BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ NGỌC HẰNG

TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ HÀNH VI

LÊN TỶ SUẤT SINH LỢI CỔ PHIẾU IPO

VÀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ NGỌC HẰNG

TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ HÀNH VI

LÊN TỶ SUẤT SINH LỢI CỔ PHIẾU IPO

VÀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS NGUYỄN TẤN HOÀNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số

liệu sử dụng trong luận văn đều đƣợc dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong

phạm vi hiểu biết của tôi. Những ý kiến đóng góp và giải pháp đề xuất là của cá nhân

tôi từ việc nghiên cứu tài liệu và làm việc thực tế tại đơn vị.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 10 năm 2013

TÁC GIẢ

Võ Thị Ngọc Hằng

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục bảng biểu

Danh mục thuật ngữ

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... 1

TÓM TẮT ....................................................................................................................... 1

1 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 2

1.1 Lý do chọn đề tài nghiên cứu ............................................................................ 2

1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2

1.3 Bố cục đề tài nghiên cứu ................................................................................... 3

2 CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY ........................ 4

2.1 Sơ lƣợc về hoạt động IPO ................................................................................. 4

2.1.1 IPO là gì? ................................................................................................... 4

2.1.2 Phân loại IPO ............................................................................................. 4

2.1.3 Động cơ thúc đẩy IPO ................................................................................ 5

2.1.4 Chi phí liên quan đến IPO .......................................................................... 6

2.2 Các tranh luận của nhà nghiên cứu về yếu tố hành vi ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi các cổ phiếu IPO ............................................................................................. 6

2.2.1 Định dưới giá và hiệu quả cao trong ngắn hạn ......................................... 7

2.2.2 Hiệu quả thấp trong dài hạn ...................................................................... 9

2.2.3 Thị trường hiệu quả trong dài hạn ........................................................... 10

3 CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ........................... 12

3.1 Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 12

3.1.1 Nghiên cứu sự kiện: đo lường tỷ suất sinh lợi bất thường ....................... 12

3.1.2 Hồi quy đa biến: các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi bất thường . 16

3.2 Lựa chọn dữ liệu .............................................................................................. 18

4 CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................. 24

4.1 Phân tích tỷ suất sinh lợi bất thƣờng ............................................................... 24

4.2 Hồi quy đa biến ............................................................................................... 28

4.2.1 Kết quả hồi quy trong ngắn hạn ............................................................... 28

4.2.2 Kết quả hồi quy trong dài hạn .................................................................. 34

5 CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN ..................................................................................... 39

Tài liệu tham khảo

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến trong mô hình hồi quy ...................................................... 18

Bảng 3.2: Danh sách mẫu quan sát trong bài nghiên cứu ............................................. 20

Bảng 3.3: Dữ liệu IPO theo năm phát hành .................................................................. 21

Bảng 3.4: Dữ liệu IPO theo sàn giao dịch .................................................................... 22

Bảng 3.5: Dữ liệu IPO theo ngành nghề kinh doanh .................................................... 22

Bảng 3.6: Dữ liệu IPO theo nhà bảo lãnh phát hành .................................................... 23

Bảng 4.1: Phân tích tỷ suất sinh lợi bất thƣờng ............................................................ 25

Bảng 4.2: Phân tích tỷ suất sinh lợi bất thƣờng theo quy mô hoạt động ...................... 27

Bảng 4.3: Kết quả hồi quy trong ngắn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

không bao gồm giá phát hành) ...................................................................................... 29

Bảng 4.4: Kết quả hồi quy trong ngắn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

bao gồm giá phát hành) ................................................................................................. 33

Bảng 4.5: Kết quả hồi quy trong dài hạn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng không bao gồm giá phát hành) ......................................................................... 35

Bảng 4.6: Kết quả hồi quy trong dài hạn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng không bao gồm giá phát hành) ......................................................................... 37

DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

THUẬT NGỮ KÝ HIỆU DIỄN GIẢI

Initial Public Offer IPO Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu

Cumulative Abnormal CAR Tỷ suất sinh lợi bất thƣờng tích lũy Returns

Buy-and-hold abnormal Tỷ suất sinh lợi bất thƣờng do mua và BHAR nắm giữ returns

Định dƣới giá (giá mở cửa ngày đầu Underpricing tiên/giá phát hành)

Left on table Giá đóng cửa ngày đầu tiên/giá phát hành

Underperformance Giả thuyết hiệu quả thấp hypothesis

Overperformance Giả thuyết hiệu quả cao hypothesis

Market Efficiency theory Lý thuyết thị trƣờng hiệu quả

Timing the Market theory Lý thuyết định thời điểm phát hành

Return behavior Hành vi của tỷ suất sinh lợi

Equally weighted Trung bình giản đơn

Value weighted Trung bình theo trọng số

1

TÓM TẮT

Bài nghiên cứu này là một bài nghiên cứu sự kiện, phân tích diễn biến tỷ suất

sinh lợi của cổ phiếu sau IPO (Initial Public Offer – Phát hành cổ phiếu ra công chúng

lần đầu tiên). Điểm mấu chốt của bài nghiên cứu này là tìm câu trả lời cho câu hỏi liệu

tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu IPO tuân theo lý thuyết thị trƣờng hiệu quả hay bị ảnh

hƣởng bởi yếu tố hành vi. Tỷ suất sinh lợi bất thƣờng tích lũy là tiêu chí dùng để đo

lƣờng tính hiệu quả cổ phiếu đối với diễn biến của thị trƣờng. Kết quả cho thấy các cổ

phiếu IPO bị định giá khá thấp, tuy nhiên ngay sau đó thị trƣờng lập tức hiệu chỉnh

trong ngắn hạn. Trong dài hạn, các kết quả kiểm định dƣờng nhƣ ủng hộ lý thuyết thị

trƣờng hiệu quả khi không xuất hiện các bằng chứng đáng tin cậy về sự tồn tại của tỷ

suất sinh lợi bất thƣờng khác 0. Ngoài ra, bài nghiên cứu này cũng tìm ra các nhân tố

tác động lên tỷ suất sinh lợi bất thƣờng của cổ phiếu IPO trong ngắn hạn và dài hạn.

Các yếu tố quy mô công ty, khối lƣợng phát hành trên khối lƣợng niêm yết, thị trƣờng

niêm yết có ảnh hƣởng mạnh mẽ tỷ suất sinh lợi bất thƣờng trong ngắn hạn nhƣng

trong dài hạn yếu tố ngành lại đóng một vai trò quan trọng.

2

1 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1 Lý do chọn đề tài nghiên cứu

Đƣợc hình thành từ năm 2000 nhƣng đến mãi năm 2006 thị trƣờng chứng

khoán Việt Nam mới có những dấu hiệu khởi sắc. Số lƣợng doanh nghiệp niêm yết

trên 2 sàn giao dịch tăng và khối lƣợng giao dịch lớn là một minh chứng cho kênh đầu

tƣ này ngày càng đƣợc ƣu chuộng. Do đó, khi công ty muốn mở rộng quy mô đầu tƣ,

tiếp cận nguồn vốn mới, các doanh nghiệp thƣờng lựa chọn phƣơng án IPO. Thực tế

cho thấy trong năm 2007, số lƣợng cũng nhƣ khối lƣợng doanh nghiệp IPO trên 2 sàn

giao dịch chứng khoán tăng đột biến và nó mở ra một làn sóng mới trên thị trƣờng

chứng khoán Việt Nam. Thị trƣờng trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, dƣới

sự tàn phá của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 mà trụ cột là Mỹ, đã ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt ảnh hƣởng đến thị trƣờng chứng

khoán khi mà những kỳ vọng của nhà đầu tƣ trƣớc đây là quá lớn. Thực trạng IPO

những năm gần đây cho thấy nhiều doanh nghiệp tiến hành IPO nhƣng thất bại, cùng

sự trồi sụt của thị trƣờng chứng khoán, nhiều doanh nghiệp phải giãn tiến độ IPO hoặc

kết quả IPO không khả quan, thậm chí nhiều phiên IPO còn phải huỷ bỏ do không có

ngƣời đăng ký mua. Một số cổ phiếu sau IPO cũng bị rớt giá thảm hại, thậm chí thấp

rất nhiều so với giá phát hành . Câu hỏi đặt ra là liệu thị trƣờng có định giá đúng cổ

phiếu tại thời điểm phát hành hay nó bị chi phối bởi một yếu tố hành vi nào khác?

Những nhân tố nào tác động đến việc định giá ấy hay chính xác hơn là những nhân tố

nào tác động đến tỷ suất sinh lợi sau IPO cả trong ngắn hạn và dài hạn. Đó là lý do mà

tôi chọn đề tài “Tác động của yếu tố hành vi lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu IPO và thị

trƣờng hiệu quả”.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Đã có nhiều đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính tranh luận về yếu tố

hành vi ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu IPO. Các bài nghiên cứu trƣớc

đây phân tích trong 2 giai đoạn: ngắn hạn và dài hạn.

Trong ngắn hạn tỷ suất sinh lợi IPO dƣơng phụ thuộc vào việc định dƣới giá

(underpricing) của các nhà bảo lãnh. Tỷ suất sinh lợi dƣơng thì phụ thuộc vào sự khác

3

nhau của giá chào bán và giá mở cửa. Các nhà đầu tƣ xem đây nhƣ một cơ hội để tạo

ra tỷ suất sinh lợi hợp lý trong ngắn hạn.

Trong dài hạn, có 2 lý thuyết trái ngƣợc nhau. Một mặt, các nhà nghiên cứu

nhƣ Steven X. Zheng (2004) và Ritter (1994) thì đồng ý rằng IPO hiệu quả thấp (under

perform) hơn thị trƣờng trong giai đoạn từ 3 – 5 năm sau thời điểm phát hành. Tuy

nhiên, một nhóm khác nhƣ Fama (1998) lại nghi ngờ lý thuyết hiệu quả thấp và tranh

luận rằng thị trƣờng hiệu quả trong việc định giá cổ phiếu. Do đó, IPO có thể hiệu quả

thấp hoặc cao so với thị trƣờng và xác suất của các kết quả này là nhƣ nhau.

Bài nghiên cứu này nhằm mục đích kiểm định tính hiệu quả tại thị trƣờng Việt

Nam đối với các cổ phiếu thực hiện IPO. Thông qua 1 bài nghiên cứu sự kiện để quan

sát phản ứng thị trƣờng đối với tỷ suất sinh lợi IPO. Các quan sát sẽ đƣợc sẽ đƣợc

phân chia thành những giai đoạn khác nhau: trong ngắn hạn, trong dài hạn. Nghiên cứu

trong ngắn hạn là nghiên cứu một sự kiện diễn ra trong 5 ngày giao dịch đầu tiên, tiếp

đó là một bài nghiên cứu hậu sự kiện, thƣờng là sau 5 ngày sau giao dịch đầu tiên

Nghiên cứu trong dài hạn là nghiên cứu một sự kiện diễn ra trong vòng 3 năm giao

dịch tiếp theo tính từ mốc ngày giao dịch đầu tiên hoặc hậu sự kiện.

Bên cạnh việc kiểm định tính hiệu quả của thị trƣờng đối với các cổ phiếu IPO

thì mục tiêu tiếp theo là phân tích mối tƣơng quan giữa các yếu tố nội tại và ngoại sinh

ảnh hƣởng trực tiếp đển tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu thuộc nhóm này.

1.3 Bố cục đề tài nghiên cứu

Chƣơng tiếp theo sẽ cung cấp nền tảng lý thuyết xung quanh các tranh luận

của các nhà nghiên cứu về vấn đề yếu tố hành vi ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến tỷ suất

sinh lợi của các cổ phiếu IPO. Chƣơng 3 trình bày phƣơng pháp bài nghiên cứu sử

dụng để đo lƣờng mức độ hiệu quả của thị trƣờng. Đặc biệt, chƣơng này sẽ giới thiệu 2

phƣơng pháp mà các nhà nghiên cứu hay sử dụng và đƣa ra cơ sở để lựa chọn phƣơng

pháp phù hợp nhất. Ngoài ra, chƣơng 3 cũng đƣa ra cơ sở lý thuyết để lựa chọn các

biến độc lập ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu IPO và cách lấy dữ liệu

trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Chƣơng 4 trình bày các kết quả nghiên cứu

trên thị trƣờng Việt Nam và so sánh kết quả với các nghiên cứu của các tác giả khác.

4

CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY 2

2.1 Sơ lƣợc về hoạt động IPO

2.1.1 IPO là gì?

Khi phát triển đến một giai đoạn nhất định do yêu cầu sự tăng trƣởng không

ngừng, ban lãnh đạo bất kỳ công ty nào cũng nghĩ đến việc mở rộng quy mô hoạt

động. Phát hành cổ phiếu ra công chúng là phƣơng pháp đƣợc hầu hết các công ty lựa

chọn để đáp ứng việc mở rộng quy mô khi việc huy động vốn thông qua các nhà đầu

tƣ mạo hiểm có thể khó đáp ứng cho nhu cầu vốn khổng lồ công ty. Việc phát hành cổ

phiếu nhƣ vậy đƣợc gọi là phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu – IPO.

Nhƣ vậy, IPO với mỗi doanh nghiệp chỉ có một lần duy nhất, và sau khi đã

IPO thì các lần tiếp theo sẽ đƣợc gọi là phát hành cổ phiếu trên thị trƣờng thứ cấp. IPO

có ý nghĩa rất quan trọng với doanh nghiệp vì với bất kỳ doanh nghiệp nào, đây cũng

là thử thách đầu tiên và quan trọng nhất đối với hàng loạt khía cạnh vận hành. Nguyên

nhân của thử thách này là do doanh nghiệp trƣớc khi đƣợc phép huy động vốn rộng rãi

phải đảm bảo hàng loạt các điều kiện phát hành nghiêm ngặt và quy chế báo cáo thông

tin rất nghiêm khắc.

Tóm lại, IPO là lần đầu tiên công ty bán cổ phần thƣờng của mình cho các nhà

đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán. Công ty phát hành cổ phiếu để tăng vốn nhằm

phục vụ hoạt động kinh doanh.

2.1.2 Phân loại IPO

Căn cứ vào cách thức xác định giá, có 2 loại IPO:

– Phát hành công khai với giá định trƣớc:

Giá cổ phiếu đƣợc xác định trƣớc, các nhà đầu tƣ đăng ký số lƣợng cổ phần

muốn mua và sẽ mua với mức giá này. Việc phát hành sẽ đƣợc giới hạn trong thời gian

nhất định. Nếu nhà đầu tƣ mua hết số cổ phiếu đƣợc chào bán trong khoảng thời gian

cho phép thì đợt phát hành thành công. Nếu thời hạn đã hết mà cổ phiếu vẫn chƣa

đƣợc bán hết thì phải giảm giá bán. Nếu sau một khoảng thời gian xác định vẫn không

bán hết thì công ty phải đăng kí lại với số vốn thấp hơn số vốn đăng kí.

5

Thông tin về tình hình hoạt động trong quá khứ, kế hoạch sử dụng vốn trong

tƣơng lai, các rủi ro có thể xảy ra … của công ty đƣợc công bố rộng rãi. Nhà đầu tƣ sẽ

xem xét mức giá chào bán có phù hợp hay không và ra quyết định đầu tƣ.

Ƣu điểm của phƣơng thức phát hành này là công ty phát hành chủ động, biết

trƣớc đƣợc chính xác số tiền thu đƣợc. Do đó, đối với một nhu cầu vốn xác định trƣớc,

chẳng hạn để mua một tài sản nào đó, công ty phát hành có thể sử dụng phƣơng thức

này. Nhƣợc điểm là không huy động đƣợc số vốn cao nhất.

– Phát hành qua phƣơng thức đấu giá để xác định giá

Khác với chào bán với định giá trƣớc, cơ chế đấu giá để xác định giá bán sẽ

đƣợc sử dụng trong phƣơng thức này. Thông tin về doanh nghiệp sẽ công bố công khai

và nhà đầu tƣ phải xác định mức giá mà họ cho là hợp lý nhất và có thể đem về lợi

nhuận cho họ. Mỗi nhà đầu tƣ sẽ có những quan điểm cũng nhƣ những thông tin khác

nhau, và do đó, sẽ đăng ký mua với những mức giá khác nhau và khối lƣợng khác

nhau. Mức giá thực tế mà các nhà đầu tƣ đƣợc mua có thể là giá thống nhất (đấu giá

theo kiểu Hà Lan) hoặc theo đúng giá đã đặt mua ( đấu giá theo kiểu Anh)

Ƣu điểm của phƣơng thức đấu giá là có thể huy động đƣợc số vốn tối đa đồng

thời có thể đánh giá chính xác về giá trị cổ phiếu. Phát hành theo phƣơng thức này phù

hợp với công ty cần nhiều vốn hoặc cần xác định chính xác giá trị doanh nghiệp. Các

công ty cổ phần hóa ở Việt Nam thƣờng sử dụng phƣơng thức đấu giá này để thu hút

đƣợc nhiều vốn.

Nhƣợc điểm là nhà đầu tƣ khó xác định mức giá phù hợp. Đồng thời, đối với

những đợt phát hành nhỏ, các nhóm nhà đầu tƣ lũng đoạn giá có cơ hội “làm giá” theo

mức có lợi cho họ. Khi đó, không xác định đƣợc giá trị thực của cổ phiếu.

2.1.3 Động cơ thúc đẩy IPO

Tại những thời điểm trong dòng đời phát triển của công ty, giám đốc phải

quyết định thời điểm cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu hay giữ tƣ nhân. Từ quan điểm

công ty, lý do chính để IPO là tăng vốn. Các lý do chính cho việc tăng vốn:

Cho các dự án đầu tƣ trong tƣơng lai –

Nghiên cứu và phát triển sản phẩm –

6

Hợp nhất và sát nhập –

Những lý do khác, ví dụ nhƣ tăng vốn hoạt động –

Một khía cạnh khác, theo quan điểm tài chính trƣớc đây mà thƣờng là các quỹ

đầu tƣ mạo hiểm, xem xét IPO nhƣ là là một chiến lƣợc tồn tại tạo ra lợi nhuận.

Có nhiều lợi ích từ việc IPO đứng trên khía cạnh quản lý. Đầu tiên công ty sẽ

tiếp cận đƣợc nguồn tài chính mới, mà điều này rất hữu ích cho công ty nếu nguồn vốn

là một yêu cầu cho tƣơng lai. Hơn nữa, sẽ có sự phân chia giữa quyền sỡ hữu và điều

hành, các dự án mạo hiểm với tỷ suất sinh lợi cao hơn có thể không thực hiện làm cho

các nhà quản lý phải kiềm chế với các tài sản thuộc sở hữu của họ đã đƣợc đầu tƣ.

Cuối cùng IPO có thể giảm nợ và nâng cao tín dụng.

2.1.4 Chi phí liên quan đến IPO

Có những bất lợi liên quan đến IPO mà nhà quản lý cần xem xét trƣớc IPO.

Chi phí nổi bật là chi phí định dƣới giá. Ritter (2006) dựa vào chi phí này chính bằng

cách tính sự khác biệt của giá đóng cửa của ngày giao dịch đầu tiên và giá phát hành

(money left on table). Ngoài ra, thông tin bất cân xứng và chi phí đại diện liên quan

đến việc phân chia giữa chủ sở hữu và điều hành. Các chi phí khác là chênh lệch nhà

bảo lãnh, thời gian đầu tƣ của nhà quản lý cho việc chuẩn bị IPO nhƣ các hoạt động

quan hệ nhà đầu tƣ, các chi phí khác nhƣ chi phí pháp lý, chi phí kiểm toán.

2.2 Các tranh luận của nhà nghiên cứu về yếu tố hành vi ảnh hƣởng đến tỷ

suất sinh lợi các cổ phiếu IPO

Phân tích diễn biến hành vi đối với hiệu quả từ các đợt IPO đã nhận đƣợc sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu tài chính. Họ đã đƣa ra nhiều phƣơng pháp khác

nhau cũng nhƣ nghiên cứu những giai đoạn khác nhau. Những bài nghiên cứu trƣớc

đây tán thành việc những công ty IPO bị định dƣới giá chào bán do các nhà bảo lãnh

đƣa ra. Phần giá chiết khấu này kích thích sự hiệu chỉnh của thị trƣờng ngay lập tức

dẫn đến việc tạo ra tỷ suất sinh lợi dƣơng ngay từ ngày giao dịch đầu tiên. Tuy nhiên

trong dài hạn, hành vi về tỷ suất sinh lợi của IPO đƣợc chỉ dẫn bởi sự phát triển của 2

lý thuyết đối lập nhau. Theo lý thuyết thứ nhất, đồng ý việc IPO hiệu quả thấp trong

dài hạn khi so sánh với chỉ số thị trƣờng trong ít nhất là 3 – 5 năm sau đó. Lý thuyết

7

thứ 2 thì khẳng định rằng IPO không hiệu quả thấp trong dài hạn. Họ tin tƣởng vào lý

thuyết thị trƣờng hiệu quả. Một số bài nghiên cứu khác thì cho rằng các công ty IPO

hoặc là hiệu quả thấp hoặc hiệu quả cao khiến nó không thể tồn tại một mô hình thống

nhất.

2.2.1 Định dưới giá và hiệu quả cao trong ngắn hạn

Các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng những công ty IPO thƣờng bị định giá thấp

bởi những nhà bảo lãnh của họ. Điều này đã tạo ra một tỷ suất sinh lợi đáng kể cho

những nhà đầu tƣ – những ngƣời mà mua ở mức giá nhà bảo lãnh đƣa ra. Có một vài

cách giải thích khác nhau cho việc định dƣới giá nhƣ là kết quả tất yếu của hiệu quả

cao trong ngắn hạn.

Lý do thƣờng thấy nhất của hiệu quả cao trong ngắn hạn là việc định giá thấp.

Việc định giá thấp có một vài lý do. Một trong số chúng là việc không chắc chắn về

giá trị của cổ phiếu phát hành. Sự không chắc chắn sẽ tăng lên khi xem xét có sự bất

cân xứng thông tin giữa những nhà đầu tƣ am hiểu và nhà đầu tƣ không am hiểu. Các

nhà đầu tƣ không am hiểu sẽ là những ngƣời tiềm năng chịu đựng cái giá của ngƣời

chiến thắng nếu giao dịch với những nhà đầu tƣ am hiểu. Vì vậy, để lôi kéo các nhà

đầu tƣ thiếu am hiểu, nhà bảo lãnh thƣờng thƣờng định giá thấp cổ phiếu họ phát hành

(Rock 1986). Một số tác giả khác cũng cho rằng một vài công ty có thể tự nguyện đƣa

một mức giá thấp hơn cho cổ phiếu của họ nhƣ là một tín hiệu và tạo ra sự khác biệt

với chính họ. Điều này lôi cuốn các nhà đầu tƣ, trong sự cộng tác với nhà phân tích,

tạo ra các thông tin sẽ đƣợc phản ánh trễ hơn trong giá của thị trƣờng thứ cấp. Một lý

do khác cho việc định dƣới giá là rủi ro tranh chấp cho nhà bảo lãnh. Vì là trung gian

giữa công ty phát hành và nhà đầu tƣ, nhà bảo lãnh có thể kiếm lợi nhuận thông qua

việc thiết lập giá cao cho những cổ phiếu mới. Nếu nhà đầu tƣ nhận thấy giá quá cao

thì nhà bảo lãnh có thể bị kiện và xác suất cao là thành công của những vụ tranh chấp

thuộc về nhà đầu tƣ (O.gden et al 2003).

Một giải thích khác cho rằng sự lạc quan quá mức trong thị trƣờng cũng là

nguyên nhân của hiệu quả cao. Bởi vì những công ty IPO thì định dƣới giá và có sự kỳ

vọng tỷ suất sinh lời cao trong thị trƣờng sau đó làm giá tăng. Một vài tác giả khẳng

định rằng IPO đƣợc đánh giá cao liên quan đến những công ty có thể so sánh đƣợc

8

(Purnanandam and Swaminathan 2004, Zheng 2007). Những công ty lần đầu tiên IPO

khi có những điều kiện thị trƣờng thích hợp. Khi những nhà đầu tƣ lạc quan, họ sẵn

sàng trả giá cao hơn cho những cổ phiếu phát hành.

Một lý do khác cho hiệu quả cao trong ngắn hạn là kết quả của sự hạn chế

nguồn cung trong ngày giao dịch đầu tiên. Có sự tồn tại của việc hạn chế nguồn cung

do chỉ có một số lƣợng nhỏ cổ phiếu lƣu hành thành công. Một hạn chế khác của việc

giới hạn nguồn cung cổ phiếu trong 1 đợt IPO là do các thỏa thuận đầu tƣ dài hạn. Bởi

vì trƣớc đợt IPO, chủ sở hữu và các cổ đông nội bộ thỏa thuận việc nắm giữa cổ phần

của họ trong một khoảng thời gian nào đó sau khi phát hành. Thông thƣờng là 180

ngày. Trung bình các cổ phiếu phải đầu tƣ dài hạn khi phát hành từ 1991 đến 2000 là

65% (Ogden at al 2003). Thêm vào đó, trong ngày giao dịch đầu tiên, có một số hạn

chế về việc bán khống (riêng thị trƣờng Việt Nam không tồn tại vấn đề này). Xem xét

đồng thời các nhân tố khiến cổ phiếu đƣợc đặt mua vƣợt mức. Vì vậy các nhà đầu tƣ

sẽ không nhận đƣợc số lƣợng cổ phiếu tối ƣu cho mỗi đợt IPO, vì vậy họ sẽ mua nhiều

cổ phiếu hơn để đạt đƣợc tỷ lệ đầu tƣ tối ƣu. Hoặc họ mong muốn bán một khoản nhỏ

của những cổ phiếu có đƣợc ở mức giá cao hơn giá phát hành. Một đợt IPO đƣợc đặt

mua vƣợt mức thì thành công trong việc tăng giá trong ngắn hạn ở thị trƣờng thứ cấp

(Ellis 2005 và Zheng 2007). Vì những hạn chế nguồn cung, quan điểm bi quan của các

nhà đầu tƣ sẽ không tƣơng ứng trong suốt thời gian giao dịch đầu tiên trên thị trƣờng

thứ cấp. Ý kiến trái ngƣợc này không đƣa vào giá cổ phiếu, giá IPO thƣờng đƣợc đánh

giá cao quá mức (Miller 1977 và Mayshar 1983).

Nhu cầu cao và khối lƣợng cổ phiếu đƣợc giao dịch là nguyên nhân của việc

tăng giá cổ phiếu trong ngắn hạn dẫn đến hiệu quả cao trong ngắn hạn. Các nghiên cứu

cho thấy rằng khối lƣợng giao dịch trong ngày đầu tiên vô cùng lớn, tƣơng ứng 70% số

lƣợng cổ phiếu phát hành (Aggarwal 2003). Nhƣ đã đề cập trƣớc đây, IPO thƣờng

đƣợc đặt mua vƣợt mức. Thêm vào đó, vào ngày giao dịch, các nhà đầu tƣ, những

ngƣời tìm kiếm lợi nhuận từ sự dịch chuyển giá của những cổ phiếu không ổn định,

đóng góp cho khối lƣợng giao dịch lớn (Geczy et al 2002, Ellis 2005). Theo những gì

sẽ chỉ ra trong phần sau, tỷ suất sinh lợi của các công ty IPO thì dễ biến động trong

ngày giao dịch đầu tiên. Một số nhà đầu tƣ đã mua đƣợc cổ phiếu trong đợt IPO cũng

bán chúng trong một vài ngày tiếp theo, đã ảnh hƣởng đến khối lƣợng giao dịch trong

9

ngắn hạn. Cuối cùng cấu trúc vi mô của thị trƣờng nơi mà những nhà đầu tƣ hàng đầu

thu xếp các khoản đầu tƣ của họ để đóng vai trò là nhà tạo lập thị trƣờng đối với

những cổ phiếu mới đã ảnh hƣởng đến khối lƣợng lớn giao dịch. Trung bình những

nhà đầu tƣ hàng đầu đại diện 23% khối lƣợng giao dịch (Ellis 2005).

2.2.2 Hiệu quả thấp trong dài hạn

Những bài nghiên cứu thực nghiệm của nhiều tác giả khác nhau cho rằng các

cổ phiếu IPO thì hiệu quả thấp trong dài hạn (Loughran, Ritter và Rydqvist 1994,

Ogden et al 2003, Zheng 2007). Có một vài lý giải cho hiện tƣợng này. Một vài lý giải

trong số chúng thì có liên quan mật thiết với hiệu quả cao trong ngắn hạn nhƣ đã đề

cập trƣớc đây.

Đầu tiên là do sự lạc quan quá mức (overoptimism) và phản ứng quá mức

(overreaction). Một vài cuộc IPO thì thành công trong việc định thời gian phát hành

khi giá trị nó đang ở mức cao. Một số nhà đầu tƣ cho rằng IPO dự báo một mức sinh

lợi cao hơn tại thời điểm nó phát hành. Nhiều nhà đầu tƣ thất bại khi nhận ra việc tăng

trƣởng lợi nhuận thì trở lại giá trị trung bình và thu nhập của các công ty IPO trong dài

hạn thì trở lại giá trị trung bình, một số khác giảm. Điều này dẫn đến tỷ suất sinh lợi

thấp trong dài hạn cho những nhà đầu tƣ phản ứng bằng việc bán những cổ phiếu của

họ. Hiện tƣợng này có thể đƣợc giải thích vì thị trƣờng hiệu chỉnh một cách chậm chạp

với những phản ứng thái quá trong quá khứ.

Một giải thích khác cho hiệu quả thấp là vấn đề chi phí đại diện liên quan đến

dòng tiền nhận đƣợc trong IPO. Một vài nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng thị trƣờng

phản ứng kém với vấn đề chi phí đại diện liên quan đến việc dòng tiền mới tăng trong

IPO. Điều này dẫn đến việc định giá cao trong ngắn hạn và hiệu quả thấp trong dài

hạn. Hiện tƣợng này thì nhạy cảm hơn nếu công ty chi tiêu vốn thấp hơn hoặc chênh

lệch giá mua giá bán cao hơn (Zheng, 2007)

Houge, Loughran, Suchanek and Yan (2001) đã phát hiện mối liên hệ giữa sự

không chắc chắn của giá trị công ty IPO và hiệu quả của nó sau đó. Đặc biệt, các công

ty mà chênh lệch giữa giá mua và giá bán ngày đầu tiên càng lớn, tỷ số thay đổi

(flipping ratios) cao và niêm yết trễ (tính từ ngày IPO đến ngày niêm yết) thì kém hiệu

quả trong dài hạn. Những đặc tính này phản ánh những ý kiến khác nhau và sự không

10

chắc chắn trong giá trị mà có thể tạo ra tỷ suất sinh lời cao trong ngắn hạn và hiệu quả

thấp trong dài hạn.

Một lý do khác cho lý thuyết hiệu quả thấp trong dài hạn là hạn chế nguồn

cung đã thay đổi theo thời gian sau IPO. Điều này là bởi vì các nhà tạo lập thị trƣờng

đã hoàn thành các khoản đầu tƣ của họ và các thỏa ƣớc đầu tƣ dài hạn đã hết hiệu lực.

Những điều diễn ra sau đó thƣờng sau 180 ngày và nó cho phép các cổ đông nội bộ

bán cổ phiếu của họ. Khoảng 65% cổ phiếu vƣợt trội phải chịu các hợp đồng đầu tƣ

dài hạn (lockup), vì vậy chỉ có một số cổ phiếu còn lại đƣợc giao dịch trong 6 tháng

đầu tiên (Zheng, 2007, Ogden et al 2003). Vì vậy, cung của những cổ phiếu giao dịch

thì tăng trong khi áp lực cầu thì giảm.

2.2.3 Thị trường hiệu quả trong dài hạn

Một vài bài nghiên cứu gần đây thì đối lập với hành vi hiệu quả thấp

(underperformance) của IPO trong dài hạn đƣợc đề cập ở trên. Các tác giả này khẳng

định rằng thị trƣờng hiệu quả tác động đến IPO và vì vậy không thể dự báo việc phán

ứng mạnh mẽ hay yếu ớt. Có 2 lời giải thích chính đƣợc đƣa ra ở đây, một trong số

chúng liên quan đến phƣơng pháp đƣợc sử dụng và thứ 2 liên quan đến đặc tính các

công ty IPO

Fama (1998) tranh luận rằng “thị trƣờng hiệu quả tồn tại sự thách thức với các

lý thuyết về tỷ suất sinh lợi bất thƣờng trong dài hạn”. Hiệu quả thấp trong dài hạn có

xu hƣớng biến mất nếu kỹ thuật đƣợc sử dụng có những thay đổi hợp lý, vì vậy tính

bất thƣờng có thể phụ thuộc vào phƣơng pháp sử dụng. Nói chung, một sự kiện xảy ra

đối với hiện tƣợng phản ứng mạnh mẽ hay phản ứng yếu ớt có thể không nhận ra. Việc

này có thể không đƣợc dự báo và dẫn đến tranh luận về sự tồn tại của thị trƣờng hiệu

quả. Nếu thị trƣờng hiệu quả tồn tại thì giá trị kỳ vọng của tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

bằng 0, tuy nhiên có thể có những bất thƣờng bên ngoài xuất hiện ngẫu nhiên dẫn đến

phản ứng mạnh mẽ hoặc phản ứng yếu ớt.

Gompers and Lerner (2003) cũng tranh luận rằng những bất thƣờng phụ thuộc

vào phƣơng pháp đo lƣờng đƣợc sử dụng. Họ phát hiện khi sử dụng tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng tại thời điểm mua và nắm giữ thì xuất hiện hiệu quả thấp. Ngoài ra, nếu sử

dụng tỷ suất sinh lợi bất thƣờng thì hiệu quả thấp sẽ không xuất hiện. Chƣơng 4 sẽ giải

11

thích tỉ mỉ phƣơng pháp đƣợc chúng ta sử dụng cho bài nghiên cứu này, mô tả chi tiết

hơn.

Brav and Gompers (1997) đã tìm thấy một cách giải thích cho hiệu quả thấp

trong dài hạn. Những đặc tính của công ty IPO tác động đến hiệu quả của nó trong

tƣơng lai. Khi các đặc tính này đƣợc xem xét trong cách đo lƣờng tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng, các bất thƣờng sẽ giảm đáng kể. Họ đã tạo ra các danh mục khác nhau của

IPO dựa vào quy mô và giá trị sổ sách/giá trị thị trƣờng. Sau khi sử dụng các hệ số

chuẩn mực để kiểm soát các biến, họ thấy rằng sự bất thƣờng không xuất hiện. Họ kết

luận rằng nhiều IPO là các công ty nhỏ vì vậy tỷ suất sinh lợi thì không ảnh hƣởng khi

hầu hết các mẫu đƣợc đo lƣờng giống nhau. Mặc khác, nếu mẫu đƣợc đo lƣờng giá trị

phủ định tỷ suất sinh lợi thì giảm đáng kể việc tạo ra chúng thì không có ý nghĩa khác

0. Tỷ suất sinh lợi thấp của IPO thì giống nhau với những công ty cùng một quy mô và

hệ số giá trị sổ sách/giá trị thị trƣờng. Vì vậy, hiệu quả thấp của những công ty IPO

trong dài hạn về cơ bản bị giới hạn những công ty nhỏ.

12

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3

3.1 Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp ứng dụng trong bài nghiên cứu này có thể chia thành 2 phần

riêng biệt. Phần thứ nhất là nghiên cứu sự kiện, đo lƣờng tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

của IPO trong những mẫu đƣợc chọn. Các khung thời gian khác nhau và danh mục

mục khác nhau đƣợc thiết lập để sử dụng cho nghiên cứu. Mục đích là khám phá liệu

có sự tồn tại của tỷ suất sinh lợi bất thƣờng có ý nghĩa khác 0. Phƣơng pháp thứ 2

đƣợc áp dụng bao gồm hồi quy tuyến tính thông qua việc sử dụng các biến giải thích

khác nhau. Bằng cách này bài nghiên cứu sẽ cố gắng tìm ra tác động bất thƣờng đồng

biến hoặc nghịch biến lên tỷ suất sinh lợi của IPO.

3.1.1 Nghiên cứu sự kiện: đo lường tỷ suất sinh lợi bất thường

Để phát hiện tác động của sự kiện IPO lên tỷ suất sinh lợi bất thƣờng, có 2

phƣơng pháp thƣờng đƣợc sử dụng là tỷ suất sinh lợi bất thƣờng tích lũy (CARs) và tỷ

suất sinh lợi mua và nắm giữ tích lũy (BHARs).

Fama (1998), and Gompers and Lerner (2003) cho rằng việc sử dụng CARs thì

hiệu quả hơn BHARs.

Trong đó

Ri,t : là tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu i tại thời điểm t

Rbenchmark,t: là tỷ suất sinh lợi thị trƣờng

BHAR có thể làm tăng hiệu quả thấp vì nó bao gồm tỷ suất sinh lợi trong thời

kỳ trƣớc. Vì lý do này mà những công ty có hiệu quả kém trong quá khứ sẽ bị phóng

đại vì phƣơng pháp này. Điều này gây ra những sai lầm trong việc bác bỏ lý thuyết thị

trƣờng hiệu quả. Fama (1998) mô tả phƣơng pháp BHARs nhƣ là một mô hình quá

kém và nó trở nên nhạy cảm hơn trong các thời kỳ gia tăng. Ở một khía cạnh khác,

13

CARs không phải chịu những những tác động hỗn hợp này. Tuy nhiên vấn đề mô hình

kém trở nên ít quan trọng trong các sự kiện nghiên cứu hằng ngày hoặc ngắn hạn vì tỷ

suất sinh lợi kỳ vọng gần về 0. Trong trƣờng hợp này, có rất ít tác động lên tỷ suất sinh

lợi bất thƣờng trong ngắn hạn. Fama (1998) đề nghị rằng những nghiên cứu lý thuyết

và thống kê về tỷ suất sinh lợi trong dài hạn sẽ đƣợc tính toán bằng tổng các tỷ suất

sinh lợi bất thƣờng trong ngắn hạn hoặc dựa vào trung bình hơn là theo BHARs. Nhƣ

những lý do đã đề cập ở trên, tôi sẽ sử dụng phƣơng pháp CARs cho bài nghiên cứu

này.

Nghiên cứu sự kiện về tác động của yếu tố hành vi lên giá chứng khoán là

phân tích những ngày xung quanh đợt IPO. Những sự kiện khác nhau và hậu sự kiện

đƣợc sử dụng để đo lƣờng hành vi tác động lên giá IPO trong ngắn hạn và dài hạn. Sự

kiện bao gồm giai đoạn gần nhất trƣớc ngày phát hành. Tôi chia sự kiện thành những

khoản thời gian khác nhau. Đầu tiên, tôi đo lƣờng định giá thấp, là sự khác nhau giữa

giá mở cửa của ngày giao dịch đầu tiên với giá chào bán của các nhà bảo lãnh. Sau đó

tôi tính đến ngày giao dịch đầu tiên, có và không có định giá thấp. Tỷ suất sinh lợi từ

giá chào bán và giá đóng cửa của ngày giao dịch đầu tiên liên quan đến “the money

left on the table”. Thực nghiệm cho thấy rằng giá IPO biến động mạnh trong ngày giao

dịch đầu tiên, tôi cũng xem xét 5 ngày giao dịch đầu tiên nhƣ một phần của sự kiện.

Trong trƣờng hợp này chúng đƣợc quan sát với việc có và không định giá thấp ngay

ngày giao dịch đầu tiên.

Tôi chia hậu sự kiện thành những giai đoạn khác nhau. Giai đoạn hậu sự kiện

sẽ đƣợc đo lƣờng những bất thƣờng lên tỷ suất sinh lợi IPO, tác động của ngày giao

dịch đầu tiên sẽ lắng xuống. Theo những lý do này, việc đo lƣờng hiệu quả trong dài

hạn đƣợc xem xét sau 5 ngày giao dịch đầu tiên (Fernando và Chenine, 2007). Hậu sự

kiện bao gồm sau năm đầu tiên, đƣợc chia thành 2 kỳ. Điều này có nguyên nhân là để

quan sát những hiệu ứng của việc kết thúc các hợp đồng đầu tƣ dài hạn mà xảy ra sau

6 tháng đầu tiên. Một vài tác giả đã tìm thấy những phản ứng ngƣợc lại trong tỷ suất

sinh lợi của IPO sau ngày này có thể phụ thuộc vào việc các hợp đồng cá nhân đến các

hợp đồng đầu tƣ dài hạn thì sẵn sàng để bán những cổ phiếu của họ và nguồn cung thì

dƣờng nhƣ tăng lên. Phần của ví dụ đã phân tích khoản thời gian của 2 và 3 năm, một

cách riêng lẻ và tổng hợp.

14

Nhiều mô hình khác có thể đƣợc sử dụng khi nghiên cứu sự kiện. Một khung

thời gian đƣợc thiết lập trƣớc sự kiện thì thƣờng đƣợc đo lƣờng hiệu quả mong đợi mà

so sánh với giá trị thực hiện trong suốt sự kiện. Một mô hình thị trƣờng có thể đƣợc sử

dụng cho mục đích này. Nó giả định mối quan hệ ổn định giữa tỷ suất sinh lợi thị

trƣờng và chứng khoán. Nó sử dụng beta của thị trƣờng chứng khoán để loại bỏ một

phần tỷ suất sinh lợi mà đƣợc giải thích bằng các biến trong tỷ suất sinh lợi thị trƣờng.

Một phiên bản đơn giản của mô hình này là điều chỉnh mô hình thị trƣờng với giả định

rằng trung bình bằng 0 và beta thị trƣờng bằng 1. Tỷ suất sinh lợi của IPO thì không có

dữ liệu quá khứ cho chúng ta sử dụng mô hình này trong bài nghiên cứu. Ở một khía

cạnh khác, tại giá trị trung bình khi mà tỷ suất sinh lợi kỳ vọng thì bằng với tỷ suất

sinh lợi thị trƣờng trong những giai đoạn mà chúng ta phân tích. Để đo lƣờng tỷ suất

sinh lợi bất thƣờng tôi sử dụng chỉ số VNINDEX nhƣ một chỉ số chuẩn để đo lƣờng

hiệu quả thông thƣờng. Vì vậy tỷ suất sinh lợi bất thƣờng có thể chệch so với tỷ suất

sinh lợi của chỉ số này trong cùng một giai đoạn.

Mô hình thị trƣờng để đo lƣờng hiệu quả

Rit = α i + βiRmt + εit (4.1)

Lợi tức bất thƣờng cổ phiếu i tại thời điểm t εit:

Hệ số chặn α i:

Hệ số Beta βi:

Tỷ suất sinh lợi cổ phiếu i tại thời điểm t Rit:

Rmt: Tỷ suất sinh lợi thị trƣờng tại thời điểm t

it = Rit – α i – βiRmt (4.2)

ε*

it = Rit – E[Rit│Ωit] (4.3)

ε*

Thực tế, tỷ suất sinh lợi IPOs không có dữ liệu quá khứ để điều chỉnh mô hình

thị trƣờng, vì vậy mô hình đƣợc đơn giản hóa bằng việc cho α = 0 và β = 1

it = Rit – Rmt (4.4)

ε*

Rit = Ln(Rit/Ri,t-1) (4.5)

Rmt = Ln(Rmt/Rm,t-1) (4.6)

15

Nhƣ vậy, theo cách này có thể tính đƣợc lợi tức bất thƣờng cho mỗi ngày bằng

cách sử dụng logarit của tỷ suất sinh lợi IPO và chỉ số VNINDEX. Tập hợp các tỷ suất

sinh lợi bất thƣờng tại các khoản thời gian khác nhau sẽ tạo thành tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng. CARs của IPO từ ngày t1 đến ngày t2 đƣợc xác định nhƣ sau:

i (4.7)

CARi (t1,t2) = γ’ε*

γ’ là một vector từ vị trí t1 đến t2, bằng 0 ở vị trí khác

CARi (t1,t2) = Ln(Ri, t2/Ri, t-1) – Ln(Rm, t2/Rm, t1) (4.8)

Bƣớc tiếp theo là tập hợp CARs của các cổ phiếu bằng cách tính trung bình

của tỷ suất sinh lợi bất thƣờng của IPO bao gồm:

Đặt giả thuyết H0 rằng trung bình CARs bằng 0. Giả thuyết khác H1 rằng cổ

phiểu IPO thì hiệu quả cao hay thấp với thị trƣờng. Giả định tuân theo phân phối

chuẩn

Đặt giả thuyết

H0:  Thị trƣờng hiệu quả

H1:  Thị trƣờng không hiệu quả

Sau đó chúng ta kiểm tra giả thuyết H0 bằng việc kiểm định phân phối chuẩn

16

Mức độ ý nghĩa của của mỗi giai đoạn sẽ đƣợc xác định nếu cổ phiếu của

các công ty IPO hiệu quả thấp cao, bình thƣờng với thị trƣờng. Mẫu của các công ty

IPO sẽ bị tách rời trong danh mục để xác định mức độ ý nghĩa của tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng phụ thuộc vào quy mô.

3.1.2 Hồi quy đa biến: các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi bất thường

Trong những phần trƣớc đã giải thích cách đo lƣờng tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng. Bài nghiên cứu này cũng sẽ sử dụng những nét đặc trƣng tiêu biểu để cố gắng

xác định những nhân tố ảnh hƣởng đến hành vi. Bằng cách sử dụng mô hình hồi quy

đa biến mà tỷ suất sinh lợi bất thƣờng sẽ là biến phụ thuộc, các đặc trƣng của công ty

sẽ là biến độc lập (Fernando và Chenine, 2007). Các biến độc lập bao gồm:

– Underpricing: đƣợc cho rằng ảnh hƣởng lớn đến tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

tích lũy trong ngắn hạn và dài hạn nhƣ đã giải thích khá kỹ ở phần lý thuyết

nêu bên trên. Underpricing đƣợc tính bằng giá mở cửa/giá phát hành.

– Logarit quy mô công ty (Size): đƣợc chứng minh là các công ty lớn thì có diễn

biến sát với thị trƣờng hơn. Do đó, các công ty nhỏ bị kỳ vọng biến động

nhiều hơn (Gompers and Lerner 2003). Chúng ta sử dụng lấy logarit quy mô

công ty để làm đều hai cực phân phối của dữ liệu.

– Phần trăm cổ phần chào bán trên tổng số cổ phần đƣợc niêm yết của Công ty

(FLOAT): Biến này tác động theo hai hƣớng. FLOAT nhỏ, tức là cung cổ

phần bị hạn chế sẽ tác động giá tăng. Nhƣng nếu quá nhỏ sẽ hạn chế tính thanh

khoản của cổ phần và tác động ngƣợc lại là giá sẽ giảm (Ogden et al 2003).

– Tỷ lệ khối lƣợng giao dịch ngày đầu tiên/số cổ phần chào bán (Volume 1st

Day / Shares Offered): một mối liên hệ mật thiết giữa lợi tức ngày đầu tiên với

khối lƣợng giao dịch ngày đầu tiên. Một cuộc IPOs hấp dẫn là có đặc tính lợi

tức ngày đầu tiên cao và khối lƣợng giao dịch lớn. Ngƣợc lại, một cuộc IPOs

kém hấp dẫn thƣờng có khối lƣợng giao dịch và lợi tức của ngày đầu tiên thấp

(Ellis 2005). Đặc tính này chỉ ra với IPOs thƣờng định giá cao.

– Lợi tức thị trƣờng của tháng trƣớc (Previous Month Market Return): theo nhận

định của Ogden et al (2003), Ritter (2006) và Fama (1998), các công ty và nhà

17

bảo lãnh định thời gian để thành công trong phát hành IPO. Chúng ta sử dụng

lợi tức tích lũy của chỉ số thị trƣờng của tháng trƣớc ngày kiểm định.

– Thị trƣờng (Market): tại Mỹ, những công ty có thể niêm yết trên sàn NYSE,

NADAQ hoặc AMEX. Những công ty mới phát hành sẽ phát hành trên

NADAQ vì nó không có quá nhiều yêu cầu nhƣ NYSE. Vì vậy thƣờng những

công ty nhỏ sẽ niêm yết trên sàn NADAQ và sau đó niêm yết trên sàn NYSE

khi họ thỏa mãn các yêu cầu. Tƣơng ứng với thị trƣờng Việt Nam, có 2 sàn

giao dịch để các công ty lựa chọn. Sàn HOSE có điều kiện niêm yết phức tạp

hơn và đòi hỏi quy mô lớn hơn. Do đó, biến này sẽ đƣợc xem xét nhƣ một

biến giả, bằng 1 nếu niêm yết trên HOSE và bằng 0 nếu niêm yết ở sàn HNX.

– Ngành (Industry): chúng ta sẽ kiểm định mối quan hệ giữa ngành đặc biệt với

tỷ suất sinh lợi bất thƣờng. Biến này là một quan tâm đặc biệt để quan sát lợi

tức bất thƣờng, để xem xét các ngành đặc biệt có là mục tiêu để định giá thấp

hơn nhiều không. Chúng ta phân loại mẫu của các công ty IPO thành các

nhóm sau: Sản xuất, Sản xuất Nông – Lâm – Ngƣ nghiệp, Dịch vụ lƣu rú và ăn

uống, Khai khoáng, Dịch vụ chuyên môn khoa học – kỹ thuật, thƣơng mại,

thực phẩm – đồ uống – thuốc lá, Xây dựng và bất động sản, Tiện ích cộng

đồng, Vận tải và kho bãi. Tuy nhiên, có hơn 60% mẫu quan sát thuộc các

ngành sản xuất và xây dựng bất động sản. Theo đó các ngành hoạt động nhiều

nhất sẽ xem nhƣ một biến giả, giá trị bằng 1 nếu thuộc 2 ngành nói trên, bằng

0 nếu ngƣợc lại

– Nhà bảo lãnh (Underwriter): chúng ta xem biến nhà bảo lãnh hàng đầu nhƣ là

biến giả. Nhà bảo lãnh lớn, uy tín thì NBL = 1, ngƣợc lại NBL = 0. Tôi chú

trọng đến việc quan sát việc lựa chọn các nhà bảo lãnh có tác động đến việc

định dƣới giá cũng nhƣ hiệu quả trong dài hạn. Trong mẫu quan sát, công ty

chứng khoán Bảo Việt là có doanh số IPO lớn nhất, ngoài ra công ty này cũng

có quy mô khá lớn nên lựa chọn làm biến giá, bằng 1 nếu công ty chọn Bảo

Việt làm nhà bảo lãnh, bằng 0 nếu ngƣợc lại.

18

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến trong mô hình hồi quy

Biến Tên Giải thích Nghiên cứu Tƣơng quan kỳ vọng

CAR Fama 1998 Phụ thuộc TSSL bất thƣờng tích lũy

Rock 1986, Độc lập Underpricing Định dƣới giá (+) O.gden 2003

Gompers và Độc lập LN (size) Quy mô công ty (+) Lerner 2003

Độc lập Float O.gden 2003 (-) % CP IPO/CP niêm yết

Độc lập KL1st/K.LIPO Ellis 2005 (+) KL GD ngày 1st /KL IPO

Ritter 2006 (+) Độc lập RM(t-1) TSSL thị trƣờng tháng trƣớc và Fama 1998

Fernando và Giả Market (+) Thị trƣờng niêm yết Chenine, 2007

Fernando và Giả Industry Ngành (+) Chenine, 2007

Fernando và Giả Underwriter Nhà bảo lãnh (+) Chenine, 2007

3.2 Lựa chọn dữ liệu

Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về IPO chủ yếu tập trung tại Mỹ.

Những bài nghiên cứu trƣớc đây về hiệu quả của IPO có thể bị ảnh hƣởng bởi việc

phát hành của các công ty trong suốt cuộc bùng nổ chứng khoán những 90. Sự lạc

quan quá mức dẫn đến việc định giá quá cao đặc biệt đối với các công ty công nghệ

thông tin. Vì lý do này, nhiều công ty đã vội vã IPO, điều này dẫn đến một số công ty

bị định giá cao quá mức và thiếu kinh nghiệm trong việc phát hành ra thị trƣờng. Hậu

quả là, bong bóng bị đỗ vỡ trong đầu thập kỷ này.

19

Mẫu bao gồm các đợt IPO từ nửa cuối thập niên 90 phải đối mặt với sự phóng

đại trong tỷ suất sinh lợi ban đầu và hiệu quả thấp trong tƣơng lai. Để tránh những lệch

lạc này, trong bài nghiên cứu cần loại trừ những năm bất ổn.

Tại Việt Nam, thị trƣờng chứng khoán đƣợc thành lập từ năm 2000 nhƣng

hoạt động còn nhỏ lẻ, manh mún. Thị trƣờng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu huy động

vốn và là một kênh tạo thanh khoản cho cổ phiếu các công ty. Mãi đến những năm

2005, thị trƣờng mới có dấu hiệu khởi sắc thông việc gia tăng mạnh doanh số giao

dịch. Cũng tại thời điểm này các số liệu mới chính thức đƣợc công bố trên sàn giao

dịch chứng khoán. Do đó việc thu thập số liệu là hết sức khó khăn.

Ban đầu tôi dự định chia mẫu nghiên cứu thành 2 giai đoạn là giai đoạn giao

dịch trầm lắng: 2005 – 2006 và 2009 – 2010, giai đoạn sôi nổi: 2007 – 2008. Nguyên

nhân chọn năm 2010 làm năm cuối cùng trong mốc lấy dữ liệu là vì tôi phải nghiên

cứu mẫu trong dài hạn (3 năm sau niêm yết – tức 2013). Tuy nhiên với những số liệu

thu thập hết sức hạn chế từ 2 sở giao dịch chứng khoán không đảm bảo đủ số lƣợng

mẫu quan sát. Hơn nữa, thị trƣờng Việt Nam tƣơng đối nhỏ, nên các chênh lệch là

không quá lớn, do đó mẫu trong bài nghiên cứu sẽ gộp các giai đoạn với nhau, thống

nhất thời gian lấy mẫu là từ năm 2005 – 2010 với 50 quan sát.

Danh sách các công ty IPO bao gồm thông tin giá, khối lƣợng chào bán, giá

phát hành, ... sẽ đƣợc lấy từ 2 sàn HOSE và HNX. Các thông tin liên quan đến giá,

khối lƣợng giao dịch hàng ngày, quy mô hoạt động sẽ đƣợc lấy từ những website

chuyên cung cấp các thông tin tài chính đáng tin cậy nhƣ vietstock, cafef, ...

Với cách thu thập dữ liệu nhƣ trên, tôi lọc đƣợc 50 mẫu quan sát đƣợc thể hiện

trong bảng 3.2.

20

Bảng 3.2: Danh sách mẫu quan sát trong bài nghiên cứu

Nguồn: Tổng hợp HSX, HNX, Cafef, vietstock

21

Trong năm 2007, thị trƣờng chứng kiến sự gia tăng đột biến của các công ty

IPO, bảng sau sẽ chỉ ra số lƣợng công ty IPO theo thời gian và theo quy mô

Bảng 3.3: Dữ liệu IPO theo năm phát hành

Nguồn: Tổng hợp HSX, HNX, Cafef, vietstock

Từ bảng 3.3 chúng ta thấy có sự gia tăng trong khối lƣợng phát hành trong

năm 2007. Điều này hết sức dễ hiểu khi nhìn vào diễn biến thị trƣờng. Nếu nhƣ trong

năm 2005 – 2006 chứng tỏ sự tăng trƣởng mạnh mẽ của VNINDEX, tăng gấp 2 lần

với chỉ số tuyệt đối gần 250 điểm thì trong năm 2007 chứng kiến sự tăng trƣởng vƣợt

bậc. Nếu xét về số tƣơng đối là tăng trƣởng 100% nhƣng số tuyệt đối là 500 điểm. Nhƣ

vậy chỉ trong 2 năm chỉ số thị trƣờng đã tăng gấp 4 lần chứng tỏ thị trƣờng đang vô

cùng hƣng phấn. Điều này cũng hết sức dễ hiểu khi nhìn lại viễn cảnh kinh tế lúc bấy

giờ. Vào cuối năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đƣợc dự

đoán là rồng cất cánh sau nhiều năm dài ngủ quên. Nhà đầu tƣ ngoại đổ vốn nhiều vào

Việt Nam, thanh khoản thị trƣờng đảm bảo, cổ phiếu trở nên “hot” bao giờ hết. Các

doanh nghiệp ngay lập tức chốp thời cơ để huy động vốn. Điều này dẫn đến số lƣợng

IPO tăng đột biến trong năm 2007. Thực tiễn này là bằng chứng vững chắc cho lý

thuyết Timing Market, các nhà bảo lãnh và công ty cố gắng định thời điểm IPO khi thị

trƣờng đang lên và công ty sẽ đƣợc định giá cao hơn.

Tuy nhiên những kỳ vọng của thị trƣờng là quá lớn, thêm vào đó là những bất

ổn từ thị trƣờng tài chính quốc tế mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã đẩy

thị trƣờng chứng khoán Việt Nam lao dốc, giảm 50% so với mức 2007. Điều này kéo

theo các giao dịch IPO cũng trở nên ảm đạm, số lƣợng giảm đáng kể.

22

Bảng 3.4: Dữ liệu IPO theo sàn giao dịch

Nguồn: Tổng hợp HSX, HNX, Cafef, vietstock

Bảng 3.4 phân loại IPO dựa vào sàn giao dịch, những công ty lớn niêm yết tại

HOSE, trong khi những công ty nhỏ hơn trong mẫu thì niêm yết tại HSX. Nhìn vào

phạm vi quy mô công ty chúng ta thấy những yêu cầu từ thị trƣờng. Những công ty

nhỏ nhất phát hành trên sàn HOSE là 118 tỷ Đồng triệu, những công ty nhỏ nhất phát

hành trên sàn HSX là 37 tỷ Đồng. Điều này chỉ ra rằng những công ty nhỏ thì rất khó

khăn trong việc niêm yết trên sàn HOSE. Mặc dù với những yêu cầu và điều kiện gắt

gao hơn nhƣng số lƣợng niêm yết trên sàn HOSE vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn (chiếm 2/3

mẫu) do những cổ phiếu này thƣờng có thanh khoản tốt hơn nên đƣợc nhà đầu tƣ quan

tâm hơn.

Bảng 3.5: Dữ liệu IPO theo ngành nghề kinh doanh

Nguồn: Tổng hợp HSX, HNX, Cafef, vietstock

Trong bảng 3.5 chúng ta phân chia các công ty IPO thành 11 ngành khác nhau.

Trong mẫu quan sát, nhóm ngành sản xuất và xây dựng & bất động sản là nhóm ngành

có số lƣợng niêm yết lớn nhất chiếm 50% mẫu quan sát. Do đó chọn những ngành hoạt

23

động nhiều nhất gắn với biến giả là 1, tôi chọn 2 này ngành, những biến còn lại sẽ có

giá trị bằng 0.

Bảng 3.6: Dữ liệu IPO theo nhà bảo lãnh phát hành

Nguồn: Tổng hợp HSX, HNX, Cafef, vietstock

Cuối cùng, chúng ta phân loại IPO theo nhà bảo lãnh hàng đầu. Mẫu gồm 8

nhà bảo lãnh khác nhau. Kết quả cho thấy có hai nhà bảo lãnh (chiếm 25%) nhƣng

chiếm đến 72% số lƣợng phát hành, trong đó phải kể đến công ty chứng khoán Bảo

Việt chiếm đến hơn 50% khối lƣợng phát hành. Đây cũng là công ty tôi lựa chọn để

gán giá trị biến giả bằng 1 đối với những nhà bảo lãnh lớn, có uy tín.

24

4

CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 Phân tích tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

Nhƣ đã đề cập trong chƣơng 3, bài nghiên cứu này sẽ sử dụng CAR để đo

lƣờng tỷ suất sinh lợi bất thƣờng của các công ty IPO. Bảng 4.1 bao gồm giá trị trung

bình của CAR và kiểm định thống kê của chúng. Để xác định tỷ suất sinh lợi khác biệt

đáng kể với 0 chúng ta so sánh chúng với những giá trị tới hạn. Với mức độ tin cậy là

95% và 99%, giá trị tới hạn tƣơng ứng là +/– 1.96 và +/– 2.5758.

Giá trị trung bình CAR – tất cả các cổ phiếu IPO

Kết quả của sự kiện phân tích chia thành 2 phần, một phần bao gồm tỷ suất sinh

lợi nếu nhà đầu tƣ nắm giữ từ lúc phát hành, phần thứ 2 xem xét tỷ suất sinh lợi

sau giá mở cửa của ngày giao dịch đầu tiên. Underpricing (giá mở cửa/giá phát

hành), left on table (giá đóng cửa ngày đầu tiên/giá phát hành). Năm ngày đầu tiên

là tỷ suất sinh lợi hàng ngày tích lũy bắt đầu từ giá phát hành đến giá đóng cửa sau

5 ngày. Phần còn lại của bảng chỉ ra CAR ở những khoảng thời gian theo in đậm,

không bao gồm giá phát hành. Hậu sự kiện đƣợc tính từ ngày giao dịch thứ 6.

25

Bảng 4.1: Phân tích tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

Nhƣ chúng ta đã kỳ vọng, kết quả trong khoảng thời gian xảy ra sự kiện có

tính đến giá phát hành đều có ý nghĩa thống kê ở cả 2 mức độ tin cậy nêu trên. Nghĩa

là những công ty IPO có kinh nghiệm trong việc định dƣới giá đối với cổ phiếu của họ

khi phát hành ra công chúng. Các nhà đầu tƣ tham gia vào IPO ngay từ mức giá chào

bán đạt đƣợc mức lợi suất trung bình là 68.82% cho việc định dƣới giá hoặc 67.72%

nếu họ chờ đợi và bán cổ phiếu của họ ở mức giá đóng cửa của ngày giao dịch đầu

tiên. Tuy nhiên, tại ngày giao dịch đầu tiên, tỷ suất sinh lợi lại thấp hơn thị trƣờng.

Điều đáng ngạc nhiên là tỷ suất sinh lợi sau ngày giao dịch đầu tiên đã có dấu hiệu sụt

giảm đáng kể. Điều này chứng tỏ rằng thị trƣờng đã điều chỉnh lập tức cho những kỳ

vọng quá mức của nhà đầu tƣ. Sau năm ngày giao dịch đầu tiên, CAR của thị trƣờng

âm đáng kể – 71,90% so với giá phát hành ban đầu với mức ý nghĩa lên đến 1%. Điều

này đặt ra nghi vấn liệu thị trƣờng có phản ứng thái quá. Tuy nhiên nếu nhìn vào

underpricing và left on table thì sự sụt giảm nhƣ vậy là có thể chấp nhận. Theo Saro và

Chenine (2007) trong một nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng underpricing chỉ là

7.94%, trong khi tỷ suất sinh lời trong 5 ngày giao dịch đầu tiên bao gồm cả giá phát

hành là 8.49%, mẫu quan sát đƣợc thu thập tại thị trƣờng chứng khoán Mỹ. Từ những

kết quả trên cho thấy diễn biến hành vi đã ảnh hƣởng mạnh đến thị trƣờng chứng

26

khoán Việt Nam, các phản ứng tích cực và tiêu cực thái quá đều thể hiện qua kết quả

nghiên cứu này. Bốn ngày tiếp theo thị trƣờng vẫn tiếp tục trạng thái điều chỉnh nhƣ

ngày đầu tiên dẫn đến tỷ suất sinh lợi âm. Tuy nhiên nếu không tính đến giá phát hành

thì mức điều chỉnh này không lớn nếu so với cách tính bao gồm cả giá phát hành, và

có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa là 5%.

Nhìn vào CAR trung bình theo phƣơng pháp trung bình có trọng số (value

weighted) theo quy mô phát hành, cũng cho kết quả tƣơng tự nhƣng mức độ hiệu chỉnh

lớn hơn. Điều này cho thấy quy mô ảnh hƣởng khá lớn đến CAR theo phần phân tích

lý thuyết.

Phân tích giai đoạn hậu sự kiện cũng cho nhiều kết quả khác nhau. CAR trung

bình đƣợc tính theo phƣơng pháp bình quân giản đơn hầu hết đều cho kết quả âm.

Nghĩa là xét trong dài hạn hiệu quả của IPO là thấp, điều này có vẻ nhƣ tƣơng đồng

với một lý thuyết đã đƣợc nêu trong chƣơng 2. Tuy nhiên các kết quả này có các mức

độ tin cậy rất khác nhau. Do đó thực sự chƣa có bằng chứng thuyết phục cho sự tồn tại

của lý thuyết hiệu quả thấp trong dài hạn.

Khi đánh giá kết quả về tỷ suất sinh lợi bất thƣờng, bài nghiên cứu này tiếp

cận theo nhiều cách thức khác nhau, đó là đƣa vào trọng số quy mô khi tính các chỉ

tiêu bình quân. Các kết quả thu lại cũng có nhiều khác biệt đáng kể. Nếu xét trong dài

hạn thì CAR âm nếu đặt mốc tính ban đầu là 5 ngày sau ngày giao dịch đầu tiên.

Nhƣng nếu chỉ xét lũy kế từ năm 1 – 2 và năm 1 – 3 thì tỷ suất sinh lợi lại dƣơng. Điều

này ngụ ý là sau 5 ngày giao dịch đầu tiên, giá trị cổ phiếu vẫn chƣa trở về giá trị thực

của nó kể từ ngày IPO. Có nhiều nguyên nhân cho vấn đề này, nhƣng trong đó có một

nguyên nhân đáng kể là những quy định của thị trƣờng với biên độ giao dịch không

quá 5%. Các tỷ suất sinh lợi dƣơng này đều có ý nghĩa thống kê.

Thông qua 2 phƣơng pháp tính trên, chúng ta thấy có sự cách biệt khá lớn

chứng tỏ tồn tại một sự không ổn định trong mẫu quan sát mà cụ thể là quy mô công ty

IPO. Các mẫu quan sát thu thập trong bài nghiên cứu có quy mô khác nhau và độ lệch

tƣơng đối lớn (min: 37 tỷ – max: 243,785 tỷ). Do đó bài nghiên cứu sẽ tiếp cận gần

hơn với tỷ suất sinh lợi bất thƣờng thông qua việc tính toán theo từng nhóm quy mô.

Tôi tạm chia thành 4 nhóm tƣơng ứng với 4 quy mô khác nhau:

27

Dƣới 500 Tỷ Đồng: 18 công ty –

Từ 500 tỷ Đồng đến dƣới 3,000 tỷ Đồng: 24 công ty –

Từ 3,000 tỷ Đồng đến dƣới 5,000 tỷ Đồng: 5 công ty –

Trên 5,000 tỷ Đồng: 3 công ty –

Bảng 4.2: Phân tích tỷ suất sinh lợi bất thƣờng theo quy mô hoạt động

Kết quả cho thấy trong ngắn hạn, những công ty có quy mô lớn nhất là những

công ty có mức độ underpricing cao nhất, nhƣng lại có tỷ suất sinh lợi âm sau 5 ngày

giao dịch đầu tiên thấp nhất. Điều này có thể lý giải cho việc các nhà đầu tƣ đặt nhiều

niềm tin và kỳ vọng vào những công lớn là nhiều nhất. Các công ty có quy mô lớn

thƣờng có lịch sử hoạt động lâu đời, có tiếng nói trên thị trƣờng chiếm lĩnh nên các

thông tin đến các nhà đầu tƣ dƣờng nhƣ nhanh hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Do đó họ

bị định giá cao quá mức nhƣng cũng đồng nghĩa với mức độ sụt giảm không quá lớn.

Ngƣợc lại những công ty nhỏ, hoạt động IPO của họ cũng dƣờng nhƣ phát ra những tín

28

hiệu lạc quan về hoạt động của công ty trong những năm sắp tới nhƣng những tín hiệu

đó là chƣa đủ trong một thị trƣờng thiếu thông tin. Việc thông tin của các công ty nhỏ

đến nhà đầu tƣ còn hạn chế nên họ có cái nhìn hết sức cẩn trọng với những cổ phiếu

này. Những cổ phiếu này sẽ thích hợp hơn với các quỹ đầu tƣ mạo hiểm. Do đó các cổ

phiếu này không đƣợc đánh giá cao nên có mức độ underpricing thấp hơn những công

ty lớn. Ngoài ra khi chính thức niêm yết lên thị trƣờng, những công ty kiểu này lại trở

nên nhạy cảm hơn nên chỉ cần một vài thông tin không tốt hay do yếu tố thị trƣờng dễ

dàng ảnh hƣởng đến những cổ phiếu này. Do đó, cùng là tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

âm, nhƣng đối với nhóm cổ phiếu quy mô nhỏ nhất, mức độ âm là lớn nhất.

Các kết quả trong ngắn hạn khi có tính và không tính giá phát hành đều cho tỷ

suất sinh lợi bất thƣờng tích lũy âm ở tất cả các quy mô. Kết quả này giống nhƣ kết

quả mà chúng ta đã tính toán ở phần trƣớc. Các kết quả này hầu hết đều có ý nghĩa

thống kê chứng tỏ thị trƣờng Việt Nam tỏ ra hiệu chỉnh ngay lập tức trƣớc những lạc

quan thái quá của thị trƣờng.

Đối với nghiên cứu hậu sự kiện, cho thấy tỷ suất sinh lợi bất thƣờng tích lũy là

âm ở hầu hết các quy mô, điều này có nét tƣơng đồng với lý thuyết underperform của

các doanh nghiệp sau IPO từ 3 – 5 năm. Tuy nhiên các kết quả này hầu nhƣ không

đáng tin cậy khi không đạt đƣợc ý nghĩa thống kê. Do đó, có thể kết luận rằng không

có nhóm nào thể hiện tỷ suất sinh lợi bất thƣờng cao hay thấp hơn thị trƣờng sau năm

đầu tiên nghĩa là chúng không khác biệt nhiều với 0 trong dài hạn.

4.2 Hồi quy đa biến

4.2.1 Kết quả hồi quy trong ngắn hạn

Các cột sau đây cho thấy các hệ số và kiểm định thống kê của các biến giải

thích cho tỷ suất sinh lợi bất thƣờng trong ngắn hạn. Cột đầu tiên cho thấy các biến

giải thích và ba cột bên phải hiển thị các kết quả hồi quy cho tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng trong ngày đầu tiên, CAR trong 4 ngày tiếp theo và 5 ngày giao dịch đầu tiên.

Bên dƣới tham số của các biến là các kiểm định thống kê.

29

Bảng 4.3: Kết quả hồi quy trong ngắn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng không bao gồm giá phát hành)

Trong mô hình hồi quy thứ 1, chúng ta thu đƣợc một kết quả khả quan khi hầu

hết các biến giải thích đều có ý nghĩa thống kê với mức độ tin cậy cao 99%. Các biến

có độ tin cậy cao lần lƣợt là: quy mô công ty, sàn giao dịch, float, underpricing.

30

Biến quy mô công ty là biến có độ tin cậy 99% với hệ số ƣớc lƣợng bằng –

0.01. Điều này nghĩa là những công ty có quy mô lớn có tỷ suất sinh lợi bất thƣờng

thấp hơn những công ty nhỏ trong ngày đầu tiên. Điều này có vẻ ngƣợc lại với những

gì mà lý thuyết đã đƣa ra. Theo Gompers and Lerner 2003 thì những công ty lớn sẽ có

diễn biến gần hơn với thị trƣờng, trong khi những công ty nhỏ thì chứng kiến hiệu quả

kém hơn. Tuy nhiên tại thị trƣờng Việt Nam thì ghi nhận điều ngƣợc lại. Điều này có

thể lý giải nhƣ kết quả hồi quy của CAR ở phần phân tích sự kiện. Những công ty lớn

có underpricing quá cao ngay tại ngày giao dịch đầu tiên mà cụ thể là thời điểm giá mở

cửa, do đó ngay lập tức thị trƣờng điều chỉnh những kỳ vọng quá mức ấy dẫn đến giá

không chênh lệch nhiều vào cuối ngày khiến tỷ suất sinh lợi trong ngày đầu tiên trở

nên kém hấp dẫn với tỷ suất sinh lợi của thị trƣờng. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở

đây là biến độc lập là tỷ suất sinh lợi bất thƣờng trong ngày đầu tiên không bao gồm

giá phát hành, do đó mà diễn biến giá sẽ không có nhiều biến động lớn trong ngày đầu

tiên.

Float là biến có mức ý nghĩa là 1% với hệ số ƣớc lƣợng 0.26 ngụ ý rằng những

công ty tăng float lên 1 % thì TSSL tăng 0.26%. Điều này có vẻ mâu thuẫn với lý

thuyết giới hạn nguồn cung nhƣng tại thị trƣờng Việt Nam thì điều này hoàn toàn phù

hợp. Những đợt IPO với quy mô lớn diễn ra khá rầm rộ, các công ty liên tục tung ra

các cách thức tuyên truyền về hiệu quả hoạt động của công ty và tạo ra các tín hiệu

khiến nhà đầu tƣ có cái nhìn lạc quan về viễn cảnh tƣơi sáng của công ty. Do đó những

đợt IPO lớn thƣờng làm nhà đầu tƣ cảm thấy yên tâm nên nó dễ dàng đạt tỷ suất sinh

lợi cao hơn.

Thị trƣờng niêm yết cũng đóng một vai trò quan trọng đối với tỷ suất sinh lợi

bất thƣờng của công ty. Những cổ phiếu niêm yết trên sàn HOSE đƣợc dự báo có tỷ

suất sinh lời cao hơn trên HSX với mức ý nghĩa là 1%. Điều này là hoàn toàn phù hợp

vì mặc dù những điều kiện và quy định tại sàn HOSE thì gắt gao hơn nhƣng những cổ

phiếu này lại có tính thanh khoản cao hơn, doanh số mua bán lớn hơn nên tạo niềm tin

cho các nhà đầu tƣ.

Underpricing có tác động đến tỷ suất sinh lợi bất thƣờng của công ty với hệ số

ƣớc lƣợng –0.04, mức tin cậy là 5%, nghĩa là những cổ phiếu có underpricing tăng 1%

31

thì lợi suất bất thƣờng giảm 0.04%. Một lần nữa kết quả này có vẻ đi ngƣợc với những

phân tích khá chuyên sâu bên trên, nhƣng nếu quan tâm tới biến độc lập chúng ta thấy

rằng điều này là hợp lý, cách giải thích tƣơng tự nhƣ cách lý giải với quy mô công ty

nghĩa là những cổ phiếu bị định giá quá cao thì trong ngày giao dịch đầu tiên sẽ không

có sự biến động tăng giữa giá đóng cửa và giá mở cửa, đôi khi các biến động đó là

ngƣợc chiều do đó tỷ suất sinh lời giảm. Để chứng minh cho những suy luận của tôi

đƣa ra là đúng, phần tiếp theo tôi sẽ chạy mô hình hồi quy với biến độc lập là tỷ suất

sinh lợi bất thƣờng tích lũy có tính đến giá phát hành.

Các biến hồi quy còn lại hầu hết có tác động cùng chiều đối với tỷ suất sinh lợi

(ngoại trừ biến ngành) nhƣng lại không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa là 10%. R2 của mô hình bằng 0.37 và kiểm định F bằng 0.01 nghĩa là mô hình có khả năng giải

thích với độ tin cậy là 99%. Đây là một kết quả khá tốt.

Trong mô hình hồi quy thứ 2 chỉ có biến sàn giao dịch HOSE là có ý nghĩa

thống kê với mức ý nghĩa là 5%, hệ số tƣơng quan dƣơng với cách lập luận nhƣ trong

mô hình thứ nhất

Các biến còn lại không có ý nghĩa thống kê. R2 0.36, kiểm định F bằng 0.01

nghĩa nghĩa là mô hình có khả năng giải thích với độ tin cậy là 99%.

Trong mô hình hồi quy thứ 3 đo lƣờng tỷ suất sinh lợi bất thƣờng sau 5 ngày

giao dịch đầu tiên. Kết quả thu đƣợc tƣơng ứng với mô hình đầu tiên với các biến giải

thích có ý nghĩa tin cậy lần lƣợt là quy mô công ty, sàn giao dịch HOSE, underpricing và có mức độ tƣơng quan nhƣ mô hình đầu tiên. R2 0.45, kiểm định F bằng 0.00 nghĩa

nghĩa là mô hình có khả năng giải thích với độ tin cậy là 99%. Đây cũng mô hình có ý nghĩa kiểm định cao nhất trong các phƣơng trình hồi quy trong ngắn hạn. R2

Điều đáng tiếc là một số biến trong mô hình đã không có ý nghĩa thống kê khi

chạy trên dữ liệu thị trƣờng Việt Nam, nhƣng xét trên khía cạnh lý thuyết và kiểm định

thực nghiệm ở các thị trƣờng khác, nó là những biến giải thích đáng tin cậy. Ví dụ,

biến tỷ suất sinh lợi của thị trƣờng vào tháng trƣớc, nếu hệ số này dƣơng có thể đƣợc

hiểu nhƣ thị trƣờng đang phát triển mạnh và nhà đầu tƣ thì lạc quan hơn và định giá

cao hơn. Điều này hỗ trợ cho lý thuyết đinh thời điểm phát hành mà nhiều nhà đầu tƣ

và công ty phát hành đã sử dụng rất thành công khi định thời điểm tham gia thị trƣờng.

32

Hay biến Khối lƣợng giao dịch trong ngày đầu tiên trên cổ phiểu phát hành, theo kỳ

vọng, đợt IPO với khối lƣợng giao dịch cao so với cổ phiếu phát hành sẽ đạt đƣợc tỷ

suất sinh lợi ban đầu cao. Đây là hai đặc tính của những đợt IPO gây sốt khi mà tồn tại

các nhà đầu tƣ quan tâm đáng kể dẫn đến cầu cao và giá tăng. Ngoài ra, biến nhà bảo

lãnh phát hành cũng là biến có khả năng giải thích. Nếu những công ty IPO đƣợc bảo

lãnh bởi những nhà bảo lãnh uy tín thì vấn đề bất cân xứng thông tin sẽ đƣợc hạn chế.

Ngoài ra, nhà bảo lãnh còn đóng vai trò nhƣ nhà tạo lập thị trƣờng hay ngƣời mua cuối

cùng nên những đợt phát hành đƣợc thực hiện bởi những nhà bảo lãnh lớn chỉ ra

underpricing cao không đáng kể. Điều này là do các nhà đầu tƣ sẵn sang tham gia vào

các đợt phát hành để tạo ra cầu cao hơn đối với những cổ phiếu mới. Thật đáng tiếc là

mô hình này chạy ở thị trƣờng Việt Nam với những biến giải thích hết sức hợp lý

nhƣng lại không có ý nghĩa thống kê.

Đề cập tới p–value và F–statistic cho những phƣơng trình hồi quy, chúng ta có

thể suy luận thông qua các kiểm định rằng các phƣơng trình hồi quy thì có ý nghĩa. Vì

vậy chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết H0 rằng tất cả các hệ số bằng 0 và mô hình có khả năng giải thích. R2 của phƣơng trình hồi quy có thể tăng nếu đƣa thêm vào các

biến khác không có trong mô hình của chúng ta.

Để bài phân tích có thể có nhiều gốc nhìn khác nhau, phần tiếp theo sẽ là mô

hình hồi quy nhƣng biến độc lập có thay đổi bằng cách thêm vào giá phát hành để

kiểm định các lý thuyết đã đƣa ra trong những phân tích trƣớc

33

Bảng 4.4: Kết quả hồi quy trong ngắn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng bao gồm giá phát hành)

34

Kết quả hồi quy trên là minh chứng cho lý thuyết underpricing. Các tham số

của biến underpricing cho ra kết dƣơng và có ý nghĩa thống kê ở mức là 5% ngụ ý

rằng những cổ phiếu mà mức độ underpricing càng lớn thì hiệu quả càng cao.

Trong mô hình hồi quy này cho các kết quả tƣơng tự với mô hình đầu tiên

nhƣng xuất hiện một biến mới có ý nghĩa thống kê là khối lƣợng giao dịch của ngày

đầu tiên trên số lƣợng cổ phiếu phát hành. Hệ số này âm và có ý nghĩa thống kê ở mức

5%.

Các kết quả hồi quy ở mô hình này đều có mức ý nghĩa và hệ số R2 cao hơn

mô hình đầu tiên ngụ ý mức độ đáng tin cậy hơn.

4.2.2 Kết quả hồi quy trong dài hạn

Phƣơng trình hồi quy trong dài hạn đối với CAR đƣợc thể hiện trong các cột

sau. Cột 1 chỉ ra kết quả hồi quy của CAR cho năm đầu tiên sau sự kiện phát hành. Cột

thứ 2 và 3 chỉ ra CAR trong năm thứ 2 và 3. Các giá trị kiểm định thống kê chỉ ra

tƣơng ứng phía dƣới các chỉ số.

35

Bảng 4.5: Kết quả hồi quy trong dài hạn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng không bao gồm giá phát hành)

Đối với mô hình hồi quy đa biến trong dài hạn, dƣờng nhƣ các biến đƣa vào

không đạt đƣợc mức độ tin cậy nhƣ kỳ vọng. Cụ thể, trong năm đầu tiên, chỉ có biến

ngành là biến có ý nghĩa với mức độ tin cậy là 90%. Điều đáng ngạc nhiên là các biến

36

rất có ý nghĩa giải thích trong ngắn hạn lại không có khả năng giải thích trong dài hạn

nhƣ quy mô công ty, thị trƣờng niêm yết, underpricing … Ngƣợc lại biến ngành không

có ý nghĩa trong mô hình ngắn hạn lại có khả năng giải thích trong dài hạn. Hệ số hồi

quy dƣơng đƣợc giải thích là những công ty thuộc lĩnh vực xây dựng & bất động sản

và sản xuất có tỷ suất sinh lợi cao hơn 34%. Nhìn vào dữ liệu lịch sử chúng ta thấy

điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Ngành xây dựng và bất động sản đã từng

chứng kiến một giai đoạn đột biến, khiến một số tên tuổi trong lĩnh vực này đƣợc xếp

vào top những ngƣời giàu nhất sàn chứng khoán. Ngoài ra ngành sản xuất là ngành

khá phổ biến và chia thành những phân nhóm nhỏ. Nhìn chung ngành sản xuất thƣờng

có quy mô lớn, ổn định và thời gian tồn tại lâu dài, dễ tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tƣ. Đây là một kết quả hết sức thù vị. R2 trong năm đầu tiên bằng 0.17 và kiểm

định F là 0.38. Đây là mức kiểm định khá thấp và hầu nhƣ không đạt ý nghĩa thống kê.

Trong năm thứ 2, các biến đƣa vào mô hình đều không có ý nghĩa thống kê.

Trong năm thứ 3, chỉ có biến Float là có ý nghĩa thống kê với hệ số tƣơng

quan âm. Điều này chứng tỏ cho lý thuyết nguồn cung bị giới hạn vẫn đúng trong dài hạn. R2 trong năm thứ 3 bằng 0.29 và kiểm định F là 0.01 chứng tỏ mô hình đạt độ tin

cậy với mức ý nghĩa thống kê là 1%.

Tƣơng tự nhƣ trong phân tích ngắn hạn, trong dài hạn tôi cũng tiến hành chạy

hồi quy với biến độc lập có bao gồm giá phát hành nhằm mục đích tìm ra các biến giải

thích có ý nghĩa thống kê.

37

Bảng 4.6: Kết quả hồi quy trong dài hạn hạn (Biến độc lập – Tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng không bao gồm giá phát hành)

Kết quả hồi quy trên cho thấy nhiều biến có khả năng giải thích tỷ suất sinh lợi

bất thƣờng trong dài hạn. Ấn tƣợng nhất là biến Underpricing, biến này có khả năng

giải thích đến 95% rằng những công ty có mức độ underpricing càng cao thì tỷ suất

sinh lợi bất thƣờng tích lũy càng lớn. Điều này đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu cố gắng

chứng minh và trong bài nghiên cứu này lại một lần nữa làm vững chắc hơn lý thuyết

38

đó. Vấn đề là underpricing không những có tác động trong ngắn hạn mà cả trong dài

hạn. Đâu là một bài toán khá đau đầu cho các nhà quản lý trong việc xem xét mức giá

IPO vì rõ ràng đây là một bài toán đánh đổi.

Float là một biến có khả năng giải thích tƣơng đối tốt đối với tỷ suất sinh lợi.

Có một điều khác biệt ở thị trƣờng Việt Nam và các thị trƣờng khác khi mà lý thuyết

giới hạn nguồn cung tỏ ra không hiệu quả. Ngƣợc lại lý thuyết tài chính hành vi dễ

dàng giải thích hơn. Đó là lý do tại sao những đoẹt IPO với quy mô càng lớn thì dễ

dàng đạt đƣợc tỷ suất sinh lợi cao hơn.

Các kết quả hồi quy đối với mô hình này đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%

chúng tỏ mô hình giải thích khá tốt, R2 đều trên 50%.

39

5

CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN

Mục tiêu của bài nghiên cứu này là khám phá tác động của yếu tố hành vi lên

tỷ suất sinh lợi cổ phiếu IPO và giải thích hành vi này trong mối quan hệ với lý thuyết

thị trƣờng hiệu quả. Trong ngắn hạn, tôi tìm thấy mức độ Underpring của các cổ phiếu

IPO với độ tin cậy cao, tuy nhiên ngay trong ngắn hạn mà cụ thể là trong vòng 5 ngày

giao dịch đầu tiên thị trƣờng lập tức hiệu chỉnh dẫn đến tỷ suất sinh lợi âm trong suốt

sự kiện quan sát. Các mức tỷ suất sinh lợi âm này đều đạt mức ý nghĩa thống kê ngụ ý

rằng thị trƣờng thì không hiệu quả trong ngắn hạn. Đối với hậu sự kiện, tôi cũng sử

dụng phƣơng pháp và kiểm định tƣơng tự nhƣng thu đƣợc các kết quả khác nhau. Tôi

sử dụng đồng thời 2 phƣơng pháp tính trung bình là trung bình giản đơn (equally

weight) và trung bình theo trọng số quy mô (equally weight) và thu đƣợc những kết

quả khác nhau. Các kết quả theo phƣơng pháp trọng số dƣờng nhƣ khếch đại giá trị so

với phƣơng pháp giản đơn. Điều đó chứng tỏ sự cách biệt khá lớn trong mẫu quan sát.

Do đó một lần nữa tôi tính lại các chỉ tiêu trên tại các móc thời gian nhƣ nhau theo

từng nhóm quy mô. Kết quả cho rằng tồn tại bằng chứng chứng tỏ Underpricing với

mức độ cao nhƣng gặp thất bại trong việc bác bỏ CAR bằng 0 trong dài hạn, do đó kết

quả của tôi dẫn đến kết luận thị trƣờng hiệu quả trong dài hạn.

Liên quan đến các biến đƣợc sử dụng để giải thích các biến động của CAR

theo thời gian. Phƣơng trình hồi quy có mức độ ý nghĩa từ 1% – 5% chứng tỏ có mức

độ tin cậy cao, tuy nhiên nó chỉ hiệu quả trong việc giải thích các yếu tố tác động trong

ngắn hạn. Cụ thể, quy mô công ty, thị trƣờng giao dịch, Underpricing là những biến có

tác động mạnh mẽ đến tỷ suất sinh lợi bất thƣờng trong ngắn hạn. Điều đáng ngạc

nhiên là những công ty có quy mô nhỏ thì lại đạt đƣợc tỷ suất sinh lợi bất thƣờng hơn

những công ty lớn. Điều này ngụ ý những công ty lớn đã bị định giá quá cao tại mức

giá mở cửa của ngày giao dịch đầu tiên dẫn đến sự bứt phá trong những ngày tiếp theo

là rất thấp. Ngoài ra, mô hình cũng đƣa ra những kết quả rất thú vị, những cổ phiếu

niêm yết trên sàn HOSE thì dễ dàng đạt tỷ suất sinh lợi bất thƣờng cao hơn so với

những cổ phiếu niêm yết trên HSX. Đây cũng có thể là một gợi ý rất hữu ích cho các

nhà phát hành.

40

Trong dài hạn, đối với mô hình hồi quy mà biến độc lập là tỷ suất sinh lợi bất

thƣờng tích lũy không bao gồm giá phát hành, các biến đƣa vào mô hình tỏ ra kém

hiệu quả trong việc giải thích các nhân tố tác động. Chỉ duy nhất biến Float có ý nghĩa

thống kê 10% có khả năng giải thích, ngụ ý rằng các đợt phát hành với số lƣợng ít sẽ

dễ dàng đạt tỷ suất sinh lợi bất thƣờng cao hơn trong dài hạn. Tuy nhiên đối với

phƣơng pháp biến độc lập có bao gồm giá phát hành, các kết quả thu đƣợc tỏ ra thú vị

hơn. Các biến đƣa vào mô hình có ý nghĩa giải thích cao hơn, underpricing, float là

biến có ý nghĩa giải thích xuyên suốt. Những cổ phiếu có mức độ underpricing càng

cao, quy mô phát hành càng lớn thì tỷ suất sinh lợi bất thƣờng mang lại càng lớn. Đây

là một gợi ý khá thú vị cho các nhà quản lý trong việc xem xét phát hành cổ phiếu ra

công chứng.

Nhìn chung bài nghiên cứu đã đƣa ra đƣợc một mô hình đáng tin cậy về việc

kiểm định tác động của yếu tố hành vi lên tỷ suất sinh lợi từ IPO với thị trƣờng hiệu

quả cũng nhƣ giải thích các tác động đến tỷ suất sinh lợi IPO, tuy nhiên bài nghiên cứu

cũng mắc phải các hạn chế là số lƣợng mẫu nhỏ so với số lƣợng cổ phiếu niêm yết trên

thị trƣờng, không chia nhỏ ra các giai đoạn khác nhau do những hạn chế trong việc thu

thập số liệu đã nêu ở phần đầu. Do đó, hƣớng đề xuất tiếp theo là cải thiện kích thƣớc

mẫu, phân chia các giai đoạn khác nhau để cho thấy yếu tố thị trƣờng có ảnh hƣởng

trực tiếp đến chất lƣợng phát hành. Ngoài ra, để mô hình đáng hoàn thiện hơn tôi đề

xuất nghiên cứu thêm các đặc tính của công ty có ảnh hƣởng đến hiệu quả của IPO

nhƣ: P/E, ROE của cổ phiếu trƣớc IPO, thành phần nhà đầu tƣ tham gia IPO (cá

nhân/tổ chức), ....

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nƣớc

1. Trần Ngọc Thơ, “Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, nhà xuất bản Thống kê

Tài liệu nƣớc ngoài

1. Aggarwal, R., 2003. Allocation of initial public offerings and .ipping activity.

Journal of Financial Economics 68, 111–135.

2. Brav, A., Geczy, C., and Gompers, P.A., 2000. Is the abnormal return following

equity issuances anomalous? Journal of Financial Economics 56, 209–249.

3. Brav, A. and Gompers, P.A., 1997. Myth or reality? The long run

underperformance of initial public offerings: Evidence from venture and

nonventure capital-backed companies, Journal of Finance 52, 1791–1821.

4. Ellis, K., 2006. Who trades IPOs? A close look at the first days of trading,

Journal of Financial Economics 79, 339–363

5. Fama, E.F., 1998. Market efficiency, long-term returns, and behavioral finance,

Journal of Financial Economics 49, 283–306.

6. Fernando Belden Saro, Mohammad Tayseer Chenine, 2007. Return Behavior of

Initial Public Offerings and Market Efficiency.

7. Geczy, C., Musto, D., Reed, A., 2002. Stocks are special too: an analysis of the

equity lending market. Journal of Financial Economics 66, 241–269.

8. Gompers, P. A., and Lerner, J., 2003, The really long-run performance of initial

public offerings: The pre-Nasdaq evidence, Journal of Finance 58, 1355–1392.

9. Loughran, T., Ritter, J.R. and Rydqvist, K., 1994, Initial public offerings:

International insights, Pacific-Basic Journal of Finance 2, 165–199.

10. Mayshar, J., 1983. On divergence of opinion and imperfections in capital

markets, American Economic Review 73, 114–128.

11. Miller, E.M., 1977. Risk, uncertainty and divergence of opinion, Journal of

Finance 32, 1151–1168.

12. Ogden, J.P., Jen, F.C. and O’Connor, P.F., 2003, Advanced Corporate Finance:

Policies and Strategies, Prentice Hall.

13. Purnanandam, A.K. and Swaminathan, B., 2004. Are IPOs really underpriced?

Review of Financial Studies 17, 811–848.

14. Ritter, J.R., 1991. The long run performance of initial public offerings, Journal

of Finance 46, 3–27.

15. Rock, K., 1986, Why new issues are underpriced, Journal of Financial

Economics 15, 187–212.

16. Zheng, S., 2007. Market underreaction to free cash flows from IPOs. The

Financial eview 42, 75-97

Và nhiều tài liệu, website khác nhƣ:

http://www.hsx.vn

http://hnx.vn

http://vietstock.vn

http://cafef.vn

http://www.investopedia.com/

http://scholar.google.com.vn/