ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HOÀNG THỊ NGUYỆT

KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP

TỈNH PHÚ THỌ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HOÀNG THỊ NGUYỆT

KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP

TỈNH PHÚ THỌ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN

THÁI NGUYÊN 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và

kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng

để bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2016

Tác giả

Hoàng Thị Nguyệt

Xác nhận của Trưởng Khoa Xác nhận của cán bộ hướng dẫn

PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy PGS.TS. Đàm Thị Uyên

i

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan, tập thể, cá

nhân mà tôi không thể không bày tỏ lời cảm ơn chân thành.

Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới Sở văn hóa Thể thao và Du lịch, Bảo tàng

Hùng Vương tỉnh Phú Thọ, Phòng Văn hóa Thể thao và du lịch, Phòng Dân tộc, Ủy

ban nhân dân huyện Yên Lập và nhân dân địa phương đã giúp đỡ tôi trong quá trình

khảo sát thực tế tại địa phương.

Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng

các thầy cô trong tổ Lịch sử Việt Nam – Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại

học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập

và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp và những

người thân trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành

luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016

Tác giả

Hoàng Thị Nguyệt

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. ii

MỤC LỤC .................................................................................................................. iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... v

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 7

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 8

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................... 8

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ ....................... 9

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ...................................................................... 9

1.1.1. Vị trí địa lý ................................................................................................. 9

1.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 10

1.2. Lịch sử hành chính huyện Yên Lập ................................................................. 14

1.3. Các thành phần dân tộc ................................................................................... 17

1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Yên Lập ..................................... 23

Chương 2. KINH TẾ CỦA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ........ 32

2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX ................ 32

2.1.1. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 năm (1805) ... 33

2.1.2. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ..... 39

2.1.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và

Minh Mệnh 21 (1840) ........................................................................................ 45

2.2. Chế độ tô thuế .................................................................................................. 49

2.3. Tình hình kinh tế ............................................................................................. 51

iii

2.3.1. Nông nghiệp ............................................................................................. 51

2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp ............................................................. 54

Chương 3. VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX ................. 57

3.1. Làng bản và nhà cửa ........................................................................................ 57

3.2. Ẩm thực ........................................................................................................... 60

3.3. Y phục và trang sức ......................................................................................... 62

3.4. Tục lệ xã hội .................................................................................................... 65

3.5. Lễ tết ................................................................................................................ 74

3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình ............................................................................... 78

3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp .......................................... 81

3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo ....................................................................................... 83

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 92

PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCH : Ban chấp hành

: Nhà xuất bản Nxb

: Phó giáo sư PGS

QSQTN : Quốc sử quán triều Nguyễn

TCN : Trước công nguyên

Tr : Trang

TS : Tiến sĩ

TTLTQGI : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I

TƯ : Trung Ương

UBND : Uỷ ban nhân dân

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Yên Lập ..................................................... 18

Bảng 2.1. Tổng diện tích các loại ruộng đất của Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) . 33

Bảng 2.2. Sự phân hóa ruộng tư của Yên Lập ............................................................. 34

Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa ........................................................... 35

Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ năm 1805 ..................................... 36

Bảng 2.5. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm (1805) .......................... 38

Bảng 2.6. Sự phân bố các loại ruộng đất ..................................................................... 40

Bảng 2.7. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm 1840 .................................. 41

Bảng 2.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa (năm 1840) ....................................... 42

Bảng 2.9. Sự phân bố ruộng đất của nhóm họ năm (1840) ......................................... 43

Bảng 2.10. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm 1840 ............................ 44

Bảng 2.11. Bảng so sánh sự phân bố các loại ruộng đất ............................................. 45

Bảng 2.12. So sánh quy mô sở hữu ruộng tư ............................................................... 46

Bảng 2.13. So sánh tình hình sở hữu của các dòng họ của 5 xã .................................. 48

v

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phú Thọ là một tỉnh nằm ở khu vực miền núi trung du phía Bắc, vị trí địa lý

mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông - Bắc. Cũng là tỉnh có vị trí chiến

lược về chính trị, quốc phòng, kinh tế đối với cả nước. Có thể nói Phú Thọ là cái nôi

sinh thành của dân tộc Việt Nam - nơi mà cách đây hàng ngàn năm đã ra đời nhà

nước đầu tiên của người Việt, cũng là nhà nước sớm nhất của vùng Đông Nam Á -

Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Phú Thọ, nơi có Đền Hùng, cội nguồn linh

thiêng của cả dân tộc Việt Nam, với sức hút tâm linh không phải dân tộc nào cũng có.

Đây cũng là nơi cư trú của 21 dân tộc anh em. Ngay từ buổi sơ khai của lịch sử, Phú

Thọ đã có người nguyên thủy sinh sống. Hàng nghìn năm qua từ khi Vua Hùng dựng

nước Văn Lang cho đến nay mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này đã đón nhận nhiều

dòng người xuôi ngược về đây quần tụ sinh sống.

Yên Lập là một huyện miền núi nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, là

vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa. Cũng giống như các huyện

khác của tỉnh, với những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên ngay từ rất sớm địa bàn

huyện đã là nơi cư trú của một bộ phận người Việt cổ, về sau là một phần của

quốc gia Văn Lang. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử các thế hệ người dân Yên Lập

đã kế tiếp nhau chung sức chung lòng cần cù sáng tạo trọng lao động, kiên trung

bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cùng nhau xây dựng bảo vệ quê

hương ngày càng giàu đẹp.

Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá trình phát

triển lâu dài của đất nước. Việc xây dựng cộng đồng chính trị - xã hội trong lịch

sử không tách rời việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc. Trong lịch sử, các

triều đại phong kiến Việt Nam rất coi trọng và có những chính sách cụ thể để phát

triển kinh tế, đoàn kết cư dân miền núi góp phần củng cố quốc gia, đẩy lùi các thế

lực xâm chiếm từ bên ngoài.

Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi nói chung và Yên Lập

nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm nhằm giảm dần sự cách biệt về đời sống

1

vật chất cũng như đời sống tinh thần giữa các dân tộc, giữa miền ngược với miền xuôi,

khai thác mọi tiềm năng của đất nước để đưa đất nước ta ngày một phát triển, vững

mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Ngày nay

trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, toàn Đảng,

toàn dân ta đang tích cực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp của toàn dân tộc, có sự chung tay

đóng góp không nhỏ của nhân dân các dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ quốc.

Huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ cũng nằm trong dòng chảy lịch sử đó.

Việc nghiên cứu về một thời kì lịch sử của Yên Lập (nửa đầu thế kỷ XIX),

không những góp phần khôi phục lại bức tranh lịch sử về hoạt động kinh tế cũng như

đời sống văn hóa phong phú, độc đáo của các dân tộc nơi đây mà còn góp phần làm

cơ sở cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta: Đại đoàn kết

dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xây dựng con người mới, cuộc sống mới

trên mảnh đất Yên Lập

Là một người đang tìm hiểu về vai trò của lịch sử địa phương trong vận mệnh

của lịch sử dân tộc, được sự giúp đỡ, hướng dẫn của giảng viên hướng dẫn khoa học

là PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam,

Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, tôi đã

quyết định chọn đề tài: “Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu thế

kỷ XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu một số tài liệu tham khảo có tính chất

gợi mở, định hướng và là cơ sở để người nghiên cứu thực hiện đề tài:

Trước hết phải kể đến cuốn Địa chí tỉnh Hưng Hóa, của Nxb Đông Dương tạp

chí, năm 1899. Do dịch giả Nguyễn Xuân Lân (thư viện tỉnh Vĩnh Phú) dịch. Cuốn

sách gồm 6 phần, lần lượt từng phần đã đề cập tới hầu hết các lĩnh vực như hình thế,

lịch sử chinh phục, cơ cấu xã hội - tổ chức chính trị và cai trị, vị trí kinh tế (nông

nghiệp, kỹ công nghệ - thương mại), lực lượng quân sự và dự báo về tương lai Hưng

Hóa. Sách viết rất ít về một châu miền núi như Yên Lập nhưng đây cũng là nguồn tư

liệu quan trọng để nghiên cứu về một địa phương của tỉnh Hưng Hóa xưa.

2

Năm 1986, Sở văn hóa và Thông tin Vĩnh Phú đã cho xuất bản tập địa chí Văn

hóa dân gian vùng Đất Tổ. Trong tập địa chí này các tác giả đã đề cập một cách chi

tiết về thiên nhiên con người Vĩnh Phú, cũng như những giá trị văn hóa dân gian từng

dân tộc từ ngàn xưa đã được cư dân vùng Đất Tổ gìn giữ phát huy cho đến tận ngày

nay. Sách mới chỉ giới thiệu những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần tinh túy nhất của

vùng Đất Tổ chứ không đi sâu nghiên cứu về một địa phương cụ thể trong tỉnh,

nhưng đây là tư liệu quan trọng để tác giả hoàn thiện luận văn của mình.

Tiếp theo là cuốn Phú Thọ tỉnh địa chí của tác giả Phạm Xuân Bộ, địa chí gồm

4 chương đã lần lượt giới thiệu về tổng thuyết (danh xưng, duyên cách), tự nhiên,

nhân văn và các địa phương trong tỉnh Phú Thọ. Đây là cẩm nang để tìm hiểu về Phú

Thọ nói chung. Huyện Yên Lập tác giả có đề cập đến nguồn gốc tộc người, mật độ

dân cư, vùng đất dành cho di dân, khí hậu, kinh tế nông lâm nghiệp, thương mại của

huyện nhưng rất ngắn gọn và khái quát. Nhưng đây cũng là nguồn tài liệu quan trọng

giúp tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài của mình.

Luận án tiến sĩ Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở Phú Thọ của

Nguyễn Ngọc Thanh viết năm 1999. Luận án là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một

cách có hệ thống về cấu trúc, chức năng của gia đình và thể chế hôn nhân của người

Mường ở hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập. Đây là dân tộc có số dân đông nhất ở

huyện Yên Lập. Đây là nguồn tư liệu gần gũi cho việc nghiên cứu về nguồn gốc tộc

người, văn hóa người Mường ở Yên Lập đồng thời định hướng cho các chính sách

văn hóa, gìn giữ và phát triển bền vững bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đổi

mới hiện nay.

Tác phẩm Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới

triều Nguyễn do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên của Nxb Thuận Hóa,

năm 1997 đã nghiên cứu một cách cụ thể về tình hình ruộng đất chủ yếu thông qua

tài liệu địa bạ. Bên cạnh đó tác phẩm còn nêu lên các chính sách về nông nghiệp

đặc biệt là các chính sách về ruộng đất dưới triều Nguyễn. Tác phẩm là nguồn tư

liệu quan trọng định hướng phương pháp nghiên cứu cho tác giả luận văn về ruộng

đất Yên Lập thông qua tư liệu địa bạ.

3

Luận văn thạc sĩ Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX của

tác giả Trần Thị Thanh Xuyên, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2015.

Luận văn đã nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, tình hình chính trị xã

hội, chế độ ruộng đất, kinh tế, cũng như văn hóa của nhân dân huyện Trấn Yên thế kỷ

XIX. Đây là một huyện cùng Phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa với huyện Yên Lập từ

thời Hậu Lê cho đến tận đầu thế kỷ XX. Luận văn này giúp người nghiên cứu thấy

được những nét tương đồng, khác biệt của các huyện trong phủ Quy Hóa ở nửa đầu

thế kỷ XIX.

Tập sách ảnh Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương của nhà xuất bản Văn

hóa - Thông tin Hà Nội, phát hành năm 2001. Cuốn sách ảnh đã lưu lại những vẻ

đẹp còn rất Mường từ diện mạo đến kiến trúc, tập quán, lễ hội, hoạt động kinh tế,

cơ cấu xã hội xưa của người Mường, dân tộc thiểu số có số dân đông nhất ở Phú

Thọ cũng như ở Yên Lập. Tuy tác giả mới đề cập ở mức độ khái quát nhất và tập

trung vào phần hình ảnh của người Mường nhưng đây cũng là nguồn tài liệu

quan trọng giúp tác giả có thêm nhận thức trong nghiên cứu văn hóa huyện Yên

Lập nửa đầu thế kỷ XIX.

Cuốn tổng tập Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam do Sở Văn hóa thể

thao và du lịch tỉnh Phú Thọ xuất bản năm 2012. Cuốn sách đã trình bày khá đầy đủ

và chi tiết về các lễ hội trên địa bàn từng huyện, thị của tỉnh Phú Thọ, lịch một số lễ

hội dân gian, lễ hội lịch sử trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trong cuốn sách, từ trang 853

đến trang 895 các tác giả đã trình bày rất chi tiết về các lễ hội của dân tộc Mường,

dân tộc Dao xã Hưng Long, xã Ngọc Đồng, xã Nga Hoàng huyện Yên Lập. Qua đó

thấy được những giá trị văn hóa tinh thần và đời sống vật chất của xã hội cổ xưa được

các thế hệ người dân vùng Đất Tổ bảo lưu và gìn giữ phát huy trong đời sống hiện tại.

Cuốn sách Văn hiến làng xã vùng đất Tổ Hùng Vương, của tác giả Vũ Kim

Biên, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản,

năm 1999. Cuốn sách đã mô tả, thống kê khá kỹ về những làng cổ ở Phú Thọ từ thời

Hùng Vương cho đến nay, nêu lên những giá trị văn hóa vật chất cũng như những giá

trị văn hóa tinh thần ở làng xã từ ngàn xưa, diện mạo làng xã thay đổi ra sao qua mỗi

thời kì lịch sử. Đặc biệt tác giả còn đưa ra những kiến nghị, bài học cơ bản về chính

4

sách đối với làng xã trên cơ sở tôn trọng quyền tự quản và quyền làm chủ của làng xã.

Đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo quý đối với tác giả trong quá trình hoàn thành

luận văn của mình.

Bản chúc thư bằng đồng của thổ lang Đinh Thế Thọ ở xã Tân Lập huyện

Thanh Sơn hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng Hùng Vương tỉnh Phú

Thọ. Chúc thư viết vào thời hậu Lê quy định 13 lệ của bản thôn đối với nhà lang như

cách cai trị của nhà lang và những quyền lợi mà nhà lang được hưởng từ dân bản của

mình. Chúc thư có 3 tấm với khoảng 1000 chữ Hán đã được dịch sang tiếng Việt.

Đây là nguồn tài liệu cổ ít ỏi còn lại và rất có giá trị cho người nghiên cứu khi tìm

hiểu về thiết chế chính trị, xã hội xưa của người Mường Phú Thọ. Bản chúc thư cho

thấy thiết chế chính trị của người Mường là chế độ tự trị, cha truyền con nối, chế độ

của công xã, làng chạ cổ xưa.

Ngày 28/12/ 2011 UBND huyện Yên Lập ban hành quyết định số 1697/ QĐ-

UBND về Phát triển sự nghiệp Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch giai đoạn

2011 - 2015, trong đó có đề án “Điều tra, nghiên cứu, phục dựng và đề xuất giải

pháp bảo tồn, phát huy giá trị một số lễ hội dân gian tiêu biểu dân tộc Mường huyện

Yên Lập”. Người Mường có số dân đông nhất ở Yên Lập chiếm 67,76% dân số toàn

huyện, việc nghiên cứu về văn hóa dân gian dân tộc Mường có ý nghĩa quan trọng về

mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đối với toàn huyện. Đề án chỉ đi sâu vào lễ hội

dân gian dân tộc Mường và đó là cơ sở cho tác giả tìm hiểu nghiên cứu về văn hóa

người Mường cũng như sự giao thoa, văn hóa giữa người Mường với các dân tộc

khác trên địa bàn huyện Yên Lập.

Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Lập 1945-2005, xuất bản năm 2008 của

BCH Đảng bộ huyện Yên Lập. Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và có

hệ thống về huyện Yên Lập trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế

quốc Mĩ, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa hiện nay. Tác phẩm đã đề cập đến nhiều con người cụ thể, công việc cụ thể

của huyện Yên Lập. Đặc biệt trong phần đầu của chương 1 của tác phẩm đã nêu khái

quát về vị trí địa lý, lịch sử và địa giới huyện Yên Lập từ khi thành lập huyện cho đến

nay. Ngoài ra còn có nhiều tranh ảnh về di tích lịch sử, cán bộ lão thành cách mạng

5

của Yên Lập…Tuy nhiên, nội dung tập trung chủ yếu vào nghiên cứu lịch sử Đảng từ

sau cách mạng tháng Tám, vì thế nên lịch sử huyện Yên Lập trong giai đoạn trước,

nhất là thời kì trung đại chưa xuất hiện nhiều trong cuốn sách này.

Ngoài ra còn có các khóa luận, luận văn có liên quan đến đề tài của tác giả. Có

thể kể đến ở đây như: Biến đổi nhà ở của người Dao xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập,

tỉnh Phú Thọ, của tác giả Trịnh Thị Ngọc, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Văn

hóa, Hà Nội, năm 2014. Luận văn thạc sĩ Kinh tế Nghiên cứu rủi ro trong sản xuất

nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Kinh tế và

Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, năm 2014.

Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vùng Đất Tổ Phú Thọ nói

chung. Trong đó có huyện Yên Lập. Một số tác phẩm, dù không đề cập trực tiếp

đến huyện Yên Lập nhưng những công trình nêu trên đã giúp cho tác giả tiếp cận

nội dung, phương pháp luận, để làm sáng tỏ các vấn đề về huyện Yên Lập nửa

đầu thế kỷ XIX.

Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một

cách toàn diện về huyện Yên Lập trong nửa đầu thế kỉ XIX. Do đó còn nhiều vấn đề

chưa được làm sáng tỏ như: vị trí địa lý, nguồn gốc dân tộc, chế độ sở hữu ruộng dất,

văn hóa các dân tộc ở Yên Lập…cũng như những biến động chính trị qua các thời kì

lịch sử. Mặc dù vậy tác giả luôn xem những thành quả của các nhà nghiên cứu đi

trước là những gợi mở quý báu, tạo điều kiện để tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu

của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích, chọn đề tài “Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa

đầu thế kỷ XIX” để nghiên cứu, tác giả mong muốn nêu lên một cách chân thực, khoa

học về một thời kỳ lịch sử của huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX. Ngoài ra, có thể

bổ sung thêm nguồn tư liệu địa bạ góp phần lý giải một số vấn đề lịch sử Việt Nam

trung đại, vấn đề ruộng đất, kinh tế nông nghiệp và mối quan hệ giữa các dân tộc.

Đồng thời trên cơ sở tư liệu hiện có, vấn đề văn hóa của huyện Yên Lập cũng được

tác giả làm rõ.

- Nhiệm vụ, bước đầu đề tài nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về các

mặt: kinh tế và văn hóa của huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu thế kỷ XIX để qua

6

đó thấy được bức tranh về một thời kì lịch sử trong quá khứ của mảnh đất và con

người Yên Lập.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các chính sách về kinh tế, chế độ sở hữu

ruộng, hoạt động kinh tế, văn hóa của các dân tộc cùng chung sống ở Yên Lập tỉnh

Phú Thọ nửa đầu thế kỉ XIX.

- Phạm vi nghiên cứu:

Nội dung bao gồm những vấn đề cơ bản như: tình hình sở hữu ruộng đất, chế

độ tô thuế, các loại hình kinh tế (nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương ngiệp), cấu

trúc làng bản, nhà cửa, ẩm thực, y phục trang sức, một số tục lệ xã hội, quan hệ dòng

họ gia đình, lễ tết và đời sống tôn giáo tín ngưỡng của tộc người Mường, Kinh, Dao ở

Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.

Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, dưới

triều Nguyễn.

Phạm vi không gian: Huyện Yên Lập, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa theo địa

giới hành chính nửa sau thế kỉ XIX với 5 tổng 23 xã thôn.

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

- Nguồn tư liêu:

Trong luận văn tác giả đã khai thác và sử dụng một số sử sách và địa chí cổ:

Kiến Văn tiểu lục, Hưng Hóa phong thổ chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống

chí, Đồng Khánh địa dư chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ…và nguồn tư liệu

địa phương gồm các sách: Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kỳ, Địa chí tỉnh

Hưng Hóa, Phú Thọ tỉnh địa chí, Địa chí Vĩnh Phú Văn hóa dân gian vùng đất Tổ,

Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương, Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam,

Văn hiến làng xã vùng Đất Tổ Hùng Vương…Những tư liệu trên đã ghi chép tên trấn,

tổng, xã, thôn thời Gia Long và Minh Mệnh, ghi lại số đinh tô thuế ở địa phương,

miêu tả vị trí địa lý, thổ sản, phong tục tập quán…qua đó làm rõ tình hình kinh tế, văn

hóa huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX.

Nguồn tư liệu địa bạ được sử dụng trong luận văn gồm 17 địa bạ có niên đại

Gia Long 4 (1805) và 13 địa bạ thời Minh Mệnh 21 (1840) của huyện được khai thác

7

tại TTLTQG I (Hà Nội).

Ngoài ra tác giả còn sử dụng nguồn tư liệu thực địa, điền dã: Tác giả đã thu thập

được nhiều tài liệu do nhiều địa phương trên địa bàn huyện Yên Lập cung cấp, đến

những làng bản của cộng đồng cư dân thiểu số quan sát, ghi chép về các phong tục tập

quán của họ, thu thập các câu truyện dân ca, ca dao... để bóc tách những vấn đề lịch sử

có thật trong quá khứ.

- Phương pháp nghiên cứu: Trong giới hạn của đề tài chúng tôi đặc biệt chú ý

khâu giám định tư liệu. Bên cạnh đó tác giả chú ý việc sử dụng phương pháp khai

thác tài liệu thành văn với phương pháp điền dã lịch sử. Đồng thời sử dụng phương

pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phân tích mô tả so sánh, đối chiếu các nguồn tài

liệu, phương pháp tổng hợp bằng hệ thống bảng biểu.

Chúng tôi đặt việc nghiên cứu lịch sử huyện Yên Lập trong mối quan hệ với

lịch sử dân tộc (nửa đầu thế kỷ XIX) để thấy được mối quan hệ tác động qua lại giữa

lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc và ngược lại.

6. Đóng góp của luận văn

Dựa trên những tài liệu có thể khai thác được, đề tài bước đầu khôi phục một

cách có hệ thống lịch sử huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ tộc người,

loại hình kinh tế, xã hội, thiết chế chính trị xã hội, những nét văn hóa tiêu biểu gắn

với môi trường sinh thái địa phương, những nhân tố thúc đẩy sự biến đổi kinh tế, văn

hóa địa phương…trong thời kì lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia

thành ba chương:

Chương 1: Khái quát về huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ.

Chương 2: Kinh tế của huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.

Chương 3: Văn hóa huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.

Ngoài ra trong luận văn còn có phần phụ lục với 42 ảnh minh họa, 5 bản đồ, 3

trang địa bạ.

8

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

1.1.1. Vị trí địa lý

Yên Lập là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, có tọa

độ địa lý 210 12’ đến 210 31’ vĩ độ Bắc, 1040 10’ kinh tuyến Đông, có độ cao trung

bình so với mực nước biển là 200m nơi cao nhất là 900m. Huyện nằm trong thung

lũng có chiều dài hơn 60km chiều rộng 8km. Phía Đông giáp huyện Cẩm Khê và

huyện Tam Nông (Phú Thọ), phía Tây giáp huyện Văn Chấn (Yên Bái), phía Nam

giáp huyện Thanh Sơn, Tân Sơn (Phú Thọ) và phía Bắc giáp huyện Hạ Hòa (Phú

Thọ). Theo sách Đại Nam nhất thông chí: “ Huyện Yên Lập:đông tây cách nhau 105

dặm, nam bắc cách nhau 181 dặm, phía đông đến địa giới huyện Cẩm Khê tỉnh Sơn

Tây 7 dặm, phía tây đến địa giới huyện Trấn Yên 98 dặm, phía nam đến địa giới

huyện Thanh Sơn 101 dặm ,phía bắc đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 80

dặm” [21, tr. 236].

Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng chép lại như sau: “Huyện Yên Lập do phủ

Quy Hóa thống hạt. Huyện lỵ ở xã Vân Bán tổng Vân Bán, chu vi 80 trượng, bốn

phía trồng rào tre, mở một cửa trước. Huyện hạt phía đông giáp huyện Cẩm Khê tỉnh

Sơn Tây, phía tây giáp huyện Văn Chấn, phía nam giáp huyện Thanh Sơn, phía bắc

giáp huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây. Đông tây cách nhau 105 dặm. Nam bắc cách nhau

181 dặm” [39, tr. 728].

Ngày nay, huyện Yên Lập có tổng diện tích tự nhiên là 43.783,62 ha chiếm

12,4% diện tích toàn tỉnh Phú Thọ. Trung tâm huyện lỵ cách thành phố Việt Trì

70km, cách thủ đô Hà Nội 150km. Do nằm ở vị trí khá xa trung tâm tỉnh lỵ, cùng với

hệ thống giao thông cơ bản chưa phát triển nên huyện Yên Lập có nhiều khó khăn,

bất lợi so với các huyện lận cận trong giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa đặc biệt là

phát triển các nghành công nghiệp và dịch vụ.

9

1.1.2. Điều kiện tự nhiên

Yên Lập là huyện miền núi cao có địa hình đa dạng và phức tạp, có nhiều dãy

núi cao độ dốc lớn, hệ thống suối, khe, ngòi hẹp và dốc lại phân bố không đều làm

cho địa hình bị phân cách mạnh. Địa bàn huyện có thể chia làm ba tiểu vùng chính:

- Tiểu vùng 1: Các xã vùng hạ huyện (vùng thấp): Là vùng địa hình núi

thấp, đồi cao bao gồm các xã: Minh Hòa, Đồng Lạc, Ngọc Đồng, Ngọc Lập,

Phúc Khánh. Tuy nhiên do địa hình phân cách, nên việc phát triển hệ thống thủy

lợi gặp nhiều khó khăn.

- Tiểu vùng 2: Các xã vùng trung huyện (vùng giữa): Gồm các xã Xuân Viên,

Xuân Thủy, Hưng Long, Đồng Thịnh, Thượng Long và thị trấn Yên Lập. Đây là

vùng thung lũng được tạo bởi hai sườn núi phía đông và phía tây của huyện.

- Tiểu vùng 3: Các xã vùng thượng huyện gồm: Mỹ Lung, Mỹ Lương, Xuân

An, Nga Hoàng và Trung Sơn. Đây là vùng địa hình bị phân cách mạnh, một số vùng

có độ dốc cao trên 250, về mùa mưa thường sảy ra lũ quét, về mùa khô lại hay bị hạn.

Trong huyện có một số dãy núi cao, hiểm trở sách Đại Nam nhất thống chí

chép như sau: “ Núi Quang Sơn: cách huyện Yên Lập hơn 10 dặm về phía bắc,

bốn bên đều khe ngòi. Núi Trầm Trĩ ở huyện Yên Lập: thế núi cao vót,tre gỗ um

tùm, là trấn sơn của huyện. Núi Tượng Khẩu: cách huyện Yên Lập 47 dặm về phía

nam.” [21, tr. 359].

Yên Lập nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Do điều kiện địa lý

cảnh quan quy định nên: “ Địa thế của huyện gần núi, thời tiết phần nhiều là mưa gió

lạnh rét. Mây đùn ngang sườn núi, sương mù sát ngọn cây. Mặt trời lên từ giờ Mão

nhưng khuất mây, mới sang giờ Thân mà sương mù đã che tối. Hơi lạnh bốc ào ào,

bao phủ cả cây cối, phần nào có khí lam chướng” [39, tr. 729].

Ngày nay, khí hậu Yên Lập nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung mang những

đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc đó là nhiệt đới, gió mùa xích đạo. Một năm có

4 mùa xuân, hạ, thu, đông, song hình thái hai mùa tương đối rõ rệt. Mùa đông lạnh và

khô hạn, kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau với nhiệt độ trung bình

là 140C - 180C, độ ẩm khoảng 62% thường vào tháng 12 hằng năm, thời tiết giá rét

kèm theo sương muối. Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, kéo dài từ tháng 6 đến 9, với

10

nhiệt độ trung bình từ 280C - 300C. Mùa nóng cũng chính là mùa mưa nhiều, lượng

mưa trung bình đạt 1570mm / năm thường kèm theo dông, tố, lốc, gió giật mạnh gây

ra lũ ống, lũ quét ở vùng núi cao, ngập lụt ở vùng trũng thấp.

Sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa nóng lạnh tương đối lớn. Nhiệt độ trung

bình hàng năm vào khoảng 22,50 C (gió thịnh hành là gió mùa đông bắc và gió mùa

đông nam), nhiệt độ trung bình ở tháng nóng nhất (tháng 6) là 390 C ở tháng thấp nhất

là 50C. Độ ẩm trung bình trong năm là 86% - 89% [44, tr. 8].

Nơi có độ cao từ 1.500m trở lên hầu như không có mùa nóng, nhiệt độ trung

bình ổn định dưới 20ºC, có nơi có hiện tượng sương muối, băng tuyết, thường bị hạn

hán vào đầu mùa lạnh và cuối mùa thường có mưa phùn. .

Nhìn chung khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa đã tạo thuận lợi cho phát triển kinh

tế nhất là với sản xuất nông nghiệp. Lượng bức xạ phong phú nền nhiệt lượng cao là

thuận lợi đối với việc tạo ra sinh khối lớn giúp cho cây trồng phát triển, cây ăn quả và

cây lương thực ngắn ngày quay vòng nhanh, các ngành khai thác và chế biến gặp

nhiều thuận lợi, các ngành du lịch và giao thông có thể hoạt động quanh năm. Khí

hậu mát ở vùng cao (tiểu vùng 3) cho phép trồng cây dược liệu quý. Đặc biệt Yên

Lập là huyện miền núi cơ bản chưa bị ô nhiễm do khói bụi công nghiệp, cộng với

diện tích rừng trồng lớn có khả năng tự làm sạch tốt nên môi trường khí hậu rất trong

lành. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, địa phương cũng chịu nhiều hậu quả do đặc

điểm của thời tiết gây ra. Mùa đông nhiều đợt gió lạnh buốt tràn về gây ra sương

muối, đầu mùa hè những đợt gió tây nóng tràn sang ảnh hưởng đến sức khỏe con

người súc vật và cây trồng. Các tai biến thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, mưa đá,

sương muối đã gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong huyện,

đặc biệt là đối với nông, lâm nghiệp.

Chế độ thủy văn phụ thuộc vào cấu tạo địa hình. Mực nước trong các suối, khe,

ngòi, hồ chứa nước trong địa bàn huyện lên xuống thất thường, đột ngột phụ thuộc vào

các trận mưa lớn trong mùa mưa. Mực nước tại các suối hằng năm là +25,45m, mực

nước lũ lịch sử từng đạt đến +56,62m [44, tr. 8]. Hằng năm thường xảy ra lũ ống gây

ngập lụt cục bộ, có thể kéo dài đến hai ngày tùy thuộc vào từng trận mưa lớn.

Trên địa bàn huyện không có sông chảy qua, chủ yếu là các suối nhỏ đổ ra

ngòi. Toàn huyện có sáu suối và ngòi chính. Ngòi Lao bắt nguồn từ mũi Kim (tỉnh

11

Yên Bái) chảy qua địa phận các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương. Ngòi Giành bắt nguồn từ

Nghĩa Tâm (tỉnh Yên Bái) chảy qua địa phận các xã Trung Sơn, Xuân An, Xuân

Viên, Lương Sơn sang xã Phượng Vĩ (huyện Cẩm Khê) rồi đổ ra sông Thao. Ngòi Cỏ

bắt nguồn từ xã Minh Hòa chảy qua xã Đồng Lạc. Ngoài ra còn có Suối Cái bắt

nguồn từ xã Trung Sơn qua xã Thượng Long, thị trấn Yên Lập. Tất cả các ngòi trên

rồi đều đổ ra sông Thao ở Cẩm Khê. Nhìn chung các ngòi, suối vùng này thường

nông, nước trong, chảy xiết. Do địa hình bị chia cắt đã tạo nên những thác lớn và đẹp

như: thác Đá Thờ, thác Khỉ Dòm, thác Khe Châu…Đây cũng là nguồn cung cấp nước

sinh hoạt cho đồng bào và tưới tiêu đồng ruộng. Như vậy, tài nguyên nước của Yên

Lập không lớn phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên.

Tài nguyên đất ở Yên Lập có nhiều loại, đất feralit màu vàng nhạt trên núi,

chủ yếu các dãy núi cao, có độ ẩm lớn, độ mùn cao, phù hợp với cây lâm nghiệp, cây

lấy gỗ và cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Loại đất này phát triển chủ yếu ở các xã

tiểu vùng 3 như: Trung Sơn, Nga Hoàng, Mỹ Lung, Mỹ Lương, Xuân An. Đất được

hình thành do bồi tụ trong quá trình phong hóa có thành phần cơ giới chủ yếu là đất

thịt trung bình và thịt nặng, chủ yếu ở các xã tiểu vùng 2 Xuân Viên, Xuân Thủy,

Hưng Long, Đồng Thịnh, Thượng Long. Loại đất này phù hợp cho phát triển sản xuất

cây lương thực như: lúa, ngô theo hướng chuyên canh và thâm canh cao, phát triển

những giống lúa chất lượng cao như xôi nếp Gà Gáy. Ngoài ra còn có đất phù sa suối,

ngòi ở các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương, Trung Sơn, Lương Sơn phù hợp với trồng cây

lúa nước, lạc, mía.

Hiện nay Yên Lập có tổng diện tích đất tự nhiên là 43.783,62ha bao gồm: đất

nông nghiệp là 36.778,82 ha chiếm 84,07% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong tổng

diện tích đất nông nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp là 8382,54 ha chiếm 22,79%, đất

lâm nghiệp là 27.987,99 ha chiếm 76,09% và đất nuôi trồng thủy sản là 408,17 ha

chiếm 1,1%. Trong diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất trồng cây hằng năm là

4334,19 ha chỉ chiếm 51,7% (và chiếm 9,9% tổng diện tích đất tự nhiên), còn lại là

đất trồng cây lâu năm [44, tr. 9].

12

Với quỹ đất như trên, huyện Yên Lập có nhiều thuận lợi trong phát triển nông

nghiệp, đặc biệt là cây lâm nghiệp và cây công nghiệp lâu năm. Quỹ đất chưa sử dụng

còn nhiều, có thể đáp ứng nhu cầu mở rộng quỹ đất chuyên dùng để xây dựng kết cấu

hạ tầng kinh tế xã hội của huyện trong tương lai.

Đất đai vùng Yên Lập do các loại đá trầm tích phong hóa yếu cấu tạo, thảm

mục chứa nhiều mùn, giàu đạm. Từ chất đất còn rất tốt ấy, từ thuận lợi mưa nhiều

độ ẩm cao ấy, đã sinh thành nên một “rừng vàng” của Phú Thọ. Tiềm năng về tài

nguyên rừng của Yên Lập chỉ đứng sau huyện Tân Sơn. Trong tập đoàn cây rừng

trên địa bàn, có một số loài có giá trị kinh tế cao như đinh, lim, sến,táu, chò, lát,

gỗ xưa, gỗ hương, cây dược liệu quý như: đẳng sâm, sơn trà, hà thủ ô, hoài sơn, sa

nhân… động vật hiếm (hổ, báo, cày hương, lợn rừng, hươu, khỉ, trăn) cùng nhiều

khu rừng có cọ, măng, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè. Sản vật ở Yên Lập

được nhắc đến trong sách Đồng Khánh dư địa chí như sau: “ Rừng nhiều gỗ tạp,

tre nứa. Chim thú như gà rừng, hổ, hươu thi thoảng cũng có” [39, tr. 729]. Đặc

biệt là gà rừng có rất nhiều ở vùng núi rừng Yên Lập. Sách Đại Nam nhất thống

chí có chép: “.Gà rừng: có tên nữa là “Trường Thanh”. Châu Thuận và huyện Yên

Lập có rất nhiều”[21, tr. 387].

Điều kiện tự nhiên đã đem lại cho Yên Lập nhiều lợi thế về tài nguyên khoáng

sản cũng như thế mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp. Trên địa bàn huyện Yên Lập có 19

mỏ và điểm quặng với trữ lượng không lớn, nằm rải rác ở các xã trong huyện, trong đó

có 10 mỏ đá, 2 mỏ than bùn, 3 mỏ quặng sắt, 3 mỏ chì kẽm, 1 mỏ chì bạc. Ngoài ra

trên địa bàn huyện còn có một số khoáng chất công nghiệp, khoáng sản làm vật liệu

xây dựng (như Đôlomit, Pirit, cát, sỏi…).

Về giao thông, Yên Lập không có đường quốc lộ, sông lớn chạy qua nên từ

trước Cách mạng Tháng Tám, địa bàn Yên Lập ít có điều kiện giao lưu với các vùng

khác. Việc đi lại của nhân dân chủ yếu là những con đường mòn, vắt qua những sườn

thung lũng để giao lưu với những vùng khác. Trong đó:

“ Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía đông, qua xã Vân Bán đến giáp huyện

Cẩm Khê tỉnh Sơn Tây, dài 3 dặm 83 trượng, rộng 5 thước. Một đường nhỏ từ huyện

13

lỵ đi về phía tây bắc, qua các xã Vân Thê, Quế Sơn, Yên Sào đến giáp huyện Văn

Chấn, dài 33 dặm 115 trượng, rộng 4 thước. Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía

tây nam, qua các xã Vân Lung, Đông Lỗ, Ngọc Lập, Thu Ngạc đến giáp huyện Thanh

Sơn, dài 307 dặm 100 trượng, rộng 4 thước .” [39, tr. 730].

Các tuyến đường này giữ vai trò quan trọng trong việc thông thương đi lại của

cư dân Yên Lập cũng như buôn bán trao đổi hàng hóa, tiếp xúc và giao lưu văn hóa

của cư dân trong huyện với các địa phương lân cận. Các tuyến đường này đều là

đường đất nhỏ hẹp.

Ngày nay Yên Lập có hệ thống giao thông đường bộ khá phát triển với 5 tuyến

đường tỉnh lộ chạy qua, là các tuyến đường 313, 321, 321B, 313D, 321C. Toàn bộ

các tuyến đường tỉnh lộ ở Yên Lập có chiều dài 107,1 km tạo điều kiện thuận lợi cho

sự phát triển kinh tế, văn hóa của huyện. Các tuyến đường liên huyện, liên xã phát

triển mạnh, 100% các xã đã có đương rải nhựa tới Ủy ban. Với chương trình Xây

dựng nông thôn mới, các con đường bê tông đang được triển khai xây dựng tới tận

thôn, xóm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục của các bản làng, góp

phần nâng cao đời sống nhân dân trong huyện.

Với điều kiện tự nhiên đặc thù của mình, Yên Lập đã sớm trở thành nơi sinh

sống của cư dân Mường, và trong lịch sử là nơi đón nhận cư dân nhiều nơi đổ về

quần tụ, sinh cơ lập nghiệp.

1.2. Lịch sử hành chính huyện Yên Lập

Trong quá trình tồn tại, vùng đất Yên Lập có nhiều biến đổi. Yên Lập trước

khi trở thành một huyện của tỉnh Phú Thọ là một vùng đất nằm trong tỉnh Hưng Hóa -

một tỉnh lớn về diện tích, trải rộng khắp vùng trung du và thương du Bắc Kỳ (khu vực

Tây Bắc). Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Hưng Hóa nói chung và huyện Yên Lập

nói riêng đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Theo sách Đại Nam

nhất thống chí, mục tỉnh Hưng Hóa “đời Hùng Vương xưa là bộ Tân Hưng” [21, tr.

308] là một trong 15 bộ hợp thành nhà nước Văn Lang. Những dấu tích của thời đại

kim khí ở Yên Lập rất phong phú và khá độc đáo trong đó nổi bật lên là những trống

đồng (loại II Hergo) mang phong cách Văn hóa Đông Sơn tại các xã Đồng Thịnh,

14

Phúc Khánh, Ngọc Lập và Tân Long (nay là thị trấn Yên Lập) là những hiện vật

thuộc thời đại Hùng Vương, thời đại đầu tiên ở nước ta thuộc nhà nước Văn Lang.

Trên trống đồng khắc hình người đánh trống, đánh chiêng, gõ mõ, nhảy múa và một

số hình ảnh khác phản ánh cảnh sinh hoạt văn hóa của cư dân thời đó. Như vậy các di

chỉ khảo cổ học đã chứng minh nền văn minh sông Hồng của thời đai Hùng Vương

đã có mặt trên các vùng đất mà sau này hình thành nên huyện Yên Lập.

Sau thất bại của Thục Phán An Dương Vương, nước ta rơi vào tay của Triệu Đà,

mở đầu thời kì Bắc thuộc kéo dài 1117 năm mà lịch sử gọi là 1000 năm Bắc thuộc ( từ

179 TCN đến 938). Từ năm 179TCN, dưới sự thống trị của các triều đại phương Bắc:

Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường tên địa danh hành chính

của cả nước và các bộ có những thay đổi và tên gọi khác nhau. Theo sách Đại Nam

nhất thống chí: “Bộ Tân Hưng thời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Nam Trung,

đời Ngô là đất huyện Tây Đạo của Lâm Tây, thuộc quận Tân Hưng. Đời Đường là

huyện Tân Xương lệ vào Châu Phong” [21, tr. 308-309]. Trong chính sách cai trị đối

với nước ta lúc bấy giờ, một số bộ lạc ở miền núi phía bắc và tây bắc nước ta, nhà

Đường vẫn để cho các tù trưởng cũ giữ bộ lạc của họ, châu Quy Hóa là một trong 40

châu “ky my” (ràng buộc lỏng lẻo). Sau khi họ Khúc khôi phục nền tự chủ, trải qua các

đời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các địa danh hành chính của nước ta hầu như không thay đổi.

Nhà Lý lên thay nhà Tiền Lê đã kế thừa những thành tựu của các triều đại trước, đồng

thời bắt tay ngay vào việc củng cố, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập

quyền định đô ở Thăng Long, năm 1054 đổi tên nước là Đại Việt, chia nước làm 12 lộ.

Tỉnh Hưng Hóa đời Lý là đất đạo Lâm Tây và Châu Đằng. Đời Trần đặt làm đạo Đà

Giang, lại đặt làm trấn. Cuối đời Trần lại đổi làm Trấn Thiên Hưng.

Thời thuộc Minh, đặt 2 châu Quy Hóa và Gia Hưng. “Đến thời Lê Thuận

Thiên đặt hai lộ Gia Hưng và Quy Hóa thuộc tây đạo. Bản đồ đời Hồng Đức, đổi 2 lộ

làm phủ... Năm Thuận Thiên thứ 5 đặt Hưng Hóa thừa tuyên, cũng gọi là xứ Hưng

Hóa lãnh 3 phủ, 4 huyện, và 17 châu. Trong đó phủ Quy Hóa lĩnh 3 huyện: Trấn Yên,

Yên Lập, Văn Chấn và hai châu Văn Bàn, Thủy Vĩ” [21, tr. 309]. Theo đó, huyện

Yên Lập xưa là đất Đăng Châu đời Lý. Tên huyện Yên Lập đã có từ thời Trần, thuộc

châu Quy Hóa, trấn Hưng Hóa lúc đầu có 23 sách, sau hợp lại còn 21 sách. Thời nhà

Nguyễn, địa giới hành chính các cấp có một số thay đổi. Đời vua Gia Long (còn gọi

15

là sách và chưa có tổng), huyện Yên Lập có 20 sách, thôn: Huyện An Lập thuộc phủ

Quy Hóa, trấn Hưng Hóa có 20 sách, thôn, sách Đông Lỗ (có 2 thôn Văn Lũng và

Hương Lan), sách Thu Ngạc, Hạ Lung, Sa Lung, Thượng Long, Mộ Lan, Quế Sơn,

Quắc Thước, Vân Hoàng, An Sào, Bạn Lữ, Vân Bán, Nga My, Phượng Vỹ, Phục Cổ,

An Dưỡng, Đoài Lỗ, Sơn Lương, Khổng Tước, Đồ Thủy. Năm Minh Mệnh thứ 12

(1831), trấn Hưng Hóa đổi thành tỉnh Hưng Hóa, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), đổi

sách thành xã (làng) và đặt tên tổng: huyện Yên Lập có 23 xã [3, tr. 11]

Sau khi đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp lập ra các tỉnh mới trên cơ sở chia

cắt các tỉnh cũ thời phong kiến. Năm 1903 chính quyền thực dân điều chỉnh địa giới

tỉnh Hưng Hóa, chuyển tỉnh lỵ từ làng Trúc Phê (huyện Tam Nông) lên làng Phú Thọ

và sau đổi thành tỉnh Phú Thọ; còn các huyện miền núi trong tỉnh gọi là châu. Châu

Yên Lập trong thời kì Pháp thuộc có thay đổi vì có thêm, bớt một số làng. Thời điểm

năm 1903, châu Yên Lập có 3 tổng, 13 làng; năm 1931 có 1 phố, 3 tổng, 15 làng;

năm 1939 có 16 làng. Như vậy cho đến thời điểm này, châu Yên Lập giữ nguyên con

số 1 phố, 3 tổng, 16 xã, đó là tổng Đông Lỗ có 6 xã gồm Đoài Lỗ, Đông Phú, Phục

Cổ, Đồng Lạc, Đông Lỗ, Ngọc Lập; tổng Sơn Lương có 5 xã gồm Nga Mỹ, Sa Lung,

Sơn Lương, Quế Sơn, Yên Sào; tổng Thượng Long có 5 xã gồm Đồ Thủy, Hạ Long,

Mộ Xuân, Thượng Khê, Thượng Long và phố Tân An (cụ thể xem phụ lục).

Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay, huyện Yên Lập tiếp tục có một số thay

đổi về đơn vị hành chính. Sau khi đất nước được độc lập, nhà nước Việt nam quyết

định xóa bỏ một số cấp trung gian như phủ, châu, tổng gọi chung là huyện, hợp nhất

các làng nhỏ thành xã lớn. Thực hiện chủ trương của chính phủ, châu Yên Lập đổi

thành huyện Yên Lập; từ 16 xã cũ nhập thành 8 xã mới gồm xã Mỹ Lung, xã Minh

Hòa, xã Ngọc Lập, xã Lương Sơn, xã Xuân Thủy, xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh

và xã Phúc Khánh.

Từ cuối năm 1953 đến đầu năm 1964, 8 xã của Yên Lập lại được chia thành 17

xã mới, trong đó xã Mỹ Lung chia thành 2 xã là Minh Hòa và Đồng Thịnh; xã Xuân

Thủy chia thành 3 xã là xã Xuân An, xã Xuân Viên và xã Xuân Thủy. Riêng xã

Thượng Long chia thành 4 xã đó là: xã Thượng Long, xã Tân Long, xã Hưng Long

16

và xã Trung Sơn; xã Đại La chia thành hai xã gồm xã Địch Quả (huyện Thanh Sơn)

và xã Ngọc Đồng. Đến cuối năm 1964 xã Đồng Minh đổi tên thành xã Đồng Lạc.

Về cấp huyện, ngày 05/7/1977, Hội đồng chính phủ ban hành quyết định số

178/CP về việc sáp nhập một số huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phú, trong đó huyện Cẩm

Khê hợp nhất với huyện Yên Lập và 10 xã của huyện Hạ Hòa thành lập huyện mới có

tên là huyện Sông Thao. Sau đó không lâu, ngày 22/12/1980 , Hội đồng Chính phủ ra

tiếp Nghị quyết số 377/CP sửa đổi một số đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Vĩnh

Phú, trong đó chia huyện Sông Thao thành hai huyện như cũ là huyện Sông Thao và

huyện Yên Lập. Năm 1997 tỉnh Phú thọ được tái lập, huyện Yên Lập chính thức là

một huyện trực thuộc tỉnh Phú Thọ cho đến nay. Ngày 28/5/1997, Chính phủ ra Nghị

định số 55/CP về việc thành lập thị trấn Yên Lập. Phạm vi thị trấn bao gồm toàn bộ

đất đai xã Tân Long. Từ tháng 5 năm 1997, đơn vị hành chính huyện Yên Lập gồm

16 xã và 1 thị trấn Yên Lập. Huyện lỵ: thị trấn Yên Lập, các xã: xã Mỹ Lung, xã Mỹ

Lương, xã Lương Sơn, Xã Xuân An, xã Xuân Viên, xã Xuân Thủy, xã Trung Sơn, xã

Hưng Long, xã Nga Hoàng, xã Đồng Lạc, xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh, xã Phúc

Khánh, xã Minh Hòa, xã Ngọc Lập và xã Ngọc Đồng.

1.3. Các thành phần dân tộc

Cũng như các huyện khác của tỉnh Phú Thọ, Yên Lập là vùng đất sớm có

người Việt cổ đến sinh sống. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở một số địa phương

trong huyện nhiều hiện vật bằng đồng, trong đó có trống đồng Tân Long, Đồng

Thịnh, Ngọc Lập (loại II Hergơ) là những hiện vật thuộc thời đại hùng Vương. Trên

trống đồng có khắc hình người đánh trống, đánh chiêng, gõ mõ, nhảy múa và một số

hình ảnh khác phản ánh cảnh sinh hoạt văn hóa của con người thời đó. Trải qua hàng

vạn năm, bằng bàn tay lao động và khối óc thông minh sáng tạo của mình, những cư

dân sống ở Yên Lập ra sức khai phá đồi nương, dũng cảm chống chọi với thiên nhiên,

thú dữ, giặc ngoại xâm để duy trì cuộc sống bảo vệ và xây dựng làng bản đông vui

như ngày nay. Chứng tỏ Yên Lập nằm trong địa bàn sinh tồn và phát triển liên tục của

người Việt cổ trên đất nước ta. Buổi đầu thưa thớt rồi sinh sôi nảy nở ngày một đông

thêm. Về sau lại tiếp nhận thêm các dòng người từ bốn phương tụ lại cứ như thế đến

đầu thế kỷ XIX trên dải đất Yên Lập đã có nhiều tộc người cùng sinh sống. Sự phân

17

bố dân cư, dân tộc mang yếu tố xen kẽ, cao thấp khác nhau. Sách Đồng Khánh địa dư

chí có ghi: “trong huyện dân số người Kinh, người Thổ xấp xỉ nhau. Phong tục người

Kinh giống như các huyện khác. Người Thổ thì quê mùa, chất phác, chỉ biết làm nghề

nông”.[39, tr. 729].

Theo số liệu thống kê dân số, huyện Yên Lập tính đến 31/10/2013 có 88.271

nhân khẩu, được phân bố theo các dân tộc như trong bảng sau:

Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Yên Lập

STT Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Ghi chú Dân tộc

Mường 1 59.821 67,77%

Kinh 2 23.907 27,08%

Dao 3 3.990 4,53%

Mông 4 186 0,21%

Tày 5 160 0,18%

6 207 0,23% Các dân tộc khác

100% Tổng số 88.271

Nguồn: Phòng Dân tộc huyện Yên Lập, tính đến 31/10/2013.

Bảng thống kê trên cho thấy, tại Yên Lập có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong

đó tập trung nhiều nhất là dân tộc Mường, Kinh thuộc nhóm ngữ hệ Việt - Mường, Dao

thuộc nhóm ngữ hệ Hoa-Hán. Các dân tộc ở đây cư trú thành nhóm khá rõ rệt.

- Dân tộc Mường: Cư trú ở những thung lũng thấp, tương đối bằng phẳng.

Hiện nay Mường là tộc danh chính thức, được nhà nước công nhận và sử dụng trong

các văn bản pháp quy. Nhưng trong đời sống và trong văn học dân gian, người

Mường tự gọi mình là Mol, Mual, Mul hoặc Mon…tùy cách gọi từng địa phương.

Mol, Mual, Mul, Mon đều có nghĩa là người. Các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng

người Việt và người Mường có gốc “ Việt - Mường” chung trước khi trở thành người

“Việt” và người “Mường” sau thời kì Bắc thuộc. Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ

Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á), rất gần với tiếng việt. Theo sách Địa chí Vĩnh Phú

Văn hóa dân gian vùng Đất Tổ viết như sau: “Người Mường và người Việt vốn có

những quan hệ rất gần gũi nhau về văn hóa, tiếng nói và đều là con cháu người Lạc

Việt. Người Lạc Việt có bộ phận sống ở đồng bằng, có bộ phận sống ở miền núi. Bộ

18

phận người Lạc Việt ở đồng bằng đông hơn, có những điều kiện phát triển kinh tế văn

hóa thuận lợi hơn, nên đã hình thành dân tộc Việt hiện đại, phân hóa với bộ phận

người Lạc Việt sống ở miền núi, tức là người Mường hiện nay”.[31, tr. 40].

Yên Lập là địa bàn sinh tụ của 16 dân tộc với tổng dân số là 88.271 người

được phân bố ở 223 khu dân cư của 17 xã, thị trấn trong huyện; trong đó dân tộc

Mường là 59.821 người, chiếm 67,77%, còn lại là người Kinh, người Dao và các dân

tộc khác. Có những xã chiếm hơn 90% dân số là người Mường như xã Ngọc Lập, xã

Minh Hòa.

Vậy người Mường có mặt ở Phú Thọ từ bao giờ? Có ý kiến cho rằng từ đời

Trần (thế kỷ XIII) người Mường mới di cư đến Phú Thọ làm ăn sinh sống. Ý kiến

này căn cứ vào các bộ sử như Đại Việt sử kí toàn thư, Việt Sử thông giám cương

mục trong đó có ghi về cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên với sự tham

gia của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số như Hà Đặc, Hà Bổng. Trong khi chờ đợi

những kết quả nghiên cứu mới, thì ý kiến về sự có mặt của người Mường vào thế

kỷ XIII trên cơ sở tài liệu thư tịch cổ là hoàn toàn có thể chấp nhận được. Song

đâu là quê hương gốc của người Mường. Theo một câu chuyện sưu tầm được ở

Thanh Sơn thì cách đây vài trăm năm tại một địa phương của tỉnh Hòa Bình, có

mở hội xuân thi tài tập luyện cho binh lính để bảo vệ dòng Lang của bản Mường.

Trong buổi thi tài đó, người em là Đinh Công Dũng đã thể hiện tài nghệ xuất sắc

của mình được dân trong vùng quý mến. Người anh là Đinh Công Hùng lo sợ sau

này bị chiếm mất địa vị nên có ý định hại em. Nhưng vợ của Hùng vì thương em

chồng, đã tìm cách báo cho Dũng. Dũng biết không thể nào ở lại với anh nên tìm

cách đi tới một vùng đất khác. Hôm ra đi Dũng đánh ba hồi cồng rồi nói với dân

trong làng xóm ai muốn theo mình thì đi và sẽ đến một vùng đất mới để gây dựng

bản làng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Dũng, dân làng đã đi theo. Họ lên đường từ

Mường Bi, Mường Thàng đến miền Phương Lâm (nay thuộc Kỳ Sơn, Hòa Bình)

bèn nghỉ lại và đi săn bắn. Dũng ngắm thấy núi Ba Vì hùng vĩ, Sơn thủy hữu tình,

nên đã chuyển đến xóm Ba Trại (Ba Vì, Hà Tây) sinh cơ lập nghiệp. Nhưng lại

thấy bên kia sông Đà đất rộng, có vẻ phì nhiêu bèn dẫn đoàn người vượt sông Đà

đến xóm Giai xã Cự Thắng rồi đến xóm Đồng Rê (nay là xã Tất Thắng). Từ đó họ

19

sinh cơ lập nghiệp ở đây, sau này là xóm Chiềng xã Tất Thắng. Nhớ ơn người có

công đầu tiên, người ta dựng đình để thờ tổ tiên dòng họ Đinh, việc lập đình để

thờ như vậy còn thấy ở xã Cự Thắng:

“Thủy nguyên thành tích Cao Phong động

Sơn thạch tài bồi Cự Thắng sinh”

Như vậy một bộ phận quan trọng của người Mường vốn có quê hương xưa là

động Cao phong vùng Mường Thàng huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. Trước đây, và

một phần nào cho đến ngày nay, người Mường ở Thanh Sơn vẫn có mối quan hệ bà

con đi lại thăm hỏi đồng bào Mường ở Hòa Bình. Còn cư dân Mường Yên Lập, theo

truyền lại một bộ phận từ vùng Cự Thắng, Tất Thắng, huyện Thanh Sơn sang, còn số

khác là ở Tu Lý, Hiền Lương (Đà Bắc, Hòa Bình).

Tóm lại người Mường đã có mặt ở Phú Thọ từ lâu và quá trình di cư diễn ra

trong một thời gian khá dài mà Hòa Bình vốn là quê hương gốc của họ. Nhiều thế kỷ

trôi qua, cư dân Mường không chỉ tăng nhanh về dân số mà còn trải qua nhiều biến

đổi do nhiều yếu tố tác động của môi sinh, lịch sử đã tạo nên những sắc thái văn hóa

riêng thể hiện ở nhiều mặt như nếp sống, phong tục tập quán…nhưng vẫn giữ được

nét chung của văn hóa Mường.

- Dân tộc Dao: Người Dao là một trong 54 dân tộc anh em sinh sống ở Việt

Nam, với nhiều nhóm khác nhau, cư trú tại các bản động vùng sâu, vùng xa thuộc

nhiều vùng miền khác nhau của tổ quốc, trong đó có nhóm Dao Tiền và Dao Quần

Chẹt định cư ở Phú Thọ. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học, người Dao cư trú ở

Phú Thọ được di cư từ các tỉnh miền nam Trung Quốc: Hồ Nam, Quảng Đông,

Quảng Tây và Vân Nam bằng đường thủy từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX “Dao Quần

Chẹt và Dao Tiền, hiện nay ở Vĩnh Phú, Hà Tây, Hòa Bình, Yên Bái và Tuyên Quang

đã từ Quảng Đông vào Quảng Yên rồi tới những địa điểm trên. Câu chuyện vượt biển

này được viết thành một cuốn “sử thi” có nhiều tình tiết lâm li nay còn được lưu

truyền rộng rãi trong nhân dân Dao” [10, tr. 23]. Cuộc thiên di của người Dao từ

Trung Quốc vào Phú Thọ có lẽ là cuộc thiên di tập trung, có tổ chức nhất mà dấu tích

còn để lại trong tín ngưỡng, phong tục tập quán và qua những bản gia phả mà người

Dao đương đại nhiều lần được đọc hoặc được nghe, nhìn ở các huyện Thanh Sơn,

Yên Lập, Tân Sơn. Người Dao ở địa phương, các dân tộc khác gọi người Dao bằng

20

những tên gọi khác như: Mán, Động, Xá…Tên “Động” dùng phổ biến ở vùng Đông

Bắc. Tên “Xá” thấy ở vùng Tây Bắc. Còn tên tự gọi của người Dao là “Kiềm Miền”:

“Kiềm” (Kìm, Kiềm) có nghĩa là “Rừng” và “Miền” (Mùn, Mửn) có nghĩa là

“Người”. Như vậy, “Kiềm Miền” có nghĩa là “Người Rừng”. Tên gọi này chỉ là một

cái tên phiếm xưng, vì những người sống ở rừng rất nhiều không riêng gì người Dao.

Về nguồn gốc của người Dao thì trong cộng đồng dân tộc Dao vẫn còn lưu truyền

rộng rãi câu truyện Bàn Hồ. Bàn Hồ không chỉ là câu truyện truyền khẩu, mà nó còn

được ghi khá chi tiết trong các cuốn bảng văn và trong các cuốn sách cúng của người

Dao. Người Dao cư trú ở tây bắc Bắc Bộ, đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIII và đi

theo đường bộ. Còn người Dao ở Đông Bắc Bắc Bộ và một số tỉnh trung du cũng bắt

đầu đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XX, họ đi bằng đường thủy

là chủ yếu. Có nhiều nguyên nhân, thời gian và luồng di cư khác nhau. Nguyên nhân

chủ yếu là do sự chèn ép, áp bức của chế độ phong kiến Trung Quốc, các cuộc chiến

tranh phong kiến liên miên. Ngoài ra là nạn hạn hán, thiên tai, mất mùa… Khi định

cư ở Việt Nam, họ có nhiều tên gọi khác nhau: Dao Nhân, Kiềm Miền, Cần Đông,

Cần Khau, Cần Téo Chèn…

Dân số người Dao ở Phú Thọ chỉ đứng thứ hai sau người Kinh và người

Mường. Đến nay 12/13 huyện, thị, thành có người Dao sinh sống. Song chỉ có ba

huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập có người Dao sinh sống tập trung thành xóm

bản. Tại huyện Yên Lập, theo số liệu của phòng Dân tộc huyện cung cấp tính đến

ngày 31/10/2013, số người Dao sinh sống trên địa bàn huyện là 3.990 người, tương

đương 4,52% dân số toàn huyện.

Dựa theo tiêu chí ngôn ngữ, tộc người, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc

người, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: người Dao ở Phú Thọ hiện chỉ có mặt hai

nhóm nhỏ trong một nhóm lớn. Đó là người Dao Tiền thuộc nhóm Tiểu Bản và người

Dao Quần Chẹt thuộc nhóm Đại Bản. Nhóm Dao Tiền còn có tên là Dao đeo tiền hay

Tiểu Bản. Người Dao Tiền tâp trung cư trú ở 28 bản động vùng cao của huyện Thanh

Sơn. “Còn người Dao Quần Chẹt còn có tên là Mán Sơn Đầu, Dao Nga Hoàng, Đại

Bản hay Dao Tam Đảo. Trang phục nữ nhóm này có đặc điểm rất dễ nhận là quần

ống hẹp, bó sát vào chân. Trước đây nữ Dao Quần Chẹt còn có tục chải đầu bằng sáp

ong, nên có tên là Mán Sơn Đầu. Ở Hòa Bình, Sơn Tây và Phú Thọ, Dao Quần chẹt

21

có tên là Dao Tam Đảo vì trước khi đến cư trú ở những địa phương trên, họ đã ở núi

Tam Đảo ( Vĩnh Yên). Ở Yên Bái và Tây Bắc họ có tên là Dao Nga Hoàng vì trước

họ ở xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ” [31, tr. 42]. Người Dao Quần

Chẹt tập trung cư trú tại 19 bản động vùng cao thuộc 8 xã của huyện Yên Lập là xã

Nga Hoàng, xã Trung Sơn, xã Xuân Thủy, xã Xuân An, xã Mỹ Lương, xã Mỹ Lung,

xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh. Trình độ canh tác của người Dao ở Yên Lập còn

thấp, nghề phụ không phát triển, chưa biết tận dụng khả năng của đất.

- Dân tộc Kinh: Sống xen kẽ với các dân tộc khác trong huyện, họ sống ở

những khu vực trung tâm của xã, huyện. Từ thế kỷ X trở đi đã có nhiều đơt, nhiều

dòng người nhập cư vào Phú Thọ.

Từ năm 980 đến năm 1905, vua Lê Đại Hành cho con thứ tư là Ngự man

vương Long Đĩnh lên trấn giữ Phong Châu.

Tháng 3 năm 1036, vua Lý Thái Tôn đem công chúa Kim Thành gả cho châu

mục châu Chân Đăng. Khoảng năm 1060, vua Lý Thánh Tông gả công chúa Ngọc

Kiều cho châu mục châu Chân Đăng.

Mỗi lần như vậy là một lần thê tử, gia nhân, quân lính đi theo, ngụ cư lâu dài

rồi trở thành người địa phương.

Mùa xuân năm 1044, nhà Lý đem quân đi đánh Chiêm Thành bắt được 5000

người, đem về cho ở châu Chân Đăng, đặt hương ấp theo tên của người Chiêm, làm

ruộng quốc khố của nhà vua. Số người này sau cũng trở thành người địa phương.

Thời nhà Trần, nhiều vương hầu công chúa được phong đất ở các nơi. Công

chúa Thiên Thụy được ban thái ấp ở hương Bạch Hạc. Công chúa và gia nhân

cùng nhiều nông dân miền xuôi đã lên đây vừa cai quản vùng đất được phong vùa

phát triển sản xuất. Đến thời nhà Nguyễn, người Kinh ở các tỉnh miền xuôi lên

Phú Thọ ngày một nhiều. Đến thời Pháp thuộc Yên Lập vẫn là nơi đất rộng người

thưa “ở đây mỗi km vuông có 30 người là cùng” [7, tr. 6] nên thống sứ Bắc kỳ là

Sa-ten đã cho di dân các làng Thái La huyện Vụ Bản, Thôi Ngôi, Vị Nhuế phủ

Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định di dân lên châu Yên Lập, lập thành một ấp riêng, gọi

là ấp Trung Bằng “ ấp này ở phía bắc châu lỵ, cách 4km. Từ châu lỵ đến đây phải

đi chân hay đi ngựa. Trong ấp có 40 gia đình, 80 dân đinh, 180 nhân khẩu, kể cả

nam, phụ, lão, ấu. Các di dân đó ở vào một xóm trong làng Hạ Long này, vốn có

2000 mẫu đồi hoang, đất tốt tỉnh Phú Thọ dành riêng cho di dân [7, tr. 14].

22

Sau cách mạng tháng Tám, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Phú Thọ

được đón nhiều đồng bào thủ đô và các tỉnh miền xuôi tản cư lên, đến ngày thắng lợi,

một số đã an cư lạc nghiêp không hồi hương nữa mà ở lại làm dân Phú Thọ.

Hiện nay người Kinh ở Yên Lập đứng thứ 2 về dân số sau người Mường.

Theo thống kê cuối năm 2013 của Phòng Dân tộc huyện Yên Lập, số người Kinh là

23.907 người, tương đương 27,08% dân số toàn huyện. Người Kinh sống rải rác khắp

các địa bàn trong huyện, nhưng thường tập trung ở những khu vực trung tâm.

Tóm lại, dù là người dân bản địa hay dân nhập cư, dù là người miền xuôi

hay miền ngược nhưng khi cùng chung sống các dân tộc đã hòa đồng, quần tụ

bên nhau tạo nên nét văn hóa đặc sắc, đa dạng phong phú.

1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Yên Lập

- Chính trị

Nhà Nguyễn được thiết lập năm (1802) đã nhận xét Bắc Hà là đất cũ của triều

Lê, phần lớn có dòng họ thổ tù, lang cun, lang đạo ở các trấn biên giới phía Bắc vẫn

chịu nhiều ân sủng của nhà Lê. Vì vậy Gia Long tuyên bố khẩu hiệu “Phù Lê” và

phong cho con cháu nhà Lê làm diêm trợ công. Ngoài ra Gia Long còn miễn thuế cho

các phiên thần khai quốc thời Lê. Các chính sách này nhằm ngăn chặn những cuộc

nổi dậy hay chống đối của các phiên thần nhà Lê. Khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX,

nhà Nguyễn tiếp tục duy trì chế độ phiên thần cho các thổ tù biên giới đối với nhà

nước, được gọi là thổ quan. Năm 1802, các phủ, huyện, châu, thổ dân ở Hưng Hóa,

Quảng Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn lấy quan người quản lãnh. Trong

bộ máy chính quyền Gia Long còn đặt chức Man Phủ Sứ để chuyên trách công việc

phủ dụ lôi kéo các tộc người miền núi.

Năm 1820, Minh Mệnh lên kế tục sự nghiệp, một mặt ông tiếp tục duy trì

chính sách của vua cha, mặt khác tăng cường sự kiểm soát của chính quyền trung

ương đến địa phương đặc biệt là những vùng biên cương mà Yên Lập là một bộ phận

không thể không chú ý.

Nếu như đầu thời nhà Nguyễn vẫn duy trì chế độ “phiên thần”, thổ quan thì

giờ đây Minh Mệnh từng bước xóa bỏ chế độ này và thực hiện biện pháp người Kinh

và người Thổ cùng cai trị. Năm 1821, Minh Mệnh nghị chuẩn cho tạm đặt các chức

cai châu biên giới. Những chức này triều đình cho phép các quan đứng đầu trấn chọn

người có năng lực ở địa phương đảm nhiệm.

23

Đến năm 1829, Minh Mệnh ban hành chính sách khá cứng rắn đối với tầng

lớp thổ tù: Trong thành hạt theo công việc nhiều hay ít, dân số đông hay thưa nên đặt

thổ tri châu, tri huyện, huyện thừa, lại mục... thì định rõ ràng. Không cứ thổ ty, hào

mục cứ trong hạt ai là người có trách nhiệm, tài năng cần cán, vốn được nhân tin phục

thì chọn cử tâu lên, không được theo trước xưng là tập quản. Việc phân định chức vụ

theo số dân hết sức rõ ràng: “đinh từ 5.000 người, ruộng từ 500 mẫu trở lên thì đặt 1

Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ tri huyện cùng thổ lại mục đều 1 người: đinh từ 100

người, ruộng từ 100 mẫu trở lên thì đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ huyện thừa;

đinh điền không đủ 100 thì đặt 1 thổ lại mục” [22, tr. 862].

Năm 1831, Minh Mệnh giải thích rõ ràng việc bãi bỏ chế độ thổ ty thế tập ở

các trấn biên giới vì: “Lệ thế tập đời xưa là để đền công nhưng con cháu công thần,

nếu có người hư hỏng triều đình cũng phải truất bãi thì lại thương tổn đến ân điển. Ví

như nhà Hán phong tước hầu chỉ vạch núi thề sông mà thề nhưng mới chỉ vài đời chỉ

còn ba, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão. Chẳng gì bằng luận công phong tước

cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài chức, thế là giữ cho trọn vẹn cứ gì phải thế

tập mới là đền công” [23, tr. 224].

Có thể nói đây là cuộc cải cách lớn chia đặt các đơn vị hành chính ở địa

phương trong phạm vi cả nước. Minh Mệnh coi cuộc cải cách này “là một phen

quy hoạch lớn lao khiến cho nước nhà có phên dậu giữ gìn, yêu nước thái sơn

bàn thạch” [8, tr. 194].

Năm 1831 - 1832, Minh Mệnh đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính địa

phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh chia cả nước thành 30 tỉnh

và một phủ Thừa Thiên, đổi các dinh phía Bắc thành 18 tỉnh. Đứng đầu tỉnh là các

chức Tổng đốc (phụ trách 2 - 3 tỉnh) và tuần phủ (phụ trách một tỉnh, dưới quyền

Tổng đốc). Giúp việc có hai ty là Bố chính sứ ty và Án sát sứ ti.

Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu và tổng, xã. Chính quyền tổng - xã được tổ

chức chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước và giải quyết những khó khăn

một cách kịp thời.

Đối với các châu miền núi, tri châu thường do các tù trưởng, thổ tù, lang đạo

quản lãnh. Ở miền thượng du, tình hình chính trị thường không ổn định nên các vua

24

Nguyễn cử quan lại người Kinh lên, có nhiệm vụ chủ yếu là đề xuất việc thu thuế, dò

thám và đàn áp âm mưu phản loạn. Một số tù trưởng trung thành ở các địa phương xa

xôi hiểm yếu được triều đình dựa vào và ban cho quyền hạn đặc biệt, phong làm ngự

sử. Bên cạnh đó thường đặt một viên quan kinh gọi là chiêu thảo sứ hoặc man phủ sứ.

Các chức này gọi là Lưu quan . Ông cho rằng đây là một biện pháp tích cực mà quyền

hành nặng nhẹ kiềm chế lẫn nhau, chức tước lớn nhỏ rằng buộc lấy nhau thực chất là

một chính sách hay trong việc trị dân, nếu mô phỏng mà làm thì nhiều lợi lắm [43, tr.

157-158].

Sau đó vua lại ra chỉ dụ: Các thổ châu, huyện ở Hưng Hóa, Tuyên Quang,

Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng cho chọn bổ lưu quan, vì trước đây có vụ Nông

Văn Vân châu huyện ở các tỉnh còn nhiều chỗ khuyết, nên không thể không đặt

những viên chức sung vào, chứ không phải muốn đổi thổ quan và cho theo về lưu

quan, nhất nhất theo y phong tục kinh đâu. Chẳng những trong bọn thổ quan, những

người quy thuận, hết lòng trung, yên phận mình, giữ phép nước, đều chuẩn cho vẫn

để giữ chức, mà cả đến thổ ty, thổ mục, hễ ai một dạ trung thành, kính cẩn, không có

điều gì khác, cũng sẽ được tùy tài cất dùng, không sao cả. Nay người Kinh, người

Thổ cùng ở xen nhau, chính mong rằng lâu ngày, người Thổ sẽ tiêm nhiễm thói tục

người Kinh, được hun đúc theo đường thiện, cùng hưởng phúc thái bình. Các đốc

phủ, bố, án ở Thượng Ty cũng nên để tâm răn bảo rõ lại, không nên sinh sự yêu cầu

hà khắc, cũng không nên hờ hững không quan tâm. Nếu lưu quan thuộc tỉnh hạt mình

có xảy ra tình tệ nhũng nhiễu gì thì phải lập tức nghiêm ngặt tham hặc, không được tư

vị che đậy chút nào, quyết không nên coi nhau như kẻ Tần người Việt, làm ngơ như

không nghe thấy [24, tr. 633-634].

Có thể nói chính sách Lưu quan đã đem lại những hiệu quả thiết thực thể hiện

được sức mạnh của triều đình từ trung ương đến địa phương đặc biệt là góp một phần

để bình ổn biên cương đất nước. Tuy nhiên chính sách này đã đụng chạm tới những

quyền lợi của các thổ tù, tù trưởng. Vì vậy nó vấp phải sự chống đối của một số tù

trưởng mà nổi bật là Nông Văn Vân nên chế độ Lưu quan không phải được thực hiện

ngay trong một lúc trong tất cả các địa phương miền núi khu vục phía Bắc mà phải

trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.

25

Đến năm 1838, chế độ Lưu quan mới được thực hiện triệt để. Những viên

Lưu quan này nằm trong bộ máy quan lại thống nhất, đại diện cho triều đình để

quản đất, quản dân, thu tô thuế và bắt lính, lao dịch. Tuy nhiên đến thời Thiệu

Trị năm 1844, nhà Nguyễn vẫn phải cho đặt lại chức thổ quan ở các châu huyện

biên cương phía Bắc, phải đến thời Tự Đức thì việc đặt thổ quan mới bị bãi bỏ

trong cả nước.

- Xã hội

Trước cách mạng tháng Tám 1945, xã hội người Mường nằm trong khuôn

khổ một xã hội có đẳng cấp, trong đó mỗi con người được chính danh định phận chặt

chẽ. Quý tộc Mường gọi là Lang, bình dân gọi là Dân. Cai trị mường là nhà Lang cha

truyền con nối, gồm Lang cun (dòng trưởng), Lang đạo (dòng thứ). Cun ở xóm lớn

nhất và xóm trung tâm, trực tiếp thu cống nộp, phu phen (xâu). Các lang đạo cai trị và

hưởng quyền lợi ở các xóm còn lại và nộp lại cho Cun một ít sản phẩm vào ngày xâu

nhất định. Nhà lang nắm quyền phân chia ruộng đất cho mọi thành viên, nhưng không

được biến thành của riêng ai. Bản thân lang thường xí phần ruộng tốt và nhiều hơn

dân. Cũng có những gia đình không nhận ruộng, sống bằng nương rẫy hoặc nghề

khác gọi là “nóc trọi”. Lang sử dụng nhân công đi xâu vào các việc cầy cấy ruộng,

làm nhà cửa, làm đường xá. Lang phải có thái độ tôn trọng dân và phải khoản đãi khi

nhà lang có việc nhờ dân. Lang phải tuân theo tục lệ của mường như ngồi uống rượu

cần ngang hàng với dân, con gái chửa hoang phải nộp vạ…Dân có quyền phế truất

một lang kém đạo đức và đón lang tốt đến thay. Thiết chế xã hội trong xã hội cổ

truyền ở người Mường nói chung là xóm và mường. Mường là tổ chức xã hội trên

xóm và là tổ chức xã hội lớn nhất của người Mường, dùng để chỉ một địa vực cư trú,

một vùng dân cư, hay để chỉ địa vực cai quản của một lang cun, lang đạo hay thổ tù

nào đó. Cũng giống như các vùng mường khác, tổ chức mường của người Mường

tỉnh Phú Thọ không quy định phạm vi lớn bé và có bao nhiêu xóm hợp thành. Nhưng

điểm khác biệt ở tổ chức mường của người Mường tỉnh Phú Thọ đó là không có

mường lớn bao trùm lên các mường nhỏ hơn như ở Thanh Hóa hay Hòa Bình, mà chỉ

có các mường do nhà lang quản lý trực tiếp đến các xóm. Xóm là tổ chức xã hội dưới

mường, là tập hợp dân cư thành cộng đồng theo một địa vực nhất định. Mỗi xóm chỉ

26

khoảng vài chục nóc nhà và đều có một con đường đất chạy thẳng qua giữa làng.

Trong xóm thường có nhiều dòng họ sinh sống, nhưng bao giờ cũng có một dòng họ

là hạt nhân, dòng họ ấy có thể chiếm tới một nửa hoặc quá nửa số nóc nhà trong xóm.

Về tổ chức làng xóm, người Mường sống dưới chế độ dường như là tiền phong kiến,

mỗi làng có một Thổ Tù, mỗi xóm có một Thổ Lang. Những người này có thể coi

như những chúa đất địa phương. Họ được gọi là quan Lang. Quyền hành cha truyền

con nối. Ở đó hình thành một bộ máy quản lý điều hành theo luật tục, mọi thành viên

trong cộng đồng xóm, mường phải tuyệt đối tuân thủ. Nơi cư trú của người Mường

gọi là “quêl” hoặc xóm. Quêl hay xóm đều có nghĩa là “làng”. Làng là đơn vị xã hội

cơ sở của xã hội Mường gồm nhiều tiểu gia đình phụ quyền mà tế bào gia đình là cha

mẹ và con cái, trong đó quyền thế tập thuộc về con trưởng. Khu vực đất đai thiên

nhiên chung của làng đã được xác lập một cách bền vững, ngoài đất ở là đất sản xuất

và núi rừng được các thành viên của làng biết rõ, các thành viên của làng khác tôn

trọng. Ruộng đất của làng nào thuộc quyền quản lý của làng đó. Người dân của làng

này không thể sản xuất cũng như thu hái lâm thổ sản trên rừng của làng khác. Người

di cư đi nơi khác không còn có quyền lợi về đất đai ở làng cũ. Xưa kia hiếm thấy hiện

tượng xâm chiếm đất đai giữa các làng ở liền kề nhau. Luật tục Mường quy định:

người làng khác đến bắn thú, nếu con thú trúng đạn, phải chia một nửa phía nằm dưới

đất cho nhà Lang ở làng đó. Hoặc một người làng khác bắt gặp một đàn ong làm tổ

trên mặt đất, được quyền chiếm làm của riêng nhưng phải biếu Lang một ít sâu, lấy ở

tầng dưới cùng trong lòng đất. Những hiện tượng này phải chăng là biểu hiện của

quyền chiếm hữu đất đai mà đại diện thuộc về nhà Lang.

Cấu trúc bên trên của làng và xóm của người Mường trước kia cũng là Châu

và Tổng: châu Yên Lập có 3 tổng, 14 làng. Xa xưa hơn nữa, cấu trúc xã hội vùng

Mường Phú thọ được chia thành những sách…tùy theo cách chia và tên gọi đơn vị

hành chính của các triều đình phong kiến nước ta.

Việc quản lý ở làng xưa là Thổ Lang hay còn gọi là Lang. Họ là anh em ruột

thịt của dòng họ Ngài thuộc nghành thứ. Giúp Thổ Lang hay Lang có Khán làm

nhiệm vụ liên lạc. Mọi công việc của Thổ Lang trong quản lý làng đều phải xin ý

kiến Ngài và hằng năm Thổ Lang phải có nghĩa vụ đóng góp lễ vật cho ông ta. Khi

27

bố mẹ Ngài chết thì các Thổ lang phải chịu tang như cha mẹ mình. Ngoài các chức

vụ trên đây trong hệ thống tự quản của làng còn có người già, các chủ gia đình, các

trưởng họ.

Mường là đơn vị tổ chức xã hội, tập hợp nhiều xóm (làng) trong cùng một

thung lũng hay nhiều thung lũng liền kề nhau. Đơn vị tổ chức này đặt dưới sự cai

quản của một dòng họ quý tộc mà người Mường vẫn gọi là nhà Lang. Tầng lớp thống

trị Nhà Lang tập hợp thành những dòng họ phụ hệ, mỗi dòng họ chiếm lĩnh một

mường. Mỗi dòng họ tự phân biệt với các dòng họ khác không chỉ bằng mường mà

họ chiếm lĩnh mà còn bằng một tên họ (Đinh, Quách, Bạch, Hà, Hoàng…). Tầng lớp

bị trị thường có chung một tên họ là Bùi. Như vậy, Bùi, thực ra không còn là tên họ

nữa mà vô hình chung đã trở thành tên chỉ tầng lớp bị trị. Dân Mường đương nhiên

chịu sự thống trị của nhà Lang.

Tổ chức bộ máy thống trị trong từng mường do nhà Lang thiết lập theo thể

thức: con trai cả của chi nhánh cả trong dòng họ nhà Lang trên danh nghĩa quản toàn

mường dưới danh hiệu Ngài hoặc Thổ tù. Mặc dầu trên thực tế ông ta chỉ trực tiếp

quản một số làng ở trung tâm mường mà người ta gọi là chiềng. Giúp việc cho họ là

một vài người thân tín. Để duy trì quyền lợi, nhà Lang đề ra các quy định và quản lý

dân theo các quy định đó. Hằng năm nếu nhà Ngài hoặc Thổ tù có việc lớn như cưới

xin, làm nhà dân trong mường phải có nghĩa vụ đến giúp. Nếu làm nhà mới thì dân

trong mường tự giác mang tre, nứa, lá cọ đến nộp cho nhà Lang. Nhà Ngài cưới vợ,

gả chồng cho con gái, con trai thì dân mường có nghĩa vụ đến làm mọi việc phục dịch

cho đám cưới, đồng thời tùy theo khả năng của mỗi gia đình mà có thể mang một, hai

con gà hoặc vài lít rượu, một tấm vải gọi là góp cho nhà Ngài. Trong trường hợp nếu

nhà Ngài hoặc Thổ tù có bố, mẹ chết thì dân trong mường phải đến lo giúp việc chôn

cất. Nếu Ngài không may qua đời, trước hết các Lang xóm (làng) đều phải đến chịu

tang như chính bố mẹ mình chết, ngoài ra họ còn phải đóng góp cho lễ tang Ngài.

Dân thường tùy theo khả năng của mình mà mang lễ vật gà hoặc gạo đến giúp đỡ nhà

Ngài. Mỗi khi trong làng, trong mường có gia đình nào làm nhà mới, tổ chức đám

cưới hoặc có tang đều phải mời Ngài đến dự và khi ra về Ngài được biếu quà. Dân có

việc mổ trâu, bò, lợn cũng phải biếu Ngài một vai. Săn được thú rừng cũng phải đem

đến biếu Ngài theo thể thức: “vác tru, lu nai”(trâu nộp vai, nai nộp đùi). Về ruộng

28

đất, Ngài là người có nhiều ruộng đất nhất trong vùng. Ruộng của ngài như người xưa

nói, trâu kéo cày đến đâu ruộng Ngài đến đó, khi trâu kéo đứt chạc mới hết ruộng

Ngài. Điều này chứng tỏ Ngài là người chiếm nhiều ruộng đất nhất trong vùng. Trước

đây ruộng của ngài là do dân trong mường làm, toàn bộ sản phẩm thu hoạch được đều

thuộc về Ngài, người dân chỉ được ăn một bữa hôm cày cấy.

Nhà lang nói chung vẫn là những người giàu và có uy quyền. Sự giàu có và uy

quyền thể hiện ở số trống đồng và vạc đồng mà nhà lang chiếm giữ. Chiếc trống đồng

gia truyền quan trọng nhất, là linh hồn của nhà lang, phải chôn giấu kĩ, mất nó coi

như dòng lang lụi bại.

Cách cai trị của nhà lang, cũng như quyền lợi mà nhà lang được hưởng cũng

đã được ghi đầy đủ trong bản chúc thư của thổ lang Đinh Thế Thọ ở xã Tân Lập

huyện Thanh Sơn viết vào thời hậu Lê quy định rõ 13 lệ của bản thôn đối với lang,

đồng thời cũng cho thấy thiết chế chính trị của người Mường xưa là chế độ tự trị, cha

truyền con nối, chế độ công xã làng chạ cổ xua.

“ Thổ lang Đinh Thế Thọ thời Hậu Lê khắc chúc thư vào cuốn sách bằng đồng

lá, quy định 13 lệ như sau:

- Lệ lợp nhà: đầu tiên đến dân bản phải góp một con lợn, một con trâu, 4 thúng

cơm, 10 hũ rượu.

- Lệ thổ lang làm nhà ở: bản quê chung nhau phân bổ lợn một con, rượu 2 vò.

Khi hoàn thành xong xuôi tốt đẹp thì trâu một con, rượu 2 vò, gạo nếp 40 đấu cho bản

quê ăn uống.

- Lệ rào nhà thổ lang: bản thôn đem đến nhà thổ lang lợn một con, cơm 2

thúng, rượu 5 vò.

- Lệ cày cấy ruộng hương hỏa: lợn một con, rượu cơm đủ dùng do bản thôn

phải mang đến.

- Lệ thổ lang có ruộng cấy lúa giống 2 thửa, mỗi vụ cấy hết 1800 con mạ, dân

bản phải cấy.

- Lệ bản thôn phải cử hai người nhiêu nhân hầu hạ do thổ lang chọn cắt lấy

- Lệ theo hầu thổ llang hai người.

- Lệ thổ lang hàng năm vào ngày 16 tháng 11 cùng giỗ tổ tiên cùng ăn uống.

- Lệ thổ lang sinh con trai lấy vợ: bản quê phải góp một con trâu, 10 vò rượu,

29

10 đấu gạo nếp.

- Thổ lang sinh con gái gả chồng, bản thôn phải góp một con trâu, 4 thúng cơm

cùng bản quê ăn uống.

- Lệ trong 4 giáp ai có việc hiếu: biếu thổ lang 4 mâm thịt, 1 chậu canh, 2

thúng cơm, 1 vò rượu và vai trâu liền chân biếu thổ lang.

- Hàng năm ngày 2 tháng 12 cầu phúc ở đình, lệ có hát xướng 3 chiều, thổ lang

1 chiều, ở đình 2 chiều, rước đi và về không được thiếu.

- Lệ núi rừng thuộc địa phận quan lang: hễ ai săn bắt được chim thú phải biếu

quan lang một vai liền chân không được thiếu (Đây nói khoảnh rừng của lang được

chia chứ không phải toàn bộ rừng trong mường bản). [6, tr.35].

Ngài còn là người đứng đầu về mặt tôn giáo, dân coi ông là người đại diện cho

mình tiếp xúc với thần thánh, vì thế trong nhiều nghi lễ của mường, xóm (làng) nhất

thiết phải có mặt Ngài. Lễ cầu cúng thành hoàng ở đình hàng năm cũng vậy. Vào ngày

mùng 10 tháng giêng hằng năm, người Mường có lễ “Mở cửa rừng”, ngày đó Ngài đứng

ra hành lễ, sau lễ này dân làng mới được làm nương, cày cấy và săn bắn. Hay trong lễ Hạ

điền, nhà lang phải cấy trước sau đó dân làng mới được cấy. Ngoài ra trong xã hội

mường cổ truyền còn có các mối quan hệ láng giềng, dòng họ; uy tín và vị trí của các

dòng họ trong mỗi mường phụ thuộc vào nề nếp, gia phong của dòng họ đó, quan hệ hôn

nhân cũng phụ thuộc vào yếu tố này rất nhiều.

Nhà Nguyễn sau khi thành lập phế bỏ chế độ lang đạo, đặt quan lại lên cai

quản gọi là chế độ “lưu quan”, liền sảy ra sự chống đối như khởi nghĩa của Lê Duy

Lương ở Hòa Bình. Về sau vua Minh Mạng lại khôi phục chế độ lang đạo. Đặc biệt

khi bắt được người cầm đầu nhà nguyễn chỉ phủ dụ mà không thấy giết. Sau này nhà

Nguyễn vẫn đặt thêm chức lý trưởng, chức này vẫn sau lang cun. Sau khoảng 3 năm

thì bầu lại lý trưởng, lý trưởng phải được sự phê chuẩn của lang cun.

Qua tìm hiểu thì thấy rằng thiết chế xã hội của người Mường ở Phú Thọ theo

kiểu xóm, mường nhưng không có các mường nhỏ dưới quyền mường lớn. Quan hệ

giữa tầng lớp quý tộc thống trị với tầng lớp bị trị cũng rất rõ ràng, bộ máy cai trị của

Thổ tù trong mường ở Phú Thọ được tổ chức đơn giản hơn, họ không có nhiều người

giúp việc (các ậu) như ở Hòa Bình, Thanh Hóa. Việc phân định dòng họ nhà lang

30

không khắt khe như những mường ở nơi khác.

Tóm lại, điểm nổi bật nhất trong xã hội vùng mường xưa là sự tồn tại của chế

độ nhà Lang.

Người Dao thì có mán mục (chánh tổng), động trưởng, giáp trưởng. Do điều

kiện sinh sống phân tán và xen kẽ với các dân tộc khác nên xã hội của họ thường bị

phụ thuộc.

Tiểu kết: Yên Lập là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Phú

Thọ. Do đặc điểm địa hình với 3/4 diện tích toàn huyện là đồi núi, nên Yên Lập có

diện tích rừng rộng lớn với các nguồn lợi từ rừng rất phong phú: các loại cây gỗ quý

như nghiến, lát, chò chỉ, táu, sến, các loại cây nguyên liệu cho nghề thủ công đan lát

như tre, nứa, giang, trúc, mây, song, các loại cây hương liệu như quế, sa nhân, nấm

hương, mộc nhĩ…Đồng bào khai phá đất ven đồi, thung lũng, soi bãi để phát triển cây

lương thực, cây nguyên liệu, chăn thả gia súc. Huyện cũng có một số mỏ khoáng sản

vừa và nhỏ. Với đặc điểm tự nhiên như đã trình bày Yên Lập là địa phương có lợi thế

trong phát triển kinh tế nông lâm nghiệp kết hợp.

Trải qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử dân tộc, cũng như lịch sử vùng

đất phía Bắc Tổ quốc, địa giới huyện Yên Lập có nhiều biến đổi. Đến nay Yên Lập là

một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Phú Thọ gồm 1 thị trấn và 16 xã. Là

huyện miền núi đất rộng người thưa nên Yên Lập sớm đã là nơi quần tụ sinh sống của

nhiều tộc người, trong đó cư dân nguyên thủy là người Mường, thuộc nhóm nhữ hệ

Việt - Mường. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thành phần dân cư dân tộc của huyện

Yên Lập có nhiều biến động. Bên cạnh cư dân bản địa còn có các dân tộc khác di cư

từ nhiều nời khác đến, chủ yếu là người Kinh từ dưới xuôi lên, người Dao từ Trung

Quốc xuống. Song dù là người bản địa hay di cư từ nơi khác đến, có nguồn gốc và

phong tục tập quán khác nhau nhưng khi cùng chung sống ở một quê hương mới

(huyện Yên Lập) thì các dân tộc luôn yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng

nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, văn

minh hơn.

31

Chương 2

KINH TẾ CỦA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX

Cùng với quá trình phát triển và củng cố của các nhà nước quân chủ tập

quyền, các vương triều phong kiến Việt Nam rất quan tâm đến việc lập địa bạ để nắm

chắc tình hình ruộng đất, qua đó ra lệ thuế và thu thuế cho nhà nước. Trong lịch sử

Việt Nam, lần đầu tiên nhà nước lập điền tịch vào năm 1092 dưới triều Lý. Năm

1428, Lê Lợi đã ra lệnh cho các địa phương tiến hành điều tra, khám xét về tình hình

sở hữu ruộng đất lập lại trong một năm. Các thế kỉ sau công việc kê khai ruộng đất

cũng được các triều đại quân chủ quan tâm.

Cũng như các triều đại trước nhà Nguyễn ý thức được tầm quan trọng của

việc lập địa bạ. Vì vậy, ngay sau khi ổn định cả nước, năm 1803 Gia Long bắt đầu

cho lập địa bạ của các trấn ở Bắc Hà. Năm 1804 Gia Long xuống chiếu “Chiếu theo

ruộng chiêm, ruộng mùa và ruộng chiêm mùa 2 vụ ở trong xã mà kê khai mẫu, sào,

thước, tấc, ở xứ sở nào và bốn bên đông tây cước trú rõ ràng, làm sổ để nộp” [19, tr.

119]. Việc lập địa bạ trong cả nước được Minh Mệnh tiến hành một cách triệt để cơ

bản đã lập xong sổ địa bạ trên toàn quốc. Từ thời vua Thiệu Trị (1841) đến vua Bảo

Đại (1945), có làm bổ sung thêm ở một số địa phương vì nhiều lý do khác nhau việc

làm địa bạ lớn chưa thực hiện được.

Ruộng đất huyện Yên Lập (phủ Quy Hóa tỉnh Hưng Hóa) dưới triều Nguyễn

đã được kê khai rõ ràng trong địa bạ. Các địa bạ nói trên hiện đang lưu trữ tại Trung

tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội) mang ký hiệu từ 1822 đến 1853. Các địa bạ của

huyện mà chúng tôi sưu tầm được lập ở đầu triều Nguyễn: Gia Long 4 (1805) và

Minh Mệnh 21 (1840) với tổng số 30 địa bạ trong đó có 17 địa bạ được lập năm 1805

và 13 địa bạ được lập năm 1840. Trong tổng số 30 xã có 6 xã được lập địa bạ trong 2

thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21: xã An Dưỡng, xã Vân Bán, xã Sa Lung, xã

Thu Ngạc, xã Thượng Long, xã Bạn Lữ.

32

2.1.1. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 năm (1805)

Nửa đầu thế kỉ XIX, cả nước vẫn tồn tại 2 loại hình sở hữu ruộng đất: Sở hữu

nhà nước và sở hữu tư nhân nhưng sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm phần lớn

diện tích. Năm 1840 theo báo cáo của Bộ Hộ, “tổng diện tích ruộng đất trong cả nước

là 4.063.892 mẫu, trong đó tổng diện tích ruộng thực canh là 3.396.584 mẫu. Tỉ lệ

ruộng công, ruộng tư là:

Ruộng tư: 2.816.221 mẫu, khoảng 83%

Ruộng công: 580.363 mẫu, khoảng 17%” [30, tr. 234].

Nằm trong tình trạng chung của cả nước, huyện Yên Lập thời Gia Long 4

(1805) cũng vậy, ruộng đất công không còn, chỉ có ruộng tư, ruộng đất hoang hóa lớn

Có thể thấy được tình hình đó thông qua 17 địa bạ về Yên Lập như thống kê ở các

bảng sau (cụ thể từng xã xem bảng 2 phụ lục):

Bảng 2.1. Tổng diện tích các loại ruộng đất của Yên Lập

theo địa bạ Gia Long 4 (1805)

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Thứ tự Loại ruộng Diện tích Tỷ lệ (%) Ghi chú

Thực trưng: 106.2.14.0.0 11,83 1 - Tư điền 106.2.14.0.0 11,83

Lưu hoang 789.8.10.0.0 88,17 2 - Tư điền 789.8.10.0.0 88,17

Tổng 896.1.09.0.0 100%

Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Số liệu trên cho thấy ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (tư điền) chiếm 100%

tổng diện tích cả huyện, nhưng trên thực tế phần thực trưng chỉ có 11,83%, còn lại

toàn ruộng lưu hoang. Tổng có nhiều ruộng tư nhất là tổng Thượng Long (hơn 465

mẫu), ít nhất là tổng Sơn Lương (hơn 21 mẫu). Xã có nhiều ruộng tư nhất là xã Mộ

Lan (165 mẫu 3 sào 1 thước 3 tấc), xã có ít ruộng tư nhất là xã Sa Lung thuộc tổng

Sơn Lương (7 mẫu 9 sào 4 thước 3 tấc). Điều này cho thấy, tùy vào đặc điểm địa hình

của từng vùng mà số ruộng tư phân bố ở các xã và các tổng trong huyện Yên Lập

không đều nhau.

33

Một đặc điểm đáng lưu ý trong sự phân bố ruộng đất của huyện Yên Lập năm

1805 là chỉ có tư điền, không có tư thổ, công thổ đặc biệt là ruộng đất công đã hoàn

toàn không còn. Sự phát triển của ruộng tư đã diễn ra mạnh mẽ, địa chủ và cường hào ở

nông thôn đã trở thành những lực lượng chính trong việc lũng đoạn ruộng đất của

người dân. Mặc dù nhà nước có những quy định cấm mua bán ruộng đất công nhưng

vẫn không hạn chế được, đặc biệt năm 1804 Gia Long đã ban hành chính sách quân

điền thực chất dựa theo nguyên tắc phân chia ruộng đất cho quan lại và nhân dân như

thời Lê Sơ, chỉ điều chỉnh về đối tượng, khẩu phần và thời hạn. Mục tiêu của quân điền

vẫn nhằm bảo vệ quyền sở hữu của nhà nước thông qua ruộng đất công của làng xã và

phân phối theo hướng ưu đãi cho quan lại và binh lính. Tuy có những cố gắng nhưng

do sự thu hẹp của ruộng đất công làng xã nên tác dụng của chế độ quân điền cũng bị

hạn chế.

Trong tổng số 896 mẫu 1 sào 9 thước ruộng đất của Yên Lập thì ruộng lưu

hoang chiếm tới 88,17% trong đó phần bỏ hoang đều là điền chứ không có thổ. Lý

giải điều này sách Đại Nam nhất thống chí viết như sau: “Đất này vì bị binh lửa lâu

ngày, hộ khẩu điêu tàn, mười phần chỉ còn lại độ năm ba mà thôi. Nhân dân sợ hãi

mà lưu tán, nên người hạt Sơn Tây lên khai khẩn ruộng hoang. Vì sông núi hiểm trở,

nhiều kẻ tụ họp làm trộm cướp” [21, tr. 327].

- Tình hình sở hữu ruộng đất tư

Bảng 2.2. Sự phân hóa ruộng tư của Yên Lập

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Tỷ lệ Diện tích sở hữu Quy mô sở hữu Số chủ Tỷ lệ (%) (%) (mẫu.sào.thước.tấc.phân)

< 1 mẫu 21 45,65% 11.1.03.3.0 0,11

1 đến 5 mẫu 18 39,13% 45.0.06.3.0 43,77

5 đến 10 mẫu 6 13,05% 36.6.05.0.0 46,39

10 đến 20 mẫu 1 2,17% 10.0.03.0.0 9,73

46 100% 102.8.02.6.0 100% Tổng

Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể đi vào xem xét cụ thể mức độ sở

hữu tư điền. Chỉ số trên cho thấy trên bình diện chung Yên Lập là huyện có mức độ

tập trung ruộng đất không cao. Dựa vào sự phân bố chủ ruộng và mức độ sở hữu thể

34

hiện rõ nét: Có 39/46 chủ có mức sở hữu ruộng đất dưới 5 mẫu chiếm 84,78% tổng số

chủ, và 39,24% tổng diện tích ruộng của huyện Yên Lập. Đây có thể coi là bộ phận

nông dân tự canh, đặc trưng của các chủ ruộng Yên Lập. Có 6 chủ có mức sở hữu từ

5 - 10 mẫu, sở hữu 46,39% tổng diện tích ruộng đất và chỉ có duy nhất 1 chủ có mức

sở hữu từ 10 - 20 mẫu, sở hữu 9,73% tổng diện tích ruộng đất. Chủ có mức sở hữu

cao nhất huyện là 10 mẫu và thấp nhất chỉ có 2 sào. Nhìn chung sở hữu ruộng đất của

các chủ ở thời điểm này thuộc loại vừa và nhỏ. Mức độ sở hữu khá chênh lệch giữa

chủ sở hữu cao (10 mẫu) và chủ sở hữu thấp (2 sào).

Sở hữu bình quân một chủ ở Yên Lập là: 5 mẫu 1 sào 3 thước 9 tấc. Xã có

mức sở hữu bình quân cao nhất là xã Vân Bán (6 mẫu 7 sào 9 thước 3 tấc), thấp nhất

là xã Phượng Vĩ (2 sào 7 thước 5 tấc) đây cũng là xã có diện tích có thể tính sở hữu

nhỏ nhất. Cụ thể mức độ sở hữu của từng xã như sau:

Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Xã, thôn Số chủ Số thửa Bình quân một thửa

Diện tích có thể tính sở hữu 4.4.11.4.0 0.5.00.0.0 1.5.03.2.0 2.7.09.6.0 0.5.00.0.0 1.1.00.0.0 1.0.00.0.0 1.2.03.0.0 2.1.06.0.0 13.5.03.7.0 4.0.00.0.0 23.1.01.8.0 5.1.05.3.0 13.1.00.0.0 13.1.00.0.0 135.8.06.0.0 31.2.05.0.0 26.0.14.8.0 0.9.10.0.0 896.1.09.0.0 238.5.03.0.0 0.5.00.0.0 0.7.09.1.0 0.6.11.6.0 0.2.07.5.0 0.3.10.0.0 1.0.00.0.0 0.6.01.0.0 1.0.10.5.0 6.7.09.3.0 0.8.00.0.0 3.8.07.8.0 1.2.12.5.0 1.6.05.6.0 5.5.05.8.0 0.3.03.3.0 4.6.11.5.0 1 2 4 2 3 1 2 2 2 5 6 4 8 6 3 51 Bình quân sở hữu một chủ 0.5.00.0.0 0.7.09.1.0 0.6.13.6.0 0.2.07.5.0 0.3.10.0.0 1.0.00.0.0 0.6.01.0.0 1.0.10.5.0 6.7.09.3.0 0.8.00.0.0 4.6.04.0.0 1.2.12.5.0 2.6.03.0.0 5.5.05.08.0 0.4.12.5.0 5.1.03.9.0

Ruộng tư ghi trong địa bạ 13.9.01.5..0 Thu Ngạc 34.0.10.2.0 Xuân Ứng 1 7.9.04.2.0 Sa Lung 2 134.1.11.3.0 Hạ Long 4 28.8.09.6.0 Trục Thước 2 52.3.14.8.0 Phượng Vĩ 3 28.5.12.9.0 Bạn Lữ 1 14.6.06.5.0 Vân Hoàng 2 19.8.08.6.0 KhổngTước 2 13.3.10.8.0 Sơn Lương 2 33.4.03.7.0 Vân Bán 5 165.3.01.3.0 Mộ Lan 5 34.9.05.5.0 Phục Cổ 4 ThượngLong 139.6.07.3.0 5 Xuân Lôi 6 An Dưỡng 2 Đồ Thủy Tổng 46 Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805).

35

Tổng cộng có 238 mẫu 5 sào 3 thước ruộng phân tán trên 51 thửa, bình quân

diện tích của một thửa là 4 mẫu 6 sào 11 thước 5 tấc, xã có bình quân thửa cao nhất là

xã Vân Bán thuộc tổng Vân Bán với 6 mẫu 7 sào 9 thước 3 tấc và thấp nhất là xã

Phượng Vĩ cùng tổng Vân Bán với 2 sào 7 thước 5 tấc. Từ tình hình sở hữu bình quân

về ruộng đất, cũng như bình quân về thửa và sự phân bố các lớp sở hữu có thể thấy:

Kết cấu sở hữu ruộng đất ở Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX đang trong quá trình tập

trung ruộng đất vào tay tầng lớp những người có thế lực ở địa phương.

- Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ

Ở đây, khái niệm “nhóm họ” để chỉ tập hợp những dòng họ có chung tên gọi đầu

tiên thí dụ nhóm họ Nguyễn, họ Hoàng, họ Hà. Trên cơ sở thống kê địa bạ năm Gia Long

4 (1805) tôi đã thống kê được các nhóm họ cũng như quy mô sở hữu như sau:

Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ năm 1805

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Diện tích sở hữu Thứ Số Tỷ lệ Tỷ lệ Họ tự chủ (%) (%)

1 Dương 2 4,35 4.3.02.2.0 3,31

2 Nguyễn 14 30,43 18.2.04.7.0 17,51

3 Đặng 3 6,52 6.6.11.5.0 6,42

4 Đỗ 1 2,17 4.0.10.0.0 3,89

5 Hoàng 16 34,78 55.5.01.6.0 53,99

6 Đinh 2 4,35 10.5.03.0.0 10,69

7 Lý 2 4,35 1.5.11.0.0 1,46

8 Vũ 2 4,35 1.6.03.6.0 1,56

9 Phạm 2 4,35 0.7.00.0.0 0,68

10 Trần 2 4,35 0.5.00.0.0 0,49

100 100 Tổng 10 nhóm họ 46 102.8.02.6.0

Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Như vậy, 46 chủ sở hữu ruộng đất ở Yên Lập tại thời điểm Gia Long 4 (1805)

gồm 10 nhóm họ khác nhau. Tuy nhiên sự phân bố chủ sở hữu trong các nhóm họ

không đều, có những nhóm họ rất đông như nhóm họ Hoàng (16 chủ = 34,78%), họ

36

Nguyễn (14 chủ = 30,43%) nhưng có nhóm họ chỉ có một chủ sở hữu như họ Đỗ, còn

lại là 2 hoặc 3 chủ sở hữu. Xét về quy mô sở hữu của các nhóm họ ở Yên Lập vào

thời điểm này ta thấy mức độ phân hóa giữa các nhóm họ là khá lớn. Các nhóm họ

Hoàng, họ Nguyễn với diện tích sở hữu là 73 mẫu 7 sào 6 thước 3 tấc chiếm 71,5%

tổng diện tích ruộng đất của toàn huyện. Đây cũng là 2 dòng họ lớn, đặc biệt là họ

Hoàng có vị trí quan trọng trong làng xã đương thời.

- Chủ sở hữu ruộng là nữ

Yên Lập tại thời điểm này không có chủ sở hữu ruộng là nữ. Lý giải việc

không có chủ sở hữu là nữ, có thể do tư tưởng trọng nam khinh nữ chi phối đến việc

chia ruộng đất cho các con (chủ yếu là chia cho những người con trai). Mặt khác Yên

Lập là địa bàn sinh sống của người Mường nên việc phân chia tài sản sẽ tiến hành

theo luật tục của dân tộc: “Con trai cả được hưởng ngôi nhà và một nửa gia tài, ruộng

đất cũng được phần tốt hơn, các em trai được chia đều số tài sản còn lại, người

Mường có câu: “con cả ăn ruộng đầu mương, đầu phai, con út, con thự lây no chi

bằng”(con cả được ruộng đầu mương, đầu phai, con út, con thứ lấy chi cho bằng).

Con gái không được chia tài sản vì theo quan niệm con gái được hưởng gia tài nhà

chồng”[35, tr. 46-47].

- Chất lượng đất đai

Theo tư liệu địa bạ, ở Yên Lập chất lượng ruộng đất có một hạng: hạng ba (tam

đẳng điền) và ruộng vụ thu, không có ruộng hạng một và hai. Sách Đồng Khánh địa dư

chí cũng viết như sau: “Ruộng đất: Trong huyện không có các hạng đất…Sản vật:

Huyện phần nhiều làm lúa vụ thu, duy có xã Vân Bán có cấy lúa hè” [39, tr. 729].

- Tình hình sở hữu ruộng đất của chức sắc

Một trong những số liệu khá quan trọng mà địa bạ có thể cung cấp là vai trò

kinh tế của đội ngũ những người có chức quyền ở làng xã, gọi là chức sắc. Chức sắc

gồm chức dịch và sắc mục. Chức dịch là bộ phận chức sắc quản lý làng xã nằm trong

hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước, được nhà nước công nhận như lý trưởng, xã

trưởng… Còn sắc mục là những người được làng cử ra, đại diện cho cộng đồng, tiêu

biểu cho bộ máy tự quản của làng xã như hương mục, dịch mục. Theo quy định cuối

địa bạ có phần ghi danh cùng điểm chỉ của những người có chức sắc chịu trách nhiệm

37

lập địa bạ. Mỗi địa bạ cũng có ít nhất hai chức sắc trong xã đứng danh kê khai, chịu

trách nhiệm về việc lập địa bạ của xã mình, trong đó có ít nhất một người thuộc hệ

thống chức dịch của nhà nước thường là xã trưởng, ít nhất một người thuộc sắc mục

của thôn xã, phần lớn là hương mục. Khi địa bạ có tới ba, bốn thậm chí là năm người

chịu trách nhiệm thì ngoài xã trưởng và hương mục ra còn có hương lão… Căn cứ vào

tài liệu địa bạ năm 1805 trong 15 xã thôn của huyện Yên Lập có tới 44 chức dịch, trong

số đó có 15 xã trưởng, 15 sắc mục, 9 thôn trưởng, 1 thổ tù, 3 tổng trưởng, 1 phó tổng.

Để thấy rõ mức độ sở hữu cụ thể của các chức dịch trong huyện, xem bảng số liệu sau:

Bảng 2.5. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm (1805)

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Số chủ Không 10-20 Chức vị <1 mẫu 1-5 mẫu 5-10 mẫu ruộng đất mẫu %

7 4 15 4 Xã trưởng 26,67 46,66 26,66 %

1 1 6 6 15 1 Sắc mục 6,66 6,66 40 40 % 6,66

3 4 1 9 1 Thôn trưởng 11,11 44,45 11,11 33,33 %

1 1 Thổ tù 100 %

3 3 Tổng trưởng % 100

1 1 Phó tổng % 100

44 10 17 27,27 4 1 Tổng cộng 100% 23,73 38,64 12 9,09 2,27

Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Các số liệu trên cho thấy số chức sắc có ruộng đất chiếm 76,27%. Có 10/44

chức sắc không có tên trong danh sách chủ ruộng, hay nói cách khác, có thể coi họ là

38

những người không có ruộng đất tư. Hiện tượng những người có chức ở làng xã mà

không có ruộng đất là một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX.

Không tính tới các chức sắc không có ruộng đất tư, ngay trong hàng ngũ những người

có ruộng đất tư thì mức độ tư hữu của họ cũng không đồng đều. Người có sở hữu lớn

nhất trong 34 chức sắc có ruộng đất tư là sắc mục Đinh Bá Đĩnh của xã Vân Bán có

tới 10 mẫu 3 thước, nhưng có sắc mục chỉ sở hữu có 6 sào 3 thước. Thậm chí có chức

sắc không có ruộng như xã trưởng Nguyễn Đình Tăng xã Vân Bán, sắc mục Dương

Đăng Thọ xã Thượng Long.

Trong tổng số 34 chức sắc thì sắc mục có sở hữu ruộng đất nhiều nhất là 30

mẫu 8 sào 3 thước 9 tấc nhưng tế bình quân sở hữu chỉ có 2 mẫu 8 thước 3 tấc. Còn

Thổ tù lại có bình quân sở hữu cao hơn là 3 mẫu 5 sào 3 thước 3 tấc. Nhìn chung bình

quân sở hữu của các chức sắc là 1 mẫu 4 sào 4 thước 8 tấc . Như vậy đa số chức sắc

sở hữu ruộng đất dưới 5 mẫu. Tính chất sở hữu nhỏ, tự canh là đặc trưng sở hữu

ruộng đất của các chức sắc.

Mặc dù không thể và cũng không nên phân biệt một cách rạch ròi giữa bộ

phận chức dịch và sắc mục trong làng xã nhưng bằng những phân tích có tính định

lượng trên, rõ ràng đội ngũ sắc mục có quyền lực kinh tế thông qua quyền sở hữu

ruộng đất tư lớn hơn hẳn so với các chức dịch. Phải chăng đây mới chính là những

người thực sự có quyền lực trong thôn, xóm . Xã trưởng đứng đầu đơn vị hành

chính cơ sở, nhưng do tính tự quản của cộng đồng làng xã nên cũng phải tôn trọng

các sắc mục và chấp hành những nghị quyết của hội đồng sắc mục về những hoạt

động của cộng đồng làng xã. Đây là thể hiện một phần mối quan hệ giữa “làng” và “

nước” giữa “lệ làng” và “phép nước”.

2.1.2. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Nếu như vua Gia Long mới chỉ dừng lại ở mức ổn định lại vấn đề ruộng đất thì

vua Minh Mệnh đã can thiệp sâu hơn về vấn đề ruộng đất đặc biệt đã ban hành chính

sách quân điền. Chính sách đó làm cho quá trình tư hữu hóa ruộng đất ở nửa đầu thế

kỷ XIX chậm lại nhưng không phải chấm dứt hoàn toàn. Để có cái nhìn cụ thể về tình

39

hình ruộng đất thời Minh Mệnh, 13 địa bạ của 13 xã được lập năm Minh Mệnh 21

(1840) (cụ thể xem bảng 3 phụ lục).

Một điểm đáng lưu ý là theo địa bạ năm 1840, diện tích tư điền vẫn chiếm gần

như tuyệt đối (99,26%) tổng diện tích cả huyện, không có tư thổ, công thổ. Nhưng

điều đáng lưu ý là đến thời điểm này ở Yên Lập đã có diện tích công điền, mặc dù là

rất ít (4 mẫu 5 sào 2 tấc 1 phân, tương đương 0,74% diện tích ruộng đất toàn huyện).

Chứng tỏ chính sách quân điền thời Minh Mệnh vẫn không phát huy tác dụng ở

huyện miền núi Yên Lập.

Bảng 2.6. Sự phân bố các loại ruộng đất

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Diện tích Thứ tự Loại ruộng Tỷ lệ % (mẫu.sào.thước.tấc.phân)

Thực trưng 243.0.03.2.1 40

1 - Tư điền 238.5.03.0.0 39,26

- Công điền 4.5.00.2.1 0,74

Lưu hoang 363.6.01.5.0 60 2 - Tư điền 363.6.01.5.0 60

Tổng 606.6.04.7.1 100%

Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Từ số liệu trên cho thấy, với chính sách khai hoang của Minh Mệnh bằng

cách có thưởng, phạt thích đáng đối với quan lại các cấp trong việc tổ chức nhân

dân khai phá ruộng đất hoang. Theo quy định năm 1836, “các viên chức từ xã

trưởng, lý trưởng cho đến cai tổng, tri phủ, tri huyện, quan tỉnh, nếu biết khuyến

khích nhân dân khai khẩn đất hoang, trong một năm nếu khai phá được từ 20 mẫu

đã có thưởng, mức độ thưởng càng cao nếu khai hoang được nhiều ruộng đất.

Nhưng ngược lại, trong một xã thôn, nếu để ruộng đất bỏ hoang từ 1 - 5 mẫu đã

phải chịu hình phạt và tất nhiên nếu số lượng ruộng đất bị bỏ hoang càng lớn thì

mức phạt càng tăng” [25, tr. 216-217]. Với các quy định về thưởng, phạt trên, vua

Minh Mệnh đã đồng thời áp dụng cả sức ép hành chính lẫn khuyến khích bằng

quyền lợi kinh tế và chính trị để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang. Chính vì vậy

40

công việc khai hoang dưới thời vua Minh Mệnh được đẩy mạnh và có hiệu quả làm

tăng thêm diện tích canh tác. Bên cạnh các hình thức khai hoang, nhà nước còn ban

hành nhiều biện pháp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất hiện tượng ruộng đất đã được

khai khẩn nhưng sau bị bỏ hoang. Ruộng đất của dân xiêu tán thì nhà nước áp dụng

biện pháp khuyến khích họ trở về làng cũ và bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của họ.

Mãi đến năm 1854 nếu dân lưu tán trước 1802 không chịu về quê quán thì ruộng đất

của họ mới bị trưng thu. Theo địa bạ năm 1840 sau 38 năm kể từ khi nhà Nguyễn

được thành lập, từ chỗ cả huyện số ruộng lưu hoang chiếm tới 88,17% thời vua Gia

Long thì đến thời vua Minh Mệnh (1840) còn 60% diện tích, có xã không còn diện

tích lưu hoang nữa như xã Sa Lung, xã Thu Ngạc, xã An Sào.

- Tình trạng sở hữu ruộng đất tư

Bảng 2.7. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm 1840

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Số Tỷ lệ Diện tích Tỷ lệ Quy mô sở hữu chủ (%) sở hữu (%)

< 1 mẫu 17 27,42 8.6.05.6.0 3,36

1 đến 5 mẫu 24 38,71 51.7.09.0.0 21,73

5 đến 10 mẫu 14 22,58 91.3.06.8.0 38,24

10 đến 20 mẫu 6 9,68 65.7.09.6.0 27,85

20 đến 30 mẫu 1 1,61 21.0.02.0.0 8,82

Tổng 62 100 238.5.03.0.0 100%

Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Từ bảng số liệu trên có thể thấy số người sở hữu dưới 5 mẫu chiếm 66,13% số

chủ nhưng chỉ chiếm có 25,09% số ruộng. Như vậy, số chủ sở hữu nằm trong lớp thứ

nhất và thứ hai (dưới 1 mẫu và từ 1 đến 5 mẫu) có thể coi thuộc loại nông dân tự canh

chiếm diện tích không đáng kể ở Yên Lập. Bên cạnh đại đa số những người nông dân

tự canh có sở hữu nhỏ, tồn tại một tỷ lệ cao chủ khá giả (21 chủ) chiếm 33,87% tổng

số chủ có mức sở hữu từ 5 đến 30 mẫu với 74,91% diện tích ruộng đất toàn huyện

41

(đặc biệt còn có 1 chủ sở hữu trên 21 mẫu chiếm 8,82% diện tích ruộng đất). Như

vậy, tình trạng sở hữu ruộng đất khá tập trung, trên số ít chủ sở hữu là đặc điểm nổi

bật của chế độ ruộng đất ở Yên Lập qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840).

Nhìn vào tình trạng sở hữu tư điền của Yên Lập (1840), với sự có mặt của 62

chủ sở hữu có tổng diện tích sở hữu là 238 mẫu 5 sào 3 thước thì mức sở hữu bình

quân một chủ sẽ là 3 mẫu 8 sào 7 thước. Cụ thể số liệu sở hữu ruộng đất của từng xã

được thống kê ở bảng sau:

Bảng 2.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa (năm 1840)

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Ruộng tư

Diện tích có

Số

Bình quân

Số

Bình quân

Xã, thôn

ghi trong

thể tính

thửa

1 thửa

chủ

một chủ

địa bạ

sở hữu

Thu Ngạc

13.9.01.5.0

13.9.01.5.0

1.7.05.8.0

2.2.13.4.0

8

6

An Dưỡng

135.8.06.0.0

31.2.05.0.0

5.2.00.2.0

5.2.00.2.0

6

6

An Sào

34.9.05.5.0

34.9.05.5.0

4.3.10.0.0

4.9.13.6.0

8

7

Bạn Lữ

28.5.12.9.0

28.5.12.9.0

3.1.11.4.0

5.7.02.5.0

9

5

Vân Bán

33.4.03.7.0

21.9.03.0.0

7.3.01.0.0

7.3.01.0.0

3

3

Đông Lỗ

4.1.02.2.0

2.7.01.1.0

0.5.06.2.0

0.5.06.2.0

5

5

Thượng Long

139.6.07.3.0

25.6.07.3.0

4.2.11.2.0

4.2.11.2.0

6

6

Quế Sơn

122.7.01.2.0

21.2.00.0.0

4.2.06.0.0

4.2.06.0.0

5

5

Sa Lung

7.9.04.2.0

7.9.04.2.0

1.9.12.3.0

1.9.12.3.0

4

4

Nga Mi

60.0.11.3.0

30.0.00.0.0

10.0.00.0.0

10.0.00.0.0

3

3

Đoài Lỗ

17.6.00.2.1

13.1.00.0.0

1.6.05.6.0

1.6.05.6.0

8

8

Hương Lan

2.5.01.2.0

2.5.01.2.0

1.2.08.1.0

1.2.08.1.0

2

2

Vân Lung

5.3.07.5.0

5.3.07.5.0

1.3.05.3.0

2.6.11.6.0

4

2

Tổng

606.6.04.7.1

238.5.03.0.0

71

3.3.08.9.0 62

3.8.07.0.0

Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

42

Trong 62 chủ sở hữu nêu ở bảng trên, chúng tôi thống kê thấy 100% chủ sở

hữu là phân canh, không có người phụ canh. Chứng tỏ ở đây “ruộng làng nào làng ấy

cấy”, nông dân gắn liền với ruộng đồng còn rất chặt chẽ.

- Chất lượng ruộng đất

Yên Lập 100% là ruộng hạng 3. Do điều kiện đất đai và khí hậu khắc nghiệt

của miền núi rừng nên cư dân nơi đây chỉ cấy được một vụ đó là vụ thu. Vì vậy,

nhân dân không đủ lương thực để ăn, nạn đói thường xuyên xảy ra.

- Sở hữu ruộng đất của nhóm họ

Bảng 2.9. Sự phân bố ruộng đất của nhóm họ năm (1840)

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Tổng số Thứ tự Họ Tỷ lệ % Diện tích sở hữu Tỷ lệ % chủ

18 1 Hoàng 29,03 72.5.14.3.0 30,25

1 2 Hạ 1,61 0.6.00.0.0 0,25

11 3 Đinh 17,74 23.3.08.5.4 9,79

1 4 Đỗ 1,61 6.2.03.0.0 2,61

1 5 Trần 1,61 2.0.01.2.0 0,84

Nguyễn 13 76.9.04.4.6 32,31 6 20,97

2 7 Lý 3,23 10.4.02.6.0 4,55

1 8 Phan 1,61 6.0.00.0.0 2,52

3 9 Đặng 4,84 4.2.07.6.0 1,76

2 10 Hà 3,23 3.6.01.0.0 1,51

1 11 Lê 1,61 1.1.00.0.0 0,46

2 12 Cù 3,23 14.0.11.0.0 5,88

2 13 Phạm 3,23 4.9.04.2.0 2,06

4 14 Dương 6,45 12.4.05.1.0 5,21

Tổng 62 100% 238.5.03.0.0 100%

Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

43

Từ bảng số liệu trên ta thấy, dưới thời vua Minh Mệnh tại thời điểm năm 1840

Yên Lập có 62 chủ chia thành 14 nhóm họ, nhưng số lượng người giữa các nhóm họ

không đều: có tới 42/62 chủ của họ Hoàng, họ Nguyễn, họ Đinh (chiếm 67,74% tổng

số chủ) và chiếm 72,35% tổng diện tích ruộng đất. Nhưng bên cạnh đó có rất nhiều

nhóm họ chỉ có 1 chủ sở hữu như các nhóm họ: Hạ, Đỗ, Trần, Phan, Lê. Nếu xét về

mức sở hữu trung bình của mỗi chủ trong từng nhóm họ, ta thấy trong 14 nhóm họ,

nhóm họ Hoàng nhiều về số chủ, nhiều về diện tích nhưng mức bình quân sở hữu chỉ

có 4 mẫu 4 thước 9 tấc. Bên cạnh đó có những họ chỉ có một chủ nhưng lại có mức sở

hữu cao như họ Cù (7 mẫu 5 thước), họ Đỗ (6 mẫu 2 sào 3 thước). Dòng họ Hoàng từ

thời Gia Long đến thời Minh Mệnh vẫn là một dòng họ lớn, có tầm ảnh hưởng rộng

về kinh tế, chính trị cũng như văn hóa đối với nhân dân trong huyệnYên Lập.

- Tình hình sở hữu của các chức sắc

Khác với thời Gia Long, một đặc điểm nổi bật trong cơ cấu chức sắc thời Minh

Mệnh 21 (1840) là chỉ có lý trưởng và hương trưởng. Năm 1828, Minh Mệnh có một

số cải tổ về bộ máy quản lý làng xã bỏ chức xã trưởng và thay bằng chức lý trưởng:

“cho các xã thôn, các phường đều đặt một lý trưởng, định số 50 người trở lên thì đặt

thêm một phó lý trưởng, định số 150 người trở lên thì đặt thêm 2 phó lý trưởng. Đều

lấy người vật lực, cần cán làm cho, do cai tổng cùng dân làng đồng tình bầu cử, phủ

huyện xét kỹ lại, bẩm lên trấn để cấp văn bằng và mộc triện” [26, tr. 85]. Theo đó tại

Yên Lập mỗi xã chỉ còn hai chức sắc là lý trưởng và hương trưởng

Bảng 2.10. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm 1840

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Chức vị <1 mẫu 1 đến 5 mẫu 5 đến 10 mẫu 10 đến 20 mẫu 20 đến 30 mẫu

Lý trưởng

Hương trưởng

Tổng cộng Không ruộng đất 2 13,33 5 45,46 7 26,93 13,33 2 3 27,27 5 19,23 4 26,67 2 18,18 6 23,08 3 20 1 9,09 4 15,38 3 20 3 11,53 1 6,67 1 3,85

Số chủ % 15 % 11 % 26 100 Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

44

Về quy mô sở hữu ruộng đất: Lý trưởng là người sở hữu lớn so với các chủ

khác và diện tích ruộng đất (15 chủ chiếm 82,41% tổng diện tích ruộng đất với 86 mẫu

7 sào 12 thước 6 tấc). Còn hương trưởng với 11 chủ nhưng chỉ chiếm có 17,59% tổng

diện tích ruộng đất. Bên cạnh đó cũng có một số chức sắc không có ruộng đất như: Lý

trưởng: Lý Đình Sanh, xã Bạn Lữ, tổng Vân Bán; Lý trưởng: Đinh Đức Chung, xã Vân

Lung, tổng Đông Lỗ; Hương trưởng: Nguyễn Hữu Nhân, xã Hương Lan, tổng Đông

Lỗ…Ngược lại có lý trưởng lại sở hữu với quy mô lớn tới hơn 21 mẫu, đó là lý trưởng

Nguyễn Đăng Khán, xã Nga Mi, tổng Sơn Lương. Điều đó cho thấy, sự phân bố ruộng

đất trong hàng ngũ chức sắc ở Yên Lập thời Minh Mệnh là không đồng đều. Do vậy

không phải cứ chức sắc là thuộc hàng khá giả.

Bộ máy chức sắc có sự thay đổi về chức vụ nhưng nhìn chung họ vẫn là những

người có sở hữu lớn về ruộng đất của huyện.

2.1.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và Minh

Mệnh 21 (1840)

Dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh, trong khoảng 35 năm giữa hai thời

điểm 1805-1840, ở Yên Lập không có sự thay đổi lớn về quy mô cũng như tình hình

sở hữu. Tuy nhiên để có cái nhìn rõ hơn về tình hình ruộng đất ở Yên Lập trong giai

đoạn nửa đầu thế kỷ XIX chúng tôi đã sử dụng địa bạ của 5 xã đều được lập tại hai

thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21 để so sánh. Đó là địa bạ các xã Sa Lung, Bạn

Lữ, Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng. Qua việc tìm hiểu có thể làm rõ được những

thay đổi quan trọng trong vấn đề sử dụng đất đai cũng như tình hình sở hữu ruộng đất

ở Yên Lập thời Nguyễn trong gian đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Qua xử lý, tổng hợp và

thống kê số liệu của địa bạ, tình hình ruộng đất của 5 xã như sau:

Bảng 2.11. Bảng so sánh sự phân bố các loại ruộng đất

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Gia Long 4 (1805) Minh Mệnh 21 (1840) Loại ruộng

Thực trưng - Tư điền Lưu hoang - Tư điền Tổng Diện tích 103.5.11.6.0 103.5.11.6.0 106.1.01.7.0 106.1.01.7.0 219.6.13.3.0 Diện tích 49.8.05.1.0 49.8.05.1.0 168.8.08.2.0 168.8.08.2.0 219.6.13.3.0 Tỷ lệ % 47,13 47,13 52,87 52,87 100%

Tỷ lệ % 22,68 22,68 77,32 77,32 100% Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

của 5 xã Sa Lung, Bạn Lữ, Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng.

45

Sau 35 năm (1805 - 1840) tổng diện tích ruộng đất của 5 xã không thay đổi vẫn

giữ mức 219 mẫu 6 sào 13 thước 3 tấc. Tuy nhiên phần thực trưng tăng 54 mẫu (103mẫu

- 49mẫu = 54 mẫu). Cùng với đó ruộng đất lưu hoang đã giảm do được phục trưng

(hơn 62 mẫu) để canh tác. Điều đó chứng tỏ quá trình tư hữu hóa ruộng đất vẫn tiếp

tục diễn ra trong giai đoạn này. Những cố gắng của nhà Nguyễn nhằm tăng quỹ ruộng

đất công đã không phát huy tác dụng ở huyện miền núi Yên Lập, ruộng đất công vẫn

tiếp tục “vắng bóng” trong thời gian này.

- Tình trạng sở hữu ruộng đất tư

Để thấy rõ sự biến đổi trong mức độ sở hữu của các chủ tư hữu chúng tôi đã

lập bảng so sánh sau:

Bảng 2.12. So sánh quy mô sở hữu ruộng tư

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Gia long 4 (1805) Minh Mệnh 21 (1840) Quy mô sở Số chủ Diện tích sở hữu Số chủ Diện tích sở hữu hữu % % % %

5 2.1.05.0.0 6 3.1.01.4.0 < 1 mẫu 41,67 4,32 25,00 2,9

1 3.5.00.7.0 6 17.2.02.6.0 1 đến 5 mẫu 8,33 7,56 25,00 16,62

63.1.02.0.0 5 30.7.00.0.0 10 5 đến 10 mẫu

60,97 41,67 66,31 41,67

1 10.0.03.0.0 2 20.1.05.6.0 10 đến 20 mẫu 8,33 21,81 8,33 19,51

12 46.3.08.7.0 24 103.5.11.6.0 Tổng 100 100 100 100

Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

của 5 xã Sa Lung, Vân Bán, Bạn Lữ, Thu Ngạc, An Dưỡng.

Quy mô sở hữu của các chủ ruộng thay đổi đáng kể. Năm 1840, tổng số chủ sở

hữu tăng lên so với năm 1805 là 12 người nhưng sự gia tăng đó không được phân bố

đồng đều vào các lớp chủ sở hữu.

46

Lớp chủ sở hữu dưới 1 mẫu giảm 16,67% về số chủ và 1,42% về diện tích.

Nhưng trung bình sở hữu ruộng đất của một chủ lại tăng nhẹ từ 4 sào 4 thước lên 5

sào 2 thước 7 tấc 1 phân.

Lớp chủ sở hữu ruộng đất từ 1 đến 5 mẫu tăng thêm 16,67% số chủ và diện

tích cũng tăng 9,6%. Nhưng bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ lại giảm từ 3

mẫu 5 sào 7 tấc 5 xuống còn 2 mẫu 8 sào 10 thước 4 tấc 3 phân.

Lớp chủ sở hữu ruộng đất từ 5 đến 10 mẫu không tăng về số chủ (41,67%)

Nhưng giảm nhẹ về diện tích 5,34%. Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ tăng

rất ít từ 6 mẫu 1 sào 6 thước lên 6 mẫu 3 sào 1 thước 7 tấc (chỉ tăng hơn 2 sào).

Tương tự như vậy lớp chủ sở hữu ruộng đất từ 10 đến 20 mẫu tăng thêm 1 chủ

(từ 1 lên 2 chủ) và cũng tăng về diện tích ruộng đất (từ 10 mẫu 3 thước lên 20 mẫu 1

sào 5 thước 6 tấc ). Do vậy bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ cũng tăng 7

thước 3 tấc.

Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ ở Yên Lập thời Gia Long (1805) là 3

mẫu 8 sào 9 thước 8 tấc, nếu so với bình quân ruộng đất của một chủ sở hữu thời

điểm Minh Mệnh (1840) là 4 mẫu 3 sào 2 thước 1 tấc thì rõ ràng bình quân sở hữu

ruộng đất một chủ ở thời Minh Mệnh cao hơn 4 sào 2 thước 3 tấc. Điều này có thể lý

giải do diện tích ruộng đất lưu hoang giảm xuống 62 mẫu, cùng với đó diện tích thực

trưng tăng lên 54 mẫu, trong khi số chủ sở hữu tăng gấp đôi (từ 12 lên 24 người) thì

diện tích sở hữu lại tăng hơn hai lần (103 - 46 = 57 mẫu) nên tổng diện tích ruộng đất

chia ra cho các chủ sở hữu mới vì vậy cũng tăng lên.

Như vậy ở cả hai thời điểm, quy mô sở hữu của các chủ đều tập trung vào lớp

thứ ba (từ 5 mẫu trở lên) với nửa số chủ nhưng chiếm tới hơn 80% diện tích ruộng đất

- So sánh quy mô sở hữu của các nhóm họ

Trên cơ sở địa bạ của 5 xã tại 2 thời điểm Gia Long 4 và Minh Mệnh 21 chúng

tôi đã thống kê được 9 nhóm họ.

47

Bảng 2.13. So sánh tình hình sở hữu của các dòng họ của 5 xã

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Năm Gia Long 4

Năm Minh Mệnh 21

Thứ

Nhóm họ

Số

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

Tỷ lệ

tự

Diện tích

Diện tích

chủ

%

%

chủ

%

%

8,33

6.0.03.4.0 13,04

1

Đặng

1

8,33

10.0.03.0.0 21,74

12,5

4.2.00.0.0

4,06

2

Đinh

1

3

33,34

25.6.11.6.0 53,04

33,33

34.6.03.5.0 33,43

3

Hoàng

4

8

8,33

0.5.05.0.0

1,09

10.4.02.6.0 10,14

4

1

2

8,33

16,67

0.7.00.0.0

1,52

4.9.04.2.0

4,73

5

Phạm

2

2

8,33

Nguyễn

25,00

4.4.00.7.0

9,57

25,00

36.5.13.3.0 35,27

6

3

6

7

0.6.00.0.0

0,58

1

4,17

8

Đỗ

6.2.03.0.0

5,99

1

4,17

9

Phan

6.0.00.0.0

5,80

1

4,17

Tổng

12

100

46.3.08.7.0

100 24

100

103.5.11.6.0 100%

Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

của 5 xã Sa Lung, Bạn Lữ, Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng.

Theo bảng 2.13, từ địa bạ Gia Long đến địa bạ Minh Mệnh tổng số chủ

tăng thêm 12 người và số nhóm họ cũng tăng thêm 3. Nếu so sánh cụ thể từng

nhóm họ thì thấy chỉ có 5 nhóm họ trùng nhau giữa hai thời điểm, ngoài ra trong

địa bạ Gia Long 4 có 1 nhóm họ mà ở địa bạ Minh Mệnh 21 không có, hoặc

ngược lại trong địa bạ Minh Mệnh lại có 3 nhóm họ khác mà ở địa bạ Gia Long

không có. Tuy vậy, có một đặc điểm chung cho cả 4 nhóm họ không trùng lặp

này là mỗi họ đều chỉ có 1 người. Điều đó cho thấy từ năm 1805 đến năm1840 ở

huyện Trấn Yên những biến động về dân cư vẫn diễn ra. Trong 9 nhóm họ ở Yên

Lập, xét về mức độ tư hữu là diện tích sở hữu trên tổng số chủ cao nhất ở thời

điểm Gia Long 4 (1805) là nhóm họ Đinh (10 mẫu 3 thước), thấp nhất là nhóm

họ Phạm (3 sào 7 thước 5 tấc). Nhưng đến năm Minh Mệnh 21 (1840) cao nhất

lại là họ Đỗ (6 mẫu 2 sào 3 thước), thấp nhất là họ Hà (6 sào).

- Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc

Qua thống kê 5 xã có địa bạ 1805 và 1840 chúng tôi thấy có 10 chức sắc thời

Gia Long 4 và 10 chức sắc thời Minh Mệnh 21. Cụ thể tình hình sở hữu của các chức

sắc xem phụ lục:

48

Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy: Hệ thống chức sắc trong các xã thôn ở Yên

Lập năm Minh Mệnh 21 giảm hơn so với năm Gia Long 4. Các chức sắc: xã trưởng,

thôn trưởng, sắc mục không còn nữa và thay vào đó là chức lý trưởng và hương trưởng.

Tỷ lệ những chức sắc không có ruộng đất của Yên Lập tại hai thời điểm có địa bạ

không thay đổi là 20%. Bên cạnh một số chức sắc không có sở hữu ruộng đất, những

chức sắc sở hữu dưới 1 mẫu giảm (từ 50% xuống còn 10 %), còn số chức sắc sở hữu từ

1 đến 5 mẫu, từ 5 đến 10 mẫu đều tăng lên (từ 10% lên 30%). Nhìn chung cải cách

hành chính của vua Minh Mệnh đã làm cho bộ máy nhà nước bớt đi sự cồng kềnh.

Ruộng đất tập trung vào tay các địa chủ khá giả tăng từ 20% thời Gia Long lên 40%

thời Minh Mệnh (nếu tính mức sở hữu từ 5 mẫu trở lên là địa chủ khá giả) nhưng phần

lớn các chức sắc vẫn là những người sở hữu lớn về ruộng đất trong các làng xã.

2.2. Chế độ tô thuế

Tô thuế là nguồn tài chính chủ yếu của nhà nước dựa vào nguồn sở hữu ruộng

đất của vương triều là chính, thế nhưng vào nửa đầu thế kỷ XIX, do ruộng đất công

làng xã thuộc quyền sở hữu của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng, triều Nguyễn do

đó đặc biệt quan tâm đến nguồn thu từ tô thuế. Năm 1803, Vua Gia Long ban hành

chế độ tô thuế mới, chia cả nước làm bốn khu vực để thu thuế ruộng đất, chia làm

bốn loại ruộng đất để đánh thuế khác nhau. Các triều vua kế tiếp cũng có điều chỉnh,

sửa chữa ít nhiều.

+ Khu vực 1: Gồm các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa,

Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh.

+ Khu vực 2: Gồm các địa phương Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc,

Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, phủ Phụng Thiên.

+ Khu vực 3: Gồm Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên

Quang, Cao Bằng.

+ Khu vực 4: Gồm Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên,

Kiên Giang. [17, tr. 162].

Theo đó, mức thuế của huyện Yên Lập, phủ Quy hóa, tỉnh Hưng Hóa thuộc

khu vực 3. Biểu thuế này như sau:

Hạng nhất nộp 50 bát/ mẫu với ruộng đất công, 20 bất/ mẫu với ruộng đất tư.

49

Hạng nhì nộp 42 bát/ mẫu với ruộng đất công, 20 bát/ mẫu đối với ruộng tư.

Hạng ba nộp 25 bát/ mẫu đối với ruộng đất công, 10 bát/ mẫu đối với ruộng tư.

[17, tr. 162].

Trên cơ sở đó, Yên Lập với 100% là ruộng tư nên mức thuế mà nhân dân sẽ

phải đóng là: Ruộng hạng 3: 10 bát/ mẫu.

Thời Minh Mệnh chia cả nước làm 3 khu vực:

Khu vực 1: Như thời Gia Long

Khu vực 2: Từ Nghệ An ra Bắc

Khu vực 3: như khu vực 4 thời Gia Long

Trên cơ sở phân chia khu vực của vua Minh Mệnh, tỉnh Hưng Hóa thuộc khu

vực 2. Mức thuế như sau:

Hạng nhất 80 thăng/ mẫu với ruộng công và 26 thăng/ mẫu đối với ruộng tư.

Hạng nhì 56 thăng/ mẫu với ruộng công và 20 thăng/ mẫu đối với ruộng tư.

Hạng ba 33 thăng/ mẫu đối với ruộng công và 13 thăng/ mẫu dối với ruộng tư.

[17, tr. 163].

Như vậy, mức thuế mà nhân dân Yên Lập phải đóng góp là: ruộng hạng 3:

ruộng công 33 thăng/mẫu, ruộng tư 13 thăng/mẫu. Ngoài thuế ruộng, nhân dân huyện

Yên Lập phải đóng góp thêm nhiều loại thuế khác nữa theo quy định của nhà nước

như thuế vải, thuế sản vật, thuế đinh…và các nghĩa vụ binh dịch rất nặng nề.

Qua nghiên cứu địa bạ huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX, chúng tôi thấy đặc

điểm nổi bật nhất ở Yên Lập là gần 100% diện tích đất đai là ruộng tư, sang thời

Minh Mệnh có ruộng đất công nhưng diện tích rất nhỏ (4 mẫu 5 sào 2 tấc 1 phân,

chiếm 0,74%), chứng tỏ quá trình tư hữu hóa ruộng đất đã diễn ra mạnh mẽ ở khu

vực miền núi phía Bắc. Tình trạng phụ canh không diễn ra ở đây. Do điều kiện địa

hình ¾ là đồi núi nên ruộng đất ở Yên Lập không tập trung, manh mún nên quy mô

sở hữu ruộng tư chưa lớn, chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ. Trong sở hữu tư nhân nổi

bật là xu hướng tập trung ruộng đất vào 2 nhóm họ lớn là nhóm họ Hoàng và nhóm

họ Nguyễn. Các nhóm họ có sự chênh lệnh rõ rệt cả về số chủ và diện tích sở hữu.

Các chức sắc không những có quyền về chính trị mà họ còn nắm trong tay một số

diện tích ruộng đất khá lớn. Những đặc điểm này cho thấy huyện Yên Lập nằm trong

xu hướng phát triển chung của cả nước lúc bấy giờ.

50

2.3. Tình hình kinh tế

2.3.1. Nông nghiệp

- Trồng trọt: Trong truyền thống, cư dân Mường canh tác chủ yếu ở các ruộng

nước, thung lũng, hay những doi đất hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp

với hệ thống mương, phai rất đặc trưng. Lúa nước là cây lương thực chính. Dĩ nhiên,

với nông nghiệp ruộng nước thì công cụ sản xuất chủ yếu là cày, bừa và cuốc. Cây

lúa với hàng chục loại giống khác nhau, đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong các

loại cây trồng. Trên nền tảng của truyền thống nông nghiệp ruộng nước, cư dân nơi

đây đã xây dựng một hệ thống nông lịch hoàn chỉnh, đồng thời họ cũng đúc kết và

tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu trong trồng trọt mà cho đến nay vẫn còn có

nhiều tác dụng tích cực.

Đối với canh tác ruộng nước thì thủy lợi giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Nguồn nước chính thường là nước mưa và nước của các con suối chảy giữa lòng

thung lũng, các khe mạch chảy thường xuyên hay định kỳ. Dựa trên các nguồn nước

tự nhiên, cư dân đã xây dựng một hệ thống thủy lợi khá hoàn chỉnh bao gồm.

Mương là những đường dẫn nước vào ruộng, có thể chạy men theo sườn đồi,

sườn núi hoặc dọc các khu đồng, vừa cung cấp nước cho trồng trọt vừa tiêu nước khi có

lũ. Mương có thể đào chìm hay đắp nổi. Nguồn nước từ mương lấy từ phai.

Phai là loại đập đắp ngăn suối để dâng nước vào mương. Trước kia, phai hầu

hét chỉ được kè bằng đá hoặc các thân cây gỗ xếp chồng lên nhau, đóng cọc hai bên

cho khỏi đổ.

Nhìn chung, mương của cư dân nơi đây không to như mương của người Việt ở

đồng bằng sông Hồng, chỉ vừa một bước chân và vì vậy phai cũng rất nhỏ.

Hạnh là hệ thống dẫn nước nhỏ đắp bờ hai bên lấy nước từ mương vào các

cánh đồng. Để đưa nước tới từng thửa ruộng người ta dùng cuốc khơi rãnh ở bờ hạnh,

gọi là tạng, khi đủ nước bỏ tạng đi đắp lại. Đối với các thửa ruộng cao hơn nguồn

nước người Mường dùng cọn nâng nước lên đổ vào ruộng.

Mặc dù hệ thống thủy lợi rất đơn giản nhưng lại rất có hiệu quả cho

trồng trọt.

Cùng với hệ thống thủy lợi, người Mường đã xây dựng một tập quán canh tác

nông nghiệp khá ổn định và thành thạo, phù hợp với từng loại ruộng ( ruộng thụt lầy

51

và ruộng bậc thang) đúc kết thành những kinh nghiệm trong sản xuất. Nhìn chung

ruộng của cư dân nơi đây là những mảnh ruộng phẳng chồng lên nhau theo các hình

bậc thang, với cách bố trí như vậy đảm bảo sự phân phối nước một cách tốt nhất, và

đảm bảo cho nước lưu thông một cách đều đặn bằng những phương pháp đơn giản.

Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn nhỏ có

răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô

xếp để trên gác, khi cần dùng lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt

rồi đem giã.

Làm ruộng nước với những khâu kỹ thuật liên hoàn gồm bốn công đoạn kế

tiếp nhau: Làm đất, gieo trồng, chăm bón và thu hoạch. Về kỹ thuật hoàn toàn dựa

trên phương pháp cổ truyền.

Cư dân nơi đây không chỉ làm ruộng nước trong thung lũng mà còn làm

nương trên các sườn đồi, núi bao quanh thung lũng, khi mà diện tích lúa nước

có hạn.

Nương là những khoảng đất rừng được phát, đốt để gieo trồng nhưng không

bằng phẳng, không có bờ giữ nước. Nương ở đây chủ yếu là nương lúa, ngoài ra còn

có nương sắn, nương ngô, nương bông. Trên nương cư dân cũng có tập quán trồng

xen canh một vài giống cây trồng khác như đỗ, vừng trồng xen ngô.

Với một hệ thống cây trồng như vậy nên trồng trọt trên nương đã cung cấp

nguồn lương thực, thực phẩm cho cư dân gần như quanh năm. Nương ngô thường

phát vào tháng chạp năm trước, tháng giêng năm sau đốt và tra hạt đến tháng 4-5 thu

hoạch. Nếu trồng lúa thì tháng 3-4 phát, đốt, tháng 5-6 tra hạt, tháng 9-10 thu hoạch.

Có nhiều loại lúa nương khác nhau, tùy theo địa thế của từng mảnh nương mà họ

chọn giống lúa cho phù hợp. Để giữ màu ở nương dốc, người ta làm đường cản nước,

tức là xẻ rãnh ngang trên đầu của mảnh nương và xẻ dọc thêm một số rãnh dọc sườn

núi để khi mưa xuống nước sẽ thoát theo những rãnh đó hạn chế được sự xói lở làm

hại đến cây trồng. Cách làm này cũng giống như ở các tộc người H’mông, Dao.

Sản phẩm của kinh tế nương rẫy đến nay vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời

sống của cư dân địa phương, đặc biệt là đối với cư dân sống trên những vùng núi cao

như người Dao, một phần người Mường.

52

- Chăn nuôi: Điều kiện tự nhiên đã tạo cho chăn nuôi phát triển nhưng cũng

chỉ là nghề phụ của gia đình, hoàn toàn phụ thuộc vào nông nghiệp. Vật nuôi có

nhiều loại như: gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, trâu, bò. Chăn nuôi nhằm mục đích lấy sức

kéo, làm thực phẩm phục vụ gia đình và một phần đem bán.

Tập quán thả rông trâu bò từ lâu đã trở thành phổ biến. Đồng bào thường chăn

thả ở những sườn đồi, thung lũng. Ngoài lối chăn thả này, trâu, bò còn được chăn

theo lối buộc dây để trẻ em hoặc người già trông nom. Họ nuôi trâu bò để cày, bừa,

kéo gỗ làm nhà, hay dùng để thồ thóc, lúa, ngô ở trên nương về nhà. Riêng đàn lợn

được chăm sóc chu đáo hơn, chuồng làm dưới gầm sàn hoặc góc vườn, hàng ngày

được chủ cho ăn hai hoặc ba bữa. Chăn nuôi lợn phổ biến nhất vì kỹ thuật chăn nuôi

đơn giản, đồng bào chỉ cần dùng rau trong vườn, rau rừng, cây chuối, ngô, sắn để nấu

chín hoặc cho ăn sống. Hơn nữa lợn là động vật cung cấp thịt ăn được nhiều người ưa

dùng. Lợn còn là nguồn thực phẩm dùng trong bữa ăn hằng ngày cũng như trong việc

hiếu, hỷ, lễ tết, cúng thần cúng ma…Vì vậy, hộ gia đình nào cũng nuôi từ một đến hai

con trở lên. Trong mỗi gia đình đều có một khoảng vườn hoặc sân nhỏ để nuôi gà, vịt,

ngan, ngỗng để ăn trứng, thịt hoặc đem trao đổi ngoài chợ.

Chăn nuôi trâu bò là công việc của nam giới, còn lợn, gà, vịt do nữ giới đảm

nhận. Đây cũng là lối phân công lao động đã hình thành từ xa xưa trong sinh hoạt

hằng ngày của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam.

Chăn nuôi trâu, bò, lợn có vị trí đáng kể trong kinh tế gia đình. Những con vật

nuôi được coi như một khoản tiền tiết kiệm khi cần có thể đem bán để mua sắm đồ

đạc và lương thực trong gia đình. Thậm chí còn coi đó là thước đo của sự giàu nghèo,

nhà nào có việc đều phải mổ trâu làm lễ. Nhiều nhà còn có đào ao thả cá để phục vụ

cho bữa ăn.

Nhìn chung, đồng bào nơi đây vẫn coi chăn nuôi chỉ là nghề phụ, chủ yếu là để

phục vụ sản xuất nông nghiệp, cung cấp thực phẩm cho con người, phục vụ cho việc

cúng bái… Cho nên, chăn nuôi ở Yên Lập chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình. Ngày

nay, do nhu cầu của thị trường, chăn nuôi đã phát triển thêm một bước không chỉ

cung cấp nguồn lương thực cho gia đình mà còn là hàng hóa bán ra thị thường và là

nguồn thu nhập chính của nhiều hộ dân.

53

Tóm lại, kinh tế chủ yếu của cư dân Yên Lập là kinh tế nông nghiệp. Trong

nông nghiệp, cây lúa là cây trồng chính. Bên cạnh đó, còn trồng các loại hoa màu và

cây nông nghiệp khác, đồng thời tận dụng những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên để

bổ sung thêm nguồn thức ăn cho con người và gia súc.

2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp

- Thủ công nghiệp: Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, các nghề thủ công truyền

thống cũng tương đối phát triển, không chỉ đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp mà còn có

sản phẩm trao đổi với bên ngoài. Đồng bào dân tộc huyện Yên Lập từ lâu đã có một

số nghề thủ công truyền thống: nghề dệt vải, đan lát, làm mộc… Trong các nghề thủ

công nổi bật nhất là nghề ươm tơ, dệt vải. Trước đây gia đình Mường nào cũng có

khung cửi, họ tự trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm và dệt vải.

Dâu, bông được trồng ở vườn hoặc bãi bằng, trồng bằng cành, theo luống,được

bón phân, làm cỏ chu đáo. Cùng với việc trồng dâu chuẩn bị thức ăn cho tằm là việc

lấy giống tằm. Công việc chăn tằm cũng rất công phu, luôn phải trông coi từ bữa ăn,

giấc ngủ của nó. Tằm được nuôi nơi thoáng mát, rộng rãi, tránh ruồi, muỗi, kiến đốt,

lá dâu cho tằm ăn phải sạch sẽ, khô ráo nhưng không được héo. Nuôi tằm khâu vệ

sinh phải được đặc biệt chú trọng vì nó sẽ quyết định tới chất lượng kén.

Theo kinh nghiệm dân gian, tằm làm kén được 2-3 ngày là thời điểm đẹp

nhất để kéo tơ. Người ta buộc dựng đứng vào cạnh quai nồi nước sôi thả kén một

cột tre nhỏ, rồi buộc vào cột tre đó một thanh tre nhỏ bằng cái đũa làm trục nằm

ngang miệng nồi mỗi lần 15-20 cái kén, tay phải dùng đũa khuấy đều, tay trái

kéo ra từng sợi tơ quấn qua ống tre và kéo dài tơ ra đựng vào nong, chậu đặt bên

cạnh. Nước luộc kén phải luôn sôi thì tơ kéo mới có màu vàng ươm. Cứ kéo

được chừng một nén tơ tương đương khoảng một lạng thì gói riêng vào lá chuối,

dùng cối đá nén cho hết nước rồi đem phơi ở chỗ râm mát cho khỏi mất màu. Từ

nén tơ quấn quanh con sợi và từ đó dệt thành vải. Cứ mười con sợi (1kg tơ) dệt

khoảng 180 vuông lụa. Vải tơ tằm rất bền và mềm được rất nhiều người ưa dùng.

Công việc dệt vải mộc, lụa tơ tằm hoàn toàn do người phụ nữ tranh thủ trong

buổi nông nhàn, rất ít người là thợ chuyên nghiệp.

54

Người phụ nữ Mường làm ra những vuông vải cho mình, cho những người thân

trong gia đình và làm của hồi môn đem đến nhà chồng. Những tấm chăn, mảnh vải, vỏ

gối, quần áo, đặc biệt là chiếc cạp váy của phụ nữ với những hoa văn đặc sắc luôn

mang dấu ấn của những tháng ngày cặm cụi, miệt mài bên khung cửi do phụ nữ

Mường tạo ra. Sự khéo léo thể hiện trong những vuông vải trở thành một trong những

tiêu chuẩn về giá trị của người phụ nữ Mường.

Mặc dù rất khéo léo nhưng nghề mộc của người Mường mới chỉ dừng lại ở phạm

vi tương trợ, giúp nhau dựng nhà, làm khung cửi, làm đuống, cối giã gạo, làm quan tài

gỗ…phục vụ cho sản xuất, vui chơi chứ không chuyên sản xuất đồ gỗ.

Nghề đan lát: Hầu hết các gia đình đều tự túc được các đồ đan thông thường

như giần, sàng, tấm phên, sọt, rổ, đồ đánh bắt cá, đồ đựng quần áo… Công việc đan

lát có thể làm quanh năm, nhưng thường tập trung vào lúc nông nhàn. Nguyên liệu

lấy từ cây tre, nứa có sẵn trong vườn hoặc trên rừng được chặt về gác lên rãnh bếp để

khi nào rảnh việc thì lấy xuống đan và đồ đan sẽ dùng được bền, không bị mọt. Nghề

đan lát có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người Mường, người

Dao và cả người Kinh nơi đây. Họ dùng những sản phẩm đó để đựng các đồ dùng

sinh hoạt trong gia đình.

Nghề làm đồ trang sức: Phát triển chủ yếu trong đồng bào Dao. Nguyên liệu chủ

yếu là bạc. Có nhiều sản phẩm như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, nhẫn,... Ngoài ra đồ

trang sức chế tạo từ đá spilit quắc dít, amphibôlit… là nguồn nguyên liệu có sẵn ở địa

phương. Họ dùng ngay các công cụ bằng đá để cưa, khoan, tiện mài và đánh bóng.

Nhìn chung, thủ công nghiệp nơi đây vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi nông

nghiệp, vẫn chỉ là nghề phụ gia đình, làm vào những lúc nông nhàn.

- Thương nghiệp: Đất Hưng Hóa từ năm Minh Mệnh 13 (1831) được hoạch

định hành chính thành tỉnh, bên dưới là phủ, huyện, tổng, xã (hoặc làng). Ở tỉnh lỵ,

phủ lỵ, huyện lỵ đều có chợ. Chợ tỉnh Hưng Hóa ở làng Trúc Phê (Tam Nông), tỉnh

lỵ chuyển lên làng Phú Thọ, chợ cũng chuyển lên theo gọi là chợ Mè. Mỗi huyện lỵ

đều có chợ. Chợ huyện Yên Lập họp tại “Ngã Hai, ngày phiên chợ theo Âm lịch 2, 7,

12, 17, 22, 27. Bán các thổ sản: thóc, ngô, củ nâu, vỏ,mộc nhĩ, măng, thuốc lá” [7, tr.

43]. Do đặc điểm địa hình nên đường đi lại buôn bán của Yên Lập chủ yếu thông qua

55

con đường bộ từ Việt Trì đi Ngọc Lập, từ Hưng Hóa đi Đồn Vàng. Không chỉ những

thổ dân đến họp, nhiều người trung châu cũng tải hàng lên bán. Những hàng hóa mà

thổ dân bán lẫn cho nhau phần nhiều là thực phẩm. Những thứ buôn dưới xuôi lên là

gạo, đỗ, dầu hỏa,muối, cá khô, vải, hàng tạp hóa như nồi, niêu, thúng, nón…Còn “các

Mường, Mán ở Thanh Sơn, Yên Lập hay Đoan Hùng mang lâm sản đổi cho người

Kinh lấy muối, mắm, cá khô, dầu hỏa.” [7, tr. 40]. Ngược lại tại các thị xã, thị trấn

nơi có nhiều công chức cơ quan, binh lính, học sinh, khách bộ hành lưu trú là những

đối tượng tiêu thụ nhiều hàng hóa. Đây là điểm thu hút người mua người bán cả một

vùng nông thôn rộng lớn. Nông dân ra thị xã bán thóc gạo, gà vịt, tôm cá, rau quả, tre

gỗ, măng tươi, măng khô, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong và các sản phẩm nông, lâm

nghiệp khác. Họ lại mua về những thứ mà chợ phiên không có hoặc rẻ hơn. Thị xã,

thị trấn cũng là nơi thu gom tập kết các sản vật địa phương để cung cấp cho các tỉnh

lân cận.

Tuy nhiên, do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã quy định kinh tế Yên Lập

chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp chỉ mang

tính chất là nghề phụ chưa tách khỏi nông nghiệp.

Tiểu kết: Là một huyện miền núi của vùng tây bắc, vấn đề ruộng đất trong nửa

đầu thế kỷ XIX qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840), chúng

tôi thấy tình hình ruộng đất ở huyện Yên Lập có một số đặc điểm sau: ở Yên Lập

hoàn toàn không có ruộng đất công, 100% là diện tích ruộng tư. Quy mô sở hữu

ruộng đất chưa lớn, chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ. Phần lớn ruộng đất tập trung vào

nhóm họ Hoàng vì đây là một dòng họ thổ tù thế tập, ngoài ra còn có họ Nguyễn, họ

Đinh. Trong địa bạ, chất lượng đất đai chỉ có ruộng hạng ba, thu điền. Kinh tế nông

nghiệp của huyện còn lạc hậu chủ yếu là trồng lúa với kỹ thuật canh tác thô sơ, lạc

hậu dẫn đến năng suất cây trồng thấp, thủ công nghiệp kém phát triển, trình độ tay

nghề thấp sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ trong gia đình, thương nghiệp chỉ phát

triển ở nhưng nơi đông dân cư, trung tâm của huyện.

56

Chương 3

VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

3.1. Làng bản và nhà cửa

Người Mường ở Yên Lập cư trú tập trung ở những dải đồng bằng thung lũng

hẹp dưới chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối, ngòi hay trên các đồi gò

thấp. Làng bản Mường tập trung thành từng chòm, xóm, ẩn dưới màu xanh cây cối

trồng quanh nhà. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30 nóc nhà, bản to có

thể nhiều nhà hơn. Khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau,

cây mít. Trên tất cả các khu vực định cư của người Mường có nhiều cánh đồng, đất

đai thuận tiện cho trồng trọt. Đường vào bản thường là những con đường mòn nhỏ

quanh co men theo sườn đồi, gò hoặc phải lội qua những con suối, ngòi tạo cảm giác

dễ nhầm dễ lạc.

Mỗi làng của người Mường thường quần tụ nhiều dòng họ, trung bình mỗi

làng có từ bốn đến năm dòng họ. Làng thiết lập ở sườn đồi, nhà cửa bố trí từ chân đồi

lên lưng chừng đồi theo hình vành khăn. Nếp nhà chính là nhà sàn, tựa lưng vào núi,

mặt ngoảnh ra đồng ruộng. “Tên làng thường đặt theo đặc điểm địa hình tự nhiên.

Mỗi làng có một miếu thờ thổ công, bến nước chung, bãi thả trâu, bãi tha ma và cùng

chung một hệ thống thủy lợi. Làng có ranh giới riêng, mặc dù chỉ mang tính ước lệ

nhưng được truyền lại cho nhiều thế hệ. Người Mường thường dựa vào dòng nước,

sông suối, gốc cây to hay hòn đá để phân chia địa giới của làng” [35, tr. 25-26].

Khác với bản làng của người Mường, người Kinh, làng bản của người Dao

Yên Lập được thiết lập trên những bản động vùng cao, dốc gần suối nước hoặc nơi có

điều kiện dẫn nước về nhà. Mỗi thôn có khoảng vài chục nóc nhà cũng có khi đông

hơn. Do ảnh hưởng hình thức bố trí nơi cư trú của người Mường, nên xung quanh nhà

ở của người Dao cũng có một khoảng đất trống để làm vườn nhỏ trồng rau xanh và

cây ăn quả. Những nơi có điều kiện người ta còn đào ao để thả cá và nuôi ngan vịt.

Khác với những người dân tộc thiểu số, làng của người Kinh được lập nên ở

những nơi bằng phẳng, là khu vực trung tâm của vùng đó, thuận tiện cho việc đi lại,

làm ăn buôn bán và theo tiêu chí “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”.

57

Nhà ở của người Mường Yên Lập phổ biến là nhà sàn và là loại hình nhà

truyền thống. Nhà sàn của Việt Nam đã lưu giữ trong nó một giá trị lịch sử văn hóa

mang đậm bản sắc dân tộc. Đặc biệt “nhà sàn Mường với dáng nhà cổ xưa có mái

khum khum hình mai rùa như được miêu tả trên trống đồng Ngọc Lũ thuộc về văn

hóa Đông Sơn mà cả thế giới biết đến” [12, tr. 86].

Như vậy nhà sàn không chỉ là chỗ ở, mà còn là sự biểu hiện của lối sống,

phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn hóa của đồng bào các dân tộc Việt Nam. Tính

chất cổ xưa của ngôi nhà sàn Mường thể hiện ở việc nó được nhắc đến trong mo

Mường Đẻ đất đẻ nước đó là việc rùa xám, rùa vàng (rùa thiêng) dạy dân cách làm

nhà sàn, dựa trên sự mô phỏng tự nhiên một cách sáng tạo và ngôi nhà sàn được làm

nên từ gỗ lạt, nứa lá, tranh tre vừa thích ứng, vừa khai thác tự nhiên.

Nhà sàn Mường thường có bốn gian và năm hàng cột. Có hai yếu tố rất quan

trọng của ngôi nhà sàn Mường truyền thống là nơi thờ cúng và nơi đặt bếp. Nhà ở của

người Mường có một cái cột gọi là cột chồ ở góc phía cầu thang nơi đầu thang liền

với sàn. Cột này được gọi là cột thiêng. Bàn thờ gia tiên được làm cạnh cột này.

Nhà sàn Mường bố trí các gian trên sàn như sau:

Gian đầu là gian có cột chồ, được gọi là gian gốc, chỉ đàn ông trong nhà

được nằm ở đó, vì có bàn thờ gia tiên. Trong các việc như tang lễ, hôn lễ chỉ

những người có vai cao trong họ mới được ngồi ăn cơm ở gian này, trải chiếu sát

với cửa sổ. Ở gian này còn có một cột cái đối diện với cột chồ, ở chỗ để các ống

nước chân cầu thang. Bên chân cột này là chỗ để chơi và vài cum lúa đã rũ hết

thóc. Cột được đội một cái giỏ thủng mà xà chen lên và treo một đoạn tre hay gỗ

tước xơ ra ở một đầu, đoạn tre này là biểu tượng dương tính, gọi là nõ, và cái giỏ

thủng là biểu tượng âm tính gọi là nường.

Gian thứ hai là đàn ông và khách nam ngủ. Gian thứ ba có bếp và buồng cho

phụ nữ. Trong nhà được ngăn ra, phía trên vách bếp đặt bàn thờ táo quân. Gian thứ tư

là nhà ở trong, nơi đàn bà trong nhà ngủ, có chạn bát, đồ dùng gia đình và là nơi sửa

soạn cơm nước.

Nhà sàn của người Mường truyền thống còn thể hiện tính công dụng đa năng

của nó. Vì gia đình bình dân chỉ có một ngôi nhà duy nhất, phần sàn nhà vừa để ở,

58

vừa làm bếp; phía trên sàn là gác để thóc lúa; gầm sàn là nơi cất giữ công cụ sản xuất

(cày, bừa, cuốc, thuổng, nơm úp cá…), cất giữ củi đun, nhốt trâu, bò, chồng nuôi lợn,

gà, vịt…rìa cạnh nhà sàn ( ở dưới đất) đặt máng vò lúa, cối xay lúa, cối giã… Còn

nhà quan Lang có nhiều căn: nhà chính, nhà phụ, kho thóc, nhà bếp, chuồng trại…

Nhà sàn Mường là một biểu hiện sinh động đặc sắc của văn hóa vật chất từng

gắn bó máu thịt với sinh hoạt hằng ngày của đồng bào qua nhiều thế hệ. Trong cấu

trúc truyền thống, nhà sàn là một kiến trúc đa năng, ngôi nhà thỏa mãn nhiều nhu cầu

sinh hoạt và sản xuất của mỗi gia đình.

Còn người Kinh thường ở nhà đan phên trát vách đất trộn rơm rạ, mái lợp cọ

hoặc tranh, nền nhà và sân bằng đất nện. Nhà khá giả thì lát gạch nền nhà và sân làm

chỗ phơi thóc có tường gạch xây bao quanh nhà. Nhà chia làm ba gian, nhà to chia

làm năm gian, hai phía đầu hồi thường làm thêm hai chái nhà, có mái một bên chéo

xuống. Hai chái nhà thường làm kho chứa thóc, lúa, đồ đạc và các dụng cụ sinh hoạt

hằng ngày. Có nhà dùng làm buồng cho đàn bà, con gái ngủ. Các chái nhà đều có cửa

mở ra gian nhà chính. Trước nhà đều có hiên để ngồi chơi, hóng mát. Nhà bếp tách

khỏi nhà ở, có nhà làm nhà ngang, nơi để cối xay, cối giã gạo, chạn bát, nồi niêu…

Chuồng trâu, bò, lợn, gà, vịt…tách khỏi nhà ở, nhưng nhiều nhà đất hẹp, chuồng trâu,

bò, lợn nối liền với nhà bếp. Việc dựng nhà cửa của người Kinh được xem là cái mốc

quan trọng trong đời một con người, đấy cũng là một trong ba tiêu chí đánh giá người

đàn ông xứng đáng được xã hội xem trọng hay chưa.

Nhà ở của người Dao thường làm theo lối nửa đất (phần trệt) nửa sàn. Một nửa

dựa vào thế núi, nửa kia làm sàn nhằm thích hợp với cuộc sống du canh du cư và cư trú

nơi đất dốc. Người Dao Quần Chẹt chọn đất làm nhà như sau: “khi tìm được địa điểm

vừa ý, chọn ngày tốt khấn tổ tiên, nói rõ địa hình địa vật nơi định làm nhà và tối ngủ

chờ báo mộng. Mộng thấy điềm tốt hoặc không mộng gì thì làm nhà được. Sau đó chờ

một ngày tốt khác, chủ gia đình đến nơi đã định dùng dao nạo sạch một chỗ đất hình

tròn to bằng miệng đĩa, nện đất thật chặt rồi cắm hai que nứa chéo nhau thành hình dấu

nhân ở giữa vòng tròn ấy. Sớm hôm sau ra thăm, không thấy kiến làm tổ, không có vết

con gì đi qua họ mới làm nhà ở đó” [10, tr. 238]. Họ tận dụng những nguyên liệu có

sẵn tại chỗ để làm nhà như gỗ, tre, nứa, dây rừng, cỏ tranh, lá gồi...Người Dao không

59

có thợ làm nhà chuyên nghiệp, mà mọi người trong thôn xóm đều biết làm. Đặc biệt là

phụ nữ Dao Tiền cũng biết cưa, đục, bào, đẽo bằng rìu như đàn ông.

3.2. Ẩm thực

Người Mường ở Yên Lập có mẫu số chung về văn hóa ẩm thực của cộng đồng

Mường, thể hiện qua câu tục ngữ cổ: “ Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui,

tháng tới”. Trong đó nổi lên những món ăn không thể thiếu của người Mường, đó là

các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ, thịt lợn chua, cá chua, thịt thính…

Lúa là cây lương thực chính nên thành phần chủ yếu trong bữa ăn của người

Mường gồm có cơm, rau và cá khô, ít khi có thịt. Họ chế biến gạo nếp bằng cách “ đồ”

thành cơm nếp, có khi lại chế biến thành cơm lam theo một kiểu khác. Cơm rau đồ chín

được dỡ ra rá, tải đều cho khỏi nát trước khi ăn. Đặc biệt ở Yên Lập có loại xôi nếp “

gà gáy” nổi tiếng thơm ngon dẻo ngọt từ xa xưa. Bên cạnh thức ăn chính là cơm, rau,

người Mường nơi đây còn có một số món ăn khác như sau:

Món măng được khai thác từ rừng núi là món ăn rất ưa thích của người Mường

nơi đây. Măng có nhiều loại và được thu hái theo mùa để làm thức ăn như măng tre,

măng nứa, măng giang, măng vầu, măng sặt…Măng được chế biến bằng cách đồ, luộc,

nướng, xào…Măng có thể luộc hoặc muối chua ăn quanh năm. Măng tươi bỏ hũ ngâm

nước ít hôm là thành măng chua. Các gia đình người Mường có những chum to ngâm

măng chua, loại thái mỏng ăn ngay, loại ngâm chua cả cây măng thì có thể để lâu ăn

dần cho đến vụ măng năm sau. Món măng chua nay còn dược dùng để làm lễ vật cúng

tổ tiên trong dịp tết. Măng chua dùng để nấu cá, nấu ếch, nấu vịt, thịt gà là những món

ăn đặc sắc của người Mường.

Ngoài ra người Mường Yên Lập còn có một số món ăn có nguồn gốc động vật

mang đậm tính văn hóa tộc người

Món “ đĩa quéch” là món mà vào dịp tết cổ truyền, trên mâm cỗ bày bàn thờ

cúng tổ tiên của người Mường không thể thiếu. Một đĩa quéch bao gồm bốn bộ

phận “ tuôi, thai, quai, chò” tức là đuôi, tai, mảng đầu mũi, chân giò, mang ý nghĩa

tượng trưng đầy đủ cho một con lợn toàn vẹn mà con cháu dâng cúng tổ tiên để tỏ

lòng thành kính.

Một món nữa cũng được chế biến từ thịt lợn đó là món “ thịt chua” rất được người

Mường Yên Lập yêu thích. Thịt pha thỏi, khía mỏng, xát muối ướp kín. Hai tháng sau bóp

60

thịt với cơm hoặc bóp với thính (bột ngô rang). Thịt cho vào thính, phủ trên một lượt cơm

nóng, rồi đậy kín bằng lá dong, úp miệng chĩnh vào bồ gio để hút ráo nước, dòi, bọ không

vào đẻ. Đó là cách làm món thịt chua đặc sắc của người Mường.

Món cá đốt: Do Yên Lập có nhiều suối có cá chạy dọc các làng. Người ta bắt cá

còn tươi nguyên, gói trong ba lượt bẹ chuối tươi. Đốt củi gỗ thành than rồi vùi than đỏ

bao quanh gói cá. Khi cá chín, người ta cầm cả con bóc dần phần thịt chấm với nước

tương gừng ăn nóng. Đó là món ăn phổ biến dân dã của người Mường ở Yên Lập. Cá

cũng có thể được ướp chua. Cá được mổ bỏ ruột, rửa sạch, để ráo nước, ướp muối, sau

đó rắc cơm nguội và men rượu rồi trộn kỹ cho cá ngấm đều. Xếp cá vào hũ, bịt kín

bằng nhiều lớp lá chuối đã hơ qua lửa. Sau mười lăm ngày cho thêm thính ngô nếp,

riềng, hành hoa, tất cả trộn đều rồi lại bịt lá chuối, trát cho kín miệng hũ. Cá muối chua

từ ba đến sáu tháng là “chín” và để dự trữ ăn quanh năm. Khi ăn thường dùng lá thầu

dầu bánh tẻ gói cá chua, kẹp nương trên than hồng hoặc dùng nấu canh, làm bánh. Đây

là món ăn không thể thiếu trong dịp lễ tết của người Mường.

Về đồ uống có món rượu cần của người Mường với nhiều nét riêng và đặc sắc.

Công việc ủ hũ rượu cần thường do những người phụ nữ đảm trách. Rượu được ủ từ

men chế biến từ lá quế và bột gạo nghiền nhỏ rắc lên một loại xôi nếp đặc biệt ( xôi sau

khi đã được đồ chín tãi ra cho nguội). Tiếp đó là quá trình ủ lên men, phơi sấy rồi cho

vào bình ủ tiếp. Khi rượu đã được, đổ nước vào bình ngâm tiếp khoảng hai tiếng thì

rượu ngấm. Rượu cần ủ sẵn có thể để quanh năm, và nếu không mở nắp, không đổ

nước, cứ ủ kín, bình rượu cần có thể cất giữ vài năm, càng để lâu rượu càng ngon càng

quý, dùng để tiếp khách quý hoặc trong các dịp đón tết năm mới, cưới xin, dựng nhà,

mừng nhà mới hay dịp lễ hội của làng bản.

“Gọi là rượu cần bởi khi uống rượu đồng bào dùng bộ cần trúc, được làm từ

những nhánh tre hoặc trúc nhỏ, hơ lửa và thông lỗ, được uốn theo dáng bình, mỗi bình

có thể cắm nhiều ống để nhiều người cùng thưởng thức. Do vậy có ý kiến đã nhận xét

rằng, rượu cần là thứ không thể “độc ẩm”, cũng không thể “đối ẩm” mà phải là “quần

ẩm”, nhiều người cùng uống rượu cần tạo nên sự gắn kết cộng đồng bằng chất men

ngọt ngào của rượu được gìn giữ từ bao đời nay” [12, tr. 55-56].

Bên cạnh rượu cần, người Mường còn có một thức uống độc đáo đó là

“rượu Hoẵng”.

61

Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Đặc biệt

phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.

Còn nước uống hằng ngày, người Mường uống nước lã múc trực tiếp từ “mó”, hoặc

khe suối. Nước trong vắt, được đựng trong ống bương, vác về nhà, uống mát rượi.

Còn người Kinh, từ xa xưa tới nay là dùng cơm tẻ và các loại ngũ cốc: đỗ, lạc,

vừng, ngô, khoai, sắn. Gạo nếp được dùng nấu xôi, chè ngày Tết, giỗ chạp, gạo nếp

còn dùng nấu rượu và làm bánh. Người Kinh rất thích ăn những món mắm làm bằng

tôm, tép, cá. Trong bữa ăn nhất thiết phải có món canh hoặc món luộc để có nước

húp, chan. Người Kinh có thói quen ăn trầu, cả đàn ông và đàn bà, chủ yếu là đàn

bà. Lá trầu kèm với vôi tôi, miếng vỏ cây (cây chay, cây vỏ già) và miếng cau được

ăn cùng một lúc. Ăn trầu đã trở thành một nét văn hóa Việt cổ và thành một phong

tục có tính nghi thức bắt buộc trong việc tế, lễ, ăn hỏi, lễ cưới, hội hè… những ngày

đó nhất thiết phải có trầu cau. Đàn ông thường hút thuốc lào, một số ít hút thuốc lá.

Các thức uống quen thuộc hàng ngày là nước vối, chè xanh. Cây chè được trồng

ngay trong vườn nhà hoặc ở bờ đồi, bờ nương, người dân hái lấy lá về đun nước

uống. Uống trà hút thuốc là một trong những thói quen lâu đời của người Kinh.

Rượu trắng nấu từ gạo, khoai, sắn là thức uống có men say chỉ dùng trong các ngày

lễ tết, hội hè, cưới hỏi, ma chay, đình đám.

Còn người Dao, do sinh sống gần người Mường nên trong sinh hoạt hằng ngày họ

bị ảnh hưởng lớn từ người Mường. Có thể tóm tắt trong câu “cơm lam, nhà gác, nước

vác, lợn thui. Cơm ăn hằng ngày không thổi bằng nồi họ đổ vào ống nứa tươi, đốt cho

chín rồi bóc ra ăn. Nước múc vào ống tre hay bương, để tiện lúc trèo cao xuống dốc. Nhà

ở là nhà sàn tức cũng là nhà gác, dưới sàn nuôi gia súc để tiện việc đề phòng ác thú.

Thực phẩm có rau và cá khô, ít khi có thịt. Các ngày hội hè hoặc khi có công việc thì

phải giết thú vật, thì họ dùng lửa để thui, trước khi nấu chín” [7, tr. 22].

3.3. Y phục và trang sức

Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang

phục. Người Mường Yên Lập có chung những nét trang phục của cộng đồng Mường.

Nhất là thể hiện ở y phục phụ nữ: “ một cái váy, một cái yếm, một chiếc áo yếm hoặc

một chiếc áo dài hai chiếc thắt lưng với một cái khăn nhô trùm đầu”. [45, tr. 78].

62

Áo của phụ nữ Mường gồm có áo ngắn và áo chùng. Áo ngắn là loại áo mặc

thường ngày có tên là “áo pắn”. Đây là loại áo cổ tròn, cánh ngắn, xẻ ngực, không cài

khuy, nên khi mặc để hở cả phần cạp váy. Thân áo ngắn chấm eo, ống tay dài, có màu

nâu hoặc trắng. Áo chùng giống như áo ngắn nhưng được kéo dài xuống ngang gối

hoặc dưới gối, phía dưới hơi xòe rộng, hai vạt áo buông không cà cúc. Áo chùng có các

màu tím than hoặc đen.

Bên trong áo là yếm, có loại mặc thường ngày gọi là áo báng, thường có màu

trắng và loại dùng trong trang phục của các nàng dâu khi “múa quạt ma” của nghi thức

trong tang ma gọi là yếm có màu đỏ. Phụ nữ Mường dùng khăn đội đầu là một mảng

vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa cầu kỳ như một số tộc người khác.

Váy phụ nữ Mường thường là váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí

là đầu váy và cạp váy, với hoa văn độc đáo và máu sắc thanh nhã, được dệt rất công

phu là bộ phận nổi bật nhất trên trang phục. Khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữ

trọng tâm cơ thể, ôm lấy ngang ngực người phụ nữ. Nhiều chiếc cạp váy Mường cổ

dệt bằng sợi tơ tằm, màu nhuộm tự nhiên, được dùng qua nhiều thế hệ, hơn nửa thế

kỷ mà mặt thổ cẩm vẫn đanh, màu sắc vẫn đẹp. Gấu váy luôn được đáp bằng một

mảnh vải màu đỏ vào phía trong, khi bước đi sẽ ẩn hiện theo bước chân làm cho

chiếc váy thêm duyên dáng.

Cạp váy Mường có bố cục ba phần: rang trên, rang dưới và cao. Phần rang trên

của cạp váy ôm lấy phần ngực của người mặc, phần rang dưới có nhiều dải ngang nhỏ

chồng lên nhau. Phần dưới cùng của cạp váy được gọi là cao gồm những dải nhỏ màu

sắc rực rỡ đan xen nhau theo chiều thẳng đứng dọc theo thân váy. “Hoa văn cạp váy

Mường Phú Thọ không lộng lẫy mà giản dị đằm thắm, họa tiết và màu sắc bắt đầu

chìm dần vào màu đen của thân váy” [45, tr. 78].

Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 dây bạc có treo hộp

quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc. Ngoài ra còn có một vật dụng gắn bó với người

phụ nữ Mường trong lao động thường ngày đó là chiếc “ớp”. Đây là một loại giỏ tre

nhỏ, có miệng rộng, đáy bằng được phụ nữ Mường đeo ở sau lưng để trong khi đi cấy

đi gặt hoặc đi làm nương họ bắt thêm cua, ôc, rau, măng, nấm…để bổ sung vào bữa ăn

63

hằng ngày. Chiếc “ớp” này được những người đàn ông Mường đan bằng nan tre rất

tinh xảo và xinh xắn, còn dây đeo ớp được chị em tết bằng sợi dây vải. Ngoài tính ích

dụng, chiếc ớp như một vật dụng trang trí của người phụ nữ Mường khi lao động.

Trang phục Mường ngày lễ hoặc trang phục của các “nàng” (con gái nhà lang),

thường có màu sắc sặc sỡ hơn, được dệt may bằng sợi tốt, cắt may và trang trí cầu kì

hơn. Áo chùng mặc ngoài ngày lễ thường dùng màu sáng, kết hợp với khăn có màu dịu

nhẹ vòng qua gáy xuống hai bên ngực áo phía trước, tạo nên vẻ mềm mại, trang nhã

cho người mặc.

Trang phục người Mường còn có trang phục của thầy Mo. Đó là chiếc áo dài

năm thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đầu

đội mũ vải nhọn đầu. Thầy Mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.

Còn đàn ông Mường thường mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi

dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông, đầu cuốn

khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữ bụng, gọi là khăn quần. Tóc để dài

và búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác

dôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và sườn phải.

Còn người Kinh quần áo không thêu thùa ít cách điệu. Đàn ông nông thôn đi

chân đất, mặc áo cánh nhuộm nâu, quần màu nâu chân què. Những ngày lễ hội, hoặc

việc đình đám, ngày tết, giỗ chạp trong họ, người có của thì đi đôi guốc mộc bằng gỗ

hoặc tre, mặc chiếc áo cánh trắng, quần trắng. Người giàu thì mặc quần trắng, áo lụa

màu mỡ gà, chân đi guốc mộc, có người mặc áo the đen dài ra ngoài áo cánh trắng, đầu

đội khăn xếp. Phụ nữ thường mặc áo cánh xẻ tà, áo cánh màu nâu hoặc nâu non, mặc

yếm che ngực. Yếm là một mảnh vải màu nâu đỏ, nâu hoặc nâu nhạt, có khi màu trắng

đeo lên trước ngực. Yếm không che hai bên lườn và lưng, có dây đeo lên cổ buộc ra

sau gáy và hai dây ở hai bên yếm ( chỗ giữa thân yếm) buộc ra sau lưng. Đầu chít khăn

mỏ quạ nâu hoặc đen. Họ mặc váy nâu hoặc đen, đi chân đất. Vào dịp lễ tết, hội làng

đàn bà nhất là các cô gái mặc áo cánh trắng, áo cánh nâu gụ nâu thắm hoặc màu hoa

đào, lưng thát bao xanh hoặc đỏ, nâu, đeo chiếc xà tích bằng bạc bên thắt lưng. Phụ nữ

đội nón quai thao, non vành rộng, nhưng thường là đeo nón qua vai hoặc cầm tay hoặc

cầm tay để tránh làm hỏng chiếc khăn mỏ quạ trên đầu. Phần lớn các cô gái mặc áo dài

tứ thân nâu hai hoặc bốn màu, chân đi guốc hoặc dép da trâu xỏ ngón.

64

Bộ nữ phục của Dao Quần Chẹt bao gồm: khăn, áo, yếm, quần, dây lưng, xà cạp.

Nữ giới Dao Quần Chẹt chỉ có áo dài, giống áo nữ Dao Tiền nhưng dài hơn. Khi mặc

chấm mắt cá chân. Nẹp cổ ngắn hơn nẹp cổ áo nữ Dao Tiền và chỉ có vài đường chỉ khâu

đơn giản. Hai thân trước, dưới gấu mỗi thân đắp ba miếng vải hình vuông màu đỏ trắng

xen nhau. Phía trên thêm những mô típ hoa văn hình cũi lợn, vây con rồng màu đỏ. Trên

cùng là mô típ hoa văn hình cây. Thân sau, dưới nách áo khoảng giữa lưng có cụm hoa

văn. Dưới cùng là hai dải hoa văn hình chữ thập ngoặc kép. Dưới gấu áo đắp năm miếng

vải hình vuông, màu đỏ trắng đỏ xen kẽ nhau. Bên trên dải vải màu có nhiều có nhiều mô

típ hoa văn trang trí hơn thân trước. Quần là vải tự dệt nhuộm chàm, cắt may bổ đũng, cạp

luồn dây rút. Ống quần hẹp, đũng quần rộng, vì vậy rất thuận tiện trong mọi hoạt động của

người miền núi. Mô típ hoa văn tập trung ở gấu quần.

Còn nam giới Dao Quần Chẹt mặc áo cánh có ba túi đều được trang trí hoa văn.

Quần là loại quần chân què cạp lá tọa bằng vải tự dệt nhuộm chàm không có trang trí

hoa văn. Chú rể Dao Quần Chẹt không có trang phục riêng. Ngày cưới họ vẫn mặc đồ

thường ngày nhưng có đội thêm cái khăn dài có thêu hoa văn của nữ giới. Trang phục

của thầy cúng gồm có mũ, áo dài, dây buộc ngoài mũ, dây lưng, váy, xà cạp.

Trang sức chủ yếu của người Dao Quần Chẹt là vòng cổ, vòng tay bằng bạc

hoặc đồng, có mặt cắt tròn, dẹt to nhỏ khác nhau, cũng có khi bằng nhựa đỏ vàng xâu

vào với nhau thành dây. Vòng tai bằng nhôm hoặc bạc.

3.4. Tục lệ xã hội

- Sinh đẻ: Ở người Mường khi đứa trẻ mới lọt lòng mẹ, người ta đỡ nó đặt lên

cái “cúm” (như chiếc mẹt to), có lót lá chuối rừng đã nướng mềm. Người mẹ nằm

ngay bên. Nếu là con gái, người ta lấy cái hông thổi xôi bằng gỗ khoét rỗng, nếu là

con trai người ta lấy cái chài đánh cá cũ, đập nhẹ xuống sàn, miệng nói:

“Hỡi con trai dậy mà ti chài ti lứa

Hỡi con tứa dậy mà tháo thơ tháo thằm”

Đại ý là “ Hỡi con trai dậy mà đi kéo chài, đánh lưới (kiếm cá). Hỡi con gái,

dậy mà kéo tơ chăn tằm (dệt vải lụa)” [31, tr 276]. Gọi và đập như thế vài ba lần, chờ

khi đứa trẻ khóc to lên người ta mới đỡ dậy, mặc áo quấn tã. Chờ ba tháng sau tới lễ

làm vía, mới đặt tên cho đứa trẻ. Anh em, họ hàng đem quà bánh: cơm lam, trứng gà,

65

chuối…tới mừng. Nếu nhà nào đã đẻ vài bận mà chưa nuôi được con thì khách thăm

sẽ tặng cháu nhỏ chiếc vuốt hổ, xâu dây đeo vào cổ cháu (để trừ tà, giữ vía).

Người Dao có tục đẻ ngay trong buồng ngủ của mình. Đặc biệt khi đẻ thì

chồng, mẹ chồng hoặc chính là sản phụ tự đỡ lấy. Đứa trẻ ra đời có khóc mới được bế

lên, được tắm rửa bằng nước nóng, lá thơm. Nhau thai cho vào ống nứa đem lên rừng

chôn ở nơi khô ráo, nhưng cuống rau thì giữ lại làm thuốc chữa bệnh. Sản phụ rất

chóng phục hồi sức khỏe vì sau khi đẻ được chăm sóc chu đáo như được ăn cơm nếp,

chân giò lợn hầm hoặc thịt gà nấu với gừng và rượu. Các thứ này kèm theo các vị

thuốc bổ. Người nhà treo cành lá xanh hoặc hoa chuối trước cửa để báo cho người lạ

không được vào nhà. Sinh được ba ngày gia đình làm lễ cúng mụ và cầu sức khỏe cho

đứa nhỏ. Đồng thời cũng là lễ đặt tên lần thứ nhất. Lễ vật gồm một lợn sữa, một gà,

một vịt. Thời gian sơ sinh cháu nhỏ được chăm sóc chu đáo như tắm rửa bằng nước lá

thơm và ăn mật ong hằng ngày. Khi dứa trẻ lên mười tuổi người ta làm lễ đặt tên lần

thứ hai, đây được coi là tên chính suốt đời. Lễ rất long trọng. Thầy cúng chọn ngày

tốt và sẽ tiến hành một ngày hai đêm. Lễ đặt tên chỉ dành cho con trai. Đứa trẻ đứng

chịu phép mặc váy hoa, áo chàm, đầu vấn một khăn chàm, đội một tờ tranh thờ, hai

tay cầm hai chèo gỗ và chèo cho tới gần sáng. Lúc này, thầy cả đội một chiếc đèn trên

đầu, thầy hai và bố đứa trẻ mỗi người một đèn trên vai. Trong lúc đứa trẻ chèo đò, hai

ông thầy lần lượt kể lại những chặng đường vượt sông, vượt biển từ nơi xa tới vùng

đất này. Lễ đặt tên lần thứ hai là bắt buộc, vì không có thì đứa trẻ lớn lên sẽ không

được lấy vợ. Đồng bào Dao rất quý con, cha mẹ rất ít chửi mắng hoặc đáng con, dù

đó là con nuôi hay con đẻ. Nên con nuôi cũng gắn với bố mẹ nuôi như con đẻ.

- Cưới xin

Tục lệ người Mường cho phép nam nữ được tự do quen biết, tự do tìm hiểu

người bạn trăm năm của mình, có sự thỏa thuận của cha mẹ. Riêng với nhà Lang

chuyện này phải hỏi ý kiến hội đồng kỳ hào. Đôi trai gái trong mường đến tuổi

trưởng thành, quen biết, trò chuyện, khi ưng nhau thì chàng trai báo cho bố mẹ biết để

chuẩn bị lễ cưới. Để dẫn đến đám cưới phải trải qua các bước: ướm hỏi ( kháo

thiếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ cưới xin (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti

cháu), lễ đón dâu (ti du).

66

Chọn mờ: Sau khi đôi trai gái được gia đình và họ hàng đồng ý cho tổ chức

đám cưới thì nhà trai sẽ chọn và nhờ người làm mờ (mối). Người được chọn phải

đứng tuổi, có uy tín,được mọi người kính nể, gia đình hạnh phúc, con đàn cháu đống,

nói chuyện khéo, có tài ứng đối. Nhiệm vụ của người làm mối bắt đầu từ lúc dạm

ngõ, hỏi thăm, đến lúc đón dâu về nhà trai.

Mờ miệng : Gia đình nhà trai nhờ ông bà mối, mang trầu cau, thuốc lào, bánh

mật đến nhà gái vào lúc chạng vạng tối (lễ dạm hỏi) để ngỏ lời cho đôi bạn trẻ được

thành hôn và trao đổi bàn bạc ngày “kháo thiếng”.

Kháo thiếng (đặt vấn đề): Đến ngày đã chọn, nhà trai chuẩn bị hai gói chè,

mười quả cau, hơn hai mươi lá trầu tất cả được gói kỹ trao cho người mờ đến nhà cô

gái vào lúc chạng vạng tối. Nhà gái mổ gà thiết đãi ông mờ và xem chân gà. Lễ vật

được đặt lên bàn thờ tổ tiên. Sau ba ngày, nếu nhà gái không mang trả lại lễ vật tức là

đồng ý. Rồi tự tay bố cô gái mở gói lễ vật, báo cho họ hàng có tin vui. Kể từ đây hai

nhà trở thành thông gia, con cái được phép đi lại thăm hỏi nhau.

Ti nòm (ăn hỏi): Muốn tiến hành lễ ăn hỏi, nhà trai phải sắm một lễ nhỏ sang

nhà gái xin ngày. Lễ vật gồm một con cá cắt bốn khúc gói trong lá dong, bốn chiếc

bánh chưng không nhân, năm quả cau, mười lá trầu. Sau bữa cơm thân mật hai bên

quyết định chọn ngày ăn hỏi, thường là vào tháng 11, tháng 12 (Âm lịch) là thời điểm

mùa màng đã thu hoạch xong, thời tiết mát mẻ. Lễ ăn hỏi được tiến hành hai lần, lần

đầu gọi là “nòm gà”, sau lễ nòm gà là lễ “nòm lợn”.

Sau lễ ti nòm (ăn hỏi) phải ba năm sau lễ cưới mới chính thức được tiến hành.

Trong thời gian chờ đợi nhà trai chuẩn bị điều kiện vật chất cho lễ cưới. Đây là năm

tháng thử thách gian khổ đối với chàng trai. Vào các dịp lễ tết có quà mang biếu bố

mẹ vợ tương lai với mục đích trả công ơn nuôi dưỡng cô gái trưởng thành.

Ti chau (lễ cưới): Đoàn người đón dâu phải ra đi thật sớm. Đoàn có ông mối,

chú rể, mười phù rể và tốp người gánh lễ vật. Chú rể mặc quần áo đẹp, chít khăn

trắng. Khi đến đầu bản, đoàn đón dâu được các cô gái đứng đợi đưa về nhà. Tới cổng

nhà gái, đám cưới dừng lại. Ông mối đem một cút rượu nhỏ cùng cơi trầu nhỏ vào xin

nhà gái mở cửa. Người ta còn tổ chức hát đối đáp nam nữ cho tới khi nhà gái đồng ý

mở cửa đón đoàn vào nhà. Ông mối và chú rể đi sau cùng. Dọc lối vào nhà,người ta

67

để sẵn nước, lá han, quả sổ, nhọ nồi để trêu chọc té ném chú rể. Đại diện nhà gái

đứng đợi sẵn, nồng nhiệt chào đón. Chào hỏi nhau xong, chú rể rời đám đông, xuống

bếp làm mọi việc như trai làng, cùng mọi người sửa soạn cỗ bàn ăn uống. Chú rể là

người bưng mâm cỗ cúng lên bàn thờ tổ tiên. Lễ tơ hồng được tổ chức ở nhà gái ngay

sau lễ cúng tổ tiên. Rồi ông mối dẫn chú rể đi từng mâm, lễ lạy họ hàng từ ông bà, bố

mẹ vợ, tới anh em chú bác gần xa. Mọi người đều vui vẻ chuốc rượu và mừng tiền

cho chú rể. Nhận rượu, rể uống không cạn chén, tiền cũng bày ra trước mắt nhưng

không cầm mà có người sẽ nhận và cất giữ hộ. Sau lễ tơ hồng, nam nữ thanh niên hát

giao duyên với nhau, rồi cô dâu mới tới lạy trước bàn thờ tổ tiên, lạy chào ông bà, bố

mẹ, anh em họ hàng để lên đường cùng gánh của hồi môn về nhà chồng. Cô dâu có

món quà tặng nhà chồng, đã thành lệ mang về nhà chồng thường là hai cái chăn, hai

cái đệm, hai quả gối tựa để và các vật dụng như: bát, đĩa, nồi, chảo, ấm, chén…để

biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô, dì, chú, bác. Một số nơi

còn có tục cô dâu trên đường về nhà chồng phải dở cơm nắm ra ăn vài lần. Khi đoàn

rước dâu về gần đến nhà, bên nhà trai cũng “đâm đuống” để chào mừng. Đám cưới

thường diễn ra trong ba ngày. Nếu con gái nhà Lang kéo dài năm đến bảy ngày, thậm

chí vài ba tuần. Sau lễ cưới ba ngày, hai vợ chồng trẻ quay lại nhà gái một ngày gọi là

“ti mộng” (lại mặt), đến đây phù dâu hoàn thành trách nhiệm. Cùng ngày này quần

áo, tư trang cô dâu được chuyển về nhà chồng. Đêm hôm đó đôi vợ chồng trẻ mới

được phép động phòng. Một số nơi còn có tục ở rể bên nhà vợ, con rể phải lấy họ vợ

và con cái sinh ra phải lấy theo họ mẹ. Thường tục này được thực hiện khi kinh tế nhà

trai eo hẹp không lo nổi đầy đủ lễ cưới [72].

Nhìn chung hôn nhân người Mường theo chế độ một vợ một chồng, chỉ có

người nhà Lang mới theo chế độ đa thê. Các thủ tục lễ nghi của việc cưới xin ở nhà

giàu hoặc nghèo đều tương tự như nhau. Nhưng có sự cách biệt lớn về số lượng và

chất lượng của đồ lễ thách cưới và cỗ cưới giữa nhà giàu và nhà nghèo. Đối với nhà

giàu đám cưới là dịp thể hiện sự danh giá và phú quý của gia đình mình. Với các gia

đình nghèo thì đám cưới chỉ có tính chất thông báo cho cộng đồng và cũng là dịp để

sum họp gặp mặt gia đình họ hàng. Trong nhiều gia đình cưới con trai được chú ý

hơn cưới con gái, con trai trưởng càng quan trọng nhất là đối với nhà lang.

68

Tục cưới xin của người Dao ở Yên Lập có nhiều nét giống với tục cưới xin của

người Mường trên địa bàn cư trú. Thông thường để nên vợ nên chồng, tục cưới xin

của người Dao nơi đây cũng trải qua các bước: lễ dạm ngõ, lễ hỏi cưới, tổ chức cưới

và sau đám cưới. Tuy sống xen kẽ với người Mường, về mặt văn hóa luôn có sự giao

thoa, ảnh hưởng lẫn nhau, song về cơ bản “chất văn hóa Dao” vẫn giữ đựơc bản sắc

của mình. Đặc biệt là trong tục lệ cưới xin về đại thể cũng tương tự như các nhóm

Dao khác nhưng có mấy nét khác biệt sau. Theo như lời kể của ông Bàn Văn Long,

dân tộc Dao ở xã Nga Hoàng thì sau khi so tuổi và trước khi làm lễ ăn hỏi chính thức,

nhà trai xin nhà gái cho con trai đến “làm công” (Chẩu côông). Ở nhà gái khoảng

bốn, năm ngày, chàng rể tương lai trở về nhà mình, hai ba tháng sau mới trở lại nhà

cô gái tiếp tục “làm công” đem theo chăn màn, quần áo, đồ dùng cá nhân, các công

cụ lao động cần thiết. Từ đây chàng rể được tự do chuyện trò với người vợ chưa cưới

của mình. Tùy theo ý nhà gái mà thời gian “làm công” ngắn hay dài trước lễ ăn hỏi

chính thức và lễ cưới. Nhưng cũng có trường hợp người con trai phải đi làm công ở

nhiều nơi mà vẫn không lấy được vợ do nhà gái không ưng hoặc gặp điềm xấu xảy ra

trong thời gian làm công. Khi bỏ về người con trai không được nhà gái trả công. Khi

đã định ngày cưới nhưng chưa kịp chuẩn bị đồ sính lễ thì người ta tổ chức lễ cưới

tạm; hai bên gia đình tự lo lấy việc ăn uống. Sau này nhà trai có nhiệm vụ trả và làm

lễ cưới chính thức có thể lúc đó họ đã có nhiều con. Nếu đôi vợ chồng nào chưa tổ

chức được lễ cưới chính thức mà đã có con gái lớn đi lấy chồng thì người ta phải mổ

lợn cúng tổ tiên, mời họ hàng và ông bà ngoại của người con gái ấy đến làm lễ “xin

giá” (minh thổ trà); nghĩa là trước đây khi gả mẹ cô gái ấy, ông bà ngoại đã thách

cưới như thế nào thì nay cô cũng thách cưới như thế để trả cho ông bà ngoại. Sau lễ

cưới một tháng làm lễ lại mặt [74].

Lễ cấp sắc (lễ lập tĩnh):

Cấp sắc là một tục lệ rất phổ biến trong dân tộc Dao, và bắt buộc đối với đàn

ông người Dao. Tất cả những người đàn ông người Dao đều phải qua lễ này, thậm chí

lúc sống chưa được cấp sắc, sau khi chết con cháu phải làm lễ cấp sắc. Người Dao

cho rằng đàn ông Dao phải được cấp sắc mới có pháp danh, có chức sắc để cúng bái,

được tổ tiên công nhận là con cháu. Là người am hiểu phong tục tập quán, khi chết

mới được đưa ma về với tổ tiên. Vì vậy hầu hết đàn ông người Dao đều trải qua lễ

69

cấp sắc này và đây là điểm khác biệt so với lễ cấp sắc của một số tộc người khác. Lễ

cấp sắc có đặc điểm là mang tính tôn giáo, nhiều cấp bậc và phải chọn ngày lành

tháng tốt để làm lễ, dùng nhiều loại nhạc cụ. Hằng năm lễ cấp sắc được tổ chức vào

tháng 11,12 hoặc tháng 1, tháng 2 Âm lịch. Tiến hành một lễ cấp sắc của người Dao

nơi đây có các nghi thức chính: Lễ khai đàn, lễ trình diện và những thụ lễ, lễ cấp đèn

và hạ đèn, lễ đặt pháp danh, lễ giao âm binh mã và gạo nuôi quân, lễ qua cầu, lễ cấp

dụng cụ cúng bái, lễ truyền pháp lực, lễ cúng thần mặt trời. Nếu làm lễ cấp sắc từ bảy

đèn trở lên thì thì tiếp tục thực hiện những nghi lễ: Lễ tơ hồng hay còn gọi là lễ cưới

lần thứ hai, lễ cúng hồn lúa, lễ thăm thiên đình hay lễ sinh lần hai, lễ thăng đèn. Lễ

cấp sắc của người Dao rất phong phú, gồm nhiều nghi thức liên quan đến nhiều lĩnh

vực như thế giới tâm linh, văn học nghệ thuật, tập quán sinh hoạt và giáo dục, tập

quán đoàn kết và giúp đỡ nhau trong cộng đồng. Gồm cả ca, múa, nhạc, mĩ thuật, hội

họa, kiến trúc. Xét về tổng thể, lễ cấp sắc chứa đựng nhiều thành tố văn hóa tộc người

Dao, có vai trò kế thừa và kết nối các di sản văn hóa giữa các thế hệ.

Tang ma

Người Kinh: Với tổ tiên từng họ, từng nhà, ý thức này lại càng cụ thể. Mọi

việc ma chay, giỗ chạp đều được lo toan chu đáo đến mức phức tạp và bên cạnh tấm

lòng chân thành của người sống đối với người qua đời, con cháu đối với cha ông

thường chứa đựng nhiều hủ tục.

Cha, mẹ tắt thở: tin buồn được loan báo. Lúc này cả nhà phải nén khóc, chia

nhau lo toan công việc cần kíp. Người trai trưởng thắp ba nén hương khấn cáo tổ tiên

gia đình có người mệnh bạc.

Thi hài được lau bằng nước thơm và thay quần áo mới, vuốt mồm cho mím

chặt, vuốt mắt cho khép kín, nắn chân tay cho thẳng, thân hình ngay ngắn, sau đó

người nhà lấy tấm vải trắng quấn kín thi hài.

Khi con cháu đông đủ thì làm lễ nhập quan. Con cháu nhìn mặt người qua đời

lần cuối cùng. Nắp quan đạy lại cùng lúc với tiếng nấc, tiếng khóc, lời nói tiếc thương

của con cháu cất lên. Linh cữu đặt ở gian giữa. Bàn thờ tang được lập lên. Mọi nghi

thức của đám tang bắt đầu.

Trên nắp quan để một khúc thân chuối non để cắm hương. Lại đặt một bát cơm

tẻ úp đôi trên có quả trứng luộc ở giữa hai chiếc đũa bông (cắm vào bát cơm).

70

Lễ phát phục là nghi thức mặc tang, để trở, một dấu hiệu tưởng nhớ của toàn

thể thân quyến. Chủ tang, người trai trưởng, chia khăn, áo, mũ, gậy cho từng người,

theo từng loại riêng. Trang phục màu trắng bằng vải và xô mới. “ Sống dầu đèn, chết

kèn trống”, một quan niệm cổ, hễ có tang là nhà cố đón phường nhạc hiếu về cử ai,

tiễn đưa hồn người qua đời, cũng là làm nền cho những lễ tục diễn ra.

Sau khi phát tang, họ hàng làng xóm đến chia buồn, bày tỏ nỗi xót thương đối

với người quá cố, với tang gia và xin được làm lễ viếng.

Với tình tương thân tương ái “tối lửa tắt đèn có nhau”, thường xóm, ngõ, hoặc

giáp đứng ra tổ chức việc đưa đám. Người ta đóng cá vào áo quan và nổi trống lệnh.

Trên áo quan lúc này khói hương nghi ngút, lại dẫn nến và vẫn đặt bát cơm cúng. Quan

tài được chuyển bằng tay ra cổng, đặt lên đòn. Lễ đưa đám được chọn vào giờ tốt.

Trình tự một đám tang tùy thuộc vào phong tục từng địa phương, lại tùy thuộc

vào sự giàu nghèo của tang chủ. Càng giàu có lại thêm có chức sắc, nghi thức càng

phức tạp, tốn kém;một phần như muốn phô trương tài sản và gia thế đương sự.

Thông thường là: một lá cờ vuông màu đen trắng, rồi trống cái, minh tinh,

phường nhạc, người mũ gậy (thường con trai hoặc cháu trai trưởng), linh cữu, thân

nhân và con cháu theo liền. Theo đám tang còn có hai người phục dịch khác: một

người rắc vàng, một người cầm cơi trầu, thuốc đưa mời mọi người suốt dọc đường.

Khi hạ huyệt, người nhà và bạn bè thân thích thường ném mấy hòn đất xuống

huyệt, biểu lộ sự vĩnh biệt. Khi nhà có tang thường làm cỗ mời hàng xóm đến ăn

uống. Nhà giàu bày tỏ lòng hiếu nghĩa của mình bằng cỗ bàn linh đình. Với cảnh này,

miệng thế thường cười chê:

“Lúc sống thì chẳng chịu nuôi

Lúc chết cúng tế cho ruồi nó bâu”

Hủ tục này làm khổ người nghèo. Chức dịch thường hạch sách, ăn uống 3

ngày, mỗi ngày 3 bữa, làm tang chủ khốn đốn, hàng năm sau chưa trả xong nợ

nần [31, tr. 284]

Lệ tưởng nhớ theo tập tục là: cúng 3 ngày, 49 ngày và 100 ngày. Sau 100 ngày

làm lễ bỏ bàn thờ phụ, đồng thời khấn cáo tổ tiên rằng từ nay có ma mới xin đồng

hưởng lễ vật với các bậc tiền bối. Năm sau, đúng ngày người thân qua đời, gia đình

làm cỗ cúng, giỗ đầu. Nhà trưởng lo cỗ, các em đóng góp (tùy gia cảnh, gia phong)

71

con cháu về dự đông đủ. Sang năm thứ hai là giỗ hết. Có nơi giỗ hết vào tháng thứ

27. Và bỏ mọi tang chế.

Lệ cổ của người Kinh nơi đây không có cải táng, chôn một lần, gọi là “đào sâu

chôn chặt”. Về sau, tùy từng nơi và theo nghi lễ phong kiến, người ta cũng làm lễ

“sang cát”, “thay áo” cho người quá cố”. Con cháu thu nhặt đủ xương, tẩy rửa sạch sẽ

đặt vào tiểu sành, chôn sang nơi đất mới. Đây là ngôi mộ vĩnh viễn, hình tròn: mồ

tròn, mả dài (ngôi mộ lúc người mới chết) là như vậy, tục này gọi là cải táng.

Người Mường ở Yên Lập quan niệm rằng chết là sự thay đổi môi trường sinh

sống của con người từ “Mường người” sang “Mường ma”, mà các công đoạn của

đám tang được coi là các lễ tiễn đưa long trọng, có sự chứng kiến của cả cộng đồng,

có cả sự chia của cải cho người chết.

Đồng bào Mường rất coi trọng việc tang lễ. Nếu là cha mẹ (đại tang), việc tổ

chức càng phải chu đáo. Lễ cúng khấn kéo dài từ ba đêm đến 12 ngày, tùy theo cảnh

nhà nghèo hay giàu có. Việc ăn uống linh đình càng gây nhiều tổn phí và mệt nhọc

cho thân nhân. Lễ tang được tổ chức theo trình tự như sau:

Khi nhà có người hấp hối, người nhà đánh ba hồi chiêng để mọi người đến

nhìn mặt lần cuối. Đến lúc tắt thở chiêng và trống mới được gõ liên hồi. Có nơi họ

còn dùng cối đuống để báo tang.

Người ốm vừa tắt thở, người nhà ra cửa bắn ba phát súng chỉ thiên hoặc đánh

một hồi chiêng báo chung cho dân bản tin buồn. Trong nhà phải yên lặng, nếu khóc

ma trời, ma đất lang thang sẽ đến tìm ăn mất phần ma mới (người vừa quá cố). Thi

hài được lau rửa bằng nước thơm, mặc quần áo mới, nhưng vạt áo và gấu quần thì để

xổ như tước rách, rồi được bó lại dặt lên chiếu mới ở gian giữa. Người nhà làm lễ

“phát khốc”, tức khóc tiếc thương người quá cố sau khi người con trai trưởng mặc áo

tang vải thô trắng, ra phía cửa sổ, rút dao đeo bên lưng chém vào cửa sổ ba nhát và

kêu to “Trời ơi! Bố (hoặc mẹ) tôi chết rồi”. Đó là lễ động tiếng, mọi người trong nhà

cùng òa lên khóc. Hòa cùng là tiếng chiêng, tiếng trống đánh theo nhịp chậm.

Tang chủ bắt đầu chia việc: một người đi mời thầy Mo, một hai người khác

đến từng nhà anh em, họ hàng và bản làng báo tin buồn. Người Mường dùng thân cây

làm quan tài. Một đoạn thân cây to, gỗ tốt, đường kính khoảng 60cm, dài trên 2m,

72

khoét rỗng lòng như chiếc thuyền độc mộc. Nắp trên cùng đẽo một thân gỗ tương tự,

sao cho đậy khít thân dưới.

Khi đã đặt thi hài vào quan, thầy Mo rất bận rộn với hồn. Thầy sẽ đưa hồn đi

các nơi và đón trả về, theo đúng tục cổ. Đưa hồn hay đón hồn đều dưới hình thức cầu

cúng, hát kể chuyện. Nhiều nơi thầy Mo kể mo “Đẻ đất đẻ nước”, một đêm không kể

hết phải mười hai đêm mới trọn. Mỗi đêm dân bản đều kéo đến nghe mo, không biết

đêm qua ngày tới. Người chết chưa được chôn ngay mà quàn trong nhà từ bảy ngày

cho đến ba tháng, có nơi còn lâu hơn (trường hợp này được gọi là làm ma khô). Hàng

ngày người nhà phải cúng cơm, thịt, rau, đốt hương trước quan tài.

Chuyến đi đầu tiên: thầy Mo khấn đưa hồn lên trời, hỏi duyên cớ về việc chết.

Chuyến thứ hai: thầy Mo đưa hồn xuống âm phủ, để hồn nhận họ hàng, tổ tiên,

thăm hỏi và báo tin mình sắp xuống đó.

Chuyến thứ ba: thầy Mo cùng hồn thong dong dạo chơi, xem hoa rừng trên cõi

trần, trước lúc vĩnh biệt mặt đất gọi là du ngoạn thăm hoa.

Sau ba chuyến đi hồn nhập vào xác trong áo quan, hưởng sự cúng lễ của con

cháu. Lễ cúng báo hiếu cũng là cỗ tang được tổ chức chu đáo, linh đình. Cả bản cùng

đều chia buồn, cùng ăn cỗ. Sau tiệc ăn, thầy Mo cúng linh hồn lần cuối và đưa linh

cữu đi chôn. Thầy dặn dò hồn, báo cho hồn những tài sản mà gia đình đã chia cho để

hồn dùng dưới âm. Nếu là ngài hoặc thổ tù chết được chôn theo trống đồng. Thực ra

những việc làm chu đáo này trước hết làm cho người sống yên tâm với nghĩa vụ và

đạo làm con cháu của mình.

Khi đưa tang ma mẹ, con cháu phải đi lùi bước. Khi đưa tang cha con cháu

phải đi thẳng hướng. Con trai đội mũ rơm, con gái đội mũ vải xô, cháu nội đội mũ

bện dây chuối.

Khi chôn cất, đắp mộ xong, người ta đặt ba hòn đá to ở phía đầu, hai hòn hai

bên dưới chân, lại làm một nhà mồ bằng tre hoặc gỗ lợp tranh lên trên mộ. Trong nhà

mồ có để bát hương cúng và các thứ vật dụng chia cho hồn. Trước khi ra về, thầy mo

đọc bài khấn cầu yên chia tay với hồn. Trong ba ngày đầu, người nhà phải cúng ở

ngoài mộ cơm, nước, củi, đuốc. Sau trăm ngày có lệ đốt nhà táng.

73

Người Mường không có tục cải táng mà chỉ chôn một lần. Họ chỉ cải táng

khi trong nhà gặp nhiều chuyện rủi ro hoặc xem bói trong nhà tổ tiên có động.

Hài cốt thường cho vào nồi đinh hay cang sành. Để tưởng nhớ người thân, con để

tang cha mẹ, vợ chồng để tang nhau ba năm, gọi là đại tang. Trong thời gian này

không được cưới xin. Quần áo tang màu trắng nhưng sau một trăm ngày phải

nhuộm chàm để mặc tiếp.

Sau thời gian trở, là mãn tang, quần áo tang được mang đi đốt. Từ đó về sau

không cúng giỗ nữa mà chỉ thờ cúng vào các dịp lễ tết. Đối với những trường hợp

chết trẻ, nghi lễ tang ma đơn giản hơn nhiều. Trường hợp chết “bất đắc kỳ tử” như bị

cây đè, đá lăn, đám tang tổ chức ở ngoài nhà.

Người Mường thường có tục lệ cúng tổ tiên trong vòng ba đời.

“Tang lễ là một trong những nghi lễ tôn giáo đậm đặc của người Mường,

là hình thái tập trung của nhiều tập tục cổ truyền thể hiện những quan niệm về vũ

trụ và về nhân sinh quan của tộc người Mường. Bên cạnh những quan niệm lỗi

thời, những tập tục lạc hậu, tang lễ Mường còn bao gồm nhiều giá trị của di sản

văn hóa dân tộc” [35, tr. 73].

Trong tang ma người Dao cho rằng việc sống ở trên đời là “gửi”, khi chết là

lúc linh hồn thanh thản ở cõi Dương châu (cõi thiên đàng của người Dao). Đám tang

của người Dao chia làm hai loại: ma tươi và ma khô. Người Dao vẫn giữ tục chôn cất

một lần không cải táng. Tang lễ phải do thầy tào, thầy cúng làm theo trình tự ghi

trong sách cúng của họ.

3.5. Lễ tết

Cũng giống như các dân tộc khác sinh sống bằng nông nghiệp, săn bắt và hái lượm.

Các ngày lễ tết của người Mường diễn ra theo chu kỳ liên quan đến tiết lịch và mùa vụ.

Tết cổ truyền ở bản Mường: “người Mường ăn tết đầu xuân giống người Kinh,

nhưng do cách tính lịch (ngày lui tháng tới), người Mường gọi ngày ba mươi là ngày

“chỉn tún” và ngày mồng một là ngày “pa mươl” (ba mươi), cho nên lễ chính trong

Tết Nguyên đán của người Mường là ngày ba mươi” [4, tr. 13]. Tết thường bắt đầu ở

nhà Lang cun vào ngày chỉn tún, những nhà Lang đạo làm tết kế tiếp ngay sau đó rồi

74

đến các nhà khác. Tết kết thúc vào ngày “páy” tức ngày tám tháng giêng sau khi ăn

xong “thệt láng” (Tết làng). Đó là những ngày ăn tết chung, ngày hòa hợp giữa nhà

Lang và nhà dân. Tổ tiên của nhà Lang được coi là tổ tiên chung của cả Mường, việc

thờ cúng các vị thần khác cũng được làm chung với việc thờ cúng tổ tiên. Khoảng 28

Âm lịch, người ta cắm cây nêu, thương bằng cây trúc, cây lành hanh, cây hóp đá ở

ngoài công công “lang chang” và “moọc chán (bể nước rửa chân). Cắm cây nêu là để

xác định đất ấy đã có chủ, ma quỷ không được vào, chỉ có tổ tiên mới được mời,

đồng thời cây nêu cũng để chỉ đường cho tổ tiên biết con cháu đang chờ đón ở nơi đó.

Chuẩn bị cho một cái Tết được làm từ đầu tháng chạp. Đàn ông vào rừng chặt

cây tươi cho khô để làm củi đun tết. Lá dong cũng được lấy trước hàng tháng đem về

ngâm đầu cuống xuống nước, rằm tháng chạp là giã gạo tết.

Ngày chỉn tún bắt đầu là lễ dâng chiêng (thức chiêng) ở nhà Lang, sau đó là

tiếng trống đại (cái trống vẫn dùng để gọi dân Mường khi có việc), rồi đến bắn ba

phát súng giữa đồng hoặc ở miếu thờ thần hoàng làng vào khoảng canh một. Đó là

dấu hiệu tiễn năm cũ. Tiếp theo người ta rước khẩu súng về nhà Lang, bắn ba phát

nữa. Sau đó cả mường dọn mâm cỗ cúng tổ tiên nhà mình. Cỗ cúng vào dịp Tết

Nguyên đán như sau: nhà Lang phải cúng bằng bảy loại bánh chủ yếu, còn ở nhà nóc

thì chỉ cần cúng bằng những loại bánh thông thường như: bánh chưng, bánh gói bằng

lá chít, bánh gai…Trong ngày Tết bất cứ người khách nào bước lên sàn cũng được

mời ăn cỗ, ăn bánh hoặc uống rượu cần. Sau tiếng trống, tiếng chiêng báo hiệu năm

cũ đã hết, nhịp độ ngày tết trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Trong nhà thờ của nhà Lang lễ

vật được bày la liệt trên bàn thờ tổ tiên, người ta lại bắn ba phát súng và khấn mời tổ

tiên về ăn tết. Trong suốt lễ cúng, người ta gõ chiêng, đánh trống, gõ nhịp một cách

đều đặn trong khuôn viên nhà Lang. Từ sáng sớm đã có những cuộc chúc mừng năm

mới tại nhà Lang. Tất cả người nhà và khách khứa theo sự hứng dẫn của nhà Lang

đến trước nhà thờ (nhà lang có nhà thờ riêng trong khi đó ở nhà nóc chỉ có một bàn

thờ chung cho các việc này). Mọi người xếp hàng theo thứ bậc và tuổi tác để chào

mừng tổ tiên nhà Lang cũng là tổ tiên chung bằng cách quỳ lạỵ đối với đàn ông và vái

lạy đối với đàn bà, khấn xong trước bàn thờ tổ tiên thì buổi lễ kết thúc. Từ đó đến hết

bảy ngày tổ tiên sẽ ở lại ăn tết cùng con cháu. Sau bảy ngày có một lễ tiễn biệt cũng

75

tương tự như lễ đón nhưng ngắn hơn, ít người tham dự hơn và bài cúng là bài tiễn.

Sau đó để báo hiệu giờ tổ tiên lên đường, nhà Lang lại cho bắn ba phát súng. Từ lúc

đón tổ tiên về nhà ăn tết, mọi lễ cúng các vị thần khác là tùy nghi vào thời gian và

cách tổ chức tết của gia chủ. Thứ tự cúng bái có thể khác nhau nhưng người ta không

bỏ sót một vị thần nào. Trong các nhà nóc, trước hết là làm lễ cúng tổ tiên của họ nội,

trong lễ này cũng kết hợp các lễ cúng dòng họ mẹ, vợ của gia chủ, cúng vong hồn của

các thành viên trong gia đình chết không có con cái. Nếu người vợ của gia chủ đã

chết thì người ta có thể lập một mâm cúng riêng. Người Mường cũng có lệ cúng cho

trâu bò ăn tết, mỗi con trâu bò được một cái bánh chưng, nếu trâu cái chửa thì được

thêm một cái nhỏ hơn. Người ta thắp hương và vái lạy ba lạy vị thần trâu, cầu thần

bảo hộ cho súc vật nuôi, xua đuổi bệnh tật. Sau đó người ta nhét vào miệng mỗi con

vật một miếng đồ cúng, phần còn lại là cho trẻ chăn trâu.

Trong lễ cúng ở đình hoặc ở nhà Lang, mỗi nhà nóc phải mang đến một mâm

cúng (trừ nhà đang có tang). Có nơi việc làm mâm cúng này được coi như một cuộc

thi, người ta chọn ra mâm cúng những món ngon, lạ, bày biện đúng nghi thức cúng

bái và đẹp mắt để thưởng tiền. Ngoài những nghi thức có sự tham gia của cộng đồng,

mọi người thăm hỏi và chúc mừng láng giềng nhân dịp đầu xuân. Đây cũng là dịp trai

gái và con trẻ được ăn uống, vui chơi thỏa thích trong ngày lễ hội lớn nhất và vui vẻ

nhất của năm.

Tết cơm mới: Tổ chức vào tháng 10 Âm lịch sau khi thu hoạch vụ mùa

xong. Các gia đình mổ lợn, gói bánh chưng, đi lấy vía lúa để gác bếp. Vợ chồng

gia chủ lấy bốn bông, các con mỗi người một bông buộc vào thành túm đặt lên gác

bếp. Lễ vật là cơm non và cá để cúng vía lúa. Cũng trong tết cơm mới này người

Mường cúng cha mẹ, ông bà. Theo quan niệm của người Mường, sau khi lúa được

thu hoạch, cơm mới phải đem cúng ông bà tổ tiên trước, sau đó mới được dùng,

nếu không vụ sau sẽ mất mùa. Ngày mùng 10 tháng 10, làm lễ ở đình xã, phần xôi

được chia đem về treo lên đáng thờ, hôm sau các gia đình làm cơm mới cúng gia

tiên. Theo lời kể của bà Hoàng Thị Dụ có quê gốc ở Mĩ Lương thì người Mường ở

Mỹ Lương có tục làm “cơm non”. Cơm non được làm từ một loại nếp cái tốt nhất

mà họ trồng. Khi lúa vừa chín (bắt đầu đỏ đuôi) cắt lấy những bông to đem về

76

luộc chín, sau đó phơi hoặc sấy khô giòn cho vào cối giã cả bông và lọc lấy gạo.

Lấy lá gừng hoặc giềng rửa sạch, giã nát vắt lấy nước. Đổ nước gừng vào gạo và đem

nấu thành cơm. Tốt nhất là đun nước lá trước. Nước sôi cho gạo vào sôi đều rồi đem

vần. Khi cơm chín sẽ có màu xanh, xơi ra gói lại bằng lá dong, nén chặt. Khi gói

chiếc bánh có hình thù nhỏ như bánh cốm hoặc bánh chưng con trông sẽ đẹp mắt và

tiện lợi khi ăn. Người Mường không gọi là bánh mà gọi là “cơm non”. Hương vị

thơm ngon ngọt ngào của hương lúa đầu mùa hòa quyện với hương vị của nước lá

gừng (giềng) tạo nên mùi vị hấp lạ thường của cơm non. Đây là món ăn truyền thống

không thể thiếu được của người Mường vào ngày Tết mừng lúa mới mùng 10 tháng

10 Âm lịch hằng năm [71].

Người Kinh cũng có nhiều ngày tết trong một năm: Tết Nguyên đán, lễ Rằm

tháng Giêng, mồng Ba tháng Ba, tết mồng Năm tháng Năm, tết Rằm tháng Bảy, tết

Trung thu, tết Ông Công ông Táo... Trong đó, Tết Nguyên đán là to nhất, đầy ý nghĩa

nhất đối với người Kinh. Trong Tết Nguyên đán luôn luôn có những thứ sau: Thịt

mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Có nhà không đầy

đủ những thứ trên nhưng bánh chưng nhất thiết phải có.

Người Dao cũng có tục cúng ông Công, ông Táo như người Kinh, nhưng đặc

biệt ở chỗ là không cúng vào ngày 23 tháng Chạp mà làm chung với lễ cúng gia tiên.

Những ngày này, cả gia đình cùng dọn dẹp nhà cửa, vườn tược và chuẩn bị lương

thực, thực phẩm để dùng trong những ngày Tết, tất cả công việc đều phải được làm

tươm tất trước ngày 30 Tết.

Người Dao không tự làm lễ mà mời thầy cúng, hoặc những người lớn tuổi có

uy tín trong cộng đồng về nhà hành lễ. Trước sự có mặt của đông đủ thành viên trong

gia đình, thầy cúng thay mặt gia chủ làm lễ cúng giải hạn để xua đi tất cả những điều

rủi ro, không may mắn trong năm cũ; cầu xin sức khỏe, bình an, may mắn cho mọi

người; mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, trâu bò lợn gà khỏe mạnh…

Sau bữa cơm tất niên, mọi người trong gia đình đều phải tắm rửa sạch sẽ bằng

nước thơm, sau đó mặc những bộ trang phục truyền thống mới và đẹp nhất để đón

giao thừa. Đêm giao thừa, người Dao không ra khỏi nhà mà tất cả mọi người quây

77

quần bên nhau để chờ thời điểm bước sang năm mới chúc tuổi và những điều may

mắn cho nhau. Sáng mùng một Tết, mọi người đều dậy thật sớm, chuẩn bị bữa cơm

tươm tất để cúng đầu năm mới. Cũng có tục xông đất như người Kinh, nhưng người

Dao đón khách xông nhà bằng 6 chén rượu. Trước tiên, chủ nhà rót 4 chén tượng

trưng cho tứ quý trong năm, chủ và khách cùng uống để cầu chúc những điều tốt lành

trong năm mới, sau đó rót tiếp hai chén để chúc nhau sức khỏe.

Trong những ngày Tết, sau khi đi chúc năm mới những người trong họ và

hàng xóm láng giềng thì già trẻ, trai gái lại nô nức kéo nhau về nơi tập trung sinh hoạt

cộng đồng, thường là bãi đất rộng (nay là nhà văn hóa thôn bản). Tại đây, bên chén

trà đầu Xuân, người lớn tuổi cùng nhau ôn lại truyền thống và những phong tục, bản

sắc văn hóa của dân tộc mình, lớp thanh niên thì chia thành tốp để ca hát, nhảy múa,

chơi các trò chơi dân gian… Đặc biệt, đây cũng chính là dịp để những chàng trai, cô

gái Dao gặp gỡ, tìm hiểu rồi ướm lời nhau qua những bài hát tỏ tình, giao duyên. Đã

có rất nhiều đôi đã nên nghĩa vợ chồng từ những buổi đi chơi Xuân như thế.

3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình

Quan hệ xã hội xưa của người Mường ngoài quan hệ làng xóm láng giềng trên

cùng địa vực cư trú còn có quan hệ dòng họ. Trong một mường (gồm nhiều xóm),

quý tộc thống trị đều là thành viên của một dòng họ. Lang cun là lang có quyền lực

nhất và các lang đạo phải phục tùng lang cun, lang cun thường cử người nhà mình

làm các lang đạo. Chức lang cun được truyền lại theo thể thức cha truyền con nối.

Khi lang cun chết mà không có con trai thì vợ lang cun sẽ lên thay chồng cho đến khi

không thể làm được chức vụ thì họ nhà lang và những người tin cẩn trong dòng họ sẽ

chọn một người lên làm lang cun. Nếu lang cun trao cho con rể phải bỏ họ nhà mình

và lấy họ nhà vợ. Quan hệ dòng họ của người Mường chi phối đến mọi mặt của đời

sống dân cư đặc biệt là trong hôn nhân và tang ma. Vào những dịp này những dòng

họ thổ tù coi đây là dịp để phô trương thanh thế và sự giàu có của gia đình, dòng họ

mình. Uy tín dòng họ cũng do vậy mà được nâng lên. Hôn nhân của con cái cũng bị

quy định chặt chẽ bởi quan hệ dòng họ. Con trai, con gái nhà lang thì được lấy nhau,

rất hiếm trường hợp con nhà dân thường được phép lấy con nhà lang. Truyện Sự tích

chiếc khăn duyên được lưu truyền trong cộng đồng người Mường ở Yên Lập cũng đã

78

nói lên sự phân biệt đẳng cấp trong hôn nhân giữa các dòng họ trong cộng đồng .

Ở người Mường chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã được thiết lập từ lâu.

Theo nguyên tắc này những người trong cùng một dòng họ, cùng chung một ông tổ,

có chung một huyết thống tính theo dòng cha, tuyệt đối không được lấy nhau, không

được quan hệ tính giao với nhau. Người Mường ở Yên Lập có các dòng họ sau: họ

Hà, Hoàng, Đinh, Nguyễn, Bùi. Khởi thủy, ai cùng mang một tên họ dù xa đến mấy

đời cũng khôngđược lấy nhau. Về sau do sự phát triển ngày càng đông, dòng họ gốc

chia ra thành nhiều chi nhánh, nên ngoại hôn chỉ được thực hiện đối với chi nhánh.

Người Mường quan niệm “anh em chín đời còn hơn người dưng”. Nếu các thành viên

trong dòng họ lấy nhau, hay có quan hệ tính giao với nhau thì sẽ bị dư luận lên án và

xử lý theo luật tục, vì đây là những người nội ruộng tức là cho đến đời thứ 9 vẫn còn

được nhận ruộng của tổ tiên. Luật tục quy định, anh em trong dòng họ lấy nhau tức là

phạm tội loạn luân sẽ bị đuổi ra khỏi họ và đuổi đi nơi khác.

Trong gia đình người Mường, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng

diễn ra theo nhiều cấp độ khác nhau. Gia đình người Mường là gia đình phụ quyền,

tính chất gia trưởng được thể hiện rõ trong quan hệ gia đình. Người đàn ông Mường

là người cha, người chồng, người chủ gia đình có vai trò quan trọng trong nhiều mặt

của đời sống, quyết định mọi công việc làm ăn, cưới xin, tang ma, tôn giáo tín

ngưỡng, thay mặt gia đình quan hệ với làng xóm, họ hàng. Mọi tài sản trong nhà đều

do người chủ gia đình nắm giữ, kể cả ruộng nương, trâu, bò, công cụ sản xuất. Những

tài sản đó chỉ con trai mới được quyền thừa kế. Khi cha mẹ già cả thì con trai cả đảm

đương moị công việc. Người phụ nữ trong gia đình trong xã hội Mường truyền thống

hầu như là không có quyền hành gì. Còn nhỏ chịu sự quản lý của cha mẹ hoặc anh cả.

Khi lấy chồng thì hoàn toàn phụ thuộc vào chồng, họ không có quyền bình đẳng với

nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bên trong ngôi nhà cũng có sự phân chia

khu vực dành cho các giới. Gian voong (gian khách) để bàn thờ tổ tiên, là nơi tiếp

khách, cũng là chỗ ngủ của nam giới. Phụ nữ trong thời gian mang thai, ở cữ tuyệt

đối không được bước chân đến gian này. Trên thực tế người phụ nữ có đóng góp vào

nhiều mặt vào cuộc sống gia đình và sản xuất. Khối lượng công việc mà người phụ

nữ đảm nhận lớn hơn nam giới rất nhiều. Mặc dù bị ràng buộc bởi những tập tục cũ

79

còn khá nặng nề nhưng quan hệ vợ chồng ở người Mường rất hòa thuận, bền vững ít

xảy ra ly hôn [69].

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình người Mường được đặc trưng

bởi chữ hiếu. Đó là con cái phải biết yêu quý cha mẹ, phải chăm sóc, phụng dưỡng và

nghe lời cha mẹ. Đối với cha mẹ, con cái là niềm an ủi, hạnh phúc. Cha mẹ dành

nhiều công sức tâm huyết vào việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái, cha mẹ cũng chú ý

truyền đạt cho con cái những kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, và cả công việc gia

đình. Cha mẹ luôn uốn nắn con cái về cách ứng xử trong gia đình với họ hàng, làng

xóm, lo giỗ tết, đóng góp cho các hội hè, đình đám của xóm làng…nghĩa là rất xem

trọng con về giáo dục tính cộng đồng. Chúng được bố mẹ lo chu toàn cho đến lúc lấy

vợ, lấy chồng. Khi cha mẹ về già thường ở với con trai cả, nhưng các con còn lại đều

có nghĩa vụ chăm sóc, thăm hỏi, động viên cha mẹ lúc ốm đau. Khi cha mẹ chết các

con đều có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp lễ vật và tổ chức đám tang chu đáo.

Trong gia đình, anh em ruột sống có trách nhiệm với nhau, tình cảm anh em

được phản ánh rõ qua câu thành ngữ “chém kha đác chăng loi, choi kha đác chăng

lìa” nghĩa là (anh em như dòng nước dù chém cũng không đứt, dù chặt cũng không

lìa) [35, tr. 66]. Tập quán Mường quy định người làm anh phải đối xử tốt với các em,

dạy dỗ các em, ngược lại em phải luôn phục tùng anh.. Nếu cha mẹ qua đời, anh cả có

trách nhiệm nuôi dưỡng, dựng vợ, gả chồng cho các em. Ở người Mường không có

cảnh anh em cãi lộn, tranh giành của cải khi cha mẹ nằm xuống.

Ngoài mối quan hệ trên, cũng như ở các dân tộc khác, trong gia đình Mường

còn có mối quan hệ bố chồng nàng dâu. Xưa cũng như nay, người Mường coi con

dâu cũng như con gái, do vậy việc đối xử với con dâu cũng bình đẳng như với con

gái. Tuy nhiên, tục lệ Mường quy định rất chặt chẽ mối quan hệ giữa bố chồng và

nàng dâu. Con dâu không được ngồi ăn cơm, uống nước cùng bố chồng, không được

ngồi bàn công việc với chồng và bố chồng. Khi lên nhà, con dâu chỉ được đi cầu

thang dành riêng cho phụ nữ. Đi qua trước mặt bố chồng không được buông váy xòa

ra mà phải rất ý tứ giữ cho váy khép lại, người hơi cúi xuống. Khi bố chồng chuẩn bị

đi ngủ, con dâu phải mắc màn, trải chiếu cho bố chồng, cô dâu không được đi ngủ

trước các thành viên trong gia đình. Buổi sáng cô dâu phải dậy sớm hơn mọi người.

80

Bố chồng không được buông những lời bông đùa với con dâu, không được bước vào

chỗ ngủ của con dâu. Quan hệ giữa mẹ vợ và con rể cũng có quy định tương tự, về

danh nghĩa con rể cũng được coi như con trai trong nhà.

Giữa anh chồng và em dâu cũng có những quy định cụ thể. Theo tục lệ, anh

chồng phải giữ khoảng cách với em dâu như nói năng đúng mực, không được phép

trêu chọc em dâu. Ngược lại em dâu không được phép vui đùa, ngồi ăn uống cùng

anh chồng. Anh chồng và em dâu không được đi cùng nhau, không được phép bước

vào chỗ ngủ của nhau.

3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp

Lễ hạ điền: Còn gọi là lễ xuống đồng, tổ chức vào tháng 5 Âm lịch, là nghi lễ

có tầm quan trọng đặc biệt trong các nghi lễ nông nghiệp của đồng bào Mường. Lễ

này do thầy Mo làm chủ lễ, thầy Mo cúng và gọi vía lúa:

“Thuận mưa, thuận gió

Cho ló (lúa) được mùa

Sây bông tốt trái

Bông con bằng vòi hái

Bông cá bằng đuôi trâu

Lấy xôi đắp bờ ruộng sâu

Lấy chùn (đùi) gà đắp bờ ruộng cao

Ló nhiều làm giàu cho bản” [35, tr. 58].

Sau đó thầy Mo xuống ruộng cấy vài mảnh mạ, có nơi người cấy là thổ lang.

Sau phần này là đến một số người được lựa chọn sẽ xuống cấy, giữa ruộng có

cắm một cây nứa làm nêu và mọi người cấy quanh cây nêu đó. Sáng hôm sau đến

nhà Lang cấy mới đến lượt cấy đại trà. Ở nhiều xã không chỉ có ông mo hát gọi

vía lúa mà một số các bà cũng ra ngã ba, ngã tư, bên gò, bên suối để kêu gọi lúa

về với bản mường.

Lễ thượng điền: tổ chức vào tháng 9 Âm lịch, đây là lễ thu hoạch mừng mùa

màng thắng lợi. Lễ này còn gọi là “lễ treo hái”. Đồng bào có tục “lấy vía lúa” trước

hôm gặt chính thức. Người đi lấy vía lúa phải là bà chủ gia đình hay người con dâu.

Ngày gặt đầu tiên, đồng bào chọn 9 bông lúa nếp, 9 bông lúa tẻ để lên gác bếp [44, tr.

148]. Lấy vía lúa phải chọn ngày lẻ, vì ngày chẵn lúa không đẻ được, khi lấy vía lúa

thì khấn cầu:

81

“Lúa ơi, lúa ơi!

Mày đã chín rồi

Tao lấy vía mày về trước

Mai kia tao gặt mày về” [35, tr. 59].

Sau đó mang bông lúa về giắt lên mái tranh nơi cầu thang vào nhà. Chỉ sau khi

lấy được vía lúa mới được gặt và cũng từ đó mới được ăn cơm gạo mới.

Sau lễ thượng điền còn có lễ Mừng cơm mới tổ chức vào tháng 10 Âm lịch.

Sau khi gặt lúa xong đồng bào chọn ngày tốt (ngày mùng 10 tháng 10 Âm lịch), giã

gạo, đồ xôi, thịt gà và ra suối đánh cá. Hôm đó gia đình phải nấu cơm nhiều hơn ngày

thường, theo quan niệm làm như vậy vụ tới mới được mùa. Trước lúc ăn mừng sản

phẩm nông nghiệp do mình làm ra, chủ nhà không quên mang thức ăn cho trâu, chó

với ngầm ý là: vật nuôi trong nhà cùng chia vui với người. Nếu nhà có khách, tuyệt

đối không cho ăn cơm mới, vì sợ rằng lúa gạo sẽ theo khách ra đi, mùa màng năm

mới sẽ thất thu.

Năm nào hạn hán kéo dài người Mường còn tổ chức lễ cầu mưa, người trong

làng kéo nhau ra đầu nguồn nước để hành lễ, theo quan niệm của người Mường, nơi

đó là chỗ thần nước ở, thần nước ngủ quên không nghe tiếng sấm dậy. Mâm lễ phải

có gà sống trắng, trứng, gạo. Sau khi tế lễ, dân làng tới nguồn nước ném đá để đánh

thức thần nước dậy.

Khi làm nương, gieo hạt xong, người Mường cũng gọi vía, với lòng mong

muốn lúa mọc tốt:

“Lúa ơi, lúa ơi!

Một mầm, một cây

Ra hoa chắc quả

Ba nắm một quẩy

Sáu nắm một gánh”.[35, tr. 60].

Đọc xong chủ nhà vác gậy chọc lỗ đi vòng quanh nương một lượt. Sau đó mới

trồng khắp nương.

Các lễ hạ điền, thượng điền, mừng cơm mới là các nghi lễ không thể thiếu

được trong văn hóa lúa nước của người Việt. Cũng là nghi lễ được người Mường coi

trọng với tất cả tầm quan trọng của nó nhưng mang bản sắc dân tộc đậm đà, với nhiều

82

sắc thái riêng, trong đó phụ nữ tham gia làm chủ lễ cho thấy ý thức hệ phong kiến

chưa có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội Mường. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện rõ

nét trong lễ hạ điền, từ việc cử một đôi trai gái đem mạ ra ruộng, cùng cấy lúa cho tới

việc ngủ chung chạ tại nhà Lang. Tín ngưỡng phồn thực ở đây không có những biểu

tượng thờ lễ như nõ- nường, linga-yoni mà là các cặp trai gái được coi là biểu tượng

sống của âm dương hòa hợp, cho lúa gạo sinh sôi, mùa màng tươi tốt.

3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo

Người Mường quan niệm về vũ trụ với “ba tầng bốn thế giới”. Tầng trời hay

mường Trời ở trên cao, là nơi ở của các vị thần thiêng liêng và chiếm vị trí cao nhất

là Vua Trời; Tầng mặt đất hay mường Pưa, mường Bằng là nơi sinh sống của người

sống và người chết; Tầng thứ ba là tầng dưới mặt đất hay mường Pưa Tỉn và thế giới

nước. Sinh sống ở mường Pưa tỉn có một giống người nhỏ bé. Ba tầng vũ trụ đó lại

bao gồm bốn thế giới, đó là: Thế giới trên cao tức mường Trời; Thế giới dưới thấp -

mặt đất tức mường Pưa; Thế giới dưới mặt đất tức mường Pưa Tỉn; Thế giới dưới

nước tức mường Khú hay mường đáy nước, nơi ngự trị của vua Khú có hình hài của

rắn song cũng có khi mang hình hài người. Trong quan niệm vũ trụ “ba tầng bốn thế

giới ấy” thì thế giới dưới mặt đất, tức mường Pưa của con người là quan trọng và giữ

vị trí trung tâm.

Thờ các hiện tượng thiên nhiên: Người Mường quan niệm vạn vật xung quanh

mình đều có vía nghĩa là có hồn, có đời sống tâm linh, từ đó mà có khái niệm “ma”:

ma rừng, ma núi, ma sông, ma suối, ma cây cho tới ma nương, ma ruộng…tổ tiên là

ma nhà, lúa là ma lúa. Người Mường cũng thờ một số động vật như thuồng luồng (ma

khú), hổ, chim chóc…và nhiều động vật đã trở thành tô tem của dòng họ.

Được thờ nhiều nhất là núi và núi còn được gọi là thần, thờ các núi ngay tại

địa phương mình. Thần núi Tản Viên “Tản Viên Sơn Thánh”, vị thần cao cả và linh

thiêng nhất được hầu hết đồng bào Mường thờ.

Tục thờ động vật trước hết là hổ. Người Mường và người Việt đều có tục thờ

hổ, tôn hiệu là “Sơn quân thần Hổ”, “Hổ lang quận công”. Đồng bào Mường quan

niệm hổ là bộ hạ của thần Tản viên nên ở các đình miếu thờ Tản Viên đều có thờ thổ

hạ ở hạ ban. Tại các cửa rừng đồng bào đều lập miếu có sàn tre nứa thờ thần Hổ.

83

Ngoài các con vật ở rừng, các vật nuôi trong nhà như trâu, bò, lợn, gà…đều cho là

những con vật có linh hồn. Các bài mo trong đám tang có những đoạn kể tạ ơn những

con vật đã gắn bó thân thiết với con người. Trong các đám tang còn thấy xuất hiện

các hình tượng cờ con cá (đại diện cho động vật dưới nước), cờ con hươu (đaị diện

cho động vật trên cạn) để dẫn đường cho linh hồn người chết về với mường trời.

Tín ngưỡng thờ mó nước (vó rác): Trồng lúa nước và sống ở miền núi, nên các

nguồn nước, mạch nước có vị trí đặc biệt quan trọng với đời sống của người Mường.

Khi gặp hạn hán, hay vào dịp đầu năm mới, người dân Mường thường lên đầu nguồn

nước làm lễ cúng “mó nước” và làm lễ cầu mưa; hoặc khi có đám tang người chết,

người nhà dậy sớm mang những ống bương nhỏ đi lấy nước đầu nguồn về thờ, đần

ông đặt bảy ống nước, đàn bà đặt chín ống nước. Hoặc khi dọn về nhà mới người ta

buộc những ống lấy nước vào cột cái nhà, bên cạnh những quả bí, hay khi làm vía

cho đứa trẻ mới đẻ người ta phải lấy từ chín nguồn nước khác nhau về làm lễ. bên

cạnh đó dân Mường còn thờ cả cóc (chàng hạc) là loài đã có công gọi mưa và đem lại

sự sinh sôi nảy nở cho dân Mường…Hình tượng cóc đã được đúc trên mặt trống đồng

ở Hòa Bình còn được lưu giữ đến ngày nay.

Tín ngưỡng thờ tổ tiên: Người Mường cũng thờ tổ tiên, tuy nhiên nghi lễ cúng

không thường xuyên như người Kinh. Họ chủ yếu tổ chức cúng lễ vào các dịp Tết

Nguyên đán, mừng cơm mới, ngày làm vía, ngày cầu mát,. Người Mường lập bàn thờ

và đặt các bát hương trong vòng bốn đời. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia

đình mà người ta làm bàn thờ, đồ thờ to nhỏ, cầu kì hay đơn giản. Một số gia đình

làm giá treo trên vách nhà, một số khác lại dùng bàn uống nước làm bàn thờ. Nhiều

nhà còn chạm trổ hình con rồng, con hạc, hoa sen, hoa hồng. Bàn thờ nhà Lang còn

có đỉnh thắp hương, có mâm quả đựng đồ cúng lễ và có cả bài vị khắc tên người chết.

Trên bàn thờ tổ tiên có ảnh của người đã mất (cha mẹ, ông bà), trước bức ảnh là một

bát hương bằng sứ. Bàn thờ được bố trí ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà- gian

voóng (gian khách). Ngoài bàn thờ chính thờ tổ tiên, bên trái có thể có bàn thờ khác

thờ những người chết không con. Hằng năm vào ngày 29, 30 và sáng mùng một Tết

Nguyên đán, từng gia đình tiến hành lễ cúng tổ tiên. Theo quan niệm của người

Mường, cúng vào những ngày đầu năm mới tổ tiên sẽ về đông đủ, cùng “ăn tết” với

84

con cháu. Trên bàn thờ tổ tiên người ta bày tất cả thức ăn, các loại bánh có trong ngày

tết, và nhất thiết phải có ít muối, một chiếc tăm tre, một chén nước. Chủ gia đình

đứng trước bàn thờ đọc bài khấn với hàm ý mong tổ tiên phù hộ cho một năm mùa

màng bội thu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà…không bị dịch bệnh, mội người trong gia

đình luôn mạnh khỏe, không ốm đau bệnh tật. Sau bài khấn, theo tục lệ, chủ gia đình

còn xin âm dương bằng cách tung hai đồng tiền cổ lên, khi rơi xuống một đồng sấp

một đồng ngửa là đã được tổ tiên đồng ý. Nếu không được như vậy, chủ nhà tiếp tục

khấn lại và xin âm dương đến khi nào được mới thôi. Người Mường không có tục

cúng giỗ hằng năm vào ngày mất của cha mẹ, ông bà. Điều kiêng kị là không được

nằm hướng chân về phía bàn thờ từ các phía trong nhà.

Người Kinh cũng theo chế độ đa thần. Người ta thờ các vị thần, cầu cúng, xin sự

che chở và giúp đỡ từ lực lượng siêu nhiên. Họ còn thờ những vị thần có ích cho con

người, kể cả các thần gieo tai vạ, các ma quái ở khắp mọi nơi đang cùng chung sống với

con người “thần ở cây đa, ma ở cây gạo”, các hòn đá, gốc cây, bến sông, thần lúa, thần

mùa màng, thần sông, thần thổ địa… Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là văn hóa phong tục

đẹp và bền vững của người Kinh. “Điểm tựa” của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn

từ niềm tin vào việc con người có linh hồn. Lễ cúng tổ tiên theo phong tục nhất thiết phải

có trầu cau, rượu trắng, vàng hương, hoa quả và chén nước lã. Ngày kị nhật cúng mặn và

ngọt: Cỗ bàn thịt lợn, thịt gà, xôi, bánh trái… một tục lệ không phân biệt giàu nghèo là

phải có đồ vàng mã đặt lên bàn thờ. Cúng xong sẽ đốt đi để người đã khuất có vật dụng,

tiền bạc tiêu ở “thế giới bên kia”. Điều quan trọng và có ý nghĩa nhất của tục thờ cúng tổ

tiên là lòng biết ơn, sự giữ gìn gia phong, làm rạng rỡ tổ tiên. Ngoài việc lập bàn thờ tổ

tiên ở từng nhà, mỗi dòng họ người Kinh thường lập một nhà thờ tổ để cả họ cùng tới

cúng giỗ hằng năm. Nhà thờ tổ trao cho con trưởng của chi trưởng dòng họ chịu trách

nhiệm coi sóc, tới ngày lễ người trưởng họ báo cho mọi thành viên trong họ đúng ngày

tới lễ tổ, cùng nhau đóng góp vào ngày lễ và ăn uống, nếu chi trưởng họ tuyệt tự, việc

thờ cúng tổ họ truyền cho chi thứ làm.

Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Dao rất đa dạng và phức tạp. Đặc

điểm nổi trội của tôn giáo, tín ngưỡng của người Dao là chịu ảnh hưởng của tam giáo,

trong đó đặc biệt sâu sắc là ảnh hưởng của Đạo giáo.

85

Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và đã ảnh hưởng trực tiếp đến người Dao tiếp

thu và cải biến cho phù hợp với điều kiện xã hội của mình. Điều đó cũng dễ hiểu, vì

Đạo giáo với thuật phù thủy để cúng bói và chũa bệnh, trừ ma diệt tà, với hệ thống

các vị thần linh của nó rất phù hợp với những hình thức tôn giáo nguyên thủy, nhất là

với chủ nghĩa đa thần còn tồn tại đậm nét trong người Dao. Trên thực tế hầu hết các

vị thần linh của Đạo giáo đều trở thành các vị thần linh của người Dao.

Phật giáo cũng xâm nhập vào xã hội người Dao. Những phép thuật như

uống nước thiêng, ăn chay, tư tưởng hóa kiếp luôn hồi của Phật giáo đều thấy biểu

hiện trong đời sống tín ngưỡng của người Dao. Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo,

người Dao còn chịu ảnh hưởng của Khổng giáo. Biểu hiện rõ nhất ở việc thờ cúng

tổ tiên, sùng bái thầy cấp sắc. Ngoài ra các hình thức xem tủ vi, xem tuổi, xem

ngày tháng thực hiện các nghi lễ cưới xin, ma chay, làm nhà mới...đều được áp

dụng rộng rãi trong đồng bào. Sự biểu hiện của từng tôn giáo trong tín ngưỡng của

người Dao không rõ nét, tất cả các tôn giáo có ảnh hưởng đều cùng hòa quện chặt

với các hình thái tôn giáo tín ngưỡng nguyên thủy của người Dao, tạo nên hệ

thống tín ngưỡng tôn giáo hỗn hợp, rất phức tạp và đa dạng trong truyền thống văn

hóa phi vật thể của đồng bào Dao.

Thờ cúng tổ tiên là việc thờ chủ yếu trong gia đình đồng bào Dao. Tổ tiên có

thể được thờ cúng tại gia đình hoặc ở nhà tộc trưởng. Đồng bào Dao cho rằng khi ông

bà, cha mẹ chết, linh hồn trở về bên kia thế giới mà quê hương là ở Trung Quốc,

nhưng những linh hồn ấy, tức là tổ tiên, vẫn thưỡng xuyên đi lại thăm nom con cháu

nơi dương thế. Do vậy họ cần phải thờ tổ tiên.

Ở người Dao thờ cúng Bàn Vương là một tục lệ cổ truyền, tiêu biểu cho hoạt

động tín ngưỡng của đồng bào. Việc cúng Bàn Vương - vị cứu tinh, không chỉ liên

quan đến mỗi người, mỗi dòng họ mà còn liên quan đến cả dân tộc. Bàn Vương tức là

vị vua họ Bàn, vị tổ nguồn gốc của tộc người Dao. Thần thoại và tín ngưỡng về Bàn

Cổ, hay Bàn Hồ liên quan toàn diện đến mọi mặt cuộc sống của người Dao không

những vễ mặt văn hóa tinh thần mà còn bao trùm lên nhiều lĩnh vực đời sống khác

như kinh tế, mỹ thuật, chính trị. Người Dao trong lễ cúng Bàn Vương thường tổ chức

nhảy múa gọi là nhảy Bàn Vương hay Tết nhảy (nhiàng chầm đao). Đây là một lễ tiết

86

phổ biến của người Dao, Tết nhảy thường tổ chức vào tháng chạp trước tết nguyên

đán vài ngày, hoặc vào ngày mùng 1, mùng 2 Tết Nguyên đán. Có nơi năm nào cũng

tổ chức nghi lễ này, theo chu kì ba năm thì năm thứ ba tổ chức cúng to hơn cả. Có nơi

hai năm tổ chức một lần, có nơi ba năm tổ chức một lần, rất đa dạng nhưng nội dung

nói chung là liên quan đến việc kỷ niệm Bàn Vương. Tết nhảy ngoài tính chất tôn

giáo, còn là hoạt động văn nghệ có sức lôi cuốn.

Một tục lệ phổ biến của người Dao đó là tục cấp sắc . Mọi đàn ông Dao đều

làm lễ này, thậm chí khi còn sống chưa cấp sắc thì sau khi chết con cháu phải làm lễ.

Cấp sắc là một hiện tượng xã hội, có liên quan đến ý niệm tôn giáo, tinh thần đạo đức

và sinh hoạt hằng ngày của người đàn ông. Người đã cấp sắc mới được coi là người

lớn, có đủ tư cách là thành viên trong xã hội, được công nhận là con cháu của Bàn

Vương, và mới có thể trở thành thầy cúng... “Trong lễ cấp sắc, người ta dạy cho

thanh niên 10 nguyện, 10 điều kiêng cấm, 10 lời thề. Ngoài tính chất tôn giáo, nó còn

có ý nghĩa giáo dục quan trọng: làm điều ngay thẳng, dũng cảm, không mê sắc,

không vụ lợi, sẵn sàng giúp đõ mọi người” [12, tr. 193].

Tiểu kết: Văn hóa truyền thống của các dân tộc ở Yên Lập là nền văn hóa dân

gian. Trong văn hóa tộc người có những yếu tố mang đậm tính sinh thái vùng miền

(vùng cao và vùng thấp) như người Dao thường cư trú ở những bản động vùng cao

với nhà ở theo lối nửa sàn nửa đất phù hợp với địa hình đất dốc. Trong khi người

Mường lại sống tập trung ở những thung lũng thấp men theo sườn đồi, cư dân thường

ở nhà sàn mặt ngoảnh ra đồng ruộng. Còn người Kinh thường ở khu vực trung tâm,

những nơi thuận lợi cho giao lưu buôn bán ở nhà trát vách đất. Ngoài những yếu tố

văn hóa mang tính vùng miền còn có những yếu tố ảnh hưởng được du nhập từ miền

xuôi và Nam Trung Quốc. Những nét văn hóa đó chúng ta thường bắt gặp trong ăn, ở,

những nghi lễ ma chay, cưới xin, lễ tết, tôn giáo tín ngưỡng… ở Yên Lập, phản ánh

đời sống văn hóa lâu dài của cư dân địa phương. Một đời sống văn hóa có giao thoa,

tiếp thu và phát triển tạo ra cho văn hóa truyền thống ở Yên Lập Sự đa dạng phong

phú, đồng thời được hun đúc lại và phát huy thành cái tinh hoa chung của cả cộng

đồng dân tộc Yên Lập.

87

KẾT LUẬN

1. Là một vùng rừng núi đất rộng người thưa, Yên Lập đã thu hút nhiều dòng

người tụ lại để sinh cơ lập nghiệp. Mặc dù có nguồn gốc, phong tục tập quán, đặc điểm

văn hóa khác nhau nhưng khi cùng nhau sinh sống trên mảnh đất này họ đã cùng nhau

xây dựng làng bản, ổn định đời sống. Điều này đã làm cho Yên Lập có một nền kinh tế

đa dạng và một nền văn hóa đặc trưng của các tộc người.

2. Từ số liệu địa bạ tại hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21

(1840) cho thấy, tình hình ruộng đất và sở hữu ruộng đất của huyện: Đặc điểm nổi bật

nhất của ruộng đất Trấn Yên là 100% là ruộng tư không có ruộng công, chất lượng

đất chỉ có hạng 3, thu điền. Diện tích ruộng tư bỏ hoang lớn 88,17% (năm 1805) tổng

diện tích tư điền. Đây cũng là hiện tượng phổ biến lúc bấy giờ. Điều này có thể lý giải

do nhiều nguyên nhân sau: Thứ nhất là khu vực miền núi nên đất đai phần nhiều khô

cằn, khó canh tác. Ở những xã vùng cao do khí hậu khắc nghiệt mưa ít vào mùa khô

nên không đủ nước để tưới cho cây trồng nên đồng bào đành phải bỏ hoang ruộng

đất. Thứ hai cũng có thể do đất rộng người thưa nên ruộng đất không thể canh tác hết

được. Thứ ba do chiến tranh xảy ra trong một thời gian dài trước đó nên người dân

xiêu tán khắp nơi, bỏ nơi “chôn rau cắt rốn” của mình đi tìm một quê hương mới...

Sang thời Minh Mệnh với chính sách khai hoang bằng cách có thưởng, phạt thích

đáng đối với quan lại và nhân dân khai phá ruộng đất hoang thì diện tích lưu hoang đã

giảm xuống còn 60% (1840) tổng diện tích ruộng tư. Chứng tỏ, nhà Nguyễn đã có

nhiều cố gắng trong sản xuất nông nghiệp.

Sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập thông qua địa bạ năm 1805 và năm

1840 là tư hữu chiếm tuyệt đối nhưng không có sự tích tụ ruộng đất, không có sở

hữu lớn mà dàn trải với các chủ sở hữu nhỏ, manh mún, không tập trung và không

có tình trạng phụ canh. Điều đó chứng tỏ, nguyên tắc “ruộng làng nào làng ấy cấy”

không bị phá vỡ.

Quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ là không đồng đều. Các nhóm họ

lớn tập trung trong tay nhiều về số chủ và nhiều về ruộng đất như nhóm họ Hoàng,

nhóm họ Nguyễn, nhóm họ Đinh. Đội ngũ chức sắc là những người có quyền lực

88

chính trị ở địa phương và họ cũng là những người nắm trong tay một phần lớn diện

tích ruộng tư của huyện. Nhưng bên cạnh đó cũng có chức sắc không có ruộng đất.

Nhưng nhìn chung chế độ sở hữu ruộng đất của Yên Lập trong thời gian này là sự

thắng thế của sở hữu tư nhân.

Cũng giống như các địa phương, huyện Yên Lập được áp dụng mức thuế cho

các địa phương vùng miền núi phía bắc. Nhìn chung mức thuế không cao nhưng sự

bần cùng của người nông dân ngày càng nặng nề bởi những nghĩa vụ phu, phen tạp

dịch mà người nông dân phải thực hiện đối với nhà nước phong kiến.

Mặc dù, triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng trong việc khôi phục nền kinh tế

của đất nước như ban hành hàng loạt chính sách về ruộng đất. Bên cạnh việc đo đạc

lập sổ địa bạ để nắm được quỹ đất trong cả nước, các vua Nguyễn còn đẩy mạnh

chính sách khai hoang, phục hóa, khuyến khích dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn...

nhưng nền kinh tế của đất nước vẫn giảm sút, đời sống của dân nhân ngày càng cơ

cực, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng ở cuối thế kỷ XIX.

Hoạt động kinh tế chủ yếu ở Yên Lập là nông nghiệp với những cây trồng như

lúa nước, ngô, khoai... Tuy nhiên, với kỹ thuật canh tác lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào

điều kiện tự nhiên nên năng suất cây trồng chưa cao. Thủ công nghiệp và thương

nghiệp chưa phát triển, vẫn chỉ là nghề làm thêm những lúc nông nhàn. Chính vì vậy

mà đời sống nhân dân còn gặp rất khó khăn.

3. Qua nghiên cứu cho thấy, cư dân huyện Yên Lập vẫn còn mang đậm bản

sắc văn hóa tộc người. Việc làm nhà của người dân các dân tộc ở Yên Lập dựa vào

địa hình tự nhiên và dựa vào thói quen sinh hoạt. Người Mường ở nhà sàn trong

thung lũng bằng phẳng men theo chân đồi. Người Dao ở nhà nửa sàn nửa đất trên

núi cao, ngược lại người Kinh thường dựng nhà ở những khu vực trung tâm. Cư

dân nơi đây coi việc làm nhà là rất hệ trọng nên hết sức chăm lo từ việc chọn đất,

xem hướng nhà, chọn ngày vào nhà mới, đến việc bài trí, kiêng kị trong nhà...

Đồ ăn thức uống của các dân tộc ở Yên Lập cơ bản là giống nhau vì đều là

cư dân trồng trọt và đều sinh sống trong cùng một vùng văn hóa - lịch sử nên lúa

là cây lương thực chính bên cạnh cây ngô, sắn. Xôi nếp là thành phần chính trong

bữa ăn. Ẩm thực của đồng bào các dân tộc chủ yếu được khai thác từ thiên nhiên.

89

Bộ trang phục truyền thống là một trong những sản phẩm văn hóa vật chất

mang đặc trưng tộc người đậm đà và lâu bền. Do điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã

hội từng tộc người mà trang phục truyền thống các dân tộc ở Yên Lập có sự khác

nhau. Đó là sự khác nhau về nguyên liệu dệt, màu sắc, kiểu dáng y phục, đồ trang

sức... Áo các dân tộc có thể dùng các loại vải có màu sắc khác nhau như màu

trắng, màu xanh, màu nâu...Trong trang phục của nam lẫn nữ của các dân tộc

thường thì trang phục nam khá đơn giản quần chân què và chiếc áo cổ đứng cài

khuy giữa ngực. Đáng chú ý là bộ trang phục phụ nữ của các dân tộc ở Yên Lập

nhất là người Mường và người Dao đều được thêu dệt và trang trí khá cầu kì.

Cưới xin, ma chay là những tục lệ quan trong nhất trong đời sống văn hóa

tinh thần của cư dân Yên Lập vốn mang nhiều nghi thức riêng đặc sắc và ăn sâu bám

rễ trong đời sống cộng đồng. Hôn nhân trong tâm thức của đồng bào nơi đây là một

sự kiện trọng đại, thiêng liêng của mỗi đời người, gia đình và cả cộng đồng. Do vậy

để một đôi trai gái nên vợ, nên chồng, phong tục cưới xin trong văn hóa cổ truyền

người Mường, người Dao đều được tiến hành qua nhiều bước, với khoảng cách thời

gian dài. Nguyên tắc và quá trình hôn nhân tương đối giống nhau. Chỉ khác ở mức độ

phức tạp hay đơn giản trong các nghi thức hôn nhân. Nghi lễ tang ma đối với các dân

tộc nơi đây là cũng được tiến hành rất chu đáo, trọng thể biểu hiện lòng thành của con

cháu đối với ông bà, cha mẹ. Đó cũng là trách nhiệm, bổn phận, đồng thời cũng thể

hiện mối quan hệ giữa con người với con người. Tuy nhiên những tục lệ trong cưới

xin ma chay vẫn còn nặng nề, kéo dài và rất tốn kém.

Ở người Mường nhiều gia đình cùng hay khác dòng họ cư trú trên một vùng

lãnh thổ nhất định tạo lập thành làng, Mỗi gia đình, dòng họ còn là nơi điều hòa

quan hệ hôn nhân và dòng máu. Đó là quan hệ vợ chồng, quan hệ bố mẹ với con

cái, quan hệ cha con, quan hệ anh em...đã nói lên chức năng xã hội của gia đình

dòng họ.

Những nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp là không thể thiếu

trong nền văn hóa lúa nước, được người Mường rất coi trọng mang bản sắc dân

tộc đậm đà với nhiều sắc thái riêng. Tín ngưỡng phồn thực được được thể hiện rõ

nét thông qua biểu tượng sống của âm dương hòa hợp đó là đôi trai gái với ý

nguyện cho lúa gạo sinh sôi, mùa màng tươi tốt.

90

Tôn giáo tín ngưỡng của cư dân Yên Lập được hình thành từ trong cộng

đồng xã hội nguyên thủy, đóng vai trò quan trọng trong sự cố kết cộng đồng và có

sức sống lâu bền trong sinh hoạt tinh thần các dân tộc ở Yên Lập. Với cư dân nơi

đây tôn giáo tín ngưỡng từ ngàn xưa đã ăn sâu bám rễ trong tư tưởng, tình cảm,

được lưu truyền qua nhiều thế hệ và vẫn hiện diện như một phần không thể thiếu

trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, mỗi cộng đồng làng xã hôm nay. Nhìn

chung tôn giáo tín ngưỡng các dân tộc có nhiều yếu tố tích cực, lành mạnh cần

phát huy và cũng có nhiều yếu tố tiêu cực cần phải xóa bỏ.

Các tộc người nơi đây bên cạnh việc duy trì và phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống của mình đã tiếp thu tinh hoa văn hóa của các tộc người sống cộng

cư để làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của tộc người mình. Đồng thời

những tinh hoa văn hóa của mỗi tộc người được hun đúc lại và phát huy thành cái

tinh hoa chung của cả cộng đồng.

4. Phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, nhân dân các dân tộc ở Yên

Lập ra sức phấn đấu, hăng hái, thi đua học tập, lao động sản xuất để phát triển kinh tế

- xã hội, tăng cường an ninh - quốc phòng góp phần cải thiện đời sống vật chất cho

người dân, ổn định tình hình đất nước. Hiện nay, trên con đường công nghiệp hóa,

hiện đại hóa của đất nước được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Yên Lập đang

phấn đấu trở thành huyện giàu và mạnh về mọi mặt, xây dựng một nền văn hóa tiên

tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

2. Nguyễn Trọng Báu (2012), Phong tục tập quán và lễ hội của người Việt, Nxb

Văn hóa thông tin.

3. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ (2008), Lịch sử Đảng bộ

huyện Yên Lập (1945-2005), Huyện ủy Yên Lập xuất bản.

4. Ban thường vụ Huyện ủy Yên Lập (2011), Điều tra, nghiên cứu, phục dựng và đề

xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị một số lễ hội dân gian tiêu biểu dân tộc

Mường huyện Yên Lập, Đề tài nghiên cứu khoa học.

5. Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc thực trạng và

những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Vũ Kim Biên (1999), Văn hiến làng xã vùng Đất Tổ Hùng Vương, Trung tâm

UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam và Sở Văn hóa thông tin

Phú Thọ xuất bản, Hà Nội.

7. Phạm Xuân Bộ, Phú thọ tỉnh địa chí, bản đánh máy, Thư viện tỉnh Phú Thọ, 1956.

8. Nguyễn Đức Châu, Nguyễn Tuấn Chung (1994), Ông cha ta bảo vệ biên giới,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

9. Nguyễn Tiến Đạt (2013), Huyện Bạch Thông (Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX,

Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học sư phạm, Đại học Thái nguyên.

10. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971),

Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

11. Lê Qúy Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Huế (2011), Những xu hướng biến đổi văn hoá các dân tộc miền núi

phía Bắc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Vũ Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (1999), Địa danh và tài

liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn đông Bác Cổ, Nxb Văn hóa thông tin -

Cục lưu trữ nhà nước.

14. Nguyễn Xuân Lân (dịch), Địa chí tỉnh Hưng Hóa, (Bản dịch thư viện tỉnh Vĩnh

Phú), Nxb Đông Dương tạp chí. 1899.

92

15. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Hà Nội.

16. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng văn hóa ở vùng các

dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

17. Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn (2008), Giáo trình

Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

18. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 4, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

19. Nội các triều Nguyễn(2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 5, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

20. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

22. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục

23. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb Giáo dục

24. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục

25. Quốc sử quán triều Nguyễn (1967), Đại Nam thực lục, tập XVIII, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

26. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỉ, tập

IX, Nxb Khoa học, Hà Nội.

27. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI- XVIII,

Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

28. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

29. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tình hình ruộng đất nông

nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.

30. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1999), Lịch sử Việt Nam từ nguyên

thủy đến 1858, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

31. Sở Văn hóa và Thông tin Vĩnh Phú (1986), Địa chí Vĩnh Phú Văn hóa dân gian

vùng Đất Tổ.

93

32. Sở Văn hóa Thông tin Phú Thọ (2005), Báo cáo Khảo tả nguyên gốc dự án “Điều

tra, sưu tầm và bảo tồn văn hóa dân gian của người Dao ở Phú Thọ”.

33. Sở Văn hóa Thông tin Phú Thọ - Hội Văn nghệ dân gian (2005), Lễ hội truyền

thống vùng Đất Tổ.

34. Sở văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ - Hội Văn nghệ dân gian (2012), Về

miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam, Tổng tập.

35. Nguyên Ngọc Thanh (1999), Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở tỉnh

Phú Thọ, Luận án tiến sĩ sử học, Viện Dân tộc học, Hà Nội.

36. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư

liệu địa bạ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

37. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1999), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX,

(Bản dịch của Viện Hán Nôm), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

38. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

39. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (2003), Đồng Khánh địa dư

chí, Nxb Thế giới, Hà Nội.

40. Nông Quốc Tuấn, Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc.

41. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở Bắc Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Đàm Thị Uyên (2000), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến

giữa thế kỉ XIX, Luận án tiến sĩ lịch sử, Hà Nội.

43. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam

(thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

44. Ủy ban nhân dân huyện Yên Lập (2009), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -

xã hội huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.

45. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc

gia (2001), Người Mường trên Đất Tổ Hùng Vương, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

46. Mai Khắc Ứng (1996), Chính sách khuyến nông dưới thời Minh Mạng, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

47. Trần Thị Thanh Xuyên (2015), Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX,

Luận Văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạmThái Nguyên.

94

TÀI LIỆU ĐỊA BẠ

48. An Dưỡng xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1823

49. An Dưỡng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1822

50. An Sào xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1830

51. Bạn Lữ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1852

52. Bạn Lữ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1853

53. Đồ Thủy xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1825

54. Đoài Lỗ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1842

55. Đông Lỗ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1832

56. Hạ Long xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1848

57. Hương Lan xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1831

58. Khổng Tước xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1836

59. Mộ Lan xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1824

60. Nga Mi xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1833

61. Phục Cổ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1828

62. Phượng Vĩ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1851

63. Quế Sơn xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1834

64. Sa Lung xã, địa bạ năm Gia long 4, TTLTQGIHN, KH: 1839

65. Sa Lung xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1840

66. Sơn Lương xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1843

67. Thu Ngạc xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1844

68. Thu Ngạc xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21,TTLTQGIHN, KH: 1845

69. Thượng Long xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1846

70. Thượng Long xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1847

71. Trục Thước xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1856

72. Vân Bán xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1837

73. Vân Bán xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1838

74. Vân Hoàng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1849

75. Vân Lung xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 1835

76. Xuân Lôi xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1841

77. Xuân Ứng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 1827

95

TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ

STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ

Xóm Mít 15, TT Yên 69 Đinh Thị Anh 60 Làm ruộng Lập, huyện Yên Lập.

Thôn Dân Thanh, xã

70 Vũ Văn Chỉnh 68 Thầy cúng Đồng Lạc, huyện Yên

Lập.

Xóm Đắng, xã Thượng 71 Hoàng Thị Dụ 60 Kinh doanh Long, huyện Yên Lập.

Xóm Dùng, xã Trung 72 Đinh Thị Đắc 69 Thầy Mo Sơn, huyện Yên Lập.

Thôn Minh Phúc, xã Nguyễn Văn 73 59 Làm ruộng Đồng Lạc, huyện Yên Giang Lập.

Khu 5, xã Nga Hoàng, 74 Bàn Văn Long 75 Làm ruộng huyện Yên Lập.

P. Trưởng phòng văn Khu Tân An 4, TT Yên Phùng Duy 75 40 hóa và thông tin huyện Lập, huyện Yên Lập Nam Yên Lập

P. Ban đại diện chùa Nguyễn Thị 76 72 Làm ruộng Long tự, TT Yên Lập. Nhung

P. Trưởng phòng Dân Thôn Minh Tân, xã Phúc 77 Cao Văn Sinh 38 tộc huyện Yên Lập Khánh, huyện Yên Lập.

96

PHỤ LỤC

Bảng 1 pl: Đơn vị hành chính châu Yên Lập

TỔNG

THÔN, XÓM

Đông Lỗ

Xóm Đồng Đình, Xóm Bông, Xóm Xiển, Xóm Cả.

Đồng Phú

Xóm Đồng Dân, Xóm Đồng Bài, Xóm Đồng Dù.

Đoài Lỗ

Xóm Xuân Lôi, Xóm Quán, Xóm Lèn, Xóm Làng.

Xóm Đá Bàn, Xóm May, Xóm Bình, Xóm Giọc, Xóm

Đông Lỗ

Ngọc Lập

Hang Đồng.

Thôn Đồng Phái, Xóm Thọ, Xóm Chiềng, Xóm Chùa,

Phục Cổ

Xóm Nguyên

Đồng Lạc

Xóm Mưa, Xóm Trại, Xóm Mạ.

Xóm Cảy, Xóm Vệ , Xóm Quán, Xóm Móc Xóm Giang,

Thượng Long

Xóm Hù, Xóm Hom.

Thôn Nam, Thôn Bắc, Xóm Mít, Xóm Mè, Xóm Sàng,

Hạ Long

Xóm Thiện, Xóm Chùa, Xóm Giứa, Xóm Trung, Xóm

Bành, Xóm Trầm.

Thượng Long

Xóm Dâu, Xóm Đình, Xóm Cấm, Xóm Thị, Xóm Dù,

Đồ Thủy

Xóm Hồng.

Xóm Liêm, Xóm Đồng,Xóm Cả, Xóm Quánh, Xóm Vải,

Mộ Xuân

Xóm Đặng, Xóm Dần, Xóm Sấu, Xóm Hon, Xóm Đùng.

Thượng Khê Xóm Thói, Xóm Sắt

Sơn Lương

Xóm Hà, Xóm Giường, Xóm Khế, Xóm Ve.

Xóm Đồn, Xóm Già, Xóm Hầu, Xóm Róc.

Nga Mỹ

Xóm Mo, Xóm Thừa, Xóm Mưa.

Sa Lung

Sơn Lương

Xóm Yên Sào, Xóm Đồng Luông, Xóm Thiếu, Xóm

Yên Sào

Thạch Trụ.

Quế Sơn

Xóm Thuồng, Xóm A, Xóm Cảo, Xóm Khe Khuôn.

Phố Tân An

Tổng số: 1 phố, 3 tổng, 16 xã

Nguồn: [13, tr. 674-676].

Bảng 2 pl: Tình hình ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805)

Đơn vị tính: Mẫu,sào,thước, tấc,phân

Tổng số ruộng đất

Diện tích ruộng tư

Địa danh

(m.s.th.t.p)

Mẫu Sào Thước Tấc Phân

184.6.13.0.0

184

6

13

0

0

Tổng Thu Ngạc

135.8.06.0.0

135

8

06

0

0

1. An Dưỡng

13.9.01.5.0

13

9

01

5

0

2. Thu Ngạc

34.9.05.5.0

34

9

05

5

0

3. Phục Cổ

465.2.04.7.0

465

2

04

7

0

TổngThượngLong

139.6.07.3.0

139

6

07

3

0

1.Thượng Long

165.3.01.3.0

165

3

01

3

0

2. Mộ Lan

26.0.14.8.0

26

0

14

8

0

3. Đồ Thủy

134.1.11.3.0

134

1

11

3

0

4. Hạ Long

47.1.10.2.0

47

1

10

2

0

Tổng Đông Lỗ

34.0.10.2.0

34

0

10

2

0

1. Xuân Ứng

13.1.00.0.0

13

1

00

0

0

2. Xuân Lôi

21.3.00.0.0

21

3

00

0

0

Tổng Sơn Lương

13.3.10.8.0

13

3

10

8

0

1. Sơn Lương

7.9.04.2.0

7

9

04

2

0

2. Sa Lung

177.7.11.1.0

7

11

1

0

177

Tổng Vân Bán

19.8.08.6.0

19

8

08

6

0

1. Khổng Tước

33.4.03.7.0

33

4

03

7

0

2. Vân Bán

14.6.06.5.0

14

6

6

5

0

3. Vân Hoàng

28.8.09.6.0

28

8

09

6

0

4. Trục Thước

52.3.14.8.0

52

3

14

8

0

5. Phượng Vĩ

28.5.12.9.0

28

5

12

9

0

6. Bạn Lữ

896.1.09.0.0

1

09

0

0

Tổng

896

Nguồn: Thống kê 17 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Bảng 3 pl: Thống kê tình hình địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Đơn vị tính: Mẫu, Sào, thước,tấc, phân

Tổng số ruộng đất Diện tích Ruộng Địa danh Mẫu Sào Thước Tấc Phân ruộng tư công

149.7.07.5.0 0 07 5 149 7 Tổng Thu Ngạc

3.9.01.5.0 0 01 5 Thu Ngạc 13 9 1

135.8.06.0.0 0 06 0 An Dưỡng 135 8 2

139.6.07.3.0 0 07 3 6 TổngThượngLong 139

139.6.07.3.0 0 07 3 3 ThượngLong 139 6

29.5.11.1.1 1 11 1 29 5 Tổng Đông Lỗ

2.5.01.2.0 0 01 2 Hương Lan 2 5 4

4.1.02.2.0 0 02 2 Đông Lỗ 4 1 5

17.6.00.2.1 4.5.00.2.1 1 00 2 Đoài Lỗ 17 6 6

5.3.07.5.0 0 07 5 Vân Lung 5 3 7

225.6.07.2.0 0 07 2 225 6 TổngSơn Lương

7.9.04.2.0 0 04 2 Sa Lung 7 9 8

122.7.01.2.0 0 01 2 Quế Sơn 122 7 9

60.0.11.3.0 0 11 3 Nga Mi 60 0 10

34.9.05.5.0 0 05 5 An Sào 34 9 11

62.0.01.6.0 0 01 6 62 0 Tổng Vân Bán

33.4.03.7.0 0 03 7 Vân Bán 33 4 12

28.5.12.9.0 0 12 9 Bạn Lữ 28 5 13

1 04 7 6 Tổng 606 606.6.04.1.0 4.5.00.2.1

Nguồn: Thống kê 13 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Bảng 4 pl. So sánh tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc năm 1805 và 1840

Năm Gia Long 4 (1805)

Minh Mệnh 21(1840)

Không

Không

Số chủ

1 đến 5

5 đến 10

10 đến

Số chủ

1 đến 5

5 đến 10

10 đến 20

Chức vị

ruộng

< 1 mẫu

Chức vị

ruộng

< 1 mẫu

mẫu

mẫu

20 mẫu

mẫu

mẫu

mẫu

%

%

đất

đất

5

2

2

1

5

1

1

2

1

Xã trưởng

Lý trưởng

%

40

40

20

%

20

20

40

20

1

1

5

2

2

1

Hương

Thôn trưởng

trưởng

%

100

%

40

40

10

4

2

1

1

Sắc mục

%

50

25

25

1

10

2

5

1

1

1

3

3

10

2

1

Tổng

Tổng

10%

20

100%

50

10

10

10

100%

20%

10%

30%

30%

Nguồn: Thống kê 5 địa bạ Gia Long 4 (1805) và 5 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) của 5 xã Sa Lung, Bạn Lữ,

Vân Bán, Thu Ngạc, An Dưỡng.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

HOẠT ĐỘNG KINH TẾ HIỆN NAY

2.

1.

4.

3.

5 6

1. Rừng cọ đồi chè xã Phúc Khánh

6. Chăn nuôi gia súc xã Mĩ Lương

2.Cánh đồng lúa xã Trung Sơn

7. Quay tơ dệt vải của người Mường ở Yên Lập

4. Nuôi tằm ở huyện Yên Lập

8. Nuôi ong tại TT Yên Lập, huyện Yên Lâp.

5. Chăn nuôi gia cầm ở xã Xuân An

Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm, tháng 8/2015

NHÀ Ở

1.

2.

3.

4.

5.

6.

8.

7.

1. Cổng vào nhà bà Đinh Thị Anh, dân tộc

5. Cầu thang

Mường, TT Yên Lập.

6. Nhà nửa sàn nửa đất của ông Bàn Văn Long,

2. Gầm nhà sàn dân tộc Mường

dân tộc Dao, xã Nga Hoàng, Huyện Yên Lập.

3. Bàn thờ gia tiên

7. Bàn thờ của người Dao

4. Mái nhà sàn

8. Nhà vách đất của ông Hoàng Văn Thạch người

Kinh, xã Phúc Khánh, Huyện Yên Lập.

Nguồn: Tác giả chụp tại huyện Yên Lâp,tháng 2/2016

ẨM THỰC

1.

2

3.

4.

6.

5

7.

8.

1. Ninh và chõ đồ

5. Thịt chua

2. Cơm nếp đồ

6. Cá nướng

3. Xôi ngũ sắc

7. Quả cọ

4. Lợn thui

8. Uống rượu cần

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Phú Thọ tháng 3/2016

MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN TÍN NGƯỠNG

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

1,2. Đình Phục Cổ xã Minh Hòa

6,7. Chùa Xuân Lôi xã Xuân Lôi

3. Chùa Long Tự, TT Yên Lập

8. Nghĩa trang liệt sĩ xã Minh Hòa

4,5 Đền Đá Thờ, TT Yên Lập

Nguồn: Tác giả chụp tại huyện Yên Lập, tháng 3/2016

LỄ HỘI

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

1. Đâm đuống của người Mường huyện Yên Lập.

6. Lễ tết nhảy của người Dao xã Nga Hoàng.

2. Lượm và săn thú trong lễ hội mở cửa rừng xã

7. Lễ Cấp sắc của người Dao

Minh Hòa

8. Dâng lễ trong lễ hội Đền Hùng

3. Múa trống đu dân tộc Mường huyện yên Lập

9. Thi gói bánh chưng trong lễ hôi Đền Hùng

4. Thầy Mo hành lễ trong lễ hội Mở cửa rừng

5. Thầy cúng người Dao

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Phú Thọ, tháng 3/2016

THỐNG KÊ ĐỊA BẠ

Tên làng, xã: Thu Ngạc

Tổng: Thu Ngạc

Kí hiệu: 1844

Số tờ: 3

Niên hiệu: Gia Long (1805)

Vị trí: Đông giáp thôn Ngọc Lập, xã Đoài Lỗ

Tây giáp huyện Thanh Xuyên, xã Thạch Kiệt

Nam giáp huyện Thanh Xuyên, xã Long Cốc

Bắc giáp xã Đông Lỗ.

Tổng diện tích ruộng đất: 13.9.01.5

Tư điền: 13.9.01.5

Hạng ruộng: loại 3

Thực trưng: 4.4.11.4

Lưu hoang: 9.4.05.1

Chức sắc: Chính tổng trưởng: Nguyễn Mạc Nhã

Phó tổng trưởng: Hoàng Đình Trách

THỐNG KÊ ĐỊA BẠ

Tên làng, xã: Nga Mi

Tổng: Sơn Lương

Kí hiệu: 1833

Niên hiệu: Minh Mệnh 21 (1840)

Số tờ: 6

Vị trí: Đông giáp xã An Sào

Tây giáp xã Sơn Lương

Nam giáp xã Sơn Lương

Bắc giáp xã Sơn Lương và tỉnh Sơn Tây, huyện Hạ Hòa

Tổng diện tích ruộng đất: 60.0.11.3.0

Tư điền: 60.0.11.3.0

Hạng ruộng: (loại 3) 60.0.11.3.0

Chức sắc: Lý trưởng: Nguyễn Đăng Khán

Hương trưởng: Cù Kim Thuyên

Chủ sở hữu nhỏ nhất: Nguyễn Kim Mạnh 2.5.00.0.0

Chủ sở hữu lớn nhất: Nguyễn Đăng Khán 21.0.02.0.0

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN YÊN LẬP

Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Yên Lập

Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ