BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
HUỲNH THIÊN THẢO
MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý KIẾN KIỂM TOÁN VÀ TÍNH BỀN
VỮNG CỦA LỢI NHUẬN – BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
TỪ CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015
TRANG BÌA PHỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
HUỲNH THIÊN THẢO
MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý KIẾN KIỂM TOÁN VÀ TÍNH BỀN
VỮNG CỦA LỢI NHUẬN – BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
TỪ CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐÌNH HÙNG
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế “Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và
tính bền vững của lợi nhuận – Bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết tại Việt
Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tác giả, với sự hỗ trợ từ người hướng dẫn khoa
học là TS. Nguyễn Đình Hùng. Nội dung, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn
toàn trung thực và dựa theo số liệu thu thập được. Các tài liệu, đoạn trích dẫn được sử
dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tác giả.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn
Huỳnh Thiên Thảo
MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ .......................................................................................................... 1
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... 2
MỤC LỤC ....................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................ 5
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................... 1
1.1 Lý do nghiên cứu ................................................................................................. 1
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu........................................................................... 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
1.4 Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
1.5 Ý nghĩa của nghiên cứu ....................................................................................... 3
1.6 Bố cục của nghiên cứu ......................................................................................... 4
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN TRƯỚC ĐÂY ................................................................................... 6
2.1 Cơ sở lý thuyết ..................................................................................................... 6
2.1.1 Cơ sở lý thuyết về kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán ........ 6
2.1.1.1 Khái niệm và vai trò của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ..... 6
2.1.1.2 Các loại ý kiến của Báo cáo kiểm toán ............................................... 7
2.1.2 Cở sở lý thuyết về lợi nhuận và những thuộc tính đại diện cho chất lượng
lợi nhuận ............................................................................................................ 13
2.2 Tổng quan các nghiên cứu có liên quan trước đây ............................................ 21
2.2.1 Ảnh hưởng của báo cáo kiểm toán đến thị trường chứng khoán ............. 21
2.2.2 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và các thuộc tính đặc trưng cho chất
lượng lợi nhuận ................................................................................................. 23
2.3 Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................ 30
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 33
3.1 Mô hình và biến nghiên cứu .............................................................................. 33
3.2 Lựa chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu .................................................. 42
3.2.1 Lựa chọn mẫu ........................................................................................... 42
3.2.2 Thu thập dữ liệu ....................................................................................... 43
3.3 Phương pháp định lượng ................................................................................... 45
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................... 46
4.1 Thống kê mô tả .................................................................................................. 46
4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến ............................................................ 51
4.3 Phân tích hồi quy ............................................................................................... 54
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ........................................................................................... 59
5.1. Kết luận ............................................................................................................. 59
5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo ............... 60
5.2.1. Hạn chế của bài nghiên cứu .................................................................... 60
5.2.2. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo ....................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 62
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 71
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HNX Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
HOSE Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
ISA Chuẩn mực kiểm toán quốc tế
OLS Phương pháp bình thương bé nhất
VSA Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Trang
Bảng 3.1: Bảng tóm tắt biến .................................................................................... 39
Bảng 4.1: Số lượng ý kiến kiểm toán trong giai đoạn nghiên cứu .......................... 46
Bảng 4.2: Số lượng ý kiến kiểm toán điều chỉnh trong giai đoạn nghiên cứu ........ 46
Bảng 4.3: Bảng phân tích phương sai ý kiến kiểm toán giữa 2 sàn HOSE và ............
HNX ......................................................................................................................... 47
Bảng 4.4: Bảng thống kê mô tả các biến của dạng ý kiến chấp nhận toàn phần ..... 48
Bảng 4.5: Bảng thống kê mô tả các biến của dạng ý kiến kiểm toán điều chỉnh .... 48
Bảng 4.6: Bảng thống kê mô tả các biến của loại ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn
nhấn mạnh ..................................................................................................................... 50
Bảng 4.7: Bảng thống kê mô tả các biến của loại ý kiến kiểm toán ngoại trừ ........ 50
Bảng 4.8: Ma trận hệ số tương quan ....................................................................... 53
Bảng 4.9: Kết quả hồi quy mô hình 1 ...................................................................... 54
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy mô hình 2 .................................................................... 56
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do nghiên cứu
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, thị trường chứng khoán có vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ và phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán
Việt Nam luôn được xem là một kênh quan trọng để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước cho nền kinh tế; đồng thời cũng là nơi luân chuyển các nguồn vốn đầu tư giúp nâng
cao năng lực quản trị và khả năng sử dụng vốn hiệu quả của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính là một trong những nguồn thông tin quan trọng hàng đầu cho việc
lựa chọn một doanh nghiệp để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Nhưng lý thuyết đại
diện lại chỉ ra rằng giữa các nhà quản lý và các đối tượng có liên quan (Stakeholder) luôn
có sự mâu thuẫn lợi ích. Do đó, nó làm cho các đối tượng có liên quan mơ hồ đối với các
con số và dữ liệu được trình bày trong báo cáo tài chính. Để loại bỏ nghi ngờ hoặc sự
không rõ ràng này và để làm cho báo cáo tài chính đáng tin cậy hơn, cần phải có xác
nhận của kiểm toán độc lập. Theo thông tư số 52/2012/TT-BTC hướng dẫn về việc công
bố thông tin trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp niêm yết phải công bố báo cáo
tài chính năm, báo cáo tài chính bán niên (6 tháng đầu năm) đã được kiểm toán. Doanh
nghiệp niêm yết phải đăng tải toàn văn báo cáo kiểm toán tài chính năm, trên một số tờ
báo có phạm vi phát hành toàn quốc, kèm theo địa chỉ trang thông tin điện tử của doanh
nghiệp có đăng tải báo cáo tài chính để nhà đầu tư tham khảo.
Như vậy, để đảm bảo lợi ích cho những người sử dụng báo cáo tài chính đặc biệt là
các nhà đầu tư, pháp luật quy định là thông tin về báo cáo tài chính do doanh nghiệp
niêm yết công bố phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán độc lập. Tuy vậy,
khoảng cách mong đợi giữa người sử dụng báo cáo và dịch vụ kiểm toán trên thực tế vẫn
luôn tồn tại. Người sử dụng luôn kỳ vọng báo cáo kiểm toán là một sự đảm bảo tuyệt đối
về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Họ cho rằng báo cáo tài chính đã được kiểm
toán phải chính xác. Nhưng kiểm toán là công việc có những hạn chế tiềm tàng như
2
thông tin kế toán không thể chính xác do những ước tính kế toán; nếu doanh nghiệp cố
tình gian lận, giấu thông tin, làm giả chứng từ thì kiểm toán viên sẽ khó phát hiện ra hoặc
công việc và thời gian kiểm toán còn phụ thuộc vào mức phí… với những hạn chế vốn
có như vậy, dịch vụ kiểm toán chỉ cung cấp một mức đảm bảo hợp lý. Do đó, báo cáo
kiểm toán có thực sự hữu ích trong việc giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết định kinh
tế hay không là vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa
có nhiều nghiên cứu định lượng về vấn đề này nên tác giả quyết định thực hiện đề tài
“Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững của lợi nhuận – Bằng chứng thực
nghiệm từ các công ty niêm yết tại Việt Nam” với hy vọng sẽ cung cấp được bằng chứng
thực nghiệm về sự hữu ích của báo cáo kiểm toán tại Việt Nam, thông qua việc kiểm
định mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán với một thuộc tính rất được mong đợi ở lợi
nhuận là tính bền vững của lợi nhuận (earning persistence).
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là cung cấp bằng chứng thực nghiệm về
mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững của lợi nhuận cho các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo chuẩn mực kiểm toán, các loại ý kiến
kiểm toán được đưa ra tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Những trường hợp này có
tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau nên nó sẽ gây ra những tác động khác nhau
đến chất lượng lợi nhuận. Do đó, bài nghiên cứu kỳ vọng rằng các công ty nhận các loại
ý kiến kiểm toán khác nhau sẽ có mức độ bền vững trong lợi nhuận khác nhau, cụ thể:
công ty nào nhận các loại ý kiến kiểm toán được đưa ra cho những tình huống có tính
chất càng nghiêm trọng và mức độ ảnh hưởng càng lớn thì công ty đó có mức độ bền
vững trong lợi nhuận càng thấp.
Từ đó, các câu hỏi nghiên cứu được định ra như sau:
Thứ nhất, mức độ bền vững của lợi nhuận có khác nhau giữa những công ty nhận ý
kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến kiểm toán điều chỉnh hay không. Cụ thể hơn, lợi
3
nhuận lợi nhuận của công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh có ít bền vững hơn lợi
nhuận của công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần hay không.
Thứ hai, mức độ bền vững của lợi nhuận có khác nhau giữa các loại ý kiến kiểm toán
điều chỉnh cụ thể hay không.
Để đơn giản hóa từ ngữ, tác giả sử dụng thuật ngữ “ý kiến kiểm toán điều chỉnh”
(dịch từ “modified audit opinion” trong ISA 705) dùng để thay thế cho “ý kiến kiểm toán
không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần” được quy định trong VSA 705 hiện hành.
Thuật ngữ này chỉ được sử dụng trong phạm vi bài nghiên cứu của tác giả.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa các loại ý kiến kiểm toán và tính bền vững
trong lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là các công ty phi tài chính được niêm yết trên hai sàn giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX) từ năm 2009 trở về
trước và còn giao dịch đến hết năm 2013.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã nêu, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên
cứu định lượng theo quy trình: sau khi thu thập đầy đủ dữ liệu của các công ty niêm yết
trên sàn chứng khoán từ 2009 đến 2013, thông qua việc sử dụng công cụ Eview với mô
hình hồi quy OLS, tác giả trình bày và đánh giá kết quả hồi quy thu được về mối quan
hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững trong lợi nhuận của các công ty niêm yết tại
Việt Nam.
1.5 Ý nghĩa của nghiên cứu
Về mặt lý luận:
4
Hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về giá trị của báo cáo
kiểm toán và về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững trong lợi nhuận.
Về mặt thực tiễn:
Bài viết này nghiên cứu một mẫu các công ty phi tài chính niêm yết trên sàn chứng
khoán Việt Nam trong giai đoạn từ 2009 – 2013, kiểm định mối quan hệ giữa các loại ý
kiến kiểm toán và tính bền vững trong lợi nhuận của các công ty. Kết quả kiểm định cho
thấy các công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh sẽ có lợi nhuận năm sau giảm hoặc
nếu có tăng thì tăng rất ít so với năm nhận ý kiến, trong khi đó lợi nhuận năm sau của
các công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần lại có xu hướng tăng đều đặn, điều đó cho
thấy khả năng duy trì lợi nhuận của những công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh thấp
hơn những công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Như vậy, thông qua việc phản ánh
chất lượng lợi nhuận, báo cáo kiểm toán có thể phản ánh phần nào tình hình tài chính
của công ty. Do đó, tác giả hy vọng bài nghiên cứu có thể góp phần cung cấp bằng chứng
thực nghiệm về giá trị của thông tin hàm chứa trong các loại ý kiến kiểm toán khác nhau
và qua đó khẳng định vai trò, sự hữu ích của báo cáo kiểm toán cho những người hành
nghề kiểm toán và những người sử dụng báo cáo tài chính trong một nền kinh tế đang
phát triển như Việt Nam.
1.6 Bố cục của nghiên cứu
Bố cục của luận văn gồm 5 chương:
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu: Nêu lý do chọn đề tài; mục tiêu và câu hỏi
nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu cũng như ý
nghĩa của nghiên cứu.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN TRƯỚC ĐÂY
5
Trình bày cơ sở lý thuyết về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính, các dạng ý kiến
kiểm toán, các thuộc tính đại diện cho chất lượng lợi nhuận. Ngoài ra, tác giả còn tổng
hợp các bài nghiên cứu trước đây về giá trị của báo cáo kiểm toán thông qua phản ứng
của thị trường chứng khoán và khả năng phản ánh chất lượng lợi nhuận của các loại ý
kiến kiểm toán khác nhau. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giả thuyết cho bài nghiên
cứu.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trình bày chi tiết về phương pháp nghiên cứu gồm: mô hình nghiên cứu và các biến
của mô hình, điều kiện và quy trình chọn mẫu, cách thu thập nguồn dữ liệu đầu vào, cách
xác định giá trị các biến và các phương pháp định lượng được sử dụng để phục vụ việc
nghiên cứu.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trình bày kết quả kỳ vọng lý thuyết về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính
bền vững trong lợi nhuận của công ty sau đó tiến hành so sánh và thảo luận về kết quả
kỳ vọng lý thuyết với kết quả đạt được từ mô hình.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
Trình bày tóm tắt các kết quả mà nghiên cứu đạt được cùng với các hạn chế của
nghiên cứu và đề xuất những hướng nghiên cứu tiếp theo.
6
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN TRƯỚC ĐÂY
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Cơ sở lý thuyết về kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán
2.1.1.1 Khái niệm và vai trò của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
“Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về một thông tin nhằm
xác định và báo cáo về sự phù hợp của thông tin này với các tiêu chuẩn được thiết lập.
Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập.”
(Arens & cộng sự, 2013). Do đó tất cả các cuộc kiểm toán đều phải kết thúc bằng một
báo cáo để xác nhận những thông tin được kiểm toán là có phù hợp với những chuẩn
mực đã được thiết lập hay không.
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm
toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến
về tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính của đơn
vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán (Luật Kiểm toán độc lập số
67/2011/QH12).
Theo ISA 200, mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của
người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về
việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn
khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không. Đối với hầu hết các
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung, kiểm toán viên phải
đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập và trình bày trung thực và hợp
lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính được áp dụng hay không.
7
Như vậy, sau khi kết thúc việc kiểm toán, kiểm toán viên cần trình bày ý kiến kiểm
toán một cách rõ ràng bằng văn bản, trong đó nêu rõ cơ sở của ý kiến đó. Văn bản đó
chính là báo cáo kiểm toán. Theo VSA 700 trước đây, báo cáo kiểm toán về báo cáo tài
chính là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công
bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được
kiểm toán.
Salehi và Abedini (2008) cho rằng báo cáo kiểm toán là một phương tiện truyền thông
giữa kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính, nó cho thấy phần quan trọng
nhất của hoạt động kiểm toán và thể hiện kết quả của việc đánh giá báo cáo tài chính đến
người sử dụng. Đối với kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán là tài liệu trình bày các kết
luận sau cùng về báo cáo tài chính được kiểm toán, nên nó phải đúc kết được toàn bộ
công việc mà họ đã tiến hành. Đối với công chúng, báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối
cùng quan sát được từ một quá trình không thể quan sát nên nó chứa thông tin cốt yếu
cho những người sử dụng báo cáo tài chính để đưa ra những quyết định kinh tế (Butler
và cộng sự, 2004).
2.1.1.2 Các loại ý kiến của Báo cáo kiểm toán
Nhằm mục tiêu hướng đến hòa hợp và hội tụ với quốc tế trong lĩnh vực kế toán và
kiểm toán, Bộ Tài chính ban hành 37 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam mới kèm theo
Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2014. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của tác giả là các công ty niêm yết trên sàn
chứng khoán từ 2009 – 2013 nên báo cáo kiểm toán được thu thập cho bài nghiên cứu
chịu sự chi phối của chuẩn mực kiểm toán trước đây. Phần này trình bày các loại ý kiến
của báo cáo kiểm toán theo hai hệ thống chuẩn mực kiểm toán:
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trước đây (Ban hành và công bố theo Quyết định
120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 09 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và
hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014)
8
Theo đoạn 34 VSA 700 trước đây, căn cứ kết quả kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra
một trong các loại ý kiến về báo cáo tài chính, như sau:
- Ý kiến chấp nhận toàn phần;
- Ý kiến chấp nhận từng phần;
- Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến);
- Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược);
Đối với những báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và
chế độ kế toán Việt Nam hiện hành, kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp xảy
ra một trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như:
- Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn;
- Bất đồng ý kiến với ban giám đốc;
- Tình huống chưa rõ ràng.
a) Trong trường hợp kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng
chứng kiểm toán và không thực hiện được thủ tục thay thế phù hợp, nếu ảnh hưởng của
việc giới hạn phạm vi kiểm toán nêu trên được xem là trọng yếu nhưng:
+ chưa ảnh hưởng đến tổng thể báo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến
chấp nhận từng phần dạng ngoại trừ (do giới hạn phạm vi kiểm toán);
+ ảnh hưởng đến tổng thể báo cáo tài chính thì kiểm toán viên xem xét để đưa ra ý
kiến từ chối (ý kiến không thể đưa ra ý kiến).
b) Trong trường hợp kiểm toán viên và ban giám đốc bất đồng ý kiến về việc lựa
chọn, áp dụng chuẩn mực và chế độ kế toán hoặc về sự không phù hợp của các thông tin
9
ghi trong báo cáo tài chính hoặc phần thuyết minh báo cáo tài chính dẫn đến sai lệch
trọng yếu nhưng:
+ chưa ảnh hưởng đến tổng thể báo cáo tài chính thì kiểm toán việc đưa ra ý kiến
chấp nhận từng phần dạng ngoại trừ (do không thống nhất với ban giám đốc)
+ ảnh hưởng đến tổng thể báo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến không
chấp nhận.
c) Đối với trường hợp tồn tại sự kiện không chắc chắn xảy ra trong tương lai, nằm
ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị được kiểm toán và kiểm toán viên, nếu sự kiện đó
được xem là có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý
kiến chấp nhận từng phần dạng tùy thuộc vào.
Bên cạnh việc đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, kiểm toán viên cũng có thể trình
bày đoạn nhấn mạnh về một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính
nhưng không làm thay đổi ý kiến của kiểm toán viên. Các vấn đề thường được kiểm toán
viên lưu ý là khi thông tin đính kèm với báo cáo tài chính không nhất quán với báo cáo
tài chính, hoặc khi khách hàng còn tồn tại yếu tố không chắc chắn trọng yếu liên quan
đến các sự kiện hoặc điều kiện gây ra nghi ngờ về giả định hoạt động liên tục và thông
tin này đã được công bố đầy đủ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính…
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành (Ban hành kèm theo Thông tư số
214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/2014)
Chuẩn mực kiểm toán hiện hành gồm 37 chuẩn mực, trong đó có ba chuẩn mực quy
định về báo cáo kiểm toán và ý kiến kiểm toán:
- VSA 700: Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
- VSA 705: Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần
10
- VSA 706: Đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” và “Vấn đề khác” trong báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính.
VAS 700 hiện hành quy định ý kiến kiểm toán gồm hai dạng:
Ý kiến chấp nhận toàn phần khi kiểm toán viên kết luận rằng báo cáo tài chính được
lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính được áp dụng.
Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán được đưa
ra trong các trường hợp:
- Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn;
- Kiểm toán viên kết luận rằng báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, vẫn
còn sai sót trọng yếu.
a) Trong trường hợp kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm
toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán viên kết luận rằng
những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng
yếu nhưng:
+ không lan tỏa đối với báo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán
ngoại trừ.
+ lan tỏa đối với bảo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến từ chối. Trong một
số rất ít trường hợp liên quan đến nhiều yếu tố không chắc chắn, kiểm toán viên phải từ
chối đưa ra ý kiến khi mặc dù đã thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp
liên quan đến từng yếu tố không chắc chắn riêng biệt nhưng kiểm toán viên vẫn kết luận
rằng không thể đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính do những ảnh hưởng tương
tác có thể có của những yếu tố không chắc chắn và những ảnh hưởng lũy kế của những
yếu tố này đến báo cáo tài chính.
11
b) Trong trường hợp kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp
lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng:
+ không lan tỏa đối với báo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán
ngoại trừ.
+ lan tỏa đối với báo cáo tài chính thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán trái
ngược.
Nếu kiểm toán viên thấy cần phải thu hút sự chú ý của người sử dụng đối với một
vấn đề đã được trình bày hoặc thuyết minh trong báo cáo tài chính, mà theo xét đoán của
kiểm toán viên, vấn đề đó là đặc biệt quan trọng để người sử dụng hiểu được báo cáo tài
chính thì kiểm toán viên phải trình bày thêm đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” trong báo
cáo kiểm toán, để thể hiện là kiểm toán viên đã thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán
thích hợp cho thấy vấn đề đó không bị sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính. Đoạn
“Vấn đề cần nhấn mạnh” chỉ được đề cập đến các thông tin đã được trình bày hoặc thuyết
minh trong báo cáo tài chính để không làm giảm tính hữu hiệu của nó như:
Sự không chắc chắn liên quan tới kết quả trong tương lai của các vụ kiện tụng hoặc
các quyết định của cơ quan quản lý;
Việc áp dụng một chuẩn mực kế toán mới trước ngày có hiệu lực (nếu được phép)
mà việc áp dụng đó có ảnh hưởng lan tỏa đối với báo cáo tài chính;
Một biến cố lớn đã ảnh hưởng hoặc tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể đến tình hình tài
chính của đơn vị.
Nếu kiểm toán viên thấy cần phải trao đổi về một vấn đề khác ngoài các vấn đề đã
được trình bày hoặc thuyết minh trong báo cáo tài chính, mà theo xét đoán của kiểm toán
viên, vấn đề khác đó là thích hợp để người sử dụng hiểu rõ hơn về cuộc kiểm toán, về
trách nhiệm của kiểm toán viên hoặc về báo cáo kiểm toán, đồng thời pháp luật và các
12
quy định cũng không cấm việc này thì kiểm toán viên phải trình bày về vấn đề đó trong
báo cáo kiểm toán, với tiêu đề “Vấn đề khác” hoặc “Các vấn đề khác”.
So sánh hai hệ thống chuẩn mực này về phương diện ý kiến kiểm toán, ta thấy có hai
thay đổi cơ bản:
- Thứ nhất, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành gộp ý kiến ngoại trừ, ý kiến
không chấp nhận và ý kiến từ chối đưa ra ý kiến thành dạng ý kiến không phải là ý kiến
chấp nhận toàn phần. Như vậy chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành phân loại ý
kiến kiểm toán thành hai loại chính là ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần và ý kiến
kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần.
- Thứ hai, khi có yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn liên quan đến sự kiện có
thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên
thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến có đoạn nhấn mạnh thay vì ý kiến chấp nhận từng phần
dạng tùy thuộc vào. Như vậy, chuẩn mực kiểm toán hiện hành đã loại bỏ ý kiến chấp
nhận từng phần dạng tùy thuộc vào so với chuẩn mực cũ. Sở dĩ có sự loại bỏ này là vì
các xử lý kế toán cho những yếu tố không chắc chắn đã được quy định trong VAS 18 –
Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng. Nếu doanh nghiệp áp dụng đúng theo chuẩn
mực thì kiểm toán viên không cần đưa ra ý kiến ngoại trừ dạng tùy thuộc vào nữa.
Tóm lại, để kiểm định mối quan hệ giữa các loại ý kiến kiểm toán với tính bền vững
trong lợi nhuận, tác giả chia các loại ý kiến kiểm toán được ban hành trong giai đoạn
2009 – 2012 theo VSA 700 trước đây thành hai loại ý kiến kiểm toán chính giống như
VSA 700 hiện hành là ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến không phải là ý kiến chấp
nhận toàn phần (được thay thế bằng thuật ngữ ý kiến kiểm toán điều chỉnh). Như vậy, ý
kiến kiểm toán điều chỉnh trong phạm vi bài nghiên cứu sẽ bao gồm ý kiến chấp nhận
từng phần, ý kiến không chấp nhận và ý kiến từ chối. Ngoài ra, ý kiến chấp nhận toàn
với đoạn nhấn mạnh cũng được xếp vào nhóm ý kiến kiểm toán điều chỉnh để tách biệt
với ý kiến chấp nhận toàn phần. Mặc dù đây không phải là cách phân loại chính thức
13
theo như quy định của chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như Việt Nam nhưng cách
phân loại này thường được sử dụng trong nhiều nghiên cứu (Butler và cộng sự, 2004;
Lin và cộng sự, 2011; Vichitsarawong và Pornupatham, 2015). Các nghiên cứu phân loại
ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh như một dạng điều chỉnh với hàm ý là
ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần được xem là ý kiến chuẩn hoặc “hoàn hảo” (clean
opinion) và bất cứ một sự khác biệt nào so với ý kiến chuẩn, kể cả đoạn nhấn mạnh, cũng
được xem như là điều chỉnh.
2.1.2 Cở sở lý thuyết về lợi nhuận và những thuộc tính đại diện cho chất lượng lợi
nhuận
Một mảng đề tài lớn trong nghiên cứu kế toán là cung cấp bằng chứng về vấn đề lợi
nhuận hữu ích như thế nào cho việc ra các quyết định kinh tế của nhiều đối tượng sử
dụng khác nhau. Các câu hỏi về sự hữu ích của lợi nhuận có tầm quan trọng không chỉ
với những người sử dụng thông tin tài chính mà còn với những người hành nghề, những
nhà quản lý và những nhà nghiên cứu về kế toán vì lợi nhuận được đa số tin là khoản
mục mang thông tin giá trị nhất được cung cấp trong báo cáo tài chính (Lev, 1989). Chỉ
tiêu lợi nhuận thường được sử dụng bởi những chuyên gia phân tích tỷ số để xác định
năng lực quá khứ, hiện tại và tương lai của doanh nghiệp trong việc gia tăng giá trị cho
cổ đông. Doanh nghiệp sẽ khó tồn tại trong điều kiện lợi nhuận liên tục thấp hay thậm
chí là âm. Hơn nữa, lợi nhuận lũy kế lớn là nguồn lực thiết yếu cho tiềm năng tăng trưởng
của một doanh nghiệp. Bằng những nghiên cứu thực nghiệm của mình, Biddle và cộng
sự (1995), Liu và cộng sự (2002), Francis và cộng sự (2003) cũng khẳng định rằng lợi
nhuận là nguồn thông tin đặc trưng nhất về một doanh nghiệp mà các nhà đầu tư tin
tưởng vào nó hơn bất kỳ những thước đo tổng hợp nào khác về kết quả hoạt động như
cổ tức, dòng tiền...
Tóm lại, lợi nhuận được xem là thông tin quan trọng nhất trong báo cáo tài chính nên
chất lượng lợi nhuận cũng là yếu tố quan trọng đối với những quyết định đầu tư. Một
14
doanh nghiệp có lợi nhuận cao chưa hẳn đã tốt hơn một doanh nghiệp có lợi nhuận tuy
thấp hơn nhưng tăng trưởng ổn định hơn qua các kỳ vì điều đó cho thấy lợi nhuậnp của
doanh nghiệp này được kiểm soát và duy trì tốt hơn. Những khoản lợi nhuận đạt được từ
kết quả của sự may mắn sẽ không bao giờ là một lựa chọn để đầu tư. Như vậy lợi nhuận
cao rõ ràng là không quan trọng bằng lợi nhuận có chất lượng cao.
Schipper và Vincent (2003) cho rằng tầm quan trọng của chất lượng lợi nhuận có thể
được giải thích dựa vào ba quan điểm của: nhà đầu tư, người sử dụng các thông tin tài
chính và người thiết lập chuẩn mực kế toán:
+ Từ quan điểm của nhà đầu tư: chất lượng lợi nhuận cung cấp một tín hiệu cho sự
phân bổ nguồn lực. Chất lượng lợi nhuận thấp là điều không được mong đợi vì chúng
làm giảm tăng trưởng kinh tế do phân bổ sai vốn.
+ Từ quan điểm của người sử dụng các thông tin tài chính: lợi nhuận thường được sử
dụng trong các thỏa thuận khen thưởng và trong các khế ước vay. lợi nhuận phóng đại
sẽ được sử dụng như một chỉ số đo lường thành quả quản lý, từ đó dẫn đến việc khen
thưởng vượt mức cho các nhà quản lý. Ngoài ra, lợi nhuận phóng đại có thể che giấu khả
năng thanh toán đang xấu dần của doanh nghiệp, dẫn đến sai lầm của các chủ nợ khi tiếp
tục cho doanh nghiệp vay vốn.
+ Cuối cùng từ quan điểm của những người thiết lập chuẩn mực kế toán: luôn tìm
kiếm thông tin phản hồi liệu rằng các chuẩn mực kế toán có hiệu quả hay không và họ
có xu hướng tập trung vào kết quả đầu ra, trong đó có việc báo cáo lợi nhuận.
Để đáp ứng nhu cầu lớn về vốn và chi tiêu cho hoạt động kinh doanh, một công ty
không thể chỉ dựa trên nguồn lực nội bộ hoặc các khoản nợ để tài trợ cho các hoạt động
Vì vậy, công ty cần phải tăng vốn theo hình thức cổ phần. Vốn cổ phần càng tăng thì dẫn
đến càng có nhiều cổ đông. Healy và Palepu (1993) chỉ ra rằng mức độ đa dạng sở hữu
càng cao sẽ tạo ra mức độ thông tin bất cân xứng càng cao. Vì vậy nhà quản lý không
thể đáp ứng nhu cầu của tất cả những người sử dụng báo cáo tài chính, vấn đề này sẽ làm
15
gia tăng mức độ phụ thuộc vào thông tin kế toán. Do đó, vai trò của chất lượng lợi nhuận
trở nên cần thiết và mức độ quan trọng của nó có thể đặt lên trước bất kỳ sự phụ thuộc
vào các thông tin kế toán được công bố nào.
Tuy nhiên, đến nay định nghĩa về chất lượng lợi nhuận vẫn chưa được thống nhất
mặc dù số lượng nghiên cứu về chủ đề này là rất đáng kể. Chất lượng lợi nhuận được
cho là mức độ mà lợi nhuận được báo cáo phản ánh được thực trạng kinh tế của một
công ty. Theo Healy và Wahlen (1999), báo cáo tài chính sẽ kém hữu ích dẫn đến việc
phân bổ nguồn lực không hiệu quả khi lợi nhuận kế toán được báo cáo không phản ánh
thực trạng kinh tế của các hoạt động tài chính của công ty trong suốt giai đoạn báo cáo.
Hoặc theo Lang và cộng sự (2003), lợi nhuận được đánh giá là chất lượng nếu lợi nhuận
có đặc điểm là ít bị nhà quản trị điều chỉnh, ghi nhận kịp thời những thông tin xấu của
thị trường và có mối liên hệ chặt chẽ với giá cổ phiếu. Dechow và Schrand (2004) thì
cho rằng lợi nhuận có chất lượng cao là phải phản ánh kết quả hoạt động hiện tại của
công ty và là một chỉ báo tốt cho kết quả hoạt động trong tương lai. Đó cũng phải là một
thước đo hữu ích trong việc đánh giá giá trị công ty.
Tóm lại, chất lượng lợi nhuận vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng nhưng theo các nghiên
cứu trước đây, nếu lợi nhuận thể hiện được một số thuộc tính nhất định mà nhà đầu tư
mong muốn có được ở lợi nhuận thì lợi nhuận được xem là có chất lượng. Có bảy thuộc
tính đại diện cho chất lượng lợi nhuận gồm:
16
1. Chất lượng dồn tích (accrual quality)
Cơ sở kế toán 2. Tính bền vững (persistence)
3. Khả năng dự báo (predictability) (accounting – based)
4. Tính ổn định (smoothness)
5. Khả năng phản ánh xác thực giá trị (value relevance) Cơ sở thị trường
6. Tính kịp thời (timeliness) (market – based) 7. Tính thận trọng (conservatism)
Bảy thuộc tính này được phân loại làm hai nhóm dựa theo cơ sở kế toán (accounting-
based) hoặc cơ sở thị trường (market-based). Bốn thuộc tính đầu tiên là theo cơ sở kế
toán vì các thuộc tính này có thể đo lường được dựa vào số liệu trên sổ kế toán. Ba thuộc
tính còn lại được đo lường dựa trên mối tương quan giữa lợi nhuận theo sổ kế toán và
giá trị thị trường; vì vậy nhóm sau được gọi là thuộc tính dựa trên cơ sở thị trường
(Francis và cộng sự, 2003).
+ Chất lượng dồn tích (accrual quality): Hầu hết các nhà nghiên cứu đều chấp nhận
rằng lợi nhuận được báo cáo là đại diện tốt nhất cho lợi nhuận kinh tế; trong khi đó lợi
nhuận kinh tế lại là lợi nhuận phản ánh hiệu quả hoạt động thật sự của công ty (Choi và
Jeter, 1992). Để đánh giá mức độ mà lợi nhuận được báo cáo “gần” với lợi nhuận kinh
tế như thế nào thì dòng tiền từ các hoạt động kinh doanh được sử dụng làm thước đo
thay thế cho lợi nhuận kinh tế, bởi vì lợi nhuận kinh tế là một đại lượng không quan sát
được. Tuy nhiên thước đo này cũng không thực sự hoàn hảo là bởi vì lợi nhuận được báo
cáo và dòng tiền từ các hoạt động kinh doanh sẽ khác nhau do cơ sở dồn tích (chưa kể
đến khấu hao, phân bổ…). Vì vậy, rất nhiều nhà nghiên cứu tập trung vào độ lớn và mức
độ biến động của các khoản dồn tích để đánh giá chất lượng của lợi nhuận. Theo đó, một
vài nghiên cứu (Harris và cộng sự, 2000; Penman, 2001; Francis và cộng sự, 2004) kết
luận rằng nếu tiền chiếm tỉ lệ lớn trong lợi nhuận được báo cáo, thì đó là biểu thị của
chất lượng lợi nhuận đáng mong đợi.
17
+ Tính bền vững (persistence): là một thuộc tính rất quan trọng đại diện cho chất
lượng lợi nhuận. Vì tính bền vững của lợi nhuận được xem là tiêu chuẩn để đánh giá khả
năng duy trì lợi nhuận của một doanh nghiệp, từ đó nó sẽ là một chỉ báo tốt cho dự đoán
lợi nhuận trong tương lai, nên tính bền vững luôn luôn được các nhà đầu tư mong đợi
(Penman và Zhang, 2002).
Lý thuyết định giá chỉ ra rằng các nhà đầu tư dài hạn đánh giá cao lợi nhuận bền
vững. Lợi nhuận bền vững nghĩa là lợi nhuận chắc chắn có được ở tương lai, và thuộc
tính này giúp cho lợi nhuận được đánh giá là có chất lượng cao vì nó cung cấp đầu vào
chính xác hơn cho việc định giá dòng tiền tương lai. Hơn nữa, vì mục tiêu của báo cáo
tài chính là trình bày các thông tin hữu ích cho việc ra quyết định nên lợi nhuận càng bền
vững thì càng đạt được tiêu chí hữu ích của báo cáo tài chính.
Một số kết quả nghiên cứu của các tác giả (Kormendi và Lipe, 1987), (Collins và
Kothari, 1989), (Easton và Zmijewski, 1989) cung cấp bằng chứng về mối quan hệ giữa
lợi nhuận bền vững và hệ số phản ứng của lợi nhuận với giá cổ phiếu (earnings response
coefficient), kết quả cho thấy rằng các công ty có khả năng duy trì lợi nhuận tốt hơn sẽ
nhận được phản ứng mạnh hơn trong giá cổ phiếu. Bên cạnh đó cũng có một số nghiên
cứu về sự tương quan giữa tính bền vững của lợi nhuận với quyết định khen thưởng
(Baber và cộng sự, 1998), giá trị thị trường trái phiếu (Bhojraj và Swaminathan, 2007)
và sự dễ đọc của báo cáo thường niên (Li, 2008) để cho thấy mức độ quan trọng của
thuộc tính này.
+ Khả năng dự báo (predictability): Lipe (1990) định nghĩa thuộc tính này là khả
năng mà lợi nhuận hiện tại có thể dùng để dự báo lợi nhuận trong tương lai. Khả năng
dự báo được đánh giá cao bởi những người tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà phân
tích tài chính. Họ cho rằng đặc tính này là một thành phần quan trọng trong việc định giá
công ty và dự đoán lợi nhuận, giá cổ phiếu để đưa ra các đề xuất mua bán cổ phiếu. Các
nghiên cứu cho thấy những công ty mà có khả năng dự báo lợi nhuận thấp luôn phải chịu
18
chi phí đi vay cao hơn; nguyên nhân là do sự giới hạn trong khả năng dự báo lợi nhuận
dẫn đến bất cân xứng thông tin và rủi ro cao hơn. Nghiên cứu của Crabtree và Maher
(2005) cung cấp thêm bằng chứng chỉ ra rằng khả năng dự báo lợi nhuận của một công
ty tỷ lệ nghịch với lãi trên trái phiếu, và tỷ lệ thuận với thứ hạng của trái phiếu.
+ Tính ổn định (smoothness): Tính ổn định của lợi nhuận là một thuộc tính quan
trọng, thuộc tính này vẫn luôn nhận được nhiều sự quan tâm trong các tài liệu kế toán.
Trong nhiều nghiên cứu, tính ổn định được xem là lựa chọn thuộc về ban quản trị. Có
nghĩa là, các nhà quản lý sẽ chuyển lợi nhuận trong những năm kinh doanh tốt sang
những năm kinh doanh gặp nhiều khó khăn để lợi nhuận báo cáo không có quá nhiều
biến động giữa các năm (Copeland, 1968). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu có hai cách
giải thích chính cho việc “làm phẳng” lợi nhuận như sau:
Một mặt, một số nhà nghiên cứu (Levitt, 1988; Bhattacharya và cộng sự, 2003) cho
rằng việc “làm phẳng” lợi nhuận là cố tình che giấu thông tin. Theo cách nhìn này, những
người bên trong công ty sẽ giấu các hành động của họ và tránh sự can thiệp của bên
ngoài để trục lợi riêng cho mình. Ví dụ, các nhà quản lý sẽ “làm phẳng” lợi nhuận giữa
các năm để đạt chỉ tiêu khen thưởng (Healy, 1985) và đảm bảo việc làm của mình
(Fudenberg và Tirole, 1995, Arya và cộng sự, 1998). Phạm Thị Bích Vân (2013) cũng
cho rằng các doanh nghiệp nỗ lực giảm thiểu sự biến động trong chỉ tiêu lợi nhuận giữa
các kỳ kế toán nhằm giữ giá cổ phiếu được ổn định hoặc làm tăng giá trị thị trường của
cổ phiếu. Bởi vì lợi nhuận giữa các kỳ kế toán biến động lớn đồng nghĩa với rủi ro cao
khi đầu tư vào công ty đó, vì thế, giá cổ phiếu sẽ rớt giá so với giá cổ phiếu của các công
ty có lợi nhuận ổn định qua các kỳ kế toán. Hệ quả là, nhà quản trị của các doanh nghiệp
niêm yết có khuynh hướng điều chỉnh lợi nhuận (theo hướng san bằng) nhằm đạt được
sự ổn định về lợi nhuận giữa các kỳ kế toán để đảm bảo lợi nhuận bền vững trong dài
hạn.
19
Mặt khác, một vài nhà nghiên cứu cho rằng việc “làm phẳng” lợi nhuận sẽ cung cấp
thông tin giúp nhận diện những thành phần bất biến của lợi nhuận cũng như truyền đạt
thông tin riêng của các nhà quản trị. Tucker và Zarowin (2006) chỉ ra rằng sự thay đổi
trong giá cổ phiếu hiện tại của các công ty mà lợi nhuậnlợi nhuận có tính ổn định cao,
thì chứa nhiều thông tin về lợi nhuận tương lai hơn so với các công ty có tính ổn định
thấp hơn. Điều này ngầm hiểu rằng tính ổn định của lợi nhuận có thể truyền đạt được
thông tin riêng của ban quản trị công ty.
+ Khả năng phản ánh xác thực giá trị (value relevance): thuộc tính này thường được
xem là khả năng mà lợi nhuận có thể giải thích được những biến động trong giá cổ phiếu
hoặc tỷ suất sinh lời của cổ phiếu; khả năng giải thích càng cao thì càng được mong đợi.
+ Tính kịp thời (timeliness): là một chỉ tiêu thể hiện mức độ lợi nhuận biến động và
phản ứng nhanh như thế nào trước những thông tin mới của thị trường. Tính kịp thời
cũng có thể hiểu là sự sẵn có thông tin về lợi nhuận cho người sử dụng trước khi nó mất
khả năng gây ảnh hưởng đến các quyết định (Framework, 2007).
+ Tính thận trọng (conservatism): là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để
lập các ước tính kế toán trong điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng là công
ty không đánh giá cao hơn giá trị các tài sản và các khoản thu nhập. Tuy nhiên, khái
niệm này không có nghĩa là ủng hộ các công ty cố tình khai báo thấp đi. Do đó, thận
trọng được xem là khả năng lợi nhuận có thể phản ánh được những tổn thất kinh tế, đo
lường bằng tỷ suất sinh lợi cổ phiếu âm, tương ứng với khả năng lợi nhuậnlợi nhuận
phản ánh những thông tin tích cực thông qua tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu dương.
Trên đây là những thuộc tính đại diện cho chất lượng lợi nhuận. Cũng như nhiều
nghiên cứu trước đây trên thế giới (Beneish và Vargus, 2002; Penman và Zhang, 2002;
Richardson, 2003) tác giả dùng tính bền vững của lợi nhuận để đại diện cho chất lượng
lợi nhuận trong phạm vi bài viết của mình vì nó là một trong những thuộc tính quan trọng
20
được mong đợi nhất của lợi nhuận và có thể dễ dàng định lượng hơn những thuộc tính
khác.
Lev (1983), Kormendi and Lipe (1987), Ali và Zarowin (1992) đo lường mức độ bền
vững của lợi nhuận bằng hệ số độ dốc, , từ mô hình tự hồi quy bậc nhất cho lợi nhuận
hàng năm:
Xj,t+1 = + Xj,t + vj,t, với:
Xj,t+1: lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản của công ty j trong
năm t+1
Xj,t: lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản của công ty j trong
năm t
Hệ số độ dốc (hệ số góc) cho biết giá trị trung bình của lợi nhuận năm tiếp theo sẽ
thay đổi (tăng hoặc giảm) bao nhiêu phần trăm khi giá trị của lợi nhuận năm hiện hành
tăng một phần trăm với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Nếu giá trị của hệ số
độ dốc càng gần bằng 1 (hoặc lớn hơn 1) có nghĩa là mối tương quan giữa lợi nhuận năm
tiếp theo và năm hiện hành càng chặt chẽ, hay khả năng lợi nhuận năm hiện hành có thể
giải thích cho sự biến động trong lợi nhuận năm tiếp theo càng cao. Như vậy ta nói rằng
lợi nhuận có sự bền vững cao, ngược lại nếu hệ số độ dốc gần bằng 0 hàm ý là lợi nhuận
chỉ có tính chất nhất thời vì không có mối tương quan nào giữa lợi nhuận năm hiện hành
và lợi nhuận năm tiếp theo. Vậy giá trị của hệ số độ dốc càng lớn (nhỏ) sẽ tương ứng với
độ bền vững càng cao (thấp).
21
2.2 Tổng quan các nghiên cứu có liên quan trước đây
2.2.1 Ảnh hưởng của báo cáo kiểm toán đến thị trường chứng khoán
Đầu tiên, tác giả tổng hợp các nghiên cứu về giá trị của báo cáo kiểm toán thông qua
việc kiểm định vai trò “truyền tín hiệu” của báo cáo kiểm toán. Các nghiên cứu này kiểm
định xem các ý kiến kiểm toán điều chỉnh có chuyển tải thông tin đến thị trường hay
không. Những tiêu chí thường được sử dụng để đo lường phản ứng của thị trường trong
các nghiên cứu là hệ số phản ứng lợi nhuận, giá chứng khoán. Kết quả được tìm thấy là
không đồng nhất giữa các nghiên cứu:
+ Báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán:
Một số nghiên cứu cho rằng những ý kiến ngoại trừ có thể chuyển tải thông tin hữu
ích cho các nhà đầu tư (Chow và Rice, 1982; Dopuch và cộng sự, 1986; Loudder và cộng
sự, 1992). Choi và Jeter (1992) kết luận rằng ý kiến ngoại trừ làm giảm hệ số phản ứng
lợi nhuận của các công ty trong năm tiếp theo kể từ khi nhận được ý kiến kiểm toán.
Jones (1996) cung cấp bằng chứng về giá trị gia tăng của việc trình bày về những vấn đề
không chắc chắn gây nghi ngờ về giả định hoạt động liên tục trong báo cáo kiểm toán
của các công ty đang bị khủng hoảng tài chính.
Lai và cộng sự (2009) tìm thấy mối quan hệ ngược chiều đáng kể giữa giá chứng
khoán và những ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh được đưa ra
khi xảy ra một trong những tình huống như: vấn đề hoạt động liên tục, thay đổi chính
sách kế toán theo luật định hoặc tự nguyện, những sự kiện không chắc chắn có ảnh hưởng
trọng yếu đến tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp và cuối cùng là việc
thông qua báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên khác cho năm tài chính hiện hành.
Menon và Williams (2010) nhận thấy rằng phản ứng của thị trường chứng khoán sẽ
tiêu cực hơn nếu báo cáo có liên quan đến vấn đề hoạt động liên tục đề cập đến khó khăn
trong việc tìm được nguồn tài chính. Phản ứng càng gay gắt hơn nếu vấn đề hoạt động
22
liên tục dẫn đến vi phạm điều khoản trong các khế ước nợ. Những phát hiện này chứng
tỏ rằng vấn đề hoạt động liên tục cung cấp thông tin mới cho nhà đầu tư.
+ Báo cáo kiểm toán không có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán:
Một số nghiên cứu không tìm thấy phản ứng đáng kể của thị trường sau khi ý kiến
ngoại trừ được ban hành (Ball và cộng sự, 1979; Dodd và cộng sự, 1984).
Ali và cộng sự (2007) thực hiện nghiên cứu với mục tiêu là kiểm định xem báo cáo
kiểm toán tại Jordan có đại diện cho nguồn thông tin quan trọng cho quá trình ra quyết
định hay không. Nghiên cứu này tập trung vào tác động của ý kiến kiểm toán ngoại trừ
lên giá cổ phiếu tại Jordan. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở
thị trường trong giai đoạn 6 năm (2000-2005), dùng t-test để kiểm định tác động của ý
kiến kiểm toán đến sự thay đổi giá cổ phiếu tại ngày báo cáo được công bố trên sàn
chứng khoán và trong suốt giai đoạn một tuần trước và sau ngày công bố. Nếu giá cố
phiếu thay đổi bất thường trong giai đoạn này thì có nghĩa là báo cáo kiểm toán ngoại
trừ có hàm chứa thông tin giá trị đối với nhà đầu tư. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng
không có phản ứng rõ ràng của thị trường chứng khoán và không có sự thay đổi đáng kể
trong giá cổ phiếu tại ngày công bố cũng như trong giai đoạn hai tuần xung quanh ngày
công bố. Từ đó tác giả kết luận rằng những người đọc báo cáo kiểm toán có thể không
hiểu được ý nghĩa của nó hoặc không đánh giá cao giá trị của nó.
Czernkowski và cộng sự (2010) cũng kiểm định phản ứng của thị trường trước những
ý kiến kiểm toán điều chỉnh của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Thượng Hải,
sau khi Trung Quốc đưa ra những thay đổi quan trọng mang tính pháp lý nhằm củng cố
niềm tin của nhà đầu tư vào chức năng của kiểm toán. Thị trường vốn tại Trung Quốc
phát triển nhanh chóng từ năm 1992. Những ý kiến kiểm toán điều chỉnh đầu tiên xuất
hiện vào năm 1996 và tần suất xuất hiện ngày càng tăng sau khi chuẩn mực kiểm toán
mới được áp dụng. Mẫu nghiên cứu gồm 3,218 quan sát từ năm 1999 đến năm 2003.
Nghiên cứu sử dụng và điều chỉnh mô hình phản ứng thị trường được dùng trong nghiên
23
cứu trước đó của Chen và cộng sự (2000) bằng cách thêm các biến giải thích cho đặc thù
tổ chức ở Trung Quốc và kiểm soát thông tin gây nhiễu đến thị trường. Nghiên cứu không
tìm thấy bằng chứng chứng minh ý kiến kiểm toán có giá trị thông tin ở Trung Quốc vì
không thấy được bức tranh tổng thể về phản ứng thị trường trước ý kiến kiểm toán điều
chỉnh.
Các bằng chứng đưa ra kết quả hỗn hợp được cho là do những tác động gây nhiễu
của những thông tin được ban hành đồng thời cùng với báo cáo kiểm toán và do sự khó
khăn trong việc xác định ngày mà thị trường chứng khoán nhận được báo cáo kiểm toán.
Do đó để tránh tác động gây nhiễu của các nhân tố này, một số nghiên cứu thực hiện
kiểm định giá trị báo cáo kiểm toán theo một hướng khác, đó là các nghiên cứu kiểm
định xem ý kiến kiểm toán có khả năng phản ánh được chất lượng của lợi nhuận hay
không.
2.2.2 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và các thuộc tính đặc trưng cho chất lượng
lợi nhuận
+ Ý kiến kiểm toán và chất lượng dồn tích:
Các thông tin trong báo cáo lợi nhuận đặc trưng cho tình hình hoạt động tài chính của
doanh nghiệp rất hữu ích cho người sử dụng trong việc đưa ra một quyết định kinh tế
(Dechow và cộng sự, 2010). Những nghiên cứu trước đây nỗ lực để tìm ra bằng chứng
về mối liên hệ giữa ý kiến kiểm toán và các thuộc tính của lợi nhuận bằng cách sử dụng
các khoản dồn tích bất thường như một chỉ số đại diện; tuy nhiên, các kết quả đưa ra lại
trái ngược nhau. Francis và Krishnan (1999) thấy rằng kiểm toán viên có khả năng sẽ
phát hành báo cáo kiểm toán điều chỉnh cho các doanh nghiệp có khoản dồn tích cao từ
sự ghi nhận tài sản không chắc chắn và vấn đề hoạt động liên tục. Bartov và cộng sự
(2001) trình bày một mối tương quan dương giữa giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích bất
kỳ và ý kiến kiểm toán điều chỉnh do bị giới hạn phạm vi kiểm toán. Tuy nhiên, Butler
và cộng sự (2004) không tìm thấy bằng chứng để kết luận rằng các doanh nghiệp nhận ý
24
kiến kiểm toán không phải loại chấp nhận toàn phần có hành vi điều chỉnh lợi nhuận hơn
những doanh nghiệp nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Tương tự, Herbohn và
Ragunathan (2008) kiểm định mối quan hệ giữa các khoản dồn tích bất thường (được sử
dụng như là một chỉ số đại diện cho hành vi điều chỉnh lợi nhuận) và khả năng nhận
được ý kiến kiểm toán điều chỉnh. Kết quả là Herbohn và Ragunathan (2008) không tìm
thấy bằng chứng cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận sẽ dẫn đến một ý kiến kiểm toán
điều chỉnh. Những kết quả trái ngược này cho thấy các mô hình dồn tích bất thường có
khả năng gặp vấn đề sai lệch thống kê, dẫn đến kết quả nghiên cứu bị bóp méo
(Subramanyam, 1996).
+ Ý kiến kiểm toán và tính bền vững trong lợi nhuận:
Một lựa chọn khác đại diện cho chất lượng lợi nhuận là tính bền vững của lợi nhuận
(có thể hiểu là khả năng duy trì lợi nhuận của doanh nghiệp). Khái niệm đằng sau thước
đo này là một thuộc tính rất được mong đợi ở lợi nhuận, đó chính là khả năng lợi nhuận
hiện tại có thể giúp dự đoán lợi nhuận trong năm tiếp theo (Barth và Hutton, 2004; Jonas
và Blanchet, 2000). Lợi nhuận có tính bền vững cao hàm ý rằng lợi nhuận hiện tại là một
thước đo tổng hợp hữu ích về hiệu quả hoạt động trong tương lai và có thể được sử dụng
để định giá một công ty với sai số định giá thấp (Dechow và cộng sự, 2010). Lợi nhuận
có vai trò giúp các nhà đầu tư hình thành kỳ vọng về dòng tiền trong tương lai của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp với lợi nhuận và dòng tiền chắc chắn hơn sẽ có lợi nhuận bền
vững hơn và điều này sẽ mang lại lợi ích cho việc định giá cổ phiếu của doanh nghiệp.
Mặt khác, các doanh nghiệp đang gặp vấn đề trong hoạt động có khuynh hướng có chất
lượng lợi nhuận thấp và không đảm bảo sẽ duy trì được lợi nhuận nên lợi nhuận thường
không có tính bền vững.
Ý kiến kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán, nó có tác dụng làm
tăng mức độ tin cậy đối với báo cáo tài chính. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và
thế giới, kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối với những báo cáo tài
25
chính đã được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình
bày báo cáo tài chính được áp dụng. Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính có
thể là khuôn khổ về trình bày hợp lý hoặc khuôn khổ về tuân thủ.
Tuy nhiên, kiểm toán viên sẽ điều chỉnh ý kiến của mình trong trường hợp xảy ra một
trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như phạm vi
công việc kiểm toán bị giới hạn, bất đồng ý kiến với ban giám đốc trong việc áp dụng
chuẩn mực chế độ kế toán, tồn tại các vấn đề không chắc chắn hoặc có nghi ngờ về giả
định hoạt động liên tục.
Những tình huống trên thường xảy ra đối với những doanh nghiệp có kết quả hoạt
động không tốt. Đối với những doanh nghiệp này, kiểm toán viên càng phải xét đoán
thận trọng hơn, đánh giá kỹ hơn những áp lực, thách thức mà doanh nghiệp đang phải
đối mặt từ đó xem xét khả năng những khó khăn đó làm ảnh hưởng đến tính chính trực
của ban lãnh đạo. Đặc biệt là với công ty niêm yết, vì sức ép rất lớn đối với việc phải đạt
được chỉ tiêu lợi nhuận theo kế hoạch trong điều kiện tình hình tài chính gặp nhiều khó
khăn, các công ty này có khả năng sẽ sử dụng các thủ thuật để làm tăng lợi nhuận như
nới lỏng chính sách tín dụng cho khách hàng (tăng thời hạn thanh toán, tăng tỷ lệ chiết
khấu) để kích thích tăng doanh thu, cắt giảm chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và
phát triển, chi phí quảng cáo, chí phí cho việc sửa chữa, bảo trì, nâng cấp tài sản cố định;
hoặc lựa chọn thời điểm thích hợp để mua sắm hay thanh lý, nhượng bán tài sản cố định.
Họ cũng có thể thực hiện hành động quản trị lợi nhuận để “làm đẹp” báo cáo tài
chính, biến lỗ thành lãi, biến lãi ít thành lãi nhiều để tránh sức ép từ những cổ đông hiện
tại và để thu hút thêm cổ đông tiềm năng. Hành động quản trị lợi nhuận là sự điều chỉnh
lợi nhuận để đạt được mục tiêu đã đặt ra trước đó của nhà quản trị. Điều chỉnh lợi nhuận
phản ánh hành động của nhà quản trị trong việc lựa chọn các phương pháp kế toán để
mang lại lợi ích cho họ hoặc làm gia tăng giá trị thị trường của công ty (Scott, 1997).
Việc lựa chọn chính sách kế toán áp dụng để thực hiện điều chỉnh lợi nhuận nằm trong
26
khuôn khổ của chuẩn mực kế toán. Do đó, hành động điều chỉnh lợi nhuận là tuân thủ
khuôn khổ pháp lý và là sự vận dụng linh hoạt, khéo léo các khoảng trống trong chuẩn
mực kế toán để sắp xếp lại báo cáo tài chính theo mục đích chứ không phải là hành động
phi pháp. Một số phương án thường được doanh nghiệp sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận
theo chiều hướng có lợi cho doanh nghiệp là thay đổi chính sách kế toán như: thay đổi
phương pháp tính giá hàng tồn kho, phương pháp hạch toán chênh lệch tỷ giá hối đoái,
phương pháp kế toán chi phí đi vay hoặc thay đổi các ước tính kế toán như: thay đổi thời
gian sử dụng hữu ích, cách thức sử dụng tài sản cố định làm cơ sở tính khấu hao, thay
đổi mức trích lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi, hàng tồn kho hoặc nghĩa vụ bảo
hành. Tùy vào mức độ trọng yếu, kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn
phần hoặc nhấn mạnh để lưu ý người đọc về vấn đề thay đổi chính sách, ước tính kế
toán trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Để tăng lợi nhuận, bên cạnh hành vi điều chỉnh lợi nhuận “hợp pháp” nói trên, các
công ty niêm yết cũng thường khai khống doanh thu hoặc giấu bớt chi phí. Doanh nghiệp
khai khống doanh thu bằng cách tạo nghiệp vụ mua bán ảo, hạch toán doanh thu chưa
đủ điều kiện ghi nhận hoặc ghi nhận doanh thu không đúng niên độ. Chi phí có thể được
che giấu bằng cách không hạch toán những khoản chi phí đã thực sự phát sinh, vốn hóa
các khoản chi phí không đủ điều kiện hoặc phân bổ chi phí cho nhiều kỳ thay vì ghi nhận
toàn bộ một lần. Việc ghi nhận như vậy chẳng những làm tăng lợi nhuận mà còn cải thiện
tính thanh khoản của doanh nghiệp gây ra sai lệch nhiều khoản mục trên báo cáo tài
chính. Các sai lệch này nếu trọng yếu sẽ bị kiểm toán viên yêu cầu điều chỉnh và có thể
gây ra sự bất đồng giữa kiểm toán viên và ban giám đốc. Nếu bàn luận và thương lượng
không giải quyết được vấn đề thì có khả năng kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến ngoại trừ
hoặc không chấp nhận tùy thuộc vào việc sai lệch đó có ảnh hưởng đến tổng thể báo cáo
tài chính hay không.
27
Cũng với mục đích che giấu những sai lệch trên báo cáo tài chính, công ty được kiểm
toán có thể giới hạn phạm vi kiểm toán bằng cách áp đặt một số các điều khoản của hợp
đồng kiểm toán, hoặc không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng kiểm toán,
lẩn tránh trách nhiệm, từ chối cung cấp thông tin, bằng chứng cần thiết, hay ngăn chặn
công việc của kiểm toán viên. Trong những trường hợp như vậy, kiểm toán viên thực
hiện thủ tục kiểm toán thay thế khác một cách hợp lý. Nếu không thể thu thập được đầy
đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, kiểm toán viên sẽ cân nhắc đưa ra ý kiến ngoại trừ
hoặc từ chối ra ý kiến.
Đặc biệt trong tình huống vi phạm giả định hoạt động liên tục, kiểm toán viên sẽ cân
nhắc sự đầy đủ của việc công bố thông tin trên thuyết minh báo cáo tài chính và đưa ra
ý kiến kiểm toán. Nếu việc sử dụng giả định hoạt động liên tục là phù hợp nhưng vẫn có
yếu tố không chắc chắn trọng yếu thì kiểm toán viên phải xác định xem báo cáo tài chính
có công bố đầy đủ thông tin trên thuyết minh hay không. Nếu thông tin đã được công bố
đầy đủ thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh để nêu
bật sự tồn tại của yếu tố không chắc chắn trọng yếu, nếu doanh nghiệp cố tình che giấu
thông tin thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến ngoại trừ hoặc không chấp nhận. Trong
trường hợp việc sử dụng giả định hoạt động liên tục là không phù hợp theo đánh giá của
kiểm toán viên, doanh nghiệp được kiểm toán chắc chắn không thể tiếp tục hoạt động
được nữa, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến không chấp nhận.
Tóm lại, những ý kiến kiểm toán điều chỉnh được ban hành khi báo cáo tài chính của
doanh nghiệp có “vấn đề”, và thường gắn với những doanh nghiệp có kết quả hoạt động
không tốt. Trong khi đó, kết quả hoạt động của doanh nghiệp lại ảnh hưởng đến chất
lượng lợi nhuận, cụ thể là tính bền vững của lợi nhuận. Lipe (1986) nghiên cứu mối quan
hệ giữa các thuộc tính lợi nhuận và kết quả hoạt động của doanh nghiệp và đã chỉ ra rằng
kết quả hoạt động có mối liên kết tích cực nhất với thước đo bền vững lợi nhuận. Theo
tính chất bắc cầu ta có thể đặt ra giả thuyết là những doanh nghiệp nhận ý kiến kiểm toán
28
điều chỉnh thường có khả năng duy trì lợi nhuận thấp. Nếu giả thuyết này được chấp
nhận thông qua kiểm định thực nghiệm là thì ta có thể khẳng định chất lượng lợi nhuận
của một doanh nghiệp có thể được phản ánh thông qua ý kiến của kiểm toán viên. Đây
là vấn đề được quan tâm hiện nay vì nó sẽ góp phần củng cố vai trò của báo cáo kiểm
toán đối với những người sử dụng.
Một nghiên cứu gần đây về mối quan hệ này đã được thực hiện bởi Vichitsarawong
và Pornupatham (2015). Nghiên cứu đã khảo sát mức độ mà một ý kiến kiểm toán điều
chỉnh có thể phản ánh được thông tin về chất lượng lợi nhuận của khách hàng như thế
nào. Bài nghiên cứu sử dụng một cấu trúc tốt hơn các nghiên cứu trước đây để thấy được
vai trò của ý kiến kiểm toán trong việc “truyền tín hiệu” về thông tin lợi nhuận mà không
bị tác động gây nhiễu từ những thông tin khác được công bố cùng lúc trên thị trường.
Nghiên cứu thực hiện kiểm định xem từng ý kiến kiểm toán điều chỉnh cụ thể có hàm
chứa thông tin gắn với chất lượng lợi nhuận hay không. Cụ thể, nghiên cứu xem xét liệu
một ý kiến kiểm toán có mối liên hệ với tính bền vững trong lợi nhuận của các doanh
nghiệp hay không và tính bền vững đó biến động như thế nào giữa các loại ý kiến kiểm
toán.
Phạm vi nghiên cứu là các công ty phi tài chính được niêm yết trên thị trường chứng
khoán Thái Lan. Động lực thúc đẩy để thực hiện nghiên cứu xuất phát từ nét đặc trưng
riêng chỉ có ở Thái Lan vì tại đây, các ý kiến kiểm toán điều chỉnh được ban hành khác
với ở Mỹ và các quốc gia khác khi khách hàng có liên quan đến vấn đề hoạt động liên
tục. Một ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh sẽ được ban hành ở Mỹ trong
trường hợp này. Mặc dù chuẩn mực không hạn chế việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến từ
chối, nhưng Davis (2004) báo cáo rằng ý kiến từ chối rất ít khi được sử dụng kể từ năm
1995. Chỉ có 23 ý kiến từ chối từ năm 1988-1999 và những lý do chủ yếu tập trung vào
phạm vi kiểm toán bị giới hạn chứ không phải là vấn đề hoạt động liên tục (Butler và
cộng sự, 2004). Không giống như ở Mỹ, khi khách hàng có liên quan đến vấn đề hoạt
29
động liên tục, kiểm toán viên ở Thái Lan sẽ đưa ra những ý kiến khác nhau, tùy thuộc
vào mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Các ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với
đoạn nhấn mạnh được công bố khi công ty được kiểm toán có dấu hiệu của vấn đề hoạt
động liên tục. Tuy nhiên, khi vấn đề có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa, kiểm toán viên
Thái sẽ đưa ra ý kiến từ chối nhiều hơn so với ở Mỹ (35 ý kiến từ chối đã được đưa ra
đối với báo cáo tài chính trên thị trường chứng khoán Thái Lan chỉ trong khoảng thời
gian 5 năm từ 2004 - 2008). Điều này giúp cho nghiên cứu có cơ hội kiểm định giá trị
của nhiều loại ý kiến điều chỉnh khác nhau (đặc biệt là ý kiến từ chối đưa ra ý kiến), điều
mà rất hiếm khi được công bố trong các nghiên cứu trước. Vichitsarawong và
Pornupatham (2015) đã thu thập dữ liệu một cách thủ công về ý kiến kiểm toán của các
công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Thái Lan từ năm 2004-2008 và dùng phân tích
hồi quy và phân tích nội dung để kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính
bền vững của lợi nhuận. Kết quả cho thấy rằng công ty nhận ý kiến điểu chỉnh có sự bền
vững trong lợi nhuận thấp hơn những công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần, và mức
độ bền vững trong lợi nhuận cũng khác biệt giữa các loại ý kiến kiểm toán điều chỉnh cụ
thể. Công ty nhận ý kiến ngoại trừ hay ý kiến từ chối có sự bền vững trong lợi nhuận
thấp hơn công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh. Tuy nhiên, kết
quả không cho thấy sự khác biệt trong mức độ bền vững của lợi nhuận giữa hai loại ý
kiến ngoại trừ và từ chối. Phân tích nội dung chỉ ra rằng các loại ý kiến kiểm toán điều
chỉnh có hàm chứa thông tin liên quan đến chất lượng lợi nhuận. Công ty mà nhận ý kiến
ngoại trừ do phạm vi kiểm toán bị giới hạn hoặc nhận ý kiến từ chối do vấn đề hoạt động
liên tục thì có sự bền vững trong lợi nhuận thấp hơn công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn
phần có đoạn nhấn mạnh về vấn đề hoạt động liên tục.
Như vậy có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm trước đây tìm hiểu về mối quan hệ
giữa ý kiến kiểm toán và chất lượng lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích tự định,
trong khi đó số lượng nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững
lợi nhuận là rất ít. Tác giả đã dựa vào bài nghiên cứu của Vichitsarawong và
30
Pornupatham (2015) để xem xét đánh giá mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền
vững của lợi nhuận trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trước hết vì đây là một
hướng tiếp cận hoàn toàn mới khi nghiên cứu sử dụng tính bền vững thay cho chất lượng
dồn tích để tránh tình trạng kết quả nghiên cứu bị bóp méo vì mô hình dồn tích được cho
là gặp vấn đề sai lệch thống kê. Ngoài ra, bài nghiên cứu này cũng mới được đăng trên
tạp chí năm 2015 nên có tính cập nhật cao. Cuối cùng, dữ liệu nghiên cứu của
Vichitsarawong và Pornupatham (2015) là các công ty trên thị trường chứng khoán Thái
Lan, đây là một thị trường lớn hơn nhưng nền kinh tế có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam, cũng đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu và hiện tại thuộc nhóm nước đang
phát triển.
2.3 Giả thuyết nghiên cứu
Sau khi tổng hợp các nghiên cứu về giá trị của báo cáo kiểm toán thông qua phản ứng
của thị trường chứng khoán và khả năng phản ánh chất lượng lợi nhuận của các loại ý
kiến kiểm toán khác nhau, tác giả đưa ra giả thuyết cho bài nghiên cứu như sau:
Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất (H1): Kiểm toán viên điều chỉnh ý kiến của mình
khi phát hiện ra một số vấn đề trong công ty khách hàng như những yếu tố không chắc
chắn, bất đồng với ban giám đốc trong áp dụng kế toán, phạm vi kiểm toán bị hạn chế
và khả năng hoạt động liên tục. Frost (1997) cho thấy công ty nhận báo cáo kiểm toán
điều chỉnh yếu hơn về phương diện tài chính và thể hiện một sự giảm đáng kể trong khả
năng tạo ra lợi nhuận so với các doanh nghiệp có báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần.
Do đó, ý kiến kiểm toán điều chỉnh có thể phản ánh những vấn đề kế toán khó giải quyết
và tiềm ẩn khả năng làm tăng mức độ không chắc chắn trong lợi nhuận hiện tại và tương
lai của công ty, dẫn đến hệ quả là chất lượng lợi nhuận sẽ thấp hơn. Choi và Jeter (1992)
tìm thấy rằng các báo cáo kiểm toán ngoại trừ sẽ gắn với hệ số phản ứng lợi nhuận nhỏ
hơn, phù hợp với phát hiện ý kiến kiểm toán ngoại trừ làm giảm khả năng nhận biết của
thị trường về tính bền vững của lợi nhuận. Kết quả cho thấy ý kiến ngoại trừ báo hiệu
31
cho thị trường rằng công ty đã và đang trải qua những biến động về kinh tế, dẫn đến lợi
nhuận sẽ không bền vững. Vì vậy, giả thuyết đầu tiên được đưa ra là:
H1. Công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh có tính bền vững trong lợi nhuận thấp
hơn các công ty nhận được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần.
Giả thuyết nghiên cứu thứ hai (H2): Các loại ý kiến kiểm toán khác nhau có khả
năng truyền đạt mức độ thông tin khác nhau đến công chúng. Sundgren (2009) chứng
minh được rằng các loại ý kiến khác nhau trong dạng ý kiến điều chỉnh có mối quan hệ
cùng chiều với khả năng xảy ra phá sản. Ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn
mạnh, ý kiến ngoại trừ, ý kiến không chấp nhận và ý kiến từ chối được đưa ra tùy vào
mức độ nghiêm trọng của vấn đề đang tồn tại, mà những vấn đề đó có thể tạo ra những
tác động khác nhau đến chất lượng lợi nhuận. Vì vậy, nghiên cứu kỳ vọng rằng mối liên
hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững lợi nhuận có thể sẽ khác nhau tùy thuộc vào
từng loại ý kiến cụ thể. Do mẫu nghiên cứu trên sàn chứng khoán Việt Nam từ năm 2009-
2012 không có ý kiến từ chối và không chấp nhận nên ý kiến điều chỉnh chỉ còn lại hai
loại ý kiến là ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh và ý kiến ngoại trừ.
Một ý kiến ngoại trừ được đưa ra khi công ty có rủi ro có sai sót trọng yếu nhưng
không thể phát hiện do phạm vi kiểm toán bị giới hạn giới hạn và rủi ro của các khoản
mục chưa được sửa trong trường hợp sai sót trọng yếu. Trong khi đó, một ý kiến chấp
nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh được nhận diện như là một báo cáo kiểm toán “hoàn
hảo” ngoại trừ một đoạn giải thích được thêm vào để thu hút sự chú ý đến một vấn đề
trình bày trong báo cáo tài chính, mà không ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên.
Do đó, công ty nhận ý kiến kiểm toán ngoại trừ có thể có những vấn đề khó giải quyết
hơn và người sử dụng báo cáo tài chính sẽ gặp khó khăn hơn trong việc dự đoán lợi
nhuận trong tương lai của công ty so với những công ty chỉ nhận ý kiến chấp nhận toàn
phần có đoạn nhấn mạnh. Choi và Jeter (1992) đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp với ý
kiến ngoại trừ có khả năng phải trải những biến động trong hoạt động kinh doanh dẫn
32
đến tác động gây nhiễu làm cho lợi nhuận ít bền vững hơn. Lam và Mensah (2006) thấy
rằng công ty nhận một ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh có khả năng tồn
tại lâu hơn trong khi những công ty nhận ý kiến ngoại trừ có tình trạng khủng hoảng tài
chính nghiêm trọng hơn. Tóm lại, các điều kiện để đưa ra ý kiến ngoại trừ được cho là
có thể tạo ra tác động gây nhiễu, làm lợi nhuận ít bền vững hơn so với những tình huống
cần được chú ý thông qua một đoạn nhấn mạnh. Do đó, một giả thuyết khác được đưa ra
là:
H2. Công ty nhận ý kiến kiểm toán ngoại trừ có tính bền vững trong lợi nhuận thấp
hơn các công ty nhận được ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh.
33
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình và biến nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu được tác giả sử dụng là dựa vào bài nghiên cứu của
Vichitsarawong và Pornupatham (2015).
EARNit+1 = EARNit + OPINIONit + EARNit x OPINIONit
+ Σ Control variablesit + it (1)
EARNit+1 = EARNit + UEMit + QUALIFYit EARNit x UEMit
+ EARNit x QUALIFYit + Σ Control variablesit + it (2)
Với:
EARN – lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh
OPINION – biến giả ý kiến kiểm toán điều chỉnh
UEM – biến giả ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh
QUALIFY – biến giả ý kiến kiểm toán ngoại trừ
Control variables – biến kiểm soát, gồm:
LEVERAGE: đòn bẩy tài chính
SIZE: quy mô công ty
LOSS: biến giả đại điện cho khoản lỗ trong năm hiện hành
BIG: biến giả công ty kiểm toán
ABS_ACC: giá trị tuyệt đối của các khoản dồn tích
DIV: biến giả cổ tức
sai số ngẫu nhiên
34
Biến lợi nhuận của năm nhận ý kiến kiểm toán (EARNit) và năm tiếp theo (EARNit+1)
được tính bằng cách lấy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chia cho tổng tài sản trung
bình. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh phản ánh các hoạt động kinh doanh chủ yếu
đóng góp vào lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
chính là thành phần thường xuyên nhất của lợi nhuận bao gồm doanh thu, chi phí bán
hàng và cung cấp dịch vụ; doanh thu, chi phí tài chính và chi phí hoạt động. Như vậy,
lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được kỳ vọng là sẽ mang nội dung thông tin để có thể
dự báo được lợi nhuận tương lai và sẽ có tính ổn định nhất qua các thời kỳ. Wild (1992)
nghiên cứu khả năng cung cấp thông tin của các bộ phận hợp thành lợi nhuận ròng và
kết luận rằng việc tách các bộ phận của lợi nhuận ròng rất hữu ích cho các cổ đông trong
việc định giá công ty. Hevas (2007) tuyên bố rằng chỉ có lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh mới làm tăng “sức mạnh” giải thích của lợi nhuận. Những thành phần khác của
lợi nhuận như thu thập từ hoạt động không thường xuyên (thanh lý, nhượng bán tài sản)
hoặc bất thường (thắng kiện, thu hồi nợ phải thu khó đòi đã xóa sổ) chỉ mang tính chất
tạm thời và gần như là không có giá trị để định giá. Các nghiên cứu khác cho thấy rằng
nếu lợi nhuận hiện hành bao gồm phần lớn các thành phần không thường xuyên thì lợi
nhuận hiện hành sẽ là chỉ báo kém cho lợi nhuận trong tương lai (Ali và Zarowin, 1992;
Ramakrishnan và Thomas, 1998). Herrmann và cộng sự (2000) kiểm định tính bền vững
và tính chính xác trong khả năng dự báo của các thành phần tạo nên lợi nhuận ở Mỹ và
Nhật Bản. Họ nhận thấy rằng tính chính xác trong khả năng dự báo của lợi nhuận ở Mỹ
và Nhật Bản gia tăng cùng với việc tách các thành phần tạo nên lợi nhuận.
Biến giả ý kiến kiểm toán điều chỉnh (OPINION) được đưa vào mô hình 1 cùng với
biến tương tác giữa nó với lợi nhuận trong năm nhận ý kiến (EARN x OPINION). Biến
giả này nhận giá trị 1 nếu kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không phải loại chấp
nhận toàn phần trong năm hiện tại, và nhận giá trị 0 nếu ngược lại. Khi kiểm định giả
thuyết H1, tác giả kỳ vọng tìm thấy mối tương quan ngược chiều giữa biến tương tác và
35
biến phụ thuộc, có nghĩa là 3 < 0 vì ý kiến kiểm toán điều chỉnh được cho là có khả
năng báo hiệu một tác động tiêu cực vào sự bền vững lợi nhuận của công ty.
Để kiểm định giả thuyết H2, tác giả phân loại ý kiến điều chỉnh thành hai loại: ý kiến
chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh và ý kiến ngoại trừ vì trong giai đoạn 2009 –
2012, không có bất kỳ công ty niêm yết trên sàn chứng khoán nhận ý kiến từ chối và ý
kiến không chấp nhận. Sau đó, tác giả dùng biến giả cho mỗi ý kiến điều chỉnh và kết
hợp chúng với biến lợi nhuận của năm nhận ý kiến. Khi kiểm định giả thuyết H2, tác giả
kỳ vọng rằng công ty nhận ý kiến kiểm toán ngoại trừ sẽ có lợi nhuận ít bền vững hơn
công ty nhận ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh (β5 < β4).
Tác giả thêm vào mỗi mô hình các biến kiểm soát cho tình hình hoạt động và đặc
điểm riêng của từng công ty, những biến kiểm soát này đã được chứng minh là có tác
động đến sự bền vững lợi nhuận trong các nghiên cứu trước đây. Lev (1983) cho thấy
môi trường kinh tế và đặc trưng của các công ty có mối quan hệ với khả năng duy trì lợi
nhuận lợi nhuận của công ty.
Đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp (LEVERAGE), được tính bằng tổng số nợ chia
cho tổng tài sản, được đưa vào mô hình vì các doanh nghiệp có đòn bẩy cao được cho là
sẽ có nhiều vấn đề tài chính và rủi ro phá sản cao (Ohlson, 1980), dẫn đến kết quả là lợi
nhuận ít bền vững hơn những công ty có đòn bẩy tài chính thấp. Nguyên nhân là do:
doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính để hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế, nhưng thực
tế cho thấy rằng các doanh nghiệp khi tăng sử dụng nợ đến một mức nào đó, doanh
nghiệp có thể rơi vào tình trạng không thể đáp ứng hoặc đáp ứng một cách khó khăn các
nghĩa vụ tài chính của mình đối với các chủ nợ (gọi là kiệt quệ tài chính). Nguy cơ kiệt
quệ tài chính càng gia tăng đối với các doanh nghiệp có các chi phí cố định cao, các tài
sản kém thanh khoản, hoặc doanh thu có độ nhạy cảm cao (doanh thu biến động mạnh
khi trạng thái nền kinh tế thay đổi). Doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng kiệt quệ tài
chính có thể phải gánh chịu các chi phí liên quan đến tình trạng này; ví dụ điển hình là
36
chi phí cho việc vay mượn thêm của doanh nghiệp sẽ gia tăng do chủ nợ tăng lãi suất
hoặc ràng buộc thêm nhiều điều kiện khắt khe trong hợp đồng để bù đắp rủi ro cho vay.
Trong một nỗ lực nhằm đáp ứng các nghĩa vụ nợ ngắn hạn, các nhà quản trị có thể bỏ lỡ
các dự án có khả năng sinh lợi trong dài hạn. Các nhân viên thường bị căng thẳng và suy
sụp tinh thần, dẫn đến bỏ việc. Các công nhân sản xuất có thể làm việc kém hiệu quả
(năng suất thấp) khi rơi vào trạng thái như thế, tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp.
Thêm vào đó, doanh nghiệp có thể bị mất khách hàng, nhà cung cấp lớn làm cho công
việc kinh doanh bị trì trệ. Do đó có thể thấy các doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính cao
phải đối mặt với nguy cơ kiệt quệ tài chính (nguyên nhân dẫn đến phá sản) cao hơn
những doanh nghiệp khác. Ta có thể thấy việc sử dụng đòn bẩy như con dao hai lưỡi.
Nếu doanh nghiệp hoạt động có lãi, đòn bẩy sẽ khuếch đại lãi lên; ngược lại, nếu doanh
nghiệp hoạt động bị lỗ thì đòn bẩy lại làm khoản lỗ trở nên lớn hơn nhiều khi không sử
dụng nó. Tóm lại, những doanh nghiệp có đòn bẩy cao thường có lợi nhuận ít bền vững
hơn những doanh nghiệp không sử dụng hoặc sử dụng với mức độ thấp.
Biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp (SIZE), đo bằng lograrit tự nhiên của tổng tài
sản, cũng được đưa vào mô hình vì các doanh nghiệp lớn có thể gặp rủi ro về biến động
lợi nhuận so với các công ty nhỏ hơn; do đó, lợi nhuận của các công ty này có khuynh
hướng ít bền vững so với các công ty quy mô nhỏ hơn (Lys và Watts, 1994; Shu, 2000).
Từ kết quả nghiên cứu của Atwood và cộng sự (2011), tác giả đưa vào mô hình biến
giả đại diện cho khoản lỗ năm hiện hành (LOSS) để chấp nhận sự biến động trong tính
bền vững của lợi nhuận giữa các công ty có lãi và bị lỗ. Nguyên nhân là lỗ thường cung
cấp ít thông tin về triển vọng tương lai của một doanh nghiệp hơn là lãi (Hayn, 1995) và
hệ số phản ứng lợi nhuận luôn thấp hơn cho nhóm công ty bị lỗ liên tục (Joos và Plesko,
2005). Hơn nữa, Li (2011) thấy rằng các nhà đầu tư không mong đợi sự bền vững trong
lợi nhuận của các công ty bị lỗ và xem đó chỉ là các tổn thất nhất thời.
37
Tác giả đưa biến kiểm soát công ty kiểm toán (BIG) vào mô hình vì công ty kiểm
toán thuộc nhóm Big4 được kỳ vọng sẽ cung cấp chất lượng kiểm toán cao hơn so với
những không ty không phải Big4 (Becker và cộng sự 1998; DeAngelo, 1981; Fan và
Wong, 2005). Hussainey (2009) thực hiện kiểm định sự ảnh hưởng của chất lượng kiểm
toán (đo lường bằng những báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Big4) lên khả năng dự
đoán lợi nhuận trong tương lai của các nhà đầu tư. Nghiên cứu phát hiện rằng nhà đầu
tư có thể dự đoán lợi nhuận tương lai tốt hơn khi báo cáo tài chính được kiểm toán bởi
các công ty trong nhóm Big4.
Tác giả đưa vào mô hình biến giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích (ABS_ACC) vì
Sloan (1996) tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa giá trị tuyệt đối của các khoản
dồn tích và sự bền vững của lợi nhuận. Cơ sở dồn tích là một trong các nguyên tắc kế
toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế toán doanh nghiệp.
Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả,
nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát
sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền.
Như vậy, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được lập trên cơ sở dồn tích. Theo cơ
sở này, lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp sẽ bao gồm “lợi nhuận bằng tiền” và “lợi
nhuận dồn tích”. Lợi nhuận bằng tiền được hình thành từ các khoản doanh thu và chi phí
mà doanh nghiệp đã thực thu, thực chi trong kỳ. Lợi nhuận dồn tích đến từ các khoản
doanh thu đủ điều kiện ghi nhận nhưng chưa thu được bằng tiền (doanh thu bán chịu
trong kỳ, doanh thu theo phần công việc đã hoàn thành) và các khoản chi phí không phải
thực sự chi bằng tiền trong kỳ (phân bổ chi phí trả trước, trích lập dự phòng phải trả,
khấu hao tài sản cố định...). Trong khi đó, báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập trên cơ sở
tiền, giao dịch chỉ được ghi nhận khi thực sự phát sinh bằng tiền (có số tiền thực thu,
thực chi) nên nhà quản lý không thể điều chỉnh thời điểm ghi nhận các giao dịch. Từ đó,
chênh lệch giữa lợi nhuận trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và dòng tiền trong
báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạo ra những biến kế toán được gọi là các khoản dồn tích. Hay
38
nói cách khác các khoản dồn tích là phần lợi nhuận kế toán không bằng tiền được trình
bày trong kết quả hoạt động kinh doanh nên giá trị các khoản dồn tích được tính bằng
cách lấy lợi nhuận sau thuế trừ cho lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
Biến giả cổ tức (DIV) cũng được đưa vào mô hình vì cổ tức được kỳ vọng là có thể
cung cấp tín hiệu về chất lượng lợi nhuận, nói cách khác, những công ty chia cổ tức được
kỳ vọng sẽ có chất lượng lợi nhuận cao hơn những công ty khác. Có hai lập luận ủng hộ
quan điểm này: đầu tiên, theo lý thuyết đại diện, cổ tức có vai trò trong việc tối thiểu hóa
xung đột giữa nhà quản lý và cổ đông. Cổ tức có thể làm giảm chi phí đại diện bằng cách
giúp thị trường vốn giám sát hoạt động của nhà quản lý. Có nghĩa là cổ đông có quyền
đối với tài sản của công ty nhưng rất khó ngăn chặn những người bên trong (nhà quản
lý) sử dụng dòng tiền sai mục đích, do đó việc chi trả đầy đủ cổ tức thường xuyên giúp
cổ đông phần nào ngăn chặn được hành vi “bóp méo” lợi nhuận của nhà quản lý. Thứ
hai, trong trường hợp nhà quản lý muốn “làm đẹp” báo cáo tài chính thì việc chi trả cổ
tức bằng tiền mặt cho cổ đông dựa trên lợi nhuận ảo (lợi nhuận không phản ánh đúng
hiệu quả hoạt động của công ty) rất khó khăn hoặc tốn kém vì họ cần dòng tiền thực sự
cho việc phân phối cổ tức này. Do đó, cổ tức được xem là phương tiện truyền thông về
hiệu quả hoạt động thực sự của công ty cho các cổ đông, và từ đó cung cấp tín hiệu về
chất lượng lợi nhuận. Để cung cấp bằng chứng về mối quan hệ giữa cổ tức và chất lượng
lợi nhuận, các nghiên cứu thực hiện kiểm định dựa trên một hoặc một số thuộc tính nhất
định đại diện cho chất lượng lợi nhuận. Hanlon và cộng sự (2007) thấy rằng nhà đầu tư
có thể dự đoán tốt hơn về lợi nhuận tương lai nếu các công ty thực hiện chia cổ tức (cổ
tức có khả năng dự báo). Chen và cộng sự (2007) sử dụng chất lượng dồn tích như chỉ
tiêu để đo lường rủi ro thông tin và kết luận công ty trả cổ tức sẽ có rủi ro thông tin thấp
hơn. Skinner và Soltes (2011) tìm thấy được mối quan hệ cùng chiều giữa việc chi trả cổ
tức và tính bền vững của lợi nhuận, có nghĩa là công ty chi trả cổ tức sẽ có lợi nhuận bền
vững hơn những công ty khác. Dựa vào phát hiện trong nghiên cứu của Skinner và Soltes
39
(2011), tác giả đưa biến giả cổ tức vào mô hình để làm biến kiểm soát cho tính bền vững
của lợi nhuận.
Tiếp theo là bảng tóm tắt tất cả các biến gồm mô tả biến, cách tính và kỳ vọng dấu
giữa biến giải thích và biến phụ thuộc.
Bảng 3.1: Bảng tóm tắt biến
Kỳ Mô tả
STT Mã biến Cách tính vọng
Tiếng Anh Tiếng Việt dấu
Biến phụ thuộc
Lợi nhuận của công Lợi nhuận từ hoạt ty i tại năm t+1 động kinh doanh/ 1 Earning (năm tiếp theo năm EANRit+1 Tổng tài sản trung nhận ý kiến kiểm bình toán)
Biến độc lập/ biến giải thích
Lợi nhuận của công Lợi nhuận từ hoạt
ty i tại năm t (năm động kinh doanh/ 1 Earning EARNit
+
nhận ý kiến kiểm Tổng tài sản trung
toán) bình
Nhận giá trị 1 nếu là Biến giả ý kiến ý kiến kiểm toán 2 OPINION Opinion kiểm toán điều
-
điều chỉnh, nhận giá chỉnh trị 0 nếu ngược lại
40
Mô tả Kỳ
STT Mã biến Cách tính vọng Tiếng Anh Tiếng Việt dấu
Biến tương tác giữa Bằng EARNit nếu là biến lợi nhuận và EARN x ý kiến kiểm toán 3
-
biến giả ý kiến OPINION điều chỉnh, bằng 0 kiểm toán điều nếu ngược lại chỉnh
Nhận giá trị 1 nếu là
Unqualified Biến giả ý kiến ý kiến chấp nhận
opinion with kiểm toán chấp toàn phần có đoạn 4 UEM
-
an emphasis nhận toàn phần có nhấn mạnh, nhận
of matter đoạn nhấn mạnh giá trị 0 nếu ngược
lại
Biến tương tác giữa Bằng EARNit nếu là
biến lợi nhuận và ý kiến kiểm toán
EARN x biến giả ý kiến chấp nhận toàn 5
-
UEM kiểm toán chấp phần có đoạn nhấn
nhận toàn phần với mạnh, bằng 0 nếu
đoạn nhấn mạnh ngược lại
Nhận giá trị 1 nếu là Qualified Biến giả ý kiến ý kiến kiểm toán 6 QUALIFY audit
-
kiểm toán ngoại trừ ngoại trừ, nhận giá opinion trị 0 nếu ngược lại
41
Mô tả Kỳ
STT Mã biến Cách tính vọng Tiếng Anh Tiếng Việt dấu
Biến tương tác giữa Bằng EARNit nếu là
EARN x biến lợi nhuận và ý kiến kiểm toán 7
-
QUALIFY biến giả ý kiến ngoại trừ, bằng 0
kiểm toán ngoại trừ
nếu ngược lại Tổng nợ/ Tổng tài LEVERAGE Leverage Đòn bẩy tài chính 8
-
sản Logarit tự nhiên của SIZE Size Quy mô công ty 9
-
tổng tài sản Nhận giá trị 1 nếu
lợi nhuận ròng
Presence of Biến giả sự hiện trong năm nhận ý 10 LOSS
-
losses diện khoản lỗ kiến của công ty <
0, nhận giá trị 0 nếu
ngược lại Nhận giá trị 1 nếu
công ty kiểm toán Biến giả công ty 11 BIG Big4
+
trong nhóm Big4, kiểm toán
nhận giá trị 0 nếu
ngược lại Lợi nhuận ròng-
Absolute Dòng tiền từ hoạt Giá trị tuyệt đối của 12 ABS_ACC value of
-
động kinh doanh / các khoản dồn tích accruals Tổng tài sản trung
bình
42
Mô tả Kỳ
STT Mã biến Cách tính vọng Tiếng Anh Tiếng Việt dấu
Nhận giá trị 1 nếu
công ty có chia cổ
13 DIV Dividend Biến giả cổ tức tức trong năm nhận
+
ý kiến, nhận giá trị
0 nếu ngược lại
3.2 Lựa chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu
3.2.1 Lựa chọn mẫu
+ Điều kiện chọn mẫu:
Các công ty được lựa chọn là các công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, thương mại hoặc dịch vụ; không phải công ty chứng khoán hoặc các định chế tài
chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ tín
dụng, tiết kiệm vì các công ty này hoạt động dưới sự giám sát nghiêm ngặt của chính
phủ, phải tuân theo luật, quy định đặc thù và không áp dụng cùng chuẩn mực kế toán với
các công ty phi tài chính. Điều kiện chung để chọn các công ty phi tài chính cho mẫu
nghiên cứu là:
Được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE),
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) từ trước 2009.
Có sẵn thông tin về báo cáo kiểm toán đính kèm với báo cáo tài chính trong
khoảng thời gian nghiên cứu từ 2009 - 2013 nhằm đảm bảo tất cả các biến có
cùng số quan sát.
43
+ Quy trình chọn mẫu:
Để thu được mẫu cuối cùng gồm 300 công ty được niêm yết trên cả hai sàn giao dịch
chứng khoán, quy trình chọn mẫu được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Thông qua danh sách các công ty niêm yết trên website của Sở giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (http://www.hsx.vn), Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội (http://www.hnx.vn), tiến hành liệt kê tất cả các công ty (mã chứng
khoán) được niêm yết từ năm 2009 trở về trước và còn giao dịch đến năm 2013.
Tại thời điểm tác giả tiến hành chọn mẫu (ngày 18/02/2015), có 394 công ty niêm
yết trên hai sàn thỏa điền kiện (180 trên HOSE và 214 trên HNX).
Bước 2: Kiểm tra nhóm ngành của các công ty này để chọn ra các công ty phi tài
chính. Sau khi loại ra 18 công ty tài chính, mẫu còn 376 công ty (173 trên HOSE
và 203 trên HNX).
Bước 3: Kiểm tra các công ty có đầy đủ báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính
đính kèm qua các năm hay không. Sau đó, tiến hành loại bỏ tất cả công ty không
có đủ dữ liệu cần thiết trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2013. Mẫu cuối cùng
còn lại 300 công ty trên hai sàn (165 trên HOSE và 135 trên HNX)
3.2.2 Thu thập dữ liệu
Tác giả sử dụng hai nguồn để tập hợp dữ liệu:
a. Báo cáo kiểm toán: ý kiến kiểm toán và tên công ty kiểm toán (để xem xét công ty
kiểm toán có thuộc nhóm Big4 hay không) được thu thập thủ công từ 1,200 báo cáo kiểm
toán tải về của 300 công ty trong mẫu từ 2009 – 2012. Dữ liệu về ý kiến kiểm toán và
công ty kiểm toán chỉ được lấy đến cuối năm 2012 thay vì đến cuối năm 2013 vì dữ liệu
về lợi nhuận của năm tiếp theo năm nhận ý kiến (tức là năm 2014) vẫn chưa được công
bố đầy đủ tại thời điểm tác giả thực hiện nghiên cứu.
44
b. Website www.vietstock.vn (trang Tin nhanh và Dữ liệu tài chính chứng khoán Việt
Nam): số liệu của các khoản mục trong báo cáo tài chính từ năm 2009 – 2013 được thu
thập từ website để tính toán cho các biến như sau:
+ Biến lợi nhuận năm nhận ý kiến kiểm toán và năm tiếp theo (EARN):
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (Mã số 30) trên Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh
Tổng cộng tài sản đầu kỳ và cuối kỳ (Mã số 270) trên Bảng cân đối kế toán
+ Biến đòn bẩy tài chính (LEVERAGE):
Nợ phải trả (Mã số 300) trên Bảng cân đối kế toán
Tổng cộng tài sản (Mã số 270) trên Bảng cân đối kế toán
+ Biến quy mô công ty (SIZE):
Tổng cộng tài sản (Mã số 270) trên Bảng cân đối kế toán
+ Biến giả đại diện cho lỗ (LOSS):
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp (Mã số 60) trên Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh
+ Biến giá trị tuyệt đối của các khoản dồn tích (ABS_ACC):
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp (Mã số 60) trên Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (Mã số 20) trên Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
Tổng cộng tài sản đầu kỳ và cuối kỳ (Mã số 270) trên Bảng cân đối kế toán
+ Biến giả cổ tức (DIV):
Cổ tức, lợi nhuận trả cho chủ sỡ hữu (Mã số 36) trên Báo cáo lưu chuyển tiền
tệ.
45
3.3 Phương pháp định lượng
Sau khi thu thập dữ liệu và tính toán giá trị cho các biến độc lập trong phương trình
hồi quy, tác giả đã sử dụng phần mềm Eview 8.1 và Excel 2010 làm công cụ phân tích
thống kê mô tả, phân tích phương sai, phân tích tương quan, phân tích hồi quy theo trình
tự:
Bước 1: Phân tích thống kê mô tả để thấy được giá trị trung bình của các biến khác
nhau như thế nào giữa các loại ý kiến kiểm toán. Phân tích phương sai (một yếu tố) ý
kiến kiểm toán để tìm sự khác biệt trong khả năng nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh của
các công ty niêm yết giữa hai sàn chứng khoán HOSE và HNX.
Bước 2: Tính hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc - biến độc lập và giữa các biến
độc lập với nhau để có cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa các biến, đồng thời để
phát hiện mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến hay không.
Bước 3: Phân tích kết quả hồi quy từ hai mô hình (1) và (2). Hai mô hình này được
dùng để kiểm định giả thuyết H1 và H2.
46
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Thống kê mô tả
Bảng 4.1: Số lượng ý kiến kiểm toán trong giai đoạn nghiên cứu
Ý kiến kiểm toán điều Tổng Năm Ý kiến chấp nhận toàn phần chỉnh cộng
228 (76%) 72 (24%) 300 2009
230 (77%) 70 (23%) 300 2010
220 (73%) 80 (27%) 300 2011
223 (74%) 77 (26%) 300 2012
Tổng cộng 901 (75%) 299 (25%) 1,200
Nguồn: tác giả tổng hợp
Bảng 4.2: Số lượng ý kiến kiểm toán điều chỉnh trong giai đoạn nghiên cứu
Ý kiến kiểm toán chấp nhận Ý kiến kiểm toán Tổng Năm toàn phần có đoạn nhấn mạnh ngoại trừ cộng
31 (43%) 41 (57%) 72 2009
38 (54%) 32 (46%) 70 2010
40 (50%) 40 (50%) 80 2011
41 (53%) 36 (47%) 77 2012
Tổng cộng 150 (50%) 149 (50%) 299
Nguồn: tác giả tổng hợp
Bảng 4.1 và 4.2 tổng hợp số lượng các loại ý kiến kiểm toán qua các năm. Trong giai
đoạn nghiên cứu từ 2009 – 2012, mỗi năm chỉ có khoảng 23%-27% các công ty niêm
47
yết nhận loại ý kiến kiểm toán điều chỉnh (hay không phải dạng chấp nhận toàn phần).
Năm 2011 là năm mà các công ty nhận nhiều ý kiến kiểm toán điều chỉnh nhất, trong khi
đó năm 2010 là năm có số ý kiến kiểm toán điều chỉnh thấp nhất. Trong đó chỉ có hai
loại ý kiến điều chỉnh là ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh và ý kiến ngoại
trừ, mỗi loại cũng xấp xỉ khoảng 50% qua các năm. Như vậy, trong giai đoạn này, không
có công ty niêm yết nào nhận loại ý kiến từ chối và không chấp nhận.
Bảng 4.3: Bảng phân tích phương sai ý kiến kiểm toán giữa 2 sàn HOSE và HNX
Count
660 540 1200 Sum Mean Variance 168 0.254545 0.190040 131 0.242593 0.184082 299
df MS F P-value F crit
1 0.042433 0.226477 0.634235 3.849233
SS 0.042433 224.4567 1198 0.187360 224.4992 1199
Anova: Single Factor SUMMARY Groups HOSE (165 công ty) HNX (135 công ty) Total ANOVA Source of Variation Between Groups Within Groups Total Nguồn: tổng hợp từ Excel 2010
Bảng 4.3 cho thấy số lượng ý kiến kiểm toán điều chỉnh được đưa ra cho các công ty
niêm yết trên hai sàn HOSE và HNX trong giai đoạn 2009 – 2012 lần lượt là 168 và 131.
Giá trị Mean của ý kiến kiểm toán theo từng sàn là 0.2545 và 0.2426 cho thấy tỷ trọng ý
kiến kiểm toán điều chỉnh xấp xỉ bằng nhau giữa hai sàn trong giai đoạn nghiên cứu.
Ngoài ra, khi phân tích phương sai (ANOVA), kết quả cho ra giá trị p-value bằng 0.6342
> mức ý nghĩa 10%, điều này có nghĩa là không có sự khác biệt trong khả năng nhận ý
kiến kiểm toán điều chỉnh của các công ty niêm yết giữa hai sàn chứng khoán HOSE và
HNX.
48
Bảng 4.4: Bảng thống kê mô tả các biến của dạng ý kiến chấp nhận toàn phần
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Obs.
EARNT1 0.080844 0.060000 0.540000 -0.150000 0.087667 901
EARN 0.090744 0.070000 0.670000 -0.280000 0.089300 901
LEVERAGE 0.491465 0.520000 0.910000 0.000000 0.216014 901
SIZE 26.880300 27.000000 32.000000 23.400000 1.462222 901
BIG 0.043285 0.000000 1.000000 0.000000 0.203611 901
LOSS 0.176471 0.000000 1.000000 0.000000 0.381432 901
ABS_ACC 0.103174 0.080000 1.010000 0.000000 0.099942 901
DIV 0.486127 0.000000 1.000000 0.000000 0.500085 901
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
Bảng 4.5: Bảng thống kê mô tả các biến của dạng ý kiến kiểm toán điều chỉnh
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Obs.
EARNT1 0.030702 0.030000 0.360000 -0.430000 0.074702 299
EARN 0.055318 0.040000 0.470000 -0.250000 0.076943 299
LEVERAGE 0.544716 0.580000 0.870000 0.030000 0.191141 299
SIZE 27.291710 27.000000 31.090000 23.420000 1.467299 299
BIG 0.107023 0.000000 1.000000 0.000000 0.309661 299
LOSS 0.280936 0.000000 1.000000 0.000000 0.450210 299
ABS_ACC 0.099565 0.070000 0.790000 0.000000 0.095201 299
DIV 0.538462 1.000000 1.000000 0.000000 0.499354 299
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
Từ biến EARNT1 và biến EARN bảng 4.4 và 4.5 ta thấy rằng các công ty nhận ý
kiến kiểm toán điều chỉnh có lợi nhuận trung bình năm nhận ý kiến (0.055318) và năm
tiếp theo (0.030702) thấp hơn đáng kể so với những công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn
49
phần (lợi nhuận trung bình năm nhận ý kiến và năm tiếp theo của nhóm công ty này lần
lượt là 0.090744 và 0.080844).
Từ biến SIZE và LEVERAGE, ta thấy các công ty nhận ý kiến điều chỉnh có xu
hướng lớn hơn, sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn so với các công ty nhận ý kiến chấp
nhận toàn phần. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Anandarajan và cộng sự (2001)
khi nghiên cứu cho thấy rằng các khách hàng có quy mô lớn và đang trong tình trạng
khủng hoảng tài chính nghiêm trọng có xác suất nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh cao
hơn. Ngoài ra, các công ty sử dụng nhiều đòn bẩy tài chính có khả năng phải đối mặt với
những vấn đề tài chính và rủi ro phá sản cao (Ohlson, 1980), dẫn đến báo cáo tài chính
sẽ có nhiều vấn đề hơn và khả năng nhận một ý kiến kiểm toán điều chỉnh (đặc biệt là
về vấn đề hoạt động liên tục) cũng cao hơn.
Giá trị trung bình biến BIG tăng lên từ 4,33% (bảng 4.4) đến 10.7% (bảng 4.5) giữa
hai loại ý kiến cho thấy công ty kiểm toán thuộc nhóm Big4 sẵn sàng đưa ra ý kiến kiểm
toán điều chỉnh đối với báo cáo tài chính của doanh nghiệp hơn những công ty kiểm toán
khác. Điều này hoàn toàn giống với kỳ vọng là các công ty Big4 sẽ cung cấp chất lượng
kiểm toán cao hơn (Becker và cộng sự 1998; DeAngelo, 1981; Fan và Wong, 2005).
Từ biến LOSS, ta có thể thấy tỷ trọng công ty bị lỗ nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh
(28,09%) cao hơn tỷ trọng công ty bị lỗ mà nhận ý kiến chấp nhận toàn phần (17,65%).
Điều này có thể giải thích là các công ty bị thua lỗ là những công ty đang gặp vấn đề về
hoạt động hoặc tài chính. Những công ty này có xu hướng dùng nhiều thủ thuật “làm
đẹp” báo cáo tài chính nhằm che giấu tình trạng thua lỗ của mình. Nếu kiểm toán viên
phát hiện thì khả năng nhận ý kiến điều chỉnh sẽ cao hơn.
Biến ABS_ACC và DIV thể hiện một kết quả ngược với thông thường là các công ty
nhận ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần có giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích cao
hơn và chi trả cổ tức thấp hơn so với các công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh nhưng
sự chênh lệch này không đáng kể.
50
Tiếp theo là phần thống kê mô tả chi tiết hơn cho hai loại ý kiến kiểm toán điều chỉnh:
Bảng 4.6: Bảng thống kê mô tả các biến của loại ý kiến chấp nhận toàn phần có
đoạn nhấn mạnh
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Obs.
EARNT1 0.032733 0.030000 0.360000 -0.250000 0.071022 150
EARN 0.058000 0.040000 0.420000 -0.110000 0.073466 150
LEVERAGE 0.570000 0.610000 0.860000 0.030000 0.181308 150
SIZE 27.568130 27.220000 31.090000 23.880000 1.429639 150
BIG 0.086667 0.000000 1.000000 0.000000 0.282289 150
LOSS 0.386667 0.000000 1.000000 0.000000 0.488618 150
ABS_ACC 0.092000 0.075000 0.410000 0.000000 0.074932 150
DIV 0.513333 1.000000 1.000000 0.000000 0.501497 150
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
Bảng 4.7: Bảng thống kê mô tả các biến của loại ý kiến kiểm toán ngoại trừ
Mean Median Maximum Minimum Std. Dev. Obs.
EARNT1 0.028658 0.030000 0.190000 -0.430000 0.078419 149
EARN 0.052617 0.040000 0.470000 -0.250000 0.080450 149
LEVERAGE 0.519262 0.540000 0.870000 0.030000 0.197912 149
SIZE 27.013420 27.000000 30.940000 23.420000 1.456689 149
BIG 0.127517 0.000000 1.000000 0.000000 0.334676 149
LOSS 0.174497 0.000000 1.000000 0.000000 0.380816 149
ABS_ACC 0.107181 0.070000 0.790000 0.000000 0.111713 149
DIV 0.563758 1.000000 1.000000 0.000000 0.497591 149
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
51
Công ty nhận ý kiến kiểm toán ngoại trừ được cho là phải đối mặt với những vấn đề
tài chính nghiêm trọng hơn công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh
vì báo cáo tài chính còn chứa đựng sai sót có ảnh hưởng trọng yếu hoặc có rủi ro có sai
sót trọng yếu nhưng không thể phát hiện do phạm vi kiểm toán bị giới hạn.
Bảng 4.6 và 4.7 cho thấy công ty nhận ý kiến ngoại trừ có lợi nhuận trung bình năm
nhận ý kiến và năm tiếp theo thấp hơn. Ngoài ra, những công ty này có xu hướng điều
chỉnh lợi nhuận nhiều hơn khi thống kê cho thấy giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích cao
hơn so với công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh.
Tuy nhiên, kết quả thống kê lại chỉ ra rằng công ty nhận ý kiến ngoại trừ lại có quy
mô nhỏ, sử dụng đòn bẩy tài chính ít hơn và khả năng bị lỗ thấp hơn công ty nhận ý kiến
chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh. Điều này là trái với kỳ vọng nhưng có thể được
giải thích như sau: biến SIZE không có chênh lệch đáng kể nên ta có thể bỏ qua chênh
lệch này. Biến LEVERAGE và LOSS đều là các biến đại diện cho tình hình tài chính
của doanh nghiệp. Giá trị các biến cao cho thấy doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình
hình tài chính khó khăn, ví dụ như công ty bị lỗ trong tình trạng nợ nhiều. Đòn bẩy tài
chính có khả năng khuếch đại các khoản lỗ. Đây là dấu hiệu của vấn đề hoạt động liên
tục, và vấn đề này thường được phản ánh trong loại ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn
phần có đoạn nhấn mạnh hơn là ý kiến ngoại trừ.
Cuối cùng, các công ty thuộc nhóm Big4 cho thấy khả năng đảm bảo chất lượng cuộc
kiểm toán thông qua sự gia tăng trong xác suất đưa ra các loại ý kiến kiểm toán: xác suất
đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần của Big4 là 4,33% (bảng 4.4), tăng lên 8,67% (bảng
4.6) đối với ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh và cao nhất là 12,75% (bảng
4.7) với ý kiến ngoại trừ.
4.2 Ma trận hệ số tương quan giữa các biến
Bảng 4.8 thể hiện ma trận hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc với biến độc lập
cũng như giữa các biến độc lập với nhau. Lợi nhuận năm tiếp theo có mối tương quan
52
cùng chiều đáng kể so với lợi nhuận năm nhận ý kiến kiểm toán (0.779). Ngoài ra, lợi
nhuận năm tiếp theo cũng có sự tương quan cùng chiều nhưng tương đối thấp với biến
công ty kiểm toán Big4, giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích và việc chia cổ tức. Ngược
lại, lợi nhuận năm tiếp theo năm nhận ý kiến có mối tương quan ngược chiều với các
loại ý kiến kiểm toán điều chỉnh, đòn bẩy tài chính, quy mô công ty và sự hiện diện của
khoản lỗ. Mối quan hệ tương tự cũng được tìm thấy giữa biến lợi nhuận năm nhận ý kiến
kiểm toán và các biến độc lập còn lại.
Biến ý kiến kiểm toán điều chỉnh tương quan dương với hầu hết các biến độc lập (đòn
bẩy tài chính, quy mô công ty, sự hiện diện của khoản lỗ, công ty kiểm toán Big4, việc
chia cổ tức) và tương quan âm với giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích.
Như vậy ta có thể thấy hệ số tương quan giữa biến lợi nhuận năm tiếp theo và năm
nhận ý kiến kiểm toán là cao nhất với giá trị 0.779. Các biến độc lập còn lại đều có hệ
số tương quan < 0.8 nên tính đa cộng tuyến không phải là vấn đề của bài nghiên cứu.
53
EARNT1 EARN OPINION UEM
QUALIFY LEVERAGE SIZE
LOSS
BIG
ABS_ACC DIV
EARNT1
1.000
EARN
0.779
1.000
OPINION
-0.248
-0.175
1.000
UEM
-0.154
-0.103
0.656
1.000
QUALIFY
-0.171
-0.126
0.654
-0.142
1.000
LEVERAGE
-0.350
-0.400
0.109
0.117
1.000
0.026
SIZE
-0.013
0.000
0.121
0.150
0.309
1.000
0.008
LOSS
-0.256
-0.356
0.117
0.044
0.035
-0.031
1.000
0.109
BIG
0.057
0.040
0.112
0.173
-0.026
0.117
0.520
-0.038
1.000
ABS_ACC
0.022
0.066
-0.016
-0.039
0.011
-0.092
-0.015
-0.096
1.000
0.019
DIV
0.130
0.150
0.045
0.011
0.048
0.221
-0.130
0.214
-0.018 1.000
0.049
Bảng 4.8: Ma trận hệ số tương quan
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
54
4.3 Phân tích hồi quy
Bảng 4.9 - Kết quả hồi quy mô hình 1
Std. Error t-Statistic
Prob. 0.0000 0.0011 0.0013 0.0700 0.6881 0.3516 0.0530 0.2242 0.2111 0.3584 0.068458 0.087190 -3.015035 -2.972617 -2.999056 1.882029 Dependent Variable: EARNT1 Method: Panel Least Squares Sample: 2009 2012 Periods included: 4 Cross-sections included: 300 Total panel (balanced) observations: 1200 Coefficient Variable 0.769932(***) 0.022796 33.77420 EARN -0.015255(***) 0.004655 -3.276836 OPINION -0.147028(***) 0.045723 -3.215643 EARN*OPINION 0.008575 -1.813525 -0.015551(*) LEVERAGE 0.001315 -0.401515 -0.000528 SIZE 0.007175 0.931870 0.006686 LOSS 0.004554 1.937106 0.008822(*) BIG 0.015797 -1.216108 -0.019211 ABS_ACC 0.003237 1.251134 0.004050 DIV 0.033891 0.918782 0.031139 C Mean dependent var 0.628203 R-squared S.D. dependent var Adjusted R-squared 0.625391 Akaike info criterion 0.053365 S.E. of regression Schwarz criterion 3.388876 Sum squared resid Hannan-Quinn criter. 1819.021 Log likelihood Durbin-Watson stat 223.4076 F-statistic 0.000000 Prob(F-statistic) (***): có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%
(**): có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%
(*): có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
Bảng 4.9 trình bày về kết quả hồi quy của mô hình 1 với mục đích kiểm định giả
thuyết nghiên cứu H1. Bảng kết quả hồi quy cho thấy đại lượng R2 (hệ số xác định được
55
sử dụng để đo mức độ phù hợp của hàm hồi quy) bằng 0.6282, kết quả này có nghĩa là
mô hình hồi quy giải thích được 62,82% biến động của biến EARNT1 (lợi nhuận năm
tiếp theo). Như vậy mức độ phù hợp của hàm hồi quy mô hình 1 là khá cao. Ngoài ra,
giá trị thống kê Durbin-Watson trong Bảng 4.9 là 1.882029, giá trị này nằm trong khoảng
từ 1 đến 3, do đó mô hình không có hiện tượng tự tương quan.
Trong mô hình 1, ta thấy hệ số hồi quy của lợi nhuận năm nhận ý kiến với lợi nhuận
năm tiếp theo ( là 0.7699 và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% (p-value bằng 0),
cho thấy lợi nhuận năm nhận ý kiến có thể giải thích đến 76,99% cho sự thay đổi của lợi
nhuận trong tương lai. Giá trị của hệ số hồi quy này gần bằng 1 có nghĩa là lợi nhuận của
các công ty trong mẫu có độ bền vững tương đối cao.
Hệ số hồi quy của ý kiến kiểm toán điều chỉnh và lợi nhuận năm tiếp theo ( âm ở
mức ý nghĩa 1% cho thấy lợi nhuận trung bình năm tiếp theo của các công ty nhận ý kiến
kiểm toán điều chỉnh thấp hơn các công ty nhận ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần.
Hệ số hồi quy thể hiện sự khác biệt trong mối tương quan giữa lợi nhuận năm nhận
ý kiến và năm tiếp theo của các công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh so với công ty
nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Hệ số âm (-0.1470) và có ý nghĩa thống kê ở mức
1% được hiểu là: mối tương quan giữa lợi nhuận năm nhận ý kiến và năm tiếp theo của
công ty nhận ý kiến điều chỉnh yếu hơn so với công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần
14,7%. Điều đó cho thấy các công ty nhận ý kiến kiểm toán điều chỉnh có sự bền vững
trong lợi nhuận thấp hơn công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Như vậy giả thuyết
nghiên cứu H1 được chấp nhận. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả được tìm ra
trong nghiên cứu của Vichitsarawong và Pornupatham (2015) tại thị trường chứng khoán
Thái Lan từ năm 2004-2008.
56
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy mô hình 2
Prob. 0.0000 0.0099 0.0131 0.0448 0.0056 0.0679 0.7071 0.3604 0.0542 0.2220 0.2153 0.3713 0.068458 0.087190 -3.011874 -2.960973 -2.992700 1.881856
Dependent Variable: EARNT1 Method: Panel Least Squares Sample: 2009 2012 Periods included: 4 Cross-sections included: 300 Total panel (balanced) observations: 1200 Std. Error Coefficient Variable t-Statistic 0.022820 33.72981 0.769708(***) EARN -2.584656 0.006231 -0.016105(***) UEM -2.486123 0.005897 -0.014661(**) QUALIFY -2.008923 0.063525 -0.127617(**) EARN*UEM -2.775366 0.058942 -0.163585(***) EARN*QUALIFY -1.827121 0.008595 -0.015704(*) LEVERAGE 0.001318 -0.000495 SIZE -0.375859 0.007189 0.914951 0.006578 LOSS 0.004587 1.927240 0.008839(*) BIG 0.015820 -0.019330 ABS_ACC -1.221852 0.003248 1.239803 0.004027 DIV 0.033973 0.894433 0.030386 C Mean dependent var 0.628267 R-squared S.D. dependent var Adjusted R-squared 0.624825 Akaike info criterion 0.053405 S.E. of regression Schwarz criterion 3.388292 Sum squared resid Hannan-Quinn criter. 1819.124 Log likelihood Durbin-Watson stat 182.5309 F-statistic 0.000000 Prob(F-statistic) (***): có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%
(**): có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%
(*): có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%
Nguồn: tổng hợp từ Eview 8.1
Để kiểm định giả thuyết nghiên cứu H2, mô hình 2 được sử dụng. Mô hình 2 là sự
mở rộng của mô hình 1 khi chia biến ý kiến kiểm toán điều chỉnh (OPINION) trong mô
57
hình 1 thành hai loại ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh (UEM) và ý kiến
ngoại trừ (QUALIFY). Tương tự như kết quả ở mô hình 1, R2 của mô hình 2 là 0.6282
cho thấy mức độ phù hợp của hàm hồi quy là khá cao. Giá trị thống kê Durbin-Watson
của mô hình 2 là 1.881856, giá trị này nằm trong khoảng từ 1 đến 3, do đó mô hình 2
cũng không có hiện tượng tự tương quan.
Hệ số hồi quy thể hiện sự khác biệt trong mối tương quan giữa lợi nhuận năm nhận
ý kiến và năm tiếp theo của các công ty nhận ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần có
đoạn nhấn mạnh so với công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Hệ số âm (-0.1276)
và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5% được hiểu là: mức độ tương quan giữa lợi
nhuận năm nhận ý kiến và năm tiếp theo của công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần
với đoạn nhấn mạnh thấp hơn so với công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần 12,42%.
Tương tự, -0.1635 và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% cho thấy mối tương
quan giữa lợi nhuận năm nhận ý kiến và năm tiếp theo của công ty nhận ý kiến ngoại trừ
sẽ yếu hơn 16.35% so với công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Vì vậy, theo tính
chất bắc cầu, ta thấy công ty nhận ý kiến ngoại trừ sẽ có mức độ tương quan trong lợi
nhuận giữa hai năm thấp hơn so với công ty chỉ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần có
đoạn nhấn mạnh. < có ý nghĩa thống kê, do đó, ta chấp nhận giả thuyết nghiên cứu
H2. Điều đó có nghĩa là lợi nhuận của công ty nhận ý kiến ngoại trừ ít bền vững hơn lợi
nhuận của công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh. Kết quả này
giống như kỳ vọng ban đầu khi ta thấy rằng các điều kiện để kiểm toán viên đưa ra ý
kiến ngoại trừ có tính chất nghiêm trọng hơn những tình huống cần được chú ý thông
qua một đoạn nhấn mạnh, do đó nó có thể tạo ra tác động gây nhiễu làm cho lợi nhuận
ít bền vững hơn.
Đối với các biến kiểm soát, cả hai mô hình đều cho kết quả giống nhau. Ngoài biến
đòn bẩy tài chính và công ty kiểm toán Big4, các biến về quy mô công ty, sự hiện diện
58
của lỗ, giá trị tuyệt đối của khoản dồn tích và việc chia cổ tức đều không có ý nghĩa
thống kê.
Hệ số hồi quy của biến công ty kiểm toán Big4 dương và có ý nghĩa thống kê ở mức
10% cho thấy lợi nhuận trung bình năm tiếp theo của các công ty được kiểm toán bởi
Big4 sẽ cao hơn so với những công ty không được kiểm toán bởi Big4.
Hệ số hồi quy của biến đòn bẩy tài chính âm có ý nghĩa thống kê ở mức 10% được
hiểu là lợi nhuận năm sau của công ty sẽ giảm nếu công ty tăng sử dụng đòn bẩy tài
chính ở năm trước đó. Như vậy, tính bền vững của lợi nhuận có mối quan hệ ngược chiều
với độ lớn của đòn bẩy tài chính. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Ohlson (1980)
khi nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp có đòn bẩy cao sẽ đối mặt với nhiều vấn đề
tài chính và rủi ro phá sản cao dẫn đến kết quả là lợi nhuận ít bền vững hơn những công
ty có đòn bẩy tài chính thấp.
59
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1. Kết luận
Trong bài nghiên cứu này, tác giả phân tích mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán điều
chỉnh và tính bền vững của lợi nhuận, dựa trên dữ liệu được thu thập được từ 300 công
ty phi tài chính được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong khoảng thời
gian từ năm 2009 – 2013, với phương pháp ước lượng các hệ số hồi quy được sử dụng
là phương pháp bình phương bé nhất (OLS).
Với các kết quả thực nghiệm thu được, bài nghiên cứu đã trả lời các câu hỏi nghiên
cứu đã đặt ra trước đó là tính bền vững trong lợi nhuận có khác nhau giữa các công ty
nhận các loại ý kiến kiểm toán khác nhau hay không. Nhìn chung, kết quả cho thấy công
ty có tính bền vững trong lợi nhuận thấp có thể được phản ánh thông qua ý kiến kiểm
toán điều chỉnh. Thứ nhất, chúng ta thấy rằng mức độ tương quan giữa lợi nhuận năm
nhận ý kiến và năm tiếp theo của công ty nhận ý kiến điều chỉnh sẽ thấp hơn so với công
ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần. Có nghĩa là các công ty nhận ý kiến kiểm toán điều
chỉnh sẽ có lợi nhuận năm sau giảm hoặc nếu có tăng thì tăng rất ít so với năm nhận ý
kiến, trong khi đó lợi nhuận năm sau của các công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần
lại có xu hướng tăng đều đặn. Điều đó cho thấy các công ty nhận ý kiến điều chỉnh có
lợi nhuận ít bền vững hơn. Ngoài ra, các loại ý kiến điều chỉnh cũng cung cấp những tín
hiệu cảnh báo khác nhau về mức độ bền vững của lợi nhuận. Công ty nhận ý kiến kiểm
toán ngoại trừ có lợi nhuận ít bền vững hơn công ty chỉ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần
có đoạn nhấn mạnh.
Từ những bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán điều chỉnh
và tính bền vững của lợi nhuận, ta thấy ý kiến kiểm toán điều chỉnh có thể phát ra những
tín hiệu cảnh báo cho nhà đầu tư về sự thay đổi của lợi nhuận trong tương lai. Như vậy,
ý kiến kiểm toán điều chỉnh cho thấy vai trò trong việc cung cấp những thông tin hữu
ích về một thuộc tính đại điện cho chất lượng lợi nhuận đến những người sử dụng báo
60
cáo tài chính. Phát hiện của bài nghiên cứu góp phần giải quyết những vấn đề đang được
quan tâm hiện nay là giá trị của báo cáo kiểm toán đối với các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ là một gợi ý đối với nhà đầu tư khi đứng
trước các quyết định kinh tế. Hiểu được các loại ý kiến trong báo cáo kiểm toán sẽ giúp
nhà đầu tư đánh giá được chất lượng lợi nhuận của các công ty được kiểm toán và từ đó
sẽ đưa ra quyết định kinh tế hiệu quả.
5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
5.2.1. Hạn chế của bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu đã có đóng góp trong việc đưa ra các bằng chứng thực nghiệm về giá
trị của báo cáo kiểm toán đối với người sử dụng, đặc biệt là với các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, bài nghiên cứu vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế
như sau:
- Do hạn chế về dữ liệu nên tác giả chỉ có thể chọn mẫu được 300 công ty phi tài
chính có đầy đủ báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính trong 394 doanh nghiệp được
niêm yết từ năm 2009 và còn giao dịch đến năm 2013 trên cả hai sàn chứng khoán HOSE
và HNX.
- Do đặc thù hệ thống tài chính Việt Nam, thông tin công bố trên thị trường chứng
khoán của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán chưa thật sự minh
bạch do đó độ tin cậy của dữ liệu đầu vào chưa cao so với các nước phát triển.
- Giai đoạn nghiên cứu từ 2009 - 2013 là khoảng thời gian không dài. Nguyên nhân
là do hạn chế về thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu mà việc thu thập dữ liệu một cách
thủ công từ các báo cáo kiểm toán sẽ cần rất nhiều thời gian.
- Trong giai đoạn nghiên cứu từ 2009 - 2013, không có công ty niêm yết nào trên thị
trường chứng khoán Việt Nam nhận loại ý kiến từ chối và không chấp nhận, do đó tác
giả không có cơ hội nghiên cứu mối quan hệ của hai loại ý kiến này đối với sự bền vững
61
của lợi nhuận, từ đó có thể cung cấp bằng chứng chắc chắn hơn về khả năng phản ánh
thông tin chất lượng lợi nhuận của tất cả các loại ý kiến kiểm toán điều chỉnh.
- Trong nghiên cứu của mình, tác giả chỉ sử dụng một thuộc tính để phản ánh chất
lượng lợi nhuận là tính bền vững của lợi nhuận. Trong khi đó, chất lượng lợi nhuận còn
được đại diện bởi các thuộc tính khác như chất lượng dồn tích, khả năng dự báo, tính ổn
định, khả năng phản ánh xác thực giá trị, tính kịp thời và tính bảo thủ.
5.2.2. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
Trong tương lai, để cho ra kết quả khách quan và toàn diện hơn về mối quan hệ giữa
ý kiến kiểm toán điều chỉnh và sự bền vững của lợi nhuận, các nghiên cứu tiếp theo có
thể mở rộng nghiên cứu với khoảng thời gian dài hơn, đồng thời kiểm tra tính vững của
kết quả thông qua dữ liệu quá khứ.
Ngoài ra, nghiên cứu này cũng có thể được mở rộng bằng việc phân tích nội dung
của các loại ý kiến kiểm toán điều chỉnh như trong Vichitsarawong và Pornupatham
(2015). Có nghĩa là chúng ta chia các loại ý kiến điều chỉnh thành những nhóm nhỏ theo
các lý do chính cho sự điều chỉnh đó (giới hạn phạm vi kiểm toán, bất đồng ý kiến với
ban giám đốc, vấn đề hoạt động liên tục...). Kết quả kiểm định sẽ cho thấy những lý do
nào phản ánh được tính bền vững của lợi nhuận và với cùng một lý do thì ý kiến kiểm
toán nào phản ánh lợi nhuận ít bền vững hơn. Phân tích nội dung giúp nghiên cứu giải
thích tốt hơn về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và sự bền vững của lợi nhuận, từ đó
cung cấp bằng chứng về giá trị của các thông tin được đưa ra trong từng loại ý kiến kiểm
toán điều chỉnh.
Cuối cùng, các nghiên cứu tiếp theo cũng có thể kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến
kiểm toán với chất lượng lợi nhuận thông qua một hoặc một số thuộc tính khác như khả
năng dự báo, tính ổn định, tính kịp thời…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bộ Tài chính, 1999. VSA 700, Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Bộ Tài chính, 2012. Thông tư số 52/2012/TT-BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin
trên thị trường chứng khoán.
Bộ Tài chính, 2012. VSA 700, Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về báo
cáo tài chính.
Bộ Tài chính, 2012. VSA 705, Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn
phần.
Bộ Tài chính, 2012. VSA 706, Đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” và “Vấn đề khác” trong
báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Phạm Thị Bích Vân, 2013. Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận. Tạp
chí Ngân hàng, số 1
Quốc hội Việt Nam, 2011. Luật Kiểm toán độc lập.
Tiếng Anh
Ali, A. and Zarowin, P., 1992. Permanent versus transitory components of annual
earnings and estimation error in earnings response coefficients. Journal of Accounting
and Economics, 15: 249-64.
Ali, A., Basheer, A.K. and Nedal, A.A., 2007. The effect of qualified auditors' opinions
on share prices: evidence from Jordan. Managerial Auditing Journal, 23: 84-101.
Anandarajan, A., LaSalle, R. and Anandarajan, M., 2001. Policy issues concerning the
choice of a disclaimer in the presence of going concern uncertainties: an empirical
analysis. Managerial Auditing Journal, 16 (3): 165-175.
Arens, A.A., Elder, R.J. and Beasley, M.S., 2013. Auditing and Assurance services: an
intergrated approach. 15th ed. Prentice Hall.
Arya, A., Glover, J. C. and Sunder, S., 2003. Are unmanaged earnings always better for
shareholders?. Accounting Horizons 17 (Supplement), 111-116.
Atwood, T. J., Drake, M. S., Myers, J. N. and Myers, L. A., 2011. Do earnings reported
under IFRS tell us more about future earnings and cash flows?. Journal of Accounting
and Public Policy, 30: 103-121.
Baber, W., Kang, S., and Kumar, K., 1998. Accounting earnings and executive
compensation: the role of earnings persistence. Journal of Accounting and Economics,
25: 169–193.
Ball, R., Walker, R. and Whittred, G., 1979. Audit qualifications and share prices,
Abacus, 15 (1): 23-34
Barth, M. and Hutton, A., 2004. Analyst earnings forecast revisions and the pricing of
accruals. Review of Accounting Studies, 9 (1): 59-96.
Bartov, E., Gul, F.A. and Tsui, J.S.L., 2001. Discretionary accruals models and audit
qualifications. Journal of Accounting and Economics, 30 (3): 421-452.
Becker, C.L., Defond, M.L., Jiambalvo, J. and Subramanyam, K.R., 1998. The effect of
audit quality on earnings management. Contemporary Accounting Research, 15 (1): 1-
24.
Beneish, M.D., and Vargus, M.E., 2002. Insider Trading, Earnings Quality, and Accrual
Mispricing. The Accounting Review, 77 (4): 755.
Bhattacharya, U., Daouk, H. and Welker, M., 2003. The world price of earnings opacity.
The Accounting review, 78 (3): 641-678.
Bhojraj, S. and Swaminathan, B., 2007. How does the corporate bond market value
capital investments and accruals?. Review of Accounting Studies, 14: 31–62.
Biddle, G., Seow, G. and Siegel, A., 1995. Relative versus incremental information
content. Contemporary Accounting Research, 12: 1-23.
Butler, M., Leone, A.J. and Willenborg, M., 2004. An Empirical Analysis of Auditor
Reporting and Its Association with Abnormal Accruals. Journal of Accounting and
Economics, 37 (2): 139 -165.
Chen, J.P., Su, X. and Zhao, R., 2000. An emerging market’s reaction to initial modified
audit opinions: evidence from the Shanghai stock exchange. Contemporary Accounting
Research, 17 (3): 429-455.
Chen, Q., Hemmer, T. and Zhang, Y., 2007. On the relation between conservatism in
accounting standards and incentives for earnings management. Journal of Accounting
Research, 45: 541–565.
Choi, S.K. and Jeter, D.C., 1992. The effects of qualified audit opinions on earnings
response coefficients. Journal of Accounting and Economics, 15 (2/3): 229-247.
Chow, C.W. and Rice, S.J., 1982. Qualified audit opinions and share prices – An
investigation. Auditing: A Journal of Practices & Theory, 1: 35-53
Collins, D. and Kothari, S., 1989. An analysis of the cross-sectional and intertemporal
determinants of earnings response coefficients. Journal of Accounting and Economics,
11: 143–181
Collins, D., Maydew, E. and Weiss, I., 1997. Changes inthe value-relevance of earnings
and book values over the past forty years. Journal of Accounting and Economics,24: 39-
67
Copeland, C.R., 1968. Income smoothing. Journal of Accounting Research, 6: 101-116
Crabtree A., and Maher, J., 2005. Earnings Predictability, Bond Ratings, and Bond
Yields. Review of Quantitative Finance and Accounting, 25: 233-253
Czernkowski, R., Green, W. and Wang, Y., 2010. The value of audit qualifications in
China. Managerial Auditing Journal, 25 (5): 404 - 426
Davis, R.R., 2004. Using disclaimers in audit reports: discerning between shades of
opinion. The CPA Journal, 74 (4): 26-29
DeAngelo, H.L., 1981. Auditor size and audit quality. Journal of Accounting and
Economics, 3 (3): 183-199
Dechow, P. and Schrand, C., 2004. Earnings quality. The Research Foundation of CFA
Institute
Dechow, P.M., Ge, W. and Schrand, C., 2010. Understanding earnings quality: a review
of the proxies, their determinants and their consequences. Journal of Accounting and
Economics, 50: 344-401
Dodd, P., Dopuch, N., Holthausen, R. and Leftwich, R., 1984. Qualified audit opinions
and stock prices. Journal of Accounting and Economics, 6 (1): 3-38
Dopuch, N., Holthausen, R. and Leftwich, R., 1986. Abnormal stock returns associated
with media disclosures of ‘subject to’ qualified audit opinion. Journal of Accounting and
Economics, 8 (2): 93-117
Easton, P. and Zmijewski, M., 1989. Cross-sectional variation in the stock market
response to the announcement of accounting earnings. Journal of Accounting and
Economics, 9: 117–141.
Fan, J.H. and Wong, T.J., 2005. Do external auditors perform a corporate governance
role in emerging markets? Evidence from East Asia. Journal of Accounting Research,
43 (1): 35-72.
Francis, J. and Krishnan, J., 1999. Accounting accruals and auditor reporting
conservatism. Contemporary Accounting Research, 16 (1): 135-165.
Francis, J. and Schipper, K., 1999. Have financial statements lost their relevance?.
Journal of Accounting Research, 37: 319-352.
Francis, J., Schipper, K., and Vincent, L., 2004. The relative and incremental explanatory
power of earnings and alternative (to earnings) performance measures for returns.
Contemporary Accounting Research, 20: 121-164.
Francis, J.R., Khurana, I.K. and Pereira, R., 2003. The role of accounting and auditing
in corporate governance and the development of financial markets around the world.
Asia Pacific Journal of Accounting and Economics, 10 (1): 1-30.
Frost, C.A., 1997. Disclosure policy choices of UK firms receiving modified audit
reports. Journal of Accounting and Economics, 23 (2): 163-187.
Fudenberg, D., and Tirole, J., 1995. A theory of income and dividend smoothing based
on incumbency rents. Journal of Political Economy, 103: 75–93.
Hanlon, M., Myers, J. and Shevlin, T., 2007. Are dividends informative about future
earnings?. working paper, University of Washington, Seattle, WA.
Harris, T., Huh, E. and Fairfield, P., 2000. Gauging profitabilityon the road to valuation.
Strategy Report, Global Valuation and Accounting, Morgan Stanley Dean Witter.
Hayn, C., 1995. The information content of losses’,Journal of Accounting and
Economics. 20 (2): 125-153.
Healy, P. and Whalen, J., 1999. A review of the earning management literature and its
implications for standard setting. Accounting Horizons, 13: 365-383.
Healy, P., 1985. The effect of bonus schemes on accounting decisions. Journal of
Accounting and Economics, 7: 85–10.
Healy, P.M. and Palepu, K.G., 1993. The effect of firms' financial disclosure strategies
on stock prices. Accounting Horizons, 7(1): 1-11.
Herbohn, K. and Ragunathan, V., 2008. Auditor reporting and earnings management:
some additional evidence. Accounting and Finance, 48 (4): 575-601.
Herrmann, D., Inoue, T. and Thomas, W.B., 2000. The persistence and forecast accuracy
of earnings components in the USA and Japan. Journal of International Financial
Management and Accounting, 11: 48-70.
Hevas, D.L., 2007. The value relevance of the income components: an empirical study
using Greek data. Investment Research and Analysis Journal, 2: 16-27.
Hussainey, 2009. The impact of audit quality on earnings predictability. Managerial
Auditing Journal, 24 (4): 340 – 351.
Jonas, G. and Blanchet, J., 2000. Assessing the quality of financial reporting. Accounting
Horizons, 14 (3): 353-363.
Jones, F., 1996. The information content of the auditor’s going concern evaluation.
Journal of Accounting and Public Policy, 15: 1-27.
Joos, P. and Plesko, G., 2005. Valuing loss firms. The Accounting Review, 80 (3): 847-
870.
Kormendi, R. and Lipe, R., 1987. Earnings innovations, earnings persistence, and stock
returns. Journal of Business, 60: 323–345.
Lai, S., Lin, C., Li, H. and Wu, F., 2009. The Information Contents of Modified
Unqualified Audit Opinions under the Control of Concurrent Information: The Case of
Taiwan, Journal of Accounting and Corporate Governance 6 (1): 31-56.
Lam, K.C.K. and Mensah, L., 2006. Auditors’ decision-making undergoing-concern
uncertainties in low litigation-risk environments: evidence from Hong Kong. Journal of
Accounting and Public Policy, 25 (6): 706-739.
Lang, M., Raedy, J. and Yetman, M., 2003. How representative are firms that are cross-
listed in the United States? An analysis of accounting quality. Journal of Accounting
Research, 41: 363–386.
Lev, B., 1983. Some economic determinants of time-series properties of earnings.
Journal of Accounting and Economics, 5: 31–48
Lev, B., 1989. On the usefulness of earnings and earnings research: lessons and
directions from two decades of empirical research. Journal of Accounting Research, 27:
153–192.
Levitt, A., 1998. The numbers game. Speech delivered at NYU Center for Law and
Business
Li, F., 2008. Annual report readability, current earnings, and earnings persistence.
Journal of Accounting and Economics, 45: 221–247.
Li, K.K., 2011. How well do investors understand loss persistence?. Review of
Accounting Studies, 16 (3): 630-667.
Lin, Z., Jiang, Y. and Xu, Y., 2011. Do modified audit opinions have economic
consequences? Empirical evidence based on financial constraintsChina Journal of
Accounting Research, 4: 135–154.
Lipe, R., 1990. The relation between stock returns and accounting earnings given
alternative information. The Accounting Review, 65 (1): 49-71.
Lipe, R.C., 1986. The information contained in the components of earnings. Journal of
Accounting Research, 24(3): 37-64
Liu, J., Nissan, D., and Thomas, J., 2002, Equity valuation using multiples. Journal of
Accounting Research, 40: 135-172.
Loudder, M.L., Khurana, I.K., Sawyers, R.B., Cordery, C., Johnson, C., Lowe, J. and
Wunderle, R., 1992. The information content of audit qualifications. Auditing: A Journal
of Practice & Theory, 11 (1): 69-82.
Lys, T. and Watts, R.L., 1994. Lawsuits against auditors. Journal of Accounting
Research, 32: 65-93.
Menon, K. and William, D.D., 2010. Investor reaction to going concern audit reports.
The Accounting Review, 85 (6): 2075-2105.
Ohlson, J.A., 1980. Financial ratios and the probabilistic prediction of bankruptcy.
Journal of Accounting Research, 18 (1): 109-131.
Penman, S., 2001. Financial Statement Analysis and Security Valuation. New York:
McGraw Hill/Irwin.
Penman, S.H. and Zhang, X., 2002. Accounting conservatism, the quality of earnings,
and stock returns. The Accounting Review, 77 (2): 237-264.
Ramakrishnan, R.T.S. and Thomas, J.K., 1998. Valuation of permanent, transitory and
priceirrelevant components of reported earnings. Journal of Accounting, Auditing and
Finance, 13: 301-36.
Richardson, S., 2003. Earnings Quality and Short Sellers. Accounting Horizons, 17: 49-
61.
Salehi, M. and Abedini, B., 2008. Iranian Angle: Worth of Audit Report. SCMS Journal
of Indian Management, 82-90.
Schipper, K., and Vincent, L., 2003. Earnings quality. Accounting Horizons, 17: 97-110.
Scott, W. R., 1997. Financial accounting theory. Upper Saddle River: Prentice Hall, 3:
335-360.
Shu, S.Z., 2000. Auditors resignations: clientele effects and legal liability. Journal of
Accounting and Economics, 29 (2): 173-205.
Skinner, D.J. and Soltes, E., 2011. What do dividends tell us about earnings quality?.
Review of Accounting Studies, 16 (1): 1-28.
Sloan, R., 1996. Do stock prices fully reflect information in accruals and cash flows
about future earnings?. The Accounting Review, 71: 289-315.
Subramanyam, K.R., 1996. The pricing of discretionary accruals. Journal of Accounting
and Economics, 22 (1/3): 249-281.
Sundgren, S., 2009. Perceived audit quality, modified audit opinions and the likelihood
of liquidating bankruptcy among financially weak firms. International Journal of
Auditing, 13 (3): 203-221.
Tucker, J. and Zarowin, P., 2006. Does Income Smoothing Improve Earnings
Informativeness?. The Accounting Review, 81: 251-270.
Vichitsarawong, T. and Pornupatham, S. , 2015. Do audit opinions reflect earnings
persistence?. Managerial Auditing Journal, 30 (3): 244 – 276.
Wild, J.J, 1992. Stock price informativeness of accounting numbers: evidence on
earnings, book values, and their components. Journal of Accounting and Public Policy.
11: 199-254.
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY TRONG MẪU NGHIÊN CỨU
STT Tên Công ty Ngày niêm yết Mã chứng khoán Sàn niêm yết
1 AAM Công ty Cổ phần Thủy sản Mekong 2 ABT Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản 07/13/09 HOSE 06/12/06 HOSE Bến Tre
3 ACL Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Thủy sản 08/23/07 HOSE Cửu Long An Giang
4 AGF Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản An 04/26/02 HOSE Giang
5 ALT Công ty Cổ phần Văn hóa Tân Bình 6 AMV Công ty Cổ phần Sản xuất kinh doanh Dược và 07/27/09 HNX 12/20/09 HNX
Công ty Cổ phần Tập đoàn Dầu khí An Pha
Trang thiết bị y tế Việt Mỹ 7 ASM Công ty Cổ phần Tập đoàn Sao Mai 8 ASP 9 ATA Công ty Cổ phần NTACO
Công ty Cổ phần 482
12/24/09 HOSE 02/01/08 HOSE 08/26/09 HOSE 03/17/08 HNX 12/17/01 HOSE 11/24/06 HNX Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Bình Chánh 12/25/08 HOSE 10 B82 11 BBC Công ty Cổ phần Bibica 12 BCC Công ty Cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 13 BCI
14 BED Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học 10/21/09 HNX Đà Nẵng
Công ty Cổ phần Thủy sản Bạc Liêu
15 BHS Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa 16 BKC Công ty Cổ phần Khoáng Sản Bắc Kạn 17 BLF 18 BMC Công ty Cổ phần Khoáng sản Bình Định 19 BMP Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh 20 BPC 21 BST Công ty Cổ phần VICEM Bao bì Bỉm Sơn Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị Bình Thuận 11/21/06 HOSE 08/18/09 HNX 06/02/08 HNX 12/12/06 HOSE 06/12/06 HOSE 06/08/09 HNX 12/18/08 HNX
22 BT6 Công ty Cổ phần Beton 6 04/12/02 HOSE
23 BTH Công ty Cổ phần Chế tạo biến thế và Vật liệu 01/04/08 HNX
điện Hà Nội Công ty Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa
24 BTP 25 BXH Công ty Cổ phần VICEM Bao bì Hải Phòng 11/17/09 HOSE 11/25/09 HNX
Công ty Cổ phần Xây dựng và Đầu tư 492
26 C92 27 CAN Công ty Cổ phần Đồ hộp Hạ Long 28 CAP Công ty Cổ phần Lâm nông sản thực phẩm 11/19/07 HNX 06/12/09 HNX 01/09/08 HNX Yên Bái
29 CCM Công ty Cổ phần Khoáng sản và Xi măng Cần 09/18/08 HNX
30 CID 07/14/05 HNX
31 CII 02/24/06 HOSE
Thơ Công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển Cơ sở hạ tầng Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP.HCM Công ty Cổ phần Cơ điện Miền Trung
32 CJC 33 CLC Công ty Cổ phần Cát Lợi 34 CMC Công ty Cổ phần Đầu tư CMC 35 COM Công ty Cổ phần Vật tư - Xăng dầu 36 CSC 12/14/06 HNX 10/18/06 HOSE 12/11/06 HNX 05/12/06 HOSE 11/04/09 HNX Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Thành Nam
37 CSM Công ty Cổ phần Công nghiệp Cao su Miền 08/04/09 HOSE Nam
38 CTC Công ty Cổ phần Gia Lai CTC 39 CTD Công ty Cổ phần Xây dựng Cotec 40 CTM Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và khai thác 07/18/08 HNX 12/09/09 HOSE 08/07/09 HNX mỏ Vinavico
41 CTN Công ty Cổ phần Xây dựng công trình ngầm 12/20/06 HNX
42 CYC Công ty Cổ phần Gạch men Chang Yih 43 D2D Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp 06/21/06 HOSE 06/24/09 HOSE số 2
44 DAC Công ty Cổ phần Viglacera Đông Anh 45 DAD Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục 09/20/06 HNX 08/19/09 HNX Đã Nẵng
46 DBC Công ty Cổ phần Tập đoàn DABACO Việt 03/18/08 HNX
Nam 47 DC4 Công ty Cổ phần DIC số 4 48 DCL Công ty Cổ phần Dược phẩm Cửu Long 49 DCS Công ty Cổ phần Tập đoàn Đại Châu 50 DCT Công ty Cổ phần Tấm lợp Vật liệu Xây dựng 11/03/08 HNX 09/03/08 HOSE 12/17/07 HNX 09/21/06 HOSE
Đồng Nai 51 DHA Công ty Cổ phần Hóa An 52 DHC Công ty Cổ phần Đông Hải Bến Tre 53 DHG Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang 54 DHT Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây 55 DIC Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC 04/12/04 HOSE 06/18/09 HOSE 12/01/06 HOSE 12/03/08 HNX 11/22/06 HOSE
56 DID 57 DIG 12/10/09 HNX 08/12/09 HOSE Công ty Cổ phần DIC Đồng Tiến Tổng Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng
58 DMC Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu y tế 12/04/06 HOSE DOMESCO
59 DNP Công ty Cổ phần Nhựa Đồng Nai 60 DPM Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - 06/19/09 HNX 10/29/07 HOSE
Công ty Cổ phần
61 DPR Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú 62 DQC Công ty Cổ phần Bóng đèn Điện Quang 63 DST 11/22/07 HOSE 02/14/08 HOSE 10/16/07 HNX Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị Trường học Nam Định
64 DTT Công ty Cổ phần Kỹ nghệ Đô Thành 65 DVP Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Cảng 12/06/06 HOSE 11/24/09 HOSE Đình Vũ
66 DXG Công ty Cổ phần Dịch vụ và Xây dựng Địa ốc 12/14/09 HOSE Đất Xanh
67 DXV Công ty Cổ phần Vicem Vật liệu Xây dựng Đà 01/24/08 HOSE Nẵng
68 DZM Công ty Cổ phần Chế tạo máy Dzĩ An 69 EBS Công ty Cổ phần Sách giáo dục tại TP, Hà Nội 06/11/09 HNX 12/21/06 HNX
70 ECI Công ty Cổ phần Bản đồ và tranh ảnh giáo dục 06/16/09 HNX
71 EFI Công ty Cổ phần Đầu tư tài chính Giáo dục 09/30/09 HNX
12/25/09 HOSE 72 FDC Công ty Cổ phần Ngoại Thương và Phát triển Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh
73 FMC Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta Công ty Cổ phần FPT 74 FPT 75 GDT Công ty Cổ phần Chế biến Gỗ Đức Thành 76 GIL 10/20/06 HOSE 11/21/06 HOSE 11/03/09 HOSE 12/28/01 HOSE Công ty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Bình Thạnh
77 GLT Công ty Cổ phần Kỹ thuật Điện Toàn Cầu 78 GMC Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại May 11/26/09 HNX 12/06/06 HOSE Sài Gòn
79 GMD Công ty Cổ phần Đại lý Liên hiệp Vận chuyển 03/08/02 HOSE
80 GTA Công ty Cổ phần Chế biến Gỗ Thuận An 81 HAD Công ty Cổ phần Bia Hà Nội - Hải Dương 82 HAG Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai 83 HAP Công ty Cổ phần Tập đoàn Hapaco 84 HAS Công ty Cổ phần HACISCO 85 HAX Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 86 HBC Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa 07/04/07 HOSE 10/27/09 HNX 12/15/08 HOSE 08/02/00 HOSE 12/18/02 HOSE 12/13/06 HOSE 11/22/06 HOSE ốc Hòa Bình
87 HCC Công ty Cổ phần Bê tông Hòa Cầm - Intimex 12/24/07 HNX
88 HCT Công ty Cổ phần Thương mại Dịch vụ Vận tải 11/27/07 HNX Xi măng Hải Phòng
89 HDC Công ty Cổ phần Phát triển nhà Bà Rịa – Vũng 09/25/07 HOSE Tàu
Công ty Cổ phần Thủy điện Nậm Mu
90 HEV Công ty Cổ phần Sách Đại học - Dạy nghề 91 HHC Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà 92 HJS 93 HMC Công ty Cổ phần Kim khí Thành phố Hồ Chí 12/11/07 HNX 11/20/07 HNX 12/20/06 HNX 11/28/06 HOSE Minh
94 HOM Công ty Cổ phần Xi măng VICEM Hoàng Mai 07/09/09 HNX
Công ty Cổ phần Đá xây dựng Hòa Phát
95 HPG Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát 96 HPS 97 HRC Công ty Cổ phần Cao su Hòa Bình 98 HSG Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen 99 HSI 10/31/07 HOSE 12/25/06 HNX 11/22/06 HOSE 11/05/08 HOSE 12/12/07 HOSE
100 HST 12/29/09 HNX
Công ty Cổ phần Vật tư Tổng hợp và Phân bón Hóa Sinh Công ty Cổ phần Phát hành sách và Thiết bị trường học Hưng Yên Công ty Cổ phần Xi măng Hà Tiên 1 Công ty Cổ phần In Sách giáo khoa Hòa Phát 101 HT1 102 HTP 10/31/07 HOSE 12/14/06 HNX
103 HTV Công ty Cổ phần Vận tải Hà Tiên 104 HUT Công ty Cổ phần Tasco 105 HVG Công ty Cổ phần Hùng Vương 106 HVT Công ty Cổ phần Hóa chất Việt Trì 107 ICF 12/07/05 HOSE 04/11/08 HNX 11/16/09 HOSE 05/08/09 HNX Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại Thủy sản 12/11/07 HOSE
108 IMP 109 ITA 11/15/06 HOSE 01/11/06 HOSE
Công ty Cổ phần Dược phẩm Imexpharm Công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo Công ty Cổ phần Đầu tư - Kinh doanh Nhà 110 ITC 111 KBC Tổng Công ty Phát triển Đô Thị Kinh Bắc – 09/24/09 HOSE 12/07/09 HOSE Công ty Cổ phần
112 KDC Công ty Cổ phần Kinh Đô 113 KHA Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Khánh Hội 11/18/05 HOSE 08/14/02 HOSE
114 KHP Công ty Cổ phần Điện lực Khánh Hòa 115 KKC Công ty Cổ phần Sản xuất và Kinh doanh Kim 12/08/06 HOSE 08/21/08 HNX
khí
116 KMR Công ty Cổ phần MIRAE 117 KMT Công ty Cổ phần Kim khí Miền Trung 118 KSB Công ty Cổ phần Khoáng sản và Xây dựng 06/23/08 HOSE 08/10/09 HNX 12/17/09 HOSE Bình Dương
119 KSH Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển KSH 11/03/08 HOSE
120 KSS Công ty Cổ phần khoáng sản Na Rì Hamico 12/25/09 HOSE
121 L10 122 L18 Công ty Cổ phần Lilama 10 Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số 18 12/11/07 HOSE 04/23/08 HNX
123 L43 124 L44 125 L61 126 LBE 06/11/08 HNX 12/21/09 HNX 11/19/08 HNX 02/22/08 HNX
Công ty Cổ phần Lilama 45.3 Công ty Cổ phần Lilama 45.4 Công ty Cổ phần Lilama 69-1 Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị Trường học Long An
127 LBM Công ty Cổ phần Khoáng sản và Vật liệu Xây 11/30/06 HOSE
dựng Lâm Đồng 128 LCG Công ty Cổ phần LICOGI 16 129 LGC Công ty Cổ phần Đầu tư Cầu Đường CII 130 LGL Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị 10/17/08 HOSE 11/29/06 HOSE 09/23/09 HOSE
Long Giang Công ty Cổ phần Mía đường Lam Sơn Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông
131 LSS 132 LTC 133 LUT Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Lương Tài 12/21/07 HOSE 12/14/06 HNX 01/04/08 HNX
134 MAC Công ty Cổ phần Cung ứng và Dịch vụ Kỹ 12/24/09 HNX thuật Hàng hải
135 MCG Công ty Cổ phần Cơ điện và Xây dựng Việt 09/16/09 HOSE Nam
12/21/06 HNX 136 MCO Công ty Cổ phần MCO Việt Nam 12/18/06 HOSE 137 MCP Công ty Cổ phần In và Bao bì Mỹ Châu 12/31/04 HOSE 138 MHC Công ty Cổ phần MHC 139 MKV Công ty Cổ phần Dược Thú Y Cai Lậy 11/21/08 HNX 140 MPC Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú 12/13/07 HOSE
141 MSN Công ty Cổ phần Tập đoàn Ma San 142 MTG Công ty Cổ phần MT GAS 143 NAV Công ty Cổ phần Nam Việt 144 NBB Công ty Cổ phần Đầu tư Năm Bảy Bảy 145 NBP Công ty Cổ phần Nhiệt điện Ninh Bình 10/30/09 HOSE 12/31/08 HOSE 11/30/06 HOSE 11/20/08 HOSE 08/06/09 HNX
146 NGC Công ty Cổ phần Chế biến Thủy sản xuất khẩu 03/06/08 HNX Ngô Quyền
147 NSC Công ty Cổ phần Giống cây trồng Trung Ương 12/01/06 HOSE
Công ty Cổ phần Ngân Sơn 148 NST 149 NTL Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm 12/29/06 HNX 12/06/07 HOSE
150 ONE Công ty Cổ phần Truyền thông số 1 151 OPC Công ty Cổ phần Dược phẩm OPC 152 PAC Công ty Cổ phần Pin Ắc quy miền Nam 153 PET 06/24/08 HNX 10/20/08 HOSE 11/09/06 HOSE 08/13/07 HOSE
154 PGC 10/20/06 HOSE Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Tổng hợp Dầu khí Tổng Công ty Gas Petrolimex - Công ty Cổ phần
155 PGD Công ty Cổ phần Phân phối Khí thấp áp Dầu 11/19/09 HOSE
156 PGS 11/15/07 HNX
157 PGT khí Việt Nam Công ty Cổ phần Kinh doanh Khí hóa lỏng miền Nam Công ty Cổ phần Taxi Gas Sài Gòn Petrolimex 12/25/09 HNX
158 PHC Công ty Cổ phần Xây dựng Phục Hưng 11/05/09 HNX Holdings
159 PHR Công ty Cổ phần Cao su Phước Hòa 160 PIT 08/04/09 HOSE 01/09/08 HOSE
161 PJC 12/25/06 HNX
162 PJT 12/11/06 HOSE
163 PLC 12/27/06 HNX Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu PETROLIMEX Công ty Cổ phần Thương mại và Vận tải Petrolimex Hà Nội Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Đường thủy Petrolimex Tổng Công ty Hóa dầu Petrolimex- Công ty Cổ phần
164 PMS Công ty Cổ phần Cơ khí Xăng dầu 165 PNC Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam 166 PNJ Công ty Cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận 06/08/09 HNX 06/21/05 HOSE 12/26/08 HOSE
167 POT Công ty Cổ phần Thiết bị Bưu điện 12/20/06 HNX
168 PPC 169 PPG 01/17/07 HOSE 12/20/06 HNX
170 PSC 12/29/06 HNX
171 PTC 12/08/08 HOSE Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại Công ty Cổ phần Sản xuất – Thương Mại - Dịch vụ Phú Phong Công ty Cổ phần Vận tải và Dịch vụ Petrolimex Sài Gòn Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu Điện
172 PTM Công ty Cổ phần Sản xuất, Thương mại và 01/16/09 HNX
173 PVD 11/15/06 HOSE
174 PVE 01/02/08 HNX
175 PVS 09/20/07 HNX
176 PVT 177 PVX Dịch vụ Ôtô PTM Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí Tổng Công ty Tư vấn Thiết kế Dầu khí - Công ty Cổ phần Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ Thuật Dầu khí Việt Nam Tổng Công ty Cổ phần Vận tải Dầu khí TCông ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam 11/27/07 HOSE 08/19/09 HNX
178 QNC Công ty Cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng 01/17/08 HNX
179 QST 02/16/09 HNX Ninh Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị Trường học Quảng Ninh
180 QTC Công ty Cổ phần Công trình Giao thông vận tải 01/16/09 HNX Quảng Nam
181 RAL Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng 10/23/06 HOSE Đông
182 RDP Công ty Cổ phần Nhựa Rạng Đông 183 REE 184 RIC 185 S12 186 S55 187 S74 188 S99 189 SAF 08/21/09 HOSE 07/18/00 HOSE 07/23/07 HOSE 01/16/08 HNX 12/22/06 HNX 07/02/09 HNX 12/22/06 HNX 06/08/09 HNX Công ty Cổ phần Cơ Điện Lạnh Công ty Cổ phần Quốc tế Hoàng Gia Công ty Cổ phần Sông Đà 12 Công ty Cổ phần Sông Đà 505 Công ty Cổ phần Sông Đà 7.04 Công ty Cổ phần Sông Đà 9.09 Công ty Cổ phần Lương thực Thực phẩm SAFOCO
190 SAM Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Sacom 07/18/00 HOSE
191 SAV Công ty Cổ phần Hợp tác Kinh tế và Xuất nhập 04/26/02 HOSE
192 SBT 02/25/08 HOSE
khẩu Savimex Công ty Cổ phần Mía đường Thành Thành Công Tây Ninh Công ty Cổ phần Xây dựng số 5
193 SC5 194 SCD Công ty Cổ phần Nước giải khát Chương 04/10/07 HOSE 11/12/06 HOSE
Dương Công ty Cổ phần Xi măng Sài Sơn Công ty Cổ phần Sông Đà 5 Công ty Cổ phần Sông Đà 6 Công ty Cổ phần Sông Đà 7 Công ty Cổ phần Sông Đà 9
195 SCJ 196 SD5 197 SD6 198 SD7 199 SD9 200 SDA Công ty Cổ phần SIMCO Sông Đà 201 SDC Công ty Cổ phần Tư vấn Sông Đà 202 SDH Công ty Cổ phần Xây dựng hạ tầng Sông Đà 09/19/07 HNX 12/27/06 HNX 12/25/06 HNX 12/27/06 HNX 12/20/06 HNX 12/21/06 HNX 12/25/06 HNX 10/19/09 HNX
203 SDN Công ty Cổ phần Sơn Đồng Nai 204 SEC 06/22/09 HNX 12/23/09 HOSE
205 SED 08/19/09 HNX
Công ty Cổ phần Mía đường Nhiệt điện Gia Lai Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam Công ty Cổ phần Nhiên liệu Sài Gòn Công ty Cổ phần Đại lý Vận tải Safi Công ty Cổ phần Dệt lưới Sài Gòn
206 SFC 207 SFI 208 SFN 209 SGD Công ty Cổ phần Sách giáo dục tại Tp. HCM 06/16/04 HOSE 12/08/06 HOSE 06/12/09 HNX 12/28/06 HNX
210 SGT 01/10/08 HOSE
Công ty CỔ phần Công nghệ Viễn thông Sài Gòn Công ty Cổ phần Quốc tế Sơn Hà
211 SHI 212 SHN Công ty Cổ phần Đầu tư Tổng hợp Hà Nội 213 SIC Công ty Cổ phần Đầu tư - Phát triển Sông Đà 12/23/09 HOSE 12/16/09 HNX 12/27/06 HNX
214 SJC 215 SJE Công ty Cổ phần Sông Đà 1.01 Công ty Cổ phần Sông Đà 11 11/21/07 HNX 12/14/06 HNX
216 SJS 05/11/06 HOSE
Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà 217 SMC Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại SMC 218 SRB 219 SRC 220 SRF 221 SSC Công ty Cổ phần Tập đoàn Sara Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng Công ty Cổ phần Kỹ Nghệ Lạnh Công ty Cổ phần Giống Cây trồng Miền Nam 09/29/06 HOSE 03/17/08 HNX 09/23/09 HOSE 10/05/09 HOSE 12/29/04 HOSE
222 ST8 223 STC 12/10/07 HOSE 12/27/06 HNX Công ty Cổ phần Siêu Thanh Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị Trường học Tp, HCM
224 SVC Công ty Cổ phần Dịch vụ Tổng hợp Sài Gòn 05/27/09 HOSE
Công ty Cổ phần Sonadezi Long Thành
225 SZL 226 TAC Công ty Cổ phần Dầu thực vật Tường An 227 TBC Công ty Cổ phần Thủy điện Thác Bà 228 TBX Công ty Cổ phần Xi măng Thái Bình 229 TCL 08/15/08 HOSE 12/06/06 HOSE 09/25/09 HOSE 11/18/08 HNX 12/11/09 HOSE Công ty Cổ phần Đai lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng
230 TCM Công ty Cổ phần Dệt may - Đầu tư - Thương 10/05/07 HOSE
mại Thành Công
231 TCR Công ty Cổ phần Công nghiệp Gốm sứ 12/26/06 HOSE TAICERA
11/23/06 HOSE 11/19/08 HNX 10/24/08 HNX 10/01/09 HOSE 11/16/09 HOSE 11/17/09 HOSE
238 TJC 12/17/07 HNX 232 TDH Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức 233 THB Công ty Cổ phần Bia Thanh Hoá 234 THT Công ty Cổ phần Than Hà Tu - Vinacomin Công ty Cổ phần Đầu tư Điện Tây Nguyên 235 TIC Công ty Cổ phần TIE 236 TIE Công ty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh XNK 237 TIX Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình Công ty Cổ phần Dịch vụ Vận tải và Thương mại
239 TKC Công ty Cổ phần Xây Dựng và Kinh doanh Địa 12/01/09 HNX Ốc Tân Kỷ
240 TKU Công ty Cổ phần Công nghiệp Tungkuang 241 TMP Công ty Cổ phần Thủy điện Thác Mơ 06/26/06 HNX 06/08/09 HOSE
242 TMS Công ty Cổ phần Transimex-Saigon 243 TMX Công ty Cổ phần VICEM Thương mại Xi 08/02/00 HOSE 11/02/09 HNX măng
244 TNA Công ty Cổ phần Thương mại Xuất nhập khẩu 05/04/05 HOSE Thiên Nam
245 TNC Công ty Cổ phần Cao su Thống Nhất 246 TNG Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 08/07/07 HOSE 11/22/07 HNX
Công ty Cổ phần Nhựa Tân Đại Hưng
247 TPC 248 TRA Công ty Cổ phần TRAPHACO 249 TRC Công ty Cổ phần Cao su Tây Ninh 250 TS4 251 TSC 11/20/07 HOSE 11/12/08 HOSE 07/17/07 HOSE 07/01/02 HOSE 09/24/07 HOSE
Công ty Cổ phần Thủy sản số 4 Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Viễn thông 252 TST 12/13/07 HNX
253 TTF 02/01/08 HOSE
Công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành Công ty Cổ phần Bao bì Nhựa Tân Tiến Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng điện 2 Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng điện 3
254 TTP 255 TV2 256 TV3 257 TXM Công ty Cổ phần VICEM Thạch cao Xi măng 11/09/06 HOSE 10/13/09 HNX 12/01/09 HNX 12/11/06 HNX
258 TYA Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt 02/12/05 HOSE
259 UIC 10/31/07 HOSE
Nam Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Nhà và Đô thị Idico Công ty Cổ phần Xây dựng số 15
260 V15 261 VBH Công ty Cổ phần Điện tử Bình Hòa Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 262 VC1 Công ty Cổ phần Xây dựng số 2 263 VC2 Công ty Cổ phần Xây dựng số 3 264 VC3 Công ty Cổ phần Vinaconex 6 265 VC6 266 VC7 Công ty Cổ phần Xây dựng số 7 267 VCC Công ty Cổ phần Vinaconex 25 12/17/09 HNX 12/29/06 HNX 05/14/09 HNX 12/11/06 HNX 12/13/07 HNX 01/28/08 HNX 12/28/07 HNX 02/05/09 HNX
268 VCG Tổng Công ty Cổ phần XNK và Xây dựng Việt 09/05/08 HNX Nam
269 VCS Công ty Cổ phần Vicostone 270 VDL Công ty Cổ phần Thực phẩm Lâm Đồng 271 VE1 Công ty Cổ phần Xây dựng điện VNECO 1 12/17/07 HNX 11/27/07 HNX 09/04/08 HNX
272 VE9 01/23/08 HNX Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng VNECO 9
273 VFG Công ty Cổ phần Khử trùng Việt Nam 274 VGS Công ty Cổ phần Ống thép Việt Đức VGPIPE 12/11/09 HOSE 12/04/08 HNX
275 VHC Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn 276 VHG Công ty Cổ phần Đầu tư Cao su Quảng Nam 12/07/07 HOSE 01/09/08 HOSE
277 VIC 278 VID 09/07/07 HOSE 07/12/06 HOSE
Tập đoàn VINGROUP - Công ty Cổ phần Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Thương mại Viễn Đông Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Vipco Công ty Cổ phần Thép Việt Ý
279 VIP 280 VIS 281 VNA Công ty Cổ phần Vận tải Biển Vinaship 282 VNC Công ty Cổ phần Tập đoàn Vinacontrol 283 VNE Tổng Công ty Cổ phần Xây dựng Điện Việt 11/09/06 HOSE 12/07/06 HOSE 08/20/08 HOSE 12/21/06 HNX 08/01/07 HOSE Nam
284 VNG Công ty Cổ phần Du lịch Thành Thành Công 11/30/09 HOSE
285 VNI 09/03/09 HOSE Công ty Cổ phần Đầu tư Bất động Sản Việt Nam
286 VNL Công ty Cổ phần Logistics Vinalink 287 VNM Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam 288 VNS Công ty Cổ phần Ánh Dương Việt Nam 289 VNT Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Ngoại 08/10/09 HOSE 12/28/05 HOSE 07/23/08 HOSE 08/14/09 HNX thương
290 VPH Công ty Cổ phần Vạn Phát Hưng 291 VPK Công ty Cổ phần Bao bì Dầu thực vật 292 VSC Công ty Cổ phần Container Việt Nam 08/31/09 HOSE 11/16/06 HOSE 12/12/07 HOSE
293 VSH Công ty Cổ phần Thủy điện Vĩnh Sơn Sông 06/28/06 HOSE
294 VST 02/20/09 HOSE Hinh Công ty Cổ phần Vận tải và Thuê tàu biển Việt Nam
Công ty Cổ phần Viglacera Từ Sơn
295 VTB Công ty Cổ phần Viettronics Tân Bình 296 VTC Công ty Cổ phần Viễn thông VTC 297 VTL Công ty Cổ phần Vang Thăng Long 298 VTO Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Vitaco 299 VTS 300 VTV Công ty Cổ phần VICEM Vật tư Vận tải Xi 12/08/06 HOSE 06/08/09 HNX 07/14/05 HNX 10/01/07 HOSE 09/20/06 HNX 12/18/06 HNX măng
KẾT QUẢ KẾT XUẤT TỪ EVIEW 8.1
Mô hình 1
Mô hình 2