ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI THỊ THANH KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI THỊ THANH KINH TẾ ,VĂN HÓA HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đàm Thị Uyên

THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả

nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng trong

công trình nghiên cứu nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bùi Thị Thanh

Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan, đoàn thể, cá

LỜI CẢM ƠN

nhân mà tôi không thể không bày tỏ lời cảm ơn chân thành.

Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Hòa Bình, Thư viện

tỉnh Hòa Bình, Phòng Tuyên giáo huyện Lạc Sơn, Ủy ban nhân dân huyện Yên Lập và nhân dân địa phương đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương.

Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Đàm Thị Uyên cùng các thầy cô trong khoa Lịch Sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo

tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tới Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo trường

THPT Chuyên Lê Quý Đôn tỉnh Ninh Thuận đã tạo điều kiện về mọi mặt để tôi yên

tâm học tập.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè và những người thân

trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bùi Thị Thanh

MỤC LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC .......................................................................................................... iii PHỤ LỤC ........................................................................................................... iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................... v DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. vi MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................. 5 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 6 5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7 6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH ................ 9 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .............................................................. 9 1.2. Lịch sử hành chính huyện Lạc Sơn ......................................................... 14 1.3. Các thành phần dân tộc............................................................................ 16 1.3.1. Dân tộc Mường ........................................................................................ 17 1.3.2. Dân tộc Kinh ............................................................................................ 18 1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Lạc Sơn ............................. 21 1.4.1. Các tầng lớp xã hội .................................................................................. 25 1.4.2. Bộ máy quản lý làng bản ......................................................................... 33 Chương 2. KINH TẾ CỦA HUYỆN LẠC SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ...... 38 2.1. Tình hình ruộng đất ở huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX. ................... 38 2.1.1. Giới thiệu địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) .......... 38 2.1.2. Ruộng đất ở Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX .............................................. 40 2.1.3. Sở hữu ruộng đất của chức dịch .............................................................. 53 2.2. Chế độ tô thuế .......................................................................................... 57 2.3. Tình hình kinh tế ..................................................................................... 58 2.3.1. Nông nghiệp ............................................................................................ 58 2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp ............................................................. 64 2.3.3. Khai thác lâm, thổ sản ............................................................................. 69

Chương 3. VĂN HÓA HUYỆN LẠC SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ....... 71 3.1. Làng bản và nhà cửa ................................................................................ 71 3.2. Ẩm thực ................................................................................................... 77 3.3. Y phục và trang sức ................................................................................. 82 3.4. Tục lệ ....................................................................................................... 87 3.4.1. Sinh đẻ và nuôi con ................................................................................. 87 3.4.2. Hôn nhân .................................................................................................. 88 3.4.3. Tang ma ................................................................................................... 92 3.5. Lễ tết ........................................................................................................ 97 3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình ....................................................................... 99 3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp ................................ 101 3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo ............................................................................. 104 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 113

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ha : Héc ta

HĐND : Hội đồng nhân dân

KH M, s, th, t : Kí hiệu : Mẫu, sào, thước, tấc

: 3296 mẫu, 6 sào, 6 thước, 7 tấc sẽ viết tắc là 3296.6.6.7 Ví dụ

NQ : Nghị quyết

Nxb PGS : Nhà xuất bản : Phó giáo sư

TCN : Trước công nguyên

THPT : Trung học phổ thông

Tr : Trang

TS : Tiến sĩ

TTLTQGI UBND : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I : Ủy ban nhân dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Thành phần các dân tộc huyện Lạc Sơn................................................... 17

Bảng 2.1: Thống kê địa bạ huyện Lạc Sơn năm 1837 .............................................. 39

Bảng 2.2: Thống kê ruộng đất huyện Lạc Sơn theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) .. 40

Bảng 2.3: Các loại ruộng đất huyện Lạc Sơn theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) .... 42

Bảng 2.4: Quy mô sở hữu ruộng đất của các xã huyện Lạc Sơn .............................. 43

Bảng 2.5: Quy mô sở hữu ruộng đất của 4 tổng huyện Lạc Sơn theo địa bạ Minh

Mệnh 18 (1837) ........................................................................................ 45

Bảng 2.6: Quy mô sở hữu ruộng đất tư theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) ............. 46

Bảng 2.7: Quy mô ruộng đất công của huyện Lạc Sơn ............................................ 50

Bảng 2.8: Quy mô sở hữu ruộng đất tư và ruộng đất công ...................................... 53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bảng 2.9: Quy mô sở hữu ruộng đất của các chức dịch ........................................... 54

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hòa Bình được coi là một trong những cái nôi của lịch sử loài người với nền văn

hóa Hòa Bình nổi tiếng, được nhân loại biết đến. Hòa Bình ở vị trí có ý nghĩa chiến

lược của Bắc Bộ, là cửa ngõ vào Thủ đô Hà Nội, lên vùng Tây Bắc, có vị trí quan trọng

của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên miền núi. Hòa Bình vốn được coi là thủ phủ của tộc người Mường với hơn 63% dân số của tỉnh. Bên cạnh tộc người Mường là đông đảo nhất thì Hòa Bình cũng là nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. Được kế thừa một nền văn hóa lớn, lâu đời và nổi tiếng nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa

Bình đã tiếp tục giữ gìn và phát huy những giá trị của nền văn hóa đó, đồng thời tiếp

tục phát triển để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của tỉnh cũng như của đất nước và

thời đại.

Lạc Sơn là một huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Hòa Bình, là vùng đất có bề dày

truyền thống lịch sử và văn hóa. Nơi đây có nhiều di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa

Hòa Bình, tiểu biểu như Mái đá Làng Vành, thuộc xóm Vành, xã Yên Phú.

Lạc Sơn cũng là huyện là nơi có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, vì vậy từ rất sớm

nơi đây đã là nơi cư trú thích hợp của con người. Có thể coi Lạc Sơn là một trong những

nơi khởi nguồn của một nền văn hóa tộc người rất đặc sắc - văn hóa người Mường.

Trong số 16 dân tộc anh em sinh sống trong huyện, người Mường là đông nhất. Lạc

Sơn chính là một trong những trung tâm của người Mường ở Hòa Bình, với hơn 90%

dân số của huyện. Cùng với người Mường, có tộc người từ miền xuôi di cư lên, có

những tộc người từ các tỉnh phía Bắc di cư tới, vào những khoảng thời gian khác nhau.

Các dân tộc anh em trên mảnh đất này cùng nhau khai phá, mở mang ruộng đất, xây

dựng làng xóm, lập nghiệp.

Trong công cuộc phát triển, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ hội nhập của đất nước ta ngày nay, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng đến sự phát

triển kinh tế của tất cả các vùng miền của đất nước, đặc biệt là các tỉnh miền núi, các

đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thu hẹp sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền trong cả nước. Chính vì vậy huyện Lạc Sơn của tỉnh Hòa Bình nơi mà có tới hơn 90% dân số của huyện là đồng bào dân tộc

Mường đã luôn đón nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển về mọi mặt của huyện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Việc nghiên cứu về một thời kì lịch sử của Lạc Sơn (nửa đầu thế kỉ XIX), không những góp phần khôi phục lại bức tranh lịch sử về hoạt động kinh tế cũng như đời sống văn hóa phong phú, độc đáo của các dân tộc nơi đây mà còn góp phần làm cơ sở cho

việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta: Đại đoàn kết dân tộc, đưa

miền núi tiến kịp về miền xuôi, xây dựng con người mới, cuộc sống mới trên mảnh đất Lạc Sơn.

Bản thân tác giả luận văn là một người con của của địa phương, nên rất mong

muốn tìm hiểu về huyện Lạc Sơn ở nửa đầu thế kỉ XIX.

Cho đến nay, vấn đề kinh tế, văn hóa huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỉ XIX chưa

được nghiên cứu một cách hệ thống. Với những lí do đó, tôi quyết định chọn đề tài

“Kinh tế, văn hóa huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình nửa đầu thế kỉ XIX” làm luận văn

nghiên cứu khoa học của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Liên quan đến đề tài luận văn, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:

Cuốn Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX của tác giả Vũ Huy

Phúc, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm 1979, [47] đã khái quát

về chính sách về ruộng đất dưới triều Nguyễn. Cuốn sách đã chỉ ra thiết chế và kết cấu

ruộng đất được hình thành từ những chính sách đó, cũng như những tác động và hậu

quả của nó đối với yêu cầu phát triển của lịch sử.

Cuốn Chế độ ruộng đất từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII (2 tập) của Trương Hữu

Quýnh Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1982 [61, 62]. Tác phẩm

là công trình chuyên khảo về chế độ ruộng đất của Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ

XVIII. Công trình cho thấy các loại sở hữu ruộng đất công, tư, ruộng khẩn hoang, ruộng

chùa trong các thế kỷ XI - XVIII. Bên cạnh đó, tác động của chế độ ruộng đất đến kinh

tế - xã hội là rất quan trọng.

Cuốn sách Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn do

Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang (chủ biên) của Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành, năm

1997 [63] đã nghiên cứu một cách cụ thể tình hình ruộng đất qua tài liệu địa bạ. Một

phần nội dung cuốn sách nêu lên các chính sách về nông nghiệp đặc biệt là các chính

sách về ruộng đất dưới triều Nguyễn. Bên cạnh đó, các tác giả còn nêu được một số nội

dung liên quan đến đời sống nông dân dưới triều Nguyễn. Nội dung cuốn sách tuy

không liên quan trực tiếp đến ruộng đất huyện Lạc Sơn nhưng đã giúp tác giả có thêm

nhận thức cũng như tham khảo tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu luận văn về

ruộng đất Lạc Sơn thông qua tư liệu địa bạ.

Cuốn Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (thế kỷ XI đến

giữa thế kỷ XIX) của tác giả Đàm Thị Uyên do Nxb Văn hóa dân tộc, xuất bản năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2007 [79]. Trong công trình này những vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa của các

dân tộc ít người cũng như những chính sách của các triều đại quân chủ Việt Nam đối

với các dân tộc.

Luận án Tiến sĩ “Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế

kỉ XIX”, Bảo vệ tại Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1991 của tác giả Vũ Văn Quân [48].

Đây cũng là tài liệu quan trọng khi nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp thời Nguyễn,

giúp tác giả có thêm tư liệu cũng như nhận thức.

Kỷ yếu Hội thảo “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam

từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX” được tổ chức tại Thanh Hóa, nội dung hội thảo đã được

ấn hành bởi Nxb Thế giới, 2008 [30]. Trong đó có những bài nghiên cứu về ruộng đất

và kinh tế nông nghiệp thời Nguyễn như: Phan Phương Thảo, “Quản lý ruộng đất của

nhà Nguyễn qua tư liệu địa bạ”; nhiều các bài tham luận khác được tổng hợp trong

cuốn kỷ yếu hội thảo này đã giúp tác giả có thêm hiểu biết về ruộng đất dưới triều

Nguyễn cũng như chính sách của triều Nguyễn đối với ruộng đất.

Đối với vấn đề văn hóa của các dân tộc, một trong những nhà khoa học có nhiều

công trình nghiên cứu là tác giả Ngô Đức Thịnh. Có thể kể đến: Tóm lược nội dung

chính cuốn sách văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam (2003) [72]; Trang

phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam (2006) [73]; Văn hóa, văn hóa tộc người và văn

hóa Việt Nam (2006) [74]. Trong đó, vấn đề cách tiếp cận bản sắc văn hóa ở góc độ

dân tộc giúp tác giả có thêm lý thuyết về quan sát tộc người nói chung trên những khía

cạnh khác nhau. Ví dụ, quan sát các đặc điểm sinh học và di truyền, quan sát sinh hoạt

trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên, quan sát ý thức tộc người trong quá

trình đối ngoại và đối nội…; Cách tiếp cận bản sắc văn hóa theo góc nhìn loại hình

kinh tế - văn hóa, có thể nhận thấy sự thích ứng của tộc người dưới tác động của môi

trường sống (địa lí) và điều kiện sống (nghề nghiệp). tính cách tộc người được hình

thành không chỉ như một tất yếu khách quan mà còn là sự “thích ứng” với môi trường

sống.

Những nghiên cứu về dân tộc Mường, có thể kể đến: Người Mường: Địa lý nhân

văn và xã hội học, của học giả Jeanne Cuisinie - Tiến sĩ văn học người Pháp, [28] đã

nghiên cứu sâu sắc về dân tộc Mường ở Việt Nam. Đây là tộc người sinh sống đông

nhất ở Hòa Bình. Cuốn sách là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một

cách tổng thể về người Mường ở Việt Nam. Một nhà khoa học có nhiều nghiên cứu về

người Mường đó là nhà dân tộc học Nguyễn Đức Từ Chi (Trần Từ). Trong đó có cuốn

Người Mường ở Hòa Bình được Nhà xuất bản Thời Đại xuất bản năm 1996 [75] đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giới thiệu khá chi tiết về vấn đề ruộng lang, cạp váy mường và vũ trụ luận Mường qua

đám tang. Nội dung đã giúp cho tác giả luận văn kế thừa những tư liệu khi tìm hiểu về

người Mường ở Lạc Sơn.

Công trình Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình của các tác giả Bùi Văn Kín, Mai

Văn Trí, Nguyễn Phụng Ty Văn hóa thông tin tỉnh Hòa Bình xuất bản năm 1972 [29].

Đây là tác phẩm được viết một cách khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Hòa Bình. Trong đó có đề cập chế độ lang, đạo của người Mường ở

Hòa Bình. Đây là một trong những đặc trưng trong đời sống chính trị, xã hội của người

Mường ở Hòa Bình.

Cuốn Đẻ đất, đẻ nước và phong tục đạo lý nhân văn Mường do tác giả Bùi Thiện

sưu tầm, biên dịch được Nxb Văn hóa dân tộc xuất bản năm 2015 [68]. Cuốn sách đã đề cập đến một số đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của người Mường cũng như

những áng sử thi hát Mo được coi là nét đặc trưng của văn hóa tộc người Mường. Cuốn

sách cung cấp một số tư liệu giúp tác giả tìm hiểu đời sống văn hóa tinh thần của người Mường ở Hòa Bình nói chung và Lạc Sơn nói riêng.

Trong Kỷ yếu hội thảo Văn hóa dân tộc Mường tại tỉnh Hòa Bình được tổ chức

tháng 9 năm 2003 [65] gồm nhiều bài viết có nội dung đề cập ít nhiều đến những đặc

trưng của văn hóa người Mường trên khắp cả nước, phần lớn là đề cập đến nhà cửa,

điêu múa, âm nhạc,… của người Mường ở Hòa Bình. Tác phẩm giúp tác giả có thêm

tư liệu khi nghiên cứu về văn hóa của người Mường ở Lạc Sơn.

Cuốn Địa chí tỉnh Hòa Bình, của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2005 [66]

do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình phụ trách. Cuốn sách

dài 920 trang với 7 phần giới thiệu khái quát về địa lý và tài nguyên thiên nhiên, dân

cư và các dân tộc, lịch sử, hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an

ninh của tỉnh qua các thời kỳ lịch sử của tỉnh Hòa Bình. Tuy cuốn sách viết khá ít về

huyện Lạc Sơn nhưng đây là nguồn tư liệu quan trọng nghiên cứu tổng thể về tỉnh Hòa

Bình trong đó có đề cập đến huyện Lạc Sơn.

Cuốn sách Tản mạn văn hóa Mường của Nguyễn Hải, Nxb Thông tin và truyền thông năm 2011 [17]. Tác phẩm đã giới thiệu khái quát về đặc trưng văn hóa của người

Mường ở Hòa Bình như chế độ Lang, đạo, chế độ ruộng đất, tôn giáo, tín ngưỡng,tình yêu, hôn nhân và gia đình thân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Năm 2016, BCH Đảng bộ huyện Lạc Sơn xuất bản Lịch sử Đảng bộ huyện Lạc Sơn (1929 - 2015) [2]. Đây là công trình nghiên đề cập khá đầy đủ các lĩnh vực của huyện Lạc Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như những công trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Mỡi trong đời sống người Mường ở Lạc Sơn - Hòa Bình của tác giả Bùi Huy

Vọng do Nxb Mỹ thuật năm 2016 [81]. Cuốn sách đã đề cập khá chi tiết về một trong

những tập tục truyền thống của người Mường ở Lạc Sơn, những giá trị của Mỡi trong

đời sống văn hóa của người Mường.

Cuốn Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa Bình của Nguyễn Thị Thanh

Nga (chủ biên), Nxb Văn hóa dân tộc năm 2007 [39]. Cuốn sách mô tả khá đầy đủ

những tập tục cưới xin, ma chay, tục lệ… của người Mường. Tác phẩm cung cấp thêm

tư liệu cho tác giả về đời sống văn hóa của người Mường.

Ngoài ra còn cần phải kể đến có các luận văn có liên quan đến đề tài của tác giả

như: Nghiên cứu nghi lễ Mỡi của người Mường (nghiên cứu trường hợp người Mường

ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình) luận án tiến sĩ văn hóa của tác giả Bùi Văn Hộ, Học

Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, năm 2018 [22], Văn hóa gia đình người

Mường ở Hòa Bình, luận án tiến sĩ văn hóa học, trường Đại học văn hóa Hà Nội, của

tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa, năm 2016 [20], Kinh tế văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú

Thọ nửa đầu thế kỷ XIX, luận văn của tác giả Hoàng Thị Nguyệt [45], Kinh tế, văn hóa

huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang nửa đầu thế kỷ XIX, luận văn của tác giả Hoàng Thu

Hường [26] bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên năm 2016.

Những công trình giúp tác giả tham khảo những số liệu về ruộng đất để so sánh với

ruộng đất ở Lạc Sơn để có thể so sánh rút ra những đặc trưng trong đời sống kinh tế,

văn hóa ở huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.

Như vậy, đã có một số công trình nghiên cứu về tỉnh Hòa Bình, văn hóa của người

Mường ở Hòa Bình nói chung và huyện Lạc Sơn nói riêng. Nhưng cho đến nay chưa có

một công trình nào nghiên cứu về kinh tế, văn hóa về huyện Lạc Sơn. Mặc dù vậy tác giả

vẫn luôn xem những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước là những gợi mở quý báu,

tạo điều kiện để tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Mục đích

Trước hết, bản thân là người địa phương có mong muốn tìm hiểu về quê hương

trong lịch sử và nhằm góp thêm cơ sở khoa học về cư dân miền núi nói chung và phía

Bắc nói riêng mà lâu nay còn ít người quan tâm.

Luận văn tập trung nghiên cứu về kinh tế, văn hóa huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

XIX. Cụ thể:

Kinh tế: Tập trung nghiên cứu về tình hình ruộng đất và các ngành kinh tế của huyện.

Văn hóa: Luận văn nghiên cứu về một số yếu tố văn hóa của cư dân sống trên địa

bàn huyện Lạc Sơn ở nửa đầu thế kỷ XIX, tập trung vào những nét văn hóa của người

Mường và người Kinh như: Làng bản, nhà cửa, y phục, tục lệ, tín ngưỡng, tôn giáo…

Trên cơ sở đó, có thể góp phần lí giải một số vấn đề lịch sử Việt Nam trung đại,

vấn đề ruộng đất, kinh tế nông nghiệp, chính sách về kinh tế của triều đình nhà Nguyễn

trong tiến trình phát triển của lịch sử, mối quan hệ giữa các dân tộc trong quá trình tồn

tại và phát triển của đất nước ta hiện nay, góp phần lí giải về cơ sở xuất phát cho những

chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ hiện đại. Ngoài ra, còn bổ sung thêm

tư liệu lịch sử địa phương cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ kinh tế và văn hóa của huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình nửa đầu thế kỷ XIX.

Đây là vấn đề trọng tâm của luận văn Trong đó, ruộng đất của Lạc Sơn qua tư liệu địa

bạ được nghiên cứu cụ thể các loại ruộng đất và sở hữu ruộng đất.

Nêu lên được những nét đặc trưng về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của

nhân dân các dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân tộc Mường là tộc người đông nhất ở

huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX cũng như hiện nay.

- Đối tượng nghiên cứu

Bao gồm các chính sách về kinh tế, chế độ sở hữu ruộng đất, phong tục tập quán, tín

ngưỡng của các dân tộc cùng sinh sống trên mảnh đất Lạc Sơn nửa đầu thế kỉ XIX.

- Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Huyện Lạc Sơn theo địa danh lãnh thổ nửa đầu thế kỷ XIX

với 4 tổng là Lạc Đạo, Lạc Nghiệp, Lạc Thiện, Lạc Thành và 50 xã.

Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu giai đoan nửa đầu thế kỷ XIX, dưới triều

Nguyễn.

Phạm vi nội dung: Nghiên cứu kinh tế và văn hóa huyện Lạc Sơn.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

- Nguồn tư liệu

Nguồn tư liệu chung: Đồng Khánh địa dư chí, Kiến văn tiểu lục, Đại Nam nhất

thống chí, Tổng tập dư địa chí Việt Nam, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ… những

tài liệu trên đã ghi chép tên trấn, tổng, xã thôn thời Gia Long, Minh Mệnh; miêu tả vị

trí địa lý, phong tục tập quán, ghi lại số đinh tô thuế ở địa phương… góp phần làm rõ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tình hình kinh tế huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.

Nguồn tư liệu địa phương: Địa chí tỉnh Hòa Bình, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hòa Bình

(1929 - 2015), Lịch sử Đảng bộ huyện Lạc Sơn (1929 - 2015), Các dân tộc ở Hòa Bình,

Người Mường ở Hòa Bình, Tỉnh Mường, Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình,… Những

nguồn tư liệu này góp phần miêu tả văn hóa cũng như vị trí địa lý của huyện Lạc Sơn.

Nguồn tư liệu địa bạ: Luận văn đã sử dụng tất cả 50 địa bạ của 50 xã của 4 tổng

huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX thời Minh Mệnh 18 (1837) hiện đang được lưu trữ

tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I - Hà Nội.

Nguồn tư liệu điền dã: Tác giả đã thu thập được nhiều tài liệu do nhiều địa phương

trên địa bàn huyện Lạc Sơn cung cấp, đến những làng bản của cộng đồng cư dân thiểu

số quan sát, ghi chép về các phong tục tập quán của họ, thu thập các câu truyện dân ca,

ca dao… để bóc tách những vấn đề lịch sử có thật trong quá khứ.

- Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng hai phương pháp lịch sử, phương pháp logic

là chính kết hợp với các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp. Phương pháp lịch

sử giúp tác giả nghiên cứu các vấn đề kinh tế, văn hóa theo trình tự thời gian và đặt

trong hoàn cảnh cụ thể. Phương pháp lôgic giúp tác giả phân tích và trình bày tài liệu

được chặt chẽ, liền mạch và hợp lý.

Phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm tổng hợp đối chiếu các nguồn tài liệu bằng hệ

thống bảng biểu. Phương pháp so sánh được vận dụng nhằm so sánh điểm cùng vấn đề

giữa hai thời điểm lịch sử hoặc với một số địa phương khác nhằm làm sáng tỏ đối tượng

nghiên cứu.

Bên cạnh đó tác giả sử dụng phương pháp khai thác tư liệu thành văn và phương

pháp điền dã để thu thập thông tin, làm sáng tỏ các vấn đề trong luận văn.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn bước đầu khôi phục một cách hệ thống tình hình kinh tế, văn hóa huyện

Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ tộc người, loại hình kinh tế, xã hội, thiết chế

chính trị xã hội, những nét văn hóa tiêu biểu gắn với môi trường sinh thái địa phương,

những nhân tố thúc đẩy sự biến đổi kinh tế, văn hóa địa phương,… trong thời kỳ lịch

sử xã hội phong kiến Việt Nam.

Luận văn còn là nguồn tư liệu có thể tham khảo phục vụ việc giảng dạy lịch sử

địa phương Hòa Bình nói chung, Lạc Sơn nói riêng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn được

chia thành ba chương:

Chương 1: Khái quát về huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình.

Chương 2: Kinh tế của huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.

Chương 3: Văn hóa huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.

Ngoài ra trong luận văn còn có phần phụ lục bao gồm: 4 trang địa bạ và thống kê

địa bạ, 89 ảnh minh họa, 6 bản đồ và một bảng thống kê.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý Lạc Sơn là một huyện nằm ở phía Nam tỉnh Hòa Bình, độ cao trung bình 300m,

so với mực nước biển, là vùng đất được khai phá từ lâu đời. Cách thành phố Hòa Bình 56km, nằm trong tọa độ địa lý 20o21’- 20o37’ vĩ Bắc và 105o21’ - 105o kinh Đông. Phía Bắc giáp huyện Kim Bôi và huyện Cao Phong, phía Nam giáp huyện Thạch Thành (tỉnh Thanh Hóa), phía Đông giáp huyện Yên Thủy và phía Tây giáp huyện Tân Lạc

[2, tr. 3]. Huyện Lạc Sơn thời Lê thuộc đất động Lạc Thổ. Năm 1836 gọi là châu Lạc Yên, sau đổi là Yên Lạc.Tên gọi Lạc Sơn có từ năm 1887.

Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Huyện Yên Lạc ở cách phủ 57 dặm về phía

tây bắc, đông tây cách nhau 103 dặm, nam bắc cách nhau 65 dặm, phía tây đến địa

giới châu Đà Bắc tỉnh Hưng Hóa 52 dặm, phía nam đến địa giới 2 huyện Cẩm Thủy và

Quảng Địa tỉnh Thanh Hóa 25 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Thanh Thủy tỉnh Hưng

Hóa 40 dặm” [50, tr. 244].

Theo sách Đồng Khánh địa dư chí, viết: “Huyện hạt phía Đông giáp huyện

Phụng Hóa, phía Tây giáp châu Đà Bắc tỉnh Hưng Hóa, phía Nam giáp hai huyện Cẩm

Thủy, Quảng Tế tỉnh Thanh Hóa, phía Bắc giáp huyện Thanh Thủy tỉnh Hưng Hóa.

Đông Tây cách nhau 103 dặm, Nam Bắc cách nhau 65 dặm” [71, tr. 1039].

Ngày nay, huyện Lạc Sơn có tổng diện tích tự nhiên là 58.746,19ha, chiếm

12,4% tổng diện tích toàn tỉnh. Trung tâm huyện lị cách thành phố Hòa Bình 56km,

cách thủ đô Hà Nội 108km. Nằm ở vị trí khá xa trung tâm tỉnh lỵ, tuy nhiên so với điều

kiện chung của tỉnh Hòa Bình thì Lạc Sơn có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi

cùng với hệ thống giao thông ngày càng phát triển, huyện Lạc Sơn là một trong những

huyện lỵ khá phát triển so với sự phát triển chung của tỉnh Hòa Bình. Nhưng so với mặt bằng chung của sự phát triển của đất nước hiện nay thì Lạc Sơn vẫn là một huyện miền núi, phần lớn là tộc người Mường, còn rất nhiều hạn chế về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Điều kiện tự nhiên Lạc Sơn là huyện có địa hình bị chia cắt bởi nhiều đồi, núi, sông, suối, nhiều xã nằm xa trung tâm huyện và xen kẽ các núi đá cao, xa thệ thống giao thông. có thể chia Lạc Sơn thành ba vùng. Tuy nhiên, địa hình có độ dốc thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống hồ, đập thủy lợi và phát triển du lịch sinh thái.

Vùng thấp: Bao gồm thị trấn Vụ Bản và 16 xã: Quyết Thắng,Tuân Đạo,Văn

Nghĩa, Văn Sơn, Tân Lập, Nhân Nghĩa, Thượng Cốc, Xuất Hóa, Yên Phú, Chí Đạo, Vũ Bình, Định Cư, Hương Nhượng, Tân Mỹ, Ân Nghĩa, Yên Nghiệp. Đây là vùng có

địa hình tương đối bằng phẳng, dọc theo sông, suối lớn như: sông Bưởi, suối Cái, suối

Bìn và suối Yêm Điềm… Phần lớn các xã này có đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua, là

nơi có tiềm năng phát triển kinh tế khá lớn so với cơ sở hạ tầng đã bước đầu phát triển. Vùng cao: Bao gồm 5 xã nằm phía Tây và phía Bắc huyện gồm: Ngọc Lâu, Ngọc Sơn, Tự Do, Miền Đồi, Quý Hòa. Đặc điểm chung của các xã này nằm ở vị trí khá cao so với mặt biển, xa trung tâm huyện, xa hệ thống quốc lộ, tỉnh lộ, địa hình hiểm

trở và đồi núi cao.

Vùng sâu - xa: Bao gồm 2 xã phía Tây và phía Đông huyện gồm: Bình Hẻm,

Mỹ Thành và một phần xã Quyết Thắng. Đặc điểm chung của vùng này là vùng sâu,

nằm giữa hệ thống núi đá cao, địa hình là núi non hiểm trở, nằm xa trung tâm huyện,

xa hệ thống giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, giao thông nội bộ khó khăn nên còn nhiều khó

khăn trong phát triển kinh tế - xã hội.

Địa hình huyện Lạc Sơn khá phức tạp, có nhiều núi non hiểm trở. Trong đó có

các núi Thạch Bi, Ngọc Lâu, Long Sơn, Bình Hiểm. Trong đó, núi Thạch Bi là trung

điệp và dài nhất. Sách Đại Nam nhất thống chí chép về núi Thạch Bi như sau: “Núi

Thạch Bi ở cách huyện Lạc Yên 68 dặm về phía tây bắc, núi non trùng điệp quanh co

chạy dài, dải núi bên tả dài 16 dặm, ven theo sông Cầm Bàn đến tả ngạn sông Đà thuộc

tỉnh Hưng Hóa, dải bên hữu dài 13 dặm, cũng theo ven sông đến hữu ngạn sông Đà, ở

giữa la liệt núi đất, khe suối quanh co, thế rất hiểm trở…” [50, tr.256 -258].

“Đèo Vũ Lao ở cách huyện Lạc Yên 4 dặm về phía đông nam, phía bắc liền với

đèo Vụ Bản, có đường rẽ quanh chân núi về phía đông nam; lại có khe nước, tức là chỗ

phát nguyên của một chi lưu Yên Giang”;“Đèo Mụ ở cách huyện Lạc Yên 35 dặm về phía tây, một dài chạy dài, tiếp giáp với địa phận sách Cổ Lũng huyện Cẩm Thủy tỉnh

Thanh Hóa và địa phận Mai Châu tỉnh Hưng Hóa, trong đó có ngọn núi gọi là Đầu

Voi”; “Đèo Yên ở trên bờ sông Yên Giang, cách huyện Lạc Yên 14 dặm về phía nam, có đường đến địa giới huyện Quảng Địa tỉnh Hưng Hóa” [50, tr.256 -258].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Khí hậu ở Lạc Sơn tương đối khắc nghiệt. Chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hè rất lớn. Mùa hè nhiệt độ thường xuyên ở mức 35 - 38oC, có những ngày vượt quá 40oC. Vào các tháng 6, 7 ở Lạc Sơn xuất hiện gió Lào thổi theo từng đợt, 2 - 3 ngày một đợt. Mùa đông nhiệt độ hạ xuống 6 - 10oC. Có những ngày nhiệt độ xuống tới 1 - 2oC, xuất hiện sương muối, băng tuyết giá rét, có những năm có lốc và mưa đá.

Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23oC. Với điều kiện khí hậu như vậy, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và sản xuất của cư dân ở đây.

Sách Đông Khánh địa dư chí chép: “Huyện hạt nằm giữa rừng, khí hậu lạnh

lẽo, không kể là mùa thu hay mùa đông, khí lam chướng đều rất nặng nề. Dẫu là mùa

xuân hay mùa hè khí nóng bốc lên thành mù, tháng đậm sương dày, hàng ngày đến gân

trưa mới thấy trời hửng” [71, tr.1040].

Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.950mm (cao nhất là 2.400mm, thấp nhất là 1.500mm), phân bố không đồng đểu, hàng năm mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10 lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 7, 8 và 9. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau

lượng mưa không đáng kể. Độ ẩm bình quân đạt 84%, sự chênh lệch giữa các tháng

khá lớn, tháng cao nhất (tháng 3) là 90% và tháng thấp nhất (tháng 12) là 24% [2, tr.4].

Thiên nhiên Lạc Sơn khá phong phú về cảnh quan, đa dạng về địa chất với nhiều

dãy núi đá vôi bao quanh rừng, hệ thống khe, suối chằng chịt đổ về sông Bưởi để cung

cấp nước không chỉ cho một dải đồng bằng lớn chạy dọc theo hai bờ sông mà còn có

nhiều đầm, ao hồ khác. Hai Mường lớn là Bi - Vang cùng các khe suối nhỏ từ trên rừng

đổ về tạo thành khoang suối như: gốc Đa, bến Lấp, Khoang Bùi,… đều đổ ra sông

Bưởi.

Ở Lạc Sơn, sông Bưởi được hình thành tư ba nhánh chính: Nhánh suối Cái, suối

Yêm Điềm và suối Bìn. Là sông lớn nhất, độ dài 125km, là thượng lưu của sông Con

và chi lưu của sông Mã. Đây là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp

cũng như phục vụ cho các hoạt động dân sinh của các xã nằm dọc theo bờ sông. Ngoài

ra, các ao, hồ và đầm cũng đóng vai trò quan trọng cho tưới tiêu và có tiềm năng to lớn

cho phát triển thủy văn.

“Sông Cẩm Bàn ở huyện Lạc Yên 56 dặm về phía tây bắc, phát nguyên từ khe núi

thuộc tổng Lạc Thiện chảy về phía tây bắc 23 dặm, rồi đổ vào sông Đà tỉnh Hưng Hóa”. “Sông Yên (sông Khói) ở cách huyện Lạc Yên 80 trượng về phía tây bắc, có ba

nguồn: một địa phận xã Phú Vinh tổng Lạc Thiện, một địa phận xã Qui Hậu tổng Lạc

Nghiệp và một địa phận từ xã Quí Hòa tổng Lạc Đạo, hợp lưu với nhau chảy vào địa phận các xã Vũ Lao và Tức Mặc tổng Lạc Thành, rồi chuyển về phía tây nam chảy qua địa phận các xã Tân Nghĩa, Hoài Ân và Hiếu Nghĩa 31 dặm, đổ vào sông Hoàng Giang

thuộc huyện Quảng Địa tỉnh Thanh Hóa” [50, tr. 259].

Ngoài ra còn sông Lãng Phong ở phía đông bắc phủ lỵ Nho Quan cách 50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trượng, nguồn sông chảy từ khe núi Chân Lại ấp Yên Lương huyện Lạc Yên, đi qua phía đông bắc cách thành của phủ 17 dặm [36, tr. 118, 119].

Hiện nay, huyện Lạc Sơn có tổng diện tích tự nhiên 58.746,19ha, trong đó đất

sản xuất nông nghiệp 13.022,41ha, chiếm 22,16%; đất lâm nghiệp 36.856,58ha, chiếm 62,7%; đất chuyên dùng 2.389,44ha, chiếm 4,06%; đất ở 2.619,97ha, chiếm 4,56% và

đất chưa sử dụng 1.651,49ha, chiếm 2,81%. Đất đai của Lạc Sơn được chia làm nhiều

loại có nguồn gốc phát sinh khác nhau: Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét,

phân bố chủ yếu ở vùng đồi thuộc các xã vùng sâu - xa và một số xã vùng cao - xa. Loại đất này phù hợp với cây ăn quả, cây công nghiệp và trồng rừng; Đất xói mòn trơ sỏi đá tập trung chủ yếu ở các xã vùng cao của huyện. Loại đất này tuy không có khả năng khai thác cho phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng có thể sử dụng cải tạo để

trồng cỏ, phục vụ phát triển chăn nuôi đại gia súc; Đất trồng lúa gồm đất đồng ruộng,

đất phù sa sông Bưởi, đất ở các thung lũng, loại đất này chủ yếu tập trung ở vùng thấp.

Đất đai của huyện có độ mùn khá, độ PH phổ biến 4,5 - 5,5, phù hợp với nhiều loại cây

trồng [2, tr. 5].

Về tài nguyên: Trên địa bàn Lạc Sơn có một số mỏ khoáng sản như mỏ than ở

các xã: Vũ Bình, Mỹ Thành, Thượng Cốc và Yên Nghiệp, quặng sắt ở xã Quý Hòa, mỏ

vàng ở xã Ngọc Lâu, núi đá có ở phần lớn các xã vùng cao.

Tài nguyên nước của Lạc Sơn được cung cấp chủ yếu bằng ba nguồn chính:

nước ngầm, nước mặt và nước mưa tự nhiên.

Nước ngầm trên địa bàn xã Quý Hòa có mỏ nước khoáng, độ khoáng hóa thấp,

không chứa độc tố và kim loại nặng, có thể dùng làm nước uống, phát triển du lịch và

nghỉ dưỡng. Nguồn nước ngầm khác thông qua hệ thống giếng đào và giếng khoan

được khai thác chủ yếu cho sinh hoạt của nhân dân và các ngành công nghiệp.

Nước mặt có nguồn chính từ sông Bưởi và suối nhánh của nó, diện tích hơn một

nghìn héc ta, có trữ lượng nước lớn cả về mùa mưa và mùa khô, đồng thời có 413,88

héc ta diện tích đất mặt nước ao, hồ, đầm và diện tích mặt nước chuyên dùng.

Do điều kiện địa hình dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam và từ Bắc xuống Nam,

hệ thống hồ đập được xây dựng khá nhiều trên toàn huyện, nhất là các xã: Quý Hòa,

Miền Đồi, Tự Do, Xuất Hóa và Định Cư.

Lượng nước mưa trung bình khoảng 1.950mm trong năm, là nguồn nước bổ sung

cho các sinh hoạt khác của nhân dân và các ao, hồ đầm của huyện.

Lạc Sơn có tiềm năng tương đối lớn về lâm nghiệp với tỷ lệ diện tích sản xuất lâm nghiệp 36.856,58ha, chiếm 62,7% diện tích tự nhiên. Trong số 30.037,1ha diện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tích đất rừng, rừng tự nhiên chiếm 25.155,51ha, rừng trồng chiếm 4.881,59ha. Trong các thảm rừng tự nhiên có nhiều cây gỗ và lâm sản quý, ở một số vùng có khả năng phát triển kinh tế trang trại, du lịch và vườn rừng. Các vùng đồi núi trong huyện phù

hợp cấy trồng, phát triển nhiều các loại hoa màu, các công nghiệp, cây lấy gỗ và chăn

nuôi đại gia súc. Sản vật ở Lạc sơn: “Trong huyện lúa thu nhiều, lúa hè không có mấy. Dâu, đay, đậu, ngô, thì các nơi đều có, nhưng không nhiều mấy. Lâm sản có mật ong,

sa nhân, tre hoa, vầu gỗ tạp, nứa” [66, tr. 1040].

Trên cơ sở điều kiện tự nhiên sẵn có, Lạc Sơn là vùng đất thuận lợi cho sản xuất

nông nghiệp và lâm nghiệp. Lạc Sơn là huyện có sản lượng lúa lớn của tỉnh Hòa Bình,

đó là “Nhất Bi, nhì Vang”. Bi - Vang là hai vùng đất màu mỡ thuộc huyện Lạc Sơn.

Tổng diện tích đất trồng lúa ở Mường Vang, Mường Vó có trên 800ha, có hai con suối

lớn chạy giữa cánh đồng rồi đổ ra sông Bưởi. Ở đây, có nhiều khu ruộng đẹp có tiếng

trong tỉnh như: Khấm Moóc, Nà Lem, Khổ Vả, Đồng Sâu… Hàng năm, đồng ruộng

vùng Vang, Vó sản xuất gần 3.000 tấn lúa, được nhân dân trong tỉnh truyền miệng bằng

câu ví: “Cơm Mường Vó, lọ Mường Vang” - nghĩa là một vùng nhiều cơm nhiều lúa ở

địa phương.

Cảnh quan thiên nhiên huyện Lạc Sơn khá đẹp với nhiều núi đá, hang động như:

Hang Trại, mái đá làng Vành kết hợp với hệ thống rừng tạo thành các danh lam thắng

cảnh nổi tiếng: Rừng quốc gia Cúc Phương, trải dài theo địa giới 6 xã vùng Đại Đồng

và 3 xã vùng cao ở phía Tây huyện là Ngọc Lâu, Ngọc Sơn và Tự Do, khu bảo tồn

thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông, Thác Mu (xã Tự Do), Bãi Nhạ (xã Ngọc Sơn), Bãi

Bùi (Ngọc Lâu)… Hệ thống đình, đền, chùa, miếu, các di tích khảo cổ học, lễ hội, đặc

biệt là các dấu tích lịch sử độc đáo như: “Hạt thóc ngàn năm”, “Hoa hậu xứ Mường”,

vua Mường, chế độ quan lang (xã Tân Lập), lịch sử vùng mường Vang, “Miếu cây

thông” nằm ở chân núi Mụ, xã Quý Hòa, cao 1.073m so với mực nước biển, với núi

non trùng điệp, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, khí hậu trong lành. Mo Mường, Thường

rang, Bọ mẹng, Sắc bùa, Hát đối,… Những dấu tích này thể hiện bề dày truyền thống

lịch sử, nền văn hóa thời tiền sử của nguồn gốc xứ mường, của văn hóa Hòa Bình nổi

tiếng thế giới, là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch.

Về giao thông, trước khi thực dân Pháp xâm lược và chiếm đóng thì nơi đây hệ

thống giao thông rất ít. Theo Đồng Khánh địa dư chí: “Trong huyện có nhiều đường đi

tắt, đều là những nơi đồi núi trùng điệp, hiểm trở, địa thế khó đo được. Một đường nhỏ

từ xã Phong Phú đến sông Hoành Giang, dài 14.641 trượng. Vì đi qua rừng cây rậm

rạp, nên đường này gồ ghề, nhỏ hẹp, quanh co’ Một đường rừng từ xã Tức Mặc đến

bảo Đồn Cỏ, giáp huyện Mỹ Lương tỉnh Sơn Tây, dài 9.303 trượng 5 thước; Một đường

rừng từ ngã ba Tức Mặc đến bảo Định Giáo, giáp Mai Châu, Mộc Châu tỉnh Hưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hóa dài 10.290 trượng” [71, tr. 1041].

Các tuyến đường này có vai trò quan trọng trong việc đi lại của cư dân huyện

Lạc Sơn cũng như trao đổi buôn bán hàng hóa, giao lưu văn hóa giữa cư dân trong

huyện và các địa phương khác. Tuy nhiên do đặc điểm các con đường này chủ yếu là

đường đất, nhỏ, quanh co, nhiều đèo dốc nên khó đi.

Đầu thế kỷ XX, thực dân pháp mở các tuyến đường giao thông chính ở Hòa

Bình, ngoài đường 6, đường 15, đường 24, thì đường 12 từ dốc Cun qua Mãn Đức đi

Vụ Bản, Yên Thủy rồi xuống Ninh Bình, Thanh Hóa trở thành huyết mạch giao thông

chiến lược quan trọng trên địa bàn huyện.

Hiện nay, Lạc Sơn có hệ thống giao thông khá thuận lợi, đường bộ có tổng chiều

dài 575km, gồm quốc lộ 27km, tỉnh lộ 31km, huyện lộ 157km và hương lộ 360km. Quốc

lộ 12B nối liền Lạc Sơn với thủ đô Hà Nội theo hai hướng từ đường số 6 và đường 12C,

nối với khu vực Tây Bắc theo quốc lộ 6 và nối với các tỉnh phía Nam theo đường Hồ Chí

Minh. Hệ thống tỉnh lộ và hương lộ dẫn đến toàn bộ các huyện trong tỉnh, lưu thông

thuận tiện giữa các xã, thị trấn trên địa bàn huyện [2, tr. 7].

1.2. Lịch sử hành chính huyện Lạc Sơn

Lịch sử hành chính của huyện Lạc Sơn gắn liền với lịch sử phát triển của vùng

đất Ninh Bình.

Ninh Bình thời Hùng Vương cùng với Thanh Hóa là một trong 15 bộ của quốc

gia Lạc Việt. Sau thất bại của Thục phán An Dương Vương năm 179 TCN, nước ta rơi

vào tay Triệu Đà mở đầu thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1117 năm, lịch sử gọi là thời Bắc

thuộc (từ năm 179 TCN đến năm 938). Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc dưới ách thống

trị của các triều đại phong kiến phương Bắc: Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề,

Lương, Tùy, Đường tên địa danh hành chính của cả nước và các bộ có những thay đổi

và tên gọi khác nhau. Ninh Bình, theo sách Đại Nam nhất thống chí ghi chép: “Đời

Tần thuộc Tượng Quân. Đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, từ đời Ngô, đời Tấn về sau

thuộc châu Giao, cuối đời Lương là châu Trường Yên” [50, tr. 238]. Trong chính sách

cai trị của mình với nước ta ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và vùng xa trung tâm, hầu

hết các triều đại phong kiến phương Bắc vẫn để cho các tù trưởng cũ giữ bộ lạc của họ,

một số vùng của châu Trường Yên là vùng núi chủ yếu là đồng bào người Thổ (cách

gọi người Mường sau này) là một trong những vùng đất như vậy.

Sau khi họ Khúc khôi phục nền tự chủ, trải qua các triều đại phong kiến đầu tiên

của Việt Nam từ Ngô, Đinh, Tiền Lê vẫn gọi là châu Trường Yên. “Đời Lý gọi là phủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Trường Yên, sau gọi lại là châu Đại Hoàng; đầu đời Trần là lộ Trường Yên, sau đổi

thành trấn; năm Quang Thái thứ 10 (1398), đổi trấn Trường Yên thành trấn Thiên

Quang. Thời thuộc Minh gọi là châu Trường Yên” [50, tr. 238].

Thời Lê, dưới triều Lê Thái Tông (1433 - 1442) chia làm hai phủ Trường Yên và

Thiên Quan. Trong đó phủ Thiên Quan lãnh 3 huyện, có Lạc Thổ (Lạc Sơn ngày nay) lệ vào Thanh Hoa (tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Đời Hồng Đức (1470 - 1498), Lê Thánh

Tông cho nhập hai phủ Trường Yên và Thiên Quan vào Sơn Nam thừa tuyên.

Thời nhà Mạc, gọi hai phủ Trường Yên và Thiên Quan là Thanh Hoa ngoại

trấn. Sau khi nhà Lê diệt nhà Mạc, lại đem hai phủ này lệ vào Thanh Hoa gọi là ngoại trấn.

Bản triều, đầu đời Gia Long vẫn theo như thời Lê. Năm Gia Long thứ 5 (1806),

đổi Thanh Hoa ngoại trấn làm đạo Thanh Bình, vẫn lệ thuộc vào Thanh Hoa. Năm 1821 đổi tên phủ Trường Yên làm phủ Yên Khánh, năm 1822 đổi tên đạo Thanh Bình làm

đạo Ninh Bình, năm 1829 đổi làm trấn Ninh Bình [50 - tr. 238]. Trong cuộc cải cách

hành chính 1831 - 1832 dưới triều vua Minh Mệnh, trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh

Bình. Tỉnh Ninh Bình dưới triều Nguyễn có 2 phủ gồm 7 huyện. Phủ Yên Khánh gồm

4 huyện (Yên Khánh, Yên Mô, Gia Viễn và Kim Sơn); Phủ Thiên Quan gồm 3 huyện

(Phụng Hóa, Yên Hóa và Lạc Thổ). Lạc Thổ đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) đổi

thành Lạc Yên, sau đổi làm Yên Lạc, ngày nay là huyện Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình.

Ghi chép về huyện Lạc Yên sách Đại Nam nhất thống chí cũng ghi tương tự như

trên: “Nguyên là đất phủ Trường Yên; đời Lê Quang Thuận đặt làm huyện Lạc Thổ,

do phủ kiêm nhiếp, họ Quách là thổ tù nối đời quản trị; bản triều đầu đời Gia Long

cũng theo như thế, năm Minh Mệnh thứ 17 đổi tên hiện nay, mới đặt lưu quan; năm Tự

Đức thứ 9, bỏ tri huyện, do tri phủ kiêm nhiếp. Nay lãnh 4 tổng, 50 xã thôn” [50, tr.

244].

Sau khi đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp lập ra các tỉnh mới trên cơ sở chia các

tỉnh cũ thời phong kiến. Ngày 22 tháng 6 năm 1886 theo Nghị định của Kinh lược Bắc

Kỳ tỉnh Mường được thành lập là tách phần đất có người Mường cư trú từ các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Ninh Bình và Hà Nội. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ (thuộc châu Đà Bắc). Tỉnh Mường lúc đó có 4 phủ là: Vàng An, Lương Sơn, Chợ Bờ và Lạc Sơn. Phủ Lạc Sơn bao gồm phần lớn diện tích đất đai của các huyện Tân Lạc, Lạc Thủy và

Yên Thủy ngày nay, cũng là đơn vị hành chính lớn nhất của tỉnh Mường. Năm 1908, thực dân Pháp cắt chuyển một phần đất đai của phủ Lạc Sơn là Lạc Thủy cho tỉnh Hà Nam rồi đổi từ “phủ” thành “châu”. Châu Lạc Sơn lúc này gồm 4 tổng: Lạc Thành, Lạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đạo, Lạc Nghiệp, Lạc Thiện với 52 xã.

Sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, huyện Lạc Sơn tiếp tục có một số thay

đổi lớn về đơn vị hành chính. Sau khi đất nước độc lập, Nhà nước Việt Nam quyết định xóa bỏ một số cấp trung gian như phủ, châu, tổng gọi chung là huyện, hợp nhất các xã

nhỏ thành xã lớn. Châu Lạc Sơn đổi thành huyện Lạc Sơn, từ 50 xã thành 10 xã mới

gồm: Cộng Hòa, Tự Do, Liên Cộng, Dân Tiến, Đại Đồng, Kiến Thiết, Đoàn Kết, Quyết

Thắng, Toàn Thắng và Thạch Bi.

Ngày 15/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 480/TTg, tách huyện Lạc Sơn thành hai huyện Lạc Sơn và Tân Lạc, đồng thời thị trấn Vụ Bản được thành lập, huyện Lạc Sơn lúc này gồm 28 xã, 1 thị trấn. Ngày 01/01/1991, xã Liên Hòa tách

thành 2 xã mới: Bình Chân và Bình Cảng. Đến ngày 27/3/1999, xã Đa Phúc chuyển

giao về huyện Yên Thủy và như vậy Lạc Sơn có 29 đơn vị hành chính, gồm các xã:

Quý Hòa, Miền Đồi, Mỹ Thành, Tuân Đạo, Văn Nghĩa, Văn Sơn, Tân Lập, Nhân

Nghĩa, Thượng Cốc, Phú Lương, Phúc Tuy, Xuất Hóa, Yên Phú, Bình Hẻm, Chí Đạo,

Chí Thiện, Bình Cảng, Bình Chân, Định Cư, Hương Nhượng, Liên Vũ, Ngọc Sơn, Tự

Do, Vũ Lâm, Tân Mỹ, Ân Nghĩa, Yên Nghiệp, Ngọc Lâu và thị trấn Vụ Bản [2, tr. 3].

Hiện nay, Theo Nghị quyết về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp

xã thuộc tỉnh Hòa Bình số 803/NQ-UBTVQH14 ngày 17/12/2019 có hiệu lực từ ngày

01/01/2020, huyện Lạc Sơn có 24 đơn vị hành chính, gồm 23 xã: Ân Nghĩa, Chí Đạo,

Bình Hẻm, Định Cư, Hương Nhượng, Mỹ Thành, Miền Đồi, Ngọc Lâu, Ngọc

Sơn, Nhân Nghĩa, Quý Hòa, Quyết Thắng, Tân Lập, Tân Mỹ, Thượng Cốc, Tự

Do, Tuân Đạo, Văn Nghĩa, Văn Sơn, Vũ Bình, Xuất Hóa, Yên Nghiệp, Yên Phú và 1 thị trấn là Vụ Bản.

Về phân cấp hành chính, trong khoảng thời gian từ năm 1886 kể từ khi tỉnh

Mường được thành lập đến năm 1975, Lạc Sơn là một huyện của tỉnh Hòa Bình, từ

năm 1975 đến năm 1991, là một huyện của tỉnh Hà Sơn Bình và từ năm 1991 đến nay nằm trong địa giới hành chính tỉnh Hòa Bình [2, tr. 3].

1.3. Các thành phần dân tộc

Từ những bằng chứng của khảo cổ học chứng minh Lạc Sơn là một trong những nơi cư trú của người nguyên thủy. Các công cụ lao động ở Hang Trại (xã Tân Lập), di chỉ Mái đá Làng Vành (xã Yên Phú), thuộc nền văn hóa Hòa Bình. Những cư dân cư

trú đầu tiên trên vùng đất này chính là người Việt Cổ. Trải qua một quá trình hình thành và phát triển, người Việt cổ cũng đã bị phân hóa thành hai bộ phận là người Việt (Kinh)

và người Mường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Khác với nhiều vùng đất khác ở tỉnh Hòa Bình, ở huyện Lạc Sơn cho đến cuối thế kỷ XIX vùng đất này chủ yếu là người Mường sinh sống. Sách Đồng Khánh địa dư chí có

ghi: “Trong huyện đều là người Thổ (Mường), tính quen mạnh tợn, giỏi bắn nỏ, thích săn

bắn, không học chữ Nho… tính tình quê mùa chất phác” [71, tr. 1040]. Do đặc điểm về địa hình, vị trí địa lý nên ban đầu con người sinh sống trên vùng đất này thưa thớt rồi sinh

sôi này nở ngày một đông thêm. Mãi về sau thì mới có sự tiếp nhận thêm các dòng người

từ bốn phương tụ tập lại. Nhưng chủ yếu những người di cư đến vùng đất này chủ yếu là

người Việt do chính sách của các triều đại phong kiến. Cho đến đầu thế kỷ XX thì mới có sự xuất hiện của nhiều tộc người khác nhau sinh sống ở huyện Lạc Sơn. Theo thống kê của năm 2019 thì ở huyện Lạc Sơn có 16 dân tộc cùng sinh sống như: Mường, Kinh, Dao, Thái, Tày, Nùng,... Sự phân bố dân cư, dân tộc mang yếu tố xen kẽ, cao thấp khác nhau.

Theo số liệu thống kê dân số, huyện Lạc Sơn tính đến ngày 31/10/ 2019 có

136.652 nhân khẩu, được phân bố theo các dân tộc trong bảng sau:

Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Lạc Sơn

STT Dân tộc Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Ghi chú

Mường 1 124.354 91%

Kinh 2 11.615 8.5%

3 Các dân tộc khác 683 0.5%

Tổng 136.652 100%

Nguồn: Chi cục Thông kê huyện Lạc Sơn tỉnh đến ngày 31/10/2019

Bảng thống kê trên cho thấy, tại Lạc Sơn có nhiều dân tộc sinh sống trong đó

tập trung nhiều nhất là dân tộc Mường và Kinh thuộc ngữ hệ Việt - Mường.

1.3.1. Dân tộc Mường

Địa bàn cư trú chủ yếu của người Mường là ở những thung lũng thấp, tương đối

bằng phẳng, có nhiều đồng ruộng. Hiện nay Mường là tộc danh chính thức, được nhà

nước công nhận và sử dụng trong các văn bản pháp quy. Tuy nhiên, trong đời sống và

văn học dân gian, người Mường tự gọi mình là Mol, Mual, Mul hay mon… tùy cách gọi của từng địa phương. Mol, Mual, Mul, Mon đều có nghĩa là Người. Trước kia, Mường là một từ chỉ khu vực hành chính tương đương một châu, huyện hay một xã lớn như Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động.

Ở Hòa Bình người Mường là chủ nhân lâu đời nhất của mảnh đất này. Ngay từ

thời xa xưa, người Mường đã cư trú trên khắp các huyện thị trên địa bàn tỉnh, tuy mức độ phân bố không đồng đều cả về mật độ và số lượng. Hòa Bình là khu vực đặc điểm về địa hình phù hợp với đặc điểm cư trú chủ yếu của người Mường mà nhiều nhà nghiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cứu đã nhận định. Đó là vùng núi đá vôi thấp xen kẽ với những khối đá phiến, giữa các dãy núi có những mặt bằng thung lũng rộng, những đồi lượn sóng thấp. Trong quá trình

phân hóa thành hai tộc người Mường và Việt từ nguồn gốc chung là người Lạc Việt

sau hơn 1000 năm thời kỳ Bắc thuộc, thì tộc người Mường không có thay đổi nhiều về địa bàn cư trú của mình.

Vùng đất Hòa Bình cũng như huyện Lạc Sơn cách các tỉnh đồng bằng Bắc bộ -

nơi cứ trú chủ yếu của người Việt cổ không quá xa, cùng với một số địa bàn khác ở các

tỉnh như Thanh Hóa, Phú Thọ và một số tỉnh khác trong cả nước. Nhưng những địa

bàn đó chủ yếu là người Mường di cư đến sau này vì nhiều nguyên nhân khác nhau.

Hòa Bình cũng chính là tỉnh có số lượng người Mường sinh sống đông nhất trên cả

nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2009, số lượng người Mường

trên cả nước là 1.268.963 người. Cùng với đó, huyện Lạc Sơn cũng là một trong những

huyện có người Mường sinh sống đông nhất trong tỉnh so với một số huyện khác chiếm

91% dân số của toàn huyện. Sự phân bố cư dân Mường ở Hòa Bình gắn liền với nguồn

gốc lịch sử, môi trường tự nhiên của khu vực cũng như tập quán sản xuất và sinh hoạt

của dân tộc Mường.

Người Mường ở Hòa Bình tập trung ở những khu vực có địa hình thấp, có độ cao

trung bình 300m, nơi mà trước kia là các trung tâm trù phú nhất của người Mường ở

Hòa Bình với những cái tên như Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường

Động. Trong đó Lạc Sơn (Mường Bi, Mường Vang trước kia) và Kim Bôi (Mường

Thàng) là nơi có người Mường sinh sống đông nhất trong tỉnh Hòa Bình. Địa hình của

Lạc Sơn khá phù hợp với đặc điểm nơi cư trú của người Mường, là những vùng tương

đối bằng phẳng không quá cao, có những dòng sông con suối phù hợp với đặc điểm

canh tác nông nghiệp của người Mường. Trong quá trình hình thành và phát triển người

Mường cũng rất ít khi thay đổi địa bàn sinh sống của mình, Lạc Sơn được coi là cái nôi

của người Mường ở tỉnh Hòa Bình. Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng ghi chép: “Trong

huyện đều là người Thổ (Mường), tính quen mạnh tợn, giỏi bắn nỏ, thích săn bắn,

không học chữ Nho… tính tình quê mùa chất phác”. [71, tr.1040] Sách Ninh Bình toàn

tỉnh địa chí khảo biên cũng ghi lại: “Huyện Lạc Yên đều là thổ dân” (Thổ cách gọi

người Mường) [37, tr. 86].

Hiện nay, Lạc Sơn là địa bàn sinh tụ của 16 dân tộc với tổng số dân là 136.652 được

phân bố trên 24 xã, thị trấn trong huyện, trong đó dân tộc Mường là 124.354 người, chiếm

91%, còn lại là người Kinh và các dân tộc khác. Hầu hết các xã ở Lạc Sơn đều chiếm trên

90% dân số là người Mường (theo số liệu Chi cục Thống kê huyện).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1.3.2. Dân tộc Kinh

Sống xen kẽ với các dân tộc khá trong huyện, họ sống ở những vùng trung tâm

các xã trong huyện.

Người Kinh tới Hòa Bình muộn hơn, rải rác vào các thời điểm khác nhau. Tuy

nhiên có hai thời kỳ quan trọng nhất: từ nửa sau thế kỷ XVIII và những năm 60 của thế

kỷ XX.

Thời kỳ đầu tiên, từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa sau thế kỷ XIX.

Từ nửa sau thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, phần lớn đất Hòa Bình vẫn là nơi cư trú

của dân tộc Mường. Các tù trưởng Mường trải qua các triều đại: Lý, Trần, Hồ, Lê vẫn

được nhà vua ưu đãi và cho duy trì hình thức cha truyền con nối, thay nhau giữ đất trị

dân. Đến thời kỳ nhà Nguyễn, triều đình dần dần thực hiện chính sách thay thế cho chế

độ tù trưởng bằng chế độ lưu quan (nhà vua cắt đặt các chức quan lại của triều đình

nắm quyền cai trị địa phương). Mặc dù vậy những thay đổi mới này của triều đình, đặc

biệt đến thời vua Minh Mệnh làm cho các tù trưởng Mường rất bất bình. Vì vậy, khi

các cuộc nổi dậy của con cháu nhà Lê chống lại triều đình, tiêu biểu là Lê Duy Lương

(con Lê Duy Hoán) phải chạy lên đất Hòa Bình, đã được các tù trưởng Mường là họ

Đinh, Quách giúp đỡ. Năm 1831, Lê Duy Lương khởi nghĩa, đã được nhân dân Mường

ở các huyện ủng hộ rất đông trong đó có Lạc Yên. Vua Minh Mệnh đã phải điều quân

ở các tỉnh tỉnh Hưng Hóa, Nam Định và Hà Nội để đánh lui nghĩa quân. Sau đó, vua

Minh Mệnh cho thực hiện chính sách lưu quan ở Hòa Bình nhằm hạn chế quyền lực

của các lang đạo Mường. Mặc dù chính sách lưu quan của nhà Nguyễn không có nhiều

tác động đến đời sống chính trị, xã hội ở vùng Lạc Sơn nhưng từ đây, những người

Kinh bắt đầu di chuyển lên đất Hòa Bình.

Đến khi thực dân Pháp xâm lược, những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp

do Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp, Đốc Ngữ nổi lên ở vùng sông Đà với lực

lượng khá đông là những nghĩa quân người Kinh từ miền xuôi lên thì số lượng người

Kinh ở Hòa Bình bắt đầu có nhiều hơn. Tiêu biểu trong các cuộc khởi nghĩa kể trên

phải nói đến cuộc khởi nghĩa của Đốc Ngữ đã được đồng bào Mường và các dân tộc

khác giúp đỡ rất nhiều. Sau các cuộc khởi nghĩa này một số người Kinh đã ở lại vùng

đất Hòa Bình sinh sống lâu dài. Vì vậy, người Kinh và người Mường cùng sống xen kẽ

với nhau. Thậm chí nhiều người Kinh sống ở Hòa Bình thời đó, đến nay các thế hệ con

cháu của họ cũng trở thành người Mường và một số đã bị Mường hóa. Họ đã sống xen

kẽ với người Mường trong tất cả các huyện nên trong đời sống văn hóa, sản xuất của

họ cũng mang nhiều dấu ấn Mường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thời kỳ thứ hai, từ năm 1960 đến 1990.

Thời kỳ này, sự gia tăng số lượng người Kinh trên địa bàn tỉnh gắn liền chủ trương

phát triển kinh tế - xã hội miền núi của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sự di cư của

người Kinh đến Hòa Bình trong thời kỳ này được chia thành hai giai đoạn:

Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, một bộ phận khá lớn người Kinh di

chuyển từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ tới Hòa Bình theo chương

trình khai hoang phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước kêu gọi. Phần đông trong số

đó đến từ các tỉnh Ninh Bình, Thái Bình, Hà Nam. Do vậy, chỉ hơn 8 năm, số lượng

người Kinh từ 32.362 người (1/3/1960) đã tăng lên 83.249 người (1/10/1968) [66, tr.

120, 121].

Từ năm 1975, công trình thủy điện sông Đà bắt đầu được xây dựng đã thu hút số

lượng lớn người Kinh là các cán bộ công chức, lực lượng công nhân từ các tỉnh trong

cả nước. Đông nhất là người dân các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Thanh Hóa lên đất

Hòa Bình. Từ các lực lượng này, họ mang theo cả gia đình tới đây định cư. Họ đã sống

hòa nhập với đồng bào các dân tộc, giữa người Kinh và đồng bào các dân tộc khác đã

có sự giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống và sản xuất. Nhiều người Kinh đã định cư ở đây

và coi đây là quê hương thứ hai của mình. Chính vì vậy, từ năm 1968 đến 1989, trong

vòng 20 năm, số lượng người Kinh ở Hòa Bình tăng lên thêm hơn một trăm nghìn

người.

Sau khi thủy điện Sông Đà được hoàn thành (1995), số lượng người Kinh ở Hòa

Bình trong đó có huyện Lạc Sơn có nhiều biến động. Có những lúc tăng lên, có những

lúc giảm đi. Do sau khi thủy điện sông Đà được hoàn thành, một số lượng lớn người

Kinh quay trở về quê hương. Theo số liệu cuộc điều tra dân số năm 1994 số lượng

người Kinh giảm đi so với năm 1989 là 9.065 người. Theo số liệu của Cục Thống kê

tỉnh Hòa Bình năm 1999 thì người Kinh trong toàn bộ tỉnh từ năm 1989 đến năm 1999

chỉ tăng 4.588 người. Đối với huyện Lạc Sơn trong mười năm (1989 - 1999) người

Kinh trong huyện tăng từ 10.375 người lên 11.898 người chiếm 9,49%. [66, tr 120,

212]

Hiện nay người Kinh ở Lạc Sơn đứng thứ 2 về dân số sau người Mường và có

nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển của huyện. Theo thống kê vào

năm 2019 của chi cục Thống kê huyện Lạc Sơn, số người Kinh là 11.615, tương đương

8.5% dân số toàn huyện. Người Kinh sống rải rác khắp các địa bàn trong huyện, nhưng

thường tập trung những khu vực trung tâm các xã, huyện. Người Kinh ở huyện Lạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sơn cũng bị ảnh hưởng rất lớn của văn hóa người Mường, ví dụ như các phong tục tập

quán, tín ngưỡng dân gian. Thậm chí có một số người Kinh ở huyện họ cũng ở nhà sàn

như người Mường.

Tóm lại, dù là người dân bản địa hay dân nhập cư, dù là người miền xuôi hay

miền ngược nhưng khi cùng chung sống các dân tộc đã hòa đồng, quần tụ bên nhau tạo

nên nét văn hóa đặc sắc, đa dạng và phong phú. Họ cùng nhau xây dựng và phát triển nền kinh tế,văn hóa và xã hội của huyện.

1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Lạc Sơn

Lạc Sơn từ xa xưa vốn được coi là địa bàn có vị trí rất quan trọng. Là nơi tiếp

giáp với vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Thời quân chủ nó còn là một trong những địa bàn châu, lộ nằm trong vùng kinh đô của nhà Đinh, tiền Lê (Ninh Bình).

Sang thời nhà Lý (1010), kinh đô Đại Việt được dời từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng

Long thì Lạc Sơn vẫn là một trong những vùng đất có vị trí vô cùng quan trọng, nó là

nơi tiếp giáp với kinh đô Thăng Long, là “phên dậu” của kinh đô Thăng Long ở phía

Bắc. Lạc Sơn cũng là vùng đất “cửa ngõ” để giao lưu văn hóa, kinh tế với các tỉnh ở

phía bắc, các đồng bào dân tộc khác ở phía bắc nước ta.

Chính sách của các triều đình quân chủ Việt Nam đối với vùng rừng núi, biên

viễn chủ yếu vẫn là dựa vào các thổ tù địa phương bằng nhiều chính sách khác nhau

như: phong chức tước, kết nghĩa anh em, kết hôn… - Chính sách “nhu viễn”. Đặc biệt

với nhà Lý, Trần việc gả công chúa cho các châu mục trở thành thường lệ. Tiêu biểu

như dòng họ Thân ở Lạng Sơn, dòng họ Dương ở Thái Nguyên…

Những chính sách đúng đắn, khôn khéo, sáng tạo của các triều đại quân chủ đã

tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ cương vực vùng biên giới và giữ được mối quan

hệ tốt đẹp với các đồng bào dân tộc ở nhiều nơi, trong đó có Lạc Sơn.

Bên cạnh chính sách “nhu viễn” các triều đại phong kiến cũng thực hiện một số

chính sách: cử quan lại trực tiếp lên cai trị các địa phương miền núi. Nhà Nguyễn được

thiết lập năm 1802. Vua Gia Long cho xây dựng kinh đô ở Huế và thay đổi nhiều địa

danh, tổ chức hành chính nhằm củng cố vương quyền của triều đại Nguyễn vừa được thành lập. Tuy nhiên, Gia Long cũng nhận thấy rằng Bắc Hà là vùng đất xưa cũ của triều Lê, phần lớn có dòng họ thổ tù, lang cun, lang đạo ở các trấn biên giới phía Bắc vẫn chịu nhiều ân sủng của vua Lê. Vì vậy, Gia Long tuyên bố khẩu hiệu “phù Lê” và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phong cho con cháu nhà Lê làm diêm trợ công. Gia Long cũng miễn thuế cho các phiên thần khai quốc thời Lê. Vua Gia Long còn cho đặt ra chức Man phủ sứ để chuyên trách công việc phủ dụ lôi kéo các tộc người miền núi. Những chính sách này, nhằm ngăn chặn những cuộc nổi dậy hay chống đối của các phiên thần thời Lê. Để ổn định miền biên viễn, cho đến đầu thời Gia Long vẫn duy trì chế độ thổ tù, phụ đạo thế tập, các tù

trưởng Mường có họ Đinh, Quách, Bạch, Hoàng ở bốn mường lớn: Bi, Vàng, Thàng,

Động đều thế tập và quản mường (cha truyền con nối theo chế độ nhà lang), làm nghĩa vụ cai quản nhân dân trong địa bàn và cống nạp phu thuế cho triều đình trung ương.

“Khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn tiếp tục duy trì chế độ phiên thần cho các

thổ tù biên giới được thế tập, nhận chức quan của triều đình làm chức vụ sưu thế với nhà

nước được gọi là thổ quan” [79, tr. 152].

Năm 1820, vua Minh Mệnh kế tục sự nghiệp của vua cha, một mặt ông tiếp tục duy trì chính sách của vua Gia Long, mặt khác tăng cường sự kiểm soát chính quyền từ trung ương đến địa phương đặc biệt là những vùng miền núi, biên cương mà Lạc

Sơn là là một vùng đất không thể không chú ý tới, vì nơi đây là vùng núi và lại là nơi

đại đa số người Mường sinh sống.

Nếu như thời kỳ đầu nhà Nguyễn vẫn duy trì chế độ “phiên thần”, thổ quan thì

việc tổ chức và cai trị đất nước được vua Minh Mệnh kế tiếp, đã có những cải cách

hành chính quyết đoán. Vua Minh Mệnh từng bước xóa bỏ chế độ này và thực hiện

biện pháp người Kinh và người Thổ (Mường) cùng nhau cai trị. Năm 1821, nhà vua

nghị chuẩn cho tạm đặt các chức cai châu biên giới. Những chức này triều đình cho

phép các quan đứng đầu trấn chọn người có năng lực ở địa phương đảm nhiệm. Chính

sách này một mặt nhà Nguyễn từng bước thâm nhập vào tổ chức chính trị xã hội ở các

vùng miền núi biên giới để bắt đầu thay đổi đời sống chính trị ở những vùng này nhằm

củng cố chính quyền từ trung ương đến địa phương, nơi mà hầu như tất cả các triều đại

trước đều thực hiện chính sách cai trị bằng cách thông qua các tù trưởng là người địa

phương. Mặt khác, nhà Nguyễn vẫn duy trì chế độ sử dụng tù trưởng là những người ở

địa phương nhằm hạn chế làm xáo trộn đời sống chính trị xã hội ở những vùng này.

Đặc biệt với những vùng mà hầu hết những người sinh sống đều là người dân tộc như

ở vùng Lạc Sơn, Hòa Bình chế độ lang đạo đã xuất hiện và tồn tại hàng trăm năm. Và vì vậy, đến năm 1827, vua Minh Mạng mới xóa bỏ các chức quan vốn dĩ được trao cho

các thổ tù cai trị ở miền núi được đặt ra từ đầu thời nhà Nguyễn như: Tuyên uý đại sứ

tuyên uý sứ, chiêu thảo sứ, phòng ngự đồng tri, phòng ngự thiêm sự... thay bằng các chức tri phủ, tri huyện, huyện thừa như ở vùng người Kinh, nhưng các viên quan này đều do người địa phương phụ trách có thêm chữ Thổ đằng trước [79, tr. 153].

Đến năm 1829, vua Minh Mệnh ban hành chính sách khá cứng rắn đối với tầng lớp thổ tù trong thành hạt, theo công việc nhiều hay ít, dân số đông thưa, nên đặt Thổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tri châu, tri huyện, huyện thừa, lại mục thì định rõ ràng. Không cứ thổ ty, hào mục, cứ trong hạt ai là thanh liêm, tài năng cần cán vốn được dân tin phục thì chọn cử tâu lên không được theo trước xưng là tập quản. Việc phân định chức vụ được nhà nước quy

định rất rõ ràng: “đinh từ 5.000 người, ruộng từ 500 mẫu trở lên thì đặt một Thổ chi

châu, huyện đặt một thổ tri huyện cùng thổ lại mục đều một người: đinh từ 100 người, ruộng từ 100 mẫu trở lên thì đặt một Thổ tri châu, huyện đặt một Thổ huyện thừa; đinh

điền không có đủ 100 thì đặt một thổ lại mục” [53, tr. 862].

Năm 1831, vua Minh Mệnh giải thích rõ thực chất của việc bãi bỏ chế độ thổ ty

thế tập ở các trấn biên giới vì: "Lệ thế tập đời xưa, là để đền công. Nhưng con cháu công thần, nếu có người hư hỏng triều đình phải truất bãi thì lại thương tổn đến ân điển. Ví như nhà Hán phong các tước hầu chỉ núi vạch sông mà thề nhưng mới một vài đời chỉ còn có ba, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão. Chẳng gì bằng luận công

phong tước cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài trao chức, thế là giữ cho trọn

vẹn, cứ gì phải thế tập mới là đền công" [54, tr.224].

Có thể gọi đây là cuộc cải cách lớn chia đặt các đơn vị hành chính ở địa phương

trong phạm vi cả nước. Minh Mệnh coi cuộc cải cách này "là một phen quy hoạch lớn

lao khiến cho nước nhà có phên dậu giữ gìn, yên như thái sơn bàn thạch"[6, tr. 194].

Người Mường ở miền tây Thanh - Nghệ và Hoà Bình, quyền lực các lang cun,

lang đạo rất mạnh, Minh Mệnh kiên quyết xoá bỏ đơn vị hành chính cổ truyền của

người Mường bằng cách chia nhỏ ra thành các xã, huyện như mọi vùng khác. Trước

hết "hạ cấp" các lang cun, lang đạo vốn là các vua con của người Mường xuống chỉ

còn là các Thổ tri huyện, Thổ lại mục chịu sự quản lý của triều đình. Minh Mệnh không

những thủ tiêu quyền lực của các thổ tù, tù trưởng mà còn tiến tới xoá bỏ nguồn gốc

sinh ra nó [79, tr. 156].

Năm 1831 -1832, Minh Mệnh đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn từ

trung ương cho đến địa phương: Minh Mệnh xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn

thành tỉnh, chia cả nước thành 30 tỉnh là một phủ Thừa Thiên, đổi các dinh phía Bắc

thành 18 tỉnh. Đứng đầu các tỉnh là chức Tổng đốc và tuần phủ. Giúp việc có hai ti là Bố chính sứ ti và Án sát sứ ti. Dưới tỉnh là phủ, huyện (ở miền núi gọi là châu), tổng

và xã. Chính quyền tổng - xã được tổ chức chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền lực của nhà

nước và giải quyết những khó khăn một cách kịp thời. Ở miền núi, tri châu thường do các tù trưởng, thổ tù, lang đạo quản lãnh. "Ở miền thượng du, tình hình chính trị thường không ổn định, nên các vua nhà Nguyễn đặt một chế độ kèm cặp và kiểm soát các quan

chức người địa phương, trao cho các quan lại người Kinh từ trung ương cử về thực hiện, có nhiệm vụ chủ yếu là đốc xuất việc thu thuế, do thám và đàn áp các âm mưu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phản loạn. Một số tù trưởng trung thành và tin cậy ở các địa phương xa xôi và hiểm yếu được triều đình dựa vào và trao cho quyền hạn đặc biệt, phong làm phòng ngự sử. Bên cạnh phòng ngự sử thì thường đặt một viên quan người Kinh gọi là chiêu thảo sứ

hoặc phủ Man sử. Các quan chức này gọi là lưu quan" [76, tr. 254, 255]. Minh Mệnh

cho rằng đây là chính sách hay “quyền hành nặng, nhẹ kiềm chế lẫn nhau,chức tước lớn, nhỏ ràng buộc lấy nhau, thực là một chính sách hay trong việc giữ nước trị dân. Nếu

mô phỏng mà làm thì có lợi nhiều lắm” [54, tr. 226]. Minh Mệnh cũng nhận thấy sự thay

đổi này sẽ tác động rất lớn vào xã hội cổ truyền của rất nhiều đồng bào dân tộc thiểu số

miền núi phía Bắc nước ta, trong đó thiết chế chính trị lang cun, lang đạo của người Mường ở miền núi phía Bắc nước ta lúc bấy giờ. Và vì vậy, Minh Mệnh đã có chỉ dụ một số phủ, huyện, châu một số tỉnh phía Bắc hiện có Thổ tri huyện, Thổ tri châu, Thổ huyện thừa thì đều cho ở lại chức cũ, hợp lực theo quan do chính phủ bổ đến (lưu quan)

để cùng làm việc. Tuy vậy, chính sách này là một bước can thiệp sâu vào xã hội cổ truyền

với những thiết chế ổn định, bền vững, ít thay đổi của xã hội Mường ở Hòa Bình. Cải

cách của Minh Mệnh đã làm biến dạng và làm suy thoái thiết chế xã hội cổ truyền kiểu

chế độ nhà lang của người Mường vốn đã tồn tại khá lâu dài, bền vững trong lịch sử cộng

đồng tộc người. “Chính sách lưu quan đã vấp phải sự chống đối của các lang đạo họ

Đinh, họ Quách ở Hòa Bình… Minh Mệnh đã dùng sức mạnh quân sự đàn áp những xu

hướng ly tâm” [79, tr. 159]. “Với chính sách này Minh Mệnh cho đổi toàn bộ các mường,

động... thành xã để thống nhất đơn vị hành chính cấp cơ sở trên toàn quốc. Minh Mệnh

đã đặt những đơn vị hành chính giữa các xã và huyện châu đó là tổng giống như các tỉnh

miền xuôi. Với chế độ "lưu quan" miền núi, nhà nước đã tăng cường quyền lực trực tiếp

xuống tận các châu huyện. Những viên lưu quan này nằm trong bộ máy quan lại thống

nhất, đại diện cho triều đình quản dân, quản đất, thu tô thuế và bắt lính, lao dịch...” [79,

tr. 159].

Chính sách lưu quan của nhà Nguyễn đã có những tác động sâu sắc tới thiết chế

xã hội cổ truyền của rất nhiều các đồng bào dân tộc thiểu số miền Bắc, trong đó có thiết

chế lang cun, lang đạo của người Mường ở Hòa Bình vốn dĩ đã tồn tại khá lâu đời. Chính sách này đã đem lại hiệu quả thiết thực thể hiện được sức mạnh của triều đình

từ trung ương đến địa phương, nó góp phần làm ổn định vùng biên cương của đất nước.

Tuy nhiên, chính sách này đã đụng chám đến quyền lợi của các thổ tù, tù trưởng. Vì vậy nó đã vấp phải sự chống đối của một số tù trưởng, trong đó các lang cun, lang đạo họ Đinh, họ Quách người Mường ở Lạc Sơn, Hòa Bình (Họ Đinh và họ Quách cũng

chính là dòng họ lang cun, lang đạo vùng Mường Bi, Mường Vang đất của Lạc Sơn trước kia và là hai huyện Lạc Sơn và Tân Lạc ngày nay). Tiêu biểu trong các cuộc nổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dậy của các lang đạo ở Hòa Bình chống lại chính sách lưu quan và chính sách tô thuế của nhà Nguyễn của họ Đinh ở Lạc Thổ (Lạc Sơn), họ Quách ở Thạch Bi nổ ra từ năm 1832 và năm 1836, họ đã liên kết với các lang đạo ở miền tây Thanh Hóa… làm cho

cuộc đấu tranh lan tỏa ra nhiều vùng đến tận Quỳ Châu (Nghệ An), kéo dài cuộc khởi

nghĩa đến năm 1838. Cơ quan Cơ mật viện có một tờ tâu lên vua. Trong tờ trình tấu số 481 ngày 20 tháng 1 năm 1904 của cơ quan mật viện có đoạn “triều đình chưa ban bố

một luật lệ nào làm ảnh hưởng đến quyền hành chính hay tư pháp của các quan lang”.

Trong một văn bản khác, Cơ mật viện kết luận: “Những vấn đề này, nhà vua vẫn để

cho các quan lang dựa vào lệ cố của dân tộc ít người đó” [16, tr. 78]. Chính vì điều này mà chính sách lưu quan không phải thực hiện được ngày một lúc trong tất cả các địa phương ở miền núi phía Bắc mà phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Đến năm 1838, chính sách này mới được thực hiện một cách triệt để. Những viên

Lưu quan nằm trong bộ quan lại thống nhất, đại diện cho triều đình để quản đất, quản

dân, thu tô thuế và bắt lính, lao dịch. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ở Hòa Bình, thiết chế

lang cun, lang đạo vẫn tồn tại cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công thì mới

thực sự gần như tan rã hoàn toàn. Dù với chính sách lưu quan nó cũng đã phần nào bị

hạn chế và bắt đầu suy thoái nặng từ giữa thế kỷ XIX.

1.4.1. Các tầng lớp xã hội

Trong lịch sử cũng như rất nhiều huyện lỵ khác trong tỉnh, ở Lạc Sơn cư dân sinh

sống lâu đời nhất là người Mường. Như trên đã nêu tỷ lệ người Mường sinh sống cao

nhất so với các huyện khác trong tỉnh (91% dân số của huyện). Vì vậy khi nói đến xã

hội của huyện thì chủ yếu đề cập đến xã hội cổ truyền của người Mường.

Tổ chức xã hội Mường cổ truyền phổ biến là chế độ nhà lang.

Xã hội Mường cổ truyền ở Hòa Bình nói chung là ở Lạc Sơn nói riêng có thể

được xem là kết quả của nhiều “đẳng cấp”, trong chừng mực mà số phận xã hội của

từng cá nhân, dù nam hay nữ lại phụ thuộc vào dòng họ của người đó. Một cá nhân là

thành viên của tầng lớp nào trong số hai tầng lớp họp thành xã hội (những người thống

trị và những kẻ bị trị) thì đều hoàn toàn không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của riêng cá nhân ấy và cũng không trực tiếp phụ thuộc vào vị trí riêng của cá nhân đối với

các tư liệu sản xuất chính. Vị trí của họ gắn chặt vào dòng họ của mỗi cá nhân, thân

phận xã hội của từng người được áp đặt bằng đường cha truyền con nối (đối với người Mường thì theo chế độ phụ hệ vì vậy dòng họ Mường tức là tính về phía người cha). Xã hội người Mường được phân chia một cách rất rõ ràng. Tầng lớp thống trị hay

quý tộc Mường được gọi là Nhà Lang, tầng lớp bị trị gọi là Mọl (Dân). Mỗi con người được chính danh định phận một cách chặt chẽ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Tầng lớp thống trị - Nhà Lang. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử con người cũng như sự phát triển của xã hội thì đến thế kỉ X - XI, có sự phân chia Việt - Mường. Và kể từ đây, thì chế độ nhà Lang ở người Mường cũng xuất hiện. Trong kho

tàng truyện cổ của người Mường, ở Hòa Bình có chuyện: Chim thần đẻ trăm trứng ở

hàng Hào (Lạc Thủy - Hòa Bình ngày nay). Trứng chim nở ra loài người. Lang nở ra từ những quả trứng to, dân nở ra từ trong những quả trứng nhỏ. Như vậy là tư khi loài

người sinh ta, đã có dòng lang và dòng lang được quyền cai trị dân.

Dân có lang, làng có đạo

Hay Thượng ngọn cây, hạ ngọn cỏ đều là của lang Bé là con bố, con máng, lớn lên là con cun, con lang.

Đây là những câu thành ngữ cửa miệng của người Mường dưới chế độ cũ. Những câu thành ngữ trên mặc nhiên thừa nhận đất có lang là tất yếu, như là chuyện trời sinh

ra thế.

Trong phạm vi một mường, tức là một vùng đất gồm một số làng hay nhiều làng

được thành lập trên bờ cao bao quanh một thung lũng chân núi hay một số thung lũng

nối liền nhau, Nhà lang nắm quyền ở đấy chỉ gồm những thành viên trong dòng họ thôi,

một số dòng họ Lang ở Hòa Bình như: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng. Theo tập quán

Mường “đẳng cấp” thống trị cha truyền con nối làm lang. Ở Lạc Sơn có hai Mường:

Mường Bi và Mường Vang, cũng chính là hai mường lớn nhất trong bốn mường lớn ở

Hòa Bình “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”. Cai quản hai mường này là dòng

họ Đinh ở Mường Bi và họ Quách ở Mường Vang. Dòng họ Mường là dòng họ phụ

hệ, về mặt nào đó cũng mang ít nhiều chất “phụ quyền”. Một trong những biểu hiện

“phụ quyền” rõ nhất là đặc quyền của con trai cả: được hưởng phần lớn những tài sản

do cha để lại. Bộ máy chế độ nhà lang cũng thích ứng với khuôn khổ của dòng họ

Mường. Chế độ nhà Lang được phân chia thành 3 bộ phận:

Lang cun: Con trai trưởng của tông tộc trong chi nhánh trưởng của tông tộc nhà

lang trên danh nghĩa được quản toàn mường, gọi là lang cun. Dù vậy trên thực tế, lang

cun chỉ quản một số làng ở trung tâm mường mà người ta gọi là chiềng - có thể tạm xem đấy chính là “thủ phủ” hay trung tâm xã hội - chính trị của toàn Mường. Vì trong

xã hội của người Mường theo chế độ phụ hệ nên điều này áp dụng đối với cả nhà lang.

Lang cun sau khi lên thay cha mình nắm quyền quản toàn mường thì họ được hưởng (được ăn) mọi thửa ruộng ở chiềng mà mình cai quản (ruộng lang) mà lang cun cha để lại. Lang cun có toàn quyền sở hữu, sử dụng và phân chia ruộng đất trong mường. Hầu

như các em trai của ông hoàn toàn không được ăn thửa nào trong phần đất mà lang cun cha đã để lại vì vậy cho dù đã có gia đình riêng, thì họ vẫn phải sống bám vào anh cả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Điều này cũng có nghĩa là lang cun phải có trách nhiệm cho các em của mình là lang đạo và cả lang thường.

Lang đạo là các con trưởng của các chi nhánh thứ thì quản từng làng hay một cụm

làng ở ngoài chiềng gọi là lang đạo (lang tạo). Lang đạo phụ thuộc vào lang cun rất nhiều, ví dụ: lang đạo cũng phải góp cho lang cun khi lang cun có công việc lớn như

cưới xin, lễ tết hay ma chay, hay khi lang đạo có công việc gì lớn cũng phải xin phép

lang cun. Lang đạo cũng theo tục cha truyền con nối.

Lang thường là anh em họ hàng nhà lang, là con cháu các ngành thứ, họ không đảm nhận chức vị gì trong bộ máy thống trị ở mường và ở làng mà thường sống nhờ vào lang cun và lang đạo. Vì mang tước hiệu lang nên họ không phải đi phu phen, tạp dịch, không phải đi làm ruộng xâu, nõ. Nhưng họ phải đóng góp khi lang cun, lang đạo

khi có công có việc. Đối với việc kết hôn con trai nhà lang thì có thể kết hôn với con

gái của nhà dân. Còn đối với nàng (con gái nhà lang) thường phải kết hôn với người

nhà lang khác họ. Một khi nàng không lấy được chồng lang thì thường ở vậy đến già,

còn nếu nàng lấy chồng dân thì nàng sẽ bị khai trừ - đuổi khỏi dòng họ lang của mình.

Nhà lang bóc lột dân trong mường của mình bằng thức thức “xâu”, “nõ” đối với

“nhà nóc”. Hai hình thức này có đôi chút khác biệt. Người Mường có thành ngữ: “Cày

nõ, hái xâu” hay “lang xâu, đạo nõ”. Đây là hình thức lao dịch không công chủ yếu trên

ruộng nhà lang cun, lang đạo của người dân từ lúc làm đất cho đến cấy, gặt và thu

hoạch đưa về xang, đụn của nhà lang. Công việc này dưới sự tổ chức, đôn đốc trực tiếp

của ậu cả (ậu cả hay ậu anh là người đứng đầu toàn bộ hệ thống ậu chiềng. Được nhà

lang tin tưởng giao cho trông nom nghĩa vụ làm xâu, nõ của dân và một số công việc

khác trong nhà lang. Vì vậy, ậu cả được hưởng khẩu phần ruộng dân (na jân) thuộc loại

tốt nhất).

Làm “xâu” là hình thức bóc lột của lang cun, cho nên người Mường thường có

câu: “cun xâu, đạo nõ”. Đặc biệt hình thức làm xâu là tất cả những người có nghĩa vụ

đi làm xâu cho lang cun được các ậu phân công thì đều làm cùng nhau. Ậu cả phụ trách việc phân công từng nhà nóc làm những công việc gì ở những đâu và giám sát trong

suốt quá trình khi công việc đang được tiến hành. Làm nõ là hình thức bóc lột chủ yếu

của lang đạo. Tuy nhiên, lang cun thì vừa có thể bóc lột bằng cả hai hình thức “xâu” và “nõ”, nhưng lang đạo thì không có hình bóc lột là làm xâu (vì lang đạo không có ruộng xâu). Làm nõ thì ậu chỉ có mặt vào đầu vụ, khi phân các mảnh ruộng cho những

hộ phải lao dịch theo hình thức ấy và vào cuối vụ, khi người lao dịch gánh lúa đến nộp cho lang chủ quản. Nhìn bề ngoài thì những người làm nõ cũng không khác gì người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cày bừa trên ruộng mình được ăn. Nét chung của xâu và nõ là toàn bộ sản phẩm lao động về tay lang chủ quản, là đặc quyền của từng lang chủ quản. Là hình thức lao dịch không công của các hộ nhà nóc của từng chiềng hay từng làng. Công cụ lao động và

súc vật cung cấp sức kéo như trâu, bò đều do từng lao động tham gia làm xâu và nõ bỏ

ra, nhưng thóc giống thì do lang chủ quản cung cấp. Hình thức này làm việc tập thể có người tham gia. Xong công việc thì về nhà. Trong những ngày lao dịch trên ruộng lang

(ruộng lang là những mảnh ruộng tốt nhất, có năng suất cao nhất ở mường), nhà lang

thường cho người đi làm ăn vào các buổi bừa vạt (bừa sau cùng để cấy), bữa cấy và

bữa thu hoạch gọi là “ăn cơm vía”. “Ở mường Vang, bình quân người dân đi lao dịch cho nhà lang 100 ngày một năm” [16, tr. 121].

Trong mường, bất kể một “nhà nóc” có công việc gì đều phải thông qua nhà lang (cun): đám cưới, làm nhà mới, đi săn được thú lớn phải biếu lang... Khi nhà lang có

công có việc như làm nhà, cưới xin thì người nhà dân phải đến phục vụ lang. Bản chúc

thư của quan lang Quách Phú Lương mường Khụ (Lạc Sơn - Hòa Bình) ngoài việc

phân chia ruộng đất cho con trai, thì chúc thư có đề cập đến những lệ tục, luật tục mà

các đạo làng, lang làng cũng như dân trong mường phải nộp, phải đóng cho lang cun

mỗi khi gia đình mình và nhà cun có việc hiếu hỉ [16, tr. 86].

Lang cun không chỉ là ông chúa địa phương, thủ lĩnh tinh thần của mường, chỗ

dựa của các triều đại quân chủ ở nước ta, là thủ lĩnh quân sự, các cun lang còn được

thực hiện quyền “tư pháp”, vỗ về, khuyên can, hòa giải và xử phạt đối với người dân

và người nhà lang phạm tội, vi phạm luật tục. Trong tờ trình tấu số 481 ngày 20 tháng

01 năm 1904 của Cơ mật Viện có đoạn: “Triều đình chưa ban bố một luật lệ nào làm

ảnh hưởng quyền hành chính hay tư pháp của các quan lang”… “Những vấn đề này,

nhà vua vẫn để cho các quan lang dựa vào lệ cổ của dân tộc ít người đó” [16, tr. 78].

Điều này cho thấy rằng xưa nay các triều đại không có bàn gì về quyền hành và quyền

lợi của các lang đạo, nhưng khi đụng đến thì coi như để nguyên theo “lệ cổ” như lâu

nay chế độ lang đạo đã thực hiện ở vùng Mường đó. Và vì vậy nhà lang có quyền hành

chính và tư pháp ở mường mình cai trị. Ví như: “Nhà dân ở Hòa Bình không được làm nhà quá ba gian hai chái. Thang lên gác không được cao quá 6 bậc, phần lớn là 5 bậc,

nhà nghèo thì 3 bậc. Con gái nhà lang, các mái nàng diện ngất trời trong váy vuôn áo

khóm mớ ba mớ năm, chân đi guốc, dép giày. Con gái nhà dân dù có khá cũng không được mặc váy có đầu hoa văn con rồng, không được mặc váy lĩnh, chỉ được mặc váy vải nhuộm nâu nhuộn qua bùn đen như con gái người Kinh vùng Phú Thọ nhuộm lá

sòi và láng qua bùn ao, thành một thứ váy thâm. Hoặc cũng có mường váy con gái được nhuộm màu chàm một cách qua loa” [16, tr. 94, 95].

Về tính chất và hình thức thì chế độ nhà Lang trong xã hội cổ truyền của người

Mường khá giống với chế độ Quằng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Lang hay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Quằng đều được coi là chúa đất. Lang cun có toàn quyền sở hữu và sử dụng mảnh đất

mường đang cai quản. Trong mường toàn bộ đất đai, núi rừng, sông nước, muông thú,

mọi sản vật trên mảnh đất mường thuộc quyền cai quản của nhà lang. Lang cũng theo

chế độ cha truyền con nối, họ cũng làm mọi cách để địa vị thống trị của mình không rơi

vào tay người thuộc dòng họ khác bằng nhiều tục lệ khắt khe, như: con trai nhà lang có

thể lấy năm thê bảy thiếp con gái nhà dân, nhưng con gái nhà lang không được lấy con

trai nhà dân, nếu không họ sẽ bị đuổi ra khỏi dòng họ lang.

Lang cun không chỉ có quyền hành, họ cũng phải có nghĩa vụ đối với dân. Qua

các câu dân ca tục ngữ ở các bản tình ca Nàng Nga - Đạo Hai Mối, Nàng Út Lót - Đạo

Hồi Liêu thì các lang đều muốn: “Yên đất yên mường; yên dân ấm chúa”, tức là muốn

có cảnh người dân có cuộc sống no đủ, đất mường giàu có, cuộc sống yên bình, chan

hòa. Nhà lang đều có nghĩa vụ bảo vệ đất mường, bảo vệ dân, tạo điều kiện cho dân

yên ổn sinh sống làm ăn. Đây cũng là nghĩa vụ đầu tiên và cũng hết sức lớn của lang

đạo. Nghĩa vụ này trong suốt lịch sử chế độ lang đạo phải thực hiện, phải đến khoảng

những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, việc này mới được giao cho các lý trưởng, trương

tuần. Nhưng phần lớn các lý trưởng, các xã chòm cũng là người dòng họ lang đạo.

Ngoài ra lang cũng có nghĩa vụ hỗ trợ dân khi gặp khó khăn, đói kém…

Còn một bộ phận nữa trong chế độ nhà lang đó là bộ phận lang thường, đây là lực

lượng đông đảo trong “đẳng cấp” thống trị, họ là con thứ thuộc các chi nhánh khác

nhau. Bộ phận này thường rất ít lao động, họ sống phụ thuộc vào lang cun và lang đạo.

Về sau, do những biến động của xã hội, do mưu sinh, họ cũng phải lao động như những

mọl trong các mường.

Giúp việc cho nhà lang là bộ máy chức dịch gọi là “Ậu” xuất thân từ họ dân. Tuy

nhiên hệ thống này không theo hình thức cha truyền con nối, đôi khi họ cũng lợi dụng

vào chức quyền mà bóc lột dân.

Tầng lớp bị trị - Mọl (dân) là những người thuộc nhiều dòng họ, kể cả khi họ

chung sống với nhau chỉ trong một làng. Nhưng tất cả mọi thành viên của từng dòng

họ dân lại cư trú ở nhiều làng, thậm chí nhiều mường. Đối với nhà lang họ tự phân biệt

với nhau bằng một tộc danh riêng (Đinh, Quách, Bạch, Hoàng…), thì các dòng họ dân

khác nhau lại mang một tộc danh chung: Bùi. “Nhãn hiệu” ấy vì trùm lên quá nhiều

dòng họ, không còn là tộc danh nữa, mà đã trở thành từ chỉ định một “đẳng cấp”, một

lớp người cố định trong xã hội [75, tr. 9].

Tầng cao nhất được dành cho các ậu. Đây là những thành viên của “đẳng cấp” bình dân (dân). Ậu được các lang cun, lang đạo cho lên vị trị này hoặc vị trí kia trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bộ máy phụ việc cho cun hoặc đạo. Số Ậu nhiều hay ít còn tùy thuộc vào thế lực của

lang. Vị trí ậu cao nhất gọi là ậu eng (ậu anh) và được hưởng mỗi người một khẩu phần

ruộng công hoặc ruộng dân thuộc loại tốt nhất. Những ậu ở vị trí thấp hơn gọi là ậu ún (ậu em) có mặt trong bộ máy để lang cun, lang đạo và các ậu anh sai phái, phần ruộng

công mà các ậu em được hưởng cũng giống như phần ruộng của những hộ dân ở

mường. Theo lệ Mường ở Hòa Bình cũng như ở Thanh Hóa, Phú Thọ, chức ậu không

được cha truyền con nối. Việc cất nhắc hay truất quyền của ậu là hoàn toàn tùy thuộc vào lang chủ của mường. Lang không cần bàn bạc với bất cứ một ai, cũng không cần báo trước. Trong trường hợp ậu vi phạm luật lệ mường, làm hại quyền lợi của lang thì lang cun, lang đạo có quyền cắt chức ậu, thay thế người khác. Khi bị truất, ậu phải trả

lại ruộng được hưởng cho người khác mới lên thay. Khi một người nhà nóc được cất

nhắc làm ậu thì phải có cỗ khao cả mường. Tùy theo chức ậu mình được cất nhắc đó to

hay nhỏ mà cỗ khao cũng to nhỏ khác nhau. Cũng có những trường hợp là ậu cha sau

khi mất thì con tiếp tục làm ậu nếu như lang cun và lang đạo tiếp tục tin tưởng. Điều

đó có nghĩa là ruộng ậu được hưởng cũng truyền lại cho con. Thực chất, ậu là những

chức việc, giúp việc đắc lực nhất của bộ máy nhà lang Mường. Ngoài những quyền lợi

mà ậu được hưởng nêu trên, chức năng và nhiệm vụ của ậu thể hiện tương đối điển

hình thông quan việc quản lý và khai thác ruộng lang. [66, tr. 199]. Ậu cũng được phân

chia thành các nhóm khác nhau tùy theo tính chất công việc được giao. Ví dụ như có

hệ thống ậu được giao quản lý chung, ậu được giao việc trông coi việc ruộng đất, việc

mường, việc xóm. Ngoài ra tùy sở thích của lang từng mường còn đặt ra một số ậu để

phục vụ sở thích của lang như đi săn, đi chơi thì có thêm các chức ậu khác như ậu hoa,

ậu sám, ậu viếng…

Bên dưới là một tầng trung gian, gồm những hộ dân, nhưng là dân bình thường,

người ta hay gọi là “nhà nóc” có khi gọi là Mọl Mường (người trong mường), để phân

biệt với các hộ ậu anh thuộc tầng lớp trên, cao hơn. Đây là lực lượng mà hầu hết đều mang họ Bùi (như đã đề cập ở trên). Đây là tầng lớp làm mọi nghĩa vụ đối với nhà lang,

là đối tượng chính làm xâu, làm nõ cho nhà lang. Họ có một chút ruộng nà tự khai thác

ngoài ruộng đất mà họ phải làm xâu, nõ cho nhà lang, ngoài ra họ cũng có trâu, bò, lợn, gà.

Đối với người dân trong mường họ có nghĩa vụ phải phục tùng tuyệt đối sự cai

trị của nhà lang. Không được chống lại những lệ tục những quy định của nhà lang. Nếu con gái được gả vào họ nhà lang thì phải đổi sang họ nhà lang. Cùng với việc thờ cúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cha mẹ thì cũng thờ cúng tổ tiên nhà lang. Hàng năm có giỗ tổ hay làm vía mường phải tham gia đóng góp. Coi lang cun như cha như mẹ, tỏ lòng kính yêu thật sự. Khi lang cun chết, cả mường phải khóc, để tang, cả mường phục dịch nhiều ngày. Ở Hòa Bình

khi quan lang và là Chánh hội đồng quan lang tỉnh kiêm tuần phủ Quách Vị quê Mường

Vang qua đời làm ma đến 15 ngày, thịt trên 100 con trâu, 150 con lợn, hàng ngàn con gà để mo cúng tiễn đưa lang về mường ma [16, tr. 118]. Nghĩa vụ làm xâu, làm nõ và

những phục dịch khác cho lang là bắt buộc đối với người dân ở mường. Cùng với xâu,

nõ là hình thức lao dịch chủ yếu trên những thửa ruộng các lang cun, lang đạo, người

dân còn những nghĩa vụ khác phục dịch cho nhà lang hàng ngày và trong các ngày hiếu hỷ, làm nhà mới, đào ao nuôi cá… Người dân phải thực hiện lệ cống nạp, như là nửa phần nghĩa vụ, những cũng có phần nào đó mà người dân muốn san sẻ niềm vui của gia đình mình với lang đạo.

Ngoài nghĩa vụ đối với nhà lang, dân cũng có quyền của họ ở chế độ nhà lang.

Dân được sống yên bình làm ăn không bị cướp phá, trộm cắp. Tính mạng và tài sản

được bảo vệ. Nhà cửa, ruộng đất trâu bò không bị cướp giật. Nhà lang phải bảo đảm

cho được những điều này [16, tr. 127], dân có quyền được hỗ trợ, giúp đỡ khi gặp hoạn

nan, đói kém. Người dân có thể vay nhà lang đến mùa sẽ trả, tuy nhiên luật tục cũng

hạn định: “Vay ló phải có ló tải, vay pải phải có pải t’rong chuống” (nghĩa là vay lúa

phải có lúa tải, vay vải phải có vải trong khung dệt) dân được quyền phân giải, xét xử

khi bị oan trái, bị xâm hại đến tài sản, tính mạng.

Tầng lớp thấp nhất trong xã hội Mường đó là Noọc kloi (nóc trọi) hay Tựa roọng

(đứa nương, tức những người sống bằng nương rẫy) là hạng “cùng đinh”, nhà của họ

tách khỏi làng xóm, gần với rẻo thấp tiện cho việc lên nương. Thường họ không có

ruộng nước nên cũng không được tham gia các nghi lễ nông nghiệp ở làng xóm. Những

Nóc trọi này là kết quả của luật tục sở hữu ruộng đất trong xã hội mường truyền thống,

ở bất cứ một làng mường cổ truyền nào cũng có một số hộ không được hưởng quyền

sử dụng ruộng công. Trong xã hội mường việc chia lại ruộng đất công hầu như rất hiếm

khi xảy ra, xã hội lại là xã hội phụ quyền đề cao người con trai cả trong xã hội. Vì vậy

khi trải qua một thời gian thì sẽ có những người không có ruộng đất công, những người

này buộc phải tìm kế sinh nhai ở những rẻo cao, sau đó họ định cư lâu dài luôn ở những

nơi đó. Thường bộ phận này không bị lang quản thúc. Cũng có hiện tượng các nóc trọi

này được nâng lên thành nhà nóc những cũng rất hiếm khi xảy ra, ví như: họ lập được

công trạng trong mường hay với lang thì họ có thể được lang nâng lên thành nhà nóc,

ngược lại nhà nóc cũng có thể bị biến thành nóc trọi nếu như trong quá trình tồn tại

không thể giữ được vị trí và vai trò của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Như vậy có thể thấy, xã hội Mường cổ truyền vốn phân hóa thành hai “đẳng cấp”. Nhà lang, lớp người trên, thống trị và bên dưới là người hay dân, lớp dưới, bị trị. Giữa

hai lớp này rất ít có hiện tượng chan hòa lẫn nhau, vì thân phận xã hội của từng cá nhân

là cha truyền con nối, nghĩa là được truyền bằng con đường huyết thống. Trong mỗi một “đẳng cấp” cũng phân hóa thành các tầng lớp nhỏ khác nhau, có vị trí, quyền lợi, nghĩa

vụ khác nhau trong xã hội.

Thiết chế xã hội của người Mường Hòa Bình có một nét tiêu biểu rất khác với

nhiều tộc người khác, đó là mối quan hệ xóm - mường - nhà lang. Đây là thiết chế xã hội theo lối tự quản. Xóm hay làng tiếng Mường nghĩa là quêl. Làng là đơn vị cơ sở cơ bản của xã hội Mường. Ở đó bao gồm nhiều gia đình nhỏ có cha mẹ và con cái theo chế độ phụ quyền. Người cha và người con trai trưởng là trụ cột có quyền quyết định

mọi việc của gia đình. Về tổ chức làng xóm, mỗi làng người Mường có một Thổ tù,

mỗi xóm có một Thổ lang. Thời xưa, mỗi làng của người Mường thường chỉ do một

dòng họ khai phá lập nên, như vùng Mường Bi trước đây duy nhất có một dòng họ

Đinh Thế sinh sống, chính dòng họ này thường là Thổ tù hay Thổ lang, những người

này được coi như chúa đất địa phương. Họ được gọi là quan lang. Sau này, trải qua quá

trình sinh sống có nhiều dòng họ mới kết hợp trên cùng một lãnh địa cư trú, họ cùng

nhau trị thủy, cày cấy, chống giặc cướp, thú dữ… Sau này trên một làng của người

Mường có nhiều dòng họ sinh sống. Ở Định Giáo có họ Bùi, Hà, Đinh Công… ở mỗi

một làng thường có một dòng họ là hạt nhân, dòng họ ấy có thể chiếm tới một nửa hoặc

quá nửa số nóc nhà trong làng. Người Mường có câu ngạn ngữ: “Anh em xa không

bằng hai ba nhà cùng rộc”, điều này nói lên quan niệm cộng đồng láng giềng của người

Mường được hình thành khá bền vững, họ giúp nhau mỗi khi gia đình có việc lớn như

làm nhà, có đám hiếu, hỷ, giúp nhau khi hoạn nạn, ốm đau… Trong làng người Mường,

anh em họ hàng thường làm nhà gần kề nhau. Điều này cũng chứng tỏ quan dòng họ,

quan hệ xóm giềng ở làng của người Mường rất thân thiết. Người Mường có hai loại

hình làng tiêu biểu: Làng trên những quả đồi thấp hoặc sườn đồi với cách phân bố nhà dọc theo gò đồi của địa hình tự nhiên và làng nằm trên một vùng đất bằng phẳng ngang

với mặt ruộng, các ngôi nhà tập trung thành từng cụm, cả làng có một đường đi chung.

Ở Lạc Sơn kiểu làng thứ hai phổ biển hơn. Làng của người Mường có những ranh giới, quy định riêng dù chỉ là ước lệ. Các khu vực đất đai chung của một làng được xác định và tồn tại bền vững, dù ranh giới đó chỉ là một con sông, một hòn đá to hay một gốc

cây lớn nhưng vẫn được mọi người chấp nhận. Họ không tự ý lấn chiếm sử dụng đất của làng khác cũng như không lấy củi, lấy lâm thổ sản ở rừng làng khác. Luật tục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mường quy định: người làng khác bắn được con thú sống trên phần đất của làng láng giềng thì phải chia một nửa thị thú cho nhà lang làng đó. Nếu bắt được tổ ong thi phải biếu nhà lang một số tầng dưới cùng khi tổ ong đó nằm kề bên đất rừng làng láng giềng.

1.4.2. Bộ máy quản lý làng bản

Làng xóm là cụm dân cư mang tính thiết chế xã hội truyền thống, nhiều làng xóm gộp lại thành tổng có tù trưởng hoặc thổ ty cai quản. Người Mường và một số dân tộc theo

ngôn ngữ Tày - Thái thì tổ chức xã hội truyền thống cao hơn làng, bản là mường.

Thời quân chủ, tù trưởng hoặc Lang (người Mường), Quằng (người Tày) được

triều đình phong chức tước hoặc công nhận, trở thành quan chức của triều đình, độc quyền thống trị một vùng và theo chế độ cha truyền con nối. Do đặc điểm về địa hình chủ yếu là đồi núi, cư dân sống phân tán trên một địa bàn rộng lớn vì vậy phạm vi thống trị của một Lang thường không lớn lắm. Điều này khiến cho quy mô tổ chức bộ máy

thống trị của nó nhỏ bé, hình thức tổ chức tương đối đơn giản. Tuy vậy, xét về tính chất

nó vẫn mang đầy đủ tính chất của một bộ máy nhà nước, một công cụ áp bức giai cấp.

Nó giống như một nhà nước phong kiến thu nhỏ ở thời sơ kỳ.

Đứng đầu địa phương (mường) là Lang. - Lang cun: Là người nắm quyền lực cao nhất, lớn nhất toàn mường. Là con trai trưởng của tông tộc trong chi nhánh trưởng của tông tộc nhà lang trên danh nghĩa được

quản toàn mường, Dù vậy trên thực tế, lang cun chỉ quản một số làng ở trung tâm

mường mà người ta gọi là chiềng.

- Lang đạo (tạo): Là các con trưởng của các chi nhánh thứ thì quản từng làng hay

một cụm làng ở ngoài chiềng Lang đạo phụ thuộc vào lang cun rất nhiều.

Giúp việc cho Lang là các ậu. Ậu là người thuộc dòng họ dân, họ được Lang lựa

chọn để giúp việc cho mình, thường là những người nhanh nhẹn, khôn ngoan, gia tư

khá giả. Họ cũng cũng có một số quyền lợi nhất định như được Lang phân chia ruộng

công hoặc ruộng dân, không phải làm nghĩa vụ xâu, nõ. Ậu cũng có nhiều cấp.

- Đối với lang cun: Đứng đầu ậu là ậu eng (ậu cả, ậu anh): Đây là người đứng đầu toàn bộ hệ thống ậu chiềng. Đối với ậu cả, đôi khi còn được nhà lang giao cho việc thay mặt nhà lang tiếp xúc với dân.

- Đối với lang đạo: Đứng đầu là ậu Khà, là người đại diện tiếp xúc với dân trong xóm. Bên dưới ậu cả và ậu khà là các ậu phụ trách các công việc cụ thể: - Ậu chấu: Nhiệm vụ đốc thúc dân đến nhà lang làm công việc phục dịch. - Ậu hóa: Lo việc hiếu, hỷ của nhà Lang. - Ậu huyền: Lo việc đốc thúc dân làm mùa vụ, thu hoạch và làm hệ thống

thủy lợi.

- Ậu chiếng: Lo cắt cử người đến hầu hạ nhà Lang.

- Ậu dọ: Lo việc trông coi con cháu và hầu hạ các bà vợ nhà lang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Ậu thế: Lo việc trôm nom bàn thờ tổ tiên nhà Lang, trôm nom đền miếu.

- Ậu ban thường: Thông báo các điều lệ của nhà Lang.

- Ậu công khó: Là người có công với nhà Lang và được ưu đãi.

- Ậu cai xã: Lo việc đốc thúc thu thế để nộp cho nhà nước.

- Ậu cai cả: Chuyên bắt người, đánh và cùm những ai làm trái luật lệ của làng.

- Ậu cai nhâng: Lo việc ăn uống của nhà Lang.

- Ậu cai lính: Phụ trách đội lính của nhà Lang. [39, tr 42, 43]

Nhà Lang có đội dân binh, mọi người trong làng xóm, mường có nghĩa vụ phải

thay phiên nhau làm binh dịch.

Trong bộ máy quản lí làng xóm của người Mường có vài nét khá tương đồng với

bộ máy quản lí làng bản của người Tày - chế độ Thổ Ty. Ví dụ như nhà Lang của người

Mường giống với chế độ Quằng của người Tày. Đứng đầu tổ chức xã hội truyền thống

của người Mường là nhà Lang (Lang cun và lang đạo) còn với người Tày là Quằng

(Quảng mường và Quằng họ), đều theo chế độ cha truyền con nối và được Nhà nước

quân chủ phong hoặc công nhận. Bên dưới là một hệ thống giúp việc. Người Mường

là các ậu và người Tày là chẩu. Tuy nhiên bộ máy quản lý của người Mường vẫn đơn

giản hơn so với bộ máy quản lí của người Tày.

Trong quá trình tồn tại, do có nhiều sự tác động của một số nhân tố như: chính

sách chuyên chế trung ương tập quyền ngày càng tăng, sự phát triển tự thân về kinh tế

- xã hội của địa phương, sự nhập cư của một số tộc người khác, đặc biệt là các tộc

người từ miền xuôi lên làm thay đổi địa vực cư trú, quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa

giữa các tộc người, vùng miền được đẩy nhanh qua các thời kỳ lịch sử đã từng bước

làm suy yếu chế độ nhà Lang. Đầu thế kỷ XIX, sau khi nhà Nguyễn thành lập đã ban

hành nhiều chính sách chính trị, kinh tế, xã hội: đo đạc ruộng đất, lập sổ địa bạ, chính

sách “lưu quan”… đã làm hạn chế sự tồn tại của chế độ thổ tù ở miền núi. Tuy nhiên

một số nơi trong đó có Lạc Sơn chế độ nhà Lang vẫn còn tồn tại cho đến đầu thế kỷ

XX. Một số nơi ở Hòa Bình còn tồn tại cho đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Một trong những nét nổi bật nhất của cộng đồng Mường là sự cố kết, đùm bọc,

giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Đó là một nét đẹp truyền thống của xã hội Mường. Tính

cố kết này được thể hiện qua nhiều mặt của cuộc sống. Tiêu biểu như tục lụ nhau - làm

đổi công theo từng công việc của mùa vụ được duy trì từ vụ này qua vụ khác nhất là

công việc đồng áng, nương rẫy. Các gia đình thường quan tâm đến những gia đình neo

đơn, mẹ góa con côi… Người Mường rất biết đùm bọc nhau khi trong làng có việc

hiếu, hỷ mọi người đều được sự quan tâm, chia sẻ của cả làng bằng vật chất dù chỉ là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bát gạo, con gà, sải vải hoặc chút tiền. Tục lệ xưa có người Mường khi trong làng có

nóc nhà nào đó có người qua đời thì các gia đình khác sẽ đóng góp mỗi một nóc nhà 1

ít gạo (thường là 1 bát gạo). Người Mường có những quy định khá nghiêm ngặt trong

việc bảo vệ mùa màng. Khi mùa vụ đến, mọi nhà đều nhắc nhở nhau không để trâu, bò,

gà, lợn phá hoại.

Tổ chức cao hơn xóm làng đó là mường. Trong một thung lũng hay nhiều thung

lũng sống kề nhau sẽ có nhiều xóm làng cùng chung sống, họ tập hợp lại thành một

đơn vị tổ chức xã hội gọi là mường, đặt dưới sự cai quản của một dòng họ quý tộc mà

người Mường gọi là nhà lang. Trong xã hội Mường truyền thống, mường là một đơn

vị hành chính xã hội đặc biệt không tương đương với đơn vị hành chính nào của người

Kinh, cũng rất khác với mường của người Thái (lộng, mường phìa, chân mường).

Mường của người Mường chỉ biểu thị một cấp chung dù là mường to có hàng trăm làng

như Mường Bi hay mường nhỏ có chục làng như Mường Đúp. Các mường có diện tích

rộng hẹp khác nhau, biên giới các mường là biên giới mở không cố định. Bởi tùy thuộc

vào các điều kiện lớn mạnh thanh thế hay sự yếu hèn kém cỏi của các lang cun. Nếu

lang cun mạnh, thanh thế lớn thì tìm cách để mở rộng đất mường. Tục ngữ Mường có

câu: “Cun lang tranh đất, tranh mường. Như quạ tranh tầng ngọn cây”. Lạc Sơn trước

kia là hội tụ của hai mường lớn nhất trong 4 mường lớn ở Hòa Bình là “Nhất Bi, nhì

Vang, tam Thàng, tứ Động”, thì Mường Bi và Mường Vang là địa phận của Lạc Sơn

trước kia, nay là huyện Lạc Sơn (Mường Vang) và huyện Tân Lạc (Mường Bi). Đây

cũng chính là trung tâm của người Mường, nơi đây người Mường sinh sống đông nhất

của tỉnh. Nhà lang, với tư cách là người cai quản toàn mường có tên là lang cun, trong

thực tế thì lang cun chỉ cai quản một số làng chiềng ở trung tâm. Lang cun vừa là chủ

chiềng vừa là chủ toàn mường. Lang đạo là người cai quản mường nhỏ bên ngoài

chiềng. Ở trên đã nói về quyền hành của nhà Lang. Ở mỗi một mường có một bộ máy

quản lý điều hành theo luật tục, mọi luật tục này chủ yếu do nhà lang đặt ra, ở đó mọi

thành viên trong làng xóm, mường phải tuyệt đối tuân thủ. Theo cuốn “Góp phần tìm

hiểu tỉnh Hòa Bình” đã dẫn tài liệu bảo tồn bảo tàng Ty văn hóa thông tin Hòa Bình:

Gia phả họ Quách ở xã Hạ Bì, huyện Mỹ Lương, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây. Bản lưu

của Quách Nhân Hiền (xã Hạ Bì nay thuộc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình) có 11 điều

luật (lệ) mà mọi người dân trong Mường phải tuân thủ [29, tr 33, 34]. Nhà lang đặt

nhiều nghĩa vụ bắt người dân phải phục dịch, vừa để tỏ rõ quyền lực của mình, vừa để

phục vụ lợi ích kinh tế của họ. Ở Mường Bi, trước kia nhà lang có danh mục công việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lao dịch phục vụ như sau: Xóm Bặn: làm mương phai, xóm Trọng: săn bắn, xóm Lý:

làm đường, đi phu, xóm Ải: đánh bắt cá, xóm Lầy: lấy củi, gánh nước, làm đường”…

[39, tr. 41].

Cấu trúc bên trên của làng xóm của người Mường trước kia cũng là Châu và Tổng.

Châu Lạc Sơn có 4 tổng, 50 làng (xã).

Nhà Nguyễn sau khi thành lập một thời gian đến thời vua Minh Mệnh trong cuộc

cải cách hành chính của mình ông đã cho xóa bỏ chế độ lang đạo, nghĩa là xóa bỏ chế

độ cho các quan lang mặc nhiên được kế thế làm tri châu, tri huyện mà chế độ lưu quan

được thực hiện. Chính sách này gặp phải sự chống đối của các lang đạo ở Hòa Bình và

cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương là biểu hiện rõ nhất về việc chống lại chính sách

lưu quan của nhà Nguyễn. Trên thực tế, ở Hòa Bình chính sách lưu quan của nhà

Nguyễn hầu như không thực hiện được ở châu nào cả. Về sau vua Minh Mệnh phải

khôi phục lại chế độ lang đạo. Đến khi thực dân Pháp đặt ách thống trị lên đất nước ta,

họ đã lập ra một đơn vị hành chính là tỉnh Mường. Để hình thành bộ máy cai trị tỉnh

Mường Hòa Bình, Pháp và triều đình Huế gần như triệt để lợi dụng chế độ lang đạo đã

tồn tại lâu đời ở đây. Cho thành lập chế độ Hội đồng quan lang và cử một lang cun có

thế lực phụ trách Hội đồng. Có những lang cun đã đưa vào chức tuần phủ, bố chính của

tỉnh Hòa Bình. Chế độ lang đạo ở vùng mường tồn tại đến khi Cách mạng tháng Tám

năm 1945, có vùng muộn hơn.

Tiểu kết: Lạc Sơn là một huyện miền núi nằm phía Nam của tỉnh Hòa Bình, có vị

trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt, là miền đất cổ, một trong những trung tâm lớn

của nền văn hóa Hòa Bình. Do đặc điểm địa hình phần lớn là đồi núi. Lạc Sơn là huyện

có diện tích rừng rộng lớn với các nguồn lợi từ rừng rất phong phú: các loại gỗ quý như

nghiến, lát, táu, sến… các loại cây nguyên liệu phục vụ cho nghề thủ công đan lát như

tre, nứa, giang, trúc… các loại cây hương liệu như quế, sa nhân, nấm hương, mộc nhĩ,

dổi. Trên địa bàn Lạc Sơn có một số mỏ khoáng sản như mỏ than, quặng sắt, mỏ vàng,

núi đá. Với đặc điểm tự nhiên như vậy Lạc Sơn là địa phương có lợi thế trong phát

triển kinh tế nông lâm nghiệp kết hợp.

Địa giới hành chính huyện Lạc Sơn có nhiều thay đổi. Đến nay Lạc Sơn là một

đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hòa Bình gồm 1 thị trấn và 28 xã. Là một huyện

miền núi đất rộng người thưa, Lạc Sơn đã sớm là nơi quần tụ sinh sống của nhiều tộc

người, trong đó cư dân nguyên thủy là tộc người Mường thuộc nhóm ngữ hệ Việt -

Mường chiếm số đông. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, thành phần dân cư dân tộc

huyện Lạc Sơn có nhiều biến động. Bên cạnh cư dân bản địa còn có các dân tộc khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

di cư từ nhiều nơi khác đến, chủ yếu là người Kinh từ dưới xuôi lên, người Dao và

người Thái từ vùng Đông Bắc và Tây Bắc xuống. Dù là dân bản địa hay là dân di cư

từ nơi khác đến, có nguồn gốc khác nhau, văn hóa khác nhau. Nhưng họ cùng chung

sống trên quê hương Lạc Sơn thì các dân tộc luôn yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn

nhau, cùng nhau vượt qua những khó khăn thử thách để cùng nhau xây dựng và phát

triển kinh tế, văn hóa của quê hương mình. Cùng chung tay góp phần xây dựng huyện

Lạc Sơn ngày càng giàu đẹp hơn. Điểm nổi bật nhất trong xã hội vùng Mường xưa là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sự tồn tại của chế độ nhà lang.

Chương 2

KINH TẾ CỦA HUYỆN LẠC SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

2.1. Tình hình ruộng đất ở huyện Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX.

2.1.1. Giới thiệu địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)

Dưới thời nhà Nguyễn, cũng như các triều đại trước nhà Nguyễn ý thức được

tầm quan trọng của việc lập địa bạ. Sau khi bình định xong cả nước, năm 1803 Gia

Long đã sai lập địa bạ ở các trấn thuộc Bắc Hà. Năm 1804, Gia Long xuống chiếu:

“Chiếu theo ruộng chiêm, ruộng mùa và ruộng chiêm mùa 2 vụ ở trong xã mà kê khai

mẫu, xào, thước, tấc, ở xứ sở nào và bốn bên đông tây cước trú rõ ràng, làm sổ để nộp”

[60, tr. 119]. Việc lập địa bạ đến thời Minh Mệnh cơ bản đã xong trên phạm vi cả nước,

thời Thiệu Trị (1841) và Bảo Đại (1945) có làm bổ sung ở một số địa phương mà vì

nhiều lí do khác nhau việc lập địa bạ chưa thực hiện được.

Ruộng đất ở Lạc Sơn (Lạc Yên thuộc trấn Ninh Bình) được kế khai rất rõ ràng

trong địa bạ thời Nguyễn. So với các địa phương khác thì ruộng đất ở Lạc Sơn thuộc

trấn Ninh Bình được lập địa bạ muộn hơn cùng với một số địa phương khác. “Năm

Minh Mệnh thứ 12 (1831) lại nghị chuẩn cho lập địa bạ ở ba trấn Ninh Bình, Thanh

Hóa, Nghệ An, các địa phương “không biết vì sao” đã có lệnh làm từ năm Gia Long

thứ 3 (1804) mà “giữa chừng lại thôi”. Công việc được hoàn thành trong hai năm 1832

và 1834”. [63, tr. 7]. Tuy vậy theo như địa bạ của huyện Lạc Sơn (Lạc Yên) được lưu

trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I thì các địa bạ này được lập vào năm năm Minh

Mệnh thứ 18 (1837). Điều này có nghĩa là một số địa phương của trấn Ninh Bình khi

đó được lập địa bạ muộn hơn so với cả trấn và cùng thời gian với hai huyện là Thọ

Xương và Vĩnh Thuận (nội thành Hà Nội) khi đó. Các địa bạ của huyện Lạc Sơn (Lạc

Yên thuộc trấn Ninh Bình) hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội)

mang kí hiệu 3832 đến 3881. Các địa bạ mà chúng tôi sưu tầm được lập ở triều Nguyễn

năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) với tổng số 50 địa bạ của 50 xã. Địa bạ Minh Mệnh 18

là tư liệu chủ yếu để khôi phục bức tranh toàn cảnh về tình hình ruộng đất Lạc Sơn nửa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đầu thế kỷ XIX.

Bảng 2.1: Thống kê địa bạ huyện Lạc Sơn năm 1837

Tên tổng

Tên xã

Lạc Đạo

Lạc Nghiệp

Lạc Thiện

1. Tức Tranh 2. Văn Đức 3. Suất Hóa 4. Quý Hòa 5. Phú Hậu 6. Văn Lãng 1. Định Cư 2. Hướng Nghĩa 3. Thương Nhượng 4. An Điềm 5. Tuân Đạo 6. Sùng Nhân 7. Mỹ Thành 8. Bình Hiểm 9. Phúc Tuy 10. Chỉ Thiện 11. Thanh Hối 12. Tích Cốc 13. Sơn Trang 14. Ngọc Minh 15. Tử Nê 16. Đông Lai 17. Quy Hậu 18. Thân Thượng 19. Mẫu Đức 20. Phú Lẫm 21. Quy Mỹ 22. Do Nhân 23. Gia Mô 24. Tuân Lộ 25. Lỗ Sơn 26. Định Giáo 27. Phú Vinh 28. Chí Đạo 29. An Lương 30. Mỹ Hòa 31. Phong Phú 32. Vụ Bản

Ký hiệu 3869 3868 3877 3880 3878 3867 3846 3859 3858 3852 3848 3847 3845 3832 3833 3839 3873 3872 3871 3870 3856 3855 3841 3840 3838 3864 3860 3842 3874 3865 3876 3881 3875 3835 3834 3836 3837 3879

Năm lập địa bạ 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837 1837

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tên tổng

Tên xã

Ký hiệu 3866

Năm lập địa bạ 1837

33. Tức Mặc

34. Bình Cảng

3844

1837

35. Hoài An

3843

1837

36. Tân Mỹ

3851

1837

37. Hiếu Nghĩa

3853

1837

38. Bỉnh Chân

3854

1837

Lạc Thành

39. Hưng Nhượng

3857

1837

40. Ngọc Lâu

3861

1837

41. Vụ Nông

3850

1837

42. Vũ Lao

3849

1837

43. Đa Phúc

3863

1837

44. An Nghiệp

3862

1837

Tổng cộng: 4 tổng, 50 xã, 50 địa bạ

Nguồn:Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội

2.1.2. Ruộng đất ở Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX 2.1.2.1. Các loại ruộng đất ở Lạc Sơn

Theo địa bạ ruộng đất huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837), các loại ruộng

được thống kê ở bảng sau:

Bảng 2.2: Thống kê ruộng đất huyện Lạc Sơn theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) Đơn vị: Mẫu.sào.thước.tấc(m.s.th.t)

Tổng diện Đất điền Đất thổ

Tên tổng tích ruộng

đất Tư điền Công điền Công thổ Tư thổ

Lạc Đạo 1193.0.10.4 858.2.12.9 176.1.12.5 0 158.6.0.0

Lạc Nghiệp 867.4.0.0 774.3.0.0 19.0.0.0 0 74.1.0.0

Lạc Thiện 1203.0.14.0 981.5.8.8 165.2.5.1 12.4.10 43.8.5.1

Lạc Thành 912.5.0.0 682.5.0.0 172.8.0.0 0 57.2.0.0

Tổng 4176.0.9.4 3296.6.6.7 533.2.2.6 12.4.10.0 333.7.5.1

Thực trưng 4176.0.9.4 3296.6.6.7 533.2.2.6 12.4.10.0 333.7.5.1

Tỷ lệ 100% 78,9% 12,8% 0,3% 8,0%

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Từ số liệu bảng 2.2 cho thấy, với 4 tổng, 50 xã có tổng diện tích ruộng đất là 4176.0.9.4. Điểm đáng lưu ý là ở Lạc Sơn đến năm 1837 không có đất lưu hoang, 100% diện tích đất là thực trưng. Đây là một điều khá hiếm thấy trong tình hình ruộng đất ở

nước ta vào giữa thế kỷ XIX. Càng đặc biệt khi so với huyện miền núi cũng có nhiều

người Mường sinh sống ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) ở nửa đầu thế kỷ XIX có khá nhiều ruộng đất lưu hoang (hơn 363 mẫu, chiếm tới 60% diện tích tư điền của cả huyện)

[45, tr. 40]. Điều này cũng chứng minh một số chính sách về ruộng đất của nhà Nguyễn

ở đầu thế kỷ XIX đã có tác dụng mạnh mẽ, đã khôi phục được ruộng đất hoang hóa ở

huyện Lạc Sơn. Mặt khác cũng cho thấy sự ổn định về ruộng đất cũng như đời sống nhân dân ở đây.

Ở Lạc Sơn đến năm 1837 tồn tại hai loại ruộng đất là điền và thổ với cả hai hình thức tư và công. Ruộng đất ở đây chủ yếu là đất điền, trong đó tư điền 3296.6.6.7 chiếm

78,9% tổng diện tích ruộng đất; công điền 533.2.2.67 chiếm 12,8% tổng diện tích ruộng

đất. Đất thổ chiếm tỷ lệ không nhiều, cả tư thổ và công thổ chỉ chiếm 8,3%. Đặc biệt,

chỉ có duy nhất tổng Lạc Thiện có diện tích đất công thổ là 12.4.107 chiếm 0,3% tổng

diện tích ruộng đất.

Tư điền ở Lạc Sơn chiếm phần lớn tổng diện tích ruộng đất của huyện (78,9%).

Sự phát triển của diện tích ruộng tư đã diễn ra mạnh mẽ, mặc dù nhà nước có chính

sách cấm mua bán ruộng đất công nhưng cũng không hạn chế được nhiều. Từ sau khi

lên ngôi được hai năm, Gia Long đã ban hành chính sách quân điền theo nguyên tắc

phân chia ruộng đất cho quan lại và binh dân như thời Lê sơ có điều chỉnh về đối tượng,

khẩu phần và thời hạn. Mục đích của chính sách này nhằm mục đích bảo vệ ruộng đất

của nhà nước thông qua ruộng đất công của làng xã, phân phối theo hướng ưu đãi cho

binh lính và quan lại. Tuy đã có những cố gắng nhưng do diện tích ruộng đất công làng

xã bị thu hẹp nên việc thực hiện chính sách quân điền không có nhiều tác dụng vào thời

điểm đó. Ngoài ra do đặc trưng thiết chế xã hội cổ truyền của người Mường ở Lạc Sơn

đã tồn tại từ rất lâu đời, với hình thức sở hữu ruộng đất của chế độ nhà lang nên phần

lớn ruộng đất thuộc sở hữu của nhà lang . Mặc dù nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách lưu quan nhưng trên thực tế chính sách lưu quan cho đến giữa thế kỷ XIX nó cũng chưa

có tác động nhiều đến tình hình ruộng đất của một số địa phương thuộc tỉnh Hòa Bình

vào thời điểm đó, trong đó có huyện Lạc Sơn.

So sánh với tỷ lệ ruộng tư trên cả nước cùng thời điểm này như ở Hà Đông chiếm 82,90% [32, tr. 24] hay so với một số huyện miền núi phía Bắc như Vị Xuyên (Hà

Giang) chiếm 99,73% (Minh Mệnh 21) [26, tr. 46] thỉ tỷ lệ ruộng tư ở Lạc Sơn có thấp hơn (chiếm 78,9%). Tình hình ruộng tư phát triển diễn ra hầu như trên khắp các địa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phương trong nước. “Đến năm 1840 theo báo cáo của bộ Hộ: “Tổng diện tích ruộng đất trong cả nước là 4.063.892 mẫu, trong đó tổng diện tích ruộng thực canh là 3.396.584 mẫu. Tỷ lệ ruộng công, ruộng tư là:

Ruộng tư: 2.816.221 mẫu, khoảng 80%

Ruộng công: 580.363 mẫu, khoảng 17%” [64, tr. 234].

Về chất lượng ruộng đất:

Bảng 2.3: Các loại ruộng đất huyện Lạc Sơn theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837)

Đơn vị: Mẫu.sào.thước.tấc(m.s.th.t)

Loại ruộng đất

Diện tích (m.s.th.t)

Tỷ lệ (%)

Tổng diện tích ruộng đất

4176.0.9.4

100%

1. Tư điền

3296.6.6.7

78,9%

+ Loại 1

45.4.0.0

1,1%

+ Loại 2

957.6.9.8

22,9%

+ Loại 3

2293.5.11.9

54,9%

12,8%

2. Công điền

533.2.2.6

+ Loại 1

77.9.0.0

1,8%

+ Loại 2

318.0.13.6

7,7%

+ Loại 3

137.2.4.0

3,2%

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837)

Theo số liệu bảng 2.3 cho thấy, chất lượng đất điền ở huyện Lạc Sơn có đầy đủ

cả 3 loại đất. Đối với đất tư điền chiếm tỷ lệ cao nhất là đất loại 3 là 54,9% tổng diện

tích ruộng đất (2293.5.11.9); loại 2 chiếm 22,9% tổng diện tích ruộng đất (957.6.9.8);

đất loại 1 chiếm tỷ lệ rất thấp 1,1% tổng diện tích ruộng đất (45.4.0.0). Đối với đất công

điền thì loại 2 và loại 3 cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với loại 1. Qua số liệu trên cho

thấy chất lượng và thời vụ cấy của địa phương. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, điều

kiện tự nhiên cũng như các yếu tố xã hội khác, đồng ruộng ở nông thôn không phải chỗ

nào cũng giống nhau, thậm chí trong một tỉnh, một huyện, xã hay tổng thì tỷ lệ đất tốt,

xấu cũng khác nhau. Ở Lạc Sơn là một huyện miền núi vì vậy đất loại 2 và 3 chiếm đa

số là điều dễ giải thích. Vì ở đây chủ yếu là đồi núi nên ruộng đất màu mỡ rất ít. So với

một số các huyện miền núi khác như huyện Vị Xuyên (Hà Giang) thậm chí không có

đất loại 1 và 2, chỉ có đất loại 3. Đất loại 2 và 3 là đất kém màu mỡ, canh tác khó, phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuộc nhiều vào thời tiết vì vậy năng suất không cao.

2.1.2.2. Quy mô sở hữu ruộng đất

- Quy mô sở hữu ruộng đất của các xã ở huyện Lạc Sơn:

Bảng 2.4: Quy mô sở hữu ruộng đất của các xã huyện Lạc Sơn

Quy mô sở hữu

Stt

Tên tổng

Tên xã

< 50 mẫu

50 - 100 mẫu

100 - 150 mẫu

1

Tức Tranh

1

2

Văn Đức

1

3

Suất Hóa

1

4

Quý Hòa

1

5

Phú Hậu

1

6

Văn Lãng

1

7

Định Cư

1

Lạc Đạo

8

Hướng Nghĩa

1

9

Thương Nhượng

1

10

An Điềm

1

11

Tuân Đạo

1

12

Sùng Nhân

1

13

Mỹ Thành

1

14

Bình Hiểm

1

15

Phúc Tuy

1

16

Chỉ Thiện

1

17

Thanh Hối

1

18

Tích Cốc

1

19

Sơn Trang

1

20

Lạc Nghiệp

Ngọc Minh

1

21

Tử Nê

1

22

Đông Lai

1

23

Quy Hậu

1

24

Thân Thượng

1

25

Mẫu Đức

1

26

Phú Lẫm

1

27

Quy Mỹ

1

Lạc Thiện

28

Do Nhân

1

29

Gia Mô

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Quy mô sở hữu

Stt

Tên tổng

Tên xã

< 50 mẫu

50 - 100 mẫu

100 - 150 mẫu

30

Tuân Lộ

1

31

Lỗ Sơn

1

32

Định Giáo

1

33

Phú Vinh

1

34

Chí Đạo

1

35

An Lương

1

36

Mỹ Hòa

1

37

Phong Phú

1

38

Vụ Bản

1

39

Tức Mặc

1

40

Bình Cảng

1

41

Hoài An

1

42

Tân Mỹ

1

43

Hiếu Nghĩa

1

44

Bỉnh Chân

1

Lạc Thành

45

Hưng Nhượng

1

46

Ngọc Lâu

1

47

Vụ Nông

1

48

Vũ Lao

1

49

Đa Phúc

1

50

An Nghiệp

1

Tổng cộng 4 tổng, 50 xã

4

33

13

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837)

Từ số liệu bảng 2.4 về quy mô sở hữu ruộng đất của các xã, chúng ta nhận thấy

phần lớn các xã sỡ hữu từ 50 - 100 mẫu. Mỗi tổng có từ 7 đến 9 xã có quy mô sở hữu từ 50 đến 100 mẫu, tổng số có 33/50, chiếm 66%. Quy mỗ sở hữu từ 100 - 150 mẫu có 13/50 xã, chiếm 26%. Còn 4/50 xã, chiếm 0,8% có quy mô sở hữu dưới 50 mẫu. Xã có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quy mô sở hữu lớn nhất là 148.0.0.0 mẫu (xã Định Cư), xã thấp nhất là 35.1.0.0 (xã Tức Mặc). Việc quy mô sở hữu ruộng đất không cao của các xã của huyện Lạc Sơn đến đầu giữa thế kỷ XIX là một đặc điểm thường thấy ở các huyện miền núi phía bắc. Nguyên nhân chủ yếu là do đặc điểm về địa hình dốc, nhiều đồi núi, chủ yếu là ruộng bậc thang… vì vậy mà đất đai canh tác không nhiều.

- So sánh quy mô sở hữu ruộng đất của các tổng ở Lạc Sơn:

Bảng 2.5: Quy mô sở hữu ruộng đất của 4 tổng huyện Lạc Sơn

theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) Đơn vị: Mẫu.sào.thước.tấc (m.s.th.t)

Tổng diện tích

Tư điền

Công điền

Tư thổ

STT

Tên tổng

(m.s.th.t)

(m.s.th.t)

(m.s.th.t)

Công thổ (m.s.th.t)

ruộng đất (m.s.th.t)

Tổng Lạc Đạo

1

1193.0.10.4 = 100%

858.2.12.9 = 71,9%

176.1.12.5 = 14,7%

158.6.0.0 = 13.4%

0 = 0%

Lạc

867.4.0.0

774.3.0.0

19.0.0.0

74.1.0.0

0

2

Tổng

= 100%

= 89,3%

= 2,1%

= 8,6%

= 0%

Nghiệp

3

Tổng Lạc Thiện

1203.0.14.0

981.5.8.8

165.2.5.1

43.8.5.1

12.4.10

= 100%

= 81,5%

= 13,7%

= 3,6%

= 1,2%%

4

Tổng Lạc Thành

912.5.0.0

682.5.0.0

172.8.0.0

57.2.0.0

0

= 100%

= 74,8%

= 18,9 %

= 6,3%

= 0%

4176.0.9.4

3296.6.6.7

533.2.2.6

333.7.5.1

12.4.10.0

Tổng cộng

= 100%

= 78,9%

= 12,8%

= 8%

= 0,3%

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh năm (1837)

Theo số liệu bảng thống kê trên đây, chúng ta nhận thấy quy mô sở hữu ruộng

đất của 4 tổng huyện Lạc Sơn đến năm 1837 chủ yếu là sở hữu tư (tư điền và tư thổ)

với diện tích 3296.6.6.7 m.s.th.t tư điền và 333.7.5.1 m.s.th.t tư thổ, chiếm tỷ lệ là 86,9

% tổng diện tích ruộng đất toàn huyện, (tư điền 78,9%; tư thổ 8%).

Tổng Lạc Thiên có diện tích lớn nhất cả tư điền và tư thổ (hơn 1.024 mẫu; tư

điền hơn 981 mẫu, tư thổ hơn 43 mẫu), xã có diện tích tư điền lớn nhất trong huyện là

Thanh Hối thuộc tổng Lạc Nghiệp (116 mẫu); tổng có ruộng đất tư ít nhất là Lạc Thành (hơn 739 mẫu), xã có diện tích tư điền ít nhất trong huyện là Ngọc Lâu thuộc tổng Lạc

Thành (21 mẫu).

Về tư thổ, tổng Lạc Đạo có diện tích tư thổ lớn nhất (hơn 158 mẫu), xã có diện tích tư thổ lớn là Định Cư, tổng Lạc Đạo (hơn 23 mẫu); tổng Lạc Thiện có diện tích tư thổ ít nhất trong 4 tổng (hơn 43 mẫu), đa phần các xã trong huyện diện tích tư thổ đều

dưới 10 mẫu.

Về diện tích ruộng đất công (công điền và công thổ) chiếm 13,1% (hơn 345

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mẫu) tổng diện tích đất toàn huyện. Tổng Lạc Thiên có diện tích ruộng đất công lớn nhất trong huyện (hơn 177 mẫu cả công điền và công thổ). Đây cũng là tổng duy nhất trong 4 tổng có diện tích đất công thổ (hơn 12 mẫu). Tuy nhiên nếu tính riêng diện tích

công điền thì tổng Lạc Đạo có diện tích lớn nhất (hơn 176 mẫu), tổng Lạc Nghiệp có

diện tích công điền ít nhất trong huyện (19 mẫu).

Theo bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy cũng giống với tình hình và quy mô

sở hữu ruộng đất chung của cả nước cho đến giữa thế kỷ XIX, quy mô sở hữu ruộng đất

của các tổng trong huyện chủ yếu là ruộng đất tư chiếm đa số. Tuy quy mô của mỗi tổng

ở huyện Lạc Sơn có sự khác nhau, nhưng ruộng đất tư (tư điền và tư thổ) đều chiếm hơn 80% tổng diện tích ruộng đất của tổng. Diện tích ruộng đất tư ở các xã thuộc các tổng trong huyện là không đều nhau do đặc điểm địa hình của từng vùng. 2.1.2.3. Tình hình sở hữu ruộng đất tư

Bảng 2.6: Quy mô sở hữu ruộng đất tư theo địa bạ Minh Mệnh 18 (1837)

Đơn vị: Mẫu.sào.thước.tấc(m.s.th.t)

Tư điền (m.s.th.t)

STT Tên tổng

Tên xã

Tư thổ (m.s.th.t)

Loại 1 (m.s.th.t)

Loại 2 (m.s.th.t)

Loại 3 (m.s.th.t)

Tổng diện tích ruộng đất (m.s.th.t)

Tổng tư điền (m.s.th.t)

1193.0.10.4 858.2.12.9 14.7.0.0 292.0.1.9 551.5.11.0 158.6.0.0

I

110.5.4.0 49.7.0.0 59.2.0.0 71.5.0.0 65.3.0.0 87.6.0.0 148.0.0.0

83.7.0.0 30.4.0.0 34.1.0.0 56.5.0.0 57.3.0.0 69.6.0.0 94.2.0.0

46.9.0.0 8.2.0.0 3.8.0.0 21.3.0.0 21.0.0.0 35.9.0.0 0

36.8.0.0 22.2.0.0 30.3.0.0 35.2.0.0 36.3.0.0 33.7.0.0 94.2.0.0

16.0.0.0 4.0.0.0 12.0.0.0 9.0.0.0 8.0.0.0 10.0.0.0 23.8.0.0

Tổng Lạc Đạo

1 2 3 4 5 6 7

0 0 0 0 0 0 0

117.8.0.0

60.5.0.0

20.2.0.0

40.3.0.0

17.0.0.0

8

0

98.8.11.3 97.1.0.0 84.8.10.1 82.7.0.0 74.0.0.0 45.9.0.0

75.0.8.3 77.1.0.0 54.0.4.6 70.7.0.0 57.0.0.0 38.1.0.0

0 0 0 0 9.5.0.0 5.2.0.0

32.4.10.0 42.5.13.3 46.4.0.0 30.7.0.0 36.4.12.7 17.5.6.9 50.7.0.0 20.0.0.0 27.8.0.0 19.7.0.0 18.6.0.0 14.3.0.0

15.0.0.0 10.0.0.0 14.0.0.0 7.0.0.0 10.0.0.0 2.8.0.0

Tức Tranh Văn Đức Suất Hóa Quý Hòa Phú Hậu Văn Lãng Định Cư Hướng Nghĩa Thương Nhượng An Điềm Tuân Đạo Sùng Nhân Mỹ Thành Bình Hiểm

9 10 11 12 13 14

867.4.0.0

774.3.0.0

242.5.0.0 531.8.0.0

74.1.0.0

0

Tổng Lạc Nghiệp

61.2.0.0 Phúc Tuy 62.2.0.0 Chỉ Thiện 124.0.0.0 Thanh Hối 53.4.0.0 Tích Cốc 47.5.0.0 Sơn Trang Ngọc Minh 121.8.0.0

54.2.0.0 56.2.0.0 116.0.0.0 50.4.0.0 42.5.0.0 110.8.0.0

20.5.0.0 10.0.0.0 55.0.0.0 25.0.0.0 0 3.0.0.0

33.7.0.0 46.2.0.0 61.0.0.0 25.4.0.0 42.5.0.0 107.8.0.0

7.0.0.0 6.0.0.0 8.0.0.0 3.0.0.0 5.0.0.0 11.0.0.0

II 1 2 3 4 5 6

0 0 0 0 0 0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tư điền (m.s.th.t)

STT Tên tổng

Tên xã

Tư thổ (m.s.th.t)

Loại 1 (m.s.th.t)

Loại 2 (m.s.th.t)

Loại 3 (m.s.th.t)

7 8 9

Tổng diện tích ruộng đất (m.s.th.t) 68.4.0.0 86.2.0.0 76.5.0.0

Tổng tư điền (m.s.th.t) 62.4.0.0 61.1.0.0 70.5.0.0

17.0.0.0 25.0.0.0 27.0.0.0

45.4.0.0 36.1.0.0 43.5.0.0

6.0.0.0 6.1.0.0 6.0.0.0

0 0 0

10 11

87.9.0.0 78.3.0.0

77.9.0.0 72.3.0.0

31.0.0.0 29.0.0.0

46.9.0.0 43.3.0.0

10.0.0.0 6.0.0.0

0 0

Tử Nê Đông Lai Quy Hậu Thân Thượng Mẫu Đức

1203.0.14.0 981.5.8.8 3.2.0.0 325.0.7.9 653.3.0.9

43.8.5.1

Tổng Lạc Thiện

Phú Lẫm Quy Mỹ Do Nhân Gia Mô Tuân Lộ Lỗ Sơn Định Giáo Phú Vinh Chí Đạo An Lương Mỹ Hòa

III 1 Lạc Thiện 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

63.4.0.0 97.7.12.9 92.0.3.2 66.0.0.0 109.6.8.6 78.5.0.0 125.1.6.3 87.8.5.6 102.6.0.0 82.4.0.0 83.7.9.6 Phong Phú 126.2.12.8 87.7.0.0

Vụ Bản

46.1.0.0 83.0.9.4 77.8.10.3 53.7.0.0 96.0.6.3 60.9.0.0 105.8.6.3 72.5.2.1 87.3.0.0 61.7.0.0 68.7.9.6 97.6.9.8 70.1.0.0

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3.2.0.0

0 0 77.8.10.3 20.0.0.0 96.0.6.3 15.1.0.0 105.8.6.3 0 0 0 0 0 10.2.0.0

46.1.0.0 83.0.9.4 0 33.7.0.0 0 45.8.0.0 0 72.5.2.1 87.3.0.0 61.7.0.0 68.7.9.6 97.6.9.8 56.7.0.0

2.2.0.0 3.1.3.5 3.5.6.3 3.1.0.0 1.5.7.3 3.4.0.0 3.3.0.0 3.0.0.0 3.1.0.0 2.4.0.0 3.0.0.0 5.1.3.0 7.0.0.0

57.2.0.0

Tổng Lạc Thành

912.5.0.0 35.1.0.0 50.6.0.0 103.7.0.0 58.8.0.0 70.7.0.0 100.0.0.0

682.5.0.0 27.5.0.0 98.1.0.0 1.3.0.0 6.6.0.0 24.7.0.0 17.8.0.0 2.2.0.0 39.3.0.0 21.9.0.0 0 86.3.0.0 13.5.0.0 3.5.0.0 41.9.0.0 9.2.0.0 0 50.2.0.0 4.9.0.0 0 84.1.0.0

556.9.0.0 16.8.0.0 19.3.0.0 64.4.0.0 24.9.0.0 41.0.0.0 79.2.0.0

2.5.0.0 2.1.0.0 5.0.0.0 4.5.0.0 5.0.0.0 5.0.0.0

55.7.0.0 21.0.0.0 43.5.0.0 73.9.0.0 87.9.0.0 74.0.0.0

48.9.0.0 8.2.0.0 36.3.0.0 67.6.0.0 84.0.0.0 66.3.0.0

4.0.0.0 5.9.0.0 5.9.0.0 4.2.0.0 1.8.0.0 7.7.0.0

6.5.0.0 7.0.0.0 4.0.0.0 6.5.0.0 4.1.0.0 5.0.0.0

2.8.0.0 6.9.0.0 1.3.0.0 2.1.0.0 2.1.0.0 0

IV 1 Lạc Thành Tức Mặc Bình Cảng 2 Hoài An 3 Tân Mỹ 4 Hiếu Nghĩa 5 Bỉnh Chân 6 Hưng Nhượng Ngọc Lâu Vụ Nông Vũ Lao Đa Phúc An Nghiệp

7 8 9 10 11 12

70.0.0.0 71.1.0.0 60.8.0.0 100.2.0.0 100.0.0.0 91.5.0.0 4176.0.9.4 3296.6.6.7 45.4.0.0 957.6.9.8 2293.5.11.9 333.7.5.1

Tổng cộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh năm (1837)

Theo số liệu bảng 2.6, chúng ta nhận thấy điểm rất đặc biệt về sở hữu ruộng tư

ở huyện Lạc Sơn là sở hữu chung của cả xã, không có sỡ hữu tư mang tính tư nhân,

dòng họ. Chính vì vậy cũng không thể phân chia theo sở hữu dòng họ hay bình quân

thửa như nhiều địa phương khác trên cả nước cũng như các về sở hữu tư ở một số địa

phương miền núi phía Bắc. Nguyên nhân chính là do thời điểm lập địa bạ ở đây, chế

độ lang đạo vẫn còn tồn tại, dù chính sách lưu quan của nhà Nguyễn đã được thực hiện

từ thời Gia Long, sang thời Minh Mệnh thì chính sách này càng được tăng cường nhưng

trên thực thực tế thì chế độ nhà Lang vẫn còn tồn tại cho đến trước Cách mạng tháng

Tám năm1945, thậm chí một số nơi cho đến những năm 50 của thế kỷ XX. “Triều đình

chưa ban bố một luật lệ nào làm ảnh hưởng đến quyền hành chính hay tư pháp của các

quan lang” theo tờ trình tấu số 481 ngày 20 tháng 1 năm 1904 của cơ quan Mật viện.

Trong một văn bản khác, Cơ mật viện kết luận: “Những vấn đề này, nhà vua vẫn để

cho các quan lang dựa vào lệ cố của dân tộc ít người đó” [16, tr. 78]. Điều này cho

thấy, chế độ nhà Lang vẫn còn tồn tại ở Hòa Bình nói chung và huyện Lạc Sơn nói

riêng. Vào thời điểm lập địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) chế độ nhà Lang vẫn còn tồn tại

vì vậy hình thức sở hữu ruộng đất theo chế độ nhà Lang cơ bản không thay đổi dù nhà

Nguyễn đã tiến hành lập địa bạ nhưng không thể phân chia theo hình thức sở hữu theo

từng hộ gia đình như nhiều địa phương khác trong cả nước. Và đây cũng là chính sách

mềm dẻo của nhà Nguyễn đối với một số địa phương miền núi mà cư dân chủ yếu là

người dân tộc thiểu số như huyện Lạc

Sơn. Tránh những cuộc nổi dậy của một số quan Lang chống đối chính sách của nhà

nước trung ương khi đụng chạm đến quyền lợi của họ. Vì vào khoảng thời gian này đã

có một số cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn của họ Đinh ở Lạc Thổ (Lạc Sơn), họ

Quách ở Thạch Bi nổ ra các năm 1832 và năm 1836, họ đã liên kết với các lang đạo ở

miền tây Thanh Hóa… làm cho cuộc đấu tranh lan tỏa ra nhiều vùng đến tận Quỳ Châu

(Nghệ An), kéo dài cuộc khởi nghĩa đến năm 1838. Thêm lí do khiến cho việc phân

chia ruộng đất theo dòng họ Lạc Sơn rất khó thực hiện vì phần lớn cư dân ở đây là họ

Bùi. Ngoài dòng họ lang Đinh, Quách, Bạch, Hoàng.

Theo số liệu bảng trên với tổng diện tích tư điền là 3296.6.6.7 chiếm 78,9% tổng

diện tích ruộng đất của huyện. Trong đó tư điền được chia thành ba loại ruộng được ghi

chi tiết ở 50 xã của 4 tổng huyện Lạc Sơn. Cụ thể như sau:

Tổng Lạc Đạo là tổng có diện tích đất tư lớn nhất trong huyện với 858.2.12.9 tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

điền, chiếm 71,9% tổng diện tích và 158.6.0.0 tư thổ chiếm 13,4% tổng diện tích ruộng

đất của tổng, trong đó xã Định Cư là xã có diện tích tư điền và tư thổ cao nhất trong

tổng. Đất tư điền loại 2 và loại 3 là chủ yếu, phân bố ở hầu hết các xã. Đất loại 3 là

nhiều nhất với 551.5.11.0, loại 2 có 292.0.1.9, đất loại 1 rất ít, chỉ có 14.7.0.0 ở hai xã

Mỹ Thành và Bình Hiểm.

Tổng Lạc Nghiệp có 774.3.0.0 tư điền chiếm 89,3 % và 74.1.0 tư thổ, chiếm

8,6% tổng diện tích đất của tổng. Thanh Hối là xã có diện tích tư điền lớn nhất trong

tổng (124.0.0.0); xã Ngọc Minh có diện tích tư thổ lớn nhất trong tổng (11.0.0.0). Đối

với tư điền ở tổng chỉ có đất loại 2 (242.5.0.0) và loại 3 (531.8.0.0) được phân bố hầu

hết các xã của tổng, không có đất loại 1.

Tổng Lạc Thiện là tổng có diện tích tư điền lớn nhất trong huyện với 981.5.8.8

chiếm 81,5% và 43.8.5.1 tư thổ chiếm 3,6% tổng diện tích đất của tổng. Định Giáo là

xã sở hữu diện tích tư điền lớn nhất tổng với 105.8.6.3; Vụ Bản có quy mô sở hữu tư

thổ lớn nhất tổng với 7.0.0.0. Tư điền của tổng Lạc Thiện cũng như hai tổng trên chủ

yếu là đất loại 2 (325.0.7.9) và 3 (653.3.0.9). Chỉ có duy nhất Vụ Bản có đất loại 1

(3.2.0.0).

Tổng Lạc Thành có diện tích đất tư ít nhất trong huyện. Tư điền 682.5.0.0, chiếm

74,8% và tư thổ 57.2.0.0, chiếm 6,3% tổng diện tích ruộng đất của tổng. Xã Đa Phúc

có quy mô sở hữu tư điền lớn nhất tổng (87.9.0.0), xã Ngọc Lâu có quy mô sở hữu tư

thổ lớn nhất tổng (7.0.0.0). Đây là tổng có quy mô đất tư điền loại 1 lớn nhất huyện

(27.5.0.0), xã có quy mô sổ hữu cao nhất là Ngọc Lâu (6.9.0.0). Cũng như các tổng

khác, tư điền ở Lạc Thành chủ yếu là đất loại 2 (98.1.0.0) và 3 (556.9.0.0).

Qua phân tích số liệu về quy mô sở hữu đất tư của huyện Lạc Sơn có thể thấy

diện tích ruộng đất tư chiếm phần lớn diện tích đất của huyện. Trong đó có cả tư điền

và tư thổ. Tuy nhiên, tư điền vẫn chiếm diện tích lớn hơn rất nhiều. Tư thổ chiếm tỷ lệ

rất thấp. Tư điền ở Lạc Sơn được phân bố không đồng đều giữa các tổng và các xã

trong huyện, nhiều nhất là tổng Lạc Thiện, trong đó xã Định Giáo có quy mô sở hữu

lớn nhất trong các xã của huyện. Trong khi đó, tổng Lạc Thành có quy mô sỡ hữu nhỏ

nhất.

Về chất lượng tư điền. Ở Lạc Sơn chủ yếu là đất loại 2 và loại 3. Được phân bố ở

hầu hết các xã trong huyện. Ruộng đất ít màu mỡ, khó khăn trong việc canh tác, năng

suất thấp. Diện tích loại 1 thì tổng Lạc Thành chiếm nhiều nhất (27.5.0.0), được phân

bố 8/12 xã trong tổng. Còn lại được phân bố ở một số xã ở các tổng khác với diện tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

rất ít.

2.1.2.4. Tình hình sở hữu ruộng đất công

Bảng 2.7: Quy mô ruộng đất công của huyện Lạc Sơn Đơn vị : Mẫu.sào.thước.tấc(m.s.th.t)

Công điền (m.s.th.t)

STT

Tên xã

Công thổ (m.s.th.t)

Tên tổng

Loại 1 (m.s.th.t)

Loại 2 (m.s.th.t)

Loại 3 (m.s.th.t)

Tổng diện tích ruộng đất (m.s.th.t)

Tổng Công điền (m.s.th.t)

1193.0.10.4 176.1.12.5

0.0.0.0

131.7.8.5 44.4.4.0

I

0

Tổng Lạc Đạo

1

Tức Tranh

110.5.4.0

10.8.4.0

0

10.0.0.0

0.8.4.0

0

2

49.7.0.0

15.3.0.0

Văn Đức

0

8.0.0.0

7.3.0.0

0

3

59.2.0.0

13.1.0.0

Suất Hóa

0

2.1.0.0

11.0.0.0

4

71.5.0.0

6.0.0.0

Quý Hòa

0

6.0.0.0

0

0

5

65.3.0.0

0

Phú Hậu

0

0

0

0

6

87.6.0.0

8.0.0.0

Văn Lãng

0

8.0.0.0

0

0

7

Định Cư

148.0.0.0

30.0.0.0

0

30.0.0.0

0

0

117.8.0.0

40.3.0.0

15.0.0.0

25.3.0.0

0

0

8

Hướng Nghĩa

98.8.11.3

8.8.3.0

0

8.8.3.0

0

0

9

Thương Nhượng

10

An Điềm

97.1.0.0

10.0.0.0

0

10.0.0.0

0

0

11

Tuân Đạo

84.8.10.1

16.8.5.5

0

16.8.5.5

0

0

12

Sùng Nhân

82.7.0.0

5.0.0.0

0

5.0.0.0

0

0

13

Mỹ Thành

74.0.0.0

7.0.0.0

0

7.0.0.0

0

0

14

Bình Hiểm

45.9.0.0

5.0.0.0

0

5.0.0.0

0

0

0

0

867.4.0.0

19.0.0.0

19.0.0.0

0

II

Tổng Lạc Nghiệp

1

Phúc Tuy

61.2.0.0

0

0

0

0

0

2

Chỉ Thiện

62.2.0.0

0

0

0

0

0

3

Thanh Hối

124.0.0.0

0

0

0

0

0

4

Tích Cốc

53.4.0.0

0

0

0

0

0

5

Sơn Trang

47.5.0.0

0

0

0

0

0

6

Ngọc Minh

121.8.0.0

0

0

0

0

0

7

Tử Nê

68.4.0.0

0

0

0

0

0

8

0

0

Đông Lai

86.2.0.0

19.0.0.0

19.0.0.0

0

9

Quy Hậu

76.5.0.0

0

0

0

0

0

87.9.0.0

0

0

0

0

0

10

Thân Thượng

11

Mẫu Đức

78.3.0.0

0

0

0

0

0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Công điền (m.s.th.t)

STT

Tên xã

Công thổ (m.s.th.t)

Tên tổng

Loại 1 (m.s.th.t)

Loại 2 (m.s.th.t)

Loại 3 (m.s.th.t)

Tổng diện tích ruộng đất (m.s.th.t)

Tổng Công điền (m.s.th.t)

Tổng

1203.0.14.0 165.2.5.1

32.5.0.0

127.6.5.1

5.1.0.0

12.4.10

Lạc Thiện

III

1

Phú Lẫm

63.4.0.0

15.1.0.0

15.1.0.0

0

0

0

2

Quy Mỹ

97.7.12.9

10.6.0.0

0

10.6.0.0

0

1.0.0.0

3

Do Nhân

92.0.3.2

8.2.1.6

0

8.2.1.6

0

2.4.0.0

4

Gia Mô

66.0.0.0

9.2.0.0

0

9.2.0.0

0

0

5

Tuân Lộ

109.6.8.6

10.5.0.0

0

10.5.0.0

0

1.5.10.0

6

Lỗ Sơn

78.5.0.0

14.2.0.0

14.2.0.0

0

0

7

Định Giáo

125.1.6.3

15.0.0.0

0

15.0.0.0

0

1.0.0.0

8

Phú Vinh

87.8.5.6

10.3.3.5

0

10.3.3.5

0

2.0.0.0

9

Chí Đạo

102.6.0.0

12.2.0.0

0

12.2.0.0

0

0

10

An Lương

82.4.0.0

18.3.0.0

0

18.3.0.0

0

0

11

Mỹ Hòa

83.7.9.6

10.0.0.0

0

10.0.0.0

0

2.0.0.0

12

Phong Phú 126.2.12.8

21.0.0.0

0

21.0.0.0

0

2.5.0.0

13

Vụ Bản

87.7.0.0

10.6.0.0

3.2.0.0

2.3.0.0

5.1.0.0

0

912.5.0.0

172.8.0.0

45.4.0.0

39.7.0.0

87.7.0.0

0

Tổng Lạc Thành

IV

1

Tức Mặc

35.1.0.0

7.9.0.0

3.6.0.0

2.0.0.0

2.3.0.0

0

2

Bình Cảng

50.6.0.0

9.2.0.0

1.5.0.0

3.1.0.0

4.6.0.0

0

3

Hoài An

103.7.0.0

12.4.0.0

4.0.0.0

2.1.0.0

6.3.0.0

0

4

Tân Mỹ

58.8.0.0

12.4.0.0

3.1.0.0

4.6.0.0

4.7.0.0

0

5

Hiếu Nghĩa

70.7.0.0

15.5.0.0

3.0.0.0

1.9.0.0

10.6.0.0

0

6

Bỉnh Chân

100.0.0.0

10.9.0.0

5.1.0.0

1.8.0.0

4.0.0.0

0

70.0.0.0

7.8.0.0

2.1.0.0

3.4.0.0

2.3.0.0

0

7

Hưng Nhượng

8

Ngọc Lâu

71.1.0.0

43.1.0.0

10.4.0.0

10.1.0.0

22.6.0.0

0

9

Vụ Nông

60.8.0.0

13.3.0.0

8.1.0.0

3.5.0.0

1.7.0.0

0

10

Vũ Lao

100.2.0.0

19.8.0.0

3.5.0.0

4.1.0.0

12.2.0.0

0

11

Đa Phúc

100.0.0.0

8.0.0.0

1.0.0.0

1.6.0.0

5.4.0.0

0

12

An Nghiệp

91.5.0.0

12.5.0.0

0

1.5.0.0

11.0.0.0

0

Tổng cộng

4176.0.9.4 533.2.2.6

77.9.0.0 318.0.13.6 137.2.4.0 12.4.10.0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837)

Theo bảng 2.7, ở Lạc Sơn tổng diện tích đất công của huyện hơn 545 mẫu, chiếm

tỷ lệ 13,1% tổng diện tích đất đai toàn huyện. Trong đó công điền 533.2.2.6, chiếm

12,8%, được chia thành 3 loại; công thổ 12.4.10.0, chiếm 0,3%. Trong địa bạ thể hiện

rất chi tiết công điền ở 50 xã thuộc 4 tổng của huyện Lạc Sơn.

Tổng Lạc Đạo chỉ có công điền mà không có công thổ với 176.1.12.5, chiếm 14,7%

tổng diện tích ruộng đất của tổng, phân bố 13/14 xã có công điền, vì vậy quy mô sở hữu

rất thấp, xã Hướng Nghĩa có quy mô sở hữu cao nhất tổng (40.3.0.0). Nhìn chung quy mô

sở hữu công điền rất thấp. Đối với chất lượng đất, không có loại 1, đại đa số là đất loại 2

(131.7.8.5), chiếm hơn 70% diện tích công điền và loại 3 (44.4.4.0).

Tổng Lạc Nghiệp cũng như Lạc Đạo, không có công thổ và quy mô sở hữu rất

ít, chỉ có 19.0.0.0, được phân bố duy nhất ở xã Đông Lai, toàn bộ là đất loại 2.

Tổng Lạc Thiện, là tổng duy nhất trong huyện có cả công điền và công thổ. Công

điền 165.2.5.1, chiếm 13,7%, phân bố trên tất cả các xã; xã Phong Phú có quy mô sở hữu

lớn nhất (21.0.0.0); chủ yếu là đất loại 2 (127.6.5.1), loại 1 và 3 diện tích rất ít và phân bố

ở một số xã nhất định. (Đất loại 1 (chiếm 32.5.0.0), phân bố 3/13 xã; loại 3 là 3 5.1.0.0

phân bố duy nhất ở xã Vụ Bản. Công thổ 12.4.10, chiếm 1,2% tổng diện tích ruộng đất

của tổng, được phân bố 7/13 xã, quy mô sở hữu rất thấp, dao động từ 1 đến 2,5 mẫu.

Tổng Lạc Thành, cũng như 2 tổng trên chỉ có công điền và không có công thổ.

Công điền172.8.0.0, chiếm 18,9% tổng diện tích ruộng đất của tổng. Được phân bố trên

tất cả các xã trong tổng, xã Ngọc Lâu có quy mô sở hữu cao nhất (43.1.0.0); được chia

thành 3 loại, loại 3 có diện tích lớn nhất (87.7.0.0), loại 2 (39.7.0.0) và loại 1 (45.4.0.0).

Như vậy, diện tích đất công của huyện Lạc Sơn không lớn, chủ yếu là công điền,

được phân bố trên 4 tổng của huyện. Tuy nhiên sự phân bố công điền là không đồng

đều giữa các tổng trong huyện, giữa các xã trong tổng. Có những tổng như Lạc Đạo có

176.1.12.5 nhưng ở tổng Lạc Nghiệp chỉ có 19.0.0.0. Chỉ duy nhất có tổng Lạc Thiện

có công thổ nhưng quy mô sở hữu rất thấp (12.4.10).

Chất lượng công điền cũng được phân thành 3 loại. Nhưng chủ yếu ruộng đất

hạng 2 (318.0.13.6/533.2.2.6), chiếm gần 60%. Còn đất loại 3 (137.2.4.0/533.2.2.6),

chiếm gần 26%; loại 1 (77.9.0.0/533.2.2.6), chiếm khoảng 14%. Điều này chúng ta

nhận thấy ngược lại với tư điền vì tư điền loại 3 chiếm tỷ lệ cao nhất (2293.5.11.9/

3296.6.6.7, chiếm gần 70% tư điền). Có thể thấy rằng, khá nhiều ruộng thuộc loại tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đối tốt đã được sử dụng với mục đích đất công của nhà nước.

2.1.2.5. So sánh ruộng đất tư và ruộng đất công

Bảng 2.8: Quy mô sở hữu ruộng đất tư và ruộng đất công Đơn vị : Mẫu.sào.thước.tấc(m.s.th.t)

Ruộng Đất Tổng diện Tổng diện tích tích ruộng Tư điền Công điền Tư thổ Công thổ đất

3296.6.6.7 533.2.2.6 333.7.5.1 12.4.10.0 3802.8.9.3 345.2.0.1 Diện tích

Tỷ 86,7% 13,3% 96,7% 3,3% 100% lệ % 100%

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837)

Qua bảng số liệu bảng 2.8 có thể thấy đất ruộng ở huyện Lạc Sơn chiếm đa số

đất đai của huyện; đất thổ chỉ có 345.2.0.1/4176.0.9.4, chiếm gần 9% tổng diện tích đất đai của huyện.

Số liệu trên thể hiện rất rõ xu hướng phát triển đất tư hữu ở huyện Lạc Sơn hồi

so với diện tích đất thổ. Đất ruộng (3802.8.9.3/4176.0.9.4) chiếm hơn 91% tổng diện tích

nửa đầu thế kỷ XIX. Trong tổng số 3802.8.9.3 đất điền, thì tư điền đã chiếm tới 86,7%

(3296.6.6.7), chỉ có 13,3% (533.2.2.6) công điền. Về đất thổ cũng tương tự, tư thổ chiếm

96,7% (333.7.5.1/345.2.0.1), công thổ chỉ có 3,3% (12.4.10.0/345.2.0.1). Điều này đã

được lý giải, một phần là xu hướng tư nhân hóa đất đai của cả nước ở thế kỷ XIX và trước

đó. Một phần nữa do đặc trưng sở hữu đất đai của huyện Lạc Sơn từ các thế kỷ trước đó

với chế độ nhà lang, ruộng đất chủ yếu thuộc sỡ hữu của nhà lang. Mặc dù nhà Nguyễn đã

có nhiều chính sách nhằm hạn chế tình trạng tư nhân hóa này nhưng nó cũng không có

nhiều tác dụng ở Lạc Sơn vào thời điểm đó.

2.1.3. Sở hữu ruộng đất của chức dịch

Dưới thời Minh Mệnh, các làng xã ở địa phương chỉ còn hai chức là lý trưởng và sắc mục. Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy rằng, mỗi một xã ở huyện Lạc Sơn cho đến năm 1837 có một lý trưởng và một sắc mục mà thôi. Qua địa bạ huyện Lạc Sơn thể hiện vai trò của đội ngũ những người có chức quyền ở làng xã, gọi là chức sắc (gồm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chức dịch và sắc mục). Chức dịch là bộ phận chức sắc quản lý làng xã nằm trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước, được nhà nước công nhận như: lý trưởng, xã trưởng… Sắc mục là những người được làng cử ra, đại diện cho cộng đồng năm trong bộ máy tự quản của làng xã như hương mục, dịch mục. Ở cuối địa bạ theo quy định có phần ghi danh cùng điểm chỉ của những người có chức sắc chịu trách nhiệm lập địa bạ.

Mỗi địa bạ thường có ít nhất hai chức sắc trong xã đứng danh kê khai, chịu trách nhiệm

về lập địa bạ của xã mình, trong đó có một người thuộc hệ thống chức dịch của nhà nước là lý trưởng hoặc xã trưởng và một người thuộc sắc mục của làng xã, chủ yếu là

hương mục. Trong 50 địa bạ của huyện Lạc Sơn có tới 100 chức dịch trong đó có 50

lý trưởng và 50 sắc dịch, có nghĩa là mỗi xã có 1 lý trưởng và 1 sắc dịch. Cụ thể việc

sỡ hữu ruộng đất của các chức dịch ở huyện Lạc Sơn theo địa bạ năm 1837 thể hiện ở bảng thống kê dưới đây:

Bảng 2.9: Quy mô sở hữu ruộng đất của các chức dịch

Đơn vị : Mẫu.sào.thước.tấc(m.s.th.t)

Lý trưởng

Sắc mục

Stt

Tên tổng

Tên xã

Số lượng

Số lượng

Diện tích sở hữu

Diện tích sở hữu

1

Tức Tranh

1

0

1

0

2

Văn Đức

1

0

1

0

3

Suất Hóa

1

0

1

0

4

Quý Hòa

1

0

1

0

5

Phú Hậu

1

0

1

0

6

Văn Lãng

1

0

1

0

7

Định Cư

1

0

1

0

Lạc Đạo

8

Hướng Nghĩa

1

0

1

0

Thương

9

1

0

1

0

Nhượng

10

An Điềm

1

0

1

0

11

Tuân Đạo

1

0

1

0

12

Sùng Nhân

1

0

1

0

13

Mỹ Thành

1

0

1

0

14

Bình Hiểm

1

0

1

0

15

Phúc Tuy

1

0

1

0

16

Chỉ Thiện

1

0

1

0

17

Thanh Hối

1

0

1

0

18

Tích Cốc

1

0

1

0

19

Sơn Trang

1

0

1

0

20

1

0

Lạc Nghiệp

Ngọc Minh

1

0

21

Tử Nê

1

0

1

0

22

Đông Lai

1

0

1

0

23

Quy Hậu

1

0

1

0

24

Thân Thượng

1

0

1

0

25

Mẫu Đức

1

0

1

0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lý trưởng

Sắc mục

Stt

Tên tổng

Tên xã

Số lượng

Số lượng

Diện tích sở hữu

Diện tích sở hữu

26

Phú Lẫm

1

0

1

0

27

Quy Mỹ

1

0

1

0

28

Do Nhân

1

0

1

0

29

Gia Mô

1

0

1

0

30

Tuân Lộ

1

0

1

0

31

Lỗ Sơn

1

0

1

0

32

Lạc Thiện

Định Giáo

1

0

1

0

33

Phú Vinh

1

0

1

0

34

Chí Đạo

1

0

1

0

35

An Lương

1

0

1

0

36

Mỹ Hòa

1

0

1

0

37

Phong Phú

1

0

1

0

38

Vụ Bản

1

0

1

0

39

Tức Mặc

1

0

1

0

40

Bình Cảng

1

0

1

0

41

Hoài An

1

0

1

0

42

Tân Mỹ

1

0

1

0

43

Hiếu Nghĩa

1

0

1

0

44

Bỉnh Chân

1

0

1

0

Lạc Thành

45

Hưng Nhượng

1

0

1

0

46

Ngọc Lâu

1

0

1

0

47

Vụ Nông

1

0

1

0

48

Vũ Lao

1

0

1

0

49

Đa Phúc

1

0

1

0

50

An Nghiệp

1

0

1

0

0

0

Tổng cộng 4 tổng, 50 xã

50

50

Nguồn: Thống kê 50 địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837)

Theo như bảng thống kê trên thì các chức dịch dù đại diện của hệ thống quản lý nhà nước ở địa phương hay đại diện của làng xã thì cũng không có bất cứ sở hữu ruộng đất nào cả. Đây là một hiện tượng khá đặc biệt so với các vùng khác như đồng bằng

hay ở huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ cũng là một huyện miền núi có nhiều đặc điểm về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

địa hình và xã hội khá giống với huyện Lạc Sơn thì ở năm Gia Long 4 (1805) cũng có 10/44 chức sắc có ruộng đất tư [45, tr 38], năm Minh Mệnh 21 (1840) tăng lên 19/26 [45, tr 44]. Hay ở huyện Vị Xuyên (Hà Giang) số chủ ruộng tư là chức sắc năm Gia Long 4 là 41/47[ 26, tr 40], năm Minh Mệnh 21 là 35/46 [26, tr 45].

Hiện tượng một số chức sắc không có ruộng đất tư dưới thời nhà Nguyễn không

phải là một hiện tượng đặc biệt, vì ở các địa phương cũng có tình trạng các chức sắc không có sở hữu ruộng đất tư như Yên Lập hay Vị Xuyên đã nêu trên. Nhưng việc cả

một huyện với 50 xã, 100 chức sắc không có bất cứ sở hữu ruộng đất tư nào như ở Lạc

Sơn lại là một hiện tượng trở nên đặc biệt. Nguyên nhân chính là do đặc điểm thiết chế

xã hội người Mường truyền thống ở huyện Lạc Sơn cho đến thời điểm nhà nước tiến hành lập địa bạ (Minh Mệnh 18 - 1837) thì chế độ lang đạo vẫn còn tồn tại. Ruộng đất phần lớn thuộc sở hữu của nhà lang hay còn gọi là “ruộng lang” dù nhà nước có tiến hành việc đo đạc ruộng đất, lập địa bạ nhưng hình thức sở hữu về ruộng đất của nhà

Lang trên thực tế vẫn còn tồn tại. Và vì vậy những sắc mục, lý trưởng là những người

được nhà nước, địa phương cử ra để quản lý ở mỗi xã thì cũng không có sở hữu ruộng

đất nào cả. Hay nói cách khác các lý trưởng và sắc mục này cũng thường là các quan

lang họ có sở hữu ruộng đất theo chế độ nhà lang nên không thể hiện trong các địa bạ

của huyện Lạc Sơn. Và cũng có thể những người này khi đảm nhận chức vụ vẫn chưa

trở thành chủ sở hữu của gia đình vì chưa tách khỏi đại gia đình chung với bố mẹ, anh

em. Theo phong tục của người Mường, đặc biệt là chế độ nhà lang trong xã hội truyền

thống thì khi con trai đã kết hôn dù có phân chia tài sản ruộng đất cho ra ở riêng nhưng

vẫn không tách phần sở hữu được chia ra khỏi ruộng đất chung của gia đình. Thậm chí

các lang đạo, lang thường còn không có ruộng đất riêng.

Qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất ở huyện Lạc Sơn theo địa bạ Minh

Mệnh 18 (1837), chúng tôi rút ra một số điểm sau:

Thứ nhất, cũng như nhiều địa phương khác ở miền núi phía Bắc, ở Lạc Sơn kinh

tế nông nghiệp là chủ yếu, qua số liệu địa bạ đã phản ánh xu thế chung về tình hình

ruộng đất của cả nước dưới triều Nguyễn. Ruộng đất chủ yếu là ruộng đất tư, chiếm tỷ

lệ 86,9% bao gồm cả tư điền và tư thổ. Trong đó tư điền chiếm tới 78,9%. Ruộng đất công chỉ chiếm 13,1%, trong đó phần lớn là công điền (12,8%). Hiện tượng này khá

phổ biến ở cả đồng bằng và miền núi, như ở Hà Đông ruộng tư cũng chiếm 82,90%

[32, tr. 24] hoặc Vị Xuyên, Hà Giang chiếm 99,73% (theo địa bạ Minh Mệnh 21) [26, tr. 46].

Thứ hai, dù ở huyện Lạc Sơn ruộng đất thuộc sở hữu tư là chủ yếu nhưng không

có chủ sở hữu theo dòng họ, chức sắc mà thuộc sở hữu của cả xã. Đây là một hiện tượng rất đặc biệt ở huyện Lạc Sơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thứ ba, quy mô sở hữu ruộng đất của các xã vào thời điểm năm 1837 là không cao chủ yếu là sở hữu từ 50 đến 100 mẫu ở mỗi xã. Cao nhất là 148.0.0.0 ở xã Định Cư của tổng Lạc Đạo bao gồm tất cả các ruộng đất công và tư. Xã Tức Mặc của tổng Lạc

Thành có quy mô sở hữu thấp nhất là 35.1.0.0. Nguyên nhân là do Lạc Sơn là một

huyện miền núi, địa hình dốc nên đất canh tác ít. Đó cũng là đặc điểm chung của các huyện miền núi.

Thứ tư, ở Lạc Sơn không có ruộng đất lưu hoang, 100% là ruộng đất thực trưng.

Đây là một trong những đặc điểm tích cực về tình hình ruộng đất của huyện Lạc Sơn

đương thời.

Thứ năm, về chất lượng ruộng đất ở huyện Lạc Sơn có cả ba loại đất. Tuy nhiên chủ yếu là đất loại 2 và 3. Giữa tư điền và công điền cũng có sự chênh lệch về loại đất, đối với đất tư điền chủ yếu là đất loại 3 chiếm gần 70% tổng diện tư điền. Với công điền

chủ yếu là đất loại 2 chiếm gần 60% tổng diện tích đất công điền. Ở một huyện miền núi

thì đất loại 2 và 3 chiếm tỷ lệ đa phần như vậy là một điều dễ hiểu. Do địa hình đồi núi,

nên Lạc Sơn không có nhiều đất loại 1.

2.2. Chế độ tô thuế

Tô thuế là nguồn tài chính chủ yếu của nhà nước dựa vào nguồn sở hữu ruộng

đất của vương triều là chính, tuy nhiên vào nửa đầu thế kỷ XIX, ruộng đất công của

làng xã thuộc quyền sở hữu của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng, vì vậy nhà Nguyễn

đặc biệt quan tâm đến nguồn thu từ tô thuế. Từ ngay sau khi lên ngôi được 1 năm, năm

1803, vua Gia Long chính thức định lại “phép thuế tô, dung”, chia cả nước thành 4 khu

vực để thu thuế ruộng đất, chia ruộng làm 4 loại lớn có chế độ thuế khác nhau. Tuy

nhiên huyện Lạc Sơn thời Gia Long việc lập địa bạ chưa có. Đến năm 1837 (thời Minh

Mệnh) địa bạ huyện Lạc Sơn mới được lập. Ruộng đất thời Minh Mệnh cũng được chia

thành khu vực khác nhau để phân định mức tô thuế. Cụ thể:

Thời Minh Mệnh chia cả nước thành 3 khu vực:

Khu vực 1: Như thời Gia Long (Gồm các phủ Quảng Bình, Thiệu Phong, Điện

Bàn, Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh)

Khu vực 2: Từ Nghệ An ra Bắc.

Khu vực 3: Như khu vực 4 thời Gia Long.

Trên cơ sở phân chia như thời Minh Mệnh thì Lạc Sơn phủ Thiên Quan thuộc

khu vực 2. Mức thuế như sau:

Hạng nhất 80 thăng/ mẫu với ruộng công và 26 thăng/ mẫu với ruộng tư.

Hạng nhì 56 thăng/ mẫu với ruộng công và 20 thăng/ mẫu với ruộng tư. Hạng ba 33 thăng/ mẫu với ruộng công và 13 thăng/ mẫu với ruộng tư [63, tr. 136].

Như vậy, ở Lạc Sơn có các loại ruộng từ hạng 1 đến hạng 3 và có cả ruộng công

và ruộng tư. Cụ thể mức thuế mà nhân dân Lạc Sơn phải đóng là:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ruộng tư: tổng diện tích 3296 mẫu 6 sào 6 thước 7 tấc.

Hạng 1: có hơn 45 mẫu 4 sào nộp mức thuế 26 thăng/ mẫu.

Hạng 2: có hơn 957 mẫu 6 sào 9 thước 8 tấc nộp mức thuế 20 thăng/ mẫu. Hạng 3: có 2293 mẫu 5 sào 11 thước 9 tác nộp mức thế 13 thăng/ mẫu.

Ruộng công: tổng diện tích 533 mẫu 2 sào 2 thước 6 tấc.

Hạng 1: có 77 mẫu 9 sào nộp mức thuế 80 thăng/ mẫu.

Hạng 2: có 318 mẫu 0 sào 13 thước .6 tấc nộp mức thuế 56 thăng/ mẫu. Hạng 3: có 137 mẫu 2 sào 4 thước nộp mức thế 33 thăng/ mẫu. Ngoài thuế ruộng, nhân dân huyện Lạc Sơn phải đóng góp thêm nhiều loại thuế khác nữa theo quy định của nhà nước như vải, thuế sản vật, thuế đinh… và các nghĩa

vụ lao dịch nặng nề.

2.3. Tình hình kinh tế

2.3.1. Nông nghiệp

- Trồng trọt: Lúa gạo là thức ăn chính của người Mường, cũng chính là ngành trồng trọt chính của họ. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Mường là những thung lũng

hẹp gần với những dãy đồi, núi, địa hình không bằng phẳng. Vì vậy ruộng đất canh tác

ở vùng này có hai loại hình: một là đất canh tác ở những vùng khá bằng phẳng và một

loại hình khác đó là ruộng bậc thang. Đặc điểm của ruộng bậc thang là thửa trên cao

hơn thửa, khu trên cao hơn khu dưới. Nhìn chung các loại hình ruộng bậc thang có đặc

tính chung là: tỷ lệ mùn giảm sút do quá trình liên tiếp trồng lúa và do canh tác chưa

chú ý bồi dưỡng. Hơn nữa, ruộng bậc thang thường ở các sườn dốc, đất bị trôi màu làm

cho lớp đất màu ngày càng mỏng. Trong truyền thống, cư dân Mường canh tác chủ yếu

ở các ruộng nước, thung lũng hay các doi đất hẹp dưới các chân núi,ven các đồi gò thấp

với hệ thống mương, phai rất đặc trưng.

Lạc Sơn là vùng có diện tích trồng lúa nước lớn nhất tỉnh. Lạc Sơn xưa kia bao

gồm địa phận huyện Lạc Sơn và Tân Lạc ngày nay. Đây cũng là vùng bao gồm hai mường lớn nhất là Mường Bi và Mường Vang. Ở đây có những vùng đồng bằng khá

rộng lớn so với những vùng đồng bằng của huyện khác trong tỉnh. Diện tích trồng lúa

nước ở vùng này cũng nhiều nhất trong tỉnh.

Kỹ thuật canh tác: Chủ yếu vẫn dùng công cụ sản xuất chính là cày, bừa, cuốc, thuổng… Tùy theo mỗi loại rẫy, loại ruộng có độ màu cao và chất đất khác nhau, cư

dân Lạc Sơn sử dụng những công cụ và kỹ thuật canh tác tương ứng để đạt hiệu suất công việc tốt nhất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phương pháp tưới nước vào ruộng của người Mường: Hệ thống dẫn nước thông dụng nhất là đào mương dẫn nước, đây là hệ thống đem lại kết quả tốt nhất, đôi khi người ta kết hợp với hệ thống guồng nước. Mương dẫn nước bắt đầu lấy từ nước trên

những khúc sông nhỏ, từ 1000 đến 1.500 mét ở trên những địa điểm cần tưới nước.

Mương được đào nông và dẫn tới tận rìa của khu ruộng cao nhất, từ đây nước vượt ra bằng nhiều ống rót nước, những ống này là những ống tre ngắn làm vòi cắm qua bờ

ngăn nước, chúng bảo đảm nước chảy nhiều hơn ở phạm vi những khu ruộng đắp cao

hơn và giữ được nhiều nước ăn lan vào phía trong [28, tr. 175]. Người ta xây dựng một

con đập (phai) ngăn nước ở phía trên guồng nước làm điều hòa khối lượng nước bằng cách tăng nó lên, song dòng nước được phình to vì một trận lũ bao giờ cũng đem lại nguy cơ làm hỏng nặng và rất có thể phá hủy cả con đập ngăn nước và những tấm khung có lắp trục bánh xe quay. Vậy nên, người Mường chọn đặt guồng của họ theo

dọc khúc sông có hai bờ thành quá cao, dù họ vẫn lựa chọn những khúc sông ăn khá

sâu vào núi để tránh bị tỏa ra thành khúc sông rộng lớn. Công việc đắp đập làm hệ

thống guồng nước thường cả làng, xóm thậm chí cả mường cùng làm với nhau. Tất cả

các công đoạn làm đập ngăn nước, làm hệ thống guồng dẫn nước đều đặt dưới sự điều

khiển và kiểm soát của các ậu. Những guồng nước ở Hòa Bình thường có hiệu suất

không cao như những vùng khác, thường chỉ tưới được một mẫu và không thể vượt

qua hai mẫu.

Phai là loại đập đắp ngăn suối để dâng nước vào mương. Trước kia, phai hầu

hết được kè bằng đá hoặc các thân gỗ chồng lên nhau, đóng cọc hai bên cho khỏi đổ.

Hệ thống mương của cư dân Mường không to như mương hay kênh của người

Việt ở vùng đồng bằng Sông Hồng, vì những con ruộng không quá to, mương người

Mường nó chỉ vừa để phục vụ cho nhu cầu cung cấp nước cho những con ruộng vừa

phải đó, vậy nên các phai cũng không quá to.

Đối với những khu ruộng bằng phẳng hơn thì người Mường sử dụng một hệ

thống mương không cần dùng đến các guồng dẫn nước. Hệ thống mương này cũng

được dẫn nước từ các con đập chạy men theo sườn đồi, sườn núi hoặc dọc các khu đồng. Mương có thể đào chìm hay đắp nổi . Với hệ thống mương này còn có các hạnh

để dẫn nước vào ruộng. Hạnh là hệ thống dẫn nước nhỏ đắp bờ hai bên lấy nước từ

mương vào các cánh đồng. Để đưa nước tưới tới từng thửa ruộng người ta còn dùng cuốc khơi rãnh ở bờ hạnh, gọi là tạng, khi đủ nước bỏ tạng đi đắp lại. Đối với thửa ruộng cao hơn nguồn nước người Mường dùng cọn nâng nước lên đổ vào ruộng.

Mặc dù hệ thống thủy lợi khá đơn giản nhưng nó phù hợp với địa hình nơi đây

vì vậy nó mang lại hiệu quả cho việc trồng trọt của cư dân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Công cụ làm đất phổ biến nhất là chiếc cày chìa vôi (cày vôi) và chiếc bừa đơn nhỏ có răng bằng gỗ hoặc bằng tre. Đối với người Mường thì chiếc cày phổ biến nhất là chiếc cày vôi. Cái bừa của người Mường có nhiều loại khác nhau. Thông dụng nhất

là chiếc bừa từ bảy đến mười hai răng, cắm thẳng góc vào một thanh gỗ ngang, hoặc

cắm vào hai thanh gỗ ngang chồng lên nhau, mang ở trên những thanh khung gỗ cong hoặc thẳng, ít nhiều giáp gần nhau ở đầu tùy theo trường hợp có một hay hai thanh ở

mỗi bên. Còn một kiểu bừa khác thô hơn, đó là bừa cào đơn giản rộng từ 1.2m đến

2.3m, có cán cắm ngang, giống như bừa cào làm vườn. Loại bừa nữa là chiếc bừa có

hai hàng răng cắm thẳng góc dưới những cạnh dài nhất của một chiếc khung hình chữ nhật. Tuy có nhiều loại khác nhau như vậy nhưng tất cả đều có điểm chung răng cưa được làm bằng gỗ và tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành từng cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi

đem giã. [28, tr. 191]

Các khâu trong kĩ thuật làm ruộng nước của người Mường bao gồm bốn công

đoạn kế tiếp nhau: làm đất, gieo trồng, chăm bón và thu hoạch. Kỹ thuật canh tác hoàn

toàn dựa trên phương pháp cổ truyền.

Làm đất: Người mường sử dụng những công cụ như cày, bừa, cuốc để làm đất.

Có sử dụng sức kéo của trâu, bò. Công việc làm đất thường do nam giới làm. Quy trình

làm đất cấy lúa của cư dân Lạc Sơn không kỹ lưỡng như ở các vùng đồng bằng sông

Hồng hay như các đồng bào dân tộc Tày - Thái ở Cao Bằng. Người Kinh hay đồng bào

Tày - Thái thường có công đoạn cày ải sau đó cày lại và vì vậy đất có thời gian nghỉ

ngơi giữa hai lần cày. Người Mường chỉ cày một lần sau đó bừa luôn, thường không

có thời gian gián đoạn.

Mùa vụ: Ruộng đồng được cày khô trong tháng 12 hoặc trong nửa đầu tháng

giêng Âm lịch, được tưới nước vài ngày sau khi làm xong công việc, và được bừa

nhuyễn vào ba bốn tuần sau nữa. Đợt công việc thứ hai được bắt đầu ngay sau khi gặt

hái mùa hè và việc tưới nước được giải quyết trước khi hoàn thành công việc một ít.

Người Mường thường cấy hai vụ: vụ mùa và vụ chiêm. Vụ mùa thường cấy vào khoảng tháng 2, tháng 3 tùy theo thời tiết của năm đó mà cấy sớm hay muộn và sẽ thu hoạch

vào tháng 5 tháng 6. Ngay sau khi kết thúc vụ mùa thì cư dân Mường lại làm công việc

chuẩn bị cho mùa chiêm. Thường thì ruộng đất được làm ngay sau khi gặt xong lúa trên đồng, và cấy trong khoảng thời gian 2 đến 3 tuần sau khi gặt. Vụ chiêm được thu hoạch vào khoảng tháng 9, tháng 10.

Gieo mạ và cấy: Người Mường thường lấy thóc từ mùa trước ở kho dự trữ để làm thóc giống. Người Mường có nhiều giống lúa khác nhau, tùy theo từng thửa ruộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhiều hay ít nước, đất tốt hay xấu, cao hay thấp để lựa chọn những giống lúa sao cho phù hợp và đạt năng suất cao. Khi công việc ở ngoài đồng sắp xong, người ta chuẩn bị gieo mạ để cấy. Để cho thóc mọc mầm có nhiều phương pháp khác nhau ở mỗi nơi: ở

Mường Bi, hạt thóc được đổ vào những chiếc chậu đồng to hoặc trong những chiếc vại,

để ngập nước tới khi nào nước bị hút cạn, mầm thóc phát triển trong khoảng 8 ngày. Ở giữa đám thóc này, người ta cắm một cành lá thẳng đứng vượt lên trên chiếc chậu hoặc

chiếc vại, người Mường cho rằng làm như vậy để kích thích cây lúa, cho nó vươn lên

cao theo gương của cành lá đó. Ở Mẫn Đức, người ta cho vào cái giành lớn, dìm ngập

xuống nước sông trong hai ba ngày sau đó mang về nhà, lấy lá chuối phủ kín, để giữ nhiệt sau độ cần thiết đồng thời tránh cho thóc khỏi bị khô, vì như vậy thóc không nảy mầm được. [28, tr. 195]. Khi hạt thóc phát triển, người ta chuẩn bị thửa ruộng bằng cách dùng thân cây lăn, làm cho bề mặt ruộng bằng phẳng sau đó họ mang những hạt

thóc đã nảy mầm ra ruộng và gieo vào những chỗ đất đã được làm bằng phẳng. Đây là

công đoạn gieo mạ của người Mường.

Sau khi mạ được gieo và phát triển chừng 15 đến 20 ngày. Tùy theo từng mùa,vụ

mùa thì mạ thường để lâu hơn vì thời tiết lúc này là mùa rét nên cây mạ phát triển chậm

hơn. Khi nào cây mạ cao từ 15 đến 35cm thì người ta tiến hành nhổ mạ và cấy. Công

việc nhổ mạ gồm cả đàn ông và phụ nữ đều làm. Công việc cấy chủ yếu do người phụ

nữ làm. Công việc cấy ở các làng xóm, mường của người Mường đối với ruộng lang

thì hầu hết những phụ nữ của các nhà nóc phụ trách, còn đối với ruộng của dân thì các

nhà nóc giúp đỡ nhau trong công việc cấy, hái. Đây là một trong những biểu hiện mối

quan hệ làng xóm láng giềng giúp đỡ nhau rất tốt đẹp của người Mường “làng xóm tối

lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.

Về việc bón phân cho cây trồng. Người Mường thường sử dụng phân trâu, bò,

tro củi, hay dùng một số loại lá để làm phân bón cho cây trồng và dùng cho cây lúa.

Tùy mỗi loại cây trồng khác nhau mà họ dùng phân bón vào các giai đoạn khác nhau.

Ví dụ như đối với ruộng lúa nước thì họ dùng phân trước khi cấy và cả sau khi cấy.

Đối với các loại cây trồng như ngô, sắn… thì thường bón trước khi trồng. Họ cũng rất chú trọng việc làm cỏ lúa, thường cỏ lúa được làm hai lần, lần thứ nhất là sau khi cấy

được 3 đến 4 tuần, khi cấy lúa đã chắc chân, khi đó người Mường làm cỏ chủ yếu là để

sục mùn lớp đất màu mỡ để kích thích sự sinh trưởng của cây lúa được nhanh hơn đó là theo kinh nghiệm sản xuất của người Mường. Lần thứ hai là khi cây lúa lớn lên và chuẩn bị ra đòng thì người Mường làm cỏ một lần nữa để đảm bảo đến khi gặt lúa

ruộng lúa tương đối sạch, không có cỏ.

Khâu gặt lúa. Người Mường dùng liềm và hái để gặt lúa. Sau đó lúa bó thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những bó to, người đàn ông sẽ dùng đòn gánh, mỗi đầu xọc vào một bó to và gánh về kho. Ngoài ra, người ta cắt theo tay, đây là một bó nhỏ rồi đặt lên các gốc rạ có người đi thu từng bó lúa đó cho vào quang gắng thành một gánh vừa sức người gánh lúa và

gánh về kho. Việc gặt lúa trước tiên phải được hoàn thành ở nhà lang, sau đó thì đến

các nhà nóc.

Ngoài ruộng nước cư dân Mường còn làm nương rẫy trên các sườn đồi, núi bao

quanh thung lũng, khi mà diện tích lúa nước có hạn.

Làm nương rẫy

Nương rẫy là những khoảng đất rừng được phát, đốt để gieo trồng nhưng không bằng phẳng, không có bờ giữ nước. Ở Hòa Bình, nương rẫy chiếm tỷ lệ cao nhất trên sườn khu núi đá vôi chạy dài theo các dọc miền tây tỉnh Thanh Hóa tương đương với huyện Lạc Sơn ngày nay. Nương rẫy mà người Mường làm chủ yếu là nương lúa, ngoài

ra còn có nương sắn, nương ngô, nương bông. Trên nương, cư dân cũng có tập quán

trồng xen canh một vài giống cây trồng khác như đỗ, vừng, lạc xen với ngô. Hiện nay

ở Lạc Sơn, hình thức canh tác trên nương rẫy vẫn còn tồn tại và khá phát triển như ở

các xã Ngọc Lâu, Ngọc Sơn, Tự Do…Nương rẫy hiện nay chủ yếu được trồng ngô,

sắn, mía. Kỹ thuật canh tác cũng phát triển hơn trước rất nhiều, có máy móc hỗ trợ và

sử dụng nhiều loại phân bón khác nhau, năng suất cũng khá cao. Đây là một trong

những nguồn thu nhập quan trọng của cư dân Mường ở Lạc Sơn hiện nay. Đến nay,

Lạc Sơn vẫn là vùng có diện tích nương rẫy lớn nhất so với các huyện khác trong tỉnh.

Mùa vụ làm nương rẫy của người Mường thường vào đầu tháng 11, 12 (Âm

lịch) đồng bào bắt đầu phát cỏ và đốt dọn, đợi đến khi nào có mưa, đất mềm thì cày vỡ.

Đất được cày lên, dưới tác động của mưa nắng, không khí, gió sương ẩm ướt rồi lại

phơi khô, nên sẽ ải và vỡ ra một cách tự nhiên, vào khoảng tháng giêng, tháng hai, cư

dân lại cày lại một lần nữa sau đó bừa lại cho đất tơi xốp có thể tra ngô, trồng sắn. Đối

với nương rẫy có độ dốc cao đồng bào thường sử dụng cuốc, mai để làm đất và tra hạt.

Nhờ có một hệ thống cây trồng như vậy nên trồng trọt trên nương đã cung cấp nguồn

lương thực, thực phẩm cho cư dân gần như quanh năm. Và cũng vì vậy mà cuộc sống của cư dân Mường cũng được cải thiện hơn. Đôi khi, chính việc trồng trọt trên nương

lại là nguồn cung cấp lương thực chính cho đồng bào. Việc canh tác trên ruộng nương

tùy từng loại cây trồng mà có thời gian gieo trồng và thu hoạch khác nhau. Ví dụ: nương ngô thường được trồng hai vụ xuân hè và hè thu (vụ xuân hè trồng tháng 1, tháng 2 và thu hoạch vào tháng 6, tháng 7, vụ hè thu trồng vào tháng 7và thu hoạch vào

tháng 10, 11). Người Mường ở Lạc Sơn có các nương rẫy trồng lúa (lúa cạn), loại lúa được trồng trên nương rẫy là lúa cạn không cần nhiều nước như lúa được cấy trên ruộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nước đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, diện tích nương rẫy trồng lúa không nhiều, so với nương rẫy trồng ngô, sắn thì nương rẫy trồng lúa thường bằng phẳng hơn. Sau khi đã thu hoạch ngô, lúa, sắn trên các nương rẫy, người Mường phát dọn, cày bừa để trồng

thêm một số loại cây lương thực khác như: khoai lang, đỗ tương,… một loại cây trồng

nữa được trồng khá nhiều ở các nương rẫy đó là cây bông, gai, đay… để phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp của đồng bào. Đặc biệt cây bông được trồng rất nhiều trên

nương rẫy vì nghề thủ công dệt vải rất phát triển trong xã hội người Mường. [141]

Trồng rau quả đối với người Mường không được chú trọng, phần nhiều người

Mường chỉ sử dụng những cây cỏ mọc tự nhiên hoang dại, rất ít người bỏ sức trồng trọt những thứ khác. Tuy nhiên, ngoài việc trồng các loại cây lương thực, người Mường trồng trọt một vài thứ sản phẩm khác: trẩu, thầu dầu, gai, dâu tằm… nhưng rất ít. Về phương pháp cũng giống như người Kinh.

- Chăn nuôi: Điều kiện tự nhiên ở vùng Lạc Sơn khá thuận lợi cho chăn nuôi phát triển. Tuy nhiên, chăn nuôi ở vùng này cũng chỉ là nghề phụ của gia đình, phụ

thuộc hoàn toàn vào nông nghiệp trồng trọt. Vật nuôi có nhiều loại như: gà, vịt, ngan,

ngỗng, lợn, trâu, bò… Chăn nuôi chủ yếu nhằm mục đích lấy sức kéo, làm thực phẩm

phục vụ gia đình và một phần được đem bán.

Đối với trâu, bò là những vật nuôi mà hầu hết các gia đình đều nuôi, thường thì

theo hình thức thả rông. Đồng bào thường chăn thả ở những sườn đồi, thung lũng, chỉ

một số ít được nuôi theo lối buộc dây để trẻ em hoặc người già trông nom. Trâu, bò

chủ yếu được nuôi để cày, bừa, kéo gỗ làm nhà và được dùng để thồ thóc, lúa, ngô từ

trên nương về nhà. Họ thường làm chuồng cho trâu, bò ở dưới gầm sàn nhà hoặc làm

chuồng ở một góc vườn. Việc nuôi lợn được chăm sóc chu đáo hơn. Chuồng lợn cũng

được làm ở dưới gầm sàn nhà hoặc ở góc vườn gần với bếp của nhà chính. Đàn lợn

được cho ăn từ hai đến ba bữa. Lợn cũng là vật nuôi phổi biến nhất của người Mường

vì kỹ thuật chăn nuôi đơn giản, đồng bào chỉ cần dùng rau trong vườn, rau rừng, cây

chuối, ngô, sắn để nấu chín hoặc cho ăn sống, người dân còn thể tận dụng đồ ăn thừa

để dùng làm thức ăn cho lợn. Lợn cũng là nguồn thực phẩm cung cấp thịt ăn được nhiều người ưa dùng. Lợn vừa là nguồn thực phẩm được dùng trong bữa ăn hàng ngày, đồng

thời nó là loại thực phẩm gần như bắt buộn phải có trong việc hiếu, hỷ, lễ tết, cúng thần

cúng ma. Trong lễ thách cưới hay ma chay của người Mường bắt buộc phải có lợn. Thêm một lí do nữa, trong tập tục truyền thống của người Mường xưa, không phải lúc nào người dân cũng được mổ lợn để ăn mà phải thường vào dịp nhà có việc như hiếu,

hỷ, lễ tết,… thì mới được thịt lợn và đôi phi phải được sự cho phép của quan lang. Vì vậy, hầu như hộ gia đình nào cũng nuôi một đến hai con lợn trở lên. Trong mỗi gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đình đều có một khoảng vườn hoặc sân nhỏ để nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng để ăn trứng, thịt hoặc đem trao đổi ngoài chợ. Trong tập tục của người Mường, gà là một trong

những loại thực phẩm rất quý. Thường thì khi nhà có khách, đặc biệt là khách quý thì

chủ nhân thường sẽ thịt gà đãi khách.

Việc chăn nuôi trâu, bò, lợn rất phổ biến với người Mường và nó cũng có vị trí

rất đáng kể trong kinh tế gia đình. Những con vật được nuôi được coi như khoản tiền tiết

kiệm, là gia tài của mỗi một gia đình. Thậm chí, nó trở thành gia sản lớn nhất trong nhà.

Khi cần họ có thể đem bán lấy tiền để mua sắm đồ đạc, lương thực cho gia đình. Nó cũng

được coi là thước đo để đánh giá sự giàu nghèo của mỗi một gia đình. Nhà nào nuôi được

nhiều trâu, bò, lợn tức là nhà đó giàu hơn những nhà khác. Ngoài ra, khi nhà có việc như

hiếu, hỷ, lễ tết, cúng bái thì người ta dựa vào việc nhà có công có việc đó thịt bao nhiêu

con trâu, bò hay lợn để đánh giá việc nhà đó có giàu có hay không.

Ngoài việc chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm để phục vụ sản xuất và cung cấp

nguồn thực phẩm thì người Mường còn đào ao để thả cá phục vụ cho bữa ăn. Ban đầu

việc đánh bắt cá diễn ra ở các sông suối nhưng sau đó việc này bị các quan lang ngăn

cấm, vì trong luật tục của người Mường mọi ngọn cây ngọn cỏ đều là của quan lang.

Về sau, cư dân Mường thường tự đào ao để nuôi cá. Tuy nhiên không phải gia đình

nào cũng có điều kiện để đào ao nuôi cá, chỉ có một số gia đình có điều kiện trong

mường có đất rộng mới đào ao nuôi cá. Những ao cá này thường được đào ở một góc

trong khuôn viên vườn của gia đình.

Nhìn chung, đồng bào nơi đây vẫn coi chăn nuôi là nghề phụ, chủ yếu để phục

vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, cung cấp lương thực cho con người, phục vụ cho lễ

tết, cúng bái… Vì vậy, chăn nuôi ở Lạc Sơn chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình. Ngày

nay, với sự phát triển của kinh tế, nhu cầu của thị trường, chăn nuôi đã phát triển lên

một bước không chỉ là nguồn cung cấp lương thực cho gia đình mà còn là hàng hóa

bán ra thị trường và là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ dân ở đây. Có những hộ dân

chăn nuôi với quy mô lớn lên hàng trăm con lợn, bò với kỹ thuật chăn nuôi cũng được

chú trọng hơn, áp dụng những phương thức chăn nuôi hiện đại.

Tóm lại, kinh tế chủ yếu của cư dân Lạc Sơn là kinh tế nông nghiệp. Trong nông

nghiệp hoạt động chính là trồng trọt, cây trồng chủ yếu là cây lúa nước. Ngoài ra một

số loại cây trông khác như các loại cây hoa màu và các loại cây nông nghiệp khác cũng

được trồng trên nương rẫy hoặc trên ruộng nước. Cư dân ở đây cũng tận dụng những

sản phẩm sẵn có trong tự nhiên để bổ sung thêm nguồn thức ăn cho con người và gia

súc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp

- Thủ công nghiệp: Cũng như nhiều vùng miền khác trên cả nước, đồng bào các

dân tộc sinh sống ở Lạc Sơn bên cạnh nông nghiệp cư dân ở đây cũng làm một số nghề thủ công. Các sản phẩm từ thủ công nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp

mà họ còn đem những sản phẩm thủ công nghiệp ra trao đổi buôn bán bên ngoài. Đồng

bào các dân tộc ở Lạc Sơn, hầu hết các gia đình đều tự túc được các đồ đan thông

thường như giần, sàng, tấm phên, sọt, rổ… Một số gia đình còn đan được những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao như: giỏ, nia… Các nghề thủ công truyền thống như dệt vải, đan lát, làm mộc… tương đối phát triển. Trong các nghề thủ công nổi bật nhất là nghề ươm tơ, dệt vải. Trước đây, trong mỗi gia đình người Mường đều có khung cửi, họ tự

trồng bông, nuôi tằm, dệt vải.

Ươm tơ, dệt vải, nhuộm vải: Là nghề thủ công truyền thống phổ biến nhất ở Lạc

Sơn. Đây cũng là nghề đã hình thành từ lâu đời trên mảnh đất này, tại Hang Trại (di

chỉ khảo cổ học xã Tân Lập) các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những quả dọi, những

bình gốm vỏ dập vải thô. Trong sử thi Đẻ Đất, Đẻ Nước nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt

vải đã dược nói đến nhiều:

“… Sai con trai, con gái

Bắt lấy đực trâu đen, bò loang

Ra cày đất trồng ngô ở bờ bãi

Cày đất trồng vải (cây bông vải) ở bờ sông

Cây bông bằng cột cái

Trái bông bằng vại nước…” [80, tr. 13]

Dâu, bông được trồng khá nhiều ở các làng xóm của người Mường. Người

Mường trước đây đều dành ra một số diện tích đất nhất định để trồng cây bông, cây

dâu. Nếu không có, họ thường phát nương để trồng bông. Đất trồng bông thường là nơi

đất tốt, không ứ đọng nước. Cây dâu là giống cây thân mọc, thân vươn cao, tán lá sum xuê, chỉ cần trồng 1 lần có thể thu hoạch lá nhiều năm sau đó. Trồng dâu cũng không

tốn nhiều đất như trồng bông, nó cũng không kén chọn đất, không cần phải địa hình

bằng phẳng. Đồng bào Mường thường trồng dâu trong vườn nhà, quanh bờ dậu, đặc biệt trồng nhiều trên các triền bãi thoải các bờ sông, suối, ven chân đồi, núi.

Cùng với việc việc trồng dâu chuẩn bị thức ăn cho tằm là việc lấy giống tằm.

Việc chăm tằm cũng rất công phu, phải luôn trông coi từng bữa ăn, giấc ngủ của nó. Tằm thường được nuôi ở nơi thoáng mát, rộng rãi, tránh ruồi, muỗi, kiến. Tằm thường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đặt trong những cái nong cái mẹt khá lớn, sau đó được treo lên, hoặc làm những cái giá để đặt những cái nong đó lên. Những nơi để nong nuôi tằm phải đảm bảo sáng, nhiệt độ và độ ẩm thích hợp để tằm phát triển một cách tốt nhất. Việc lấy lá dâu cho tằm ăn

cũng phải đảm bảo sạch sẽ, khô ráo và không được héo. Khâu vệ sinh cho tằm phải đặc

biệt chú trọng vì nó sẽ quyết định đến chất lượng của kén.

Theo kinh nghiệm dân gian, tằm làm kén được 2 - 3 ngày là thời điểm tốt nhất

để kéo tơ. Người ta buộc dựng đứng vào canh quai nồi nước sôi thả kén vào một cột

tre nhỏ, buộc vào cột tre đó một thanh trẻ nhỏ chừng bằng cái đũa làm trục nằm ngang

miệng nồi mỗi lần 15 - 20 cái kén, tay phải dùng đũa khuấy đều, tay trái kéo ra từng sợi tơ quấn qua ống tre và kéo dài tơ ra đựng vào nong, chậu đặt bên cạnh. Nước luộc kén phải luôn sôi thì sợi tơ mới có màu vàng ươm. Cứ kéo được chừng một nén tơ tương đương trọng lượng khoảng 1 gram thì gói riêng vào lá chuối, dùng cối đá nén

cho hết nước rồi đem phơi những chỗ râm mát để giữ màu của tơ. Từ những nén tơ đó

được quấn quanh con sợi và từ đó dệt thành vải. theo kinh nghiệm của người Mường

cứ khoảng 10 con sợi (1 kg tơ) dệt được khoảng 180 vuông lụa. Vải tơ tằm rất mềm và

bền được nhiều người ưu dùng. Để có sản phẩm đẹp, nhất là loại vải thổ cẩm, đồng bào

Mường rất coi trọng khâu chế biến sợi. Muốn cho sợi mịn và bền người ta phải hồ sợi.

Cách hồ sợi truyền thống của người Mường là nấu cháo đặc bằng gạo tẻ rồi đổ ra nong,

cho con sợi vào ngâm và dùng chân chà xát thật kỹ, thậm chí người ta cho sợi vào nồi

hồ luộc ba đến bốn giờ. Sau đó mang sợi ra suối giũ sạch, phơi khô, lúc đó sợi trở nên

chắc và bóng. Tất cả các công đoạn từ việc lấy tơ từ kén của tằm, đến việc phơi tơ, dệt

vải mộc, lụa tơ tằm hoàn toàn do người phụ nữ làm, thường được làm tranh thủ trong lúc

nông nhàn, rất ít người thợ làm chuyên nghiệp. Công việc này cũng đánh giá một phần

sự khéo léo, đảm đang của phụ nữ Mường.

Đối với phụ nữ Mường thời xưa hầu như tất cả đều biết ươm tơ, dệt lụa. Công

việc này không chỉ là những người phụ nữ có gia đình mới làm, mà các thiếu nữ Mường

từ sớm đã được mẹ dạy làm nghề ươm tơ dệt lụa. Thậm chí, đây còn trở thành một

trong những tiêu chí để thanh niên trong mường đánh giá xem người thiếu nữ Mường có đảm đang hay không. Thanh niên Mường thường để ý đến những thiếu nữ ươm tơ,

dệt lụa giỏi. Trong nhà nếu càng có nhiều sản phẩm làm từ tơ lụa điều đó càng chứng

minh người phụ nữ của gia đình đó càng chăm chỉ và khéo léo. Ở mỗi gia đình người Mường hầu như đều có khung cửi để dệt vải. Những chiếc khung cửi cũng có hình dáng, kích thước không giống nhau. Khung cửi thường được đặt ở dưới gầm sàn nhà

hoặc là ở trong buồng (là một gian nhà được ngăn cách bởi một vật dụng nào đó đối với các gian khác).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người phụ nữ Mường làm ra những vuông vải cho bản thân, cho những người thân trong gia đình và làm của hồi môn khi đến nhà chồng. Những tấm chăn, mảnh vải, vỏ gối, quần áo, đặc biệt là cạp váy của phụ nữ với những hoa văn đặc sắc là dấu ấn,

sự sáng tạo công sức lao động miệt mài bên khung cửi của người phụ nữ Mường. Sự

khéo léo, chăm chỉ, sự sáng tạo trong những vuông vải trở thành một trong những tiêu chuẩn của người phụ nữ Mường. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những nét

hoa văn và giá trị của cặp váy Mường, một trong những sản phẩm được làm ra từ nghề

ươm tơ, dệt lụa. Thậm chí, sản phẩm này là một trong những nét đặc sắc của văn hóa

Mường.

Nghề mộc: Người Mường rất khéo léo, nhưng nghề mộc ở người Mường lại không phát triển thành một nghề chuyên nghiệp mà chỉ dừng lại ở nghề phụ. Nghề mộc thường diễn ra trong phạm vi tương trợ, giúp nhau dựng nhà, làm khung cửi, làm đuống,

cối giã gạo, làm quan tài…, phục vụ cho sản xuất, vui chơi chứ không chuyên sản xuất

đồ gỗ. Thường thì trong làng có một vài người rất khéo tay và hay làm các sản phẩm

từ nghề mộc. Tuy nhiên họ không làm ra các sản phẩm này với mục đích buôn bán mà

thường dùng để trao đổi với những gia đình nào đó trong làng nếu gia đình có nhu cầu,

hoặc họ được gia đình đó nhờ làm. Ví dụ như đục, đẽo các bộ phận để làm nhà, hay

làm quan tài… sau đó họ gia đình đó mời cơm, uống rượu, cũng rất hiếm khi lấy tiền

công.

Nghề đan lát: Các gia đình người Mường hầu hết đều tự đan các đồ thông thường

như: giần, sàng, tấm phên, sọt, bung, trò ổ, trò ổ (là loại đồ dùng rất phổ biến của người

Mường dùng để đựng chăn màn, quần áo, vải,…), đồ đánh bắt cá… Công việc đan lát

diễn ra quanh năm, nhưng thường tập trung vào những ngày nông nhàn. Nguyên liệu

đan lát chủ yếu là cây tre, nứa, mây. Tre nứa thường có sẵn trong vườn hoặc trên rừng

được chặt về gác lên rãnh bếp chờ khi nào rảnh việc thì được lấy xuống đan, những cây

tre, nứa để ở gác bếp một thời gian sau đó mới được đem ra đan lát thường rất bền,

không bị mọt. Một nguyên liệu cũng khá phổ biến nữa trong nghề đan lát của người

Mường đó là mây. Mây là một loại cây thân dây, chủ yếu có sẵn từ trong tự nhiên chứ không được trồng. Mây cũng giống như tre được dùng để đan nhiều vật dụng hàng

ngày. So với tre, nứa thì những đồ dùng được đan từ mây đẹp và bền hơn rất nhiều. Để

lấy được những thân dây mây về đan lát không phải là dễ, vì vậy những đồ dùng được đan bằng mây rất quý đối với người Mường. Công việc đan lát cả đàn ông và phụ nữ đều làm, tuy nhiên phần lớn là người đàn ông làm, người Mường Bi có câu: “Đàn bà

không biết dệt vải, đàn nhà nhác. Đàn ông không biết buộc lạt, đàn ông hư”. [39, tr. 81]Trong các công đoạn của nghề đan lát có một khâu đó là khâu cạp vành các đồ dùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như giần, sàng, sọt, rổ, đồ đựng quần áo thì thường nam giới sẽ làm, vì công đoạn này yêu cầu phải có sức khỏe tốt thì những đồ dùng này mới có hình dáng như mong muốn

của người đan lát. Việc đan lát cũng là một tiêu chuẩn về phẩm chất của người đàn ông

Mường, vì công việc này đòi hỏi bản tay khỏe mạnh và khéo léo của người đàn ông. Có một vài sản phẩm đan lát của người Mường có tính thẩm mỹ và yêu cầu kỹ

thuật rất cao, thể hiện sự khéo léo của người Mường như: Trò ổ. Như đã nói ở trên, đây

là một vật dụng trong đồ dùng gia đình người Mường mà hầu như nhà nào cũng có. Về

hình dáng và kích thước nó giống với cái bồ của người Kinh. Trò ổ có nắp đậy, bên ngoài được bảo vệ bằng một lớp nan mắt cáo, giữa hai lớp nan được lót bằng mo bương, dưới đáy có hai thanh gỗ xếp chéo thành hình chữ thập thay chân trò ổ. Một chiếc trồ ổ phải đan hàng tuần mới xong, đòi hỏi kỹ thuật đan tỉ mỉ, công phu. Trước đây, người

Mường có tục rất đẹp, đó là người cha hoặc người anh cả khéo tay sẽ đan nhiều chiếc

trò ổ xinh xắn để tặng con gái hoặc em gái ngày cô gái đi lấy chồng. Theo quan niệm

trước đây,nhà giàu là nhà không chỉ có nhiều chăn, phà đẹp mà còn có nhiều trò ổ bày

dọc sàn nhà. Một sản phẩm nữa cũng rất đặc trưng của nghề đan lát người Mường đó

là mâm mây (bàn hè). Là sản phẩm đan độc đáo với kỹ thuật đan phức tạp nhất. Mâm

này thường do đàn ông đứng tuổi đan. Chất liệu dùng để đan là tre và mây. Có hai loại

chính là loại một tầng và loại hai tầng. Phần đan phức tạp nhất là mặt mâm, nó là hình

tròn đồng tâm, hình tròn lớn có đường kính 50 - 60cm, ở chính giữa là phần đan những

cánh hoa vòng tròn tỏa ra những hoa văn hình lục giác đều. Phần đế của mâm thường

là hình trụ, cao khoảng 15cm, tiết diện đáy là 45cm. Chân mâm đan bằng nan tre chẻ

nhỏ và đan theo hình mắt cá. Mâm mây là đồ dùng quý trong gia đình người Mường,

sử dụng trong những dịp bày cơm cúng, lễ, tết hoặc khi khách quý tới ăn cơm. [39, tr.

82]

Người Mường đan lát giỏi và sử dụng đồ đan lát nhiều chỉ sau người Khơmú ở

Sơn La, Lai Châu. Nếu so với người Thái - một tộc người sống kề cận người Mường

thì nghề đan lát của người Mường phát triển và phổ biến hơn rất nhiều, bởi vì người Thái thường mua sản phẩm đan lát của người Mường hoặc người Khơmú về dùng chứ

ít đan lát nhiều như người Mường. Các sản phẩm đan lát của người Mường đã góp phần

mối giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em trong khu vực Hòa Bình.

Nghề làm trang sức: nghề này cũng khá phổ biến ở người Mường. Nguyên liệu chủ yếu là bạc. Có nhiều sản phẩm như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, nhẫn, xà tích…

Người phụ nữ Mường cũng rất ưa dùng các loại đồ trang sức, đặc biệt vào những ngày hỷ, lễ tết… những dịp vui trong gia đình, làng xóm. Họ thường dùng các công cụ bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đá để cưa, khoan, tiện mài và đánh bóng. Hiện này trong các làng bản của người Mường còn rất nhiều gia đình vẫn giữ được những đồ trang sức và sử dụng nó.

Nhìn chung, thủ công nghiệp ở đây cũng giống như các vùng người Kinh ở đồng

bằng vào thời kỳ này, nó chưa được tách khỏi nông nghiệp, vẫn là nghề phụ trong gia đình, được làm lúc nông nhàn. Là ngành kinh tế phụ trợ cho nông nghiệp.

- Thương nghiệp: Với đặc điểm vị trí địa lý và địa hình của huyện Lạc Sơn thì việc giao lưu buôn bán của huyện không mấy phát triển. Cho đến giữa thế kỷ XIX, giao

thông của huyện chủ yếu bằng đường bộ và đường sông, chính vì vậy mà việc giao lưu buôn bán trong huyện cũng như với các huyện khác cũng bằng hai hình thức giao thông này. Về giao thông đường bộ, sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Một đường nhỏ đi về phía tây bắc, qua hai tổng Lãnh Phong, Yên Lạc đến xã Phong Phú huyện Lạc Yên,

quanh co dài 21.592 trượng. Một đường nhỏ từ phủ lỵ đi về phía đông bắc đến ấp Yên

Lương quanh co dài 6.795 trượng 6 thước” [71, tr. 1040]. Về giao thông đường thủy

thì chủ yếu từ phía Bắc của huyện qua sông Bưởi, còn từ phía Nam là sông Mã. Những

người buôn bán ở các vùng khác đến đây giao lưu buôn bán qua hai hệ thống giao thông

bộ và thủy này. Ở huyện Lạc Sơn chủ yếu là người Mường sinh sống và họ có tập quán

tự cung tự cấp là chủ yếu, việc trồng trọt, chăn nuôi và làm một số nghề thủ công chủ

yếu phục vụ cho nhu cầu tự túc của gia đình, nên sản phẩm mang đi bán không nhiều.

Vì vậy mà chợ ở đây cũng rất ít. Trong các tư liệu ghi chép về huyện Lạc Sơn hầu như

không có đề cập đến hoạt động buôn bán hay sự xuất hiện của chợ ở huyện này. Chợ ở

Lạc Sơn chủ yếu dọc theo các con sông trong đó có hai chợ là Bái Zuông (Bái Duông)

bên bờ sông Bưởi (chợ Lâm Hóa, xã Vũ Bình) và chợ Tlàw (chợ Trào) bên bờ sông

Bưởi (thị trấn Vụ Bản). Đây là hai chợ buôn bán khá sầm uốt từ trước thế kỷ thức XIX.

Ngoài ra mường Bi xưa vùng Ngòi Hoa, Thác Bờ (Tân Lạc ngày nay) cũng có chợ, chợ

ở đây sầm uốt hơn chợ Bái Duông và chợ Trào. Chợ ở đây không họp thường xuyên

mà họp theo phiên thường là các ngày chẵn theo lịch âm. Các mặt hàng được đem ra

trao đổi buôn bán ở chợ chủ yếu là nông sản và một số sản phẩm từ các nghề thủ công như đan lát, dệt, măng tươi, măng khô, mộc nhĩ, mật ong… và mua về những vật dụng

cần thiết như mắm, muối, dầu hỏa, vải,… được mang từ miền xuôi lên. [142]

Tuy nhiên, do hạn chế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên mà chợ ở đây không phát triển sầm uốt như các tỉnh miền xuôi hay một số huyện miền núi biên giới phía Bắc. Hoạt động thủ công nghiệp và thương nghiệp chỉ mang tính chất nghề phụ. Thủ

công nghiệp và thương nghiệp chưa tách khỏi nông nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.3.3. Khai thác lâm, thổ sản Lâm thổ sản là một trong những nguồn lợi quan trọng và có giá trị kinh tế ở địa phương. Ở Lạc Sơn sẵn có nhiều nguồn lợi lâm,thổ sản như gỗ, đinh, lim, mây, tre, nứa,… Ngoài ra còn có nhiều dược liệu phong phú như sa nhân, hà thủ ô, quế, màn tang,

mật ong, dổi… Việc thu nhặt lâm thổ sản vừa để cung cấp thêm thức ăn cho gia đình

như măng, nấm, rau, hoa quả… Nhưng quan trọng hơn là việc khai thác gỗ và lâm thổ sản khác để bán cho Nhà nước. Hiện nay có một số cây trồng được chính quyền khuyến

khích trồng để thu hoạch bán ra thị trường nhằm tăng thêm thu nhập cho người dân như

cây dổi. Một loại cây thu hoạch hạt rất có giá trị kinh tế ở huyện.

Săn bắn là một trong những hoạt động cũng xuất hiện trong đời sống kinh tế của người Mường ở Lạc Sơn. Mặc dù, con thú săn là món ăn không đều đặn trong các loại thực phẩm của họ. Thường thì việc săn bắn của người Mường chủ yếu vì lòng ham thích,và ở những làng mà thổ lang thích săn bắn, họ cũng ít đi một mình mà săn bắn

phần nhiều chỉ diễn ra trong những dịp thuận lợi tụ họp nhau lại, cùng nhau săn bắn và

khi về thường cùng nhau ăn uống. Một vài buổi lễ cúng cần thiết phải có một miếng

thịt dã thú săn được, đặt bên cạnh những đồ cúng khác, do đó trước buổi lễ phải có một

buổi đi săn, như ở Mường Bi, trong những buổi lễ cúng đầu năm mới, còn ở Mường

Vang săn bắn diễn ra ở những buổi đi lễ theo công việc cày bừa ruộng đất. Trong tập

tục của người Mường hầu hết các nơi khi nói về đồ cúng cần thiết cho các buổi lễ lớn

trong làng đều có kèm theo một miếng thịt dã thú, tuy nhiên nếu không có thì có thể

thay thế bằng một con lợn nhà để cúng tế thần linh. Vậy nên, săn bắn là một hoạt động

có trong đời sống kinh tế của người Mường nhưng không diễn ra thường xuyên của cư

dân Lạc Sơn.

Tiểu kết: Là một huyện miền núi vùng phía Bắc tình hình ruộng đất ở huyện

Lạc Sơn trước thế kỷ XIX chịu sự chi phối rất lớn của các thổ tù địa phương - chế độ

Lang đạo. Họ là tầng lớp nắm quyền thống trị về chính trị - xã hội và chi phối đời sống

kinh tế vì vậy họ chiếm số lượng lớn ruộng đất, họ có quyền chia ruộng đất cho dân,

bắt dân thực hiện một số nghĩa vụ đối với họ như nghĩa vụ làm “xâu”. “nõ”, đi phiên….

Qua việc nghiên cứu về địa bạ huyện Lạc Sơn năm Minh Mệnh 18 (1837, cho thấy, ruộng đất ở huyện Lạc Sơn đến nửa đầu thế kỷ XIX 100% là đất thực trưng, không có

đất lưu hoang; Có loại đất điền và thổ. Đất điền được phân chia thành ba loại, chủ yếu

là đất loại 2 và loại 3. Quy mô sở hữu rất thấp, phần lớn các xã có quy mô sở hữu ở quy mô từ 50 - 100 mẫu. Ruộng đất chủ yếu ruộng đất tư (chiếm 86,9%) nhưng thuộc sở hữu của xã. Không có sở hữu ruộng đất của các dòng họ, càng không có sở hữu của

chủ nữ. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng trọt (lúc nước) nhưng vẫn còn lạc hậu, kỹ thuật canh tác thô sơ, năng suất thấp. Thủ công nghiệp và thương nghiệp kém phát

triển, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp, chỉ là nghề phụ, bổ trợ cho sản xuất nông nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chương 3

VĂN HÓA HUYỆN LẠC SƠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

3.1. Làng bản và nhà cửa

Địa vực chủ yếu của người Mường ở Lạc Sơn là ven các thung lũng hẹp, trên

sườn núi đá vôi và bên các dòng suối, bố trí theo hình rẻ quạt. Người Mường sống quần

cư thành từng làng, đơn vị dưới làng là xóm, trên làng là mường. Xóm có khi chỉ năm

sáu chục nóc nhà (mỗi nóc là một gia đình). Mường là địa phận của một vùng đất không phân chia theo đơn vị hành chính, cũng không theo tập quán cư trú, có mường rộng bằng vài xã, vài huyện,…

Bản Mường truyền thống không nằm trên các đường cái lớn như người Kinh mà

nhấp nhô, thấp thoáng trong màu xanh bao la của núi rừng. Lối vào làng Mường thường

khúc khuỷu, ngoằn nghèo, uốn lượn theo thế đất, thế rừng tự nhiên. Các cây cao là dấu

hiệu phổ biến của các làng bản của người Mường. “Từ rừng nhỏ nhô lên một bụi cau,

trong một kẽ lá, một mái nhà tranh hiện lên như một khối màu nâu, một chút khói bốc

lên không thành từng cột, như những bức màn… Nhìn kỹ, ta thấy đó đây độ dày một mái

nhà, góc của hai bức vách, bậc một cầu thang; ngừng lại để lắng nghe một lúc, ta nghe

rõ nhịp chày giã lúa: một làng Mường náu mình ở đó. [28, tr. 127] Làng của người

Mường không lộ toàn bộ, từng nhóm họp thành làng. Đôi khi các nhà ở tản mát trên một

diện tích rộng lớn. Làng Mường không có sự thẳng hàng, không có sự cân đối, một vài

nhà dựng lên ở gần các con sông nhỏ, một vài nhà khác trên sườn dốc cao hơn ruộng.

Đường vào bản mường thường là những con đường mòn nhỏ quanh co men theo sườn

đồi, gò hoặc phải lội qua những con suối, ngòi. Nếu biết đường, người ta đi từ làng này

đến làng khác trong vài phút nhưng nếu không biết đường thì rất dễ bị lạc. Mỗi lối có

nhiều nhánh, chẳng lối nào có mốc làm dấu. Người Mường lập xóm, lập mường, dựng

nhà chỉ nhằm thuận tiện việc đi lại, canh tác, ăn ở mà ít chú ý đến hàng lối xóm mường…

Nhà người Mường ở lộn xộn, không có hàng lối, không có cổng vào mường như cổng làng ở dưới xuôi [17, tr. 121].

Làng xóm người Mường thường về phía tây, bên cạnh có khu nghĩa địa chung cho cả bản. Nghĩa địa nằm dưới những tán cây cối um tùm. Người ta phân biệt các ngôi mộ bằng cách chôn các hòn đá tương ứng với đầu, 2 tay và 2 chân người chết. Làng của người Mường thường dựa lưng vào núi đồi, quay mặt về phía cánh đồng, con sông,

con suối. Bố trí làng như vậy có nhiều tiện lợi, trời mưa không bị ngập úng, trời bão gió không đâm trực tiếp vào làng, phân tro trong làng được đưa trực tiếp ra đồng ruộng. Cho nên ruộng đầu làng “ruộng mổ” là ruộng tốt cho cấy lúa nếp. Đối với người Mường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bến nước có vai trò nhân sinh và tâm linh rất quan trọng. Trước khi lập làng người ta

phải xem đâu là bến nước. Dân gian Mường có câu: “Đồng lúa xanh, lành bến nước”

hay “tốt bến lành nước” là chốn ở đáng sống. Còn khi người ta phải bỏ làng ra đi vì “Bến không mát, nước không lành”.

Mỗi làng xóm của người Mường thường quần tụ nhiều dòng họ, có địa vực cư

trú riêng, có phạm vi đất đai canh tác, đất rừng, khúc sông, khe suối riêng thuộc quyền

quản lý, sử dụng của mỗi bản. Quy mô to, nhỏ của mỗi làng thường phụ thuộc vào hoàn cảnh địa lý, quy mô dân số, số nóc nhà trong bản đó. Nhiều làng bản họp lại thành mường. Mường có diện tích to nhỏ khác nhau. Tên gọi của các làng xóm cũng rất phong phú và đa dạng, ban đầu nghe rất tự nhiên và có vẻ ngẫu hứng, nhưng nếu có nghiên

cứu thì sẽ thấy nó hoàn toàn có chủ ý và dựa theo những “nguyên tắc” khá cơ bản, đó

là dựa theo địa hình, địa vật, loài cây thực vật đặc trưng ở đó, đặt tên theo nguồn nước,

theo các điển tích, điển cố truyền miệng… Đây là cách đặt tên dân dã, gần gũi với đời

sống nên có sức sống rất lâu bền trong dân gian. Ví dụ như làng (xóm) Rống Láo (Vũ

Bình - Lạc Sơn), “láo” trong tiếng mường có nghĩa là cây nứa, xưa kia khu này có một

rừng nứa nguyên sinh xanh tốt, khi người Mường định cư ở đây đặt tên làng mình là

Rống Láo có nghĩa là lưng cây nứa hay xóm Bưng (Hương Nhượng - Lạc Sơn), gắn

liền với tích kể về anh em một gia đình nọ trong mường có công đánh giặc. Mỗi khi

quan giặc qua sông để tiến vào mường đều bị ba anh em đánh tan, bọn giặc kháo nhau,

bảo rằng vào mường đó bị ba anh em đánh chặt bịt kín như bưng, chúng không làm gì

được. Hay Xóm Ải (Phong Phú - Tân Lạc) là tên có từ thơi Lê. Dân gian kể rằng, vua

Lê (không rõ là vị vua Lê nào) đi lên Tây Bắc đánh giặc, qua Mường Bi cho dựng ải,

dựng lũy, tên xóm Ải (mường Ải) ra đời t từ đó.. Sau này, tên tổng, xã có sự thay đổi

do chính quyền trung ương nhưng các tên đó chỉ tồn tại trên giấy tờ hành chính, còn

đối với họ vẫn quen với cách gọi tên làng bản cũ. Hiện nay, tên gọi các làng bản cũng

có sự thay đổi nhiều phần lớn do người Mường không có chữ viết riêng nên các tên làng bản chủ yếu qua truyền miệng, các điển tích, điển cố, lịch sử, ý nghĩa tên gọi các

làng bản đó dần mất đi, ở xã Vũ Lâm có xóm Rống Láo nay đổi tên thành xóm Quyết

Tiến.

Ở Lạc Sơn có hơn 90% là người Mường nên ở đây làng xóm của người Mường

là đặc trưng nhất, còn một số tộc người khác như Thái, H’Mông, Dao… chỉ chiếm số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ít và sống rải rác trên toàn địa phận khá rộng lớn của huyện, chính vì vậy mà với một số tộc người khác trong huyện tổ chức làng bản của họ là không đặc trưng và cũng không sống tập trung với nhau mà họ sống xen kẽ cùng với người Mường và vì vậy họ theo cách tổ chức làng xóm của người Mường. Còn đối với người Kinh họ có mặt ở Lạc Sơn muộn hơn so với dân bản địa, địa vực cư trú chủ yếu của họ là ở những vùng

trung tâm bằng phẳng, như thị trấn Vụ Bản ngày nay, nó thuận tiện cho việc đi lại, làm

ăn buôn bán mà theo tiêu chí “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”.

Nhà ở của người Mường cổ truyền là nhà sàn, ở Lạc Sơn cũng vậy. Việc xuất

hiện ngôi nhà sàn của người Mường từ khi nào, rất khó xác định. Chỉ biết rằng trong

áng sử thi Đẻ đất đẻ nước và truyền thuyết về việc rùa giúp vua Dịt Dàng làm nhà thì

đã đề cập đến việc làm nhà sàn của người Mường:

“Bốn chân tôi làm nên cột cái Những sườn dài, sườn cụt làm nên rui Nhìn qua đuôi làm trái

Nhìn lại mặt làm cửa thẳng, cửa sổ

Nhìn vào sương sống làm đòn nóc dài dài

Và theo cái mai làm mái

Lấy lá bái làm vách làm tranh

Lấy cùn bện lại mà làm keo…” [17, tr. 122].

Đối với người Mường, rùa có vị trí đặc biệt trong tín ngưỡng bái vật nhưng vừa

gần gũi, thân thuộc, vừa linh thiêng. Rùa xuất hiện trong các câu chuyện thần thoại của

người Mường cùng với tập quán dân gian có lẽ vì thế người Mường đã hình thành nên

những suy nghĩ, lối tư duy trực quan, từ đó tạo nên tập quán ở nhà sàn phỏng theo mô

hình “con rùa”, bốn chân là bốn cái cột cái, mái sườn là mái nhà, xương sống là đòn

nóc, đầu là cửa chạn.Vậy nên, rùa là con vật linh thiêng của người Mường, biểu hiện

sự trường tồn và nét đặc trưng văn hóa của người Mường.

Dưới thời lang đạo gia đình nào muốn làm nhà cần có sự đồng ý của nhà lang,

sau đó chủ nhà báo tin cho các nhà nóc trong xóm, trong mường, để nhờ mọi người

giúp đỡ. Tục ngữ Mường có câu: Một người đàn ông không dựng được nhà. Một người

đàn bà không đánh được tranh (Một người đàn ông nếu không có sự trợ giúp thì không thể một mình làm được một ngôi nhà, một người đàn bà một thân một mình không có

sự trợ giúp không thể cắt được cỏ tranh (một loại cỏ dùng lợp mái nhà)). Câu tục ngữ

cũng nói lên lối sống tốt đẹp của người Mường, luôn giúp đỡ lẫn nhau, dựa vào nhau, cộng sức để làm những việc lớn. Làm nhà là một trong những việc lớn của đời người vì vậy mà khi những gia đình làm nhà, tùy theo từng hoàn cảnh và yêu cầu của từng

nhà, mà xóm mường có sự giúp đỡ khác nhau: giúp sức và vật chất như chặt bương, đặt gỗ,…cho đến khi hoàn thành ngôi nhà cả phụ nữ và đàn ông của các gia đình khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đều bố trí công việc nhà mình mà giúp đỡ. Có thể thấy tính cố kết cộng đồng của người Mường rất cao. Đến nay người Mường vẫn giữ được tập tục tốt đẹp này.Ở người Mường, tất cả các hoạt động chuẩn bị và khởi công dựng một ngôi nhà mới

đều do mo đảm nhận. Cái hướng mà người Mường kiêng kỵ là không quay mặt nhà

mình vào chân đá, tức núi.

Nhà sàn của người Mường có bốn mái, hai mái trước và sau có hình thang cân,

hai mái đầu hồi có hình tam giác cân. Kết cấu của nhà sàn Mường có khá nhiều các

chi tiết như: vì kèo, các hàng cột (cột cái, cột con), xà ngang (quết), đòn tay, hàng rui,

các hàng mè… Mỗi một chi tiết đều có công năng riêng của nó. Cột nhà làm bằng gỗ

tròn hoặc vuông nhưng phổ biến là tròn, cây gỗ được chọn làm cột cái thường là những

loại gỗ tốt như: gỗ lim gỗ bồ giáng, gỗ mài lái hoặc gỗ hèo. Cột cái được dựng ở gian

gốc, gian đầu tiên trong nhà. Người Mường thường gọi là cột chồ. Cột chồ trong ngôi

nhà Mường có ý nghĩa rất quan trọng, người ta giữ nó sạch sẽ, khách đến nhà ngồi ở

gian gốc, gần cột chồ, nhưng không được dựa lưng vào cột chồ, phần dưới sàn chung

quanh cột luôn giữ sạch sẽ, không dựa bất cứ vật dụng nào vào cột chồ.

Nguyên liệu để làm nhà sàn truyền thống của người Mường là những thứ có

sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa, lá, đất, đá… Nhà lợp bằng cỏ tranh, lá cọ hoặc

rạ đan thành từng phên. Sàn nhà thường lát bằng những cây bương hoặc bằng gỗ,

phổ biến vẫn là cây bương. Ngày nay, nguyên liệu để làm nhà sàn có thêm gạch,

ngói, xi măng…

Nhà sàn của người Mường chia thành các gian. Theo chiều ngang, tùy theo điều

kiện kinh tế gia đình mà chia thành nhiều hay ít gian, tương ứng với nhà to hay nhỏ.

Với nhà dân thì thường có một đến hai gian. Mỗi gian có 2 chái. Phổ biến nhất là nhà

2 gian (4 chái). Tất cả các gian trong nhà mọi thành viên đều có thể tự do đi lại. Tuy

nhiên theo tập tục người Mường thì gian ngoài (chái ngoài cùng) là nơi có cột chồ chỉ

có đàn ông được nằm ở đó, đôi khi gian này cũng được dùng là nơi cho khách ngủ (phải

là khách quý). Trong các việc như tang lễ, hôn lễ chỉ có những người có vai cao trong

họ mới được ngồi ăn cơm ở đây. Gian này có một cột cái đối diện với cột chồ. Bên

chân cột này là chỗ để chơi và vài cum lúa đã rũ hết thóc. Cột được đội một cái giỏ

thủng mà xà chen lên và treo một đoạn tre hay gỗ tước xơ ra ở một đầu, đoạn tre này

là biểu tượng dương tính, gọi là nõ và cái giỏ thủng là biểu tượng của âm tính gọi là

nường. Chái thứ hai ngay sát chái ngoài cùng, không gian này là nơi khách và đàn ông

ngủ, phía trên cùng gần cửa voóng là nơi để bàn thờ. Chỗ này thường dành cho đàn

ông ngủ [132].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Gian thứ hai (2 chái còn lại) là nơi các thành viên trong gia đình sinh hoạt nhiều nhất trong ngôi nhà. Chái thứ 3 chủ yếu là nơi ngồi ăn cơm chính của cả gia đình và đặt bếp. Chái trong cùng của ngôi nhà thường được có vách ngăn gian này với ba chái

còn lại gọi là buồng. Buồng là nơi phụ nữ ngủ, có chạn bát, có đồ dùng gia đình, nơi

sửa soạn cơm nước, khách hoặc người lạ không được tự đi vào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà. Chái này, nếu con trai trong nhà mới kết hôn khi chưa ra ở riêng

thì được dành cho vợ chồng người con trai mới cưới, giống như phòng tân hôn của

người Kinh. Còn nếu nhà còn con gái lớn chưa lấy chồng cũng thường ngủ ở chái

này [134]. Ngoài ra, sàn nhà của người Mường nếu chia theo chiều dọc thì chia thành phía trên và phía dưới. Thực ra việc phân chia trên dưới này không có một vật hay vách gì đề quy định cả, mà thường do quy định theo tập tục của người Mường. Ví như phía trên là phía gần các voóng của hướng chính nhà, chỗ đặt bàn

thờ tổ tiên. Chỗ ngồi gần voóng thường dành cho người cao tuổi. Còn phía dưới là

gần cầu thang lên xuống và bếp trong nhà. Cũng như cách phân chia gian nhà, phía

trên của nhà phụ nữ được phép đi lại nhưng rất hạn chế, chủ yếu đó là khu vực chỉ

dành cho người đàn ông trong gia đình

Nhà sàn của người Mường cũng có cửa sổ, gọi là voóng. Voóng thường không

có chấn song. Ở những cửa phía Bắc, thường có gió lạnh lùa vào nên lắp thêm một tấm

phên để khi có gió thì kéo ra che chắn. Người lạ đến nhà, rất hạn chế ngồi nơi cửa

voóng. Là người trong nhà, nếu không có việc gì cũng ít lui tới cửa voóng. Người

Mường cho rằng đây là cửa của thần linh hay người trên mường trời đi về. Cửa ra vào

thường không lắp cánh. Khi chủ nhà đi vắng, không bao giờ khép cửa, và cũng không

khóa cửa. Nếu người chủ vắng mặt qua đêm thì người ta chỉ việc dấp một cành tre hay

cây gì đó vào cổng ngõ, nhìn thấy dấu hiệu đó, người ngoài hiểu là chủ nhà đi vắng sẽ

không vào.

Nhà sàn thường bố trí hai cầu thang: cầu thang chính ở đầu hồi bên phải, cầu

thang phụ ở đầu hồi bên trái chủ yếu dành cho phụ nữ. Bậc thang thường làm bằng gỗ,

chiều rộng thang đủ rộng để hai người lên xuống tránh nhau. Số lượng bậc thang phải là số lẻ, bảy hoặc chín tùy theo nhà cao hay thấp. Thang chính không lên thẳng cửa, nó

được dựa vào thành một cái hiên có mái che một phần lớn hoặc toàn bộ. Trước khi lên

cầu thang có chỗ để rửa chân, có một phiến đá hoặc tấm gỗ bên cạnh bồn gỗ hoặc các ống tre có đựng nước.

Người Mường không làm nhà bếp riêng như người Kinh, mà đặt bếp ngay trên

sàn nhà. Người Mường đặt bếp ở gian thứ 3 của ngôi nhà, sát với vách sau. Bếp được khuôn viên lại với diện tích chừng bằng hoặc lớn hơn một cái chiếu đôi tùy theo sàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhà rộng hay hẹp. Bếp được làm từ bốn tấm gỗ hoặc bương, tre ghép lại, thành bếp cao chừng 20 gang tay người lớn, bên dưới được lót bằng đất sét, trên là tro than củi. Lớp trên cùng là tro của rơm, rạ. Bốn góc bếp được dựng cột, từ bốn cột người ta tra then

dựng thành khung và đặt dàn, thường hai tầng dàn. Dàn trên cùng để thóc, ngô giống.

Tầng dưới để các thứ thực phẩm như: măng khô, mộc nhĩ, nấm hương, thịt thú rừng hoặc thịt trâu, thịt bò để khô. Chung quanh ba chiều của bếp, hai bên phải và trái thường

đặt ghế băng, ghế tròn để mọi người có thể cùng ngồi quây quần chung quanh bếp. Bếp

trong nhà người Mường là nơi ấm cúng nhất, là nơi hội tụ mọi sinh hoạt gia đình, hút

chung một điếu thuốc, ăn chung một củ sắn lùi hay đọt măng đắng, cùng uống với nhau một bát nước lá đỏ ngọn và nói với nhau những câu chuyện cũng thường diễn ra bên bếp. Không gian bếp có ý nghĩa vô cùng quan trọng và linh thiêng đối với mọi thành viên trong gia đình người Mường. Với các nhà lang, nhà ậu hay nhà khá giả trong

mường thường đặt hai bếp. Một bếp to dùng để nấu nướng phục vụ việc ăn uống của

gia đình, một bếp nhỏ dùng vào việc đun nước tiếp khách, thường đặt ở gian gốc.

Nhà sàn Mường là một biểu hiện của sinh động đặc sắc của nền văn hóa vật chất

gắn bó máu thịt với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào nhiều thế hệ. Trong cấu trúc

truyền thống, nhà sàn là một kiến trúc đa năng, ngôi nhà thỏa mãn nhiều nhu cầu sinh

hoạt và sản xuất của mỗi gia đình. Sàn nhà vừa là nơi để ở, làm bếp, bên trên sàn nhà

là gác để đựng lương thực, đồ dùng gia đình. Gầm sàn nhà dùng để các dụng cụ sản

xuất (cuốc,thuổng, cày, bừa,…), cất giữ củi đun, nhốt gia súc, gia cầm (trâu, bò, chuồng

lợn, gà, vịt…), đặt máng vò lúa, cối xay lúa, cối giã… Một ngôi nhà sàn không đóng

cửa, cài then, không khóa, vẫn là nét đẹp đáng được ngợi ca của người Mường.. Thông

thường, mỗi ngôi nhà sàn truyền thống của người Mường ở được vài chục năm, riêng

đối với cột, kèo có thể sử dụng lại nhiều lần mỗi khi tu bổ. Qua nhiều biến thiên của

lịch sử, ngôi nhà sàn của người Mường ở Hòa Bình và nhiều nơi khác cũng đã thay đổi.

Nhà sàn của người Mường hiện nay được làm bằng nhiều nguyên liệu khác như: xi

măng, gạch, đá... Nó cũng được biến thể khá nhiều để phù hợp với điều kiện, bối cảnh

của từng gia đình và mang tính thẩm mỹ cao. Tuy nhiên, cho đến nay khi nền kinh tế đã phát triển, sự giao lưu văn hóa vùng miền ngày càng nhiều hơn, nhưng với người

Mường ngôi nhà sàn vẫn là lựa chọn của họ, mặc dù rất nhiều gia đình họ đủ điều kiện

kinh tế để xây những ngôi nhà khang trang như người Kinh, đó cũng là một cách gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Với người Kinh, nhà ở của người Kinh ở Lạc Sơn nhìn chung cũng giống kết

cấu nhà ở của người Kinh ở miền xuôi. Tuy nhiên do điều kiện địa hình, đất đai ở Lạc Sơn nên nhà ở của người Kinh ở đây có khác đôi chút với nhà ở người Kinh ở miền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuôi như nhà thường rất sâu, bên cạnh mặt cửa chính đi thẳng vào gian giữa thường có cổng phụ đi vào sân hoặc vào thẳng nhà bếp. Về cách dựng nhà và bố trí bên trong cũng giống như người Kinh ở miền xuôi, là những nhà đan phết trát vách đất trộn rơm

rạ, mái lợp rạ hoặc tranh, nền nhà và sân bằng đất nện. Nhà khá giả thì lát gạch nền nhà

và sân làm nơi phơi thóc, có tường cao bao quanh nhà. Nhà được chia thành 3 gian, nhà to thì chia thành năm gian. Đối với người Kinh, các gian nhà bao giờ cũng là số lẻ

như 3 hay 5 gian, tùy theo điều kiện kinh tế của từng gia đình.Gian chính là nơi thờ

cúng và tiếp khách, được bài trí hết sức công phu so với những gian còn lại. Hai bên

đầu hồi thường làm thêm hai chái nhà, có mái một bên chéo xuống. Hai chái nhà thường làm kho chứa thóc, lúa, đồ đạc và các dụng cụ sinh hoạt hằng ngày. Có nhà dùng làm buồng cho đàn bà, con gái ngủ. Các chái nhà đều có cửa mở ra gian nhà chính. Trước nhà có hiên để ngồi chơi, hóng mát. Nhà bếp tách khỏi nhà ở, có gia đình làm nhà

ngang, nơi để cối xay, cối giã gạo, chạn bát, nồi niêu… Chuồng trâu, bò, gà, vịt… tách

khỏi nhà ở. Nhà của người Kinh là nơi sinh không phải chỉ của một hay hai thế hệ mà

nó được truyền qua nhiều thế hệ, từ lớp ông bà đến lớp con cháu. Việc dựng nhà của

người Kinh được xem là cái mốc quan trọng trong đời một con người, đấy cũng là một

trong ba tiêu chí đánh giá người đàn ông xứng đáng được xã hội xem trọng hay chưa.

Ngày nay, do điều kiện kinh tế phát triển, người Kinh thường ở trong các ngôi nhà xây

cất kiên cố và hiện đại, có đủ tiện nghi sinh hoạt.

3.2. Ẩm thực

Người Mường dựa vào trồng trọt, chăn nuôi và săn bắt hái lượm làm nguồn cung

cấp thức ăn chính. Trong các loại cây lương thực ngô, sắn, khoai thì lúa vẫn là cây

lương thực chủ yếu. Người Mường ở Lạc Sơn có điểm chung về văn hóa ẩm thực của

cộng đồng Mường thể hiện qua câu tục ngữ cổ: “cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui,

ngày lui, tháng tới”.

Trong bữa ăn hàng khi người Mường sử dụng cơm nếp thường xuyên. Điều này

xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cơm nếp không chỉ no bụng mà còn bởi giá trị dinh

dưỡng vốn có của nó, lại dễ ăn và thậm chí nó có thể thay thế thức ăn trong điều kiện khó khăn và khan hiếm các nguồn thực phẩm hàng ngày như thịt, cá, mỡ, dầu. Bởi vậy,

lúa nếp là loại cây được người Mường trồng nhiều hơn lúa tẻ. Cơm tẻ thường chỉ sử

dụng trong những dịp quan trọng như khẩu phần dành cho người già, khách quý hoặc cho phụ nữ những dịp sinh nở, thai nghén. Người Mường có nhiều giống lúa nếp khá nổi tiếng như: nếp Quả Oàng, nếp TrLông, nếp Khe, nếp Cú Poột, nếp Bản, nếp Ôi…

Các loại nếp này không chỉ quen thuộc trong bữa ăn người Mường ở Hòa Bình mà còn quen thuộc và phổ biến với nhiều dân tộc anh em khác ở vùng Tây Bắc. Trong câu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thường rang của người Mường có câu: “Nắm xôi ăn với người thân. Uống rượu chung cần. Nhớ đến ngày sau” hay “Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói! Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” (Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng). Cơm nếp của người Mường

thường được đồ chín với dụng cụ được gọi là hông gỗ bắc trên nồi đáy bằng nhôm hoặc

bằng đồng hoặc bằng viếng - là một nồi bằng đồng, thân cao từ 30 đến 35cm, hình tròn, đáy rộng khoảng 20 đến 25 cm, phần thân thu nhỏ dần cho đến miệng chỉ còn rộng

khoảng 10cm. Ngoài ra người Mường còn có cách chế biến khác cũng khá phổ biến đó

là cơm chun (cơm lam). Cơm lam thường được người Mường đi rừng, đi làm nương

rẫy khi không thể về vào buổi trưa để ăn trưa. Ngày nay, cơm lam trở thành một trong những đặc sản của người Mường [17, tr. 258].

Nguồn thức ăn một phần từ tự nhiên một phần họ cũng chăn nuôi gia súc, gia

cầm, trâu, bò, gà, vịt.

Một số món ăn làm từ thịt lợn nhưng trong các dịp người Mường hiếu hỷ, lễ

lớn,... Con lợn thường được chế biến thành nhiều món khác nhau rất phổ biến nhất như:

Đĩa quéch, ngách lưỡi, thịt chua ngoài ra còn có món chả que - thịt sườn nướng và chả

lá bưởi gồm sụn, xương mềm băm nhỏ bọc lá bưởi, nướng, hai món này thường có vào

những ngày Tết Nguyên đán. Xưa kia trong mâm cúng lễ vào ngày mùng 1 tết của các

gia đình bắt buộc phải có 1 trong hai món này.

Món “đĩa quéch”: Gồm bốn bộ phận “đuôi, thai, quai,chò” tức là, đuôi, tai, mảng

đầu mũi, chân giò là bốn bộ phận tượng trưng cho cả con lợn. Món này được làm trong

dịp cúng cơm mới, lễ tết. Trước khi ăn phải để lên bàn thờ tổ tiên để tỏ lòng thành kính

của con cháu.

Món ngách lưỡi: Gồm thủ lợn, tai, lưỡi lợn được thái thành sợi trộn với óc lợn,

sau đó trộn với gừng già và lá hẹ cắt nhỏ. Món này có đủ các vị cay, thơm, béo rất hấp

dẫn. Món này được dùng trong các dịp lễ tết, đám cưới,…

Một món nữa cũng được làm từ lợn khá phổ biến ở người Mường Lạc Sơn đó

là món “thịt chua”. Món thịt chua được người Mường ưa thích và thường được làm vào

dịp tết sau đó ăn vào khoảng tháng 2, 3 Âm lịch hoặc trước tết để ăn vào dịp tết. Thịt được cắt nhỏ thành miếng mỏng, xát muối ướp kín. Hai tháng sau bóp thịt với cơm

hoặc thính (bột ngô rang). Thịt cho vào thính, phủ lên một lượt cơm nóng, đậy kín bằng

lá dong, úp miệng chĩnh vào bồ tro để hút ráo nước.

Món canh được làm từ lợn của người Mường đó là keng loóng (loóng là thân cây chuối non). Người ta dùng thân cây chuối non lột bẹ ngoài, thái mỏng sau đó cho

vào nấu cùng xương lợn, bộ lòng non của lợn và lá lốt thành món canh rất phổ biến của người Mường. Món này còn được ăn trong những bữa cơm hàng ngày của các gia đình

người Mường ở Lạc Sơn [17, tr. 263].

Nước chấm ớt: Ớt nướng giã với củ kiệu, sau đó lấy đầu gà, tiết gà, ruột gà giã tiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cho nhuyễn rồi trộn với ít rau thơm thái nhỏ thành món nước chấm ớt Mường cổ truyền.

Món ốc cá: Được làm bởi cá chép xắt khúc, xếp bên cạnh sợi mày bương, sợi gừng,

miếng sả, bọc ba lần lá chuối đem đồ kỹ rồi vớt ra. Trong lá chuối đọng nước cá đồ là thứ nước chấm rất thơm ngon có mùi gừng, mùi cá, mùi lá, mùi mỡ [66, tr. 636].

Trong cách chế biến món ăn của người Mường có một đặc điểm rất nổi bật riêng

của người Mường đó chính là người Mường hầu như dùng phương thức đồ. Xôi của

người Mường cũng thường đồ, thay vì nấu như người Kinh, thức ăn của người Mường cũng chủ yếu là đồ: rau đồ, măng đồ, thậm chí thịt lợn, gà, vịt cũng đồ. Vị mà người Mường đều rất thích đó là vị đắng và chua. Các món ăn như măng đắng, rau đắng… thường xuyên được sử dụng trong bữa ăn hàng ngày của người Mường [136].

Về đồ uống, đồ uống đầu tiên phải nhắc đến trong văn hóa ẩm thực của người

mường đó là rạo (rượu). Dân tộc Mường là một dân tộc sành rượu, chưa có tài liệu nào

nói về việc người Mường biết nấu rượu từ khi nào? Nhưng chắc chắn là đã có từ lâu

đời, vì trong đoạn đầu sử thi Đẻ đất đẻ nước ngay khổ đầu đã nói đến rượu:

Đêm nay

Ngày này

Ta đây

Nói chuyện xưa cho người nghe

Kể về xưa cho người hay

Mai sau có ngày ăn cơm, uống rượu

Ngồi kể chuyện cùng đời [17, tr. 266, 267].

Người Mường có cách nấu rượu, chưng rượu khác nhau. Người Mường ở Lạc

Sơn có nhiều loại rượu, nhưng không thể không kể đến rượu cần, đây cũng là đặc sản

của người Mường ở Hòa Bình.

Văn hóa rượu cần của người Mường rất đặc sắc.Tục uống rượu cần của người

Mường đã có từ rất lâu đời. Để có được vò rượu cần ngon thì từ cách làm đến cách uống phải thật công phu. Rượu được làm từ xôi nếp được ủ cùng men là từ quế và bột

gạo nghiền nhỏ, khi nguyên liệu đã lên men lại được phơi sấy và cho vào bình ủ tiếp,

khi rượu đã được, đổ nước vào bình ngâm khoảng hai giờ thì rượu ngấm. Rượu cần đã được ủ có thể để quanh năm, càng lâu rượu càng thơm và ngon. Người ta thường chôn các bình rượu cần xuống đất để bảo quản và ngâm thật lâu để rượu cần khi mang ra

dùng càng ngon. Người Mường uống rượu cần vào nhiều dịp khác nhau như dịp đón năm mới, cưới xin, dựng nhà mới, lễ hội và đặc biệt dùng để tiếp khách quý. Bình đựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

rượu cần là vật gia bảo, càng lâu càng trở nên quý hiếm và coi như một thứ của hồi môn.

Tục uống rượu cần của người Mường cũng rất đặc sắc. Có nhiều cách uống như:

uống theo cặp, chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, dùng hai hoặc ba cần một lúc. Hay uống vòng tròn theo thứ tự từ trái qua phải,… Rượu hết đến đâu nước lại được cho thêm vào

miệng vò sao cho mặt nước trong vò rượu lúc nào cũng mấp mé miệng vò. Tục uống

rượu cần thể hiện sự cố kết cộng đồng rất cao của người Mường, mọi người quây quần

bên vò rượu cần, cùng vui cái vui của phong tục bản Mường. Đầu tiên sau khi hỏi thăm sức khỏe gia đình, quê quán, chủ nhà mời tất cả cùng chụm môi uống “của vườn, của suối cho bớt mệt nhọc đường xa”, người Mường gọi là uống bước một (uống thông cần). Tiếp đến là uống đôi (chủ và khách), uống nam và nữ, uống bốn người, uống sáu người

và nhiều nữa. Họ vừa uống vừa hát, hỏi thăm, hát mời, hát tiễn đưa, hát hẹn ước. Rượu

cần mới nhấp có vị ngọt, thanh, thường khó biết lúc nào mình say. Uống rượu cần cũng

là một hình thức sinh hoạt cộng đồng ở người Mường. Ngày nay, rượu cần trở thành đặc

sản có tiếng của người Mường ở Hòa Bình.

Rượu sắn: Loại rượu này được làm từ củ săn (củ cáo). Cách chế biến loại rượu

này cũng khá công phu. Đầu tiên, củ sắn được bóc vỏ ngoài, củ để nguyên, phơi một

hai nắng rồi gác lên gác bếp. Phải để trên gác bếp đến khi nào khói thơm ngấm vào tận

lõi sắn, người ta đưa sắn xuống, giã vỡ nhỏ cho vào giỏ, đem ra suối ngâm ở chỗ nước

chảy. Ngâm khoảng 3, 4 đêm sóc sạch cho hết nhớt, đem về trộn với trấu bếp, đồ lên.

Khi sắn chín đổ ra nong, nia, quạt cho bay hơi đến khi nguội vừa tới thì rắc men đều

xong cho vào ủ. Khoảng 3, 4 ngày khi đã ngửi thấy mùi thơm của rượu là cho vào hũ

ủ kín khoảng 15 đến 20 ngày, thời gian ủ càng lâu thì rượu đằm, càng ngon. Cuối cùng,

đem ra chưng cất để ra rượu sắn. Tùy theo mức người ta lấy nhiều hay ít mà rượu có

nồng độ cao hay thấp.

Đàn ông Mường hàng ngày hầu như đều uống rượu. Họ có thể uống trong và

ngoài bữa ăn. Tùy theo rượu được uống ở trong hay ngoài bữa ăn mà người ta sử dụng loại rượu khác nhau, nếu uống trong bữa ăn thường là rượu cất, nồng độ nặng hơn.

Rược uống vui đông người là rượu cần, nhẹ hơn, thường được uống ngoài bữa ăn. Nước

uống hàng ngày của người Mường là những nước lá cây mát đã được chọn lọc kỹ lưỡng qua bao đời nhưng chủ yếu vẫn là nước chè hay nước vối.

Rau ăn hàng ngày được hái từ trong rừng và vườn nhà. Một trong những đồ ăn

được xếp vào rau ăn rất phổ biến của người Mường đó là Măng. Măng được khai thác từ rừng núi là món ăn rất được ưa thích của người Mường. Măng có nhiều loại và được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thu hái theo mùa để làm thức ăn như măng tre, măng nứa, măng vầu, măng bương, măng giang… Măng cũng được chế biến bằng nhiều cách khác nhau như: luộc, đồ, nướng, xào…Đặc biệt người Mường có món măng chua rất phổ biến. Trong các gia

đình người Mường hầu như nhà nào cũng có một hũ măng chua, có thể ăn quanh năm

suốt tháng và dùng để chế biến cùng với nhiều nguyên liệu khác như thịt gà, lợn, cá, ếch, vịt… Măng chua còn được dùng làm lễ vật cúng tổ tiên trong dịp lễ tết. Món măng

được xem là món khai vị trong bữa ăn của người Mường. Có một vài món làm từ măng

trở nên phổ biến cũng như nổi tiếng của người Mường cho đến hiện nay như: keng

măng chua (canh măng chua), măng đắng nướng,…Ngoài ra còn rất nhiều các loại rau khác được người Mường sử dụng trong các bữa ăn.

Sông, suối không chỉ cung cấp nước tưới cho nương ruộng mà còn là nguồn

cung cấp thủy sản cho dân bản. Tôm, cua, cá, ốc là nguồn thực phẩm hàng ngày của

dân bản. Ngoài ra, người Mường còn có hoạt động săn bắn, hái lượm, khai thác các

nguồn lợi thiên nhiên nhằm bổ sung nguồn thức ăn.

Phụ nữ Mường cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to.

Đặc biệt phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền cho nhau hút chung một

điếu thuốc. Đôi khi bên điếu thuốc những người phụ nữ Mường chia sẻ với nhau về

nhiều thứ trong cuộc sống gia đình, công việc, chăm sóc con cái.

Người Mường rất hiếu khách. Khi có khách hoặc những ngày có việc trong

phạm vi gia đình, người Mường thường mổ gà, vịt làm thành món luộc và món canh

nấu với măng chua. Người Mường có câu thành ngữ: “Trâu ra bãi ăn cỏ. Khách đến

nhà ăn cơm”. Câu thành ngữ này người Mường muốn tỏ tấm lòng thành của mình với

khách. Người Mường thích đông vui, thích ăn chung, uống chung. Văn hóa ẩm thực

Mường đẹp vì tình người, tình đời.

Với người Kinh ở Lạc Sơn họ sống xen lẫn với các dân tộc khác trong huyện,đặc

biệt là dân tộc Mường nên cuộc sống của họ ít nhiều bị ảnh hưởng và biến đổi. Họ hòa

nhập với các dân tộc trong huyện, họ giỏi trồng trọt, chăn nuôi mà còn biết cách hái

lượm và săn bắn, họ rất giỏi đánh bắt cá ở sông, ao, hồ tự nhiên. Sản phẩm trồng trọt

chính của họ là lúa, ngô, khoai, sắn, bầu, bí, rau xanh. Họ gieo trồng ở vườn, bãi, cánh

đồng. Các sản phẩm từ việc trồng trọt và chăn nuôi của họ không chỉ đủ nhu cầu tự

cung tự cấp mà con dư thừa để buôn bán, trao đổi phục vụ cho cuộc sống của mình.

Các món ăn của người Kinh được chế biến từ hai nguồn nguyên liệu chính là

lương thực và thực phẩm. Lương thực gồm lúa, ngô, khoai, sắn và nhiều loại cây củ có

chất bột. Từ những nguồn nguyên liệu này người ta chế biến thành nhiều món ăn khác

nhau: cơm, xôi và các loại bánh. Người Kinh ăn hai, ba bữa một ngày, nhưng khác với

người Mường là chủ yếu ăn bằng gạo nếp thì người Kinh chủ yếu ăn cơm nấu từ gạo

tẻ. Xôi không được ăn thường xuyên, họ thường chỉ ăn khi lễ lạt, giỗ tổ tiên hoặc ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sáng. Người Kinh thường làm nhiều loại bánh như: Bánh chưng, bánh dày, bánh tẻ,

bánh men rượu, bánh gai… nguyên liệu chính để làm các loại bánh này cũng từ gạo

nếp và gạo tẻ. Trong đó bánh chưng là sản phẩm đặc trưng của người Kinh, làm bằng

gạo nếp. Loại bánh này thường được làm vào ngày Tết Nguyên đán và một số dịp đặc

biệt. Người ta chọn những loại gạo nếp ngon nhất, vo kỹ để ráo nước, gói trong lá dong

xanh, có nhân bằng thịt lợn, đậu xanh, hành. Ngoài nguyên liệu bằng gạo thì người

Kinh cũng sử dụng các nguyên liệu khác như khoai, ngô, sắn để làm các loại bánh khác.

Trong bữa ăn của người Kinh, sau lúa gạo, phải kể đến rau quả. Họ cũng trồng nhiều loại rau trong vườn nhà như mướp, bí, su hào, cải… Để chế biến rau thành các

món ăn có nhiều cách: luộc, nấu, xào… Đặc biệt cà và rau cải đem muối dưa là món

ăn được người Kinh ưa chuộng.

Các loại gia vị của người Kinh rất phong phú như hành, gừng, tỏi, rau mùi, kinh

giới…. Đây là những thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Kinh. Tuy nhiên, nét đặc sắc hơn cả trong bữa ăn của người Kinh vẫn là nước chấm. Trong bữa ăn ít hay

nhiều bao giờ cũng có một trong những loại nước chấm: nước mắm, tương, mắm tôm,

gia vị vắt chanh.

Ngoài ra ngoài Kinh ở Lạc Sơn có lẽ do ảnh hưởng từ phong tục tập quán của

một số đồng bào ở trong huyện nên họ cũng săn bắn thịt thú trong rừng như các đồng bào dân tộc ở đây. Họ cũng bắt cá ở sông, suối, chăn nuôi gà, vịt, lợn, ngan, ngỗng tại

nhà. Vì vậy nguồn thức ăn của họ cũng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, cơ cấu

bữa ăn của họ vẫn thiên về rau và gạo.

Cũng như người Kinh ở miền xuôi, người Kinh ở Lạc Sơn thường dùng trầu

cau, thuốc lào, rượu, nước chè, nước vối, nước các loại cây. Ăn trầu là tập tục truyền

thống có từ lâu đời của người Kinh “miếng trầu là đầu câu chuyện”, cả đàn ông và đàn

bà đều ăn trầu nhưng chủ yếu là đàn bà. Trầu cau trở thành một phong tục có tính nghi

thức bắt buộc trong việc tế, lễ, ăn hỏi, lễ cưới, hội hè…Rượu của người Kinh được làm

từ gạo, ngô hoặc sắn. Rượu chỉ được uống trong các ngày lễ tết, hội hè, cưới hỏi, ma

chay, đình đám.

3.3. Y phục và trang sức

Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong văn hóa của người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mường nói chung. Lạc Sơn là một trong những trung tâm của cộng đồng người Mường ở Hòa Bình. Đặc trưng về văn hóa trang phục của người Mường ở đây cũng rất nổi bật, đặc biệt là đối với trang phục của người phụ nữ Mường. “Chỉ bằng trực giác, người quan sát cũng cảm được, ngay từ buổi đầu mới đặt chân lên đất Mường, rằng đồ mặc của người phụ nữ ở đây có “một cái gì đó” khiến nó biệt lập với phụ nữ các dân tộc

khác… đồ mặc của người phụ nữ Mường không diêm dúa như phụ nữ Thái, Việt. Nó

không dụng công kín đáo để đạt đến mức thanh lịch như nữ phục Tày hay Cao Lan. Nó cũng không thừa thãi hoa văn như và màu sắc như áo quần của một số ngành Mèo -

Dao. “Cái gì đó” làm nên đặc điểm ẩn tàng của nữ phục Mường, xem như một biểu

hiện của cảm quan thẩm mỹ dân tộc, chính là tính hai mặt của nó: đối chọi mà nhạt

nhẽo; tương phản và thầm lặng” [28, tr. 91].

Áo của phụ nữ Mường có hai loại là áo ngắn (áo pắn) và áo dài (áo chùng). Áo mặc thường ngày là loại áo ngắn . Áo ngắn thân, xẻ ngực, thường thì không cài khuy, nếu có là một chiếc khuya bấm ở ngang ngực. Cổ áo tròn, ống tay dài tới mu bàn tay

và bó sát cánh tay. Ở giữa sống lưng áo có một đường may bổ từ cổ áo xuống tận gấu

áo. Thân áo ngắn chấm eo. Chất liệu là vải thường hoặc lụa, màu trắng hoặc nâu. Áo

mặc bó sát lấy thân người, thường không có khuy nên để lộ phần cạp váy trước ngực

và chiếc yếm bó sát lấy ngực, vừa nền nã, vừa kín đáo nhưng lại có sự gợi cảm. Áo

ngắn trước kia không may túi, ngày nay phụ nữ Mường cải tiến dần chiếc áo ngắn của

mình, họ may hai chiếc túi nhỏ ở hai bên vạt áo trước và cắt lượn tròn hai bên vạt áo

tạo dáng mềm mại [66, tr. 620]

Áo dài (áo chùng), dài tới quá đầu gối, phần nửa thân trên áo ngắn, phần nửa

thân dưới từ eo trở xuống buông xuôi may rộng dần ra, khi mặc phải ôm kín lấy phần

lớn thân sau. Áo dài truyền thống thường là màu xanh, đen, riêng áo dài của các bà mỡi

thường dùng màu trắng. Áo dài thường được mặc tiếp khách hay đi lễ hội, cưới xin,

các dịp đặc biệt của gia đình, mường [66, tr. 620]

Bên trong chiếc áo ngắn hoặc áo dài là áo yếm. Có hai loại, một loại mặc thường

ngày gọi là áo báng, một loại nữa thường các nàng dâu mặc khi “múa quạt ma” của

nghi thức trong đám tang ma gọi là yếm có màu đỏ.

Váy (wăl): Trong chiếc váy của phụ nữ Mường, đặc sắc nhất là chiếc cạp váy (klôộc váy). Chiếc váy Mường được chia thành hai phần chính: phần thân trên, từ ngang

hông trở lên gọi là cạp váy, phần thân dưới từ tiếp giáp với cạp váy đến gấu váy gọi là

thân váy. Cạp váy được ví như một công trình nghệ thuật của người Mường. Cạp váy Mường được chính những phụ nữ Mường dệt ngay trên khung dệt của mỗi nhà, nó trở thành của hồi môn của các cô gái Mường khi về nhà chồng, cặp váy Mường trở thành

một trong những tiêu chí đánh giá sự khéo léo, đảm đang của người phụ nữ Mường. Nó cũng là một trong những mặt hàng rất được ưa thích ở các phiên chợ của người

Mường với các đồng bào dân tộc khác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cạp váy chia làm ba phần: Rang trên, rang dưới và cao. Rang trên được dệt các họa tiết, hóa văn hình học (vuông, tam giác, hình quả trám, răng cưa, hình đồng tiền…).

Rang dưới là phần được người phụ nữ Mường chú trọng nhiều nhất, nó được dệt các

hoa văn hình động vật như: hươu, chim, gà, rắn, rùa và đặc biệt là đầu rồng. Kiểu trang trí hoa văn này giống như trang trí trên mặt trống đồng. Các hình con vật chạy theo một

hướng nối đuôi nhau theo từng dải. Nếu dải trên chạy theo hướng phải thì dải dưới chạy

theo hướng ngược lại, mỗi dải được ngăn cách bằng những hình núi đồi. Phần rang

dưới chính là để phô diễn sự khéo léo, tinh tế của người phụ nữ Mường, vì với cách mặc trang phục của người phụ nữ Mường thì đây là phần để lộ nhiều nhất, mà không bị áo che đi một phần như phần rang trên. Nhìn đằng trước của người phụ nữ, người ta sẽ hiểu vì sao phụ nữ Mường lại dệt các hình con chim mỏ dài bay từ phải qua trái. Nó

phải bay về nơi có trái tim của người phụ nữ đang đập trong lồng ngực. Cao váy, phần

này được phối hợp với hai màu chính là đen và trắng, trang trí kiểu hình học, đường

sọc đứng, nên đoạn cao váy đã tạo cho người ta cảm giác eo lưng nhỏ lại, thân người

phụ nữ cao lên. Đây là một cách xử lý tài hoa, điệu nghệ.

Phần thân váy: Thường được may bằng vải mộc hoặc bằng lụa, vóc, tùy theo

từng dịp mà người ta mặc váy với chất liệu khác nhau. Thân váy thường là màu đen

hoặc tối màu, nối từ cạp váy xuống tới gót chân. Đối với các nàng (phụ nữ nhà lang)

bên trong gấu váy có lót vải đỏ rộng 3cm, đối với phụ nữ nhà nóc (nhà dân) không

được lót gấu váy bằng vải đỏ.

Dải thắt lưng (tênh): Làm bằng vải lụa dài hơn một sải tay, được may hai phần

đầu thành một vòng tròn khép kín. Dải thắt lưng được thắt đúng giữa eo, trên phần cao

của cạp váy. Khi thắt, đầu nút của dải thắt lưng thường buông về phía bên hông phải và

được giấu vào trong, tạo thành kiểu chiếc nơ buông một đầu xuống khoảng một gang

tay. Dải thắt lưng thường có màu trắng, tím, vàng, xanh nhưng màu được các thiếu nữ

thích nhất là màu hoa thiên lý, vì nó tôn thêm vẻ đẹp hài hòa của chiếc váy.

Khăn đội đầu: Làm bằng vải trắng rộng khoảng 15cm, dài đủ quấn quanh đầu và dắt mối. Khi đội khăn, tóc được búi cao về phía sau gáy. Không phải ai cũng dùng

khăn đội đầu. Khăn đội đầu là dấu hiệu nhận biết những người phụ nữ đã lập gia đình

và những người chưa lập gia đình. Chỉ phụ nữ đã lập gia đình thì mới dùng khăn đội đầu. Khi nhà có tang ma thì phụ nữ cũng không dùng khăn đội đầu. Tuy nhiên hiện nay, kể cả các thiếu nữ đều dùng khăn đội đầu hoặc phụ nữ Mường có xu hướng buông

tóc dài hơn là đội khăn. Đối với người trung niên và cao tuổi thì chiếc khăn đội đầu truyền thống là vẻ đẹp riêng của người phụ nữ Mường [141].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Trang phục của vợ và con gái nhà lang về kiểu cách giống như trang phục của dân thường, chỉ khác đôi chút như cổ áo ngắn của họ thường tròn và trễ hơn của dân thường, chất liệu vải tốt hơn, màu sắc đa dạng, sang trọng hơn, dải thắt lưng, vòng bạc,

bộ xà tích đeo nhiều hơn, lộng lẫy hơn. Những người cao tuổi còn đeo ở cổ một vòng

bạc, đi ngoài đường có ô che hoặc mũ nón.

Trang phục của đàn ông Mường đơn giản hơn so với nữ giới. Áo có hai loại áo

là áo cánh và áo dài. Màu sắc tùy từng dịp và loại áo. Chủ yếu là màu tối như đen, xanh

than. Vào những dịp lễ hội thì áo có màu sáng hơn như trắng hoặc xanh. Áo cánh là áo

mặc những ngày thường, có cổ, xẻ ngực, cài khuy, dài đến ngang mông. Ở giữa sống lưng áo may ghép hai thân áo thằng từ cổ áo xuống đến gấu áo. Phía trước có hai túi khá to, ngoài ra còn có một cái túi nhỏ trên ngực có gân chéo ở gần miệng túi và làm bằng vải màu trang trí. Tay dài buông tới mu bàn tay, ống tay áo may vừa phải có thể

xắn tay áo lên khi cần. Cón áo dài, dài đến ngang đầu gối, cài khuy lệch về bên sườn

phải, hai bên xẻ tà cao tới ngang hông, cổ áo đứng và cứng. Áo dài thường mặc vào

cáo dịp lễ hội, cưới xin. Quần lá tọa ống rộng, khi mặc dùng sợi dây vải buộc chặt để

định vị, có màu trắng hoặc màu nâu. Tóc để dài và búi.

Trang phục lễ tang: Tất cả các thành viên trong gia đình: con cháu, trai gái, dâu,

rể và những người thân thuộc về bề dưới của người quá cố đều phải mặc trang phục tang

lễ gọi là đồ tem. Bộ tem phải may bằng vải thô tự làm màu trắng hoặc đỏ tùy theo vai vế

người mặc, ngoài việc thay khăn quấn đầu bằng mũ mấn, thì các chi tiết khác cũng giống

như trang phục hàng ngày. Trang phục tang lễ của các con, cháu dâu được may rộng thân

và dài sát gót, cài khuy bên vai sườn phải, không xẻ tà, tay áo hơi ngắn và rộng. Người

con trai trưởng phải đeo bên hông bao dao có cả dao [66, tr. 622].

Trang phục người Mường còn có trang phục của thầy Mo, gồm có quần, áo, mũ

và binh khí. Áo màu xanh, rộng, dài đến gần gót chân. Tay áo rộng, vạt trái kéo sang

sườn bên phải và cài khuy bên phải. Quần màu trắng hoặc màu xanh chàm may rộng,

đũng thấp, khi mặc cạp quần buộc bằng dải rút để định vị. Mũ đuôi peo, mũ mềm hình

chóp, màu xanh, khi đội mũ hơi ngả về phía sau. Ngoài ra, thày mo còn có một kiểu mũ khác, hình chóp vuông, trên mũ trang trí hai nửa hình tròn ghép lại gọi mà mặt trời,

màu vàng. Binh khí, gồm một chiếc quạt, một cây kiếm, một chiếc chuông (khếng).

Trang sức: Đồ trang sức của người Mường hầu hết làm bằng bạc như vòng bạc, bộ xà tích, trâm cài tóc, khuyên tai và một số đồ trang sức khác và phụ nữ Mường dùng là chủ yếu. Trong đó có một món đồ dùng trang sức mà chỉ có phụ nữ Mường trong

huyện dùng, phụ nữ các dân tộc khác không dùng, đó là bộ xà tích.

Bộ xà tích không chỉ làm đẹp mà còn vẻ quý phái và biểu hiện sự giàu sang của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người phụ nữ có địa vị xã hội. Bộ xà tích làm bằng bạc, được tết thành những dây nhỏ hình bốn cạnh, mỗi sợi dài khoảng hai gang tay. Bộ xà tích có 2 hoặc 4 sợi dây bạc có treo hộp trái đào và các móng vuốt của hổ có bịt bạc. Bộ xà tích thường được móc vào

dải thắt lưng bên hông phải, buông xuống phía bụng dưới, đầu cuối của sợi xà tích móc

vào hình trái đào và một chùm móng vuốt hổ.

Vòng bạc đeo ở cổ tay, có loại dẹt và loại tròn. Trên mặt của chiếc vòng bạc có

chạm khắc nổi hình hoa lá rất tinh xảo và đẹp (tùng, cúc, trúc, mai). Ngoài ra còn có

vòng cổ, chuỗi hạt cườm đeo ở cổ làm vật trang sức. Người Mường rất quý chuỗi cườm

vì nó hiếm, có giá trị và khó mua hơn vòng bạc. Hạt cườm được làm từ đá màu, có hình quả trám hoặc lục lăng. Một vật dụng nữa gắn liền với người phụ nữ Mường đó là “ớp”. Đây là loại giỏ tre mà phụ nữ Mường thường đeo ở sau lưng để khi đi làm họ có thể đựng cua, ốc, hái rau… bổ sung cho bữa ăn hàng ngày, đồng thời nó cũng là một vật

dụng trang trí của người phụ nữ Mường.

Đối với quý tộc Mường (lang đạo) có thú chơi đồ bịt bạc cho các đồ dùng trong

nhà như: bịt bạc vào se điếu hút thuốc lào, nõ điếu bát hoặc vành điếu bát, bịt bạc vào

một cái sừng hươu con làm chuôi dao cho các bà nàng…

Trang phục của người Kinh cũng khá đơn giản. Đàn ông hay đàn bà người Kinh

quần áo, phụ kiện họ sử dụng chủ yếu là màu tối như nâu hoặc đen. Màu được sử dụng

nhiều nhất là màu nâu. Đàn ông đi chân đất, quần màu nâu chân què, áo cánh nhuộm

màu nâu. Những ngày lễ hội, tết, đình đám, giỗ chạp thì có đi đôi guốc bằng gỗ, tre,

mặc áo cánh trắng, quần trắng. Người giàu thì mặc quần áo chất liệu tốt hơn như: áo

lụa màu mỡ gà, quần màu trắng, chân đi guốc mộc, có người mặc áo the đen dài ra

ngoài áo cánh trắng, đầu đội khăn xếp. Phụ nữ mặc áo cánh màu nâu xẻ tà, trong mặc

yếm màu nâu (nâu đỏ, nâu nhạt) hoặc trắng. Yếm của phụ nữ người Kinh chỉ che phía

trước chứ không che hai bên lườn và lưng, có dây đeo lên cổ, buộc ra sau gáy, hai dây

ở hai bên yếm buộc ra sau lưng. Họ mặc váy nâu hoặc đen, đi chân đất. Đầu thường

chít khăn mỏ quạ màu nâu hoặc đen. Vào các dịp tết, lễ hội thì phụ nữ Kinh mặc áo

cánh có nhiều màu sắc khác như: trắng, hoa đào, nâu gụ thắm, lưng thắt bao da xanh, nâu, đỏ. Phụ nữ Kinh đội nón quai thao, nón vành rộng, nhưng phần lớn họ dùng làm

phụ kiện hơn là dùng thực tế vì họ thường cầm trên tay hay đeo nón qua vai tránh làm

hỏng chiếc chăn mỏ quạ trên đầu. Phần lớn các cô gái thường mặc áo dài tứ thân nâu hai hoặc bốn màu, chân đi guốc hoặc dép da trâu xỏ ngón. Đôi guốc mộc trong trang phục của người Kinh được coi như một nét đặc trưng của họ. Cả nam và nữ đều đi loại

guốc mộc này và có cách thiết kế chỉ khác nhau một chút. Thường thì vào những dịp lễ tết, đình đám, họ mới đi guốc. Người đàn ông Kinh ở Lạc Sơn vì sống giữa vùng chủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

yếu là người Mường, nên họ đôi khi cũng mặc những chiếc áo cánh của đàn ông Mường vì nó không quá khác biệt so với áo cánh nhuộm nâu của đàn ông người Kinh.

Phụ nữ người Kinh cũng sử dụng một số loại trang sức như vòng cổ, vòng tay,

hoa tai, trâm cài tóc với nhiều chất liệu khác nhau như bạc, đồng và có cả đá. Tuy nhiên, đồ trang sức chỉ được họ sử dụng chủ yếu trong những ngày lễ tết, đình đám chứ

không sử dụng thường xuyên vào những ngày thường.

3.4. Tục lệ

3.4.1. Sinh đẻ và nuôi con

Người Mường cũng như nhiều dân tộc khác việc người mẹ mang thai là một việc rất vui mừng của gia đình. Khi người phụ nữ mang thai theo tập tục phải kiêng khem khá nhiều nhưng vẫn phải làm việc bình thường. Người Mường thời kỳ mang

thai là thời kỳ phụ nữ không được sạch sẽ, nên không được đến những nơi linh thiêng

sẽ làm phật ý thần thánh.

Đứa trẻ khi mới sinh ra nếu là con gái, người ta lấy một cái hông đồ xôi bằng gỗ

đặt cạnh cái nia (bé gái nằm trong cái nia này) rồi gõ vào cái hông đồ xôi và nói: “Hỡi

con gái dậy mà kéo tơ, chăn tằm dệt vải” (Hỡi con tứa dậy mà tháo thơ tháo tằm). Nếu

là bé trai, cũng đặt cạnh cái nia rồi đập xuống sàn nhà, miệng nói: “Hỡi con trai dậy

mà đi kéo chài kiếm cá” (Hỡi con trai dậy mà ti chài ti lưới). Đứa trẻ sau khi sinh ra

người ta gọi và đập đập vài ba lần cho đến khi đứa bé khóc to lên thì mới bế bé dậy

mặc áo, quấn tã.

Sau khi sinh nở, sản phụ được đưa đến nằm cạnh bếp lửa. Họ tin rằng lửa sẽ

giúp phụ nữ nhanh chóng bình phục sau khi đẻ, lửa ấm sẽ làm lưu thông máu, da dẻ

hồng hào. Dân gian Mường có câu: “Hảo là con mái phải ngoánh mặt pao cúi” nghĩa

là muốn trở thành con gái đẹp phải hơ người vào lửa. Phụ nữ sinh con đầu lòng sẽ nằm

cạnh bếp lửa một tháng, sinh lần thứ hai, thứ ba chỉ nằm cạnh 15 đến 20 ngày. [39, tr.

115].

Việc chăm sóc sản phụ và đứa trẻ sau khi sinh người Mường thường dựa vào kinh nghiệm được truyền qua nhiều đời như: Sau khi sinh, sản phụ được uống các loại

lá cây, thức ăn của sản phụ chủ yếu là cơm với muối. Người Mường có rất nhiều kiêng

cữ khi nhà có sản phụ: kiêng người ta vào nhà, kiêng ăn một số thứ: thịt trâu, chó, ốc,…, hạn chế ra ngoài. Khi trẻ ốm người Mường thường chữa bệnh cho bé bằng những loại thuốc dân gian bằng lá cây, rễ cây cỏ đun lên cho bé uống hoặc mời thầy mo đến

làm vía, những bài thuốc họ làm một số mẹo vặt mang tính ma thuật. Việc nuôi dưỡng trẻ sơ sinh ở người Mường chủ yếu được nuôi bằng sữa mẹ trong ba, bốn tháng đầu,

sau đó ăn bột và ăn cơm nát.

Trẻ đủ cữ (bé trai thì 7 ngày, gái 9 ngày) gia đình làm lễ thả ổ nhằm tạ ơn vua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bếp và cũng các bà mụ. Khi đứa trẻ tròn một tháng, gia đình sẽ làm lễ mừng đầy tháng

(ăn mừng thôn). Cỗ được tổ chức khá linh đình, thịnh soạn, thường mổ cả lợn, gà mời

họ hàng, làng xóm đến dự. Người Mường có phong tục tốt đẹp trong buổi mừng bé đầy

tháng là người đến dự thường đem tặng cháu bé năm vuông vải tự dệt, một con gà. Nếu

là nhà hiếm con, muộn con mà nay mới có con đầu lòng thì sẽ được ông bà ngoại hoặc

họ hàng thân thích bên ngoại tặng một chiếc vuốt hổ xâu dây buộc vào cổ bé để “trừ

tà, giữ vía”. Khi trao quà cho cháu bé người ta thường có câu nói lời chúc bằng thơ.

Nếu là bé gái là:

Ăn cơm con cả co chóng

Ăn ti cách tắc, bễ mùn, bễ cúi

Ăn ti là pô ông, là phải

Với chí dạ ụn hảy.

Nghĩa là

Được con gái lớn cho nhanh

Để đi hái rau, lấy măng, lấy củi

Biết làm bông, dệt vải

Với mẹ con nhé.

Nếu là bé trai:

Cả cho chóng

Án ti câu cá, tánh chim

Cho dộ cho chí ăn

Nghĩa là

Hay ăn chóng lớn

Được đi câu cá, bắt chim

Cho ông bà bố mẹ con nhé. [39, tr. 117, 118].

Việc đặt tên cho cháu cũng được ông bà nội đặt trong lễ này, người Mường cũng

kiêng đặt tên cháu trùng với những người họ hàng nội ngoại. Khi bé có tên gọi, bố mẹ

sẽ được gọi theo tên con. Sau lễ đầy tháng, người mẹ có thể làm một số việc nhẹ trong

nhà.

3.4.2. Hôn nhân

Người Mường theo chế độ một vợ một chồng và cư trú bên nhà chồng. Tục lệ

người Mường cho phép nam nữ được tự do quen biết, tự do tìm hiểu người bạn trăm

năm của mình, có sự thỏa thuận của cha mẹ. Với nhà Lang chuyện này phải hỏi ý kiến

của hội đồng kỳ hào. Trai gái trong mường đến tuổi trưởng thành, quen biết, tìm hiểu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khi ưng nhau thì chàng trai báo cho bố mẹ biết để chuẩn bị lễ cưới. Tục lệ cưới xin bao

gồm các bước sau: mờ miệng (dạm ngõ), kháo thiếng (ướm hỏi), ti nòm (ăn hỏi), ti

cháu hoặc du về dẩu bao(lễ cưới).

Chọn mờ: Sau khi đôi trai gái được hai bên gia đình và họ hàng nhất trí cho tổ

chức đám cưới thì nhà trai sẽ chọn và nhờ người làm mối (mờ). Mờ có thể là đàn ông

hay đàn bà đứng tuổi, được dân làng vì nể, gia đình yên ấm, con cháu đề huề, nói năng

khéo léo,lưu loát và ứng xử hoạt bát. Người Mường cho rằng cái phúc của người làm

mối sẽ góp phần vào cuộc sống hạnh phúc của đôi trẻ. Người Mường có câu thành ngữ:

“Cơm ngon vì miếng, tiếng tốt vì mờ”. Vai trò của người làm mối được bắt đầu từ khi

dạm ngõ, hỏi thăm đến lúc đám cưới, đón dâu và trao cho nhà trai.

Mờ miệng (dạm ngõ, hỏi thăm): Gia đình nhà trai nhờ ông (bà) mờ mang trầu

cau, hai chai rượu và bánh sừng bò (một loại bánh của người Mường) đến nhà gái

(thường lúc chạng vạng tối) để chính thức ngỏ lời cho đôi trẻ được tiến tới hôn nhân.

Ông (bà) mờ thay mặt nhà trai bàn bạc với nhà gái để chọn ngày nhà trai đến “kháo

thiếng”.

Kháo thiếng (đặt vấn đề): Vào ngày đã được hai gia đình chọn, nhà trai chuẩn

bị lễ, gói kĩ, nhờ ông (bà) mờ gồm: hai gói chè, trầu cau, bánh. Ông (bà) mờ đến nhà

gái vào lúc chạng vạng tối (thời điểm này các thành viên trong gia đình nhà gái đều đã

kết thúc công việc của một ngày và có mặt đông đủ). Bên nhà gái cử người ra đón ông

(bà) mờ vào nhà, trong nhà có mặt đầy đủ cha mẹ, chú bác, cô dì. Lễ vật được đặt lên

bàn thờ tổ tiên. Sau ba ngày, nếu nhà gái không mang lễ vật trả lại tức là đã đồng ý

cuộc hôn nhân này. Tự tay bố cô gái mở gói lễ vật và thông báo cho toàn thể họ hàng

nội ngoại rằng nhà có tin vui. Sau sự kiện này đôi trai gái sẽ được phép thường xuyên

đi lại thăm hỏi nhau.

Ti nòm (ăn hỏi): Nhà trai phải đưa một số lễ nhỏ nữa sang nhà gái để xin ngày.

Lễ gồm một con lợn, hai gánh gạo, bánh chưng, rượu, trầu cau. Nhà gái làm một bữa

cơm thân mật mời nhà trai, sau đó hai bên cùng bàn bạc và chọn ngày ăn hỏi. Giống

như nhiều dân tộc khác, người Mường thường tổ chức lễ ăn hỏi, cưới xin vào tháng 11,

12 Âm lịch, khi mùa vụ đã xong. Lễ ăn hỏi được tiến hành hai lần: lần đầu gọi là nòm

gà, lần hai gọi là nòm lợn hay nòm cả. Đối với nòm gà lễ vật thường có: hai con gà

trống, hai gói cá, 16 chiếc bánh làm từ gạo nếp, 30 lá trầu, một buồng cau, tất cả do

bốn người khiêng. Nòm lợn, lễ vật nhiều hơn nòm gà, gồm một con lợn khoảng 30kg

(đã mổ thịt), bốn con gà trống, vài gánh xôi, hai chum rượu nhỏ, trầu, cau. Thành phần

bao gồm có ông (bà mờ), chàng rể tương lai, bạn của chàng rể, người khiêng lễ vật,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đoàn người đi phải là số chẵn, phải thành đôi (quan niệm của người Mường - người có

họ, chuối có nải) [39, tr. 123, 124]. Theo phong tục cổ truyền, sau lễ ăn hỏi, phải đến

ba năm sau lễ cưới mới được tiến hành. Đây là thời gian để nhà trai chuẩn bị điều kiện

vật chất cho lễ cưới, đồng thời cũng là khoảng thời gian thử thách đối với chàng rể và

cô dâu. Người Mường có câu ca: “Tháng mười chăng ti bất cháu, tháng kháu chăng đi

bất du” nghĩa là tháng mười không đi mất chồng, tháng sáu không đi mất vợ.

Lễ cưới (ti cháu): Sau ba năm, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, nhờ ông (bà) mờ mang lễ đến nhà gái xin cưới. Lễ vật gồm: hai con gà (một trống, một mái), hai gói

cá, bốn chai rượu, bốn gói cơm nếp, một gói trầu cau, hai vòng bạc. Nhà gái mời họ

hàng hai bên nội ngoại đến đón tiếp nhà trai, cùng bàn bạc cho hôn lễ. Buổi bàn bạc này nhà gái có quyền đưa ra các điều kiện thách cưới. Đến ngày đã định hai bên gia

đình tổ chức đám cưới cho đôi trẻ. Đám cưới thường được tổ chức trong ba ngày (đám

cưới con nhà lang có thể kéo dài tới 5 - 7 ngày) [39, tr. 125].

Trước ngày đón dâu, tục lệ người Mường có lễ dẫn của từ nhà trai sang nhà gái

sẽ được tiến hành vào trước hôm tổ chức đón dâu một ngày. Đoàn dẫn của bao gồm

ông (bà) mờ, ông chú, bà bác, em gái chàng rể, chàng rể và những người khiêng lễ vật

(số người đi phải chẵn). Đến gần nhà cô dâu, đoàn người dừng lại sửa sang quần áo,

đầu tóc, xếp lại lễ vật rồi đi thẳng vào sân nhà cô dâu. Nhà gái cử người đến đón và

kiểm tra lễ vật xem có đủ hay không. Đại diện nhà gái mời đoàn uống nước, ăn trầu,

uống rượu cần cùng gia đình. Sau đó đoàn chú rể trở về bên nhà trai, ông (bà) mờ sẽ

báo lại gia đình nhà trai về lễ dẫn của, thông báo giờ được phép đón dâu vào ngày hôm

sau.

Buổi tối trước ngày đưa dâu, ở cả nhà trai và nhà gái khách khứa bạn bè đến chia vui

đông đúc. Nam nữ thanh niên thi nhau đánh cồng, hát thường rang, bọ mẹng, đối đáp, chúc

tụng… Ngày cưới của đôi trẻ trở thành một cuộc vui chung cho cả xóm mường.

Lễ đón dâu được tiến hành vào sáng hôm sau. Chú rể, bạn bè chú rể diện những

bộ quần áo đẹp để cùng đi đón dâu, số lượng người không hạn chế. Người Mường

thường đi đón dâu vào lúc 9 - 10 giờ sáng, cô dâu sẽ về nhà chồng vào 5 - 6 giờ chiều. Họ quan niệm đó là giờ tốt lành “ti cháu buổng tru, ti du vàng mặt” (đi đón dâu vào buổi sáng lúc thả trâu ra đồng, đưa dâu về nhà chồng vào buổi chiều).

Trước giờ xuất phát đi đón dâu, đoàn người tập trung trước cửa nhà trai, dàn

cồng gióng lên một hồi ba tiếng. Dứt hồi cồng, đoàn đón dâu bắt đầu lên đường. Người

Mường có tục khi đi đón dâu phải đi đường chính, không ai bỏ về giữa đường. Dọc

đường đi dàn cồng chiêng vẫn tiếp tục gióng. Khi gần đến nhà cô dâu, nghe được tiếng

cồng, chuẩn bị ra đón tiếp. Tới cổng nhà gái dàn cồng dừng lại, các cô gái nhà gái đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trải sáu chiếu hoa trước lối vào nhà. Ông (bà) mờ đem cút rượu cùng cơi trầu đến xin

nhà gái mở lối cho đoàn đón dâu đi vào. Người ta còn tổ chức hát đối ví von của hai

bên nam (nhà trai) nữ (nhà gái) tới khi nào nhà gái vui lòng nhường lối, mời nhà trai

thì nhà trai mới được đi vào.

Khi đoàn đón dâu lên trên nhà sàn, cô dâu chú rể làm lễ theo phong tục của

người Mường: đến trước bàn thờ vái lạy tổ tiên, rồi lạy ông bà, bố mẹ và những người

trong họ. Những người được lạy sẽ có món quà tặng cô dâu, chú rể. Nhà gái thiết đãi

nhà trai một bữa cơm, sau đó đợi đến giờ đã chọn, ông (bà) mờ xin phép nhà gái đón

cô dâu về nhà chồng. Kể từ khi cô dâu và phù dâu bước xuống cầu thang đều được đội

nón đến khi về đến nhà chồng. Trên đường đi cô dâu không được ngoảnh nhìn về phía

sau, đó là một điều kiêng vì sợ gia đình không hạnh phúc, sợ bị đứt gánh giữa đường.

Cô dâu phải chuẩn bị nhiều quà do chính tay cô làm ra để tặng gia đình nhà chồng, thể

hiện tấm lòng, sự khéo léo của mình dành cho gia đình chồng. Những món quà thường

là: hai chiếc chăn, gối, tấm vải mộc dệt từ sợi bông cô dâu tự làm. Ngoài ra khi cô dâu

về đến nhà chồng còn nhiều nghi lễ khác như: cô dâu đến chân cầu thang, cô em chồng

sẽ ra múc nước cho chị dâu rửa chân; Trước khi bước lên cầu thang, cô dâu cùng phù

dâu phải bước qua một bó củi nhỏ để ngay bậc thang thứ nhất rồi mới bước lên bậc

thang thứ hai, khi đã vào trong nhà cô dâu là đến quỳ lạy bếp lửa, để cầu mong vua bếp

sẽ phù hộ cho cô sau này sinh nở được dễ dàng. Tiếp đó cô đến lạy bàn thờ tổ tiên, cúi

chào ông bà, bố mẹ chú bác. Tiếp đến là lễ tơ hồng. Xong tất cả các nghi lễ trên, các

mâm cỗ lại được bày ra, hai họ ăn uống vui vẻ, đoàn đưa dâu của nhà gái có thể ngủ

lại nếu như đường về quá xa. Sáng hôm sau một bữa cơm chia tay được tổ chức. Ông

(bà) mờ đứng trước hai họ có lời thưa “nhiệm vụ se duyên cho đôi trẻ của ông đã hoàn

thành, chúc cho đôi trẻ hạnh phúc trăm năm”. Nhà trai và nhà gái có lễ vật biếu ông

(bà) mờ.

Sau ba ngày, đôi vợ chồng trẻ về nhà gái lại mặt (ti môộng), lúc này đồ đạc tư trang

của cô dâu mới được chuyển về nhà chồng. Đêm đó, cô dâu chú rể mới chính thức động

phòng. Cũng có trường hợp ở rể bên nhà vợ, khi kinh tế nhà trai eo hẹp không lo nổi đầy đủ

lễ cưới. Con rể phải lấy họ vợ và con cái sinh ra phải lấy theo họ mẹ.

Nhìn chung các bước cưới hỏi của các gia đình Mường về cơ bản là giống nhau,

có khác chỉ là số lượng và giá trị đồ lễ vật thách cưới và cỗ cưới tùy theo điều kiện kinh tế của từng nhà. Trong nhiều gia đình đám cưới con trai thường được chú ý hơn con gái, con trai trưởng càng quan trọng nhất là đối với nhà lang. Đám cưới ở nhà lang

được tổ chức to hơn, lễ vật nhiều hơn. Hôn nhân của người Mường là chế độ một vợ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

một chồng, chỉ có nhà lang mới theo chế độ đa thê.

Theo quan niệm của người Mường, hôn nhân có ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối

với cá nhân mà còn quan trọng đối với gia đình, họ tộc. Với người đàn ông, hôn nhân là bước chuyển để anh ta trở thành đứa cả, tức là người có tư cách đại diện một gia

đình, một nóc nhà tham gia vào các công việc của gia đình, dòng họ và làng xóm. Với

người phụ nữ, hôn nhân đánh dấu sự trưởng thành, khẳng định chị ta có khả năng quán

xuyến các công việc cho gia đình, sinh con đẻ cái để duy trì nói giống cho gia đình nhà chồng và nuôi dưỡng chúng [15, tr. 169].

Đám cưới của người Mường ngày nay tuy vẫn giữ được nhiều nét truyền thống nhưng có phần tiết kiệm hơn xưa, tổ chức ít ngày hơn, việc thách cưới cũng ít hơn,

không còn nặng nề như trước.

3.4.3. Tang ma

Người Mường quan niệm tang lễ là nghi lễ quan trọng nhất của đời người, xưa

kia kéo dài từ ba đến tới 12 ngày đêm tùy theo gia cảnh từng nhà với nhiều nghi lễ

phức tạp và tốn kém nhưng nó cũng thể hiện những hình thức sinh hoạt nghệ thuật dân

tộc độc đáo và những giá trị nhân bản sâu sắc. Người Mường ở Lạc Sơn quan niệm con

người chết đi tức là các vía lìa khỏi xác biến thành một thi thể ma.Thi thể này tiếp tục

sống ở thế giới ma hay Mường Ma, Mường Tối, phân biệt với thế giới người Mường

đang sống gọi là Mường Người, Mường Sáng. Trong thế giới ma này, những thi thể

ma cũng sinh hoạt như thế giới người sống. Vì quan niệm như vậy nên bãi tha ma

thường ở bìa rừng, sườn núi, không quá xa nơi người Mường sinh sống.

Khi người ốm sắp tắt thở, người ta nổi ba hồi chiêng nhằm báo cho họ hàng, cộng

đồng về nhìn mặt người thân lần cuối. Khi đã tắt thở, trống chiêng được gõ liên hồi cấp

báo để cả bản tới giúp tang chủ. Lúc này người nhà chưa được khóc mà phải giữ yên

lặng, nếu khóc ma trời, ma đất lang thang sẽ đến tìm ăn mất phần ma mới. Thi hài được

tắm rửa bằng nước lá thơm, mặc đồ mới, đặt nằm ở gian giữa nhà, mắc màn xung

quanh. Sau khi làm lễ phát quần áo cho thi hài, khi đã đông đủ bà con làng xóm, người

nhà làm lễ “phát khốc” sau khi người con cả mang dao đến chặt ba nhát vào bậc cửa

gian ngoài, nơi thờ cúng tổ tiên và kêu to: “Trời ơi bố mẹ tôi chết rồi”. Đó là lễ động

tiếng, mọi người trong nhà òa lên khóc cùng với tiếng chiêng, tiếng trống đánh theo

nhịp chậm. Thầy mo được mời đến làm lễ “nhắn miệng”. Gia chủ bày lên bàn thờ con

gà luộc để cúng người chết. “Trước khi làm các đêm mo cho người chết, các nàng dâu

trong nhà phải làm lễ quạt ma. Quạt ma là điệu múa dành cho tang lễ. Váy áo của

nàng dâu trong lễ quạt ma phải thật lộng lẫy với các hoa văn, các loại hạt cườm. Quạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ma là điệu múa buồn và nhẹ nhàng nhằm tỏ lòng xót thường người quá cố, cầu cho

vong hồn người quá cố được mát mẻ. Múa quạt ma là một nghi lễ tang ma độc đáo chỉ

có ở người Mường Tân Lạc (đất Lạc Sơn trước kia). [39, tr. 135].

Tang chủ (con trai trưởng) chia việc: Người đi mời thầy mo, ban lễ nhạc, người

đi báo tin cho anh em, họ hàng và làng xóm. Buổi tối thứ hai làm lễ nhập quan. Quan

tài được làm bằng cây gỗ xẻ đôi khoét rộng lòng, nắp trên cùng cũng đẽo một thân gỗ

tương tự, sao cho đậy khít thân dưới. Người chết được chôn theo các đồ vật như: chăn,

vải vóc, quần áo... Nhưng đặc biệt người Mường không chôn theo kim loại, các khuy

áo, quần… cũng được tháo bỏ. Sau lễ nhập quan là lễ phát tang, con cháu, họ hàng đến

nhận khăn tang đều phải cắt tóc. Sau một năm, con cái mới được sửa tóc và nhuộm

trang phục tang.

Khi thi hài đã đặt vào quan tài, thầy Mo bắt đầu công việc của mình. Đầu tiên

thầy Mo đọc Đẻ đất đẻ nước - thiên trường ca của dân tộc Mường, nói về quá trình khai

thiên lập địa, hình thành và phát triển của dân tộc Mường. Thầy sẽ đưa hồn đi các nơi và

đón trả về theo đúng tục cổ. Việc đưa đưa hay đón hồn theo hình thức cầu cúng, hát kể

chuyện. Một đêm không kể hết phải mười hai đêm mới trọn. Mỗi đêm mo bà con dân làng

đều kéo đến nghe say sưa, vì thế người Mường có câu: “Trẻ làm ma, già làm hội”.

Đêm mo thứ nhất: Đẻ khót - thầy mo đưa hồn lên trời hỏi lí do việc chết.

Đêm mo thứ hai: Kể chuyện Đẻ đất, đẻ nước.

Đêm mo thứ ba: Nhìn họ và lễ đón bạn. Người chết được dẫn đi khắp nghĩa địa,

giới thiệu với ma cũ để nhận họ hàng.

Từ đêm mo thứ tư đến đêm mo thứ tám: Kiện, đưa người chết đi lên mường trời

để nghe trời phán xử.

Đêm mo thứ chín: Xuống sông Tỵ

Đêm mo thứ mười: Đưa ma đi thăm bản làng lần cuối.

Đêm mo thứ mười một: Đưa ma đi nhìn lại nhà cửa, vườn tược lần cuối và dặn

dò con cháu.

Đêm mo thứ mười hai, được tiến hành vào ngày thứ mười hai - ngày đưa thi hài ma

đi an táng. Thầy mo đọc mo Mái nhà - nhà con cháu xây cho ma ở [39, tr. 140, 141].

Trong suốt quá trình làm lễ các đêm mo như vậy, nếu là cha mẹ chết thì con dâu, cháu dâu phải đội một chiếc mũ bằng vải xô trên đầu.Tùy theo vai vế mà chiếc mũ có

màu khác nhau như đỏ, vàng mỡ gà, hay màu trắng.

Nếu là cha chết, để tỏ lòng tiếc thương, người Mường có tục để một cây sào nứa sát mái nhà - phía đầu quan tài, trên đó vắt quần áo của các con. Nếu người chết là mẹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thì người con dâu phải treo lên đó một chiếc váy và một cạp váy.

Ngày đưa tang, người Mường rất quan trọng giờ đưa quan tài ra khỏi nhà, vì vậy

họ thường nhờ thầy mo xem ngày giờ tốt để sau này hồn người chết không về quấy rối những người con sống trong họ hàng, gia đình, trước lúc quan tài được đưa ra khỏi nhà,

thầy mo làm lễ một lần nữa để đưa hồn người chết về thế giới Mường Ma, xong lễ quan

tài được đưa ra khỏi nhà, người Mường không đưa quan tài đi theo lối đi của người

sống, không đi qua cầu thang của người sống mà thường đưa qua voóng ở trái ngoài cùng của gian nhà, hoặc làm một cái cầu thang tạm để đưa quan tài ra khỏi nhà, sau đó cầu thang này được tháo bỏ và đốt đi. Trong đoàn đưa tang thì thầy mo là người đi đầu, sau thầy mo là bác chí chuốc, là người giúp thầy mo gánh quần áo và các thứ đồ dùng

lặt vặt của người chết mang ra mộ, tiếp đến là dàn nhạc, quan tài, người già trong

mường rồi mới đến con cháu, người thân trong nhà, trong họ và người trong xóm, trong

mường. Con cháu phải đi lùi bước, con trai vượt lên trước nằm xuống đất để quan tài

đi qua đâu với ý các con thay nhau cõng cha (mẹ), đưa cha (mẹ) về nơi an nghỉ cuối

cùng [134].

Người Mường có thủ tục làm nhà táng: Nhà táng có hai tầng, được làm bằng nứa

tép, giống một cái nhà sàn nhỏ, xung quanh dán giấy xanh, đỏ, vàng. Lúc bắt đầu lên

đường đưa quan tài về nhà đống, người ta chụp nhà táng này lên quan tài.

Cuối cùng là nghi lễ chôn cất. Huyệt đã được đào sẵn, trước khi hạ quan tài, thầy

mo làm lễ gọi hồn, sau đó quan tài được đưa xuống huyệt, tiếp đến người con trai trưởng

là người đầu tiên xúc đất xuống huyệt rồi mọi người mới được xúc đất, ném đất lấp

xuống mộ. Tiếp theo, người ta đặt ba hòn đá to ở phía đầu, hai hòn hai bên chân, làm nhà

mồ bằng tre hoặc gỗ lợp tranh lên trên mộ. Trong nhà mồ để bát hương cúng và nhiều

đồ dùng như: công cụ sản xuất, quần áo, giày dép, ống đựng nước, củi…

Người Mường không có tục cải táng chỉ chôn cất một lần. Họ chỉ cải táng khi

trong nhà gặp nhiều chuyện rủi ro hoặc xem bói trong nhà tổ tiên có động. Sau tang lễ, con cháu không được vui chơi trong 100 ngày và phải để tang trong 3 năm. Trong thời

gian này không được cưới xin. Ba tháng sau khi chôn cất, gia đình làm lễ chín lún

(nhuộm quần áo tang) thành màu chàm để mặc tiếp. Ba năm sau thì mãn hạn tang, quần áo tang được mang đi đốt. Từ đó về sau gia đình chỉ cúng vào dịp tết hàng năm. Đối với trường hợp những người chết trẻ được tổ chức lễ tang ma đơn giản hơn so với người

chết bất đắc kỳ tử, chết ở ngoài rừng, ngoài đường,… thi thể không được đưa vào trong nhà.

Ở người Mường Lạc Sơn có một số nơi có tục làm ma khô. Nghĩa là để quan tài

người chết ở trong nhà trong một thời gian khá lâu để thờ cúng. Ví dụ tại Chiềng Lầm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xã Phong Phú huyện Tân Lạc (Lạc Sơn xưa) trong một cuộc điền dã năm 1939 J. Cui

Siner đã quan sát một gia đình lang cun có ba quan tài chết đã 5 năm mà vẫn để trong

nhà. Từ góc độ tín ngưỡng, phong tục này biểu hiện niềm tin về sự chuyển dời vĩnh viễn

của linh hồn sang thế giới bên kia. Ngoài ra nó còn nhằm thể hiện điều kiện kinh tế của

từng gia đình, cũng có trường hợp vì gia đình nghèo khó, không có tiền làm tang lễ hoặc

không có con trai kế tự [39, tr. 149]. Ngày nay, tang lễ của người Mường rút xuống chỉ

còn một đêm mo. Người Mường có tục lệ cúng tổ tiên trong vòng ba đời.

“Tang lễ là một trong những nghi lễ đậm sắc thái văn hóa của tộc người. Tang lễ

Mường đã bảo lưu nhiều nghi lễ, tập tục cổ truyền, thể hiện những quan niệm về vũ

trụ, nhân sinh quan của tộc người. Những quan niệm đó đã góp phần xây dựng tạo nên

“mối cộng cảm” và tạo ra cốt cách tâm hồn người Mường đậm chất dân gian và tính

nhân văn sâu sắc. Chính vì vậy, tang lễ người Mường đã mang nhiều giá trị của di sản

văn hóa dân tộc” [39, tr. 134].

Với người Kinh họ có quan niệm “Sinh là ký, tử là quy” đại loại là sống gửi, thác

mới thật là về thế giới bên kia. Người Kinh cũng quan niệm có thế giới khác thế giới

của người sống, là thế giới người âm. Vì vậy người Kinh có câu “Dương sao, âm vậy”.

Từ quan niệm ấy mà mọi việc ma chay, giỗ chạp đều được lo toan chu đáo.

Khi lâm chung người Kinh đã có nhiều nghi thức rất kỹ bày tỏ tình cảm của với

người đang ở vào giai đoạn lâm chung, đặc biệt là bố mẹ như: đưa người bệnh tới căn

nhà chính tấm (nhà chính), xoa nắn chân tay người bệnh, con trai trưởng hỏi cha mẹ có

trối trăng gì không, xin đặt tên hiệu,…

Khi người tắt thở: tin buồn được loan báo. Nhưng người nhà nén khóc, chia nhau

lo toan công việc. Con trai trưởng thắp ba nén hương khấn cáo tổ tiên gia đình có người

mệnh bạc.

Trước khi làm lễ khâm liệm người ta bỏ vào miệng người chết một nhúm gạo,

một ít tiền với ý nghĩa đối đãi với người chết như đối đãi khi còn sống gọi là lễ phạm

hàm. Sau đó thi hài được lau bằng nước thơm và thay quần áo mới, vuốt mồm cho mím

chặt, vuốt mắt cho khép kín, nắn chân tay cho thẳng, thân hình ngay ngắn, sau đó người

nhà lấy tấm vải trắng quấn kín thi hài.

Lễ nhập quan được làm khi con cháu đã đông đủ. Xưa kia người Kinh thường để

thi hài ba ngày mới làm lễ nhập quan. Con cháu nhìn mặt người qua đời lần cuối. Khi

nắp quan tài đậy lại thì con cháu mới được khóc. Linh cữu đặt ở giữa nhà, bàn thờ được

lập nên, mọi nghi thức của đám tang bắt đầu. Trên nắp quan người ta để một khúc thân

chuối non để thắp hương, một bát cơm tẻ úp đôi trên có quả trứng luộc ở giữa hai chiếc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đũa bông cắm vào bát cơm.

Lễ phát phục là nghi thức mặc tang. Chủ tang, người con trai trưởng chia khăn,

áo, mũ, gậy cho từng người, theo từng loại riêng. Trang phục màu trắng bằng vải xô

mới. Nhà có tang đón phường nhạc hiếu về cử ai, tiễn đưa hồn người qua đời, người

Kinh có câu: “Sống dầu đèn, chết kèn trống”.

Sau khi phát tang họ hàng làng xóm đến chia buồn, bày tỏ nỗi xót thương với

người quá cố, với tang gia và xin được làm lễ viếng. Với truyền thống tốt đẹp “tối lửa

tắt đèn có nhau” hàng xóm láng giềng thường đến giúp tang gia những công việc trong

quá trình tang ma.

Đưa đám và chôn cất: Đưa đám là thể thức đưa linh cữu đến tại chỗ chôn. Sau lễ

phát phục con cháu phải chọn ngày giờ thuận lợi để tổ chức việc đưa đám hay tống

tang. Đoàn tống tang được bố cục thành một đám rước: một lá cờ vuông màu đen, trống

cái, minh tinh, phường nhạc, người mũ gậy (con trai hoặc cháu trai trưởng), linh cữu,

thân nhân và con cháu theo liền. Theo đám tang còn có hai người phục dịch: một người

rắc vàng, một người cầm cơi trầu, thuốc đưa mời mọi người suốt dọc đường đi.

Khi hạ huyệt người nhà và bạn bè thân thích thường ném mấy hòn đất xuống

huyệt, biểu lộ sự vĩnh biệt. Sau khi hạ huyệt làm lễ thành phần, về nhà làm lễ phán

khốc, lễ ngu (yên ổn) ngụ ý người chết đã yên ổn nơi cuối cùng. Người chết sau 3 ngày,

gia đình làm lễ cúng, gọi là cúng ba ngày. Nhà có tang thường làm cỗ mời hàng xóm

đến ăn uống, những nhà giàu có thường bày tỏ lòng hiếu nghĩa của mình bằng cỗ bàn

linh đình. Tuy nhiên hủ tục này cũng làm khổ những người nghèo, chức dịch thường

hạch sách ăn uống ba ngày, làm tang chủ khốn đốn, lâm vào cảnh nợ nần.

Lệ tưởng nhớ theo tập tục người Việt là cúng 3 ngày, 49 ngày (cúng tuần thất

thất), 100 ngày (lễ tốt khốc hay thôi khóc). Sau 100 ngày làm lễ bỏ bàn thờ phụ, đồng

thời khấn cáo tổ tiên từ nay có ma mới xin đồng hưởng lễ vật với các bậc tiền bối. Năm

sau đúng ngày người thân qua đời, gia đình làm lễ tiểu tường (giỗ đầu). Nhà trưởng lo

cỗ, các em đóng góp (tùy gia cảnh, gia phong). Đối với người Việt giỗ đầu rất quan

trọng, chính vì vậy trừ việc bất đắc dĩ mà con cháu không thể có mặt, còn lại phải có

mặt đông đủ. Sang năm thứ ba làm lễ đại tường hay lễ đoạn tang.

Trước kia người Kinh không có cải táng, chôn một lần, gọi là “đào sâu, chôn chặt”.

Về sau tùy từng nơi và theo nghi lễ phong kiến người ta làm lễ “sang cát”, “thay áo” cho người quá cố. Đây gọi là tục cải táng. Tục này thường diễn ra sau khi chôn cất ba năm. [45, tr. 72].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sách Đồng Khánh địa dư chí khi ghi chép về tục lệ của huyện Lạc Sơn có đoạn: “Thờ thần thì tiết kiệm, nhưng các việc cưới xin tang ma thì xa xỉ. Ốm đau chỉ tin thầy

mo, không tin thầy thuốc. Tính tình quê mùa chất phác nhưng không biết lễ nghi giao

tiếp. Còn việc ăn mặc thì chỉ dùng vải xanh, vải trắng che thân, dùng mắm muối cho đủ vị. Tục lệ đạm bạc đơn giản, nhưng hầu hạ hào mục thì không kể phí tổn, không sợ

mệt nhọc. Đại phàm có việc chỉ cần chỉ tay, ai nấy theo lệnh mà làm, một lòng yêu

kính, cái đức ấy thì người Kinh chưa dễ có [71, tr. 1040].

3.5. Lễ tết

Người Mường cũng giống như các dân tộc khác sinh sống bằng nông nghiệp, săn bắn, hái lượm. Các ngày lễ tết họ diễn ra theo chu kỳ liên quan đến tiết lịch và mùa vụ. Ngày Tết cổ truyền của người Mường: Ngươi Mường cũng ăn tết đầu xuân như người

Kinh. Mường gọi là “Sết” hay “Thết” tùy theo từng vùng miền. Đây là ngày vui mừng

đầy đủ nhất và dài nhất trong các ngày lễ tết của người Mường.

Tết cổ truyền của người Mường vào cuối tháng chạp của năm cũ và đầu tháng

giêng của năm mới. Lịch Mường xưa tính theo tuần trăng và tính “ngày lui tháng tới”, vì

vậy họ gọi ngày 30 (ngày cuối cùng của năm) là ngày “chỉn lùn” hay “chỉn tủn” và ngày

mùng một là ngày “pa mươl” (ba mươi). Tết bắt đầu từ nhà lang cun từ ngày chỉn lun,

sau đó đến nhà lang đạo và tiếp nữa là những nhà khác trong làng. Tết kết thúc vào ngày

“páy” (ngày 8 tháng giêng) sau khi ăn “thết làng” hay “thết láng” (Tết làng) - là ngày ăn

tết chung, hòa hợp giữa nhà lang với nhà dân (nhà nóc). “Tổ tiên của thổ lang được coi

là những ông tổ chung, sự nghiệp của họ được tiếp tục trong cả làng; sự thịnh vượng của

làng được các vị đó quan tâm đến, và người dân đã kết hợp chúc mừng tổ tiên chung ở

nhà thổ lang, thì họ, về phần mình có thể hy vọng được các vị phù hộ. Đó là lí do tại sao

họ không chú trọng tổ chức ở nhà mình việc thờ cúng các vị thần khác nhau, các vị này

được tôn thờ cùng tổ tiên vào dịp tết năm mới, trong khi đó những người thổ lang không

thể bỏ qua việc thờ cũng này được” [28, tr. 737].

Việc chuẩn bị tết được bắt đầu từ đầu tháng chạp. Đàn ông vào rừng chặt cây tươi mang về để khô làm củi đun tết. Lá dong cũng được lấy rất sớm mang về cắm đầu

cuống xuống nước, rằm tháng chạp nhà nhà giã gạo tết. Sau đó người ta lau rửa nhà

cửa và đồ vật, đánh bóng những đĩa lớn bằng đồng để bày lên bàn đồ cúng, giặt giũ quần áo, chăn màn… một số công việc được chuẩn bị mang tính chất nghi lễ và huyền bí. Người ta thường đun nước với một số loại lá như lá bưởi, lá xả, lá chanh để tắm cho

thơm và với ý nghĩa mọi thứ của năm mới đều sạch sẽ, thơm tho cho một năm bình an, sung túc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người Mường có tục cắm cây nêu. Ngày hôm trước tết, người ta đã đặt thân cây sậy ở cửa vào tất cả các căn nhà, cho dù nhà dã mục nát và đã cải biến dùng vào việc khác, cho dù chúng chỉ mới gồm một vài chân cột chống việc khởi đầu của một căn

nhà dự kiến làm. Những thân cây sậy này gọi là “piếu” (nêu hay cây nêu) với ý nghĩa

là sự bố cáo với đất, trời về sự tồn tại của gia đình mình và cũng là trấn tà không cho lũ quỷ thâm nhập vào nhà. Tục lệ này được duy trì đến ngày nay và cây nêu được cắm

mỗi khi tết đến, xuân về với ý nghĩa như trên.

Ngày “chỉn lùn” bắt đầu là lễ dâng chiêng (thức chiêng) ở nhà lang, sau đó là

tiếng trống đại (trống dùng để gọi dân Mường khi có việc), rồi đến bắn ba phát súng giữa đồng hoặc miếu thờ thành hoàng làng vào khoảng canh một. Những tín hiệu này báo hiệu cho mọi mọi người biết năm cũ đã hết. Sau đó cả mường nhanh tay chuẩn bị cho mâm cỗ cúng tổ tiên nhà mình. Mâm cỗ cúng vào dịp Tết Nguyên đán thường có:

Các loại bánh (nhà lang phải đủ bảy loại bánh, ở nhà nóc thì có một số loại bánh thông

thường như bánh chưng, bánh gói bằng lá chít, bánh gai....) Sau đó người ta lại bắn ba

phát súng lớn, lần này bắn ở trước cửa lớn của khu nhà thờ của nhà lang và thầy mo

bắt đầu đọc kinh cúng để gọi mời tổ tiên về. Trong suốt buổi lễ người ta gõ cồng đánh

trống, khoảng cách đều đặn. Thầy mo tiến hành nghi lễ cúng bằng cách ném những

thanh tre bói quẻ lên chiếc quạt cho đến khi cách rơi xuống là một câu trả lời thuận, thì

thầy mo báo cho mọi người biết tổ tiên đã tới, tất cả mọi người quỳ lạy trước bàn thờ,

từng nhóm kế tiếp nhau theo thứ tự bậc trên dưới trong họ hàng.

Theo tập tục ngay từ sáng sớm, công cuộc chúc mừng năm mới diễn ra đầu tiên

ở nhà thổ lang. Khi các kỳ hào, dân làng và họ hàng đã đến đông đủ, mọi người đã ăn

bánh và thưởng thức vài hũ rượu, lúc đó tất cả đều đi đến sân nhà thờ, (nhà lang có nhà

thờ riêng, nhà nóc chỉ có một bàn thờ chung cho các việc này) thổ lang dẫn đầu sau đó

là dân làng đến làm lễ. Mọi người xếp hàng theo thứ bậc và tuổi tác để chào mừng tổ

tiên của nhà lang, cũng là tổ tiên chung bằng cách quỳ lạy với đàn ông, đàn bà thì vái

lạy, khấn xong buổi lễ kết thúc. Tổ tiên ở lại ăn tết cùng con cháu bảy ngày. Sau đó lễ

tiễn biệt tổ tiên được tổ chức như lễ đón nhưng ngắn hơn, ít người tham dự hơn. Để báo hiệu tổ tiên lên đường, cũng giống như khi tổ tiên về, người ta bắn ba phát súng

lớn. Kể từ lúc này, thứ tự cúng các vị thần khác gần như tùy ý, nghi thức, thời gian và

cách tổ chức tùy vào gia chủ. Thứ tự cúng bái khác nhau nhưng miễn không bỏ sót một vị thần nào.

Người Mường có tục lệ cúng cho trâu bò ăn tết, mỗi con trâu bò được một chiếc

bánh chưng, nếu trâu cái chửa được thêm một chiếc bánh chưng nhỏ. Người ta thắp hương và vái lạy ba lạy vị thần trâu bò, cầu thần bảo hộ cho súc vật nuôi, xua đuổi bệnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tật. Sau đó người ta nhét vào miệng mỗi con vật một miếng đồ cúng, phần còn lại cho trẻ chăn trâu.

Thứ tự thăm hỏi giữa bà con họ hàng với nhau, phụ thuộc vào thứ bậc trong họ,

còn giữa những người thường dân với nhau thì vấn đề khá đơn giản. Nhưng giữa các nhà thổ lang với nhau thì khác phức tạp, do tôn ti ngôi thứ xã hội mà tôn ti này đôi khi

lại trái ngược với thứ bậc trong gia đình.

“Thết làng”: Trong suốt tuần lễ, người ta ăn uống tại nhà này nhà khác, và tại

nhà mình, cùng với khách đến thăm liên tục. Ngày thứ bảy của năm mới, lễ “thết” được kết thúc bằng một bữa cơm cuối cùng ăn chung, chấm hết cả chuỗi ngày ăn mừng. Ngày cuối cùng là “ngày vui của làng” (thết làng). Có hai nét nổi bật chung trong các “thết làng”: Tết đặt dưới sự chủ trì của Thành hoàng, và nó chấm dứt bằng

một cuộc họp bàn của tất cả mọi người dân trong làng, trong cuộc họp nhưng chi tiết

về đời sống làng xã được đem ra thảo luận, điều đáng chú ý là sự bình đẳng hoàn toàn

của mọi người tham gia thảo luận. Ngày “thết làng”, ngay lúc mặt trời mọc, người

đánh trống ở đình, để nhắc nhở cho dân chúng biết rằng buổi lễ đang được chuẩn bị.

Ở nhà thổ lang, từ hôm trước bánh gai đã được chuẩn bị, nhà dân thì nấu cơm sẵn,

nghe tiếng trống, người ta làm công việc xếp đặt mâm cúng. Mỗi gia đình mang một

mâm cúng ra đình (trừ gia đình đang chịu tang) để trưng bày như một cuộc thi. Ban

chấm thi có các kỳ hào và thổ lang. Thổ lang là người duy nhất không tham gia cuộc

thi nhưng vẫn phải đóng góp một mâm đặt lên chỗ danh dự. Gia đình nào có mâm

cúng được trình bày đồ cúng vừa đẹp vừa ngon sẽ được giải thưởng bằng tiền. [29,

tr. 785].

3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình

Quan hệ họ hàng thân tộc ở người Mường cũng mang tính song phương giống

như người Kinh, tính theo cả bên nội và bên ngoại. Nhưng quan hệ thân tộc của người

Mường đơn giản hơn người Kinh, vì người Mường quan hệ thân tộc ít dòng họ hơn so

với người Kinh. Trước kia, xã hội Mường được chia thành hai “đẳng cấp” là thống trị và bị trị. Tầng lớp thống trị là Lang đạo chủ yếu bốn dòng họ: Đinh, Quách, Bạch,

Hoàng. Ở Lạc Sơn có hai dòng họ lang đạo là Đinh, Quách. Hai họ này cai quản một

mường nào đó thuộc về một dòng họ (Mường Bi là dòng họ Đinh, Mường Vang là dòng họ Quách), nên ít khi xảy ra sự mâu thuẫn. Lang cun là lang có quyền lực nhất và các lang đạo phải phục tùng lang cun. Lang cun được truyền lại theo thể thức cha truyền

con nối, khi lang cun qua đời mà không có con trai thì vợ lang cun sẽ lên thay chồng cho đến khi không làm được chức vị thì họ nhà lang và những người tin cẩn trong dòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

họ sẽ tìm một người thay thế. Tầng lớp bình dân chủ yếu mang họ Bùi, ngoài ra cũng có một số họ khác nhưng rất ít. Quan hệ dòng họ của người Mường chi phối đến tất cả mọi mặt của đời sống dân cư, đặc biệt trong hôn nhân và tang ma. Vào những dịp này

dòng họ quan lang coi đây là dịp để phô trường thanh thế và sự giàu có của gia đình,

dòng họ mình.

Người Mường có quan niệm “anh em chín đời còn hơn người dưng”, nếu anh

em trong dòng họ lấy nhau hay có quan hệ tính giao với nhau sẽ bị dư luận lên án và

xử theo luật tục, vì đây là những người nội ruộng nghĩa là cho đến đời thứ chín vẫn còn

được nhận ruộng của tổ tiên. Nếu anh em trong họ lấy nhau tức là phạm tội loạn luân sẽ bị đuổi ra khỏi dòng họ và đuổi đi nơi khác. Lạc Sơn là một trong những trung tâm lớn của người Mường ở Hòa Bình, và tầng lớp bình dân ở đây cũng chủ yếu là họ Bùi, ngoài ra còn có một số dòng họ như Nguyễn, Hoàng nhưng số lượng rất ít. Vì vậy khi

kết hôn thường phải “điều tra” rất rõ nguồn gốc dòng họ để tránh việc kết hôn trong

dòng họ. Về sau do sự phát triển ngày càng đông, dòng họ gốc chia ra thành nhiều chi

nhánh, nên ngoại hôn chỉ được thực hiện với chi nhánh.

Về quan hệ trong họ hàng thân tộc. Người Mường quan niệm đứa trẻ ra đời

trước, nhìn thấy mặt trời trước, đứa ấy làm anh, làm chị. Vì vậy, dù con nhà bác nhưng

đẻ sau vẫn phải gọi con nhà chú bằng anh hoặc chị. Trong quan hệ thân tộc ở người

Mường, từ thế hệ I sang thế hệ II, rất có thể có sự thay đổi về vị thế.

Gia đình truyền thống của người Mường là gia đình nhỏ, đơn giản, một vợ một

chồng và các con trai gái, dâu rể. Đặc điểm của các gia đình nhỏ trong xã hội Mường

truyền thống là kết hôn sớm và sinh nhiều con. Họ quan niệm, đông con để có thêm lao

động, đông con để khi về già có con phụng dưỡng. Một nét văn hóa nổi bật trong gia

đình người Mường là: sống hòa thuận.Trong gia đình người Mường gần như không có

sự to tiếng, đánh chửi nhau. Quan hệ gia đình mang tính phụ quyền rõ nét. Gia đình

nào cũng mong có con trai để nối dõi tông đường. Người cha, người chồng luôn là

người chủ gia đình, có quyền quyết định mọi việc quan trọng trong gia đình: công việc

làm ăn, việc tang ma, cưới hỏi, cúng giỗ, tế lễ, đối ngoại với hàng xóm làng giềng, họ hàng và các chức sắc địa phương… Những tài sản trong gia đình như ruộng, trâu, bò

đều thuộc quyền thừa kế của người con trai cả. Khi cha mẹ về già, mọi công việc xưa

kia người cha là chủ sự đều giao lại cho con trai trưởng.

Phụ nữ hầu như không có quyền gì trong gia đình, họ không được chia phần tài sản của bố mẹ để lại. Người Mường có tục thu lụt, tức là những nhà sinh toàn con gái,

khi cha mẹ qua đời, ruộng đất bị nhà lang thu hồi lại để chia cho các gia đình khác. Khi bước chân về nhà chồng người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình chồng mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không có quyền hành gì. Phụ nữ Mường làm phần lớn công việc trong gia đình, từ làm ruộng, làm nương, làm thủy lợi, cho đến công việc bếp núc. Vào mùa vụ họ phải làm

việc từ 12 - 14 giờ một ngày, từ sáng sớm cho đến đêm muộn. Trong quan hệ vợ chồng

của người Mường rất hòa thuận, bền vững, ít khi xảy ra li hôn.

Quan hệ giữa bố mẹ và con cái đề cao chữ hiếu. Trong nhà, con cái phải nghe

lời cha mẹ. Khi cha mẹ về già thì con cái phải có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ già. Cha

mẹ luôn uốn nắn, dạy bảo con cái về cách ứng xử trong nhà, với họ hàng, làng xóm.

Trong lao động sản xuất, trẻ em sớm biết giúp đỡ bố mẹ làm ruộng nương, đi rừng lấy

củi, lấy măng… Khi lớn lên được bố mẹ dựng vợ gả chồng và cho ở riêng nhưng các

con trai, con gái, con dâu, con rể và người con trai trưởng vẫn luôn chu đáo chăm sóc

phụng dưỡng bố mẹ. Khi bố mẹ qua đời, mọi người trong gia đình đều có nghĩa vụ

đóng góp và tổ chức tang lễ chu đáo.

Trong gia đình người Mường, anh chị em sống với nhau hòa thuận, lễ nghĩa,

tình cảm anh em khăng khít, có trách nhiệm với nhau. Điều này được thể hiện qua câu

thành ngữ: “Chém kha đác chăng loi, choi kha đác chăng lìa” nghĩa là: anh em như

dòng nước dù chém cũng không đứt, dù chặt cũng không lìa. Người Mường rất coi

trọng quyền của người anh cả trong gia đình, nếu chẳng may cha mẹ mất sớm thì người

anh cả thay cha mẹ nuôi dạy các em, dựng vợ, gả chồng cho các em. Đặc biệt, ở người

Mường không có cảnh anh em cãi vã, tranh giành của cải khi cha mẹ qua đời.

Nét đẹp trong văn hóa gia đình người Mường là họ rất yêu trẻ con và trọng người

già. Nhà có khách, chủ nhà thịt gà đãi khách, thì việc đầu tiên trước khi đưa lên mâm

là chặt cái đùi để lại cho con trẻ. Trẻ con thường được ăn cơm trước.

Theo chế độ phụ hệ, nhưng sinh hoạt trong gia đình người Mường khá bình

đẳng. Tuy vậy, tục lệ Mường quy định rất chặt chẽ một số mối quan hệ trong gia đình

như là: mối quan hệ giữa bố chống và nàng dâu, mẹ vợ với con rể, anh chồng với em

dâu. Người Mường đặc biệt quý con dâu, con rể, tuy nhiên trong mối quan hệ này họ

luôn tế nhị và giữ một khoảng cách nhất định. Con dâu không được ngồi ăn cơm, uống

nước và không được ngồi bàn công việc cùng bố chồng. Con dâu phải đi một cầu thang

riêng dành cho phụ nữ trong nhà, buổi tối phải mắc màn, trải chiếu cho bố chồng, phải

đi ngủ sau mọi người chứ không được đi ngủ sớm, sáng ra phải dậy đầu tiên trong nhà.

Bố chồng luôn giữ thái độ nghiêm nghị và có khoảng cách với các con dâu trong gia

đình. Cũng tương tự như vậy, mẹ vợ với con rể, anh chồng với em dâu không được

ngồi ăn cùng mâm, không được bông đùa với nhau, không đi cùng nhau, anh chồng

không vào buồng ngủ của em dâu và ngược lại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp

Lễ xuống đồng (lễ hạ điền): Đây là lễ rất phổ biến của người Mường, mục đích

để cầu cho mùa màng của một năm mới đầy thịnh vượng, may mắn. Đồng thời, việc

thực hành những nghi lễ cầu mùa cũng là dịp để người Mường nghỉ ngơi, vui chơi giải

trí và bày tỏ những ước vọng của mình về một cuộc sống tươi đẹp và bình yên.

Lễ nghi này diễn ra vào đầu xuân thường từ mùng 7 đến mùng 10 tháng giêng.

Nhưng có những nơi lại tổ chức muộn hơn như ở Mường Chiềng, Mường Tôm (Tân

Lập, Mường Vang) lễ xuống đồng không định trước thời gian mà phụ thuộc vào kết

quả của các đi săn và đánh cá, đây là một lễ lớn ở vùng này. Không gian lễ cũng tại

một miếu thờ chính đặt ở Đầm Đụn, trong miếu thờ một cái đầu lâu không rõ tung tích,

chỉ biết cái đầu lâu này trôi theo dòng suối, lũ trẻ chăn trâu Mường Chiềng, Mường Vó

nhặt được đưa lên gò giả thờ. [66, tr. 680]. Để chuẩn bị người ta tổ chức những hoạt

động: Hội “đoọc moong” (săn thú rừng) do nhà lang tổ chức, hội đánh cá bến lấp. Trước

lễ xuống đồng nhà lang thông báo nhốt lợn. Nhà nào còn lợn thả rông sẽ bị đập chết.

Vào thời gian này nhà lang cũng cấm mọi người không được đi soi nhái, ếch ban đêm

khi thấy “đỏ bờ ruộng” ở khu vực cánh đồng cạn, nơi sẽ diễn ra lễ xuống đồng. Sau tất

cả các hoạt động trên, nhà lang ấn định ngày mở lễ xuống đồng. Nơi được chọn để làm

lễ người ta dâng mâm cỗ để cúng. Mâm cỗ thường có cá suối, mụn măng, ruột cây lay

(đằng lau), lá lốt, có mọc, nếp đồ, rượu cần do ậu lang, ậu viềng sắm sửa và dâng lên

trường thờ. Sau lễ dâng là lễ xuống ruộng. Cánh đồng được chọn là cánh đồng Cạn (cả

ruộng lang và ruộng dân). Bắt đầu ngày cày bừa, ậu cháu xuống ruộng cày trước, bắt

đầu ngày cấy, vợ ậu cháu cấy trước, sau đó mới đến thường dân.

Lễ cầu mùa: Lễ này để cầu cho mùa màng được tốt tươi, bội thu, không có bệnh

dịch phá hoại, không bị mất mùa, thiên tai. Lễ cầu mùa là lễ rất nổi bật ở Lạc Sơn. Lễ

được tổ chức tại ngôi miếu thờ ông Quách Đốc - người tự xưng là vua Dù đất Mường

Vang. Chuyện kể về ông còn được lưu truyền như sau: ông dấy binh cát cứ mọi cõi

khiến nhà vua kinh thành tức giận, gọi lên chặt đầu. Ông không chết ở kinh thành mà

ôm cái đầu bị chém về đất Mường Vang mới tắt thở. Dân nơi đây bền lập miếu thờ.

[66, tr. 684]. Bên cạnh ông còn có các vị quan hầu được thờ cúng, nên trong bài khấn

có nhắc đến các vị đó:

“Chắp tay lạy ba bốn đức vua

Lạy vua Dù, vua Khói, vua Lò

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bên trên là Tần, Kẻ, Khang

Bên bang lạy Kem, Cả, Chấu, Khụ, Mụ, Chí, Ý, Chấu, Tịch,

Quen, Tài, Kem Vua” [66 tr. 684].

Lễ vật dâng cúng bao gồm: xôi nếp, thịt trâu, bánh khoai, rượu cần, một gánh

khoai sọ, bánh dồi, bánh khoai vuông,… Trâu tế lễ phải là con có vòng bụng 12 nắm

tay trở lên. Người đứng ra tổ chức lễ là các quan lang trong mường, các ậu vận động

dân trong mường đóng góp lương thực, thực phẩm. Người tham gia chỉ là đàn ông, tất

cả đều vấn khăn, mặc quần áo mới, tay cầm kiếm, cầm quạt, vai đeo túi khót (túi vải

đựng đồ thiêng của thầy mo). Thầy mo khấn:

Hôm nay ngày này

Quan dân toàn xã

Các ậu, đầu đạo, chúa quan

Năm xã, chín mười làng

Muốn nhắc đường bừa săn săn

Muốn nhắc đường cày xá xá

Muốn vái mạ góc chiêm, góc mùa.

Một hạt một mọc, một thóc một nên

Đừng cho sâu bông

Đừng cho vàng lá [ 66, tr. 684].

Đọc xong bài khấn, thầy mo cùng tất cả mọi người vái lạy đức vua linh thiêng.

Lễ cơm mới: Tổ chức vào tháng 10 Âm lịch sau khi vụ mùa được thu hoạch

xong. Lễ này với các nhà dân nó mang tính chất gia đình hơn là tính cộng đồng.

Trong nghi lễ này người Mường Lạc Sơn chọn mẻ lúa đầu tiên để đồ xôi, cùng lễ

thịt (gà hay lợn) tiến hành cúng tổ tiên, thành hoàng và các vị thần đã phù hộ cho họ

một mùa màng thắng lợi.

Ngày này người Mường trả công cho trâu, con vật đã giúp họ làm lụng cày bừa

để có vụ mùa tốt. Người ta cho trâu ăn một năm xôi, miếng thịt. Họ cũng cho con chó

là con vật trung thành, gần gũi, coi nhà cho chủ quanh năm ăn những thức ăn của tết

cơm mới cùng với người. [66, tr. 685]

Lễ cơm mới được các nhà lang cúng nhiều thứ hơn. Ngoài xôi, thịt còn có bánh

chưng, cá để cúng vía lúa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người Mường ở Lạc Sơn có tục lệ rất được coi trọng, đó là trong quá trình thu hoạch lúa họ lựa chọn một số bông lúa nhiều hạt và hạt chắc tập hợp lại thành bó để

trên gác (róng) để giữ vía lúa, biểu hiện của sự “giàu cơm lắm lúa”. Người Mường còn

có nhiều nghi lễ khác như: lễ cúng vía lúa, lễ cày bừa, lễ gieo mạ, lễ cầu mưa,…

3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo

Quan niệm vũ trụ của người Mường với “ba tầng bốn thế giới”. Tầng cao nhất

là thế giới Mường Trời (Mương K’lơi), là nơi trú ngụ của Vua Trời và các phò tá của

Vua Trời. Tầng giữa là Mường Pưa (Mương Pưa), là thế giới của người sống, tập hợp

lại thành các gia đình, xóm và mường. Tầng thứ ba có hai thế giới là Mường Pưa Tín

ở dưới mặt đất và Mường Vua Khú (Mương Bua Khú) ở đáy nước. Thế giới ở dưới mặt đất không phải là âm ty, không phải là thế giới siêu nhiên của tinh linh, mà là thế

giới của những người tí hon, gia súc cũng tí hon, có lối thông lên với thế giới của người trên mặt đất. Thế giới của Vua Khú là vương quốc của bọn khú dưới quyền cai quản

của Vua Khú.

Hệ thống vũ trụ “ba tầng bốn thế giới” của người Mường lấy Mường Pưa, thế

giới của người sống làm trung tâm: mọi đường đi đều xuất phát từ đây, mọi thế giới

đều quy tụ về đây. Tuy đều ở trong không gian hữu hạn, mỗi thế giới lại có một bản

chất riêng, do đó sự thông thương giữa các thế giới bị hạn chế. Mường Pưa là thế giới

tự nhiên, là “cõi sống” của người Mường. Mường Pưa Tín vốn thông thương với

Mường Pưa, cũng là thế giới tự nhiên nhưng thấp kém hơn. Mường Trời là thế giới

siêu nhiên hoàn chỉnh nhất: thời gian ở đây vô tận. Mường Vua Khú, mang nặng tính

chất cổ tích hơn tôn giáo, cũng là một thế giới siêu nhiên [7, tr. 25].

Tín ngưỡng của người Mường là tín ngưỡng đa thần giống như các dân tộc khác

sống ở vùng núi rừng Tây Bắc.

Thờ các hiện tượng thiên nhiên: Người Mường cũng tin vào thuyết vạn vật hữu

hình và luôn trân trọng thờ cúng các linh hồn (vía). Từ đó người Mường có khái niệm

“ma”: ma rừng, ma núi, ma sông, ma suối, ma nương, ma ruộng… còn tổ tiên là ma

nhà. Một số loại động vật cũng được người Mường thờ như: hổ, thuồng luồng, chim chóc… có nhiều động vật trở thành tô tem của dòng họ. Người Mường thờ nhiều nhất là núi, họ còn gọi núi là thần. Họ thờ núi ở địa phương, trong đó vị thần núi cao cả và linh thiêng nhất được tất cả các mường thờ đó là núi Tản Viên “Tản Viên Sơn Thánh”. Bàn thờ của Thánh Tản Viên được coi là nơi liêng thiêng trong nhà. Ngày 27 tháng

chạp và rằm tháng 7 hàng năm người Mường có lễ cúng ngài. Đền, miếu thờ Thánh Tản Viên được dân làng lập ở trung tâm mường. Với người Mường, thánh Tản Viên là vị anh hùng chống lũ lụt, bảo vệ mùa màng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thờ thành hoàng làng: Cũng là một tín ngưỡng phổ biến ở người Mường. Thành hoàng là vị thần bảo trợ chung cho bản mường, che chở, đỡ đầu cho bản mường. Thành

hoàng mường có thể là một hay nhiều vị được thờ tại quán, miếu hay đền. Trong đó,

gian giữa là nơi thờ đức thánh Tản Viên Ba Vì - vị thần nú, gian trái thờ thành hoàng quan lang, gian phải thờ những người cùng lang đến địa phương và trực tiếp bỏ sức ra

khai phá đất đai. Ngoài đức Thánh Tản Viên là một nhân vật nổi tiếng được thờ khắp

vùng Mường, mỗi vùng lại thờ những nhân vật thần thành hoàng khác nhau, ở Mường

Vang thuộc (xã Cộng Hòa) thờ ông Quách Đốc, ở Mường Chiềng, Mường Tôm (xã Tân Lập) thờ một cái đầu lâu không rõ tung tích, người Mường Tre, (xã Văn Nghĩa) thờ thần đá và Ả Đắng… các vị thần thành hoàng ở các nơi được thờ rất phong phú. Nó biểu hiện khác đầy đủ cả tín ngưỡng thờ nhân thần, thờ đá, thờ nước thờ cây…

Người Mường cũng thờ thần đất phổ biến như người Kinh với tâm thức “đất có thổ

công, sông có hà bá”.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Theo quan niệm của người Mường sau khi qua đời,

con người chết đi về mặt thể xác nhưng vẫn có linh hồn (người Mường gọi là ma). Trên

bàn thờ của người Mường những hồn (wại) được thờ bao gồm: bố đẻ, mẹ đẻ, ông nội,

bà nội, ông cụ nội, bà cụ nội. Trong hệ thống gia phả các dòng họ của người Mường,

việc thờ cúng tổ tiên (tính theo họ nội) được xác định đến ông tổ 4 đời, còn tổ tiên của

họ ngoại chỉ tính đến ba đời. Ở người Mường khái niệm tổ tiên không chỉ bao gồm họ

nội mà còn có cả họ ngoại. Người Mường thờ cúng tổ tiên theo quy ước. Tùy theo hoàn

cảnh kinh tế của mỗi gia đình mà người ta làm bàn thờ to nhỏ, đẹp hay đơn giản khác

nhau. Đồ thờ ở trên bàn thờ cũng vậy, nhà giàu thì trang hoàng. Bàn thờ luôn được đặt

ở những vị trí trang trọng (gian voóng - gian khách). Ngoài bàn thờ chính thờ tổ tiên,

bên trái bàn thờ chính có thể có bàn thờ phụ khác thờ những người chết mà không có

con cái, hay các vị khác. Người Mường không tổ chức cúng lễ thường xuyên như người

Kinh, họ tổ chức cúng lễ vào dịp Tết Nguyên đán, mừng cơm mới, ngày làm vía, ngày

cầu mát, làm nhà mới… Điều kiêng kỵ đặc biệt không được nằm hướng chân về phía bàn thờ từ tất cả các phía trong nhà. Ngày giỗ là ngày chôn cất, không phải ngày chết.

Ngày cúng lễ tổ tiên lớn nhất của người Mường không phải ngày giỗ mà là dịp

Tết Nguyên Đán. Dưới chế độ lang đạo, các gia đình dân thường không được thờ cúng tổ tiên trước khi đến dự lễ cúng tổ tiên của nhà lang, bởi người ta cho rằng nhà lang là chúa đất, là vị bảo hộ cả cộng đồng. Trong buổi lễ này, dưới sự giúp đỡ của thầy mo,

nhà lang đại diện cho cả cộng đồng thực hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên cho cả cộng đồng. Đối với những nhà dân thường thì họ chuẩn bị lễ cúng tổ tiên từ ngày “chỉn lùn”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và ngày 30 Tết Nguyên đán. Theo quan niệm của người Mường, cúng vào những ngày đầu năm tổ tiên sẽ về đông đủ, cùng “ăn tết” với con cháu. Trên bàn thờ tổ tiên người ta bày tất cả thức ăn, các loại có trong ngày tết, bát nước, ít muối và tăm tre sau đó gia

chủ thực hành nghi thức khấn vái để cảm ơn tổ tiên đã phù hộ cho gia đình một năm

thuận hòa, bình an đồng thời cầu mong một năm mới tổ tiên phù hộ cho mùa màng bội thu, chăn nuôi trâu bò, lợn, gà,… không bị dịch bệnh, mọi người trong gia đình khỏe

manh, không bệnh tật. Sau bài khấn người ta vẫn để lễ vật trên mâm bàn thờ cho đến

hết ngày mùng 30 Tết.

Ở Lạc Sơn có một nghi thức thờ cúng tổ tiên khác nữa diễn ra từ đêm “chỉn lùn” (ngày 30 tháng 12 Âm lịch) đến hết ngày 30 tết (ngày mùng 1 tháng 1 Âm lịch). Nghi thức này thường chỉ diễn ra ở nhà gốc (nhà con cả). Từ chiều “chỉn lùn’ gia đình người Mường đã chuẩn bị những lễ vật để chuẩn bị cho lễ cúng tổ tiên. Người ta chuẩn bị tất

cả các món ăn như: xôi, bánh chưng, món ăn được chế biến từ thịt lợn (thịt luộc có đầy

đủ nội tạng của con lợn, thịt sườn nướng, chả lá bưởi), và nhất thiết phải có ít muối,

tăm tre, một chén nước. bát, đũa, trầu, cau, chai rượu, các lễ vật này được bày trên mâm

kloọng (mâm trọng) - một loại mâm được làm bằng gỗ cao hơn mâm gỗ dùng để dọn

mâm cơm của người Mường (cao khoảng 30cm), bên cạnh là quần áo, vải vóc… Tùy

theo gia đình có bao nhiêu người được cúng (trong 4 đời họ nội) và người chết không

có con mà người ta bày bấy nhiêu mâm. Các mâm cỗ được bày biện theo thứ tự từ trái

qua phải từ trên xuống dưới theo thứ tự cấp bậc người được cúng. Công việc chuẩn bị

đến rạng sáng mùng 1 Tết phải xong, sau đó người ta mời thầy mo về làm lễ cúng. Lễ

đầu tiên là đón tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu, thầy mo sẽ đọc bài khấn đồng thời dùng

hai đồng tiền cổ tung lên, khi nào hai đồng tiền một sấp một ngửa, nghĩa là tổ tiên đã

về. Thầy mo kết thúc bài khấn, gia chủ đến mâm cúng đến chiều tối thầy mo quay lại

một lần nữa để đưa tổ tiên về mường Trời, nghi thức hành lễ giống như buổi sáng, tuy

nhiên bài khấn là khác. Sau khi thầy mo thực hành xong nghi lễ gia chủ thiết đãi thầy

mo một bữa ăn và có phần cho thầy mo mang về (thường là xôi, rượu, thịt gà, lợn sau

này thì thay bằng tiền). Sau khi thầy mo ra về thì gia chủ mới thu dọn các mâm cỗ. Đến đây nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Mường vào ngày tết kết thúc. [132]

Người Mường còn có những tín ngưỡng rất phong phú liên quan đến vòng đời

một con người với việc thờ cúng những người bảo vệ linh hồn của người sống, những vị thần bảo vệ thân thể cho người sống, những tín ngưỡng liên quan đến hôn nhân, tang tế, sinh nở và những việc diễn ra xung quanh cuộc sống của con người, của dòng họ.

Điều này cho thấy sự phong phú trong cuộc sống tâm linh của người Mường, mặt khác cho thấy vũ trụ quan, nhân sinh quan của người Mường gắn bó chặt chẽ với môi trường

tự nhiên và đời sống xã hội của họ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Về các nhân vật thực hành tín ngưỡng của người Mường, có hai người phổ biến nhất là ông mo và bà mỡi. Ông mo là người thực hành nghi lễ và kể mo trong đám ma

là chủ yếu, ngoài ra còn có thể thực hành một số nghi lễ khác. Bà mỡi là người thực

hành các nghi lễ cúng chữa bệnh. Người làm mỡi phải từ 30 tuổi trở lên. Thường các bà mỡi phải trải qua các sự kiện gì đó như ốm đau, tai nạn… Số người làm mỡi ít hơn

số người làm mo. Mo có thể học được, nhưng mỡi thì không thể. Người làm mỡi thường

là người cao số và không truyền lại được cho con cái. Cũng có những người vừa làm

mo vừa làm mỡi.

Người Kinh cũng theo tín ngưỡng đa thần. Họ thờ các vị thần, cầu xin sự che chở và giúp đỡ từ các lực lượng siêu nhiên. Ngoài các vị thần có ích cho con người, họ thờ cả các thần gieo tai vạ, ma quái ở khắp mọi nơi đang cùng sinh sống với con người “thần

cây đa, ma cây gạo”, các hòn đá, hốc cây, bến sông, thần sông, thần núi, thần thổ địa…

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng là một trong những nét văn hóa tốt đẹp và bền vững

của người Kinh như nhiều dân tộc khác. Người Kinh cũng tin vào việc con người có linh

hồn. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Kinh diễn ra thường xuyên hơn so với người

Mường, họ tiến hành nghi lễ cúng tổ tiên vào ngày rằm và mùng một hàng tháng. Có thể

cúng ngọt hoặc cúng mặn, nếu cúng mặn thì có: thịt lợn, thị gà, xôi, rượu,... còn cúng

ngọt thì có bánh trái. Một tục lệ của người Kinh trên bàn thờ cúng phải có vàng mã, cúng

xong thì đốt đi với mong muốn ở “thế giới bên kia” những người đã khuất có vật dụng,

tiền bạc để tiêu. Người Kinh không những chỉ lập bàn thờ trong mỗi gia đình để thờ cúng

tổ tiên mà họ còn họ còn có nhà thờ của dòng họ. Nhà thờ của dòng họ được xây dựng

là sự đóng góp của tất cả các thành viên trong dòng họ, người Kinh tính theo “đinh”

(đinh là con trai trong gia đình, dòng họ). Nhà thờ tổ thường giao cho con trai trưởng của

chi trưởng dòng họ chịu trách nhiệm coi sóc, tới ngày lễ người trưởng họ sẽ báo cho mọi

thành viên trong họ đúng ngày đến lễ tổ, cùng nhau đóng góp vào ngày lễ và ăn uống.

Người Kinh cũng tổ chức cúng giỗ rất tỉ mỉ va được tổ chức hàng năm. Đặc biệt là ngày

giỗ đầu của người chết, ngày giỗ của người Kinh là ngày mất chứ không phải ngày chôn cất như người Mường.

Tôn giáo: Trong khi tín ngưỡng dân gian của người Mường rất phong phú thì

các tôn giáo chính thống của người Mường lại khá nghèo nàn, so với người Kinh và nhiều dân tộc khác thì tôn giáo chính thống của người Mường không phát triển bằng. Phật giáo: Trước khi đạo Phật ảnh hưởng vào đời sống văn hóa của người

Mường thì người Mường đã có một bề dày tín ngưỡng khá lớn, đặc biệt là những áng mo Mường vô cùng phong phú và súc tích. Do vậy, khi người Mường tiếp nhận Phật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giáo với biểu hiện đan xen vào trong các bài mo của người Mường. Thậm chí, Phật giáo đôi chỗ còn đóng vai trò quan trọng như bài mo lễ giải oan. Ở Lạc Sơn, đối với các thầy mo, Phật Bà có quyền cao nhất, phải thỉnh cầu đầu tiên. Trên bàn thờ của các

bà mỡi thì Bua mê pật pà cũng là vị thần được thờ đầu tiên, đứng đầu trong tất cả các

vị thần của bà mỡi [66, tr. 704].

Do địa hình tự nhiên có nhiều hang động, nên các ngôi chùa ở Hòa Bình được

dựng ở trong hang, đôi khi các hình thù hang đá được người dân tưởng tượng thành

tượng Phật để tôn thờ. Ở Lạc Sơn có tượng Phật bằng đá ở Mỹ Thành, hang Bụt ở

Mường Khến, Tân Lạc (Mường Bi) - nơi đặt bàn hương và tượng Phật để thờ cúng.

Sinh hoạt Phật giáo chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng kết hợp cùng tín ngưỡng

của người Mường, kinh Phật được “hòa trộn” vào các bài mo, bài cúng của các thầy

cúng. Người dân khi tiếp xúc với Phật thì thấy Phật cũng là một vị thần như các vị thần

của họ. Hình thức sinh hoạt cũng là sự kết hợp với những dịp lễ của bản mường mà lễ

chung, cùng bày biện dâng lễ vật để cúng các vị thần và cúng Phật rồi tổ chức ăn uống

vui chơi chứ chưa có lễ hội thờ Phật riêng, quy mô. Đến đầu thế kỷ XX, “Người Mường

cũng đi đạo Thích như ta, nhưng họa lắm mới có một gian nhà tre gọi là chùa, trong

thờ vài ba cái mũ, như mũ ông công, chứ ít khi có tạc tượng bằng g hay đắp bằng đất:

[7, tr. 143]. Hiện nay, Phật giáo khá phát triển ở người Mường Hòa Bình cũng như Lạc

Sơn, đặc biệt là các vùng trung tâm, các chùa chiền được tu sửa nhiều hơn, việc thực

hành đạo Phật cũng phần tăng lên. Theo thống kê, trên địa bàn huyện Lạc Sơn hiện nay

có 660 tín đồ Phật giáo, tập trung nhiều nhất ở thị trấn Vụ Bản và xã Thượng Cốc (số

liệu thống kê năm 2017).

Thiên chúa giáo: Xuất hiện ở Hòa Bình vào khoảng năm 1832, do một tín đồ

nam và hai tín đồ nữ chạy trốn sự truy bắt của nhà Nguyễn lên vùng sâu thuộc khu vực

Văn Nghĩa, xã Mỹ Thành, Lạc Sơn. Chính quyền nhà Nguyễn bắt được tín đồ nam và

hành hình tại một ngọn đồi (đồi Thánh Giá), còn lại hai tín đồ nữ trốn thoát trong hang

đá, sau đó làm một nhà thờ bằng tranh nứa lá ở vùng này [66, tr. 706]. “Dân theo Thiên

chúa giáo trong huyện chỉ có 2 xã Văn Lãng, Mỹ Thành mà thôi” [71, tr. 1040]. Hiện

nay, ở Lạc Sơn có hai cơ sở giáo xứ là giáo xứ Mường Riệc và Hướng Nghĩa (Mỹ

Thành) được cơ quan chức năng công nhận là nơi sinh hoạt tôn giáo hợp pháp. Tuy

nhiên tín đồ theo đạo Thiên Chúa giáo không nhiều (2.630 tín đồ, số liệu thống kê năm

2017 của phòng Tuyên giáo huyện) trong đó phần lớn là người Kinh, người Mường

theo đạo Thiên Chúa giáo rất ít.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nhìn chung, về tín ngưỡng tôn giáo của người Mường thì tín ngưỡng dân gian rất phong phú, có nhiều nét đặc trưng riêng của họ, ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như người Kinh. Đến nay, họ vẫn duy trì được nhiều tín ngưỡng tốt đẹp của mình, góp phần vào đời sống văn hóa đa dạng của tộc người Mường nói riêng và các

tộc người trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. Người Mường bảo lưu nhiều quan niệm

và thực hành tín ngưỡng nguyên thủy của mình. Nhưng về tôn giáo chính thống lại không phát triển bằng các dân tộc khác như người Kinh. Đạo Phật và đạo Thiên chúa

đã xâm nhập vào người Mường nhưng ảnh hưởng còn rất mờ nhạt. Có thể nói người

Mường vẫn cơ bản sống với các tín ngưỡng nguyên thủy của họ.

Tiểu kết: Văn hóa truyền thống của các dân tộc ở huyện Lạc Sơn là văn hóa dân gian. Trong văn hóa tộc người Mường có những yếu tố mang đậm yếu tố sinh thái vùng miền, đặc điểm điều kiện tự nhiên với những thung lũng thấp men theo sườn đồi, cư dân thường ở nhà sàn ngoảnh mặt ra ruộng đồng. Trong khi đó người Kinh chủ yếu

sống ở vùng đồng bằng, trung tâm, thuận lợi cho buôn bán, ở nhà vách đất. Các yếu tố

văn hóa truyền thống của người Mường thể hiện đặc trưng và rõ nét trên nhiều yếu tố:

nhà cửa, ăn uống, trang phục, tục lệ…

Ở Lạc Sơn nửa đầu thế kỷ XIX, đặc điểm về văn hóa nổi bật nhất là văn hóa

truyền thống của người Mường. Một số yếu tố văn hóa của người Mường không bị ảnh

hưởng bởi các yếu tố bên ngoài quá nhiều như các tục lệ xã hội, tín ngưỡng tôn giáo,

họ vẫn giữ được yếu tố văn hóa nguyên thủy của mình. Mặc dù chính sách lưu quan

của triều đình người Kinh đến đây sinh sống cùng với những nét đặc trưng về văn hóa

của mình cũng một phần nào đó tác động đến một số yếu tố văn hóa truyền thống của

người Mường, nhưng mức độ tiếp thu người Mường là rất hạn chế. Ví dụ như: Đối với

người Kinh Phật giáo có vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của họ,

nhưng khi Phật giáo được truyền bá vào huyện Lạc Sơn, thì người Mường ở đây tiếp

nhận ở mức độ khá là hạn chế. Sinh hoạt Phật giáo của họ cũng thường hòa trộn vào

các tập tục, tín ngưỡng nguyên thủy của mình.Vì vậy các yếu tố văn hóa truyền thống

của người Mường vẫn là nổi bật nhất trong đời sống văn hóa của huyện Lạc Sơn ở nửa

đầu thế kỷ XIX.

Bên cạnh đó, các yếu tố văn hóa mới mà người Kinh mang đến huyện Lạc Sơn

cũng làm cho đời sống văn hóa của huyện trở nên phong phú và đa dạng hơn như tập

tục sinh hoạt, cưới xin, ma chay,… bên cạnh các nét văn hóa truyền thống của người Mường đã sinh sống lâu đời ở đây.

KẾT LUẬN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1. Lạc Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Hòa Bình có truyền thống lịch sử lâu đời. Là huyện có địa hình bị chia cắt bởi đồi núi, sông, suối, có nhiều núi non hiểm trở.

Nhưng bù lại, thiên nhiên khá phong phú, đa dạng về địa chất, hệ thống sông suối khá dày đặc tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống sinh hoạt và sản xuất cho cư dân ở đây. Khởi nguồn là nơi cư trú của đồng bào Mường, nhưng về sau đã thu hút nhiều dòng người tụ lại để sinh cơ lập nghiệp. Dù có nguồn gốc khác nhau, đặc điểm về phong tục tập quán, văn hóa khác nhau nhưng khi cùng nhau sinh sống trên mảnh đất này họ đã sống hòa thuận, cùng nhau xây dựng và phát triển huyện Lạc Sơn trở thành một huyện có nền kinh tế ổn định hơn, nền văn hóa đa dạng nhưng vẫn có những đặc trưng của tộc người.

Lạc Sơn cũng như nhiều địa phương khác của các tỉnh miền núi phía Bắc, từ lâu đời đã chịu sự cai quản của dòng họ Lang (chế độ Lang đạo) vốn được triều đình công nhận. Chế độ Lang đạo chỉ ràng buộc với triều đình qua việc cống nạp, còn đối với nhân dân lao động họ là “đẳng cấp” thống trị, là chúa đất có quyền tối cao. Lang đạo không chỉ là chủ sở hữu đất canh tác mà còn sở hữu đất đai, rừng núi, sông nước, sản vật… trong phạm vi lãnh thổ cai quản của họ. Không những thế, lang đạo không chỉ chi phối về ruộng đất mà còn có quyền chi phối ngay cả bản thân những người dân lao động trong phạm vi cai quản của họ.

Nhà Nguyễn thực hiện chính sách “lưu quan” ở miền núi có ý nghĩa tích cực trong việc đẩy lùi các thế lực cát cứ, thế lực xâm lấn bên ngoài, giữ gìn an ninh biên giới, củng cố quốc gia thống nhất. Đồng thời nó cũng có ý nghĩa trong việc thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền núi nói chung, huyện Lạc Sơn nói riêng phát triển. Việc làm này đã tạo điều kiện cho các đợt di cư từ dưới xuôi lên sinh sống lâu dài ở miền núi cùng với đó những kinh nghiệm sản xuất tiến bộ của miền xuôi được du nhập vào miền núi, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, giao lưu buôn bán giữa miền xuôi và miền ngược. Nhà Nguyễn cũng có nhiều chính sách tăng cường phát triển kinh tế như khẩn hoang, khuyến khích nhân dân phát triển kinh tế.

2. Qua nghiên cứu địa bạ Minh Mệnh 18 (1837) của huyện Lạc Sơn, chúng tôi nhận thấy tình hình ruộng đất của huyện có một vài đặc điểm nổi bật như sau: Thứ nhất dù là một huyện miền núi nhưng đất đai của huyện 100% là đất thực trưng, không có ruộng đất lưu hoang. Thứ hai, đất đai của huyện Lạc Sơn bao gồm đủ các loại sở hữu là công và tư, dù diện tích đất tư vẫn chiếm đa số. Đây cũng là một dấu hiệu tích cực trong chính sách

ruộng đất của nhà Nguyễn vào thời điểm này ở huyện Lạc Sơn so với nhiều địa phương khác khi chỉ có đất tư như huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ. Diện tích đất tư lớn cũng là đặc điểm phổ biến trong tình hình ruộng đất cả nước lúc bấy giờ, khi mà xu hướng tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhân hóa ruộng đất đang diễn ra rất mạnh mẽ ở nước ta từ thế kỷ XVII.

Thứ ba, dù là một huyện miền núi nhưng chất lượng đất ở đây có đủ cả ba loại

(1, 2, 3), mặc dù phần lớn là đất loại 2 và loại 3 là đất vụ thu. Nguyên nhân chủ yếu là do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên nên đất đai ở đây không có nhiều đất loại 1 như ở

các tỉnh đồng bằng.

Một đặc điểm khác, quy mô sở hữu ruộng đất ở huyện Lạc Sơn là rất thấp so với

nhiều địa phương khác trong cả nước ở đồng bằng hay miền núi. Đặc biệt là tư điền, chủ yếu là sở hữu từ 50 đến 100 mẫu ở các xã. Nguyên nhân là do điều kiện về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý nên diện tích đất đai để canh tác ở đây là không nhiều.

Dù là diện tích đất tư chiếm phân lớn nhưng ở Lạc Sơn không có chủ sở hữu

theo dòng họ hay sở hữu theo chức dịch như nhiều địa phương khác mà là sở hữu chung

của xã. Đây cũng là một đặc điểm rất khác biệt so với nhiều địa phương khác. Nguyên

nhân chính do đặc điểm về đời sống chính trị, xã hội của người Mường ở Lạc Sơn có

tác động đến việc sở hữu đất đai ở đây như: chế độ nhà lang cùng với chế độ sở hữu

ruộng đất của nhà lang cho đến khi nhà Nguyễn thực hiện việc đo đạc ruộng đất và lập

địa bạ vẫn còn tồn tại nên nhà Nguyễn đã không can thiệp vào sở hữu ruộng đất của

nhà Lang để hạn chế sự mẫu thuẫn trong chính sách ruộng đất của nhà nước với địa

phương. Nguyên nhân khác cũng do từ đặc điểm về tục lệ xã hội của người Mường,

người Mường theo chế độ phụ quyền vì vậy mà việc thừa kế chủ yếu là con trai trưởng.

Việc sở hữu ruộng đất cũng vậy. Phần lớn ruộng đất do con trai trưởng trong gia đình

thừa hưởng, người Mường không có lệ chia lại ruộng đất theo định kỳ.

Về chế độ tô thuế của huyện Lạc Sơn cho đến nửa đầu thế kỷ XIX. Dù là một

huyện miền núi nhưng tô thuế ở đây cũng phải đóng theo các loại ruộng từ loại 1 đến

loại 3 theo từng thời kỳ nhất định. Nhưng chủ yếu là đất loại 2 và 3, mức tô thuế không

quá cao. Nhưng ngoài ra do phải chịu nhiều nghĩa vụ khác lao dịch, phu phen, đất đai

canh tác ít nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân ở đây.

Nhà Nguyễn từ đầu thế kỷ XIX đã có nhiều chính sách nhằm khôi phục nền kinh

tế của đất nước. Hàng loạt chính sách ruộng đất như khai hoang, quân điền, cấm mua

bán đất công, tiến hành đo đạc ruộng đất, lập sổ địa bạ để nắm được quỹ đất trong cả nước, định mức thuế hợp lý cho từng loại đất,... chính sách thủy lợi, khuyến khích nhân dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn… nhưng nền kinh tế của đất nước vẫn giảm sút, đời

sống nhân dân lâm vào cảnh cơ cực, đất nước rơi vào khủng hoảng cuối thế kỷ XIX.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Các hoạt động kinh tế Lạc Sơn ở nửa đầu thế kỷ XIX vẫn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp trồng trọt, cây trồng chủ yếu là lúa nước, bên cạnh đó cũng có một số loại cây lượng thực khác như ngô, khoai, sắn… Nhưng kỹ thuật canh tác lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên năng suất không cao. Thủ công nghiệp và thương nghiệp vẫn

chỉ là nghề phụ bổ trợ cho nông nghiệp, được nhân dân làm lúc nông nhàn, mục đích cho nhu cầu tự cung tự cấp. Vì vậy đời sống nhân dân không cao.

3. Qua nghiên cứu cho thấy, đời sống văn hóa của cư dân huyện Lạc Sơn vẫn còn mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Nhà cửa đối với các dân tộc ở huyện Lạc Sơn là rất quan trọng, chính vì vậy việc làm nhà là một trong những sự kiện lớn trong cuộc đời mỗi người. Khi làm nhà, cư dân ở đây rất chú trọng việc xem đất, hướng nhà, chọn ngày khởi công, việc bài trí, kiêng kị trong nhà… Những ngôi nhà sàn của người Mường thường làm trên các thung lũng bằng phẳng, men theo chân đồi. Người Kinh thì lại làm như ở những nơi bằng phẳng, trung tâm. Nhà cửa của mỗi một tộc người lại có những nét đặc trưng riêng.

Về văn hóa ẩm thực của các dân tộc ở Lạc Sơn về cơ bản khá giống nhau vì họ đều xuất phát từ nền văn minh lúa nước, ngành nông nghiệp trồng trọt (cây lúa nước) là chủ yếu. Ngoài ra nguồn thức ăn của họ được lấy từ thiên nhiên khá nhiều như các loại rau, củ, quả… Ở đây văn hóa ẩm thực của người Mường là đặc trưng và nổi bật nhất với nhiều món ăn như cơm nếp, các loại măng, thịt lợn…

Đối với trang phục truyền thống. Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa, xã hội khác nhau nên trang phục truyền thống của các dân tộc ở Lạc Sơn cũng có sự khác nhau như chất liệu, màu sắng, kiểu dáng, trang sức…Màu sắc xuất hiện phố biến trong trang phục truyền thống của các dân tộc nơi đây như trắng, xám, xanh, đen. Đối với trang phục nam thì trang phục nữ thường cầu kỳ, phức tạp, đa dạng về kiểu dáng và màu sắc hơn. Đặc biệt, đối với trang phục của người Mường ở Lạc Sơn là rất đặc sắc, không những thể hiện văn hóa vật chất trong trang phục mà còn thể hiện cả văn hóa tinh thần được gửi gắm trong bộ trang phục truyền thống phụ nữ Mường, tiêu biểu nhất là hoa văn trong cạp váy của người phụ nữ Mường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Các tục lệ xã hội của các dân tộc ở Lạc Sơn mang tính tộc người rất đặc trưng. Cưới, xin ma chay là những tục lệ quan trọng nhất trong đời sống văn hóa tinh thần cũng mang nhiều nghi lễ đặc sắc nhất của các dân tộc sinh sống trên mảnh đất này. Hôn nhân là một sự kiện trọng đại, thiêng liêng của mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ và cả cộng đồng trong tâm thức của các dân tộc ở đây. Tục lệ cưới hỏi của người Mường khá chi tiết, cụ thể. Đám cưới, được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, trong một thời gian dài. Nghi lễ tang ma đối với các dân tộc ở đây được tiến hành rất chu đáo, trọng thể, đặc biệt đối với người Mường, tang ma là nghi lễ quan trọng nhất của đời người. Đồng thời chứa đựng những hình thức sinh hoạt nghệ thuât dân tộc độc đáo và những giá trị nhân bản sâu sắc. Nó cũng là biểu hiện lòng thành,trách nhiệm của người còn sống với người đã chết, nhất là con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Tuy nhiên vẫn còn một số tục lệ trong cưới xin ma chay còn khá nặng nề, hủ tục và tốn kém.

Mối quan hệ gia đình, thân tộc của người Mường khá đơn giản không phức tạp như người Kinh. Nhiều gia đình cùng một hay nhiều dòng họ cùng cư trú trên một vùng lãnh thổ nhất định, lập thành làng. Mỗi một gia đình, dòng họ là nơi điều hòa quan hệ hôn nhân và dòng máu, bao gồm nhiều mối quan hệ: vợ chồng, bố mẹ, con cái, cha con, anh em… nói lên chức năng xã hội của gia đình dòng họ.

Cũng như nhiều vùng miền khác trên cả nước, các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp của người Mường ở Lạc Sơn mang đậm bản sắc dân tộc và nhiều sắc thái riêng. Nhiều lễ hội liên quan đến nông nghiệp như: lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ cơm mới… với những nghi thức rất đặc trưng của văn hóa tộc người.

Tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân Lạc Sơn được hình thành từ rất lâu đời, đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần cũng như là yếu tố cố kết cộng đồng và có sức sống lâu bền trong văn hóa của các dân tộc ở đây. Với người Mường ở Lạc Sơn đời sống tôn giáo chính thống không phong phú như nhiều dân tộc khác trong huyện. Chỉ có một bộ phận rất ít người Mường sinh hoạt tôn giáo chính thống. Nhưng ngược lại đời sống tín ngưỡng rất phong phú và đa dạng. Nó được lưu giữ và phát triển từ đời này qua đời khác ngày, càng về sau nó được chắt lọc các yếu tố tích cực để phù hợp với điều kiện sống của người dân.

Các dân tộc ở huyện Lạc Sơn ngoài việc tiếp tục duy trì và phát huy các giá trị các văn hóa truyền thống của mình, họ cũng đã chủ động tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các tộc người sống cộng cư để làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của tộc người Mình. Đồng thời các giá trị văn hóa truyền thống cùng các tinh hoa văn hóa mà họ tiếp thu đã đóng góp vào sự bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của cả huyện.

4. Với một nền tảng truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, truyền thống tốt đẹp của quê hương cùng các nguồn lợi thiên nhiên và chính sách của các cấp chính quyền ở huyện Lạc Sơn, nhân dân Lạc Sơn ra sức phấn đấu, hăng hái, thi đua học tập, lao động sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ăn ninh quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân trong huyện góp phần vào sự phát triển của đất nước, tăng cường tiềm lực quốc gia. Hiện nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Lạc Sơn đang phấn đấu trở thành một huyện giàu mạnh về mọi mặt, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hà Nội.

2. Ban chấp hành đảng bộ huyện Lạc Sơn (2016), Lịch sử đảng bộ huyện Lạc Sơn

(1929 - 2015).

3. Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Hòa Bình (2016), Lịch sử đảng bộ tỉnh Hòa Bình

(1929 - 2015).

4. Nguyễn Trọng Báu (2012), Phong tục tập quán và lễ hội của người Việt,

Nxb Văn hóa thông tin.

5. Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc thực trạng và

những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Đức Châu, Nguyễn Tấn Chung (1994), Ông cha ta bảo vê biên giới, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

7. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần tìm hiểu văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

8. Bùi Chỉ (2001), Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

9. Phan Huy Chú (1999), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

10. Phan Huy Chú (1999), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

11. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa.

12. Lê Quý Đôn (1998), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

13. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Trần Văn Giầu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước

năm 1858, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

15. Nguyễn Thị Song Hà (2017), Văn hóa tinh thần của người Mường, Nxb Sân khấu.

16. Cao Sơn Hải (2010), Luật tục Mường, Nxb Hội nhà văn.

17. Nguyễn Hải (2011), Tản mạn văn hóa Mường Hòa Bình, Nxb Thông tin và truyền

thông.

18. Đỗ Thị Hoa (2003), Trang phục các dân tộc thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt -Mường,

Tày - Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

19. Lê Như Hoa (1998), Hôn lễ xưa và nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Kim Hoa (2016), Văn hóa gia đình người Mường ở Hòa Bình, Luận

án tiến sĩ trường ĐHVH Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Kim Hoa, Tín ngưỡng dân gian của người Mường ở Hòa Bình, Tạp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chí Văn hóa nghệ thuật, số 334, tháng 4 - 2012.

22. Bùi Văn Hộ (2018), Nghiên cứu nghi lễ Mỡi của người Mường (nghiên cứu trường hợp người Mường ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình), luận án tiến sĩ, Học viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.

23. Phan Kim Huê (2000), Lễ tục Việt Nam xưa và nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 24. Nguyễn Thị Huế (2011), Những xu hướng biến đổi văn hóa các dân tộc miền núi

phía Bắc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Nguyễn Văn Huy (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

26. Hoàng Thu Hường (2016), Kinh tế, văn hóa huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang nửa

đầu thế kỷ XIX, luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

27. Vũ Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (1999), Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kỳ, Viện Viễn đông Bác Cổ, Nxb Văn hóa thông tin -

Cục lưu trữ nhà nước.

28. Jeanne Cuisinier (1995) (bản dịch của Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hòa Bình),

Người Mường địa lý nhân văn và xã hội học, Nxb Lao động.

29. Bùi Văn Kín, Mai Văn Trí, Nguyễn Phụng (1972), Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa

Bình, Ty Văn hóa thông tin tỉnh Hòa Bình.

30. Trần Đoàn Lâm (2008), Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Thế giới. 31. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Hà Nội. 32. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo (1995), Địa bạ

Hà Đông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb Văn hóa thông tin. 34. Lã Văn Lô - Hồ Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng văn hóa ở các vùng

dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

35. Bùi Tuyết Mai (chủ biên) (1999), Người Mường ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

36. Nguyễn Tử Mẫn (2001), Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn (2008), Giáo trình

lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

38. Hoàng Nam và Cư Hòa Vần (1994), Dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà

Nội.

39. Nguyễn Thị Thanh Nga (2007), Văn hóa truyền thông một số tộc người ở Hòa Bình,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nxb Văn hóa dân tộc.

40. Nhiều tác giả (2012), Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập 1, Nxb Thanh niên. 41. Nhiều tác giả (2012), Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập 2, Nxb Thanh niên. 42. Nhiều tác giả (2012), Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập 4, Nxb Thanh niên. 43. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Ngọc (1925), Người Mường, tạp chí Nam Phong, số 95. 45. Hoàng Thị Nguyệt (2016), Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu

thế kỷ XIX, luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

46. Pierre Grossin (1994) (bản Lê Gia Hội dịch), Tỉnh Mường Hòa Bình, Nxb Lao

Động, Hà Nội.

47. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Vũ Văn Quân (1991), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa

đầu thế kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

49. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập II, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

50. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập III, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

51. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

52. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập I, Nxb Giáo dục. 53. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục. 54. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb Giáo dục. 55. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục. 56. Quốc sử quán triều Nguyễn (1967), Đại Nam thực lục, tập V, Nxb Giáo dục. 57. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỷ, tập

IX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập II,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

59. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

60. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập V,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

61. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất Việt Nam từ thế kỷ XI - XVIII, tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

62. Trường Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

63. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tình hình ruộng đất nông nghiệp

và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.

64. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1999), Lịch sử Việt Nam từ nguyên

thủy đến năm 1858, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

65. Hà Sum (1995), Kỷ yếu hội thảo Văn hóa dân tộc Mường, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

66. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình (2005), Địa chí

Hòa Bình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1999), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX

(Bản dịch của Viện Hán Nôm), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Bùi Thiện (2015), Đẻ đất đẻ nước và phong tục đạo lý nhân văn Mường, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

69. Bùi Thiện, Bùi Văn Nợi, (2010), Mo Mường, Nxb Văn hóa dân tộc.

70. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc Việt Nam và tên gọi khác, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

71. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (2003), Đồng Khánh địa dư

chí, Nxb Thế giới, Hà Nội.

72. Ngô Đức Thịnh (2006), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

73. Ngô Đức Thịnh (2003), Tóm lược nội dung chính cuốn sách Văn hóa vùng và

phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

74. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

75. Trần Từ (1996), Người Mường ở Hòa Bình, Nxb Hội Khoa học lịch sử Việt Nam,

Hà Nội.

76. Đinh Gia Trinh (1968), Sơ thảo 1ịch sử Nhà nước và Pháp quyền Việt Nam, tập

I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

77. Mai Khắc Ứng (1996), Chính sách khuyến nông dưới thời Minh Mạng, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

78. Đàm Thị Uyên (2011), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến

giữa thế kỷ XIX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

79. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

80. Bùi Huy Vọng (2015), Nghề dệt cổ truyền của người Mường, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

81. Bùi Huy Vọng (2016), Mỡi trong đời sống người Mường ở Lạc Sơn - Hòa Bình,

Nxb Mỹ Thuật.

TÀI LIỆU ĐỊA BẠ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

82. An Điềm xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3852 83. An Lương xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3834

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

84. An Nghiệp xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3862 85. Bình Cảng xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3844 86. Bỉnh Chân xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3854 87. Bình Hiểm xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3832 88. Chí Đạo xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3835 89. Chỉ Thiện xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3839 90. Do Nhân xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3842 91. Đa Phúc xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3863 92. Định Cư xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3846 93. Định Giáo xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3881 94. Đông Lai xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3855 95. Gia Mô xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3874 96. Hiếu Nghĩa xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3853 97. Hoài An xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3843 98. Hưng Nhượng xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3857 99. Hướng Nghĩa xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3859 100. Lỗ Sơn xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3876 101. Mẫu Đức xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3838 102. Mỹ Hòa xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3836 103. Mỹ Thành xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3845 104. Ngọc Lâu xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3861 105. Ngọc Minh xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3870 106. Phong Phú xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3837 107. Phú Hậu xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3878 108. Phú Lẫm xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3864 109. Phú Vinh xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3875 110. Phúc Tuy xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3833 111. Quy Hậu xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 38419 112. Quý Hòa xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3880 113. Quy Mỹ xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3860 114. Sơn Trang xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3871 115. Suất Hóa xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3877 116. Sùng Nhân xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3847 117. Tân Mỹ xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3851 118. Tích Cốc xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3872

119. Tuân Đạo xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3848 120. Tuân Lộ xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3865 121. Tử Nê xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3856 122. Tức Mặc xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3866 123. Tức Tranh xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3869 124. Thanh Hối xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3873 125. Thân Thượng xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3840 126. Thương Nhượng xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3858 127. Văn Đức xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3868 128. Văn Lãng xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3867 129. Vụ Bản xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3879 130. Vũ Lao xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3840 131. Vụ Nông xã, địa bạ Minh Mệnh 18, TTLTQGIHN, KH: 3850

TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

STT Họ và Tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ

132 Bùi Thị Ệng 82 Làm ruộng Xóm Át, xã Vũ Binh,

huyện Lạc Sơn

133 Bùi Văn Hưng 45 Thầy Cúng Xóm Nại, xã Tân Mỹ,

huyện Lạc Sơn

134 83 Làm ruộng

Quách Thị Khanh Xóm Re, xã Ân Nghĩa, huyện Lạc Sơn

135 Bùi Thị Lích 60 Hưu trí Xóm Quyết Tiến, xã Vũ

Bình, huyện Lạc Sơn

136 Đinh Thị Liêm 62 Hưu trí

Phố Lốc, thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn

137 Bùi Văn Minh 50 Thầy Mo Xóm Mận, Xã Văn Sơn,

huyện Lạc Sơn

Bùi Văn Nin 66 Hưu trí

Xóm Riềng, xã Yên Nghiệp, huyện Lạc Sơn

138 Bùi Văn Ngà 36 Chuyên viên văn Xóm Kho Khí, xã Tân Mỹ,

phòng HĐND và huyện Lạc Sơn

UBND huyện

139 Bùi Văn Nhen 56 Làm ruộng Xóm Kho Khí, xã Tân Mỹ,

huyện Lạc Sơn

140 Bùi Văn Phan 57 Làm ruộng Xóm Át, xã Vũ Bình,

huyện Lạc Sơn

141 Bùi Thị Pưng 77 Làm ruộng

Xóm Kho Khí, xã Tân Mỹ, huyện Lạc Sơn

142 Bùi Huy Vọng 53 Nghệ nhân nghiên Xóm Bưng, xã Hương

Nhượng, huyện Lạc Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cứu văn hóa dân gian Mường