BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------- ----------
TRẦN THỊ THANH THÚY MỐI QUAN HỆ GIỮA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI,
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÁN CÂN THƯƠNG
MẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh - Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------- ----------
TRẦN THỊ THANH THÚY MỐI QUAN HỆ GIỮA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI,
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÁN CÂN THƯƠNG
MẠI
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS LÊ ĐẠT CHÍ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
---------- ----------
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại, tăng
trưởng kinh tế và cán cân thương mại” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và các kết quả
trình bày trong luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước
đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào, tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm trước Hội
đồng.
TP.HCM, tháng 09 năm 2013
Tác giả luận văn
Trần Thị Thanh Thúy
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Tóm tắt: ............................................................................................................................ 1
1. Giới thiệu: .................................................................................................................. 2
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây: ....................................................................... 4
2.1 Tổng quan các nghiên cứu liên quan:…………………………………………...4
2.2. Lý thuyết nền:....................................................................................................9
3. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................................ 17
3.1. Dữ liệu: ............................................................................................................. 17
3.2. Mô hình và cách xây dựng biến: ...................................................................... 18
4. Kết quả nghiên cứu:................................................................................................. 32
4.1. Tăng trưởng, cán cân thương mại và cán cân tài khoản vãng lai trước và ...........
sau khi tự do hóa: ........................................................................................................ 32
4.2. Kết quả hồi quy mô hình: ................................................................................. 43
5. Kết luận: .................................................................................................................. 58
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phụ lục 4
DANH MỤC CÁC BẢNG:
Bảng 2.1: Bảng tóm tắt các nghiên cứu liên quan: .............................................. 14
Bảng 3.1.1: Danh sách 30 quốc gia đang phát triển ............................................. 17
Bảng 3.2.1: Thời điểm tự do hóa của 30 quốc gia theo Wacziarg (2001). Trong
ngoặc là năm tự do tạm thời. ................................................................................ 25
Bảng 3.2.2: Biến và dấu kỳ vọng của các biến ................................................... 31
Bảng 4.1.1: Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và cán cân thương mại 5 năm
trước khi tự do hóa thương mại và 5 năm sau tự do hóa ..................................... 34
Bảng 4.1.2: Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và tài khoản vãng lai 5 năm
trước khi tự do hóa thương mại và 5 năm sau tự do hóa ..................................... 37
Bảng 4.1.3: Các nước tốt hơn hoặc xấu hơn sau quá trình tự do hóa .................. 39
Bảng 4.2.1: Kết quả hồi quy mô hình bảng động giai đoạn 1980-2011(30 quốc
gia) ………………………………………………………………………………46
Bảng 4.2.2: Hồi quy mô hình bảng động cho 3 giai đoạn – sử dụng biến giả thời
gian (30 quốc gia) ................................................................................................. 51
Bảng 4.2.3: Hồi quy mô hình bảng động giai đoạn 1980-2011 ở khu vực Châu Á
(14 quốc gia) ......................................................................................................... 55
Bảng 4.2.4: Hồi quy mô hình bảng động giai đoạn 1980-2011 ở khu vực Châu
Mỹ La Tinh (16 quốc gia) .................................................................................... 57
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ:
Biểu đồ 4.1.1: Mối quan hệ giữa tăng trưởng, TBGDP1, CAGDP1(Giá trị trung bình của 30 nước trong thời kỳ 1981-2011) ........................................................ 40
Biểu đồ 4.1.2: Mối quan hệ giữa tăng trưởng, TBGDP1, CAGDP1 ở khu vực Châu Á (Giá trị trung bình của 14 nước trong thời kỳ 1990-2011) ..................... 42
Biểu đồ 4.1.3: Mối quan hệ giữa tăng trưởng, TBGDP1, CAGDP1 ở khu vực Châu Mỹ La Tinh (Giá trị trung bình của 16 nước trong thời kỳ 1990- 2011)………………… ………………………………………………………. 43
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GMM
Phương pháp hồi quy Moment tổng quát
Quỹ tiền tệ thế giới
IMF
Phương pháp hồi quy bình phương bé nhất
OLS
Phương pháp ngang bằng sức mua
PPP
Bộ dữ liệu Penn World Table
PWT
Mô hình hồi quy có vẻ không quan hệ
SURE
Ngân hàng thế giới
WB
1
Tóm tắt:
Đây là một nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng của 30 quốc gia trong ba thập kỷ
1980-2011 để ước lượng ảnh hưởng của tự do hóa thương mại và tăng trưởng
kinh tế lên cán cân thương mại, tài khoản vãng lai ở các quốc gia đang phát triển.
Bằng phương pháp hồi quy ước lượng Moment tổng quát (GMM) và các kiểm
định có liên quan, phát hiện chính của nghiên cứu này là tự do hóa thương mại
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các nước, chính sự tăng trưởng này lại có
ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thương mại và từ đó có thể có tác động tiêu cực
đến tăng trưởng thông qua sụt giảm trong cán cân thương mại và bất lợi trong tỷ
giá thương mại. Tăng trưởng kinh tế và cán cân thương mại, tài khoản vãng lai
có mối quan hệ tiêu cực, cán cân thương mại sẽ thâm hụt khoảng 0.56%, tài
khoản vãng lai thâm hụt là 0.34% khi nền kinh tế tăng trưởng 1%. Tuy nhiên, khi
thực hiện hồi quy riêng rẽ trong từng thời kỳ và từng khu vực thì các kết quả là
không rõ ràng và ít có ý nghĩa về mặt thống kê. Kết luận của bài nghiên cứu là tự
do hóa thương mại có thể hạn chế tăng trưởng thông qua tác động tiêu cực đến
cán cân thanh toán.
2
1. Giới thiệu:
Từ thập kỷ 1990 đến nay tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự phát triển
của các hoạt động liên kết kinh tế quốc tế như : sự ra đời của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) bao gồm gần như tất cả các nền kinh tế thế giới (tính đến
11/ 2011 đã có 155 thành viên); liên kết tam giác, tứ giác, liên kết khu vực như:
EU, ASEAN, NAFTA, MECOSUR… khu vực như APEC, ASEM và liên kết
toàn cầu trong đó liên kết khu vực đóng vai trò quan trọng; các Hiệp định thương
mại tự do song phương giữa các quốc gia với nhau như Mỹ - Singapore, Mỹ -
Thái Lan, Việt Nam – Nhật Bản, … đến các Hiệp nghị thương mại tự do giữa
các khối thương mại tự do với các quốc gia như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN
- Nhật Bản, ASEAN - Ấn Độ…
Trong một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng như hiện nay, việc
mở rộng thương mại có vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Đối
với các quốc gia đang phát triển, lợi ích của tự do thương mại cùng với các cuộc
cải cách trong nước theo hướng phát triển thị trường, tiềm năng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo thông qua tự do hóa thương mại là một
mối quan tâm lớn. Ảnh hưởng của chính sách thương mại mở cửa lên tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người là một trong những vấn đề gây tranh cãi
nhất. Những nghiên cứu gần đây (Greenaway et.al, 2002; Thirlwall và Santos-
Paulino, 2004; Parikh và Stirbu, 2004; Parikh, 2004; Penélope và Thirlwall,
2004; Egor Kraev, 2005) cho thấy tự do hóa thương mại dẫn đến tăng xuất khẩu,
tuy nhiên lại có khuynh hướng tăng cao hơn trong nhập khẩu. Điều này dẫn đến
cán cân thương mại xấu đi, và đồng thời làm giảm nhu cầu ròng hàng hoá và
3
dịch vụ sản xuất trong nước, có thể gây ra sự sụt giảm GDP. Các nhà nghiên cứu
cho rằng tự do hóa thương mại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế về khía cạnh cung
như sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, thúc đẩy cạnh tranh, và tăng dòng chảy
chất xám qua biên giới các quốc gia. Tuy nhiên, tự do hóa thương mại có thể dẫn
đến tăng trưởng nhanh hơn trong nhập khẩu so với tăng trưởng xuất khẩu và do
đó những lợi ích ở khía cạnh cung có thể bị bù đắp bằng các cân bằng không bền
vững trong vị thế của cán cân thanh toán. Trái ngược với các nghiên cứu trên,
theo Yi Wu và Li Zeng (2008) đã sử dụng hai phương pháp mới để xây dựng
thời điểm tự do hóa thương mại, nghiên cứu này cũng xem xét tác động của tự
do hóa thương mại đối với nhập khẩu, xuất khẩu và cán cân thương mại cho mẫu
lớn các nước đang phát triển. Họ tìm thấy bằng chứng rõ ràng và nhất quán rằng
tự do hóa thương mại dẫn đến nhập khẩu và xuất khẩu cao hơn. Nhưng tác động
tiêu cực của tự do hóa thương mại trên tổng thể cán cân thương mại có kết quả
không đáng kể. Đặc biệt, bằng chứng về tác động tiêu cực ít có ý nghĩa về mặt
thống kê khi sử dụng sử dụng phương pháp đo lường mở rộng về thời điểm tự do
hóa của Li (2004). Khi sử dụng phương pháp đo lường tự do hóa bởi Wacziarg
và Welch (2003), thì lại tìm thấy một số bằng chứng cho thấy tự do hóa làm xấu
đi cán cân thương mại, nhưng bằng chứng là không mạnh mẽ và hệ số thì rất
nhỏ.
Cũng dựa theo nghiên cứu của Parikh (2004), bằng cách sử dụng cách phân loại
của Wacziarg (2001) để đo lường biến tự do hóa và dữ liệu cập nhật mới nhất
trên Penn World Table phiên bản 8.0 của Summers, Heston, và Aten (2012) để
tính toán biến tăng trưởng kinh tế, mục tiêu chính của bài nghiên cứu này là
kiểm tra mối quan hệ của tự do hóa thương mại, tăng trưởng kinh tế đối với cán
4
cân thương mại và tài khoản vãng lai bằng cách ước lượng mô hình động trên dữ
liệu bảng trong khuôn khổ các nước đang phát triển.
Trong phần 2 của bài viết này sẽ cung cấp các nghiên cứu liên quan về mối quan
hệ của tự do hóa thương mại, tăng trưởng kinh tế và cán cân thương mại. Trong
phần 3, đưa ra một mô hình để liên kết cán cân thương mại hoặc tài khoản vãng
lai với tăng trưởng kinh tế trong nước, xây dựng mô hình động với kỷ thuật ước
lượng GMM cho dữ liệu bảng để kiểm định các mối quan hệ của 30 quốc gia
trong đó có Việt Nam ở giai đoạn 1980-2011. Trong phần 4, trình bày một số các
kết quả phân tích hồi quy. Trong phần 5, rút ra một số kết luận của nghiên cứu.
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây:
2.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan:
Các nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này đã đưa ra các kết quả trái ngược
nhau. Có rất nhiều bằng chứng nghiên cứu cho thấy tự do hóa thương mại có tác
động tích cực mạnh mẽ lên sự tăng trưởng nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, chính
vậy gây ra tác động tiêu cực đến cán cân thương mại từ đó tăng trưởng kinh tế
cũng sụt giảm.
Trong nghiên cứu Melo và Vogt (1984) sử dụng dữ liệu hàng năm để ước lượng
thu nhập thực tế và độ co giãn theo giá của cầu nhập khẩu ở Venezuela. Sau khi
so sánh các giá trị ước lượng với những nghiên cứu trước đây, Melo và Vogt kết
luận rằng Venezuela đã đạt được tiến bộ trong việc phát triển các sản phẩm thay
thế cho nhập khẩu, và mức độ “mở cửa” ở Venezuela tăng lên sau năm 1961. Bài
nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy trong giai đoạn 1974 -1979, sự
5
gia tăng trong giá trị thị trường của dự trữ dầu ở Venezuela đã dẫn đến sự gia
tăng trong tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu.
Dollar và Kray (2004) đã ước lượng tác động của mở cửa mà được tác giả gọi là
toàn cầu hóa lên tăng trưởng kinh tế, tình trạng nghèo khó, sự bình đẳng ở các
nước đang phát triển. Nhóm đầu tiên của toàn cầu hóa là 1/3 các nước có tỷ số
thương mại trên GDP theo giá cố định tăng trưởng giữa năm 1975-1979 và 1995-
1997. Các quốc gia có nền kinh tế cải cách: Malaysia, Thái Lan ở Đông Nam Á,
Trung quốc. Bangladesh và Ấn Độ ở Nam Á chủ trương tự do hóa đầu những
năm 1990 và một vài nước ở Châu Mỹ La Tinh: Argentina, Brazil, Mexico.
Nhóm thứ 2 dựa trên sụt giảm trong thuế suất trung bình, dữ liệu thuế suất được
lấy trước 1985. Việc sụt giảm trong thuế suất được sử dụng của 2 thời kỳ 1985-
1989 và thời kỳ 1995-1997. 6 nước lớn: Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil,
Bangladesh, Thái Lan, Argentina đều nằm trong cả 2 nhóm. Top 1/3 các nước
trong tổng 73 nước đều có tỷ trọng thương mại trên GDP tăng từ 16% đến 33%
trong khi thuế suất giảm từ 57% đến 33%. Tăng trưởng kinh tế ở các nước đang
toàn cầu hóa tăng từ 2.9%/năm trong những 1970 lên 3.1%/năm trong những
năm 1980 và 5%/năm trong những năm 1990. Những nước không toàn cầu hóa
thì tăng trưởng kinh tế giảm từ 3.3%/năm từ những năm 1970 xuống còn
0.8%/năm trong những năm 1980 và còn 1.4%/năm trong những năm 1990.
Thirlwall và Santos-Paulino (2004) đã tìm thấy rằng tác động của tự do hoá là
khác nhau giữa các quốc gia bảo hộ cao và các quốc gia ít được bảo hộ. Tác
động tích cực của tự do hóa thương mại đối với tăng trưởng nhập khẩu là lớn
hơn nhiều trong các ngành công nghiệp đã được bảo hộ cao trong khoảng thời
gian trước khi tự do hóa. Kết quả nghiên cứu của họ cũng cho thấy tác động của
6
một chế độ tự do hóa thương mại, giảm thuế hải quan đã làm tăng tốc độ tăng
trưởng nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Thirlwall và Santos-Paulino phát hiện ra
rằng tăng trưởng nhập khẩu tăng khoảng 6%/năm trong khi xuất khẩu tăng chỉ
khoảng dưới 2%/năm. Điều này làm tồi tệ hơn cán cân thương mại hơn 2% GDP,
tuy nhiên, tác động đối với tài khoản vãng lai thì ít hơn trung bình khoảng 0.8%
GDP. Tổng thể kết luận của họ là tự do hóa thương mại và tỷ giá hối đoái linh
hoạt không phải luôn luôn đảm bảo rằng nguồn lực thất nghiệp trong nước có thể
dễ dàng chuyển đổi thành ngoại tệ khan hiếm.
Parikh và Stirbu (2004) dựa trên mô hình tĩnh sử dụng mô hình hiệu ứng cố định,
hiệu ứng ngẫu nhiên, OLS và mô hình hồi quy SURE thực hiện nghiên cứu trên
42 nước đang phát triển ở Châu Á, Nam Phi và Mỹ La Tinh. Họ nghiên cứu tác
động của tự do hóa thương mại lên tăng trưởng kinh tế, đầu tư /GDP, độ mở, cán
cân thương mại và tài khoản vãng lai (đều % /GDP). Tiếp theo, Parikh và Stirbu
cũng phân tích tác động của tăng trưởng lên cán cân thương mại và tài khoản
vãng lai để nghiên cứu xem liệu rằng tăng trưởng kinh tế cao hơn do tự do hóa
có dẫn đến ảnh hưởng bất lợi trong cán cân thương mại hay không. Bảng dữ liệu
bảng của 42 quốc gia, bảng dữ liệu cho ba khu vực (mô hình các ảnh hưởng cố
định và mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên) và phân tích từng quốc gia (hồi quy
OLS) đã được tiến hành. Những mối quan hệ này cho thấy rằng tự do hóa thúc
đẩy tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng chính nó có tác động tiêu cực đến cán
cân thương mại ở phần lớn các quốc gia do đó sẽ gặp khó khăn trong việc đạt
tăng trưởng tiềm năng hoặc kế hoạch trong giai đoạn tiếp theo sau khi tự do hóa.
Tuy nhiên, tài khoản vãng lai không xấu đi cùng với tác động của tự do hóa và
tăng trưởng kinh tế cho nhiều nền kinh tế. Một thay đổi đơn vị trong chỉ số tự do
hóa dẫn đến trung bình thay đổi 1.62% tốc độ tăng trưởng, giả định các yếu tố
7
khác không đổi. Tự do hóa đóng góp đáng kể vào sự mở cửa kinh tế, tăng trưởng
và lãi suất đầu tư trong giai đoạn 1970-1999. Tự do hoá làm tình trạng thâm hụt
thương mại càng xấu đi trong khi nó cải thiện thâm hụt tài khoản vãng lai của
toàn bộ thời gian được xem xét. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế nội
địa làm giảm thâm hụt tài khoản vãng lai trong giai đoạn 1980-1989 trong khi
mối quan hệ này lại không có ý nghĩa trong các thập kỷ trước đó hoặc sau này.
Thâm hụt thương mại có xu hướng tăng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong các nền kinh tế châu Á trong khi không có bằng chứng cho cả nền kinh tế
Mỹ La Tinh hoặc Châu Phi. Trong nghiên cứu dữ liệu chéo, mở cửa, lãi suất đầu
tư, mật độ dân số và tiêu dùng chính phủ trên GDP có tác dụng tích cực đối với
tăng trưởng. Biến chính sách và an ninh quốc gia lại không có ý nghĩa quan
trọng trong hồi quy dữ liệu chéo quốc gia. Khi nghiên cứu từng quốc gia, kết
luận lại không rõ ràng. Khi phương trình cơ bản của Thirlwall (1979) được sử
dụng như một công thức hành vi ở một quốc gia thì không tìm thấy bằng chứng
về sự tăng trưởng bị hạn chế đáng kể bởi những thay đổi về tỷ giá thương mại,
tốc độ tăng trưởng ở các quốc gia tiên tiến hoặc thay đổi hàng năm trong giá dầu
nhưng tự do hoá thực sự có tác động tích cực lên tăng trưởng của nhiều nền kinh
tế.
Parikh (2004) với việc xây dựng mô hình động và các biến trễ phụ thuộc đã mở
rộng nghiên cứu trước đây của Parikh và Stirbu (2004) bởi những hạn chế của
việc sử dụng mô hình tĩnh để nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại
và tăng trưởng kinh tế và tác động chung của tự do hóa và tăng trưởng lên cán
cân thương mại. Với phương pháp hồi quy GMM sử dụng cho mẫu 42 quốc gia
đang phát triển trong giai đoạn 1980-1999, nghiên cứu chỉ ra rằng có những mô
hình khác nhau về thâm hụt thương mại giữa các khu vực địa lý khác nhau và
8
trong thập kỷ 1990-1999. Tự do hóa thương mại đã góp phần tăng trưởng nhập
khẩu ở nhiều nước đang phát triển sau giai đoạn đầu tăng trưởng trong xuất
khẩu, điều này không đủ để thu hẹp thâm hụt thương mại. Hơn nữa, tự do hóa
thương mại không có mối quan hệ quan trọng với tăng trưởng kinh tế và / hoặc
thâm hụt thương mại trong ngắn hạn và trung hạn. Thâm hụt tài khoản vãng lai
tăng do tự do hóa thương mại trong nền kinh tế châu Phi trong thời kỳ 1980 -
1999.
Pacheco-López và Thirlwall (2005) kiểm tra tác động của tự do hóa thương mại
ở Mexico vào năm 1985-1986, và vào năm 1994 khi đất nước tham gia NAFTA.
Nhập khẩu phản ứng nhanh hơn so với xuất khẩu trong giai đoạn 1985-1986, và
tìm thấy kết quả không ảnh hưởng đáng kể của sự phá vỡ cấu trúc trong cán cân
thương mại của việc gia nhập NAFTA. Tuy nhiên, có sự gia tăng trong độ co
giãn theo thu nhập của nhu cầu nhập khẩu trong giai đoạn sau tự do hóa. Trong
giai đoạn trước tự do hóa 1973-1986, độ co giãn trung bình 1.4, trong giai đoạn
1986-1999 trung bình 3.2. Ngược lại, xuất khẩu tăng trưởng hầu như không thay
đổi, trung bình 9% trước năm 1986 và 10% ở các năm sau. Kết quả là, tốc độ
tăng trưởng bền vững của Mexico ước tính có giảm một nửa sau năm 1986.
Nghiên cứu cho mẫu của 32 nước kém phát triển và các nước có thu nhập thấp
Egor Kraev (2005) đã ước lượng tổn thất GDP bởi thâm hụt cán cân thương mại
do tự do hóa gây ra, cụ thể là, tăng trưởng vượt trội của nhập khẩu so với tăng
trưởng xuất khẩu, không phải là tạm thời, mà khá xấu đi theo thời gian về khác
biệt tốc độ tăng trưởng lũy kế xuất khẩu và nhập khẩu. Do đó các quốc gia không
thể có được một dòng tài chính ổn định mà ngày càng gia tăng nguồn tài chính
bên ngoài hoặc mất giá liên tục trong tỷ giá hối đoái thực. Sự khác biệt này có
9
thể dự kiến sẽ gây ra một sự xấu đi trong cán cân thương mại, và đồng thời gây
ra sụt giảm nhu cầu ròng về hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước, gây ra sự
giảm thu nhập quốc nội (GDP). Kết quả cho thấy so với các nước trong mẫu, tự
do hóa thương mại đã dẫn đến cân đối bổ sung giữa 4% và 29% thiệt hại trong
tổng cầu (giả định cán cân thanh toán không bị ảnh hưởng). Chuyển đổi theo
đồng USD với năm cơ sở là 2000, số tiền thiệt hại tổng cầu này lên tới 896 tỷ
USD trong khoảng thời gian 20 năm. Để đánh giá tầm quan trọng của sụt giảm tỉ
giá thực tế trong việc điều chỉnh thâm hụt cán cân thương mại, Egor Kraev cũng
tiến hành phân tích độ nhạy đối với thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực tế. Tác
động giảm tỷ giá hối đoái thực tế điều chỉnh không bao giờ vượt quá 25% tác
động của tổng thể, và thường là khoảng 10% tác động tổng thể. Điều này cho
thấy thay đổi tỷ giá hối đoái không phải là một công cụ điều chỉnh đủ để giải
quyết vấn đề tự do hoá thương mại – cán cân thanh toán. Các lĩnh vực có khả
năng bị ảnh hưởng mạnh nhất do sụt giảm GDP là sản xuất và lĩnh vực dịch vụ
chính. Thiệt hại ngắn hạn trong nhu cầu sản xuất địa phương tiếp tục có thể đã
dẫn đến đầu tư giảm trong năng lực sản xuất, làm suy yếu triển vọng tăng trưởng
trong tương lai.
2.2. Lý thuyết nền:
Hiện nay, tồn tại nhiều lý thuyết để nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và cán cân thương mại. Các tài liệu về mô hình two gap, mô hình three
gap và mô hình Ngân hàng Thế giới và IMF, tất cả các mô hình đều chấp nhận
các ràng buộc về cán cân thanh toán, đầu tư và tiết kiệm, ngân sách chính phủ.
Trong mô hình two-gaps (Chenery và Bruno, 1962), hạn chế tăng trưởng xuất
phát từ thiếu hụt đầu tiên liên quan đến chênh lệch tiết kiệm-đầu tư, còn gọi là
10
khoản đầu tư nước ngoài ròng. Khoản chênh lệch này âm sẽ làm thâm hụt tài
khoản vãng lai vì xuất khẩu sẽ nhỏ hơn nhập khẩu. Khi tiết kiệm trong nước nhỏ
hơn đầu tư thì các luồng vốn bên ngoài cho phép các nước đang phát triển có thể
đầu tư nhiều hơn tiết kiệm trong nước. Tuy nhiên, việc gia tăng các nguồn vốn
bên ngoài đôi khi không đủ để tăng tích lũy vốn hay không đủ nguồn ngoại tệ để
thanh toán các khoản vay mượn từ nước ngoài và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ
giảm bởi vì thiếu hụt ngoại hối chi phối. Có thể là ngay cả khi tiết kiệm trong
nước đủ để tài trợ cho tất cả các khoản đầu tư, một nước đang phát triển có thể
không có khả năng thực hiện đầu tư dự án nếu nguồn ngoại hối có sẵn cho các
dự án chưa đầy đủ.
Bacha (1990) giới thiệu mô hình three-gaps, ngoài hai thiếu hụt ở trên Bacha còn
đưa thêm thiếu hụt tài khóa và phân tích những hậu quả của chuyển giao ngoại
hối lên tốc độ tăng trưởng GDP của các nước đang phát triển. Việc sử dụng chỉ
số hiệu suất sử dụng dư thừa không được xem xét trong mô hình two- gaps ban
đầu cho đến khi Taylor (1991) đã tận dụng chỉ số này một cách rõ ràng vào việc
phân tích các yêu cầu vốn đầu tư nước ngoài đối với các quốc gia đang phát
triển. Trong mô hình three-gaps, tốc độ tăng trưởng bị hạn chế bởi các thiếu hụt
và với thiếu hụt ngoại hối, một sự suy giảm trong chuyển giao ngoại hối sẽ ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn.
Thirlwall (1979) đề xuất một mô hình cán cân thanh toán hạn chế tăng trưởng đã
trở thành nguyên lý về sự tăng trưởng bền vững. Theo nguyên lý này, tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế đang phát triển là tốc độ tăng trưởng trong xuất khẩu thực
tế chia cho độ co giãn thu nhập của nhu cầu đối với hàng nhập khẩu.
Phiên bản trước đó của Thrilwall (1979) đã không giới thiệu các dòng vốn cho
đến khi Thirlwall và Hussain (1982) đã đưa vào mô hình các dòng vốn kết hợp
11
với số nhân ngoại thương của Harrod (Tỷ số phản ánh sự thay đổi của thu nhập
có được từ sự thay đổi của xuất khẩu so với sự thay đổi của thu nhập) để xây
dựng phương trình hành vi tăng trưởng bị hạn chế bởi cán cân thanh toán.
Elliott và Rhodd (1999) kết hợp việc trả nợ trong mô hình của Thirlwall và
Hussain. Mặc dù với các sửa đổi này, mô hình vẫn chưa phải là hoàn chỉnh, mô
hình đã bỏ sót thiếu hụt tiết kiệm-đầu tư, thiếu hụt tài khóa và ý nghĩa tiền tệ của
cán cân thanh toán. Các mô hình Thirlwall-Hussain không cho thấy yêu cầu
ngoại hối liên quan đến việc duy trì một mức độ mong muốn hoặc mục tiêu dự
trữ.
Krugman (1989) cung cấp một quy tắc đơn giản (45 mức độ quy tắc) mối quan
hệ tốc độ tăng trưởng trong nền kinh tế trong nước đối với nền kinh tế nước
ngoài là tương đương mối quan hệ độ co giãn thu nhập của xuất khẩu và nhập
khẩu. Logic cơ bản trong quy tắc này là nếu các quốc gia về cơ bản giống nhau,
sau đó giá cả đầu ra nên giống nhau, và độ co giãn thu nhập rõ ràng sẽ giống như
là để làm cho giá tiếp tục có thể cân bằng.
Ranaweera (2003) cung cấp một bản tóm tắt của mô hình three-gaps của Ngân
hàng Thế giới và một bài phê bình mô hình hạn chế duy nhất của Thirlwall
(1979) và Thirlwall và Hussain (1982).
Trong bài nghiên cứu này, dựa trên đề xuất một mô hình động để nghiên cứu
mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP với tỷ lệ cán cân thương mại trên GDP
(TB/GDP) và tài khoản vãng lai trên GDP (CA/GDP) của Parikh (2004) khi tỷ lệ
nợ /GDP là không đổi. Chúng ta hãy xem xét một nền kinh tế mở nhỏ, nền kinh
tế bắt đầu trong khoảng thời gian t và tiếp tục mãi mãi.
Ta có, cán cân thương mại: TBt = Yt – Ct – It – Gt (2.2.1)
12
Tài khoản vãng lai với lãi suất cố định là những thay đổi trong vị thế tài sản
nước ngoài ròng giữa hai giai đoạn:
=
=
-
-
-
CAt
Bt+1-Bt
Yt+
rBt
Ct
Gt
It
(2.2.2)
CA: tài khoản vãng lai, B: tài sản nước ngoài ròng lũy kế, I: đầu tư và tương
đương với những thay đổi trong chứng khoán vốn, C: chi tiêu cá nhân, G: chi
tiêu chính phủ, t là một thời kỳ.
Tài sản nước ngoài ròng NFA= Tài sản nước ngoài –nợ nước ngoài. Do đó khi
NFA<0, nợ nước ngoài cao hơn tài sản nước ngoài thì cán cân tài khoản vãng lai
thâm hụt.
Giả sử Ys+1=(1 + g)Ys trong đó g> 0 là tốc độ tăng trưởng về sản lượng và nền
kinh tế vẫn duy trì ổn định tỷ lệ nợ trên sản lượng (B / Ys) để Bs+1 = (1 + g) Bs
với s ≥ t:
Sắp xếp lại (2.2.2), CA=Bs+1 – Bs= gBs = rBs + TBs
Trong khuôn khổ của bài, nợ trên GDP có thể tăng nếu có một cú sốc sản lượng
tích cực hay tốc độ tăng trưởng trong nước cao hơn của nền kinh tế thế giới.
Những cú sốc năng suất có thể xảy ra thông qua những cú sốc thương mại và
chính sách tự do hóa trong một nền kinh tế đang phát triển.
Nếu giả định rằng lãi suất thực thế giới là không cố định nhưng bằng tốc độ tăng
trưởng trong các nền kinh tế phát triển thì chúng ta có một phương trình cho cán
cân thương mại so với GDP mà CA = Bs+1 – Bs = rBs + TBs và tỷ lệ tài khoản
vãng lai so với GDP tương đương với TB/GDP + rB / GDP = F (tăng trưởng
13
GDP, các cú sốc năng suất). Những cú sốc do những thay đổi về tỷ giá thương
mại, tăng trưởng ở các nước phát triển và chế độ tự do hóa là yếu tố quyết định
của những cú sốc năng suất trong cán cân thương mại trên GDP.
TB/GDP= F (Tăng trưởng GDP, tỷ giá thương mại, tăng trưởng của những
nước phát triển, tự do hóa) (2.2.3)
Với tỷ lệ tài khoản vãng lai/ GDP, lãi suất thế giới được xác định bởi tốc độ tăng
trưởng ở các nước phát triển.Vì vậy, phương trình ước tính cho tài khoản vãng
lai trên GDP (CA/GDP) là:
CA/GDP = F (lãi suất thế giới, tăng trưởng GDP, tỷ giá thương mại, tự do
hóa) (2.2.4)
Các mối quan hệ trên, chúng ta cũng mong đợi có sự tương tác giữa tự do hóa và
tăng trưởng GDP và tự do hóa và tỷ giá thương mại .
Một lần nữa, từ những kết quả nghiên cứu không nhất quán này, dựa trên mẫu dữ
liệu của các nước đang phát triển ở khu vực Châu Á và Châu Mỹ La Tinh trong
suốt ba thập kỷ qua, mục tiêu của bài viết là nghiên cứu tác động của tự do hóa
thương mại, tăng trưởng kinh tế lên cán cân thương mại, tài khoản vãng lai. Từ
đó các câu hỏi nghiên cứu đã được đặt ra:
Liệu rằng tăng trưởng kinh tế cao hơn do tự do hóa thương mại có dẫn đến
ảnh hưởng bất lợi đến cán cân thương mại hay không?
Mối quan hệ cán cân thương mại và tăng trưởng kinh tế có tương quan âm
hay không?
14
Mối quan hệ của sự tăng trưởng kinh tế lên tài khoản vãng lai có phải
tương quan âm hay không?
Tự do hóa có một mối quan hệ tích cực đáng kể với tốc độ tăng trưởng
kinh tế hay không?
Tác giả
Phương pháp nghiên cứu Kết luận
Melo và Vogt (1984)
Sử dụng dữ liệu hàng
Tự do hóa thương mại có
năm để ước lượng thu
tác động tích cực mạnh
nhập thực tế và độ co
mẽ lên sự tăng trưởng
giãn theo giá của cầu
nhập khẩu
nhập khẩu ở Venezuela.
Dollar và Kray (2004)
Ước lượng tác động của
mở cửa toàn cầu hóa lên
tăng trưởng kinh tế, tình
trạng nghèo khó, sự bình
đẳng ở các nước đang
phát triển.
Thirlwall
và Santos-
Nghiên cứu tác động của
Paulino (2004)
tự do hoá giữa các quốc
gia bảo hộ cao và các
Bảng 2.1: Bảng tóm tắt các nghiên cứu liên quan:
15
quốc gia ít được bảo hộ.
Parikh và Stirbu (2004)
Dựa trên mô hình tĩnh sử
dụng mô hình hiệu ứng
cố định, hiệu ứng ngẫu
nhiên, OLS và hồi quy
SURE trên 42 nước đang
phát triển ở Châu Á,
Nam Phi và Mỹ La Tinh
để nghiên cứu tác động
của tự do hóa thương mại
lên tăng trưởng kinh tế,
đầu tư /GDP, độ mở, cán
cân thương mại và tài
khoản vãng lai.
Parikh (2004)
Với việc xây dựng mô
hình động và các biến trễ
phụ thuộc để nghiên cứu
mối quan hệ giữa tự do
hóa thương mại và tăng
trưởng kinh tế và tác
động chung của tự do
hóa và tăng trưởng lên
cán cân thương mại. Với
16
phương pháp hồi quy
GMM sử dụng cho mẫu
42 quốc gia đang phát
triển
trong giai đoạn
1980-1999.
Pacheco-López
và
Kiểm tra tác động của tự
Thirlwall (2005)
do hóa thương mại ở
Mexico vào năm 1985-
1986, và vào năm 1994
khi đất nước tham gia
NAFTA
Egor Kraev (2005)
Nghiên cứu mẫu của 32
nước kém phát triển và
các nước có thu nhập
thấp để ước lượng tổn
thất GDP bởi thâm hụt
cán cân thương mại do tự
do hóa gây ra.
17
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Dữ liệu:
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu bảng của 30 quốc gia ở 2 khu vực Châu Á và
Châu Mỹ La Tinh từ 1980-2011 để ước tính ảnh hưởng của tự do hóa thương
mại và tăng trưởng kinh tế lên cán cân thương mại, tài khoản vãng lai. Ngoài ra
còn thực hiện các hồi quy phụ cho từng khu vực và từng thời kỳ. Trong giai đoạn
1980-1999 là giai đoạn mà hầu hết các quốc gia đang phát triển thực hiện các
chính sách tự do hóa để cải thiện trong chính sách kinh tế của mình.
Mô hình động được sử dụng bởi các tác động kinh tế và các biến khác hiếm khi
xảy ra tức thời, phải tốn một khoản thời gian để người tiêu dùng, nhà sản xuất và
các tác nhân kinh tế khác phản ứng. Vì vậy, các mô hình kinh tế lượng sử dụng
dữ liệu chuỗi thời gian thường thiết lập mô hình động (hiện tượng trễ trong hành
vi).
ản 3 1.1: Danh sách 30 quốc ia đan phát triển
Khu vực Quốc gia
Bangladesh, Indonesia, Iran, Jordan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Sri Lanka, Châu Á
Malaysia, Nepal, Pakistan, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt
Nam.
Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Costa Rica, Dominica Châu Mỹ-La
Republic, Ecuador, Guatemala, Honduras, Jamaica, Mexico, Peru, Tinh
18
Paraguay, Uruguay, Venezuela.
3.2. Mô hình và cách xây dựng biến:
Phương trình (3.2.1) cho mô hình động trong bài nghiên cứu này được xây dựng
như sau:
yit: TB/GDP hoặc CA/GDP
Xit: các biến giải thích như tự do hóa (LIBER), tăng trưởng trong GDP thực
(GROWTH), tỷ giá thương mại từ thu nhập (PPI), biến tương tác của tự do hóa
với tỷ giá thương mại từ thu nhập (LIBPPI) và biến tương tác của tự do hóa với
tốc độ tăng trưởng GDP thực tế trong các nước đang phát triển (LIBGROWTH).
Khi biến phụ thuộc CA/GDP, sử dụng các biến liên quan đến khoản nợ như là tỷ
lệ nợ phải trả trên các khoản thanh toán, tăng trưởng hàng năm trong tích lũy nợ
dài hạn và tỷ lệ phần trăm thay đổi trong lãi suất thế giới.
ηt là tác động của biến giả năm hoặc thời điểm và có thể được đại diện như tác
động theo chu kỳ trên TB/GDP
Nghiên cứu này mở rộng nghiên cứu trước đó (Parikh, 2004; Parikh và Stirbu,
2004) mô hình động và phương pháp GMM hai bước được áp dụng để ước
lượng các hệ số hồi quy nhằm khắc phục các vấn đề về tương quan chuỗi trong
ước lượng dữ liệu bảng và chuỗi thời gian, các biến độc lập có thể tương quan
19
với các số hạng sai số, dễ có hiện tượng đa cộng tuyến dẫn đến các giá trị ước
lượng có thể bị chệch khi sử dụng OLS. Cụ thể:
Biến tăng trưởng GROWTH được giả định là nội sinh. Bởi vì quan hệ
nhân quả hai chiều của cán cân thương mại, tài khoản vãng lai, và tăng
trưởng, những biến hồi quy có thể tương quan với sai số. Để giải quyết
vấn đề này người ta thường sẽ sử dụng biến nội sinh làm biến công cụ và
độ trễ của biến nội sinh GROWTH cũng được thêm vào. Điều này làm cho
các biến nội sinh xác định trước và do đó không tương quan đến sai số
trong phương trình.
Đặc điểm quốc gia thay đổi theo thời gian (hiệu ứng cố định), chẳng hạn
như vị trí địa lý và nhân khẩu học, có thể liên quan với các biến giải thích.
Các hiệu ứng cố định có trong các sai số của phương trình (3.2.1), trong
đó bao gồm những tác động đặc biệt không quan sát được ở mỗi quốc gia
vi, và các sai số có thể quan sát cụ thể, eit:
εit= vi+ eit
Để loại bỏ tác động của vi, chúng ta sử dụng mô hình sai phân bậc 1:
Bằng cách chuyển đổi các biến hồi quy bằng sai phân bậc 1, tác động cố
định của từng quốc gia được loại bỏ, bởi vì nó không thay đổi theo thời
gian.
20
Sự hiện diện của biến trễ phụ thuộc TBGDP (-1) và CAGDP (-1) làm phát
sinh hiện tượng tự tương quan. Để giải quyết vấn đề này, thì các biến trễ
này cũng sẽ được sử dụng là biến công cụ trong hồi quy.
Biến phụ thuộc:
TB/GDP: Cán cân thương mại so với GDP (%)
CA/ GDP: tài khoản vãng lại so với GDP (%)
Cán cân thương mại, tài khoản vãng lai được chuẩn hóa bởi GDP để xem xét quy
mô khác nhau của các quốc gia. Dữ liệu TB, CA lấy từ Ngân hàng thế giới WB.
Biến độc lập:
Đo lường biến tự do hóa (LIBER):
Sachs và Warner (1995) đã xây dựng biến giả openness dựa trên 5 biến cho 5
chính sách thương mại.
Một quốc gia được xem là đóng cửa nếu nó có ích nhất 1 trong 5 đặc điểm sau:
Thuế suất trung bình (TAR) là 40% hoặc hơn;
Non-tariff barriers (NTB): các hàng rào phi thuế quan về thương mại là
40% hoặc hơn;
Chênh lệch tỷ giá hối đoái của thị trường chợ đen so với tỷ giá hối đoái
trung bình ở thị trường chính thức (BMP) là 20%;
21
Chính sách độc quyền đối với các mặt hàng xuất khẩu chính yếu (XMB),
Hệ thống kinh tế đặc trưng của trường phái ủng hộ chủ nghĩa xã hội
(SOC).
Nếu các quốc gia được xem là mở cửa thì biến openness có giá trị=1, ngược lại =
0. Sachs và Wanner đã áp dụng cho thời kỳ thập kỷ 1970 và thập kỷ 1980.
Thuế quan và rào cản phi thuế quan hạn chế thương mại một cách trực tiếp. Một
phần bù thị trường chợ đen (tỷ lệ chênh lệch tỷ giá trên thị trường chợ đen so với
thị trường chính thức ) (BMP) trên tỷ giá hối đoái có thể có tác động tương
đương với chính sách hạn chế thương mại. Nếu các nhà xuất khẩu phải nhập các
yếu tố đầu vào sử dụng ngoại tệ thu được trên thị trường chợ đen nhưng chuyển
ngoại hối thu từ xuất khẩu cho chính phủ với tỷ giá chính thức, BMP đóng vai
trò như một hạn chế thương mại. Trên cơ sở đối xứng Lerner giữa thuế nhập
khẩu và thuế xuất khẩu, Sachs-Warner cũng đưa ra việc nhà nước có các chính
sách độc quyền trên xuất khẩu như một hạn chế thương mại. Biến giả chế độ Xã
hội chủ nghĩa cho thấy các khía cạnh hạn chế của nền kinh tế kế hoạch tập trung.
Wacziarg (2001) đã áp dụng theo phương thức của Sachs-Warner nhưng có
những cải tiến trong việc phân loại nền kinh tế mở cửa và đóng cửa trong thời kỳ
1990-1999. Một dữ liệu mới của chỉ số thời điểm mở cửa và tự do hóa thương
mại của Sachs và Warner được thiết lập để nghiên cứu về mối quan hệ giữa mở
cửa thương mại và kinh tế tăng trưởng được mở rộng đến năm 1990. Nó sẽ xem
xét lại những bằng chứng trên dữ liệu chéo quốc gia tác động của biến nhị
nguyên Sachs-Warner lên kinh tế tăng trưởng. Nó cho thấy rằng biến nhị phân
Sachs-Warner có hiệu quả tách biệt ở các nước phát triển nhanh và chậm phát
22
triển trong năm 1980 và mức độ thấp hơn trong những năm 1970, nhưng trong
những năm 1990 lại không như vậy. Sự khác biệt chính giữa hai bộ dữ liệu bao
gồm:
Do vấn đề có sẵn dữ liệu, dữ liệu thuế quan không trọng số đã được sử
dụng; Sachs-Warner sử dụng dữ liệu có trọng số theo nhập khẩu;
Dữ liệu hàng rào phi thuế quan của Sachs-Warner rất khó khăn để thu
thập. Sachs-Warner sử dụng dữ liệu trung bình hàng rào phi thuế quan
trong thời kỳ 1985-1988 từ tập dữ liệu Barro-Lee, chính nó dựa trên dữ
liệu từ (UNCTAD). Dữ liệu của họ chỉ bao gồm 29 quốc gia trong giai
đoạn 1995-1998. Đối với các nước không có dữ liệu này, được phân loại
chỉ dựa trên bốn tiêu chí Sachs-Warner. Đối với Waziarg, giai đoạn 1989-
1999, dữ liệu trung bình lõi phi thuế quan được sử dụng trong phân tích
(average core nontariff barrier);
Sachs-Warner sử dụng chỉ số tiếp thị xuất khẩu từ Ngân hàng Thế giới
nghiên cứu ở các nước châu Phi (Husain và Faruqee 1994) làm cơ sở cho
biến XMB và cách phân loại nước xã hội chủ nghĩa Kornai (1992) làm cơ
sở để biến giả SOC của họ. Tuy nhiên, ở đây biến giả XMB và SOC thu
được từ một đánh giá toàn diện của nghiên cứu tình huống. Tiêu chí XMB
là không còn giới hạn trong các nước châu Phi (như trong Sachs-Warner),
áp dụng cho tất cả các nước trong các dữ liệu cập nhật. Định nghĩa của
tiếp thị xuất khẩu được mở rộng bao gồm bất kỳ hình thức độc quyền của
nhà nước đối với hàng xuất khẩu chính nào.
Dữ liệu về BMP từ Easterly và Sewadeh (2002), Belarus, Tajikistan, và
Uzbekistan dữ liệu không đủ và chỉ có rất ít dữ liệu có sẵn cho Armenia,
23
Azerbaijan, Gruzia, nước Cộng hòa Kyrgyzstan, và Moldova. Tất cả được
phân loại như mở dựa trên dữ liệu hạn chế.
Sachs-Warner đã có sai lệch trong một số trường hợp do tự áp đặt quy tắc
phân loại của họ. Một số điều chỉnh có ý nghĩa để nắm bắt thực tế bởi một
số nước đã trải qua những thay đổi trong chính sách thương mại trong giữa
thời kỳ, vì vậy một phân loại dựa trên mức trung bình giai đoạn có thể gây
hiểu nhầm. Các cập nhật phân loại được trình bày ở đây tránh xa bất kỳ
điều chỉnh như vậy.
Có thể có rất nhiều cách đo lường tự do hóa thương mại và những định hướng xa
hơn, và rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các cách đo lường của mình. Có một
vài điểm chung là thuế nhập khẩu trung bình, chỉ số trung bình hàng rào phi thuế
quan, chỉ số lãi suất bảo hộ thực tế, sự bóp méo của tỉ giá tương đối hoặc sự sai
lệch trong phần bù tỷ giá hối đoái chính thức với thị trường chợ đen.
Brahmbhatt và Daush (1996) của IMF đã xây dựng biến openness với 4 chỉ số:
tỷ số xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP, tỷ số đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
GDP, tỷ trọng hàng hóa trong tổng xuất khẩu, lãi suất tín dụng của quốc gia.
Một mẫu gồm 93 nước được thành 5 nhóm: những nhóm hội nhập nhanh, vừa
phải, yếu, chậm. Họ phát hiện ra rằng các nước hội nhập nhanh hầu hết là những
nước ở Đông Á có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, trong khi đó những nuóc
hội nhập yếu và chậm hầu hết là những quốc gia có thu nhập thấp và các nước
thuộc khu vực cận Saharan Africa và một số nước có thu nhập trung bình ở châu
Mỹ La Tinh. Những nước ở châu Á có thành quả cao trong kinh tế thường có
liên quan đến xuất khẩu mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng ở Đông Á. Những
nền kinh tế như Nhật bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Indonesia, Thái
24
Lan, Malaysia, Singapore đều có tăng trưởng cao trong GDP so với thế giới,
trung bình xấp xỉ 6% trong những năm 1965 và tăng trưởng xuất khẩu cao trung
bình là 10% một năm. Thành công này không phải lúc nào cũng dựa trên tự do
hóa tương mại như Hàn quốc và Nhật Bản đã theo hướng thúc đẩy xuất khẩu và
chuyển đổi trong nhập khẩu cùng một lúc và các chính sách can thiệp của chính
phủ. Có 3 chính sách được xem là góp phần vào thành công của các nền kinh tế
là chính sách phát triển các ngành công nghiệp đặc biệc của nền kinh tế, những
can thiệp của chính phủ trong thị trường tài chính nhằm làm giảm chi phí vốn và
cung cấp tín dụng trực tiếp đến các khu vực trong nền kinh tế và cuối cùng là các
chính sách phát triển xuất khẩu và bảo hộ trong ngành. Rất là cần thiết nếu chính
phủ có thể áp dụng cả ba chính sách này. Thương mại sẽ tạo ra các ảnh hưởng từ
bên ngoài và tỷ giá sẽ giữ cho nền kinh tế tăng trưởng.
Winter (2004) cũng cho rằng mở cửa thương mại sẽ làm tăng trưởng kinh tế ở
những nước đang phát triển nhưng không phải là mãi mãi. Ông cho là khi một
quốc gia mở cửa sẽ giảm thuế suất , xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, tăng
trưởng kinh tế trong một thời kỳ trong khi thu nhập cũng tăng nhưng theo sau đó
là lãi suất thấp. Những nền kinh tế mở cửa dường như giảm tham nhũng, lạm
phát thấp, những nhân tố này sẽ kích thích xuất khẩu và đầu tư. Từ đó sẽ làm
tăng trưởng kinh tế. Tự do hóa thương mại và tài chính thường đi chung với
nhau.
Mặc dù, biến giả tự do hóa trong nghiên cứu của Sachs-Warner (1995) và
Wacziarg (2001) có những nhược điểm nghiêm trọng là họ không xem xét cường
độ của tự do hóa và khoảng thời gian đã qua kể từ ngày tự do hóa, một chỉ số
đơn giản của tự do hóa và sự mở cửa sẽ không phân biệt giữa quốc gia phát triển
25
chậm và nhanh chóng, nhưng trong bài nghiên cứu này vẫn sử dụng chỉ số tự do
hóa được sử dụng trong ba thập kỷ qua của Sachs-Warner (1995) và Wacziarg
(2001) để xây dựng biến giả tự do hóa LIBER.
ản 3 2 1: Thời điểm tự do hóa của 30 quốc gia theo Wacziarg (2001). Trong ngoặc
là năm tự do tạm thời.
Quốc gia Năm tự do hóa
1991 ARG (Argentina)
1996 BGD (Bangladesh)
1985 BOL (Bolivia)
1991 BRA (Brazil)
1976 CHL (ChiLê)
1986 COL (Colombia)
1986 CRI (Costa Rica)
1992 DOM (Dominica Republic)
26
1991(1983) ECU (Ecuador)
1988 GTM (Guatemala)
1991 HND (Honduras)
1994 IND (Ấn Độ)
Closed IRN ( Iran)
1970 IDN (Indonesia)
1989 JAM (Jamaica)
1965 JOR (Jordan)
1968 KOR (Hàn Quốc)
1992 LKA (Sri Lanka)
1986 MEX (Mexico)
1963 MYS (Malaysia)
27
1991 NPL (Nepal)
2001 PAK (Pakistan)
1991 PER (Peru)
1988 PHL (Philippines)
1990 PRY (Paraguay)
1965 SGP (Singapore)
Always Open THA (Thái Lan)
1990 URY (Uruguay)
1996 (1990) VEN (Venezuela)
Đo lường biến tăng trưởng trong GDP thực (GROWTH):
1996 VNM ( Việt Nam)
GROWTH: là phần trăm thay đổi hàng năm trong GDP thực được đo lường
theo PPP.
28
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu mới nhất có sẵn của GDP thực tế đo lường theo
phương pháp PPP và tốc độ tăng trưởng từ bộ dữ liệu PWT 8.0 (Heston,
Summers và Aten).
PWT hiển thị một tập hợp các tài khoản quốc gia theo chuỗi thời gian bao gồm
nhiều quốc gia. Mục tiêu của nó là thiết lập một mức giá cho một đồng tiền
chung để so sánh sản lượng thực tế, theo các nước và theo thời gian. Nó cũng
cung cấp thông tin về giá cả tương đối trong và giữa các quốc gia, cũng như dữ
liệu nhân khẩu học và ước lượng vốn cổ phần. Kể từ khi tổ chức ICP thành lập
năm 1980, Summers và Heston tại Penn đã sử dụng so sánh điểm chuẩn ICP là
cơ sở để tính toán PPP cho các nước không chuẩn và ngoại suy. Phiên bản đầu
tiên của kỹ thuật này đã được phát triển với Irving Kravis (1978).
GDP.PPP: Ban đầu, GDP không thể so sánh vì chúng được thể hiện bằng các
đồng tiền quốc gia và được đánh giá ở mức giá quốc gia. Nhưng sau khi phương
pháp PPP được áp dụng, GDP được chuyển đổi sang một đồng tiền chung và
được đánh giá lại ở một mức giá thống nhất, giúp kiểm soát được lạm phát, sự
khác biệt về sức mua. Kết quả là, sự khác biệt giữa GDP chỉ phản ánh sự khác
biệt về số lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. PPP (ngang bằng sức mua) là số
lượng đơn vị tiền tệ cần thiết để mua hàng hóa tương đương với những gì có thể
được mua với một đơn vị của quốc gia cơ sở. Việc tính toán PPP so với GDP cụ
thể là GDP bằng giá trị đồng tiền quốc gia chia cho giá trị thực của GDP bằng đô
la quốc tế. Đô la quốc tế có sức mua tương tự trên tổng số GDP của Mỹ như
đồng đô la Mỹ trong năm cơ sở nhất định. Ở PWT 8.0 thì năm cơ sở là 2005.
Phương pháp tính theo ngang giá của sức mua tính toán hiệu quả tương đối của
sức mua nội địa đối với những nhà sản xuất hay tiêu thụ trung bình trong nền
29
kinh tế. Nó có thể sử dụng để làm chỉ số của mức sống đối với những nước chậm
phát triển là tốt nhất vì nó bù lại những điểm yếu của đồng nội tệ trên thị trường
thế giới.
Tác động biên của tăng trưởng GDP (GROWTH) lên TB/GDP sẽ kỳ vọng là tiêu
cực có nghĩa các nước đang phát triển có khả năng tăng trưởng nhanh hơn các
nước phát triển và xu hướng nhập khẩu của họ sẽ cao hơn xuất khẩu trong ngắn
hạn.
PPI: tỷ giá thương mại từ thu nhập = số lượng xuất khẩu*(chỉ số giá xuất
khẩu/chỉ số giá nhập khẩu), dữ liệu lấy từ WB, PWT8.0.
Tỷ giá thương mại của thu nhập là chỉ tiêu kinh tế đánh giá khả năng dựa vào
xuất khẩu để nhập khẩu của quốc gia. Biến động của tỷ giá thương mại của thu
nhập là chỉ tiêu quan trọng đối với các nước đang phát triển vì những nước này
phụ thuộc rất nhiều vào tư liệu sản xuất nhập khẩu để phát triển kinh tế. Tác
động biên của tỷ giá thương mại của thu nhập PPI sẽ kỳ vọng là tích cực như
một sự thay đổi thuận lợi trong tỷ giá thương mại của các nền kinh tế đang phát
triển sẽ dẫn đến sự cải thiện trong tỷ lệ TB/GDP.
GROIL: Phần trăm thay đổi hàng năm trong giá dầu (%), nguồn IMF.
Chúng ta mong đợi dấu âm đối với giá dầu. Khi giá dầu tăng làm cho giá nhập
khẩu sẽ tăng gây bất lợi cho tài khoản vãng lai.
ADVGR: Tốc độ tăng trưởng trong các nước phát triển (%), nguồn IMF.
Dấu hệ số kỳ vọng là dương đối với tăng trưởng trong nền kinh tế đã phát triển.
Các nước phát triển gia tăng tăng trưởng GDP sẽ càng có nhu cầu nhập khẩu
30
hàng hóa nhiều hơn từ các nước đang phát triển. Do vậy, xuất khẩu sẽ cao hơn
làm cải thiện cán cân thương mại, tài khoản vãng lai ở những nước đang phát
triển.
CINTEREST: Phần trăm thay đổi hàng năm lãi suất thế giới (%), nguồn
IMF.
Lãi suất thế giới được xác định bởi tốc độ tăng trưởng trong các nền kinh tế phát
triển.
DEBTSR: Tổng nợ thanh toán trên tổng số xuất khẩu (%), nguồn WB.
Chúng tôi hy vọng các tài khoản vãng lai xấu đi với sự gia tăng nợ, tăng trong
nghĩa vụ thanh toán và tăng lãi suất thế giới. Dấu dự kiến là âm đối các biến này.
LIBGROWTH: Biến tương tác tự do hóa với tăng trưởng trong nước
Bài nghiên cứu cũng sử dụng biến tương tác giữa tự do hóa và tăng trưởng. Nếu
dấu của biến này là âm thì nó gia tăng tốc độ tăng trưởng do đó đã tăng tăng
trưởng nhập khẩu và cán cân thương mại/cán cân thanh toán trở nên tồi tệ hơn.
LIBPPI: Biến tương tác tự do hóa với tỷ số thương mại của thu nhập
Tự do hóa có thể tương tác với PPI (LIBPPI) có nghĩa tự do hóa làm tăng nhập
khẩu trong ngắn hạn và có thể ảnh hưởng đến giá nhập khẩu nhiều hơn so với giá
xuất khẩu dẫn đến bất lợi trong tỷ số thương mại. Một hệ số LIBPPI âm có nghĩa
là tự do hóa có thể dẫn đến tồi tệ hơn tỷ số thương mại dẫn đến sự sụt giảm trong
cán cân thương mại.
31
Bảng 3.2.2 : Biến và dấu kỳ vọng của các biến trong mô hình
GROWTH (nguồn PWT 8.0)
-
LIBER (Wacziarg)
-
PPI ( nguồn WB)
+
LIBGROWTH
+/-
LIBPPI
+/-
ADVGR ( nguồn IMF)
+
DEBTSR ( nguồn WB)
-
GROIL ( nguồn IMF)
-
CINTEREST (nguồn IMF)
-
Biến Dấu kỳ vọng
32
4. Kết quả nghiên cứu:
4.1. Tăng trưởng, cán cân thương mại và cán cân tài khoản vãng lai trước
và sau khi tự do hóa:
Chúng ta bắt đầu phân tích một cách đơn giản bằng cách so sánh sự tăng trưởng
bình quân GDP; tỷ lệ trung bình của cán cân thương mại so với GDP, và tỷ lệ
trung bình của tài khoản vãng lai so với GDP, năm năm trước thời điểm tự do
hóa và năm năm sau tự do hóa. So sánh cho chúng ta thấy có lợi thế của “ trước
và sau” tự do hóa, tuy nhiên vì không có các biến kiểm soát được đưa vào phân
tích, do đó bất kỳ thay đổi, lợi hay bất lợi, không thể kết luận là do một mình tự
do hóa gây ra. Câu hỏi được đặt ra là liệu rằng có quốc gia nào trở nên tốt hơn
trên tất cả các tiêu chí, quốc gia nào trở nên tồi tệ trên tất cả các tiêu chí, hay là
hầu hết các quốc gia sẽ “ở giữa” với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và cán cân
thanh toán tồi tệ hơn hoặc cán cân thanh toán tốt hơn và tăng trưởng chậm hơn?
Kết quả xem xét tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ cán cân thương mại được thể hiện
trong (Bảng 4.1.1). 17 trong số 22 quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng trung bình nhanh
hơn sau khi tự do hóa so với trước đây, và 16 quốc gia (không phải tất cả các
nước giống nhau) có cán cân thương mại tồi tệ hơn. Có 5 nước có mức tăng
trưởng nhanh hơn và cán cân thương mại thuận lợi hơn: Colombia, Dominica,
Jamaica, Sri Lanka, Pakistan và Venezuela. 3 quốc gia có tăng trưởng chậm và
thâm hụt thương mại tồi tệ hơn: Bangladesh, Bolivia và Honduras. Có thể thấy
rằng hầu hết các nước có mức tăng trưởng nhanh hơn nhưng với một cán cân
thương mại tồi tệ hơn. Tuy nhiên đối với các quốc gia này, chưa thể đưa ra kết
luận liệu rằng tự do hóa thương mại có mối liên hệ với tăng trưởng tốt hơn hoặc
tồi tệ hơn và có một sự đánh đổi giữa tăng trưởng và cán cân thương mại hay
không?
33
Kết quả mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và tài khoản vãng lai được thể hiện
trong Bảng 4.1.2. Chúng ta đã biết rằng 17 quốc gia có mức tăng trưởng nhanh
hơn ở (bảng 4.1.1). 11 nước có có tài khoản vãng lai sụt giảm so với 15 quốc gia
có cán cân thương mại xấu hơn. Có 9 quốc gia có sự tăng trưởng nhanh hơn và
cải thiện trong tài khoản vãng lai: Brazil, Colombia, Costa Rica, Ecuardo,
Guatamila, Jamaica, Pakistan, Uruguay, Sri Lanka. Có 3 quốc gia có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn và một tài khoản vãng lai tồi tệ hơn là: Bangladesh, Bolivia,
Honduas. Có 1 nước tốc độ tăng trưởng chậm hơn nhưng lại cải thiện trong tài
khoản vãng lai: Paraguay. Một lần nữa, phần lớn các nước đang có tăng trưởng
nhanh hơn và có tài khoản vãng lai bị thâm hụt.
Xem xét một lúc cả tăng trưởng, cán cân thương mại và tài khoản vãng lai, 22
quốc gia có thể được nhóm lại thành năm loại : “chắc chắn tốt hơn”; “tốt hơn-
không rõ ràng”; “chắc chắn xấu hơn”; “xấu hơn-không rõ ràng”, và “không xác
định”. Bảng 4.1.3 hiển thị các nước trong mỗi nhóm.
Có 12 quốc gia ở nhóm “tốt hơn hoặc tốt hơn- không rõ ràng”; 3 quốc gia trong
nhóm “xấu hơn và xấu hơn-không rõ ràng”, và 7 quốc gia trong nhóm “không rõ
ràng”. Để có được một kết luận rõ ràng hơn về tác động của tự do hóa thương
mại, đặc biệt là đối với những nước trong các nhóm “không rõ ràng”, chúng ta
cần phải biết liệu rằng có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và cải thiện cán cân
thương mại hay không? Vấn đề này sẽ được làm rõ ở phần 4.2 của bài nghiên
cứu.
34
Bảng 4.1.1: Mối quan hệ giữa tăn trưởng GDP và cán cân thươn mại 5 năm trước
khi tự do hóa thươn mại và 5 năm sau tự do hóa (Nguồn: Summers, Heston, and Aten,
PWT 8.0 (2012); WB)
Nước Năm tự do GROWTH(%) TBGDP1(%) Tốt hơn,
hóa xấu hơn
hoặc không
rõ ràng Trước Sau Trước Sau
1991 -0.13 6.01 4.00 0.005 Không rõ ARG
ràng
1996 3.32 -1.34 3.31 -4.6 Xấu hơn BGD
1985 2.75 1.01 4.03 -0.85 Xấu hơn BOL
1991 1.95 3.10 3.76 2.22 Không rõ BRA
ràng
1986 2.25 4.59 -2.6 4.27 Tốt hơn COL
1986 1.97 3.94 0.18 -3.24 Không rõ CRI
ràng
1992 2.49 6.53 -13.99 -10.62 Tốt hơn DOM
35
2.56 2.89 5.76 2.94 Không rõ ECU 1991(1983)
ràng
1988 1.49 3.89 -1.54 -6.15 Không rõ GTM
ràng
1991 3.66 3.64 -1.16 -5.65 Xấu hơn HND
1994 4.61 6.59 -1.28 -2.09 Không rõ IND
ràng
1989 2.90 3.90 -12.63 -12.06 Tốt hơn JAM
1992 3.49 5.25 -7.5 -7.42 Tốt hơn LKA
1986 -0.48 3.32 5.89 1.04 Không rõ MEX
ràng
1991 4.94 5.00 -12.31 -17.87 Không rõ NPL
ràng
2001 3.27 5.02 -3.46 -2.20 Tốt hơn PAK
1991 -2.83 5.66 0.77 -2.06 Không rõ PER
ràng
36
1988 -0.03 2.22 -2.06 -8.51 Không rõ PHL
ràng
1990 4.09 2.92 -4.6 1.17 Không rõ PRY
ràng
1990 3.80 4.15 3.93 -1.98 Không rõ URY
ràng
0.41 1.09 12.16 8.07 Không rõ VEN 1996(1990)
ràng
1995 7.32 7.51 -3.8 -5.4 Không rõ VNM
ràng
37
Bảng 4.1.2: Mối quan hệ giữa tăn trưởng GDP và tài khoản vãn lai 5 năm trước khi
tự do hóa thươn mại và 5 năm sau tự do hóa (Nguồn: Summers, Heston, and Aten,
PWT 8.0 (2012); WB)
Tên Năm tự do GROWTH(%) CAGDP1(%) Tốt hơn, xấu
nước hóa hơn hoặc
không rõ Trước Sau Trước Sau
ràng
1991 -0.13 6.01 -1.22 -2.49 Không rõ ràng ARG
1996 3.32 -1.34 -0.47 -0.66 Xấu hơn BGD
1985 2.75 1.01 -4.36 -7.25 Xấu hơn BOL
1991 1.95 3.10 -0.36 -0.26 Tốt hơn BRA
1986 2.25 4.59 -5.96 0.46 Tốt hơn COL
1986 1.97 3.94 -4.92 -4.03 Tốt hơn CRI
1992 2.49 6.53 -3.41 -2.92 Không rõ ràng DOM
2.56 2.89 -7.54 -3.33 Tốt hơn ECU 1991(1983)
38
1988 1.49 3.89 -3.65 -4.40 Tốt hơn GTM
1991 3.66 3.64 -3.76 -7.97 Xấu hơn HND
1994 4.61 6.59 -1.63 -1.16 Không rõ ràng IND
1989 2.90 3.90 -4.48 - 2.78 Tốt hơn JAM
1992 3.49 5.25 -5.35 -5.12 Tốt hơn LKA
1986 -0.48 3.32 0.46 -1.69 Không rõ ràng MEX
1991 4.94 5.00 -6.91 -7.07 Không rõ ràng NPL
2001 3.27 5.02 -2.98 1.61 Tốt hơn PAK
1991 -2.83 5.66 -7.17 -6.69 Tốt hơn PER
1988 -0.03 2.22 -0.68 -3.84 Không rõ ràng PHL
1990 4.09 2.92 -6.16 0.95 Không rõ ràng PRY
1990 3.80 4.15 0.53 -0.98 Không rõ ràng URY
39
0.41 1.09 4.20 2.94 Không rõ ràng VEN 1996(1990)
1995 7.32 7.51 -5.14 -6.1 Không rõ VNM
ràng
Bản 4 1 3: Các nước tốt hơn hoặc xấu hơn sau quá trình tự do hóa
Nhóm Tên nước
Colombia, Jamaica, Pakistan, Sri Lanka. Tốt hơn thực sự
Argentina, Brazil, Ecuardo, Costa Rica, Guatemala, Tốt hơn - không rõ ràng
Nepal, Uruguay, Peru
Bangladesh, Bolivia, Honduras Xấu hơn thực sự
Xấu hơn-Không rõ ràng
Dominica republic, Mexico, Philippines, Ecuardo, Ấn Không rõ ràng
Độ, Paraguay, Việt Nam.
40
1
iểu đồ 4 1 1: Mối quan hệ iữa tăn trưởn , T GDP1, CAGDP1 (Giá trị trun
bình của 30 nước tron thời kỳ 1981-2011) N uồn: Summers, Heston, and Aten,
Tỷ lệ thâm hụt tài khoản vãng lai trên GDP tương đối ổn định ở các quốc gia
đang phát triển trong những năm qua, mặc dù nó có dao động từ 1% đến 3%
(Biểu đồ 4.1.1). Giai đoạn 1990-1999, các nước đang phát triển đã có thâm hụt
thương mại nhiều năm liên tục với tỷ lệ khá cao khoảng -2.95% so với giai đoạn
1980-1989 là -2.7%, tuy vậy giai đoạn 2000-2007, cán cân thương mại ở các
quốc gia đã cải thiện tình trạng thâm hụt của mình hơn các giai đoạn trước đó, tỷ
lệ thâm hụt TB/GDP trung bình trong giai đoạn này là khoảng -1.3%. Tuy nhiên,
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, giai đoạn 2008-2011
tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai đã gia tăng khoảng -3.8%. Thời điểm
2007-2008, 2010-2011 là khoảng thời gian mà cả tăng trưởng, cán cân thương
mại, tài khoản vãng lai đều sụt giảm đáng kể so với các năm trước đó. Tài khoản
vãng lai của các nước đang phát triển có xu hướng thay đổi theo hướng song
PWT 8.0 (2012); WB.
41
song với cán cân thương mại. Trải qua 3 thập kỷ, tài khoản vãng lai không
ngừng được cải thiện, trung bình giai đoạn 1980-1989 là -3.48%, giai đoạn 1990-
1999 là -2.10%, đặc biệt giai đoạn 2000-2011, hầu hết các năm tài khoản vãng
lai đều thặng dư trung bình giai đoạn này là 0.27%. Tốc độ tăng trưởng của các
quốc gia đang phát triển cũng đã có những biến động đáng kể trong ba thập kỷ
qua: những biến động đáng kể trong suốt thời gian những năm 1970 đã làm tăng
trưởng GDP cũng sụt giảm mạnh trong những năm đầu 1980, tốc độ tăng trưởng
GDP tương đối ổn định ở mức khoảng 3-4% trong nửa thập kỷ của những năm
1980 nhưng sau đó tốc độ tăng trung bình khoảng 5% trong khoảng 1984-1997.
Trong những năm đầu của những năm 2000, tốc độ tăng trưởng ổn định trung
bình 5%, thời kỳ tăng trưởng mạnh là trong giai đoạn 2004-2007, mặc dù bị ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2008, tốc độ tăng trưởng 2009 có sụt
giảm 1.2% tuy nhiên đến năm 2011, 2012 nền kinh tế đã được phục hồi và tốc độ
tăng trưởng 2010 là 6.15%, 2011 là 4.68%.
Biểu đồ 4.1.2 cho thấy mối quan hệ giữa tăng trưởng, cán cân thương mại, tài
khoản vãng lai (%/GDP) ở những nước Châu Á trong thời kỳ 1990-2011 và biểu
đồ 4.1.3 là những nước ở Châu Mỹ. Tốc độ tăng trưởng trung bình của Châu Á
trong giai đoạn này 5.17%, trong khi đó các quốc gia ở Châu Mỹ chỉ là 3.74%.
Tình hình cán cân thương mại, tài khoản vãng lai (%/GDP) ở Châu Á cũng đều
được cải thiện hơn so với Châu Mỹ. Có thể thấy trong biểu đồ 4.1.2, có một sự
khác biệt trong sự gia tăng giữa tài khoản vãng lai và cán cân thương mại những
năm 1990 so với những năm 2000 ở các nước Châu Á, tình hình cán cân thương
mại và tài khoản vãng lai đều được cải thiện rõ rệt trong giai đoạn 2000-2011,
cán cân thương mại vẫn thâm hụt trung bình -2.2% (%/GDP), tuy nhiên tài
khoản vãng lai lại thặng dư trung bình 2.16%.
42
Trong khi đó ở Châu Mỹ (Biểu đồ 4.1.3) thâm hụt tài khoản vãng lai và cán cân
thương mại ở Châu Mỹ là lớn hơn nhiều so với Châu Á, tài khoản vãng lai
(%GDP) trung bình là -1.24% và cán cân thương mại (% GDP) là -7.03%.
Thông qua 2 biểu đồ, có thể thấy tình hình kinh tế ở Châu Á có vẻ khả quan hơn
Châu Mỹ, các quốc gia Châu Á đang dần cải thiện được tình hình cán cân
thương mại, tài khoản vãng lai của mình nhiều hơn.
Biểu đồ 4.1.2: Mối quan hệ giữa tăn trưởng, TBGDP1, CAGDP1 ở khu vực Châu Á
(Giá trị trung bình của 14 nước trong thời kỳ 1990-2011). Nguồn: Summers, Heston,
and Aten, PWT 8.0 (2012); WB.
43
Biểu đồ 4.1.3: Mối quan hệ giữa tăn trưởng, TBGDP1, CAGDP1 ở khu vực Châu Mỹ
La Tinh (Giá trị trung bình của 16 nước trong thời kỳ 1990-2011. Nguồn: Summers,
Heston, and Aten, PWT 8.0 (2012); WB.
4.2. Kết quả hồi quy mô hình:
Trong bảng 4.2.1 là kết quả ước lượng của mô hình động trong khoảng thời gian
1980-2011 của 30 quốc gia, biến độ trễ của TBGDP1 và CAGDP1 cũng được sử
dụng trong phương trình cán cân thương mại và tài khoản vãng lai tương ứng.
Bảng này cũng khẳng định rằng tăng trưởng GDP nhanh hơn sẽ tác động bất lợi
đến cán cân thương mại, điều này có nghĩa là các nước đang phát triển có khả
năng tăng trưởng nhanh hơn các nước phát triển và xu hướng nhập khẩu của họ
sẽ cao hơn xuất khẩu trong ngắn hạn. Khi tăng trưởng GDP thay đổi 1% thì cán
cân thương mại thâm hụt khoảng 0.56%. Tự do hóa một mình nó không có tác
động tích cực hay tiêu cực đến cán cân thương mại. Tuy nhiên, tự do hóa tổng
thể lại làm cán cân thương mại thâm hụt nhưng ảnh hưởng này lại thông qua biến
tương tác tỷ giá thương mại với tự do hóa. Điều này có nghĩa rằng tự do hóa ảnh
44
hưởng đến tỷ giá thương mại và tỷ giá thương mại với tự do hóa có tác động tiêu
cực đến cán cân thương mại. Tự do hóa có thể làm cho tỷ giá thương mại xấu đi
như nhập khẩu tăng trưởng với tốc độ nhanh và giá nhập khẩu có thể tăng nhanh
hơn giá xuất khẩu dẫn đến sự suy giảm về tỷ giá thương mại và điều này có thể
dẫn đến cán cân thương mại suy giảm. Mặt khác, những thay đổi trong tỷ giá
thương mại của thu nhập một mình nó có tác động tích cực đáng kể đến cán cân
thương mại. Biến động của tỷ giá thương mại phản ánh thay đổi thu nhập của
quốc gia tính theo hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài. Khi tỷ giá thương mại
giảm, đồng nghĩa với thu nhập quốc gia giảm vì cần phải tăng thêm hàng xuất
khẩu để mua được một đơn vị hàng nhập khẩu định trước. Khi giá hàng xuất
khẩu tăng dẫn tới tỷ giá thương mại tăng, nghĩa là với một lượng hàng xuất khẩu
nhất định có thể đổi lấy một lượng hàng nhập khẩu lớn hơn. Tăng trưởng trong
các nước phát triển có xu hướng cải thiện cán cân thương mại ở các nước đang
phát triển bởi khả năng xuất khẩu nhiều hơn tuy nhiên hệ số lại không có ý nghĩa
thống kê.
Tăng trưởng GDP thực cũng có tác động tiêu cực đến tài khoản vãng lai tuy
nhiên mức độ thấp hơn cán cân thương mại, 1% thay đổi trong tăng trưởng làm
tài khoản vãng lai sụt giảm 0.34%. Ngược lại, mặc dù, hệ số kỳ vọng của lãi suất
thế giới là âm nhưng trong bảng kết quả thì có tác động tích cực đến tài khoản
vãng lai và có ý nghĩa thống kê mức 10%. Các khoản thanh toán nợ có hệ số là
âm, phù hợp với kỳ vọng khi xây dựng mô hình, vì I = S + (T – G – Tr) + (IM-
EX) tức là đầu tư được tài trợ bởi ba nguồn cơ bản: tiết kiệm tư nhân (tiết kiệm
cá nhân cộng với thu nhập giữ lại của các doanh nghiệp), tiết kiệm của chính phủ
(thặng dư ngân sách của chính phủ), và vay từ nước ngoài (nhập khẩu ròng). Nếu
một quốc gia mong muốn tăng mức đầu tư của nó, quốc gia này phải hoặc là
45
giảm tiêu dùng tư nhân của nó (để tăng tiết kiệm tư nhân), giảm chi tiêu chính
phủ của nó (để tăng tiết kiệm chính phủ), tăng vay nước ngoài, hay có lẽ kết hợp
cả ba. Khi các khoản nợ gia tăng có nghĩa là nhập khẩu của quốc gia đó đang lớn
hơn so với xuất khẩu vì vậy gia tăng thâm hụt tài khoản vãng lai. Kết quả cho
thấy, khi nợ gia tăng 1% thì tài khoản vãng lai thâm hụt 0.04%. Hơn nữa, tốc độ
tăng trưởng ở những nước phát triển cũng có vai trò tích cực trong việc cải thiện
tài khoản vãng lai ở những nước đang phát triển. Các nước phát triển nếu tăng
tốc độ tăng trưởng 1% thì các quốc gia đang phát triển cải thiện được tình hình
thâm hụt tài khoản vãng lai khoảng 0.2%. Tỷ giá thương mại của thu nhập không
những tác động tích cự đến cán cân thương mại mà tài khoản vãng lai cũng có
mối quan hệ tích cực mặc dù hệ số tương đối nhỏ. Đối với cả 2 mô hình, các biến
trễ TBGDP1 và CAGDP1 đều có tác động mức ý nghĩa 1%. Có thể thấy vị thế
của đến cán cân thương mại và tài khoản vãng lai đều bị ảnh hưởng bởi tình
trạng trước đó của nó.
Ngoài ra các kiểm định về tự tương quan chuỗi sai phân thứ nhất với cả 2 mô
hình đều có ý nghĩa với giả thiết H0 là không có hiện tượng tự tương quan chuỗi.
Các mô hình trên đều không có hiện tượng tự tương quan bậc 2 tức là các số
hạng sai số cho các thời đoạn không quá cách xa nhau không tương quan với
nhau. Kiểm định Hasen về sự hợp lý của các biến công cụ cũng có ý nghĩa ở cả 2
mô hình với giả thiết H0 là các biến công cụ là ngoại sinh tức là không có tương
quan với số hạng sai số. Múc ý nghĩa *, **, *** lần lượt theo thứ tự là 10%, 5%,
1% đối với tất cả các bảng kết quả hồi quy.
46
Bảng 4.2.1: Kết quả hồi quy mô hình bản động 1980-2011 (30 quốc gia)
Biến phụ thuộc TBGDP1 CAGDP1
Biến độc lập Hệ số P-value Hệ số P-value
TBGDP(-1) 0.6017277*** 0.000
(4.26)
CAGDP(-1) 0.6661604*** 0.000
(9.03)
GROWTH -0.5692429* 0.056 -0.3441757** 0.018
(-1.99) (-2.51)
LIBGROWTH 0.1949307 0.507
(0.67)
PPI 0.0006685** 0.017 0.0001451** 0.028
(4.26) (2.32)
LIBER 1.960583 0.272 -0.7307669 0.579
(2.53) (-0.56)
47
LIBPPI -0.0005139* 0.065
(-1.92)
ADVGR 0.0550922 0.673 0.2047672* 0.055
(0.43) (2.00)
DEBTSR -0.048488* 0.053
(-2.02)
GROIL -0.0143682 0.178
(-1.38)
CINTEREST 0.0375855** 0.021
(2.44)
AR(1) z = -3.18 Pr > z = 0.001 z = -3.78 Pr > z = 0.000
AR(2) z = -2.06 Pr > z = 0.39 z = -0.99 Pr > z = 0.322
Hansen test of chi2(8) = 12.85 Prob > chi2 = chi2(8) = 9.36 Prob > chi2 =
overid. 0.117 0.313
restrictions:
48
Ghi chú:
*, **, *** : mức ý n hĩa lần lượt theo thứ tự là 10%, 5%, 1%.
AR(1), AR(2): Kiểm định hiện tượng tự tươn quan chuỗi bậc 1 và bậc 2 với
giả thiết H0 là không có hiện tượng tự tươn quan chuỗi.
Các kết quả theo khu vực và theo các giai đoạn 1980-1989, 1990-1999, 2000-
2011 cũng có những điểm đáng chú ý. Liệu rằng có bất kỳ bằng chứng về sự
thay đổi trong mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tăng trưởng kinh tế giữa
các thời kỳ và các khu vực khác nhau hay không?
Những kết quả theo 3 thời kỳ cho tổng thể 30 nước được thể hiện trong Bảng
4.2.2. Bảng 4.2.3 báo cáo kết quả cho 14 nước châu Á ở ba giai đoạn. Trong
bảng 4.2.4, sử dụng toàn bộ mẫu cho 16 nền kinh tế Châu Mỹ La Tinh. Cũng
giống như các nghiên cứu trước đây của (Parikh, 2004; Parikh và Stirbu, 2004),
một lần nữa có thể thấy, khi thực hiện hồi quy riêng rẽ trong từng thời kỳ và từng
khu vực thì các kết quả là không rõ ràng và ít có ý nghĩa về mặt thống kê. Các
biến trễ đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Tự do hóa đã không có một mối quan hệ rõ ràng nào với tăng trưởng cũng như
cán cân thương mại và tài khoản vãng lai trong suốt các thời kỳ, chỉ có tác động
tiêu cực đến cán cân thương mại đối với các nước Châu Á trong giai đoạn 1980-
1989, tự do hóa góp phần làm cán cân thương mại thâm hụt -3.8%. Khi phân tích
theo từng giai đoạn, bằng chứng về mối quan hệ tiêu cực của tự do hóa và cán
cân thương mại chỉ có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn 1990-1999.
Hansen test: Kiểm định sự hợp lý của các biến công cụ.
49
Tăng trưởng kinh tế nhìn chung vẫn có tác động tiêu cực đến cán cân thương mại
và tài khoản vãng lai khi phân tích toàn bộ thời gian cho 30 nước, tuy nhiên khi
phân tích từng thời kỳ, từng khu vực thì các kết quả lại không rõ ràng. Khi phân
tích từng thời kỳ, tăng trưởng có tác động tiêu cực đến cán cân thương mại trong
hai thời kỳ 1980-1989, 1990-1999, riêng giai đoạn 2000-2011, tăng trưởng và
cán cân thương mại lại không có quan hệ tiêu cực hay tích cực nào. Khi phân
tích khu vực, đối với các nước Châu Á, điểm đáng chú ý, dấu của tăng trưởng lại
dương trong giai đoạn 2000-2011 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% nhưng vẫn
có tác động tiêu cực đến cán cân thương mại trong hai thời kỳ trước. Trong khi
đó, đối với nền kinh tế Mỹ La Tinh, tăng trưởng trong GDP thực có tác động tiêu
cực lên cán cân thương mại chỉ trong giai đoạn đầu tiên 1980-1989, trong hai
giai đoạn tiếp theo, mối quan hệ về tăng trưởng và cán cân thương mại lại không
rõ ràng.
Điểm đáng chú ý khi phân tích khu vực cho ba thời kỳ, việc tăng trưởng ở các
nước phát triển vẫn không thể làm giảm đi áp lực của việc sụt giảm trong cán cân
thương mại đối với cả hai khu vực thậm chí còn làm cho cán cân thương mại ở
các nước Châu Á càng tệ hại hơn trong giai đoạn 2000-2011.
Về tỷ giá thương mại có tác động tích cực trên cán cân thương mại có kết quả
khá đồng nhất trong giai đoạn 1980-1989 đối với cả 2 khu vực. Tuy nhiên, tỷ giá
thương mại có cải thiện cán cân thương mại thời kỳ 1990-1999 đối với các nước
Châu Á, đối với Châu Mỹ thì lại không như vậy.
Khi phân tích theo ba thời kỳ, các biến giả thời gian đã được sử dụng để xem xét
những tác động đặc biệt của các năm khác nhau lên cán cân thương mại. Trong 2
giai đoạn đầu, hầu hết tất cả các biến giả thời gian đều không có ý nghĩa thống
50
kê. Ngược lại, trong giai đoạn 2000-2011, gần như tất cả các biến giả đều có tác
động tích cực đến cán cân thương mại. Giống như phân tích trước đây ở biểu đồ
4.1.1, giai đoạn này cả tăng trưởng kinh tế và cán cân thương mại đều gia tăng.
51
Bảng 4.2.2: Hồi quy mô hình bản độn cho 3 iai đoạn – sử dụng biến giả thời gian
(30 quốc gia):
Biến phụ thuộc TBGDP1 (1980- TBGDP1 (1990- TBGDP1(2000-
1989) 1999) 2011)
Biến độc lập (DIF GMM) (DIF GMM) (DIF GMM)
TBGDP(-1) 0.5720493** 0.485696*** 0.9212336 **
(2.73) (3.03) (2.34)
GROWTH -0.5335288* -1.809786 ** 2.113628
(-1.94) (-2.20) (0.36)
PPI 0.0018388*** -0.0008297 0.0012837
(2.92) ( -1.26 ) (0.66)
LIBER -2.851263 -1.44117 ***
(-0.74) (-3.47)
ADVGR 1.057159 0.1848178 0.8679107
(1.12) (0.22) (0.95)
52
LIBPPI 0.0001804 0.0016677*** -0.0006507
(0.19) (3.09) (-0.35)
LIBGROWTH 0.2877636 1.283808 -2.428158
(1.06 ) (1.53) (-0.40)
Year2 1.002475 2.327156 5.934076**
(0.36) (0.95) (2.39)
Year3 3.540143 2.524325 7.212683***
(0.79) (1.10) (2.87)
Year4 1.528479 0.6113807 6.322055**
(0.92) (0.25) (2.73)
Year5 1.384599 1.474786 4.524614**
(1.27) (0.90) ( 2.09 )
Year6 .7263444 0.7506581 3.406775**
(0.61) (0.55) (2.15)
53
Year7 2.792897** 0.2860923 3.204518***
(2.09) (0.25) ( 2.74)
Year8 1.726962* -1.183136 0.7382384
(1.72) (-1.31) (0.52)
Year9 2.133311
(0.93)
Year10 8.937658
(1.35)
AR(1) z = -2.73 Pr > z = z = -3.02 Pr > z = z = -1.76 Pr > z =
0.006 0.003 0.078
AR(2) z = -0.70 Pr > z = z = -1.67 Pr > z = z = -0.93 Pr > z =
0.481 0.96 0.351
Hansen test chi2(2) = 3.43 chi2(2) = 1.86 chi2(2) = 1.83
Prob > chi2 = 0.180 Prob > chi2 = 0.394 Prob > chi2 = 0.401
54
Ghi chú:
*, **, *** : mức ý n hĩa lần lượt theo thứ tự là 10%, 5%, 1%.
AR(1), AR(2): Kiểm định hiện tượng tự tươn quan chuỗi bậc 1 và bậc 2 với
giả thiết H0 là không có hiện tượng tự tươn quan chuỗi.
Hansen test: Kiểm định sự hợp lý của các biến công cụ.
55
Bảng 4.2.3: Hồi quy mô hình bản động của Arellano-Bond 1980-2011 ở khu vực
Châu Á (14 quốc gia)
Biến phụ thuộc TBGDP1 (1980- TBGDP1 (1990- TBGDP1(2000-2011)
1989) 1999) (DIF GMM) Biến độc lập (DIF GMM) (DIF GMM)
TBGDP(-1) 0.4721016*** 0.6192179*** 0.9180761***
(5.26) (4.45) (3.15)
GROWTH -0.40899* -0.9276145*** 1.524353**
(-1.78) (-9.01) (2.81)
PPI 0.0018821*** 0.0002111 -0.0002033
(4.43) (0.50) (-0.51)
LIBER -3.862105*** -1.042426
(-4.70) (-0.58)
ADVGR 0.5137718 0.4890852 -1.177764**
(1.73) (0.61) (-2.71)
56
AR(1) z = -180 Pr > z = z = -1.85 Pr > z = z = -2.52 Pr > z =
0.073 0.064 0.012
AR(2) z = -0.02 Pr > z = z = -0.24 Pr > z = z = 0.54 Pr > z =
0.988 0.808 0.586
Hansen test chi2(8) = 7.00 chi2(8) = 6.81 chi2(8) = 6.66
Prob > chi2 = 0.536 Prob > chi2 = 0.557 Prob > chi2 = 0.573
Ghi chú:
*, **, *** : mức ý n hĩa lần lượt theo thứ tự là 10%, 5%, 1%.
AR(1), AR(2): Kiểm định hiện tượng tự tươn quan chuỗi bậc 1 và bậc 2 với
giả thiết H0 là không có hiện tượng tự tươn quan chuỗi.
Hansen test: Kiểm định sự hợp lý của các biến công cụ
57
Bảng 4.2.4: Hồi quy mô hình bản động của Arellano-Bond 1980-2011 ở khu vực
Châu Mỹ La Tinh (16 quốc gia)
Biến phụ thuộc TBGDP1 (1980- TBGDP1 (1990- TBGDP1(2000-2011)
1989) 1999) (DIF GMM) Biến độc lập (DIF GMM) (DIF GMM)
TBGDP(-1) 0.3038874* 0.3651612 0.6310632**
(1.95) (1.39) (2.65)
GROWTH -0.5412721*** 0.0378911 -0.0195761
(-4.01) (0.14) (-0.12)
PPI 0.0016748** 0.000556** -0.0000974**
(2.89) (2.21) (2.38)
LIBER -0.2604014 -3.76323
(-0.12) (-1.66)
ADVGR 0.4219982 0.5814085 -0.32722291
(1.30) (1.58) (-1.19)
58
AR(1) z = -2.52 Pr > z = z = -2.01 Pr > z = z = -2.06 Pr > z =
0.012 0.045 0.039
AR(2) z = 0.11 Pr > z = z = -1.53 Pr > z = z = -1.18 Pr > z =
0.912 0.125 0.240
Hansen test chi2(8) = 7.53 chi2(8) = 10.04 chi2(6) = 8.87
Prob > chi2 = 0.481 Prob > chi2 = 0.262 Prob > chi2 = 0.181
Ghi chú:
*, **, *** : mức ý n hĩa lần lượt theo thứ tự là 10%, 5%, 1%.
AR(1), AR(2): Kiểm định hiện tượng tự tươn quan chuỗi bậc 1 và bậc 2 với
giả thiết H0 là không có hiện tượng tự tươn quan chuỗi.
Hansen test: Kiểm định sự hợp lý của các biến công cụ
5. Kết luận:
Khi nền kinh tế thế giới đang phải chống chọi với cuộc khủng hoảng tài chính,
những người chỉ trích toàn cầu hóa đang có xu hướng tăng lên, họ cho rằng tự do
thương mại là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng tồi tệ hiện nay.
Theo UNCTAD (2012), các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển
cần phải có những bước đi cẩn trọng trong việc thực hiện các chính sách tự do
hóa quá nhanh hoặc các chính sách tự do hóa hoàn toàn. Đối với những nước
đang phát triển có nền kinh tế quy mô nhỏ, việc cải thiện cán cân thương mại là
điều quan trọng trong việc cải thiện cán cân thanh toán. Mối quan hệ giữa tự do
hóa, tăng trưởng kinh tế và cán cân thương mại đã được xem xét trên một mẫu
lớn từ 1980- 2011 của 30 quốc gia ở hai khu vực Châu Mỹ- La Tinh và Châu Á.
59
Nghiên cứu này cho thấy những kết quả khác nhau về thâm hụt thương mại giữa
các khu vực địa lý ở các thời kỳ khác nhau. Trên toàn bộ thời gian đối với 30
quốc gia tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu tăng lên ở một số nước đang phát
triển, tuy nhiên tổng thể nó vẫn không đủ để thu hẹp thâm hụt thương mại. Tăng
trưởng kinh tế và cán cân thương mại, tài khoản vãng lai có mối quan hệ tiêu
cực, cán cân thương mại sẽ thâm hụt khoảng 0.56%, tài khoản vãng lai thâm hụt
là 0.34% khi nền kinh tế tăng trưởng 1%. Hơn nữa, toàn cầu hóa đã làm các
nước phát triển và đang phát triển phụ thuộc lẫn nhau. Các nước đang phát triển
với mục tiêu bắt kịp các nước phát triển trong thu nhập bình quân đầu người, thì
sự giúp đỡ rất lớn từ nước đang phát triển trong luồng vốn đầu tư là hết sức cần
thiết.
Bài nghiên cứu cũng cho thấy rằng tự do hóa thương mại không có mối quan hệ
quan trọng với tăng trưởng kinh tế và thâm hụt thương mại trong ngắn hạn và
trung hạn. Thâm hụt tài khoản vãng lai tăng do tự do hóa thương mại trong nền
kinh tế châu Á trong thời kỳ 1980-1989. Tuy nhiên, mối quan hệ quan trọng của
tăng trưởng kinh tế và thâm hụt thương mại vẫn tồn tại đối với hầu hết các quốc
gia ở hai giai đoạn 1980-1989, 19990-1999. Giai đoạn 2000-2011, mối quan hệ
này lại không có ý nghĩa mạnh mẽ về mặt thống kê. Cũng trong giai đoạn này,
các nền kinh tế Châu Á đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn hơn các nền kinh
tế Châu Mỹ La Tinh, cán cân thương mại cũng đang dần được cải thiện mặc dù
tổng thể vẫn đang trong vị thế thâm hụt tuy nhiên với mức độ thấp hơn các nước
Châu Mỹ La Tinh.
Mặc dù, nghiên cứu này vẫn có những hạn chế về phương pháp đo lường tự do
hóa thương mại của Wacziarg (2001), nó đã không thể hiện được mức độ khác
60
nhau của tự do hóa trong khoảng thời gian khác nhau; nỗ lực tự do hóa của các
nền kinh tế phát triển đã không được xem xét. Nhưng bài nghiên cứu này cũng
có những điểm mới cần kể tới: cập nhật dữ liệu trên một mẫu lớn về thời gian và
quốc gia; sử dụng dữ liệu mới nhất của PWT 8.0 để đo lường tốc độ tăng trưởng
kinh tế của các nước đang phát triển; sử dụng mô hình động với biến trễ phụ
thuộc cùng với hồi quy GMM đã đưa ra những kết luận phù hợp với lý thuyết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmed, N., 2000. Export responses to trade liberalisation in Bangladesh: a
cointegration analysis. Applied Economics, Vol. 32, pp. 1077-84.
2. Arellano, M. and Bond, S. R., 1991. Some Tests of Specification for Panel Data:
Monte Carlo Evidence and an Application to Employment Equations. Review of
Economic Studies. Vol.58, pp.277–97.
3. Bacha, E. L., 1990. A Three-Gap Model of Foreign Transfers and the GDP Growth
Rate in Developing Countries. Journal of Development Economics, Vol. 32, pp.
279–96.
4. Bleaney, M., 1999. Trade reform, macroeconomic performance and export growth
in ten Latin American countries 1979-95. Journal of International Trade and
Economic Development, Vol. 8, pp. 89-105.
5. Bond, S. Dynamic Panel Data Models: A Guide to Micro Data Methods and
Practice. London: Institute of Fiscal Studies, Paper 09/02.
6. Chenery, H. and Bruno, M., 1962. Development Alternatives in an Open Economy:
The case of Isarel. The Economic Journal, Vol. 72, No. 285, pp. 79-103.
7. Dollar, D. and Kray A., 2004. Trade, Growth and Poverty. Economic Journal, Vol.
114, Issue 493, pp. F22-F49.
8. Egor Kraev, 2005. Estimating GDP effects of trade liberalisation on developing
countries. pp. 1-27.
9. Elliott D.R. and Rhodd, R., 1999. Explaining Growth Rate Differences in Highly
Indebted Countries: An Extension to Thirlwall and Hussain. Applied Economics,
Vol. 31, Issue 9, pp. 1145-1148.
10. Greenaway, D and Sapsford, 1994. What Dose Liberalisation Do for Export and
Growth?. Wetwirtschaftliches Archiv, Vol 130, pp 152-174.
11. Greenaway, et al., 2002. Trade Liberalisation and Growth in developing countries.
Journal of Development Economics, Vol. 67, pp. 229-244.
12. Jenkins, R., 1996. Trade performance and export performance in Bolivia.
Development and Change, Vol. 27, pp. 693-716.
13. Krugman, P., 1989. Differences in Income Elasticities and Trends in Real Exchange
Rates. European Economic Review, Vol. 33, pp. 1031-1054.
14. Li, Xiangming, 2004. Trade Liberalization and Real Exchange Rate Movement.
IMF Staff , Papers 51, pp. 553–584.
15. Melo, O. and Vogt, M.G., 1984. Determinants of the demand for imports of
Venezuela. Journal of Development Economics 14, pp. 351–358.
16. Pacheco-López, P. and Thirlwall, A.P., 2004. Trade Liberalisation, the Balance of
Payments and Growth in Latin America. University of Kent, pp.1-30.
17. Parikh, A and Stirbu, C., 2004. Relationship Between Trade Liberalisation,
Economic Growth and Trade Balance: An Econometric Investigation. HWWA
Discussion Paper No. 282, Hamburg Institute of International Economics,
Hamburg, pp. 1-50.
18. Parikh, A., 2004. Relationship Between Trade Liberalisation, Economic Growth
and Trade Balance: An Econometric Study. HWWA Discussion Paper No. 286,
Hamburg Institute of International Economics, Hamburg, pp.1-24.
19. Ranaweera, T., 2003. Alternative Paths to Structural Adjustment in Uzbekistan in a
Threegap Framework. Washington D.C: World Bank Policy Research Working
Paper 3145.
20. Sachs, J. and Warner, A., 1995. Economic Reform and the Process of Global
Integration. Brookings Papers on Economic Activity, Vol.1, pp.1–118.
21. Summers, R., Heston, A. and Aten, B., 2012. Penn World Table Version 8.0,
Center for International Comparisons at the University of Pennsylvania (CICUP).
22. Taylor, L., 1991. Foreign Resource Flows and Developing Country Growth.
Research for action 8, World Institute of Development Economics Research, United
Nation University, Helsinki.
23. Thirlwall, A. P., 1979. The Balance of Payments Constrained Growth as an
Explanation of International Growth Rate Differences. Banca Nazionale del Lavoro
Quarterly Review,Vol. 128, pp.44–53.
24. Thirlwall, A. P. and Hussain, N. M., 1982. The Balance of Payments Constraint,
Capital Flows and Economic Growth Rate Differences Between Developing
Countries. Oxford Economic Papers, Vol. 34(3), pp. 498-509.
25. Thirlwall T. and Santos-Paulino A., 2004. The Impact of Trade Liberalisation on
Exports, Imports and the Balance of Payments of Developing Countries. The
Economic Journal February issue, Vol. 114 Issue 493, pp. F50-73.
26. UNCTAD, 2012, Trade and Development Report 2012, Geneva.
27. Wacziarg, R., 2001. Measuring the dynamic gains from trade. World Bank
Economic Review, Vol. 15 (3), pp. 393-429.
28. Wacziarg, R. and Welch, K., 2003. Trade Liberalization and Growth: New
Evidence. NBER Working Paper 10152. Cambridge, Mass.: National Bureau of
Economic Research.
29. Yi Wu and Li Zeng, 2008. The Impact of Trade Liberalization on the Trade
Balance in Developing Countries. IMF Working Paper, pp 1-21.
30. World Bank Indicators, 2013.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh sách 30 quốc gia đang phát triển
Khu vực Châu Á
Châu Mỹ-La Tinh Quốc gia Bangladesh, Indonesia, Iran, Jordan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Sri Lanka, Malaysia, Nepal, Pakistan, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Argentina, Bolivia, Brazil, Colombia, Costa Rica, Dominica Republic, Ecuador, Guatemala, Honduras, Jamaica, Mexico, Peru, Paraguay, Uruguay, Venezuela.
Phụ lục 2: Dấu kỳ vọng của các biến trong mô hình
Biến GROWTH (nguồn PWT 8.0) LIBER (Wacziarg) PPI ( nguồn WB) LIBGROWTH LIBPPI ADVGR ( nguồn IMF) DEBTSR ( nguồn WB) GROIL ( nguồn IMF) CINTEREST (nguồn IMF) Dấu kỳ vọng - - + +/- +/- + - - -
Phụ lục 3: Thời điểm tự do hóa của 30 quốc gia theo Wacziarg (2001). Trong ngoặc là năm tự do tạm thời.
Quốc gia Năm tự do hóa
1991 1996 1985 1991 1976 1986 1986 1992 1991(1983) 1988 1991 1994 Closed 1970 1989 1965 1968 1992 1986 1963 1991 2001 1991 1988 1990 1965 Always Open 1990 1996 (1990) 1995
ARG (Argentina) BGD (Bangladesh) BOL (Bolivia) BRA (Brazil) CHL (ChiLê) COL (Colombia) CRI (Costa Rica) DOM (Dominica Republic) ECU (Ecuador) GTM (Guatemala) HND (Honduras) IND (Ấn Độ) IRN ( Iran) IDN (Indonesia) JAM (Jamaica) JOR (Jordan) KOR (Hàn Quốc) LKA (Sri Lanka) MEX (Mexico) MYS (Malaysia) NPL (Nepal) PAK (Pakistan) PER (Peru) PHL (Philippines) PRY (Paraguay) SGP (Singapore) THA (Thái Lan) URY (Uruguay) VEN (Venezuela) VNM (Việt Nam)
Phụ lục 4: Kết quả hồi quy mô hình bảng động giai đoạn 1980-2011 (30 quốc gia) với biến phụ thuộc là cán cân thương mại trên GDP (TB/GDP):
Phụ lục 5: Kết quả Hồi quy mô hình bảng động giai đoạn 1980-2011 (30 quốc gia) với biến phụ thuộc là tài khoản vãng lai trên GDP (CA/GDP):