BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ----------------
CHU THỊ PHƯƠNG HẠNH
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ VĨ MÔ LÊN TỶ SUẤT SINH LỢI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng Mã số:
60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN NGỌC ĐỊNH
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả của quá trình học tập,
nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của Tôi. Các số liệu trong luận văn là trung
thực, chính xác và đƣợc thu thập từ những nguồn chính thống và đáng tin cậy.
Tôi cam đoan rằng luận văn này chƣa đƣợc công bố trên bất kỳ một công trình
nghiên cứu nào.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013
Tác giả
Chu Thị Phƣơng Hạnh
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ......................................................................................... 1
Lý do nghiên cứu ........................................................................................... 1 1.1
Vấn đề nghiên cứu ......................................................................................... 2 1.2
Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu .................................................................... 3 1.3
Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 3 1.4
Ý nghĩa của đề tài........................................................................................... 5 1.5
Kết cấu luận văn ............................................................................................. 5 1.6
CHƢƠNG 2. CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY ................................................... 6
Trên thế giới ................................................................................................... 6 2.1
Tại Việt Nam ................................................................................................ 17 2.2
Kết luận chƣơng hai ..................................................................................... 18 2.3
CHƢƠNG 3. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 21
Phƣơng pháp nghiên cứu.............................................................................. 21 3.1
Dữ liệu .......................................................................................................... 24 3.2
Kết luận chƣơng ba ...................................................................................... 29 3.3
CHƢƠNG 4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................... 31
Thống kê mô tả các biến nghiên cứu ........................................................... 31 4.1
Kết quả thực nghiệm và giải thích ............................................................... 35 4.2
4.3 Kết luận chƣơng bốn .................................................................................... 47
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN, GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ HẠN CHẾ ....................... 48
5.1 Kết luận ........................................................................................................ 48
5.2 Gợi ý chính sách ........................................................................................... 49
5.2.1 Chính sách tiền tệ phải đƣợc điều hành độc lập bởi NHNN ........................ 49
5.2.2 Tái cấu trúc nền kinh tế để chính sách hiệu quả .......................................... 50
5.2.3 Hƣớng đến một TTCK hiệu quả về thông tin .............................................. 51
5.3 Hạn chế của bài nghiên cứu ......................................................................... 53
5.4 Kết luận chƣơng năm ................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 55
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 59
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CPI : Chỉ số giá tiêu dùng
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HNX : SGDCK Hà Nội
HOSE : SGDCK thành phố Hồ Chí Minh
NHTM : Ngân hàng thƣơng mại
NHNN : Ngân hàng nhà nƣớc
NHTW : Ngân hàng trung ƣơng
NĐT : Nhà đầu tƣ
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
TTCK : Thị trƣờng chứng khoán
VND : Việt Nam đồng
USD : Đồng đôla Mỹ.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng tóm tắt kết quả tƣơng quan giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô với tỷ
suất sinh lợi TTCK trong các nghiên cứu trƣớc đây
Bảng 3.1. Các biến trong mô hình gốc
Bảng 3.2. Các biến trong mô hình sau khi biến đổi
Bảng 4.1. Thống kê chỉ số giá TTCK Việt Nam RTR và các biến kinh tế vĩ mô
RMS2, RGDP, CPI, E1 và IR
Bảng 4.2. Kết quả Unit Root Test cho RTR và các biến kinh tế vĩ mô
Bảng 4.3. Ƣớc lƣợng OLS về tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh
lợi của chỉ số giá TTCK trong giai đoạn (01/2004 – 12/2012). Biến phụ
thuộc: LRTR
Bảng 4.4. Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến độc lập
Bảng 4.5. Kết quả kiểm định ARCH
Bảng 4.6. Tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi chỉ số giá TTCK
Việt Nam đƣợc kiểm tra bằng phƣơng pháp: ML – ARCH (Marquardt):
ARCH (1) ƣớc lƣợng cho giai đoạn: (01/2004 – 12/2012). Biến phụ
thuộc: LRTR.
Bảng 4.7. Tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi chỉ số giá TTCK
Việt Nam đƣợc kiểm tra bằng phƣơng pháp: ML – ARCH (Marquardt):
ARCH (1)/GARCH (1) ƣớc lƣợng cho giai đoạn: (01/2004 – 12/2012).
Biến phụ thuộc: LRTR.
TÓM TẮT
Thị trƣờng chứng khoán là một định chế tài chính cao nhất của một nền kinh tế phát
triển. Những biến động thăng trầm của thị trƣờng với những rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận
vƣợt trội luôn là những chủ đề hấp dẫn cho các nghiên cứu kinh tế cũng nhƣ cho các nhà
đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán. Tuy nhiên, những nghiên cứu thực nghiệm trên thế
giới cũng nhƣ tại Việt Nam về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thị trƣờng
chứng khoán cho thấy các kết quả nghiên cứu có nhiều khác biệt giữa các thị trƣờng,
thậm chí có kết quả trái chiều nhau. Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài
“Tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam” nhằm mục tiêu điều tra tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng nhƣ các sự
kiện nhƣ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lên tỷ suất sinh lợi thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam, sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian theo tháng từ năm 2004 đến năm
2012. Bài nghiên cứu sử dụng năm nhân tố kinh tế vĩ mô, bao gồm: cung tiền thực
(RMS2), tổng sản phẩm quốc nội thực (RGDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái
thực (E1), lãi suất cho vay (IR) và một biến giả (DUM). Mô hình ƣớc lƣợng OLS,
ARCH/GARCH đƣợc sử dụng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy ƣớc lƣợng OLS thì không hiệu quả do sự tồn tại hiện
tƣợng tự tƣơng quan và đa cộng tuyến. Vì vậy, nghiên cứu đã sử dụng mô hình ƣớc lƣợng
ARCH/GARCH. Sự mở rộng đến mô hình GARCH (1, 1) là tốt nhất. Các kết quả của mô
hình ƣớc lƣợng GARCH (1, 1) cho thấy cung tiền thực (RMS2), lãi suất cho vay (IR) có
tƣơng quan đồng biến với tỷ suất sinh lợi thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Trong khi
đó, hoạt động kinh tế thực (RGDP), lạm phát (CPI), tỷ giá hối đoái thực (E1) và biến giả
có tƣơng quan nghịch biến với tỷ suất sinh lợi thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Tuy
nhiên, hai biến hoạt động kinh tế thực (RGDP) và lạm phát (CPI) không có ý nghĩa về
mặt thống kê tại mức ý nghĩa 10%.
1
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1. Lý do nghiên cứu:
Thị trƣờng chứng khoán đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, bởi
vì nó đƣợc xem là rất hữu ích trong việc huy động và đa dạng hóa các khoản tiết kiệm
trong nƣớc và vốn nƣớc ngoài vào đầu tƣ sản xuất, thúc đẩy sự hình thành vốn, duy trì
tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Gurley & Shaw (1967) nhấn mạnh tầm quan trọng của
các trung gian tài chính trong việc huy động các khoản tiết kiệm vào đầu tƣ. Shaw (1973)
cũng nhấn mạnh vào các vai trò của tự do hóa tài chính trong việc kích thích tiết kiệm
trong nƣớc và đầu tƣ, thông qua việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực, và do đó thúc đẩy
tăng trƣởng và phát triển kinh tế.
Các nghiên cứu trƣớc đây về mối liên kết giữa giá các tài sản tài chính và các biến
kinh tế vĩ mô khác nhau trong thập niên tám mƣơi lập luận rằng giá tài sản tài chính
thƣờng xuyên phản ứng với sự biến đổi của các yếu tố kinh tế vĩ mô nhƣ chỉ số sản xuất,
lãi suất, lạm phát, tổng sản phẩm trong nƣớc, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, vv (Fama,
1981, 1990; Chen và các cộng sự, 1986). Những phát hiện này cho thấy rằng những thay
đổi trong kinh tế vĩ mô có thể dự đoán sự thay đổi TTCK.
Tầm quan trọng của nghiên cứu này bắt nguồn từ thực tế là các trung gian tài chính
đóng một vai trò quan trọng trong tăng trƣởng kinh tế. Bên cạnh đó, những nghiên cứu
thực nghiệm trên thế giới cũng nhƣ tại Việt Nam về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ
mô đến TTCK cho thấy các kết quả nghiên cứu có nhiều khác biệt giữa các thị trƣờng,
thậm chí có kết quả trái chiều nhau. Chính vì lý do đó, đề tài “Tác động của các nhân tố
kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam” đƣợc chọn để nghiên cứu nhằm mục
tiêu điều tra tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng nhƣ các sự kiện nhƣ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam.
2
1.2. Vấn đề nghiên cứu:
Thị trƣờng chứng khoán Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2000, đến nay
thị trƣờng đã trải qua 12 năm hình thành và phát triển. Với mô hình hoạt động đầu tiên là
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh khai trƣơng vào tháng 07/2000
và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào tháng 03/2005, đây là hai sàn giao dịch
chứng khoán thứ cấp, giao dịch chứng khoán tập trung của Việt Nam. Đến tháng 05/2007,
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chuyển đổi thành SGDCK
thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và đến cuối năm 2007 Trung tâm giao dịch chứng khoán
Hà Nội cũng đƣợc chuyển đổi thành SGDCK Hà Nội (HNX). Từ ngày 24/06/2009, thị
trƣờng Upcom cũng đƣợc đƣa vào vận hành trên HNX, cho phép cổ phiếu của các Công
ty đại chúng chƣa niêm yết đƣợc giao dịch qua hệ thống có quản lý.
Sau khi hình thành và đi vào hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp
nhất định cho nền kinh tế. Vào cuối năm 2012, tổng vốn hóa thị trƣờng trên TTCK Việt
Nam đạt mức 756.000 tỷ đồng, tăng 226.000 tỷ đồng so với cuối năm 2011 và bằng 26%
GDP. Nhìn lại chặng đƣờng đã qua, TTCK Việt Nam đƣợc đánh giá là có tốc độ tăng
trƣởng theo cấp số nhân do những thành tựu đạt đƣợc, song vẫn còn những hạn chế không
thể tránh khỏi của một thị trƣờng mới nổi, đang phát triển. Bên cạnh những giai đoạn tăng
trƣởng nóng, TTCK Việt Nam cũng thƣờng rơi vào trạng thái mất cân bằng, chỉ số giá
chứng khoán liên tục sụt giảm. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã khiến
cho kinh tế Việt Nam phải đƣơng đầu với nhiều thách thức. Những thông tin tiêu cực về
kinh tế vĩ mô đã tác động mạnh đến TTCK, khiến cho TTCK sụt giảm mạnh.
Đứng trƣớc tình hình nhƣ vậy, vấn đề nghiên cứu của đề tài “Tác động của các nhân
tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam” trên cơ sở các nghiên cứu trƣớc đây trên
thế giới cũng nhƣ tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này khác với các nghiên cứu trƣớc
đây trong nhiều khía cạnh nhƣ sử dụng các biến kinh tế vĩ mô khác với các định nghĩa
khác, cụ thể là: cung tiền thực, tổng sản phẩm quốc nội thực, lạm phát, tỷ giá hối đoái
3
thực, lãi suất cho vay và bao gồm các yếu tố phi kinh tế vĩ mô – biến giả. Nghiên cứu này
cũng kết hợp một khoảng thời gian dài với các dữ liệu hàng tháng mới nhất. Việc lựa
chọn thời gian lấy mẫu hàng tháng nhằm mục đích nắm bắt chuyển động dài hạn của tỷ
suất sinh lợi TTCK Việt Nam.
Mô hình sử dụng là mô hình ARCH/GARCH - mô hình khá phổ biến trong ngành
tài chính để dự báo rủi ro. Mô hình này dùng để dự báo độ dao động suất sinh lời của cổ
phiếu theo thời gian. Mô hình ARCH (Autogressive Conditional Heteroskedasticity) đƣợc
giới thiệu bởi Engle (1982, 1983). Mô hình GARCH (Generalised Autogressive
Conditional Heteroskedasticity) đƣợc Engle và Bollerslev (1986) mở rộng từ mô hình
ARCH để khắc phục những hạn chế của ARCH. Ngày nay, GARCH đƣợc sử dụng một
cách phổ biến và phù hợp với số liệu chuỗi thời gian ngắn nhƣ giá cổ phiếu trên thị
trƣờng.
1.3. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là điều tra tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô
cũng nhƣ các sự kiện nhƣ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lên tỷ suất sinh
lợi TTCK Việt Nam.
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu này, đề tài tập trung trả lời những câu hỏi nghiên
cứu quan trọng sau đây:
Một là, tỷ suất sinh lợi của TTCK Việt Nam có chịu tác động của các nhân tố kinh tế
vĩ mô hay không?
Hai là, các sự kiện nhƣ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có tác động
nhƣ thế nào đến tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam?
1.4. Phạm vi nghiên cứu:
Dữ liệu hàng tháng của tỷ suất sinh lợi TTCK và các nhân tố kinh tế vĩ mô đƣợc lựa
chọn trong suốt giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2012 đƣợc thu thập từ cơ sở dữ liệu thống
4
kê của SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO) và
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Sở dĩ khoảng thời gian chọn biến là từ tháng 01/2004 đến
tháng 12/2012 (tổng cộng 108 quan sát) là do hạn chế trong việc tiếp cận các số liệu quá
khứ trƣớc đó, hơn nữa tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2003
TTCK hầu nhƣ chỉ hoạt động cầm chừng (có chƣa tới 20 mã chứng khoán, giao dịch chỉ
ba ngày/tuần) cũng nhƣ không gây đƣợc nhiều chú ý với các NĐT nên việc sử dụng số
liệu thời kỳ này cũng kém hiệu quả.
Dữ liệu thể hiện tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam là chỉ số giá VN-Index, đại diện
cho chỉ số giá của TTCK Việt Nam, chỉ số giá đƣợc chọn là chỉ số giá đóng cửa của ngày
cuối cùng trong tháng đƣợc thu thập từ cơ sở dữ liệu thống kê của HOSE. Chỉ số giá VN-
Index thực bằng chỉ số giá VN-Index chia cho chỉ số giá tiêu dùng.
Cung tiền thực bằng cung tiền danh nghĩa chia cho chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền
danh nghĩa hàng tháng đƣợc thu thập từ cơ sở dữ liệu thống kê của IMF.
Tổng sản phẩm quốc nội thực bằng tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa chia cho chỉ
số giá tiêu dùng. GDP danh nghĩa hàng quý đƣợc thu thập từ cơ sở dữ liệu thống kê của
IMF. GDP danh nghĩa theo tháng đƣợc tạo ra từ tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa theo
quý bằng việc sử dụng phần mềm Eview 6.
Chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng do Tổng cục thống kê Việt Nam công bố.
Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái VND/USD danh nghĩa nhân với hệ số mức
giá trong nƣớc trên mức giá nƣớc ngoài (Pd/Pf), giá trị đƣợc chọn là giá trị vào ngày cuối
tháng đƣợc thu thập từ cơ sở dữ liệu thống kê của IMF.
Lãi suất đƣợc sử dụng là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân cuối tháng của bốn
ngân hàng thƣơng mại lớn thuộc sở hữu Nhà nƣớc. Dữ liệu này đƣợc thu thập từ cơ sở dữ
liệu thống kê của IMF. Bài nghiên cứu sử dụng lãi suất danh nghĩa hơn là lãi suất thực
giống nhƣ Gjerde và các cộng sự (1999).
5
Biến giả DUM là để nắm bắt tác động của các nhân tố phi kinh tế vĩ mô lên tỷ suất
sinh lợi cổ phiếu. Dum có giá trị là 1 trong giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008 (từ tháng 11/2007 đến tháng 2/2009 – giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008 ảnh hƣởng đến TTCK Việt Nam). Ngoài giai đoạn này, Dum có giá trị
là 0.
1.5. Ý nghĩa của đề tài:
Thông qua kiểm định trong thực tế, luận văn đã đƣa ra đƣợc con số tƣơng đối chính
xác về sự tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam,
giúp đƣa ra cái nhìn chung đầu tiên khi có những thay đổi trong chính sách vĩ mô nhƣ
cung tiền, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, … Qua đó, đề ra các giải pháp nhằm giúp cho các nhà
hoạch định chính sách xây dựng và hoàn thiện các chính sách điều hành và quản lý kinh
tế vĩ mô một cách ổn định và nhất quán, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nói chung và TTCK
nói riêng. Từ đó, cũng giúp cho việc dự báo các nhân tố kinh tế vĩ mô đƣợc chính xác và
hạn chế đƣợc những tác động bất thƣờng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến TTCK Việt
Nam.
1.6. Kết cấu luận văn:
Luận văn đƣợc chia thành 5 chƣơng với nội dung cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Giới thiệu
Chƣơng 2: Các nghiên cứu trƣớc đây
Chƣơng 3: Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu
Chƣơng 5: Kết luận, gợi ý chính sách và hạn chế.
6
CHƢƠNG 2. CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY
2.1. Trên thế giới:
Các nhân tố kinh tế vĩ mô có vai trò rất quan trọng đối với tỷ suất sinh lợi của
TTCK. Việc nghiên cứu về tác động của các nhân tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK
đƣợc bắt đầu vào cuối những năm 1970.
Ross (1976) đã giới thiệu Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá Arbitrage Pricing
Theory (APT) để giải thích tỷ suất sinh lợi trên TTCK. Lý thuyết APT đã liên kết tỷ suất
sinh lợi TTCK với nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô. Lý thuyết cho rằng tỷ suất sinh lợi kỳ
vọng của chứng khoán đƣợc xác định bằng phƣơng trình k nhân tố: Rj = aj + βj,1 F2 + ... +
βj,K FK + uj, trong đó các nhân tố có thể là nhân tố kinh tế vĩ mô hoặc nhân tố kinh tế vi
mô.
Fama và Schwet (1977) đã kiểm tra mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi TTCK Mỹ và
các nhân tố kinh tế vĩ mô. Các kết quả cho thấy một mối quan hệ đồng biến giữa độ bất
ổn của kinh tế vĩ mô và độ bất ổn của tỷ suất sinh lợi TTCK.
Một nghiên cứu bổ sung đƣợc thực hiện bởi Fama (1981) kết luận rằng tồn tại một
mối quan hệ nghịch biến giữa tỷ suất sinh lợi TTCK và lạm phát, trong khi đó có một mối
quan hệ đồng biến giữa tỷ suất sinh lợi TTCK và hoạt động kinh tế thực. Fama (1981) lập
luận rằng một sự gia tăng trong hoạt động kinh tế thực sẽ kích thích cầu về tiền, do đó tạo
ra mối quan hệ đồng biến giữa tỷ suất sinh lợi TTCK và cung tiền.
Một nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi Chen, Roll và Ross (1986), trong đó họ sử dụng
lý thuyết APT để minh họa những ảnh hƣởng khác nhau của các biến kinh tế vĩ mô lên
TTCK thông qua việc kiểm định trên TTCK Mỹ. Nghiên cứu này xem xét bảy nhân tố,
bao gồm: thay đổi trong sản lƣợng công nghiệp, phần bù rủi ro mất khả năng thanh toán,
cấu trúc kỳ hạn, lạm phát, tỷ suất sinh lợi thị trƣờng, mức chi tiêu thực tế và giá dầu. Dữ
7
liệu đƣợc thu thập theo tháng từ tháng 01/1953 đến tháng 11/1984. Kết quả cho thấy một
vài biến kinh tế này đƣợc chứng minh là có ý nghĩa trong việc giải thích tỷ suất sinh lợi
kỳ vọng, đặc biệt là sản lƣợng công nghiệp, biến động trong phần bù rủi ro, đƣờng cong
lợi suất, và một vài biến yếu hơn nhƣ sự đo lƣờng lạm phát bất thƣờng và những thay đổi
trong lạm phát kỳ vọng trong những thời kỳ các biến này bất ổn cao. Tác giả cũng đã
kiểm định sự ảnh hƣởng lên việc định giá chứng khoán của những thay đổi trong tiêu
dùng bình quân đầu ngƣời thực và chỉ số thay đổi giá dầu. Nhƣng kết quả cho thấy không
có một tác động toàn diện nào. Kết quả cũng cho thấy, tỷ suất sinh lợi chứng khoán đƣợc
thể hiện qua các thông tin kinh tế hệ thống, chúng đƣợc định giá phù hợp với rủi ro của
chúng, và các thông tin có thể đƣợc đo lƣờng nhƣ là các thay đổi trong các biến số mà ta
có thể nhận ra qua các học thuyết tài chính đơn giản và trực giác.
Asprem (1989) nghiên cứu sự liên kết giữa giá chứng khoán và các nhân tố kinh tế
vĩ mô trong 10 quốc gia Châu Âu. Kết quả cho thấy rằng việc làm, nhập khẩu, lạm phát
và lãi suất có quan hệ nghịch biến với giá chứng khoán. Ngƣợc lại, sản lƣợng công
nghiệp, cung tiền và đƣờng cong lãi suất của Mỹ có quan hệ đồng biến với giá chứng
khoán. Mối quan hệ giữa giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô đƣợc cho thấy là
mạnh nhất tại Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và Anh. Trong một số trƣờng hợp giá chứng khoán
có liên quan đến giá trị lịch sử của các biến kinh tế vĩ mô, điều này cho thấy rằng các mô
hình dự báo có thể đƣợc xây dựng.
Nghiên cứu khác đƣợc thực hiện bởi Abdullah và Hayworth (1993) kiểm tra ảnh
hƣởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên sự dao động của giá chứng khoán thông qua việc
sử dụng kiểm định nhân quả Granger và mô hình VAR. Họ xác nhận một mối quan hệ
đồng biến giữa tỷ suất sinh lợi TTCK với cả tốc độ lạm phát và tốc độ tăng trƣởng cung
tiền. Trong khi đó, một mối quan hệ nghịch biến đƣợc tìm thấy giữa thâm hụt thƣơng mại,
thâm hụt ngân sách, lãi suất ngắn hạn và dài hạn.
8
Thêm vào đó, một nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi Mukherjee và Naka (1995) sử
dụng mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM để điều tra sự liên kết giữa TTCK Nhật
Bản và các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn. Các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn bao
gồm: tỷ giá hối đoái, lạm phát, cung tiền, hoạt động kinh tế thực, lãi suất trái phiếu chính
phủ dài hạn và lãi suất cho vay ngắn hạn. Kết quả cho thấy một mối liên hệ đồng biến
giữa tỷ suất sinh lợi TTCK và cung tiền, sản lƣợng công nghiệp và tỷ giá hối đoái. Trong
khi đó, giá TTCK và lãi suất, lạm phát có quan hệ nghịch biến.
Lee (1997) xây dựng một mô hình để phân tích mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi
TTCK và lãi suất ngắn hạn. Cụ thể là để dự đoán tỷ suất sinh lợi vƣợt trội của chỉ số
S&P500 với lãi suất ngắn hạn. Dữ liệu đƣợc thu thập từ tháng 5/1954 đến tháng 12/1994.
Kết quả cho thấy rằng mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi S&P500 và lãi suất ngắn hạn
không ổn định qua thời gian. Mối quan hệ này thay đổi dần dần từ nghịch biến đáng kể
đến không có mối quan hệ, hoặc thậm chí là một mối quan hệ đồng biến mặc dù là không
đáng kể.
Một nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi Kwon và Shin (1999) để điều tra xem hoạt động
kinh tế hiện hành tại Hàn Quốc có thể giải thích tỷ suất sinh lợi TTCK hay không bằng
việc sử dụng kiểm định nhân quả Granger và mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM.
Các biến kinh tế vĩ mô đƣợc chọn bao gồm: cán cân thƣơng mại (TRB), tỷ giá đối đoái
(EXCH), chỉ số sản xuất công nghiệp (PI) và cung tiền M1. Dữ liệu đƣợc sử dụng là dữ
liệu hàng tháng từ năm 1980 đến năm 1992. Kiểm định đồng tích hợp và mô hình VECM
minh họa rằng chỉ số giá chứng khoán Hàn Quốc là đồng tích hợp với một bộ các biến
kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn, bao gồm: chỉ số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái, cán
cân thƣơng mại và cung tiền. Mối quan hệ đồng tích hợp này cho thấy mối quan hệ cân
bằng dài hạn trực tiếp giữa các biến kinh tế vĩ mô và chỉ số giá chứng khoán Hàn Quốc.
Tuy nhiên, chỉ số giá chứng khoán không phải là kim chỉ nam của các biến kinh tế. Điều
9
này là không phù hợp với các nghiên cứu khác rằng TTCK là dấu hiệu cho những thay
đổi trong hoạt động thực.
Maysami và Koh (2000) điều tra sự liên kết giữa sự thay đổi giá TTCK Singapore
qua thời gian và các nhân tố kinh tế vĩ mô, cũng nhƣ giữa chỉ số giá TTCK Singapore,
Nhật và Mỹ. Dựa trên mô hình VECM, các kết quả cho thấy rằng những thay đổi trong
hai chỉ số đo lƣờng hoạt động kinh tế thực là sản lƣợng công nghiệp và thƣơng mại không
có sự tích hợp cùng bậc với những thay đổi giá của TTCK Singapore. Tuy nhiên, những
thay đổi giá của TTCK Singapore lại đạt đƣợc một mối quan hệ đồng tích hợp với những
thay đổi trong tăng trƣởng cung tiền, lạm phát, sự dao động trong tỷ giá hối đoái và sự
thay đổi trong lãi suất. Trong khi sự điều chỉnh của lãi suất và tỷ giá hối đoái góp phần
quan trọng trong mối quan hệ đồng tích hợp thì lạm phát và cung tiền lại không đƣợc nhƣ
vậy. Ngoài ra, bài nghiên cứu đã kết luận rằng chỉ số TTCK Singapore có mối quan hệ
đồng tích hợp thuận chiều đáng kể với TTCK Nhật và Mỹ.
Sau đó, Maysami và các cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu lại nhằm xem xét
các mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn và chỉ số TTCK Singapore
(STI) đại diện bởi chỉ số chứng khoán SES, cũng nhƣ với nhiều chỉ số ngành trên TTCK
Singapore - chỉ số chứng khoán ngành tài chính, chỉ số chứng khoán ngành bất động sản,
và chỉ số chứng khoán ngành khách sạn. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình vector hiệu
chỉnh sai số VECM để kiểm tra đồng liên kết giữa các biến số kinh tế vĩ mô và chỉ số
TTCK Singapore cũng nhƣ các chỉ số ngành trên TTCK. Các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa
chọn bao gồm: lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái, chỉ số sản xuất công nghiệp và cung
tiền. Dữ liệu đƣợc thu thập từ tháng 01/1989 đến tháng 12/2001. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: (i) lạm phát, hoạt động kinh tế thực, cung tiền, tỷ giá hối đoái và lãi suất ngắn hạn
có mối tƣơng quan đồng biến với tỷ suất sinh lợi chứng khoán Singapore. Ngƣợc lại, lãi
suất dài hạn có mối tƣơng quan nghịch biến với tỷ suất sinh lợi chứng khoán Singapore;
(ii) chỉ số chứng khoán ngành tài chính có mối tƣơng quan đồng biến với lạm phát, cung
10
tiền và lãi suất ngắn hạn. Trong khi đó, chỉ số sản xuất công nghiệp, tỷ giá hối đoái và lãi
suất dài hạn có mối tƣơng quan nghịch biến với chỉ số chứng khoán ngành tài chính; (iii)
chỉ số chứng khoán ngành bất động sản có mối tƣơng quan đồng biến với lạm phát, chỉ số
sản xuất công nghiệp, cung tiền và lãi suất ngắn hạn. Ngƣợc lại, tỷ giá hối đoái và lãi suất
dài hạn có mối tƣơng quan nghịch biến với chỉ số chứng khoán ngành bất động sản; (iv)
chỉ số chứng khoán ngành khách sạn có mối tƣơng quan đồng biến với chỉ số sản xuất
công nghiệp, tỷ giá hối đoái và lãi suất dài hạn. Trong khi đó, lạm phát, cung tiền và lãi
suất ngắn hạn có mối tƣơng quan nghịch biến với chỉ số chứng khoán ngành khách sạn.
Tuy nhiên, nghiên cứu kết luận rằng chỉ số TTCK Singapore SES và chỉ số chứng khoán
ngành bất động sản có mối quan hệ đáng kể với tất cả biến số kinh tế vĩ mô đƣợc lựa
chọn, trong khi chỉ số chứng khoán ngành tài chính và chỉ số chứng khoán ngành khách
sạn có mối tƣơng quan đáng kể chỉ với một số biến. Cụ thể; đối với chỉ số chứng khoán
ngành tài chính thì hoạt động kinh tế thực và cung tiền có mối tƣơng quan không đáng kể,
trong khi đối với chỉ số chứng khoán ngành khách sạn thì cung tiền và lãi suất có mối
tƣơng quan không đáng kể.
Một nghiên cứu thực nghiệm khác về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên giá
TTCK Nigerian đƣợc thực hiện bởi Ralph và Eriki (2001). Nghiên cứu của họ đƣa ra một
tác động ngƣợc chiều đáng kể của lạm phát lên phản ứng của giá TTCK. Giá TTCK cũng
chịu tác động mạnh của cung tiền, GDP, lãi suất và sự bãi bỏ quy định tài chính. Ngƣợc
lại, độ bất ổn của giá dầu không tác động nhiều đến giá TTCK.
Maghyereh (2002) đã kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa giá TTCK Jordanian và
các nhân tố kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn, thông qua việc sử dụng kiểm định đồng liên kết,
mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM và dữ liệu hàng tháng trong khoảng thời gian từ
tháng 01/1987 đến tháng 12/2000. Những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy chỉ số
giá chứng khoán đồng liên kết với một tập hợp các biến kinh tế vĩ mô - xuất khẩu, dự trữ
ngoại tệ, lãi suất, cung tiền, lạm phát, và sản xuất công nghiệp. Các biến kinh tế vĩ mô này
11
cung cấp một mối quan hệ cân bằng dài hạn trực tiếp với chỉ số giá chứng khoán. Kết quả
cho thấy xuất khẩu, dự trữ ngoại hối và sản xuất công nghiệp có mối quan hệ đồng biến
với chỉ số giá chứng khoán. Ngƣợc lại, lãi suất, lạm phát và cung tiền có quan hệ nghịch
biến với chỉ số giá chứng khoán. Tuy nhiên, biến cung tiền không có ý nghĩa thống kê tại
mức ý nghĩa 10%. Ngoài ra, bài nghiên cứu kết luận rằng các biến kinh tế vĩ mô quan
trọng trong việc dự đoán những thay đổi trong giá cổ phiếu. Do đó, có thể cho rằng biến
động giá cổ phiếu về cơ bản liên quan đến các biến số kinh tế, thông qua sự thay đổi trong
giá cổ phiếu có độ trễ so với các hoạt động kinh tế, và điều này phù hợp với những phát
hiện trƣớc đây trong nền kinh tế lớn nhƣ Mỹ và Nhật Bản. Nhìn chung, bài nghiên cứu
nhận thấy rằng các biến kinh tế vĩ mô đƣợc phản ánh trong giá cổ phiếu thị trƣờng vốn
Jordanian.
Nghiên cứu của Al-Sharkas (2004) điều tra mối liên kết giữa các nhân tố kinh tế vĩ
mô và giá của TTCK Amman (ASE), sử dụng vector hiệu chỉnh sai số VECM của
Johansen (1991). Các biến kinh tế vĩ mô đƣợc chọn bao gồm: hoạt động kinh tế thực đƣợc
đại diện bởi chỉ số sản lƣợng công nghiệp (IP), cung tiền (M2), lạm phát đƣợc đại diện
bởi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và lãi suất đƣợc đại diện bởi lãi suất tín phiếu kho bạc (TB).
Dữ liệu đƣợc thu thập theo quý từ tháng 3/1980 đến tháng 12/2003 (tổng cộng 92 quan
sát). Kết quả thực nghiệm xác nhận rằng giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô chứa
đựng một mối liên kết cân bằng dài hạn.
Một nghiên cứu của Gan và các cộng sự (2006) kiểm tra mối quan hệ giữa chỉ số
chứng khoán New Zealand NZSE và một bộ bảy biến kinh tế vĩ mô trong suốt giai đoạn
từ tháng 1/1990 đến tháng 1/2003, sử dụng các kiểm định đồng tích hợp. Đặc biệt, bài
nghiên cứu sử dụng Johansen Maximum Likelihood và kiểm định nhân quả Granger để
xem xét xem chỉ số chứng khoán New Zealand có là kim chỉ nam cho các biến kinh tế vĩ
mô. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng điều tra mối quan hệ ngắn hạn giữa chỉ số giá chứng
khoán NZSE40 và các biến kinh tế vĩ mô bằng việc sử dụng các phân tích innovation
12
accounting analyses (IRF và FEVD). Bảy biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn bao gồm: lạm
phát (CPI), tỷ giá hối đoái thực (EX), tổng sản phẩm quốc nội thực (GDP), cung tiền
(M1), lãi suất dài hạn (LR), lãi suất ngắn hạn (SR) và giá dầu bán lẻ nội địa (ROIL). Kiểm
định đồng liên kết Johansen cho thấy tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số NZSE40 và
các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn. Kết quả kiểm định nhân quả Granger cho thấy New
Zealand không phải là kim chỉ nam cho sự thay đổi của các biến kinh tế vĩ mô, có thể là
vì TTCK New Zealand tƣơng đối nhỏ so với TTCK của các nƣớc phát triển khác. Cuối
cùng, kết quả IRF cho thấy tác động của một cú sốc trong EX, CPI, LR và GDP lên
NZSE40 trong nghiên cứu này là phù hợp với kết quả thực nghiệm tại các TTCK khác; và
kết quả FEVD cho thấy chỉ số NZSE40 có thể đƣợc giải thích bởi LR, SR, M1 và GDP.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ số NZSE40 đƣợc quyết định bởi lãi suất,
cung tiền và GDP thực; vì vậy, các NĐT trên TTCK New Zealand nên chú ý đến các biến
kinh tế vĩ mô này hơn là tỷ giá hối đoái và lạm phát.
Nghiên cứu của Giinsel và Cukur (2007) phân tích các ứng dụng của APT để định
giá cổ phiếu ở Anh, xác định các biến kinh tế vĩ mô phù hợp nhất với các nhân tố TTCK
và xem xét ảnh hƣởng của các biến này lên ngành Thực phẩm, nƣớc uống và thuốc lá;
Xây dựng; Vật liệu xây dựng và thƣơng mại; Thiết bị điện và điện tử; Cơ khí; Hộ gia
đình, hàng hóa và dệt may; Sản xuất giấy, đóng gói và in ấn; Hóa chất; Ngành công
nghiệp đa dạng; và Ngành khai thác và sản xuất dầu. Bài nghiên cứu sử dụng bảy biến
kinh tế vĩ mô, bao gồm: cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, lạm phát không mong đợi, sản lƣợng
công nghiệp, phần bù rủi ro, cung tiền (Mo) và tỷ lệ cổ tức ngoài dự kiến. Mẫu quan sát
bao gồm các công ty có sẵn trong chuỗi dữ liệu Datastream từ tháng 1/1980 đến tháng
12/1993. Kết quả hồi quy cho thấy những khác biệt lớn về ảnh hƣởng của các biến kinh tế vĩ mô lên danh mục các ngành. R2 thay đổi từ 28% đến 94%. Điều này có thể do sử dụng
các biến nhƣ sản lƣợng công nghiệp ngành, tỷ lệ cổ tức ngoài dự kiến. Kết quả kiểm định
cũng cho thấy: (i) với mức ý nghĩa 1%, hệ số của tỷ suất cổ tức mang dấu âm cho tất cả
các ngành; (ii) lạm phát không mong đợi không có bất cứ một ảnh hƣởng nào đến tỷ suất
13
sinh lợi ngành, trừ ngành thực phẩm, nƣớc uống và thuốc lá bị ảnh hƣởng 10% theo kết
quả kiểm định. Điều này có nghĩa là thị trƣờng đã phản ánh con số lạm phát gần đúng
trƣớc công bố tỷ lệ lạm phát thực tế; (iii) phần bù rủi ro có tác động cùng chiều với tỷ suất
sinh lợi ngành xây dựng và kỹ thuật. Tuy các ngành có một số đặc trƣng nhƣ nhau, nhƣng
chúng ta không thể kết luận rằng phần bù rủi ro có tác động cùng chiều lên tất cả các
ngành, bởi vì phần bù rủi ro cho một tháng cho thấy tác động ngƣợc chiều; (iv) không tìm
thấy bất cứ mối quan hệ nào giữa tỷ giá hối đoái có hiệu lực với tỷ suất sinh lợi của
ngành, ngoại trừ hai ngành vật liệu xây dựng và thƣơng mại, và kỹ thuật phải chấp nhận
những thay đổi trong tỷ giá hối đoái có hiệu lực. Điều này có thể là do các doanh nghiệp
thƣờng phải sử dụng các công cụ nhƣ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá; (v) cung tiền
có tác động cùng chiều với tỷ suất sinh lợi của ngành vật liệu xây dựng và thƣơng mại;
thực phẩm, nƣớc uống và thuốc lá và có tác động ngƣợc chiều với tỷ suất sinh lợi của
ngành hàng gia dụng và dệt may; (vi) cấu trúc kỳ hạn của lãi suất với độ trễ một tháng có
tác động cùng chiều với tỷ suất sinh lợi của bốn ngành: Xây dựng; Thực phẩm, nƣớc uống
và thuốc lá; khai thác và chế biến xăng dầu; Thiết bị điện và điện tử. Dựa vào kết quả
kiểm định, chúng ta có thể thấy lãi suất có kỳ hạn ngắn có thể có tác động cùng chiều đến
ngành Xây dựng; Thực phẩm, nƣớc uống và thuốc lá. Khai thác và chế biến xăng dầu và
đặc biệt là ngành điện tử chịu tác động kể cả kỳ hạn dài, bởi vì ngành điện tử yêu cầu mức
vốn đầu tƣ cố định cao, và lại thu về trong dài hạn; (vii) sản lƣợng công nghiệp có mối
quan hệ ngƣợc chiều với ngành thực phẩm, nƣớc uống và thuốc lá ở mức ý nghĩa 5%. Sản
lƣợng công nghiệp với độ trễ ba tháng cũng cho thấy ảnh hƣởng ngƣợc chiều của biến này
lên ngành sản xuất giấy, đóng gói và in ấn với mức ý nghĩa 1%. Tƣơng tự, với mức ý
nghĩa 1%, sản lƣợng công nghiệp cũng có tác động ngƣợc chiều với ngành kỹ thuật. Tuy
nhiên, ở mức ý nghĩa 5%, sản lƣợng công nghiệp với độ trễ một tháng lại các tác động
cùng chiều với ngành hàng gia dụng và dệt may.
Tursoy, Gunsel và Rioub (2008) nghiên cứu mối liên kết giữa các nhân tố kinh tế vĩ
mô và TTCK Istanbul qua việc sử dụng dữ liệu hàng tháng trong khoảng thời gian từ năm
14
2001 đến năm 2005. Kết quả cho thấy một mối liên kết đáng kể giữa tỷ suất sinh lợi
chứng khoán và các nhân tố kinh tế vĩ mô: lạm phát không dự kiến trƣớc, bảo hiểm rủi ro,
cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, tỷ giá hối đoái và cung tiền. Tuy nhiên, những kết quả này
cho thấy sự giải thích yếu mối liên kết dựa trên việc phát hiện ra có những nhân tố kinh tế
vĩ mô bị bỏ sót ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên ISE hơn cả những nhân
tố kinh tế vĩ mô đƣợc kiểm nghiệm.
Nghiên cứu của Adam & Tweneboah (2008) kiểm tra vai trò của các biến kinh tế vĩ
mô đối với biến động giá cổ phiếu ở Ghana, sử dụng kiểm định đồng liên kết và mô hình
vector hiệu chỉnh sai số VECM. Tác giả sử dụng chỉ số chứng khoán Databank để đại
diện cho TTCK Ghana và các biến kinh tế vĩ mô: (a) Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, (b) Lãi
suất tín phiếu kho bạc (nhƣ một thƣớc đo lãi suất), (c) chỉ số giá tiêu dùng (nhƣ một thƣớc
đo lạm phát), và (d) tỷ giá hối đoái. Tác giả phân tích các mối quan hệ ngắn hạn và dài
hạn giữa chỉ số TTCK và các biến kinh tế vĩ mô với các dữ liệu quý cho các biến ở trên từ
tháng 01/1991 đến tháng 04/2006. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ngƣợc lại với giả
thuyết của tác giả, lạm phát có tƣơng quan dƣơng với giá cổ phiếu. Lạm phát giải thích tỷ
lệ nhỏ của sự biến đổi của giá cổ phiếu so với lãi suất, dòng vốn FDI ròng và tỷ giá hối
đoái. Kết quả cũng chỉ ra rằng lãi suất là yếu tố quyết định quan trọng của biến động giá
cổ phiếu ở Ghana. Đề nghị của tác giả dựa trên các kết quả là các NĐT tiềm năng nên chú
ý hơn đến lãi suất, tiếp theo là dòng vốn FDI ròng và tỷ giá chứ không phải là chỉ số lạm
phát (CPI).
Gay (2008) nghiên cứu mối quan hệ giữa chỉ số giá TTCK và các biến kinh tế vĩ mô
tại bốn nƣớc mới nổi Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc (các nƣớc BRIC). Các biến kinh
tế vĩ mô đƣợc lựa chọn bao gồm: tỷ giá hối đoái và giá dầu. Bài nghiên cứu sử dụng
phƣơng pháp Box-Jenkins - mô hình ARIMA. Để mô tả mối quan hệ này, tác giả đã dùng
trung bình di động một tháng MA(1), ba tháng MA(3), sáu tháng MA(6) và mƣời hai
tháng MA(12) cho độ trễ của biến phụ thuộc giá chứng khoán và hai biến kinh tế vĩ mô tỷ
15
giá hối đoái và giá dầu. Dữ liệu đƣợc thu thập theo tháng từ tháng 3/1999 đến tháng
6/2006 cho các nƣớc BRIC. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ đồng biến
giữa tỷ giá hối đoái với giá chứng khoán trên ba TTCK Brazil, Nga và Trung Quốc. Điều
này có nghĩa là việc định giá đồng nội tệ cao (thấp) so với đồng USD sẽ có tác động tiêu
cực (tích cực) lên TTCK nội địa. Đối với giá dầu thì một sự gia tăng trong giá dầu sẽ tác
động tiêu cực lên TTCK nội địa. Phân tích tác động của các nhân tố vĩ mô quốc tế nhƣ tỷ
giá và giá dầu lên TTCK các nƣớc BRIC thì không cho thấy một mối quan hệ đáng kể.
Kết quả không nhƣ mong đợi này có thể là các nhân tố kinh tế vĩ mô nội địa và quốc tế
khác (ví dự nhƣ chỉ số sản xuất công nghiệp, lạm phát, cổ tức, lãi suất, cán cân thƣơng
mại, cấu trúc lãi suất) cũng có thể có một vai trò trong việc quyết định giá chứng khoán
mong đợi. Vì vậy cần phải nghiên cứu thêm về mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô
nội địa và quốc tế khác này và giá chứng khoán. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy không có mối quan hệ đáng kể đƣợc tìm thấy giữa tỷ suất sinh lợi TTCK hiện tại và
quá khứ, điều này cho thấy thị trƣờng Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc thể hiện hình
thức yếu của thị trƣờng hiệu quả.
Nghiên cứu của Jiranyakul (2009) đã giải thích mối quan hệ giữa chỉ số giá chứng
khoán và các nhân tố kinh tế vĩ mô tại TTCK Thái Lan, sử dụng kiểm định đồng liên kết
Granger để kiểm tra đồng liên kết giữa các biến. Nghiên cứu tập trung vào bốn biến kinh
tế vĩ mô, bao gồm: GDP thực, cung tiền, tỷ giá hối đoái danh nghĩa có hiệu lực và lạm
phát. Dữ liệu đƣợc thu thập theo quý từ năm 1993 đến năm 2007. Kết quả kiểm định cho
thấy, các biến có sự liên kết với nhau, và tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số giá
chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn. Trong đó, GDP thực, tỷ giá hối
đoái danh nghĩa và cung tiền có tác động cùng chiều lên chỉ số giá chứng khoán, ngƣợc
lại lạm phát có tác động ngƣợc chiều lên chỉ số giá chứng khoán. Điều đặc biệt là cuộc
khủng hoảng tài chính 1997 lại không có ảnh hƣởng gì đến chỉ số giá chứng khoán.
16
Nghiên cứu của Sharma and Mahendru (2010) phân tích mối quan hệ dài hạn giữa
BSE và các biến kinh tế vĩ mô. Nghiên cứu tập trung vào bốn biến số kinh tế vĩ mô, bao
gồm: giá vàng, dự trữ ngoại hối, tỷ giá hối đoái và lạm phát. Nhóm tác giả sử dụng mô
hình hồi quy đa biến để điều tra mối quan hệ giữa sự thay đổi của các nhân tố kinh tế vĩ
mô này và tỷ suất sinh lợi của danh mục chứng khoán. Phân tích đƣợc thực hiện bằng việc
sử dụng dữ liệu hàng tuần trong giai đoạn từ tháng 1/2008 đến tháng 1/2009. Kết quả thực
nghiệm cho thấy có mối tƣơng quan cao giữa tỷ giá hối đoái và giá vàng với giá chứng
khoán; trong khi đó, ảnh hƣởng của dự trữ ngoại hối và lạm phát lên giá chứng khoán thì
chỉ có giới hạn.
Ali (2011) đã tiến hành nghiên cứu điều tra mối quan hệ nhân quả giữa giá cổ phiếu
và các nhân tố kinh tế vĩ mô tại TTCK Dhaka (DSE). Kiểm định Johansen cũng đƣợc sử
dụng để kiểm định đồng liên kết và kiểm định quan hệ nhân quả Granger đƣợc sử dụng để
kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa chỉ số DSI và 13 biến kinh tế vĩ mô, bao gồm: chỉ
số giá tiêu dùng (CPI), lãi suất huy động bình quân gia quyền 3 tháng (DIR), tỷ giá hối
đoái (EXR), xuất khẩu (EXRPT), GDP tại giá thị trƣờng hiện hành (GDPMP), nhập khẩu
(IMPMT), đầu tƣ tại giá thị trƣờng (INVMP), chỉ số sản xuất công nghiệp (IPD), lãi suất
cho vay thƣơng mại bình quân gia quyền 3 tháng (LIR), cung tiền M2 (M2), giảm phát
thu nhập quốc dân (NID), kiều hối (REMIT) và tổng tín dụng trong nƣớc (TDC). Chỉ số
DSI và dữ liệu 13 biến kinh tế vĩ mô đƣợc thu thập trong thời kỳ từ tháng 1/1987 đến
tháng 12/2010. Tuy nhiên, vì trong suốt giai đoạn từ tháng 1/1996 đến tháng 6/1997 (tổng
cộng 18 tháng) giá cổ phiếu diễn biến bất thƣờng nên dữ liệu giá cổ phiếu và các biến vĩ
mô trong giai đoạn này không đƣợc bao gồm trong bài nghiên cứu này. Những phát hiện
chính là chỉ số DSI không có quan hệ nhân quả với chỉ số CPI, lãi suất huy động, xuất
khẩu, GDP, đầu tƣ, chỉ số sản xuất công nghiệp, lãi suất cho vay và giảm phát thu nhập
quốc dân. Nhƣng quan hệ nhân quả một chiều đƣợc tìm thấy giữa DSI và cung tiền và
tổng tín dụng trong nƣớc. Ngoài ra, quan hệ nhân quả hai chiều cũng đƣợc xác định giữa
DSI và tỷ giá hối đoái, nhập khẩu và kiều hối.
17
Gần đây, El-Nader & Alraimony (2012) đã thực hiện bài nghiên cứu để điều tra tác
động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi của TTCK Amman (ASE), sử dụng
dữ liệu hàng tháng trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2010. Bài nghiên cứu sử dụng
sáu nhân tố kinh tế vĩ mô, bao gồm: cung tiền thực (RMS2), tổng sản phẩm quốc nội thực
(RGDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái thực (E1), lãi suất cho vay bình quân
gia quyền (WAIR) và một biến giả (DUM). Mô hình OLS, ARCH/GARCH đƣợc sử
dụng. Ƣớc lƣợng OLS thì không hiệu quả vì tồn tại hiện tƣợng tự tƣơng quan nghiêm
trọng và một dấu hiệu của hiện tƣợng đa cộng tuyến và kết quả không thuyết phục. Vì
vậy, nghiên cứu sử dụng mô hình ƣớc lƣợng ARCH/GARCH. Sự mở rộng tới mô hình
GARCH (1,1) dƣờng nhƣ không cần thiết. Tuy nhiên, mô hình ARCH (1) là mô hình tốt
nhất. Các kết quả của mô hình ƣớc lƣợng ARCH (1) cho thấy RMS2, CPI, E1, WAIR và
biến giả Dummy có tác động ngƣợc chiều lên tỷ suất sinh lợi ASE. Ngƣợc lại, RGDP có
tác động thuận chiều lên tỷ suất sinh lợi ASE.
2.2. Tại Việt Nam:
TTCK Việt Nam đƣợc xem là thị trƣờng mới nổi vì chỉ có lịch sử 12 năm hoạt động,
bắt đầu từ năm 2000. Tuy nhiên, cũng đã có một số tác giả nghiên cứu về mối liên hệ giữa
các nhân tố kinh tế vĩ mô và TTCK Việt Nam. Một trong các nghiên cứu nổi bật là nghiên
cứu thực nghiệm đƣợc thực hiện bởi Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng
Thảo (2013) phân tích tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến TTCK Việt Nam, áp
dụng kiểm định đồng tích hợp theo phƣơng pháp kiểm định nghiệm đơn vị phần dƣ Engle
Granger. Dữ liệu đƣợc thu thập từ tháng 7/2000 đến tháng 9/2011. Các biến kinh tế vĩ mô
đƣợc lựa chọn bao gồm: hoạt động kinh tế thực, cung tiền, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối
đoái và giá dầu. Kết quả của mô hình cho thấy khi các nhân tố khác không đổi, tại Việt
Nam cung tiền, lạm phát, sản lƣợng công nghiệp và giá dầu thế giới tƣơng quan dƣơng
với TTCK; ngƣợc lại, lãi suất và tỷ giá hối đoái tƣơng quan âm với TTCK. Tuy nhiên,
biến CPI trong mô hình có ý nghĩa thống kê thấp.
18
Gần đây, Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013) đã tiến hành nghiên cứu mối
liên hệ giữa tỷ giá hối đoái, lãi suất và giá cổ phiếu tại thành phố Hồ Chí Minh. Bài
nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp phân tích số liệu dựa trên kiểm định nghiệm đơn vị,
kiểm định nhân quả Granger, mô hình VAR và hàm phân rã phƣơng sai. Dữ liệu sử dụng
là dữ liệu chuỗi thời gian theo tháng đƣợc thu thập từ tháng 10/2007 đến tháng 10/2012
tại thành phố Hồ Chí Minh. Các biến trong mô hình phân tích bao gồm: tỷ giá hối đoái,
lãi suất thị trƣờng liên ngân hàng và chỉ số giá cổ phiếu đƣợc lấy logarit tự nhiên trƣớc
khi tiến hành phân tích. Kết quả phân tích cho thấy có mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và tỷ
giá hối đoái tại bậc trễ hai và lãi suất tại bậc trễ một. Đồng thời, giá cổ phiếu còn bị tác
động bởi chính nó tại bậc trễ một và hai.
2.3. Kết luận chƣơng hai:
Kế thừa mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của đề tài, chƣơng hai đã minh họa các
chứng cứ thực nghiệm về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô và tỷ suất sinh lợi TTCK
từ các bài phân tích của các tác giả khác trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
Các nghiên cứu trƣớc đây cho thấy sự khác biệt trong các kết luận về mối quan hệ giữa tỷ
suất sinh lợi TTCK và các nhân tố kinh tế vĩ mô, không đồng nhất với các lý thuyết kinh
điển, đặc biệt là các nghiên cứu tiến hành tại các nƣớc có nền kinh tế mới nổi. Sự khác
biệt này phụ thuộc vào quy mô dữ liệu và mô hình sử dụng. Mặc dù hầu hết các biến kinh
tế vĩ mô đều giải thích đƣợc tỷ suất sinh lợi TTCK. Tuy nhiên, thật khó để khái quát
những kết quả của các biến này do các điều kiện khác nhau mà bị ràng buộc bởi mỗi tình
hình TTCK. Đặc biệt hơn, mỗi thị trƣờng có quy định riêng của nó và các loại NĐT cụ
thể, vị trí địa lý và các nhân tố khác. Bài nghiên cứu chọn lọc năm nhân tố kinh tế vĩ mô
thƣờng gặp trong các kết quả nghiên cứu của thế giới và Việt Nam, ngoài ra bổ sung thêm
một biến giả để điều tra tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK
Việt Nam. Nhìn chung, có thể tóm tắt kết quả tƣơng quan giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô
đƣợc chọn và tỷ suất sinh lợi TTCK nhƣ sau:
19
Bảng 2.1. Bảng tóm tắt kết quả tƣơng quan giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô với
tỷ suất sinh lợi TTCK trong các nghiên cứu trƣớc đây
Tƣơng Nhân tố Bằng chứng thực nghiệm quan
Fama (1981); Chen, Roll và Ross (1986); Asprem (1989);
Hoạt động kinh Mukherjee và Naka (1995); Maghyereh (2002); Jiranyakul + tế thực (2009); El-Nader và Alraimony (2012); Phan Thị Bích
Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo (2013)
Fama (1981); Asprem (1989); Abdullah và Hayworth (1993);
Cung tiền + Mukherjee và Naka (1995); Jiranyakul (2009); Phan Thị Bích
Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo (2013)
+ Abdullah và Hayworth (1993); Adam & Tweneboah (2008)
Asprem (1989); Mukherjee và Naka (1995); Ralph và Eriki Lạm phát - (2001); Maghyereh (2002); Jiranyakul (2009); El-Nader và
Alraimony (2012)
+ Mukherjee và Naka (1995); Jiranyakul (2009)
Maysami và các cộng sự (2004); El-Nader và Alraimony Tỷ giá hối đoái - (2012); Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo
(2013)
+ Maysami và các cộng sự (2004)
Asprem (1989); Abdullah và Hayworth (1993); Mukherjee và
Lãi suất Naka (1995); Maghyereh (2002); El-Nader và Alraimony - (2012); Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo
(2013)
20
Nhìn vào bảng (2.1), ta có thể thấy kết quả tƣơng quan giữa các nhân tố kinh tế vĩ
mô đƣợc chọn và tỷ suất sinh lợi TTCK trong các nghiên cứu trƣớc đây nhƣ sau: tổng sản
phẩm quốc nội và cung tiền tác động đồng biến lên tỷ suất sinh lợi TTCK; lạm phát, tỷ
giá hối đoái và lãi suất thì vẫn chƣa có sự thống nhất về chiều của sự tác động lên tỷ suất
sinh lợi TTCK.
21
CHƢƠNG 3. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu này nghiên cứu tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng nhƣ các sự
kiện nhƣ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt
Nam, sử dụng các phƣơng pháp ƣớc lƣợng khác nhau, tƣơng tự với El-Nader &
Alraimony (2012).
Các nhà nghiên cứu có tham gia vào việc dự báo chuỗi thời gian tài chính, nhƣ là giá
cổ phiếu, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái ... đã quan sát thấy rằng khả năng dự báo các biến
số này của họ khác nhau đáng kể từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Đối với một số
giai đoạn, các sai số dự báo là tƣơng đối nhỏ, đối với một số giai đoạn chúng lại tƣơng đối
lớn, và sau đó chúng lại nhỏ lại đối với các giai đoạn khác. Hiện tƣợng này đƣợc gọi là
biến động phân nhóm, đó là, khoảng thời gian mà chúng thể hiện sự dao động nhiều trong
một thời gian kéo dài, theo sau là một khoảng thời gian tƣơng đối êm đềm. Sự biến thiên
này có thể do sự biến động trên thị trƣờng tài chính, nhạy cảm nhƣ khi chúng phản hồi
các sự đồn đại, các biến động chính trị, các thay đổi trong chính sách tiền tệ và tài chính
của chính phủ, và những gì tƣơng tự. Điều này có thể đề xuất rằng phƣơng sai của các sai
số dự là hằng số và thay đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, tức là có một kiểu tự
tƣơng quan trong phƣơng sai của các sai số dự báo. Do hành vi của các sai số có thể đƣợc
giả định là phụ thuộc vào hành vi của các nhiễu hồi qui ut, ta có thể giải quyết đối với tự
tƣơng quan trong phƣơng sai của ut. Để nắm đƣợc tƣơng quan này, Engle (1982, 1983) đã
chốt của ARCH là phƣơng sai của u tại thời gian t (= σt
giới thiệu mô hình phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi quy (ARCH). Ý nghĩa then 2) phụ thuộc vào kích cỡ của số 2, do đó cho thấy tƣơng quan hạng bình phƣơng sai số tại thời gian (t-1), tức là vào ut-1
chuỗi.
22
Do đó, một quá trình ARCH (1) có thể đƣợc viết là:
2 2 = α0 + α1 ut-1
var(ut) = σt
Chúng ta có thể tổng quát hóa dễ dàng thành một quá trình ARCH (p) là:
2 = α0 + α1 ut-1
2 + α2 ut-2
2 2 + ... + αp ut-p
var(ut) = σt
Trƣớc khi ƣớc lƣợng mô hình ARCH (q), điều quan trọng là chúng ta cần kiểm tra
xem có tồn tại các ảnh hƣởng ARCH hay không để biết các mô hình nào cần ƣớc lƣợng
theo phƣơng pháp ARCH thay vì theo phƣơng pháp OLS.
Nếu không có tự tƣơng quan trong phƣơng sai sai số, chúng ta có H0: α1 = α2 = ... =
αp = 0, trong trƣờng hợp này var(ut) = α0 và chúng ta có trƣờng hợp phƣơng sai sai số
không đổi.
Một kiểm định của giả thiết vô hiệu H0 ở trên có thể dễ dàng thực hiện bằng cách
thực hiện phép hồi quy sau:
2 = α0 + α1 ut-1
2 + α2 ut-2
2 2 + ... + αp ut-p
ut
Trong đó, u ký hiệu cho các phần dƣ OLS đã ƣớc lƣợng từ mô hình hồi quy ban đầu.
p thì chúng ta bác bỏ giả thuyết Ho và ngƣợc lại. Nếu bác bỏ giả thuyết Ho
Ta có thể kiểm định giả thiết H0 bằng cách tính nR2, trong đó R2 là hệ số xác định từ hồi quy phụ trợ. Ta có thể thấy rằng nR2 ~ χ2 p, tức là nR2 tuân theo phân phối Chi-bình phƣơng với bậc tự do df bằng số hạng tự hồi quy trong hồi quy phụ. Nếu giá trị nR2 lớn hơn giá trị χ2
thì có thể kết luận rằng chuỗi dữ liệu đang xét có ảnh hƣởng ARCH.
Mô hình này hiện nay đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong việc xây dựng mô hình về
hành vi của chuỗi thời gian tài chính do khả năng của nó trong việc nắm bắt phi tuyến tính
và biến động phân nhóm trong dữ liệu tỷ suất sinh lợi chứng khoán.
Mô hình ARCH sau đó đƣợc mở rộng bởi Engle và Bollerslev (1986) thành mô hình
phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi quy tổng quát (GARCH). Hay nói cách khác, sự
23
tổng quát hóa của mô hình ARCH đƣợc gọi là GARCH, trong đó phƣơng sai có điều kiện
của sai số tại thời gian t không chỉ phụ thuộc vào bình phƣơng sai số trong quá khứ (giống
nhƣ trong mô hình ARCH) mà còn phụ thuộc vào phƣơng sai có điều kiện của nó trong
quá khứ.
Do đó, mô hình GARCH đơn giản nhất là mô hình GARCH (1, 1) có thể đƣợc viết
là:
2 = α0 + α1 ut-1
2 2 + γ1 σt-1
var(ut) = σt
Do mô hình GARCH kết hợp các giá trị trễ của phƣơng sai có điều kiện nên nó có
thể nắm bắt leptokurtosis, skewness và biến động phân nhóm trong dữ liệu chuỗi thời
gian. Phƣơng pháp GARCH cũng đƣa phƣơng sai quá khứ vào trong việc giải thích
phƣơng sai tƣơng lai, và do đó khi dữ liệu có hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi, giá trị kỳ
vọng của sai số không là hằng số.
Thêm vào đó, tất cả mô hình ARCH/GARCH giải thích tầm quan trọng của mức độ
dai dẳng của cú sốc độ bất ổn trong tỷ suất sinh lợi và các biến kinh tế vĩ mô. Những mô
hình này cũng hữu ích trong việc kiểm tra sự tƣơng tác đồng thời giữa tỷ suất sinh lợi
TTCK và sự thay đổi trong các nhân tố kinh tế vĩ mô.
Nghiên cứu này giả thuyết rằng chỉ số giá VN-Index (VNI) đại diện cho chỉ số giá
của TTCK Việt Nam, thể hiện tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Chỉ số VNI thực (RTR)
bằng chỉ số VNI chia cho chỉ số giá tiêu dùng. Nghiên cứu cũng giả thiết rằng tỷ suất sinh
lợi TTCK Việt Nam bị tác động bởi các biến kinh tế vĩ mô: cung tiền thực (RMS2), tổng
sản phẩm quốc nội thực (RGDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái thực (E1), lãi
suất cho vay (IR) và một biến giả (DUM). Nghiên cứu sử dụng dữ liệu hàng tháng hơn là
dữ liệu hàng quý trong khoảng thời gian từ tháng 01 năm 2004 đến tháng 12 năm 2012
(tổng cộng 108 quan sát) để tối đa hóa số lƣợng quan sát, và nắm bắt sự chuyển động dài
hạn trong tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam, bằng việc sử dụng mô hình ARCH/GARCH.
24
Mô hình nhƣ sau:
RTR = f {RMS2, RGDP, CPI, E1, IR, Dum} (3.1)
Mô hình hồi quy bội xuất phát từ mô hình (3.1) là:
RTRt = β0 + β1 RMS2t + β2 RGDPt + β3 CPIt + β4 E1t + β5 IRt + Dum + ut (3.2)
Trong đó: β0 là hằng số
βs là hệ số tƣơng quan
ut là sai số
Trên cơ sở các nghiên cứu trƣớc đây, các hệ số β1 và β2 đƣợc mong đợi mang dấu
dƣơng ; trong khi đó các hệ số β3, β4 và β5 có thể là dƣơng hoặc âm.
Để thực hiện phân tích độ co giãn từng phần, nghiên cứu lấy logarit các biến trong
phƣơng trình (3.2), điều này cho phép đánh giá tác động của một thay đổi trong biến độc
lập lên biến phụ thuộc trong khi các biến còn lại không đổi.
lnRTRt = β0 + β1 lnRMS2t + β2 lnRGDPt + β3 lnCPIt + β4 lnE1t + β5 lnIRt + Dum + ut
(3.3)
3.2. Dữ liệu:
Nghiên cứu này lựa chọn năm biến kinh tế vĩ mô thƣờng gặp trong các kết quả
nghiên cứu trƣớc đây trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, bao gồm: cung tiền,
tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số giá tiêu dùng, tỷ giá hối đoái và lãi suất. Tuy nhiên,
nghiên cứu này khác với các nghiên cứu trƣớc đây trong nhiều khía cạnh nhƣ sử dụng các
biến kinh tế vĩ mô với các định nghĩa khác, cụ thể là: cung tiền thực, tổng sản phẩm quốc
nội thực, chỉ số giá tiêu dùng, tỷ giá hối đoái thực và lãi suất cho vay. Các chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô thực đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này nhằm mục đích loại bỏ tác động của lạm
phát, để giảm mức độ đa cộng tuyến giữa các biến. Ngoài ra, nghiên cứu còn bổ sung
thêm một biến giả đại diện cho các yếu tố phi kinh tế vĩ mô.
25
Định nghĩa biến tỷ suất sinh lợi TTCK và các biến kinh tế vĩ mô đƣợc sử dụng trong
mô hình và phép biến đổi nhƣ sau:
VNIt là chỉ số giá TTCK Việt Nam hàng tháng. Chỉ số VNI theo tháng đƣợc tính là
chỉ số VNI đóng cửa cuối tháng hiện hành t.
rtrt = (VNIt/CPIt)x100
Trong đó : rtrt là chỉ số VNI thực tại tháng hiện hành (t)
CPIt là chỉ số giá tiêu dùng tại tháng hiện hành (t)
LRTRt = ln(rtrt/rtrt-1)x100
Trong đó: LRTRt là tỷ lệ tăng hàng tháng của chỉ số VNI thực hay còn gọi là tỷ suất
sinh lợi TTCK tại tháng hiện hành (t)
rtrt và rtrt-1 là chỉ số VNI thực tại tháng hiện hành (t) và tháng trƣớc (t-1)
ln là logarit tự nhiên
RMS2t là cung tiền thực hàng tháng.
RMS2 = cung tiền danh nghĩa/chỉ số giá tiêu dùng CPI
LRMS2t = ln(RMS2t/RMS2t-1)x100
Trong đó: LRMS2t là tỷ lệ tăng hàng tháng của RMS2
RMS2t và RMS2t-1 là cung tiền thực tại tháng hiện hành (t) và tháng trƣớc
(t-1)
ln là logarit tự nhiên
GDPt là tổng sản phẩm quốc nội hàng tháng, đơn vị tính tỷ VND.
Tổng sản phẩm quốc nội thực hàng tháng (tỷ VND) = tổng sản phẩm quốc nội danh
nghĩa hàng tháng (tỷ VND) chia cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
26
LRGDPt = ln(RGDPt/ RGDPt-1)x100
Trong đó: LRGDPt là tốc độ tăng trƣởng hàng tháng của RGDPt
RGDPt và RGDPt-1 là tổng sản phẩm quốc nội thực tại tháng hiện hành (t)
và tháng trƣớc đó (t-1)
ln là logarit tự nhiên
Tuy nhiên, nhiều chuỗi kinh tế vĩ mô nhƣ GDP thƣờng đƣợc công bố theo năm hoặc
quý. Chuỗi tổng sản phẩm quốc nội hàng tháng đƣợc tạo ra từ chuỗi tổng sản phẩm quốc
nội hàng quý bằng việc sử dụng phần mềm Eview 6. Để giảm mức độ đa cộng tuyến,
GDP thực đƣợc sử dụng trong nghiên cứu thực nghiệm này do GDP thực đã loại bỏ đƣợc
tác động của lạm phát so với GDP danh nghĩa. Việc lựa chọn biến này gần nhƣ tƣơng tự
Jiranyakul (2009) và El-Nader & Alraimony (2012).
CPIt là chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng.
LCPIt = ln(CPIt/ CPIt-1)x100
Trong đó: LCPIt là tỷ lệ tăng hàng tháng của CPIt tại thời điểm hiện hành (t)
CPIt và CPIt-1 là chỉ số giá tiêu dùng tại tháng hiện hành (t) và tháng trƣớc
đó (t-1)
ln là logarit tự nhiên
Ext là tỷ giá hối đoái USD/VND hàng tháng. ex1t = 1/ext (tỷ giá hối đoái
VND/USD)
Le1t = ln(e1t/ e1t-1)x100
Trong đó: Le1t là tỷ lệ tăng hàng tháng của tỷ giá hối đoái thực tại thời điểm (t)
e1t và e1t-1 là tỷ giá hối đoái thực tại tháng hiện hành (t) và tháng trƣớc (t-1)
ln là logarit tự nhiên
27
e1t = (ex1t)x(CPIt/wpimt), là tỷ giá hối đoái VND/USD danh nghĩa nhân với hệ số
mức giá trong nƣớc trên mức giá nƣớc ngoài (Pd/Pf)
IRt là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân cuối tháng của bốn ngân hàng thƣơng mại
lớn thuộc sở hữu Nhà nƣớc.
LIRt = ln(IRt/IRt-1)x100
Trong đó: LIRt là tỷ lệ tăng hàng tháng của IRt tại thời điểm hiện hành (t)
IRt và IRt-1 là lãi suất cho vay tại tháng hiện hành (t) và tháng trƣớc đó (t-1)
ln là logarit tự nhiên
Có nhiều loại lãi suất có thể đƣợc sử dụng nhƣ lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi
suất huy động, lãi suất cho vay, lãi suất liên ngân hàng,… Bài nghiên cứu sử dụng lãi suất
cho vay do biến động lãi suất cho vay thƣờng ảnh hƣởng đến chi phí sử dụng vốn của
doanh nghiệp, từ đó ảnh hƣởng đến lợi nhuận và dòng tiền do doanh nghiệp tạo ra.
Mục đích của biến giả (Dum) là để nắm bắt tác động của các nhân tố phi kinh tế vĩ
mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK. Dum có giá trị bằng 1 trong giai đoạn cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008 (từ tháng 11/2007 đến tháng 2/2009 – giai đoạn cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu ảnh hƣởng đến TTCK Việt Nam). Ngoài giai đoạn này Dum có
giá trị bằng 0.
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu hàng tháng trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến
năm 2012. Dữ liệu đƣợc thu thập từ cơ sở dữ liệu thống kê của HOSE, GSO và IMF.
28
Tóm lại, các biến sử dụng đƣợc tổng hợp trong bảng (3.1) và bảng (3.2) dƣới đây:
Bảng 3.1. Các biến trong mô hình gốc
STT Tên biến Ký hiệu Cách tính Nguồn
1 VN-Index thực (điểm, tháng) RTR HOSE (VNIt/CPIt)x100
2 Cung tiền thực (tỷ đồng, tháng) IMF RMS2 MS2t/CPIt
3 GDP thực (tỷ đồng, tháng) IMF RGDP GDPt/CPIt
4 Lạm phát (%, tháng) CPI GSO CPIt
Tỷ giá hối đoái thực 5 E1 IMF (ex1t)x(CPIt/wpimt) (VND/USD, tháng)
6 Lãi suất cho vay (%, tháng) IR IMF IRt
Giá trị là 1 từ tháng
11/2007 - 2/2009, 7 Biến giả DUM còn lại có giá trị
bằng 0
29
Bảng 3.2. Các biến trong mô hình sau khi biến đổi
STT Tên biến Ký hiệu Cách tính
Tỷ suất sinh lợi TTCK Việt 1 LRTR ln(rtrt/rtrt-1)x100 Nam
2 Tỷ lệ tăng cung tiền thực LRMS2 ln(RMS2t/RMS2t-1)x100
3 Tốc độ tăng trƣởng GDP thực LRGDP ln(RGDPt/ RGDPt-1)x100
4 Tỷ lệ tăng CPI LCPI ln(CPIt/ CPIt-1)x100
5 Tỷ lệ tăng tỷ giá hối đoái thực LE1 ln(e1t/ e1t-1)x100
6 Tỷ lệ tăng lãi suất cho vay LIR ln(IRt/IRt-1)x100
Giá trị bằng 1 trong giai đoạn
cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008 (từ tháng 7 Biến giả DUM 11/2007 đến tháng 2/2009),
các giai đoạn còn lại giá trị
bằng 0.
3.3. Kết luận chƣơng ba:
Tiếp theo chƣơng 2, trong chƣơng 3 luận văn đã giới thiệu phƣơng pháp nghiên cứu
bao gồm mô hình phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi quy (ARCH) của Engle (1982,
30
1983) và mô hình phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi quy tổng quát (GARCH) của
Engle và Bollerslev (1986).
Kế đến, luận văn đã đƣa ra mô hình nghiên cứu đề xuất với biến phụ thuộc là chỉ số
VNI thực (RTR) và sáu biến độc lập lần lƣợt là: cung tiền thực (RMS2), tổng sản phẩm
quốc nội thực (RGDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái thực (E1), lãi suất cho
vay (IR) và một biến giả (DUM).
Cuối cùng, chƣơng 3 trình bày chi tiết phần mô tả các biến sử dụng trong mô hình
nghiên cứu, mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu.
31
CHƢƠNG 4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu:
Trong phần này mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi của chỉ số VN-Index và các biến
kinh tế vĩ mô đƣợc kiểm tra thông qua các phân tích thống kê mô tả. Bắt đầu bằng phân
tích xem liệu dữ liệu chuỗi thời gian có phân phối chuẩn hay không thông qua thống kê
skewness và kurtosis. Bảng sau mô tả dữ liệu thống kê các biến sử dụng trong mô hình.
Xác suất p-values cũng đƣợc sử dụng để cung cấp bằng chứng liệu có bác bỏ giả thuyết
vô hiệu Ho về tính chuẩn tắc đối với phân phối vô điều kiện của tỷ suất sinh lợi hàng
tháng.
Bảng 4.1. Thống kê chỉ số giá TTCK Việt Nam RTR và các biến kinh tế vĩ mô
RMS2, RGDP, CPI, E1 và IR
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews)
32
Trong bảng (4.1), phân phối giá trị của các biến VN-Index, RMS2, RGDP, CPI và
IR lệch về bên phải đáng kể (skewness dƣơng đáng kể) và có độ nhọn kurtosis lớn hơn 3,
nhƣ vậy chuỗi các dữ liệu này có phân phối bẹt, rộng ra, độ lệch chuẩn lớn (leptokurtic);
nghĩa là, các chuỗi dữ liệu này có những biến động mạnh và bất thƣờng trong thời gian
khảo sát và nghiên cứu. Phân phối giá trị của biến E1 cũng lệch về bên phải, tuy nhiên
không đáng kể và có độ nhọn kurtosis nhỏ hơn 3, nhƣ vậy chuỗi dữ liệu này có phân phối
gom lại, độ lệch chuẩn thấp, giá trị ngẫu nhiên xoay quanh giá trị kỳ vọng (platykurtic);
nghĩa là, biến này có sự biến động ít, biến thiên dao động không cao trong thời gian khảo
sát, nghiên cứu.
Thêm vào đó, kiểm định phân phối chuẩn đƣợc áp dụng đối với dữ liệu thông qua
việc sử dụng kiểm định Jarque-Bera (1980), là một loại kiểm định xem dữ liệu có
skewness và kurtosis đáp ứng yêu cầu của phân phối chuẩn hay không. Kiểm định Jarque-
Bera đo lƣờng mức độ phù hợp của việc đi trệch khỏi phân phối chuẩn dựa trên kurtosis
và skewness, hay nói cách khác giả thuyết vô hiệu Ho là dữ liệu có phân phối chuẩn. Dựa
trên giá trị thống kê Jarque-Bera và p-value, bác bỏ giả thiết Ho tại mức ý nghĩa 1%, hay
nói cách khác giả thiết vô hiệu Ho bị bác bỏ với nguy cơ sai lầm là 1%, nghĩa là dữ liệu
không có phân phối chuẩn.
Thông qua các kết quả thống kê mô tả chúng ta có thể phát biểu rằng không có sự
ngẫu nhiên trong dữ liệu, và dữ liệu cho thấy sự thay đổi theo chu kỳ và khó tránh khỏi sự
đầu cơ. Điều này cho thấy rằng một NĐT có thể kiếm siêu lợi nhuận đáng quan tâm từ
TTCK Việt Nam.
Các mô hình dự báo chuỗi thời gian là dự báo giá trị tƣơng lai của một biến số nào
đó, bằng cách phân tích số liệu quá khứ và hiện tại của những biến số đó. Giả định của dự
báo chuỗi thời gian là sự vận động trong tƣơng lai của biến dự báo sẽ giữ nguyên xu thế
vận động trong quá khứ và hiện tại. Nhƣ vậy, chỉ có chuỗi ổn định mới đƣa ra đƣợc
những dự báo tin cậy. Tính ổn định của chuỗi dữ liệu thể hiện qua tính “dừng”, đây là
33
điều kiện quan trọng để phân tích và dự báo chuỗi thời gian. Hầu hết các biến chuỗi thời
gian là không dừng hoặc liên kết bậc 1 (sai phân bậc 1 là một chuỗi dừng). Để tránh hiện
tƣợng hồi quy tƣơng quan giả do hồi quy một chuỗi thời gian không dừng với một hoặc
nhiều chuỗi thời gian không dừng khác thì các biến trong mô hình hồi quy phải dừng hoặc
đồng liên kết (cointegration). Điều này xảy ra là do việc ƣớc lƣợng các hệ số hồi quy
không chỉ gồm ảnh hƣởng các biến độc lập đến biến phụ thuộc mà còn bao hàm cả yếu tố
xu thế. Nếu ƣớc lƣợng mô hình với chuỗi thời gian trong đó có biến độc lập không dừng
sẽ vi phạm các giả định của mô hình hồi quy OLS. Có nhiều cách để nhận dạng một chuỗi
thời gian dừng hay không dừng, ví dụ nhƣ phân tích đồ thị, sai phân, hàm tự tƣơng quan,
kiểm định thống kê Ljung – Box. Theo Gujarati (2003) kiểm định nghiệm đơn vị (Unit
roof test) là một cách kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian đƣợc sử dụng phổ biến
trong thời gian gần đây. Do đó, trƣớc khi chạy mô hình hồi quy bình phƣơng bé nhất
thông thƣờng (OLS) và mô hình ARCH/GARCH, các kiểm định nghiệm đơn vị unit root
tests đƣợc thực hiện để kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu, bao gồm: kiểm định
nghiệm đơn vị ADF (Dickey and Fuller, 1979; 1981) và kiểm định PP unit root test
(Phillips and Perron, 1988).
Một đặc điểm của hầu hết các chuỗi thời gian tài chính là tại dạng thức ban đầu
(level) chúng là những bƣớc đi ngẫu nhiên, nghĩa là chúng không có tính dừng. Mặt khác,
tại dạng thức sai phân thứ nhất (at first difference), chúng có tình dừng. Vì vậy, thay vì
mô hình hóa các chuỗi thời gian tài chính tại dạng thức ban đầu, chúng ta thực hiện mô
hình hóa các chuỗi thời gian tài chính tại sai phân thứ nhất của chúng.
Bảng (4.2) cho thấy kiểm định nghiệm đơn vị bằng cả hai phƣơng pháp PP unit root
tests và ADF unit root test. Độ trễ tối ƣu trong kiểm định ADF unit root test đƣợc lựa
chọn dựa trên các chỉ tiêu Akaike Information Criterion (AIC), các chỉ tiêu AIC đo lƣờng
mức độ phù hợp của mô hình thống kê ƣớc lƣợng. Phù hợp với điều đó, tiêu chuẩn này sẽ
34
cung cấp giá trị thấp nhất để làm cho dữ liệu phù hợp. Kiểm định PP unit root test đƣợc
dựa trên Newey-West (1994) cho Bartlett Kernel (Lag truncation: 4).
Bảng 4.2. Kết quả Unit Root Test cho RTR và các biến kinh tế vĩ mô
PP Unit Root Durbin-Watson Variables ADF Unit Root Test Test Stat
-7.198* -6.899* 2.02 RTR
-5.861* -6.588* 2.00 RMS2
-5.802* -7.182* 2.00 RGDP
-2.031** -3.463* 1.95 CPI
-2.831* -7.589* 2.01 E1
-5.464* -6.86* 2.07 IR
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews, phụ lục 2)
Các biến kiểm định Unit root test và ADF tại sai phân bậc nhất dƣới dạng logarit tự
nhiên không có Intercept and Trend.
Ghi chú:
1. Dấu hoa thị (*) cho thấy sự bác bỏ giả thiết vô hiệu Ho cho rằng dữ liệu không
dừng tại mức ý nghĩa 1%, hay nói cách khác giả thiết Ho bị bác bỏ với nguy cơ sai lầm là
1%, nghĩa là dữ liệu dừng. Tƣơng tự, dấu hoa thị (**) cho thấy sự bác bỏ giả thiết vô hiệu
Ho tại mức ý nghĩa 5%.
35
2. Giá trị tới hạn MacKinnon (1996) đƣợc sử dụng cho ADF và PP tests (At first
difference in natural logarithm without Intercept and Trend). Giá trị tới hạn 1%, 5% và
10% đối với ADF và PP tests tƣơng ứng là -2.589 và -1.944 và -1.614.
Kết quả trình bày trong bảng (4.2) cho thấy giả thiết vô hiệu Ho về sự tồn tại của
nghiệm đơn vị nằm trong vùng bị bác bỏ hoàn toàn. Do đó, giả thiết vô hiệu Ho bị bác bỏ
tại mức ý nghĩa 1% trong cả hai kiểm định ADF và PP tests đối với tất cả các chuỗi dữ
liệu sử dụng trong mô hình, ngoại trừ chuỗi CPI trong kiểm định ADF là 5%, vì kết quả
thống kê có giá trị tuyệt đối lớn hơn giá trị tới hạn đƣợc tính toán. Nhƣ vậy, tất cả các
chuỗi dữ liệu sử dụng trong mô hình bao gồm RTR, RMS2, RGDP, CPI, E1 và IR đều
dừng tại sai phân bậc nhất. Thêm vào đó, thống kê Durbin-Watson cho thấy không có
bằng chứng về sự tự tƣơng quan (trị thống kê Durbin-Watson có giá trị xoay quanh 2).
Vì tất cả các chuỗi dữ liệu đều dừng tại sai phân bậc nhất, do vậy sai phân bậc nhất
dƣới dạng logarit tự nhiên của các chuỗi số này sẽ đƣợc sử dụng trong mô hình xác định
tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam, bao gồm: LRTR,
LRMS2, LRGDP, LCPI, LE1 và LIR. Ngoài ra còn có một biến giả DUM. Bây giờ chúng
ta có thể tiếp tục ƣớc lƣợng ảnh hƣởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi
TTCK Việt Nam, thông qua sử dụng mô hình OLS và ARCH/GARCH.
4.2. Kết quả thực nghiệm và giải thích:
Nhiều nghiên cứu trƣớc đây đã kiểm tra mối liên kết giữa giá TTCK và các nhân tố
kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn và cho thấy các kết quả lộn xộn. Các kết quả của các nghiên
cứu phụ thuộc vào phạm vi của nghiên cứu đó. Tuy nhiên, có một số nhân tố ảnh hƣởng
đến mọi TTCK. Dù sao chăng nữa, thật là khó để tổng quát hóa các kết quả bởi vì môi
trƣờng và hoàn cảnh của các TTCK thì khác nhau. Mỗi TTCK có các nguyên tắc, quy
định, vị trí quốc gia và loại NĐT, ... khác nhau.
Trong nghiên cứu này, tất cả các biến cho thấy chúng đều có tính dừng tại sai phân
bậc nhất, tiếp tục sử dụng chúng tại sai phân thứ nhất dƣới dạng logarit tự nhiên trong quy
36
trình ƣớc lƣợng mô hình. Vì vậy, ảnh hƣởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh
lợi TTCK Việt Nam đƣợc ƣớc lƣợng thông qua việc áp dụng cả hai mô hình theo thứ tự là
mô hình bình phƣơng bé nhất thông thƣờng OLS và mô hình phƣơng sai thay đổi có điều
kiện tự hồi quy ARCH/GARCH.
Kết quả ƣớc lƣợng mô hình OLS về tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất
sinh lợi TTCK Việt Nam đƣợc thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4.3. Ƣớc lƣợng OLS về tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất
sinh lợi của chỉ số giá TTCK trong giai đoạn (01/2004 – 12/2012). Biến phụ thuộc:
LRTR
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews)
37
Mô hình giải thích 76,67% sự dao động trong giá TTCK. Hệ số của LRMS2, LIR là
dƣơng và hệ số của LRGDP, LCPI, LE1, DUM là âm nhƣng không có ý nghĩa về mặt
thống kê ở mức ý nghĩa 10%, ngoại trừ LCPI và DUM. Nhƣ vậy nhiều khả năng có sự tồn
tại đa cộng tuyến, do đó cần phải tiến hành kiểm định đa cộng tuyến.
Đa cộng tuyến là hiện tƣợng các biến độc lập trong mô hình hồi quy phụ thuộc lẫn
nhau. Để kiểm định đa cộng tuyến, ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến độc lập đƣợc
xây dựng:
Bảng 4.4. Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến độc lập
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews)
38
Căn cứ vào bảng ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến độc lập trên cho thấy các
biến độc lập có mối tƣơng quan khá chặt với nhau, đó là:
(i) Biến tỷ lệ tăng cung tiền thực (LRMS2) có mối tƣơng quan đồng biến mạnh với
biến biến tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội thực (LRGDP);
(ii) Biến tỷ lệ tăng lạm phát (LCPI) có mối tƣơng quan nghịch biến mạnh với biến
tỷ lệ tăng cung tiền thực (LRMS2) và biến tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội thực
(LRGDP).
Nhƣ vậy, nhìn vào bảng ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến độc lập ta có thể
thấy tồn tại hiện tƣợng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình ƣớc lƣợng.
Điều này làm cho các kết quả ƣớc lƣợng OLS không đáng tin cậy do phƣơng sai của chúng tăng lên và R2 cao nhƣng thống kê t ít có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, bảng kết quả ƣớc lƣợng OLS về tác động của các biến kinh tế vĩ mô
lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam cũng cho thấy có dấu hiệu của hiện tƣợng tự tƣơng
quan. Nhìn vào bảng (4.3) ta thấy trị thống kê Durbin-Watson d bằng 1,539. Trong khi
đó, dựa vào bảng Durbin-Watson tại mức ý nghĩa 5%, n bằng 108 quan sát, k’ bằng 6 biến
độc lập, ta có dL = 1,55 và dU = 1,803. Nhƣ vậy, ƣớc lƣợng OLS cho kết quả trị thống kê
Durbin-Watson d = 1,539 nhỏ hơn dL = 1,55; do đó bác bỏ giả thuyết H0 cho rằng không
có tự tƣơng quan đồng biến, nghĩa là trị thống kê Durbin-Watson xác nhận sự tồn tại hiện
tƣợng tự tƣơng quan. Khi có hiện tƣợng tự tƣơng quan thì các ƣớc lƣợng OLS vẫn là các
ƣớc lƣợng tuyến tính không thiên lệch và nhất quán, nhƣng chúng không phải là ƣớc
lƣợng hiệu quả nữa. Kết quả là, các kiểm định t và F không còn đáng tin cậy.
Ngoài ra, để kiểm định tính ARCH luận văn tiếp tục thực hiện ƣớc lƣợng phƣơng
2
trình hồi quy phụ bằng cách sử dụng phần dƣ ut thu đƣợc từ ƣớc lƣợng OLS ở trên:
2 = α0 + α1 ut-1
ut
Kết quả kiểm định ARCH đƣợc thể hiện trong bảng sau:
39
Bảng 4.5. Kết quả kiểm định ARCH
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews)
Kết quả kiểm định ARCH trong bảng (4.5) cho thấy tại mức ý nghĩa 2,5% mô hình
OLS ở trên có hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi quy.
Vì mô hình ƣớc lƣợng OLS không còn là mô hình ƣớc lƣợng tốt nhất về tác động
của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam do tồn tại hiện tƣợng đa
cộng tuyến, tự tƣơng quan và hiệu ứng ARCH nên luận văn tiếp tục sử dụng mô hình
40
phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi quy ARCH/GARCH để ƣớc lƣợng tác động của
các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam.
Kết quả ƣớc lƣợng mô hình ARCH (1) về tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ
suất sinh lợi TTCK Việt Nam đƣợc thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4.6. Tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi chỉ số giá
TTCK Việt Nam đƣợc kiểm tra bằng phƣơng pháp: ML – ARCH (Marquardt):
ARCH (1) ƣớc lƣợng cho giai đoạn: (01/2004 – 12/2012). Biến phụ thuộc: LRTR.
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews)
41
Các kết quả ƣớc lƣợng về ảnh hƣởng của các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn lên
tỷ suất sinh lợi của chỉ số giá TTCK Việt Nam bằng việc sử dụng mô hình phƣơng sai
thay đổi có điều kiện tự hồi quy ARCH (1) đƣợc trình bày trong bảng (4.6). Kết quả ƣớc
lƣợng mô hình ARCH (1) cho thấy giá trị liên quan đến hệ số sai số bình phƣơng trễ là
dƣơng (+ 0.652964) và có ý nghĩa tại mức 5%, điều này thỏa mãn yêu cầu của mô hình. Kết quả R2 điều chỉnh bằng 75,33% khá cao và p-value thấp cho thấy các biến kinh tế vĩ
mô đƣợc lựa chọn bao gồm LRMS2, LRGDP, LCPI, LE1, LIR và biến giả DUM giải
thích tốt cho tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, ngoại trừ biến LE1 và biến giả
DUM có ý nghĩa về mặt thống kê tại mức ý nghĩa lần lƣợt là 10% và 1% thì các hệ số của
các biến giải thích còn lại bao gồm LRMS2, LRGDP, LCPI và LIR đều không có ý nghĩa
về mặt thống kê tại mức ý nghĩa 10%.
Vì vậy, luận văn tiếp tục sử dụng mô hình phƣơng sai thay đổi có điều kiện tự hồi
quy tổng quát GARCH (1, 1) – mô hình mở rộng của mô hình ARCH (1) - để ƣớc lƣợng
tác động của các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam.
Kết quả ƣớc lƣợng mô hình mở rộng GARCH (1, 1) đƣợc thể hiện trong bảng sau:
42
Bảng 4.7. Tác động của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi chỉ số giá
TTCK Việt Nam đƣợc kiểm tra bằng phƣơng pháp: ML – ARCH (Marquardt):
ARCH (1)/GARCH (1) ƣớc lƣợng cho giai đoạn: (2004:01 – 2012:12). Biến phụ
thuộc: LRTR.
(Nguồn: tính toán của tác giả thông qua phần mềm eviews)
Các kết quả ƣớc lƣợng về ảnh hƣởng của các biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi
của chỉ số giá TTCK bằng việc sử dụng mô hình GARCH (1, 1) đƣợc trình bày trong
43
bảng (4.7). GARCH (1, 1) với hệ số của phƣơng sai sai số trễ đƣợc tìm thấy là dƣơng và có ý nghĩa tại mức 1%, điều này thỏa mãn yêu cầu của mô hình. Kết quả R2 điều chỉnh
bằng 74,96% khá cao, p-value thấp và đa số các biến đều có ý nghĩa thống kê tại mức ý
nghĩa 1% và 5%. Kết quả này cho thấy các biến kinh tế vĩ mô đƣợc lựa chọn bao gồm
LRMS2, LRGDP, LCPI, LE1, LIR và biến giả DUM giải thích tốt cho tỷ suất sinh lợi
TTCK Việt Nam. Do đó, mô hình mở rộng GARCH (1, 1) là mô hình tốt nhất.
Các kết quả của nghiên cứu dựa trên ƣớc lƣợng GARCH (1, 1) đƣợc trình bày trong
bảng (4.7) cho thấy khi các nhân tố khác không đổi thì tại Việt Nam:
Cung tiền thực M2 (RMS2) có tác động đồng biến lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt
Nam, giá trị dƣơng của hệ số là (0.776707) và có mức ý nghĩa 5%. Kết quả này phù hợp
với các nghiên cứu trƣớc đây nhƣ: Fama (1981); Asprem (1989); Abdullah và Hayworth
(1993); Mukherjee và Naka (1995); Jiranyakul (2009); Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm
Dƣơng Phƣơng Thảo (2013). Cung tiền tăng lên đồng nghĩa với cung về vốn tăng lên dẫn
đến lƣợng tiền lƣu thông trong nền kinh tế nhiều hơn, cả doanh nghiệp và NĐT đều có cơ
hội tiếp cận nguồn vốn. Doanh nghiệp dễ dàng vay vốn để kinh doanh nên khả năng tăng
thu nhập cũng tăng lên, NĐT có thêm nguồn vốn nên cầu về chứng khoán sẽ tăng. Qua
đó, tạo ra những tác động tích cực đối với TTCK. Ngƣợc lại, khi cung tiền giảm sẽ khiến
tổng cầu giảm và làm cho chỉ số giá chứng khoán giảm. Mặt khác, khi cung tiền tăng dẫn
đến lƣợng tiền trong lƣu thông tăng, từ đó lãi suất trên thị trƣờng tiền tệ sẽ giảm và theo
nguyên tắc bình thông nhau giữa thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn thì lƣợng tiền nhàn
rỗi sẽ dịch chuyển từ thị trƣờng tiền tệ sang TTCK để hƣởng mức sinh lời cao hơn.
Tổng sản phẩm quốc nội thực (RGDP) có tác động nghịch biến lên chỉ số giá
TTCK Việt Nam và hệ số là (-0.050581). Kết quả này không tƣơng đồng với các nghiên
cứu trƣớc đây. Thông thƣờng, một sự tăng lên hay giảm xuống trong GDP cũng sẽ làm
cho tỷ suất sinh lợi TTCK tăng lên hay giảm xuống tƣơng ứng. Khi nền kinh tế tăng
trƣởng, biểu thị thông qua GDP tăng, cho thấy các doanh nghiệp trong nền kinh tế đang
44
hoạt động hiệu quả, triển vọng đầu tƣ khả quan, các doanh nghiệp có nhiều khả năng sinh
lợi cao, làm gia tăng giá trị thu nhập của cổ đông và có thể gia tăng cổ tức nhận đƣợc, do
đó thu hút dòng vốn đầu tƣ vào TTCK, dẫn đến giá chứng khoán tăng theo. Mặt khác, khi
tỷ suất sinh lợi TTCK tăng lên, với hiệu ứng tài sản, các cổ đông sẽ cảm thấy giàu có
hơn, từ đó tác động khiến chi tiêu dùng tăng. Chi tiêu dùng tăng có thể dẫn đến tăng
lợi nhuận của doanh nghiệp và giúp giá cổ phiếu tăng, cho thấy chi tiêu dùng có thể
ảnh hƣởng giá cổ phiếu và qua đó khiến cho tỷ suất sinh lợi TTCK tăng. Tuy nhiên, biến
RGDP trong mô hình không có ý nghĩa về mặt thống kê tại mức ý nghĩa 10%, vì vậy
không phản ánh chính xác tác động thực sự của nhân tố hoạt động kinh tế thực lên tỷ suất
sinh lợi TTCK Việt Nam. Một số những nguyên nhân là: (i) do cách tính chỉ số GDP của
Việt Nam mang tính đặc thù, dẫn đến biểu hiện bất thƣờng trong chuỗi dữ liệu GDP; (ii)
do Việt Nam chỉ công bố chỉ tiêu tổng GDP theo quý, chỉ tiêu GDP theo tháng đƣợc tạo
ra từ GDP danh nghĩa theo quý bằng việc sử dụng phần mềm Eview 6, dẫn đến không
phản ánh đƣợc đúng thực tế giá trị GDP theo tháng.
Lạm phát (CPI) có tƣơng quan nghịch biến với chỉ số giá TTCK Việt Nam và hệ
số tƣơng quan là (-0.398009). Mối tƣơng quan âm này phù hợp với Asprem (1989);
Mukherjee và Naka (1995); Ralph và Eriki (2001); Maghyereh (2002); Jiranyakul (2009);
El-Nader và Alraimony (2012). Tuy nhiên, kết quả này không phù hợp với Abdullah và
Hayworth (1993); Adam & Tweneboah (2008). Lạm phát tăng cao là dấu hiệu cho thấy
nền kinh tế đang tăng trƣởng nóng, lƣợng tiền lƣu thông trong nền kinh tế đang dƣ thừa,
vì vậy NHTW sẽ có biện pháp để hút bớt lƣợng tiền trong lƣu thông về thông qua chính
sách thắt chặt tiền tệ. Ngoài ra, khi lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá, ngƣời dân
không muốn giữ tiền mặt hoặc gửi tiền trong ngân hàng nếu mức lãi suất nhận đƣợc
thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Do đó, khi lạm phát tăng lãi suất sẽ đƣợc điều chỉnh tăng theo
để vừa đảm bảo thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của NHTW, vừa đảm bảo lãi suất
thực dƣơng cho ngƣời gửi tiền để giúp các NHTM dễ dàng hơn trong công tác huy động
vốn. Nhƣ vậy, lạm phát tăng khiến chi phí lãi vay của doanh nghiệp đắt đỏ hơn. Hay nói
45
cách khác, lạm phát tăng thƣờng đồng nghĩa với việc chi phí đầu vào cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng lên. Khi chi phí sản xuất tăng cao, giá thành
các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sẽ phải tăng theo để đảm bảo sản xuất kinh
doanh hoặc có lợi nhuận. Tuy nhiên, sức tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp sẽ
sụt giảm do giá bán cao, đặc biệt trong ngắn hạn và khi ngƣời tiêu dùng tìm tới các sản
phẩm thay thế. Điều này khiến cho lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp khó đƣợc đảm
bảo và thậm chí sụt giảm, dẫn tới lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong tƣơng lai bị
định giá thấp. Kết quả là giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trƣờng bị ảnh hƣởng theo
hƣớng suy giảm với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, biến CPI trong mô hình không có
ý nghĩa về mặt thống kê tại mức ý nghĩa 10%, dẫn đến không phản ánh chính xác tác
động thực sự của nhân tố lạm phát đến tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Nguyên nhân
chủ yếu là do cách tính chỉ số CPI của Việt Nam mang tính đặc thù, dẫn đến biểu hiện bất
thƣờng trong chuỗi dữ liệu CPI. Ngoài ra, kết quả này khác với kết quả của Phan Thị Bích
Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo (2013), nguyên nhân chủ yếu là do khoảng thời
gian nghiên cứu khác nhau.
Tỷ giá hối đoái thực (E1) và tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam có mối liên kết
nghịch biến và hệ số là (-0.973866) với mức ý nghĩa 5%. Kết quả này là tƣơng đồng với
kết quả nghiên cứu của Maysami và các cộng sự (2004); El-Nader & Alraimony (2012);
Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo (2013). Ngƣợc lại, kết quả này
không tƣơng đồng với kết quả nghiên cứu của Mukherjee và Naka (1995); Jiranyakul
(2009). Tỷ giá hối đoái ảnh hƣởng trực tiếp đến giá trị xuất khẩu ròng của một quốc gia;
từ đó, tác động đến tăng trƣởng kinh tế hoặc ảnh hƣởng đến kim ngạch của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, cũng nhƣ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Qua đó, tỷ giá
hối đoái tác động đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp và ảnh hƣởng gián tiếp
đến tỷ suất sinh lợi TTCK. Việt Nam là một quốc gia nhập siêu, khi tỷ giá hối đoái tăng,
nghĩa là đồng VND mất giá so với đồng USD; các doanh nghiệp nhập khẩu cần nhiều
đồng VND hơn để mua đồng USD cho nhu cầu thanh toán, dẫn đến giá cả hàng hóa trở
46
nên đắt đỏ, doanh thu sụt giảm, do đó thu nhập của các doanh nghiệp giảm, điều này làm
cho các doanh nghiệp giảm cổ tức dẫn đến giá chứng khoán giảm, qua đó tỷ suất sinh lợi
TTCK giảm.
Lãi suất cho vay (IR) và tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam có mối quan hệ đồng
biến, hệ số tƣơng quan đƣợc tìm thấy có mức ý nghĩa 5% với độ lớn (0.278590). Kết quả
này phù hợp với Maysami và các cộng sự (2004). Tuy nhiên, kết quả này không phù hợp
với Asprem (1989); Abdullah và Hayworth (1993); Mukherjee và Naka (1995);
Maghyereh (2002); El-Nader và Alraimony (2012); Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm
Dƣơng Phƣơng Thảo (2013). Thông thƣờng, lãi suất có xu hƣớng giảm khi lạm phát giảm
và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn và ngƣợc lại. Nhƣng nếu lạm phát
không phải là một vấn đề nghiêm trọng và lãi suất tăng, đầu tƣ vào TTCK thƣờng mang
lại nhiều lãi, bởi vì trong trƣờng hợp này, lãi suất tăng là do nền kinh tế tăng trƣởng. Việt
Nam là một quốc gia nhập siêu, các máy móc, nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh
doanh phần lớn phải nhập khẩu, thì bối cảnh lãi suất tăng lại là lợi thế cho các doanh
nghiệp này. Trong bối cảnh lạm phát vừa phải và lãi suất trong nƣớc nƣớc tăng thì sẽ thu
hút đƣợc luồng vốn từ nƣớc ngoài đổ vào Việt Nam. Điều này sẽ làm cho tỷ giá hối đoái
giảm, các doanh nghiệp nhập khẩu cần ít đồng VND hơn để mua đồng USD cho nhu cầu
thanh toán dẫn đến giá cả hàng hóa trở nên rẻ hơn, doanh thu gia tăng, do đó thu nhập của
các doanh nghiệp tăng, từ đó các doanh nghiệp sẽ gia tăng cổ tức dẫn đến giá chứng
khoán tăng, qua đó tỷ suất sinh lợi TTCK tăng. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng của chi phí vốn
vay tăng lên, phần lợi thế này có nguy cơ bị triệt tiêu. Nhìn chung, đối với một quốc gia
mà chủ yếu máy móc, nguyên vật liệu đƣợc nhập khẩu từ nƣớc ngoài, lãi suất tăng (với
mức hợp lý) đôi khi cũng là một yếu tố hỗ trợ cho TTCK. Ngoài ra, kết quả này khác với
kết quả của Phan Thị Bích Nguyệt và Phạm Dƣơng Phƣơng Thảo (2013), nguyên nhân
chủ yếu là do khoảng thời gian nghiên cứu khác nhau.
47
Cuối cùng, nghiên cứu cho thấy một mối liên kết nghịch biến giữa biến giả
(DUM) và tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Hệ số tƣơng quan là (-10.67255) với mức ý
nghĩa cao. Điều này phù hợp với El-Nader & Alraimony (2012). Trong suốt thời kỳ
nghiên cứu, nền kinh tế và TTCK Việt Nam đã chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008. Sự kiện này đã kéo theo sự sụt giảm sâu của TTCK.
4.3. Kết luận chƣơng bốn:
Tóm lại, chƣơng 4 cho thấy kết quả kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu các
biến trong mô hình bằng hai phƣơng pháp ADF và PP unit root test. Kết quả là tất cả các
chuỗi dữ liệu đều dừng tại sai phân bậc nhất, do vậy sai phân bậc nhất dƣới dạng logarit
tự nhiên của các chuỗi số này sẽ đƣợc sử dụng trong mô hình xác định tác động của các
biến kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam, bao gồm: LRTR, LRMS2,
LRGDP, LCPI, LE1 và LIR. Ngoài ra còn có một biến giả DUM.
Kế đến, luận văn tiếp tục ƣớc lƣợng ảnh hƣởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ
số giá VN-Index, thông qua sử dụng mô hình OLS và ARCH/GARCH. Kết quả của mô
hình GARCH (1, 1) là tốt nhất và đã cho thấy mối liên kết mạnh giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô và tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam, với R2 điều chỉnh = 74,96%. Các kết quả của
ƣớc lƣợng GARCH (1, 1) xác nhận rằng cung tiền thực (RMS2), lãi suất cho vay (IR) có
tƣơng quan đồng biến với tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Trong khi đó, hoạt động kinh
tế thực (RGDP), lạm phát (CPI), tỷ giá hối đoái thực (E1) và biến giả có tƣơng quan
nghịch biến với tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, hai biến hoạt động kinh tế
thực (RGDP) và lạm phát (CPI) không có ý nghĩa về mặt thống kê tại mức ý nghĩa 10%.
48
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN, GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ HẠN
CHẾ
5.1. Kết luận:
Bài nghiên cứu này thực hiện nghiên cứu tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô
cũng nhƣ các sự kiện nhƣ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 lên tỷ suất sinh
lợi TTCK Việt Nam, sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian theo tháng từ năm 2004 đến năm
2012. Tỷ lệ tăng hàng tháng đƣợc tính nhƣ là sai phân bậc nhất dƣới dạng logarit tự nhiên.
Kiểm định nghiệm đơn vị đƣợc sử dụng để kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu.
Kết quả là tất cả các biến đều dừng tại sai phân bậc nhất, tiếp tục sử dụng chúng tại sai
phân thứ nhất dƣới dạng logarit tự nhiên trong quy trình ƣớc lƣợng mô hình.
Bài nghiên cứu đã sử dụng sáu biến kinh tế vĩ mô trong nƣớc, bao gồm: cung tiền
thực (RMS2), tổng sản phẩm quốc nội thực (RGDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối
đoái thực (E1), lãi suất cho vay (IR) và một biến giả (DUM).
Mô hình OLS và ARCH/GARCH đƣợc sử dụng. Kết quả của mô hình GARCH (1,
1) là tốt nhất và đã cho thấy mối liên kết mạnh giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô và tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam, với R2 điều chỉnh = 74,96%.
Các kết quả của ƣớc lƣợng GARCH (1, 1) xác nhận rằng cung tiền thực (RMS2), lãi
suất cho vay (IR) có tƣơng quan đồng biến với tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Trong
khi đó, hoạt động kinh tế thực (RGDP), lạm phát (CPI), tỷ giá hối đoái thực (E1) và biến
giả DUM có tƣơng quan nghịch biến với tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, hai
biến hoạt động kinh tế thực (RGDP) và lạm phát (CPI) không có ý nghĩa về mặt thống kê
tại mức ý nghĩa 10%.
49
5.2. Gợi ý chính sách:
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các nhân tố vĩ mô nhƣ cung tiền thực,
tổng sản phẩm quốc nội thực, lạm phát, tỷ giá hối đoái thực, lãi suất cho vay và các nhân
tố phi kinh tế vĩ mô nhƣ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã giải thích đƣợc
74,96% tỷ suất sinh lợi TTCK Việt Nam. Vì vậy, việc dự báo tình hình kinh tế vĩ mô là
một trong những việc cần thực hiện đầu tiên trƣớc khi quyết định đầu tƣ trên TTCK.
Muốn vậy, cần phải đề ra các giải pháp nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách xây
dựng và hoàn thiện các chính sách điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô một cách ổn định
và nhất quán, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Qua đó, cũng
giúp cho việc dự báo các nhân tố kinh tế vĩ mô đƣợc chính xác và hạn chế đƣợc những tác
động bất thƣờng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến TTCK Việt Nam.
5.2.1. Chính sách tiền tệ phải đƣợc điều hành độc lập bởi NHNN:
Chính sách tiền tệ liên quan đến vấn đề cung tiền, tỷ giá, lãi suất đƣợc quyết định
bởi NHNN. Theo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, việc cải cách nhằm tăng
cƣờng quyền tự chủ cho các NHNN của một quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc
kiềm chế lạm phát. Do vậy, kinh nghiệm này nên đƣợc áp dụng đối với Việt Nam.
Nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tăng
cƣờng hiệu quả hoạt động của NHNN trong việc xây dựng chính sách tiền tệ nói riêng và
các nhiệm vụ khác của NHNN nói chung.
Thứ nhất, về địa vị pháp lý, khi địa vị pháp lý của NHNN không đƣợc độc lập thì
khả năng độc lập về mục tiêu và quá trình thực thi chính sách ít nhiều bị giới hạn. Bƣớc đi
đầu tiên có tính thử nghiệm là cho phép NHNN đƣợc độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu
chính sách ƣu tiên trong nhóm các mục tiêu sao cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế vĩ
mô, mà không nhất thiết phải phù hợp với các chính sách khác của Chính phủ.
50
Thứ hai, về mục tiêu, các NHTW trên thế giới thƣờng tập trung vào các mục tiêu
chính nhƣ kiểm soát lạm phát, duy trì công ăn việc làm, tăng trƣởng kinh tế, ổn định hệ
thống tiền tệ và thị trƣờng tài chính. Do đó, NHNN nên đƣợc trao quyền lựa chọn mục
tiêu cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.
Thứ ba, về quyết định thực thi chính sách, Thống đốc phải đƣợc trao quyền quyết
định trong việc thực thi các chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm về các quyết định
đó, chứ không nên thông qua Chính phủ. Điều này không những tăng tính chủ động cho
NHNN, mà còn giảm độ trễ chính sách.
Thứ tƣ, về quan hệ với ngân sách, để đảm bảo hiệu quả của chính sách tiền tệ,
những nhiệm vụ khác nhƣ tạm ứng chi ngân sách cũng nên đƣợc quy định lại để Thống
đốc có quyền từ chối trong mục tiêu thâm hụt ngân sách đƣợc Quốc hội phê duyệt hàng
năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trƣờng. Đặc biệt, để đảm bảo
tính độc lập về hoạt động, cần có quy định cụ thể về chức năng “là ngân hàng của Chính
phủ” theo hƣớng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng
gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trƣờng thứ cấp có hạn
mức và lấy trái phiếu chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay.
Duy trì ổn định giá cả và bảo tồn sức mua trong nƣớc của tiền bản tệ là nhiệm vụ
trọng tâm của chính sách kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Do đó, nâng cao tính độc lập
của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý, về công cụ và mục tiêu chính sách cũng nhƣ tài
chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo cơ sở cho sự can thiệp có hiệu quả hơn của
NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì tính ổn định và thúc
đẩy tăng trƣởng kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng một cách bền vững.
5.2.2. Tái cấu trúc nền kinh tế để chính sách hiệu quả:
Trong bối cảnh ngân sách Nhà nƣớc luôn bị thâm hụt, cụ thể thâm hụt ngân sách
không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là
1,3% GDP, nhƣng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP trong giai đoạn 2008 -
51
2012. Thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng nhanh của nợ công trong
những năm gần đây. Tổng nợ công của Việt Nam đã tăng từ khoảng 40% GDP từ cuối
năm 2007 lên tới 57% GDP vào cuối năm 2010 và chỉ giảm đôi chút vào năm 2011 và
năm 2012. Trƣớc tình hình đó, Việt Nam có thể phải đối mặt với nguy cơ mất linh hoạt
trong điều hành chính sách tiền tệ, thậm chí là khủng hoảng nợ quốc gia nếu không có
những biện pháp cải thiện tình hình.
Trong khi đó, hiệu quả chi tiêu ngân sách đƣợc xem là vấn đề nóng của Việt Nam
trong thời gian qua, ngân sách đầu tƣ công cho kinh tế rất lớn khiến tổng đầu tƣ của nền
kinh tế lên đến 42% GDP nhƣng lại không góp phần thúc đẩy tăng trƣởng, trái lại gây
gánh nặng thâm hụt, nợ nần cho ngân sách.
Thực hiện việc tái cấu trúc nền kinh tế sẽ giúp cho chính sách tài khóa phát huy tác
dụng mạnh hơn. Một khi chính sách tài khóa phát huy tác dụng tốt, hiệu quả đầu tƣ đƣợc
nâng cao sẽ làm gia tăng GDP và góp phần kiềm chế lạm phát, từ đó khiến cho lãi suất –
nhân tố kinh tế vốn đƣợc điều hành theo lạm phát – sẽ đƣợc giữ ở mức ổn định. Nhiệm vụ
tái cấu trúc nền kinh tế bao gồm:
Cải cách hệ thống NHTM, trong đó, khâu trọng tâm là xử lý tình trạng sở hữu
chéo và liên kết nhóm lợi ích thao túng hệ thống ngân hàng và thao túng nền kinh tế.
Tái cơ cấu tập đoàn kinh tế nhà nƣớc: ƣu tiên tái cơ cấu một số tập đoàn nhƣ
Vinashin, Vinalines.
Tái cơ cấu đầu tƣ công: cần đặt trọng tâm tái cơ cấu đầu tƣ công vào việc thiết kế
một cơ chế phối hợp có sự chế tài nghiêm túc giữa việc xác định và phê duyệt các dự án
đầu tƣ công và năng lực thực hiện.
5.2.3. Hƣớng đến một TTCK hiệu quả về thông tin:
Thị trƣờng chứng khoán phản ứng mạnh trƣớc các thông tin kinh tế vĩ mô. Do đó,
độ chính xác, minh bạch và kịp thời của thông tin kinh tế vĩ mô sẽ có tác động lên TTCK
52
và hành vi của NĐT. Vì vậy, việc công bố thông tin vĩ mô cần đƣợc thực hiện chuyên
nghiệp và đƣợc kiểm soát bởi hành lang pháp lý để tránh tình trạng kinh doanh nội gián,
lợi ích nhóm làm bóp méo và rối loạn thị trƣờng.
Bên cạnh việc quan tâm đến tính hiệu quả của các thông tin vĩ mô thì bản thân
TTCK Việt Nam cũng cần hƣớng đến tính hiệu quả về mặt thông tin. Có nhƣ vậy thì giá
cả chứng khoán mới phản ánh đúng và kịp thời khi có những tin tức về thay đổi chính
sách kinh tế vĩ mô. Điều này thể hiện đa chiều của mối tƣơng quan: chính sách kinh tế vĩ
mô của Chính phủ cần quan tâm để TTCK phát triển, TTCK phải ở dạng hiệu quả thì mới
có thể phản ánh những kỳ vọng từ chính sách đem lại, khi chính sách đƣợc thể hiện kết
quả đúng mức qua TTCK thì nội lực nền kinh tế gia tăng lại tạo điều kiện cho chính sách
càng thể hiện kết quả điều hành tốt hơn. TTCK phát triển bền vững đến lƣợt nó lại phát
tín hiệu đến NĐT trong và ngoài nƣớc về sự phát triển của nền kinh tế, thu hút dòng vốn
vào thị trƣờng, lại tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển
hơn. Tóm lại, trong mối tƣơng quan qua lại nhiều lần này, nền kinh tế Việt Nam sẽ đƣợc
tiếp thêm cơ sở để ngày càng tăng trƣởng ổn định. Để nâng cao hiệu quả về mặt thông tin
cho TTCK, những giải pháp sau đƣợc đề xuất:
Cải thiện tính minh bạch của thông tin đƣợc công bố, cụ thể:
Các tổ chức niêm yết cần phải có bộ phận chuyên trách công bố thông tin, đảm
bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin theo yêu cầu. Xây dựng hệ thống cung cấp
thông tin qua mạng Internet, hệ thống tự động trả lời qua mạng theo yêu cầu của NĐT. Có
nhƣ thế thì NĐT mới có thể tiếp cận và cập nhật thông tin 24/24h, chất lƣợng của việc
công bố thông tin vì thế cung sẽ đƣợc nâng cao và đạt hiệu quả tốt,
Các văn bản pháp quy về công bố thông tin trên thị trƣờng cần có những điều
chỉnh kịp thời, hợp lý, nêu rõ phạm vi, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của từng đối tƣợng
liên quan trong kênh công bố thông tin,
53
Nâng cao chất lƣợng kiểm toán báo cáo tài chính của tổ chức phát hành, niêm yết
và kinh doanh chứng khoán. Triển khai đồng bộ hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm
toán theo tiêu chuẩn quốc tế vào thực tế, biến chúng thành văn hóa kinh doanh của từng
doanh nghiệp, làm cầu nối thông tin giữa thị trƣờng trong nƣớc và thị trƣờng quốc tế.
Nâng cao vai trò của cơ quan giám sát TTCK, nâng cao tính thực thi của hệ thống
luật pháp liên quan đến hoạt động đầu tƣ chứng khoán. Xử lý nghiêm các vi phạm về quy
định công bố thông tin trên TTCK. Ðồng thời công khai các vi phạm và xử lý các vi phạm
về công bố thông tin của các tổ chức liên quan trên phƣơng tiện thông tin đại chúng;
Kiểm soát chặt tiêu chuẩn niêm yết nhằm tăng tính an toàn cho NĐT, xúc tiến
hình thành các tổ chức đánh giá mức tín nhiệm, là cơ sở giúp NĐT đánh giá doanh nghiệp
và nâng cao chất lƣợng công bố thông tin.
Ngoài ra, do các biến giả có tác động nghịch biến lên tỷ suất sinh lợi TTCK Việt
Nam. Do đó, các nhà hoạch định chính sách khi đƣa ra quyết định chính sách cần dựa trên
thông tin của cả các biến tài chính và các biến phi kinh tế vĩ mô có ảnh hƣởng đến tỷ suất
sinh lợi TTCK. Có nhƣ vậy, quyết định của họ mới chính xác và có hiệu quả hơn.
5.3. Hạn chế của bài nghiên cứu:
Bài nghiên cứu có những hạn chế nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, do Việt Nam chỉ công bố chỉ tiêu tổng GDP theo quý, chỉ tiêu GDP theo
tháng đƣợc tạo ra từ GDP danh nghĩa theo quý bằng việc sử dụng phần mềm Eview 6,
dẫn đến không phản ánh đƣợc đúng thực tế giá trị GDP theo tháng.
Thứ hai, khoảng thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2004 đến tháng 12/2012 là tƣơng
đối ngắn so với các nghiên cứu khác trên thế giới về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ
mô lên tỷ suất sinh lợi TTCK. Nguyên nhân chủ yếu là do TTCK Việt Nam đi vào hoạt
động từ năm 2000, đến nay thị trƣờng chỉ mới trải qua mƣời hai năm hình thành và phát
triển. Trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2003 TTCK hầu nhƣ chỉ hoạt động
54
cầm chừng (có chƣa tới 20 mã chứng khoán, giao dịch chỉ ba ngày/tuần), hơn nữa việc
tiếp cận số liệu trong khoảng thời gian này cũng rất hạn chế.
5.4. Kết luận chƣơng năm:
Trên cơ sở phân tích sự tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi
TTCK Việt Nam trong chƣơng 4, chƣơng 5 luận văn đã đúc kết lại các kết quả nghiên
cứu. Đồng thời đƣa ra các đề xuất nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách xây dựng
và hoàn thiện các chính sách điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô một cách ổn định và nhất
quán, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Qua đó, cũng giúp cho
việc dự báo các nhân tố kinh tế vĩ mô đƣợc chính xác và hạn chế đƣợc những tác động bất
thƣờng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến TTCK Việt Nam.
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Việt
1. Huỳnh Thế Nguyễn & Nguyễn Quyết (2013). Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái, lãi
suất và giá cổ phiếu tại thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Phát triển và hội nhập, số
11(21), tháng 07-08/2013, trang 37-41.
2. Phan Thị Bích Nguyệt & Phạm Dƣơng Thanh Thảo (2013). Phân tích tác động của
các nhân tố kinh tế vĩ mô đến TTCK Việt Nam. Tạp chí Phát triển và hội nhập, số
8(18), tháng 01-02/2013, trang 34-41.
Danh mục tài liệu tiếng Anh
3. Abdullah, D. A., & Hayworth, S. C. (1993). Macroeconomics of Stock Price
Flutuations. Quarterly Journal of Business and Economics, 32(1), 49-63.
4. Adam, A. M., & Tweneboah, G. (2008). Do macroeconomic variables play any role
in the stock market movement in Ghana?. Munich Personal RePEc Archive, MPRA
Paper 9357, University Library of Munich, Germany, pp.1-21.
5. Ali, M. B. (2011). T-Y Granger Causality between Stock Prices and Macroeconomic
Variables: Evidence from Dhaka Stock Exchange (DSE). European Journal of
Business and Management, ISSN 222-1905 (Paper), ISSN 222-2839 (Online), Vol 3,
No.8, 2011.
6. Al-sharkas, A. (2004). The Dynamic Relationship Between Macroeconomic Factors
and the Jordanian stock market. International Journal of Applied Econometrics and
Quantitative Studies, 1-1, 97-114.
7. Asprem, M. (1989). Stock prices, asset portfolios and macroeconomic variables in ten
European countries. Journal of Banking and Finance, 13(4/5), 589-612.
8. Chen, N. F., Roll, & Ross, S. A. (1986). Economic forces and stock market. Journal
of Business, 59(3), 383-403.
56
9. El-Nader, H. M., & Alraimony, A. D. (2012). The Impact of Macroeconomic Factors
on Amman Stock Market Returns. International Journal of Economics and
Finance,ISSN 1916-971X, E-ISSN 1916-9728, Vol. 4, No. 12, 2012.
10. Engle, R. F. (1982). Autoregressive conditional heteroskedasticity with estimates of
the variance of U.K. inflation. Econometrica, 50, 987-1008.
11. Engle, R. F. (1983). Estimates of the Variance of U. S. Inlation Based upon the
ARCH Model. Journal of Money, Credit and Banking, 15(3), 286-301.
12. Engle, R. F., & Bollerslev, T. (1986). Modelling the persistence of conditional
variance. Econometric Reviews, 5, 1-50.
13. Fama, E. F., & Schwert, G. W. (1977). Asset returns and inflation. Journal of
Financial Economics, 5(2), 115-146.
14. Fama, E. F. (1981). Stock returns, real activity, inflation and money. American
Economic Review, 7(4), 545-565.
15. Fama, E. F. (1990). Stock returns, expected returns, and real activity. Journal of
Finance, 45(4), 1089-1108.
16. Gan, C., Lee, M., Yong, H. H. A., & Zhang, J. (2006). Macroeconomic variables and
stock market interactions: New Zealand evidence. Investment Management and
Financial Innovations, Vol 3, Issue 4, 89-101, 2006.
17. Gay, R. D. Jr. (2008). Effect of macroeconomic variables on stock market returns for
four emerging economies: Brazil, Russia, India, and China. International Business &
Economics Research Journal, Vol 7, No. 3, March 2008.
18. Giinsel, N., & Cukur, S. (2007). The effects of macroeconomic factors on the London
Stock returns: A sectoral approach. International Research Journal of Finance and
Economics, 2007.
19. Gjerde, O., & Saetterm, F. (1999). Causal relations among stock returns and
macroeconomic variables in a small open economy. Journal of International
Financial Markets, Institutions and Money, 9, 61-74.
57
20. Gujarati, D. N. (2003). Basic Econometrics. McGraw Hill, New York, NY.
21. Gurley, J., & Shaw, E. (1967). Financial Structure and Economic Development.
Economic Development and Cultural Change, 34(2), 333-46.
22. Jiranyakul, K. (2009). Economic Forces and the Thai Stock Market. NIDA Economic
Review, Vol. 4, No. 2, 2009.
23. Johansen, S. (1991). Cointegration and Hypothesis Testing of Cointegration Vectors
in Gaussian Vector Autoregressive Models. Econometrica, Vol. 59, No. 6 (Nov
1991), 1551-1580.
24. Kwon, C. S., & Shin, T. S. (1999). Cointegration and causality between
macroeconomic variables and stock returns. Global Finance Journal, 10(1), 71-81.
25. Lee, W. (1997). Market timing and short-term interest rates. Journal of Portfolio
management, 23(3), 35-46.
26. Maghyereh, A. I. (2002). Causal Relations Among Stock Prices and Macroeconomic
Variables in the Small, Open Economy of Jordan.
27. Maysami, R. C., & Koh, T. S. (2000), A vector error correction model of the
Singapore stock market, International Review of Economics and Finance, 9, 79-96.
28. Maysami, R. C., Lee, C. H., & Mohamad, A. H. (2004). Relationship between
Macroeconomic Variables and Stock Market Indices: Cointegration Evidence from
Stock Exchange of Singapore’s All-S Sector Indices. Journal Pengurusan, 24, 47-77.
29. Mukherjee, K. T., & Naka, A. (1995). Dynamic Relations between Macroeconomic
Variables and the Japanese Stock Market: An Application of a Vector Error
Correction Model. Journal of Financial Research, 18, 223-237.
30. Ralph, I. U., & Eriki, P. O. (2001). Inflation and Stock Price Behavior: Evidence from
Nigerian Stock Market. Journal of Financial Management and Analysis, 14, 1-10.
31. Ross, S. (1976). The arbitrage theory of capital asset pricing. Journal of Economic
Theory, 13(3), 34-360.
58
32. Sharma, G. D., & Mahendru, M. (2010). Impact of macro-economic variables on
stock prices India. Global Journal of Management and Business Research, Vol. 10,
No. 7, 2010.
33. Shaw, E. S. (1973). Financial Deepening in Economic Development. Oxford
University Press, NewYork.
34. Tursoy, T., Gunsel, N., & Rjoub, H. (2008). Macroeconomic Factors, the APT and
the Istanbul Stock Market. International Research Journal of Finance and
Economics, 22, 49-57.
59
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. SỐ LIỆU THU THẬP
STT Period VNI MS2 GDP CPI Ex1 IR
1 2004M1 214.00 392,867 37,358 3.20 15,696 9.54
2 2004M2 261.00 392,122 46,356 4.00 15,758 9.54
3 2004M3 277.00 404,093 53,356 5.50 15,724 9.54
4 2004M4 264.00 410,770 58,360 6.00 15,721 9.54
5 2004M5 252.00 417,129 61,367 7.10 15,745 9.54
6 2004M6 250.00 420,263 62,378 8.30 15,723 9.54
7 2004M7 238.00 427,403 55,949 9.10 15,752 9.54
8 2004M8 232.00 438,363 57,049 9.90 15,764 9.63
9 2004M9 233.00 445,393 60,233 10.10 15,755 9.87
10 2004M10 233.00 456,961 73,413 10.30 15,748 10.01
11 2004M11 230.00 472,446 74,837 9.90 15,777 10.01
12 2004M12 238.00 495,447 72,415 9.50 15,777 10.25
13 2005M1 233.00 503,131 55,673 9.70 15,832 10.25
14 2005M2 235.00 510,205 53,412 9.10 15,803 11.10
15 2005M3 247.00 517,024 55,158 8.40 15,823 11.10
16 2005M4 246.00 526,885 69,266 8.50 15,832 10.80
17 2005M5 244.00 533,128 72,762 8.10 15,851 10.80
60
18 2005M6 247.00 544,601 73,998 7.60 15,857 11.03
19 2005M7 253.00 548,352 67,341 7.50 15,884 11.03
20 2005M8 255.00 566,701 68,287 7.30 15,878 11.03
21 2005M9 289.00 577,793 71,201 7.80 15,895 11.18
22 2005M10 307.00 588,309 84,154 8.30 15,905 11.18
23 2005M11 311.00 604,791 84,949 8.50 15,916 11.40
24 2005M12 308.00 648,574 81,657 8.40 15,916 11.40
25 2006M1 312.00 677,388 62,696 8.80 15,922 11.18
26 2006M2 391.00 675,823 59,919 8.40 15,910 11.18
27 2006M3 504.00 699,988 61,744 7.70 15,927 11.18
28 2006M4 595.00 704,994 76,858 7.30 15,934 11.18
29 2006M5 539.00 714,823 81,367 7.50 15,959 11.18
30 2006M6 516.00 727,165 83,961 7.60 15,996 11.18
31 2006M7 422.00 735,205 79,885 7.50 16,007 11.18
32 2006M8 491.00 751,781 82,213 7.50 16,014 11.18
33 2006M9 527.00 753,012 86,192 6.90 16,055 11.18
34 2006M10 512.00 767,106 100,874 6.70 16,083 11.18
35 2006M11 633.00 789,930 101,365 6.90 16,089 11.18
36 2006M12 752.00 841,011 96,717 6.60 16,054 11.18
37 2007M1 1,041.00 872,549 72,189 6.45 16,036 11.18
38 2007M2 1,138.00 905,455 68,320 6.50 15,990 11.18
61
39 2007M3 1,071.00 949,181 70,369 6.80 16,024 11.18
40 2007M4 924.00 979,673 89,213 7.20 16,047 11.18
41 2007M5 1,081.00 1,005,314 94,939 7.30 16,087 11.18
42 2007M6 1,025.00 1,029,562 98,424 7.80 16,125 11.18
43 2007M7 908.00 1,056,451 94,151 8.39 16,147 11.18
44 2007M8 908.37 1,076,896 97,293 8.57 16,270 11.18
45 2007M9 1,041.24 1,110,983 102,332 8.80 16,105 11.18
46 2007M10 1,067.64 1,154,499 119,926 9.34 16,100 11.18
47 2007M11 972.35 1,183,135 120,769 10.01 16,125 11.18
48 2007M12 927.02 1,253,997 115,516 12.63 16,114 11.18
49 2008M1 844.11 1,293,054 85,194 14.11 16,091 11.18
50 2008M2 663.30 1,280,506 81,983 15.67 16,050 11.18
51 2008M3 516.85 1,300,249 86,909 19.39 15,960 14.60
52 2008M4 522.36 1,278,398 115,683 21.42 15,967 14.27
53 2008M5 414.10 1,298,039 125,100 25.20 16,086 16.53
54 2008M6 399.40 1,295,492 130,870 26.80 16,514 19.11
55 2008M7 451.36 1,300,594 125,548 27.04 16,495 20.25
56 2008M8 539.10 1,302,893 129,609 28.32 16,495 20.19
57 2008M9 456.70 1,347,514 135,608 27.90 16,517 19.86
58 2008M10 347.05 1,367,228 157,115 26.72 16,511 18.00
59 2008M11 314.74 1,394,620 156,811 24.22 16,481 13.26
62
60 2008M12 315.62 1,513,544 148,267 19.89 16,977 10.98
61 2009M1 303.21 1,561,466 107,638 17.48 16,978 10.08
62 2009M2 245.74 1,589,603 100,497 14.78 16,972 9.39
63 2009M3 280.67 1,645,309 103,001 11.25 16,954 9.15
64 2009M4 321.63 1,693,558 133,159 9.23 16,937 9.15
65 2009M5 411.64 1,737,815 141,443 5.58 16,938 9.60
66 2009M6 448.29 1,775,952 145,863 3.94 16,953 9.96
67 2009M7 466.76 1,800,854 138,409 3.31 16,967 9.96
68 2009M8 546.78 1,806,203 141,111 1.97 16,974 10.26
69 2009M9 580.90 1,842,315 145,958 2.42 16,991 10.35
70 2009M10 587.12 1,866,069 165,115 2.99 17,010 10.46
71 2009M11 504.12 1,884,089 165,128 4.35 17,956 10.46
72 2009M12 494.77 1,910,587 158,161 6.52 17,941 12.00
73 2010M1 481.96 1,912,147 122,322 7.62 17,941 12.00
74 2010M2 496.91 1,948,241 117,818 8.46 18,544 12.00
75 2010M3 499.24 1,982,389 122,755 9.46 18,544 12.00
76 2010M4 542.37 2,022,800 155,289 9.23 18,544 13.86
77 2010M5 507.44 2,076,120 165,493 9.05 18,544 13.23
78 2010M6 507.14 2,166,591 171,523 8.69 18,544 13.23
79 2010M7 493.91 2,174,354 163,315 8.19 18,544 13.25
80 2010M8 455.08 2,257,348 168,542 8.18 18,932 13.00
63
81 2010M9 454.52 2,325,022 177,139 8.92 18,932 13.25
82 2010M10 452.63 2,339,569 207,566 9.66 18,932 13.25
83 2010M11 451.59 2,358,708 209,063 11.09 18,932 13.25
84 2010M12 484.66 2,478,310 200,089 11.75 18,932 15.30
85 2011M1 510.60 2,484,091 148,828 12.17 18,932 15.30
86 2011M2 461.37 2,512,947 142,772 12.31 20,673 16.42
87 2011M3 461.13 2,495,422 150,107 13.89 20,703 16.42
88 2011M4 480.08 2,484,012 197,299 17.51 20,698 17.91
89 2011M5 421.37 2,485,327 211,561 19.78 20,643 18.08
90 2011M6 432.54 2,544,739 219,363 20.82 20,618 18.08
91 2011M7 405.70 2,580,562 203,572 22.16 20,608 18.09
92 2011M8 424.71 2,721,519 211,299 23.02 20,628 18.09
93 2011M9 427.60 2,673,757 225,413 22.42 20,628 17.55
94 2011M10 420.81 2,635,058 277,321 21.59 20,803 16.70
95 2011M11 380.69 2,652,391 280,654 19.83 20,803 15.51
96 2011M12 351.55 2,774,281 266,819 18.13 20,828 15.32
97 2012M1 387.97 2,777,058 191,192 17.27 20,828 15.44
98 2012M2 423.64 2,774,124 176,488 16.44 20,828 15.36
99 2012M3 441.03 2,827,346 178,083 14.15 20,828 15.10
100 2012M4 473.77 2,867,599 225,002 10.54 20,828 14.70
101 2012M5 429.20 2,921,575 237,427 8.34 20,828 14.30
64
102 2012M6 422.37 2,987,087 244,384 6.90 20,828 12.60
103 2012M7 414.48 3,023,008 226,517 5.35 20,828 12.50
104 2012M8 396.02 3,083,581 237,053 5.04 20,828 12.49
105 2012M9 392.57 3,149,681 256,638 6.48 20,828 12.49
106 2012M10 388.42 3,170,356 285,270 7.00 20,828 12.37
107 2012M11 377.82 3,259,071 322,950 7.08 20,828 12.37
108 2012M12 413.73 3,395,720 369,679 6.81 20,828 12.37
65
PHỤ LỤC 2. KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ĐƠN VỊ SAI PHÂN BẬC 1
PHỤ LỤC 2.1 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến RTR – ADF
66
PHỤ LỤC 2.2 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến RTR – PP
67
PHỤ LỤC 2.3 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến RMS2 – ADF
68
PHỤ LỤC 2.4 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến RMS2 – PP
69
PHỤ LỤC 2.5 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến RGDP – ADF
70
PHỤ LỤC 2.6 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến RGDP – PP
71
PHỤ LỤC 2.7 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến CPI – ADF
72
PHỤ LỤC 2.8 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến CPI – PP
73
PHỤ LỤC 2.9 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến E1 – ADF
74
PHỤ LỤC 2.10 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến E1 – PP
75
PHỤ LỤC 2.11 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến IR – ADF
76
PHỤ LỤC 2.12 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của biến IR – PP