BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------------

Họ và tên tác giả luận văn:

Nguyễn Quang Ngọc

XÂY DỰNG MÔ HÌNH TÍN DỤNG DỰA TRÊN CHỨNG CHỈ LƯU KHO CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

---------------

Họ và tên tác giả luận văn:

Nguyễn Quang Ngọc

XÂY DỰNG MÔ HÌNH TÍN DỤNG DỰA TRÊN CHỨNG CHỈ LƯU KHO CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. TRẦN NGỌC THƠ

TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2011

i

GIỚI THIỆU

1. Sự cần thiết của đề tài

Rủi ro biến động giá là một trong những rủi ro chính của nhà sản xuất. Tuy nhiên,

so với các loại rủi ro khác như thời tiết, mùa vụ thì một trong những điểm khác

biệt lớn của quản trị rủi ro giá cả là chúng dễ dàng được nhận biết hơn. Ngoài ra,

rủi ro giá cả có thể giảm thiểu được do có nhiều công cụ tài chính để chuyển đổi

rủi ro. Quản trị rủi ro biến động giá là mối quan tâm đặc biệt của các nhà hoạch

định chính sách cũng như của tầng lớp nông dân ở các nước đang phát triển nhằm

cải thiện thu nhập của họ và sau đó tái đầu tư vào nông nghiệp.

Một vấn đề tài chính khác mà người nông dân, nhà kinh doanh còn phải đương

đầu là sự thiếu hụt nguồn vốn trong sản xuất do họ thường không có tài sản thế

chấp để đi vay. Vì vậy, khu vực tư nhân thường không mặn mà trong việc cấp tín

dụng hoặc nếu có vì lo sợ việc không thu hồi được nợ, những người cho vay

thường cung cấp tín dụng với mức lãi suất cao.

Chính phủ Philippines đã áp dụng thành công mô hình Quedancor trong việc hỗ

trợ người nông dân thông qua những khoản tài trợ dựa trên chứng chỉ lưu kho. Sự

tương đồng về trình độ phát triển giữa Việt Nam và Philippines là điểm mấu chốt

để xem xét mô hình này như là một khảo cứu hữu ích cho Việt Nam trong việc xây

dựng một sàn giao dịch hàng hóa có sự gắn kết với hoạt động tín dụng nông sản

thông qua chứng chỉ lưu kho.

Nghiên cứu này sẽ đưa ra một trong những cách thức để đối phó với vấn đề bất ổn

của giá và khó khăn trong tiếp cận tín dụng nêu trên thông qua việc xem xét hệ

thống tín dụng dựa trên hàng hóa lưu kho.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa sàn giao dịch hàng hóa

và hoạt động tín dụng nông sản. Để từ đó xây dựng cơ chế tín dụng dựa trên chứng

ii

chỉ lưu kho trên cơ sở một SGDHH được xây dựng bài bản, theo lộ trình phù hợp.

Cụ thể hơn, luận văn sẽ giải quyết bốn mục tiêu sau:

 Xác định các điều kiện cần thiết và cơ chế vận hành của một hệ thống

chứng chỉ lưu kho.

 Xây dựng mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho cho Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các nội dung nêu trên, tác giả luận văn đã khảo sát thực trạng rủi ro

trong hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp tại một số tỉnh đồng bằng sông

Cửu Long, Dak Lak, Bình Định và Quảng Nam kết hợp với sử dụng phương pháp

định tính dựa trên việc nghiên cứu hoạt động của các SGDHH lớn trên thế giới

như CME, LME, SHFE, SICOM …, vai trò của thị trường giao sau đối với việc

bình ổn giá gạo của Ấn Độ, vai trò của hệ thống chứng chỉ lưu kho đối với đời

sống người dân châu Phi, vai trò của Hội nông dân trong quản trị rủi ro giá cả …

Và đặc biệt là cơ chế Quedancor của Philippines trong việc hỗ trợ người nông dân.

Luận văn cũng sử dụng các số liệu thống kê để minh họa cho thực trạng của vấn

đề nghiên cứu.

4. Các kết quả nghiên cứu

Luận văn của tác giả đóng góp một số kết quả sau:

 Xác lập các điều kiện cần thiết để áp dụng hệ thống chứng chỉ lưu kho cho

Việt Nam.

 Xây dựng mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho nhằm phòng ngừa

rủi ro biến động giá và tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho khu vực sản

xuất nông nghiệp.

iii

MỤC LỤC

Giới thiệu ...................................................................................................................... i

Mục lục ...................................................................................................................... iii

Danh mục bảng biểu & hình vẽ.................................................................................. vi

Danh mục các hộp ..................................................................................................... vii

Danh mục các từ viết tắt .......................................................................................... viii

Chƣơng 1: Tổng quan về chứng chỉ lƣu kho & mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lƣu kho .................................................................................................................................. 1

1.1 Khái niệm & cơ chế vận hành của hệ thống chứng chỉ lƣu kho ................................ 1

1.1.1 Khái niệm .................................................................................................................. 1

1.1.2 Cơ chế vận hành của hệ thống chứng chỉ lưu kho .................................................... 3

1.2 Lợi ích và rủi ro của hệ thống chứng chỉ lƣu kho ....................................................... 6

1.2.1 Lợi ích của hệ thống chứng chỉ lưu kho .................................................................... 6

1.2.2 Rủi ro của hệ thống chứng chỉ lưu kho ..................................................................... 9

1.3 Các điều kiện cần thiết để triển khai hệ thống chứng chỉ lƣu kho .......................... 10

1.3.1 Hệ thống pháp lý ..................................................................................................... 10

1.3.2 Hệ thống kho lưu trữ ............................................................................................... 11

1.3.3 Kiểm định & giám định hàng hóa ........................................................................... 11

1.3.4 Cơ chế bảo lãnh/bảo hiểm ....................................................................................... 12

1.4 Kinh nghiệm triển khai hệ thống chứng chỉ lƣu kho ở một số quốc gia ................. 13

1.4.1 Kinh nghiệm của các quốc gia Châu Mỹ ................................................................ 13

1.4.2 Kinh nghiệm của các quốc gia Châu Phi ................................................................ 14

1.4.3 Mô hình tài trợ bằng chứng chỉ lưu kho Quedancor của Philippines ...................... 19

1.4.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ........................................................................ 21

TÓM TẮT CHƢƠNG 1 .................................................................................................... 23

iv

Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động tín dụng nông nghiệp & quản trị rủi ro biến động giá trong nông nghiệp tại Việt Nam ................................................................................ 24

2.1 Thực trạng hoạt động tín dụng nông sản tại Việt Nam ............................................ 24

2.1.1 Những kết quả đạt được .......................................................................................... 24

2.1.2 Một số hạn chế ........................................................................................................ 27

2.2 Rủi ro biến động giá trong nông nghiệp và vấn đề quản trị rủi ro biến động giá đối với ngành nông nghiệp Việt Nam ............................................................................... 33

2.2.1 Các rủi ro biến động giá trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ............................. 33

2.2.2 Nhận thức và hành động phòng ngừa rủi ro biến động giá ..................................... 42

2.2.3 Kênh thông tin và vai trò của các Hiệp hội ............................................................. 47

2.2.4 Chính sách của chính phủ đối với nhóm hàng nông sản ......................................... 48

TÓM TẮT CHƢƠNG 2 .................................................................................................... 56

Chƣơng 3: Xây dựng mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lƣu kho cho Việt Nam ... 57

3.1 Các điều kiện cần thiết ................................................................................................ 57

3.1.1 Hệ thống pháp lý & chính sách đối với sản xuất nông nghiệp ................................ 57

3.1.2 Hệ thống kho lưu trữ ............................................................................................... 59

3.1.3 Bảo hiểm hoạt động ................................................................................................ 67

3.1.4 Sự sẵn sàng tham gia của hệ thống ngân hàng ........................................................ 67

3.2 Mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lƣu kho .......................................................... 68

3.2.1 Quy trình vận hành .................................................................................................. 68

3.2.2 Vai trò của các bên liên quan trong mô hình tín dụng dựa trên CCLK .................. 71

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 78

Danh mục tài liệu tham khảo

Bảng câu hỏi khảo sát & Tổng hợp kết quả khảo sát

Các phụ lục

v

DANH MỤC BẢNG BIỂU & HÌNH VẼ

Bảng 2.1: So sánh thuế suất một số hàng nông sản trước và sau khi gia nhập WTO ........49

Bảng 2.2: Tóm tắt cam kết TRQ của Việt Nam .................................................................52

Bảng 2.3: Tóm tắt các loại trợ cấp nội địa trong nông nghiệp ...........................................53

Bảng 3.1: Chú thích sơ đồ hệ thống tín dụng dựa trên CCLK ...........................................70

Hình 1.1: Cơ chế vận hành của một hệ thống CCLK ..........................................................3

Hình 1.2: Mô hình chứng chỉ lưu kho ở Philippines ..........................................................21

Hình 2.1: Giá gạo nội địa và xuất khẩu giai đoạn 2009 – 2011 .........................................33

Hình 2.2: Giá cà phê thế giới giai đoạn 1960 – 2011 ........................................................34

Hình 2.3: Giá gạo thế giới giai đoạn 1980 – 2010 .............................................................34

Hình 2.4: Giá đường thế giới giai đoạn 1980 – 2010 ........................................................35

Hình 2.5: Cơ cấu chi phí sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long ..........................36

Hình 2.6: Cơ cấu chi phí sản xuất cà phê ...........................................................................36

Hình 2.7: Biến động giá phân bón – cà phê – gạo giai đoạn 2002 – 2011 ........................37

Hình 2.8: Mức độ thỏa thuận mua nguyên liệu đầu vào & bán sán phẩm .........................38

Hình 2.9: Chuỗi lúa gạo hàng hóa tại Đồng bằng sông Cửu Long (2010) ........................39

Hình 2.10: Nhận thức về tầm quan trọng của các loại rủi ro .............................................43

Hình 2.11: Mức độ sẵn lòng tham gia sản phẩm phòng ngừa rủi ro ..................................44

Hình 2.12: Các băn khoăn khi tham gia phòng ngừa rủi ro ...............................................46

Hình 2.13: Quyết định bán sản phẩm ngay sau thu hoạch .................................................46

Hình 2.14: Kênh thông tin cho khu vực nông nghiệp ........................................................48

Hình 2.15: Chính sách hỗ trợ nông nghiệp giai đoạn 1999 – 2001 ...................................54

Hình 2.16: Chi trợ cấp nông nghiệp giai đoạn 1999 – 2004 ..............................................54

Hình 3.1: Mô hình hệ thống kho lưu trữ ............................................................................63

vi

DANH MỤC CÁC HỘP

Hộp 1.1: Kinh nghiệm triển khai chứng chỉ lưu kho cho nông dân ở Ghana ....................16

Hộp 1.2: Kinh nghiệm triển khai chứng chỉ lưu kho cho người trồng cà phê ở Tanzania 17

Hộp 1.3: Hệ thống chứng chỉ lưu kho đối với ngô của Zambia .........................................18

vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tiếng Việt

ACB Ngân hàng TMCP Á Châu

Agribank Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam

Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam BIDV

CCLK Chứng chỉ lưu kho

DN Doanh nghiệp

DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa

HĐGS Hợp đồng giao sau

HTX Hợp tác xã

MB Ngân hàng TMCP Quân đội

NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHTM Ngân hàng thương mại

NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Sacombank Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

SGDHH Sàn giao dịch hàng hóa

Techcombank Ngân hàng TMCP Kỹ thương

TCTD Tổ chức tín dụng

TSBĐ Tài sản bảo đảm

VIB Ngân hàng TMCP Quốc tế

Vietcombank Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam

Vietinbank Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam

viii

Tiếng Anh

ASEAN – China Free Trade Agreement ACFTA

Africa Development Bank ADB

Association of Southeast Asia Nations ASEAN

ASEAN Trade in Goods Agreement ATIGA

Collateral Management Agreements CMAs

Certificate of Origin C/O

Certificate of Title CT

Certificate of Pledge CP

Internation Monetary Fund IMF

LIFFE London International Financial Futures and Options Exchange

Non Governmental Organization NGOs

Natural Resources Institute NRI

Primary Cooperative Societes PCS

Société Générale de Surveillance SGS

Tariff–rate Quota TRQ

UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development

Word Trade Organization WTO

1

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ CHỨNG CHỈ LƢU KHO & MÔ HÌNH TÍN DỤNG DỰA TRÊN CHỨNG CHỈ LƢU KHO

Một thực tế là nông dân tại các nước đang phát triển có xu hướng bán toàn

bộ sản phẩm ngay sau khi thu hoạch, và thường thì ở mức giá rất thấp. Coulter và

Poulton (2001) đã chỉ ra rằng trong suốt sáu tháng vụ mùa thì giá lại tăng đến 80%.

Trong khi đó, ở những khu vực sử dụng hệ thống chứng chỉ lưu kho thì mức độ

chênh lệch giữa giá bán sau khi thu hoạch và vài tháng sau đó lại khá thấp (xem

Onumah, 2003; Giovannucci, 2001 …). Vậy chứng chỉ lưu kho (CCLK) là gì và

được vận hành như thế nào mà có thể đem lại lợi ích to lớn như vậy cho người nông

dân? Nội dung chương này sẽ tập trung làm rõ vấn đề trên, lợi ích và rủi ro của

chứng chỉ lưu kho cũng như điều kiện để có thể áp dụng hệ thống này.

1.1 Khái niệm & cơ chế vận hành của hệ thống chứng chỉ lƣu kho

1.1.1 Khái niệm

Chứng chỉ lưu kho (Warehouse Receipt) là chứng từ chứng minh quyền sở hữu đối

với một loại hàng hóa cụ thể đang được lưu trữ tại một hoặc nhiều kho xác định,

trong đó ghi rõ số lượng và đặc điểm cụ thể của hàng hóa đó. Các chứng chỉ này đôi

khi được xem là một loại giấy chứng nhận (warrant) có đầy đủ tính pháp lý, đảm

bảo về chất lượng và cung cấp một hệ thống đủ an toàn nơi mà các loại nông sản

1 Coulter và Onumah (2002)

lưu kho có thể được xem là một loại tài sản bảo đảm, có thể mua bán, hoặc là đối tượng cho các công cụ tài chính bao gồm cả các hợp đồng giao sau1.

2

Theo Budd (2001), chứng chỉ lưu kho ngũ cốc lần đầu tiên được sử dụng ở

Mesopotamia (Iraq ngày nay) vào năm 2400 trước Công nguyên và hình thức tiền

giấy đầu tiên được sử dụng ở Vương quốc Anh là chứng chỉ lưu kho bạc kim loại.

Phân loại: Theo phân loại của Luật về lưu kho của Mỹ (United States Warehouse

Act.), có bốn loại chứng chỉ lưu kho cơ bản:

Chứng chỉ lƣu kho có thể chuyển nhƣợng (Negotiable Warehouse

Receipts): đây là loại chứng chỉ lưu kho mà hàng hóa có thể được giao cho

người sở hữu hoặc theo chỉ thị của người sở hữu hàng hóa.

Chứng chỉ lƣu kho không thể chuyển nhƣợng (Non-negotiable

Warehouse Receipts): đây là loại chứng chỉ lưu kho mà hàng hóa chỉ có thể

được giao cho người sở hữu. CCLK loại này vẫn có thể được mua bán thông

qua hợp đồng, khi đó bên vận hành kho lưu trữ sẽ thu phí và phát hành một

giấy CCLK mới cho người mua.

Chứng chỉ lƣu kho bảo đảm (Collateral Warehouse Receipts): đây là loại

chứng chỉ lưu kho mà bên vận hành kho lưu trữ phát hành cho chính họ để sử

dụng hàng hóa trong kho thuộc sở hữu của họ làm tài sản bảo đảm cho khoản

vay ngân hàng.

Trust Receipts: đây là một công cụ do bên vận hành kho lưu trữ phát hành

để thay cho CCLK trong quá trình hàng hóa được chuẩn bị hoặc vận chuyển

để giao nhận. Những chứng chỉ loại này không được chuyển nhượng.

Bên cạnh đó, về mặt hình thức, có sự phân hóa chứng chỉ lưu kho giữa Anh, Mỹ và

nhóm các nước châu Âu còn lại và Mỹ La Tinh. Nếu như Anh và Mỹ thường sử

dụng chứng chỉ lưu kho 1 bản (one-part receipt) thì phần lớn các nước khác lại dùng

chứng chỉ lưu kho 2 bản (two-part receipt) bao gồm Certificate of Title (CT) và

Certificate of Pledge (CP). Sự khác biệt là ở chỗ việc công nhận chủ sở hữu sẽ chỉ

hiệu lực khi xuất trình được cả 2 bản (CT & CP) đối với hệ thống sử dụng CCLK 2

bản.

3

Những thông tin thƣờng đƣợc thể hiện trên bề mặt một CCLK:

 Chủng loại hàng hóa

 Chất lượng

 Số lượng

 Tên cá nhân/tổ chức ký gửi hàng hóa

 Địa chỉ kho lưu trữ

 Hàng hóa có được mua bảo hiểm hay không

 Điều khoản hợp đồng lưu trữ giữa người nông dân, nhà buôn hoặc nhà sản

 Phí lưu kho

xuất (bên ký gửi hàng hóa) và bên vận hành kho

1.1.2 Cơ chế vận hành của hệ thống chứng chỉ lƣu kho

Cơ chế vận hành của chứng chỉ lưu kho có thể được mô tả theo hình bên dưới

Hình 1.1: Cơ chế vận hành của một hệ thống CCLK

Thành phần tham gia: bao gồm nhưng không giới hạn các đối tượng sau:

 Bên ký gửi hàng hóa: bao gồm người nông dân, nhà buôn, nhà sản xuất, …

có nhu cầu ký gửi hàng hóa.

 Bên mua: bao gồm nhà buôn, nhà sản xuất, nhà đầu tư … có nhu cầu kinh

doanh CCLK, kinh doanh hàng hóa và mua nguyên vật liệu.

4

 Kho lƣu trữ: nhận ký gửi hàng hóa, đảm bảo số lượng và chất lượng hàng

hóa trong suốt thời gian ký gửi theo thỏa thuận đã ký.

Căn cứ vào loại dịch vụ cung cấp và mức độ an toàn, kho lưu trữ được chia

làm 5 loại cơ bản sau (Bass và Henderson, 2000):

 Kho công cộng (Public Warehouse): không phân biệt đối tượng ký gửi

hàng hóa là ai. Tất cả nông sản đều có thể ký gửi tại các kho loại này.

 Kho chuyên dụng (Field Warehouse): loại kho này thường được sử

dụng trong các ngành công nghiệp như: khai mỏ, dệt sợi nơi mà hàng hóa

lưu kho chủ yếu là các nguyên liệu thô cho sản xuất, một số khác dùng để

quản lý hàng hóa cho ngân hàng.

 Kho khóa đôi (Dual-key Warehouse): kho loại này sẽ cho phép đồng

thời ngân hàng và bên ký gửi kiểm soát hàng hóa ký gửi. Để lấy được

hàng hóa thì cần phải có sự chấp thuận của cả hai bên.

 Kho khóa đơn (Self-managed or single-key Warehouse): kho loại này

cho phép bên ký gửi toàn quyền đối với hàng hóa lưu kho. Tùy từng

trường hợp, ngân hàng hoặc tổ chức tài chính vi mô có thể được tham gia

giám sát.

 Trading Warehouse: nhà vận hành kho sẽ kinh doanh hàng hóa nhân

danh bên ký gửi. Việc này có vẻ như hơi trái ngược so với lợi ích của nhà

vận hành kho, nhưng loại hình kho này đã hoạt động khá thành công ở

Bắc Mỹ trong nhiều năm.

Căn cứ vào hình thức sở hữu và cách thức quản lý hàng, kho lưu trữ được

chia làm 3 loại cơ bản sau (Hollinger, Rutten và Kiriakov, 2009):

 Kho tƣ nhân (Private Warehouse): hoạt động sản xuất và tồn kho hàng

hóa sử dụng chung một không gian và cả hai hoạt động đều do cùng một

công ty quản lý. Nhà kho chỉ là một phần trong nhiều hoạt động của công

ty, có thể bao gồm sản xuất, bán buôn và bán lẻ. Sẽ rất rủi ro nếu dùng

5

hàng hóa lưu trong các kho loại này làm TSBĐ cho khoản vay, không

mấy ai dám chắc chắn là hàng hóa đó có trong kho hay không.

 Kho chuyên dụng (Field Warehouse): đây là hình thức kho mà bên

quản lý TSBĐ hoặc công ty cung cấp tín dụng mua lại nhà kho của một

khách hàng hoặc thuê lại (có phí) một kho công cộng và chịu trách nhiệm

kiểm soát các hàng hóa đang dùng làm TSBĐ.

 Khi công cộng (Public Warehouse): thường là một kho lớn, diện tích

rộng, có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều loại hình kinh doanh, ví dụ

thường được đặt ở cảng, các trung tâm trung chuyển… Các kho loại này

thuộc sở hữu và được điều hành bởi các nhà vận hành kho nhằm lưu trữ

hàng hóa cho bên thứ ba dựa trên một khoản phí. Chứng chỉ lưu kho do

các nhà điều hành kho công cộng phát hành được các ngân hàng chấp

nhận làm TSBĐ một cách rộng rãi. Tuy nhiên, chất lượng của các chứng

chỉ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là hệ thống pháp lý và quy

định của mỗi đất nước, tình hình tài chính và tính trung thực của các nhà

vận hành kho.

 Định chế tài chính: có thể là các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính vi mô

có sản phẩm tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho.

Khởi nguồn của quá trình này là việc người nông dân, nhà buôn, nhà sản xuất …

(nói chung là bên ký gửi hàng hóa) sẽ gửi hàng hóa của mình vào kho lưu trữ và sẽ

nhận lại chứng chỉ lưu kho sau khi hàng hóa được kiểm tra phù hợp về chủng loại,

số lượng và chất lượng. Việc ký gửi hàng hóa vào kho sẽ làm phát sinh chi phí nên

người nông dân sẽ chỉ gửi hàng hóa vào kho nếu giá thị trường hiện tại thấp hơn

mức giá họ kỳ vọng và họ dự kiến giá cả trong tương lai sẽ tăng lên và thu nhập

tăng thêm của họ sẽ đủ bù đắp cho các chi phí họ phải bỏ ra cho việc ký gửi hàng

hóa, bao gồm cả chi phí cơ hội.

Sau khi nhận được CCLK, người sở hữu có thể chuyển nhượng CCLK cho bên mua

nếu đạt được tỷ suất sinh lời mong muốn. Tuy nhiên, lợi ích đáng kể nhất của

6

CCLK là họ có thể sử dụng chúng như là tài sản bảo đảm cho khoản vay từ các định

chế tài chính với mức lãi suất phù hợp.

Quy trình vận hành:

Do tính phổ biến của hình thức CCLK 2 bản nên tác giả sẽ trình bày quy trình vận

hành của hình thức này, cụ thể như sau:

1. Sau khi thu hoạch, người nông dân sẽ ký gửi hàng hóa của họ vào một kho

lưu trữ được cấp phép và nhận lại CT và CP. Nhà kho sẽ chỉ giải phóng hàng

hóa cho người sở hữu cả hai bản CT & CP.

2. Người nông dân nộp đơn vay vốn tại định chế tài chính. Sau khi được chấp

nhận, người nông dân sẽ nhận tiền vay đồng thời giao CP cho định chế tài

chính như một biện pháp bảo đảm cho khoản vay và xuất trình CT để định

chế tài chính xác định bên vay đúng là chủ sở hữu lô hàng ký gửi.

3. Trước khi đến hạn khoản vay, người nông dân sẽ bán hàng của mình cho bên

mua thông qua việc chuyển nhượng CT (có sự tư vấn của định chế tài chính

cho vay).

4. Khi khoản vay đến hạn hoặc khi bên mua cần hàng hóa, họ sẽ tất toán khoản

vay cho định chế tài chính và nhận được CP.

5. Bên mua, khi đã giữ cả CT (từ người nông dân) và CP (từ định chế tài chính

cho vay) có thể lấy hàng hóa đang ký gửi tại kho.

1.2 Lợi ích và rủi ro của hệ thống chứng chỉ lƣu kho

1.2.1 Lợi ích của hệ thống chứng chỉ lƣu kho

Nghiên cứu thực tế triển khai hơn 100 năm tại Mỹ và Canada cũng như tại

nhiều nước châu Phi trong 20 năm gần đây, Lacroix, Varangis, Giovannucci và

Larson đã chỉ ra được những lợi ích chính của chứng chỉ lưu kho như sau:

Cung cấp một công cụ giúp ngƣời nông dân có thể kéo dài giai đoạn tiêu thụ

sản phẩm sau khi thu hoạch, hạn chế rủi ro biến động giá

7

Khi ký gửi hàng hóa vào một kho được công nhận, người nông dân sẽ nhận lại một

chứng chỉ lưu kho và có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản vay ngắn hạn

bổ sung vốn lưu động. Bằng cách này, người nông dân sẽ không phải bán ngay sản

phẩm để giải quyết nhu cầu tiền mặt nữa. Và dĩ nhiên là lựa chọn này sẽ chỉ hấp dẫn

khi người nông dân kì vọng giá trong tương lai sẽ tăng lên mức mà đáng để họ tồn

trữ thay vì bán ngay.

Cung cấp một tài sản bảo đảm an toàn cho ngân hàng

Người nông dân, nhà sản xuất có thể sử dụng CCLK để tài trợ cho hoạt động sản

xuất và tồn trữ nguyên liệu của mình. Trong trường hợp khoản vay có bất kỳ sai

phạm nào liên quan đến việc hoàn trả thì người nắm giữ CCLK sẽ có quyền ưu tiên

đối với toàn bộ hàng hóa. Việc các loại hàng nông sản có thể trở thành tài sản bảo

đảm sẽ giúp tăng khả năng tiếp cận tín dụng, giảm chi phí và thu hút những nguồn

lực tài chính từ bên ngoài của khu vực nông nghiệp.

Hỗ trợ thị trƣờng giao ngay và kỳ hạn, vì thế tạo nên mức giá công bằng và

nâng cao tính cạnh tranh.

Chứng chỉ lưu kho vừa giúp tăng khối lượng các giao dịch đồng thời giảm chi phí.

Vì người mua không cần thiết phải nhìn thấy hàng hóa nên các giao dịch không nhất

thiết phải thực hiện ở nơi lưu trữ hoặc giám định. Thật vậy, với hệ thống CCLK thì

hàng hóa hiếm khi nào phải giao dịch ở kho. Một giao dịch có thể diễn ra ở bất kỳ

nơi nào hoặc trên thị trường có tổ chức hoặc trên sàn giao dịch. Một lợi ích lớn hơn

của CCLK là giúp nâng cao niềm tin của những người tham gia giao dịch, đặc biệt

là trong khu vực tư nhân.

Giảm nhẹ vai trò của chính phủ trong quá trình thƣơng mại hóa ngành nông

nghiệp

Những can thiệp của chính phủ trên thị trường nông sản thường nhắm đến hai mục

tiêu chính: hỗ trợ giá thông qua việc thu mua trực tiếp từ người sản xuất và đảm bảo

an ninh lương thực. Để trợ giá, chính phủ có thể sử dụng CCLK thay cho việc giao

nhận hàng hóa thật khi giá cả rơi xuống thấp hơn mức giá sàn. Vì CCLK đảm bảo

8

về sự tồn tại của hàng hóa thật nên chính phủ có thể đạt được mục tiêu đảm bảo an

ninh lương thực bằng việc nắm giữ CCLK. Khu vực tư nhân sẽ chịu trách nhiệm

trong việc mua bán, tồn trữ và giao nhận hàng hóa thật. Khi mà khu vực tư nhân có

thể chủ động sử dụng thị trường giao sau để bảo vệ những người tham gia thị

trường trước những biến động giá thì chính phủ sẽ không cần thiết phải can thiệp

vào thị trường nông sản nữa.

Kết hợp với các công cụ tài chính khác để phòng ngừa rủi ro biến động giá

Sự kết hợp giữa CCLK và các công cụ phòng ngừa rủi ro sẽ cung cấp cho bên cho

vay những tài sản bảo đảm an toàn dưới dạng những CCLK được bảo đảm một giá

trị tối thiểu thông qua hoạt động phòng ngừa (hedging). Ví dụ như Ngân hàng PTA

(tên đầy đủ là The Eastern and Southern African Trade and Development Bank) của

Kenya đã cấp tín dụng cho những nhà xuất khẩu cà phê dựa trên tài sản bảo đảm là

CCLK đồng thời cung cấp cho họ một quyền chọn bán trên thị trường London

(London Commodity Exchange) đảm bảo cho bên bán một mức giá bán tối thiểu

cho cà phê đang lưu kho của họ. Nhờ vào việc bảo đảm một mức giá sàn cho cà phê

lưu kho, Ngân hàng PTA có thể tài trợ cho lô hàng cà phê với tỷ lệ cao hơn. Các

ngân hàng sẽ sẵn lòng cho vay đến 80 – 90% giá trị lô hàng nếu được phòng ngừa,

trong khi nếu không phòng ngừa rủi ro thì tỷ lệ cho vay chỉ là 50% - 60%.

Giúp hoạt động giao thƣơng thuận lợi, dễ dàng hơn

Bằng việc tập kết những hàng hóa được xác định cụ thể tại các kho được công nhận,

hệ thống CCLK sẽ giúp giảm thiểu tình trạng bất cân xứng thông tin giữa các bên.

Bên vận hành kho có thể cung cấp các thông tin về hàng hóa lưu kho theo yêu cầu

của người mua với chi phí thấp và thậm chí không tốn tiền. Họ cũng bảo đảm việc

giao hàng đúng chủng loại và đúng hạn hợp đồng. Do phải đảm bảo tuân thủ các

quy định về tiêu chuẩn hàng hóa nên nhà sản xuất cũng sẽ dễ dàng thâm nhập vào

những thị trường hàng hóa hiện đại và hiệu quả hơn.

Chúng ta thấy rằng lợi ích của hệ thống chứng chỉ lưu kho không chỉ nằm ở chỗ hạn

chế rủi ro biến động giá mà còn giúp tăng khả năng tiếp cận tín dụng đối với khu

9

vực nông nghiệp nông thôn và tăng hiệu quả của các chương trình dự trữ của Chính

phủ. Tuy vậy, bản thân hệ thống này vẫn tồn tại những rủi ro nhất định, điều tác giả

muốn đề cập trong phần tiếp theo là cần thiết phải có được sự hiểu biết đầy đủ về

các rủi ro đó.

1.2.2 Rủi ro của hệ thống chứng chỉ lƣu kho

Điều băn khoăn đầu tiên của hầu hết các bên tham gia vào hệ thống chứng chỉ lưu

kho ở giai đoạn đầu là mức độ tin cậy của CCLK, nói cụ thể hơn là CCLK này có

thực sự đại diện cho lượng hàng hóa thật hay không, họ có thể lấy hàng khi xuất

trình CCLK cho nhà kho hay không? Có thể khái quát rằng rủi ro ở đây là CCLK bị

làm giả hoặc hệ thống kho lưu trữ không đạt tiêu chuẩn khiến cho hàng hóa không

đảm bảo được cả về số lượng và chất lượng.

Rủi ro làm giả CCLK

Giống như hầu hết các loại giấy tờ có giá khác, rủi ro bị làm giả cũng tồn tại với

CCLK. Cách thức để hạn chế rủi ro này là phải có một cơ quan có thẩm quyền ban

hành quy định mẫu biểu, cách thức ghi nhận chung cho tất cả các địa phương. Bên

cạnh đó, việc kiểm định và cấp phép cho các kho thành viên cần được thực hiện

nghiêm túc và thường xuyên. Về lâu dài, việc kết nối hệ thống mạng giữa các thành

phần tham gia và tiến tới sử dụng CCLK điện tử sẽ giúp hạn chế tối đa tình trạng

làm giả.

Rủi ro hàng lƣu kho không bảo đảm về số lƣợng & chất lƣợng

Rủi ro này có thể xuất phát từ các yếu tố khách quan như hệ thống kho không duy

trì được các điều kiện bảo quản cần thiết khiến cho hàng hóa bị thất thoát (động vật

ăn, hư hỏng) hoặc suy giảm chất lượng.

Ngoài ra, cũng không loại trừ yếu tố chủ quan của bên vận hành nhà kho. Do gặp

khó khăn về tài chính hoặc để trục lợi, họ có thể sử dụng hàng lưu kho được ký gửi

để kinh doanh mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu.

10

Để khắc phục vấn đề này, đòi hỏi các quy định về kho thành viên cần được xây

dựng một cách khoa học và cập nhật thường xuyên; đồng thời việc kiểm tra, giám

sát cần thực hiện nghiêm túc nhằm bảo đảm duy trì năng lực của các kho trong suốt

thời gian lưu trữ hàng hóa. Bên cạnh đó, không thế thiếu các điều kiện về bảo hiểm

như: bảo hiểm hỏa hoạn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng… Ở một số nước, bảo lãnh

thực hiện hợp đồng thường ở dưới dạng Thư tín dụng dự phòng (Standby Letter of

Credit) hoặc hợp đồng bảo hiểm (Insurance Bonds).

Rủi ro giá trị CCLK giảm giá

Đối với các định chế tài chính nhận CCLK làm tài sản bảo đảm cho khoản vay thì

rủi ro chính đối với họ lúc này là rủi ro giá hàng hóa giảm, làm giảm giá trị của

CCLK, do đó ảnh hưởng đến nguồn trả nợ của khoản vay. Cách thức tốt để phòng

ngừa rủi ro này là kết hợp khoản vay với một hợp đồng kỳ hạn hoặc một quyền

chọn bán vào ngày đáo hạn như cách mà ngân hàng PTA đã làm. Ứng dụng CCLK

kết hợp với phát triển SGDHH với các sản phẩm phái sinh phù hợp sẽ giúp giải

quyết được bài toán phòng ngừa rủi ro giá không chỉ cho ngân hàng mà còn cho tất

cả các đối tượng khác.

Tóm lại, bất kỳ hệ thống giao dịch thương mại hay tài chính nào cũng phải đối mặt

với những rủi ro nhất định. Điều quan trọng là cần tạo lập được những điều kiện

thuận lợi nhất để hệ thống ấy vận hành một cách hiệu quả, hạn chế được các rủi ro

đồng thời đưa ra các công cụ phòng ngừa rủi ro phù hợp.

1.3 Các điều kiện cần thiết để triển khai hệ thống chứng chỉ lƣu kho

1.3.1 Hệ thống pháp lý

Việc thiếu một hành lang pháp lý phù hợp có thể được xem là trở ngại lớn nhất

trong quá trình xây dựng và phát triển CCLK ở các nước đang phát triển. Về mặt

tổng thể, hệ thống pháp lý phải công nhận chứng chỉ lưu kho như là một loại tài sản

bảo đảm an toàn và các văn bản pháp lý phải nêu bật được các nội dung sau:

11

 Chứng chỉ lưu kho phải được công nhận tương đương với hàng hóa lưu kho

thật.

 Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên (chẳng hạn là nông dân, ngân

hàng hoặc bên cho thuê kho) đối với CCLK phải được quy định rõ ràng.

 Chứng chỉ lưu kho được chuyển nhượng thông qua hợp đồng mua bán hoặc

ký hậu.

 Người nắm giữ CCLK được ưu tiên hàng đầu trong việc nhận hàng hóa lưu

kho hoặc giá trị tương đương khi phát sinh bất kỳ sai sót nào của bên cho

thuê kho.

 Nếu có bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến nghĩa vụ bảo đảm của CCLK,

người mua phải được thông báo đầy đủ trước khi đưa ra quyết định mua.

1.3.2 Hệ thống kho lƣu trữ

Chỉ cấp giấy chứng nhận cho các kho đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn về cơ sở vật

chất cũng như năng lực tài chính. Cơ sở vật chất tốt và phù hợp là điều kiện cơ bản

để bảo đảm hàng hóa lưu kho duy trì về chất lượng và đầy đủ về số lượng. Năng lực

tài chính của bên vận hành kho cũng hết sức quan trọng, nó thể hiện năng lực duy

trì các điều kiện tối thiểu để kho vận hành tốt như khả năng trang trải chi phí điện,

nước, trả lương nhân viên … Đơn vị có tiềm lực tài chính càng mạnh thì các rủi ro

trục lợi cá nhân cũng sẽ càng ít.

Chính phủ cần quy định cụ thể về việc cấp phép đối với hệ thống kho lưu trữ dựa

trên việc đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn cơ sở vật chất và năng lực tài

chính của kho hàng tương ứng qui mô cũng như chủng loại hàng hóa nhằm bảo đảm

tính tương đồng và thống nhất của hệ thống.

1.3.3 Kiểm định & giám định hàng hóa

Để chứng chỉ lưu kho đạt được sự tin cậy và công nhận một cách rộng rãi, công tác

kiểm định hàng hóa là vô cùng quan trọng. Công tác này đòi hỏi sự tách bạch giữa

người giám định với tất cả các bên còn lại và việc sử dụng các đơn vị giám định độc

lập là tất yếu. Bên cạnh đó, để phát huy tối đa hiệu quả của công tác kiểm định thì

12

cần phải có một hệ thống đo lường chất lượng hàng hóa thống nhất và phù hợp với

các tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, chính phủ nhất thiết phải xây dựng hệ thống tiêu

chuẩn chất lượng quốc gia đối với từng sản phẩm để làm cơ sở chung cho công tác

kiểm định hàng hóa. Đồng thời xây dựng tiêu chuẩn cấp phép đối với các đơn vị

kiểm định nhằm huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân đầu tư vào hoạt động kiểm

định độc lập.

1.3.4 Cơ chế bảo lãnh/bảo hiểm

Ngay cả khi đã có hệ thống nhà kho tốt, công tác kiểm định chuyên nghiệp thì vẫn

cần có các sản phẩm bảo hiểm để gia tăng độ tin cậy đối với CCLK của người ký

gửi, nhà buôn và các ngân hàng. Một trong những điều kiện tiên quyết để CCLK

được chấp nhận trong các giao dịch thương mại và giao dịch ngân hàng là hệ thống

kho phải có bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee), nhằm bảo đảm

rằng hàng hóa trong kho phải đủ về số lượng và chất lượng thì phải bằng hoặc tốt

hơn như CCLK đã ghi. Không có bảo lãnh này, người nông dân và các nhà buôn sẽ

không sẵn lòng ký gửi hàng hóa vào kho còn các ngân hàng thì sẽ do dự khi chấp

nhận CCLK như là một tài sản bảo đảm an toàn cho các khoản vay liên quan đến

nông sản.

Các bảo lãnh thực hiện hợp đồng này thường được phát hành dưới hình thức hợp

đồng bảo hiểm (Insurance Bonds) và đôi khi được kết hợp với một quỹ bồi thường

tổn thất (Indemnity Fund) như ở Mỹ. Quỹ này được hình thành từ các khoản đóng

góp của các kho thành viên, trích từ phí lưu kho. Quỹ này có thể được sử dụng độc

lập hoặc sử dụng như là hình thức bảo hiểm thứ hai bên cạnh hợp đồng bảo hiểm.

Phương án thứ hai sẽ giúp giảm chi phí của công cụ bảo hiểm chính (Insurance

Bonds) và hỗ trợ các kho quy mô nhỏ có thể đạt được các hợp đồng bảo hiểm dễ

dàng hơn. Điều này sẽ giúp mở rộng các dịch vụ của kho lưu trữ đồng thời tăng tính

cạnh tranh trong ngành này.

13

1.4 Kinh nghiệm triển khai hệ thống chứng chỉ lƣu kho ở một số quốc gia

1.4.1 Kinh nghiệm của các quốc gia Châu Mỹ

Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đầu tiên sử dụng CCLK với kinh nghiệm triển

khai hơn 100 năm. Illinois là bang đầu tiên luật hóa những quy định đối với hoạt

động lưu kho và đến năm 1916 đạo luật (của liên bang) về lưu kho (Act of Warehousing) được ban hành2. Sự kết hợp giữa đạo luật này và các quy định của

từng bang giúp hình thành nên khung pháp lý mà theo đó bắt buộc các nhà kho phải

được cấp phép bởi chính quyền liên bang hoặc bang. Kết quả là đã hình thành hàng ngàn địa điểm để người nông dân có thể ký gửi hàng hóa và nhận lại CCLK3.

Các kho được cấp phép phải đáp ứng và duy trì các điều kiện cơ bản về cơ sở vật

chất, quy mô vốn, tính thanh khoản, chất lượng quản trị, bảo hiểm. Nhiều bang đã

xây dựng các quỹ bồi thường (Indemnity Funds) từ sự đóng góp của các nhà kho để

thay thế cho các hợp đồng bảo lãnh thực hiện. Hệ thống pháp lý và quy định đã giúp

đẩy mạnh việc ứng dụng CCLK giúp CCLK đóng vai trò quan trọng trong việc tài

trợ và phát triển kinh tế nông thôn tại Mỹ.

Đối với Hoa Kỳ, CCLK được sử dụng cho bốn mục đích chính:

1. Là tài sản bảo đảm cho các khoản vay theo các chương trình tiêu chuẩn của

Bộ Nông nghiệp, có thời hạn đến 9 tháng, được chính phủ bảo lãnh.

2. Đối với các chương trình dự trữ quốc gia mà ngũ cốc sẽ được gửi tại các kho

tư nhân, CCLK sẽ là giấy chứng nhận sở hữu của chính phủ đối với lượng

hàng hóa đó.

3. Là phương tiện tích trữ nguyên liệu cho mục đích sản xuất (chẳng hạn như

2 Đã được điều chỉnh bổ sung bằng đạo luật Grain Standards and Warehouse Improvement Act of 2000 3 Thời điểm năm 1998, Mỹ có khoảng 12.000 nhà kho loại này với sức chứa khoảng 230 triệu tấn; trong đó 1/3 thuộc sở hữu của các hợp tác xã (Coulter, 2009)

tại các công ty nghiền ngũ cốc).

14

4. Là chứng từ giao nhận được chấp nhận trong các giao dịch trên thị trường

giao sau hoặc là phương tiện thay thế cho Tín dụng thư trong thanh toán

quốc tế …

Các nƣớc Mỹ La Tinh

Nhiều quốc gia Mỹ La tinh cũng đã phát triển chứng chỉ lưu kho. Ở Argentina, hệ

thống chứng chỉ lưu kho đóng vai trò quan trọng đối với các khoản vay trong lĩnh

vực nông nghiệp và tổng giá trị các chứng chỉ lưu kho đã lên đến hơn một tỉ USD.

Đối với Brazil, cơ sở pháp lý đã có từ năm 1903 và đến năm 1997, Brazil có khoảng

6.400 kho được cấp phép với sức chứa hơn 60 triệu tấn tuy nhiên chất lượng dịch vụ của các kho đối với nông sản lại rất kém (ngoại trừ cà phê)4. Với mục đích chính là

quản lý lượng lớn hàng hóa dự trữ của chính quyền, nhiều công ty kho bãi đã được

thành lập một cách vội vã với cơ sở vật chất nghèo nàn và thiếu đi sự giám sát để

đối phó với sự không chuyên nghiệp và đôi khi là các hành động lừa đảo. Bên cạnh

đó, những ảnh hưởng chính trị của các ông chủ nhà kho khiến cho việc áp dụng các

quy định vào thực tế trở nên rất khó khăn.

Kinh nghiệm của Brazil cho thấy rằng sự can thiệp của chính phủ có thể phương hại

đến việc triển khai hệ thống chứng chỉ lưu kho và trong nhiều trường hợp các yếu tố

ảnh hưởng chính đến việc ứng dụng hệ thống này còn có thể là: lãi suất vay thực

cao, môi trường pháp lý không phù hợp và thiếu những tiêu chuẩn và quy ước phù

hợp.

1.4.2 Kinh nghiệm của các quốc gia Châu Phi5

Các nước Châu Phi bắt đầu triển khai các hệ thống chứng chỉ lưu kho từ

những năm 80 của thế kỷ trước. Quá trình xây dựng và phát triển các hệ thống

chứng chỉ lưu kho đã phân hóa thành 3 loại hệ thống chính là CMAs, NGOs và

4 Coulter (2009) 5 Tham khảo các nghiên cứu của Coulter và Shepherd (1995), Lacroix & Varangis (1996), La Grange (2002), Coulter (2009) và Onumah (2010)

Regulated WRS (Warehouse Receipt System).

15

Hệ thống CMAs

Quá trình tự do hóa kinh tế đã tạo điều kiện cho việc thành lập các công ty con của

các công ty giám định quốc tế tại nước sở tại để cung cấp kho lưu trữ và những dịch

vụ ký gửi hàng hóa mà không có những quy định cụ thể. Các công ty giám định này

sẽ lập một thỏa thuận ba bên được gọi là CMAs (Collateral Management

Agreements – tạm dịch là Thỏa thuận quản lý tài sản bảo đảm) bao gồm ngân hàng,

bên vay và bên quản lý tài sản bảo đảm (trường hợp này công ty kiểm định sẽ đóng

vai trò là bên cho thuê kho) với mục đích chính là cho phép bên ký gửi có tài sản

bảo đảm cho khoản vay ngân hàng.

Một trong những trở ngại chính của hệ thống này là khả năng tham gia của những

nhà sản xuất và thương nhân qui mô nhỏ. Chỉ những công ty lớn với khả năng thuê

toàn bộ kho hàng và sẵn sàng chấp nhận mức phí cao lên đến hàng ngàn USD/tháng

mới có thể tham gia. Dịch vụ của họ sẽ không đến được với những nhóm nông dân

hoặc thương nhân với qui mô hàng hóa nhỏ (chẳng hạn từ 50 – 100 tấn). Bên cạnh

đó, hệ thống này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu,

hiếm khi nào được sử dụng cho các hoạt động phi quốc tế. Ở phần lớn các nước Phi

châu, việc này sẽ hạn chế rất nhiều lợi ích của CCLK đối với hoạt động thương mại

trong nước. Chứng chỉ lưu kho cũng không chuyển nhượng được, không được xem

là công cụ để thực hiện các hợp đồng thương mại nên sẽ hạn chế rất nhiều đối với

giao thương.

Hệ thống NGOs (Non Governmental Organization)

Để giải quyết khó khăn khi tham gia CMAs của các nhóm nông dân nhỏ, NGOs đã

khởi xướng hệ thống tín dụng hàng tồn kho với mục tiêu là những nhóm nông dân

mà tiên phong là chương trình TechnoServe ở Ghana. Mục tiêu chính của hệ thống

này là giúp các nhà sản xuất có thể sử dụng tín dụng hàng tồn kho để trì hoãn việc

bán sản phẩm và vì thế thu được lợi nhuận từ việc giá hàng hóa tăng theo mùa vụ,

đặc biệt là đối với các mặt hàng ngũ cốc chính. Theo phương thức này, những hàng

hóa có thể lưu trữ được ký gửi tại nhà kho của những ngôi làng nhỏ, sức chứa từ 50

16

– 1.000 tấn. Các khoản vay thường sẽ được NGOs bảo lãnh (ở Ghana, TechnoServe

cung cấp bảo lãnh cho toàn bộ khoản vay). Mặc dù hệ thống này ngay lập tức đem

lại lợi ích cho những người nông dân tham gia, nó cũng không thực sự ổn định do

quy mô giao dịch ngũ cốc quá thấp, thường là dưới 1.000 tấn ngô/năm. Trong khi

những chương trình mang tính đột phá như TechnoServe lại đòi hỏi phải có sự giám

sát chặt chẽ và chi phí thường lớn hơn lợi nhuận đem lại.

Hộp 1.1: Kinh nghiệm triển khai chứng chỉ lƣu kho cho nông dân ở Ghana

Từ năm 1989, NGO TechnoServe đã phối hợp chặt chẽ với Vụ Hợp tác xã

(Department of Co-operatives) và Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp (ADB) của

Ghana để khuyến khích các hộ nông dân nhỏ lẻ hình thành các Hợp tác xã và sử

dụng chứng chỉ lưu kho để cất trữ nông sản cho các năm mất mùa. ADB cung cấp

các khoản vay dựa trên ngũ cốc của các thành viên, ở mức 75% - 80% giá thị

trường và ngũ cốc được cất trữ trong các kho thuộc sở hữu của các Hợp tác xã.

Chương trình tập trung triển khai ở Brong-Afaho vùng tam giác ngô của Ghana –

vựa nông sản chính và là nơi có mức độ biến động giá cao.

Từ năm 1992 – 1996, những nông dân tham gia chương trình trong khu vực đã tăng

được lợi nhuận từ bán ngũ cốc bình quân 94%/năm, ngay cả khi lãi suất vay ngắn

hạn lên đến 42%/năm. Đến mùa vụ 1997/1998, hơn 130 nhóm nông dân đã được hỗ

trợ và sau hơn 8 năm, tỷ lệ hoàn trả các khoản vay là 100%.

Mặc dù hệ thống này vẫn còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của NGOs, nó đã đạt được sự

thành công nhất định, trái ngược hoàn toàn với việc lưu trữ ngũ cốc vì mục đích

thương mại – hoạt động còn đặt dưới sự kiểm soát của Chính phủ và không hề sôi

động. Một số lợi ích của chương trình này là: tăng sản lượng lương thực, nông dân

được bảo vệ tốt hơn trước kia khi mà họ buộc phải chấp nhận bán rẻ ngay sau khi

thu hoạch, giảm thiểu thua lỗ sau thu hoạch, đầu tư cao hơn cho khu vực nông thôn.

Nguồn: TechnoServe (1998) và Coulter và Shepherd (1995)

17

Hệ thống Regulated WRS

Giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, Viện Tài nguyên thiên nhiên (NRI) đã xây dựng

và thực hiện thí điểm một hệ thống có quy tắc đầy đủ và mở rộng dựa trên kinh

nghiệm từ châu Âu, Nam Mỹ và Hoa Kỳ. Hệ thống này tập trung vào: (i) khuyến

khích phát triển mạng lưới kho lưu trữ đạt chuẩn do tư nhân quản lý, (ii) phát hành

các CCLK có thể chuyển nhượng và (iii) xây dựng sự tin cậy dựa trên hệ thống

kiểm định và cấp phép đủ năng lực. Hệ thống kho lưu trữ được nhận ký gửi hàng

hóa phải áp dụng những tiêu chuẩn khắt khe về trọng lượng và phẩm chất. Điều này

đặc biệt có ý nghĩa với những người cho vay khi mà hàng hóa thế chấp cho họ được

bảo đảm an toàn.

Một trong những ưu điểm của hệ thống này so với hai mô hình trên là do có hệ

thống quy định chặt chẽ nên sẽ giúp nhà vận hành kho giảm bớt một số thiệt hại.

Đối với hệ thống CMAs, những người nắm giữ hàng ký gửi phải chịu những thiệt

hại do trộm cắp hoặc các hành vi gian dối. Nhưng khi mất mát xảy ra, trách nhiệm

của họ lại được giới hạn bởi những điều khoản về tổn thất trong hợp đồng ký gửi;

kết quả là khiến ngân hàng e dè trong việc cấp tín dụng dựa trên hàng hóa ký gửi.

Hệ thống này cũng giải quyết được hạn chế của hệ thống NGOs ở chỗ hệ thống này

mở rộng đối với nhiều đối tượng hơn, vì thế gia tăng được khối lượng giao dịch,

giảm chi phí và tăng hiệu quả chung của hệ thống.

Hệ thống này đã triển khai ở một số quốc gia như: Tanzania với cà phê, bông, hạt

điều, ngô và gạo; Uganda với ngũ cốc các loại; Zambia với ngô …

Hộp 1.2: Kinh nghiệm triển khai chứng chỉ lƣu kho cho ngƣời trồng cà phê ở

Tanzania

Thông qua một dự án được tài trợ bởi Common Fund for Commodities (CFC), hệ

thống nhà máy sơ chế và bảo quản cà phê (trước thuộc sở hữu của các hợp tác xã)

đã được cấp giấy chứng nhận nhà kho đủ tiêu chuẩn để nhận ký gửi những lô cà phê

(Arabica) đảm bảo chất lượng phù hợp tiêu chuẩn. Bên ký gửi có thể là các hợp tác

xã qui mô lớn (PCS), các hội nông dân và các nhà buôn. 32 PCS thu mua cà phê từ

18

hơn 3.500 thành viên của mình với khoản tiền thanh toán lần đầu tương đương 60%

giá trị hợp đồng. Các ngân hàng sẽ cho vay đến 80% giá trị lô hàng sau khi nhận lô

hàng ký gửi làm tài sản bảo đảm. Phương thức này cho phép các PCS có thể thu

mua lượng cà phê tương đương 10 lần nguồn vốn lưu động của họ. Tiền thu được từ

việc bán cà phê phải chuyển qua các ngân hàng cho vay để thực hiện việc hoàn trả

các khoản vay trước tiên. Từ vụ mùa 2002/2003, tổng giá trị các khoản vay lên đến

10 triệu USD đã được các ngân hàng ở Tanzania giải ngân. Thành viên của các PCS

thì nhận được thêm 1,1 USD cho mỗi kg cà phê bán qua hệ thống này (thanh toán

chia làm 3 đợt). Đối với người nông dân, việc bán cà phê cho các hợp tác xã giúp họ

tăng thu nhập thêm từ 0,65 – 0,75 USD cho mỗi kg so với bán cho thương lái.

Chính vì các kết quả này mà các PCS đã chiếm hơn 65% lượng cà phê giao dịch

qua Moshi Coffee Auction.

Nguồn: Onumah (2010)

Hộp 1.3 Hệ thống chứng chỉ lƣu kho đối với ngô của Zambia

Common Fund for Comodities (CFC) đã tài trợ cho một dự án thử nghiệm hệ thống

chứng chỉ lưu kho đối với ngũ cốc ở Zambia với sự hỗ trợ của Viện Tài nguyên

thiên nhiên (NRI – Natural Resources Institute). Đối tượng của dự án hướng tới

những thương nhân và cả những người sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ. Việc

chuẩn bị đã được khởi động từ năm 2000 và chính thức thực hiện thí điểm vào mùa

vụ 2003/2004. Giai đoạn thành công nhất là mùa vụ 2004/2005 khi có 4 nhà kho đủ

tiêu chuẩn với sức chứa 105.000 tấn được cấp phép; lượng ngô ký gửi lên đến

65.000 tấn, trong đó 3.764 tấn do những nhóm nông dân nhỏ ký gửi. Chứng chỉ lưu

kho được chấp nhận tài trợ bởi Intermarket Discount House, Barclays Bank,

Standard Chatered và Stantic Bank, tỷ lệ cho vay bình quân là 78,6%.

Nguồn: Onumah (2010)

19

Bên cạnh các dự án triển khai chứng chỉ lưu kho đạt được hiệu quả thì vẫn tồn tại

một số bài học về thất bại khi sử dụng hệ thống này, tiêu biểu là Mali. Mali có một

chương trình lưu kho với tên gọi “Tierce Detention” (tạm dịch là “Thùng lưu trữ”),

theo đó hàng hóa sẽ được ký gửi tại các hệ thống kho của bên thứ ba. Ngân hàng

Trung ương Tây Phi qui định phải có sự tách bạch giữ chủ sở hữu kho với nhà buôn

và ngân hàng. Nhưng quy định này dường như chỉ mang tính hình thức. Các quy

định không được luật hóa. Và giả sử luật có được ban hành đi nữa thì nó cũng sẽ

không mấy hiệu lực bởi vì sự tham nhũng trong hệ thống tòa án của nước này.

“Tierce Detention” vận hành như sau:

 Bên ký gửi sẽ phải trả cho bên cho thuê kho khoản phí lưu trữ và xếp dỡ cho

thời gian lưu kho đã thỏa thuận.

 Bên ký gửi sẽ đến ngân hàng đề nghị vay dựa trên số hàng hóa ký gửi đó.

Mức cho vay chỉ từ 10% - 20% giá trị hàng hóa ký gửi.

 Khi muốn bán từng phần hàng hóa lưu kho, bên ký gửi phải nhận được văn

bản đồng ý giải chấp của ngân hàng, thường thì rất chậm và phải tốn chi phí.

Chương trình này của Mali đã thất bại do một số nguyên nhân sau:

 Hàng hóa bị hỏng trong quá trình lưu kho do hệ thống quản lý và kỹ thuật

không phù hợp.

 Hệ thống quản lý và kiểm soát tồn kho lạc hậu khiến hàng hóa bị thất thoát

trong quá trình nhập và xuất kho.

 Không có tiêu chuẩn chất lượng cho các loại hàng hóa.

 Không có hệ thống luật pháp minh bạch để điều chỉnh và vận hành chương

trình một cách hiệu quả.

1.4.3 Mô hình tài trợ bằng chứng chỉ lƣu kho Quedancor của Philippines

Tính không hiệu quả của thị trường tín dụng cộng với việc người nông dân cần tiền

mặt ngay đã làm cho phần lớn nông sản được bán ngay lập tức sau vụ mùa. Có một

số giả thuyết cho rằng nếu như những hàng hóa trong kho tự thân nó trở thành một

20

“phương tiện” để có được những khoản tín dụng cần thiết cho người nông dân thì

vấn đề này có lẽ đã được giải quyết. Philippines đã giải quyết vấn đề này thông qua

chương trình tài trợ bằng chứng chỉ lưu kho Quedancor (The Quedan and Rural Credit Guarantee Corporation)6. Công ty The Quedan and Rural Credit Guarantee

Corporation ra đời năm 1992 với cơ cấu vốn góp: Chính phủ Philippines 60%, nông

dân, ngư dân và các nhà đầu tư tư nhân 40%. Từ “quedan” có nguồn gốc từ chữ

“quedar” trong tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là “ký quỹ hay là để tất cả lại đằng

sau”

Quy tắc hoạt động của hệ thống chứng chỉ lƣu kho Quedancor

Nguyên tắc dựa trên nền tảng là có sự can thiệp của người điều hành kho hàng. Sau

khi người nông dân chuyển hàng hóa đến kho, sẽ có một bộ phận giám định về chất

lượng và số lượng của kho hàng. Nếu đáp ứng được đầy đủ tiêu chuẩn đã quy định,

thủ kho sẽ đưa cho người nông dân giấy chứng nhận nhập kho. Những giấy tờ này

chính là vật bảo đảm cho các khoản vay vốn ở ngân hàng. Tổng giá trị khoản vay có

thể phụ thuộc trực tiếp vào giá trị hàng hóa lưu kho (khoản vay có thể lên đến 70-

80% giá trị ước tính và tại một mức lãi suất thông thường). Lãi suất này sẽ bằng lãi

suất liên ngân hàng và chi phí giao dịch cộng với một mức tiền lời nhỏ và một

khoản tiền bù rủi ro. Tổng giá trị này phải nhỏ hơn các khoản vay khác cho nông

nghiệp nhờ vào các biên nhận lưu kho đã làm giảm rủi ro cho ngân hàng. Nếu người

nông dân không thể thực hiện nghĩa vụ trả tiền, ngân hàng sẽ trở thành chủ sở hữu

của những hàng hóa đó và có thể bán đi để bồi hoàn khoản vay. Phần còn lại của hệ

thống là việc bán được hàng hóa. Để chuyển hàng hóa ra khỏi kho người nông dân

cần sự đồng ý của ngân hàng nhưng anh ta vẫn có thể bán trực tiếp giấy chứng nhận

này cho một thương nhân. Sau đó nếu nhà buôn này muốn lấy hàng hóa, anh ta sẽ

thanh toán cho ngân hàng khoản vay vốn trước đó và đưa phần còn lại cho người

nông dân. Hơn nữa, Sở giao dịch hàng hóa cũng cho phép giao dịch những giấy

6 Nguồn: http://quedancor-home.blogspot.com

chứng nhận này, điều này sẽ làm gia tăng hiệu quả của thị trường.

21

Hình 1.1: Mô hình chứng chỉ lƣu kho ở Philippines

1.4.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Mô hình tài trợ bằng chứng chỉ lưu kho Quedancor của Philippines cũng như hệ

thống chứng chỉ lưu kho của các quốc gia Châu Phi là những khảo cứu đáng để

chúng ta học tập. Các điểm chính có thể rút ra như sau:

 Hệ thống tín dụng bằng giấy chứng nhận lưu kho phải có độ tin cậy cao và

công tác phân loại chất lượng phải được làm tốt để tạo niềm tin không chỉ

cho người cho vay mà còn cho các thương nhân, người gia công và những

nhà xuất khẩu.

 Hệ thống kho hàng phải hiệu quả và có các tiêu chuẩn sau: là một nơi an toàn

đối với hàng hóa, cung cấp dịch vụ với giá cả cạnh tranh, có một không gian

đủ lớn và trải đều khắp cả nước để cung cấp dịch vụ và dễ tiếp cận đối với

22

nông dân. Tiêu chuẩn hàng hóa phải giống nhau cho tất cả thị trường và phải

phù hợp với tiêu chuẩn hội nhập quốc tế.

 Giấy chứng nhận lưu kho phải có đủ tính pháp lý theo luật định cả trên lý

thuyết và thực tiễn (tòa án địa phương phải nhận thức được chức năng công

cụ này). Luật phải xác định rõ ràng quyền lợi người mua giấy chứng nhận đó

và người sở hữu hàng hóa trong trường hợp cầm cố hàng hóa cho ngân hàng.

 Sàn giao dịch hàng hóa hoạt động hiệu quả sẽ góp phần tăng tính thanh

khoản cho CCLK và vì thế giúp giảm thiểu rủi ro của tài sản bảo đảm là

CCLK, giúp người nông dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nguồn

vốn tín dụng hơn, với mức lãi suất rẻ hơn.

Ngoài ra, để xây dựng được một chương trình hiệu quả thì chắc chắn phải có những

chính sách khích lệ đúng đắn từ phía chính phủ, một sự sẵn lòng của các ngân hàng

và một sự sẵn lòng từ phía những người nông dân trong cuộc thử nghiệm này. Thật

khó để xây dựng được hệ thống này, đặc biệt nếu không có sự quan tâm của người

dân. Thậm chí nếu chính phủ và các đối tác khác sẵn sàng, cũng không nên quên

rằng nếu người nông dân không tham gia cuộc chơi, mọi thứ sẽ sụp đổ. Chúng ta có

thể khuyến khích người nông dân tham gia vào hoạt động mua hoặc thuê lại nhà

kho này có thể cho thấy sự sẵn sàng tham gia của họ. Mặc dù nông dân không thể

tài trợ toàn bộ nhưng ít nhất thì sự liên quan về mặt tài chính của họ cũng là minh

chứng cho sự sẵn lòng tham gia hay là đảm bảo cho sự tham gia của họ.

23

TÓM TẮT CHƢƠNG 1

Hoạt động sản xuất nông nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn và rủi ro, trong đó

nổi lên hai trở ngại lớn là tình trạng được mùa mất giá và khó khăn trong tiếp cận

nguồn vốn tín dụng. Kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy hệ thống

chứng chỉ lưu kho có thể giải quyết tốt hai vấn đề nêu trên. Mặc dù có những rủi ro

nhất định, những lợi ích mà hệ thống chứng chỉ lưu kho đem lại là vô cùng to lớn và

mang tính thực tiễn. Kinh nghiệm triển khai của một số quốc gia Châu Phi – nơi mà

điều kiện kinh tế xã hội nhiều nơi còn chưa bằng Việt Nam – cũng đã cho thấy

những kết quả đáng khích lệ và có tính khả thi rất cao. Để tận dụng hiệu quả lợi ích

của hệ thống này đòi hỏi phải xây dựng được những điều kiện nhất định và chắc

chắn là không hề đơn giản. Tuy nhiên lợi ích của hệ thống này thực sự to lớn không

chỉ đối với người nông dân, doanh nghiệp mà còn cả đối với chính phủ. Do đó việc

nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia đi trước là rất cần thiết để có thể xây

dựng riêng cho nước ta một hệ thống chứng chỉ lưu kho phù hợp với điều kiện cụ

thể của đất nước và con người Việt Nam.

24

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NÔNG NGHIỆP & QUẢN TRỊ RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

2.1 Thực trạng hoạt động tín dụng nông sản tại Việt Nam

2.1.1 Những kết quả đạt đƣợc

Mục tiêu của hoạt động tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp là đáp ứng đầy

đủ, kịp thời, có hiệu quả nguồn vốn cho nhu cầu phát triển toàn diện lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của người

nông dân. Để đạt được mục tiêu này, trong thời gian qua hoạt động tín dụng nông

nghiệp, nông thôn đã có những bước phát triển nhất định, thể hiện ở việc: (i) đối

tượng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngày càng mở rộng; (ii) doanh số cho vay và dư

nợ tín dụng ngày càng tăng.

(i) Đối tƣợng đƣợc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngày càng tăng đã thúc đẩy

phát triển nông nghiệp, nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Nhờ có mạng lưới kinh doanh trải rộng cùng với việc áp dụng hình thức cho vay

theo nhóm, phối hợp với những tổ chức quần chúng để cung cấp các dịch vụ tài

chính … đối tượng khách hàng được phục vụ cũng như các kênh dẫn vốn tới hộ sản

xuất, doanh nghiệp cũng được mở rộng, phát triển khắp các vùng kinh tế của đất

nước. Trong thời gian từ năm 1994 đến năm 2007, tỉ lệ nông hộ gia đình nông thôn

vay được tiền của các định chế tài chính đã tăng từ 9% lên đến 70%. Hoạt động tín

dụng đã thực sự gắn với làng, bản, xóm thôn, gần gũi với bà con nông dân. Vốn cho

vay đã tạo thêm nghề mới, khôi phục các làng nghề truyền thống, góp phần chuyển

dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá, công

nghiệp, dịch vụ.

25

Với số vốn đầu tư hàng ngàn tỉ đồng, các tổ chức tín dụng đã giúp hàng vạn hộ

nông dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo mùa vụ và

tiếp tục mở rộng ngành nghề góp phần làm tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Nhờ

mở rộng đầu tư tín dụng cùng với vốn tự có và sức lao động đã giúp họ có điều kiện

khai thác tiềm năng kinh tế tự nhiên của mỗi vùng, từng bước hình thành các vùng

chuyên canh lúa, hoa màu và cây công nghiệp có tỷ suất hàng hóa cao, như ở các

vùng lúa đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, vùng cây công

nghiệp dài ngày (chè, cà phê) ở Tây Nguyên, vùng cây ăn quả lâu năm ở các tỉnh

trung du và miền núi phía Bắc…

Đi đôi với việc đầu tư cho trồng trọt, chăn nuôi, các tổ chức tín dụng đã mở rộng

cho vay phát triển ngành nghề tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo

hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Đối tượng

cho vay không còn đơn lẻ như những năm trước, mà đã được mở rộng như: cho vay

xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn (điện, đường giao thông), cho các doanh

nghiệp vừa và nhỏ vay để mở rộng quy mô sản xuất. Đặc biệt là phát triển việc cho

các làng nghề vay theo hướng sản xuất hàng hóa như chế biến nông lâm sản, chăn

nuôi đại gia súc gia cầm, làm các nghề mộc, nghề rèn, thêu ren, đồ thủ công mỹ

nghệ ... Hiện trên cả nước có khoảng trên 2.000 làng nghề với khoảng 1,4 triệu hộ,

thu hút trên 10 triệu lao động. Kim ngạch xuất khẩu đồ thủ công mỹ nghệ tăng từ

235 triệu USD (năm 2001) lên 450 triệu USD (năm 2004) và đến nay con số này đã

tăng gấp nhiều lần. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa Việt Nam xuất

khẩu đã có ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Tây

Ban Nha, Bỉ, Trung Quốc, Đài Loan… Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành

nghề dịch vụ nông thôn tiếp tục phát triển bình quân tăng 15%/ năm. Nhờ đó, thu

nhập của hộ nông dân cũng ngày càng được cải thiện.

Nhằm thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, ngân hàng còn đầu tư vốn khuyến khích

các trang trại mở rộng quy mô sản xuất, thu hút lao động có việc làm. Trong những

năm gần đây, thực tế cho thấy kinh tế trang trại đóng vai trò quan trọng trong sản

xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản. Ngày càng xuất hiện nhiều hộ nông dân sản xuất

26

hàng hóa có quy mô lớn, tập trung. Ngân hàng đã giúp cho các đối tượng vay để

trang trải chi phí giống, cải tạo vườn, ao, chuồng, thậm chí cả chi phí trả công lao

động thời vụ. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đồng đến 300 triệu

đồng, có trang trại vay đến 500 triệu đồng. Hiện nay cả nước có trên 113.730 trang

trại (tăng gấp gần 2 lần so với năm 2001), với số diện tích đất sử dụng là 663.500

ha, đã tạo việc làm thường xuyên cho 395.000 lao động. Đồng bằng sông Cửu

Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt nước

thuận lợi để mở rộng quy mô trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, nên ba

vùng này có số lượng trang trại nhiều nhất (chiếm đến 70%).

(ii) Nguồn vốn cho vay nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng

Trên địa bàn nông thôn hiện nay, ngoài các nguồn vốn cho vay từ các định chế tài

chính vi mô, thì nguồn vốn tín dụng chủ lực phục vụ nông nghiệp nông thôn là

nguồn vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng, mà chủ lực là NHNNo&PTNT, Quỹ Tín

dụng nhân dân, Ngân hàng Chính sách xã hội. Nguồn vốn này thường hiện diện

dưới 02 hình thức đó là cho vay thông thường và vay ưu đãi (theo chính sách của

Nhà nước, hoặc theo các chương trình dự án của các tổ chức tài chính quốc tế như

WB, IMF,…).

Trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, với hệ

thống mạng lưới rộng khắp, các TCTD đã đẩy mạnh cho vay lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn. Nếu như thời điểm 31/12/1998, dư nợ tín dụng đối với khu vực nông

nghiệp, nông thôn mới đạt 34.000 tỷ đồng, chiếm 27,65% tổng dư nợ cho vay đối

với nền kinh tế thì đến 31/12/2010 con số này đã là 354.000 tỷ đồng (tăng hơn 10

lần), chiếm 16% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đến 30/06/2011, dư nợ tín dụng

đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn là 456.412 tỷ đồng; chỉ tính riêng

7 Nguồn: Bản tin Thông tin tín dụng, www.sbv.gov.vn

Agribank, tổng dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn đạt hơn 290.000 tỷ đồng, chiếm 64% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn của cả nước7. Những

27

ngành, lĩnh vực chủ chốt trong nông nghiệp như lúa gạo, cà phê, thủy sản… đều

được ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất, thu mua và xuất khẩu.

Ngoài ra, nhiều ngân hàng đã chủ động tìm dự án có hiệu quả, giúp các hộ và các

doanh nghiệp hoàn thành những thủ tục cần thiết để chủ động giải ngân cho vay

sớm. Thị trường tín dụng nông nghiệp, nông thôn được mở rộng, tăng được tỷ trọng

số hộ vay và mức dư nợ bình quân/hộ. Các hộ nông dân vay vốn được giải quyết

nhanh chóng, những thủ tục phiền hà đã giảm bớt, không còn tình trạng phải chờ

đợi như những năm trước đây. Đặc biệt là mức cho hộ nông dân, hợp tác xã vay đã

nâng lên đến 500 triệu đồng mà không phải thế chấp tài sản, tạo cơ hội giúp hộ

nông dân chủ động thực hiện phương án kinh doanh của mình.

Có được bước phát triển trên, có thể nói là do sự hỗ trợ về mặt chính sách, vốn của

Chính phủ, của NHNN. Như chính sách ưu đãi về lãi suất, ưu đãi về điều kiện vay

vốn, nguồn vốn hỗ trợ cho những rủi ro do hạn hán, mất mùa, lũ lụt, thị trường tiêu

thụ gặp khó khăn. Gần đây nhất, khi lạm phát gia tăng, suy giảm kinh tế toàn cầu….

NHNN thực thi chính sách tiền tệ hướng tới mục tiêu kiềm chế lạm phát, hoặc

chống suy giảm kinh tế đều cân nhắc đến việc hỗ trợ cho lĩnh vực đầu tư tín dụng

này, sao cho ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ là thấp nhất. Ngoài ra là sự

quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, sự nhận thức về tầm quan trọng

trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn của bản thân các định chế tài chính,

của các tổ chức tài chính nước ngoài…

2.1.2 Một số hạn chế

Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn, tuy đạt được những kết quả nhất

định, song so với mức tăng tín dụng chung của toàn bộ nền kinh tế còn thấp (22%

so với 25% trong giai đoạn 1999 – 2009); tỷ lệ dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp

nông thôn so với tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đã giảm từ mức 23% - 27% giai

đoạn 2000 – 2005 xuống còn 16% trong năm 2010.

Các TCTD không mặn mà cấp vốn cho lĩnh vực nông nghiệp

28

Điều này được thể hiện khá rõ khi tỉ trọng cho vay nông nghiệp - nông thôn của

những ngân hàng có ưu thế ở nông thôn rất khiêm tốn. Cụ thể, dư nợ cho vay nông

nghiệp - nông thôn của ngân hàng Đại Tín chỉ chiếm khoảng 12% tổng dư nợ.

Nhiều năm trước, Sacombank mở rộng mạng lưới đến vùng sâu, vùng xa trên cả

nước song đến nay, tỉ trọng cho vay nông nghiệp - nông thôn chỉ nằm ở con số

12%... Ngay cả ngân hàng lớn như Vietinbank cũng chỉ đạt 35.000 tỷ đồng, # chiếm

chưa đến 15% tổng dư nợ. Ngân hàng Kiên Long xác định mục tiêu là thị trường

nông thôn song tỉ trọng cho vay nông nghiệp - nông thôn cũng chỉ đạt 40% tổng dư

nợ. Các ngân hàng có dư nợ lớn khác như Vietcombank, BIDV, ACB, MB thì gần

như đứng ngoài cuộc chơi. Số liệu thống kê của ACB cho thấy dư nợ cho vay nông

nghiệp nông thôn đến 31/12/2010 là hơn 422 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 0,48% tổng

dư nợ cho vay của ngân hàng này.

Ngƣời nông dân, doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng

Ước tính có đến 80% nông dân Việt Nam phải vay nặng lãi từ nguồn tín dụng

không chính thức. Theo quy định của chính phủ về chính sách tín dụng nông nghiệp

nông thôn (Nghị định 41/2010/NĐ-CP), hộ nông dân được vay tín chấp tối đa 50

triệu đồng; HTX, mô hình kinh tế trang trại có thể được vay tín chấp 300 - 500 triệu đồng. Thế nhưng, khi vay vốn, ngân hàng lại yêu cầu nông dân nộp sổ đỏ8. Trường

hợp được vay thì mức vay cũng thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu thực tế của người

nông dân. Một nông dân ở Cần Thơ cho biết việc vay vốn ngân hàng rất khó khăn

luôn luôn phải thế chấp sổ đỏ: “Cầm sổ đỏ thì ngân hàng nào cũng cho vay nhưng

cho vay trong khuôn khổ, mỗi héc-ta đất nông nghiệp được vay tối đa 20 triệu hiện

nay lãi suất 1,6% một tháng. Tùy theo hợp đồng trả lãi 3 tháng, 6 tháng; 4 ngân

hàng vốn quốc doanh thì đỡ hơn, ngân hàng cổ phần thì mỗi tháng mỗi đóng lãi.

8 Theo www.nld.com.vn

Nếu thiếu vốn thì phải vay bên ngoài, người nào tốt bụng lắm thì cho vay 3% một

29

tháng như vậy là nhẹ, nhiều người cho vay cao hơn nữa mình cũng phải chịu nhưng vay ít chứ nhiều làm không đủ trả lãi.”9

Nguyên nhân của các hạn chế

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên song có thể nêu ra một số

nguyên nhân chính sau:

Trước tiên, có thể thấy rằng hoạt động sản xuất nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro

thuộc về bản chất như thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh

luôn rình rập ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Trong bối

cảnh kỹ thuật canh tác của người nông dân Việt còn nhiều hạn chế và các sản phẩm

bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng chưa phát triển thì những yếu tố này đã

làm gia tăng đáng kể rủi ro của những khoản vay trong lĩnh vực nông nghiệp và vì

thế cản trở sự phát triển của hoạt động tín dụng nông nghiệp nông thôn nói chung

và tín dụng nông sản nói riêng. Thực tế thì tỷ lệ nợ xấu của Agribank – ngân hàng

chiếm 2/3 tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp - đến cuối năm 2009 là gần 4%

cao hơn đáng kể so với mức bình quân toàn ngành là 2,5%. Nếu xét theo địa bàn,

vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long (chiếm 49% tổng dư nợ vay

khu vực nông nghiệp nông thôn) cũng chiếm đến 55,13% tổng dư nợ xấu của cả nước đến 31/12/201010.

Yếu tố thứ hai là thiếu TSBĐ. Theo khảo sát của VCCI năm 2008, thiếu tài sản bảo

đảm là rào cản tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng phổ biến nhất đối với các doanh

nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Trong khi doanh nghiệp nông nghiệp nông thôn

chiếm 87% trong tổng số 453.800 DNNVV của cả nước, nên đó cũng chính là

những rào cản đối với hoạt động tín dụng nông nghiệp. Các TCTD thường yêu cầu

bên vay phải thế chấp tài sản: bất động sản hoặc hàng hóa. Đối với người nông dân

và DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thì thường không có đất đủ điều kiện

9 Theo www.rfa.org 10 Nguồn: Bản tin Thông tin tín dụng và Ngân hàng Nhà nước

thế chấp (do chưa có đầy đủ giấy tờ) hoặc giá trị đất nhỏ, không đủ đáp ứng cho nhu

30

cầu vay vốn. Trường hợp đề nghị ngân hàng nhận hàng hóa (là nông sản) làm tài

sản thế chấp thì thường gặp rất nhiều trở ngại do rủi ro biến động giá của các mặt

hàng nông sản trong những năm gần đây quá lớn khiến các ngân hàng e ngại khi

nhận nông sản làm tài sản thế chấp. Yếu tố giá cả biến động mạnh chính là một

trong những nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển của tín dụng nông sản vì giá

cả biến động gây ảnh hưởng kép đến nguồn trả nợ của khoản vay và mức độ an toàn

của biện pháp bảo đảm tiền vay (thông thường chính là nông sản). Các khoản vay

của các hộ nông dân, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản vốn đã gặp nhiều

trở ngại do thiếu TSBĐ (các TCTD thường yêu cầu phải có BĐS thế chấp) nay lại

càng gặp nhiều khó khăn hơn do yếu tố rủi ro cao của TSBĐ là hàng nông sản.

Yếu tố thứ ba là thị thường tiêu thụ sản phẩm nông sản chưa ổn định, một số mặt

hàng xuất khẩu thì phụ thuộc quá nhiều vào giá cả thế giới, tình trạng “được mùa

mất giá” thường xuyên diễn ra…

Yếu tố thứ tư là công tác nghiên cứu, dự báo kinh tế liên quan đến lĩnh vực này còn

yếu nên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất. Thực trạng này đã khiến hoạt

động tín dụng nông sản vốn đã nhiều rủi ro trong quá trình nuôi trồng nay lại tiếp

tục hứng chịu rủi ro trong quá trình tồn trữ và tiêu thụ.

Yếu tố thứ năm là công nghệ ngân hàng, cũng như mạng lưới viễn thông mới chỉ

phát triển mạnh ở các vùng đô thị, đông dân; còn vùng sâu, vùng xa chưa phát triển,

nên cũng rất hạn chế đối với việc tiếp cận tín dụng của người dân, cũng như các

định chế tài chính khó có thể mở rộng mạng lưới của mình. Điều đó cũng giải thích

tại sao các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn còn nghèo nàn, chủ

yếu là tín dụng truyền thống. Bên cạnh đó, phần lớn người dân ở vùng nông thôn,

đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân trí không đồng đều; chưa

tiếp cận được tiến bộ khoa học kỹ thuật nên nếu như không có một sự đảm bảo, tư

vấn về việc làm kinh tế, phát triển sản xuất từ phía người cung cấp vốn thì chắc

chắn họ sẽ hạn chế tiếp cận với vốn vay. Mặt khác, quy trình cung cấp tín dụng còn

phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân đặc biệt là các thủ tục liên quan

đến tài sản thế chấp là đất đai. Các tổ chức tín dụng chính thức thường yêu cầu

31

người đi vay phải thế chấp tài sản, phổ biến nhất là đất hay nhà có kèm theo giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận tạm thời quyền

sử dụng đất do huyện cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh của chính quyền địa

phương. Tuy hầu hết các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể đem đất thế chấp

cho ngân hàng để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ” hoặc để xin được một giấy chứng

nhận thì mất rất nhiều thời gian. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở

lớn đối với người dân có trình độ văn hóa thấp, và làm nảy sinh những tệ nạn như

cò vay vốn, phát triển hình thức tín dụng nặng lãi,.. và không đáp ứng kịp thời vốn

cho hoạt đông sản xuất kinh doanh. Theo khảo sát của tác giả, một trong những yếu

tố người nông dân và doanh nghiệp quan tâm khi làm thủ tục vay vốn hoặc tham gia

SGDHH là thủ tục phải đơn giản.

Yếu tố thứ sáu, chính phủ chưa thể hiện được vai trò định hướng mạnh mẽ trong

chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, chưa tạo được động lực đáng kể để

thu hút hiệu quả nguồn lực cho lĩnh vực này. Ngành nông nghiệp chưa có chiến

lược phát triển phù hợp, quy hoạch vùng sản phẩm nông nghiệp chưa rõ ràng, thị

trường tiêu thụ chưa mở rộng và ổn định, nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho

nông nghiệp kịp thời. Việc hỗ trợ kỹ thuật cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi chưa

đồng bộ, việc bao tiêu sản phẩm chưa có kế hoạch, quy hoạch cụ thể, chắc chắn làm

hạn chế mở rộng phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dẫn đến hoạt động tín

dụng gặp nhiều khó khăn. Trong 5 năm (2003-2007) Việt Nam đầu tư cho phát triển

nông nghiệp chỉ đạt 113.000 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới chỉ

đáp ứng 17% nhu cầu của khu vực này. Bảo hộ nông nghiệp mới chỉ ở mức 4%

(260 triệu USD) trong khi cam kết với WTO là 10% so với giá trị sản lượng nông

nghiệp (650 triệu USD). Đầu tư cho khuyến nông chỉ là 0,13% GDP (trong khi các

nước khác tỷ lệ này là 4%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp,

nông thôn mới chiếm 3% tổng nguồn FDI… Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng bình quân

trong cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn của 10 năm qua dưới

22%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân chung của tín dụng toàn bộ

nền kinh tế là 25%/năm.

32

Ngoài ra, một số tồn tại khác của hoạt động tín dụng nông nghiệp có thể kể đến là

thu nhập của các hộ nông dân còn thấp, cùng với việc xác định quyền sử dụng đất

của người nông dân còn có những bất cập, nên việc cho vay các khoản vốn lớn để

mở rộng sản xuất của hộ gia đình nông thôn là rất hạn chế. Với chính sách cho vay

không có đảm bảo đến 500 triệu không đủ để thúc đẩy việc mở rộng sản suất của

các hộ gia đình, để chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp, nông thôn.

Nhìn chung trong thời gian qua, hoạt động tín dụng nông nghiệp tuy có những thành

tựu nhất định, nhưng vẫn còn các tồn tại lớn ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành

nông nghiệp nói riêng và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung của cả nước.

Ngoài sự bất ổn của giá nông sản, khó khăn trong tiếp cận tín dụng do TSBĐ thiếu

hoặc yếu và những rủi ro đặc trưng ngành là những yếu tố chính tác động tiêu cực

đến khả năng đẩy mạnh hoạt động tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp. Chúng ta

thấy rằng những khó khăn trên của ngành nông nghiệp có mối tương quan khá chặt

với nhau: người nông dân, nhà sản xuất không có khả năng lưu giữ hàng hóa và

không tiếp cận được nguồn tín dụng nên gặp bất ổn của giá dẫn đến thua lỗ. Ngược

lại, do bất ổn trong giá cả nên không dự báo được dòng tiền lại càng làm cho họ khó

có thể vay vốn được ở những thị trường chính thức… Các yếu tố ấy lặp đi lặp lại

như một vòng luẩn quẩn đã hạn chế rất nhiều sự phát triển của ngành nông nghiệp

cũng như hoạt động tín dụng trong lĩnh vực này.

Bài nghiên cứu này sẽ đưa ra một số biện pháp để đối phó với vấn đề bất ổn của giá

nông sản và một số khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng nêu trên thông qua việc

xem xét hệ thống tín dụng dựa trên hàng hóa lưu kho – chứng chỉ lưu kho. Cách

làm này theo tác giả là rất phù hợp với các nước đang phát triển và phụ thuộc nhiều

vào xuất khẩu nông sản như Việt Nam. Lúc đó, việc tiếp cận tín dụng sẽ được kết

hợp với quản trị rủi ro giá cả. Người nào quản trị rủi ro tốt, người đó sẽ có khả năng

tiếp cận tín dụng tốt hơn.

33

2.2 Rủi ro biến động giá trong nông nghiệp và vấn đề quản trị rủi ro biến động giá đối với ngành nông nghiệp Việt Nam

2.2.1 Các rủi ro biến động giá trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

Hoạt động sản xuất nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro thuộc về bản chất như thời

tiết diễn biến phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh luôn rình rập ảnh hưởng tiêu

cực đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó là các loại rủi ro như biến

động giá vật tư đầu vào, giá cả đầu ra lên xuống trồi sụt thất thường. Những loại rủi

ro này có sức ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đối với các quốc gia mà nền kinh tế

có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và tỷ trọng lĩnh vực nông nghiệp lớn.

Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chính phủ Việt Nam đã thực hiện

nhiều chính sách cải cách và có những bước đi mạnh mẽ hướng đến việc tự do hóa

thị trường, giảm dần sự can thiệp của chính phủ. Điều này là phù hợp với xu thế

phát triển chung tuy nhiên người sản xuất, thương nhân và các doanh nghiệp sẽ cần

có sự chuẩn bị cần thiết vì họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn với các biến động của giá cả.

Hình 2.1: Giá gạo nội địa và giá gạo xuất khẩu giai đoạn 2009 – 2011

Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam và trang www.thitruongluagao.com

34

Mức độ hội nhập của nền kinh tế thế giới ngày càng tăng cũng đồng nghĩa với việc

mối liên hệ giữa các quốc gia với nhau ngày càng chặt chẽ; một biến động ở một

quốc gia dù lớn hay nhỏ đều có những tác động nhất định đối với thị trường thế

giới. Việc chính phủ các nước tháo gỡ dần các biện pháp bảo hộ, đặc biệt là trong

lĩnh vực nông nghiệp càng khiến giá cả hàng hóa dễ biến động hơn và mức độ biến

động ngày càng cao.

Đơn vị: cent/kg

Hình 2.2: Giá cà phê thế giới giai đoạn 1960 – 2011

Nguồn: www.mongabay.com

Đơn vị: cent/kg

Hình 2.3: Giá gạo thế giới giai đoạn 1980 – 2010

Nguồn: www.mongabay.com

35

Đơn vị: cent/pound

Hình 2.4: Giá đƣờng thế giới giai đoạn 1980 – 2010

Nguồn: www.mongabay.com

Chúng ta đều thấy rằng, giá cả một số mặt hàng nông sản, hàng tiêu dùng thiết yếu

như gạo, cà phê và đường trên thị trường thế giới có biến động rất mạnh, liên tục.

Đặc biệt là trong những giai đoạn khủng hoảng mà điển hình là năm 2008, giá cả

nhiều mặt hàng đều có xu hướng tăng vọt và biến động thất thường. Những bất ổn

trong giá cả hàng hóa đã tác động rất lớn đến thu nhập của nông dân, người sản xuất

cũng như doanh nghiệp xuất khẩu. Nông dân là người chịu thua lỗ khi giá nông sản

giảm nhưng họ có thực sự hưởng lợi khi giá tăng hay không lại phụ thuộc vào một

số yếu tố mà chúng ta cần phân tích sau đây:

Chi phí cho nguyên liệu, vật tƣ đầu vào:

Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước ta, chi phí vật chất chiếm tỷ trọng

khá cao. Trong bối cảnh giá cả nguyên liệu vật tư trên thị trường thế giới biến động

mạnh theo hướng tăng, giá cả các vật tư đầu vào chủ yếu cho nông nghiệp như phân

bón, thuốc trừ sâu (chủ yếu phải nhập khẩu) cũng biến động theo xu hướng ngày

càng tăng.

36

Trong cơ cấu chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, chi phí vật chất chiếm tỷ

trọng khá cao. Khi giá cả thị trường biến động, giá thành phẩm tăng nhưng giá trị

tăng thêm không nhiều đôi lúc còn giảm vì chi phí đầu vào tăng nhanh hơn giá sản

phẩm đầu ra. Đối với người nông dân, mặc dù sản xuất được nhiều sản phẩm hơn,

giá nông sản tăng nhưng thực sự phần lợi nhuận họ được hưởng không tăng tương

ứng. Theo nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ vào năm 2009, cơ cấu chi phí

sản xuất lúa tại Đồng bằng Sông Cửu Long như sau: giống, phân, thuốc 42,4%; lao

động 30,2%; trả lãi vay 17,2%; chi phí lưu thông, thủy lợi, xuống giống 7,4%; khấu

hao, dụng cụ sản xuất 2,8%.

Hình 2.5: Cơ cấu chi phí sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: Tạp chí Khoa học 2011:19a 96-108 - Trường Đại học Cần Thơ

Hình 2.6: Cơ cấu chi phí sản xuất cà phê

Nguồn: www.agro.gov.vn

37

Chúng ta có thể thấy rằng phân bón chiếm đến hơn 40% trong cơ cấu chi phí sản

xuất lúa và cà phê ở nước ta. Trong khi đó, phân bón là một trong những mặt hàng

có mức biến động giá lớn nhất và khá thường xuyên do phụ thuộc rất nhiều vào giá

dầu mỏ.

Hình 2.7: Biến động giá phân bón – cà phê – gạo giai đoạn 2002 – 2011

Nguồn: www.imf.org và www.worldbank.org

Giá phân ure đã liên tục tăng trong giai đoạn 2006 – 2008 và đạt đỉnh 770 USD/tấn

vào tháng 08/2008, tính từ tháng 01 đến tháng 08/2008, giá ure đã tăng gấp đôi. Sau

khi giảm mạnh trong năm 2009, giá ure lại tiếp tục đà tăng trở lại cho đến nay. Bên

cạnh đó, việc sử dụng phân bón tràn lan, không hiệu quả còn khá phổ biến ở Việt

Nam càng khiến cho gánh nặng chi phí dồn lên vai người nông dân.

Sự bất ổn của chi phí đầu vào là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thu

nhập giảm. Sự bất ổn này xuất phát từ sự biến động không thể lường trước được của

giá cả các loại vật tư đầu vào như xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Trong

bối cảnh nước ta còn phải nhập khẩu phần lớn các vật tư nông nghiệp chủ yếu và

mối liên hệ giữa nông dân và doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ thì gần như toàn bộ

rủi ro biến động giá đều do người nông dân gánh chịu. Theo khảo sát của PGS. TS.

38

Nguyễn Thị Ngọc Trang11, 78,5% hộ sản xuất đều nói rằng họ hoàn toàn không có thỏa thuận trước khi mua vật tư đầu vào. Theo khảo sát của tác giả12, chỉ có 25,5%

người được hỏi là có thỏa thuận trước khi mua vật tư đầu vào, và tỷ lệ hoàn toàn

không có thỏa thuận trước là 49%. Đối với giá bán sản phẩm đầu ra, cũng chỉ có

29,4% người được hỏi là có thỏa thuận trước với người mua. Có thể thấy rằng mối

quan hệ lỏng lẻo giữa doanh nghiệp với người nông dân và doanh nghiệp với doanh

nghiệp càng khiến rủi ro biến động giá tác động mạnh đến thu nhập của họ.

Hình 2.8: Mức độ thỏa thuận mua nguyên liệu đầu vào & bán sán phẩm

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Bất cập trong qui trình thu mua, chế biến và xuất khẩu:

Hình thức giao dịch nông sản phổ biến hiện nay là mua bán tự do giao hàng ngay và

không có hợp đồng giữa nông dân với những người thu gom (thương lái); ngoài ra

một số ít là doanh nghiệp ký kết hợp đồng trực tiếp với nông dân và hình thức giao

11 Khảo sát của nhóm đề tài do PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang chủ nhiệm được thực hiện vào năm 2008 – 2009 với 576 hộ sản xuất tại các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Dak lak và Lâm Đồng với chủ đề “Khảo sát thực trạng rủi ro và phản ứng với rủi ro của người sản xuất nông nghiệp”. 12 Tác giả đã thực hiện khảo sát 51 doanh nghiệp và hộ sản xuất tại Tp.HCM và các tỉnh Dak Lak, Quảng Nam, Bình Định, Tiền Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp,Vĩnh Long và Cà Mau về thực trạng rủi ro và nhận thức của người sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.

dịch qua chợ đầu mối. Đối với các doanh nghiệp trung gian, họ sẽ thu mua của các

39

thương lái, sau đó bán lại cho các doanh nghiệp thu mua lớn hơn hoặc các Công ty

xuất nhập khẩu.

Tác giả sẽ đi sâu phân tích qui trình thu mua đối với mặt hàng gạo để làm rõ những

bất cập trong qui trình thu mua, chế biến và xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Theo

nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ đối với mặt hàng lúa gạo, kênh tiêu thụ

qua thương lái chiếm đến 93,1%. Tuy nhiên giữa nông dân và thương lái còn có lực

lượng “Cò” môi giới mua bán lúa với chi phí 20đ/kg do thương lái trả nhưng nhiều

trường hợp nông dân muốn bán lúa nhanh vẫn phải chi thêm cho Cò từ 20-50

đồng/kg. Thương lái đem lúa bán cho nhà máy xay xát (30,3%) hoặc xay xát ra gạo

lức rồi bán cho công ty (47,8%) và bán cho nhà máy lau bóng (10,7%), bán gạo

trắng cho người bán sỉ/lẻ (15%). Nông dân bán lúa trực tiếp cho công ty một lượng

rất ít (4,2%) và nhà máy xay xát (2,7%).

Hình 2.9: Chuỗi lúa gạo hàng hóa tại Đồng bằng sông Cửu Long (2010)

Nguồn: Tạp chí Khoa học 2011:19a 96-108 - Trường Đại học Cần Thơ

Lượng gạo xuất khẩu chiếm đến 70,3% tổng lượng gạo hàng hóa của vùng ĐBSCL

nhưng lại tồn tại một nghịch lý từ nhiều năm qua là doanh nghiệp xuất khẩu gạo

không mua lúa với nông dân. Nông dân làm ra lúa và bán lúa. Còn doanh nghiệp

xuất khẩu gạo lại chỉ đi mua gạo thành phẩm của các nhà máy chế biến. Ở giữa

nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu gạo là một khoảng cách xa với lực lượng

thương lái (hoặc doanh nghiệp tư nhân) có khi đến 4 - 5 tầng nấc. Tỷ lệ bán hàng

trực tiếp từ nông dân đến Công ty xuất nhập khẩu là rất thấp (4,2%), đây là hình

40

thức phân phối lúa gạo có kênh thị trường ngắn nhất và hiệu quả cao đối với người

nông dân. Còn lại, phần lớn lúa gạo được bán qua 3 - 4 tác nhân trung gian là

thương lái, nhà máy xay xát, nhà máy lau bóng và công ty. Để hoàn tất qui trình

xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp xuất khẩu phải đăng ký hợp đồng xuất khẩu với

Hiệp hội lương thực và chịu sự điều hành của tổ điều hành xuất khẩu.

Qui trình thu mua qua nhiều tầng nấc trung gian bộc lộ nhiều hạn chế và càng làm

gia tăng mức độ nghiêm trọng của rủi ro biến động giá. Như đã trình bày ở trên,

người nông dân không có kho dự trữ, không có vốn để tái đầu tư sản xuất, ngoài ra

họ phải hoàn trả các chi phí vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu của mùa vụ đã qua, phải

trang trải các chi phí sinh hoạt … nên ngay khi thu hoạch xong, hầu hết nông dân sẽ

bán toàn bộ sản phẩm để chi trả các khoản nợ và chuẩn bị cho mùa vụ tiếp theo.

Trong bối cảnh ấy, thương lái càng có điều kiện thao túng giá. Tình trạng được mùa

mất giá cũng vì thế mà trở thành điệp khúc kéo dài bao nhiêu năm qua ở nước ta.

Một nghịch lý tồn tại quá lâu đến mức như là đương nhiên, ít người nghĩ cần phải

thay đổi. Đáng ngạc nhiên hơn, chính các doanh nghiệp của VFA hầu như chưa có ý

định thay đổi. Mỗi khi ký được hợp đồng xuất khẩu, các doanh nghiệp này chỉ đặt

hàng cho thương lái và ngồi đợi đủ hàng để xuất khẩu. Sự bát nháo trong thu mua

lúa như thế còn làm cho chất lượng hạt gạo xuất khẩu của nước ta luôn thấp. Bởi,

thương lái nhỏ lẻ, mua nhỏ lẻ, mua nhiều loại lúa, trộn lẫn với nhau và xay ra chủ

yếu gạo phẩm cấp thấp, loại gạo 25% tấm chiếm tỷ lệ khoảng 60%. Thương lái mua

lúa tươi, quy trình sấy khô không đảm bảo kỹ thuật càng khiến cho chất lượng hạt

gạo xuống thấp hơn nữa, tỷ lệ hạt gạo gãy chiếm tới 60% – 65%. Các nước khác, tỷ

lệ hạt gạo gãy chỉ chiếm chừng 45%. Cách làm trên khiến cho gạo xuất khẩu của

Việt Nam có chất lượng không ổn định dẫn đến giá bán thường thấp và chịu sự bất

ổn cao về giá.

Về phía doanh nghiệp xuất khẩu, hầu hết đều không thực hiện phòng ngừa giá đầu

ra nên khi giá thế giới giảm, họ sẽ hạn chế thu mua do áp lực tồn kho cũ giá cao và

chi phí lãi vay. Nhiều trường hợp phải chấp nhận bán rẻ để giảm gánh nặng chi phí

lãi vay. Người nông dân vốn đã chịu cảnh ép giá của thương lái nay càng gặp khó

41

khăn hơn khi không bán được sản phẩm. Để hỗ trợ người nông dân, chính phủ

thường thực hiện các chương trình hỗ trợ lãi suất để thu mua dự trữ nhưng thực tế

thì phần lớn lợi ích sẽ lại rơi vào tay thương lái, doanh nghiệp xuất khẩu vì trước

các áp lực thanh toán các chi phí và không có kho dự trữ người nông dân đã bán hết

sản phẩm của minh cho thương lái từ trước rồi.

Tóm lại, do không chủ động trong phòng ngừa rủi ro biến động giá nên người nông

dân và doanh nghiệp đều chịu tổn thất, trong đó nặng nề nhất là người nông dân.

Các chính sách hỗ trợ của chính phủ thường ở trạng thái bị động, không kịp thời.

Hậu quả là chính phủ phải tốn kém để hỗ trợ nhưng số tiền hỗ trợ lại không đến

được tay người nông dân. Cà phê, tiêu và các mặt hàng nông sản khác cũng có hoàn

cảnh tương tự.

Tác động của những chính sách của chính phủ

Nhiều chính sách của chính phủ đã có những tác động tích cực đối với hoạt động

sản xuất nông nghiệp như: chính sách cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn,

cho vay hỗ trợ đối với nông dân mất mùa, thiên tai… Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều

chủ trương quyết định chưa chính xác, không kịp thời và thiếu nhất quán, đã gây ra

không ít khó khăn và thiệt hại cho người nông dân. Công tác dự báo và điều hành

xuất khẩu gạo trong thời gian qua là một minh họa cụ thể cho những yếu kém trên.

Đầu năm 2008, khi giá gạo thế giới có dầu hiệu tăng kéo giá gạo trong nước tăng

theo, Chính phủ đã chỉ đạo tạm dừng ký mới các hợp đồng xuất khẩu gạo và giữ

xuất khẩu gạo ở mức 4 – 4,5 triệu tấn cho cả năm. Trong khi đó chính phủ Thái Lan

đã sử dụng cục dự trữ để bình ổn giá gạo trong nước, còn xuất khẩu vẫn tiến hành

bình thường, thế là họ thu lời lớn khi giá gạo tăng đột biến lên mức 1.000 USD/tấn

vào tháng 4 & 5 và duy trì ở mức cao cho đến tháng 10/2008. Sự yếu kém trong

công tác dự báo và điều hành xuất khẩu đã gây thiệt hại lớn cho người nông dân

cũng như doanh nghiệp.

Mới đây, vào đầu tháng 07/2011, nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã phải

điêu đứng khi Hiệp hội Lương thực Việt Nam thông báo tạm ngừng mua một triệu

42

tấn gạo. Bởi ngay sau thông báo này, lập tức giá gạo đã bắt đầu chững lại và có dấu

hiệu giảm xuống, các thương lái lợi dụng thông tin này để ép giá nông dân. Trước

thông tin này, GS Võ Tòng Xuân đã thẳng thắn trả lời: “Hiệp hội Lương thực Việt

Nam và Tổng công ty Lương thực miền Nam khi thấy giá lúa bắt đầu lên thì họ

tuyên bố không mua nữa. Như vậy là tất cả các nơi không mua, khi đó nông dân sẽ

không có chỗ bán. Khi đó nông dân bắt buộc phải tự hạ giá để bán được lúa. Đây là

cách làm mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam và Tổng công ty Lương thực miền

Nam năm nào cũng làm để đánh tụt giá lúa của nông dân, sau đó mới tổ chức thu

mua để gia tăng lợi nhuận cho họ. Nông dân luôn thiệt thòi vì kiểu làm này của VFA”13.

Chính sách điều hành nhập khẩu cũng còn nhiều bất cập khi để cho các mặt hàng

nông sản trong nước hoàn toàn có thể sản xuất lại được nhập khẩu trà làn. Sức ép

cạnh tranh từ các sản phẩm nhập khẩu đối với mặt hàng nông sản cùng loại và sản

phẩm thay thế khiến giá nông sản trong nước không thể tăng. Các mặt hàng nông

sản chế biến, nông sản tươi sống đã và đang được bày bán khá phổ biến tại các siêu

thị, chợ lớn với mức giá cạnh tranh. Mặc dù nước ta là quốc gia nhiệt đới và là nước

xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới nhưng trên thực tế vẫn nhập khẩu gạo, trái cây từ

Thái Lan, Trung Quốc.

2.2.2 Nhận thức và hành động phòng ngừa rủi ro biến động giá

Có một thực tế là hầu như tất cả nông dân, thương lái hay doanh nghiệp xuất khẩu

đều đã và đang hàng ngày phải đối phó với những biến động bất thường của giá cả.

Rủi ro biến động giá là một trong những rủi ro lớn nhất đối với hoạt động sản xuất

nông nghiệp. Chính vì thế mà người nông dân lúa đầy nhà thì điêu đứng vì giá lúa

thấp, bán không được; thương lái thì nằm chờ thời; doanh nghiệp kinh doanh lúa

gạo thì than lỗ vì giá biến động lên xuống thất thường, chi phí lãi vay tăng cao.

Rủi ro biến động giá tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất của người nông dân

cũng như doanh nghiệp. Phần tiếp theo, tác giả sẽ trình bày những khảo sát và phân 13 http://www.baomoi.com/Mot-quyet-dinh-lam-nong-dan-dieu-dung/45/6675044.epi

43

tích về nhận thức và những hành động của người nông dân và doanh nghiệp khi

phải đối mặt với những khó khăn và rủi ro như vậy.

Nhận thức về tầm quan trọng của rủi ro biến động giá

Kết quả khảo sát cho thấy nông dân và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp đã nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của rủi ro biến động giá. Trên 64,4%

cho rằng những biến động giá đầu vào và đầu ra là nguyên nhân chính làm giảm thu

nhập, trong khi chỉ có 15,2% cho rằng nguyên nhân là do thời tiết. Đa phần đều

đồng ý rằng biến động giá là rủi ro lớn nhất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

hiện nay.

Hình 2.10: Nhận thức về tầm quan trọng của các loại rủi ro

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Có thể thấy rằng, người nông dân và doanh nghiệp hiện nay nhận thức được rất rõ

về tầm quan trọng của rủi ro biến động giá đối với hoạt động sản xuất kinh doanh

nông nghiệp. Với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những rủi ro truyền thống

của nông nghiệp như thiên tai, sâu bệnh đã được hạn chế phần nào. Tuy nhiên, rủi

ro giá cả thì thật khó lường và bản thân nó là nguyên nhân hàng đầu khiến họ phải

chịu thua lỗ trong những năm qua, đặc biệt là trong bối cảnh giá vật tư đầu vào như

phân bón, thuốc trừ sâu tăng cao.

44

Hành động phòng ngừa rủi ro của ngƣời nông dân, nhà sản xuất

Kết quả khảo sát cho thấy có đến 80,4% khẳng định họ có nhu cầu phòng ngừa rủi

ro. Và yếu tố họ quan tâm nhất khi tham gia các sản phẩm phòng ngừa rủi ro là yếu

tố chi phí. Điều này cũng dễ hiểu khi mà mức sinh lời hiện tại trong hoạt động nông

nghiệp là chưa cao, việc xem xét cẩn trọng chi phí tăng thêm là hợp lý. Ngoài yếu tố

chi phí, người nông dân và doanh nghiệp còn băn khoăn về độ tin cậy về sản phẩm

nên có gần 20% người được hỏi trả lời không có nhu cầu phòng ngừa rủi ro.

Hình 2.11: Mức độ sẵn lòng tham gia sản phẩm phòng ngừa rủi ro

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Thói quen phòng ngừa rủi ro đối với khu vực nông nghiệp chưa cao còn do tình

trạng thói quen bán sản phẩm từ khi chưa thu hoạch của một bộ phận nông dân và

doanh nghiệp. Thực tế hoạt động nông nghiệp từ trước đến nay cho thấy tình trạng

bán non nông sản hay “bán lúa non” là khá phổ biến. Có nhiều nguyên nhân dẫn

đến tình trạng này như tôi đã trình bày ở trên. Một trong những giải pháp được

chính phủ đưa ra là tạo mối liên kết giữa 4 nhà: nhà nông – Nhà nước – nhà khoa

học – nhà doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là mối liên hệ nhà nông – nhà doanh

nghiệp. Thực tế thực hiện cũng đã đạt được một số kết quả nhất định chẳng hạn

như: hợp đồng bao tiêu của Công ty Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm An Giang,

Công ty lương thực Sông Hậu đối với nông dân trồng lúa, các doanh nghiệp cao su,

45

các công ty mía đường … Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện Quyết định

80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích tiêu thụ nông sản qua

hợp đồng, đến nay sự liên kết giữa “4 nhà” vẫn hết sức lỏng lẻo, kết quả rất thấp.

Phần lớn các doanh nghiệp thất bại trong trong quan hệ hợp đồng với nông dân,

không mua được nông sản do nông dân làm ra, hoặc không thu hồi được vốn đã ứng

trước cho nông dân, tình trạng vi phạm hợp đồng xảy ra khắp nơi. Nông dân đổ lỗi

cho doanh nghiệp và ngược lại. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do việc xác lập một

"sợi dây" liên kết giữa nhà nông – Nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp

vẫn chưa được định hình. Kết quả, theo báo cáo của Bộ NN & PTNT, tỷ lệ nông sản

tiêu thụ qua hợp đồng, chủ yếu mới đạt dưới vài phần trăm, như lúa hàng hóa 2,1%,

chè 9%, rau quả 0,9%, thủy sản 13%, gỗ 16,7%... Nguyên nhân dẫn đến số lượng

hàng hóa nông sản tiêu thụ qua hợp đồng chiếm số lượng quá ít ỏi, theo đánh giá

của Bộ NN & PTNT là do thiếu cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp, không có

vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn gắn với nhà máy chế biến. Thiếu cơ chế

chính sách hỗ trợ, khuyến khích các HTX tham gia tổ chức dịch vụ tiêu thụ nông

sản cho xã viên...

Về những băn khoăn khi tham gia sản phẩm phòng ngừa rủi ro, ½ số người được

hỏi cho rằng họ quan tâm nhất đến vấn đề thủ tục bồi thường, tỷ lệ này cao có lẽ

một phần là do công tác giải quyết bồi thưởng của bảo hiểm hiện tại khá phức tạp.

Bên cạnh đó, thiếu kiến thức thông tin cũng là một trở ngại đáng kể đối với 20%

người được hỏi.

Kết quả khảo sát cho thấy việc tuyên truyền phổ biến cho các đối tượng trong khu

vực nông nghiệp hiểu rõ bản chất cũng như lợi ích của các sản phẩm phòng ngừa rủi

ro là rất cần thiết và nếu thực hiện thí điểm thành công thì càng dễ thuyết phục họ

tham gia.

46

Hình 2.12: Các băn khoăn khi tham gia phòng ngừa rủi ro

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, đa phần người được hỏi sẽ không bán ngay sản

phẩm của họ nếu ngân hàng cho vay thế chấp bằng lô hàng nông sản với mức lãi

suất hợp lý. Đây là tiền đề quan trọng cho việc ứng dụng mô hình tín dụng dựa trên

chứng chỉ lưu kho cho nông sản. Việc đưa mô hình này vào áp dụng thành công sẽ

giải quyết được phần nào tình trạng “được mùa mất giá”, góp phần ổn định giá nông

sản trong nước và đưa người nông dân và doanh nghiệp đến gần hơn với sàn giao

dịch hàng hóa. Hơn 70,5% người được hỏi cũng cho rằng việc được vay vốn ngân

hàng thuận tiện hơn sẽ là yếu tố quan trọng khi quyết định tham gia sàn giao dịch

hàng hóa.

Hình 2.13: Quyết định bán sản phẩm ngay sau thu hoạch

Nguồn: Khảo sát của tác giả

47

2.2.3 Kênh thông tin và vai trò của các Hiệp hội

Kết quả khảo sát cho thấy, các đối tượng trong khu vực nông nghiệp chủ yếu tiếp

nhận thông tin từ các kênh không chính thống, 41% người được hỏi tiếp cận thông

tin qua đài truyền hình, đài tiếng nói và sách báo; qua người thân quen là 23% và

chỉ có 26% tiếp nhận thông tin từ các hiệp hội và trường đào tạo chuyên môn.

Trong đó, hầu như không thấy được vai trò của Hiệp hội nông dân; nguồn thông tin

chủ yếu là từ các Hiệp hội ngành nghề (như Hiệp hội lương thực (VFA), Hiệp hội

Cà phê cacao (Vicofa), Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản (Vasep) …

Hiện tại nguồn thông tin khá dồi dào, đặc biệt là trên internet nhưng hoặc không đến

được với người nông dân hoặc đến được rất ít. Để có thể khắc phục được tình trạng

này, cần tận dụng truyền hình, đài phát thanh cũng như thông qua các hiệp hội như

hội nông dân chẳng hạn để minh bạch hóa thông tin đến với người nông dân.

Bản thân hội nông dân Việt Nam đã có sự lớn mạnh rõ rệt trong thời gian qua. Đến

nay, tổ chức Hội có hệ thống 4 cấp từ Trung ương đến cơ sở với 63 Ban Chấp hành

Hội Nông dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 655 Ban Chấp hành Hội

Nông dân quận, huyên, thị, thành phố thuộc tỉnh; 10.474 Ban Chấp hành Hội Nông

dân cơ sở (xã, phường, thị trấn…); 92.417 chi hội; 182.924 tổ hội và trên 10 triệu

hội viên; 100% xã, phường, thị trấn có nông dân có tổ chức hội; 100% thôn, ấp, bản có chi, tổ hội14. Hội nông dân là một tổ chức chính trị xã hội với vai trò trách nhiệm

là xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam; đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua

yêu nước, trọng tâm là phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi; đoàn

kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng. Hoạt động của Hội vẫn

mang hình ảnh một tổ chức chính trị hơn là người đại diện để bảo vệ quyền lợi cho

người nông dân. Bản thân tiếng nói của Hội nông dân chưa có đủ sức mạnh để bảo

14 www.cpv.org.vn

vệ quyền lợi cho người nông dân. Bên cạnh đó, Hội chưa có khả năng cũng như

48

công cụ để giúp đỡ nông dân đối phó với rủi ro giá cả và tiếp cận các khoản vay. Để

có thể hoàn thành tốt vai trò bảo vệ quyền lợi cho người nông dân trong tình hình

mới, việc tổ chức lại Hội nông dân và nâng cao vai trò của Hội là một việc làm cấp

bách, cần thực hiện càng sớm càng tốt. Song song đó, các Hiệp hội ngành nghề cần

hoàn thiện hơn nữa nhiệm vụ cung cấp thông tin đồng thời tư vấn, phối hợp với Hội

nông dân để nâng cao hiệu quả tuyên truyền phổ biến thông tin, kiến thức người

nông dân và doanh nghiệp.

Hình 2.14: Kênh thông tin cho khu vực nông nghiệp

Nguồn: Khảo sát của tác giả

2.2.4 Chính sách của chính phủ đối với nhóm hàng nông sản

Chính sách bảo hộ:

Cũng giống như hầu hết các quốc gia phát triển, Viêt Nam đã thực hiện chính sách

bảo hộ nông nghiệp trong nhiều năm qua. Chính sách này nhằm giảm thiểu những

rủi ro và tổn thất mà khu vực nông nghiệp phải gánh chịu. Các chính sách bảo hộ

được thực hiện thông qua các biện pháp thuế quan hoặc phi thuế quan đã có nhiều

tác động tích cực đến hoạt động sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh cho một

số sản phẩm như: gạo, cà phê, chè, hạt tiêu, sữa, mía đường …

49

 Biện pháp bảo hộ thuế quan

Tuy nhiên, hiện nay sau khi gia nhập WTO và tham gia vào nhiều hiệp định mậu

dịch tự do, những biện pháp bảo hộ thông qua thuế quan đã và đang phải giảm dần

theo các cam kết. Theo cam kết WTO, trong giai đoạn 2009 – 2012, Việt Nam sẽ

phải cắt giảm 500/1.185 dòng thuế nông sản. Mức cam kết giảm thuế chung bình quân là 10,6% so với MFN15 hiện hành; trong đó các loại nông sản chế biến (như

thịt, sữa, rau quả chế biến, thực phẩm chế biến, quả ôn đới, và quả có múi) phải

giảm nhiều hơn so với nông sản thô.

Bảng 2.1: So sánh thuế suất một số hàng nông sản trƣớc và sau khi gia nhập WTO

Hàng hóa

Thời hạn thực hiện (năm)

Thuế suất theo QĐ 3916 (%)

Thuế suất cam kết cắt giảm (%)

Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập (%)

Thịt trâu, bò

20

35

30

2012

Thịt lợn

30

30

25

2012

Sữa và các sản phẩm từ sữa

10 - 30

10 - 35

10 - 30

2012

Trứng gà, vịt

40

80

Bắp cải, su hào, cà rốt

20

20

30

25

17

2010

40

40

10 - 30

2010, 2012

Đậu Hà Lan, đậu hạt, ngô ngọt, rau khác Quả và quả hạch ăn được, vỏ quả thuộc chi cam quýt hoặc các loại dưa

Hạt điều (đã bóc vỏ)

50

40

25

2012

Cà phê chưa rang

30

20

15

2010

15 Viết tắt của từ Most Favoured Nation – Nguyên tắc tối huệ quốc

16 Quyết định số 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/07/2006 của Bộ Tài chính quy định về mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi

50

Hàng hóa

Thời hạn thực hiện (năm)

Thuế suất theo QĐ 3916 (%)

Thuế suất cam kết cắt giảm (%)

Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập (%)

Cà phê đã rang

30

2011

50

40

Chè

50

40

Hạt tiêu

30

30

20

2010

Lúa, gạo

40

40

Ngô đã rang nở

50

30

Nguồn: Bộ tài chính

Theo lộ trình cắt giảm thuế của cam kết trong hiệp định tự do hoá thương mại hàng

hoá giữa các nước ASEAN (ATIGA), nông sản nhập khẩu từ các nước Đông Nam

Á vào Việt Nam trong năm 2012 sẽ có mức thuế suất giảm mạnh. Cụ thể như thuế

nhập khẩu của thóc, gạo lứt (gạo Thai Hom Mali và các loại khác) giảm từ mức

thuế 20% xuống còn 10%. Bưởi, chanh cũng giảm từ mức 20% xuống còn 10%

trong năm 2012. Ngoài ra, các sản phẩm làm từ thịt lợn, như xúc xích, thịt lợn đóng

hộp, các sản phẩm chế biến làm từ gà, trâu, bò cũng giảm từ 20% xuống còn 10%,

thuế suất thuế nhập khẩu 0% cũng đã được áp dụng từ ngày 1/11/2010 đối với thóc

gạo và lá thuốc lá có xuất xứ từ Campuchia. Theo cam kết, Việt Nam sẽ đưa hầu hết

các dòng thuế xuống 0% vào năm 2015.

Theo cam kết khi tham gia Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung

Quốc (ACFTA), hầu hết mặt hàng rau, quả tươi từ Trung Quốc nhập khẩu vào Việt

Nam hiện được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu 0%. Trong khi đó, rau củ quả tươi

cũng là mặt hàng thuộc diện không phải chịu thuế giá trị gia tăng. Chính vì vậy, các

nhà nhập khẩu đang tận dụng tối đa ưu đãi thuế quan để đưa hàng nông sản Trung

Quốc vào VN. Hầu hết các lô hàng đều có C/O form E (giấy chứng minh xuất xứ)

nên đương nhiên được hưởng thuế suất ưu đãi 0%.

51

 Các biện pháp bảo hộ phi thuế

Các biện pháp bảo hộ phi thuế bao gồm: biện pháp tự vệ, biện pháp kiểm dịch động

thực vật, các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu (như cấm nhập khẩu, giấy

phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu…). Trong đó, nhóm biện pháp hạn chế định

lượng nhập khẩu thuộc diện bị quản lý chặt chẽ nhất, cụ thể là các nước thành viên

WTO phải loại bỏ hoàn toàn các biện pháp phi thuế trừ những biện pháp đạt được

cam kết giữ lại.

Biện pháp tự vệ (Safeguard – SG) là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một

hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ

gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Trong trường hợp

khẩn cấp, khi cần đối phó với tình trạng một mặt hàng nông sản nào đó nhập khẩu ồ

ạt vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nông sản đó của

Việt Nam thì Việt Nam có thể tiến hành điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ đối với

nông sản nhập khẩu đó.

Biện pháp tự vệ đặc biệt (Special Safeguard – SSG): Về tính chất, các biện pháp

SSG cũng giống các biện pháp SG. Tuy nhiên điều kiện áp dụng biện pháp SSG

không quá chặt chẽ và phức tạp như biện pháp SG (ví dụ, có thể áp dụng biện pháp

này trước mà không cần điều tra hoặc áp dụng trước khi thông báo cho các nước có

quyền lợi xuất khẩu chính mặt hàng này…). Vì vậy, diện áp dụng SSG rất hạn chế.

Theo quy định của WTO, một nước thành viên WTO chỉ có thể áp dụng SSG đối

với một số sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm nhất định đạt được theo đàm phán

WTO về vấn đề này. Theo cam kết, Việt nam không được sử dụng SSG đối với bất

kỳ nông sản nào.

Hạn ngạch thuế quan (Tariff-rate Quota – TRQ) thực chất là biện pháp hạn chế định

lượng nhập khẩu. Về nguyên tắc, các nước thành viên WTO phải bãi bỏ tất cả các

biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu. Tuy nhiên, WTO vẫn cho phép các thành

viên áp dụng biện pháp hạn chế định lượng đối với một số nông sản mang tính nhạy

cảm của một nước nhưng ở mức độ rất hạn chế và phải đạt được thông qua đàm

52

phán. Biện pháp duy nhất hiện nay mà WTO cho phép áp dụng đó là hạn ngạch thuế

quan. Theo cam kết này, Việt Nam được phép áp dụng TRQ với 4 nhóm (28 dòng

thuế theo mã số HS 8 số, trong đó 21 dòng là nông sản và 7 dòng phi nông sản).

Bảng 2.2: Tóm tắt cam kết TRQ của Việt Nam

Mức thuế (%)

Stt

Mặt hàng

Mức hạn ngạch ban đầu

Trứng gia cầm (trừ trứng giống)

1 2 Đường

Đường thô

Trong hạn ngạch 40 25

Ngoài hạn ngạch 80 85

30.000 tá 55.000 T

Đường tinh luyện

55.000 T

85

60 (đường củ cải 50%)

3

Thuốc lá

31.000 T

80-90

30 (cọng thuốc lá là 15%).

4 Muối

Muối ăn Muối công nghiệp

60 50

150.000 T 150.000 T

30 15

Nguồn: http://trungtamwto.vn

Cùng với việc thực hiện các cam kết WTO, chính phủ cũng thực hiện nhiều cải cách

nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động

nhập khẩu hàng hóa dễ dàng.

Chính sách hỗ trợ trong nƣớc

Theo Hiệp định Nông nghiệp, trợ cấp trong nước đối với nông nghiệp được chia

làm 03 nhóm với các cơ chế áp dụng khác nhau. Là thành viên WTO, Việt Nam sẽ

phải tuân thủ các cơ chế này.

Trợ cấp “hộp hổ phách”: Trên thực tế, hình thức trợ cấp “hộp hổ phách” thông dụng

nhất ở các nước là các chương trình thu mua nông sản của Chính phủ để can thiệp

vào thị trường. Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có

thể thực hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” nhưng mức trợ cấp phải đảm bảo 1

trong 2 điều kiện dưới đây: (1) trong mức tối thiểu (mức tối thiểu được tính bằng

5% trị giá sản phẩm hoặc 5% tổng trị giá sản lượng ngành nông nghiệp đối với

nước phát triển và bằng 10% đối với nước đang phát triển như Việt Nam) và (2)

53

không vượt mức trần cam kết. Với những loại trợ cấp “hộp hổ phách”, mặc dù điều

kiện áp dụng khó khăn hơn nhưng đây là những trợ cấp trực tiếp và mang lại nhiều

lợi ích cho nông dân và doanh nghiệp liên quan.

Bảng 2.3: Tóm tắt các loại trợ cấp nội địa trong nông nghiệp

Loại trợ cấp

Tính chất - Nội dung

Cơ chế áp dụng

Trợ cấp “hộp xanh lá cây”

trợ

Được phép áp dụng không bị hạn chế

cấp: các Phải - Hầu như là không có tác động bóp méo thương mại; và - Không phải là hình thức trợ giá

Trợ cấp “hộp xanh lơ”

Hỗ trợ trực tiếp trong khuôn khổ các chương trình hạn chế sản xuất

Đây là các hình thức trợ cấp mà các nước phát triển đã áp dụng. Và dường như chỉ những nước này được phép áp dụng nhưng có điều kiện.

Trợ cấp “hộp hổ phách”

Các loại trợ cấp nội địa không thuộc hộp xanh lá cây và xanh lơ

Được phép áp dụng trong mức nhất định gọi là "Mức tối thiểu".

(trợ cấp bóp méo thương mại)

Phải cam kết cắt giảm cho phần vượt trên mức tối thiểu.

Nhóm trợ cấp trong chương trình “hỗ trợ phát triển sản xuất”

Đây là sự ưu đãi đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển. Chỉ có các nước đang phát triển mới được quyền áp dụng biện pháp này mà không bị cấm

Ví dụ: - Trợ cấp đầu tư; - Hỗ trợ “đầu vào” cho sản xuất nông nghiệp cho nông dân nghèo hoặc các vùng khó khăn; hoặc - Hỗ trợ các vùng chuyển đổi cây thuốc phiện.

Nguồn: http://trungtamwto.vn

Hầu hết các chính sách hỗ trợ trong nước của Việt Nam được thực hiện trong giai

đoạn 1999-2001 đều thuộc nhóm Hộp Xanh và Hộp Phát triển. Chính sách thuộc

Hộp Hổ phách đã giảm từ 30% trên tổng hỗ trợ nông nghiệp trong năm 1999 xuống

còn 17% trong năm 2001 và còn giảm nhiều hơn nữa trong những năm gần đây.

54

Hình 2.15: Chính sách hỗ trợ nông nghiệp giai đoạn 1999 - 2001

Nguồn: www.multrap.org.vn

Từ năm 2001, các chính sách hỗ trợ trong nước cho nông nghiệp đã được điều chính

theo hướng phù hợp hơn với các qui định của WTO để khuyến khích và thúc đẩy

tính cạnh tranh của hàng nông lâm sản và giảm mức độ can thiệp của chính phủ vào

thị trường. Yếu tố gây hạn chế chi tiêu cho nông nghiệp có lẽ chính là khả năng của

ngân sách nhà nước chứ không phải là các cam kết WTO. Điều này cũng được phản

ánh trên thực tế là ngân sách chỉ cung cấp được 60-70% tổng số tiền được đề xuất

chi cho các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn (như trong chiến lược

của Chính phủ).

Hình 2.16: Chi trợ cấp nông nghiệp giai đoạn 1999 - 2004

Nguồn: www.multrap.org.vn

55

Trợ cấp xuất khẩu

Từ năm 1999 đến trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp

để hỗ trợ xuất khẩu như: trợ cấp xuất khẩu, bù lỗ xuất khẩu, thưởng xuất khẩu, hỗ

trợ lãi suất vay ngân hàng. Có thể tóm tắt các hình thức hỗ trợ này như sau:

 Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ

trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả

chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu. Trong giai

đoạn 1999 – 2001, 1 USD gạo xuất khẩu được thưởng 180 đồng, # 1,2%.

 Đối với mặt hàng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu,

bù lỗ cho DN xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng xuất khẩu.

Mức thưởng xuất khẩu cho cà phê là 220 đồng/1 USD xuất khẩu, # 1,46%.

 Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất

khẩu 400 – 500 đồng cho 1 USD xuất khẩu, # 2,6 – 3,3%.

 Đối với thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lơn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn (chủ

yếu áp dụng cho thị trường Nga và Hồng Kông), thưởng xuất khẩu.

 Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất sau

đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch,

hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu.

Nhìn chung, các rào cản thương mại đối với hàng nông sản đã dần được gỡ bỏ,

thông thoáng hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bảo hộ nông nghiệp đã chuyển

dần từ các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu sang biện pháp bảo hộ thuế

quan với thuế suất theo cam kết. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan còn đơn điệu,

chưa có sự phối hợp đồng bộ. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa tận dụng việc sử dụng

các biện pháp kiểm dịch động thực vật – một biện pháp phù hợp với các cam kết

nhưng vẫn tạo ra một hàng rào đủ mạnh để bảo hộ sản xuất trong nước đồng thời

đảm bảo chất lượng cho hàng nông sản nhập khẩu. Các biện pháp bảo hộ nông

nghiệp còn có nhược điểm là chủ yếu đem lại lợi ích nhiều hơn cho các nhà kinh

doanh chứ chưa phải cho nông dân, người sản xuất.

56

TÓM TẮT CHƢƠNG 2

Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định trong việc phát triển kinh tế đặc

biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp trong 20 năm qua, từ chỗ chỉ đủ lương thực phục

vụ đời sống hàng ngày, nhiều khi nhân dân phải gánh chịu cảnh thiếu đói, đến nay

chúng ta không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, dự trữ mà còn trở thành một trong

những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, cà phê, cao su, hạt tiêu… cũng thuộc

hạng nhất nhì trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu đó, nông nghiệp Việt Nam

còn tồn tại một số hạn chế như: phát triển manh mún, khoảng cách từ sản xuất đến

thị trường còn quá xa, đầu cơ, kênh phân phối chưa tốt… đã kiềm hãm sự phát triển

của nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Một trong những nguyên nhân

chính là nguồn vốn phục vụ cho phát triển nông nghiệp còn thiếu, trong đó nguồn

vốn tín dụng đóng vai trò chính yếu. Thật vậy, khi hoạt động tín dụng nông nghiệp

còn gặp nhiều trở ngại liên quan đến yếu tố rủi ro về giá nông sản cũng như vấn đề

tài sản bảo đảm thì thật khó để khơi thông nguồn vốn tín dụng cho lĩnh vực này. Ta

cần những giải pháp đồng bộ và phù hợp với tình hình của Việt Nam để khắc phục

những yếu kém này. Chẳng hạn như về phía Nhà nước nên phát triển mạnh hơn hạ

tầng thương mại, lập thêm vựa, kho hàng nông sản, tăng xúc tiến thương mại, nâng

cao trình độ nông dân… Đặc biệt là cần thiết xây dựng Sàn giao dịch hàng hóa, phát

triển thị trường sản phẩm phái sinh và tạo được mối liên kết với nguồn vốn tín dụng

ngân hàng thông qua mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho.

57

CHƢƠNG 3

XÂY DỰNG MÔ HÌNH TÍN DỤNG DỰA TRÊN CHỨNG CHỈ LƢU KHO CHO VIỆT NAM

Trong chương 2, chúng ta đã thấy được phần nào sự khó khăn trong quá trình

tiếp cận tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và thực trạng phòng ngừa rủi ro của

người nông dân và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nước ta.

Trong chương này, tôi sẽ trình bày một số giải pháp để tăng khả năng tiếp cận tín

dụng đồng thời khắc phục tình trạng “được mùa mất giá” cho người sản xuất nông

nghiệp. Giải pháp toàn diện và dài hạn là xây dựng thị trường giao sau hàng hóa.

Tuy nhiên, việc triển khai giao dịch giao sau đòi hỏi một số điều kiện thích hợp và

phải có lộ trình để thị trường vận hành an toàn, có hiệu quả. Trước mắt, tôi đề xuất

triển khai sử dụng chứng chỉ lưu kho và mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu

kho. Bên cạnh đó, với những hạn chế vốn có, việc để người nông dân trực tiếp đến

với SGDHH và mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho không phải là chuyện

đơn giản. Cần phải có một tổ chức trung gian có được sự tin tưởng của người nông

dân để làm cầu nối – đó chính là Hội nông dân.

3.1 Các điều kiện cần thiết

3.1.1 Hệ thống pháp lý & chính sách đối với sản xuất nông nghiệp

 Khung pháp lý điều chỉnh CCLK và các giao dịch liên quan đến CCLK

Việc xây dựng hệ thống pháp lý chặt chẽ và phù hợp đóng vai trò rất quan trọng đối

với sự thành công của mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho. Việt Nam cần

sớm nghiên cứu để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về chứng chỉ lưu kho

và các giao dịch có liên quan. Chúng ta có thể tham khảo đạo luật của Hoa Kỳ và

điều chỉnh để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và hệ thống pháp luật Việt Nam.

Hiện tại, đã có Luật Các công cụ chuyển nhượng (năm 2005), đây là một đạo luật

được nghiên cứu và xây dựng khá bài bản và được đánh giá là hoàn chỉnh nên có

58

thể lấy làm cơ sở cho việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến

chứng chỉ lưu kho.

Các văn bản quy phạm pháp luật về chứng chỉ lưu kho và các giao dịch liên quan

phải nêu bật được một số vấn đề chính sau:

 Chứng chỉ lưu kho phải được công nhận tương đương với hàng hóa lưu kho

thật. Và do tập quán kinh doanh cũng như giao dịch tín dụng tại Việt Nam,

mô hình CCLK 1 bản sẽ là phù hợp. Mô hình này vừa bảo đảm tính đơn giản

vừa hạn chế rủi ro cho các TCTD trong trường hợp phải xử lý TSBĐ để thu

hồi nợ.

 Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên (chẳng hạn là nông dân, ngân

hàng hoặc bên cho thuê kho) đối với CCLK phải được quy định rõ ràng.

 Chứng chỉ lưu kho được chuyển nhượng thông qua hợp đồng mua bán hoặc

ký hậu.

 Người nắm giữ CCLK được ưu tiên hàng đầu trong việc nhận hàng hóa lưu

kho hoặc giá trị tương đương khi phát sinh bất kỳ sai sót nào của bên cho

thuê kho hoặc của bên vay.

 Nếu có bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến nghĩa vụ bảo đảm của CCLK,

người mua phải được thông báo đầy đủ trước khi đưa ra quyết định mua.

 Phải quy định rõ ràng quy trình xử lý trong trường hợp bên vận hành kho phá

sản.

Xây dựng được hệ thống pháp luật về chứng chỉ lưu kho hoàn chỉnh và phù hợp là

điều kiện rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả của hệ thống chứng chỉ lưu kho cũng

như mô hình tín dụng dựa trên CCLK.

 Chính sách đối với sản xuất nông nghiệp

Hoạt động sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế

của đất nước đồng thời mang ý nghĩa đảm bảo an sinh xã hội to lớn. Trong bối cảnh

cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp còn nghèo nàn, gánh nặng rủi ro biến

động giá đè nặng lên người nông dân, chính phủ cần tiếp tục duy trì các chính sách

59

hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đã phát huy hiệu quả trong những năm qua; đồng thời

nghiên cứu xây dựng các chương trình hỗ trợ mới đảm bảo theo kịp những biến

động liên tục của nền kinh tế. Bên cạnh đó cũng cần có những điều chỉnh nhất định

nhằm tối đa hóa lợi ích và bảo đảm thực hiện đúng với các cam kết quốc tế. Tác giả

đưa ra một số gợi ý về phương hướng chính sách như sau:

 Tăng ngân sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp lên mức tối đa 10% (theo cam

kết WTO). Trong đó tập trung khuyến khích hoạt động xuất khẩu nhằm đảm

bảo xây dựng được thị trường đầu ra ổn định cho nông sản, tăng thu nhập

cho người sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện cán cân thương mại.

 Hạn chế triển khai các chương trình thu mua dự trữ, tận dụng nguồn vốn này

để đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp (thủy lợi, giao thông, kho bãi …).

 Tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất nông

nghiệp, đặc biệt cần khuyến khích và tạo ra những ưu đãi đặc thù để hệ thống

ngân hàng mạnh dạn rót vốn vào khu vực nông nghiệp.

 Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp qui mô lớn, tập trung,

đạt tiêu chuẩn quốc tế (Global GAP…) nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,

nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản Việt Nam.

 Hạn chế các can thiệp mang tính hành chính của chính phủ vào thị trường

nhằm bình ổn giá. Kinh nghiệm của các nước châu Phi và Ấn Độ cho thấy

các hành động này sẽ không đem lại hiệu quả và có thể tác động tiêu cực đến

hiệu quả triển khai mô hình chứng chỉ lưu kho.

3.1.2 Hệ thống kho lƣu trữ

Nguyên tắc cơ bản của mô hình tín dụng dựa trên CCLK là hàng hóa lưu kho được

sử dụng làm TSBĐ cho các khoản vay. Do đó, việc xây dựng hệ thống kho lưu trữ

phải bảo đảm rằng hàng hóa được an toàn, việc xuất nhập kho thuận tiện và tiết

kiệm chi phí đến mức tối đa. Trong quá trình xây dựng hệ thống kho lưu trữ, tác giả

quan tâm đến hai vấn đề chính: (i) Nên xây dựng loại kho dự trữ nào? và (ii) Làm

cách nào để bảo đảm tính minh bạch, trung thực của nhà vận hành kho?

60

 Lựa chọn loại kho

Đối với kho tƣ nhân (Private Warehouse), hoạt động sản xuất và tồn kho hàng

hóa sử dụng chung một không gian và cả hai hoạt động đều do cùng một công ty

quản lý. Nhà kho chỉ là một phần trong nhiều hoạt động của công ty, có thể bao

gồm sản xuất, bán buôn và bán lẻ. Thêm vào đó, thường thì bên kho hàng và người

sở hữu hàng hóa có mối quan hệ thân thiết. Do vậy, sẽ rất rủi ro nếu dùng hàng hóa

lưu trong các kho loại này làm TSBĐ cho khoản vay, không mấy ai dám chắc chắn

là hàng hóa đó có trong kho hay không.

Đối với kho công cộng (Public Warehouse): người vận hành kho không phải là

người sở hữu hàng hóa mà chỉ thực hiện nhiệm vụ trông coi hàng hóa. Nhiều công

ty chuyên về kho bãi lớn thường sở hữu hệ thống kho mà họ vận hành, nhưng nhiều

công ty khác lại đang khai thác các kho thuê dài hạn. CCLK do các kho loại này

phát hành thường sẽ được các ngân hàng chấp nhận làm TSBĐ nhưng mức độ chấp

nhận còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là hệ thống pháp lý của nước sở tại

và năng lực của bên vận hành kho. Ở Hoa Kỳ, các nước Tây Âu và Singapore, hệ

thống kho công cộng đặt tại các vị trí thuận lợi như gần cảng, đường sắt, đường

sông trong các vùng nguyên liệu và thuộc sở hữu của những doanh nghiệp lớn của

các trung tâm sản xuất và tiêu thụ cũng như tại các cảng quốc tế nên nó đóng vai trò

to lớn đối với hoạt động kho bãi và vận chuyển quốc tế. Đối với các nước đang phát

triển như Việt Nam, hệ thống kho công cộng không có được vai trò như vậy và vì

thế không đóng vai trò quyết định đối với hoạt động tại trợ hàng hóa lưu kho.

Đối với kho chuyên dụng (Field Warehouse), trong đa số trường hợp, chúng ta có

thể sử dụng kho của bên vay nhưng việc quản lý kho phải được giao cho một bên

vận hành kho độc lập. Hình thức cấp tín dụng dựa trên CCLK theo loại kho này

thích hợp với các đối tượng thường xuyên sử dụng hàng hóa lưu kho, chẳng hạn

như các công ty sản xuất. Loại hình kho chuyên dụng này khá phù hợp với các nước

mà hệ thống pháp lý đối với CCLK chưa chặt chẽ và đầy đủ. Các ngân hàng có thể

tin tưởng khi giao việc quản lý TSBĐ cho các Công ty đa quốc gia lớn như SGS

61

chẳng hạn. Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy ưu thế về mặt chi phí của loại hình

kho này so với kho công cộng.

Như vậy, để lựa chọn loại hình kho phù hợp, ngoài yếu tố mức độ phù hợp của hệ

thống pháp lý, cần lưu ý đến đặc điểm nhu cầu của từng nhóm đối tượng ký gửi

hàng hóa. Những nhà sản xuất thường đòi hỏi được tiếp cận với hàng hóa kịp thời

với mật độ thường xuyên nhất; những nhà phân phối thì có nhu cầu tiếp cận ít hơn

nhà sản xuất nhưng vẫn nhiều hơn các nhà xuất khẩu … Chi phí lưu trữ vì thế cũng

thay đổi giữa các đối tượng. Trong một môi trường nhiều rủi ro (chủ yếu do hệ

thống pháp lý chưa đầy đủ), mặc dù tốn kém hơn nhưng loại kho chuyên dụng vẫn

được những người cho vay ưu ái bởi vì với loại kho này, những nhà quản lý TSBĐ

có thể cung cấp những dịch vụ với chất lượng cao theo chuẩn quốc tế.

Nói chung, việc lựa chọn loại kho lưu trữ phải tuân theo nguyên tắc đảm bảo tính

hợp lý của các giao dịch. Ví dụ, với chương trình tài trợ sau vụ mùa cho người nông

dân nhằm mục tiêu giúp họ có được sự linh động trong việc bán sản phẩm thì về

mặt nguyên tắc lựa chọn lý tưởng là loại hình kho công cộng. Nhưng thực tế thì tại

các nước đang phát triển, các ngân hàng lại thích sử dụng kho chuyên dụng hơn.

Nhìn chung, các khoản vay cho các đối tượng khác nhau và mục đích khác nhau thì

sẽ có những lựa chọn khác nhau. Sau đây là ví dụ về một số trường hợp điển hình:

- Mục đích của khoản vay là để các nhà buôn tích trữ hàng hóa với quy mô

lớn: nên sử dụng các kho chuyên dụng trong nội địa hoặc kho công cộng đặt

tại các cảng.

- Cấp tín dụng cho nhà sản xuất: nên chọn kho chuyên dụng

- Cấp tín dụng nhà phân phối: tùy thuộc và mức độ sử dụng hàng hóa có

thường xuyên hay không. Ví dụ: khi tài trợ phần thiết bị máy móc, nên sử

dụng kho chuyên dụng đặt tại địa điểm của người bán; nhưng khi tài trợ phân

bón thì nên sử dụng hệ thống kho công cộng.

62

- Cấp tín dụng nhà xuất khẩu: nên lựa chọn các kho công cộng gắn với chuỗi

cung ứng như các silo gần vùng nguyên liệu hoặc gần các cảng xuất khẩu kết

hợp với hệ thống kho chuyên dụng tại các vùng nông thôn nhỏ.

Để đảm bảo xây dựng được một hệ thống kho lưu trữ hiệu quả, các cơ quan hữu quan cần thiết lập các bộ tiêu chuẩn nhà kho phù hợp với từng ngành hàng17. Việc

chuẩn hóa các kho hàng hiện tại theo bộ tiêu chuẩn cũng cần thực hiện theo từng

giai đoạn phù hợp với tốc độ phát triển của SGDHH đồng thời tránh tình trạng đầu

tư ào ạt gây lãng phí. Việc đầu tư phát triển hệ thống kho lưu trữ nên được tiến hành

theo hai giai đoạn, cụ thể như sau:

 Giai đoạn 1

Xây dựng kho lưu trữ hàng hóa cần số vốn rất lớn; kinh nghiệm xây dựng kho hàng

từ các nước phát triển cho thấy không thể tiến hành trong một vài năm được. Trong

giai đoạn đầu này, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý kho hàng của Luân

Đôn, đó là sử dụng kho hàng của các thành viên. Có thể tận dụng hệ thống kho hàng

tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam với qui mô không lớn nhưng trải

đều khắp cả nước với chất lượng cũng tương đối ổn định để nhanh chóng triển khai

hệ thống chứng chỉ lưu kho.

Để được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện chứa hàng, các kho phải đáp ứng một số

yêu cầu về vị trí hoạt động (gần hệ thống đường giao thông, nguồn nguyên liệu…),

yêu cầu về thiết kế sàn, mái … phù hợp với chủng loại hàng hóa lưu kho; đảm bảo

chất lượng hàng trong thời gian gửi hàng tại kho, thời gian lưu trữ tối thiểu 3 - 5 tháng đối với các loại nông sản thông thường và 6 tháng đối với các sản phẩm đã

chế biến… Những tiêu chuẩn này sẽ được phát triển thêm cho phù hợp tùy theo

từng sản phẩm và sự phát triển của thị trường. Kho thành viên phải có bộ phận kiểm

định chất lượng hàng hóa lưu kho do sàn giao dịch hàng hóa cử đại diện. Bộ phận

kiểm định này có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong việc phân loại sản

17 Xem chi tiết một số tiêu chí lựa chọn kho hàng tại Phụ lục 1

phẩm.

63

Một vấn đề khác là hàng hóa Việt Nam muốn bán được với giá cao, thì công tác sơ

chế ban đầu là rất quan trọng để đảm bảo sản phẩm nông sản có thể bảo quản được

lâu trong kho lưu trữ. Có hệ thống lưu trữ tốt mà sản phẩm đầu vào chất lượng

không ổn định thì cũng không thể nào thành công. Chẳng hạn, có một số ý kiến cho

rằng cà phê Việt Nam chất lượng kém, nên thường phải bán giá thấp hơn cà phê

cùng loại của một số nước khác, như Indonesia. Đây là sự hiểu lầm, vì cà phê

robusta Việt Nam chất lượng vào loại cao trên thế giới, kể cả so với Indonesia. Sở

dĩ có sự hiểu lầm này là do khâu thu hái, sơ chế và phân loại cà phê ở Việt Nam còn

nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do nông dân không có điều kiện xây sân xi

măng để phơi nên cà phê lẫn sạn, cát; do nông dân thu cả cà phê xanh; ủ cà phê trên

đất dễ bị hút ẩm gây mốc... Do vậy, trước khi xây dựng kho lưu trữ quốc gia thì cần

có những đợt hướng dẫn người dân hay hợp tác xã về qui trình sơ chế ban đầu.

Ngoài ra, có kế hoạch hỗ trợ tín dụng với lãi suất thấp đối với những trường hợp

đầu tư cho công nghệ sơ chế ban đầu cho những hộ nông dân hay tập trung ở nhóm

nông dân, hợp tác xã.

Hệ thống kho lƣu trữ

Ban quản lý điều hành

Ban kiểm định chất lƣợng Ban giám định hàng hóa chƣa nhập

- Nhiệm vụ, kiểm tra chất lượng, phân từng nhóm hàng hóa để cấp chứng chỉ lưu kho

loại

- Bảo đảm hàng hóa dược lưu trữ đúng chất lượng. - Cấp chứng chỉ lưu kho. - Hoạt động nhập xuất được thuận tiện và nhanh chóng

- Đối với trường hợp ký quỹ hàng hóa giao sau thì cần một Ban kiểm tra thẩm định chất lượng

Hình 3.1: Mô hình hệ thống kho lƣu trữ

Bên cạnh việc có hệ thống kho bảo quản đúng chất lượng thì bộ tiêu chuẩn để phân

loại cho những loại nông sản thô hoặc đã qua chế biến cũng rất quan trọng. Xây

64

dựng một bộ tiêu chuẩn chung cho từng loại sản phẩm nông sản hiện nay ở Việt

Nam vẫn chưa có. Chính vì vậy, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng cần

nhanh chóng đưa ra bộ tiêu chuẩn này dựa vào những qui định chung của thế giới.

Nhờ có bộ tiêu chuẩn này mà người sản xuất có căn cứ để cải tiến quá trình sản xuất

cho phù hợp. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn còn gặp phải tình

trạng ép giá do những tiêu chuẩn của Việt Nam không phù hợ với thế giới. Tuy

nhiên đối với những hàng nông sản là thế mạnh của Việt Nam có vị trí đứng đầu thế

giới sẽ xây dựng khung tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với sản phẩm của nước nhà.

Riêng đối với những hàng nông sản không đạt chất lượng sẽ chế biến và tiêu thụ

trong nước. Việc này nhằm bảo vệ uy tín quốc gia cũng như thương hiệu cho sản

phẩm xuất khẩu. Mặt khác, phương pháp đánh giá chất lượng cũng phải phù hợp

với luật chơi của thế giới bởi vì sản phẩm nông sản dù giao dịch qua sàn có thể

cung cấp nguyên liệu cho sản xuất trong nước hay xuất khẩu khi tiêu chuẩn hóa,

thống nhất cách đánh giá sẽ có lợi hơn cho việc xuất khẩu và nâng cao vị thế trên

trường quốc tế. Bởi vì, hầu hết các nhà xuất khẩu bán hàng thông qua sàn nước

ngoài đều bị ép giá do tiêu chuẩn đánh giá khác với các nước trên thế giới. Chẳng

hạn, các hợp đồng mua bán cà phê robusta tại thị trường LIFFE đều xếp hạng cà

phê dựa trên các thông số chất lượng đo bằng phần trăm khối lượng, không phải

bằng tỉ lệ phần trăm số lỗi. Như vậy, cách xếp hạng theo % số lỗi mà ta đang áp

dụng không được quốc tế công nhận.

 Giai đoạn 2:

Việc sử dụng các kho hàng thành viên cũng không phải là vấn đề lâu dài mà cần có

kho lưu trữ quốc gia để vừa lưu trữ hàng hóa và làm thêm chức năng đệm cho thị

trường khi dư mua hoặc dư bán.

18 Tính riêng phần hỗ trợ lãi suất thu mua dự trữ 1 triệu tấn gạo theo quyết định 993/2011/QĐ-TTg trong giai đoạn tháng 7 – 11 năm 2010 đã là 450 tỷ đồng; hỗ trợ lãi suất (tối đa 6%) thu mua cà phê theo quyết định 481/2011/QĐ-TT là 190 tỷ đồng,

Hàng năm, chính phủ Việt Nam phải bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách đảm bảo giá sàn cho gạo, cà phê …18 nhưng chính sách này cũng không thực

65

sự phát huy hết bản chất của nó vì chỉ thu gom được một lượng hàng nhất định nên

giá vẫn rớt liên tục. Do vậy, thay vì trợ giá mỗi năm nhà nước sẽ là người đứng ra

xây dựng những hệ thống kho lưu trữ quốc gia này không vì mục đích lợi nhuận mà

là thực hiện phúc lợi xã hội. Toàn bộ hệ thống kho sẽ xây dựng từng bước theo tiến

độ, xây dựng ở những vùng có đủ điều kiện để xây dựng trung tâm giao dịch trước

rồi đến những khu vực khác sau. Hiện nay, chúng ta đã có kho của BCEC lưu trữ cà

phê, do vậy nên xây dựng thêm hệ thống kho cho gạo, cao su trước.

Hiện nay, Việt Nam có 5 vùng kinh tế trọng điểm trồng các loại cây chuyên canh

với qui mô tập trung tương đối lớn do vậy để thuận tiện thì cần có hệ thống kho lưu

trữ quốc gia để có thể dự trữ hàng hóa nông sản đảm bảo hoạt động giao dịch được

thực hiện tốt. Mỗi vùng kinh tế với các loại cây trồng tập trung nhiều nhất sẽ xây

dựng kho trung tâm còn các kho thành viên trong giai đoạn này sẽ thành kho trung

chuyển.

Theo những nghiên cứu về vị trí cũng như điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội thì Bình

Phước, Daklak, Cần Thơ, Hải Phòng có những điều kiện tốt cũng như là trung tâm

của vùng nguyên liệu, hệ thống giao thông thuận tiện….thích hợp để xây dựng kho

lưu trữ quốc gia. Kho lưu trữ quốc gia có qui mô lớn và đạt các yêu cầu về thợi gian

bảo quản, chất lượng hàng hóa…Các nhóm hàng hóa tương tự có thể bảo quản

chung với nhau như lúa và gạo,…Tổ chức của kho lưu trữ quốc gia cũng tương tự

như kho thành viên nhưng với quy mô lớn hơn.

 Tính trung thực, uy tín của bên vận hành kho

Trong hoạt động tín dụng dựa trên CCLK, ngân hàng chuyển rủi ro tín dụng của họ

từ người đi vay sang đơn vị phát hành CCLK – bên vận hành kho. Vì vậy, năng lực

tài chính của đơn vị vận hành kho có vai trò quan trọng đối với hiệu quả vận hành

của hệ thống tín dụng này. Để đảm bảo rằng CCLK sẽ được các ngân hàng chấp

nhận làm TSBĐ, các nhà vận hành kho phải tạo dựng được uy tín cho mình trên cơ

sở đảm bảo năng lực tài chính và ứng dụng các phương thức quản lý hàng theo tiêu

chuẩn quốc tế.

66

Với vai trò quản lý nhà nước và chịu trách nhiệm định hướng sự phát triển của

ngành sản xuất nông nghiệp nói chung và hoạt động tín dụng nông nghiệp nói riêng,

Chính phủ cần xây dựng một hệ thống cấp phép kho bãi và kiểm định điều kiện kho

nhằm đảm bảo chúng đáp ứng được những tiêu chuẩn cơ bản, cả về tài chính cũng

như cơ sở vật chất. Thông qua cơ quan đại diện phù hợp, chính phủ nên cấp phép

cho các đơn vị kiểm định. Trong đa số trường hợp, việc kiểm định nhà kho và hàng

hóa lưu kho được thực hiện bởi các đơn vị tư nhân có giấy phép (thường là do Bộ

NN & PTNT cấp). Các công ty trong nước và đa quốc gia có thể xác định chất

lượng, phân loại và thẩm định độc lập đối với hàng hóa lưu kho.

Về năng lực tài chính: các chỉ tiêu cần xem xét có thể bao gồm nhưng không giới

hạn các tiêu chí sau: vốn điều lệ, kết quả kinh doanh 2 năm gần nhất, hệ số nợ vay...

Về năng lực quản lý hàng: cần thiết xem xét kinh nghiệm của đơn vị vận hành kho

cũng như của chủ doanh nghiệp, quy trình nhập kho có khoa học hay không, hệ

thống máy móc, xe nâng …

Để đảm bảo sự trung thực và khả năng thanh toán của các nhà vận hành kho, những

điều kiện bắt buộc để được cấp phép nên bao gồm:

 Yêu cầu về vốn tối thiểu

 Sức chứa tối thiểu

 Phải có bảo lãnh thực hiện hoặc tham gia váo quỹ bồi thường tổn thất.

 Định kỳ báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan cấp phép.

 Công bố công khai phí lưu kho

 Mua bảo hiểm hỏa hoạn (nên nâng cấp thành bảo hiểm mọi rủi ro)

 Không được cho vay hoặc bảo lãnh vay vốn cho bên thứ ba.

Như vậy, việc xây dựng hệ thống kho lưu trữ là vô cùng cần thiết đối với mô hình

tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho. Hệ thống kho với năng lực tài chính cũng như

năng lực quản lý tốt sẽ tạo dựng được niềm tin nơi người ký gửi hàng cũng như các

ngân hàng. Tuy nhiên, rủi ro lúc nào cũng có thể xảy ra. Vì thế để bảo đảm an toàn

67

cho ngân hàng, cho người đi vay cũng như bảo đảm sự ổn định của hệ thống thì cần

có các sản phẩm bảo hiểm và các quỹ bồi thường rủi ro.

3.1.3 Bảo hiểm hoạt động

Để CCLK được chấp nhận một cách rộng rãi, hệ thống kho cần phải có bảo hiểm

hoạt động. Điều này sẽ bảo đảm hàng hóa trong kho được ghi nhận đúng về mặt số

lượng và chất lượng thì phải bằng hoặc cao hơn trong CCLK. Thiếu hình thức bảo

hiểm này, người nông dân và thương nhân sẽ không tự nguyện đưa hàng hóa vào

kho và ngân hàng thì không sẵn lòng xem CCLK là TSBĐ cho khoản cấp tín dụng

dựa trên nông sản lưu kho.

Bảo hiểm hoạt động thường tồn tại dưới hình thức hợp đồng bảo hiểm hoặc tín dụng

thư. Đôi khi, có thể có sự tham gia của một quỹ bồi thường rủi ro, là quỹ được hình

thành dựa trên sự đóng góp từ các kho tư nhân, và thường trích từ khoản phí của

khách hàng. Những quỹ này giúp giảm thiểu chi phí của hợp đồng bảo hiểm và tín

dụng thư, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các kho quy mô nhỏ được tham

gia bảo hiểm. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu chúng ta nên áp dụng hình

thức bảo lãnh thông qua hợp đồng bảo hiểm hoặc thư bảo lãnh do ngân hàng phát

hành. Sau khi số lượng kho thành viên đạt được quy mô phù hợp thì sẽ tạo lập Quỹ

bồi thường rủi ro nhằm san sẻ chi phí bảo lãnh đồng thời tăng mức độ tin cậy cho hệ

thống kho.

3.1.4 Sự sẵn sàng tham gia của hệ thống ngân hàng

Nhận thức và sự sẵn sàng tham gia của các ngân hàng cũng đóng vai trò rất quan

trọng đối với sự thành công của mô hình tín dụng dựa trên CCLK. Hầu hết các

TCTD của Việt Nam đều khá e dè trước các nhu cầu vốn trong lĩnh vực sản xuất

nông nghiệp. Nếu tất cả các khoản vay sản xuất nông nghiệp đều trông vào Ngân

hàng NN & PTNT thì chắc chắn hiệu quả của mô hình này nói riêng và hoạt động

sản xuất nông nghiệp sẽ không thể đạt như mong muốn. Cần thiết phải có sự tham

gia cả hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có hệ thống mạng lưới rộng,

nguồn vốn khả dụng lớn để bảo đảm hiệu quả triển khai của mô hình này.

68

Để mô hình tín dụng dựa trên CCLK có thể triển khai một cách có hiệu quả, đi vào

thực chất thì các TCTD cần quan tâm một số vấn đề sau:

 Xây dựng các sản phẩm tín dụng phù hợp với sản xuất nông nghiệp, đặc biệt

là các sản phẩm tín dụng dựa trên TSBĐ là các mặt hàng nông sản.

 Cân nhặc điều chỉnh các quy trình cấp tín dụng theo hướng đơn giản hóa để

phù hợp với đặc thù của sản xuất nông nghiệp cũng như tiết kiệm thời gian

cho các bên.

 Dành riêng một nguồn vốn nhất định cho các khoản vay trong lĩnh vực này,

một mặt đảm bảo ổn định nguồn vốn cho vay cho nông nghiệp đồng thời

giúp quản lý rủi ro đối với một mô hình tín dụng tương đối mới ở nước ta.

Về phía Ngân hàng Nhà nước, cần có các chính sách khuyến khích cụ thể nhằm

hướng nguồn vốn tín dụng chuyển từ các lĩnh vực không ưu tiên như chứng khoán,

bất động sản … sang lĩnh vực nông nghiệp đồng thời tích cực tìm kiếm, đàm phán

các nguồn vốn ưu đãi từ quốc tế cho lĩnh vực này.

3.2 Mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lƣu kho

3.2.1 Quy trình vận hành

Nắm bắt được nhu cầu tín dụng từ khu vực nông thôn đang là vấn đề cấp thiết cần

giải quyết, nhà nước ta đã nhiều lần thay đổi chính sách, ban hành các quy định

nhằm khuyến khích các ngân hàng cho khu vực nông thôn vay với mức lãi suất ưu

đãi... tạo mọi điều kiện cho người nông dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng, tăng

cường sự phối hợp giữa sự hỗ trợ sản xuất của các tổ chức chính trị - xã hội với

nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề này vẫn

chưa được giải quyết triệt để, một số bộ phận nông dân khu vực vùng sâu vùng xa,

nông dân sản xuất nhỏ lẻ theo phương thức truyền thống (vốn thiếu thông tin và khó

tìm kiếm được thị trường tiêu thụ) vẫn chưa nhận được nguồn tín dụng theo nhu

cầu, hiệu quả sản xuất nông nghiệp và chất lượng đầu tư của các tổ chức tín dụng

còn thấp nên khả năng thu hồi vốn chưa cao.

69

Trước thực tế này, việc tìm ra một phương cách tiếp cận tín dụng mới cho người

nông dân là hết sức cần thiết. Phương thức này vừa phải giúp cho người nông dân

tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng vừa giúp cho các tổ chức tín dụng an tâm về khoản

tín dụng đã cấp, hạn chế việc không thu hồi được nợ vay. Cũng cần lưu ý đến vấn

đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho người nông dân trong phương cách tiếp cận

tín dụng mới và những ưu điểm mà phương thức này mang lại so với cách tiếp cận

tín dụng truyền thống ở khu vực phi chính thức vốn là giải pháp về nguồn vốn đầu

vào của hầu hết các nông dân hiện nay. Sẽ rất là hữu ích nếu ta có thể thiết kế một

mô hình giao dịch hàng hóa tập trung mà người nông dân tham gia sàn có thể giải

quyết được vấn đề tín dụng cho chính mình. Như vậy, số lượng nông dân tham gia

sẽ gia tăng đáng kể.

Học hỏi kinh nghiệm các nước, đặc biệt là từ mô hình chứng chỉ lưu kho của

Philippines và Anh, tác giả xin đề xuất giải pháp tiếp cận tín dụng mới cho người

nông dân thông qua hệ thống chứng chỉ lưu kho (CCLK) mà hội nông dân đóng vai

trò trung gian, trực tiếp hướng dẫn người nông dân thực hiện như sau:

Hình 3.1: Sơ đồ hệ thống tín dụng dựa trên CCLK cho Việt Nam

Nguồn: Đề xuất của tác giả

70

Bảng 3.1: Chú thích sơ đồ hệ thống tín dụng dựa trên CCLK

Bên ký gửi hàng hóa sẽ gửi hàng tại các kho đạt tiêu chuẩn và nhận lại các (1) CCLK theo đúng mẫu do SGDHH quy định

Dùng CCLK như TSBĐ để vay vốn ngắn hạn 3 – 6 tháng tại các TCTD, tỷ lệ (2) cho vay tùy vào loại hàng nhưng không quá 85% giá trị lô hàng

TCTD sẽ liên hệ với SGDHH để xác nhận mức độ xác thực của CCLK (nếu

cần thiết) và định giá các CCLK dựa trên giá giao ngay tại SGDHH; gửi

thông tin về khoản vay dựa trên CCLK để SGDHH ghi nhận.

SGDHH phản hồi về tính xác thực của CCLK và ghi nhận trên hệ thống

khoản vay đã phát sinh được bảo đảm bằng CCLK (3) Thường xuyên cập nhật giá giao dịch trên SGDHH để quản lý giá TSBĐ tốt,

kịp thời đưa ra những biện pháp cần thiết để hạn chế rủi ro biến động giá.

Trường hợp diễn ra các giao dịch ở bước (5) và (6), SGDHH sẽ liên hệ với

TCTD đã cấp tín dụng để xác nhận và thực hiện thu nợ gốc và lãi trước khi

chuyển phần tiền còn lại vào tài khoản bên ký gửi hàng hóa.

Các kho lưu trữ phải đảm bảo duy trì đầy đủ các tiêu chuẩn do SGDHH đưa

ra, cung cấp chứng nhận bảo hiểm hỏa hoạn tối thiểu 110% giá trị hàng hóa

lưu kho; (4) Thẩm định và cấp giấy chứng nhận kho đủ điều kiện là thành viên; kiểm tra

định kỳ và đột xuất hàng hóa trong kho nhằm đảm bảo hàng hóa lưu kho đủ

về số lượng, đúng về chất lượng

Thực hiện các giao dịch bán giao ngay hoặc bán kỳ hạn hàng hóa đã ký gửi (5) thông qua SGDHH

Thực hiện các giao dịch mua giao ngay hoặc mua kỳ hạn hàng hóa thông qua

SGDHH; Bên mua sẽ nhận được giấy biên nhận CCLK để đến nhận tại (6)

TCTD có liên quan sau khi thanh toán qua SGDHH

71

TCTD thực hiện ký hậu CCLK dựa trên thông tin về người mua do SGDHH

cung cấp sau khi nhận được tiền thanh toán từ SGDHH để tất toán khoản vay (7)

Bên mua xuất trình biên nhận của SGDHH và nhận CCLK tại TCTD

(8) Bên mua xuất trình CCLK để nhận hàng

NHTW cho vay tái cấp vốn dựa trên quy mô tín dụng NNNT và tín dụng dựa (9) trên CCLK của các TCTD.

Các Công ty bảo hiểm tham gia cung ứng các sản phẩm bảo hiểm cho các kho (10) lưu trữ hàng hóa

 Chứng chỉ lƣu kho: Do yêu cầu về tính pháp lý cũng như để bảo đảm tính

thanh khoản cho CCLK, tác giả đề xuất một số điểm chính đối với CCLK như sau:

 SGDHH quy định mẫu CCLK tương ứng với từng loại hàng hóa để thống

nhất quản lý và thuận tiện trong giao dịch.

 Cần quy định hệ thống số series trong đó cần có nhóm ký tự đại diện cho

kho hàng, chủng loại sản phẩm. Ví dụ như: XYRI5-3456 đại diện cho

mặt hàng gạo (RI – Rice) loại 5% tấm đang để tại kho XY.

 Các thông tin tối thiểu cần có trên CCLK: Chủ sở hữu, số lượng, chủng

loại, ngày nhập kho.

 Trang sau thể hiện nội dung chuyển nhượng (ký hậu).

3.2.2 Vai trò của các bên liên quan trong mô hình tín dụng dựa trên

CCLK

Mô hình tín dụng cho nông dân dựa trên CCLK mà tác giả đưa ra tương tự như

Philippines (như tác giả đã trình bày ở chương 1). Trong đó, vai trò của các bên có

thể được khái quát như sau:

72

 Ngân hàng nhà nƣớc: đóng vai trò định hướng chính sách, quản lý Nhà nước

đối với hoạt động tín dụng nông nghiệp, hỗ trợ các giao dịch thanh toán thông qua

ngân hàng của SGDHH với các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, ban hành các quy định chung về cấp tín dụng dựa trên CCLK để

các TCTD thực hiện thống nhất, hạn chế rủi ro hệ thống. Đơn cử cần sửa đổi

bổ sung Quy chế cho vay đối với nội dung “Mục đích sử dụng vốn” để các

khoản cấp tín dụng dựa trên CCLK dễ dàng triển khai mà không bị ràng buộc

bởi việc chứng minh mục đích sử dụng vốn vay.

Thứ hai, NHNN chấp nhận tái chiết khấu/cầm cố CCLK để góp phần tăng

tính thanh khoản cho CCLK đồng thời khuyến khích các TCTD đẩy mạnh

hoạt động tín dụng trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, NHNN cũng có thể cho

vay tái cấp vốn đối với các TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay nông nghiệp

nông thôn cao như một biện pháp hỗ trợ, ưu đãi cho lĩnh vực này.

Thứ ba, NHNN thành lập / phối kết hợp với các Bộ chuyên ngành (trước mắt

là Bộ Nông nghiệp & PTNT) thành lập tổ chức chuyên cung cấp Bảo đảm/Bảo

hiểm tín dụng nông nghiệp nhằm cung ứng các hợp đồng bảo hiểm cho các

khoản vay trong lĩnh vực này. Việc cung ứng bảo hiểm tín dụng trong lĩnh vực

nông nghiệp sẽ là một liều thuốc hữu hiệu giúp các TCTD mạnh dạn hơn trong

việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng trong lĩnh vực vốn dĩ nhiều rủi ro. Chính

phủ cũng đã có Quyết định triển khai thí điểm Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu

giai đoạn 2011 – 2013 đối với một số mặt hàng như thủy sản, gạo, cà phê, rau

quả, cao su, hạt tiêu, nhân điều, chè, sắn và các sản phẩm từ sắn, dệt may, giày

dép, điện tử và linh kiện máy tính, gốm sứ, thủy tinh, mây tre cói và thảm, sản

phẩm gỗ, sản phẩm chất dẻo, dây điện và cáp điện, xe đạp và phụ tùng. Mô

19 Xem thêm phần Phu lục 2: Cơ chế bảo lãnh nông sản xuất khẩu của Mỹ

hình Bảo hiểm tín dụng nông sản xuất khẩu của Mỹ có thể là một mô hình đáng để tham khảo19.

73

 Sở giao dịch hàng hóa: đóng vai trò quan trọng đối với quy trình tín dụng dựa

trên CCLK, vai trò của SGDHH thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, xây dựng các tiêu chuẩn đối với các kho thành viên dựa trên sự

tham vấn của các Bộ chuyên ngành, các Hiệp hội ngành và tham khảo mô hình

của các SGDHH uy tín trên thế giới.

Thứ hai, tiến hành kiểm tra hàng lưu kho (về chất lượng, số lượng, loại tiêu

chuẩn...) thường xuyên và/hoặc đột xuất (như khi nhập hoặc xuất hàng, khi

được khách hàng yêu cầu...). Sự tách bạch giữa người giữ hàng (nhà kho) và

người kiểm tra hàng (SGDHH) là cần thiết để tạo tính khách quan, trung thực

cho hàng hóa được lưu giữ.

Thứ ba, thống nhất mẫu biểu và quy trình lập CCLK đối với từng loại hàng

hóa nhằm bảo đảm tính pháp lý và tính đầy đủ thông tin của CCLK. Giấy lưu

kho phải đáng tin cậy thì mới được chấp nhận rộng rãi, mới có tính thanh

khoản trên thị trường.

Thứ tƣ, hỗ trợ các TCTD trong việc xác nhận tình trạng các lô hàng mà

CCLK được cầm cố, thu nợ gốc và lãi khi bên ký gửi thực hiện giao dịch bán

lô hàng để đẩy nhanh tiến trình giải ngân tín dụng.

 Hệ thống kho lƣu trữ: Một hệ thống kho lưu trữ hiệu quả là điều kiện cần có để

tạo lòng tin và thu hút mọi người ký gửi hàng hóa. Nhà kho phải đảm bảo các tiêu

chuẩn về kho bãi do các cơ quan Nhà nước ban hành đồng thời là thành viên của

SGDHH, tuân thủ các cam kết khi trở thành thành viên của SGDHH. Hoạt động chủ

yếu là nhận hàng hóa ký gửi và cấp CCLK tương ứng với số lượng hàng hóa đã ký

gửi; lưu trữ, bảo quản hàng hóa kỹ lưỡng đảm bảo chất lượng cho đến hết thời gian

20 Xem thêm một số tiêu chuẩn về nhà kho do tác giả đề xuất tại phụ lục 8

ký gửi. Các kho thành viên cần tuyệt đối tuân thủ việc mua bảo hiểm hàng hóa nhằm hạn chế tổn thất trong trường hợp rủi ro xảy ra20.

74

 Các tổ chức tín dụng: cung cấp nguồn tín dụng cho nông dân, chấp nhận CCLK

làm tài sản thế chấp. Các tổ chức tín dụng được khuyến khích phân bổ 40% danh mục cho vay của mình cho khu vực nông thôn21 (đây là tỷ trọng tương đối hợp lý

cần thiết đáp ứng nhu cầu vốn của nông dân ở nước ta hiện nay). Hiện nay, chỉ có

Agribank là có 70% dư nợ dành cho tín dụng nông thôn, còn các ngân hàng còn lại

hầu như không cho vay hoặc cho vay rất ít đối với khu vực nông thôn. Các tổ chức

tín dụng cũng được khuyến khích thực hiện nhiều chính sách ưu đãi cho nông dân

như rút ngắn thời gian làm thủ tục, cho vay ngắn hạn từ 3 đến 6 tháng.... Cách thức

này có lợi cho cả hai bên. Ngân hàng có thể hạn chế rủi ro không thanh toán của

người nông dân vì nắm giữ một khoản thế chấp là giá trị tài sản lưu giữ trong kho.

Còn người nông dân có nhiều cơ hội vay vốn hơn, có thể vay với lãi suất thấp hơn

trước rất nhiều (vì rủi ro không thanh toán giảm) và không phải chịu nhiều thủ tục

vay mượn rườm rà như trước (chỉ cần đưa giấy chứng nhận lưu kho hợp lệ là họ có

thể được vay trong khi trước kia, muốn vay vốn họ phải nộp sổ đỏ để thế chấp và

trải qua nhiều khâu thủ tục trung gian rườm rà của ngân hàng để thẩm định tín

dụng).

Từ góc độ của mình các TCTD cần phải thiết kế những sản phẩm đặc thù phù hợp

với đặc tính của quy trình tiếp cận tín dụng thông qua CCLK. Tác giả đề xuất một

số điểm chính như sau:

- Đối tượng khách hàng: các hộ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực nông nghiệp có nhu cầu vay vốn đảm bảo bằng CCLK.

- Thời hạn vay vốn: từ 3 đến 6 tháng (tùy vào ngành hàng và thời điểm giải

ngân).

- Tỷ lệ cho vay: tối đa 85% giá trị CCLK. Phần 15% giá trị CCLK còn lại có

21 Đối với các tổ chức có tỷ trọng dư nợ cho vay nói trên trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới 70%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi (Hiện đã có một số TCTD được hưởng ưu đãi này là: Agribank, VIB, Kiên Long va Me Kong).

thể bảo đảm cho phần lãi mà bên vay phải trả. Tỷ lệ tối đa này chỉ nên áp

75

dụng nếu có sử dụng kết hợp các sản phẩm bảo hiểm rủi ro biến động giá

(quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn …).

- Lãi suất: áp dụng mức lãi suất thông thường tương đương với cho vay đảm

bảo bằng BĐS.

- Nguồn trả nợ: từ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc từ bán CCLK cầm cố

- Quy trình tín dụng: áp dụng tương tự như trường hợp cầm cố chứng từ có giá

như cổ phiếu hay trái phiếu.

Bên cạnh việc thiết kế sản phẩm với những tính năng phù hợp và tiện lợi cho người

đi vay đang nắm giữ CCLK thì các TCTD cần lưu ý tới việc quản trị rủi ro nhằm tối

đa hóa lợi ích của xã hội khi đẩy mạnh hoạt động này, cụ thể:

Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế quản lý giá hàng hóa để giảm thiểu rủi ro biến

động giá; đảm bảo thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi vay (đưa ra các mức giá cảnh

báo – giá xử lý phù hợp). Khi xây dựng cơ chế này cần lưu ý tầm quan trọng

của việc liên hệ chặt chẽ với SGDHH để nâng cao hiệu quả của việc quản lý

giá hàng hóa, mặt khác đẩy nhanh tốc độ xử lý các hồ sơ vay do SGDHH sẽ

xác nhận về tính hợp lệ của CCLK.

Thứ hai, xây dựng tổng hạn mức cho vay đối với từng ngành hàng riêng biệt

như là một trong những công cụ quản trị danh mục cho vay, phục vụ cho mục

tiêu quản trị rui ro chung của ngân hàng. Tổng hạn mức cho vay cần xây dựng

và cập nhật dựa trên quy mô của ngành hàng, rủi ro ngành và những biến động

của thị trường trong thời gian 1 – 3 năm trở lại.

 Ngƣời ký gửi hàng hóa: bao gồm tất cả những ai có nhu cầu ký gửi, lưu trữ

hàng hóa. Họ có thể là người nông dân, hội nông dân, các thương nhân hay các

doanh nghiệp chế biến... nhưng nông dân là chủ yếu.

 Hội nông dân địa phƣơng: đóng vai trò là một trung gian gắn kết giữa người

nông dân với các hệ thống kho lưu trữ và các nhà cung cấp tín dụng. Là một hội đại

diện cho nông dân nên sẽ có tiếng nói hơn so với cá nhân người nông dân. Trong hệ

thống này, Hội nông dân có thể giúp nông dân rất nhiều bằng cách: thương thảo về

76

các tiêu chuẩn trong điều khoản cho vay, các điều kiện cơ bản (như lãi suất, kỳ

hạn..) với các ngân hàng; mở ra một kênh liên lạc với các nhà quản lý kho, tập trung

hàng hóa cho mỗi lần vận chuyển (sẽ tiết kiệm đáng kể chi phi vận chuyển) hoặc

đôi khi có thể đứng ra bảo vệ người nông dân trong các phiên tranh chấp, phân xử

thông qua trọng tài...

Như vậy, để hoạt động hiệu quả, cần có mối liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể tham

gia; hệ thống chứng chỉ lưu kho cần dựa trên sự tin cậy giữa nhà kho và người cho

vay (chính là các ngân hàng thương mại), dựa trên một hệ thống nhà kho tốt, một

khuôn khổ pháp luật và quy tắc phù hợp, có đầy đủ các kỹ năng cần thiết trong ngân

hàng và hội nông dân nhằm phục vụ hoạt động giao dịch.

Trong tương lai, khi số lượng giao dịch trên SGDHH cũng như các giao dịch tín

dụng dựa trên CCLK ngày càng lớn, một yêu cầu tất yếu là sự liên thông giữa

SGDHH và hệ thống mạng của các TCTD, cụ thể hơn là cần xây dựng một hệ thống

mạng trực tuyến kết nối giữa SGDHH và các TCTD có các sản phẩm tín dụng dựa

trên CCLK. Đối với vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo cách làm của hệ thống

Trade Card của các DN hoạt động trong lĩnh vực dệt may, da giày. Trên hệ thống

này, các hợp đồng thương mại giữa các bên sẽ hiển thị đầy đủ các thông số cơ bản

như loại hàng, giá trị, ngày giao hàng, bên giao dịch, tiến độ làm hàng, ngân hàng

thanh toán … Tất cả các thành viên tham gia hiệp hội đều được quyền truy cập để

cập nhật thông tin về các đơn hàng của mình và đối tác, ngân hàng cho vay cũng sẽ

kiểm tra được tiến độ làm hàng cũng như dòng tiền thanh toán cho hợp đồng đã cho

vay. Dựa theo đó, chúng ta có thể xây dựng một hệ thống tương tự tạo sự kết nối

giữa SGDHH, kho hàng, ngân hàng và những bên giao dịch. Xây dựng được hệ

thống này sẽ giúp tăng hiệu quả quản lý hàng hóa trong kho, việc chuyển hàng vào

kho rồi cập nhật trên hệ thống sẽ giúp người nông dân, DN nhanh chóng tham gia

vào những giao dịch trên sàn. Thông tin về lô hàng sẽ liên tục được cập nhật, bao

gồm cả thông tin về những giao dịch tín dụng liên quan đến lô hàng đó (lô hàng này

có đang được thế chấp cho TCTD nào hay không, số tiền cho vay, ngày đáo hạn

…). Xây dựng được hệ thống này còn giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín

77

dụng, hạn chế những vụ lừa đảo CCLK giả. Từ đó, tiến đến chỗ xóa bỏ CCLK giấy

thay thế bằng CCLK điện tử.

Lợi ích lớn nhất mà người nông dân nhận được từ hệ thống này đó là giải quyết

được vấn đề lưu trữ hàng hóa và tìm được nguồn vốn cho nhu cầu sản xuất của

mình. Với việc ký gửi hàng hóa vào kho và nhận CCLK, họ có nhiều lựa chọn hơn

cho mình. Một là, nếu giá bán hiện tại tốt, họ có thể bán ngay CCLK bằng cách đặt

lệnh trên sàn để thu về tiền mặt. Hai là, nếu cảm thấy mức giá bán chưa hợp lý hoặc

họ chưa cần đến tiền, người nông dân có thể bán kỳ hạn CCLK và yên tâm rằng

hàng vẫn được bảo quản tốt trong kho. Nếu họ cần thêm vốn cho sản xuất mà giá

nông sản vẫn cầm chừng thì có một phương án giải quyết khác là đi vay ngân hàng

và chỉ việc lấy chứng chỉ lưu kho làm vật thế chấp. Khi nào hàng được giá, họ sẽ

bán hàng và trả nợ cho ngân hàng. Thậm chí nếu nông dân không thể bán được

hàng, và không trả được nợ thì họ cũng không phải lo lắng nhiều vì coi như ngân

hàng sẽ mua hết số hàng hóa đó.

Sử dụng hệ thống CCLK không những có lợi cho nông dân mà còn có lợi cho thị

trường hàng hóa và nền kinh tế. Việc thực hiện các giao dịch mua bán chỉ qua các

CCLK sẽ giảm đi đáng kể các thủ tục hành chính rườm rà liên quan đến việc giao

và nhận hàng hóa thực, vì thế sẽ tiết kiệm một khoản không nhỏ từ chi phí hành

chính và chi phí vận chuyển. Ở đây, yêu cầu cần có một mối liên hệ chặt chẽ giữa

hệ thống CCLK và thị trường hàng hóa tập trung. Khi đó, các CCLK sẽ được giao

dịch rộng rãi trên thị trường và thanh khoản cao vì có nhiều kênh giao dịch như:

kinh doanh chênh lệch giá CCLK, mua bán giao ngay, kỳ hạn hoặc giao sau các

CCLK... Lúc này, hầu như các giao dịch đều bằng CCLK và hàng hóa thật chỉ được

giao nhận khi có người thực sự cần hàng hóa và sở hữu CCLK.

78

KẾT LUẬN

Hoạt động nông nghiệp vốn dĩ chứa đựng nhiều loại rủi ro, bao gồm cả rủi ro biến

động giá. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, các nền kinh tế có

sự liên hệ ngày càng chặt chẽ với nhau thì rủi ro giá cả ngày càng có xu hướng gia

tăng. Riêng đối với nông dân Việt Nam, tình trạng “được mùa mất giá” dường như

là một điệp khúc lặp đi lặp lại trong nhiều năm qua, ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập

của người nông dân nói riêng và những đối tượng hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp nói chung. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt nguồn vốn cho sản xuất nông

nghiệp càng khiến cho tình trạng “được mùa mất giá” trở nên nghiêm trong hơn và

dường như không có giải pháp triệt để.

Thực tế khảo sát của tác giả cho thấy, người nông dân và doanh nghiệp đã nhận

thức rất rõ ràng về tầm quan trọng của rủi ro giá cả và phần lớn trong số họ sẵn sàng

tham gia các sản phẩm bảo hiểm rủi ro miễn là thủ tục đơn giản và chi phí hợp lý.

Mô hình tín dụng dựa trên chứng chỉ lưu kho đã được nhiều nước áp dụng nhưng

thành công có và thất bại cũng có. Điều quan trọng quyết định đến hiệu quả triển

khai của mô hình này chính là việc chuẩn bị những điều kiện về pháp luật, cơ sở hạ

tầng (kho) và sự sẵn sàng của các đối tượng, đặc biệt là các TCTD.

Với mô hình tín dụng dựa trên CCLK được đề cập ở trên, tác giả hy vọng sẽ giúp

giải quyết các hạn chế còn tồn tại hiện nay trên thị trường tín dụng nông sản và thị

trường hàng hóa Việt Nam, tìm ra hướng đi mới cho hoạt động tín dụng nông

nghiệp và khắc phục tình trạng được mùa mất giá trong hoạt động kinh doanh nông

sản.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Phạm Quang Diệu (2011), “Bức tranh xuất khẩu gạo 2010”, Thời báo Kinh tế Sài

Gòn Online.

2. Khoa Tài chính doanh nghiệp, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2005),

Tài chính quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (2007, 2008, 2009), Báo cáo tài chính

& Báo cáo thường niên.

4. Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (2007, 2008, 2009), Báo cáo tài chính &

Báo cáo thường niên.

5. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (2007, 2008, 2009), Báo cáo tài chính

& Báo cáo thường niên.

6. PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2011), Xây dựng thị trường giao sau hàng hóa

phòng ngừa rủi ro biến động giá, Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, Trường

Đại học Kinh tế Tp.HCM, Hồ Chí Minh.

7. Trường Đại học Cần Thơ, Tạp chí Khoa học 2011:19a 96-108.

8. Trung tâm Thông tin Tín dụng, Ngân hàng Nhà nước (2011), Bản tin Thông tin tín

dụng (nhiều số).

Tiếng Anh

1. Basab Dasgupta (2004), “Role of commodity futures market in spot price

stabilization, production and inventory decisions with reference to India”, Indian

Economic Review, Volumn 39.

2. Bass and Handerson (2000), “Warehouse receipts: Financing agricultural

pruducers”, Technical note No. 5.

3. Piero Cinquegrana (2008), “The Need for Transparency in Commodity and

Commodity Derivatives Markets”, ECMI Research Report No. 3.

4. De M. Olivier Combe, 1997, The role of farmers’ associations in commodity price

risk management and collateralized commodity finance, UNCTAD.

5. Antonio Cordella (2007), Review Vietnam’s commitments under agreement on

agriculture and proposal of policies in line with WTO, MUTRAP II.

6. Coulter J.P. (2009), Review of warehouse receipt system and inventory credit

initiatives in Eastern and Southern Africa, UNCTAD: All ACP Agricultural

Commodities Programme.

7. Coulter J.P. and Onumah, G. (2002). “The role of Warehouse Receipt Systems in

Enhanced Commodity Marketing and Rural Livelihoods in Africa”, Food Policy,

Vol. 27, Issue No. 4.

8. Coulter, Jonathan, and Andrew Shepherd. 1995. “Inventory Credit: An Approach

to Developing Agricultural Markets.” FAO Agricultural Services Bulletin 120.

Food and Agriculture Organization, Rome.

9. Claessens, S., y R. Duncan (1993). "Managing Commodity Price Risk in

Developing Countries". The World Bank and The Jhon Hopkins University Press.

10. Patrick de Fontenay and Suiwah Leung (2002), Managing Commodity Price

Fluctuations in Vietnam’s Coffee Industry. National Centre for Development

Studies, Australian National University.

11. Gilbert, Christopher L. (1996), International Commodity Agreements: An obituary

notice, Elsevier journal World Development.

12. Daniele Giovannucci, Panos Varangis, Don Larson (2001), Warehouse Receipts:

facilitating credit and commodity markets, World Bank.

13. Hollinger, Kiriakov and Rutten (2009), “The use of warehouse receipt finance in

agriculture in transition countries”. World Bank & FAO.

14. Kawai Masahiro (1983) “Spot and Futures Prices of Non Storable Commodities

under Rational Expectations”, Quarterly Journal of Economics, 98 (2).

15. Lacroix, R. and P. Varangis. 1996. “Using Warehouse Receipts in Developing and

Transition Economies” Finance & Development, Vol. 33, No. 3, September.

16. La Grange Mark D. (2002), Feasibility study for a regional warehouse receipt

program for Mali, Senegal and Guinea

17. Lokare S.M. (2007), Commodity Derivatives and Price Risk Management: An

Empirical Anecdote from India, Reserve Bank of India Occasional Papers Vol. 28,

No. 2.

18. Morgan C. W. (1999), Futures Markets and Spot Price Volatility: A Case Study,

Journal of Agricultural Economics, Volume 50, Issue 2, p 247–257.

19. Newbery, David M. (1990), Disadvantageous Oil Tariffs and Dynamic

Consistency, The American Economic Review (AER), 80(1), p 143 – 56.

20. Gideon E. Onumah (2003), Improving Access to Rural Finance through Regulated

Warehouse Receipt Systems in Africa, USAID.

21. Varangis Panos, Larson Donald F. (1996), Dealing with Commodity Price

Uncertainty, World Bank Policy Research Working Paper No. 1667.

22. Varangis, Panos and Don Larson. 1996. “How warehouse receipts help

commodity trading and financing”. DEC notes Development Trends no. 21,

September 1996, World Bank.

Internet

1. http://cmegroup.com/index.php?s=43&item=3088

2. http://en.Wikipedia.org/wiki/Commodity_exchange

3. http://en.wikipedia.org/wiki/Commodities_exchange

4. http://hbr.org/product/the-dojima-rice-market-and-the-origins-of-futures-

/an/709044-PDF-ENG

5. http://laodong.com.vn

6. http://quedancor-home.blogspot.com

7. http://www.referenceforbusiness.com/encyclopedia/Clo-Con/Commodity-exchange

8. http://www.shfe.com.cn/Ehome/doclist_member_1.html

9. http://vovnews.vn

10. http://vnx.com.vn

11. http://trungtamwto.vn

12. www.agro.gov.vn

13. www.baomoi.com

14. www.bcec.vn

15. www.cpv.org.vn

16. www.customs.gov.vn

17. www.gso.gov.vn

18. www.imf.org

19. www.indexmundi.com

20. www.lme.com

21. www.mof.gov.vn

22. www.mongabay.com

23. www.multrap.org.vn

24. www.nld.com.vn

25. www.rfa.org

26. www.sacom-ste.com

27. www.sbv.gov.vn

28. www.sgx.com

29. www.thitruongluagao.com

30. www.tinthuongmai.vn

31. www.thesaigontimes.vn

32. www.toquoc.gov.vn

33. www.vietfood.org.vn

34. www.worldbank.org

BẢNG CÂU HỎI

TÊN ĐỀ TÀI:

XÂY DỰNG MÔ HÌNH TÍN DỤNG DỰA TRÊN CHỨNG CHỈ LƯU KHO CHO VIỆT NAM

Tôi cam kết tất cả thông tin trong bảng câu hỏi này sẽ được bảo mật tuyệt đối và chỉ được sử dụng dưới góc độ thống kê. Đề tài không phân tích đánh giá riêng từng đối tượng tổ chức hay cá nhân cũng như không công bố trong đề tài bất kỳ thông tin nào về đối tượng tham gia trả lời bảng câu hỏi này.

Tác giả: Nguyễn Quang Ngọc

A. THÔNG TIN CHUNG:

(Anh/Chị vui lòng điền đầy đủ thông tin dưới đây)

Thông tin cá nhân người trả lời:

Họ và tên: .............................................................................................................

Chuyên môn: .........................................................................................................

Chức vụ: ................................................................................................................

Điện thoại: ................................. Email: ...............................................................

Thông tin Doanh nghiệp/Tổ chức mà người trả lời đang công tác:

Tên Doanh nghiệp/Tổ chức: .................................................................................

Địa chỉ: ..................................................................................................................

Điện thoại: .............................................................................................................

B. CÂU HỎI KHẢO SÁT

1. Sản phẩm mà ông bà/DN của ông bà kinh doanh là gì? (có thể chọn nhiều

câu trả lời)

a) Cây ăn trái

b) Thủy sản

c) Lúa gạo, cây lương thực

d) Cà phê

e) Sản phẩm khác (ghi rõ): ..........................................................................

2. Sản phẩm mang lại nguồn thu chủ yếu: .............................................................

3. Qui mô kinh doanh:

- Tính theo diện tích canh tác (hec-ta): ...........................................................

- Tính theo doanh số tiêu thụ sản phẩm (triệu đồng): .....................................

4. Ông bà/DN của ông bà chủ yếu tiêu thụ sản phẩm dưới dạng nào?

a) Sản phẩm thô (chưa qua sơ chế)

b) Sản phẩm gần thô, có qua sơ chế

c) Sản phẩm đã qua nhiều giai đoạn chế biến

d) Hình thức khác

5. Ông bà/DN của ông bà thường bán sản phẩm thông qua kênh tiêu thụ nào?

a) Chợ

b) Thương lái

c) Công ty xuất nhập khẩu

d) Xuất trực tiếp

e) Hình thức khác: .......................................................................................

6. Chi phí đầu vào của ông bà/DN của ông bà được chi trả như thế nào?

a) Trả bằng tiền, trả ngay khi mua nguyên vật liệu

b) Trả bằng tiền, trả chậm có tính lãi

c) Trả bằng sản phẩm sau khi thu hoạch

d) Hình thức khác (xin ghi rõ): ....................................................................

7. Trường hợp không trả bằng sản phẩm thì chi phí đầu vào của ông bà:

a) Đã được thỏa thuận trước

b) Thỏa thuận trước một phần: ................................................................ %

c) Hoàn toàn không thỏa thuận trước (theo diễn biến thị trường)

d) Trường hợp khác (xin nêu rõ): ................................................................

8. Giá bán sản phẩm của ông bà/DN của ông bà:

a) Đã được thỏa thuận trước

b) Thỏa thuận trước một phần: ................................................................ %

c) Hoàn toàn không thỏa thuận trước (theo diễn biến thị trường)

d) Trường hợp khác (xin nêu rõ): ................................................................

9. Trong 5 năm qua, hai yếu tố nào khiến ông bà/DN của ông bà thua lỗ hoặc giảm lợi nhuận nhiều nhất: ................................................................................

10. Ông/bà có sử dụng internet không?

a) Không, nhà không có mạng internet

b) Không, vì không quen sử dụng

c) Có, nhưng chủ yếu để giải trí

d) Có và có dùng để tìm hiểu thông tin thị trường, kiến thức trong ngành

11. Tỷ lệ nợ vay/vốn tự có của ông bà/DN của ông bà là bao nhiêu? ................. %

12. Những loại rủi ro nào sau đây mà ông bà cho là quan trọng nhất?

a) Rủi ro biến động giá cả nông sản sau thu hoạch

b) Rủi ro biến động giá vật tư, chi phí đầu vào

c) Rủi ro sâu bệnh

d) Rủi ro thiên tai, thời tiết

e) Rủi ro khác (VD: lãi suất ngân hàng, tỷ giá …)

13. Ông bà cho rằng sản phẩm nào sau đây là thiết thực nhất?

a) Sản phẩm Chốt được giá bán ngay từ đầu mùa vụ

b) Sản phẩm Chốt được giá bán vào bất kỳ thời điểm nào trước khi thu

hoạch

c) Sản phẩm bảo hiểm biến động giá vật tư

d) Sản phẩm khác (xin nêu rõ) .....................................................................

14. Nếu mua những sản phẩm phòng ngừa/bảo hiểm rủi ro biến động giá, ông bà

băn khoăn nhất điều gì?

a) Thủ tục bồi thường phức tạp

b) Chi phí cao

c) Thiếu kiến thức về các loại sản phẩm này, không quen sử dụng

d) Không tin tưởng các đơn vị bán sản phẩm

e) Yếu tố khác: .............................................................................................

15. Ông bà đã từng nghe/biết về những loại sản phẩm phòng ngừa rủi ro giá nào

sau đây?

a) Bảo hiểm nông nghiệp

b) Hợp đồng kỳ hạn

c) Hợp đồng giao sau

d) Chưa từng nghe tới 3 loại sản phẩm trên

16. Nếu có sản phẩm của ngân hàng/công ty bảo hiểm giúp ông bà chốt trước giá bán sản phẩm đầu ra hàng nông sản, ông bà có muốn sử dụng sản phẩm đó không?

a) Có, nhưng chỉ khi sản phẩm đó kết hợp với khoản vay ngân hàng

b) Có, nhưng chi phí phải hợp lý

c) Không, vì tôi không muốn tốn thêm chi phí

d) Không, vì tôi e ngại độ tin cậy của các sản phẩm đó

e) Không, vì tôi vẫn thường làm như vậy với các đầu mối tiêu thụ

17. Ông bà sử dụng kênh thông tin nào để tham khảo, học hỏi kinh nghiệm/kiến

thức cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình?

a) Hiệp hội ngành nghề (nêu rõ tên): ...........................................................

b) Đài truyền hình, đài tiếng nói

c) Trường đào tạo chuyên môn

d) Sách, báo

e) Từ người thân, người quen

f) Nguồn khác (xin nêu rõ): .........................................................................

18. Ông/bà đã nghe qua về sàn giao dịch hàng hóa?

a) Có

b) Chưa

19. Nếu có một sàn giao dịch hàng nông sản đối với các sản phẩm mà ông/bà

đang kinh doanh, ông/bà có dự định tham gia?

a) Không, vì qui mô mua bán của tôi không lớn

b) Không, vì không quen thuộc và phù hợp với tập quán của Việt Nam

c) Có thể sẽ tham gia thử

d) Chắc chắn sẽ tham gia vì đã biết lợi ích của nó

20. Ngân hàng đồng ý cho vay thế chấp bằng lô hàng nông sản, ông bà có bán toàn bộ sản phẩm sau khi thu hoạch để trả các chi phí cho vụ mùa không (ngay cả khi không được giá)?

a) Có, vì không quen vay vốn ngân hàng

b) Không, nhưng chí phí lãi vay phải hợp lý

c) Không, nhưng thủ tục phải đơn giản

21. Nếu việc tham gia sàn giao dịch hàng hóa giúp việc vay vốn ngân hàng thuận tiện hơn, ông bà có xem đó là yếu tố quan trọng để xem xét việc tham gia sàn giao dịch hàng hóa không?

a) Có

b) Không

22. Nếu tham gia sàn giao dịch hàng hóa, ông bà sẽ tham gia:

a) Trực tiếp tham gia giao dịch

b) Thông qua tổ chức trung gian có uy tín, kinh nghiệm (Hội nông dân

chẳng hạn …)

Chân thành cảm ơn

TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT

STT

NỘI DUNG

KẾT QUẢ KHẢO SÁT

1

Đối tượng khảo sát

48 doanh nghiệp & 3 hộ sản xuất

2

Sản phẩm kinh doanh

31% cà phê 25% lúa gạo 12% thủy sản 4% cây ăn quả 8% sản phẩm khác

3

Qui mô kinh doanh

Doanh thu đến 5 tỷ đồng: 16% Doanh thu > 5 tỷ đồng & < 20 tỷ đồng: 10% Doanh thu > 20 tỷ đồng & < 100 tỷ đồng: 23.5% Doanh thu > 100 tỷ đồng: 50.5%

4

Tiêu thụ sản phẩm

SP thô: 29.4% SP gần thô, đã qua sơ chế: 41.2% SP đã qua nhiều giai đoạn chế biến = 29.4%

5

Kênh tiêu thụ

Công ty XNK: 45% Xuất khẩu: 35% Thương lái: 12%

6

Chi trả chi phí đầu vào

73% trả bằng tiền ngay khi mua nguyên vật liệu 18% trả trậm bằng tiền (có tính lãi)

7

Có thỏa thuận khi mua nguyên liệu ko?

49% không thỏa thuận trước 25% đã thỏa thuận trước toàn bộ

8

Cách bán sản phẩm đầu ra

Gần 40% không thỏa thuận trước. Chỉ có 30% thỏa thuận trước toàn bộ

9

Yếu tố ảnh hướng đến lợi nhuận

Giá cả: 64% Dịch bệnh, thời tiết: 15% Lãi vay: 14%

12 Rủi ro nào quan trọng nhất

13

Sản phẩm nào thiết thực

14 Băn khoăn khi mua SP BHRR

Giá cả Sp đầu ra: 44,9% Giá cả NL: 10% Sâu bệnh, thiên tai: 28% SP chốt giá bán vào bất kỳ thời điểm nào trước khi thu hoạch: 40% SP chốt giá ngay từ đầu mùa vụ: 28% SP bảo hiểm biến động giá vật tư: 29% Thủ tục: 50% Chi phí: 26,7% Kiến thức: 20%

STT

NỘI DUNG

KẾT QUẢ KHẢO SÁT

15 Đã nghe về SP BHRR nào

14% chưa từng nghe 17% đã từng nghe về HĐGS

16 Có sử dụng SP BHRR ko?

80,5% sẽ sử dụng (55% đồng ý nếu CP hợp lý; 25,5% đồng ý nếu kết hợp với khoản vay NH) 1/2 số người ko đồng ý vì e ngại độ tin cậy của SP

17 Kênh thông tin

Hiệp hội = Sách báo = 24,6% Người quen = 23% Đài TH PT: 16,4%

18 Có nghe về SGDHH chưa?

80% đã nghe

19

70,6% người được hỏi trả lời “Có”

Có dự định tham gia Sàn nông sản không?

20

90% sẽ không bán (68% đồng ý nếu CP lãi vay hợp lý)

21

70,6% trả lời “Có”

Có bán toàn bộ SP khi thu hoạch không? Tham gia sàn giúp vay vốn thuận tiện hơn, có tham gia ko?

22 Cách tham gia

65% tham gia trực tiếp

PHỤ LỤC 1

TIÊU CHUẨN LỰA CHỌN KHO BÃI

Quy định

STT

Tiêu chí

- Ít nhất 02 năm kinh nghiệm kinh doanh dịch vụ kho bãi.

1

Thời gian hoạt động

- Vốn điều lệ tối thiểu 3 tỷ đồng.

2 Vốn điều lệ

- Không có nợ nhóm 3 đến nhóm 5 trong 3 năm gần nhất tại

3

Lịch sử tín dụng

các TCTD.

- Có uy tìn trong lĩnh vực kho bãi, với ít nhất 05 khách hàng

4 Uy tìn trong lĩnh vực

thường xuyên.

kho bãi

- Chưa từng vi phạm cam kết với các đối tác khác.

- Có quy trình xuất nhập kho do người có thẩm quyền ký tên

5 Quy trình quản lý xuất

và đóng dấu.

nhập hàng

- Hệ thống sổ sách theo dõi hàng hóa xuất nhập kho rõ ràng. - Bảo vệ chuyên nghiệp 24/24 của công ty hoặc ký hợp đồng

bảo vệ với công ty dịch vụ bảo vệ thứ ba.

6 Cơ sở vật chất kho bãi - Kho xây bằng tường gạch

- Mái lợp bằng tôn hoặc fibro ximăng - Nhà kho thông thoáng có cửa sổ và/hoặc cửa thông gió - Nền bằng bê tông và cao hơn mặt đường bên ngoài - Hệ thống thoát nước tốt - Đường ô tô ra vào thuận lợi - Có ngăn cách, phân biệt giữa các lô hàng

- Được trang bị đầy đủ phương tiện PCCC tại chỗ và có

phương án PCCC được cấp thẩm quyền phê duyệt.

PCCC và phòng ngừa rủi ro khác

7

- Có đội PCCC tại chỗ và được huấn luyện thường xuyên. - Thời gian từ PCCC chuyên nghiệp tới kho trong vòng 15

phút.

- Kho được mua bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. - Khoảng cách giữa các kho từ 8m trở lên.

PHỤ LỤC 2

CƠ CHẾ BẢO LÃNH NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA MỸ 1

1. Tổng quan

Bộ Nông nghiệp Mỹ có 4 chương trính bảo lãnh xuất khẩu nông sản Mỹ sang các nước. Ðó là:

 Chương trính bảo lãnh tìn dụng xuất khẩu GSM-102 và bảo lãnh tìn dụng xuất khẩu

trung gian GSM-103. Theo đó, Bộ Nông nghiệp Mỹ bảo lãnh tài chình cho việc xuất

khẩu nông sản của Mỹ sang các nước mà nhà xuất khẩu Mỹ có thể gặp khó khăn trong

việc thanh toán (nhận lại tiền bán hàng). Cụ thể là Bộ Nông nghiệp Mỹ bảo lãnh với

các ngân hàng Mỹ cung cấp tìn dụng cho các nhà xuất khẩu chuyên chở nông sản Mỹ

đến nhà nhập khẩu ở các nước. Chương trính bảo lãnh tìn dụng GSM-102 có thời hạn

đến 3 năm, còn GSM -103 dài hơn, đến 10 năm. Thông thường việc bảo lãnh này lên

đến 98% trị giá đơn hàng. Lãi suất mà nhà xuất khẩu phải trả cho việc bảo lãnh này chỉ

chiếm dưới 1% trị giá đơn hàng, và tình theo lãi suất LIBOR - lãi suất liên ngân hàng ở

Luân Ðôn.

 Chương trính bảo lãnh tìn dụng cho nhà cung cấp: Ðây là khoản bảo lãnh tìn dụng

ngắn hạn (thời hạn 180 ngày) và đặc biệt ví áp dụng từ nhà xuất khẩu Mỹ trực tiếp đến

người mua hàng ở nước ngoài. Chương trính này chỉ bảo lãnh cho một phần trị giá đơn

hàng. Chẳng hạn trong những khoản bảo lãnh cho nhà cung cấp sang Nga và Việt

Nam, chương trính chỉ bảo lãnh 65% trị giá đơn hàng, lãi suất là 0,45 USD trên

100USD (90 ngày) và 0,90 USD/100 USD (180 ngày).

 Chương trính bảo lãnh tìn dụng hạ tầng: Bảo lãnh tìn dụng đối với việc bán hàng hoá

và dịch vụ của Mỹ sang nước nhập khẩu mà những hàng hóa và dịch vụ này nhằm cải

thiện cơ sở vật chất nông nghiệp tại nước đó (như vấn đề kho bãi, xử lý nông phẩm,

thiết bị đóng gói). Mức bảo lãnh lên đến 95% trị giá đơn hàng, thời hạn kéo dài từ 1 -

10 năm.

1 Nguồn: www.fas.usda.gov và www.vietnamspinning.org.vn

 Các chương trính này không cấp tìn dụng trực tiếp cho nhà xuất khẩu mà chỉ bảo lãnh

cho những khoản tìn dụng mà nhà xuất khẩu vay ở các ngân hàng Mỹ. Chương trính

bảo lãnh GSM-102 là chương trính lớn nhất, năm 1999 chương trính này đã bảo lãnh

tìn dụng đến 3 tỉ USD. Dự kiến năm tài khóa 2003, chương trính này sẽ bảo lãnh khoản

tìn dụng lên đến hàng tỉ USD. Những chương trính này của Bộ Nông nghiệp Mỹ là

nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuâtë khẩu nông sản của Mỹ giảm thiểu rủi ro trong

việc thanh toán tiền cho đơn hàng xuất khẩu. Nếu công ty nhập khẩu hoặc ngân hàng ở

nước ngoài không thanh toán cho nhà xuất khẩu Mỹ thí Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ chi trả

cho họ và sẽ có trách nhiệm đòi lại số tiền này từ công ty nhập khẩu hoặc ngân hàng

nước ngoài.

Những mặt hàng được tham gia chương trính: là những mặt hàng nông, lâm, ngư nghiệp được

sản xuất, nuôi trồng ngay tại Mỹ và một số mặt hàng nông sản khác có giá trị cao thí ìt nhất

90% trọng lượng (trừ bao bí) phải làm ra tại Mỹ. Các mặt hàng này chủ yếu gồm: nông sản

chế biến (gạo, bắp, lúa mí, bông sợi); thực phẩm: thịt, cá, tôm, trứng, trái cây và rau (tươi và

đóng hộp), rượu bia, kem ăn, mật ong, nước ngọt; các loại cây giống, gỗ và sản phẩm gỗ, da

thuộc…

2. Trong quan hệ mậu dịch với Việt Nam

Chương trính bảo lãnh tín dụng nông sản XK mà Mỹ đang dành cho thị trường Việt

Nam là GSM-102. Phương thức bảo lãnh được thực hiện theo chương trính này là tìn dụng thư

(L/C) khoản tín dụng bảo lãnh tài trợ đến 98% mức vay và một phần lãi suất. Thời hạn tài trợ

cho một món vay có thể lên đến 2.5 năm. Ở Việt Nam thời hạn tối đa là 1 năm. Các nhà XK

của Mỹ phải đủ tiêu chuẩn để tham gia chương trính. Ủy ban dịch vụ nông nghiệp (FAS) -

thuộc USDA sẽ phát hành thông báo về chương trính. Các nhà XK của Mỹ và các công ty NK

của Việt Nam thương lượng hợp đồng mua bán. Bên XK đăng ký mã số bảo lãnh và trả phí.

Ban bảo lãnh tín dụng thuộc USDA sẽ phát hành bảo lãnh cho bên XK. Bên NK đề nghị mở

L/C, ngân hàng của bên NK phát hành L/C với điều kiện là các ngân hàng của bên NK phải

được ban bảo lãnh hn dụng cấp hạn mức giao dịch theo chương trính GSM-102.

GSM-102 hoạt động như thế nào?

o Bảo lãnh thanh toán được thông qua một ngân hàng nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi

cho việc huy động vốn thương mại giữa một ngân hàng của nhà xuất khẩu với một

ngân hàng nước ngoài để bán sản phẩm nông sản Mỹ.

o Cơ chế huy động vốn: tín dụng thư (L/C).

o Bảo hiểm lên đến 98% nợ gốc và một phần lợi tức (cho giá trị thanh toán giữa ngân

hàng nước ngoài và ngân hàng Mỹ)

o Hiện nay điều kiện bảo hiểm lên đến 2,5 năm, điều kiện bảo hiểm tối đa dựa trên mức

độ rủi ro của mỗi quốc gia

Giao dịch GSM-102

o Nhà xuất khẩu có đủ tiêu chuẩn tham gia

o FAS sẽ đưa ra thông báo của chương trính đến mỗi quốc gia/ khu vực

o Nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu sẽ đàm phán về hợp đồng kinh doanh

o Nhà xuất khẩu sẽ nộp đơn bảo lãnh và trả phí bảo lãnh

o Commodity Credit Corporation (CCC) phát hành bảo lãnh đến nhà xuất khẩu.

o Nhà nhập khẩu mở L/C; ngân hàng nước ngoài phát hành L/C ưu đãi cho nhà xuất

khẩu – Tất cả những ngân hàng nước ngoài phải được sự chấp thuận của CCC với

những giới hạn được thiết lập.

o Nhà xuất khẩu cung cấp bảo lãnh mà mính có được từ CCC cho một ngân hàng Mỹ.

o Nhà xuất khẩu sẽ gửi hàng đến nhà nhập khẩu và gửi Bộ chứng từ đến ngân hàng Mỹ.

Ngân hàng Mỹ sẽ thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu và tuyên bố khoản vay với ngân

hàng nước ngoài.

o Ngân hàng nước ngoài sẽ thanh toán cho ngân hàng Mỹ theo các điều khoản và điều

kiện vay (nhưng phải phù hợp với bảo lãnh của CCC).

o Nhà nhập khẩu sẽ thanh toán cho ngân hàng nước ngoài theo những điều khoản đã

được thiết lập giữa nhà nhập khẩu và ngân hàng đó.

o Trường hợp ngân hàng nước ngoài không có khả năng chi trả, người nắm giữ quyền

bảo lãnh (điển hình là ngân hàng Mỹ) sẽ đệ trình những khoản yêu cầu bồi thường lên

CCC.

Đầu tháng 11/2010, Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) chính thức được Cơ quan hỗ

trợ xuất khẩu Hoa Kỳ (CCC) thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ lựa chọn và cấp hạn mức 40 triệu

USD tham gia Chương trính bảo lãnh tín dụng xuất khẩu (GSM-102). GSM-102 là chương

trình hỗ trợ tín dụng xuất khẩu được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ triển khai nhằm khuyến khích

hoạt động xuất khẩu nông sản Hoa Kỳ bằng cách cung cấp điều kiện tín dụng ưu đãi cho một

số ngân hàng thương mại tại các nước nhập khẩu để tài trợ ưu đãi cho nhà nhập khẩu. Đặc

biệt, MB có thể sử dụng hạn mức để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trong ASEAN chứ

không chỉ giới hạn ở Việt Nam. Hạn mức CCC cấp cho khu vực ASEAN hiện nay là 250 triệu

USD. Sau gần 6 tháng được triển khai, MB đã thực hiện được 8 giao dịch đăng ký với tổng giá

trị hơn 10 triệu USD khi tham gia chương trính GSM-102.

Năm tài chình 2010, FAS thông báo số tiền dành cho chương trính này Ở khu vực

Đông Nam Á là 495 triệu USD. Các ngân hàng được chứng nhận hợp lệ trong khu vực có thể

phát hành L/C cho nhà NK Việt Nam và khu vực. Lợi ích cho ngân hàng Việt Nam là mở rộng

việc tiếp cận vốn cho các giao dịch thương mại với các ngân hàng Mỹ, tăng hạn mức tín dụng

với các ngân hàng Mỹ. Với chương trính này, các ngân hàng của Việt Nam có thể vay USD.

Để tham gia chương trính. Các ngân hàng Việt Nam phải nộp toàn bộ hồ sơ và thông tin,

USDA sẽ xét duyệt và quyết định hạn mức. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCB) là

ngân hàng đầu tiên thực thi chương trính này từ năm 2003. Đến nay, có thêm 7 ngân hàng Việt

Nam được FAS công nhận đủ tìêu chuẩn tham gia bao gồm Agribank, BIDV, Sacombank,

Vietinbank và Techcombank, MB và VIB.

Trong năm tài chình 2009, chương trính GSM-102 đã thực hiện tại Việt Nam với số

tiền 14,2 triệu USD. Trong đó 8,5 triệu USD dành cho mặt hàng bông và 5,7 triệu USD dành

cho mặt hàng lúa mì. Tình đến 31/08/2010, chương trính đã sử dụng 48,1 triệu USD cho các

nhà NK Việt Nam. Trong đó, số tiền dành cho bột đậu nành là 45,2 triệu USD, đậu nành hạt là

2,2 tnệu USD và bông nguyên liệu là 0,7 triệu USD.