. Tóm lại, mỗi phương pháp cải cách hệ thống

tài chính đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Tùy vào hoàn cảnh và điều kiện của

mỗi nước mà việc áp dụng phương pháp nào cho phù hợp là hết sức quan trọng.

29

Thứ hai, thực hiện các nghiệp vụ nhằm giảm thiểu rủi ro ngoại hối. Ví dụ như,

áp dụng các công cụ chứng khoán phái sinh: thông qua các giao dịch hoán đổi ngoại

hối và hoán đổi lãi suất chéo, chi phí vay có hiệu quả ở nước ngoài sẽ tương tự như lãi

suất trong nước với cùng kỳ hạn, bỏ qua chi phí giao dịch liên quan tới rào cản thương

mại giữa các quốc gia. Trong thực tế, rủi ro ngoại hối ngắn hạn có thể được bảo đảm dễ

dàng thông qua giao dịch hoán đổi ngoại hối, hoán đổi tiền tệ, bảo hiểm rủi ro chống

lại rủi ro tiền tệ dài hạn thì tốn kém và ít hiệu quả hơn, làm giảm hiệu quả của chính

sách tiền tệ trong nước. Hơn nữa, nếu bảo hiểm rủi ro được thực hiện bằng cách sử

dụng quyền chọn, sự biến động tiền tệ cũng như lãi suất trong nước có thể ảnh hưởng

đến chi phí bảo hiểm rủi ro và do đó có chi phí thực sự, ảnh hưởng đến hiệu quả của

chính sách tiền tệ lên lãi suất cho vay. Vì vậy, đây được xem như một liều thuốc tức

thời, rất tốt nếu được áp dụng trong ngắn hạn, nhưng về dài hạn sẽ mang lại tác dụng

ngược.

Ngoài ra, nếu cấu trúc tài chính còn có thể được hiểu theo nghĩa sức mạnh thị

trường tiền tệ. Trong thị trường vốn, nếu các ngân hàng có một sức mạnh quá lớn, thì

sẽ rất không tốt cho việc thực hiện chính sách tiền tệ. Lúc này, ngân hàng được ví von

như hoàn toàn nắm đằng chuôi trong thị trường, bằng việc liên kết với nhau trong việc

làm giá, họ có thể thao túng thị trượng để làm lợi cho mình mà không cần quan tâm

đến quan điểm của chính sách tiền tệ, Việt Nam là một thị trường thể hiện rõ ràng điều

đó. Ngược lại với một thị trường vốn cạnh tranh, các ngân hàng không có quyền lực thị

trường, bắt buộc họ phải hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh công bằng, việc điều

chỉnh lãi suất của ngân hàng lúc này sẽ phụ thuộc phần lớn vào cung cầu thị trường. Lẽ

dĩ nhiên, chính sách tiền tệ sẽ dễ dàng đạt được hiệu quả mong muốn vì sự dẫn truyền

từ lãi suất thị trường tiền tệ đến lãi suất bản lẻ lúc này gần như là hoàn toàn. Đây là

trường hợp của thị trường tài chính Mỹ. Trong bài nghiên cứu về tính cứng của lãi suất

cho vay ngân hàng ở Mỹ, trong phân tích của mình, họ ngụ ý rằng, các ngân hàng

không thể gây ảnh hưởng đến hành vi cho vay vì họ chỉ là một phần từ nhỏ trong thị

30

trường, do đó, họ cho rằng, sự dẫn truyền đến lãi suất cho vay là ngay lập tức và hoàn

toàn.

31

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Tóm lại sự truyền dẫn lãi suất có thể được hiểu là sự thay đổi lãi suất của các cơ

quan quản lý tiền tệ có thể gây ra biến động về giá tài sản để tạo ra ảnh hưởng mạnh về

giá thị trường của tài sản tài chính và nợ phải trả. Và sự truyền dẫn này trải qua hai giai

đoạn, ở giai đoạn thứ nhất là sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất thị trường,

và giai đoạn thứ hai là sự truyền dẫn từ lãi suất thị trường đến lãi suất cho vay bao gồm

lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất

cho vay phụ thuộc rất lớn vào những nhân tố sau: thứ nhất là tính minh bạch trong

chính sách tiền tệ, thứ hai là sự cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàng thương mại; và

cuối cùng là cấu trúc tài chính của các ngân hàng.

32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ SỰ TRUYỀN DẪN LÃI SUẤT CHÍNH

SÁCH ĐẾN LÃI SUẤT CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1 Thực trạng về sự biến động lãi suất

2.1.1 Sự biến động của lãi suất chính sách

2.1.1.1 Sự biến động của lãi suất cơ bản

Năm 2008 kinh tế rơi vào khủng hoảng, lạm phát gia tăng do những tồn tại và

bất ổn của kinh tế Mỹ như: Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân thấp, nợ nước ngoài khổng lồ,

khủng hoảng nợ dưới chuẩn, khủng hoảng bất động sản. Khủng hoảng tài chính Mỹ bắt

nguồn từ việc các ngân hàng nước này quá dễ dãi, tùy tiện khi cho khách hàng vay tiền

để mua bất động sản qua các hoạt động cho vay không đạt tiêu chuẩn. Cuộc khủng

hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: Lãi suất cho vay

liên ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng

thương mại và các doanh nghiệp tăng, làm cho người dân dự đoán đồng USD giảm nên

họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD mua tiền đồng Việt Nam (VNĐ)

gửi vào,… Để khắc phục tình trạng này thì Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã thay đổi

chính sách lãi suất cơ bản Ngày 01/02/2008, lãi suất cơ bản VNĐ tăng từ 8,25% →

8,75%/năm. Và trong năm 2008, NHNN đã 16 lần đưa ra Quyết định thay đổi lãi suất

cơ bản từ 8.25%/năm ngày 01/01/2008 lên 14%/năm ngày 11/06/2008 đạt đỉnh trong

suốt gần 06 tháng và sau đó hạ xuống còn 8.5%/năm vào ngày 22/12/2008.

Ngày 16/05/2008, NHNN đã thông báo những điều chỉnh trong điều hành lãi suất

bằng Quyết định số 16/2008/QÐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, theo đó,

các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh bằng VNĐ đối với khách hàng

không quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ.

Trong năm 2010, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật

thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, NHNN đã từng bước bỏ các ràng buộc về các

33

loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số

03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN, Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho

phép các TCTD được thực hiện cho vay bằng VNĐ theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Theo

đó, các TCTD thực hiện lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN và được

phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án cho vay có hiệu quả cao. Như

vậy, lãi suất cho vay đã được tự do hóa nhằm làm minh bạch hóa hoạt động cho vay của

các TCTD, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh và đảm bảo lãi suất trở về giá trị thực

và có điều kiện cạnh tranh để giữ mặt bằng lãi suất, giúp khách hàng dễ tiếp cận với

nguồn vốn ngân hàng.

Thời gian vừa qua cùng với ảnh hưởng tiêu cực của suy thoái kinh tế thế giới, mặt

khác, trong nước lạm phát ở mức khá cao, NHNN đã đưa ra các chính sách nhằm kiểm

soát lạm phát một cách hiệu quả. Cụ thể: Ðể kiềm chế đà gia tăng của lạm phát, trong

những năm qua, NHNN đã thắt chặt chính sách tiền tệ bằng nhiều biện pháp như: tăng

lãi suất cơ bản, áp trần lãi suất tiền gửi; tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các Ngân hàng

thương mại (NHTM) và kiểm soát tăng trưởng tín dụng. Việc điều chỉnh trên của NHNN

tác dụng làm ổn định thị trường tiền tệ, kiềm chế đà tăng của lạm phát.

Hình 2.1: Biểu đồ biến động lãi suất cơ bản

(Nguồn: Trang thông tin điện tử của NHNN)

34

Qua đồ thị ta thấy lãi suất cơ bản của Việt Nam biến động không ngừng theo sự

biến động của thị trường. Đạt cực đại vào tháng 6/2008 là 14%/năm và xuống với mức

thấp nhất vào tháng 2/2009 là 7%/năm, và hiện tại giữ mức lãi suất là 9%/năm.

Qua đây cũng cho chúng ta thấy sự linh hoạt của Ngân hàng nhà nước trong chính sách

lãi suất cơ bản để điều tiết và phát triển kinh tế.

2.1.1.2 Sự biến động của lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu

Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất mà ở đó NHNN áp dụng cho các nghiệp vụ tái

cấp vốn cho Ngân hàng thương mại (NHTM). Ở Việt Nam, NHNN tái cấp vốn cho các

NHTM qua các hình thức: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu

thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay lại dưới hình thức cầm cố

các giấy tờ có giá ngắn hạn.

Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất được áp dụng cho các nghiệp vụ chiết khấu, tái

chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ

tiền gửi.Như vậy, sự khác biệt giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là các

tài sản dùng để thế chấp cho việc vay mượn tiền khác nhau. Lãi suất chiết khấu áp

dụng đối với các giấy tờ có độ rủi ro thấp như trái phiếu chính phủ, thương phiếu,

chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn. Còn lãi suất tái cấp vốn là lãi suất áp dụng cho các loại tài

sản thế chấp có độ rủi ro cao hơn. Đây cũng là lí do giải thích cho việc lãi suất tái chiết

khấu thường thấp hơn lãi suất tái cấp vốn.

Lãi suất chiết khấu tác động đến lượng tiền trong lưu thông là ngay thẳng.

NHNN điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào

mục tiêu của chính sách tiền tệ thắt chặt hay tăng lượng tiền trong lưu thông. Khi

NHNN thấy cần tăng tiền cho lưu thông, NHNN sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống.

Điều này sẽ hấp dẫn các NHTM đến NHNN để vay vì giá cả tín dụng giảm, thêm nữa

khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, NHNN cần giảm khối lượng tiền

trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên. Như vậy, chi phí vay sẽ tăng lên

35

khiến các NHTM sẽ vay chiết khấu ít hơn. Đồng thời, NHNN còn giảm khối lượng tín

dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay.

Trong những tháng đầu năm 2008, trước bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm và

tình hình kinh tế trong nước diễn biến phức tạp, Chính phủ đã thống nhất xác định

nhiệm vụ trọng tâm là: “Kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo

an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên

hàng đầu” và đề ra 8 nhóm giải pháp để triển khai thực hiện. Một trong số những giải

pháp đó là: Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất

cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định

hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực

dương cho người gửi tiền.

Trong 8 tháng đầu 2008, trước bối cảnh lạm phát và nhập siêu tăng mạnh, đe

dọa đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với giải pháp thắt chặt tiền tệ, NHNN đã từng

bước điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản và các mức lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu

cho phù hợp với các mục tiêu kiểm soát chặt chẽ tiền tệ.Đồng thời, từ ngày 19/05/2008

thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với Luật NHNN và Bộ luật Dân sự,

các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VNĐ đối với khách hàng không

vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Lãi suất tái cấp

vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%; 13% và 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ

4,5%/năm lên 6%;11% rồi 13%/năm. Cụ thể:

Từ ngày 01/02/2008, Ngân hàng Nhà nước đồng loạt tăng lãi suất cơ bản, lãi

suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu.Ngày 30/01/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo

quyết định số 306/QĐ-NHNN điều chỉnh các lãi suất nói trên, sau hai năm duy trì (từ

tháng 12/2005). Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm, tăng

1,0%/năm; lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm tăng lên 6,0%/năm, tăng 1,5%/năm. Động

thái này được nhìn nhận là cách để Ngân hàng Nhà nước thực hiện mục tiêu giảm lạm

phát bằng cách thu hút tiền về, giảm lượng tiền lưu thông trên thị trường.Theo Ngân

36

hàng Nhà nước, mục đích của việc tăng các mức lãi suất là nhằm tiến tới thiết lập mối

quan hệ hợp lý giữa các mức lãi suất chính sách của cơ quan này với lãi suất thị trường,

nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất, phù hợp với chỉ đạo của Chính

phủ về điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2008. Hiện Luật Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam quy định lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ.

Theo đó, NHTW công bố và điều chỉnh một cách linh hoạt lãi suất tái cấp vốn và lãi

suất chiết khấu để điều tiết tiền tệ, kiểm soát tổng phương tiện thanh toán phù hợp với

mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế hằng năm.Tuy nhiên, lãi suất tái cấp vốn và

lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng, chưa phù hợp với yêu

cầu điều tiết và kiểm soát tiền tệ một cách chặt chẽ.

Từ 19/5/2008, NHNN ban hành Quyết định số 1099/QĐ-NHNN, nâng lãi suất

cấp vốn từ 7.5%/năm lên 13,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 6%/năm lên

11,0%/năm.

Để đảm bảo sự đồng bộ trong điều hành cơ chế lãi suất nhằm mục đích điều tiết

tiền tệ một cách có hiệu quả, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định thay đổi

cơ chế điều hành lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu có hiệu lực thi hành từ ngày

19/5/2008. Theo đó, lãi suất cấp vốn là 13,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu là

11,0%/năm. Cơ chế này tạo hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu

(chênh lệch 2%) có tác dụng góp phần điều tiết lãi suất thị trường liên ngân hàng; trong

đó, lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ dao động trong hành lang

này. Khi điều kiện thị trường tiền tệ thay đổi, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét điều

chỉnh theo mức độ phù hợp.

Ngày 10/6/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số

1316/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu được áp dụng từ ngày

11/6/2008. Theo đó, Lãi suất tái cấp vốn tăng thêm 2% lên 15%/năm; Lãi suất tái chiết

khấu từ 11% lên 13%/năm.

37

Việc điều chỉnh các mức lãi suất lần này nhằm tiếp tục thực thi chính sách tiền

tệ “thắt chặt” nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và được căn cứ vào mặt

bằng lãi suất thị trường tăng so với tháng 5/2008, dự báo xu hướng biến động của lạm

phát, cung cầu vốn thị trường, tỷ giá…

Trong những tháng cuối 2008, lạm phát có xu hướng giảm dần đồng thời trong

khi đó thì tăng trưởng kinh tế đã có sự suy giảm mạnh so với năm 2007 do ảnh hưởng

cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Tình hình này đòi hỏi NHNN phải có những bước

đi thận trọng nhằm tiếp tục kiểm soát lạm phát nhưng đồng thời cũng góp phần tăng

đầu tư sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Trong bối cảnh, NHNN

5 lần điều chỉnh giảm các loại lãi suất. Cụ thể lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống

14%;13%;12%;11% và 9,5%/năm. Lãi suất tái chiết khấu từ 13%/năm xuống

12%;11%;10%;9% và 7,5%/năm. Cụ thể:

Ngày 3/11/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 2561/QĐ-

NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm

từ 14%/năm xuống 13%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống

11%/năm. Đây là động thái tiếp tục khẳng định Ngân hàng Nhà nước đã mạnh tay hơn

trong nới lỏng chính sách tiền tệ. Đây cũng là yêu cầu đặt ra từ nhiều hiệp hội, ngành

nghề và doanh nghiệp trong thời gian gian qua.

Ngày 20/11/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng ký quyết định số

2810/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Lãi

suất tái cấp vốn giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ

11%/năm xuống 10%/năm. Như vậy, lần thứ hai trong tháng, Ngân hàng Nhà nước có

loạt điều chỉnh quan trọng liên quan đến chính sách tiền tệ. Trước đó, ngày 3/11, cơ

quan này cũng đã lần lượt giảm lãi suất cơ bản, các lãi suất chủ chốt khác và tỷ lệ dự

trữ bắt buộc. Với lần điều chỉnh này, nhà điều hành tiếp tục phát tín hiệu nới dần chính

sách tiền tệ, tạo điều kiện thêm vốn cho các ngân hàng tiếp vốn cho nền kinh tế, cũng

như gián tiếp kéo lãi suất huy động và cho vay trên thị trường xuống.

38

Ngày 3/12/2008, 1 lần nữa Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 2949

/QĐ-NHNN, giảm lãi suất tái cấp vốn từ 12%/năm xuống 11%/năm; lãi suất tái chiết

khấu giảm từ 10%/năm xuống 9%/năm.

Chiều 19/12/2008, Thống đốc có Quyết định số 3159/QĐ-NHNN điều chỉnh lãi

suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo quyết định trên, lãi suất tái cấp vốn giảm

từ 11%/năm xuống 9,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 9,0%/năm xuống

7,5%/năm, quyết định này có hiệu lực từ ngày 22/12/2008. Theo Ngân hàng Nhà nước,

mục đích của việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nói trên là nhằm

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; các

tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đối với sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng

thiết yếu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh và kể cả các

dự án đầu tư bất động sản khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn.

Năm 2008 kết thúc lại với 1 năm đầy biến động. NHNN đã liên tục thay đổi các

loại lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn 1 cách linh hoạt trong điều hành chính sách

tiền tệ. Diễn biến các loại lãi suất tái cấp vốn và cấp chiết khấu của năm 2008 có thể

được tổng hợp lại như đồ thị và bảng dưới đây:

Hình 2.2: Biểu đồ biến động lãi suất chính sách

(Nguồn: Trang thông tin điện tử NHNN)

So với năm 2008, chính sách tiền tệ và hoạt động của các ngân hàng thương mại

trong năm 2009 đã có sự ổn định tương đối. Xét về tần suất điều chỉnh đó, năm 2009

39

chính sách tiền tệ có sự ổn định hơn.Cụ thể, ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh lãi suất

tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu có 3 lần , 2 lần giảm trong tháng 1 và 4, 1 lần tăng

đầu tháng 12.

Tháng 2/2009 vì nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, lạm phát năm 2008 đã được

kiểm soát, Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 173/QĐ-NHNN ra ngày

23/01/2009 , bắt đầu có hiệu lực từ 01/02/2009 giảm lãi suất tái cấp vốn từ 9,5%/năm

xuống 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm. Mục đích:

Duy trì mức lãi suất vừa phải để kích thích tăng trưởng kinh tế. NHNN muốn phát đi

thông điệp là lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, việc giữ nguyên LSCB có thể giúp trấn

an tâm lý nhà đầu tư và thị trường khi mà thông tin tỷ giá hối đoái điều chỉnh, nhiều

mặt hàng tăng giá được công bố dồn dập trong thời gian cuối năm.

Ngày 10/4/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết

định số 837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu thay thế cho

Quyết định số 173/QĐ-NHNN. Theo đó, từ ngày 10/04, các mức lãi suất của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam được áp dụng: lãi suất tái cấp vốn là 7,0 %/năm, lãi suất tái

chiết khấu là 5,0 %/năm. Mục đích việc giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn

là tiếp tục tạo điều kiện cho các ngân hàng vay vốn từ Ngân Hàng Nhà nước rẻ hơn, hỗ

trợ khả năng giảm thêm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp.

Ngày 1/10/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết

định số 2232/QĐ-NHNN, Ngân hàng Nhà nước cũng giữ nguyên các loại lãi suất như

lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 7,0%/năm; lãi suất tái

chiết khấu của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 5,0%/năm.

Ngày 25/11/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành

Quyết định số 2664/QĐ-NHNN. Theo đó từ 01/12/2009, tăng thêm 1% lãi sất tái chiết

khấu và lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết

khấu tăng từ 5% lên 6%. Mục tiêu của việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm lên

8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5% lên 6% là kiếm soát những rủi ro về tăng

40

trưởng nóng và lạm phát đang nổi lên trong nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế bền vững

năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế

thế giới, đồng thời quyết tâm có những phản ứng chính sách phù hợp từ đó ổn định nền

kinh tế vĩ mô.

Năm 2010 là một năm đầy thử thách đối với hệ thống ngân hàng nhà nước Việt

Nam, ngành ngân hàng vừa phải lo giúp các doanh nghiệp khôi phục sản xuất, nhưng

cũng phải đảm bảo để lạm phát không xảy ra.

Năm 2010 để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề

ra, NHNN đã tập trung hoàn thiện thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trọng tâm

là hoàn thiện 2 dự thảo Luật NHNN (sửa đổi) và Luật Các TCTD (sửa đổi) để trình

Quốc hội Khoá XII thông qua tại kỳ họp thứ 7. Cùng với việc thực hiện có hiệu quả

các chính sách về lãi suất của Chính phủ, ngân hàng còn điều hành chính sách tiền tệ

một cách thận trọng, linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng mục tiêu tăng

trưởng, kiềm chế lạm phát do Quốc hội đề ra.

Ngày 20/10/2010, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2318/QĐ-

NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong

thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù

trừ của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng. Quyết định này có hiệu lực từ ngày

21/10/2010. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm; lãi suất

tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm. Sự điều chỉnh này góp phần hỗ trợ

giảm bớt chi phí vốn cho các ngân hàng hàng. Điều này cũng cho thấy Ngân hàng Nhà

nước dường như đang dần nới lỏng hơn chính sách tiền tệ, sau một thời gian thắt chặt.

So với năm 2008 và 2009, năm 2010 là năm mà lãi suất tái chiết khấu và tái cấp

vốn là ổn định nhất. Lãi suất ít có sự thay đổi trong suốt 10 tháng đầu năm. Trong 10

tháng đầu, ngân hàng nhà nước ra các văn bản quyết định 26/TB-NHNN ngày

26/01/2010, 189/TB-NHNN ngày 31/5/2010, 220/TB-NHNN ngày 24/06/2010,

259/TB-NHNN ngày 27/7/2010, 316/TB-NHNN ngày 25/8/2010, 352/TB-NHNNngày

41

27/9/2010, 402/TB-NHNN ngày 27/10/2010, theo đó giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu

là 6%/năm và lãi suất tái cấp vốn là 8%/năm.Tuy nhiên trước tình hình lạm phát có xu

hướng gia tăng, trong những tháng cuối năm ngày 05/11/2010, NHNN ra quyết định

2620/QĐNHNN quy định lãi suất tái cấp vốn tăng 1% từ 8%/năm lên 9%/năm, và lãi

suất tái chiết khấu từ 6%/năm lên 7%/năm.

Ngày 17/2/2011, NHNN ra quyết định 271/QĐ-NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn

từ 9% lên 11%/năm, giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu ở mức 7%/năm. Mục đích tăng

lãi suất tái cấp vốn này là bước điều chỉnh thận trọng trong vấn đề kiểm soát lạm phát.

NHNN mới chỉ tăng lãi suất tái cấp vốn. Tuy nhiên, sau quyết định này, có ý kiến cho

rằng việc giữ lãi suất tái chiết khấu ở mức thấp vẫn tạo kẽ hở cho các ngân hàng có trái

phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN mang cầm cố ở NHNN để vay với lãi suất thấp.

Ngày 8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số

379/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Như vậy, tại quyết định

này, các mức lãi suất chủ chốt như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong

thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ

của NHNN đối với các ngân hàng được NHNN điều chỉnh tăng thêm 1% so với quy

định cũ. Còn lãi suất tái chiết khấu tăng mạnh 5%/năm, từ mức 7%/năm lên 12%/năm.

Nhìn lại thời gian cuối 2010 và đầu năm 2011, lãi suất tái chiết khấu tại NHNN

chỉ 7%/năm trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ là hơn 11%/năm. Sự nghịch lý này

đã làm tê liệt chính sách tiền tệ của NHNN trong nỗ lực bơm tiền để giảm lãi suất hay

cung vốn cho nền kinh tế. Các NHTM lớn sẵn vốn lớn trong tay, chỉ đơn giản đầu tư

vào trái phiếu chính phủ (lãi suât được hưởng là 11%) sau đó chiết khấu tại NHNN lãi

suất thấp (lãi suất phải trả là 7%) sau đó lại đầu tư vào trái phiếu chính phủ ăn lãi suất

cao hơn... Cứ như thế các NHTM không cần cho vay nền kinh tế mà chỉ quay vòng như

vậy để kiếm lời.

Việc điều chỉnh tăng mạnh lãi suất tái chiết khấu cùng lãi suất tái cấp vốn cho

thấy nhà điều hành thị trường tiền tệ đang đẩy mạnh thực hiện chính sách thắt chặt tiền

42

tệ để kiềm chế lạm phát. Việc tăng lãi suất tái chiết khấu từ 7% lên 12% đã hạn chế cơ

chế “nguồn vốn giá rẻ”, một lợi thế riêng của các ngân hàng lớn có nguồn trái phiếu

chính phủ, khi các ngân hàng này có thể mang trái phiếu đi cầm cố với mức lãi suất

chiết khấu thấp. Một nguồn tiền lớn được dùng để mua trái phiếu chỉnh phủ thay vì

tăng nguồn tín dụng cho doanh nghiệp. Các ngân hàng nhỏ không có hoặc nắm giữ với

số lượng ít trái phiếu muốn cải thiện tình hình thanh khoản phải thu hút tiền gửi từ dân

cư bằng cách tăng lãi suất tiết kiệm, vì thế lãi suất cho vay cũng được đẩy cao. Vì thế

cung tiền tăng mà doanh nghiệp không tiếp cận được với vốn của ngân hàng.

Ngày 31/3/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số

692/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện

tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN

đối với các ngân hàng.Theo Quyết định này, lãi suất tái cấp vốn là 13,0%/năm. Quyết

định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2011.Lần gần nhất, lãi suất tái cấp vốn

được tăng từ 9% lên 11% vào ngày17/2/2011; từ 11% lên 12% vào ngày 8/3. Như vậy

từ đầu năm đến nay lãi suất tái cấp vốn đã tăng 3 lần, mức tăng 4%, càng thể hiện

quyết tâm thắt chặt tiền tệ của NHNN.

Ngày 29/4/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết

định số 929/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo Quyết định

này, NHNN quy định các mức lãi suất như sau: Lãi suất tái cấp vốn: 14,0%/năm (tăng

1%); Lãi suất tái chiết khấu: 13,0%/năm (tăng 1%). Quyết định này có hiệu lực thi

hành kể từ ngày 01/5/2011. Đây là lần thứ 4 trong năm NHNN nâng lãi suất tái cấp vốn

(từ 9% vào tháng 11/2010 lên 14% vào tháng 4/2011) và là lần thứ 2 tăng lãi suất tái

chiết khấu (từ 7% vào tháng 11/2010 lên 13% vào tháng 4/2011). Việc nâng liên tục

các lãi suất chủ chốt càng thể hiện quyết tâm của NHNN trong việc siết chặt tiền tệ,

kiềm chế lạm phát. Khi lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu tăng, cơ hội tìm kiếm

khách hàng để huy động vốn và cho vay được chia đều cho các Ngân hàng lớn và nhỏ,

cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp sẽ được mở rộng hơn, tạo điều

43

kiện tăng hiệu quả đầu tư toàn xã hội do vậy lãi suất và lạm phát có cơ hội giảm trong

tương lai gần. Việc tăng lãi suất có thể không tích cực trong ngắn hạn, lượng tiền trong

nền kinh tế theo cách hiểu chung sẽ bị hạn chế. Nhưng về trung và dài hạn, đây là

quyết định mang tính tích cực.

Trong năm 2012 có thể tạm nhận xét rằng các chính sách kiềm chế lạm phát và

ổn định kinh tế vĩ mô về cơ bản có phát huy tác dụng, mức lạm phát đã giảm và kinh tế

vĩ mô giữ được ở mức khá ổn định trong tầm ngắn hạn. Mức lạm phát cả năm có nhiều

khả năng kiềm chế được ở mức một chữ số. Tuy nhiên, nếu xét về trung và dài hạn thì

kinh tế vĩ mô vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, khó lường.

Dù các chỉ tiêu tiền tệ tăng thấp theo tính quy luật hàng năm song thanh khoản

VNĐ của hệ thống ngân hàng cơ bản được đảm bảo và có xu hướng cải thiện.Cơ cấu

tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và giảm dần tỷ

trọng dư nợ đối với lĩnh vực không khuyến khích với mức lãi suất biến động giảm phù

hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ.Cùng với đó, thị trường ngoại hối

tương đối ổn định và thanh khoản ngoại tệ được cải thiện rõ rệt.Quý I được đánh dấu

bằng việc NHNN điều chỉnh giảm 1% đối với các mức lãi suất chính sách và trần lãi

suất huy động VND của các tổ chức tín dụng kể từ ngày 13/3/2012 nhằm tạo điều kiện

cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay.

Theo đó, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống

14%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng giảm từ

mức 16%/năm xuống mức 15%, lãi suất tái chiết khấu giảm từ mức 13%/năm xuống

12%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi bằng VNĐ không kỳ hạn và có kỳ

hạn dưới 1 tháng của các tổ chức tín dụng giảm từ 6%/năm xuống 5%/năm, kỳ hạn từ 1

tháng trở lên giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm.

Năm 2012, NHNN đã 6 lần điều chỉnh giảm lãi suất giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi

suất chiết khấu, trần lãi suất huy động và 6 lần giảm lãi suất thị trường mở, theo đó

từng bước được điều chỉnh giảm lãi suất cho vay để doanh nghiệp tiếp cận được vốn.

44

Trong năm 2013, các mức lãi suất điều hành của NHNN được điều chỉnh giảm

hai lần. Hiện tại, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ mức 9%/năm xuống còn

7%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống còn 5%/năm.

2.1.2 Sự biến động của lãi suất cho vay

2.1.2.1 Tình hình hoạt động kinh doanh

2.1.2.1.1 Về tình hình tín dụng

Trong giai đoạn 2008-2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam nói chung

và ở khu vực TP. HCM nói riêng gấp 5,26 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Nói một cách

khác, tín dụng đã tăng trưởng quá nóng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn

2011-2013 đã giảm đáng kể, bằng 1,98 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP. Thị trường

đã chững kiến tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng thấp nhất kể từ thập niên 90.

Theo thống kê của NHNN, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống nửa đầu năm

2014 mới đạt một phần tư kế hoạch (mới tăng 3,25% so với mục tiêu 12%). Tại

NHTMCP Á Châu (ACB), tăng trưởng tín dụng sau hai quý đạt 3,32%. Một NHTMCP

lớn khác là NHTMCP Công Thương tăng trưởng tín dụng sáu tháng đầu năm 2014

dưới trung bình ngành (2,8%). Nhiều ngân hàng khác dao động từ 1% đến 2%.

Tăng trưởng tín dụng chậm lại trong giai đoạn 2011-2013 do nhiều nguyên

nhân, từ việc phải thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; đến

những tác động do tăng trưởng kinh tế bị suy giảm (tác động ngược trở lại đối với tăng

trưởng tín dụng); kể cả các yếu tố như lãi suất cho vay còn cao, nợ xấu lớn, tồn kho

cao, bất động sản xuống dốc và sự cộng hưởng, tác động lẫn nhau của các yếu tố này.

Cấu trúc khoản vay đã dần cân bằng hơn trong những năm gần đây. Tỷ lệ các

khoản vay dành cho khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm đi và tỷ lệ dành cho khu vực

ngoài quốc doanh đã tăng. Đây là dấu hiệu cải thiện trong hệ thống ngân hàng.

Hơn nữa, tỷ trọng các khoản vay, mặc dù không thay đổi nhiều, đã phân bổ tăng

dần cho khu vực nông nghiệp, nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, và các dịch vụ

45

khác. Những ngành này đang hoạt động tương đối tốt và thể hiện khả năng phục hồi

trong môi trường kinh doanh khó khăn. Bởi vậy, mở rộng cho vay cho những ngành

này thực tế là một điều tốt cho ngân hàng.

Mặc dù tăng trưởng tín dụng giảm, chiều hướng tỷ trọng các khoản vay dần theo

chiều hướng tích cực, nợ xấu vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Từ mức nợ xấu 3,07% cuối năm

2011, đến tháng 03/2014 nợ xấu đã tăng lên 3,93%. Nợ xấu cao nhất là vào tháng

9/2012, chiếm 4,93% trên tổng dư nợ.

Đối với các NHTM trong giai đoạn 2011-2013 tỷ lệ nợ xấu ở mỗi ngân hàng lại

có những biến đổi nhất định. Có ngân hàng tỷ lệ nợ xấu tăng cao như: NHTMCP Đông

Á (từ 1,69% năm 2011 lên 3,99% năm 2013), NHTMCP Á Châu (từ 0,89% năm 2011

lên 3,93% năm 2013)…, có những ngân hàng tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh như: NHTMCP

Nam Á (từ 4,29% năm 2011 xuống còn 1,48% năm 2013), NHTMCP Sài Gòn (từ 4%

năm 2011 xuống 2,24% năm 2013)…, cũng có những ngân hàng có mức biến động tỷ

lệ nợ xấu không nhiều và giữ ở mức 3% như: NHTMCP Công Thương, NHTMCP

Ngoại Thương…

Riêng NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội có tỷ lệ nợ xấu tăng vọt từ mức 2,24% năm

2011 lên 8,81% năm 2012 và xuống 5,67% vào năm 2013. Nguyên nhân là do ngân

hàng này phải gánh thêm nợ xấu sau khi hợp nhất với NHTMCP Nhà Hà Nội

2.1.2.1.2 Về khả năng sinh lời

Điểm đáng lưu ý về lợi nhuận của các NHTM trong giai đoạn 2008-2013 là có

sự chênh lệch khá lớn giữa các NHTM. Lợi nhuận của hệ thống ngân hàng tăng chủ

yếu do sự tăng trưởng của một số ngân hàng có quy mô tổng tài sản và vốn chủ sở hữu

lớn. Trong khi nhiều NHTM thuộc nhóm có quy mô nhỏ, quản trị điều hành yếu kém,

thiếu sức cạnh tranh trên thị trường phải huy động với lãi suất cao cộng với nợ xấu gia

tăng mạnh nên đã có kết quả kinh doanh rất thấp.

Trên thực tế, hiện lợi nhuận của các ngân hàng vẫn chủ yếu đến từ tín dụng (70-

80%), nhưng bên cạnh việc tăng trưởng tín dụng thấp, các ngân hàng còn phải giảm lãi

46

suất rất nhiều để chia sẻ với doanh nghiệp nên biên lợi nhuận thấp. Margin – chênh

lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra ngày càng co hẹp (dao động 2-4%) trong khi số

lượng khách hàng lại vơi đi, điều này khiến lợi nhuận khó khởi sắc.

2.1.2.2 Sự biến động của lãi suất cho vay

Nhìn chung, trong năm 2008 lãi suất cho vay biến động cùng chiều với lãi suất

chính sách, mặc dù có một đợt giảm nhưng thời gian không dài vào tháng 06/2008. Cụ

thể, từ đầu năm đến tháng 04/2008 lãi suất cho vay đạt khoảng 20%, đến tháng

06/2008 lãi suất cho vay giảm xuống gần 15% và duy trì đến hết tháng 06/2008. Ngay

sau đó, lãi suất cho vay tăng ngược trở lại cùng với đợt điều chỉnh lãi suất của NHNN.

Tuy nhiên đến cuối năm cùng với đợt giảm nhẹ của lãi suất chính sách thì lãi suất cho

vay cũng giảm.

BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT CHO VAY 2008

30.0%

20.0%

10.0%

LSTCV

0.0%

LSTCK

LSCV LSTCK

LSTCV

LSCV

Hình 2.3: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2008

(Nguồn: Tác giả tự vẽ theo số liệu đã thu thập)

Cho đến tháng 06/2009, lãi suất cho vay ngắn hạn, trung dài hạn đều ở mức

10%/năm, giảm gấp 1.55 lần so với năm 2008.Đồng thời, thông qua quyết định số

16/2008/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, theo đó các tổ chức tín dụng

ấn định lãi suất kinh doanh bằng VNĐ đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi

suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ.

47

Trong năm 2010 đứng trước áp lực lạm phát, sau 11 tháng duy trì mức lãi suất

không đổi thì ngày 05/11/2010 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Quyết định số

2619 và 2620/QĐ-NHNN quy định các mức lãi suất, theo đó lãi suất chính sách được

tăng thêm 1%. Trước tình hình đó, các NHTM đã đồng loạt tăng lãi suất huy động mới

từ 11% lên đến 14%, và không dừng lại ở đó, Techcombank công bố lãi suất huy động

lên tới 17% trong ngày 08/12/2010. Trong khi đó, lãi suất cho vay ra thị trường đối với

khách hàng cá nhân khoảng 18-20%, đối với khách hàng doanh nghiệp khoảng 16-

19%. Tóm lại trong năm 2010, lãi suất cho vay không ổn định, biến động thường

xuyên và không theo sát với những thay đổi của lãi suất chính sách.

BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT CHO VAY 2010

20.0%

15.0%

10.0%

LSTCV

5.0%

LSTCK

0.0%

LSCV

LSCV

LSTCK

LSTCV

Hình 2.4: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2010

(Nguồn: Tác giả tự vẽ theo số liệu đã thu thập)

Tình hình lãi suất từ đầu năm tới hết quý III/2011 đã có chuyển biến rất nhiều

và diễn biến khá phức tạp qua các thời kỳ. Đây là bối cảnh đã được dự báo trước ngay

từ đầu năm 2011. Tuy nhiên, diễn biến thực tế của nó thì vô cùng phức tạp bởi nó

không có một sự thống nhất nào của các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng, và ngay

cả các chính sách điều chỉnh lãi suất và chính sách quản lý của NHNN cũng chưa thể

bám sát hay quản lý một cách triệt để được cục diện biến động lãi suất cho vay và lãi

suất huy động của các ngân hàng.

48

Lạm phát tăng cao tác động đến xu hướng tăng mạnh của lãi suất huy động và

cho vay trên thị trường. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành thông tư 02/2011/TT-

NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam không vượt

quá 14%/năm, nhằm tránh một cuộc đua lãi suất không lành mạnh giữa các ngân hàng,

gây bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, với trần lãi suất 14%/năm, cùng với việc tỷ lệ lạm

phát so với cùng kỳ đã lên đến 20,82%, lãi suất huy động và cho vay thực đang ở mức

âm. Vì thế, trong thời gian này các ngân hàng thương mại đã “xé rào” lãi suất huy động

cả VNĐ và USD, huy động vốn với mức lãi suất bình quân khoảng 17-18%/năm, lãi

suất cho vay VNĐ bình quân thực tế khoảng 18,74%/năm, trong đó lãi suất cho vay

lĩnh vực phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm, lãi suất huy động USD với mức 3-

3,5%/năm, cao hơn mức quy định là 2%. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng

nếu không được ngăn chặn triệt để sẽ có thể đem lại những hệ lụy lớn cho nền kinh tế

và hệ thống ngân hàng, đây là một áp lực lớn đối với cơ quan điều hành chính sách tiền

tệ và hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.

Bước sang tháng 7/2011, tình hình lãi suất thực tế trên thị trường tài chính đã có

những chuyển biến tích cực hơn, đặc biệt là cho các nhà đầu tư hay những đối tượng

đang có nhu cầu vay vốn thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể, lãi suất cho

vay VNĐ đối với lĩnh vực sản xuất – kinh doanh giảm nhẹ khoảng 0,1-0,3%/năm, lãi

suất cho vay VNĐ đối với lĩnh vực phi sản xuất tăng khoảng 0,5%/năm; Lãi suất huy

động và cho vay bằng ngoại tệ tương đối ổn định. Hiện nay, lãi suất cho vay VNĐ bình

quân khoảng 18,64%/năm (lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu

khoảng 16-21%/năm, cho vay sản xuất – kinh doanh khác khoảng 18-22%/năm, lãi

suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất khoảng 20-25%/năm); Bước sang tháng 9/2011, đây

chính là thời gian mà lãi suất trên thị trường bắt đầu có những chuyển biến tích cực

hơn rất nhiều theo đúng lộ trình lãi suất mà NHNN đã đưa ra.

Đầu tháng 9, các ngân hàng đã đồng loạt đưa ra các chương trình giảm lãi suất

với mức độ mạnh và diện rộng hơn. Đáng chú ý, có sự tham gia của những ngân hàng

49

quốc doanh lớn. Ngân hàng Đầu tư phát triển (BIDV) bắt đầu kiểm soát lãi suất cho

vay sản xuất giảm từ 6/9/2011. Cụ thể, cho vay ngắn hạn: không quá 18,0%/năm, cho

vay trung dài hạn: không quá 19,0%/năm. Đặc biệt, BIDV dành 10.000 tỷ đồng cho

vay ngắn hạn cho các khách hàng hoạt động các lĩnh vực thu mua nông thuỷ sản xuất

khẩu, công nghiệp nông nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng dịch vụ khép

kín tại BIDV, với lãi suất ưu đãi từ 15-17,5%/năm.

Tuy nhiên, BIDV cũng cho biết, cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản

chịu tối thiểu 19,0%/năm đối với ngắn hạn và 19,5%/năm đối với trung dài hạn, tiếp

tục giữ mức lãi suất cho vay ngoại tệ ở mức cao, khoảng 6,0-7,0%/năm nhằm kiểm

soát tín dụng ở khu vực này. Lãi suất cho vay VNĐ hiện nay phổ biến ở mức từ 20,5-

22%/năm. Để giảm lãi suất sẽ hỗ trợ sản xuất cho các doanh nghiệp, đây là lần thứ 2,

BIDV giảm lãi suất sau đợt giảm hồi trung tuần tháng 8/2011 đưa lãi suất xuống dưới

20%/năm.

Từ ngày 22/08/2011, ABBANK đã triển khai chương trình tín dụng đặc biệt

trong đó khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân vay tiền

sản xuất kinh doanh tại ABBANK sẽ được giảm lãi suất 1,5%/năm và dành hơn 1.000

tỷ đồng để tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu với lãi suất ưu đãi từ 18.5-19%/năm.

Từ 05/09/2011, SHB có chương trình “Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh

dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ” với lãi suất 17%/năm đến 18%/năm với kỳ hạn

cho vay tối đa 06 tháng. Chương trình áp dụng cho các khoản vay ngắn hạn được giải

ngân từ đầu tháng 9/2011 đến hết tháng 02/2012. Cùng với đó là rất nhiều ngân hàng

khác cũng đã có những động thái rõ rệt và cụ thể trong vấn đề giảm lãi suất cho vay và

lãi suất huy động như: Vietinbank, HDBank, Agribank, Sacombank, ACB….

Như vậy, sau các quyết định điều hành khá mạnh mẽ, nhất là việc tháo gỡ các

quy định sử dụng vốn của ngân hàng, lãi suất đã được giảm theo đúng cam kết với

NHNN.

50

Đến thời điểm cuối năm 2011, hiện lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,

xuất khẩu phổ biến ở mức 17-19%/năm; lãi suất cho vay sản xuất – kinh doanh khác

phổ biến ở mức 17-21%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất 22-25%/năm. Tuy

nhiên, có một thực tế là lượng vốn có lãi suất từ 17-19% như vậy thực sự vẫn chưa

được nhiều và chưa đến được với các đối tượng cần vốn thực sự mà các đối tượng này

vẫn phải vay với mức lãi suất là 20%/năm. Một vấn đề nữa là chi phí thực của ngân

hàng để huy động vốn tiền gửi trên thực tế vẫn còn cao hơn 14% như công bố; bởi các

ngân hàng này còn phải mất những khoản chi phí ngoài luồng khác như: chi phí thưởng

cho các đối tượng giới thiệu được người gửi tiền, chi phí thưởng hay khuyến mại trực

tiếp cho khách hàng gửi tiền… để có thể huy động được vốn. Chính vì vậy, cái chuẩn

mực lãi suất mà NHNN muốn các NHTM muốn đạt tới là chưa thực sự có được.

DIỄN BIẾN LÃI SUẤT CHO VAY 2011

20.0%

15.0%

10.0%

LSTCV

5.0%

LSTCK

0.0%

LSCV

LSCV

LSTCV

Hình 2.5: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2011

(Nguồn: Tác giả tự vẽ theo số liệu đã thu thập)

Đến năm 2012 dù các chỉ tiêu tiền tệ tăng thấp theo tính quy luật hàng năm song

thanh khoản VNĐ của hệ thống ngân hàng cơ bản được đảm bảo và có xu hướng cải

thiện. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và

giảm dần tỷ trọng dư nợ đối với lĩnh vực không khuyến khích, với mức lãi suất biến

51

động giảm phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ. Quý I được đánh

dấu bằng việc NHNN điều chỉnh giảm 1% đối với các mức lãi suất chính sách và trần

lãi suất huy động VNĐ của các tổ chức tín dụng kể từ ngày 13/3/2012 nhằm tạo điều

kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay. Nhờ lần điều chỉnh lãi suất này, lãi

suất cho vay VNĐ được điều chỉnh giảm từ 1-3%/năm đối với lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất – kinh

doanh… phổ biến ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối với khách

hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho vay sản xuất – kinh doanh

khác 16,5-20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 20-25%/năm.

BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT CHO VAY 2012

20.0%

15.0%

10.0%

LSTCV

5.0%

0.0%

LSTCK

LSCV

LSCV

LSTCV

Hình 2.6: Biểu đồ biến động lãi suất cho vay năm 2012

(Nguồn: Tác giả tự vẽ theo số liệu đã thu thập)

Năm 2013 mặt bằng lãi suất VNĐ đã giảm khoảng 2-5% so với đầu năm, trong

đó, lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho vay giảm 3-5%/năm và đã trở về

mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực

ưu tiên ở mức thấp 7-9%/năm, trong đó khách hàng tốt lãi suất cho vay chỉ 6,57%/năm;

lãi suất cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 9-11,5%/năm.

2.2 Nghiên cứu thực nghiệm về sự truyền dẫn lãi suất chính sách tiền tệ đến lãi

suất cho vay của Ngân hàng thương mại Việt Nam khu vực Thành Phố Hồ

Chí Minh.

52

2.2.1 Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

2.2.1.1 Dữ liệu

Mục tiêu chính của bài này là nghiên cứu về sự truyền dẫn lãi suất tại khu vực

Thành Phố Hồ Chí Minh. Do vậy, dữ liệu nghiên cứu bao gồm lãi suất cho vay (lr), và

lãi suất chính sách (mr). Đối với lãi suất cho vay, gặp khó khăn trong việc thu thập dữ

liệu do tính bảo mật và cạnh tranh với nhau giữa các ngân hàng nên rất khó để tiếp cận

được số liệu này trong một thời gian dài từ năm 2008 đến 2013. Vì thế nguồn dữ liệu

lãi suất cho vay được lấy từ trang Stoxplus, trong đó, thống kê toàn bộ lãi suất cho vay

theo tháng từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2013. Còn lãi suất chính sách bao gồm: lãi

suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản. Tuy nhiên đến năm 2010 thì

lãi suất cơ bản đã không còn hiệu lực, do vậy nên trong bài nghiên cứu chỉ lấy lãi suất

tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu là lãi suất đại diện cho lãi suất chính sách, và nó

được lấy từ trang thông tin điện tử của Ngân hàng nhà nước, và được lấy theo tháng từ

tháng 01/2008 đến tháng 12/2013. Quá trình truyền dẫn, như đã nêu ở phần trước, có

hai giai đoạn truyền dẫn. Giai đoạn một từ lãi suất chính sách sang lãi suất thị trường

tiền tệ và giai đoạn hai từ lãi suất thị trường tiền tệ sang lãi suất bán lẻ (lãi suất cho

vay) của các ngân hàng. Tuy nhiên, bài này chúng ta sẽ áp dụng phương pháp chính

sách tiền tệ (Sander and Kleimeier, 2004). Tức là giả định sự truyền dẫn giai đoạn một

là hoàn toàn nên chúng ta sẽ xác định sự truyền dẫn trực tiếp từ lãi suất chính sách sang

lãi suất cho vay của các ngân hàng, cụ thể là xác định sự truyền dẫn trực tiếp từ lãi suất

chính sách đến lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành Phố

Hồ Chí Minh.

2.2.1.2 Phương pháp nghiên cứu

2.2.1.2.1 Kiểm định tính dừng

53

Giả định rằng một biến ngẫu nhiên yt có phương sai xác định và rằng đồng

phương sai giữa yt và yt-s (với s > 0) hoặc là bằng 0 hay phụ thuộc vào s mà không phụ

thuộc vào t. Như vậy, sự tương quan giữa một chuỗi và các giá trị trễ của nó được giả

định là chỉ phụ thuộc vào độ dài của sự trễ và không phụ thuộc vào khi nào chuỗi bắt

đầu. Tính chất này được gọi là tính dừng và bất kỳ chuỗi nào tuân theo quy tắc này

được gọi là chuỗi thời gian dừng. Nó cũng được gọi là chuỗi được tích hợp bậc không

hoặc là I(0). Quá trình phát chuỗi dừng được gọi là bất biến theo thời gian. Trong một

chuỗi dừng, Var(ut) và Var(ut-s) bằng nhau với s > 0. Dễ dàng nhận thấy các phần dư

của mô hình hồi quy với một cấu trúc AR(1) thỏa mãn tính chất dừng, trong khi đó mô

hình bước ngẫu nhiên hoặc một chuỗi có xu hướng theo thời gian sẽ có phương sai

tăng dần theo thời gian và như vậy là không dừng. Hầu hết các chuỗi thời gian về kinh

tế là không dừng vì chúng thường có một xu hướng tuyến tính hoặc mũ theo thời gian.

Tuy nhiên có thể biến đổi chúng về chuỗi dừng thông qua quá trình sai phân, ví dụ,

bằng cách tính hiệu số xt – xt-1 . Nếu chuỗi sai phân có tính dừng, ta nói chuỗi ban đầu

là tích hợp bậc nhất, nghĩa là, I(1). Một chuỗi tuân theo bước ngẫu nhiên rõ ràng là

I(1). Chúng ta phải kiểm tra tính dừng trước khi ước lượng vì dữ liệu có tính dừng(tức

là phương sai không đổi theo thời gian) thì việc kiểm định mới có ý nghĩa thống kê.

Các phương trình hồi quy theo chuỗi thời gian mà các chuỗi dữ liệu không dừng thì kết

quả hồi quy sẽ không chính xác hay còn gọi là hồi quy giả mạo (Granger and Newbold,

1974). Do đó, trước khi hồi quy chuỗi dữ liệu theo thời gian, chúng ta cần phải kiểm

định tính dừng của các chuỗi dữ liệu. Một số phương pháp để kiểm tra tính dừng như là

Augmented Dickey-Fuller (ADF) Test, DickeyFuller (DF) Test, Dickey-Fuller

Generalised Least Squares (DF-GLS), Philips Perron (PP) Test. Trong bài này chúng ta

sẽ sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) Test để kiểm tra tính dừng,

kết quả sẽ được thể hiện ở phần sau.

2.2.1.2.2 Kiểm định phương sai của sai số thay đổi

54

Đối với phương pháp hồi quy cổ điển OLS, một trong những giả thiết quan

trọng đó là phương sai của sai số là một số không đổi và bằng σ2. Tuy nhiên, thực tế

hầu hết giả thiết này đều bị vi phạm trong các mô hình hồi quy. Các phương sai và

đồng phương sai của các ước lượng OLS cho các giá trị β là thiên lệch và không nhất

quán khi phương sai của sai số thay đổi nhưng bị bỏ qua. Do đó, các kiểm định giả

thiết sẽ không còn giá trị nữa. Một thủ tục kiểm định được ưa chuộng là sử dụng kiểm

định nhân tử Lagrange (LM), đây là một kiểm định cỡ mẫu lớn. Có bốn kiểm định LM

phổ biến đó là : Glesjer, Breusch-Pagan, White, Harvey-Godfrey, mỗi kiểm định có

những đặc trưng khác nhau của phương sai sai số. Trong tất cả các phương pháp này,

bước đầu tiên là hồi quy biến phụ thuộc và các biến độc lập và có được các phần dư.

Từ phần dư này sẽ tiến hành hồi quy phụ theo từng phương pháp đã nêu trên để có

được một trị số thống kê LM = n*R2 với n là số quan sát và R2 là R2 không hiệu chỉnh

trong hồi quy phụ. So sánh LM với giá trị kiểm định theo phân phối chi-bình phương

p-1) hoặc xác định giá trị p-value để đưa ra kết quả. Kết quả kiểm định phương sai sai

(χ2

số thay đổi của bài này sẽ được trình bày trong phần sau, theo phương thức kiểm định

Harvey-Godfrey.

2.2.1.2.3 Kiểm định tự tương quan

Thuật ngữ Tự tương quan có thể hiểu là sự tương quan giữa các thành phần của

chuỗi các quan sát được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Mô hình hồi quy cổ điển OLS

cho rằng sai số ứng với quan sát nào đó không bị ảnh hưởng bởi sai số ứng với quan sát

khác. Tuy nhiên, thực tế có thể xảy ra hiện tượng mà sai số của các quan sát lại phụ

thuộc nhau, tức là : Cov(Ui , Uj) ≠ 0 (i ≠ j). Khi chúng ta tiến hành hồi quy mà có hiện

tượng tự tương quan thì các ước lượng OLS vẫn có thể là ước lượng tuyến tính, không

chệch nhưng chúng lại không còn hiệu quả nữa, hay các ước lượng đó không còn là các

ước lượng không thiên lệch tuyến tính tốt nhất (BLUE) nữa. Việc xác định hiện tượng

tự tương quan trong quá trình hồi quy là rất cần thiết nhằm xác định được mô hình phù

55

hợp và có ý nghĩa. Hiện nay ó nhiều kiểm định được đưa ra như kiểm định Durbin –

Watson, kiểm định Breusch-Godfrey (BG) và được tích hợp trong nhiều phần mềm

thống kê. Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Breusch-Godfrey để kiểm định tự tương

quan và kết quả được trình bày ở phần sau.

2.2.1.2.4 Phương trình truyền dẫn

Hiện nay các phương pháp nghiên cứu và phương trình nghiên cứu được đưa ra

khá nhiều, và mỗi phương trình đó đều có ưu và nhược điểm khác nhau và phù hợp với

từng mục tiêu nghiên cứu. Trong bài viết này, phương trình nghiên cứu của chúng ta sẽ

chủ yếu dựa vào bài nghiên cứu “Interest Rate Pass-Through and Monetary

Transmission in Asia”Siok Kun Sek et al. (2012). Các tác giả đã sử dụng phương pháp

hồi quy có vẻ không liên quan - Seemingly Unrelated Regression (SUR), phương pháp

này thể hiện được sự tương quan giữa các phần dư. Có hai phương pháp để ước lượng

sự truyền dẫn của lãi suất, đó là phương pháp chi phí vốn và phương pháp chính sách

tiền tệ. Trong bài này sử dụng phương pháp chính sách tiền tệ. Phương pháp này có

khả năng kiểm soát được mối quan hệ giữa lãi suất chính sách và lãi suất cho vay của

các ngân hàng. Mối quan hệ giữa lãi suất chính sách và lãi suất cho vay có thể được

giải thích bởi mô hình chi phí biên Bondt (2002). Áp dụng khái niệm thị trường hiệu

quả với thông tin hiệu quả thì giá cả bằng chi phí biên, đạo hàm của giá cả với khía

cạnh chi phí biên bằng một nhưng có thể nhỏ hơn một nếu thị trường cạnh tranh hoàn

toàn và chi phí thông tin được nới lỏng (Rousseas, 1985). Với khái niệm này để xác

định giá cả của ngân hàng, mô hình chi phí biên được viết như sau:

br = γ0 + γ1mr (1)

Trong đó br là lãi suất của ngân hàng (lãi suất huy động hoặc cho vay), γ0 là

hằng số và mr là chi phí biên đại diện là lãi suất chính sách. Lãi suất chính sách là phù

hợp nhất thay thế cho chi phí biên vì sự hợp lý phản ánh chi phí sử dụng vốn biên.

Tham số γ1 là hệ số góc của sự truyền dẫn. Nếu γ1 = 1 thì sự truyền dẫn từ lãi suất thị

56

trường sang lãi suất cho vay là hoàn toàn. Ngược lại, nếu 0 <γ1< 1 thì sự truyền dẫn là

không hoàn toàn. Một sự truyền dẫn không hoàn toàn phản ánh tính co giãn của cầu

đối với vốn huy động và nợ là không hoàn toàn và cho thấy các ngân hàng có một phần

sức mạnh thị trường. Những nhân tố tạo nên sức mạnh thị trường bao gồm sự tồn tại

của chi phí chuyển đổi, chi phí bất cân xứng thông tin, và và mức độ độc quyền và

quản lý giá cả. Trong bài nghiên cứu này, ta sẽ tính toán sự truyền dẫn của lãi suất

chính sách vào lãi suất cho vay. Sự truyền dẫn của lãi suất chính sách vào lãi suất cho

vay được kiểm tra trong cả ngắn hạn và dài hạn. Các nghiên cứu trước đây sử dụng

nhiều kỹ thuật khác nhau để xây dựng phương trình sự truyền dẫn của lãi suất. Phương

m

𝑚

+ ∑

∆ dr 1 t = c 1 + ∑

c 2 , k ∆ mr 1 t − k

𝑐 3 , 𝑘 ∆ 𝑑 𝑟 1 𝑡 − 1 − 𝑘

+ 𝜀 1 𝑡 ( 2 )

k = 0

𝑘 = 0

m

𝑚

+ ∑

∆ lr 2 t = c 4 + ∑

c 5 , k ∆ mr 2 t − k

𝑐 6 , 𝑘 ∆ 𝑙 𝑟 2 𝑡 − 1 − 𝑘

+ 𝜀 2 𝑡 ( 3 )

k = 0

𝑘 = 0

trình truyền dẫn có thể được viết dưới dạng sau:

Trong đó dr thể hiện lãi suất huy động, lr thể hiện lãi suất cho vay, mr là lãi

suất thị trường (có thể là lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất thị trường tiền tệ tuỳ

quốc gia), k = 0,1,..,m là độ trễ thời gian, t là thời gian, c và cik với i = 1,2,..,n là hệ số

hồi quy. Nếu một biến không dừng ở bậc 0, thì sử dụng sai phân bậc nhất của biến

đó. Δ biểu thị cho toán tử sai phân bậc nhất. Mức độ sự truyền dẫn trong ngắn hạn từ

lãi suất chính sách vào lãi suất huy động và cho vay lần lượt là và

. Mức độ truyền dẫn trong dài hạn từ lãi suất chính sách sang lãi suất huy động và

cho vay lần lượt là :

57

2.2.1.2.5 Hồi quy có vẻ không liên quan (Seemingly Unrelated

Regression)

Phương pháp bình phương tối thiểu OLS với các ước lượng phi tham số của

ma trận phương sai – hiệp phương sai là một phương pháp được sử dụng rộng rãi khi

các mô hình tương quan của phần dư chưa được biết đến. Đối với nhiều chuỗi thời

gian thì hồi quy có vẻ không liên quan – SUR – dường như phù hợp hơn OLS. Có hai

trường hợp có thể xảy ra làm cho phương pháp SUR tương đương với OLS đó là: thứ

nhất, các phần dư thực sự không tương quan với nhau giữa các phương trình hoặc

thứ hai là mỗi phương trình đều chứa những đại lượng hoàn toàn giống nhau ở phía

bên phải của chúng. Trong kinh tế lượng, phương pháp hồi quy có vẻ không liên

quan hay phương trình hồi quy có vẻ không liên quan được đề xuất bởi Zellner năm

1962 là mô hình hồi quy tuyến tính tổng quát bao gồm nhiều phương trình hồi quy,

mỗi phương trình đều có biến phụ thuộc riêng và các biến giải thích. Mỗi phương

trình đó có thể được hồi quy một cách riêng biệt do đó người ta mới gọi là dường

như không liên quan Seemingly Unrelated Regression (SUR) là một trong những

phương pháp của bình phương bé nhất tổng quát (Generalized Least Squares - GLS).

Nếu có vấn đề phương sai thay đổi (heteroskedasticity), khi quan sát theo nhiều biến

khác nhau, thì GLS được sử dụng. Phương trình tuyến tính tổng quất đối với phương

pháp SUR được thể hiện theo phương trình đơn giản sau :

Yit = Xit βí + uit (5)

Cụ thể là :

Y1t = x1t β́1 + u1t

Ynt = xnt β́n + unt

58

Trong đó yitlà biến độc lập, xit = (1, xit,1, xit,2…, xit, ki-1) là vecto Ki của các biến

giải thích đối với mỗi quan sát đơn vị i, uit là sai số không quan sát được, it đại diện

’ là chuyển vị của vecto hệ số hồi quy

cho phương trình thứ i trong hệ thống và quan sát thứ t. i là số của phương trình hồi

quy và i =1, …,N, t =1,…,T là các quan sát. β́i

không xác định cần được ước lượng.

Yit = [Δdr ; Δlr ; Δmr]

X1t= [1; Δmr1t, …, Δmr1t-m ; Δdr1t, …, Δdr1t-m]

X2t = [1; Δmr2t, …, Δmr2t-m, ; Δlr2t, …, Δlr2t-m]

β1 = [c1; c2,0 … c2,m ; c3,0 … c3,m]΄

β2 = [c4; c5,0 … c5,m ; c6,0 … c6,m]΄

Một phép đơn giản hóa mô hình là giả sử rằng βthay đổi theo từng nhóm chéo

nhưng không kéo dài theo thời gian. Nếu số hạng sai số uit tuân theo giả thiết chuẩn

của trung bình zero nhưng có phương sai thay đổi, không tự tương quan và không có

tương quan đồng thời (tại thời điểm t) giữa các sai số (uit) của bất kỳ phương trình

nào, thì các phương trình trên về cơ bản là không có tương quan. Dùng bình phương

tối thiểu đối với từng phương trình riêng rẽ, chúng ta sẽ có được các ước lượng

không chệch, nhất quán và hiệu quả nhất. Một vấn đề của phương pháp này là những

hiện tượng thông thường xảy ra trong bất kỳ nền kinh tế nào (như thay đổi lãi suất,

cung tiền, chính sách thuế, chính trị…) thường ảnh hưởng đến các sai số chéo khác

nhau theo một cách tương tự dẫn đến tương quan đồng thời. Do đó chúng ta có thể có

Cov(u1t , u2t ) = σ12 ; Cov(u2t , u3t ) = σ23 ; Cov(u1t , u3t ) = σ13.

Trong đó các σ khác không. Bằng cách khai thác các đồng phương sai này,

chúng ta có thể có các ước lượng thông số tốt hơn là khi thực hiện riêng rẽ đối với

từng phương trình. Các bước như sau:

Bước 1: Ước lượng từng phương trình riêng rẽ bằng bình phương tối thiểu thông

thường và tính phần dư (uit).

59

Bước 2: Dùng các phần dư ước lượng được ở trên để ước lượng các phương sai

và đồng phương sai (σij với i,j = 1,2,3…n).

Bước 3: Dùng các ước lượng từ bước 2 để thực hiện các ước lượng bình phương

tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS) của tất cả các thông số. Mô hình trên được gọi là hồi

quy có vẻ không tương quan (SUR), vì chúng dường như không có tương quan ngoại

trừ tương quan giữa các phần dư. Theo lý thuyết, khi biết độ lệch chuẩn , ta dùng

Generalized (hoặc Weighted) Least Squares – WLS để khắc phục hiện tượng phương

sai thay đổi. Tuy nhiên, trên thực tế, ta không biết độ lệch chuẩn. Nếu không biết độ

lệch chuẩn ta dùng Feasible Generalized Least Squares (FGLS), thực hiện theo bốn

trường phái: Breusch & Pagan, Glejser, Harvey & Godfrey và White. Trong bài này

chúng ta sẽ sử dụng phương pháp của Harvey & Godfrey để xác định phương sai thay

đổi.

2.2.2 Kết quả nghiên cứu

Phân tích trong bài gồm ba phần kết quả chính. Thứ nhất, chúng ta cần kiểm

tra tính dừng của các biến, kiểm định ADF được sử dụng để kiểm tra tính dừng của

cả ba loại lãi suất là cho vay, tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Với giả thiết H0:

Chuỗi dữ liệu không có tính dừng. Nếu bác bỏ giả thiết H0 tức là chuỗi dữ liệu có

tính dừng. Mặt khác, nếu không thể bác bỏ H0 thì chuỗi dữ liệu không dừng và do đó

cần sử dụng sai phân bậc nhất. Thứ hai, cần quyết định lựa chọn phương pháp ước

lượng OLS hay SUR. Cụ thể chúng ta cần xác định hiện tượng phương sai sai số thay

đổi và hiện tượng tự tương quan. Nếu có một trong hai hiện tượng trên thì hồi quy

OLS sẽ không hiệu quả nên chúng ta sẽ sử dụng hồi quy SUR. Thứ ba, sau khi lựa

chọn phương pháp phù hợp chúng ta tiến hành hồi quy.

2.2.2.1 Kết quả kiểm tra tính dừng

60

Bảng 2.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với Lãi suất cho vay

Null Hypothesis: LSCV has a unit root

Exogenous: Constant

Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=11)

t-Statistic Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic -1.841279 0.3579

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Bảng 2.2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với lãi suất tái chiết khấu

Null Hypothesis: LSTCK has a unit root

Exogenous: Constant

Lag Length: 2 (Automatic based on SIC, MAXLAG=11)

t-Statistic Prob.*

Augmented Dickey-Fuller test statistic -2.305284 0.1733

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Bảng 2.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị đối với lãi suất tái cấp vốn

Null Hypothesis: LSTCV has a unit root

Exogenous: Constant

Lag Length: 2 (Automatic based on SIC, MAXLAG=11)

t-Statistic Prob.*

-2.439515 0.1349 Augmented Dickey-Fuller test statistic

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Từ ba bảng trên ta thấy rằng, giá trị p-value đều lớn hơn giá trị 0.05. Cụ thể, đối

với lãi suất cho vay: p=0.3579>0.05; lãi suất tái chiết khấu: p=0.1733>0.05; lãi suất tái

cấp vốn: p=0.1349>0.05. Chứng tỏ rằng ba chuỗi lãi suất ở trên đều không dừng hay có

nghiệm đơn vị. Do đó, để kết quả chạy hồi quy được chính xác và có tính thuyết phục

cao thì ta cần kiểm định sai phân bậc nhất của các chuỗi dữ liệu trên có dừng hay

không, bằng phương pháp kiểm định đồng liên kết. Nếu các sai phân bậc nhất này

61

dừng, thì ta có thể sử dụng các sai phân bậc nhất này trong mô hình ước lượng, thay thế

cho các chuỗi dữ liệu gốc ban đầu mà kết quả ước lượng vẫn không bị chệch.

2.2.2.2 Kiểm định đồng liên kết

Chúng ta biết rằng khi hồi quy các chuỗi thời gian không dừng thường dẫn đến

kết quả hồi quy giả mạo. Tuy nhiên, nếu kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời gian

không dừng có thể là một chuỗi dừng và các chuỗi thời gian không dừng đó được cho

là đồng liên kết. Kết hợp tuyến tính dừng được gọi là phương trình đồng liên kết và có

thể được giải thích như mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến. Nói cách khác,

nếu phần dư trong mô hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi

dừng, thì kết quả hồi quy là thực và thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các

biến trong mô hình.

Bảng 2.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp

vốn

Hypothesized Trace 0.05

No. of CE(s) Eigenvalue Statistic Critical Value Prob.**

None * 0.275051 30.39908 15.49471 0.0002

At most 1* 0.112114 8.204953 3.841466 0.0042

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Bảng 2.5: Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái

chiết khấu

Hypothesized Trace 0.05

No. of CE(s) Eigenvalue Statistic Critical Value Prob.**

None * 0.239823 26.69304 15.49471 0.0007

At most 1 * 0.106538 7.772933 3.841466 0.0053

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

62

Kết quả kiểm định đồng liên kết giữa lãi suất cho vay với lãi suất tái cấp vốn và

giữa lãi suất cho vay với lãi suất tái chiết khấu như hai bảng trên. Ở đây có hai giả

thiết, H0: “None”, nghĩa là không có đồng liên kết; H1: “At most 1”, nghĩa là có một

mối quan hệ đồng liên kết. Để quyết định chấp nhận hay bác bỏ giả thiết H0, ta so sánh

giá trị “Trace Statistic” với giá trị phê phán “Critical value” ở mức ý nghĩa 0.05. Cụ

thể, nếu Trace Statistic > Critical value thì ta bác bỏ giả thiết H0 và ngược lại thì ta

chấp nhận giả thiết H0.

Thật vậy ở hai bảng trên, giá trị Trace Statistic đều lớn hơn Critical value, tức là

có mối quan hệ đồng liên kết giữa lãi suất cho vay với lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái

chiết khấu. Cụ thể, đối với mối quan hệ giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn thì:

Trace Statistic=30.39908>Critical value=15.49471; mối quan hệ giữa lãi suất cho vay

và lãi suất tái chiết khấu thì: Trace Statistic= 26.69304>Critical value=15.49471.

2.2.2.3 Kiểm định phương sai sai số thay đổi

Bảng 2.6: Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi đối với lãi suất cho vay và

lãi suất tái cấp vốn

Heteroskedasticity Test: Harvey

F-statistic 2.278387 Prob. F(2,56) 0.1102

Obs*R-squared 4.459004 Prob. Chi-Square(2) 0.1076

Scaled explained SS 5.661024 Prob. Chi-Square(2) 0.0590

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

63

Bảng 2.7: Kết quả kiểm định phương sai của sai số thay đổi đối với lãi suất cho

vay và lãi suất tái chiết khấu

Heteroskedasticity Test: Harvey

F-statistic 3.041330 Prob. F(2,56) 0.0543

Obs*R-squared 5.829553 Prob. Chi-Square(2) 0.0542

Scaled explained SS 7.959773 Prob. Chi-Square(2) 0.0187

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Để kiểm định phương sai thay đổi ta có hai giả thiết sau: H0: Mô hình không xảy

ra hiện tượng phương sai thay đổi; H1: Mô hình xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi.

Bằng phương pháp kiểm định Harvey ta có kết quả kiểm định phương sai thay đổi như

hai bảng trên. Cụ thể, đối với mô hình lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn, ta có

p_value=0.1076>0.05 nên mô hình này không xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi;

còn đối với mô hình thứ hai giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái chiết khấu, ta có

p_value=0.0542>0.05 nên mô hình này cũng không có hiện tượng phương sai thay đổi.

2.2.2.4 Kiểm định tự tương quan

Bảng 2.8: Kết quả kiểm định tự tương quan đối với lãi suất cho vay và lãi suất tái

cấp vốn

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic 0.204334 Prob. F(2,54) 0.8157

Obs*R-squared 0.436923 Prob. Chi-Square(2) 0.8038

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

64

Bảng 2.9: Kết quả kiểm định tự tương quan đối với lãi suất cho vay và lãi suất tái

chiết khấu

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic 0.188516 Prob. F(2,54) 0.8286

Obs*R-squared 0.403292 Prob. Chi-Square(2) 0.8174

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Giả thiết kiểm định tự tương quan của hai mô hình trên như sau: H0: Mô hình

không xảy ra hiện tượng tự tương quan; H1: Mô hình xảy ra hiện tượng tự tương quan.

Kết quả kiểm định được trình bày trong hai bảng trên. Thực vậy cả hai mô hình đều

không xảy ra hiện tượng tự tương quan. Bởi vì, ở mô hình thứ nhất giữa lãi suất cho

vay và lãi suất tái cấp vốn thì giá trị p_value=0.8038; còn ở mô hình thứ hai giữa lãi

suất cho vay và lãi suất tái chiết khấu thì giá trị p_value=0.8174, cả hai giá trị p_value

này đều lớn hơn 0.05.

2.2.2.5 Phương trình hồi quy

Như đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, bài nghiên cứu gốc sử dụng

phương pháp hồi quy có vẻ không liên quan (SUR) thay thế cho phương pháp ước

lượng bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng mối quan hệ giữa lãi suất chính sách

và lãi suất cho vay, vì lo sợ có sự tự tương quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc,

cũng như phương sai của sai số thay đổi dẫn đến kết quả hồi quy giả mạo. Tuy nhiên,

trong bài nghiên cứu này thì mô hình không xảy ra hiện tượng tự tương quan giữa biến

độc lập và biến phụ thuộc, cũng như không có hiện tượng phương sai của sai số thay

đổi. Chính vì thế nên, phương pháp ước lượng bình phương bé nhất (OLS) sẽ được sử

dụng.

65

Bảng 2.10: Phương trình hồi quy giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn

Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.

C 0.011125 0.006270 1.774374 0.0805

D(LSTCV) 0.257503 0.149169 1.726242 0.0888

LSCV(-1) -0.079762 0.039119 -2.038949 0.0453

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Phương trình được viết lại như sau:

d(lscv) = 0.011125 + 0.257503*d(lstcv) +(-0.079762)* lscv(-1) + 𝜀

Bảng 2.11: Phương trình hồi quy giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái chiết khấu

Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.

C 0.010573 0.006288 1.681513 0.0973

D(LSTCK) 0.198045 0.136516 1.450704 0.1515

LSCV(-1) -0.075932 0.039209 -1.936599 0.0570

(Nguồn: Tác giả lấy kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng)

Phương trình hồi quy được viết lại như sau:

d(lscv) = 0.010573 + 0.198045*d(lstck) + (-0.075932)*lscv(-1) + 𝜀

2.2.3 Phân tích và lý giải kết quả nghiên cứu

Mục đích của bài nghiên cứu này là tìm thấy được mức độ sự truyền dẫn từ lãi

suất chính sách đến lãi suất cho vay ở các ngân hàng thương mại thuộc khu vực TP. Hồ

Chí Minh kể cả trong ngắn hạn và dài hạn là cao hay thấp. Trong đó, mức độ truyền

dẫn trong ngắn hạn và dài hạn được xác định như sau:

Trong ngắn hạn:

Trong dài hạn:

2.2.3.1 Sự truyền dẫn trong ngắn hạn

66

Mức độ truyền dẫn trong ngắn hạn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất cho vay

đạt 25.7503%, và từ lãi suất tái chiết khấu đến lãi suất cho vay đạt 19.8045%. Nhìn

chung ta thấy mức độ truyền dẫn đến lãi suất cho vay từ lãi suất tái cấp vốn cao hơn lãi

suất tái chiết khấu. Có thể lý giải cho điều này là Ngân hàng nhà nước thường sử dụng

công cụ hỗ trợ trực tiếp đến các Ngân hàng thương mại khi nó gặp khó khăn bằng việc

rót vốn trực tiếp, hơn là sử dụng nghiệp vụ tái chiết khấu. Bởi vì một mặt là sự chịu

đựng thanh khoản của các NHTM thấp và ngắn, nên khi xảy ra sự cố thì các NHTM

này sẽ lao dốc với tốc độ cực nhanh, nên để tạo đà ngăn cản sự tụt dốc ấy, NHNN

không còn cách nào khác vừa nhanh lại hiệu quả cao bằng việc rót vốn xuống để hổ trợ

NHTM. Đồng thời, giai đoạn 2008 đến 2013, nền kinh tế có nhiều biến động và tác

động mạnh đến khu vực NHTM, đứng trước những biến động đó, NHTM cũng phải có

những thay đổi để thích ứng và tồn tại. Cụ thể hơn, giai đoạn 2008 đến 2013 là giai

đoạn hội nhập của Việt Nam, có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập cùng với sự

thông thoáng của Luật doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung. Nên nền kinh tế đang rất cần

vốn để đáp ứng cho mục đích sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường. Chính vì vậy

mà các NHTM đang đứng trước một nhu cầu vốn đầu vào rất lớn để có thể đáp ứng

được nhu cầu của nền kinh tế. Vậy nguồn vốn đầu vào này các NHTM lấy từ đâu? Thứ

nhất đó là nguồn vốn huy động từ trong dân chúng, NHTM đã không ngừng vượt trần

và lách luật để tăng lãi suất huy động một cách chóng mặt để có thể tăng nguồn vốn

huy động. Thứ hai, từ việc xé rào để nâng lãi suất huy động lên, chứng tỏ cơn khát vốn

của các NHTM chưa được thỏa mãn, nên còn một kênh khác để các NHTM có thể sử

dụng để đáp ứng nhu cầu của mình, đó là sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn, bằng việc cầm

cố các hồ sơ tín dụng, thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Như một

vòng quay không có điểm dừng, NHTM tăng cường cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn

của nền kinh tế, sau đó NHTM lại đáp ứng cơn khát vốn của mình bằng việc sử dụng

nghiệp vụ tái cấp vốn để cầm cố lại các hồ sơ tín dụng đã cho vay. Cho vay càng nhiều

thì nhu cầu vốn của các NHTM càng nhiều và do vậy nên việc cầm cố hồ sơ tín dụng

67

sẽ càng nhiều lên. Mặt khác, nghiệp vụ tái chiết khấu cũng thường được các NHTM sử

dụng, tuy nhiên, số lượng vốn trong nghiệp vụ này thì tương đối nhỏ hơn rất nhiều so

với nghiệp vụ tái cấp vốn.Bởi vì, việc mua trái phiếu Chính phủ đối với các NHTM chỉ

như là một việc làm để tuân theo mệnh lệnh hành chính, hay để đối phó, mà không

phải là mục đích kinh doanh kiếm lời trên nghiệp vụ đó. Nên khối lượng trái phiếu

Chính phủ mà các NHTM mua vào không nhiều nên khi cần vốn ngược trở lại thì khối

lượng vốn trong nghiệp vụ tái chiết khấu sẽ không cao. Chính vì vậy mà sự truyền dẫn

từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất cho vay cao hơn là sự truyền dẫn từ lãi suất tái chiết

khấu. Thêm vào đó, mức độ truyền dẫn trong ngắn hạn là không hoàn toàn, phù hợp

các nghiên cứu trước đây.

2.2.3.2 Sự truyền dẫn trong dài hạn

Mức độ truyền dẫn trong dài hạn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất cho vay gần

xấp xỉ 28%, và mức độ truyền dẫn trong dài hạn từ lãi suất tái chiết khấu đến lãi suất

cho vay đạt gần xấp xỉ 21.43%. Lại một lần nữa ta cũng thấy rằng, sự truyền dẫn là

không hoàn toàn và tương đối thấp trong dài hạn, và sự truyền dẫn trong lãi suất tái cấp

vốn vẫn là cao hơn trong lãi suất tái chiết khấu.Truyền dẫn không hoàn toàn từ lãi suất

chính sách đến lãi suất cho vay có thể được lý giải do sự không tuân thủ nghiêm của hệ

thống NHTM, khi NHNN đưa ra các quy định về giới hạn lãi suất hoạt động hay trần

lãi suất huy động để điều tiết hoạt động của thị trường tiền tệ. Minh chứng cho điều

này đó là sự xé rào và vượt trần lãi suất huy động của hàng loạt các NHTM như đã

trình bày ở phần thực trạng. Từ đó tác động đến lãi suất cho vay, bởi vì các NHTM đưa

ra lãi suất cho vay chủ yếu căn cứ vào lãi suất huy động nên khi các NHTM vượt rào

các quy định trong lãi suất huy động, thì một hệ lụy tất yếu là lãi suất cho vay cũng

không tuân theo sự điều tiết ấy của NHNN.Tuy nhiên mức độ truyền dẫn trong dài hạn

lại cao hơn rất nhiều so với trong ngắn hạn. Điều này cũng phù hợp với thực tế rằng,

các loại lãi suất cho vay cần nhiều thời gian để điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất

68

chính sách. Cụ thể, là do các loại chi phí chuyển đổi, chi phí thực đơn, hay do các ngân

hàng tự hạn chế sự biến động của lãi suất cho vay để giữ khách hàng và các mối quan

hệ làm ăn.

69

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Với mục tiêu ban đầu đưa ra là nghiên cứu sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách

đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở khu vực TP. Hồ Chí Minh, thu

được một số kết quả đáng chú ý sau: Thứ nhất đó là có sự truyền dẫn khác nhau giữa

ngắn hạn và dài hạn. Ở cả hai loại lãi suất chính sách là lãi suất tái chiết khấu và lãi

suất tái cấp vốn thì sự truyền dẫn trong dài hạn luôn lớn hơn trong ngắn hạn. Điều này

cũng tương tự kết quả của các bài nghiên cứu trước đây, và phù hợp với thực tế rằng lãi

suất cho vay cần thời gian để có thể thay đổi theo sự biến động của lãi suất chính sách.

Thứ hai đó là sự truyền dẫn không hoàn toàn và tương đối thấp từ lãi suất chính sách

đến lãi suất cho vay.

70

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG

TRUYỀN DẪN LÃI SUẤT CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

3.1 Định hướng điều hành Chính sách tiền tệ năm 2014

Mặc dù đã đạt được kết quả tích cực trên nhiều mặt, song trong bối cảnh kinh tế

thế giới diễn biến phức tạp và khó lường; kinh tế trong nước ngày càng hội nhập sâu

rộng vào nền kinh tế thế giới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, do đó, công tác điều hành

Chính sách tiền tệ năm 2014 vẫn tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn, thách thức

cần phải được xử lý trong thời gian tới.

Trước tiên là những thách thức đến từ diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế

giới: Trong năm 2014, mặc dù kinh tế thế giới dự báo đã có nhiều dấu hiệu khởi sắc,

đặc biệt là sự hồi phục của các nền kinh tế đầu tàu. Tuy nhiên, những thách thức lớn

của kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng chưa được giải quyết một cách bền vững, cụ thể

như tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, chính sách nợ công tại một số quốc gia vẫn chưa

được thống nhất, các gói nới lỏng định lượng vẫn tiếp tục được duy trì, rủi ro vẫn còn

tiềm ẩn trên phần lớn các thị trường, bất ổn chính trị - xã hội và tình hình thiên tai diễn

biến phức tạp... Điều đó có thể tác động bất lợi đến hoạt động thương mại trong nước,

đến sự dịch chuyển của các dòng vốn đầu tư... nên vẫn có thể tạo ra những áp lực đối

với công tác quản lý ngoại hối, đặc biệt khi các nền kinh tế mới nổi tập trung phát triển

với cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền

kinh tế thế giới thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác quốc tế song phương và đa

phương mà trước mắt là Hiệp định đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương

(TPP), có thể dẫn đến những thay đổi cần thiết trong quan điểm, nguyên tắc điều hành

các chính sách quản lý kinh tế.

Tiếp đến là những thách thức đến từ diễn biến kinh tế trong nước: Kinh tế vĩ mô

có những dấu hiệu tích cực, song chuyển biến còn chậm, chưa ổn định, vững chắc.

71

Tăng trưởng tiềm năng của Việt Nam đang có xu hướng giảm dần, tăng trưởng kinh tế

trong hai năm trở lại đây chủ yếu dựa vào xuất khẩu trong khi nhu cầu trong nước phục

hồi chậm, sức mua còn yếu, lạm phát tuy đã được kiểm soát nhưng còn tiềm ẩn nguy

cơ tăng cao trở lại… Bên cạnh đó, dòng vốn tín dụng còn chưa thông suốt, nợ xấu còn

ở mức cao, khó khăn của thị trường bất động sản chưa thể giải quyết và đặc biệt là áp

lực bội chi ngân sách ngày càng lớn,… đã trở thành những thách thức lớn cho công tác

điều hành CSTT trong năm 2014 nói chung và đặc biệt là sẽ tạo ra áp lực trong công

tác quản lý tín dụng của NHNN. Những thách thức này sẽ buộc NHNN phải theo đuổi

cùng một lúc nhiều mục tiêu trong quá trình điều hành chính sách, đặc biệt là việc phải

tập trung theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi

khả năng hỗ trợ của chính sách tài khóa ngày càng yếu đã tạo ra nhiều khó khăn cho

NHNN trong việc theo đuổi mục tiêu quan trọng nhất của CSTT là ổn định giá cả, thể

hiện ở mức lạm phát thấp và ổn định trong trung và dài hạn.

Cuối cùng là những thách thức của quá trình tái cấu trúc: Trong hai năm vừa qua,

mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu trong việc thực hiện chương trình tái cấu

trúc các TCTD giai đoạn 2011 - 2015, song đó mới chỉ là việc giải quyết những khó

khăn trước mắt. Còn những vấn đề cốt lõi của chương trình tái cấu trúc như giải quyết

triệt để nợ xấu, tăng cường năng lực quản trị điều hành sau tái cơ cấu, thay đổi cấu trúc

sở hữu, đặc biệt là khắc phục vấn đề sở hữu chéo vẫn đang trong thời gian khởi động…

chưa thật sự dẫn đễn những thay đổi về chất. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho việc

tái cơ cấu các TCTD chưa được hoàn thiện, đặc biệt là cơ chế mua bán nợ xấu, quy chế

điều tiết thống nhất các hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A),..; nguồn lực tài chính

công còn hạn chế, nguồn lực tài chính bên ngoài chưa có cơ chế phù hợp để thu hút; quá

trình tái cơ cấu trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước chưa có nhiều khởi

sắc,… sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tiến độ và tính hiệu quả của chương trình tái cơ cấu hệ

thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015.

72

Những thách thức chính yếu trên đòi hỏi NHNN tiếp tục phải kiên định với mục

tiêu điều hành, phải tăng cường phối hợp chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa với các Bộ,

ngành, phải có những chiến lược mạnh mẽ và nỗ lực cao hơn để giải quyết thành công

những thách thức. Trên cơ sở đó, bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2014

đã được Quốc hội phê duyệt, với chỉ tiêu tăng trưởng đạt mức khoảng 5,8%; lạm phát

(chỉ số giá tiêu dùng - CPI) ở mức khoảng 7%. Do vậy, mục tiêu Chính sách tiền tệ cần

đạt được trong năm 2014 là: tiếp tục theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát không vượt

quá mục tiêu Quốc hội phê chuẩn, ổn định tiền tệ và hệ thống các TCTD, góp phần ổn

định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.

Để đạt được mục tiêu trên, việc điều hành Chính sách tiền tệ phải đảm bảo tính

lin hoạt, tiếp tục phát huy tính chủ động cao, định hướng thị trường theo mục tiêu đã đặt

ra. Theo đó, việc điều hành các công cụ Chính sách tiền tệ cần được điều hành linh

hoạt, đồng bộ, đảm bảo kiểm soát khối lượng tiền cung ứng theo định hướng tăng

trưởng tín dụng ở mức 12 - 14%; tổng phương tiện thanh toán tăng trưởng khoảng 16 -

18%; điều hành chủ động các mức lãi suất chỉ đạo của NHNN để định hướng lãi suất thị

trường, đảm bảo tính ổn định, không gây ra những biến động bất thường, nhằm tiếp tục

tạo sự ổn định bền vững trên thị trường tiền tệ, kiềm chế lạm phát; theo dõi sát diễn biến

tỷ giá, thị trường tiền tệ, ngoại hối, cung cầu ngoại tệ để điều hành tỷ giá phù hợp; Tiếp

tục thực hiện các giải pháp quản lý thị trường vàng, không để những biến động của thị

trường vàng ảnh hưởng đến ổn định vĩ mô; tiếp tục khắc phục tình trạng đô la hóa nền

kinh tế bằng nhiều biện pháp, trong đó cần có sự phối chặt chẽ giữa điều hành tỷ giá với

lãi suất theo hướng khuyến khích giữ VNĐ, hạn chế dịch chuyển sang USD. Ngoài ra,

cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách cho hoạt động tiền tệ tín dụng nhằm

tạo điều kiện cho các TCTD tái cơ cấu và phát triển mạnh mẽ; Tiếp tục thực hiện có

hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu các TCTD để tăng cường tính hiệu quả của cơ chế tác

động Chính sách tiền tệ và tạo đà phát triển hệ thống các TCTD trong những năm tiếp

theo; Tiếp tục tăng cường năng lực thanh tra, giám sát, phát hiện và ngăn chặn kịp thời

73

những hành vi kinh doanh thiếu lành mạnh có thể gây bất ổn định hệ thống; Tăng cường

công tác truyền thông, tăng cường trách nhiệm cần được đẩy mạnh để nâng cao hơn nữa

lòng tin của xã hội, tránh những thông tin sai lệnh làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều

hành.

3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng truyền dẫn lãi suất của Chính

sách tiền tệ

3.2.1 Nhóm giải pháp vĩ mô

3.2.1.1 Nâng cao hiệu quả điều hành Chính sách tiền tệ

- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.

Trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và nhất là trong bối cảnh kinh

tế thế giới đang sụt giảm, thì việc tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần

chủ động, linh hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và trong khả năng kiểm

soát tiền tệ là một trong các giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả.

Duy trì việc tự do hoá công cụ lãi suất. Để NHNN thực sự là người cho vay cuối cùng

trên thị trường liên ngân hàng, cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo

hướng : sử dụng lãi suất tái chiết khấu như lãi suất sàn; lãi suất cho vay qua đêm và lãi

suất tái cấp vốn làm lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc

huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại trên thị trường.

Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt theo

diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ chức

tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả. Trong điều kiện kiềm chế lạm

phát, trong năm 2007 và năm 2008 NHNN nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức

tín dụng từ 5%, lên đến 10% và 11% là cần thiết để chống lạm phát; ngược lại trong

bối cảnh ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước do ảnh hưởng của kinh tế

74

thế giới, do đó cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín

dụng nâng cao sử dụng vốn khả dụng.

Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở xem thị

trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo “lãi suất liên

ngân hàng định hướng”; mở rộng việc kết nạp thành viên tham gia trên thị trường mở;

đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các

tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ liên

ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại giấy tờ có

giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa tổ chức tín dụng với khách hàng.

Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị

trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm

đảm bảo các cân đối vĩ mô : kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm soát

nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh hưởng lớn đến

việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại

tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên

truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi

ro tỷ giá.

- Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN.

Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành

chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN phải

thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta.

Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn cho NHNN trong xây dựng dự án chính sách tiền tệ; chủ động trong việc

sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự; tự chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào

tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ NHNN; có chế độ đãi ngộ hợp lý để

75

khuyến khích thu hút nhân tài; hiện đại hoá công nghệ quản lý trong việc tổng hợp,

thống kê, phân tích, dự báo ..phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ.

- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ.

Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng

thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên

thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát

triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền

tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính

sách kinh tế vĩ mô khác

Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp chặt chẽ

giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính,

chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài..). Trong điều kiện dòng vốn đầu tư nước

ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây (trong đó có dòng vốn ngắn

hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát.

Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và

chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài : đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng

vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc

điều hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài chính nhằm mục

tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng đồng thời

kiểm soát được lạm phát.

3.2.2 Nhóm giải pháp vi mô

3.2.2.1 Đối với NHNN

76

Từ những phân tích và lý giải kết quả nghiên cứu ở chương 2, để có thể nâng

cao hiệu quả của việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, hay để cho quá trình

truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay (lãi suất cho vay) được hoàn toàn

thì NHNN nên hướng trọng tâm vào các mục tiêu: nâng mức độ truyền dẫn cả trong dài

hạn và ngắn hạn, tăng tốc độ điều chỉnh về mức cân bằng, giảm tính cứng nhắc trong

điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi, giảm tác động của biến động lãi suất vào

lãi suất cho vay. Điều này có thể đạt được qua một số biện pháp cụ thể sau:

Tăng cường tính minh bạch trong chính sách tiền tệ để nâng cao mức độ truyền

dẫn lãi suất.

Thực hiện tự do hóa lãi suất, làm thông thoáng cấu trúc tài chính, giúp cho lãi

suất cho vay có thể nhanh chóng thay đổi theo cung cầu thị trường.

Xây dựng một chính sách phù hợp, nghiêm minh, công bằng, tránh sự thông

đồng sắp xếp giá giữa các NHTM và các Tổ chức tín dụng nhằm làm giảm tính cứng

trong điều chỉnh lãi suất.

Ổn định lãi suất, tránh những tác động không tốt của biến động lãi suất làm

giảm mức độ và tốc độ điều chỉnh của quá trình truyền dẫn.

Trên hết, NHNN cần có những chính sách phù hợp, linh hoạt theo từng giai

đoạn và bối cảnh cụ thể để hiệu quả của chính sách tiền tệ đạt cao nhất và nhờ đó sự

truyền dẫn lãi suất chính sách tiền tệ cũng được cải thiện.

Và thêm vào đó, để tốc độ và mức độ truyền dẫn trong ngắn hạn và dài hạn

được cải thiện thì một nhân tố rất cần được nhắc đến đó là môi trường kinh tế vĩ mô.

NHNN nên cần tạo ra một môi trường chuyên nghiệp, thông suốt, công bằng, để từ đó

mọi sự thay đổi trong chính sách điều hành sẽ đến các chủ thể có liên quan một cách

nhanh nhất và hiệu quả nhất. Và cũng từ đó, NHNN có thể nắm bắt được hiệu quả từ

chính sách đó như thế nào thông qua sự phản hồi từ các chủ thể có liên quan.

3.2.2.2 Đối với Ngân hàng thương mại

77

Đảm bảo tính bắt buộc thực hiện và chấp hành nghiêm trong việc thực thi chính

sách tiền tệ của các Ngân hàng thương mại.

Lành mạnh hóa sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại. Một nhân tố tác

động không nhỏ đến sự truyền dẫn không hoàn toàn từ lãi suất chính sách đến lãi suất

cho vay đó là chủ thể NHTM. Sự thờ ơ của chính bản thân các NHTM đối với những

thay đổi trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đã làm cho hiệu quả

mà chính sách mang lại rất thấp. Hơn thế nữa, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các

NHTM với nhau, làm cho sự điều chỉnh lãi suất của mỗi NHTM không tuân theo quy

luật cung cầu của thị trường, mà sự thay đổi đó xuất phát từ lợi ích riêng và mục đích

riêng của các ngân hàng. Nên NHTM đã làm chệnh đi ý nghĩa của sự cạnh tranh. Vì

thế ta có thể thấy rằng chính các hành động của các ngân hàng đã vô tình là vật cản

trong việc truyền dẫn từ chính sách tiền tệ đến nền kinh tế, cụ thểhơn đó là vật cản

trong quá trình truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay.

Xây dựng và chuẩn hóa các nguyên tắc trong việc ký kết hợp đồng tín dụng giữa

Ngân hàng thương mại và khách hàng theo đúng quy định của NHNN. Từ đó, các thay

đổi trong chính sách lãi suất của NHNN sẽ được các NHTM thể hiện chính xác vào

trong giao kết giữa chính các ngân hàng và khách hàng của mình. Qua đó góp phần

làm cho quá trình truyền dẫn được cải thiện cả tốc độ và mức độ.

78

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 đã thể hiện những định hướng trong điều hành chính sách tiền tệ của

NHTW trong năm 2014. Cụ thể: tiếp tục theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát không

vượt quá mục tiêu Quốc hội phê chuẩn, ổn định tiền tệ và hệ thống các TCTD, góp phần

ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Và với hai nhóm giải

pháp vi mô và vĩ mô, để nâng cao khả năng truyền dẫn lãi suất của chính sách tiền tệ

đến lãi suất cho vay thì cần sự phối kết hợp của nhiều yếu tố. Cụ thể, đó là môi trường

vĩ mô, NHNN và các NHTM.

79

KẾT LUẬN

Qua bài nghiên cứu này giúp xác định và ước lượng được mức độ và tốc độ

truyền dẫn thực sự từ lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay. Để từ đó góp phần làm

sáng tỏ những góc tối trong việc ban hành và điều hành chính sách tiền tệ của NHNN

cũng như sự thờ ơ và lách luật của hệ thống NHTM đã làm cho tính hiệu quả từ các

chính sách tiền tệ mang lại giảm thấp trầm trọng. Chính vì lẽ ấy mà độ trễ trong việc

thực thi chính sách cũng bị kéo dài. Từ việc ước lượng được giá trị thực sự của sự

truyền dẫn lãi suất, bài nghiên cứu cũng đã có những phân tích và lý giải đáng giá, để

rồi từ đó đưa ra những đề xuất để góp phần cải thiện mức độ thấp của sự truyền dẫn với

các chủ thể liên quan liên quan và dự báo được xu hướng trong thời gian sắp tới của

quá trình truyền dẫn lãi suất.

Tuy nhiên bài nghiên cứu cũng gặp phải những giới hạn nhất định, đó là phạm

vi nghiên cứu hẹp, chỉ gói gọn trong số các NHTM thuộc địa bàn Thành Phố Hồ Chí

Minh, bỏ qua giai đoạn truyền dẫn thứ nhất đó là sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách

đến lãi suất thị trường (lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất liên ngân hàng...), chưa chi

tiết được quá trình truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến từng loại lãi suất cho vay, như:

lãi suất cho vay tiêu dùng, lãi suất cầm cố, lãi suất thế chấp....), chỉ nghiên cứu được

một mảng nhỏ của lãi suất bán lẻ vì đã bỏ qua sự truyền dẫn đến lãi suất huy động.

Từ những giới hạn mà đề tài chưa thể hoàn thiện được như trên, hy vọng những

bài nghiên cứu sau có thể nghiên cứu sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất

cho vay ở phạm vi rộng hơn để tăng tính thuyết phục trong đề tài, và mức độ nghiên

cứu chi tiết hơn để từ đó có những đề xuất giải pháp xác thực với thực tế nảy sinh, góp

phần có những đóng góp thực sự có ích cho công cuộc điều hành chính sách tiền tệ của

NHNN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục Tài liệu Tiếng Việt

1. Đinh Thị Thu Hồng và Phạm Đình Mạnh, 2013. Hiệu Quả Của Chính Sách Tiền Tệ Thông Qua Kênh Truyền Dẫn Lãi Suất. Tạp Chí Phát Triển Và Hội Nhập, ngày 20 tháng 9, trang 39-47.

2. Lê Văn Danh, 2005. Chính Sách Tiền Tệ Và Điều Tiết Vĩ Mô. 2nd ed. Hà Nội:

Nhà Xuất Bản Tài Chính.

3. Nguyễn Đình Luận, 2013. Cơ Chế Điều Hành Lãi Suất Của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Và Đề Xuất Các Chính Sách. Tạp Chí Phát Triển Và Hội Nhập, ngày 20 tháng 7, trang 16-20.

4. Tô Kim Ngọc, 2003. Lựa Chọn Mô Hình Nào Cho Cơ Chế Kiểm Soát Lãi Suất Của Việt Nam. In: B. S. Hùng, ed. Cơ Chế Điều Hành Lãi Suât Thị Trường Tiền Tệ Của Ngân Hàng Trung Ương. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Thống Kê, trang 59-67.

Danh mục Tài liệu Tiếng Anh

1. Bernanke, B. & Gertler, M., 1995. Inside The Black Box: The Credit Channel of Monetary Policy Transmission. Journal of Economics Perspective, Issue 9, pp. 27- 48.

2. Bondt, G. D., 2002. Retail Bank Interest Rate Pass-Through: New Evidence At The Euro Area Level. European Central Bank Working Paper Series, Issue 136, pp. 1-23.

3. Bryant, Ralph, Hooper, P. & Mann, C., 1993. Evaluating Policy Regimes. New Empirical Research In Empirical Macroeconomics, Washington D.C: Brookings Institution.

4. Chong, B. S., Liu, M. H. & Shrestha, K., 2006. Monetary Transmission Via The Administered Interest Rate Channel. Journal of Banking and Finance, Issue 5, pp. 1467-1484.

5. Cottarelli, C. & Kourelis, A., 1994. Financial Structure, Banking Lending Rate, and The Transmission Mechanism of Monetary Policy. IMF Working Paper, Issue 41, pp. 587-623.

6. Geraats, P. M., 2001. Why A Dopt Transparency? The Publication Of Central

Bank Forecasts. European Central Bank Working Paper Series, Issue 41, pp. 1-40.

7. Heffernan, S. A., 1997. Modelling British Interest Rate Adjustment: An Error

Correction Approach. Economica, Issue 64, pp. 211-231.

8. Hofmann, B. & Mizen, P., 2004. Interest Rate Pass-Through and Monetary Institutions Retail Rate. Individual Financial

Transmission: Evidence From Economica, Issue 79, pp. 99-123.

9. Liu, M.-H., Margaritis, D. & Rad, A. T., 2005. Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates. Enterprise and Innovation Research Paper Series , Issue 23, pp. 1-37.

10. Mishkin, F. S., 1996. The Channels of Monetary Transmission: Lessons for Monetary Policy. National Bureau of Economic Research Working Paper Series, Issue 5464, pp. 1-27.

11. Mojon, B., 2000. Financial Structure And The Interest Rate Channel of ECB

Monetary Policy. European Central Bank Working Paper Series, Issue 40, pp. 01-24.

12. Paisley, J., 1994. A Model of Building Society Interest Rate Setting. Bank of

England Working Paper, Issue 0142-6753, pp. 1-36.

13. Sander, H. & Kleimeier, S., 2004. Convergence in Eurozone Retail Banking? What Interest Rate Pass-Through Tells Us About Monetary Policy Transmission Competition And Integration. Journal of Inernational Money and Finance, Issue 23, pp. 461-492.

14. Sek, S. K., Tai, P. N. & Har, W. M., 2012. Interest Rate Pass-Through and Monetary Transmission In Asia. International Journal Of Economics And Finance, Issue 2, pp. 163-174.

15. Taylor, J. B., 1993. Macroeconomic Policy In A World Economy From

Econometric Design To Practical Operation, New York: W. W Norton.

16. Tobin, J., 1969. A General Equilibrium Approach To Monetary Theory.

Journal of Money Credit and Banking, Issue 1, pp. 15-29.

PHỤ LỤC

(Nguồn: Tác giả trích dẫn các bảng kết quả từ việc chạy mô hình kinh tế lượng Eview)

PHỤ LỤC 1: BIỂU ĐỒ PHÂN TÁN SỐ LIỆU

1. Biểu đồ phân tán số liệu lãi suất cho vay – lãi suất tái cấp vốn:

2. Biểu đồ phân tán số liệu lãi suất cho vay – lãi suất tái chiết khấu:

PHỤ LỤC 2: BẢNG KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ĐƠN VỊ

1. Kiểm định nghiệm đơn vị - Lãi suất cho vay:

Null Hypothesis: LSCV has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic based on SIC, MAXLAG=11) t-Statistic -1.841279 -3.525618 -2.902953 -2.588902 Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values: 1% level 5% level 10% level

*MacKinnon (1996) one-sided p-values. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LSCV) Method: Least Squares Date: 12/03/14 Time: 20:49 Sample (adjusted): 2008M02 2013M12 Included observations: 71 after adjustments Prob.* 0.3579

Variable LSCV(-1) C t-Statistic -1.841279 1.585677

Prob. 0.0699 0.1174 -0.001317 0.012228 -5.976037 -5.912299 -5.950691 1.817743

Coefficient Std. Error -0.072649 0.039456 0.010032 0.006327 0.046834 Mean dependent var 0.033020 S.D. dependent var 0.012024 Akaike info criterion 0.009976 Schwarz criterion 214.1493 Hannan-Quinn criter. 3.390308 Durbin-Watson stat 0.069879

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

2. Kiểm định nghiệm đơnvị - Lãi suất tái cấp vốn:

Null Hypothesis: LSTCV has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 2 (Automatic based on SIC, MAXLAG=11) t-Statistic -2.439515 -3.528515 Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values: 1% level Prob.* 0.1349

5% level 10% level -2.904198 -2.589562

*MacKinnon (1996) one-sided p-values. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LSTCV) Method: Least Squares Date: 12/03/14 Time: 20:50 Sample (adjusted): 2008M04 2013M12 Included observations: 69 after adjustments

Variable LSTCV(-1) D(LSTCV(-1)) D(LSTCV(-2)) C t-Statistic -2.439515 3.619542 1.155558 2.339159

Prob. 0.0174 0.0006 0.2521 0.0224 -7.25E-05 0.009616 -6.661351 -6.531837 -6.609968 2.073840

Coefficient Std. Error -0.088820 0.036409 0.428420 0.118363 0.140174 0.121305 0.008904 0.003807 0.267882 Mean dependent var 0.234092 S.D. dependent var 0.008415 Akaike info criterion 0.004603 Schwarz criterion 233.8166 Hannan-Quinn criter. 7.927839 Durbin-Watson stat 0.000139

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic) 3. Kiểm định nghiệm đơn vị - Lãi suất tái chiết khấu:

Null Hypothesis: LSTCK has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 2 (Automatic based on SIC, MAXLAG=11)

1% level 5% level 10% level Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values: t-Statistic -2.305284 -3.528515 -2.904198 -2.589562

*MacKinnon (1996) one-sided p-values. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(LSTCK) Method: Least Squares Date: 12/03/14 Time: 20:55 Sample (adjusted): 2008M04 2013M12 Included observations: 69 after adjustments Prob.* 0.1733

Variable LSTCK(-1) D(LSTCK(-1)) D(LSTCK(-2)) C t-Statistic -2.305284 2.361201 1.760310 2.147526

Prob. 0.0244 0.0212 0.0831 0.0355 -0.000145 0.010614 -6.341357 -6.211844 -6.289975 2.024842

Coefficient Std. Error -0.094062 0.040803 0.280304 0.118712 0.214293 0.121736 0.007626 0.003551 0.172597 Mean dependent var 0.134409 S.D. dependent var 0.009875 Akaike info criterion 0.006339 Schwarz criterion 222.7768 Hannan-Quinn criter. 4.519696 Durbin-Watson stat 0.006109

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

PHỤ LỤC 3: BẢNG KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐỒNG LIÊN KẾT

1. Kiểm định đồng liên kết giữa lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn

Date: 12/03/14 Time: 21:06 Sample (adjusted): 2008M04 2013M12 Included observations: 69 after adjustments Trend assumption: Linear deterministic trend Series: LSCV LSTCV Lags interval (in first differences): 1 to 2 Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized No. of CE(s) Eigenvalue 0.275051 0.112114 None * At most 1 * Trace Statistic 30.39908 8.204953 0.05 Critical Value 15.49471 3.841466 Prob.** 0.0002 0.0042

Trace test indicates 2 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values Unrestricted Cointegration Rank Test (Maximum Eigenvalue)

Hypothesized No. of CE(s) Eigenvalue 0.275051 0.112114 None * At most 1 * Max-Eigen Statistic 22.19413 8.204953 0.05 Critical Value 14.26460 3.841466 Prob.** 0.0023 0.0042

Max-eigenvalue test indicates 2 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level

**MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values Unrestricted Cointegrating Coefficients (normalized by b'*S11*b=I):

LSCV -46.36305 8.762694

D(LSCV) D(LSTCV) -0.002263 -0.001974

460.1228

LSTCV 48.33761 27.93324 Unrestricted Adjustment Coefficients (alpha): 0.004110 -0.003193 1 Cointegrating Equation(s): Log likelihood Normalized cointegrating coefficients (standard error in parentheses)

LSCV 1.000000 LSTCV -1.042589 (0.16069)

Adjustment coefficients (standard error in parentheses)

D(LSCV) D(LSTCV) -0.190558 (0.05548) 0.148057 (0.04586)

2. Kiểm định đồng liên kết (lscv-lstck):

Date: 12/03/14 Time: 21:02 Sample (adjusted): 2008M04 2013M12 Included observations: 69 after adjustments Trend assumption: Linear deterministic trend Series: LSCV LSTCK Lags interval (in first differences): 1 to 2 Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace)

Hypothesized No. of CE(s) Eigenvalue 0.239823 0.106538 None * At most 1 * Trace Statistic 26.69304 7.772933 0.05 Critical Value 15.49471 3.841466 Prob.** 0.0007 0.0053

Trace test indicates 2 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values Unrestricted Cointegration Rank Test (Maximum Eigenvalue)

Hypothesized No. of CE(s) Eigenvalue Max-Eigen Statistic 0.05 Critical Value Prob.**

None * At most 1 * 0.239823 0.106538 18.92010 7.772933 14.26460 3.841466 0.0085 0.0053

Max-eigenvalue test indicates 2 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values Unrestricted Cointegrating Coefficients (normalized by b'*S11*b=I):

LSCV -45.84370 6.309672

D(LSCV) D(LSTCK) -0.002350 -0.002385

444.9460

LSTCK 45.20365 28.68924 Unrestricted Adjustment Coefficients (alpha): 0.003940 -0.003232 1 Cointegrating Equation(s): Log likelihood Normalized cointegrating coefficients (standard error in parentheses)

LSCV 1.000000 LSTCK -0.986039 (0.16922)

Adjustment coefficients (standard error in parentheses)

D(LSCV) D(LSTCK) -0.180617 (0.05806) 0.148145 (0.05372)

PHỤ LỤC 4: PHƯƠNG TRÌNH HỒI QUY

1. Phương trình hồi quy: (LSCV-LSTCV)

Dependent Variable: D(LSCV) Method: Least Squares Date: 12/18/14 Time: 20:39 Sample (adjusted): 2008M02 2013M12 Included observations: 71 after adjustments

Variable C D(LSTCV) LSCV(-1) Std. Error t-Statistic 0.006270 1.774374 0.149169 1.726242 0.039119 -2.038949

R-squared Adjusted R-squared Coefficient 0.011125 0.257503 -0.079762 0.086850 Mean dependent var 0.059993 S.D. dependent var Prob. 0.0805 0.0888 0.0453 -0.001317 0.012228

-5.990757 -5.895151 -5.952738 2.055101

0.011855 Akaike info criterion 0.009557 Schwarz criterion 215.6719 Hannan-Quinn criter. 3.233751 Durbin-Watson stat 0.045544

S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

2. Phương trình hồi quy: (LSCV-LSTCK)

Dependent Variable: D(LSCV) Method: Least Squares Date: 12/18/14 Time: 20:11 Sample (adjusted): 2008M02 2013M12 Included observations: 71 after adjustments

Variable C D(LSTCK) LSCV(-1) t-Statistic 1.681513 1.450704 -1.936599

Prob. 0.0973 0.1515 0.0570 -0.001317 0.012228 -5.978348 -5.882742 -5.940328 2.003074

Coefficient Std. Error 0.010573 0.006288 0.198045 0.136516 -0.075932 0.039209 0.075448 Mean dependent var 0.048255 S.D. dependent var 0.011929 Akaike info criterion 0.009677 Schwarz criterion 215.2313 Hannan-Quinn criter. 2.774561 Durbin-Watson stat 0.069449

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

PHỤ LỤC 5: BẢNG KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH TỰ TƯƠNG QUAN

1. Kiểm định tự tương quan: (LSCV-LSTCV)

0.8157 0.8038

0.204334 Prob. F(2,66) 0.436923 Prob. Chi-Square(2)

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic Obs*R-squared Test Equation: Dependent Variable: RESID Method: Least Squares Date: 12/18/14 Time: 20:44 Sample: 2008M02 2013M12

Included observations: 71 Presample missing value lagged residuals set to zero.

Variable C D(LSTCV) LSCV(-1) RESID(-1) RESID(-2) Std. Error t-Statistic 0.006991 0.102065 0.151412 -0.049652 0.043834 -0.104441 0.130656 -0.164684 0.129527 0.590933

Prob. 0.9190 0.9605 0.9171 0.8697 0.5566 2.80E-18 0.011685 -5.940592 -5.781248 -5.877226 2.013464

Coefficient 0.000714 -0.007518 -0.004578 -0.021517 0.076542 0.006154 Mean dependent var -0.054079 S.D. dependent var 0.011996 Akaike info criterion 0.009498 Schwarz criterion 215.8910 Hannan-Quinn criter. 0.102167 Durbin-Watson stat 0.981354

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

2. Kiểm định tự tương quan: (LSCV-LSTCK)

0.8286 0.8174

0.188516 Prob. F(2,66) 0.403292 Prob. Chi-Square(2)

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic Obs*R-squared Test Equation: Dependent Variable: RESID Method: Least Squares Date: 12/18/14 Time: 20:32 Sample: 2008M02 2013M12 Included observations: 71 Presample missing value lagged residuals set to zero.

Variable C D(LSTCK) LSCV(-1) RESID(-1) RESID(-2) t-Statistic 0.178611 -0.088421 -0.183003 0.041568 0.613303

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Coefficient Std. Error 0.001256 0.007035 -0.012357 0.139754 -0.008071 0.044101 0.005429 0.130602 0.080207 0.130779 0.005680 Mean dependent var -0.054582 S.D. dependent var 0.012074 Akaike info criterion 0.009622 Schwarz criterion Prob. 0.8588 0.9298 0.8554 0.9670 0.5418 5.44E-19 0.011757 -5.927706 -5.768362

-5.864340 2.011036

215.4336 Hannan-Quinn criter. 0.094258 Durbin-Watson stat 0.983955

Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

PHỤ LỤC 6: BẢNG KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI THAY ĐỔI

1. Kiểm định phương sai thay đổi: (LSCV-LSTCV)

0.1102 0.1076 0.0590

2.278387 Prob. F(2,68) 4.459004 Prob. Chi-Square(2) 5.661024 Prob. Chi-Square(2)

Heteroskedasticity Test: Harvey F-statistic Obs*R-squared Scaled explained SS Test Equation: Dependent Variable: LRESID2 Method: Least Squares Date: 12/18/14 Time: 20:40 Sample: 2008M02 2013M12 Included observations: 71

Variable C D(LSTCV) LSCV(-1) Std. Error t-Statistic 1.309473 -10.39754 31.15464 0.711331 8.170160 1.926533

Prob. 0.0000 0.4793 0.0582 -11.15489 2.520830 4.692514 4.788121 4.730534 1.747480

Coefficient -13.61529 22.16128 15.74009 0.062803 Mean dependent var 0.035238 S.D. dependent var 2.476017 Akaike info criterion 416.8849 Schwarz criterion -163.5843 Hannan-Quinn criter. 2.278387 Durbin-Watson stat 0.110218

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)

2. Kiểm định phương sai thay đổi: (LSCV-LSTCK)

0.0543 0.0542 0.0187

Heteroskedasticity Test: Harvey F-statistic Obs*R-squared Scaled explained SS Test Equation: 3.041330 Prob. F(2,68) 5.829553 Prob. Chi-Square(2) 7.959773 Prob. Chi-Square(2)

Dependent Variable: LRESID2 Method: Least Squares Date: 12/18/14 Time: 20:17 Sample: 2008M02 2013M12 Included observations: 71

Variable C D(LSTCK) LSCV(-1) t-Statistic -10.33563 1.176750 2.095931

Prob. 0.0000 0.2434 0.0398 -11.11392 2.614254 4.744483 4.840089 4.782502 1.743927

Coefficient Std. Error -13.84385 1.339429 34.22175 29.08157 17.50630 8.352518 0.082106 Mean dependent var 0.055110 S.D. dependent var 2.541198 Akaike info criterion 439.1226 Schwarz criterion -165.4291 Hannan-Quinn criter. 3.041330 Durbin-Watson stat 0.054318

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)