BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------------

VŨ THỊ TỨ NỮ

ĐIỀU KIỆN TIẾP CẬN HỆ THỐNG Y TẾ CÔNG ẢNH

HƯỞNG ĐẾN LỰA CHỌN TỰ DÙNG THUỐC

TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------------

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

VŨ THỊ TỨ NỮ

ĐIỀU KIỆN TIẾP CẬN HỆ THỐNG Y TẾ CÔNG ẢNH

HƯỞNG ĐẾN LỰA CHỌN TỰ DÙNG THUỐC

TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Chính Sách Công

Mã số

: 603114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐINH CÔNG KHẢI

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan là luận văn này hoàn toàn là công trình nghiên cứu nghiêm túc của tôi, có

sự hỗ trợ từ giáo viên hƣớng dẫn là TS.Đinh Công Khải và những ngƣời tôi đã cảm ơn. Các

nguồn trích dẫn và số liệu trong bài luận văn đều đƣợc dẫn nguồn và có độ chính xác cao

nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của

trƣờng Đại học Kinh tế TP.HCM hay Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

TP.HCM, Tháng 06 năm 2011

Ngƣời thực hiện luận văn

Vũ Thị Tứ Nữ

ii

LỜI CẢM ƠN

Trƣớc hết, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến TS.Đinh Công Khải, ngƣời hƣớng dẫn khoa

học luận văn của tôi. Thầy đã tận tình chỉ bảo và đóng góp những ý kiến cũng nhƣ những

kiến thức quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết

ơn sâu sắc đến TS.Cao Hào Thi là ngƣời cũng cho tôi những ý kiến đóng góp có giá trị.

Nhân đây, tôi xin trân trọng cảm ơn các Giảng viên và Trợ giảng của Chƣơng trình Giảng

dạy Kinh tế Fulbright đã tận tình giảng dạy và truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức quý

báu trong suốt khóa học thạc sĩ hai năm vừa qua.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè đã góp ý, cung cấp cho tôi một số tài liệu hữu ích

và giúp tôi rất nhiều trong quá trình thu thập số liệu.

Những lời cảm ơn chân thành gửi đến Gia đình đã tạo điều kiện, động viên và hỗ trợ cho tôi

trong suốt quá trình học tập.

TP.HCM, Tháng 06 năm 2011

Ngƣời thực hiện luận văn

Vũ Thị Tứ Nữ

iii

TÓM TẮT

Mục đích của bài nghiên cứu là xác định những nhân tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế

công tác động đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân Việt Nam, qua đó đề xuất những

kiến nghị chính sách nhằm hạn chế lựa chọn tự dùng thuốc này. Đối tƣợng nghiên cứu là

những ngƣời phụ nữ đã có gia đình đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.

Bài nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp định tính và định lƣợng để phân tích. Về phƣơng pháp

định tính, trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trƣớc, tác giả tổng hợp đƣợc các yếu tố cơ bản

có liên quan đến khả năng tiếp cận hệ thống y tế công ảnh hƣởng đến lựa chọn tự dùng

thuốc; sau đó sử dụng phỏng vấn nhóm để bổ sung các yếu tố và hiệu chỉnh thang đo, bảng

câu hỏi phỏng vấn. Dựa vào kết quả nghiên cứu định tính, tác giả đề xuất mô hình nghiên

cứu bao gồm 11 nhân tố tác động đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân với các thang đo

và giả thuyết về yếu tố đó. Mô hình nghiên cứu này có 5 nhân tố về điều kiện tiếp cận ảnh

hƣởng đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân, đó là: (1) Khả năng tiếp cận, (2) Khả năng

sẵn có, (3) Khả năng chi trả, (4) Sự phù hợp, (5) Khả năng chấp nhận đƣợc; ngoài ra còn có

những nhân tố về đặc điểm cá nhân ảnh hƣởng đến lựa chọn này nhƣ: tuổi tác, trình độ học

vấn, thu nhập, sở hữu thẻ BHYT, tôn giáo và mức độ nghiêm trọng của bệnh tật. Các nhân

tố về điều kiệp tiếp cận hệ thống y tế từ (1) đến (4) sử dụng thang đo Likert 5 bậc, còn nhân

tố (5) sử dụng thang đo phân loại. Sau khi hoàn tất phần nghiên cứu định tính, tác giả thực

hiện phân tích định lƣợng qua việc đánh giá độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố EFA,

thống kê mô tả và hồi quy logistics đa thức.

Kết quả phân tích nhân tố EFA nhận diện ra 4 nhóm nhân tố trong những yếu tố đƣợc giữ lại

sau kết quả đánh giá độ tin cậy: (i) nhân tố về khả năng tiếp cận đƣợc diễn đạt bằng nhận

thức sự dễ dàng trong tiếp cận cơ sở y tế, (ii) nhân tố về khả năng sẵn có đƣợc diễn đạt bằng

thời gian chờ đợi khám tại cơ sở y tế công, (iii) nhân tố về khả năng chi trả đƣợc diễn đạt chi

phí y tế cho KCB, (iv) nhân tố về sự phù hợp đƣợc diễn đạt bằng chất lƣợng dịch vụ y tế

công. Còn kết quả hồi quy tìm ra rằng các yếu tố về khả năng sẵn có, khả năng chi trả và sự

phù hợp của dịch vụ y tế công ảnh hƣởng một cách có ý nghĩa thống kê đến lựa chọn tự dùng

thuốc của ngƣời phụ nữ đã có gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tác động của yếu

tố về khả năng chi trả là lớn nhất. Cụ thể, cải thiện thời gian chờ đợi khám bệnh tại cơ sở y tế

iv

công và nâng cao sự phù hợp của hệ thống y tế công sẽ làm giảm xu hƣớng ngƣời phụ nữ lựa

chọn chỉ tự dùng thuốc để sang lựa chọn tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám; đồng thời, nâng

cao khả năng chi trả dịch vụ y tế công sẽ tác động làm cho ngƣời dân có xu hƣớng giảm xác

suất lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà so với chỉ đến bác sĩ khám bệnh.

Nhƣ vậy, muốn cho ngƣời dân từ lựa chọn chỉ tự dùng thuốc sang lựa chọn chỉ đến bác sĩ

khám mỗi khi bị bệnh thì các chính sách nâng cao khả năng chi trả cần thực hiện bao gồm:

(i) tiếp tục tăng chi tiêu công cho y tế nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngƣời dân, (ii) để các cơ

sở y tế tự chủ về mặt tài chính nhằm đảm bảo các khoản chi tại đây là hiệu quả và giảm bớt

gánh nặng cho ngân sách Nhà nƣớc, (iii) tiếp tục thực hiện chƣơng trình BHYT toàn dân

nhằm chia sẻ gánh nặng rủi ro giữa ngƣời khỏe và ngƣời không may bị bệnh. Hơn nữa, để

ngƣời dân giảm xu hƣớng lựa chọn chỉ tự dùng thuốc chuyển sang lựa chọn tự dùng thuốc và

đến bác sĩ thì chính sách nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh cũng nhƣ giảm thời gian chờ

đợi khám tại các cơ sở y tế công cần đƣợc thực hiện nhƣ: (i) tăng đầu tƣ đào tạo nguồn nhân

lực bác sĩ có chất lƣợng, (ii) tiếp tục thực hiện cơ chế chỉ đạo tuyến (tuyến trên chỉ đạo tuyến

dƣới), (iii) chỉ đạo thực hiện công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh tại cơ sở y tế công,

(iv) tăng giờ mở cửa hoạt động ngoài giờ, (v) thực hiện cơ chế thi đua khen thƣởng về thái

độ phục vụ, (vi) xác định đƣợc khung giá phí một cách hợp lý để bảo vệ quyền lợi của ngƣời

bệnh và cả nhà cung cấp. Tất cả những chính sách trên nhằm hạn chế lựa chọn tự dùng thuốc

của ngƣời dân.

Tuy nhiên, hạn chế của bài nghiên cứu là sử dụng phƣơng pháp lấy mẫu thuận tiện nên chƣa

đảm bảo có một bộ số liệu khách quan để phục vụ tốt hơn cho công việc nghiên cứu.

v

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................... ii

TÓM TẮT ............................................................................................................................... iii

MỤC LỤC ................................................................................................................................ v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ vii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ......................................................................................... viii

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ...................................................................................................... ix

Chƣơng 1 GIỚI THIỆU ........................................................................................................... 1

1.1. Bối cảnh chính sách.................................................................................................... 1

1.2. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................................... 5

1.3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................... 5

1.4. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................................. 5

1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................ 6

1.6. Kết cấu của bài nghiên cứu ........................................................................................ 6

Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ............ 7

2.1. Khái niệm về tự dùng thuốc chữa bệnh ...................................................................... 7

2.2. Cơ sở lý thuyết ........................................................................................................... 7

2.1.1. Mô hình lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của Young (1981) .................. 7

2.1.2. Mô hình “Four As” của Good (1987) ................................................................. 8

2.1.3. Mô hình sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995) ............... 8

2.3. Những nghiên cứu trƣớc và bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam ....................... 11

2.3.1. Các yếu tố về đặc điểm cá nhân ........................................................................ 11

2.3.2. Đo lƣờng nhóm nhân tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế ............................ 12

Chƣơng 3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ..................... 16

3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................... 16

3.2. Mô hình cho đề tài nghiên cứu ................................................................................. 17

3.3. Mô hình hồi quy ....................................................................................................... 20

Chƣơng 4 PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 24

4.1. Chi tiết mẫu thống kê ............................................................................................... 24

4.2. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo ................................................................ 24

vi

4.3. Kết quả phân tích nhân tố ......................................................................................... 27

4.4. Phân tích mô tả ......................................................................................................... 28

4.4.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm cá nhân và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh ..... 28

4.4.2. Mối quan hệ giữa điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công và lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh .............................................................................................................. 30

4.4.3. Mối tƣơng quan giữa các biến độc lập trong mô hình ...................................... 32

4.5. Hồi quy logistic đa thức: .......................................................................................... 32

4.5.1. Lựa chọn biến đƣa vào mô hình........................................................................ 32

4.5.2. Phân tích kết quả hồi quy .................................................................................. 33

Chƣơng 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ..................................................... 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 42

PHỤ LỤC................................................................................................................................ 46

Phụ lục 1: Tổng hợp thang đo cho các nhóm yếu tố ............................................................... 46

Phụ lục 2: Chi tiết mẫu thống kê ............................................................................................. 47

Phụ lục 3: Đánh giá độ tin cậy của thang đo về điều kiện tiếp cận HTYT ............................. 48

Phụ lục 4: Phân tích nhân tố ................................................................................................... 50

Phụ lục 5: Kiểm định quan hệ giữa tuổi tác và lựa chọn tự dùng thuốc ................................. 53

Phụ lục 6: Kiểm định quan hệ giữa trình độ học vấn và lựa chọn tự dùng thuốc ................... 54

Phụ lục 7: Kiểm định quan hệ giữa thu nhập bình quân hộ và lựa chọn tự dùng thuốc ......... 55

Phụ lục 8: Kiểm định quan hệ giữa mức độ bệnh tật và lựa chọn tự dùng thuốc ................... 56

Phụ lục 9: Kiểm định quan hệ giữa sở hữu thẻ BHYT và lựa chọn tự dùng thuốc ................ 57

Phụ lục 10: Kiểm định mối quan hệ giữa tôn giáo và lựa chọn tự dùng thuốc ....................... 58

Phụ lục 11: Kiểm định quan hệ giữa sở thích chọn bác sĩ khám và lựa chọn tự dùng thuốc . 59

Phụ lục 12: Kiểm định quan hệ giữa khả năng tiếp cận và lựa chọn tự dùng thuốc ............... 60

Phụ lục 13: Kiểm định quan hệ giữa khả năng sẵn có và lựa chọn tự dùng thuốc ................. 61

Phụ lục 14: Kiểm định quan hệ giữa khả năng chi trả và lựa chọn tự dùng thuốc ................. 62

Phụ lục 15: Kiểm định quan hệ giữa sự phù hợp và lựa chọn tự dùng thuốc ......................... 63

Phụ lục 16: Kiểm tra mối tƣơng quan giữa các biến............................................................... 64

Phụ lục 17: Xây dựng mô hình hồi quy đơn giản ................................................................... 65

Phụ lục 18: Dàn bài thảo luận ................................................................................................. 67

Phụ lục 19: Bảng câu hỏi điều tra ........................................................................................... 70

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHYT : Bảo hiểm y tế

đtg : đồng tác giả

HTYT : Hệ thống y tế

PKĐK : Phòng khám đa khoa

: thành phố Hồ Chí Minh

TP.HCM

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1-1: Tỷ trọng các hình thức chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam năm 2002 ...................... 3

Bảng 1-2: Chi tiêu y tế Việt Nam so sánh với các nƣớc .......................................................... 4

Bảng 2-1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết .............................................................................. 10

Bảng 3-1: Tổng hợp các yếu tố sử dụng thang đo Likert ...................................................... 19

Bảng 4-1: Các mục hỏi đƣợc giữ lại sau kết quả đánh giá độ tin cậy .................................... 26

Bảng 4-2: Kết quả phân tích nhân tố ..................................................................................... 27

Bảng 4-3: Ma trận nhân tố ..................................................................................................... 28

Bảng 4-4: Tóm tắt kết quả hồi quy ........................................................................................ 34

ix

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Mô hình thực hiện sự lựa chọn của Young (1981) .................................................. 8

Sơ đồ 2.2: Lý thuyết sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995) .................. 9

Sơ đồ 3.1: Mô hình cho đề tài nghiên cứu .............................................................................. 18

Sơ đồ 3.2: Các biến trong mô hình ......................................................................................... 22

Sơ đồ 4.1: Mạng lƣới bán lẻ thuốc tại TP.HCM năm 2008 .................................................... 25

Sơ đồ 4.2: Mạng lƣới bán lẻ thuốc đạt GPP tại TP.HCM năm 2008 ...................................... 25

Sơ đồ 4.3: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và lựa chọn tự dùng thuốc ............................. 29

Sơ đồ 4.4: Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân hộ và lựa chọn tự dùng thuốc ................... 30

Sơ đồ 4.5: Mối quan hệ giữa mức độ bệnh tật và lựa chọn tự dùng thuốc ............................. 30

Sơ đồ 4.6: Mối quan hệ giữa sở hữu thẻ BHYT và lựa chọn tự dùng thuốc .......................... 30

Sơ đồ 4.7: Mối quan hệ giữa tôn giáo với lựa chọn tự dùng thuốc ......................................... 30

Sơ đồ 4.8: Mối quan hệ giữa sở thích chọn bác sĩ và lựa chọn tự dùng thuốc ....................... 31

1

Chƣơng 1

GIỚI THIỆU

1.1. Bối cảnh chính sách

Theo cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (Food and Drug Administration – FDA),

thuốc không cần kê đơn là những thuốc có thể đƣợc sử dụng an toàn và hiệu quả mà không

cần sự chỉ dẫn và theo dõi của bác sĩ, bởi vì chúng đƣợc cấp chứng nhận sau nhiều năm kiểm

nghiệm về mức độ an toàn và hiệu quả. Do vậy, nếu ngƣời dân biết cách sử dụng đúng cách

và hợp lý nó sẽ đem lại một số lợi ích tiềm tàng nhƣ: ngƣời dân có rất nhiều lựa chọn phù

hợp với điều kiện từng ngƣời, dễ dàng tiếp cận, ngăn ngừa và giảm thiểu triệu chứng bệnh

(WHO, 2000). Tuy nhiên, theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới, tự mua thuốc không

cần toa để chữa bệnh có một số những rủi ro lớn cho ngƣời tiêu dùng khi họ thiếu kiến thức

về tác động điều trị của từng loại thuốc họ dùng (WHO, 2000). Ví dụ nhƣ, “Sự tự ý dùng

thuốc và không biết đƣợc các tác dụng phụ tiềm tàng, không biết đƣợc sự khác nhau giữa các

loại thuốc giảm đau thƣờng làm cho ngƣời bệnh lơ là trong việc lựa chọn thuốc, dùng bất cứ

thuốc gì mà họ cho là thích hợp, dùng trong thời gian rất dài và thế là bị tai biến trầm trọng” (Nguyễn Hữu Đức, 2008).

Đặc biệt, nếu cá nhân dùng thuốc kê đơn mà không có toa bác sĩ thì nguy hiểm đến sức khỏe

hơn do mức độ an toàn của thuốc kê đơn chƣa đƣợc chứng nhận, thuốc có thể có tính ngộ

độc cao. Chính vì vậy, Bộ Y tế Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc khác trên thế giới đã chia

danh mục thuốc thành hai loại: danh mục thuốc không kê đơn (OTC) và danh mục thuốc kê

đơn. Theo quy định, ngƣời dân chỉ đƣợc mua thuốc kê đơn khi có toa thuốc của bác sĩ. Tuy

nhiên, vấn đề tồn tại ở Việt Nam trong nhiều năm nay là ngƣời dân có thể tự mua thuốc kê

đơn mà không có toa thuốc hay theo toa thuốc trƣớc của bác sĩ. Ví dụ nhƣ, thuốc kháng sinh

là thuốc nằm trong danh mục thuốc kê đơn, thế nhƣng mỗi khi bị bệnh mà nghi ngờ nhiễm

khuẩn là ngƣời dân Việt Nam tự đến các hiệu thuốc tƣ nhân mua thuốc kháng sinh về dùng

hay dùng thuốc kháng sinh dự trữ sẵn ở nhà trƣớc khi đƣợc kiểm tra chẩn đoán bệnh của bác

sĩ. Việc tự mua thuốc kháng sinh khi cần mà không có toa bác sĩ có thể gây ra hậu quả

nghiêm trọng không những cho ngƣời bệnh mà còn cho cộng đồng, bởi vì việc dùng kháng

2

sinh không đúng liều lƣợng có thể gây ra lờn thuốc. Theo Nguyễn Hữu Đức (2008) thì khi

lờn một loại thuốc nào thì phải tăng liều hay phải thay thuốc khác, nhƣng nếu tăng liều mãi

sẽ dẫn đến liều độc. Một khi ngƣời bệnh đã lờn với tất cả loại thuốc thì bệnh tật khó có thể

cứu đƣợc, siêu vi khuẩn kháng thuốc này có thể truyền từ ngƣời này sang ngƣời khác và kết

quả là trở thành thảm họa của nhân loại.

Thực trạng về hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh tại Việt Nam

Tự mua thuốc để chữa bệnh mà không qua khám bệnh là hành vi phổ biến ở các nƣớc đang

phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong một thống kê của Ngân hàng Thế giới từ số liệu

khảo sát y tế Việt Nam năm 2001–2002, sự lựa chọn tự dùng thuốc tự điều trị ở nông thôn và

thành thị đều tƣơng đƣơng nhau và chiếm tỷ lệ cao nhƣ là sự lựa chọn đầu tiên trong việc tìm

kiếm sức khỏe (Bảng 1-1). Ngay cả đối một thành phố đƣợc xem là trung tâm kinh tế, văn

hóa, xã hội của Việt Nam nhƣ thành phố Hồ Chí Minh thì tình hình tự dùng thuốc chữa bệnh

tại đây cũng đƣợc cho là hiện tƣợng phổ biến. Trong bài nghiên cứu của Le Van Thanh

(2007) thực hiện khảo sát về tình hình kinh tế xã hội ngoại thành của TP.HCM cho kết quả là

tỷ trọng ngƣời mua thuốc tại hiệu thuốc mà không có toa bác sĩ tại quận Gò vấp là 61%,

quận Bình Tân là 83,7%, quận 2 là 100%.

Hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh phổ biến nhƣ vậy đã gây ra những phản ứng không mong

muốn. Theo kết quả nghiên cứu của khoa Dị Ứng – Bệnh viện Bạch Mai thì tỷ lệ bệnh nhân

dị ứng thuốc ngày càng tăng. Trong đó, Hải Phòng là nơi có tỷ lệ dị ứng thuốc cao nhất với

9,3%, kế đến là TPHCM là 8,85%; trong khi các nƣớc trên thế giới có tỷ lệ dị ứng từ 2% đến 2,5%.1 Còn đối với việc lạm dụng thuốc kháng sinh, hành vi tự dùng thuốc phổ biến này là

nguyên nhân dẫn tới tình trạng kháng thuốc khá trầm trọng ở Việt Nam. Cụ thể, theo kết quả

nghiên cứu của trƣờng Đại học Oxford về tình trạng sử dụng thuốc kháng sinh ở trẻ em Việt

Nam tìm thấy rằng có tới 60% bệnh nhân chữa viêm phổi đa kháng thuốc, trong đó có 45%

kháng 3 loại kháng sinh và 14% kháng 4 loại kháng sinh; kết quả khiến 70% nhiễm trùng sơ sinh không thể điều trị bằng kháng sinh, 67% tử vong do vi khuẩn kháng thuốc.2

1 Tùng Linh (19/08/2010), “Gia tăng tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng thuốc”, Báo Hà Nội Mới Online, truy cập ngày 19/08/2010 tại địa chỉ: http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/suc_khoe/366193/gia-tang-ty-le-benh-nhan- bi-di-ung-thuoc.htm 2 QL.CIMSI (2010), “Lạm dụng thuốc kháng sinh sẽ rất nguy hiểm”, Thông tin y học Việt Nam Online, truy cập ngày 03/04/2011 tại địa chỉ: http://www.cimsi.org.vn/?action=News&newsId=9126

3

Nhƣ vậy, một sự tự chẩn đoán sai và không có kiến thức dùng thuốc thì có thể gây ra những

ảnh hƣởng nghiêm trọng đến ngƣời bệnh, gia đình ngƣời bệnh và ảnh hƣởng gián tiếp đến

nền kinh tế; bởi vì thuốc liên quan trực tiếp đến sức khỏe ngƣời bệnh, mà có sức khỏe sẽ tạo

điều kiện cho mỗi cá nhân làm việc với năng suất tốt nhất có thể, qua đó thúc đẩy phát triển

kinh tế. Mặt khác, nếu nhƣ giảm những thiệt hại lớn không đáng có về sức khỏe do việc tự

dùng thuốc, sẽ góp phần tiết kiệm tiền bạc của gia đình cũng nhƣ nguồn lực xã hội cho việc

điều trị hậu quả của việc tự ý dùng thuốc không hợp lý.

Bảng 1-1: Tỷ trọng các hình thức chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam năm 2002

Loại

Dịch vụ y tế

Dịch vụ y tế

Tự điều trị

Không điều

Tổng cộng

Vùng

công

tƣ nhân

trị

Nông thôn

12,33

16,81

66,09

4,77

100,00

Thành thị

11,64

19,23

65,36

3,77

100,00

65,94

4,56

100,00

Việt Nam 12,18 Nguồn: World Bank (2008)

17,32

Thực trạng về điều kiện tiếp cận HTYT tại Việt Nam

Việc tiếp cận đến dịch vụ điều trị tác động quan trọng đến hành vi cá nhân trong sử dụng

hình thức chăm sóc sức khỏe [Young (1981), trích trong Nguma (2010)]. Nhận định mỗi cá

nhân về điều kiện tiếp cận HTYT hình thành từ yếu tố chủ quan (cá nhân ngƣời sử dụng) và

yếu tố khách quan (Nhà nƣớc và nhà cung cấp). Vai trò quản lý của Nhà nƣớc trong việc làm

cho ngƣời dân dễ dàng tiếp cận HTYT nhằm đảm bảo sức khỏe ngƣời dân, thúc đẩy phát

triển kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu ở các quốc gia chứ không chỉ riêng tại

nƣớc Việt Nam ta. Tuy nhiên, chính sách y tế, các nguồn lực y tế và cách thức tổ chức hệ

thống y tế ở Việt Nam còn nhiều hạn chế dẫn đến ngƣời dân khó khăn trong việc tiếp cận

dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp nên họ có xu hƣớng lựa chọn việc tự dùng thuốc ở nhà thay

vì đến bác sĩ khám bệnh và kê toa.

Về tài chính y tế tại Việt Nam, theo dữ liệu thống kê năm 2008 của Tổ Chức Y tế Thế giới

cho thấy là phần trăm chi tiêu y tế trong tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam đƣợc so sánh

là cao nhất so với các nƣớc nhƣ: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và

Trung Quốc (Bảng 1-2); trong đó, nguồn chi từ túi hộ gia đình ở Việt Nam lại chiếm tỷ lệ

4

chủ yếu (55,5%) trong tổng chi tiêu y tế– tỷ lệ này thuộc loại cao so với một số nƣớc kể trên

trong khu vực. Số liệu này cho thấy là ngƣời Việt Nam đang phải gánh chịu chi phí y tế cao

so với thu nhập của họ nên chi phí y tế có thể trở thành rào cản đề ngƣời dân tiếp cận dịch vụ

chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp.

Bảng 1-2: Chi tiêu y tế Việt Nam so sánh với các nƣớc

s e n

i

n a L

m a N

p p

i l i

e r o p a g n

i

t ệ i V

a i s e n o d n I

a i s y a l a M

t ậ h N

h P

S

i á h T

c ố u Q g n u r T

1.Phần trăm chi tiêu y tế/GDP (%)

7,3

2,0

8,1

4,3

3,8

3,4

4,0

4,3

2. Cơ cấu chi tiêu y tế (%)

100,0 100,0

100,0

100,0

100,0

100,0 100,0

100,0

Chi tiêu hộ gia đình

55,5

30,1

15,4

40,9

56,2

61,0

17,7

49,0

BHYT tƣ nhân

1,7

2,3

2,6

8,1

6,6

1,8

5,2

3,8

Chi tiêu tƣ nhân khác

4,4

12,4

1,1

6,9

4,4

2,1

2,0

0,4

BHYT xã hội

12,4

6,9

63,7

0,4

7,5

4,7

6,7

25,8

Chi tiêu ngân sách Nhà nƣớc

26,1

48,4

17,2

43,7

25,4

30,3

68,4

20,9

Nguồn: WHO 2010, Dữ liệu thống kê năm 2008

Ngoài ra, hệ thống y tế thành phố Hồ Chí Minh đang phải chịu áp lực trong việc đáp ứng nhu

cầu chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân; một mặt là do mật độ dân số tại thành phố rất lớn và cao nhất nƣớc (chiếm 3419 ngƣời/km2), mặt khác là do ngƣời dân các tỉnh đổ xô về thành

phố khám chữa bệnh. Các cơ sở y tế công vẫn đƣợc nhiều ngƣời dân tin tƣởng đến khám và

chữa bệnh vì chất lƣợng đƣợc xem là tốt nhất ở Việt Nam hiện nay. Nhƣng điều này chỉ

đúng đối với các tuyến bệnh viện tuyến trên; còn đối với trạm y tế thì ngƣời dân thiếu tin

tƣởng do cơ sở hạ tầng chật hẹp, thiếu những bác sĩ có năng lực, thiếu trang thiết bị y tế cần

thiết, thiếu dịch vụ y tế v.v…3 Các tuyến bệnh viện trên tuy là chất lƣợng dịch vụ y tế có tốt

hơn tuyến xã nhƣng tình trạng quá tải đang là rào cản đối với tiếp cận hệ thống cơ sở y tế

công. Báo Sài Gòn Giải phóng đƣa ra số lệu quá tải nhƣ sau: cơ sở y tế tuyến trung ƣơng quá

3 Tƣờng Lâm (2009), “TP.HCM: Bất cập trạm y tế phƣờng, xã”, Báo Sài Gòn Giải Phóng Online, truy cập ngày 20/01/2011 tại địa chỉ: http://www.sggp.org.vn/ytesuckhoe/2009/5/192112/

5

tải trung bình 48%, tuyến tỉnh quá tải trung bình 25%, tuyến huyện quá tải trung bình 15%, nhƣng cá biệt có bệnh viện quá tải trung bình gần 300%.4

Nhƣ vậy, với những hạn chế về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế trên, việc nghiên cứu những

yếu tố này ảnh hƣởng tới hành vi tự dùng thuốc của ngƣời dân là vấn đề chính sách quan

trọng, đƣợc sự quan tâm của ban ngành trong lĩnh vực y tế nhằm nâng cao chất lƣợng sức

khỏe cho ngƣời dân.

1.2. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi 1: Những yếu tố nào về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công ảnh hƣởng tới lựa

chọn tự dùng thuốc chữa bệnh của ngƣời dân?

Câu hỏi 2: Giải pháp chính sách can thiệp nào của Nhà nƣớc nhằm hạn chế lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh của ngƣời dân?

1.3. Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu này hƣớng đến mục tiêu là xác định yếu tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế

công tác động đến lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh. Thông qua đó, nó giúp cho nhà hoạch

định chính sách đƣa ra chính sách nhằm hạn chế lựa chọn tự dùng thuốc này nhằm cải thiện

nâng cao sức khỏe của ngƣời dân.

1.4. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu trong bài viết này các yếu tố ảnh hƣởng đến điều kiện tiếp cận hệ

thống y tế công. Đối tƣợng khảo sát của nghiên cứu là những ngƣời phụ nữ đã lập gia đình

và có tuổi từ 18 trở lên bởi vì xu hƣớng đi tìm hành vi chăm sóc sức khỏe từ việc tự dùng

thuốc ở nữ cao hơn nam, ở ngƣời đã kết hôn cao hơn ngƣời chƣa kết hôn (Trivedi, 2002).

Nguyên nhân có thể giải thích là do khả năng tiếp cận về mặt địa lý, thời gian và điều kiện

kinh tế-xã hội giành cho ngƣời phụ nữ thấp hơn. Đƣợc đánh giá là phái yếu, ngƣời phụ nữ

Việt Nam thƣờng mất thời gian dài hơn để đến một nơi so với ngƣời nam. Ngoài ra, ngƣời

phụ nữ Việt Nam thƣờng có vị trí xã hội và cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, giáo dục,

4 Nguyễn Văn Châu (2009), “Nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh ở cơ sở”, Báo Sài Gòn Giải Phóng Online, truy cập ngày 06/06/2011 tại địa chỉ: http://www.sggp.org.vn/ytesuckhoe/2009/11/209896/

6

thông tin thấp hơn ngƣời nam.5 Khi lập gia đình, ngƣời phụ nữ Việt Nam lại bận rộn hơn với

rất nhiều công việc nhƣ chăm sóc con cái, việc nhà bếp, chăm sóc nhà cửa, thậm chí là họ

vừa đi làm vừa chăm sóc gia đình. Chính những điều kiện nhƣ thế ngăn cản họ tìm kiếm

hành vi chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp. Do đó, ngƣời phụ nữ đã kết hôn luôn là đối tƣợng

đƣợc sự quan tâm của Nhà nƣớc trong việc chăm sóc sức khỏe vì một đất nƣớc công bằng và

phát triển.

1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Bài viết sử dụng kết hợp phƣơng pháp định tính và định lƣợng để giải quyết vấn đề nghiên

cứu. Phần phân tích định tính nhằm chỉ ra những yếu tố có liên quan đến điều kiện tiếp cận

hệ thống y tế công ảnh hƣởng đến lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh của ngƣời dân thành

phố Hồ Chí Minh và xây dựng thang đo cũng nhƣ bảng hỏi điều tra cho các yếu tố này. Phần

phân tích định lƣợng nhằm phân tích khám phá các nhân tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y

tế công và đo lƣờng ảnh hƣởng các yếu tố này đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân

thành phố Hồ Chí Minh. Chi tiết về phƣơng pháp nghiên cứu sẽ đƣợc đề cập tiếp theo trong

Chƣơng 3.

1.6. Kết cấu của bài nghiên cứu

Kết cấu của bài nghiên cứu gồm 5 chƣơng. Trong Chƣơng 1, bài viết phân tích bối cảnh

nghiên cứu và đƣa ra câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu. Kế

đến, Chƣơng 2 trình bày về cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trƣớc làm tiền đề

cho việc xây dựng mô hình nghiên cứu ở Chƣơng 3. Tại Chƣơng 3, sau khi mô tả chi tiết

phƣơng pháp nghiên cứu và cách lấy dữ liệu, bài viết đƣa ra mô hình nghiên cứu cũng nhƣ

thang đo và giả thuyết của các yếu tố trong mô hình. Trong Chƣơng 4, tác giả kiểm định độ

tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis) và sau

đó đánh giá mức độ ảnh hƣởng của các yếu tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công lên sự

lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân dựa trên kết quả hồi qui logistic đa thức. Cuối cùng, trong Chƣơng 5, tác giả đƣa ra kết luận và kiến nghị chính sách.

5 Năm 2008, tỷ lệ bất bình đẳng giữa nữ với nam ( Gender Gap Index 2008) là 0,678. Việt Nam xếp hạng thứ 68 trong số 130 nƣớc về chỉ số bất bình đẳng giữa nam và nữ về kinh tế, giáo dục, sức khỏe, quyền lực chính trị. (Truy cập ngày 07/02/2011 tại địa chỉ: https://members.weforum.org/pdf/gendergap/ggg08_vietnam.pdf )

7

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU

TRƢỚC

2.1. Khái niệm về tự dùng thuốc chữa bệnh

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2000) thì tự dùng thuốc chữa bệnh (self-medication)

liên quan đến việc sử dụng thuốc của ngƣời tiêu dùng để điều trị triệu chứng bệnh do tự chẩn

đoán, hay dùng liên tục hay tiếp tục một thuốc kê đơn cho bệnh kinh niên hay tái phát.

Thuốc không kê đơn (thuốc OTC) là một dạng của việc tự dùng thuốc, ngƣời mua chẩn đoán

bệnh của họ và mua một loại thuốc xác định để điều trị nó.

Căn cứ vào khái niệm trên của Tổ chức Y tế Thế giới, tác giả thực hiện nghiên cứu đối tƣợng

tự dùng thuốc trong lần bị ốm đau hay thƣơng tích gần nhất trong vòng 6 tháng.

2.2. Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Mô hình lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của Young (1981)

Theo Young (1981) thì việc sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe phụ thuộc vào bốn yếu tố

thiết yếu (Sơ đồ 2.1) nhƣ: Nhận thức mức độ bệnh tật (gravity of illness), kiến thức tự trị

bệnh tại nhà (knowledge of home treatment), sự tin tƣởng vào cách chữa bệnh (Faith in

treatment), sự tiếp cận đối với việc điều trị (Access to treatment). Thứ nhất, nhận thức mức

độ bệnh tật là nhận thức của cá nhân hay cộng đồng về mức độ nghiêm trọng của bệnh tật.

Thứ hai, kiến thức tự trị bệnh tại nhà thể hiện rằng nếu một ngƣời có đủ kiến thức để điều trị

hiệu quả tại nhà thì họ sẽ tự điều trị trƣớc khi đến những nơi cung cấp dịch vụ chăm sóc sức

khỏe chuyên nghiệp. Thứ ba, sự tin tƣởng vào cách chữa bệnh thể hiện niềm tin về cách điều

trị hiệu quả cho bệnh hiện tại; một cá nhân sẽ sử dụng cách điều trị mà họ tin tƣởng. Thứ tƣ,

sự tiếp cận với việc điều trị thể hiện sự đánh giá của cá nhân về chi phí dịch vụ y tế và sự sẵn

có của dịch vụ này; cá nhân sẽ sử dụng dịch vụ mà họ dễ dàng tiếp cận hơn.

Nhƣ vậy, mô hình này của Young chỉ mới tập trung vào những yếu tố thiết yếu ảnh hƣởng

đến việc sử dụng một hình thức chăm sóc mà chƣa thể hiện rõ sự khác biệt đặc điểm cá nhân,

8

đặc điểm tổ chức hệ thống y tế tác động thế nào đến hành vi tìm kiếm sức khỏe của ngƣời

dân.

Mức độ bệnh tật

Sự sử dụng

Sự tiếp cận đối với việc điều trị

Kiến thức tự chữa bệnh tại nhà

Sự tin tƣởng vào cách chữa bệnh

Sơ đồ 2.1: Mô hình thực hiện sự lựa chọn của Young (1981)

Nguồn: Nguma (2010), trang 70

2.1.2. Mô hình “Four As” của Good (1987)

Mô hình này xác định bốn nhóm nhân tố chính ảnh hƣởng đến hành vi chăm sóc sức khỏe

bao gồm khả năng sẵn có (availbility), khả năng tiếp cận (accessibility), khả năng chi trả

(affordability), khả năng chấp nhận đƣợc (acceptability). Cụ thể, khả năng sẵn có đề cập đến

quy mô về cấu trúc hệ thống và quy trình xử lý dịch vụ y tế; khả năng tiếp cận liên quan đến

việc phân bổ về mặt địa lý đối với các cơ sở y tế; khả năng chi trả đề cập đến những yếu tố

về mặt tài chính và khả năng chấp nhận đƣợc liên quan đến yếu tố về văn hóa và tín ngƣỡng.

Những nhóm nhân tố này phản ánh điều kiện tiếp cận cá nhân đến các hình thức chăm sóc

sức khỏe. Đặc điểm tích cực của mô hình này là dễ dàng xác định các rào cản tiềm tàng cốt

yếu cho điều trị thích hợp. Tuy nhiên, mô hình này không đề cập đến chất lƣợng dịch vụ y tế

ảnh hƣởng thế nào đến tiếp cận tới việc điều trị. Bên cạnh đó, mô hình này cũng không cho

thấy đƣợc sự khác biệt về đặc điểm cá nhân ảnh hƣởng nhƣ thế nào việc tiếp cận dịch vụ y

tế.

2.1.3. Mô hình sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995)

Theo mô hình của Anderson thì những nhân tố tác động trực tiếp đến sử dụng hình thức

chăm sóc sức khỏe của con ngƣời bao gồm hai nhóm nhân tố: nhóm nhân tố về đặc điểm cá

nhân (Population Characteristics) và nhóm nhân tố đặc điểm hệ thống chăm sóc sức khỏe

(Health Care System). Sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe bao gồm thực hành sức khỏe cá

nhân (ăn kiêng, tập thể dục) và lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe.

9

Sơ đồ 2.2: Lý thuyết sử dụng hình thức chăm sóc sức khỏe của Andersen (1995)

Đặc điểm cá nhân

 Đặc điểm dẫn dắt  Đặc điểm cho phép  Nhu cầu sử dụng

Hành vi sức khỏe  Thực hành sức khỏe cá nhân  Sử dụng dịch vụ y tế

Hệ thống y tế  Chính sách  Nguồn lực vốn & lao động.  Cách thức tổ chức

Nguồn: Rebhan (2008), trang 7

Sự lựa chọn các hình thức chăm sóc sức khỏe khác nhau phụ thuộc cấu trúc của hệ thống y

tế. Cấu trúc này đƣợc hình thành từ chính sách y tế (health policy), nguồn lực (resources) và

cách thức tổ chức (organization). Chúng ảnh hƣởng đến khả năng tiếp cận, khả năng chi trả,

khả năng sẵn có, khả năng chấp nhận đƣợc và sự phù hợp của cá nhân về dịch vụ chăm sóc

sức khỏe.

Về chính sách y tế, nó liên quan đến chính sách tài chính y tế. Nó bao gồm chính sách

BHYT, chính sách chi phí y tế v.v… Những chính sách BHYT và chi phí y tế tác động đến

khả năng chi trả dịch vụ y tế của ngƣời dân.

Về nguồn lực của hệ thống y tế, nó bao gồm số lƣợng và sự phân bố vốn và lao động. Ví dụ

nhƣ: số lƣợng các bác sĩ, sự sẵn có trang thiết bị, sự phân bổ cơ sở y tế tại các địa phƣơng…

Nhóm yếu tố này ảnh hƣởng khả năng sẵn có, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của ngƣời dân.

Về cách thức tổ chức, nó đề cập đến cách thức mà HTYT quản lý nguồn lực. Nó phản ánh

khả năng chấp nhận đƣợc và sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ y tế của ngƣời dân ở các mặt

nhƣ: tiêu chuẩn thuốc, tiêu chuẩn trang thiết bị, năng lực cán bộ, thái độ của cán bộ, quy

trình liên cá nhân…

10

Ngoài ra, một cá nhân sử dụng nhiều hay ít một dịch vụ chăm sóc sức khỏe phụ thuộc vào

đặc điểm dẫn dắt (predisposing characteristics), đặc điểm cho phép (enabling characteristics)

và nhận thức nhu cầu sử dụng (need factors). Sự khác nhau về đặc điểm cá nhân này tác

động đến lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân. Đặc điểm dẫn dắt bao gồm

đặc điểm nhân khẩu học, vị trí cá nhân trong xã hội, kiến thức và kinh nghiệm trƣớc về bệnh

tật hay dịch vụ y tế. Đặc điểm cho phép bao gồm các nguồn lực của gia đình. Nguồn lực của

gia đình chính là tình trạng kinh tế và nơi cƣ trú. Nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế là nhận thức

mức độ nghiêm trọng của bệnh tật, số ngày bệnh…

Nhƣ vậy, trong ba mô hình trên, mô hình hành vi chăm sóc sức khỏe Andersen (1995) là mô

hình toàn diện nhất (Bảng 2-1). Về đặc điểm cá nhân, nó bao quát hết tất cả những yếu tố về

nhân khẩu học, đặc điểm kinh tế xã hội của cá nhân và vấn đề về nhận thức bệnh tật. Sự khác

biệt về đặc điểm cá nhân góp phần ảnh hƣởng đến nhận thức về tiếp cận dịch vụ chăm sóc

sức khỏe của họ bên cạnh sự tác động về mặt chính sách, phân bổ vốn và lao động, cách thức

tổ chức HTYT. Ba đặc điểm của hệ thống y tế này ảnh hƣởng tới việc tiếp cận dịch vụ y tế

thông qua năm nhóm yếu tố nhƣ: khả năng sẵn có, khả năng tiếp cận, khả năng chi trả, khả

năng chấp nhận đƣợc và sự phù hợp của dịch vụ chăm sóc sức khỏe.Thông qua đặc điểm cá

nhân và đặc điểm của hệ thống y tế tác động đến hành vi lựa chọn hình thức chăm sóc sức

khỏe của ngƣời dân.

Bảng 2-1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết

Nhóm nhân tố

Young (1981)

Mô hình Good (1987)

Andersen (1995)

/

Đặc điểm cho phép

c ặ Đ

Đặc điểm dẫn dắt n â h n

á c m ể i

đ

Nhận thức về bệnh tật

Khả năng sẵn có

Khả năng tiếp cận

Khả năng chi trả

ế t y ụ v h c ị

Khả năng chấp nhận đƣợc

d

n ế đ n ậ c p ế i t ự S

Sự phù hợp

/

Ghi chú: (/) – phản ánh một phần trong nhóm nhân tố () – phản ánh toàn bộ nhóm nhân tố Nguồn: tác giả tổng hợp

11

2.3. Những nghiên cứu trƣớc và bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

2.3.1. Các yếu tố về đặc điểm cá nhân

Đặc điểm cá nhân bao gồm ba đặc điểm chính nhƣ: đặc điểm dẫn dắt, đặc điểm cho phép và

nhận thức tình trạng bệnh tật. Trong khuôn khổ phân tích các yếu tố về đặc điểm cá nhân ảnh

hƣởng tới lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh, bài viết sử dụng các yếu tố từ mô hình của

nghiên cứu Trivedi (2002) về vai trò của thu nhập và bảo hiểm y tế lên việc mua thuốc tự

chữa bệnh với dữ liệu lấy từ cuộc điều tra mức sống ngƣời Việt Nam 1997-1998 từ Ngân

hàng Thế giới. Mô hình này bao gồm những yếu tố cơ bản về đặc điểm cá nhân nhƣ:

Tuổi tác là một yếu tố thuộc đặc điểm dẫn dắt. Nghiên cứu của Trivedi (2002) chỉ ra rằng

những ngƣời có độ tuổi càng cao thì càng tăng xác suất lựa chọn tự dùng thuốc để trị bệnh.

Tuy nhiên, trong nghiên cứu Tran Van Long (2010) thực hiện khảo sát tại Cà Mau về việc

xác định các yếu tố ảnh hƣởng đến hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh lại cho thấy rằng khi

tuổi càng cao thì cá nhân có xu hƣớng đến bác sĩ khám bệnh. Bài nghiên cứu kỳ vọng rằng

tác động của yếu tố về tuổi tác lên lựa chọn tự dùng thuốc giống nhƣ kết quả Tran Van Long

vì có thể là khi con ngƣời tuổi càng cao thì tình trạng sức khỏe của họ suy giảm và bệnh tật

mức nghiêm trọng hơn nên họ có xu hƣớng đến bác sĩ khám thay vì tự dùng thuốc ở nhà.

Trình độ học vấn là yếu tố cũng thuộc đặc điểm dẫn dắt. Nghiên cứu Trivedi (2002) tìm thấy

rằng khi trình độ học vấn thấp hơn thì cá nhân có khuynh hƣớng lựa chọn tự dùng thuốc để

điều trị hơn vì khi trình độ cao hơn thì họ nhận thức tốt hơn về rủi ro trong việc tự dùng

thuốc chữa bệnh. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Tran Van Long (2010) lại tìm ra mối quan

hệ đồng biến giữa trình độ học vấn và hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh. Và trong nghiên cứu

của Okumura và đtg (2002) về việc xác định những yếu tố ảnh hƣởng đến tự dùng thuốc

kháng sinh tại Việt Nam cũng tìm ra mối quan hệ giữa tự dùng thuốc và trình độ học vấn là

đồng biến. Theo tác giả, kết quả nghiên cứu của Tran Van Long (2010) và của Okumura và

đtg (2002) có thể giải thích là vì những ngƣời có trình độ cao hơn đồng nghĩa kiến thức tự

chữa bệnh tại nhà cao hơn. Mà theo Young (1981) khi cá nhân có kiến thức tự dùng thuốc ở

nhà cao hơn thì việc điều trị tại nhà là hiệu quả cho nên họ sẽ tự dùng thuốc trƣớc khi đến cơ

sở y tế khám.

12

Thu nhập là yếu tố thuộc đặc điểm cho phép. Nghiên cứu của Trivedi (2002) chỉ ra rằng việc

mua thuốc tự chữa bệnh đƣợc xem nhƣ là hàng hóa thứ cấp ở mức thu nhập cao và hàng hóa

thông thƣờng ở mức thu nhập thấp. Có nghĩa là, cá nhân có khuynh hƣớng giảm việc lựa

chọn tự dùng thuốc khi thu nhập tăng lên, ít nhất là khi thu nhập tăng lên trên ngƣỡng nhất

định vƣợt ra ngoài mà cá nhân sẽ bắt đầu tham khảo ý kiến chuyên gia chăm sóc y tế.

Sở hữu thẻ BHYT cũng là yếu tố thuộc đặc điểm cho phép. Theo Chang và Trivedi (2003) thì

bảo hiểm y tế tác động lớn đến việc làm giảm hành vi mua thuốc để tự điều trị. Điều này

cũng có nghĩa là nhu cầu giữa các hàng hóa có thể là nhạy cảm với giá cả tƣơng đối. Bảo

hiểm y tế làm cho việc đến chăm sóc y tế chuyên môn tƣơng đối ít tốn kém, và do đó, nó có

thể dẫn đến giảm xu hƣớng lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh. Nghiên cứu thực nghiệm của

Pagán và đtg (2006) tại Mexico cũng cho kết quả tƣơng tự, sự thiếu đầu tƣ BHYT của chính

phủ làm tăng khả năng tự dùng thuốc của ngƣời dân.

Nhận thức tình trạng sức khỏe là yếu tố về nhu cầu. Nghiên cứu của Trivedi (2002) có cho

kết quả là những ngƣời có ngày bệnh, ngày giới hạn hoạt động càng dài thì có tác động làm

giảm hành vi tự dùng thuốc chữa bệnh. Nghiên cứu Tran Van Long (2010) cũng cho kết quả

tƣơng tự. Điều này đồng nghĩa là khi ngƣời dân nhận thức mức độ bệnh tật là nghiêm trọng

thì họ sẽ đến bác sĩ khám bệnh.

2.3.2. Đo lường nhóm nhân tố về điều kiện tiếp cận hệ thống y tế

Để đo lƣờng các nhân tố về điều kiện tiếp cận HTYT bài viết sử dụng các thang đo của bài

nghiên cứu của Shrestha (2010) về đánh giá điều kiện tiếp cận hệ thống chăm sóc sức khỏe

cơ bản tại Indonesia. Theo nhận xét của tác giả, bài nghiên cứu Shrestha (2010) đã tổng hợp

tƣơng đối đầy đủ các thang đo liên quan đến từng nhân tố ảnh hƣởng điều kiện tiếp cận dịch

vụ y tế từ nhiều bài nghiên cứu khác nhau (Phụ lục 1). Do vậy, bài nghiên cứu của tác giả sẽ

lấy thang đo này làm chuẩn để phân tích.

Khả năng tiếp cận (Accessibility) đề cập đến vấn đề về mặt địa lý. Theo Shrestha (2010),

khả năng tiếp cận đƣợc đo lƣờng bởi các yếu tố: Khoảng cách, thời gian đi, phƣơng tiện di

chuyển. Các yếu tố này đƣợc xác định là rào cản cho ngƣời dân tiếp cận dịch vụ chăm sóc

sức khỏe chuyên nghiệp, bởi vì nó gây khó khăn cho ngƣời dân để đến các cơ sở y tế. Do

vậy, sự dễ dàng đến các cơ sở y tế là cách đo lƣờng thích hợp. Cụ thể là trong khảo sát hộ

13

dân Uganda về khả năng tiếp cận đến thuốc, Bộ y tế nƣớc này đã sử dụng thang đo là: “ Đến

phƣơng tiện y tế … là dễ dàng” và bài nghiên cứu sẽ sử dụng thang đo này để phân tích. Do

đó, thang đo về khả năng tiếp cận bao gồm: (i) Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công, (ii)

Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phường, (iii) Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tư nhân.

Khả năng sẵn có (Availability) đề cập đến quy mô về sản phẩm và dịch vụ mà các phƣơng

(1) Thời gian chờ làm thủ tục khám đƣợc xem nhƣ là một rào cản để họ tiếp cận một dịch

tiện y tế cung cấp. Theo Shrestha (2010), khả năng sẵn có đƣợc xác định bởi các yếu tố:

vụ chăm sóc sức khỏe không sẵn có. Trong khi đó, thủ tục hành chính trong khám chữa

bệnh tại các cơ sở y tế công tại Việt Nam còn nhiều rƣờm rà dẫn đến thời gian chờ đợi

(2) Thời gian chờ đợi khám bác sĩ là khoảng thời gian chờ đợi để đƣợc đến lƣợt gặp bác sĩ.

khám lâu (Lý Ngọc Kính, 2007).

Yếu tố này đo lƣờng sự sẵn có bác sĩ có đáp ứng đƣợc nhu cầu khám chữa bệnh của

ngƣời dân. Theo số liệu thống kê của Sở Y tế Tp.HCM thì tỷ lệ này vào năm 2008 là

8,2 bác sĩ trên 10.000 dân; trong khi tỷ lệ này ở Trung Quốc là 15,1 (2005), Philippines là 11,6 (2002), Ý là 42 (2004) và ở Pháp là 33,7 (2004).6 Điều này cho thấy là nguồn

lực y bác sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh là không nhiều, thậm chí còn có thể xem là

thiếu. Việc không đủ nhân lực bác sĩ, cơ sở vật chất cho nhu cầu khám chữa bệnh của

ngƣời dân có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng quá tải dẫn đến thời gian chờ đợi

(3) Sự sẵn có thuốc làm cho ngƣời dân giảm bớt thời gian chờ đợi để mua đƣợc thuốc họ

khám lâu tại các cơ sở y tế công.

cần. Thời gian đƣợc xem nhƣ là một rào cản để họ tiếp cận một dịch vụ chăm sóc sức

khỏe không sẵn có. Loyola Filho và đtg (2002) cho rằng chính vì sự sẵn có của thuốc

mức cao làm cho ngƣời dân tự dùng thuốc chữa bệnh nhiều hơn [trích trong Chaves và

đtg (2009)]. Nhƣ vậy, sự sẵn có thuốc đƣợc đo lƣờng bởi: (i) sự sẵn có thuốc tại cơ sở

y tế , (ii) sự sẵn có thuốc tại hiệu thuốc tư nhân.

Khả năng chi trả (Affordability) liên quan đến những về nguồn lực về kinh tế và tài chính

của gia đình có đủ để chi trả cho chi phí khám chữa bệnh. Nếu nhƣ không có một chính sách

của NationMaster.com,

thống

ngày

truy

liệu

cập

01/03/2011

tại

địa

chỉ:

trợ giúp, những ngƣời có tình trạng kinh tế thấp khó có thể đủ tiền để sử dụng hình thức

6 Dữ http://www.nationmaster.com/graph/hea_phy_per_1000_peo-physicians-per-1-000-people.

14

chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp [Taylor (2003), trích trong Rebhan (2008)]. Đồng thời,

một cá nhân quyết định tự dùng thuốc chữa bệnh khi so sánh giá cả tự dùng thuốc thấp hơn

nếu nhƣ tự dùng thuốc đƣợc xem là không có rủi ro (Lavoro, 2008). Theo Shrestha (2010),

khả năng chi trả đƣợc xác định bởi các yếu tố: sở hữu thẻ BHYT, chi phí thuốc, chi phí dịch

vụ y tế, chi phí đi đƣờng và tổng chi phí y tế. Từ những yếu tố này, thang đo về khả năng chi

trả đƣợc xác định nhƣ sau:

 Khả năng chi trả giá thuốc

 Khả năng chi trả dịch vụ y tế

 Khả năng chi trả chi phí đi đƣờng

 Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh

 Khả năng chi trả thuốc theo toa

Khả năng chấp nhận đƣợc (Acceptability) liên quan đến những yếu tố về văn hóa và tín

ngƣỡng. Cách thức tổ chức HTYT có thể gây khó khăn cho những nền văn hóa và tín

ngƣỡng khác nhau trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Theo Shrestha (2010), khả

năng chấp nhận đƣợc xác định bởi các yếu tố: (i) Tôn giáo, (ii) Sở thích chọn bác sĩ khám

theo giới tính. Nếu ngƣời dân không có sự tôn trọng về tôn giáo và quyền lựa chọn bác sĩ

theo giới tính trong việc khám chữa bệnh thì hai yếu tố trên có thể là rào cản để ngƣời dân

tiếp cận với dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp.

Sự phù hợp (Adequacy) dịch vụ chăm sóc sức khỏe đƣợc xác định bằng hai khía cạnh: chất

lƣợng kỹ thuật và chất lƣợng chức năng. Chất lƣợng kỹ thuật là chất lƣợng về chẩn đoán và

trị bệnh. Chất lƣợng chức năng là chất lƣợng cơ sở hạ tầng, thái độ phục vụ, v.v…Sự không

phù hợp chất lƣợng dịch vụ chăm sóc sức khỏe với nhu cầu của ngƣời dân ảnh hƣởng đến sự

lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe [Bedi và đtg (2003), trích trong Tran Van Long

(2010)]. Theo Shrestha (2010), sự phù hợp đƣợc xác định bởi các yếu tố: (i) Sự phù hợp về

chất lượng dịch vụ y tế, (ii) Sự phù hợp về điều kiện vệ sinh , (iii) Sự phù hợp về thái độ phục

vụ, (iv) Sự phù hợp của giờ mở cửa. Bên cạnh đó, bài viết cũng bổ sung một yếu tố đƣợc cho

là có ảnh hƣởng đến hành vi tự dùng thuốc là (v) Sự phù hợp của chất lượng dịch vụ BHYT.

Chính sách BHYT ngày càng đƣợc cải tiến song nó vẫn tồn tại những mặt chƣa đáp ứng

đƣợc nhu cầu ngƣời tham gia BHYT khiến cho các bệnh nhân có BHYT dƣờng nhƣ chƣa

thỏa mãn với dịch vụ y tế mà nó cung cấp. Có một lý do đƣợc cho là do khung viện phí

15

thanh toán BHYT đƣợc phát hành vào năm 1995 mà không cập nhật định kỳ cho đến ngày

nay (Phƣơng, 2008). Chính vì các cơ sở y tế nhận đƣợc chi phí bồi hoàn thấp hơn chi phí

thực nên họ cung cấp giới hạn dịch vụ đến cho ngƣời bệnh có BHYT. Điều đó ảnh hƣởng

đến chất lƣợng dịch vụ mà bệnh viện cung cấp cho bệnh nhân BHYT.

Nhƣ vậy, hầu nhƣ các bài nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam đi tìm hiểu sự khác biệt các

đặc điểm cá nhân và BHYT ảnh hƣởng đến hành vi tự dùng thuốc của ngƣời dân. Tuy nhiên,

các kết quả nghiên cứu này chƣa đánh giá ảnh hƣởng việc tiếp cận hệ thống y tế đến lựa

chọn hành vi chăm sóc sức khỏe. Do vậy, việc nghiên cứu để xác định những yếu tố về điều

kiện tiếp cận hệ thống y tế ảnh hƣởng đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân có ý nghĩa

vô cùng quan trọng.

16

Chƣơng 3

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp nghiên cứu gồm hai phần nhƣ sau:

Phần 1: Nghiên cứu định tính

Kết quả nghiên cứu trong Chƣơng 2 đã giúp tác giả tổng hợp đƣợc các nhóm nhân tố về điều

kiện tiếp cận đến HTYT công và thang đo cho từng nhóm nhân tố nhằm xây dựng mô hình

nghiên cứu cho bài viết và làm cơ sở cho việc thiết kế bảng hỏi. Tuy nhiên, để đảm bảo rằng

các yếu tố và thang đo nói trên phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã thực hiện phỏng

vấn thử nhóm 10 ngƣời nhằm bổ sung yếu tố mới và hiệu chỉnh thang đo cho mô hình

nghiên cứu. Những ngƣời này là những ngƣời thuộc đối tƣợng khảo sát đã nêu trong Chƣơng

1vì tác giả cho rằng họ là những ngƣời biết đƣợc rõ nhất lý do lựa chọn hành vi tự dùng

thuốc của mình.

Phần 2: Nghiên cứu định lƣợng

Phỏng vấn chính thức đƣợc thực hiện bằng hai hình thức là phỏng vấn trực tiếp và gửi qua

email. Do giới hạn nguồn lực và thời gian, cách chọn mẫu đƣợc thực hiện bằng phƣơng pháp

thuận tiện. Cụ thể là, nó đƣợc thực hiện bằng cách tác giả trực tiếp đi phỏng vấn (hoặc gửi

email) đến 16 đối tƣợng, những đối tƣợng này lại tiếp tục gửi bảng hỏi (hay chuyển tiếp bảng

hỏi bằng mail) đến các đối tƣợng khác, và cứ tiếp tục nhƣ thế. Sau cuộc khảo sát, tác giả thu

về 180 bảng câu hỏi đƣợc trả lời, trong đó có 120 bảng trả lời bằng giấy và 60 bảng trả lời

qua email. Sau khi tiến hành nhập liệu và làm sạch dữ liệu, tác giả đã có bộ số liệu hoàn

chỉnh là 124 mẫu. Với số lƣợng quan sát nhƣ trên, tính đại diện của mẫu đƣợc đảm bảo vì

theo Trọng và Ngọc (2008) thì số quan sát ít nhất phải bằng 4 hay 5 lần số biến trong phân

tích nhân tố, nếu tác giả lấy mẫu ít nhất bằng 5 lần số biến khảo sát thì số lƣợng mẫu tối

thiểu yêu cầu chỉ có 120 (nhỏ hơn 124).

Sau khi có bộ số liệu hoàn chỉnh, tác giả thực hiện phân tích định lƣợng lần lƣợt là:

17

Bƣớc 1 – Đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach α với mục đích loại ra

những mục hỏi không thích hợp trong nhiều mục hỏi đƣa vào kiểm tra.

Bƣớc 2 – Phân tích nhân tố EFA nhằm rút gọn một tập hợp các biến quan sát thành một tập

hợp có số lƣợng biến ít hơn nhƣng có ý nghĩa hơn (Trọng và Ngọc 2008, trang 27).

Bƣớc 3 – Phân tích thống kê mô tả nhằm kiểm tra mối tƣơng quan giữa các yếu tố với nhau

và với lựa chọn tự dùng thuốc, thông qua đó để phát hiện chính sách.

Bƣớc 4 – Phân tích hồi quy logistic đa thức nhằm đánh giá tác động của các yếu tố về điều

kiện tiếp cận hệ thống y tế lên lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời dân.

3.2. Mô hình cho đề tài nghiên cứu

Từ kết quả phân tích định tính, bài nghiên cứu chỉ ra những yếu tố ảnh hƣởng đến lựa chọn

hình thức chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân và đề xuất mô hình nghiên cứu nhƣ Sơ đồ 3.1.

Trong đó, thang đo của các yếu tố đó đƣợc mô tả nhƣ sau:

Thang đo các yếu tố về đặc điểm cá nhân

Bài nghiên cứu đƣa ra 6 yếu tố về đặc điểm cá nhân ảnh hƣởng đến lựa chọn hình thức chăm

sóc sức khỏe. Thứ nhất, yếu tố về tuổi tác đƣợc đo bằng số năm tuổi của ngƣời đƣợc phỏng

vấn. Thứ hai, yếu tố về trình độ học vấn đƣợc xây dựng từ thang đo thứ bậc với hai cấp: 0-

Trình độ từ cấp 3 trở xuống, 1-Trình độ trên cấp 3. Thứ ba, yếu tố về thu nhập đƣợc lƣờng

bằng thu nhập bình quân hộ gia đình trong một tháng và đƣợc xây dựng từ thang đo 2 bậc: 0-

Thu nhập dƣới 5 triệu đồng/tháng, 1-Thu nhập từ 5 trệu đồng/tháng trở lên. Thứ tƣ, yếu tố về

nhận thức bệnh tật đƣợc xây dựng bằng thang đo thứ bậc và đƣợc đo lƣờng bởi mức độ

nghiêm trọng của bệnh tật: 0-Không nghiêm trọng,1- Có nghiêm trọng. Thứ năm, yếu tố về

sở hữu thẻ BHYT đƣợc đo lƣờng thang đo phân loại: 0-Không có thẻ, 1-Có thẻ. Thứ sáu, yếu

tố về tôn giáo đƣợc đo lƣờng thang đo phân loại: 0-Không có tôn giáo, 1-Có tôn giáo.

Thang đo của các nhân tố về tiếp cận HTYT

Thang đo của từng nhân tố (còn gọi là mục hỏi của từng nhân tố) về khả năng tiếp cận, khả

năng sẵn có, khả năng chấp nhận được và sự phù hợp đƣợc trình bày tại Bảng 3-1. Các mục

18

hỏi của bốn nhân tố này đƣợc đo lƣờng bởi thang đo Likert với 5 cấp nhƣ: 1-Rất không đồng

ý, 2-Không đồng ý, 3-Không có ý kiến, 4-Đồng ý, 5-Rất đồng ý. Trong đó, mục hỏi về vay

tiền hay bán đồ để chữa bệnh đƣợc hình thành từ cuộc phỏng vấn thử nhóm 10 ngƣời. Cuộc

phỏng vấn này cho kết quả là cần bổ sung thêm yếu tố về tài sản trong khả năng chi trả của

cá nhân vì khi phải đối diện với bệnh tật thì tài chính của gia đình không chỉ là thu nhập để

trang trải chi phí dịch vụ y tế mà tài sản trong gia đình cũng có thể đƣợc bán đi hay phải vay

tiền để chi phí cho việc khám chữa bệnh. Trong bảng khảo sát của Bộ Y tế Uganda (2008) đã

sử dụng thang đo “Trong quá khứ, gia đình bạn đã phải vay tiền hoặc bán tài sản để thanh

toán tiền thuốc” nên bài nghiên cứu sẽ sử dụng cách đo này đƣa vào bảng khảo sát.

Tuổi

Trình độ học vấn

Thu nhập

ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN

Mức nghiêm trọng bệnh tật

Sở hữu thẻ BHYT

Tôn giáo

LỰA CHỌN HÌNH THỨC CHĂM SÓC SỨC KHỎE

Khả năng sẵn có

Khả năng tiếp cận

Khả năng chi trả

TIẾP CẬN TỚI HTYT

Sự phù hợp

Khả năng chấp nhận đƣợc

Sơ đồ 3.1: Mô hình cho đề tài nghiên cứu

Nguồn: tác giả tổng hợp

19

Còn yếu tố về khả năng chấp nhận đƣợc thể hiện bằng biến Sở thích lựa chọn bác sĩ khám

đƣợc đo lƣờng bởi thang đo phân loại: 1-Thích khám bác sĩ nam, 2-Thích khám bác sĩ nữ, 3-

Chuyện đó không là vấn đề.

Bảng 3-1: Tổng hợp các yếu tố sử dụng thang đo Likert

STT

Mã hóa

Diễn giải

I. Khả năng tiếp cận (ACC)

1 2 3

ACC1 ACC2 ACC3

Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phƣờng Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân

II. Khả năng sẵn có (AVA)

1 2 3 4

AVA1 AVA2 AVA3 AVA4

Thời gian chờ làm thủ tục khám Thời gian chờ gặp bác sĩ Sự sẵn có thuốc tại bệnh viện/PKĐK công lập Sự sẵn có thuốc tại hiệu thuốc tƣ nhân

III. Khả năng chi trả (AFF)

1 2 3 4 5 6

AFF1 AFF2 AFF3 AFF4 AFF5 AFF6

IV. Sự phù hợp (ADE)

1 2 3 4 5

Khả năng chi trả giá thuốc Khả năng chi trả dịch vụ y tế Khả năng chi trả chi phí đi đƣờng Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh Khả năng chi trả thuốc theo toa Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh Sự phù hợp chất lƣợng dịch vụ y tế Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh Sự phù hợp của thái độ phục vụ của nhân viên y tế Sự phù hợp của giờ mở cửa Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT

ADE1 ADE2 ADE3 ADE4 ADE5 Nguồn: tác giả tổng hợp

Thang đo cho biến phụ thuộc (sự lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe)

Lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe đƣợc đo lƣờng bởi biến phân loại có 3 biểu hiện nhƣ:

0-Chỉ đến bác sĩ khám, 1- Tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám, 2-Chỉ tự dùng thuốc. Cách đo

lƣờng này đƣợc tác giả tham khảo trong nghiên cứu của Tran Van Long (2010).

20

3.3. Mô hình hồi quy

Bài nghiên cứu quan tâm đến sự tồn tại khác biệt có ý nghĩa giữa 3 loại lựa chọn hình thức

chữa bệnh: 0-Chỉ đến bác sĩ khám, 1- Tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám, 2-Chỉ tự dùng

thuốc. Đặc biệt, mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm ra sự khác biệt giữa lựa chọn chỉ tự dùng

thuốc ở nhà so với hai lựa chọn còn lại. Cho nên, phƣơng pháp hồi quy logistics đa thức và

phƣơng pháp phân tích biệt số bội đều có thể đƣợc sử dụng để giải quyết. Tuy nhiên phân

tích biệt số bội yêu cầu biến độc lập là biến định lƣợng, trong khi một số biến trong mô hình

nghiên cứu là biến định tính, chính vì vậy mà bài nghiên cứu sử dụng hồi quy logistic đa

thức để phân tích.

𝑃(𝑌=2)

Phƣơng trình hồi quy mẫu SRF có dạng:

𝑃(𝑌=1)

𝑃(𝑌=2)

(3.1) 𝐿1 = 𝑙𝑛 = 𝛼0 + 𝛼1𝑖𝑋1𝑖 + 𝛼2𝑋2 + 𝛼3𝑋3 + 𝛼4𝑋4 + 𝛼5𝑋5 + 𝛼6𝑋6 + 𝑒

𝑃(𝑌=0)

(3.2) 𝐿2 = 𝑙𝑛 = 𝛽0 + 𝛽1𝑖𝑋1𝑖 + 𝛽2𝑋2 + 𝛽3𝑋3 + 𝛽4𝑋4 + 𝛽5𝑋5 + 𝛽6𝑋6 + 𝑒

Trong đó, 𝐿1 là logarit của tỷ lệ giữa xác suất lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà so với xác

suất lựa chọn tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám và 𝐿2 là logarit của tỷ lệ giữa xác suất lựa

chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà so với xác suất lựa chọn chỉ đến bác sĩ khám. Còn các biến độc

lập đƣợc mô tả chi tiết nhƣ sau:

 𝑋1𝑖 là nhóm biến liên quan đến đặc điểm cá nhân. Trong các biến này, ngoại trừ biến

về tuổi tác là biến định lƣợng, các biến còn lại đều sử dụng biến giả (dummy) để đại

diện. Cách đo lƣờng các biến giả này đƣợc thể hiện chi tiết tại mục 3.2.

 𝑋2 là biến liên quan đến khả năng tiếp cận cơ sở y tế. Đây là biến định lƣợng đƣợc

chuẩn hóa từ phân tích nhân tố.

 𝑋3 là biến liên quan đến khả năng sẵn có dịch vụ y tế. Đây là biến định lƣợng đƣợc

chuẩn hóa từ phân tích nhân tố.

 𝑋4 là biến liên quan đến khả năng chi trả dịch vụ y tế. Đây là biến định lƣợng đƣợc

chuẩn hóa từ phân tích nhân tố.

 𝑋5 là biến liên quan đến sự phù hợp của hệ thống y tế. Đây là biến định lƣợng đƣợc

chuẩn hóa từ phân tích nhân tố.

21

 𝑋6 là biến liên quan đến khả năng chấp nhận đƣợc. Biến đề cập về sở thích chọn bác

sĩ khám theo giới tính, cũng là biến giả mang hai giá trị: 0-Không có sở thích, 1-Có sở thích.7

Ngoài ra, giả thuyết về các biến (Sơ đồ 3.2) đƣợc áp dụng chung cho cả mô hình 3.1 và 3.2,

và đƣợc diễn giải chi tiết nhƣ sau:

Giả thuyết H1: Khi tuổi tác càng cao, cá nhân có xu hƣớng giảm xác xuất lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Do đó, dấu kỳ vọng đƣợc xác định là âm

vì tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh nghiêm trọng càng lớn nên họ có xu hƣớng đến bác sĩ

khám bệnh hơn tự dùng thuốc ở nhà.

Giả thuyết H2: Khi trình độ học vấn cao hơn, cá nhân có xu hƣớng tăng xác xuất lựa chọn tự

dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Lý đo đƣợc chỉ ra là vì khi cá nhân

có trình độ cao hơn, đồng nghĩa họ có kiến thức hơn trong việc tự dùng thuốc nên việc tự

dùng thuốc ở nhà là hiệu quả, do đó mà họ có xu hƣớng lựa chọn tự dùng thuốc ở nhà so với

đến bác sĩ khám. Chính vì thế mà dấu kỳ vọng của tác động này là dƣơng.

Giả thuyết H3: Khi thu nhập vƣợt qua ngƣỡng nào đó, cá nhân có xu hƣớng giảm xác xuất

lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Theo đó, dấu kỳ vọng

của tác động này là âm.

Giả thuyết H4: Khi cá nhân nhận thức tình trạng bệnh của họ là có nghiêm trọng thì họ có

xu hƣớng giảm xác xuất lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám.

Do đó, dấu kỳ vọng của tác động này cũng đƣợc xác định là âm.

Giả thuyết H5: Khi cá nhân có thẻ BHYT thì họ có xu hƣớng giảm xác xuất lựa chọn tự

dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Dấu kỳ vọng của tác động này là âm

vì việc có thẻ BHYT sẽ làm cho việc đến bác sĩ khám bệnh của ngƣời dân trở nên ít tốn kém

hơn nên họ có xu hƣớng đến bác sĩ khám bệnh hơn tự dùng thuốc ở nhà.

Giả thuyết H6: Khi cá nhân có tôn giáo thì họ có xu hƣớng tăng xác xuất lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Đối với những ngƣời có tôn giáo thì họ có

7 Ngƣời có sở thích lựa chọn bác sĩ khám theo giới tính là những ngƣời có sở thích chọn bác sĩ nam và những ngƣời có sở thích chọn bác sĩ nữ.

22

niềm tin vào sự cứu chữa của đấng siêu nhiên mà HTYT không đáp ứng đƣợc nhu cầu này

của họ nên họ có xu hƣớng lựa chọn tự dùng thuốc nên dấu kỳ vọng ở đây đƣợc xác định là

dƣơng.

Sơ đồ 3.2: Các biến trong mô hình

Tuổi

H1-

Trình độ học vấn

H2+

Thu nhập

ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN

H3-

Mức nghiêm trọng bệnh tật

H4-

Sở hữu thẻ BHYT

H5-

Tôn giáo

L1 VÀ L2

H6+

Khả năng sẵn có

H7-

Khả năng tiếp cận

H8-

Khả năng chi trả

TIẾP CẬN TỚI HTYT

H9-

Sự phù hợp

H10-

Khả năng chấp nhận đƣợc

H11+

Nguồn: tác giả tổng hợp

Giả thuyết H7: Khi khả năng tiếp cận hệ thống y tế càng cao, cá nhân có xu hƣớng giảm xác

xuất lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Do vậy, dấu kỳ

vọng của ở đây đƣợc xác định là âm.

23

Giả thuyết H8: Khi khả năng sẵn có dịch vụ y tế càng cao, cá nhân có xu hƣớng giảm xác

xuất lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Theo giả thuyết này

thì dấu kỳ vọng đƣợc xác định là âm.

Giả thuyết H9: Khi khả năng chi trả dịch vụ y tế càng cao, cá nhân có xu hƣớng giảm xác

xuất lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Nhƣ thế, dấu kỳ

vọng của tác động của khả năng chi trả lên lựa chọn tự dùng thuốc là âm.

Giả thuyết H10: Khi sự phù hợp của hệ thống y tế càng cao, cá nhân có xu hƣớng giảm xác

xuất lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Cho nên, dấu kỳ

vọng của tác động này cũng là âm.

Giả thuyết H11: Khi cá nhân có sở thích chọn bác sĩ khám thì họ có xu hƣớng tăng xác xuất

lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh so với lựa chọn đến bác sĩ khám. Khi mà lịch khám chữa

bệnh tại các cơ sở y tế không đƣợc minh bạch ảnh hƣởng quyền lựa chọn bác sĩ khám theo

giới tính trong khám chữa bệnh thì những cá nhân quan tâm đến sở thích chọn bác sĩ khám

này có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận cơ sở y tế, nên dấu kỳ vọng đƣợc xác định là

dƣơng.

24

Chƣơng 4

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Chi tiết mẫu thống kê

Nhìn vào Phụ lục 2 cho thấy, trong 124 ngƣời đƣợc phỏng vấn, có 28,2% ngƣời chỉ đến bác

sĩ khám bệnh trong lần bệnh gần đây nhất trong vòng 6 tháng, có 29,8% ngƣời tự dùng thuốc

ở nhà và đến bác sĩ khám và 41,9% ngƣời chỉ tự dùng thuốc ở nhà. Điều này cho thấy là việc

tự dùng thuốc ở nhà là lựa chọn phổ biến để chăm sóc sức khỏe khi ốm đau của ngƣời dân.

Khi xét độ tuổi ngƣời đƣợc khảo sát thì có 43% ngƣời trong độ tuổi từ 18-30, 57% ngƣời

trên 30 tuổi. Về trình độ học vấn, có 27,4% ngƣời trình độ từ cấp 3 trở xuống, số còn lại

72,6% từ cấp 3 trở lên. Về thu nhập, có 51,6% ngƣời có thu nhập bình quân của gia đình

dƣới 5 triệu đồng/tháng, 48,4% ngƣời có thu nhập bình quân gia đình từ 5 triệu đồng/tháng

trở lên. Trong số đó, có 79% ngƣời có thẻ BHYT và 21% ngƣời không có thẻ BHYT.

4.2. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo

Với mục đích loại bỏ những mục hỏi làm giảm sự tƣơng quan giữa các mục hỏi, tác giả sẽ

giữ lại các mục hỏi có hệ số Cronbach α lớn hơn hoặc bằng 0,6 vì theo một số tác giả trong

trƣờng hợp khái niệm đo lƣờng là mới thì hệ số này từ 0,6 trở lên thì có thể sử dụng đƣợc

(Trọng và Ngọc 2008, trang 24). Đánh giá độ tin cậy của thang đo tại Phụ lục 3 cho kết quả

là các mục hỏi đƣợc giữa lại tại Bảng 4-1 và các mục hỏi bị loại ra khỏi nhóm của nó nhƣ:

 Sự sẵn có thuốc tại cơ sở y tế (AVA3)

 Sự sẵn có thuốc tại hiệu thuốc tƣ nhân (AVA4)

 Khả năng chi trả giá thuốc (AFF1)

 Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh ( AFF4)

 Khả năng chi trả thuốc theo toa (AFF5)

Thật vậy, khả năng sẵn có thuốc giữa cơ sở y tế công (AVA3) hay giữa các hiệu thuốc tƣ

nhân gần nhà (AVA4) cũng không có sự phân biệt rõ ràng giữa ngƣời dân thành phố Hồ Chí

Minh. Thông thƣờng bệnh nhân mua thuốc tại cơ sở y tế công khi thực hiện khám chữa bệnh

25

tại đây và thuốc đƣợc kê toa theo chỉ định của bác sĩ và theo danh mục thuốc sẵn có tại cơ sở

y tế. Điều này có nghĩa là ngƣời bệnh sẽ không có sự lựa chọn thuốc để có thể phân biệt

đƣợc sự sẵn có thuốc tại đây. Còn đối với các hiệu thuốc tƣ nhân thì ngƣời dân có đƣợc sự

lựa chọn này vì mạng lƣới bán lẻ thuốc tại thành phố Hồ Chí Minh rộng khắp (Sơ đồ 4.1),

trung bình mỗi phƣờng/xã có 10 cơ sở bán lẻ thuốc nên họ có lẽ cũng đều rất thuận lợi trong

việc chọn mua đƣợc loại thuốc mà họ cần tại các nhà thuốc gần nhà. Tuy nhiên, số lƣợng mà

không đi cùng chất lƣợng thì sản phẩm đó sẽ khó đảm bảo sức khỏe cho ngƣời tiêu dùng.

Trong số 3273 cơ sở bán lẻ thì chỉ có khoảng 100 cơ sở đạt GPP (chuẩn thực hành tốt nhà

thuốc) (Sơ đồ 4.2). Điều này một mặt ảnh hƣởng đến sức khỏe ngƣời dân, mặt khác tồn tại việc cạnh tranh không lành mạnh giữa nhà thuốc đạt GPP và không đạt GPP.8 Ngƣời dân lại

không biết rõ đâu là sản phẩm đạt chuẩn hay sản phẩm chƣa đạt chuẩn. Ngƣời Việt Nam tìm

đến hiệu thuốc tƣ nhân để mua thuốc điều trị bệnh của họ mặc dù chất lƣợng của những tƣ

vấn này kém đến mức không thể chấp nhận đƣợc là vì điều trị bởi ngƣời bán thuốc là rẻ hơn

so với khám bác sĩ hay các dịch vụ y tế đƣợc chấp nhận hơn [Chalker (2000), trích trong

Manivanh (2007)]. Chính những điều này có thể khiến cho các nhà thuốc đạt GPP rút ra khỏi

thị trƣờng. Nhƣ vậy, trong vấn đề này rất cần chính sách Nhà nƣớc can thiệp.

Sơ đồ 4.1: Mạng lƣới bán lẻ thuốc tại TP.HCM năm 2008 Sơ đồ 4.2: Mạng lƣới bán lẻ thuốc đạt GPP tại TP.HCM năm 2008

Bệnh viện 80/83

3273 cơ sở bán lẻ thuốc

Tƣ nhân 52

Doanh nghiệp 45

3356 điểm bán lẻ thuốc trên địa bàn TP.HCM

Đạt chuẩn GPP 177/3356

83 nhà thuốc bệnh viện

Nguồn: Cục Quản Lý Dược (2009), Dữ liệu tại Hội nghị ngành dược phẩm năm 2009

8 Do nhà thuốc không đạt GPP không phải đảm bảo tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc nên chi phí hoạt động thấp hơn. Hơn nữa, theo kết quả tham luận tại Hội nghị Ngành dƣợc toàn quốc ngày 23/06/2009 cho rằng các nhà thuốc không đạt GPP với cơ chế thuế khoán và thƣờng xuyên bán thuốc không hóa đơn chứng từ thu đƣợc lợi nhuận rất lớn.

26

Bảng 4-1: Các mục hỏi đƣợc giữ lại sau kết quả đánh giá độ tin cậy

THANG ĐO

THANG ĐO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN

ACC1

Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công

ACC2

Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phƣờng

ACC3

Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân

THANG ĐO KHẢ NĂNG SẴN CÓ

AVA1

Thời gian chờ làm thủ tục khám

AVA2

Thời gian chờ gặp bác sĩ khám

THANG ĐO KHẢ NĂNG CHI TRẢ

AFF2

Khả năng chi trả dịch vụ y tế

AFF3

Khả năng chi trả chi phí đi đƣờng

AFF6

Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh

THANG ĐO SỰ PHÙ HỢP

ADE1

Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ y tế

ADE2

Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh

ADE3

Sự phù hợp của thái độ phục vụ

ADE4

Sự phù hợp của giờ mở cửa

ADE5

Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT

Vấn đề giá cả là điều mà ngƣời tiêu dùng quan tâm khi mua hàng hóa. Nhƣng do mặt hàng

thuốc khá đa dạng nên bác sĩ có thể kê loại thuốc mà ngƣời bệnh chƣa từng mua ở các hiệu

thuốc tƣ nhân, do đó mà ngƣời dân khó có thể so sánh đƣợc giá giữa bệnh viện và hiệu thuốc

tƣ nhân. Nhiều khi ngƣời bệnh đến hiệu thuốc khai bệnh rồi thanh toán tiền thuốc theo gói

hàng hóa, nên họ có thể không biết mỗi loại thuốc giá cả ra sao, thậm chí không biết thuốc

đó là thuốc gì nữa. Chính vì vậy mà không có sự phân biệt tốt giữa ngƣời trả lời về so sánh

giá thuốc tại cơ sở y tế với hiệu thuốc tƣ nhân (AFF1). So sánh tổng chi phí chữa bệnh giữa

hai nơi này (AFF4) càng khó phân biệt rõ ràng. Nhiều khi tự mua thuốc chữa bệnh có chi phí

thấp hơn so với đến cơ sở y tế vì phải chịu thêm tiền dịch vụ đi kèm. Những lúc khác, chi phí

tự mua thuốc có thể đắt hơn do thuốc mua không hợp với tình trạng bệnh tật. Do vậy, ngƣời

bệnh cũng khó biết đƣợc chênh lệch chi phí cụ thể ra sao để lựa chọn dùng thuốc kê toa nếu

đƣợc thanh toán một phần chi phí (AFF5).

27

4.3. Kết quả phân tích nhân tố

Sau khi loại bỏ các mục hỏi không phân biệt tốt, những mục hỏi đƣợc giữ lại sẽ đƣa vào

phân tích nhân tố. Kết quả phân tích nhân tố đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Bảng 4-2: Kết quả phân tích nhân tố

STT Nội dung Kết quả Điều kiện yêu cầu

Hệ số KMO 0,718 Từ 0,5 đến 1 1

Mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett 0,00 Nhỏ hơn 0,1 2

4 3

66,818% Tối thiểu 50% 4 Số nhân tố đƣợc trích thỏa giá trị Eigenvalue lớn hơn 1 Phần trăm phƣơng sai toàn bộ đƣợc giải thích (Percentage of Variance)

Hệ số tải nhân tố (Factor loadings) Lớn hơn 0,6 Lớn hơn 0,5 5

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả phân tích nhân tố tại Phụ lục 4

Nhƣ vậy, để thỏa điều kiện về sự phù hợp của phân tích nhân tố thì kết quả phân tích phải

đảm bảo hệ số xem xét sự thích hợp KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) phải nằm trong khoảng từ

0,5 đến 1 (Trọng và Ngọc 2008, trang 31), trong đó các biến phải có tƣơng quan với nhau

thông qua kiểm định Bartlett với mức ý nghĩa 10% và phần trăm phƣơng sai toàn bộ phải giải thích đƣợc tối thiểu 50% (Hair và đtg, 1998)9. So với yêu cầu trên thì kết quả phân tích

nhân tố tại Bảng 4-3 đƣợc cho là thích hợp để giải thích lựa chọn hình thức chăm sóc sức

khỏe của ngƣời dân.

Ngoài ra, kết quả cũng cho ta thấy là để đảm bảo Eigenvalue lớn hơn 1 thì có 4 nhân tố đƣợc rút trích ra trong 13 yếu tố.10 Mỗi yếu tố sẽ đƣợc tính một hệ số tải nhân tố (Factor loadings -

là hệ số tƣơng quan đơn giữa các biến với các nhân tố). Căn cứ vào nó chúng ta biết đƣợc

mỗi yếu tố thuộc nhóm nhân tố nào với điều kiện yếu tố đó phải có hệ số tải nhân tố lớn hơn

0,5 [Hair và đtg (2006), trích trong Ishak (2010)]. Nhƣ bảng 4-3 trình bày rằng, nhân tố 1

gồm yếu tố từ ADE1 đến ADE5; nhân tố 2 bao gồm yếu tố từ ACC1 đến ACC3; nhân tố 3 9 Trích trong bài soạn của tác giả Khánh Duy (2008), “Phân tích các nhân tố khám phá”, tại chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, trang 14. 10 Eigenvalue là giá trị đại diện cho phần biến thiên đƣợc giải thích bởi mỗi nhân tố.

28

bao gồm yếu tố AVA1 và AVA2; nhân tố 4 bao gồm yếu tố AFF2, AFF3 và AFF6. Kết quả

này giống nhƣ xác định ban đầu của tác giả. Thực chất, nhân tố 1 là nhân tố về sự phù hợp,

đƣợc diễn đạt bằng chất lƣợng dịch vụ y tế công; nhân tố 2 là nhân tố về khả năng tiếp cận,

đƣợc diễn đạt bằng nhận thức sự dễ dàng trong tiếp cận; nhân tố 3 là nhân tố về khả năng

sẵn có, đƣợc diễn đạt bằng thời gian chờ đợi khám tại cơ sở y tế công; và nhân tố 4 là nhân

tố về khả năng chi trả, đƣợc diễn đạt chi phí y tế cho việc khám chữa bệnh. Mỗi nhân tố này

đƣợc xem là một biến và những biến này là biến đƣợc chuẩn hóa.

Bảng 4-3: Ma trận nhân tố

MỤC HỎI

1

4

NHÂN TỐ 2 3 0,84 0,87 0,70

0,91 0,88

0,82 0,77 0,63

0,86 0,82 0,77 0,74 0,71

Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phƣờng Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân Thời gian chờ làm thủ tục khám Thời gian chờ gặp bác sĩ Khả năng chi trả dịch vụ y tế Khả năng chi trả chi phí đi đƣờng Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ y tế Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh Sự phù hợp của thái độ phục vụ Sự phù hợp của giờ mở cửa Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT Phƣơng pháp trích là Principle Component Analysis, và phƣơng pháp xoay Varimax Nguồn: Tác giả trích từ kết quả phân tích nhân tố tại Phụ lục 4

4.4. Phân tích mô tả

4.4.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm cá nhân và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

Mối quan hệ giữa tuổi tác và lựa chọn tự dùng thuốc đƣợc kiểm định là không có sự khác

nhau một cách có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (Phụ lục 5). Kết quả này không làm

tác giả ngạc nhiên vì hành vi tự dùng thuốc có khả năng xảy ra nhƣ nhau ở mọi lứa tuổi. Ở

thành phố Hồ Chí Minh, không riêng ngƣời già có sức khỏe ngày càng suy giảm mà xu

hƣớng bệnh tật ở giới trẻ cũng nhiều hơn do môi trƣờng xấu đi.

29

Theo Sơ đồ 4.3, ở mỗi nhóm cấp trình độ thì tỷ Sơ đồ 4.3: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và lựa chọn tự dùng thuốc lệ ngƣời lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà đều

Chæ ñeán baùc só khaùm

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

lớn hơn so với hai lựa chọn còn lại và dƣờng

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

nhƣ có sự khác nhau giữa trình độ trên cấp 3 với

43,33%

38,24%

35,29%

từ cấp 3 trở xuống theo xu hƣớng tăng lựa chọn

31,11%

26,47%

25,56%

tự dùng thuốc và đến bác sĩ so với chỉ đến bác sĩ

khám khi trình độ cao hơn. Tuy nhiên, phép

kiểm định chi-square cho kết quả là không có

mối quan hệ giữa nhóm trình độ học vấn với tự

Trình ñoä töø caáp 3 trôû xuoáng

Trình ñoä treân caáp 3

dùng thuốc với độ tin cậy 90% (Phụ lục 6). Tác

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

giả kỳ vọng rằng mối quan hệ này có ý nghĩa

trong mô hình hồi quy.

Về thu nhập, Sơ đồ 4.4 cho ta thấy là tỷ lệ ngƣời chọn chỉ tự dùng thuốc và chọn tự dùng

thuốc và đến bác sĩ tăng lên khi thu nhập bình quân đầu ngƣời của hộ gia đình tăng lên. Nhƣ

vậy, tự dùng thuốc chữa bệnh có mối quan hệ ngƣợc chiều với nhóm thu nhập. Mối quan hệ

này đã đƣợc kiểm định là có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (Phụ lục 7). Xu hƣớng này

ngƣợc với giả thuyết nhƣng theo tác giả khả năng này rất có thể xảy ra khi ngƣời phụ nữ xem

việc tự dùng thuốc chữa bệnh nhƣ hàng hóa thông thƣờng.

Theo Sơ đồ 4.5 cho thấy là tỷ lệ ngƣời chỉ tự dùng thuốc chữa bệnh giảm theo mức độ

nghiêm trọng từng nhóm tăng lên. Mối quan hệ này đƣợc kiểm định bằng phƣơng pháp chi-

square cho kết quả có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (Phụ lục 8).

Theo Sơ đồ 4.6 cho thấy là không sự khác biệt giữa sở hữu thẻ BHYT với việc tự dùng thuốc

chữa bệnh vì lựa chọn chỉ tự dùng thuốc luôn chiếm tỷ lệ cao nhất và lựa chọn chỉ đến bác sĩ

là có tỷ lệ thấp nhất trong hai nhóm có và không có thẻ BHYT. Thực hiện phép kiểm định về

mối quan hệ này cũng cho kết quả nhƣ vậy (Phụ lục 9). Kết quả này có vẻ đúng với thực tế,

cả ngƣời có thẻ và không có thẻ BHYT đều có hành vi tự dùng thuốc khi bị bệnh là nhƣ

nhau.

Tƣơng tự yếu tố về sở hữu thẻ BHYT, mối quan hệ giữa yếu tố về tôn giáo với lựa chọn tự

dùng thuốc không có sự khác biệt một cách ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (Phụ lục

30

10). Kết quả này cũng không làm ngạc nhiên vì tác giả thấy rằng bất kỳ ngƣời Việt Nam nào

có tôn giáo hay không có tôn giáo đều đƣợc bình đẳng nhƣ nhau trong khám chữa bệnh.

Chæ ñeán baùc só khaùm

Chæ ñeán baùc só khaùm

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

50,00%

42,19%

57,14%

36,67%

34,38%

44,68%

23,44%

38,30%

13,33%

24,68%

18,18%

17,02%

Beänh khoâng nghieâm troïng

Beänh coù nghieâm troïng

Thu nhaäp trung bình thaáp (döôùi 5 trieäu)

Thu nhaäp cao (Töø 5 trieäu trôû leân)

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Nguồn: Khảo sát của tác giả năm 2011

Sơ đồ 4.4: Mối quan hệ giữa thu nhập và lựa chọn tự dùng thuốc Sơ đồ 4.5: Mối quan hệ giữa mức độ bệnh tật và lựa chọn tự dùng thuốc

Chæ ñeán baùc só khaùm

Chæ ñeán baùc só khaùm

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

44,00%

50,00%

40,50%

39,80%

30,00%

29,70%

29,70%

31,60%

26,00%

28,60%

26,90%

23,10%

Coù BHYT

Khoâng coù BHYT

Coù toân giaùo

Khoâng toân giaùo

Nguoàn: Khaûo saùt cuûa taùc giaû naêm 2011

Nguoàn: Khaûo saùt cuûa taùc giaû naêm 2011

Sơ đồ 4.6: Mối quan hệ giữa sở hữu thẻ BHYT và lựa chọn tự dùng thuốc Sơ đồ 4.7: Mối quan hệ giữa tôn giáo với lựa chọn tự dùng thuốc

4.4.2. Mối quan hệ giữa điều kiện tiếp cận hệ thống y tế công và lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

Nhìn vào Phụ lục 12 cho thấy là những ngƣời mà cho là họ dễ dàng tiếp cận hệ thống y tế thì

họ có xu hƣớng lựa chọn chỉ tự dùng thuốc và chỉ đến bác sĩ khám bệnh. Kiểm định

ANOVA cho thấy là không có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng tiếp cận HTYT và lựa

chọn tự dùng thuốc chữa bệnh một cách ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 90%. Tác giả kỳ

31

vọng tìm ra sự tác động của yếu tố về khả năng tiếp cận lên lựa chọn tự dùng thuốc là có ý

nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy.

Một điều thú vị là đối với ngƣời nhận thức thời gian chờ đợi khám tại cơ sở y tế công là lâu

hơn thì họ có xu hƣớng lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà, ngƣợc lại thì họ sẽ sử dụng hai

hình thức còn lại. Mối quan hệ giữa khả năng sẵn có và lựa chọn tự dùng thuốc cũng cho kết

quả kiểm định là có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 90% (Phụ lục 13). Tác giả cũng kỳ vọng

mối quan hệ này là có ý nghĩa khi đƣa vào mô hình hồi quy.

Về khả năng chi trả dịch vụ y tế công, khi ngƣời bệnh đánh giá chi phi y tế là đắt hơn thì họ

có xu hƣớng lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà, ngƣợc lại thì họ sẽ sử dụng hai hình thức còn

lại. Tuy nhiên, kết quả kiểm định ANOVA chỉ ra rằng không có mối quan hệ giữa lựa chọn

tự dùng thuốc với khả năng chi trả với độ tin cậy 90% (Phụ lục 14). Tác giả kỳ vọng tìm ra

rằng tác động của yếu tố về khả năng chi trả lên lựa chọn tự dùng thuốc là có ý nghĩa khi yếu

tố này kết hợp với các yếu tố khác trong mô hình hồi quy.

Tƣơng tự nhƣ trên, kết quả kiểm định ANOVA chỉ ra rằng không có mối quan hệ giữa lựa

chọn tự dùng thuốc với yếu tố về sự phù hợp của HTYT công với độ tin cậy 90% (Phụ lục

15). Tác giả cũng kỳ vọng tìm ra tác động của yếu tố về sự phù hợp lên lựa chọn tự dùng

thuốc là có ý nghĩa trong mô hình hồi quy.

Cuối cùng, Sơ đồ 4.8 cho thấy rằng giữa hai Sơ đồ 4.8: Mối quan hệ giữa sở thích chọn bác sĩ và lựa chọn tự dùng thuốc nhóm có sở thích và không có sở thích này

Chæ ñeán baùc só khaùm

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

đều có tỷ lệ ngƣời lựa chọn chỉ tự dùng thuốc

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

chiếm tỷ lệ cao nhất, tỷ lệ ngƣời sử dụng cả

47,10%

38,40%

hai hình thức còn lại thì tƣơng đƣơng nhau.

31,50%

30,10%

27,50%

25,50%

Kiểm định ANOVA cho kết quả là không có

sự khác biệt giữa sở thích chọn bác sĩ khám

Khoâng coù sôû thích

Coù sôû thích

với lựa chọn tự dùng thuốc với độ tin cậy 95%

Nguoàn: Khaûo saùt cuûa taùc giaû naêm 2011

(Phụ lục 11). Tuy nhiên, tác giả kỳ vọng tìm ra

mối quan hệ này trong mô hình hồi quy.

32

4.4.3. Mối tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình

Nhìn vào Phụ lục 16 chúng ta thấy rằng các biến độc lập trong mô hình có tƣơng quan không

cao (có hệ số tƣơng quan nhỏ hơn 0,5), ngoại trừ hai cặp biến sau có mối tƣơng quan trung

bình nhƣ giữa trình độ học vấn (Cap3) với thu nhập (TNCao) là 45% và với tuổi tác (Tuoi)

là 44,8%.

4.5.

Hồi quy logistic đa thức:

4.5.1. Lựa chọn biến đưa vào mô hình

Mô hình hồi quy đƣợc thiết lập từ mô hình tổng quát đến mô hình đơn giản nhƣng phải đảm

bảo rằng có quan hệ giữa biến độc lập với biến phụ thuộc và các biến độc lập đƣợc giữa lại

phải có đóng góp ý nghĩa vào mô hình hồi quy thông qua kiểm định tỷ lệ thích hợp

(Likelihood Ratio Test) với độ tin cậy 90%. Căn cứ vào quy tắc này, kết quả tại Phụ lục 17

cho thấy là mô hình đƣợc chọn bao gồm 5 biến nhƣ: (1) Thu nhập, (2) Mức độ nghiêm trọng

bệnh tật, (3) Khả năng sẵn có, (4) Khả năng chi trả và (5) Sự phù hợp. Và các biến bị loại là:

Tuổi tác tác động không có ý nghĩa đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời phụ nữ. Kết quả

này có thể đƣợc giải thích là vì không chỉ tuổi càng cao thì ngƣời ta có xu hƣớng bệnh

nghiêm trọng hơn mà môi trƣờng sống cũng tác động đến tình trạng bệnh tật và ốm đau của

con ngƣời. Ô nhiễm môi trƣờng sống tại thành phố Hồ Chí Minh đang trở thành vấn đề đáng

lo ngại và nó ảnh hƣởng đến sức khỏe ngƣời dân sinh sống tại đây. Cho nên, xu hƣớng bệnh

tật nhƣ nhau ở mọi độ tuổi là điều có thể xảy ra.

Tôn giáo không ảnh hƣởng ý nghĩa đến lựa chọn tự dùng thuốc. Kết quả này cho thấy rõ

ràng là mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng nhƣ nhau trong lựa chọn hình thức chăm sóc

sức khỏe.

Về trình độ học vấn cũng vậy, nó không đóng góp ý nghĩa vào mô hình. Điều này có thể là

do trong thực tế, trình độ học vấn cao hơn chƣa chắc có kiến thức tự dùng thuốc ở nhà tốt

hơn, nếu nhƣ họ không có cơ hội tiếp cận thông tin tự dùng thuốc. Mà kiến thức tự dùng

thuốc tốt hơn sẽ làm cho cá nhân có xu hƣớng tự dùng thuốc ở nhà trƣớc khi đến bác sĩ.

Sở hữu thẻ BHYT tác động không có ý nghĩa đến lựa chọn tự dùng thuốc của ngƣời phụ nữ.

Lý do đƣợc giải thích là có thẻ BHYT dƣờng nhƣ không làm cho chi phí tƣơng đối của việc

33

đến bác sĩ khám là ít tốn kém. Thật vậy, trong bài viết Lý Ngọc Kính (2007) cho biết rằng có

tồn tại việc lạm dụng thuốc, lạm dụng kỹ thuật cao, lạm dụng xét nghiệm trong chẩn đoán và

chữa bệnh tại các cơ sở y tế công tại Việt Nam. Ngoại trừ một số trƣờng hợp đặc biệt, các

thẻ BHYT chỉ đƣợc thanh toán một phần chi phí đi khám bệnh nên nếu xảy ra việc lạm dụng

nhƣ trên thì đi khám bệnh với thẻ BHYT cũng tốn kém.

Sở thích chọn bác sĩ cũng ảnh hƣởng không ý nghĩa. Có lẽ, ngƣời dân Việt Nam không quan

trọng sở thích lựa chọn bác sĩ khám theo giới tính khi lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe

cho mình.

Khả năng tiếp cận cơ sở y tế công tác động không có ý nghĩa đến lựa chọn tự dùng thuốc của

ngƣời dân. Kết quả này tƣơng tự nghiên cứu của Tran Van Long (2010) đã tìm ra rằng sự

khác biệt khoảng cách đến bệnh viện gần nhất không ý nghĩa về mặt thống kê. Khả năng tiếp

cận này không có ý nghĩa có thể là do họ không có thời gian để đến bác sĩ khám do phải bận

rộn với công việc. Thật vậy, trong nghiên cứu của Olayemi và đtg (2010) tìm ra rằng việc

không có thời gian ảnh hƣởng lựa chọn tự dùng thuốc. Hơn thế nữa, việc quá thuận tiện đến

các hiệu thuốc tƣ nhân mua thuốc nhƣ hiện nay cũng có thể làm cho khả năng tiếp cận cơ sở

y tế công trở nên không có ý nghĩa.

4.5.2. Phân tích kết quả hồi quy

Nhƣ trình bày ở trên, mục tiêu của bài nghiên cứu là quan tâm đến sự khác biệt trong lựa

chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà so với hai hình thức lựa chọn đến bác sĩ là: (i) tự dùng thuốc

và đến bác sĩ khám, (ii) chỉ đến bác sĩ khám; bởi vì việc ngƣời dân lựa chọn đến bác sĩ khám

mỗi khi bị bệnh sẽ đảm bảo sức khỏe của họ đƣợc chăm sóc tốt hơn. Cho nên, kết quả hồi

quy chỉ gồm hai nhóm (Bảng 4-4) và đƣợc phân tích nhƣ sau:

Khả năng sẵn có

Yếu tố này tác động có ý nghĩa thống kê đến lựa chọn tự dùng thuốc trong nhóm 1. Thời

gian chờ đợi tại các cơ sở y tế công càng lâu thì ngƣời phụ nữ càng có xu hƣớng lựa chọn tự

dùng thuốc ở nhà. Kết quả này giống nhƣ kỳ vọng ban đầu.

34

Bảng 4-4: Tóm tắt kết quả hồi quy

Lựa chọn hình thức chăm sóc sức khỏe

B

Wald

df

Sig

Exp(B)

Intercept

-1,051**

4,688

1 0,030

AVA

Khả năng sẵn có

0,573**

4,740

1 0,029

1,774

AFF

Khả năng chi trả

0,163

0,408

1 0,523

1,177

ADE

Sự phù hợp

-0,527**

3,884

1 0,049

0,591

[TNCao=0]

0,461

0,666

1 0,414

1,586

Thu nhập dƣới 5 triệu đồng/tháng

[TNCao=1]

0b

.

0

.

.

Thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở lên

[NgTrong=0]

1,714***

10,471

1 0,001

5,553

Bệnh không nghiêm trọng

Nhóm 1: Chỉ tự dùng thuốc so với Tự dùng thuốc và đến bác sĩ khám

[NgTrong=1] Bệnh có nghiêm trọng

0b

.

0

.

.

Intercept

0,060

0,012

1 0,913

AVA

Khả năng sẵn có

0,274

1,003

1 0,317

1,316

AFF

Khả năng chi trả

0,563**

4,023

1 0,045

1,756

ADE

Sự phù hợp

0,138

0,274

1 0,600

1,148

[TNCao=0]

-2,071***

10,529

1 0,001

0,126

Thu nhập dƣới 5 triệu đồng/tháng

[TNCao=1]

0b

.

0

.

.

Thu nhập từ 5 triệu đồng/tháng trở lên

Nhóm 2: Chỉ tự dùng thuốc so với Chỉ đến bác sĩ khám

[NgTrong=0]

2,504***

18,276

1 0,000

12,230

Bệnh không nghiêm trọng

[NgTrong=1] Bệnh có nghiêm trọng

0b

.

0

.

.

B : Hệ số hồi quy Wald : Trị số của kiểm định Wald df : Bậc tự do sig : Ý nghĩa thống kê

* Có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 0,1 **Có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 0,05 ***Có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 0,01 b : Đây là hệ số đƣợc thiết lập bằng 0 vì nó dƣ

35

Khả năng chi trả

Yếu tố này ảnh hƣởng đến lựa chọn tự dùng thuốc trong nhóm 2 một cách có ý nghĩa thống

kê. Rõ ràng, khi chi phí thực hiện dịch vụ y tế đƣợc đánh giá là đắt hơn sẽ làm tăng nguy cơ

lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà. Phát hiện này cũng giống nhƣ kỳ vọng ban đầu. Nó phù

hợp với lý thuyết cơ bản về lựa chọn của ngƣời tiêu dùng cho rằng giá cả ảnh hƣởng đến

quyết định ngƣời mua.

Sự phù hợp

Yếu tố này tác động có ý nghĩa thống kê đến lựa chọn chỉ tự dùng thuốc trong nhóm 1 và sự

tác động này giống nhƣ kỳ vọng ban đầu. Khi ngƣời phụ nữ đánh giá chất lƣợng dịch vụ y tế

công càng cao thì họ có xu hƣớng giảm lựa chọn tự dùng thuốc. Kết quả này phù hợp với lý

thuyết cầu tiêu dùng, cải thiện chất lƣợng một sản phẩm sẽ làm khách hàng thỏa mãn nhu

cầu và chọn dùng sản phẩm này nhiều hơn.

Thu nhập

Cũng nhƣ biến về khả năng chi trả, biến này ảnh hƣởng đến lựa chọn tự dùng thuốc trong

nhóm 2. Khi thu nhập cao hơn thì ngƣời phụ nữ có xu hƣớng tăng lựa chọn tự dùng thuốc vì

họ dƣờng nhƣ xem việc tự dùng thuốc chữa bệnh nhƣ là hàng hóa thông thƣờng. Mặt khác, ở

mức thu nhập bình quân của gia đình không cao thì phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận thông tin hơn

nên họ có thể có ít kiến thức hơn trong việc tự dùng thuốc. Chính vì có ít kiến thức thức hơn

trong việc tự dùng thuốc nên việc tự dùng thuốc ở nhà của họ là không hiệu quả, và nhƣ thế

họ có xu hƣớng lựa chọn đến bác sĩ khám bệnh thay vì lựa chọn tự dùng thuốc ở nhà.

Mức độ bệnh tật

Biến này tác động có ý nghĩa thống kê lên lựa chọn tự dùng thuốc trong cả nhóm 1 và 2. Mối

quan hệ này là mối quan hệ ngƣợc chiều và nhƣ kỳ vọng ban đầu. Rõ ràng, khi bệnh không

nghiêm trọng ngƣời phụ nữ có xu hƣớng tự dùng thuốc ở nhà hơn.

Như vậy, với kết quả hồi quy nhƣ trên, bài nghiên cứu tìm ra bằng chứng cho thấy rằng điều

kiện tiếp cận hệ thống y tế công ảnh hƣởng một cách có ý nghĩa đến lựa chọn tự dùng thuốc

của ngƣời phụ nữ đã có gia đình sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, cải thiện thời

36

gian chờ đợi khám bệnh tại cơ sở y tế công và nâng cao sự phù hợp của hệ thống y tế công sẽ

làm giảm xu hƣớng ngƣời phụ nữ lựa chọn chỉ tự dùng thuốc để lựa chọn tự dùng thuốc và

đến bác sĩ khám; đồng thời, nâng cao khả năng chi trả dịch vụ y tế công sẽ tác động làm cho

ngƣời phụ nữ có xu hƣớng giảm xác suất lựa chọn chỉ tự dùng thuốc ở nhà so để chuyển

sang chỉ đến bác sĩ khám mỗi khi bị bệnh.

37

Chƣơng 5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Với kết quả nghiên cứu tại Chƣơng 4, để hạn chế lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh của

ngƣời phụ nữ đã có gia đình thì cần có chính sách nâng cao khả năng sẵn có dịch vụ y tế

công, cải thiện sự phù hợp của HTYT công, chú trọng nâng cao khả năng chi trả của ngƣời

dân vì nó tác động lớn nhất đến lựa chọn tự dùng thuốc của họ. Cho nên, trong phần kiến

nghị này, tôi muốn đƣa ra những chính sách liên quan đến mặt tài chính trƣớc sau đó là

những chính sách về tổ chức hệ thống y tế công.

Giải pháp về tài chính y tế công

Theo tôi, để ngƣời phụ nữ lựa chọn đến bác sĩ khám khi bị bệnh thì nên tiếp tục tăng chi tiêu công cho y tế11 vì nếu chi tiêu công tăng lên trong tổng nguồn chi tiêu y tế sẽ có thể làm

giảm chi tiêu tƣ nhân cho nó, thông qua đó là giảm chi tiêu trực tiếp từ túi ngƣời dân. Và khi

đó những ngƣời phụ nữ trong gia đình có thu nhập không mấy cao mới cho phép mình đƣợc

sử dụng những hình thức chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp nhƣ là đến bác sĩ khám bệnh. Sở

dĩ, tôi kiến nghị là tăng chi tiêu công cho y tế trong khi nguồn ngân sách và quỹ xã hội của

chúng ta là có hạn là vì hai nguyên nhân: thứ nhất, tỷ trọng chi tiêu công cho y tế trong tổng

chi tiêu y tế của Việt Nam vẫn thấp hơn các nƣớc có thu nhập tƣơng đƣơng (Bảng 1-2); thứ

hai, theo số liệu Tổ chức Y tế Thế giới thì tỷ trọng chi tiêu công cho y tế trên tổng chi tiêu y

tế Việt Nam năm 2008 là 38,5%, trong khi theo tổ chức này thì để đảm bảo tính công bằng

trong tài chính y tế thì tỷ lệ này phải đạt ít nhất 50% [trích trong Bộ y tế Việt Nam (2008,

trang 36)]. Nhƣ vậy, chi tiêu công cho y tế của Việt Nam cần phải tăng thêm để đảm bảo nhu

cầu thiết yếu của ngƣời dân và đảm bảo công bằng trong chính sách y tế.

Hơn thế nữa, nhƣ chúng ta cũng thấy trong Bảng 1-2, hầu nhƣ chi tiêu công cho y tế của các

nƣớc xuất phát từ chi ngân sách Nhà nƣớc là chủ yếu, phần chi của BHYT là hạn chế vì

trong thị trƣờng BHYT có xuất hiện lựa chọn ngƣợc. Nhƣng ngân sách Nhà nƣớc ta có hạn

nên không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu chi tiêu y tế hiện tại. Nhƣ vậy, chỉ có giải pháp là

thực hiện BHYT toàn dân và thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại cơ sở y tế công. Thực hiện

11 Chi tiêu công cho y tế bao gồm chi tiêu ngân sách Nhà nƣớc cho y tế và chi của BHXH cho y tế

38

con đƣờng BHYT toàn dân đã trở thành mục tiêu của Nhà nƣớc ta nhằm giải quyết vấn đề

lựa chọn ngƣợc trong BHYT để thực hiện đúng mục tiêu của BHYT là chia sẻ rủi ro giữa

ngƣời khỏe mạnh với ngƣời không may bị bệnh và làm giảm gánh nặng chi phí cho ngƣời

bệnh. Thực hiện tự chủ tài chính nhằm thúc đẩy việc quản lý chi tiêu tại cơ sở y tế công hiệu

quả hơn, đồng thời giảm bớt gánh nặng ngân sách Nhà nƣớc. Nhƣng để thực hiện đƣợc chính

sách tự chủ tài chính và BHYT toàn dân hiệu quả thì chính sách liên quan khung giá phí y tế

phải hoàn thiện nhằm đảm bảo lợi ích của nhà cung cấp dịch vụ và cả ngƣời bệnh bởi vì hiện

nay khung giá phí đƣợc đánh giá theo nhiều chiều khác nhau; cụ thể nhƣ Phƣơng (2008) cho

rằng khung giá phí hiện nay chƣa phản ánh đúng giá thị trƣờng; trong khi một bài viết trên

báo Thông tin Pháp luật Dân sự có cho rằng khung giá phí theo Thông tƣ số 03/2006/TTLT-

BTC-BYT-BLĐTB&XH hầu hết là ngang bằng với giá thị trƣờng, thậm chí còn có dịch vụ cao hơn giá thị trƣờng.12 Còn để thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân thì cần sự hỗ trợ tiếp tục

của Nhà nƣớc cho các đối tƣợng khó khăn về tài chính và cần có xóa bỏ tình trạng lạm dụng

thuốc, lạm dụng kỹ thuật cao, lạm dụng xét nghiệm trong chẩn đoán và chữa bệnh để góp

phần làm giảm gánh nặng chi phí cho ngƣời bệnh.

Giải pháp làm giảm thời gian chờ đợi khám bệnh

Tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trên thƣờng là nguyên nhân khiến cho thời gian

chờ khám bệnh tại bệnh viện công kéo dài. Sự quá tải này thể hiện thiếu nguồn nhân lực.

Nhƣng nguyên nhân sâu xa của tình trạng quá tải không chỉ ở chỗ thiếu nguồn lực mà còn ở

cách tổ chức. Trong một nghiên cứu của Khƣơng Anh Tuấn và đtg (2007) về việc đánh giá

tình hình quá tải tại một số bệnh viện tuyến trung ƣơng tại Hà Nội và Tp.HCM, tác giả đã

phát hiện một số nguyên nhân tình trạng quá tải tại các bệnh viện này là do tình trạng vƣợt

tuyến phổ biến của ngƣời bệnh. Trong số đó, có rất nhiều ngƣời mà bệnh có thể điều trị ngay

tại tuyến dƣới nhƣng tâm lý ngƣời bệnh là đi thẳng lên tuyến trên điều trị vì an tâm hơn về

chất lƣợng. Nhƣ vậy, để giảm thiểu tình trạng quá tải góp phần làm giảm thời gian chờ đợi

khám nhằm làm tăng xu hƣớng ngƣời dân đến khám bác sĩ cần thực hiện đồng bộ các giải

pháp sau:

12 Đỗ Ngân Bình (2008), “Hoàn thiện pháp luật về BHYT hiện nay ở Việt Nam”, Thông tin pháp luận dân dự Online, truy cập ngày 06/06/2011 tại địa chỉ: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/06/16/8563722/

39

Đầu tiên, Nhà nƣớc cần tăng đầu tƣ đào tạo thêm nguồn nhân lực y bác sĩ nhƣng đảm bảo về

chất lƣợng và y đức của ngƣời thầy thuốc để bổ sung nguồn lực chƣa đủ hiện tại nhằm giảm

thời gian chờ đợi bác sĩ khám và đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày một tăng cao.

Song song với công việc đầu tiên là đầu tƣ nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh tại các cơ

sở y tế công tuyến dƣới (cụ thể là trạm y tế xã và các trung tâm y khoa) bằng cách nâng cấp

cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cán bộ y tế tại các tuyến này. Đồng thời có quy chế cụ thể

về thực hiện chỉ đạo tuyến để các cơ sở y tế tuyến trên chỉ đạo và hỗ trợ chuyên môn kỹ

thuật cho cơ sở y tế tuyến dƣới. Mục đích của các công việc này là nhằm làm cho ngƣời dân

tin tƣởng đến trạm y tế xã, trung tâm y tế khám bệnh để giảm sự quá tải của các cơ sở y tế

tuyến trên.

Kế đến, Nhà nƣớc cần chỉ đạo cho các cơ sở y tế công thực hiện công nghệ thông tin trong

đăng ký khám bệnh và chỉ định lâm sàng. Mục đích là nhằm rút ngắn thời gian trong việc

đăng ký khám tại quầy tiếp tân và thời gian ghi chép của bác sĩ lúc khám bệnh. Ngoài ra, nó

còn có thể là nơi lƣu trữ dữ liệu bệnh án làm cơ sở thanh tra giám sát cũng nhƣ học hỏi kinh

nghiệm giữa các bác sĩ với nhau.

Giải pháp nâng cao sự phù hợp của HTYT công

Chất lƣợng dịch vụ y tế tại một cơ sở y tế không chỉ thể hiện ở chất lƣợng khám chữa bệnh

mà còn thể hiện ở thái độ phục vụ thân thiện, vệ sinh sạch sẽ, giờ mở cửa thuận tiện với giờ

giấc của ngƣời sử dụng và chất lƣợng dịch vụ BHYT cung cấp. Cho nên giải pháp nâng cao

sự phù hợp của HTYT công bao gồm:

Thứ nhất, cần thƣờng xuyên tổ chức bồi dƣỡng và kiểm tra kiến thức cho bác sĩ nhằm nâng

cao năng lực chuyên môn của vị bác sĩ trong chẩn đoán và chữa bệnh để bắt kịp với trình độ

trị bệnh của thế giới. Đồng thời, tiếp tục thực hiện đề án cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ

các tuyến trên về hỗ trợ tuyến dƣới vì chính sách này đã đem lại hiệu quả trong nâng cao năng lực khám chữa bệnh cho cán bộ tuyến dƣới và động viên họ tích cực hoạt động.13

13 Trần Vũ và Thu Hằng (2011), “Nâng cao toàn diện chất lƣợng khám chữa bệnh”, Báo kinh tế Việt Nam Online, truy cập ngày 24/04/2011 tại địa chỉ: http://www.ven.vn/tabid/77/newsid/20100/seo/nang-cao-toan- dien-chat-luong-kham-chua-benh/language/vi-VN/Default.aspx

40

Thứ hai, Nhà nƣớc cần tiếp tục hỗ trợ đầu tƣ nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các cơ sở y tế công

để ngƣời bệnh cảm giác thoải mãi khi tới khám chữa bệnh.

Thứ ba, cần chỉ đạo tăng cƣờng giờ mở cửa hoạt động ngoài giờ ngay cả đối với ngƣời có

BHYT. Vì hình nhƣ hầu hết các cơ sở y tế công không giải quyết khám chữa bệnh BHYT

cho ngƣời bệnh ngoài giờ hành chánh. Điều này có thể làm cho ngƣời bệnh mất quyền lợi

khi tham gia BHYT. Và nó trở thành rào cản để ngƣời bệnh đến bác sĩ khám bệnh vì giờ mở

cửa làm việc của cơ sở y tế không thuận tiện với thời gian của họ và không đƣợc khám chữa

bệnh BHYT có thể làm cho chi phí của việc khám bác sĩ trở nên tốn kém. Hơn thế nữa, nếu

cơ sở y tế công tăng thêm hoạt động ngoài giờ rất nhiều khả năng giảm tình trạng quá tải

trong giờ hành chánh, khuyến khích hơn nữa ngƣời bệnh đến bác sĩ khám khi bệnh.

Thứ tƣ, cần thực hiện cơ chế thi đua giữa các cơ sở y tế công về chuẩn mực thái độ phục vụ.

Theo đó, những cơ sở y tế công đƣợc đánh giá là có thái độ phục vụ tốt sẽ đƣợc tuyên dƣơng

trên các phƣơng tiện đại chúng. Động thái này sẽ thúc đẩy nhà quản lý các cơ sở y tế tăng

cƣờng huấn luyện những kỹ năng cần thiết cho nhân viên của họ.

Thứ năm, tƣơng tự kiến nghị ở phần đầu, khung giá phí BHYT cũng cần đƣợc đánh giá lại

sao cho hợp lý để đảm bảo quyền lợi của ngƣời tham gia BHYT.

Các giải pháp khác về hoàn thiện HTYT

Các giải pháp này tuy không ảnh hƣởng trực tiếp đến lựa chọn chỉ tự dùng thuốc nhƣng cũng

tác động gián tiếp đến lựa chọn này của ngƣời phụ nữ đã có gia đình. Cụ thể là:

Thứ nhất, cần giải pháp để loại bỏ tình trạng lạm dụng thuốc và lạm dụng kỹ thuật cao trong

chỉ định lâm sàng đang trở thành vấn đề nhức nhối của thực trạng hiện nay nhằm làm cho chi

phí của việc đi khám bệnh trở nên ít tốn kém hơn. Để thực hiện đƣợc điều này rất cần sự

phối hợp giữa các ban ngành khác nhau trong lĩnh vực y tế mà trƣớc hết là lĩnh vực giáo dục

y bác sĩ. Cần đƣa chƣơng trình giáo dục y đức ngƣời thầy thuốc từ trong ghế nhà trƣờng và

có cơ chế sát hạch thật sự nghiêm khắc phẩm cách này. Phẩm cách này có thể biến mất đi khi

những vấn đề cơm áo gạo tiền tác động đến cuộc sống của ngƣời thầy thuốc. Do vậy, về mặt

quản lý, tôi kiến nghị rằng cần có cơ chế giám sát nhƣng đồng thời có hình thức xử phạt thật

41

mạnh. Thực hiện công nghệ thông tin trong quản lý cũng là một phƣơng cách để giám sát

hiệu quả.

Thứ hai, cần đảm bảo tất cả các hiệu thuốc tƣ nhân đang hoạt động phải đạt chuẩn GPP.

Thực hiện giải pháp này đem lại một số lợi ích, thứ nhất là nhằm đảm bảo chỉ có sản phẩm

tốt xuất hiện trên thị trƣờng. Qua đó, hạn chế tình trạng sản phẩm không tốt quá sẵn có trên

thị trƣờng ảnh hƣởng đến lựa chọn chỉ tự dùng thuốc của ngƣời dân khi họ không có thời

gian đến bác sĩ.

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Y tế Việt Nam và đtg (2008), “Ngân sách nhà nƣớc cho y tế”, Báo cáo chung tổng

quan ngành y tế Việt Nam, truy cập ngày 06/04/2011 tại địa chỉ:

http://www.wpro.who.int/NR/rdonlyres/AAABC17F-DC65-40EE-B350-

3D3731740BF5/0/annual_health_review_vn.pdf.

2. Cục Quản Lý Dƣợc (2009), “Những bài học kinh nghiệm trong việc triển khai thực

hiện nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc GPP”, Dữ liệu hội nghị ngành

dược năm 2009, Hà Nội.

3. Nguyễn Hữu Đức (2008), Hiểu và dùng đúng thuốc, Nhà xuất bản trẻ, TP.HCM.

4. Lý Ngọc Kính (2007), Chính sách chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam – Cơ hội và thách

thức giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, truy cập ngày 04/04/2011 tại địa chỉ:

http://www.hspi.org.vn/vcl/vn/upload/info/attach/12496180116560_Chinh_sach_CSS

K_tai_Viet_Nam.pdf

5. Hoàng Trọng - Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với

SPSS, TP.HCM: Nhà xuất bản Hồng Đức, tập 1 và 2.

6. Khƣơng Anh Tuấn và đtg (2007), Đánh giá tình hình quá tại tại một số bệnh viện tuyến

trung ương tại Hà Nội và Tp.HCM, Viện chiến lƣợc và Chính sách y tế.

Tiếng Anh

7. Bộ Y tế Uganda (2008), Access To And Use Of Medicines By Households In Uganda

Report, Uganda.

8. Chang, F. and Trivedi, P.K. (2003), Economics of self-medication: theory and

evidence, Indiana University, USA.

43

9. Chaves, R.G. et al (2009), Self-medication in nursing mothers and its influence on the

duration of breastfeeding, Brazil.

10. Ishak, Z. (2010), Factors Influencing Students’ Self-Concept among Malaysian

Students, University of Malaya, Malaysia.

11. Lavoro, N.D. (2008), On the Economics of Rational Self-Medication, Agricultural

Annex University of Pretoria, Africa.

12. Tran Van Long (2010), Determinants of self-medication of adults in ca mau city,

University of economics hcm city, Vietnam.

13. Manivanh, L. (2007), Antibiotics Self-medication for treatment of reproductive tract

infections among female Garment factory workers in Lao PDR, Meahildol University,

Lao.

14. Nguma, L.K. (2010), Health seeking and health related behaviour for type 2 diabetes

mellitus among adults in an urban community in Tanzania, New Zealand: University of

Otago.

15. Okumura, J. et al (2002), Drug utilisation and self-medication in rural communities in

Vietnam, University of Tokyo, Japan.

16. Olayemi, O.J. et al (2010), Evaluation of Antibiotic Self-Medication Pattern Amongst

Undergraduate Students of Ahmadu Bello University (Main Campus), Ahmadu Bello

University, Nigeria.

17. Pagán, J.A. et al (2006), Self-medication and health insurance coverage in Mexico,

USA.

18. Rebhan, D.P. (2008), Health Care Utilization: Understanding and applying theories

and models of health care seeking behavior, Case Western Reserve University.

19. Shrestha, J. (2010), Evaluation of Access to Primary Healthcare – A case study of

Yogyarkarta, International Institute for Geo- information Science and Earth

Observation.

44

20. Le Van Thanh (2007), Economic development, urbanization and environmental

changes in ho chi minh city, vietnam: relations and policies, Kenya.

21. Trivedi, P.K. (2002), Patterns of Health Care Utilization in Vietnam: Analysis of 1997-

98 Vietnam Living Standards Survey Data, USA.

22. World Bank (2008), Economic Impacts of Sanitation in Vietnam, Jarkarta: World Bank.

23. WHO (2000), Guidline for the Regulatory Assessment of Medical Product for use in

Self-Medication, Geneva: World Health Organization

24. WHO (2010), “Global Health Observatory (GHO)”, World Health Organization, truy

cập ngày 23/01/2011 tại địa chỉ: http://www.who.int/gho/countries/en/index.html

Tin tức online

25. Đỗ Ngân Bình (2008), “Hoàn thiện pháp luật về BHYT hiện nay ở Việt Nam”, Thông

tin pháp luận dân dự Online, truy cập ngày 06/06/2011 tại địa chỉ:

http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/06/16/8563722/

26. Nguyễn Văn Châu (2009), “Nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh ở cơ sở”, Báo Sài

Gòn Giải Phóng Online, truy cập ngày 06/06/2011 tại địa chỉ:

http://www.sggp.org.vn/ytesuckhoe/2009/11/209896/

27. Tƣờng Lâm (2009), “TP.HCM: Bất cập trạm y tế phƣờng, xã”, Báo Sài Gòn Giải

Phóng Online, truy cập ngày 20/01/2011 tại địa chỉ:

http://www.sggp.org.vn/ytesuckhoe/2009/5/192112/

28. Tùng Linh (19/08/2010), “Gia tăng tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng thuốc”, Báo Hà Nội Mới

Online, truy cập ngày 19/08/2010 tại địa chỉ:

http://www.hanoimoi.com.vn/newsdetail/suc_khoe/366193/gia-tang-ty-le-benh-nhan-

bi-di-ung-thuoc.htm

45

29. QL.CIMSI (2010), “Lạm dụng thuốc kháng sinh sẽ rất nguy hiểm”, Thông tin y học

Việt Nam, truy cập ngày 03/04/2011 tại địa chỉ:

http://www.cimsi.org.vn/?action=News&newsId=9126

30. Trần Vũ và Thu Hằng (2011), “Nâng cao toàn diện chất lƣợng khám chữa bệnh”, Báo

kinh tế Việt Nam Online, truy cập ngày 24/04/2011 tại địa chỉ:

http://www.ven.vn/tabid/77/newsid/20100/seo/nang-cao-toan-dien-chat-luong-kham- chua-benh/language/vi-VN/Default.aspx

46

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Tổng hợp thang đo cho các nhóm yếu tố

) 4 0 0 2 ( l a t e

) 4 0 0 2 (

) 9 8 9 1 (

) 0 0 0 2 ( l a t e

.

) 7 0 0 2 ( l a t e a b e t E

B G

x e R

,

,

) 2 0 0 2 ( f f a t s t a

) 4 0 0 2 ( s o l a i s s o M d n a r e v i l

O

g r e b n e k n a r F

t s i r b O

y a M

o d r a i l g a u G

W

) 8 0 0 2 ( r e g n i s i e L

) 7 0 0 2 ( r e m A

u s o F

      

 

  

ó c

CÁC YẾU TỐ

      

Loại phƣơng tiện chăm sóc y tế cơ bản Tỷ lệ dân số - phƣơng tiện chăm sóc y tế

n ẵ s g n ă n

      

Tỷ lệ bác sĩ - dân số

ả h K

  

Sự sẵn có thuốc

  

Dễ dàng có cuộc hẹn

      

Khoảng cách

g n ă n

n ậ c

       

Thời gian đợi thủ tục

p ế i t

ả h K

       

Thời gian đi

 

Sở hữu thẻ BHYT

g n ă n

   

Phƣơng tiện vận chuyển

ả r t i h c

ả h K

       

Mức độ bao phủ của BHYT

n ậ h n

g n ă n

Chi phí trực tiếp và gián tiếp

c ợ ƣ đ

ả h K

p ấ h c

    

Chất lƣợng chăm sóc y tế

p ợ h

   

Yếu tố tín ngƣỡng hay văn hóa

  

Chăm sóc cá nhân

ù h p ự S

  

Sạch sẽ

Giờ mở cửa

Nguồn : trích từ Shrestha (2010)

47

Phụ lục 2: Chi tiết mẫu thống kê

48

Phụ lục 3: Đánh giá độ tin cậy của thang đo về điều kiện tiếp cận HTYT

Cronbach's Alpha If Item Deleted

Corrected Item - Total Correlation

THANG ĐO

Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4

THANG ĐO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN

0,739

0,794

ACC1

Cronbach's Alpha Khả năng tiếp cận bệnh viện/PKĐK công

0,564

.(a)

ACC2 Khả năng tiếp cận trạm y tế xã/phƣờng

0,528

.(a)

ACC3 Khả năng tiếp cận hiệu thuốc tƣ nhân

0,794

0,634 0,661 0,428

THANG ĐO KHẢ NĂNG SẴN CÓ

Cronbach's Alpha

0,601

0,62

0,83

AVA1 Thời gian chờ làm thủ tục khám

0,425

0,259

.(a)

AVA2 Thời gian chờ gặp bác sĩ

0,443

0,25

.(a)

0,710 0,710

AVA3

Sự sẵn có thuốc tại bệnh viện/PKĐK công

0,586

0,83

0,587 0,601 0,160

AVA4 Sự sẵn có thuốc tại hiệu thuốc tƣ nhân

0,62

0,502 0,487 0,301 0,248

THANG ĐO KHẢ NĂNG CHI TRẢ

Cronbach's Alpha

0,588

0,604

AFF1 Khả năng chi trả giá thuốc

AFF2 Khả năng chi trả dịch vụ y tế

AFF3 Khả năng chi trả chi phí đi đƣờng

0,389 0,459

0,490 0,444

AFF4

Khả năng chi trả tổng chi phí khám bệnh

0,580 0,588 0,428 0,447 0,578

0,237 0,519 0,486 0,248

0,373 0,461 0,604

0,552 0,444 0,271

AFF5 Khả năng chi trả thuốc theo toa

AFF6 Vay tiền/bán đồ để chữa bệnh

0,570 0,535 0,439 0,466 0,532 0,580 0,574

0,290 0,502 0,445 0,293 0,169 0,190

0,566

0,604

0,645

0,257

0,250

0,314

THANG ĐO SỰ PHÙ HỢP

Cronbach's Alpha

0,851

ADE1 Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ y tế

0,803

ADE2 Sự phù hợp của điều kiện vệ sinh

0,813

ADE3 Sự phù hợp của thái độ phục vụ

0,815

ADE4 Sự phù hợp của giờ mở cửa

0,833

ADE5

Sự phù hợp của chất lƣợng dịch vụ BHYT

0,836

0,727 0,688 0,681 0,615 0,601

a Điều này vi phạm giả định độ tin cậy

49

Thang đo Khả năng tiếp cận

Kết quả phân tích cho ta biết là nếu loại mục hỏi ACC3 thì hệ số Cronbach α từ 0,739 tăng

lên 0,794. Tuy nhiên, mối tƣơng quan giữa mục hỏi này với tổng điểm của hai mục hỏi còn lại là lớn hơn 0,3,14 do đó mục hỏi về ACC3 đƣợc giữ lại cùng với mục hỏi ACC1 và ACC2.

Thang đo Khả năng sẵn có

Kết quả phân tích độ tin cậy lần 1 của thang đo này cho biết là mục hỏi AVA4 nên bị loại ra

vì hệ số tƣơng quan điểm số của mục hòi này với tổng số điểm các mục hỏi còn lại là 0,248

< 0,3 và nếu loại mục hỏi này thì hệ số Cronbach α sẽ tăng từ 0,601 lên 0,620. Do vậy, sau

khi loại bỏ mục hỏi AVA4, bài viết thực hiện phân tích lần 2 và kết quả thể hiện là nếu loại

bỏ mục hỏi AVA3 thì hệ số Cronbach α sẽ tăng từ 0,620 lên 0,830 và hệ số tƣơng quan giữa

mục hỏi AVA3 với tổng điểm các mục hỏi còn lại chỉ có 0,16 < 0,3 nên mục hỏi AVA3 cũng

bị loại.

Thang đo Khả năng chi trả

Đối với thang đo về khả năng chi trả, phân tích độ tin cậy trên 6 mục hỏi cho kết quả là hệ số

Cronbach α bằng 0,570 < 0,6 nên mục hỏi AFF5 bị loại. Kết quả phân tích độ tin cậy tiếp

theo cho biết là nếu loại mục hỏi AFF1 thì hệ số Cronbach α tăng từ 0,580 tăng lên 0,588.

Tiếp tục loại mục hỏi AFF4 thì hệ số Cronbach α lại tăng từ 0,588 lên 0,604 và hệ số tƣơng

quan của điểm từng mục hỏi với tổng số điểm các mục hỏi còn lại đều lớn hơn 0,3, do đó

mục hỏi AFF2, AFF3 và AFF6 đƣợc giữ lại.

Thang đo Sự phù hợp

Phân tích độ tin cậy của thang đo này với 5 mục hỏi cho ta kết quả là hệ số Cronbach α bằng

0,851 và hệ số tƣơng quan điểm số từng mục hỏi so với tổng số điểm các mục hỏi còn lại đều

lớn hơn 0,3 và nếu loại bất kỳ mục hỏi nào cũng sẽ làm cho hệ số Cronbach α nhỏ xuống. Do

vậy, trong thang đo này, không mục hỏi nào bị loại.

14 Theo de Vaus (2004) thì hệ số tƣơng quan điểm từng mục hỏi với tổng số điểm các mục hỏi còn lại nhỏ hơn 0,3 là mối tƣơng quan yếu. Do vậy, tác giả giữ lại các mục hỏi có hệ số tƣơng quan này lớn hơn 0,3.

50

Phụ lục 4: Phân tích nhân tố

+ Hệ số KMO có giá trị 0,718. Do vậy, hệ số này đáp ứng yêu cầu là nằm trong khoảng 0,5 đến 1, nên việc phân tích nhân tố là thích hợp.

+ Giả thuyết Ho là các biến không có tƣơng quan với nhau trong tổng thể (hay ma trận tƣơng

quan tổng thể là ma trận đơn vị)

Bartlett's Test = 546,178  sig = 0,000 là quá nhỏ so với 0,01  Bác bỏ giả thuyết Ho 

Các biến có tƣơng quan với nhau trong tổng thể. Nhƣ vậy, phân tích nhân tố là phƣơng pháp

phù hợp để phân tích ma trận tƣơng quan.

 Theo tiêu chuẩn eigenvalue lớn hơn 1 thì có 4 nhân tố đƣợc trích ra và 4 nhóm nhân tố này giải thích đƣợc 66,818% > 50% 15 biến thiên của dữ liệu. Nhƣ vậy, yêu cầu về phƣơng

sai trích đảm bảo yêu cầu giải thích.

15 Hair & ctg (1998) yêu cầu phƣơng sai trích phải đạt từ 50% trở lên ( trích trong bài soạn Khánh Duy về Phân tích các nhân tố khám phá, Fulbright 2007-2008, trang 14.

51

So sánh ma trận nhân tố sau khi xoay (Rotated Component Matrix) với ma trận trƣớc khi

xoay (Component Matrix) chúng ta thấy là việc xoay nhân tố làm cho việc giải thích dễ dàng

hơn, mỗi biến chỉ có hệ số lớn trong một nhân tố. Trƣớc khi xoay thì hầu nhƣ các biến về

khả năng tiếp cận, khả năng sẵn có, khả năng chi trả chƣa có mối tƣơng quan rõ ràng với 4

nhân tố đƣợc trích ra. Đặc biệt là sau khi xoay, từng nhóm biến đƣợc đƣa vào từng nhóm

nhân tố nhƣ cơ sở đặt ra ban đầu. Hệ số tải số của các biến trong phân tích đều lớn hơn 0,6.

Hệ số này biểu thị rằng tƣơng quan đơn biến giữa các biến và các nhân tố là khá tốt.

Component Transformation Matrix

Component Score Covariance Matrix

Component

1

2

3

4

1

,000

,000

,000

1,000

Component

1

2

3

4

2

1

1,000

,000

,000

,000

,084

-,398

,155

,900

3

2

,000

1,000

,000

,000

,919

,372

,122

,058

4

3

,000

,000

1,000

,000

-,197

,182

,961

-,067

4

-,332

,819

-,194

,426

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

52

Component Score Coefficient Matrix

Component

1

2

3

4

,022

,418

-,001

,013

Khaû naêng tieáp caän beänh vieän/PKÑK coâng gaàn nhaø nhaát

-,046

,452

-,125

,051

Khaû naêng tieáp caän traïm y teá xaõ/phöôøng gaàn nhaø nhaát

-,044

,352

,027

-,063

Khaû naêng tieáp caän hieäu thuoác tö nhaân gaàn nhaø nhaát

Thôøi gian chôø laøm thuû tuïc khaùm

,101

-,062

,570

-,015

Thôøi gian chôø gaëp baùc só

,068

-,003

,536

,033

Khaû naêng chi traû dòch vuï y teá

-,007

-,005

,005

,473

Khaû naêng chi traû chi phí ñi ñöôøng

-,017

-,045

,000

,451

Vay tieàn/baùn ñoà ñeå chöõa beänh

-,053

,035

-,005

,375

,315

,007

,147

-,094

Söï phuø hôïp cuûa chaát löôïng dòch vuï y teá

Söï phuø hôïp cuûa ñieàu kieän veä sinh

,290

-,034

,106

-,047

,230

-,062

-,041

,033

Söï phuø hôïp cuûa thaùi ñoä phuïc vuï cuûa nhaân vieân y teá

Söï phuø hôïp cuûa giôø môû cöûa

,247

-,025

,047

-,018

,226

,013

,026

,029

Söï phuø hôïp cuûa chaát löôïng dòch vuï BHYT

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. Component Scores.

 Căn cứ vào bảng ma trận này, các trị số quan sát của từng nhân tố đƣợc tính ra.

53

Phụ lục 5: Kiểm định quan hệ giữa tuổi tác và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có sự khác biệt tuổi tác với lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

+ Levene statistic = 0,531  sig = 0,589> α = 0,05  Phƣơng sai giữa tuổi tác với lựa chọn

tự dùng thuốc không khác nhau một cách có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%.

+ Anova test = 0,252  sig = 0,778> α = 0,1  Chấp nhận giả thuyết Ho cho rằng không có

sự khác biệt tuổi tác với lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh với độ tin cậy 90%.

54

Phụ lục 6: Kiểm định quan hệ giữa trình độ học vấn và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa nhóm trình độ học vấn với lựa chọn tự dùng thuốc chữa

bệnh

+ Pearson Chi-Square = 1,160  sig = 0,560 > α = 0,1  Chấp nhận giả thuyết Ho cho

rằng không có sự khác biệt giữa các nhóm trình độ vấn với lựa chọn tự dùng thuốc chữa

bệnh với độ tin cậy 90%.

55

Phụ lục 7: Kiểm định quan hệ giữa thu nhập bình quân hộ và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa nhóm thu nhập bình quân hộ gia đình với lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh

+ Pearson Chi-Square = 12.754  sig = 0,002 < α = 0,05  Bác bỏ giả thuyết Ho với độ tin

cậy 95%  Có mối quan hệ giữa các nhóm nhóm thu nhập bình quân hộ gia đình với lựa

chọn tự dùng thuốc chữa bệnh.

56

Phụ lục 8: Kiểm định quan hệ giữa mức độ bệnh tật và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa mức độ nghiêm trọng bệnh tật với lựa chọn tự dùng thuốc

chữa bệnh

+ Pearson Chi-Square = 20,279  sig = 0,000 < α = 0,05  Bác bỏ giả thuyết Ho với độ tin

cậy 95% Có mối quan hệ giữa mức độ nghiêm trọng bệnh tật với lựa chọn tự dùng thuốc

chữa bệnh.

57

Case Processing Summary

Phụ lục 9: Kiểm định quan hệ giữa sở hữu thẻ BHYT và lựa chọn tự dùng thuốc

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

124

100,0%

0

,0%

124

100,0%

Löïa choïn chaêm soùc söùc khoûe * Theû baûo hieåm y teá

Löïa choïn chaêm soùc söùc khoûe * Theû baûo hieåm y teá Crosstabulation

Theû baûo hieåm y teá

Khoâng coù

Coù

Total

Chæ ñeán baùc só khaùm

Count

7

28

35

Löïa choïn chaêm soùc söùc khoûe

% within Theû baûo hieåm y teá

26,9%

28,6%

28,2%

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

Count

6

31

37

% within Theû baûo hieåm y teá

23,1%

31,6%

29,8%

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

Count

13

39

52

% within Theû baûo hieåm y teá

50,0%

39,8%

41,9%

Total

Count

26

98

124

% within Theû baûo hieåm y teá

100,0%

100,0%

100,0%

Chi-Square Tests

Value

df

Asymp. Sig. (2-sided)

Pearson Chi-Square

2

,596

1,034(a )

Continuity Correction

Likelihood Ratio

1,045

2

,593

Linear-by-Linear Association

,419

1

,517

N of Valid Cases

124

a 0 cells (,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 7,34.

Ho : Không có mối quan hệ giữa việc có thẻ bảo hiểm y tế với lựa chọn tự dùng thuốc chữa

bệnh

+ Pearson Chi-Square = 1,034  sig = 0,596 > α = 0,05  Chấp nhận giả thuyết Ho cho

rằng không có mối quan hệ giữa việc có thẻ bảo hiểm y tế với lựa chọn tự dùng thuốc chữa

bệnh với độ tin cậy 95%.

58

Case Processing Summary

Phụ lục 10: Kiểm định mối quan hệ giữa tôn giáo và lựa chọn tự dùng thuốc

Cases

Valid

Total

Missing

N

Percent

N

Percent

N

Percent

124

100,0%

0

,0%

124

100,0%

Löïa choïn chaêm soùc söùc khoûe * Toân giaùo

Löïa choïn chaêm soùc söùc khoûe * Toân giaùo Crosstabulation

Toân giaùo

Khoâng

Coù

Total

Chæ ñeán baùc só khaùm

Count

22

13

35

% within Toân giaùo

29,7%

26,0%

28,2%

Löïa choïn chaêm soùc söùc khoûe

Töï duøng thuoác vaø ñeán baùc só

Count

22

15

37

% within Toân giaùo

29,7%

30,0%

29,8%

Chæ töï duøng thuoác ôû nhaø

Count

30

22

52

% within Toân giaùo

40,5%

44,0%

41,9%

Total

Count

74

50

124

% within Toân giaùo

100,0%

100,0%

100,0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

Value

df

Pearson Chi-Square

,233(a)

2

,890

Continuity Correction

Likelihood Ratio

,234

2

,890

Linear-by-Linear Association

,224

1

,636

N of Valid Cases

124

a 0 cells (,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 14,11.

Ho : Không có mối quan hệ giữa tôn giáo với lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh

+ Pearson Chi-Square = 0,233  sig = 0,890 > α = 0,05  Chấp nhận giả thuyết Ho cho

rằng không có sự khác biệt giữa tôn giáo với lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh với độ tin

cậy 95%.

59

Phụ lục 11: Kiểm định quan hệ giữa sở thích chọn bác sĩ khám và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa sở thích chọn giới tính bác sĩ khám với lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh

+ Pearson Chi-Square = 0,937  sig = 0,626 > α = 0,05  Chấp nhận giả thuyết Ho cho

rằng không có mối quan hệ giữa sở thích chọn giới tính bác sĩ khám với lựa chọn tự dùng

thuốc chữa bệnh với độ tin cậy 95%.

60

Phụ lục 12: Kiểm định quan hệ giữa khả năng tiếp cận và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng tiếp cận với lựa chọn tự dùng thuốc

chữa bệnh

+ Levene statistic = 0,825  sig = 0,441> α = 0,05  Phƣơng sai giữa yếu tố về khả năng

tiếp cận với lựa chọn tự dùng thuốc không khác nhau một cách có ý nghĩa thống kê với độ

tin cậy 95%.

+ Anova test = 1,406  sig = 0,249 > α = 0,1  Chấp nhận giả thuyết Ho với độ tin cậy

90%  Không có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng tiếp cận với lựa chọn tự dùng thuốc

chữa bệnh.

61

Phụ lục 13: Kiểm định quan hệ giữa khả năng sẵn có và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng sẵn có với lựa chọn tự dùng thuốc chữa

bệnh

+ Levene statistic = 0,070  sig = 0,933> α = 0,05  Phƣơng sai giữa yếu tố về khả năng

tiếp cận với lựa chọn tự dùng thuốc không khác nhau một cách có ý nghĩa thống kê với độ

tin cậy 95%.

+ Anova test = 2,646  sig = 0,075 < α = 0,1  Bác bỏ giả thuyết Ho với độ tin cậy 90% 

Có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng sẵn có với lựa chọn tự dùng thuốc chữa bệnh.

62

Phụ lục 14: Kiểm định quan hệ giữa khả năng chi trả và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng chi trả với lựa chọn tự dùng thuốc chữa

bệnh

+ Levene statistic = 1,075  sig = 0,345> α = 0,05  Phƣơng sai giữa yếu tố về khả năng

chi trả với lựa chọn tự dùng thuốc không khác nhau một cách có ý nghĩa thống kê với độ tin

cậy 95%.

+ Anova test = 0,682  sig = 0,508 > α = 0,1  Chấp nhận giả thuyết Ho với độ tin cậy

90%  Không có mối quan hệ giữa yếu tố về khả năng chi trả với lựa chọn tự dùng thuốc

chữa bệnh

63

Phụ lục 15: Kiểm định quan hệ giữa sự phù hợp và lựa chọn tự dùng thuốc

Ho : Không có mối quan hệ giữa yếu tố về sự phù hợp của hệ thống y tế công với lựa chọn

tự dùng thuốc chữa bệnh

+ Levene statistic = 2,036  sig = 0,104 > α = 0,05  Phƣơng sai giữa yếu tố về sự phù hợp

của hệ thống y tế công với lựa chọn tự dùng thuốc không khác nhau một cách có ý nghĩa

thống kê với độ tin cậy 95%.

+ Anova test = 1,458  sig = 0,237 > α = 0,1  Chấp nhận giả thuyết Ho với độ tin cậy

90%  Không có mối quan hệ giữa yếu tố về sự phù hợp của hệ thống y tế công với lựa

chọn tự dùng thuốc chữa bệnh.

64

Phụ lục 16: Kiểm tra mối tƣơng quan giữa các biến

65

Phụ lục 17: Xây dựng mô hình hồi quy đơn giản

Mô hình

1

2

3

4

5

6

7

Biến

Kiểm định sự phù hợp của mô hình*

Giá trị sig của mô hình:

0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000

R-Square:

Cox and Snell

0,370 0,369 0,366 0,362 0,355 0,346 0,335

Nagelkerke

0,418 0,417 0,414 0,409 0,401 0,391 0,379

McFadden

0,213 0,213 0,211 0,207 0,202 0,196 0,189

Kiểm định sự phù hợp của từng biến vào mô hình**

ACC

Khả năng tiếp cận

0,517

0,486

0,469

0,513

AVA

Khả năng sẵn có

0,083

0,081

0,088

0,089

0,081

0,079

0,077

AFF

Khả năng chi trả

0,283

0,255

0,242

0,223

0,176

0,130

0,112

ADE

Sự phù hợp

0,029

0,028

0,031

0,033

0,032

0,037

0,040

Tuoi

Tuổi

0,915

Cap3

Trình độ học vấn

0,532

0,578

0,640

TNCao

Thu nhập

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

NgTrong Mức độ bệnh tật

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

BHYT

Sở hữu thẻ BHYT

0,284

0,310

0,324

0,475

0,427

TGiao

Tôn giáo

0,789

0,763

Sở thích chọn bác sĩ khám

0,271

0,271

0,360

0,394

0,361

0,257 PSEX * Kiểm định thông qua mức ý nghĩa sig trong bảng Model Fitting Information ** Kiểm định thông qua mức ý nghĩa trong bảng Likelihood Ratio Test

Mô hình hồi quy đƣợc thiết lập từ mô hình tổng quát đến mô hình hình đơn giản. Có nghĩa là

các biến sẽ đƣợc loại bỏ căn cứ vào mức đóng góp ý nghĩa vào mô hình hồi quy. Do vậy,

trong từng mô hình những biến này có giá trị sig lớn nhất trong kiểm định tỷ lệ thích hợp

(Likelihood Ratio Test) sẽ bị loại dần ra cho đến khi các biến còn lại trong mô hình có giá trị

66

sig này nhỏ hơn 0,1. Có nghĩa là các biến đóng góp ý nghĩa thống kê vào mô hình với độ tin

cậy 90%.

Căn cứ vào quy tắc trên thì các biến Tuổi tác, Tôn giáo, Trình độ học vấn, Khả năng tiếp cận

Sở hữu thẻ BHYT, Sở thích chọn bác sĩ theo giới tính lần lƣợt bị loại ra khỏi mô hình. Mô

hình cuối cùng bao gồm các biến:

(1) Khả năng sẵn có

(2) Khả năng chi trả

(3) Sự phù hợp

(4) Thu nhập

(5) Mức độ bệnh tật

Chúng ta thấy rằng, từ việc loại những biến không có ý nghĩa sẽ làm tăng đóng góp ý nghĩa

của các biến còn lại vào mô hình.

Thực hiện kiểm định sự phù hợp của mô hình 7:

Ho: không có mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc

+ Giá trị sig = 0,000 <0,05  Bác bỏ giả thuyết Ho  Có mối quan hệ giữa biến độc lập và

biến phụ thuộc.

Nhƣ vậy, mô hình thứ 7 là mô hình đƣợc đƣa vào phân tích.

67

Phụ lục 18: Dàn bài thảo luận

68

69

70

Phụ lục 19: Bảng câu hỏi điều tra

71

72