ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ NGUYỆT
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP
TỈNH PHÚ THỌ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
THÁI NGUYÊN - 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ NGUYỆT
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP
TỈNH PHÚ THỌ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng
để bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Nguyệt
Xác nhận của Trưởng Khoa Xác nhận của cán bộ hướng dẫn
PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy PGS.TS. Đàm Thị Uyên
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan, tập thể, cá
nhân mà tôi không thể không bày tỏ lời cảm ơn chân thành.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới Sở văn hóa Thể thao và Du lịch, Bảo tàng
Hùng Vương tỉnh Phú Thọ, Phòng Văn hóa Thể thao và du lịch, Phòng Dân tộc, Ủy
ban nhân dân huyện Yên Lập và nhân dân địa phương đã giúp đỡ tôi trong quá trình
khảo sát thực tế tại địa phương.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng
các thầy cô trong tổ Lịch sử Việt Nam – Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại
học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập
và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Nguyệt
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. ii
MỤC LỤC .................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... v
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 8
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ ....................... 9
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ...................................................................... 9
1.1.1. Vị trí địa lý ................................................................................................. 9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 10
1.2. Lịch sử hành chính huyện Yên Lập ................................................................. 14
1.3. Các thành phần dân tộc ................................................................................... 17
1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Yên Lập ..................................... 23
Chương 2. KINH TẾ CỦA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ........ 32
2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX ................ 32
2.1.1. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 năm (1805) ... 33
2.1.2. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ..... 39
2.1.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và
Minh Mệnh 21 (1840) ........................................................................................ 45
2.2. Chế độ tô thuế .................................................................................................. 49
2.3. Tình hình kinh tế ............................................................................................. 51
iii
2.3.1. Nông nghiệp ............................................................................................. 51
2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp ............................................................. 54
Chương 3. VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX ................. 57
3.1. Làng bản và nhà cửa ........................................................................................ 57
3.2. Ẩm thực ........................................................................................................... 60
3.3. Y phục và trang sức ......................................................................................... 62
3.4. Tục lệ xã hội .................................................................................................... 65
3.5. Lễ tết ................................................................................................................ 74
3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình ............................................................................... 78
3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp .......................................... 81
3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo ....................................................................................... 83
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 92
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH : Ban chấp hành
: Nhà xuất bản Nxb
: Phó giáo sư PGS
QSQTN : Quốc sử quán triều Nguyễn
TCN : Trước công nguyên
Tr : Trang
TS : Tiến sĩ
TTLTQGI : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
TƯ : Trung Ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Yên Lập ..................................................... 18
Bảng 2.1. Tổng diện tích các loại ruộng đất của Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) . 33
Bảng 2.2. Sự phân hóa ruộng tư của Yên Lập ............................................................. 34
Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa ........................................................... 35
Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ năm 1805 ..................................... 36
Bảng 2.5. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm (1805) .......................... 38
Bảng 2.6. Sự phân bố các loại ruộng đất ..................................................................... 40
Bảng 2.7. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm 1840 .................................. 41
Bảng 2.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa (năm 1840) ....................................... 42
Bảng 2.9. Sự phân bố ruộng đất của nhóm họ năm (1840) ......................................... 43
Bảng 2.10. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm 1840 ............................ 44
Bảng 2.11. Bảng so sánh sự phân bố các loại ruộng đất ............................................. 45
Bảng 2.12. So sánh quy mô sở hữu ruộng tư ............................................................... 46
Bảng 2.13. So sánh tình hình sở hữu của các dòng họ của 5 xã .................................. 48
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phú Thọ là một tỉnh nằm ở khu vực miền núi trung du phía Bắc, vị trí địa lý
mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông - Bắc. Cũng là tỉnh có vị trí chiến
lược về chính trị, quốc phòng, kinh tế đối với cả nước. Có thể nói Phú Thọ là cái nôi
sinh thành của dân tộc Việt Nam - nơi mà cách đây hàng ngàn năm đã ra đời nhà
nước đầu tiên của người Việt, cũng là nhà nước sớm nhất của vùng Đông Nam Á -
Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Phú Thọ, nơi có Đền Hùng, cội nguồn linh
thiêng của cả dân tộc Việt Nam, với sức hút tâm linh không phải dân tộc nào cũng có.
Đây cũng là nơi cư trú của 21 dân tộc anh em. Ngay từ buổi sơ khai của lịch sử, Phú
Thọ đã có người nguyên thủy sinh sống. Hàng nghìn năm qua từ khi Vua Hùng dựng
nước Văn Lang cho đến nay mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này đã đón nhận nhiều
dòng người xuôi ngược về đây quần tụ sinh sống.
Yên Lập là một huyện miền núi nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, là
vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa. Cũng giống như các huyện
khác của tỉnh, với những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên ngay từ rất sớm địa bàn
huyện đã là nơi cư trú của một bộ phận người Việt cổ, về sau là một phần của
quốc gia Văn Lang. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử các thế hệ người dân Yên Lập
đã kế tiếp nhau chung sức chung lòng cần cù sáng tạo trọng lao động, kiên trung
bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cùng nhau xây dựng bảo vệ quê
hương ngày càng giàu đẹp.
Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá trình phát
triển lâu dài của đất nước. Việc xây dựng cộng đồng chính trị - xã hội trong lịch
sử không tách rời việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc. Trong lịch sử, các
triều đại phong kiến Việt Nam rất coi trọng và có những chính sách cụ thể để phát
triển kinh tế, đoàn kết cư dân miền núi góp phần củng cố quốc gia, đẩy lùi các thế
lực xâm chiếm từ bên ngoài.
Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi nói chung và Yên Lập
nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm nhằm giảm dần sự cách biệt về đời sống
1
vật chất cũng như đời sống tinh thần giữa các dân tộc, giữa miền ngược với miền xuôi,
khai thác mọi tiềm năng của đất nước để đưa đất nước ta ngày một phát triển, vững
mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Ngày nay
trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, toàn Đảng,
toàn dân ta đang tích cực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp của toàn dân tộc, có sự chung tay
đóng góp không nhỏ của nhân dân các dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ cũng nằm trong dòng chảy lịch sử đó.
Việc nghiên cứu về một thời kì lịch sử của Yên Lập (nửa đầu thế kỷ XIX),
không những góp phần khôi phục lại bức tranh lịch sử về hoạt động kinh tế cũng như
đời sống văn hóa phong phú, độc đáo của các dân tộc nơi đây mà còn góp phần làm
cơ sở cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta: Đại đoàn kết
dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xây dựng con người mới, cuộc sống mới
trên mảnh đất Yên Lập
Là một người đang tìm hiểu về vai trò của lịch sử địa phương trong vận mệnh
của lịch sử dân tộc, được sự giúp đỡ, hướng dẫn của giảng viên hướng dẫn khoa học
là PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam,
Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, tôi đã
quyết định chọn đề tài: “Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu thế
kỷ XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu một số tài liệu tham khảo có tính chất
gợi mở, định hướng và là cơ sở để người nghiên cứu thực hiện đề tài:
Trước hết phải kể đến cuốn Địa chí tỉnh Hưng Hóa, của Nxb Đông Dương tạp
chí, năm 1899. Do dịch giả Nguyễn Xuân Lân (thư viện tỉnh Vĩnh Phú) dịch. Cuốn
sách gồm 6 phần, lần lượt từng phần đã đề cập tới hầu hết các lĩnh vực như hình thế,
lịch sử chinh phục, cơ cấu xã hội - tổ chức chính trị và cai trị, vị trí kinh tế (nông
nghiệp, kỹ công nghệ - thương mại), lực lượng quân sự và dự báo về tương lai Hưng
Hóa. Sách viết rất ít về một châu miền núi như Yên Lập nhưng đây cũng là nguồn tư
liệu quan trọng để nghiên cứu về một địa phương của tỉnh Hưng Hóa xưa.
2
Năm 1986, Sở văn hóa và Thông tin Vĩnh Phú đã cho xuất bản tập địa chí Văn
hóa dân gian vùng Đất Tổ. Trong tập địa chí này các tác giả đã đề cập một cách chi
tiết về thiên nhiên con người Vĩnh Phú, cũng như những giá trị văn hóa dân gian từng
dân tộc từ ngàn xưa đã được cư dân vùng Đất Tổ gìn giữ phát huy cho đến tận ngày
nay. Sách mới chỉ giới thiệu những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần tinh túy nhất của
vùng Đất Tổ chứ không đi sâu nghiên cứu về một địa phương cụ thể trong tỉnh,
nhưng đây là tư liệu quan trọng để tác giả hoàn thiện luận văn của mình.
Tiếp theo là cuốn Phú Thọ tỉnh địa chí của tác giả Phạm Xuân Bộ, địa chí gồm
4 chương đã lần lượt giới thiệu về tổng thuyết (danh xưng, duyên cách), tự nhiên,
nhân văn và các địa phương trong tỉnh Phú Thọ. Đây là cẩm nang để tìm hiểu về Phú
Thọ nói chung. Huyện Yên Lập tác giả có đề cập đến nguồn gốc tộc người, mật độ
dân cư, vùng đất dành cho di dân, khí hậu, kinh tế nông lâm nghiệp, thương mại của
huyện nhưng rất ngắn gọn và khái quát. Nhưng đây cũng là nguồn tài liệu quan trọng
giúp tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Luận án tiến sĩ Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở Phú Thọ của
Nguyễn Ngọc Thanh viết năm 1999. Luận án là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một
cách có hệ thống về cấu trúc, chức năng của gia đình và thể chế hôn nhân của người
Mường ở hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập. Đây là dân tộc có số dân đông nhất ở
huyện Yên Lập. Đây là nguồn tư liệu gần gũi cho việc nghiên cứu về nguồn gốc tộc
người, văn hóa người Mường ở Yên Lập đồng thời định hướng cho các chính sách
văn hóa, gìn giữ và phát triển bền vững bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay.
Tác phẩm Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới
triều Nguyễn do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên của Nxb Thuận Hóa,
năm 1997 đã nghiên cứu một cách cụ thể về tình hình ruộng đất chủ yếu thông qua
tài liệu địa bạ. Bên cạnh đó tác phẩm còn nêu lên các chính sách về nông nghiệp
đặc biệt là các chính sách về ruộng đất dưới triều Nguyễn. Tác phẩm là nguồn tư
liệu quan trọng định hướng phương pháp nghiên cứu cho tác giả luận văn về ruộng
đất Yên Lập thông qua tư liệu địa bạ.
3
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX của
tác giả Trần Thị Thanh Xuyên, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2015.
Luận văn đã nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, tình hình chính trị xã
hội, chế độ ruộng đất, kinh tế, cũng như văn hóa của nhân dân huyện Trấn Yên thế kỷ
XIX. Đây là một huyện cùng Phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa với huyện Yên Lập từ
thời Hậu Lê cho đến tận đầu thế kỷ XX. Luận văn này giúp người nghiên cứu thấy
được những nét tương đồng, khác biệt của các huyện trong phủ Quy Hóa ở nửa đầu
thế kỷ XIX.
Tập sách ảnh Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương của nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin Hà Nội, phát hành năm 2001. Cuốn sách ảnh đã lưu lại những vẻ
đẹp còn rất Mường từ diện mạo đến kiến trúc, tập quán, lễ hội, hoạt động kinh tế,
cơ cấu xã hội xưa của người Mường, dân tộc thiểu số có số dân đông nhất ở Phú
Thọ cũng như ở Yên Lập. Tuy tác giả mới đề cập ở mức độ khái quát nhất và tập
trung vào phần hình ảnh của người Mường nhưng đây cũng là nguồn tài liệu
quan trọng giúp tác giả có thêm nhận thức trong nghiên cứu văn hóa huyện Yên
Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Cuốn tổng tập Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam do Sở Văn hóa thể
thao và du lịch tỉnh Phú Thọ xuất bản năm 2012. Cuốn sách đã trình bày khá đầy đủ
và chi tiết về các lễ hội trên địa bàn từng huyện, thị của tỉnh Phú Thọ, lịch một số lễ
hội dân gian, lễ hội lịch sử trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trong cuốn sách, từ trang 853
đến trang 895 các tác giả đã trình bày rất chi tiết về các lễ hội của dân tộc Mường,
dân tộc Dao xã Hưng Long, xã Ngọc Đồng, xã Nga Hoàng huyện Yên Lập. Qua đó
thấy được những giá trị văn hóa tinh thần và đời sống vật chất của xã hội cổ xưa được
các thế hệ người dân vùng Đất Tổ bảo lưu và gìn giữ phát huy trong đời sống hiện tại.
Cuốn sách Văn hiến làng xã vùng đất Tổ Hùng Vương, của tác giả Vũ Kim
Biên, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản,
năm 1999. Cuốn sách đã mô tả, thống kê khá kỹ về những làng cổ ở Phú Thọ từ thời
Hùng Vương cho đến nay, nêu lên những giá trị văn hóa vật chất cũng như những giá
trị văn hóa tinh thần ở làng xã từ ngàn xưa, diện mạo làng xã thay đổi ra sao qua mỗi
thời kì lịch sử. Đặc biệt tác giả còn đưa ra những kiến nghị, bài học cơ bản về chính
4
sách đối với làng xã trên cơ sở tôn trọng quyền tự quản và quyền làm chủ của làng xã.
Đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo quý đối với tác giả trong quá trình hoàn thành
luận văn của mình.
Bản chúc thư bằng đồng của thổ lang Đinh Thế Thọ ở xã Tân Lập huyện
Thanh Sơn hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng Hùng Vương tỉnh Phú
Thọ. Chúc thư viết vào thời hậu Lê quy định 13 lệ của bản thôn đối với nhà lang như
cách cai trị của nhà lang và những quyền lợi mà nhà lang được hưởng từ dân bản của
mình. Chúc thư có 3 tấm với khoảng 1000 chữ Hán đã được dịch sang tiếng Việt.
Đây là nguồn tài liệu cổ ít ỏi còn lại và rất có giá trị cho người nghiên cứu khi tìm
hiểu về thiết chế chính trị, xã hội xưa của người Mường Phú Thọ. Bản chúc thư cho
thấy thiết chế chính trị của người Mường là chế độ tự trị, cha truyền con nối, chế độ
của công xã, làng chạ cổ xưa.
Ngày 28/12/ 2011 UBND huyện Yên Lập ban hành quyết định số 1697/ QĐ-
UBND về Phát triển sự nghiệp Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch giai đoạn
2011 - 2015, trong đó có đề án “Điều tra, nghiên cứu, phục dựng và đề xuất giải
pháp bảo tồn, phát huy giá trị một số lễ hội dân gian tiêu biểu dân tộc Mường huyện
Yên Lập”. Người Mường có số dân đông nhất ở Yên Lập chiếm 67,76% dân số toàn
huyện, việc nghiên cứu về văn hóa dân gian dân tộc Mường có ý nghĩa quan trọng về
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đối với toàn huyện. Đề án chỉ đi sâu vào lễ hội
dân gian dân tộc Mường và đó là cơ sở cho tác giả tìm hiểu nghiên cứu về văn hóa
người Mường cũng như sự giao thoa, văn hóa giữa người Mường với các dân tộc
khác trên địa bàn huyện Yên Lập.
Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Lập 1945-2005, xuất bản năm 2008 của
BCH Đảng bộ huyện Yên Lập. Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và có
hệ thống về huyện Yên Lập trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế
quốc Mĩ, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Tác phẩm đã đề cập đến nhiều con người cụ thể, công việc cụ thể
của huyện Yên Lập. Đặc biệt trong phần đầu của chương 1 của tác phẩm đã nêu khái
quát về vị trí địa lý, lịch sử và địa giới huyện Yên Lập từ khi thành lập huyện cho đến
nay. Ngoài ra còn có nhiều tranh ảnh về di tích lịch sử, cán bộ lão thành cách mạng
5
của Yên Lập…Tuy nhiên, nội dung tập trung chủ yếu vào nghiên cứu lịch sử Đảng từ
sau cách mạng tháng Tám, vì thế nên lịch sử huyện Yên Lập trong giai đoạn trước,
nhất là thời kì trung đại chưa xuất hiện nhiều trong cuốn sách này.
Ngoài ra còn có các khóa luận, luận văn có liên quan đến đề tài của tác giả. Có
thể kể đến ở đây như: Biến đổi nhà ở của người Dao xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập,
tỉnh Phú Thọ, của tác giả Trịnh Thị Ngọc, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Văn
hóa, Hà Nội, năm 2014. Luận văn thạc sĩ Kinh tế Nghiên cứu rủi ro trong sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Kinh tế và
Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, năm 2014.
Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vùng Đất Tổ Phú Thọ nói
chung. Trong đó có huyện Yên Lập. Một số tác phẩm, dù không đề cập trực tiếp
đến huyện Yên Lập nhưng những công trình nêu trên đã giúp cho tác giả tiếp cận
nội dung, phương pháp luận, để làm sáng tỏ các vấn đề về huyện Yên Lập nửa
đầu thế kỷ XIX.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách toàn diện về huyện Yên Lập trong nửa đầu thế kỉ XIX. Do đó còn nhiều vấn đề
chưa được làm sáng tỏ như: vị trí địa lý, nguồn gốc dân tộc, chế độ sở hữu ruộng dất,
văn hóa các dân tộc ở Yên Lập…cũng như những biến động chính trị qua các thời kì
lịch sử. Mặc dù vậy tác giả luôn xem những thành quả của các nhà nghiên cứu đi
trước là những gợi mở quý báu, tạo điều kiện để tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích, chọn đề tài “Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa
đầu thế kỷ XIX” để nghiên cứu, tác giả mong muốn nêu lên một cách chân thực, khoa
học về một thời kỳ lịch sử của huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX. Ngoài ra, có thể
bổ sung thêm nguồn tư liệu địa bạ góp phần lý giải một số vấn đề lịch sử Việt Nam
trung đại, vấn đề ruộng đất, kinh tế nông nghiệp và mối quan hệ giữa các dân tộc.
Đồng thời trên cơ sở tư liệu hiện có, vấn đề văn hóa của huyện Yên Lập cũng được
tác giả làm rõ.
- Nhiệm vụ, bước đầu đề tài nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về các
mặt: kinh tế và văn hóa của huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu thế kỷ XIX để qua
6
đó thấy được bức tranh về một thời kì lịch sử trong quá khứ của mảnh đất và con
người Yên Lập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các chính sách về kinh tế, chế độ sở hữu
ruộng, hoạt động kinh tế, văn hóa của các dân tộc cùng chung sống ở Yên Lập tỉnh
Phú Thọ nửa đầu thế kỉ XIX.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung bao gồm những vấn đề cơ bản như: tình hình sở hữu ruộng đất, chế
độ tô thuế, các loại hình kinh tế (nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương ngiệp), cấu
trúc làng bản, nhà cửa, ẩm thực, y phục trang sức, một số tục lệ xã hội, quan hệ dòng
họ gia đình, lễ tết và đời sống tôn giáo tín ngưỡng của tộc người Mường, Kinh, Dao ở
Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, dưới
triều Nguyễn.
Phạm vi không gian: Huyện Yên Lập, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa theo địa
giới hành chính nửa sau thế kỉ XIX với 5 tổng 23 xã thôn.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liêu:
Trong luận văn tác giả đã khai thác và sử dụng một số sử sách và địa chí cổ:
Kiến Văn tiểu lục, Hưng Hóa phong thổ chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống
chí, Đồng Khánh địa dư chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ…và nguồn tư liệu
địa phương gồm các sách: Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kỳ, Địa chí tỉnh
Hưng Hóa, Phú Thọ tỉnh địa chí, Địa chí Vĩnh Phú Văn hóa dân gian vùng đất Tổ,
Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương, Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam,
Văn hiến làng xã vùng Đất Tổ Hùng Vương…Những tư liệu trên đã ghi chép tên trấn,
tổng, xã, thôn thời Gia Long và Minh Mệnh, ghi lại số đinh tô thuế ở địa phương,
miêu tả vị trí địa lý, thổ sản, phong tục tập quán…qua đó làm rõ tình hình kinh tế, văn
hóa huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX.
Nguồn tư liệu địa bạ được sử dụng trong luận văn gồm 17 địa bạ có niên đại
Gia Long 4 (1805) và 13 địa bạ thời Minh Mệnh 21 (1840) của huyện được khai thác
7
tại TTLTQG I (Hà Nội).
Ngoài ra tác giả còn sử dụng nguồn tư liệu thực địa, điền dã: Tác giả đã thu thập
được nhiều tài liệu do nhiều địa phương trên địa bàn huyện Yên Lập cung cấp, đến
những làng bản của cộng đồng cư dân thiểu số quan sát, ghi chép về các phong tục tập
quán của họ, thu thập các câu truyện dân ca, ca dao... để bóc tách những vấn đề lịch sử
có thật trong quá khứ.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong giới hạn của đề tài chúng tôi đặc biệt chú ý
khâu giám định tư liệu. Bên cạnh đó tác giả chú ý việc sử dụng phương pháp khai
thác tài liệu thành văn với phương pháp điền dã lịch sử. Đồng thời sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phân tích mô tả so sánh, đối chiếu các nguồn tài
liệu, phương pháp tổng hợp bằng hệ thống bảng biểu.
Chúng tôi đặt việc nghiên cứu lịch sử huyện Yên Lập trong mối quan hệ với
lịch sử dân tộc (nửa đầu thế kỷ XIX) để thấy được mối quan hệ tác động qua lại giữa
lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc và ngược lại.
6. Đóng góp của luận văn
Dựa trên những tài liệu có thể khai thác được, đề tài bước đầu khôi phục một
cách có hệ thống lịch sử huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ tộc người,
loại hình kinh tế, xã hội, thiết chế chính trị xã hội, những nét văn hóa tiêu biểu gắn
với môi trường sinh thái địa phương, những nhân tố thúc đẩy sự biến đổi kinh tế, văn
hóa địa phương…trong thời kì lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia
thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ.
Chương 2: Kinh tế của huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Chương 3: Văn hóa huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Ngoài ra trong luận văn còn có phần phụ lục với 42 ảnh minh họa, 5 bản đồ, 3
trang địa bạ.
8
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Yên Lập là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, có tọa
độ địa lý 210 12’ đến 210 31’ vĩ độ Bắc, 1040 10’ kinh tuyến Đông, có độ cao trung
bình so với mực nước biển là 200m nơi cao nhất là 900m. Huyện nằm trong thung
lũng có chiều dài hơn 60km chiều rộng 8km. Phía Đông giáp huyện Cẩm Khê và
huyện Tam Nông (Phú Thọ), phía Tây giáp huyện Văn Chấn (Yên Bái), phía Nam
giáp huyện Thanh Sơn, Tân Sơn (Phú Thọ) và phía Bắc giáp huyện Hạ Hòa (Phú
Thọ). Theo sách Đại Nam nhất thông chí: “ Huyện Yên Lập:đông tây cách nhau 105
dặm, nam bắc cách nhau 181 dặm, phía đông đến địa giới huyện Cẩm Khê tỉnh Sơn
Tây 7 dặm, phía tây đến địa giới huyện Trấn Yên 98 dặm, phía nam đến địa giới
huyện Thanh Sơn 101 dặm ,phía bắc đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 80
dặm” [21, tr. 236].
Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng chép lại như sau: “Huyện Yên Lập do phủ
Quy Hóa thống hạt. Huyện lỵ ở xã Vân Bán tổng Vân Bán, chu vi 80 trượng, bốn
phía trồng rào tre, mở một cửa trước. Huyện hạt phía đông giáp huyện Cẩm Khê tỉnh
Sơn Tây, phía tây giáp huyện Văn Chấn, phía nam giáp huyện Thanh Sơn, phía bắc
giáp huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây. Đông tây cách nhau 105 dặm. Nam bắc cách nhau
181 dặm” [39, tr. 728].
Ngày nay, huyện Yên Lập có tổng diện tích tự nhiên là 43.783,62 ha chiếm
12,4% diện tích toàn tỉnh Phú Thọ. Trung tâm huyện lỵ cách thành phố Việt Trì
70km, cách thủ đô Hà Nội 150km. Do nằm ở vị trí khá xa trung tâm tỉnh lỵ, cùng với
hệ thống giao thông cơ bản chưa phát triển nên huyện Yên Lập có nhiều khó khăn,
bất lợi so với các huyện lận cận trong giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa đặc biệt là
phát triển các nghành công nghiệp và dịch vụ.
9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Yên Lập là huyện miền núi cao có địa hình đa dạng và phức tạp, có nhiều dãy
núi cao độ dốc lớn, hệ thống suối, khe, ngòi hẹp và dốc lại phân bố không đều làm
cho địa hình bị phân cách mạnh. Địa bàn huyện có thể chia làm ba tiểu vùng chính:
- Tiểu vùng 1: Các xã vùng hạ huyện (vùng thấp): Là vùng địa hình núi
thấp, đồi cao bao gồm các xã: Minh Hòa, Đồng Lạc, Ngọc Đồng, Ngọc Lập,
Phúc Khánh. Tuy nhiên do địa hình phân cách, nên việc phát triển hệ thống thủy
lợi gặp nhiều khó khăn.
- Tiểu vùng 2: Các xã vùng trung huyện (vùng giữa): Gồm các xã Xuân Viên,
Xuân Thủy, Hưng Long, Đồng Thịnh, Thượng Long và thị trấn Yên Lập. Đây là
vùng thung lũng được tạo bởi hai sườn núi phía đông và phía tây của huyện.
- Tiểu vùng 3: Các xã vùng thượng huyện gồm: Mỹ Lung, Mỹ Lương, Xuân
An, Nga Hoàng và Trung Sơn. Đây là vùng địa hình bị phân cách mạnh, một số vùng
có độ dốc cao trên 250, về mùa mưa thường sảy ra lũ quét, về mùa khô lại hay bị hạn.
Trong huyện có một số dãy núi cao, hiểm trở sách Đại Nam nhất thống chí
chép như sau: “ Núi Quang Sơn: cách huyện Yên Lập hơn 10 dặm về phía bắc,
bốn bên đều khe ngòi. Núi Trầm Trĩ ở huyện Yên Lập: thế núi cao vót,tre gỗ um
tùm, là trấn sơn của huyện. Núi Tượng Khẩu: cách huyện Yên Lập 47 dặm về phía
nam.” [21, tr. 359].
Yên Lập nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Do điều kiện địa lý
cảnh quan quy định nên: “ Địa thế của huyện gần núi, thời tiết phần nhiều là mưa gió
lạnh rét. Mây đùn ngang sườn núi, sương mù sát ngọn cây. Mặt trời lên từ giờ Mão
nhưng khuất mây, mới sang giờ Thân mà sương mù đã che tối. Hơi lạnh bốc ào ào,
bao phủ cả cây cối, phần nào có khí lam chướng” [39, tr. 729].
Ngày nay, khí hậu Yên Lập nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung mang những
đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc đó là nhiệt đới, gió mùa xích đạo. Một năm có
4 mùa xuân, hạ, thu, đông, song hình thái hai mùa tương đối rõ rệt. Mùa đông lạnh và
khô hạn, kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau với nhiệt độ trung bình
là 140C - 180C, độ ẩm khoảng 62% thường vào tháng 12 hằng năm, thời tiết giá rét
kèm theo sương muối. Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, kéo dài từ tháng 6 đến 9, với
10
nhiệt độ trung bình từ 280C - 300C. Mùa nóng cũng chính là mùa mưa nhiều, lượng
mưa trung bình đạt 1570mm / năm thường kèm theo dông, tố, lốc, gió giật mạnh gây
ra lũ ống, lũ quét ở vùng núi cao, ngập lụt ở vùng trũng thấp.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa nóng lạnh tương đối lớn. Nhiệt độ trung
bình hàng năm vào khoảng 22,50 C (gió thịnh hành là gió mùa đông bắc và gió mùa
đông nam), nhiệt độ trung bình ở tháng nóng nhất (tháng 6) là 390 C ở tháng thấp nhất
là 50C. Độ ẩm trung bình trong năm là 86% - 89% [44, tr. 8].
Nơi có độ cao từ 1.500m trở lên hầu như không có mùa nóng, nhiệt độ trung
bình ổn định dưới 20ºC, có nơi có hiện tượng sương muối, băng tuyết, thường bị hạn
hán vào đầu mùa lạnh và cuối mùa thường có mưa phùn. .
Nhìn chung khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa đã tạo thuận lợi cho phát triển kinh
tế nhất là với sản xuất nông nghiệp. Lượng bức xạ phong phú nền nhiệt lượng cao là
thuận lợi đối với việc tạo ra sinh khối lớn giúp cho cây trồng phát triển, cây ăn quả và
cây lương thực ngắn ngày quay vòng nhanh, các ngành khai thác và chế biến gặp
nhiều thuận lợi, các ngành du lịch và giao thông có thể hoạt động quanh năm. Khí
hậu mát ở vùng cao (tiểu vùng 3) cho phép trồng cây dược liệu quý. Đặc biệt Yên
Lập là huyện miền núi cơ bản chưa bị ô nhiễm do khói bụi công nghiệp, cộng với
diện tích rừng trồng lớn có khả năng tự làm sạch tốt nên môi trường khí hậu rất trong
lành. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, địa phương cũng chịu nhiều hậu quả do đặc
điểm của thời tiết gây ra. Mùa đông nhiều đợt gió lạnh buốt tràn về gây ra sương
muối, đầu mùa hè những đợt gió tây nóng tràn sang ảnh hưởng đến sức khỏe con
người súc vật và cây trồng. Các tai biến thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, mưa đá,
sương muối đã gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong huyện,
đặc biệt là đối với nông, lâm nghiệp.
Chế độ thủy văn phụ thuộc vào cấu tạo địa hình. Mực nước trong các suối, khe,
ngòi, hồ chứa nước trong địa bàn huyện lên xuống thất thường, đột ngột phụ thuộc vào
các trận mưa lớn trong mùa mưa. Mực nước tại các suối hằng năm là +25,45m, mực
nước lũ lịch sử từng đạt đến +56,62m [44, tr. 8]. Hằng năm thường xảy ra lũ ống gây
ngập lụt cục bộ, có thể kéo dài đến hai ngày tùy thuộc vào từng trận mưa lớn.
Trên địa bàn huyện không có sông chảy qua, chủ yếu là các suối nhỏ đổ ra
ngòi. Toàn huyện có sáu suối và ngòi chính. Ngòi Lao bắt nguồn từ mũi Kim (tỉnh
11
Yên Bái) chảy qua địa phận các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương. Ngòi Giành bắt nguồn từ
Nghĩa Tâm (tỉnh Yên Bái) chảy qua địa phận các xã Trung Sơn, Xuân An, Xuân
Viên, Lương Sơn sang xã Phượng Vĩ (huyện Cẩm Khê) rồi đổ ra sông Thao. Ngòi Cỏ
bắt nguồn từ xã Minh Hòa chảy qua xã Đồng Lạc. Ngoài ra còn có Suối Cái bắt
nguồn từ xã Trung Sơn qua xã Thượng Long, thị trấn Yên Lập. Tất cả các ngòi trên
rồi đều đổ ra sông Thao ở Cẩm Khê. Nhìn chung các ngòi, suối vùng này thường
nông, nước trong, chảy xiết. Do địa hình bị chia cắt đã tạo nên những thác lớn và đẹp
như: thác Đá Thờ, thác Khỉ Dòm, thác Khe Châu…Đây cũng là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt cho đồng bào và tưới tiêu đồng ruộng. Như vậy, tài nguyên nước của Yên
Lập không lớn phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên.
Tài nguyên đất ở Yên Lập có nhiều loại, đất feralit màu vàng nhạt trên núi,
chủ yếu các dãy núi cao, có độ ẩm lớn, độ mùn cao, phù hợp với cây lâm nghiệp, cây
lấy gỗ và cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Loại đất này phát triển chủ yếu ở các xã
tiểu vùng 3 như: Trung Sơn, Nga Hoàng, Mỹ Lung, Mỹ Lương, Xuân An. Đất được
hình thành do bồi tụ trong quá trình phong hóa có thành phần cơ giới chủ yếu là đất
thịt trung bình và thịt nặng, chủ yếu ở các xã tiểu vùng 2 Xuân Viên, Xuân Thủy,
Hưng Long, Đồng Thịnh, Thượng Long. Loại đất này phù hợp cho phát triển sản xuất
cây lương thực như: lúa, ngô theo hướng chuyên canh và thâm canh cao, phát triển
những giống lúa chất lượng cao như xôi nếp Gà Gáy. Ngoài ra còn có đất phù sa suối,
ngòi ở các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương, Trung Sơn, Lương Sơn phù hợp với trồng cây
lúa nước, lạc, mía.
Hiện nay Yên Lập có tổng diện tích đất tự nhiên là 43.783,62ha bao gồm: đất
nông nghiệp là 36.778,82 ha chiếm 84,07% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong tổng
diện tích đất nông nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp là 8382,54 ha chiếm 22,79%, đất
lâm nghiệp là 27.987,99 ha chiếm 76,09% và đất nuôi trồng thủy sản là 408,17 ha
chiếm 1,1%. Trong diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất trồng cây hằng năm là
4334,19 ha chỉ chiếm 51,7% (và chiếm 9,9% tổng diện tích đất tự nhiên), còn lại là
đất trồng cây lâu năm [44, tr. 9].
12
Với quỹ đất như trên, huyện Yên Lập có nhiều thuận lợi trong phát triển nông
nghiệp, đặc biệt là cây lâm nghiệp và cây công nghiệp lâu năm. Quỹ đất chưa sử dụng
còn nhiều, có thể đáp ứng nhu cầu mở rộng quỹ đất chuyên dùng để xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội của huyện trong tương lai.
Đất đai vùng Yên Lập do các loại đá trầm tích phong hóa yếu cấu tạo, thảm
mục chứa nhiều mùn, giàu đạm. Từ chất đất còn rất tốt ấy, từ thuận lợi mưa nhiều
độ ẩm cao ấy, đã sinh thành nên một “rừng vàng” của Phú Thọ. Tiềm năng về tài
nguyên rừng của Yên Lập chỉ đứng sau huyện Tân Sơn. Trong tập đoàn cây rừng
trên địa bàn, có một số loài có giá trị kinh tế cao như đinh, lim, sến,táu, chò, lát,
gỗ xưa, gỗ hương, cây dược liệu quý như: đẳng sâm, sơn trà, hà thủ ô, hoài sơn, sa
nhân… động vật hiếm (hổ, báo, cày hương, lợn rừng, hươu, khỉ, trăn) cùng nhiều
khu rừng có cọ, măng, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè. Sản vật ở Yên Lập
được nhắc đến trong sách Đồng Khánh dư địa chí như sau: “ Rừng nhiều gỗ tạp,
tre nứa. Chim thú như gà rừng, hổ, hươu thi thoảng cũng có” [39, tr. 729]. Đặc
biệt là gà rừng có rất nhiều ở vùng núi rừng Yên Lập. Sách Đại Nam nhất thống
chí có chép: “.Gà rừng: có tên nữa là “Trường Thanh”. Châu Thuận và huyện Yên
Lập có rất nhiều”[21, tr. 387].
Điều kiện tự nhiên đã đem lại cho Yên Lập nhiều lợi thế về tài nguyên khoáng
sản cũng như thế mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp. Trên địa bàn huyện Yên Lập có 19
mỏ và điểm quặng với trữ lượng không lớn, nằm rải rác ở các xã trong huyện, trong đó
có 10 mỏ đá, 2 mỏ than bùn, 3 mỏ quặng sắt, 3 mỏ chì kẽm, 1 mỏ chì bạc. Ngoài ra
trên địa bàn huyện còn có một số khoáng chất công nghiệp, khoáng sản làm vật liệu
xây dựng (như Đôlomit, Pirit, cát, sỏi…).
Về giao thông, Yên Lập không có đường quốc lộ, sông lớn chạy qua nên từ
trước Cách mạng Tháng Tám, địa bàn Yên Lập ít có điều kiện giao lưu với các vùng
khác. Việc đi lại của nhân dân chủ yếu là những con đường mòn, vắt qua những sườn
thung lũng để giao lưu với những vùng khác. Trong đó:
“ Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía đông, qua xã Vân Bán đến giáp huyện
Cẩm Khê tỉnh Sơn Tây, dài 3 dặm 83 trượng, rộng 5 thước. Một đường nhỏ từ huyện
13
lỵ đi về phía tây bắc, qua các xã Vân Thê, Quế Sơn, Yên Sào đến giáp huyện Văn
Chấn, dài 33 dặm 115 trượng, rộng 4 thước. Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía
tây nam, qua các xã Vân Lung, Đông Lỗ, Ngọc Lập, Thu Ngạc đến giáp huyện Thanh
Sơn, dài 307 dặm 100 trượng, rộng 4 thước .” [39, tr. 730].
Các tuyến đường này giữ vai trò quan trọng trong việc thông thương đi lại của
cư dân Yên Lập cũng như buôn bán trao đổi hàng hóa, tiếp xúc và giao lưu văn hóa
của cư dân trong huyện với các địa phương lân cận. Các tuyến đường này đều là
đường đất nhỏ hẹp.
Ngày nay Yên Lập có hệ thống giao thông đường bộ khá phát triển với 5 tuyến
đường tỉnh lộ chạy qua, là các tuyến đường 313, 321, 321B, 313D, 321C. Toàn bộ
các tuyến đường tỉnh lộ ở Yên Lập có chiều dài 107,1 km tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế, văn hóa của huyện. Các tuyến đường liên huyện, liên xã phát
triển mạnh, 100% các xã đã có đương rải nhựa tới Ủy ban. Với chương trình Xây
dựng nông thôn mới, các con đường bê tông đang được triển khai xây dựng tới tận
thôn, xóm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục của các bản làng, góp
phần nâng cao đời sống nhân dân trong huyện.
Với điều kiện tự nhiên đặc thù của mình, Yên Lập đã sớm trở thành nơi sinh
sống của cư dân Mường, và trong lịch sử là nơi đón nhận cư dân nhiều nơi đổ về
quần tụ, sinh cơ lập nghiệp.
1.2. Lịch sử hành chính huyện Yên Lập
Trong quá trình tồn tại, vùng đất Yên Lập có nhiều biến đổi. Yên Lập trước
khi trở thành một huyện của tỉnh Phú Thọ là một vùng đất nằm trong tỉnh Hưng Hóa -
một tỉnh lớn về diện tích, trải rộng khắp vùng trung du và thương du Bắc Kỳ (khu vực
Tây Bắc). Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Hưng Hóa nói chung và huyện Yên Lập
nói riêng đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Theo sách Đại Nam
nhất thống chí, mục tỉnh Hưng Hóa “đời Hùng Vương xưa là bộ Tân Hưng” [21, tr.
308] là một trong 15 bộ hợp thành nhà nước Văn Lang. Những dấu tích của thời đại
kim khí ở Yên Lập rất phong phú và khá độc đáo trong đó nổi bật lên là những trống
đồng (loại II Hergo) mang phong cách Văn hóa Đông Sơn tại các xã Đồng Thịnh,
14
Phúc Khánh, Ngọc Lập và Tân Long (nay là thị trấn Yên Lập) là những hiện vật
thuộc thời đại Hùng Vương, thời đại đầu tiên ở nước ta thuộc nhà nước Văn Lang.
Trên trống đồng khắc hình người đánh trống, đánh chiêng, gõ mõ, nhảy múa và một
số hình ảnh khác phản ánh cảnh sinh hoạt văn hóa của cư dân thời đó. Như vậy các di
chỉ khảo cổ học đã chứng minh nền văn minh sông Hồng của thời đai Hùng Vương
đã có mặt trên các vùng đất mà sau này hình thành nên huyện Yên Lập.
Sau thất bại của Thục Phán An Dương Vương, nước ta rơi vào tay của Triệu Đà,
mở đầu thời kì Bắc thuộc kéo dài 1117 năm mà lịch sử gọi là 1000 năm Bắc thuộc ( từ
179 TCN đến 938). Từ năm 179TCN, dưới sự thống trị của các triều đại phương Bắc:
Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường tên địa danh hành chính
của cả nước và các bộ có những thay đổi và tên gọi khác nhau. Theo sách Đại Nam
nhất thống chí: “Bộ Tân Hưng thời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Nam Trung,
đời Ngô là đất huyện Tây Đạo của Lâm Tây, thuộc quận Tân Hưng. Đời Đường là
huyện Tân Xương lệ vào Châu Phong” [21, tr. 308-309]. Trong chính sách cai trị đối
với nước ta lúc bấy giờ, một số bộ lạc ở miền núi phía bắc và tây bắc nước ta, nhà
Đường vẫn để cho các tù trưởng cũ giữ bộ lạc của họ, châu Quy Hóa là một trong 40
châu “ky my” (ràng buộc lỏng lẻo). Sau khi họ Khúc khôi phục nền tự chủ, trải qua các
đời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các địa danh hành chính của nước ta hầu như không thay đổi.
Nhà Lý lên thay nhà Tiền Lê đã kế thừa những thành tựu của các triều đại trước, đồng
thời bắt tay ngay vào việc củng cố, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền định đô ở Thăng Long, năm 1054 đổi tên nước là Đại Việt, chia nước làm 12 lộ.
Tỉnh Hưng Hóa đời Lý là đất đạo Lâm Tây và Châu Đằng. Đời Trần đặt làm đạo Đà
Giang, lại đặt làm trấn. Cuối đời Trần lại đổi làm Trấn Thiên Hưng.
Thời thuộc Minh, đặt 2 châu Quy Hóa và Gia Hưng. “Đến thời Lê Thuận
Thiên đặt hai lộ Gia Hưng và Quy Hóa thuộc tây đạo. Bản đồ đời Hồng Đức, đổi 2 lộ
làm phủ... Năm Thuận Thiên thứ 5 đặt Hưng Hóa thừa tuyên, cũng gọi là xứ Hưng
Hóa lãnh 3 phủ, 4 huyện, và 17 châu. Trong đó phủ Quy Hóa lĩnh 3 huyện: Trấn Yên,
Yên Lập, Văn Chấn và hai châu Văn Bàn, Thủy Vĩ” [21, tr. 309]. Theo đó, huyện
Yên Lập xưa là đất Đăng Châu đời Lý. Tên huyện Yên Lập đã có từ thời Trần, thuộc
châu Quy Hóa, trấn Hưng Hóa lúc đầu có 23 sách, sau hợp lại còn 21 sách. Thời nhà
Nguyễn, địa giới hành chính các cấp có một số thay đổi. Đời vua Gia Long (còn gọi
15
là sách và chưa có tổng), huyện Yên Lập có 20 sách, thôn: Huyện An Lập thuộc phủ
Quy Hóa, trấn Hưng Hóa có 20 sách, thôn, sách Đông Lỗ (có 2 thôn Văn Lũng và
Hương Lan), sách Thu Ngạc, Hạ Lung, Sa Lung, Thượng Long, Mộ Lan, Quế Sơn,
Quắc Thước, Vân Hoàng, An Sào, Bạn Lữ, Vân Bán, Nga My, Phượng Vỹ, Phục Cổ,
An Dưỡng, Đoài Lỗ, Sơn Lương, Khổng Tước, Đồ Thủy. Năm Minh Mệnh thứ 12
(1831), trấn Hưng Hóa đổi thành tỉnh Hưng Hóa, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), đổi
sách thành xã (làng) và đặt tên tổng: huyện Yên Lập có 23 xã [3, tr. 11]
Sau khi đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp lập ra các tỉnh mới trên cơ sở chia
cắt các tỉnh cũ thời phong kiến. Năm 1903 chính quyền thực dân điều chỉnh địa giới
tỉnh Hưng Hóa, chuyển tỉnh lỵ từ làng Trúc Phê (huyện Tam Nông) lên làng Phú Thọ
và sau đổi thành tỉnh Phú Thọ; còn các huyện miền núi trong tỉnh gọi là châu. Châu
Yên Lập trong thời kì Pháp thuộc có thay đổi vì có thêm, bớt một số làng. Thời điểm
năm 1903, châu Yên Lập có 3 tổng, 13 làng; năm 1931 có 1 phố, 3 tổng, 15 làng;
năm 1939 có 16 làng. Như vậy cho đến thời điểm này, châu Yên Lập giữ nguyên con
số 1 phố, 3 tổng, 16 xã, đó là tổng Đông Lỗ có 6 xã gồm Đoài Lỗ, Đông Phú, Phục
Cổ, Đồng Lạc, Đông Lỗ, Ngọc Lập; tổng Sơn Lương có 5 xã gồm Nga Mỹ, Sa Lung,
Sơn Lương, Quế Sơn, Yên Sào; tổng Thượng Long có 5 xã gồm Đồ Thủy, Hạ Long,
Mộ Xuân, Thượng Khê, Thượng Long và phố Tân An (cụ thể xem phụ lục).
Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay, huyện Yên Lập tiếp tục có một số thay
đổi về đơn vị hành chính. Sau khi đất nước được độc lập, nhà nước Việt nam quyết
định xóa bỏ một số cấp trung gian như phủ, châu, tổng gọi chung là huyện, hợp nhất
các làng nhỏ thành xã lớn. Thực hiện chủ trương của chính phủ, châu Yên Lập đổi
thành huyện Yên Lập; từ 16 xã cũ nhập thành 8 xã mới gồm xã Mỹ Lung, xã Minh
Hòa, xã Ngọc Lập, xã Lương Sơn, xã Xuân Thủy, xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh
và xã Phúc Khánh.
Từ cuối năm 1953 đến đầu năm 1964, 8 xã của Yên Lập lại được chia thành 17
xã mới, trong đó xã Mỹ Lung chia thành 2 xã là Minh Hòa và Đồng Thịnh; xã Xuân
Thủy chia thành 3 xã là xã Xuân An, xã Xuân Viên và xã Xuân Thủy. Riêng xã
Thượng Long chia thành 4 xã đó là: xã Thượng Long, xã Tân Long, xã Hưng Long
16
và xã Trung Sơn; xã Đại La chia thành hai xã gồm xã Địch Quả (huyện Thanh Sơn)
và xã Ngọc Đồng. Đến cuối năm 1964 xã Đồng Minh đổi tên thành xã Đồng Lạc.
Về cấp huyện, ngày 05/7/1977, Hội đồng chính phủ ban hành quyết định số
178/CP về việc sáp nhập một số huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phú, trong đó huyện Cẩm
Khê hợp nhất với huyện Yên Lập và 10 xã của huyện Hạ Hòa thành lập huyện mới có
tên là huyện Sông Thao. Sau đó không lâu, ngày 22/12/1980 , Hội đồng Chính phủ ra
tiếp Nghị quyết số 377/CP sửa đổi một số đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Vĩnh
Phú, trong đó chia huyện Sông Thao thành hai huyện như cũ là huyện Sông Thao và
huyện Yên Lập. Năm 1997 tỉnh Phú thọ được tái lập, huyện Yên Lập chính thức là
một huyện trực thuộc tỉnh Phú Thọ cho đến nay. Ngày 28/5/1997, Chính phủ ra Nghị
định số 55/CP về việc thành lập thị trấn Yên Lập. Phạm vi thị trấn bao gồm toàn bộ
đất đai xã Tân Long. Từ tháng 5 năm 1997, đơn vị hành chính huyện Yên Lập gồm
16 xã và 1 thị trấn Yên Lập. Huyện lỵ: thị trấn Yên Lập, các xã: xã Mỹ Lung, xã Mỹ
Lương, xã Lương Sơn, Xã Xuân An, xã Xuân Viên, xã Xuân Thủy, xã Trung Sơn, xã
Hưng Long, xã Nga Hoàng, xã Đồng Lạc, xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh, xã Phúc
Khánh, xã Minh Hòa, xã Ngọc Lập và xã Ngọc Đồng.
1.3. Các thành phần dân tộc
Cũng như các huyện khác của tỉnh Phú Thọ, Yên Lập là vùng đất sớm có
người Việt cổ đến sinh sống. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở một số địa phương
trong huyện nhiều hiện vật bằng đồng, trong đó có trống đồng Tân Long, Đồng
Thịnh, Ngọc Lập (loại II Hergơ) là những hiện vật thuộc thời đại hùng Vương. Trên
trống đồng có khắc hình người đánh trống, đánh chiêng, gõ mõ, nhảy múa và một số
hình ảnh khác phản ánh cảnh sinh hoạt văn hóa của con người thời đó. Trải qua hàng
vạn năm, bằng bàn tay lao động và khối óc thông minh sáng tạo của mình, những cư
dân sống ở Yên Lập ra sức khai phá đồi nương, dũng cảm chống chọi với thiên nhiên,
thú dữ, giặc ngoại xâm để duy trì cuộc sống bảo vệ và xây dựng làng bản đông vui
như ngày nay. Chứng tỏ Yên Lập nằm trong địa bàn sinh tồn và phát triển liên tục của
người Việt cổ trên đất nước ta. Buổi đầu thưa thớt rồi sinh sôi nảy nở ngày một đông
thêm. Về sau lại tiếp nhận thêm các dòng người từ bốn phương tụ lại cứ như thế đến
đầu thế kỷ XIX trên dải đất Yên Lập đã có nhiều tộc người cùng sinh sống. Sự phân
17
bố dân cư, dân tộc mang yếu tố xen kẽ, cao thấp khác nhau. Sách Đồng Khánh địa dư
chí có ghi: “trong huyện dân số người Kinh, người Thổ xấp xỉ nhau. Phong tục người
Kinh giống như các huyện khác. Người Thổ thì quê mùa, chất phác, chỉ biết làm nghề
nông”.[39, tr. 729].
Theo số liệu thống kê dân số, huyện Yên Lập tính đến 31/10/2013 có 88.271
nhân khẩu, được phân bố theo các dân tộc như trong bảng sau:
Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Yên Lập
STT Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Ghi chú Dân tộc
Mường 1 59.821 67,77%
Kinh 2 23.907 27,08%
Dao 3 3.990 4,53%
Mông 4 186 0,21%
Tày 5 160 0,18%
6 207 0,23% Các dân tộc khác
100% Tổng số 88.271
Nguồn: Phòng Dân tộc huyện Yên Lập, tính đến 31/10/2013.
Bảng thống kê trên cho thấy, tại Yên Lập có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong
đó tập trung nhiều nhất là dân tộc Mường, Kinh thuộc nhóm ngữ hệ Việt - Mường, Dao
thuộc nhóm ngữ hệ Hoa-Hán. Các dân tộc ở đây cư trú thành nhóm khá rõ rệt.
- Dân tộc Mường: Cư trú ở những thung lũng thấp, tương đối bằng phẳng.
Hiện nay Mường là tộc danh chính thức, được nhà nước công nhận và sử dụng trong
các văn bản pháp quy. Nhưng trong đời sống và trong văn học dân gian, người
Mường tự gọi mình là Mol, Mual, Mul hoặc Mon…tùy cách gọi từng địa phương.
Mol, Mual, Mul, Mon đều có nghĩa là người. Các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng
người Việt và người Mường có gốc “ Việt - Mường” chung trước khi trở thành người
“Việt” và người “Mường” sau thời kì Bắc thuộc. Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ
Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á), rất gần với tiếng việt. Theo sách Địa chí Vĩnh Phú
Văn hóa dân gian vùng Đất Tổ viết như sau: “Người Mường và người Việt vốn có
những quan hệ rất gần gũi nhau về văn hóa, tiếng nói và đều là con cháu người Lạc
Việt. Người Lạc Việt có bộ phận sống ở đồng bằng, có bộ phận sống ở miền núi. Bộ
18
phận người Lạc Việt ở đồng bằng đông hơn, có những điều kiện phát triển kinh tế văn
hóa thuận lợi hơn, nên đã hình thành dân tộc Việt hiện đại, phân hóa với bộ phận
người Lạc Việt sống ở miền núi, tức là người Mường hiện nay”.[31, tr. 40].
Yên Lập là địa bàn sinh tụ của 16 dân tộc với tổng dân số là 88.271 người
được phân bố ở 223 khu dân cư của 17 xã, thị trấn trong huyện; trong đó dân tộc
Mường là 59.821 người, chiếm 67,77%, còn lại là người Kinh, người Dao và các dân
tộc khác. Có những xã chiếm hơn 90% dân số là người Mường như xã Ngọc Lập, xã
Minh Hòa.
Vậy người Mường có mặt ở Phú Thọ từ bao giờ? Có ý kiến cho rằng từ đời
Trần (thế kỷ XIII) người Mường mới di cư đến Phú Thọ làm ăn sinh sống. Ý kiến
này căn cứ vào các bộ sử như Đại Việt sử kí toàn thư, Việt Sử thông giám cương
mục trong đó có ghi về cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên với sự tham
gia của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số như Hà Đặc, Hà Bổng. Trong khi chờ đợi
những kết quả nghiên cứu mới, thì ý kiến về sự có mặt của người Mường vào thế
kỷ XIII trên cơ sở tài liệu thư tịch cổ là hoàn toàn có thể chấp nhận được. Song
đâu là quê hương gốc của người Mường. Theo một câu chuyện sưu tầm được ở
Thanh Sơn thì cách đây vài trăm năm tại một địa phương của tỉnh Hòa Bình, có
mở hội xuân thi tài tập luyện cho binh lính để bảo vệ dòng Lang của bản Mường.
Trong buổi thi tài đó, người em là Đinh Công Dũng đã thể hiện tài nghệ xuất sắc
của mình được dân trong vùng quý mến. Người anh là Đinh Công Hùng lo sợ sau
này bị chiếm mất địa vị nên có ý định hại em. Nhưng vợ của Hùng vì thương em
chồng, đã tìm cách báo cho Dũng. Dũng biết không thể nào ở lại với anh nên tìm
cách đi tới một vùng đất khác. Hôm ra đi Dũng đánh ba hồi cồng rồi nói với dân
trong làng xóm ai muốn theo mình thì đi và sẽ đến một vùng đất mới để gây dựng
bản làng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Dũng, dân làng đã đi theo. Họ lên đường từ
Mường Bi, Mường Thàng đến miền Phương Lâm (nay thuộc Kỳ Sơn, Hòa Bình)
bèn nghỉ lại và đi săn bắn. Dũng ngắm thấy núi Ba Vì hùng vĩ, Sơn thủy hữu tình,
nên đã chuyển đến xóm Ba Trại (Ba Vì, Hà Tây) sinh cơ lập nghiệp. Nhưng lại
thấy bên kia sông Đà đất rộng, có vẻ phì nhiêu bèn dẫn đoàn người vượt sông Đà
đến xóm Giai xã Cự Thắng rồi đến xóm Đồng Rê (nay là xã Tất Thắng). Từ đó họ
19
sinh cơ lập nghiệp ở đây, sau này là xóm Chiềng xã Tất Thắng. Nhớ ơn người có
công đầu tiên, người ta dựng đình để thờ tổ tiên dòng họ Đinh, việc lập đình để
thờ như vậy còn thấy ở xã Cự Thắng:
“Thủy nguyên thành tích Cao Phong động
Sơn thạch tài bồi Cự Thắng sinh”
Như vậy một bộ phận quan trọng của người Mường vốn có quê hương xưa là
động Cao phong vùng Mường Thàng huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. Trước đây, và
một phần nào cho đến ngày nay, người Mường ở Thanh Sơn vẫn có mối quan hệ bà
con đi lại thăm hỏi đồng bào Mường ở Hòa Bình. Còn cư dân Mường Yên Lập, theo
truyền lại một bộ phận từ vùng Cự Thắng, Tất Thắng, huyện Thanh Sơn sang, còn số
khác là ở Tu Lý, Hiền Lương (Đà Bắc, Hòa Bình).
Tóm lại người Mường đã có mặt ở Phú Thọ từ lâu và quá trình di cư diễn ra
trong một thời gian khá dài mà Hòa Bình vốn là quê hương gốc của họ. Nhiều thế kỷ
trôi qua, cư dân Mường không chỉ tăng nhanh về dân số mà còn trải qua nhiều biến
đổi do nhiều yếu tố tác động của môi sinh, lịch sử đã tạo nên những sắc thái văn hóa
riêng thể hiện ở nhiều mặt như nếp sống, phong tục tập quán…nhưng vẫn giữ được
nét chung của văn hóa Mường.
- Dân tộc Dao: Người Dao là một trong 54 dân tộc anh em sinh sống ở Việt
Nam, với nhiều nhóm khác nhau, cư trú tại các bản động vùng sâu, vùng xa thuộc
nhiều vùng miền khác nhau của tổ quốc, trong đó có nhóm Dao Tiền và Dao Quần
Chẹt định cư ở Phú Thọ. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học, người Dao cư trú ở
Phú Thọ được di cư từ các tỉnh miền nam Trung Quốc: Hồ Nam, Quảng Đông,
Quảng Tây và Vân Nam bằng đường thủy từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX “Dao Quần
Chẹt và Dao Tiền, hiện nay ở Vĩnh Phú, Hà Tây, Hòa Bình, Yên Bái và Tuyên Quang
đã từ Quảng Đông vào Quảng Yên rồi tới những địa điểm trên. Câu chuyện vượt biển
này được viết thành một cuốn “sử thi” có nhiều tình tiết lâm li nay còn được lưu
truyền rộng rãi trong nhân dân Dao” [10, tr. 23]. Cuộc thiên di của người Dao từ
Trung Quốc vào Phú Thọ có lẽ là cuộc thiên di tập trung, có tổ chức nhất mà dấu tích
còn để lại trong tín ngưỡng, phong tục tập quán và qua những bản gia phả mà người
Dao đương đại nhiều lần được đọc hoặc được nghe, nhìn ở các huyện Thanh Sơn,
Yên Lập, Tân Sơn. Người Dao ở địa phương, các dân tộc khác gọi người Dao bằng
20
những tên gọi khác như: Mán, Động, Xá…Tên “Động” dùng phổ biến ở vùng Đông
Bắc. Tên “Xá” thấy ở vùng Tây Bắc. Còn tên tự gọi của người Dao là “Kiềm Miền”:
“Kiềm” (Kìm, Kiềm) có nghĩa là “Rừng” và “Miền” (Mùn, Mửn) có nghĩa là
“Người”. Như vậy, “Kiềm Miền” có nghĩa là “Người Rừng”. Tên gọi này chỉ là một
cái tên phiếm xưng, vì những người sống ở rừng rất nhiều không riêng gì người Dao.
Về nguồn gốc của người Dao thì trong cộng đồng dân tộc Dao vẫn còn lưu truyền
rộng rãi câu truyện Bàn Hồ. Bàn Hồ không chỉ là câu truyện truyền khẩu, mà nó còn
được ghi khá chi tiết trong các cuốn bảng văn và trong các cuốn sách cúng của người
Dao. Người Dao cư trú ở tây bắc Bắc Bộ, đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIII và đi
theo đường bộ. Còn người Dao ở Đông Bắc Bắc Bộ và một số tỉnh trung du cũng bắt
đầu đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XX, họ đi bằng đường thủy
là chủ yếu. Có nhiều nguyên nhân, thời gian và luồng di cư khác nhau. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự chèn ép, áp bức của chế độ phong kiến Trung Quốc, các cuộc chiến
tranh phong kiến liên miên. Ngoài ra là nạn hạn hán, thiên tai, mất mùa… Khi định
cư ở Việt Nam, họ có nhiều tên gọi khác nhau: Dao Nhân, Kiềm Miền, Cần Đông,
Cần Khau, Cần Téo Chèn…
Dân số người Dao ở Phú Thọ chỉ đứng thứ hai sau người Kinh và người
Mường. Đến nay 12/13 huyện, thị, thành có người Dao sinh sống. Song chỉ có ba
huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập có người Dao sinh sống tập trung thành xóm
bản. Tại huyện Yên Lập, theo số liệu của phòng Dân tộc huyện cung cấp tính đến
ngày 31/10/2013, số người Dao sinh sống trên địa bàn huyện là 3.990 người, tương
đương 4,52% dân số toàn huyện.
Dựa theo tiêu chí ngôn ngữ, tộc người, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc
người, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: người Dao ở Phú Thọ hiện chỉ có mặt hai
nhóm nhỏ trong một nhóm lớn. Đó là người Dao Tiền thuộc nhóm Tiểu Bản và người
Dao Quần Chẹt thuộc nhóm Đại Bản. Nhóm Dao Tiền còn có tên là Dao đeo tiền hay
Tiểu Bản. Người Dao Tiền tâp trung cư trú ở 28 bản động vùng cao của huyện Thanh
Sơn. “Còn người Dao Quần Chẹt còn có tên là Mán Sơn Đầu, Dao Nga Hoàng, Đại
Bản hay Dao Tam Đảo. Trang phục nữ nhóm này có đặc điểm rất dễ nhận là quần
ống hẹp, bó sát vào chân. Trước đây nữ Dao Quần Chẹt còn có tục chải đầu bằng sáp
ong, nên có tên là Mán Sơn Đầu. Ở Hòa Bình, Sơn Tây và Phú Thọ, Dao Quần chẹt
21
có tên là Dao Tam Đảo vì trước khi đến cư trú ở những địa phương trên, họ đã ở núi
Tam Đảo ( Vĩnh Yên). Ở Yên Bái và Tây Bắc họ có tên là Dao Nga Hoàng vì trước
họ ở xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ” [31, tr. 42]. Người Dao Quần
Chẹt tập trung cư trú tại 19 bản động vùng cao thuộc 8 xã của huyện Yên Lập là xã
Nga Hoàng, xã Trung Sơn, xã Xuân Thủy, xã Xuân An, xã Mỹ Lương, xã Mỹ Lung,
xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh. Trình độ canh tác của người Dao ở Yên Lập còn
thấp, nghề phụ không phát triển, chưa biết tận dụng khả năng của đất.
- Dân tộc Kinh: Sống xen kẽ với các dân tộc khác trong huyện, họ sống ở
những khu vực trung tâm của xã, huyện. Từ thế kỷ X trở đi đã có nhiều đơt, nhiều
dòng người nhập cư vào Phú Thọ.
Từ năm 980 đến năm 1905, vua Lê Đại Hành cho con thứ tư là Ngự man
vương Long Đĩnh lên trấn giữ Phong Châu.
Tháng 3 năm 1036, vua Lý Thái Tôn đem công chúa Kim Thành gả cho châu
mục châu Chân Đăng. Khoảng năm 1060, vua Lý Thánh Tông gả công chúa Ngọc
Kiều cho châu mục châu Chân Đăng.
Mỗi lần như vậy là một lần thê tử, gia nhân, quân lính đi theo, ngụ cư lâu dài
rồi trở thành người địa phương.
Mùa xuân năm 1044, nhà Lý đem quân đi đánh Chiêm Thành bắt được 5000
người, đem về cho ở châu Chân Đăng, đặt hương ấp theo tên của người Chiêm, làm
ruộng quốc khố của nhà vua. Số người này sau cũng trở thành người địa phương.
Thời nhà Trần, nhiều vương hầu công chúa được phong đất ở các nơi. Công
chúa Thiên Thụy được ban thái ấp ở hương Bạch Hạc. Công chúa và gia nhân
cùng nhiều nông dân miền xuôi đã lên đây vừa cai quản vùng đất được phong vùa
phát triển sản xuất. Đến thời nhà Nguyễn, người Kinh ở các tỉnh miền xuôi lên
Phú Thọ ngày một nhiều. Đến thời Pháp thuộc Yên Lập vẫn là nơi đất rộng người
thưa “ở đây mỗi km vuông có 30 người là cùng” [7, tr. 6] nên thống sứ Bắc kỳ là
Sa-ten đã cho di dân các làng Thái La huyện Vụ Bản, Thôi Ngôi, Vị Nhuế phủ
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định di dân lên châu Yên Lập, lập thành một ấp riêng, gọi
là ấp Trung Bằng “ ấp này ở phía bắc châu lỵ, cách 4km. Từ châu lỵ đến đây phải
đi chân hay đi ngựa. Trong ấp có 40 gia đình, 80 dân đinh, 180 nhân khẩu, kể cả
nam, phụ, lão, ấu. Các di dân đó ở vào một xóm trong làng Hạ Long này, vốn có
2000 mẫu đồi hoang, đất tốt tỉnh Phú Thọ dành riêng cho di dân [7, tr. 14].
22
Sau cách mạng tháng Tám, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Phú Thọ
được đón nhiều đồng bào thủ đô và các tỉnh miền xuôi tản cư lên, đến ngày thắng lợi,
một số đã an cư lạc nghiêp không hồi hương nữa mà ở lại làm dân Phú Thọ.
Hiện nay người Kinh ở Yên Lập đứng thứ 2 về dân số sau người Mường.
Theo thống kê cuối năm 2013 của Phòng Dân tộc huyện Yên Lập, số người Kinh là
23.907 người, tương đương 27,08% dân số toàn huyện. Người Kinh sống rải rác khắp
các địa bàn trong huyện, nhưng thường tập trung ở những khu vực trung tâm.
Tóm lại, dù là người dân bản địa hay dân nhập cư, dù là người miền xuôi
hay miền ngược nhưng khi cùng chung sống các dân tộc đã hòa đồng, quần tụ
bên nhau tạo nên nét văn hóa đặc sắc, đa dạng phong phú.
1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Yên Lập
- Chính trị
Nhà Nguyễn được thiết lập năm (1802) đã nhận xét Bắc Hà là đất cũ của triều
Lê, phần lớn có dòng họ thổ tù, lang cun, lang đạo ở các trấn biên giới phía Bắc vẫn
chịu nhiều ân sủng của nhà Lê. Vì vậy Gia Long tuyên bố khẩu hiệu “Phù Lê” và
phong cho con cháu nhà Lê làm diêm trợ công. Ngoài ra Gia Long còn miễn thuế cho
các phiên thần khai quốc thời Lê. Các chính sách này nhằm ngăn chặn những cuộc
nổi dậy hay chống đối của các phiên thần nhà Lê. Khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX,
nhà Nguyễn tiếp tục duy trì chế độ phiên thần cho các thổ tù biên giới đối với nhà
nước, được gọi là thổ quan. Năm 1802, các phủ, huyện, châu, thổ dân ở Hưng Hóa,
Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn lấy quan người quản lãnh. Trong
bộ máy chính quyền Gia Long còn đặt chức Man Phủ Sứ để chuyên trách công việc
phủ dụ lôi kéo các tộc người miền núi.
Năm 1820, Minh Mệnh lên kế tục sự nghiệp, một mặt ông tiếp tục duy trì
chính sách của vua cha, mặt khác tăng cường sự kiểm soát của chính quyền trung
ương đến địa phương đặc biệt là những vùng biên cương mà Yên Lập là một bộ phận
không thể không chú ý.
Nếu như đầu thời nhà Nguyễn vẫn duy trì chế độ “phiên thần”, thổ quan thì
giờ đây Minh Mệnh từng bước xóa bỏ chế độ này và thực hiện biện pháp người Kinh
và người Thổ cùng cai trị. Năm 1821, Minh Mệnh nghị chuẩn cho tạm đặt các chức
cai châu biên giới. Những chức này triều đình cho phép các quan đứng đầu trấn chọn
người có năng lực ở địa phương đảm nhiệm.
23
Đến năm 1829, Minh Mệnh ban hành chính sách khá cứng rắn đối với tầng
lớp thổ tù: Trong thành hạt theo công việc nhiều hay ít, dân số đông hay thưa nên đặt
thổ tri châu, tri huyện, huyện thừa, lại mục... thì định rõ ràng. Không cứ thổ ty, hào
mục cứ trong hạt ai là người có trách nhiệm, tài năng cần cán, vốn được nhân tin phục
thì chọn cử tâu lên, không được theo trước xưng là tập quản. Việc phân định chức vụ
theo số dân hết sức rõ ràng: “đinh từ 5.000 người, ruộng từ 500 mẫu trở lên thì đặt 1
Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ tri huyện cùng thổ lại mục đều 1 người: đinh từ 100
người, ruộng từ 100 mẫu trở lên thì đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ huyện thừa;
đinh điền không đủ 100 thì đặt 1 thổ lại mục” [22, tr. 862].
Năm 1831, Minh Mệnh giải thích rõ ràng việc bãi bỏ chế độ thổ ty thế tập ở
các trấn biên giới vì: “Lệ thế tập đời xưa là để đền công nhưng con cháu công thần,
nếu có người hư hỏng triều đình cũng phải truất bãi thì lại thương tổn đến ân điển. Ví
như nhà Hán phong tước hầu chỉ vạch núi thề sông mà thề nhưng mới chỉ vài đời chỉ
còn ba, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão. Chẳng gì bằng luận công phong tước
cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài chức, thế là giữ cho trọn vẹn cứ gì phải thế
tập mới là đền công” [23, tr. 224].
Có thể nói đây là cuộc cải cách lớn chia đặt các đơn vị hành chính ở địa
phương trong phạm vi cả nước. Minh Mệnh coi cuộc cải cách này “là một phen
quy hoạch lớn lao khiến cho nước nhà có phên dậu giữ gìn, yêu nước thái sơn
bàn thạch” [8, tr. 194].
Năm 1831 - 1832, Minh Mệnh đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính địa
phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh chia cả nước thành 30 tỉnh
và một phủ Thừa Thiên, đổi các dinh phía Bắc thành 18 tỉnh. Đứng đầu tỉnh là các
chức Tổng đốc (phụ trách 2 - 3 tỉnh) và tuần phủ (phụ trách một tỉnh, dưới quyền
Tổng đốc). Giúp việc có hai ty là Bố chính sứ ty và Án sát sứ ti.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu và tổng, xã. Chính quyền tổng - xã được tổ
chức chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước và giải quyết những khó khăn
một cách kịp thời.
Đối với các châu miền núi, tri châu thường do các tù trưởng, thổ tù, lang đạo
quản lãnh. Ở miền thượng du, tình hình chính trị thường không ổn định nên các vua
24
Nguyễn cử quan lại người Kinh lên, có nhiệm vụ chủ yếu là đề xuất việc thu thuế, dò
thám và đàn áp âm mưu phản loạn. Một số tù trưởng trung thành ở các địa phương xa
xôi hiểm yếu được triều đình dựa vào và ban cho quyền hạn đặc biệt, phong làm ngự
sử. Bên cạnh đó thường đặt một viên quan kinh gọi là chiêu thảo sứ hoặc man phủ sứ.
Các chức này gọi là Lưu quan . Ông cho rằng đây là một biện pháp tích cực mà quyền
hành nặng nhẹ kiềm chế lẫn nhau, chức tước lớn nhỏ rằng buộc lấy nhau thực chất là
một chính sách hay trong việc trị dân, nếu mô phỏng mà làm thì nhiều lợi lắm [43, tr.
157-158].
Sau đó vua lại ra chỉ dụ: Các thổ châu, huyện ở Hưng Hóa, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng cho chọn bổ lưu quan, vì trước đây có vụ Nông
Văn Vân châu huyện ở các tỉnh còn nhiều chỗ khuyết, nên không thể không đặt
những viên chức sung vào, chứ không phải muốn đổi thổ quan và cho theo về lưu
quan, nhất nhất theo y phong tục kinh đâu. Chẳng những trong bọn thổ quan, những
người quy thuận, hết lòng trung, yên phận mình, giữ phép nước, đều chuẩn cho vẫn
để giữ chức, mà cả đến thổ ty, thổ mục, hễ ai một dạ trung thành, kính cẩn, không có
điều gì khác, cũng sẽ được tùy tài cất dùng, không sao cả. Nay người Kinh, người
Thổ cùng ở xen nhau, chính mong rằng lâu ngày, người Thổ sẽ tiêm nhiễm thói tục
người Kinh, được hun đúc theo đường thiện, cùng hưởng phúc thái bình. Các đốc
phủ, bố, án ở Thượng Ty cũng nên để tâm răn bảo rõ lại, không nên sinh sự yêu cầu
hà khắc, cũng không nên hờ hững không quan tâm. Nếu lưu quan thuộc tỉnh hạt mình
có xảy ra tình tệ nhũng nhiễu gì thì phải lập tức nghiêm ngặt tham hặc, không được tư
vị che đậy chút nào, quyết không nên coi nhau như kẻ Tần người Việt, làm ngơ như
không nghe thấy [24, tr. 633-634].
Có thể nói chính sách Lưu quan đã đem lại những hiệu quả thiết thực thể hiện
được sức mạnh của triều đình từ trung ương đến địa phương đặc biệt là góp một phần
để bình ổn biên cương đất nước. Tuy nhiên chính sách này đã đụng chạm tới những
quyền lợi của các thổ tù, tù trưởng. Vì vậy nó vấp phải sự chống đối của một số tù
trưởng mà nổi bật là Nông Văn Vân nên chế độ Lưu quan không phải được thực hiện
ngay trong một lúc trong tất cả các địa phương miền núi khu vục phía Bắc mà phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
25
Đến năm 1838, chế độ Lưu quan mới được thực hiện triệt để. Những viên
Lưu quan này nằm trong bộ máy quan lại thống nhất, đại diện cho triều đình để
quản đất, quản dân, thu tô thuế và bắt lính, lao dịch. Tuy nhiên đến thời Thiệu
Trị năm 1844, nhà Nguyễn vẫn phải cho đặt lại chức thổ quan ở các châu huyện
biên cương phía Bắc, phải đến thời Tự Đức thì việc đặt thổ quan mới bị bãi bỏ
trong cả nước.
- Xã hội
Trước cách mạng tháng Tám 1945, xã hội người Mường nằm trong khuôn
khổ một xã hội có đẳng cấp, trong đó mỗi con người được chính danh định phận chặt
chẽ. Quý tộc Mường gọi là Lang, bình dân gọi là Dân. Cai trị mường là nhà Lang cha
truyền con nối, gồm Lang cun (dòng trưởng), Lang đạo (dòng thứ). Cun ở xóm lớn
nhất và xóm trung tâm, trực tiếp thu cống nộp, phu phen (xâu). Các lang đạo cai trị và
hưởng quyền lợi ở các xóm còn lại và nộp lại cho Cun một ít sản phẩm vào ngày xâu
nhất định. Nhà lang nắm quyền phân chia ruộng đất cho mọi thành viên, nhưng không
được biến thành của riêng ai. Bản thân lang thường xí phần ruộng tốt và nhiều hơn
dân. Cũng có những gia đình không nhận ruộng, sống bằng nương rẫy hoặc nghề
khác gọi là “nóc trọi”. Lang sử dụng nhân công đi xâu vào các việc cầy cấy ruộng,
làm nhà cửa, làm đường xá. Lang phải có thái độ tôn trọng dân và phải khoản đãi khi
nhà lang có việc nhờ dân. Lang phải tuân theo tục lệ của mường như ngồi uống rượu
cần ngang hàng với dân, con gái chửa hoang phải nộp vạ…Dân có quyền phế truất
một lang kém đạo đức và đón lang tốt đến thay. Thiết chế xã hội trong xã hội cổ
truyền ở người Mường nói chung là xóm và mường. Mường là tổ chức xã hội trên
xóm và là tổ chức xã hội lớn nhất của người Mường, dùng để chỉ một địa vực cư trú,
một vùng dân cư, hay để chỉ địa vực cai quản của một lang cun, lang đạo hay thổ tù
nào đó. Cũng giống như các vùng mường khác, tổ chức mường của người Mường
tỉnh Phú Thọ không quy định phạm vi lớn bé và có bao nhiêu xóm hợp thành. Nhưng
điểm khác biệt ở tổ chức mường của người Mường tỉnh Phú Thọ đó là không có
mường lớn bao trùm lên các mường nhỏ hơn như ở Thanh Hóa hay Hòa Bình, mà chỉ
có các mường do nhà lang quản lý trực tiếp đến các xóm. Xóm là tổ chức xã hội dưới
mường, là tập hợp dân cư thành cộng đồng theo một địa vực nhất định. Mỗi xóm chỉ
26
khoảng vài chục nóc nhà và đều có một con đường đất chạy thẳng qua giữa làng.
Trong xóm thường có nhiều dòng họ sinh sống, nhưng bao giờ cũng có một dòng họ
là hạt nhân, dòng họ ấy có thể chiếm tới một nửa hoặc quá nửa số nóc nhà trong xóm.
Về tổ chức làng xóm, người Mường sống dưới chế độ dường như là tiền phong kiến,
mỗi làng có một Thổ Tù, mỗi xóm có một Thổ Lang. Những người này có thể coi
như những chúa đất địa phương. Họ được gọi là quan Lang. Quyền hành cha truyền
con nối. Ở đó hình thành một bộ máy quản lý điều hành theo luật tục, mọi thành viên
trong cộng đồng xóm, mường phải tuyệt đối tuân thủ. Nơi cư trú của người Mường
gọi là “quêl” hoặc xóm. Quêl hay xóm đều có nghĩa là “làng”. Làng là đơn vị xã hội
cơ sở của xã hội Mường gồm nhiều tiểu gia đình phụ quyền mà tế bào gia đình là cha
mẹ và con cái, trong đó quyền thế tập thuộc về con trưởng. Khu vực đất đai thiên
nhiên chung của làng đã được xác lập một cách bền vững, ngoài đất ở là đất sản xuất
và núi rừng được các thành viên của làng biết rõ, các thành viên của làng khác tôn
trọng. Ruộng đất của làng nào thuộc quyền quản lý của làng đó. Người dân của làng
này không thể sản xuất cũng như thu hái lâm thổ sản trên rừng của làng khác. Người
di cư đi nơi khác không còn có quyền lợi về đất đai ở làng cũ. Xưa kia hiếm thấy hiện
tượng xâm chiếm đất đai giữa các làng ở liền kề nhau. Luật tục Mường quy định:
người làng khác đến bắn thú, nếu con thú trúng đạn, phải chia một nửa phía nằm dưới
đất cho nhà Lang ở làng đó. Hoặc một người làng khác bắt gặp một đàn ong làm tổ
trên mặt đất, được quyền chiếm làm của riêng nhưng phải biếu Lang một ít sâu, lấy ở
tầng dưới cùng trong lòng đất. Những hiện tượng này phải chăng là biểu hiện của
quyền chiếm hữu đất đai mà đại diện thuộc về nhà Lang.
Cấu trúc bên trên của làng và xóm của người Mường trước kia cũng là Châu
và Tổng: châu Yên Lập có 3 tổng, 14 làng. Xa xưa hơn nữa, cấu trúc xã hội vùng
Mường Phú thọ được chia thành những sách…tùy theo cách chia và tên gọi đơn vị
hành chính của các triều đình phong kiến nước ta.
Việc quản lý ở làng xưa là Thổ Lang hay còn gọi là Lang. Họ là anh em ruột
thịt của dòng họ Ngài thuộc nghành thứ. Giúp Thổ Lang hay Lang có Khán làm
nhiệm vụ liên lạc. Mọi công việc của Thổ Lang trong quản lý làng đều phải xin ý
kiến Ngài và hằng năm Thổ Lang phải có nghĩa vụ đóng góp lễ vật cho ông ta. Khi
27
bố mẹ Ngài chết thì các Thổ lang phải chịu tang như cha mẹ mình. Ngoài các chức
vụ trên đây trong hệ thống tự quản của làng còn có người già, các chủ gia đình, các
trưởng họ.
Mường là đơn vị tổ chức xã hội, tập hợp nhiều xóm (làng) trong cùng một
thung lũng hay nhiều thung lũng liền kề nhau. Đơn vị tổ chức này đặt dưới sự cai
quản của một dòng họ quý tộc mà người Mường vẫn gọi là nhà Lang. Tầng lớp thống
trị Nhà Lang tập hợp thành những dòng họ phụ hệ, mỗi dòng họ chiếm lĩnh một
mường. Mỗi dòng họ tự phân biệt với các dòng họ khác không chỉ bằng mường mà
họ chiếm lĩnh mà còn bằng một tên họ (Đinh, Quách, Bạch, Hà, Hoàng…). Tầng lớp
bị trị thường có chung một tên họ là Bùi. Như vậy, Bùi, thực ra không còn là tên họ
nữa mà vô hình chung đã trở thành tên chỉ tầng lớp bị trị. Dân Mường đương nhiên
chịu sự thống trị của nhà Lang.
Tổ chức bộ máy thống trị trong từng mường do nhà Lang thiết lập theo thể
thức: con trai cả của chi nhánh cả trong dòng họ nhà Lang trên danh nghĩa quản toàn
mường dưới danh hiệu Ngài hoặc Thổ tù. Mặc dầu trên thực tế ông ta chỉ trực tiếp
quản một số làng ở trung tâm mường mà người ta gọi là chiềng. Giúp việc cho họ là
một vài người thân tín. Để duy trì quyền lợi, nhà Lang đề ra các quy định và quản lý
dân theo các quy định đó. Hằng năm nếu nhà Ngài hoặc Thổ tù có việc lớn như cưới
xin, làm nhà dân trong mường phải có nghĩa vụ đến giúp. Nếu làm nhà mới thì dân
trong mường tự giác mang tre, nứa, lá cọ đến nộp cho nhà Lang. Nhà Ngài cưới vợ,
gả chồng cho con gái, con trai thì dân mường có nghĩa vụ đến làm mọi việc phục dịch
cho đám cưới, đồng thời tùy theo khả năng của mỗi gia đình mà có thể mang một, hai
con gà hoặc vài lít rượu, một tấm vải gọi là góp cho nhà Ngài. Trong trường hợp nếu
nhà Ngài hoặc Thổ tù có bố, mẹ chết thì dân trong mường phải đến lo giúp việc chôn
cất. Nếu Ngài không may qua đời, trước hết các Lang xóm (làng) đều phải đến chịu
tang như chính bố mẹ mình chết, ngoài ra họ còn phải đóng góp cho lễ tang Ngài.
Dân thường tùy theo khả năng của mình mà mang lễ vật gà hoặc gạo đến giúp đỡ nhà
Ngài. Mỗi khi trong làng, trong mường có gia đình nào làm nhà mới, tổ chức đám
cưới hoặc có tang đều phải mời Ngài đến dự và khi ra về Ngài được biếu quà. Dân có
việc mổ trâu, bò, lợn cũng phải biếu Ngài một vai. Săn được thú rừng cũng phải đem
đến biếu Ngài theo thể thức: “vác tru, lu nai”(trâu nộp vai, nai nộp đùi). Về ruộng
28
đất, Ngài là người có nhiều ruộng đất nhất trong vùng. Ruộng của ngài như người xưa
nói, trâu kéo cày đến đâu ruộng Ngài đến đó, khi trâu kéo đứt chạc mới hết ruộng
Ngài. Điều này chứng tỏ Ngài là người chiếm nhiều ruộng đất nhất trong vùng. Trước
đây ruộng của ngài là do dân trong mường làm, toàn bộ sản phẩm thu hoạch được đều
thuộc về Ngài, người dân chỉ được ăn một bữa hôm cày cấy.
Nhà lang nói chung vẫn là những người giàu và có uy quyền. Sự giàu có và uy
quyền thể hiện ở số trống đồng và vạc đồng mà nhà lang chiếm giữ. Chiếc trống đồng
gia truyền quan trọng nhất, là linh hồn của nhà lang, phải chôn giấu kĩ, mất nó coi
như dòng lang lụi bại.
Cách cai trị của nhà lang, cũng như quyền lợi mà nhà lang được hưởng cũng
đã được ghi đầy đủ trong bản chúc thư của thổ lang Đinh Thế Thọ ở xã Tân Lập
huyện Thanh Sơn viết vào thời hậu Lê quy định rõ 13 lệ của bản thôn đối với lang,
đồng thời cũng cho thấy thiết chế chính trị của người Mường xưa là chế độ tự trị, cha
truyền con nối, chế độ công xã làng chạ cổ xua.
“ Thổ lang Đinh Thế Thọ thời Hậu Lê khắc chúc thư vào cuốn sách bằng đồng
lá, quy định 13 lệ như sau:
- Lệ lợp nhà: đầu tiên đến dân bản phải góp một con lợn, một con trâu, 4 thúng
cơm, 10 hũ rượu.
- Lệ thổ lang làm nhà ở: bản quê chung nhau phân bổ lợn một con, rượu 2 vò.
Khi hoàn thành xong xuôi tốt đẹp thì trâu một con, rượu 2 vò, gạo nếp 40 đấu cho bản
quê ăn uống.
- Lệ rào nhà thổ lang: bản thôn đem đến nhà thổ lang lợn một con, cơm 2
thúng, rượu 5 vò.
- Lệ cày cấy ruộng hương hỏa: lợn một con, rượu cơm đủ dùng do bản thôn
phải mang đến.
- Lệ thổ lang có ruộng cấy lúa giống 2 thửa, mỗi vụ cấy hết 1800 con mạ, dân
bản phải cấy.
- Lệ bản thôn phải cử hai người nhiêu nhân hầu hạ do thổ lang chọn cắt lấy
- Lệ theo hầu thổ llang hai người.
- Lệ thổ lang hàng năm vào ngày 16 tháng 11 cùng giỗ tổ tiên cùng ăn uống.
- Lệ thổ lang sinh con trai lấy vợ: bản quê phải góp một con trâu, 10 vò rượu,
29
10 đấu gạo nếp.
- Thổ lang sinh con gái gả chồng, bản thôn phải góp một con trâu, 4 thúng cơm
cùng bản quê ăn uống.
- Lệ trong 4 giáp ai có việc hiếu: biếu thổ lang 4 mâm thịt, 1 chậu canh, 2
thúng cơm, 1 vò rượu và vai trâu liền chân biếu thổ lang.
- Hàng năm ngày 2 tháng 12 cầu phúc ở đình, lệ có hát xướng 3 chiều, thổ lang
1 chiều, ở đình 2 chiều, rước đi và về không được thiếu.
- Lệ núi rừng thuộc địa phận quan lang: hễ ai săn bắt được chim thú phải biếu
quan lang một vai liền chân không được thiếu (Đây nói khoảnh rừng của lang được
chia chứ không phải toàn bộ rừng trong mường bản). [6, tr.35].
Ngài còn là người đứng đầu về mặt tôn giáo, dân coi ông là người đại diện cho
mình tiếp xúc với thần thánh, vì thế trong nhiều nghi lễ của mường, xóm (làng) nhất
thiết phải có mặt Ngài. Lễ cầu cúng thành hoàng ở đình hàng năm cũng vậy. Vào ngày
mùng 10 tháng giêng hằng năm, người Mường có lễ “Mở cửa rừng”, ngày đó Ngài đứng
ra hành lễ, sau lễ này dân làng mới được làm nương, cày cấy và săn bắn. Hay trong lễ Hạ
điền, nhà lang phải cấy trước sau đó dân làng mới được cấy. Ngoài ra trong xã hội
mường cổ truyền còn có các mối quan hệ láng giềng, dòng họ; uy tín và vị trí của các
dòng họ trong mỗi mường phụ thuộc vào nề nếp, gia phong của dòng họ đó, quan hệ hôn
nhân cũng phụ thuộc vào yếu tố này rất nhiều.
Nhà Nguyễn sau khi thành lập phế bỏ chế độ lang đạo, đặt quan lại lên cai
quản gọi là chế độ “lưu quan”, liền sảy ra sự chống đối như khởi nghĩa của Lê Duy
Lương ở Hòa Bình. Về sau vua Minh Mạng lại khôi phục chế độ lang đạo. Đặc biệt
khi bắt được người cầm đầu nhà nguyễn chỉ phủ dụ mà không thấy giết. Sau này nhà
Nguyễn vẫn đặt thêm chức lý trưởng, chức này vẫn sau lang cun. Sau khoảng 3 năm
thì bầu lại lý trưởng, lý trưởng phải được sự phê chuẩn của lang cun.
Qua tìm hiểu thì thấy rằng thiết chế xã hội của người Mường ở Phú Thọ theo
kiểu xóm, mường nhưng không có các mường nhỏ dưới quyền mường lớn. Quan hệ
giữa tầng lớp quý tộc thống trị với tầng lớp bị trị cũng rất rõ ràng, bộ máy cai trị của
Thổ tù trong mường ở Phú Thọ được tổ chức đơn giản hơn, họ không có nhiều người
giúp việc (các ậu) như ở Hòa Bình, Thanh Hóa. Việc phân định dòng họ nhà lang
30
không khắt khe như những mường ở nơi khác.
Tóm lại, điểm nổi bật nhất trong xã hội vùng mường xưa là sự tồn tại của chế
độ nhà Lang.
Người Dao thì có mán mục (chánh tổng), động trưởng, giáp trưởng. Do điều
kiện sinh sống phân tán và xen kẽ với các dân tộc khác nên xã hội của họ thường bị
phụ thuộc.
Tiểu kết: Yên Lập là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Phú
Thọ. Do đặc điểm địa hình với 3/4 diện tích toàn huyện là đồi núi, nên Yên Lập có
diện tích rừng rộng lớn với các nguồn lợi từ rừng rất phong phú: các loại cây gỗ quý
như nghiến, lát, chò chỉ, táu, sến, các loại cây nguyên liệu cho nghề thủ công đan lát
như tre, nứa, giang, trúc, mây, song, các loại cây hương liệu như quế, sa nhân, nấm
hương, mộc nhĩ…Đồng bào khai phá đất ven đồi, thung lũng, soi bãi để phát triển cây
lương thực, cây nguyên liệu, chăn thả gia súc. Huyện cũng có một số mỏ khoáng sản
vừa và nhỏ. Với đặc điểm tự nhiên như đã trình bày Yên Lập là địa phương có lợi thế
trong phát triển kinh tế nông lâm nghiệp kết hợp.
Trải qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử dân tộc, cũng như lịch sử vùng
đất phía Bắc Tổ quốc, địa giới huyện Yên Lập có nhiều biến đổi. Đến nay Yên Lập là
một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Phú Thọ gồm 1 thị trấn và 16 xã. Là
huyện miền núi đất rộng người thưa nên Yên Lập sớm đã là nơi quần tụ sinh sống của
nhiều tộc người, trong đó cư dân nguyên thủy là người Mường, thuộc nhóm nhữ hệ
Việt - Mường. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thành phần dân cư dân tộc của huyện
Yên Lập có nhiều biến động. Bên cạnh cư dân bản địa còn có các dân tộc khác di cư
từ nhiều nời khác đến, chủ yếu là người Kinh từ dưới xuôi lên, người Dao từ Trung
Quốc xuống. Song dù là người bản địa hay di cư từ nơi khác đến, có nguồn gốc và
phong tục tập quán khác nhau nhưng khi cùng chung sống ở một quê hương mới
(huyện Yên Lập) thì các dân tộc luôn yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng
nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, văn
minh hơn.
31
Chương 2
KINH TẾ CỦA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX
Cùng với quá trình phát triển và củng cố của các nhà nước quân chủ tập
quyền, các vương triều phong kiến Việt Nam rất quan tâm đến việc lập địa bạ để nắm
chắc tình hình ruộng đất, qua đó ra lệ thuế và thu thuế cho nhà nước. Trong lịch sử
Việt Nam, lần đầu tiên nhà nước lập điền tịch vào năm 1092 dưới triều Lý. Năm
1428, Lê Lợi đã ra lệnh cho các địa phương tiến hành điều tra, khám xét về tình hình
sở hữu ruộng đất lập lại trong một năm. Các thế kỉ sau công việc kê khai ruộng đất
cũng được các triều đại quân chủ quan tâm.
Cũng như các triều đại trước nhà Nguyễn ý thức được tầm quan trọng của
việc lập địa bạ. Vì vậy, ngay sau khi ổn định cả nước, năm 1803 Gia Long bắt đầu
cho lập địa bạ của các trấn ở Bắc Hà. Năm 1804 Gia Long xuống chiếu “Chiếu theo
ruộng chiêm, ruộng mùa và ruộng chiêm mùa 2 vụ ở trong xã mà kê khai mẫu, sào,
thước, tấc, ở xứ sở nào và bốn bên đông tây cước trú rõ ràng, làm sổ để nộp” [19, tr.
119]. Việc lập địa bạ trong cả nước được Minh Mệnh tiến hành một cách triệt để cơ
bản đã lập xong sổ địa bạ trên toàn quốc. Từ thời vua Thiệu Trị (1841) đến vua Bảo
Đại (1945), có làm bổ sung thêm ở một số địa phương vì nhiều lý do khác nhau việc
làm địa bạ lớn chưa thực hiện được.
Ruộng đất huyện Yên Lập (phủ Quy Hóa tỉnh Hưng Hóa) dưới triều Nguyễn
đã được kê khai rõ ràng trong địa bạ. Các địa bạ nói trên hiện đang lưu trữ tại Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội) mang ký hiệu từ 1822 đến 1853. Các địa bạ của
huyện mà chúng tôi sưu tầm được lập ở đầu triều Nguyễn: Gia Long 4 (1805) và
Minh Mệnh 21 (1840) với tổng số 30 địa bạ trong đó có 17 địa bạ được lập năm 1805
và 13 địa bạ được lập năm 1840. Trong tổng số 30 xã có 6 xã được lập địa bạ trong 2
thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21: xã An Dưỡng, xã Vân Bán, xã Sa Lung, xã
Thu Ngạc, xã Thượng Long, xã Bạn Lữ.
32
2.1.1. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 năm (1805)
Nửa đầu thế kỉ XIX, cả nước vẫn tồn tại 2 loại hình sở hữu ruộng đất: Sở hữu
nhà nước và sở hữu tư nhân nhưng sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm phần lớn
diện tích. Năm 1840 theo báo cáo của Bộ Hộ, “tổng diện tích ruộng đất trong cả nước
là 4.063.892 mẫu, trong đó tổng diện tích ruộng thực canh là 3.396.584 mẫu. Tỉ lệ
ruộng công, ruộng tư là:
Ruộng tư: 2.816.221 mẫu, khoảng 83%
Ruộng công: 580.363 mẫu, khoảng 17%” [30, tr. 234].
Nằm trong tình trạng chung của cả nước, huyện Yên Lập thời Gia Long 4
(1805) cũng vậy, ruộng đất công không còn, chỉ có ruộng tư, ruộng đất hoang hóa lớn
Có thể thấy được tình hình đó thông qua 17 địa bạ về Yên Lập như thống kê ở các
bảng sau (cụ thể từng xã xem bảng 2 phụ lục):
Bảng 2.1. Tổng diện tích các loại ruộng đất của Yên Lập
theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Thứ tự Loại ruộng Diện tích Tỷ lệ (%) Ghi chú
Thực trưng: 106.2.14.0.0 11,83 1 - Tư điền 106.2.14.0.0 11,83
Lưu hoang 789.8.10.0.0 88,17 2 - Tư điền 789.8.10.0.0 88,17
Tổng 896.1.09.0.0 100%
Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)
Số liệu trên cho thấy ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (tư điền) chiếm 100%
tổng diện tích cả huyện, nhưng trên thực tế phần thực trưng chỉ có 11,83%, còn lại
toàn ruộng lưu hoang. Tổng có nhiều ruộng tư nhất là tổng Thượng Long (hơn 465
mẫu), ít nhất là tổng Sơn Lương (hơn 21 mẫu). Xã có nhiều ruộng tư nhất là xã Mộ
Lan (165 mẫu 3 sào 1 thước 3 tấc), xã có ít ruộng tư nhất là xã Sa Lung thuộc tổng
Sơn Lương (7 mẫu 9 sào 4 thước 3 tấc). Điều này cho thấy, tùy vào đặc điểm địa hình
của từng vùng mà số ruộng tư phân bố ở các xã và các tổng trong huyện Yên Lập
không đều nhau.
33
Một đặc điểm đáng lưu ý trong sự phân bố ruộng đất của huyện Yên Lập năm
1805 là chỉ có tư điền, không có tư thổ, công thổ đặc biệt là ruộng đất công đã hoàn
toàn không còn. Sự phát triển của ruộng tư đã diễn ra mạnh mẽ, địa chủ và cường hào ở
nông thôn đã trở thành những lực lượng chính trong việc lũng đoạn ruộng đất của
người dân. Mặc dù nhà nước có những quy định cấm mua bán ruộng đất công nhưng
vẫn không hạn chế được, đặc biệt năm 1804 Gia Long đã ban hành chính sách quân
điền thực chất dựa theo nguyên tắc phân chia ruộng đất cho quan lại và nhân dân như
thời Lê Sơ, chỉ điều chỉnh về đối tượng, khẩu phần và thời hạn. Mục tiêu của quân điền
vẫn nhằm bảo vệ quyền sở hữu của nhà nước thông qua ruộng đất công của làng xã và
phân phối theo hướng ưu đãi cho quan lại và binh lính. Tuy có những cố gắng nhưng
do sự thu hẹp của ruộng đất công làng xã nên tác dụng của chế độ quân điền cũng bị
hạn chế.
Trong tổng số 896 mẫu 1 sào 9 thước ruộng đất của Yên Lập thì ruộng lưu
hoang chiếm tới 88,17% trong đó phần bỏ hoang đều là điền chứ không có thổ. Lý
giải điều này sách Đại Nam nhất thống chí viết như sau: “Đất này vì bị binh lửa lâu
ngày, hộ khẩu điêu tàn, mười phần chỉ còn lại độ năm ba mà thôi. Nhân dân sợ hãi
mà lưu tán, nên người hạt Sơn Tây lên khai khẩn ruộng hoang. Vì sông núi hiểm trở,
nhiều kẻ tụ họp làm trộm cướp” [21, tr. 327].
- Tình hình sở hữu ruộng đất tư
Bảng 2.2. Sự phân hóa ruộng tư của Yên Lập
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Tỷ lệ Diện tích sở hữu Quy mô sở hữu Số chủ Tỷ lệ (%) (%) (mẫu.sào.thước.tấc.phân)
< 1 mẫu 21 45,65% 11.1.03.3.0 0,11
1 đến 5 mẫu 18 39,13% 45.0.06.3.0 43,77
5 đến 10 mẫu 6 13,05% 36.6.05.0.0 46,39
10 đến 20 mẫu 1 2,17% 10.0.03.0.0 9,73
46 100% 102.8.02.6.0 100% Tổng
Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể đi vào xem xét cụ thể mức độ sở
hữu tư điền. Chỉ số trên cho thấy trên bình diện chung Yên Lập là huyện có mức độ
tập trung ruộng đất không cao. Dựa vào sự phân bố chủ ruộng và mức độ sở hữu thể
34
hiện rõ nét: Có 39/46 chủ có mức sở hữu ruộng đất dưới 5 mẫu chiếm 84,78% tổng số
chủ, và 39,24% tổng diện tích ruộng của huyện Yên Lập. Đây có thể coi là bộ phận
nông dân tự canh, đặc trưng của các chủ ruộng Yên Lập. Có 6 chủ có mức sở hữu từ
5 - 10 mẫu, sở hữu 46,39% tổng diện tích ruộng đất và chỉ có duy nhất 1 chủ có mức
sở hữu từ 10 - 20 mẫu, sở hữu 9,73% tổng diện tích ruộng đất. Chủ có mức sở hữu
cao nhất huyện là 10 mẫu và thấp nhất chỉ có 2 sào. Nhìn chung sở hữu ruộng đất của
các chủ ở thời điểm này thuộc loại vừa và nhỏ. Mức độ sở hữu khá chênh lệch giữa
chủ sở hữu cao (10 mẫu) và chủ sở hữu thấp (2 sào).
Sở hữu bình quân một chủ ở Yên Lập là: 5 mẫu 1 sào 3 thước 9 tấc. Xã có
mức sở hữu bình quân cao nhất là xã Vân Bán (6 mẫu 7 sào 9 thước 3 tấc), thấp nhất
là xã Phượng Vĩ (2 sào 7 thước 5 tấc) đây cũng là xã có diện tích có thể tính sở hữu
nhỏ nhất. Cụ thể mức độ sở hữu của từng xã như sau:
Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Xã, thôn Số chủ Số thửa Bình quân một thửa
Diện tích có thể tính sở hữu 4.4.11.4.0 0.5.00.0.0 1.5.03.2.0 2.7.09.6.0 0.5.00.0.0 1.1.00.0.0 1.0.00.0.0 1.2.03.0.0 2.1.06.0.0 13.5.03.7.0 4.0.00.0.0 23.1.01.8.0 5.1.05.3.0 13.1.00.0.0 13.1.00.0.0 135.8.06.0.0 31.2.05.0.0 26.0.14.8.0 0.9.10.0.0 896.1.09.0.0 238.5.03.0.0 0.5.00.0.0 0.7.09.1.0 0.6.11.6.0 0.2.07.5.0 0.3.10.0.0 1.0.00.0.0 0.6.01.0.0 1.0.10.5.0 6.7.09.3.0 0.8.00.0.0 3.8.07.8.0 1.2.12.5.0 1.6.05.6.0 5.5.05.8.0 0.3.03.3.0 4.6.11.5.0 1 2 4 2 3 1 2 2 2 5 6 4 8 6 3 51 Bình quân sở hữu một chủ 0.5.00.0.0 0.7.09.1.0 0.6.13.6.0 0.2.07.5.0 0.3.10.0.0 1.0.00.0.0 0.6.01.0.0 1.0.10.5.0 6.7.09.3.0 0.8.00.0.0 4.6.04.0.0 1.2.12.5.0 2.6.03.0.0 5.5.05.08.0 0.4.12.5.0 5.1.03.9.0
Ruộng tư ghi trong địa bạ 13.9.01.5..0 Thu Ngạc 34.0.10.2.0 Xuân Ứng 1 7.9.04.2.0 Sa Lung 2 134.1.11.3.0 Hạ Long 4 28.8.09.6.0 Trục Thước 2 52.3.14.8.0 Phượng Vĩ 3 28.5.12.9.0 Bạn Lữ 1 14.6.06.5.0 Vân Hoàng 2 19.8.08.6.0 KhổngTước 2 13.3.10.8.0 Sơn Lương 2 33.4.03.7.0 Vân Bán 5 165.3.01.3.0 Mộ Lan 5 34.9.05.5.0 Phục Cổ 4 ThượngLong 139.6.07.3.0 5 Xuân Lôi 6 An Dưỡng 2 Đồ Thủy Tổng 46 Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805).
35
Tổng cộng có 238 mẫu 5 sào 3 thước ruộng phân tán trên 51 thửa, bình quân
diện tích của một thửa là 4 mẫu 6 sào 11 thước 5 tấc, xã có bình quân thửa cao nhất là
xã Vân Bán thuộc tổng Vân Bán với 6 mẫu 7 sào 9 thước 3 tấc và thấp nhất là xã
Phượng Vĩ cùng tổng Vân Bán với 2 sào 7 thước 5 tấc. Từ tình hình sở hữu bình quân
về ruộng đất, cũng như bình quân về thửa và sự phân bố các lớp sở hữu có thể thấy:
Kết cấu sở hữu ruộng đất ở Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX đang trong quá trình tập
trung ruộng đất vào tay tầng lớp những người có thế lực ở địa phương.
- Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ
Ở đây, khái niệm “nhóm họ” để chỉ tập hợp những dòng họ có chung tên gọi đầu
tiên thí dụ nhóm họ Nguyễn, họ Hoàng, họ Hà. Trên cơ sở thống kê địa bạ năm Gia Long
4 (1805) tôi đã thống kê được các nhóm họ cũng như quy mô sở hữu như sau:
Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ năm 1805
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Diện tích sở hữu Thứ Số Tỷ lệ Tỷ lệ Họ tự chủ (%) (%)
1 Dương 2 4,35 4.3.02.2.0 3,31
2 Nguyễn 14 30,43 18.2.04.7.0 17,51
3 Đặng 3 6,52 6.6.11.5.0 6,42
4 Đỗ 1 2,17 4.0.10.0.0 3,89
5 Hoàng 16 34,78 55.5.01.6.0 53,99
6 Đinh 2 4,35 10.5.03.0.0 10,69
7 Lý 2 4,35 1.5.11.0.0 1,46
8 Vũ 2 4,35 1.6.03.6.0 1,56
9 Phạm 2 4,35 0.7.00.0.0 0,68
10 Trần 2 4,35 0.5.00.0.0 0,49
100 100 Tổng 10 nhóm họ 46 102.8.02.6.0
Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)
Như vậy, 46 chủ sở hữu ruộng đất ở Yên Lập tại thời điểm Gia Long 4 (1805)
gồm 10 nhóm họ khác nhau. Tuy nhiên sự phân bố chủ sở hữu trong các nhóm họ
không đều, có những nhóm họ rất đông như nhóm họ Hoàng (16 chủ = 34,78%), họ
36
Nguyễn (14 chủ = 30,43%) nhưng có nhóm họ chỉ có một chủ sở hữu như họ Đỗ, còn
lại là 2 hoặc 3 chủ sở hữu. Xét về quy mô sở hữu của các nhóm họ ở Yên Lập vào
thời điểm này ta thấy mức độ phân hóa giữa các nhóm họ là khá lớn. Các nhóm họ
Hoàng, họ Nguyễn với diện tích sở hữu là 73 mẫu 7 sào 6 thước 3 tấc chiếm 71,5%
tổng diện tích ruộng đất của toàn huyện. Đây cũng là 2 dòng họ lớn, đặc biệt là họ
Hoàng có vị trí quan trọng trong làng xã đương thời.
- Chủ sở hữu ruộng là nữ
Yên Lập tại thời điểm này không có chủ sở hữu ruộng là nữ. Lý giải việc
không có chủ sở hữu là nữ, có thể do tư tưởng trọng nam khinh nữ chi phối đến việc
chia ruộng đất cho các con (chủ yếu là chia cho những người con trai). Mặt khác Yên
Lập là địa bàn sinh sống của người Mường nên việc phân chia tài sản sẽ tiến hành
theo luật tục của dân tộc: “Con trai cả được hưởng ngôi nhà và một nửa gia tài, ruộng
đất cũng được phần tốt hơn, các em trai được chia đều số tài sản còn lại, người
Mường có câu: “con cả ăn ruộng đầu mương, đầu phai, con út, con thự lây no chi
bằng”(con cả được ruộng đầu mương, đầu phai, con út, con thứ lấy chi cho bằng).
Con gái không được chia tài sản vì theo quan niệm con gái được hưởng gia tài nhà
chồng”[35, tr. 46-47].
- Chất lượng đất đai
Theo tư liệu địa bạ, ở Yên Lập chất lượng ruộng đất có một hạng: hạng ba (tam
đẳng điền) và ruộng vụ thu, không có ruộng hạng một và hai. Sách Đồng Khánh địa dư
chí cũng viết như sau: “Ruộng đất: Trong huyện không có các hạng đất…Sản vật:
Huyện phần nhiều làm lúa vụ thu, duy có xã Vân Bán có cấy lúa hè” [39, tr. 729].
- Tình hình sở hữu ruộng đất của chức sắc
Một trong những số liệu khá quan trọng mà địa bạ có thể cung cấp là vai trò
kinh tế của đội ngũ những người có chức quyền ở làng xã, gọi là chức sắc. Chức sắc
gồm chức dịch và sắc mục. Chức dịch là bộ phận chức sắc quản lý làng xã nằm trong
hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước, được nhà nước công nhận như lý trưởng, xã
trưởng… Còn sắc mục là những người được làng cử ra, đại diện cho cộng đồng, tiêu
biểu cho bộ máy tự quản của làng xã như hương mục, dịch mục. Theo quy định cuối
địa bạ có phần ghi danh cùng điểm chỉ của những người có chức sắc chịu trách nhiệm
37
lập địa bạ. Mỗi địa bạ cũng có ít nhất hai chức sắc trong xã đứng danh kê khai, chịu
trách nhiệm về việc lập địa bạ của xã mình, trong đó có ít nhất một người thuộc hệ
thống chức dịch của nhà nước thường là xã trưởng, ít nhất một người thuộc sắc mục
của thôn xã, phần lớn là hương mục. Khi địa bạ có tới ba, bốn thậm chí là năm người
chịu trách nhiệm thì ngoài xã trưởng và hương mục ra còn có hương lão… Căn cứ vào
tài liệu địa bạ năm 1805 trong 15 xã thôn của huyện Yên Lập có tới 44 chức dịch, trong
số đó có 15 xã trưởng, 15 sắc mục, 9 thôn trưởng, 1 thổ tù, 3 tổng trưởng, 1 phó tổng.
Để thấy rõ mức độ sở hữu cụ thể của các chức dịch trong huyện, xem bảng số liệu sau:
Bảng 2.5. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm (1805)
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Số chủ Không 10-20 Chức vị <1 mẫu 1-5 mẫu 5-10 mẫu ruộng đất mẫu %
7 4 15 4 Xã trưởng 26,67 46,66 26,66 %
1 1 6 6 15 1 Sắc mục 6,66 6,66 40 40 % 6,66
3 4 1 9 1 Thôn trưởng 11,11 44,45 11,11 33,33 %
1 1 Thổ tù 100 %
3 3 Tổng trưởng % 100
1 1 Phó tổng % 100
44 10 17 27,27 4 1 Tổng cộng 100% 23,73 38,64 12 9,09 2,27
Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)
Các số liệu trên cho thấy số chức sắc có ruộng đất chiếm 76,27%. Có 10/44
chức sắc không có tên trong danh sách chủ ruộng, hay nói cách khác, có thể coi họ là
38
những người không có ruộng đất tư. Hiện tượng những người có chức ở làng xã mà
không có ruộng đất là một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX.
Không tính tới các chức sắc không có ruộng đất tư, ngay trong hàng ngũ những người
có ruộng đất tư thì mức độ tư hữu của họ cũng không đồng đều. Người có sở hữu lớn
nhất trong 34 chức sắc có ruộng đất tư là sắc mục Đinh Bá Đĩnh của xã Vân Bán có
tới 10 mẫu 3 thước, nhưng có sắc mục chỉ sở hữu có 6 sào 3 thước. Thậm chí có chức
sắc không có ruộng như xã trưởng Nguyễn Đình Tăng xã Vân Bán, sắc mục Dương
Đăng Thọ xã Thượng Long.
Trong tổng số 34 chức sắc thì sắc mục có sở hữu ruộng đất nhiều nhất là 30
mẫu 8 sào 3 thước 9 tấc nhưng tế bình quân sở hữu chỉ có 2 mẫu 8 thước 3 tấc. Còn
Thổ tù lại có bình quân sở hữu cao hơn là 3 mẫu 5 sào 3 thước 3 tấc. Nhìn chung bình
quân sở hữu của các chức sắc là 1 mẫu 4 sào 4 thước 8 tấc . Như vậy đa số chức sắc
sở hữu ruộng đất dưới 5 mẫu. Tính chất sở hữu nhỏ, tự canh là đặc trưng sở hữu
ruộng đất của các chức sắc.
Mặc dù không thể và cũng không nên phân biệt một cách rạch ròi giữa bộ
phận chức dịch và sắc mục trong làng xã nhưng bằng những phân tích có tính định
lượng trên, rõ ràng đội ngũ sắc mục có quyền lực kinh tế thông qua quyền sở hữu
ruộng đất tư lớn hơn hẳn so với các chức dịch. Phải chăng đây mới chính là những
người thực sự có quyền lực trong thôn, xóm . Xã trưởng đứng đầu đơn vị hành
chính cơ sở, nhưng do tính tự quản của cộng đồng làng xã nên cũng phải tôn trọng
các sắc mục và chấp hành những nghị quyết của hội đồng sắc mục về những hoạt
động của cộng đồng làng xã. Đây là thể hiện một phần mối quan hệ giữa “làng” và “
nước” giữa “lệ làng” và “phép nước”.
2.1.2. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Nếu như vua Gia Long mới chỉ dừng lại ở mức ổn định lại vấn đề ruộng đất thì
vua Minh Mệnh đã can thiệp sâu hơn về vấn đề ruộng đất đặc biệt đã ban hành chính
sách quân điền. Chính sách đó làm cho quá trình tư hữu hóa ruộng đất ở nửa đầu thế
kỷ XIX chậm lại nhưng không phải chấm dứt hoàn toàn. Để có cái nhìn cụ thể về tình
39
hình ruộng đất thời Minh Mệnh, 13 địa bạ của 13 xã được lập năm Minh Mệnh 21
(1840) (cụ thể xem bảng 3 phụ lục).
Một điểm đáng lưu ý là theo địa bạ năm 1840, diện tích tư điền vẫn chiếm gần
như tuyệt đối (99,26%) tổng diện tích cả huyện, không có tư thổ, công thổ. Nhưng
điều đáng lưu ý là đến thời điểm này ở Yên Lập đã có diện tích công điền, mặc dù là
rất ít (4 mẫu 5 sào 2 tấc 1 phân, tương đương 0,74% diện tích ruộng đất toàn huyện).
Chứng tỏ chính sách quân điền thời Minh Mệnh vẫn không phát huy tác dụng ở
huyện miền núi Yên Lập.
Bảng 2.6. Sự phân bố các loại ruộng đất
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Diện tích Thứ tự Loại ruộng Tỷ lệ % (mẫu.sào.thước.tấc.phân)
Thực trưng 243.0.03.2.1 40
1 - Tư điền 238.5.03.0.0 39,26
- Công điền 4.5.00.2.1 0,74
Lưu hoang 363.6.01.5.0 60 2 - Tư điền 363.6.01.5.0 60
Tổng 606.6.04.7.1 100%
Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Từ số liệu trên cho thấy, với chính sách khai hoang của Minh Mệnh bằng
cách có thưởng, phạt thích đáng đối với quan lại các cấp trong việc tổ chức nhân
dân khai phá ruộng đất hoang. Theo quy định năm 1836, “các viên chức từ xã
trưởng, lý trưởng cho đến cai tổng, tri phủ, tri huyện, quan tỉnh, nếu biết khuyến
khích nhân dân khai khẩn đất hoang, trong một năm nếu khai phá được từ 20 mẫu
đã có thưởng, mức độ thưởng càng cao nếu khai hoang được nhiều ruộng đất.
Nhưng ngược lại, trong một xã thôn, nếu để ruộng đất bỏ hoang từ 1 - 5 mẫu đã
phải chịu hình phạt và tất nhiên nếu số lượng ruộng đất bị bỏ hoang càng lớn thì
mức phạt càng tăng” [25, tr. 216-217]. Với các quy định về thưởng, phạt trên, vua
Minh Mệnh đã đồng thời áp dụng cả sức ép hành chính lẫn khuyến khích bằng
quyền lợi kinh tế và chính trị để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang. Chính vì vậy
40
công việc khai hoang dưới thời vua Minh Mệnh được đẩy mạnh và có hiệu quả làm
tăng thêm diện tích canh tác. Bên cạnh các hình thức khai hoang, nhà nước còn ban
hành nhiều biện pháp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất hiện tượng ruộng đất đã được
khai khẩn nhưng sau bị bỏ hoang. Ruộng đất của dân xiêu tán thì nhà nước áp dụng
biện pháp khuyến khích họ trở về làng cũ và bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của họ.
Mãi đến năm 1854 nếu dân lưu tán trước 1802 không chịu về quê quán thì ruộng đất
của họ mới bị trưng thu. Theo địa bạ năm 1840 sau 38 năm kể từ khi nhà Nguyễn
được thành lập, từ chỗ cả huyện số ruộng lưu hoang chiếm tới 88,17% thời vua Gia
Long thì đến thời vua Minh Mệnh (1840) còn 60% diện tích, có xã không còn diện
tích lưu hoang nữa như xã Sa Lung, xã Thu Ngạc, xã An Sào.
- Tình trạng sở hữu ruộng đất tư
Bảng 2.7. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm 1840
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Số Tỷ lệ Diện tích Tỷ lệ Quy mô sở hữu chủ (%) sở hữu (%)
< 1 mẫu 17 27,42 8.6.05.6.0 3,36
1 đến 5 mẫu 24 38,71 51.7.09.0.0 21,73
5 đến 10 mẫu 14 22,58 91.3.06.8.0 38,24
10 đến 20 mẫu 6 9,68 65.7.09.6.0 27,85
20 đến 30 mẫu 1 1,61 21.0.02.0.0 8,82
Tổng 62 100 238.5.03.0.0 100%
Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Từ bảng số liệu trên có thể thấy số người sở hữu dưới 5 mẫu chiếm 66,13% số
chủ nhưng chỉ chiếm có 25,09% số ruộng. Như vậy, số chủ sở hữu nằm trong lớp thứ
nhất và thứ hai (dưới 1 mẫu và từ 1 đến 5 mẫu) có thể coi thuộc loại nông dân tự canh
chiếm diện tích không đáng kể ở Yên Lập. Bên cạnh đại đa số những người nông dân
tự canh có sở hữu nhỏ, tồn tại một tỷ lệ cao chủ khá giả (21 chủ) chiếm 33,87% tổng
số chủ có mức sở hữu từ 5 đến 30 mẫu với 74,91% diện tích ruộng đất toàn huyện
41
(đặc biệt còn có 1 chủ sở hữu trên 21 mẫu chiếm 8,82% diện tích ruộng đất). Như
vậy, tình trạng sở hữu ruộng đất khá tập trung, trên số ít chủ sở hữu là đặc điểm nổi
bật của chế độ ruộng đất ở Yên Lập qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840).
Nhìn vào tình trạng sở hữu tư điền của Yên Lập (1840), với sự có mặt của 62
chủ sở hữu có tổng diện tích sở hữu là 238 mẫu 5 sào 3 thước thì mức sở hữu bình
quân một chủ sẽ là 3 mẫu 8 sào 7 thước. Cụ thể số liệu sở hữu ruộng đất của từng xã
được thống kê ở bảng sau:
Bảng 2.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa (năm 1840)
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Ruộng tư
Diện tích có
Số
Bình quân
Số
Bình quân
Xã, thôn
ghi trong
thể tính
thửa
1 thửa
chủ
một chủ
địa bạ
sở hữu
Thu Ngạc
13.9.01.5.0
13.9.01.5.0
1.7.05.8.0
2.2.13.4.0
8
6
An Dưỡng
135.8.06.0.0
31.2.05.0.0
5.2.00.2.0
5.2.00.2.0
6
6
An Sào
34.9.05.5.0
34.9.05.5.0
4.3.10.0.0
4.9.13.6.0
8
7
Bạn Lữ
28.5.12.9.0
28.5.12.9.0
3.1.11.4.0
5.7.02.5.0
9
5
Vân Bán
33.4.03.7.0
21.9.03.0.0
7.3.01.0.0
7.3.01.0.0
3
3
Đông Lỗ
4.1.02.2.0
2.7.01.1.0
0.5.06.2.0
0.5.06.2.0
5
5
Thượng Long
139.6.07.3.0
25.6.07.3.0
4.2.11.2.0
4.2.11.2.0
6
6
Quế Sơn
122.7.01.2.0
21.2.00.0.0
4.2.06.0.0
4.2.06.0.0
5
5
Sa Lung
7.9.04.2.0
7.9.04.2.0
1.9.12.3.0
1.9.12.3.0
4
4
Nga Mi
60.0.11.3.0
30.0.00.0.0
10.0.00.0.0
10.0.00.0.0
3
3
Đoài Lỗ
17.6.00.2.1
13.1.00.0.0
1.6.05.6.0
1.6.05.6.0
8
8
Hương Lan
2.5.01.2.0
2.5.01.2.0
1.2.08.1.0
1.2.08.1.0
2
2
Vân Lung
5.3.07.5.0
5.3.07.5.0
1.3.05.3.0
2.6.11.6.0
4
2
Tổng
606.6.04.7.1
238.5.03.0.0
71
3.3.08.9.0 62
3.8.07.0.0
Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
42
Trong 62 chủ sở hữu nêu ở bảng trên, chúng tôi thống kê thấy 100% chủ sở
hữu là phân canh, không có người phụ canh. Chứng tỏ ở đây “ruộng làng nào làng ấy
cấy”, nông dân gắn liền với ruộng đồng còn rất chặt chẽ.
- Chất lượng ruộng đất
Yên Lập 100% là ruộng hạng 3. Do điều kiện đất đai và khí hậu khắc nghiệt
của miền núi rừng nên cư dân nơi đây chỉ cấy được một vụ đó là vụ thu. Vì vậy,
nhân dân không đủ lương thực để ăn, nạn đói thường xuyên xảy ra.
- Sở hữu ruộng đất của nhóm họ
Bảng 2.9. Sự phân bố ruộng đất của nhóm họ năm (1840)
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Tổng số Thứ tự Họ Tỷ lệ % Diện tích sở hữu Tỷ lệ % chủ
18 1 Hoàng 29,03 72.5.14.3.0 30,25
1 2 Hạ 1,61 0.6.00.0.0 0,25
11 3 Đinh 17,74 23.3.08.5.4 9,79
1 4 Đỗ 1,61 6.2.03.0.0 2,61
1 5 Trần 1,61 2.0.01.2.0 0,84
Nguyễn 13 76.9.04.4.6 32,31 6 20,97
2 7 Lý 3,23 10.4.02.6.0 4,55
1 8 Phan 1,61 6.0.00.0.0 2,52
3 9 Đặng 4,84 4.2.07.6.0 1,76
2 10 Hà 3,23 3.6.01.0.0 1,51
1 11 Lê 1,61 1.1.00.0.0 0,46
2 12 Cù 3,23 14.0.11.0.0 5,88
2 13 Phạm 3,23 4.9.04.2.0 2,06
4 14 Dương 6,45 12.4.05.1.0 5,21
Tổng 62 100% 238.5.03.0.0 100%
Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
43
Từ bảng số liệu trên ta thấy, dưới thời vua Minh Mệnh tại thời điểm năm 1840
Yên Lập có 62 chủ chia thành 14 nhóm họ, nhưng số lượng người giữa các nhóm họ
không đều: có tới 42/62 chủ của họ Hoàng, họ Nguyễn, họ Đinh (chiếm 67,74% tổng
số chủ) và chiếm 72,35% tổng diện tích ruộng đất. Nhưng bên cạnh đó có rất nhiều
nhóm họ chỉ có 1 chủ sở hữu như các nhóm họ: Hạ, Đỗ, Trần, Phan, Lê. Nếu xét về
mức sở hữu trung bình của mỗi chủ trong từng nhóm họ, ta thấy trong 14 nhóm họ,
nhóm họ Hoàng nhiều về số chủ, nhiều về diện tích nhưng mức bình quân sở hữu chỉ
có 4 mẫu 4 thước 9 tấc. Bên cạnh đó có những họ chỉ có một chủ nhưng lại có mức sở
hữu cao như họ Cù (7 mẫu 5 thước), họ Đỗ (6 mẫu 2 sào 3 thước). Dòng họ Hoàng từ
thời Gia Long đến thời Minh Mệnh vẫn là một dòng họ lớn, có tầm ảnh hưởng rộng
về kinh tế, chính trị cũng như văn hóa đối với nhân dân trong huyệnYên Lập.
- Tình hình sở hữu của các chức sắc
Khác với thời Gia Long, một đặc điểm nổi bật trong cơ cấu chức sắc thời Minh
Mệnh 21 (1840) là chỉ có lý trưởng và hương trưởng. Năm 1828, Minh Mệnh có một
số cải tổ về bộ máy quản lý làng xã bỏ chức xã trưởng và thay bằng chức lý trưởng:
“cho các xã thôn, các phường đều đặt một lý trưởng, định số 50 người trở lên thì đặt
thêm một phó lý trưởng, định số 150 người trở lên thì đặt thêm 2 phó lý trưởng. Đều
lấy người vật lực, cần cán làm cho, do cai tổng cùng dân làng đồng tình bầu cử, phủ
huyện xét kỹ lại, bẩm lên trấn để cấp văn bằng và mộc triện” [26, tr. 85]. Theo đó tại
Yên Lập mỗi xã chỉ còn hai chức sắc là lý trưởng và hương trưởng
Bảng 2.10. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm 1840
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Chức vị <1 mẫu 1 đến 5 mẫu 5 đến 10 mẫu 10 đến 20 mẫu 20 đến 30 mẫu
Lý trưởng
Hương trưởng
Tổng cộng Không ruộng đất 2 13,33 5 45,46 7 26,93 13,33 2 3 27,27 5 19,23 4 26,67 2 18,18 6 23,08 3 20 1 9,09 4 15,38 3 20 3 11,53 1 6,67 1 3,85
Số chủ % 15 % 11 % 26 100 Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
44
Về quy mô sở hữu ruộng đất: Lý trưởng là người sở hữu lớn so với các chủ
khác và diện tích ruộng đất (15 chủ chiếm 82,41% tổng diện tích ruộng đất với 86 mẫu
7 sào 12 thước 6 tấc). Còn hương trưởng với 11 chủ nhưng chỉ chiếm có 17,59% tổng
diện tích ruộng đất. Bên cạnh đó cũng có một số chức sắc không có ruộng đất như: Lý
trưởng: Lý Đình Sanh, xã Bạn Lữ, tổng Vân Bán; Lý trưởng: Đinh Đức Chung, xã Vân
Lung, tổng Đông Lỗ; Hương trưởng: Nguyễn Hữu Nhân, xã Hương Lan, tổng Đông
Lỗ…Ngược lại có lý trưởng lại sở hữu với quy mô lớn tới hơn 21 mẫu, đó là lý trưởng
Nguyễn Đăng Khán, xã Nga Mi, tổng Sơn Lương. Điều đó cho thấy, sự phân bố ruộng
đất trong hàng ngũ chức sắc ở Yên Lập thời Minh Mệnh là không đồng đều. Do vậy
không phải cứ chức sắc là thuộc hàng khá giả.
Bộ máy chức sắc có sự thay đổi về chức vụ nhưng nhìn chung họ vẫn là những
người có sở hữu lớn về ruộng đất của huyện.
2.1.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và Minh
Mệnh 21 (1840)
Dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh, trong khoảng 35 năm giữa hai thời
điểm 1805-1840, ở Yên Lập không có sự thay đổi lớn về quy mô cũng như tình hình
sở hữu. Tuy nhiên để có cái nhìn rõ hơn về tình hình ruộng đất ở Yên Lập trong giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XIX chúng tôi đã sử dụng địa bạ của 5 xã đều được lập tại hai
thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21 để so sánh. Đó là địa bạ các xã Sa Lung, Bạn
Lữ, Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng. Qua việc tìm hiểu có thể làm rõ được những
thay đổi quan trọng trong vấn đề sử dụng đất đai cũng như tình hình sở hữu ruộng đất
ở Yên Lập thời Nguyễn trong gian đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Qua xử lý, tổng hợp và
thống kê số liệu của địa bạ, tình hình ruộng đất của 5 xã như sau:
Bảng 2.11. Bảng so sánh sự phân bố các loại ruộng đất
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Gia Long 4 (1805) Minh Mệnh 21 (1840) Loại ruộng
Thực trưng - Tư điền Lưu hoang - Tư điền Tổng Diện tích 103.5.11.6.0 103.5.11.6.0 106.1.01.7.0 106.1.01.7.0 219.6.13.3.0 Diện tích 49.8.05.1.0 49.8.05.1.0 168.8.08.2.0 168.8.08.2.0 219.6.13.3.0 Tỷ lệ % 47,13 47,13 52,87 52,87 100%
Tỷ lệ % 22,68 22,68 77,32 77,32 100% Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
của 5 xã Sa Lung, Bạn Lữ, Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng.
45
Sau 35 năm (1805 - 1840) tổng diện tích ruộng đất của 5 xã không thay đổi vẫn
giữ mức 219 mẫu 6 sào 13 thước 3 tấc. Tuy nhiên phần thực trưng tăng 54 mẫu (103mẫu
- 49mẫu = 54 mẫu). Cùng với đó ruộng đất lưu hoang đã giảm do được phục trưng
(hơn 62 mẫu) để canh tác. Điều đó chứng tỏ quá trình tư hữu hóa ruộng đất vẫn tiếp
tục diễn ra trong giai đoạn này. Những cố gắng của nhà Nguyễn nhằm tăng quỹ ruộng
đất công đã không phát huy tác dụng ở huyện miền núi Yên Lập, ruộng đất công vẫn
tiếp tục “vắng bóng” trong thời gian này.
- Tình trạng sở hữu ruộng đất tư
Để thấy rõ sự biến đổi trong mức độ sở hữu của các chủ tư hữu chúng tôi đã
lập bảng so sánh sau:
Bảng 2.12. So sánh quy mô sở hữu ruộng tư
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Gia long 4 (1805) Minh Mệnh 21 (1840) Quy mô sở Số chủ Diện tích sở hữu Số chủ Diện tích sở hữu hữu % % % %
5 2.1.05.0.0 6 3.1.01.4.0 < 1 mẫu 41,67 4,32 25,00 2,9
1 3.5.00.7.0 6 17.2.02.6.0 1 đến 5 mẫu 8,33 7,56 25,00 16,62
63.1.02.0.0 5 30.7.00.0.0 10 5 đến 10 mẫu
60,97 41,67 66,31 41,67
1 10.0.03.0.0 2 20.1.05.6.0 10 đến 20 mẫu 8,33 21,81 8,33 19,51
12 46.3.08.7.0 24 103.5.11.6.0 Tổng 100 100 100 100
Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
của 5 xã Sa Lung, Vân Bán, Bạn Lữ, Thu Ngạc, An Dưỡng.
Quy mô sở hữu của các chủ ruộng thay đổi đáng kể. Năm 1840, tổng số chủ sở
hữu tăng lên so với năm 1805 là 12 người nhưng sự gia tăng đó không được phân bố
đồng đều vào các lớp chủ sở hữu.
46
Lớp chủ sở hữu dưới 1 mẫu giảm 16,67% về số chủ và 1,42% về diện tích.
Nhưng trung bình sở hữu ruộng đất của một chủ lại tăng nhẹ từ 4 sào 4 thước lên 5
sào 2 thước 7 tấc 1 phân.
Lớp chủ sở hữu ruộng đất từ 1 đến 5 mẫu tăng thêm 16,67% số chủ và diện
tích cũng tăng 9,6%. Nhưng bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ lại giảm từ 3
mẫu 5 sào 7 tấc 5 xuống còn 2 mẫu 8 sào 10 thước 4 tấc 3 phân.
Lớp chủ sở hữu ruộng đất từ 5 đến 10 mẫu không tăng về số chủ (41,67%)
Nhưng giảm nhẹ về diện tích 5,34%. Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ tăng
rất ít từ 6 mẫu 1 sào 6 thước lên 6 mẫu 3 sào 1 thước 7 tấc (chỉ tăng hơn 2 sào).
Tương tự như vậy lớp chủ sở hữu ruộng đất từ 10 đến 20 mẫu tăng thêm 1 chủ
(từ 1 lên 2 chủ) và cũng tăng về diện tích ruộng đất (từ 10 mẫu 3 thước lên 20 mẫu 1
sào 5 thước 6 tấc ). Do vậy bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ cũng tăng 7
thước 3 tấc.
Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở Yên Lập thời Gia Long (1805) là 3
mẫu 8 sào 9 thước 8 tấc, nếu so với bình quân ruộng đất của một chủ sở hữu thời
điểm Minh Mệnh (1840) là 4 mẫu 3 sào 2 thước 1 tấc thì rõ ràng bình quân sở hữu
ruộng đất một chủ ở thời Minh Mệnh cao hơn 4 sào 2 thước 3 tấc. Điều này có thể lý
giải do diện tích ruộng đất lưu hoang giảm xuống 62 mẫu, cùng với đó diện tích thực
trưng tăng lên 54 mẫu, trong khi số chủ sở hữu tăng gấp đôi (từ 12 lên 24 người) thì
diện tích sở hữu lại tăng hơn hai lần (103 - 46 = 57 mẫu) nên tổng diện tích ruộng đất
chia ra cho các chủ sở hữu mới vì vậy cũng tăng lên.
Như vậy ở cả hai thời điểm, quy mô sở hữu của các chủ đều tập trung vào lớp
thứ ba (từ 5 mẫu trở lên) với nửa số chủ nhưng chiếm tới hơn 80% diện tích ruộng đất
- So sánh quy mô sở hữu của các nhóm họ
Trên cơ sở địa bạ của 5 xã tại 2 thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21 chúng
tôi đã thống kê được 9 nhóm họ.
47
Bảng 2.13. So sánh tình hình sở hữu của các dòng họ của 5 xã
Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân
Năm Gia Long 4
Năm Minh Mệnh 21
Thứ
Nhóm họ
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
tự
Diện tích
Diện tích
chủ
%
%
chủ
%
%
8,33
6.0.03.4.0 13,04
1
Đặng
1
8,33
10.0.03.0.0 21,74
12,5
4.2.00.0.0
4,06
2
Đinh
1
3
33,34
25.6.11.6.0 53,04
33,33
34.6.03.5.0 33,43
3
Hoàng
4
8
8,33
0.5.05.0.0
1,09
10.4.02.6.0 10,14
4
Lý
1
2
8,33
16,67
0.7.00.0.0
1,52
4.9.04.2.0
4,73
5
Phạm
2
2
8,33
Nguyễn
25,00
4.4.00.7.0
9,57
25,00
36.5.13.3.0 35,27
6
3
6
7
Hà
0.6.00.0.0
0,58
1
4,17
8
Đỗ
6.2.03.0.0
5,99
1
4,17
9
Phan
6.0.00.0.0
5,80
1
4,17
Tổng
12
100
46.3.08.7.0
100 24
100
103.5.11.6.0 100%
Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
của 5 xã Sa Lung, Bạn Lữ, Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng.
Theo bảng 2.13, từ địa bạ Gia Long đến địa bạ Minh Mệnh tổng số chủ
tăng thêm 12 người và số nhóm họ cũng tăng thêm 3. Nếu so sánh cụ thể từng
nhóm họ thì thấy chỉ có 5 nhóm họ trùng nhau giữa hai thời điểm, ngoài ra trong
địa bạ Gia Long 4 có 1 nhóm họ mà ở địa bạ Minh Mệnh 21 không có, hoặc
ngược lại trong địa bạ Minh Mệnh lại có 3 nhóm họ khác mà ở địa bạ Gia Long
không có. Tuy vậy, có một đặc điểm chung cho cả 4 nhóm họ không trùng lặp
này là mỗi họ đều chỉ có 1 người. Điều đó cho thấy từ năm 1805 đến năm1840 ở
huyện Trấn Yên những biến động về dân cư vẫn diễn ra. Trong 9 nhóm họ ở Yên
Lập, xét về mức độ tư hữu là diện tích sở hữu trên tổng số chủ cao nhất ở thời
điểm Gia Long 4 (1805) là nhóm họ Đinh (10 mẫu 3 thước), thấp nhất là nhóm
họ Phạm (3 sào 7 thước 5 tấc). Nhưng đến năm Minh Mệnh 21 (1840) cao nhất
lại là họ Đỗ (6 mẫu 2 sào 3 thước), thấp nhất là họ Hà (6 sào).
- Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc
Qua thống kê 5 xã có địa bạ 1805 và 1840 chúng tôi thấy có 10 chức sắc thời
Gia Long 4 và 10 chức sắc thời Minh Mệnh 21. Cụ thể tình hình sở hữu của các chức
sắc xem phụ lục:
48
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy: Hệ thống chức sắc trong các xã thôn ở Yên
Lập năm Minh Mệnh 21 giảm hơn so với năm Gia Long 4. Các chức sắc: xã trưởng,
thôn trưởng, sắc mục không còn nữa và thay vào đó là chức lý trưởng và hương trưởng.
Tỷ lệ những chức sắc không có ruộng đất của Yên Lập tại hai thời điểm có địa bạ
không thay đổi là 20%. Bên cạnh một số chức sắc không có sở hữu ruộng đất, những
chức sắc sở hữu dưới 1 mẫu giảm (từ 50% xuống còn 10 %), còn số chức sắc sở hữu từ
1 đến 5 mẫu, từ 5 đến 10 mẫu đều tăng lên (từ 10% lên 30%). Nhìn chung cải cách
hành chính của vua Minh Mệnh đã làm cho bộ máy nhà nước bớt đi sự cồng kềnh.
Ruộng đất tập trung vào tay các địa chủ khá giả tăng từ 20% thời Gia Long lên 40%
thời Minh Mệnh (nếu tính mức sở hữu từ 5 mẫu trở lên là địa chủ khá giả) nhưng phần
lớn các chức sắc vẫn là những người sở hữu lớn về ruộng đất trong các làng xã.
2.2. Chế độ tô thuế
Tô thuế là nguồn tài chính chủ yếu của nhà nước dựa vào nguồn sở hữu ruộng
đất của vương triều là chính, thế nhưng vào nửa đầu thế kỷ XIX, do ruộng đất công
làng xã thuộc quyền sở hữu của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng, triều Nguyễn do
đó đặc biệt quan tâm đến nguồn thu từ tô thuế. Năm 1803, Vua Gia Long ban hành
chế độ tô thuế mới, chia cả nước làm bốn khu vực để thu thuế ruộng đất, chia làm
bốn loại ruộng đất để đánh thuế khác nhau. Các triều vua kế tiếp cũng có điều chỉnh,
sửa chữa ít nhiều.
+ Khu vực 1: Gồm các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa,
Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh.
+ Khu vực 2: Gồm các địa phương Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc,
Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, phủ Phụng Thiên.
+ Khu vực 3: Gồm Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Cao Bằng.
+ Khu vực 4: Gồm Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên,
Kiên Giang. [17, tr. 162].
Theo đó, mức thuế của huyện Yên Lập, phủ Quy hóa, tỉnh Hưng Hóa thuộc
khu vực 3. Biểu thuế này như sau:
Hạng nhất nộp 50 bát/ mẫu với ruộng đất công, 20 bất/ mẫu với ruộng đất tư.
49
Hạng nhì nộp 42 bát/ mẫu với ruộng đất công, 20 bát/ mẫu đối với ruộng tư.
Hạng ba nộp 25 bát/ mẫu đối với ruộng đất công, 10 bát/ mẫu đối với ruộng tư.
[17, tr. 162].
Trên cơ sở đó, Yên Lập với 100% là ruộng tư nên mức thuế mà nhân dân sẽ
phải đóng là: Ruộng hạng 3: 10 bát/ mẫu.
Thời Minh Mệnh chia cả nước làm 3 khu vực:
Khu vực 1: Như thời Gia Long
Khu vực 2: Từ Nghệ An ra Bắc
Khu vực 3: như khu vực 4 thời Gia Long
Trên cơ sở phân chia khu vực của vua Minh Mệnh, tỉnh Hưng Hóa thuộc khu
vực 2. Mức thuế như sau:
Hạng nhất 80 thăng/ mẫu với ruộng công và 26 thăng/ mẫu đối với ruộng tư.
Hạng nhì 56 thăng/ mẫu với ruộng công và 20 thăng/ mẫu đối với ruộng tư.
Hạng ba 33 thăng/ mẫu đối với ruộng công và 13 thăng/ mẫu dối với ruộng tư.
[17, tr. 163].
Như vậy, mức thuế mà nhân dân Yên Lập phải đóng góp là: ruộng hạng 3:
ruộng công 33 thăng/mẫu, ruộng tư 13 thăng/mẫu. Ngoài thuế ruộng, nhân dân huyện
Yên Lập phải đóng góp thêm nhiều loại thuế khác nữa theo quy định của nhà nước
như thuế vải, thuế sản vật, thuế đinh…và các nghĩa vụ binh dịch rất nặng nề.
Qua nghiên cứu địa bạ huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX, chúng tôi thấy đặc
điểm nổi bật nhất ở Yên Lập là gần 100% diện tích đất đai là ruộng tư, sang thời
Minh Mệnh có ruộng đất công nhưng diện tích rất nhỏ (4 mẫu 5 sào 2 tấc 1 phân,
chiếm 0,74%), chứng tỏ quá trình tư hữu hóa ruộng đất đã diễn ra mạnh mẽ ở khu
vực miền núi phía Bắc. Tình trạng phụ canh không diễn ra ở đây. Do điều kiện địa
hình ¾ là đồi núi nên ruộng đất ở Yên Lập không tập trung, manh mún nên quy mô
sở hữu ruộng tư chưa lớn, chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ. Trong sở hữu tư nhân nổi
bật là xu hướng tập trung ruộng đất vào 2 nhóm họ lớn là nhóm họ Hoàng và nhóm
họ Nguyễn. Các nhóm họ có sự chênh lệnh rõ rệt cả về số chủ và diện tích sở hữu.
Các chức sắc không những có quyền về chính trị mà họ còn nắm trong tay một số
diện tích ruộng đất khá lớn. Những đặc điểm này cho thấy huyện Yên Lập nằm trong
xu hướng phát triển chung của cả nước lúc bấy giờ.
50
2.3. Tình hình kinh tế
2.3.1. Nông nghiệp
- Trồng trọt: Trong truyền thống, cư dân Mường canh tác chủ yếu ở các ruộng
nước, thung lũng, hay những doi đất hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp
với hệ thống mương, phai rất đặc trưng. Lúa nước là cây lương thực chính. Dĩ nhiên,
với nông nghiệp ruộng nước thì công cụ sản xuất chủ yếu là cày, bừa và cuốc. Cây
lúa với hàng chục loại giống khác nhau, đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong các
loại cây trồng. Trên nền tảng của truyền thống nông nghiệp ruộng nước, cư dân nơi
đây đã xây dựng một hệ thống nông lịch hoàn chỉnh, đồng thời họ cũng đúc kết và
tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu trong trồng trọt mà cho đến nay vẫn còn có
nhiều tác dụng tích cực.
Đối với canh tác ruộng nước thì thủy lợi giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Nguồn nước chính thường là nước mưa và nước của các con suối chảy giữa lòng
thung lũng, các khe mạch chảy thường xuyên hay định kỳ. Dựa trên các nguồn nước
tự nhiên, cư dân đã xây dựng một hệ thống thủy lợi khá hoàn chỉnh bao gồm.
Mương là những đường dẫn nước vào ruộng, có thể chạy men theo sườn đồi,
sườn núi hoặc dọc các khu đồng, vừa cung cấp nước cho trồng trọt vừa tiêu nước khi có
lũ. Mương có thể đào chìm hay đắp nổi. Nguồn nước từ mương lấy từ phai.
Phai là loại đập đắp ngăn suối để dâng nước vào mương. Trước kia, phai hầu
hét chỉ được kè bằng đá hoặc các thân cây gỗ xếp chồng lên nhau, đóng cọc hai bên
cho khỏi đổ.
Nhìn chung, mương của cư dân nơi đây không to như mương của người Việt ở
đồng bằng sông Hồng, chỉ vừa một bước chân và vì vậy phai cũng rất nhỏ.
Hạnh là hệ thống dẫn nước nhỏ đắp bờ hai bên lấy nước từ mương vào các
cánh đồng. Để đưa nước tới từng thửa ruộng người ta dùng cuốc khơi rãnh ở bờ hạnh,
gọi là tạng, khi đủ nước bỏ tạng đi đắp lại. Đối với các thửa ruộng cao hơn nguồn
nước người Mường dùng cọn nâng nước lên đổ vào ruộng.
Mặc dù hệ thống thủy lợi rất đơn giản nhưng lại rất có hiệu quả cho
trồng trọt.
Cùng với hệ thống thủy lợi, người Mường đã xây dựng một tập quán canh tác
nông nghiệp khá ổn định và thành thạo, phù hợp với từng loại ruộng ( ruộng thụt lầy
51
và ruộng bậc thang) đúc kết thành những kinh nghiệm trong sản xuất. Nhìn chung
ruộng của cư dân nơi đây là những mảnh ruộng phẳng chồng lên nhau theo các hình
bậc thang, với cách bố trí như vậy đảm bảo sự phân phối nước một cách tốt nhất, và
đảm bảo cho nước lưu thông một cách đều đặn bằng những phương pháp đơn giản.
Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn nhỏ có
răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô
xếp để trên gác, khi cần dùng lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt
rồi đem giã.
Làm ruộng nước với những khâu kỹ thuật liên hoàn gồm bốn công đoạn kế
tiếp nhau: Làm đất, gieo trồng, chăm bón và thu hoạch. Về kỹ thuật hoàn toàn dựa
trên phương pháp cổ truyền.
Cư dân nơi đây không chỉ làm ruộng nước trong thung lũng mà còn làm
nương trên các sườn đồi, núi bao quanh thung lũng, khi mà diện tích lúa nước
có hạn.
Nương là những khoảng đất rừng được phát, đốt để gieo trồng nhưng không
bằng phẳng, không có bờ giữ nước. Nương ở đây chủ yếu là nương lúa, ngoài ra còn
có nương sắn, nương ngô, nương bông. Trên nương cư dân cũng có tập quán trồng
xen canh một vài giống cây trồng khác như đỗ, vừng trồng xen ngô.
Với một hệ thống cây trồng như vậy nên trồng trọt trên nương đã cung cấp
nguồn lương thực, thực phẩm cho cư dân gần như quanh năm. Nương ngô thường
phát vào tháng chạp năm trước, tháng giêng năm sau đốt và tra hạt đến tháng 4-5 thu
hoạch. Nếu trồng lúa thì tháng 3-4 phát, đốt, tháng 5-6 tra hạt, tháng 9-10 thu hoạch.
Có nhiều loại lúa nương khác nhau, tùy theo địa thế của từng mảnh nương mà họ
chọn giống lúa cho phù hợp. Để giữ màu ở nương dốc, người ta làm đường cản nước,
tức là xẻ rãnh ngang trên đầu của mảnh nương và xẻ dọc thêm một số rãnh dọc sườn
núi để khi mưa xuống nước sẽ thoát theo những rãnh đó hạn chế được sự xói lở làm
hại đến cây trồng. Cách làm này cũng giống như ở các tộc người H’mông, Dao.
Sản phẩm của kinh tế nương rẫy đến nay vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời
sống của cư dân địa phương, đặc biệt là đối với cư dân sống trên những vùng núi cao
như người Dao, một phần người Mường.
52
- Chăn nuôi: Điều kiện tự nhiên đã tạo cho chăn nuôi phát triển nhưng cũng
chỉ là nghề phụ của gia đình, hoàn toàn phụ thuộc vào nông nghiệp. Vật nuôi có
nhiều loại như: gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, trâu, bò. Chăn nuôi nhằm mục đích lấy sức
kéo, làm thực phẩm phục vụ gia đình và một phần đem bán.
Tập quán thả rông trâu bò từ lâu đã trở thành phổ biến. Đồng bào thường chăn
thả ở những sườn đồi, thung lũng. Ngoài lối chăn thả này, trâu, bò còn được chăn
theo lối buộc dây để trẻ em hoặc người già trông nom. Họ nuôi trâu bò để cày, bừa,
kéo gỗ làm nhà, hay dùng để thồ thóc, lúa, ngô ở trên nương về nhà. Riêng đàn lợn
được chăm sóc chu đáo hơn, chuồng làm dưới gầm sàn hoặc góc vườn, hàng ngày
được chủ cho ăn hai hoặc ba bữa. Chăn nuôi lợn phổ biến nhất vì kỹ thuật chăn nuôi
đơn giản, đồng bào chỉ cần dùng rau trong vườn, rau rừng, cây chuối, ngô, sắn để nấu
chín hoặc cho ăn sống. Hơn nữa lợn là động vật cung cấp thịt ăn được nhiều người ưa
dùng. Lợn còn là nguồn thực phẩm dùng trong bữa ăn hằng ngày cũng như trong việc
hiếu, hỷ, lễ tết, cúng thần cúng ma…Vì vậy, hộ gia đình nào cũng nuôi từ một đến hai
con trở lên. Trong mỗi gia đình đều có một khoảng vườn hoặc sân nhỏ để nuôi gà, vịt,
ngan, ngỗng để ăn trứng, thịt hoặc đem trao đổi ngoài chợ.
Chăn nuôi trâu bò là công việc của nam giới, còn lợn, gà, vịt do nữ giới đảm
nhận. Đây cũng là lối phân công lao động đã hình thành từ xa xưa trong sinh hoạt
hằng ngày của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam.
Chăn nuôi trâu, bò, lợn có vị trí đáng kể trong kinh tế gia đình. Những con vật
nuôi được coi như một khoản tiền tiết kiệm khi cần có thể đem bán để mua sắm đồ
đạc và lương thực trong gia đình. Thậm chí còn coi đó là thước đo của sự giàu nghèo,
nhà nào có việc đều phải mổ trâu làm lễ. Nhiều nhà còn có đào ao thả cá để phục vụ
cho bữa ăn.
Nhìn chung, đồng bào nơi đây vẫn coi chăn nuôi chỉ là nghề phụ, chủ yếu là để
phục vụ sản xuất nông nghiệp, cung cấp thực phẩm cho con người, phục vụ cho việc
cúng bái… Cho nên, chăn nuôi ở Yên Lập chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình. Ngày
nay, do nhu cầu của thị trường, chăn nuôi đã phát triển thêm một bước không chỉ
cung cấp nguồn lương thực cho gia đình mà còn là hàng hóa bán ra thị thường và là
nguồn thu nhập chính của nhiều hộ dân.
53
Tóm lại, kinh tế chủ yếu của cư dân Yên Lập là kinh tế nông nghiệp. Trong
nông nghiệp, cây lúa là cây trồng chính. Bên cạnh đó, còn trồng các loại hoa màu và
cây nông nghiệp khác, đồng thời tận dụng những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên để
bổ sung thêm nguồn thức ăn cho con người và gia súc.
2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp
- Thủ công nghiệp: Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, các nghề thủ công truyền
thống cũng tương đối phát triển, không chỉ đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp mà còn có
sản phẩm trao đổi với bên ngoài. Đồng bào dân tộc huyện Yên Lập từ lâu đã có một
số nghề thủ công truyền thống: nghề dệt vải, đan lát, làm mộc… Trong các nghề thủ
công nổi bật nhất là nghề ươm tơ, dệt vải. Trước đây gia đình Mường nào cũng có
khung cửi, họ tự trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm và dệt vải.
Dâu, bông được trồng ở vườn hoặc bãi bằng, trồng bằng cành, theo luống,được
bón phân, làm cỏ chu đáo. Cùng với việc trồng dâu chuẩn bị thức ăn cho tằm là việc
lấy giống tằm. Công việc chăn tằm cũng rất công phu, luôn phải trông coi từ bữa ăn,
giấc ngủ của nó. Tằm được nuôi nơi thoáng mát, rộng rãi, tránh ruồi, muỗi, kiến đốt,
lá dâu cho tằm ăn phải sạch sẽ, khô ráo nhưng không được héo. Nuôi tằm khâu vệ
sinh phải được đặc biệt chú trọng vì nó sẽ quyết định tới chất lượng kén.
Theo kinh nghiệm dân gian, tằm làm kén được 2-3 ngày là thời điểm đẹp
nhất để kéo tơ. Người ta buộc dựng đứng vào cạnh quai nồi nước sôi thả kén một
cột tre nhỏ, rồi buộc vào cột tre đó một thanh tre nhỏ bằng cái đũa làm trục nằm
ngang miệng nồi mỗi lần 15-20 cái kén, tay phải dùng đũa khuấy đều, tay trái
kéo ra từng sợi tơ quấn qua ống tre và kéo dài tơ ra đựng vào nong, chậu đặt bên
cạnh. Nước luộc kén phải luôn sôi thì tơ kéo mới có màu vàng ươm. Cứ kéo
được chừng một nén tơ tương đương khoảng một lạng thì gói riêng vào lá chuối,
dùng cối đá nén cho hết nước rồi đem phơi ở chỗ râm mát cho khỏi mất màu. Từ
nén tơ quấn quanh con sợi và từ đó dệt thành vải. Cứ mười con sợi (1kg tơ) dệt
khoảng 180 vuông lụa. Vải tơ tằm rất bền và mềm được rất nhiều người ưa dùng.
Công việc dệt vải mộc, lụa tơ tằm hoàn toàn do người phụ nữ tranh thủ trong
buổi nông nhàn, rất ít người là thợ chuyên nghiệp.
54
Người phụ nữ Mường làm ra những vuông vải cho mình, cho những người thân
trong gia đình và làm của hồi môn đem đến nhà chồng. Những tấm chăn, mảnh vải, vỏ
gối, quần áo, đặc biệt là chiếc cạp váy của phụ nữ với những hoa văn đặc sắc luôn
mang dấu ấn của những tháng ngày cặm cụi, miệt mài bên khung cửi do phụ nữ
Mường tạo ra. Sự khéo léo thể hiện trong những vuông vải trở thành một trong những
tiêu chuẩn về giá trị của người phụ nữ Mường.
Mặc dù rất khéo léo nhưng nghề mộc của người Mường mới chỉ dừng lại ở phạm
vi tương trợ, giúp nhau dựng nhà, làm khung cửi, làm đuống, cối giã gạo, làm quan tài
gỗ…phục vụ cho sản xuất, vui chơi chứ không chuyên sản xuất đồ gỗ.
Nghề đan lát: Hầu hết các gia đình đều tự túc được các đồ đan thông thường
như giần, sàng, tấm phên, sọt, rổ, đồ đánh bắt cá, đồ đựng quần áo… Công việc đan
lát có thể làm quanh năm, nhưng thường tập trung vào lúc nông nhàn. Nguyên liệu
lấy từ cây tre, nứa có sẵn trong vườn hoặc trên rừng được chặt về gác lên rãnh bếp để
khi nào rảnh việc thì lấy xuống đan và đồ đan sẽ dùng được bền, không bị mọt. Nghề
đan lát có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người Mường, người
Dao và cả người Kinh nơi đây. Họ dùng những sản phẩm đó để đựng các đồ dùng
sinh hoạt trong gia đình.
Nghề làm đồ trang sức: Phát triển chủ yếu trong đồng bào Dao. Nguyên liệu chủ
yếu là bạc. Có nhiều sản phẩm như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, nhẫn,... Ngoài ra đồ
trang sức chế tạo từ đá spilit quắc dít, amphibôlit… là nguồn nguyên liệu có sẵn ở địa
phương. Họ dùng ngay các công cụ bằng đá để cưa, khoan, tiện mài và đánh bóng.
Nhìn chung, thủ công nghiệp nơi đây vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi nông
nghiệp, vẫn chỉ là nghề phụ gia đình, làm vào những lúc nông nhàn.
- Thương nghiệp: Đất Hưng Hóa từ năm Minh Mệnh 13 (1831) được hoạch
định hành chính thành tỉnh, bên dưới là phủ, huyện, tổng, xã (hoặc làng). Ở tỉnh lỵ,
phủ lỵ, huyện lỵ đều có chợ. Chợ tỉnh Hưng Hóa ở làng Trúc Phê (Tam Nông), tỉnh
lỵ chuyển lên làng Phú Thọ, chợ cũng chuyển lên theo gọi là chợ Mè. Mỗi huyện lỵ
đều có chợ. Chợ huyện Yên Lập họp tại “Ngã Hai, ngày phiên chợ theo Âm lịch 2, 7,
12, 17, 22, 27. Bán các thổ sản: thóc, ngô, củ nâu, vỏ,mộc nhĩ, măng, thuốc lá” [7, tr.
43]. Do đặc điểm địa hình nên đường đi lại buôn bán của Yên Lập chủ yếu thông qua
55
con đường bộ từ Việt Trì đi Ngọc Lập, từ Hưng Hóa đi Đồn Vàng. Không chỉ những
thổ dân đến họp, nhiều người trung châu cũng tải hàng lên bán. Những hàng hóa mà
thổ dân bán lẫn cho nhau phần nhiều là thực phẩm. Những thứ buôn dưới xuôi lên là
gạo, đỗ, dầu hỏa,muối, cá khô, vải, hàng tạp hóa như nồi, niêu, thúng, nón…Còn “các
Mường, Mán ở Thanh Sơn, Yên Lập hay Đoan Hùng mang lâm sản đổi cho người
Kinh lấy muối, mắm, cá khô, dầu hỏa.” [7, tr. 40]. Ngược lại tại các thị xã, thị trấn
nơi có nhiều công chức cơ quan, binh lính, học sinh, khách bộ hành lưu trú là những
đối tượng tiêu thụ nhiều hàng hóa. Đây là điểm thu hút người mua người bán cả một
vùng nông thôn rộng lớn. Nông dân ra thị xã bán thóc gạo, gà vịt, tôm cá, rau quả, tre
gỗ, măng tươi, măng khô, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong và các sản phẩm nông, lâm
nghiệp khác. Họ lại mua về những thứ mà chợ phiên không có hoặc rẻ hơn. Thị xã,
thị trấn cũng là nơi thu gom tập kết các sản vật địa phương để cung cấp cho các tỉnh
lân cận.
Tuy nhiên, do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã quy định kinh tế Yên Lập
chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp chỉ mang
tính chất là nghề phụ chưa tách khỏi nông nghiệp.
Tiểu kết: Là một huyện miền núi của vùng tây bắc, vấn đề ruộng đất trong nửa
đầu thế kỷ XIX qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840), chúng
tôi thấy tình hình ruộng đất ở huyện Yên Lập có một số đặc điểm sau: ở Yên Lập
hoàn toàn không có ruộng đất công, 100% là diện tích ruộng tư. Quy mô sở hữu
ruộng đất chưa lớn, chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ. Phần lớn ruộng đất tập trung vào
nhóm họ Hoàng vì đây là một dòng họ thổ tù thế tập, ngoài ra còn có họ Nguyễn, họ
Đinh. Trong địa bạ, chất lượng đất đai chỉ có ruộng hạng ba, thu điền. Kinh tế nông
nghiệp của huyện còn lạc hậu chủ yếu là trồng lúa với kỹ thuật canh tác thô sơ, lạc
hậu dẫn đến năng suất cây trồng thấp, thủ công nghiệp kém phát triển, trình độ tay
nghề thấp sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ trong gia đình, thương nghiệp chỉ phát
triển ở nhưng nơi đông dân cư, trung tâm của huyện.
56
Chương 3
VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
3.1. Làng bản và nhà cửa
Người Mường ở Yên Lập cư trú tập trung ở những dải đồng bằng thung lũng
hẹp dưới chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối, ngòi hay trên các đồi gò
thấp. Làng bản Mường tập trung thành từng chòm, xóm, ẩn dưới màu xanh cây cối
trồng quanh nhà. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30 nóc nhà, bản to có
thể nhiều nhà hơn. Khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau,
cây mít. Trên tất cả các khu vực định cư của người Mường có nhiều cánh đồng, đất
đai thuận tiện cho trồng trọt. Đường vào bản thường là những con đường mòn nhỏ
quanh co men theo sườn đồi, gò hoặc phải lội qua những con suối, ngòi tạo cảm giác
dễ nhầm dễ lạc.
Mỗi làng của người Mường thường quần tụ nhiều dòng họ, trung bình mỗi
làng có từ bốn đến năm dòng họ. Làng thiết lập ở sườn đồi, nhà cửa bố trí từ chân đồi
lên lưng chừng đồi theo hình vành khăn. Nếp nhà chính là nhà sàn, tựa lưng vào núi,
mặt ngoảnh ra đồng ruộng. “Tên làng thường đặt theo đặc điểm địa hình tự nhiên.
Mỗi làng có một miếu thờ thổ công, bến nước chung, bãi thả trâu, bãi tha ma và cùng
chung một hệ thống thủy lợi. Làng có ranh giới riêng, mặc dù chỉ mang tính ước lệ
nhưng được truyền lại cho nhiều thế hệ. Người Mường thường dựa vào dòng nước,
sông suối, gốc cây to hay hòn đá để phân chia địa giới của làng” [35, tr. 25-26].
Khác với bản làng của người Mường, người Kinh, làng bản của người Dao
Yên Lập được thiết lập trên những bản động vùng cao, dốc gần suối nước hoặc nơi có
điều kiện dẫn nước về nhà. Mỗi thôn có khoảng vài chục nóc nhà cũng có khi đông
hơn. Do ảnh hưởng hình thức bố trí nơi cư trú của người Mường, nên xung quanh nhà
ở của người Dao cũng có một khoảng đất trống để làm vườn nhỏ trồng rau xanh và
cây ăn quả. Những nơi có điều kiện người ta còn đào ao để thả cá và nuôi ngan vịt.
Khác với những người dân tộc thiểu số, làng của người Kinh được lập nên ở
những nơi bằng phẳng, là khu vực trung tâm của vùng đó, thuận tiện cho việc đi lại,
làm ăn buôn bán và theo tiêu chí “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”.
57
Nhà ở của người Mường Yên Lập phổ biến là nhà sàn và là loại hình nhà
truyền thống. Nhà sàn của Việt Nam đã lưu giữ trong nó một giá trị lịch sử văn hóa
mang đậm bản sắc dân tộc. Đặc biệt “nhà sàn Mường với dáng nhà cổ xưa có mái
khum khum hình mai rùa như được miêu tả trên trống đồng Ngọc Lũ thuộc về văn
hóa Đông Sơn mà cả thế giới biết đến” [12, tr. 86].
Như vậy nhà sàn không chỉ là chỗ ở, mà còn là sự biểu hiện của lối sống,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn hóa của đồng bào các dân tộc Việt Nam. Tính
chất cổ xưa của ngôi nhà sàn Mường thể hiện ở việc nó được nhắc đến trong mo
Mường Đẻ đất đẻ nước đó là việc rùa xám, rùa vàng (rùa thiêng) dạy dân cách làm
nhà sàn, dựa trên sự mô phỏng tự nhiên một cách sáng tạo và ngôi nhà sàn được làm
nên từ gỗ lạt, nứa lá, tranh tre vừa thích ứng, vừa khai thác tự nhiên.
Nhà sàn Mường thường có bốn gian và năm hàng cột. Có hai yếu tố rất quan
trọng của ngôi nhà sàn Mường truyền thống là nơi thờ cúng và nơi đặt bếp. Nhà ở của
người Mường có một cái cột gọi là cột chồ ở góc phía cầu thang nơi đầu thang liền
với sàn. Cột này được gọi là cột thiêng. Bàn thờ gia tiên được làm cạnh cột này.
Nhà sàn Mường bố trí các gian trên sàn như sau:
Gian đầu là gian có cột chồ, được gọi là gian gốc, chỉ đàn ông trong nhà
được nằm ở đó, vì có bàn thờ gia tiên. Trong các việc như tang lễ, hôn lễ chỉ
những người có vai cao trong họ mới được ngồi ăn cơm ở gian này, trải chiếu sát
với cửa sổ. Ở gian này còn có một cột cái đối diện với cột chồ, ở chỗ để các ống
nước chân cầu thang. Bên chân cột này là chỗ để chơi và vài cum lúa đã rũ hết
thóc. Cột được đội một cái giỏ thủng mà xà chen lên và treo một đoạn tre hay gỗ
tước xơ ra ở một đầu, đoạn tre này là biểu tượng dương tính, gọi là nõ, và cái giỏ
thủng là biểu tượng âm tính gọi là nường.
Gian thứ hai là đàn ông và khách nam ngủ. Gian thứ ba có bếp và buồng cho
phụ nữ. Trong nhà được ngăn ra, phía trên vách bếp đặt bàn thờ táo quân. Gian thứ tư
là nhà ở trong, nơi đàn bà trong nhà ngủ, có chạn bát, đồ dùng gia đình và là nơi sửa
soạn cơm nước.
Nhà sàn của người Mường truyền thống còn thể hiện tính công dụng đa năng
của nó. Vì gia đình bình dân chỉ có một ngôi nhà duy nhất, phần sàn nhà vừa để ở,
58
vừa làm bếp; phía trên sàn là gác để thóc lúa; gầm sàn là nơi cất giữ công cụ sản xuất
(cày, bừa, cuốc, thuổng, nơm úp cá…), cất giữ củi đun, nhốt trâu, bò, chồng nuôi lợn,
gà, vịt…rìa cạnh nhà sàn ( ở dưới đất) đặt máng vò lúa, cối xay lúa, cối giã… Còn
nhà quan Lang có nhiều căn: nhà chính, nhà phụ, kho thóc, nhà bếp, chuồng trại…
Nhà sàn Mường là một biểu hiện sinh động đặc sắc của văn hóa vật chất từng
gắn bó máu thịt với sinh hoạt hằng ngày của đồng bào qua nhiều thế hệ. Trong cấu
trúc truyền thống, nhà sàn là một kiến trúc đa năng, ngôi nhà thỏa mãn nhiều nhu cầu
sinh hoạt và sản xuất của mỗi gia đình.
Còn người Kinh thường ở nhà đan phên trát vách đất trộn rơm rạ, mái lợp cọ
hoặc tranh, nền nhà và sân bằng đất nện. Nhà khá giả thì lát gạch nền nhà và sân làm
chỗ phơi thóc có tường gạch xây bao quanh nhà. Nhà chia làm ba gian, nhà to chia
làm năm gian, hai phía đầu hồi thường làm thêm hai chái nhà, có mái một bên chéo
xuống. Hai chái nhà thường làm kho chứa thóc, lúa, đồ đạc và các dụng cụ sinh hoạt
hằng ngày. Có nhà dùng làm buồng cho đàn bà, con gái ngủ. Các chái nhà đều có cửa
mở ra gian nhà chính. Trước nhà đều có hiên để ngồi chơi, hóng mát. Nhà bếp tách
khỏi nhà ở, có nhà làm nhà ngang, nơi để cối xay, cối giã gạo, chạn bát, nồi niêu…
Chuồng trâu, bò, lợn, gà, vịt…tách khỏi nhà ở, nhưng nhiều nhà đất hẹp, chuồng trâu,
bò, lợn nối liền với nhà bếp. Việc dựng nhà cửa của người Kinh được xem là cái mốc
quan trọng trong đời một con người, đấy cũng là một trong ba tiêu chí đánh giá người
đàn ông xứng đáng được xã hội xem trọng hay chưa.
Nhà ở của người Dao thường làm theo lối nửa đất (phần trệt) nửa sàn. Một nửa
dựa vào thế núi, nửa kia làm sàn nhằm thích hợp với cuộc sống du canh du cư và cư trú
nơi đất dốc. Người Dao Quần Chẹt chọn đất làm nhà như sau: “khi tìm được địa điểm
vừa ý, chọn ngày tốt khấn tổ tiên, nói rõ địa hình địa vật nơi định làm nhà và tối ngủ
chờ báo mộng. Mộng thấy điềm tốt hoặc không mộng gì thì làm nhà được. Sau đó chờ
một ngày tốt khác, chủ gia đình đến nơi đã định dùng dao nạo sạch một chỗ đất hình
tròn to bằng miệng đĩa, nện đất thật chặt rồi cắm hai que nứa chéo nhau thành hình dấu
nhân ở giữa vòng tròn ấy. Sớm hôm sau ra thăm, không thấy kiến làm tổ, không có vết
con gì đi qua họ mới làm nhà ở đó” [10, tr. 238]. Họ tận dụng những nguyên liệu có
sẵn tại chỗ để làm nhà như gỗ, tre, nứa, dây rừng, cỏ tranh, lá gồi...Người Dao không
59
có thợ làm nhà chuyên nghiệp, mà mọi người trong thôn xóm đều biết làm. Đặc biệt là
phụ nữ Dao Tiền cũng biết cưa, đục, bào, đẽo bằng rìu như đàn ông.
3.2. Ẩm thực
Người Mường ở Yên Lập có mẫu số chung về văn hóa ẩm thực của cộng đồng
Mường, thể hiện qua câu tục ngữ cổ: “ Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui,
tháng tới”. Trong đó nổi lên những món ăn không thể thiếu của người Mường, đó là
các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ, thịt lợn chua, cá chua, thịt thính…
Lúa là cây lương thực chính nên thành phần chủ yếu trong bữa ăn của người
Mường gồm có cơm, rau và cá khô, ít khi có thịt. Họ chế biến gạo nếp bằng cách “ đồ”
thành cơm nếp, có khi lại chế biến thành cơm lam theo một kiểu khác. Cơm rau đồ chín
được dỡ ra rá, tải đều cho khỏi nát trước khi ăn. Đặc biệt ở Yên Lập có loại xôi nếp “
gà gáy” nổi tiếng thơm ngon dẻo ngọt từ xa xưa. Bên cạnh thức ăn chính là cơm, rau,
người Mường nơi đây còn có một số món ăn khác như sau:
Món măng được khai thác từ rừng núi là món ăn rất ưa thích của người Mường
nơi đây. Măng có nhiều loại và được thu hái theo mùa để làm thức ăn như măng tre,
măng nứa, măng giang, măng vầu, măng sặt…Măng được chế biến bằng cách đồ, luộc,
nướng, xào…Măng có thể luộc hoặc muối chua ăn quanh năm. Măng tươi bỏ hũ ngâm
nước ít hôm là thành măng chua. Các gia đình người Mường có những chum to ngâm
măng chua, loại thái mỏng ăn ngay, loại ngâm chua cả cây măng thì có thể để lâu ăn
dần cho đến vụ măng năm sau. Món măng chua nay còn dược dùng để làm lễ vật cúng
tổ tiên trong dịp tết. Măng chua dùng để nấu cá, nấu ếch, nấu vịt, thịt gà là những món
ăn đặc sắc của người Mường.
Ngoài ra người Mường Yên Lập còn có một số món ăn có nguồn gốc động vật
mang đậm tính văn hóa tộc người
Món “ đĩa quéch” là món mà vào dịp tết cổ truyền, trên mâm cỗ bày bàn thờ
cúng tổ tiên của người Mường không thể thiếu. Một đĩa quéch bao gồm bốn bộ
phận “ tuôi, thai, quai, chò” tức là đuôi, tai, mảng đầu mũi, chân giò, mang ý nghĩa
tượng trưng đầy đủ cho một con lợn toàn vẹn mà con cháu dâng cúng tổ tiên để tỏ
lòng thành kính.
Một món nữa cũng được chế biến từ thịt lợn đó là món “ thịt chua” rất được người
Mường Yên Lập yêu thích. Thịt pha thỏi, khía mỏng, xát muối ướp kín. Hai tháng sau bóp
60
thịt với cơm hoặc bóp với thính (bột ngô rang). Thịt cho vào thính, phủ trên một lượt cơm
nóng, rồi đậy kín bằng lá dong, úp miệng chĩnh vào bồ gio để hút ráo nước, dòi, bọ không
vào đẻ. Đó là cách làm món thịt chua đặc sắc của người Mường.
Món cá đốt: Do Yên Lập có nhiều suối có cá chạy dọc các làng. Người ta bắt cá
còn tươi nguyên, gói trong ba lượt bẹ chuối tươi. Đốt củi gỗ thành than rồi vùi than đỏ
bao quanh gói cá. Khi cá chín, người ta cầm cả con bóc dần phần thịt chấm với nước
tương gừng ăn nóng. Đó là món ăn phổ biến dân dã của người Mường ở Yên Lập. Cá
cũng có thể được ướp chua. Cá được mổ bỏ ruột, rửa sạch, để ráo nước, ướp muối, sau
đó rắc cơm nguội và men rượu rồi trộn kỹ cho cá ngấm đều. Xếp cá vào hũ, bịt kín
bằng nhiều lớp lá chuối đã hơ qua lửa. Sau mười lăm ngày cho thêm thính ngô nếp,
riềng, hành hoa, tất cả trộn đều rồi lại bịt lá chuối, trát cho kín miệng hũ. Cá muối chua
từ ba đến sáu tháng là “chín” và để dự trữ ăn quanh năm. Khi ăn thường dùng lá thầu
dầu bánh tẻ gói cá chua, kẹp nương trên than hồng hoặc dùng nấu canh, làm bánh. Đây
là món ăn không thể thiếu trong dịp lễ tết của người Mường.
Về đồ uống có món rượu cần của người Mường với nhiều nét riêng và đặc sắc.
Công việc ủ hũ rượu cần thường do những người phụ nữ đảm trách. Rượu được ủ từ
men chế biến từ lá quế và bột gạo nghiền nhỏ rắc lên một loại xôi nếp đặc biệt ( xôi sau
khi đã được đồ chín tãi ra cho nguội). Tiếp đó là quá trình ủ lên men, phơi sấy rồi cho
vào bình ủ tiếp. Khi rượu đã được, đổ nước vào bình ngâm tiếp khoảng hai tiếng thì
rượu ngấm. Rượu cần ủ sẵn có thể để quanh năm, và nếu không mở nắp, không đổ
nước, cứ ủ kín, bình rượu cần có thể cất giữ vài năm, càng để lâu rượu càng ngon càng
quý, dùng để tiếp khách quý hoặc trong các dịp đón tết năm mới, cưới xin, dựng nhà,
mừng nhà mới hay dịp lễ hội của làng bản.
“Gọi là rượu cần bởi khi uống rượu đồng bào dùng bộ cần trúc, được làm từ
những nhánh tre hoặc trúc nhỏ, hơ lửa và thông lỗ, được uốn theo dáng bình, mỗi bình
có thể cắm nhiều ống để nhiều người cùng thưởng thức. Do vậy có ý kiến đã nhận xét
rằng, rượu cần là thứ không thể “độc ẩm”, cũng không thể “đối ẩm” mà phải là “quần
ẩm”, nhiều người cùng uống rượu cần tạo nên sự gắn kết cộng đồng bằng chất men
ngọt ngào của rượu được gìn giữ từ bao đời nay” [12, tr. 55-56].
Bên cạnh rượu cần, người Mường còn có một thức uống độc đáo đó là
“rượu Hoẵng”.
61
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Đặc biệt
phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Còn nước uống hằng ngày, người Mường uống nước lã múc trực tiếp từ “mó”, hoặc
khe suối. Nước trong vắt, được đựng trong ống bương, vác về nhà, uống mát rượi.
Còn người Kinh, từ xa xưa tới nay là dùng cơm tẻ và các loại ngũ cốc: đỗ, lạc,
vừng, ngô, khoai, sắn. Gạo nếp được dùng nấu xôi, chè ngày Tết, giỗ chạp, gạo nếp
còn dùng nấu rượu và làm bánh. Người Kinh rất thích ăn những món mắm làm bằng
tôm, tép, cá. Trong bữa ăn nhất thiết phải có món canh hoặc món luộc để có nước
húp, chan. Người Kinh có thói quen ăn trầu, cả đàn ông và đàn bà, chủ yếu là đàn
bà. Lá trầu kèm với vôi tôi, miếng vỏ cây (cây chay, cây vỏ già) và miếng cau được
ăn cùng một lúc. Ăn trầu đã trở thành một nét văn hóa Việt cổ và thành một phong
tục có tính nghi thức bắt buộc trong việc tế, lễ, ăn hỏi, lễ cưới, hội hè… những ngày
đó nhất thiết phải có trầu cau. Đàn ông thường hút thuốc lào, một số ít hút thuốc lá.
Các thức uống quen thuộc hàng ngày là nước vối, chè xanh. Cây chè được trồng
ngay trong vườn nhà hoặc ở bờ đồi, bờ nương, người dân hái lấy lá về đun nước
uống. Uống trà hút thuốc là một trong những thói quen lâu đời của người Kinh.
Rượu trắng nấu từ gạo, khoai, sắn là thức uống có men say chỉ dùng trong các ngày
lễ tết, hội hè, cưới hỏi, ma chay, đình đám.
Còn người Dao, do sinh sống gần người Mường nên trong sinh hoạt hằng ngày họ
bị ảnh hưởng lớn từ người Mường. Có thể tóm tắt trong câu “cơm lam, nhà gác, nước
vác, lợn thui. Cơm ăn hằng ngày không thổi bằng nồi họ đổ vào ống nứa tươi, đốt cho
chín rồi bóc ra ăn. Nước múc vào ống tre hay bương, để tiện lúc trèo cao xuống dốc. Nhà
ở là nhà sàn tức cũng là nhà gác, dưới sàn nuôi gia súc để tiện việc đề phòng ác thú.
Thực phẩm có rau và cá khô, ít khi có thịt. Các ngày hội hè hoặc khi có công việc thì
phải giết thú vật, thì họ dùng lửa để thui, trước khi nấu chín” [7, tr. 22].
3.3. Y phục và trang sức
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang
phục. Người Mường Yên Lập có chung những nét trang phục của cộng đồng Mường.
Nhất là thể hiện ở y phục phụ nữ: “ một cái váy, một cái yếm, một chiếc áo yếm hoặc
một chiếc áo dài hai chiếc thắt lưng với một cái khăn nhô trùm đầu”. [45, tr. 78].
62
Áo của phụ nữ Mường gồm có áo ngắn và áo chùng. Áo ngắn là loại áo mặc
thường ngày có tên là “áo pắn”. Đây là loại áo cổ tròn, cánh ngắn, xẻ ngực, không cài
khuy, nên khi mặc để hở cả phần cạp váy. Thân áo ngắn chấm eo, ống tay dài, có màu
nâu hoặc trắng. Áo chùng giống như áo ngắn nhưng được kéo dài xuống ngang gối
hoặc dưới gối, phía dưới hơi xòe rộng, hai vạt áo buông không cà cúc. Áo chùng có các
màu tím than hoặc đen.
Bên trong áo là yếm, có loại mặc thường ngày gọi là áo báng, thường có màu
trắng và loại dùng trong trang phục của các nàng dâu khi “múa quạt ma” của nghi thức
trong tang ma gọi là yếm có màu đỏ. Phụ nữ Mường dùng khăn đội đầu là một mảng
vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa cầu kỳ như một số tộc người khác.
Váy phụ nữ Mường thường là váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí
là đầu váy và cạp váy, với hoa văn độc đáo và máu sắc thanh nhã, được dệt rất công
phu là bộ phận nổi bật nhất trên trang phục. Khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữ
trọng tâm cơ thể, ôm lấy ngang ngực người phụ nữ. Nhiều chiếc cạp váy Mường cổ
dệt bằng sợi tơ tằm, màu nhuộm tự nhiên, được dùng qua nhiều thế hệ, hơn nửa thế
kỷ mà mặt thổ cẩm vẫn đanh, màu sắc vẫn đẹp. Gấu váy luôn được đáp bằng một
mảnh vải màu đỏ vào phía trong, khi bước đi sẽ ẩn hiện theo bước chân làm cho
chiếc váy thêm duyên dáng.
Cạp váy Mường có bố cục ba phần: rang trên, rang dưới và cao. Phần rang trên
của cạp váy ôm lấy phần ngực của người mặc, phần rang dưới có nhiều dải ngang nhỏ
chồng lên nhau. Phần dưới cùng của cạp váy được gọi là cao gồm những dải nhỏ màu
sắc rực rỡ đan xen nhau theo chiều thẳng đứng dọc theo thân váy. “Hoa văn cạp váy
Mường Phú Thọ không lộng lẫy mà giản dị đằm thắm, họa tiết và màu sắc bắt đầu
chìm dần vào màu đen của thân váy” [45, tr. 78].
Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 dây bạc có treo hộp
quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc. Ngoài ra còn có một vật dụng gắn bó với người
phụ nữ Mường trong lao động thường ngày đó là chiếc “ớp”. Đây là một loại giỏ tre
nhỏ, có miệng rộng, đáy bằng được phụ nữ Mường đeo ở sau lưng để trong khi đi cấy
đi gặt hoặc đi làm nương họ bắt thêm cua, ôc, rau, măng, nấm…để bổ sung vào bữa ăn
63
hằng ngày. Chiếc “ớp” này được những người đàn ông Mường đan bằng nan tre rất
tinh xảo và xinh xắn, còn dây đeo ớp được chị em tết bằng sợi dây vải. Ngoài tính ích
dụng, chiếc ớp như một vật dụng trang trí của người phụ nữ Mường khi lao động.
Trang phục Mường ngày lễ hoặc trang phục của các “nàng” (con gái nhà lang),
thường có màu sắc sặc sỡ hơn, được dệt may bằng sợi tốt, cắt may và trang trí cầu kì
hơn. Áo chùng mặc ngoài ngày lễ thường dùng màu sáng, kết hợp với khăn có màu dịu
nhẹ vòng qua gáy xuống hai bên ngực áo phía trước, tạo nên vẻ mềm mại, trang nhã
cho người mặc.
Trang phục người Mường còn có trang phục của thầy Mo. Đó là chiếc áo dài
năm thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đầu
đội mũ vải nhọn đầu. Thầy Mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.
Còn đàn ông Mường thường mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi
dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông, đầu cuốn
khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữ bụng, gọi là khăn quần. Tóc để dài
và búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác
dôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và sườn phải.
Còn người Kinh quần áo không thêu thùa ít cách điệu. Đàn ông nông thôn đi
chân đất, mặc áo cánh nhuộm nâu, quần màu nâu chân què. Những ngày lễ hội, hoặc
việc đình đám, ngày tết, giỗ chạp trong họ, người có của thì đi đôi guốc mộc bằng gỗ
hoặc tre, mặc chiếc áo cánh trắng, quần trắng. Người giàu thì mặc quần trắng, áo lụa
màu mỡ gà, chân đi guốc mộc, có người mặc áo the đen dài ra ngoài áo cánh trắng, đầu
đội khăn xếp. Phụ nữ thường mặc áo cánh xẻ tà, áo cánh màu nâu hoặc nâu non, mặc
yếm che ngực. Yếm là một mảnh vải màu nâu đỏ, nâu hoặc nâu nhạt, có khi màu trắng
đeo lên trước ngực. Yếm không che hai bên lườn và lưng, có dây đeo lên cổ buộc ra
sau gáy và hai dây ở hai bên yếm ( chỗ giữa thân yếm) buộc ra sau lưng. Đầu chít khăn
mỏ quạ nâu hoặc đen. Họ mặc váy nâu hoặc đen, đi chân đất. Vào dịp lễ tết, hội làng
đàn bà nhất là các cô gái mặc áo cánh trắng, áo cánh nâu gụ nâu thắm hoặc màu hoa
đào, lưng thát bao xanh hoặc đỏ, nâu, đeo chiếc xà tích bằng bạc bên thắt lưng. Phụ nữ
đội nón quai thao, non vành rộng, nhưng thường là đeo nón qua vai hoặc cầm tay hoặc
cầm tay để tránh làm hỏng chiếc khăn mỏ quạ trên đầu. Phần lớn các cô gái mặc áo dài
tứ thân nâu hai hoặc bốn màu, chân đi guốc hoặc dép da trâu xỏ ngón.
64
Bộ nữ phục của Dao Quần Chẹt bao gồm: khăn, áo, yếm, quần, dây lưng, xà cạp.
Nữ giới Dao Quần Chẹt chỉ có áo dài, giống áo nữ Dao Tiền nhưng dài hơn. Khi mặc
chấm mắt cá chân. Nẹp cổ ngắn hơn nẹp cổ áo nữ Dao Tiền và chỉ có vài đường chỉ khâu
đơn giản. Hai thân trước, dưới gấu mỗi thân đắp ba miếng vải hình vuông màu đỏ trắng
xen nhau. Phía trên thêm những mô típ hoa văn hình cũi lợn, vây con rồng màu đỏ. Trên
cùng là mô típ hoa văn hình cây. Thân sau, dưới nách áo khoảng giữa lưng có cụm hoa
văn. Dưới cùng là hai dải hoa văn hình chữ thập ngoặc kép. Dưới gấu áo đắp năm miếng
vải hình vuông, màu đỏ trắng đỏ xen kẽ nhau. Bên trên dải vải màu có nhiều có nhiều mô
típ hoa văn trang trí hơn thân trước. Quần là vải tự dệt nhuộm chàm, cắt may bổ đũng, cạp
luồn dây rút. Ống quần hẹp, đũng quần rộng, vì vậy rất thuận tiện trong mọi hoạt động của
người miền núi. Mô típ hoa văn tập trung ở gấu quần.
Còn nam giới Dao Quần Chẹt mặc áo cánh có ba túi đều được trang trí hoa văn.
Quần là loại quần chân què cạp lá tọa bằng vải tự dệt nhuộm chàm không có trang trí
hoa văn. Chú rể Dao Quần Chẹt không có trang phục riêng. Ngày cưới họ vẫn mặc đồ
thường ngày nhưng có đội thêm cái khăn dài có thêu hoa văn của nữ giới. Trang phục
của thầy cúng gồm có mũ, áo dài, dây buộc ngoài mũ, dây lưng, váy, xà cạp.
Trang sức chủ yếu của người Dao Quần Chẹt là vòng cổ, vòng tay bằng bạc
hoặc đồng, có mặt cắt tròn, dẹt to nhỏ khác nhau, cũng có khi bằng nhựa đỏ vàng xâu
vào với nhau thành dây. Vòng tai bằng nhôm hoặc bạc.
3.4. Tục lệ xã hội
- Sinh đẻ: Ở người Mường khi đứa trẻ mới lọt lòng mẹ, người ta đỡ nó đặt lên
cái “cúm” (như chiếc mẹt to), có lót lá chuối rừng đã nướng mềm. Người mẹ nằm
ngay bên. Nếu là con gái, người ta lấy cái hông thổi xôi bằng gỗ khoét rỗng, nếu là
con trai người ta lấy cái chài đánh cá cũ, đập nhẹ xuống sàn, miệng nói:
“Hỡi con trai dậy mà ti chài ti lứa
Hỡi con tứa dậy mà tháo thơ tháo thằm”
Đại ý là “ Hỡi con trai dậy mà đi kéo chài, đánh lưới (kiếm cá). Hỡi con gái,
dậy mà kéo tơ chăn tằm (dệt vải lụa)” [31, tr 276]. Gọi và đập như thế vài ba lần, chờ
khi đứa trẻ khóc to lên người ta mới đỡ dậy, mặc áo quấn tã. Chờ ba tháng sau tới lễ
làm vía, mới đặt tên cho đứa trẻ. Anh em, họ hàng đem quà bánh: cơm lam, trứng gà,
65
chuối…tới mừng. Nếu nhà nào đã đẻ vài bận mà chưa nuôi được con thì khách thăm
sẽ tặng cháu nhỏ chiếc vuốt hổ, xâu dây đeo vào cổ cháu (để trừ tà, giữ vía).
Người Dao có tục đẻ ngay trong buồng ngủ của mình. Đặc biệt khi đẻ thì
chồng, mẹ chồng hoặc chính là sản phụ tự đỡ lấy. Đứa trẻ ra đời có khóc mới được bế
lên, được tắm rửa bằng nước nóng, lá thơm. Nhau thai cho vào ống nứa đem lên rừng
chôn ở nơi khô ráo, nhưng cuống rau thì giữ lại làm thuốc chữa bệnh. Sản phụ rất
chóng phục hồi sức khỏe vì sau khi đẻ được chăm sóc chu đáo như được ăn cơm nếp,
chân giò lợn hầm hoặc thịt gà nấu với gừng và rượu. Các thứ này kèm theo các vị
thuốc bổ. Người nhà treo cành lá xanh hoặc hoa chuối trước cửa để báo cho người lạ
không được vào nhà. Sinh được ba ngày gia đình làm lễ cúng mụ và cầu sức khỏe cho
đứa nhỏ. Đồng thời cũng là lễ đặt tên lần thứ nhất. Lễ vật gồm một lợn sữa, một gà,
một vịt. Thời gian sơ sinh cháu nhỏ được chăm sóc chu đáo như tắm rửa bằng nước lá
thơm và ăn mật ong hằng ngày. Khi dứa trẻ lên mười tuổi người ta làm lễ đặt tên lần
thứ hai, đây được coi là tên chính suốt đời. Lễ rất long trọng. Thầy cúng chọn ngày
tốt và sẽ tiến hành một ngày hai đêm. Lễ đặt tên chỉ dành cho con trai. Đứa trẻ đứng
chịu phép mặc váy hoa, áo chàm, đầu vấn một khăn chàm, đội một tờ tranh thờ, hai
tay cầm hai chèo gỗ và chèo cho tới gần sáng. Lúc này, thầy cả đội một chiếc đèn trên
đầu, thầy hai và bố đứa trẻ mỗi người một đèn trên vai. Trong lúc đứa trẻ chèo đò, hai
ông thầy lần lượt kể lại những chặng đường vượt sông, vượt biển từ nơi xa tới vùng
đất này. Lễ đặt tên lần thứ hai là bắt buộc, vì không có thì đứa trẻ lớn lên sẽ không
được lấy vợ. Đồng bào Dao rất quý con, cha mẹ rất ít chửi mắng hoặc đáng con, dù
đó là con nuôi hay con đẻ. Nên con nuôi cũng gắn với bố mẹ nuôi như con đẻ.
- Cưới xin
Tục lệ người Mường cho phép nam nữ được tự do quen biết, tự do tìm hiểu
người bạn trăm năm của mình, có sự thỏa thuận của cha mẹ. Riêng với nhà Lang
chuyện này phải hỏi ý kiến hội đồng kỳ hào. Đôi trai gái trong mường đến tuổi
trưởng thành, quen biết, trò chuyện, khi ưng nhau thì chàng trai báo cho bố mẹ biết để
chuẩn bị lễ cưới. Để dẫn đến đám cưới phải trải qua các bước: ướm hỏi ( kháo
thiếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ cưới xin (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti
cháu), lễ đón dâu (ti du).
66
Chọn mờ: Sau khi đôi trai gái được gia đình và họ hàng đồng ý cho tổ chức
đám cưới thì nhà trai sẽ chọn và nhờ người làm mờ (mối). Người được chọn phải
đứng tuổi, có uy tín,được mọi người kính nể, gia đình hạnh phúc, con đàn cháu đống,
nói chuyện khéo, có tài ứng đối. Nhiệm vụ của người làm mối bắt đầu từ lúc dạm
ngõ, hỏi thăm, đến lúc đón dâu về nhà trai.
Mờ miệng : Gia đình nhà trai nhờ ông bà mối, mang trầu cau, thuốc lào, bánh
mật đến nhà gái vào lúc chạng vạng tối (lễ dạm hỏi) để ngỏ lời cho đôi bạn trẻ được
thành hôn và trao đổi bàn bạc ngày “kháo thiếng”.
Kháo thiếng (đặt vấn đề): Đến ngày đã chọn, nhà trai chuẩn bị hai gói chè,
mười quả cau, hơn hai mươi lá trầu tất cả được gói kỹ trao cho người mờ đến nhà cô
gái vào lúc chạng vạng tối. Nhà gái mổ gà thiết đãi ông mờ và xem chân gà. Lễ vật
được đặt lên bàn thờ tổ tiên. Sau ba ngày, nếu nhà gái không mang trả lại lễ vật tức là
đồng ý. Rồi tự tay bố cô gái mở gói lễ vật, báo cho họ hàng có tin vui. Kể từ đây hai
nhà trở thành thông gia, con cái được phép đi lại thăm hỏi nhau.
Ti nòm (ăn hỏi): Muốn tiến hành lễ ăn hỏi, nhà trai phải sắm một lễ nhỏ sang
nhà gái xin ngày. Lễ vật gồm một con cá cắt bốn khúc gói trong lá dong, bốn chiếc
bánh chưng không nhân, năm quả cau, mười lá trầu. Sau bữa cơm thân mật hai bên
quyết định chọn ngày ăn hỏi, thường là vào tháng 11, tháng 12 (Âm lịch) là thời điểm
mùa màng đã thu hoạch xong, thời tiết mát mẻ. Lễ ăn hỏi được tiến hành hai lần, lần
đầu gọi là “nòm gà”, sau lễ nòm gà là lễ “nòm lợn”.
Sau lễ ti nòm (ăn hỏi) phải ba năm sau lễ cưới mới chính thức được tiến hành.
Trong thời gian chờ đợi nhà trai chuẩn bị điều kiện vật chất cho lễ cưới. Đây là năm
tháng thử thách gian khổ đối với chàng trai. Vào các dịp lễ tết có quà mang biếu bố
mẹ vợ tương lai với mục đích trả công ơn nuôi dưỡng cô gái trưởng thành.
Ti chau (lễ cưới): Đoàn người đón dâu phải ra đi thật sớm. Đoàn có ông mối,
chú rể, mười phù rể và tốp người gánh lễ vật. Chú rể mặc quần áo đẹp, chít khăn
trắng. Khi đến đầu bản, đoàn đón dâu được các cô gái đứng đợi đưa về nhà. Tới cổng
nhà gái, đám cưới dừng lại. Ông mối đem một cút rượu nhỏ cùng cơi trầu nhỏ vào xin
nhà gái mở cửa. Người ta còn tổ chức hát đối đáp nam nữ cho tới khi nhà gái đồng ý
mở cửa đón đoàn vào nhà. Ông mối và chú rể đi sau cùng. Dọc lối vào nhà,người ta
67
để sẵn nước, lá han, quả sổ, nhọ nồi để trêu chọc té ném chú rể. Đại diện nhà gái
đứng đợi sẵn, nồng nhiệt chào đón. Chào hỏi nhau xong, chú rể rời đám đông, xuống
bếp làm mọi việc như trai làng, cùng mọi người sửa soạn cỗ bàn ăn uống. Chú rể là
người bưng mâm cỗ cúng lên bàn thờ tổ tiên. Lễ tơ hồng được tổ chức ở nhà gái ngay
sau lễ cúng tổ tiên. Rồi ông mối dẫn chú rể đi từng mâm, lễ lạy họ hàng từ ông bà, bố
mẹ vợ, tới anh em chú bác gần xa. Mọi người đều vui vẻ chuốc rượu và mừng tiền
cho chú rể. Nhận rượu, rể uống không cạn chén, tiền cũng bày ra trước mắt nhưng
không cầm mà có người sẽ nhận và cất giữ hộ. Sau lễ tơ hồng, nam nữ thanh niên hát
giao duyên với nhau, rồi cô dâu mới tới lạy trước bàn thờ tổ tiên, lạy chào ông bà, bố
mẹ, anh em họ hàng để lên đường cùng gánh của hồi môn về nhà chồng. Cô dâu có
món quà tặng nhà chồng, đã thành lệ mang về nhà chồng thường là hai cái chăn, hai
cái đệm, hai quả gối tựa để và các vật dụng như: bát, đĩa, nồi, chảo, ấm, chén…để
biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô, dì, chú, bác. Một số nơi
còn có tục cô dâu trên đường về nhà chồng phải dở cơm nắm ra ăn vài lần. Khi đoàn
rước dâu về gần đến nhà, bên nhà trai cũng “đâm đuống” để chào mừng. Đám cưới
thường diễn ra trong ba ngày. Nếu con gái nhà Lang kéo dài năm đến bảy ngày, thậm
chí vài ba tuần. Sau lễ cưới ba ngày, hai vợ chồng trẻ quay lại nhà gái một ngày gọi là
“ti mộng” (lại mặt), đến đây phù dâu hoàn thành trách nhiệm. Cùng ngày này quần
áo, tư trang cô dâu được chuyển về nhà chồng. Đêm hôm đó đôi vợ chồng trẻ mới
được phép động phòng. Một số nơi còn có tục ở rể bên nhà vợ, con rể phải lấy họ vợ
và con cái sinh ra phải lấy theo họ mẹ. Thường tục này được thực hiện khi kinh tế nhà
trai eo hẹp không lo nổi đầy đủ lễ cưới [72].
Nhìn chung hôn nhân người Mường theo chế độ một vợ một chồng, chỉ có
người nhà Lang mới theo chế độ đa thê. Các thủ tục lễ nghi của việc cưới xin ở nhà
giàu hoặc nghèo đều tương tự như nhau. Nhưng có sự cách biệt lớn về số lượng và
chất lượng của đồ lễ thách cưới và cỗ cưới giữa nhà giàu và nhà nghèo. Đối với nhà
giàu đám cưới là dịp thể hiện sự danh giá và phú quý của gia đình mình. Với các gia
đình nghèo thì đám cưới chỉ có tính chất thông báo cho cộng đồng và cũng là dịp để
sum họp gặp mặt gia đình họ hàng. Trong nhiều gia đình cưới con trai được chú ý
hơn cưới con gái, con trai trưởng càng quan trọng nhất là đối với nhà lang.
68
Tục cưới xin của người Dao ở Yên Lập có nhiều nét giống với tục cưới xin của
người Mường trên địa bàn cư trú. Thông thường để nên vợ nên chồng, tục cưới xin
của người Dao nơi đây cũng trải qua các bước: lễ dạm ngõ, lễ hỏi cưới, tổ chức cưới
và sau đám cưới. Tuy sống xen kẽ với người Mường, về mặt văn hóa luôn có sự giao
thoa, ảnh hưởng lẫn nhau, song về cơ bản “chất văn hóa Dao” vẫn giữ đựơc bản sắc
của mình. Đặc biệt là trong tục lệ cưới xin về đại thể cũng tương tự như các nhóm
Dao khác nhưng có mấy nét khác biệt sau. Theo như lời kể của ông Bàn Văn Long,
dân tộc Dao ở xã Nga Hoàng thì sau khi so tuổi và trước khi làm lễ ăn hỏi chính thức,
nhà trai xin nhà gái cho con trai đến “làm công” (Chẩu côông). Ở nhà gái khoảng
bốn, năm ngày, chàng rể tương lai trở về nhà mình, hai ba tháng sau mới trở lại nhà
cô gái tiếp tục “làm công” đem theo chăn màn, quần áo, đồ dùng cá nhân, các công
cụ lao động cần thiết. Từ đây chàng rể được tự do chuyện trò với người vợ chưa cưới
của mình. Tùy theo ý nhà gái mà thời gian “làm công” ngắn hay dài trước lễ ăn hỏi
chính thức và lễ cưới. Nhưng cũng có trường hợp người con trai phải đi làm công ở
nhiều nơi mà vẫn không lấy được vợ do nhà gái không ưng hoặc gặp điềm xấu xảy ra
trong thời gian làm công. Khi bỏ về người con trai không được nhà gái trả công. Khi
đã định ngày cưới nhưng chưa kịp chuẩn bị đồ sính lễ thì người ta tổ chức lễ cưới
tạm; hai bên gia đình tự lo lấy việc ăn uống. Sau này nhà trai có nhiệm vụ trả và làm
lễ cưới chính thức có thể lúc đó họ đã có nhiều con. Nếu đôi vợ chồng nào chưa tổ
chức được lễ cưới chính thức mà đã có con gái lớn đi lấy chồng thì người ta phải mổ
lợn cúng tổ tiên, mời họ hàng và ông bà ngoại của người con gái ấy đến làm lễ “xin
giá” (minh thổ trà); nghĩa là trước đây khi gả mẹ cô gái ấy, ông bà ngoại đã thách
cưới như thế nào thì nay cô cũng thách cưới như thế để trả cho ông bà ngoại. Sau lễ
cưới một tháng làm lễ lại mặt [74].
Lễ cấp sắc (lễ lập tĩnh):
Cấp sắc là một tục lệ rất phổ biến trong dân tộc Dao, và bắt buộc đối với đàn
ông người Dao. Tất cả những người đàn ông người Dao đều phải qua lễ này, thậm chí
lúc sống chưa được cấp sắc, sau khi chết con cháu phải làm lễ cấp sắc. Người Dao
cho rằng đàn ông Dao phải được cấp sắc mới có pháp danh, có chức sắc để cúng bái,
được tổ tiên công nhận là con cháu. Là người am hiểu phong tục tập quán, khi chết
mới được đưa ma về với tổ tiên. Vì vậy hầu hết đàn ông người Dao đều trải qua lễ
69
cấp sắc này và đây là điểm khác biệt so với lễ cấp sắc của một số tộc người khác. Lễ
cấp sắc có đặc điểm là mang tính tôn giáo, nhiều cấp bậc và phải chọn ngày lành
tháng tốt để làm lễ, dùng nhiều loại nhạc cụ. Hằng năm lễ cấp sắc được tổ chức vào
tháng 11,12 hoặc tháng 1, tháng 2 Âm lịch. Tiến hành một lễ cấp sắc của người Dao
nơi đây có các nghi thức chính: Lễ khai đàn, lễ trình diện và những thụ lễ, lễ cấp đèn
và hạ đèn, lễ đặt pháp danh, lễ giao âm binh mã và gạo nuôi quân, lễ qua cầu, lễ cấp
dụng cụ cúng bái, lễ truyền pháp lực, lễ cúng thần mặt trời. Nếu làm lễ cấp sắc từ bảy
đèn trở lên thì thì tiếp tục thực hiện những nghi lễ: Lễ tơ hồng hay còn gọi là lễ cưới
lần thứ hai, lễ cúng hồn lúa, lễ thăm thiên đình hay lễ sinh lần hai, lễ thăng đèn. Lễ
cấp sắc của người Dao rất phong phú, gồm nhiều nghi thức liên quan đến nhiều lĩnh
vực như thế giới tâm linh, văn học nghệ thuật, tập quán sinh hoạt và giáo dục, tập
quán đoàn kết và giúp đỡ nhau trong cộng đồng. Gồm cả ca, múa, nhạc, mĩ thuật, hội
họa, kiến trúc. Xét về tổng thể, lễ cấp sắc chứa đựng nhiều thành tố văn hóa tộc người
Dao, có vai trò kế thừa và kết nối các di sản văn hóa giữa các thế hệ.
Tang ma
Người Kinh: Với tổ tiên từng họ, từng nhà, ý thức này lại càng cụ thể. Mọi
việc ma chay, giỗ chạp đều được lo toan chu đáo đến mức phức tạp và bên cạnh tấm
lòng chân thành của người sống đối với người qua đời, con cháu đối với cha ông
thường chứa đựng nhiều hủ tục.
Cha, mẹ tắt thở: tin buồn được loan báo. Lúc này cả nhà phải nén khóc, chia
nhau lo toan công việc cần kíp. Người trai trưởng thắp ba nén hương khấn cáo tổ tiên
gia đình có người mệnh bạc.
Thi hài được lau bằng nước thơm và thay quần áo mới, vuốt mồm cho mím
chặt, vuốt mắt cho khép kín, nắn chân tay cho thẳng, thân hình ngay ngắn, sau đó
người nhà lấy tấm vải trắng quấn kín thi hài.
Khi con cháu đông đủ thì làm lễ nhập quan. Con cháu nhìn mặt người qua đời
lần cuối cùng. Nắp quan đạy lại cùng lúc với tiếng nấc, tiếng khóc, lời nói tiếc thương
của con cháu cất lên. Linh cữu đặt ở gian giữa. Bàn thờ tang được lập lên. Mọi nghi
thức của đám tang bắt đầu.
Trên nắp quan để một khúc thân chuối non để cắm hương. Lại đặt một bát cơm
tẻ úp đôi trên có quả trứng luộc ở giữa hai chiếc đũa bông (cắm vào bát cơm).
70
Lễ phát phục là nghi thức mặc tang, để trở, một dấu hiệu tưởng nhớ của toàn
thể thân quyến. Chủ tang, người trai trưởng, chia khăn, áo, mũ, gậy cho từng người,
theo từng loại riêng. Trang phục màu trắng bằng vải và xô mới. “ Sống dầu đèn, chết
kèn trống”, một quan niệm cổ, hễ có tang là nhà cố đón phường nhạc hiếu về cử ai,
tiễn đưa hồn người qua đời, cũng là làm nền cho những lễ tục diễn ra.
Sau khi phát tang, họ hàng làng xóm đến chia buồn, bày tỏ nỗi xót thương đối
với người quá cố, với tang gia và xin được làm lễ viếng.
Với tình tương thân tương ái “tối lửa tắt đèn có nhau”, thường xóm, ngõ, hoặc
giáp đứng ra tổ chức việc đưa đám. Người ta đóng cá vào áo quan và nổi trống lệnh.
Trên áo quan lúc này khói hương nghi ngút, lại dẫn nến và vẫn đặt bát cơm cúng. Quan
tài được chuyển bằng tay ra cổng, đặt lên đòn. Lễ đưa đám được chọn vào giờ tốt.
Trình tự một đám tang tùy thuộc vào phong tục từng địa phương, lại tùy thuộc
vào sự giàu nghèo của tang chủ. Càng giàu có lại thêm có chức sắc, nghi thức càng
phức tạp, tốn kém;một phần như muốn phô trương tài sản và gia thế đương sự.
Thông thường là: một lá cờ vuông màu đen trắng, rồi trống cái, minh tinh,
phường nhạc, người mũ gậy (thường con trai hoặc cháu trai trưởng), linh cữu, thân
nhân và con cháu theo liền. Theo đám tang còn có hai người phục dịch khác: một
người rắc vàng, một người cầm cơi trầu, thuốc đưa mời mọi người suốt dọc đường.
Khi hạ huyệt, người nhà và bạn bè thân thích thường ném mấy hòn đất xuống
huyệt, biểu lộ sự vĩnh biệt. Khi nhà có tang thường làm cỗ mời hàng xóm đến ăn
uống. Nhà giàu bày tỏ lòng hiếu nghĩa của mình bằng cỗ bàn linh đình. Với cảnh này,
miệng thế thường cười chê:
“Lúc sống thì chẳng chịu nuôi
Lúc chết cúng tế cho ruồi nó bâu”
Hủ tục này làm khổ người nghèo. Chức dịch thường hạch sách, ăn uống 3
ngày, mỗi ngày 3 bữa, làm tang chủ khốn đốn, hàng năm sau chưa trả xong nợ
nần [31, tr. 284]
Lệ tưởng nhớ theo tập tục là: cúng 3 ngày, 49 ngày và 100 ngày. Sau 100 ngày
làm lễ bỏ bàn thờ phụ, đồng thời khấn cáo tổ tiên rằng từ nay có ma mới xin đồng
hưởng lễ vật với các bậc tiền bối. Năm sau, đúng ngày người thân qua đời, gia đình
làm cỗ cúng, giỗ đầu. Nhà trưởng lo cỗ, các em đóng góp (tùy gia cảnh, gia phong)
71
con cháu về dự đông đủ. Sang năm thứ hai là giỗ hết. Có nơi giỗ hết vào tháng thứ
27. Và bỏ mọi tang chế.
Lệ cổ của người Kinh nơi đây không có cải táng, chôn một lần, gọi là “đào sâu
chôn chặt”. Về sau, tùy từng nơi và theo nghi lễ phong kiến, người ta cũng làm lễ
“sang cát”, “thay áo” cho người quá cố”. Con cháu thu nhặt đủ xương, tẩy rửa sạch sẽ
đặt vào tiểu sành, chôn sang nơi đất mới. Đây là ngôi mộ vĩnh viễn, hình tròn: mồ
tròn, mả dài (ngôi mộ lúc người mới chết) là như vậy, tục này gọi là cải táng.
Người Mường ở Yên Lập quan niệm rằng chết là sự thay đổi môi trường sinh
sống của con người từ “Mường người” sang “Mường ma”, mà các công đoạn của
đám tang được coi là các lễ tiễn đưa long trọng, có sự chứng kiến của cả cộng đồng,
có cả sự chia của cải cho người chết.
Đồng bào Mường rất coi trọng việc tang lễ. Nếu là cha mẹ (đại tang), việc tổ
chức càng phải chu đáo. Lễ cúng khấn kéo dài từ ba đêm đến 12 ngày, tùy theo cảnh
nhà nghèo hay giàu có. Việc ăn uống linh đình càng gây nhiều tổn phí và mệt nhọc
cho thân nhân. Lễ tang được tổ chức theo trình tự như sau:
Khi nhà có người hấp hối, người nhà đánh ba hồi chiêng để mọi người đến
nhìn mặt lần cuối. Đến lúc tắt thở chiêng và trống mới được gõ liên hồi. Có nơi họ
còn dùng cối đuống để báo tang.
Người ốm vừa tắt thở, người nhà ra cửa bắn ba phát súng chỉ thiên hoặc đánh
một hồi chiêng báo chung cho dân bản tin buồn. Trong nhà phải yên lặng, nếu khóc
ma trời, ma đất lang thang sẽ đến tìm ăn mất phần ma mới (người vừa quá cố). Thi
hài được lau rửa bằng nước thơm, mặc quần áo mới, nhưng vạt áo và gấu quần thì để
xổ như tước rách, rồi được bó lại dặt lên chiếu mới ở gian giữa. Người nhà làm lễ
“phát khốc”, tức khóc tiếc thương người quá cố sau khi người con trai trưởng mặc áo
tang vải thô trắng, ra phía cửa sổ, rút dao đeo bên lưng chém vào cửa sổ ba nhát và
kêu to “Trời ơi! Bố (hoặc mẹ) tôi chết rồi”. Đó là lễ động tiếng, mọi người trong nhà
cùng òa lên khóc. Hòa cùng là tiếng chiêng, tiếng trống đánh theo nhịp chậm.
Tang chủ bắt đầu chia việc: một người đi mời thầy Mo, một hai người khác
đến từng nhà anh em, họ hàng và bản làng báo tin buồn. Người Mường dùng thân cây
làm quan tài. Một đoạn thân cây to, gỗ tốt, đường kính khoảng 60cm, dài trên 2m,
72
khoét rỗng lòng như chiếc thuyền độc mộc. Nắp trên cùng đẽo một thân gỗ tương tự,
sao cho đậy khít thân dưới.
Khi đã đặt thi hài vào quan, thầy Mo rất bận rộn với hồn. Thầy sẽ đưa hồn đi
các nơi và đón trả về, theo đúng tục cổ. Đưa hồn hay đón hồn đều dưới hình thức cầu
cúng, hát kể chuyện. Nhiều nơi thầy Mo kể mo “Đẻ đất đẻ nước”, một đêm không kể
hết phải mười hai đêm mới trọn. Mỗi đêm dân bản đều kéo đến nghe mo, không biết
đêm qua ngày tới. Người chết chưa được chôn ngay mà quàn trong nhà từ bảy ngày
cho đến ba tháng, có nơi còn lâu hơn (trường hợp này được gọi là làm ma khô). Hàng
ngày người nhà phải cúng cơm, thịt, rau, đốt hương trước quan tài.
Chuyến đi đầu tiên: thầy Mo khấn đưa hồn lên trời, hỏi duyên cớ về việc chết.
Chuyến thứ hai: thầy Mo đưa hồn xuống âm phủ, để hồn nhận họ hàng, tổ tiên,
thăm hỏi và báo tin mình sắp xuống đó.
Chuyến thứ ba: thầy Mo cùng hồn thong dong dạo chơi, xem hoa rừng trên cõi
trần, trước lúc vĩnh biệt mặt đất gọi là du ngoạn thăm hoa.
Sau ba chuyến đi hồn nhập vào xác trong áo quan, hưởng sự cúng lễ của con
cháu. Lễ cúng báo hiếu cũng là cỗ tang được tổ chức chu đáo, linh đình. Cả bản cùng
đều chia buồn, cùng ăn cỗ. Sau tiệc ăn, thầy Mo cúng linh hồn lần cuối và đưa linh
cữu đi chôn. Thầy dặn dò hồn, báo cho hồn những tài sản mà gia đình đã chia cho để
hồn dùng dưới âm. Nếu là ngài hoặc thổ tù chết được chôn theo trống đồng. Thực ra
những việc làm chu đáo này trước hết làm cho người sống yên tâm với nghĩa vụ và
đạo làm con cháu của mình.
Khi đưa tang ma mẹ, con cháu phải đi lùi bước. Khi đưa tang cha con cháu
phải đi thẳng hướng. Con trai đội mũ rơm, con gái đội mũ vải xô, cháu nội đội mũ
bện dây chuối.
Khi chôn cất, đắp mộ xong, người ta đặt ba hòn đá to ở phía đầu, hai hòn hai
bên dưới chân, lại làm một nhà mồ bằng tre hoặc gỗ lợp tranh lên trên mộ. Trong nhà
mồ có để bát hương cúng và các thứ vật dụng chia cho hồn. Trước khi ra về, thầy mo
đọc bài khấn cầu yên chia tay với hồn. Trong ba ngày đầu, người nhà phải cúng ở
ngoài mộ cơm, nước, củi, đuốc. Sau trăm ngày có lệ đốt nhà táng.
73
Người Mường không có tục cải táng mà chỉ chôn một lần. Họ chỉ cải táng
khi trong nhà gặp nhiều chuyện rủi ro hoặc xem bói trong nhà tổ tiên có động.
Hài cốt thường cho vào nồi đinh hay cang sành. Để tưởng nhớ người thân, con để
tang cha mẹ, vợ chồng để tang nhau ba năm, gọi là đại tang. Trong thời gian này
không được cưới xin. Quần áo tang màu trắng nhưng sau một trăm ngày phải
nhuộm chàm để mặc tiếp.
Sau thời gian trở, là mãn tang, quần áo tang được mang đi đốt. Từ đó về sau
không cúng giỗ nữa mà chỉ thờ cúng vào các dịp lễ tết. Đối với những trường hợp
chết trẻ, nghi lễ tang ma đơn giản hơn nhiều. Trường hợp chết “bất đắc kỳ tử” như bị
cây đè, đá lăn, đám tang tổ chức ở ngoài nhà.
Người Mường thường có tục lệ cúng tổ tiên trong vòng ba đời.
“Tang lễ là một trong những nghi lễ tôn giáo đậm đặc của người Mường,
là hình thái tập trung của nhiều tập tục cổ truyền thể hiện những quan niệm về vũ
trụ và về nhân sinh quan của tộc người Mường. Bên cạnh những quan niệm lỗi
thời, những tập tục lạc hậu, tang lễ Mường còn bao gồm nhiều giá trị của di sản
văn hóa dân tộc” [35, tr. 73].
Trong tang ma người Dao cho rằng việc sống ở trên đời là “gửi”, khi chết là
lúc linh hồn thanh thản ở cõi Dương châu (cõi thiên đàng của người Dao). Đám tang
của người Dao chia làm hai loại: ma tươi và ma khô. Người Dao vẫn giữ tục chôn cất
một lần không cải táng. Tang lễ phải do thầy tào, thầy cúng làm theo trình tự ghi
trong sách cúng của họ.
3.5. Lễ tết
Cũng giống như các dân tộc khác sinh sống bằng nông nghiệp, săn bắt và hái lượm.
Các ngày lễ tết của người Mường diễn ra theo chu kỳ liên quan đến tiết lịch và mùa vụ.
Tết cổ truyền ở bản Mường: “người Mường ăn tết đầu xuân giống người Kinh,
nhưng do cách tính lịch (ngày lui tháng tới), người Mường gọi ngày ba mươi là ngày
“chỉn tún” và ngày mồng một là ngày “pa mươl” (ba mươi), cho nên lễ chính trong
Tết Nguyên đán của người Mường là ngày ba mươi” [4, tr. 13]. Tết thường bắt đầu ở
nhà Lang cun vào ngày chỉn tún, những nhà Lang đạo làm tết kế tiếp ngay sau đó rồi
74
đến các nhà khác. Tết kết thúc vào ngày “páy” tức ngày tám tháng giêng sau khi ăn
xong “thệt láng” (Tết làng). Đó là những ngày ăn tết chung, ngày hòa hợp giữa nhà
Lang và nhà dân. Tổ tiên của nhà Lang được coi là tổ tiên chung của cả Mường, việc
thờ cúng các vị thần khác cũng được làm chung với việc thờ cúng tổ tiên. Khoảng 28
Âm lịch, người ta cắm cây nêu, thương bằng cây trúc, cây lành hanh, cây hóp đá ở
ngoài công công “lang chang” và “moọc chán (bể nước rửa chân). Cắm cây nêu là để
xác định đất ấy đã có chủ, ma quỷ không được vào, chỉ có tổ tiên mới được mời,
đồng thời cây nêu cũng để chỉ đường cho tổ tiên biết con cháu đang chờ đón ở nơi đó.
Chuẩn bị cho một cái Tết được làm từ đầu tháng chạp. Đàn ông vào rừng chặt
cây tươi cho khô để làm củi đun tết. Lá dong cũng được lấy trước hàng tháng đem về
ngâm đầu cuống xuống nước, rằm tháng chạp là giã gạo tết.
Ngày chỉn tún bắt đầu là lễ dâng chiêng (thức chiêng) ở nhà Lang, sau đó là
tiếng trống đại (cái trống vẫn dùng để gọi dân Mường khi có việc), rồi đến bắn ba
phát súng giữa đồng hoặc ở miếu thờ thần hoàng làng vào khoảng canh một. Đó là
dấu hiệu tiễn năm cũ. Tiếp theo người ta rước khẩu súng về nhà Lang, bắn ba phát
nữa. Sau đó cả mường dọn mâm cỗ cúng tổ tiên nhà mình. Cỗ cúng vào dịp Tết
Nguyên đán như sau: nhà Lang phải cúng bằng bảy loại bánh chủ yếu, còn ở nhà nóc
thì chỉ cần cúng bằng những loại bánh thông thường như: bánh chưng, bánh gói bằng
lá chít, bánh gai…Trong ngày Tết bất cứ người khách nào bước lên sàn cũng được
mời ăn cỗ, ăn bánh hoặc uống rượu cần. Sau tiếng trống, tiếng chiêng báo hiệu năm
cũ đã hết, nhịp độ ngày tết trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Trong nhà thờ của nhà Lang lễ
vật được bày la liệt trên bàn thờ tổ tiên, người ta lại bắn ba phát súng và khấn mời tổ
tiên về ăn tết. Trong suốt lễ cúng, người ta gõ chiêng, đánh trống, gõ nhịp một cách
đều đặn trong khuôn viên nhà Lang. Từ sáng sớm đã có những cuộc chúc mừng năm
mới tại nhà Lang. Tất cả người nhà và khách khứa theo sự hứng dẫn của nhà Lang
đến trước nhà thờ (nhà lang có nhà thờ riêng trong khi đó ở nhà nóc chỉ có một bàn
thờ chung cho các việc này). Mọi người xếp hàng theo thứ bậc và tuổi tác để chào
mừng tổ tiên nhà Lang cũng là tổ tiên chung bằng cách quỳ lạỵ đối với đàn ông và vái
lạy đối với đàn bà, khấn xong trước bàn thờ tổ tiên thì buổi lễ kết thúc. Từ đó đến hết
bảy ngày tổ tiên sẽ ở lại ăn tết cùng con cháu. Sau bảy ngày có một lễ tiễn biệt cũng
75
tương tự như lễ đón nhưng ngắn hơn, ít người tham dự hơn và bài cúng là bài tiễn.
Sau đó để báo hiệu giờ tổ tiên lên đường, nhà Lang lại cho bắn ba phát súng. Từ lúc
đón tổ tiên về nhà ăn tết, mọi lễ cúng các vị thần khác là tùy nghi vào thời gian và
cách tổ chức tết của gia chủ. Thứ tự cúng bái có thể khác nhau nhưng người ta không
bỏ sót một vị thần nào. Trong các nhà nóc, trước hết là làm lễ cúng tổ tiên của họ nội,
trong lễ này cũng kết hợp các lễ cúng dòng họ mẹ, vợ của gia chủ, cúng vong hồn của
các thành viên trong gia đình chết không có con cái. Nếu người vợ của gia chủ đã
chết thì người ta có thể lập một mâm cúng riêng. Người Mường cũng có lệ cúng cho
trâu bò ăn tết, mỗi con trâu bò được một cái bánh chưng, nếu trâu cái chửa thì được
thêm một cái nhỏ hơn. Người ta thắp hương và vái lạy ba lạy vị thần trâu, cầu thần
bảo hộ cho súc vật nuôi, xua đuổi bệnh tật. Sau đó người ta nhét vào miệng mỗi con
vật một miếng đồ cúng, phần còn lại là cho trẻ chăn trâu.
Trong lễ cúng ở đình hoặc ở nhà Lang, mỗi nhà nóc phải mang đến một mâm
cúng (trừ nhà đang có tang). Có nơi việc làm mâm cúng này được coi như một cuộc
thi, người ta chọn ra mâm cúng những món ngon, lạ, bày biện đúng nghi thức cúng
bái và đẹp mắt để thưởng tiền. Ngoài những nghi thức có sự tham gia của cộng đồng,
mọi người thăm hỏi và chúc mừng láng giềng nhân dịp đầu xuân. Đây cũng là dịp trai
gái và con trẻ được ăn uống, vui chơi thỏa thích trong ngày lễ hội lớn nhất và vui vẻ
nhất của năm.
Tết cơm mới: Tổ chức vào tháng 10 Âm lịch sau khi thu hoạch vụ mùa
xong. Các gia đình mổ lợn, gói bánh chưng, đi lấy vía lúa để gác bếp. Vợ chồng
gia chủ lấy bốn bông, các con mỗi người một bông buộc vào thành túm đặt lên gác
bếp. Lễ vật là cơm non và cá để cúng vía lúa. Cũng trong tết cơm mới này người
Mường cúng cha mẹ, ông bà. Theo quan niệm của người Mường, sau khi lúa được
thu hoạch, cơm mới phải đem cúng ông bà tổ tiên trước, sau đó mới được dùng,
nếu không vụ sau sẽ mất mùa. Ngày mùng 10 tháng 10, làm lễ ở đình xã, phần xôi
được chia đem về treo lên đáng thờ, hôm sau các gia đình làm cơm mới cúng gia
tiên. Theo lời kể của bà Hoàng Thị Dụ có quê gốc ở Mĩ Lương thì người Mường ở
Mỹ Lương có tục làm “cơm non”. Cơm non được làm từ một loại nếp cái tốt nhất
mà họ trồng. Khi lúa vừa chín (bắt đầu đỏ đuôi) cắt lấy những bông to đem về
76
luộc chín, sau đó phơi hoặc sấy khô giòn cho vào cối giã cả bông và lọc lấy gạo.
Lấy lá gừng hoặc giềng rửa sạch, giã nát vắt lấy nước. Đổ nước gừng vào gạo và đem
nấu thành cơm. Tốt nhất là đun nước lá trước. Nước sôi cho gạo vào sôi đều rồi đem
vần. Khi cơm chín sẽ có màu xanh, xơi ra gói lại bằng lá dong, nén chặt. Khi gói
chiếc bánh có hình thù nhỏ như bánh cốm hoặc bánh chưng con trông sẽ đẹp mắt và
tiện lợi khi ăn. Người Mường không gọi là bánh mà gọi là “cơm non”. Hương vị
thơm ngon ngọt ngào của hương lúa đầu mùa hòa quyện với hương vị của nước lá
gừng (giềng) tạo nên mùi vị hấp lạ thường của cơm non. Đây là món ăn truyền thống
không thể thiếu được của người Mường vào ngày Tết mừng lúa mới mùng 10 tháng
10 Âm lịch hằng năm [71].
Người Kinh cũng có nhiều ngày tết trong một năm: Tết Nguyên đán, lễ Rằm
tháng Giêng, mồng Ba tháng Ba, tết mồng Năm tháng Năm, tết Rằm tháng Bảy, tết
Trung thu, tết Ông Công ông Táo... Trong đó, Tết Nguyên đán là to nhất, đầy ý nghĩa
nhất đối với người Kinh. Trong Tết Nguyên đán luôn luôn có những thứ sau: Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Có nhà không đầy
đủ những thứ trên nhưng bánh chưng nhất thiết phải có.
Người Dao cũng có tục cúng ông Công, ông Táo như người Kinh, nhưng đặc
biệt ở chỗ là không cúng vào ngày 23 tháng Chạp mà làm chung với lễ cúng gia tiên.
Những ngày này, cả gia đình cùng dọn dẹp nhà cửa, vườn tược và chuẩn bị lương
thực, thực phẩm để dùng trong những ngày Tết, tất cả công việc đều phải được làm
tươm tất trước ngày 30 Tết.
Người Dao không tự làm lễ mà mời thầy cúng, hoặc những người lớn tuổi có
uy tín trong cộng đồng về nhà hành lễ. Trước sự có mặt của đông đủ thành viên trong
gia đình, thầy cúng thay mặt gia chủ làm lễ cúng giải hạn để xua đi tất cả những điều
rủi ro, không may mắn trong năm cũ; cầu xin sức khỏe, bình an, may mắn cho mọi
người; mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, trâu bò lợn gà khỏe mạnh…
Sau bữa cơm tất niên, mọi người trong gia đình đều phải tắm rửa sạch sẽ bằng
nước thơm, sau đó mặc những bộ trang phục truyền thống mới và đẹp nhất để đón
giao thừa. Đêm giao thừa, người Dao không ra khỏi nhà mà tất cả mọi người quây
77
quần bên nhau để chờ thời điểm bước sang năm mới chúc tuổi và những điều may
mắn cho nhau. Sáng mùng một Tết, mọi người đều dậy thật sớm, chuẩn bị bữa cơm
tươm tất để cúng đầu năm mới. Cũng có tục xông đất như người Kinh, nhưng người
Dao đón khách xông nhà bằng 6 chén rượu. Trước tiên, chủ nhà rót 4 chén tượng
trưng cho tứ quý trong năm, chủ và khách cùng uống để cầu chúc những điều tốt lành
trong năm mới, sau đó rót tiếp hai chén để chúc nhau sức khỏe.
Trong những ngày Tết, sau khi đi chúc năm mới những người trong họ và
hàng xóm láng giềng thì già trẻ, trai gái lại nô nức kéo nhau về nơi tập trung sinh hoạt
cộng đồng, thường là bãi đất rộng (nay là nhà văn hóa thôn bản). Tại đây, bên chén
trà đầu Xuân, người lớn tuổi cùng nhau ôn lại truyền thống và những phong tục, bản
sắc văn hóa của dân tộc mình, lớp thanh niên thì chia thành tốp để ca hát, nhảy múa,
chơi các trò chơi dân gian… Đặc biệt, đây cũng chính là dịp để những chàng trai, cô
gái Dao gặp gỡ, tìm hiểu rồi ướm lời nhau qua những bài hát tỏ tình, giao duyên. Đã
có rất nhiều đôi đã nên nghĩa vợ chồng từ những buổi đi chơi Xuân như thế.
3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình
Quan hệ xã hội xưa của người Mường ngoài quan hệ làng xóm láng giềng trên
cùng địa vực cư trú còn có quan hệ dòng họ. Trong một mường (gồm nhiều xóm),
quý tộc thống trị đều là thành viên của một dòng họ. Lang cun là lang có quyền lực
nhất và các lang đạo phải phục tùng lang cun, lang cun thường cử người nhà mình
làm các lang đạo. Chức lang cun được truyền lại theo thể thức cha truyền con nối.
Khi lang cun chết mà không có con trai thì vợ lang cun sẽ lên thay chồng cho đến khi
không thể làm được chức vụ thì họ nhà lang và những người tin cẩn trong dòng họ sẽ
chọn một người lên làm lang cun. Nếu lang cun trao cho con rể phải bỏ họ nhà mình
và lấy họ nhà vợ. Quan hệ dòng họ của người Mường chi phối đến mọi mặt của đời
sống dân cư đặc biệt là trong hôn nhân và tang ma. Vào những dịp này những dòng
họ thổ tù coi đây là dịp để phô trương thanh thế và sự giàu có của gia đình, dòng họ
mình. Uy tín dòng họ cũng do vậy mà được nâng lên. Hôn nhân của con cái cũng bị
quy định chặt chẽ bởi quan hệ dòng họ. Con trai, con gái nhà lang thì được lấy nhau,
rất hiếm trường hợp con nhà dân thường được phép lấy con nhà lang. Truyện Sự tích
chiếc khăn duyên được lưu truyền trong cộng đồng người Mường ở Yên Lập cũng đã
78
nói lên sự phân biệt đẳng cấp trong hôn nhân giữa các dòng họ trong cộng đồng .
Ở người Mường chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã được thiết lập từ lâu.
Theo nguyên tắc này những người trong cùng một dòng họ, cùng chung một ông tổ,
có chung một huyết thống tính theo dòng cha, tuyệt đối không được lấy nhau, không
được quan hệ tính giao với nhau. Người Mường ở Yên Lập có các dòng họ sau: họ
Hà, Hoàng, Đinh, Nguyễn, Bùi. Khởi thủy, ai cùng mang một tên họ dù xa đến mấy
đời cũng khôngđược lấy nhau. Về sau do sự phát triển ngày càng đông, dòng họ gốc
chia ra thành nhiều chi nhánh, nên ngoại hôn chỉ được thực hiện đối với chi nhánh.
Người Mường quan niệm “anh em chín đời còn hơn người dưng”. Nếu các thành viên
trong dòng họ lấy nhau, hay có quan hệ tính giao với nhau thì sẽ bị dư luận lên án và
xử lý theo luật tục, vì đây là những người nội ruộng tức là cho đến đời thứ 9 vẫn còn
được nhận ruộng của tổ tiên. Luật tục quy định, anh em trong dòng họ lấy nhau tức là
phạm tội loạn luân sẽ bị đuổi ra khỏi họ và đuổi đi nơi khác.
Trong gia đình người Mường, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng
diễn ra theo nhiều cấp độ khác nhau. Gia đình người Mường là gia đình phụ quyền,
tính chất gia trưởng được thể hiện rõ trong quan hệ gia đình. Người đàn ông Mường
là người cha, người chồng, người chủ gia đình có vai trò quan trọng trong nhiều mặt
của đời sống, quyết định mọi công việc làm ăn, cưới xin, tang ma, tôn giáo tín
ngưỡng, thay mặt gia đình quan hệ với làng xóm, họ hàng. Mọi tài sản trong nhà đều
do người chủ gia đình nắm giữ, kể cả ruộng nương, trâu, bò, công cụ sản xuất. Những
tài sản đó chỉ con trai mới được quyền thừa kế. Khi cha mẹ già cả thì con trai cả đảm
đương moị công việc. Người phụ nữ trong gia đình trong xã hội Mường truyền thống
hầu như là không có quyền hành gì. Còn nhỏ chịu sự quản lý của cha mẹ hoặc anh cả.
Khi lấy chồng thì hoàn toàn phụ thuộc vào chồng, họ không có quyền bình đẳng với
nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bên trong ngôi nhà cũng có sự phân chia
khu vực dành cho các giới. Gian voong (gian khách) để bàn thờ tổ tiên, là nơi tiếp
khách, cũng là chỗ ngủ của nam giới. Phụ nữ trong thời gian mang thai, ở cữ tuyệt
đối không được bước chân đến gian này. Trên thực tế người phụ nữ có đóng góp vào
nhiều mặt vào cuộc sống gia đình và sản xuất. Khối lượng công việc mà người phụ
nữ đảm nhận lớn hơn nam giới rất nhiều. Mặc dù bị ràng buộc bởi những tập tục cũ
79
còn khá nặng nề nhưng quan hệ vợ chồng ở người Mường rất hòa thuận, bền vững ít
xảy ra ly hôn [69].
Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình người Mường được đặc trưng
bởi chữ hiếu. Đó là con cái phải biết yêu quý cha mẹ, phải chăm sóc, phụng dưỡng và
nghe lời cha mẹ. Đối với cha mẹ, con cái là niềm an ủi, hạnh phúc. Cha mẹ dành
nhiều công sức tâm huyết vào việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái, cha mẹ cũng chú ý
truyền đạt cho con cái những kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, và cả công việc gia
đình. Cha mẹ luôn uốn nắn con cái về cách ứng xử trong gia đình với họ hàng, làng
xóm, lo giỗ tết, đóng góp cho các hội hè, đình đám của xóm làng…nghĩa là rất xem
trọng con về giáo dục tính cộng đồng. Chúng được bố mẹ lo chu toàn cho đến lúc lấy
vợ, lấy chồng. Khi cha mẹ về già thường ở với con trai cả, nhưng các con còn lại đều
có nghĩa vụ chăm sóc, thăm hỏi, động viên cha mẹ lúc ốm đau. Khi cha mẹ chết các
con đều có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp lễ vật và tổ chức đám tang chu đáo.
Trong gia đình, anh em ruột sống có trách nhiệm với nhau, tình cảm anh em
được phản ánh rõ qua câu thành ngữ “chém kha đác chăng loi, choi kha đác chăng
lìa” nghĩa là (anh em như dòng nước dù chém cũng không đứt, dù chặt cũng không
lìa) [35, tr. 66]. Tập quán Mường quy định người làm anh phải đối xử tốt với các em,
dạy dỗ các em, ngược lại em phải luôn phục tùng anh.. Nếu cha mẹ qua đời, anh cả có
trách nhiệm nuôi dưỡng, dựng vợ, gả chồng cho các em. Ở người Mường không có
cảnh anh em cãi lộn, tranh giành của cải khi cha mẹ nằm xuống.
Ngoài mối quan hệ trên, cũng như ở các dân tộc khác, trong gia đình Mường
còn có mối quan hệ bố chồng nàng dâu. Xưa cũng như nay, người Mường coi con
dâu cũng như con gái, do vậy việc đối xử với con dâu cũng bình đẳng như với con
gái. Tuy nhiên, tục lệ Mường quy định rất chặt chẽ mối quan hệ giữa bố chồng và
nàng dâu. Con dâu không được ngồi ăn cơm, uống nước cùng bố chồng, không được
ngồi bàn công việc với chồng và bố chồng. Khi lên nhà, con dâu chỉ được đi cầu
thang dành riêng cho phụ nữ. Đi qua trước mặt bố chồng không được buông váy xòa
ra mà phải rất ý tứ giữ cho váy khép lại, người hơi cúi xuống. Khi bố chồng chuẩn bị
đi ngủ, con dâu phải mắc màn, trải chiếu cho bố chồng, cô dâu không được đi ngủ
trước các thành viên trong gia đình. Buổi sáng cô dâu phải dậy sớm hơn mọi người.
80
Bố chồng không được buông những lời bông đùa với con dâu, không được bước vào
chỗ ngủ của con dâu. Quan hệ giữa mẹ vợ và con rể cũng có quy định tương tự, về
danh nghĩa con rể cũng được coi như con trai trong nhà.
Giữa anh chồng và em dâu cũng có những quy định cụ thể. Theo tục lệ, anh
chồng phải giữ khoảng cách với em dâu như nói năng đúng mực, không được phép
trêu chọc em dâu. Ngược lại em dâu không được phép vui đùa, ngồi ăn uống cùng
anh chồng. Anh chồng và em dâu không được đi cùng nhau, không được phép bước
vào chỗ ngủ của nhau.
3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp
Lễ hạ điền: Còn gọi là lễ xuống đồng, tổ chức vào tháng 5 Âm lịch, là nghi lễ
có tầm quan trọng đặc biệt trong các nghi lễ nông nghiệp của đồng bào Mường. Lễ
này do thầy Mo làm chủ lễ, thầy Mo cúng và gọi vía lúa:
“Thuận mưa, thuận gió
Cho ló (lúa) được mùa
Sây bông tốt trái
Bông con bằng vòi hái
Bông cá bằng đuôi trâu
Lấy xôi đắp bờ ruộng sâu
Lấy chùn (đùi) gà đắp bờ ruộng cao
Ló nhiều làm giàu cho bản” [35, tr. 58].
Sau đó thầy Mo xuống ruộng cấy vài mảnh mạ, có nơi người cấy là thổ lang.
Sau phần này là đến một số người được lựa chọn sẽ xuống cấy, giữa ruộng có
cắm một cây nứa làm nêu và mọi người cấy quanh cây nêu đó. Sáng hôm sau đến
nhà Lang cấy mới đến lượt cấy đại trà. Ở nhiều xã không chỉ có ông mo hát gọi
vía lúa mà một số các bà cũng ra ngã ba, ngã tư, bên gò, bên suối để kêu gọi lúa
về với bản mường.
Lễ thượng điền: tổ chức vào tháng 9 Âm lịch, đây là lễ thu hoạch mừng mùa
màng thắng lợi. Lễ này còn gọi là “lễ treo hái”. Đồng bào có tục “lấy vía lúa” trước
hôm gặt chính thức. Người đi lấy vía lúa phải là bà chủ gia đình hay người con dâu.
Ngày gặt đầu tiên, đồng bào chọn 9 bông lúa nếp, 9 bông lúa tẻ để lên gác bếp [44, tr.
148]. Lấy vía lúa phải chọn ngày lẻ, vì ngày chẵn lúa không đẻ được, khi lấy vía lúa
thì khấn cầu:
81
“Lúa ơi, lúa ơi!
Mày đã chín rồi
Tao lấy vía mày về trước
Mai kia tao gặt mày về” [35, tr. 59].
Sau đó mang bông lúa về giắt lên mái tranh nơi cầu thang vào nhà. Chỉ sau khi
lấy được vía lúa mới được gặt và cũng từ đó mới được ăn cơm gạo mới.
Sau lễ thượng điền còn có lễ Mừng cơm mới tổ chức vào tháng 10 Âm lịch.
Sau khi gặt lúa xong đồng bào chọn ngày tốt (ngày mùng 10 tháng 10 Âm lịch), giã
gạo, đồ xôi, thịt gà và ra suối đánh cá. Hôm đó gia đình phải nấu cơm nhiều hơn ngày
thường, theo quan niệm làm như vậy vụ tới mới được mùa. Trước lúc ăn mừng sản
phẩm nông nghiệp do mình làm ra, chủ nhà không quên mang thức ăn cho trâu, chó
với ngầm ý là: vật nuôi trong nhà cùng chia vui với người. Nếu nhà có khách, tuyệt
đối không cho ăn cơm mới, vì sợ rằng lúa gạo sẽ theo khách ra đi, mùa màng năm
mới sẽ thất thu.
Năm nào hạn hán kéo dài người Mường còn tổ chức lễ cầu mưa, người trong
làng kéo nhau ra đầu nguồn nước để hành lễ, theo quan niệm của người Mường, nơi
đó là chỗ thần nước ở, thần nước ngủ quên không nghe tiếng sấm dậy. Mâm lễ phải
có gà sống trắng, trứng, gạo. Sau khi tế lễ, dân làng tới nguồn nước ném đá để đánh
thức thần nước dậy.
Khi làm nương, gieo hạt xong, người Mường cũng gọi vía, với lòng mong
muốn lúa mọc tốt:
“Lúa ơi, lúa ơi!
Một mầm, một cây
Ra hoa chắc quả
Ba nắm một quẩy
Sáu nắm một gánh”.[35, tr. 60].
Đọc xong chủ nhà vác gậy chọc lỗ đi vòng quanh nương một lượt. Sau đó mới
trồng khắp nương.
Các lễ hạ điền, thượng điền, mừng cơm mới là các nghi lễ không thể thiếu
được trong văn hóa lúa nước của người Việt. Cũng là nghi lễ được người Mường coi
trọng với tất cả tầm quan trọng của nó nhưng mang bản sắc dân tộc đậm đà, với nhiều
82
sắc thái riêng, trong đó phụ nữ tham gia làm chủ lễ cho thấy ý thức hệ phong kiến
chưa có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Mường. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện rõ
nét trong lễ hạ điền, từ việc cử một đôi trai gái đem mạ ra ruộng, cùng cấy lúa cho tới
việc ngủ chung chạ tại nhà Lang. Tín ngưỡng phồn thực ở đây không có những biểu
tượng thờ lễ như nõ- nường, linga-yoni mà là các cặp trai gái được coi là biểu tượng
sống của âm dương hòa hợp, cho lúa gạo sinh sôi, mùa màng tươi tốt.
3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo
Người Mường quan niệm về vũ trụ với “ba tầng bốn thế giới”. Tầng trời hay
mường Trời ở trên cao, là nơi ở của các vị thần thiêng liêng và chiếm vị trí cao nhất
là Vua Trời; Tầng mặt đất hay mường Pưa, mường Bằng là nơi sinh sống của người
sống và người chết; Tầng thứ ba là tầng dưới mặt đất hay mường Pưa Tỉn và thế giới
nước. Sinh sống ở mường Pưa tỉn có một giống người nhỏ bé. Ba tầng vũ trụ đó lại
bao gồm bốn thế giới, đó là: Thế giới trên cao tức mường Trời; Thế giới dưới thấp -
mặt đất tức mường Pưa; Thế giới dưới mặt đất tức mường Pưa Tỉn; Thế giới dưới
nước tức mường Khú hay mường đáy nước, nơi ngự trị của vua Khú có hình hài của
rắn song cũng có khi mang hình hài người. Trong quan niệm vũ trụ “ba tầng bốn thế
giới ấy” thì thế giới dưới mặt đất, tức mường Pưa của con người là quan trọng và giữ
vị trí trung tâm.
Thờ các hiện tượng thiên nhiên: Người Mường quan niệm vạn vật xung quanh
mình đều có vía nghĩa là có hồn, có đời sống tâm linh, từ đó mà có khái niệm “ma”:
ma rừng, ma núi, ma sông, ma suối, ma cây cho tới ma nương, ma ruộng…tổ tiên là
ma nhà, lúa là ma lúa. Người Mường cũng thờ một số động vật như thuồng luồng (ma
khú), hổ, chim chóc…và nhiều động vật đã trở thành tô tem của dòng họ.
Được thờ nhiều nhất là núi và núi còn được gọi là thần, thờ các núi ngay tại
địa phương mình. Thần núi Tản Viên “Tản Viên Sơn Thánh”, vị thần cao cả và linh
thiêng nhất được hầu hết đồng bào Mường thờ.
Tục thờ động vật trước hết là hổ. Người Mường và người Việt đều có tục thờ
hổ, tôn hiệu là “Sơn quân thần Hổ”, “Hổ lang quận công”. Đồng bào Mường quan
niệm hổ là bộ hạ của thần Tản viên nên ở các đình miếu thờ Tản Viên đều có thờ thổ
hạ ở hạ ban. Tại các cửa rừng đồng bào đều lập miếu có sàn tre nứa thờ thần Hổ.
83
Ngoài các con vật ở rừng, các vật nuôi trong nhà như trâu, bò, lợn, gà…đều cho là
những con vật có linh hồn. Các bài mo trong đám tang có những đoạn kể tạ ơn những
con vật đã gắn bó thân thiết với con người. Trong các đám tang còn thấy xuất hiện
các hình tượng cờ con cá (đại diện cho động vật dưới nước), cờ con hươu (đaị diện
cho động vật trên cạn) để dẫn đường cho linh hồn người chết về với mường trời.
Tín ngưỡng thờ mó nước (vó rác): Trồng lúa nước và sống ở miền núi, nên các
nguồn nước, mạch nước có vị trí đặc biệt quan trọng với đời sống của người Mường.
Khi gặp hạn hán, hay vào dịp đầu năm mới, người dân Mường thường lên đầu nguồn
nước làm lễ cúng “mó nước” và làm lễ cầu mưa; hoặc khi có đám tang người chết,
người nhà dậy sớm mang những ống bương nhỏ đi lấy nước đầu nguồn về thờ, đần
ông đặt bảy ống nước, đàn bà đặt chín ống nước. Hoặc khi dọn về nhà mới người ta
buộc những ống lấy nước vào cột cái nhà, bên cạnh những quả bí, hay khi làm vía
cho đứa trẻ mới đẻ người ta phải lấy từ chín nguồn nước khác nhau về làm lễ. bên
cạnh đó dân Mường còn thờ cả cóc (chàng hạc) là loài đã có công gọi mưa và đem lại
sự sinh sôi nảy nở cho dân Mường…Hình tượng cóc đã được đúc trên mặt trống đồng
ở Hòa Bình còn được lưu giữ đến ngày nay.
Tín ngưỡng thờ tổ tiên: Người Mường cũng thờ tổ tiên, tuy nhiên nghi lễ cúng
không thường xuyên như người Kinh. Họ chủ yếu tổ chức cúng lễ vào các dịp Tết
Nguyên đán, mừng cơm mới, ngày làm vía, ngày cầu mát,. Người Mường lập bàn thờ
và đặt các bát hương trong vòng bốn đời. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia
đình mà người ta làm bàn thờ, đồ thờ to nhỏ, cầu kì hay đơn giản. Một số gia đình
làm giá treo trên vách nhà, một số khác lại dùng bàn uống nước làm bàn thờ. Nhiều
nhà còn chạm trổ hình con rồng, con hạc, hoa sen, hoa hồng. Bàn thờ nhà Lang còn
có đỉnh thắp hương, có mâm quả đựng đồ cúng lễ và có cả bài vị khắc tên người chết.
Trên bàn thờ tổ tiên có ảnh của người đã mất (cha mẹ, ông bà), trước bức ảnh là một
bát hương bằng sứ. Bàn thờ được bố trí ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà- gian
voóng (gian khách). Ngoài bàn thờ chính thờ tổ tiên, bên trái có thể có bàn thờ khác
thờ những người chết không con. Hằng năm vào ngày 29, 30 và sáng mùng một Tết
Nguyên đán, từng gia đình tiến hành lễ cúng tổ tiên. Theo quan niệm của người
Mường, cúng vào những ngày đầu năm mới tổ tiên sẽ về đông đủ, cùng “ăn tết” với
84
con cháu. Trên bàn thờ tổ tiên người ta bày tất cả thức ăn, các loại bánh có trong ngày
tết, và nhất thiết phải có ít muối, một chiếc tăm tre, một chén nước. Chủ gia đình
đứng trước bàn thờ đọc bài khấn với hàm ý mong tổ tiên phù hộ cho một năm mùa
màng bội thu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà…không bị dịch bệnh, mội người trong gia
đình luôn mạnh khỏe, không ốm đau bệnh tật. Sau bài khấn, theo tục lệ, chủ gia đình
còn xin âm dương bằng cách tung hai đồng tiền cổ lên, khi rơi xuống một đồng sấp
một đồng ngửa là đã được tổ tiên đồng ý. Nếu không được như vậy, chủ nhà tiếp tục
khấn lại và xin âm dương đến khi nào được mới thôi. Người Mường không có tục
cúng giỗ hằng năm vào ngày mất của cha mẹ, ông bà. Điều kiêng kị là không được
nằm hướng chân về phía bàn thờ từ các phía trong nhà.
Người Kinh cũng theo chế độ đa thần. Người ta thờ các vị thần, cầu cúng, xin sự
che chở và giúp đỡ từ lực lượng siêu nhiên. Họ còn thờ những vị thần có ích cho con
người, kể cả các thần gieo tai vạ, các ma quái ở khắp mọi nơi đang cùng chung sống với
con người “thần ở cây đa, ma ở cây gạo”, các hòn đá, gốc cây, bến sông, thần lúa, thần
mùa màng, thần sông, thần thổ địa… Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là văn hóa phong tục
đẹp và bền vững của người Kinh. “Điểm tựa” của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn
từ niềm tin vào việc con người có linh hồn. Lễ cúng tổ tiên theo phong tục nhất thiết phải
có trầu cau, rượu trắng, vàng hương, hoa quả và chén nước lã. Ngày kị nhật cúng mặn và
ngọt: Cỗ bàn thịt lợn, thịt gà, xôi, bánh trái… một tục lệ không phân biệt giàu nghèo là
phải có đồ vàng mã đặt lên bàn thờ. Cúng xong sẽ đốt đi để người đã khuất có vật dụng,
tiền bạc tiêu ở “thế giới bên kia”. Điều quan trọng và có ý nghĩa nhất của tục thờ cúng tổ
tiên là lòng biết ơn, sự giữ gìn gia phong, làm rạng rỡ tổ tiên. Ngoài việc lập bàn thờ tổ
tiên ở từng nhà, mỗi dòng họ người Kinh thường lập một nhà thờ tổ để cả họ cùng tới
cúng giỗ hằng năm. Nhà thờ tổ trao cho con trưởng của chi trưởng dòng họ chịu trách
nhiệm coi sóc, tới ngày lễ người trưởng họ báo cho mọi thành viên trong họ đúng ngày
tới lễ tổ, cùng nhau đóng góp vào ngày lễ và ăn uống, nếu chi trưởng họ tuyệt tự, việc
thờ cúng tổ họ truyền cho chi thứ làm.
Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Dao rất đa dạng và phức tạp. Đặc
điểm nổi trội của tôn giáo, tín ngưỡng của người Dao là chịu ảnh hưởng của tam giáo,
trong đó đặc biệt sâu sắc là ảnh hưởng của Đạo giáo.
85
Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và đã ảnh hưởng trực tiếp đến người Dao tiếp
thu và cải biến cho phù hợp với điều kiện xã hội của mình. Điều đó cũng dễ hiểu, vì
Đạo giáo với thuật phù thủy để cúng bói và chũa bệnh, trừ ma diệt tà, với hệ thống
các vị thần linh của nó rất phù hợp với những hình thức tôn giáo nguyên thủy, nhất là
với chủ nghĩa đa thần còn tồn tại đậm nét trong người Dao. Trên thực tế hầu hết các
vị thần linh của Đạo giáo đều trở thành các vị thần linh của người Dao.
Phật giáo cũng xâm nhập vào xã hội người Dao. Những phép thuật như
uống nước thiêng, ăn chay, tư tưởng hóa kiếp luôn hồi của Phật giáo đều thấy biểu
hiện trong đời sống tín ngưỡng của người Dao. Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo,
người Dao còn chịu ảnh hưởng của Khổng giáo. Biểu hiện rõ nhất ở việc thờ cúng
tổ tiên, sùng bái thầy cấp sắc. Ngoài ra các hình thức xem tủ vi, xem tuổi, xem
ngày tháng thực hiện các nghi lễ cưới xin, ma chay, làm nhà mới...đều được áp
dụng rộng rãi trong đồng bào. Sự biểu hiện của từng tôn giáo trong tín ngưỡng của
người Dao không rõ nét, tất cả các tôn giáo có ảnh hưởng đều cùng hòa quện chặt
với các hình thái tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy của người Dao, tạo nên hệ
thống tín ngưỡng tôn giáo hỗn hợp, rất phức tạp và đa dạng trong truyền thống văn
hóa phi vật thể của đồng bào Dao.
Thờ cúng tổ tiên là việc thờ chủ yếu trong gia đình đồng bào Dao. Tổ tiên có
thể được thờ cúng tại gia đình hoặc ở nhà tộc trưởng. Đồng bào Dao cho rằng khi ông
bà, cha mẹ chết, linh hồn trở về bên kia thế giới mà quê hương là ở Trung Quốc,
nhưng những linh hồn ấy, tức là tổ tiên, vẫn thưỡng xuyên đi lại thăm nom con cháu
nơi dương thế. Do vậy họ cần phải thờ tổ tiên.
Ở người Dao thờ cúng Bàn Vương là một tục lệ cổ truyền, tiêu biểu cho hoạt
động tín ngưỡng của đồng bào. Việc cúng Bàn Vương - vị cứu tinh, không chỉ liên
quan đến mỗi người, mỗi dòng họ mà còn liên quan đến cả dân tộc. Bàn Vương tức là
vị vua họ Bàn, vị tổ nguồn gốc của tộc người Dao. Thần thoại và tín ngưỡng về Bàn
Cổ, hay Bàn Hồ liên quan toàn diện đến mọi mặt cuộc sống của người Dao không
những vễ mặt văn hóa tinh thần mà còn bao trùm lên nhiều lĩnh vực đời sống khác
như kinh tế, mỹ thuật, chính trị. Người Dao trong lễ cúng Bàn Vương thường tổ chức
nhảy múa gọi là nhảy Bàn Vương hay Tết nhảy (nhiàng chầm đao). Đây là một lễ tiết
86
phổ biến của người Dao, Tết nhảy thường tổ chức vào tháng chạp trước tết nguyên
đán vài ngày, hoặc vào ngày mùng 1, mùng 2 Tết Nguyên đán. Có nơi năm nào cũng
tổ chức nghi lễ này, theo chu kì ba năm thì năm thứ ba tổ chức cúng to hơn cả. Có nơi
hai năm tổ chức một lần, có nơi ba năm tổ chức một lần, rất đa dạng nhưng nội dung
nói chung là liên quan đến việc kỷ niệm Bàn Vương. Tết nhảy ngoài tính chất tôn
giáo, còn là hoạt động văn nghệ có sức lôi cuốn.
Một tục lệ phổ biến của người Dao đó là tục cấp sắc . Mọi đàn ông Dao đều
làm lễ này, thậm chí khi còn sống chưa cấp sắc thì sau khi chết con cháu phải làm lễ.
Cấp sắc là một hiện tượng xã hội, có liên quan đến ý niệm tôn giáo, tinh thần đạo đức
và sinh hoạt hằng ngày của người đàn ông. Người đã cấp sắc mới được coi là người
lớn, có đủ tư cách là thành viên trong xã hội, được công nhận là con cháu của Bàn
Vương, và mới có thể trở thành thầy cúng... “Trong lễ cấp sắc, người ta dạy cho
thanh niên 10 nguyện, 10 điều kiêng cấm, 10 lời thề. Ngoài tính chất tôn giáo, nó còn
có ý nghĩa giáo dục quan trọng: làm điều ngay thẳng, dũng cảm, không mê sắc,
không vụ lợi, sẵn sàng giúp đõ mọi người” [12, tr. 193].
Tiểu kết: Văn hóa truyền thống của các dân tộc ở Yên Lập là nền văn hóa dân
gian. Trong văn hóa tộc người có những yếu tố mang đậm tính sinh thái vùng miền
(vùng cao và vùng thấp) như người Dao thường cư trú ở những bản động vùng cao
với nhà ở theo lối nửa sàn nửa đất phù hợp với địa hình đất dốc. Trong khi người
Mường lại sống tập trung ở những thung lũng thấp men theo sườn đồi, cư dân thường
ở nhà sàn mặt ngoảnh ra đồng ruộng. Còn người Kinh thường ở khu vực trung tâm,
những nơi thuận lợi cho giao lưu buôn bán ở nhà trát vách đất. Ngoài những yếu tố
văn hóa mang tính vùng miền còn có những yếu tố ảnh hưởng được du nhập từ miền
xuôi và Nam Trung Quốc. Những nét văn hóa đó chúng ta thường bắt gặp trong ăn, ở,
những nghi lễ ma chay, cưới xin, lễ tết, tôn giáo tín ngưỡng… ở Yên Lập, phản ánh
đời sống văn hóa lâu dài của cư dân địa phương. Một đời sống văn hóa có giao thoa,
tiếp thu và phát triển tạo ra cho văn hóa truyền thống ở Yên Lập Sự đa dạng phong
phú, đồng thời được hun đúc lại và phát huy thành cái tinh hoa chung của cả cộng
đồng dân tộc Yên Lập.
87
KẾT LUẬN
1. Là một vùng rừng núi đất rộng người thưa, Yên Lập đã thu hút nhiều dòng
người tụ lại để sinh cơ lập nghiệp. Mặc dù có nguồn gốc, phong tục tập quán, đặc điểm
văn hóa khác nhau nhưng khi cùng nhau sinh sống trên mảnh đất này họ đã cùng nhau
xây dựng làng bản, ổn định đời sống. Điều này đã làm cho Yên Lập có một nền kinh tế
đa dạng và một nền văn hóa đặc trưng của các tộc người.
2. Từ số liệu địa bạ tại hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21
(1840) cho thấy, tình hình ruộng đất và sở hữu ruộng đất của huyện: Đặc điểm nổi bật
nhất của ruộng đất Trấn Yên là 100% là ruộng tư không có ruộng công, chất lượng
đất chỉ có hạng 3, thu điền. Diện tích ruộng tư bỏ hoang lớn 88,17% (năm 1805) tổng
diện tích tư điền. Đây cũng là hiện tượng phổ biến lúc bấy giờ. Điều này có thể lý giải
do nhiều nguyên nhân sau: Thứ nhất là khu vực miền núi nên đất đai phần nhiều khô
cằn, khó canh tác. Ở những xã vùng cao do khí hậu khắc nghiệt mưa ít vào mùa khô
nên không đủ nước để tưới cho cây trồng nên đồng bào đành phải bỏ hoang ruộng
đất. Thứ hai cũng có thể do đất rộng người thưa nên ruộng đất không thể canh tác hết
được. Thứ ba do chiến tranh xảy ra trong một thời gian dài trước đó nên người dân
xiêu tán khắp nơi, bỏ nơi “chôn rau cắt rốn” của mình đi tìm một quê hương mới...
Sang thời Minh Mệnh với chính sách khai hoang bằng cách có thưởng, phạt thích
đáng đối với quan lại và nhân dân khai phá ruộng đất hoang thì diện tích lưu hoang đã
giảm xuống còn 60% (1840) tổng diện tích ruộng tư. Chứng tỏ, nhà Nguyễn đã có
nhiều cố gắng trong sản xuất nông nghiệp.
Sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập thông qua địa bạ năm 1805 và năm
1840 là tư hữu chiếm tuyệt đối nhưng không có sự tích tụ ruộng đất, không có sở
hữu lớn mà dàn trải với các chủ sở hữu nhỏ, manh mún, không tập trung và không
có tình trạng phụ canh. Điều đó chứng tỏ, nguyên tắc “ruộng làng nào làng ấy cấy”
không bị phá vỡ.
Quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ là không đồng đều. Các nhóm họ
lớn tập trung trong tay nhiều về số chủ và nhiều về ruộng đất như nhóm họ Hoàng,
nhóm họ Nguyễn, nhóm họ Đinh. Đội ngũ chức sắc là những người có quyền lực
88
chính trị ở địa phương và họ cũng là những người nắm trong tay một phần lớn diện
tích ruộng tư của huyện. Nhưng bên cạnh đó cũng có chức sắc không có ruộng đất.
Nhưng nhìn chung chế độ sở hữu ruộng đất của Yên Lập trong thời gian này là sự
thắng thế của sở hữu tư nhân.
Cũng giống như các địa phương, huyện Yên Lập được áp dụng mức thuế cho
các địa phương vùng miền núi phía bắc. Nhìn chung mức thuế không cao nhưng sự
bần cùng của người nông dân ngày càng nặng nề bởi những nghĩa vụ phu, phen tạp
dịch mà người nông dân phải thực hiện đối với nhà nước phong kiến.
Mặc dù, triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng trong việc khôi phục nền kinh tế
của đất nước như ban hành hàng loạt chính sách về ruộng đất. Bên cạnh việc đo đạc
lập sổ địa bạ để nắm được quỹ đất trong cả nước, các vua Nguyễn còn đẩy mạnh
chính sách khai hoang, phục hóa, khuyến khích dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn...
nhưng nền kinh tế của đất nước vẫn giảm sút, đời sống của dân nhân ngày càng cơ
cực, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng ở cuối thế kỷ XIX.
Hoạt động kinh tế chủ yếu ở Yên Lập là nông nghiệp với những cây trồng như
lúa nước, ngô, khoai... Tuy nhiên, với kỹ thuật canh tác lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên nên năng suất cây trồng chưa cao. Thủ công nghiệp và thương
nghiệp chưa phát triển, vẫn chỉ là nghề làm thêm những lúc nông nhàn. Chính vì vậy
mà đời sống nhân dân còn gặp rất khó khăn.
3. Qua nghiên cứu cho thấy, cư dân huyện Yên Lập vẫn còn mang đậm bản
sắc văn hóa tộc người. Việc làm nhà của người dân các dân tộc ở Yên Lập dựa vào
địa hình tự nhiên và dựa vào thói quen sinh hoạt. Người Mường ở nhà sàn trong
thung lũng bằng phẳng men theo chân đồi. Người Dao ở nhà nửa sàn nửa đất trên
núi cao, ngược lại người Kinh thường dựng nhà ở những khu vực trung tâm. Cư
dân nơi đây coi việc làm nhà là rất hệ trọng nên hết sức chăm lo từ việc chọn đất,
xem hướng nhà, chọn ngày vào nhà mới, đến việc bài trí, kiêng kị trong nhà...
Đồ ăn thức uống của các dân tộc ở Yên Lập cơ bản là giống nhau vì đều là
cư dân trồng trọt và đều sinh sống trong cùng một vùng văn hóa - lịch sử nên lúa
là cây lương thực chính bên cạnh cây ngô, sắn. Xôi nếp là thành phần chính trong
bữa ăn. Ẩm thực của đồng bào các dân tộc chủ yếu được khai thác từ thiên nhiên.
89
Bộ trang phục truyền thống là một trong những sản phẩm văn hóa vật chất
mang đặc trưng tộc người đậm đà và lâu bền. Do điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã
hội từng tộc người mà trang phục truyền thống các dân tộc ở Yên Lập có sự khác
nhau. Đó là sự khác nhau về nguyên liệu dệt, màu sắc, kiểu dáng y phục, đồ trang
sức... Áo các dân tộc có thể dùng các loại vải có màu sắc khác nhau như màu
trắng, màu xanh, màu nâu...Trong trang phục của nam lẫn nữ của các dân tộc
thường thì trang phục nam khá đơn giản quần chân què và chiếc áo cổ đứng cài
khuy giữa ngực. Đáng chú ý là bộ trang phục phụ nữ của các dân tộc ở Yên Lập
nhất là người Mường và người Dao đều được thêu dệt và trang trí khá cầu kì.
Cưới xin, ma chay là những tục lệ quan trong nhất trong đời sống văn hóa
tinh thần của cư dân Yên Lập vốn mang nhiều nghi thức riêng đặc sắc và ăn sâu bám
rễ trong đời sống cộng đồng. Hôn nhân trong tâm thức của đồng bào nơi đây là một
sự kiện trọng đại, thiêng liêng của mỗi đời người, gia đình và cả cộng đồng. Do vậy
để một đôi trai gái nên vợ, nên chồng, phong tục cưới xin trong văn hóa cổ truyền
người Mường, người Dao đều được tiến hành qua nhiều bước, với khoảng cách thời
gian dài. Nguyên tắc và quá trình hôn nhân tương đối giống nhau. Chỉ khác ở mức độ
phức tạp hay đơn giản trong các nghi thức hôn nhân. Nghi lễ tang ma đối với các dân
tộc nơi đây là cũng được tiến hành rất chu đáo, trọng thể biểu hiện lòng thành của con
cháu đối với ông bà, cha mẹ. Đó cũng là trách nhiệm, bổn phận, đồng thời cũng thể
hiện mối quan hệ giữa con người với con người. Tuy nhiên những tục lệ trong cưới
xin ma chay vẫn còn nặng nề, kéo dài và rất tốn kém.
Ở người Mường nhiều gia đình cùng hay khác dòng họ cư trú trên một vùng
lãnh thổ nhất định tạo lập thành làng, Mỗi gia đình, dòng họ còn là nơi điều hòa
quan hệ hôn nhân và dòng máu. Đó là quan hệ vợ chồng, quan hệ bố mẹ với con
cái, quan hệ cha con, quan hệ anh em...đã nói lên chức năng xã hội của gia đình
dòng họ.
Những nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp là không thể thiếu
trong nền văn hóa lúa nước, được người Mường rất coi trọng mang bản sắc dân
tộc đậm đà với nhiều sắc thái riêng. Tín ngưỡng phồn thực được được thể hiện rõ
nét thông qua biểu tượng sống của âm dương hòa hợp đó là đôi trai gái với ý
nguyện cho lúa gạo sinh sôi, mùa màng tươi tốt.
90
Tôn giáo tín ngưỡng của cư dân Yên Lập được hình thành từ trong cộng
đồng xã hội nguyên thủy, đóng vai trò quan trọng trong sự cố kết cộng đồng và có
sức sống lâu bền trong sinh hoạt tinh thần các dân tộc ở Yên Lập. Với cư dân nơi
đây tôn giáo tín ngưỡng từ ngàn xưa đã ăn sâu bám rễ trong tư tưởng, tình cảm,
được lưu truyền qua nhiều thế hệ và vẫn hiện diện như một phần không thể thiếu
trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, mỗi cộng đồng làng xã hôm nay. Nhìn
chung tôn giáo tín ngưỡng các dân tộc có nhiều yếu tố tích cực, lành mạnh cần
phát huy và cũng có nhiều yếu tố tiêu cực cần phải xóa bỏ.
Các tộc người nơi đây bên cạnh việc duy trì và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của mình đã tiếp thu tinh hoa văn hóa của các tộc người sống cộng
cư để làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của tộc người mình. Đồng thời
những tinh hoa văn hóa của mỗi tộc người được hun đúc lại và phát huy thành cái
tinh hoa chung của cả cộng đồng.
4. Phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, nhân dân các dân tộc ở Yên
Lập ra sức phấn đấu, hăng hái, thi đua học tập, lao động sản xuất để phát triển kinh tế
- xã hội, tăng cường an ninh - quốc phòng góp phần cải thiện đời sống vật chất cho
người dân, ổn định tình hình đất nước. Hiện nay, trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của đất nước được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Yên Lập đang
phấn đấu trở thành huyện giàu và mạnh về mọi mặt, xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
2. Nguyễn Trọng Báu (2012), Phong tục tập quán và lễ hội của người Việt, Nxb
Văn hóa thông tin.
3. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ (2008), Lịch sử Đảng bộ
huyện Yên Lập (1945-2005), Huyện ủy Yên Lập xuất bản.
4. Ban thường vụ Huyện ủy Yên Lập (2011), Điều tra, nghiên cứu, phục dựng và đề
xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị một số lễ hội dân gian tiêu biểu dân tộc
Mường huyện Yên Lập, Đề tài nghiên cứu khoa học.
5. Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc thực trạng và
những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Vũ Kim Biên (1999), Văn hiến làng xã vùng Đất Tổ Hùng Vương, Trung tâm
UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam và Sở Văn hóa thông tin
Phú Thọ xuất bản, Hà Nội.
7. Phạm Xuân Bộ, Phú thọ tỉnh địa chí, bản đánh máy, Thư viện tỉnh Phú Thọ, 1956.
8. Nguyễn Đức Châu, Nguyễn Tuấn Chung (1994), Ông cha ta bảo vệ biên giới,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
9. Nguyễn Tiến Đạt (2013), Huyện Bạch Thông (Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX,
Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học sư phạm, Đại học Thái nguyên.
10. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971),
Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Lê Qúy Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Huế (2011), Những xu hướng biến đổi văn hoá các dân tộc miền núi
phía Bắc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Vũ Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (1999), Địa danh và tài
liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn đông Bác Cổ, Nxb Văn hóa thông tin -
Cục lưu trữ nhà nước.
14. Nguyễn Xuân Lân (dịch), Địa chí tỉnh Hưng Hóa, (Bản dịch thư viện tỉnh Vĩnh
Phú), Nxb Đông Dương tạp chí. 1899.
92
15. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Hà Nội.
16. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng văn hóa ở vùng các
dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
17. Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn (2008), Giáo trình
Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
18. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
19. Nội các triều Nguyễn(2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 5, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
20. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
22. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục
23. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb Giáo dục
24. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục
25. Quốc sử quán triều Nguyễn (1967), Đại Nam thực lục, tập XVIII, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
26. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỉ, tập
IX, Nxb Khoa học, Hà Nội.
27. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI- XVIII,
Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
29. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tình hình ruộng đất nông
nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.
30. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1999), Lịch sử Việt Nam từ nguyên
thủy đến 1858, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
31. Sở Văn hóa và Thông tin Vĩnh Phú (1986), Địa chí Vĩnh Phú Văn hóa dân gian
vùng Đất Tổ.
93
32. Sở Văn hóa Thông tin Phú Thọ (2005), Báo cáo Khảo tả nguyên gốc dự án “Điều
tra, sưu tầm và bảo tồn văn hóa dân gian của người Dao ở Phú Thọ”.
33. Sở Văn hóa Thông tin Phú Thọ - Hội Văn nghệ dân gian (2005), Lễ hội truyền
thống vùng Đất Tổ.
34. Sở văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ - Hội Văn nghệ dân gian (2012), Về
miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam, Tổng tập.
35. Nguyên Ngọc Thanh (1999), Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở tỉnh
Phú Thọ, Luận án tiến sĩ sử học, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
36. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư
liệu địa bạ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1999), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX,
(Bản dịch của Viện Hán Nôm), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
38. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
39. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (2003), Đồng Khánh địa dư
chí, Nxb Thế giới, Hà Nội.
40. Nông Quốc Tuấn, Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc.
41. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở Bắc Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Đàm Thị Uyên (2000), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến
giữa thế kỉ XIX, Luận án tiến sĩ lịch sử, Hà Nội.
43. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam
(thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
44. Ủy ban nhân dân huyện Yên Lập (2009), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.
45. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc
gia (2001), Người Mường trên Đất Tổ Hùng Vương, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
46. Mai Khắc Ứng (1996), Chính sách khuyến nông dưới thời Minh Mạng, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
47. Trần Thị Thanh Xuyên (2015), Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX,
Luận Văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạmThái Nguyên.
94
TÀI LIỆU ĐỊA BẠ
48. An Dưỡng xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1823
49. An Dưỡng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1822
50. An Sào xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1830
51. Bạn Lữ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1852
52. Bạn Lữ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1853
53. Đồ Thủy xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1825
54. Đoài Lỗ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1842
55. Đông Lỗ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1832
56. Hạ Long xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1848
57. Hương Lan xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1831
58. Khổng Tước xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1836
59. Mộ Lan xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1824
60. Nga Mi xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1833
61. Phục Cổ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1828
62. Phượng Vĩ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1851
63. Quế Sơn xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1834
64. Sa Lung xã, địa bạ năm Gia long 4, TTLTQGIHN, KH: 1839
65. Sa Lung xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1840
66. Sơn Lương xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1843
67. Thu Ngạc xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1844
68. Thu Ngạc xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21,TTLTQGIHN, KH: 1845
69. Thượng Long xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1846
70. Thượng Long xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1847
71. Trục Thước xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1856
72. Vân Bán xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1837
73. Vân Bán xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1838
74. Vân Hoàng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1849
75. Vân Lung xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1835
76. Xuân Lôi xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1841
77. Xuân Ứng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1827
95
TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ
STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ
Xóm Mít 15, TT Yên 69 Đinh Thị Anh 60 Làm ruộng Lập, huyện Yên Lập.
Thôn Dân Thanh, xã
70 Vũ Văn Chỉnh 68 Thầy cúng Đồng Lạc, huyện Yên
Lập.
Xóm Đắng, xã Thượng 71 Hoàng Thị Dụ 60 Kinh doanh Long, huyện Yên Lập.
Xóm Dùng, xã Trung 72 Đinh Thị Đắc 69 Thầy Mo Sơn, huyện Yên Lập.
Thôn Minh Phúc, xã Nguyễn Văn 73 59 Làm ruộng Đồng Lạc, huyện Yên Giang Lập.
Khu 5, xã Nga Hoàng, 74 Bàn Văn Long 75 Làm ruộng huyện Yên Lập.
P. Trưởng phòng văn Khu Tân An 4, TT Yên Phùng Duy 75 40 hóa và thông tin huyện Lập, huyện Yên Lập Nam Yên Lập
P. Ban đại diện chùa Nguyễn Thị 76 72 Làm ruộng Long tự, TT Yên Lập. Nhung
P. Trưởng phòng Dân Thôn Minh Tân, xã Phúc 77 Cao Văn Sinh 38 tộc huyện Yên Lập Khánh, huyện Yên Lập.
96
PHỤ LỤC
Bảng 1 pl: Đơn vị hành chính châu Yên Lập
TỔNG
XÃ
THÔN, XÓM
Đông Lỗ
Xóm Đồng Đình, Xóm Bông, Xóm Xiển, Xóm Cả.
Đồng Phú
Xóm Đồng Dân, Xóm Đồng Bài, Xóm Đồng Dù.
Đoài Lỗ
Xóm Xuân Lôi, Xóm Quán, Xóm Lèn, Xóm Làng.
Xóm Đá Bàn, Xóm May, Xóm Bình, Xóm Giọc, Xóm
Đông Lỗ
Ngọc Lập
Hang Đồng.
Thôn Đồng Phái, Xóm Thọ, Xóm Chiềng, Xóm Chùa,
Phục Cổ
Xóm Nguyên
Đồng Lạc
Xóm Mưa, Xóm Trại, Xóm Mạ.
Xóm Cảy, Xóm Vệ , Xóm Quán, Xóm Móc Xóm Giang,
Thượng Long
Xóm Hù, Xóm Hom.
Thôn Nam, Thôn Bắc, Xóm Mít, Xóm Mè, Xóm Sàng,
Hạ Long
Xóm Thiện, Xóm Chùa, Xóm Giứa, Xóm Trung, Xóm
Bành, Xóm Trầm.
Thượng Long
Xóm Dâu, Xóm Đình, Xóm Cấm, Xóm Thị, Xóm Dù,
Đồ Thủy
Xóm Hồng.
Xóm Liêm, Xóm Đồng,Xóm Cả, Xóm Quánh, Xóm Vải,
Mộ Xuân
Xóm Đặng, Xóm Dần, Xóm Sấu, Xóm Hon, Xóm Đùng.
Thượng Khê Xóm Thói, Xóm Sắt
Sơn Lương
Xóm Hà, Xóm Giường, Xóm Khế, Xóm Ve.
Xóm Đồn, Xóm Già, Xóm Hầu, Xóm Róc.
Nga Mỹ
Xóm Mo, Xóm Thừa, Xóm Mưa.
Sa Lung
Sơn Lương
Xóm Yên Sào, Xóm Đồng Luông, Xóm Thiếu, Xóm
Yên Sào
Thạch Trụ.
Quế Sơn
Xóm Thuồng, Xóm A, Xóm Cảo, Xóm Khe Khuôn.
Phố Tân An
Tổng số: 1 phố, 3 tổng, 16 xã
Nguồn: [13, tr. 674-676].
Bảng 2 pl: Tình hình ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805)
Đơn vị tính: Mẫu,sào,thước, tấc,phân
Tổng số ruộng đất
Diện tích ruộng tư
Địa danh
(m.s.th.t.p)
Mẫu Sào Thước Tấc Phân
184.6.13.0.0
184
6
13
0
0
Tổng Thu Ngạc
135.8.06.0.0
135
8
06
0
0
1. An Dưỡng
13.9.01.5.0
13
9
01
5
0
2. Thu Ngạc
34.9.05.5.0
34
9
05
5
0
3. Phục Cổ
465.2.04.7.0
465
2
04
7
0
TổngThượngLong
139.6.07.3.0
139
6
07
3
0
1.Thượng Long
165.3.01.3.0
165
3
01
3
0
2. Mộ Lan
26.0.14.8.0
26
0
14
8
0
3. Đồ Thủy
134.1.11.3.0
134
1
11
3
0
4. Hạ Long
47.1.10.2.0
47
1
10
2
0
Tổng Đông Lỗ
34.0.10.2.0
34
0
10
2
0
1. Xuân Ứng
13.1.00.0.0
13
1
00
0
0
2. Xuân Lôi
21.3.00.0.0
21
3
00
0
0
Tổng Sơn Lương
13.3.10.8.0
13
3
10
8
0
1. Sơn Lương
7.9.04.2.0
7
9
04
2
0
2. Sa Lung
177.7.11.1.0
7
11
1
0
177
Tổng Vân Bán
19.8.08.6.0
19
8
08
6
0
1. Khổng Tước
33.4.03.7.0
33
4
03
7
0
2. Vân Bán
14.6.06.5.0
14
6
6
5
0
3. Vân Hoàng
28.8.09.6.0
28
8
09
6
0
4. Trục Thước
52.3.14.8.0
52
3
14
8
0
5. Phượng Vĩ
28.5.12.9.0
28
5
12
9
0
6. Bạn Lữ
896.1.09.0.0
1
09
0
0
Tổng
896
Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)
Bảng 3 pl: Thống kê tình hình địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Đơn vị tính: Mẫu, Sào, thước,tấc, phân
Tổng số ruộng đất Diện tích Ruộng Địa danh Mẫu Sào Thước Tấc Phân ruộng tư công
149.7.07.5.0 0 07 5 149 7 Tổng Thu Ngạc
3.9.01.5.0 0 01 5 Thu Ngạc 13 9 1
135.8.06.0.0 0 06 0 An Dưỡng 135 8 2
139.6.07.3.0 0 07 3 6 TổngThượngLong 139
139.6.07.3.0 0 07 3 3 ThượngLong 139 6
29.5.11.1.1 1 11 1 29 5 Tổng Đông Lỗ
2.5.01.2.0 0 01 2 Hương Lan 2 5 4
4.1.02.2.0 0 02 2 Đông Lỗ 4 1 5
17.6.00.2.1 4.5.00.2.1 1 00 2 Đoài Lỗ 17 6 6
5.3.07.5.0 0 07 5 Vân Lung 5 3 7
225.6.07.2.0 0 07 2 225 6 TổngSơn Lương
7.9.04.2.0 0 04 2 Sa Lung 7 9 8
122.7.01.2.0 0 01 2 Quế Sơn 122 7 9
60.0.11.3.0 0 11 3 Nga Mi 60 0 10
34.9.05.5.0 0 05 5 An Sào 34 9 11
62.0.01.6.0 0 01 6 62 0 Tổng Vân Bán
33.4.03.7.0 0 03 7 Vân Bán 33 4 12
28.5.12.9.0 0 12 9 Bạn Lữ 28 5 13
1 04 7 6 Tổng 606 606.6.04.1.0 4.5.00.2.1
Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Bảng 4 pl. So sánh tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc năm 1805 và 1840
Năm Gia Long 4 (1805)
Minh Mệnh 21(1840)
Không
Không
Số chủ
1 đến 5
5 đến 10
10 đến
Số chủ
1 đến 5
5 đến 10
10 đến 20
Chức vị
ruộng
< 1 mẫu
Chức vị
ruộng
< 1 mẫu
mẫu
mẫu
20 mẫu
mẫu
mẫu
mẫu
%
%
đất
đất
5
2
2
1
5
1
1
2
1
Xã trưởng
Lý trưởng
%
40
40
20
%
20
20
40
20
1
1
5
2
2
1
Hương
Thôn trưởng
trưởng
%
100
%
40
40
10
4
2
1
1
Sắc mục
%
50
25
25
1
10
2
5
1
1
1
3
3
10
2
1
Tổng
Tổng
10%
20
100%
50
10
10
10
100%
20%
10%
30%
30%
Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) của 5 xã Sa Lung, Bạn Lữ,
Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ HIỆN NAY
2.
1.
4.
3.
5 6
1. Rừng cọ đồi chè xã Phúc Khánh
6. Chăn nuôi gia súc xã Mĩ Lương
2.Cánh đồng lúa xã Trung Sơn
7. Quay tơ dệt vải của người Mường ở Yên Lập
4. Nuôi tằm ở huyện Yên Lập
8. Nuôi ong tại TT Yên Lập, huyện Yên Lâp.
5. Chăn nuôi gia cầm ở xã Xuân An
Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm, tháng 8/2015
NHÀ Ở
1.
2.
3.
4.
5.
6.
8.
7.
1. Cổng vào nhà bà Đinh Thị Anh, dân tộc
5. Cầu thang
Mường, TT Yên Lập.
6. Nhà nửa sàn nửa đất của ông Bàn Văn Long,
2. Gầm nhà sàn dân tộc Mường
dân tộc Dao, xã Nga Hoàng, Huyện Yên Lập.
3. Bàn thờ gia tiên
7. Bàn thờ của người Dao
4. Mái nhà sàn
8. Nhà vách đất của ông Hoàng Văn Thạch người
Kinh, xã Phúc Khánh, Huyện Yên Lập.
Nguồn: Tác giả chụp tại huyện Yên Lâp,tháng 2/2016
ẨM THỰC
1.
2
3.
4.
6.
5
7.
8.
1. Ninh và chõ đồ
5. Thịt chua
2. Cơm nếp đồ
6. Cá nướng
3. Xôi ngũ sắc
7. Quả cọ
4. Lợn thui
8. Uống rượu cần
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Phú Thọ tháng 3/2016
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN TÍN NGƯỠNG
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
1,2. Đình Phục Cổ xã Minh Hòa
6,7. Chùa Xuân Lôi xã Xuân Lôi
3. Chùa Long Tự, TT Yên Lập
8. Nghĩa trang liệt sĩ xã Minh Hòa
4,5 Đền Đá Thờ, TT Yên Lập
Nguồn: Tác giả chụp tại huyện Yên Lập, tháng 3/2016
LỄ HỘI
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
1. Đâm đuống của người Mường huyện Yên Lập.
6. Lễ tết nhảy của người Dao xã Nga Hoàng.
2. Lượm và săn thú trong lễ hội mở cửa rừng xã
7. Lễ Cấp sắc của người Dao
Minh Hòa
8. Dâng lễ trong lễ hội Đền Hùng
3. Múa trống đu dân tộc Mường huyện yên Lập
9. Thi gói bánh chưng trong lễ hôi Đền Hùng
4. Thầy Mo hành lễ trong lễ hội Mở cửa rừng
5. Thầy cúng người Dao