BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

PHAN TUẤN

SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TỀ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

PHAN TUẤN

SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành

: Quản lý công

Mã số

: 60340403

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Nguyễn Tấn Khuyên

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do cá nhân tôi khảo sát, tham khảo tài

liệu và thực hiện. Mọi trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn

và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của cá nhân tôi. Luận văn được

thực hiện trên cơ sở tổng hợp những kiến thức và khảo sát thực tế của tác giả mà không

nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

TP. Hồ Chí Minh, ngày ..… tháng 11 năm 2016

Người viết

Phan Tuấn

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC BẢNG

TÓM TẮT

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VÀ CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH .................................. 1

1.1 Bối cảnh nghiên cứu ............................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 4

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 4

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 5

1.4 Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 5

1.5 Kết cấu của đề tài: ................................................................................................... 7

CHƯƠNG 2. GIỚI THIỆU VỀ CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY

DỰNG NTM .................................................................................................................... 8

2.1 Giới thiệu về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM ............................. 8

2.2 Vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng NTM ................................. 11

CHƯƠNG 3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ... 15

3.1 Các khái niệm cơ bản ............................................................................................ 15

3.1.1 Khái niệm về sự tham gia của người dân ....................................................... 15

3.1.2 Khái niệm nông thôn mới ............................................................................... 20

3.2 Kinh nghiệm của các nước ................................................................................... 21

3.2.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản ............................................................................ 21

3.2.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc .......................................................................... 22

3.2.3 Kinh nghiệm của Thái Lan ............................................................................. 23

3.3 Các nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào các lĩnh vực .......................... 25

3.3.1 Các nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM ........... 25

3.3.2 Các nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong các lĩnh vực khác ........ 27

3.4 Khung phân tích về sự tham gia của người dân ................................................... 29

CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU VỀ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY

DỰNG NTM TẠI THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ........................... 31

4.1. Quá trình thực hiện Chương trình xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn ...... 31

4.2 Thực trạng tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại thành phố Quy

Nhơn ........................................................................................................................... 37

4.2.1 Mô tả tổng quát mẫu điều tra.......................................................................... 38

4.2.2 Thông tin về chương trình NTM .................................................................... 39

4.2.3 Người dân tham gia bàn bạc, ý kiến trong xây dựng NTM ........................... 47

4.2.4 Người dân tham gia trực tiếp trong xây dựng NTM ...................................... 52

4.2.5 Người dân tham gia giám sát, quản lý, duy tu, bảo dưỡng các công trình ..... 57

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................. 61

5.1 Kết luận ................................................................................................................. 61

5.2 Khuyến nghị .......................................................................................................... 62

5.3. Hạn chế của đề tài ................................................................................................ 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

Tên tiếng Việt Từ viết tắt

Ban chỉ đạo BCĐ

Ban chấp hành BCH

BNNPTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Nghị quyết NQ

Nông thôn mới NTM

Quyết định QĐ

Trung ương TW

Ủy ban nhân dân UBND

UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

PR Participatory Research - Nghiên cứu sự

tham gia

PAR Participatory Action Research -

Nghiên cứu hành động tham gia

OTOP One Tambon One Product - Mỗi xã một sản

phẩm

OVOP One Village One Product - Mỗi làng một

sản phẩm

Oxfam Oxford Committee for Famine Relief - Ủy

ban Oxford về cứu đói

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1 Bộ máy chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM ................. 10

Hình 2.2 Cơ cấu vốn thực hiện chương trình NTM ....................................................... 11

Hình 2.3 Các bước tham gia xây dựng NTM ................................................................. 14

Hình 3.1 Thang đo mức độ tham gia của người dân ...................................................... 18

Hình 3.2 Thang đo mức độ tham gia của người dân ...................................................... 19

Hình 3.3 Khung phân tích về sự tham gia của người dân .............................................. 29

Hình 4.1 Nguồn vốn đầu tư XD NTM TP Quy Nhơn giai đoạn 2011 – 2015 ............... 36

Hình 4.2 Tỷ lệ người dân biết một số thông tin về Chương trình NTM ........................ 42

Hình 4.3 Tỷ lệ người dân tiếp cận các nguồn thông tin về NTM qua các kênh ............ 43

Hình 4.4 Tỷ lệ người dân được thông báo về một số vấn đề trong XD NTM ............... 44

Hình 4.5 Ai là người đóng vai trò chính trong xây dựng NTM? ................................... 45

Hình 4.6 Tham gia của người dân tại các cuộc họp ở địa phương về vấn đề NTM. ..... 47

Hình 4.7 Đề xuất của người dân về mức độ tham gia. ................................................... 49

Hình 4.8 Tỷ lệ khảo sát các yếu tố quyết định cho việc lập kế hoạch cho các hoạt động

xây dựng NTM ............................................................................................................... 50

Hình 4.9 Tỷ lệ người dân được mời tham gia các hoạt động liên quan đến xây dựng

NTM. .............................................................................................................................. 51

Hình 4.10 Hình thức đóng góp của người dân .............................................................. 53

DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1 Kết quả thực hiện 19 tiêu chí xây dựng NTM thành phố Quy Nhơn ............. 34

Bảng 4.2 Phân phối mẫu điều tra theo xã ..................................................................... 39

Bảng 4.3 Giới tính của người được khảo sát .................................................................. 39

Bảng 4.4 Trình độ học vấn của người được khảo sát..................................................... 39

Bảng 4.5 Cấu trúc nghề nghiệp chính của hộ gia đình được khảo sát .......................... 39

TÓM TẮT

Đề tài “Sự tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM tại thành phố Quy

Nhơn, tỉnh Bình Định” được thực hiện nhằm phân tích vai trò của người dân trong xây

dựng NTM ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Qua đó đánh giá mức độ tham gia

của người dân trong xây dựng NTM và các kết quả đạt được. Từ đó gợi ý các giải pháp

nhằm tăng cường sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM ở thành phố Quy

Nhơn theo hướng có hiệu quả và bền vững.

Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu tại bàn, nghiên cứu thực địa cùng

với phân tích, so sánh và phân tích thống kê với 175 hộ được điều tra tại 04 xã và các

số liệu được thu thập từ các cơ quan ở các cấp từ xã đến tỉnh.

Thực trạng về sự tham gia của người dân trong khảo sát nghiên cứu tại thành

phố Quy Nhơn cho thấy: Mức độ tham gia của người dân theo thang đo “biết, bàn,

làm, kiểm tra” có chiều hướng giảm dần, chỉ những hoạt động liên quan trực tiếp tới

đời sống người dân và họ phải đóng góp chi phí để xây dựng các công trình liên quan

trực tiếp đến cộng đồng thì mới có sự tham gia của người dân. Sự tham gia của người

dân trong hoạt động giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng còn khá mờ nhạt.

Để cải thiện sự tham gia của người dân vào các hoạt động xây dựng NTM, tác

giả đưa ra một số khuyến nghị: (1) Tiếp tục thông tin về Chương trình đến người dân

theo hướng đi vào chiều sâu, phù hợp với điều kiện của từng địa phương; (2) Phải thực

sự phát huy vai trò chủ thể của người dân, cần tăng cường phát huy dân chủ ở địa

phương, đưa nhân dân vào quá trình ra quyết định; (3) Nâng cao trình độ của đội ngũ

cán bộ ở nông thôn làm nòng cốt cho Chương trình xây dựng NTM; (4) Minh bạch hóa

các hoạt động xây dựng NTM.

1

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VÀ CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH

1.1 Bối cảnh nghiên cứu

Xây dựng Nông thôn mới (NTM) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta

nhằm thay đổi bộ mặt của nông thôn cho phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn. Thời gian qua, nhiều văn bản chính thức đã được ban

hành để định hướng phát triển nông thôn, trong đó, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ X của Đảng đã ra Nghị quyết xác định mục tiêu xây dựng NTM: “Xây dựng NTM

ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ

sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”. Dựa

trên tinh thần của Nghị quyết này, Hội nghị TW lần thứ bảy của BCH Trung ương

Đảng khóa X đã ra Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định: “Xây dựng NTM có kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,

gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo hướng quy

hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao,

môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của

Đảng được tăng cường”. Thực hiện định hướng đó của Đảng, Chính phủ đã ban hành

Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn. Mục tiêu của Chương trình hành động là khẳng định và

bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương đã đề

ra. Cụ thể, mục tiêu của Chương trình hành động đề ra nhằm: nâng cao chất lượng cuộc

sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở

nông thôn, xây dựng NTM bền vững theo hướng giàu đẹp, văn minh…

Hiện nay Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM đang được quan tâm

triển khai, thực hiện trên cả nước. Từ kết quả của chương trình đã góp phần phát triển

kinh tế xã hội và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân và nông thôn.

2

Kết quả qua 05 năm (2010 – 2015) thực hiện xây dựng NTM, cả nước có 1.298

xã (14,5%) được công nhận đạt chuẩn NTM; số tiêu chí bình quân/xã là 12,9 tiêu chí

(tăng 8,2 tiêu chí so với 2010); số xã khó khăn nhưng có nỗ lực vươn lên (xuất phát

điểm dưới 3 tiêu chí, nay đã đạt được 10 tiêu chí trở lên) là 183 xã.

Trong 5 năm, cả nước đã huy động được khoảng 851.380 tỷ đồng đầu tư cho

Chương trình. Trong đó, ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình, dự án khác)

266.785 tỷ đồng (31,34%), tín dụng 434.950 tỷ đồng (51%), doanh nghiệp 42.198 tỷ

đồng (4,9%), người dân và cộng đồng đóng góp 107.447 tỷ đồng (12,62%).

Riêng ngân sách Nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho Chương trình 98.664 tỷ đồng

(11,59%). Trong đó, ngân sách Trung ương 16.400 tỷ đồng (sự nghiệp kinh tế 3.480 tỷ

đồng, đầu tư phát triển 2.420 tỷ đồng, trái phiếu Chính phủ 10.500 tỷ đồng), ngân sách

địa phương các cấp 82.264 tỷ đồng. (Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG

XD NTM, tháng 12 năm 2015).

Tại tỉnh Bình Định, trong 5 năm qua, Chương trình xây dựng NTM đã được

triển khai toàn diện và cũng đã thu được những thành quả đáng khích lệ. Bộ mặt nông

thôn của tỉnh đang dần thay đổi, đặc biệt hạ tầng cơ sở nông thôn phát triển mạnh mẽ,

nhiều tuyến đường giao thông liên xã, đường trục xã, thôn… được cải tạo hay xây mới

tạo sự thuận tiện phục vụ sản xuất, đi lại, giao thương của nhân dân; hệ thống thủy lợi

tiếp tục được đầu tư kiên cố để đẩy mạnh chương trình thâm canh sản xuất, nâng cao

năng suất, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông, lâm nghiệp; việc xây dựng trụ sở,

trường học, trạm y tế, hệ thống điện, nhà văn hóa, chợ nông thôn, nước sinh hoạt,…

dần được hoàn thiện.

Bên cạnh những thành công đạt được, Chương trình xây dựng NTM còn gặp

không ít khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là các khó khăn liên quan đến người dân như:

người dân vẫn chưa cảm nhận hết vai trò của mình, nhận thức của người dân về

3

chương trình xây dựng NTM còn chưa rõ, tỷ lệ người dân tham gia vào các hoạt động

xây dựng NTM chưa cao, kinh phí huy động của cộng đồng dân cư còn thấp,…

Kết quả huy động nguồn lực xây dựng NTM tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2011-

2015: trong tổng nguồn vốn đầu tư 36.493 tỷ đồng, nguồn vốn người dân đóng góp

424,5 tỷ đồng, chỉ chiếm 1,2%, rất thấp so với yêu cầu của Quyết định 800/QĐ-TTg

của Thủ tướng Chính phủ là 10%. (Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng NTM tỉnh Bình

Định, 2015)

Trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, thời gian qua Chương trình xây dựng NTM

vẫn chưa phát huy hết vai trò của người dân nông thôn, đặc biệt là quan tâm đến vai trò

của người dân trong việc thực hiện các chương trình, dự án, mô hình phát triển nông

nghiệp – nông thôn tại địa phương, tham gia xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng

thiết yếu phục vụ cho đời sống dân sinh,… Vì vậy, việc cải thiện sự tham gia của người

dân vừa là hành động để tiếp tục thực hiện, vừa là mục đích để hướng tới trong quá

trình xây dựng NTM. Khi sự tham gia của người dân được cải thiện theo chiều hướng

tích cực hơn, thì nguồn lực đầu tư cho xây dựng NTM không chỉ tăng lên mà còn thúc

đẩy người dân tự tin, năng động, tham gia đóng góp tích cực hơn để xây dựng NTM tại

địa phương mình.

Qua khảo sát sơ bộ tại thành phố Quy Nhơn, tác giả nhận thấy sự tham gia của

người dân trong xây dựng NTM còn hạn chế và thụ động. Thực tế này phản ánh sự bất

cập trong chủ trương phát triển nông nghiệp dựa vào phát triển cộng đồng và các chính

sách của nhà nước cũng như thực tế khi triển khai các chính sách tại cơ sở. Khi sự tham

gia của người dân được cải thiện, không chỉ nguồn lực đầu tư cho xây dựng NTM tăng

lên mà còn thúc đẩy người dân tự tin, tự quyết và tham gia chủ động, tích cực hơn

trong xây dựng NTM ở địa phương.

Sự tham gia của người dân có thể xem là một nhân tố quan trọng trong việc thực

hiện thành công chương trình xây dựng NTM. Khi tham gia vào quá trình xây dựng

4

NTM, người dân tại nông thôn sẽ từng bước tăng cường kỹ năng, năng lực quản lý,

khơi dậy và phát huy tiềm năng của nông dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

của người dân,… Từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của chương trình xây dựng

NTM.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

- Mục tiêu tổng quát: Đề tài nhằm phân tích vai trò của người dân trong xây

dựng NTM ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Qua đó đánh giá mức độ tham gia

của người dân trong xây dựng NTM và các kết quả đạt được. Từ đó gợi ý các giải pháp

nhằm tăng cường sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM ở thành phố Quy

Nhơn theo hướng có hiệu quả và bền vững.

- Mục tiêu cụ thể: Đề tài được xây dựng nhằm giải quyết các mục tiêu sau đây:

1) Phân tích thực trạng sự tham gia của người dân trong việc xây dựng NTM

thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

2) Đánh giá vai trò và mức độ tham gia của người dân trong việc xây dựng

NTM thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

3) Đề xuất, khuyến nghị một số giải pháp phù hợp với điều kiện của địa phương

để tăng cường sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại thành phố Quy

Nhơn, tỉnh Bình Định.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

Sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh

Bình Định.

5

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn 04 xã ngoại thành của

thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, bao gồm: xã Phước Mỹ, Nhơn Lý, Nhơn Hải và

Nhơn Châu. Trong đó:

Về tiến độ xây dựng NTM: xã Phước Mỹ và xã Nhơn Lý đã được công nhận đạt

chuẩn NTM (vào tháng 8/2015); 02 xã Nhơn Châu và Nhơn Hải chưa hoàn thành xây

dựng NTM.

Về địa bàn: Phước Mỹ là xã miền núi, Nhơn Châu là xã đảo, Nhơn Lý và Nhơn

Hải là xã bán đảo.

- Về phạm vi thời gian: Đề tài đánh giá quá trình xây dựng NTM trong giai

đoạn 2011 - 2015.

1.4 Phương pháp nghiên cứu

- Cách tiếp cận: Cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài là từ người dân ở 04 xã

nghiên cứu hay nghiên cứu từ dưới lên và nghiên cứu thực chứng.

- Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn, nghiên cứu thực địa cùng với

phân tích, so sánh và phân tích thống kê để giải quyết cho các mục tiêu và câu hỏi

nghiên cứu đề ra ở trên.

- Nguồn thông tin:

+ Số liệu thứ cấp: Các số liệu được thu thập từ Ban quản lý xây dựng NTM cấp

xã, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM thành phố, Phòng Kinh tế thành phố, Văn phòng Điều

phối xây dựng NTM tỉnh, … Các loại sách, bài giảng, các bài báo có liên quan tới đề

tài, các website có liên quan.

+ Số liệu sơ cấp: Được khảo sát từ 175 người dân tại 04 xã xây dựng NTM của

thành phố Quy Nhơn.

6

- Phương pháp chọn mẫu và phương thức điều tra:

Phương pháp chọn mẫu được áp dụng là chọn mẫu phi xác xuất, cụ thể là chọn

mẫu thuận tiện kết hợp với chọn mẫu theo kinh nghiệm. Nguyên tắc chọn mẫu là chọn

chủ hộ gia đình đại diện cho các nhóm nghề nghiệp khác nhau trong vùng nông thôn và

phân bổ theo các thôn.

Các hộ được chọn dựa trên hai nhóm chính là nhóm sản xuất nông ngư nghiệp

và nhóm phi nông nghiệp. Phương thức điều tra được áp dụng là phỏng vấn bằng Phiếu

khảo sát soạn sẵn các câu hỏi, phỏng vấn trực tiếp, điều tra viên đặt câu hỏi, nắm bắt

thông tin, câu trả lời và ghi nhận vào phiếu.

Trên thực tế điều tra có xã thuần nông, có xã thuần ngư, có xã hoạt động phi

nông nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, do khó khăn về khả năng thu xếp, gặp mặt của

người dân và sự hợp tác trả lời thông tin của người dân nên số lượng người trong một

nhóm phỏng vấn cũng thay đổi tùy theo tình huống thực tế.

Tổng cộng có 175 hộ được điều tra bằng phiếu khảo sát trên 04 xã. Nội dung

của Phiếu khảo sát tập trung vào 04 nội dung chính: (1) Thông tin về chương trình

NTM; (2) Người dân tham gia bàn bạc ý kiến trong xây dựng NTM; (3) Người dân

tham gia trực tiếp trong xây dựng NTM; (4) Người dân tham gia giám sát xây dựng,

vận hành, duy tu, bảo dưỡng các công trình NTM.

Để trả lời cho câu hỏi “Thực trạng về sự tham gia của người dân trong xây

dựng NTM ở thành phố Quy Nhơn?”, đề tài thực hiện khảo sát tại địa phương bằng

cách thu thập ý kiến của người dân thông qua Phiếu khảo sát. Đồng thời thực hiện

phỏng vấn sâu đại diện của Ban quản lý xây dựng NTM cấp xã, Ban Chỉ đạo xây dựng

NTM thành phố, Văn phòng Ban chỉ đạo xây dựng NTM tỉnh,… Từ đó đối chiếu, so

sánh với các quy định trong các văn bản hiện hành để xác định những vấn đề còn tồn

tại, những mặt tích cực để ghi nhận thực trạng về xây dựng NTM tại thành phố Quy

Nhơn.

7

Để trả lời cho câu hỏi “Giải pháp nào phù hợp với điều kiện của địa phương để

cải thiện sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn?”,

đề tài liên hệ với các quy định pháp luật, kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp,

nông thôn ở một số nước, thực trạng tại các xã nghiên cứu của thành phố Quy Nhơn và

các nghiên cứu trước để đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực tham gia của người

dân trong chính sách xây dựng NTM.

1.5 Kết cấu của đề tài:

Đề tài được chia làm 05 chương.

Chương 1: Giới thiệu bối cảnh nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng,

phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.

Chương 2: Giới thiệu sơ lược về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

NTM.

Chương 3: Cơ sở lý luận, thực tiễn và khung phân tích về sự tham gia của người

dân trong xây dựng NTM.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.

Chương 5: Kết luận và kiến nghị.

8

CHƯƠNG 2 GIỚI THIỆU VỀ CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG NTM

2.1 Giới thiệu về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM

Nông thôn Việt Nam là khu vực đa dạng về thành phần tộc người, văn hóa, là

nơi sản xuất lương thực, thực phẩm và các sản phẩm khác cần thiết cho nhu cầu cơ bản

của xã hội. Trong xu thế phát triển hiện nay, không thể có một nước công nghiệp nếu

nông nghiệp, nông thôn còn lạc hậu và đời sống nông dân còn thấp. Vì vậy đổi mới

nông nghiệp, nông thôn được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong những nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Các chính sách về nông thôn ở Việt Nam đã bắt đầu từ rất sớm. Nhờ việc thực

hiện chính sách cải cách và triển khai công tác khuyến nông mà kinh tế hộ nông dân

phát triển, hàng triệu nông dân hăng hái sản xuất đem lại nhiều hiệu quả kinh tế cao.

Tiếp theo sau đó là hàng loạt các mô hình thí điểm xây dựng NTM theo phương châm

dựa vào nội lực của cộng đồng nông thôn để phát triển. Kết quả bước đầu rất khả quan,

bộ mặt nông thôn ngày càng thay đổi, người dân dần dần thay đổi nhận thức về xây

dựng NTM. Tuy vậy, mô hình thí điểm còn gặp phải một số hạn chế, đó là việc chọn

xã thí điểm chưa mang tính đại diện cho vùng, mô hình thường hướng vào các chương

trình xây dựng cơ bản, chưa có định hướng phát triển chung và đặc biệt là vai trò của

người dân chưa thực sự được coi trọng.

Ngày 05/8/2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 26-

NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết đã thể hiện những quan

điểm chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xác định vị trí quan

trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong tiến trình phát triển đất nước. Đồng

thời nhìn nhận mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xem nông dân là

chủ thể của quá trình xây dựng, phát triển NTM. Nghị quyết này tạo nền móng vững

chắc cho chính sách xây dựng NTM. Ngày 30/12/2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng

9

ban hành Quyết định số 205-QĐ/TW về việc thành lập Ban Chỉ đạo thí điểm Chương

trình xây dựng NTM và lựa chọn 11 xã điểm xây dựng NTM.

Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg về

việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, đây là căn cứ để đánh giá kết quả chương

trình thực hiện xây dựng NTM. Ngày 21/8/2009, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông

thôn ban hành Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT về việc Hướng dẫn thực hiện Bộ

tiêu chí quốc gia về NTM. Bộ tiêu chí này là căn cứ để xây dựng nội dung Chương

trình MTQG xây dựng NTM, chỉ đạo thí điểm xây dựng mô hình NTM trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng để kiểm tra, đánh giá công

nhận xã, huyện, tỉnh đạt NTM.

Năm 2010, chương trình xây dựng NTM chính thức trở thành Chương trình

Mục tiêu quốc gia khi ngày 04/6/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số

800/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông

thôn mới giai đoạn 2010-2020”. Khác với những chương trình phát triển nông thôn

trước đây, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM mới đã bao phủ trên diện

rộng, là một chương trình tổng thể trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và phát triển

kinh tế chứ không thiên về xây dựng cơ bản, cộng đồng dân cư được xem là những

người chủ thể trong xây dựng NTM. Theo đó, chương trình gồm 11 nội dung với 19

tiêu chí, được phân chia thành 5 nhóm:

Nhóm I: Quy hoạch (01 tiêu chí)

Nhóm II: Hạ tầng kinh tế - xã hội (08 tiêu chí)

Nhóm III: Kinh tế và tổ chức sản xuất (04 tiêu chí)

Nhóm IV: Văn hóa – Xã hội – Môi trường (04 tiêu chí)

Nhóm V: Hệ thống chính trị (02 tiêu chí)

10

Theo Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số

26/2011/TTLB-BNNPTNT-BKHĐT-BTC của liên Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông

thôn, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Chương trình NTM được điều hành, quản lý

bởi các Ban Chỉ đạo (BCĐ) các cấp được thành lập từ Trung ương đến cấp xã, Văn

phòng điều phối là cơ quan thường trực giúp việc cho BCĐ cấp Trung ương và cấp

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan thường trực điều phối là cơ quan giúp

việc cho BCĐ cấp huyện. Đối với cấp xã là đơn vị trực tiếp triển khai chương trình nên

Ban chỉ đạo Trung ương

Ban chỉ đạo Cấp tỉnh, thành

Văn phòng Điều phối TW

Các bộ, ngành Trung ương

Ban chỉ đạo Cấp huyện

Các sở, ngành Tỉnh

vừa có BCĐ, vừa có Ban Quản lý và cấp quản lý cuối cùng là Ban Phát triển thôn.

Ban chỉ đạo cấp xã

Cơ quan thường trực điều phối

Các phòng, ban cấp huyện

Ban phát triển thôn

Các CB công chức xã, trưởng thôn

Quan hệ chỉ đạo

Văn phòng Điều phối tỉnh

Quan hệ hỗ trợ

Ban quản lý xây dựng NTM xã

(Nguồn: Tác giả tự vẽ dựa trên Thông tư 26/2011/TTLT- BNNPTNT-BKHĐT-BTC)

Hình 2.1 Bộ máy chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM

11

Theo Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nguồn vốn đầu tư

để phục vụ cho Chương trình được huy động từ bốn nguồn: thứ nhất, vốn ngân sách

(Trung ương và địa phương) chiếm khoảng 40%; thứ hai, vốn tín dụng (tín dụng đầu tư

phát triển và tín dụng thương mại) khoảng 30%; thứ ba, vốn huy động từ doanh nghiệp,

hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác khoảng 20%; thứ tư, huy động đóng góp của

cộng đồng dân cư khoảng 10%.

(Nguồn: Dựa trên Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Báo cáo tổng kết Chương trình

mục tiêu quốc gia XD NTM giai đoạn 2010 – 2015)

Hình 2.2 Cơ cấu vốn thực hiện chương trình NTM

Tuy nhiên trong thực tế ở các địa phương, nguồn lực huy động và đóng góp từ

các nguồn thường là không đạt theo như Quyết định số 800/QĐ-TTg, trong đó nguồn

huy động từ cộng đồng dân cư và từ doanh nghiệp thường đạt thấp, chủ yếu là nguồn

vốn từ ngân sách.

2.2 Vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng NTM

Trong quá trình xây dựng NTM hiện nay, người dân giữ vị trí là chủ thể. Đây là

sự khẳng định đúng đắn, cần thiết, nhằm phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát

huy mọi tiềm năng của nông dân vào công cuộc xây dựng nông thôn cả về kinh tế, văn

hóa, xã hội,…, đồng thời bảo đảm những quyền lợi chính đáng của họ. Người dân

chính là những nhân tố tích cực tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn, chủ động,

sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; trong quá trình tổ chức sản

12

xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; trong giữ gìn nếp sống văn

hóa, thuần phong mỹ tục và là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống

chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự tại cơ sở.

Trong các văn bản chỉ đạo về chương trình xây dựng NTM, phương châm “Dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đều được nêu lên để chính quyền các cấp từ

trung ương đến địa phương quán triệt và áp dụng trong tình hình thực tế ở địa phương

và ở mỗi cấp, vai trò của người dân cũng thể hiện khác nhau.

Xét trên góc độ pháp lý, có nhiều văn bản đề cập đến vai trò người dân trong

xây dựng NTM nhưng chủ yếu được thể hiện trong 4 văn bản: Thứ nhất, Pháp lệnh

thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn quy định về những vấn đề người dân

được biết, bàn bạc, ý kiến, thực hiện, kiểm tra, đây là cơ sở để xác định những hoạt

động người dân được tham gia trong xây dựng NTM. Thứ hai, Nghị quyết 26-NQ/TW

ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đưa ra những quan

điểm chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó khẳng định

vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng và phát triển NTM. Thứ ba, Quyết định

800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ với những quy định

về việc lấy ý kiến cộng đồng trong quy hoạch, đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất

có hiệu quả, xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông, cấp nước sạch, vệ

sinh môi trường và mức đóng góp xây dựng NTM, đã cho thấy vai trò của người dân

theo Quyết định này chỉ ở mức độ là người được tham vấn, lấy ý kiến. Cuối cùng, Sổ

tay hướng dẫn xây dựng NTM cấp xã năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn là văn bản thể hiện đầy đủ và chi tiết nhất về vai trò của người dân trong xây

dựng NTM. Ở mức độ thấp, người dân tham gia với vai trò là người đóng góp công

sức, tiền của xây dựng các công trình công cộng, chỉnh trang nơi ở,… Ở mức độ cao

hơn, vai trò của người dân thể hiện thông qua việc cho ý kiến vào đề án xây dựng

NTM, bản đồ quy hoạch NTM cấp xã hay việc lựa chọn những công việc cần thực hiện

13

trước, việc gì làm sau để phù hợp với điều kiện của địa phương. Ở từng công việc, vai

trò của người dân sẽ thay đổi: khi tham gia ý kiến vào đề án xây dựng NTM và bản đồ

quy hoạch NTM cấp xã, người dân đóng vai trò là người được tham vấn; khi tham gia

ý kiến lựa chọn công việc, quyết định mức độ đóng góp trong xây dựng các công trình

công cộng của địa phương, người dân đóng vai trò là người quyết định; khi tham gia tổ

chức, quản lý, vận hành và bảo dưỡng các công trình sau khi hoàn thành, người dân

đóng vai trò là người quản lý; khi tham gia vào Ban giám sát để quản lý và giám sát

các công trình xây dựng của xã, người dân đóng vai trò là người giám sát.

Qua phân tích trên, tác giả nhận thấy các quy định này bổ sung cho nhau về vai

trò của người dân. Theo đó, người dân sẽ tham gia theo từng cấp độ, từ thấp đến cao. Ở

mức độ thấp, người dân chỉ cung cấp thông tin để chính quyền có thể thực hiện một

cách thuận lợi nhất, đến mức độ cao hơn, người dân tham gia ý kiến vào việc lập quy

hoạch, đề án, tham gia đóng góp tiền bạc, công sức rồi kiểm tra, giám sát, vận hành,

bảo dưỡng, duy tu…Khi người dân tham gia xây dựng NTM với tất cả những vai trò

nêu trên, họ thật sự là người giữ vai trò chính trong hoạt động này. Tuy nhiên, khi chỉ

căn cứ trên Quyết định 800/QĐ-TTg, đây là văn bản liên quan trực tiếp và có giá trị

pháp lý đối với Chương trình xây dựng NTM, thì người dân chỉ được tham gia với vai

trò là người được tham vấn. Như vậy, có thể thấy, vẫn còn một khoảng trống pháp lý

cho những quy định về vai trò của người dân trong xây dựng NTM.

14

Hình 2.3 Các bước tham gia xây dựng NTM

Như vậy chúng ta có thể thấy: Chương trình MTQG xây dựng NTM đã được

quan tâm đúng mức hơn các chương trình trước đây thực hiện trong lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn. Khác với những chương trình phát triển nông thôn trước đây,

Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM mới đã bao phủ trên diện rộng, là một

chương trình tổng thể trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và phát triển kinh tế,

cộng đồng dân cư được xem là những người chủ thể trong xây dựng NTM. Vấn đề sụ

tham gia của người dân đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp lý. Trong các văn

bản chỉ đạo về chương trình xây dựng NTM, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra” đều được nêu lên để chính quyền các cấp từ trung ương đến địa

phương quán triệt và áp dụng trong tình hình thực tế ở địa phương.

15

CHƯƠNG 3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

3.1 Các khái niệm cơ bản

3.1.1 Khái niệm về sự tham gia của người dân

Sự tham gia của người dân được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc

vào hoạt động, mức độ… mà người dân tham gia. Theo Florin, Paul (1990), “Sự tham

gia của người dân là một quá trình trong đó các cá nhân tham gia vào việc ra quyết

định trong các tổ chức, chương trình và môi trường ảnh hưởng đến họ”.

Theo Pierre André (2012), “Sự tham gia của người dân là một quá trình mà

trong đó những người dân thường tham gia trên cơ sở tự nguyện hoặc bắt buộc và

hành động một mình hoặc trong một nhóm với mục tiêu ảnh hưởng đến quyết định sẽ

tác động đến cộng đồng của họ”. Sự tham gia này có thể diễn ra bên trong hoặc bên

ngoài khuôn khổ thể chế và nó có thể được tổ chức bởi thành viên của các tổ chức xã

hội hay người ra quyết định.

Harding cùng cộng sự (2009) đã phân tích khái niệm “Sự tham gia của cộng

đồng” theo cách phân tách từng thành phần riêng biệt: “sự tham gia” và “cộng đồng”.

“Sự tham gia” được hiểu là quá trình đối thoại giữa cộng đồng và người ra quyết định,

giữa một bên là các cá nhân, nhóm, tổ chức và một bên là nhóm chính quyền trong việc

thảo luận và ra các quyết định. “Cộng đồng” bao gồm tất cả các chủ thể đóng góp hay

bị ảnh hưởng bởi các quyết định. “Cộng đồng” được hiểu với một nội hàm rất rộng,

bao gồm tất cả các thành viên cùng sinh sống trong một khu vực địa lý, có những đặc

điểm chung về lối sống và các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị.

Theo giáo sư Guijt và Cornwall từ Viện nghiên cứu và phát triển (Trường Đại

học Sussex, Anh), có nhiều phương pháp và kỹ thuật tham gia được gọi chung là

“nghiên cứu tham gia” (PR – Participatory Research). Trong đó có cách tiếp cận

“nghiên cứu hành động tham gia” (PAR – Participatory Action Research) đã được

16

Deshler, D and Ewert, M (1995) định nghĩa mang tính chất chung và được thừa nhận:

“PAR là một quá trình nghiên cứu có hệ thống, trong đó những người đang phải trải

qua một hoàn cảnh khó khăn ở cộng đồng hay ở nơi làm việc, trên tinh thần hợp tác

với những người nghiên cứu như những chủ thể nghiên cứu, tham gia vào việc thu thập

và phân tích thông tin, việc ra quyết định, và các hoạt động quản lý cũng như việc cải

thiện hoặc giải quyết vấn đề của chính họ”. (Trích “Một số khía cạnh lý thuyết của

cách tiếp cận “nghiên cứu hành động tham gia” (PRA) trong phát triển cộng đồng”,

Nguyễn Duy Thắng, 2002).

Tùy thuộc vào hoàn cảnh, đặc điểm của từng địa phương, trình độ nhận thức của

người dân… mà mức độ tham gia của người dân thể hiện ở các cấp độ khác nhau:

+ Không có sự tham gia: mọi công việc đều do nhà nước làm bằng cách thuê

người ngoài vào làm, người dân không tham gia vào bất kỳ khâu nào của quá trình.

+ Tham gia thụ động: người dân làm theo ý của người đại diện nhà nước mà

không hiểu việc mình đang làm, người dân được đóng góp ý kiến nhưng chỉ là hình

thức, mọi quyết định không phụ thuộc vào ý kiến người dân.

+ Tham gia thông qua việc cung cấp thông tin: thông qua trả lời các câu hỏi mà

người đại diện nhà nước đưa ra, người dân không tham gia vào quá trình phân tích hay

sử dụng các thông tin mà mình đưa ra.

+ Tham gia bởi nghĩa vụ, bị bắt buộc: người dân phải đóng góp tiền của, sức

lao động theo nghĩa vụ, do người đại diện nhà nước khởi xướng, định hướng.

+ Tham gia bởi định hướng từ bên ngoài: người dân tự nguyện tham gia đóng

góp vào chương trình do bên ngoài khởi xướng, hỗ trợ và chịu trách nhiệm trong quyết

định của mình.

17

+ Tham gia tự nguyện: nhận thấy lợi ích mà mình nhận được thông qua chương

trình, người dân tự lên kế hoạch, thực hiện, đánh giá và quản lý mà không có sự định

hướng từ bên ngoài.

Tham gia tự

nguyện

Tham gia

bởi định

hướng

Tham gia

bởi nghĩa vụ

Tham gia

cung cấp

thông tin

Tham gia

thụ động

Không tham

gia

Từ khái niệm nền tảng “Nghiên cứu sự tham gia của cộng đồng”, nhiều tác giả

đã xây dựng thang đo của sự tham gia, trong đó các thang đo đều hướng tới việc đảm

bảo mục tiêu thực hiện dân chủ, trao quyền và quyền con người. Trong số đó phải kể

đến các công trình nghiên cứu của Sherry R Arnstein (1969), Wilcox (2003) và

Choguil (1996).

Trong một nghiên cứu của Sherry R Arnstein (1969), “A ladder of citizen

participation” đã phân chia mức độ tham gia của người dân thành 8 mức độ. Thang đo

8 mức độ này được David Wilcox phân chia từ cao đến thấp và mô tả như sau: Ở hai

18

nấc thấp nhất là Sự vận động (Manipulation) và Lôi kéo (Therapy) hoàn toàn chưa có

sự tham gia của người dân, chỉ có mục đích đào tạo người tham gia. Ở nấc thang Cung

cấp thông tin (Informing), đây là bước quan trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy sự tham gia

nhưng thường thông tin chỉ mang tính một chiều mà không có sự phản hồi. Ở mức

Tham vấn (Consultation) sẽ thực hiện bước khảo sát, tổ chức các cuộc họp ở khu dân

cư và tham khảo ý kiến của người dân. Nấc thang Động viên (Placation), người dân

bầu và đưa những thành viên xứng đáng vào ủy ban để thực hiện chương trình. Ở mức

độ Hợp tác (Partnership), cả người dân và chính quyền đều có trách nhiệm trong lập

kế hoạch và ra quyết định. Nấc thang Ủy quyền (Delegated Power), người dân thường

nắm giữ đa số các vị trí trong ủy ban và có quyền quyết định, có thể chịu trách nhiệm.

Nấc thang cuối cùng Người dân quản lý (Citizen Control), cộng đồng sẽ thực hiện toàn

bộ công việc lập kế hoạch, hoạch định chính sách và quản lý một chương trình.

(Wilcox, 2003)

1 Người dân quản lý

2 Ủy quyền

3 Hợp tác

4 Động viên

5 Tham vấn

6 Cung cấp thông tin

7 Lôi kéo

8 Sự vận động

Nguồn: Sherry R Arnstein (1969), “A ladder of citizen participation”

Hình 3.1 Thang đo mức độ tham gia của người dân

19

Một nghiên cứu khác của Choguill (1996) dựa theo lý thuyết của Sherry

Arnstein (1969) thì lại điều chỉnh thang đo cho phù hợp với các nước kém phát triển

gồm 8 bậc với mức độ từ cao xuống thấp:

1 Trao quyền

2 Hợp tác

3 Hòa giải

4 Sự che đậy

5 Ngoại giao

6 Thông tin

7 Sự im lặng

8 Tự quản lý

Nguồn: Choguill (1996), “A Ladder of Community Participation for Underdeveloped Countries”

Hình 3.2 Thang đo mức độ tham gia của người dân

Ở nấc Trao quyền (Empowerment), cộng đồng có quyền trong việc ra quyết

định, chính quyền phải có biện pháp tạo điều kiện để thực hiện; Nấc Hợp tác

(Partnership), người dân và chính quyền cùng chia sẻ công việc với đại diện của người

dân là các ban hay hội đồng; Ở nấc Hòa giải (Conciliation), chính quyền đưa ra cách

thức và người dân tham gia đóng góp ý kiến, tuy nhiên, những ý kiến này có thể sẽ

không được chính quyền chấp nhận; Tuy nhiên ở nấc Sự che đậy (Dissimulation), thì

sự tham gia của người dân chỉ mang tính hình thức với một nhóm người được đưa vào

hội đồng nhưng lại tán thành với quyết định của chính quyền một cách nhanh chóng;

Nấc thang Ngoại giao (Diplomacy), chính quyền kêu gọi cộng đồng tự tạo ra những

thay đổi với sự trợ giúp bên ngoài; Nấc thang Thông tin (Infoming), là hình thức truyền

tin một chiều từ chính quyền, người dân không có cơ hội phản hồi; Nấc thang Sự im

lặng (Conspiracy), người dân không tham gia bất cứ hoạt động nào; Nấc thang Tự

20

quản lý (Self-Management), chính quyền không có động cơ để giải quyết vấn đề của

địa phương, thiếu vắng hoàn toàn sự quan tâm của chính quyền (Choguill, 1996)

Từ các nghiên cứu của các tác giả trên, có thể thấy rằng, người dân tham gia

theo các mức độ khác nhau vào các chương trình mà có tác động trực tiếp đến họ hay

đến cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống theo những hình thức và mức độ khác nhau. Vì

vậy, khi đánh giá Chương trình xây dựng NTM, ta nhận thấy 11 nội dung với 19 tiêu

chí xây dựng NTM này điều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến cộng đồng dân cư

nông thôn, nên đây là cơ sở cho người dân tham gia vào các hoạt động xây dựng NTM.

Cụ thể hơn, người dân nông thôn là người thụ hưởng những thành quả trong xây dựng

NTM nên chỉ có họ mới là người hiểu rõ nhất nhu cầu của mình. Từ những nhu cầu đó,

người dân biết cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được mục tiêu đề ra.

3.1.2 Khái niệm nông thôn mới

Khái niệm “Nông thôn mới” lần đầu tiên được đề cập đến trong Nghị quyết số

26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung

ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết số 26 đưa ra mục

tiêu “… Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và

các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công

nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá

dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở

nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường …”.

Như vậy, nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị

trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát

gọn theo năm nội dung cơ bản sau: (i) làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; (ii)

sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hoá; (iii) đời sống về vật

chất và tinh thần của dân nông thôn ngày càng được nâng cao; (iv) bản sắc văn hoá dân

tộc được giữ gìn và phát triển; (v) xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ. Như

21

vậy xây dựng NTM nhằm tạo ra những giá trị mới cho nông thôn Việt Nam, phát triển

nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, một nông thôn hiện đại chứa những

giá trị kinh tế mới, có văn hóa, nông thôn văn minh, hiện đại nhưng vẫn giữ gìn và bảo

tồn được các bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng NTM là xây dựng người nông dân trở

thành một chủ thể sáng tạo, được thụ hưởng những giá trị vật chất, tinh thần do chính

họ tạo ra.

3.2 Kinh nghiệm của các nước

3.2.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thành Lợi (2013), trong phong trào xây dựng

làng xã ở Nhật Bản, nổi tiếng nhất và là phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” (One

Village One Product – OVOP) do Hiramatsu Morihiko, Chủ tịch tỉnh Oita khởi xướng

năm 1979. Sau đó, phong trào này đã được nhân rộng trên toàn Nhật Bản. Phong trào

“Mỗi làng một sản phẩm” của Nhật Bản chú trọng khuyến khích sự nỗ lực của người

dân địa phương trong việc tận dụng nguồn lực địa phương, phát huy sức mạnh cộng

đồng, bảo tồn các làng nghề truyền thống và thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và

nông thôn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi địa phương sẽ lựa

chọn ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa phương để phát

triển.

Kinh nghiệm từ trong quá trình xây dựng NTM của Nhật Bản cho thấy rằng:

Cần khuyến khích người nông dân tích cực tham gia, coi trọng tính tự lập tự chủ. Nhật

Bản ý thức được rằng, muốn xây dựng nông thôn nếu chỉ dựa vào Chính phủ sẽ không

thể đủ, cần phải có sự tham gia tích cực của người nông dân, đội ngũ những người

được hưởng lợi trong công cuộc này. Chính vì vậy, Chính phủ Nhật Bản đã tìm mọi

cách để nâng cao tính tích cực, sáng tạo của người nông dân, để họ thực sự trở thành

lực lượng chủ lực trong xây dựng phát triển nông thôn. Cụ thể, trong phong trào xây

dựng làng xã, Chính phủ Nhật Bản đề cao tinh thần phát huy tính sáng tạo, dám nghĩ

22

dám làm, từ việc xây dựng, thực thi quy hoạch, đến việc lựa chọn sản phẩm trong

phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, đều là do người dân tự căn cứ vào nhu cầu của

điạ phương mình để đề xuất, thực hiện.

Từ giữa thập kỷ 70 đến cuối thập kỷ 80, phong trào xây dựng làng xã của Nhật

Bản đã khiến bộ mặt nông thôn của đất nước này thay đổi rõ rệt, thể hiện ở một số mặt

sau: Một là, xóa bỏ khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, về kết cấu hạ tầng sản

xuất và đời sống của dân cư nông thôn và thành thị không có gì khác biệt. Hai là, tăng

thu nhập cho người nông dân, thu nhập bình quân của hộ gia đình đạt 5,5 triệu Yên,

tương đương 44 nghìn USD, trong đó tỷ lệ thu nhập phi nông nghiệp chiếm 86%. Ba

là, mở ra thị trường nông thôn cho sản phẩm phi nông nghiệp, kích thích hoạt động tiêu

dùng ở nông thôn phát triển theo hướng đa dạng.

3.2.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Vào cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Hàn Quốc vẫn còn 70% dân số sống ở

nông thôn với điều kiện rất khó khăn, không thể tiếp cận được các dịch vụ cơ bản của

xã hội, GDP bình quân đầu người chỉ có 85 USD, phần lớn người dân không đủ ăn.

Lúc này chính phủ đã xây dựng nên phong trào “Saemaulundong”, theo tiếng Hàn

Saemaul là sự đổi mới của cộng đồng, undong có nghĩa là phong trào,

“Saemaulundong” có thể hiểu là “Phong trào đổi mới nông thôn”. Khác với các

chương trình khác thường có sự áp đặt từ trên xuống, phong trào “Saemaulundong”

tăng cường việc trao quyền và trách nhiệm của người dân trong các hoạt động ở nông

thôn, định hướng họ theo nhu cầu và phù hợp với hoàn cảnh của địa phương, khuyến

khích người dân tham gia từ những việc đơn giản đến những việc phức tạp. (Phạm

Xuân Liêm, 2011).

Ngay từ đầu, “Phong trào đổi mới nông thôn” đã đề cao 3 thành tố chính đó là:

“Chăm chỉ - Tự lực – Hợp tác”. “Chăm chỉ” là động cơ tự nguyện của người dân,

không ngừng vượt qua khó khăn để tiến tới thành công. “Tự lực” là ý chí bản thân,

23

tinh thần làm chủ, chịu trách nhiệm về cuộc sống và vận mệnh của bản thân, “Hợp

tác” là nhận thức về mong muốn phát triển cộng đồng phải nhờ vào nỗ lực của tập thể.

(Tuấn Anh, 2012).

Chỉ sau 8 năm (1971 – 1978), các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ

bản được hoàn thành, bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ

diệu. Một trong những bài học kinh nghiệm đã được Hàn Quốc tổng kết, đó là: Phát

huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn với phương châm là

nhân dân quyết định và làm mọi việc, “nhà nước bỏ ra 1 vật tư, nhân dân bỏ ra 5 – 10

công sức và tiền của”, dân quyết định loại công trình, dự án cần ưu tiên làm trước,

công khai bàn bạc, quyết định và chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình; Phát huy dân

chủ để phát triển nông thôn, thành lập hội đồng phát triển xã, quyết định sử dụng kinh

phí của nhà nước công khai, dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cân

thiết của địa phương.

Phong trào “Saemaulundong” của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông

thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông

thôn trở thành xã hội năng động có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư và tự phát triển.

Phong trào “Saemaulundong” với mức đầu tư không lớn, đã góp phần đưa Hàn Quốc

từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu trở nên một quốc gia có nền kinh tế lớn

trên thế giới.

3.2.3 Kinh nghiệm của Thái Lan

Từ một nước nông nghiệp truyền thống, Thái Lan đã thực hiện Chương trình

Phát triển vùng nông thôn với mục tiêu cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân

và tạo điều kiện để người dân tự vươn lên giúp chính mình. Chương trình Phát triển

vùng nông thôn của Thái Lan đã xây dựng Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (One

Tambon One Product - OTOP) được áp dụng dựa trên kinh nghiệm từ phong trào “Mỗi

24

làng mỗi sản phẩm” (One Village One Product – OVOP) của tỉnh Oita, Nhật Bản.

(Việt Dũng, 2014)

Mục tiêu tổng thể của OTOP là: Xây dựng xã, cộng đồng vững mạnh, phát triển

tự lực của nhân dân, xây dựng gia đình hạnh phúc có chất lượng. Để triển khai Chương

trình OTOP, Ủy ban Chương trình OTOP được thành lập từ Trung ương cho đến các

địa phương. Ngân sách để thực hiện Chương trình OTOP là ngân sách Chính phủ.

Chương trình được thực hiện như sau: các đơn vị sản xuất kinh doanh đăng ký ý

tưởng sản phẩm và kế hoạch của mình với Ban OTOP địa phương, nếu thẩm định đạt,

sẽ được chấp thuận cho triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình.

Các sản phẩm OTOP từ những sản phẩm nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ truyền

thống đến các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, văn hóa địa phương, truyền thống văn

hóa,…Chương trình OTOP thường xuyên tổ chức xúc tiến thương mại để giới thiệu

sản phẩm tại các hội chợ ở cấp trung ương, cấp khu vực, cấp tỉnh, ở các hội trại, hội

thi, lễ hội,… Thậm chí sản phẩm còn đưa vào trụ sở hành chính các cấp, nhà ga, sân

bay, khách sạn, nhà hàng,… tạo nên tổng thể cả xã hội tham gia sản xuất, kinh doanh

sản phẩm OTOP.

Từ sự thành công trong quá trình xây dựng và phát triển nông thôn ở các nước,

có thể thấy rằng: Chương trình xây dựng nông thôn của các nước có nhiều điểm tương

đồng với Chương trình xây dựng NTM của nước ta, bên cạnh khâu đột phá và sự trợ

giúp hiệu quả của nhà nước, thì sự phát huy tính tự chủ, ý tưởng sáng tạo, trách nhiệm

và chủ động của người dân có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng, hình thành nên

động lực nội tại cho công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn, góp phần trong việc

phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn. Sự tham gia của người dân sẽ quyết định

mức độ thành công và tính bền vững của chương trình.

25

3.3 Các nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào các lĩnh vực

3.3.1 Các nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM

Hiện nay Chương trình MTQG xây dựng NTM đang được quan tâm triển khai,

thực hiện trên cả nước. Từ kết quả của chương trình đã góp phần phát triển kinh tế xã

hội và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân và nông thôn.

Bên cạnh những thành công đạt được, Chương trình xây dựng NTM còn gặp

không ít khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là các khó khăn liên quan đến người dân như:

người dân vẫn chưa cảm nhận hết vai trò của mình, nhận thức của người dân về

chương trình xây dựng NTM còn chưa rõ, tỷ lệ người dân tham gia vào các hoạt động

xây dựng NTM chưa cao, kinh phí huy động của cộng đồng dân cư còn thấp,… Điều

này được ghi nhận qua một số nghiên cứu của các tác giả về sự tham gia của người dân

trong xây dựng NTM.

Công trình nghiên cứu “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã

hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại” do tác giả Vũ

Trọng Khải chủ trì (NXB Nông nghiệp, 2004) đề cập đến mô hình phát triển của nông

thôn Việt Nam. Tác giả đã chỉ rõ những thuận lợi và khó khăn của người dân khi nông

thôn bước vào đổi mới toàn diện. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu cũng đã đưa ra

những khuyến cáo, những hậu quả cụ thể của người dân khi mất vai trò làm trung tâm

và không được trực tiếp tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông

thôn.

Nghiên cứu của Trần Tiến Khai (năm 2015) “Xây dựng nông thôn mới ở thành

phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững” khi thực hiện việc

điều tra khảo sát trên người dân nông thôn ở thành phố Hồ Chí Minh về 19 tiêu chí xây

dựng NTM, có 25,1% người dân ở khu vực nông thôn thành phố Hồ Chí Minh cho

rằng hoàn toàn không biết, 27,2% cho là biết nhưng không chắc chắn và 47,7% cho là

có biết.

26

Tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, chỉ có 13,4% người dân được hỏi cho rằng

người dân cần phải tham gia vào việc ra quyết định trong xây dựng NTM, thực tế điều

tra chỉ có 38% trả lời là có tham gia vào hoạt động xây dựng NTM. Kết quả khảo sát

cũng cho thấy, có 32,4% người được hỏi không rõ và cho rằng người dân không được

tạo điều kiện để tham gia các hoạt động kiểm tra, giám sát, nghiệm thu các công trình

xây dựng NTM ở địa phương. (Đào Duy Ngọc, 2015).

Điều tra về sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân tại xã Quảng Tâm, thành

phố Thanh Hóa cho thấy chỉ có 36,7% người dân được hỏi trả lời có tham gia các cuộc

họp về xây dựng cơ sở hạ tầng NTM; 33,3% muốn tham gia nhưng không được mời;

13,4% muốn tham gia nhưng không có điều kiện; 16,6% không tham gia. (Lê Thanh

Tùng, 2015)

Tại xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, qua điều tra có 24% số hộ

cho rằng người dân chỉ cần được thông báo các vấn đề có liên quan đến xây dựng

NTM chứ không cần phải tham gia bàn bạc, chỉ có 8% cho rằng người dân phải được

tham gia vào việc ra quyết định. (Bàn Cao Sơn, 2016)

Kết quả huy động nguồn lực xây dựng NTM tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2011-

2015: trong tổng nguồn vốn đầu tư 36.493 tỷ đồng, nguồn vốn người dân đóng góp

424,5 tỷ đồng, chỉ chiếm 1,2%. (Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng NTM tỉnh Bình

Định, 2015)

Bên cạnh đó, việc kiểm tra giám sát các hoạt động xây dựng NTM, kiểm tra chất

lượng công trình xây dựng NTM và kiểm tra việc sử dụng kinh phí đầu tư NTM của

người dân nông thôn còn rất thấp. Tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có từ 1,7 đến 2,1%

người dân trả lời có tham gia các hoạt động xây dựng NTM. (Trần Tiến Khai, năm

2015).

Qua các nghiên cứu của các tác giả khác cũng cho thấy, tại xã Việt Lâm, huyện

Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang có đến 81,7% người được hỏi, hay tại huyện Xuân Lộc, tỉnh

27

Đồng Nai có đến 80,6% số người được hỏi trả cho rằng họ chưa từng tham gia vào bất

kỳ hoạt động giám sát xây dựng các công trình NTM nào. (Bàn Cao Sơn năm 2016;

Đào Duy Ngọc, 2015) Như vậy, phần lớn các hoạt động tham gia xây dựng NTM của

người dân nông thôn chỉ mới dừng lại ở mức đóng góp ngày công lao động, vật chất và

kinh phí, trong khi hoạt động kiểm tra giám sát của người dân nông thôn đối với việc

thực hiện các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn rất hạn chế.

3.3.2 Các nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong các lĩnh vực khác

Nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng khá nhiều và đa dạng về lĩnh vực. Từ

những nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng cơ sở hạ tầng cho đến

các lĩnh vực giảm nghèo, phát triển sản xuất, kinh doanh, hay trong vấn đề sử dụng đất,

quản lý rừng…

Cụ thể, nghiên cứu của Công ty Tư vấn Mekong Economics (2005) về “Sự tham

gia của cộng đồng trong Giao thông nông thôn” đã nêu lên những vấn đề về đóng góp

và sự tham gia của người dân trong xây dựng đường giao thông nông thôn tại hai tỉnh

Vĩnh Long và Phú Thọ. Nghiên cứu nhằm đánh giá hình thức, mức độ đóng góp của

người dân cũng như tác động của các khoản đóng góp đến đời sống của họ.

Lĩnh vực quy hoạch cũng nhận được nhiều sự quan tâm với những nghiên cứu

của Tạ Quỳnh Hoa (2009) về sự tham gia của cộng đồng trong quy hoạch đô thị hay

nghiên cứu của Nguyễn Trung Dũng và Đỗ Thị Hòa (2013) về sự tham gia của người

dân trong quy hoạch cơ sở hạ tầng nông thôn cho phát triển NTM. Các tác giả Phạm

Bảo Dương, Hà Thị Thanh Mai (2011) lại tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn

đối với sự tham gia của cộng đồng các dân tộc trong giảm nghèo. Bên cạnh việc đánh

giá thực trạng về sự tham gia, các tác giả còn nghiên cứu các nhân tố tác động đến sự

tham gia của cộng đồng và đưa ra các giải pháp cải thiện.

Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, Bộ Thủy sản, Trung tâm phát triển và hội

nhập, Viện Kinh tế Việt Nam (2006) về “Sự tham gia của cộng đồng ngư dân nghèo

28

trong xác định nguồn lực và nhu cầu đầu tư phát triển thủy sản” cũng chỉ ra vai trò

của cộng đồng ngư dân hết sức quan trọng trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản,

khai thác thủy sản, lựa chọn các mô hình sinh kế bền vững để góp phần tăng thu nhập

và phát triển kinh tế của hộ ngư dân.

Vấn đề giành được nhiều sự quan tâm nhất trong những năm qua là quyền sử

dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất. Nghiên cứu của Ủy ban Oxford cho cứu trợ

nạn đói, 2012 (Oxford Committee for Famine Relief – gọi tắt là Oxfam) về “Tăng

cường tiếng nói của cộng đồng để lựa chọn đúng đắn - Vấn đề sử dụng đất và thay đổi

quyền sử dụng đất ở miền Trung Việt Nam" đã chỉ ra sự phản ứng khác nhau của cộng

đồng và chính quyền về vấn đề này. Các cộng đồng tham gia tích cực đã giành lại

quyền sử dụng đất cho mình như trường hợp ở Quảng Bình hay từ chối chuyển quyền

sử dụng đất ở Quảng Trị. Ở chiều ngược lại, sự tham gia thụ động của cộng đồng ở

Nghĩa Đàn, Nghệ An đã dẫn đến việc thay đổi quyền sử dụng đất trên nhiều diện tích

đất là nguồn sinh kế chính của cộng đồng.

Qua những nghiên cứu về sự tham gia của người dân trên các lĩnh vực, ta có thể

nhận thấy người dân có thể tham gia rất nhiều lĩnh vực, hoạt động khác nhau, mức độ

tham gia cũng rất đa dạng và quan trọng hơn là chỉ ra sự hiệu quả đối với những hoạt

động có sự tham gia của người dân. Một khi người dân được hướng dẫn, đào tạo về

những kỹ năng tham gia, giải thích về quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì hiệu quả tham

gia được cải thiện, sự tham gia chuyển từ thụ động sang chủ động, tích cực. Bên cạnh

đó, các nghiên cứu trước còn cho thấy nội dung có sự tương đồng với một hay một số

nội dung của Chương trình xây dựng NTM. Từ hai căn cứ này, ta có thể rút ra kết luận:

Chương trình xây dựng NTM phải có sự tham gia của người dân và mức độ tham gia

của người dân quyết định mức độ thành công của chương trình.

29

3.4 Khung phân tích về sự tham gia của người dân

Yếu tố ảnh hưởng

Thực trạng

Nội dung sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM

Sự tham gia trong nắm bắt thông tin

Thực trạng triển khai xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn

Sự tham gia trong bàn bạc

- Các yếu tố từ phía người dân: + Điều kiện về thời gian + Trình độ nhận thức + Lợi ích/hường lợi + Điều kiện kinh tế của người dân

Trực tiếp tham gia trong xây dựng NTM

Sự tham gia trong kiểm tra, giám sát các công trình

Sự tham gia nghiệm thu, quản lý, khai thác, sử dụng công trình

- Sự tham gia của người dân trong các vấn đề: + Quy hoạch xây dựng NTM + Phát triển kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất + Đóng góp kinh phí, vật chất,… + Kiểm tra, giám sát + Quản lý, khai thác và sử dụng

- Yếu tố thể chế, ch.quyền: + Văn bản pháp lý. + Sự quan tâm của ch.quyền + Trình độ, năng lực cán bộ. + Thông tin truyên truyền

Hình 3.3 Khung phân tích về sự tham gia của người dân

30

Từ các nghiên cứu của các tác giả, có thể thấy rằng, người dân tham gia theo các

mức độ khác nhau vào các chương trình mà có tác động trực tiếp đến họ hay đến cộng

đồng dân cư nơi họ sinh sống theo những hình thức và mức độ khác nhau. Điều này

cũng phù hợp với việc nghiên cứu trong Chương trình xây dựng NTM. Và qua nghiên

cứu quá trình xây dựng và phát triển nông thôn ở một số nước hoặc nghiên cứu trong

một số lĩnh vực, có thể thấy rằng: bên cạnh khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của

nhà nước, thì sự phát huy tính tự chủ, ý tưởng sáng tạo, trách nhiệm và chủ động của

người dân có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng. Sự tham gia của người dân sẽ quyết

định mức độ thành công và tính bền vững của chương trình.

31

CHƯƠNG 4 NGHIÊN CỨU VỀ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NTM TẠI THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

4.1. Quá trình thực hiện Chương trình xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn

Thành phố Quy Nhơn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của tỉnh

Bình Định, cửa ngõ quan trọng của vùng Tây Nguyên và là một trong những đô thị hạt

nhân của vùng Nam Trung Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, giữ vị trí quan trọng

trong giao lưu, trao đổi thương mại trong nước cũng như quốc tế.

Thành phố Quy Nhơn có diện tích tự nhiên khoảng 28.552 ha, trong đó đất nông

nghiệp 2.926 ha, tương đương 10,3% và đất phi nông nghiệp chiếm 25.626 ha tương

đương 89,7% tổng diện tích tự nhiên. Tổng dân số 285.543 người, trong đó dân số các

phường nội thành chiếm đến 260.108 người, tương đương 91,1% tổng dân số. Thành

phố Quy Nhơn có 21 đơn vị hành chính gồm 16 phường và 05 xã, riêng 05 xã ngoại

thành (Phước Mỹ, Nhơn Hội, Nhơn Lý, Nhơn Hải và Nhơn Châu) nhưng chiếm đến

49% tổng diện tích tự nhiên, tương đương 13.980 ha, trong khi dân số của 05 xã chỉ là

25.435 người, tương đương 8,9% tổng dân số của thành phố.

Trong quá trình phát triển, thành phố Quy Nhơn cũng đang hình thành vai trò là

thành phố công nghiệp – cảng biển – dịch vụ - du lịch, được xác định nằm trong nhóm

đô thị lớn, cực lớn và là một trong 12 đô thị trung tâm cấp vùng của cả nước. Tuy

nhiên bên cạnh đó, hoạt động nông nghiệp chỉ đóng vai trò hết sức khiêm tốn vào nền

kinh tế của thành phố, nông nghiệp chỉ đóng góp 5,14% trong cơ cấu tổng giá trị sản

phẩm trên địa bàn tính theo giá trị hiện hành (GRDP) của thành phố, trong khi công

nghiệp và xây dựng đóng góp 47,74% và dịch vụ đóng góp đến 47,11% (Chi cục

Thống Kê TP. Quy Nhơn, 2015).

32

Mặc dù đi đầu cả tỉnh về phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ và đang

trong tiến trình đô thị hóa mạnh mẽ nhưng thành phố Quy Nhơn đã và đang quan tâm

đầu tư đến phát triển nông thôn ở khu vực các xã ngoại thành, bao gồm các xã Phước

Mỹ, Nhơn Lý, Nhơn Hải và Nhơn Châu (trừ xã Nhơn Hội đã quy hoạch phát triển Khu

kinh tế Nhơn Hội và tương lai đô thị hóa gần như hoàn toàn). Thành phố Quy Nhơn hết

sức chú trọng đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội cho khu

vực nông thôn, phát triển kinh tế - xã hội bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, đã có rất

nhiều chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, đầu tư cho vùng ngoại thành

phát triển và rút ngắn khoảng cách thu nhập nông thôn – thành thị và cải thiện đời sống

người dân ngoại thành.

Kể từ năm 2008, khi Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 7

Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thành ủy Quy Nhơn đã tập trung lãnh

đạo, chỉ đạo ban hành nhiều cơ chế, chính sách và triển khai nhiều giải pháp hiệu quả

nhằm huy động nguồn lực xã hội đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố theo hướng nông nghiệp đô thị,

chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không

ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của người dân nông thôn; phát huy vai trò

chủ thể của nông dân trong xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với

chương trình xây dựng NTM trên địa bàn thành phố.

Quy Nhơn cũng đã nhanh chóng triển khai các văn bản chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước về xây dựng NTM, Thành ủy Quy Nhơn đã ban hành Chương trình hành

động số 43-CTr/TU ngày 20 tháng 10 năm 2008 về thực hiện Nghị quyết số 26-

NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn,

UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 10/QĐ- UBND ngày 20 tháng 01 năm

2009 về Kế hoạch thực hiện chương trình hành động của Thành ủy về nông nghiệp,

33

nông dân, nông thôn theo Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương

khóa X.

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Quy Nhơn lần thứ 5 (khóa IX)

ngày 12 tháng 7 năm 2011 đã nêu chỉ tiêu phấn đấu: “…chú trọng đầu tư và huy động

các nguồn lực trong các thành phần kinh tế và nhân dân để hoàn thành sớm Chương

trình xây dựng NTM tại 02 xã Phước Mỹ và Nhơn Lý giai đoạn 2011 – 2015 và 02 xã

còn lại Nhơn Hải và Nhơn Châu giai đoạn 2016 – 2020”.

Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Quy Nhơn đã ban hành nhiều văn bản để

triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM trên địa bàn thành

phố. Trên cơ sở đó, các phòng ban, đoàn thể thành phố và các địa phương đã ban hành

các Chương trình hành động cụ thể, các kế hoạch để triển khai thực hiện.

Ngày 15 tháng 01 năm 2011, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số

26/QĐ-UBND về ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM trên địa

bàn thành phố Quy Nhơn giai đoạn 2010 – 2020, tiếp theo sau đó là ban hành các văn

bản về những Chương trình và Chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố, như: Chương trình sản

xuất lúa lai; Đào tạo nghề cho lao động nông thôn; Chương trình ứng dụng công nghệ

theo hướng an toàn sinh học trong sản xuất nông nghiệp, Chương trình xây dựng công

trình khí sinh học xử lý chất thải trong chăn nuôi, Chương trình khuyến nông – khuyến

ngư theo hướng sản xuất phù hợp với nông nghiệp đô thị, Phát triển sản xuất rau an

toàn, v.v…

Khi bắt đầu thực hiện Chương trình, một trong những vấn đề được sự quan tâm

của chính quyền địa phương là xây dựng và hoàn thành Đề án xây dựng NTM của xã.

Các xã đã tập trung xác định tiềm năng, lợi thế của địa phương, từ đó xác định lựa

chọn, phân kỳ đầu tư các công trình trọng điểm, chú trọng việc đầu tư, hỗ trợ phát triển

sản xuất, tăng thu nhập cho người dân, xác định các tiêu chí còn khó khăn, chưa đạt,

34

đưa ra các giải pháp cụ thể để thực hiện. Đề án được xây dựng một cách chi tiết, cụ thể,

có sự tham gia, phối hợp của các phòng, ban chức năng của thành phố và trên cơ sở lấy

ý kiến của nhân dân tại địa phương. Vì vậy Đề án sau khi được hoàn thành về cơ bản

đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của người dân, sát với yêu cầu thực tiễn, phù

hợp với điều kiện và tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Trong quá trình thực

hiện, cùng với các nguồn lực đầu tư của tỉnh, thành phố và địa phương, người dân cũng

đã nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình, hiểu được nội dung, ý nghĩa của

Chương trình, tham gia đóng góp ý kiến cũng như đóng góp vật chất, tiền bạc, ngày

công,… để thực hiện Chương trình xây dựng NTM tại địa phương.

Vì vậy, cho đến cuối năm 2015, việc xây dựng NTM trên địa bàn thành phố

Quy Nhơn đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Thành phố có tổng cộng 04 xã xây dựng

NTM, khi mới bắt đầu thực hiện Chương trình cả 04 xã đều chỉ mới đạt dưới 07 tiêu

chí/xã, nhưng đến tháng 08 năm 2015 đã có 02 xã ( Phước Mỹ và Nhơn Lý) được

quyết định công nhận đạt chuẩn NTM, 02 xã (Nhơn Châu và Nhơn Hải) đạt 12 tiêu chí.

Bảng 4.1 Kết quả thực hiện 19 tiêu chí xây dựng NTM thành phố Quy Nhơn

Địa phương

Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015

6/19

9/19

13/19

18/19

19/19

Xã Phước Mỹ

5/19

10/19

13/19

18/19

19/19

Xã Nhơn Lý

4/19

4/19

4/19

7/19

12/19

Xã Nhơn Hải

5/19

8/19

9/19

10/19

12/19

Xã Nhơn Châu

Nguồn: Phòng Kinh tế thành phố Quy Nhơn, tháng 03/2016

Qua đánh giá tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM

giai đoạn 2010-2015 của thành phố Quy Nhơn cho thấy Chương trình xây dựng NTM

35

đã thực sự đã tạo ra những thay đổi to lớn về cơ sở hạ tầng nông thôn cũng như đời

sống của người dân địa phương tại 04 xã: 100% đường trục giao thông chính của các

xã đều được bêtông hóa và nhựa hóa, đường trục thôn và đường ngõ xóm được bêtông

83,6%; Tỷ lệ kênh mương thủy lợi được kiên cố hóa 89,8%; Đê, kè chắn sóng ở các xã

đảo, bán đảo đã được kiến cố đảm bảo an toàn cho người dân sống ven biển; Tỷ lệ

người tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 80%, các xã đều đạt chuẩn quốc gia về y tế; Thu

nhập bình quân đầu người cũng tăng rõ rệt; Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã giảm hơn so với từ

lúc mới bắt đầu Chương trình; Vấn đề về môi trường cũng được cải thiện, ý thức bảo

vệ môi trường của người dân và công tác vệ sinh môi trường nông thôn có sự chuyển

biến tích cực; Tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đạt trên 90%,… (Báo

cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2011-

2015 và triển khai nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020, UBND TP. Quy Nhơn, tháng 04

năm 2016).

Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện chương trình xây dựng NTM, một số quy

định trong Bộ tiêu chí quốc gia NTM và quy chuẩn của các Bộ ngành chưa thực sự phù

hợp với đặc thù của địa phương tại các xã của thành phố Quy Nhơn. Cụ thể như: Quy

định về đường ngõ xóm phải có lòng đường rộng tối thiểu 3,5 – 4,0 m, nhưng thực tế

diện tích tự nhiên ở các xã đảo và bán đảo của thành phố Quy Nhơn rất nhỏ, mật độ

dân cư sống đông đúc, vì vậy đường làng, ngõ xóm phổ biến chỉ có độ rộng dưới 2 m,

có nơi chỉ 1,5 m; Quy định mỗi xã phải có 1 -2 khu xử lý rác thải tập trung và bãi chôn

lấp chất thải, nhưng thực tế ở các xã đảo và bán đảo không có diện tích để bố trí, vì vậy

chỉ đủ điều kiện xây dựng lò đốt rác thải; Diện tích để xây dựng chợ phải từ 2.000 –

3.000 m2; Hoặc tiêu chí về kênh mương thủy lợi không phù hợp khi áp dụng đánh giá

cho các xã đảo và bán đảo, vì các xã không có sản xuất nông nghiệp,…

36

Trong 05 năm giai đoạn 2011-2015, thành phố Quy Nhơn đã sử dụng các nguồn

lực đầu tư xây dựng NTM trên địa bàn với tổng nguồn vốn đã thực hiện là 156.633

triệu đồng, trong đó:

- Ngân sách Trung ương: 37.846 triệu đồng, chiếm 24,2%.

- Ngân sách tỉnh: 4.378 triệu đồng, chiếm 2,8%.

- Ngân sách thành phố: 73.115 triệu đồng, chiếm 46,7%.

- Vốn lồng ghép: 1.746 triệu đồng chiếm 1,1%.

- Vốn vay tín dụng: 16.603 triệu đồng, chiếm 10,6%.

- Doanh nghiệp: 3.805 triệu đồng, chiếm 2,4%.

- Nhân dân đóng góp: 17.348 triệu đồng, chiếm 11,1%.

- Vốn khác: 1.792 triệu đồng, chiếm 1,1%.

Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015 và triển khai nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020, UBND TP. Quy Nhơn, tháng 02 năm 2016.

Hình 4.1 Nguồn vốn đầu tư XD NTM TP Quy Nhơn giai đoạn 2011 – 2015

37

Đáng chú ý là nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của người dân là 17.348

triệu đồng, chiếm 11,1%, đó là chưa kể nguồn vốn của nhân dân tự đầu tư vào phát

triển sản xuất, cải tạo nhà ở, xây mới và nâng cấp công trình vệ sinh, cải tạo cổng ngõ,

tường rào,… Như vậy, sự đóng góp của người dân có thể nói rằng là đáng kể và đã

góp phần quan trọng trong việc thực hiện Chương trình xây dựng NTM tại thành phố

Quy Nhơn.

Với những kết quả ban đầu như vậy, Chương trình xây dựng NTM tại thành phố

Quy Nhơn đã đem lại bộ mặt mới cho nông thôn của thành phố. Tuy vậy, kết quả đạt

được chưa thể hiện sự bền vững, ổn định khi nguồn lực đầu tư, hỗ trợ của nhà nước chỉ

tập trung vào xây dựng các cơ sở hạ tầng, các hoạt động nâng cao mức sống của người

dân vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là tại xã đảo Nhơn Châu. Qua báo cáo của

UBND xã Nhơn Châu cho thấy: nhận thức và mức độ quan tâm của người dân đến

Chương trình NTM còn hạn chế; tỷ lệ lao động qua đào tạo của xã chỉ chiếm 20% tổng

lao động, còn thấp so với yêu cầu của Chương trình (trên 35%); việc xây dựng các mô

hình phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập của người dân tại xã vẫn còn khó khăn,

lúng túng,... (Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây

dựng NTM giai đoạn 2011- 2015 xã Nhơn Châu, UBND Nhơn Châu, tháng 01 năm

2016). Do vậy trong thời gian tới, cần có các giải pháp phù hợp của chính quyền thành

phố, của các xã và sự tham gia tích cực hơn của cộng đồng, đặc biệt là sự tham gia của

người dân tại địa phương để Chương trình thực sự phát huy hiệu quả tích cực và có

tính bền vững, ổn định hơn.

4.2 Thực trạng tham gia của người dân trong xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn

Mục này tập trung phân tích kết quả điều tra, khảo sát thực trạng tham gia của

người dân trong xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn được thực hiện dựa trên

Phiếu điều tra khảo sát ý kiến của người dân. Nội dung phân tích, đánh giá được thực

38

hiện tập trung vào 4 nội dung chính: (1) Thông tin về chương trình NTM; (2) Người

dân tham gia bàn bạc ý kiến trong xây dựng NTM; (3) Người dân tham gia trực tiếp

trong xây dựng NTM; (4) Người dân tham gia giám sát xây dựng, vận hành, duy tu,

bảo dưỡng các công trình NTM. Kết quả phỏng vấn được thu thập trong quá trình khảo

sát đối với người dân tại 04 xã xây dựng NTM của thành phố Quy Nhơn. Bên cạnh đó,

tác giả còn thực hiện phỏng vấn sâu với một số người dân, xóm trưởng, thôn trưởng,

lãnh đạo tại các xã và cán bộ phụ trách xây dựng NTM của các xã và thành phố Quy

Nhơn.

4.2.1 Mô tả tổng quát mẫu điều tra

Kết quả điều tra được rút ra từ các cuộc khảo sát trên địa bàn 04 xã của thành

phố Quy Nhơn. Mẫu được phân phối theo bảng 4.2 với cỡ mẫu 175 hộ. Về giới tính

của người được khảo sát (phần lớn là chủ hộ), có 37 người được phỏng vấn là nữ

(21,1%); 138 người là nam giới (78,9%). Về trình độ học vấn của người được phỏng

vấn, phần lớn họ có trình độ trung học cơ sở 60,6%, tiểu học 16,6%, trung học phổ

thông 22,8%. Điều này cho thấy nhóm người dân được khảo sát cũng còn có những

hạn chế nhất định về học vấn. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng đến chất lượng của

nghiên cứu và độ tin cậy của các câu trả lời, vì nội dung điều tra tập trung chủ yếu về

những vấn đề thực tế đang xảy ra ở khu vực nông thôn mà chắc chắn người dân cảm

nhận được trực tiếp hàng ngày.

Về cấu trúc nghề nghiệp, hai nhóm nông ngư nghiệp và kinh doanh, buôn bán

nhỏ, dịch vụ chiếm phần lớn mẫu quan sát (55,4% và 18,9%). Nhóm người có nghề

nghiệp chính là công nhân hay nhân viên doanh nghiệp chiếm số ít, chỉ khoảng 6,9%

số người được hỏi. Rõ ràng các hoạt động sản xuất nông ngư nghiệp vẫn đóng vai trò

quan trọng ở các xã và việc làm tự doanh với quy mô nhỏ cũng là phương thức sinh kế

quan trọng của người dân ngoại thành.

39

Bảng 4.2 Phân phối mẫu điều tra theo xã

Xã khảo sát Phước Mỹ Nhơn Lý Nhơn Hải Nhơn Châu Tổng quan sát

Số hộ khảo sát 48 40 41 46 175

Tỷ lệ (%) 27,4 22,9 23,4 26,3 100

Bảng 4.3 Giới tính của người được khảo sát

Giới tính

Tỷ lệ (%)

Nữ Nam Tổng quan sát

Số người trả lời 37 138 175

21,1 78,9 100

Bảng 4.4 Trình độ học vấn của người được khảo sát

Tỷ lệ (%)

Trình độ khảo sát Tiểu học Trung học cơ sở Phổ thông trung học Tổng quan sát

Số người trả lời 29 106 40 175

16,6 60,6 22,8 100

Bảng 4.5 Cấu trúc nghề nghiệp chính của hộ gia đình được khảo sát

Nghề nghiệp Nông ngư nghiệp Buôn bán, kinh doanh, dịch vụ Cán bộ, công chức Làm việc trong các doanh nghiệp Hưu trí Khác Tổng quan sát

Số người trả lời 97 33 9 12 4 20 175

Tỷ lệ (%) 55,4 18,9 5,1 6,9 2,3 11,4 100

4.2.2 Thông tin về chương trình NTM

Trong Chương trình xây dựng NTM, việc tuyên truyền về nội dung, ý nghĩa của

xây dựng NTM là rất quan trọng để tạo ra nhận thức đúng và sự đồng thuận của người

dân nông thôn làm cơ sở cho các hoạt động tham gia xây dựng NTM. Tất cả các xã đều

40

có những hoạt động thông tin, truyền thông đa dạng, phong phú để chuyển tải các

chính sách, văn bản về Chương trình NTM của Chính phủ, của tỉnh và của thành phố

đến người dân nông thôn.

Theo báo cáo của UBND các xã, qua 5 năm thực hiện Chương trình giai đoạn

2011-2015, công tác tuyên truyền, vận động về Chương trình MTQG xây dựng NTM

của địa phương đã được chú trọng, tổ chức thực hiện theo nhiều chủ đề cấp thiết, đa

dạng về hình thức, đổi mới về nội dung. Thông qua các buổi Hội nghị quân dân chính,

các buổi sinh hoạt của các hội, đoàn thể xã và thôn, thông qua các đợt tiếp xúc cử tri tại

xã và tuyên truyền trên hoạt động đài truyền thanh của xã, qua đó làm cho cán bộ, nhân

dân hiểu rõ về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vai trò chủ thể của người

dân trong việc xây dựng NTM. Các xã đã tổ chức hơn 70 buổi họp ban đêm, với hơn

11.000 lượt hộ tham dự, nội dung tiếp tục tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM, lấy ý kiến của nhân dân thông qua các

nội dung trong Đề án quy hoạch xây dựng NTM của xã, việc xây dựng các công trình

công cộng của địa phương,… Thực hiện các buổi tuyên truyền lưu động, trưng bày

băngrôn, panô về nội dung công bố quy hoạch NTM, cấp phát hàng ngàn tờ rơi tuyên

truyền,… Các địa phương đã thuê vẽ bản đồ quy hoạch được chôn bằng trụ kẽm chắc

chắn và công khai tại ngã tư đường trục chính để nhân dân biết, đồng thời photo các

quyết định phê duyệt đồ án quy hoạch và bản vẽ quy hoạch cho niêm yết công khai tại

khu sinh hoạt nhân dân ở các thôn. UBND các xã tổ chức phát động phong trào thi đua

xây dựng NTM, tổ chức ký giao ước thi đua cho toàn hệ thống chính trị và Ban nhân

dân ở các thôn; triển khai các phong trào như: “Cả nước chung sức xây dựng NTM”,

cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư gắn với

xây dựng NTM”. Công tác thông tin, tuyên truyền đã tạo sức lan tỏa đến tận cơ sở, thu

hút sự quan tâm sâu sắc của từng người dân, được người dân đồng tình hưởng ứng. Từ

đây, tạo nên sức mạnh tổng hợp để huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến trình xây

dựng NTM trên địa bàn. Như vậy, có thể thấy ở thành phố Quy Nhơn công tác thông

41

tin, tuyên truyền về Chương trình xây dựng NTM được thực hiện khá đồng bộ, trên

nhiều kênh thông tin với nhiều hình thức đa dạng, phong phú.

Qua kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn người dân được hỏi có biết đến chương

trình NTM ở địa phương mình (89,1%). Nhưng để hiểu Chương trình NTM một cách

chắc chắn thì chỉ có 68,6% số hộ biết đến Bộ tiêu chí đánh giá NTM và 45,7% biết về

thời gian bắt đầu chương trình. Vẫn còn khoảng 31,4% số hộ khi hỏi trả lời không biết

được số tiêu chí cụ thể mà địa phương đạt được và 54,3% số hộ trả lời không biết thời

gian bắt đầu thực hiện Chương trình xây dựng NTM ở địa phương mình. Mặc dù trung

bình khoảng thời gian sinh sống tại địa phương của những người dân được khảo sát là

trên 33 năm.

Người dân chỉ hiểu rằng Chương trình xây dựng NTM là việc xây dựng cơ sở

hạ tầng giao thông, trường học, trạm y tế và các cơ sở hạ tầng khác để thay đổi bộ mặt

nông thôn và thúc đẩy địa phương phát triển. Bên cạnh đó, phần lớn người dân nông

thôn hiểu rằng: việc xây dựng NTM là việc của nhà nước đầu tư kinh phí để xây dựng

các công trình hạ tầng ở nông thôn. Điều này dễ dẫn đến thái độ thờ ơ, thiếu tích cực,

tạo ra tâm lý ỷ lại vào nguồn lực đầu tư của Nhà nước, người dân chưa thực sự quan

tâm đến xây dựng NTM.

Khi được hỏi về việc người dân nhận được thông tin về Chương trình xây dựng

NTM tại địa phương qua kênh thông tin nào, kết quả cho thấy kênh thông tin người dân

tiếp nhận các chính sách về chương trình NTM mới nhiều nhất là thông qua hình thức

tuyên truyền của báo, đài, các buổi họp dân, các buổi sinh hoạt cộng đồng, các buổi

tiếp xúc cử tri và tuyên truyền của các tổ chức hội, đoàn thể. Đây là các kênh quan

trọng để thông tin đến người dân, bởi các hoạt động này không phải là đơn lẻ mà có sự

gắn kết chặt chẽ với những hình thức phù hợp để người dân dễ tham gia. Việc tiếp xúc

giữa cán bộ và người dân qua các kênh như trên sẽ giúp người dân tìm hiểu sâu hơn về

chương trình, từ đó nâng cao được hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của mình đối

42

với hoạt động xây dựng NTM ở địa phương. Đồng thời, việc tiếp xúc này cũng giúp

chính quyền hiểu rõ hơn tâm tư và nguyện vọng của nhân dân, từ đó có những cách

làm thích hợp để có thể hoàn thiện chương trình.

Hình 4.2 Tỷ lệ người dân biết một số thông tin về Chương trình NTM

Bên cạnh đó, người dân cũng nghe nhiều đến cụm từ “Nông thôn mới” qua loa

phát thanh cơ sở, thông tin từ chuyên mục về “Nông nghiệp và nông thôn” được phát

vào tối thứ sáu hàng tuần của Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bình Định. Một sự

kiện chính trị quan trọng tại địa phương và cả nước trong thời gian vừa qua là cuộc bầu

cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (ngày 22 tháng 5 năm

2016), đây là dịp các cử tri và người dân có được nhiều thông tin hơn về Chương trình

NTM từ các cuộc tiếp xúc với cử tri tại địa phương.

Có 14,5% người được hỏi biết đến chương trình qua công tác tuyên truyền của

các tổ chức hội, đoàn thể như: Hội Nông dân với cuộc thi “Nhà nông đua tài”, Hội

Phụ nữ với cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với các tiêu chí

43

xây dựng NTM, Đoàn Thanh niên với hội thi “Tuổi trẻ Bình Định chung tay xây dựng

nông thôn mới”, các cuộc thi tìm hiểu về NTM, các buổi tuyên truyền về xây dựng

NTM. Sau đó là các kênh thông tin trực tiếp từ chính quyền như các tài liệu, tờ rơi

NTM được phát về đến gia đình, từ các chủ trương, chính sách và nội dung quy hoạch

NTM được niêm yết tại trụ sở thôn, xã.

Hình 4.3 Tỷ lệ người dân tiếp cận các nguồn thông tin về NTM qua các kênh

Khi điều tra khảo sát chi tiết hơn về thông tin chương trình, có từ 38,3% đến

56% người được khảo sát trả lời rằng họ có được thông báo về các hoạt động xây dựng

NTM như: việc thông báo của xã về việc quy hoạch và đề án xây dựng NTM; việc huy

động các khoản đóng góp của người dân,… Con số này cho thấy, chính quyền địa

phương ở 04 xã khảo sát đã có hoạt động khá tích cực trong việc phổ biến những thông

tin tổng quát về xây dựng NTM, đồng thời cũng chú trọng những thông tin chi tiết, cụ

thể đưa đến cho người dân. Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng có khoảng 44% - 61,7%

người dân không được thông báo và không quan tâm về các vấn đề này. Số liệu này là

khá cao, lý do có thể do bản thân người dân còn thờ ơ với chủ trương xây dựng NTM,

44

hoặc chính quyền địa phương chưa quan tâm nhiều tới người dân, điều này có thể sẽ

hạn chế nhiều đến khả năng thực hiện xây dựng NTM của chính quyền địa phương. Vì

vậy, việc người dân không có thông tin hoặc thông tin không rõ ràng, đầy đủ, có thể

làm cho họ có những nghi ngờ và thái độ thiếu hợp tác với chính quyền địa phương

trong xây dựng NTM. Điều này có thể ảnh hưởng đến chương trình, vì Chương trình

xây dựng NTM đã xác định vai trò của người dân là chủ thể trong các hoạt động, người

dân phải được tham gia ý kiến vào bản quy hoạch, đề án NTM của xã theo nhiều hình

thức khác nhau, đồng thời người dân sẽ quyết định việc gì làm trước nếu xét thấy hiệu

quả nhất, công trình nào sẽ được xây dựng với nguồn vốn bao nhiêu, người dân sẽ

tham gia đóng góp tiền của, ngày công, hiện vật và quản lý nguồn vốn của công trình

như thế nào?

Hình 4.4 Tỷ lệ người dân được thông báo về một số vấn đề trong XD NTM

Kết quả trả lời câu hỏi “Ai đóng vai trò chính trong xây dựng NTM?” cho thấy,

có đến 82,9% người được hỏi cho rằng xây dựng NTM là công việc của chính quyền

địa phương kết hợp với người dân nông thôn, điều này thể hiện vai trò của chính quyền

các cấp nói chung và của người dân nông thôn trong xây dựng NTM là tương đối cao.

45

Kết quả cũng phản ánh mong muốn của người dân nông thôn muốn tham gia quá trình

xây dựng nông thôn cùng với các cơ quan chính quyền, nếu được tạo điều kiện, họ sẽ

tham gia xây dựng NTM một cách tích cực hơn, chủ động hơn.

Với 10,3% người được hỏi cho rằng, các cấp chính quyền đóng vai trò chính

trong xây dựng NTM, điều này cũng là một thách thức cho chính quyền địa phương.

Vì để thỏa mãn mong muốn của người dân nông thôn, chính quyền địa phương phải

thực sự gắn kết quá trình xây dựng NTM với sự tham gia của người dân. Nếu không

được tham gia, người dân sẽ có những đánh giá không tốt hoặc tiêu cực về hoạt động

của chính quyền địa phương.

Hình 4.5 Ai là người đóng vai trò chính trong xây dựng NTM?

Sự tham gia của người dân nông thôn vào các cuộc họp ở địa phương cũng là

một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ tham gia của người dân. Từ đó tìm hiểu xem

người dân có được quyền nêu ý kiến, bàn bạc trong quá trình tham gia xây dựng NTM

ở địa phương mình hay không.

46

Số liệu điều tra cho thấy, có 20% người dân trả lời được mời tham gia các cuộc

họp ở thôn, xã liên quan đến chương trình NTM, 26,9% được mời tham gia họp lồng

ghép với các buổi tiếp xúc cử tri, 24% được địa phương mời tham gia khi nội dung họp

có liên quan đến việc lấy ý kiến của người dân. Như vậy có thể thấy, tỷ lệ người dân

được mời tham gia các cuộc họp ở địa phương về NTM là khá cao. Qua phỏng vấn sâu

một số người dân cho thấy thực tế rằng, chính quyền 04 xã xây dựng NTM đã thực

hiện khá tốt về việc lấy ý kiến của người dân trong việc xây dựng một số công trình tại

địa phương và để người dân lựa chọn, quyết định những công trình, cơ sở hạ tầng nào

cần thực hiện xây dựng ưu tiên trước của địa phương.

Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng có khoảng 29,1% người dân trả lời chưa từng được

mời họp về các nội dung liên quan đến NTM. Điều này xuất phát từ cả nguyên nhân

chủ quan lẫn khách quan. Về khách quan, do địa bàn nghiên cứu có 03 xã đảo và bán

đảo, nghề nghiệp chính ở địa phương là khai thác thủy sản, có nhiều chủ hộ trong độ

tuổi lao động, thường xuyên vắng nhà đi làm biển, khai thác thủy sản nên không có

thời gian để tham dự họp. Về chủ quan, là chính quyền có gửi giấy mời người dân đi

họp nhưng giấy mời đưa cách xa ngày đi họp, có thời điểm hệ thống loa đài của xã bị

trục trặc, nói nghe không rõ, cán bộ thôn, xóm không nhắc lại nên người dân quên

không đi họp.

Nhìn chung, công tác thông tin, tuyên truyền của chính quyền địa phương ở 04

xã điều tra về xây dựng NTM đã đạt được những kết quả nhất định. Người dân đã được

tiếp cận và nắm bắt thông tin về chương trình qua nhiều kênh thông tin khác nhau, từ

đó nâng cao được hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với hoạt động

xây dựng NTM ở địa phương. Đồng thời, qua các kênh thông tin này cũng giúp chính

quyền hiểu rõ hơn tâm tư và nguyện vọng của nhân dân, từ đó có những cách làm thích

hợp để có thể hoàn thiện chương trình. Công tác thông tin, truyền thông của chính

quyền địa phương cần phải tiếp tục được thực hiện thường xuyên, liên tục với nhiều

47

hình thức phong phú hơn và phải phù hợp hơn với đặc thù của từng địa phương để đạt

được hiệu quả cao hơn.

Hình 4.6 Tham gia của người dân tại các cuộc họp ở địa phương về vấn đề NTM.

4.2.3 Người dân tham gia bàn bạc, ý kiến trong xây dựng NTM

Khi được hỏi về mức độ tham gia của người dân trong xây dựng NTM thì

những người được hỏi đều trả lời có tham gia từ mức độ tham gia đơn giản như “được

thông báo” đến mức độ cao nhất “ra quyết định”. Kết quả khảo sát cho thấy có đến

38,3% người dân cho rằng người dân cần phải được mời tham gia đóng góp ý kiến các

công việc liên quan đến xây dựng NTM và 16,6% nghĩ là họ cũng phải được mời tham

gia vào việc ra quyết định trong hoạt động xây dựng NTM. Điều này cho thấy có đến

55% người dân không thờ ơ với các hoạt động xây dựng NTM ở địa phương, nhưng

trong suy nghĩ của họ, người dân là người thụ hưởng kết quả, chứ không phải là người

chủ của quá trình phát triển nông thôn. Thực tế này có thể cho thấy, có nhiều vấn đề

tồn tại trong nhận thức không chỉ của người dân mà còn về phía chính quyền địa

48

phương về sự tham gia. Về phía người dân, thông thường họ ít quan tâm đến các hoạt

động của chính quyền địa phương, các lĩnh vực mà người dân chủ động tham gia là các

lĩnh vực liên quan đến quyền lợi của họ như: đường giao thông thôn, xóm, đường giao

thông nội đồng, đầu tư hệ thống điện, đê kè chắn sóng, kênh mương thủy lợi, … còn

những vấn đề ít mang lại lợi ích trực tiếp thì người dân được khảo sát cho rằng họ chỉ

cần được thông báo để biết hoặc thậm chí không cần tham gia vào việc đó. Về phía

chính quyền, nếu chính quyền không tuyên truyền rộng rãi và không cho phép người

dân nông thôn tham gia thật sự vào các cuộc họp mang tính chất quan trọng và ra quyết

định cho những công trình xây dựng cơ sở hạ tầng; tham gia kiểm tra giám sát các hoạt

động thi công; kiểm tra giám sát việc quản lý vốn và chi tiêu thì dẫn đến kết quả là

người dân nông thôn chỉ hiểu đơn giản là xây dựng NTM hoàn toàn là việc của chính

quyền các cấp, mà người dân chỉ là người thụ hưởng.

Bên cạnh đó, kết quả khảo sát còn cho thấy, có 35,4% người dân cho rằng họ

chỉ cần được chính quyền thông báo và 9,7% người dân cho rằng họ không cần phải

tham gia bàn bạc, ý kiến trong xây dựng NTM tại địa phương. Điều này cho thấy vẫn

còn khá lớn một bộ phận người dân chưa cảm nhận hết vai trò của mình trong xây

dựng NTM. Chỉ khi nào người dân cảm nhận được vai trò của mình thì việc tham gia

xây dựng NTM đối với họ mới trở thành nhu cầu quan trọng và thiết yếu. Đây chính là

cơ sở quyết định việc xây dựng NTM thành công và bền vững.

Việc lập kế hoạch xây dựng NTM là một khâu quan trọng khi triển khai xây

dựng NTM, bởi nó xác định mục tiêu, giải pháp và thời gian hoàn thành 19 tiêu chí để

đạt xã NTM. Từ đó việc lập kế hoạch sẽ đảm bảo tiến trình xây dựng, giúp cho chính

quyền và người dân biết được công việc nào cần thực hiện trước, tiến độ như thế

nào….

49

Hình 4.7 Đề xuất của người dân về mức độ tham gia.

Kết quả khảo sát tiếp theo cho thấy có đến 68,5% số người được hỏi nhận thấy

nhu cầu và nguyện vọng của người dân là yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch các

hoạt động xây dựng NTM. Như vậy người dân đã cảm nhận được vai trò của mình

trong việc lập kế hoạch các hoạt động xây dựng NTM.

Tuy nhiên, ta thấy tỷ lệ người dân cho rẳng ý kiến của chính quyền các cấp mới

là yếu tố quyết định thì chiếm tỷ lệ lên tới 31,5%. Tình trạng này phần nào phản ánh

thực tế xây dựng NTM đang diễn ra tại các xã của thành phố Quy Nhơn là đa phần

người dân đều hiểu và có nhu cầu đóng góp ý kiến, nguyện vọng trong xây dựng NTM,

tuy nhiên vẫn luôn trông chờ vào chính quyền tham gia hoạch định các kế hoạch cho

mọi hoạt động của địa phương.

50

Hình 4.8 Tỷ lệ khảo sát các yếu tố quyết định cho việc lập kế hoạch cho các hoạt động xây dựng NTM

Một điều đáng mừng là qua khảo sát có đến 54,9% người dân được hỏi đã có

được mời tham gia họp bàn, lấy ý kiến về các vấn đề liên quan đến xây dựng NTM.

Điều này thể hiện chính quyền địa phương đã có nhiều tích cực trong việc tạo điều kiện

để cùng bàn bạc với nhân dân và tiếp thu tích cực ý kiến đóng góp hợp lý của người

dân trong xây dựng NTM. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại có 35,4% người dân không được

mời tham gia các cuộc họp và 9,7% người dân không quan tâm đến việc này. Nguyên

nhân chính của vấn đề là có đến 52,6% người được hỏi cho rằng là họ không có thời

gian. Qua phỏng vấn sâu cho thấy, với đặc thù của người dân ở các xã đảo, bán đảo,

người đàn ông là chủ hộ trong gia đình thường xuyên đi làm biển vắng nhà vào ban

đêm, nên không có điều kiện tham gia họp để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến xây

dựng NTM. Điều này chính quyền cấp xã cũng cần đáng quan tâm để có phương pháp

51

và thời gian tham vấn ý kiến của người dân ở các xã miền biển phù hợp hơn, tạo điều

kiện cho người dân đóng góp ý kiến và nguyện vọng của mình.

Hình 4.9 Tỷ lệ người dân được mời tham gia các hoạt động liên quan đến xây dựng NTM.

Qua phỏng vấn một số hộ dân, cho thấy thực tế là sự tham gia ngay từ đầu của

người dân trong công tác lập quy hoạch, lập đề án xây dựng NTM hoặc lấy ý kiến cộng

đồng cho quy hoạch NTM được chính quyền các xã thực hiện khá tốt, nhưng khi cần

lấy ý kiến của nhân dân về việc nên xây dựng công trình nào trước, mức đóng góp tiền

bạc, vật chất của người dân cho việc xây dựng các công trình ở địa phương ra sao,…

thì chưa được các địa phương chú trọng.

Một số liệu đáng lưu ý là có 16,8% người dân được hỏi cho rằng mình không

quan tâm đến việc tham gia vào việc lập kế hoạch phát triển nông thôn tại địa phương.

Ngoài nguyên nhân như đã nêu ở trên, còn có một nguyên nhân chủ quan khác là người

dân ở tại địa phương chỉ quan tâm đến những công việc, quyền lợi hay những công

52

trình xây dựng có liên quan trực tiếp và thiết thực đến đời sống hàng ngày của họ, còn

các công việc theo họ mô tả là ở tầm “vĩ mô”, mang tính chất kỹ thuật chuyên môn thì

phải là trách nhiệm của chính quyền địa phương, người dân không thể tham gia được.

Với nhận thức chưa sâu sắc này của người dân, chính quyền địa phương càng phải thấy

rõ trách nhiệm của mình phải có những giải pháp, cách làm phù hợp hơn, để trước mắt

cũng như lâu dài việc xây dựng NTM ở địa phương phải thực sự có sự tham gia đóng

góp của người dân, chính sự tham gia và vai trò làm chủ của cộng đồng người dân

nông thôn trong tiến trình xây dựng NTM là một trong những yếu tố quan trọng nhất

bảo đảm phát triển nông thôn bền vững.

Như vậy, trong việc tham gia bàn bạc, ý kiến trong xây dựng NTM, vẫn còn khá

lớn một bộ phận người dân chưa cảm nhận hết vai trò của mình, luôn trông chờ vào

chính quyền địa phương để hoạch định các kế hoạch hoạt động xây dựng NTM ở địa

phương, họ chỉ quan tâm đến những công việc, quyền lợi hay những công trình xây

dựng có liên quan trực tiếp và thiết thực đến đời sống hàng ngày của họ. Các hoạt động

theo quy định cần có sự tham gia của người dân như: nên xây dựng công trình nào

trước; mức đóng góp tiền bạc, vật chất của người dân cho việc xây dựng các công trình

ở địa phương ra sao,… rất ít được chính quyền tham vấn ý kiến của người dân, người

dân hầu như chỉ biết khi bắt đầu xây dựng hoặc đưa xuống các cuộc họp dân, khi cần

kêu gọi sự đóng góp. Mức độ tham gia của người dân theo thang đo “biết, bàn, làm,

kiểm tra” có chiều hướng giảm dần, chỉ những hoạt động liên quan trực tiếp tới đời

sống người dân và khi cần phải đóng góp chi phí để xây dựng các công trình liên quan

trực tiếp đến cộng đồng thì mới có sự tham gia của người dân.

4.2.4 Người dân tham gia trực tiếp trong xây dựng NTM

Theo báo cáo của UBND thành phố Quy Nhơn, tổng nguồn vốn đầu tư xây

dựng NTM trong 5 năm qua trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015 là 156.633

triệu đồng, trong đó người dân tham gia đóng góp là 17.348 triệu đồng, chiếm 11,1%.

(Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai

53

đoạn 2011-2015, và triển khai nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020, UBND TP. Quy Nhơn,

2016) Nếu tính cả phần đóng góp của người dân như: diện tích đất hiến tặng là 76.282

m2, tham gia trên 8.200 ngày công lao động trong các công trình xây dựng ở địa

phương, tự đầu tư kinh phí trong quá trình phát triển sản xuất, tự cải tạo sửa chữa hàng

rào, cổng ngõ, nhà vệ sinh,… thì có thể nói việc đóng góp của người dân khi tham gia

vào việc xây dựng NTM chiếm một phần rất quan trọng.

Các hình thức đóng góp của người dân cũng rất đa dạng, từ việc đóng góp tiền

bạc, hiến đất đến ngày công lao động. Có 42,6% hộ dân tham gia đóng góp ngày công

lao động, 25,4% hộ dân hiến đất, có 15,6% hộ dân đóng góp tiền bạc, có 9,8% hộ tham

gia bằng các hiện vật. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, vì người dân ở khu vực nông thôn với

thu nhập thấp nên việc đóng góp tiền bạc còn hạn chế. Mặt khác, đây là các xã thuần

nông, thuần ngư với đa số lao động làm nông ngư nghiệp nên việc tham gia ngày công

lao động sẽ phù hợp với khả năng để xây dựng các công trình chung ở địa phương.

Hình 4.10 Hình thức đóng góp của người dân

54

* Một số mô hình tiêu biểu về sự tham gia trực tiếp của người dân

Mô hình xây dựng đường giao thông nông thôn

Một trong những công trình cơ sở hạ tầng ở 04 xã điều tra được chính quyền và

nhân dân quan tâm chọn thực hiện ưu tiên trước để thực hiện là việc nhựa hóa, bêtông

hóa các trục đường giao thông. Điều này rất được nhân dân quan tâm và hăng hái tham

gia các buổi họp do xã tổ chức khi lấy ý kiến của cộng đồng về việc xây dựng đường

giao thông ở địa phương. Qua 05 năm thực hiện, 04 xã xây dựng NTM của thành phố

Quy Nhơn đã xây dựng được 21,41 km đường trục xã, 26,27 km đường trục thôn,

30,81 km đường ngõ xóm, 10,93 km đường nội đồng, hệ thống đường giao thông đến

trụ sở UBND xã và các trục đường chính của xã, thôn, xóm đã được xây dựng và hoàn

thiện cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, sinh hoạt. Tính đến tháng 12

năm 2015, cả 04 xã đều đạt tiêu chí về giao thông.

Trong xây dựng đường giao thông nông thôn, chính quyền các xã đã huy động

sức dân từ việc hiến đất của bà con nhân dân để làm đường giao thông nông thôn. Qua

báo cáo của UBND thành phố Quy Nhơn, đã có 476 lượt hộ hiến đất để làm đường

giao thông nông thôn và một số công trình an sinh xã hội với tổng diện tích 76.282 m2,

trị giá hơn 1.947 triệu đồng (theo giá nhà nước). (Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện

Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015, và triển khai nhiệm vụ giai

đoạn 2016-2020).

Một điều thành công nổi bật đáng ghi nhận về cách làm hay của chính quyền

các xã là đã huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc nhằm tuyên truyền vận động

người dân tham gia làm đường giao thông. Các xã đã tổ chức các cuộc họp để lấy ý

kiến của người dân về đoạn đường nào cần thi công trước, lộ giới mở rộng bao nhiêu,

người dân tham gia đóng góp ra sao, nhắc nhở nhau việc tự tháo dỡ hàng rào, cùng

tham gia trong quá trình thi công,…Vì vậy chi phí cho việc bồi thường, giải phóng mặt

bằng trước khi thi công là không đáng kể, người dân tự giác tháo dỡ hàng rào, thu dọn

55

cây cối, vật kiến trúc để bàn giao mặt bằng, tham gia ngày công lao động, tạo điều kiện

tốt nhất cho đơn vị thi công. Sau khi hoàn thành, một số tuyến đường chính được giao

cho các hội đoàn thể tại xã phụ trách với hình thức “Con đường tự quản”, phối hợp

với các chi hội tại các thôn để thường xuyên thực hiện việc phát cỏ lề đường, giữ gìn

vệ sinh, xử lý trám vá những hư hỏng nhỏ. Vì vậy, đến nay khi hỏi ý kiến người dân ở

04 xã hài lòng nhất khi thực hiện chương trình xây dựng NTM chính là việc làm đường

giao thông nông thôn.

Mô hình sản xuất lúa lai

Trong các tiêu chí đánh giá NTM, tiêu chí về thu nhập là một trong những tiêu

chí được các các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo sâu sát. Ngay từ đầu, tỉnh đã có

chủ trương thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dựa

vào đặc thù và lợi thế của từng địa phương để hình thành các vùng chuyên canh quy

mô lớn, ban hành các chính sách hỗ trợ giá giống, ưu đãi cho vay vốn, hỗ trợ kỹ

thuật,... Nhờ vậy, nhiều địa phương đã năng động áp dụng vào thực tế, tranh thủ sự hỗ

trợ của các cơ quan chuyên môn, các doanh nghiệp và đặc biệt là sự tích cực chủ động

của người dân, vì vậy tiêu chí thu nhập đã sớm đạt được ở các địa phương.

Một trong những chương trình được đánh giá là thành công và góp phần thay

đổi bộ mặt nông thôn là chương trình sản xuất lúa lai được thực hiện tại xã Phước Mỹ.

Từ khi bắt đầu thực hiện Chương trình xây dựng NTM, chương trình sản xuất lúa lai

được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo, đây được xem là một trong các giải pháp

chuyển đổi cơ cấu cây trồng để thâm canh, tăng năng suất, sản lượng lúa, nhằm tăng

giá trị thu nhập trên một ha canh tác, tăng thu nhập cho người dân địa phương.

Tuy nhiên, khi bắt đầu triển khai xuống các địa phương, chương trình đã vấp

phải sự phản ứng của nhiều bà con nông dân bởi các lý do sau: người dân không có

kinh nghiệm sản xuất lúa lai; lượng giống lúa lai khi gieo sạ quá ít chỉ có 2 – 2,5

kg/sào (500m2) trong khi lúa thuần lâu nay sạ 6 – 8 kg/sào, làm sao đủ giống để sạ, nếu

56

bị ảnh hưởng mưa lụt, chuột ăn thì không có lúa để cắt; sản xuất lúa lai phải đầu tư

thêm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công chăm sóc, chi phí tăng cao,…

Để người dân tin tưởng vào chương trình, Phòng Kinh tế, Trạm Khuyến nông

thành phố đã bàn bạc, thống nhất với xã Phước Mỹ chọn mỗi thôn khoảng 2 – 4 sào

ruộng và chọn chủ ruộng phải là người tiên tiến, tích cực để xây dựng các mô hình

trình diễn sản xuất lúa lai. Cán bộ kỹ thuật của Phòng Kinh tế, Trạm Khuyến nông

thành phố đã xuống tận các thôn, xóm để tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho chủ ruộng, tổ

chức chỉ đạo và hướng dẫn trực tiếp theo cách “cầm tay chỉ việc” cho các chủ ruộng

thực hiện các khâu trong quá trình sản xuất. Kết quả của các mô hình trình diễn thành

công ngoài mong đợi: năng suất lúa lai bình quân đạt 72 – 78 tạ/ha (lúa thuần trước

đây ở xã chỉ đạt 45 – 50 tạ/ha), lúa ít bị sâu bệnh hại, chi phí mua phân, thuốc không

cao hơn nhiều so với sản xuất lúa thuần, gạo lúa lai ăn ngon hơn, giá bán lúa lai cao

hơn lúa thuần từ 600 – 800 đ/kg tùy theo thời điểm,…

Từ kết quả ban đầu của các mô hình trình diễn, chính quyền địa phương đã phối

hợp các cơ quan chuyên môn tổ chức các buổi hội thảo đầu bờ ngay tại ruộng của chủ

mô hình, mời tất cả nông dân trong vùng sản xuất đến tham quan thực tế và đánh giá

kết quả sản xuất lúa lai. Một cách làm hay là người báo cáo kết quả và quá trình thực

hiện mô hình là chủ ruộng trực tiếp sản xuất lúa lai đứng ra giới thiệu và báo cáo,

không phải cán bộ kỹ thuật. Những thắc mắc của người dân được chủ ruộng giải thích

rõ ràng, dễ hiểu, thực tế vì vậy nông dân đến tham quan đã thực sự bị thuyết phục về

các ưu thế của giống lúa lai. Tại buổi hội thảo đầu bờ và tại các cuộc họp ở thôn, xóm

sau này khi bàn triển khai nhân rộng sản xuất lúa lai, chính những người dân đã được

tham quan thực tế và các chủ ruộng mô hình đã đứng lên có ý kiến đồng thuận rất cao

về áp dụng sản xuất giống lúa lai, giải thích cho các nông dân khác khi có ý kiến chưa

đồng thuận với chương trình, và hầu hết các buổi họp kết thúc với kết quả là đa số

người dân quyết định sẽ áp dụng sản xuất giống lúa lai trong các vụ sản xuất tới.

57

Xã Phước Mỹ là xã miền núi của thành phố Quy Nhơn, có diện tích gieo trồng

lúa hàng năm là 357 ha, đất nông nghiệp có độ phì thấp, tập quán canh tác của người

dân vẫn còn theo thói quen, kinh nghiệm là chính, hệ thống thủy lợi chưa được hoàn

thiện,... Từ năm 2009 đến nay, diện tích sản xuất lúa lai của xã Phước Mỹ tăng dần qua

từng năm, từ 17 ha ban đầu đến nay 100% diện tích sản xuất lúa của địa phương đã

chuyển hoàn toàn sang sản xuất lúa lai. Nếu so sánh số liệu của năm bắt đầu thực hiện

chương trình sản xuất lúa lai là năm 2009 với kết quả của năm 2015 cho thấy: năng

suất lúa bình quân của xã trước đây chỉ khoảng 47 tạ/ha, nay đã tăng lên 70,4 ta/ha,

tăng 49,8%, đây có thể xem là bước đột phá về năng suất lúa của xã; sản lượng lúa

hàng năm từ 1.504 tấn, tăng lên 2.513 tấn, tăng 40,2%. Bên cạnh đó, người dân cũng

đã biết lựa chọn đưa vào sản xuất các giống lúa lai có chất lượng gạo ngon nên giá bán

cũng có lợi hơn cho người nông dân. Thu nhập của người dân sản xuất lúa đã tăng lên

đáng kể, từ 25,9 triệu đồng/ha (năm 2009) đã tăng lên 44,3 triệu đồng/ha (năm 2015),

người dân phấn khởi yên tâm sản xuất, đời sống ngày càng được nâng cao. (Đặng Thị

Tuyết Nhung, Phó chủ tịch UBND xã Phước Mỹ, tháng 06/2016).

4.2.5 Người dân tham gia giám sát, quản lý, duy tu, bảo dưỡng các công trình

Kiểm tra, giám sát là mức độ cao nhất trong thang bậc đánh giá về sự tham gia

của người dân trong các chương trình, dự án phát triển. Mục đích của Chương trình

xây dựng NTM là để từng bước nâng cao chất lượng sống cho người dân và cộng đồng

và chính người dân được hưởng lợi từ những thành quả của chương trình mang lại. Vì

vậy, trong quá trình triển khai cũng như khi đi vào hoạt động, người dân có quyền

tham gia giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng, gọi chung là giám sát các công trình

đó. Người dân là người thụ hưởng những thành quả trong xây dựng NTM nên chỉ có

họ mới là người hiểu rõ nhất nhu cầu của mình. Từ những nhu cầu đó, người dân biết

cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được mục tiêu đề ra. Khi người dân tham gia

58

vào các hoạt động giám sát, quản lý các công trình NTM, tùy mức độ tham gia sẽ tác

động đến đời sống cộng đồng ở nhiều mức độ khác nhau.

Khi bắt đầu triển khai Chương trình, Ban chỉ đạo xây dựng NTM thành phố Quy

Nhơn đã triển khai tập huấn cho Ban thanh tra nhân dân các xã Nhơn Châu, Nhơn Lý,

Nhơn Hải, Phước Mỹ, Ủy ban Mặt trận TQ VN các xã việc lập kế hoạch, trình tự, kỹ

thuật thực hiện giám sát đối với các công trình xây dựng do địa phương đầu tư xây

dựng hay các công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm, những công trình công cộng

của cộng đồng.

Tuy nhiên, qua điều tra về hoạt động giám sát thì có đến 85,7% người được hỏi

trả lời rằng họ chưa từng tham gia vào bất kỳ hoạt động giám sát nào. Chỉ có khoảng

14,3% đã từng tham gia giám sát, nhưng hầu hết, đó là những người có làm việc trong

các ban, ngành, hội đoàn thể ở địa phương hoặc có người nhà làm trong khu vực này,

nên họ thường được trao đổi về vấn đề giám sát trong xây dựng NTM. Hơn nữa, các

hoạt động giám sát chủ yếu mà người dân tham gia là ở các công trình có sự tham gia

đóng góp của người dân và có liên quan trực tiếp đến quyền lợi hàng ngày của họ như

đường giao thông, đê kè biển, kênh mương thủy lợi, còn các công trình mà sử dụng

phần lớn nguồn ngân sách của Nhà nước như Nhà văn hóa, Trường học, Trạm y tế,…

thì người dân không thực sự quan tâm nhiều lắm, mặc dù các công trình này đều mang

lại nhiều lợi ích cho họ.

Khi hỏi những hộ được khảo sát thì họ cho rằng việc giám sát đòi hỏi phải có

kiến thức chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm, trong khi đó, họ đa phần là nông ngư

dân, trình độ thấp, không có hiểu biết nhiều về vấn đề xây dựng. Theo kết quả khảo

sát, có 38,9% người dân cho rằng ở địa phương đã hình thành Ban giám sát cộng đồng

và chỉ những người trong Ban giám sát mới được tham gia việc giám sát xây dựng.

Bên cạnh đó kết quả khảo sát cũng cho thấy có 27,4% người được hỏi cho rằng người

dân cũng có quyền tham gia giám sát. Điều này cho thấy vẫn có một bộ phận nhân dân

59

rất quan tâm đến việc xây dựng các công trình ở nông thôn và mong muốn tham gia

cùng chính quyền để giám sát xây dựng các công trình này.

Theo quy định, chính quyền thường thuê các đơn vị tư vấn giám sát có chuyên

môn để giám sát độc lập việc xây dựng các công trình ở địa phương đồng thời họ là

người chịu trách nhiệm chính về chất lượng của công trình. Bên cạnh đó, ở địa phương

cũng có Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng, họ thường gồm những

người là đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ các hội đoàn thể, cán bộ quân dân chính

các thôn cũng tham gia trong việc giám sát xây dựng. Nhưng trong thực tế, các thành

viên này thường do xã giới thiệu tham gia và chỉ làm kiêm nhiệm nên hiệu quả giám

sát rất thấp.

Khi được hỏi về phương thức giám sát hiệu quả nhất thì có 39,4% người dân

cho rằng người dân tự tham gia giám sát là cách làm tốt nhất, có 33,7% người dân trả

lời chính quyền xã nên thành lập Ban giám sát và 13,7% có ý kiến là nên thuê các đơn

vị chuyên môn. Ngoài ra, điều đáng quan tâm là còn có 13,1% người dân trả lời không

biết, không quan tâm đến việc giám sát ở địa phương.

Như vậy, có thể thấy hoạt động kiểm tra, giám sát, nghiệm thu của người dân

còn chưa thể hiện rõ nét và người dân còn thờ ơ trong việc kiểm tra, giám sát các công

trình xây dựng NTM ở xã mình. Thông qua khảo sát và trao đổi với một số người dân,

tác giả nhận thấy những công trình có mức đầu tư cao và do cấp thành phố quản lý thì

người dân rất ít được tham gia giám sát. Ngoài ra, nếu có tham gia, người dân chỉ được

tham gia giám sát các công trình do xã quản lý và có mức đầu tư thấp. Việc giám sát

các công trình này vẫn còn mang tính áp đặt, theo chỉ đạo của chính quyền từ trên

xuống. Tình trạng này làm cho người dân thiếu sự tin tưởng vào các hoạt động giám

sát và chất lượng công trình NTM.

Như vậy, qua khảo sát thực trạng về sự tham gia của người dân tại 04 xã xây

dựng NTM của thành phố Quy Nhơn và phân tích cho thấy rằng, đa số người dân đã

60

được tiếp cận và nắm bắt thông tin về chương trình NTM qua nhiều kênh thông tin

khác nhau. Tuy nhiên, trong việc tham gia bàn bạc, ý kiến trong xây dựng NTM vẫn

còn khá lớn một bộ phận người dân chưa cảm nhận hết vai trò của mình, luôn trông

chờ vào chính quyền địa phương để hoạch định các kế hoạch hoạt động xây dựng

NTM ở địa phương; hoạt động kiểm tra, giám sát, nghiệm thu của người dân còn chưa

thể hiện rõ nét và người dân còn thờ ơ trong việc kiểm tra, giám sát, vận hành, duy tu,

bảo dưỡng các công trình xây dựng NTM ở xã mình.

61

CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1 Kết luận

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tại thành phố Quy Nhơn từ khi

triển khai đến nay đã có những thành công nhất định trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng

ở nông thôn, huy động nguồn tài chính lớn cho xây dựng và phát triển nông thôn, góp

phần quan trọng thay đổi bộ mặt và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông

thôn thành phố Quy Nhơn, rút ngắn dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Tuy

nhiên, bên cạnh đó vẫn có những tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng và tính bền vững

của Chương trình. Một trong yếu tố quan trọng của Chương trình chính là sự tham gia

của cộng đồng trong các hoạt động xây dựng NTM.

Qua nghiên cứu thực trạng về sự tham gia của người dân tại thành phố Quy

Nhơn cho thấy vẫn còn một số hạn chế. Trước tiên, trong việc tiếp cận các thông tin về

Chương trình MTQG xây dựng NTM, người dân đã nắm bắt được nội dung của

chương trình thông qua các kênh thông tin đa dạng và qua đó, người dân đã hiểu được

mục đích ý nghĩa của chương trình. Về tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến, mặc dù

người dân đều biết họ được quyền tham gia nhưng người dân chưa thực sự phát huy

tính chủ động của mình. Việc đóng góp ý kiến chỉ dừng lại ở việc cần phải được mời

và thông báo, còn việc được quyền quyết định thì ý kiến chọn của người dân chiếm tỷ

lệ thấp. Hầu hết các công việc, chính quyền đưa ra các quyết định và triển khai thực

hiện nên người dân ít biết đến các quyền của mình đối với chương trình, trong khi các

nghĩa vụ của họ thì được thông tin nhiều hơn. Mức độ tham gia của người dân theo

thang đo “biết, bàn, làm, kiểm tra” có chiều hướng giảm dần, chỉ những hoạt động liên

quan tới đời sống người dân và chi phí đóng góp để xây dựng các công trình liên quan

trực tiếp đến quyền lợi cộng đồng thì mới có sự tham gia của người dân. Đối với việc

trực tiếp tham gia vào Chương trình xây dựng NTM ở địa phương, do đặc thù địa bàn

nghiên cứu là các xã đảo, bán đảo, miền núi, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên người

62

dân chủ yếu là tham gia hiến đất và đóng góp sức lao động, việc đóng góp bằng tiền

còn nhiều khó khăn do thu nhập của người dân ở các xã miền núi, xã đảo, bán đảo

chưa cao. Hoạt động giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng chủ yếu là do chính quyền

thuê các đơn vị tư vấn có chuyên môn thực hiện, sự tham gia của người dân trong hoạt

động này còn khá mờ nhạt, hoạt động giám sát của người dân có xu hướng giảm đối

với các công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước là chủ yếu. Đối với công việc như

làm đường giao thông nông thôn, làm kênh mương nội đồng, vệ sinh môi trường,... thì

sự đóng góp, và tham gia của người dân cao hơn.

Mặc dù, sự tham gia của người dân là chưa thực sự tích cực, song từ kết quả

thành công của Chương trình xây dựng NTM của thành phố Quy Nhơn thời gian qua

có thể khẳng định đến rất nhiều từ sự chủ động của người dân. Nếu không có sự đồng

tình, ủng hộ của người dân nông thôn, Chương trình có thể sẽ gặp một số khó khăn, trở

ngại để có được kết quả như hôm nay. Bên cạnh sự chủ động tham gia tích cực của

người dân thì sự hỗ trợ của chính quyền các cấp cũng đưa đến thành công của Chương

trình. Tại 04 xã thực hiện Chương trình, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế,

nguồn lực tài chính khó khăn, nhất là đối với xã mang tính chất đặc thù là xã miền núi,

xã đảo và bán đảo, nếu không có sự hướng dẫn, định hướng của Nhà nước cùng các

chính sách, cơ chế hỗ trợ và giải pháp đi kèm thì chắc chắn rằng nội lực cộng đồng sẽ

không thể phát huy một cách hiệu quả và đem lại thành công.

5.2 Khuyến nghị

Từ nghiên cứu thực tế ở 04 xã của thành phố Quy Nhơn, để cải thiện và nâng

cao vai trò của người dân trong quá trình xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo, tác

giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương phải thực hiện tốt

công tác dân vận. Các cấp chính quyền cần tích cực tuyên truyền, vận động để người

dân hiểu chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm mục đích phát triển nông thôn

63

toàn diện, bền vững, góp phần nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của

chính dân cư nông thôn. Trong xây dựng nông thôn mới, người dân vừa là người làm

vừa là người thụ hưởng. Đồng thời, các cấp chính quyền cũng cần chú ý tuyên truyền

cho người dân hiểu trong điều kiện nguồn ngân sách hạn hẹp, Nhà nước chỉ hỗ trợ một

phần kinh phí, hỗ trợ kỹ thuật,… còn vai trò chính vẫn là mỗi người dân. Khi người

dân hiểu thấu đáo vấn đề này, sẽ không còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại.

Thứ hai, phải thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân. Làm cho dân hiểu,

dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp công, của và chủ

động thực hiện các nhiệm vụ của mình, đây là yếu tố quyết định sự thành công của

Chương trình. Cần tăng cường phát huy dân chủ ở địa phương, người dân phải được

tham gia vào quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, người dân cần được phát huy tối đa

tiếng nói của mình, chính quyền cần phải tôn trọng và phát huy ý kiến của người dân.

Người dân đưa ra các vấn đề, công việc trong quá trình xây dựng, đưa ra các giải pháp

thực hiện, và cũng chính người dân là những người thực hiện, sử dụng và khai thác các

công trình xây dựng ở địa phương. Một yếu tố không thể thiếu đó chính là người dân

chính là những người giám sát tất cả các quá trình trên.

Thứ ba, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ ở nông thôn làm nòng cốt cho

Chương trình xây dựng NTM. Ngoài việc đào tạo tại chỗ bằng cách tuyên truyền, tập

huấn, mở các lớp đào tạo ngắn hạn, cần có các cuộc trao đổi kinh nghiệm giữa các địa

phương về công tác xây dựng NTM, xây dựng một đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực,

có trình độ và nhiệt huyết với công tác. Bên cạnh đó, phải biết kết hợp sức mạnh và

phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể chính trị - xã hội

trong tổ chức thực hiện Chương trình, phối hợp với các cấp chính quyền về tổ chức

thực hiện và vận động nhân dân trong xây dựng NTM.

Thứ tư, minh bạch hóa các hoạt động xây dựng NTM từ việc lập quy hoạch,

xây dựng kế hoạch thực hiện và thu chi tài chính của các hoạt động, như vậy sẽ khuyến

64

khích người dân tham gia vào các hoạt động này. Khi các hoạt động xây dựng NTM

được công khai, rõ ràng, minh bạch người dân sẽ có sự tin tưởng vào chính sách và các

quyết định của chính quyền, khi đó họ sẽ chủ động tham gia vào mọi hoạt động và

khẳng định vai trò chủ thể của mình.

5.3. Hạn chế của đề tài

Vì điều kiện nghiên cứu còn hạn chế về thời gian, tài liệu nghiên cứu, kinh

nghiệm nên tác giả chỉ thu thập những thông tin, dữ liệu thông qua nghiên cứu các văn

bản, báo cáo của các cơ quan liên quan và khảo sát thực tế tại địa phương là chính.

Việc tiếp cận các tài liệu và các công trình nghiên cứu của các tác giả khác về chủ đề

có liên quan chưa được nhiều. Phiếu khảo sát được thực hiện theo cách thuận tiện và

chưa thể tiến hành khảo sát trên diện rộng nên còn thiếu tính đại diện cho khu vực khảo

sát./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8

năm 2008 của BCH TW Đảng Hội nghị lần thứ Bảy BCHTW khóa X về nông nghiệp,

nông dân, nông thôn.

2. Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG XD NTM (tháng 12 năm 2015), Báo

cáo tổng kết 05 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010-

2015, phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020.

3. Ban chỉ đạo Chương trình MTQG XD NTM tỉnh Bình Định (tháng 12 năm 2015),

Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn

2011-2015 và triển khai thực hiện Chương trình giai đoạn 2016-2020.

4. Bàn Cao Sơn (2016), Đánh giá sự tham gia của người dân vào chương trình mục

tiêu quốc gia XD NTM giai đoạn 2010-2020 tại xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà

Giang. Luận văn Thạc sĩ Chính sách công, Trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh.

5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Sổ tay Hướng dẫn xây dựng Nông

thôn mới (cấp xã), NXB Lao động, Hà Nội.

6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính

(2011), Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC hướng dẫn một

số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê

duyệt chương trình NTM giai đoạn 2010-2020.

7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính

(2013), Thông tư liên tịch số 51/2013/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC Sửa đổi, bổ sung

một số điều của Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC hướng

dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về phê duyệt chương trình NTM giai đoạn 2010-2020.

8. Chi cục Thống Kê thành phố Quy Nhơn (2015), Niên giám Thống kê 2015.

9. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 24/2008 ngày 28 tháng 10 năm 2008 ban hành

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH

TW Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

10. Công ty Tư vấn Mekong Economics (2005), Sự tham gia của Cộng đồng trong

Giao thông Nông thôn - những vấn đề về đóng góp và tham gia ở Việt Nam, truy cập

ngày 22/8/2016 tại địa chỉ:

http://agro.gov.vn/images/2007/03/Su%20tham%20gia%20cua%20cong%20dong%20t

rong%20giao%20thong14731.pdf

11. Đào Duy Ngọc (2014), Sự tham gia của người dân vào XD NTM tại huyện Xuân

Lộc, Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ Chính sách công, Trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí

Minh.

12. Lê Thanh Tùng (2015), Sự tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng cơ sở

hạ tầng nông thôn mới ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, Luận văn Thạc sĩ xã hội học, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền.

13. Ngân hàng Thế giới, Bộ Thủy sản, Trung tâm phát triển và hội nhập, Viện Kinh tế

Việt Nam (2006), Sự tham gia của cộng đồng ngư dân nghèo trong xác định nguồn lực

và nhu cầu đầu tư phát triển thủy sản, truy cập ngày 08/9/2016 tại địa chỉ:

http://agro.gov.vn/images/2007/02/Su%20tham%20gia%20of%20cong%20dong%20n

gu%20dan%20ngheo83846.pdf

14. Nguyễn Thành Lợi (2013), “Xây dựng nông thôn mới của Nhật Bản và một số gợi

ý cho Việt Nam”, truy cập ngày 28/08/2016 tại địa chỉ:

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/284-xay-dung-nong-thon-moi-

%20cua-nhat-ban-va-mot-so-goi-y-cho-viet-nam.html

15. Nguyễn Trung Dũng, Đỗ Thị Hòa (2013), Lồng ghép sự tham gia của người dân

trong quy hoạch cơ sở hạ tầng cho phát triển NTM qua ví dụ ở xã Hoàng Giang (tỉnh

Thanh Hóa), truy cập ngày 09/9/2016 tại địa chỉ:

http://hoithaokhcn.tlu.edu.vn/Portals/7/TB5_02.pdf

16. Nguyễn Duy Thắng (2002), Một số khía cạnh lý thuyết của cách tiếp cận “nghiên

cứu hành động tham gia” (PAR) trong phát triển cộng đồng, truy cập ngày 28/08/2016

tại địa chỉ: http://voer.edu.vn/attachment/m/37536

17. Oxfam (2012), Tăng cường tiếng nói cộng đồng để lựa chọn đúng đắn - vấn đề sử

dụng đất và thay đổi quyền sử dụng đất ở miền Trung Việt Nam, truy cập ngày

08/9/2016 tại địa chỉ:

http://www.fetp.edu.vn/cache/MPP7-542-R10.2E-

Strengthen%20Community%20Voices%20for%20Informed%20Choices,%202012--

Oxfam-2015-07-07-15273568.pdf

18. Phạm Bảo Dương, Hà Thị Thanh Mai (2011), Một số vấn đề lý luận về sự tham gia

của các cộng đồng dân tộc trong giảm nghèo bền vững, truy cập ngày 11/9/2016 tại địa

chỉ:

http://www.vnua.edu.vn:85/tc_khktnn/Upload%5C1652013-

tc_so_2.2013_ban_in249.pdf

19. Phạm Xuân Liêm (2011), “Phong trào đổi mới nông thôn của Hàn Quốc”, truy cập

ngày 11/8/2016 tại địa chỉ:

http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-vn/25/86028/Nong-thon-moi/Phong-trao-

%20doi%20-moi%20-nong-thon-cua-Han-Quoc.html

20. Tạ Quỳnh Hoa (2009), Quy hoạch đô thị với sự tham gia của cộng đồng – Những

vấn đề cần nghiên cứu cho việc áp dụng phương pháp tại Việt Nam, truy cập ngày

11/9/2016 tại địa chỉ:

http://bmktcn.com/UserFiles/Phamdinhtuyen/Nghiencuu/Detaicaptruong/QHvoisutham

giacongdong.pdf

21. Tuấn Anh (2012), “Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số nước trên thế

giới”, truy cập ngày 18/8/2016 tại địa chỉ:

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/nong-nghiep-nong-thon/2012/14689/Kinh-

nghiem-xay-dung-nong-thon-moi-o-mot-so-nuoc-tren.aspx

22. Thành ủy Quy Nhơn (2011), Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Quy

Nhơn lần thứ 5 (khóa IX)

23. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ

tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia XD NTM giai đoạn

2010-2020.

24. Trần Tiến Khai (2015), “Xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hồ Chí Minh: Thực

trạng và giải pháp phát triển bền vững”, Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2015.

25. UBND thành phố Quy Nhơn (2011), Quyết định số 26/QĐ-UBND ngày 15 tháng 1

năm 2011 về ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM trên địa bàn

thành phố Quy Nhơn giai đoạn 2010 – 2020.

26. UBND thành phố Quy Nhơn (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương

trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015, và triển khai nhiệm vụ giai đoạn

2016-2020.

27. UBND Nhơn Châu (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình mục

tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2011- 2015 xã Nhơn Châu.

28. UBND xã Nhơn Hải (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình xây

dựng NTM xã Nhơn Hải giai đoạn 2011-2015.

29. UBND xã Nhơn Lý (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình xây

dựng NTM xã Nhơn Lý giai đoạn 2011-2015.

30. UBND xã Phước Mỹ (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình xây

dựng NTM xã Phước Mỹ giai đoạn 2011-2015 xã Phước Mỹ.

31. Việt Dũng (2014), Mỗi xã, phường một sản phẩm: Nhìn từ kinh nghiệm của Thái

http://ntm.quangninh.gov.vn/tintuc/Pages/moi-xa-phuong-mot-sp.aspx?ItemID=20

Lan, truy cập ngày 11/8/2016 tại địa chỉ:

32. Vũ Trọng Khải (NXB Nông nghiệp, 2004), Tổng kết và xây dựng mô hình phát

triển kinh tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời

đại.

Tiếng Anh

33. André, Pierre (2012), Citizen Participation, Encyclopedic Dictionary of Public

Administration, truy cập ngày 11/8/2016 tại địa chỉ:

http://www.dictionnaire.enap.ca/dictionnaire/docs/definitions/definitions_anglais/citize

n_participation.pdf

34. Arnstern, S.R (1969), A ladder of citizen participation, Journal of the American

Institute of Planners, truy cập ngày 25/8/2016 tại địa chỉ:

http://lithgow-schmidt.dk/sherry-arnstein/ladder-of-citizen-participation.html

35. Choguill (1996), “A Ladder of Community Participation for Underdeveloped

Countries”, truy cập ngày 12/8/2016 tại địa chỉ:

http://www.yemenwater.org/wp-

content/uploads/2013/04/Choguill_1996_ladder_of_community_participation.pdf

36. Florin, P. (1990), An Introduction to Citizen Participation, Voluntary

Organizations, and Community Development: Insights for Empowerment Throught

Research, American Journal of Community Psychology, truy cập ngày 23/8/2016 tại

địa chỉ:

https://www.researchgate.net/profile/Abraham_Wandersman/publication/225894521_

An_Introduction_to_Citizen_Participation_Voluntary_Organizations_and_Community

_Development_Insights_for_Empowerment_Through_Research/links/553501e30cf2df

9ea6a41872.pdf

37. Harding, R, Hendriks, Mehreen, F. (2009), Environmental Decision-Making:

Exploring complexity and context, The Federation press, Sydney, truy cập ngày

25/8/2016 tại địa chỉ:

https://www.dlsweb.rmit.edu.au/conenv/envi1128/Reading-Harding.pdf

38. Marisa B.Guaraldo Choguill (1996), A ladder of community participation for under

developed countries, Habitat Internationnal, truy cập ngày 25/8/2016 tại địa chỉ:

http://www.yemenwater.org/wp-

content/uploads/2013/04/Choguill_1996_ladder_of_community_participation.pdf

39. Wilcox (2003), The Guide To Effective Participation, truy cập ngày 25/8/2016 tại

địa chỉ:

http://phobos.ramapo.edu/~vasishth/Readings/Wilcox

Guide_To_Effective_Participation.pdf

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Phiếu khảo sát ý kiến người dân

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN NGƯỜI DÂN

Kính chào ông/bà!

Tôi tên: Phan Tuấn, hiện đang công tác tại Phòng Kinh tế thành phố Quy Nhơn, là

học viên Cao học ngành Quản lý công, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh. Tôi

thực hiện khảo sát này nhằm phục vụ cho đề tài “Sự tham gia của người dân trong việc

xây dựng nông thôn mới tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định”. Tôi rất mong nhận

được sự hỗ trợ của ông/bà. Tôi đảm bảo rằng thông tin ghi nhận được từ cuộc khảo sát

này sẽ chỉ được dùng cho mục đích nghiên cứu khoa học.

Phiếu số:………. Tên điều tra viên:….…………..………..……………….

Ngày điều tra……..…………………………………………………………

Phần I. Thông tin chung

Câu hỏi Trả lời

Tuổi …………………………….

Giới tính  Nam  Nữ

Trình độ học vấn/đào tạo

+ Trình độ học vấn Lớp …………../12

+ Trình độ đào tạo cao nhất Trung cấp/Đào tạo nghề

Cao đẳng/

Đại học

Sau đại học

Nghề nghiệp Nông ngư nghiệp

Buôn bán, kinh doanh, dịch vụ

Cán bộ, công chức

Làm việc trong các doanh nghiệp

Hưu trí

Khác

Khoảng thời gian sinh sống tại xã ………………… năm

Phần II. Tiếp cận thông tin về chương trình xây dựng NTM

Câu 1: Ông/bà có biết một số thông tin về chương trình NTM:

1. Chương trình mục tiêu quốc gia XD NTM  Có  Không

2. Bộ tiêu chí đánh giá NTM  Có  Không

3. Thời gian bắt đầu chương trình  Có  Không

Câu 2: Ông/bà biết đến chương trình NTM bằng cách nào? (có thể chọn nhiều đáp án)

 Không biết  Niêm yết tại trụ sở thôn, xã

 Thông qua mạng Internet  Phát tài liệu đến gia đình

 Thông qua báo, đài  Từ người thân, hàng xóm

 Tiếp xúc cử tri  Họp dân phổ biến trực tiếp

 Tuyên truyền của các tổ chức đoàn thể  Khác: ……………………

Câu 3: Ông/bà có biết công trình xây dựng NTM nào trong xã?

 Không biết  Có biết Cụ thể:…..………………………………………………………………… …..………………………………………………………………………… Câu 4: Theo ông/bà, ai đóng vai trò chính trong việc xây dựng NTM?

 Chính quyền các cấp nói chung

 Người dân nông thôn nói chung

 Nông ngư dân

 Tất cả cơ quan nhà nước và người dân nông thôn

 Khác……………………………………………………………………………...

Câu 5: Ông/bà có được mời tham gia các cuộc họp ở thôn, xã về vấn đề NTM không?

 Chưa từng được mời

 Chỉ khi cần thiết thì mới được mời

 Thỉnh thoảng, thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri

 Thường xuyên

Câu 6: Ông/bà có được thông báo về các vấn đề sau không?

Vấn đề thông báo Có được thông báo Không quan tâm Không được thông báo nhưng rất quan tâm

Về quy hoạch NTM

Về việc lập đề án xây dựng NTM

Về huy động đóng góp của cư dân cho NTM Việc quản lý và sử dụng các khoản đóng góp của người dân trong xây dựng NTM Nguồn vốn và chi phí của các công trình NTM Tham gia bàn bạc về xây dựng NTM

Câu 7: Ông/bà có tham gia vào việc lập kế hoạch phát triển nông thôn lần nào chưa?

 Đã tham gia

 Chưa tham gia (chuyển sang câu 11)

Câu 8: Lý do nào mà ông/bà tham gia vào việc lập kế hoạch này?

 Được cử đi, bắt buộc phải tham gia

 Muốn tìm hiểu

 Vì sự phát triển chung của thôn, xã

 Lý do khác

……………………………………………………………………….

Câu 9: Khi tham gia các cuộc họp ở địa phương, ông/bà có đề xuất ý kiến của mình về

nhu cầu xây dựng NTM hay không?

 Có  Không Không, vì:………………………………………….……………………………… …………………………………………………………………………….……………… …...………………………………………………………………………………..……… ………………………………………………

Câu 10: Chính quyền có quan tâm đến các đề xuất của ông/bà hay không?

 Hoàn toàn không có  Không rõ  Có quan tâm

Câu 11: Nếu chưa tham gia thì lý do là gì?

 Không quan tâm

 Không có thời gian

 Không được lựa chọn

 Lý do khác …………………………………………………………

Câu 12: Theo ông/bà, người dân nên tham gia ở mức độ nào?

 Người dân phải được tham gia vào việc ra quyết định

 Người dân cần phải được mời tham gia đóng góp ý kiến

 Người dân chỉ cần được thông báo

 Người dân không cần tham gia

Câu 13: Theo ông/bà, yếu tố nào quyết định cho việc lập kế hoạch cho các hoạt động xây

dựng NTM?

 Ý kiến của người dân

 Ý kiến của chính quyền xã

 Ý kiến của chính quyền thành phố, tỉnh

 Ý kiến của chính quyền trung ương

Câu 14: Ở địa phương, chính quyền có mời người dân tham gia vào các vấn đề liên quan

đến xây dựng NTM không?

 Có được mời tham gia

 Không được mời tham gia, nhưng rất quan tâm

 Không được mời tham gia

 Không quan tâm

Trực tiếp tham gia xây dựng NTM

Câu 15: Ông/bà đã tham gia hoạt động nào trong chương trình NTM? (có thể chọn nhiều

đáp án)

 Đóng góp ý kiến, tham gia bàn bạc

 Đóng góp tiền mặt

 Hiến đất

 Đóng góp sức lao động, ngày công

 Giám sát quá trình thi công

 Tham gia quản lý, duy tu, bảo dưỡng khi công trình đi vào hoạt động

 Không tham gia,

vì…………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Câu 16: Trong 05 năm qua, gia đình ông/bà có tham gia đóng góp xây dựng công trình

NTM nào (làm đường giao thông, làm kênh mương thủy lợi, nhà văn hóa thôn, …) ở địa

phương ?

 Có tham gia, cụ thể: ……………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………  Không tham gia  Không quan tâm

Câu 17: Hình thức đóng góp mà gia đình ông/bà đã thực hiện (có thể chọn nhiều đáp

án):

 Tiền bạc

 Ngày công, sức lao động

 Hiến đất

 Hiện vật

 Khác, …………………………………………………………………………

Câu 18: Theo ông/bà, chủ trương và mức đóng góp (tiền của, sức lao động, ngày công…)

của nhân dân để xây dựng NTM ở xã được quyết định như thế nào?

 Người dân được tham gia bàn bạc và quyết định

 Người dân được tham gia bàn bạc nhưng quyết định lại ở phía chính

quyền xã

 Người dân không tham gia bàn bạc, chính quyền xã tự quyết định

 Không rõ

Câu 19: Ông/bà nhận xét thế nào về mức đóng góp (tiền mặt, tài sản hiện vật, ngày

công…) so với khả năng kinh tế của gia đình?

 Vượt quá khả năng có thể đóng góp của gia đình

 Cao nhưng chấp nhận được, trong khả năng đóng góp

 Phù hợp với khả năng

 Thấp hơn

Giám sát xây dựng, vận hành, duy tu, bảo dưỡng các công trình NTM

Câu 20: Ông/bà đã từng tham gia vào quá trình giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng

các công trình NTM trong thời gian vừa qua?

 Đã tham gia

 Chưa tham gia

Câu 21: Theo ông/bà, người dân có quyền được tham gia kiểm tra, giám sát, duy tu, bảo

dưỡng các công trình xây dựng NTM không?

 Chỉ những người được chính quyền mời mới được tham gia

 Chỉ các thành viên trong Ban giám sát cộng đồng mới được tham gia

 Mọi người dân đều có quyền tham gia

 Người dân không có quyền tham gia

 Không rõ

Câu 22: Theo ông/bà, cách giám sát, vận hành, duy tu, bảo dưỡng các công trình xây

dựng NTM nào là có hiệu quả nhất?

 Thuê các đơn vị có chuyên môn

 Chính quyền xã thành lập Ban giám sát

 Người dân tự tham gia giám sát

 Không quan tâm

 Không rõ

Câu 23: Chính quyền có tạo điều kiện cho người dân tham gia các hoạt động giám sát,

vận hành, duy tu, bảo dưỡng các công trình xây dựng NTM không?

 Người dân được thực hiện thông qua Ban giám sát cộng đồng

 Người dân được trực tiếp tham gia thực hiện thông qua phản ánh, kiến

nghị

 Không tạo điều kiện cho người dân tham gia

 Không rõ

Câu 24: Sau thời gian xây dựng NTM, ông/bà thấy điều kiện sống ở địa phương được cải

thiện như thế nào?

Mức độ hài lòng của người dân Lĩnh vực

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Thu nhập

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Điện

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Đường

Trường học  Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Trạm y tế

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Thủy lợi

Nước sinh hoạt  Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Nhà ở

 Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém Chợ

Vệ sinh, rác thải  Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém

Văn hóa, giải trí  Rất tốt  Tốt  Không đổi  Kém hơn  Rất kém

Câu 25: Theo ông/bà, điều gì gây khó khăn cho gia đình trong việc tham gia xây dựng

NTM? (có thể chọn nhiều phương án)

 Chính quyền không lấy ý kiến của người dân đối với một số công việc

 Quyết định của chính quyền chưa phù hợp với nguyện vọng của người dân

 Không có khả năng tài chính để đóng góp

 Nguyên nhân khác: …………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… ……………………………………………

Câu 26: Theo ông/bà, làm thế nào để tăng cường sự tham gia của người dân vào xây

dựng NTM? (có thể chọn nhiều phương án)

 Nên thông báo các chính sách về NTM để người dân có thể tham gia  Cho người dân được bàn bạc và đưa ra quyết định  Trao quyền việc thực hiện cho người dân  Tăng cường sự giám sát của người dân trong các hoạt động xây dựng NTM  Biện pháp khác: ……………………………………………………………. …………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Hết bảng hỏi. Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

PHỤ LỤC 2 KẾT QUẢ THỰC HIỆN 19 TIÊU CHÍ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUY NHƠN (Tính đến tháng 12/2015)

Nhơn Lý

Phước Mỹ

Nhơn Hải

Tiêu chí

Tiêu chí

2012

2013

2014

2015

2013

2014

2015

2014

2015

2014

2015

201 1

201 1

201 2

Nhơn Châu 201 3

201 2

201 1

201 1

201 2

201 3

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

1

QH và thực hiện QH

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Phê duyệt đề án

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

2

Đạt

Đạt

Đạt

Giao thông

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

3

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Thủy lợi

Đạt

Đạt

Đạt

4

Đạt

Đạt

Điện

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

5

Đạt

Đạt

Đạt

Trường học

Đạt

6

Cơ sở vật chất văn hóa

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

7

Chợ nông thôn

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

8

Bưu điện

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

9

Nhà ở dân cư

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

10

Thu nhập

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

11

Hộ nghèo

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

12

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

13

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên Hình thức tổ chức sản xuất

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

14

Giáo dục

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

15

Y tế

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

16

Văn hóa

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

17

Môi trường

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

18

Đạt

Đạt

Đạt

Hệ thống tổ chức chính trị XH vững mạnh

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

19

An ninh, trật tự xã hội

Đạt

Đạt

Đạt

Đạt

Tổng cộng

5/19

19/19

6/19

9/19

5/19

8/19

9/19

4/19

4/19

4/19

7/19

12/19

10/1 9

13/1 9

18/1 9

13/1 9

18/1 9

19/1 9

10/1 9

12/1 9