BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM ----------------------------- TRẦN NGỌC THẢO TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ

ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUYẾT ÁP Ở NGƯỜI LỚN VÀ HƯỚNG PHÒNG BỆNH LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. HCM, năm 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM ----------------------------- TRẦN NGỌC THẢO TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUYẾT ÁP Ở NGƯỜI LỚN VÀ HƯỚNG PHÒNG BỆNH CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

MÃ SỐ: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GSTS. HOÀNG THỊ CHỈNH TP. HCM, năm 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này: “Tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến

huyết áp ở người lớn và hướng phòng bệnh” hoàn toàn là công trình nghiên cứu

nghiêm túc của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo

sát từ tình hình thực tiễn.

Các trích dẫn tài liệu và các số liệu nghiên cứu đều được dẫn nguồn và có độ

chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.

Toàn bộ hay từng phần nhỏ trong luận văn này cũng như kết quả nghiên cứu

được báo cáo trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa hề công bố, sử dụng vì

bất kỳ mục đích nào khác trước khi bảo vệ trước Hội đồng.

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 06 năm 2015

Trần Ngọc Thảo

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu

1

1.1. Đặt vấn đề 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3

1.2.1. Mục tiêu tổng quát 3

1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3

1.3. Câu hỏi nghiên cứu 4

1.4. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu 4

Chương 2: Cơ sở lý thuyết

1.5. Bố cục đề tài

4 6

2.1. Khái quát chung về huyết áp và tăng huyết áp 6

2.1.1. định nghĩa về huyết áp 6

2.1.2. Phân loại về huyết áp và tăng huyết áp 7

2.1.3. Định nghĩa về tăng huyết áp 8

2.1.3.1. Tăng huyết áp tâm thu đơn độc 9

2.1.3.2. Tăng huyết áp tâm thu đơn độc ở người trẻ tuổi 9

2.1.3.3. Tăng huyết áp tâm trương đơn độc 9

2.1.3.4. Tăng huyết áp “áo choàng trắng” và hiệu ứng “áo choàng trắng” 9

2.1.3.5. Tăng huyết áp ẩn giấu hoặc THA lưu động đơn độc 10

21.3.6. Tăng huyết áp giả tạo 10

2.1.4. Hậu quả của tăng huyết áp 11

2.1.5. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến tăng huyết áp 13

2.1.6. Yếu tố khác tác động / ảnh hưởng đến HA: lễ Phật 22

2.2. Các cận lâm sàng hỗ trợ cho việc xác định về tình trạng THA 33

2.3. Khảo lược lý thuyết hỗ trợ mô hình (lý thuyết về Kinh tế sức khỏe) 32

2.4. Khảo lược các nghiên cứu thực nghiệm liên quan 35

2.4.1. Đặc điểm bệnh tăng huyết áp ở người cao tuổi tại tỉnh Long An 37

2.4.2. Tỉ lệ nguy cơ bệnh tim mạch ở người lớn Khánh Hòa theo biểu đồ dự

báo nguy cơ toàn thể của tổ chức y tế thế giới 2007 38

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

41

2.4.3. DTH các yếu tố nguy cơ tim mạch chính ở người lớn tại Khánh Hòa 39

3.1. Khung phân tích 41

3.2. Mô hình Kinh tế lượng 42

3.3. Dữ liệu 43

3.4. Phương pháp phân tích 44

3.4.1. Giải thích các biến 45

3.4.2. Kỹ thuật thu thập số liệu 48

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 49

3.4.4. Địa điểm nghiên cứu 49

3.4.5.Quy trình thực hiện nghiên cứu 50

Chương 4: Kết quả nghiên cứu

3.4.6. Các bước tiến hành đo huyết áp

50 52

4.1. Xu hướng tác động của các yếu tố đối với huyết áp 52

4.1.1. Yếu tố tuổi tác tác động lên huyết áp 52

4.1.2. Yếu tố giới tính tác động đến huyết áp 53

4.1.3. Yếu tố hút thuốc tác động lên HA 54

4.1.4. Yếu tố uống rượu/ bia tác động lên HA 57

4.1.5. Hoạt động thể lực tác dụng lên HA 58

4.1.6. Tiền sử gia đình ảnh hưởng đến HA 59

4.1.7. Ăn mặn ảnh hưởng đến HA 60

4.1.8. Béo phì ảnh hưởng đến HA 61

4.1.9. Lễ Phật tác dụng với HA 62

4.1.10. Số năm đi học ảnh hưởng đến HA 63

4.2.Mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố lên huyết áp 68

4.2.1. Tác động biên của từng yếu tố lên THA loại I 68

4.2.2. Tác động biên của từng yếu tố lên THA loại II 69

4.2.3. Tác động biên của từng yếu tố lên nhóm k THA 71

4.2.4. Tóm lược xu hướng tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến HA 74

Chương 5: Bàn luận – Kết luận – Khuyến nghị

77 77

4.3. Hướng phòng bệnh 74

5.1. Bàn luận

80 5.2. Kết luận

Tài liệu tham khảo

Phụ lục 1: Phiếu khảo sát 1 (cho người có tăng huyết áp)

Phụ lục 2: Phiếu khảo sát 2 (cho người không tăng huyết áp)

Phụ lục 3: Kết quả hồi quy bằng Stata 12.0 mô hình Odered Probit.

81 5.3. Khuyến nghị

Phụ lục 4: Các chú thích và luận giải thêm.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

BN bệnh nhân

BVĐKKG Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang

chỉ số khối cơ thể BMI

cộng sự CS

DASH Dietary Approaches to Stop Hypertension (Những cách tiếp cận ăn uống giúp ngăn ngừa THA)

dịch tể học DTH

Động mạch ĐM

Huyết áp HA

Huyết áp tâm thu HATT

Huyết áp tâm trương HATr

ISH International Society of Hypetension (Hội Tăng Huyết áp Quốc tế)

JNC VII Joint National Committee 7 (Báo cáo lần 7 của Ủy ban liên quốc gia Hoa Kỳ)

không tăng huyết áp k THA

NHANES National Health and Nutrition Examination Survey (Y tế quốc gia và khảo sát kiểm tra dinh dưỡng)

Xác suất P

Sức khỏe SK

trung bình TB

Tăng huyết áp THA

World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới) WHO

Mục

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH

trang

Bảng 2.1: Phân độ tăng huyết áp theo WHO/ISH 2003 7

Bảng 2.2: Phân độ HA theo JNC VII 7

Bảng 2.3: Tỷ lệ THA theo lứa tuổi và giới từ năm 2007-2010 tại hoa Kỳ 8

Bảng 2.4: Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì của TCYTTG năm 2002 20

Bảng 3.4: Giả thuyết kỳ vọng về các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến HA 48

Bảng 4.1.1: Yếu tố tuổi tác tác động lên huyết áp 52

Bảng 4.1.2: Yếu tố giới tính tác động lên huyết áp 53

Bảng 4.1.3.1: Yếu tố hút thuốc (0 đến 5 điếu) tác động lên huyết áp 54

Bảng 4.1.3.2: Yếu tố hút thuốc (6 đến 20 điếu) tác động lên huyết áp 55

Bảng 4.1.3.3: Yếu tố hút thuốc (25 đến 40 điếu) tác động lên huyết áp 56

Bảng 4.1.4: Yếu tố Uống rượu / bia tác động lên huyết áp 57

Bảng 4.1.5: Yếu tố Hoạt động thể lực tác động lên huyết áp 58

Bảng 4.1.6: Yếu tố Tiền sử gia đình tác động lên huyết áp 59

Bảng 4.1.7: Yếu tố Ăn mặn tác động lên huyết áp 60

Bảng 4.1.8: Yếu tố BMI tác động lên huyết áp 61

Bảng 4.1.9: Yếu tố Lễ Phật tác động lên huyết áp 62

Bảng 4.1.10.1: Yếu tố Số năm đi học (0 - 5 năm) tác động lên HA 64

Bảng 4.1.10.2: Yếu tố Số năm đi học (6 - 11 năm) tác động lên HA 65

Bảng 4.1.10.3: Yếu tố Số năm đi học (12 - 17 năm) tác động lên HA 66

Bảng 4.1.10.4: Yếu tố Số năm đi học (18 - 25 năm) tác động lên HA 67

Bảng 4.2: xu hướng tác động của các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến HA 74

Bảng 5: So sánh dấu kỳ vọng của các yếu tố tác động lên HA 77

Hình 2.1.6: cách lễ Phật 31

Hình 2.1.6’: chư tăng ni lễ Phật ở chánh điện 32

Hình 3.1: Khung phân tích 41

Hình 3.2: Mô hình kinh tế lượng 42

Hình 3.2’: Khung phân tích thể hiện mô hình kinh tế lượng 43

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Tăng huyết áp (THA) là sát thủ giấu mặt của sức khỏe, hiện nay là vấn nạn

nghiêm trọng trong xã hội, gây ra 4,5% gánh nặng toàn cầu với 64 triệu người sống

trong tàn phế và 7,1 triệu người trẻ tuổi tử vong (dữ liệu của Phân hội Tăng huyết

áp Việt Nam). THA không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe lâu dài, để lại những di

chứng nặng nề, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh tế và nguồn lực

y tế của quốc gia, khu vực và thế giới.

Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về HA và THA. Tuy nhiên, những

nghiên cứu này chỉ tập trung chủ yếu vào chuyên môn sâu của y khoa để tìm ra

nguyên nhân, phương pháp điều trị và dịch tể học. Trong khi đó, ở giác độ Kinh tế

Sức khỏe thì hầu như có rất ít nghiên cứu về các yếu tố thực sự tác động đến HA và

THA. Ngoài các yếu tố nguy cơ làm ảnh hưởng HA như: tuổi, giới tính, tiền sử gia

đình, hút thuốc, uống nhiều rượu / bia, ăn mặn, béo phì, số năm đi học, luyện tập thể

lực thì yếu tố Lễ Phật cũng có tác động đến HA ở chiều hướng tích cực. Đó cũng là

điểm mới của đề tài này mà tác giả muốn nghiên cứu.

Đề tài này nhằm tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ tác động

đến huyếp áp như thế nào, đồng thời khảo sát thêm tác động của yếu tố lễ Phật đến

HA. Xu hướng và các mức độ ảnh hưởng này được xem xét ở khía cạnh HA của

người lớn, từ đó đưa ra hướng phòng bệnh tích cực. Số liệu được sử dụng để phân

tích là số liệu sống được thu thập trong và ngoài khoa Nội Tim mạch - Bệnh viện đa

khoa tỉnh Kiên Giang trong khoảng thời gian từ tháng 11 / 2014 đến tháng 04 /

2015, sử dụng phương pháp định tính và định lượng, điều tra bằng bảng khảo sát,

phối hợp với thống kê mô tả. Kết quả thu được 306 quan sát gồm 2 nhóm chính:

nhóm có THA (102 quan sát gồm THA loại I và THA loại II) và nhóm đối chứng

(không THA: 204 quan sát) nhằm so sánh mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố nguy

cơ - đặc biệt là mức độ ảnh hưởng của yếu tố Lễ Phật - tác động lên huyết áp của

mỗi cá nhân. Kết quả phân tích cho thấy các yếu tố nguy cơ, bao gồm một số yếu tố

nguy cơ không thể kiểm soát được ( như: tuổi tác, giới tính, tiền sử gia đình) và một

số yếu tố nguy cơ có thể kiểm soát được (như: hút thuốc lá / thuốc lào, số năm đi

học, ăn mặn, béo phì, hoạt động thể lực, uống nhiều rượu / bia) đều có ảnh hưởng

đáng kể đến tình trạng THA ở người lớn. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng cho

thấy không có sự khác biệt giữa nam và nữ khi xác suất xảy ra THA được tác động

từ các yếu tố. Đề tài cũng chỉ ra xu hướng THA biến thiên theo độ tuổi và thói quen

sinh hoạt: tuổi càng lớn thì nguy cơ THA càng cao; những người trẻ tuổi và những

người chuyên tâm lễ Phật hàng ngày sẽ rất ít nguy cơ THA hơn so với những người

lớn tuổi, không có thói quen lễ Phật. Bên cạnh đó, các yếu tố nguy cơ khác như

uống rượu / bia, hoạt động thể lực, ăn mặn, hút thuốc; hoặc là số năm đi học, béo

phì đều có thể thay đổi thành thói quen tốt để cải thiện và tránh được tình trạng

THA.

Thông qua những bằng chứng thực nghiệm, đề tài cũng đưa ra một số

khuyến nghị ở cấp độ cộng đồng và xã hội, nhằm giảm thiểu đến mức tối đa tình

trạng THA, tăng cường bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Từ đó giúp duy trì và gia tăng

nguồn lực kinh tế.

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Đặt vấn đề:

Huyết áp (HA) thể hiện phần lớn về tim mạch và tình trạng sức khỏe con người.

Tăng huyết áp (THA) là sát thủ giấu mặt của sức khỏe, hiện nay là vấn nạn

nghiêm trọng và đeo đẳng suốt cuộc đời mỗi con người. THA cũng là nguyên

nhân gây tử vong, hoặc để lại những di chứng nặng nề, thậm chí mất khả năng

lao động, gây tổn thất rất nhiều về hiệu quả kinh tế và nguồn lực y tế.

“Vào năm 2000, theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), toàn thế giới

có tới 972 triệu người bị THA và con số này được ước tính là vào khoảng 1,56

tỷ người vào năm 2025. Tỷ lệ người bị THA ngày càng gia tăng, và tuổi bị mắc

mới cũng ngày một trẻ. Các yếu tố nguy cơ của thói quen sinh hoạt như lười vận

động, ăn không hợp lý với chế độ ăn quá nhiều chất béo, ăn mặn, hút thuốc lá,

uống quá nhiều rượu / bia là những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng gánh nặng

(Phạm Gia Khải và CS (2010)).

này”.

Năm 2005, trong số 17,5 triệu người tử vong do các bệnh tim mạch thì THA là

nguyên nhân trực tiếp gây tử vong của 7,5 triệu người. Báo cáo về sức khỏe

hàng năm của WHO nhấn mạnh: THA là sát thủ số một với nguy cơ tử vong cao

gấp 5 lần nguy cơ tử vong từ hút thuốc lá, và cao gấp 100 lần so với nguy cơ tử

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008)).

vong vì tai nạn giao thông”.

“Tỷ lệ người mắc THA ngày một tăng nhanh chóng ở các nước đang phát triển

(Châu Á, Châu Phi). Theo thống kê tại Hoa Kỳ năm 2006, có khoảng 74,5 triệu

người Mỹ bị THA; cứ ba người lớn thì có một người bị THA. Ngay tại Việt

(Phạm Gia Khải và CS (2010)).

Nam, thống kê mới nhất năm 2007 cho thấy tỷ lệ THA ở người lớn là 27,4%”.

“Đối với người bị THA, nguy cơ bị đột quỵ (tai biến mạch máu não) tăng gấp

bốn lần, nguy cơ bị Nhồi máu cơ tim tăng gấp hai lần so với người không bị

THA. Nguy cơ tử vong sẽ tăng gấp đôi khi số HA của chúng ta tăng mỗi

2

20mmHg đối với huyết áp tâm thu (HATT) và tăng 10mmHg đối với huyết áp

tâm trương (HATTR). Năm 2008 có khoảng 16,5 triệu người chết vì THA trên

toàn thế giới. Thống kê tại Hoa Kỳ năm 2006 cho thấy có khoảng 56.561 người

(Phạm Gia Khải và CS (2010)).

Mỹ chết vì THA”.

“Với sự tham gia trực tiếp của Viện Tim Quốc gia, Bộ Y tế Hoa Kỳ đã quyết

định tiến hành điều tra dịch tễ học các bệnh tim mạch trong 20 năm tại một thị

trấn Framingham 28.000 dân thuộc bang Massachusetts. Từ những kết quả thu

được, người ta thấy có liên quan chặt chẽ giữa trị số HA với nhồi máu cơ tim,

tai biến mạch máu não, suy tim, suy thận. Những thử nghiệm lớn về điều trị

trong THA cho thấy tác dụng tích cực của điều trị lên tỷ lệ bệnh lý và tỷ lệ tử

vong do tim mạch. THA đóng một vai trò bệnh sinh chủ yếu trong hình thành

bệnh lý mạch máu não, bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy tim và suy thận. Việc

điều trị THA làm giảm khoảng 40% nguy cơ đột quỵ và khoảng 15% nguy cơ

nhồi máu cơ tim. Mặc dù việc điều trị THA cho thấy ngăn chặn được bệnh tim

mạch và kéo dài, nâng cao đời sống con người, nhưng THA vẫn chưa được điều

trị một cách đầy đủ ở mọi nơi. Đồng thời THA thường đi kèm những yếu tố

nguy cơ khác như hút thuốc lá, uống nhiều rượu / bia, ăn mặn, béo phì, là

những yếu tố nguy cơ tim mạch chi phối bệnh THA. Khắp trên thế giới, những

yếu tố nguy cơ tim mạch tồn tại đan xen này không được phát hiện và khai thác

một cách đầy đủ ở những người có THA, kết quả làm tăng cao tỷ lệ mắc bệnh

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008)).

và tỷ lệ tử vong”.

Những yếu tố nguy cơ có thể kiểm soát được như, hút thuốc lá-thuốc lào, số

năm đi học, ăn mặn, béo phì, hoạt động thể lực, uống nhiều rượu / bia và những

yếu tố nguy cơ không thể kiểm soát được như: giới tính, tuổi cao, di truyền đều

là những nguy cơ ảnh hưởng đến HA của người lớn. Ngoài ra, yếu tố khác như

lễ Phật cũng tác động tích cực đến việc phòng ngừa THA. Kết quả từ các biến

số này có thể giúp đưa ra những lời khuyên nhằm tránh THA, giúp duy trì và

3

cải thiện chất lượng sức khỏe của mọi người. Từ đó giúp duy trì và gia tăng

nguồn lực kinh tế.

Nghiên cứu này nhằm mục đích khảo sát “Tác động của các yếu tố ảnh hưởng

đến huyết áp ở người lớn và hướng phòng bệnh”.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu:

1.2.1. Mục tiêu tổng quát: Phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố (bao gồm

một số yếu tố nguy cơ không thể kiểm soát được và một số yếu tố nguy cơ có

thể kiểm soát được) tác động đến HA, nhằm giảm thiểu đến mức tối đa tình

trạng THA của từng cá nhân. Từ đó có được hướng phòng bệnh, nhằm tăng

cường bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, giúp duy trì và gia tăng nguồn lực kinh tế.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể:

 Phân tích xu hướng và mức độ tác động của các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến

HA của người lớn.

 Tìm hiểu xu hướng và mức độ tác động của yếu tố lễ Phật đến HA của người

lớn.

 Tìm ra hướng phòng bệnh.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu:

 Xác định khuynh hướng tác động và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố nguy

cơ có gây THA ở người lớn hay không?

 Yếu tố lễ Phật có ảnh hưởng như thế nào trong việc ngăn ngừa THA?

 Hướng phòng bệnh là gì?

1.4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu xu hướng và phân tích mức độ ảnh hưởng của

các yếu tố nguy cơ và yếu tố lễ Phật tác động đến HA ở người lớn như thế nào.

Vì thế, mẫu gồm 2 nhóm: nhóm có THA là những BN đang được điều trị tại

khoa Nội Tim mạch 102 quan sát - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang

(BVĐKKG) và nhóm không THA (dùng làm nhóm đối chứng) được lấy ngẫu

4

nhiên trong và ngoài bệnh viện 204 quan sát. Cách tính mẫu sẽ được tác giả

trình bày chi tiết hơn ở chương III.

Phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn của tỉnh Kiên Giang và địa phương lân

cận. Với nguồn lực và thời gian có hạn của tác giả, nghiên cứu này khó thể thực

hiện trên phạm vi toàn quốc nên tác giả chọn Kiên Giang là vùng đất rộng

người đông và số mẫu có thể tạm thời đại diện được cho tổng thể dân cư.

Nghiên cứu này khảo sát nhằm vào hai nhóm đối tượng: nhóm thứ nhất là

những bệnh nhân đang được điều trị THA tại bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên

Giang, khoa Nội Tim mạch. Nhóm thứ hai (không THA) là những người khỏe

mạnh ở độ tuổi trưởng thành trở lên, đang sinh sống trên địa bàn của tỉnh Kiên

Giang và địa phương lân cận như An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ.

1.5. Bố cục đề tài: gồm năm chương:

- Chương 1: trình bày về sự cần thiết của đề tài nghiên cứu trong xã hội hiện nay.

Tác giả dựa trên các nghiên cứu, báo cáo, khuyến cáo của các tổ chức y tế có uy

tín và lời khuyên của các chuyên gia để đặt ra hướng nghiên cứu cụ thể. Nêu rõ

đối tượng của đề tài nghiên cứu. Nêu rõ mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài,

và trả lời những câu hỏi nghiên cứu nào. Giới thiệu về phương pháp mà tác giả

sử dụng để làm sáng tỏ vấn đề và phạm vi nghiên cứu này cần khảo sát.

- Chương 2: trình bày về cơ sở lý thuyết mà tác giả vận dụng để lý luận cho đề

tài; các lý thuyết về yếu tố nguy cơ có liên quan đến THA; và tóm lược các

hướng nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện bởi những chuyên gia đi

trước.

- Chương 3: trình bày về phương pháp nghiên cứu mà tác giả sử dụng: nghiên

cứu định tính, sau đó định lượng, phối hợp với thống kê mô tả trong nghiên

cứu. Trình bày kỹ thuật và phương pháp thu thập dữ liệu, cách thức xử lý số

liệu bằng mô hình Ordered Probit.

5

- Chương 4: trình bày về kết quả nghiên cứu có được từ phương pháp nghiên cứu

định tính và định lượng dựa trên mô hình Ordered Probit.

- Chương 5: trình bày về bàn luận, kết luận và khuyến nghị của tác giả dựa trên

kết quả nghiên cứu đạt được.

- Tài liệu tham khảo và các nguồn website.

- Các phụ lục.

6

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Khái quát chung về HA và THA:

2.1.1. Định nghĩa về HA:

Tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể thông qua hệ thống động mạch

(ĐM). Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được

tim bơm đầy, và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành

mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là huyết áp (blood pressure). HA

thay đổi tùy lúc, và tùy vào hoạt động của cơ thể. HA xuống thấp hơn lúc ta

ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động.

HA được thể hiện bằng hai con số với đơn vị là mmHg hoặc cmHg. Có 2 chỉ số

HA: huyết áp tâm thu (HATT), còn gọi là HA tối đa, là số đo biểu hiện sức ép

của máu vào lòng ĐM mỗi khi tim co bóp để tống máu đi đến các cơ quan, bình

thường HA tối đa dao động từ 90-139 mmHg. Huyết áp tâm trương (HATTr),

còn gọi là HA tối thiểu, là biểu hiện trương lực của thành mạch, là áp suất trong

lòng ĐM khi con tim dãn ra giữa hai nhịp co bóp, bình thường từ 60-89 mmHg.

Theo bác sĩ Lê Trung Hiếu (Trung tâm Y khoa Kỳ Hòa) định nghĩa: “HA là áp

suất động mạch được tạo bởi sức đẩy của tim và sức ép của thành động mạch.

Khi tim đập, áp lực máu lên thành ĐM gọi là HATT, khi tim nghỉ giữa các

nhịp, áp lực máu lên thành ĐM gọi là HATTr. HA có thể thay đổi liên tục trong

(Lê Trung Hiếu (2013).

ngày, nhưng thường ở trong mức bình thường”.

Năm 1992, Trần Đỗ Trinh khảo sát trên 1.716 người bị THA thì 67,5% không

biết bệnh; 15% biết bệnh nhưng không điều trị; 13,5% điều trị nhưng thất

thường và không đúng cách, chỉ có 4% là điều trị đúng.

Năm 2001, Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thị Trúc khảo sát 1582 người từ 18

trở lên tại tỉnh Tiền Giang, 16,1% chưa từng được đo HA; 58,7% có đo HA

nhưng không nhớ con số HA của mình; 10,3% biết đo HA nhưng không kiểm

tra thường xuyên và chỉ có 14,3% có ý thức kiểm tra HA định kỳ.

7

Năm 2002, Phạm Gia Khải và cộng sự điều tra 5.012 người từ 25 tuổi trở lên ở

4 tỉnh miền bắc Việt Nam (Nghệ An, Hà Nội, Thái Bình và Thái Nguyên) kết

quả là 23% biết đúng các yếu tố nguy cơ của bệnh THA (béo phì, uống nhiều

rượu, hút thuốc lá, ăn mặn, ít hoạt động thể lực trong cuộc sống), trong đó vùng

thành thị hiểu đúng chỉ 29,5%. Trong 818 người được phát hiện có THA, chỉ có

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008)).

94 người là dùng thuốc và tỷ lệ HA được khống chế tốt là 19,1%.

2.1.2. Phân loại về HA và THA:

Theo Huỳnh Văn Minh và cộng sự, “HATT hay HA tối đa là trị số HA cao nhất

đo được và đại diện cho áp lực tại ĐM khi tim co bóp và bơm máu vào tuần

hoàn. Tăng HATT còn gọi là THA đơn thuần, làm tăng áp lực thành mạch

(được xem là một vấn đề sức khỏe cho tương lai). Nó là dấu hiệu quan trọng

báo trước những tổn thương tiềm ẩn ở các cơ quan như tim, não và vẫn làm

tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ”.

Bảng 2.1: Phân độ huyết áp theo WHO và ISH 2003

HATT(mmHg) Phân loại <120 HA tối ưu <130 HA bình thường 130-139 HA bình thường cao 140-159 THA độ 1 160-179 THA độ 2 THA độ 3 ≥180 THA tâm thu đơn độc ≥140 HATTr(mmHg) <80 <85 85-89 90-99 100-109 ≥110 <90 (Nguồn: Huỳnh Văn Minh và cộng sự (2008))

Bảng 2.2: Phân độ HA theo JNC VII

Phân loại HATT(mmHg) HATTr(mmHg)

Bình thường Tiền tăng huyết áp <120 120-139 <80 80-89

140-159 90-99

(Nguồn: Trương Tấn Minh, Trần Văn Huy và cộng sự (2004))

THA loại I THA loại II ≥160 ≥100

2.1.3. Định nghĩa về THA:

8

 Một trong các định nghĩa cập nhật gần đây về THA đã chấp nhận trong Hướng

dẫn quản lý THA của Hội THA Châu Âu (ESH) và Hội Tim mạch Châu Âu

(ESC) cho rằng: THA, còn gọi là cao huyết áp, được định nghĩa là khi chỉ số

HATT và / hoặc huyết áp tâm trương (HATTr) cao hơn mức bình thường.

 Theo Hoàng Khánh (Trường Đại học Y Dược Huế): “năm 1978, WHO đã quy

định THA khi HA ≥ 160/95 mmHg; Năm 1993 WHO và Hội tăng huyết áp

Quốc tế (ISH) quy định từ 140/90 mmHg trở lên được gọi là THA chính tức”.

 Đầu năm 1999 và năm 2004, WHO và ISH định nghĩa: một người lớn bị THA

(WHO, ISH: THA và đột quỵ)

khi chỉ số HATT được xác định ≥ 140mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90mmHg.

 Theo quyết định của Bộ Y tế “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị THA” ban hành

kèm theo Quyết định 3192 / QĐ – BYT ngày 31 tháng 08 năm 2010 của Bộ

trưởng Bộ Y tế, thì THA là: khi HATT được xác định ≥ 140mmHg và/hoặc

HATTr ≥ 90mmHg.

Tần suất THA ngày càng gia tăng khi nền kinh tế phát triển; các số liệu thống

kê điều tra THA ở Việt Nam cho thấy: Năm 1960 THA chiếm 1,0% dân số,

1992 tăng lên 11,79% dân số và năm 2002 ở miền Bắc là 16,3%.

(nguồn: Hoàng Khánh (1996))

Bảng 2.3: Tỷ lệ% THA theo lứa tuổi và giới từ 2007-2010 tại Hoa Kỳ

Một số định nghĩa THA (theo Huỳnh Văn Minh và cộng sự, 2008):

2.1.3.1.THA tâm thu đơn độc:

9

“Đối với người lớn, HATT có xu hướng tăng và HATTr có xu hướng giảm. Khi

trị số của HATT >140 mmHg và HATTr <90 mmHg, BN được gọi là THA tâm

thu đơn độc. Độ chênh HA (tâm thu - tâm trương) và HATT sẽ dự báo nguy cơ

và quyết định điều trị”

2.1.3.2.THA tâm thu đơn độc ở người trẻ tuổi:

“Ở trẻ em và người trẻ, thường là nam giới, sự phối hợp của sự gia tăng nhanh

chóng về chiều cao và sự rất đàn hồi của mạch máu làm tăng sự khuếch đại

bình thường của sóng áp lực giữa ĐM chủ và ĐM cánh tay tạo nên HATT rất

cao nhưng HATTr và HA trung bình bình thường. Huyết áp ĐM chủ tuy vậy

cũng bình thường. Điều này có thể dựa vào sự phân tích sóng mạch”.

2.1.3.3.THA tâm trương đơn độc:

“Thường xảy ra ở người trung niên, THA tâm trương thường được định nghĩa

khi HATT < 140 và HATTr > 90 mmHg. Mặc dù HATTr thường được cho là

yếu tố tiên lượng tốt nhất về nguy cơ ở BN tuổi <50 một số tiền cứu về THA

tâm trương đơn độc cho thấy tiên lượng có thể lành tính, tuy vậy, vấn đề đang

còn tranh luận”.

2.1.3.4. THA “áo choàng trắng” và hiệu ứng “áo choàng trắng”:

“Một số BN HA thường xuyên tăng tại bệnh viện hoặc phòng khám bác sĩ trong

khi HA hằng ngày hoặc đo 24h lại bình thường. Tình trạng này gọi là “THA áo

choàng trắng”, cho dù một thuật ngữ khác ít mang tính cơ chế hơn là “THA

phòng khám hoặc bệnh viện đơn độc”. Tỷ lệ hiện mắc ”THA áo choàng trắng”

là 10-30%, chiếm một tỷ lệ không phải không đáng kể trên những đối tượng

THA. THA áo choàng trắng tăng theo tuổi và tỷ lệ này < 10% ở THA độ 2, độ 3

khi đo tại phòng khám. Tăng HA áo choàng trắng có thể là khởi đầu của THA

thực sự và có thể làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch mặc dù không phải nghiên

cứu nào cũng trả lời như thế. Nghi ngờ THA áo choàng trắng khi HA đo tại

phòng khám tăng hoặc kháng trị trong khi không có tổn thương cơ quan đích.

Những người THA phòng khám đơn độc có nguy cơ tim mạch thấp hơn những

người vừa THA phòng khám và THA 24h”.

10

Chẩn đoán THA phòng khám đơn độc khi HA phòng khám 140/90 mmHg đo

nhiều lần đi khám trong khi đó HA 24 giờ <125/80 mmHg. Nên thăm khám tìm

kiếm các yếu tố nguy cơ chuyển hóa và tổn thương cơ quan đích. Sử dụng

thuốc chỉ nên áp dụng khi có bằng chứng tổn thương cơ quan đích hoặc nguy cơ

tim mạch cao. Thay đổi phong cách sống và theo dõi sát nên được áp dụng cho

tất cả bệnh nhân với THA phòng khám đơn độc chưa sử dụng thuốc.

2.1.3.5. THA ẩn gi ấu (masked hypertension) hoặc THA lưu động đơn độc:

“Thường ít gặp hơn THA áo choàng trắng nhưng khó phát hiện hơn, đó là tình

trạng trái ngược – HA bình thường tại phòng khám và THA ở nơi khác, ví dụ

tại nơi làm việc hay tại nhà (THA 24 giờ đơn độc). Những bệnh nhân này có

tổn thương cơ quan đích nhiều hơn và nguy cơ cao hơn những đối tượng HA

luôn luôn bình thường”.

2.1.3.6. THA gi ả tạo:

Trong một số lượng nhỏ BN lớn tuổi, các ĐM nuôi cơ ngoại biên trở nên cứng

nên băng quấn phải có áp lực cao hơn để nén lại. ĐM cánh tay hay ĐM quay

vẫn bắt được dù băng quấn đã được bơm căng (dấu Osler dương tính). Khi nghi

ngờ, đo HA nội ĐM quay được tiến hành để xác định.

Như vậy, có đến 90% các trường hợp THA chưa rõ nguyên nhân. Nói cách

khác, với trình độ y khoa hiện tại, người ta chưa tìm ra được nguyên nhân rõ

ràng cụ thể. Một số như các trường hợp gây THA do uống bia rượu nhiều quá,

do bệnh về nội tiết, bệnh thận cấp và mãn tính.

HATT, HATTr và áp lực mạch đập (còn gọi là hiệu áp) được xem như là những

yếu tố dự báo. Trước đây, nhiều tác giả cho rằng HATTr có giá trị hơn HATT

trong vai trò dự báo bệnh tim, động mạch vành và bệnh lý mạch máu não. Vấn

đề này được nêu lên trong các chương trình thiết kế nghiên cứu ngẫu nhiên có

đối chứng trước đây cho đến thập niên những năm 90, trong đó ngưỡng HATTr

là một tiêu chuẩn then chốt để quyết định. Tại các nước phát triển nhiều kết quả

cho thấy HATT liên quan nguy cơ đột quỵ mạnh hơn liên quan với bệnh lý

11

mạch vành. Đặc biệt tại Việt Nam biến chứng THA chủ yếu là đột quỵ rồi đến

bệnh lý mạch vành.

Tuy nhiên, theo khuynh hướng mới ngày nay trong điều trị lâm sàng tại khoa,

người ta thường phân thành 2 độ THA theo JNC VII:

- THA loại I (hay THA giai đoạn I) là HATTr từ 140 đến 159mmHg, HATT từ

50mmHg đến 99mmHg.

- THA loại II (hay THA giai đoạn II) là HATTr từ 160mmHg trở lên, HATT từ

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008)).

110mmHg trở lên, và được xem là tình trạng nặng.

 Xác định BN THA nguyên phát: đo HA lâm sàng bằng máy đo tự động

OMRON SEM1 của Nhật trong 24h. Chẩn đoán THA theo tiêu chuẩn khuyến

cáo Hội Tim mạch Việt Nam 2008 như bảng 2.2. Chẩn đoán BN THA nguyên

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008)).

phát dựa vào khám lâm sàng, và hồ sơ bệnh án tại khoa.

 Xác định BN không THA: là các BN có trị số HA lâm sàng tâm thu < 140

mmHg và/ hoặc tâm trương < 90 mmHg, không có tiền sử THA và không

đang dùng thuốc hạ áp.

Tuy nhiên, chẩn đoán THA cần dựa vào ba giá trị sau: 1- Trị số HA; 2- Đánh

giá nguy cơ tim mạch toàn thể thông qua tìm kiếm các yếu tố nguy cơ, tổn

thương cơ quan đích, bệnh lý hoặc dấu chứng lâm sàng kèm theo. 3- Xác định

nguyên nhân thứ phát gây THA.

Quá trình chẩn đoán cũng bao gồm các bước chính như: 1- Đo HA nhiều lần

trong ngày; 2- Khai thác tiền sử; 3- Khám thực thể và 4- Thực hiện các khám

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008))

nghiệm cận lâm sàng cần thiết.

2.1.4. Hậu quả của THA:

Theo GS.TS. Nguyễn Lân Việt, “THA nếu không được chẩn đoán và điều trị

kịp thời sẽ gây ra biến chứng trên các cơ quan như: tim, não, mắt, ĐM ngoại

biên. THA nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ có rất nhiều biến

chứng nặng nề, thậm chí có thể gây tử vong hoặc để lại các di chứng ảnh

12

hưởng đến sức khỏe, sức lao động của người bệnh và trở thành gánh nặng

cho gia đình và xã hội. Một số biến chứng chính của THA như:

- Các biến chứng về tim: Cơn đau thắt ngực, Nhồi máu cơ tim, suy tim.

- Các biến chứng về não: Xuất huyết não, Nhũn não, bệnh não do THA.

- Các biến chứng về thận: tiểu ra protein, phù, suy thận.

- Các biến chứng về mắt: Mờ mắt, xuất huyết, xuất tiết và phù gai thị.

- Các biến chứng về mạch máu: Phình hoặc phình tách thành động mạch,

các bệnh động mạch ngoại vi.

Biến chứng tức thời: Có thể nguy hiểm đến tính mạng, gồm tai biến mạch máu

não, nhồi máu cơ tim cấp, bóc tách động mạch chủ, phù phổi cấp, suy thận

cấp.

Biến chứng lâu dài: xảy ra nếu BN sau một thời gian dài THA mà không

được chẩn đoán và điều trị đúng. Biến chứng gồm: Rối loạn tiền đình, bệnh lý

mắt, tim to, suy tim, đau thắt ngực do thiếu máu cục bộ cơ tim, suy thận mãn,

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012)).

đau cách hồi”.

“THA kéo dài sẽ làm tổn thương thành mạch. Nhưng chỉ tổn thương trong

lòng các mạch máu nào dễ bị chất mỡ cholesterol và các tế bào tiểu cầu

(platelet) luôn luôn có sẵn trong máu bám vào. Cơ chế dây chuyền này lại

càng khiến lòng mạch máu tổn thương thêm nữa và dần dần nhỏ hẹp lại, đến

một ngày nào đó, sẽ không còn mang đủ máu về nuôi tim. Nếu một phần tim

thiếu máu nuôi trầm trọng, phần tim đó có thể chết và gây ra hiện tượng chết

cơ tim cấp tính (heart attack). Tương tự, THA làm tổn thương các mạch máu

nuôi óc, nuôi thận, nuôi mắt gây các biến chứng tai biến mạch máu não, suy

thận, giảm thị giác. Nếu không chữa, dễ bị bệnh hẹp tắc các động mạch tim

khiến tim lâu ngày bị thiếu máu nuôi (ischemic heart disease) gấp 3 lần, dễ

suy tim gấp 6 lần và dễ bị tai biến mạch máu não gấp 7 lần so với người bình

(Nguyễn Lân Việt và CS (2012)).

thường”.

13

2.1.5. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến THA:

Theo Hội Tim Mạch Học Quốc Gia Việt Nam, Các yếu tố nguy cơ liên quan

đến THA bao gồm 2 nhóm chính:

* Nhóm yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được: tuổi -giới- tiền sử gia đình:

Tuổi: được tính đến năm đang tiến hành nghiên cứu. Phân nhóm tuổi thường

được chia thành 3 nhóm < 55 tuổi (1), 55 - 65 (2) và > 65 tuổi (3). THA dễ

xảy ra sau tuổi 35.

Sự biến đổi HA theo tuổi:

Đối với người có tuổi, dạng THA phổ biến là tăng HATT đơn thuần, tức là chỉ

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008))

số HATT có thể >160mmHg nhưng HATTr phải <90mmHg.

Theo GSTS. Nguyễn Lân Việt và cộng sự: “Trong nghiên cứu của Danish, các

thông số về HA trong 24h được đánh giá ở những người khỏe mạnh bằng máy

theo dõi HA di động, HATT trug bình và HATTr trung bình tăng từ từ theo

tuổi và không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nam và nữ.

Trong nghiên cứu thuần tập Framingham, sự biến đổi HA theo tuổi ở những

người bình thường và những người THA nhưng không điều trị đã được đánh

giá và cho thấy sự tăng tuyến tính giữa HATT trong nhóm tuổi từ 30 đến 84.

Sau tuổi 50-60 HATTr bắt đầu giảm, gây ra sự giảm của áp lực thành mạch.

Những BN có HATTr cao (85-89mmHg) có nguy cơ tiến triển thành THA gấp

2,3 lần so những người có HATTr bình thường (< 85mmHg). Sự giảm muộn

của HATTr sau tuổi 60 và sự tiếp tục tăng của HATT phản ánh sự tăng mạnh

mẽ của độ cứng thành mạch ở những ngươi cao tuổi. HATT cao nếu không

được điều trị sẽ thúc đẩy nhanh sự xơ cứng của thành mạch, kéo dài vòng xoắn

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012)),

bệnh lý”.

Nhiều quan sát trên đối tượng lớn tuổi hiệu số HA (HATT - HATTr) hay còn

gọi là “áp lực mạch đập” hoặc “hiệu áp” tăng là yếu tố dự báo các bệnh lý tim

mạch tốt hơn nếu chỉ dựa vào HATT hay HATTr. Tuy nhiên qua phân tích

14

tổng hợp số liệu lớn trên gần 1 triệu bệnh nhân từ 61 nghiên cứu (70% ở châu

Âu) cả HATT và HATTr đều có giá trị dự báo độc lập về nguy cơ tử vong do

đột quỵ và do bệnh lý ĐM vành, và chúng có giá trị hơn so với hiệu số HA (áp

lực mạch đập). Tuy nhiên cũng qua kết quả phân tích này áp lực mạch đập lại

(Huỳnh Văn Minh và CS (2008))

có giá trị dự báo nguy cơ bệnh tim mạch ở các đối tượng trên 55 tuổi.

Kết quả nghiên cứu tại tỉnh Khánh Hòa năm 2007 của Trần Văn Huy cho thấy

tuổi trung bình thường gặp ở bệnh THA là 60, tối thiểu là 40 và tối đa là 90

tuổi (Trần Văn Huy (2007))

Giới tính và sự liên quan THA: đàn ông dễ THA hơn phụ nữ. Tuy vậy, phụ

nữ, sau khi mãn kinh, cũng dễ THA hơn lúc chưa mãn kinh. Thống kê gần đây

cho thấy sự đe dọa về bệnh động mạch vành ở phụ nữ trước tuổi mãn kinh thấp

hơn hẳn đối với nam giới. Từ tuổi mãn kinh trở đi, ưu điểm này sẽ giảm dần

cho đến mất hẳn. Phụ nữ từ 35 – 44 tuổi ít mắc bệnh động mạch vành hơn nam

từ 6- 7 lần; từ 45 đến 69 tuổi thì ít hơn 3 lần. Sau khoảng 70 – 75 tuổi thì tỉ lệ

này ngang bằng với nam giới (Isles C (1995))

Đồng thời, “nghiên cứu về sức khỏe của Hội Điều dưỡng chỉ ra rằng, phụ nữ

sử dụng biện pháp tránh thai có nguy cơ mắc THA sau khi đã hiệu chỉnh tuổi

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012))

cao hơn 1,5 lần (độ tin cậy 95% 1,2 - 1,8).

Ở nam giới, HA trung bình thường cao hơn so với nữ có cùng độ tuổi. Theo

Nguyễn Lân Việt và cộng sự: Một nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 278 nữ

tiền mãn kinh thì tỷ lệ THA là 10% và 184 nữ đã mãn kinh có tỷ lệ THA 40%.

Sau khi hiệu chỉnh tuổi và chỉ số khối cơ thể, thì phụ nữ đã mãn kinh có tỷ lệ

phát triển thành THA cao gấp 2,2 lần so với phụ nữ tiền mãn kinh. Giải thích

cho những kết quả này có thể do tăng cân, hoặc sụt giảm estrogen ở phụ nữ

sau mãn kinh. Tuy nhiên, nghiên cứu dọc Framingham đã thất bại trong việc

tìm kiếm mối liên quan có ý nghĩa giữa mãn kinh và THA. Nghiên cứu của tổ

15

chức sức khỏe ban đầu của phụ nữ (WHI) báo cáo rằng tỷ lệ THA cao hơn

(Staessen J and others (1989)).

25% ở những phụ nữ điều trị bằng estrogen và progestin kết hợp”.

Kết quả nghiên cứu của Trần Văn Huy (2007) ở tỉnh Khánh Hòa cho thấy tỷ lệ

THA. 34.3% ( 221/615); ở nam 37.5 %, ở nữ là 31. 6% (Trần Văn Huy (2007)).

 Di truyền / tiền sử gia đình liên quan THA:

Theo Wikipedia, Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với

nhau bởi các mối quan hệ hôn nhân (vợ /chồng), quan hệ huyết thống (cha,

mẹ, anh, chị, em), quan hệ nuôi dưỡng (cha mẹ nuôi, con nuôi) và / hoặc quan

hệ giáo dục (sư phụ và học trò). Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua

một quá trình phát triển lâu dài. Trên thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và

những tác động mạnh mẽ đến xã hội. Nên gia đình thuộc về phạm trù cộng

đồng xã hội – xét về mặt xã hội học. Vì vậy, có thể xem gia đình như một

nhóm xã hội nhỏ gắn kết với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống

hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức

với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên, cũng như để

thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.

Tuy nhiên, đối với các chứng bệnh mang yếu tố di truyền như THA, thì quan

hệ huyết thống (cha - mẹ - anh - chị - em ruột, ông nội - ngoại, bà nội - ngoại)

xét thấy chủ yếu và phù hợp nhất.

Theo Nguyễn Lân Việt và cộng sự: “các nghiên cứu về hộ gia đình cho thấy

THA xảy ra thường xuyên hơn ở những cá thể có tiền sử gia đình mắc bệnh

THA, và những cá thể này có nguy cơ THA cao hơn 1,6 lần nếu họ có người

thân trực hệ bị THA. Xu hướng này được gọi là sự “gắn kết gia đình” và có thể

quan sát thấy ở mọi mức HA trong tất cả các nhóm tuổi. Tuy nhiên, “sự gắn

kết gia đình” không chứng tỏ hoàn toàn được rằng yếu tố di truyền gây nên

(Nguồn: Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012))

THA. Sự tương đồng về nguy cơ THA có thể do có cùng môi trường sống”.

16

“Đối với các mức HA, các nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trẻ sinh đôi cùng

trứng có hệ số tương quan cao hơn so với trẻ sinh đôi khác trứng, tỷ lệ mắc

THA của trẻ sinh đôi khác trứng cũng cao hơn so với trẻ sinh đôi cùng trứng.

các nghiên cứu trên trẻ sinh đôi giúp ước tính độ di truyền của mức HA ở vào

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012)).

khoảng 50-70%”.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoàng, Đặng Vạn Phước và CS (2004)

cho thấy: tỷ lệ BN THA có tiền sử gia đình về bệnh tim mạch sớm ở Long An

chiếm 1,5% / 17người, tỉ lệ này ở nam (1,2% / 07người) và nữ (1,8% / 10

người) khác nhau và không có ý nghĩa thống kê (p = 0,42).

* Nhóm yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được:

 Số năm đi học và sự liên quan với THA: số năm đi học càng nhiều thì kiến

thức về các yếu tố nguy cơ gây THA càng dễ ý thức hơn và dễ điều chỉnh

được thói quen sinh hoạt hơn theo hướng tích cực (Kenkel, D. (1995)).

 Hút thuốc lá và sự ảnh hưởng đến HA: Theo tiêu chuẩn của nghiên cứu

COMMIT (Community Intervention Trial). Người đang có hút thuốc lá ít nhất

mỗi ngày 1 điếu và đã hút ít nhất 100 điếu trở lên trong suốt quãng đời thì

(Lynn W.R, Thompson B (2000))

được xem là người có hút thuốc lá. Và ngược lại.

Theo Trương Tấn Minh và CS, thuốc lá là yếu tố nguy cơ tim mạch chính đã

được khẳng định từ những nghiên cứu của Framingham, mà trong đó những

người hút thuốc sẽ bị nguy cơ tim mạch tăng gấp 10 lần so với những người

không hút thuốc. Ngày nay, những nghiên cứu mới cho thấy, thuốc lá không

chỉ tác động lên quá trình rối loạn nội mạc trong tiến trình gây xơ vữa, mà còn

tác động trong giai đoạn cấp. Với chỉ cần một điếu thuốc đủ để làm tăng sự

kích hoạt tạo huyết khối (Trương Tấn Minh và cộng sự (2004)).

Thuốc lá tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành những cục máu đông ở

các ĐM vành bị tổn thương do các đám xơ vữa, gây co thắt, tắc động mạch

dẫn đến nhồi máu cơ tim.

17

Hút 01 điếu thuốc tức là đã tự mình làm mất đi 5,5 phút cuộc sống. Tuổi thọ

trung bình của người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút thuốc từ 05

đến 08 năm. Hút thuốc làm tăng tỷ lệ tử vong từ 30 đến 80%, chủ yếu là do

các bệnh ung thư (ung thư phổi), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, các bệnh tim

mạch. Mức độ tăng nguy cơ phụ thuộc vào tuổi bắt đầu hút (hút thuốc càng

sớm thì nguy cơ càng cao), số lượng thuốc hút trung bình với đơn vị là

bao/năm tính bằng cách lấy số bao thuốc hút trung bình hàng ngày nhân với số

năm hút (số lượng thuốc hút bao/năm càng lớn thì nguy cơ càng cao) và thời

(Barnes and others(2008)).

gian hút càng dài thì nguy cơ cũng càng lớn.

Khi hít khói thuốc vào sẽ gây ra một số tác động ngay lập tức lên tim và mạch

máu. Hút thuốc kích thích hệ thống thần kinh tự động của tim. Trong phút đầu

của quá trình hút thuốc nhịp tim bắt đầu tăng lên, có thể tăng tới 30% trong 10

phút đầu hút thuốc. Nhịp tim có thể giảm xuống từ từ nếu tiếp tục hút thuốc,

nhưng không bao giờ trở về bình thường nếu chưa ngừng hút.

Một tác động quan trọng khác là gây THA cấp tính. Trong một số nghiên cứu

cho thấy rằng HA trở về bình thường giữa các lần hút thuốc nhưng nếu hút

nhiều lần trong ngày dẫn đến THA trung bình. Hút thuốc cũng làm THA dao

động. Trong khi THA có thể dẫn đến các bệnh tim mạch, THA dao động thậm

chí còn nguy hiểm đến tim hơn.

Hút thuốc còn làm giảm tác dụng điều trị THA. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng

hút thuốc làm mất tác dụng của thuốc điều trị THA. Một cơ chế mà hút thuốc

làm mất tác dụng của thuốc là do nó kích thích gan sản xuất ra enzym vào

(website Thông tin về hút thuốc lá)

trong máu làm hạn chế tác dụng của thuốc.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoàng, Đặng Vạn Phước và CS (2004)

cho thấy: tỷ lệ BN THA từng có hút thuốc lá chiếm 37,83% / 429 người. Tỉ lệ

BN THA hiện tại đang hút thuốc lá chiếm 23,4% / 265 người. Tình trạng hút

thuốc lá giữa hai giới khác nhau và có ý nghĩa thống kê (p = 0,001).

18

Còn kết quả nghiên cứu của Trần Văn Huy (2007) cho thấy: tỷ lệ người có hút

thuốc lá tại tỉnh Khánh Hòa là 213/615= 34.63%, trong đó nam có tỷ lệ

65.72% (186 / 283) và nữ 8,13% (27 / 332).

Uống rượu / bia và sự liên quan với THA:

Các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến THA,

đồng thời cũng làm tăng tỷ lệ tai biến mạch máu não và bệnh thận.

Theo Hội Tim Mạch Học Quốc Gia Việt Nam, “Các yếu tố nguy cơ thường

gặp của bệnh tim mạch” cho thấy: khi uống quá nhiều rượu (là nhiều hơn một

đơn vị uống: tương đương 60ml rượu vang, 300 ml bia, hoặc 30 ml rượu nặng)

mỗi ngày rất có thể có hại cho sức khoẻ. Lúc đó rượu có thể làm THA, tăng

nguy cơ tổn thương gan và biến chứng thần kinh trung ương, cũng như gây ra

( Phạm Mạnh Hùng, Phạm Gia Khải (2008)).

rất nhiều rối loạn khác, nhất là các rối loạn về huyết áp và tim mạch.

Theo Nguyễn Lân Việt và công sự, “những nghiên cứu cắt ngang đã chỉ ra

những người uống nhiều rượu có trị số HA cao hơn và tỷ lệ hiện mắc THA cao

hơn. Lượng rượu tiêu thụ tăng cao gấp ba lần lượng rượu tiêu chuẩn cho phép

mỗi ngày sẽ làm tăng gấp 2 lần nguy cơ THA. HA giảm trở lại trong vòng vài

ngày sau khi ngừng uống rượu. Giả thuyết cho rằng, HA tăng là do hệ thống

hoạt hóa thần kinh giao cảm hay do ảnh hưởng của hệ thống vận chuyển điện

tử tế bào. Dữ liệu báo cáo gần đây nhất của NHANES (National Health and

Nutrition Examination Survey: Y tế quốc gia và khảo sát kiểm tra dinh dưỡng)

cho rằng có thể có mối quan hệ nhân quả giữa chế ăn và HA ở các vùng dân cư

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012))

trong phạm vi nước Mỹ”.

Ăn mặn và THA: lượng muối tiêu thụ của mỗi người ở mức bình thường là

6gr / ngày (tương đương một muỗng cà phê muối).

Ăn mặn là ăn nhiều muối (NaCl) hoặc các thức ăn chứa nhiều muối mặn như

mắm tôm, mắm tép, nước mắm, dưa cà muối. Các nghiên cứu đã chứng minh

rằng: ăn nhiều muối mỗi ngày sẽ gây THA và đột quỵ, chẳng hạn những người

ăn 1,6-8g muối/ngày thì có 15% bị THA; người ăn trên 8g muối/ngày có đến

19

30% bị THA. Còn người ăn dưới 1,6g muối/ngày thì rất ít bị THA. Cơ chế là:

trong cơ thể, nước chiếm từ 60-70% khối lượng, muối có chức năng điều hòa

lượng nước của cơ thể, giúp kiểm soát khối lượng máu, điều hòa huyết áp. Nếu

ăn nhiều muối, áp suất thẩm thấu trong máu tăng lên khiến lượng nước vào

máu phải tăng lên, dẫn đến tăng khối lượng tuần hoàn, làm THA và tăng gánh

nặng cho tim. Ăn mặn còn gây thải canxi ra đường tiểu dẫn đến tăng nguy cơ

loãng xương. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều

muối thì tần suất mắc bệnh THA tăng cao rõ rệt. Do vậy, người dân ở vùng

biển thường có tỉ lệ mắc bệnh THA cao hơn nhiều so với những người ở đồng

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012))

bằng và miền núi.

Ngoài ra, ăn mặn còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư dạ dày, sỏi thận,

thận nhiễm mỡ.

Theo Nguyễn Lân Việt và công sự, “một nghiên cứu đa trung tâm được điều

hành bởi nhóm INTERSALT đã chứng thực mối liên quan giữa sự tăng lượng

natri ăn vào và THA sau khi đã hiệu chỉnh các biến nhiễu như tuổi, giới, BMI,

lượng kali ăn vào và lượng rượu hấp thụ. Trong nghiên cứu này, 10.079 người

từ độ tuổi 20-59 đã tham gia, mà trong đó 8344 người có HA bình thường. Tuy

vậy, không phải tất cả những người ăn lượng natri cao đều bị THA.

Nghiên cứu của Dahl và Heine trong suốt 30 năm đã chỉ ra mối tương quan

tuyết tính giữa HA trung bình và lượng muối ăn vào mỗi ngày < 50mmol có

chỉ số HA thấp hơn. Hạn chế lượng muối ăn vào của BN THA sẽ làm giảm trị

số HA khoảng > 10mmHg, Với lượng muối ăn vào nhiều hơn, HA tăng lên ở

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012))

cả những vùng có tỷ lệ hiện mắc béo phì thấp”.

 Béo phì và sự liên quan với THA:

Theo tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì của WHO năm 2004: được gọi là béo phì

khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người từ

20

30% trở lên. Ta dựa vào chỉ số khối cơ thể (BMI: Body Mass Index) để đánh

BMI

giá tình trạng béo phì theo công thức:

với P: trọng lượng cơ thể (kg)

P 2H H: chiều cao (m);

H2: chiều cao bình phương(m2)

Chẩn đoán là béo phì khi BN có chỉ số BMI  23 theo bảng 2.4 dưới đây:

Bảng 2.4: Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì của WHO năm 2004

PHÂN LOẠI BMI ( Kg/ m2)

< 18,5 GẦy

Bình thường 18,5 - 22,9

Có nguy cơ 23 -24,9

Béo phì Béo độ 1 25 - 29,9

(Nguồn: WHO Expert Consultation (2004)

Béo đỘ 2  30 (  23 )

Theo Nguyễn LânViệt và CS, béo phì là yếu tố nguy cơ có ý nghĩa trong THA.

Cứ mỗi 5% khối lượng cơ thể tăng thêm thì sẽ THA từ 20-30%. WHO đã phân

thành 4 nhóm: những người có BMI < 18,5-24,5 được coi là thiếu cân, những

người trên mức này là thừa cân hoặc có nguy cơ, và những người có BMI  30

kg/m2 được coi là béo phì, khi mà lượng mỡ của cơ thể ảnh hưởng đến THA còn

gọi là tăng sự kháng insulin. Mỡ của cơ thể, đặc biệt là mỡ bụng, có thể làm tăng

acid béo trong thành mạch máu, làm tăng sự kháng insulin dẫn đến THA và gây ra

các biến chứng chuyển hóa khác. Người Đông Á đã được chứng minh họ thường

có tỷ lệ lượng mỡ toàn phần trong cơ thể cao hơn người da trắng, đặc biệt là lượng

mỡ vùng bụng lớn hơn cho dù BMI nhỏ hơn so với người da trắng. Nghiên cứu

của Ko và cộng sự đã chỉ ra rằng, điểm cắt của BMI có liên quan đến THA ở

những người Trung quốc - Hồng Kông thấp hơn người da trắng (23,8 so với 25 kg/m2 ).

21

Một chế độ ăn nhiều chất béo được coi là một trong những nguyên nhân gây tỷ lệ

hiện mắc THA cao tại Nga và Phần Lan. Theo tính chất vùng địa lý, nơi nào có

lượng tiêu thụ acid béo bão hòa thì nơi đó tỷ lệ THA hiện mắc thường tăng, và

ngược lại. Điều này có thể giải thích tại sao HA của những người sinh sống ở

(Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và cộng sự (2012))

những vùng ít ăn thịt, nhìn chung, thấp hơn những người có chế độ ăn hỗn tạp.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoàng, Đặng Vạn Phước và CS (2004)

cho thấy tỉ lệ béo phì của tỉnh Long An chiếm 13,5% / 153 người và có sự

khác biệt giữa nam và nữ: nam 9,2% / 53 người, nữ 17,9% / 100 người.

 Hoạt động thể lực và sự liên quan với THA: đời sống nếu thiếu vận động rất

dễ gây béo phì, dễ đưa đến THA.

Theo Hội Tim Mạch Học Quốc Gia Việt Nam (Các yếu tố nguy cơ thường gặp

của bệnh tim mạch), việc vận động hàng ngày đều đặn ít nhất 30 phút mang lại

lợi ích rõ rệt trong giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Người ta đã chứng minh việc

tập luyện thể lực thường xuyên làm giảm nguy cơ xuất hiện nhồi máu cơ tim

đồng thời nâng cao khả năng sống sót khi xảy ra nhồi máu cơ tim. Tập luyện

dường như cũng có tác động tích cực tới các yếu tố nguy cơ khác. Người ta

cho rằng lợi ích của tập luyện là ở việc giảm cân nặng, tăng khả năng dung nạp

đường, tăng sức mạnh cơ tim, giảm căng thẳng, hạ HA. Các hình thức luyện

tập được khuyến cáo là tập đều, mỗi ngày ít nhất 30 phút, tập đủ mạnh để làm

ấm cơ thể, thở nhanh, ra mồ hôi vừa là đạt yêu cầu.

- Người được xem là có vận động thể lực thường xuyên khi tập luyện đều đặn

hằng ngày ( 3 ngày/ tuần với thời gian  30 phút mỗi lần tập) như bơi lội, đá

bóng, hít xà đơn.

- Người được xem là ít vận động thể lực thường xuyên là đối tượng không tập

luyện hay tập luyện không đều đặn (< 3 ngày/ tuần).

- Người được xem là không vận động thể lực là đối tượng không hề tập luyện

( Boon-Lock C (1996))

trong suốt các ngày của tuần (<=0 ngày/ tuần).

22

2.1.6. Yếu tố khác tác động đến HA – yếu tố lễ Phật (l ạy Phật):

Lễ Phật là một yếu tố kinh tế - xã hội, và đôi khi trở thành thói quen sinh hoạt

hàng ngày của mọi người. Lễ Phật cũng là một hình thức tập luyện thể lực tại

chỗ mà nhiều người có đạo Phật thích áp dụng, nhằm tác động tích cực đến

lượng máu lưu thông tuần hoàn khắp cơ thể và giúp giảm đi trọng lượng cơ

thể. Theo các chuyên gia về Phật học, tuy hành vi lễ Phật có vẻ nhẹ nhàng,

nhưng tất cả các bắp thịt và mạch máu toàn thân đều được vận động đến mức

tối đa.

Với Phật Giáo Tây Tạng, lạy Phật là một pháp tu căn bản. Trong truyền thống

này, khi bắt đầu những kỳ nhập thất dài hạn, thường kéo dài ba năm ba tháng

ba ngày, các vị Lạtma lạy một trăm ngàn lạy. Mỗi ngày từ sáng đến tối chỉ

thực hành lạy Phật. Trung bình mỗi ngày lạy được ba ngàn lạy, và cứ lạy liên

tục như thế trong ba tháng mười ngày thì đủ một trăm ngàn.

Có nhiều người thắc mắc: không hiểu lạy Phật như thế có lợi ích gì?

Lễ Phật đối với các tu sĩ: là giai đoạn chuẩn bị cho thời gian "hạ thủ công phu"

để nỗ lực tinh tấn trên con đường khai triển tuệ giác. Sự chuẩn bị này được chú

trọng trên cả hai phương diện thân và tâm.

Sau giai đoạn lễ Phật đó, tâm hồn hành giả thơ thới, thân thể tráng kiện. Khi

đó vị hành giả cảm thấy như mình được tái sinh từ thể xác đến tinh thần. Phải

hội đủ những điều kiện cần thiết đó thì công cuộc khổ tu của những tháng năm

đến mới thành tựu viên mãn. Chúng ta cũng biết, Tây Tạng là một nước ở trên

núi Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm.

Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt như thế, nếu không có một thân thể cường

tráng, một ý chí mãnh liệt thì khó có thể tiếp tục công việc tiến tu. Do đó, sự

hành trì lễ lạy là một phương pháp tốt để đạt được mục tiêu cao cả.

Và họ cứ lạy từ sáng đến chiều và từ ngày này sang ngày nọ. Tấm ván dùng để

lạy trở nên bóng loáng và chỗ hai bàn tay chống xuống bị lõm sâu xuống. Điều

đó chứng tỏ họ đã lạy không biết bao nhiêu ngàn vạn lạy rồi.

23

Qua những khảo sát thực tế đó, ta cũng hiểu được: Tại sao dân Tây Tạng

có thể sống khoẻ mạnh trên đỉnh núi tuyết, lạnh lẽo và thiếu dưỡng khí? Làm

thế nào để có được tín tâm vững chãi nơi Tam Bảo? Làm sao để thành đạt kết

quả tu tập? Họ thành tựu được là nhờ công phu lễ Phật. Chính việc Lạy Phật

đã giúp cho dân Tây Tạng sống khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần, có tín tâm

(Thích Trí Hoằng (2011))

kiên cố nơi Tam Bảo, và thành tựu sự nghiệp tu chứng.

 Lễ Phật đối với các cư sĩ - Đứng ở giác độ y học: việc lễ Phật có công năng

lợi ích vô cùng lớn lao, đạt được trên cả hai phương diện thể xác và tinh thần:

 Về phương diện sức khỏe (thể xác):

Lễ Phật khiến hầu hết các bắp thịt đều vận động tốt – nhất là cơ bụng, trung

tâm chi phối toàn bộ lực và chịu trọng lực của cơ thể. Cử động lễ Phật giúp khí

huyết toàn thân lưu chuyển nhanh và tốt. Còn so với khi đi bộ, chúng ta chỉ

vận động nhiều bắp thịt ở chân. Bơi lội cũng giúp chúng ta cử động toàn thân,

nhưng không phải ai cũng xuống nước được (những người Viêm tai giữa,

Viêm tai xương chũm không thể bơi lội). Vì trong lúc lễ Phật các huyệt đạo

quan trọng trên cơ thể sẽ được tác động liên tục. Từ huyệt Bách Hội trên đỉnh

đầu xuống đến huyệt Đan Điền, dọc theo xương sống và các huyệt ở tay –

chân, luôn cảm thấy có một luồng khí nóng chạy đều khắp cơ thể, và mồ hôi

theo các lỗ chân lông tuôn ra khi lễ Phật. Theo y học Đông phương, một khi

các huyệt đạo trên cơ thể được tác động, khí huyết sẽ lưu chuyển nhanh chóng

hơn, giúp chữa trị được các chứng thấp khớp, cũng như phòng ngừa các chứng

(Thích Trí Hoằng (2011))

bệnh hiểm nghèo.

Mặt khác, khi ta cúi xuống lễ Phật rồi ngẩng đầu lên, thì toàn bộ các khớp

xương sống đều giãn đến mức tối đa, các lượng máu lưu thông tuần hoàn tới

não dễ hơn so với tư thế đứng (trong khi ở tư thế đứng, máu ít được lên não

hơn). Khi lượng máu lên xuống não thường xuyên dễ dàng như thế, lâu dần sẽ

giúp bền vững thành mạch não, khiến các bệnh về mạch máu não, tai biến não,

24

đột quỵ và THA khó lòng xảy ra, các bệnh tim mạch cũng khó lòng xuất hiện.

Các động tác cúi xuống - ngẩng lên giúp máu lưu thông nhanh hơn ở toàn bộ

và hai bên cột sống từ đốt sổng cổ I cho đến đốt sống cuối cùng (xương cùng

cụt) giúp triệt tiêu được các bệnh về cột sống như: đau lưng, Thoái hóa cột

sống, Thoát vị đĩa đệm, Viêm thần kinh tọa, Gai cột sống, Gai gót chân và các

(Thích Chân Quang (2008)).

bệnh về thận, tim, mạch máu.

 Về mặt kinh tế: việc lễ Phật cũng giống như hít xà đơn, bơi lội, chạy bền.

Nhưng tiện lợi hơn là điều này không cần tốn kém chi phí về sân tập, quần áo

thể dục, hay dụng cụ thể dục thể thao, chỉ cần có bàn thờ tượng Phật ở nhà,

hoặc ta có thể vào bất cứ chùa nào, bất cứ lúc nào cũng lễ lạy được và luôn

được hoan nghênh, miễn ta có tâm thành và có khoảng không gian bằng chừng

chiếc chiếu là đủ. Lễ Phật cũng không cần tập hợp số đông người để đông thì

(Thích Trí Hoằng (2011)).

vui hơn, chỉ một mình là đủ.

 Về phương diện tinh thần:

Tâm của người lễ Phật luôn được an vui thanh thản, họ trở nên khiêm tốn và lễ

độ hơn với mọi người. Theo lời các vị Lạt ma ở Tây Tạng: do các trọng huyệt

nằm dọc theo cột sống đều tương ứng với các luân xa trong truyền thống Yoga

Ấn Độ, các luân xa này nằm dọc theo xương sống từ đỉnh đầu xuống đến bàn

tọa (gồm bảy luân xa) một khi được tác động thường xuyên, sẽ giúp người lễ

Phật khai triển được những năng lực mầu nhiệm tiềm tàng trong con người, tạo

điều kiện thuận tiện cho việc phát triển tâm linh. Lễ Phật cũng là phương pháp

điều tâm để thanh tịnh ba nghiệp: thân, khẩu và ý (tư tưởng, ngôn ngữ và hành

động). Theo các nhà nghiên cứu Phật học, công năng lễ Phật được thể hiện ở

nhiều điều mà ngay chính bản thân người thường xuyên lễ Phật mới có thể

cảm nhận được như: luôn gặp may mắn và những điều tốt đẹp; Thường được

tai qua nạn khỏi một cách không ngờ. Ngoài ra, người ngoài cũng nhận thấy

được người lễ Phật có sắc thân tốt tướng hơn và dung nhan trở nên sáng sủa,

25

đẹp hơn; có tâm dũng mãnh, không hề sợ sệt giữa đông người, không nao núng

trước cường quyền bạo lực; khi phát ngôn, nói ra toàn điều đúng, nếu không,

(Thích Trí Hoằng (2011)).

thì họ không nói; và người lễ Phật hầu như ít / không lầm lỗi.

“Sau thời gian dài chịu khó lễ kính Phật, chúng ta sẽ thấy xuất hiện nhiều dấu

hiệu tốt lành của công đức. Tuy nhiên ta chỉ nên chú ý đến một trong những

dấu hiệu thuộc về đạo đức, đó là trí tuệ thấy được lỗi của mình. Tại sao thấy

được lỗi lại là công đức? Bởi từ trước tới giờ, chúng ta ít nhận ra lỗi của mình,

thường tự cho mình đúng, thường tự bênh vực ý nghĩ và việc làm của mình, từ

đó gây rất nhiều nghiệp bất thiện mà không biết. “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh

sợ quả” là vậy. Bồ tát có trí tuệ nên tránh sai lầm ngay từ đầu, còn chúng sinh

đến khi thấy quả báo hiện ra khổ sở thì mới biết sợ! Vì thế, nhờ công đức lễ

Phật mà chúng ta mỗi ngày tránh xa dần lầm lỗi và nhân cách cao vời lên rõ

rệt” (Thích Chân Quang (2006)).

“Chí thành lễ bái với lời tán thán công hạnh thì một thời gian sau, tâm chúng

ta trở nên bất động vững vàng trước ngoại cảnh - Đó là lợi ích lớn lao nhất cho

tinh thần một con người.

Ca ngợi Phật điều gì, ta sẽ thành tựu điều đó nơi chính mình. Rất nhiều gia

đình cư sĩ cùng nhau lễ lạy suốt rồi cũng thấy rất nhiều điều tốt đẹp đưa đến

cho họ và gia đình. Thậm chí khi chúng ta phát nguyện và lễ Phật khoảng vài

ba năm như vậy thì lời nguyện đó trở thành xương tủy, thành chủng tử cho

nhiều kiếp về sau và tồn tại mãi không hết, đưa đến rất nhiều tốt lành về công

(Thích Chân Quang (2006)).

đức”.

 Mục đích lễ Phật: vì ta tôn kính Phật nên mới lễ Phật. Khi hạ mình, cúi đầu

xuống sát đất lễ Phật là để thu nhỏ bản ngã cho đến dần dần triệt tiêu được bản

ngã, chuyển hóa tâm kiêu mạn. Để cảm nhận trùng trùng ơn nghĩa trên thế

gian mà mình đã thọ ơn. Để thấy những thành tựu của mình là do công tác

thành của rất nhiều người. Thấy những thành đạt của mình chỉ là giọt nước

26

trong đại dương bao la. Và cảm nhận mình chỉ là một hạt cát trong vô vàn cát

bụi dưới chân Phật đã đi qua. Từ đó tâm khiêm nhường phát sinh - Đó là cửa

ngõ của trí tuệ và là con đường đưa đến giải thoát mà đức Phật đã dạy. Như

thế cũng là đạt được hạnh khiêm tốn, luyện tập được tâm vô ngã, rất ích

(Thích Trí Hoằng (2011)).

lợi cho cộng đồng và xã hội.

Còn những người tuy chưa vào đạo (chưa quy y) nhưng có cảm tình với Phật

pháp, nên họ vẫn thích lễ Phật như những người bạn khi cùng vào chùa, đồng

thời họ cũng nhận thấy được những ích lợi về sức khỏe như đã trình bày ở

phần trên về Lễ Phật. Điều này có được là do quá trình thu thập dữ liệu, tác giả

đã phỏng vấn, tìm hiểu cặn kẽ thêm từ nhiều người ở nhóm k THA về thói

quen lễ Phật khi họ chưa phải là Phật tử.

Như vậy, điều kiện cần và đủ cho việc lễ Phật đúng cách là:

 Điều kiện Cần: “muốn lễ Phật phải hiểu được Phật và có lòng tôn kính Phật

đạt đến tuyệt đối: mỗi khi lạy Phật đều cảm thấy thân tâm này, mạng sống này

là dâng lên Phật, từng ý nghĩ đều theo Phật (thì người này về sau sẽ chứng

thành đạo quả vô lượng vô biên). Muốn có tâm thành như thế thì nên lễ kính

Phật một mình. Vì nếu lễ Phật chung với mọi người, ta dễ bị phân tâm trong

lời tụng và cử động nên không dồn hết được tâm thành. Còn khi lễ kính một

mình, không bận tâm về nghi thức thì mới dồn hết được tâm thành để tôn kính

Phật vô lượng vô biên” (Thích Chân Quang (2006)).

“Nên bố trí bàn thờ Phật nơi kín đáo, không nên để bàn thờ trên cửa phòng,

nơi người ta thường đi ra đi vào phía dưới. Góc thờ Phật phải tách rời với sinh

hoạt hoặc tiếp khách để cho việc thờ cúng được trang nghiêm và việc lễ bái

được thanh tịnh. Không nên chỉ thắp nhang, gõ chuông mà xem như đó là lễ

Phật. (Thích Chân Quang (2006)).

Như vậy, lễ Phật nếu không có tượng / hình Phật trước mặt thì cũng được,

nhưng phải cảm niệm là có Phật đang ở trước mặt. Có bàn thờ tượng Phật là

tốt nhất. Còn nếu chỉ lễ lạy khơi khơi, không có tượng Phật, không có hình

27

Phật, cũng không có sự tưởng niệm nào về công đức vô lượng của đức Phật thì

khó thể gọi đó là lễ Phật. Điều này không phải là duy tâm. Mà vì đạo Phật là

một khoa học, có tình có lý, có nhân có quả.

 Điều kiệu Đủ: “lễ Phật nên lễ từ 10 lễ trở lên thì mới có tác dụng tích cực lên

các khớp xương, mạch máu, tim mạch, nội tạng và HA.

Khi lạy hai tay chắp ngang trán, đưa xuống ngực rồi lạy xuống sát đất. Điều

này biểu tượng cho "thân tâm cung kính lễ" (đem thân đoan nghiêm và tâm

thành kính để lễ lạy). Lúc lạy xuống, hai tay, hai chân và trán phải chấm đất

(ngũ thể đầu địa: năm phần của thân thể đều chạm đất). Trong khi lạy, nên

cố gắng kết hợp cả ba phương diện: thân đứng nghiêm chỉnh cử động nhịp

nhàng hoà hợp, hơi thở đều đặn, tâm quán tưởng đến Phật, Bồ Tát. Chúng ta

nên đứng thẳng người rồi mới phủ phục để lạy, sau đó đứng thẳng lên. Như thế

các bắp thịt khắp châu thân sẽ được vận động tốt hơn (trừ người bị yếu chân,

đau gối thìcó thể quỳ lạy) (Thích Trí Hoằng (2011)).

“Khi lễ Phật, nên phát những lời nguyện kèm theo chứ đừng lễ lạy suông. Thí

dụ, nếu nhận thấy mình kém tinh tấn thì hãy phát nguyện cầu tinh tấn: “Xin

cho con được dũng mãnh tinh tấn, dù gặp khó khăn trở ngại nào cũng không

bao giờ thoái tâm, dù trong hoàn cảnh nào, con cũng vẫn siêng năng tu tập để

thành tựu được đạo quả”. Một thời gian sau, ta sẽ thấy sự tinh tấn rõ rệt không

ngờ! Chúng ta phát nguyện khoảng vài ba năm như vậy, thì lời nguyện đó đã

trở thành xương thành tủy, thành chủng tử cho nhiều kiếp về sau. Dù sau này,

ta không phát ra lời nguyện đó nữa, mà chuyển qua phát lời nguyện khác, thì

lời nguyện tinh tấn đó vẫn tồn tại mãi không hết” (Thích Chân Quang (2006)).

Như vậy, đứng ở gi ác độ Y học, thì Lễ Phật và HA có mối tương quan rất

mật thiết mà rất nhiều nhà Phật học đã tuyên bố. Tuy rằng đã cố công hết sức,

nhưng tác giả vẫn chưa tìm thấy được công trình Nghiên cứu khoa học thực

thụ nào về vấn đề Lễ Phật, hoặc có thể có nhưng chưa công bố. Những minh

chứng kế tiếp dưới đây mà tác giả dẫn chứng, nhằm làm rõ hơn về tác động

của Lễ Phật đến sức khỏe nói chung và HA nói riêng:

28

 Theo sư Sám Vân: “Lạy Phật là vận động tốt nhất, còn tốt hơn khí công và thái

cực quyền.

 Theo Dần Nguyệt: “Lạy Phật có hiệu quả điều chỉnh xương sống, cường hoá

nội tạng, làm tăng thêm tế bào mang dưỡng khí.

Con người hiện nay bị rất nhiều áp lực, tinh thần căng thẳng, cơ bắp toàn thân

cũng tự nhiên căng cứng theo. Lại thêm vì thiếu vận động, cột xương sống trở

nên cứng nhắc, rất khó uốn cong. Đứng về mặt y học mà nói, kẻ hở giữa

những đốt xương trên cột sống là nơi thần kinh và mạch máu đi qua. Thần kinh

nơi tủy sống phụ trách quản lý các cơ quan nội tạng. Nếu khoảng cách giữa

những đốt xương sống quá sát, thì sẽ chèn ép dây thần kinh và mạch máu. Cho

nên, nếu thần kinh và mạch máu ở đốt xương sống nào đó bị chèn ép, thì đốt

xương sống đó có vấn đề. Những chức năng của cơ quan nội tạng nào được sự

giúp đỡ của dây thần kinh và mạch máu đó sẽ từ từ hư hoại. Bởi vì tư thế

không đúng, cơ bắp căng cứng khiến xương cột sống đè lên nhau quá sát, máu

chảy không thông, thần kinh mạch máu bị ảnh hưởng, nên không thể đưa chất

dinh dưỡng và dưỡng khí đến cung cấp cho những tế bào trong cơ quan nội

tạng. Tế bào thiếu dưỡng khí sẽ dễ dàng trở thành tế bào ung thư. Cho nên,

điều này có liên quan rất lớn đến bệnh ung thư. Vì vậy chúng ta lúc bình

thường điều chỉnh các tư thế và động tác đi đứng nằm ngồi phối hợp với hơi

thở, sẽ có ảnh hưởng tốt đối với tình trạng bệnh tật.

Động tác lạy Phật đúng, giúp tiêu trừ những chướng ngại về mặt sinh lý và tâm

lý. Động tác lạy Phật nếu đúng có thể giúp ích cho việc trị liệu. Vì lúc lạy Phật

phải cúi đầu xuống một cách dịu dàng, đến mức cằm đụng sát ngực, động tác

này có thể giúp cột xương cổ gồm bẩy đốt kéo giãn ra, đem lại những lợi ích

sau đây:

1. Lượng máu dồn về bộ não đầy đủ:

Chỉ có hai đường huyết quản dẫn máu lên bộ não. Đường thứ nhất là động

mạch cổ, đường thứ hai là động mạch xương sống. Động tác này khiến động

29

mạch xương sống không bị đè ép, lượng máu và dưỡng khí cung cấp bộ não sẽ

thông suốt và nhiều hơn, do đó giúp nâng cao công năng bộ não.

2. Dịch tủy xương sống và não (cererospinal fluid) lưu thông hơn:

Dịch tủy xương sống và não là lớp chất dịch tuần hoàn ở vòng ngoài tủy sống

và bộ não, cũng như bên trong não thất. Nó có những công năng: Điều tiết sức

ép của não; Bảo vệ não; Cung cấp chất dinh dưỡng; Chuyển đưa các chất thải.

Nếu tư thế của đầu và cổ không đúng, góc độ không ngay, thì lớp tủy sống và

não như bị ngâm trong nước ứ đọng không tươi mới, sức ép não cũng bất bình

thường, dễ bị chứng nhức đầu, choáng váng. Động tác lạy Phật có thể giúp cho

chất dịch của tủy sống và bộ não lưu thông, giúp tăng cường công năng bộ

não, có thể chỉ huy tế bào toàn thân một cách thỏa đáng.

3. Giúp hệ thống thần kinh ở xương cổ không bị ép, phát huy được công năng:

Thần kinh ở những đốt xương cổ có liên quan mật thiết với những chức năng

của mắt, tim, HA, khí quản và nước miếng. Thần kinh của cánh tay cũng đến

từ xương cổ. Nếu hệ thần kinh trong xương cổ bị chèn ép, sẽ sinh ra các chứng

như đau nhức, tê bại. Nếu thường lạy Phật, cúi đầu nhè nhẹ, kéo giãn các đốt

xương cổ, thì có thể trị liệu những chứng bệnh ở các bộ vị nói trên.

Lạy Phật giúp điều chỉnh xương sống, trị dứt bệnh nhức lưng, đau hông.

Lúc cúi mình lạy xuống (cúi đầu, khom lưng, co gối), phải lấy gót chân làm

điểm tựa. Lấy gót chân làm điểm tựa là nguyên lý trọng tâm vật lý tự nhiên. Vì

như vậy cơ bắp mới không căng cứng, tốn sức. Phần bụng và ngực phải cố

gắng đưa về phía sau, đến có thể thấy được gót chân sau, mới cúi lưng xuống.

Tốt nhất cúi đến mức phần bụng dưới cũng có thể sát với đùi. Động tác này có

thể kéo giãn làm buông lỏng bắp thịt ở hai bên xương sống, khiến kẽ hở giữa

các đốt xương sống có thể kéo giãn ra. Làm như vậy sẽ có tác dụng cải thiện

rất lớn đối với nội tạng, hệ thần kinh và sự lưu thông máu huyết. Toàn bộ động

tác lạy, cũng như động tác quỳ xuống, thân tuy động mà trọng tâm giữ không

động. Đó gọi là nhất tâm - là định trong động.

30

Lại nữa, trong khi lạy Phật mắt đừng nhắm lại. Nếu nhắm mắt thì tư thế không

vững, công năng điều tiết HA cũng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, làn sóng não lúc

mở mắt và nhắm mắt khác nhau. Chúng ta lễ Phật là khai phát công năng của

tánh giác, khai phát công năng điều hành thống nhất cao cấp của não bộ,

chứ không phải sùng bái một cách mù quáng.

Lúc lạy Phật hai tay chắp lại, nhưng trước khi quỳ xuống thì hai tay buông nhẹ

ra hai bên, chống xuống đất, sau đó đầu gối mới quỳ xuống. Sau khi quỳ

xuống, lòng bàn chân hướng lên, thân người ngồi giữa mé trong của hai gót

chân. Động tác này giúp kéo giãn khớp xương cổ chân, đồng thời cũng kích

thích làm điểm phản xạ của tuyến lymph hoạt động, sau đó thân trên cúi

xuống, mặt úp ngay ngắn sát đất. Điều nên chú ý là mắt phải mở. Động tác này

có thể điều chỉnh lại cột sống của chúng ta. Con người vì muốn giữ tư thế

đứng thẳng quá lâu đã phải trả giá bằng sự đau lưng nhức hông. Nói chung,

khi người ta đứng, phần eo tương đối chịu lực, nên cột sống phần eo thường

cong lại về phía bụng. Như vậy sẽ khiến các đốt xương ở cột sống phần eo ép

chặt lại, tạo nên sức ép chướng ngại. Như vậy nó sẽ làm ảnh hưởng đến công

năng của các cơ quan nội tạng như gan, dạ dày, lá lách, ruột già, ruột non,

thận, bàng quang v.v… Lạy Phật có thể trị được những chướng ngại này. Đây

cũng gọi là tiêu trừ nghiệp chướng. Vì lạy Phật sửa cột sống phần eo cong vào

khiến cho nó thẳng lại, bằng cách đưa nó ra về hướng lưng. Đây cũng chính là

cách đẩy ra phần cột sống bị ép quá chặt, khiến nó được giãn ra, không còn bị

ép.

Lạy Phật khi quỳ xuống đầu sắp chạm đất, đồng thời hai tay duỗi ra trước một

cách nhẹ nhàng, mềm mại. Tay đưa ra cách đỉnh đầu khoảng một nắm tay,

đồng thời hai bên nách cũng cố mở rộng. Ý của nó là mở rộng tâm lượng của

chúng ta, cũng là làm tăng lượng thở của buồng phổi, mở rộng lòng độ lượng

và khai phá sức tự giác.

Sau khi tay đưa ra quá đầu, thì lật bàn tay lại khiến lòng bàn tay ngửa lên.

Động tác này biểu thị: Tôi nhất định phải chuyển hóa cảnh giới tâm linh của

31

mình, để tiếp nhận ánh sáng của Phật. Chúng ta lễ Phật có thể điều chỉnh hơi

thở, khiến hít ra thở vào triệt để và hoàn toàn. Vì vậy, lễ Phật cũng là loại khí

công rất tốt.

Khi chúng ta cúi xuống lễ Phật, động tác này giúp chúng ta thở ra một cách

triệt để, những chất khí dơ trong toàn thân và vùng phổi đều được xả bỏ sạch

sẽ. Lúc năm vóc mọp sát đất, vì bắp thịt toàn thân buông lỏng, không bị sức

cản, nên tự nhiên sẽ hít vào một cách rất sâu, rất đầy đủ. Theo nguyên lý động

lực học của huyết dịch, thì hít hơi thở vào sâu có tác dụng thu hút dòng máu

chảy thuận lợi trở về tim rồi bơm đi khắp nơi. Do đó trong khi lạy Phật, từng

tế bào trong thân chúng ta sẽ nhận được dưỡng khí và dinh dưỡng rất phong

phú, cho đến cảm nhận được không khí hoan hỉ, hạnh phúc của thế giới tâm

linh. Lúc lạy xong, chuẩn bị đứng dậy, cần phải mượn sức hít hơi thở vào để

(Dần Nguyệt (2000))

đứng lên, thì sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, đỡ nhọc mệt”.

(hình 2.1.6: cách l ễ Phật) (nguồn: - Tập san Pháp luân số 03; tác dụng lạy Phật)

32

(nguồn: Con đường phát triển tâm linh – Thư viện Hoa sen)

(hình 2.1.6’: chư tăng ni lễ Phật ở chánh điện)

 Lễ Phật và y học tác động đến toàn thân và ảnh hưởng tích cực đến HA:

theo chỉ dẫn của các sư phụ trong nhiều chùa, của thượng tọa Thích Chân

Quang và theo bác sĩ Quách Huệ Trân, tác giả tổng hợp thành phương cách có

tác dụng tích cực cho HA và tim mạch như sau:

a. Hai tay chắp lại trước ngực, khi quỳ xuống thì 2 tay chống xuống đất, sau

đó 2 đầu gối mới quỳ.

b. Sau khi quỳ gối , lòng 2 bàn chân hướng lên, thân người cúi xuống (lúc

này, khớp gối, đùi và hông đều được vận động). Lúc đó phần bụng và ngực

tự nhiên đẩy về phiá sau, đầu cúi thấp gần chạm đất đến có thể thấy được

gót chân sau thì cằm sẽ chạm ngực, và phần bụng sẽ sát với phần đùi.

c. Khi thân và đầu cúi xuống sắp chạm đất thì thở ra, để những khí dơ trong

thân và phổi được xả bỏ sạch sẽ. Lúc đó 2 tay đang chống xấp dưới đất, rồi

xoay 2 cổ tay ngửa lên (lúc này, cẳng tay, cánh tay, khuỷu tay và 2 khớp

33

vai đều được vận động nhịp nhàng, 2 bên nách tự động mở ra sẽ làm gia

tăng lượng thở của buồng phổi. Mặt úp sát đất trong tư thế cúi đầu tối đa sẽ

giúp lưu lượng máu đến não nhiều hơn, giúp gia tăng bền vững thành mạch

não. Lưu ý là mắt phải mở chứ không nhắm.

d. Lúc mọp sát đất thì bắp thịt toàn thân buông lỏng, không có sức cản nên tự

nhiên sẽ hít vào một cách đầy đủ. Bụng cũng ép sát vào 2 đùi (lâu ngày sẽ

giúp tan mỡ bụng). Lúc này người lễ Phật tưởng niệm đến công đức vô

lượng của đức Phật nên có sự tôn kính ngài tuyệt đối (vì thế mà được ảnh

hưởng 36 tướng tốt của đức Phật - có thể không đầy đủ là 36 tướng, nhưng

trên thực tế: dung nhan của người lễ Phật sẽ ngày càng sáng đẹp, hơn

những khoảng thời gian trước rất nhiều.

e. Khi toàn thân đã vận động như thế từ đầu, cổ, bắp chân cho đến bắp tay, kể

cả các khớp xương ở cổ - tay - chân – đều được xoay đều đặn, nhẹ nhàng

thì lượng máu đều được lưu thông khắp cơ thể một cách tự nhiên. Nhất là

máu đến não nhiều hơn so với tư thế đứng và tư thế ngẩng cao đầu. Vì thế

giúp tiêu trừ được các bệnh về khớp và mạch máu – thậm chí ung thư – và

ngăn chặn được tình trạng THA.

f. Chuẩn bị đứng dậy thì chống 2 tay và hít vào (như vậy sẽ không nhọc mệt

khi cần lạy từ 100 đến 500 lạy một lần).

Quá trình từ a đến f được gọi là một lạy. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các

thầy trụ trì, của thượng tọa Thích Chân Quang và nhiều đại đức ở nhiều chùa

khác nhau thì nên lạy từ 10 lạy trở lên, mới có tác dụng y học và công đức

thù thắng. Có rất nhiều người lạy Phật một lúc 500 lạy tại chánh điện (liên tục

trong hơn 2 giờ đồng hồ) là bình thường và cũng nhờ vào phương pháp trên

mà được. Lạy dưới 10 lạy cũng gọi là có lạy, nhưng không có tác dụng ngăn

(nguồn: tổng hợp từ thực tế tìm hiểu của tác giả và các lý thuyết về lễ Phật).

ngừa tình trạng THA.

2.2. Các cận lâm sàng hỗ trợ cho việc xác định về tình trạng THA:

Theo Phan Hải Nam và cộng sự, một số các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết:

34

 Tổng phân tích nước tiểu.

 Công thức máu toàn phần.

 Sinh hoá máu (kali, natri, creatinin, glucose, cholesterol toàn phần, HDL)

 ECG (điện tâm đồ).

 Xét nghiệm cơ bản:

 Độ thanh thải creatinine, vi đạm niệu, protein nước tiểu 24 giờ, calcium, axit

 Xét nghiệm tối ưu:

 Siêu âm tim – khi nào có điện tâm đồ (ECG) bất thường.

uric, triglyceride lúc đói, LDL cholesterol, glycosolated hemoglobin, TSH.

 Creatinine máu: đánh giá chức năng thận, mức lọc máu cầu thận qua GFR

(Glomerular Filtration Rate: độ thanh lọc). Nếu GFR quá thấp, nghĩa là thận

không còn khả năng loại bỏ các chất thải độc hại và nước dư thừa trong máu

và đó là tình trạng THA đã lâu. Tổn thương thận là một mối lo quan tâm vì nó

góp phần gây tổn hại HA. Bình thường. độ thanh lọc của nam (70 –

120ml/phút) cao hơn của nữ (64-130ml/phút). Suy thận mức độ trung bình

khi creatinin huyết tương khoảng 133 mmol/l (1,5 mg/dl) đối với nam và

khoảng 124 mmol/dL (1,4 mg/dL) đối với nữ.

Creatinine giảm trong THA ác tính, Viêm cầu thận cấp - mãn; Viêm bể thận;

Thiểu năng tim;. Khi Creatinine tăng sẽ có sự bài tiết 1 phần ở ống niệu, hoặc

khi thiểu niệu, lượng nước tiểu giảm thì sẽ bị tái hấp thu, nên bác sĩ thường

muốn xác định thêm với kết quả máu hoặc kết quả xét nghiệm nước tiểu.

 Protein niệu: (bình thường 0 – 0,2g/24h) được tính trong 24h để xem có

protein trong nước tiểu hay không? Nếu có, là dấu hiệu cho thấy thận đã bị

tổn thương, lượng protein càng cao chứng tỏ thận bị tổn thương càng nặng và

có thể bị tổn thương cả cơ tim. Protein niệu do bệnh thận là dai dẳng và

thường > 0,3 g/l. Protein niệu tăng cao nhất trong thận hư nhiễm mỡ (10-

50g/24h); Viêm tiểu cầu thận: >2-3g/l; hoặc Hội chứng thận hư (>2g/24h).

 Tổng phân tích nước tiểu: bao gồm tỷ trọng, Ph, Urobilinogen, Glucose

(Glu), Proteine (Pro), Ceton (Ket), Bilirubin (Bili), Hồng cầu (Ery), Nitrit

35

(Nit), Bạch cầu (Leu). Nhằm phát hiện Tiểu đường; Suy thận; Viêm cầu thận

cấp.

 Albumin niệu: là một xét nghiệm không bắt buộc nhưng nên làm thường

xuyên, vì vi albumin niệu là chỉ điểm cho việc tiên lượng nguy cơ tổn thương

sớm ở thận hoặc bệnh tim mạch và có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn thuốc

hạ áp. Xét nghiệm này thường được làm khi kết quả tổng phân tích nước tiểu

cho thấy đạm niệu âm tính.

 Lượng kali trong máu: nên đo lượng kali trong máu (bình thường là 3,5 –

5,5mmol/l). Vì khi thận bị suy, lượng kali có thể tăng cao trong máu, rất nguy

hiểm cho HA. Mặt khác, một số loại thuốc điều trị THA và suy thận cũng có

thể làm tăng lượng kali. Kali tăng trong trường hợp thiểu năng thận; vô niệu;

viêm thận; thiểu năng vỏ thượng thận (bệnh Addison). Kali giảm trong nhiễm

Cetonic trong tiểu đường, hoặc trong trường hợp dùng thuốc lợi tiểu quá

(Phan Hải Nam (2007))

nhiều.

2.3. Khảo lược lý thuyết hỗ trợ mô hình - Lý thuyết về Kinh tế sức khỏe:

“Các hành vi ảnh hưởng sức khỏe cá nhân:

Dựa vào mô hình nghiên cứu của Kenkel, D. 1995 – Nghiên cứu này sử dụng

mô hình kinh tế lượng để ước lượng hàm sản xuất sức khỏe (SK) nhằm phân

tích tác động của lối sống đến SK của người trưởng thành. Nghiên cứu này

xem các hành vi liên quan đến SK như ăn sáng, hút thuốc, và tập thể dục như

là những đầu vào cho hàm sản xuất SK. Hàm sản xuất SK có dạng: H = H

(L,S,X), trong đó H là đầu ra SK và là một hàm của ba yếu tố: hành vi (L),

giáo dục (S) và những yếu tố ngoại sinh ảnh hưởng tới năng suất của hàm (X).

Các yếu tố này cũng thể hiện mức độ khỏe mạnh trong quá khứ hoặc đại diện

(Trương Đăng Thụy và cộng sự (2012))

cho sự sa sút SK theo thời gian (tuổi, giới tính)”.

 “Tác động của “bảy hành vi Alameda” đến tình trạng SK (bảy hành vi

Alameda bao gồm: ăn sáng đều đặn, giữ một cân nặng chuẩn, không ăn vặt

36

giữa các bữa, không hút thuốc, thể dục thường xuyên, hạn chế hoặc không

uống rượu bia và ngủ 7-8 giờ mỗi ngày là tốt cho SK): việc thừa cân, hút

thuốc, uống nhiều rượu bia, ngủ quá nhiều hoặc quá ít và áp lực cuộc sống là

những yếu tố làm giảm SK một cách rõ rệt. Tập thể dục và hạn chế rượu bia là

(Trương Đăng Thụy và cộng sự (2012)).

hai yếu tố mang lại lợi ích SK”.

 “Tác động của “bảy hành vi Alameda” đến HA và cân nặng: khi sử

dụng biến HA, tác động của các hành vi đầu vào là không rõ ràng nhưng hệ số

của biến tuổi và các vấn đề SK sẵn có tác động dương lên HA (làm sức khỏe

yếu đi) có ý nghĩa thống kê, làm tăng tính hợp lý của mô hình. Hành vi duy

nhất ảnh hưởng rõ đến HA là sự thừa cân. Với biến cân nặng (theo tỷ lệ với

chiều cao), thói quen ăn uống quá đà đặc biệt là ăn vặt khiến tăng cân trong

(Trương Đăng Thụy và cộng sự (2012)).

khi hút thuốc lá nhiều dẫn tới giảm cân”.

 “Tác động nội sinh của các yếu tố đầu vào của SK lên kết quả của mô

hình: việc chọn các yếu tố có thể đo lường được và đưa vào mô hình dưới

danh nghĩa các đầu vào SK ẩn chứa nguy cơ về vấn đề nội sinh vì các hành vi

riêng lẻ này có thể là kết quả của hành vi tối ưu hoá của mỗi cá nhân. Sự phớt

lờ yếu tố này có thể làm chệch ước lượng hoặc ẩn chứa nguy cơ về sự ngược

hướng tác dụng trong hàm sản xuất SK theo nghiên cứu của Rosenzweig và

Schultz (1983). Một số các giới hạn trong lý thuyết tác động đến hành vi của

người được điều tra như giá cả, thu nhập và sở thích được đưa vào hàm cầu

cho các đầu vào SK và không nằm trong hàm sản xuất SK. Một số các yếu tố

khác có tác động lên hành vi như giáo dục, thể trạng, tuổi, chủng tộc và nghề

nghiệp cũng được đưa vào hàm cầu cho đầu vào SK”.

(nguồn: Trương Đăng Thụy và cộng sự (2012)).

 “Vai trò của giáo dục: được cân nhắc kỹ giữa hai trường hợp: cải thiện

hiệu quả của hàm sản xuất SK và đại diện cho một đầu vào SK nào đó. Việc

này được quan sát dựa trên tương tác của biến giáo dục với các đầu vào khác.

37

Nếu giáo dục là một đầu vào, tương tác này sẽ không tồn tại và ngược lại đối

với trường hợp giáo dục làm tăng hiệu quả của hàm. Một phép thử likelihood

được tiến hành với giả thuyết rằng hệ số của các biến tương tác bằng không.

Kết quả kiểm định cho thấy giả thuyết này bị loại trừ ở độ tin cậy 1%, nên ta

có bằng chứng về mặt kinh tế lượng rằng giáo dục làm thay đổi hiệu quả của

(Trương Đăng Thụy và cộng sự (2012)).

hàm sản xuất SK”.

Trong trường hợp biến đầu ra là tình trạng SK, giáo dục (trong tương tác với

các yếu tố khác) được kỳ vọng có tác động tích cực (làm tăng). Trong trường

hợp các biến đầu ra mô tả sự xuống cấp SK, giáo dục lại được kỳ vọng có tác

động ngược lại. Điều này ngụ ý là giáo dục làm tăng tác động của các đầu vào

tốt và giảm thiểu tác động của các đầu vào không tốt. Kết luận chỉ ra rằng giáo

(Trương Đăng Thụy và cộng sự (2012)).

dục có vai trò quan trọng với SK nhưng dạng tác động thì chưa rõ ràng.

2.4. Khảo lược các nghiên cứu thực nghiệm liên quan:

2.4.1. Đặc điểm bệnh tăng huyết áp ở người cao tuổi tại tỉnh Long An (2004)

GS.TS.Đặng Vạn Phước2

(ThS.BS.Nguyễn Văn Hoàng1 . PGS.TS.Nguyễn Đỗ Nguyên3. (1:BVĐK Tân Thạnh – Long An, 2:Bộ môn Nội – Đại học Y Dược TP.HCM, 3 :Bộ môn Dịch tễ – Đại học Y Dược TP.HCM).

Nội dung: xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh

THA ở người cao tuổi đang sinh sống trong cộng đồng tỉnh Long An bằng

phương pháp cắt ngang mô tả. Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.0, xử lý số

liệu bằng Stata 8.0.

Kết quả: Có 1.134 BN THA được khảo sát. Tỉ lệ BN có tiền sử gia đình bệnh

tim mạch sớm chiếm 1,5%. Tỉ lệ hiện đang hút thuốc lá chiếm 23,4%. Béo phì

chiếm 13,49%. Đái tháo đường chiếm 13,23%. Tỉ lệ tăng cholesterol là 50,4%.

Tăng Triglycerit là 51,2%. Tăng LDL là 54,8%. Giảm HDL là 14,3%. Tỉ lệ

38

dày thất trái là 19,4%. Tỉ lệ suy thận mạn là 10,6%. Tỉ lệ đạm niệu vi lượng

chiếm tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh THA 63,2%.

Kết luận: Tỉ lệ các yếu tố nguy cơ tim mạch và tổn thương cơ quan đích ở BN

THA cao tuổi là khá cao. Vì vậy, cần tầm soát chúng một cách thường qui

ngay từ tuyến y tế cơ sở.

2.4.2. Tỉ lệ nguy cơ bệnh tim mạch ở người lớn Khánh Hòa theo biểu đồ dự

báo nguy cơ toàn thể của WHO 2007 (TS. Trần Văn Huy & CS)

Nội dung: Nhận biết chính xác về tần suất và tầm quan trọng các yếu tố nguy

cơ tim mạch toàn thể trong cộng đồng, làm nền tảng cho việc phát triển những

chiến lược dự phòng bệnh tim mạch.

Mục đích: Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ tim mạch toàn thể của người lớn

Khánh Hòa Việt Nam theo biểu đồ của WHO và ISH năm 2007.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, điều tra dịch tễ các yếu tố

nguy cơ tim mạch trên phạm vi toàn tỉnh Khánh Hòa 2004 với thiết kế nghiên

cứu: mô tả cắt ngang. Điều tra cắt ngang dựa theo dân số của tỉnh với cỡ mẫu

ngẫu nhiên 700 đối tượng, thực hiện 656 đối tượng trong đó 615 người chưa

có bệnh mạch vành mạch não có tuổi trung bình 59.56 ±11.72 được nghiên

cứu, phân theo các nhóm tuổi 40 - 49, 50 - 59, 60 - 69, và > 70 tuổi. Tất cả đều

được khảo sát các yếu tố nguy cơ tim mạch bằng khám lâm sàng và xét

nghiệm máu tĩnh mạch lúc đói, sàng lọc sau hai lần để chẩn đóan xác định.

Đánh gía các yếu tố nguy cơ tim mạch chính theo các tiêu chuẩn của khuyến

cáo WHO/ISH năm 2003. Thực hiện cách tính biểu đồ theo hướng dẫn của

WHO/ISH 2007.

Kết quả: Tỷ lệ dự báo nguy cơ tim mạch tử vong hoặc nhồi máu cơ tim trong

10 năm đến của dân số Khánh Hòa trên 40 tuổi có nguy cơ tử vong hoặc nhồi

máu cơ tim từ 20% trở lên là 11.2%. Nam có tỷ lệ cao hơn nữ 16.61% vs

6.52% P<0.01. Tỷ lệ nguy cơ theo nhóm tuổi và giới có nguy cơ từ 30% (rất

cao) trở lên lần lượt ở nam nhóm tuổi 40-49:0%, 50-59: 2.8%, 60-69: 13.4%

và bằng/trên 70 tuổi 23.4%. Đối với nữ các tỷ lệ nầy lần lượt là 0%, 1.1%,

39

4.9% và 9.2%. So với số liệu của WHO tương ứng với vùng Châu Á Thái Bình

Dương nhóm B không có sự khác biệt lớn. Tỷ lệ THA trong dân số nghiên cứu

là 34.3%, hút thuốc là 34.6%, đái tháo đường 11.% và tăng cholesterol toàn

phần >5 mMol/L 60.5%.

Kết luận: Nghiên cứu đã cho thấy biểu đồ dự báo nguy cơ bệnh tim mạch của

WHO là sát thực tế địa phương, nên cần được ứng dụng trong lâm sàng hàng

ngày để có chiến lược điều trị dự phòng thích đáng nhằm giảm tối đa các biến

cố tim mạch ở địa phương.

2.4.3. Dịch tể học các yếu tố nguy cơ tim mạch chính ở người lớn tại Khánh

Hòa (TS. Trương Tấn Minh, TS. Trần Văn Huy và cộng sự).

Nội dung: tìm hiểu các đặc điểm dịch tể học về tần suất của các yếu tố nguy cơ

tim mạch chính ở người lớn tại tỉnh Khánh Hòa bao gồm: THA, thuốc lá, tăng

Cholesterol máu, đái tháo đường, tuổi và tiền sử gia đình có bệnh tim mạch

sớm.

Qua đó, đề ra chiến lược kiểm soát các yếu tố nguy cơ tim mạch chính, hầu

làm giảm thiểu tỷ lệ bệnh suất và tử tuất của tim mạch.

Đối tượng: Nam và nữ từ 15 tuối trở lên sống tại Khánh Hòa, tự nguyện tham

gia vào chương trình nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu: miêu tả cắt ngang. Cỡ mẫu dựa vào sự phân bố tỷ lệ

dân số của tỉnh Khánh Hòa theo các tầng tuổi và các vùng sinh thái, và dưa

vào nghiên cứu tỷ lệ THA 1988 trên phạm vi toàn tỉnh của các nhóm tuổi: 16-

40: 2,5%; 41-60: 16,2%; > 60: 26,2%.

Thống kê bằng SPSS 9.10, Tính trị số trung bình và độ lệch chuẩn so sánh giữa

các nhóm dùng test cho những biến cố liên tục và Test Wald cho các biến cố

rời rạc, tìm mối tương quan bằng Pearson correlation và lập bảng tương quan

hồi quy.

Kết quả: các yếu tố nguy cơ tim mạch chính ở người lớn tại tỉnh Khánh Hòa

bao gồm: THA, đái tháo đường, tăng Cholesterol có tỷ lệ cao ở vùng thành thị,

ven biển. Trái lại, tỷ lệ hút thuốc và nghiện rượu tại vùng miền núi và đồng lại

40

cao nhất. Ăn mặn, uống nhiều rượu, cuộc sống tĩnh tại, nhiều stress có tỷ lệ lần

lượt là 20,16% - 20,76% - 8% và 16%. Tiền sử có bệnh tim mạch là 16%,

trong đó tập trung ở vùng thành thị ven biển rồi đến miền núi và đồng bằng

tương ứng vùng dân có nhiều yếu tố nguy cơ phối hợp nhiều nhất. Qua đó, cần

có chiến lược khám sàng lọc kiểm soát các yếu tố nguy cơ trong toàn dân của

mạng lưới y tế cơ sở, các tổ chức y tế và cộng đồng, nhất là về các biện pháp

tuyên truyền giáo dục, phòng chống yếu tố nguy cơ tim mạch toàn dân, đặc

biệt trong từng vùng dân cư.

Tóm lại: Ở chương hai này, tác giả đã trình bày các lý thuyết về HA, THA,

các yếu tố nguy cơ liên quan và lý thuyết chuyên biệt về lễ Phật; Tác giả cũng

đã lược khảo lý thuyết nền hỗ trợ cho mô hình; và lược khảo các nghiên cứu

thực nghiệm liên quan đến đề tài nghiên cứu.

41

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Như đã đề cập ở chương I, nghiên cứu này sử dụng đồng thời hai phương

pháp: định tính, sau đó định lượng, phối hợp với thống kê mô tả.

3.1. Khung phân tích:

Hình 3.1: Khung phân tích

Đặt vấn đề

Đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu

Cơ sở lý luận: (Cơ sở lý thuyết và Nghiên cứu thực nghiệm)

Phương pháp nghiên cứu

Định tính Định lượng

Mô hình Odered Probit

Phỏng vấn trực tiếp (face to face)

Kết quả nghiên cứu

(nguồn: đề xuất của tác giả)

Bàn luận – Kết luận Khuyến nghị

42

3.2. Mô hình kinh tế lượng:

Từ các cơ sở lý luận, các nghiên cứu liên quan như trên, tác giả xây dựng

hàm hồi quy kỳ vọng cho chọn lựa và các yếu tố tác động như sau:

Y

  X

 Z

i

 i

(nguồn: đề xuất của tác giả)

Hình 3.2: mô hình kinh tế lượng:

Với:

Xi : với i chạy từ 0 đến 9, thể hiện 9 yếu tố nguy cơ (tuổi, giới tính, tiền

sử gia đình, hút thuốc, luyện tập thể lực, uống rượu bia, béo phì, ăn

mặn, số năm đi học).

:

Z : thể hiện yếu tố khác (lễ Phật).

Y : thể hiện xác suất xảy ra tăng huyết áp. : là hằng số. , là các hệ số hồi quy. :i sai số hồi quy (nếu có)

Y =  + β1A + β2SE + β3P + β4 C+ β5E + β6Wh + β7BMI + Β8Sa +

β9Y + ZWo + ε

Từ đây, tác giả đề xuất mô hình hồi quy kỳ vọng tương ứng như sau:

Biểu thức trên cũng tương ứng với khung phân tích thể hiện mô hình kinh tế

lượng dưới đây (hình 3.2’):

43

(nguồn: đề xuất của tác giả)

Hình 3.2’: khung phân tích thể hiện mô hình kinh tế lượng

3.3. Dữ liệu: nghiên cứu này, tác giả chọn phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp.

Phương pháp chọn mẫu: khi các biến số được đo lường ở dạng thang đo danh

nghĩ a và thứ bậc, ta có thể sử dụng các tỷ lệ của mẫu để ước lượng các tỷ lệ

của dân số, và dùng chỉ số pq để ước lượng phương sai của dân số.

Theo Trần Tiến Khai và cộng sự (2009):

“Ta xác định tỷ lệ của dân số mà chúng có một thuộc tính cho trước, tỷ lệ này

gọi là p.

Độ biến thiên của dân số trong trường hợp này được xác định bằng p x q, trong đó q là tỷ lệ của dân số không có thuộc tính đó, tức là q = (1– p). Tương tự như vậy, sai số chuẩn của trung bình được thay thế bằng sai số chuẩn của tỷ lệ, σp” Giả sử, ta ước đoán p = 30%

44

“Ta quyết định ước lượng tỷ lệ thực đúng của dân số trong phạm vi sai số

10% (p = 0.30 ± 0.10) và muốn đạt mức tin cậy 95%.

Cách tính được thực hiện như sau:

Khoảng tin cậy mong muốn mà ta kỳ vọng tỷ lệ dân số đạt ± 0.10 =

được (quyết định mục tiêu).

1.96 σp = mức tin cậy 95% để ước lượng khoảng tin cậy mà ta kỳ vọng dân số đạt được (quyết định mục tiêu).

0.051 = sai số chuẩn của tỷ lệ (0.10/1.96)

= = Chỉ thị độ biến thiên của mẫu, được dùng như là một ước lượng σp pq

độ biến thiên của dân số

n = cỡ mẫu

Áp dụng công thức về tính cỡ mẫu theo tỷ lệ với các giá trị trên, ta có: (0,3 x 0,7)

n = = 81”

(0,051)2

(Trần Tiến Khai và CS (2009)).

Vậy: tác giả có thể thu thập từ 81 quan sát trở lên, mẫu thực tế là 106 quan sát.

1

pP

pp

3.4. Phương pháp phân tích:

Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp định tính trước, sau đó định

lượng, kết hợp với thống kê mô tả, xử lý bằng phần mềm Stata 12.0, mô hình

Ordered Probit.

- Nghiên cứu định tính: nhằm xác định rõ hơn các yếu tố nguy cơ từ ba nghiên

cứu thực nghiệm liên quan (Nguyễn Văn Hoàng (2004); Trần Văn Huy (2007)

và Trương Tấn Minh (2004)). Ngoài ra, tìm hiểu sâu về yếu tố lễ Phật tác động

như thế nào đến HA ở người lớn. Tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn trực

tiếp thông qua bảng khảo sát (phụ lục 1và 2) kèm phỏng vấn sâu thêm một số

người để hỗ trợ thêm cho kết quả định lượng.

- Phỏng vấn sâu: “là phỏng vấn trực tiếp trên cơ sở hiểu biết tin tưởng lẫn nhau

(thườnglà phỏng vấn lặp lại). Người được phỏng vấn trình bày những nhận

45

thức, hiểu biết, kinh nghiệm và hoàn cảnh sống của họ bằng ngôn ngữ của

chính họ. Phỏng vấn sâu thường sử dụng trong các nghiên cứu tình huống,

nghiên cứu điển hình”.

(Trần Tiến Khai và CS (2009)).

- Nghiên cứu định lượng: từ kết quả nghiên cứu định tính có được, kết hợp với

các cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm mà tác giả có phương trình hồi

quy với các biến số cần thiết, khả thi, phù hợp nhằm phân tích xu hướng tác

động của các yếu tố nguy cơ có gây THA ở người lớn hay không (nghiên cứu

thực hiện việc dự báo xác suất xảy ra THA).

- Sử dụng mô hình Ordered Probit trong Stata 12.0 vì biến phụ thuộc Y (huyết áp)

nhận ba giá trị 0,1,2. Các biến độc lập như: độ tuổi, số năm đi học, số điếu

thuốc được hút cũng nhận trên 2 giá trị (nghĩa là có rất nhiều giá trị) nên nghiên

cứu này phù hợp với mô hình Ordered Probit, nhằm đạt được mục tiêu nghiên

cứu. Còn mô hình Logictis thường chỉ dùng cho các biến chỉ mang hai giá trị 0

và 1. Mô hình Tobit thì các biến đều phải từ 3 giá trị trở lên mới dùng được.

Cũng có thể sử dụng được mô hình OLS, nhưng khả năng xảy ra đa cộng tuyến

và phương sai thay đổi rất cao. Vì thế, tốt nhất cho nghiên cứu này (các biến

vừa có 2 giá trị, vừa có 3 giá trị, vừa có nhiều giá trị) là sử dụng mô hình

Ordered Probit thích hợp hơn.

3.4.1. Giải thích các biến:

 Y (huyết áp, ký hiệu để chạy hồi quy là bp: Blood Pressure): là biến phụ thuộc,

phản ánh tình trạng HA và nhận giá trị từ 0 đến 2: giá trị 0 tức là không THA,

giá trị 1 là THA loại I, giá trị 2 là THA loại II, đơn vị tính là mmHg hoặc

cmHg. Như thế ta có ba giá trị:

- 0: là không THA (HATTr < 140 mmHg; HA tâm thu <,= 50mmHg);

- 1: là có THA độ I (HATTr : 140-159mmHg và HATT <,= 99mmHg);

- 2: là có THA độ II: HATTr: = , > 160mmHg và HATT  100mmHg).

46

Các biến độc lập nhằm giải thích mức độ tác động của các yếu tố (bao gồm: X1,

X2, , X3 , X4 , X5 , X6 , X7 , X8 , X9 ảnh hưởng đến HA:, tương ứng là: tuổi – giới –

tiền sử gia đình – hút thuốc lá – uống rượu / bia – vận động thể lực – ăn mặn –

béo phì – số năm đi học và Z (lễ Phật):

 Tuổi (ký hiệu để chạy hồi quy là A: age) : là biến định lượng liên tục.

Tuổi = 2014 – năm sinh (2014 là năm nghiên cứu)

 Giới (ký hiệu để chạy hồi quy là Se: sex): là biến định tính nhị giá với 2 giá trị:

0: là nam 1: là nữ

 Số năm đi học (ký hiệu để chạy hồi quy là Y : year): là biến định lượng rời rạc,

đơn vị được tính bằng số năm, với nhiều giá trị từ 0 đến 25 năm:

- 0: là không đi học năm nào;

- 1: là có đi học từ 1 năm; 2: là có đi học 2 năm; 3: là có đi học 3 năm;…

- 20: là đi học 20 năm; 23: là đi học 23 năm; 25: là đi học 25 năm.

 Tiền sử gi a đình (ký hiệu để chạy hồi quy là P: prehistoric): là biến định tính

rời rạc, tính bằng số người trong gia đình (cha, mẹ, anh, chị, em, ông nội -

ngoại, bà nội - ngoại) có bệnh THA hoặc bệnh tim mạch. Với:

-1 (có): có  01 người trong gia đình mắc bệnh THA.

-0 (không): không có người nào trong gia đình mắc bệnh THA.

 Hút thuốc lá (ký hiệu để chạy hồi quy là C: cigarette): là biến định lượng rời

rạc với các giá trị từ 0 đến 25:

-0 (không): là chưa bao giờ hút thuốc lá hoặc đã ngưng hút hơn 12 tháng. Hoặc

có hút nhưng chưa bao giờ hút hàng ngày và hút ít hơn 100 điếu trong suốt

quãng đời.

-1 đến 25 (có): đang hút ít nhất một điếu mỗi ngày và đã hút nhiều hơn 100 điếu

trong suốt quãng đời. Hoặc ngày nào cũng có hút thuốc.

 Uống nhiều rượu / bia (ký hiệu để chạy hồi quy là Wh: wine): là biến định

lượng rời rạc.

Uống quá nhiều rượu / bia là nhiều hơn một đơn vị uống: tương đương 60ml

rượu vang, hoặc 300 ml bia, hoặc 30 ml rượu nặng / lần / ngày. Với 2 giá trị:

47

-1 (có): uống > 60ml rượu vang / ngày; >300ml bia/ngày; >30ml rượu

nặng/ngày;

-0 (không): không có uống rượu / bia; hoặc uống dưới mức quy định trên.

 Hoạt động thể lực (ký hiệu để chạy hồi quy là E: exercises): là biến định lượng

rời rạc, tính bằng số lần/ ngày / tuần, với 2 giá trị:

-1 (có): có vận động thể lực là: tập đều đặn ( 3 ngày/ tuần, mỗi lần tập  30

phút).

-0 (không): không vận động thể lực (< 3 ngày/ tuần, mỗi lần tập  30 phút).

 Ăn mặn (ký hiệu để chạy hồi quy là Sa: salt): là biến định tính liên tục.

Thường lấy khảo sát theo sự tự thừa nhận của người được phỏng vấn. Hoặc có

thể giải thích thêm khi người được phỏng vấn không hiểu rõ thế nào là ăn mặn.

Ăn mặn có 2 giá trị:

-1 (có): có ăn mặn >6gr muối (NaCl) / ngày.

-0 (không): ăn mặn <, = 6 gr (NaCl) / ngày.

 Béo phì (ký hiệu để chạy hồi quy là BMI: body mass index): là biến định tính,

tính bằng số kg/m2. BMI nhận 2 giá trị:

-1 (có): chỉ số BMI  23

-0 (không): chỉ số BMI < 23.

Cách đo chiều cao và cân nặng (phụ lục 4).

 Lễ / lạy Phật (ký hiệu để chạy hồi quy là Wo):

Trong mô hình hồi quy, ta có Z: là yếu tố khác: yếu tố lễ Phật.

Lễ Phật là biến định lượng rời rạc, tính bằng số lạy trong một ngày, có 2 giá trị:

- 1: là có lạy =, > 10 lạy /ngày;

- 0 (không): là không có lạy cái nào / ngày.

Tóm lại: căn cứ vào cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đã

nêu trên, tác giả kỳ vọng vào các giả thuyết dưới đây (các giả thuyết này sẽ

được so sánh kiểm chứng lại ở chương IV: Kết quả nghiên cứu)

48

Bảng 3.4: giả thuyết kỳ vọng về các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến HA

Giả thuyết đặt ra (H0) Các yếu tố Tác động lên nhóm kTHA Tác động lên nhóm THA (H0)

_ + Tuổi tuổi càng cao, thì mức độ tác động lên HA càng nhiều, dễ có nguy cơ THA.

_ + Giới tính

_ + Tiền sử gi a đình

+ _ Số năm đi học

_ + Uống nhiều rượu,bia

_ + Hoạt động thể lực

_ + Ăn mặn

_ + Hút thuốc lá

_ + Béo phì

+ _ Lễ Phật đàn ông dễ THA hơn phụ nữ. Và phụ nữ, sau mãn kinh dễ THA hơn lúc chưa mãn kinh. gia đình càng có nhiều người có tiền sử THA thì rất dễ có nguy cơ bị THA, và ngược lại. số năm đi học càng nhiều, thì lượng tri thức tăng lên, ít gây nguy cơ THA, và ngược lại. uống rượu bia càng nhiều, thì tác động lên HA càng tăng, nên rất dễ gây THA. Càng hoạt động thể lực thường xuyên thì càng hỗ trợ tốt cho tim mạch, tránh / hạn chế THA, và ngược lại. ăn mặn càng nhiều thì càng dễ có nguy cơ THA, và ngược lại. hút thuốc càng nhiều, thì càng dễ tác động mạnh lên tim mạch, dễ có nguy cơ gây THA, và ngược lại. càng béo phì, thì càng dễ có nguy cơ THA, và ngược lại. càng ít lễ Phật, thì tác động tiêu cực lên HA càng tăng, dễ gây THA và ngược lại.

3.4.2. Kỹ thuật thu thập số liệu: sử dụng bảng câu hỏi (phụ lục 1 và 2), lấy thông

tin trực tiếp từng quan sát, đồng thời phỏng vấn sâu thêm một số người để kiểm

chứng.

Tổ chức khảo sát: Chuẩn bị văn phòng phẩm, phương tiện đi lại... Kiểm tra

lại thông tin dữ liệu thu thập được sau mỗi ngày điều tra để kịp thời bổ sung,

chỉnh sửa, rút kinh nghiệm.

49

Tiêu chuẩn lựa chọn: Những quan sát thuộc nhóm có THA là những BN với lý

do và chẩn đoán xác định là THA đang nhập viện tại khoa Nội Tim mạch, bệnh

viện đa khoa tỉnh Kiên Giang trong thời gian nghiên cứu từ tháng 11 / 2014 đến

tháng 04 / 2015. Một số quan sát khác cũng có thể được lựa chọn vào nhóm

THA (không nằm viện mà có uống thuốc THA mỗi ngày tại nhà).

Đối với nhóm đối chứng (không THA) có thể được khảo sát rải rác trong và

ngoài bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang - nếu đáp ứng được thang đo của các

yếu tố nguy cơ trong bảng khảo sát (phụ lục 2).

Tiêu chuẩn loại trừ: là những quan sát thuộc diện bệnh nặng đang cấp cứu, hoặc

đang được theo dõi sát (15phút / lần) tại khoa Nội Tim mạch; Người không lấy

được thông tin liên quan, hoặc người được khảo sát không chấp nhận tham gia

nghiên cứu.

Bảng câu hỏi khảo sát được sử dụng 2 loại thang đo: “thang đo danh nghĩa (áp

dụng để phân loại các đặc điểm cá nhân của một nhóm người, ví dụ như giới

tính, tình trạng gia đình, số năm đi học) và thang đo thứ bậc (có ý nghĩa xếp

hạng, giá trị trung vị (median) là con số phù hợp để đo lường xu hướng trung

(Trần Tiến Khai và CS (2009))

tâm của dãy số biểu thị)

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu: phần mềm Stata 12.0, mô hình Ordered Probit.

Đánh giá mức ý nghĩa theo phân phối chuẩn với độ tin cậy 95%. Khi đó:

- p ≥ 0,05: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

- p  0,05: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

- p  0,01: sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê.

3.4.4. Địa điểm nghiên cứu: số liệu lấy từ khoa Nội Tim mạch – BVĐKKG; lấy

số liệu cả trong và ngoài bệnh viện (dùng cho nhóm đối chứng).

Thời gi an nghiên cứu: tháng 11 / 2014 đến tháng 04 / 2015.

3.4.5.Quy trình thực hiện nghiên cứu:

50

- Tất cả BN đạt tiêu chuẩn nghiên cứu được giải thích và mời tham gia

nghiên cứu. Việc thực hiện nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến việc điều

trị của BN.

- BN được làm các xét nghiệm thường qui thông qua hồ sơ bệnh án: sinh hóa

máu, đo ECG / XQ tim phổi thẳng / siêu âm tim. Dữ liệu được ghi vào phiếu

khảo sát. Sau đó lưu vào máy tính và phân tích bằng phần mềm chuyên biệt.

- BN được khám toàn trạng, chiều cao, cân nặng, được ghi nhận về tiền sử

bệnh lý, các yếu tố nguy cơ, thuốc hạ áp đang dùng tại BV.

3.4.6. Các bước tiến hành đo huyết áp (xin xem phụ lục 4).

* Ảnh hưởng của tư thế khi đo HA:

HA thường được đo ở hai tư thế là ngồi và nằm ngửa, nhưng cả hai tư thế này

đều cho sự khác biệt. Khi đo ở tư thế nằm ngửa, cánh tay nên được nâng bởi

một cái gối. HATTr đo được ở tư thế ngồi cao hơn so với tư thế nằm khoảng

5 mmHg. Vị trí của cánh tay được điều chỉnh sao cho băng quấn ở mức của

nhĩ phải (khoảng ở gian sườn 2) ở cả hai vị trí, HATT ở tư thế nằm cao hơn 8

mmHg so với tư thế ngồi. Nếu không có chỗ dựa lưng, HATTr có thể cao hơn

6 mmHg so với khi có dựa lưng. Bắt chéo chân có thể THATT lên 2-8

mmHg. Vị trí của cánh tay rất quan trọng khi đo ở tư thế ngồi, nếu cánh tay

dưới mức của nhĩ phải, trị số HA đo được rất cao. Tương tự như vậy, nếu

cánh tay đặt trên mức của nhĩ phải, trị số HA đo được rất thấp. Sự khác biệt

này có thể do sự tác dụng của áp lực thủy tĩnh và khoảng 2 mmHg cho mỗi

2,54cm trên hoặc dưới mức tim.

* Sự khác biệt giữa hai tay:

HA nên được đo cả hai tay trong lần khám đầu tiên. Điều này có thể giúp phát

hiện chỗ hẹp của ĐM chủ và ĐM chi trên. Khi sự khác biệt HA giữa hai tay

là hằng định, HA ở tay cao hơn sẽ được sử dụng.

Người ta thường đo theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Việt Nam [3]. Đo ít

nhất 2 lần cách nhau ít nhất 2 phút, con số cuối cùng là trung bình cộng nếu có

sự khác biệt > 5mmHg.

51

* Một số lưu ý khi đo HA:

- Người lớn tuổi thường có xu hướng THA áo choàng trắng, THA tâm thu

đơn độc và giả THA.

- Đối với người già và bệnh nhân ĐTĐ, nên đo HA sau khi đứng dậy ít nhất 2

phút để phát hiện hạ HA tư thế đứng.

- Đối với BN béo phì: băng quấn dài và rộng là cần thiết để tạo lực ép cần

thiết lên ĐM cánh tay ở người béo phì. Sai số do áp suất không đủ khi dùng

băng quấn quá nhỏ có thể dẫn đến phân loại sai mức độ THA và dùng thuốc

không cần thiết.

- Đối với phụ nữ có thai: HA thường được đo ở tư thế ngồi, nhưng tư thế nằm

nghiêng trái là sự thay thế thích hợp, đặc biệt trong khi sinh. Pha V của

Korotkoff nên được sử dụng để đánh giá HATTr nhưng khi âm thanh có thể

(Huỳnh Văn Minh và cộng sự (2008))

nghe được ngay cả khi xả xẹp băng quấn thì nên dùng pha IV.

52

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Từ tháng 11 / 2014 đến tháng 04 / 2015, tác giả thu được 306 quan sát, thỏa

các tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chí loại trừ. Mẫu được phân thành 2 nhóm:

nhóm chính (có THA) là những BN đang được điều trị tại khoa Nội Tim mạch

- Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang được 102 quan sát và nhóm đối chứng

(không THA) được lấy ngẫu nhiên trong và ngoài bệnh viện được 204 quan sát

(bao gồm luôn những người cư trú ở địa phương lân cận như An Giang, Hậu

Giang, Cần Thơ). Trong số 306 quan sát này, hầu hết tác động của các yếu tố

đến các nhóm THA và k THA ở nam và ở nữ bằng nhau. Tuổi trung bình của

mẫu nghiên cứu là 63 tuổi, nhỏ nhất là 20 tuổi và lớn nhất là 102 tuổi.

4.1. Xu hướng tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp:

4.1.1. Yếu tố tuổi tác tác động lên huyết áp: được tính bằng số tuổi trung bình

của các nhóm THA và k THA:

Bảng 4.1.1: Yếu tố tuổi tác tác động lên huyết áp

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại 1 THA loại 2 k THA

204 37 (tuổi)

46 64 (tuổi)

56 69 (tuổi)

 Về mặt ý nghĩa thống kê (Bảng 4 – phụ lục 3): Giá trị p-value là 0,000 (nhỏ

hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy sự tương quan giữa tuổi tác và xác

suất xảy ra THA rất có ý nghĩa thống kê. Hệ số beta 0,0482 mang giá trị

dương cho ta thấy sự tương quan tỉ lệ thuận giữa tuổi tác và HA. Nghĩa là tuổi

càng cao thì xác suất xảy ra THA càng lớn - nếu như người ta không có

những biện pháp hữu hiệu phòng ngừa cho bản thân.

53

 Về xác suất xảy ra THA: (Bảng 4.1.1 – phụ lục 3)

Với số quan sát 46 có THA loại I thì số tuổi TB của họ là 64 tuổi.

Với số quan sát 56 có THA loại II, thì số tuổi TB của họ là 69 tuổi.

Với số quan sát 204 không THA, thì số tuổi TB của họ là 37 tuổi.

Như vậy:

Xác suất xảy ra THA có khuynh hướng xảy ra theo tuổi. Những người trẻ tuổi

sẽ ít có nguy cơ THA. Trong khi đó, nhóm cao tuổi (trên 60) có nguy cơ THA

rất cao. Nói một cách khác, nhóm THA có tuổi TB cao hơn so với nhóm k

THA. Và sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.2. Yếu tố giới tính tác động đến huyết áp:

 Về mặt ý nghĩa thống kê (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,139 (lớn hơn 0,05) ở độ tin cậy 95% và hệ số beta là

dương 0, 0253 cho ta thấy tương quan giữa giới tính và xác suất xảy ra THA

không có ý nghĩa thống kê.

 Về xác suất xảy ra THA (bảng 4.1.2 – phụ lục 3):

Bảng 4.1.2: Yếu tố giới tính tác động lên Huyết áp

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại 1 (46) THA loại 2 (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát P 22 47,83 24 52,17 26 46,43 30 53,57 78 38.24 126 61,76

Chung Nam (180 chiếm P: 58,82) Nữ (126 chiếm P: 41,18)

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, nguy cơ xảy ra THA ở nữ

bằng với nam (P = 2,17 / người).

54

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, nguy cơ xảy ra THA ở nam

bằng với nữ (P = 1,786 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, nguy cơ xảy ra THA ở nam và nữ

bằng nhau (P = 0,49 / người).

Như vậy: xác suất xảy ra THA ở nữ và nam không có sự khác biệt. Điều này

không có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.3. Yếu tố hút thuốc tác động lên HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,139 (lớn hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho thấy tương

quan giữa hút thuốc và xác suất xảy ra THA không có ý nghĩa thống kê, cho

dù hệ số beta 0, 0253 là dương, có nghĩa là càng hút thuốc lá thì khả năng

THA càng dễ xảy ra.

 Về xác suất xảy ra THA (bảng 4.1.3.1 đến 4.1.3.3 – phụ lục 3):

 Nhóm hút thuốc từ 0 điếu đến 5 điếu:

Bảng 4.1.3.1: Yếu tố hút thuốc (0 đến 5 điếu) tác động lên HA

Số quan sát (306) HUYẾT ÁP

Số điếu thuốc 0 1 2 3 4 5

0 k THA (165) P (154) 75.49 (2) 0.98 (2) 0.98 (3) 1.47 (4) 1.96

0 0 0 THA loại 1 (34) P (32) 69.57 (1) 2.17 (1) 2.17

0 0 THA loại 2 (34) P (29) 51.79 (1) 1,79 (1) 1,79 (3) 5,36

Chung (233) (215) 70.26 (2) 0.65 (3) 0.98 (4) 1.31 (1) 0.33 (8) 2.61

55

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 34, xác suất xảy ra THA khi có

hút thuốc từ 0 đến 05 điếu thì bằng nhau (P = 2,17/ người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 34, xác suất xảy ra THA khi có

hút thuốc từ 0 đến 05 điếu thì bằng nhau (P = 1,79/ người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 165, xác suất xảy ra THA khi có hút

thuốc từ 0 đến 05 điếu thì bằng nhau (P = 0,49 / người).

 Nhóm hút thuốc từ 06 điếu đến 20 điếu:

Bảng 4.1.3.2: Yếu tố hút thuốc (6 đến 20 điếu) tác động lên HA

Số quan sát (306) HUYẾT ÁP

6 7 Số điếu thuốc 8 10 15 20

0 0 k THA (38) P (1) 0.49 (18) 8.82 (8) 3.92 (11) 5.39

0 0 THA loại I (12) P (2) 4,35 (1) 2,17 (4) 8,7 (5) 10,87

0 0 THA loại II (21) P (1) 1,79 (8) 14,29 (1) 1,79 (11) 19,64

Chung (71) (2) 0,65 (2) 0,65 (1) 0,33 (30) 9,8 (9) 2,94 (27) 8,82

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 12, xác suất xảy ra THA khi có

hút thuốc từ 06 đến 20 điếu thì bằng nhau (P = 2,175/ người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 21, xác suất xảy ra THA khi có

hút thuốc từ 06 đến 20 điếu thì bằng nhau (P = 1,79/ người).

56

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 38, xác suất xảy ra THA khi có hút

thuốc từ 06 đến 20 điếu thì bằng nhau (P = 0,49 / người).

 Nhóm hút thuốc từ 25 điếu đến 40 điếu:

Bảng 4.1.3.3: Yếu tố hút thuốc (25 đến 40 điếu) tác động lên HA

Số quan sát (306) HUYẾT ÁP

Số điếu thuốc 25 40

0 k THA (1) P (1) 0,49

0 0 THA loại I (0) P

0 THA loại II (1) P (1) 1,79

Chung (2) (1) 0,33 (1) 0,33

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 0, xác suất xảy ra THA khi có hút

thuốc trong khoảng 25 đến 40 điếu là 0.

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 01, xác suất xảy ra THA khi có

hút thuốc trong khoảng 25 đến 40 điếu là 1,79 / người và cụ thể là ở

người hút 40 điếu.

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 01, xác suất xảy ra THA khi có hút

thuốc trong khoảng 25 đến 40 điếu là 0,49 /người và cụ thể là ở người

hút 25 điếu.

Như vậy: ở nhóm người hút thuốc từ 0 điếu đến 40 điếu, số lượng hút thuốc

lá càng nhiều thì nguy cơ xảy ra THA càng gia tăng đáng kể, cho dù sự khác

biệt này không có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.4. Yếu tố uống rượu/ bia tác động lên HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

57

Giá trị p-value là 0,000 (nhỏ hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy tương

quan mạnh giữa uống rượu / bia và xác suất xảy ra THA rất có ý nghĩa thống

kê. Với hệ số beta 1,0697 cho thấy sự tương quan tỉ lệ thuận rất mạnh giữa

yếu tố uống rượu / bia và HA, đồng nghĩa với việc càng uống rượu / bia thì

khả năng THA càng xảy ra trầm trọng.

 Về xác suất xảy ra THA (bảng 4.1.4 – phụ lục 3):

BẢNG 4.1.4: Uống rượu / bia tác động lên huyết áp

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại 1 (46) THA loại 2 (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát 13 33 25 31 20 184

P 28,26 71,74 44,64 55,36 9,8 90,2

Chung Nam (248 chiếm P 81,05) Nữ (58 chiếm P 18,95)

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, nguy cơ xảy ra THA ở nữ khi

có uống rượu bia bằng với nam (P = 2,17 / người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, nguy cơ xảy ra THA ở nữ khi

có uống rượu bia bằng với nam (P = 1,786 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, nguy cơ xảy ra THA ở nữ khi có

uống rượu bia bằng với nam (P = 0,49 / người).

Như vậy, xác suất xảy ra THA ở nữ khi có uống rượu bia ở cả hai nhóm đều

bằng với nam và xác suất có khuynh hướng tăng lên theo chiều hướng từ

58

nhóm k THA cho đến nhóm THA loại II. Và sự khác biệt này rất có ý nghĩa

thống kê khi hồi quy.

4.1.5. Yếu tố Hoạt động thể lực tác dụng lên HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,048 (nhỏ hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy hoạt

động thể lực tác động lên HA có ý nghĩa thống kê. Hệ số beta mang dấu

dương 0,3833 thể hiện sự tương quan đồng biến: nếu không tập thể dục thì

xác suất xảy ra THA rất dễ có nguy cơ.

 Về xác suất tác động lên HA (bảng 4.1.5):

BẢNG 4.1.5: Hoạt động thể lực tác động lên huyết áp

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại I (46) THA loại II (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát 27 19 34 22 126 78

P 58,7 41,3 60,71 39,29 61,76 38,24

Chung Nam (119 chiếm P 38,89) Nữ (187 chiếm P 61,11)

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có tập thể dục bằng với nam (P = 2,17 / người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có tập thể dục cũng bằng với nam (P = 1,78 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, xác suất tác động lên HA ở nữ khi

có tập thể dục cũng bằng với nam (P = 0,49 / người).

59

Như vậy, với số quan sát 306, xác suất tác động lên HA ở nữ khi có tập thể

dục đều bằng với nam ở nhóm THA và cả nhóm chứng rất đáng kể. Tuy

nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.6. Yếu tố Tiền sử gia đình ảnh hưởng đến HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,252 (lớn hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy yếu tố di

truyền tác động đến HA không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, hệ số beta

mang dấu dương (0,270) thể hiện sự đồng biến, lưu ý cho ta thấy: nếu tiền sử

gia đình có người từng bị THA, thì xác suất xảy ra THA cho người đó cũng

dễ có nguy cơ hơn.

 Về xác suất tác động lên THA (bảng 4.1.6 - phụ lục 3):

BẢNG 4.1.6: Tiền sử gia đình tác động với THA

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại I (46) THA loại II (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát 8 38 12 44 30 174

P 17,39 82,61 21,43 78,57 14,71 85,29

Chung Nam (256 chiếm P 83,66) Nữ (50 chiếm P 16,34)

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có tiền sử gia đình bằng với nam (P = 2.17 / người).

60

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có tiền sử gia đình cũng bằng với nam (P = 1.78 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, xác suất tác động lên HA ở nữ khi

có tiền sử gia đình cũng bằng với nam (P = 0.49 / người).

Như vậy, với số quan sát 306, khi có tiền sử gia đình, xác suất tác động lên

HA khá đáng kể ở nữ và nam như nhau. Nhưng sự khác biệt này không có ý

nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.7. Yếu tố Ăn mặn ảnh hưởng đến HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,006 (nhỏ hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy yếu tố

ăn mặn tác động đến HA có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, hệ số beta mang

dấu dương 0,5167 thể hiện sự đồng biến, cho ta thấy: nếu người ta ăn càng

mặn, thì xác suất xảy ra THA cho người đó sẽ có nguy cơ cao.

 Về xác suất tác động lên THA (bảng 4.1.7 - phụ lục 3 ):

BẢNG 4.1.7: Ăn mặn tương quan với THA

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại I (46) THA loại II (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát 27 19 33 23 40 164

P 58,7 41,3 58,93 41,07 19,61 80,39

Chung Nam (206 chiếm P: 67,32) Nữ (100 chiếm P: 32,68)

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có ăn mặn bằng với nam (P = 2.17 / người).

61

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có ăn mặn cũng bằng với nam (P = 1.79 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, xác suất tác động lên HA ở nữ khi

có ăn mặn cũng bằng với nam (P = 0.49 / người).

Như vậy, với số quan sát 306, khi người ta có ăn mặn, xác suất tác động lên

HA rất đáng kể, nó xảy ra ở nữ và nam như nhau. Thậm chí xác suất xảy ra

THA ở yếu tố ăn mặn cũng bằng như khi người đó có tiền sử gia đình. Và sự

khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.8. Yếu tố Béo phì ảnh hưởng đến HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,002 (nhỏ hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy yếu tố

BMI tác động đến HA có ý nghĩa thống kê. Hệ số beta mang dấu dương

0,7413 thể hiện sự đồng biến, cho ta thấy: nếu người ta càng có chỉ số Bmi

cao, thì xác suất xảy ra THA cho người đó là chắc chắn cao.

 Về xác suất tác động lên THA (bảng 4.1.8 - phụ lục 3 ):

BẢNG 4.1.8: BMI ảnh hưởng đến THA

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại I (46) THA loại II (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát 11 35 15 41 16 188

P 23,91 76,09 26,79 73,21 7,84 92,16

Chung Nam (264 chiếm P: 86,27) Nữ (42 chiếm P: 13,73)

62

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có Bmi bằng với nam (P = 2.17 / người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, xác suất tác động lên HA ở nữ

(P = 1.12 / người) khi có Bmi ít hơn nam (P = 1.786 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, xác suất tác động lên HA ở nữ khi

có Bmi cũng bằng với nam (P = 0.49 / người).

Như vậy, với số quan sát 306, khi người ta có bmi, xác suất tác động lên HA

trở nên đáng kể, nó xảy ra ở nữ và nam như nhau thuộc 2 nhóm THA loại I

và k THA. Riêng nhóm THA loại II thì xác suất xảy ra ở nữ ít hơn so với

nam. Và sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.9. Yếu tố Lễ Phật tác dụng với HA:

 Nhận xét về mặt ý nghĩa thống kê: (bảng 4 – phụ lục 3):

Giá trị p-value là 0,000 (nhỏ hơn 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy yếu tố

lễ Phật tác động đến HA rất có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, hệ số beta mang

dấu âm (- 0,8219) thể hiện sự nghịch biến, cho thấy: nếu người ta không lễ

Phật, thì xác suất xảy ra THA cho người đó là chắc chắn có và có thể cao.

 Về xác suất tác động lên HA (bảng 4.1.9 - phụ lục 3 ):

BẢNG 4.1.9: Lễ Phật tác dụng với HA

HUYẾT ÁP

Số quan sát (306) THA loại I (46) THA loại II (56) k THA (204)

Giới tính Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

Số quan sát 27 19 21 35 171 33

P 58,7 41,3 37,5 62,5 83,82 16,18

Chung Nam (87 chiếm P 28,43) Nữ (219 chiếm P 71,57)

63

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 46, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi có lễ Phật bằng với nam (P = 2.17 / người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 56, xác suất tác động lên HA khi

có lễ Phật ở nữ và ở nam như nhau (P = 1.786 / người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 204, kết quả cho thấy xác suất tác động

lên HA ở nữ khi có lễ Phật cũng bằng với nam (P = 0.49 / người).

Như vậy, với số quan sát 306, khi người ta có lễ Phật, xác suất tác động lên

HA rất đáng kể. Nó xảy ra ở nữ và nam thuộc cả ba nhóm: THA loại I, THA

loại II và k THA đều bằng nhau.

Riêng nhóm THA loại I có xác suất tác dụng tốt lên HA rõ rệt hơn (P = 2.17

/ người) so với THA loại II. Đồng nghĩa, nếu đã rơi vào THA loại I thì lễ

Phật là phương cách tốt để cải thiện HA (cải thiện sức khỏe). Còn đã rơi vào

THA loại II, mới lễ Phật, thì xác suất tác dụng tốt lên HA sẽ bị kém đi (P =

1.786 / người).

Và sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê khi hồi quy.

4.1.10.Yếu tố Số năm đi học ảnh hưởng đến HA:

 Về mặt ý nghĩa thống kê:

Giá trị p-value 0,75 (rất lớn so với 0,05) ở độ tin cậy 95%, cho ta thấy tương

quan giữa số năm đi học và xác suất xảy ra THA không có ý nghĩa thống kê.

Với hệ số beta âm (- 0,006) cho thấy sự tương quan nghịch biến giữa số năm

đi học và HA, có nghĩa là số năm đi học càng ít thì càng dễ có nguy cơ xảy

ra THA.

 Về xác suất xảy ra THA:

64

 Nhóm đi học từ 0 đến 05 năm (Bảng 4.1.10.1 - phụ lục 3):

Bảng 4.1.10.1: Yếu tố số năm đi học (0 năm đến 5 năm) ảnh hưởng đến HA

HUYẾT ÁP Số quan sát (306)

0 1 2 3 4 5 Số năm đi học

k THA (37) P (10) 4,9 (1) 0,49 (4) 1,96 (6) 2,94 (7) 3,43 (9) 4,41

THA I (22) P (9) 19,57 (2) 4,35 (3) 6,52 (5) 10,87 (1) 2,47 (2) 4,35

THA II (34) P (9) 16,07 (3) 5,36 (5) 8,93 (10) 17,86 (2) 3,57 (5) 8,93

Chung (93) (28) 9,15 (6) 1,96 (12) 3,92 (21) 6,86 (10) 3,27 (16) 5,23

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 22, xác suất xảy ra THA khi có

số năm đi học từ 0 đến 5 năm là như nhau (P = 2,17/ người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 34, xác suất xảy ra THA khi có

số năm đi học từ 0 đến 5 năm là như nhau (P = 1,79/ người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 37, xác suất xảy ra THA khi có số

năm đi học từ 0 đến 5 năm là như nhau (P = 0,49 / người).

65

 Nhóm đi học từ 06 đến 11 năm (Bảng 4.1.10.2 - phụ lục 3):

Bảng 4.1.10.2: Số năm đi học (6 năm đến 11 năm) ảnh hưởng đến HA

HUYẾT ÁP Số quan sát (306)

Số năm đi học 6 7 8 9 10 11

k THA (58) P (14) 6,86 (5) 2,45 (13) 6,37 (11) 5,39 (14) 6,86 (1) 0,49

THA I (11) P (1) 2,17 (4) 8,7 (1) 2,17 (3) 6,52 (1) 2,17 (1) 2,17

0 THA II (16) P (3) 5,36 (5) 8,93 (2) 3,57 (4) 7,14 (2) 3,57

Chung (85) (18) 5,88 (14) 4,58 (16) 5,23 (18) 5,88 (17) 5,56 (2) 0,65

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 11, xác suất xảy ra THA khi

có số năm đi học từ 06 đến 11 năm là như nhau (P = 2,17/ người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 16, xác suất xảy ra THA khi

có số năm đi học từ 06 đến 11 năm là như nhau (P = 1,79/ người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 58, xác suất xảy ra THA khi có

số năm đi học từ 06 đến 11 năm là như nhau (P = 0,49 / người).

66

 Nhóm đi học từ 12 đến 17 năm (Bảng 4.1.10.3 - phụ lục 3):

Bảng 4.1.10.3: Số năm đi học (12 năm đến 17 năm) ảnh hưởng đến HA

HUYẾT ÁP Số quan sát (306)

12 13 14 15 16 17 Số năm đi học

k THA (101) P (28) 13,73 (1) 0,49 (26) 12,72 (24) 11,76 (18) 8,82 (4) 1,96

0 0 THA I (07) P (3) 6,52 (1) 2,17 (2) 4,35 (1) 2,17

0 0 0 0 THA II (04) P (3) 5,36 (1) 1,79

Chung(112) (27) 8,82 (34) 11,11 (1) 0,33 (27) 8,82 (18) 5,88 (5) 1,63

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 07, xác suất xảy ra THA khi có

số năm đi học từ 12 đến 17 năm là như nhau (P = 2,17/ người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 04, xác suất xảy ra THA khi có

số năm đi học từ 12 đến 17 năm là như nhau (P = 1,79/ người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 101, xác suất xảy ra THA khi có số

năm đi học từ 12 đến 17 năm là như nhau (P = 0,49 / người).

67

 Nhóm đi học từ 18 đến 25 năm (Bảng 4.1.10.4 - phụ lục 3):

Bảng 4.1.10.4: Yếu tố Số năm đi học (18 năm đến 25 năm) ảnh hưởng đến HA

HUYẾT ÁP Số quan sát (306)

Số năm đi học 18 19 20 22 24 25

0 k THA (08) P (1) 0,49 (2) 0,98 (2) 0,98 (1) 0,49 (2) 0,98

THA I (06) P (1) 2,17 (1) 2,17 (2) 4,35 (1) 2,17 (1) 2,17 (0) 0

0 0 0 0 THA II (02) P (1) 1,79 (1) 1,79

Chung(16) (2) 0,65 (4) 1,31 (5) 1,63 (2) 0,65 (1) 0,33 (2) 0,65

 Ở nhóm THA loại I: với số quan sát 06, xác suất tác động lên HA khi có

số năm đi học từ 18 đến 25 năm là như nhau (P = 2,17/ người).

 Ở nhóm THA loại II: với số quan sát 02, xác suất tác động lên HA ở nữ

khi khi có số năm đi từ 18 đến 25 năm là như nhau (P = 1,79/ người).

 Ở nhóm k THA: với số quan sát 08, xác suất tác động lên HA khi có số

năm đi học từ từ 18 đến 25 năm là như nhau (P = 0,49 / người).

Tóm lại, ta thấy có sự chênh lệch rõ rệt ở 3 nhóm người có số năm đi học từ

0 năm đến 25 năm. Chứng tỏ, người có số năm đi học càng ít thì xác suất

xảy ra THA càng cao. Tuy nhiên ở nhóm THA loại II có xác suất thấp hơn

nhóm THA loại I, có thể là nhờ ý thức của BN (được giáo dục sức khỏe

trong thời gian điều trị THA loại I, nên có cải thiện hơn).

68

Nói một cách khác, người có số năm đi học càng nhiều thì nguy cơ xảy ra

THA càng giảm đi đáng kể. Và sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê khi

hồi quy.

4.2. Mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố lên huyết áp:

4.2.1.Tác động biên của từng yếu tố lên THA loại I: (bảng 4.2.1 – phụ lục 3)

 Tuổi: với hệ số beta dương (0,0104) cho thấy sự đồng biến: tuổi càng cao,

thì tác động biên lên HA càng nhiều, nhưng không đáng kể, và ngược lại.

Điều này rất có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,000 ở độ tin cậy

95%.

 Giới tính: hệ số beta dương (0,1698) cho thấy tác động biên của giới tính

ảnh hưởng lên HA là đồng biến. Điều này có ý nghĩa thống kê khi giá trị P -

value: 0,001 ở độ tin cậy 95%.

 Hút thuốc: với hệ số beta dương (0,0054) cho thấy tác động biên lên HA là

đồng biến. Nghĩa là nếu hút thuốc càng nhiều, thì tác động biên lên HA càng

tăng, rất dễ gây ra các bệnh tim mạch và gây THA. Tuy nhiên, điều này

không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,145 ở độ tin cậy 95%.

 Uống rượu bia: với hệ số beta dương (0,2214) cho thấy tác động biên lên

HA là đồng biến. Nghĩa là nếu uống rượu bia càng nhiều, thì tác động biên

lên HA càng tăng, nên rất dễ gây THA. Điều này rất có ý nghĩa thống kê khi

giá trị P - value: 0,000 ở độ tin cậy 95%.

 Hoạt động thể lực: với hệ số beta dương (0,0806) cho thấy tác động biên lên

HA là đồng biến. Nghĩa là nếu tập thể dục càng nhiều thì tác động biên lên

HA càng tăng, hỗ trợ tốt cho tim mạch. Điều này vẫn có ý nghĩa thống kê khi

giá trị P - value: 0,048 ở độ tin cậy 95%.

 Tiền sử gi a đình: với hệ số beta dương (0,06) cho thấy tác động biên lên HA

là đồng biến. Nghĩa là nếu gia đình càng có nhiều người có tiền sử THA thì

69

tác động biên lên HA càng tăng (rất dễ có nguy cơ bị THA). Tuy nhiên, điều

này không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,262 ở độ tin cậy 95%.

 Ăn mặn: với hệ số beta là dương (0,1133) cho thấy tác động biên lên HA là

đồng biến. Nghĩa là nếu ăn mặn càng nhiều, thì tác động biên tích cực lên

HA càng tăng nên rất dễ gây THA. Điều này vẫn có ý nghĩa thống kê khi giá

trị P - value: 0,008 ở độ tin cậy 95%.

 Béo phì: với hệ số beta dương (0,1623) cho thấy tác động biên lên HA là

đồng biến. Nghĩa là nếu càng béo phì, thì tác động biên lên HA càng tăng

nên rất dễ gây THA. Điều này có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,002

ở độ tin cậy 95%.

 Số năm đi học: với hệ số beta âm (- 0,0013) cho thấy tác động biên lên HA

là nghịch biến. Nghĩa là nếu càng ít học, thì tác động biên lên HA càng cao

nên rất dễ gây THA. Tuy nhiên, Số năm đi học khi chạy hồi quy thì kết quả

cho thấy không có ý nghĩa thống kê vì giá trị P - value: 0,75 ở độ tin cậy

95%. Điều này có thể hiểu là do số mẫu (102 quan sát có THA) vẫn còn giới

hạn do thời gian nghiên cứu không cho phép (chỉ có 05 tháng).

 Lễ Phật: hệ số beta là âm (- 0,178) cho thấy tác động biên lên HA là nghịch

biến. Nghĩa là nếu càng ít lễ Phật, thì tác động biên lên HA càng tăng, dễ gây

THA. Điều này rất có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,000 ở độ tin

cậy 95%.

Tóm lại: Ở nhóm THA loại I, với xác suất 0,1809 ta có 7 yếu tố có ý nghĩa

thống kê như: tuổi, giới tính, uống rượu bia, hoạt động thể lực, ăn mặn, béo

phì và lễ Phật. Ngoại trừ yếu tố Lễ Phật, 6 yếu tố nguy cơ này đều mang giá

trị dương, thể hiện tác động biên đồng biến với HA.

4.2.2. Tác động biên của từng yếu tố lên nhóm THA loại II: (bảng 4.2.2 –

phụ lục 3)

70

 Tuổi: với hệ số beta dương (0,0037) cho thấy sự đồng biến: tuổi càng cao,

thì tác động biên lên HA càng nhiều, nhưng không đáng kể, và ngược lại.

Điều này rất có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,000 ở độ tin cậy

95%.

 Giới tính: hệ số beta dương (0,0727) cho thấy tác động biên lên HA là đồng

biến. Điều này không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P – value: 0,012 ở độ tin

cậy 95%.

 Hút thuốc: với hệ số beta dương (0,0019) cho thấy tác động biên lên HA là

đồng biến. Nghĩa là nếu hút thuốc càng nhiều, thì tác động biên lên HA càng

tăng, rất dễ gây ra các bệnh tim mạch và gây THA. Tuy nhiên, điều này

không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,165 ở độ tin cậy 95%.

 Uống rượu bia: với hệ số beta dương (0,1493) cho thấy tác động biên lên

HA là đồng biến. Nghĩa là nếu uống rượu bia càng nhiều, thì tác động biên

lên HA càng tăng, nên rất dễ gây THA. Tuy nhiên, điều này không có ý

nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,008 ở độ tin cậy 95%.

 Hoạt động thể lực: với hệ số beta dương (0,0275) cho thấy tác động biên lên

HA là đồng biến. Nghĩa là nếu tập thể dục càng nhiều thì tác động biên lên

HA càng tăng, hỗ trợ tốt cho tim mạch. Điều này không có ý nghĩa thống kê

khi giá trị P - value: 0,065 ở độ tin cậy 95% và có thể hiểu như phần 4.2.1 đã

nêu trên.

 Tiền sử gia đình: với hệ số beta dương (0,0244) cho thấy tác động biên lên

HA là đồng biến. Nghĩa là nếu gia đình càng có nhiều người có tiền sử THA

thì tác động biên lên HA càng tăng (rất dễ có nguy cơ bị THA). Tuy nhiên,

điều này không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,331 ở độ tin cậy

95%.

 Ăn mặn: với hệ số beta dương (0,0473) cho thấy tác động biên lên HA là

đồng biến. Nghĩa là nếu ăn mặn càng nhiều, thì tác động biên tích cực lên

71

HA càng tăng nên rất dễ gây THA. Điều này có ý nghĩa thống kê khi giá trị P

- value: 0,034 ở độ tin cậy 95%.

 Béo phì: với hệ số beta dương (0,9196) cho thấy tác động biên lên HA là

đồng biến. Nghĩa là nếu càng béo phì, thì tác động biên lên HA càng tăng

nên rất dễ gây THA. Điều này có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,043

ở độ tin cậy 95%.

 Số năm đi học: với hệ số beta âm (- 0,0004) cho thấy tác động biên lên HA

là nghịch biến. Nghĩa là nếu càng ít học, thì tác động biên lên HA càng cao

và cũng không đáng kể. Điều này vẫn không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P

- value: 0,75 ở độ tin cậy 95%.

 Lễ Phật: hệ số beta là âm (-0,0894) cho thấy tác động biên lên HA là nghịch

biến. Nghĩa là nếu càng ít lễ Phật, thì tác động biên lên HA càng tăng, dễ gây

THA. Điều này lại không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,011 ở

độ tin cậy 95% . Cũng có thể hiểu rằng, ở giai đoạn THA loại II này, hành vi

lễ Phật không còn tác dụng ngăn ngừa hữu hiệu như khi ở giai đoạn THA I

hoặc giai đoạn chưa THA.

Tóm lại: Ở nhóm THA loại II, với xác suất 0,0346 ta chỉ có 3 yếu tố có ý

nghĩa thống kê như: tuổi, ăn mặn, béo phì. Ngoại trừ yếu tố Lễ Phật, 3 yếu

tố nguy cơ này đều mang giá trị dương, thể hiện tác động biên đồng biến với

HA.

4.2.3. Tác động biên của từng yếu tố lên nhóm k THA:(bảng 4.2.3 - phụ lục 3)

 Tuổi: với hệ số beta âm (- 0,014) cho thấy: tuổi càng thấp, thì tác động biên

lên HA có thể xảy ra, nhưng không đáng kể. Ngược lại, tuổi càng cao thì tác

động biên lên HA có thể không có. Điều này rất có ý nghĩa thống kê khi giá

trị P – value: 0,000 ở độ tin cậy 95%.

72

 Giới tính: hệ số beta âm (- 0,2425) cho thấy tác động biên lên HA là nghịch

biến. Điều này có ý nghĩa thống kê khi giá trị P – value: 0,001 ở độ tin cậy

95%.

 Hút thuốc: với hệ số beta âm (- 0,007) cho thấy tác động biên lên HA là

nghịch biến. Nghĩa là nếu càng ít hút thuốc, thì tác động biên tích cực lên HA

sẽ giúp tăng cường lưu thông mạch máu phổi hơn so với khi hút nhiều thuốc

lá, khiến cơ thể không THA. Tuy nhiên, điều này không có ý nghĩa thống kê

khi giá trị P - value: 0,141 ở độ tin cậy 95%.

 Uống rượu bia: với hệ số beta âm (- 0,3707) cho thấy tác động biên lên HA

là nghịch biến. Nghĩa là nếu càng ít uống rượu bia, thì tác động biên lên HA

sẽ tăng, giúp lưu thông tuần hoàn máu tốt hơn. Điều này rất có ý nghĩa thống

kê khi giá trị P - value: 0,000 ở độ tin cậy 95%.

 Hoạt động thể lực: với hệ số beta âm (- 0,1082) cho thấy tác động biên lên

HA là nghịch biến. Nghĩa là nếu càng ít tập thể dục thì khả năng THA càng

cao (tác động biên tích cực lên HA càng ít đi). Điều này có ý nghĩa thống kê

khi giá trị P - value: 0,043 ở độ tin cậy 95%.

 Tiền sử gi a đình: với hệ số beta âm (- 0,0845) cho thấy tác động biên lên

HA là nghịch biến. Nghĩa là nếu gia đình càng có nhiều người có tiền sử

THA thì tác động biên tích cực lên HA càng ít đi (rất dễ có nguy cơ bị THA).

Tuy nhiên, điều này không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P - value: 0,277 ở

độ tin cậy 95% (tác giả nghĩ là do số mẫu còn giới hạn, nếu số mẫu lớn hơn

306 thì sẽ có ý nghĩa thống kê).

 Ăn mặn: với hệ số beta âm (- 0,1606) cho thấy tác động biên lên HA là

nghịch biến. Nghĩa là nếu ăn mặn càng nhiều, thì tác động biên tích cực lên

HA càng giảm nên rất dễ gây THA. Điều này vẫn không có ý nghĩa thống kê

khi giá trị P - value: 0,008 ở độ tin cậy 95% (tác giả nghĩ là do số mẫu còn

giới hạn, nếu số mẫu lớn hơn 306 thì sẽ có ý nghĩa thống kê).

73

 Béo phì: với hệ số beta âm (- 0,2543) cho thấy tác động biên lên HA là

nghịch biến. Nghĩa là nếu càng béo phì, thì nguy cơ THA càng cao (tác động

biên tích cực lên HA càng giảm đi, rất dễ gây THA). Điều này có ý nghĩa

thống kê khi giá trị P- value: 0,005 ở độ tin cậy 95%.

 Số năm đi học: với hệ số beta dương (0,0018) cho thấy tác động biên lên

HA là đồng biến. Nghĩa là nếu càng ít học, thì tác động biên lên HA giảm đi,

rất dễ gây THA. Điều này vẫn không có ý nghĩa thống kê khi giá trị P -

value: 0,075 ở độ tin cậy 95% (tác giả nghĩ là do số mẫu còn giới hạn, nếu số

mẫu lớn hơn 306 thì sẽ có ý nghĩa thống kê).

 Lễ Phật: với hệ số beta dương (0,2675) cho thấy tác động biên lên HA khá

tốt và đồng biến. Nghĩa là nếu lạy Phật càng nhiều, thì tác động biên lên HA

càng tích cực, giúp luân lưu tuần hoàn máu khắp cơ thể tốt hơn, cơ thể sẽ

không THA. Điều này rất có ý nghĩa thống kê khi giá trị P – value: 0,000 ở

độ tin cậy 95%.

Tóm lại: Ở nhóm k THA, với xác suất là 0,7845 ta có 6 yếu tố có ý nghĩa thống

kê như: tuổi, giới tính, uống rượu bia, hoạt động thể lực, béo phì và đặc biệt là

lễ Phật. Ngoại trừ yếu tố Lễ Phật, 6 yếu tố nguy cơ này đều mang giá trị âm, thể

hiện tác động biên nghịch biến với HA.

Nhóm k THA này đã thể hiện rõ rệt là nhóm đối chứng tiêu biểu (có sự đối

nghịch với nhóm THA loại I và THA loại II).

(nguồn: đúc kết từ kết quả nghiên cứu của tác giả)

Hình 4: Xác suất xảy ra tăng huyết áp

74

4.2.4. Tóm lược xu hướng tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến HA:(bảng

4.2.1 đến 4.2.3 – phụ lục 3): Bảng 4.2.3: xu hướng tác động của các yếu tố lên huyết áp:

TÁC ĐỘNG LÊN THA

TÁC ĐỘNG

Ý NGHĨA T.KÊ

CÁC YẾU TỐ

k THA

Ở MỨC 95%

THA I

THA II

+

+

_

Tuổi

+

+

_

Giới tính

+

+

_

không

Tiền sử gia đình

_

_

+

không

Số năm đi học

+

+

_

có / không / có

Uống nhiều rượu,bia

+

+

_

có / không / có

Hoạt động thể lực

+

+

_

không/có/không

Ăn mặn

+

+

_

không

Hút thuốc lá

+

+

_

Béo phì

_

_

+

có / không / có

Lễ Phật

Ghi chú:+ có / không / có : THA I : có ; THA II : không ; k THA : có.

+ không / có / không : THA I: không; THA II: có ; k THA : không

4.3. Hướng phòng bệnh: từ kết quả nghiên cứu trên, phối hợp với chế độ DASH

(khuyến cáo của Canada), tác giả đề xuất những phương cách sau:

 Nếu là người không mang yếu tố nguy cơ và không THA: cách phòng bệnh

dưới đây sẽ rất hữu ích cho mọi người và cộng đồng:

 Thực hiện chế độ ăn ít mỡ bão hòa, ít cholesterol, nhiều rau, quả, cá.

75

 Giảm cân nặng nếu thừa cân. Duy trì BMI lý tưởng từ 20-25kg/m2, nếu giảm

(Từ kết quả nghiên cứu của tác giả và nghiên cứu của Hoàng Khánh (2000)).

được 10kg thì HA có thể giảm được 5-10mmHg.

 Đối với người trưởng thành, nên ăn 4-6g muối/ngày (dựa theo kết quả nghiên

cứu trên về tác động của yếu tố ăn mặn đến HA, theo nghiên cứu của Hoàng

Khánh (2009) và chế độ DASH - khuyến cáo của Canada). Đối với người

THA nên dùng 2-4g muối/ngày. Hạn chế muối đưa vào cơ thể. Tốt nhất nên

hạn chế cho muối vào thức ăn khi nấu nướng.

Bắt đầu một chương trình tập luyện thể lực thường xuyên mỗi ngày 30’/ lần.

Chọn một phương pháp phù hợp với sở thích, thời gian và khả năng của mình.

Tốt hơn là đi bộ nhanh, lao động chân tay (30 - 40 phút / ngày ) thì cũng giảm

(Từ kết quả nghiên cứu của tác giả và nghiên cứu của Hoàng Khánh (2000)).

 Nếu hút thuốc, giảm đến mức tối đa cho đến khi từ bỏ hẳn. Vì thuốc lá làm

4-9mmHg huyết áp.

tăng fibrinogen, tăng kết dính tiểu cầu, tăng dung tích huyết cầu từ đó làm tăng

(Từ kết quả nghiên cứu của tác giả và nghiên cứu của Hoàng Khánh (2000)).

độ quánh máu, làm phình mạch máu não.

 Nếu uống rượu / bia, hãy hạn chế và cân nhắc. Vì rượu gây THA, tăng

triglixerit, dễ gây rung nhĩ kịch phát và gây bệnh cơ tim với huyết khối trong

buồng thất. Nếu giảm [ < 30 ml Ethanol, < 720 ml Bia, < 300 ml đối với rượu

vang, < 60 ml WhisKy, < 15 ml Ethanol đối với phụ nữ và người nhẹ cân /

(Từ kết quả nghiên cứu của tác giả và nghiên cứu của Hoàng Khánh (2000)).

ngày) thì cũng giảm được 2-4mmHg HA.

 Giảm căng thẳng, tránh phản ứng với các tình huống có thể gây stress và luyện

tập thể lực thường xuyên theo nhu cầu và sở thích.

THA và theo kết quả nghiên cứu trên của tác giả).

 Lễ phật là tốt nhất (dựa trên kết quả phỏng vấn sâu một số người trong nhóm 204 k

 Nếu là người đã có yếu tố nguy cơ và đang bị THA:

76

 Thời gian bắt đầu và việc chọn lựa một phác đồ điều trị là do thầy thuốc

quyết định, và tất nhiên phải có sự đồng ý của người bệnh.

 Nhìn chung, khi bị THA, người bỊ THA cần được điều trị bằng thuốc. Đương

nhiên, họ bắt buộc phải thay đổi thói quen sinh hoạt như: thực hiện chế độ ăn

kiêng, ăn nhạt hơn, tập thể dục đều đặn các ngày trong tuần, và nên kiên

quyết bỏ đi các thói quen có hại khác như hút thuốc lá, uống rượu bia như đã

trình bày và dẫn chứng ở trên.

 Đặc biệt là BN không nên dựa hẳn vào thuốc điều trị. Khi các thói quen sinh

hoạt bất lợi đã được loại bỏ, thay vào bằng lối sống điều độ thì cũng là lúc

thuốc điều trị sẽ dần rút lui - đối với THA độ I.

 Tốt hơn là nên lễ Phật thường xuyên mỗi ngày để ngăn ngừa nguy cơ chuyển

sang THA loại II khi đang trong giai đoạn điều trị THA loại I.

77

CHƯƠNG 5: BÀN LUẬN - KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ

5.1. Bàn luận:

Về các yếu tố:

Từ bảng 4.2.3: xu hướng tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến HA, ta nhận

thấy các giả thuyết ở phần 3.4 (phương pháp phân tích) và kết quả từ bảng 4.2.3.

là giống nhau và hoàn toàn phù hợp:

Bảng 5: So sánh dấu kỳ vọng của các yếu tố tác động lên HA

trước nghiên cứu

sau nghiên cứu

trước nghiên cứu

sau nghiên cứu

Tác động lên nhóm THA Tác động lên nhóm kTHA Các yếu tố

+

+

_

_

Tuổi

+

+

_

_

Giới tính

+

+

_

_

Tiền sử gi a đình

_

_

+

+

Số năm đi học

+

+

_

_

Uống nhiều rượu, bia

+

+

_

_

Hoạt động thể lực

+

+

_

_

Ăn mặn

+

+

_

_

Hút thuốc lá

+

+

_

_

Béo phì

_

_

+

+

Lễ Phật

Theo Hoàng Khánh (2000): khi HA giảm 5,8mmHg thì giảm tần suất đột quỵ

42%. Duy trì HA lý tưởng là ≤140/90 mmHg bằng nhiều biện pháp khác nhau

như giảm cân nếu có béo phì, nên ăn nhạt không quá 100mmol/ngày (2,4g đến

78

6g NaCl/ngày), tránh dùng các thuốc gây THA, tập thể dục đều đặn 30-45 phút

vào hầu hết các ngày trong tuần, bổ sung kali bằng ăn thêm hoa quả - rau tươi

gần 90mmol/ngày, duy trì đủ lượng canxi – magie (Hoàng Khánh (2000)).

Theo Phạm Gia Khải và CS: “Ước tính của Hội Tim Mạch Canada năm 2009

cho thấy tại Canada, với việc giảm ăn mặn từ 350mg muối xuống 170mg muối

trong một ngày đã giúp giảm: 1triệu người bị THA; giảm 5 triệu lượt người

phải đi khám bác sĩ / năm; tiết kiệm được 450 - 540 triệu USD / năm do

phải đi khám và dùng thuốc; giảm được 13% tử vong do các biến chứng tim

mạch và tổng cộng chi phí y tế giảm được 1,3 tỷ USD mỗi năm. Những thống kê

khác về thay đổi lối sống là: cứ giảm được mỗi 1 kg cân nặng thừa thì giảm được

trung bình 1,5mmHg; tập thể dục đều ít nhất 60 phút mỗi ngày và hàng ngày thì

giảm được trung bình 5,5mmHg; chế độ ăn hợp lý (chế độ DASH theo khuyến

cáo của Canada) sẽ giúp giảm được 11mmHg”. (Phạm Gia Khải và CS (2010)).

Như vậy, nếu chúng ta nghiêm túc điều chỉnh các thói quen sinh hoạt hàng ngày,

ăn uống hợp lý điều độ, thì những biện pháp ít tốn kém nhất và đơn giản nhất

cũng có hiệu quả đáng kể, tích cực.

 Về yếu tố Lễ Phật: từ kết quả nghiên cứu trên, ta có thể nhận thấy, người lễ Phật

thường có tỉ lệ THA rất thấp và hầu như không có. Khi ở mức độ THA loại I, thì

lễ Phật vẫn còn tác dụng cứu vãn, giúp người bệnh không chuyển sang giai đoạn

THA loại II và tránh được đột quỵ. Nhưng khi đã ở giai đoạn THA loại II thì lễ

Phật khó có hiệu quả cải thiện tình trạng THA.

* Lễ Phật cũng có thể gọi là yếu tố hoạt - động - thể - lực - đặc - biệt và không

phải là yếu tố nguy cơ. Vì bản thân bốn từ: “yếu tố nguy cơ” là của y khoa và

các yếu tố nguy cơ đó chỉ xét trên mức độ thuần y khoa. Mặt khác, hành vi lễ

Phật là yếu tố kinh tế - xã hội (thuộc thói quen sinh hoạt của cộng đồng người

có đạo Phật, hoặc sở thích của những người yêu thích đạo Phật dù không có đạo)

hành vi lễ Phật có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ sức khỏe bản thân và có

thể triệt tiêu được một số bệnh của thân và tâm.

79

* Ở những nhóm người không theo Phật giáo, thì nghiên cứu này vẫn có ý nghĩa

- nếu như họ (nhóm người không theo Phật giáo hoặc ở đạo khác) thấy đạo Phật

là một khoa học. Vì đạo Phật có thể giải thích về Luật nhân - quả một cách rành

mạch, khoa học, có lý có tình – thì họ vẫn có thể cải đạo (chuyển sang đạo Phật)

hoặc quy y Phật pháp để có thể thực hiện được hành vi lễ Phật. Minh chứng cho

thấy Thượng tọa Thích Chân Quang lúc nhỏ từng là người theo đạo Hòa Hảo,

sau đó chuyển qua Thiên Chúa Giáo, sau đó thấy đạo Phật khoa học và có ích

nên thượng tọa đã sớm chuyển qua đạo Phật, hoằng pháp và làm hiển danh Phật

pháp tới giờ. Thậm chí, nhà bác học của thế giới là Albert Einstein cũng rất ưa

chuộng và tuyên dương Phật pháp (xem phụ lục 4).

* Người không có đạo Phật, nhưng có lòng ngưỡng mộ và tôn kính đức Phật

cũng có thể lạy Phật khi vào chùa hay ở nhà là tùy vào ý thích và tâm tư của họ.

Bằng chứng này có được là do trong quá trình khảo sát và thu thập dữ liệu, tác

giả đã phỏng vấn sâu nhiều người trong nhóm không THA (nhất là ở nhóm

người dân tộc Khmer và cả bản thân tác giả): họ chưa vào đạo Phật (ở nhà không

có thờ Phật và chưa quy y) nhưng vẫn thường lễ Phật mỗi khi bước vào chùa.

Mặt khác, tuy có tâm hướng Phật, nhưng tham - sân - si của mỗi Phật tử vẫn còn,

và như thế tình trạng THA vẫn còn tồn tại cho đến khi nào họ tiến đến được tâm

Vô Ngã thì mới triệt tiêu được THA và ngăn chặn được THA. Tâm Vô Ngã đều

được thể hiện ở hành vi thường xuyên lễ Phật của những Phật tử thuần thành.

Còn hầu hết, trên thực tế, cũng có rất nhiều Phật tử - thậm chí nhiều tu sĩ -

không hề lạy Phật (vì tâm kiêu mạn vẫn còn) và như thế THA vẫn còn tiếp tục

xảy ra.

* Lạy thánh Allah cũng là một hình thức lễ lạy, nhưng không gọi là lễ Phật, vì

thánh Allah chỉ là thánh, không phải là Phật! Cũng không nên lạy phật mẫu (là

hình tượng người phụ nữ mặc áo đen, đứng trên quả địa cầu), vì đó chỉ là mê tín

của dân gian, không phải là đức Phật.

* Khi hành vi lễ Phật trở thành thói quen sinh hoạt của đại đa số con người thì đó

là dấu hiệu tốt cho xã hội. Vì xét về mặt tinh thần của từng cá nhân: nó giúp tâm

80

tĩnh, luôn an vui và vị tha hơn. Xét về mặt thể chất: nó giải phóng hầu hết bệnh

tật một cách vô hình (qua những nguyên lý đã được trình bày ở phần 2.6 và quá

trình nghiên cứu, phân tích kết quả và bàn luận đã nêu trên). Xét về mặt kinh tế:

nó không hề tốn kém chi phí. Thí dụ: muốn hít xà đơn, phải tốn tiền mua và gắn

được xà đơn; muốn đi bộ phải tốn tiền mua quần áo thể dục và giày thể thao hợp

lý; muốn bơi lội cũng phải tốn tiền sắm đồ bơi, xây hồ bơi hoặc thuê hồ bơi theo

giờ; muốn đánh cầu hay đánh tennis phải tốn tiền mua sắm cầu, lưới, bóng

tennis, mất rất nhiều tiền và tnhiều thời gian để xây dựng sân bãi hoặc thuê sân

hàng giờ và phải mua quần áo thể thao phù hợp. Lễ Phật không tốn tiền cho

những khoảng chi phí này, chỉ mất khoảng thời gian 10 phút trở lên là đủ để đảm

bảo, duy trì sức khỏe tốt và ngăn ngừa bệnh tật - kể cả triệt tiêu được những

bệnh nan y như tim mạch, ung thư. Và xét về mặt xã hội: thì việc lễ Phật rất cần

cho hôm nay vì tình trạng đạo đức của xã hội đang xuống dốc.

* Nếu hành vi lễ Phật được lập thành từ nhỏ (do cha mẹ, thầy - cô giáo hướng con

trẻ theo khuynh hướng này) thì nhiều khả năng đứa trẻ sẽ không bệnh tật cho đến

khi già, chết. Không những thế, đứa trẻ chắc chắn sẽ đạt được những đức tính tốt

đẹp như khiêm cung lễ độ với tất cả mọi người, thông minh, học giỏi, đa tài.

* Một khi lễ Phật trở thành thói quen sinh hoạt, nó sẽ tác động tích cực và tác động

trực tiếp đến những yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được như người ta có thể tự

động bỏ hút thuốc, bỏ rượu / bia; tích cực hơn trong hoạt động thể lực và hoạt

động công ích. Như vậy, lễ Phật đã giúp cải thiện, gia tăng sức khỏe cộng đồng.

Tác động từ 2 nhóm yếu tố trên cho thấy được tác dụng tốt của Kinh tế sức khỏe.

5.2. Kết luận:

Từ kết quả nghiên cứu trên, cho thấy các thông số về các yếu tố đã được lượng

giá và kiểm chứng, để một chương trình phòng bệnh hướng tới việc điều chỉnh

các yếu tố có thể được bắt đầu, nhân rộng trong cộng đồng.

Cũng từ số liệu và những phân tích, bàn luận trên cho thấy: Đứng trên bình diện

Kinh tế Sức khỏe và ở góc độ Y học, tác dụng của hành vi lễ Phật là vô cùng to

lớn. Hành vi đó đã đóng góp không nhỏ vào quá trình rèn luyện và bảo vệ sức

81

khỏe của cá nhân, lan rộng trong cả cộng đồng, tinh luyện cả về mặt tinh thần và

tài lực So với các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được như: uống rượu / bia, hút

thuốc, ăn mặn, béo phì, hoặc số năm đi học thì hành vi lễ Phật là yếu tố kinh tế -

xã hội mang tính tích cực nhất, trong chừng mực nào đó có thể đại diện cho lĩnh

vực kinh tế, dẫn đầu cho lĩnh vực sức khỏe và hoạt động của y tế, mà trong đó,

chi phí được giới hạn đến mức tối đa.

5.3. Khuyến nghị:

Từ kết quả nghiên cứu, những phân tích, bàn luận và kết luận trên, chúng ta có

thể nhận thấy:

 Tuy các yếu tố nguy cơ như tuổi tác, giới tính, di truyền thì hầu như không thể

thay đổi và cải thiện được, nhưng các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được như:

ăn mặn, béo phì, hút thuốc, uống rượu bia, luyện tập thể lực đều có thể được điều

chỉnh từ thói quen sinh hoạt hàng ngày bởi ý thức của từng cá nhân. Và khi đó,

chắc chắn sẽ ngăn ngừa được nguy cơ xảy ra THA trong gia đình, cộng đồng và

xã hội.

 Hành vi lễ Phật tuy giản đơn, nhưng đã tác động tích cực đến HA, đóng góp

không nhỏ vào việc ngăn ngừa nguy cơ THA. Đứng ở góc độ Kinh tế Sức Khỏe,

y học và xã hội, thì nếu như cá nhân có tín tâm, tri thức khoa học và tầm nhìn thì

việc tự bảo vệ sức khỏe cá nhân, gia đình và xã hội là điều rất dễ dàng. Không

những thế, còn có thể duy trì và phát triển nguồn lực xã hội một cách hữu hiệu.

 Từ góc độ đó (và trên thực tế của nhiều cơ sở y tế công lẫn tư ngày nay) xét

thấy: Kinh tế lúc nào cũng nên tiên phong đi đầu, thì các mặt chăm sóc sức khỏe

và phòng bệnh trong lĩnh vực y tế mới tận dụng được hết toàn bộ nguồn lực và

đạt hoàn toàn hiệu quả.

 Hướng phát triển dài hạn: do tình trạng trẻ thừa cân, béo phì hiện nay ngày càng

gia tăng; thanh niên ngày càng sử dụng nhiều bia rượu và chất kích thích, lười

biếng luyện tập thể lực; chế độ ăn không kiểm soát (nhiều chất béo và thường

mặn), hút nhiều thuốc lá... Do vậy, ngoài những nghiên cứu chuyên sâu về y

khoa, thì chính phủ cần đầu tư nhiều hơn nữa về nghiên cứu khoa học lĩnh vực

82

Kinh tế sức khỏe.

 Mọi người đều có thể huấn luyện trẻ con để chúng trở nên yêu thích lễ Phật hàng

ngày như một thói quen sinh hoạt tốt và cần thiết để cải thiện tình trạng xã hội

(thay vì chúng mất quá nhiều thời gian cho chơi game, lên mạng hàng giờ hay

rong chơi lêu lổng). Như thế thì chính phủ mới có được những chiến lược y tế,

kinh tế quốc gia dài hạn và hoàn thiện, ích quốc lợi dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

Đào Duy An (2007), “Tăng huyết áp thầm lặng như thế nào”, Thời sự Tim Mạch Học,

(số 111), (Hội Tim mạch học Quốc gia VN), tr 33-36.

Đoàn Dư Đạt (2005), “Nhận xét các yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và các tổn

thương cơ quan đích trong các BN THA tại khoa tim mạch BV Việt Nam-Thụy

Điển Uông Bí, Quảng Ninh năm 2003-2004”, Tạp Chí Tim Mạch Học Việt Nam,

(số 41), tr. 514-523

Thục Đoan, Cao Hào Thi (2014), “Biến độc lập định tính (biến giả)”, bài đọc Các

phương pháp định lượng, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Nguyễn Trọng Hoài, Cao Hào Thi (2009), “Biến phụ thuộc định tính”, giáo trình môn

học Các phương pháp định lượng.

Nguyễn Văn Hoàng, Đặng Vạn Phước, Nguyễn Đỗ Nguyên (2004), “Đặc điểm bệnh

tăng huyết áp ở người cao tuổi tại tỉnh Long An (2004), Nghiên cứu khoa học

(2004).

Trần Văn Huy (2007), “Tỉ lệ nguy cơ bệnh tim mạch ở người lớn Khánh Hòa theo biểu

đồ dự báo nguy cơ toàn thể của tổ chức y tế thế giới” báo cáo nghiên cứu khoa

học cấp tỉnh.

Trần Tiến Khai và CS (2009), Phương pháp nghiên cứu kinh tế, (tài liệu giảng dạy, tr

88-92).

Phạm Gia Khải, Đỗ Doãn Lợi, Nguyễn Ngọc Hoan (2010), “Tăng huyết áp kẻ giết

người thầm lặng”, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, ( số 52), tháng 01 năm 2010;

tr. 80-83.

Hoàng Khánh (2000), “Tăng huyết áp và Tai biến mạch máu não”, bài giảng Nội khoa

tr 9).

Hồ Lan và CS. (2007), “Tìm hiểu các yếu tố nguy cơ và thực trạng quản lý bệnh tăng

huyết áp ở tập thể cán bộ diện tỉnh quản lý tại phòng khám bảo vệ chăm sóc sức

khỏe cán bộ tỉnh Nghệ An”, Tạp Chí Tim Mạch Học Việt Nam, (số 48), tr. 66-71.

Trương Tấn Minh và CS (2004), “Dịch tể học các yếu tố nguy cơ tim mạch chính ở

người lớn tại Khánh Hòa.Huỳnh Văn Minh và CS (2007), “Tần suất tăng huyết áp

và mối liên quan với một số yếu tố nguy cơ chính của nhân dân tỉnh Thừa Thiên-

Huế”, Nội Khoa, Tạp Chí Tim Mạch Học Việt Nam (số 4), tr. 64-72.

Huỳnh Văn Minh và CS (2008), “Khuyến cáo của Hội Tim Mạch hoc Việt Nam về

chẩn đoán và điều trị dự phòng tăng huyết áp ở người lớn”, Khuyến cáo về các

bệnh tim mạch và bệnh chuyển hóa giai đoạn 2006 - 2010, Hội Tim mạch Quốc

gia Việt Nam, tr. 235-259.

Phan Hải Nam (2007), Một số xét nghiệm hóa sinh lâm sàng, Học viện Quân y Hà

Nội, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, tr: 77-85, 86 – 99, 116 – 119, 211-214.

Đặng Vạn Phước và CS (2008), “Tỉ lệ đạm niệu vi lượng trên bệnh nhân tăng huyết áp

và các nguy cơ tim mạch đi kèm: Kết quả của nghiên cứu quốc tế I-SEARCH

trên dân số bệnh nhân Việt Nam. Phân tích phụ của một cuộc điều tra trên 21.050

bệnh nhân tại 26 nước”, Thời sự tim mạch học, (số 126), tr. 17-24.

Thích Chân Quang (2006), “Hiểu và tôn kính Phật”, Tâm lý đạo đức 1, nhà xuất bản

Tôn Giáo (tái bản lần 2), tr 41-87.

Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn và CS (2012), “Biến đổi HA theo tuổi; Giới tính và

THA”, Tăng huyết áp, Nhà Xuất bản Y học, tr.29- 33.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH:

Ahram V Chobanian et al. (2003), The Seven Report of the National Committee on

Prevention, Detection, Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure. Jama,

May 2003 289, 2560-2572

Barnes, P. M., Adams, P. F. & Powell-Griner, E. (2008). "Health Characteristics of the

Asian Adult Population: United States, 2004–2006". Avd data 394, pp.1-22.

Boon-Lock C. (1996), “Preventing heart attack and death in patients with coronary

disease”, Medical progress, 23(9), pp. 39-42.

Conroy RM et al. (2003), “Score project group. Estimation of ten-year risk of fatal

cardiovascular disease in Europe”, the Score project. Eur Heart J.;24(11):987–

1003.

Chobanian A V, Barkris G L, Black H R, et al. (2003), “The seventh Report of the

Joint National Committee on the Prevention, Detection, Evaluation and Treatment

of High Blood Pressure_JNC VII Express”, JAMA, (289), pp. 2560-2572.

Dwivedi S, Singh G, Agawal MP. (2000), “Profile of Hypertension in Elderly Subjets”,

JAPI, 48, pp. 1047-1049.

D’Agostino RB, Grundy S, Sullivan LM, Wilson P. CHD Risk Prediction Group.

(2001), “Validation of

the Framingham coronary heart disease prediction scores:

results of a multiple ethnic groups investigation”. JAMA; 286: 180–87

Edouard J. Battegay University Hospital Basel Basel, Switzerland + Gregory Y. H.

Lip City Hospital Birmingham, United Kingdom + George L. Bakris Rush

University Medical Center Chicago,

Illinois, U.S.A. Hypertension Principle

and Practice.

Executive summary of the Third Report of the National Cholesterol Education Program

(NCEP). (2001) Expect Panel on Detection, Evaluation and Treatment of High

Blood Cholesterol in Adults ( Adult Treatment Panel III) JAMA 285 2486-97.

Grodzicki T, Messerlif H. (1998), “The heart in the hypertensive elderly”, Journal of

human hypertension, 12 (9), pp. 573-647.

Guy de Packer. (2003), European guidelines on cardiovascular disease prevention in

clinical pratice. European Heart journal 24 1601-10.

Isles C (1995), “Blood Pressure in males and females”, J Hyperten, 285-290.

Kenkel, D. 1995. “Should you eat breakfast? Estimates

from Health Production

Functions”. Health Economics 4: p15-29.

Kotchen JM,

Shakoor-Abdullah B, Walker WE, Chelius TH, HoffmannRG, Kotchen

TA. (1998), Hypertension control and access to medical care in the innner city.

Am J Public Healht; 153: p186-208.

Kearney PM et al. (2005), “Global burden of hypertension: analysis of worldwide

data” , Lancet, 365(9455), pp. 217-23.

Kaplan N M. (2006), “Treatment of Hypertension: Drug therapy”, Kaplan’S Clinical

Hypertnsion, 9th Edition, Lippincott Williams & Wilkins, USA, pp. 13; 416-608.

Kostis J B. (2007), “The Importance of Managing Hypertension and Dyslipidemia to

Decrease Cardiovasclar Disease”, Cardiovasc Drugs Ther, 21, pp. 297-309.

Lynn W.R, Thompson B. (2000), Community Intervention Trial for Smoking Cessation:

Description and Evaluation Plan, Smoking and Tobacco Control Monographs,

National Cancer Institute.

Mendis S, Lindholm LH, Mancia G, et al. (2007) : “assessment of cardiovascular risk

for prevention and control of cardiovascular disease

in

low and middle-income

countries”, World Health Organization

(WHO) and International Society of

Hypertension (ISH) risk prediction charts. J Hypertens; 25: 1578–82.

Palatini P (2003), “Microalbuminuria and hypertension”, Curr Hypertens Rep, 5, (3),

pp. 208-214.

Peter Zweifel et al. (2009), Health Economics ( 2nd ed.)

Prisant L. Michael (2005), “Hypertension in

the Elderly”, Humana Press Inc, New

Jersey, pp. 11-516.

Staessen J, Bulpitt cj, Fagard R, Lijnen P, Amery A. (1989). “The Influence of

menopause on Blood Pressure”. J Hyperten, 427-433.

Scott M. Grundy et al. (1999) “Assessment of cardiovascular risk by use of Multiple-

Risk-factors assessment Equations”. J Am cardio; 34; 1348-59.

Stuart J Pocok et al. (2001), “A score for predicting risk of death from cardiovascular

disease in adults with raised blood pressure. Based on individual patient data

from randomized control trials BMJ Vol. 323;75-81.

Svensson Staffan.

(2006), “Medication adherence, side effects and patient-physican

interaction in hypertension” Gưteborg, Sweden, pp. 15-18.

WHO Expert Consultation.

(2004),

“Appropriate body mass

index

for Asian

populations and

its

implication for policy and

intervention strategies”, Lancet.

363: p157-163.

WHO. World Health Report. (2002): “reducing risks, promoting healthy life”. World

Health Organization.

WHO. (2005). “Preventing chronic diseases a vital investment”. Geneva: World Health

Organization.

WHO. (2007), “Prevention of Cardiovascular Disease. Guidelines for assessment and

management of total cardiovascular risk”. Geneva: World Health Organization,

WHO,

ISH Writing Group.

(2003), “International Society of Hypertension

(ISH)

statement on management of hypertension”.

World Heath Organization,

21:1983-1992.

Các Website:

-

Hồi quy với biến giả (Kim Dung): http://www.slideshare.net/camthuninh/hi-qui-vi-

bin-gi), truy cập lúc 12h, ngày 10/11/2014)

- Hội Tim mạch Học Việt Nam

(www.vnha.org.vn),

truy cập

lúc 12h, ngày

10/11/2014) .

-

Lợi

ích của việc

lạy Phật: www.duongvecoitinh.com/index.php/2011/04/su-loi-ich-

cua-viec-lay-phat/ - Ngày truy cập: 22/09/2014 lúc 15h, 03/11/2014 lúc 16h)

- Lợi

ích

của

lễ Phật: http://thuvienhoasen.org/a11914/con-duong-phat-trien-tam-linh:

Chương 4 - Ngày truy cập: 23/01/2015 lúc 17h);

- Thích Trí Hoằng: Tạng thư Phật học của Tây Tạng về pháp môn lạy Phật:

http://www.tangthuphathoc.net/nghilepg/phapmonlayphat.htm,

truy

cập

lúc

14h

ngày

29/09/2014).

- Thích Chân Quang (2008), bài thuyết pháp: “Sự tôn kính Phật tuyệt đối”, Phát tâm Bồ

tát. mp3, nhà xuất bản Tôn Giáo 2008).

- Phương

pháp

lạy

Phật:

http://yume.vn/loanidle/article/phuong-phap-

layphat/35CA0BF4.htm, ngày truy cập 10/04/2015 lúc 15h).

- Lạy Phật và y học: www.dannguyet.com.vn / Lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học

thâm sâu”, - Ngày truy cập: 10/06/2015 lúc 18h).

- Lễ Phật và y học: phatphaponline.org; phương pháp lễ Phật, truy cập: 23/03/2015 lúc

18h);

- Phật giáo, y học và sức khỏe: http://www.daophatngaynay.com/vn/pg-nganh/khoa-

hoc/15204-phat-giao-y-hoc-va-suc-khoe.html

- Ngày

truy cập: 22/06/2015

lúc 18h

49);

- Tác dụng lạy Phật: Tập san Pháp luân số 03;. Truy cập ngày 15/03/2015, lúc 15h)

- Chương trình “Hỏi đáp Phật pháp” với chủ đề Ý nghĩa cách lạy Phật sao cho đúng?

Truy cập ngày 15/03/2015, lúc 18h))

- Ý nghĩa của việc

lễ Phật: http://quangduc.com/p3705a49116/4/6-y-nghia-cua-viec-

lay-phat)

- Thông tin về hút thuốc lá (http://benhvienk.com), Truy cập ngày 15/03/2015, lúc 9h).

- Lê Trung Hiếu

- Bệnh Tăng

huyết

áp:

http://ykhoakyhoa.vn/en/noi-tim-

mach/2013/9/tim-hieu-ve-benh-tang-huyet-ap. Truy cập lúc 5h ngày 25/11/2014.

PHỤ LỤC 1:

PHIẾU KHẢO SÁT (1)

I/ . Hành chánh & kết quả cận lâm sàng:

-Họ và tên: ............................Năm sinh:..............Giới:………Dân tộc:.…………..… -Địa chỉ:………………………………………..…………….... Số hồ sơ:................ -Ngày giờ nhập viện:.................... .........................Khoa: Nội Tim mạch BVĐKKG

-Ngày giờ đo HA:...................KQ đo HA:….............................................................

-Ngày đo ECG:……........…Kết quả ECG…………………….................................

- KQ xét nghiệm máu:

+ Lipid máu……….Kali……….…………………………………………………..

+ Creatinine: ……………………………………………………………………….

+ HDL Cholesterol............…………..……………………………………………..

+ Protein niệu ………...………................................................................................

Chẩn đoán xác định (theo hồ sơ BA):....................................................................

Phân loại THA:

+ Độ I: HA tâm trương: 140-159mmHg,

+ Độ II: =,> 160mmHg): ..........................................................................................

- Thuốc hạ áp đang dùng:............................................................................................

II/. Lâm sàng :

- Chiều cao: ..............m

- Cân nặng: ..........kg

- BMI= ...................kg/m2

III/. Các yếu tố:

Tuổi (năm sinh – năm nghiên cứu):

1

Số năm đi học (tính bằng số năm):

2

3

Giới tính:

0: nam 1: nữ

4

Hút thuốc lá / thuốc lào (số điếu / ngày):

5

0: không 1: có

Uống nhiều rượu, bia: =,> 4ngày / tuần (> 60ml rượu vang, 300ml bia, hoặc 30ml rượu nặng)

6

Hoạt động thể lực (……’ / ngày)

0: không 1: có

7

0: không 1: có

Tiền sử gia đình (có người mắc bệnh tim mạch và / hoặc THA)

8

Ăn mặn (> 6 gr / ngày = 1muỗng café)

0: không 1: có

9

Béo phì (BMI)

0: không 1: có

10

Lễ Phật (> = 10 cái / lần / ngày)

0: không 1: có

Ngày tháng năm 2014

Người thu thập

(ký tên)

PHỤ LỤC 2:

PHIẾU KHẢO SÁT (2)

(dùng cho nhóm đối chứng – không tăng huyết áp) (Mức độ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp ở người lớn)

Họ và tên: ........................................................Năm sinh:...................Giới:……… Địa chỉ:…………………………………………..................Dân tộc:.…………… HA hiện tại:.....................Tiền sử:…….……………..Tiền căn:………………….. - Cân nặng: .............kg -BMI= ....................kg/m2 Chiều cao: .......m Các yếu tố:

1

Tuổi: (năm sinh – năm nghiên cứu):

2

Số năm đi học (tính bằng số năm):

3

Giới tính:

0: nam 1: nữ

4

Hút thuốc lá / thuốc lào (số điếu / ngày):

5

0: không 1: có

Uống nhiều rượu, bia: =,> 4ngày / tuần (> 60ml rượu vang, 300ml bia, hoặc 30ml rượu nặng)

6

Hoạt động thể lực (……’ / ngày)

0: không 1: có

tim

7

0: không 1: có

Tiền sử gia đình (có người mắc bệnh mạch và / hoặc THA)

8

Ăn mặn (> 6 gr / ngày = 1muỗng café)

0: không 1: có

9

Béo phì (BMI)

0: không 1: có

10 Lễ Phật (> = 10 cái / lần / ngày)

0: không 1: có

Ngày tháng năm 2014

Người thu thập (ký tên)

PHỤ LỤC 3:

KẾT QUẢ CHẠY HỒI QUY (STATA 12.0) MÔ HÌNH ODERED PROBIT

BẢNG 4.1: Ý nghĩa thống kê của các yếu tố (xu hướng tác động) đối với huyết áp . opr obi t bp a se c wh e p s a f wo bmi y

It era tio n 0: log lik eli hoo d = -26 4.9 833 6 It era tio n 1: log lik eli hoo d = -15 1.1 897 5 It era tio n 2: log lik eli hoo d = -14 6.1 096 8 It era tio n 3: log lik eli hoo d = -14 6.0 666 7 It era tio n 4: log lik eli hoo d = -14 6.0 666 6

Or der ed prob it reg ress ion N umbe r o f o bs = 306 L R ch i2( 11) = 237 .83 P rob > c hi2 = 0.0 000 Lo g l ike liho od = - 146. 066 66 P seud o R 2 = 0.4 488

bp Co ef. Std. Er r. z P>| z| [95 % Co nf. In terv al] a . 0482 053 .005 944 9 8.11 0.0 00 .03 6553 5 .059 857 se . 7962 802 .241 652 2 3.30 0.0 01 .32 2650 6 1.26 991 c . 0252 635 .017 079 7 1.48 0.1 39 - .00 8212 2 . 0587 392 wh 1 .069 699 .258 196 1 4.14 0.0 00 .56 3644 4 1 .575 754 e . 3833 256 .194 283 3 1.97 0.0 48 .00 2537 3 . 7641 139 p . 2702 667 .235 881 9 1.15 0.2 52 - .19 2053 2 . 7325 867 sa . 5167 342 .188 134 4 2.75 0.0 06 .14 7997 5 . 8854 709 f -. 2268 464 .236 393 6 - 0.96 0.3 37 - .69 0169 3 . 2364 766 wo -. 8218 662 .20 974 1 - 3.92 0.0 00 - 1.2 3295 1 -. 4107 814 bmi . 7413 526 .240 365 2 3.08 0.0 02 .27 0245 5 1.21 246 y -. 0061 305 .019 220 7 - 0.32 0.7 50 - .04 3802 4 . 0315 413 / cut1 3.5 328 .523 205 6 2.5 0733 6 4 .558 264 / cut2 4 .562 795 .552 648 2 3.4 7962 4 5 .645 966

BẢNG 4.1.1: Yếu tố Tuổi tác tác động lên Huyết áp . sor t b p

. by bp: su m a

-> bp = 0

V ari abl e Obs Me an Std. De v. Min Ma x a 204 36 .74 51 15.0 393 2 20 8 7

-> bp = 1

V ari abl e Obs Me an Std. De v. Min Ma x a 46 63. 456 52 17.8 906 6 23 8 9

-> bp = 2

V ari abl e Obs Me an Std. De v. Min Ma x a 56 69. 196 43 14.9 962 7 32 10 2

BẢNG 4.1.2: Yếu tố giới tính tác động lên Huyết áp . tab bp se, row

Key frequency row percentage

se bp 0 1 Total 0 126 78 204 61.76 38.24 100.00 1 24 22 46 52.17 47.83 100.00 2 30 26 56 53.57 46.43 100.00 Total 180 126 306 58.82 41.18 100.00

BẢNG 4.1.3.1: Hút thuốc từ 0 đến 05 điếu tác động lên Huyết áp . tab bp c, row

Key frequenc y row percen tage

c bp 0 1 2 3 4 5 Total 0 154 2 2 3 0 4 204 75.49 0.98 0.98 1.47 0.00 1.96 100.00 1 32 0 1 0 0 1 46 69.57 0.00 2.17 0.00 0.00 2.17 100.00 2 29 0 0 1 1 3 56 51.79 0.00 0.00 1.79 1.79 5.36 100.00 Total 215 2 3 4 1 8 306 70.26 0.65 0.98 1.31 0.33 2.61 100.00

BẢNG 4.1.3.2: Hút thuốc từ 06 đến 20 điếu tác động lên Huyết áp c bp 6 7 8 10 15 20 Total 0 0 0 1 18 8 11 204

0.00 0.00 0.49 8.82 3.92 5.39 100.00 1 2 1 0 4 0 5 46 4.35 2.17 0.00 8.70 0.00 10.87 100.00 2 0 1 0 8 1 11 56

0.00 1.79 0.00 14.29 1.79 19.64 100.00 Total 2 2 1 30 9 27 306 0.65 0.65 0.33 9.80 2.94 8.82 100.00

BẢNG 4.1.3.3: Hút thuốc từ 25 hoặc 40 điếu tác động lên Huyết áp c bp 25 40 Total 0 1 0 204 0.49 0.00 100.00 1 0 0 46 0.00 0.00 100.00 2 0 1 56 0.00 1.79 100.00 Total 1 1 306 0.33 0.33 100.00

BẢNG 4.1.4: Uống rượu / bia tác động lên huyết áp . tab bp w h, row

Key freque ncy row perc entage

wh bp 0 1 T otal 0 184 20 204 90.20 9.80 10 0.00 1 33 13 46 71.74 28.26 10 0.00 2 31 25 56 55.36 44.64 10 0.00 Total 248 58 306 81.05 18.95 10 0.00

BẢNG 4.1.5: Hoạt động thể lực tác dụng lên huyết áp . tab bp e, row

Key frequency row percentage

e bp 0 1 Total 0 78 126 204 38.24 61.76 100.00 1 19 27 46 41.30 58.70 100.00 2 22 34 56 39.29 60.71 100.00 Total 119 187 306 38.89 61.11 100.00

BẢNG 4.1.6: Tiền sử gia đình tác dụng lên huyết áp

. tab bp p, row

Key frequen cy row perce ntage

p bp 0 1 Total 0 174 3 0 204 85.29 14.7 1 100.00 1 38 8 46 82.61 17.3 9 100.00 2 44 1 2 56 78.57 21.4 3 100.00 Total 256 5 0 306 83.66 16.3 4 100.00

BẢNG 4.1.7: Ăn mặn tác động lên huyết áp

. tab bp sa, row

Key frequency row percentage

sa bp 0 1 Total 0 164 40 204 80.39 19.61 100.00 1 19 27 46 41.30 58.70 100.00 2 23 33 56 41.07 58.93 100.00 Total 206 100 306 67.32 32.68 100.00

BẢNG 4.1.8: Béo phì tác động lên huyết áp

. tab bp bmi, row

Key frequency row percentage

bmi bp 0 1 Total 0 188 16 204 92.16 7.84 100.00 1 35 11 46 76.09 23.91 100.00 2 41 15 56 73.21 26.79 100.00 Total 264 42 306 86.27 13.73 100.00

BẢNG 4.1.9: Lễ Phật tác động lên huyết áp . tab bp wo, row

Key frequency row percentage

wo bp 0 1 Total 0 33 171 204 16.18 83.82 100.00 1 19 27 46 41.30 58.70 100.00 2 35 21 56 62.50 37.50 100.00 Total 87 219 306 28.43 71.57 100.00

BẢNG 4.1.10.1: 0 năm đến 05 năm đi học tương quan với huyết áp

. tab bp y, row

Key frequency row percentage

y bp 0 1 2 3 4 5 Total 0 10 1 4 6 7 9 204 4.90 0.49 1.96 2.94 3.43 4.41 100.00 1 9 2 3 5 1 2 46 19.57 4.35 6.52 10.87 2.17 4.35 100.00 2 9 3 5 10 2 5 56 16.07 5.36 8.93 17.86 3.57 8.93 100.00 Total 28 6 12 21 10 16 306 9.15 1.96 3.92 6.86 3.27 5.23 100.00

BẢNG 4.1.10.2: 06 năm đến 11 năm đi học tương quan với Huyết áp

y bp 6 7 8 9 10 11 Total 0 14 5 13 11 14 1 204 6.86 2.45 6.37 5.39 6.86 0.49 100.00 1 1 4 1 3 1 1 46 2.17 8.70 2.17 6.52 2.17 2.17 100.00 2 3 5 2 4 2 0 56 5.36 8.93 3.57 7.14 3.57 0.00 100.00 Total 18 14 16 18 17 2 306 5.88 4.58 5.23 5.88 5.56 0.65 100.00

BẢNG 4.1.10.3: 12 năm đến 17 năm đi học tương quan với Huyết áp y bp 12 13 14 15 16 17 Total 0 28 1 26 24 18 4 204 13.73 0.49 12.75 11.76 8.82 1.96 100.00 1 3 0 1 2 0 1 46 6.52 0.00 2.17 4.35 0.00 2.17 100.00 2 3 0 0 1 0 0 56 5.36 0.00 0.00 1.79 0.00 0.00 100.00 Total 34 1 27 27 18 5 306 11.11 0.33 8.82 8.82 5.88 1.63 100.00

BẢNG 4.1.10.4: 18 năm đến 25 năm đi học tương quan với Huyết áp y bp 18 19 20 22 24 25 Total

0 1 2 2 1 0 2 204 0.49 0.98 0.98 0.49 0.00 0.98 100.00

1 1 1 2 1 1 0 46 2.17 2.17 4.35 2.17 2.17 0.00 100.00

2 0 1 1 0 0 0 56 0.00 1.79 1.79 0.00 0.00 0.00 100.00

Total 2 4 5 2 1 2 306 0.65 1.31 1.63 0.65 0.33 0.65 100.00

BẢNG 4.2.1: Tác động biên của từng yếu tố tác động lên nhóm THA loại I . mfx compute, predict (outcome(1))

Marginal effects after oprobit y = Pr(bp==1) (predict, outcome(1)) = .18096323 variable dy/dx Std. Err. z P>|z| [ 95% C.I. ] X a .0104174 .00179 5.83 0.000 .006914 .013921 46.6993 se* .1697978 .05269 3.22 0.001 .066532 .273063 .411765 c .0054596 .00375 1.46 0.145 -.001884 .012803 3.71895 wh* .2213891 .05192 4.26 0.000 .119629 .323149 .189542 e* .0806368 .04072 1.98 0.048 .000821 .160452 .611111 p* .060032 .0535 1.12 0.262 -.044834 .164898 .163399 sa* .1133288 .04265 2.66 0.008 .029731 .196926 .326797 f* -.0470876 .04749 -0.99 0.321 -.14016 .045985 .153595 wo* -.178074 .0486 -3.66 0.000 -.273334 -.082814 .715686 bmi* .1623326 .0526 3.09 0.002 .059247 .265418 .137255 y -.0013248 .00416 -0.32 0.750 -.009477 .006828 9.17647 (*) dy/dx is for discrete change of dummy variable from 0 to 1

BẢNG 4.2.2: Tác động biên của từng yếu tố tác động lên nhóm THA loại II . mfx c omput e, pr edict (out come( 2))

Ma rgina l eff ects after opro bit y = P r(bp= =2) ( predi ct, o utcom e(2)) = .0345 8461 va riabl e d y/dx St d. Er r. z P>| z| [ 9 5% C.I. ] X a .003 6885 .0009 3 3.98 0.0 00 .0018 72 .0055 05 46.69 93 s e* .072 7138 .0290 2 2.51 0.0 12 .0158 39 .1295 88 .4117 65 c .001 9331 .0013 9 1.39 0.1 65 - .0007 94 .004 66 3.718 95 w h* .149 2747 .0563 1 2.65 0.0 08 .0389 07 .2596 42 .1895 42 e* .02 7528 .0149 1 1.85 0.0 65 - .0016 98 .0567 54 .6111 11 p* .024 4428 .0251 5 0.97 0.3 31 - .0248 51 .0737 37 .1633 99 s a* .047 3493 .0223 1 2.12 0.0 34 .0036 32 .0910 66 .3267 97 f* -.015 0845 .0143 4 - 1.05 0.2 93 - .0431 94 .0130 25 .1535 95 w o* -.0 8938 .0350 4 - 2.55 0.0 11 - .1580 61 -.0206 99 .7156 86 bm i* .091 9673 .0455 5 2.02 0.0 43 .0026 84 .181 25 .1372 55 y -.000 4691 .0014 7 - 0.32 0.7 50 - .0033 56 .0024 18 9.176 47 (* ) dy/ dx is for discr ete c hange of d ummy varia ble f rom 0 to 1

BẢNG 4.2.3: Tác động biên của từng yếu tố tác động lên nhóm k THA

. mfx compute, predict (outcome(0 ))

Marginal effects after oprobit y = Pr(bp==0) (predict, ou tcome(0)) = .78445215 variable dy/dx Std. Err . z P>|z| [ 95% C.I. ] X a -.0141059 .00181 -7.78 0.000 -.01766 -.01055 2 46.6993 se* -.2425116 .0743 -3.26 0.001 -.388136 -.09688 8 .411765 c -.0073927 .00502 -1.47 0.141 -.017236 .00245 1 3.71895 wh* -.3706638 .09383 -3.95 0.000 -.554558 -.18676 9 .189542 e* -.1081648 .05337 -2.03 0.043 -.212762 -.00356 7 .611111 p* -.0844749 .0777 -1.09 0.277 -.236758 .06780 8 .163399 sa* -.160678 .06076 -2.64 0.008 -.279772 -.04158 4 .326797 f* .0621721 .06113 1.02 0.309 -.057644 .18198 8 .153595 wo* .267454 .07455 3.59 0.000 .121333 .41357 5 .715686 bmi* -.2542999 .09093 -2.80 0.005 -.432511 -.07608 8 .137255 y .0017939 .00563 0.32 0.750 -.009233 .01282 1 9.17647 (*) dy/dx is for discrete change of dummy variable from 0 to 1

PHỤ LỤC 4:

CÁC CHÚ THÍCH VÀ LUẬN GIẢI THÊM

I/. Theo Go AS và Cs 2013 (Circulation, 127, e6-e245), phân tích gộp 61 nghiên cứu

cho thấy: nếu giảm 2mmHg huyết áp tâm thu trung bình thì nguy cơ biến cố tim mạch

giảm như sau:

Sơ đồ: Giảm huyết áp kết quả làm giảm tỷ lệ nguy cơ tử vong

(Nguồn Hoàng khánh (2009))

II/. Các bước tiến hành đo HA (phần 3.4.6 – tiếp theo trang 48):

3.4.6.1. Chuẩn bị BN:

BN trong trạng thái nghỉ ngơi (ít nhất 5 phút trước khi đo) không dùng các chất

kích thích có ảnh hưởng đến huyết áp (cà phê, hút thuốc lá...).

BN tư thế nằm, hoặc ngồi ghế tựa, bộc lộ cánh tay để đo HA, tay để trên bàn, sao

cho nếp khuỷu tay ngang với mức tim, thả lỏng tay và không nói chuyện trong

khi đo.

Đối với người già và BN Tiểu đường, có thể khi thăm khám lần đầu thì nên đo

cả HA tư thế đứng.

Đối với nhóm đối chứng (nhóm không THA): đối tượng cũng được thực hiện

như các bước 3.4.6.1. đến 3.4.6.3. Nhóm khảo sát sẽ phỏng vấn trực tiếp, đo HA

và ghi vào phiếu khảo sát (phụ lục 2).

3.4.6.2. Chuẩn bị máy đo HA: ta có các loại máy đo HA như sau:

a. Huyết áp kế thủy ngân:

Thiết kế của HA kế thủy ngân ít có thay đổi trong suốt 50 năm qua, ngoại trừ

máy HA hiện nay không để chảy thủy ngân ra ngoài. HA kế thủy ngân thường

chính xác hơn các phương tiện đo khác và không có sự khác biệt về độ chính xác

của các hãng sản xuất khác nhau.

b. Huyết áp kế bằng hơi:

Những thiết bị này, khi áp suất băng quấn tăng sẽ được thể hiện qua hệ thống

kim chỉ đồng hồ theo từng mức. Loại thiết bị này thường không duy trì tính ổn

định theo thời gian. Vì vậy, loại này thường cần phải chỉnh lại định kỳ, thường là

mỗi 6 tháng. Những phát triển gần đây về kỹ thuật của loại máy này là làm giảm

thiểu sự hư hỏng khi bị đánh rơi.

c. Huyết áp kế phối hợp:

Thiết bị này được phát triển dựa trên sự gắn kết thiết bị điện tử và phương pháp

nghe tạo nên HA kế phối hợp. Cột thủy ngân được thay thế bằng thang đo điện

tử và HA được đo dựa trên kỹ thuật nghe. Huyết áp kế phối hợp đang dần thay

thế HA kế thủy ngân.

d. Dao động kế:

Sự dao động của HA ở băng quấn của máy đo HA được ghi nhận trong suốt quá

trình xả xẹp băng quấn, điểm dao động cao nhất tương ứng với HA nội mạch

trung bình. Sự dao động thường trên HATT và bên dưới HATTr, vì thế HATT

và HATTr có thể được lượng giá gián tiếp thông qua thuật toán. Một trong

những thuận tiện của phương pháp này là không cần bộ chuyển đổi đặt trên ĐM

cánh tay, vì vậy vị trí băng quấn không quan trọng. Tuy nhiên ở người già với

khoảng hiệu áp rộng, HA ĐM trung bình có thể đánh giá thấp hơn có ý nghĩa.

Kỹ thuật đo dao động sử dụng thành công khi đo HA lưu động và đo HA ở nhà.

Ngày nay, người ta thường dùng máy đo tự động OMRON SEM1 của Nhật.

(Nguồn: Huỳnh Văn Minh và cộng sự (2008))

3.4.6.3. Phương pháp và kỹ thuật đo HA:

Kỹ thuật đo HA theo khuyến cáo của Hội THA đã công bố năm 2007. Trong đó,

kỹ thuật đo HA tại phòng khám là trị số tham khảo nhưng đo HA lưu động 24h

có thể cải thiện dự báo nguy cơ tim mạch ở cả hai nhóm có điều trị và không

điều trị. Ngoài ra việc đo HA tại nhà là một khuyến cáo được lưu ý và khuyến

khích. Ngưỡng chẩn đoán HA thay đổi tùy theo kỹ thuật đo. Kỹ thuật đo cơ bản

vẫn sử dụng tại cánh tay, việc đo HA trung tâm cần có những nghiên cứu về sau

nhằm xác định vai trò tiên lượng trước khi được đưa vào khuyến cáo như là kỹ

thuật thông dụng.

Tóm lại: để đo HA chính xác thì băng quấn đặt ngang mức tim dù BN ở tư thế nào.

Mép dưới băng quấn trên lằn khuỷu tay 3 cm.

- Sau khi áp lực hơi trong băng quấn làm mất mạch quay, bơm hơi lên tiếp

30mmHg

nữa

sau

đó

hạ

cột

thủy

ngân

từ

từ

(2mm/giây).

- Sử dụng âm

thanh pha I và pha V của Korotkoff để xác định HATT.

- Chọn HATTr thời điểm tiếng đập biến mất (pha V).

- Tính HA dựa trên số trung bình hai lần đo; nếu giữa hai lần đo đầu tiên

chênh lệch nhiều > 5mmHg thì đo thêm nhiều lần nữa.

Nên đo HA cả hai tay và lấy trị số ở bên có số đo cao hơn. Khi cần có thể đo

HA cả tư thế nằm hoặc đứng và nên theo dõi trong 24h. HATT tương ứng với

pha I của Korotkoff (xuất hiện tiếng đập đầu tiên) và HATTr là pha V (mất

tiếng đập).

* Cách đo chiều cao và cân nặng:.

Thước đo chiều cao là thước đo mẫu được gắn cùng với cân bàn có thanh định

mức ngang vuông góc với trục đứng của thước, giúp xác định đúng chiều cao của

BN. Dùng cân bàn hiệu TZ 20 đã được đối chiếu với các cân khác, đặt ở vị trí cân

bằng và ổn định.

BN đứng thẳng tư thế thoải mái, nhìn về phía trước, hai chân song song trên mặt

cân, hai ngón cái cách nhau 10cm, hai gót chân sát mặt sau cân, chỉ mặc quần áo

mỏng, không đi dép guốc và không đội mũ, không cầm bất kỳ một vật gì. Kết quả

tính bằng mét, sai số không quá 0,5cm.

Đo trọng lượng cơ thể bằng cân bàn TZ 20 được chuẩn hóa trước khi sử dụng. Tư

thế đo giống như khi đo chiều cao. Đơn vị tính bằng kg và sai số không quá 100g.

Cân chính xác đến 0,5kg và đo chiều cao chính xác đến 1cm. Đơn vị biểu thị: Cân

nặng (P) = kg, chiều cao (H) = m.

III/./. Albert Einstein và đạo Phật:

“Gần đây có nhiều độc giả thắc mắc về mối liên hệ

giữa nhà khoa học thiên tài Albert Einstein (1879-

1955) và Đạo Phật như thế nào? Vì họ thấy đây đó có

nhiều trích dẫn lời phát biểu của ông về Đạo Phật.

Bài viết này sẽ đề cập đến mối liên hệ ấy.

Ông Albert Einstein, sinh ngày 14 tháng 03 năm 1879 tại thành phố Ulm, Đức quốc,

trong một gia đình làm nghề thủ công và tiểu thương. Bố là một người giỏi về hóa học

và mẹ là người có khiếu về âm nhạc. Năm 1894, gia đình ông di cư sang sống tại Ý.

Ông được bố gởi du học ở Thụy Sĩ và đã tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại Đại học Zurich.

Sau khi ra trường, ông được mời dạy toán và vật lý tại một trường bách khoa ở Thụy

Sĩ, ngoài việc dạy học, ông dành hết thời gian còn lại để nghiên cứu vật lý học và ông

còn làm việc tại văn phòng thẩm tra cấp bằng sáng chế ở Berne - Thụy Sĩ.

Năm 1905, ông gởi đăng bài "Lý thuyết tương đối hẹp" dài 5 trang trên tờ Physics. Bài

báo nhanh chóng được chú ý và là tiếng nổ lớn của ngành khoa học về không gian và

thời gian, ông đã phá vỡ các khái niệm tuyệt đối về không gian và thời gian của nhà vật

lý học và toán học vĩ đại Issaac Newton (1642-1727). Lập tức tên tuổi của ông được

nhiều người biết tới và được xem là một khoa học gia nổi tiếng nhất vào thời điểm ấy.

Năm 1911, Ông là giáo sư vật lý ở Prague. Năm 1913, ông được mời làm giám đốc

Học Viện Vật Lý Hoàng Đế Wilhelm tại Berlin. Đến năm 1921, ông được trao giải

thưởng Nobel về Vật lý học qua đề án nghiên cứu "Lý Thuyết Tương đối" (The Theory

of Relativity). Trong thế chiến thứ nhất (1914-1918), ông từng bị tống giam vì tội

"chống chiến tranh và ủng hộ hòa bình". Sau khi Adolf Hitler (1889-1945) trở thành

quốc trưởng của Đức, ông ra sức chống lại chủ nghĩa phát xít và rời bỏ nước Đức sang

sống tại Hoa Kỳ.

Từ năm 1933 đến năm 1945, ông là giáo sư toán và lý tại Viện Cao học Princeton ở

bang New Jersey. Phát xuất từ lòng căm thù chủ nghĩa phát xít, mà ông đã giúp cho

Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt (1882-1945) chế tạo bom nguyên tử và cuối cùng

bị xem là "cha đẻ" của thứ vũ khí giết người này. Đây cũng là lý do mà về sau, năm

1950, ông thành lập Viện Kiểm Soát Nguyên tử Quốc tế tại Hoa Kỳ.

Ba thập niên cuối đời mình, ông dành thời gian để nghiên cứu về "Lý thuyết thống

nhất giữa lực hấp dẫn và hiện tượng điện quang" (The Theory of unify gravitation and

eletro-magnetism).

Mặc dù bận rộn nghiên cứu và giảng dạy khoa học, nhưng ông Einstein vẫn dành thời

gian nhất định để nghiên cứu triết học và tôn giáo, đặc biệt trong đó có Đạo Phật. Theo

tài liệu "The World As I See It" (Trần thế khi tôi nhìn thấy nó - nhà xuất bản

Philosophical Library, New York, 1949) và quyển "Ideas and Opinions" (Những Ý

Kiến và Những Quan Điểm, nhà xuất bản Crown, NY, 1945) là hai tuyển tập những bài

báo, bài tham luận về tôn giáo và khoa học mà ông Einstein viết từ đầu những năm ba

mươi. Đáng chú ý trong tập này là các bài như "Religion and Science" (Tôn giáo và

Khoa học), viết từ 1930; bài "Science, Philosophy & Religion, A Sumposium" (Khoa

học, Triết học và Tôn giáo, một buổi hội thảo) viết năm 1941; bài "Religion and

Science: Irreconcilable?" (Tôn giáo và Khoa học: không thể hòa giải được sao?) viết

vào năm 1948.

Theo các tài liệu trên thì chính A. Einstein tự xem mình là một người thuộc về tôn

giáo. Tôn giáo của ông được người ta biết qua lý thuyết khoa học của ông. Ông bác bỏ

sự thần thánh hóa trong tôn giáo, ông quan tâm đến đời sống con người ở hiện tại và

ngay cả sau khi chết. Trong các buổi hội thảo về triết học và tôn giáo, có lúc ông trích

dẫn lời của Chúa, rồi có khi ông dẫn lời trong kinh Phật. Quan điểm của ông về tôn

giáo chưa bao giờ có hệ thống và nhất quán. Tuy nhiên, với trí tuệ sắc bén và lòng

ngưỡng mộ của ông đối với các tôn giáo đã giúp cho ông hiểu đúng và chính xác về

các tôn giáo mà ông để tâm nghiên cứu. Ông vẫn thường nhắc nhở các nhà khoa học là

nên học hỏi ở các tôn giáo, để bổ sung cho những khiếm khuyết của khoa học. Ông

nói: "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học

thì mù quáng" (Science without religion is lame. Reigion without science is blind).

Cũng theo các tài liệu trên cho thấy, ông đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo

của các học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức

Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện

sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... là những nhà Phật học nổi

danh ở phương Tây. Nhờ nghiên cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy Đạo

Phật như là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào

cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình, ngỏ hầu cắt ngang sự chậm tiến, lạc

hậu, mê tâm, cuồng tín và kém văn minh của thời đại. Đạo Phật đã đem lại cho con

người một cái nhìn mới, một lối sống mới, một sự hài hòa mới, sống với nhau như ánh

sáng trong không gian, chan hòa với nhau như nước với sữa. Chính vì thấy rõ cái độc

đáo đó mà ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai

sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học.

Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn

bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên

trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó"

(The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God

and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should

be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and

spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng

thời, một

lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các

nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại

quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học.

Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học,

vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" (If there is any

religion

that would cope with modern scientific needs,

it would be Buddhism.

Buddhism requires no revision

to keep

it up to date with recent scientific finding.

Buddhism need no surrender its view to science, becauseit embrances science as well

as goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from

Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm).

Dù những lý thuyết khoa học của ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm lòng nhân

đạo và mến chuộng hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi với

ông. Ông đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của mình đối với sự phát triển khoa học

của nhân loại. Ông làm việc không biết mệt mỏi cho đến ngày qua đời. Ông mất vào

lúc 1giờ 25 phút rạng sáng ngày 19 tháng 04 năm 1955 tại Princeton, Hoa Kỳ, hưởng

thọ 76 tuổi.

Ngày nay, đối với mọi tín đồ Phật Giáo trên khắp năm châu đều thành kính khi nhắc

đến tên tuổi của ông, người đã từng góp phần khẳng định lại giá trị vĩnh cửu đối với

Giáo lý của Đạo Phật”.

(nguồn: Lê Văn Phước: http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/245/0/3049/Albert_Einstein_va_dao_Phat, ngày

cập nhật 14/06/2015 lúc 17h30).

IV/. Bác sĩ Quách Huệ Trân là người Trung Hoa, chuyên khoa về Ung bướu, sau thời gian

làm việc ở bệnh viện thì cũng bị ung thư. Sau đó bà xuất gia và trở thành Pháp sư Đạo

Chứng ở Trung Quốc), viên tịch năm 2003./.