BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÒNG

THƢƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC

NƢỚC THAM GIA ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH TPP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÒNG THƢƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƢỚC THAM GIA ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH TPP

Chuyên ngành: Kinh doanh thƣơng mại

Mã số: 60340121

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRIỆU HỒNG CẨM

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan rằng luận văn “Các nhân tố tác động đến dòng thương mại giữa

Việt Nam và các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP” là công trình nghiên cứu

của riêng tôi, những kết quả trình bày trong luận văn này đều là những kết quả mới

chưa từng xuất hiện trong các công trình nghiên cứu trước đây, Tôi cũng cam đoan

rằng các thông tin dữ liệu được sử dụng đều trung thực và được trích dẫn với

nguồn gốc rõ ràng.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014

Học viên

Nguyễn Thị Kim Ngân

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục viết tắt

Danh mục bảng số liệu

Dạnh mục sơ đồ, biểu đồ

Tóm tắt ..................................................................................................................... 1

Chương 1. Lời mở đầu ............................................................................................ 2

1.1. Đặt vấn đề ......................................................................................................... 2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 7

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7

1.4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 7

1.5. Ý nghĩa và tính mới của đề tài .......................................................................... 8

1.6. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 8

Kết luận chương 1 .................................................................................................. 10

Chương 2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu ............................................. 11

2.1. Nghiên cứu lý thuyết về mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế ........... 11

2.1.1. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cung .................................................. 16

2.1.2. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cầu .................................................... 17

2.1.3. Nhóm các yếu tố hấp dẫn hay cản trở .................................................. 18

2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế ..... 19

Kết luận chương 2 .................................................................................................. 29

Chương 3. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................ 30

3.1. Mô hình kinh tế lượng ..................................................................................... 30

3.2. Phương pháp nghiên cứu và lựa chọn mô hình để phân tích ......................... 32

3.2.1. Phương pháp ước lượng mô hình ........................................................ 32

3.2.2. Các kiểm định được thực hiện trong nghiên cứu .................................. 34

3.3. Nguồn và dữ liệu nghiên cứu .......................................................................... 36

Kết luận chương 3 .................................................................................................. 38

Chương 4. Phân tích kết quả nghiên cứu ............................................................ 39

4.1. Tổng quan tình hình xuất-nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và các nước

thành viên TPP ....................................................................................................... 39

4.2. Thống kê mô tả ................................................................................................ 41

4.3. Kết quả nghiên cứu ......................................................................................... 44

Kết luận chương 4 .................................................................................................. 57

Chương 5. Những giải pháp đẩy mạnh dòng thương mại giữa Việt Nam và các

nước TPP ............................................................................................................... 58

5.1. Kết luận ........................................................................................................... 58

5.2. Một số kiến nghị giải pháp nhằm đẩy mạnh dòng thương mại giữa Việt Nam và

các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP ........................................................ 60

5.2.1. Nhóm giải pháp do Chính phủ thực hiện .............................................. 60

5.2.2. Nhóm giải pháp do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện ............ 61

5.2.3. Nhóm giải pháp do Bộ Công Thương thực hiện ................................... 62

5.2.4. Nhóm giải pháp do các doanh nghiệp thực hiện .................................. 63

5.3. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................ 65

Kết luận chương 5 .................................................................................................. 66

Kết luận chung ...................................................................................................... 67

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

DANH MỤC VIẾT TẮT

AFTA (ASEAN Free Trade Area): Khu vực thương mại tự do ASEAN.

ASEAN (Association of Southeast Asian Nations): Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á.

CPI (Consumer price index): chỉ số giá tiêu dùng.

EU (European Union): Liên minh châu Âu.

FEM (Fixed Effects Method): Phương pháp tác động cố định.

FGLS (feasible generalized least squares): phương pháp bình phương tối thiểu tổng

quát.

FTA (Free trade area): Hiệp định thương mại tự do.

GDP (Gross Domestic Product): tổng sản phẩm quốc nội.

GNP (Gross National Product): Tổng sản phẩm quốc gia.

IMF (International Monetary Fund): Quỹ tiền tệ quốc tế.

MERCOSUR (Mercado Común del Cono Sur): Khối thị trường chung Nam Mỹ.

MFN (Most Favoured Nation): nguyên tắc tối huệ quốc.

NAFTA (North America Free Trade Agreement): Hiệp định thương mại tự do Bắc

Mỹ.

NER (Nominal exchange rate): tỷ giá hối đoái danh nghĩa.

NIC (Newly Industrialized Country): Nước công nghiệp mới.

OECD (Organization for Economic Cooperation and Development): Tổ chức hợp

tác và phát triển kinh tế.

Pooled OLS (Pooled Ordinary Least Square): Phương pháp bình phương cực tiểu

thường kết hợp.

REM (Random Effect Method): Phương pháp tác động ngẫu nhiên.

SAARC (South Asian Association for Regional Cooperation): Hiệp hội hợp tác khu

vực Nam Á.

TCTK: Tổng cục thống kê.

TPP (Trans Pacific Partnership): Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái

Bình Dương.

VIF (Variance – inflating factor): Thừa số phóng đại phương sai.

WDI (the World Development Indicators): Chỉ số phát triển thế giới.

WRIs (World resources Institutions ): Viện tài nguyên thế giới.

WTO (World Trade Organization): Tổ chức thương mại thế giới.

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 1.1. Hiệp định đầu tư song phương của các nước tham gia đàm phán Hiệp

định TPP năm 2013 .................................................................................................. 4

Bảng 2.1. Các biến trong mô hình nghiên cứu và tác động của chúng đến dòng

thương mại quốc tế trong các nghiên cứu trước .................................................... 25

Bảng 3.1. Nguồn dữ liệu và các biến trong mô hình ............................................. 37

Bảng 4.1. Phân tích mô tả dữ liệu của các nước TPP giai đoạn 2000-2012 ........ 41

Bảng 4.2. Phân tích mô tả dữ liệu biến giả của các nước thành viên TPP giai đoạn

2000-2012............................................................................................................... 42

Bảng 4.3. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu ............. 43

Bảng 4.4. Kết quả chỉ số nhân tố phóng đại VIF của các biến trong mô hình ...... 43

Bảng 4.5. Kết quả lựa chọn các ước lượng............................................................ 44

Bảng 4.6. Kết quả kiểm định F-test cho ước lượng Fixed Effect Method .............. 45

Bảng 4.7. Kết quả kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test cho

ước lượng Random Effect Method ......................................................................... 46

Bảng 4.8. Kết quả kiểm định Hausman test cho kết quả ước lượng bằng FEM hay

REM ........................................................................................................................ 46

Bảng 4.9. Kết quả ước lượng theo phương pháp FEM bao gồm biến giả thời gian

................................................................................................................................ 47

Bảng 4.10. Kiểm định tác động của biến giả thời gian lên biến phụ thuộc ........... 48

Bảng 4.11. Kết quả kiểm định Wald test độ tin cậy chung của hệ số trong mô hình

kinh tế lượng với 7 biến độc lập ............................................................................. 48

Bảng 4.12. Kiểm định phương sai sai số thay đổi trong mô hình REM (Phương

pháp Breusch-Pagan Lagrange multiplier) ........................................................... 49

Bảng 4.13. Kiểm định tự tương quan trong mô hình REM (Kiểm định nhân tử

Lagrange) ............................................................................................................... 49

Bảng 4.14. Kết quả ước lượng theo phương pháp REM ........................................ 50

Bảng 4.15. Kết quả ước lượng các nhân tố tác động đến thương mại giữa Việt Nam

và các nước TPP theo phương pháp FGLS ........................................................... 51

Bảng 4.16. Kết quả chỉ số nhân tố phóng đại VIF của các biến trong mô hình sau

khi loại bỏ các biến gây ra hiện tượng đa cộng tuyến ........................................... 51

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1.1. Tỷ trọng GDP toàn khối TPP năm 2012 ..............................................3

Biểu đồ 1.2. Hiệp định thương mại hiện có giữa các thành viên TPP năm 2013.....4

Biểu đồ 1.3. Thuế quan trung bình của các thành viên TPP năm 2012 ...................6

Sơ đồ 2.1. Mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế ........................................16

Biểu đồ 4.1. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP giai

đoạn 2000-2012 ......................................................................................................39

Biểu đồ 4.2. Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước tham gia đàm phán Hiệp định

TPP giai đoạn 2000-2012 .......................................................................................52

1

TÓM TẮT

Tôi thu thập số liệu của các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định TPP trong

giai đoạn từ năm 2000 đến 2012, phương pháp nghiên cứu của tôi dựa trên mô hình

trọng lực cùng với dữ liệu bảng, tôi sử dụng các phương pháp khác nhau như

phương pháp bình phương cực tiểu thường kết hợp pooled OLS, phương pháp tác

động cố định FEM, phương pháp tác động ngẫu nhiên REM và phương pháp bình

phương tối thiểu tổng quát FGLS để hồi quy và ước lượng mô hình nghiên cứu. Sau

khi tiến hành so sánh độ hiệu quả của các phương pháp này, tôi nhận thấy rằng

phương pháp FGLS là hiệu quả hơn cả. Dựa vào phương pháp FGLS tôi khám phá

ra bốn nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ thương mại giữa Việt Nam và các

quốc gia thành viên TTP bao gồm GDP, khoảng cách địa lý, tỷ giá hối đoái và việc

tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Kết quả nghiên cứu

và các kiến nghị, giải pháp như một sự tham khảo cho các nhà làm chính sách Việt Nam thúc đẩy hoạt động thương mại sau khi TPP chính thức được ký kết.

2

CHƢƠNG 1. LỜI MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Trong hơn 25 năm thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh kế Việt Nam đã có

sự phát triển vượt bậc với chỉ số GDP tăng trung bình ở mức 6.6%/ năm. Việt Nam

từ việc thiếu gạo và phải nhập khẩu lương thực trở thành một trong những quốc gia

xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới. Đời sống người dân được cải thiện, nền kinh tế

đất nước đi lên và dần hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Chính sách mở cửa đi

kèm với cải cách thương mại là một phần quan trọng trong chính sách đổi mới của

Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ thương mại

với các nước trên thế giới bằng việc chủ động ký kết và tham gia vào các hiệp định

thương mại song phương và đa phương, một trong số đó là Hiệp định Hợp tác kinh

tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership – TPP) đang trong

quá trình đàm phán.

Hiệp định TTP là một hiệp định thương mại tự do được nhiều bên ký kết với

mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước châu Á-Thái

Bình Dương. Hiệp định này được xây dựng lần đầu vào năm 2003 như một lộ trình

tự do hóa thương mại trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Hiệp định bắt đầu

có hiệu lực từ ngày 28/5/2006, ban đầu chỉ có 4 nước Singapore, Chile, New

Zealand và Brunei. Sau đó, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn tham gia TTP, đến tháng

11/2008 các nước khác là Australia, Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định tương tự.

Hiện tại ngoài 8 quốc gia kể trên còn có thêm các nước Malaysia, Mexico, Canada

và Nhật Bản đang trong quá trình đàm phán. Mục tiêu của Hiệp định là giảm các

loại thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên xuống bằng không vào năm

2015. Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một

hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ,

rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ và nhiều vấn đề khác.

Nếu Hiệp định TPP được ký kết, Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội mới cho

hoạt động xuất-nhập khẩu hàng hóa, điều này giúp Việt Nam thu được rất nhiều lợi

3

ích về kinh tế. Theo báo cáo của Trung tâm Hỗ trợ hội nhập WTO thành phố Hồ

Chí Minh (2013) thì sau khi gia nhập TTP thu nhập quốc dân của Việt Nam sẽ tăng

lên nhanh chóng, ước đạt 235 tỉ USD vào năm 2025. Theo đánh giá của các chuyên

gia trong nước cũng như quốc tế, Việt Nam sẽ là một trong những nước có lợi nhiều

nhất, vì mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những rào cản hàng hoá và dịch vụ.

Khi các dòng thuế giảm xuống, Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu các mặt hàng

vốn là thế mạnh của mình như dệt may, quần áo, giày dép v.v… vào các thị trường

lớn mà không phải cạnh tranh với sản phẩm của một số nước khác. Nếu so với các

thành viên trong tổ chức thì Việt Nam là quốc gia có các hiệp định đầu tư song

phương lớn thứ hai với 42 hiệp định (xem Bảng 1.1). Vì vậy, việc gia nhập TTP sẽ

tác động tích cực tới khả năng thương mại của Việt Nam với các nước thành

viên. Đặc biệt, hàng hóa của Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị

trường Hoa Kỳ, Nhật Bản là những quốc gia có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới,

chiếm lần lượt 60% và 17% GDP trong tổng các quốc gia thành viên tham gia đàm

phán Hiệp định TPP năm 2012 (xem Biểu đồ 1.1). Trong điều kiện Việt Nam đang

hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường thì việc gia nhập TPP sẽ là cú hích quan trọng

giúp chúng ta cải cách thể chế, qua đó cải thiện môi trường kinh doanh.

Vietnam 1%

Australia 4%

Canada 5%

Brunei Darussalam 0%

Japan 17%

Chile 1% Malaysia 2%

United States 60%

Mexico 7%

New Zealand 1%

Singapore 1%

Peru 1%

Biểu đồ 1.1. Tỷ trọng GDP toàn khối TPP năm 2012

Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp theo dữ liệu từ WDI năm 2012.

4

Bảng 1.1. Hiệp định đầu tƣ song phƣơng của các nƣớc tham gia đàm

Aust. Brunei Canada Chile

Japan Malaysia Mexico N.Z

Peru

Sing. U.S Vietnam

21

3

26

39

15

49

28

2

30

35

41

42

phán Hiệp định TPP năm 2013

Nguồn: Diễn đàn Thƣơng mại và Phát triển Liên Hiệp quốc (UNCTD) năm 2013.

Chú ý: Chỉ bao gồm những hiệp định có hiệu lực từ tháng 6/2012.

Cuối cùng, các quốc gia TPP hiện đang hợp tác với nhau rất tốt thông qua các

hiệp định thương mại hiện có. Biểu đồ 1.2 cho thấy số lượng hiệp định thương mại

tự do FTA đang có hiệu lực và đang chuẩn bị thực thi hoặc đang đàm phán giữa các

thành viên TPP, từ Canada chỉ với 4 hiệp định đến Chile nhiều nhất với 10 hiệp

định. Hiệp định thương mại tự do FTA giữa bốn nước Brunei, Chile, New Zealand

và Singapore được xem là điểm khởi đầu cho Hiệp định TPP. Ba nước là thành viên

của Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA bao gồm Canada, Mexico và Hoa

Kỳ cũng là thành viên tham gia đàm phán Hiệp định TPP và chiếm tới 50% tổng

thương mại hàng hóa của TPP. Những liên kết trong Biểu đồ 1.2 hàm ý những lợi

ích to lớn mà các thành viên đạt được khi Hiệp định được ký kết.

12

11

10

9

8

7

6

Đang có hiệu lực

5

4

3

Đang chờ thực thi hoặc đang đàm phán

2

1

0

Biểu đồ 1.2. Hiệp định thƣơng mại hiện có giữa các thành viên TPP năm 2013

Nguồn: Dữ liệu từ website chính phủ của các nƣớc thành viên TPP năm 2013.

5

Song song với những lợi ích to lớn từ việc kí kết Hiệp định TPP mang lại, nền

thương mại Việt Nam cũng đối mặt không ít thách thức sau đây: Khi là thành viên

của TPP chúng ta bắt buộc phải cắt giảm các dòng thuế nhập khẩu, hầu hết mặt

hàng phải giảm mức thuế nhập khẩu xuống bằng không nhằm đạt được một hiệp

định thương mại tự do chất lượng cao. Vì vậy, các doanh nghiệp trong nước phải

đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn với các doanh nghiệp nước

ngoài. Biểu đồ 1.3 biểu thị mức thuế MFN trung bình của các thành viên TTP trong

năm 2012, kết quả so sánh này cho thấy rằng Việt Nam là quốc gia có mức thuế

MFN trung bình cao nhất với 9.5%, trong khi đó Singapore là nước áp dụng mức

thuế MFN trung bình thấp nhất với 0.2%. Do đó, đối với Việt Nam, việc áp dụng

tiêu chuẩn mới trong TPP sẽ tạo ra những rào cản kỹ thuật kể cả lao động và môi

trường, cũng như quyền lợi của nhà đầu tư. Một vấn đề quan trọng khác là quá trình

cải cách thể chế chưa đáp ứng được yêu cầu mong đợi để thúc đẩy phát triển kinh

tế, đặc biệt là vấn đề tham nhũng, hối lộ còn đang là tình trạng phổ biến tại các

doanh nghiệp đối với hệ thống công quyền. Hơn nữa, trong các quốc gia tham gia

đàm phán Hiệp định TPP thì Việt Nam là nước có thứ hạng về môi trường kinh

doanh thấp nhất. Cuối cùng, yêu cầu nguồn gốc xuất xứ trong TPP cao và phức tạp

khiến cộng đồng doanh nghiệp tỏ ra lo ngại vì nguyên liệu hàng xuất khẩu của Việt

Nam, đặc biệt những ngành như may mặc, giày dép… chủ yếu nhập từ các nước

ngoài TPP (như Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước ASEAN). Những điểm nêu

trên thực sự là bài toán nan giải mà chúng ta cần phải nghiên cứu thật kĩ lưỡng để

tìm ra những biện pháp xử lý cho thoả đáng.

6

Biểu đồ 1.3. Thuế quan trung bình của các thành viên TPP năm 2012

10

9

8

7

6

5

4

3

2

1

0

Đơn vị tính: %

Nguồn: Dữ liệu từ WTO Tariff Profiles năm 2012.

(*): dữ liệu năm 2011.

Từ những điều nêu trên, vấn đề cấp thiết hiện nay là làm thế nào để có thể thúc

đẩy hoạt động thương mại trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt. Để làm được

điều đó, chúng ta nhất thiết phải hiểu thấu đáo các nhân tố ảnh hưởng đến dòng

thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định TPP, cũng

như tiềm năng thương mại trong quan hệ song phương giữa các quốc gia thành viên.

Trên cơ sở lý thuyết đó, chúng ta mới có thể vạch ra những định hướng đúng đắn

giúp nhanh chóng nắm bắt cơ hội và tận dụng mọi thế mạnh để thúc đẩy dòng

thương mại Việt Nam tăng nhanh và bền vững. Tôi cho rằng đây là một vấn đề cấp

thiết và hữu ích cần phải nghiên cứu một cách tường tận. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn

đề tài nghiên cứu cho luận văn là: “Các nhân tố tác động đến dòng thương mại

giữa Việt Nam và các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP”.

7

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu gồm hai mục tiêu cụ thể như sau:

- Khám phá và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến dòng thương

mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP thông

qua việc ứng dụng mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế.

- Kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh dòng thương mại giữa Việt Nam

và các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP khi TPP được ký kết.

1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu các nhân tố chính tác động đến dòng

thương mại giữa Việt Nam và 11 nước TPP, bao gồm: Brunei, Chile, Malaysia,

New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, Canada, Mexico, Úc và Nhật Bản.

- Phạm vi nghiên cứu: Kim ngạch xuất-nhập khẩu hàng hóa, GDP, dân số,

khoảng cách địa lý, tỷ giá hối đối, hiệp định vùng và hiệp định thương mại của 12

thành viên tham gia đàm phán Hiệp định TPP giai đoạn 2000– 2012.

1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Tôi thu thập số

liệu của Việt Nam và 11 nước tham gia ký kết Hiệp định TPP trong giai đoạn từ

năm 2000 đến 2012 bao gồm: Kim ngạch xuất-nhập khẩu hàng hóa, GDP, dân số,

khoảng cách địa lý, tỷ giá hối đối, hiệp định vùng và hiệp định thương mại. Phương

pháp nghiên cứu của tôi dựa trên mô hình trọng lực cùng với dữ liệu bảng, tôi sử

dụng các phương pháp khác nhau như pooled OLS, FEM, REM và FGLS để hồi

quy và ước lượng mô hình nghiên cứu.

Sau khi tiến hành so sánh độ hiệu quả của các phương pháp này bằng các kiểm

định như kiểm định F-test, kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian multiplier, kiểm

định Hausman-Taylor, kiểm định Lagram-Multiplier và kiểm định Wald, tôi nhận

thấy rằng phương pháp FGLS là thích hợp hơn cả vì nó có thể khắc phục các nhược

điểm của các phương pháp pooled OLS, FEM và REM.

8

1.5. Ý nghĩa và tính mới của đề tài

Có rất nhiều sản phẩm khoa học sử dụng mô hình trọng lực trong thương mại

quốc tế để phân tích dòng thương mại song phương, đa phương và các nhân tố ảnh

hưởng. Nói riêng đối với Việt Nam đã có khá nhiều nghiên cứu phân tích những

nhân tố tác động đến dòng thương mại song phương và đa phương của Việt Nam

như nghiên cứu của Nguyen Tien Trung (2002), Thai Do Tri (2006), Bac Xuan

Nguyen (2010), Nguyễn Tiến Dũng (2011), Đào Ngọc Tiến (2013) và nhiều công

trình khác liên quan, song vẫn còn nhiều nhân tố quan trọng khác cần được xem xét

và làm rõ. Ngoài ra, tôi chưa thấy có tài liệu nghiên cứu nào phân tích sâu sắc ảnh

hưởng của các nhân tố đến dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước TPP để từ

đó đề ra một số giải pháp giúp Việt Nam nhanh chóng nắm bắt cơ hội và tận dụng

mọi thế mạnh để thúc đẩy dòng thương mại Việt Nam tăng trưởng bền vững. Đây

cũng chính là điểm mới của đề tài nghiên cứu này.

1.6. Kết cấu của luận văn

Phù hợp với mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, nội dung của

luận văn được bố cục như sau:

Chương I. Lời mở đầu: Trong chương này tôi sẽ trình bày về lý do chọn đề tài, mục

tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý

nghĩa và tính mới của đề tài và cuối cùng là kết cấu của luận văn.

Chương II. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu: Trong chương này tôi trình bày

về cơ sở lý thuyết, mô hình nghiên cứu, các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm

trong và ngoài nước về mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế, đồng thời xây

dựng các giả thuyết nghiên cứu. Tôi nghĩ rằng đây là những vấn đề nền tảng và cần

thiết trình bày để giúp người đọc có thể hiểu nội dung các chương kế tiếp dễ dàng

hơn.

Chương III. Thiết kế nghiên cứu: Trong chương này tôi trình bày mô hình kinh tế

lượng, đồng thời trình bày phương pháp nghiên cứu. Tôi tiến hành so sánh các

phương pháp khác nhau để lựa chọn mô hình thích hợp cho phân tích. Trong phần

cuối của chương, tôi cung cấp chi tiết nguồn và dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu này.

9

Chương IV. Phân tích kết quả nghiên cứu: Trong chương này tôi trình bày tổng

quan tình hình xuất-nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và các nước TPP. Sau đó,

tôi sẽ tiến hành phân tích và đánh giá các kết quả có được để rút ra kết luận cho các

giả thuyết nghiên cứu.

Chương V. Những giải pháp đẩy mạnh dòng thương mại giữa Việt Nam và các

nước TPP: Chương này trình bày về tổng quan tình hình chung trong thời gian tới

và những giải pháp nhằm đẩy mạnh dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước

tham gia đàm phán Hiệp định TPP.

Kết Luận: Trong phần này này tôi tóm tắt lại những kết quả chính của nghiên cứu,

đồng thời chỉ ra ý nghĩa của nghiên cứu đối với các nhà làm chính sách. Cuối cùng,

tôi trình bày những hạn chế của nghiên cứu và đề xuất một số định hướng cho

những nghiên cứu tiếp theo.

10

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Tham gia TPP chúng ta sẽ đối mặt với nhiều cơ hội cũng như thách thức. Điều

quan trọng là chúng ta phải xem các thách thức đó là sức ép buộc chúng ta phải đổi

mới và cải cách nhanh hơn và mạnh hơn. Do vậy, việc xác định nhân tố nào tác

động mạnh, nhân tố nào tác động nhẹ để từ đó đề xuất các kiến nghị giải pháp với

các cơ quan hữu năng và doanh nghiệp là cơ sở để nâng cao năng lực cạnh tranh

trong quá trình hội nhập. Điều này, nếu được thực hiện tốt, chính là kết quả lớn nhất

mà TPP và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung mang lại cho đất nước ta.

11

CHƢƠNG 2. CỞ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Ngày nay, các quốc gia ngày càng liên kết chặt chẽ thông qua thương mại. Các

nước phát triển và đang phát triển đang dần gỡ bỏ những hàng rào kỹ thuật nhằm

đẩy mạnh quan hệ thương mại với phần còn lại của thế giới, trong đó xuất-nhập

khẩu hàng hóa là một phần rất quan trọng. Những cụm từ như mậu dịch tự do, tự do

hóa thương mại dần trở nên phổ biến và được đề cập thường xuyên trên các bản tin

hàng ngày. Chúng ta có thể đặt ra một số câu hỏi cơ bản như: Tại sao các nước lại

giao thương với nhau? Phải chăng mọi quốc gia đều có lợi từ thương mại quốc tế?

Làm sao tính được độ lớn thương mại giữa các nước? Để trả lời những câu hỏi đó

thuyết thương mại cổ điển (lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết lợi thế so sánh, mô

hình Hecksher-Ohlin) và thuyết thương mại hiện đại đã ra đời và giải thích rất thành

công cho câu hỏi đầu tiên. Tuy nhiên, các lý thuyết này lại không thể đưa ra lời giải

thích thỏa đáng cho câu hỏi thứ hai và câu hỏi thứ ba. Một đột phá lớn trong nền

kinh tế học hiện đại đó là bằng việc sử dụng các nguyên lý tương tự như nguyên lý

trong định luật vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton, các nhà kinh tế học với nhiều

công trình xuất sắc đã cùng nhau xây dựng một lý thuyết mới có tên gọi là mô hình

trọng lực (lực hấp dẫn) trong thương mại quốc tế (Thai Do Tri, 2006). Lý thuyết

tuyệt vời này đã giải thích rất thành công cho câu hỏi về khối lượng cũng như chiều

hướng thương mại song phương giữa các quốc gia và đưa đến rất nhiều áp dụng

thực tiễn. Trong chương này tôi sẽ trình bày những vấn đề căn bản nhất của lý

thuyết mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế, nội dung của chương sẽ là nền

tảng lý luận cho những chương kế tiếp.

2.1. Nghiên cứu lý thuyết về mô hình trọng lực trong thƣơng mại quốc tế

Lý thuyết về mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế được xây dựng dựa

trên Định luật vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton trong cơ học cổ điển, trong đó

định luật của Newton phát biểu rằng lực hút của hai vật thể tỉ lệ thuận với tích khối

lượng của hai vật thể, đồng thời tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa

chúng. Cụ thể định luật này được thể hiện qua công thức sau đây:

12

(Tinbergen, 1962) (1)

Trong đó:

Fij: Trọng lực giữa hai vật.

G: Hằng số hấp dẫn.

Mi, Mj: Khối lượng của hai vật.

Dij: Khoảng cách giữa hai vật.

Định luật của Newton được áp dụng để giải thích cho sự vận động của mọi vật

thể trong vũ trụ. Điểm thú vị là định luật này vẫn đúng khi áp dụng cho thương mại

quốc tế.

Lý thuyết về mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế lần đầu tiên được Jan

Tinbergen sử dụng vào năm 1962 nhằm đánh giá tác động của các hiệp định thương

mại tự do FTA tới dòng chảy thương mại giữa các nước. Công thức của Jan

Tinbergen có dạng như sau:

(Tinbergen, 1962) (2)

Trong đó:

Xij: Xuất khẩu từ quốc gia i sang quốc gia j.

A: hằng số tỷ lệ

Yi: GDP của quốc gia i.

Yj: GDP của quốc gia j.

Dij: Khoảng cách địa lý giữa các trung tâm kinh tế hoặc khoảng cách giữa các

thủ đô của quốc gia i và j được đo lường bằng đường biển hoặc đất liền.

Tinbergen lưu ý rằng mức độ tác động trực tiếp giữa biến giải thích và biến

được giải thích không nhất thiết phải làm rõ. Vì vậy, các số mũ , ,  có những giá

trị khác so với phương trình (1). Chúng đề cập đến độ co giãn của GDP của nước

xuất khẩu (), độ co giãn của GDP của nước nhập khẩu () và độ co giãn của quãng

13

đường (). Khi  =  = 1 và  = 2, phương trình (2) sẽ tương đương với phương

trình vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton.

Kết quả nghiên cứu của Tinbergen chỉ ra rằng khoảng cách địa lý có tác động

tiêu cực trong khi biến GDP lại có tác động tích cực đến dòng thương mại giữa hai

nước. Như vậy, các quốc gia với nền kinh tế có quy mô càng lớn và khoảng cách

càng gần nhau thì có xu hướng mậu dịch với nhau càng nhiều.

Ban đầu, do chưa có căn cứ lý thuyết nền tảng nên mô hình của Tinbergen bị

nhiều nhà khoa học phê phán (Thai Do Tri, 2006). Tuy nhiên sau đó, nhiều cơ sở lý

thuyết đã ra đời để chứng minh cho sự đúng đắn của mô hình này. Một trong những

công trình đầu tiên đặt nền móng lý thuyết cho mô hình trọng lực được Linnemann

đưa ra năm 1966, trong công trình này Linnemann (1966) đã chứng minh rằng

phương trình trọng lực thực chất xuất phát từ mô hình cân bằng cục bộ. Cách chứng

minh của Linnemann như sau: Sử dụng mô hình cân bằng cục bộ ông thấy rằng

thương mại giữa hai nước i và j chịu tác động bởi nhóm nhân tố cung của nước i,

nhóm nhân tố cầu của nước j và một số nhân tố cản trở hay hấp dẫn thương mại

giữa hai nước i và j. Sau đó, ông cho cung, cầu xuất khẩu bằng nhau và thu được

mô hình hấp dẫn trong thương mại quốc tế. Sự hạn chế trong chứng minh của

Linnemann là việc ông phải sử dụng mô hình cân bằng cục bộ, một mô hình đã bị

Bergstrand (1985) và các nhà nghiên cứu khác chỉ ra là không thể giải thích được

dạng mở rộng của phương trình, đồng thời để lại một số tham số không được xác

định rõ ràng do việc loại biến động giá cả. Tuy nhiên, kết quả của Linnemann xứng

đáng được ghi nhận vì với dạng đơn giản nhất của phương trình thì những biện luận

loại trừ biến giá cả của Linnemann là hoàn toàn phù hợp.

Một công trình khác đáng quan tâm là của Anderson (1979). Trong công trình

này Anderson đã thiết lập phương trình trọng lực từ hàm chi tiêu với các tham số từ

hàm Cobb-Douglas dựa trên giả định rằng các sản phẩm được đa dạng hóa từ chính

quốc gia xuất xứ. Sau đó, Anderson đã phát triển mô hình của Tinbergen với những

biến là giá trị tích số của các biến trong công thức của Tinbergen. Tuy vậy, hạn chế

trong mô hình của Anderson là ông phải thêm vào giả thiết về sự đồng nhất trong sở

14

thích tiêu dùng cũng như sự tương tự trong hệ thống thương mại và cấu trúc thuế

giữa các nước.

Một cách tiếp cận khác là của Bergstrand (1985, 1989) dựa trên mô hình cân bằng tổng thể1 do Léon Walras đề xướng. Trong khi những phân tích của Anderson

dựa trên cơ sở kinh tế học vĩ mô thì Bergstrand lại chứng minh cơ sở lý thuyết của

mô hình trọng lực bằng cách sử dụng lý thuyết kinh tế vi mô cho từng ngành. Tác

giả chứng minh mô hình trọng lực chính là mô hình rút gọn cân bằng cục bộ của

cân bằng tổng thể với các loại sản phẩm quốc gia khác biệt. Theo ông, cung hàng

một ngành của một quốc gia được tạo nên bởi hoạt động tối đa hóa lợi nhuận của

các doanh nghiệp trong khi cầu hàng được tạo nên bởi hoạt động tối đa hóa độ thỏa

dụng với giới hạn về ngân sách (tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng). Khi nền

kinh tế ở trạng thái cân bằng thì cung bằng cầu và ta thu được mô hình hấp dẫn

trong thương mại.

Trong lập luận của Bergstrand (1985) bởi vì dạng rút gọn loại bỏ tất cả các biến

nội sinh ra khỏi phần giải thích của mỗi phương trình nên thu nhập và giá cả cũng

có thể được sử dụng như các biến giải thích cho thương mại song phương. Vì vậy,

thay vì thay thế tất cả các biến nội sinh, tác giả xử lý thu nhập và mức giá như biến

ngoại sinh và khi xử lý hệ thống cân bằng tổng thể vẫn giữ lại những biến này như

là những biến giải thích. Mô hình này được gọi là “phương trình trọng lực tổng

quát”. Năm 1989, Bergstrand mở rộng mô hình của ông trong điều kiện sản xuất

được đặt dưới cạnh tranh độc quyền giữa các công ty sử dụng vốn và lao động như

những nhân tố sản xuất. Các công ty sản xuất sản phẩm khác biệt theo quy luật năng

suất tăng theo quy mô.

Cách tiếp cận dựa trên nền tảng vi mô khẳng định giả thiết hàng hóa là sản

1Lý thuyết cân bằng tổng thể là một nhánh của kinh tế học lý thuyết, được xem là thuộc kinh tế vi mô. Lý thuyết này tìm cách giải thích cung, cầu và giá của tổng thể một nền kinh tế với rất nhiều thị trường của rất nhiều mặt hàng. Lý thuyết này chứng minh rằng giá cân bằng của các mặt hàng có tồn tại và khi giá thị trường của tất cả các mặt hàng đạt tới trạng thái cân bằng thì nền kinh tế đó đạt tới cân bằng tổng thể. Trạng thái cân bằng tổng thể là trái ngược với trạng thái cân bằng từng phần. Lý thuyết này là có tính chất trừu tượng, nhưng là một lý thuyết có ích nếu xét các giá cân bằng trong dài hạn và nhìn nhận giá thật như là một độ lệch của điểm cân bằng. Lý thuyết này được Léon Walras phát triển từ những năm 1870.

phẩm thay thế hoàn hảo trong mô hình trọng lực cổ điển là không thực tế, bởi vì

15

một số chứng cứ đã chỉ ra rằng dòng thương mại sẽ khác nhau nếu nó xuất phát từ

những nơi khác nhau. Anderson (1979), Bergstrand (1985, 1989), Helpman và

Krugman (1987), Thursby và Thursby (1987) và các nhà khoa học khác đều đưa ra

quan điểm này. Những nghiên cứu của các tác giả này chỉ ra rằng ngoài những biến

đã có trong phương trình trọng lực cổ điển thì biến giá cả cũng là một biến có tính

thống kê rất quan trọng trong việc giải thích dòng thương mại của các quốc gia

tham gia (Oguledo và Macphee, 1994 trích trong Rahman (2003)). Một cách tổng

quát, hàng hóa sẽ di chuyển từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Vì vậy, những

thay đổi giá xuất khẩu sẽ ảnh hưởng tích cực và những thay đổi giá nhập khẩu sẽ tác

động tiêu cực đến dòng thương mại song phương (Karemera và các cộng sự, 1999).

Tuy nhiên, biến giá và tỷ giá hối đối có thể loại khỏi mô hình khi hàng hóa là sản

phẩm thay thế hoàn hảo và không có chi phí vận chuyển giữa các thị trường. Vấn đề

này đã dẫn dắt các nhà nghiên cứu đến việc chứng minh nền tảng của mô hình trọng

lực trong thương mại quốc tế dựa vào các lý thuyết thương mại quốc tế (Jakab, et

al., 2001). Eaton và Kortum (1997) đã chỉ ra mô hình trọng lực có thể giải thích

dòng thương mại dựa trên sự khác biệt về công nghệ trong mô hình của Ricardo.

Trong khi đó, Deardorff (1998) trích trong Rahman (2003) tìm ra cơ sở lý luận của

mô hình trọng lực là do sự khác biệt về nguồn lực các nhân tố sản xuất đầu vào

trong mô hình Heckscher – Ohlin.

Dựa trên cơ sở lý thuyết về mô hình trọng lực, một cách tổng quát, các nhân tố

ảnh hưởng đến các dòng thương mại quốc tế được xếp vào ba nhóm chính: nhóm

các nhân tố ảnh hưởng đến cung, nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến cầu và nhóm các

nhân tố hấp dẫn hay cản trở như sơ đồ 2.1 dưới đây:

16

Biên giới nước xuất khẩu

Biên giới nước nhập khẩu

Sơ đồ 2.1. Mô hình trọng lực trong thƣơng mại quốc tế

Đẩy

Hút

Nƣớc nhập khẩu

Nƣớc xuất khẩu

Chính sách khuyên khích và quản lý xuất khẩu

Khoảng cách giữa hai nước

Chính sách khuyến khích và quản lý nhập khẩu

Năng lực sản xuất của nước xuất khẩu

Sức mua của thị trường nước nhập khẩu

Các nhân tố ảnh hưởng đến cung

Các nhân tố hấp dẫn hay cản trở

Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu

Các nhân tố ảnh hƣởng đến dòng thƣơng mại quốc tế

(Nguồn: Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008)).

2.1.1. Nhóm các nhân tố ảnh hƣởng đến cung

Nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến cung bao gồm: thu nhập và dân số của nước

xuất khẩu:

- Khi xét nhân tố thu nhập của nước xuất khẩu đại diện cho khả năng mua

hàng có thể xét đến giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc

dân (GNP). GDP của nước xuất khẩu bao gồm tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ

được tạo ra trong lãnh thổ nước xuất khẩu. Về cơ bản, khi hàng hóa được tạo ra

càng nhiều thì khả năng xuất khẩu càng lớn. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của

nhân tố giá trị sản xuất xuất khẩu trong các nền kinh tế là khác nhau: đối với những

nền kinh tế lấy xuất khẩu là động lực thì xuất khẩu và thu nhập quốc dân có mối

liên hệ chặt chẽ (bởi các ngành sản xuất chính trong nền kinh tế phục vụ cho mục

17

đích xuất khẩu nên khi giá trị sản xuất gia tăng sẽ đồng nghĩa với cung cho xuất

khẩu tăng mạnh từ đó thúc đẩy xuất khẩu tăng cao), đối với những nền kinh tế

không hướng theo mục tiêu xuất khẩu thì khi giá trị sản xuất gia tăng lên chưa hẳn

đã ảnh hưởng nhiều đến giá trị xuất khẩu hàng hóa.

- Dân số là nhân tố quan trọng tác động tới khả năng xuất khẩu của một quốc

gia. Dân số của mỗi quốc gia chính là một trong những nguồn lực quan trọng trong

việc sản xuất ra nhiều hàng hóa xuất khẩu. Khi dân số tăng, nguồn lao động, khả

năng sản xuất và cung xuất khẩu cũng sẽ tăng theo. Ngoài ra, dân số còn ảnh hưởng

đến cầu ở thị trường trong nước đối với hàng hóa, từ đó càng tạo đà cho hoạt động

xuất khẩu. Những tác động theo chiều hướng này cho thấy dân số của nước xuất

khẩu tỷ lệ thuận với số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, một số nghiên

cứu khác cho thấy rằng dân số có tác động tiêu cực đến thương mại: Nếu dân số

nước xuất khẩu đông sẽ làm tăng nhu cầu hàng hóa trong nước và làm giảm sức ép

bán hàng ra thị trường quốc tế, do đó kìm hãm xuất khẩu phát triển. Như vậy, xu

hướng tác động của nhân tố dân số tới xuất khẩu của quốc gia là không rõ ràng.

2.1.2. Nhóm các nhân tố ảnh hƣởng đến cầu

Nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến cầu bao gồm thu nhập và dân số của nước

nhập khẩu:

- Nếu GDP bình quân đầu người của nước nhập khẩu cao thì thu nhập của nước

đó cao, do đó sẽ chi trả nhiều hơn cho hàng hóa của các nước khác, điều này khiến

cho giá trị xuất khẩu vào nước đó tăng lên. Tuy nhiên, GDP của nước nhập khẩu

càng lớn thì khả năng sản xuất của quốc gia đó càng tăng, càng khó khăn cho việc

xâm nhập của hàng nước ngoài.

- Cũng tương tự như ảnh hưởng của nhân tố dân số nước xuất khẩu, dân số

nước nhập khẩu không có tác động rõ rệt đến kim ngạch xuất khẩu của nước đối

tác. Dân số càng đông thì nhu cầu của quốc gia đó càng nhiều. Nhiều nghiên cứu

thực nghiệm đã kết luận nhân tố dân số nước nhập khẩu tác động tích cực lên xuất

khẩu.

18

2.1.3. Nhóm các nhân tố hấp dẫn hay cản trở

Nhóm các nhân tố hấp dẫn hay cản trở bao gồm chính sách của mỗi quốc gia

trong việc khuyến khích hay cản trở dòng hàng của nước đối tác (các chính sách

liên quan đến điều chỉnh những rào cản thương mại, chính sách tỷ giá hối đoái) và

khoảng cách giữa các quốc gia (khoảng cách địa lý, khoảng cách về trình độ phát

triển kinh tế).

- Các chính sách liên quan đến điều chỉnh những rào cản thương mại: các rào

cản thương mại quốc tế bao gồm những biện pháp thuế quan và phi thuế quan,

những rào cản này gây ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu một cách rõ ràng. Khi các rào

cản thương mại tăng lên sẽ dẫn đến việc hạn chế dòng hàng hóa xuất nhập khẩu.

Ngược lại, khi các rào cản này giảm đi (khi quốc gia tham gia vào các khu vực mậu

dịch tự do, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế, giảm thuế, quy định tiêu chuẩn linh

hoạt…) sẽ tạo thuận lợi hơn cho dòng thương mại quốc tế, do vậy sẽ thúc đẩy kim

ngạch xuất nhập khẩu nói chung.

- Chính sách tỷ giá hối đoái: lý thuyết thương mại quốc tế đã chỉ ra sự biến

động của tỷ giá cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu của các quốc gia. Phá giá đồng nội

tệ (giá đồng nội tệ giảm đi so với những ngoại tệ mạnh khác) sẽ thúc đẩy tăng

trưởng xuất khẩu khi mà giá hàng xuất khẩu rẻ một cách tương đối. Vì vậy, tỷ giá

hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến khối lượng kim ngạch xuất khẩu.

- Khoảng cách địa lý: Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia ảnh hướng tới cước

phí vận chuyển, rủi ro trong quá trình vận chuyển… Khoảng cách càng gần thì cước

phí càng nhỏ, rủi ro đối với hàng hóa trong vận chuyển càng giảm, như thế càng

góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Đó là lý do tại sao các nước hay chú

trọng đến giao lưu thương mại đối với các nước có cùng đường biên giới hay các

nước trong cùng khu vực. Khoảng cách có ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian cũng

như phương thức vận chuyển hàng hóa. Do vậy, với từng nhóm hàng khác nhau thì

nhân tố khoảng cách cũng có thể gây nên những tác động khác biệt.

- Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế: Sự tương đồng về trình độ phát

triển kinh tế có thể cản trở hoặc hấp dẫn đối với thương mại giữa hai nước. Nếu hai

19

nước có trình độ phát triển như nhau thì nhu cầu về các mặt hàng chính, thị hiếu

tiêu dùng, yêu cầu chất lượng sản phẩm cũng tương đương nhau, do vậy hàng hóa

của nước này dễ dàng đáp ứng các yêu cầu của nước kia và thuận lợi cho việc thúc

đẩy xuất khẩu. Ngược lại, nếu hai nước có sự cách biệt lớn về trình độ phát triển

như trường hợp các nước kém phát triển, hàng hóa của họ sẽ khó đáp ứng được các

yêu cầu ngày càng cao của các nước phát triển, do vậy hạn chế khả năng xuất khẩu.

Tuy nhiên, sự cách biệt lớn về kinh tế lại có thể thể hiện cho việc dư thừa các nhân

tố sản xuất là khác nhau và theo lý thuyết H-O thì lại tăng dòng trao đổi thương mại

hàng hóa với những mặt hàng có độ thâm dụng các nhân tố đầu vào khác nhau. Bên

cạnh khoảng cách địa lý và khoảng cách kinh tế còn có rất nhiều các nhân tố khác

gây ra những ảnh hưởng gián tiếp đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia như

văn hóa, lịch sử, thể chế chính trị… những nhân tố này chủ yếu tác động đến xuất

khẩu thông qua quan hệ sản xuất làm ảnh hưởng tới cung xuất khẩu và thông qua

thị hiếu tiêu dùng làm ảnh hưởng tới cầu xuất khẩu. Các nhân tố này gây ra những

ảnh hưởng trái chiều nhau không rõ ràng tới xuất khẩu của một nước và rất khó có

thể đưa ra kết luận đó là tác động tích cực hay tiêu cực nếu chỉ dựa trên phân tích

định tính.

2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về mô hình trọng lực trong thƣơng mại quốc tế

Mô hình trọng lực còn được các nhà nghiên cứu sử dụng rất thành công trong

các nghiên cứu thực nghiệm nhằm giải thích các dòng thương mại quốc tế. Phương

pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên dữ liệu chéo và dữ liệu bảng, chẳng hạn như các

nghiên cứu của Bergstrand (1985, 1989), Frankel (1997), Karemera và các cộng sự

(1999), Sharma và Chua (2000), Paas (2000), Hassan (2000, 2001), Rahman (2003),

Batra (2006)…

Ban đầu những ứng dụng đầu tiên của mô hình trọng lực chỉ nhằm mục đích

giải thích các quan hệ thương mại song phương giữa các quốc gia. Tuy nhiên, do

tính thực tiễn cao của mô hình đã dẫn đến việc áp dụng rộng rãi mô hình này trong

việc đánh giá tác động của các khối thương mại, thương mại nội ngành của các khối

kinh tế hoặc các hiệp định thương mại ưu đãi. Chẳng hạn:

20

* Hassan (2000) đã kiểm chứng tác động của khối thương mại, thương mại nội

ngành giữa Bangladesh và các quốc gia thuộc Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á,

gọi tắt là SAARC, bằng cách sử dụng mô hình trọng lực với dữ liệu chéo trong năm

1994 và ước lượng các hệ số của các biến thu nhập thực, dân số và khoảng cách

giữa các quốc gia trong mô hình hồi quy theo phương pháp bình phương tối thiểu

OLS (Ordinary Least Square).

* Tang (2003) đã ước lượng mô hình trọng lực bằng phương pháp OLS và phát

hiện rằng sự hợp nhất của EU đã làm giảm tỷ trọng thương mại với ASEAN,

NAFTA và NIC trong suốt giai đoạn 1981-2000, đặc biệt là giai đoạn 1996-2000.

Tuy nhiên, các quốc gia thuộc khối ASEAN vẫn duy trì mức độ tăng trưởng thương

mại bền vững với EU. Ngoài ra, kết quả cho thấy rằng các quốc gia thuộc cùng một

khối EU, ASEAN và NIC mậu dịch với nhau rất mạnh mẽ do các lịch trình hội nhập

tương ứng của từng khối.

* Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann (2004) sử dụng mô hình trọng lực để

giải thích và đánh giá thương mại giữa khối mậu dịch mở Mercosur và European

Union và đánh giá tiềm năng thương mại sau khi hai khối ký các hiệp định với

nhau. Ngoài việc sử dụng các nhân tố trong mô hình chuẩn tắc, một số nhân tố khác

đã được bổ sung là cơ sở hạ tầng, khác biệt thu nhập và tỷ giá hối đối và kết quả

nghiên cứu chỉ ra rằng những nhân tố này đều tác động mạnh mẽ đến dòng thương

mại song phương.

Nhiều nghiên cứu lại tập trung vào việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến

thương mại, các nhân tố khuyến khích thương mại song phương, đánh giá các thành

tựu trong quan hệ thương mại song phương của một quốc gia dựa trên việc đánh giá

tiềm năng và so sánh với thực tế thương mại và các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến

các dòng thương mại song phương. Chẳng hạn:

* McCallum (1995) đã nghiên cứu về dòng thương mại xuyên biên giới giữa

Mỹ và Canada bằng việc sử dụng mô hình trọng lực với kiểu dữ liệu chéo cho 10

tỉnh ở Canada và 30 bang ở Mỹ trong năm 1988. Trong phương trình hồi quy của

ông thì kim ngạch xuất khẩu là biến phụ thuộc, GDP và khoảng cách địa lý là biến

21

độc lập, thương mại giữa các tỉnh trong cùng một nước và thương mại giữa các tỉnh

của hai nước là biến giả. Kết quả nghiên cứu cho thấy thương mại nội địa giữa các

tỉnh của Canada lớn gấp 22 lần so với thương mại xuyên biên giới giữa các tỉnh của

Canada và các bang của Mỹ. McCallum còn chỉ ra rằng chi phí vận chuyển đóng

vai trò rất quan trọng trong việc giải thích mô hình thương mại giữa Mỹ và Canada.

* Dell’ Arricia (1999) trên cơ sở dữ liệu của 15 nước thành viên EU và Thụy Sĩ

trong 20 năm từ 1975 đến 1994, bằng phương pháp FEM và REM đã chỉ ra rằng:

Trong những lĩnh vực hoạt động xuất khẩu đòi hỏi đầu tư lớn, thương mại được

chứng minh là nhạy cảm với biến động tỷ giá hối đoái trong xuất khẩu ngắn hạn.

* Rahman (2003) đã sử dụng mô hình trọng lực tổng quát với dữ liệu bảng về

35 nước trong vòng 28 năm (1972-1999) để xem xét, phân tích và đánh giá các

nhân tố tác động đến thương mại của Bangladesh và các nước bạn hàng chính. Ông

đã kết luận rằng, nhìn chung thương mại của Bangladesh được quyết định bởi quy

mô của nền kinh tế, GNP/đầu người, khoảng cách và mức độ mở cửa nền kinh tế.

* Blomqvist (2004) sử dụng mô hình trọng lực để giải thích dòng thương mại

của Singapore và đã đạt được sự thành công rất đáng ghi nhận, đặc biệt là biến

khoảng cách và biến GDP. Tuy nhiên, ở một nghiên cứu khác, nghiên cứu của

Anama và Alkharusa (2003) chỉ ra rằng nhân tố chính quyết định thương mại của

Brunei với EU chính là dân số của Brunei và EU.

* Carrere (2006) bằng phương pháp pooled OLS với dữ liệu của 130 nước trong

giai đoạn từ 1962 đến 1996 đã nhận định rằng: Các thỏa thuận thương mại khu vực

làm tăng xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, phần còn lại của thế

giới thì phải trả giá cho sự tăng lên đó.

* Rahman (2009) đã nghiên cứu tiềm năng thương mại của Australia với dữ liệu

chéo về 50 quốc gia bằng mô hình trọng lực tổng quát (ngoài việc sử dụng các nhân

tố trong mô hình trọng lực chuẩn tắc, tác giả đã bổ sung thêm một số nhân tố khác

nhằm đánh giá tác động của chúng). Kết quả nghiên cứu của ông chỉ ra rằng quy mô

của nền kinh tế, GDP/đầu người, độ mở cửa nền kinh tế và ngôn ngữ chung tác

động tích cực, trong khi khoảng cách tác động tiêu cực đến thương mại song

22

phương của Australia. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng Australia còn rất nhiều

nhiều tiềm năng thương mại với Singapore, Argentina, liên bang Nga, Portugal,

Greece, Chile, Philippines, Norway, Brazil và Bangladesh.

* Thomas Chaney (2013) dựa vào số liệu xuất khẩu của các doanh nghiệp ở

Pháp từ năm 1992 đã kết luận rằng các công ty chỉ có thể xuất khẩu vào các thị

trường mà họ có liên hệ. Sự liên hệ này có được bằng cách thông qua các mối liên

hệ khác. Kết quả nghiên cứu của ông cho thấy doanh thu xuất khẩu của các công ty

thường phụ thuộc vào khối tư nhân và khoảng cách địa lý gây cản trở cho việc liên

lạc ban đầu. Hơn nữa, sau khi đã có quan hệ thương mại, ông nhận thấy rằng giá trị

xuất nhập khẩu tỷ lệ thuận với quy mô kinh tế và tỷ lệ nghịch với khoảng cách.

Nhiều sản phẩm khoa học khác lại tập trung nghiên cứu sự khác nhau của tác

động độc lập thương mại và chuyển hướng thương mại. Chẳng hạn:

* Chan-Hyun Sohn và Lee Hongshik (2005) xây dựng mô hình thương mại Hàn

Quốc theo mô hình Hecksher-Ohlin bằng phương pháp ước lượng pooled OLS. Với

số liệu về quan hệ thương mại song phương giữa Hàn Quốc và 30 nước đối tác chủ

yếu trong 23 ngành trong năm 1995, tác giả đã chứng mình rằng dòng thương mại

của Hàn Quốc phụ thuộc nhiều vào các nhân tố như lợi thế so sánh, sự khác biệt thu

nhập và các giai đoạn phát triển khác. Mặc khác, ông cũng chỉ ra dòng thương mại

của Hàn Quốc ít phụ thuộc vào quy mô kinh tế hay sự đa dạng sản phẩm. Như vậy,

dòng thương mại phụ thuộc chủ yếu vào ngành công nghiệp liên thương mại và một

mức độ thấp hơn về thương mại nội ngành theo chiều dọc. Ngoài ra, tác giả cũng đo

lường ảnh hưởng của khoảng cách tương đối của các quốc gia và chỉ ra rằng quan

hệ thương mại với các quốc gia có vị trí địa lý xa xôi làm giảm thương mại với các

nước có khoảng cách địa lý gần hơn.

* Mayer và Zignago (2005) đã thu thập số liệu từ 67 nước phát triển và đang

phát triển trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1999. Các tác giả đã đưa ra những

kết luận: Thứ nhất, phát triển phương pháp mới đánh giá độ mở cửa thị trường giữa

các quốc gia có nhiều điểm chung giữa các ngành công nghiệp và giữa các năm.

Thứ hai, khó khăn phải đối mặt của các nước đang phát triển về phát triển xuất khẩu

23

và thâm nhập thị trường nội địa các nước phát triển là cao hơn so với các nước xuất

khẩu ở phía Bắc. Cuối cùng, hệ số khoảng cách ở nơi khác nhau có sự khác nhau

lớn, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Canada nhạy cảm với biến khoảng cách hơn các nước

EU với các nước đang phát triển.

Hiện nay, có rất nhiều nghiên cứu, công trình khoa học về hoạt động thương

mại quốc tế của Việt Nam. Một số nghiên cứu nổi bật như:

* Nguyen Tien Trung (2002) sử dụng mô hình trọng lực để kiểm chứng tác

động của Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) ảnh hưởng

đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước trong khu vực. Tác giả cho

rằng AFTA không phải là nhân tố chính ảnh hưởng đến thương mại song phương

giữa Việt Nam và các nước ASEAN.

* Thai Do Tri (2006) trong luận án của mình cũng sử dụng mô hình trọng lực

để giải thích dòng thương mại song phương giữa Việt Nam và 23 nước Châu Âu

thuộc EU từ năm 1993 đến 2004. Tác giả chỉ ra rằng thương mại hai chiều giữa Việt

Nam và 23 nước Châu Âu thuộc EU chịu tác động của quy mô nền kinh tế (GDP),

quy mô thị trường (dân số) và biến động tỷ giá ngoại tệ, trong khi khoảng cách địa

lý và lịch sử lại không có tác động rõ ràng. Ngoài ra, kết quả ước lượng và phương

pháp tốc độ hội tụ được sử dụng để tính toán, dự báo về tiềm năng thương mại giữa

Việt Nam và các nước Châu Âu thuộc EU. Tác giả chỉ ra rằng Việt Nam chưa tận

dụng hết tiềm năng thương mại với một vài nước Châu Âu như Austria, Finland,

Luxembourg.

* Nghiên cứu của Bac Xuan Nguyen (2010) sử dụng cả hai mô hình trọng lực

tĩnh và động (dựa trên phương trình của McCallum’s (1995)) với kiểu dữ liệu bảng

để phân tích hoạt động xuất khẩu của Việt Nam với 15 đối tác thương mại lớn nhất

của Việt Nam trong giai đoạn 20 năm từ 1986 đến 2006, trong đó giá trị xuất khẩu

là biến phụ thuộc, GDP, khoảng cách, tỷ giá hối đối thực trung bình là biến độc lập

và ASEAN là biến giả. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng GDP, tỷ giá hối đối và thành

viên của ASEAN có tác động tích cực đến giá trị xuất khẩu từ Việt Nam sang các

nước khác. Ngược lại, khoảng cách địa lý tác động tiêu cực đến giá trị xuất khẩu.

24

Việt Nam có xu hướng xuất khẩu nhiều hơn sang các quốc gia có khoảng cách địa

lý gần hơn.

* Vo Tri Thanh và Nguyen Anh Duong (2011) dựa trên các cơ sở dữ liệu

thương mại và các con số thống kê tài chính của IMF giai đoạn 1997-2008 và phân

tích CMS, các tác giả đã chứng minh rằng: Việt Nam đã thực hiện khá tốt xuất khẩu

thông qua các cải cách mạnh mẽ trong thực hiện chính sách thương mại và FDI.

Điều này cho thấy lợi ích từ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu về xuất

khẩu cũng có những chuyển biến tích cực hơn mặc dù tỷ lệ mặt hàng tài nguyên vẫn

còn cao. Sự đa dạng trong xuất khẩu của Việt Nam đang ngày càng gần với xu

hướng chung của thế giới, hàng hóa có khả năng thâm nhập tốt vào các thị trường

như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Lợi thế năng động và lợi thế so sánh ngày càng

được phát huy. Cuối cùng, vốn FDI có hiệu quả tích cực trong việc kích thích xuất

khẩu của Việt Nam.

Như vậy, các nghiên cứu thực nghiệm rất đa dạng về hình thức và các biến số

được đưa vào để giải thích các dòng thương mại song phương. Trong đó những biến

số cơ bản là thu nhập của quốc gia (quy mô kinh tế) và khoảng cách (thông thường

là chi phí vận tải), ngoài ra còn các biến khác bao gồm dân số, diện tích đất đai, hạ

tầng kinh tế, tỷ giá hối đoái... Đáng chú ý là hàng loạt các biến giả định cũng

thường xuyên được sử dụng để giải thích các nhân tố riêng biệt có thể cản trở hoặc

giúp cho các dòng hàng hóa chảy mạnh như biên giới chung, ngôn ngữ (các liên kết

văn hóa), lịch sử thuộc địa và các hiệp định thương mại (thành viên của khu vực

thương mại ưu đãi), các nhân tố riêng của từng quốc gia như các đặc điểm về thể

chế chính trị. Để phù hợp với sự phát triển về mặt lý thuyết của mô hình trọng lực,

1 Xem Egger (2002), Baltagi (2003) về giải thích chi tiết. 2 Giả thuyết của Linder cho rằng hai quốc gia sẽ giao thương ít hơn nếu chúng khác biệt hơn về các

nhân tố nguồn lực tương đối (Baltagi, 2003).

các biến giải thích mới đã được xác định, chẳng hạn như sự tương đồng và khác biệt trong các nhân tố nguồn lực1 giữa hai đối tác thương mại để tìm ra các bằng chứng thực nghiệm cho lý thuyết thương mại mới và giả thuyết của Linder2.

25

Bảng 2.1. Các biến trong mô hình nghiên cứu và tác động của chúng đến

dòng thƣơng mại quốc tế trong các nghiên cứu trƣớc

Các nghiên cứu Yếu tố Xu hƣớng tác động

Các yếu tố cung và cầu GDP tổng hợp Cùng chiều

Tinbergen (1962), Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), Thai Do Tri (2006), Rahman (2009), Dao Ngoc Tien (2009), Paas (2000), Nguyen Thanh Thuy và Jean-Louis Arcand (2009), Bac Xuan Nguyen (2010). Dân số tổng hợp Cùng chiều Dao Ngoc Tien (2009), Do Thai Tri (2006).

GDP nước xuất khẩu Cùng chiều Nguyen Tien Trung (2002), Carrere (2006),

Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann (2003), Sandberg (2004), Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010).

Dân số nước xuất khẩu Cùng chiều

Sandberg (2004), Nguyen Khanh Doanh (2009). Ngược chiều Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann

(2003), Jacob A. Bikker (2009). GDP nước nhập khẩu Cùng chiều Nguyen Tien Trung (2002), Carrere (2006),

Dân số nước nhập khẩu

Sandberg (2004), Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann (2003), Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010). Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann (2003), Carrere (2006), Jacob A. Bikker (2009).

26

Bảng 2.1 (tiếp theo). Các biến trong mô hình nghiên cứu và tác động của chúng

đến dòng thƣơng mại quốc tế trong các nghiên cứu trƣớc

Yếu tố Các nghiên cứu Xu hƣớng tác động

Các yếu tố hấp dẫn hoặc cản trở

Cùng chiều

Tham gia các khu mậu dịch tự do, khối hợp tác kinh tế.

Fukase và Martin (1999) (AFTA), Carrere (2006) (NAFTA, ASEAN, CACM), Bac Xuan Nguyen (2010) (ASEAN), Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010) (AFTA). Ngược chiều Hassan (2001)(ASEAN, SAARC), (2012)

(BTA, AFTA). Ngược chiều Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008)

Ảnh hưởng không rõ ràng

Không ảnh hưởng

Cùng chiều Tỷ giá

(ASEAN), Carrere (2006) (MECORSUR). Nguyen Tien Trung (2002) (ADJ, AFTA), Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010) (AFTA). Sharma và Chua (2000) (AFTA), Nguyen Tien Trung (2002) (AFTA). Sharma (2003), Thai Do Tri (2006), Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann (2003), Bac Xuan Nguyen (2010), Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010), Dao Ngoc Tien (2009). Ngược chiều Dao Ngoc Tien (2009). Thuế

Cùng chiều FDI

Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010).

27

Bảng 2.1 (tiếp theo). Các biến trong mô hình nghiên cứu và tác động của chúng

đến dòng thƣơng mại quốc tế trong các nghiên cứu trƣớc

Yếu tố Các nghiên cứu Xu hƣớng tác động

Khoảng cách Khoảng cách địa lý

Ngược chiều Tinbergen (1962), Nguyen Tien Trung (2002), Carrere (2006), Nguyen Khanh Doanh (2009), Paas (2000), Rahman (2009), Dao Ngoc Tien (2009), Bac Xuan Nguyen (2010). Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy (2010).

Thai Tri Do (2006).

Ảnh hưởng không rõ ràng Không ảnh hưởng Cùng chiều Khoảng cách kinh tế Egger (2000). Ngược chiều Martínez-Zarzoso và Nowak-Lehmann

Liền kề biên giới Cùng chiều

(2003). Li (2000), Soloaga và Winters (2001), Clark và Tavares (2000), Freund (2000), Gilbert, Scollay và Bora (2001), Sharma và Chua (2000). Nguyen Tien Trung (2002).

Chung ngôn ngữ Không ảnh hưởng Cùng chiều

Boisso và Ferrantino (1997), Frankel (1997), Fink và Primo Braga (1999), Krueger (1999a), Soloaga và Winters (2001), Clark và Tavares (2000), Rahman (2009).

Ngược chiều Geraci and Prewo (1977).

Cùng chiều Rose (1999).

Chi phí vận tải (tính bằng giá CIF/FOB) Cùng đồng tiền trao đổi Độ mở cửa nền kinh tế Cùng chiều Rahman (2009).

Thai Tri Do (2006). Lịch sử Không ảnh hưởng

Nguồn: Tổng hợp từ tác giả và từ Adams và các cộng sự (2003).

28

Từ phần tổng quan lý thuyết, tôi đặt ra một số giả thuyết nghiên cứu sau:

H1: GDP của nước xuất khẩu hàng hóa sẽ ảnh hưởng tích cực đến khối lượng

thương mại giữa hai quốc gia trong TPP.

H2: GDP của nước nhập khẩu hàng hóa tác động tích cực đến khối lượng

thương mại giữa hai quốc gia trong TPP.

H3: Khoảng cách địa lý hạn chế thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và quốc

gia tham gia đàm phán TPP.

H4: Dân số của nước nhập khẩu hàng hóa có tác động cùng chiều đến dòng

thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước TPP.

H5: Dân số của Việt Nam có ảnh hưởng không đáng kể đến thương mại hàng

hóa giữa Việt Nam và các nước TPP.

H6: Phá giá đồng nội tệ tác động thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và các

nước TPP.

H7: Hiệp định thương mại có tác động tích cực đến kim ngạch thương mại hàng

hóa của Việt Nam.

29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Qua việc tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về

mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế, một cách tổng quát, có ba nhóm nhân

tố chính tác động đến dòng thương mại giữa các quốc gia bao gồm: nhóm các nhân

tố ảnh hưởng đến cung, nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến cầu và nhóm các nhân tố

cản trở hay hấp dẫn. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giả thuyết nghiên cứu rằng

GDP và dân số nước xuất khẩu, GDP và dân số nước nhập khẩu, tỷ giá hối đoái và

việc tham gia hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương tác động tích cực

đến dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP. Trong khi đó,

khoảng cách giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu lại tác động tiêu cực đến dòng

thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP.

30

CHƢƠNG 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

3.1. Mô hình kinh tế lƣợng

Việc áp dụng mô hình trọng lực vào nghiên cứu thương mại quốc tế được đưa

ra dưới nhiều dạng khác nhau trong các nghiên cứu trước đây. Mô hình kinh tế

lượng được sử dụng trong nghiên cứu này dựa trên cơ sở mô hình do Bergstrand

(1985) đề xuất. Ngoài việc sử dụng các nhân tố trong mô hình trọng lượng chuẩn

tắc, một số biến mới đã được bổ sung để phân tích định lượng ảnh hưởng của chúng

đối với dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước tham gia đám phán Hiệp định

TPP.

Phương trình hồi quy mô hình đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới dòng

thương mại giữaViệt Nam và các nước TPP như sau:

(3)

Biến đổi về dạng logarit, đưa mô hình về dạng tuyến tính để ước lượng, phương

trình biến đổi có dạng như sau:

(4)

Trong đó:

i = 1 (Việt Nam).

j = 2, 3, 4,… (nước đối tác).

t = 2000, 2001,…, 2012.

Tijt: biến phụ thuộc, thương mại giữa Việt Nam và quốc gia j trong năm t (xuất

khẩu + nhập khẩu hàng hóa).

Yit: GDP của Việt Nam ở thời điểm t. Đây là biến số đại diện cho khả năng sản

xuất của Việt Nam và được mong đợi tác động tích cực đến dòng thương mại song

phương.

31

Yjt: GDP của quốc gia j, bạn hàng của Việt Nam ở thời điểm t. Biến số đại diện

cho cầu của quốc gia j đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và được mong đợi

tác động tích cực đến dòng thương mại song phương.

Dijt: Khoảng cách địa lý giữa Hà Nội và thủ đô của quốc gia j. Biến số được đo

bằng km và là biến số đại diện cho chi phí vận chuyển hàng hóa giữa Việt Nam và

quốc gia j. Biến số này được mong đợi tác động tiêu cực đến dòng thương mại bởi

vì chi phí vận chuyển tỷ lệ thuận với quãng đường giữa hai quốc gia.

POPit, POPjt: lần lượt là dân số của Việt Nam và dân số của nước j vào năm t.

Biến dân số dùng để ước lượng độ lớn thị trường và được mong đợi tác động dương

đến dòng thương mại song phương.

RERijt: Tỷ giá hối đối thực giữa đơn vị tiền tệ của Việt Nam và quốc gia j thời

điểm năm t (tỷ giá VNĐ đối với 1 đơn vị ngoại tệ). Được tính theo công thức:

(5)

Trong đó:

CPIi: chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia i cho mỗi năm từ 2000 đến 2012 (năm

2005 = 100).

CPIj: chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia j cho mỗi năm từ 2000 đến 2012 (năm

2005 = 100).

NERi: tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đơn vị tiền tệ của Việt Nam và Dollar Mỹ

cho mỗi năm từ 2000 đến 2012.

NERj: tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đơn vị tiền tệ của Việt Nam và quốc gia j

cho mỗi năm từ 2000 đến 2012.

Nếu quốc gia không có chỉ số CPI, thì có thể sử dụng chỉ số giảm phát GDP của

quốc gia đó thay thế.

Trong các nghiên cứu trước đây, chẳng hạn như Bergstand (1985) và Dell’

Arricia (1999), đã chỉ ra rằng việc thêm tỷ giá hối đoái vào mô hình trọng lực sẽ

giúp cho việc giải thích sự khác nhau về thương mại giữa các nước. Vì vậy, tỷ giá

32

hối đoái được thêm vào mô hình định lượng như là một biến độc lập và được mong

đợi tác động dương đến dòng thương mại song phương.

BTAijt_FTAijt: Biến giả, đại diện cho việc là hoặc không là thành viên của hiệp

định thương mại song phương hoặc đa phương. Biến này nhận giá trị 1 nếu quốc gia

j cùng là thành viên của một hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương có

hiệu lực trước hoặc vào năm t và còn lại nhận giá trị 0. Do mô hình chỉ giới hạn

trong giai đoạn 2000-2012 nên trong bài nghiên cứu này sẽ chỉ phân tích tác động

của BTA Việt-Mỹ và AFTA. Biến giả này được đưa vào mô hình để đánh giá tác

động của việc tham gia các hiệp định thương mại và khu vực lên kim ngạch thương

mại.

uijt: Số hạng sai số.

Các hệ số  thể hiện ảnh hưởng của các nhân tố tới kim ngạch xuất khẩu với

nước j của Việt Nam.

Phần mềm STATA 11 được sử dụng để ước lượng tính toán tác động của các

nhân tố đến dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước TPP.

3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu và lựa chọn mô hình để phân tích

3.2.1. Phƣơng pháp ƣớc lƣợng mô hình

Hiện nay, các bài nghiên cứu trên thế giới sử dụng phổ biến ba loại dữ liệu: dữ

liệu chuỗi thời gian, dữ liệu chéo và dữ liệu bảng. Mỗi loại dữ liệu được thiết kế

riêng cho từng mục đích và điều kiện nghiên cứu.

Tuy nhiên, sử dụng dữ liệu bảng có nhiều ưu điểm hơn so với dữ liệu chuỗi thời

gian và dữ liệu chéo. Dữ liệu bảng cung cấp nhiều thông tin hơn, biến thiên hơn, ít

có sự đa cộng tuyến giữa các biến số, bậc tự do cao hơn và hiệu quả hơn. Bằng cách

nghiên cứu các dữ liệu chéo một cách lặp đi lặp lại, dữ liệu bảng thích hợp cho các

nghiên cứu về những thay đổi xảy ra liên tục như tỷ lệ thất nghiệp, di chuyển lao

động. Cho phép kiểm soát sự khác biệt không quan sát được giữa các thực thể, ví dụ

như khác biệt văn hóa giữa các quốc gia hay sự khác biệt về triết lý kinh doanh giữa

các công ty. Cho phép kiểm soát các biến không quan sát được nhưng thay đổi theo

thời gian ví dụ như chính sách quốc gia, thỏa thuận quốc tế. Cho phép nghiên cứu

33

các mô hình phức tạp, ví dụ như tính kinh tế do quy mô hay thay đổi công nghệ

(Baltagi, 2005).

Với những ưu điểm trên và để phù hợp với mục tiêu của luận văn, bài nghiên

cứu này sẽ sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng để đảm thông tin đối tượng

được thu thập nhiều nhất.

Có nhiều phương pháp ước lượng hệ số cho các biến trong mô hình (4) như

phương pháp tác động ngẫu nhiên REM, phương pháp tác động cố định FEM,

phương pháp bình phương cực tiểu thường kết hợp pooled OLS.

Phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect – REM): trong phương pháp

này, hằng số trong mô hình hồi quy của mỗi đơn vị chéo giống như một tham số

ngẫu nhiên hơn là cố định. Bởi hệ số chặn của mỗi đơn vị chéo là một hệ số chặn

chung (giá trị này giống nhau cho tất cả các đơn vị chéo trong giai đoạn nghiên

cứu), cộng thêm giá trị ngẫu nhiên của đơn vị chéo εi – giá trị này khác nhau đối với

từng đơn vị chéo nhưng không đổi theo thời gian.

Ta có thể viết mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên như sau:

yit =  + xit + it trong đó: it = εi + it

Với εi là thành phần sai số theo không gian, hay theo các đơn vị chéo, it là

thành phần sai số theo không gian và chuỗi thời gian kết hợp.

xit vẫn là ma trận 1.k vectơ của biến giải thích nhưng không giống phương pháp

tác động cố định, biến giả để xác định sự khác biệt giữa các đơn vị chéo không

được sử dụng ở đây mà được phản ánh trong sai số εi .

Phương pháp tác động cố định (fixed effects – FEM): với giả định mỗi đơn vị

chéo đều có những đặc điểm riêng biệt có thể ảnh hưởng đến các biến giải thích,

FEM phân tích mối tương quan này giữa sai số của mỗi đơn vị chéo với các biến

giải thích, qua đó kiểm soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt (không

đổi theo thời gian) ra khỏi các biến giải thích để chúng ta có thể ước lượng những

ảnh hưởng ròng của biến giải thích lên biến phụ thuộc, bằng cách cho tung độ gốc

thay đổi theo từng đơn vị nhưng vẫn giả định rằng các hệ số độ dốc này là hằng số

đối với các đơn vị.

34

Ta có thể viết mô hình cho phương pháp tác động cố định như sau:

yit =  + xit + it + it

Trong đó, it đại diện cho sự khác biệt của từng đơn vị chéo, it đại diện cho

phần sai số yit mà mô hình chưa giải thích được.

Phương pháp bình phương cực tiểu thường kết hợp (pooled ordinary least

square – pooled OLS): phương pháp mà tất cả các hệ số đều không đổi theo không

gian và thời gian. Phương pháp này thể hiện kết quả theo giả định rằng không có sự

khác biệt giữa ma trận dữ liệu của các đơn vị chéo.

Phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát (feasible generalized least

squares – FGLS): phương pháp FGLS là phương pháp pooled OLS đối với các biến

đã biến đổi để thỏa mãn các giả thiết bình phương tối thiểu tiêu chuẩn. Các ước

lượng tính được như vậy được gọi là ước lượng FGLS và chính các ước lượng này

mới có khả năng đưa ra các ước lượng tuyến tính không thiên lệch tốt nhất (tính chất BLUE1). Do đó, phương pháp FGLS được sử dụng trong nghiên cứu này bởi

nó có thể kiểm soát được hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi.

Phương pháp FGLS sẽ ước tính mô hình theo phương pháp OLS (ngay cả trong

trường hợp có sự tồn tại của hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi). Các

sai số được rút ra từ mô hình sẽ được sử dụng để ước tính ma trận phương sai, hiệp

phương sai của sai số. Cuối cùng, sử dụng ma trận này để chuyển đổi các biến ban

đầu và ước tính giá trị các tham số cần tìm trong mô hình.

3.2.2. Các kiểm định đƣợc thực hiện trong nghiên cứu

Đầu tiên mô hình hồi quy (4) sẽ được ước lượng bởi cả 3 phương pháp pooled

OLS, FEM và REM. Tiếp đến, sử dụng các kiểm định sau để chọn ra phương pháp

tối ưu để hồi quy mô hình nghiên cứu:

- Kiểm định F test: được sử dụng để lựa chọn giữa phương pháp FEM và

pooled OLS. Theo kết quả nghiên cứu được trình bày chi tiết trong chương 4,

1Ước lượng không thiên lệch tuyến tính tốt nhất (Best Linear Unbias Estimation): Một ước lượng θ được gọi là BLUE nếu nó là ước lượng tuyến tính, không thiên lệch và có phương sai nhỏ nhất trong lớp các ước lượng tuyến tính không thiên lệch của θ .

phương pháp FEM là phù hợp để hồi quy mô hình hơn.

35

- Kiểm định Breusch – Pagan Lagrangian multiplier: cho phép lựa chọn giữa

mô hình REM và mô hình pooled OLS. Theo kết quả nghiên cứu được trình bày chi

tiết trong chương 4, phương pháp REM là thích hợp hơn.

- Kiểm định Hausman-Taylor: Đối với dữ liệu bảng thì OLS không phải là

một lựa chọn hợp lý vì phương pháp này là phương pháp ước lượng đơn giản nhất

và trong trường hợp này OLS có thể làm cho các hệ số ước lượng không vững và

không hiệu quả, tức là ước lượng không thống nhất (bị chệch) và khả năng kiểm tra

ý nghĩa thống kê không còn chính xác. Mặc dù, FEM là phương pháp ước lượng

tương đối tốt để đánh giá tác động của các biến độc lập lên các biến phụ thuộc,

nhưng FEM lại không thể ước lượng được hệ số cho các biến có giá trị cố định theo

thời gian như khoảng cách giữa các nước hoặc có chung đường biên giới mà đây lại

là các biến quan trọng trong mô hình trọng lực, REM có thể ước lượng được hệ số

của các biến có giá trị cố định theo thời gian nhưng lại không thể cho kết quả tốt

nếu các mẫu lựa chọn trong mô hình không đồng nhất (heterogeneous sample). Để

kết hợp ưu điểm của hai phương pháp FEM và REM, Hausman và Taylor (1981) đã

đề xuất một phương pháp ước lượng mới là Hausman-Taylor. Một vài kiểm định

của các tác giả như Mcpherson và Trumbull (2003), Egger (2005) đã chỉ ra rằng kết

quả ước lượng sử dụng phương pháp Hausman-Taylor ít nhất là phù hợp với hai

phương pháp FEM và REM và thường là tốt và đáng tin cậy hơn. Như vậy, kiểm

định Hausman-Taylor sẽ được sử dụng để lựa chọn giữa phương pháp FEM và

REM. Theo kết quả trình bày trong chương 4, phương pháp REM là phù hợp hơn để

hồi quy mô hình nghiên cứu.

- Kiểm định Lagram – Multiplier: được dùng để kiểm định hiện tượng tự

tương quan của sai số trong mô hình với giả thiết Ho – Mô hình có hiện tượng tương

quan chuỗi.

- Kiểm định Wald: được dùng để kiểm tra độ tin cậy chung của các hệ số trong

mô hình kinh tế lượng.

36

3.3. Nguồn và dữ liệu nghiên cứu

Các biến được mô tả trong Bảng 3.1 dưới đây. Dữ liệu được thu thập từ nhiều

nguồn khác nhau, trong đó, tổng thu nhập quốc dân GDP, chỉ số giá tiêu dùng CPI,

tỷ giá hối đoái danh nghĩa NER, chỉ số giảm phát GDP và dân số được lấy từ nguồn

dữ liệu của Ngân hàng Thế giới WDI, dữ liệu về khoảng cách (từ Hà Nội đến thủ đô

các nước khác) được thu thập từ website của các viện Tài nguyên thế giới WRI, giá

trị thương mại bằng tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu và được lấy từ cơ sở dữ liệu

thương mại của Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng, dữ liệu về biến giả đại diện cho việc là

hoặc không là thành viên của hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương

được lấy từ cơ sở dữ liệu của IMF.

Nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu bảng cân bằng với mỗi nước về 8 biến nói

trên trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012. Như vậy, có 11 đơn vị chéo theo

không gian (Việt Nam và 11 quốc gia tham gia ký kết Hiệp định TPP) và 13 thời

đoạn. Vì thế, tính tổng cộng chúng ta có 143 quan sát.

37

Bảng 3.1. Nguồn dữ liệu và các biến trong mô hình

STT 1 Các biến Tijt Mô tả các biến trong mô hình Thương mại giữa Việt Nam và quốc gia j trong năm t.

2 Yit

Nguồn Cơ sở dữ liệu thương mại của Liên Hiệp Quốc (UN Comtrade database) WDI WDI 3 Yjt

4 Dij GDP của Việt Nam tính bằng giá trị của đô la Mỹ trong năm t. GDP của quốc gia j tính bằng giá trị của đô la Mỹ trong năm t. Khoảng cách địa lý giữa Hà Nội và thủ đô của quốc gia j.

WRIs / Great Circle Distance between Capital Cities.

Dân số của Việt Nam vào năm t. WDI 5 POPit

Dân số của nước j vào năm t. WDI 6 POPjt

7 Chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia i (năm 2005 = 100). CPIi

WDI WDI 8 CPIj

9 WDI/Index Mundi NERi

10 NERj WDI/Index Mundi

WDI 11 GDPi

WDI 12 GDPj Chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia j (năm 2005 = 100). Tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đơn vị tiền tệ của quốc gia i và Dollar Mỹ. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đơn vị tiền tệ của quốc gia i và Dollar Mỹ. Chỉ số giảm phát GDP của quốc gia i. Chỉ số giảm phát GDP của quốc gia j.

IMF 13

BTAijt_FTAijt Biến giả, đại diện cho việc là/không là thành viên của hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

38

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, mô hình trọng lực

trong thương mại quốc tế và dữ liệu bảng. Mô hình kinh tế lượng được sử dụng

trong nghiên cứu này dựa trên cơ sở mô hình do Bergstrand đề xuất vào năm 1985.

Ngoài những biến chuẩn tắc trong mô hình, tác giả đã thêm vào các biến mới bao

gồm dân số nước xuất khẩu, dân số nước nhập khẩu, tỷ giá hối đối và việc là thành

viên của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và AFTA, nhằm kiểm tra mức độ tác động

của các biến này đến dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP.

39

CHƢƠNG 4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Tổng quan tình hình xuất-nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và các nƣớc

thành viên TPP

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước TPP, cũng như

kim ngạch nhập khẩu từ các nước TPP tới Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng cao trong

tổng kim ngạch xuất khẩu-nhập khẩu của nước ta. Đặc biệt, cán cân thương mại

Việt Nam – các nước TPP luôn thặng dư về phía Việt Nam trong giai đoạn từ năm

2001 đến năm 2012 (xem phụ lục 1).

Biểu đồ 4.1. Cán cân thƣơng mại giữa Việt Nam và các nƣớc thành viên TPP

giai đoạn 2000-2012.

50,000,000,000

45,000,000,000

40,000,000,000

35,000,000,000

30,000,000,000

25,000,000,000

20,000,000,000

15,000,000,000

10,000,000,000

5,000,000,000

-

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

(5,000,000,000)

Cán Cân Thương Mại

Nhập Khẩu

Xuất Khẩu

Đơn vị: USD

Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp theo dữ liệu từ “Cơ sở dữ liệu thƣơng mại của Liên Hiệp Quốc

(UN Comtrade database)”.

40

Những năm 2000-2012, giá trị kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các

nước tham gia Hiệp định TPP tăng trưởng với tốc độ bình quân là 18.3%; trong đó

tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu lần lượt là: 18.8% và

15.1%. Cụ thể, giai đoạn 2000-2006, giá trị kim ngạch thương mại hai chiều giữa

Việt Nam và các nước tham gia Hiệp định TPP khá đồng đều trong các năm, dao

động từ 30% (năm 2000) xuống 26% (năm 2006). Xét về giá trị tuyệt đối, bình quân

tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước TPP trong giai

đoạn này là 34 tỷ USD/năm.

Giai đoạn 2007-2012, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, tỷ trọng kim ngạch

xuất-nhập khẩu, cũng như tỷ trọng tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu của Việt Nam

với các nước TPP đều cao hơn so với giai đoạn trước (tỷ trọng bình quân của kim

ngạch xuất khẩu là 70.8%, kim ngạch nhập khẩu là 69.4%).

Cùng với giá trị kim ngạch thương mại luôn chiếm tỷ trọng cao, cơ cấu hàng

hóa chuyển dịch sang các nước TPP cũng theo hướng tích cực.

Về xuất khẩu: Từ năm 2000 trở lại đây, cơ cấu hàng hóa Việt Nam xuất khẩu

sang các nước TPP có những dịch chuyển liên tục theo hướng tích cực, với sự suy

giảm trong tỷ trọng của một số nhóm hàng có hàm lượng chế biến thấp. Tuy nhiên,

cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các nước TPP nhìn chung chưa đa

dạng, phụ thuộc vào một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, giầy dép, gỗ,

thủy sản, nông sản (cà phê, gạo, hạt điều), linh kiện và sản phẩm điện tử. Bên cạnh

đó, những mặt hàng thô, sơ chế vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hóa

xuất khẩu của Việt Nam.

Về nhập khẩu: Cơ cấu các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao

như máy móc, thiết bị điện, điện tử, phương tiện vận tải chiếm tỷ trọng cao nhất

trong danh mục hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam từ các nước TPP, các mặt hàng

thô sơ chế chiếm tỷ trọng nhỏ. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ

các nước TPP là: máy móc, phụ tùng, sản phẩm điện tử và linh kiện (Nhật Bản,

Singapore, Malaysia và Hoa Kỳ), xăng dầu các loại, sản phẩm dầu mỏ (Singapore).

41

Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu: của Việt Nam có nhiều sự thay đổi những năm

giai đoạn 2000-2012. Từ nước nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam với tỷ trọng trung

bình (12% năm 2000), Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt

Nam sang các nước TPP. Ngược lại, tỷ trọng hàng Việt Nam xuất sang các quốc gia

Châu Á chỉ còn khoảng 40% thay vì hơn 60% như các năm 2000, 2011. Các thị

trường Chile, Brunei, Peru còn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong kim ngạch xuất

khẩu của Việt Nam.

Mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tới các nước TPP chủ yếu là sản phẩm dệt

may, giày dép, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, hàng thủy sản, dầu thô, cà phê, gạo, hạt

điều, cao su, điện thoại các loại và linh kiện, sản phẩm điện tử và linh kiện… Một

số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, máy tính và

thiết bị điện tử, sữa và các sản phẩm từ sữa, dược phẩm, hóa chất, phân bón, nguyên

phụ liệu dệt may da giày…

4.2. Thống kê mô tả

Trước tiên, bài nghiên cứu này sẽ trình bày thống kê mô tả các biến qua các năm để

thấy được tổng quan của nguồn dữ liệu.

Bảng 4.1. Phân tích mô tả dữ liệu của các nƣớc TPP giai đoạn 2000-2012

No. Variable Obs Mean Median

Min

Max

Std. Deviation

Kurtosis (độ nhọn)

skewness (độ lệch)

1

Ln _Tijt

142

20.1881

20.4977

2.5222

13.2953

23.9287

-0.7083

2.9000

2

Ln _Yit

143

26.0603

26.0886

0.3213

25.5410

26.5410

1.7054

-0.1201

3

Ln _Yjt

143

26.9153

26.6430

1.7407

23.3704

30.4188

2.7004

0.0851

4

Ln _Dijt

143

8.4969

9.2003

1.1880

5.0039

9.8298

1.5148

-0.4259

5

Ln _POPit 143

18.2366

18.2381

0.0418

18.1675

18.3016

1.7986

-0.0757

6

Ln _POPjt 143

16.8283

17.0736

1.7830

12.7123

19.5646

3.1000

-0.6607

Ln _ERijt

3.1355

2.1410

7.6732

9.0233

143

9.7437

2.2218

-0.8970

7 Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Số liệu tính toán dựa trên mẫu gồm Việt Nam và 11 quốc gia tham gia đàm

phán hiệp định TPP giai đoạn 2000-2012 với 143 quan sát, ngoại trừ biến Ln _Tijt

với 142 quan sát.

42

Theo kết quả phân tích bảng 4.1, dữ liệu phân phối khá đều ở hai bên, chỉ số

trung bình và trung vị của các biến khá gần nhau, giá trị độ lệch của các biến hầu

hết nằm trong khoảng (-1,1); ngoại trừ biến Ln_Tijt phân phối lệch phải với giá trị

độ lệch dương 2.9, giá trị độ nhọn của các biến hầu hết nằm trong khoảng (-2,2) có

thể coi số liệu sắp xỉ chuẩn, ngoại trừ các biến Ln_Yjt, Ln_POPjt và Ln_ERijt.

Do vậy, xét về tổng thể, hầu hết các dữ liệu có phân phối gần với phân phối

chuẩn.

Về biến giả BTAijtFTAijt, đại diện cho việc là hoặc không là thành viên của hiệp

định thương mại song phương hoặc đa phương. Biến này nhận giá trị 1 nếu Việt

Nam và quốc gia j cùng là thành viên của một hiệp định thương mại song phương

hoặc đa phương có hiệu lực trước hoặc vào năm t và còn lại nhận giá trị 0. Do mô

hình chỉ giới hạn trong giai đoạn 2000-2012 nên trong bài nghiên cứu này sẽ chỉ

phân tích tác động của BTA Việt – Mỹ và AFTA. Theo kết quả từ bảng 4.2, có 92

quan sát không là thành viên hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương,

chiếm 63.34% và có 51 quan sát là thành viên hiệp định thương mại song phương

hoặc đa phương, chiếm 35.66%.

Bảng 4.2. Phân tích mô tả dữ liệu biến giả của các nƣớc thành viên TPP

giai đoạn 2000-2012

Freq. Percent Cum. BTAijFTAij

Khong la thanh vien hiep dinh thuong 92 64.34 64.34

mai song phuong hoac da phuong

Thanh vien hiep dinh thuong mai song 51 35.66 100.00

phuong hoac da phuong

Tong 143 100.00

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Kế đến, tôi xem xét tương quan giữa các biến: thương mại giữa Việt Nam và

quốc gia j, GDP của Việt Nam, GDP của quốc gia j, khoảng cách địa lý giữa Hà Nội

và thủ đô của quốc gia j, dân số của Việt Nam và dân số của nước j, tỷ giá hối đoái

thực giữa đơn vị tiền tệ của Việt Nam và quốc gia j và biến giả, đại diện cho việc là

43

hoặc không là thành viên của hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương

trong mô hình quan sát để đưa ra những đánh giá về số liệu của các biến này dựa

trên nguồn số liệu thu thập được.

Bảng 4.3. Ma trận tƣơng quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Theo bảng 4.3, có thể nhận thấy các cặp biến trong mô hình đều có hệ số tương

quan nhỏ hơn 0.8, ngoại trừ cặp biến ln_ POPj và ln_Yj có hệ số tương quan là

0.9315, cặp biến ln_ POPi và ln_Yi có hệ số tương quan là 0.9990. Thực tế cho

thấy, khi hệ số tương quan cặp giữa các biến độc lập lớn hơn 0.8 ta có hiện tượng

cộng tuyến cao.

Ngoài ra, kinh nghiệm cho thấy, nguy cơ xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến cao

khi thừa số phóng đại phương sai (Variance – inflating factor), ký hiệu VIF, lớn

hơn 10. Theo kết quả bảng 4.4, Thừa số phóng đại phương sai VIF của các biến

ln_Yi, ln_ POPi, ln_POPj và ln_Yj trong mô hình đều lớn hơn 10 và giá trị VIF

trung bình bằng 145.09. Như vậy, mức độ cộng tuyến giữa các biến này với các

biến còn lại rất cao, dữ liệu xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến không hoàn hảo.

Bảng 4.4. Kết quả chỉ số nhân tố phóng đại VIF của các biến trong mô hình

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

44

Để khắc phục hiện tượng đa cộng tuyến cao, tôi tiến hành bỏ đi các biến độc lập

có đa cộng tuyến cao và sử dụng các phương pháp hồi quy phù hợp. Phần kết quả

nghiên cứu sau đây sẽ trình bày chi tiết và rõ ràng hơn các phương pháp và cách

loại bỏ các biến này.

4.3. Kết quả nghiên cứu

Bảng 4.5. Kết quả lựa chọn các ƣớc lƣợng

Giả thuyết

0.0000 P - statistics P - critical value Quyết định 0.05 Bác bỏ H0 với 1. Kiểm định F-test cho ƣớc lƣợng fixed effects: H0:1 = … = 10 = 0 H1: Tồn tại ít nhất một cặp:

0.0000 0.05 Bác bỏ H0

0.2177 0.05

Không đủ cơ sở để bác bỏ H0 Kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test cho ƣớc lƣợng random effects H0: Var(u) = 0 H1: Var(u) 0 3. Hausman test H0: không có sự khác biệt có tính hệ thống giữa 2 phương pháp FEM và REM.

0.0000 4. Wald test 1: H0: 1 = 2 = 3 = 4 = 5 = 6 = 7 = 0 0.05 Bác bỏ H0

0.0000 0.05 Bác bỏ H0 5. Wald test 2 cho mô hình phân tích cuối: H0: 1 = 2 = 3 = 6 = 7 = 0

Nguồn: Tính toán của tác giả.

45

Trước hết, tôi phân tích, xem xét và lựa chọn kết quả ước lượng bằng phương

pháp pooled OLS hay phương pháp FEM. Sử dụng kiểm định F-test để tìm ra ước

lượng tốt nhất giữa hai phương pháp này. Kết quả bảng 4.6 cho thấy p-value nhỏ

hơn mức ý nghĩa 5%, do đó giả thuyết H0 bị bác bỏ. Như vậy, kết quả của ước

lượng FEM được cho là hiệu quả hơn ước lượng OLS (do kết quả ước lượng theo

OLS bị chệch).

Bảng 4.6. Kết quả kiểm định F-test cho ƣớc lƣợng Fixed Effect Method

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Tiếp theo, kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier được sử dụng

để lựa chọn kết quả ước lượng giữa phương pháp pooled OLS và REM. Theo kết

quả bảng 4.7, p-value nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, do đó giả thuyết H0 bị bác bỏ,

chứng tỏ có ảnh hưởng ngẫu nhiên trong mô hình ước lượng. Như vậy, kết quả của

ước lượng REM được cho là hiệu quả hơn ước lượng OLS.

46

Bảng 4.7. Kết quả kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian multiplier

test cho ƣớc lƣợng Random Effect Method

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Tiếp theo, tôi so sánh kết quả ước lượng giữa FEM và REM. Kiểm định

Hausman được sử dụng trong việc so sánh này. Bảng 4.8 cho thấy, kiểm định

Hausman cho kết quả prob (chi-square) lớn hơn 0.05, do đó với mức ý nghĩa 5%

chúng ta không có cơ sở để bác bỏ giả thuyết H0 (không có sự khác biệt có tính hệ

thống giữa hai phương pháp FEM và REM). Do vậy, phương pháp REM được lựa

chọn để ước lượng mô hình phân tích vì phương pháp này sẽ không làm mất quá

nhiều bậc tự do và hạn chế vấn đề đa cộng tuyến.

Bảng 4.8. Kết quả kiểm định Hausman test cho kết quả ƣớc lƣợng bằng

FEM hay REM

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

47

Tuy nhiên, trước khi tiến hành ước lượng mô hình theo phương pháp REM,

chúng ta cần phải trả lời một câu hỏi quan trọng là liệu có tồn tại tác động thời gian

trong mô hình hay không?

Để thực hiện điều nay, đầu tiên, biến giả thời gian sẽ được thêm vào mô hình

nghiên cứu và tiến hành hồi quy lại mô hình theo phương pháp FEM. Sau đó, tiến

hành kiểm định xem có cần thiết phải thêm biến giả thời gian vào mô hình hay

không.

Bảng 4.9. Kết quả ƣớc lƣợng theo phƣơng pháp FEM

bao gồm biến giả thời gian

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

48

Bảng 4.10. Kiểm định tác động của biến giả thời gian lên biến phụ thuộc

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Kết quả kiểm định Bảng 4.10 cho thấy p-value = 0.8704, do đó với mức ý nghĩa

5% chúng ta không có cơ sở để bác bỏ H0 (không tồn tại tác động thời gian trong

mô hình). Như vậy, không cần thiết phải thêm biến giả thời gian vào mô hình ban

đầu.

Tiếp theo, Wald test được dùng để kiểm tra độ tin cậy chung của hệ số trong mô

hình kinh tế lượng với cả 7 biến độc lập. Kết quả bảng 4.11 cho ta thấy tất cả các hệ

số ước lượng đều có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy về thống kê 99%.

Bảng 4.11. Kết quả kiểm định Wald test độ tin cậy chung của hệ số trong mô

hình kinh tế lƣợng với 7 biến độc lập

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Tiếp đến, phương pháp Breusch-Pagan Lagrange multiplier được sử dụng để

kiểm định phương sai sai số thay đổi trong mô hình REM. Theo kết quả kiểm định

cho thấy p-value = 0 (Bảng 4.12), do đó với mức ý nghĩa 5% bác bỏ giả thuyết H0

49

(không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi). Như vậy, mô hình có hiện tượng

phương sai thay đổi.

Bảng 4.12. Kiểm định phƣơng sai sai số thay đổi trong mô hình REM

(Phƣơng pháp Breusch-Pagan Lagrange multiplier)

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Phương pháp kiểm định nhân tử Lagrange được sử dụng để kiểm định hiện

tượng tự tương quan chuỗi khi sử dụng phương pháp ước lượng REM. Kết quả

kiểm định Bảng 4.13 cho thấy p-value bằng 0, do đó với mức ý nghĩa 5% bác bỏ giả

thuyết H0 (không có hiện tượng tương quan chuỗi), mô hình có hiện tượng tương

quan chuỗi.

Bảng 4.13. Kiểm định tự tƣơng quan trong mô hình REM

(Kiểm định nhân tử Lagrange)

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Như vậy, có thể thấy ước lượng REM vẫn chưa phải là ước lượng hiệu quả nhất

do có hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tương quan chuỗi (xem bảng 4.5 về

kết quả các ước lượng).

50

Bảng 4.14. Kết quả ƣớc lƣợng theo phƣơng pháp REM

(Trước khi xử lý vấn đề tương quan chuỗi và phương sai của sai số thay đổi)

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Mặc khác, theo kết quả ước lượng bảng 4.14, hai biến số ln_POPi và ln_POPj

dường như có tác động không rõ ràng trong mô hình này vì giá trị tính toán p-value

của hai biến số vượt xa mức ý nghĩa 5%. Do đó, phương pháp bình phương tối thiểu

tổng quát FGLS (feasible generalized least squares) được sử dụng trong ước lượng

mô hình cuối cùng nhằm khắc phục hai vấn đề vừa đề cập trên đồng thời cũng loại

ra hai biến giải thích ln_POPi và ln_POPj không có ý nghĩa thống kê trong mô hình

cuối cùng. Kết quả ước lượng cuối cùng được trình bày trong bảng 4.15.

51

Bảng 4.15. Kết quả ƣớc lƣợng các nhân tố tác động đến thƣơng mại giữa Việt

Nam và các nƣớc TPP theo phƣơng pháp FGLS

(Sau khi loại bỏ được phương sai sai số thay đổi và khắc phục được hiện tượng

tương qua chuỗi, đồng thời loại ba biến giải thích không có ý nghĩa thống kê).

ln_Tij Coef. Std. Err z P>|z|

.3808788 2.04 0.041 [95% Conf. Interval] .0317053 1.524723 ln_Yi

.075691 15.62 0.000 1.034193 1.330896 ln_Yj

.1998732 -7.54 0.000 -1.898034 -1.114545 ln_Dij

.0646203 1.78 0.074 -.0113413 .2419656 ln_Erij

.3666689 -1.71 0.087 -1.346169 .0911473 BTAijFTAij

9.98125 -1.93 0.054 -38.80566 .3201211 _cons .778214(**) 1.182544(***) -1.506289(***) .1153122(*) -.6275106(*) -19.24277(**)

Chú thích: *, ** và *** chỉ mức tin cậy thống kê ở mức tƣơng ứng là 90%, 95% và 99%.

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

Sau khi sử dụng phương tối thiểu tổng quát FGLS để ước lượng mô hình cuối

cùng và loại bỏ các biến gây ra hiện tượng đa cộng tuyến, thừa số phóng đại

phương sai VIF của các biến còn lại trong mô hình đều nhỏ hơn 10 và giá trị VIF

trung bình bằng 1.55. Như vậy, hiện tượng đa cộng tuyến đã hoàn toàn được khắc

phục.

Bảng 4.16. Kết quả chỉ số nhân tố phóng đại VIF của các biến trong mô hình

sau khi loại bỏ các biến gây ra hiện tƣợng đa cộng tuyến

Nguồn: Kết quả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata 11.

52

Phân tích kết quả ước lượng:

Một là, GDP: Trong số các nước tham gia hiệp định TPP, bên cạnh những nền

kinh tế có quy mô lớn bật nhất thế giới như Mỹ và Nhật Bản, thì cũng có những nền

kinh tế với GDP ở mức trung bình như Malaysia, cùng những quốc gia có quy mô

kinh tế nhỏ là Việt Nam và Brunei. Xét về tốc độ tăng trưởng GDP, trong giai đoạn

2000-2012, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là cao và ổn định nhất, trong khi

các quốc gia còn lại chịu ảnh hưởng nặng nề từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ

cuối năm 2007.

Biểu đồ 4.2. Tốc độ tăng trƣởng GDP của các nƣớc tham gia đàm phán

Hiệp định TPP giai đoạn 2000-2012

%

25.0

20.0

15.0

10.0

5.0

0.0

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

-5.0

-10.0

Australia

Brunei Darussalam

Canada

Chile

Japan

Malaysia

Mexico

New Zealand

Peru

Singapore

United States

Vietnam

Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp theo dữ liệu từ WDI.

53

Kết quả hồi quy ở bảng 4.15 cho thấy, GDP của Việt Nam có tác động dương

đến dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước TPP. Nói cách khác, quy mô kinh

tế của Việt Nam có chiều hướng thúc đẩy dòng thương mại giữa Việt Nam và các

nước TPP. Mối quan hệ này có thể giải thích như tác động từ dịch chuyển đường

cung trong thị trường (nếu chúng ta coi thị trường thế giới là một thị trường chung).

Nếu Việt Nam có khả năng gia tăng sản xuất thì dường như khả năng xuất khẩu ra

nước ngoài cũng tăng theo. Theo kết quả ước lượng của mô hình, GDP của Việt

Nam tăng 1% sẽ đưa đến sự gia tăng 0.77% trong trao đổi thương mại giữa Việt

Nam và các nước TPP.

Kết quả ước lượng mô hình cũng ủng hộ cho lập luận về sự ảnh hưởng tích cực

của việc gia tăng GDP của bạn hàng (ở đây là quốc gia j) đối với dòng thương mại

giữa Việt Nam và các nước TPP. Hệ số hồi quy của GDP đối với mô hình phân tích

là 1.18. Ý nghĩa về mặt thống kê (mức ý nghĩa dưới 1%) cho thấy, đây là nhân tố

giải thích tốt cho dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước TPP. Như vậy, nếu

GDP của nước bạn hàng tăng trưởng 1%, thì thương mại giữa Việt Nam và các

nước TPP tăng khoảng 1.18%. Nói cách khác, các quốc gia có tổng sản phẩm quốc

nội càng cao thì giao thương với Việt Nam càng mạnh. Nguyên nhân của hiện

tượng đáng chú ý này là do những đặc điểm cơ bản của hàng hóa xuất khẩu của

Việt Nam: chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu là hàng thủy sản và tài

nguyên khoáng sản. Với lợi thế so sánh về nguồn lao động dồi dào cùng với bờ biển

dài trên 3000 km, Việt Nam có những điều kiện rất thuận lợi cho việc nuôi trồng,

đánh bắt thủy hải sản chất lượng cao với giá cả cạnh tranh. Bên cạnh đó, những mặt

hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là tài nguyên khoáng sản thiên nhiên như dầu

thô, than… là các sản phẩm xuất khẩu rất hấp dẫn khách hàng nước ngoài.

Hai là, khoảng cách địa lý: Bên cạnh những quốc gia TPP ở châu Á có vị trí

địa lý khá gần Việt Nam, thì các quốc gia còn lại đều cách xa Việt Nam đúng như

tính chất của một hiệp định đa châu lục.

Theo kết quả hồi quy ở bảng 4.15, khoảng cách địa lý có tác động tiêu cực đến

dòng thương mại Việt Nam – các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP, đúng

54

như quan hệ ngược chiều giữa nhân tố khoảng cách và giá trị kim ngạch thương mại

về mặt lý thuyết. Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia ảnh hướng tới cước phí vận

chuyển, rủi ro trong quá trình vận chuyển… Khoảng cách càng gần thì cước phí

càng nhỏ, rủi ro đối với hàng hóa trong vận chuyển càng giảm, như thế càng góp

phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Đó là lý do tại sao các nước hay chú trọng

đến giao lưu thương mại đối với các nước có cùng đường biên giới hay các nước

trong cùng khu vực. Khoảng cách có ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian cũng như

phương thức vận chuyển hàng hóa. Theo kết quả mô hình hồi quy bảng 4.15, hệ số

hồi quy âm và giá trị tuyệt đối lớn (-1.51), có ý nghĩa về mặt thống kê cho thấy mức

độ ảnh hưởng lớn của chi phí vận tải tới dòng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các

nước tham gia hiệp định TPP, 1% tăng lên của khoảng cách địa lý làm giảm 1.51%

kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia tham gia hiệp định TPP và

Việt Nam. Nguyên nhân có thể là do hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là

các mặt hàng thô, sơ chế có giá trị thấp, nhưng cồng kềnh, có khối lượng riêng lớn,

nên chi phí vận chuyển chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong giá hàng. Điều này đã lý

giải vì sao giá trị kim ngạch thương mại hàng hóa của Việt Nam với các quốc gia xa

xôi nhất Peru, Chile lại rất thấp so với tiềm năng thương mại của Việt Nam với

những nước này.

Ba là, ảnh hƣởng của tỷ giá hối đoái: Theo cách phân loại của IMF (năm

2008), trong các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định TPP, chỉ có duy nhất

Brunei theo chế độ tỷ giá neo cứng đồng tiền quốc gia với một đồng tiền mạnh.

Singapore, Malaysia và Peru theo chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý – tỷ giá được xác

định bởi thị trường, không có mức tỷ giá công bố, Ngân hàng Trung ương chủ động

can thiệp để làm mềm sự biến động của tỷ giá. Trong khi đó, có tới một nửa số

nước tham gia đàm phán Hiệp định TTP bao gồm Chile, Hoa Kỳ, Nhật Bản, New

Zealand và Australia theo chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn – tỷ giá được định đoạt

bởi cung-cầu thị trường.

Chính sách tỷ giá ở Việt Nam là neo tỷ giá có điều chỉnh – tỷ giá trung tâm

được điều chỉnh thường xuyên với các bước nhỏ theo các chỉ số chỉ định. Trong giai

55

đoạn 2000-2006, VND neo giữ USD theo cơ chế có điều chỉnh, với mục tiêu kiềm

chế lạm phát, tỷ giá tương đối ổn định chỉ tăng nhẹ qua các năm. Từ năm 2007, sau

khi Việt Nam gia nhập WTO, tỷ giá linh hoạt hơn và thực sự có những đóng góp

tích cực tới dòng thương mại cũng như cán cân thương mại quốc tế.

Kết quả hồi quy cho thấy, khi tỷ giá giữa VND và đồng tiền của một nước TPP

tăng, hay đồng VND giảm giá so với đồng tiền đó, xuất khẩu hàng hóa của Việt

Nam sang nước đó tăng lên. Cụ thể, 1% giảm giá của VND làm tăng 0.115% kim

ngạch thương mại giữa Việt Nam và các nước đối tác. Kết quả này lại một lần nữa

khẳng định cho những lý thuyết kinh tế vĩ mô về việc phá giá đồng nội tệ tác động

thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, kết quả này chỉ đúng trong trường hợp điều kiện bổ sung kèm theo (thường được biết dưới tên gọi điều kiện Marshall-Lerner1) được

đảm bảo.

Bốn là, ảnh hƣởng của các cam kết thƣơng mại song phƣơng và đa

phƣơng: Nếu so với các thành viên trong tổ chức thì Việt Nam là quốc gia có các

hiệp định đầu tư song phương lớn thứ hai (sau Malaysia) với 42 hiệp định. Do mô

hình chỉ giới hạn trong giai đoạn 2000-2012 nên trong bài nghiên cứu này sẽ chỉ

phân tích tác động của BTA Việt-Mỹ và AFTA. Biến giả này được đưa vào mô

hình để đánh giá tác động của việc tham gia các hiệp định thương mại và khu vực

lên kim ngạch thương mại.

Theo kết quả hồi quy bảng 4.15, biến giả BTAijFTAij mang dấu âm hàm ý rằng

việc nước đối tác là thành viên của BTA Việt-Mỹ và AFTA không những không có

tác động tích cực mà có thể có tác động tiêu cực đến kim ngạch thương mại song

phương. Kết quả này cũng phù hợp với những nghiên cứu trước đây khi cho rằng

hiệu quả của việc gia nhập ASEAN đối với Việt Nam là không lớn. Chẳng hạn,

1Theo điều kiện Marshall-Lerner cán cân thương mại được cải thiện khi và chỉ khi tổng giá trị tuyệt đối của độ co dãn theo giá của xuất khẩu và độ co dãn theo giá của nhập khẩu phải lớn hơn 1. Tất nhiên khi tỷ giá danh nghĩa cao hơn tỷ giá cân bằng của thị trường thì trên thị trường tồn tại dư cung ngoại tệ và dư cầu ngoại tệ khi tỷ giá thấp hơn mức tỷ giá cân bằng. Với các nhân tố khác không đổi, khi một quốc gia tiến hành phá giá nội tệ, quốc gia đó kỳ vọng nội tệ giảm giá sẽ cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia đó. Do vậy, điều kiện Marshall-Learner trở thành giả thiết cở bản để các quốc gia tiến hành phá giá nội tệ (Đinh Thị Thanh Long và Đinh Thị Minh Tâm(2013)).

ASEAN tạo ra tác động chệch hướng thương mại nhiều hơn tác động hình thành

56

thương mại. Trong khi đó, nhiều nghiên cứu định tính và định lượng đều kết luận

BTA Việt-Mỹ thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Mỹ. Trong trường hợp

này, rất có thể tác động ngược chiều của AFTA đã lấn át tác động thúc đẩy của

BTA Việt-Mỹ.

57

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

Qua việc kiểm định các phương pháp nghiên cứu pooled OLS, FEM, REM và

FGLS khẳng định rằng phương pháp FGLS là tối ưu để hồi quy mô hình nghiên

cứu. Kết quả hồi quy chứng minh rằng, quy mô kinh tế của Việt Nam và nước bạn

hàng, biến động tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tích cực đến dòng thương mại song

phương giữa Việt Nam và các quốc gia TPP. Ngược lại, khoảng cách địa lý và việc

nước đối tác là thành viên của BTA Việt – Mỹ và AFTA lại tác động tiêu cực. Biến

dân số của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu bị loại khỏi mô hình nghiên cứu vì

không có ý nghĩa thống kê.

58

CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Mục đích chính của bài nghiên cứu là khám phá ra các nhân tố ảnh hưởng đến

mức độ thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định

TPP. Mô hình trọng lực cùng với dữ liệu bảng, các phương pháp pooled OLS, FEM,

REM và FGLS được sử dụng để hồi quy và ước lượng mô hình nghiên cứu giai

đoạn 13 năm từ năm 2000 đến 2012. Tuy nhiên, phương pháp FGLS được chọn để

ước lượng hồi quy nhằm khắc phục một số nhược điểm của các phương pháp

pooled OLS, FEM, REM.

Kết quả hồi quy cho thấy, quy mô kinh tế của Việt Nam và nước bạn hàng, biến

động tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tích cực đến dòng thương mại song phương giữa

Việt Nam và các quốc gia TPP. Ngược lại, khoảng cách địa lý và việc nước đối tác

là thành viên của BTA Việt – Mỹ và AFTA lại tác động tiêu cực.

Quy mô kinh tế giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP có chiều hướng

thúc đẩy mức độ thương mại giữa Việt Nam và các nước đối tác này, cho thấy tăng

trưởng kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ thương mại.

Do đó, các chính sách ổn định, bền vững và môi trường kinh doanh thu hút, năng

động sẽ góp phần làm cho tốc độ tăng trưởng cao. Đây chính là những vấn đề quan

trọng và cần lưu ý đối với các nhà làm chính sách của Việt Nam.

Sự sụt giảm giá đồng nội tệ cũng thúc đẩy kim ngạch thương mại giữa Việt

Nam và các nước đối tác TPP. Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến giá cả hàng

xuất khẩu – nhân tố quan trọng trong việc xác định mức cầu của thị trường. Khi

đồng nội tệ của một quốc gia giảm giá so với các ngoại tệ khác sẽ khiến cho giá cả

của hàng hóa xuất khẩu tính theo ngoại tệ giảm đi, do vậy sẽ làm tăng lượng cầu, từ

đó tăng khối lượng xuất khẩu. Cùng với việc tác động vào nhân tố cầu thì tỷ giá

cũng có tác động khác nhau đến cung hàng xuất khẩu. Ngoài ra, khi tỷ giá thay đổi

khiến doanh thu của doanh nghiệp tăng, chi phí đầu vào giảm thì sẽ thúc đẩy mở

rộng sản xuất, càng tăng cung cho xuất khẩu. Do vậy, Ngân hàng Trung ương Việt

59

Nam nên có những chính sách quản lý sự biến động của tỷ giá hối đối một cách

hiệu quả nhất để đẩy mạnh hơn nữa thương mại giữa Việt Nam vác các nước TPP.

Sự gia nhập và thực hiện các cam kết với ASEAN và là thành viên của BTA

Việt – Mỹ cũng tác động âm đến tăng trưởng thương mại của Việt Nam với các

nước TPP.

Khoảng cách địa lý là một trong những trở ngại lớn đối với xuất nhập khẩu giữa

Việt Nam và các nước TPP, đặc biệt là hàng thô hoặc mới sơ chế. Mặc dù đầu tư

vào cơ sở hạ tầng cho giao thông vận tải và viễn thông trong thời gian qua đã được

chú trọng hơn, tuy nhiên những dự án này chưa hoàn thành và chưa thể phát huy

hiệu quả ngay trong thời gian sắp tới dẫn đến năng lực của hệ thống vận tải và hệ

thống thông tin chưa được cải thiện. Do vậy, trước mắt tập trung vào những thị

trường có khoảng cách địa lý gần với nước ta, đặc biệt là những thị trường ở khu

vực châu Á nhằm giảm bớt các cản trở về khoảng cách địa lý. Về lâu dài, chúng ta

phải phát triển vận tải, cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu, đặc biệt là đối với các mặt

hàng thô và sơ chế. Việc phát triển vận tải quốc tế để phục vụ cho hoạt động xuất

nhập khẩu không những giúp cho việc tăng cường hoạt động xuất khẩu của Việt

Nam tới nhiều nước trên thế giới, khắc phục được những hạn chế về khoảng cách

địa lý mà còn giúp tăng một cách đáng kể ngoại tệ cho nước ta thông qua việc thu

cước phí và giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam giành được lợi thế khi kí kết các

hợp động xuất nhập khẩu. Chúng ta cũng cần có những phương tiện vận tải chuyên

dùng để chuyên chở các mặt hàng nhanh bị hư hỏng như nông sản, giúp cho các

doanh nghiệp Việt nam thuận lợi hơn khi tiến hành xuất khẩu và giảm bớt rủi ro.

Với những kết quả đạt được, nghiên cứu này đã bước đầu cung cấp những nhân

tố quan trọng tác động đến thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước

tham gia đàm phán Hiệp định TPP, đây là một bước khởi đầu cho những nghiên cứu

chi tiết và chính xác hơn trong tương lai khi chúng ta có thêm các kết quả thực

nghiệm của tình hình thực tế. Những kết quả thu được trong luận văn này cũng là

một gợi ý tốt cho các nhà quản lý có thể tham khảo để từ đó đưa ra những chính

sách cho phù hợp.

60

5.2. Một số kiến nghị giải pháp nhằm đẩy mạnh dòng thƣơng mại giữa Việt

Nam và các nƣớc tham gia đàm phán Hiệp định TPP

5.2.1. Nhóm giải pháp do Chính phủ thực hiện

Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, không phân biệt đối

xử giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa doanh nghiệp

nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Từng bước xoá bỏ các biện pháp bảo hộ không

phù hợp với thông lệ quốc tế. Sớm thay thế các biện pháp bảo hộ phi thuế bằng thuế

hạn ngạch và nâng thuế nhập khẩu nhằm vừa đảm bảo tăng thu, vừa tạo điều kiện

cho các ngành thích nghi dần với tình trạng chỉ được bảo hộ duy nhất bằng thuế

nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế.

Khẩn trương ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến các biện pháp hạn

chế những hành vi thương mại quốc tế không lành mạnh và bảo vệ sản xuất trong

nước, như các biện pháp tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp… Đồng

thời, bổ sung một số công cụ thương mại khác ngoài thuế nhập khẩu như thuế tuyệt

đối nhằm hạn chế các gian lận về giá tính thuế và kiểm soát hàng nhập khẩu.

Hỗ trợ tài chính có điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh hiệu quả

và xuất khẩu thông qua việc: Tăng cường và đa dạng hoá các hình thức tín dụng

xuất khẩu, tạo điệu kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp thanh toán xuất nhập

khẩu. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình nghiên cứu, phát triển, tiếp thị

sản phẩm ra các thị trường mới.

Tháo gỡ các vướng mắc và tạo ra nhiều kênh huy động vốn kinh doanh và đầu

tư phát triển cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách hỗ trợ các ngành, lĩnh vực và đối tượng

bị tác động nhiều nhất do những tác động tiêu cực của TPP. Chẳng hạn, đối với

ngành dệt may, cần chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ để giảm nhập nguyên

liệu từ Trung Quốc; với ngành nuôi trồng thủy sản, cần tăng cường năng lực để

nâng cao chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường Mỹ; với

khu vực doanh nghiệp nhà nước, cần có phương án hỗ trợ bảo hiểm, đào tạo nghề

cho người lao động mất việc làm.

61

Phát triển vận tải, cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu, đặc biệt là đối với các mặt

hàng thô và sơ chế. Việc phát triển vận tải quốc tế để phục vụ cho hoạt động xuất

nhập khẩu không những giúp cho việc tăng cường hoạt động xuất khẩu của Việt

Nam tới nhiều nước trên thế giới, khắc phục được những hạn chế về khoảng cách

địa lý mà còn giúp tăng một cách đáng kể ngoại tệ cho nước ta thông qua việc thu

cước phí và giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam giành được lợi thế khi kí kết các

hợp động xuất nhập khẩu. Chúng ta cũng cần có những phương tiện vận tải chuyên

dùng để chuyên chở các mặt hàng nhanh bị hư hỏng như nông sản, giúp cho các

doanh nghiệp Việt nam thuận lợi hơn khi tiến hành xuất khẩu và giảm bớt rủi ro.

Thúc đẩy việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương.

Việc ký kết các Hiệp định khu vực mậu dịch tự do có thể mang đến nhiều lợi thế

cho nước ta trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng như

nhiên liệu, hóa chất, máy móc và phương tiện vận tải. Việc lựa chọn các mặt hàng

trong đàm phán thương mại về lộ trình cắt giảm thuế quan cần phải thật thận trọng,

chọn lựa những mặt hàng có nhiều nhân tố thuận lợi cho xuất khẩu trong đàm phán

để có thể tận dụng tối đa hiệu quả của các hiệp định thương mại tự do.

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần hợp tác hơn nữa với kinh tế khu vực cũng như

kinh tế thế giới. Một mặt cần phát huy hiệu quả của các hiệp định kí kết, một mặt

cần tìm kiếm thêm những cơ hội mới, tăng cường kí kết các hiệp định, mở rộng

quan hệ bạn hàng với nhiều nước trên thế giới và nâng cao hiệu quả thi hành các

hiệp định.

5.2.2. Nhóm giải pháp do Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam thực hiện

Về chính sách tỷ giá hối đoái, sử dụng chính sách tỷ giá kết hợp với những

chính sách khác một cách hiệu quả. Nhìn chung, chính sách tỷ giá của Việt Nam

trong thời gian qua đã có sự điều chỉnh một cách căn bản, linh hoạt. Nhà nước chủ

động điều chỉnh tỷ giá phù hợp với chính sách tiền tệ và mục tiêu phát triển kinh tế

nhưng vẫn dựa trên cơ sở tôn trọng cơ chế thị trường. Căn cứ vào kết quả hồi quy

mô ta thấy, việc tác động của tỷ giá tới dòng thương mại là khá lớn và có tác động

âm, nghĩa là khi tỷ giá giữa VND và đồng tiền của một nước TPP tăng, hay đồng

62

VND giảm giá so với đồng tiền đó, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang nước đó

tăng lên. Cụ thể, 1% giảm giá của VND làm tăng 0.115% kim ngạch thương mại

giữa Việt Nam và các nước đối tác. Như vậy, nhìn chung Việt Nam nên phá giá tiền

đồng. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách phá giá tiền tệ này cũng để lại những tác

động tiêu cực khác như lạm phát tăng cao cũng như gặp phải phản ứng của các

nước khác. Vì thế, chúng ta cần áp dụng chính sách tỷ giá một cách linh hoạt căn cứ

vào tình hình kinh tế cũng như mục tiêu phát triển kinh tế từng giai đoạn.

Ngoài ra, giải pháp neo đồng tiền vào một rổ tiền tệ cần được chú trọng. Điều

này giúp cho Việt Nam có những lợi ích sau:

- Đánh giá chính xác hơn sức mua của tiền đồng và tác động của nó đối với

khả năng cạnh tranh xuất nhập khẩu hàng hóa với các đối tác thương mại trong

khối.

- Giảm bớt sự lệ thuộc vào một loại ngoại tệ mạnh như USD, khi neo tiền

đồng vào một rổ ngoại tệ có hạn chế rủi ro về tỷ giá tốt hơn là biện pháp neo vào

một loại ngoại tệ duy nhất.

Ngân hàng Nhà nước khuyến khích các nhà xuất, nhập khẩu có thể lựa chọn các

loại tiền thanh toán khác trong rổ tiền (EURO, Yên Nhật, Bảng Anh…). Điều này

nhằm tránh việc khan hiếm quá mức khi lựa chọn một loại ngoại tệ duy nhất là USD

như hiện nay (thông thường là vào cuối năm, khi các doanh nghiệp cần ngoại tệ để

chi trả cho hoạt động kinh doanh của mình). Từ đó giúp các doanh nghiệp chủ động

hơn trong thanh toán quốc tế.

5.2.3. Nhóm giải pháp do Bộ Công Thƣơng thực hiện

Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tới các nước TPP chủ yếu bao gồm: sản

phẩm dệt may, giày dép, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, hàng thủy sản, dầu thô, cà phê,

gạo, hạt điều, cao su, điện thoại các loại và linh kiện, sản phẩm điện tử và linh kiện.

Tuy nhiên, những mặt hàng này vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh

tranh nên yêu cầu đặt ra là phải đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.

Ngoài ra, chú trọng tập trung vào các mặt hàng chủ lực có chất lượng, thương

hiệu nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh bền vững. Tuy nhiên, điều này cần có sự nổ

63

lực của bản thân doanh nghiệp và sự hỗ trợ của chính phủ trong việc hoạch định

tầm nhìn chiến lược với chính sách hợp lý như: giảm lãi suất huy động cho vay của

ngân hàng, bình ổn tỷ giá…

Về việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do, tính đến nay với các nước TPP,

Việt Nam đã ký kết các FTA với Brunei, Singapore, Malaysia (trong khuôn khổ

AFTA), với Ustralia và New Zealand (trong khuôn khổ khu vực thương mại tự do

ASEAN - Ustralia và New Zealand được thiết lập bởi FTA và quan hệ kinh tế thân

thiện toàn diện ASEAN - Ustralia và New Zealand), với Nhật Bản (trong khuôn khổ

Khu vực thương mại tự do ASEAN - Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác

Kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản AJCEP). Ngoài việc ký kết và tham gia các

FTA với tư cách là thành viên khối ASEAN thì FTA đầu tiên mà Việt Nam ký kết

với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản

(VJEPA năm 2008). Tiếp đó là FTA Việt Nam – Chile (năm 2011).

Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu

vực (RCEP bao gồm ASEAN, Australia, China, India, Japan, New Zealand, South

Korea) và Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu (EU).

Trong các FTA khu vực, Việt Nam cam kết mức độ tự do hóa thương mại cũng

như cắt giảm thuế theo lộ trình nên khi TPP được ký kết thì hiện trạng thương mại

giữa Việt Nam với các nước này cũng sẽ không thay đổi đáng kể. Riêng với Hoa Kỳ

– đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam (đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu) thì

Việt Nam lại chưa ký kết FTA, do vậy cần lưu ý hơn đến các nội dung cam kết về

cắt giảm thuế quan, bãi bỏ các điều kiện đối với đầu tư dịch vụ để hàng hóa, dịch vụ

của Việt Nam sẽ được ưu tiên hơn khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, cũng như thị

trường các nước đối tác khác.

5.2.4. Nhóm giải pháp do các doanh nghiệp thực hiện

Nguồn lao động có kĩ thuật cần được tái đào tạo để tham gia vào quá trình

phát triển toàn diện các ngành hàng của Việt Nam. Ngoài ra, để hưởng lợi ích từ

việc tham gia hiệp định TPP, các doanh nghiệp cần tăng cường tham gia các hội chợ

chuyên ngành quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng tính cạnh tranh, tìm

64

hiểu kỹ về các quy định trong xuất nhập khẩu của các nước thành viên TPP, đồng

thời nâng cao bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm.

Có thể khẳng định, tính thích nghi và tinh thần doanh nghiệp, khả năng đương

đầu thách thức là thế mạnh của Việt Nam và cũng chính là những gì cần thiết để có

thể tận dụng tốt nhất những cơ hội hiệp định TPP mang lại cũng như vượt qua thách

thức cạnh tranh. Trước tiên nên mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, tăng xuất khẩu

từ Việt Nam, đặc biệt sang thị trường Hoa Kỳ. Tăng đầu tư từ Hoa Kỳ và các nước

khác vào Việt Nam và hỗ trợ phát huy tốt hơn những cơ hội do quá trình tái cơ cấu

mang lại. Tận dụng xu hướng hội nhập kinh tế trong khu vực để nâng cao vị thế của

Việt Nam trên trường quốc tế và mở rộng quan hệ với các đối tác thiết yếu. Đồng

thời, việc thực hiện những chính sách trong nước kêu gọi đầu tư vào các ngành này,

với cả đối tác trong nước và nước ngoài, cần quan tâm đến trình độ công nghệ, môi

trường cho dự án đầu tư mới. Bảo đảm dự án đầu tư mới phải sử dụng công nghệ

tốt, bền vững, lâu dài… Đây là con đường mà doanh nghiệp phải nỗ lực đi qua

trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu ngày càng sâu rộng. Sự đòi hỏi minh

bạch về nguồn gốc, chất lượng sản phẩm, quyền sở hữu trí tuệ, hay công bằng trong

sử dụng lao động… là tất yếu.

Thực tế trên nhiều lĩnh vực hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam không thể

cạnh tranh được với doanh nghiệp nước ngoài, do họ có bề dầy kinh nghiệm, tiềm

lực tài chính, thương hiệu, uy tín… Do đó, doanh nghiệp Việt Nam thay vì đối đầu

trực tiếp trên các thị trường lớn thì hãy chọn các thị trường ngách, thị trường nhỏ

với chiến lược “đại dương xanh” – khai phá mảng thị trường có thể nhỏ hẹp nhưng

mới và ít đối thủ cạnh tranh. Ngay trong mảng mua sắm công, thay vì tham gia đấu

thầu trực tiếp những hợp đồng lớn, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể lựa

chọn trở thành nhà thầu phụ. Điều này phù hợp với tiềm lực và khả năng của doanh

nghiệp Việt Nam hơn.

Những quy định về môi trường, lao động hay bảo hộ sở hữu trí tuệ là xu hướng

phát triển tất yếu của môi trường kinh doanh lành mạnh, văn mình. Dù muốn hay

không thì doanh nghiệp cũng phải chấp nhận xu hướng này. Do đó, thay vì cố tình

65

trì hoãn, đi theo lối kinh doanh cũ, doanh nghiệp Việt Nam từng bước cải cách hoạt

động của doanh nghiệp mình cho phù hợp với xu thế của thời đại.

TPP khi được ký kết sẽ gây ra những tác động trực tiếp đến hoạt động của

doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải lên tiếng, thông qua các hiệp hội hay

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vì quyền lợi của doanh nghiệp mình,

kiến nghị với Chính phủ để đàm phán những điều kiện có lợi cho các doanh nghiệp

nội địa.

5.3. Hạn chế của nghiên cứu và hƣớng nghiên cứu tiếp theo

Tuy có những ý nghĩa nhất định nhưng bài nghiên cứu vẫn không thể tránh khỏi

những hạn chế:

Thứ nhất, sự thay đổi các chính sách thương mại hay việc Việt Nam gia nhập

WTO vẫn chưa được giới thiệu trong các biến giải thích.

Thứ hai, thời gian nghiên cứu vẫn chưa đủ dài khi so sánh với các nghiên cứu

trên thế giới do khó khăn về mặt số liệu khi tác giả thu thập.

Thứ ba, do hạn chế về thời gian và số liệu nên tác giả chưa bổ sung được các

nhân tố khác vào mô hình (hiện tại R chỉ ở mức 76%). Điều đó cho thấy, vẫn còn có

những nhân tố khác ảnh hưởng nhất định đến thương mại giữa Việt Nam với các

bước TPP. Trong đó, những nhân tố này ảnh hưởng tới 24% sự biến động của kim

ngạch thương mại. Do hạn chế về số liệu nên tác giả không thể bổ sung thêm các

biến độc lập khác vào mô hình để tăng thêm R.

Do đó, với những hạn chế trên, các nghiên cứu sau có thể tăng thời gian nghiên

cứu và đưa những biến khác vào mô hình nghiên cứu để rút ra những nhân tố giải

thích tốt hơn thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước tham gia đàm

phán Hiệp định TPP.

66

KẾT LUẬN CHƢƠNG 5

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề ra bốn nhóm giải pháp để thúc đẩy xuất

khẩu, nhập khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập TPP như

sau:

Nhóm giải pháp do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện nhằm điều chỉnh

chính sách tỷ giá một cách linh hoạt căn cứ vào tình hình kinh tế cũng như mục tiêu

phát triển kinh tế từng giai đoạn.

Nhóm giải pháp do Bộ Công Thương thực hiện nhằm đa dạng hóa sản phẩm

xuất khẩu, tập trung vào các mặt hàng chủ lực có chất lượng, thương hiệu nhằm tạo

ra năng lực cạnh tranh bền vững.

Nhóm giải pháp do Chính phủ thực hiện nhằm giải quyết kiến nghị của các

Doanh nghiệp với các cơ quan có thẩm quyền trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu khi TPP được kí kết.

Nhóm giải pháp với doanh nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt

động xuất, nhập khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thực hiện đồng bộ bốn nhóm giải pháp trên sẽ đẩy mạnh dòng thương mại giữa

Việt Nam và các nước tham gia đàm phán TPP một khi TPP được kí kết.

67

KẾT LUẬN CHUNG

Gia nhập Hiệp định kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là vấn đề

mới mẻ, lần đầu tiên được đề cập tại Việt Nam nên hiện có nhiều cái nhìn với

những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam đã bước vào sân chơi chung toàn

cầu, không có con đường nào khác là tiếp tục hội nhập sâu rộng để tăng tốc phát

triển. Sức ép hội nhập buộc Việt Nam phải thay đổi và vươn lên.

Bài nghiên cứu cũng đã khắc họa mức độ tác động của các nhân tố chính tác

động đến dòng thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP. Từ đó, kiến

nghị với các cơ quan hữu năng cũng như đề nghị một số giải pháp cho doanh nghiệp

Việt Nam nắm bắt cơ hội và hạn chế những khó khăn nhằm nâng cao giá trị sản

phẩm và thúc đẩy cạnh tranh sản phẩm xuất, nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập TPP.

Có thể thấy, việc xuất hiện TPP là một tất yếu khi có rất nhiều vấn đề mà các

FTA hiện tại chưa giải quyết được. Với riêng doanh nghiệp Việt Nam, cơ hội có

nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ và nếu không nỗ lực hết mình thì rất có thể

doanh nghiệp Việt Nam sẽ thua ngay khi TPP bắt đầu có hiệu lực. Điều này đòi hỏi

sự đầu tư công sức của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và bản

thân mỗi doanh nghiệp để tìm được hướng đi phù hợp nhất cho doanh nghiệp của

mình. Hy vọng rằng, khi TPP được ký kết và có hiệu lực, những lợi ích mà doanh

nghiệp Việt Nam thu được sẽ lớn hơn những trở ngại mà các doanh nghiệp này gặp

phải.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu tiếng Việt:

1. Đào Ngọc Tiến, 2013. Ảnh hưởng của các nhân tố tới luồng xuất – nhập khẩu

hàng hóa giữa Việt Nam và các nước TPP. Kinh tế và Dự báo, số 4, trang 23-27.

2. Đinh Thị Thanh Long và Đinh Thị Minh Tâm, 2009. Phá giá nội tệ: hiệu ứng

tuyến J hay tuyến S? Tạp chí ngân hàng, số 24.

3. Đinh Thị Thanh Long và Đinh Thị Minh Tâm, 2010. Phá giá nội tệ: hiệu ứng

tuyến J hay tuyến S? Tạp chí ngân hàng, số 1.

4. Nguyên Tiến Dũng, 2011. Tác động của Khu vực Thương mại Tự do ASEAN –

Hàn Quốc đến thương mại Việt Nam. Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh

doanh, số 27, trang 219-231 [pdf] website:

20Nguyen%20Tien%20Dung.pdf> [Ngày truy cập: 18 tháng 2 năm 2014].

5. Trần Hữu Dũng, 2008. Paul Krugman, Noben Kinh tế 2008. Tạp chí Tia Sáng, số

11, trang 24-27 [online] website:

[Ngày truy cập: 19 tháng 2 năm 2014].

6. Trần Trung Hiếu và Phạm Thị Thu Thủy, 2010. Ứng dụng mô hình lực hấp dẫn

trong thương mại quốc tế: Các nhân tố tác động đến xuất khẩu của Việt Nam. Quản

lý kinh tế, Số 31, trang 12-25.

7. Trung tâm Hỗ trợ hội nhập WTO thành phố Hồ Chí Minh, 2013. Cơ hội và thách

thức của doanh nghiệp khi Việt Nam tham gia Hiệp định TPP.

content/uploads/2013/07/TPP-Opportunities-and-challenges-for-Vietnamese-

Enterprises_VN.pdf>. [Ngày truy cập: 17 tháng 2 năm 2014].

8. Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng, 2008. Các nhân tố ảnh hưởng tới mức độ

tập trung thương mại của Việt Nam với Asean+3, bài nghiên cứu NC-05/2008.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách CEPR [pdf] website:

[Ngày truy cập: 21 tháng

2 năm 2014].

Danh mục tài liệu tiếng Anh:

1. Adams, R., Dee, P., Gali, J., and Mc Guire, G., 2003. The Trade and Investment

Effects of Preferential Trading Arrangements - Old and New Evidence. Canberra:

Productivity Commission Staff Working Paper.

2. Anderson, J. E., 1979. A theoretical foundation for the gravity equation. The

American Economic Review, Vol.69, No.1, page 106-116.

3. Bac Xuan Nguyen, 2010. The Determinants of Vietnamese Export Flows: Static

and Dynamic Panel Gravity Approaches. International Journal of Economics and

Finance, Vol.2, No.4, page 122-129. 4. Baltagi, B. H., 2005. Econometric analysis of panel data. 3rd ed. West Sussex:

John Wiley & Sons.

5. Batra, A., 2006. India’s global trade potential: the gravity model approach.

Global Economic Review, Vol.35, No.3, page 327-361.

6. Bergstrand, J. H., 1985. The gravity equation in international trade: some

microeconomics foundations and empirical evidence. The Review of Economics and

Statistics, Vol.67, No.3, page 474-481.

7. Bergstrand, J. H., 1989. The generalized gravity equation, monopolistic

competition, and the factor-proportions theory in international trade. The American

Economic Review, Vol.71, No.1, page 143-153.

8. Blomqvist, H. C., 2004. Explaining trade flows of Singapore. Asian Economic

Journal, Vol. 18, No. 1, page 25-43.

9. Boisso, D., and Ferrantino, M., 1997. Economic distance, cultural distance, and

openness in international trade: Empirical puzzles. Journal of Economic

Integration, Center for Economic Integration, Sejong University, Vol.12, page 456-

484.

10. Carrere, C., 2006. Revisiting the effects of regional trade agreements on trade

flows with proper specification of the gravity model. European Economic Review,

Elsevier, vol. 50, No.2, page 223-247.

11. Chan-Hyun Sohn, 2005. Does the gravity model explain South Korea’s trade

flows? Japanese Economic Review, Issue 4, Vol.56, page 417-430.

12. Chan-Hyun Sohn and Lee Hongshik, 2006. How FTAs affect income levels of

member countries. World Economy, Vol.29, paper 1737-1757.

13. Chaney, T., 2013. The gravity equation in international trade: an explanation.

NBER Working Paper, No.19285. Cambridge, MA: National Bureau of Economic

Research.

14. Clark, X., and Tavares, J., 2000. A quantitative approach using the gravity

equation. Development Discussion Paper, Harvard Institute for International

Development, No.748. Harvard University, February 2000.

15. Dao Ngoc Tien, 2009. Determinants to Vietnam’s export flows and government

implications under the global crisis. PhD dissertation. Foreign trade University.

16. Dell’Ariccia, G., 1999. Exchange rate fluctuations and trade flows: Evidence

from the European Union. IMF Staff Papers, Vol.46, No.3, paper 315-334.

17. Eaton, J., and Kortum, S., 1997. Technology and Bilateral Trade. NBER

Working Paper, No.6253. Cambridge, MA: National Bureau of Economic

Research.

18. Egger, P., 2000. A note on the proper econometric specification of the gravity

equation. Economics Letters, Vol.66, No.1, paper 25-31.

19. Egger, P., 2005. Alternative techniques for estimation of cross-section gravity

models. Review of international economics, Vol.13, No.5, page 881-891.

20. Flam, H., and Flanders, M. J., 2000. The young Ohlin on the theory of

“Interregional and International Trade”. Seminar Papers, Institute for International

Economic Studies, No.684. Stockholm University, 1 May 2000.

21. Frankel, J., 1997. Regional Trading Blocs in the World Economic System.

Washington DC: Institute for International Economics.

22. Hassan, M. K., 2000. Trade relations with SAARC countries and trade policies

of Bangladesh. Journal of Economic Cooperation, Vol.21, No.3, page 99-151.

23. Hassan, M. K., 2001. Is SAARC a Viable Economic Block? Evidence from

Gravity Model. Journal of Asian Economics, No.12, page 263-290.

24. Hausman, J. A., and Taylor, W. E., 1981. Panel data and unobservable

individual effects. Econometrica, Vol.49, No.6, paper 1377-1398.

25. Helpman, E., and Krugman P. R., 1987. Market structure and foreign trade:

Increasing return, imperfect competition, and international economy. London: MIT

Press.

26. Jakab, Z. M., et al., 2001. How far has trade integration advanced?: An analysis

of the actual and potential trade of three Central and Eastern European Countries.

Journal of Comparative Economics, Vol.29, page 276-292.

27. Karemera, D., et al., 1999. A gravity model analysis of the benefits of economic

integration in the Pacific Rim. Journal of Economic Integration, Vol.14, No.3, page

347-367.

28. Linnemann, H., 1966. An Econometric Study of International Trade Flows.

Amsterdam: North Holland Publishing Company (1966).

29. Martínez-Zarzoso, I., and Nowak-Lehmann, F., 2003. Augmented gravity

model: An empirical application to Mercosur-European Union trade flows. Journal

of Applied Economics, Vol.6, No.2, page 291-316.

30. Martínez-Zarzoso, I., and Nowak-Lehmann, D. F., 2004. Mercosur-European

Union trade: How important is EU trade liberalisation for Mercosur's exports?.

Center for European, Governance and Economic Development Research

Discussion Papers 30. Göttingen: University of Göttingen, Department of

Economics.

31. Mayer, T., and Zignago S., 2005. Market Access in Global and Regional Trade.

CEPII Working Paper 2005-02.

32. McCallum, J., 1995. National borders matter: Canada-U.S. regional trade

patterns. The American Economic Review, Vol.85, No.3, page 615-623.

33. McPherson, M. Q., and Trumbull, W. N., 2008. Rescuing observed fixed

effects: Using the Hausman-Taylor Method for out-of-sample trade projections. The

International Trade Journal, Vol.22, No.3, page 315-340.

34. Nguyen Khanh Doanh, 2009. AFTA and Trade Diversion: An Empirical Study

for Vietnam and Singapore. International Area Review, Vol.12, No.1, page 163-

192.

35. Nguyen Thanh Thuy and Arcand, J. L., 2009. Gravity equation for different

product groups: A study at product level. Development and Policy Research Center

(DEPOCEN), No.2009/18 [pdf] Available at:

20for%20Different%20Product%20Groups_DEPOCENWP.pdf> [Accessed 19

February 2014].

36. Nguyen Tien Trung, 2002. Vietnam’s trade liberalization in the context of

ASEAN and AFTA. CAS Discussion paper, No.36, [pdf] Available at:

[Accessed 18 February 2014].

37. Paas, T., 2000. Gravity approach for modeling trade flows between Estonia and

the main trading partners. Tartu University Press, No.721 [pdf] Available at:

[Accessed 19 February 2014].

38. Portugal-Perez, A., and Wilson, J. S., 2009. Why trade facilitation matters to

Africa. World Trade Review, Vol.8, No.3, paper 379–416.

39. Rahman, M. M., 2003. A panel data analysis of Bangladesh’s trade: the gravity

model approach. University of Sydney [online] Available at:

[Accessed 19 February

2014].

40. Rahman, M. M., 2009. Australia's global trade potential: evidence from the

gravity model analysis. 2009 Oxford Business & Economics Conference Program.

Oxford, 24-26 June 2009.

41. Ricardo, D., 1821. On the principles of political economy and taxation. Ontario:

Batoche Books. [e-book] Available at:

b[Accesse

d 19 February 2014].

42. Rose, A. K., 1999. One money, one market: The effect of common currencies

on trade. Seminar Papers, Institute for International Economic Studies, No.678.

Stockholm University, 11 September 1999.

43. Sandberg, H. M., 2004. The impact of historical and regional linkages on free

trade in The Americas: A gravity model analysis across sectors. American

Agricultural Economics Association Annual Meeting. American Agricultural

Economics Association, Denver, Colorado, 1-4 August 2004.

44. Sharma, S. C., and Chua, S.Y., 2000. ASEAN: Economic integration and intra-

regional trade. Applied Economics Letters, Vol.7, No.3, page 165-169.

45. Smith, A., 2000. The wealth of nations. New York: Modern Library. [e-book]

Available at:

20&linkCode=as2&camp=1789&creative=9325&creativeASIN=0679783369&Sub

scriptionId=1MGPYB6YW3HWK55XCGG2> [Accessed 19 February 2014].

46. Sohn Chan-Hyun and Lee Hongshik (2006). How FTAs affect income levels of

member countries, World Economy, vol. 29, pp.1737-1757. 37.

47. Soloaga, I., and Winters, L. A., 2001. Regionalism in the nineties: What effect

on trade?. North American Journal of Economics and Finance, Vol.12, No.1, paper

1-29.

48. Tang, D., 2003. The effect of European integration on trade with the APEC

countries: 1981–2000. Journal of Economics and Finance, Vol.27, No.2, paper 262-

278.

49. Thai Do Tri, 2006. A gravity model for trade between Vietnam and twenty-three

European countries. PhD thesis. Dalarna University.

50. Thomas Chaney, 2013. The Gravity Equation in International Trade An

Explanation. CEPR Discussion Papers, No. 9613.

51. Tinbergen, J., 1962. Shaping the World Economy. New York: The 20th Century

Fund.

52. Thursby, J. G., and Thursby, M., C., 1987. Bilateral trade flows, the linder

hypothesis, and exchange risk. The Review of Economics and Statistics, Vol.66,

No.3, page 488-495.

53. Verbeek, M. J. C. M., 2012. A Guide to Modern Econometrics, 3th edition.

Great Britain: Antony Rowe Ltd. [e-book] Available at:

pg=PR13&dq=a+guide+to+modern+economics+verbeek&ots=8hMtIhxFs7&sig=x

2TnD8jOCthQZcOGdRAWZjjq4Jo&redir_esc=y#v=onepage&q=a%20guide%20to

%20modern%20economics%20verbeek&f=false> [Accessed 26 February 2014].

54. Vo Tri Thanh and Nguyen Anh Duong, 2011. Revisiting exports and foreign

direct investment in Vietnam. Asian Economic Policy Review, Vol.6, No.1, page

112-131.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Cán cân thƣơng mại giữa Việt Nam và các nƣớc TPP giai đoạn

2000-2012.

Đơn vị: USD

Năm Nhập khẩu Xuất khẩu Cán cân thƣơng mại

2000 6,155,411,000 6,033,706,000 (121,705,000)

2001 6,030,253,558 6,180,663,501 150,409,943

1,147,060,941 2002 6,613,039,176

1,612,267,167 2003 8,425,147,421

2,763,038,805 2004 10,278,974,514

4,959,566,105 2005 11,618,229,950

5,421,058,651 2006 15,085,215,973

5,188,523,004 2007 19,650,712,157

5,708,625,807 2008 25,067,517,243

5,911,046,037 2009 19,306,860,126

7,506,565,465 2010 22,974,681,630

8,862,310,156 2011 28,722,420,368

7,760,100,117 10,037,414,588 13,042,013,319 16,577,796,055 20,506,274,624 24,839,235,161 30,776,143,050 25,217,906,163 30,481,247,095 37,584,730,524 45,215,247,795 2012 29,834,743,052 15,380,504,743

Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp theo dữ liệu từ “Cơ sở dữ liệu thƣơng mại của Liên Hiệp Quốc

(UN Comtrade database)”.

Phụ lục 2. Thống kê mô tả dữ liệu bảng

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phụ lục 3. Kết quả ƣớc lƣợng pooled OLS

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phụ lục 4. Kết quả ƣớc lƣợng FEM

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phụ lục 5. Kết quả ƣớc lƣợng REM

(Trước khi xử lý vấn đề tương quan chuỗi và phương sai của sai số thay đổi)

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phục lục 6. Kiểm định Wald test 1

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phục lục 7. Kiểm định Wald test 2 cho mô hình phân tích cuối

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phụ lục 8. Kết quả ƣớc lƣợng theo phƣơng pháp FGLS

(Sau khi loại bỏ được phương sai sai số thay đổi và khắc phục được hiện tượng

tương qua chuỗi, đồng thời loại ba biến giải thích không có ý nghĩa thống kê).

Nguồn: tác giả tổng hợp từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm STATA 11.

Phụ lục 9. Bảng dữ liệu của các biến

Country Year Tij (USD) IMP (USD)

Australia EXP (USD) 1,272,476,000 293,481,000 2000

Australia 266,431,826 2001

Australia 286,274,331 2002

Australia 277,991,941 2003

Australia 458,793,923 2004

Australia 2005

Australia 2006

Australia 2007

Australia 2008

Australia 2009

Australia 2010

Australia 2011

Australia 1,565,957,000 1,308,228,526 1,614,606,936 1,698,855,329 2,343,532,200 3,221,126,480 4,788,611,933 4,861,589,061 5,709,476,853 3,436,127,005 4,147,645,520 4,725,248,015 4,980,915,700 498,534,524 1,099,685,218 1,059,376,364 1,357,897,007 1,050,034,538 1,443,641,980 2,123,282,786 1,772,182,847 1,041,796,700 1,328,332,605 1,420,863,388 1,884,738,277 2,722,591,956 3,688,926,715 3,802,212,697 4,351,579,846 2,386,092,467 2,704,003,540 2,601,965,229 3,208,732,853 2012

Brunei Darussalam 2000 2,075,000 4,457,000 767,000

Brunei Darussalam 2001 1,489,580 9,628,982 1,671,532

Brunei Darussalam 2002 1,444,146 3,510,712 1,242,716

Brunei Darussalam 2003 594,387 11,218,505 2,486,922

Brunei Darussalam 2004 1,215,757 17,012,015 6,065,796

Brunei Darussalam 2005 599,236 31,921,216 8,125,371

Brunei Darussalam 2006 4,084,180 39,013,260 12,580,692

Brunei Darussalam 2007 0 47,984,846 16,470,866

Brunei Darussalam 2008 5,989,387 71,119,457 35,696,945

Brunei Darussalam 2009 77,778,869 25,597,582

Brunei Darussalam 2010 68,959,200 38,335,748 7,689,675 24,241,535

Brunei Darussalam 2011 204,540,301 89,879,659 76,249,728

Brunei Darussalam 2012 627,421,537 96,594,859 100,591,952

Canada 2000 136,327,000 37,629,000 98,698,000

Canada 2001 164,128,268 56,812,663 107,315,605

Canada 2002 201,784,329 63,662,755 138,121,574

Canada 2003 247,840,405 76,566,252 171,274,153

Canada 2004 366,866,470 96,769,538 270,096,932

Canada 2005 529,575,169 173,554,815 356,020,354

Canada 2006 619,152,125 178,628,160 440,523,965

Canada 2007 826,374,126 287,196,284 539,177,842

Canada 2008 954,227,598 297,843,929 656,383,669

Canada 2009 300,218,619 638,506,285

Canada 2010 349,315,420 802,057,710

Canada 2011 342,136,483

Canada 2012 938,724,904 1,151,373,130 1,311,545,070 1,612,250,490 455,738,435 969,408,587 1,156,512,055

Chile 2000 14,275,000 3,619,000 10,656,000

Chile 2001 12,331,036 3,082,793 9,248,243

2002 19,568,792 9,143,502 10,425,290 Chile

2003 30,242,676 19,912,016 10,330,660 Chile

2004 65,637,503 43,501,760 22,135,743 Chile

2005 108,430,399 77,548,170 30,882,229 Chile

2006 150,791,600 104,713,550 46,078,050 Chile

2007 156,755,581 110,051,110 46,704,471 Chile

2008 173,282,440 104,390,362 68,892,078 Chile

2009 257,709,435 147,189,297 110,520,138 Chile

2010 385,329,780 291,230,530 94,099,250 Chile

2011 473,263,563 335,728,266 137,535,297 Chile

2012 Chile

2000 Japan

2001 Japan

2002 Japan

2003 Japan

2004 Japan

2005 Japan

2006 Japan

2007 Japan

2008 538,792,512 24,666,578,705 16,708,057,117 13,803,693,682 16,743,745,664 21,492,379,033 7,094,723,276 8,414,389,069 9,942,206,788 12,278,885,116 370,143,691 2,300,947,000 2,183,079,596 2,504,651,570 2,982,059,097 3,552,593,147 4,074,117,148 4,702,120,186 6,188,906,804 8,240,307,447 168,648,821 2,575,201,000 2,509,800,067 2,436,957,891 2,908,599,723 3,542,130,129 4,340,271,921 5,240,086,602 6,089,978,312 8,467,749,670 Japan

2009 4,876,148,000 7,468,091,543 6,335,602,139 Japan

Japan 2010

Japan 2011

Japan 2012 9,016,086,090 10,400,665,863 11,602,055,201 7,727,659,574 11,091,713,170 13,064,523,504

Malaysia 2000 388,935,000 413,861,000

Malaysia 2001 464,387,393 337,224,484

Malaysia 2002 683,313,137 347,750,791

Malaysia 2003 453,839,241

Malaysia 2004

Malaysia 2005

Malaysia 2006

Malaysia 2007

Malaysia 4,692,879,663 4,941,609,461 5,890,658,820 7,912,313,947 4,626,454,843 4,279,892,095 5,506,510,851 6,690,527,807 1,839,650,250 2,284,792,206 2,698,628,862 3,844,886,101 2008

Malaysia 2009 802,796,000

Malaysia 2010

Malaysia 2011

Malaysia 2012 801,611,877 1,031,063,928 1,378,820,428 924,981,187 1,215,329,788 1,256,459,181 1,482,039,260 2,289,912,087 2,596,052,418 2,504,734,791 3,413,392,950 3,919,719,822 3,412,029,833 624,320,462 1,028,333,025 1,216,589,602 1,554,974,014 2,030,402,425 1,775,157,304 2,093,117,901 2,770,807,985 4,500,284,114

Mexico 2000 794,602,174 2,462,000 24,224,000

Mexico 2001 498,057,507 5,725,817 44,016,367

Mexico 2002 522,674,807 6,477,597 60,484,580

Mexico 2003 577,977,299 11,163,183 78,292,883

Mexico 2004 681,095,273 12,976,864 127,743,399

Mexico 2005 140,720,263 7,934,240 191,535,105

Mexico 2006 199,469,345 18,612,619 285,516,776

Mexico 2007 304,129,395 58,731,577 360,380,726

Mexico 2008 419,112,303 61,615,613 436,441,894

Mexico 2009 26,686,000 163,585,107 359,089,700

Mexico 2010 49,742,184 89,148,080 488,829,219

Mexico 2011 66,962,177 91,346,056 589,749,217

Mexico 2012 89,456,066 111,831,767 682,770,407

New Zealand 2000 79,473,000 61,287,000 18,186,000

New Zealand 2001 160,351,037 141,858,910 18,492,127

New Zealand 2002 81,561,297 60,375,020 21,186,277

New Zealand 2003 115,069,606 90,097,028 24,972,578

New Zealand 2004 156,081,003 109,227,681 46,853,322

New Zealand 2005 166,169,515 118,675,651 47,493,864

New Zealand 2006 213,870,095 159,735,778 54,134,317

New Zealand 2007 313,409,682 246,358,262 67,051,420

New Zealand 2008 313,823,041 237,181,274 76,641,767

New Zealand 2009 320,166,966 249,662,883 70,504,083

New Zealand 2010 475,612,245 352,967,540 122,644,705

New Zealand 2011 535,323,493 383,946,104 151,377,389

New Zealand 2012 568,839,349 384,858,257 183,981,092

2000 5,224,000 4,457,000 767,000 Peru

2001 11,300,514 9,628,982 1,671,532 Peru

2002 4,753,428 3,510,712 1,242,716 Peru

2003 13,705,427 11,218,505 2,486,922 Peru

2004 23,077,811 17,012,015 6,065,796 Peru

2005 40,046,587 31,921,216 8,125,371 Peru

2006 51,593,952 39,013,260 12,580,692 Peru

2007 64,455,712 47,984,846 16,470,866 Peru

2008 106,816,402 71,119,457 35,696,945 Peru

2009 103,376,451 77,778,869 25,597,582 Peru

2010 107,294,948 68,959,200 38,335,748 Peru

2011 166,129,387 89,879,659 76,249,728 Peru

2012 100,591,952 Peru

2000 Singapore

2001 885,916,000 1,043,734,102 Singapore

2002 Singapore

2003 Singapore

2004 Singapore

2005 Singapore

2006 197,186,811 3,580,167,000 3,522,011,595 3,494,611,161 3,900,534,150 5,103,632,685 6,399,278,149 7,932,708,087 96,594,859 2,694,251,000 2,478,277,493 2,533,485,110 2,875,825,164 3,618,375,348 4,482,305,115 6,273,866,336 961,126,051 1,024,708,986 1,485,257,337 1,916,973,034 1,658,841,751 Singapore

2007 9,848,132,137 7,613,745,717 2,234,386,420 Singapore

2008 Singapore

2009 Singapore

2010 Singapore

2011 Singapore

2012 9,377,975,426 4,248,355,912 4,101,145,110 6,390,575,285 6,690,983,605 2,713,824,006 2,075,621,161 2,121,313,598 2,149,252,194 2,367,682,539 Singapore

2000 363,886,000 United States

2001 411,339,103 United States

2002 United States

2003 United States

2004 458,634,730 1,144,114,543 1,137,382,435 United States

2005 865,258,674 United States

2006 United States

2007 United States

2008 United States

2009 United States

2010 United States

2011 United States

12,091,799,432 6,323,977,073 6,222,458,708 8,539,827,479 9,058,666,144 1,096,840,000 1,477,031,845 2,911,864,356 5,083,673,675 6,163,988,561 6,792,702,499 8,838,203,808 11,811,891,787 14,554,848,658 14,435,047,420 18,030,685,632 21,525,682,385 24,522,658,204 2012 987,788,346 1,700,464,260 2,652,014,853 3,019,429,698 3,779,835,530 4,555,260,385 4,841,729,698 732,954,000 1,065,692,742 2,453,229,626 3,939,559,132 5,026,606,126 5,927,443,825 7,850,415,462 10,111,427,527 11,902,833,805 11,415,617,722 14,250,850,102 16,970,422,000 19,680,928,506 United States

Phụ lục 9 (tiếp theo). Bảng dữ liệu của các biến

Country Year Dij (Km)

Australia 2000 7,740

Australia 2001 7,740

Australia 2002 7,740

Australia 2003 7,740

Australia 2004 7,740

Australia 2005 7,740

Australia 2006 7,740

Australia 2007 7,740

Australia 2008 7,740

Australia 2009 7,740

Australia 2010 7,740

Australia 2011 7,740

Australia 2012 7,740

Brunei Darussalam 2000 2,036

Brunei Darussalam 2001 2,036

Brunei Darussalam 2002 2,036

Brunei Darussalam 2003 2,036

Brunei Darussalam 2004 2,036

Brunei Darussalam 2005 2,036

Brunei Darussalam 2006 Yi (USD) 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 Yj (USD) 503,196,095,984 531,434,540,451 564,873,723,314 592,747,183,280 630,571,611,202 663,352,296,741 706,742,895,893 761,065,046,328 794,633,684,250 872,942,460,163 862,588,352,221 940,263,659,082 1,011,639,399,650 14,113,415,699 14,832,923,019 15,644,023,935 16,420,026,023 16,955,216,352 17,566,847,030 18,903,164,058 2,036

2,036 Brunei Darussalam 2007

2,036 Brunei Darussalam 2008

2,036 Brunei Darussalam 2009

2,036 Brunei Darussalam 2010

2,036 Brunei Darussalam 2011

2,036 Brunei Darussalam 2012

2000 12,616 Canada

2001 12,616 Canada

2002 12,616 Canada

2003 12,616 Canada

2004 12,616 Canada

2005 12,616 Canada

2006 12,616 Canada

2007 12,616 Canada

2008 12,616 Canada

2009 12,616 Canada

2010 12,616 Canada

2011 12,616 Canada

2012 12,616 Canada

235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 19,434,827,878 19,430,304,612 19,234,199,619 19,972,964,877 20,814,955,083 21,635,212,602 874,086,093,263 909,847,896,920 937,829,320,471 989,274,809,576 1,048,820,536,104 1,131,999,961,696 1,200,850,128,751 1,262,848,987,444 1,298,955,724,799 1,274,897,145,913 1,333,487,247,505 1,427,357,403,807 1,483,585,959,453 150,108,085,152 2000 18,579 Chile

134,356,655,335 158,651,009,203 2001 18,579 Chile

2002 18,579 Chile

2003 18,579 Chile

2004 18,579 Chile

2005 18,579 Chile

2006 18,579 Chile

2007 18,579 Chile

2008 18,579 Chile

2009 18,579 Chile

2010 18,579 Chile

2011 18,579 Chile

2012 18,579 Chile

2000 3,667 Japan

2001 3,667 Japan

2002 3,667 Japan

2003 3,667 Japan

2004 3,667 Japan

2005 3,667 Japan

2006 3,667 Japan

2007 3,667 Japan

145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 164,720,969,396 174,845,655,625 190,630,862,112 208,688,903,211 256,101,386,850 279,522,356,146 276,616,377,375 275,091,462,365 319,123,624,725 363,488,181,845 390,557,694,784 3,287,033,585,570 3,373,502,790,729 3,471,742,387,557 3,567,729,606,686 3,754,626,421,311 3,889,582,374,715 4,057,923,330,700 4,267,103,259,405 4,289,492,996,796 2008 3,667 Japan

269,084,196,603 4,049,391,183,714 2009 3,667 Japan

2010 3,667 Japan

2011 3,667 Japan

2012 3,667 Japan

2000 2,038 Malaysia

2001 2,038 Malaysia

2002 2,038 Malaysia

2003 2,038 Malaysia

2004 2,038 Malaysia

2005 2,038 Malaysia

2006 2,038 Malaysia

2007 2,038 Malaysia

2008 2,038 Malaysia

2009 2,038 Malaysia

2010 2,038 Malaysia

2011 2,038 Malaysia

2012 2,038 Malaysia

2000 14,751 Mexico

2001 14,751 Mexico

2002 14,751 Mexico

289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 4,290,995,014,457 4,325,092,520,414 4,487,301,197,933 221,398,006,437 227,642,898,539 243,601,754,840 262,852,535,884 288,377,148,782 313,496,403,321 341,180,799,669 372,294,648,305 397,908,452,418 394,901,665,511 429,358,226,461 460,239,197,860 494,696,005,919 1,073,075,174,923 1,085,682,094,015 1,105,728,995,603 1,143,253,097,523 2003 14,751 Mexico

174,730,149,108 1,211,600,527,022 2004 14,751 Mexico

Mexico 2005 14,751

Mexico 2006 14,751

Mexico 2007 14,751

Mexico 2008 14,751

Mexico 2009 14,751

Mexico 2010 14,751

Mexico 2011 14,751

Mexico 2012 14,751

New Zealand 2000 9,900

New Zealand 2001 9,900

New Zealand 2002 9,900

New Zealand 2003 9,900

New Zealand 2004 9,900

New Zealand 2005 9,900

New Zealand 2006 9,900

New Zealand 2007 9,900

New Zealand 2008 9,900

New Zealand 2009 9,900

New Zealand 2010 9,900

New Zealand 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 1,330,671,214,935 1,466,665,458,511 1,547,317,638,590 1,640,914,558,044 1,632,385,039,399 1,739,641,586,241 1,915,005,518,238 2,022,201,852,138 82,116,338,230 86,433,079,344 91,157,350,452 95,592,370,835 101,427,280,683 105,306,075,169 114,275,194,800 122,156,484,544 124,474,091,554 130,484,157,420 133,462,387,795 139,434,233,887 2011 9,900

9,900 New Zealand 2012 336,220,553,710 142,832,103,932

2000 18975 Peru

2001 18975 Peru

2002 18975 Peru

2003 18975 Peru

2004 18975 Peru

2005 18975 Peru

2006 18975 Peru

2007 18975 Peru

2008 18975 Peru

2009 18975 Peru

2010 18975 Peru

2011 18975 Peru

2012 18975 Peru

2000 2,202 Singapore

2001 2,202 Singapore

2002 2,202 Singapore

2003 2,202 Singapore

2004 2,202 Singapore

2005 2,202 Singapore

123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 127,613,914,997 130,818,230,903 139,496,680,060 148,021,665,698 159,647,862,019 176,016,624,588 195,470,985,050 218,454,022,416 244,463,748,240 248,617,539,720 273,747,985,507 298,394,790,639 322,830,543,984 136,481,169,314 137,996,493,066 146,004,673,355 155,743,434,595 174,668,444,979 193,557,422,532 216,710,982,166 2006 2,202 Singapore

235,183,252,991 242,527,326,420 2007 2,202 Singapore

2,202 2008 Singapore

2,202 2009 Singapore

2,202 2010 Singapore

2,202 2011 Singapore

2,202 2012 Singapore

2000 United States

2001 United States

2002 United States

2003 United States

2004 United States

2005 United States

2006 United States

2007 United States

2008 United States

2009 United States

2010 United States

2011 United States

253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 123,687,486,916 134,356,655,335 145,044,188,998 158,149,395,798 174,730,149,108 193,944,721,053 213,856,237,726 235,183,252,991 253,353,169,524 269,084,196,603 289,834,511,747 313,968,385,569 336,220,553,710 251,586,369,120 251,528,083,469 292,200,605,711 313,313,946,048 322,996,319,687 10,289,700,000,000 13,346 10,625,300,000,000 13,346 10,980,200,000,000 13,346 11,512,200,000,000 13,346 12,277,000,000,000 13,346 13,095,400,000,000 13,346 13,857,900,000,000 13,346 14,480,300,000,000 13,346 14,720,300,000,000 13,346 14,417,900,000,000 13,346 14,958,300,000,000 13,346 15,533,800,000,000 13,346 16,244,600,000,000 13,346 2012 United States

Phụ lục 9 (tiếp theo). Bảng dữ liệu của các biến

Country Erij BTAij-FTAij Year

Australia 2000 0

Australia 2001 0

Australia 2002 0

Australia 2003 0

Australia 2004 0

Australia 2005 0

Australia 2006 0

Australia 2007 0

Australia 2008 0

Australia 2009 0

Australia 2010 0

Australia 2011 0

Australia 2012 0

1 Brunei Darussalam 2000

1 Brunei Darussalam 2001

1 Brunei Darussalam 2002

1 Brunei Darussalam 2003

POPi (ngƣời) 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 POPj (ngƣời) 19,153,000 19,413,000 19,651,400 19,895,400 20,127,400 20,394,800 20,697,900 21,015,900 21,384,400 21,778,800 22,065,300 22,323,900 22,683,600 331,801 339,114 346,407 353,649 360,797 8,809 8,563 9,259 11,170 12,213 12,111 11,613 12,277 10,559 9,775 11,846 12,788 12,159 10,172 10,277 10,039 10,177 9,963 1 Brunei Darussalam 2004

9,528 1 Brunei Darussalam 2005 82,393,500 367,815

1 Brunei Darussalam 2006

1 Brunei Darussalam 2007

1 Brunei Darussalam 2008

1 Brunei Darussalam 2009

1 Brunei Darussalam 2010

1 Brunei Darussalam 2011

1 Brunei Darussalam 2012

2000 0 Canada

2001 0 Canada

2002 0 Canada

2003 0 Canada

2004 0 Canada

2005 0 Canada

2006 0 Canada

2007 0 Canada

2008 0 Canada

2009 0 Canada

2010 0 Canada

2011 0 Canada

83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 374,697 381,440 388,017 394,400 400,569 406,512 412,238 30,769,700 31,081,900 31,362,000 31,676,000 31,995,000 32,312,000 32,576,074 32,927,517 33,317,662 33,726,915 34,126,547 34,483,975 34,880,491 9,389 9,292 8,294 7,983 8,563 8,792 8,277 10,590 10,868 10,961 12,407 12,821 13,087 13,393 13,432 11,380 10,418 11,788 11,726 10,974 2012 0 Canada

77,630,900 15,454,402 2000 25 0 Chile

2001 23 0 Chile

2002 23 0 Chile

2003 23 0 Chile

2004 27 0 Chile

2005 28 0 Chile

2006 37 0 Chile

2007 37 0 Chile

2008 30 0 Chile

2009 29 0 Chile

2010 34 0 Chile

2011 35 0 Chile

2012 33 0 Chile

2000 167 0 Japan

2001 154 0 Japan

2002 148 0 Japan

2003 157 0 Japan

2004 158 0 Japan

2005 144 0 Japan

2006 128 0 Japan

78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 15,639,289 15,819,522 15,995,658 16,168,241 16,337,749 16,504,530 16,668,892 16,831,184 16,991,729 17,150,760 17,308,449 17,464,814 126,870,000 127,149,000 127,445,000 127,718,000 127,761,000 127,773,000 127,756,000 127,770,750 2007 118 0 Japan

85,122,300 127,704,040 2008 112 0 Japan

2009 119 0 Japan

2010 127 0 Japan

2011 129 0 Japan

2012 0 Japan

2000 1 Malaysia

2001 1 Malaysia

2002 1 Malaysia

2003 1 Malaysia

2004 1 Malaysia

2005 1 Malaysia

2006 1 Malaysia

2007 1 Malaysia

2008 1 Malaysia

2009 1 Malaysia

2010 1 Malaysia

2011 1 Malaysia

2012 1 Malaysia

2000 0 Mexico

2001 0 Mexico

86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 127,557,958 127,450,459 127,817,277 127,561,489 23,420,751 23,925,742 24,413,795 24,890,654 25,365,089 25,843,466 26,327,098 26,813,819 27,302,348 27,790,324 28,275,835 28,758,968 29,239,927 103,873,607 105,339,877 106,723,661 2002 120 4,259 4,509 4,588 4,556 4,358 4,188 4,207 4,258 3,804 3,541 3,949 3,983 3,734 1,467 1,649 1,675 0 Mexico

80,468,400 108,056,312 1,541 2003 0 Mexico

Mexico 2004 0

Mexico 2005 0

Mexico 2006 0

Mexico 2007 0

Mexico 2008 1,453 1,455 1,416 1,365 1,159 0

Mexico 2009 0

Mexico 2010 0

Mexico 2011 982 1,097 1,071 0

Mexico 2012 0

New Zealand 2000 0

New Zealand 2001 0

New Zealand 2002 0

New Zealand 2003 0

New Zealand 2004 0

New Zealand 2005 0

New Zealand 2006 0

New Zealand 2007 0

New Zealand 2008 0

New Zealand 2009 0

New Zealand 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 109,381,550 110,731,826 112,116,694 113,529,819 114,968,039 116,422,752 117,886,404 119,361,233 120,847,477 3,857,700 3,880,500 3,948,500 4,027,200 4,087,500 4,133,900 4,184,600 4,228,300 4,268,900 4,315,800 4,367,800 2010 979 7,145 7,075 7,986 9,971 10,968 11,166 9,984 10,769 8,804 7,812 9,236 0

9,819 0 New Zealand 2011 87,840,000 4,405,200

2012 9,457 0 New Zealand

2000 176 0 Peru

2001 184 0 Peru

2002 184 0 Peru

2003 181 0 Peru

2004 171 0 Peru

2005 159 0 Peru

2006 149 0 Peru

2007 138 0 Peru

2008 114 0 Peru

2009 111 0 Peru

2010 112 0 Peru

2011 104 0 Peru

2012 96 0 Peru

2000 1 Singapore

2001 1 Singapore

2002 1 Singapore

2003 1 Singapore

2004 1 Singapore

88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 4,433,100 26,000,080 26,372,358 26,729,909 27,073,334 27,403,845 27,723,281 28,030,688 28,328,410 28,625,628 28,934,303 29,262,830 29,614,887 29,987,800 4,027,900 4,138,000 4,176,000 4,114,800 4,166,700 4,265,800 2005 9,913 10,055 10,016 10,174 10,045 9,528 1 Singapore

83,313,000 4,401,400 2006 9,469 1 Singapore

2007 1 Singapore

2008 1 Singapore

2009 1 Singapore

2010 1 Singapore

2011 1 Singapore

2012 1 Singapore

2000 0 United States

2001 1 United States

2002 1 United States

2003 1 United States

2004 1 United States

2005 1 United States

2006 1 United States

2007 1 United States

2008 1 United States

2009 1 United States

2010 1 United States

2011 1 United States

84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 77,630,900 78,621,000 79,538,700 80,468,400 81,437,700 82,393,500 83,313,000 84,221,100 85,122,300 86,025,000 86,932,500 87,840,000 88,775,500 4,588,600 4,839,400 4,987,600 5,076,700 5,183,700 5,312,400 282,162,411 284,968,955 287,625,193 290,107,933 292,805,298 295,516,599 298,379,912 301,231,207 304,093,966 306,771,529 309,326,225 311,587,816 313,914,040 9,476 8,840 8,459 9,294 9,847 9,643 15,555 16,696 16,950 17,047 16,491 15,859 15,375 14,702 12,552 12,230 12,454 11,929 11,334 2012 1 United States