ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ HỒ TRUNG THANH

KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Chuyên ngành Mã số Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

: Kinh tế chính trị XHCN : 5.02.01 : PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh

HÀ NỘI, 2004

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG VÀ PHỤ LỤC ...........................................................................................1 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT .........................................................................................................2

LỜI MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................4 CHƢƠNG I: HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CẠNH TRANH XUẤT KHẨU .............................10 1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA THƢƠNG MẠI VÀ MÔI TRƢỜNG ............................................10 1.1.1. Bản chất mối quan hệ giữa thƣơng mại và môi trƣờng ..................... 10

1.1.2. Ảnh hƣởng của môi trƣờng đối với thƣơng mại .................................. 11

1.1.3. Ảnh hƣởng của thƣơng mại tới môi trƣờng .......................................... 12

1.2. HỆ THỐNG CÁC QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VỀ MÔI TRƢỜNG LIÊN QUAN ĐẾN THƢƠNG MẠI .........................................................................................15

1.2.1. Các phƣơng pháp chế biến và sản xuất theo quy định môi trƣờng (PPM) .............................................................................................................. 16

1.2.2. Các yêu cầu về đóng gói bao bì ................................................................. 17

1.2.3. Nhãn mác môi trƣờng ................................................................................... 18

1.2.4. Phí, thuế và các khoản thu liên quan đến môi trƣờng......................... 19

1.2.5. Các biện pháp kiểm dịch động thực vật .................................................. 21 1.2.6. Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm........................... 21

1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG ĐỐI VỚI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ HIỆN NAY ...................................................................................22 1.3.1. Tác động tích cực .......................................................................................... 22

1.3.2. Tác động tiêu cực .......................................................................................... 24

1.4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN VÀ QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƢỜNG ĐỂ PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI VÀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG ...............................................................................................................................26 1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan ........................................................................... 26

1.4.2. Kinh nghiệm của Indonesia ......................................................................... 30 1.4.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc ..................................................................... 32

1.4.4. Bài học đối với Việt Nam.............................................................................. 35

CHƢƠNG II: KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM............................................................37 2.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC KHÍA CẠNH MÔI TRƢỜNG CỦA SẢN PHẨM XUẤT KHẨU ..............................................................................................................37

2.1.1. Đánh giá khái quát về thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 2003................................................................................................................... 37

2.1.2. Một số vấn đề đặt ra liên quan đến khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam dƣới giác độ môi trƣờng ........................................ 41

2.2. TÌNH HÌNH ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM.....................................................43

2.2.1. Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trƣờng của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ...................................................... 43 2.2.2. Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trƣờng của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam ........................................................................................ 49

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM.........................................66

2.3.1. Những mặt tích cực....................................................................................... 66 2.3.2. Một số hạn chế................................................................................................ 67

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế: .......................................................................... 68

CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM .....72 3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG QUỐC TẾ..............................................................................72

3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc ảnh hƣởng đến việc đáp ứng các yêu cầu về môi trƣờng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của nƣớc ta trong thời gian tới ..................................................................................................... 72

3.1.2. Quan điểm phát triển xuất khẩu đáp ứng yêu cầu môi trƣờng của thị trƣờng thế giới và bảo vệ môi trƣờng ở nƣớc ta .............................. 76

3.1.3. Định hƣớng phát triển xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu môi trƣờng trong thƣơng mại quốc tế ........................................................................ 77

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG NHẰM ĐẨY M ẠNH XUẤT KHẨU ................................................................78 3.2.1. Ở cấp độ quốc gia .......................................................................................... 78

3.2.2. Ở cấp độ doanh nghiệp ................................................................................ 89

3.2.3. Giải pháp đối với một số nhóm sản phẩm .............................................. 96

KẾT LUẬN..............................................................................................................................99 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................115

DANH MỤC BẢNG VÀ PHỤ LỤC

Bảng 1.1: Đánh giá mức độ quan tâm của các nƣớc đối với các biện pháp nâng cao khả năng đáp ứng tiêu chuẩn môi trƣờng trong xuất khẩu .............. 34

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 – 2003 ................... 37

Bảng 2.2: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 2003 .......................... 39

Bảng 2.3: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thời kỳ 1996-2003........................... 39

Bảng 2.4: Tỷ lệ phân bố xuất khẩu của Việt Nam năm 1995 – 2003 ................... 41

Bảng 2.5: Mức độ nhận thức về nhãn môi trƣờng đối với sản phẩm ............... 46

Bảng 2.6: Xuất khẩu thủy sản thời kỳ 1997-2003 ................................................... 50

Bảng 2.7: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam ................................................... 58

Bảng 2.8: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam .............................................. 59

Bảng 2.9: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam thời kỳ 1996-2003 ............... 63

Phụ lục 1: Hệ thống nhãn hiệu sinh thái toàn cầu ................................................ 101

Phụ lục 2: Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch đối với động thực vật (SPS) ........................................................................................................................... 102

Phụ lục 3: Hiệp định về các rào cản kỹ thuật trong thƣơng mại (TBT)........... 103

Phụ lục 4: Uỷ ban về Luật thực phẩm (Codex) ...................................................... 104

Phụ lục 5: Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát trọng yếu (HACCP) ... 105

Phụ lục 6: Hệ thống quản lý môi trƣờng theo ISO 14000 ................................... 107

Phụ lục 7: Hệ thống quản lý chất lƣợng ISO 9000 ................................................ 107

Phụ lục 8: Một số tiêu chuẩn, quy định liên quan đến môi trƣờng của Nhật Bản ..................................................................................................................................... 109

Phụ lục 9: Một số tiêu chuẩn, quy định liên quan đến môi trƣờng của Hoa Kỳ ............................................................................................................................................. 110

Phụ lục 10: Một số tiêu chuẩn, quy định liên quan đến môi trƣờng của EU . 111

Phụ lục 11: Các vụ tranh chấp thƣơng mại liên quan đến quy định và tiêu chuẩn môi trƣờng đƣợc giải quyết theo cơ chế của WTO ................................ 112

1

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

AFTA

Asean Free Trade Area

Khu vực mậu dịch Asean

ASEAN

Association of South East Asean Nations

Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á

Biolo gical Oxygen Demand

Nhu cầu ôxy sinh học

BOD

Convention on Biological Diversity

Công ƣớc về đa dạng sinh

CBD

học

Cloro Fluocarbon

Chất Cloro Fluocarbon

CFC

CITES

Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora

Công ƣớc quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp

Chemical Oxygen Demand

Nhu cầu ôxy hoá học

COD

European Union

Cộng đồng châu Âu

EU

FAO

Food and Agriculture Organization of the Union Nations

Tổ chức nông nghiệp và lƣơng thực của Liên hợp quốc

GATT

General Agreement on Tariffs and Trade

Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại

General Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

GDP

Good Manufacturing Practice

Thông lệ sản xuất tốt

GMP

HACCP

Hazard Analysis and Critical Control Point

Phân tích Mối nguy và Kiểm soát điểm trọng yếu

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế

IMF

International Standard Organization

Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế

ISO

Life Cycle Assessment

LCA

Đánh giá chu trình sống của sản phẩm

MEA

Multilateral Environmental Agreement Hiệp định môi trƣờng đa

2

phƣơng

ODS

Ozone Depleting Substances

Các chất làm suy giảm tầng ôzôn

PPM

Process and Production Method

Phƣơng pháp chế biến và sản xuất

PPP

Polluter Pays Principle

Nguyên tắc ngƣời gây ô nhiễm phải trả tiền

SPS

Sanitary and Phytosanitary Measures Các biện pháp vệ sinh và vệ

sinh thực vật

TBT

Technical Barriers to Trade

Hàng rào kỹ thuật đối với thƣơng mại

TRIPs

Trade related aspects of the intellectual and property rights

Các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ

UNCTAD

United Nations Conference on Trade and Development

Hội nghị Liên Hợp Quốc về thƣơng mại và phát triển

UNDP

United Nations Development Programme

Chƣơng trình phát triển Liên hợp quốc

UNEP

United Nations Environment Programme

Chƣơng trình Môi trƣờng Liên hợp quốc

triển công

UNIDO

United Nations Industrial Development Organisation

Tổ chức phát nghiệp Liên hợp quốc

UPP

User Pays Principle

Nguyên tắc ngƣời sử dụng phải trả tiền

World Bank

Ngân hàng thế giới

WB

World Health Organization

Tổ chức Y tế thế giới

WHO

World Trade Organization

WTO

Tổ chức thƣơng mại thế giới

3

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài

Xu thế toàn cầu hoá, phi tập trung hoá và tự do hoá thương mại đang là những đặc điểm cơ bản của sự phát triển trên toàn thế giới. Các trung tâm và khu vực kinh tế được hình thành, các hiệp định thương mại khu vực và quốc tế đang là những công cụ pháp lý ràng buộc và là động lực giúp các nước liên kết, hợp tác để phát triển kinh tế - xã hội. Hội nhập để phát triển vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia trên thế giới.

Hội nhập kinh tế diễn ra trong bối cảnh các vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng nghiêm trọng. Phát triển bền vững trở thành mục tiêu của các nước trên thế giới. Hàng loạt các hiệp định/công ước khu vực và quốc tế về thương mại và môi trường được xây dựng và ngày càng có nhiều nước tham gia phê chuẩn và cam kết thực hiện.

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới với việc thực thi các cam kết quốc tế về thương mại và môi trường. Hội nhập với thương mại thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, nhưng phải chấp nhận sự cạnh tranh hết sức gay gắt với các nước khác. Một cản trở đặt ra cho ngoại thương nước ta trong tương lai là việc áp dụng ngày càng phổ biến các biện pháp môi trường trong thương mại quốc tế của các nước nhập khẩu có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng cạnh tranh

4

Việc thực hiện các hiệp định/công ước quốc tế về môi trường cũng như áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về môi trường trong bối cảnh tự do hoá thương mại đã góp phần tích cực hạn chế ô nhiễm môi trường, khuyến khích sản xuất và trao đổi sản phẩm thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại hiện nay, khi các rào cản thương mại được loại bỏ, các tiêu chuẩn và quy định về môi trường trong nhiều trường hợp đã trở thành "hàng rào xanh" trong buôn bán quốc tế và ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các nước, đặc biệt là các nước phát triển, chúng đang trở thành lợi thế của họ trong cạnh tranh thương mại quốc tế. Trong điều kiện như vậy, việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường trong buôn bán quốc tế hiện nay đang là thách thức to lớn đối với các nước, đặc biệt là các nước kém phát triển, nơi đang thiếu nhiều điều kiện để thực hiện và áp dụng các hiệp định/công ước và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường.

của hàng xuất khẩu nước ta, một nước hiện nay và trong những năm tới xuất khẩu nhiều mặt hàng nhạy cảm về môi trường như nông sản, thuỷ sản và sản phẩm chế biến. Hơn nữa, những yêu cầu nói trên ngày càng cao ở những thị trường mà Việt Nam đang muốn mở rộng như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU. Ngay cả khi là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, Việt Nam cũng sẽ phải cam kết thực hiện các Hiệp định của tổ chức này trong đó có nhiều Hiệp định liên quan đến môi trường. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là cần có chính sách thương mại và môi trường như thế nào để khai thác triệt để các lợi thế của tự do hóa thương mại, góp phần vượt qua các rào cản môi trường trong buôn bán quốc tế để mở đường cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Để làm được điều đó cần thiết phải nghiên cứu những tác động của hệ thống các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường đối với cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam, xác định những hạn chế và khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của các doanh nghiệp để đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nâng cao khả năng đáp ứng các yêu cầu về môi trường nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam nhằm tăng trưởng xuất khẩu và bảo vệ môi trường.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

- UNCTAD và Tổng cục đo lường tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam

(1998), "Áp dụng Hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam";

- SIDA Thụy Điển và Cục Môi trường (1999), "Những vấn đề môi

trường liên quan đến mở rộng thương mại quốc tế của Việt Nam";

- UNDP và Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (2001), "Tiếp

cận môi trường đối với thương mại Việt Nam";

Trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa thương mại và môi trường đã được sự quan tâm nghiên cứu ở bình diện quốc tế cũng như cấp độ quốc gia. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển thương mại bền vững ở các nước, đặc biệt là các quốc gia đang tiến hành công nghiệp hoá. Nhiều tổ chức quốc tế cũng đã quan tâm đến vấn đề này ở Việt Nam với một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài như:

- UNDP và Cục Xúc tiến thương mại (2001), "Chính sách môi trường

5

trong phát triển thương mại của Việt Nam" .

Bên cạnh đó, nhiều học giả nước ngoài cũng quan tâm đến vấn đề phát triển thương mại và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Chẳng hạn nghiên cứu của Khor (1993) đã đề cập đến vấn đề tự do hoá thương mại ở Việt Nam và việc bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học; nghiên cứu của S. Banergee (1998) về mối quan hệ của ngành thương mại Việt Nam trong việc tiếp cận và sử dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế...

Ở Việt Nam, vấn đề thương mại và môi trường nói chung và những vấn đề cụ thể liên quan đến chủ đề này cũng đã được đề cập nhiều từ năm 1998 trở lại đây. Liên quan đến chủ đề nghiên cứu được đề cập trong luận văn này có một số công trình như:

- Trung tâm Kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp (1999),

"Cơ sở khoa học đền bù thiệt hại môi trường”

- Trung tâm Tư vấn và Đào tạo Kinh tế thương mại (1999),

“Đánh giá tác động môi trường của các hoạt động thương mại”

- Trung tâm Tư vấn và Đào tạo Kinh tế thương mại (1999), “Thương

mại môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam”,

- Vụ Chính sách thương mại đa biên – Bộ Thương mại (2002), "Hoàn thiện chính sách quản lý nhập khẩu nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường ở Việt Nam"

- Đại học Thương mại Hà Nội (1999), "Nhận thức về cơ hội và thách thức

môi trường trong phát triển thương mại ở Việt Nam"

- Viện Nghiên cứu thương mại (2002), “Vấn đề môi trường trong xuất

- Viện Nghiên cứu thương mại (2002), “Quy định môi trường của EU và

khả năng xuất khẩu hàng nông sản và thuỷ sản Việt Nam”.

- Dương Thanh An (2002), “Mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và thương mại trong các liên kết thương mại quốc tế và ảnh hưởng của chúng tới hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam”

- Cục Môi trường (2003), Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đáp

khẩu nông sản của Việt Nam”.

ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”

6

Tuy nhiên chưa có công trình chuyên sâu nào đi sâu nghiên cứu về hệ thống các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường liên quan đến thương

mại, chỉ ra khả năng và hạn chế của Việt Nam trong việc đáp ứng các yêu cầu môi trường nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Những nghiên cứu trên đây cả trong và ngoài nước cung cấp cơ sở phương pháp luận và tư liệu tham khảo để thực hiện đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

- Giới thiệu tổng quan về hệ thống các biện pháp môi trường liên quan đến thương mại quốc tế; phân tích những ảnh hưởng của chúng đối với xuất khẩu hàng hoá;

- Giới thiệu kinh nghiệm của một số nước trong việc đáp ứng các yêu

cầu về môi trường nhằm đẩy mạnh xuất khẩu;

- Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của

một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường liên quan đến thương mại đối với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của các quy định và tiêu chuẩn môi trường đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam và khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của một số mặt hàng xuất khẩu nước ta.

- Phạm vi nghiên cứu: Các tiêu chuẩn môi trường liên quan đến thương mại quốc tế có ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Nhóm hàng xuất khẩu được lựa chọn nghiên cứu là những mặt hàng nhạy cảm với môi trường, chủ yếu là nông sản và thuỷ sản trong thời gian từ 1995 - 2003.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Xuất phát từ đối tượng, tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu, hệ thống quan hệ nhiều chiều của lĩnh vực thương mại và môi trường, vì vậy phương pháp nghiên cứu chủ đạo ở đây là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Thông qua phương pháp này nghiên cứu mối quan hệ bên trong có tính bản chất của mối quan hệ giữa tăng trưởng xuất khẩu và bảo vệ môi trường, giữa khả năng của Việt Nam và yêu cầu đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường trong thương mại quốc tế…

7

- Kết hợp nghiên cứu lý thuyết với khảo sát thực tế thực tiễn hoạt động của một số ngành, doanh nghiệp nhằm làm rõ khả năng và hạn chế của nước ta trong việc đáp ứng các yêu cầu môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.

- Kết hợp mô hình phân tích, so sánh và dự báo kinh tế với phương pháp chuyên gia để tiến hành phân tích, đánh giá hiện trạng, xác định khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu nhạy cảm về môi trường của nước ta.

6. Những đóng góp mới của luận văn:

- Hệ thống hoá các quy định và tiêu chuẩn môi trường liên quan đến thương mại và phân tích tác động của chúng đối với cạnh tranh thương mại quốc tế hiện nay, làm cơ sở phương pháp luận cho việc đánh giá khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của hàng xuất khẩu Việt Nam.

- Bước đầu đánh giá khả năng và hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam trong việc đáp ứng yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu, chỉ ra những khó khăn và thuận lợi của họ khi mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Đây là khía cạnh mới đặt ra đối với khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta khi phải thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các Hiệp định đa phương về thương mại và môi trường.

- Làm căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách thương mại và môi trường theo hướng đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu và bảo vệ môi trường. Giúp các doanh nghiệp điều chỉnh chiến lược kinh doanh đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời thực hiện tốt các quy định về bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết

cấu thành 3 chương:

Chương I: Hệ thống tiêu chuẩn môi trường trong thương mại quốc tế và

tác động của nó đến cạnh tranh xuất khẩu

Chương II: Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường của một số

8

mặt hàng xuất khẩu Việt Nam

Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu

9

chuẩn môi trường đối với một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam

CHƢƠNG I:

HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CẠNH TRANH XUẤT KHẨU

1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA THƢƠNG MẠI VÀ MÔI TRƢỜNG

1.1.1. Bản chất mối quan hệ giữa thƣơng mại và môi trƣờng

Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường là một trong những nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường. Phần lớn thiệt hại môi trường có nguyên nhân từ sự gia tăng của các hoạt động kinh tế [2, 3]. Thương mại đóng vai trò ngày một lớn trong sự gia tăng các hoạt động kinh tế và vì thế là một trong những tác nhân quan trọng của những biến đổi môi trường. Tuy nhiên, chỉ trong điều kiện tự do hoá thương mại, khi trao đổi sản phẩm và dịch vụ mang tính phổ biến vượt qua khuôn khổ quốc gia, sản xuất ở quy mô lớn thì tác động qua lại giữa thương mại và môi trường mới rõ nét.

Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường vô cùng phức tạp, bản chất của nó phản ánh sự tác động qua lại lẫn nhau giữa mục tiêu phát triển thương mại và việc bảo vệ môi trường. Vấn đề gây nhiều tranh cãi ở đây là “Có phải tự do hóa thương mại và bảo vệ môi trường là những mục tiêu trùng hợp nhau không? Thương mại và môi trường nên ưu tiên mục tiêu nào hơn? Tự do hóa thương mại giúp cho việc bảo vệ môi trường hay làm tổn hại môi trường? Áp dụng các biện pháp môi trường có làm cản trở thương mại hay không? Cần làm gì để điều hòa được hai mục tiêu nói trên?”

10

Những người làm công tác thương mại cho rằng, các hoạt động thương mại không hề phá hoại môi trường, trong mục tiêu của thương mại bao hàm cả mục tiêu về môi trường. Theo quan điểm của họ thì việc tiếp cận và mở rộng thị trường làm tăng hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, do đó có tác dụng tiết kiệm và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Mặt khác, do cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường, càng ngày các công nghệ cao sẽ được sử dụng trong quá trình sản xuất, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường. Hơn nữa, tự do hóa thương mại là một trong những công cụ đắc lực để góp phần tăng trưởng kinh tế, nhất là đối với các nước đang phát triển. Khi kinh tế phát triển thì thu nhập của con người cũng tăng lên, điều đó đáp ứng được việc mua sắm các sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường. Đồng thời, khi kinh tế phát triển thì nhận thức của con người cũng tăng lên, đòi hỏi

chất lượng môi trường cao hơn. Tóm lại, theo nhìn nhận của những người làm công tác thương mại thì tự do hóa thương mại không hề làm tổn hại đến môi trường mà các chính sách thương mại và kinh tế vĩ mô lành mạnh còn có tác dụng bảo vệ môi trường.

Đối lập với những người làm công tác thương mại, những người làm công tác môi trường chỉ ra rằng “mục đích của thương mại là lợi nhuận, vì vậy để đạt được mục đích này họ tìm cách khai thác và sản xuất tối đa nguồn lợi thiên nhiên mà không hề nghĩ đến điều là trong sản phẩm của họ có ẩn chứa những chi phí về xã hội và môi trường” [26, 32]. Họ còn cho rằng việc áp dụng các biện pháp môi trường trong thương mại quốc tế tạo điều kiện để thuận lợ i hoá thương mại, làm cho thương mại công bằng hơn và bền vững hơn.

Sau nhiều cuộc tranh luận, cuối cùng cả hai bên đã đi đến một sự thống nhất là cả tự do hóa thương mại lẫn bảo vệ môi trường đều nhằm đạt đến một mục tiêu chung là sự phát triển bền vững. Phát triển bền vững là dung hoà giữa việc bảo vệ môi trường, tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện thiết yếu cho việc bảo vệ môi trường, tăng cường nguồn kinh phí làm sạch môi trường. Đồng thời bảo vệ môi trường nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên và sinh thái là sự cần thiết duy trì và mở rộng phát triển thương mại. Phát triển bền vững là mục tiêu chung nhất không chỉ riêng cho thương mại và môi trường mà đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động khác. Bảo vệ môi trường là nền tảng cho sự phát triển bền vững, trong đó có phát triển thương mại [18, 15].

1.1.2. Ảnh hƣởng của môi trƣờng đối với thƣơng mại

Thứ hai, các hoạt động thương mại cũng chịu những tác động mạnh mẽ của các biện pháp và chính sách bảo vệ môi trường. Những biện pháp và chính sách môi trường có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với thương mại tự do, thúc đẩy hoặc là tạo ra rào cản đối với thương mại. Các biện pháp và chính

11

Trước hết, môi trường là giá đỡ của cuộc sống, chính vì vậy mọi hoạt động kinh tế, thương mại đều phải dựa trên nền tảng của môi trường. Môi trường cung cấp nhiều nguyên liệu đầu vào như kim loại, sản phẩm rừng, thuỷ sản... cũng như năng lượng cho các quá trình chế biến. Môi trường cũng đồng thời là nơi tiếp nhận chất thải của các hoạt động thương mại. Bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển thương mại bền vững.

sách môi trường có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ hoặc tạo rào cản hạn chế thương mại, bảo hộ mậu dịch, hạn chế khả năng cạnh tranh, bất bình đẳng trong thương mại quốc tế, thách thức đối với các nước đang phát triển, khó khăn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ... Các tác động cụ thể của các biện pháp môi trường đối với thương mại sẽ được đề cập ở mục 3.1 chương I của đề tài.

1.1.3. Ảnh hƣởng của thƣơng mại tới môi trƣờng

Thứ nhất, thương mại ảnh hưởng đến môi trường bởi tính chất của hoạt động này. Thương mại là hoạt động trao đổi, mua bán, là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, do vậy vừa là nguyên nhân lây lan ô nhiễm vừa có thể phổ biến một cách nhanh nhất những sản phẩm và công nghệ thân thiện với môi trường.

Thứ ba, một khía cạnh tác động khác của thương mại đối với môi trường là tính chất cơ cấu của nó. Thương mại có thể tạo ra thay đổi cơ cấu sản xuất của một nước theo nguyên tắc lợi thế so sánh, tức là, tập trung sản xuất những mặt hàng có lợi thế để trao đổi lấy những hàng hoá khác. Nếu cơ cấu sản xuất chuyển sang những hàng hoá ít tổn hại đến môi trường hơn, khi đó thương mại có tác dụng tốt đối với môi trường. Tuy nhiên, nếu một nước có khả năng cạnh tranh tốt đối với những sản phẩm dựa trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên hoặc những hàng hoá khi sản xuất chúng có khả năng ô nhiễm cao thì thương

12

Thứ hai, thương mại ảnh hưởng đến môi trường bởi tính quy mô của nó. Thương mại quốc tế ngày nay mang tính toàn cầu. Do đặc tính này mà thương mại có thể mở rộng quy mô của sản xuất thông qua sử dụng các phương pháp sản xuất ngày càng hiệu quả, sản xuất nhiều hàng hoá hơn trên cùng một đơn vị lao động, tài nguyên và công nghệ. Như vậy thương mại góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Tăng quy mô thương mại cũng làm tăng nhu cầu bảo vệ môi trường sống của con người. Tuy nhiên, sự gia tăng quy mô sản xuất do tác động của thương mại tự do cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Một mặt, hoạt động này làm tăng các yếu tố đầu vào, khuyến khích khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mặt khác, quy mô thương mại và sản xuất gia tăng sẽ làm tăng chất thải ô nhiễm từ hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Điều này có thể thấy rất rõ về tình trạng rác thải và chất phát thải gây hiệu ứng nhà kính ở các nước phát triển.

mại lại làm cho nước đó bị gia tăng ô nhiễm môi trường, gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên [5, 20].

Tác động của thương mại đối với môi trường được thể hiện rõ nét trong trong điều kiện tự do hóa thương mại. Nhiều công trình nghiên cứu mối quan hệ và cơ chế tác động giữa thương mại và môi trường cho thấy rằng, tăng trưởng kinh tế làm tăng các chi phí để bảo vệ môi trường và bảo vệ môi trường nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên là điều kiện để tăng trưởng thương mại [19, 25]. Dựa trên quan điểm cơ bản đó GATT đã công bố một báo cáo đặc biệt về “Thương mại và môi trường”, trong đó nêu lên cơ chế tác động của thương mại đối với môi trường [23, 56]. Trong điều kiện tự do hóa thương mại, tác động đó mang tính hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực.

(1) Tác động tích cực:

- Tự do hóa thương mại tạo cho người tiêu dùng nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm xanh và sạch. Một khi thu nhập gia tăng, nhu cầu về các loại hàng hóa và dịch vụ môi trường cũng tăng theo. Do vậy nhà nước có thể nâng cao các tiêu chuẩn về môi trường.

- Những công nghệ sản xuất ít gây tổn hại đến môi trường sẽ được phát triển tại những nước có luật bảo vệ môi trường nghiêm ngặt và thương mại là con đường tốt nhất để truyền bá các công nghệ đó.

- Tự do hóa thương mại sẽ tháo bỏ các khoản trợ cấp, vốn là rào chắn

của thương mại, và điều đó có tác dụng tích cực đến việc bảo vệ môi trường.

13

- Sự hợp tác đa phương là vô cùng cần thiết để giải quyết các vấn đề môi trường và tự do hóa thương mại sẽ tạo ra bầu không khí tốt đẹp nhất cho sự hợp tác đó.

(2) Tác động tiêu cực:

- Thương mại là cơ chế luân chuyển hàng hóa và dịch vụ sản xuất từ địa điểm này sang tiêu dùng tại địa điểm khác. Đặc tính này tạo cho người tiêu dùng khả năng hưởng thụ các sản phẩm tại đất nước mình không có hoặc không có khả năng sản xuất. Song nếu các hàng hóa xuất khẩu được sản xuất ồ ạt theo cách thức phá huỷ môi trường nhiều hơn các loại hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng trong nước, thì đương nhiên việc sản xuất hàng hóa cho mục đích thương mại sẽ gây ra nhiều hậu quả môi trường nghiêm trọng.

- Tự do hóa thương mại có xu hướng làm tăng các hoạt động kinh tế. Điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều hơn nữa nguyên liệu, năng lượng được sử dụng vào các hoạt động kinh tế. Sự gia tăng này là cần thiết, song không nhất thiết phải duy trì thường xuyên. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, nếu năng lượng đầu vào cho mỗi đơn vị sản phẩm giảm theo thời gian thì việc mở rộng sản lượng đầu ra không dẫn tới sự gia tăng tiêu dùng năng lượng.

- Các cơ hội thương mại cũng như việc mở rộng các hoạt động kinh tế còn kéo theo nhiều thay đổi trong việc sở hữu đất đai, tài sản, cách thức sử dụng đất đai, đe dọa môi trường tự nhiên. Một mặt với mục đích tăng lợi nhuận, hàng loạt các kỹ thuật hiện đại được sử dụng trong nông nghiệp như thâm canh tăng vụ, lạm dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học đã phá huỷ cân bằng sinh thái, thúc đẩy nhanh quá trình bạc màu của đất. Mặt khác những người dân bị tước đoạt đất đai buộc lòng phải di chuyển vào các khu vực rừng núi, đồi trọc hoang vu vốn không phù hợp với các hoạt động canh tác và gây ra sự phá huỷ môi trường.

Tóm lại, tự do hóa thương mại là một xu hướng tất yếu của thời đại. Quá trình này có thể gây ra những tác động tích cực và tiêu cực đối với môi trường. Các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế đóng vai trò quyết định trong việc hạn chế các tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại đối với môi

14

- Tự do hóa thương mại trên quy mô toàn cầu sẽ bỏ qua các yếu tố môi trường giống như tình trạng tự do hóa thị trường trong nước đã thất bại khi phân bổ các nguồn tài nguyên. Nguyên nhân chính ở đây là có sự khác biệt giữa chi phí cá nhân và chi phí xã hội. Giá cả của hàng hóa và dịch vụ không phản ánh đúng giá trị cũng như mức độ khan hiếm của nó. Hay nói cách khác, tự do hóa thương mại trên quy mô lớn sẽ tạo ra thất bại của thị trường ở mức độ cao hơn và hậu quả của nó là sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên.

trường. Tuy nhiên, chúng cũng có thể tạo ra những hạn chế đối với thương mại tự do. Vấn đề cơ bản là phải có sự kết hợp hài hoà giữa hai mục đích để đạt được sự phát triển bền vững.

1.2. HỆ THỐNG CÁC QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VỀ MÔI

TRƢỜNG LIÊN QUAN ĐẾN THƢƠNG MẠI

Trong những năm gần đây, quan hệ chặt chẽ giữa thương mại và môi trường đã trở thành một vấn đề ngày càng quan trọng trong các mối quan hệ thương mại quốc tế. Nhận thức ngày càng tăng về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững các nguồn lực sẵn có đã hình thành nên các biện pháp chính sách môi trường. Các biện pháp đó thường được thể hiện dưới dạng các quy định hoặc tiêu chuẩn và được các chính phủ thực thi thông qua các công cụ pháp lý hoặc các công cụ kinh tế [20, 337].

Các công cụ pháp lý được sử dụng như là các biện pháp kiểm soát và

bắt buộc, bao gồm:

- Các tiêu chuẩn quy định những đặc tính của sản phẩm;

- Các quy định về các phương pháp sản xuất và chế biến (PPM) và các

tiêu chuẩn về ô nhiễm;

- Cấm xuất nhập khẩu các mặt hàng độc hại hoặc gây nguy hại cho sức

khỏe;

- Hạn chế xuất nhập khẩu để bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn tài

nguyên thiên nhiên;

Các công cụ kinh tế bao gồm các khoản thuế đánh vào sản phẩm độc hại hoặc gây nguy hại cho sức khỏe; phí đối với sản phẩm phế thải, các biện pháp kiểm soát dựa vào giá cả và trợ cấp môi trường [20, 349].

Việc lựa chọn sử dụng công cụ pháp lý hay kinh tế phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của một nước và được quyết định trên cơ sở từng trường hợp. Bất cứ sự lựa chọn nào cũng nên cân nhắc đến các yếu tố như tính hiệu lực về môi trường, tính hiệu quả kinh tế, chi phí và tính khả thi về mặt hành chính, tính công bằng và khả năng được xã hội chấp nhận.

- Các yêu cầu về bao bì đóng gói và nhãn mác.

trường chủ yếu được sử dụng trong thương mại quốc tế hiện nay.

15

Dưới đây sẽ xem xét một số biện pháp và công cụ chính sách môi

1.2.1. Các phƣơng pháp chế biến và sản xuất theo quy định môi

trƣờng (PPM)

Các tiêu chuẩn có thể được phân chia một cách tương đối thành hai loại: tiêu chuẩn sản phẩm và tiêu chuẩn PPM. Các tiêu chuẩn sản phẩm quy định các đặc tính của sản phẩm (như độ an toàn sản phẩm, kích thước, kiểu dáng) và các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác. Các chuẩn PPM quy định sản phẩm cần phải được sản xuất như thế nào. Các tiêu chuẩn PPM áp dụng cho giai đoạn sản xuất, nghĩa là giai đoạn trước khi sản phẩm được tung ra bán ở thị trường.

Về mặt môi trường, việc xem xét quy trình sản xuất là để giải quyết một trong 3 câu hỏi trọng tâm của quá trình quản lý môi trường: sản phẩm được sản xuất như thế nào, sản phẩm được sử dụng như thế nào và sản phẩm được vứt bỏ như thế nào và những quá trình này có làm tổn hại đến môi trường hay không.

Những quy định và tiêu chuẩn về phương pháp chế biến được áp dụng để hạn chế chất thải ô nhiễm và lãng phí tài nguyên không tái tạo. Đây là những quy định và tiêu chuẩn đối với công nghệ, quá trình để sản xuất sản phẩm nhằm đánh giá xem quá trình sản xuất có gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường hay không. Những tiêu chuẩn chế biến có thể tác động ngược lại sự cạnh tranh của ngành công nghiệp trong nước vì chúng ảnh hưởng tới các chi phí sản xuất và do đó tới sức cạnh tranh của sản phẩm. Các sản phẩm cùng chủng loại có thể được thị trường chấp nhận khác nhau nếu chúng được sản xuất trong những điều kiện khác nhau.

16

Việc áp dụng những tiêu chuẩn chế biến nghiêm ngặt sẽ làm tăng chi phí sản xuất và do đó ngành công nghiệp trong nước sẽ bất lợi hơn so với ngành công nghiệp ở các nước khác nơi có các tiêu chuẩn thấp hơn. Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy việc áp dụng các tiêu chuẩn chế biến nghiêm ngặt không dẫn đến sự thua thiệt trong cạnh tranh. Tuy nhiên đối với những khu vực hoặc các ngành công nghiệp đặc biệt, sự khác nhau về các tiêu chuẩn có thể có những tác động nghiêm trọng đối với cạnh tranh và thương mại. Vấn đề ở đây là làm cách nào để dung hoà giữa việc tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và tính cạnh tranh của sản phẩm. Do đó cần phải áp dụng một cách linh hoạt các tiêu chuẩn theo mức độ tăng dần khi mà việc áp dụng ngay lập tức các tiêu chuẩn ở mức cao có thể ảnh hưởng tới cạnh tranh.

Tiêu chuẩn PPM hiện nay được áp dụng rất khác nhau ở các nước, chính vì vậy nó có thể tạo ra những rào cản không cần thiết đối vớ i thương mại. Hiện nay việc sử dụng các tiêu chuẩn PPM trong thương mại quốc tế đang gây nhiều tranh cãi và việc áp dụng chúng nhằm vào những mục đích khác nhau. Nhiều trường hợp vì lý do môi trường, nhưng không ít trường hợp xuất phát từ mục đích bảo hộ mậu dịch. Chẳng hạn việc Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá ngừ của Mêhicô, tôm của Thái Lan vì các nước này đã sử dụng các phương pháp đánh bắt có khả năng ảnh hưởng đến loài cá heo và rùa biển. Hay Cộng hoà Liên Bang Đức cấm nhập khẩu các sản phẩm văn hoá của Phần Lan vì chúng được sản xuất từ loại giấy có nguồn gốc là gỗ rừng nguyên sinh được khai thác trái phép nhập khẩu từ Indonesia. Các tiêu chuẩn PPM được đề cập trong bộ tiêu chuẩn ISO 14000 dưới tên gọi “chu trình sống của sản phẩm”. Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) cũng đang xem xét để đưa PPM vào chương trình đàm phán mới.

1.2.2. Các yêu cầu về đóng gói bao bì

Các biện pháp quy định về yêu cầu đóng gói được áp dụng vì các lý do về môi trường gồm các biện pháp cấm sử dụng bao có chứa các chất độc hại, sử dụng các nguyên liệu bị cấm, hạn chế về khả năng tái chế hoặc loại bỏ... Ngoài ra người ta còn sử dụng các công cụ kinh tế để kiểm soát việc sử dụng

17

Vấn đề bao bì sau tiêu dùng là một trong những chủ đề quan trọng của chính sách môi trường và thương mại, bởi vì vấn đề này liên quan đến việc xử lý chất thải rắn. Người ta tính rằng 25-30% số lượng rác thải sinh ra từ một hộ gia đình tiêu biểu ở các nước châu Âu là các rác thải bao bì [11, 34]. Kinh nghiệm của các nước phát triển trong mấy thập niên vừa qua cho thấy chi phí xử lý rác thải chiếm một phần không nhỏ trong toàn bộ chi phí sản xuất. Các chính sách đóng gói bao gồm những quy định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những quy định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng... Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến những đặc tính tự nhiên của sản phẩm và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi việc đóng gói phải phù hợp với việc tái sinh hoặc dùng lại. Những quy định không phù hợp có thể bị thị trường từ chối cả nguyên liệu đóng gói và sản phẩm chứa trong bao bì. Một ví dụ minh hoạ cho trường hợp này là các hàng hoá đóng gói bằng bao bì gai từ các nước bị cấm nhập khẩu vào thị trường EU vì ở đó không có những phương tiện để tiêu huỷ chúng.

các nguyên liệu dùng để sản xuất ra các loại bao bì như thuế nguyên liệu thô, lệ phí sản phẩm.

Việc sử dụng các tiêu chuẩn về bao bì và đóng gói trong nhiều trường hợp sẽ ảnh hưởng đến cạnh tranh thương mại quốc tế. Điều này bắt nguồn từ sự khác nhau về các tiêu chuẩn và quy định, về chi phí sản xuất bao bì, các nguyên liệu dùng để sản xuất bao bì và khả năng tái chế ở các nước khác nhau.

1.2.3. Nhãn mác môi trƣờng

Những năm gần đây đã chứng kiến một sự gia tăng đáng kể trong việc sử dụng các loại nhãn mác môi trường trên sản phẩm hoặc trên bao bì sản phẩm để nhấn mạnh đến các thuộc tính và đặc điểm về môi trường của chúng. Hầu hết các nhãn mác này được sử dụng một cách tự nguyện và do nhà sản xuất hoặc người bán lẻ chủ động quyết định, nhằm mục đích tiếp thị khuyếch trương thương hiệu hàng hóa của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các nhãn hiệu đó có thể là bắt buộc. Những quy định đó nhằm để cảnh báo người tiêu dùng về tính chất độc hại của sản phẩm đối với môi trường, ví dụ như, về nồng độ chloronuorocarbon (CFC) [24, 15].

Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích thông báo cho người tiêu dùng biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi trường. Các quy định và tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái đang được sử dụng như một công cụ định hướng đối với các chính sách môi trường.

18

Các nhãn hiệu môi trường tự nguyện được sử dụng như là một kỹ thuật tiếp thị để thúc đẩy việc bán các sản phẩm trên cơ sở các thuộc tính vì môi trường của chúng. Nhãn mác môi trường có thể phân chia thành hai loại. Loại thứ nhất bao gồm các dạng nhãn mác tiếp thị vì an toàn môi trường, là loại mà thông qua đó nhà sản xuất và nhà bán lẻ muốn tuyên bố rằng sản phẩm mang nhãn mác đó có những thuộc tính hoặc chất lượng vì môi trường riêng biệt nhất định [20, 345]. Trong một số trường hợp, để đảm bảo với người tiêu dùng về độ chính xác của các tuyên bố đó, chúng sẽ được chứng nhận bởi các phòng thí nghiệm và các cơ quan thanh tra độc lập. Loại thứ hai là loại mà giấy phép sử dụng nhãn hiệu do các cơ quan được chính phủ bảo trợ, hoặc các cơ quan độc lập cấp, khi các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp thỏa mãn được các tiêu chuẩn và điều kiện của cơ quan cấp giấy phép. Các nhãn hiệu thuộc loại hai này thường được gọi là "nhãn hiệu sinh thái".

Một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống nhãn hiệu sinh thái là các tiêu chuẩn được sử dụng để cấp quyền sử dụng nhãn hiệu được đưa ra bởi một cơ quan đánh giá nhãn hiệu sinh thái. Các tiêu chuẩn đó được dựa trên cơ sở đánh giá chu trình sống của sản phẩm (LCA), một quá trình còn được gọi là phương pháp phân tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết). Theo phương pháp này, người ta sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó. Các giai đoạn này bao gồm giai đoạn tiền sản xuất (chế biến các nguyên liệu thô), sản xuất, phân phối (bao gồm đóng gói), sử dụng hoặc tiêu thụ, và loại bỏ sau khi sử dụng.

Việc sử dụng nhãn sinh thái cũng làm ảnh hưởng đến cạnh tranh thương mại quốc tế. Trong các thị trường với những sở thích của người tiêu dùng đối với những sản phẩm "xanh", tác dụng của nhãn sinh thái được coi như là một công cụ xúc tiến, đồng thời nhãn đó có thể tác động ngược lại sự cạnh tranh của những sản phẩm không dán nhãn trong cùng một chủng loại. Do đó, tuy là việc dán nhãn mang tính chất tự nguyện, nhưng các chương trình nhãn sinh thái cũng có thể ảnh hưởng đến thương mại quốc tế.

Các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng các tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái bởi vì ở đây có sự khác nhau về cách đánh giá các tiêu chuẩn chế biến và những phương pháp sản xuất. Việc xác định những tác động của dán nhãn sinh thái đối với hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển chưa được phổ biến bởi vì các nước này có rất ít sản phẩm xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn về nhãn sinh thái (gần đây việc dán nhãn mới được áp dụng cho các sản phẩm về giấy, gỗ nhiệt đới, trong tương lai sẽ đưa vào áp dụng cho hàng dệt, giầy dép) [20, 348].

Các chương trình dán nhãn sinh thái được công khai đối với các nhà cung cấp trong nước và nước ngoài và không phân biệt đối với sản phẩm sản xuất trong nước hay nhập khẩu. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định, các chương trình dán nhãn có thể có lợi cho những nhà sản xuất trong nước hơn là các nhà cung cấp nước ngoài. Vì vậy, trên thực tế đã hình thành một hàng rào cản trở đối với thương mại cho các sản phẩm nhập khẩu không dán nhãn.

19

1.2.4. Phí, thuế và các khoản thu liên quan đến môi trƣờng

Phí, thuế và các khoản thu liên quan đến môi trường thường được áp dụng nhằm 3 mục tiêu chính: (i) thu lại các chi phí để phục hồi hiện trạng ban đầu của môi trường; (ii) thay đổi cách ứng xử của các cá nhân và tập thể đối với các hoạt động có liên quan đến môi trường; và (iii) thu các quỹ cho hoạt động bảo vệ môi trường.

Các loại thuế và phí nội địa như thuế tiêu dùng, lệ phí sản phẩm, lệ phí phế thải và các lệ phí hành chính đang ngày càng được áp dụng nhiều ở các nước khác nhau nhằm mục đích hạn chế việc khai thác tài nguyên, phát tán các nguồn ô nhiễm. Thông thường người ta sử dụng thuế và phí sau đây:

Phí sản phẩm: Các loại phí này được áp dụng cho các sản phẩm gây ô nhiễm như có chứa hoá chất độc hại (xăng pha chì) hoặc có một số thành phần cấu thành của sản phẩm gây khó khăn cho việc thải loại sau sử dụng.

Phí đối với khí thải: Các loại phí này được áp dụng đối với các chất gây ô nhiễm thoát vào không khí, nước hoặc đất hoặc gây tiếng ồn. Các khoản thuế này có thể được đánh vào thời điểm tiêu thụ (trong trường hợp này tương đương với phí sản phẩm và có tác động tương tự đến thương mại) hoặc các loại thuế này có thể được thu dưới hình thức phí đối với người sử dụng để trang trải chi phí xử lý rác thải công cộng.

Phí hành chính: Các khoản phí này thường được áp dụng kết hợp cùng với các quy định để trang trải các chi phí dịch vụ của chính phủ, và có thể được thu dưới hình thức phí giấy phép, đăng ký, phí kiểm định và kiểm soát.

20

Cơ sở của việc đánh thuế hay thu phí vì mục đích môi trường được dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm và người sử dụng các nguồn lực môi trường phải chịu phí. Theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP), người gây ô nhiễm phải chịu chi phí do các cơ quan công cộng chi trả trong việc giảm thiểu, phòng chống ô nhiễm, và duy trì môi trường ở trạng thái hiện tại. Nguyên tắc người sử dụng phải trả tiền (UPP) bắt buộc những người được hưởng thụ điều kiện môi trường tốt hơn phải chịu phí để duy trì môi trường ở trạng thái nhận được. Trong khi PPP liên quan đến ô nhiễm thì UPP giải quyết việc đánh giá các nguồn lực tự nhiên đang cạn kiệt. UPP quy định giá của một nguồn lực tự nhiên cần phải phản ánh toàn bộ chi phí liên quan đến việc sử dụng nguồn lực này, bao gồm chi phí do tác động bên ngoài gắn với việc khai thác, chuyển đổi và sử dụng nguồn lực cùng với các chi phí sử dụng tương lai đã bị bỏ quên.

Lý do kinh tế cơ bản của hai nguyên tắc này là, trong khi các chi phí môi trường là các chi phí nội tại và vì thế được phản ánh trong giá, thì cơ chế thị trường cần phải khuyến khích việc chấp thuận các kỹ thuật giảm thiểu ô nhiễm và bảo tồn các nguồn lực đang cạn kiệt tới mức độ phù hợp với phát triển bền vững và giúp ngăn ngừa những bóp méo trong phân bố đầu tư và hoạt động thương mại. Việc tất cả các nước thực hiện 2 nguyên tắc này có thể tạo thuận lợi cho sự phát triển bền vững các nguồn lực của thế giới [20, 354].

1.2.5. Các biện pháp kiểm dịch động thực vật

Các biện pháp kiểm dịch động thực vật bao gồm tất cả các luật, quy định, yêu cầu và thủ tục liên quan như: các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng; các phương pháp sản xuất và chế biến; các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp thuận; những xử lý cách ly bao gồm các yêu cầu liên quan tới việc vận chuyển cây trồng và vật nuôi, hay các chất nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển; những quy định về các phương pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp đánh giá rủi ro liên quan; các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp tới an toàn thực phẩm. Những biện pháp thường được áp dụng trong thương mại quốc tế là HACCP đối với thuỷ sản và thịt [11, 23], tiêu chuẩn CODEX nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) của WTO đã quy định rõ phạm vi áp dụng các biện pháp kiểm dịch trong thương mại quốc tế [4, 55]. Trong những trường hợp đặc biệt các nước có thể áp dụng những biện pháp hạn chế thương mại để bảo vệ sức khoẻ con người và động thực vật [20, 125].

Tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đặt ra các yêu cầu liên quan chủ yếu tớ i kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm. Mục đích của các tiêu chuẩn và quy định này là nhằm bảo vệ an toàn, sức khoẻ con người, bảo vệ sức khoẻ, đời sống động thực vật, bảo vệ môi trường. Một trong những quy định quốc tế phổ biến áp dụng trong thương mại quốc tế là Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT) [20, 115]. Ngoài ra tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế đã ban hành 2 bộ tiêu chuẩn nhằm quản lý chất lượng và môi trường của các tổ chức kinh doanh: ISO 9000 về kiểm soát chất lượng hàng hoá và dịch vụ, ISO 14000 nhằm quản lý môi trường của các tổ chức kinh doanh và sản phẩm dịch vụ [19, 27].

21

1.2.6. Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm

Trên đây là một số quy định và tiêu chuẩn môi trường được áp dụng phổ biến hiện nay trong thương mại quốc tế. Một số quy định tiêu chuẩn do các tổ chức quốc tế quy định như TBT, SPS, ISO 14000, HACCP, CODEX... Một số khác là quy định và tiêu chuẩn quốc gia. Việc sử dụng các quy định môi trường trên đây về đại thể nhằm bảo vệ người tiêu dùng, động thực vật. Tuy nhiên chúng cũng có thể được sử dụng một cách trá hình nhằm bảo hộ mậu dịch, hạn chế thương mại. Trong bối cảnh gia tăng các vấn đề môi trường toàn cầu, nhu cầu về các sản phẩn thân thiện với môi trường ngày càng cao thì việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường là một trong những công cụ để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ, uy tín doanh nghiệp và quốc gia.

1.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG

ĐỐI VỚI THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ HIỆN NAY

Nhìn chung việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường có thể

ảnh hưởng đến thương mại ở những khía cạnh sau:

1.3.1. Tác động tích cực

(1) Thuận lợi trong việc tiếp cận thị trƣờng

Quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu đang thúc ép các quốc gia hạn chế và tiến tới loại bỏ các rào cản thương mại để hàng hoá và dịch vụ được di chuyển dễ dàng giữa các quốc gia, tạo nên sự tăng trưởng thương mại toàn cầu. Tuy nhiên khi các rào cản thương mại bị bãi bỏ thì các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật ngày càng có vai trò quan trọng trong cạnh tranh thương mại quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh các vấn đề môi trường toàn cầu đang có nguy cơ ngày càng gia tăng, nhu cầu người tiêu dùng về các sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng cao thì việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường ở các nước ngày càng trở nên phổ biến và bắt buộc. Trước tình hình đó, các sản phẩm thân thiện với môi trường (đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định môi trường) dễ được chấp nhận hơn so với các sản phẩm không tuân thủ các yêu cầu nói trên. Thực tế cho thấy công ty áp dụng các biện pháp quản lý môi trường tốt như ISO 14000, HACCP... dễ được khách hàng tiếp nhận hơn, uy tín cao hơn.

22

(2) Có khả năng cạnh tranh cao hơn trong tƣơng lai

Mặc dù việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy định về môi trường trong nhiều trường hợp làm tăng chi phí sản xuất, do vậy trong ngắn hạn có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hãng. Tuy nhiên, những công ty cũng như sản phẩm của họ có chứng nhận môi trường như chứng chỉ ISO 14000, nhãn sinh thái có lợi thế hơn trong việc vay vốn ngân hàng để mở rộng quy mô sản xuất, dễ tiếp cận các thị trường khó tính.

Trong tương lai, sẽ đến một thời kỳ mà nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường là thực sự khách quan, việc có chứng chỉ phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường như ISO 14001 chẳng hạn sẽ là một lợi thế đáng kể trong đấu thầu quốc tế và quốc gia, tạo uy tín và vị thế của công ty trên thị trường quốc tế, tăng khả năng thâm nhập thị trường [7, 50].

Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường sẽ đưa đến cơ hội cải thiện đáng kể tình trạng quản lý chung của doanh nghiệp, nâng cao hình ảnh, uy tín, mối thiện cảm của các nhà chức trách và người tiêu dùng đối với doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp.

(3) Làm thuận lợi hoá việc đàm phán quốc tế về các hiệp định

thƣơng mại và môi trƣờng

23

Vấn đề môi trường ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế, khu vực cũng như toàn cầu. Những vòng đàm phán gần đây trong WTO cũng như các tổ chức thương mại khu vực, các hiệp định thương mại song phương cho thấy rằng các cuộc tranh luận xung quanh chủ đề thương mại và môi trường thường gắn liền với lợi ích của các quốc gia. Trong thực tế, việc xem xét tới yếu tố môi trường đã tăng cường vai trò của các tiêu chuẩn trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế gần đây. Việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường trong các cuộc đàm phán như vậy sẽ tạo thuận lợi cho việc đưa ra nghị quyết về các vấn đề liên quan đến thương mại và môi trường. Các tiêu chuẩn môi trường có thể sử dụng như là một chỉ số của sự cam kết và mong muốn của đất nước đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường thông qua việc quản lý môi trường tốt hơn trong số các tổ chức doanh nghiệp của các nước này. Lợi thế của phương pháp tiếp cận này có sức thuyết phục cao và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển thương mại quốc

thế kỷ 21

gia [30, 21].

(4) Làm thuận lợi quá trình tự do hoá thƣơng mại

Vì các tiêu chuẩn và quy định môi trường là các tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng theo nguyên tắc thoả thuận nên các tài liệu này sẽ phục vụ cho việc thống nhất quan điểm của các nước trong cách tiếp cận của họ đối với nhãn sinh thái, quản lý môi trường và đánh giá chu trình sống. Nhận thức và cách tiếp cận thống nhất này sẽ giúp gỡ bỏ nhanh hơn các hàng rào trong thương mại và như vậy nó sẽ hỗ trợ cho quá trình thương mại tự do.

(5) Đƣợc hƣởng các chính sách ƣu đãi

Ở phạm vi quốc gia, các doanh nghiệp áp dụng những biện pháp bảo vệ môi trường thường được ưu đãi về lãi suất trong vay vốn ngân hàng, mở rộng hoạt động, được các cổ đông quan tâm. Chính phủ nhiều nước cũng đã có nhiều chính sách và biện pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp có chiến lược về môi trường rõ rệt. Ở bình diện quốc tế việc thực thi các hiệp định, công ước quốc tế về môi trường cũng như các tiêu chuẩn môi trường cũng được các tổ chức tài chính quốc tế ưu đãi về tài chính. Những dự án về môi trường thường nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính như IMF, WB. Chẳng hạn như với việc cam kết thực hiện Hiệp định Montreal, nhiều quốc gia đang phát triển đã nhận được những ưu đãi về tài chính thông qua các quỹ đa phương được xây dựng để giúp các quốc gia đang phát triển loại bỏ việc sử dụng ODS [25, 14].

1.3.2. Tác động tiêu cực

(1) Tạo ra rào cản trong thƣơng mại quốc tế

Việc sử dụng ngày càng rộng rãi các tiêu chuẩn và quy định môi trường trong thương mại quốc tế nhằm khuyến khích những sản phẩm thân thiện với môi trường có thể tạo nên rào cản thương mại phi thuế quan trong tương lai. Việc bảo hộ mậu dịch thông qua các hàng rào phi thuế quan đang được nhiều quốc gia áp dụng khi các rào cản về thuế quan buộc phải loại bỏ. Xu thế dùng các yêu cầu về hệ thống quản lý môi trường hoặc nhãn môi trường như một trong những rào cản thương mại phi thuế quan là hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai khi mà các khu vực mậu dịch tự do được thiết lập và mở rộng ở nhiều khu vực trên thế giới. Vì vậy, việc vượt qua rào cản này có thể là một

24

thách thức lớn lao đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nhiều năm tới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, nơi đang còn thiếu nhiều các điều kiện để đáp ứng yêu cầu các nhà nhập khẩu.

Như vậy, có thể thấy rằng các tiêu chuẩn và quy định quốc tế về môi trường đối với sản phẩm một mặt giúp gỡ bỏ các hàng rào trong thương mại. nhưng mặt khác nó có thể là rào cản tiềm ẩn trong thương mại mà các nước phải tính đến.

(2) Hạn chế khả năng cạnh tranh

25

Những cuộc tranh chấp thương mại liên quan đến các quy định và tiêu chuẩn môi trường gần đây cho thấy nhiều quốc gia sử dụng các biện pháp và chính sách môi trường để hạn chế nhập khẩu cũng như là một phương thức để tăng cạnh tranh xuất khẩu, tăng cường chỗ đứng trên thị trường, ngay cả khi chưa có áp lực gay gắt từ khách hàng nước ngoài. Như vậy, các biện pháp môi trường có thể được sử dụng một cách tiềm tàng như một công cụ Marketing ở cả trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ các điều kiện để áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình. Thực tế này là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nơi mà việc áp dụng các biện pháp môi trường có thể làm tăng đáng kể chi phí sản xuất, do vậy làm giảm khả năng cạnh tranh.

(3) Thách thức đối với các nƣớc đang phát triển

Thứ nhất, các công ty của các nước đang phát triển không có hệ thống quản lý tại chỗ có thể có những khó khăn đáng kể trong việc áp dụng các hệ thống quản lý phức tạp hơn.

Thứ hai, trong khi ở những nước phát triển thông tin về các quy định và luật pháp áp dụng có thể nhận được thông qua các kênh thông tin được sử dụng tốt, thì các công ty ở những nước đang phát triển có thể phải đối mặt với các chi phí cao hơn trong việc thu thập thông tin đầy đủ về toàn bộ các quy định và pháp luật phải áp dụng.

Thứ ba, trong khi ở các nước phát triển việc phân tích và đánh giá môi trường được yêu cầu thường xuyên thì các công ty ở những nước đang phát triển có thể phải chịu chi phí đáng kể trong đánh giá tác động môi trường.

(4) Thách thức đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)

Những khó khăn mà các DNVVN phải đối mặt trong việc xây dựng và áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường trước hết là thiếu các nguồn tài chính cần thiết, thiếu cán bộ có trình độ, khó tiếp cận các nguồn thông tin, khó có khả năng chịu được các chi phí có liên quan đến việc xây dựng và chứng nhận. Thứ hai, Các DNVVN khó đạt được sự giảm bớt các chi phí cho việc đầu tư vào môi trường sinh lãi. Thứ ba, Các DNVVN thiếu cơ sở hạ tầng, khả năng vật chất sẵn có cho thiết bị môi trường bị giới hạn. Thứ tư, Các DNVVN khó đạt được đầu vào với giá cạnh tranh. Thứ năm, Các DNVVN khó đảm bảo rằng nguyên liêu thô được sản xuất theo các chuẩn cứ môi trường. Thứ sáu, Chi phí thử nghiệm, giám định và kiểm định có thể là rất cao [29, 9].

1.4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU

CHUẨN VÀ QUY ĐỊNH VỀ MÔI TRƢỜNG ĐỂ PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI VÀ

BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG

1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Trong hơn ba thập kỷ qua, Thái Lan đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế đáng khâm phục. Một trong những động lực tăng trưởng chủ yếu của kinh tế Thái Lan là phát triển xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế về tài nguyên và nguồn lao động rẻ. Đó là hàng nông sản, thuỷ sản, các sản phẩm công nghiệp chế biến như da giày, dệt may. Tỷ lệ các mặt hàng xuất khẩu chế biến của Thái Lan hiện nay là hơn 70%. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Thái Lan là

26

dệt may, chế biến nông sản, thuỷ sản và sản phẩm lắp ráp công nghệ trung bình. Năm 2002 xuất khẩu thuỷ sản đạt mức kỷ lục 7,1 tỷ USD, thực phẩm đóng hộp 300 triệu USD, sản phẩm dệt gần 60 tỷ USD, máy tính 80 tỷ USD, gạo 2,5 tỷ USD, thiết bị điện 50 tỷ USD [9, 4].

Để đảm bảo phát triển bền vững, Chính phủ Thái Lan đã kết hợp các vấn đề kinh tế và vấn đề môi trường ngay từ khâu lập kế hoạch, tập trung chủ yếu vào các vấn đề môi trường quan trọng như bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu về môi trường, khuyến khích tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường, sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.

Trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực nêu trên có thể dễ dàng nhận thấy nhóm hàng nông sản, thuỷ sản, dệt chiếm tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu của Thái Lan. Đây là những mặt hàng nhạy cảm với môi trường và những bạn hàng của Thái Lan đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn môi trường. Chẳng hạn, hàng thuỷ sản đòi hỏi các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm (dư lượng độc tố - cloruaphenicol và dư lượng vi sinh) cũng như các yêu cầu về PPM – quy trình đánh bắt, bao bì đóng gói, bảo quản, vận chuyển… Thái Lan cũng đã từng bị phía Hoa kỳ, EU, Nhật Bản từ chối nhập khẩu tôm vì không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP. Đặc biệt vụ kiện giữa Thái Lan và Hoa Kỳ liên quan đến việc sử dụng các phương tiện đánh bắt tôm biển không hợp lý. Hoa Kỳ từ chối nhập khẩu tôm của Thái lan vì nước này sử dụng loại lưới đánh bắt tôm có thể đe doạ sự sống của các loài rùa biển. Tuy vụ kiện này phía Thái Lan đã thắng nhưng mất rất nhiều thời gian và chi phí để hầu kiện. Hàng dệt của Thái Lan cũng có thể bị từ chối nhập khẩu nếu sử dụng những hóa chất bị cấm như thuốc nhuộm Azo, hóa chất bị cấm ở Đức kể từ ngày 1/7/1995 [11, 45]. Tương tự một số sản phẩm khác như đồ gỗ, nông sản cũng có thể bị tẩy chay nếu không tuân thủ các yêu cầu của các nước nhập khẩu. Những ngành xuất khẩu chủ lực nói trên của Thái Lan cũng là những ngành nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao ở trong nước. Chính vì vậy, Thái Lan buộc phải áp dụng nhiều biện pháp để một mặt đối phó với những hàng rào môi trường nhằm mở rộng thương mại quốc tế, mặt khác bảo vệ môi trường trong nước.

27

Thái Lan đã áp dụng nhiều biện pháp để bảo vệ môi trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là thuỷ sản, rau quả và hàng dệt may. Những biện pháp chủ yếu được áp dụng là nâng cao hiểu biết về

môi trường cho doanh nghiệp và các nhà quản lý; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, ban hành các quy định về bao bì đóng gói, nhãn sinh thái, áp dụng các phương pháp sản xuất sạch, sử dụng các công cụ kinh tế như thuế, lệ phí môi trường; chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp như tín dụng (quỹ môi trường), cung cấp thông tin, kỹ thuật và chuyên môn, khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn môi trường như ISO 14000, HACCP, CODEX…

Hiện nay Thái Lan là một trong số các nước xuất khẩu chủ yếu tôm và cá hồi vào các thị trường có các quy định và tiêu chuẩn ngặt nghèo về môi trường như Mỹ, Nhật và EU. Ngành nuôi tôm và đánh bắt cá của Thái Lan là hai ngành có sản lượng lớn nhất trong khu vực. Trong ngành nuôi tôm, kể từ tháng 11/1992 nông dân nuôi tôm phải đăng ký với bộ Hải sản, các trang trại lớn phải xây dựng khu xử lý nước và các chất thải phải đáp ứng được tiêu chuẩn BOD áp dụng cho ngành này [27, 12]. Ngoài ra Thái Lan còn thành lập nhiều trung tâm kiểm tra chất lượng tôm xuất khẩu như dư lượng độc tố, kiểm tra chặt chẽ nguồn thuốc phòng bệnh được sử dụng. Để đảm bảo chất lượng của sản phẩm xuất khẩu, Bộ Thủy sản phối hợp với Bộ Y tế và Bộ Thương mại tăng cường các biện pháp kiểm tra dư lượng kháng sinh trong thuỷ sản xuất khẩu cũng như nguồn thuốc phòng bệnh được sử dụng. Các trung tâm khuyến ngư được thành lập với sự hỗ trợ công nghệ và chuyên gia của Chính Phủ giúp cho các hộ nuôi trồng quy mô nhỏ hiểu biết về quy trình nuôi trồng và phương pháp đánh bắt, cập nhật và cung cấp thông tin kịp thời về các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu.

Để tiếp cận thị trường EU, Thái Lan đã có những biện pháp cứng rắn trong việc tuân thủ các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm. Thái Lan kiên quyết cấm sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi (5 loại kháng sinh) vì chúng có liên quan đến bệnh ung thư, trong đó có CAP từ lâu đã là trở ngại lớn đối với xuất khẩu tôm của Thái Lan vào EU. Mọi trường hợp vi phạm đều bị đình chỉ hoạt động kinh doanh, sản xuất và bị phạt 10.000 baht. Thái Lan cũng cấm sử dụng các chất gây ô nhiễm môi trường mà EU nêu ra trong Phụ lục I của Chỉ thị 96/23/EEC. Họ xây dựng các tiêu chuẩn ngành về vùng nuôi an toàn vệ sinh thực phẩm và sạch bệnh đối với các cơ sở nuôi công nghiệp [11, 38].

28

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thái Lan cũng có một số hạn chế nhất định: (1) Thiết bị kiểm tra dư lượng kháng sinh không tương đương với

EU nên dẫn tới tình trạng nhiều lô hàng thuỷ sản, thịt gà xuất khẩu sang EU vi phạm quy định kiểm tra thú y bị EU tiêu huỷ hoặc trả lại; (2) Các doanh nghiệp thuỷ sản Thái Lan còn chậm trễ trong việc mua máy ELISA kiểm tra dư lượng kháng sinh trong hàng thuỷ sản xuất khẩu. Tính đến thời điểm này, cả nước Thái Lan mới có 5 máy ELISA, trong khi đó Việt Nam có trên 20 máy [11, 39]. Chính vì vậy dẫn tới tình trạng EU đã kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp kiểm tra tăng cường đối với thuỷ sản và thịt gà của Thái Lan Đến tháng 5/2003 EU mới bãi bỏ biện pháp kiểm tra 100% các lô hàng thuỷ sản và thịt gà xuất khẩu của Thái Lan, chuyển sang áp dụng biện pháp kiểm tra thông thường.

Công nghiệp dệt của Thái Lan là một ngành được đầu tư phát triển từ rất sớm. Mặc dù ngành này đã mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng tác hại môi trường của nó cũng rất lớn. Đó là ô nhiễm bụi, ô nhiễm nước do sử dụng nhiều loại hoá chất độc hại ở khâu nhuộm. Để hạn chế ô nhiễm môi trường và vượt qua rào cản thương mại do việc sử dụng thuốc nhuộm Azo, từ năm 1996 Thái Lan đã áp dụng nhiều biện pháp để xử lý môi trường trong ngành dệt như sử dụng thuốc nhuộm không chứa Azo. Đáp ứng yêu cầu này hàng dệt may của Thái Lan đã có sức cạnh tranh ở một số thị trường thuộc EU, đặc biệt là Đức.

Mặc dầu tỷ trọng ngành nông nghiệp của Thái Lan đang có xu hướng giảm dần, nhưng đóng góp của nó đối với nền kinh tế là rất lớn. Ngành chế biến nông sản là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Thái Lan. Tuy nhiên việc tăng năng suất cây trồng cũng đi liền với việc sử dụng chưa hợp lý quỹ đất, rừng, hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng nông sản xuất khẩu, môi trường sinh thái ở nông thôn và sức khoẻ của bà con nông dân. Trong thương mại quốc tế, việc lạm dụng quá mức thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật ở Thái Lan đã gặp phải phản ứng của Nhật Bản bằng việc hạn chế nhập khẩu rau quả. Chính vì vậy từ năm 1992, Thái Lan đã áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế ô nhiễm môi trường, nâng cao khả năng đáp ứng các quy định môi trường của nước nhập khẩu như ban hành các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm như gạo, cà phê, kiểm soát chặt chẽ nguồn thuốc trừ sâu và phân bón, quy định mức sử dụng hoá chất trong nông nghiệp, giảm trợ cấp trong nông nghiệp. Thái Lan cũng áp dụng việc dán nhãn sinh thái cho sản phẩm gỗ.

29

Ngoài ra, Thái Lan còn tham gia nhiều hiệp định quốc tế về môi trường để được hưởng các ưu đãi tài chính. Việc hạ thấp mức độ sử dụng ODS xuống

dưới mức 0,3kg/người Thái Lan đã được hưởng ưu đãi 10 năm về tài chính do quỹ quốc tế giúp các nước đang phát triển loại bỏ ODS, CFC. Tham gia rộng rãi các hiệp định thương mại đa phương cũng giúp cho Thái Lan có vị thế thuận lợi trong giải quyết các vấn đề tranh chấp thương mại liên quan đến môi trường như vụ cấm nhập khẩu cá hồi và tôm của Mỹ. Thái Lan cũng là một trong những nước đang phát triển đầu tiên áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả.

Tóm lại, Thái Lan đã có nhiều biện pháp để đối phó với các hàng rào môi trường nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thị trường. Một trong những thành công của Thái Lan là ứng phó kịp thời trước những thay đổi quy định và tiêu chuẩn của nước nhập khẩu để từ đó có những giải pháp thích hợp. Sự kết hợp hài hoà biện pháp hỗ trợ, khuyến khích với những biện pháp bắt buộc trên cơ sở pháp luật đã có tác dụng tích cực để đối phó với yêu cầu của thị trường.

1.4.2. Kinh nghiệm của Indonesia

Một trong những biện pháp được sử dụng là chính sách trợ cấp đối với các hoạt động kinh tế thân thiện với môi trường như miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị dùng để giảm ô nhiễm môi trường, trợ cấp cho các doanh nghiệp có các ứng dụng môi trường để hạn chế chi phí của họ đồng thời giúp họ có sức cạnh tranh. Indonesia còn lập quỹ quốc gia để giảm ô nhiễm. Quỹ này trợ cấp cho các doanh nghiệp để xử lý vấn đề môi trường của mình dưới dạng vay vốn. Nhờ những biện pháp như vậy mà các doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí, đầu tư cải thiện tình trạng môi trường của mình, đáp ứng các yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Chính phủ ban hành quy định: “Các dự án có tính trọng yếu về mặt môi trường phải thành lập quỹ bảo vệ môi

30

Indonesia là một trong số những quốc gia Đông Nam Á tương đối thành công trong phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu. Xuất khẩu trong nhiều năm là động lực tăng trưởng chủ yếu của quốc gia này. Hiện nay tổng kim ngạch xuất khẩu của Indonesia khoảng 60 tỷ USD [9, 24]. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, gỗ , cao su, thuỷ sản và cà phê. Như vậy, phần lớn những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Indonesia là những mặt hàng nhạy cảm với môi trường và có nhu cầu cao ở các nước nhập khẩu như EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Chính vì vậy, từ năm 1972, Chính phủ Indonesia đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, môi trường sinh thái và đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu.

trường và có giấy chứng nhận tuân thủ môi trường” và thực hiện Chương trình phát triển bền vững.

Bên cạnh chính sách hỗ trợ, Chính phủ Indonesia còn sử dụng các công cụ thị trường khác như thuế ô nhiễm, các loại phí và áp dụng ở các mức độ khác nhau các tiêu chuẩn môi trường quốc tế như ISO 14000, ISO 9000. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có được các chứng nhận về môi trường, các cơ quan chức năng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế lập các cơ sở cấp chứng nhận môi trường cho các doanh nghiệp trong nước, hỗ trợ họ về thông tin và một phần kinh phí.

Việc tham gia vào các hiệp định thương mại và môi trường thế giới cũng là một trong những biện pháp hạn chế ô nhiễm môi trường trong nước và giúp các doanh nghiệp nâng cao nhận thức về yêu cầu môi trường trong thương mại quốc tế hiện đại.

Bên cạnh những biện pháp chung để đối phó với các rào cản môi trường các nước, Indonesia đã có nhiều biện pháp cụ thể để nâng cao khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đặc biệt là thuỷ sản. Riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt hải sản, Indonesia ngoài việc quan tâm tới việc nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, còn đặc biệt quan tâm tới vấn đề

31

Việc cấp nhãn sinh thái đối với sản phẩm cũng là một cố gắng của Indonesia trong việc thích nghi dần với môi trường cạnh tranh mới. Nhãn hiệu sinh thái quốc gia Indonesia cấp cho các sản phẩm gỗ và các sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học khác. Điều này đã hạn chế được sức ép nhập khẩu gỗ từ Indonesia. Viện nhãn sinh học quốc gia Indonesia được giao nhiệm vụ tiến hành nghiên cứu các tiêu chuẩn và tiêu chí đối với hệ thống quản lý rừng có hiệu quả (Sustainable forest management). Viện này đồng thời cũng giám sát thực địa để xem các tiêu chuẩn đặt ra phù hợp với trình độ hay chưa. Hiện tại ở Indonesia đã sử dụng hai loại nhãn đối với sản phẩm gỗ: (1) dán nhãn toàn bộ căn cứ vào việc phân tích toàn bộ vòng đời sản phẩm. Tức là đánh giá tác động môi trường của sản phẩm đó từ khi còn là nguyên liệu thô cho đến khi trở thành phế liệu và (2) Nhãn sinh học đơn, tức là chỉ xác định ảnh hưởng môi trường của sản phẩm tại một giai đoạn nhất định. Tuy nhiên việc áp dụng này đã làm hạn chế thương mại ngành gỗ do tăng chi phí ở khâu chứng nhận mác sinh học và kiểm định chất lượng rừng trồng [11, 36].

nông, ngư

bảo vệ môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Indonesia đã có những chính sách, biện pháp mạnh và đồng bộ để quản lý hoạt động nuôi trồng và chế biến nông thủy sản, hạn chế tối đa mức ô nhiễm môi trường để đảm bảo sức khỏe cho người dân, nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín của hàng nông thuỷ sản xuất khẩu. Để đáp ứng tốt các quy định môi trường của các nước như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ đối với nhập khẩu hàng nông thuỷ sản, Indonesia đã triển khai thực hiện: (1) Quản lý hoạt động nuôi trồng và chế biến nông thuỷ sản chặt chẽ và thống nhất từ trung ương đến địa phương; (2) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu thức ăn, hoá chất, kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ nuôi trồng nông thuỷ sản, đặc biệt là những chất gây ô nhiễm môi trường; (3) Đầu tư thiết bị kiểm tra hiện đại; (4) Đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ kiểm tra; (5) Xây dựng quy phạm thực hành nuôi tốt (GAP) và áp dụng đại trà trong cả nước; (6) Nghiên cứu lai tạo giống thuỷ sản có năng suất, chất lượng cao, tạo ra giống thuỷ sản sạch; (7) Công tác khuyến ngư, đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến các quy định về môi trường các nước đối với hàng nông thuỷ sản nhập khẩu cho các hộ nuôi trồng nông thuỷ sản, tập huấn, chuyển giao công nghệ về nuôi trồng thuỷ sản sạch, sơ chế và bảo quản nguyên liệu cho dân; (8) Xây dựng các trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường tại các vùng nuôi [11, 37].

1.4.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Là một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, trong quá trình công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Trung Quốc phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường. Một số vấn đề do hậu quả của cơ chế tập trung để lại như chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chính sách hợp tác hoá... Một số khác phát sinh do quá trình tự do hoá thương mại nhanh chóng. Cụ thể: các nguy cơ thiên tai như lũ lụt và hạn hán, các vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí do sử dụng các nhiên liệu có chứa nhiều lưu huỳnh dẫn đến mưa a xít, ô nhiễm nguồn nước do khí thải công nghiệp, phá rừng, săn bắt và buôn bán trái phép động vật hoang dã. Đáp ứng yêu cầu môi trường của các nước nhập khẩu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu cũng là một vấn đề được Trung Quốc coi trọng. Bởi vì nhiều mặt hàng xuất khẩu hiện nay của Trung Quốc nhạy cảm với môi trường.

32

Chiến lược phát triển bền vững của Trung Quốc được triển khai từ đầu thập niên 90 thế kỷ 20 được thể hiện một cách rõ nét trong Chương trình nghị

sự 21 (1993). Một số nội dung quan trọng liên quan đến thương mại và môi trường của chiến lược này là phát triển bền vững nông nghiệp, bền vững đa dạng sinh học, bền vững thương mại. Chiến lược này được xây dựng trên cơ sở xuất phát từ mối liên hệ tổng thể giữa môi trường và phát triển, mục tiêu là sự phát triển hài hoà giữa kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật với dân số, tài nguyên và môi trường với tiền đề giữ vững tốc độ phát triển kinh tế cao, thực hiện việc sử dụng tổng hợp và lâu dài tài nguyên, không ngừng cải thiện chất lượng môi trường, không những làm cho người Trung Quốc đương đại có thể lấy từ kho tài sản quý giá của thiên nhiên những gì mà mình cần, đồng thời còn để lại cho đời sau môi trường sinh thái và tài nguyên để họ có thể tiếp tục sử dụng những gì mà họ cần [16, 687-688].

Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các chính sách thương mại và chính sách môi trường của Trung Quốc đảm bảo phát triển bền vững tập trung chủ yếu vào một số vấn đề như quản lý xuất nhập khẩu hạn chế suy thoái môi trường, nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường để mở rộng xuất khẩu, quản lý lưu thông trong nước. Cụ thể:

- Kiểm tra giám sát hoạt động thương mại gây ô nhiễm. Để quản lý xuất nhập khẩu các sản phẩm ảnh hưởng đến môi trường, Trung Quốc ban hành quy định về kiểm nghiệm, kiểm dịch hàng xuất nhập khẩu. Các quy định trong lĩnh vực này gồm (i) Hàng miễn kiểm nghiệm, kiểm dịch (ii) Hàng liên quan đến an toàn vệ sinh và có yêu cầu đặc biệt bắt buộc kiểm nghiệm, kiểm dịch (iii) Quy định về chế độ giấy phép an toàn chất lượng (iv) Các quy định về vệ sinh y tế tại cảng, cửa khẩu. Danh mục những mặt hàng thuộc diện kiểm nghiệm, kiểm dịch được quy định khá cụ thể và chi tiết.

33

- Quản lý xuất nhập khẩu. Quy chế quản lý xuất nhập khẩu của Trung Quốc quy định danh mục hàng hoá xuất khẩu có ảnh hưởng đến môi trường như hàng cấm xuất nhập khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu, hàng xuất nhập khẩu theo hạn ngạch. Chẳng hạn, danh mục cấm xuất khẩu quy định 4 nhóm hàng là xương hổ, động vật hoang dã chưa hoặc đã qua chế biến, sừng tê giác, thuốc phiện và chất gây nghiện, chất nổ; 68 mặt hàng đã qua sử dụng, 54 mặt hàng quản lý bằng giấy phép. Quy định về danh mục cấm hoặc hạn chế nhập khẩu của Trung Quốc cũng rất cụ thể gồm 18 nhóm hàng và 644 mặt hàng [6, 47]. Quy chế cũng quy định những đối tượng được phép xuất nhập khẩu. Quy chế này còn quy định hạn ngạch một số mặt hàng xuất nhập khẩu nhạy cảm đối với môi trường như nông sản, thuỷ sản, hoá chất…

- Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn môi trường. Nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng nông sản, thuỷ sản, công nghiệp chế biến, Trung Quốc đã khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như HACCP, ISO 14000…., đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất, đóng gói, vận chuyển và bảo quản hàng xuất khẩu, phổ biến công nghệ sạch, năng lượng sạch cho các cơ sở sản xuất, cung cấp cho họ thông tin kịp thời về yêu cầu của nước nhập khẩu. Hệ thống nhãn hiệu xanh, thực phẩm xanh (green food) đã được áp dụng. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, đồng thời thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững Trung Quốc đã áp dụng chính sách “Hộp xanh” và “Hộp vàng” trong nông nghiệp. Đối với nhóm nông sản được hưởng chính sách Hộp xanh, Nhà nước tăng cường hỗ trợ như giảm thuế, hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ tầng. Đối với nhóm được hưởng chính sách Hộp vàng, Nhà nước chuyển trợ cấp ở khâu lưu thông sang các khâu liên quan đến quá trình sản xuất, chế biến như ưu đãi vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, năng lượng.

Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc còn sử dụng các chính sách thuế để hạn chế khai thác tài nguyên, quy định các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có điều kiện để bảo vệ môi trường trong nước, tăng cường hợp tác giữa các Bộ ngành trong vấn đề bảo vệ môi trường…

Nhìn chung, hệ thống chính sách về thương mại và môi trường của Trung Quốc tương đối đầy đủ và toàn diện. Tuy nhiên tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn gia tăng. Điều này có nguyên nhân do nhận thức của người tiêu dùng, doanh nghiệp và những người thực thi chính sách về môi trường còn yếu kém, quá coi trọng mục tiêu kinh tế, phát triển kinh tế bằng mọi giá. Phát triển kinh tế quá nóng ở Trung Quốc hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề môi trường cấp bách đối với Trung Quốc.

Bảng 1.1: Đánh giá mức độ quan tâm của các nƣớc đối với các biện pháp nâng cao khả năng đáp ứng tiêu chuẩn môi trƣờng trong xuất khẩu

Thái Lan

Indonesia

Trung Quốc

Giáo dục ý thức cộng đồng

x x x

x x

x

34

Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia

Nhãn sinh thái

x

x x x

x x

x x x

x x x

x x

Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm ( VSATTP)

PPM

x x

X x

x

Bao bì đóng gói

x x x

x x x

x x

Công cụ kinh tế

x x x

x x x

x x x

Hỗ trợ doanh nghiệp

x x x

x x

x x

Đổi mới công nghệ

x x

x x

x x

Đẩy mạnh hội nhập quốc tế

x x x

x x

x x x

Ghi chú: x x x - Rất chú trọng; x x - Chú trọng; x- Ít chú trọng

1.4.4. Bài học đối với Việt Nam

Từ kinh nghiệm của các nước về việc nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường nhằm mở rộng thương mại quốc tế, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau:

- Giáo dục ý thức cộng đồng và nâng cao nhận thức về môi trường đối

với các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia trên cơ sở các yêu

- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thông tin, khả năng tiếp cận

nguồn vốn và dịch vụ môi trường và nguồn nguyên liệu sạch.

- Đẩy mạnh đàm phán quốc tế nhằm hội nhập sâu hơn vào các tổ chức thương mại và môi trường để có thể tham gia rà soát hiệp định, xây dựng tiêu chuẩn quốc tế và tận dụng quyền nhận xét các quy định và tiêu chuẩn quốc tế, giải quyết các tranh chấp thương mại và môi trường trong buôn bán quốc tế.

cầu quốc tế và đặc thù trong nước.

35

- Đầu tư đổi mới công nghệ, đặc biệt là công nghệ chế biến và bảo quản để hạn chế ô nhiễm trong quá trình sản xuất, loại bỏ độc tố và dư lượng vi sinh trong sản phẩm. Tuân thủ các quy trình vận chuyển, bảo quản, đóng gói để

nâng cao yêu cầu vệ sinh thực phẩm. Giải pháp này, một mặt làm giảm giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng do đáp ứng được các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu về bao bì đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế biến.

- Từng bước áp dụng các phương pháp sản xuất sạch, phát triển nông nghiệp hữu cơ, chuyển đổi giống cây con theo hướng năng suất cao và bảo tồn, phát triển đa dạng sinh học.

- Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của

các quy định tiêu chuẩn và quy định môi trường của sản phẩm.

- Đào tạo nguồn nhân lực.

- Phối hợp giữa các cơ quan trong việc ban hành, thực thi, giám sát, kiểm tra và giải quyết tranh chấp các vấn đề về thương mại và môi trường là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để thúc đẩy tăng trưởng thương mại và bảo vệ môi trường.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường để tranh

thủ kỹ thuật, chuyên gia và kinh phí.

- Sử dụng các công cụ kinh tế để hạn chế việc sử dụng và khai thác quá

mức các nguồn lợi môi trường.

- Xây dựng các luật về môi trường đối với sản phẩm như Luật bao bì

36

đóng gói, Luật nhãn sinh thái, Luật vệ sinh an toàn thực phẩm…

CHƢƠNG II

KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

2.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM

QUA VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC KHÍA CẠNH MÔI TRƢỜNG

CỦA SẢN PHẨM XUẤT KHẨU

2.1.1. Đánh giá khái quát về thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt

Nam thời kỳ 1991 - 2003

Xuất khẩu hiện nay là một trong những trụ cột chính của nền kinh tế Việt Nam, chiếm hơn 50% GDP (năm 2003) [1, 2]. Tăng trưởng xuất khẩu trong nhiều năm là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế, góp phần tích cực vào giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách như tăng việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thúc đẩy quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

Trong thời gian qua, xuất khẩu đã đạt được những thành tựu sau đây:

- Tăng trưởng xuất khẩu đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP. Tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 1991-2003 cao hơn tốc độ tăng GDP hơn 2,5 lần. Tỷ trọng xuất khẩu trên GDP tăng từ 21% năm 1991 lên 53% năm 2003.

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 – 2003

Kim ngạch

Tốc độ tăng

Tốc độ tăng

GDP

XK so GDP

Năm

XK

xuất khẩu

GDP* (% )

(tr. USD)

(% )

(tr. USD)

(% )

1991

6,0

2.087

-13,2

15.620

13,4

1991

6,0

2.087

-13,2

15.620

13,4

1992

8,6

2.581

23,7

16.970

15,2

1993

8,1

2.985

15,7

18.340

16,3

37

1994

8,8

4.054

35,8

19.960

20,3

1995

9,5

5.449

34,4

21.850

24,9

1996

9,3

7.255

33,1

23.880

30,4

1997

8,2

9.185

26,6

25.840

35,5

1998

5,8

9.361

1,9

27.340

34,2

1999

4,8

11.540

23,3

28.650

40,3

2000

6,7

14.455

25,3

30.570

47,3

2001

6,8

15.029

3.8

32.650

46,0

2002

7,04

16.702

11,2

34.950

47,7

2003

7,24

19.870

18,9

37.480

53,0

Nguồn: [17, 67] [1, 5]

38

Cơ cấu xuất khẩu có sự chuyển dịch tích cực: tăng dần tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Tỷ trọng hàng xuất khẩu công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 13,5% năm 1992 lên 43% năm 2003. Giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản (từ 33,4% năm 1991 xuống 26,7% năm 2003; giảm mạnh tỷ trọng nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản (từ 52,2% năm 1991 xuống 29,4% năm 2003). Điều này thể hiện chất lượng tăng trưởng của xuất khẩu đã có cải thiện đáng kể phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu, chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam do Chính phủ đề ra và xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới.

Bảng 2.2: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 2003 (%)

199

199

199

199

199

199

200

200

200

200

1

5

6

7

8

9

0

1

2

3

Công nghiệp nặng

33,4 25,3 28,7 28,0 27,9 31,3 35,6 34,9 32,3 29,4

và khoáng sản

Công nghiệp nhẹ

14,4 28,4 29,0 36,7 36,6 36,3 34,3 35,7 37,6 43,0

và tiểu thủ công

nghiệp

Nông, Lâm, Thuỷ

52,2 46,3 42,3 35,3 35,5 32,4 30,1 29,4 30,1 27,6

sản

Nguồn: [17, 62, 64]

- Số lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực (có kim ngạch hàng năm trên 100 triệu USD) không ngừng tăng. Năm 1991, ta mới có 04 mặt hàng như vậy. Đến năm 2003, đã tăng lên thành 11, trong đó có những mặt hàng chủ yếu là hàng chế biến liên tục xuất hiện và khẳng định dần vị trí trong cơ cấu xuất khẩu.

Bảng 2.3: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thời kỳ 1996-2003

Mặt hàng

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

Dầu thô (ngàn tấn)

8.705, 0

9.638, 0

12.145 ,0

14.881 ,9

15.423 ,5

16.731 ,6

16.879 ,0

17.169 ,0

Dệt may (triệu USD)

1.150, 0

1.503, 0

1.450, 0

1.745, 2

1.891, 9

1.975, 4

2.752, 0

3.630, 0

530,0

Giày dép (tr. USD)

978,0 1.031, 0

1.387, 1

1.471, 7

1.578, 4

1.867, 0

2.225, 0

Thuỷ sản (tr.

697,0

782,0

858,0

973,6

1.478,

1.816,

2.023,

2.217,

5

4

0

0

USD)

39

Gạo (ngàn tấn)

3.003, 0

3.575, 0

3.730, 0

4.508, 3

3.476, 7

3.721, 0

3.241, 0

3.820, 0

Cà phê (ngàn

284,0

392,0

382,0

482,0

733,9

931,0

719,0

700,0

tấn)

Điện tử, máy tính

-

-

-

585

788,6

695,6

505,0

686,0

(tr. USD)

124

160

158

200,4

273,7

299,7

331,0

367,0

Thủ công mỹ nghệ (tr. USD)

Hạt tiêu (ngàn

25,3

24,7

15,1

34,8

37,0

57,0

77,0

74,4

tấn)

Hạt điều (ngàn

16,5

33,3

25,7

18,4

34,2

43,6

62,0

83,6

tấn)

Cao su (ngàn

194,5

194,2

191,0

263,0

273,4

308,0

449,0

438

tấn)

Rau quả (tr.

90,0

71,0

53,0

106,5

213,1

344,3

201,0

152

USD)

Than đá (ngàn

3.647,

3.454,

3.162,

3.260,

3.251,

4.292,

6.049,

7.049

tấn)

0

0

0

0

2

0

0

Chè (ngàn tấn)

20,8

32,9

33,0

36,0

55,6

67,9

75,0

60

Lạc (ngàn tấn)

127,0

86,0

87,0

56,0

76,1

78,2

105,0

83,3

Nguồn: [17, 64], [15, 127]

- Chủ trương đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, tích cực thâm nhập các thị trường mới đã được thực hiện triệt để. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 100 nước và vùng lãnh thổ. Tỷ trọng của khu vực châu Á đã giảm từ 77% vào năm 1991 xuống còn 47,6% vào năm 2003 nhờ nỗ lực khai thông các khu vực thị trường mới, đặc biệt là châu Âu (năm 2003 chiếm 21,7%), Bắc Mỹ (22,8%) [1, 4].

40

Bảng 2.4: Tỷ lệ phân bố xuất khẩu của Việt Nam năm 1995 – 2003 (%)

Thị trƣờng

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

91-

95

Châu Á

73,4

70,9

63,8

60,3

57,3

60,0

57,3

52,1

47,6

ASEAN

22,1

24,5

21,2

24,6

21,4

18,1

17,0

14,5

15,8

Nhật Bản

30,2

21,3

17,7

15,5

15,5

17,8

16,7

14,6

7,3

Hàn Quốc

3,3

7,7

3,9

2,4

2,8

2,4

2,7

2,8

14,0

Trung Quốc

5,3

4,7

5,7

5,0

7,5

10,6

9,4

8,9

2,2

Châu Âu

14,8

15,4

22,7

27,0

25,7

23,0 23,4

23,5

21,7

EU

9,6

11,0

16,8

22,0

21,5

19,6

20,0

18,9

19,1

Đông Âu

4,5

2,3

2,3

1,9

1,4

1,9

2,6

2,0

1,5

Châu Mỹ

1,7

3,3

3,7

5,8

5,2

6,6

8,9

16,3

22,8

Mỹ

1,6

2,8

3,0

4,9

4,0

5,1

7,1

14,5

20,2

Châu Phi

0,5

0,2

0,1

0,2

0,4

1,0

1,1

0.8

1,1

Châu Đại

1,1

1,0

2,2

5,2

7,3

9,0

7,1

8,1

6,8

Dƣơng

Ôxtrâylia

-

-

-

-

-

8,8

6,9

8,0

6,6

Nguồn: [17, 67], [1, 5]

2.1.2. Một số vấn đề đặt ra liên quan đến khả năng cạnh tranh của

hàng xuất khẩu Việt Nam dƣới giác độ môi trƣờng

Từ thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua có thể đưa ra một số nhận xét ban đầu về những thách thức môi trường trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam như sau:

41

- Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, tăng dần tỷ trọng hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng thô và sơ chế. Tuy nhiên hàng xuất khẩu thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, trong đó các mặt hàng nhạy cảm về môi trường như nông sản, thuỷ sản, lâm sản chiếm gần 30%. Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, ảnh hưởng đến phát triển và bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên không tái tạo.

- Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay thì đại bộ phận là các mặt hàng nguyên liệu thô và tái tạo từ thiên nhiên thuỷ sản, dầu thô, gạo, cà phê, rau quả mà việc khai thác chế biến đang gặp phải các giới hạn về cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác đánh bắt và giới hạn về môi trường như làm thu hẹp diện tích rừng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học.

- Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như gạo, đồ uống, cà phê, rau quả, thuỷ sản, khoáng sản... đang gặp phải những rào cản về môi trường rất lớn liên quan đến tiêu chuẩn của sản phẩm như tiêu chuẩn và quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, chất lượng hàng hoá, nhãn môi trường, bao bì đóng gói. Trước yêu cầu cấp thiết về bảo vệ môi trường toàn cầu, nhu cầu của người tiêu dùng về các sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng cao, đặc biệt là đối với thực phẩm, các tiêu chuẩn nhập khẩu đặt ra đối với các nước ngày càng cao hơn và nghiêm ngặt hơn đối với các mặt hàng nêu trên. Đây là thách thức môi trường rất lớn đối với Việt Nam trong việc mở rộng thương mại quốc tế.

- Nhiều mặt hàng chế biến đang có kim ngạch ngày càng tăng như dệt may, giày da, nước giải khát, chế biến thuỷ sản... Tuy nhiên với công nghệ như hiện nay, trong tương lai Việt Nam có thể gặp phải những hạn chế về môi trường khi nhiều nước áp dụng tiêu chuẩn quá trình sản xuất và chế biến hoặc quy định đối với vòng đời sản phẩm. Công nghệ sản xuất của nước ta về một số mặt hàng như cà phê, thuỷ sản, than đá, dệt may, giày da còn lạc hậu so với các nước công nghiệp hoá. Tình trạng này không những tác động tiêu cực đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu mà còn tác động xấu đến môi trường và kết quả là làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm bị hạn chế.

42

- Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai là các thị trường mà ở đó khách hàng rất quan tâm đến vấn đề sức

khoẻ và an toàn (thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Singapore...). Đây cũng là những nước có tiêu chuẩn môi trường rất cao và trong nhiều trường hợp họ sử dụng chúng để hạn chế thương mại hoặc bảo hộ mậu dịch. Do vậy, ngoài việc đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng hoá Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức rất lớn để đáp ứng các yêu cầu môi trường trong việc tiếp cận các khu vực thị trường nói trên.

- Những giới hạn về môi trường như đã phân tích trên đây đồng thời cũng chỉ ra rằng việc chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của ta hiện nay vào những mặt hàng có giá trị gia tăng cao trên cơ sở áp dụng công nghệ tiên tiến, hạn chế khai thác tài nguyên là một trong những hướng chiến lược hết sức quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, bảo vệ môi trường và tránh những rào cản môi trường trong buôn bán quốc tế.

2.2. TÌNH HÌNH ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN MÔI

TRƢỜNG QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM

2.2.1. Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trƣờng của

các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu

Để đánh giá khả năng đáp ứng các yêu cầu về môi trường nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, luận văn đã sử dụng kết quả điều tra, khảo sát do nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu thương mại thực hiện tại 50 doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nhạy cảm đối với môi trường, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: nông sản (gạo, cà phê), thực phẩm (rau quả, thuỷ sản, thịt) [19, 98] [7, 63].

Như đã phân tích ở chương I, các tiêu chuẩn và quy định quốc tế về môi trường có ảnh hưởng ngày càng tăng đối với hàng hoá xuất khẩu và việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu đang là thách thức đối với các nước xuất khẩu. Chính vì vậy ngoài việc hiểu biết về hệ thống quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường liên quan đến sản phẩm, một vấn đề hết sức quan trọng là doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp để cải tiến chất lượng môi trường của quá trình sản xuất, đóng gói, hạn chế sử dụng các chất gây độc hại đối với con người, động thực vật và việc áp dụng các biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu cần dựa trên những quy định quốc tế.

43

Nội dung đánh giá:

- Đánh giá các tiêu chuẩn môi trường của sản phẩm: Các tiêu chuẩn về nhãn sinh thái; Các tiêu chuẩn về bao bì và đóng gói; Các tiêu chuẩn liên quan đến phương pháp sản xuất, chế biến; Các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.

- Đánh giá nhận thức của các doanh nghiệp về các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu: Hiểu biết về các tiêu chuẩn môi trường, khả năng tiếp cận thông tin, các dịch vụ hỗ trợ, khả năng tài chính để cải thiện chất lượng môi trường của sản phẩm, các vấn đề vệ sinh kiểm dịch và các tiêu chuẩn kỹ thuật do các nước nhập khẩu quy định, các vấn đề về chính sách đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu; chi phí phải trả cho việc đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường và tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu; sự đối xử khác biệt của các nước nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ; sự phân biệt đối xử của nước nhập khẩu đối với các nước xuất khẩu khác nhau...

Phương pháp đánh giá:

- Khảo sát thông qua việc phỏng vấn các doanh nghiệp bằng các phiếu

điều tra

- Thu thập số liệu tại các cơ quan quản lý

(1) Đánh giá tiêu chuẩn môi trƣờng của sản phẩm

Các tiêu chuẩn về đóng gói: Vấn đề bao bì bắt đầu được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm. Kết quả khảo sát các doanh nghiệp cho thấy các nhà sản xuất đều cho rằng tiêu chuẩn về bao bì và đóng gói ảnh hưởng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, đặc biệt là hàng xuất khẩu và họ tán thành việc áp dụng các tiêu chuẩn môi trường về nguyên liệu đóng gói. Tuy nhiên, các doanh nghiệp được khảo sát chỉ mới quan tâm đến vấn đề bao bì bởi vì chất lượng bao bì ảnh hưởng đến giá cả và thị hiếu tiêu dùng của dân chúng mà chưa quan tâm đến khía cạnh môi trường của nó như bao bì có dễ thu gom hay không, có khả năng tái sử dụng được không. Rất ít doanh nghiệp có được thông tin về các quy định và tiêu chuẩn bao bì của nước nhập khẩu liên quan đến môi trường như quy định về nguyên liệu sử dụng để sản xuất bao bì, độ phân huỷ và khả năng tái sử dụng.

44

Tiêu chuẩn môi trường về nhãn sinh thái: Ở Việt Nam, tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái cho sản phẩm ít được các nhà sản xuất cũng như quản lý

45

quan tâm. Kết quả điều tra cho thấy hầu hết các đối tượng được phỏng vấn đều biết rất ít hoặc không biết về tiêu chuẩn này cũng như những đòi hỏi về tiêu chuẩn này trong buôn bán quốc tế.

Bảng 2.5: Mức độ nhận thức về nhãn môi trƣờng đối với sản phẩm

Đối tƣợng đƣợc phỏng vấn

Mức độ nhận thức

Các cơ quan chính phủ

Rất ít

Các Bộ quản lý sản xuất

Không biết

Các Bộ quản lý tổng hợp

Hầu nhƣ không biết

Các cơ quan thi hành pháp

Không biết

luật

Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài

Chƣa nhiều

Các công ty lớn trong nƣớc

Hầu nhƣ chƣa biết

Các xí nghiệp vừa và nhỏ

Không có khái niệm

Nguồn: [19, 89]

Các tiêu chuẩn về phương pháp sản xuất, chế biến: Các doanh nghiệp được điều tra hầu như không biết đến các tiêu chuẩn liên quan đến phương pháp chế biến quy định trong buôn bán quốc tế hiện nay. Có thể vì Việt Nam chưa tham gia WTO và chưa có tranh chấp thương mại nào phải xử lý liên quan đến các tiêu chuẩn này. Kết quả điều tra cho thấy công nghệ sản xuất các mặt hàng chế biến của ta hiện nay còn lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, phương pháp đánh bắt hải sản còn thô sơ. Nếu thực hiện các cam kết quốc tế, nhất là các quy định của WTO, Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, hàng Việt

46

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, việc có được chứng nhận nhãn môi trường đối với sản phẩm ở Việt Nam là một vấn đề khó khăn. Điều này cũng dễ hiểu vì cho đến nay có rất ít các doanh nghiệp được cấp chứng nhận nhãn môi trường theo tiêu chuẩn của ISO 14000. Trong số các doanh nghiệp được điều tra chưa có doanh nghiệp nào đủ tiêu chuẩn để đăng ký chứng nhận nhãn môi trường. Các doanh nghiệp được phỏng vấn đều cho rằng họ chưa gặp phải trở ngại lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm liên quan đến nhãn sinh thái và để có được chứng nhận này đòi hỏi chi phí cao vượt quá khả năng hiện nay của doanh nghiệp.

Nam có thể bị từ chối vì vi phạm các tiêu chuẩn PPM như một số trường hợp của Thái Lan, Mêhicô, Phần Lan...

Các tiêu chuẩn quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng chế biến rất quan tâm đến các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu hải sản, rau quả, thịt, lương thực chế biến. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị hiện đại để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp này cũng am hiểu các quy định, các yêu cầu của nước nhập khẩu thông qua các kênh thông tin của Bộ Thương mại và ngành chủ quản cũng như khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên một số doanh nghiệp cho rằng hạn chế về vốn đầu tư và chi phí giá thành cao do áp dụng các công nghệ xử lý độc tố và côn trùng trong sản phẩm là những khó khăn của họ trong việc có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu.

(2) Đánh giá nhận thức của các doanh nghiệp về các yêu cầu môi

trƣờng của nƣớc nhập khẩu

Qua kết quả điều tra các doanh nghiệp và tìm hiểu các quy định của nước nhập khẩu có thể nhận thấy một số vấn đề doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần quan tâm liên quan đến các yêu cầu môi trường của nước xuất khẩu:

- Tất cả các doanh nghiệp đều cho rằng các yêu cầu chất lượng của các nước nhập khẩu là rất cao. Tuy nhiên, không có sự đánh giá cụ thể về các quy định được áp dụng (ví dụ tính thích hợp của các quy định đó; các quy định có được dựa trên các cơ sở khoa học hay bị áp đặt một cách tuỳ tiện v.v..). Các doanh nghiệp hầu như đều cố gắng thực hiện tốt nhất các yêu cầu của nhà nhập khẩu.

47

- Phần lớn các doanh nghiệp được khảo sát biết rất ít về các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường quốc tế, mặc dù họ đang phải đáp ứng hàng ngày rất nhiều loại yêu cầu về chất lượng của các khách hàng. Đối với họ, các yêu cầu về vệ sinh an toàn động thực vật, tiêu chuẩn môi trường, yêu cầu kỹ thuật, mẫu mã và bao gói sản phẩm đều thuộc phạm trù chất lượng sản phẩm. Đôi khi việc cải tiến chất lượng sản phẩm được hiểu một cách đơn giản là việc nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm và bao bì chứ không tập trung cụ thể vào các tiêu chuẩn môi trường, yêu cầu vệ sinh an toàn động thực vật (SPS) hay các khía cạnh kỹ thuật khác.

- Một số đông các doanh nghiệp cho rằng chất lượng dịch vụ và các loại yêu cầu khác của các nước nhập khẩu đã gây ảnh hưởng đến việc thâm nhập thị trường của họ, ví dụ như chậm giao hàng, phí dịch vụ cao, quy trình kiểm tra ngặt nghèo, nhiều thủ tục được áp dụng tùy tiện không dựa trên những căn cứ khoa học.

- Yêu cầu chất lượng của các nước nhập khẩu là rất khác nhau. Mỗi nước có hệ thống tiêu chuẩn riêng và kết quả là các doanh nghiệp Việt Nam phải thích nghi để đáp ứng yêu cầu của mỗi loại tiêu chuẩn. Điều này trong một số trường hợp đã hạn chế khả năng mở rộng thị trường của các doanh nghiệp vì hệ thống sản xuất của họ không đủ linh hoạt để đáp ứng với tất cả các loại yêu cầu đặc thù của các nước bạn hàng.

- Tất cả các doanh nghiệp đều cho rằng chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế và họ rất chú trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Cho đến nay, cách tốt nhất mà các doanh nghiệp tìm được để nâng cao chất lượng phẩm là áp dụng công nghệ tiên tiến và các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại như lSO 9000 (ISO 14000 vẫn còn chưa trở thành xu thế, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam).

- Các biện pháp môi trường được thực hiện khác nhau ở mỗi doanh nghiệp. Một vài doanh nghiệp tự đưa ra các hệ thống quản lý chất thải và kiểm soát ô nhiễm không khí của riêng mình trong khi một số các doanh nghiệp khác lại nhập khẩu các dịch vụ này từ nước ngoài. Tuy nhiên, để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả, một số doanh nghiệp có thể phối hợp với các nhà chức trách địa phương để nâng cấp hệ thống quản lý chất thải của mình một cách tự nguyện. Hơn thế nữa, Chính phủ cũng đã ban hành hướng dẫn trong đó qui

48

- Các doanh nghiệp hầu như không có thông tin về các Hiệp định môi trường đa phương (MEA) hoặc các quy định của WTO liên quan đến môi trường. Vấn đề môi trường mới chỉ được doanh nghiệp đề cập đến dưới góc độ bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất (ví dụ như vấn đề xử lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm không khí, vệ sinh nơi làm việc v.v...). Tất cả các chủ doanh nghiệp đều phải trình các chứng chỉ về môi trường khi yêu cầu thành lập một doanh nghiệp để chứng tỏ các doanh nghiệp này có khả năng giải quyết các vấn đề môi trường trong hoạt động của mình.

định tất cả các doanh nghiệp phải đưa các biện pháp quản lý môi trường vào kế hoạch phát triển ngắn hạn hoặc dài hạn của mình.

- Nhận thức về nhu cầu phải nâng cao chất lượng sản phẩm là tương đối phổ biến trong số các doanh nghiệp được khảo sát. Ưu tiên được dành cho việc tập trung vào bản thân chất lượng, nâng cao thời hạn sử dụng bằng cách làm theo các phương pháp bảo quản và chế biến sau thu hoạch một cách thích hợp. Nâng cao chất lượng bao bì của sản phẩm cũng được coi là ưu tiên trong việc cải thiện việc đáp ứng nhu cầu.

2.2.2. Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trƣờng của một số mặt

hàng xuất khẩu Việt Nam

Các nhóm sản phẩm được lựa chọn xem xét bao gồm: Thuỷ sản, gạo, cà phê, rau quả, thịt. Lý do để lựa chọn phân tích về khả năng cạnh tranh thương mại của những nhóm sản phẩm này dưới tác động của các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế là: (i) đây là các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (ngoại trừ mặt hàng thịt), chiếm gần 30% tổng giá trị xuất khẩu trong năm 2003; (ii) đây là các sản phẩm thuộc các ngành được coi là có khả năng cạnh tranh thương mại quốc tế ; (iii) và theo kinh nghiệm của một số nước, thì những sản phẩm này là những sản phẩm có thể bị ảnh hưởng nhiều nhất dưới tác động của các khía cạnh về môi trường trong các hiệp định thương mại và môi trường quốc tế.

(1) Thuỷ sản

49

Trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đã mang lại nhiều lợi ích đối với nước ta như tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, tạo thêm công ăn việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo cho dân cư vùng ven biển. Hiện nay, thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm 12% tổng kim ngạch xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1997-2003 là 20%. Giá trị kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu năm 2003 đạt 2.240 triệu USD gấp 3 lần so với năm 1997 [3, 24]. Hàng thuỷ sản Việt Nam đã xuất hiện ở 75 nước và vùng lãnh thổ. Trong đó, bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật, EU và Trung Quốc chiếm trên 3/4 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu đây là một trong những mặt hàng có khả năng cạnh tranh của Việt Nam hiện tại cũng như trong những năm tới. Theo dự báo của Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu

thuỷ sản của Việt Nam sẽ đạt 2500 triệu USD năm 2005 và 3.500 triệu USD vào năm 2010 [1, 27].

Bảng 2.6: Xuất khẩu thủy sản thời kỳ 1997-2003 (Triệu USD)

Năm

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

Kim ngạch

782

858

974

1.479

1.778

2.077

2.300

Nguồn: [15, 87], [1, 5]

Mặc dù thuỷ sản là mặt hàng được người tiêu dùng ưa thích đặc biệt là người tiêu dùng ở các nước phát triển, tuy nhiên, đây là sản phẩm có yêu cầu rất cao về các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ và môi trường. Bởi vì:

- Thuỷ sản chứa đựng những nguy cơ gây ra các bệnh hiểm nghèo cho người. Theo thống kê của Mỹ, trong các trường hợp ngộ độc do thực phẩm thì có tới 10% vụ do thuỷ sản gây ra [28, 19]. Do đó, việc đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh cho sản phẩm thuỷ sản là yếu tố quyết định cho việc phát triển thương mại thuỷ sản.

- Phát triển thương mại thuỷ sản, phát triển đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản tác động tiêu cực đối với môi trường sinh thái. Do đó việc bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi và sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản là một trong những vấn đề được các nước xuất khẩu thuỷ sản hết sức quan tâm.

- Tính khả dụng: Bao gồm các chỉ tiêu về màu sắc, mùi, vị, cơ cấu và các thành phần đạm, mỡ, khoáng... phản ánh mức độ dinh dưỡng của sản phẩm.

- Tính trung thực về kinh tế: Được xác định qua khối lượng, kích cỡ,

chủng loại, ghi nhãn...

- An toàn vệ sinh: Quy định các chỉ tiêu có hại cho sức khoẻ người tiêu dùng và giới hạn được phép có trong thuỷ sản. Riêng nhóm chỉ tiêu này các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của các nước đã thực hiện kiểm soát nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn về sức khoẻ cho người tiêu dùng.

50

Một trong những yếu tố quan trọng nhất tạo ra sức mạnh cạnh tranh cho sản phẩm thuỷ sản là chất lượng sản phẩm, được thể hiện qua 3 nhóm chỉ tiêu là:

An toàn vệ sinh được đánh giá qua các chỉ tiêu:

- An toàn: Dư lượng kim loại nặng (Hg, Pb, Cd): dư lượng thuốc trừ sâu; dư lượng kháng sinh và các độc tố sinh học có trong sản phẩm phải nhỏ hơn mức giới hạn cho phép.

- Vệ sinh: Yêu cầu về tổng số vi khuẩn và vi sinh vật gây bệnh (E. Coli Staphiloccus, Salmonella, Shigela, Vibrio, Cholera,...) dưới mức giới hạn hoặc không được có trong sản phẩm.

Các tổ chức quốc tế và các thị trường nhập khẩu thuỷ sản chính trên thế giới như FAO, EU, Nhật Bản, Mỹ... đều yêu cầu rất khắt khe về đảm bảo an toàn vệ sinh thuỷ sản và các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh, loại trừ các mối nguy dẫn đến mất an toàn vệ sinh thuỷ sản.

Thị trường EU: Hiện nay EU có 72 văn bản luật quy định các vấn đề liên quan đến an toàn vệ sinh thuỷ sản. Một nước xuất khẩu thuỷ sản (nước thứ 3) muốn xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản vào cộng đồng cần đáp ứng được 3 điều kiện tương đương: 1. Tương đương về Luật lệ kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thủy sản; 2. Tương đương về năng lực của cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh thuỷ sản, trong đó quan trọng nhất là năng lực kiểm soát quá trình; 3. Tương đương về điều kiện an toàn vệ sinh của cơ sở sản xuất thuỷ sản bao gồm từ khai thác, nuôi trồng, vận chuyển, bảo quản, chế biến thuỷ sản [26, 34].

Trong những năm qua, để đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh và an toàn thực phẩm hải sản, ngành thuỷ sản đã áp dụng nhiều biện pháp để tăng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trước năm 1994, Việt Nam chỉ đạt không quá 1,5% hàng thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường EU. Đến nay Việt Nam đã lần lượt vượt qua 3 rào cản của EU. EU cũng đã công nhận Việt Nam đảm bảo độ tin cậy trong kiểm soát dư lượng đối với thuỷ sản nuôi (Quyết định 159-2/2000) [11, 45]. Ngoài ra thuỷ sản của Việt Nam cũng được các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ôxtrâylia chấp nhận. Đến hết năm 2003 đã có thêm 45 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản được công nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đưa tổng số doanh nghiệp được công nhận lên 177 doanh nghiệp trong tổng số 332 cơ sở. Số các đơn vị có Code vào

51

Thị trường Mỹ: Yêu cầu nước nhập khẩu phải có một cơ quan thẩm quyền duy nhất có đủ năng lực kiểm soát quá trình sản xuất thuỷ sản. Các xí nghiệp đăng ký xuất thuỷ sản vào Mỹ đều phải xây dựng và áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP [2, 21].

châu Âu là 100 (với 62 doanh nghiệp đã công nhận trước đây, 32 doanh nghiệp vừa được công nhận thêm từ 3/7/2003 và 6 doanh nghiệp mới được EU bổ sung trở lại) [3, 71]. Có 161 doanh nghiệp được Cục Quản lý chất lượng thực phẩm Hàn Quốc chấp thuận cho xuất khẩu sản phẩm vào thị trường nước này [3, 71]. Bộ Thuỷ sản đang triển khai thực hiện chứng nhận doanh nghiệp xuất khẩu hàng thuỷ sản vào Trung Quốc theo quy định mới về nhập khẩu thuỷ sản của nước này, trong đó phần lớn là yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm theo Hiệp định SPS của WTO mà Trung Quốc cam kết thực hiện. Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản và Uỷ ban nhân dân một số tỉnh đã ban hành quyết định nghiêm cấm các cơ sở sản xuất, chế biến tôm bơm tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản. Đồng thời thành lập ban chỉ đạo kiểm tra và thiết lập đường dây nóng để thu thập và xử lý thông tin. Đã nghiên cứu đề xuất chất thay thế kháng sinh Chloramphenicol và Nitrofurans cấm sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản. Công tác quản lý môi trường và phòng ngừa dịch bệnh được tăng cường với sự phối hợp của các viện, trung tâm nghiên cứu của Bộ Thuỷ sản với các địa phương. Dự báo kịp thời những xu hướng dịch bệnh cho ngư dân.

Công tác quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm có những cải thiện đáng kể. Đến nay đã có 100 doanh nghiệp được công nhận trong danh sách của EU (tăng 310% so với năm 2000) [3, 71].

Đối với các cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn đảm bảo VSATTP ngành thủy sản, việc áp dụng HACCP là nội dung bắt buộc. Tuy nhiên, việc áp dụng HACCP trong các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu còn mang nặng tính hình thức, đối phó với các thị trường nhập khẩu, với cơ quan kiểm tra. Đa số các doanh nghiệp chưa quan tâm đầy đủ việc áp dụng thực sự HACCP tại cơ sở và thực sự coi HACCP là biện pháp hữu hiệu để quản lý chất lượng & VSATTP đối với sản phẩm do cơ sở sản xuất, từ đó dẫn đến nhiều lô hàng bị hủy bỏ hoặc bị trả về do không đạt yêu cầu. Theo Bộ thủy sản, trong năm 2001, đã có 44 lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị EU cảnh báo về chất lượng

52

Chủ trương khuyến khích đánh bắt thuỷ sản xa bờ và đầu tư tàu thuyền và phương pháp đánh bắt hiện đại đã hạn chế được sự suy giảm tài nguyên biển, bảo tồn sinh vật biển và các loài cá con. Phương pháp nuôi trồng được giám sát kịp thời nên môi trường nuôi trồng phần nào được cải thiện. Theo thông tấn xã Việt Nam ngày 21/10/2003, nhiều ngư dân ở Cà Mau đã đầu tư vốn để khôi phục lại diện tích rừng đước bị mất nhằm bảo vệ môi trường đất ngập mặn đồng thời nâng cao hiệu quả của sản xuất tôm [14, 15].

(trong đó có 34 lô bị phát hiện nhiễm chất chloramphenicol; 7 lô hàng bị Văn phòng thú y Thuỵ Sĩ phát hiện có dư lượng chloramphenicol và oxytetracylin với khối lượng thống kê chưa được đầy đủ là 359,76 tấn). Số lô hàng này được thông báo của 31 doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang Hà Lan (8 lô), Pháp (9 lô), Đức (5 lô), Thuỵ Sĩ (7 lô). Hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ còn đáng lo ngại hơn: có tổng số 340 lô bị cảnh báo... [11, 46].

So với các năm trước, khi nhiều lô hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, EU, Ôxtrâylia bị từ chối bởi không đảm bảo các điều kiện vệ sinh. Trong năm 2003, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu đã chú trọng tới yếu tố môi trường nhằm nâng cao khả năng tiếp cận. Chất lượng hàng xuất khẩu của ta đã có sự cải thiện đáng kể, đặc biệt là những mặt hàng nhạy cảm với môi trường như thực phẩm, thuỷ sản, nông sản, rau quả. 6 tháng đầu năm 2003 có 95 lô hàng của ta đã bị phía đối tác cảnh báo về vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm (Hoa Kỳ 56 lô, EU 25 lô, Nhật Bản 14 lô) [3, 71]. Tuy nhiên 6 tháng cuối năm số lô hàng bị cảnh báo không đáng kể, phần lớn hàng thuỷ sản xuất khẩu của ta vào thị trường Hoa Kỳ đã đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh của khách hàng. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng chế biến đã có sự đổi mới công nghệ, tuân thủ các yêu cầu về vệ sinh, an toàn và môi trường.

53

Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng việc xuất khẩu hải sản của Việt Nam cũng đang gặp phải những khó khăn liên quan đến việc đáp ứng các yêu cầu về VSATTP. Bên cạnh việc tuân thủ các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm theo các quy định của nước nhập khẩu, vấn đề phát triển thuỷ sản hiện nay đang đối mặt với các vấn đề môi trường cấp bách trong nước. Thứ nhất, là làm thu hẹp diện tích rừng ngập mặn (rừng đước) và suy giảm nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên ở đây. Trong một thập kỷ qua, mối đe doạ lớn nhất cho cây đước là việc nuôi tôm. Trong hơn năm thập kỷ qua, Việt Nam đã mất đi ít nhất 200.000 ha rừng đước (diện tích hiện tại là 156.608 ha) [3, 25]. Những hậu quả của việc đánh mất rừng đước là làm bờ biển bị xói mòn và ngập lụt, làm thay đổi mô thức tưới tiêu tự nhiên, làm cho nước mặn tiến sâu vào các dòng sông và làm mất chỗ náu của nhiều loài thuỷ sinh, đe dọa nghiêm trọng đến bảo tồn đa dạng sinh học và an ninh lương thực. Ngoài ra mất rừng đước còn làm xấu đi môi trường nuôi trồng thuỷ sản, giảm năng suất và chất lượng thuỷ sản, làm mất đi cơ hội kiếm sống của cư dân nghèo do mất nơi cư sinh của cua con, cá măng, cá phèn, sao biển… Tại Thái Lan ước tính cứ mỗi kg tôm sản xuất ra,

ngư trường giảm mất 434g cá do sự chuyển đổi nơi cư trú. Ở Malaysia, ngư dân cho biết thu nhập của ngư dân đã giảm đi một phần sáu so với 2-3 năm trước đây khi chưa nuôi trồng tôm trên quy mô lớn. Ở vùng Chokoria của Bănglađét, ngư dân cho biết sản lượng đánh bắt giảm 80% từ khi rừng đước bị phá và đê được đắp để khoanh vùng nuôi tôm [14, 23].

Thứ hai, khoảng 96% các dải san hô ngầm của Việt Nam hiện đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi các hoạt động của con người như các biện pháp đánh bắt cá mang tính huỷ diệt, khai thác thủy sản quá mức hoặc tình trạng ô nhiễm [10, 66]. Đặc biệt, mất rừng đước, môi trường sinh sống của san hô, cỏ biển bị thu hẹp và đe doạ do bị đất cát khoả lấp. Trầm tích có thể bao bọc và giết chết san hô, các dưỡng chất hoá học có thể làm nảy sinh và tăng trưởng các giống loài khác thay vì san hô và cỏ biển.

Thứ ba, mở rộng diện tích muôi trồng thuỷ sản ở những vùng trồng cây lương thực làm nhiễm mặn và phèn hoá đất trồng, ô nhiễm nước, đất. Nhiễm độc thuỷ ngân và các kim loại nặng ở những vùng nuôi tôm đang gia tăng. Hiện nay chỉ kiểm soát được dịch bệnh 10% diện tích nuôi trồng thuỷ sản [3, 26]. Ngày càng có nhiều sự cố cho thấy sản lượng nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại nặng nề do tình trạng ô nhiễm nước. Những lo ngại về ô nhiễm môi sinh bao gồm: môi trường thuỷ sản bị ô nhiễm dai dẳng; khả năng tồn đọng các cặn bã trong các tổ chức sống trong tự nhiên và các hải sản; độc hại đối với các loài không nằm trong diện mục tiêu bảo vệ; tác động lên các chất lắng sinh hoá địa; những vấn đề gắn với chất dinh dưỡng được làm giàu; và ảnh hưởng có thể đối với sức khoẻ của lao động trong trang trại [14, 25]. Có những quan ngại ngày càng tăng rằng các hoá chất dùng để nuôi tôm có thể tạo nên hiện tượng nhờn kháng sinh trong các tổ chức vi lượng, một số trong đó có hại cho con người hoặc cho lợi ích của con người. Những hoá chất khác sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản đã được biết hoặc nghi vấn sinh ung thư, gây đột biến hoặc phát triển dị thường. Các giống loài hoang dã hoặc con người sống lân cận các trang trại nuôi tôm có thể bị ảnh hưởng ở mức nguy hiểm từ các hoá chất đó.

Thứ tư, nuôi tôm trên cát làm ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước ngầm, gây ảnh hưởng đến nuôi trồng các loại cây khác và nguồn nước ngọt cho dân cư. Đến lượt nó, ô nhiễm nước ngầm lại ảnh hưởng đến năng suất tôm và chất lượng tôm. Khảo sát gần đây của Bộ Thuỷ sản ở Thừa Thiên Huế cho thấy việc khắc phục sự cố môi trường do việc mở rộng diện tích nuôi tôm là khó khăn và tốn kém nhiều tiền bạc [3, 27].

54

Thứ năm, chế biến thuỷ sản đang gây áp lực đối với môi trường và chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay, nước ta có hơn 300 cơ sở chế biến thuỷ sản, và khoảng 220 nhà máy chuyên sản xuất các sản phẩm đông lạnh phục vụ xuất khẩu với tổng công suất 200 tấn/ngày [3, 30]. Thiết bị và công nghệ tuy được đánh giá là có mức đổi mới nhanh so với các ngành công nghiệp khác nhưng so với thế giới vẫn bị coi là quá chậm. Đó là một trong những nguyên nhân tạo ra những tác động xấu cho môi trường. Có tới 50% số nhà máy khi xây dựng không đánh giá tác động môi trường, bố trí đặt không đúng vị trí nên phải di dời hoặc không hoạt động được. Chất thải của quá trình chế biến không được xử lý triệt để (đầu, xương, da, vây, vẩy...) ước tính khoảng 200.000 tấn/năm. Số liệu điều tra năm 2002 cho thấy, cứ 1 tấn tôm nõn đông lạnh xuất xưởng sẽ thải ra môi trường 0,75 tấn phế thải (đầu, vỏ, nội tạng), cá fillet đông lạnh 0,6 tấn, nhuyễn thể chân đầu 0,45 tấn, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ đông lạnh > 4 tấn, riêng đối với chế biến nước mắm bã chượp ước tính khoảng 0,3 tấn/1 tấn sản phẩm. Nước thải từ các nhà máy chế biến thuỷ sản có các chỉ số ô nhiễm cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn nước thải công nghiệp loại B dùng cho nuôi trồng thuỷ hải sản (TCVN 5945-1995) như BOD5 vượt từ 10 –30 lần, COD từ 9-19 lần. Nitơ tổng số từ xấp xỉ bằng tiêu chuẩn đến cao hơn 9 lần) [3, 31].

Như vậy, mặc dù xuất khẩu thuỷ sản đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn nhưng tác động môi trường, xã hội của lĩnh vực kinh doanh này là rất lớn. Nếu không có những biện pháp khắc phục thì hiệu quả kinh tế sẽ rất thấp. Bên cạnh đó, những thách thức môi trường trong nuôi trồng, chế biến thuỷ sản là những bất lợi đối với hàng thuỷ sản nước ta tiếp cận thị trường các nước.

55

Thiệt hại kinh tế: Trong 3 thập kỷ gần đây (từ 1960 đến 1995), ở Quảng Ninh và Hải Phòng đã có khoảng 40 ngàn ha rừng ngập mặn bị biến mất. Hiện cả hai tỉnh này còn khoảng 15.700 ha rừng ngập mặn. Ước tính thiệt hại do việc không thể thu lợi được từ diện tích rừng ngập mặn bị mất (như thuỷ sản, lâm nghiệp và chống xói lở) cỡ khoảng 10-32 triệu USD mỗi năm [14, 30]. Nếu tính thiệt hại do việc mất rừng ngập mặn của cả nước (chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo cả nguồn lợi bị mất cộng với thiên tai, hàng năm số này khoảng 500 triệu USD [3, 33]. Số thiệt hại này người dân sinh sống ở vùng nuôi tôm phải chịu vì các đầm nuôi tôm lớn là của dân cư vùng khác đến khai phá.

Tóm lại, hàng thuỷ sản của ta đang gặp phải những rào cản môi trường rất lớn. Đó là hạn chế về đáp ứng các tiêu chuẩn về PPM, SPS, HACCP... Hơn nữa thị trường xuất khẩu chính lại là những thị trường có tiêu chuẩn rất nghiêm ngặt và có thể thay đổi theo hướng ngày càng nghiêm ngặt hơn. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam là công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm thuỷ hải sản còn lạc hậu, do đó cần có sự đầu tư mạnh mẽ để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức lại khâu kiểm tra chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng nước ngoài. Một khó khăn khác liên quan đến chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu là vệ sinh tại các cơ sở nuôi trồng và kiểm soát sử

56

Để hạn chế những tác động tiêu cực của việc nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, nâng cao chất lượng thuỷ sản xuất khẩu, trong những năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản về nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ sản, sử dụng các hoá chất trong nuôi trồng. Bộ Thuỷ sản đã ban hành Quyết định số 649/2000/QĐ - BTS ngày 4/8/2000 ban hành quy chế kiểm tra và công nhận cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản đạt tiêu chuẩn VSATTP (thay thế quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 01/2000/QĐ - BTS ngày 03/01/2000), trong đó yêu cầu các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thuỷ sản phải tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu nuôi trồng, chế biến, đóng gói, vận chuyển… Thông tư liên tịch số 17/2003/TTLT-BTC-BNNPTNT-BTS hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát hàng xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật, kiểm dịch thuỷ sản cũng đã quy định cho các cơ quan kiểm tra các tiêu chuẩn về VSATTP đối với các mặt hàng nói trên. Một số văn bản khác đã quy định cụ thể về việc cấm sản xuất, lưu thông và sử dụng một số loại kháng sinh, hoá chất trong sản xuất và kinh doanh thức ăn chăn nuôi như: Carbuterol, Cimaterol, Clenbuterol, Chloramphenicol... (Quyết định số 54/2002/QĐ-BNNPTNT ngày 20/6/2002); Chỉ thị của Bộ Thuỷ sản số 07/2001/CT – BTS ngày 24/9/2001 về việc cấm sử dụng Chloramphenicol và quản lý việc dùng hoá chất, thuốc thú y trong sản xuất thuỷ sản)… Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 109/2003/NĐ - CP ngày 23 tháng 9 năm 2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước trong đó Điều 19 quy định về hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh môi trường và bảo vệ hệ sinh thái ven biển. Luật Thuỷ sản cũng đã được Quốc hội nước ta thông qua và có hiệu lực từ 1/7/2004.

dụng thức ăn và thuốc bảo vệ hải sản. Các biện pháp đánh bắt không hợp lý cũng có thể là rào cản đối với việc xuất khẩu hải sản của Việt Nam. Trong điều kiện các nước phát triển dùng những biện pháp về hàng rào kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ, bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu thuỷ sản vào lãnh thổ của mình, nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam không cải tiến công nghệ và không áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ thì khó có thể đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ và thị trường EU. Ngay cả thị trường Trung Quốc ta cũng có thể gặp phải khó khăn. Mặc dù giữa ta và Trung quốc đã có chương trình thu hoạch sớm cho hàng động vật tươi sống, nhưng các quy định về VSATTP của nước này cũng đang tăng lên sau khi gia nhập WTO.

(2) Gạo

57

Từ năm 1988, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo và hiện lớn thứ 2 trên thế giới. Năm cao nhất đạt 4.508 ngàn tấn với kim ngạch 1.025 triệu USD. Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam là châu Á (33%), châu Phi (46%), Trung Đông (15%), Mỹ (8%). Theo dự báo của Bộ Thương mại, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 10 năm tới sẽ giữ ở mức tối đa khoảng 4.500 ngàn tấn/năm.

Bảng 2.7: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam

1996

1997 1998 1999

2000 2001

2002 2003

`

Xuất khẩu gạo (ngàn tấn) 3.003 3.775 3.730 4.508 3.477 3.729 3.241 3.820

Kim ngạch (triệu USD)

854,6 870,9 1.020 1.025

667

625

587

734

Nguồn: [17, 64], [1, 5]

Một câu hỏi được đặt ra là Việt Nam có nên tiếp tục tăng lượng gạo xuất khẩu hay không hay chỉ nên tập trung hơn nữa vào việc tăng chất lượng gạo xuất khẩu trong tương lai? Với cách tiếp cận tăng lượng gạo xuất khẩu thì đòi hỏi phải mở rộng hơn nữa diện tích trồng lúa hoặc tăng năng suất lúa. Tuy nhiên, vấn đề này có thể sẽ mang lại những tác động môi trường tiêu cực với việc phá hoại rừng hoặc sử dụng quá mức phân bón hoặc thuốc trừ sâu. Hiện nay, việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu bình quân hàng năm trên 1 ha trồng lúa gạo ở Việt Nam là 313 kg phân bón và 4,1 kg thuốc trừ sâu, là mức thấp hơn so với các quốc gia ASEAN khác. Tuy nhiên, ở một số khu vực như

58

Với việc cam kết thực hiện các hiệp định quốc tế về thương mại và môi trường, khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam có thể gặp phải những hạn chế về môi trường từ các quy định của nước nhập khẩu. Chẳng hạn gia nhập WTO, các nước thành viên WTO có thể sử dụng các điều khoản của WTO (ví dụ điều XX) để thiết lập ''các rào cản kỹ thuật trong thương mại” (TBT) một cách hợp pháp, nhằm ngăn cản xuất khẩu gạo của Việt Nam vào nước họ. Việc áp dụng các TBT này có thể được giải thích là một biện pháp cần thiết'' để bảo vệ sức khoẻ của con người". Thông thường, những bất đồng đối với việc áp dụng TBT này phải được kiểm định và đánh giá theo tiêu chuẩn của WTO, nhưng Việt Nam khó có thể tiến hành việc kiểm tra đánh giá này vì có những hạn chế về tài chính. Gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng có thể bị hạn chế do việc áp dụng tiêu chuẩn PPM. Việc sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp là lý do để các nước nhập khẩu áp dụng tiêu chuẩn nói trên đối với gạo của ta. Bên cạnh đó, hạn chế về công nghệ chế biến và bao gói cũng có thể là những lý do để các đối tác ghìm giá gạo của ta. Mặc dầu có năng suất trồng lúa cao hơn so với Thái Lan nhưng giá gạo của ta chỉ bằng khoảng 80% so với gạo nước này.

đồng bằng sông Hồng và Vùng Đông Bắc, mức độ sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu cao hơn mức trung bình (ví dụ: khoảng 400 kg phân bón) và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Thực tế này lần lượt gây ra các tác động tiêu cực như làm giảm chất lượng đất, ảnh hưởng tới sức khoẻ của người nông dân và tác động đến cả năng suất lúa... [7, 108]

Do chất lượng gạo xuất khẩu hiện tại còn thấp, nên Việt Nam cần phải xem xét việc đầu tư công nghệ sau thu hoạch, để có thể tăng thêm giá trị cho gạo xuất khẩu. Hơn nữa, Việt Nam cần chú trọng kiểm soát việc sử dụng các hoá chất (đặc biệt thuốc trừ sâu) trong khâu trồng và chế biến gạo, để tránh việc các nước nhập khẩu áp dụng các rào cản trong thương mại TBT.

(3) Cà phê

Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 4 trên thế giới và lớn thứ nhất trong khu vực. Cà phê được trồng ở Việt Nam chủ yếu trên cao nguyên và vùng núi Tây Nguyên, chiếm 80% tổng diện tích trồng cà phê.

Việt Nam xuất khẩu 90-95% sản lượng cà phê, chủ yếu dưới dạng hạt thô hoặc bán thành phẩm. Xu hướng xuất khẩu cà phê trong 10 năm gần đây được thể hiện trong bảng 5 dưới đây cho thấy mặc dù khối lượng xuất khẩu cà phê tăng một cách đều đặn, nhưng giá trị xuất khẩu lại không ổn định vì những biến đổi bất thường về giá cả trên thế giới. Dự báo kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ đạt 700 triệu USD (700.000tấn) vào năm 2005 và 850 triệu USD (750.000 tấn) vào năm 2010.

Bảng 2.8: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam

1996 1997

1998 1999

2000 2001 2002

2003

Sản lượng (nghìn tấn)

283

391,6

382

483

734

931

719

700

Kim ngạch (triệu USD) 336,8 497,5

594

585

502

319

317

451

Nguồn: [17,64] [15, 89]

Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất khẩu đi 52 nước và lãnh thổ trên thế giới, trong đó thị phần xuất khẩu sang Đức là 16,7%, Mỹ 15,8%; Ý 10,4%; Pháp 7,9%. Xuất khẩu cà phê Việt Nam đi các nước ASEAN hiện nay còn hạn chế (chỉ chiếm 2,7%).

59

Nói chung, cà phê Việt Nam có thể được coi là có sức cạnh tranh trên quốc tế về sản lượng, sản lượng thu hoạch cà phê trung bình của Việt Nam cao hơn mức bình quân trên thế giới [12, 57]. Về giá thành, ở Việt Nam là khoảng 650-700 USD cho l tấn cà phê; ở Ấn Độ là 1.412 USD; Colombia là 2.118 USD và ở Indonesia là 922 USD. Để đảm bảo chất lượng xuất khẩu Uỷ ban tiêu chuẩn đã soát xét các tiêu chuẩn TCVN 4193-86 (Tiêu chuẩn Việt Nam) 1998 và ban hành tiêu chuẩn mới TCVN 4193-93 cho cà phê nhân đồng thời xây dựng phương pháp xác định độ ẩm của cà phê nhân và hàm lượng cafein [19, 67].

Tương tự như đối với gạo, xuất khẩu cà phê của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi các hàng rào kỹ thuật trong thương mại TBT và yêu cầu một số công đoạn chế biến cà phê cần phải được chú ý là:

i) Việc thu hoạch hạt cà phê;

ii) Quá trình phơi khô hạt thường được thực hiện dưới mặt đất, ảnh

hưởng tới mùi vị cà phê;

iii) Nước không được thay thế kịp thời trong qui trình xử lý ẩm hoặc hạt

cà phê không được chế biến kịp thời làm cho hạt cà phê kém mùi vị.

iv) Kiểm tra độ ẩm trong quá trình bảo quản và vận chuyển cà phê để

ngăn ngừa mốc;

v) Bao gói sản phẩm phải được tối ưu hoá...

Theo khảo sát của Hiệp hội Cà phê Việt Nam, giá sơ chế cà phê hạt

thường chiếm 15-20% giá bán cho các công ty xuất khẩu của Việt Nam.

60

Ngay từ đầu những năm 1980 ngành cà phê Việt Nam đã quan tâm việc xây dựng tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm của mình. Được sự phối hợp của Tổng cục Tiêu chuẩn chất lượng, Trường Đại học Bách Khoa, Vụ Khoa học kỹ thuật (nay là Vụ Khoa học Công nghệ và chất lượng sản phẩm), tham khảo các tiêu chuẩn sản phẩm cà phê của ISO và một số nước như Indonesia, Brazin... Ban xây dựng tiêu chuẩn cà phê thuộc Liên hiệp các xí nghiệp Cà phê Việt Nam (nay là Tổng Công ty Cà phê Việt Nam) đã xây dựng những tiêu chuẩn về cà phê nhân, tiêu chuẩn bao gói, ghi nhãn, bảo quản và vận chuyển... và được Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước phê duyệt ban hành chính thức là Tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN) vào năm 1986. Trong tiêu chuẩn cà phê nhân đã đề cập đến dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng một số

kim loại nặng Pb, Cu... Năm 1990 Ban tiêu chuẩn lại xây dựng thêm về phương pháp đánh giá chất lượng cà phê tách. Năm 1993 Tiểu ban Tiêu chuẩn lại soát xét lại TCVN 4193-86 bổ sung sửa đổi và được ban hành TCVN 4193- 93 về cà phê nhân. Các phương pháp đo độ ẩm cà phê nhân, xác định hàm lượng cafein cũng được xây dựng trong khoảng thời gian trên. Như vậy, sản phẩm cà phê của Việt Nam đã được xây dựng hoàn chỉnh đảm bảo được vệ sinh môi trường đối với khách hàng.

Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn của cà phê Việt Nam hiện nay tương đối hoàn chỉnh, nhưng chất lượng cà phê chưa cao do quá trình chăm sóc, thu hái, phơi, sấy, chế biến và đóng gói chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng. Chẳng hạn, việc thu hái còn lẫn nhiều quả xanh. Phơi: nhiều gia đình nông dân do hái về một lần quá nhiều, không đủ sân xi măng để phơi, phải phơi trên sàn đất, dẫn đến cà phê có mùi đất (earthy) khi thử nếm cà phê thu hái xanh cho mùi ngái (grassy) cà phê chế biến ướt xát tươi, nước chế biến không thay kịp thời, hoặc không kịp chế biến, để ủ cà phê lên men nên nước cà phê có mùi hôi (Foul, Stinking, unclear, Rotten). Vệ sinh công nghiệp trong các xưởng chế biến còn yếu. Một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt là độ ẩm (thuỷ phần % moisture) của cà phê trong bảo quản, vận chuyển. Độ ẩm cà phê nhân theo yêu cầu là phải dưới 13%. Độ ẩm cao có thể dẫn đến cà phê trong bao bị đổ mồ hôi (Sweat) và có thể hình thành mốc. Ngoài ra vấn đề bao bì cũng cần được quan tâm, dùng bao bì sạch và theo yêu cầu hiện nay bao bì đựng thực phẩm không có hôi mùi dầu máy khi dệt bao...

61

Vấn đề lớn nhất để nâng cao chất lượng cà phê hiện nay là ngăn ngừa hình thành nấm mốc. Một trong những dự án được cung cấp nguồn tài chính từ quỹ chung cho hàng hoá (CFC: Common fund For commodies) của tổ chức Cà phê quốc tế (ICO) là ngăn ngừa việc hình thành nấm mốc để nâng cao chất lượng cà phê. Tầm quan trọng các vấn đề này là cà phê có thể nhiễm mycotoxyn đặc biệt là nhiễm ochratoxyn A (OTA). Một số thí nghiệm trên loài vật với liều lượng cao OTA gây ra Nephrotoxin (tổn hại thận) và Carcinogenesis (tạo khối u) trên heo, chó và chuột. Trong hội nghị về ochratoxyn năm 1996 nhiều nhà khoa học báo cáo về sự sản sinh ochratoxyn ở một số mẫu cà phê có xuất xứ khác nhau. Nhiều báo cáo cho hay rằng rang thậm chí chiết xuất cà phê cũng không khử được hoàn toàn loại khuẩn độc tố này.

Ngoài những tác động đã đề cập trên đây, còn có một tác động môi trường tiềm tàng từ việc mở rộng diện tích đất trồng cà phê, được xem như là kết quả của việc bùng nổ trồng và canh tác cà phê. Cùng với việc mở rộng diện tích cà phê, rừng bị mất ngày càng tăng. Ở nhiều tỉnh miền núi của Việt Nam (như Đắc Lắc và Lâm Đồng) đã có xu hướng chuyển đi từ việc trồng chè và các loại cây khác sang trồng cà phê, nhiều khu rừng đã bị chặt phá vì mục đích này. Những cư dân địa phương đã tính trước được việc sản xuất cà phê sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng lại không tính được tác động môi trường tiềm tàng của việc làm này là có thể gây lụt lội tới một diện tích rộng lớn tại các khu đất trũng, xói mòn đất và cạn kiệt nguồn nước của việc phát triển ồ ạt hoạt động canh tác và sản xuất cà phê.

Một tác động nữa đối với môi trường của cây cà phê là vấn đề sử dụng nước cho việc tưới tiêu. Đây là vấn đề môi trường mới phát sinh trong một vài năm gần đây do hạn hán kéo dài ở vùng Tây Nguyên. Hầu hết lượng nước dùng cho tưới tiêu cho cà phê là nước ngầm từ dưới lòng đất. Khảo sát gần đây cho thấy trữ lượng nước ngầm ở Đắc Lắc đang sụt giảm nghiệm trọng. Nếu tiếp tục sử dụng nguồn nước này cho cây cà phê thì trong thời gian tới nguồn nước ngầm ở đây sẽ cạn kiệt ảnh hưởng đến đời sống dân cư và phát triển của hệ sinh thái rừng Tây Nguyên. Không đủ nước để tưới tiêu dẫn đến việc phải phá bỏ một số vườn cà phê và chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

62

Như vậy, xuất khẩu cà phê của Việt Nam có thể gặp phải những rào cản kỹ thuật (TBT), phương pháp sản xuất và chế biến (PPM), Vệ sinh an toàn thực phẩm CODEX, SPS.

(4) Rau quả

Trong một vài năm trở lại đây, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Năm 2001 đạt 330 triệu USD (gấp 3,5 lần năm 1996), mức cao nhất từ trước đến nay. Chủng loại rau quả nhiệt đới của ta khá phong phú gồm gia vị, hoa, rau, quả.

Bảng 2.9: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam thời kỳ 1996-2003

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

Kim ngạch xuất

90,0

71,0

53,0

106,5 213,1

344,3 201,0

152

khẩu

(tr. USD)

Nguồn: [17, 64]

Tuy nhiên so với sản lượng thì tỷ trọng xuất khẩu hiện nay của ta chỉ chiếm khoảng 1% lượng rau quả thu hoạch. Lý do của tình trạng này là rau quả của Việt Nam chưa đảm bảo các yêu cầu về VSATTP do canh tác dàn trải, thiếu tập trung, quy trình trồng trọt, thu hoạch, bảo quản chế biến còn nhiều bất cập. Sự suy giảm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong hai năm 2002, 2003 trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh mở cửa thị trường cho thấy chất lượng rau xuất khẩu còn nhiều bất cập.

63

Như vậy so với tiềm năng, kim ngạch xuất khẩu rau quả của ta còn quá hạn chế. Với khí hậu nhiệt đới, Việt Nam có tiềm năng và lợi thế để mở rộng diện tích trồng rau, quả và đa dạng hoá chủng loại. Thị trường rau quả thế giới cũng ngày càng mở rộng, nhu cầu của người tiêu dùng đối với các mặt hàng này ngày càng nhiều. Tuy nhiên, các nước nhập khẩu đòi hỏi rất cao về mặt vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với loại mặt hàng này. Những quy định của nước nhập khẩu về rau quả hết sức ngặt nghèo từ khâu trồng trọt, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch đến quá trình đóng gói, vận chuyển, bốc xếp hàng lên tàu... Hiện nay, rau quả của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc vì yêu cầu về các tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm còn dễ dãi. Hàng rau quả xuất khẩu sang các thị trường như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ôxtrâylia còn rất hạn chế do ta không đáp ứng được các yêu cầu về VSATTP. Ngay cả ở thị trường trong nước nhu cầu về rau sạch cũng rất cao mà các nhà sản xuất cũng chưa đáp ứng kịp. Dư lượng độc tố và dư lượng vi sinh trong rau quả của

ta khá cao do phương thức canh tác lạc hậu, tuỳ tiện, chạy theo lợi ích trước mắt. Từ năm 1997 đến nay đã xảy ra 2.123 vụ ngộ độc thức ăn với 39.976 người bị ngộ độc và 378 người tử vong, trong đó nhiều trường hợp có nguồn gốc từ rau quả không đảm bảo vệ sinh. Ngộ độc thực phẩm có nguyên nhân từ một số nguồn như do vi sinh vật và vệ sinh môi trường, tồn dư các loại hoá chất độc hại trong thực phẩm, thực phẩm chứa chất độc tự nhiên và một số trường hợp không xác định được nguyên nhân. Trong năm 2002, số vụ ngộ độc do vi sinh vật và vệ sinh môi trường chiếm 42%, do hoá chất chiếm 27% và hơn 24% ngộ độc do chất tự nhiên có trong thực phẩm [3, 64, 65].

Thách thức lớn nhất đối với mặt hàng này là đáp ứng các quy định của

Hiệp định SPS, tiêu chuẩn của CODEX.

(5) Mặt hàng thịt

Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến xuất khẩu thịt là HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với mặt hàng thịt. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay, chưa có một nhà máy nào của ta được cấp chứng chỉ về tiêu chuẩn VSATTP. Đây là nguyên nhân chính khiến xuất khẩu thịt của ta vẫn chưa sang được các thị trường được coi là "khó

64

Từ năm 1995 đến nay, nhờ những cải tiến trong khâu chăn nuôi và chọn giống, sản lượng thịt của Việt Nam không ngừng tăng. Đến nay ngành chăn nuôi về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước ở những thành phố đông dân cư. Thịt là một trong những mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Trước những năm 90 thế kỷ 20, thịt lợn được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Từ năm 1992 -1995 xuất khẩu thịt của ta gặp phải những trở ngại lớn về thị trường nên kim ngạch xuất khẩu không đáng kể. Những năm gần đây xuất khẩu thịt đã có những chuyển biến tích cực. Năm 2001 xuất khẩu thịt lợn của ta sang Liên bang Nga đạt 12.000 tấn, Hồng Kông 8.800 tấn, Trung Quốc 5.000 tấn [19, 32]. Tuy nhiên so với sản lượng, tỷ trọng xuất khẩu của ta còn quá thấp. Hàng thịt xuất khẩu của Việt Nam mới tiếp cận được những thị trường có tiêu chuẩn VSATTP thấp. Thịt của ta chưa vào được các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Lý do là thịt của ta chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Chăn nuôi còn theo cách thủ công, không tuân thủ các quy định về chế độ ăn uống, chăm sóc y tế, khâu chế biến còn lạc hậu, hệ thống quy định về thú y chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

tính" như Singapore, Nhật Bản, EU... Để hòa nhập với nền kinh tế khu vực, mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất thiết chúng ta cần phải tuân thủ những tiêu chuẩn quốc tế nhất định để nâng cao giá trị, ổn định chất lượng sản phẩm thịt xuất khẩu. Trước đây, trong bước đi chiếm lĩnh các thị trường nhập khẩu khó tính, Bộ Thủy sản đã triển khai áp dụng HACCP tại các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh hàng xuất khẩu thủy sản và đã nhanh chóng làm "thay da đổi thịt" ngành thủy sản. Hiện nay Việt Nam đã có 61 DN tham gia tiêu chuẩn HACCP. Do vậy, Bộ NN - PTNT cũng muốn mở rộng thị trường xuất khẩu thịt, bắt đầu từ việc áp dụng HACCP.

Cũng giống như mặt hàng thuỷ sản, vấn đề VSATTP đối với thịt xuất khẩu là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo tăng kim ngạch. Đây là vấn đề hết sức nan giải của Việt Nam. Thực tế cho thấy nhu cầu về thịt chất lượng cao cũng rất lớn ngay ở thị trường nội địa. Hàng năm lượng thịt xuất khẩu của ta còn quá ít trong khi phải nhập khẩu một lượng lớn để phục vụ nhu cầu của khách

65

Để đáp ứng tiêu chuẩn HACCP trong sản xuất và xuất khẩu thịt cần phải tiến hành đồng bộ từ khâu chăn nuôi đến khâu chế biến, đóng gói, bảo quản, vận chuyển. Các nhà máy, xí nghiệp cần phải tu bổ, xây dựng lại toàn bộ chuồng trại chăn nuôi, trang thiết bị chế biến, nhà xưởng cho tới trình độ và sức khỏe cán bộ công nhân. Muốn vậy trước tiên phải tuân thủ theo tiêu chuẩn GMP (thông lệ sản xuất tốt). Để thực hiện tiêu chuẩn HACCP, từ tháng 7/2001, Tổng công ty Chăn nuôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu tại các nhà máy, xí nghiệp và được các đơn vị thành viên hưởng ứng. Xí nghiệp Chế biến thực phẩm xuất khẩu Hải Phòng, một trong những đơn vị mạnh của Tổng công ty Chăn nuôi và được coi là nơi bắt đầu thực hiện tiêu chuẩn HACCP. Xí nghiệp có công suất 13.000 tấn thịt một năm với sản phẩm xuất khẩu dạng sơ chế đông lạnh, trong đó cơ bản là thịt lợn. Tuy nhiên, để thực hiện theo tiêu chuẩn này, các cơ sở chăn nuôi và chế biến cần phải nâng cấp lại toàn bộ dây chuyền sản xuất, hệ thống thông gió, xử lý hệ thống nước thải, môi trường làm việc, đào tạo lại đội ngũ công nhân kỹ thuật ... Bên cạnh đó, điều quan trọng nhất hiện nay trong xuất khẩu thịt là vùng nguyên liệu chưa đủ tiêu chuẩn. Các hộ dân chăn nuôi vẫn theo tình trạng tự do, thức ăn chăn nuôi chưa được quản lý. Vừa qua Bộ NN - PTNT đã có Quyết định số 1032QĐ/13NN-KHCN về nhiệm vụ hoạt động vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó giao cho Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam thực hiện tiêu chuẩn HACCP, coi đây là tiêu chuẩn bắt buộc cho các nhà xuất khẩu thịt ...

du lịch và người có thu nhập cao. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề nhức nhối hiện nay ở nước ta. Số vụ ngộ độc thực phẩm tươi sống khá phổ biến và ngày càng gia tăng [3, 65]. Nguyên nhân phổ biến gây nên nhiều vụ ngộ độc thức ăn là vấn đề vệ sinh thực phẩm không đảm bảo từ nơi chế biến thức ăn như các lò mổ, quầy hàng, vệ sinh phương tiện sử dụng. Đó là chưa nói đến khâu chọn giống, kỹ thuật chăn nuôi, phòng bệnh.

Tiềm năng xuất khẩu thịt của ta là rất lớn. Tuy nhiên để có được thịt chất lương cao phải vượt qua được các rào cản về môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm như PPM, HACCP, SPS, CODEX...

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN

MÔI TRƢỜNG CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM

2.3.1. Những mặt tích cực

66

Nhìn chung, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc cải thiện chất lượng hàng xuất khẩu, trong đó có vấn đề đáp ứng các yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu. Hàng thuỷ sản, nông sản của ta phần lớn đã được chấp nhận ở các thị trường có yêu cầu cao về an toàn sức khoẻ và vệ sinh môi trường. Minh chứng cho nhận định này là số lô hàng bị cảnh báo về ATVSTP đã giảm đáng kể trong năm 2003, số doanh nghiệp chế biến hải sản được phía Hoa Kỳ, EU, Hàn Quốc công nhận đủ điều kiện xuất khẩu ngày một tăng, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đang gia tăng với tốc độ cao. Đạt được điều này trước hết là do nhận thức của các doanh nghiệp, ngành và người tiêu dùng về các vấn đề môi trường ngày càng cao. Hệ thống quy định và tiêu chuẩn về môi trường ngày càng được hoàn thiện theo hướng tuân thủ các chuẩn mực quốc tế như HACCP, ISO 9000, ISO 14000. Nước ta đã có hệ thống tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn ngành về chất lượng hàng thuỷ sản, cà phê, rau quả và thực phẩm. Nhiều văn bản pháp luật liên quan đến VSATTP được ban hành kịp thời có tác dụng định hướng kinh doanh và tiêu dùng, xử lý các vụ vi phạm như Pháp lệnh về VSATTP, Luật Thuỷ sản, Bảo tồn đa dạng sinh học, Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường thời kỳ 2001-2010 và tầm nhìn 2020... Nhìn chung hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến thương mại và môi trường của nước ta phản ánh được những nội dung cơ bản của các vấn đề thương mại và môi trường bức xúc hiện nay, phần nào phù hợp với nguyên tắc của pháp luật môi trường và pháp luật thương mại quốc tế. Bước đầu có sự phối hợp, lồng ghép các vấn đề môi trường vào các chính sách phát triển thương mại, và

các vấn đề thương mại vào trong chính sách môi trường. Các chính sách môi trường đã bắt đầu tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại tự do và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế và thương mại. Các chính sách thương mại đã phần nào góp phần ngăn chặn các nguy cơ môi trường, thúc đẩy phát triển thương mại theo hướng thân thiện hơn với môi trường.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đã có những điều chỉnh nhất định chiến lược kinh doanh để đáp ứng tốt hơn về các vấn đề môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế như tăng cường công tác thông tin, đầu tư đổi mới công nghệ, từng bước quy hoạch vùng sản xuất, lựa chọn các phương pháp nuôi trồng, chế biến thân thiện hơn với môi trường, cố gắng tuân thủ các quy định môi trường để có được chứng nhận môi trường nhằm nâng cao uy tín với người tiêu dùng và niềm tin đối với các cấp quản lý. Nhà nước đã có những biện pháp hỗ trợ nhất định đối với doanh nghiệp như cung cấp kỹ thuật, xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, cấp chứng nhận môi trường, tiếp cận thông tin và thị trường, giám sát và kiển tra chặt chẽ nguồn hàng xuất khẩu, xử lý một số vụ vi phạm...

2.3.2. Một số hạn chế

Tuy nhiên, khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu cũng như quy định về bảo vệ môi trường trong nước của các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm với môi trường còn nhiều bất cập.

Thứ hai, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về quá trình sản xuất và chế biến còn rất hạn chế. Có rất nhiều vi phạm trong lĩnh vực này như phương tiện đánh bắt hải sản còn bất hợp lý, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản còn gây tác hại lớn đối với môi trường, gia tăng các mặt hàng xuất khẩu các sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học kéo theo những vấn đề môi trường như chặt phá rừng, gia tăng sử dụng hoá chất làm thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước và đất, suy giảm đa dạng sinh học...

67

Thứ nhất, có rất ít các doanh nghiệp có được chứng chỉ môi trường do các cơ quan quốc gia và quốc tế cấp như chứng chỉ ISO 14000, chưa có một loại nhãn sinh thái nào, ngay cả sản phẩm gỗ là mặt hàng dễ đáp ứng nhất các yêu cầu môi trường cũng chưa có nhãn môi trường. Các công ty có chứng nhận môi trường ISO 14000 chủ yếu là các xí nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài.

Thứ ba, vi phạm các quy định về VSATTP còn khá phổ biến đối với các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản, rau quả, thịt. Số lượng các doanh nghiệp có được chứng nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản còn quá ít so với tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế:

- Hệ thống quy định và tiêu chuẩn về môi trường trong nước còn thiếu và chưa thực sự phù hợp với quy định quốc tế. Theo báo cáo của Tổng cục đo lường tiêu chuẩn chất lượng thì các tiêu chuẩn Việt Nam đáp ứng chuẩn mực quốc tế còn quá ít, mới có khoảng 1200 tiêu chuẩn, trong khi đó số lượng tiêu chuẩn quốc tế là 5600. Các quy định về sản phẩm chưa cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế . Ví dụ như các quy định về nhãn sinh thái, bao bì đóng gói, PPM... Các quy định về thương mại liên quan đến môi trường của sản phẩm xuất khẩu chỉ là những nỗ lực nhằm đạt được lợi ích về thương mại chứ chưa coi trọng bảo vệ môi trường trong nước, biện pháp tự vệ tạm thời. Hơn nữa còn quá ít các quy định trong các chính sách thương mại trong lĩnh vực này. Các quy định môi trường về sản phẩm, ngược lại, chỉ là những cố gắng bảo vệ môi trường sức khoẻ mà chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh tự do hoá thương mại, khuyến khích xuất khẩu. Nước ta đang trong quá trình chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, hệ thống pháp luật về thương mại và môi trường còn chưa đồng bộ, kinh nghiệm xây dựng và thực thi pháp luật còn yếu kém.

- Nhận thức của doanh nghiệp và các cấp quản lý về các vấn đề thương mại môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế. Doanh nghiệp xuất khẩu chưa ý thức được tầm quan trọng của các việc đáp ứng các quy định tiêu chuẩn môi trường quốc tế, hiểu biết rất ít về các vấn đề môi trường trong MEA và Hiệp định thương mại đa phương, các quy định của các nước xuất khẩu chủ yếu. Chính vì vậy trong chiến lược kinh doanh của mình các doanh nghiệp chưa đặt vấn đề môi trường thành mục tiêu lâu dài và bắt buộc, chạy theo lợi ích trước mắt và cục bộ. Các cấp quản lý cũng chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này nên chưa kịp thời đề xuất các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tín dụng và nguồn nhân lực.

68

- Hạn chế về thông tin, về tài chính và khả năng chuyên môn. Chi phí để có được chứng nhận môi trường thường rất cao (khoảng 15 - 20.000 USD), thủ tục lại phức tạp và đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư để xử lý các vấn đề môi

trường. Trong lúc sức cạnh tranh còn yếu, vấn đề tồn tại trước mắt của DN còn quan trọng hơn là uy tín lâu dài. Hạn chế về thông tin và năng lực chuyên môn về các vấn đề môi trường làm cho DN không dự báo được các vấn đề môi trường để kịp thời khắc phục và đối phó.

- Nhà nước có quá ít các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của nước nhập khẩu như hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo chuyên môn, cung cấp thông tin, ưu đãi vay vốn… Quỹ môi trường chậm đưa vào hoạt động, hệ thống thông tin môi trường liên quan đến kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh quốc tế phục vụ cho doanh nghiệp còn hạn chế.

- Công tác hoạch định chiến lược xuất khẩu, quy hoạch phát triển thương mại còn bất cập. Chiến lược phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu còn chú trọng quá mức đến tăng trưởng xuất khẩu, chưa đánh giá đầy đủ những thiệt hại môi trường của hoạt động này. Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới vẫn còn dựa vào các nhóm hàng có nguồn gốc thiên nhiên mà khả năng khai thác, đánh bắt, diện tích canh tác bị hạn chế. Công tác đánh giá hiệu quả xuất khẩu có tính đến thiệt hại môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Các biện pháp môi trường được thể hiện trong các chương trình phát triển xuất khẩu còn mờ nhạt, chưa định hướng rõ nét cho hoạt động xuất khẩu. Công tác quy hoạch phát triển thương mại chưa chú trọng đặc biệt đến các yếu tố môi trường, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch các ngành, vấn đề lồng ghép các yếu tố môi trường trong phát triển thương mại chưa được chú ý đúng mức.

69

- Chưa phát huy hết tác dụng vai trò của chính sách thương mại trong việc bảo vệ môi trường như chính sách bảo hộ hợp lý, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách trợ cấp... Trong vụ kiện về bán phá giá tôm và cá da trơn của ta với Hoa Kỳ cho thấy cần phải tính đến những chi phí môi trường trong quá trình sản xuất. Chẳng hạn cần xem lại việc định giá giá trị đất ngập nước, nơi mang lại nguồn lợi thuỷ sản lớn. Thực tế đã chỉ ra rằng bảo hộ cao sẽ khuyến khích sử dụng tài nguyên lãng phí, hạn chế tiếp cận với các công cụ hiện đại để giảm thiểu ô nhiễm, trợ cấp cao cũng gây ra tình trạng sử dụng không hiệu quả các yếu tố đầu vào nhất là vật tư, nguyên liệu… [8, 115]. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường cũng là một trong những yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, cần nhanh chóng đưa doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh thực sự, mà vấn đề quyết

định là phát triển kinh tế thị trường. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy ở những nước thể chế thị trường kém phát triển, ở đó doanh nghiệp Nhà nước được bảo hộ ở mức cao thì vi phạm các quy định bảo vệ môi trường khá phổ biến vì các doanh nghiệp ít quan tâm hơn đến nguyên tắc lợi ích chi phí do vậy mà sử dụng các nguồn tài nguyên, nguyên liệu một cách lãng phí không hiệu quả. Đây là nguyên nhân gây suy thoái môi trường [8, 114].

- Phối hợp giữa các cơ quan chức năng về các vấn đề thương mại và môi trường còn lỏng lẻo. Mặc dầu đã có sự phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương, tuy nhiên công việc này mới chỉ dừng lại trong việc nghiên cứu các vấn đề thương mại môi trường và tuyên truyền phổ biến thông tin nhân những ngày môi trường trong nước và thế giới mà chưa có kế hoạch để triển khai áp dụng tới các cơ sở kinh doanh, các địa phương.

- Thực thi các chính sách còn chưa triệt để. Tình trạng phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển cũng như Việt Nam là việc tuân thủ các quy định môi trường còn hết sức hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê của các tổ chức môi trường, hàng năm ở các địa phương còn nhiều doanh nghiệp bị liệt vào sách đen do vi phạm các quy định về môi trường. Các cơ quan chức năng về quản lý môi trường chưa giám sát thường xuyên hoạt động của doanh nghiệp, kiểm tra theo chiến dịch, phong trào, nương nhẹ đối với nhiều trường hợp vi phạm.

Chậm trễ trong hội nhập kinh tế. Chưa gia nhập WTO nên chưa có quyền tham gia vào quá trình phê chuẩn hiệp định, xây dựng tiêu chuẩn và đàm phán về các vấn đề về thương mại và môi trường ở cấp đa biên. Chưa có tiếng nói trong các diễn đàn quốc tế về thương mại và môi trường, đứng ngoài các cuộc giải quyết tranh chấp về thương mại và môi trường.

Cuối cùng phải tính đến một nguyên nhân khách quan là phía các nhà nhập khẩu đưa ra các yêu cầu tiêu chuẩn môi trường quá cao, trong nhiều trường hợp còn cao hơn cả tiêu chuẩn đối với hàng hoá trong nước của họ, và có sự phân biệt đối xử giữa các đối tác khác nhau. Việt Nam chưa là thành viên

70

Trình độ chuyên môn về các vấn đề thương mại, môi trường của cấp quản lý và doanh nghiệp còn thấp. Chưa có đội ngũ cán bộ chuyên trách về môi trường trong các cơ quan quản lý thương mại. Mặc dù thời gian gần đây các tổ chức quốc tế đã có nhiều chương trình đào tạo tập huấn cho các chuyên gia thương mại nhưng số lượng người tham gia còn hạn chế.

71

của WTO và nhiều hiệp định thương mại môi trường khác nên luôn bị thua thiệt trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Chẳng hạn năm 2001 EU tự ý áp dụng quy định về dư lượng kháng sinh Cloruaphenicol ở mức 0,1 phần nghìn đối với tôm nhập khẩu trong khi đó tiêu chuẩn đối với tôm trong nước họ là 0,3 phần nghìn [11, 53].

CHƢƠNG III

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU ĐÁP ỨNG

CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƢỜNG QUỐC TẾ

3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc ảnh hƣởng đến việc đáp ứng các yêu cầu về môi trƣờng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của nƣớc ta trong thời gian tới * Bối cảnh quốc tế

Một số xu hướng thương mại môi trường quốc tế nổi bật có ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm với môi trường của nước ta trong những năm tới là:

- Quá trình tự do hoá thương mại ngày càng sâu sắc trong bối cảnh gia tăng các vấn đề môi trường toàn cầu. Chính vì vậy sự phát triển của thương mại sẽ lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi trường. Xu thế gắn bó giữa hoạt động thương mại với việc giữ gìn và tôn tạo môi trường sinh thái ngày càng phổ biến trên thế giới đòi hỏi các nước phải nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường đảm bảo phát triển bền vững.

- Bắt đầu từ vòng đàm phán Doha, Tổ chức thương mại thế giới sẽ đưa các vấn đề môi trường được thông qua tại hội nghị Bộ trưởng thương mại ở Singapore năm 1996 vào nội dung các cuộc đàm phán thương mại ở cấp song phương và đa phương. Đây sẽ là trở ngại lớn đối với các nước đang trong quá trình đàm phán gia nhập như Việt Nam và các nước thành viên thuộc các nước đang phát triển đang xuất khẩu nhiều mặt hàng nhạy cảm với môi trường như nông sản, thực phẩm, dệt may, da giày...

- Thu nhập của người tiêu dùng được nâng cao nên nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ thân thiện với môi trường cũng ngày càng cao. Cùng với xu hướng này các tiêu chuẩn môi trường áp dụng đối với chúng cũng cao hơn. Đây sẽ là thách thức đối với hàng hoá xuất khẩu của các quốc gia, nơi có hệ thống tiêu chuẩn môi trường thấp hơn.

72

- Sự tăng cường chính sách bảo hộ với những hàng rào kỹ thuật tinh vi của các nước công nghiệp phát triển tạo ra nhiều khó khăn mới cho phát triển

xuất khẩu. Xu hướng tăng cường hàng rào bảo hộ đang gia tăng ở các nước phát triển, đặc biệt là sau hội nghị Cancun, đang là sức ép đối với các nước đang phát triển, những nước xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản. Chính vì vậy, việc nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định môi trường đang là thách thức đối với những nước xuất khẩu nhiều mặt hàng thô, sơ chế như Việt Nam.

Hiện nay một số nước đã áp dụng các phương tiện hiện đại để kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu. Chẳng hạn, Canada đã có những máy móc phát hiện dư lượng kháng sinh trong thực phẩm chính xác đến 0,1 phần nghìn. Do đó, quy định về dư lượng kháng sinh đối với tôm có thể thay đổi xuống mức thấp hơn hiện nay là 0,3 phần nghìn. Ngày 15/5/2003 vừa rồi Hoa Kỳ đã thông qua đạo Luật công cộng (Public Law) theo đó sẽ cấm nhập khẩu tôm khai thác bằng các phương tiện có thể ảnh hưởng đến sự sống của loại rùa biển. Ước tính Thái Lan sẽ thiệt hại khoảng 30 triệu USD/năm [3, 80].

- Mức độ cạnh tranh của hàng hoá nông sản tăng. Tự do hoá thương mại nông sản trong tương lai và tiến bộ khoa học kỹ thuật làm tăng khả năng cạnh tranh của nông sản có xuất xứ từ các nước đang phát triển nhưng cũng làm tăng tính chất quyết liệt của các sản phẩm đó trên thị trường thế giới. Ngày càng có nhiều quốc gia đang phát triển tiến hành cải cách kinh tế trong nước, thi hành những biện pháp khuyến khích phát triển nông nghiệp và thu được những thành tựu lớn. Nhờ vậy khối lượng nông sản hàng hoá trên thị trường thế giới tăng nhanh, nhất là một số mặt hàng lương thực và sản phẩm thô. Các biện pháp nới lỏng hàng rào bảo hộ đối với mặt hàng này, sẽ cho phép các sản phẩm này dễ dàng lưu thông hơn trên thị trường.

73

- Tăng cường thương mại nông sản: Cho tới nay việc buôn bán nông sản vẫn là vấn đề vướng mắc nhất trong quá trình tự do hoá thương mại. Hàng rào bảo hộ đối với hàng hoá này vẫn còn đang được áp dụng dưới nhiều hình thức, và mọi quốc gia đều miễn cưỡng tháo dỡ chúng. Vòng đàm phán Uruguay tuy đã đề ra một số nguyên tắc cho việc tháo bỏ chúng, nhưng các biện pháp và lộ trình cụ thể vẫn chưa có nhiều tiến triển. Tuy nhiên các cơ hội để tăng cường buôn bán nông sản trong 20 - 25 năm tới được đánh giá khả quan. Các cơ hội có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau: tiến trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ, tự do hoá thương mại và tiêu chuẩn hoá quá trình sản xuất... Hành vi tiêu dùng trên toàn cầu đã và đang có triển vọng tăng trưởng theo xuất khẩu sản xuất và tiêu dùng nông sản hữu cơ.

- Hội nhập thương mại sẽ thúc đẩy nhanh quá trình hài hoà các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Xu hướng này buộc các nước phải điều chỉnh quy định và áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn để thuận lợi hóa cho thương mại. Đây chính là cơ hội để tạo ra môi trường trao đổi thương mại công bằng và bình đẳng hơn.

Những xu hướng thương mại môi trường nói trên sẽ có tác động nhiều mặt đối với khả năng mở rộng thương mại quốc tế các mặt hàng nhạy cảm nước ta. Về mặt tích cực, chúng sẽ buộc các doanh nghiệp nước ta đẩy mạnh cải cách để thích ứng với môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nâng cao khả năng cạnh tranh để đáp ứng các yêu cầu môi trường ngày càng cao. Tuy nhiên doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ đối mặt với ngày càng nhiều hơn những khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu môi trường. Trước hết là cạnh tranh với các nước xuất khẩu các mặt hàng tương tự sẽ gay gắt hơn, chi phí cao hơn để cải thiện các vấn đề môi trường, luật lệ quốc tế ngày càng khắt khe hơn đối với trao đổi thương mại.

* Tình hình trong nước

Một số xu hướng thương mại môi trường trong nước ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới là:

- Hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Do vậy doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi hơn để cải thiện các vấn đề của mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chính phủ đã thông qua chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 mà một trong những nội dung cơ bản là cải thiện môi trường đang ngày càng xuống cấp do bùng nổ dân số, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh như vậy doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ môi trường đảm bảo phát triển bền vững. Áp lực bảo vệ môi trường cũng buộc doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu môi trường ngày cao hơn.

74

- Bảo tồn và phát triển tài nguyên đa dạng sinh học là một trong những định hướng chiến lược của nước ta trong bối cảnh tự do hoá thương mại. Yêu cầu này đỏi hỏi xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản phải gắn với việc

hạn chế khai thác nguồn tài nguyên không tái tạo. Điều này buộc doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững.

- Nhận thức của người tiêu dùng trong nước về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững cũng là sức ép đối với doanh nghiệp nâng cao chất lượng môi trường của sản phẩm, tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường quốc gia và quốc tế.

- Từ nay đến năm 2010 là thời kỳ Việt Nam sẽ đẩy mạnh hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với việc thực thi các cam kết quốc tế và khu vực: tham gia AFTA, thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, ký kết các hiệp định song phương và đa phương khác. Đồng thời đây cũng là giai đoạn Việt Nam sẽ đẩy mạnh cải cách kinh tế thị trường theo hướng phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Trong bối cảnh như vậy, thương mại Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính phủ cũng đã xác định phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu là một trong những định hướng quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu phải duy trì ở mức cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân trong thời kỳ 2001 - 2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ 2001 - 2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006 - 2010 tăng 14%/năm [21, 34]. Điều này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao giá trị gia tăng của hàng hoá xuất khẩu, trong đó đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một trong những biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.

- Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong những năm tới vẫn là khu vực các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đây là khu vực thị trường có nhu cầu cao về các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, thuỷ sản, nhưng với chất lượng cũng ngày càng cao đặc biệt là những quy định

75

- Trong thời gian từ nay đến 2010, xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tự nhiên như nông sản, thuỷ sản vẫn là một trong những định hướng xuất khẩu chủ đạo. Một mặt là cần khai thác tối đa lợi thế sẵn có, mặt khác đảm bảo vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải tận dụng tối đa lợi thế này để phát triển xuất khẩu trong bối cảnh thực lực kinh tế còn hạn chế. Nâng cao chất lượng môi trường của hàng hoá xuất khẩu sẽ tạo thêm cơ hội cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh.

về sức khoẻ và môi trường. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị các điều kiện để có thể cạnh tranh hiệu quả ở thị trường này với các đối thủ đang lên như Trung Quốc, các nước ASEAN.

3.1.2. Quan điểm phát triển xuất khẩu đáp ứng yêu cầu môi trƣờng

của thị trƣờng thế giới và bảo vệ môi trƣờng ở nƣớc ta

Xuất phát từ quan điểm, định hướng, mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển thương mại ở nước ta trong những năm tới, bối cảnh quốc tế và trong nước có ảnh hưởng đến phát triển thương mại và bảo vệ môi trường Việt Nam, có thể nêu lên một số quan điểm cơ bản về phát triển xuất khẩu theo hướng đáp ứng các yêu cầu môi trường ở Việt Nam là:

(1) Phát triển xuất khẩu theo hƣớng khai thác tối đa tiềm năng và

lợi thế sẵn có về điều kiện tự nhiên.

Đẩy mạnh xuất khẩu là một định hướng chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế Việt Nam trong nhiều thập kỷ tới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 15- 16%/năm (thời kỳ 2001 - 2010), chúng ta phải khai thác triệt để mọi nguồn lực để thực hiện mục tiêu này. Nông sản và một số mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên đang là những nhóm hàng đang có khả năng cạnh tranh cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù còn có một số hạn chế về cơ cấu trong việc khai thác các mặt hàng xuất khẩu có nguồn gốc tự nhiên như diện tích, khả năng đánh bắt, nuôi trồng, môi trường sinh thái nhưng nhiều mặt hàng tiềm năng vẫn chưa khai thác để tăng kim ngạch như nhóm hàng rau quả và thực phẩm như thịt. Hạn chế lớn nhất ở đây chất lượng sản phẩm thấp do không tuân thủ các quy định về bao bì, đóng gói, quy trình nuôi trồng, chế biến và yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.

(2) Phát triển xuất khẩu theo hƣớng mở rộng khu vực thị trƣờng, thực hiện các cam kết quốc tế về thƣơng mại và môi trƣờng nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Là một nước xuất khẩu nhiều mặt hàng nhạy cảm với môi trường như nông sản, thuỷ sản, giày da, may mặc, việc mở rộng thương mại quốc tế của Việt Nam trong những năm tới sẽ gặp phải những trở ngại do các nước áp dụng ngày càng nhiều các hàng rào môi trường trong thương mại quốc tế. Hơn

76

nữa, trong những năm tới nước ta sẽ đẩy mạnh hội nhập, phải thực hiện các cam kết về thương mại và môi trường đã và sẽ ký kết. Do đó, việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường đã được cam kết là bắt buộc và các yêu cầu môi trường nói trên sẽ ngày càng cao hơn. Đáp ứng các yêu cầu về môi trường sẽ giúp ta mở rộng hơn nữa thị trường để tăng trưởng xuất khẩu và hội nhập sâu hơn vào hệ thống thương mại toàn cầu.

(3) Phát triển xuất khẩu theo hƣớng bảo vệ ngƣời tiêu dùng, bảo tồn và phát triển tài nguyên đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm môi trƣờng xuyên quốc gia và lây lan ô nhiễm giữa các vùng đảm bảo phát triển bền vững

Xuất khẩu nước ta trong những năm qua đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Tuy nhiên, hoạt động này trong điều kiện tự do hoá thương mại đang có nguy cơ làm tăng thêm ô nhiễm môi trường sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Đó là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ việc khai thác sử dụng không hiệu quả các nguồn tài nguyên như khai thác lậu các loại gỗ quý, săn bắn các loài thú quý hiếm, đánh bắt thuỷ, hải sản theo lối huỷ diệt, khai thác trái phép các loại khoáng sản; lưu thông những loại hàng hóa, vật tư có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như xăng dầu, thuốc nổ, hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu... Nếu việc sử dụng, khai thác không tính đến những tác động môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu không theo hướng sử dụng công nghệ tiên tiến và thâm dụng lao động sẽ dẫn đến việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng kém hiệu quả các yếu tố đầu vào phục vụ cho xuất khẩu, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và nòi giống con người Việt Nam. Điều này sẽ ảnh hưởng đến phát triển thương mại bền vững trong tương lai. Đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường đối với hàng xuất khẩu sẽ hạn chế được những tác động nói trên.

3.1.3. Định hƣớng phát triển xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu môi

trƣờng trong thƣơng mại quốc tế

Từ quan điểm phát triển xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu về môi trường trong thương mại quốc tế, căn cứ vào chiến lược bảo vệ môi trường và chiến lược xuất khẩu Việt Nam đến năm 2010, trong thời gian tới xuất khẩu cần tập trung vào một số hướng sau đây:

77

- Tập trung khai thác lợi thế tự nhiên của các mặt hàng xuất khẩu như gạo, cà phê, thuỷ sản, rau quả, thịt gia súc gia cầm trên cơ sở tuân thủ các quy định môi trường trong nước và quốc tế để hạn chế tác động tiêu cực đối với môi trường.

- Phát triển nông nghiệp hữu cơ để hạn chế tác động môi trường và thỏa

mãn tốt nhu cầu người tiêu dùng

- Mở rộng xuất khẩu sang các thị trường có yêu cầu môi trường thấp hơn để tránh được những rào cản môi trường đang bất lợi đối với doanh nghiệp nước ta

- Phấn đấu đến năm 2010, 100% cơ sở có chứng nhận ISO 14000

- Nâng cao tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến để tăng giá trị xuất khẩu nhằm hạn chế khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giảm được chi phí liên quan đến đóng gói, vận chuyển, bảo quản.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU

CHUẨN MÔI TRƢỜNG NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU

3.2.1. Ở cấp độ quốc gia

(1) Giáo dục ý thức cộng đồng và nâng cao nhận thức về môi trƣờng

đối với các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

78

Nâng cao nhận thức về các vấn đề môi trường quốc tế, quốc gia và những tác động của các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế đối với khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đáp ứng các yêu cầu môi trường trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các tiêu chuẩn môi trường của sản phẩm một mặt nâng cao chất lượng môi trường trong nước như hạn chế được ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, mặt khác nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, làm cho uy tín quốc gia và doanh nghiệp được nâng cao, thúc đẩy quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết về thương mại và môi trường quốc tế. Trong những năm qua, do yêu cầu phải đạt được sự tăng trưởng cao của nền kinh tế, các doanh nghiệp phải khẳng định sự tồn tại của mình trong cục diện cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt nên trong chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia và kinh doanh của doanh nghiệp vấn đề môi trường chưa được

quan tâm đúng mức, nhận thức của các cấp quản lý và doanh nghiệp chưa cao. Vì vậy, để đáp ứng các yêu cầu môi trường quốc tế, trước hết cần nâng cao nhận thức cộng đồng về nguy cơ ô nhiễm môi trường và mối đe doạ đối với cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Giải pháp này tập trung vào các vấn đề chính sau đây:

- Mở các chiến dịch đào tạo và tuyên truyền về an toàn thực phẩm, phổ biến các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế cho các nhà quản lý và doanh nghiệp như các quy định liên quan đến môi trường của WTO (TBT, SPS, TRIPs...), ASEAN, các hiệp định môi trường đa biên có liên quan đến thương mại (CBD, CITES, công ước Basel...); các quy định và tiêu chuẩn môi trường của các nước và khu vực thị trường như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản..., để làm sao cho các doanh nghiệp thấy được tầm quan trọng của các quy định và tiêu chuẩn này khi xuất khẩu hàng hoá.

- Nâng cao nhận thức về các lợi ích mà việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường mang lại cho quốc gia và doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được lợi ích lâu dài của việc tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn môi trường. Trong bối cảnh hiện nay, phát triển bền vững không những mang tính quốc gia mà còn rất quan trọng đối với doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh của mình.

- Không ngừng nâng cao ý thức của người sản xuất trong việc bảo vệ môi trường nói chung và trong việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, phân hóa học... nói riêng. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với hoạt động bảo vệ môi trường trong nước mà còn thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường trong khu vực cũng như thế giới, phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.

- Nâng cao nhận thức, ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường và thay đổi sở thích tiêu dùng hàng hóa theo hướng có lợi cho môi trường như ưa dùng sản phẩm được dán "nhãn hiệu xanh", dùng khí đốt hoặc năng lượng mặt trời thay cho việc dùng than hay điện làm nhiên liệu cho sinh hoạt... Chính người tiêu dùng sẽ là động lực buộc nhà sản xuất phải đầu tư công nghệ, thay đổi mặt hàng để đáp ứng sở thích của người tiêu dùng nhờ đó đáp ứng được các yêu cầu môi trường trong cạnh tranh thương mại quốc tế.

79

- Mở các khóa đào tạo ngắn hạn cho các doanh nghiệp, các nhà quản lý về vấn đề bảo vệ môi trường, mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền

vững, trong đó chú trọng đến các qui định thương mại liên quan đến thương mại của WTO và các Hiệp định môi trường đa phương (MEAs). Nâng cao trình độ của cán bộ làm thương mại và đàm phán thương mại về mối quan hệ giữa thương mại tự do và môi trường, từ đó giúp họ có lý lẽ đấu tranh vì lợi ích quốc gia trong những cuộc họp và thảo luận quốc tế về thương mại, hạn chế những quyết định có thể làm thua thiệt đối với nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nước.

- Tìm kiếm thông tin và điều kiện dễ dàng để kiểm nghiệm các sản phẩm bị cấm trên thế giới và hậu quả môi trường của chúng, đồng thời phổ cập các thông tin nói trên cho các Bộ, ngành hữu quan, nhất là các cơ quan điều hành xuất nhập khẩu và doanh nghiệp để nâng cao nhận thức về tình hình buôn bán các sản phẩm nguy hại đối với môi trường và đối sách của các nước, từ đó tìm ra biện pháp phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Không những thế, các thông tin môi trường cũng cần được phát triển mạnh và truyền tải nhiều hơn nữa tới các đối tượng có liên quan khác như quần chúng, các nhà sản xuất, các cơ quan quản lý kinh tế.

- Các cơ quan chức năng cần phổ biến các thông tin về các t iêu chuẩn môi trường liên quan tới sản phẩm đồng thời giới thiệu các quy định và tiêu chuẩn môi trường của một số nước là bạn hàng của Việt Nam cho các doanh nghiệp.

- Cần có các thông tin thường xuyên về cơ chế chính sách nhập khẩu của các đối tác thương mại chính, đặc biệt là các phân tích và đánh giá những cơ chế này so với các quy định của quốc tế.

- Thu thập và phổ cập thông tin của các nhóm công tác về thương mại và môi trường của UNCTAD và WTO cho các bộ ngành hữu quan, nhất là các cơ quan điều hành XNK và các doanh nghiệp để nâng cao nhận thức về tình hình buôn bán các sản phẩm có nguy hại đối với môi trường và giải pháp của các nước, từ đó có đối sách phù hợp cho Việt Nam.

(2) Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia.

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu môi trường trong nước cũng như nâng cao sức cạnh tranh, uy tín doanh nghiệp khi tham gia hội nhập quốc tế. Một hệ thống tiêu chuẩn môi trường được xây dựng trên cơ sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, tính đến điều kiện đặc

80

thù của các doanh nghiệp trong nước sẽ là công cụ hữu hiệu để quản lý môi trường, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ môi trường. Để xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đáp ứng các yêu cầu của các tổ chức thương mại và môi trường quốc tế cần thực hiện một số biện pháp sau đây:

- Hình thành các chính sách toàn diện về vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhu cầu của người tiêu dùng ở nước ta về các sản phẩn sạch đang ngày càng gia tăng. Đây là đòi hỏi bức xúc để các cấp các ngành nghiên cứu, xây dựng các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm ở mức cao hơn. Đồng thời thông qua việc thực hiện các chính sách về vệ sinh an toàn thực phẩm, hàng Việt Nam từng bước đáp ứng các yêu cầu môi trường quốc tế. Xây dựng các chính sách môi trường về sản phẩm cũng là một bước điều chỉnh hệ thống pháp luật của nước ta phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập.

- Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan soạn thảo và các doanh nghiệp, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong việc xây dựng tiêu chuẩn và các quy định quản lý để có thể bắt buộc doanh nghiệp thực hiện một cách có hiệu quả, tránh tình trạng áp đặt hoặc xây dựng tiêu chuẩn không dựa trên những chứng cứ khoa học.

- Tăng cường cơ sở hạ tầng trong nước như các cơ sở đào tạo, thử nghiệm và cấp chứng nhận. Nâng cao năng lực của các cơ sở đào tạo, trung tâm thử nghiệm cũng như các tổ chức chứng nhận tiêu chuẩn là đòi hỏi cấp thiết để xây dựng hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia. Nhà nước cần có chính sách đầu tư để củng cố các cơ sở hiện có và mở rộng hệ thống đào tạo,

81

- Xây dựng các tiêu chuẩn có thể cạnh tranh với các tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với điều kiện trong nước. Hiện nay hệ thống các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường rất đa dang và phong phú. Để đáp ứng các tiêu chuẩn này là một thách thức đối với các nước kém phát triển. Tuy vậy, việc xây dựng các tiêu chuẩn môi trường phải tính đến sự phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trong tương lai các tiêu chuẩn quốc gia phải mang tính cạnh tranh để một mặt hạn chế thiệt hại môi trường trong nước từ hoạt động nhập khẩu, mặt khác khi đáp ứng các yêu cầu môi trường trong nước sản phẩm của ta dễ dàng thâm nhập thị trường thế giới. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng ngay các yêu cầu môi trường quốc tế là rất khó, do vậy các tiêu chuẩn được xây dựng trước hết phải tính đến khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp.

thử nghiệm và cấp chứng nhận. Yêu cầu về nhân lực và trang thiết bị cho các hoạt động nói trên là hết sức cần thiết.

- Mở rộng mạng lưới quốc gia và khu vực về các phòng thử nghiệm cũng như tăng cường sự phối hợp khu vực để tổ chức chứng nhận và thử nghiệm.

- Tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật và chuyên gia của các tổ chức tiêu chuẩn, môi trường quốc tế đồng thời tăng cường công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia. Các tổ chức tiêu chuẩn của Việt Nam cần có kế hoạch cho từng giai đoạn để các nhà quản lý, các doanh nghiệp tiếp cận với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế.

(3) Đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp.

Công nghệ đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng môi trường của hàng xuất khẩu nước ta. Kết quả khảo sát tại doanh nghiệp cũng như tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy lạc hậu về công nghệ chế biến trong các ngành như thuỷ sản, thịt, rau quả, cà phê là nguyên nhân cơ bản làm cho giá trị gia tăng của các mặt hàng nói trên chưa cao. Yêu cầu về đổi mới công nghệ còn chịu sức ép của ô nhiễm môi trường công nghiệp nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt công việc này cần tiến hành một số biện pháp sau đây:

- Thúc đẩy phát

triển công nghệ sạch (các

trung

tâm của UNEP/UNIDO). Nhập khẩu các máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại, có chọn lọc kỹ lưỡng, ưu tiên các công nghệ nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, các công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm môi trường và đặc biệt là các công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường.

82

- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới để chế biến và đóng gói các sản phẩm thân thiện với môi trường. Chính sách công nghệ hiện nay chưa thực sự chú trọng đến khía cạnh môi trường của sản phẩm và doanh nghiệp. Chính vì vậy các doanh nghiệp chưa nhận thức được những thách thức về môi trường trong chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là thách thức về môi trường khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường.

- Phát triển doanh nghiệp để tăng cường chất lượng môi trường của sản phẩm và các quá trình sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Trong bối cảnh các yêu cầu môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh trong thương mại quốc tế, Nhà nước cần có chính sách định hướng phát triển doanh nghiệp theo hướng cải thiện chất lượng môi trường của sản phẩm và quá trình sản xuất. Có chính sách khuyến khích việc thành lập và phát triển các doanh nghiệp có sản phẩm và quá trình sản xuất thân thiện với môi trường như trong việc vay vốn, hỗ trợ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ khác. Trước hết chú trọng vào những doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm nhạy cảm ảnh hưởng đến sức khoẻ và vệ sinh môi trường như đồ uống, thực phẩm.

83

- Sự cộng tác của các doanh nghiệp trong việc áp dụng các tiêu chuẩn và quy định môi trường. Việc áp dụng các tiêu chuẩn và quy định môi trường không thể xem là công việc chỉ thuộc về phía doanh nghiệp. Các tiêu chuẩn và quy định trong nhiều trường hợp tuy là bắt buộc nhưng phải được doanh nghiệp ủng hộ thì việc thực hiện mới hiệu quả. Các cơ quan chức năng cần tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn để trợ giúp họ từ khâu đánh giá những tác động có thể đối với hiệu quả kinh doanh do áp dụng các tiêu chuẩn và quy định về môi trường đến việc sử dụng công nghệ mới. Việc áp dụng nên tiến hành theo từng bước từ thấp lên cao và thí điểm sau đó nhân rộng dần.

(4) Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Như đã phân tích ở các chương trước, doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn trong việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường do hạn chế về năng lực tài chính, khả năng chuyên môn. Các doanh nghiệp có thể nhận thức được rủi ro khi vươn ra thị trường ngoài nước nếu sản phẩm của họ không đáp ứng các yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên hạn chế về các khả năng nêu trên khiến họ không thể khắc phục được những khó khăn mà thị trường đặt ra. Do vậy Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ họ trong các trường hợp như:

- Cải thiện việc cung cấp kịp thời chính xác các thông tin. Hạn chế về khả năng tiếp cận các nguồn thông tin tin cậy là một bất lợi lớn đối với DNVVN Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Đặc biệt DNVVN rất thiếu thông tin về các yêu cầu môi trường của bạn hàng quốc tế. Hiện nay các thông tin về thị trường liên quan đến các quy định môi trường của các nước nhập khẩu chưa có cơ quan chuyên trách thu thập, quản lý và phổ biến. Các thông tin doanh nghiệp nhận được thường chậm và không đầy đủ, không được hướng dẫn để lựa chọn những thông tin cần thiết. Vì vậy, cần giao chức năng này cho một cơ quan chuyên trách để có thể xây dựng trang Web, phát hành các ấn phẩm về chủ đề này phục vụ cho doanh nghiệp.

- Hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và nhân lực cho DNVVN trong việc xây dựng hệ thống quản lý môi trường cũng như áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường khác.

- Tạo ra sự sẵn có các nguyên liệu đầu vào thân thiện với môi trường cho DNVVN. Áp dụng các tiêu chuẩn quá trình đối với sản phẩm hiện nay đang là trở ngại đối với DNVVN. Bởi vì nó đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn để đổi mới công nghệ và đào tạo cán bộ. Do vậy để giảm bớt các vấn đề môi trường ở công đoạn chế biến đối với DNVVN, Nhà nuớc cần có chính sách quản lý tốt nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào thông qua nhập khẩu cũng như sản xuất trong nước. Sự sẵn có các nguyên liệu đầu vào thân thiện với môi trường vào sẽ tạo thuận lợi cho DNVVN có chất lượng sản phẩm tốt hơn về mặt môi trường.

84

- Thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp DNVVN với các doanh nghiệp khác có kinh nghiệm trong việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường. Các công ty lớn có thể hỗ trợ các DNVVN áp dụng hệ thống quản

lý môi trường và cải thiện chính sách môi trường của họ dựa trên mục đích chung của nhà cung cấp và khách hàng. Sự hỗ trợ của các công ty lớn cho DNVVN thường thông qua các dự án cụ thể. Hơn nữa, việc hợp tác giữa các DNVVN có thể hỗ trợ cho nhau trong việc giải quyết khó khăn hiện tại và làm giảm chi phí. Ví dụ các DNVVN ở các lĩnh vực cụ thể và ở cùng một khu vực địa lý có thể hợp tác trong việc xác định các tác động và ảnh hưởng đến môi trường của các hoạt động của họ và thông tin về các yêu cầu luật pháp cho nhau. Đào tạo cán bộ cũng là một vấn đề có thể xem xét hợp tác thực hiện.

(5) Tham gia rà soát hiệp định, xây dựng tiêu chuẩn quốc tế và tận

dụng quyền nhận xét các quy định và tiêu chuẩn quốc tế

Để đáp ứng đầy đủ các quy định và tiêu chuẩn sản phẩm của các nước xuất khẩu, kinh nghiệm quốc tế cho thấy các quốc gia cần tiến hành các biện pháp như rà soát lại Hiệp định, quy định , tiêu chuẩn có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, tham gia vào các hoạt động tiêu chuẩn quốc tế, tận dụng đầy đủ quyền nhận xét dự thảo các tiêu chuẩn và các quy định quốc tế thông qua các cơ quan liên quốc gia và các tổ chức quốc tế.

a. Rà soát các hiệp định

b. Tham gia vào các hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế

Các tổ chức thương mại và môi trường cũng như ISO đều khuyến khích các nước tham gia cùng các tổ chức quốc tế trong việc xây dựng tiêu chuẩn quốc tế đối với những sản phẩm mà họ kiến nghị phải áp dụng tiêu chuẩn hay quy chế.

Các hiệp định quốc tế được rà soát định kỳ trong quá trình thực hiện Hiệp định. Chẳng hạn các quy định của WTO về TBT, SPS, TRIPs thường được rà soát ba năm một lần tại các vòng đàm phán và các hội nghị Bộ trưởng do các uỷ ban chuyên trách về các vấn đề có liên quan. Ví dụ, Hiệp định TBT được tiến hành bởi Uỷ ban về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại; Hiệp định về SPS được thực hiện bởi Uỷ ban về các Biện pháp Vệ sinh Dịch tễ. Có được các thông tin về thay đổi của các Hiệp định sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro đáng tiếc [23, 17].

85

Sự tham gia của các nước đang phát triển vào các hoạt động tiêu chuẩn hóa quốc tế là rất nhỏ. Ngoài một vài nước phát triển hơn, các nước đang phát triển không có khả năng tham gia một cách tích cực vào các cuộc họp của các

uỷ ban kỹ thuật do hạn chế về tài chính. Và thậm chí ngay cả khi họ có khả năng dự họp, sự tham gia của họ thường là không có hiệu quả, bởi vì họ không có những nghiên cứu kỹ càng để làm cơ sở cho tài liệu kỹ thuật trình lên cuộc họp.

Trong điều kiện này, cũng cần phải lưu ý rằng, do khó khăn về ngân quỹ mà các nước phát triển đang gặp phải, trách nhiệm thực hiện và tài trợ cho nghiên cứu để tham gia vào các hoạt động tiêu chuẩn hóa quốc tế lại rơi vào các ngành công nghiệp. Do vậy, giới kinh doanh tại tất cả các nước cần phải chủ động quan tâm đến việc thúc đẩy nghiên cứu và công tác kỹ thuật để tham gia tích cực hơn trong các hoạt động tiêu chuẩn hóa quốc tế liên quan đến những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của họ.

c. Tận dụng đầy đủ quyền nhận xét dự thảo tiêu chuẩn và các quy định

Các hiệp định thương mại liên quan đến các vấn đề môi trường cũng như các Hiệp định môi trường đa phương đã chỉ ra rằng biện pháp để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn, các biện pháp kỹ thuật và các quy định do các nước thành viên đưa ra không trở thành rào cản đối với thương mại là dành cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước cơ hội để nhận xét dự thảo các văn bản này. Trách nhiệm xem xét những nhận xét này là nhằm đảm bảo rằng người ta sẽ quan tâm đầy đủ đến yêu cầu của các nhà sản xuất nước ngoài về những tác hại mà những biện pháp dự kiến có thể gây ra khi việc xây dựng những biện pháp này được hoàn tất [22, 32].

Chẳng hạn, các Hiệp định SPS và TBT quy định rằng ngoài việc thông báo trên các tạp chí kỹ thuật liên quan, các nước thành viên phải thông báo cho Ban Thư ký WTO về sản phẩm được điều chỉnh bởi quy định kỹ thuật hay quy định SPS mục tiêu và lý do của những quy chế này. Theo những thủ tục hiện tại, việc thông báo này sẽ được Ban Thư ký gửi ngay cho các chính phủ quốc gia. Trách nhiệm của các chính phủ là chuyển thông báo đến các hiệp hội của các ngành sản xuất và các tổ chức kỹ thuật chuyên môn liên quan, nhờ đó, nếu

86

Tuy nhiên, trên thực tế, quyền nhận xét có thể không có giá trị thực tế gì đối với các nhà sản xuất nước ngoài nếu như họ không kịp thời biết rằng các công việc chuẩn bị và thông qua một tiêu chuẩn hay quy chế đang được tiến hành. Do vậy, các Hiệp định liên quan đến các vấn đề thương mại và môi trường đã đưa ra thủ tục để đảm bảo minh bạch hơn nữa trong các công việc đang được thực hiện.

họ thấy cần thiết, họ có thể xin bản copy dự thảo quy chế và có nhận xét đối với chúng.

Thủ tục đối với tiêu chuẩn tự nguyện do các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc gia soạn thảo cũng dựa trên những nguyên tắc tương tự, mặc dù có khác đôi chút. Để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất nước ngoài làm quen với công việc tiêu chuẩn hóa của các tổ chức này, Quy tắc thực hành đúng (Code of good Practice) nằm trong Hiệp định TBT yêu cầu các tổ chức này phải xuất bản chương trình làm việc của họ "ít nhất sáu tháng một lần", trong đó cung cấp thông tin về tiêu chuẩn đang được soạn thảo và những tiêu chuẩn đã được thông qua trước đó. Các cơ quan cấp quốc gia cũng được yêu cầu thông báo cho Trung tâm Thông tin ISO-IEC về tên của ấn phẩm có thông tin này và địa điểm cung cấp ấn phẩm đó. Các ngành công nghiệp và hiệp hội nước ngoài chỉ có thể tận dụng quyền nhận xét các dự thảo tiêu chuẩn mà Hiệp định TBT đã dành cho họ bằng cách theo dõi liên tục và thận trọng công việc mà các tổ chức tiêu chuẩn quốc gia thực hiện trên các thị trường xuất khẩu chính của họ và kiểm soát thông tin mà họ xuất bản về dự thảo tiêu chuẩn.

Để có được quyền tham gia xây dựng, rà soát, tận dụng đầy đủ quyền nhận xét các tiêu chuẩn quốc tế cũng như có được tiếng nói trong các cuộc đàm phán thương mại liên quan đến môi trường, trong giải quyết tranh chấp về các vấn đề tiêu chuẩn Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình hội nhập, nhất là gia nhập WTO. Tuy nhiên để làm được việc đó cần thiết phải nâng cao năng lực đội ngũ đàm phán, xây dựng tiêu chuẩn.

(6) Một số giải pháp khác:

- Cần nghiên cứu và khai thác hiệu quả các quy định của WTO liên quan đến môi trường như các quy định trong hiệp định nông nghiệp, Hiệp định SPS, Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại ... để đảm bảo có các công cụ

87

- Tham gia rộng rãi các Công ước về môi trường và tiến tới luật hóa các quy định của các công ước này vào chính sách quản lý thương mại quốc gia. Trong tiến trình này cần chú trọng đến việc xây dựng chương trình hợp tác kỹ thuật với các cơ quan môi trường nước ngoài và quốc tế để việc đưa các điều khoản môi trường (theo các Hiệp định MEA) vào luật hoặc chính sách thương mại một cách có hiệu quả nhất, tránh những quy định rườm rà gây cản trở cho thương mại.

thương mại hữu hiệu, phù hợp với WTO, được các nước công nhận trong việc đáp ứng yêu cầu môi trường của các nước nhập khẩu.

- Có chính sách quản lý chặt chẽ đối với hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập khẩu những mặt hàng kinh doanh có điều kiện, các mặt hàng có nhiều khả năng gây ô nhiễm môi trường trong quá trình tạo ra sản phẩm như hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật..., đồng thời khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên như gỗ và các sản phẩm đa dạng sinh học nhằm làm giảm tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi hiện nay. Bên cạnh đó cần phải có chính sách lưu thông hàng hóa trong nước, chính sách tiêu dùng đồng bộ, phù hợp với chính sách nhập khẩu để quản lý tốt lưu thông, tiêu dùng hàng hóa trong nước. Ngoài những quy định, chính sách chung, đối với từng lĩnh vực, mặt hàng cụ thể cũng phải có những quy định chặt chẽ với chế tài nghiêm khắc để đảm bảo cho các quy định được thực hiện trên thực tế.

- Cải tiến các sắc thuế và biểu thuế xuất nhập khẩu nhằm làm tăng độ mở của nền kinh tế, tăng tốc độ hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng thương mại thế giới, đồng thời vừa khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên vừa ngăn chặn tình trạng ô nhiễm và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam.

- Xây dựng cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan thương mại, tài

chính, hải quan và các cơ quan môi trường trong việc quản lý xuất khẩu.

- Ưu tiên và tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ

tầng cho sản xuất nông và công nghiệp.

- Hỗ trợ nông dân cải thiện cơ chế sản xuất nông nghiệp, giảm sự xuống cấp của đất đai và chuyển dần sang các phương thức sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường.

- Đưa các chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm để hạn chế việc sử

- Hợp nhất các mục tiêu môi trường vào công tác kế hoạch hóa của quốc gia, các ngành, các địa phương, đưa vấn đề môi trường vào trong các dự án phát triển kinh tế, xã hội.

dụng các nguồn lực liên quan đến môi trường.

88

- Khuyến khích các ngành gây ô nhiễm thành lập quỹ bảo vệ môi trường, góp phần giảm tác động môi trường của quá trình hội nhập và phát

triển kinh tế, đồng thời hỗ trợ những dự án đầu tư xử lý ô nhiễm và bảo đảm những yêu cầu quốc tế về bảo vệ môi trường.

- Quy hoạch các vùng kinh tế nhằm hạn chế đến mức tối đa việc khai thác bừa bãi các sản phẩm đa dạng sinh học và có sự phối hợp giữa các cơ quan lập kế hoạch và nhân dân vùng có tài nguyên trong việc lập quy hoạch.

- Cần có chính sách hỗ trợ và kiểm soát đặc biệt đối với một số ngành mà việc phát triển có tác động trực tiếp đến môi trường như nông nghiệp, khai thác và xuất khẩu thuỷ hải sản, lâm sản, khoáng sản...

- Khuyến khích các nhà sản xuất, đặc biệt là những nhà xuất khẩu áp dụng Hệ thống quản lý môi trường ISO14000. Đây sẽ là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị trường, đồng thời góp phần hạn chế những tác động môi trường do thương mại gây ra. Trước mắt, cần nghiên cứu áp dụng các vấn đề của Hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000 tại một số xí nghiệp điểm và sẽ nhân rộng dần ra các đơn vị sản xuất khác. Đồng thời mở các lớp đào tạo, tập huấn cho các đơn vị, đào tạo đội ngũ chuyên gia tư vấn có đủ trình độ để áp dụng Hệ thống quản lý môi trường, đào tạo các đánh giá viên cho việc chứng nhận Hệ thống quản lý môi trường...

- Sử dụng các công cụ kinh tế trong việc quản lý môi trường đối với các doanh nghiệp. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường.

3.2.2. Ở cấp độ doanh nghiệp

Đổi mới công nghệ sản xuất là một trong những giải pháp quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. Một mặt làm giảm giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng do đáp ứng được các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu về bao bì đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế biến. Hạn chế lớn nhất của doanh nghiệp nước ta hiện nay trong việc đổi mới công nghệ là thiếu vốn, thiếu kiến thức để tiếp cận các nguồn công nghệ tiên tiến và thiếu thông tin về các quy định và tiêu chuẩn của sản phẩm do các nước nhập khẩu quy định. Để đáp ứng yêu cầu về môi trường của các nước nhập khẩu, các doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp về công nghệ sau đây:

89

(1) Đầu tƣ đổi mới công nghệ

- Cải tiến, nâng cao kỹ thuật của các trang thiết bị xử lý chất thải để nâng cao hiệu quả của công tác này, góp phần hạn chế các tác nhân gây ô nhiễm môi trường.

- Thay đổi công nghệ độc hại gây ô nhiễm bằng các công nghệ sạch ít

gây ô nhiễm hơn hoặc không gây ô nhiễm.

- Đầu tư công nghệ xử lý các chất thải theo hai hướng: khuyến khích nghiên cứu thiết kế các thiết bị, dây chuyền công nghệ có thể sản xuất trong nước đồng thời nhập khẩu các công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, đảm bảo cho việc xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn về môi trường; xây dựng hệ thống xử lý chất thải, pha loãng chất thải.

- Do những khó khăn về tài chính nên đồng thời với việc trang bị các thiết bị công nghệ mới, hiện đại cho các ngành sản xuất trong nước vẫn phải xây dựng, lắp đặt bổ sung các thiết bị chống và xử lý ô nhiễm môi trường cho các thiết bị, công nghệ hiện có và đang vận hành trong các xí nghiệp sản xuất để từng bước hạn chế, tiến tới chấm dứt việc thải các chất độc hại vào môi trường không khí, đất và nước.

- Nhập khẩu các máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại, có chọn lọc kỹ lưỡng, ưu tiên các công nghệ nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, các công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm môi trường.

- Thu hồi và tái sử dụng một số chất thải rắn đặc thù trong một số cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm cao như các cơ sở dệt may, các nhà máy sản xuất thuốc lá, cao su...

- Thông qua việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại để phân loại cụ thể mức độ gây ô nhiễm môi trường của từng cơ sở sản xuất, từ đó có biện pháp xử lý thích hợp. Đối với những cơ sở gây ô nhiễm môi trường không thể khắc phục được có thể mạnh dạn chuyển đổi ngành nghề sản xuất, thay đổi công nghệ mới hoặc thậm chí buộc phải ngừng sản xuất... Đối với những cơ sở gây ô nhiễm ở mức độ thấp hơn có thể tìm hướng khắc phục bằng việc cải tiến công nghệ, xây dựng, lắp

90

- Nghiên cứu khả năng chuyển đổi sang dùng các loại nhiên liệu ít gây ô nhiễm môi trường. Đây là một trong những hướng đi đúng đắn mà nhiều nước đang hướng tới bởi nếu hạn chế việc sử dụng nhiên liệu gây ô nhiễm trong sản xuất sẽ giảm được đáng kể nguồn gây ô nhiễm hiện nay.

đặt hệ thống xử lý chất thải, thu lệ phí với các hoạt động gây ô nhiễm, đánh thuế vào một số sản phẩm gây ô nhiễm.

- Điều chỉnh cơ cấu sản xuất, từng bước chuyển sang sản xuất sạch, tiến tới phổ cập tiêu chuẩn ISO 14000 ở tất cả các doanh nghiệp, mở rộng việc dán nhãn sinh thái cho tất cả các sản phẩm có liên quan đến môi trường.

- Tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật và hợp tác của các tổ chức quốc tế để tận dụng mặt tích cực của quá trình hội nhập quốc tế trong vấn đề bảo vệ môi trường, đồng thời có biện pháp sử dụng các nguồn vốn trợ giúp của nước ngoài một cách hiệu quả.

Áp dụng các phương pháp sản xuất sạch

Sản xuất sạch là việc áp dụng liên tục chiến lược môi trường tổng hợp mang tính ngăn ngừa vào quy trình sản xuất đối với sản phẩm nhằm giảm các rủi ro cho con người và môi trường (khái niệm của UNEP - Chương trình môi trường Liên hiệp quốc). Áp dụng các phương pháp sản xuất sạch không những hạn chế được ô nhiễm môi trường trong nuớc mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu nước ta, đặc biệt là đối với các sản phẩm nhạy cảm như thực phẩm, đồ uống, các loại sản phẩm hữu cơ.

91

Nền công nghiệp ở nước ta phần lớn còn lạc hậu, công nghệ và thiết bị cũ, sản xuất phân tán nên lượng nông sản mất mát trong quá trình sản xuất lớn. Sự thất thoát này làm tăng áp lực về môi trường, tăng chi phí đầu vào, giảm hiệu quả sử dụng tài nguyên, tăng giá thành sản phẩm... Ngoài ra do thiếu vốn nên các cơ sở sản xuất không có khả năng tự thay thế các thiết bị một cách nhanh chóng hay toàn bộ hoặc đầu tư hệ thống xử lý môi trường triệt để. Thực hiện các phương pháp sản xuất sạch hơn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn nêu trên. Lợi ích kinh tế mà phương pháp sản xuất sạch mang lại tương đối lớn, giảm được chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Các doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch không phải thụ động đối phó với những quy định môi trường của Nhà nước, mà chủ động trong sản xuất kinh doanh. Có thể nói, sản xuất sạch là công cụ thực tiễn và hiệu quả để quản lý môi trường tại các doanh nghiệp hiện nay và cả trong tương lai. Ngoài ra, sản xuất sạch hơn thích hợp cho các doanh nghiệp sử dụng tài nguyên (như các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta) vì nó là phương pháp làm giảm nguyên liệu, sử dụng hiệu quả tài nguyên.

Đối với quy trình sản xuất, sản xuất sạch bao gồm việc bảo tồn năng lượng và nguyên liệu, loại trừ các nguyên liệu độc hại, giảm khối lượng và độ hại của khí thải, chất thải trong quy trình.

Đối với sản phẩm, chiến lược tập trung vào các tác động phát sinh trong suốt chu kỳ tuổi thọ sản phẩm, từ khâu khai thác nguyên liệu cho đến tận lúc thải bỏ sản phẩm không còn dùng được.

Sản xuất sạch không chỉ được coi là công cụ chủ yếu trong chiến lược phát triển mà còn bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường. Với nội dung phòng ngừa ô nhiễm là chính, sản xuất sạch giải quyết ô nhiễm trên toàn bộ hệ thống sản xuất.

Sản xuất sạch đã được giới thiệu và triển khai rất hạn chế ở nước ta. Trong hai năm trở lại đây, Chương trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) với mạng lưới quản lý môi trường công nghiệp NIEM đã tài trợ cho chương trình sản xuất sạch tại Việt Nam qua việc áp dụng sản xuất sạch tại một số nhà máy tại Đồng Nai và Phú Thọ đã đem lại một số kết quả khả quan và hiệu quả kinh tế.

(2) Xây dựng chiến lƣợc kinh doanh dài hạn có tính đến các tác

động của các quy định tiêu chuẩn và quy định môi trƣờng của sản phẩm

92

Trước hết, doanh nghiệp phải nhận thức được những cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập, đặc biệt là áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt khi nước ta mở cửa thương mại, trước hết là đối với AFTA và thực hiện Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, trong đó có các áp lực phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của sản phẩm. Hai là, để vượt qua các rào cản thương mại và môi trường quốc tế, doanh nghiệp cần có chiến lược về sản phẩm, khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Để đạt được các mục tiêu nói trên doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, thích ứng với các biến động của thị trường và nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng. Đối với việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường trong nước cũng như khách hàng quốc tế, doanh nghiệp cần phải có một chiến lược dài hạn mới có thể tính đến hướng thay đổi của người tiêu dùng về những sản phẩm thân thiện cũng như yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của các nước nhằm

hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường qua biên giới. Trong tương lai, các quy định về phương pháp chế biến sẽ được áp dụng rộng rãi và sản xuất của một nước sẽ bị ràng buộc bởi các quy định của các nước khác trên cơ s ở hài hòa các tiêu chuẩn sản phẩm.

Theo đánh giá của các một số chuyên gia kinh tế, một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu một chiến lược kinh doanh dài hạn, thiếu sự chuẩn bị để đối phó với những thách thức khi Việt Nam mở cửa thị trường. Nguyên nhân của tình trạng này là do hạn chế về các tiềm lực, doanh nghiệp nước ta hiện nay đang phải đối phó với những vấn đề cấp bách thường nhật có ảnh hưởng đến tồn tại của mình, do vậy còn thiếu nhiều yếu tố để xây dựng một chiến lược dài hạn. Chẳng hạn như hạn chế về vốn, không chủ động được thị trường tiêu thụ, thiếu thông tin về bạn hàng, các DNVVN chưa định hướng được lĩnh vực kinh doanh và áp lực cạnh tranh hiện tại chưa thực sự đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp do có sự bao cấp từ phía Nhà nước.

(3) Áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng theo ISO 9000, ISO 14000,

HACCP.

Đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm đối với môi trường thì việc áp dụng các tiêu chuẩn trở thành bắt buộc, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của mình. Do vậy, không có cách nào khác là phải từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn của nước nhập khẩu. Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002 cho thấy là ngoài hạn chế về cơ cấu xuất khẩu hiện nay, nguyên nhân của tình trạng này còn do khá nhiều sản phẩm của ta không đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn của nước nhập khẩu như rau quả, thuỷ sản, chè, thịt. Giá một số loại quả đặc sản Việt Nam như xoài, nhãn, vải... ở thị

93

Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế là một trong biện pháp tốt nhất để có được sự công nhận quốc tế về hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp. Thực tế hiện nay cho thấy việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế làm tăng đáng kể khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp nhận các nguồn lực để phát triển và tạo ra uy tín đáng tin cậy đối với người tiêu dùng. Những tác động tích cực của việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế sẽ tạo cho doanh nghiệp một viễn cảnh phát triển hứa hẹn trong tương lai.

trường nội địa sụt giảm nghiêm trọng cho thấy ta còn thiếu các biện pháp đồng bộ hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm, mà một trong số các biện pháp đó là đảm bảo tiêu chuẩn của hàng xuất khẩu.

(4) Đào tạo nguồn nhân lực.

Áp dụng các quy định và tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế của sản phẩm liên quan đến môi trường doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về môi trường. Qua khảo sát các công ty sản xuất hàng xuất khẩu trong khuôn khổ đề tài cho thấy các doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị về nhân sự để xử lý các vấn đề môi trường của mình. Tìm hiểu các quy định và tiêu chuẩn môi trường cũng như áp dụng chúng phải được coi là một hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp phải đối mặt với các vấn đề môi trường trong tiêu thụ sản phẩm. Kinh nghiệm của các công ty tiên tiến trên thế giới cho thấy, chi phí cho công tác này ngày càng tăng nhanh trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Trước mắt các doanh nghiệp cần tiến hành các hoạt động sau:

- Chuẩn bị nhân lực để điều hành hoạt động quản lý môi trường của công ty. Lãnh đạo tổ chức phải là người am hiểu các hoạt động của công ty, am hiểu về kỹ thuật cũng như các văn bản luật môi trường, có năng lực KHCN&MT, am hiểu về hệ thống tiêu chuẩn môi trường... Trưởng ban môi trường có trách nhiệm kiểm tra giám sát môi trường trong doanh nghiệp., đại diện lãnh đạo giải quyết những vấn đề môi trường và đề ra mục tiêu, chính

94

- Xây dựng tổ chức quản lý môi trường trong doanh nghiệp: Việc xây dựng một tổ chức (phòng, ban) quản lý môi trường trong một doanh nghiệp hoạt động hiệu quả là một công cụ cần thiết cho công tác bảo vệ môi trường, thực hiện luật bảo vệ môi trường cũng như thúc đẩy khả năng cạnh tranh sản phẩm, tăng uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Mục tiêu của Phòng (ban) môi trường nhằm đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp đáp ứng luật, quy định môi trường của Nhà nước. Phòng ban môi trường có trách nhiệm định kỳ thực hiện việc kiểm tra, giám sát chất lượng môi trường trong công ty. Phải đảm bảo mọi hoạt động (sản xuất, xử lý, tiếp nhận nguyên liệu, bốc dở, sử dụng nhiên, nguyên liệu...) đều được kiểm tra và giám sát với góc độ môi trường. Tham mưu cho lãnh đạo công ty về các vấn đề môi trường của doanh nghiệp. Phối hợp với các phòng ban khác trong công tác bảo vệ môi trường. Phổ biến chính sách, mục tiêu môi trường của công ty đến với các phòng ban.

sách môi trường cho công ty. Bên cạnh đó, lãnh đạo tổ chức này phải am hiểu về kỹ thuật cũng như các văn bản luật môi trường, nắm rõ nguyên lý hoạt động của các hệ thống xử lý môi trường, có khả năng đánh giá tác động môi trường trong suốt quy trình sản xuất của công ty. Các nhân viên có khả năng vận hành các hệ thống xử lý, phân tích, kiểm tra mức độ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường của các sản phẩm và chất thải, có kế hoạch để thường xuyên tiếp cận kịp thời với các thông tin về thị trường liên quan đến yếu tố môi trường của sản phẩm.

(5) Tăng cƣờng công tác thông tin.

Một trong những vấn đề chính mà các doanh nghiệp của những nước đang phát triển hay gặp phải trong việc đẩy mạnh xuất khẩu là việc thiếu thông tin về tiêu chuẩn và các biện pháp về sức khoẻ hay kiểm dịch áp dụng đối với sản phẩm của họ tại các thị trường trọng điểm. Khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn thông tin thị trường, sản phẩm. Ngoài sự hỗ trợ thông tin của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tiếp cận các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, các bạn hàng. Các thông tin về các quy định và tiêu chuẩn của sản phẩm xuất khẩu hiện nay được các tổ chức, hãng công bố công khai trên mạng .

- Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn tự nguyện được áp dụng hay được đề

nghị áp dụng.

- Các thủ tục đánh giá sự phù hợp được áp dụng hay được đề nghị áp dụng.

- Các biện pháp vệ sinh dịch tễ được áp dụng hay được đề nghị áp dụng.

- Thủ tục giám định và kiểm soát, biện pháp sản xuất và kiểm dịch, biện pháp kiểm tra lượng thuốc trừ sâu cho phép và các thủ tục kiểm định chất phụ gia.

Ví dụ, để giúp các doanh nghiệp này có được những thông tin về các quy định của Hiệp định SPS và TBT, hai Hiệp định trên đã yêu cầu mỗi nước thành viên thành lập các đầu mối cung cấp thông tin, từ đó, chính phủ của những nước khác và các công ty kinh doanh quan tâm có thể thu thập thông tin về:

hợp lý.

95

- Thủ tục đánh giá rủi ro để quyết định mức độ bảo vệ về vệ sinh dịch tễ

Các dịch vụ do những đầu mối cung cấp thông tin này cung cấp ngày càng được sử dụng nhiều bởi các doanh nghiệp kinh doanh cũng như các cộng đồng dân sự (các hiệp hội tiêu dùng hay các hiệp hội bảo vệ quyền lợi khác) để thu thập thông tin về quy định kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ của các nước khác.

3.2.3. Giải pháp đối với một số nhóm sản phẩm

(1) Nông sản:

- Cần có quy hoạch ổn định cho các vùng cây trồng, hạn chế việc thay đổi hệ thống canh tác: Cơ cấu cây trồng thay đổi, thậm chí thay đổi nhanh sẽ gây ra những tác động sinh thái bất lợi. Mỗi lần thay đổi cơ cấu cây trồng tức phải thay đổi kỹ thuật canh tác, đất, điều này sẽ gây ra các biến đổi sinh thái ảnh hưởng đến hệ đa dạng sinh học, hạn chế khả năng thích nghi của cây trồng chống lại sâu bệnh. Trường hợp như thế này đã xảy ra khi sản phẩm của cây trồng trước gặp khó khăn trong thương mại thì ào ạt bị thay thế bằng cây trồng khác đang có thuận lợi trong việc tiêu thụ như phá dâu để trồng cà phê, phá cây rừng trồng cà phê, bỏ cam trồng chè, hoặc khi mở các khu công nghiệp thì lập tức các vùng xung quanh nông dân bớt diện tích trồng lúa, khoai hay cây trồng khác để tập trung sản xuất các sản phẩm có giá cao cho khu công nghiệp như rau, hoa.

- Quy hoạch vùng sinh thái nông nghiệp: điều tra, nghiên cứu các điều kiện tự nhiên về thời tiết, khí hậu, đất đai, thuỷ văn, quần thể sinh vật của từng vùng để làm cơ sở bố trí phát triển cây trồng vật nuôi.

- Chọn lọc, lai tạo các giống cây trồng vật nuôi có năng suất, có chất lượng cao, thích nghi với từng vùng và có khả năng chống chịu sâu bệnh. Đây là vấn đề hàng đầu của sản xuất nông nghiệp. Và thực tế nông nghiệp đạt được thành tựu trong những năm qua thì công tác giống cây trồng, giống vật nuôi đóng góp phần không nhỏ.

- Xây dựng hệ thống canh tác có hiệu quả nhất trên cơ sở các vùng sinh thái. Hệ thống canh tác hợp lý không chỉ đạt hiệu quả kinh tế cao mà còn tập trung giải quyết được vấn đề về môi trường.

96

- Xây dựng các văn bản kỹ thuật: Tiêu chuẩn và quy trình kỹ thuật về cây trồng, vật nuôi, phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y làm cơ sở cho công tác quản lý và hướng dẫn người sản xuất.

- Ban hành các văn bản có tính pháp lý để quản lý sản xuất nông nghiệp: Pháp lệnh kiểm dịch và Bảo vệ thực vật, Pháp lệnh thú y, Nghị định quản lý giống cây trồng, Nghị định quản lý vật nuôi, Nghị định quản lý thức ăn chăn nuôi, các quy định về sản xuất kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi, quy định danh mục hoá chất bảo vệ thực vật được sử dụng, hạn chế sử dụng và cấm sử dụng ở Việt Nam. Khuyến khích sử dụng các loại phân bón sinh học và áp dụng phòng trừ dịch bệnh bằng phương pháp sinh học.

- Xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân sản xuất nông nghiệp hàng hoá có chất lượng: như chính sách vốn, chính sách dịch vụ khuyến nông, chuyển giao công nghệ và cung ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất, chính sách thuế, chính sách đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, chính sách đào tạo cán bộ nông nghiệp, bảo hiểm nông nghiệp....

97

- Phát triển nền nông nghiệp hữu cơ. Thị trường các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ thế giới trong những năm gần đây phát triển rất nhanh với tốc độ tăng trưởng 10-20% ở các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU. Kim ngạch các sản phẩm hữu cơ thế giới năm 2000 đạt giá trị 17,5 tỷ USD, trong đó Hoa Kỳ 8 tỷ USD, EU 7 tỷ USD, Đức 2,5 tỷ USD. Riêng thị trường Anh có mức tăng trưởng cao nhất khoảng 25-30%. Hiện nay phần lớn sản phẩm hữu cơ được bán tại các nước phát triển đều phải qua kiểm duyệt. Các chương trình tiêu chuẩn về sản phẩm hữu cơ ở các nước này đã có sự can thiệp nhiều hơn của chính phủ. Việt Nam có nhiều lợi thế về các sản phẩm hữu cơ như rau, hoa quả, gia vị, các sản phẩm chăn nuôi, chè, cà phê, hạt tiêu, thảo dược và đặc sản rừng. Tuy nhiên do phương thức canh tác không hợp lý, sử dụng nhiều hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật nên chất lượng các sản phẩm của ta còn hạn chế. Hiện nay ở nước ta mới bước đầu phát triển một số cây trồng hữu cơ như rau sạch, chè sạch, một số thảo dược. Để phát triển nông nghiệp hữu cơ điều trước hết là phải cải tạo môi trường đất, sử dụng các biện pháp nuôi trồng thân thiện với môi trường, lựa chọn giống cây, con thích hợp với từng lại đất và điều kiện sinh trưởng. Biện pháp tiếp theo là trợ giúp từ phía Nhà nước thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, bởi vì chi phí sản xuất các sản phẩm này thường rất cao. Ngoài ra các biện pháp hỗ trợ khác như thông tin thị trường, kỹ thuật canh tác có ý nghĩa rất lớn đối với việc khuyếch trương nhân rộng sản phẩm hữu cơ ở tất cả các vùng trong cả nước.

- Tìm hiểu các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước và

các quy định khác liên quan đến xuất khẩu nông sản [7, 64-70].

(2) Thuỷ sản:

- Quy hoạch vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, áp dụng các biện pháp quản lý quá trình nuôi trồng. Khẩn trương xây dựng quy hoạch vùng nuôi tôm, nhất là nuôi tôm trên cát, rà soát lại diện tích nuôi trồng để có biện pháp quản lý thích hợp.

- Xúc tiến chương trình giáo dục cho tất cả các bên liên quan từ cán bộ quản lý đến cá nhân những người nuôi tôm về khái niệm phát triển bền vững và làm thế nào để đạt được điều đó trong nuôi trồng thuỷ sản.

- Quản lý chặt chẽ việc sử dụng thức ăn và thuốc kháng sinh trong nuôi

trồng thuỷ sản.

- Khai thác song song với bảo tồn: Kiên quyết chống sử dụng thuốc nổ, chất độc, xung điện khai thác thuỷ sản; quản lý sản lượng khai thác, hạn chế khối lượng khai thác theo từng vùng, quản lý kích cỡ mắt lưới khai thác, áp dụng các biện pháp đánh bắt hiện đại để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.

- Cần có sự xem xét đánh giá tác động môi trường trước khi cấp phép các dự án đầu tư sản xuất thuỷ sản. Đối với các xí nghiệp đang sản xuất cần có đánh giá, khuyến cáo đồng thời có sự hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vốn và công nghệ xử lý chất thải.

- Có chính sách cân đối giữa khai thác nguồn lợi tự nhiên, giảm thất

thoát trong đánh bắt, sau thu hoạch và tăng cường nuôi trồng.

- Tăng cường công tác thông tin về thị trường và hệ thống tiêu chuẩn

VSATTP của các nước nhập khẩu.

98

- Xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng thuỷ sản xuất khẩu đồng bộ rộng khắp, có những hỗ trợ nhất định để doanh nghiệp có được các chứng nhận về quy định, tiêu chuẩn VSATTP.

KẾT LUẬN

Trong những năm tới, Việt Nam sẽ nỗ lực đẩy mạnh hội nhập kinh tế thương mại với khu vực và thế giới với việc thực hiện các cam kết AFTA, Hiệp Định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán gia nhập WTO, mở rộng hợp tác kinh tế song phương với các quốc gia trên thế giới. Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, mở rộng thị trường, tận dụng tối đa lợi thế của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Cùng với việc mở cửa thị trường, nới lỏng các rào cản thương mại, hàng hoá và dịch vụ Việt Nam sẽ có điều kiện để tiếp cận nhiều khu vực thị trường thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những rào cản kỹ thuật, đặc biệt là các rào cản môi trường trong thương mại quốc tế sẽ là trở ngại đối với Việt Nam, một nước đang xuất khẩu nhiều mặt hàng nhạy cảm về mặt môi trường. Trong điều kiện đó việc tìm hiểu các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế để có những giải pháp cho hàng hoá và dịch vụ Việt Nam vượt qua các rào cản này là hết sức cần thiết. Một mặt, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Mặt khác, giải quyết hiệu quả các vấn đề môi trường cấp bách của đất nước, thực hiện tốt hơn các cam kết quốc tế về thương mại và môi trường, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Với cách hiểu như vậy, đề tài “Khả năng đáp ứng tiêu chuẩn môi trường trong thương mại quốc tế của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam” đã có những đóng góp nhất định vào việc cung cấp những thông tin về hệ thống quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, đánh giá tác động của chúng đối với khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, chỉ ra những hạn chế và khả năng của các doanh nghiệp trong việc đáp ứng các yêu cầu đó, đề xuất một số khuyến nghị giải pháp để các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp điều chỉnh sản xuất kinh doanh theo hướng đáp ứng các yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu.

99

Trong điều kiện năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, các doanh nghiệp nước ta đang đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn như hạn chế về vốn, tiếp cận thông tin, trình độ đội ngũ thì việc đáp ứng các

100

yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu là một thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp. Những nỗ lực để có được các chứng nhận về môi trường trong nhiều trường hợp có thể làm giảm khả năng tiếp cận thị trường của hàng hoá, kéo theo gánh nặng về tài chính cho doanh nghiệp. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nhất định cho các doanh nghiệp này trong việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cung cấp thông tin, hợp tác quốc tế và khu vực để hài hoà tiêu chuẩn. Các doanh nghiệp cần có chiến lược kinh doanh dài hạn, tính đến những tác động của các rào cản môi trường để có những giải pháp thích hợp cho hoạt động kinh doanh khi nước ta thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về thương mại và môi trường.

Phụ lục 1: Hệ thống nhãn hiệu sinh thái toàn cầu

Hệ thống dán nhãn hiệu sinh thái đƣợc chính phủ tài trợ

Ở nước phát triển

- Dấu sinh thái: Nhật Bản

- Sự lựa chọn vì môi trường: Canada

- Môi trường NF: Pháp

- Thiên nga trắng: Các nước Bắc Âu

- Các nước Ôxtrâylia, Áo, Hà Lan và New Zealand cũng đã bắt đầu các

chương trình đánh nhãn hiệu sinh thái.

Ở các nước đang phát triển:

- Biểu tượng sinh thái: Hàn Quốc

- Dấu sinh thái: Ấn Độ

- Nhãn hiệu xanh: Singapore

Các kế hoạch nhãn hiệu tƣ nhân (Phi chính phủ)

- Hệ thống chứng nhận Khoa học (trước đây được biết đến như là Chữ

thập xanh): Mỹ

- Con dấu xanh: Mỹ

- Sự lựa chọn tốt vì môi trường: Thụy Điển

101

Nguồn: [20, 348]

Phụ lục 2: Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch đối với động thực vật (SPS)

Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh an toàn đối với động thực vật (SPS) đề cập đến các biện pháp khác nhau được các chính phủ sử dụng để đảm bảo rằng thực phẩm cho người và động vật phải được an toàn không bị nhiễm bẩn, có độc tố và các biện pháp bảo vệ sức khoẻ cho con người khỏi các côn trùng hoặc bệnh tật do các loại động thực vật mang theo.

Nguyên tắc áp dụng của hiệp định:

- Các biện pháp áp dụng để bảo vệ con người và động thực vật phải dựa

trên các chứng cứ khoa học thông qua các quá trình phân tích rủi ro.

- Các biện pháp SPS có thể chỉ được áp dụng tới mức mà chúng là cần

thiết đối với việc bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật;

- Chúng không được tạo ra sự phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc phi lý giữa các quốc gia thành viên khi họ có các điều kiện tương đương, tức là chấp thuận các quá trình và phương pháp khác với phương pháp mình sử dụng nếu kết quả đạt được như nhau;

- Các quốc gia thành viên được khuyến khích thiết lập các biện pháp trên cơ sở các tiêu chuẩn, quy chế và các khuyến nghị quốc tế để hài hoà với các biện pháp vệ sinh an toàn động thực vật được quốc tế thừa nhận;

- Các quốc gia thành viên của WTO thực hiện hoặc duy trì các biện pháp nghiêm ngặt hơn nếu các biện pháp này được dựa trên các chứng minh khoa học hoặc là nếu chúng là kết quả của những quyết định rõ ràng dựa trên các đánh giá rủi ro thích hợp;

điều chỉnh của hiệp định trong phạm vi quốc gia;

- Nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với một loại sản phẩm có xuất

xứ khác nhau;

- Nguyên tắc ưu tiên áp dụng hệ thống quy định nào gây cản trở ít nhất đối với các hoạt động trao đổi thương mại, song vẫn đem lại những kết quả đáp ứng được mục tiêu chung như các hệ thống quy định khác.

Nguồn: [20, 125]

102

- Nguyên tắc phân vùng, tức là phân loại các vùng không là đối tượng

Phụ lục 3: Hiệp định về các rào cản kỹ thuật trong thƣơng mại (TBT)

Hiệp định TBT tập trung vào hai nội dung chính: chuẩn mực kỹ thuật và tiêu chuẩn từ khâu đóng gói, dán nhãn mác hay nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm đến các thủ tục kiểm tra quy cách của sản phẩm theo những chuẩn mực này.

Về khía cạnh môi trường, Hiệp định TBT đòi hỏi phải dung hoà được hai mục tiêu trái ngược nhau: vừa bảo đảm cho các nước có quyền tự do bảo vệ an ninh quốc gia, sức khoẻ con người và môi trường, vừa không gây trở ngại không cần thiết đối với hoạt động thương mại. Phạm vi điều chỉnh mới của Hiệp định không chỉ dừng lại ở quy định đối với sản phẩm mà còn liên quan tới quy trình và phương pháp sản xuất (PPM).

Chính vì vậy, các bên tham gia hiệp định phải có trách nhiệm ở cả ba cấp độ: xây dựng và áp dụng các quy định kỹ thuật; thành lập các cơ quan đo lường tiêu chuẩn hoạt động tuân theo luật ứng xử đúng mực; và cấp chứng nhận sản phẩm đúng quy cách. Cả ba giai đoạn này phải tôn trọng các quy tắc của hiệp định dù chúng do các tác nhân địa phương, nghiệp đoàn hay tư nhân đảm nhận.

Các thủ tục đánh giá sự phù hợp của tiêu chuẩn:

- Các thủ tục đánh giá sự phù hợp không nên được xây dựng và áp dụng cho các sản phẩm nhập khẩu theo các điều kiện kém ưu đãi hơn những quy định áp dụng cho các sản phẩm của nước nhập khẩu;

- Bất cứ loại phí nào áp dụng cho các nhà cung cấp nước ngoài phải

tương đương như các loại phí áp dụng cho sản phẩm có nguồn gốc nội địa;

- Nơi đặt cơ quan đánh giá sự phù hợp và việc lấy mẫu thử không được

tạo khó khăn bất tiện cho nhà cung cấp nước ngoài;

- Các thủ tục đánh giá sự phù hợp phải có quy định về việc xem xét các

khiếu nại trong quá trình thực hiện.

- Nên cung cấp cho các nhà cung cấp nước ngoài khi họ có yêu cầu thông tin về thời gian giải quyết và các tài liệu yêu cầu để đánh giá sự phù hợp của sản phẩm mà họ muốn xuất khẩu.

103

Nguồn: [20, 120]

Phụ lục 4: Uỷ ban về Luật thực phẩm (Codex)

Uỷ ban về Luật thực phẩm (Codex) là một cơ quan thuộc Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc/ Tổ chức Y tế Thế giới (FAO/WHO) có trách nhiệm biên soạn các tiêu chuẩn, các luật thực thi, các hướng dẫn và đề xuất để hình thành nên Bộ Luật thực phẩm quốc tế (Codex Alimentarius). Codex đang phát triển các nguyên tắc phân tích rủi ro của thực phẩm biến đổi gen đối với sức khỏe con người. Tiền đề của những nguyên tắc này là bản đánh giá các thực phẩm biến đổi gen trước khi đưa ra thị trường, được triển khai trên cơ sở nghiên cứu cụ thể và bao gồm một đánh giá các tác động trực tiếp (từ việc đưa thêm gen vào), các tác động không lường trước được (có thể xuất hiện do kết quả của việc đưa thêm gen mới vào). Những nguyên tắc này đang trong giai đoạn đầu phát triển và dự kiến sẽ được áp dụng vào tháng 7/2003. Các nguyên tắc của Codex không nhằm ràng buộc đối với các quy định của quốc gia, nhưng được dùng để tham khảo riêng trong Hiệp định về vệ sinh thực phẩm WTO và có thể được dùng để tham khảo trong trường hợp có tranh chấp thương mại.

104

Nguồn: [20, 127]

Phụ lục 5: Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát trọng yếu: HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point)

HACCP là hệ thống phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát trọng yếu. Nó là sự tiếp cận có tính khoa học, hợp lý và có tính hệ thống cho sự nhận biết, xác định và kiểm soát mối nguy trong chế tạo, gia công, sản xuất, chuẩn bị và sử dụng thực phẩm để đảm bảo rằng thực phẩm là an toàn khi tiêu dùng (tức là nó không có mối nguy không thể chấp nhận cho sức khoẻ). Hệ thống này nhận biết những mối nguy có thể xảy ra trong quá trình sản xuất thực phẩm và đặt ra các biện pháp kiểm soát để tránh những mối nguy xảy ra. Thông qua việc kiểm soát những rủi ro thực phẩm chủ yếu, như chất gây ô nhiễm thuộc vi trùng học, hoá học và vật lý, những nhà sản xuất có thể đảm bảo tốt hơn cho cho người tiêu dùng rằng sản phẩm của họ an toàn cho tiêu dùng. Với sự giảm bớt mối nguy thực phẩm, việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng sẽ được củng cố.

Có 7 nguyên tắc dùng làm cơ sở cho cho hệ thống HACCP:

• Hướng dẫn phân tích những mối nguy

• Xác định những điểm kiểm soát trọng yếu (CCPs) - mỗi CCP là một bước mà việc kiểm soát có thể áp dụng và cần thiết để ngăn chặn hoặc loại trừ một mối nguy an toàn thực phẩm hoặc giảm bớt nó đến mức độ cần thiết

• Thiết lập những ranh giới tới hạn (một ranh giới tới hạn là một tiêu

chuẩn cần phải phù hợp cho mỗi CCP)

• Thiết lập một hệ thống kiểm tra việc điều khiển của CCPs

chỉ ra một CCP đặc biệt không nằm dưới sự kiểm soát

• Thiết lập những thủ tục kiểm tra xác định hệ thống HACCP đang làm

việc hiệu quả

• Thiết lập tài liệu dẫn chứng liên quan tới tất cả các thủ tục và các biên

bản thích hợp với những nguyên tắc này và ứng dụng của chúng

• Thiết lập hoạt động hiệu chỉnh được thực hiện khi hệ thống kiểm tra

Những lợi ích của giấy nhứng nhận HACCP bao gồm:

105

• Cải tiến phương pháp nội bộ

• Hệ thống duy trì cân đối kế toán để ngăn ngừa hệ thống hỏng hóc

• Tuân theo các yêu cầu điều tiết, các công ty được chứng nhận ít đụng

độ những vấn đề với người điều chỉnh

• Giảm bớt việc đặt vào nghĩa vụ pháp lý, giấy chứng nhận có thể được

sử dụng như chứng chỉ sự chuyên cần xứng đáng

• Cải thiện những cơ hội xuất khẩu và tiếp cận đến thị trường đòi hỏi

giấy chứng nhận như là một điều kiện của việc tiếp nhận

• Nâng cao độ tin cậy của người mua

• Giảm bớt tính thường xuyên của kiểm toán khách hàng

• Lợi thế cạnh tranh đối với những công ty không được chứng nhận

• Nâng cao hình ảnh công ty.

106

Nguồn: [26, 75]

Phụ lục 6: Hệ thống quản lý môi trƣờng theo ISO 14000

ISO14000- Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường

Ghi nhãn môi trường

Hệ thống quản lý môi trƣờng

ISO 14020

ISO 14001

( 4TC và 2 TLHD)

Kiểm tra đánh giá (Auditing) MT ISO 14010

Đánh giá chu trình sống ISO 14040

( 4TC)

( 3TC và 1 TLHD)

( 2TC và 1 TLHD)

Khía cạnh môi trường trongcáctiêu chuẩn về ISO14050

( 2TC và 1 TLHD)

( 2TC và 1 TLHD)

Đánh giá kết quả hoạt động môi trường ISO 14030

SỬ DỤNG CHO TỔ CHỨC/DOANH NGHIỆP SỬ DỤNG CHO SẢN PHẨM/ DỊCH VỤ

Thuật ngữ và định nghĩa về quản lý môi trường Phụ lục 7: Hệ thống quản lý chất lƣợng ISO 9000

ISO 14060

ISO 9000 là tập hợp một cách có hệ thống những kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt nhất do tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế đặt ra. Bộ ISO 9000 qui tụ các kinh nghiệm của quốc tế trong quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các mối quan hệ giữa người mua và người cung cấp (nhà sản xuất), chỉ ra các thủ pháp cơ bản và hiệu quả nhất để quản lý doanh nghiệp. Áp dụng ISO 9000 sẽ dẫn đến loại bỏ dần việc thử nghiệm lại sản phẩm mà thông

107

thường mất rất nhiều thời gian, khắc phục được sự khác nhau giữa các tiêu chuẩn quốc gia đồng thời bổ sung đầy đủ cho các yêu cầu về sản phẩm hoặc các dịch vụ có liên quan, giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bảo trì, tái chế, tăng lợi nhuận và cải tiến được việc kiểm soát các quá trình chủ yếu, thúc đẩy cả hệ thống làm việc tốt. Bên cạnh đó, đối với một số sản phẩm ở những thị trường nhất định, việc chứng nhận phù hợp ISO 9000 là một yêu cầu bắt buộc, quyết định việc có hay không giá trị XNK, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế...

Hệ thống quản lý chất lƣợng với mục đích đăng ký ISO 9000 có

những yêu cầu sau:

- Tạo ra các cơ cấu quản lý

- Xác định các yêu cầu

- Nhất trí và chính thức hoá các quy trình

- Thực hiện nội kiểm toán

Toàn bộ hệ thống quản trị chất lƣợng có ba phần:

1. Lập kế hoạch và chính sách: Đây là trách nhiệm của ban quản trị cấp cao. Ban quản trị cấp cao phải nhất trí quyết định việc thực hiện hệ thống quản lý chất lượng trong tổ chức.

2. Quản lý các qui trình: Ban quản trị trung gian có trách nhiệm giải thích các chính sách chất lượng và triển khai các quy trình có thể làm việc được để mọi người tuân theo.

Nguồn: [19, 32]

108

3. Nhiệm vụ: Đặt ra các nhiệm vụ cho các nhân công sẽ tuân theo các quy trình lập ra các chính sách và cho các nhân công thể hiện tiềm năng sản xuất của tổ chức. Các ghi chép và kiểm toán chất lượng sẽ liên kết ba phần trên đây của Hệ thống quản lý chất lượng ghi lại các giao dịch kinh doanh chủ yếu và được liên kết bởi nội kiểm toán/ngoại kiểm toán.

Phụ lục 8: Một số tiêu chuẩn, quy định liên quan đến môi trƣờng của Nhật Bản

Dấu tiêu chuẩn môi trường Ecomark: Để được đóng dấu Ecomark, sản phẩm phải đạt được ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau: Việc sử dụng các sản phẩm đó không gây ô nhiễm môi trường hoặc có nhưng rất ít; Việc sử dụng các sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường; Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi tường hoặc gây hại rất ít; Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường ngoài các cách kể trên;

Luật vệ sinh thực phẩm: Luật vệ sinh thực phẩm quy định cho tất cả các thực phẩm và đồ uống tiêu dùng ở Nhật Bản. Hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại đều chịu quy định giống nhau theo luật và được chia thành nhiều nhóm: các gia vị thực phẩm, các máy móc dùng để sản xuất và chế biến thực phẩm, các dụng cụ đựng và bao bì cho các gia vị cũng như thực phẩm, đồ chơi trẻ em và các chất tẩy rửa dùng cho việc làm sạch thực phẩm và đồ ăn. Các loại hàng này khi đưa vào sử dụng phải có giấy phép của Bộ Y tế và phúc lợi Nhật Bản.

Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản - JAS: Luật Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản JAS quy định các tiêu chuẩn về chất lượng, đưa ra các quy tắc về việc nghi nhãn chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS. Ngày nay hệ thống JAS đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn các thực phẩm chế biến

Nguồn: [12, 5-15].

109

Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản - JIS: Hệ thống tiêu chuẩn JIS được áp dụng đối với các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản phẩm nông sản khác được quy định trong Luật về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các nông lâm sản (JAS). Do đó khi kiểm tra các sản phẩm này chỉ cần kiểm tra dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS là đủ để xác nhận chất lượng của chúng. Giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS trên hàng hoá do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại cấp.

Phụ lục 9: Một số tiêu chuẩn, quy định liên quan đến môi trƣờng của Hoa Kỳ

Một số luật cơ bản: Luật kiểm soát các chất độc hại; Luật liên bang về các chất trừ sâu, nấm và côn trùng; Luật về xuất nhập khẩu các chất cần kiểm soát; Luật về bao bì và nhãn phù hợp; Luật về kiểm tra các sản phẩm trứng; Luật liên bang về nhập khẩu sữa; Luật liên bang về kiểm tra sản phẩm thịt; Luật về nhập khẩu chè; Luật về bảo vệ chất lượng thực phẩm, Luật Công cộng về bảo vệ các loài động thực vật hoang dã, Luật về chống khủng bố sinh học…

Quy định quản lý của Mỹ đối với thuỷ sản: Các quy định quản lý về an toàn và vệ sinh đối với việc chế biến và nhập khẩu cá và sản phẩm cá (21 CFR phần 123) yêu cầu rằng tất cả các thực phẩm biển được chế biến phù hợp với tất cả các nguyên tắc của HACCP lẫn các yêu cầu vệ sinh của Nhà Nước. Các nhà nhập khẩu có trách nhiệm theo quy định quản lý đó xác định rằng cá và sản phẩm cá được nhập khẩu thoả mãn các yêu cầu đó. Để chứng tỏ sự phù hợp, các nhà xuất khẩu có thể nhập khẩu từ nước có Hiệp định phù hợp hoặc tương ứng với Cục quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ (FDA) bao gồm cả cá và sản phẩm cá (chính phủ của nước ngoài vận hành hệ thống quản lý đối với an toàn thuỷ sản đảm bảo rằng các sản phẩm được xuất khẩu thoả mãn yêu cầu an toàn có liên quan của Mỹ). Nếu như không có các hiệp định như vậy tồn tại, các nhà xuất khẩu cần phải thực hiện "các bước khẳng định" của riêng mình để xác định rằng các sản phẩm được chế biến phù hợp với các quy định quản lý của FDA

Về nhập khẩu thịt. Mỹ còn quy định cụ thể về kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng thịt được nhập vào Mỹ. Đồng thời còn có quy định "có đi có lại" về tiêu chuẩn thịt cho nhập giữa Mỹ và nước bạn hàng. Nghĩa là nước kia quy định tiêu chuẩn chất lượng thịt cho Mỹ xuất sang họ thế nào thì Mỹ cũng sẽ áp dụng những quy định tương tự như vậy với nước ấy [2,15]

110

Đối với hàng nông sản: Ngay từ 1933, Mỹ đã có đạo luật "Điều chỉnh nông nghiệp" (Agricultural Adjustment Act of 1933) và sau đó điều chỉnh nhiều lần, cho phép Tổng thống được áp dụng phí và hạn ngạch với hàng nông sản nhập khẩu, gây tổn hại tới chương trình nông sản trong nước của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Thí dụ: Làm thị trường trong nước không ổn định, giá cả tăng vọt v.v.. Mục tiêu họ để ra là ổn định và hỗ trợ giá nông sản trong nước, đảm bảo thu nhập cho nông dân; đảm bảo nguồn lương thực trong nước và nguồn sợi các loại, cân đối và đầy đủ cho nhu cầu trong nước. Quốc hội Mỹ còn quy định chế độ trợ giá tối thiểu cho một số nông sản chủ yếu, kể cả nông sản dễ hư hao.

Phụ lục 10: Một số tiêu chuẩn, quy định liên quan đến môi trƣờng của EU

Quy định liên quan đến hàng thuỷ sản: Hiện nay ngoài hệ thống HACCP, EU sử dụng 2 quy định dưới đây để kiểm soát hàng thuỷ sản. Quy định 91/493/EEC xác định những tiêu chuẩn y tế đối với các sản phẩm từ cá và Quy định 91/492/EEC xác định những tiêu chuẩn y tế đối với các sản phẩm từ động vật thân mềm và 2 mảnh. Những quy định trên xoay quanh vấn đề vệ sinh thực phẩm trong các khâu chế biến, đóng gói, bảo quản, vận chuyển đến người tiêu thụ. Dựa vào các quy định đó, Uỷ ban châu Âu xác định chất lượng hàng thuỷ sản nhập vào EU từ một nước thứ ba.

Nhãn sinh thái (Ecolabel): Nhãn sinh thái là những dấu hiệu chứng nhận tính bảo vệ môi trường của sản phẩm. Có nhiều hệ thống cấp bậc nhãn sinh thái, ví dụ như hệ thống EU Ecolabel áp dụng trên toàn châu Âu, hay Netherlands Milieukeur một hệ thống dựa trên cơ sở tự nguyện của các thành viên.

Các tiêu chuẩn môi trường: Có hai tiêu chuẩn môi trường phổ biến, dựa trên cơ sở tự nguyện mà các nhà sản xuất có thể áp dụng: ISO 14001 và EMAS. Cả hai đều dựa trên bộ tiêu chuẩn ISO 9000 về quản lý chất lượng sản phẩm. ISO 14001 xuất hiện tháng 10/1996 đề cập hệ thống quản lý việc bảo vệ môi trường của sản phẩm. EMAS ra đời năm 1995 chỉ áp dụng trong phạm vi EU.

Nguồn: [11, 34]

111

Đóng gói, ghi nhãn sản phẩm: Những luật về môi trường quy định vật liệu đóng gói phải đảm bảo các tiêu chuẩn về độc tố. Ví dụ như túi nhựa trong hộp carton phải đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. EU đã ban hành danh sách những vật liệu plastic có thể dùng làm bao bì. Quy định 94/62/EC nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái chế, tái sử dụng những vỏ hộp, thùng carton, bao bì thải. Các nước thành viên EU (trừ Ailen, Bồ Đào Nha, Hy Lạp) đã nhất trí phấn đấu đạt mức tái sử dụng 50-65% lượng rác thải từ bao bì, vỏ hộp.

Phụ lục 11: Các vụ tranh chấp thƣơng mại liên quan đến quy định và tiêu chuẩn môi trƣờng đƣợc giải quyết theo cơ chế của WTO

(1) Các tranh chấp đƣợc giải quyết thông qua đàm phán song

phƣơng:

Cộng đồng châu Âu - Mức độ tối đa gây ô nhiễm (aflatoxins) trong

thực phẩm

Một số nước (Mỹ, Achentina, Ôxtrâylia, Brazil, Dămbia, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines, Senegal và Thái Lan) trong bản tường trình lên uỷ ban về các biện pháp vệ sinh dịch tễ đã bày tỏ mối quan ngại về tác động hạn chế tiềm tàng của các quy tắc mà EU đề xuất về quy định mức độ tối đa chất aflatoxins có trong lạc, một số loại hạt khác, sữa và các sản phẩm khác. Họ chỉ ra rằng đề xuất đưa ra hàm lượng chất aflatoxin nghiêm ngặt hơn so với các tiêu chuẩn hiện hành trên thế giới đã không được dựa trên đánh giá rủi ro đối với sức khoẻ cho người tiêu dùng EU mà lại đe doạ cho hàng xuất khẩu của họ.

Mặc dù Cộng đồng châu Âu vẫn duy trì quan điểm rằng không có sự thống nhất ở cấp quốc tế ở mức tối đa chất aflatoxin trong thực phẩm và rằng, Khi đưa ra đề xuất của mình EU cũng đã tham khảo ý kiến của các uỷ ban khoa học và đã đồng ý sửa đổi mức độ đưa ra trong dự thảo các quy định đối với phần lớn các loại thực phẩm liên quan trong bản đệ trình của mình.

Hàn Quốc - Hạn chế nhập khẩu gia cầm

112

Thái Lan đã chỉ ra rằng “ tiêu chuẩn không vi khuẩn “ có thể được đưa vào trong các sửa đổi dự kiến cho Đạo luật thực phẩm của Hàn Quốc có thể tác động nghiêm trọng đến việc xuất khẩu thực phẩm đông lạnh của họ. Sau khi xem xét các điểm được đưa ra và các mối quan ngại của Thái Lan, các nhà chức trách của Hàn Quốc đã quyết định giữ nguyên tiêu chuẩn không vi khuẩn chỉ áp dụng cho hàng thị để tiêu dùng ngay, không áp dụng tiêu chuẩn này với thịt cần chế biến và nấu nướng thêm.

Cộng hoà Liên bang Tanzania-Lệnh cấm của Cộng đồng châu Âu đối với nhập khẩu cá từ cộng hoà Liên bang Tanzania, Kenya, Uganda và Môzămbích.

Cộng hoà Liên bang Tanzania khiếu nại rằng Cộng đồng châu Âu đã viện lý do bảo vệ sức khoẻ cấm nhập khẩu các sản phẩm cá đã qua chế biến, cá đông lạnh và cá tươi từ nước này cũng như từ các nước Kenya, Uganda và Môzămbích, Cộng đồng châu Âu cho rằng lệnh cấm là cần thiết trước nguy cơ lan truyền bệnh dịch tả từ sản phẩm có chứa nước. Tuy nhiên, cộng đồng châu Âu đồng ý dỡ bỏ lệnh cấm này sau khi có các cuộc tham vấn với các bên có thẩm quyền từ các nước xuất khẩu trên khi nhận được sự đảm bảo an toàn thoả đáng.

(2)Tranh chấp đƣợc giải quyết trên cơ sở phán quyết của Ban Hội

thẩm và Ban Phúc thẩm:

Cộng đồng châu Âu - Các biện pháp liên quan đến thịt và các sản

phẩm từ thịt (hocmôn)

Cơ quan Phúc thẩm, cơ quan phê chuẩn bản phán quyết của Ban Hội thẩm thành lập để xem xét khiếu nại của Mỹ chống lại lệnh cấm nhập khẩu của cộng đồng châu Âu với thịt có sử dụng Hocmoon, theo bản tuyên án này thì lệnh cấm trên không thể biện minh được, vì tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến loại thịt như vậy thừa nhận rằng việc tiêu dùng thịt không có hại cho sức khoẻ. Trong tình huống này, EC chỉ có thể áp dụng các biện pháp hà khắc hơn nếu chứng minh được nhu cầu phải áp dụng các biện pháp đó trên cơ sở khoa học có đánh giá rủi ro. Tuy nhiên EC chưa hề tiến hành đánh giá như vậy.

Sau khi có thông báo về quyết định này, EC quyết định tiến hành đánh giá rủi ro để có thể biện minh về lệnh cấm trên cơ sở khoa học. Tuy nhiên, đã có bất đồng giữa các bên tranh chấp về ”khoảng thời gian hợp lý’ để thực thi phán quyết trong đó bao gồm cả nghĩa vụ tiến hành đánh giá rủi ro. Một trọng tài đã được chỉ định theo đúng thủ tục tố tụng. Trọng tài này đã quyết định rằng “khoảng thời gian hợp lý cho Cộng đồng châu Âu để thi hành phán quyết và các đề xuất của cơ quan giải quyết tranh chấp là 15 tháng kể từ ngày 13-2- 1998”

113

Vì EC không thể áp dụng các biện pháp thực thi phán quyết trong 15 tháng, Đại Hội đồng đã cho phép Mỹ được ban hành các lệnh trừng phạt. Các lệnh này được đưa ra với hình thức tăng thuế nhập khẩu với một số sản phẩm

từ các nước thành viên EC với tổng kim ngạch hàng năm lên tới 116,8 triệu USD-tương đương với mức tổn thất thương mại mà Mỹ đánh giá là do hậu quả của lệnh cấm. Các biện pháp do Mỹ đưa ra sẽ được xét lại sau khi EC hoàn thành đánh giá rủi ro

Ôxtrâylia - Các biện pháp ảnh hưởng tới nhập khẩu cá hồi

Cơ quan phúc thẩm đồng ý với phán quyết của Ban Hội Thẩm được thành lập để xem xét khiếu nại của Canada đối với các biện pháp cấm nhập khẩu của Ôxtrâylia đối với cá hồi đông lạnh và cá hồi tươi từ Canada vì lệnh cấm này không dựa trên chứng cứ khoa học và được duy trì mà không có đánh giá rủi ro.

114

Nguồn: [20, 136]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Bộ Thƣơng mại (2004), Báo cáo tình hình hoạt động thương mại Việt

Nam năm 2003, Hà Nội.

2. Dƣơng Thanh An (2002), “Mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và thương mại trong các liên kết thương mại quốc tế và ảnh hưởng của chúng tới hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.

3. Đinh Văn Thành (2004), Báo cáo hiện trạng môi trường của ngành

thương mại Việt Nam năm 2003, Hà Nội.

4. Hội đồng phân tích kinh tế (2000), Vòng đàm phán thiên niên kỷ, NXB

chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Hoàng Tích Phúc (2002), Cơ sở khoa học trong việc hoạch định chính sách nhập khẩu hàng hoá nhằm bảo vệ môi trường nước ta phù hợp với các điều ước quốc tế về môi trường, Hà Nội.

6. Lê Thiền Hạ (2003), Các vấn đề môi trường liên quan đến quan hệ thương mại Việt Nam Trung Quốc và các biện pháp xử lý đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Hà Nội

7. Liên hợp quốc (2001), Tiếp cận môi trường trong thương mại ở Việt Nam,

Hà Nội.

8. Ngân Hàng thế giới (1999), Xanh hoá công nghiệp, Hà Nội.

xuất khẩu

10. Ngân hàng thế giới (2003), Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2003,

Hà Nội

11. Phùng Thị Vân Kiều (2003), Các quy định về môi trường của EU và các

giải pháp đáp ứng đối với hàng xuất khẩu Việt Nam, Hà Nội.

12. Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (2001), Kinh doanh với

9. Ngân hàng thế giới (2001), Việt Nam đẩy mạnh đổi mới để tăng trưởng

115

thị trường Nhật Bản, NXB Lao động, Hà Nội.

13. Rege, Vinod (1994), Luật GATT và các vấn đề liên quan đến môi trường tác động tới thương mại của các nước đang phát triển, Tạp chí thương mại thế giới.

14. Ruffor (2003), Mội nghề còn lắm bất trắc, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội

15. Tổng cục thống kê (2003), Niên giám thống kê 2003, Hà Nội

16. Tập thể tác giả Trung Quốc (1998), Dự báo thế kỷ 21, NXB Thống kê,

Hà Nội.

17. Thời báo kinh tế Việt Nam (2004), Kinh tế 2003-2004: Việt Nam và thế

giới, Hà Nội.

18. Trung tâm tƣ vấn và đào tạo kinh tế thƣơng mại (1998), Thương mại môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Trung tâm tƣ vấn và đào tạo kinh tế thƣơng mại (2000), Đánh giá tác động môi trường của các hoạt động thương mại dịch vụ và đề xuất các giải pháp hạn chế các tác động đó, Hà Nội.

20. Trung tâm thƣơng mại quốc tế (2001), Hướng dẫn doanh nghiệp về hệ

thống thương mại thế giới, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. UNDP, MPI/DSI (2001), Việt Nam hướng tới 2010 - Tập 1, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

22. UNEP, UNCTAD, VIETRADE (2001), Tài liệu hội thảo thương mại môi

23. WTO (1998), Tài liệu cơ sở trình hội thảo Thương mại và Môi trường,

Cairo.

trường và phát triển, Hà Nội.

Tiếng Anh:

24. ESCAP (2002), Trade Effect of Eco-Labelling.

25. IISD-UNEP (2002), Environment and Trade - A Handbook

26. UNEP (1999), The Use of Trade Measures in Select Multilateral

116

Environment Agreement.

27. Veena Jha (1999), Reconciling Trade and the Environment, United

Nations.

28. Veena Jha (2000), Greening Trade in Vietnam, United Nations.

29. Veena Jha (2001), Greening Trade in Vietnam, United Nations.

117

30. World Bank (2002), Vietnam Environment Monitor