BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thế Trường

QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ TRONG QUAN HỆ VĂN HÓA CỦA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả, số liệu nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

3

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn này, tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến:

Quý Thầy, Cô Khoa Lịch sử Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong quá trình học tập, tôi đã nhận được từ quý Thầy, Cô những hướng dẫn tận tình

trong nghiên cứu lịch sử, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm… Quý Thầy Cô là những hình

mẫu về tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học và tận tâm trong giảng dạy.

TS. Trần Thị Thanh Thanh, người trực tiếp hướng dẫn khoa học để tôi thực hiện

Luận văn này. Trong quá trình thực hiện, tôi đã nhận được từ Cô sự động viên tinh

thần, sự hướng dẫn tận tình, cẩn trọng về phương pháp, sự hỗ trợ về tài liệu và tinh

thần nghiêm túc, trung thực trong nghiên cứu khoa học.

Tất cả các bạn học viên cao học khóa 23 chuyên ngành lịch sử Việt Nam cùng

một số bạn chuyên ngành Lịch sử thế giới, phòng Sau đại học Trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014

NGUYỄN THẾ TRƯỜNG

4

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 6

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 7

3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 9

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 12

5. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................... 15

6. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................... 16

Chương 1. BỐI CẢNH QUAN HỆ VĂN HÓA GIỮA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ............................................................................................................ 18

1.1. Văn minh phương Tây thời cận đại ...................................................................... 18

1.1.1. Khái niệm văn minh và sự phân biệt “phương Tây”,“phương Đông” .......... 18

1.1.2. Những đặc trưng của văn minh phương Tây .................................................. 20

1.2. Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây ........................... 25

1.2.1. Tình hình chính trị - xã hội xứ Đàng Trong – Tiền đề hình thành vùng đất Nam Kỳ ..................................................................................................................... 26

1.2.2. Khái quát đặc điểm của văn hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền thống Việt Nam ................................................................................................................... 32

1.3. Những con đường du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây ..................... 41

1.3.1. Bước chân các nhà truyền giáo ....................................................................... 41

1.3.2. Hoạt động buôn bán của các nước phương Tây .............................................. 47

1.3.3. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp .................................................................. 53

CHƯƠNG 2. CHỮ QUỐC NGỮ - SẢN PHẨM CỦA QUAN HỆ VĂN HÓA GIỮA NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ...................................................................... 59

2.1. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ ...................................................................... 59

2.1.1. Thời kì sơ khai (thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII) ......................................... 59

5

2.1.2. Thời kì bước đầu phát triển (nửa sau thế kỉ XVII – cuối thế kỉ XVIII) .......... 62

2.1.3. Thời kì phát triển mạnh mẽ (từ thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX) ......................... 66

2.2. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ ........ 69

2.3. Chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và Nho học ở Nam Kỳ .................................................................................................................... 80

2.3.1. Tình hình Nho học và ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ.................. 80

2.3.1.1. Tình hình Nho học ................................................................................... 80

2.3.1.2. Ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ ............................................. 86

2.3.2. Chữ quốc ngữ trong các cải cách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ ........... 94

Chương 3. VAI TRÒ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC VĂN HÓA – XÃ HỘI Ở NAM KỲ .......................................................................... 103

3.1. Giáo dục ............................................................................................................. 103

3.2. Báo chí ................................................................................................................ 111

3.3. Văn học ............................................................................................................... 125

3.4. Nghệ thuật sân khấu ........................................................................................... 133

3.4.1. Tuồng ............................................................................................................ 133

3.4.2. Cải lương ....................................................................................................... 135

3.4.3. Kịch nói ......................................................................................................... 136

3.5. Di sản Hán – Nôm .............................................................................................. 138

3.6. Quá trình đô thị hóa ............................................................................................ 141

3.7. Hoạt động đấu tranh cách mạng ......................................................................... 144

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 155

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 160

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quan hệ văn hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây là một vấn đề lớn trong

tiến trình lịch sử văn hóa nói riêng và tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung.

Mối quan hệ này đã tạo ra những chuyển biến về mô hình văn hóa, hình thành các hình

thức sinh hoạt văn hóa mới ở Việt Nam, tạo nên những giá trị văn hóa mới, hiện đại

hơn. Quá trình tiếp xúc văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây cũng để lại nhiều sản

phẩm văn hóa có giá trị, trong đó có chữ quốc ngữ, một thứ ngôn ngữ viết ghi lại ngôn

ngữ nói của người Việt theo ký tự Latinh.

Trong khi đó, ngôn ngữ nói chung luôn đóng vai trò là một phương tiện truyền

đạt văn hóa, chuyển giao văn hóa, làm cho văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế

hệ khác. Ngôn ngữ là một hệ thống các tín hiệu, ký hiệu có ý nghĩa chuẩn, giúp cho

các thành viên trong xã hội có thể truyền đạt thông tin được với nhau. Ngôn ngữ là

phương tiện biểu đạt những suy nghĩ, những cảm nhận của con người về cuộc sống

xung quanh. Có hai dạng ngôn ngữ: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Lời nói thường có

trước, đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, chữ viết mới ra đời. Đó là

thành quả văn hóa quan trọng của toàn nhân loại và đối với mỗi dân tộc. Chữ viết có

thể được du nhập từ bên ngoài. Trong lịch sửViệt Nam, sự ra đời của chữ quốc ngữ là

một bước ngoặt lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa của dân tộc, kéo dài hàng

thế kỷ cho đến tận thời đại ngày nay.

Chính vì vậy, ngày nay, tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp của người

Việt trên mọi miền đất nước, mà còn là phương tiện giao tiếp chung của đại gia đình

các dân tộc Việt Nam, là phương tiện của Việt Nam trong giao lưu và hợp tác quốc tế.

Vì thế, tiếng Việt không những trở thành đối tượng học tập, nghiên cứu của người Việt

Nam, mà còn của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và bạn bè quốc tế. Do đó, là người

Việt Nam chúng ta không thể không quan tâm đến quá trình hình thành và vai trò của

chữ quốc ngữ đối với văn hóa người Việt.

Trong chương trình lịch sử ở bậc trung học phổ thông, những nội dung về văn

hóa, sự chuyển biến văn hóa nói chung và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam từ

khichữ quốc ngữ xuất hiện nói riêng hầu như chưa được chú trọng làm rõ. Vì vậy, thực

7

hiện đề tài này, người viết hy vọng khẳng định, làm rõ vai trò của chữ quốc ngữ và nêu

bật những biến đổi của văn hóa Việt Nam từ khi chữ quốc ngữ ra đời.

Ngoài ra, nghiên cứu quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa

của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây sẽ đóng góp một nguồn tư liệu phục vụ cho

việc nghiên cứu lịch sử nói chung và giảng dạy lịch sử ở trung học phổ thông nói

riêng, cụ thể ở các đơn vị bài học như: Bài 24 – Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI –

XVIII (Sách giáo khoa lịch sử 10 – cơ bản, NXB Giáo dục, 2009); bài 23 – Phong trào

yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất

(1914) (Sách giáo khoa lịch sử 11 – cơ bản, NXB GD, 2010)

Như vậy, việc tìm hiểu quá trình lịch sử của chữ Quốc ngữ trong quan hệ văn hóa

của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây, để làm rõ vị trí, vai trò của nó đối với văn hóa

Việt Nam là một mảng khá quan trọng và cần thiết trong lịch sử ngôn ngữ Việt Nam

nói riêng và lịch sử văn hóa người Việt nói chung.Trong đề tài này, người viết tập

trung vào vấn đề chính là quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ dưới góc độ là sản phẩm

của quan hệ văn hóa phương Tây với vùng đất Nam Kỳ, qua đó nhấn mạnh vai trò, sự

tác động trở lại của chữ quốc ngữ đến một số loại hình văn hóa ở Nam Kỳ.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, danh từ “quốc ngữ” được dùng để chỉ hai loại

văn tự khác nhau của người Việt. Khi chữ Nôm xuất hiện, danh từ “quốc ngữ” cũng

được dùng để chỉ chữ Nôm, có ý nói chữ Nôm là “tiếng nói nước mình”. Hiện nay và

trong luận văn này, “quốc ngữ” được hiểu là chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự Latinh,

được các các giáo sĩ phương Tây hồi thế kỉ XVI - XVIII sáng chế ra nhằm mục đích

truyền giáo, cùng với sự giúp sức của một số người Việt. Dùng mẫu tự của châu Âu để

ghi âm của người Việt. Do vậy, sư ra đời của chữ quốc ngữ được xem là sản phẩm trực

tiếp của mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây

“Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ” được tái hiện trong luận văn này là các

bước tiến, các bước phát triển của chữ quốc ngữ từ lúc mới xuất hiện, còn rất sơ khai

cho đến khi trở thành một thứ chữ hoàn chỉnh, trơn bén như ngày nay. Đây là một quá

trình lâu dài, gắn liền với những thời kì lịch sử khác nhau tương ứng với những vị trí

khác nhau của chữ quốc ngữ, từ một thứ chữ chỉ dùng trong các nhà thờ cho đến một

8

công cụ chính trị và cuối cùng là chữ viết chính thức của một quốc gia độc lập. Tìm

hiểu “quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ” có thể phản ánh được bức tranh giao lưu văn

hóa giữa Việt Nam và Phương Tây trên một số lĩnh vực văn hóa.

“Nam Kỳ” là tên gọi trước kia của Nam Bộ ngày nay, được đặt từ năm 1834 dưới

triều Nguyễn. Theo chỉ dụ năm Minh Mệnh 15 (1834), ngoài Kinh sư gồm kinh đô và

phủ Thừa Thiên, cả nước được chia thành các khu vực quản lý hành chính bao gồm:

Tả trực (Quảng Nam, Quảng Ngãi), Hữu trực (Quảng Trị, Quảng Bình), Tả kỳ (Bình

Định, Khánh Hòa), Hữu kỳ (Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa), Bắc kỳ (Hà Nội, Ninh

Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên

Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng) và Nam kỳ (Gia Định, Biên

Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Dân gian thường dùng tên gọi

“Nam Kỳ Lục tỉnh”, hoặc chỉ gọi tắt là Lục tỉnh. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, Lục

tỉnh được chia đặt nhiều lần, cuối cùng thành 21 tỉnh.

“Phương Tây” là thuật ngữ có nguồn gốc hoàn toàn từ châu Âu, phương Tây của

châu Âu. Trong thời kì cổ đại, “phương Tây” được dùng để chỉ khu vực phía Tây Địa

Trung Hải, về sau có thêm Bắc Mỹ. Dưới góc độ của người phương Đông, “phương

Tây” ở đây còn để chỉ các vùng đất châu Âu trong buổi đầu khi có sự tiếp xúc của

người châu Âu với người châu Á. “Phương Tây” được hiểu trong đề tài này là những

quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ [43,tr.15]

“Quan hệ văn hóa” là một hiện tượng văn hóa phổ biến, được nhiều ngành khoa

học xã hội quan tâm nghiên cứu. Ngay khi xã hội loài người chưa đạt đến trình độ văn

minh, các mối giao lưu, quan hệ văn hóa của nhân loại cũng đã diễn ra một cách lâu

dài và bền bỉ. Có nhiều loại quan hệ văn hóa với những dạng thức khác nhau và đem

lại những kết quả khác nhau: Tiếp biến văn hóa (acculturation), Đồng hóa văn hóa

(assimilation), Hỗn dung văn hóa hay lai tạo văn hóa (amalgamation, hybridization).

“Mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam Kỳ với phương Tây” được hiểu là sự

tiếp nhận những yếu tố bên ngoài của yếu tố chủ thể là Nam Kỳ trên cơ sở tiếp nhận,

kế thừa những thành tựu văn hóa nổi bật của phương Tây, làm phong phú, hiện đại

thêm cho văn hóa Nam Kỳ, từ việc biến đổi mô hình văn hóa đến việc xuất hiện các

loại hình văn hóa mới theo hướng phương Tây hóa (chữ viết, báo chí, kịch nói, đô thị

9

hóa), hoặc làm biến đổi những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ (giáo dục,

văn học, nghệ thuật, hoạt động yêu nước)

Luận văn xem xét quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối quan hệ văn hóa

giữa Nam Kỳ với phương Tây từ khi có những cuộc tiếp xúc đầu tiên của người châu

Âu khi họ đặt chân đến Nam Kỳ với người Việt, cho đến những năm đầu thế kỉ XX

khi mà chữ quốc ngữ đã trở nên hoàn chỉnh, thay thế hoàn toàn chữ Nho và tiếp tục tạo

ra những chuyển biến mới theo hướng phương Tây hóa cho văn hóa Nam Kỳ, có thể

đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX. Tất cả những vấn đề liên quan được luận văn

tập trung làm rõ ngay chính trên không gian là vùng đất Nam Kỳ.

3. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chính, kết

hợp với phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh để tìm hiểu vấn đề.

Phương pháp lịch sử là phương pháp trình bày những sự kiện cụ thể theo trình tự

thời gian. Theo đó, người viết trình bày quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối

quan hệ văn hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây theo trình tự thời gian. Quá

trình hình thành vùng đất Nam Kỳ được trình bày từ khi chúa Nguyễn lập nên xứ

Đàng Trong cho đến khi lãnh thổ Đàng Trong được mở rộng đến tận Nam Bộ ngày

nay. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ được trình bày từ thế kỉ XVI khi nó manh nha

xuất hiện trong các tài liệu của những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đến đầu thế kỉ XX

khi quốc ngữ trở thành một chữ viết hoàn chỉnh và thống nhất trong cả nước Việt

Nam. Chữ quốc ngữ trong chính sách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ cũng dược

trình bày thông qua các chủ trương, chính sách cải cách giáo dục của người Pháp theo

trình tự từ 1862 cho đến đầu thế kỉ XX khi quốc ngữ đã góp phần xác lập nền giáo dục

mới trên đất Nam Kỳ.

Phương pháp logic là phương pháp khái quát các sự kiện lịch sử trên những nét

chung, theo từng vấn đề, nhằm rút ra đặc điểm và bản chất của sự kiện. Do vậy, khi

tìm hiểu quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối quan hệ văn hóa của Nam Kỳ

với phương Tây, tác giả luận văn cũng tuân thủ theo đúng phương pháp logic. Khi

trình bày về văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Kỳ, tác giả lựa chọn những đặc trưng

tiêu biểu, từ đó lý giải nguồn gốc những đặc trưng đó, so sánh, đối chiếu những đặc

10

điểm văn hóa Đàng Trong với đặc trưng văn hóa truyền thống của người Việt, để rút ra

những thuận lợi và khó khăn khi nó tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Cũng tương tự

như vậy khi tác giả luận văn trình bày những đặc trưng của văn hóa phương Tây và rút

ra những tác động của những đặc trưng đó đối với cuộc tiếp xúc và giao lưu của văn

hóa ở Nam Kỳ. Những con đường dẫn đến quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương

Tây cũng được người viết trình bày theo từng vấn đề: công cuộc truyền giáo, hoạt

động thương mại, công cuộc xâm lăng của người Pháp; mỗi vấn đề tác giả đều có lý

giải bối cảnh, biểu hiện và tác động của nó đến sự ra đời của chữ quốc ngữ, đến cuộc

tiếp xúc văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn

hóa của người Pháp cũng được trình bày theo từng chính sách của người Pháp trên các

lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều thể hiện những mục đích, những biện pháp của

chính quyền thực dân khi sử dụng chữ quốc ngữ, để đi đến nhận thức về mục đích

chung của chính quyền thực dân là thiết lập ảnh hưởng lâu dài của văn hóa Pháp ở

Nam Kỳ, loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Khi trình bày ảnh hưởng, vai trò

của chữ quốc ngữ đến một số lĩnh vực văn hóa xã hội Nam Kỳ, người viết cũng lựa

chọn theo từng loại hình văn hóa tiêu biểu để làm rõ nguyên nhân chuyển biến hay

xuất hiện mới của nó, biểu hiện của sự chuyển biến, và rút ra nhận thức về tác động

của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Việt Nam.

Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp nghiên cứu gắn

bó chặt chẽ với nhau. Muốn hiểu bản chất và quy luật của sự vật thì phải biết về quá

trình phát sinh, phát triển của nó. Mặt khác có nắm được bản chất và quy luật của sự

vật mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp

lịch sử cũng phải nắm lấy cái logic, phải rút ra sợi dây logic chủ yếu của lịch sử thông

qua việc phân tích các sự kiện và hiện tượng cụ thể. Còn phương pháp logic phải dựa

trên các tài liệu lịch sử để khái quát, chứng minh và cuối cùng đem lại lịch sử trong

tính bản chất của nó. Lịch sử mà thiếu logic sẽ mù quáng, còn logic mà thiếu lịch sử

thì không có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tự biện. Do vậy, tác giả luận văn luôn sử

dụng kết hợp hai phương pháp lịch sử và logic.

Phương pháp chuyên gia mà người viết sử dụng biểu hiện ở những quan điểm,

nhận định về chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây và

11

vai trò của nó đối với văn hóa người Việt của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, thể

hiện trong các chuyên khảo, công trình nghiên cứu. Đây là những cơ sở để tác giả luận

văn tìm hiểu và trình bày vấn đề, đồng thời nêu lên ý kiến tán đồng hay phản biện, bổ

sung do sự hạn chế về tài liệu gốc mà tác giả chưa có điều kiện tiếp cận.

Phương pháp so sánh được tác giả luận văn sử dụng khi trình bày bối cảnh của

mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây để chỉ ra sự khác nhau về điểm

xuất phát, về đặc trưng của hai nền văn hóa, từ đó đánh giá, nhận định về cách thức

tiếp nhận yếu tố văn hóa bên ngoài của người Việt, về bản chất của văn minh phương

Tây và nhìn nhận về điểm xuất phát của chữ quốc ngữ. Phương pháp so sánh còn được

người viết sử dụng khi đối chiếu chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính

quyền thực dân với chữ quốc ngữ trong ứng xử của Nho gia, của những nhà cách mạng

Việt Nam, từ đó đánh giá sự khác nhau về mục đích của hai đối tượng này khi họ sử

dụng chữ quốc ngữ, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong hành động của họ đối

với chữ quốc ngữ.

Các phương pháp trên được tác giả luận văn vận dụng liên tục, đan xen trong

suốt quá trình thực hiện đề tài theo trình tự như sau: Mở đầu là bối cảnh dẫn đến cuộc

tiếp xúc và giao văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây, ba con đường chính để thực

hiện mối quan hệ văn hóa này, trong đó đặc biệt quan trọng là bước chân của các nhà

truyền giáo, những người trực tiếp sáng chế ra chữ quốc ngữ; tiếp đến là sự hình thành

chữ quốc ngữ với tư cách là một sản phẩm của quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với

phương Tây, từ trong tay các nhà truyền đạo, quốc ngữ trở thành công cụ chiến lược

trong chính sách văn hóa của người Pháp, một cơ chế được áp đặt trong giáo dục, đồng

thời cũng là phương tiện đấu tranh hữu hiệu của giới sĩ phu Nho học. Cuối cùng là ảnh

hưởng mạnh mẽ của quốc ngữ đến đời sống văn hóa – xã hội Nam Kỳ trên những lĩnh

vực tiêu biểu: giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, di sản Hán – Nôm, quá trình đô

thị hóa và đấu tranh cách mạng, để chứng minh quốc ngữ đã là chữ viết hoàn chỉnh và

thống nhất, một phương tiện năng động và tạo ra sự chuyển biến lớn trên nhiều lĩnh

vực văn hóa – xã hội ở Nam Kỳ.

12

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Các vấn đề liên quan đến quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn

hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây đã được các nhà khoa học quan tâm,

nghiên cứu, thể hiện qua một số công trình sau:

Công trình Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 – 1659của Đỗ Quang Chínhnăm 1972 có

có 167 trang, bàn về lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ giai đoạn 1620 – 1659 hầu hết

dựa trên các tài liệu viết tay của các giáo sĩ bấy giờ với 4 phần lớn: Trình bày những

nhận xét của một số người Tây phương về tiếng Việt; khái quát các giai đoạn hình

thành chữ quốc ngữ từ 1620 đến 1648, chủ yếu giới thiệu hình dạng của chữ quốc ngữ

được thể hiện trên các tài liệu viết tay của giáo sĩ phương Tây ; giới thiệu chữ quốc

ngữ dưới thời của Linh mục Alexandre De Rhodes thông qua Từ điển Việt – Bồ - La

và sách Phép giảng tám ngày dượ xuất bản năm 1651 ; giới thiệu chữ quốc ngữ trong

các tài liệu viết tay năm 1659 của hai linh mục người Việt Nam.

Nguyễn Văn Trung với công trình Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc

được nhà xuất bản Nam Sơn ấn hành năm 1975 gồm 73 trang là một công trình tập

hợp khá đầy đủ những bước tiến của chữ quốc ngữ từ lúc người Pháp áp đặt guồng

máy cai trị của họ tại Nam Kỳ thông qua những thông tư, nghị định, quyết định của

nhà cầm quyền Pháp. Đó cũng là lúc chữ quốc ngữ vượt ra khỏi nhà thờ, lan tỏa sang

các lĩnh vực hành chính, văn hóa, giáo dục. Tác giả nhìn nhận quá trình phát triển của

chữ quốc ngữ trong sự liên hệ mật thiết với chính sách cai trị của chính quyền Pháp,

những người làm công việc áp đặt văn minh phương Tây lên Nam Kỳ.

Tác giả Đặng Đức Siêu trong công trìnhChữ viết trong các nền văn hoáxuất bản

năm 1982 dài 179 trang sau khi đã giới thiệu về chữ viết từ thời cổ đại ở cả phương

Đông lẫn phương Tây cũng dành một phần cuối của công trình để bàn về các loại chữ

viết ở Việt Nam, có cả chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ đã được tác giả Đặng Đức Siêu

dành cho một vị tríngang hàng với các loại chữ viết khác ở những nền văn minh lớn.

Tác giả làm rõ chữ quốc ngữ từ lúc mới hình thành cho đến khi trở thành một vũ khí

cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của tác giả Hoàng Tiến có tênChữ

Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ 20 được nhà xuất bản Thanh niên ấn

13

hành năm 2003 là một công trình có giá trị khi nghiên cứu về quá trình hình thành và

hoàn thiện của chữ quốc ngữ trong tất cả 281 trang. Sau phần dẫn luận, và giới thiệu

về chữ Hán, chữ Nôm, tác giả đi thẳng vào giải thích nguồn gốc của chữ quốc ngữ, ra

đời trong bối cảnh người phương Tây đến châu Á và Việt Nam để truyền đạo, buôn

bán. Tiếp đến,tác giả đề cập đến cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ XX để đưa quốc

ngữ trở thành một chữ viết ngày càng hoàn thiện và đi sâu vào quần chúng. Quá trình

này được thực hiện thông qua các tờ báo đầu tiên, trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hội

dịch sách, việc sáng tác, in ấn… để cuối cùng quốc ngữ tác động trở lại. Ở phần này,

tác giả Hoàng Tiến chỉ nêu những tác động của chữ Quốc ngữ đến một số lĩnh vực văn

hóa xã hội Việt Nam mà chưa đi sâu lý giải và nêu rõ biểu hiện của sự tác động ấy.

Công trình Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ của tác giả Hoàng Xuân Việt được

xuất bản năm 2007 dài479 trang là một cuốn sách có ích trong việc cung cấp những sử

liệu ngôn ngữ học về sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ trong cái nhìn so

sánh với chữ Nôm, đặc biệt là chữ quốc ngữ ở Nam Bộ. Nhìn chung, công trình này

được chia làm bốn nội dung chính. Đầu tiên, tác giả giới thiệu về bối cảnh lịch sử của

chữ quốc ngữ, tiếp đến là giới thiệu những dạng chữuốc ngữ đầu tiên được ghi âm theo

hệ thống kí hiệu Ý – Bồ Đào Nha. Liên tục như vậy, tác giả trình bày những cuộc

chỉnh lý của chữ quốc ngữ từ 1772 đến 1838 dần trở thành một thứ chữ hoàn chỉnh

như ngày nay. Cuối cùng, tác giả Hoàng Xuân Việt phân tích sự bùng phát của chữ

quốc ngữ kể từ năm 1865 trở đi, khi Gia Định báo ra đời, hình thành nên một mặt trận

văn hóa mới mà chữ quốc ngữ đóng vai trò chủ đạo, thể hiện qua văn học, báo chí, tư

tưởng, giáo dục… Tác giả luận văn tham khảo ở tài liệu này từ phần hai trở đi, nhiều

nhất là ở phần bốn để làm rõ tầm ảnh hưởng của chữ quốc ngữ đến văn hóa xã hội

Nam Kỳ.

Tác giả Nguyễn Phú Phong có công trình Việt Nam – chữ viết, ngôn ngữ và xã

hội được nhà xuất bản Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2005là

một công trình trước hết mô tả sự hình thành của chữ Nôm và chữ quốc ngữ, hai thứ

chữ viết của tiếng Việt và một cái nhìn đối chiếu được đưa ra. Việc nhìn nhận và áp

dụng chữ quốc ngữ như chữ viết chính thức của tiếng Việt, những tranh cãi của nhà

cầm quyền Pháp xoay quanh vấn đề này, các chặng đường từ lúc hình thành cho tới

14

khi thắng lợi hoàn toàn để trở thành quốc tự Việt Nam đều được tác giả đề cập đến với

khá nhiều chi tiết dưới những khía cạnh khác nhau. Cuộc hành trình của chữ quốc ngữ

qua không gian và thời gian, qua cảm nhận và tác động của những nhân vật lịch sử

suốt gần một thế kỉ Pháp thuộc đều được tác giả ghi nhận đầy đủ.Những nội dung

đóđược tác giả trình bày trong 144 trang với hai phần lớn. Phần I (gồm ba chương) tác

giả đặt trọng tâm vấn đề vào mặt kĩ thuật chữ viết, nghiên cứu tiếng Việt và những

cuộc tranh luận chung quanh chữ quốc ngữ. Phần II (gồm năm chương), tác giả giới

thiệu sự phát triển của chữ quốc ngữ, trong đó hướng về các đề tài như chữ viết và

ngôn ngữ, chữ viết và văn học, chữ viết và giáo dục. Đây là phần tham khảo chính của

tác giả luận văn.

Tác giả Đoàn Thiện Thuật có công trình Chữ quốc ngữ thế kỉ XVIII ấn hành năm

2008 tuy hơi thiên về lĩnh vực ngôn ngữ học, nhưng đây cũng có thể được xem là một

tập tư liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ thế kỉ XVIII, bởi thế kỉ

XVIII chúng ta chỉ có tư liệu để lại là cuốn “Từ điển Việt – Latinh” của P. de Béhaine.

Tác giả công bố các tư liệu dưới dạng ảnh nên có tính trung thực cao. Ngoài giá trị về

mặt nghiên cứu chữ quốc ngữ, tài liệu này cũng rất cần cho nghiên cứu lịch sử ngữ âm,

lịch sử từ vựng, lịch sử ngữ pháp tiếng Việt với độ dài 509 trang.

Gần đây nhất, năm 2013, nhà báo, nhà vănTrần Nhật Vy cho tập hợp những bài

viết của mình đăng trên báo Tuổi trẻ và xuất bản thành cuốnChữ quốc ngữ - 130 năm

thăng trầm. Đây là một công trình biên khảo gồm 259 trang. Tác giả đã sưu tầm,

nghiên cứu về sự ra đời của chữ quốc ngữ từ nhiều nguồn tư liệu dồi dào và ghi nhận

chữ quốc ngữ đã phát triển qua bao thăng trầm, sóng gió. Qua tập sách này, tác giả còn

cho người đọc biết việc sáng tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với mục

đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Tất nhiên, những sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây

không thể không có sự góp phần của người bản xứ. Tác giả còn khẳng định giá trị của

chữ quốc ngữ trong một nền báo chí và văn học mớiở Nam Kỳ từ năm 1865 cho đến

đầu thế kỷ XX.

Cũng trong năm 2013, tác giả Đỗ Quang Hưng và Trần Viết Nghĩa có công trình

Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại do nhà xuất bản

chính trị quốc gia ấn hành, gồm 388 trang. Trong đó, các tác giả đã khẳng định cuộc

15

tiếp xúc văn hóa Đông – Tây ở Nam Kỳ là một vấn đề lớn của lịch sử dân tộc. Quá

trình đó đã dần tạo ra những chuyển biến văn hóa – xã hội ở Nam Kỳ, làm xuất hiện

những hình thức sinh hoạt văn hóa mới. Chữ quốc ngữ được các tác giả thừa nhận là

một trong những loại hình văn hóa mới đó, là sản phẩm của cuộc tiếp xúc với văn

minh phương Tây đã tạo ra những chuyển biến lớn đến các hình thức sinh hoạt văn

hóa khác ở Nam Kỳ: giáo dục, báo chí, kịch nói, văn học.

Các công trình nghiên cứu vừa nêu là nguồn tài liệu tham khảo hết sức hữu ích

để người viết thực hiện luận văn này và có nhìn nhận toàn diện hơn về vấn đề đang tìm

hiểu. Hầu hết các công trình trên đều tập trung làm rõ nguồn gốc và quá trình hình

thành chữ quốc ngữ, khẳng định chữ quốc ngữ là một phương tiện chuyển tải văn hóa

phương Tây, một số có đề cập đến vai trò của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Việt Nam

trên các lĩnh vực như văn học, báo chí, giáo dục… nhưng vẫn chỉ ở mức độ khái quát

mà chưa có sự cụ thể, chi tiết và hệ thống, chưa làm rõ biểu hiện của những chuyển

biến văn hóa xã hội. Vì vậy, luận văn này hy vọng bước đầu góp phần tìm hiểu sâu

hơn về những tác động của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Nam Kỳ trên một số lĩnh

vực chủ yếu.

5. Đóng góp mới của luận văn

- Luận văn có sự tổng hợp từ những nguồn tài liệu phong phú, bao gồm tư lệu

gốc, chuyên khảo, các bài nghiên cứu có giá trị khoa học, trình bày đầy đủ các vấn đề

thuộc lĩnh vực chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây,

góp thêm nhận định về nguồn gốc của chữ quốc ngữ, tính chất của nó qua từng thời kì,

từng đối tượng sử dụng, và nhấn mạnh những chuyển biến văn hóa – xã hội do nó

mang lại, công lao của quốc ngữ đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng, đóng góp

thêm một số nhận định và nhận thức về các vấn đề lịch sử Việt Nam.

- Luận văn cũng góp phần mô tả về quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa Việt

Nam - phương Tây trên lĩnh vực giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, hành chính mà

chữ quốc ngữ đóng vai trò là người trung gian.

- Kết quả và tư liệu của luận văn góp phần cung cấp thêm nguồn tài liệu tham

khảo cho học viên cao học, giáo viên, sinh viên, học sinh trung học phổ thông và

16

những người quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử chữ quốc ngữ, lịch

sử công cuộc tiếp xúc văn hóa Việt Nam với phương Tây nói riêng.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Bối cảnh quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam Kỳ với phương

Tây

Nam Kỳ được hình thành trong quá trình xác lập lãnh thổ Đàng Trong của chúa

Nguyễn. Tính cởi mở, năng động của vùng đất mới là cơ hội để Nam Kỳ dễ dàng tiếp

nhận những yếu tố văn hóa bên ngoài, nhất là văn hóa phương Tây đang trên đà lan

tỏa, mở rộng. Hai nền văn hóa gặp nhau thông qua các con đường: truyền giáo, thương

mại và xâm lược. Chữ quốc ngữ được sản sinh ra trong bối cảnh đó. Do vậy, chương I

được tác giả luận văn trình bày thành 3 vấn đề: Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc

với văn hóa phương Tây; sự phát triển của văn minh phương Tây; những con đường

du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây.

Chương 2: Chữ quốc ngữ - Sảnphẩm của quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với

phương Tây

Là sản phẩm trực tiếp của cuộc tiếp xúc văn hóa phương Tây ở Nam Kỳ, chữ

quốc ngữ hình thành qua một quá trình lâu dài, gắn liền với nhu cầu truyền đạo của các

giáo sĩ phương Tây. Tuy nhiên, vừa mới ra đời, chữ quốc ngữ đã được chính quyền

thực dân tìm cách biến thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho chính sách văn hóa, giáo

dục, nhằm khẳng định ảnh hưởng của văn minh phương Tây lên đất Nam Kỳ, ý định

xóa bỏ Nho học đang trên đà suy đồi. Giới sĩ phu Việt Nam cũng nhận ra lợi thế của

chữ quốc ngữ, nên đã ra sức cổ vũ học tập quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vì thế càng được

dịp lan tỏa. Chương II được tác giả chia thành 3 phần nhỏ: quá trình hình thành chữ

quốc ngữ; chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ;

chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và Nho học ở

Nam Kỳ.

Chương 3: Vai trò của chữ quốc ngữ trong một số lĩnh vực văn hóa – xã hội

ở Nam Kỳ

17

Sau khi đã hoàn thiện và trở thành chữ viết thống nhất, được áp đặt cho một nền

giáo dục mới, bắt buộc trong các cơ quan hành chính, báo chí, chữ quốc ngữ được dịp

chứng tỏ sức ảnh hưởng của mình đến hầu hết mọi lĩnh vực văn hóa – xã hội của

người Việt, làm chuyển biến những loại hình văn hóa truyền thống theo hướng phương

Tây hóa, đồng thời du nhập những loại hình văn hóa mới có nguồn gốc từ phương

Tây. Do vậy, ở chương III, tác giả luận văn làm rõ vai trò của chữ quốc ngữ trên các

lĩnh vực: giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, di sản Hán – Nôm, quá trình đô thị

hóa, đấu tranh cách mạng.

18

Chương 1.

BỐI CẢNH QUAN HỆ VĂN HÓA

GIỮA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY

Nam Kỳ là tên gọi của vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Trước khi có cuộc

tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Nam Kỳ được hình thành trong bối cảnh của những

biến động chính trị - xã hội ở Đại Việt, dẫn đến công cuộc mở cõi của các chúa

Nguyễn về phía Nam. Vớivị trí địa lý mang tính chiến lược trên con đường hàng hải

quốc tế, Nam Kỳ nhanh chóng tỏ ra là một địa điểm thu hút đông đảo người phương

Tây đến giao lưu buôn bán, tìm kiếm thị trường, nhất là trong bối cảnh châu Âu đang

phát triển mạnh mẽ về kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự bùng nổ của nền văn minh công

nghiệp.

1.1. Văn minh phương Tây thời cận đại

1.1.1. Khái niệm văn minh và sự phân biệt “phương Tây”,“phương Đông”

Từ “văn minh” (civilisation, civilization) trong các ngôn ngữ phương Tây đều có

nguồn gốc Latinh là civitas, nghĩa là trạng thái đã được khai hóa, thoát khỏi trạng thái

nguyên thủy, không còn trong tình trạng ăn lông ở lỗ, hái lượm... mà đã định cư thành

những cộng đồng. Civitas cũng có nghĩa là tình trạng đã có quốc gia, chính quyền, luật

pháp.

Theo GS. Trần Quốc Vượng, văn minh là khái niệm được dùng để chỉ trình độ

phát triển về vật chất và tinh thần của con người ở vào trạng thái phát triển cao nhất

của nền văn hóa, trong một thời kì lịch sử nào đó [121, tr.19-20]. Các yếu tố căn bản

của văn minh bao gồm: “sự phóng xa về kinh tế, sự tổ chức chính trị, những truyền

thống luân lý và sự tăng tiến tri thức, phát triển nghệ thuật” [123, tr.32].

Trên thế giới, các nền văn minh không đứng cô lập và bất biến mà thường xuyên

diễn ra sự tiếp xúc và giao lưu. “Xuyên suốt và điển hình nhất” [70, tr.12] là quá trình

tiếp xúc và giao lưu giữa các nền văn hóa và văn minh phương Đông với phương Tây.

Để có cái nhìn toàn diện về quá trình này, cần có sự phân biệt các thuật ngữ “phương

Tây”, “phương Đông”.

19

Thuật ngữ “phương Tây” có nguồn gốc hoàn toàn từ châu Âu. Thời cổ đại, khi

vùng ven Địa Trung Hải có nhiều trung tâm buôn bán, người ta dùng thuật ngữ

“phương Tây” để chỉ khu vực phía Tây Địa Trung Hải.

Trong buổi đầu của sự tiếp xúc Đông – Tây, trong cái nhìn của người phương

Đông, các thuật ngữ phương Tây, Tây Âu, Tây Dương, Thái Tây… có một ý nghĩa đơn

giản và liên hệ nhiều đến phương hướng, để chỉ các vùng đất châu Âu của người châu

Âu với các đặc điểm về chủng tộc như: da trắng, tóc và lông màu hung đỏ, mà trước

đây người phương Đông thường hay gọi là “bạch quỷ” hay “hồng mao”…có những

tập tục, truyền thống, lối sống khác hẳn với người phương Đông. Do vậy, khái niệm

phương Tây còn được người phương Đông dùng với ý nghĩa chỉ chủng tộc người da

trắng mà không cần phân biệt người đó là người Âu hay người Mỹ.

Theo thời gian, do hoàn cảnh lịch sử, thuật ngữ “phương Tây” bao gồm thêm cả

Bắc Mỹ. Có cách hiểu như vậy vì người ta thấy có sự tương đồng về các yếu tố của

văn minh như: lý luận và tổ chức chính trị, lý luận và tổ chức kinh tế, hoàn cảnh sinh

hoạt xã hội.

Trong thời kì chiến tranh lạnh, sau khi các nước Đông Âu tuyên bố đi theo con

đường xã hội chủ nghĩa và sau bài diễn văn của Tổng thống Mỹ H. Truman (3 – 1947),

các nước Tây Âu đã tập hợp lại với nhau thành một khối để chống lại “nguy cơ chủ

nghĩa xã hội”. Từ đó, thuật ngữ “phương Tây” thường được dùng để chỉ các nước tư

bản chủ nghĩa, là một thế giới đối lập với thế giới cộng sản.

Khái niệm “phương Tây” được dùng trong luận văn này với nghĩa bao gồm

những quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ.

“Phương Đông” cũng là một khái niệm có nội dung rất rộng. Từ thời cổ - trung

đại, cư dân hai bên bờ Địa Trung Hải dùng thuật ngữ “phương Đông” để chỉ vùng đất

nằm ở phía Đông Địa Trung Hải, nghĩa là vùng đất phía Mặt trời mọc. Dần dần cùng

với thời gian, tầm mắt và hiểu biết của con người cũng được mở rộng ra. Người châu

Âu với ưu thế phát triển của mình, qua các cuộc khám phá, những phát kiến địa lí, họ

thấy rằng vùng đất Mặt trời mọc không chỉ là vùng đất chật hẹp nằm ở phía Đông Địa

Trung Hải, mà còn là những vùng đất xa xôi bên kia các đại dương. Họ gọi là vùng đất

20

Tân thế giới. Từ đó còn có một cách hiểu mới về phương Đông: phương Đông là khu

vực các nước ngoài châu Âu và Bắc Mĩ.

Trong thế kỉ XIX, xuất phát từ quan điểm “lấy châu Âu làm trung tâm”, làm

điểm chuẩn, các học giả châu Âu đã gọi các khu vực Tây Á, Trung Á, Đông Á và

Đông Nam Á bằng những tên gọi “không chính xác” [43, tr.15] là Cận Đông (Near

East, Proche-Orient), Trung Đông (Middle East, Moyen-Orient) và Viễn Đông (Far

East, Extreme Orient).

Trong luận văn này, thuật ngữ “phương Đông” được hiểu là những quốc gia

thuộc các khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh.

Như vậy, vấn đề “phương Đông”, “phương Tây” là một vấn đề thuộc về nhận

thức, lúc đầu đơn thuần dùng để chỉ phương hướng, sau đó nó gắn liền với yếu tố lịch

sử và màu sắc chính trị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, sự phân biệt

hai khái niệm phương Đông và phương Tây về mặt văn hóa - văn minh cũng dần hình

thành và “mang một ý nghĩa tương đối, theo quy ước” [43, tr.15]. Khi đó, nhắc đến

Phương Đông, người ta nghĩ ngay đến một nền văn minh của những dòng sông lớn,

nền kinh tế nông nghiệp, những quốc gia quân chủ chuyên chế và những tôn giáo, hệ

tư tưởng đóng kín, không thay đổi. Văn hóa phương Đông thường chứa một tư duy

tổng hợp, cầu tính, duy linh, một hệ giá trị thiên về tinh thần, đạo đức tình nghĩa, mang

tính truyền thống cộng đồng, trong đó con người hòa đồng với tự nhiên, xã hội và tâm

linh. Văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Bộ của người Việt cũng mang những đặc

điểm chung của văn hóa phương Đông. Trong khi đó, văn minh phương Tây dựa trên

nền kinh tế thương mại đường biển, những thể chế chính trị đa dạng sớm tiếp cận đến

nền cộng hòa dân chủ, những trào lưu văn hóa tư tưởng luôn biến động và mang tính

chất mở. Văn hóa phương Tây thiên về lối tư duy phân tích, tuyến tính, duy lý, một hệ

giá trị đề cao sự tiến bộ, phát triển kinh tế vật chất, một con người cá nhân có ý thức

đấu tranh cho tự do và sự giải phóng. Thời cận đại, phương Tây thường gắn liền với

nền văn minh tư bản chủ nghĩa, một nền văn minh mang nhiều nét đặc trưng.

1.1.2. Những đặc trưng của văn minh phương Tây

Sau khi giành được thắng lợi trong các cuộc cách mạng tư sản, châu Âu đã tiến

hành cách mạng công nghiệp tạo nên một bước chuyển biến to lớn của lịch sử nhân

21

loại, làm xuất hiện nền văn minh công nghiệp, được xem là một nền văn minh tiên

tiến, lấn lướt cả nền văn minh nông nghiệp phương Đông “bị coi là thủ cựu, là lạc

hậu” [69, tr.361]. Văn minh phương Tây thời cận đại tiếp tục phát triển nhanh chóng

và hình thành những đặc trưng cơ bản.

Thứ nhất, đây là một nền văn minh công nghiệp và nhà nước hiện đại.

Châu Âu là nơi thực hiện thành công và trở thành trung tâm của cuộc cách mạng

công nghiệp, một sự kiện quan trọng của lịch sử xã hội loài người, đưa châu Âu đến

với văn minh công nghiệp. Khởi đầu là sự ra đời của máy móc và cải tiến kĩ thuật,

trước hết là trong ngành dệt, chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy.

Giai cấp tư sản Anh là những người đi đầu trong các phát minh và sử dụng máy móc.

Những kết quả bước đầu đó của nền văn minh công nghiệp nhanh chóng lan tỏa

khắp các nước Âu – Mỹ. Trình độ kĩ thuật ngày càng hoàn thiện với năng suất và độ

chính xác ngày càng cao đánh dấu những bước tiến rất cơ bản trong nền văn minh

công nghiệp châu Âu. Một hệ thống kĩ thuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt

thay cho hệ thống cũ dựa trên nước và gỗ tạo ra những đột biến với hiệu quả và chất

lượng cao hơn gấp bội, như năng lượng máy hơi nước so với năng lượng cối xay nước

và cối xay gió, vật liệu sắt so với vật liệu gỗ, nhiên liệu than so với củi gỗ, lao động

máy móc so với lao động thủ công, khuyến khích sản xuất mở rộng, các xí nghiệp lớn

xuất hiện, đẩy nhanh sự phát triển của hầu hết các ngành công nghiệp ở châu Âu: vận

tải đường thủy, đường sắt, luyện gang,…

Tuy nhiên, giá trị của nền văn minh công nghiệp phương Tây trong các thế kỉ

XVII – XIX đối với giao lưu và tiếp xúc văn minh Đông – Tây được thể hiện “trước

hết ở ngành hàng hải” [40, tr.52]. Cuối thế kỉ XV, tàu biển của Bồ Đào Nha đã có thể

vượt đại dương đi xa, vòng qua châu Á đến mũi Phi châu và khám phá ra châu Mỹ vào

năm 1492. Hà Lan là nước đã vượt lên Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong thế kỉ XVI

về hàng hải, trở thành bá chủ của nghề biển. Các nguyên tắc về ngân hàng, kế toán,

ngoại giao cũng phát triển nhằm phục vụ hàng hải. Công nghiệp hàng hải là phương

tiện để các nước phương Tây chuyên chở văn minh đến phương Đông, trong đó có cả

Nam Kỳ - Việt Nam. Giới thương nhân và các giáo sĩ là những người đã đem kĩ thuật,

máy móc, những tri thức khoa học từ châu Âu đến với phương Đông.

22

Cùng với sự phát triển của công nghiệp, văn minh phương Tây còn gắn liền với

những hình thức tổ chức nhà nước hiện đại, đó là thiết chế nhà nước tam quyền phân

lập. Từ thời Hy Lạp và La mã cổ đại, trên cơ sở tự nhiên và xã hội đã xuất hiện chế độ

chính trị và chính quyền dân chủ. Montesquieu (1689 - 1755) một nhà khai sáng Pháp

đã đưa ra tư tưởng về sự phân lập quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Các cuộc

cách mạng tư sản châu Âu sau khi lật đổ chế độ phong kiến đã xây dựng thể chế nhà

nước theo chế độ tam quyền phân lập. Đây là một thành tựu của nền văn minh nhân

loại được ra đời và áp dụng ở phương Tây tuân thủ nguyên tắc là quyền lực phải được

chế ngự bằng quyền lực. Không ai và không một đảng phái, tổ chức chính trị nào có

thể vượt lên trên hiến pháp và pháp luật, nhằm duy trì trật tự xã hội một cách công

bằng và bình đẳng.

Tóm lại, châu Âu là nơi khởi xướng và là trung tâm của cuộc cách mạng công

nghiệp, nơi tiến hành công nghiệp hóa sớm nhất. Sự phát triển kinh tế và kĩ thuật của

châu Âu với đầu tàu là các đô thị đã phá vỡ khuôn khổ nhà nước lãnh địa phong kiến

để hình thành nhà nước hiện đại.

Thứ hai, một nền văn minh mang đặc trưng Kitô giáo.

Từ đầu thế kỉ IV, khi Công giáo trở thành quốc giáo của đế chế La Mã, tôn giáo

này đã trở thành động lực lịch sử và văn hóa của nền văn minh châu Âu, “là sức mạnh

vật chất và tinh thần thúc đẩy quá trình hình thành các cộng đồng dân tộc và nhà

nước” [40, tr.53] ở châu Âu.

Từ thế kỉ XVI, cùng với các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, Kitô giáo đã hình

thành bốn nhóm phái tương ứng với các “khu vực văn hóa” của nền văn minh châu

Âu: Tây Âu với nét đặc trưng của Công giáo La Mã; Bắc Âu và một vài quốc gia Tây

Âu như Đức với nét đậm của Tin lành; Đông Âu, Nam Âu và Hy Lạp với Chính thống

giáo và Anh giáo trước hết của nước Anh. Vai trò của Kitô giáo ở mỗi khu vực tuy có

khác nhau nhưng đều có vị trí như một đặc trưng của văn minh châu Âu, “là thành

phần lớn nhất của tư tưởng châu Âu” [21, tr.471-472].

Trong thời cận đại, vai trò của Kitô giáo đối với văn minh phương Tây càng to

lớn khi làn sóng truyền đạo Kitô ra “các vùng đất ngoại” diễn ra ồ ạt, đặc biệt là sang

phương Đông, có cả Nam Kỳ. Việc truyền giáo một mặt nó là sự “mở nước Chúa” của

23

Công giáo La Mã sang các vùng đất ngoài châu Âu; mặt khác, ở bất cứ khu vực truyền

giáo nào, Công giáo La Mã luôn đóng vai trò là “sự hiện diện, cái cầu nối” [40, tr.54]

đầu tiên của nền văn minh châu Âu bất kể đó là các giáo sĩ thuộc dòng Tên

(Compagnie de Jesuites) của Bồ Đào Nha, dòng Đa Minh (Dominico), dòng Phan Sinh

(Phanxico) của Tây Ban Nha, dòng Âu Tinh (Augustino) của Italia hay của Hội truyền

giáo nước ngoài Paris (MEP) của Pháp. Các giáo sĩ không chỉ là người truyền giáo mà

họ còn đem đến cho vùng đất phương Đông những vật dụng hấp dẫn của nền văn minh

“Thái Tây” như đồng hồ, la bàn, sách vở, vải vóc cho đến thuốc lá, khoai tây và thuốc

súng. Các giáo sĩ khi đến Đàng Trong cũng dâng những vật dụng này lên các chúa

Nguyễn như là những món quà ra mắt.

Văn minh châu Âu không thể tách khỏi ảnh hưởng của Kitô giáo và ngược lại.

Trong suốt chiều dài lịch sử phương Tây, Kitô giáo “vẫn nằm ở vị trí trung tâm của

nền văn minh mà nó thúc đẩy, thậm chí ngay cả khi nó để cho nền văn minh đó cuốn

hút làm biến dạng” [21, tr.471-472]. Thông qua việc truyền bá đạo Thiên chúa, những

dấu ấn đầu tiên của nền văn minh phương Tây đã được in dấu ở phương Đông, đặc

biệt trong khu vực tam giác truyền giáo Goa (Ấn Độ) – Macao (Trung Quốc) – Manila

(Philippin). Nam Kỳ cũng là một vùng đất nằm trong khu vực truyền giáo ấy.

Thứ ba, một nền văn minh in đậm vai trò của cá thể.

Văn hóa truyền thống người Việt nói chung và Nam Kỳ nói riêng “không có chỗ

cho sự hình thành cá thể” [40, tr.56]. Đó là xã hội của cộng đồng, làng xóm, tộc họ. Cá

nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng làng xã, vào hệ quy chiếu đạo đức Nho

giáo.

Trong khi đó, đề cao con người và sự sáng tạo là một điểm nhấn trong văn hóa

phương Tây, được kế thừa từ truyền thống dân chủ thời Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa nhân

văn trong phong trào văn hóa Phục hưng, và tư tưởng của các nhà Khai sáng thế kỷ

XVIII. Tự do cá nhân là một trong những bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng tư sản

châu Âu, là bước tiến lớn của lịch sử tư tưởng và xã hội hiện đại, được thể hiện tập

trung và tiêu biểu ở ngọn cờ “Tự do – Bình đẳng – Bác ai”, ở Tuyên ngôn Độc lập của

nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền trong Cách mạng tư sản Pháp..

24

Chính nhân tố cá nhân và duy lý đã thúc đẩy sự ra đời của các phát minh, sáng chế

khoa học, buộc các thành viên trong xã hội phải nỗ lực vận động và tiến lên.

Khi tính cá thể được du nhập vào Nam Kỳ, đầu thế kỉ XX, những trí thức, các

nhà cải cách và những người cách mạng ở Việt Nam cũng đã khéo léo khai thác yếu tố

độc đáo, mới lạ về vai trò cá nhân của văn minh phương Tây để khắc phục một điểm

yếu quan trọng của văn hóa truyền thống người Việt, đó là quá đề cao tính cộng đồng

mà bỏ quên tính cá thể của con người.

Thứ tư, một nền văn hóa giáo dục phát triển.

Châu Âu là nơi có truyền thống giáo dục lâu đời và đã đạt được những thành tựu

to lớn trong giáo dục, hình thành một nền giáo dục tiến bộ, vừa là động lực vừa là

phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX

khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển ổn định và chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh

tranh sang chủ nghĩa đế quốc, nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội đã buộc các nước

tư bản phải chú trọng về phát triển giáo dục. Mục đích giáo dục phương Tây trong giai

đoạn này là chuẩn bị cho trẻ em có đủ trình độ và năng lực để đảm nhận việc quản lý

nhà nước và quản lý nền sản xuất hiện đại. Trong mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ

với phương Tây, việc áp dụng mô hình giáo dục phương Tây lên vùng đất này sẽ là

vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất của nhà cầm quyền Pháp, nhất là việc lựa chọn chữ

viết cho nền giáo dục.

Thứ năm, một nền văn minh gắn liền và lan tỏa nhờ chủ nghĩa thực dân.

Chủ nghĩa thực dân được hình thành ngay từ buổi đầu tích lũy nguyên thủy của

chủ nghĩa tư bản. Cùng với chủ nghĩa tư bản, nó là yếu tố quan trọng, phổ biến trong

việc tiếp xúc văn minh phương Tây của các nước phương Đông, là một trong những

yếu tố quyết định nhất của việc thực hiện “công nghiệp hóa cưỡng bức” đối với các xã

hội châu Á từ thế kỉ XIX.

Việc chinh phục châu Mỹ ở thế kỉ XVI, việc mở tung cánh cửa lục địa Ấn Độ

(1757) và thị trường Trung Quốc rộng lớn (1842) là những sự kiện lớn đánh dấu sự

bành trướng của chủ nghĩa thực dân châu Âu mà qua đó các nước phương Đông bắt

đầu đối diện với nền văn minh phương Tây “vừa hấp dẫn, vừa tàn bạo”. Qua đó, văn

minh châu Âu không những có thêm những không gian rộng lớn để thực hiện công

25

cuộc di dân, mà còn có thể khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và sức lao động rẻ

mạt ở các xứ thuộc địa, làm giàu thêm cho nền văn minh chính quốc. Chủ nghĩa thực

dân trở thành “cơ hội” khách quan để văn minh phương Tây dần in dấu trong các xã

hội châu Á, đồng thời, là sức mạnh, điều kiện để tạo ra những “hình thái” kinh tế - xã

hội mới cho sự hiện diện của văn minh phương Tây, lẫn mô hình “văn minh phương

Tây cưỡng bức” [40, tr.48] ở các nước thuộc địa.

Về phương diện xã hội, nhờ có sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân phương Tây

thông qua các cuộc khai thác thuộc địa, đã làm cho mô hình xã hội cổ truyền ở nhiều

nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á dần đi đến giải thể nhanh chóng và quyết

liệt hơn, làm xuất hiện nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là giai cấp tư sản,

tiểu tư sản và giai cấp công nhân - là những giai cấp sẽ “tạo nên một cơ sở xã hội cần

thiết cho việc tiếp nhận văn minh phương Tây một cách sâu rộng và phổ biến” [40,

tr.48-49]

Văn minh công nghiệp phương Tây là một bước tiến vĩ đại của nhân loại. Nó đã

đưa lao động cơ giới thay thế cho lao động cơ bắp, chuyển nền sản xuất nông nghiệp

lạc hậu sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại, chuyển thiết chế phong kiến sang thiết

chế dân chủ tư sản và tự do hóa cá nhân. Chính trong sự hào nhoáng đó của văn minh

phương Tây, người châu Âu đã tự gắn cho mình “sứ mệnh khai hóa văn minh”

(mission civilisatrice) đối với các dân tộc phương Đông, nơi gắn liền với nền kinh tế

nông nghiệp khép kín, với chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hàng nghìn năm và

truyền thống cộng đồng đã bám rễ trong ý thức con người. Do vậy, chắc chắn, sự đụng

độ giữa hai nền văn hóa Đông – Tây sẽ diễn ra, mở đầu bằng các con đường truyền

giáo, thương mại, xâm lược…

1.2. Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây

Tiếp xúc và giao lưu văn hóa là “một hiện tượng văn hóa phổ biến” [43, tr.13],

“là quy luật phát triển của văn hóa, văn minh, một nhu cầu tự nhiên của con

người”[70, tr.20], nó “xảy ra khi những nhóm người có nền văn hóa khác nhau, tiếp

xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi nhận thức văn hóa ban đầu của một hay cả

hai nhóm” [121, tr.21] và được gọi bằng nhiều thuật ngữ: tiếp biến văn hóa, tiếp xúc

26

văn hóa, giao thoa văn hóa hay giao lưu văn hóa… Tiếp xúc và giao lưu văn hóa đặc

biệt diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc đầu thời cận đại.

Ở Việt Nam, cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây

thời cận đại là “chủ yếu và bền vững nhất”[43,tr.14] so với các lần tiếp xúc văn hóa

trước đó, nó diễn ra trong những điều kiện của thời đại mới, thời đại mà chủ nghĩa tư

bản phương Tây đang vươn lên thống trị thế giới và tiến hành các cuộc “công nghiệp

hóa cưỡng bức” với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Nam Kỳ, một vùng đất thuộc

Đàng Trong, nằm trên ngã ba của tuyến đường giao thương quốc tế, dĩ nhiên cũng

không nằm ngoài phạm vi mở rộng của văn minh phương Tây.

1.2.1. Tình hình chính trị - xã hội xứ Đàng Trong – Tiền đề hình thành vùng

đất Nam Kỳ

Từ cuối thế kỷ XVI, nhà Lê lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Những

sự tranh giành ảnh hưởng giữa các thế lực phong kiến nổ ra và kéo dài đã đưa đến

những cuộc nội chiến và chia cắt. Bối cảnh chính trị hỗn loạn đã đẩy Nguyễn Hoàng

cùng gia quyến và thuộc hạ rời đất Thanh Hoá vào Thuận Hoá (năm 1558) và được

giao cai quản luôn đất Quảng Nam (năm 1570).

Thời gian đầu, Nguyễn Hoàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một phiên thần đối

với vua Lê – chúa Trịnh, vẫn giữ nguyên những đơn vị hành chính cũ và bộ máy quan

chức của họ Trịnh. Nhưng từ năm 1600, lực lượng Mạc được dẹp yên, Trịnh Tùng tìm

cách kiềm chế Nguyễn Hoàng. Cũng từ đó, Nguyễn Hoàng bắt đầu thực hiện những

chính sách dần tách khỏi sự ràng buộc của họ Trịnh: dời dinh từ Ái Tử về Dinh Cát, cử

con trai là Nguyễn Phúc Nguyên vào làm trấn thủ Quảng Nam (1602), thay đổi khu

vực hành chính (1604), lập thêm phủ mới Phú Yên (1611). Năm 1613, Nguyễn Hoàng

chết. Mưu đồ cát cứ của ông biến thành hiện thực dưới thời trị vì của con trai thứ sáu

Nguyễn Phúc Nguyên (1613- 1635). Chúa thải hồi các quan lại do nhà Lê tiến cử, cải

tổ lại bộ máy chính quyền, không nộp cống cho vua Lê – chúa Trịnh. Từ đó, thế lực

cát cứ họ Nguyễn đã hình thành và từng bước làm chủ vùng đất Đàng Trong.

Khi thấy mưu đồ ly khai của họ Nguyễn, năm 1627, lấy danh nghĩa vua Lê, Trịnh

Tráng tiến quân vào Bắc sông Nhật Lệ đánh họ Nguyễn. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn

diễn ra liên miên từ năm 1627 đến 1672. Không phân thắng bại, hai bên lấy sông Linh

27

Giang (sông Gianh) làm ranh giới. Phần đất chúa Nguyễn cai quản ở phía Nam được

gọi xứ Đàng Trong (hay Nam Hà) để phân biệt xứ Đàng Ngoài (hay Bắc Hà) của vua

Lê - chúa Trịnh. Trên vùng đất mới, họ Nguyễn vừa phải chống lại áp lực truy bức của

họ Trịnh, “có số tiềm lực nhiều gấp đôi, gấp ba Đàng Trong về mọi mặt” [56, tr.85],

vừa phải tìm chỗ dựa tại chỗ để tồn tại, đồng thời không ngừng tìm kiếm các mối quan

hệ mới với các láng giềng phía Nam để giữ gìn lực lượng và phát triển, tạo nên mối

quan hệ vừa là đồng minh, vừa là đối trọng. Cư dân Việt cũng có điều kiện để giao

lưu, tiếp xúc với các yếu tố văn hóa của các tộc người khác nhau.

Dinh chúa Nguyễn đóng ở Phú Xuân, nhưng không hình thành một chính quyền

trung ương. Buổi đầu nhân dân gọi người đứng đầu là Chúa, nhưng các chúa Nguyễn

tự xưng Quốc công. Năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu dự định tách Đàng Trong

thành một nước riêng tự xưng Đại Việt Quốc Vương, nhưng việc không thành. Nối

tiếp ý đồ đó, năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, lập triều đình, thay đổi

hệ thống quan chức và đặt thêm các bộ. Như vậy, từ một phiên thần của vua Lê - chúa

Trịnh, các chúa Nguyễn đã dần dần tách hẳn và thiết lập một bộ máy chính quyền

riêng ở Đàng Trong mang những nét riêng biệt: đó là một chính quyền chưa hoàn

chỉnh và thống nhất về mặt tổ chức, mức độ tập quyền chưa cao, là một chính quyền

trong buổi đầu thiên nhiều về mặt quân sự, chỉ được dần thay thế bằng tính dân sự

hành chính khi chiến tranh Trịnh – Nguyễn kết thúc.

Trong quá trình xây dựng và củng cố quyền lực của mình, các chúa Nguyễn cũng

không ngừng mở rộng lãnh thổ về phía Nam. “Năm 1611 lấy cớ người Chiêm Thành

hay đánh phá miền Bình Định, Nguyễn Hoàng phát binh đánh Chiêm Thành, chiếm

được miền đất từ đèo Cù Mông đến Đại Lãnh tương đương với nước Hoa Anh ở đời

Lê Thánh Tông. Đất mới ấy được đặt làm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, hợp

thành phủ Phú Yên”[1, tr.181]. Năm 1693, chiếm thêm vùng đất từ Phú Yên đến bờ

sông Phan Lang, đặt ra hai phủ Thái Khang và Diên Khánh, sau đó chiếm luôn phần

đất còn lại lập nên trấn Thuận Thành và giao cho người Champa cai quản, đến năm

1697 đổi thành phủ Bình Thuận. Đến đây, Champa hoàn toàn được sáp nhập vào Đại

Việt.

28

Đây cũng là lúc lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn tiếp giáp với vùng đồng

bằng phì nhiêu của Chân Lạp, nơi mà từ đầu thế kỉ XVII đã có những người Việt lưu

vong tự tìm đến làm ăn. Họ đã khai khẩn đất Đồng Nai, Sài Gòn, lập nên thôn xóm. Vì

thế, công cuộc khẩn hoang của chúa Nguyễn càng thuận lợi và cứ tiếp tục mở rộng

xuống phía Nam, kết hợp với chính sách đối ngoại khôn khéo góp phần đáng kể trong

việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn ở đất Đàng Trong. “Mùa xuân năm Mậu Dần

(1698), đời Vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành

Hầu Nguyễn Hữu Kính sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định

phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn

làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn…” [18, tr.12]. Với việc hoạch định vùng

đất Sài Gòn – Gia Định thành các đơn vị hành chính, chính quyền chúa Nguyễn đã xác

lập vai trò quản lý ruộng đất, hộ khẩu, thu thuế, khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nhà

nước trên vùng đất mới, mở đầu cho lịch sử hình thành và phát triển của xứ Nam Kỳ.

Đến giữa thế kỷ XVIII (1757), toàn bộ đất Nam Bộ ngày nay trở thành lãnh thổ

xứ Đàng Trong, được chính quyền Đàng Trong của chúa Nguyễn quản lý khá chặt chẽ.

Trên lãnh thổ từ phía Nam sông Gianh đến mũi Cà Mau, chúa Nguyễn chia thành 12

đơn vị hành chính gọi là dinh. Vùng Thuận - Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố Chính, Quảng

Bình, Lưu Đồn, Cựu dinh (hay Chính dinh cũ), Chính Dinh, Quảng Nam. Vùng đất

mới khai thác chia làm 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên

Trấn, Long Hồ. Ngoài ra có một trấn phụ thuộc là Hà Tiên. Tháng 11 – 1779, Nguyễn

Ánh chia toàn Nam Bộ lúc bấy giờ ra thành 1 trấn (Hà Tiên) và 4 dinh (Trấn Biên,

Phiên Trấn, Trường Đồn, Long Hồ) [83, tr.27]. Tất cả các dinh trấn này đều chịu sự cai quản của phủ Gia Định1. Khi lên ngôi, năm 1808, Nguyễn Ánh cho định lại bờ cõi,

phân địa giới toàn lãnh thổ Việt Nam ra làm 4 dinh gồm 25 trấn, đồng thời lại chia làm

hai miền Bắc - Nam, gọi là Bắc Thành và Gia Định Thành để tiện việc cai quản [61,

tr.12]. Lúc bấy giờ, trấn Gia Định được đổi thành Gia Định Thành, cai quản 5 trấn, là:

1 Khi ấy, dinh Phiên Trấn có một huyện là Tân Bình, gồm 4 tổng là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc. Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh chọn Sài Gòn (thuộc dinh Phiên Trấn) làm nơi đóng đô của mình, và gọi là Gia Định kinh. Sau khi lấy được Phú Xuân (1801), chúa Nguyễn liền dời đô ra đấy. Xem [24, tr.195]

Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và An Giang [83, tr.96].

29

Nhưng phải đến năm 1834 tên gọi Nam Kỳ mới chính thức xuất hiện khi Minh

Mạng chia lại các đơn vị hành chính với cách gọi chỉ cự ly gần hay xa với kinh đô về

phía Nam và phía Bắc. Nam Kỳ có 6 tỉnh nên thời trước thường nói và viết Nam Kỳ

lục tỉnh, hoặc chỉ gọi tắt là Lục tỉnh. Năm 1867, quân viễn chinh Pháp chiếm trọn Nam

Kỳ, vẫn duy trì tên gọi cũ và chia nhỏ lục tỉnh ra, 6 thành 9 (1876), rồi 20 (1880), 21

(1882). “Tỉnh thứ 21 là Bạc Liêu” [22, tr.11]. Tuy số tỉnh không còn là 6 nữa, nhưng

người dân vẫn quen gọi Nam Kỳ là Lục tỉnh. Tuy nhiên, nói đi lục tỉnh lại thường có

nghĩa là đi về miền Tây chứ không phải miền Đông, mặc dù tiên khởi, lục tỉnh gồm

luôn cả miền Đông.

Trong công cuộc khai khẩn đất đai ở Nam Kỳ, lưu dân Việt là lực lượng chủ yếu

và có mặt từ rất sớm. Bằng các chính sách, biện pháp khác nhau: lợi dụng sức lao động

và khả năng khai phá đất đai của dân phiêu tán người Việt, người Hoa; lợi dụng lực

lượng “có vật lực” ở miền Thuận – Quảng chiêu mộ dân nghèo vào khai hoang; sử

dụng quân đội đồn trú; kiến tạo quan hệ đồng minh dưới nhiều hình thức với triều đình

Chân Lạp… các chúa Nguyễn đã giúp lưu dân người Việt nhanh chóng ổn định cuộc

sống, mở mang diện tích canh tác. Người Hoa, người Chăm và người Khmer đã cùng

người Việt từng bước hòa nhập tạo dựng cuộc sống, hình thành ở nơi đây một diện

mạo kinh tế - xã hội có sự khác biệt ít nhiều so với Đàng Ngoài và các triều đại phong

kiến trước đó.

Nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ, nhiều thị tứ, đô thị, thương cảng ra

đời, góp phần quan trọng làm gia tăng đáng kể tầng lớp thợ thủ công và thương nhân

trong cơ cấu xã hội Đàng Trong ở thời kỳ này. Bên cạnh đó, việc chính quyền khuyến

khích những người “dân có vật lực” đứng ra thuê nhân công khai hoang, chiếm hữu

nhiều ruộng đất và trở nên giàu có nhanh chóng, đã hình thành nên bộ phận điền chủ

lớn, làm chỗ dựa cho chính quyền chúa Nguyễn. Cách thức tổ chức sản xuất của điền

chủ bước đầu cũng mang màu sắc tư bản chủ nghĩa, khác với Đàng Ngoài. Do vậy,

tình hình phân hóa xã hội ở Đàng Trong diễn ra nhanh chóng hơn.

Trong tư tưởng, để phù hợp với vị trí bị coi là “bất hợp pháp” của mình, là “nổi

loạn” so với Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn đã không chọn Nho giáo. Phật giáo Đại

thừa trở thành lựa chọn vừa có thể đáp ứng cho “nhu cầu tinh thần và ý thức hệ cho

30

một tông tộc cai trị mới” [Xem 125], củng cố tính hợp pháp cho chính quyền họ

Nguyễn, vừa có thể đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt. Sự kết hợp giữa uy

quyền của các chúa Nguyễn với tôn giáo là một cách làm giống như các nước láng

giềng Đông Nam Á nhằm khẳng định chúa Nguyễn là tiêu biểu cho quyền lực cao nhất

tại khu vực này, muốn phân biệt mình với họ Trịnh ở phía Bắc, vốn còn chấp nhận

những ý niệm Nho giáo. Vùng đất phía Nam đã cho chúa Nguyễn thực hiện một cuộc

chuyển biến tư tưởng, “một ý thức lớn hơn về tự do - tự do chọn nơi họ ưa thích và

cách sống họ muốn” [56, tr.199] không còn phải chịu những ràng buộc của luân lý

Nho giáo, tạo ra một tư tưởng dễ tiếp nhận cái mới – một thuận lợi cho sự tiếp nhận

văn hóa phương Tây.

Chính sách ngoại thương cởi mở cũng là một sự chuyển biến trong tư tưởng các

chúa Nguyễn, khác hẳn các triều đại phong kiến trước đó. Với nền tảng nông nghiệp

yếu ớt của Đàng Trong thế kỷ XVII không thể giúp chúa Nguyễn đối đầu với lực

lượng có ưu thế hơn hẳn là họ Trịnh. Do vậy, thương nghiệp trở thành yếu tố quyết

định, làm cho Đàng Trong trở nên giàu có một cách nhanh chóng và đủ mạnh để có thể

duy trì được sự độc lập với phía Bắc và tiếp tục mở rộng về phía Nam, góp phần xoá

bỏ tính khép kín của văn hoá truyền thống để hình thành nên một nền văn hoá mở, văn

hóa hướng ngoại của vùng đất phía Nam. Nhờ vậy, hàng loạt tàu buôn của phương Tây

như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… dễ dàng nhận được nhiều ưu đãi của các chúa

Nguyễn. Các chúa còn dành cho người phương Tây những vị trí nhất định trong triều,

như làm thầy thuốc hay cố vấn khoa học. Đây là cơ hội tốt để Đàng Trong tiếp xúc với

những kiến thức khoa học và những thành tựu kĩ thuật của phương Tây.

Khác hoàn toàn mục đích chính trị của chúa Nguyễn, lưu dân Việt, “những người

đã không có quyền sống trên vùng đất cũ”[58, tr.121] đi về phương Nam chỉ vì miếng

cơm manh áo, mang theo khát vọng tự do, khát vọng cuộc sống bình yên. Vào đến

vùng đất Thuận - Quảng, lưu dân Việt bắt gặp những đặc sắc của văn hoá Chăm với

nền kinh tế hướng biển. Tại đây, giao thoa văn hóa đã diễn ra. Sự kết hợp giữa văn hoá

Việt với văn hoá Chăm, truyền thống Việt với truyền thống Chăm đã tạo thành một sắc

thái văn hoá mới theo định hướng mở. Di dân Việt “sẵn sàng thải đi hay coi nhẹ những

31

khía cạnh của tập tục và truyền thống tuy vẫn còn ý nghĩa đối với người dân ở phía

Bắc nhưng không còn thích hợp tại vùng đất mới phía Nam nữa” [56, tr.214-215].

Điều này càng được thể hiện rõ nét khi những lưu dân Việt tiến xa hơn xuống

vùng đất Nam Kỳ, một chân trời mới tự do hơn nhưng cũng đầy thử thách, nơi thoáng

rộng, sông nước mênh mông, đất đai phì nhiêu, có cả dân định cư từ trước lẫn những

người mới nhập cư từ các nước Đông Nam Á, Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ và

phương Tây… Quá trình cộng cư đã mở ra một khung cảnh tiếp xúc và giao lưu văn

hóa rộng rãi, sôi động giữa các tộc người, hình thành ở người Việt một lối sống mới,

phong cách văn hóa mới, riêng biệt, khác với khu vực Thuận - Quảng và càng khác

biệt với khu vực châu thổ sông Hồng vẫn còn nặng các giá trị cổ truyền của cộng đồng

cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Chính vì thế, người Việt ở Nam Kỳ rất cởi mở, dễ

thu nhận và tiếp biến những giá trị văn hóa mới, nhất là văn hóa phương Tây. Đạo

Thiên chúa và chữ quốc ngữ đã xuất hiện trong thời gian này, cùng với đó là những

thành tựu kĩ thuật, những kiến thức sơ đẳng của khoa học phương Tây, sự phát triển

kinh tế hàng hóa kết hợp lối sống thị dân, những tư tưởng tự do,… làm phong phú

thêm đời sống văn hóa của người Việt ở Nam Kỳ.

Là kết quả của quá trình mở rộng lãnh thổ về phương Nam của các chúa Nguyễn

trong bối cảnh văn minh phương Tây bắt đầu thâm nhập vào phương Đông, phương

Nam vừa là sự thách thức, vừa là cơ hội để người Việt có thể lựa chọn, sáng tạo, linh

hoạt trong lối sống và trong ứng xử văn hóa để thích nghi với vùng đất mới. Cũng từ

đó, nhiều đặc điểm mới được hình thành trong văn hóa Nam Kỳ, quan trọng nhất là sự

năng động, tính cởi mở, không dễ dàng bị ràng buộc, sẵn sàng chấp nhận va chạm văn

hóa để tiếp thu những cái mới hữu ích. Điều này lý giải vì sao Đàng Trong dễ dàng

tiếp nhận những yếu tố văn hóa phương Tây. Vừa dựa trên nền tảng văn hóa truyền

thống của người Việt, vừa tiếp biến với văn hóa phương Tây, lại đứng trước cơ hội và

thách thức do vùng đất mới đặt ra, những đặc điểm của văn hóa Đàng Trong – Nam

Kỳ dần được hình thành.

32

1.2.2. Khái quát đặc điểm của văn hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền

thống Việt Nam

“Văn hóa” là một khái niệm đa nghĩa, đa tầng, có nguồn gốc tiếng Latinh là

cultura(culture, kultura, kultur...), tức là vun trồng, cày cấy, luyện tập, cải thiện,... Văn

hóatrong tiếng Hánđược hiểu là văn trị và giáo hóa, sự chuyển hóa để trở thành những

nét văn vẻ, tốt đẹp. Từ định nghĩa văn hóa của nhà nhân học người Anh Edward

Burnett Tylor (1832 – 1917) khi xem văn hóa là một phức thể nhiều mặt do con người tạo nên2, theo thời gian, khái niệm này cũng thay đổi nhiều, mang nội hàm rộng và có

nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng thường được phân làm hai loại: định nghĩa miêu tả

và định nghĩa nêu đặc trưng. Trong khi đó, truyền thống văn hóa là “những hằng số

văn hóa được kết tinh trong đời sống của một cộng đồng người và được lưu truyền qua

nhiều thế hệ lịch sử. Nó thường mang tính phổ biến trong cộng đồng và lại là những

nét đặc trưng của cộng đồng đó khi đối sánh với những cộng đồng khác, mang tính ổn

định và được biểu hiện trong tâm lý tính cách, nếp nghĩ, lối sống của các thành viên

cộng đồng” [43, tr.486], “trong chế định xã hội, chuẩn mực và hành vi, các giá trị, tư

tưởng, phong tục tập quán và lối sống” [dẫn theo 55, tr.10].Do vậy, khi xem xét văn

hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền thống Việt Nam, luận văn này nhìn nhận khái

niệm văn hóa dưới góc độ là một định nghĩa nêu đặc trưng, tức coi văn hóa là “những

kết quả (sản phẩm) nhất định như những giá trị, truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư

tưởng và thiết chế xã hội mà cộng đồng đã sáng tạo, kế thừa và tích lũy” [98, tr.27].

Theo đó văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Kỳ trên nền văn hóa truyền thống Việt

Nam trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây sẽ được xét trên các mặt: kết cấu xã

hội, tư tưởng, về con người Việt Nam truyền thống, bao gồm: truyền thống yêu nước,

truyền thống cộng đồng, truyền thống trọng tình, truyền thống giỏi ứng biến, phương

thức tư duy truyền thống.

Những giá trị văn hóa truyền thống này của người Việt trên thực tế lịch sử có thể

bắt đầu từ thế kỉ XI, khi xã hội và văn hóa Việt Nam đã được định hình, ổn định và kết

thúc vào những thập niên đầu thế kỉ XX khi văn hóa – xã hội cũ về cơ bản đã giải thể, 2 “Văn hóa hay văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học, là một tổng thể phức hợp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ những khả năng, những tập quán mà con người có được với tư cách là thành viên xã hội”. Xem [20, tr.13]

33

nhường chỗ cho một văn hóa – xã hội mới theo chiều hướng Âu hóa. Nhưng thực chất,

các yếu tố truyền thống còn có thể bảo lưu rất lâu trong những thời gian sau này.

Trong các thế kỉ XVII, XVIII, trên hành trình tiến về phương Nam, nơi đang tồn tại

những nền văn hóa khác lạ, các giá trị văn hóa truyền thống của người Việt vẫn được

lưu dân Việt mang theo. Để thích nghi với vùng đất mới, một cuộc tiếp xúc, giao thoa

văn hóa đã diễn ra, hình thành nên văn hóa vùng Thuận - Quảng với những sắc thái

mới trên nền văn hóa truyền thống Đại Việt. Khi người Việt từ Thuận - Quảng tiến

hành những đợt di dân lớn vào Nam Bộ trong hai thế kỷ XVII – XVIII, tiểu vùng văn

hóa Thuận – Quảng lại tiếp tục được giao thoa, tiếp biến với các nền văn hóa ở phía

Nam (Chăm, Hoa, Khmer), nảy sinh những hạt giống đầu tiên làm cơ sở cho văn hóa

Nam Bộ. Như vậy, văn hóa Đàng Trong - văn hóa Nam Bộ là sự gặp gỡ giữa các cộng

đồng cư dân trên đất Đàng Trong, sự tác động qua lại phong phú giữa các nền văn hóa

khác nhau tạo nên những nét dung dị, hài hòa, cởi mở, phóng khoáng nhưng vẫn

không đánh mất đi bản chất của văn hóa truyền thống người Việt.

Về kết cấu xã hội, xã hội Việt Nam truyền thống là một xã hội tiểu nông lúa

nước. Do vậy, “nông dân thực là nền móng của dân tộc ta, mà nông nghiệp là nền

móng của văn hóa ta” [2, tr.345]. Công việc nhà nông là một lao động nhọc nhằn, vất

vả, không những đòi hỏi đức tính cần cù, nhẫn nại, chịu đựng gian khổ, nếp sống tằn

tiện, giản dị, mà còn phải có sự chung lưng đấu cật trong lao động. Từ đó sớm hình

thành ý thức cộng đồng, biểu hiện trước hết qua kết cấu nhà – làng – nước, “kết cấucơ

bản của xã hội truyền thống Việt Nam” [104, tr.35]. Kết cấu này đến đầu thế kỉ XIX –

thế kỉ bản lề của tiếp xúc văn hóa phương Tây về căn bản vẫn được duy trì. Nhà nước

và làng xã thường thỏa hiệp và nhân nhượng lẫn nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa

tương phản nhau, trong đó yếu tố gia đình và làng là yếu tố nền tảng, bền vững.

Nhà nước

Làng xã Gia đình

Làng xã là vấn đề cực kỳ quan trọng của xã hội Việt Nam cổ truyền. Khi đến

Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng tổ chức quần cư thành làng ấp như

truyền thống. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức, làng của người Việt ở Nam Kỳ có

34

nhiều điểm khác biệt với làng quê ở phía Bắc. Về nội dung, làng của người Việt ở

Nam Kỳ là một tập hợp cư dân đến từ nhiều vùng, nhiều họ tộc khác nhau, nhiều thành

phần, gắn bó với nhau không phải do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng

giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng cũng thường xuyên biến động hơn, kẻ đến người

đi đổi chỗ cho nhau, nên không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư với dân ngụ

cư, “một làng có thể tan rã trong tay anh với tốc độ nhanh như lúc nó hội tụ lại...” [dẫn

theo 26, tr.116].Người Việt đã từ bỏ cuộc sống khép kín trong các làng Bắc để ở trong

những làng xóm mở Nam Kỳ, nơi không có luỹ tre, cánh cổng; nhà cửa không tụ lại

mà tản ra dọc theo những con kênh, con lộ để tiện làm ăn. Cũng vì vậy, tính cố kết

cộng đồng của làng Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong cuộc tiếp

xúc và giao lưu với văn hóa phương Tây ở Nam Kỳ, làng xã là “không gian xã hội văn

hóa” chịu nhiều sức ép và bắt đầu rạn nứt.

Trên phương diện tư tưởng, người Việt theo chủ nghĩa đa thần, phiếm thần, chấp

nhận tính đa nguyên phi độc tôn dựa trên sự cộng tồn hòa bình và khoan dung tôn

giáo. Một bên là lối sống và những tín ngưỡng dân gian mang tính Đông Nam Á như

các tục sùng bái tự nhiên, ma thuật, chủ nghĩa vật linh và thần linh, tục sùng bái tổ tiên

và anh hùng, cùng với Phật giáo và Đạo giáo. Bên kia là hệ tư tưởng Nho giáo chính

thống của nhà nước quan liêu, được vay mượn từ nền văn hóa phương Bắc. Hai hệ tư

tưởng tín ngưỡng này thường đan cài vào nhau, không bên nào lấn át được bên nào,

tạo nên một thế cân bằng tư tưởng làm nền tảng tinh thần cho sự ổn định xã hội. Trong

thời Lý - Trần, Nho giáo đã đóng vai trò là cơ sở tư tưởng của việc xây dựng nhà nước

quân chủ tập quyền, quản lý xã hội và hoạch định chính sách của triều đình phong

kiến, mặc dù xã hội thời Lý - Trần rất tôn sùng đạo Phật [89, tr.27]. Nho học giữ vị trí

là nền giáo dục chính thức của nhà nước phong kiến, quy định về nội dung, tổ chức và

thực thi việc giáo dục và thi cử. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho giáo đối với gia đình,

dòng họ và làng xã Việt Nam còn mờ nhạt. Các thành viên của gia đình, dòng họ và

làng xã còn chịu ảnh hưởng nặng của những giá trị đạo đức truyền thống và một phần

của những giá trị đạo đức Phật giáo.

Phải đến thế kỉ XV, Nho giáo mới bước lên địa vị độc tôn ở Việt Nam nhằm

phục vụ cho nhu cầu xây dựng, tổ chức và bảo vệ bộ máy nhà nước phong kiến trung

35

ương tập quyền lớn mạnh, yêu cầu củng cố trật tự của một xã hội phong kiến. Khi ấy,

nhà nước phong kiến và các Nho sĩ mới áp đặt được những quy phạm đạo đức của

Nho giáo xuống các gia đình, dòng họ và làng xã thông qua các điều luật, các chỉ dụ,

các huấn điều và những quy ước về nghi lễ, như tang lễ, hôn lễ.

Tiếp nối truyền thống, trên vùng đất mới phía Nam, người Việt tiếp tục sùng bái

đạo Phật, kết hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh giữ

gìn những nét truyền thống, trên một vùng đất đa tộc người, người Việt cònbiết thừa

nhận và tôn trọng phong tục tập quán của những tộc người nơi đây. Theo Trịnh Hoài

Đức: “Gia Định là đất phương Nam của nước Việt. Khi mới khai thác, lưu dân nước ta

cùng người kiều ngụ như người Đường [Hoa], người Cao Miên, người Tây phương,

người Phú-lang-sa [Pháp], người Hồng Mao [Anh], Mã Cao, người Đồ Bà [Java] ở

lẫn lộn, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào theo tục nước ấy” [19, tr.95]

Sự ly khai của các chúa Nguyễn, tư tưởng tự do cùng với những điều kiện tự

nhiên ưu đãi, môi sinh xã hội đã làm cho ảnh hưởng của Nho giáo nhạt dần trong tâm

thức con người phía Nam qua các thế hệ. Nho giáo không còn là khuôn vàng thước

ngọc trong việc trị nước. Tư tưởng quảng đại, khoan dung của Phật giáo trở thành

nguyên tắc cho sự vận hành một thiết chế chính trị mới, làm nền tảng căn bản cho việc

hoạch định các chính sách của các chúa Nguyễn. Chùa chiền có mặt ở khắp nơi. Do

vậy, ở Đàng Trong, con người tự do thoáng đãng, ít bị gò bó bởi những quy định trong

cách ứng xử mang tính khuôn mẫu của đạo Nho trong xã hội truyền thống. Nho giáo

không có điều kiện để phát huy mạnh mẽ vai trò trong đời sống xã hội lại chính là điều

kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật và sự tiếp nhận dễ dãi đối với

đạo Thiên Chúa, tạo cho Đàng Trong một không khí thoáng mở của nền văn hóa cộng

cư.

Tuy nhiên, đến đầu thế kỉ XIX, trước sự phát triển và thâm nhập của chủ nghĩa tư

bản trên phạm vi toàn thế giới, cùng sự lan tỏa của nền văn minh phương Tây thì nhà

Nguyễn lại tiếp tục chọn Nho giáo làm ý thức hệ phong kiến cơ bản ở Việt Nam.

Trong buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam, văn minh phương Tây bên cạnh những yếu

tố hấp dẫn về sức mạnh vật chất, kỹ thuật, đã vấp phải những xung đột gay gắt về tư

tưởng, ý thức, văn hóa trong việc truyền bá đạo Thiên chúa, trước hết là xung đột với

36

Nho giáo” [40, tr.87].“Có thể nói, vấn đề Nho giáo là một trong những vấn đề tư

tưởng và văn hóa nổi cộm ở nước ta vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đặc biệt khi

đặt nó trong mối quan hệ với việc tiếp nhận những giá trị của văn minh phương Tây”

[40, tr.89]

Về con người Việt Nam truyền thống.Trước cuộc tiếp xúc và giao lưu với văn hóa

phương Tây, người Việt đã có một giá trị gọi là “người Việt truyền thống” vừa hữu

hình, vừa vô hình. Hình ảnh “người Việt truyền thống” có một số đặc điểm tư tưởng,

đạo đức như sau:

Truyền thống cộng đồng:“Từ xa xưa, trong xã hội cổ truyền Việt Nam chỉ có

cộng đồng,không cócá thể” [40, tr.91]. Đâylà đặc trưng rõ nét của người Việt, “một tập

tục có cơ chế kinh tế - xã hội bảo đảm” [55, tr.17] được hình thành qua quá trình đoàn

kết, tương trợ nhau trong sản xuất nông nghiệp và đấu tranh giữ nước. Truyền thống

cộng đồng thể hiện qua từng cấp độ với điểm xuất phát là gia đình, rồi qua làng xã, đất

nước, trong đó gia đình họ tộc là loại cộng đồng bền chặt nhất.

Vai trò của cộng đồng được đề cao trong tâm thức người Việt truyền thống, trong

khi chủ nghĩa cá nhân “thường phát triển muộn màng và có phần mờ nhạt” [43,

tr.489]. Cá nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng. Người ta có thể không lo

lắng cho cá nhân mình trong cuộc sống hiện tại, nhưng lại rất quan tâm đến việc phụng

thờ cuộc sống của những con người đã khuất, cũng như việc nối dõi tông đường, để

phúc đức cho những đời mai sau. Trong mối quan hệ với văn hóa phương Tây, nếu

vấn đề hình thành cá nhân không được hiện thực hóa đến mức nào đó thì việc tiếp

nhận văn minh phương Tây cũng không thể thực hiện được.

Thế kỷ XVII, XVIII, khi người Việt đến vùng đất mới phía Nam hoang vu, họ

cũng không đi theo cá nhân, hay riêng một gia đình, mà đi theo các nhóm nhỏ lẻ và

những nhóm người ấy đã đoàn kết với nhau trong cuộc khẩn hoang lập ấp. Người Việt

còn biết đoàn kết với người Chăm, người Hoa, Khmer để củng cố sức mạnh cộng đồng

và phát triển diện tích khai hoang ở vùng đất Nam Bộ, góp phần làm nên một Nam Kỳ

“được chinh phục không phải bằng chính thanh gươm vó ngựa mỗi ngày đi hàng chục

vạn dặm mà bằng lưỡi cày, đôi chân đi từng bước một” [119, tr.104]

37

Tuy nhiên, tinh thần gắn bó quá mức với cộng đồng có khi đã dẫn đến một chủ

nghĩa “cộng đồng vị kỷ”, chủ nghĩa gia đình hay chủ nghĩa bè phái địa phương cục bộ,

là nguyên nhân của những mâu thuẫn xung đột giữa các họ tộc, làng xã, giữa cộng

đồng này với cộng đồng khác. Đồng thời, cũng dẫn đến thói quen ứng xử của chủ

nghĩa bình quân, dựa dẫm vào uy tín của cộng đồng.

Truyền thống yêu nước: đó là truyền thống nổi trội của người Việt được hun đúc

trong lịch sử do luôn phải chống chọi lại sự đe dọa, xâm lược và đô hộ của ngoại bang.

Đó là “tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam” [28,

tr.100], “là một sức mạnh tinh thần tiềm ẩn lớn lao trước những thử thách” [43,

tr.488]. Truyền thống yêu nước chi phối suy nghĩ, tình cảm, ứng xử và hành động của

người Việt, làm “sản sinh nhiều giá trị văn hóa Việt Nam” [100, tr.48]

Khi tình yêu nước phát triển thành “mộthệ thống nhận thức, tư tưởng, tình cảm

đối với đất nước, Tổ quốc biểu thị trong tình yêu quê hương, xứ sở, tiếng nói, văn hóa;

trong sự gắn bó vì những lợi ích chung của cộng đồng quốc gia – dân tộc, trong ý thức

trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước” [54, tr.11] thì đó cũng là lúc chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam hình thành. Nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam còn bao gồm

tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng; ý thức về toàn vẹn lãnh thổ, về lịch sử, văn hóa,

độc lập tự chủ của dân tộc thông qua các cuộc đấu tranh chống xâm lược; tục thờ cúng

tổ tiên, anh hùng dân tộc, các vị thành hoàng. Cũng từ truyền thống yêu nước chống

ngoại xâm, trong tâm thức người Việt luôn luôn khát khao hòa bình, trọng hòa hiếu, ý

thức đoàn kết cộng đồng và tinh thần dũng cảm, bất khuất. Lòng yêu nước “cũng rèn

luyện cho sự đề kháng văn hóa, tạo nên một bản sắc và bản lĩnh văn hóa mạnh” [43,

tr.30]. Chính vì vậy, trong các cuộc giao lưu, tiếp xúc văn hóa bên ngoài, người Việt

luôn biết tiếp thu có chọn lọc, kể cả trong quan hệ văn hóa với phương Tây.

Trên vùng đất phía Nam, truyền thống yêu nước được người Việt thể hiện phóng

khoáng, sinh động hơn, đó không phải là lòng yêu nước của Nho giáo, không bị ràng

buộc quá chặt chẽ vào tư tưởng “trung quân”. Người dân chỉ trung thành với vua khi

vua là đại diện cho lợi ích của dân tộc. Một khi vua đi ngược lại quyền lợi của dân tộc,

của nhân dân thì những mệnh lệnh của vua có thể sẽ không được thi hành. Đó là

38

những trường hợp của Trương Định, của Nguyễn Trung Trực, Phan Văn Trị, Nguyễn

Đình Chiểu hay Bùi Hữu Nghĩa...

Truyền thống trọng tình:Xuất phát từ việc coi nhẹ cá nhân và coi trọng cộng

đồng, người Việt truyền thống trọng tình cảm hơn lý trí, lấy chủ nghĩa “duy tình” thay

vì chủ nghĩa duy lý, dùng tình cảm để giải quyết mọi vấn đề. Trong nội bộ những

người thân, để duy trì những quan hệ tình cảm tốt đẹp hay để giữ hòa khí, họ thường

nể nang, nhân nhượng, bỏ qua đi những thiếu sót của người khác, “chín bỏ làm mười”.

Đó là nét đẹp của truyền thống trọng tình. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng tình cảm vượt

quá giới hạn đã dẫn đến lối tư duy cảm tính, thiếu minh bạch, thiên vị, tệ bao che, tính

ỷ lại, nhờ vả theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”. “Có tình có lý” là một

nguyên tắc dung hòa được người Việt đề ra nhưng khó thực hiện được trong thực tiễn.

Truyền thống trọng tình được hình thành trong môi trường làng xã khép kín của Bắc

Kỳ với những con người quen cuộc sống ổn định, biết nhau rất rõ, thường là quan hệ

họ tộc, có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.

Trong khi đó, Nam Kỳ là nơi gặp gỡ của nhiều tộc người, là đất của dân tứ xứ,

con người không quen biết nhau, nhưng cũng có nhu cầu tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau,

do đó, truyền thống trọng tình của người Việt được chuyển thể thành tính trọng nghĩa.

Cơ sở của mối quan hệ giữa họ không phải tình mà là nghĩa. Là những con ngườixuất

thân bần cùng, những gian nan, thử thách của vùng đất mới đã hình thành ở lưu dân

Việt sự liều lĩnh, nghĩa khí, sự trọng nghĩa khinh tài. Từ tính trọng nghĩa đã sản sinh ở

người Việt Nam Kỳ sự hào hiệp, sẵn sàng đùm bọc, sẻ chia khó khăn nơi vùng đất mới

xa lạ. Đi kèm với đó là sự hiếu khách. Với họ, bất cứ người Việt nào đến đây cũng đều

là bạn. “Ở Gia Định có khách đến nhà, đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng cơm

bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân sơ quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều

khoan nạp khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem tiền gạo theo” [19, tr.85].

Bên cạnh đó, sự thẳng thắn, bộc trực cũng là một hệ quả của tính trọng nghĩa. Người

Nam Bộ nghĩ sao nói vậy, không quá giữ kẽ, quanh co úp mở, vòng vo như người Bắc

Bộ, yêu trung ghét nịnh, ân oán phân minh. Borri đã tiếp xúc với cư dân Đàng Trong

vào đầu thế kỷ XVII và ông nhận xét: “Ở xứ Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng

ta, trao đổi với chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ

39

rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các

đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người ta đã coi chúng tôi như

những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu. Đó là một

cảnh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của chúa Kitô đến rao giảng Phúc

âm”. Tinh thần phóng khoáng, hiếu khách, hiếu thị của người Đàng Trong góp phần

quan trọng giúp họ dễ đón nhận những luồng gió mới, tham gia một cách nhanh chóng

vào luồng thương mại quốc tế và khu vực, tiếp nhận tôn giáo mới, tư tưởng mới của

phương Tây.

Truyền thống giỏi ứng biếncũng là một đặc điểm tính cách của người Việt. Trong

ứng xử văn hóa, người Việt luôn biết tìm cách thích ứng để rồi cải biến, vừa tiếp thu

vừa đề kháng, chuyển hóa những yếu tố ngoại sinh thành nội sinh, thành cái của riêng

mình. Trong hàng nghìn năm ảnh hưởng của thiết chế và mô hình văn hóa Trung Hoa,

từ thể chế, chữ viết, giáo dục đến nghệ thuật, người Việt không sao chép nguyên bản

một cách máy móc, mà đã có sự điều chỉnh, đổi khác để thích hợp với những điều kiện

tự nhiên – xã hội cụ thể của một nước nhỏ, “tự gây dựng được tư cách riêng để tồn

tại” [2, tr.343]. Truyền thống này sẽ tiếp tục được phát huy trong mối quan hệ giao lưu

với văn hóa phương Tây.

Khi tiến về phương Nam, truyền thống giỏi ứng biến của người Việt chuyển biến

thành tính năng động của người Nam Bộ, hay nói cách khác “tính năng động là bước

phát triển mới của tính linh hoạt truyền thống ở địa bàn Nam Bộ” [99, tr.91]. Đối mặt

với vùng đất mới còn hoang sơ, rừng thiêng nước độc,vừa khơi dậy tiềm năng khai

thác dồi dào, vừa là một thách thức nghiệt ngã đối với những con người phải dấn thân.

Nếu như không phát huy được khả năng ứng biến linh hoạt, sự cần lao, dũng cảm vốn

có của người dân Việt thì khó có thể thích nghi được với cuộc sống khắc nghiệt trên

vùng đất mới, vươn lên xây dựng cuộc sống. Các yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa

tinh thần của nhiều tộc người khác nhau cũng được lưu dân Việt tiếp nhận và cải biến

để hòa hợp với điều kiện mới. Chính điều này đã tạo cho người dân Nam bộ có những

nét riêng khá độc đáo đối với các vùng miền khác.Hệ quả của tính năng động là khả

năng dễ tiếp nhận cái mới, sự sáng tạo và sự phát triển của thương nghiệp. Do vậy,

40

“hầu như mọi yếu tố mới tiếp nhận từ phương Tây đều qua Nam Bộ mà vào Việt

Nam” [99, tr.91]

Phương thức tư duy truyền thống:Nền kinh tế tiểu nông cũng tác động lên

phương thức tư duy truyền thống của người Việt. Đó là lối tư duy thiên về nhận thức

cái toàn thể hơn là cái bộ phận, cái chung hơn cái riêng, thiên về tổng hợp hơn là phân

tích. Đây là “một kiểu tư duy tĩnh tại, dựa theo những khuôn mẫu và tục lệ cũ, đậm

tinh thần thủ cựu, hiếu cổ. Tầm suy nghĩ thường mang tính thiết thực, cụ thể, không

thích trừu tượng, khái quát hóa” [43, tr.491]. Người ngoại quốc thường nhận xét người

Việt có phần kém sáng tạo, khai phá nhưng lại rất giỏi việc mô phỏng theo mẫu rồi

biến đáo đi. Họ không thích tự đổi mới, cách tân, nhưng lại dễ dàng chấp nhận theo cái

mới một khi nó đã trở thành thói quen, hành xử của số đông người trong xã hội. Tư

duy tĩnh tại còn là điều kiện dẫn đến tâm lý cầu an, thụ động. Lối tư duy này cũng dẫn

đến đặc điểm xã hội truyền thống của người Việt là xã hội trọng văn. Trong cuộc tiếp

xúc với văn hóa phương Tây, các kiến thức về khoa học kĩ thuật thường bị chê bai, cho

là gian xảo, nhất là dưới cái nhìn của trí thức Nho học.

Những đặc điểm của văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Bộ là phần mở rộng

của không gian văn hoá truyền thống Việt Nam trên vùng đất mới, nơi có sự chung tay

khai phá của người Việt với các tộc người khác. Vì vậy, để thích nghi, ngay từ đầu văn

hoá truyền thống của cư dân Việt đã giao lưu mật thiết với văn hoá của các cư dân

Chăm, Khmer, Hoa... Người Việt chỉ tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa nào

đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hoá mang

theo, làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của người Việt trên vùng đất

mới nhiều sông nước, đồng thời, họ sẵn sàng lược bỏ những giá trị văn hóa truyền

thống Việt không còn phù hợp nơi vùng đất xa lạ. Nam Bộ vì vậy nhanh chóng trở

thành vùng đất của sự giao lưu, tiếp biến văn hoá, hình thành nên bản sắc văn hóa

Nam Bộ, vừa nguyên chất thuần Việt vừa mang dáng dấp của những nền văn hóa

khác, vừa tương đồng vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hóa Việt ở Bắc Bộ.

Sự uyển chuyển, linh động, phóng khoáng, bao dung dần trở thành bản sắc của văn

hoá Việt ở Nam Bộ, thuận lợi cho việc tiếp xúc và giao lưu với văn minh phương Tây,

nền văn minh đang trong thời kì bùng nổ mạnh mẽ.

41

1.3. Những con đường du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây

Nam Kỳ và phương Tây, hai khu vực có những đặc trưng văn hóa khác xa nhau

nhưng lại gặp nhau trong bối cảnh của thời đại mới. Những cuộc phát kiến địa lý cuối

thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI đã mở ra triển vọng cho sự gặp gỡ này, tạo điều kiện cho sự

xâm nhập của văn minh phương Tây. Các giáo sĩ Thiên chúa giáo là người mở đường

cho sự thâm nhập ấy, cùng với hoạt động thương mại, và sau cùng là sự xâm lược của

các nước phương Tây vào phương Đông.

1.3.1. Bước chân các nhà truyền giáo

Ngay sau những cuộc phát kiến địa lý, việc truyền bá Kitô giáo diễn ra một cách

mạnh mẽ, vượt ra ngoài châu Âu để đến với các vùng đất mới phương Đông. Tây Ban

Nha và Bồ Đào Nha là những nước đi tiên phong. Họ dùng một phần của cải cướp

được ở những vùng đất mới để thành lập và tài trợ cho các giáo đoàn đi truyền đạo.

Trên các đoàn tàu thám hiểm, buôn bán, xâm lược của các nước bao giờ cũng có các

giáo sĩ thừa sai đi theo. Họ khoác tấm áo choàng đen, giương cao cây Thập tự, đảm

nhiệm sứ mệnh chinh phục các linh hồn, “mở rộng nước Chúa”.

Khi đến Việt Nam, Kitô giáo bắt gặp một xã hội phong kiến đang có nhiều biến

động. Các cuộc chiến tranh kéo dài liên miên giữa các tập đoàn phong kiến từ thế kỉ

XVI đến đầu thế kỉ XIX. Đã vậy, “vua chúa ức hiếp bóc lột dân quá đáng,… sưu thuế

quá nặng nề thêm qua mấy từng phụ thu,… mà thiên tai, thủy hạn thì liên miên…” [87,

tr.904]. Sống trong một xã hội đầy bất trắc khiến một bộ phận dân chúng rơi vào trạng

thái khủng hoảng tinh thần. Giữa lúc đó, những giáo sĩ phương Tây đã đến, “mang

theo tinh thần bác ái của Kitô giáo để xoa dịu nỗi cay cực của cuộc sống nơi trần thế

và niềm tin về một cuộc sống hạnh phúc ở cõi thiên đàng cho dân chúng Việt Nam”

[62, tr.27]. Một trong những việc làm đầu tiên của các giáo sĩ là ban phát tiền của và

thuốc men chữa bệnh cho những người nghèo để được lòng họ.Từ đó, “dân chúng thấy

tận mắt để so sánh các mối đạo cũ đương hồi sa sút với nền đạo mới, có tổ chức quy

củ, có sự thờ tự sáng sủa trang nghiêm, có sự săn sóc hợp lý đến con người lúc sống và

hồn người lúc chết, cũng như có những cơ sở từ thiện, khi đau ốm có thuốc men, khi

đói ăn có gạo…” [87, tr.904-905]. Do vậy, không chỉ ngưỡng phục những giáo sĩ đến

42

từ những nước có phẩm vật tinh xảo, có tàu lớn súng to, dân chúng còn ngưỡng phục

các giáo sĩ về những ân đức, những lời khuyên và sự an ủi tinh thần cho họ.

Giáo sĩ phương Tây đầu tiên được ghi lại trong sử sách Việt Nam có tên là

Igniato đã đặt chân đến Đàng Ngoài: “Vào khoảng tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất

(1533), đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên là I-nê-xu lẻn đến xã Ninh Cường,

xã Quần Anh huyện Nam Chân, và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy [Nam Định] truyền bá

tả đạo Gia Tô” [80, tr.1514]. Nhưng do không biết tiếng Việt và phong tục người bản

xứ nên công việc truyền đạo của ông không có kết quả và bị nhà Mạc trục xuất. Tuy

nhiên, sự kiện này đã mở ra một cơ hội cho quan hệ văn hóa giữa Việt Nam với

phương Tây.

Từ năm 1534, với sự thành lập Dòng tên (Jésuites), công cuộc truyền đạo được

diễn ra mạnh mẽ hơn. Cuối thế kỉ XVI, Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài liên tục được các

giáo sĩ đặt chân đến.

Năm 15833, một đoàn truyền giáo Dòng Fancisco gồm 7 thành viên, do Thừa sai

Diego d’Oropesa dẫn đầu, từ Manila tới Việt Nam. Họ lưu lại khoảng trên dưới một

tháng, nhưng không ai biết tiếng Việt nên họ chỉ giao dịch với chính quyền và dân

chúng địa phương bằng dấu hiệu.Ngày 24 – 6 – 1596, có Linh mục Alonso Ximenèz

và Linh mục Diego Aduarte, người Tây Ban Nha với tư cách là thành viên của đoàn

quân viễn chinh Tây Ban Nha đi yểm trợ cho vua Cao Miên đã tới trước một cửa biển của Đàng Trong là Cachan4 để tìm mua lương thực. Họ được “vị phó vương”5 tiếp đón

nồng nhiệt, hứa là cho xây nhà nguyện và mời ở lại kinh đô. Nhưng sau đó, hai giáo sĩ

này phải ra đi theo đoàn thuyền của người Tây Ban Nha.

Những cuộc “viếng thăm” của các giáo sĩ phương Tây ở cuối thế kỉ XVI vẫn

chưa có kết quả như họ mong muốn, “nỗ lực chưa nhiều và kết quả cũng không lớn”

3 Có nơi nói 1581, có nơi nói 1582, Trần Văn Giàu nói 1584. Tác giả Romanet du Caillaud cho rằng năm 1583 phù hợp, bởi vì trước năm 1583, nhiều thành viên trong đoàn truyền giáo của Diego d’Oropesa chưa có mặt ở Philippin. Xem [10, tr.29] 4 Có lẽ là cửa Hàn, Đà Nẵng. Xem [10, tr.27] 5 Phó vương có lẽ là con của Nguyễn Hoàng, vì Nguyễn Hoàng đang ở Thăng Long để giúp vua Lê và Chúa Trịnh đánh dẹp nhà Mạc (từ 1592 cho tới 1600). Xem [10, tr.27]

[10, tr.36]. Họ chỉ đến Việt Nam, ở lại ít lâu rồi ra đi cùng với các tàu buôn.

43

Phải đến thế kỉ XVII, sự xuất hiện của các giáo sĩ phương Tây mới thực sự rầm

rộ, bởi đó là thế kỉ phát triển của tư bản thương mại châu Âu. “Tư bản thương mại và

các hội truyền giáo thúc đẩy nhau như hai đầu của một chiếc lò xo” [25, tr.337]. Ngoài

ra, thế kỉ XVII còn là thế kỉ đánh dấu sự phát triển của Dòng Tên (Jésuites) với những

giáo sĩ phần lớn là những người học rộng và có kiến thức, nhờ vậy công cuộc truyền

giáo “mới có một khu đất mới khá tốt, có thể gieo hạt giống một cách có kết quả tốt

tươi và hứa hẹn một tương lai rực rỡ…” [52, tr.108]. Số giáo sĩ sang Việt Nam ngày

càng nhiều hơn, việc truyền giáo ngày càng thịnh, không chỉ có người châu Âu mà còn

có cả người Nhật Bản.

Năm 1615 được xem là mốc mở đầu đặc biệt, có liên quan đến vấn đề khởi

nguyên của chữ quốc ngữ. Giữa lúc hoạt động truyền giáo ở Nhật gặp khó khăn, các

giáo sĩ chuyển trọng tâm hoạt động sang Đàng Trong với hy vọng thành công trong sứ

mạng truyền đạo. Họ tin rằng có thể nhờ người Nhật ở Hội An làm trung gian để việc

học tiếng Việt được dễ dàng.

Khi đến Đàng Trong, nhờ sự giới thiệu và bảo trợ của người Bồ, hẳn nhiên các

giáo sĩ được chúa Nguyễn biệt đãi và để tự do truyền đạo. “Bằng chứng nói rõ thiện

cảm tất nhiên của chúa đối với các giáo sĩ người Tây phương” [87, tr.907] chính là

việc cho dựng lò đúc súng năm 1615 tại phường Đúc (Huế). Các họ đạo mọc lên

nhanh chóng ở khắp nơi nhất là Hội An, Cửa Hàn và Phú Xuân. Hội truyền giáo Đàng

Trong ra đời (1615) và là hội truyền giáo đầu tiên ở Việt Nam. Tính từ năm 1615 đến

1618 đã có 10 nhà truyền giáo đến từ Bồ Đào Nha, Ý, Nhật. Trong đó Buzomi,

Francisco de Pina, Pedro Marquez và Christofo Borri là những người tiêu biểu nhất, có

đóng góp lớn cho sự ra đời của chữ quốc ngữ, có nhiều nỗ lực trong việc gieo hạt

giống Thiên chúa giáo ở Đàng Trong tuy “kết quả hết sức khích lệ” [87, tr.901].

Linh mục Buzomi là người Italia, đã từng hoạt động truyền giáo ở Nhật Bản và

làm giáo sư thần học ở Macao trong 5 năm. Ông là người có tiếng hiền từ và đạo đức.

Ông hoạt động truyền đạo chủ yếu ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quy Nhơn cho đến tận

năm 1639. Bên cạnh Buzomi và phụ giúp cho Buzomi là linh mục Francisco de Pina,

người thông thạo ngôn ngữ của người Việt. Đầu năm 1617, Đàng Trong còn đón hai

Thừa sai Pedro Marquez và Christofo Borri, đều là những giáo sĩ thông thạo phong tục

44

người Việt và biết ít nhiều tiếng Việt. Nhờ vậy, công việc truyền giáo của họ ở Đàng

Trong mới được tiến triển thuận lợi. “Họ nói đã rủ được một vạn tín đồ” [25, tr.337].

Năm 1624, “một giai đoạn truyền giáo mới của Dòng Tên ở Đàng Trong đã được

bắt đầu với nhiều khí thế” [10, tr.53] khi một phái đoàn hùng hậu khác được gửi đến

gồm các giáo sĩ Alexandre de Rhodes (người Pháp), Hieromimo Majorica (người Ý),

và bốn người Bồ Đào Nha là G. de Mattos, A. de Fontes, Gaspar Luis và M. Ribero.

Họ đều là những người chịu khó học tiếng Việt và tìm hiểu tập quán của người Việt để

biến Đàng Trong trở thành một mảnh đất đầy hứa hẹn của công cuộc truyền giáo.

Trong thời gian này, Thiên chúa giáo “được truyền giảng tại tất cả những vùng chủ

chốt của xứ Đàng Trong… vượt khả năng sức lực cũng như mọi điều hy vọng” [dẫn

theo 11, tr.126] của các giáo sĩ. Năm 1628, Đàng Trong có sự đặt chân của giáo sĩ

Gaspar de Amaral, người sau này là tác giả hai cuốn Từ điển Annam - Bồ và Từ điển

Bồ - Annam, là “bước khởi đầu chuẩn bị cho sự ra đời cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của

Đờ Rốt” [120, tr.115]

Trong số những giáo sĩ vừa nêu, Alexandre de Rhodes6 là nhân vật tiêu biểu

nhất, “một người Pháp hoạt động có hiệu quả nhất trong việc cung cấp những nhận

thức đúng đắn về nước An Nam” [11, tr.16]. Từ 1624 – 1626, ông hoạt động ở Đàng Trong, chỉ chú tâm vào học tiếng Việt và làm phụ tá cho Linh mục Pina7 ở Quảng

Nam và Thuận Hóa. Chỉ 6 tháng sau khi đến Đàng Trong ông đã có thể giảng đạo

được bằng tiếng bản xứ. Đây cũng là lý do mà các cha bề trên đã chọn Alexandre de

Rhodes đứng ra thành lập giáo đoàn mới tại Đàng Ngoài. Năm 1627, ông đến Bắc Kì

mang theo một số tặng phẩm từ phương Tây: một chiếc đồng hồ quả lắc có bánh xe,

một đồng hồ cát và một quyển sách toán thếp vàng, in chữ Hán dâng tặng chúa Trịnh

và được tiếp đón niềm nở. Nhờ “thông thạo tiếng Việt, năng nổ, nên ông được coi là

người khai phá, đặt nền móng cho cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài” [10, tr.135]. Năm

1630, Alexandre De Rhodes bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Ông đành phải về Macao

6 Ông sinh tại Avignon năm 1591, gia đình gốc ở Aragon Tây Ban Nha, gia nhập dòng Tên năm 19 tuổi. Ông tự nguyện phục vụ tại Viễn Đông. Ông rời Lisbon năm 1619 đến Ma Cao năm 1623. Năm 1624 được lệnh đến Đàng Trong. 7 Lê Văn Siêu nói là phục vụ dưới quyền cha Buzomi. Xem [87, tr.901]

và mười năm sau, tháng 2-1640, ông trở lại Đàng Trong với “một vốn tiếng Việt thật

45

dồi dào và những kinh nghiệm truyền giáo thật dày dạn, làm cho công cuộc truyền

giáo ở đây phát triển một cách đáng kể” [10, tr.67]. Ông được Công thượng vương

Nguyễn Phúc Lan đón tiếp một cách ân cần và niềm nở. Ông đã lui tới nhiều địa

phương để truyền giáo như Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú

Yên. Về sau, chúa Nguyễn bắt đầu tỏ ra bất bình trước công cuộc truyền bá đạo Gia tô.

Do đó, năm 1645, Linh mục Rhodes bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Đàng Trong với sự

luyến tiếc: “Con người rời khỏi xứ Đàng Trong nhưng chắc chắn tấm lòng sẽ còn ở

lại” [11, tr.17].

Bị trục xuất trong những điều kiện hết sức nghiêm ngặt, Linh mục Rhodes thấy

mình không thể trở lại Đàng Trong, nên đã ráo riết vận động để các thừa sai khác tới

tiếp tục. Ông đến Roma làm một công việc mà sau này kết quả của nó “đã ảnh hưởng

rất lớn đến việc gây dựng và phát triển ảnh hưởng của Pháp ở nước An Nam” [11,

tr.18]–vận động Giáo hoàng thành lập Hội truyền giáo hải ngoại của người Pháp,thay thế người Bồ Đào Nha trong công việc truyền đạo ở Việt Nam8 và đã thành công. Ông

còn cho xuất bản cuốn Từ điển Việt – Bồ - La (1651) để làm phương tiện truyền đạo.

Từ đây, nước Pháp sẽ từng bước thay thế vai trò truyền giáo của Bồ Đào Nha và Tây

Ban Nha. Năm 1664, Hội thừa sai Paris (MEP) ra đời, phối hợp mật thiết với công ty

Đông Ấn Pháp để tiến hành các hoạt động truyền đạo.

Ở Đàng Trong, sau Alexandre De Rhodes, tháng 2 – 1646, có hai giáo sĩ đến Đà

Nẵng để thay thế là Linh mục Saccano và Linh mục Caldeira (từng hoạt động ở Đàng

Ngoài từ 1637 - 1644). Họ ra mắt chúa Nguyễn Phúc Lan với nhiều lễ vật rất đẹp của

phương Tây và được tiếp đãi hậu hỉ “với thái độ không có gì tỏ ra còn để bụng” [11,

tr.21]. Nhưng sau một sự xích mích với những thương nhân Ma Cao, chúa Nguyễn chỉ

chấp nhận cho Saccano (người Ý) ở lại Đàng Trong với điều kiện không được truyền

8 Việt Nam là giáo xứ thuộc khu vực Bồ Đào Nha. Vua Bồ có quyền tiến cử các chức sắc, nắm giữ tài chính, quyền tổ chức các giáo hội, lề lối truyền đạo. Tất cả các giáo sĩ thuộc quốc gia khác, khi được cử đi đâu đều phải khởi hành từ Lisbonne (kinh đô Bồ Đào Nha) và thường phải tuyên thệ trung thành với vua Bồ trước khi xuống tàu. Tất cả dù đi đến bất cứ đâu, cũng lại bắt buộc phải tới Goa trước để cho phó vương Bồ kiểm soát. Ai không có giấy phép của vua đều bị đuổi trở lại châu Âu. Do đó, nhân viên các phái đoàn truyền giáo đều thuộc quyền Hoàng gia Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Mọi quyết định của giáo hoàng đều phải được vương quyền Madrid và Lisbonne thông qua mới thi hành được. Nhiều địa phương thiếu giáo sĩ, mà giáo sĩ thì cứ ngồi chờ giấy phép của hoàng gia. Chờ mãi cũng không có. Xem [87, tr.912-913]

đạo. Còn Linh mục Caldeira bị buộc phải theo tàu buôn trở về Macao.

46

Tháng 11 – 1646, Linh mục Rocca (người đảo Silice) được cử tới Đà Nẵng để

thay Caldeira. Ông cùng với Saccano lên kinh yết kiến Công thượng Vương và được

chấp thuận ở lại Đàng Trong nhờ “bức thư của cha Thanh tra đầy rẫy những lời thỉnh

cầu hết sức khiêm nhường và có kèm theo hai hạt ngọc trai lộng lẫy và nhiều thỏi vàng

thật là to” [dẫn theo 11, tr.22]. Tại kinh đô Huế, hai ông đã làm phép rửa cho 180

người, trong đó có những quan chức lớn của triều đình. Về sau, chúa Nguyễn Phúc

Tần muốn lợi dụng các giáo sĩ vào việc quân sự, nhờ họ hiến kế đánh Đàng Ngoài,

nhưng đều bị từ chối, nên giữa năm 1654, Hiền Vương đã cho bắt và trục xuất hai linh

mục Saccano và Rocca vĩnh viễn ra khỏi Đàng Trong.

Đầu năm 1655, hai linh mục Pedro Marquez9 và Rivas (người Italia) được cử

sang Đàng Trong thay thế hai linh mục Saccano và Rocca, dâng lễ vật ra mắt chúa

Nguyễn và chữa bệnh cho một vị quan ở Đồng Hới, còn được Hiền vương cho trở về

Macao vận động tàu buôn tới giao lưu với Đàng Trong.

Năm 1672, giám mục Béryte của Hội truyền giáo hải ngoại Paris từ Xiêm gửi

chúa Hiền nhiều thư và những món tặng phẩm thật đẹp đến từ phương Tây. Chúa

Nguyễn hài lòng và từ đó cho phép các giáo sĩ của Hội Thừa sai Paris được ở lại Đàng

Trong và xây dựng nhà thờ. Hội truyền giáo hải ngoại dần có chỗ đứng kể từ đây.

Tuy vẫn giữ sự nghi kỵ và có lúc cấm đoán nhưng bao giờ các chúa Nguyễn cũng

tỏ ra có thái độ khoan hòa, không quá khắt khe trong việc thanh trừng đạo Thiên chúa,

thậm chí có những giáo sĩ, những người đại diện cho khoa học phương Tây đã được

giao những chức vụ quan trọng trong triều đình họ Nguyễn. Hiền Vương đã dùng cha

Bartholomeu da Costa làm người thầy thuốc của mình. Minh Vương cũng giữ lại bên

mình cha Antonio de Arnedo với tư cách là nhà toán học. Võ Vương đã giữ cha

Neugebauer làm nhà toán học kiêm nhà thiên văn; cha Siebert làm ngự y (chết tại Huế

năm 1745), sau được thay thế bằng cha Jean Koffler, ở lại triều đình cho tới năm 1755,

tác giả cuốn sách Mô tả xứ Đàng Trong viết bằng tiếng Latinh. Ngoài ra, Võ Vương

còn để bên mình tại Huế một nhà trắc địa là Xavier de Monteiro và một thầy thuốc là

Jean de Loureiro, đồng thời cũng là một nhà vạn vật học sáng giá, đến Đàng Trong

năm 1742, có nhiều nghiên cứu có giá trị về giới thực vật ở Đàng Trong, sau này trở 9 Đã từng hoạt động ở Đàng Trong từ 1617 – 1626 và ở Đàng Ngoài từ 1627 – 1630

47

thành ủy viên Hội Hoàng gia Luân Đôn và viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Lisbonne.

Ngoài ra chưa kể những đồ vật và các loại máy móc được các giáo sĩ tặng cho chúa

Nguyễn khi có dịp: máy bơm nước, vòi chữa lửa, máy giã gạo, đồng hồ, kĩ thuật đúc

súng,… Việc chúa Nguyễn dùng người phương Tây trong triều đình là một việc làm

hoàn toàn mới mẻ, chưa hề có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.

Thế kỉ XVIII, công cuộc truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây gặp nhiều khó

khăn bởi tình hình chính trị rối loạn và các cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập

đoàn phong kiến. Nổi bật chỉ có hoạt động của Pierre Joseph Georges Pigneau (Bá Đa

Lộc), người sẽ tham gia vào sự nghiệp phục hưng của dòng họ Nguyễn, đồng thời

cũng đóng góp rất lớn vào việc chỉnh lý, hoàn thiện chữ quốc ngữ bằng cuốn Từ điển

Annam – Latinh (1774).

Như vậy, bên cạnh mang đến niềm tin về sự cứu rỗi, các giáo sĩ phương Tây

cũng mang đến cho xã hội nông nghiệp Việt Nam những tiếp xúc đầu tiên với các yếu

tố văn hóa phương Tây bởi “tôn giáo là một phương diện của văn hoá và mọi sự tiếp

xúc tôn giáo đều có thể được coi là tiếp xúc văn hoá” [50, tr.34]. Đàng Trong của các

chúa Nguyễn ghi nhận những nhà toán học và thiên văn học như Jean Baptiste Sanna

(người Ý), Sébatien Pirès, Francois de Lima (Bồ Đào Nha), Joeph Neugebauer (người

Đức) hoặc như nhà y học Jean Sibert (Tiệp Khắc), Jean de Leurerio (Bồ Đào Nha)…

Thiên chúa giáo vì vậy trở thành cầu nối cho mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam

Kỳ với phương Tây. Quan trọng nhất, sự du nhập Thiên chúa giáo là tiền đề quan

trọng thúc đẩy sự ra đời của chữ quốc ngữ, bởi trong quá trình hoạt động, các nhà

truyền giáo đã cố gắng học tiếng Việt và tìm cách ghi âm tiếng Việt để giải quyết khó

khăn về bất đồng ngôn ngữ.

1.3.2. Hoạt động buôn bán của các nước phương Tây

Bên cạnh hoạt động truyền giáo, sau các cuộc phát kiến địa lý “báo hiệu buổi

bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa” [44, tr.212], việc buôn bán giữa phương Tây

và phương Đông cũng được mở rộng rất nhiều. Việt Nam nằm trên con đường tơ lụa

thương mại trên biển Đông, có bờ biển dài nối liền Trung Quốc với vịnh Thái Lan, có

nhiều hải cảng, hải đảo quan trọng (Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo…) là

vị trí lý tưởng mà nhiều nước tư bản phương Tây đang tìm cách đặt chân tới. Những

48

hoạt động buôn bán giữa Đàng Trong với thương nhân châu Âu vì thế cũng diễn ra

nhộn nhịp trong các thế kỉ XVII, XVIII. Họ lần lượt chở đến nước ta hàng hóa và sản

vật của nhiều nước Âu Mỹ. Sự hiểu biết của người Việt về văn minh phương Tây cũng

bắt đầu thông qua quan hệ buôn bán.

Bồ Đào Nha à người đi tiên phong trong việc mở ra “con đường gia vị” mới qua

mũi Hảo Vọng, dĩ nhiên, họ là những người đầu tiên đặt quan hệ với Việt Nam. Trên

con đường chinh phục các vùng biển châu Á, người Bồ đã tới Quảng Châu năm 1516,

và cũng vào năm này họ phát hiện ra vùng ven biển Việt Nam [65, tr.397]. Họ tiếp tục

lui tới các cảng Việt Nam trong thế kỉ XVII đúng vào các dịp đầu năm âm lịch, thời

điểm mở đầu mùa giao dịch, nhất là đối với các cảng ở Quảng Nam, và trở về vào

tháng 9, tức cuối mùa gió hè, với các sản phẩm Đàng Trong như tơ, đường, tiêu, kỳ

nam và các hương liệu khác.

Khi đến Đàng Trong buôn bán, người Bồ là luôn phải áp dụng một chính sách

thích nghi với các phong tục tập quán, nghi thức, đòi hỏi của chính quyền phong kiến.

Họ tự nguyện chấp nhận mọi quy định của chúa Nguyễn, “quá phục tùng các tục lệ

nước Nam” [84, tr.376], tìm cơ hội phục vụ các chúa để được tin cậy. Đặc biệt, “họ

phô trương sự hiểu biết và thành thạo của mình trong các lĩnh vực khoa học và kỹ

thuật” [65, tr.400] phương Tây.

Năm 1613, một thương nhân người Bồ là Ferdinand Costa đến yết kiến chúa Sãi

ở Dinh Cát và mua các thứ hàng như tơ lụa, đường, kỳ nam, trầm hương, gỗ quý. Họ

chỉ đến bán diêm sinh, cánh kiến, chì, đồ sành sứ, hợp kim kẽm – đồng, chì… Khoảng

năm 1614, một thương nhân người Bồ Đào Nha lai Ấn tên là Joao da Cruz đã được

chúa Nguyễn cho lập lò đúc súng ở Thuận Hóa, sau này người ta gọi chỗ đó là Phường

Đúc [51, tr.96]–nơi sản xuất các khẩu đại bác cỡ lớn –“một trong những quân chủ bài

của đạo quân Đàng Trong” [65, tr. 402].

Chúa Nguyễn còn dành cho người Bồ nhiều ưu đãi khác, quyết định cấp đất cho

họ lập một thành phố gần cảng Đà Nẵng để buôn bán. C. Borri cho biết: “Vua xứ Đàng

Trong rất ưa người Bồ Đào Nha đến buôn bán trong vương quốc của ông. Có lần ông

ban cho họ 3 hay 4 dặm đất trong xứ - nơi có ưu thế nhất, có thể là vùng cảng Turon

[Đà Nẵng] để họ xây dựng ở đó một thành phố với tất cả tiện nghi của họ, giống như

49

phương thức Trung Hoa và Nhật Bản đã làm” [dẫn theo 108, tr.15]. Nhưng không rõ

lý do gì người Bồ Đào Nha đã không thực hiện ý định này [5, tr.54].

Với chúa Nguyễn, việc buôn bán với người Bồ Đào Nha chỉ có ý nghĩa thực sự

khi xảy ra cuộc chiến tranh với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đại bác, mặt hàngthể hiện

sức mạnh của văn minh phương Tây đượcchúa quan tâm nhất. Hiểu được nhu cầu ấy,

ngoài việc đem đến đại bác và súng trường đều đặn cho các chúa, người Bồ còn mang

cả chì, lưu huỳnh, nitrat cali cần thiết để chế tạo thuốc nổ. Đổi lại, người Bồ được tạo

điều kiện thuận lợi để thực hiện các hoạt động thương mại. Ngoài vũ khí, hàng hóa mà

người Bồ chở tới bán cho Đàng Trong phần lớn được sản xuất từ phương Tây, nhiều

nhất là đồ dùng đơn giản hàng ngày như mũ nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi,… và

cả những kim khâu. Họ thu được lãi suất cao từ những mặt hàng này: “Tôi nhớ một

người Bồ đem từ Ma Cao tới Đàng Trong một lọ đầu kim khâu, tất cả chỉ giá hơn 30

“ducat”, nhưng đã được lời tới hơn 1.000, vì ông ta đã bán mỗi chiếc một đồng

“real” ở xứ Đàng Trong, trong khi ở Ma Cao ông ta mua không tới một “double”[dẫn

theo 15, tr.90]

Về sau, do hậu quả của sự tan rã quyền lực, từ vị trí kẻ tiên phong của phong trào

bành trướng thuộc địa, Bồ Đào Nha ngày càng mất dần ưu thế hàng hải vào tay người

Hà Lan, người Anh và người Pháp. Hơn nữa, đến thế kỉ XVIII, nhu cầu chiến tranh

của các chúa cũng giảm đi, thương nhân Bồ Đào Nha qua lại buôn bán với Đàng

Trong thưa thớt dần.

Sau Bồ Đào Nha, người Hà Lan nổi tiếng là những thương gia và nhà hàng hải

khôn khéo, táo bạo. Năm 1613, nhận thấy “vùng đất này [Đàng Trong] có một lợi

điểm thực sự” [65, tr.405], giám đốc thương điếm Hà Lan tại Nhật Bản cho thuyền chở

các thứ ngà voi, len dạ, chè đến Đàng Trong xin buôn bán, nhưng không đạt kết quả.

Mãi đến năm 1633 việc buôn bán của người Hà Lan ở đây mới được bắt đầu.

Từ năm 1633 đến năm 1637, mỗi năm có 2 tàu Hà Lan đến Đàng Trong để trao

đổi, buôn bán, thường xuất phát từ Nhật Bản. Năm 1636, họ mở một thương điếm ở

Hội An do Cornelis Caesar đảm nhiệm. Cũng năm 1636, hai chiếc tàu Warmont và

Grol từ Nhật đến Hội An được chúa Nguyễn tiếp đãi tử tế và cho phép họ được tự do

buôn bán, khỏi nạp thuế, được đặt thương điếm ở Hội An. Mặt hàng họ mang đến

50

Đàng Trong thường là những hàng hóa có nguồn gốc phương Tây: xa xỉ phẩm, bạc

thỏi, tiền, nitrat canxi, lưu huỳnh, vải bông hay len... Do nhu cầu cao về tiền tệ của

chúa Nguyễn và việc cấm lưu hành đồng tiền Eiraku ở Nhật, công ty Đông Ấn Hà Lan

đã mang loại tiền này buôn bán ở Đàng Trong, trở thành một mặt hàng thu được một

khoản lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, kể từ năm 1638, quan hệ buôn bán giữa người Hà Lan

với các chúa Nguyễn mờ nhạt đi do những mâu thuẫn xung quanh việc người Hà Lan

thiết lập quan hệ buôn bán với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và đôi lần giúp chúa Trịnh

đánh Nguyễn.

Gần một thế kỉ sau, năm 1754, chúa Nguyễn Phúc Khoát mới mở rộng quan hệ

giao dịch với Hà Lan và nhiều nước khác. Một số tàu Hà Lan đến Hội An buôn bán.

Chúa Nguyễn đặt hàng cho thuong nhân Hà Lan đúc tiền. Nhưng lúc này sự cạnh tranh

của người Bồ khá gay gắt, lại thêm những chuyến hàng tiền kẽm chúa đặt mua đọng

nợ lại. Chúa cho rằng, tiền kẽm do chúa đặt lái Hà Lan đúc, lái Hà Lan lại đem bán cả

cho dân, như vậy là trái phép. Năm 1758, Hà Lan quyết định chấm dứt buôn bán với

Đàng Trong.

Cũng trong thời gian này, người Anh cho thành lập công ty Đông Ấn Anh, mở

đầu cho việc giao lưu buôn bán với các nước phương Đông. Trong các năm 1613,

1616, phái đoàn của công ty Đông Ấn Anh đã đến Đàng Trong và Đàng Ngoài dâng

tặng các phẩm vật để xin được thông thương buôn bán, nhưng do bịthương nhân các

nước khác chèn ép nên việc buôn bán vẫn chưa có cơ hội phát triển.

Năm 1695, Nathaniel Higginson, Toàn quyền Anh ở Madras đã phái Thomas

Bowyear đến Hội An xin được mở thương điếm buôn bán và được chúa Nguyễn chấp

thuận. “Chúa tỏ ra rất sẵn lòng và không bác bỏ bất cứ điểm nào được đưa ra trong bản

đề nghị” [65, tr.417]. Nhưng không được bao lâu thì “bị phá hoại, do đó họ phải rút đi”

[48, tr.553], hoặc có thể do các biến động gặp phải ở nhiều nơi khác khiến Công ty

phải ngừng các dự án.Năm 1764, thời Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), tàu buôn

Anh là Peacock tới buôn bán trực tiếp với Đàng Trong. Đến tận năm 1777, khi tàu

thuyền Anh do Chapman chỉ huy trở lại buôn bán với Đàng Trong thì nghĩa quân Tây

Sơn đang quản lý vùng đất này. Ông được Hoàng đế Nguyễn Nhạc cho phép mua và

bán một số hàng hóa. Khi về đến Ấn Độ, Chapman đã không ngừng ca ngợi: “Không

51

có xứ nào ở châu Á sản xuất vật dụng nhiều và tốt hơn là xứ này, các thứ rất lợi cho

sự buôn may bán đắt là: quế, tiêu, tơ, bông, đường, gỗ quý, ngà voi… Ở đây thì vàng

từ đất moi lên đã là vàng xanh rồi… Nếu chúng ta có căn cứ trên đất Đàng Trong và

có một thế lực mạnh ở đó, thì với sản vật ở Ấn Độ và châu Âu, chúng ta sẽ dễ dàng

mua rất nhiều hàng hóa kể trên” [dẫn theo 7, tr.41]. Chapman đề nghị một sự can

thiệp quân sự vào Việt Nam nhưng do tình hình khó khăn, đề nghị của ông đã không

được chính quyền Bengale chú ý.

Năm 1792, một đoàn sứ bộ Anh do Macartnay cầm đầu đến Đà Nẵng tìm cách

điều đình việc thông thương cũng nhận định: “Xứ Đàng Trong là một vùng thuận lợi

cho thương nghiệp… Các cửa khẩu thuận lợi trên bờ biển và đặc biệt là cảng Đà

Nẵng cống hiến một vùng an toàn cho tàu bè lớn nhất suốt trong mùa mưa bão” [dẫn

theo124, tr.12]. Tuy nhiên, công việc bang giao không thành công. Người Anh lo củng

cố thế lực ở Ấn Độ và để vùng Đông Dương lại cho thương nhân Pháp hoạt động. Sự

giao thiệp của người Anh chỉ được xúc tiến trở lại khi triều Nguyễn thành lập.

Người Pháp xuất hiện tại Việt Nam khá muộn nhưng lại quan tâm đến truyền

giáo hơn là thương mại. Với người Pháp, “những việc mua bán đầu tiên chỉ được thực

hiện sau khi các giáo đường Gia tô được thành lập” [101, tr.45]. Họ kiên trì tìm kiếm

một thỏa thuận thông thương.Chiếc tàu của công ty Đông Ấn Pháp do giáo sĩ La Motte

Lambert đội lốt thương gia đã hai lần đến Đàng Trong vào các năm 1671, 1676 và

được chúa Hiền hoan nghênh với thái độ khoan dung và cho phép các giáo sĩ được

hưởng sự tự do tôn giáo.

Năm 1744, nhân viên công ty Đông Ấn Jacques O’ Friell đã gặp Võ Vương

Nguyễn Phúc Khoát và được chúa chấp nhận cho buôn bán, xây nhà kho ở Đàng

Trong. Chúa Nguyễn còn gửi theo Friell hai thanh niên người Việt để học tiếng Bồ.

Sau thành công này, Friell vận động được Toàn quyền trên đất Ấn thuộc Pháp là

Dupleix giúp đỡ cho chương trình thâm nhập thương mãi này. Tuy nhiên, trong những

năm đầu thế kỉ XVIII, quan hệ buôn bán giữa người Pháp và Việt Nam chưa gắn bó

mật thiết.

Năm 1749, Poivre một thương nhân kiêm giáo sĩ mang thư và quà của vua Pháp

tặng Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, xin xây dựng một thương điếm ở Hội An và

52

điểm neo tàu ở Đà Nẵng. Chúa Nguyễn đã trả lời rất trân trọng: “Tôi kính gửi hoàng

thượng cái thư này để bày tỏ lòng tôi kính mến quý quốc, thấy hoàng thượng sai một

chiếc tàu sang nước tôi thì tôi lấy làm vui lòng và cảm ơn hoàng thượng lắm. Ước gì

từ rày trở đi quý quốc với nước tôi hai bên thân cận với nhau như là một nước, thì tôi

lấy làm thỏa lòng lắm” [dẫn theo 65, 423]. Nhưng sau một sự tranh chấp, chúa Nguyễn

cho bắt và trục xuất hết các giáo sĩ Pháp. Từ đó về sau, những đề nghị đặt quan hệ

thương mại của người Pháp đều không thực hiện được, như chuyến đi của Bennetat

vào năm 1750, đề án của Protais Leroux 1755, kế hoạch viễn chinh của bộ trưởng hải

quân Pháp Choiseul Praslin năm 1768,… Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, “thương mại

của Pháp không có đại diện nào ở Việt Nam ngoài các nhà truyền đạo” [102, tr.36]

Thông qua hoạt động buôn bán vừa nêu, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, người

Việt đã tiếp xúc khá thường xuyên với người phương Tây. Sự xuất hiện của những đối

tác mới này có tác động nhất định đến sự phát triển kinh tế thương mại cũng như đến

các lĩnh vực văn hóa - xã hội Đại Việt.

Hoạt động thương mại của các nước phương Tây đã làm cho kinh tế Đàng Trong

trở nên khởi sắc, thúc đẩy sự hưng thịnh của các thương phố, thúc đẩy sự phát triển

yếu tố tiền tệ và hàng hóa trong nền kinh tế vốn mang nặng tính tự cung tự cấp. Đàng

Trong đã xuất khẩu được nhiều hàng hóa vốn trước đó chỉ cung cấp cho thị trường nội

địa như tơ lụa, đường, hồ tiêu, kì nam, yến sào, lúa gạo, cau khô và các loại lâm, thủy

sản khác… là những mặt hàng có giá trị và được nhiều thị trường khu vực cũng như

thế giới ưa chuộng. Chính ngoại thương đã đưa sức sống kinh tế - xã hội của cả vùng

đất mới này phát triển nhanh chóng, cho phép Đàng Trong trở thành một vương quốc

cường thịnh, một trung tâm thương mại lớn ở Đông Nam Á.

Trên khía cạnh văn hóa, hoạt động buôn bán giữa Đàng Trong với các nước

phương Tây đã tạo ra môi trường thuận lợi cho mối quan hệ văn hóa Đông - Tây. Theo

chân các giáo sĩ Thừa sai, các nhà buôn những kiến thức sơ đẳng của các môn khoa

học phương Tây như cơ khí, toán học, vật lý, thiên văn, y học, quân sự... sớm được

tiếp nhận ở Đàng Trong. Người phương Tây còn mang theo trình độ đóng thuyền

thuộc bậc nhất thế giới, cùng với những kinh nghiệm vượt đại dương nhờ bản đồ, la

bàn. Các mặt hàng mà người phương Tây mang đến đều là sản phẩm của kĩ nghệ tiên

53

tiến như đại bác, vải satanh, vải nhung, kim tuyến, đồ pha lê, đá quý, đồng hồ, kĩ thuật

in khắc… Sự phát triển kinh tế hàng hóa kết hợp lối sống thị dân và thế lực đồng tiền,

đã góp phần làm rạn nứt ý thức hệ phong kiến. Đặc biệt, gắn liền với chính sách mở

cửa của các chúa Nguyễn và quá trình truyền giáo của người phương Tây, chữ quốc

ngữ đã ra đời vào thế kỉ XVII, là sản phẩm của cuộc giao lưu mới trong lịch sử, cuộc

giao lưu Âu – Việt. Sự ra đời của nó không những phục vụ đắc lực cho hoạt động

truyền giáo mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương. Nó là điểm

khởi đầu của quá trình làm biến đổi nhiều lĩnh vực trong đời sống văn hóa của người

Việt.

1.3.3. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp

Hoạt động truyền đạo của các giáo sĩ Thiên chúa giáo cùng với quá trình trao đổi

buôn bán chỉ là những cuộc tiếp xúc ban đầu trong mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ

với phương Tây. Để môi trường văn hóa phương Tây thực sự có chỗ đứng vững chắc

trên mảnh đất Nam Kỳ, đòi hỏi phải có sự đô hộ của người châu Âu. Thực dân Pháp là

người nhanh chân nhất làm việc này.

Đến Nam Kỳ ngoài mục đích “mở rộng đất Chúa”, các giáo sĩ Thừa sai Paris còn

vẽ nên một bức tranh An Nam giàu có trong nhận thức của Napoléon III: “Nước Pháp

sẽ tìm thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều mỏ vàng, bạc, đồng, sắt và than đá, nhiều gỗ tốt

để đóng tàu; Pháp sẽ có một hải cảng an toàn cho các hạm đội và thực phẩm cho lính

thủy của mình... Tại đó người ta còn có thể thiết lập một nền thương mại quan trọng

về gạo, bông, muối, cau, lụa, tơ cùng nhiều mặt hàng khác...” [102, tr.61-62], dễ dàng

chiếm đóng mà “không tốn kém gì cả cho Pháp”, còn dân chúng thì đang “rên xiết chế

độ bạo tàn kinh khủng nhất... sẽ đón tiếp chúng ta như những người giải phóng và ân

nhân” [102, tr.51]. Tháng 11 – 1857, Napoléon III đã ra lệnh can thiệp vào Việt Nam.

Rigault de Genouilly lên đường đến “Nam Kỳ” với sứ mệnh chính là bảo vệ sự truyền

giáo của các thừa sai và mang ánh sáng văn minh phương Tây đến cho dân tộc Việt

Nam.

Đà Nẵng được chọn làm điểm tấn công đầu tiên. Chiều 31 – 8 – 1858, liên quân

Pháp – Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Mờ sáng 1 – 9, đại bác của liên

quân bắn tới tấp vào Đà Nẵng. Trước thế tấn công, dân chúng lập tức thực hiện “vườn

54

không nhà trống”, phối hợp với quân do Nguyễn Tri Phương chỉ huy đắp lũy phòng

ngự. Bị cô lập, lại đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, Đô đốc Gigault de Genoilly mới

nhận ra rằng: “Người ta nói với chính phủ về những tài nguyên không hề có, sự sẵn

sàng nơi người dân nhưng kì thực quân chính quy lại rất đông và quân tự vệ thì gồm

tất cả mọi người khỏe mạnh trong dân chúng” [102, tr.94]. Trước tình thế đó, Đô đốc

Rigaul de Geouilly chuyển sang hướng mới: cảng Sài Gòn ở phía Nam.

Ngày 17 – 2, quân Pháp tấn công và chiếm thành Gia Định. Cũng như ở Đà

Nẵng, người Pháp bị cô lập, phải nhận từ dân chúng thái độ bất hợp tác và không tìm

đâu ra sự đón tiếp của các làng Gia tô giáo như lời hẹn của các giáo sĩ. Những đám

cháy lớn liên tục bùng lên, những đạo quân “ứng nghĩa” nhanh chóng thành lập.

Nhưng, điều đáng sợ hơn cả là nguy cơ về sự tấn công bất ngờ của quân đội triều đình

phát xuất từ phòng tuyến Chí Hòa vừa được xây dựng dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri

Phương. Trong khi đó, tình hình ở Đà Nẵng ngày càng trầm trọng: Thương vong tiếp

tục, thiếu thốn đạn dược, lương thực, nhiên liệu vận hành tàu chiến… Không còn khả

năng mở cuộc tấn công thẳng vào kinh đô Huế. Tuy nhiên, không thể chấp nhận ý

tưởng từ bỏ cuộc viễn chinh, Rigault de Genouilly tìm cách thương thuyết với triều

đình Huế. Yêu sách về tự do truyền giáo trở thành chướng ngại khiến cho mọi thương

thuyết không đi đến kết quả chung cuộc.

Với quan điểm mạnh mẽ hơn - một thuộc địa vĩnh viễn ở Nam Kỳ – của tân Bộ

trưởng Hải quân và Thuộc địa Chasseloup-Laubat, sau khi giải quyết xong chiến sự ở

Trung Quốc bằng Hòa ước ngày 25 – 10 – 1860, Phó Đô đốc Charner thẳng tiến về Sài

Gòn. Giao tranh ác liệt đã diễn ra trong các ngày 25 đến 27 – 2 – 1861 ở đại đồn Chí

Hòa, cuối cùng, quân Pháp đã công phá được đại đồn. Giải quyết xong Sài Gòn, đến

lượt các tỉnh còn lại của Nam Kỳ: ngày 12 – 4, Pháp cắm cờ trên nóc thành Mỹ Tho;

ngày 14 – 12, thành Biên Hòa bỏ ngỏ; ngày 23 – 2 – 1862, Pháp chiếm thành Vĩnh

Long; chỉ còn An Giang và Hà Tiên là vô sự.

Trong khi quân dân Nam Kỳ kháng chiến khắp nơi. Triều đình Huếchấp nhận đề

nghị hòa bình của người Pháp. Phái đoàn Việt Nam do Phan Thanh Giản và Lâm Duy

Hiệp dẫn đầu, khởi hành vào Sài Gòn kèm theo lời dặn của vua Tự Đức: “Hãy hành

động rất cẩn thận hầu có ngưng chiến càng sớm càng tốt”, “Hãy dò lường tình ý, tùy

55

nghi biện bác sao cho họ bình tâm nghĩ lại” [dẫn theo 75, tr.282-283]. Chỉ sau một

tuần thảo luận, ngày 5 – 6 – 1862, một hiệp ước được ký kết gồm 12 điều khoản với

nội dung chủ yếu: Chính phủ Việt Nam nhượng cho Pháp 3 tỉnh phía Đông Nam Bộ

(Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa) và Côn Đảo; thừa nhận quyền tự do truyền giáo cho các

phái bộ thừa sai Gia tô; mở một số cảng và sông Cửu Long đến tận Cam Bốt cho

thương mại Pháp; bồi thường 4 triệu đô la, trả trong 10 năm; Chính phủ Việt Nam phải

được sự đồng ý của Pháp khi nhượng đất đai của mình cho nước khác.Hiệp ước Nhâm

Tuất đã gây phẫn uất trong dân chúng Nam Kỳ, cờ nghĩa của Trương Định, Thiên Hộ

Dương, Nguyễn Trung Trực… tiếp tục giương cao.

Không đặt niềm tin vào phong trào kháng chiến đang diễn ra mạnh mẽ ở Nam

Kỳ, vua Tự Đức tin rằng có thể dùng khả năng ngoại giao để khôi phục chủ quyền trên

3 tỉnh vừa bị mất. Một phái bộ gồm 12 người, do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ,

được cử sang Pháp xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông nhưng thất bại. Trong khi đó, tại

Nam Kỳ, người Pháp đã phác họa sẵn một kế hoạch đánh chiếm ba tỉnh miền Tây,

“thậm chí, ranh giới hành chính các tỉnh cũng được xác định trước” [3, tr.52]. Quân

Pháp bao vậy và chiếm thành Vĩnh Long (20 – 6). An Giang và Hà Tiênlần lượt bị

Pháp chiếm vào các ngày 21 và 24 – 6. Đến đây, lục tỉnh Nam Kỳ, trên thực tế đã

thuộc về thực dân Pháp, chỉ còn chờ sự thừa nhận chính thức bằng văn bản của triều

đình Huế. Bất chấp tất cả, dân chúng Nam Kỳ tiếp tục kháng chiến.

Khi tình hình Nam Kỳ dần đi vào ổn định, Dupré hướng tầm nhìn ra Bắc. Cơ hội

đã đến khi triều đình Huế“xin giúp đỡ” [72, tr.203] của người Pháp về hành động gây

hấn của Jean Dupuis ở lưu vực sông Hồng. Thiếu tá hải quân Francis Garnier, cùng

với 100 lính và 1 hạm đội nhỏ gồm 2 tàu chiến trang bị 11 đại bác [75, tr.321]được cử

ra Bắc để “mời ông Dupuis tạm thời từ bỏ công việc kinh doanh của ông ta, để tiếp tục

thực hiện lại sau này trong những điều kiện hợp pháp hơn, và trong trường hợp ông ta

từ chối thì sẽ phải cưỡng chế ông ta, và tức khắc đuổi ông ta đi” [72, tr.197]

Trái ngược với mong muốn của triều đình Huế, tại Hà Nội, Francis Garnier đã

bênh vực Dupuis, đòi mở cửa sông Hồng, đòi phá thành Hà Nội. Sau khi gửi cho

Nguyễn Tri Phương những lời đe dọa: “Tôi tôn vinh tuổi tác cao và lòng yêu nước của

ngài. Tôi không hài lòng về tính chất căm thù mù quáng chống lại người Pháp trong

56

các hành động của ngài. Trách nhiệm về những hậu quả này sẽ rơi trên đầu ngài” [72,

tr.207] và một tối hậu thư, ngày 20 – 11 – 1873, Francis Garnier tấn công và chiếm

thành Hà Nội. Bị thương trong khi chỉ huy chiến đấu, Nguyễn Tri Phương khước từ

mọi sự cứu chữa của người Pháp, “nằm gan lì ở dinh, tuyệt không ăn uống gì” [82,

tr.461] và qua đời ngày 20 – 12, để lại cho hậu thế tấm gương kiên trung của vị tướng

giữ thành. Trong men chiến thắng, Francis Garnier đã hành động theo bản tính quyết

liệt và phiêu lưu của mình: tiến đánh các tỉnh ở đồng bằng Bắc Kỳ như Hưng Yên (24

– 11), Hải Dương (4 – 12), Ninh Bình (5 – 12), Nam Định (10 – 12).

Phong trào kháng chiến ở Bắc Kỳ vẫn không giảm sút, nhanh chóng quy tụ nhiều

lực lượng và giành chiến công vang dội tại Cầu Giấy (21 – 12): Francis Garnier tử

trận. Quân Pháp ở vào tình trạng: không viện binh, không có tiền bạc, không còn

lương thực và đạn dược. Khoảng 300 lính Pháp mệt mỏi và bị cô lập ở cách xa bờ biển

khoảng 300 cây số, giữa một xứ đắm chìm trong tình trạng vô chính phủ, lại bị bao

vây bởi các băng đảng Cờ đen thiện chiến và sẵn sàng tấn công [102, tr. 288]. Trước

tình hình đó, Dupré đành trao cho Philastre nhiệm vụ: vãn hồi hòa bình ở Bắc Kỳ.

Hiệp ước Giáp Tuất được ký ngày 15 – 4 – 1874. Theo đó, người Pháp vừa chính thức

có được trọn xứ Nam Kỳ, lại có thêm các quyền lợi về thương mại, tôn giáo.

Đến năm 1879, hoàn cảnh thay đổi, vị thế của Pháp ở Bắc Kỳ có nguy cơ bị xâm

phạm, Thống sứ Lemyre de Viler đã chỉ thị Henri Rivière chỉ huy 2 hạm đội ra Hà Nội

để tăng cường lực lượng trú phòng ở Bắc Kỳ.Hoàng Diệu đã sớm không tin nước Pháp

phái quân đội đến Hà Nội chỉ đơn thuần là để bảo vệ những kiều dân và những người

du hành chống bọn Cờ Đen. Quan Tổng đốc Hà Nội đã tăng cường phòng thủ và lặng

thinh trước tối hậu thư yêu cầu nộp thành: “Tôi đề nghị với ông phải giao thành, theo

những điều kiện mà tôi nói ngay đây. Ngay ngày hôm nay, ngay sau khi tiếp được thơ

này thì ông phải ra lệnh cho quân đội ông rời khỏi thành sau khi đã hạ hết khí giới và

mở cửa thành...” [27, tr.376]. Sáng ngày 25 – 4, Henri Rivière đã tấn công thành Hà

Nội. Quân triều đình kháng cự quyết liệt, nhưng chỉ sau hơn 2 giờ chiến đấu, hàng ngũ

trở nên rối loạn, quân Pháp đã làm chủ được các dãy tường thành phía Bắc, Tây Bắc

và phía Đông. Không thể cứu vãn nổi được tình thế, Hoàng Diệu tiến đến hành cung,

hướng về phía Nam lạy tạ rồi treo cổ tuẫn tiết trong vườn Võ Miếu, để lại những lời

57

đầy trách nhiệm trong tờ biểu gửi về kinh đô.Sau đó, Henri Rivière chiếm luôn mỏ

than Hòn Gai (12 – 3 – 1883), Nam Định (27 – 3 – 1883). Dân chúng Bắc Kỳ, cũng

như lần trước, đã kiên quyết cùng các đạo quân của triều đình và quân Cờ đen kháng

chiến. Và một lần nữa, chiến thắng vang dội lại diễn ra tại Cầu Giấy, ngày 19 – 5:

Henri Rivière tử trận.

Ngày 17 – 7 – 1883, vua Tự Đức băng hà. Triều đình Huế rơi vào tình trạng

không ổn định. Ý đồ thiết lập nền bảo hộ tại An Nam đã có một thời cơ thuận lợi.

Ngày 18 – 8, Đô đốc Courbet tấn công các thành lũy bảo vệ kinh đô. Ngày 25 – 8,

Nguyễn Trọng Hiệp thay lời vua Hiệp Hòa, chấp nhận thỏa ước do Harmand áp đặt.

Theo đó, Việt Nam chấp nhận nền bảo hộ của Pháp, triều Nguyễn được cai trị phần đất

từ Đèo Ngang đến Bình Thuận dưới quyền điều khiển của một Khâm sứ Pháp đóng tại

Huế; Pháp kiểm soát các nguồn lợi kinh tế trong cả nước (thuế quan, tài nguyên…);

vua Nguyễn phải triệt hồi binh lính ở Bắc Kỳ, quân Pháp sẽ có mặt và đóng đồn “ở bất

cứ nơi nào xét thấy cần thiết” để “bảo vệ vua An Nam chống lại hết thảy các cuộc

ngoại xâm, nội loạn” [75, tr.331].

Tiếp đến, triều đình Huế chấp nhận bản dự thảo Hiệp ước do Patenôtre mang đến

từ Paris và ký kết ngày 6 – 6 – 1884, gồm 19 điều khoản, bản Hiệp ước xác định rõ vai

trò “bảo hộ” của Pháp đối với Việt Nam.

Từ một cuộc viễn chinh có động cơ chủ yếu là tôn giáo, người Pháp, dưới tác

động của giáo sĩ Thừa sai và tham vọng thực dân, đã từng bước dấn sâu vào cuộc

chinh chiến với rất nhiều khó khăn và chống đối từ phía chính giới Pháp (vì lo ngại

gánh nặng ngân sách), từ phía triều đình và dân chúng Việt Nam (vì bảo vệ nền độc

lập). Nhưng rồi, thực dân Pháp cũng đạt được điều mà không một người Việt Nam yêu

nước nào muốn nghe đến: “Nước An Nam công nhận và chấp nhận sự bảo hộ của

nước Pháp” [72, tr.624]. Cuộc xâm lăng của người Pháp là bước đi đầu tiên trong công

cuộc áp đặt môi trường văn hóa phương Tây lên Nam Kỳ, đảm bảo cho văn hóa Pháp

du nhập và đứng vững trên một đất nước có nền văn hóa lâu đời.

*

Từ một cuộc tranh giành quyền lực đã đưa bước chân Nguyễn Hoàng tiến về

phương Nam, làm nên tiền đề cho những chuyển biến lớn lao của Đại Việt trong các

58

thế kỷ về sau: Đàng Trong hình thành và mở rộng đến tận mũi Cà Mau. Vùng đất mới

trù phú, tốt tươi cùng với một chút tinh thần tự do, ly khai đã giúp các chúa Nguyễn

dựng lên ở phương Nam một cơ ngơi mang tinh thần thoáng mở từ kinh tế cho đến văn

hóa và tư duy. Vượt qua các định chế phong kiến, các chúa Nguyễn đã xóa bỏ tư tưởng

“ức thương” để Đàng Trong có một nền kinh tế hàng hóa đầy năng động. Trong mối

giao lưu văn hóa với các tộc người phương Nam, những lưu dân Việt biết phát huy

tính tò mò, trí sáng tạo, giỏi ứng biến và óc cởi mở, sẵn sàng từ giã những gì không

còn phù hợp nơi vùng đất mới nhưng vẫn đảm bảo giữ gìn những gì thuộc về truyền

thống.

Phương Nam được hình thành trong tính năng động, lại bắt gặp bối cảnh thế giới

và khu vực đang diễn ra những cuộc tiếp xúc Đông – Tây do sự bùng nổ và lan tỏa của

văn minh công nghiệp châu Âu càng thuận lợi cho quá trình tiếp xúc và giao lưu văn

hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây, nơi có nền văn minh đậm dấu ấn Kitô giáo, đang

trên đà phát triển mạnh mẽ của công nghiệp máy móc, cần tìm kiếm và mở rộng thị

trường buôn bán. Nam Kỳ, vùng đất giàu tiềm năng vì thế trở thành mục tiêu thu hút

văn minh phương Tây. Các giáo sĩ Thiên chúa giáo, các thương gia, chủ nghĩa thực

dân là những người tìm cách biến mục tiêu kia thành hiện thực. Và tuy ở trong thế thụ

động, nặng từ Tây sang Đông, nhưng qua hàng trăm năm truyền giáo và buôn bán,

những yếu tố văn hóa phương Tây cũng dần du nhập vào xã hội Việt Nam truyền

thống mà xuất phát điểm là ở Nam Kỳ bao gồm chữ viết, tôn giáo, những tri thức khoa

học, giáo dục, báo chí, văn học nghệ thuật... Các giáo sĩ thừa sai đã mang đến cho dân

chúng niềm tin về sự cứu rỗi của Thiên chúa và sự ngạc nhiên đối với những sản phẩm

của nền văn minh vật chất phương Tây. Đoàn quân xâm lược thì phô diễn trước mắt

của người lính và thành lũy An Nam sức mạnh của đại bác, tàu đồng so với cung tên,

giáo mác, để rồi cuối cùng con đường dẫn đến mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất

Nam Kỳ với phương Tây được xác lập bằng một nền cai trị thực dân. Do vậy, văn hóa

phương Tây đã phải nhận lấy thái độ cự tuyệt của dân chúng, kể cả những sản phẩm

được mang trong mình yếu tố bản xứ như chữ quốc ngữ.

59

CHƯƠNG 2.

CHỮ QUỐC NGỮ - SẢN PHẨM CỦA QUAN HỆ VĂN HÓA

GIỮA NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY

“Quốc ngữ” là danh từ thường được dùng để chỉ chữ viết tiếng Việt theo kiểu chữ cái Latinh10, được các giáo sĩ phương Tây người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp chế tạo ra

để ghi âm tiếng Việt. Do vậy, các tài liệu, văn bản của các giáo sĩ, các tác giả xưa kia

để lại cũng chính là nơi phản ánh rõ rệt nhất dấu vết về sự ra đời của chữ quốc ngữ,

cho thấy đó là một quá trình lâu dài, có sự đóng góp của nhiều người phương Tây,

cùng với sự giúp sức của nhiều người Việt, nhiều sĩ phu yêu nước tiến bộ. Quốc ngữ vì

vậy được xem là sản phẩm trực tiếp của cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa Việt

Nam và Phương Tây.

2.1. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ

Quá trình hình thành chữ quốc ngữ kéo dài hơn ba trăm năm, với ba giai đoạn

chỉnh lý, hoàn thiện, tính từ ngày những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đặt chân lên đất

Việt tiếp xúc với người bản địa cho đến khi nền giáo dục chữ Nho hoàn toàn bị xóa bỏ.

2.1.1. Thời kì sơ khai (thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII)

Ngay từ khi khởi đầu các hoạt động truyền đạo ở thế kỉ XVII, các giáo sĩ Thiên

chúa giáo phải giải quyết một vấn đề cực kì khó khăn là làm sao cho dân bản xứ hiểu

họ nói gì. Trước sự tồn tại song song của hai ngôn ngữ ở Việt Nam lúc bấy giờ, một

ngôn ngữ của tầng lớp trí thức, tức là tiếng Hán – Việt được triều đình Việt Nam sử

dụng, các nhà Nho xem trọng và ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt, ngôn ngữ của toàn

dân, thì các giáo sĩ đã chọn tiếng Việt, vì mục đích của họ là truyền đạo cho đám đông

quần chúng. Hơn nữa, nếu dùng một ngôn ngữ mà tất cả giới bình dân đều thông hiểu

thì giới trí thức cũng hiểu không khó khăn gì. Chữ viết để viết tiếng Việt bấy giờ là

Nôm, một văn tự rất khó nhớ lại nhiều chữ, nên các giáo sĩ bèn tìm cách đặt ra một hệ

thống ghi chép đơn giản dùng những chữ cái Latinh rất quen thuộc với họ để ghi tiếng

Việt. Đó là tình hình làm nảy sinh nhu cầu khai sinh ra chữ quốc ngữ với mục tiêu đầu

10 Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ latin. Xem [8, tr.27]

tiên và chủ yếu là ghi lại âm và thanh của tiếng Việt.

60

Năm 1620, chữ quốc ngữ sơ khai xuất hiện đầu tiên trong hai tài liệu. Một tài tiệu

của giáo sĩ Joãn Roiz, viết bằng tiếng Bồ Đào Nha. Trong tài liệu này xuất hiện các

chữ phiên âm ra tiếng Việt như: Ca cham (nước Man), ungne, sinoa, unsai, annam, on

trũ, fai fó, ban co, bonzo tu bun.. Và tài liệu của giáo sĩ Gaspar Luis, viết bằng tiếng

Latinh, gửi từ Macao về Rôma. Trong tài liệu này có xuất hiện rải rác những chữ phiên

âm như: saya, on trum, ban có, ban cô, pullo cambi …

Đến năm 1621 giáo sĩ Christofori B. Borri trong một tài liệu viết bằng tiếng Ý đã

sử dụng một lượng từ quốc ngữ khá lớn (94 từ): Annam, coci, cocin, cauchina,

quiguin, cacciam, pallucambi, renran, càn, ghoo, giacca, champa, on saij, nuoeeman,

xaca, omgne... Trong đó có rất nhiều từ mang hình dạng giống hệt như chữ viết ngày

nay. Ví dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn… Đây là những dạng chữ quốc ngữ nặng về

cách phát âm theo âm Ý.

Qua năm 1626, chữ quốc ngữ lại có mặt trong tài liệu của các linh mục Gaspar

Luis, Antonio de Fontes và Francesco Buzomi với sự xuất hiện của thanh sắc và chữ

quốc ngữ cũng “có sự tiến bộ từ do dự, vẩn đục đến gọn ghẻ, trong sáng..” [120,

tr.129]: fay fé, Sinoa, Cambogiam, Dính Cham, nước Man, Ram, Xa cam,

Turon…Annam, Quin hin, Camboja, Manila, Dig Cham, Faifo… Riêng trong tài liệu

của Francesco Buzomi, chữ quốc ngữ đã có các dấu thanh sắc và ngã có vẻ dứt khoát

hơn: Fai fó, Tunquino, Cauchinohina, Champá, Xán Tí, Thiên Chu, Thiên chủ, Ngọc

huan.. với

Trong những năm 1631 – 1632, các giáo sĩ Alexandre De Rhodes và Gaspar

d’Amaral cũng sử dụng một số chữ quốc ngữ trong tài liệu gửi về Rô-ma: ai não, Thin

hũa, cochinchina, Tomquin, Cochinchina, Sinoa, Anna, Sai, Mia, Bo chi nũ, Gue anũ...

Tuy nhiên, tài liệu của Gaspar d’Amaral có số lượng chữ quốc ngữ lớn hơn, lớn nhất

từ trước đến nay với gần 400 chữ, điển hình như: đang tlão, đàng ngoày, đàng tlên,

thăạn hóa, ou thụi, ou nghè, nhà phủ, Đức Lão, Chúa, sãy nãy, Thíc ca, sãy, Thanh

hoă... Chữ quốc ngữ của Gaspar d’Amaral được viết theo cách ký âm tiếng Bồ Đào

Nha, viết tách rời từng tiếng rõ rệt, cũng như dùng các dấu thanh phong phú hơn so với

các tài liệu trước.

61

Năm 1636, giáo sĩ Alexandre De Rhodes có viết bản thảo cuốn Tunchinensis

Historiee Libri duo và để lại một số chữ quốc ngữ như: Kim, Lau Tu, Chúa Canh,

nuan, batmin, Thicca, Lautu, Gio; Chúa Canh, Che bich, bochin, Phuchen... Tuy

nhiên, so với tài liệu của Gaspar d’ Amaral viết tại Kẻ Chợ năm 1637 thì chữ quốc ngữ

của Alexandre De Rhodes còn kém rất xa. Amaral sử dụng nhiều từ giống hệt như chữ

quốc ngữ ngày nay: thầy, nhin, Nghệ an, lạy, bùi, tháng, cổu, than, đàng ngoài, già,

Kẻ chợ…

Đến những năm 1644 – 1648, chữ quốc ngữ xuất hiện chủ yếu qua tài liệu của

Alexandre De Rhodes. Một tài liệu được ông viết năm 1644 bằng tiếng Bồ Đào Nha có

một số chữ quốc ngữ như: nghĩa, cũ, Chúa Jesu, cho, den, het, hoy, cho den, blon,

doy... Năm 1647, ông có một tài liệu khác kể lại cuộc hành trình 10 năm của ông, từ

năm 1640 – 1649, đi từ Áo Môn đến Đàng Trong và từ Áo Môn về Rô-ma, với một số

chữ quốc ngữ như: On ghe bo, halam, benda, Nambinh, Nuoc Man, bau beo, bo chinh,

cu nghe bo… Đỗ Quang Chính nhận xét chữ quốc ngữ trong tài liệu này còn “khá

luộm thuộm” [12, tr.49]. Ngoài ra, giai đoạn này còn có một biên bản hội nghị về mô

thức rửa tội của 35 giáo sĩ Dòng Tên năm 1645 tại Áo Môn, có những câu và chữ

Quốc ngữ như: “Tau rữa mầi nhân danh Cha, uà Con, uà Spirito santo. Tau lạy tên

Chúa, tốt tên, tốt danh, tốt tiếng. Vô danh cắt ma, cắt xác, Blai có ba hồn bãy uía,

Chúa blơy ba ngôy nhân danh…”[120, tr.139]. Cho thấy, chữ quốc ngữ đến đây đã

được viết rời thành từng tiếng một cách ổn định, biết sử dụng dấu phẩy và sử dụng

nhiều dấu thanh giống như ngày nay.

Nhìn chung, đến cuối thời kì này, chữ quốc ngữ tuy chưa đạt đến mức đơn giản

như ngày nay, nhưng nó đã có cấu trúc tương đối ổn định, với sự đóng góp của rất

nhiều giáo sĩ. Đó là một công trình của tập thể, mà người đi sau kế tục, phát triển, hoàn

thiện công trình của người đi trước. Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng

Hàm cũng có viết: “Việc sáng tác chữ Quốc Ngữ chắc là một công cuộc chung của

nhiều người, trong đó có cả các giáo sĩ người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp Lan

Tây” [30,tr.178]

62

2.1.2. Thời kì bước đầu phát triển (nửa sau thế kỉ XVII – cuối thế kỉ XVIII)

Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tiến một bước dài khá ổn định khi càng về cuối thời kì

sơ khai, nhưng nó vẫn chưa thực sự trưởng thành và hoàn thiện nhất, thể hiện ở chỗ

chưa có đầy đủ năm dấu thanh như ngày nay, đa số từ còn viết dính vào nhau, còn

nhiều phụ âm mà thiếu nhiều nguyên âm. Cho đến khi cuốn Từ điển Việt – Bồ - La

(1651) của Alexandre de Rhodes ra đời thì những nhược điểm đó mới dần được khắc

phục và bước đầu tiến tới hoàn thiện. Từ đó, chữ Quốc ngữ chính thức bước sang một

thời kì mới – thời kì bước đầu phát triển, hay còn gọi là thời kì đổi mới và lan tỏa.

Từ điển Việt – Bồ – La (1651) được biên soạn dựa trên Từ điểnAnnam – Bồ – La

của Amaral và Từ điển Bồ - Annam của Barbora. De Rhodes cũng thừa nhận điều này:

“Tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một hội dòng, nhất là

Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa. Cả hai ông đều đã biên soạn mỗi

ông một cuốn từ điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ…

Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các Hồng y đáng

tôn kính...” [90, tr.192-193]

Từ điển Việt – Bồ – La ngoài giá trị ngôn ngữ học còn mang giá trị của một bộ

sách bách khoa. Về nội dung gồm có: Phần 1: Thư của Đờ Rốt gửi các Hồng y thuộc

Thánh bộ Truyền bá đức tin; Phần 2: Cùng độc giả; Phần 3: Đoản luận về tiếng

Annam hay Đông Kinh. Đây là một tập ngữ pháp tiếng Việt, có thể dùng để dẫn nhập

cuốn từ điển hoặc dùng như một phần độc lập. Nó đề cập những nguyên tắc chi phối

cấu trúc tiếng Việt để thấy rằng tiếng Việt lúc bấy giờ đã là một thứ tiếng thống nhất,

có quy tắc rõ rệt trong cả nước. Phần 4: là Từ điển Annam được giải thích bằng tiếng

Bồ Đào Nha và Latinh.

Về ngữ âm, từ điển này được đánh giá cao, vì nó có ghi nhiều cách phát âm, cả

cách phát âm địa phương lẫn phổ thông. Về ngữ nghĩa, từ ngữ của nó có tính phổ

thông cao. Hầu hết những từ được liệt kê đều mang nghĩa mà người Việt ở các địa

phương khác nhau cũng có thể hiểu được giống nhau. Cho nên có thể nói, Từ điển Việt

– Bồ – La không chỉ phản ánh hình dạng của chữ quốc ngữ thế kỉ XVII mà còn phản

ánh cả đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán và con người Việt Nam lúc bấy giờ, bởi

nội dung của nó “mang tính bách khoa và đượm nhuần tính dân tộc, tính nhân dân,

63

tính phổ cập lẫn địa phương, ẩn núp bên trong lớp vỏ bọc của những từ ngữ cũ kỹ”

[120, tr.152]. Với Từ điển Việt - Bồ - La, “Âu châu đã chú ý đến Việt Nam trên mặt

văn hóa” [73, tr.10]

Cùng với Từ điển Việt – Bồ – La là sách Phép giảng tám ngày cũng được

Alexandre de Rhodes biên soạn năm 1651 bằng cả chữ Latinh và chữ quốc ngữ, gồm

319 trang. Sách chia thành từng bài học, mỗi bài cho một ngày, trọn quyển sách là 8

ngày, nên gọi tên là Phép giảng tám ngày. Trong tác phẩm có đoạn: “Phép giảng tám

ngày: Ngày thứ nhất ta cầu cũ đức Chúa blời giúp sức cho ta biết tỏ tuầng đạo chu là

nhuàng nào vì vậy ta phải hay ở thế này chảng có ai soũ lâu…, có kẻ thì nói rằng, 6í

bang ta chăng thờ blời mà blời lấy sấm sét đánh ta hàu làm sao cho khỏi? Ấy là lo

quếi, nào blời có đánh được ai đâu? Có một đức Chúa blời đánh được mà chớ” [107,

tr.45]

Về mặt ngữ học, đây là một cuốn sách được đánh giá rất cao, trước hết vì nó là

cuốn sách đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhưng giá trị cao nhất của cuốn sách

là ở chỗ với cách phiên âm phổ thông của nó, người Việt Nam dù ở Đàng Trong hay

Đàng Ngoài cũng đều có thể hiểu được. Về mặt ký âm, sách này dùng cách phát âm

phổ thông, không phải cách phát âm từng địa phương như Từ điển Việt - Bồ - La,

nhưng nó vẫn phổ cập đến được với khá nhiều người Việt thời bấy giờ từ giới trí thức

cho đến bình dân. Chứng tỏ tiếng Việt đã có tính thống nhất cao. Ngoài ra sách còn có

số lượng khá lớn những khái niệm mới về con người, về nhân sinh, về con người đối

với bản thân, đối với gia đình, đối với Tổ quốc, đối với Tạo hóa. Các khái niệm đó

chẳng những được gói ghém trong những từ ngữ mới lạ (như ơn nghĩa, chí linh, chí

công, khốn nạn đời đời…) mà còn cả trong cách diễn đạt, những phong cách lý luận

như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, qui nạp, loại suy… mà từ trước đến thời ấy, trong

các sách Hán Nôm người Việt chưa từng biết đến. Vì vậy, có thể nói sách Phép giảng

tám ngày còn đóng vai trò chuyển tải văn minh phương Tây đến tiếng Việt thế kỉ

XVII. Sự đóng góp lớn lao của Alexandre de Rhodes qua các tài liệu trên dành cho

chữ quốc ngữ đó là các dấu giọng (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và dấu biến âm (dấu mũ

hay dấu móc).

64

Đến năm 1659, với các tài liệu của một số linh mục người Việt, chữ quốc ngữ

tiến thêm một bước nữa, đã đạt đến mức độ hoàn chỉnh tương đối, được phổ biến sâu

rộng tới các tầng lớp xã hội trong nước.

Thư viết tay của Igesico Văn Tín nói về các hoạt động truyền giáo tại Đàng

Ngoài sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày

tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini. Trong bức thư có đoạn: “Lạy ơn Đ.C.B.

phù hộ Thài bàng an linh hồn và xác. Từ nam thài thái vè nhỏy, thì hay Thài ở lạy chịu

nhèu sự khó lám, thì ràng chảng có tlở vè são le cữ như vè 6ài” [dẫn theo 120, tr.157]

Cùng với đó là thư viết tay dài 2 trang của Ben Tô Thiện cũng gửi cho Linh mục

Marini. Trong thư có đoạn như sau: “Ơn Đức Chúa blờy blả cỗn cho thầi đờy đờy bấy

nhiêu mlờy tôy chép tháng mườy Igreja mà thư nầi thì ngài lệ Bà thánh Daria cù ôn

thánh Chrisanto tử vì đạo, tôy lại ơn thầi là cha thì thương đến con cù tôy xin cha chớ

quên làm chi…” [dẫn theo 120, tr.158]. Ngoài ra Ben Tô Thiện còn dùng chữ quốc

ngữ để viết một tập sử Việt, gồm 12 trang, không rõ thời gian ra đời, cũng không ghi

nhan đề. Tác giả Đỗ Quang Chính tự gọi tên là “Lịch sử nước Annam” [12, tr.107]. Tài

liệu này có đoạn như sau: “Nước Ngô thước hết mớy có Bua tri là Phục Hi. Bua thứ

hai là Thần nôõ con cháu Bua Than nôõ sang trị nước Annam, liền sinh ra Bua Kinh

dương Bương, thước hết lãi 6ợ là nàng Thần Lão, liền sinh ra Bua Lạc Lão cuân. Lạc

Lão cuân trị vì lãi 6ợ tên là Âu Cơ có thai đẻ ra một bao có một trăm trứng nở ra được

một trăm con blạy” [dẫn theo 12, tr.108]

Qua các tài liệu trên, có thể thấy về tự dạng, chữ Quốc ngữ năm 1659 đã gọn

gàng, ổn định hơn so với chữ quốc ngữ năm 1651 trước đó. Về ngữ nghĩa, đến thời

điểm này cách sử dụng chữ quốc ngữ đã trôi chảy đến mức không khác mấy so với

ngày nay. Lần đầu tiên chữ quốc ngữ được dùng để viết sử, chứng tỏ nó đã vượt ra

khỏi yêu cầu truyền giáo, để chứng tỏ được khả năng dùng để viết sử, có nhiều tên

người, tên đất, những từ ngữ chuyên môn về hành chánh, về giáo dục, khoa cử và kể

cả các sinh hoạt xã hội như hôn nhân, tang chế… Hơn nữa, các tài liệu này được phổ

cập rộng rãi, từ Đàng Trong cho đến Đàng Ngoài, cho thấy là chữ quốc ngữ vào thời

điểm năm 1659 có sự thống nhất cả về tự dạng, ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa, khiến

cho người Việt ở các địa phương khác nhau vẫn có thể đọc hiểu được những tài liệu

65

này. Do vậy, năm 1659 cũng được xem là mốc đánh dấu chữ quốc ngữ đã hoàn tất giai

đoạn sử dụng hệ thống phiên âm Ý – Bồ và chuyển sang giai đoạn sử dụng hệ thống

phiên âm Pháp.

Việc sử dụng hệ thống phiên âm Pháp được đánh dấu bằng cuộc chỉnh lý của Bá

Đa Lộc (Pigneau de Béhaine, 1741-1799) với cuốn Từ điển Annam –

Latinh(Dictionarium Annamatica – Latinum) có sự cộng tác biên soạn của Hồ Văn

Nghi và một số người Việt khác. Cuốn từ điển này thống nhất phân biệt các phụ âm

đầu giống như chữ quốc ngữ thế kỉ XVII, riêng các phụ âm đầu như bl, de, ge, ml, tl

thì mất hẳn, không còn sử dụng. Đối với các phụ âm cuối, Từ điển Annam – Latinh

cũng thống nhất như thế kỉ XVII, riêng các phụ âm cuối mà thế kỉ XVII dùng ký hiệu

(~) thì đồng loạt đổi thành phụ âm cuối ng, chẳng hạn: cũ  cùng; trão  trong…

Đối với hệ thống nguyên âm, Từ điển Annam – Latinh viết hầu hết giống như ngày

nay.

Bên cạnh Từ điển Annam – Latinh còn có sách Thánh giáo yếu lý (1774), cũng

được viết tay bằng chữ quốc ngữ rất giống với chữ viết ngày nay bởi giám mục Bá Đa

Lộc. Sách có đoạn: “Là cha mẹ dạy khuyên sai khiến, chẳng nên trách móc phàn nàn,

chớ khá bỏ nhà cha mẹ mà đi ác nghiệp chơi bời, cùng khi phối thất nhơn đoan, phải

vâng thuận tình người phân định, lại đến khi cố mạng, người trối phú điều gì, phải vui

lòng noi giữ”[dẫn theo 120, tr.277]

“Thánh Giáo yếu lý quốc ngữ

Thiên Chúa nhất thế tam vị đệ nhất thiên.

Hỏi: Có mấy đàng cho ta đặng lên thiên đàng?

Thưa: Có một đàng mà thôi.

Hỏi: Một đàng ấy là đàng nào?

Thưa: Là đàng rất chính rất thật là đạo thánh Đức Chúa Trời”[dẫn theo 120,

tr.264]

Có thể nói, chữ quốc ngữ của Bá Đa Lộc năm 1774 theo hệ thống phiên âm Pháp

đã hoàn chỉnh được một số bất ổn trong tự dạng chữ quốc ngữ thời De Rhodes, tạo ra

sự tiến bộ, gọn gàng, đơn giản hơn, khác xa chữ quốc ngữ của các tác giả trước và

không khác gì mấy so với chữ quốc ngữ ngày nay. Đây cũng là lúc chữ quốc ngữ bắt

66

đầu lan tỏa mạnh để thể hiện sự trôi chảy và sự điêu luyện cũng như khả năng phiên

âm của nó vào cuối thế kỉ XVIII, đặt nền móng vững chắc cho thời kì phát triển mạnh

mẽ (từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX)

2.1.3. Thời kì phát triển mạnh mẽ (từ thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX)

Bước sang thế kỉ XIX, chữ quốc ngữ tiếp tục có những chuyển biến mạnh mẽ với

cuộc chỉnh lý lần thứ hai (1838) giúp nó định hình và dần trở thành dạng chữ quốc ngữ

hầu như được sử dụng trên toàn quốc cho đến tận ngày nay. Cuộc chỉnh lý lần thứ hai

gắn liền với hai cuốn Từ điển Latinh – Annam và Từ điển Annam – Latinh năm 1838

do Taberd biên soạn dưới sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam

khác.

Từ điển Annam – Latinh (Dictionarium Annammitico – Latunum):còn gọi là Nam

Việt dương hiệp tự vị, xuất bản tại Sérampore, Ấn Độ, gồm có 5 phần: Phần mở đầu:

là một chuyên luận về tiếng Việt với các chủ đề như nghiên cứu âm vị tiếng Việt, mô

tả tiếng Việt; nghiên cứu cách viết văn; Phần từ điển Nôm – Quốc ngữ - Latinh: là

phần quan trọng nhất. Nó là cột mốc đánh dấu sự chuyển hướng phiên âm từ hệ thống

tiếng Bồ Đào Nha sang hệ thống tiếng Pháp, đánh dấu một khúc quanh quan trọng

trong sự phát triển của chữ quốc ngữ. Ưu điểm của từ điển này là: tập trung, tổng hợp

được hầu hết những kinh nghiệm đã qua và ghi chép lại thành những quy tắc cụ thể, số

lượng từ tăng thêm nhiều hơn các tài liệu trước, chữ quốc ngữ hầu như không khác

mấy so với chữ quốc ngữ hiện nay. Những nhược điểm trong từ điển của Bá Đa Lộc

hầu như đã được loại bỏ hết, được chỉnh lý dứt khoát. Tiếp sau đó, phần thứ ba là

phần giải nghĩa từ; phần thứ tư là phần danh mục các dược thảo được sắp xếp theo

mẫu tự A, B, C; phần thứ năm là phần danh mục chữ Hán (gồm có dạng chữ Hán, âm

Hán - Việt viết bằng chữ quốc ngữ và định nghĩa bằng tiếng Latinh)

Từ điển Latinh – Annam (Dictionarium Latinh – Annamiticum): gồm có các

phần: Phần một là Lời cùng độc giả và Tổng luận về tiếng Việt. Phần hai,“Bổn dạy

tiếng Latinh”. Đây được xem là một tập sách dạy ngữ pháp Latinh bằng tiếng Việt đầu

tiên. Nó dạy cách dùng các mẫu tự Latinh để viết chữ quốc ngữ, dạy tiếng Latinh,

nghiên cứu đối chiếu ngữ pháp Latinh và tiếng Việt. Phần ba, Từ điển Latinh -

Annam: là phần quan trọng nhất, với trên 20.000 từ Latinh. Về mặt ngữ học, nó có sự

67

tìm kiếm và chế tác những từ tiếng Việt mới cho tương đương với mục từ Latinh, đồng

thời giải thích, định nghĩa từ. Do đó, tác giả đã phát huy tối đa khả năng diễn đạt của

tiếng Việt, cũng như tạo ra cho tiếng Việt một số lượng lớn từ ngữ mới, nhất là các

khái niệm khoa học trước đây vốn là xa lạ với tiếng Việt. Phần bốn là phụ lục: Có thể

xem như một tập sách độc lập với tên gọi Tự Vị Annam và được ghi bằng 4 thứ tiếng:

Anh – Pháp – Latinh – Việt. Trong phần tự vị này tập trung được gần 4.000 từ quốc

ngữ Nam Bộ, với ngữ nghĩa riêng, có thể nói lên tâm hồn, cá tính, phong tục, tập quán

của người Nam Bộ. Ngoài ra, các tác giả còn tạo thêm những từ mới cho tiếng Việt để

có thể diễn dịch ý nghĩa của 3 ngôn ngữ kia. Phần năm là một đoản văn có nhan

đề “Lời chúa tàu và người Annam vấn đáp nhau”, dài 16 trang, thuật lại cuộc đối thoại

về những vấn đề mà một người ngoại quốc thời ấy cần biết về Việt Nam. Phần này cho

ta thấy tiếng Việt lúc này đã rất trơn bén và lưu loát: “- Ông vượt biển mấy tháng? –

Sáu tháng. Chúng tôi chạy ngày hai mươi tháng hai bên Tây, tại kinh đô Hồng Mao

gọi là London. – Ông đi làm vậy thì thuận phong lắm. Rày người ta dễ vượt biển cả.

Ông mới vào cửa có ngủ đặng đêm nào chăng? – Tôi ngủ đặng khó. Mà ông thì làm

sao? – Tôi ngủ đặng ít thôi. – Sao vậy? Ông có rối gì trong trí chăng? – Tôi chẳng có

sự rối, song tiếng sấm sét và chớp sáng chói lòa, chẳng cho tôi ngủ êm” [dẫn theo 120,

tr.329]. Phần sáu là phần về Việt Nam học với nhiều kiến thức mà ngay cả cho đến

hiện nay vẫn còn nhiều giá trị như cách đếm số, cân, đo, tiền tệ, thỏi vàng, nén bạc,

cách phân chia thời gian, về khái niệm bát quái, cách sử dụng bàn tính… Phần cuối

cùng là Truyện Nữ Thánh Inê Tử đạo viết bằng văn vần, gồm 900 câu lục bát, thuật lại

cuộc đời bi hùng của một vị nữ thánh tử đạo.

Những cuốn từ điển của Bá Đa Lộc (1772) và Taberd (1838) được xem là những

công trình lớn, là mốc phát triển quan trọng của chữ quốc ngữ, vì qua đó chữ quốc ngữ

đã hiện ra một cách cụ thể để dần tiến tới sự hoàn thiện. Tuy nhiên, trước và sau những

mốc thời gian quan trọng đó, vẫn còn có nhiều công trình, nhiều tác phẩm khác ra đời,

phản ánh sự phát triển của tiếng Việt.

Cùng với sự “ưu ái” của chính quyền Pháp trong chính sách phổ biến chữ quốc

ngữ ngay những năm đầu chiếm được Nam Kỳ, đặc biệt, từ năm 1865, bằng việc cho

xuất bản hàng loạt tờ báo tiếng Việt, mở đầu là Gia Định báo (1865), chữ quốc ngữ đã

68

phát triển cực kỳ mạnh mẽ không chỉ tại Sài Gòn, mà còn chuyển hướng ra miền

Trung và miền Bắc. Từ đây, chữ quốc ngữ không còn là “thứ chữ viết chỉ được biết

đến và sử dụng bởi một nhóm người theo Ki-tô giáo” [73, tr.10].

Văn bản viết tay năm 1810 có nhan đề “Sách tóm lại những khuôn phép cùng

chính việc Đấng làm Thầy có quờn tế lễ”, không ghi tên nguyên tác, cho thấy tiếng

Việt vào đầu thế kỉ XIX “đã rất nhuần nhuyễn, và đủ khả năng để diễn tả những ý nghĩ

sâu sắc về nội tâm. Dạng chữ rất trơn bén, cú pháp theo lối trường cú mà minh bạch,

lời văn trong sáng”[120, tr.335]: “Ớ con, ấy sự ở nơi thanh vắng này sẽ luyện sạch trí

và lòng của con, sẽ cai trị mọi tình ý con, sẽ chỉ đàng dẫn nẻo cho con biết những việc

ph? [phải] nết của con, sẽ làm cho cách con ăn ở ra khuôn phép thứ tự đến đỗi trí và

lòng con chẳng còn có sự gì…”.Bản viết tay Từ điển Latinh – Annam năm 1867

(không rõ tác giả) phản ánh một dạng chữ quốc ngữ gần giống hệt như chữ ngày nay,

có thể sử dụng một cách thoải mái để dịch các từ Latinh. Rồi Truyện Thầy Lazarô

Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản với khả năng diễn đạt của chữ quốc ngữ đã khá

hoàn chỉnh. Đặc biệt với sách Bác học sơ giải (1887) và Đại Nam Quấc âm tự vị

(1896) của Huỳnh Tịnh Của, chữ quốc ngữ đã trở nên rất luyện, mở ra một khả năng

diễn đạt mới của chữ quốc ngữ, đó là khả năng diễn đạt các khái niệm khoa học và khả

năng dùng tiếng Việt để giải thích tiếng Việt, như trong Tự vị có đoạn : “Tự điển, tự vị

khác nhau có một sự rộng hẹp: Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải

dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải cứ

kinh truyện làm thầy ; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng

nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển, dẫn tích gì” [dẫn

theo 120, tr.347]. “Thuốc súng thì là diêm, sanh, than cây ba thứ hiệp lại. Than phải

dùng than nhẹ như than sầu đâu, than liễu”[dẫn theo 120, tr.347]. Đây là “một công

trình quý giá được xem như là một cuốn sách căn bản để các nhà báo, nhà văn Việt

Nam lúc bấy giờ dùng tra cứu để viết cho đúng” [47, tr.21] và vì thế nó đã giữ một vai

trò quan trọng trong quá trình phát triển ngôn ngữ ở Việt Nam. Rồi đến năm 1913 chữ

quốc ngữ đã là một thứ chữ rất thành thục với cuốn Ca ngợi rất thánh trái tim Đức

Chúa Giêsu của Phaolô Qui (tức Nguyễn Văn Qui).

69

Đến đây chữ quốc ngữ đã phát triển mạnh mẽ và hầu như hoàn chỉnh ở cả nước.

Sang đầu thế kỉ XX, với việc cho giải thể lối thi Nho học (1915 ở Bắc Kỳ, 1918 ở

Trung Kỳ) của chính quyền Pháp, chữ quốc ngữ đã bước lên hàng văn tự chính thức,

khép lại thời kỳ dùng chữ Nôm để truyền đạt tư duy và cảm hứng dân tộc. Lịch sử văn

hóa Việt Nam bước một trang mới từ bước ngoặt này, bắt đầu mang những dấu ấn của

văn hóa phương Tây do chữ quốc ngữ mang lại.

Như vậy, trải qua một quá trình phát triển lâu dài từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ

XX với sự đóng góp của rất nhiều nhân vật và sự ra đời của nhiều tài liệu, nhiều tác

phẩm, chữ quốc ngữ đã liên tiếp được gọt giũa, chỉnh lý và ngày càng đi đến sự hoàn

thiện, đầy đủ, phong phú và có thể đứng vững được bất kể nhiều khó khăn, trở ngại.

Được sáng chế nhằm phục vụ nhu cầu truyền giáo nên chính các giáo sĩ cũng “chỉ

mong dùng nó để giảng đạo được dễ dãi thôi. Chứ họ nào dám mơ màng đến chuyện

lấy nó thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm sau này” [77, tr.128]. Tuy nhiên, xuất phát từ

ý đồ chính trị và sự dễ dàng của quốc ngữ trong việc giúp học tiếng Việt mà “không

cần phải thông thạo kiểu chữ tả ý (ideograms)” [127, tr.157], chính quyền Pháp đã có

những tính toán vượt ngoài mục tiêu truyền đạo của các giáo sĩ: đưa quốc ngữ vào

trong chính sách văn hóa của nhà cầm quyền.

2.2. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam

Kỳ

Hình thành chữ quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện và đưa nó trở thành một

cơ chế đòi hỏi cũng phải trải qua một quá trình.Mặc dù ra đời từ thế kỉ XVII, song

phải hơn 200 năm sau, “chữ quốc ngữ mới được sử dụng chính thức ở Việt Nam” [85,

tr.29] khi thực dân Pháp ra sức thiết lập sự hiện diện của văn minh phương Tây ở Nam

Kỳ bằng nhiều biện pháp sau khi đã chiếm ba tỉnh miền Đông. Trong đó, việc đem

ngay chữ quốc ngữ phổ biến trong quần chúng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng

trong chính sách văn hóa của người Pháp, nhằm tạo ra môi trường văn hóa phương

Tây, xóa dần Nho học và truyền thống văn hóa người Việt. Để thực hiện mục đích đó,

cụ thể chính sách văn hóa của thực dân Pháp tập trung vào những điểm chính sau:

Trước hết là tìm cách hạn chế, tiến tới thủ tiêu nền giáo dục Nho học, nhằm xóa

bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam. Người Pháp thấu hiểu sâu sắc một

70

điều rằng, khi nào nền giáo dục Nho học và tầng lớp văn thân, sĩ phu cố chấp vẫn tồn

tại thì khi đó văn hóa Pháp vẫn chưa thể có chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam.

Chính sách ngôn ngữ là “khâu đầu tiên trong chính sách giáo dục của thực dân

Pháp ở Nam Kỳ” [40, tr.106]. Khi chiếm ba tỉnh miền Đông, là người chiến thắng,

Pháp đã chọn ngay chữ quốc ngữ và “quyết liệt” ép người Nam Kỳ học quốc ngữ thay

vì tiếng Pháp. Nguyên nhân này có phần tác động từ các giáo sĩ Hội Thừa sai Paris. Họ

“đều là người Pháp, theo một đường lối truyền giáo cứng rắn, chủ trương xóa bỏ, tiêu

diệt tất cả những gì là phong tục, văn hóa, tư tưởng của các nước bị truyền giáo không

hợp với giáo lý Thiên chúa. Hơn nữa, họ còn đồng hóa quyền lợi nước Pháp với quyền

lợi của đạo…” [114, tr.8]. Với tinh thần đó, các giáo sĩ đã thúc ép chính quyền Pháp

chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Pháp. Theo họ, khi thay thế chữ Nho bằng chữ quốc

ngữ, “Hội Thừa sai nhằm mục đích cô lập các giáo hữu. Những người này sẽ không

còn có thể đọc được những tác phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và sẽ không thể thư

từ gì được với bất cứ một sĩ phu Tàu hay ta nào” [114, tr.9]

Đó là nhận định của giới giáo sĩ. Đại diện cho chính quyền Pháp có quan điểm

của Giám đốc Nha nội vụ Béliard rằng việc duy trì chữ Nho “chỉ có thể có một ảnh

hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa mà chính phủ đang dồn mọi nỗ lực thực hiện”11, do vậy, “người Pháp sử dụng chữ quốc ngữ như một phương tiện để cắt đứt

mọi sự tiếp xúc giữa trí thức Việt Nam và Trung Hoa, cắt đứt ảnh hưởng của văn hóa

Trung Hoa ở Việt Nam, cắt đứt sợi dây kết nối với quá khứ” [62, tr.92]. Khi đưa ra

những quan điểm ấy, chắc chắn là người Pháp đã chuẩn bị chút ít điều kiện sẵn sàng

cho việc dạy và học tiếng Việt. Sách là những tài liệu có sẵn trong các nhà thờ và

những cuốn tự điển đã xuất bản của Alexandre Rhode, Pigneau de Behaine, và Taberd.

Nhân lực chủ đạo chắc chắn là những trí thức Tây học như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh

Tịnh Của, Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường và một số người khác. Đồng thời họ mở

thêm trường để đào tạo một lớp người mới biết chữ quốc ngữ. Với sự chuẩn bị này,

chính quyền Pháp tin rằng: “chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa đầy một năm, một

nghìn thanh niên An Nam biết đọc và biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự Latinh; 11Nha Nội vụ hay Sở Nội vụ là cơ quan giúp việc cho Thống đốc Nam Kỳ, người xưa gọi là Dinh Thượng thư hay Lại Bộ thượng thư là cơ quan chỉ đạo mọi mặt đối với các Tham biện (chức vụ tương đương chủ tịch tỉnh hiện nay), nên có thể coi cơ quan này tương đương “phủ thủ tướng”. Xem [122, tr.35]

71

nhờ đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế độ quan lại, và chúng ta sẽ tự

mình gỡ bỏ được lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có khuynh hướng gây xáo trộn”

[126, tr.92].

Với mục đích và niềm tin ấy, ngay sau khi Hòa ước Nhâm Tuất (1862) ký chưa

ráo mực, khi ba tỉnh miền Tây còn nằm trong tầm ngắm và đang bị lăm le đánh chiếm

thì Pháp đã cho ra đời tờ báo chữ Việt đầu tiên ở Sài Gòn, tờ Gia Định báo, làm tài

liệu cho học sinh các trường thông ngôn thực tập chữ quốc ngữ, dạy chữ cho học trò

các trường tiểu học ở các tỉnh.

Bên cạnh việc đào tạo, sử dụng những người biết chữ quốc ngữ, chính quyền

Pháp còn áp dụng nhiều biện pháp để cổ vũ cho việc học chữ Việt như học miễn phí,

thăng thưởng, phụ cấp, miễn thuế, miễn sưu dịch,… Riêng thầy giáo dạy quốc ngữ ở

các trường học đều được “mỗi ngày dạy đặng ăn tiền phụ cấp là một quan” [dẫn theo,

122, tr.37]. Còn học sinh thì “mỗi học sinh biết đọc biết viết thì được thưởng thêm một

quan, và nửa quan nếu chỉ biết đọc” [dẫn theo, 122, tr.37] chữ quốc ngữ. Gia đình nào

cho con em đi học trường quốc ngữ thì được “cơm áo nhà nước ban cấp, sách vở bút

mực khỏi mua, khỏi tốn” [dẫn theo 122, tr.39]. Bên cạnh đó, cũng không thiếu những

biện pháp ép buộc. Eliacin Luro, thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền Pháp mới đặt

ở Nam Kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho trường các viên chức

tập sự Pháp, đã thừa nhận trong bài giáo dục số 38 về Giáo dục quốc dân viết năm

1873: “Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số học sinh quy định đến trường… Hậu

quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ của chúng ta kiểu như họ mộ

lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của học sinh và công cuộc bắt buộc giáo dục của

chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào dân” [73, tr.60]. Việc đi học rất ư là

hành chính. Việc bắt trẻ con đi học chữ quốc ngữ như bắt lính. Hương chức, hội tề thì

khuyến dụ, cưỡng ép trẻ con đi học để được thăng thưởng.

Từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XIX, khi nhận thấy chữ quốc ngữ đã dần có cơ sở,

có thể tạo thuận lợi cho việc học chữ Pháp, các quan cai trị người Pháp đã cấm việc

dạy chữ Hán trong các trường học ở Nam Kỳ. Sắc lệnh ngày 25/5/1881 quy định:

“Dân bản xứ An Nam, sinh ra và cư ngụ ở Nam Kỳ là người Pháp, một khi người dân

bản xứ đã chấp nhận sự thống trị của người Pháp thì họ bắt buộc phải học tiếng của

72

chúng ta và chấp nhận những phong tục tập quán của chúng ta, chúng ta không thể

nào ban bố tất cả những quyền lợi của một công dân cho những ai không hiểu được

nền văn minh của chúng ta” [113,tr.31]

Năm 1896, chính quyền thuộc địa đã đưa chữ quốc ngữ vào một vài môn thi

tuyển chọn quan lại. Năm 1903, môn thi tiếng Pháp đã trở thành bắt buộc trong các kì

thi cử. Một số trường cao đẳng, đại học cũng được thành lập: Năm 1906, ra đời Đại

học Y khoa, mở đầu cho sự ra đời Đại học Đông Dương ở Hà Nội, tiếp đó là các

trường Nông lâm, Thương mại và Sư phạm. Cùng với sự ra đời các trường cao đẳng,

đại học, từ cuối thế kỉ XIX, chính quyền thuộc địa cũng rất quan tâm đến việc thành

lập các viện nghiên cứu chuyên ngành như: Viện Viễn Đông Bác Cổ, Viện Pasteur,

Nha Khí tượng thủy văn, Cục Địa chất địa lý. Đây là những “cơ sở bảo đảm cho sự

xâm nhập văn hóa Pháp” [40, tr.107] ở Nam Kỳ.

Tóm lại, ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam luôn là nỗi ám

ảnh đè nặng lên đầu các nhà thực dân. Nó “làm cho gia đình vững chắc, cha mẹ được

tôn kính, chính quyền được tuân thủ”[dẫn theo 49, tr.30]. Do vậy, người Pháp đã tìm

cách chuyển hướng giáo dục bằng cách phổ thông hóa chữ quốc ngữ, sử dụng chữ

quốc ngữ như một phương tiện để cắt đứt mọi sự tiếp xúc giữa trí thức Việt Nam và

Trung Hoa, loại bỏ được văn hóa Trung Hoa ra khỏi xã hội Việt Nam càng nhanh càng

tốt, thiết lập ảnh hưởng của văn hóa Pháp trên đất Nam Kỳ.

Hai là, thực dân Pháp tập trung xây dựng một nguồn nhân lực là đội ngũ những

trí thức Tây học nhằm thay thế cho đội ngũ trí thức Nho học, phục vụ cho lợi ích nước

Pháp, đưa văn hóa Pháp vào Việt Nam. Biến xứ Nam Kỳ trở thành “nơi đầu tiên hình

thành tầng lớp trí thức Tây học “bỏ bút lông viết bút chì” [40, tr.107]. Họ là “những

công chức bản xứ hạ đẳng, những giáo viên sơ cấp, những thông ngôn và thư ký để

làm cho bộ máy cai trị, cho các nhà buôn…” [dẫn theo 111, tr.10]

Trong số những trí thức Tây học, những người xuất thân từ Công giáo là một bộ

phận đặc biệt. Họ nằm trong mục tiêu trước mắt của chính quyền Pháp là cung cấp

người giúp việc cho guồng máy hành chính và tư nhân Pháp. Với nền tảng học vấn,

ngay từ những buổi đầu, họ nhanh chóng đóng một vị trí quan trọng trong văn hóa

Nam Kỳ thời thuộc địa, là những người đầu tiên giúp chính quyền Pháp phổ biến chữ

73

quốc ngữ vào văn hóa Việt Nam thông qua một số lĩnh vực nổi bật. Hầu hết những tờ

báo tiếng Việt quan trọng nhất, có tác dụng truyền bá văn minh phương Tây ở buổi

đầu như: Gia Định báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nam Kỳ địa phận, Nhật trình

Nam Kỳ (1883), Nông cổ mín đàm (1900), Lục tỉnh tân văn (1907), đều do những trí

thức công giáo làm chủ bút hay giám đốc. Họ là những Trương Vĩnh Ký, Trương

Minh Ký, Trần Thúc Liêng, Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh. Trên lĩnh vực văn

học, các tác giả cầm bút viết văn bằng chữ quốc ngữ đầu tiên phần lớn cũng là người

theo Công giáo, trong đó có Nguyễn Trọng Quản, tác giả cuốn tiểu thuyết Việt Nam

đầu tiên mang tên Thầy Lazaro Phiền (1887).

Ngoài vai trò phổ biến chữ quốc ngữ, trí thức công giáo còn là lớp người đầu tiên

tiếp xúc với văn minh phương Tây. Họ đã sớm có điều kiện học hỏi những kiến thức

văn hóa, khoa học, kỹ thuật của phương Tây cận đại và du nhập vào Nam Kỳ những

kiến văn mới mẻ, những tư tưởng tiến bộ so với nền văn hóa, văn minh phương Đông

già cỗi lạc hậu ở vào thời điểm thế kỷ XVIII, XIX. Có thể nói họ là những “sứ giả”

đầu tiên trong cuộc tiếp xúc Đông - Tây ở Việt Nam, góp phần đáng kể trong việc

truyền bá văn hóa, tư tưởng phương Tây.

Bên cạnh những trí thức Công giáo và đào tạo trí thức Công giáo ở các trường

dòng, thực dân Pháp còn cho lập ngay các trường thông ngôn dạy chữ Pháp và chữ

quốc ngữ để đào tạo một đội ngũ phục vụ guồng máy hành chính cai trị. Trường

Collège Annamite (thường được gọi là trường An Nam) được thành lập tại Sài Gòn

ngày 8/5/1862 nằm trong mục đích đó. Học viên là những người được chiêu mộ trong

số binh lính và hải quân của đội quân viễn chinh. Các học viên phải trải qua thời gian

tập sự 3 tháng. Nếu được đánh giá không có khả năng sẽ được gửi trả lại đơn vị. Nếu

được nhìn nhận là có khả năng thì sẽ trở thành thỉnh sinh ngôn trong thời gian 9 tháng.

Sau khi mãn khóa, họ sẽ phải trải qua một cuộc thi trước Hội đồng và nếu được đánh

giá là có khả năng đảm nhiệm các công việc tại các sở Thanh tra bản xứ, sẽ được xuất

ngũ, hay nghỉ dài hạn, sẽ được tư lệnh đơn vị cấp cho một chứng chỉ phụ thông ngôn

và một chứng chỉ bổ nhiệm. Trong trường hợp ngược lại, học viên sẽ bị trả lại đơn vị

hoặc cho về nước nếu mãn thời lính.

74

Chính quyền thực dân còn cho mở trường Tập sự (Collègedesstagiaires) ngày

20/2/1873 và giao cho Trương Vĩnh Ký điều hành nhằm đào tạo nhân viên cho guồng

máy quản lý hành chính của nhà nước. Đối tượng học là những viên chức hạng ba, mới vào nghề, được thống đốc chọn cử đi học trường Tập sự12. Sau khi ra trường, viên

chức ấy phải làm việc ít nhất hai năm mới được dự kì thi chuyển lên hạng nhì. Sau hai

năm ở hạng nhì mới được dự kì thi chuyển lên hạng nhất, trong khi đó, một số viên

chức hạng nhất sẽ được chọn để giữ chức Thanh tra bản xứ sự vụ và được làm việc tại

Sài Gòn. Luro, một trong các Thanh tra bản xứ sự vụ đầu tiên (từ 1862).

Chính sách nhân sự của chính quyền Pháp đã “đào tạo ra một số lượng hạn chế

các cá nhân xuất sắc mà nếu không có họ, ước vọng nồng nhiệt của người Pháp để ghi

tâm các điểm cốt yếu trong hệ thống giáo dục và triết lý xã hội của họ có thể đã không

tạo ra được bất kỳ sự tiến bộ đáng kể nào” [126, tr.93]. Tuy nhiên, từ rất sớm, việc đào

tạo giới trí thức Tây học để phục vụ cho chiến lược xâm lăng văn hóa ấy cũng bộc lộ

tính tự mâu thuẫn. Để tiến hành du nhập văn minh phương Tây vào Việt Nam thì họ

phải mở thêm nhiều loại trường đào tạo, nhưng khi trình độ dân trí của người Việt

được nâng cao, tinh thần quốc gia dân tộc phát triển mạnh mẽ sẽ đụng độ đến quyền

lợi, sự tồn tại của chế độ thuộc địa.

Mặc dù phần lớn họ chỉ có bằng “Thành chung” hay “Cao đẳng tiểu học”, số ít

có bằng “Tú tài bản xứ” hoặc “Tú tài Tây”, nhưng một tầng lớp trí thức Tây học làm

động lực cho sự du nhập văn hóa phương Tây đã hình thành, với rất nhiều tên tuổi

trong nhiều lĩnh vực, từ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn

Tiến Lãng, cho đến những người như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Đào Duy

Anh và Nguyễn Văn Huyên. Có cả sự xuất hiện của các cây bút văn học, nghệ thuật

hấp thụ được cái tinh hoa của văn hóa, văn học Pháp, có khả năng nâng cao khả năng

của chữ quốc ngữ, tạo ra nền văn học Việt Nam hiện đại như: Nguyễn Trọng Quản,

Trương Vĩnh Ký, Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng

Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận và Vũ Hoàng Chương. Đứng trên cái nhìn tiếp xúc văn hóa

Đông - Tây thì việc xuất hiện một tầng lớp trí thức Tây học như thế thực sự tạo ra “cái 12 Trường Sắc lệnh ngày 10/2/1873 quy định mỗi đơn vị hành chính ở Nam Kỳ sẽ do ba viên chức phối hợp cùng phụ trách: viên chức hạng nhất phụ trách tư pháp, viên chức hạng nhì phụ trách hành chính, viên chức hạng ba phụ trách thuế khóa.

75

đầu tàu” cho văn hóa mới ở Việt Nam. Họ được trang bị những kiến thức về khoa học

tự nhiên, phương pháp luận nghiên cứu mới, các khuynh hướng triết học hiện đại của

phương Tây, các kiến thức của Triết học ánh sáng, các khuynh hướng văn học, nghệ

thuật hiện đại lẫn cổ điển. Thấm nhuần những quyền tự do bất khả xâm phạm của văn

minh phương Tây cùng với sự ý thức về cá nhân, nhân quyền trong chế độ thuộc địa,

tiếp nối nền tảng của tinh thần dân tộc, nhiều trí thức Tây học còn trở thành những nhà

cách mạng, những người cộng sản chống Pháp.

Ba là, phát triển các cơ quan truyền bá văn hóa như báo chí, truyền thanh và điện

ảnh để phổ biến rộng rãi các thành tựu văn hóa Pháp, coi đó như là những công cụ hữu

hiệu để chinh phục trái tim và khối óc người bản xứ.

Báo chí được xem là công cụ đắc lực của chính quyền thực dân nhằm mục tiêu:

tuyên truyền, phổ biến tin tức để ổn định Nam Kỳ sau cuộc chinh phục bằng quân sự,

phổ biến chữ Pháp và chữ quốc ngữ, phổ biến cái học mới của Tây phương, chinh

phục tinh thần của dân chúng thuộc địa bằng nền văn minh châu Âu. Vào thời kì đầu

tiên, tất cả báo chí đều do người Pháp thành lập và điều khiển, trong số này hầu hết là

những cựu công chức Pháp như Pierre Jeantet, Francois Henri Schneider, hay những

nhân vật có ảnh hưởng lớn đến chính phủ như Ernest Babut, Georges Garros… Do đó,

rất nhiều bài báo lúc bấy giờ đã không ngớt lời tán tụng chính quyền Pháp hay tình

“hữu nghị Pháp – Việt”… và không ngần ngại tuyên bố mục đích của báo chí là dùng

để canh tân hóa xứ sở, để giúp đỡ dân bản xứ… Thực ra, báo chí lúc bấy giờ chỉ dùng

để phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp tại Nam Kỳ, cũng như chính phủ thuộc

địa đã dùng báo chí để chinh phục tình cảm của người dân bản xứ.

Đầu tiên, người Pháp cho phát hành hai loại báo: báo bằng Pháp ngữ và báo bằng

Hoa ngữ. Loại thứ nhất dùng cho những độc giả người Pháp và những người Việt Nam

biết chữ Pháp; và loại thứ hai nhằm vào những quan lại bản xứ có ý muốn từ chối

không hợp tác với chính quyền Pháp. Tuy nhiên, cả hai loại báo này đều rất khó đến

được đông đảo quần chúng, vì số người biết chữ Pháp, chữ Hán chiếm số lượng rất ít.

Báo chí tiếng Việt vì vậy được ra đời và đóng một vai trò rất quan trọng cho hậu ý

chính trị của người Pháp trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược lâu dài ở Việt Nam,

mở đầu là tờ Gia Định báo (1865).

76

Tuy nhiên, chính quyền Pháp bấy giờ cũng ý thức được báo chí như con dao hai

lưỡi: nó có thể là phương tiện tốt của nhà cầm quyền để thực hiện ý đồ chính trị, thiết

lập ảnh hưởng của văn hóa Pháp, nhưng nó cũng có thể là một phương tiện của người

dân bị trị dùng để tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc. Do đó, ngay từ lúc hình thành,

người Pháp cũng ban hành nhiều luật lệ kiểm soát báo chí. Luật tự do báo chí được

ban hành ngày 29/7/1881 tại nước Pháp và đến ngày 22/9/1881 thì được áp dụng ở

thuộc địa Nam Kỳ. Căn cứ theo luật, sau khi đáp ứng những yêu cầu bắt buộc thì việc

ấn hành sách báo ở Nam Kỳ sẽ hoàn toàn tự do. Thế nhưng, chính quyền thuộc địa đã

buộc mọi tờ báo tiếng Việt tại Sài Gòn phải làm đơn xin phép theo Sắc lệnh ngày

30/12/1898 của Toàn quyền Đông Dương. Theo đó, Toàn quyền Đông Dương có

quyền cho phép xuất bản những tờ báo không phải là tiếng Pháp.

Bên cạnh báo chí, người Pháp cũng sớm đưa điện ảnh, truyền thanh vào Việt

Nam vừa để biểu trưng sức mạnh của văn minh phương Tây, vừa để kinh doanh kiếm

lời. Không chỉ tổ chức sản xuất, người Pháp còn tổ chức chiếu phim ở một số vùng

nông thôn, thành thị và biên giới nhằm tuyên truyền cho sức mạnh của nước Pháp,

tuyên truyền văn minh phương Tây.

Bốn là, tuyên truyền cho sự phổ biến văn minh phương Tây và sứ mệnh khai hóa

văn minh của nước Pháp bằng cách bảo trợ cho các hội văn hóa nhằm quy tụ những trí

thức thượng lưu, đồng thời hạn chế, tiến tới ngăn cấm những trào lưu tư tưởng tiến bộ,

đặc biệt là khuynh hướng cộng sản ở Việt Nam.

Trong quá trình cai trị Việt Nam, người Pháp luôn né tránh cụm từ “đồng hóa” và

thay bằng cụm từ “khai hóa văn minh”, nghe có vẻ mềm mại hơn và dễ được người

bản xứ chấp nhận hơn. Tuy nhiên, âm mưu đồng hóa đã thể hiện rõ trong chính sách

cai trị của họ: “Bổn phận của các nòi giống thượng đẳng là phải giúp đỡ các nòi giống

hạ đẳng để đưa họ thoát ra khỏi sự man rợ” [72, tr.617]

Tuy nhiên, đầu thế kỉ XX, trong bối cảnh thế giới có nhiều bất lợi như cuộc cách

mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Hoa, sự chú ý của Đức sang vùng Viễn Đông, cuộc

cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công, nước Pháp chìm ngập trong chiến

tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918). Cùng với đó là sự chống đối quyết liệt từ phía

những người Việt Nam vốn giàu tinh thần dân tộc. Đến đây, người Pháp nhận thấy

77

“văn minh phương Tây đã gặp một dân tộc thông minh, người dân có tri thức” [dẫn

theo 62, tr.101] và buộc phải điều chỉnh chính sách chính trị và văn hóa theo hướng

mềm dẻo hơn.

Về chính trị, người Pháp nêu cao các chiêu bài Pháp – Việt đề huề, Pháp – Việt

nhất gia và Pháp – Việt tương thân nhằm xoa dịu sự chống đối của người Việt Nam.

Về văn hóa, người Pháp đã lôi kéo giới trí thức Việt Nam vào những vấn đề văn hóa,

dùng văn hóa để ru ngủ họ nhằm tách họ khỏi nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Người

Pháp còn khuyến khích trí thức Việt Nam bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Không phải người Pháp đã từ bỏ ý định đồng hóa. Trên thực tế, họ ngấm ngầm thực

hiện đồng hóa bằng giải pháp hợp tác một cách khéo léo và thâm hiểm hơn.

Trong bài diễn thuyết với tựa đề La mission civilisatrice de la France (Sứ mệnh

khai hóa văn minh của nước Pháp) tại trường Cao đẳng xã hội học ở Pháp, Albert

Sarraut đã tán dương những chính sách khai hóa của nước Pháp đối với thuộc địa:

“Nước Pháp ta là nước đã đề xướng ra cái chủ nghĩa nhân quyền, lịch sử chan chứa

một cái tư tưởng công nghĩa, nên vẫn từng phản đối cái lý thuyết khốc hại kia cho

rằng giống người nào đã kém thời cứ hèn kém mãi mãi; nước Pháp vẫn biết rằng

những giống người ấy ngày nay tiến hóa còn chậm chạp, nhưng biết thế mà cố tìm

phương đặt cách giúp đỡ cho bước mau lên; các dân tộc cổ lỗ kia ví như một đống đất

sét chưa thành hình, nước Pháp ra tay nặn cho nên một nhân loại mới…” [dẫn theo

62, tr.96]. Rõ ràng, Sarraut đã đánh giá thấp trình độ văn minh của các thuộc địa và đề

cao văn minh Pháp, sử dụng chiêu bài khai hóa văn minh để bao biện cho chủ nghĩa

thực dân, coi nước Pháp phải có trách nhiệm khai hóa lâu dài ở thuộc địa để che đậy

cho âm mưu muốn cai trị thuộc địa lâu dài.

Để thể hiện thiện chí hợp tác, người Pháp cho thành lập và bỏ tiền bảo trợ cho

các hội văn hóa, tiêu biểu là sự ra đời của Hội Khai trí tiến đức vào năm 1919. Theo

Louis Marty – Hội trưởng, đồng thời là Chánh mật thám Đông Dương, mục đích của

Hội là để mở mang trí thức và rèn tập đạo đức cho người dân An Nam. Hội viên là

những người có quyền lực, học thức và giàu có, tiêu biểu như Hoàng Trọng Phu, Thân

Trọng Huề, Phạm Văn Thụ, Trần Văn Thông, Chế Quang Ân và Trần Trọng Kim (đại

quan); Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác và Phạm Duy Tốn (trí thức

78

thượng lưu). Hội thường tổ chức các hoạt động văn hóa như giới thiệu các tác phẩm

văn học cổ kim được dịch ra quốc ngữ, phát động phong trào dịch sách từ chữ Hán,

chữ Pháp ra quốc ngữ, làm từ điển tiếng Việt, in sách, sáng tác và diễn kịch, các hoạt

động diễn thuyết.

Trong bài diễn thuyết tại Hội Khai trí tiến đức, Toàn quyền Albert Sarraut đã

khéo léo lợi dụng vấn đề văn hóa vào các vấn đề chính trị, xã hội. Sarraut bày tỏ sự tin

tưởng Hội Khai trí tiến đức sẽ hết lòng phụng sự cho sự nghiệp khai hóa văn minh của

nước Pháp, kêu gọi người Pháp và người Việt Nam phải đồng tâm hiệp lực để làm cho

người Việt Nam được sung sướng. Toàn quyền Merlin tại một buổi gặp gỡ với Hội

Khai trí tiến đức cũng khuyên nhủ trí thức Việt Nam cần phải kiên nhẫn chờ đợi đến

ngày được văn minh, hợp tác, trung thành và tin tưởng vào nước Pháp.

Mặc dù rất nỗ lực truyền tải văn minh phương Tây vào Việt Nam, có ý thức bảo

tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, thế nhưng nhiều hội viên của Hội

Khai trí tiến đức đã bị thực dân Pháp lợi dụng và lừa gạt, ảo tưởng và ngộ nhận về khả

năng hợp tác Pháp – Việt và sự thành tâm khai hóa văn minh của người Pháp. Một số

hội viên vì danh lợi trở thành tay sai cho thực dân Pháp. Thông qua Hội Khai trí tiến

đức, những người có quyền lợi gắn bó mật thiết với chế độ thực dân ra sức tán dương

chế độ thuộc địa, tung hô công ơn khai hóa của nước Pháp, chủ trương dựa vào nước

Pháp để được văn minh. Tinh thần đó có thể thấy rõ trong bài diễn thuyết của hội

trưởng Hội khai trí tiến đức là Tổng đốc Đoàn Triển trong buổi tiếp đón Toàn quyền

Đông Dương Merlin năm 1924: “Hội chúng tôi là gồm tất cả các thành phần tiêu biểu

trong các dân đẳng xứ Bắc Kỳ: người làm ruộng, kẻ đi buôn, người làm quan, kẻ làm

nghề, cùng những hạng tân học cựu học trong nước; thật là một cái cơ quan có tư

cách nhất để giúp chính phủ trong việc khai hóa cho dân bản xứ. Hội chúng tôi không

phụ thuộc về một đảng nào, một hạng người riêng nào trong xã hội. Hội chúng tôi là

hội chung của hết thảy người An Nam có bụng muốn nhờ Đại Pháp che chở để mưu sự

khai trí tiến đức cho đồng bào” [dẫn theo 62, tr.104]

Tuy nhiên, trong việc tuyên truyền sứ mệnh khai hóa văn minh và văn minh Đại

Pháp, tuyên truyền những tư tưởng dân chủ tư sản nổi tiếng của cách mạng Pháp như

“tự do – bình đẳng – bác ái”, thực dân Pháp cũng lo ngại rằng, làm như thế sẽ thức

79

tỉnh tinh thần dân tộc của người Việt Nam, sẽ là nguy cơ đối với sự thống trị của nước

Pháp. Cuối thập kỉ 1920, khi tư tưởng Mác-xít bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam qua

con đường Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và nhất là khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,

việc truyền bá văn minh phương Tây của chính quyền thuộc địa luôn đi liền với việc

ngăn chặn những tư tưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, của Quốc tế Cộng

sản và Công xã Quảng Châu ở Trung Quốc. Đây là một đặc điểm chính trị quan trọng

của sự tiếp xúc văn hóa Đông - Tây ở nước ta đầu thế kỉ XX. Toàn quyền Merlin phê

phán sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở các thuộc địa, coi đó là “một dấu hiệu nguy

hiểm cho văn minh phương Tây” [dẫn theo 62, tr.102]

Năm 1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã nghi ngờ sự thành công của

chính sách đồng hóa: “Từ hàng triệu năm nay, châu Á có nền đạo đức học của riêng

mình, nền nghệ thuật của riêng mình, nền siêu hình học của riêng mình, các mơ ước

của mình. Họ có thể hấp thụ các tư tưởng Hy Lạp và La Mã của chúng ta được hay

không? Điều đó có đáng làm hay không? Cho đến tận ngày nay, theo sự tiếp xúc của

chúng tôi, nó chỉ được tiến hành theo kiểu bắt chước” [dẫn theo 62, tr.91]. Tổng trú sứ

Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Paul Bert nhận xét, thật khó nô dịch được dân tộc An Nam,

bởi dân tộc này đã hai lần chiến thắng quân xâm lược Trung Hoa và đã từng có 4.500

năm lịch sử.

Tuy nhằm mục đích đồng hóa, nhưng chính sách văn hóa của chính quyền Pháp

đã biến Nam Kỳ trở thành nơi đầu tiên xuất hiện những loại hình sinh hoạt văn hóa

mới làm cầu nối cho việc tiếp nhận văn minh phương Tây, văn hóa Pháp. Và rõ ràng

chữ quốc ngữ có liên quan, xuất hiện hầu hết trong nội dung các chính sách văn hóa

ấy. Điều đó chứng tỏ người Pháp rất chú ý đến việc truyền bá chữ quốc ngữ. Mặc dù

chỉ “là một công cụ chính trị tiện lợi” [114, tr.32] nhằm thực hiện những mục tiêu

chính trị, nhưng với hàng loạt chính sách văn hóa liên quan đến chữ quốc ngữ, người

Pháp đã đưa quốc ngữ “trở thành một thiết chế, được áp đặt do một quyền lực chính

trị” [73, tr.10]. Trong đó, giành được sự quan tâm nhiều nhất của chính quyền Pháp là

việc áp dụng chữ quốc ngữ vào trong giáo dục, nơi quan trọng nhất giúp người Pháp

loại bỏ ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trên đất nước Việt Nam.

80

2.3. Chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và

Nho học ở Nam Kỳ

2.3.1. Tình hình Nho học và ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ

2.3.1.1. Tình hình Nho học

Hệ tư tưởng Nho giáo “từng là hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến,

tồn tại đến giữa thế kỉ XX” [95, tr.5]. Nhận thức về thế giới và bản chất con người một

cách toàn diện, Nho giáo trở thành nền tảng triết lý của giáo dục Việt Nam trong suốt

hàng nghìn năm, hình thành một nền giáo dục chính thức gọi là Nho học. Nho học đã

đào tạo nhiều thế hệ Nho sĩ và góp phần quan trọng cho nền văn hóa Việt Nam. Từ khi

ra đời cho đến khi bị thay thế, đây là nền giáo dục được các triều đại phong kiến Việt

Nam chăm lo xây dựng và phát triển, được hầu hết mọi người, mọi tầng lớp trong xã

hội mong muốn học theo để đỗ đạt. Đây cũng được xem là một nền giáo dục “vốn dựa

theo khuôn mẫu của Trung Hoa. Nhà Nho chỉ hiểu, biết qua Trung Hoa và theo Trung

Hoa một cách lâu dài” [dẫn theo 62, tr.92]

Nho giáo coi giáo hóa con người bằng đạo đức là phương tiện, biện pháp hiệu

quả nhất để đào tạo con người, hoàn thiện con người, cũng là để đào tạo đội ngũ quan

lại cho bộ máy nhà nước để từ đó làm ổn định, hoàn thiện xã hội. Mục tiêu của nền

giáo dục Nho học ở Việt Nam cũng là để thực hiện lý tưởng của Nho giáo, bao gồm

trong bốn chữ “tu, tề, trị, bình” tức là: tu thân (rèn luyện bản thân mình) để có thể tề

gia (quản lý gia đình được tốt), từ đó tiến lên trị quốc (cai trị đất nước) rồi bình thiên

hạ. Song song với mục tiêu về nguyên tắc là duy nhất đó, có mục tiêu là tập luyện để

“văn hay”, “chữ tốt”, tức là diễn đạt, trình bày những tư tưởng Nho giáo bằng những

bài thơ, bài phú và bài văn. Trong thực tế, mực tiêu thứ hai này lại thường trở thành

mục tiêu chính của việc dạy và học, mục tiêu chính của việc thi đua hơn kém, đánh giá

tài năng, lựa chọn nhân tài.

Tất cả các triều đình phong kiến Việt Nam đều thông qua thi cử Nho học để chọn

người ra làm việc cho đất nước. Thời kì Bắc thuộc chấm dứt năm 938. Nền giáo dục

Nho học là lựa chọn cần thiết đối với một xã hội đang trong quá trình xác lập vị thế

của chế độ quân chủ. Nhưng phải đến thời nhà Lý (1009 – 1225), giáo dục Nho học

mới được xây dựng theo nề nếp chính quy, “chính thức hình thành nền giáo dục của

81

các triều đại phong kiến độc lập” [23, tr.14]. Từ đây, các triều đại phong kiến Việt

Nam đã duy trì một nền giáo dục lấy Nho giáo làm nội dung chính, lấy việc rèn luyện

văn chương chữ nghĩa làm tiêu chuẩn đánh giá hơn kém, lấy việc thi Hương, thi Hội

đậu cử nhân, tiến sĩ làm mục đích. Dưới thời Lê sơ (1428 – 1527), chế độ phong kiến

Việt Nam đạt đến cực thịnh, Nho giáo được đưa lên địa vị độc tôn, cũng là lúc Nho

học thật sự “đi vào khuôn phép chặt chẽ” [6, tr.10]. Thời Lê Thánh Tông, từ vùng

đồng bằng đến các vùng núi “đều có người đi học tới đủ trình độ thi Hương” [106,

tr.99]

Tài liệu học tập của giáo dục phong kiến ở Việt Nam là những sách kinh điển của

Nho giáo được gọi là Tứ Thư và Ngũ Kinh, là những sách kinh điển bắt buộc phải học

thuộc lòng. Ngoài ra còn có những tài liệu khác phải học hoặc tự học để biết, ít nhất là

những điểm chính thì mới đi thi và làm bài được, chưa nói là để trở thành một nhà Nho

uyên bác. Việc học tập, giảng dạy hoàn toàn theo phương pháp kinh viện, tin tưởng

tuyệt đối vào những “lời dạy của thánh hiền”, tức là những điều nói trong Tứ thư, Ngũ

kinh. Những lời dạy đó phải học thuộc lòng. Hình thức các bài làm thường gò bó vào

những quy tắc chặt chẽ về bằng trắc, niêm luật, về đối câu, đối chữ, khi đi thi lại phải

tuân theo những trường quy phiền phức như kiêng húy trong dùng chữ, trong cách

viết…

Tất cả các tài liệu dạy học đều được viết bằng chữ Hán (còn gọi là chữ Nho).

Trong gần một ngàn năm tồn tại của nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến, chữ Hán

là chữ độc tôn. Tuy nhiên, chữ Hán chỉ dùng để đọc sách và làm bài; thầy trò vẫn dùng

tiếng Việt để giảng bài, hỏi bài, giao tiếp với nhau khi lên lớp, tất nhiên là có pha lẫn

rất nhiều từ hay câu Hán - Việt. Không phải như tiếng Pháp trong các trường ở Nam

Kỳ dưới thời Pháp thuộc; được dùng cho mọi hoạt động trong lớp, trong trường như

giảng bài, trả bài, hỏi đáp giữa thầy và trò, thậm chí cho cả sự giao tiếp (trừ ở những

lớp đầu, khi học sinh mới bắt đầu học thứ tiếng đó).

Trong các thế kỉ XVI - XVIII, khi Đại Việt bắt đầu có những đụng độ với văn

minh phương Tây, Nho giáo vẫn được duy trì làm nền tảng tinh thần cho nhà nước

phong kiến đang rối ren, khủng hoảng. Nhưng đã bắt đầu bộc lộ nhiều nhược điểm, trở

thành công cụ gò bó và chuyên chế của các triều đại. Đầu thế kỉ XVI, việc học hành và

82

thi cử vẫn được duy trì đều đặn, nhưng số lượng người đi thi có chiều hướng giảm, số

trường học cũng không thấy mở mang gì thêm, thậm chí còn bị thu hẹp lại. Từ năm

1527, nhà Mạc rất coi trọng khoa cử, quan tâm đến việc tổ chức giảng học ở các

trường, nhất là ở Quốc Tử Giám vẫn thu hút được nhiều người dạy và học có tiếng.

Nhưng do chiến tranh, việc học tập ở địa phương không thực hiện được nhiều. Số học

trò đi học, đi thi thuộc các vùng ảnh hưởng của nhà Mạc bị giảm sút. Cuối thế kỉ XVII

đầu thế kỉ XVIII, khi chiến tranh Trịnh – Nguyễn kết thúc, chúa Trịnh mới bắt đầu

quan tâm đến giáo dục. Tuy nhiên, chất lượng giảng dạy và học tập sút kém dần, văn

chương trường Giám không còn là mẫu mực. Ở Đàng Trong, giữa thế kỉ XVII, việc

học và thi mới bắt đầu có sự khởi sắc, thông qua các trường do các Nho sĩ mở, nổi

tiếng được nhiều người nhắc nhở, ca ngợi là trường của Võ Trường Toản. “Đàng

Trong là đất mới, người biết chữ, học cao ít ỏi, nên thi cử dễ dãi hơn” [106, tr.107].

Tuy nhiên, trong hai thế kỉ cai trị, chúa Nguyễn chưa tổ chức được thi Hội và thi Đình.

Các quy tắc về khoa cử chặt chẽ hơn, buộc sĩ tử chỉ thiên về lối học từ chương

sáo ngữ, rèn luyện những tiểu xảo, những cách gọt giũa văn chương, tỉa tót từng câu

từng chữ mà không đi sâu vào nội dung tư tưởng. Càng về sau, học trò càng ít dọc

sách, ít tư duy như lời Khổng Tử đã khuyên dạy: “Học nhi bất tư đắc võng, tư nhi bất học tắc đãi”13. Đến thế kỉ XVIII, học trò chỉ đọc mấy bộ Tứ thư, Ngũ kinh, Tính lý

toát yếu do Bùi Huy Ích biên soạn gọn lại cho dễ nhớ và đủ đi thi. “Các bậc tiền bối

đã soạn thành bài, lời lẽ cổ nhã, bọn hậu sinh đua nhau làm theo, khi vào trường chỉ

xém bớt những chỗ quá dài dòng đi mà thôi” [dẫn theo 106, tr.108]. Do vậy, so với

trước, số người theo học thông hiểu nghĩa sách nhiều hơn, sự học được mở mang rộng

rãi hơn, số người đi thi, đỗ đạt hương cống, sinh đồ cũng đông hơn, nhưng rất hiếm

người có trình độ sâu sắc, uyên bác, số người đỗ cao ở thi Đình cũng ít đi. Mục đích

của kẻ đi thi là nhằm đỗ đạt làm quan, có điều kiện để bóc lột nhân dân, xu nịnh quyền

thế, mưu lợi cho cá nhân và gia đình, dòng tộc của mình.

Nhìn chung, trong các thế kỉ XVI – XVIII, việc học và thi vẫn tiếp tục tổ chức

13 Chỉ có đọc sách mà không tư duy, suy nghĩ thì sẽ mắc lừa, chỉ suy nghĩ mà không đọc sách thì sẽ thiếu lòng tin.

theo các thể lệ cũ, tư tưởng Nho giáo vẫn được truyền thụ trong nhà trường. Tuy

83

nhiên, do sự khủng hoảng trầm trọng của bản thân chế độ phong kiến và phong trào

đấu tranh của quần chúng nhân dân, sự đụng độ của những tư tưởng mới từ phương

Tây đã khiến ý thức hệ Nho giáo ngày một suy đồi, tan rã, ảnh hưởng lớn lao đến quan

niệm về cách học, cách thi từ sĩ tử đến quan trường. Trật tự xã hội và giá trị hầu như bị

đảo ngược khiến các sĩ tử chạy theo lối học vụ danh lợi, xa rời chính học. Những

nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức, lễ giáo phong kiến chỉ còn là cái vỏ ngoài, là hình

thức. Quan hệ vua – tôi, đạo thầy – trò, lòng trung quân – ái quốc… đều bị tan rã hết.

Đến thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến cùng với ý thức hệ tư tưởng Nho giáo càng suy

đồi hơn nữa. Do phải liên tục đối phó với chiến tranh và khởi nghĩa nông dân, nên các

vua chúa để mặc việc học hành, thi cử cho quan lại lợi dụng “đục nước béo cò”, công

nhiên ăn hối lộ, sĩ tử tự do mang sách vào trường thi, thuê mướn người thi để được đỗ.

Biến việc thi cử nghiêm ngặt trước đây thành nơi buôn bán danh vị, mua quan bán

tước.Bất kì ai chỉ cần nộp 3 quan tiền thông kinh là không cần thi khảo hạch và có quyền đi thi ngay14. Sự gian lận trong lúc thi, khi chấm thi, việc ăn lễ, đút lót, dựa thế

che chở lấy đỗ cho sĩ tử trở thành việc thường xuyên.

Tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, chế độ giáo dục và thi cử Nho học vẫn

được các triều đại phong kiến ở cả hai miền Nam Bắc duy trì, mở rộng làm phương

tiện đào tạo quan lại. Song trên bước đường suy vong của chế độ phong kiến, nội dung

giáo dục và chế độ khoa cử ngày một suy đồi, chỉ còn bề nổi, không còn bề sâu. Cùng

với sự phát triển của việc học, việc thi, tệ nạn gian lận, mua bán ngày thêm lũng đoạn

nơi trường ốc. Tình trạng này nằm trong sự suy đồi chung của ý thức hệ Nho giáo.

Qua đó cho ta thấy, khi chế độ phong kiến suy yếu, kỉ cương lỏng lẻo thì nền giáo dục

đó cũng không thể đáp ứng được ý muốn của giai cấp thống trị là tạo nên một tầng lớp

nho sĩ có thực tài để duy trì mọi giường mối của xã hội phục vụ cho chế độ phong kiến

đang trên bước đường tan rã.

Sang thế kỉ XIX, giáo dục được các vua đầu triều Nguyễn hết sức chú ý nhằm cố

14 Năm 1750 do thiếu tiền, Nhà nước đã phải cho mỗi người đi thi được nộp ba quan để qua kì khảo hạch nên người ta thường gọi những người này là “sinh đồ ba quan”. Do đó, có những người ít học cũng đi thi, đông đến nỗi xéo lên nhau chết ở cổng trường. Xem [6, tr.12]

gắng xây dựng một xã hội ổn định, vững mạnh sau kết quả của cuộc chiến tranh quyền

84

đoạt vị. Khôi phục vị thế của Nho giáo là công việc hàng đầu. Khoa cử Nho học tiếp

tục được mở ra để tuyển chọn nhân tài.

Nội dung giáo dục của triều Nguyễn chủ yếu vẫn như các triều đại trước, đặc biệt

là triều Lê. Thi cử cũng vậy, chỉ có khác là nhà Nguyễn không lấy Trạng Nguyên mà

chỉ lấy Tiến sĩ. Những người đậu nhất, nhì, ba đều gọi là Tiến sĩ cập đệ (nhất giáp).

Những người đậu nhị giáp đều gọi là Tiến sĩ xuất thân, đến đệ tam giáp thì gọi là đồng

tiến sĩ xuất thân. Dưới Tiến sĩ còn có Phó bảng mà các triều trước chưa có, mục đích

của học vị này là để “khỏi bỏ sót nhân tài”. Thi Hương thì đổi Hương cống ra Cử

nhân, Sinh đồ ra Tú tài. Ngoài cách lựa chọn quan lại bằng khoa cử, triều Nguyễn còn

có lệ cống cử “để cho những người vốn tài giỏi mà bị bó buộc chưa lộ ra được có thể

ra giúp nước” [78, tr.104]. Thi Hương và thi Hội đều có 3 kỳ chính (Kỳ đệ nhất thi

Kinh nghĩa, Kỳ đệ nhị thi Thơ phú, Kỳ đệ tam thi Văn sách). Có năm còn thêm Kỳ đệ

tứ, thí sinh phải làm chiếu, chế, biểu. Trong các bài thi người ta đặc biệt chú ý đến

Kinh nghĩa và Văn sách, là những môn cơ bản để xem trình độ thông hiểu kinh sử và

kiến thức quảng bác của thí sinh.

Trong nội dung giáo dục của triều Nguyễn không có khoa học tự nhiên. Triều

đình cũng có một vài cơ sở để đào tạo những người làm việc ở tòa Khâm Thiên giám,

xem xét thiên văn, nhưng mục đích và nội dung học không thể phục vụ cho đời sống

và sản xuất mà chỉ cốt xem ngày tốt, xấu. Việc học tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng

Pháp đã trở thành cấp bách từ những năm 50 của thế kỉ XIX. Nó không còn là một

ngôn ngữ dùng trong ngoại giao mà còn để hiểu địch, tìm hiểu khoa học kĩ thuật hiện

đại, đặc biệt là vũ khí mới của phương Tây. Tự Đức có cho mở trường Hành Nhân ở

Huế và mượn cố đạo về dạy tiếng Pháp. Tuy nhiên, trường Hành Nhân cũng chỉ đào

tạo ra thông dịch chứ cũng chưa thể nào có trình độ ngoại ngữ để nắm được khoa học

kĩ thuật.

Những nội dung giáo dục và thi cử này đã bộc lộ tính chất lạc hậu của nó trước

thực tế xã hội. Các vị vua đầu triều Nguyễn đều thấy rõ điều đó: “Khoa cử lâu nay lầm

lạc quá nhiều, văn chương không có quy củ nhất định, chỉ câu nệ vào những lời sáo

hủ, khoe khoang lẫn cho nhau, mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp tùy theo sự

giáo huấn của mỗi ông thầy,… Cái học viển vông như vậy làm gì chẳng hỏng nhân

85

tài…” [88, tr.334]. Lối học cử nghiệp của nhà Nguyễn càng không thích hợp trong bối

cảnh sức mạnh văn minh phương Tây với súng ống, đạn dược đang ngấp nghé ngoài

cửa biển. Các sĩ tử chỉ biết đến kinh sử mà không biết hoặc biết rất nông cạn những

vấn đề của thực tế xã hội.

Các vua nhà Nguyễn đã cố gắng cải thiện tình hình bằng cách “dựng thêm nhà

học, tăng thêm học viên, cấp nhiều học bổng, mở rộng chương trình để học trò đều

được thành tài” [53, tr.140], lấy thực hành làm đầu, chú trọng thực tế về chính trị, kinh

tế, xã hội, quân sự ngay chính trên đất nước Việt Nam. Nhân tài phải là người có “học

vấn sâu rộng, văn chương cổ kính tao nhã, có thể làm cố vấn được, cho đến các người

công nghệ khéo, kỹ thuật giỏi, có thể chế tạo được đồ vật và làm thuốc, xem bói, xem

số, xem ngày… làm ruộng, thuế khóa, sai dịch, lễ nhạc, binh hình, cho đến những việc

trị loạn xưa nay, việc thi thố chính trị hiện thời” [79, tr.103]. Tuy nhiên, mãi đến năm

1873, Tự Đức vẫn than phiền là sĩ tử thực học kém cỏi, nghị luận tầm thường. Rõ

ràng, dù có thay đổi quan niệm về mục đích của việc học, chú trọng thực học nhưng

vẫn giữ nguyên nội dung học tập, thể thức thi cử lệ thuộc vào khuôn vàng thước ngọc

của Nho giáo, cho kiến thức khoa học phương Tây là “không có ngũ hành tương sinh

tương khắc,…trái lý và không hợp với cổ nhân” [116, tr.13], là “dâm xảo và hóa lợi”

[116, tr.15], thì lẽ tất nhiên, hiểu biết của các vị Tân khoa không thể vượt qua khỏi

phạm vi của Tứ thư, Ngũ kinh, khoa cử vẫn là con đường tiến thân duy nhất của sĩ tử.

Năm 1833, vua Minh Mạng vẫn còn “xét rõ thể văn tam tường của Bắc triều, xem bài

nào bình chính thông suốt có thể là mẫu mực… viết tinh tường thành 31 bộ, chia cho

Quốc tử giám và học quan các địa phương cứ theo đấy mà dạy học trò học tập” [81,

tr.209]. Đến năm 1871 mà Tự Đức vẫn còn ban cho các tỉnh sách Lịch sử đại thông

giám tập lãm của vua Càn Long nhà Thanh và chỉ thị: “Đem bộ sách ấy cùng với sách

Ngũ Kinh, Tứ thư đại toàn, gia tâm giảng dạy, đến kì thi đem những lời nghị luận và

chế độ to tát trong sách ấy để hỏi học trò” [79, tr.105]. Chính vì thế, mặc dù có ý thức

sửa đổi nền học chính, nhưng triều đình hay đúng hơn là cơ quan chịu trách nhiệm về

giáo dục không cải tiến chương trình, nội dung học tập thì tất nhiên chất lượng của sĩ

tử vẫn không hơn gì trước, không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Do đó, cả một

thời gian khá dài, nền giáo dục vẫn cứ dậm chân tại chỗ, vẫn lay lắt tồn tại với những

86

luận thuyết lỗi thời mà không tạo ra được những kết quả phù hợp với nhiệm vụ lịch sử

mà nó phải gánh vác. Giáo dục Nho học dưới nhà Nguyễn “đã đi đến chỗ suy tàn” [6,

tr.32]

2.3.1.2. Ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ

Mặc cho Nho học đã đến lúc suy tàn, giới Nho sĩ, những người vốn bị ràng buộc

và được đào tạo kĩ lưỡng vẫn rất coi trọng chữ Nho và các kinh điển của Nho giáo.

Đối với họ, bất kể vấn đề gì vượt ra khỏi “khuôn vàng thước ngọc” đều khó có thể

được chấp nhận. Việc người Pháp đem chữ quốc ngữ phổ biến trên đất Nam Kỳ cũng

vấp phải những thái độ phức tạp này từ các Nho gia.

Ban đầu, quốc ngữ chỉ là một công cụ truyền đạo của các giáo sĩ Kitô giáo. Về

sau nhanh chóng trở thành “tay sai” bất đắc dĩ của chính quyền thực dân trong việc

giao tiếp với người dân bản xứ và điều hành guồng máy cai trị. Giám mục Puginier

cũng đã nói: “Tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán và thay thế trước tiên bằng chữ Quốc ngữ,

sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu…

Một khi đã đạt được kết quả to lớn đó, chúng ta đã đoạt được từ Trung Quốc phần lớn

ảnh hưởng ở xứ An Nam và giới nho sĩ An Nam vốn rất thù ghét sự thiết lập thế lực

Pháp sẽ bị tiêu diệt dần dần” [33, tr.43]. Tuy nhiên, quá trình “quốc ngữ hóa” Nam Kỳ

diễn ra không hoàn toàn thuận buồm xuôi gió như tính toán của chính quyền Pháp. Rất

nhiều người trong giới trí thức, Nho sĩ và cả nhân dân vẫn tỏ thái độ không thân thiện

đối với loại chữ mới này.

Thái độ ghét bỏ này đã có từ trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược và đặt

ách cai trị lên đất Nam Kỳ với những lý do khác nhau. Thứ nhất, khi ấy vì ghét đạo

Thiên chúa nên người ta ghét luôn đứa con tinh thần của nó là chữ quốc ngữ - loại chữ

được các giáo sĩ phiên âm để truyền đạo. Những người có thái độ này chủ yếu là người

có cùng quan điểm với những vua quan có chủ trương cấm đạo. Thứ hai, một số Nho

sĩ chống đối vì lý do đơn giản là đã quen sử dụng chữ Hán, chữ Nôm, quen trọng dụng

chữ Hán, chữ Nôm. Vì lòng tự trọng, họ cho rằng dân tộc Việt Nam từ lâu đã học chữ

Hán, chữ Nôm, hai thứ chữ ấy là đạo thánh hiền, nay bỏ đi để dùng một thứ chữ viết

mới lạ, một thứ chữ ngoại lai thì họ không thích.

87

Mầm mống của việc ghét bỏ đã có từ trước, lại thêm việc người Pháp nổ súng

xâm lược và đặt nền móng cai trị lên đất Nam Kỳ, càng khiến lòng căm hận trong nhân

dân lên cao, dẫn đến khuynh hướng ghét bỏ, tẩy chay tất cả những gì liên quan đến

thực dân, nhất là khi chính quyền thực dân lại xem chữ quốc ngữ là một công cụ hữu

hiệu để phổ biến văn hóa phương Tây, loại bỏ ảnh hưởng của Nho học, khiến nhân dân

“càng dang xa quốc ngữ” [67, tr.186].Chính vì thế, không có gì là khó hiểu khi chữ

quốc ngữ phải nhận lấy thái độ lạnh nhạt của các tầng lớp xã hội.

Trước hết, trong quần chúng nhân dân, chữ quốc ngữ bị không ít người kì thị,

chống đối. Ngay cả những người theo Pháp và những người được coi là giàu có, đối

tượng bắt buộc phải cho con em trong độ tuổi quy định đi học, không phải ai cũng sẵn

sàng cho con em đi học chữ quốc ngữ. Có thể xuất phát từ chuyện Hoàng tử Cảnh, sau

khi từ Pháp trở về đã theo đạo Công giáo và “từ chối đến tông miếu”, làm xuất hiện

những lời đồn thổi “người Công giáo không thờ cúng ông bà”, nên nhiều người Nam

Kỳ sợ con cháu mình mất gốc và trốn tránh việc cho con đi học chữ quốc ngữ: “ngỡ là

cho con đi học làm vậy thì sợ e nhà nước bắt con mình mà đem đi Tây hay lệ thuộc về

nhà nước”[dẫn theo 122, tr.39]. Ngoài ra, dân chúng còn quan niệm rằng đó là chữ của

đạo Công giáo, do các giáo sĩ chế tạo ra. Trong khi, các giáo sĩ lại là những người đi

theo Pháp ngay khi Pháp tới Nam Kỳ, và được Pháp bênh vực, do đó người dân có thái

độ ghét bỏ chữ quốc ngữ là điều tất nhiên. Lại có tâm lý cho rằng các giáo sĩ đều là

người Tây, nên chữ quốc ngữ cũng là đồ của Tây, cũng như xà bông, đèn khí của

người Tây vậy. Vì thế, hễ ghét đạo Thiên chúa, ghét Tây thì người dân ghét luôn cả

chữ quốc ngữ. Nói chung, phần lớn người dân đều khó có thể chấp nhận bất cứ điều gì

của người Pháp hay do người Pháp đề ra, kẻ bị xem là quân cướp nước.

Những quan niệm trên dẫn đến tình trạng có rất ít người theo học trường dạy

quốc ngữ. Hương chức phải bắt người đi học như bắt lính. Những người giàu có tìm

thuê người nghèo trong làng hoặc bắt đầy tớ đi học thay con em mình: “Nhứt là các

nơi xa xa ruộng nương, rẫy bái, hễ có trát súc đòi học trò, thì cha mẹ đã xào sự, làm

quá hơn là sợ bắt lính lo chạy mướn đứa nọ đứa kia con nhà nghèo cho nó đi thế con

nhà mình” [dẫn theo 122, tr.39]. Có những trường hợp nhờ đi học ké mà sau này thành

đạt, như trường hợp của ông Nguyễn Văn Lanh, sau này trở thành Phó giám đốc Nha

88

điền địa Nam Kỳ năm 1945. Bấy giờ ở Nam Kỳ có câu ca dao chống việc học chữ

quốc ngữ rất phổ biến:

“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu

Anh về đi học chữ nhu

Chín trăng em đợi mười thu em chờ”

Thái độ chống đối hay từ chối học chữ quốc ngữ vẫn còn tiếp diễn trong nhân

dân đến tận đầu thế kỉ XX, dù cho khi ấy quốc ngữ đã trở thành thứ chữ quen thuộc

của người Việt trong cả nước Việt Nam.

Về phía các Nho sĩ, trí thức yêu nước, thái độ chống đối, quay lưng với chữ quốc

ngữ diễn ra dữ dội hơn. Trong bối cảnh Nho học suy đồi, dù biết là không mấy khả

năng thành công nhưng các Nho sĩ vẫn cố gắng cổ xúy cho chữ Nôm, chữ Hán. Thái

độ của cụ Nguyễn Đình Chiểu là tiêu biểu cho giới sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ. Cụ

“không chịu chấp nhận một thứ chữ viết được đồng hóa với kẻ xâm lược” [73, tr.63].

Cùng thời với cụ, tuyệt đại đa số các tác gia yêu nước và chống Pháp cũng đều sáng

tác thơ văn bằng chữ Nôm.

Chữ quốc ngữ có khi còn được gọi là “Tây quốc ngữ tức là tiếng nói được viết ra

bằng các con chữ châu Âu” [dẫn theo 63, tr.64]. Tên gọi này đã nói lên rõ ràng nguồn

gốc của chữ quốc ngữ, khiến các sĩ phu yêu nước ở Nam Kỳ khó có thể dùng nó để

viết bài kêu gọi dân chúng chống ngoại xâm. Do vậy, việc dùng chữ viết còn trở thành

“biểu tượng của một thái độ chính trị” [63, tr.64]

Vì chống đối chữ quốc ngữ, chống đối người Pháp, các sĩ phu yêu nước ở Nam

Kỳ lên tiếng phê phán, công kích luôn cả những trí thức từ bỏ Hán học theo Tây học,

những người góp phần truyền bá quốc ngữ cho chính quyền Pháp. Tiêu biểu là thái độ

của nhà thơ Phan Văn Trị và các đồng chí của ông như Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang

Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa… dành cho Tôn Thọ Tường, một trí thức Hán học đi theo thực

dân Pháp nhưng “thanh liêm, sống thanh bần đến mức nghèo khổ, cố không làm điều

có hại cho dân chúng cũng như giới sĩ phu Nam Kỳ” [122, tr.43]

Năm 1885, một số thân hào nhân sĩ đã gửi thư thỉnh nguyện đến Hội đồng quản

hạt Nam Kỳ đề nghị bãi bỏ chữ quốc ngữ. “…Theo thiển ý chúng tôi, hiện nay chỉ có

89

hai thứ tiếng có thể được ở Nam Kỳ, tiếng Pháp mà chúng tôi muốn học và tiếng An

Nam nôm na mà chúng tôi đều biết viết bằng chữ Nôm… Quý vị hãy đón xem chúng

tôi lúng túng thế nào mỗi khi chúng tôi nhận được những lệnh viết bằng thứ chữ [quốc

ngữ] trên, chúng tôi phải chạy kiếm hàng chục người thông ngôn mà chúng tôi phải

trả tiền, để rồi rốt cục họ đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những gì

người ta muốn truyền lệnh cho chúng tôi” [dẫn theo 122, tr.40-41]

Sự chống đối quyết liệt của giới Nho sĩ, những sĩ phu yêu nước ở Nam Kỳ khiến

chính người Pháp cũng phải thừa nhận: “người An Nam có học, hạng thượng lưu trung

thành với luật pháp xứ sở họ, những người này chỉ có thể coi chúng ta như kẻ thù”

[dẫn theo 122, tr.43-44]. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, “nhân dân lục tỉnh chống

trường quốc ngữ Latinh khi ấy là đúng” [67, tr.188]. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lúc

bấy giờ thì khuynh hướng từ chối chữ quốc ngữ của giới Nho sĩ, các sĩ phu yêu nước

là điều hoàn toàn không hợp lý. Bởi quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện chữ

quốc ngữ vốn dĩ đã diễn ra trong một tiến trình lâu dài từ trước đó hàng mấy thế kỉ mà

không hề có sự nhúng tay tham gia vào của chính quyền thực dân, không nhằm mục

đích chính trị mà chỉ nhằm mục đích giao tiếp, truyền giáo. Mặt khác, “bản thân chữ

quốc ngữ chỉ là một thứ phương tiện, không mang trong nó bản chất xấu hoặc tốt. Xấu

hay tốt là do mục đích của những người sử dụng nó” [120, tr.383]

Tình hình chống đối của giới sĩ phu và nhân dân đối với chữ quốc ngữ ít nhiều đã

gây khó khăn cho chính quyền thuộc địa, “lối viết theo chữ cái Latinh không bắt rễ

trong nhân dân”[67, tr.187]. Trước thực tế đó, chính quyền Pháp tìm cách cứu vãn

việc dạy chữ quốc ngữ bằng cách hô hào viết sách bằng quốc ngữ, dịch sách Hán-Nôm

ra chữ quốc ngữ để học trò có cái để đọc ngoài Gia Định báo và mấy quyển kinh công

giáo. Đô đốc Legrand de la Liraye cũng đồng ý rằng, phải có cái để đọc, nhất là cái

đọc quen thuộc lâu nay, thì mới cứu vãn được các trường quốc ngữ. Những người như

Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của là lớp người đầu tiên sẽ làm

công việc này. Phải đến khi những công trình của họ ra đời trên các lĩnh vực báo chí,

dịch truyện, viết tiểu thuyết thì phong trào học tập chữ Quốc ngữ mới được đẩy mạnh.

Với chủ trương dịch chữ Nôm, chữ Hán ra quốc ngữ và khuyến khích sáng tác

bằng quốc ngữ, chính quyền Pháp muốn bằng cách nào đó có thể tăng uy tín cho quốc

90

ngữ, công cụ truyền bá văn hóa Pháp bấy lâu nay, đánh lùi uy thế các nhà Nho. Tuy

nhiên, người Pháp không tính trước được rằng thông qua việc làm ấy, sĩ phu yêu nước

Nam Kỳ cũng hé thấy được rằng chữ quốc ngữ cũng có nhiều khả năng văn hóa chứ

không phải chỉ là một loại chữ thứ yếu dùng cho tầng lớp bình dân trong việc giao dịch

hàng ngày. Nhận định sơ bộ của các sĩ phu càng được củng cố thêm khi những tờ Gia

Định báo (1865), Nông cổ mín đàm (1900), Phan Yên báo (…), Lục tỉnh Tân văn (…)

xuất hiện bằng chữ quốc ngữ và đem lại một số kiến thức mới từ phương Tây.

Từ đó, ngày càng có nhiều sĩ phu nhận ra rằng chữ quốc ngữ “nếu như người

Pháp đã biết dùng nó để phục vụ cho việc cai trị của họ, tại sao người Việt lại không

biết dùng nó để chống lại sự cai trị?” [120, tr.383], biến nó thành “một công cụ đắc lực

cho việc khai dân trí, chấn dân khí” [67, tr.192], nhất là trong bối cảnh chính quyền

Pháp đang có chủ trương hậu thuẫn cho chữ quốc ngữ khiến nó ngày càng “đi vào mọi

ngóc ngách của đời sống, mọi tầng lớp trong xã hội” [120, tr.382]. Số người học và sử

dụng thông thạo quốc ngữ cũng đang tăng lên rất nhanh: “Sự thể bây giờ không phải

như khi trước phải chịu tiền mướn con dân đi học trong các trường, đến bây giờ các

hương chức trong làng đều ra sức phú thác con cái mình cho ta dạy dỗ” [dẫn theo

122, tr.40]

Chính trong bối cảnh mới ấy, vào cuối thế kỉ XIX, đặc biệt là đầu thế kỉ XX,

trong hàng ngũ sĩ phu đã nảy sinh một cuộc đấu tranh tư tưởng xem xét lại thái độ cần

phải có đối với chữ quốc ngữ. Cụ Nguyễn Quyền kể lại: “Anh em đồng chí với tôi

đứng về mặt trận lấy quốc ngữ để truyền bá học thuật Thái Tây và bỏ hẳn lối văn thi

phú kinh nghĩa. Nhưng các cụ đa số đứng về mặt trận dạy chữ Hán và cử nghiệp như

xưa. Ban đầu tôi và mấy anh em đồng chí đã hao phí khổ tâm lắm mới quyết định được

các cụ hủ Nho phải tin quốc văn (quốc ngữ Latinh) có hiệu lực phổ thông giáo dục và

phải tán thành lấy quốc văn làm thứ chữ căn bản cho khoa học ở nhà trường” [dẫn

theo 67, tr.192]. Cuối cùng, các cụ “hủ Nho” cũng “nhanh chóng nhận thấy vai trò đặc

biệt quan trọng của chữ quốc ngữ đối với quá trình cải biến văn hóa dân tộc, tiếp biến

văn hóa phương Tây” [105, tr.213]. Tương kế tựu kế, các sĩ phu yêu nước dùng mọi

cách mở cuộc đấu tranh giành chữ quốc ngữ về tay người Việt. Từ đây, chữ quốc ngữ

“được chấp cánh bởi phe yêu nước” [67, tr.194]

91

Các sĩ phu tìm cách biến lợi thế của kẻ thù thành vũ khí để tuyên truyền, giác

ngộ tư tưởng nhằm nâng cao dân trí, dân sinh, giáo dục ý thức dân quyền cho dân

chúng.

Giờ đây, với các nhà Nho đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ được xem “là hồn thiêng

đất nước, là phương tiện có thể biểu đạt được tình cảm, tư tưởng người Việt, dân tộc

Việt” [92, tr.155], là một công cụ đắc lực để tuyên truyền, vận động nâng cao dân trí,

chấn hưng dân tộc, biến văn hóa thành động lực cứu nước và phát triển dân tộc. Bài

Kêu hồn nước của Trần Quý Cáp, có đoạn:

“Chữ quốc ngữ là hồn trong nước

Phải đem ra tính trước dân ta Sách Âu Mỹ, sách Chi Na15

Chữ kia chữ nọ dịch ra tỏ tường” [dẫn theo 96, tr.604]

Trong khi thực dân Pháp coi chữ Quốc ngữ là “một công cụ đào tạo tay sai” [xem

42] thì các sĩ phu Việt Nam đầu thế kỷ XX đã thấy được ở nó những khả năng to lớn

cho việc mở mang dân trí mà mọi người, mọi giới phải học, học mọi nền văn minh của

các dân tộc khác. Có như vậy xã hội mới tiến bộ và bình đẳng với các dân tộc khác. Rõ

ràng, các Nho sĩ đầu thế kỉ XX đã vượt qua được những định kiến đương thời, không

còn thuần túy coi chữ quốc ngữ là “con đẻ”, là công cụ của chủ nghĩa thực dân, “miễn

nó giúp nâng cao dân trí nhanh chóng, phục vụ được việc cứu nước, thì nó tốt, nó cần”

[67, tr.193], và các Nho sĩ sẵn sàng dung nhận nó như một thành tựu của văn hóa dân

tộc trong quá trình tiếp xúc, hội nhập với văn minh phương Tây. Và sẵn sàng tiếp biến

thành tựu này vào công cuộc chấn hưng dân tộc. Điều này hoàn toàn nằm ngoài mong

muốn của chính quyền thực dân.

Là những người am hiểu Hán tự, nhưng các Nho sĩ yêu nước cũng nhận thấy chữ

Hán với lối tư duy kinh viện, cũ kĩ chưa đủ sức để tiếp biến các giá trị văn hóa phương

Tây qua các tân thư. Chỉ có chữ quốc ngữ dễ tiếp cận với các ngôn ngữ thông dụng

trên thế giới mới có “đủ biên độ và khả năng để tiếp nhận các tư tưởng mới, dân chủ,

15 Tức Trung Quốc.

dân quyền, dân sinh – cái mà chính quyền Pháp cố tình che đậy, giấu diếm” [105,

92

tr.214], thậm chí nó còn có khả năng đưa các giá trị ấy thâm nhập vào đời sống quốc

dân bởi tính dễ học dễ biết.

“Chữ quốc ngữ là vàng là ngọc…

Chữ ấy học chả bao lâu

Ra công vài tháng thuộc lầu là xong

Khi đã hiểu tinh thông các vận”

Chỉ khi quốc ngữ nằm trong tay các Nho sĩ, người dân Việt mới biết đến các khái

niệm “dân quyền”, “dân chủ”, “dân sinh”, mới thấu hiểu bổn phận và trách nhiệm của

người dân đối với vận mệnh dân tộc, nhận thức được rõ tinh thần yêu nước, nất khuất

của dân tộc:

“Giống ta chẳng giống mọi,

Dòng ta chẳng phải hèn.

Bạch Đằng phá quân Nguyên,

Chi Lăng đuổi tướng Minh.

Cõng rắn cắn gà nhà,

Người xưa rất khinh bỉ!” [dẫn theo 97, tr.67]

Giới sĩ phu yêu nước còn dùng chữ quốc ngữ làm phương tiện để canh tân

giáo dục, chống lại lối học cũ giáo điều, thủ cựu.

Nhận thấy chữ quốc ngữ là vấn đề then chốt, là chìa khóa để mở mang dân trí,

các Nho sĩ đầu thế kỉ XX đã chọn chữ quốc ngữ làm chữ viết chính dạy trong các

trường học. “Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ Quốc ngữ làm phương tiện

đầu tiên, để cho trong thời gian vài tháng, đàn bà, trẻ con cũng đều biết chữ” [dẫn

theo 86, tr.171]. Đông Kinh Nghĩa Thục và hàng loạt trường học kiểu mới là những

hoạt động đầu tiên, có tiếng vang rất lớn, ra sức cổ động cho việc học tập và phổ biến

chữ quốc ngữ. Các sĩ phu cho rằng đó là thứ chữ dễ học, mau biết, dễ phổ cập cho

quần chúng, do vậy, “phải thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ” [57, tr.129], phải chấm

dứt lối học tầm chương trích cú, xóa bỏ sự tồn tại của Hán học, thay vào đó là lối học

mới lấy chữ quốc ngữ làm văn tự chính thống, làm công cụ để mở mang dân trí. “Sự

thay đổi văn tự tất sẽ dẫn đến sự thay đổi về tư duy” [105, tr.216]

93

Mục đích học tập trước hết phải làm thay đổi hiểu biết và vươn rộng tầm nhìn ra

thế giới. Thế giới rộng lớn đó không chỉ có phương Đông gồm thiên triều Trung Hoa,

với các nước chư hầu bốn bên mà là cả thế giới phương Tây đã phát triển trước

phương Đông cả một thời đại. Bởi các sĩ phu thấu hiểu căn nguyên của mất nước là sự

thua kém quá xa của đất nước với các nước phương Tây.

Học hành tinh thông chữ quốc ngữ chính là cửa ngõ tiếp biến văn hóa, tiếp cận

với thế giới văn minh:

“Trước hết phải học ngay Quốc ngữ

Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau

Chữ ta, ta đã thuộc làu

Nói ra nên tiếng, nên câu, nên lời...

Sẵn cơ sở đề khai dân trí

Rồi sẽ đem các thứ giáo khoa

Chữ Tàu dịch lấy chữ ta

Chữ Tây cũng phải dịch ra chữ mình

Anh em đang buổi còn xanh

Phải lên gắng sức đua tranh với đời” [dẫn theo 86, tr.170]

(Nguyễn Phan Lãng)

Nội dung, phương thức học cũng rất hiện đại: học cả cái cũ, cái mới của chúng ta

và thế giới:

“Á Âu chung lại một lò

Đúc nên tư cách mới cho rằng người”

Bài Vè Đông Kinh nêu lên một chương trình học vô cùng mới mẻ và táo bạo:

“Mở tân giới, xoay nghề tân học,

Đón tân trào, dựng cuộc duy tân,

Tân thư, tân báo, tân văn…”[dẫn theo 97, tr.63]

Giữa lúc lối học phù hoa, theo đuổi công danh đang còn ngự trị trong xã hội, đây

thực sự là một cải biến có ý nghĩa cách mạng, phải qua một quá trình bàn cãi rất nhiều.

Điều đó cho thấy các Nho sĩ đầu thế kỉ XX đã có công rất lớn trong việc phổ cập chữ

quốc ngữ, “gây men cho phong trào học, đọc sách, báo chí quốc ngữ, từ đó về sau

94

càng đi vào chiều sâu và thâm nhập rộng rãi vào quần chúng” [111, tr.20]. Các hoạt

động khai trí ở các trường tân học không chỉ có dạy chữ quốc ngữ, mà ngay cả chữ

quốc ngữ cũng được thổi vào đó hồn dân tộc, vừa trang bị kiến thức vừa thức tỉnh lòng

yêu nước, khơi dậy ý thức, trách nhiệm của người dân đối với tổ quốc.

Vốn là những người tẩy chay quyết liệt chữ quốc ngữ, xem nó là “một toan tính

của chính quyền thuộc địa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam” [73, tr.50], đến

đầu thế kỉ XX, khi đã am hiểu được công dụng của quốc ngữ, chính các nhà Nho lại

chọn quốc ngữ làm phương tiện hữu hiệu để thức tỉnh dân tộc, đưa văn hóa dân tộc

tiếp cận và từng bước đi vào quỹ đạo hiện đại, biến việc dạy và học quốc ngữ từ “ý đồ

Pháp hóa dân thuộc địa” [73, tr.51] của người Pháp trở thành mục tiêu giáo hóa dân

chúng của những người xuất thân từ nền Nho học. Họ trở thành “những tay giúp ích

rất đắc lực cho thứ chữ ấy” [77, tr.130-131], từng bước đưa “tiếng Việt bước lên văn

đàn và án thư thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm” [92, tr.190], tìm cách “đánh bại chữ

Pháp, để chiếm địa vị độc tôn” [107, tr.126]. Sự nghiệp của các sĩ phu càng thuận lợi

hơn trong bối cảnh chính quyền Pháp cũng đang có chủ trương đưa quốc ngữ tham gia

vào công cuộc cải cách giáo dục ở Nam Kỳ, có điều dưới mục tiêu khác.

2.3.2.Chữ quốc ngữ trong các cải cách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ

Sau những thắng lợi quân sự trên đất Nam Kỳ, giáo dục là lĩnh vực được người

Pháp đặc biệt quan tâm: “Giáo dục là một công cụ chắc chắn và mạnh nhất trong tay

người đi chinh phục… Chúng ta phải làm cho họ tiêm nhiễm tư tưởng của chúng

ta…”[dẫn theo 111, tr.10]. Trong đó, việc loại bỏ chữ Hán để thay bằng những chữ

viết theo mẫu tự Latinh được quan tâm trước tiên. Theo Đô đốc Bonard: “Trường học

sẽ là cơ hội tốt để chúng ta đồng hóa toàn bộ một dân tộc bằng cách đưa ngay dân tộc

này vào hàng các quốc gia thuộc ngôn ngữ Âu châu bởi việc loại bỏ chữ Hán…” [dẫn

theo 102, tr.196]. Tuy nhiên, trước “một nền văn minh cổ trên hai nghìn năm như nền

văn minh này”[34, tr.14] thì quá trình dùng chữ quốc ngữ để thiết lập một nền giáo

dục mới ở Nam Kỳ không phải là việc làm dễ dàng, phải trải qua nhiều lần điều chỉnh,

cải cách về chương trình học, tổ chức.

Trong khi đó, ngay sau khi đánh chiếm ba tỉnh miền Đông, người Pháp liền phải

đối mặt với phong trào kháng chiến quy tụ toàn thể dân chúng Nam Kỳ, do các quan

95

lại và sĩ phu Nho học lãnh đạo. Trong bối cảnh hỗn loạn đó, không thể thi hành chính

sách đồng hóa thái quá, Đô đốc Bonard hy vọng vào sự hợp tác từ phía các nhà Nho.

Tuy nhiên, các nhà Nho đã “né tránh mọi sự tiếp xúc và trung thành với những mệnh

lệnh của nhà vua” [72, tr.65]. Trong nhận thức của người dân, mọi sự tiếp cận với

quân viễn chinh và hợp tác với chính quyền thực dân đều là hành vi phản quốc, một tội

lỗi không thể dung thứ. Tại các trường làng, chữ Hán và những lời dạy của Thánh hiền

vẫn được các nhà Nho dùng làm phương tiện nuôi dưỡng lòng yêu nước cho học trò;

chữ Hán vẫn là phương tiện lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, kháng cự lại

mọi chủ trương khai hóa, truyền bá văn minh phương Tây.

Do vậy, trong ánh mắt của chính quyền thực dân, nền Nho học và chữ Hán là

nguyên nhân của mọi bất ổn chính trị, là rào cản của mọi nhu cầu tiếp xúc với dân

chúng, là chướng ngại của mọi dự định truyền bá tôn giáo và văn minh, nhất thiết phải

bị loại bỏ. Để xóa bỏ trở ngại ấy, họ đặt hy vọng vào nền giáo dục và chữ quốc ngữ,

với mong muốn một sự ổn định về chính trị, “những nhân viên giàu năng lực” [93,

tr.33] và lòng trung thành cần thiết, sự giao tiếp trực tiếp với người bản xứ mà không

cần phải thông qua những thông ngôn. Đó cũng là mục đích của nền giáo dục có sử

dụng chữ quốc ngữ của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ.

Mục đích của nền giáo dục sử dụng chữ quốc ngữ như vậy là quá rõ ràng. Tuy

nhiên, đường lối, cách thức tiến hành như thế nào là cả một vấn đề còn gây tranh cãi,

chưa có được sự thống nhất. Mỗi tầng lớp từ thương nhân, giáo sĩ đến sĩ quan đều đưa

ra những quan điểm khác nhau xuất phát từ những quyền lợi riêng.

Với các thương nhân Pháp, mong muốn lớn nhất của họ là chấm dứt càng sớm

càng tốt tình trạng loạn lạc do chiến tranh gây nên để tập trung khai thác các nguồn lợi

kinh tế. Theo họ, tình trạng loạn lạc là do các sĩ phu Nho học cầm đầu. Do vậy, để

đánh bại vị trí của Nho học, trong Hội nghị giáo dục toàn Nam Kỳ đầu năm 1873, họ

đề nghị: “Nền giáo dục của chúng ta trước hết, trên hết là bằng tiếng Pháp…”[6,

tr.42].Để thực hiện quan điểm này, họ kiến nghị nhà cầm quyền cần in nhiều sách và

phát tận tay cho học sinh. Nội dung của sách không nên quá nặng về tuyên truyền mà

trước hết phải tạo sự hứng khởi nơi người đọc bằng các mẩu chuyện cười của Việt

Nam hay của Pháp rồi sau đó mới là những nội dung phục vụ chính trị, cứ lấy “văn

96

học đối lập với văn học; với chữ Hán lấy chữ Latinh chọi lại, lấy tư tưởng chọi lại với

tư tưởng” [6, tr.42-43]

Về phía các giáo sĩ, truyền giáo là mục đích chính. Do vậy, chữ Hán chính là kẻ

tử thù của họ và nhất quyết cho rằng đường lối đúng đắn của nền giáo dục phải là: xóa

bỏ nền Nho học, thiết lập các trường học dạy những hiểu biết thường thức bằng chữ

viết theo mẫu tự Latinh. Linh mục Louvet cho rằng nhà Nho “là những kẻ thù nguy

hiểm nhất của Gia-tô giáo và của nước Pháp” [102, tr.182]

Các sĩ quan có cách nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc và bình tĩnh hơn, đi sâu

vào tâm lý nhân dân. Theo Luro: không nên đóng cửa các trường dạy chữ Hán, cứ để

họ dạy như thường nhưng bắt buộc các thầy giáo dạy chữ Hán phải học chữ quốc ngữ

và dạy lại cho học trò; đồng thời phải dùng cả chữ quốc ngữ, chữ Hán để phổ biến

khoa học, làm cho nền văn minh của nước Pháp thâm nhập vào nhân dân; sau đó mới

phổ biến tiếng Pháp dựa vào lớp công chức quan lại mới và các nhà giàu, để nhân dân

thấy rằng, tiếng Pháp là cái cửa ngõ mà mọi người phải qua để đi tới con đường khoa

học. Sau khi được đào tạo, những người “cộng sự” phải vừa là Nho sĩ vừa là công

chức, vừa là thông dịch. Đó là phương pháp duy nhất để quần chúng hóa trường học

và thu hút người dân thuộc địa vào quỹ đạo văn minh, khoa học.

Không tán đồng cách duy trì chữ Hán của Luro, ý kiến của Philastre là phải thay

hoàn toàn chữ Hán bằng chữ quốc ngữ trên cơ sở vẫn dạy những nội dung như người

Việt Nam đã học từ trước: “Người ta sẽ không từ chối học chữ Latinh, nhất là tiếng An

Nam sẽ được đưa ra bằng bản dịch của một vài tác phẩm sơ đẳng và cổ điển Trung

Quốc. Nếu sau đó người ta cung cấp cho học sinh những sách viết bằng tiếng An Nam,

chứa đựng những tư tưởng mới đối với họ, họ sẽ tiếp tục theo học, chữ Hán sẽ mất một

phần uy thế và người An Nam sẽ bắt đầu viết tiếng nói của họ” [dẫn theo 6, tr.47]

Quan điểm về đường lối giáo duc của Luro và Philastre rất gần với chủ trương

của Bonard, tức là, dù xuất phát từ chính sách đồng hóa nhưng khi tình hình Nam Kỳ

còn nhiều bất ổn, thì khôn ngoan hơn hết trong đường lối cai trị là phải tỏ ra tôn trọng

các truyền thống văn hóa bản địa. Do vậy, chữ Hán và nền Nho học vẫn được duy trì

bên cạnh chữ quốc ngữ, theo Luro; hay ít ra dùng chữ quốc ngữ để biên soạn, nhưng

vẫn giữ nội dung của nền Nho học, theo đề nghị của Philastre. Điều đó cho thấy, để sử

97

dụng chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán trong giáo dục ở Nam Kỳ sao cho phù hợp, hiệu

quả, người Pháp phải cân nhắc hết sức cẩn trọng.

Mở trường đào tạo thông ngôn trở thành bước đầu tiên trong việc thực hiện mục

tiêu và đường lối giáo dục vừa nêu. Ngay sau khi hạ được Chí Hòa, ngày 21/9/1861,

Đô đốc Charner ký Nghị định thành lập trường Bá Đa Lộc để dạy tiếng Pháp cho

người Việt và dạy tiếng Việt cho người Pháp, nhằm mục đích chính là đào tạo thông

ngôn và những thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính và quân sự, “hơn là một

cơ sở giáo dục đúng nghĩa” [93, tr.48]. Chính quyền có ý định cử những người đã tốt

nghiệp trường Bá Đa Lộc về các làng để dạy chữ quốc ngữ cho trẻ em, nhưng vì số

lượng quá ít, chỉ đủ phục vụ trong quân đội nên chủ trương này chưa thực hiện được,

các làng vẫn tiếp tục học chữ Hán. “Đây là trường học đầu tiên đào tạo người Pháp nói

tiếng Việt” [85, tr.202]

Để thực hiện tuyên bố “người Pháp tôn trọng chữ nghĩa và những người có học

thức” [102, tr.181], Thống đốc Bonard, ngày 31/3/1863 đã ký Nghị định tái lập nền

học chính tại 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường). Nghị định này

không nhằm mục đích tổ chức một nền giáo dục mới ở Nam Kỳ. Hệ thống học quan

vẫn tồn tại và thực hiện chức trách như trước năm 1859, theo giáo dục Nho học của

nhà Nguyễn. Chỉ có một điểm mới duy nhất trong nội dung học tập là: phổ biến chữ

quốc ngữ Latinh. Để phổ biến chữ quốc ngữ Latinh, mỗi vị Giáo thọ sẽ có một viên

thông ngôn phụ tá… Tuy nhiên, do nội dung Nghị định không hề nhắc đến việc học

chữ Pháp, loại văn tự mà các giáo sĩ rất mực đề cao, lại duy trì hệ thống học quan do

các Nho sĩ đứng đầu nên Nghị định này đã bị phản đối ngay trong chính nội bộ của

đoàn quân viễn chinh và không thực hiện được.

Khác với Bonard, Đô đốc De La Geandière bày tỏ quan điểm loại bỏ chữ Hán

bằng những chữ viết theo mẫu tự Latinh một cách quyết liệt hơn: “Việc thay thế chữ

Hán bằng chữ viết theo mẫu tự Latinh, theo tôi, có lẽ là một trong các điều thích hợp

nhất nhằm giáng một đòn chí tử trên tinh thần duy lý Trung Hoa cũ kỹ… Việc phổ biến

các mẫu tự Latinh sẽ giải thoát chúng ta vĩnh viễn khỏi những kẻ nguy hiểm đó [nhà

Nho] và sẽ làm cho quan hệ của chúng ta với dân tộc ngoan ngoãn và dễ đồng hóa

này trở nên trực tiếp và chắc chắn hơn” [102, tr.199]. Với quan điểm ấy, ngày 16 – 7 –

98

1864, De La Grandière ban hành Nghị định tổ chức một số trường tiểu học ở các tỉnh

để dạy chữ quốc ngữ và dạy toán. Tuy nhiên, “nhà cầm quyền thuộc địa mở trường mà

không có sách giáo khoa cung ứng cho nhu cầu dạy và học” [22, tr.57]. Sách giáo khoa

chỉ có: 1 cuốn về các mẫu chữ quốc ngữ, 2 cuốn về hình học và số học sơ giản. Do

chưa kịp biên soạn, học sinh tạm thời dùng tờ Nguyệt san Thuộc địa hoặc tờ Gia Định

báo thay cho các sách tập đọc, là “cuốn sách duy nhất của các trường học đáng thương

hại của chúng ta [chính quyền Pháp]” [114, 108]. Bằng Nghị định này, người Pháp đã

loại chữ Hán ra khỏi nội dung học tập tại các trường do người Pháp tổ chức, mặc dù

vẫn chưa xây dựng được một chương trình học và một hệ thống tổ chức trường lớp

hoàn chỉnh để thay thế Nho học.

Đến khi chiếm xong toàn bộ Nam Kỳ (1867), đô đốc Lagrandière cho mở thêm ở

mỗi tỉnh lỵ một trường tiểu học do một số thông dịch viên làm thầy giáo. Chương trình

chỉ có học đọc, học viết chữ Quốc ngữ, giáo viên được trả mỗi ngày một franc và

những học sinh biết đọc, biết viết cũng được trả như vậy. Những người này được phép

trở về làng của mình mở trường dạy học. Giáo viên được chia làm hai bậc: bậc 1 là

những người có thể dịch tiếng Pháp ra tiếng Việt, mỗi năm được trả 60 franc và bậc 2

là những người có thể dịch tiếng Việt ra tiếng Pháp và làm 4 phép tính, mỗi năm 300

franc.

Đến thời đô đốc Ohier, năm 1869, một số trường được lần lượt mở ra ở Cần Thơ,

Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giuộc, “để dạy cho bọn tráng niên chữ

quốc ngữ và những bài vỡ lòng tiếng Pháp” [73, tr.46]

Sau 10 năm mở trường học, chính quyền Pháp đã tổ chức được hai loại trường

học dạy chữ quốc ngữ: Loại thứ nhất là trường Thông ngôn, dạy tiếng Pháp cho một số

người Việt và dạy tiếng Việt cho một số người Pháp nhằm đào tạo những thông dịch

viên; loại thứ hai là một số trường ở các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ và dạy Toán cho

người lớn và trẻ em, về sau được xếp vào loại trường tiểu học. Tuy nhiên, nhân dân

vẫn học chữ Hán mà ít người đến trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp để học.

Nguyên nhân của tình trạng này là do nhà cầm quyền chủ quan và thiếu chuẩn bị, nhất

là sách giáo khoa. Vì vậy, để sự nghiệp “chinh phục tinh thần” hiệu quả hơn, người

99

Pháp cần phải giải quyết vấn đề: mức độ thay thế chữ Hán bằng chữ viết theo mẫu tự

Latinh trong chương trình học mới như thế nào.

Đầu năm 1873, nhà cầm quyền Pháp tổ chức hội nghị giáo dục toàn Nam Kỳ, với

hy vọng tìm giải pháp cụ thể, định ra một đường lối giáo dục để đưa công tác giáo dục

lên những bước mới hơn. Cũng trong năm này, hàng loạt trường dạy chữ quốc ngữ và

một ít trường chữ Pháp được mở ra để thay thế cho trường dạy chữ Nho. Các trường

làng được khuyến khích dạy thêm chữ quốc ngữ.

Tuy nhiên, phải đến ngày 17/11/1874, khi Chuẩn Đô đốc – Thống đốc Krant ký

Nghị định tổ chức lại nền học chính Nam Kỳ thì nền giáo dục mới và chữ quốc ngữ

mới được tổ chức theo một quy chế cụ thể. Trong đó, Điều 9 và Điều 10 là dành riêng

cho chữ quốc ngữ và việc tổ chức các trường học quốc ngữ: [dẫn theo 29, tr.697-701]

Điều 9. Trường dạy chữ quốc ngữ Latinh do chính quyền thuộc địa lập tại xã

thôn nay bãi bỏ. Học sinh các trường đó nếu yêu cầu, sẽ được gửi tới học tại các

trường tiểu học mà chương trình học sẽ được ấn định.

Điều 10. Trường tiểu học sẽ được thiết lập tại mỗi lỵ sở địa hạt (sau là tỉnh),

nhưng nay tạm thời mới đặt ở những nơi: Sài Gòn, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc

Trăng. Tại các quận khác, trường dạy quốc ngữ Latinh ở xã thôn sẽ tập hợp chung vào

một trường ở lỵ sở và tiếp tục sinh hoạt theo lối cũ cho tới khi có lệnh mới.

Chương trình học cũng được quy định rõ ràng. Theo đó, tổng thời gian học là 6

năm, qua 2 cấp: Tiểu học (3 năm), Trung học (3 năm). Chương trình học không chỉ có

Toán và chữ quốc ngữ như Nghị định ngày 16/7/1864 mà đã bao gồm hệ thống phân

môn được quy định rõ ràng (Khái niệm tổng quát về lịch sử, Địa lý địa cương, Vật lý

sơ đẳng, Hóa học sơ đẳng, Vạn vật học, Kế toán, Hội họa). Chữ Hán, từ chỗ bị giáo sĩ

và một bộ phận sĩ quan phản đối dưới thời Bonard, bị loại bỏ dưới thời De La

Grandière, đã có được vị trí nhất định trong chương trình ở cả 2 cấp học. Tuy nhiên,

chữ Hán và chữ quốc ngữ chỉ được dạy ở cấp Tiểu học, làm luận ở cấp Trung học; ưu

thế trong lĩnh vực ngôn ngữ thuộc về chữ Pháp mà học sinh được học kĩ lưỡng trong

suốt thời gian học, không chỉ có đọc – viết, làm luận, mà chương trình trung học còn

có Sơ yếu về văn học Pháp.

100

Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, ở Nam Kỳ, tồn tại song hành hai hệ thống

giáo dục theo hai chương trình học khác nhau: trường học do nhà cầm quyền tổ chức

tại lỵ sở địa hạt (các tỉnh) và trường học do các thầy đồ lập ra theo mô hình truyền

thống ở các xã thôn. Chữ quốc ngữ có vị trí nhất định ở cả hai chương trình học này.

Tuy nhiên, nó chưa giải quyết thỏa đáng điều sai lầm nhất mà Luro đã chỉ ra: “đòi thay

thế triệt để, toàn bộ nền giáo dục của xứ này bằng việc học chữ Latinh” [6, tr.41]. Do

đó, tình trạng học sinh tại các trường do người Pháp tổ chức, theo Piquet, vẫn là:

“nhiều học sinh vẫn là những đứa trẻ nghèo khổ mà xã thôn phải thuê mướn cho đi

học” [29, tr.701]. Yêu cầu cải cách lại đặt ra cho nền giáo dục Nam Kỳ.

Ngày 17/3/1879, Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký nghị định cải tổ giáo dục, thay

thế bản Nghị định do Chuẩn Đô đốc Krant ban hành trước đó. Quy chế này tổ chức lại

hệ thống giáo dục và xây dựng lại chương trình học mới. Theo đó, nền giáo dục Nam

Kỳ được tổ chức theo hệ thống 3 cấp. Mỗi huyện đều có một trường cấp I. Nam Kỳ có

tất cả 20 trường cấp I, 6 trường cấp hai, trường Bá Đa Lộc sẽ dạy cả 3 cấp. So với quy

chế năm 1874, quy chế mới có sự hoàn chỉnh về khâu tổ chức và hợp lý trong cách

phân định cấp học với tổng thời gian học là 10 năm (tăng 4 năm), gồm 3 cấp: cấp I (3

năm), cấp II (3 năm), cấp III (4 năm). Chương trình học được thiết lập lại theo hướng

giản lược số môn học nhưng vẫn đảm bảo được tính toàn diện và thống nhất về nội

dung qua các cấp học. Về mặt chữ viết, chương trình học đã thể hiện sự chú ý đến

“tâm lý của một dân tộc vốn có nền văn minh lâu đời” [6, tr.49] khi chữ Hán vẫn được

dạy xuyên suốt trong 10 năm học, dù thời lượng không nhiều. Tuy nhiên, cũng như

Quy chế 1874, chữ Pháp vẫn giữ ưu thế tuyệt đối so với chữ Nho và chữ quốc ngữ.

Thời lượng học chữ Nho và chữ quốc ngữ, vốn đã rất ít, lại bị giảm từ 2 giờ/tuần ở cấp

II còn 1 giờ/tuần ở cấp III. Mặc dù vậy, “chữ quốc ngữ vẫn được dạy chính thức trong

môn tập đọc và viết tường thuật” [93, tr.42-43], đồng thời, việc dạy chữ quốc ngữ vẫn

rất được khuyến khích: “Các giáo viên dạy chữ Nho và tập cho học sinh các trường đó

làm quen với chữ quốc ngữ Latinh và một chút tiếng Pháp, có thể được thưởng, tiền

thưởng tùy theo số lượng và lực học của học trò do họ đào tạo” [29, tr.702].

Như đã nói, khi sử dụng chữ quốc ngữ trong nền giáo dục mới ở Nam Kỳ, người

Pháp muốn có được những nhân viên hành chính thông thạo tiếng bản xứ, truyền bá

101

văn minh phương Tây, loại bỏ sự tồn tại của chữ Hán và ảnh hưởng của tầng lớp Nho

sĩ trong dân chúng. Đối chiếu với mục đích ấy, nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ đã đáp

ứng được gần như tất cả, tuy ở từng vấn đề mức độ có khác nhau. Thông qua nội dung

học tập, học sinh đã bắt đầu tiếp cận được các tri thức khoa học của nền văn minh

phương Tây. Các trường học của thầy đồ tuy chính thức được thừa nhận trong văn bản

pháp quy và vẫn có đông đảo học sinh theo học, nhưng chữ Hán đang dần mất đi

những cơ sở để tồn tại khi chế độ khoa cử Nho học bị bãi bỏ ở miền Đông Nam Kỳ

sau khoa thi 1861 và ở miền Tây Nam Kỳ sau 1864.

Dù cho các trường chữ Hán vẫn hoạt động song song với các trường học của

người Pháp và mục đích “loại bỏ chữ Nho và ảnh hưởng của các sĩ phu, tách thầy đồ

ra khỏi nhân dân” [57, tr.114] của người Pháp chưa hoàn toàn thực hiện được, nhưng

rõ ràng, nền giáo dục Pháp đến cuối thế kỉ XIX đã được định hình và đang tiến dần

đến sự ổn định, hoàn chỉnh. Chữ quốc ngữ tuy còn chiếm vị trí khiêm tốn trong

chương trình học, nhưng với việc chế độ khoa cử bị bãi bỏ và cùng với “các biện pháp

nâng đỡ” [115, tr.19] kháctrong chính sách văn hóa của chính quyền thuộc địa, chữ

quốc ngữ đang ngày càng “tăng dần, tăng nhanh ưu thế” [115, tr.19], dần dần “chiếm

vị trí quan trọng trong nền giáo dục Pháp – Việt” [68, tr.38] để đi đến loại bỏ hoàn

toàn nền Nho học Nam Kỳ vào đầu thế kỉ XX.

*

Trong công cuộc truyền bá Phúc âm ở Nam Kỳ các thế kỉ XVI, XVII, các giáo sĩ

Kitô giáo đã vấp phải rào cản lớn về bất đồng ngôn ngữ. Latinh hóa tiếng Việt để soạn

sách, phổ biến kinh thánh là việc làm nhằm giải quyết bài toán ngôn ngữ, phục vụ cho

công cuộc truyền đạo, một “mục đích thực dụng” [40, tr.133] của giáo hội La Mã. Quá

trìnhnày trải qua khoảng ba thế kỉ với sự góp sức của nhiều nhà truyền giáo phương

Tây, từ những giáo sĩ Bồ Đào Nha, người Ý, cho đến người Pháp, có cả sự tham gia

của những người Việt. Tuy nhiên, vượt xa mục đích ban đầu của việc chế tác quốc

ngữ, các giáo sĩ Thừa sai và nhà cầm quyền Pháp đồng tình xem vấn đề cổ vũ học chữ

quốc ngữ là một biện pháp hữu hiệu để tiêu diệt các Nho sĩ, những người vừa đối

kháng với Thiên chúa giáo, vừa tiêu biểu cho tinh thần kháng chiến bất khuất của nhân

dân Nam Kỳ. Do vậy, từ năm 1862, chữ quốc ngữ trở thành một trong những vấn đề

102

thuộc chiến lược văn hóa của chính quyền Pháp. Được người Pháp trao cho cái ưu thế

trong hành chính, đào tạo nhân lực, trong báo chí, tuyền truyền cho sự khai hóa, đặc

biệt là trong giáo dục, chữ quốc ngữ nhanh chóng càng được phổ biến, trở thành một

cơ chế được áp đặt trên toàn cõi Nam Kỳ. Nhà cầm quyền ở Nam Kỳ trong lúc mở

trường dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy tiếng Việt cho người Pháp, mở trường

hậu bổ, trường thông ngôn thì cũng chú tâm mở trường sư phạm đào tạo thầy giáo chữ

quốc ngữ.

Với chiến lược đó, người Pháp tin rằng, sau vài ba năm hay nhiều nhất là mười

năm, người Việt ở Nam Kỳ sẽ bỏ hẳn chữ Hán, chữ Nôm và chỉ đua nhau học chữ

quốc ngữ. Khi ấy, người Pháp sẽ nắm trọn tư tưởng của người Việt, cắt đứt Nam Kỳ

khỏi truyền thống Viễn Đông, nhất là Trung Hoa. Tuy nhiên, không nhanh như dự tính

của người Pháp, chính sách phổ biến chữ quốc ngữ đã gặp nhiều chống đối và khó

khăn, có chống đối xuất phát từ đông đảo dân chúng, có chống đối từ phía các sĩ phu.

Dân chúng và sĩ phu chống Pháp nên cũng chống tất cả những chính sách mà người

Pháp đề ra. Trong bối cảnh Nam Kỳ vừa bị thực dân xâm chiếm thì thái độ chống đối

quốc ngữ của giới sĩ phu Nho học là đúng. Tuy nhiên, sau thất bại của hàng loạt cuộc

kháng chiến, các sĩ phu nhận ra rằng muốn chống Pháp thành công thì phải duy tân,

nâng cao dân trí, thức tỉnh tinh thần dân tộc. Nhận thấy chữ quốc ngữ là một phương

tiện hiệu quả để làm việc đó, các sĩ phu Nho học quay sang đấu tranh giành lấy quốc

ngữ về tay người Việt.

103

Chương 3.

VAI TRÒ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ

TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC VĂN HÓA – XÃ HỘI Ở NAM KỲ

Như đã đề cập ở chương I, văn hóa là một khái niệm đa nghĩa, đa tầng, mang nội

hàm rộng. Sự đa dạng đó bắt nguồn từ sự đa dạng trong cách thức tiếp cận. Trong

chương này, nội dung khái niệm văn hóa được tác giả luận văn nhìn nhận dưới góc độ

là một định nghĩa miêu tả, tức là liệt kê các thành tố của văn hóa. Những yếu tố như

“ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,

những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.

Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [60, tr.458]. Những loại hình

văn hóa mà tác giả luận văn nêu ra trong chương III bao gồm cả những loại hình văn

hóa cũ và những loại hình văn hóa mới nơi chữ quốc ngữ sẽ thể hiện rõ vai trò của

mình với tư cách là sản phẩm của mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây.

3.1. Giáo dục

Dưới tác động của chính sách cải cách bắt buộc từ chính quyền thực dân và tác

động từ phía nhân dân nhất là tầng lớp sĩ phu, học sinh với ý thức tiếp nhận, tiếp biến

văn minh, chữ quốc ngữ - một phương tiện ngôn ngữ hiện đại, không nhữngđã góp

phần xác lập được vị trí của nền giáo dục mới ở cuối thế kỉ XIX, mà sang đầu thế kỉ

XX chữ quốc ngữ còn tiếp tục góp phần làm cho giáo dục được củng cố, phát triển, đổi

mới, đi đến hoàn chỉnh, và cuối cùng thay thế hoàn toàn Nho học ở đầu thế kỉ XX.

Để tạo được những chuyển biến vừa nêu, chữ quốc ngữ đã có một quá trình tham

gia và đóng góp vào hai công cuộc cải cách giáo dục của chính quyền Pháp.Bởi theo

người Pháp đó là một phương tiện hữu dụng, “việc dạy cho người bản xứ đọc và viết

chữ quốc ngữ đối với chúng ta là một lợi ích lớn, công chức, thương gia của chúng ta

có thể học nó rất dễ và những mối liên hệ giữa chúng ta với người bản xứ cũng sẽ trở

nên rất thuận tiện” [dẫn theo 106, tr.196]. Vai trò của quốc ngữ đối với giáo dục thể

hiện qua mục đích chung của cuộc cải cách giáo dục: “chuyển giáo dục truyền thống

thành giáo dục kiểu mới, thúc đẩy nền giáo dục bản địa theo các chương trình và

104

phương pháp giáo dục có tên Pháp – Việt, chủ trương tập trung hóa và thống nhất nền

giáo dục với những chương trình học giống nhau trong từng xứ” [32, tr.61]

Năm 1903, Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ngay nghị định thành lập Hội

đồng Cải thiện Giáo dục bản xứ và 3 năm sau (1906), Hội đồng này ra một nghị định

công bố nội dung cải cách với chủ trương chính là:“dân bản xứ bắt buộc phải học chữ

quốc ngữ tại các trường và chỉ những phần tử thông minh nhất mới lên học những lớp

cao đẳng tiểu học…” [3,tr.213-214]. Chủ trương này được áp dụng cho toàn hệ thống

giáo dục.

Đối với hệ thống trường Pháp – Việt, chương trình học hầu hết bằng tiếng Pháp,

tiếng Việt và chữ Hán vẫn chỉ chiếm một tỉ lệ rất thấp với các môn: Quốc ngữ, Chính

tả, Luận, Tập dịch Việt – Pháp, Học thuộc lòng, Chữ Hán. Chữ Hán chỉ mang nội

dung luân lý, không dạy khoa học bằng loại chữ này. Chương trình tiếng Việt và tiếng Hán đã ít, yêu cầu lại thấp. Lớp nhất (là cuối cấp tiểu học16) mà học sinh chỉ cần đọc

trôi chảy và đúng, còn thầy giáo cũng chỉ cần giảng cho học sinh hiểu bài bằng cách

cắt nghĩa chữ khó và tóm tắt đại ý của bài.Mặc dù chữ quốc ngữ và chữ Hán chiếm

thời lượng không nhiều nhưng đã có một vị trí ổn định (từ 2 – 3 giờ/ tuần) trong hệ

thống trường Pháp – Việt.

Nếu cải cách của hệ thống trường Pháp – Việt chủ yếu nhằm hoàn chỉnh thêm

một bước chương trình học thì trong khi đó việc cải cách trong hệ thống trường chữ

Hán lại nhằm “làm thay đổi khá nhiều cơ cấu của nền giáo dục cổ truyền này” [6,

tr.68]. Chữ quốc ngữ được dùng nhiều nhất nhằm mục đích loại bỏ chữ Hán. Ở bậc ấu

học, việc học chữ Hán không bắt buộc, nhưng chữ Pháp và chữ quốc ngữ thì bắt buộc.

Bậc tiểu học (học trong 2 năm),mở ở các phủ huyện do các giáo thụ, huấn đạo chịu

trách nhiệm, chương trình dạy cũng gồm các môn của ba thứ chữ, nhưng quốc ngữ vẫn

chiếm nhiều giờ hơn: 15 giờ 30 phút mỗi tuần. Chữ Hán chiếm tỉ lệ quan trọng sau chữ

quốc ngữ, mỗi tuần 10 giờ. Chữ Pháp tuy có ít hơn hai loại chữ trên chút đỉnh nhưng

mỗi tuần vẫn chiếm đến gần 10 giờ. Bậc trung học, chữ quốc ngữ và chữ Pháp được

dạy nhiều hơn chữ Hán, 16 giờ mỗi tuần dành cho quốc ngữ và 12 giờ mỗi tuần dành 16 Nền giáo dục Pháp – Việt có 2 bậc: Tiểu học và Trung học. Tiểu học có 4 lớp: Dự bị (Préparatoire), Sơ học (Élementaire), Trung đẳng (Moyen), Cao đẳng (Supérieur). Trung học được phân định thành 2 bộ phận: giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp

105

cho chữ Pháp. Chữ Hán mỗi tuần chỉ có 7 giờnhưng chương trình lại rất nặng, ngoài

các sách Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ còn phải tập làm phiến, sớ, tấu.

Nghị định ngày 16 – 11 – 1906 cũng quy định nội dung kỳ thi Hương, sẽ gồm 4

bài: bài thi bằng chữ Hán; bài thi bằng chữ quốc ngữ trình bày 3 vấn đề: văn học, địa

lý, khoa học; bài thi bằng tiếng Pháp có 2 vấn đề: dịch từ chữ Pháp sang chữ Hán và từ

chữ quốc ngữ sang chữ Pháp; một bài luận tóm tắt gồm 3 vấn đề: bài luận chữ Hán, bài

luận chữ quốc ngữ và một bài dịch từ chữ Hán sang chữ Pháp. Theo số điểm mà thí

sinh đạt được sẽ định cử nhân hay tú tài [6, tr.71]

Trong cuộc cải cách giáo dục này, Hội đồng cải cách giáo dục cũng đưa ra dự

định trong một thời gian ngắn có thể biên soạn xong một số sách bằng quốc ngữ và

chữ Hán. Vì vậy, một số cuốn sách quốc ngữ đã ra đời như: Ấu học phép dạy; Cai trị

lễ pháp; Nông học tập đọc; Thực vật, người và động vật; Vô cơ vật loại; Toán pháp

lược học; Đông Dương địa dư… Với định hướng như trên thì nội dung giảng dạy chữ

quốc ngữ và chữ Pháp trong hệ thống trường chữ Hán chỉ tập trung học nhiều về luật

pháp, đơn từ, phong tục, đó là “những môn “đầu vị” cho việc cai trị ở phủ, huyện” [6,

tr.79]. Trong kì thi Hội, thí sinh vẫn phải trình bày những vấn đề “kinh bang tế thế”

nhưng phải làm bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ, vốn là những thứ chữ chưa quen

thuộc nên còn gây ra nhiều khó khăn.

Những Nghị định nêu trên đã làm thay đổi nền giáo dục Nho học ở cả hệ thống tổ

chức lẫn chương trình học. Chữ quốc ngữ được dùng để dạy những nội dung thuộc về

tri thức khoa học của nền văn minh phương Tây ở cả 3 bậc học, gần với nội dung học

tập trong các trường Pháp – Việt.

Mặc dù chưa triệt để nhưng cải cách giáo dục giai đoạn 1886 – 1916 ở một mức

độ nhất định mang tính toàn diện hơn trước. Việc học chữ quốc ngữ ở giai đoạn trước

chỉ dừng lại ở một vài quy chế mang tính chất từng phần thì đến giai đoạn này hệ

thống lại cụ thể hơn và bổ sung một số điểm phù hợp với tình hình hơn. Từ đây, nền

giáo dục thực dân đã xâm nhập mạnh mẽ hơn vào nền giáo dục phong kiến cổ truyền,

tạo điều kiện để xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục cũ này trong cuộc cải cách lần thứ hai.

Vốn dĩ sự tồn tại song song hai nền giáo dục là một việc bất đắc dĩ của chính

quyền thực dân. Vì vậy, sớm muộn chính quyền Pháp cũng xóa bỏ giáo dục cũ khi đã

106

đủ điều kiện. Bấy giờ, người Pháp đang cần một lực lượng công nhân và nhân viên có

kĩ thuật, có trình độ chuyên môn. Họ thấy không thể tiếp tục duy trì một nền giáo dục

nửa cũ, nửa mới, “cựu học không đầy, tân học cũng mỏng” [6, tr.81], không thể tiếp

tục chấp nhận sự khác biệt về giáo dục ở Nam Kỳ và Bắc – Trung Kỳ. Cuối cùng,

người Pháp quyết định bãi bỏ nền giáo dục “bản xứ”. Năm 1915, vua Duy Tân ra chỉ

dụ bãi bỏ các khoa thi Nho học ở Bắc Kỳ. Năm 1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ

các khoa thi này ở Trung Kỳ. Đến ngày 14-6-1919, Khải Định ký Dụ bãi bỏ tất cả các

trường học chữ Hán cùng với hệ thống quản lý từ triều đình đến cơ sở. Đây không chỉ

là sự thất thế của một thứ chữ viết, mà quan trọng hơn chính là “nước Việt Nam đi từ

vùng ảnh hưởng Hán (sinophonie) vào vùng ảnh hưởng Pháp (francophonie)” [73,

tr.14]. Từ nay, nền giáo dục ở Việt Nam sẽ do nhà cầm quyền Pháp hoàn toàn chỉ đạo

và quản lý. Nền giáo dục phong kiến vốn đã suy tàn và sống lay lắt đến đây bị xóa bỏ

hoàn toàn, nền giáo dục mới được xác lập, giáo dục Pháp – Việt. Chữ quốc ngữ từ đây

bước lên hàng văn tự chính thức, một thuận lợi để đẩy nhanh quá trình du nhập của

văn minh phương Tây.

Toàn bộ nền giáo dục chia làm 3 cấp: Đệ nhất cấp (tiểu học17), Đệ nhị cấp (trung

học, gồm 2 loại: cao đẳng tiểu học – 4 năm và trung học – 2 năm) và Đệ tam cấp (cao

đẳng hay đại học). Ngoài ra, còn có các trường thực nghiệp, tức là các trường dạy nghề

tương ứng với bậc tiểu học và trung học.

Về chương trình học, ngày 21-12-1917, Toàn quyền Sarraut ký ban hành bộ

“Học chính tổng quy”. Đây là “một pháp chế giáo dục nhấn mạnh lên địa vị quan trọng

của Pháp ngữ; chính phủ bảo hộ muốn áp dụng một chính sách khứ cựu đồ tân, bằng

cách phổ biến việc giảng dạy Pháp ngữ ngay từ bậc sơ đẳng tiểu học và đem vào nền

giáo dục các phương pháp và khoa học Tây dương” [3, tr.216].Tuy nhiên, kinh nghiệm

dưới thời của toàn quyền Paul Beau cho thấy việc học tiếng Pháp ngay từ đầu sẽ gặp

khó khăn nếu việc học chữquốc ngữ của học sinh ở bậc tiểu học vẫn tiếp tục bị hạn

chế. Do đó, với việc nhấn mạnh địa vị của chữ Pháp, bộ “Học chính tổng quy” đã gây

ra một luồng dư luận xin xét lại vấn đề dạy chữ quốc ngữ ở bậc tiểu học.Giới trí thức 17 Bậc Tiểu học có 2 loại: Tiểu học bị thể (école primaire de plein exercices) và Sơ đẳng tiểu học (école élémentaire). Tiểu học bị thể gồm 5 lớp: đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, lớp nhì và lớp nhất. Sơ đẳng tiểu học là những trường chỉ có 2 hoặc 3 lớp dưới: đồng ấu, dự bị, sơ đẳng

107

đương thời cho rằng vấn đề dạy chữ quốc ngữ có liên quan mật thiết với dạy chữ Pháp.

Đó là “hai công cụ rất cơ bản để giải quyết nạn ngôn ngữ bất đồng” [73, tr.236]. Việc

học chữ quốc ngữ là bước đầu để học chữ Pháp, giúp cho việc học tiếng Pháp được dễ

dàng hơn, Trung Bắc Tân Văn, số 202 năm 1916: “người An Nam muốn học chữ Pháp

cho đến nơi trước hết phải thông hiểu tiếng nước mình đã” [dẫn theo 6, tr.88]. Giám

mục Puginier cho rằng việc cần làm kế tiếp sau khi đã “Gia Tô giáo hóa cả xứ” là: phế

bỏ chữ Nho và thay thế lúc đầu bằng tiếng Việt Nam viết theo kiểu người Âu, gọi là

Quốc ngữ, rồi sau đó bằng tiếng Pháp [102, tr.442-443]. Hơn nữa, “học tiếng Pháp,

nhớ được tiếng Pháp đã là khó rồi, nhất là những tiếng trừu tượng, phần nhiều xưa

nay trong tiếng An Nam không có bao giờ thì lại càng khó lắm. Trước khi học đến

những tiếng ấy cho được vỡ nghĩa, cho nhớ được ta hãy nên dùng cái tiếng thường mẹ

ru vú hát của đứa trẻ mà dạy cho nó hiểu qua loa mấy điều cốt yếu thì đến khi học đến

chữ Tây nó mới hiểu được rõ nghĩa” [dẫn theo 6, tr.90]

Nguyễn Khắc Khiêm Bàn về Vấn đề việc học nước ta bây giờtrên Nam Phong số

45 năm 1921 đã viết rằng: “Phải có cái bằng tiểu học về quốc ngữ để làm cách giáo

dục có cái tư cách quốc dân đã, không phải là bắt đầu đi học chữ Pháp ngay được...”

[dẫn theo 73, tr.69]. Trong Tập kỷ yếu của Hội Khai trí Tiến đức cũng có đoạn nói:

“Cứ như thế thì sự học ở các trường sơ học (tức là trường Pháp - Việt) của Chính phủ

bây giờ không bao giờ đạt được cái mục đích ấy: học trò trong mấy năm ở nhà trường

chỉ nhồi óc bằng những tiếng Tây mập mờ không hiểu rõ, còn nghĩa lý không biết một

tí gì cả, thậm chí đối với xã hội đã mang tiếng là người ngây ngô nhố nhăng. Nay

muốn trừ sự hại đó thời phải xin Chính phủ thay đổi hẳn cái học chế về bậc sơ học,

lấy chữ quốc ngữ làm chính, chữ Pháp làm chữ phụ và tốt nghiệp thời thi một cái bằng

“tiểu học tốt nghiệp bằng quốc ngữ”, gọi là bằng khoá sinh” [dẫn theo 73, tr.70]

Tiếp thu những ý kiến phản hồi trên, ngay từ thông tri đề ngày 20-3-1918, Toàn

quyền Sarraut đã nói: “tiếng Pháp bắt đầu dạy từ lớp ba, nghĩa là sau khi học trò đã

đọc thông thạo tiếng mẹ đẻ” [dẫn theo 6, tr.236], tức là chỉ những trường Sơ đẳng tiểu

họcmới dạy hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ, còn các trường tiểu học bị thể thì chỉ hai

lớp dưới học bằng quốc ngữ (lớp đồng ấu và lớp dự bị), từ lớp ba trở lên phải dùng

hoàn toàn tiếng Pháp.

108

Từ đó, ở các trường sơ học, chương trình dạy hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ,

nhưng trong các môn như luân lý, sử ký, địa dư, quốc văn… đều có những bài nói về

“Công ơn người Pháp sang mở mang và bảo hộ xứ ta”, “Phải trung thành và biết ơn

Đại Pháp”, “Khai hóa có Đại Pháp, văn minh mở Lạc Hồng”… Như vậy vấn đề đã rõ

ràng. Việc dạy chữ quốc ngữ phải được thực hiện ở những lớp đầu tiên của bậc tiểu

học, trước khi học tiếng Pháp, nhưng phải đảm bảo mục đích là hướng vào những nội

dung phục vụ cho lợi ích của người Pháp. Tiếng Việt được nhà cầm quyền gán cho vai

trò phải là “cỗ xe dùng để chở tư tưởng Pháp, tất cả những khái niệm mà học sinh cần

phải có về những bước tiến đã được thực hiện trên đất nước của họ từ khi người Pháp

sang cai trị, nói lên đầy đủ về hòa bình, an ninh, về sự khai thác những tài nguyên

thiên nhiên, về sự phát triển giáo dục, y tế, tóm lại là sự nghiệp người Pháp ở Đông

Dương” [dẫn theo 6, tr.89].

Đến ngày 19 – 9 - 1924, Toàn Quyền Đông Dương Merlin ra một nghị định

mạnh tay hơn cả Sarraut, đó là một chương trình “phát triển giáo dục theo chiều

ngang” [117, tr.43]. Merlin đã sửa đổi lại ba điều 134, 135 và 136 trong Học chính

Tổng quy của Sarraut, bãi bỏ quy định học tiếng Pháp từ lớp thứ ba (lớp sơ đẳng), chỉ

bắt buộc dạy ở hai lớp nhì và lớp nhất, đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở ba lớp đầu cấp tiểu

học: “trong ba lớp dưới tiểu học, bất phân trường nhà quê hay trường kẻ chợ, trường

yếu lược hay trường kiêm bị, từ nay trở đi đều phải dạy bằng tiếng An Nam cả, học hết

ba lớp ấy phải thi lấy một cái bằng tức như bằng “tuyển sinh” năm xưa, học trò nào

có bằng ấy mới được lên lớp nhì, lớp nhất và ra thi “tiểu học tốt nghiệp” [dẫn theo 73,

tr.71]. Đồng thời, lập ra bằng Bản xứSơ học yếu lược(Certificat d’Études élémentaires

indigèns). Chương trình và thể thức thi bằng này được quy định như sau: Bài thi bắt

buộc được thực hiện bằng tiếng Việt, có 2 phần: viết và vấn đáp. Bài thi viết gồm: 1

bài chính tả dễ, từ 8 đến 10 dòng, có câu hỏi; 1 bài luận dễ (tả cảnh, tự sự, viết thư…);

2 bài tính đố. Bài thi vấn đáp gồm: Đọc một bài quốc ngữ dễ, có kèm câu hỏi xem có

hiểu và biết nghĩa của từ không; Hỏi về luân lý, sử ký, địa dư; Hỏi về tính nhẩm và

những điều thường thức. Bài thi tự nguyện được thực hiện bằng tiếng Pháp, cũng có 2

phần: viết và vấn đáp. Nếu được điểm trung bình (10 điểm cho 2 bài) thì trong bằng

Sơ học yếu lược sẽ có thêm dòng chữ “biết tiếng Pháp”, là điều kiện cần để dự học lớp

109

Trung đẳng (Moyen) [32, tr.158-159]. Như vậy, sau gần 3 thế kỉ, kể từ khi cuốn Từ

điển Việt – Bồ - La của Alexandre Rhodes ra đời đến khi bãi bỏ các khoa thi Nho học,

đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở 3 năm đầu cấp tiểu học, “người Việt mới thật sự đoạn

tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ. Đây

quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao” [8, tr.30]

Năm 1926, Toàn quyền Đông Dương Varenne thành lập trường Sơ học hương thôn (tên khác: Sơ học bản xứ)18, tương đương với trường Sơ học Pháp – Việt và các

lớp Sơ học của trường Tiểu học Pháp – Việt toàn cấp. Chương trình học gồm các môn

Luân lý, Thể dục, Đọc, Viết, Lịch sử, Địa lý, Làm tính, Vẽ, Thủ công được dạy bằng

tiếng Việt, tiếng Pháp là ngôn ngữ không bắt buộc.

Như vậy “từ tiếng Việt dưới dạng chữ Nôm là một bà con nghèo đối với chữ Hán

đến tiếng Việt qua chữ quốc ngữ là tiếng nói của thứ dân, tiếng Việt bây giờ tiến được

một bước đáng kể, trở thành ngôn ngữ giáo dục ở cấp tiểu học, một địa vị hẳn là còn

khiêm tốn nhưng không kém phần quan trọng… cái bằng Sơ học yếu lược đánh dấu sự

thắng lợi lớn của tiếng Việt trước sự chèn ép lần lượt của chữ Hán và của tiếng Pháp”

[73, tr.71]

Việc chữ quốc ngữ trở thành ngôn ngữ giáo dục ở bậc tiểu học đã dẫn đến sự ra

đời của những bộ sách giáo khoa đầu tiên dạy tiếng Việt ở ba năm đầu cấp tiểu học.

Đầu tiên là cuốn Luân lý giáo khoa thư (10 – 1925). Đến năm 1927, có thêm các cuốn

như: Tập đọc, Toán pháp, Cách trí, Địa dư, Sử ký… Quan trọng nhất là tập sách Quốc

văn Giáo khoa Thư (1941), thuộc bộ Việt Nam Tiểu học Tùng thư.

Sách Quốc văn Giáo khoa Thư gồm ba tập, dùng cho lớp đồng ấu (tập I), lớp dự

bị (tập II), lớp sơ đẳng (tập III). Quốc Văn Giáo Khoa Thư toàn tập là một thành công

lớn trong việc bước đầu đưa quốc ngữ trở thành ngôn ngữ trong học đường.Câu văn

trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư “ngắn gọn, trong sáng, chấm phết đúng chỗ, thuần

Việt, ít bị những thành ngữ Hán thêm vào làm cho nặng nề. Ngôn ngữ trong Quốc Văn

Giáo Khoa Thư tuy là một ngôn ngữ bình dị nhưng là một ngôn ngữ viết, với rất ít

18 Danh xưng của loại trường này là: Trường Phổ cập Giáo dục. Ở Nam Kỳ, loại trường này chỉ mở cho những làng chưa đủ điều kiện mở trường.

đoạn đối thoại” [73, tr.75-76]. Những bài ca dao được đưa vào Quốc Văn Giáo Khoa

110

Thưđể cho con trẻ nằm lòng những tiếng nói mộc mạc nhưng không kém phần thi thơ

trong dòng văn học dân gian tiếng Việt. Gợi ra từ Quốc Văn Giáo Khoa Thư hình ảnh

một nước Việt Nam nông nghiệp, một xã hội Việt Nam nông thôn, thành thị hoàn toàn

vắng bóng. Mùa cấy, Mùa gặt, Làm ruộng, Công việc ngoài đồng, Cánh đồng nhà quê,

Cảnh mùa xuân, Trường học làng tôi, Cây tre, Chim hoàng anh, Con gà trống, Chim

chèo bẻo, Con cóc… là những chủ đề dùng để xây dựng các bài tập đọc, gây vốn từ

căn bản cho con trẻ. Gia đình với những bổn phận và giá trị truyền thống như Thờ

cúng tổ tiên, Yêu mến cha mẹ, Giúp đỡ cha mẹ, Đi thưa về trình, Thăm nom cha mẹ,

Anh em như thể tay chân, Thờ mẹ kinh cha… chiếm một vị trí khá quan trọng trong

chương trình quốc văn đầu năm. Học trò lớp đồng ấu cũng bắt đầu học môn Vệ sinh

qua những bài nói về Vận động thân thể, Nhổ bậy, Giấc ngủ, Nước bẩn, Ăn uống điều

độ… Đây là những đề tài mới lạ thời bấy giờ. Nhìn chung, các bài đọc trong Quốc Văn

Giáo Khoa Thư được viết bằng “những câu văn ngắn gọn, trong sáng, chấm phết đúng

chỗ, dễ ăn sâu vào cái óc còn non của đứa trẻ mới cắp sách đến trường, mở ra một thế

giới sinh hoạt hằng ngày mà lằn ranh giữa học đường và gia đình nhòa đi, cảnh vật và

con người cũng hòa hợp” [103, tr.185]. Bài Đi học phải đúng giờ, bài số 1 trong Quốc

Văn Giáo Khoa Thư có câu:

“Xuân đi học coi người hớn hở,

Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng…”[dẫn theo 103, tr.188]

Qua nhiều lần thay đổi, nhất là với cải cách giáo dục lần thứ hai, nhà cầm quyền

Pháp đã làm được hai việc lớn:một là, xóa bỏ nền giáo dục phong kiến, “một việc làm

cần thiết và phù hợp với sự phát triển của xã hội” [6, tr.115]; hai là, củng cố, mở rộng

nền giáo dục mới, một nền giáo dục thống nhất cho cả ba kỳ về nội dung, tổ chức,

phương pháp giảng dạy. Ở Nam Kỳ, “thời đại lều chõng chấm dứt” [22, tr.87], văn

hóa, giáo dục Pháp đang dần được xác lập vững chắc.

Giáo dục là lĩnh vực chịu ảnh hưởng rõ nhất của mối quan hệ văn hóa giữa Nam

Kỳ với phương Tây, chủ yếu là văn hóa Pháp thông qua kênh ngôn ngữ là chữ quốc

ngữ. Để xây dựng được một nền giáo dục mới “phục vụ cho sự nghiệp thống trị, mang

đậm tính thực dân” [106, tr.185], thực dân Pháp trước hết phải khắc phục được sự bất

đồng về ngôn ngữ, phải có một phương tiện để giải quyết vấn đề bất đồng ngôn ngữ.

111

Chính quyền thuộc địa đã tìm thấy ở chữ quốc ngữ một phương tiện vừa tiện lợi, hiệu

quả, vừa có sức thuyết phục lại ít tốn kém. Chữ quốc ngữ vì thế đóng vai trò là một

phương tiện ngôn ngữ mới, phương tiện ngôn ngữ chính thức cho ngành giáo dục, thay

thế cho chữ Hán, chữ Nôm, đồng thời đánh dấu sự suy tàn của giáo dục Nho học.

Chữ quốc ngữ mặc dù được sử dụng trong một nền giáo dục thuộc địa, chuyển tải

những nội dung ca ngợi công ơn “khai hóa” của người Pháp. Nhưng, trái với mong

muốn của chính quyền thực dân, phương tiện ngôn ngữ giáo dục mới thực sự đã trở

thành công cụ chuyển tải văn minh phương Tây, văn minh thế giới đến với một bộ

phận dân chúng Việt Nam, là giới học sinh, sinh viên của hệ thống giáo dục mới, và

một bộ phận trong số họ đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ nền văn minh phương

Tây là cơ sở cho hoạt động yêu nước và cách mạng…Tác dụng tích cực đó còn thể

hiện ở việc số người biết chữ tăng lên, trình độ dân trí của quần chúng dần được cải

thiện, nhiều môn học mới được đưa vào nhà trường, trong đó có các môn khoa học,

tầng lớp trí thức tân học xuất hiện ngày càng nhiều, có điều kiện tiếp thu thành tựu

khoa học, thành tựu văn minh phương Tây và những tư tưởng tiến bộ góp phần khơi

dậy ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước…Tất cả những kiến thức mới mẻ đó được phổ

cập đến quần chúng một cách dễ dàng, nhanh chóng là nhờ vào phương tiện ngôn ngữ

mới của giáo dục, chữ quốc ngữ.Đó là một kết quả “vượt lên hơn hẳn nền giáo dục

Nho giáo, đã làm cho bộ mặt xã hội ta thay đổi theo hướng đi lên” [6, tr.235]

3.2. Báo chí

Báo chí là một trong những sản phẩm đầu tiên của văn minh phương Tây ở Việt

Nam, ra đời khi người Pháp sang thiết lập chế độ thuộc địa trên đất Nam Kỳ (1862).

Chính quyền thực dân xem báo chí là “một loại vũ khí không kém phần lợi hại” [47,

tr.11] trong công cuộc áp đặt văn hóa phương Tây lên vùng đất Nam Kỳ, là phương

tiện thông tin giữa nhà cầm quyền với sĩ quan, binh lính Pháp, nhân viên dân sự cùng

dân bản xứ. Năm 1861, khi nhậm chức Thống đốc đầu tiên ở Nam Kỳ, Đô đốc Bonard

đã cho ra đời ngay tờ báo đầu tiên bằng tiếng Pháp, tờ Le Bulletin Officiel de l’

Expédition de la Cochinchine (Nam Kỳ Viễn chinh Công báo) và một tờ báo Hán -

Việt Le Bulletin des Communes (Xã thôn Công báo). Tuy nhiên, những tờ báo tiếng

Pháp phần lớn chỉ đến được người Pháp và một số người bản xứ biết tiếng Pháp, làm

112

công chức cho Pháp, không thể tác động trực tiếp đến đông đảo người dân bản xứ. Tờ

báo Hán - Việt thì chỉ có quan lại nhà Nguyễn và một số ít trí thức Nho học mới đọc

được.

Muốn tác động trực tiếp đến đông đảo người dân Việt Nam, thực dân Pháp phải

có những tờ báo tiếng Việt, tức báo in bằng chữ quốc ngữ. Với sự hoàn chỉnh về căn

bản sau 300 năm chế tác và khả năng đi vào đời sống, không ai khác, chữ quốc ngữ,

“một thứ chữ dễ đọc, dễ viết đã được vun quén phía sau các cánh cửa nhà chung” [46,

tr.63], sẽ là phương tiện ngôn ngữ thích hợp nhất để người Pháp mở mang báo chí: vừa

thích hợp cho âm mưu đánh bạt chữ Nho, mở mang giáo dục, truyền bá học thuật và tư

tưởng Pháp; lại vừa thích hợp để phổ biến những thông tư, chỉ thị, nghị định của chính

quyền Pháp đến mọi tầng lớp xã hội. Hơn nữa, người Pháp còn đang chân ướt chân ráo

ở miền Đông, để thực hiện âm mưu nuốt luôn ba tỉnh còn lại và ôm trọn cả Đông

Dương, người Pháp rất cần một số lượng lớn những quân nhân Pháp biết nói tiếng bản

xứ và những người bản xứ cộng tác để “yên dân”, hiểu được chính sách của Pháp,

đồng thời lôi kéo họ về phía mình. Bấy giờ, giới cựu học lẫn tân học người Việt cũng

nhận thấy những thuận lợi mà chính quyền thuộc địa đang tạo ra cho chữ quốc ngữ và

tìm cách đưa tiếng Việt lên mặt báo và trang sách.

Trước bối cảnh ấy, ngày 15 – 4 – 1865, chính quyền thuộc địa quyết định cho

xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Việt Nam: Gia Định báo(Journal of Gia Định)–

“một tờ báo “mẹ” của các tờ báo hiện nay” [122, tr.59], do Ernest Potteau, một người

viết chữ quốc ngữ không kém gì người Việt, làm Chánh tổng tài (Giám đốc hoặc chủ

nhiệm ngày nay). Thoạt đầu, báo ra mỗi tháng một số vào ngày 15 hàng tháng, sau mỗi

tháng ra 2 số vào ngày 1 và 15. Đến ngày 15 – 6 – 1880 (số 13) thì trở thành tuần báo.

Việc xuất bản Gia Định báo diễn ra giữa lúc các cuộc kháng chiến chống Pháp của dân

chúng Nam Kỳ vẫn nổ ra liên tục ở khắp nơi, nổi bật là cuộc kháng chiến của cha con

Trương Định, Trương Quyền, càng cho thấy quyết tâm của người Pháp muốn dùng

mọi cách để “thu phục” lòng dân, xem Gia Định báo là “tượng trưng cho tinh túy của

các nỗ lực của Pháp nhằm thực hiện một sứ mệnh khai hóa” [126, tr.92]. Tuy nhiên, họ

đã vô tình tạo ra một hiện tượng cực kỳ mới mẻ trong đời sống văn hoá Việt Nam.

113

Từ khi ra đời, Gia Định báo và chữ quốc ngữ luôn luôn song hành, hỗ trợ cho

nhau trên con đường chuyển tải văn hóa phương Tây vào Nam Kỳ. Quốc ngữ với sự

hoàn chỉnh và tính phổ biến đã trở thành điều kiện, là phương tiện ngôn ngữ cho Gia

Định báo ra đời và phát triển phong phú, rộng rãi với nhiều thể loại bài đăng. Ngược

lại, Gia Định báo chính là công cụ phổ biến rộng rãi quốc ngữ, là môi trường để chữ

quốc ngữ được gọt giũa, hoàn thiện và tự do thể hiện mọi khả năng diễn đạt của mình.

Trong thư đề ngày 9 – 5 – 1865 của ông G. Rose gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa

Pháp đã khẳng định mục tiêu của Gia Định báo: “Tờ báo này nhằm phổ biến trong giới

dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về

những vấn đề mới có liên quan đến văn hoá và những tiến bộ về ngành canh nông... sẽ

là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của

chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi” [113,

tr.55]. Rõ ràng, ngay từ đầu, nội dung của Gia Định báo không chỉ bị giới hạn trong

việc đăng tải các thông báo, nghị định của chính quyền như các công trình nghiên cứu

trước đây đã khẳng định, mà nó còn tiếp cận với cuộc sống bằng những kiến thức “liên

quan đến văn hóa” và “ngành canh nông” tức là thuộc về kinh tế.

Tuy nhiên, trong thời gian đầu chịu sự điều khiển của Ernest Potteau, Gia Định báo vẫn nặng về tính chất công báo19 hơn, dành nhiều chỗ hơn cho những công văn,

nghị định của nhà cầm quyền Pháp, và những bài giải thích các văn kiện ấy. Chẳng

hạn, trong số 4, ngày 15 – 7 – 1865 có đoạn: “Hội đồng việc canh nông và các nghề

nghiệp… Hội đồng này bây giờ là Hội đồng các quan mạc lòng [mặc lòng] nhưng mà

làm ra một bộ riêng ở ngoài các việc quan không lo gì đến việc công, không thuộc gì

phép quan trị cũng như bên Pha-lang-sa có ý lo một sự người ta mọi nơi chanh cùng

nhau tài trí khôn ngoan và mọi người tùy sức bậc mà lo hết lòng hoặc việc làm đất làm

ruộng hoặc việc nghề nghiệp nào thì được sinh lợi ra ích cả và địa phận, được thêm ra

những cách thiên hạ thịnh sự khá hơn…” [120, tr.336]. Thường nhất là những “Lời

thẩm xét các sở tham biện, án xử phạt”, Gia Định báo số 5 ngày 1 – 3 – 1874: “Tháng

19 Nghĩa là tờ báo do chính quyền lập ra, do chính phủ cấp tiền để hoạt động và người làm báo do chính quyền trả lương.

8 ngày mồng 8 quan tham biện Tân an xử Phạm văn toàn 36 tuổi, Trần văn báu 30

114

tuổi và Trần văn xòa 34 tuổi, cả ba đều ở Thanh xuân đông, có tội làm nghịch cùng

giết người, nên xử tử tên Toàn, tên Báu phạt tù 3 năm còn tên Xòa ở tù 6 tháng, chúng

nó xin hội đồng xét lại, bây giờ tên Toàn cũng y như án, tên Báu phát lưu 10 năm, còn

tên Xòa phát lưu 5 năm” [109, tr.52]

Ngoài phần công vụ, “là phần quan trọng, chiếm vị trí hàng đầu và nhiều trang

nhất” [71, tr.21], Gia Định báo cũng có cả phần tạp trở, đăng tin tức ở Sài Gòn và các

tỉnh, đăng giá gạo, giá lúa, giá đường trắng, giá đường đen… Tất cả đã phản ánh sinh

động đời sống, xã hội Nam Kỳ. “Giá gạo tại Sài Gòn 1 vuông 8 quan, lúa 1 vuông 4

quan” (số tháng 9 – 1865), hoặc tin về đời sống số 5 tháng 8 – 1865: “Năm nay coi đó

mà coi, thì bịnh ban cua lưỡi trắng thì thạnh hơn hết, nhiều người ta mắc bịnh lắm.

Bịnh này thơ mơ mà chết nhiều. Có nhiều thế mắc nó, thường nó làm khó ở nóng lạnh

rút thành cử rồi thủng thẳng nó làm vài ba bữa một cử…” [dẫn theo 122, tr.144-145].

Hoặc số 5 tháng 8 – 1865: “Năm nay mưa thuận, đều trời đâu đó cũng có mưa, mùa

màng làm chỗ nào cũng được, chỉ còn sợ hạng tháng 7 mà thôi. Nghe ra jân sự đã yên

hơn ngày trước lo làm ăn không còn lòng một jụ hai nữa” [dẫn theo 122, tr.144].

Thỉnh thoảng cũng có đăng tin tức thế giới, số 5 ngày 15 – 8 – 1865 có đoạn: “Có nhật

trình bên Thượng Hải nói bên nước Nhựt Bổn năm nay mất mùa, cây trái bông hoa

phải hao hết nhiều, người ta sợ có khi phải đói. Còn bên Tàu mắc lấy mùa lụt, nhiều

chỗ cây trái mắc nước lụt hư hết” [dẫn theo 47, tr.15]

Điều đặc biệt là Gia Định báo còn có vai trò “hỗ trợ nền giáo dục thuộc địa” [71,

tr.13], dùng cho nhu cầu dạy và học chữ quốc ngữ. Để giảm bớt sự dựa dẫm vào các

giáo sĩ trong việc thông dịch, ngày 8 – 5 – 1862, Phó Đô đốc tổng tư lệnh Bonard cho

thành lập tại Sài Gòn trường thông ngôn Collège Annamite. Chữ quốc ngữ là lựa chọn

ưu tiên và tờ Gia Định báo trở thành tài liệu để các viên thông ngôn, học trò trong các

trường dùng thực tập chữ quốc ngữ. Khi ban hành Nghị định 16 – 7 – 1864 tổ chức

một số trường tiểu học ở các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ, nhưng không có sách giáo

khoa cung ứng cho nhu cầu dạy và học, Đô đốc De La Grandière cũng chọn ngay tờ

Gia Định báo làm cuốn sách duy nhất các trường học của người Pháp, ngoài ra học

sinh không có gì để đọc thêm như các trường đạo. Từ đó, theo ông G. Rose: “Gia Định

115

báo đã được dân chúng ủng hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương những em bé

biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe” [dẫn theo 122, tr.143]

Đến năm 1869, Gia Định báo được Thống đốc Nam Kỳ giao cho Trương Vĩnh

Ký (1837 – 1898), “một trí thức đa ngữ” [115, tr.23], làm chủ nhiệm: “Kể từ hôm nay

việc biên tập tờ Gia Định báo được giao phó cho ông Pétrus Trương Vĩnh Ký, người

với tư cách là chánh tổng tài của tờ này, sẽ được lãnh khoản lương hằng năm là 3.000

đồng quan Pháp” [dẫn theo 64, tr.84]. Nắm trong tay một vũ khí văn hóa bằng tiếng

Việt, Trương Vĩnh Ký đã khéo léo lái phần lớn nội dung của báo cho những bài viết bổ

ích về những đề tài lịch sử, những sự kiện về luân lý, thời sự, những bài thơ, truyện cổ

tích, tin tức, bình luận… Từ đó, Gia Định báo trở nên phong phú, sinh động hơn, gần

gũi với quần chúng hơn, từ một tờ báo theo thể thức công báo trở thành một tờ báo

thông thường. Tiếng Việt trên báo cũng trở nên đơn sơ, mộc mạc như lời nói hằng

ngày bởi chủ trương “viết như nói thường” của Trương Vĩnh Ký.

Với mục tin tức, để có sự phong phú và sinh động, Gia Định báo có tổ chức một

mạng lưới cộng tác viên ở các địa phương với chủ trương tìm kiếm “những chuyện

mới lạ đem vô nhựt trình cho người ta biết” [47, tr.18], số 11 ngày 8 – 4 – 1870 có

đăng: “Ăn cướp, ăn trộm. Bệnh hoạn, tai nạn. Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt. Cháy chợ,

cháy nhà, mùa màng thế nào. Tại sở nghề nào thạnh hơn…” [dẫn theo 109, tr.49]. Phải

chắc chắn rằng chữ quốc ngữ đã đạt đến trình độ diễn đạt linh hoạt thì Gia Định báo

mới khuyến khích các cộng tác viên viết bài với mọi chủ đề như vậy. Một mẩu tin tức

địa phương rất bình dị trong số 5, ngày 16 – 2 – 1870 có đoạn: “Có một người tên là

Thiện, nhà ở gần chợ Hốc Môn. Tối 12 tháng giêng này người ấy xuống ghe mà ngủ,

còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la,

làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi cháy nhà trụm đi. Chú Thiện có

tật điếc, vợ kêu, la làng tróc môn lòi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng

đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi…” [dẫn theo 47, tr.19].

Hay số 8 ngày 8 – 3 – 1870: “Có người ở làng Tân Phong, tổng Phước Vĩnh Trung

đem một gói cào cào lửa, lớn đều nhau bằng ngón tay út đàn bà mà bẩm cho quan

tham biện hay. Không biết bởi đâu mà có giống quái gở ấy đến phá mía người ta. Nó

nhiều quá ước chừng mấy xe chở cũng không hết; khi nó bay ngang qua đường thì hai

116

người đi đường không thấy nhau, còn nó vù vù đến nỗi hai người nói chuyện với nhau

không đặng. Nó sa đến đâu thì khốn đến đó: Nó ăn một giờ hết ba đám mía” [dẫn theo

109, tr.50]

Đối với những tin quảng cáo, Gia Định báo thường dành đặt ở trang cuối, xuất

hiện ngày càng nhiều theo thời gian, lúc đầu chỉ có nửa trang, dần dần tăng lên một

trang và kéo dài ổn định ít nhất đến năm 1900. Số ra ngày 28 – 1 – 1881 có đăng tin:

“Nhà hàng ông Lacaze ở đường Catinat, Saigon có bán rượu chát, các thứ rượu, các

món múi và làm dưa, để lâu, đồ đi săn bắng, thuốc súng, bì súng bể, đạng súng sáu lòng, hạng nào cũng có…”20. Những tin quảng cáo như thế thường gắn liền với hoạt

động thương mại, nhất là thương mại tư nhân của người dân bình thường trong xã hội.

Số ra ngày 4 – 5 – 1881 có đoạn: “Thuốc viên trị sán lãi bằng thứ Santonine. Thuốc ấy

làm ra từ viên cho con nít dễ uống cùng cho nó sông ra các thứ sán lãi nhỏ nhỏ hay

làm cho con nít đau ốm. Thuốc viên ấy có người chính viện lương y chế kỷ can lắm.

Viện ấy ở tại Paris (pharmacie centrale de France) đã được nhiều phần thưởng vì

công việc làm kỷ can. Có một tiệm pharmacie Normale ở tại Saigon có thứ thuốc viên

ấy mà thôi…” [dẫn theo 122, tr.140]. Sự xuất hiện của những tin quảng cáo cho thấy

rằng, với chữ quốc ngữ, ngay từ những ngày đầu ra đời, Gia Định báo đã có khả năng

phục vụ cho mục đích kinh tế và tiếp thị.

Gia Định báo còn dành riêng một mảng cho thơ ca với những bài thường mang

tính giáo dục cao về đạo đức, cách sống ở đời, phê phán thói hư tật xấu, khuyên con

người theo lối sống mới, từ bỏ hủ tục, rượu chè, cờ bạc, như bài “Khuyên đừng cờ

bạc” của Võ Thành Đức:

“Đã sanh ra đứng làm người,

Đủ năm tạng phủ đủ mười tay chơn

Có thân nên tiếc với thân,

Lánh xa chỗ đục, tìm gần nơi trong.

Tai có lỗ, mắt có tròng,

20 Catinat là đường Đồng Khởi ngày nay. Xem [122, tr.140]

Nghe đều lợi hại khỏi vòng thị phi”[dẫn theo 122, tr.150]

117

Ngoài ra, trong mục thơ ca còn có cả những bài giải thích về tục ngữ, ngạn ngữ.

Trên Gia Định Báo số 40 – 1895 có đăng bài viết của Huỳnh Tịnh Của: “Đa tài luỵ

thân. Nghĩa là, tài nhiều thì rối nhọc mình; chữ tài ấy có hai nghĩa một là nghĩa của

cải, một là nghĩa tài năng, người ta hay lấy nghĩa trước, một sự lo đặng lo mất, thì cực

biết mất, huống chi có người phải chết vì sự tiền của” [dẫn theo 122, tr.152]. Với các

bài đăng và giải thích về tục ngữ, ngạn ngữ, Gia Định báo đã cho người đọc thấy rằng

chữ quốc ngữ đã phát triển đến mức đáng ngạc nhiên, đủ khả năng để giúp cho tiếng

Việt có thể giải thích tiếng Việt.

Đề tài lịch sử cũng là một mảng không thể thiếu trong Gia Định báo. Chuyên

mục “Tiếp theo chuyện sách sử nước An Nam” trong số 7 tháng 4 – 1873 có ghi chép

những sự kiện thuộc đời vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369): “Thuở trước đánh được

giặc Toa Đô có bắt được một người kép hát tên là Lý Nguyên Kiết, rồi những tôi tớ

các nhà thế gia mới theo mà học tập lấy những tuồng hát bên Tàu tiếng tục kêu là

tuồng hát bội. Trong nước An Nam có tuồng hát bội là bày đầu ra từ khi ấy” [dẫn theo

109, tr.53]. Qua đây, chữ quốc ngữ đã chứng tỏ được khả năng viết sử đến mức hoàn

chỉnh với đầy đủ tên người, tên địa danh, sự kiện và những từ ngữ chuyên môn về

hành chánh, về giáo dục, khoa cử và kể cả các sinh hoạt xã hội như hôn nhân, tang

chế, nghệ thuật…

Chính nhờ sự hoàn chỉnh đến mức điêu luyện và khả năng diễn đạt phong phú,

linh hoạt, bình dị của chữ quốc ngữ, Gia Định báo mới có thể trở thành một tờ báo

phát triển toàn diện, đa dạng về thể loại và phong cách như vừa nêu, chặt chẽ về kết

cấu. Ngôn ngữ đời sống hằng ngày được sử dụng ngày càng nhiều làm cho “câu văn

mang tính chất linh hoạt, phản ánh đúng bản chất các đối tượng miêu tả” [94, tr.26]. Vì

lẽ đó, Gia Định báo ngày càng trở nên gần gũi hơn với đông đảo người dân Nam Kỳ.

Ngược lại, Gia Định báo lại chính là phương tiện đi đầu trong việc phổ biến chữ quốc

ngữ trong dân chúng, khuyến khích dân chúng học chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán,

chữ Nôm.

Trong số ngày 15 – 4 – 1867 có ghi nhận Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên “có

làm sách mẹo dạy tiếng Langsa, có làm ra chữ quốc ngữ để người ta dễ học, những

người ký lục giỏi, cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ

118

mà viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ cũng viết đặng, không phải như chữ

ta, học già đời mà còn chữ lạ viết không ra,…. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học

một đôi tháng thì thuộc hết” [dẫn theo 122, tr.42]. Ngoài ra, với sự tham gia tiên phong

của những người “rành chữ quốc ngữ” như Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký…, chữ

quốc ngữ càng được phổ biến mạnh mẽ hơn thông qua những tri thức mới như khoa

học, truyện, tiểu thuyết của phương Tây, thơ phú của người Việt, Trung Quốc dịch ra

quốc ngữ, các tác phẩm văn học dân gian được sưu tầm và in lại. Các tác phẩm bằng

chữ quốc ngữ của họ trên Gia Định báo không những làm tăng tính văn học cho tờ báo

này mà còn góp phần trau chuốt cho tiếng Việt. Từ đó “câu văn tiếng Việt dần thoát ra

khỏi lối văn biền ngẫu, có vần, có đối để tiến tới sự mạch lạc, trong sáng của ngữ pháp

phương Tây” [94, tr.26]. Nền văn chương cổ dần chuyển sang văn chương hiện đại.

Ngoài ra, Gia Định báo còn cổ động cho lối học mới, truyền bá tư tưởng, trở

thành diễn đàn chung cho các trí thức Nam Kỳ bấy giờ “chấn hưng cổ học, dung hòa

giữa cái học truyền thống và cái học mới” [91, tr.268]. Gia Định báo chẳng những

nhằm vào việc giáo dục những lớp người trẻ còn đang đi học, mà còn có thể giáo dục

cho tất cả những ai có thể đọc được chữ quốc ngữ. Nhiều bài viết chỉ trích lối học cũ

và cổ động cho lối học mới, tuyên truyền cho việc phổ biến nền văn hóa mới. Nhờ vậy,

chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ càng có điều kiện đi vào quần chúng và phát triển hơn so với

Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Đến năm 1909, nhận thấy tác dụng trong việc thực hiện chính sách thực dân đã

giảm, chính quyền Pháp cho đình bản Gia Định báo. Trong suốt thời gian thành lập,

làm Tổng biên tập, và cũng là cây bút chủ chốt của Gia Định báo, Trương Vĩnh Ký

“rất coi trọng, tin tưởng và phấn đấu cho tiếng Việt, đưa nó thành một ngôn ngữ văn

hóa phổ biến, mang đậm bản sắc dân tộc” [47, tr.22]. Trương Vĩnh Ký, cùng với

“những người Việt đầu tiên làm báo” [39, tr.18] như Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh

Của, Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt,… đều là những con

người “nặng lý tưởng văn hóa, họ muốn làm báo để quảng cáo cho tiếng Việt và du

nhập tư tưởng Tây phương vào văn hóa cổ truyền Đông phương mong tạo được sự hòa

hợp tốt đẹp” [13, tr.89]. Công lao của những trí thức Tây học này trong công cuộc xây

dựng nền văn hóa mới là không thể phủ nhận. Kể từ sau Gia Định báo, họ còn góp

119

phần làm cho báo chí Việt Nam và chữ quốc ngữ phát triển phong phú, sôi nổi chưa

từng thấy từ Nam ra Bắc.

Tuy ra đời trong mục đích thực dân, nhưng Gia Định báo được xem là cột mốc

mở đầu của lịch sử báo chí Việt Nam, là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử phát

triển tiếng Việt và chữ quốc ngữ. Thông qua Gia Định báo, chữ quốc ngữ ngày càng

được tôi luyện, trau chuốt và đi đến hoàn thiện. Ngược lại, tất cả những tin vắn, lời

rao, đến các bài phẩm bình, tranh biện, thơ phú, truyện, tiểu thuyết mang phong cách

văn viết phương Tây trên Gia Định báo đều do chữ quốc ngữ làm nên, hình thành một

phong cách ngôn ngữ mới của tiếng Việt mà trước đó chưa hề có – phong cách ngôn

ngữ báo chí. Vì vậy, với Gia Định báo, đây là lần đầu tiên, chữ quốc ngữ thoát ra khỏi

cánh cửa nhà thờ để nhảy lên địa vị báo giới và cả sáng tác văn học, mở đầu cho nền

văn học quốc ngữ.

Ngoài Gia Định báo, năm 1898, một “tờ báo quốc ngữ thứ hai của tư nhân người Việt Nam”21cũng được ra đời, Phan Yên báo do Diệp Văn Cương, thành viên Hội

đồng quản hạt Nam Kỳ làm giám đốc. “Ông Cương đặt tên tờ báo như vậy vì cổ danh

của thành Gia Định là Phan Yên Trấn” [9, tr.8]. Hiện nay không còn lưu giữ văn bản

nào của Phan Yên báo.

Đâylà một trong những tờ báo tư nhân đầu tiên, xuất bản hàng tuần, số đầu ra

tháng 12 - 1898. Nội dung và hình thức của Phan Yên báo không khác với Gia Định

báo bao nhiêu [47, tr.24]. Nhưng Phan Yên báo dám đăng một loạt bài có liên quan

đến tình hình chính trị trong nước có ý chống lại sự hiện diện của người Pháp ở Việt

Nam, nhất là bài “Đòn cân Archimède” (Point d’appui) của Cuồng Sĩ (bút danh của

Diệp Văn Cương) dụng ý phê phán một số mặt chính sách của thực dân Pháp, “tỏ rõ

xu hướng yêu nước rõ rệt”. Chính vì vậy, Phan Yên báo chỉ ra được khoảng 7, 8 số thì

bị đình bản. Đây là “tờ báo quốc ngữ đầu tiên bị cấm ở Nam Kỳ” [22, tr.132]

Tờ báo tiếng Việt thứ ba ra đời tại Sài Gòn là tờ Nông Cổ Mín Đàm (1901 –

1924). Tên Hán – Việt này được giải nghĩa bằng dòng chữ Pháp ngay trên đầu trang

nhất: “Causeries sur l’Agriculture et le Commerce”, nghĩa là bàn chuyện canh nông và

thương mãi. 21 Tờ đầu là nguyệt san Thông loại khóa trình của Trương Vĩnh Ký. Dẫn theo [22, tr.130]

120

Nông Cổ Mín Đàm số đầu tiên ra mắt vào ngày 1 – 8 – 1901, là tờ báo kinh tế

đầu tiên của xứ Nam Kỳ. Sáng lập tờ báo là một người Pháp, ông Canavaggio, một

người giỏi Hán – Nôm và Việt ngữ, Ủy viên hội đồng quản hạt làm giám đốc và

Lương Khắc Ninh, một cây bút tên tuổi làm chủ bút. Báo xuất bản vào hàng tuần, kéo

dài được 115 số (số cuối 5 – 1924), thường in 8 trang, có khi 12 trang. Nhiều danh sĩ

lần lượt làm chủ bút sau Lương Khắc Ninh như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Đồng Trụ,

Lê Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt.

Ngay số đầu, trang nhất của báo đã đăng Nghị định của toàn quyền Đông Dương

là Paul Doumer ký ngày 14 – 2 – 1901), cho phép Canavaggio lập nhật trình Nông cổ

in chữ quốc ngữ và chữ Nho. Nội dung chủ yếu của báo là “hô hào người bản xứ hùn

vốn kinh doanh thương mãi” [47, tr.25]: “Cách lập thế đặng đua chen về sự hùn hiệp

bán buôn cho kịp người Khách, thì phải làm như vầy: lập một hùn của người bổn quốc

chừng một triệu, trong một triệu chia ra làm năm ngàn phần hùn, mỗi phần làn 200

ngươn bạc…”. Báo còn thường xuyên đăng những bài dạy cách trồng trọt, chăn

nuôi:“Cách giữ cỏ cho khỏi mọc rậm, thì chừng hết mưa đem đậu trắng mà vãi gieo

phía trong. Ngày nào mình có đi đến mà thăm viếng thì sẽ mở cửa; bằng ngày không

đi đến thì đóng cửa rào lại, không ai đến lui phá phách cho đặng…” [dẫn theo 47,

tr.27], hay giới thiệu các cửa hàng và các hoạt động thương mãi, công nghệ của người

bản xứ, có mục chuyên về giá lúa gạo, giá các hàng xuất khẩu, các vấn đề liên quan

đến cao su, trà, cà phê. Báo hô hào cạnh tranh với các nhà công thương ngoại quốc,

tuyên truyền luân lý Khổng Mạnh. Thỉnh thoảng đăng bài ca tụng quan chức thực dân.

Là người trực tiếp phụ trách Thương cổ luận, Lương Dũ Thúc (Lương Khắc

Ninh) có công lớn trong việc cổ động cho phong trào Minh Tân, cổ súy giới chủ,

thương gia người Việt đang hình thành, đua chen quyền lợi kinh tế với người Hoa, với

ngoại kiều khác ở lục tỉnh.

Tuy là báo kinh tế, nhưng về phương diện văn chương,Nông Cổ Mín Đàm có vai

trò quan trọng trong đời sống báo chí. Bởi Nông Cổ Mín Đàm thường dành tới 3,4

trang đăng tải truyện dịch, truyện dài, truyện ngắn và mục Thi Phổ (đăng thơ sáng tác

mới, văn học dân gian sưu tầm…). Nhiều nhất là thi phú, thơ Đường luật, thơ lục bát,

121

đề tài có tính cách tức cảnh sinh tình, luân lý. Huấn nữ ca là bài thơ tiêu biểu cho chủ

đề thơ luân lý đăng trong số 151 (ngày 4 – 8 – 1904):

“Mẹ cha lời dạy rẽ ròi,

Học làm để dạ chớ coi thị thường.

Công dung ngôn hạnh mọi đường,

Sớm xem tối xét tỏ tường mai sau” [dẫn theo 47, tr.30]

Ngoài ra, trên Nông Cổ Mín Đàm còn có 11 bài thơ Đường luật của Mạc Thiên

Tích vịnh 10 cảnh đẹp của Hà Tiên (Hà Tiên thập cảnh) đăng trong số 159 (29 – 9 –

1904). Chính Nông Cổ Mín Đàmcòn là tờ báo đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn

trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Bộ Tam quốc chí của Trung Quốc lần đầu

tiên được dịch ra tiếng Việt, do chính Canavaggio dịch và đăng tải liên tục trên báo

này.

Theo tác giả Nguyễn Q. Thắng, “đây là một tờ báo tuy chủ đề nói về việc nông

tang, buôn bán; nhưng thật là một tờ báo khá đặc sắc về văn chương và thời sự vào

thời kỳ đầu ở Nam Kỳ” [91, tr.272]

Khuynh hướng chung của Nông Cổ Mín Đàm là phản ánh lợi ích của giai cấp tư

sản thương mại hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp. Giới

này chủ trương yên ổn làm ăn dưới sự đô hộ của thực dân. Nông Cổ Mín Đàm trước

có hoan nghênh chủ trương Minh Tân, nhưng sau đó có nhiều bài tố cáo Trần Cánh

Chiếu âm mưu chống Pháp. Tuy nhiên, một số nhà văn, nhà giáo như Nguyễn Dư

Hoài, Nguyễn Khác Huề cũng đã tìm mọi cách để đăng một số bài thơ có nội dung

lành mạnh. Lê Quang Chiểu có bài thơ bác luận điệu bán nước của Tôn Thọ Tường.

Nhiều người viết cho báo đã sưu tầm văn thơ yêu nước ở Nam Kỳ thời bấy giờ. Một

số người như Gilbert Chiếu, Nguyễn Thành Hiến, Lê Quang Chiểu, Trần Quan Văn có

tham gia phong trào yêu nước do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo năm 1906.

Lục Tỉnh Tân Văn(1907) cũng là tờ báo quốc ngữ khá quan trọng trong đời sống

văn hóa Nam Kỳ, do Francois Henri Schneider sáng lập trong bối cảnh phong trào vận

động Duy Tân đầu thế kỉ XX, mà ở Nam Kì có tên là cuộc vận động Minh Tân. Chủ

bút là Trần Chánh Chiếu, một nhân vật rất độc đáo của xứ Nam Kỳ lúc đó, một người

Tây học, nhưng lại có thiện cảm với phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Thời

122

gian đầu ông vừa là chủ bút báo Lục Tỉnh Tân Văn vừa làm chủ bút báo Nông Cổ Mín

Đàm. Đến ngày 21 – 5 – 1908, ông chỉ làm chủ bút riêng cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn.

Lục Tỉnh Tân Văn số đầu tiên ra ngày 14 – 11 – 1907, gồm 16 trang, khổ 19x28

cm, mỗi trang 2 cột giống như các tờ báo tiếng Việt đầu tiên. Sau này, Lục Tỉnh Tân

Văn ra tuần 3 số (thứ hai, thứ tư và thứ sáu). Năm 1921, khi tờ Nam Trung Nhật Báo

sáp nhập vào, nó chuyển thành nhật báo.

Mặc dù Lục Tỉnh Tân Văn trên danh nghĩa vẫn do Schneider đứng tên xin phép

và là sáng lập viên, đăng các văn kiện chính thức của nhà cầm quyền Pháp, nhưng

ngay từ đầu, tờ báo dưới sự điều khiển của Trần Chánh Chiếu với bút danh Trần Nhựt

Thăng, đã sớm tỏ ra là một tờ báo có khuynh hướng cấp tiến. Trong 50 số đầu dưới

quyền chủ bút của Trần Chánh Chiếu, phần chính yếu của Lục Tỉnh Tân Văn là vận

động cho cuộc Minh Tân, hướng theo cải cách, tự cường đang sôi động ở miền Bắc và

Trung Kỳ, bao gồm những bài kêu gọi, giải thích, châm biếm, tranh luận, thơ phú.Ở

khía cạnh này, Lục Tỉnh Tân Văn tỏ ra có nhiều kinh nghiệm [39, tr.32]. Trong bài

“Phụng đáp Duy Tân”, Lục Tỉnh Tân Vănsố 51 ngày 5 – 11 – 1908 có tranh luận với

chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm về vấn đề Duy Tân: “Chữ Duy Tân nghĩa là gì? Nói

cho dễ nghe thì là: bỏ tục cũ theo thể mới, bỏ lòng tà theo lòng chánh, vân vân… Cũng

có vầy: bấy lâu dốt nát vụng về, bấy giờ biết hóa lòng mà học nghề học chữ, ấy là Duy

Tân… Lấy ý ngu tôi tưởng, chữ Duy Tân là: bỏ dại học khôn, bỏ vụng học khéo, bỏ dốt

học hay chữ, bỏ dữ học lành, bỏ biếng nhác học siêng năng, lần lần mà hóa, chẳng

khác nào đăng cao tất tự ti, hành viễn tất tự nhĩ vậy” [dẫn theo 47, tr.33-34]. Qua đó,

Lục Tỉnh Tân Văn thống thiết kêu gọi Minh Tân trong bài “Cấp báo quyền lợi”: “Đồng

bào ôi! Tua ước cùng nhau mà kịp gióng tiếng chuông tự do lên, dựng cây cờ độc lập

dậy, truyền lời hịch minh tân ra, cho đặng mở mặt mở mày cùng người ngoại quốc,

cho đặng nở gan nở ruột cùng bạn đồng bang… Rày cuối xin đồng bào mau tính lại,

vỗ tay một lượt mà bước tới cuộc văn minh, đặng day cán lợi của quê hương ta cho

người quê hương ta cầm. Vậy mới gọi là khuông thời, vậy mới rằng tế thế” [dẫn theo

37, tr.35]

Đối với hủ tục, Lục Tỉnh Tân Văn chống rất mạnh những tệ nạn mê tín, cờ bạc, á

phiện, rượu chè say sưa mất nhân cách, với những bài: Xã cựu tùng tân, cải tà, quy

123

chánh, Tử táng minh luận, Á phiện, Đề 36 con, Đòi uống rượu mãi… Trong bài “Đòi

uống rượu mãi” số 17 gày 12 – 3 – 1908 có đoạn viết: “Các anh em ôi! Uống rượu say

thiệt là xấu hổ lắm, xin các anh em hãy dằn lòng trong khi chơi bời rượu trà, đừng cho

quá độ đã xấu hổ lại hao tổn tinh thần nữa” [dẫn theo 47, tr.39]

Về mặt văn học, những trang văn thơ của Lục Tỉnh Tân Văn rất có giá trị bởi sự

góp mặt của nhiều cây bút mới, có tài trong nền văn chương quốc ngữ như Trương

Duy Toản, Trần Tuấn Khải, Hồ Tá Bang, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Trạc… trên

nhiều thể loại: thơ, phú, bài ca, tiểu thuyết, có cả thảo luận về văn chương, ngôn

ngữ.Bài ca khuyên người đi tu là một bài ca mang đậm tính dân tộc trong hoàn cảnh

đất nước bị phương Tây đô hộ:

“Từ nay cắt tóc đi tu,

Tụng kinh An Thái ở chùa Minh Tân.

Ngày đêm khấn cái chuyên cần,

Cầu cho ích quốc lợi dân mới là.

Tôi quyết tu, tu sao cho mở trí dân ta,

Tu cho độ được nước ta phú cường” [dẫn theo 47, tr.42]

Thậm chí Lục Tỉnh Tân Văn còn có những bài viết có tính chất tranh đấu gián

tiếp chống chính quyền thuộc địa và tay sai đắc lực của thực dân thông qua lối nói

bóng gió của tiếng Việt, “mượn việc để này ám chỉ việc khác theo lối ví von, nhất là

cách nói theo lối chơi chữ, những lối phô diễn thường dùng trong văn chương Việt

Nam” [47, tr.37] để tố cáo những hành vi ăn cướp bất nhân bất nghĩa, vô lễ thất tín của

chúng đối với đất nước và nhân dân ta. Tiêu biểu là các bài Cha ghẻ con ghẻ của La

Môn Hòa (số 4, ra ngày 5/12/1907), Mẫu thời binh thế của Mặt Thiệt (số 2, 21-11-

1907)… Theo tác giả Đỗ Quang Hưng, ưu điểm lớn nhất của Lục Tỉnh Tân Văn là đã

“dám cổ vũ lòng yêu nước, chống Pháp và bọn phong kiến tay sai, chống tư tưởng

vong bản” [39, tr.32], “thể hiện cuộc vận động duy tân ở Nam Kỳ lục tỉnh nhằm thay

đổi nếp sống: suy nghĩ, thờ cúng, cách cư xử làm ăn, nghỉ ngơi…” [122, tr.74]. Có lẽ

cũng vì vậy, đây là “tờ báo đối lập đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam” [16, tr.42]

Nhưng Trần Chánh Chiếu chỉ làm chủ bút được 50 số đầu thì bị bắt, “có lẽ do

chúng khám phá được một bộ phận trong tổ chức Đông Du ở Nam Kỳ” [47, tr.32]. Sau

124

đó, vị trí chủ bút rơi vào tay nhiều người khác. Kể từ đó màu sắc tờ báo cũng khác đi.

Báo ngừng xuất bản khoảng cuối 1944.

Có thể nói, Lục Tỉnh Tân Văn là tờ báo có uy tín nhất ở Nam Kỳ trong thời buổi

đầu của nghề làm báo. Nhiều cây bút của xứ Bắc, Trung đã từng vào Sài Gòn học tập

nghề làm báo ở tờ này, từ Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi đến Trần Huy Liệu, Tản

Đà… Ngay Đông Dương Tạp Chí khi mới ra đời cũng phải ghi tên măng-xét của mình

là ấn bản đặc biệt của Lục Tỉnh Tân Văn cho xứ Bắc và Trung kỳ.

Ở Bắc Kỳ, báo chí tuy ra đời muộn hơn, nhưng trong buổi đầu ấy cũng có không

ít những tờ có giá trị về ngôn ngữ và tiếp xúc văn hóa. Đại Việt Tân Báo (1891)là “một

bước tiến về mặt ngôn ngữ (ở Bắc Kỳ) để xâm nhập sâu rộng hơn trong giới quan lại

người bản xứ” [39, tr.43]; hay với Đăng Cổ Tùng Báo (1907),chữ quốc ngữ “đã được

dùng khá thông thoát hơn hẳn” [39, tr.47]; đặc biệt là Đông Dương Tạp Chí (1913), tờ

báo quan trọng bậc nhất trong việc tuyên truyền cho văn minh phương Tây, văn minh

Pháp, trong dạy và phổ biến chữ quốc ngữ [39, tr.49],góp phần đáng kể vào việc trau

dồi ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt đầu thế kỷ XX; không kém vai trò quan trọng là tờ

Nam Phong Tạp Chí (1917),tờ báo có “chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho

thành một nền quốc văn An Nam” [73, tr.59], “tỏ ra kiên trì nghiên cứu cải tạo câu văn

quốc ngữ, đưa thứ chữ mới sử dụng không lâu này có khả năng diễn đạt mọi khái niệm

thâm thúy cổ kim Đông Tây” [39, tr.63], vì vậy, có thể xem Nam Phong “trở thành

một tư liệu có ý nghĩa như “sách luyện quốc văn” [39, tr.64].

Với khả năng có thể đi vào đời sống, chữ quốc ngữ đã trở thành một trong những

“điều kiện kĩ thuật” [39, tr.13] cho sự ra đời của báo chí Nam Kỳ - cái nôi đầu tiên của

nghề báo chí Việt Nam. Không những vậy, chữ quốc ngữ còn đặt nền móng cho báo

chí Việt Nam phát triển “theo hướng toàn diện, phong phú về thể loại, chặt chẽ về kết

cấu, đa dạng về phong cách và thuận tiện, gần gũi, hòa đồng về phương thức tiếp cận

bạn đọc” [47, tr.22]. Tuy trong buổi đầu còn chịu sự kiểm soát của chính quyền thực

dân, số lượng còn ít, tiếng nói còn yếu ớt nhưng nhờ khả năng diễn đạt của quốc ngữ,

các học giả cầm bút mới có thể “tương kế tựu kế”, khéo léo lái nội dung trên báo theo

hướng giáo dục quần chúng, cung cấp kiến thức Tây học lẫn Việt Nam học, thay thế

cho nội dung Hán học nhằm nâng cao và mở mang dân trí, cũng từ đó báo chí dần bắt

125

đầu lộ ra là “một phương tiện, một công cụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sắp

tới” [39, tr.34], “đó chính là những đám bọt biển mong manh, dấu hiệu của những con

sóng ngầm dữ dội” [39, tr.35].

Cũng chính báo chí lại là “môi trường tôi luyện hữu hiệu nhất cho chữ và văn

quốc ngữ Nam Bộ trong suốt nửa cuối thế kỉ XIX” [120, tr.395], góp phần “hình thành

thể loại văn xuôi tiếng Việt đầu tiên trên giấy trắng mực đen, in rõ ràng và đều đặn”

[35, tr.5].Qua báo chí, “tiếng Việt từng bước được rèn luyện trở nên tinh tế và sắc bén

hơn” [115, tr.20], từ những tin vắn, lời rao, đến các bài luận bàn thế sự, phẩm bình,

tranh biện đều mang phong cách văn viết phương Tây, chủ yếu là Pháp, “thực sự mở

đầu cho một phong cách ngôn ngữ mới của tiếng Việt mà trước đó chưa hề có” [115,

tr.20] – phong cách ngôn ngữ báo chí. Rõ ràng, đây là lần đầu tiên, “chữ quốc ngữ đi

vào cuộc thí nghiệm quan trọng nhất: từ địa vị văn thư có quy ước ở cửa công, nó nhảy

lên địa vị báo giới và sáng tác tác phẩm, tức là mở đầu văn học chữ quốc ngữ” [46,

tr.63-64]

3.3. Văn học

Trước khi người Pháp nổ tiếng súng xâm lược, văn học Việt Nam đã có một lịch

sử phát triển lâu đời và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Trong lịch sử trung đại, văn

học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học Trung Hoa về nhiều phương diện,

cả về chủ đề, phương pháp và thể loại. Đến thế kỉ XVII, chữ quốc ngữ ra đời được

xem như một sự chuẩn bị từ rất sớm cho quá trình hình thành một nền văn chương mới

ở Việt Nam [37, tr.244], một chiếc cầu nối mở đường cho văn học phương Tây đặt sự

ảnh hưởng của nó ở Việt Nam. Đến cuối thế kỉ XIX, khi chữ quốc ngữ đang “phát

triển với tốc độ như vũ bão, bất chấp cả khuynh hướng kém thân thiện của một số

người” [120, tr.390] thì cũng là lúc mọi người lần lượt nhận ra nhu cầu cần phải học

quốc ngữ để có thể nắm bắt nhanh chóng và kịp thời những thông tin, kiến thức mới,

phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau trong đời sống, thậm chí cả mục đích chống

Pháp giành độc lập. Từ đó, một nền văn chương mới nảy sinh, chịu ảnh hưởng trực

tiếp của văn học phương Tây và phát triển cực kì mạnh mẽ vào đầu thế kỉ XX – nền

văn học sáng tác bằng chữ quốc ngữ và chịu nhiều tác động từ chữ quốc ngữ.

126

Chữ quốc ngữ đã đưa nền văn học mới phát triển theo xu hướng hiện đại hóa,

“đi vào quỹ đạo chung của văn học thế giới”[17, tr.23]

Trong cuộc tiếp xúc với văn minh phương Tây đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình

hiện đại hóa toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Việt Nam, từ cơ sở kinh

tế đến thiết chế chính trị, từ văn hóa tới giáo dục, từ tôn giáo, triết học tới các loại hình

nghệ thuật…, văn học quốc ngữ thời cận đại cũng đã phát triển theo chiều hướng hiện

đại, dưới sự ảnh hưởng của văn học Pháp, văn học phương Tây. Quá trình hiện đại hóa

của văn học quốc ngữ diễn ra theo một trình tự nhất định. Đầu tiên là văn học dịch và

phỏng dịch các tác phẩm văn học Pháp, văn học nổi tiếng của phương Tây (thường là

thơ, truyện ngắn, truyện phiêu lưu, tiểu thuyết phiêu lưu, tình cảm…). Sau đó, bước

tiếp theo là các phóng tác và phỏng tác có cốt truyện mới lạ, ly kỳ dựa theo văn học

phương Tây, dựa theo cách kể của truyện nước ngoài. Sau cùng là những sáng tác có

tính “bắt chước” các hình thức nghệ thuật của văn học nước ngoài (như truyện, ký, tiểu

thuyết, kịch…). Quá trình hiện đại hóa này của văn học quốc ngữ thời cận đại đi từ

văn xuôi tới thơ. Văn xuôi thường xuất hiện trước, còn thơ thường xuất hiện sau. Tính

hiện đại trong câu văn xuôi xuất hiện trước câu thơ. Đến đây, văn học Việt Nam không

còn lấy văn học Trung Quốc làm chuẩn mực, mà văn học Việt Nam đã “hướng tâm”

vào văn học Pháp, lấy văn học Pháp làm chuẩn mực.

Mặc dù chưa chiếm địa vị quyết định, song các yếu tố văn học mới ngày càng

bộc lộ rõ ưu thế của mình, vì nó “phù hợp với sự phát triển của tư duy nghệ thuật, với

quan điểm thẩm mỹ, với nhu cầu, thị hiếu của con người thời kì này. Sức hấp dẫn của

nó khó có thể phủ nhận, và chính nó là tiền đề cho những thành công vang dội trong

văn học những năm đầu của thời kì hiện đại trong văn học” [37, tr.232]

Chữ quốc ngữ mang đến cho văn học cận đại tính đại chúng

Tính đại chúng của văn học thể hiện ở sự phổ biến và khả năng phổ biến rộng rãi

của văn học trong đời sống nhân dân, được đông đảo nhân dân quan tâm. Trước đây,

trong thời trung đại, chỉ có bộ phận văn học bình dân, văn học phản ánh đời sống

thông tục của con người, đề cập và quan tâm tới số phận của những tầng lớp bên dưới

xã hội mới có “tính đại chúng” và được các tầng lớp nhân dân bên dưới trân trọng, đề

cao, chủ yếu là văn Nôm, phát triển từ thế kỉ XVI.

127

Nhưng vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, “tính đại chúng” của văn học Việt

Nam lại mang một ý nghĩa khác. Dù thuộc khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật nào,

văn học quốc ngữ thời cận đại đều có khả năng phổ biến rộng rãi trong xã hội, trong

quần chúng nhân dân. Tất nhiên vai trò này thuộc về chữ quốc ngữ, một thứ chữ “vừa

dễ học, mau biết, lại vừa tiện lợi hơn chữ Nôm, chữ Hán” [110, tr.232]. Bên cạnh đó,

sự phát triển của kỹ thuật in ấn, xuất bản, phát hành báo chí càng làm tăng khả năng

phổ biến rộng rãi của văn học quốc ngữ đến với quảng đại quần chúng. Các sáng tác

văn học, từ thơ, truyền ngắn, tiểu thuyết đến truyện dịch, ký… “đều được báo chí đăng

tải, kích thích và nâng cánh” [122, tr.85], được đăng tải trước khi in thành sách. Chính

vì vậy, số người biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ lớn hơn nhiều lần số người biết chữ

Hán, chữ Nôm ở các thời kì trước. Văn học giờ đây không còn thuộc về một bộ phận

thiểu số người có học như trước, mà nó thuộc về mọi tầng lớp, giai cấp, thành phần

trong xã hội, dù đó là trí thức hay công nhân, nông dân, tiểu thương, thị dân… Nhất là

khi văn học đã trở thành “hàng hóa”, viết văn đã trở thành một “nghề”, thì việc tiếp

xúc với văn học được rộng rãi và trực tiếp hơn trước rất nhiều”. Vì thế, so với thời

trung đại, văn học cận đại đi sâu vào đời sống quần chúng nhiều hơn.

Chữ quốc ngữ còn mang đến cho văn học cận đại nhiều nhân tố mới mẻ.

Trước hết, về ngôn ngữ văn học. Đầu thế kỉ XX, nhiều tác phẩm văn học bằng

chữ Hán và chữ Nôm vẫn tiếp tục tồn tại. Chữ Hán và chữ Nôm vẫn là phương tiện

diễn đạt tâm trạng, tình cảm rất phù hợp với các nhà văn được đào tạo trong nhà

trường cũ và với một bộ phận khá đông đảo độc giả. Tiêu biểu là các sáng tác của

Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều chí sĩ cách mạng khác. Bên cạnh, văn học

bằng chữ Pháp cũng là một bộ phận đáng chú ý trong thời kỳ này. Đó là các tác phẩm

văn học được đăng tải trên các sách báo tiếng Pháp ở trong nước và nước ngoài. Tiêu

biểu hơn cả là các truyện và ký viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc như Bản án

chế độ thực dân Pháp, Vi hành, Con rồng tre…

Mặc dù vậy, chiếm vị trí quan trọng nhất phải là văn học bằng chữ quốc ngữ. Bởi

vì tác phẩm của nó chiếm số lượng lớn, đề cập tới mọi mặt của đời sống con người,

được đông đảo độc giả đón nhận. “Nó chính là chất liệu nghệ thuật phù hợp với khả

năng, trình độ, tâm lý, thị hiếu của người Việt Nam, có thể phản ánh sâu sắc đời sống

128

tâm hồn con người. Hầu hết các nhà văn của thời kì này đều viết bằng chữ quốc ngữ,

và hầu hết những thành tựu văn học của thời kì này thuộc về văn học quốc ngữ” [37,

tr.244-245]

Đếnnhững năm 30 của thế kỉ XX, chữ quốc ngữ vẫn được sử dụng làm chất liệu

nghệ thuật cơ bản của ngôn ngữ văn học, vì “đó là thứ ngôn ngữ đã đạt tới sự hoàn

chỉnh, vừa sinh động, hiện thực, vừa tinh vi, tế nhị, có khả năng diễn tả sâu sắc các

trạng thái khác nhau của tâm hồn con người. Có thể nói, tiếng Việt văn học đến thời kì

này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình trong việc khai sinh nền văn học mới…”

[37, tr.261]

Ngôn ngữ mới có khả năng diễn đạt sinh động mọi cung bậc khác nhau của tâm

hồn con người, chính vì thế tư tưởng nghệ thuật cũng thay đổi. Trong bối cảnh đau

thương và thất bại của lịch sử chống ngoại xâm dân tộc, văn học quốc ngữ phản ánh “ý

thức của những con người mang tư tưởng tư sản, ý thức cá nhân và “tự do” dần phát

triển, để dần thay thế đời sống tinh thần của xã hội.Từ đây, đánh dấu chấm hết cho ý

thức hệ phong kiến và mở ra “vận hội” của ý thức hệ tư sản” [37, tr.227]

Để thể hiện được tư tưởng nghệ thuật mới ấy, đòi hỏi nền văn học quốc ngữ cũng

phải sản sinh ra những nhân vật chính của riêng mình, những nhân vật mới phù hợp

với nền văn học mới. Do tính chất giao thời, cho nên nhân vật chính của văn học quốc

ngữ cũng mang dáng vẻ “giao thời”, vừa quen vừa lạ, vừa có những đặc điểm của con

người trong văn học truyền thống xưa kia (người chí sĩ hay kẻ bất mãn với xã hội), vừa

có cả đặc điểm của những con người thời đại mới, trước đó chưa hề có trong văn học

(tư sản, tiểu tư sản, trí thức, thị dân…)

Nhưng yếu tố dễ dàng nhận thấy nhất trong sự thay đổi của văn học chính là sự

xuất hiện của hàng loạt thể loại văn học mới, chịu ảnh hưởng của văn học Pháp.

Chúng được du nhập vào Nam Kỳ thông qua những tác phẩm đầu tiên dịch từ tiếng

Pháp ra chữ quốc ngữ và ngày càng lớn mạnh, ngày càng chiếm ưu thế trong đời sống

văn học, nhất là văn học công khai.

Các thể loại văn học cũ:diễn ca, thơ Đường, văn tế, tiểu thuyết, tản văn… ngày

càng thu hẹp dần phạm vi ảnh hưởng, nhường chỗ cho sự xuất hiện và lớn mạnh của

các thể loại mới viết bằng chữ quốc ngữ. Đây là những thể loại văn học mô phỏng, tiếp

129

biến của những thể loại văn học của Pháp, của phương Tây, ngày càng được phổ biến

sâu rộng trong đời sống văn học, bao gồm: thơ dịch, truyện dịch; báo chí; truyện ngắn;

tiểu thuyết; kịch bản sân khấu; nghiên cứu, phê bình, nghị luận; thơ mới…

Đầu tiên phải kể đến là văn học dịch, một loại hình văn học mới mẻ, là thể loại

tiêu biểu cho sự tiếp xúc đầu tiên với văn học phương Tây.“Ở thời đại lều chõng,

người ta trọng Hán khinh Nôm, trọng thơ phú mà coi thường văn xuôi” [22, tr.71], có

lẽ vì vậy mà từ nửa sau thế kỉ XIX, người ta chưa quen viết văn xuôi quốc ngữ, nên

phiên âm, dịch thuật “chiếm gần hết mặt bằng của thị trường chữ nghĩa” [22, tr.71]. Có

rất nhiều tác phẩm Hán - Nôm được dịch ra chữ quốc ngữ nhằm phục vụ nhu cầu nhận

thức văn học truyền thống. Tiêu biểu là Bạch Vân tôn các truyện (1906), Thoại Khanh

Châu Tuấn truyện (1889)của Huỳnh Tịnh Của; Lục Vân Tiên truyện (1889), Phan

Trần truyện (1889)của Trương Vĩnh Ký; Tây sương ký, Đông chu liệt quốccủa

Nguyễn Đỗ Mục; dịch truyện Tàu nổi tiếng có Trần Phong Sắc, 18 đầu sách với 5000

trang [22, tr.163], bộ dày nhất là Phong thần diễn nghĩa (1906). Ngoài ra cũng có các

tác phẩm dịch về triết học, chính trị, tôn giáo của nước ngoài ra quốc ngữ như: Mạnh

tử, Luận ngữ… và nhiều tác phẩm phương Tây khác. Trong số đó, các tác phẩm dịch

từ văn học Pháp và văn học phương Tây, có sự ảnh hưởng lớn nhất tới sự hình thành

và phát triển của văn xuôi mới thời kỳ này. Trương Minh Ký dịch và xuất bản Chuyện

Phang Sa dịch ra quốc ngữ, Tê lê mạc phiêu lưu ký; Nguyễn Đỗ Mục dịch Vô gia

đình…và một số tác phẩm khác như: Truyện nhi đồng Francinet (1885), Truyện

Robinson (1886), Tiền Căn báo hậu (1907), Ba người ngự lâm pháo thủ (1914), Lửa

ngưng thình lình (1922)… Phiên âm, dịch thuật là “bước đi tất yếu chuẩn bị cơ sở cho

sáng tác bằng văn xuôi” [22, tr.71]. Thông qua hoạt động này, văn học Nam Kỳ đã tiếp

thu được nhiều thành tựu quý giá của văn học nước ngoài, không chỉ là “một số tác

phẩm văn học Pháp có giá trị về mặt nội dung, mà còn cung cấp cho người cầm bút

các thể loại tác phẩm văn học khác nhau và phong cách ngôn ngữ văn chương mới lạ”

[115, tr.21]để làm phong phú thêm các hình thức nghệ thuật, cũng như những tư tưởng

nghệ thuật tiến bộ, tích cực cho văn học Nam Kỳ.

Khảo cứu, nghị luận, phê bìnhcũng là một loại hình văn học mới, mới ở chỗ nó

đã “bắt đầu thoát khỏi truyền thống bình văn” [37, tr.246]. Tiêu biểu cho lĩnh vực này

130

là các học giả như Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh,

Nguyễn Văn Vĩnh… với các bài viết trên Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí…

hay trong một số sách biên khảo, nghiên cứu, sách giáo khoa thời này. Nhiều tác phẩm

cho đến nay vẫn có giá trị như: Nguyễn Hữu Tiến với tác phẩm Việt văn hợp tuyền

giảng nghĩa, Khảo về câu đối chữ Hán, Khảo về câu đối chữ Nôm… Phan Kế Bính với

Việt Hán văn khảo, Việt Nam phong tục… Bộ phận văn học này đặt nền móng cho

ngành nghiên cứu phê bình văn học hiện đại sau này.

Truyện ngắnlà một loại hình văn học mới có đóng góp to lớn hơn cả cho sự phát

triển của văn học quốc ngữ. Hình thức nghệ thuật chủ yếu ảnh hưởng của văn học

Pháp. Kết cấu truyện có tính hiện đại, tình tiết gây cấn, tỉ mỉ, nhân vật quen thuộc, đặc

biệt là với ngôn ngữ hiện thực, gần lời ăn tiếng nói hàng ngày đã giúp truyện ngắn thỏa

mãn được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhiều tầng lớp xã hội thành thị Việt

Nam: trí thức, tiểu tư sản, thị dân, công chức… Nội dung chủ yếu đề cập tới những

vấn đề của cuộc sống hàng ngày, nhưng được thể hiện bằng một nghệ thuật mới, cho

nên nó có sức hấp dẫn nhất định với độc giả. Đóng góp chủ yếu cho truyện ngắn đầu

thế kỉ XX có các tác giả, tác phẩm như: Nguyễn Bá Học (1857 – 1921) với Câu

chuyện gia đình, Chuyện ông lý chắn, Có gan làm giàu, Chuyện cô chiêu Nhì, Câu

chuyện một tối tân hôn… Các tác phẩm đều in trên tạp chí Nam Phong; Phạm Duy

Tốn (1883 – 1924) với Bực mình, Sống chết mặc bay, Con người Sở Khanh, Nước đời

lắm nỗi… cũng chủ yếu in trên Nam Phong; Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977), tác

phẩm tiêu biểu là Tập truyện thế gian, và tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan (1923).

Tiểu thuyếtđược thể hiện bằnghình thức nghệ thuật hoàn toàn mới, do ảnh hưởng

của tiểu thuyết Pháp, không còn kết cấu chương hồi hay lối biên niên sử. Ban đầu là

những mô phỏng, những phỏng tác, rồi sau này tiểu thuyết dần có phong cách riêng,

cốt truyện, tình tiết và nhân vật đã được thay đổi hoàn toàn.Nội dung của tiểu thuyết

đề cập đến những vấn đề của đời sống hàng ngày, những sinh hoạt bình thường, những

con người, số phận, cảnh ngộ có tính thông tục của cuộc sống. Bên cạnh đó là khuynh

hướng tình cảm chủ nghĩa trong việc miêu tả những cá nhân, những mối tình lãng

mạn, những tính cách.

131

Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết mới đầu thế kỉ XX là: Nguyễn

Trọng Thuật (1883 – 1940) với Quả dưa đỏ (1925); Nguyễn Tử Siêu (1887 – 1965)

với Đỉnh núi cành mai (1927), Bể tình nổi sóng (1928)…; Hồ Biểu Chánh (1885 –

1958), với các tác phẩm chủ yếu đi vào đời sống hiện thực, khai thác khía cạnh đạo

đức con người trong xã hội, như Tiền bạc bạc tiền (1926), Nhân tình ấm lạnh (1926),

Chút phận lênh đênh (1928), Cay đắng mùi đời (1928), Ngọn cỏ gió đùa (1929), Cha

con nghĩa nặng (1929)…; Hoàng Ngọc Phách (1896 – 1973) với tác phẩm Tố tâm

(1925) gây xôn xao dư luận, nhất là giới trẻ, đánh một dấu mốc mới cho tiểu thuyết

tâm lý, tiểu thuyết lãng mạn hồi đầu thế kỉ XX: “Tôi đến lắm thành thân, lúc rửa ảnh,

lúc họa đàn, lúc giảng sách, chả mấy chốc mà tôi thành ra một ông giáo dạy tư. (…)

Văn chương đàn bà ta bây giờ phần nhiều thuộc về lối rất bi ai, giéo giắt, bởi nhu cảm

thái đa, thành tinh thần nhược bại, nên lúc hạ ngọn bút viết là thở giọng sầu, tự trong

lòng mà ra cũng có, mà chịu ảnh hưởng ở ngoài phần nhiều” [22, tr.299]

Nhưng trên mặt chứng tích cụ thể thì tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ

là cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản, “một truyện hiện

đại đầu tiên của Việt Nam sáng tác theo lề lối Tây phương” [22, tr.87]. Tuy về giá trị

văn học, Truyện thầy Lazaro Phiềnchưa thể được xem là một cuốn tiểu thuyết đúng

nghĩa về kết cấu, cũng như kỹ thuật mô tả diễn biến tâm lý của nhân vật, nhưng giá trị

lớn nhất của Truyện thầy Lazaro Phiềnở chỗ đây là truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ

quốc ngữ, với phong cách ngôn ngữ “lấy tiếng thường mọi người hằng nói” [22,

tr.124], kết hợp với phong cách“chịu ảnh hưởng rõ rệt của Pháp ngữ” [109,

tr.276],“tránh lối mòn sáng tác cổ điển” [22, tr.125], nhằm mục đích “hầu cho kẻ sau

coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay, trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập

đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng: người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng

chẳng thua ai” [22, tr.125]. Truyện Thầy Lazaro Phiền là “dấu ấn rõ nét về sự tiếp xúc

ngôn ngữ giữa phong cách ngôn ngữ văn chương cổ điển Việt Nam và ngôn ngữ văn

chương Pháp” [115, tr.21]: “Vậy Thầy có biết ở trong làng ta có người con gái nào

chừng mười tám tuổi, thường đến thăm ta đây không?” Khi tôi nghe hỏi như vậy, thì

tôi giấu mặt lại cho nên ông Trùm mới cười mà nói rằng: “Bộ đây! Mi Lazare cũng

biết nàng ấy thì phải! Cho nên mới giấu mặt như vậy”. Khi tôi thấy ông già thầy Liễu

132

hiểu ý tôi đã có lòng thương người ấy, thì tôi quyết lòng nói thật ra rằng: “Thưa với

bỏ… Tôi có lòng thương cô ấy hơn một năm rưởi nay” [120, tr.344]

Tóm lại, tiểu thuyết trong văn học thời cận đại đã tiến bộ hơn nhiều so với tiểu

thuyết cũ trong việc dùng ngôn ngữ Việt,học theo kết cấu tiểu thuyết Pháp, xây dựng

được những cốt truyện, tình tiết, nhân vật khá phong phú, sinh động.

Nhờ khả năng biểu đạt đến mức hoàn chỉnh của chữ quốc ngữ, cùng với các thể

loại văn học vừa nêu, một hình thức thơ ca hiện đại cũng đã ra đời và phát triển ở Việt

Nam, bấy giờ gọi là Thơ Mới để phân biệt với những hình thức thơ ca trước kia. Sự ra

đời bản “tuyên ngôn nghệ thuật” của Phan Khôi in trên báo Phụ nữ tân văn (10-3-

1932) với nhan đề “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, cùng với một bài thơ

mới của ông mang tên Tình giàlà sự kiện chính thức đánh dấu sự ra đời của Thơ mới.

Điểm đặc biệt của bài thơ là nó đã phá vỡ các nguyên tắc của thi luật thơ cũ, mở đầu

cho sự xuất hiện rầm rộ các nhà thơ mới và các bài thơ mới về nội dung và hình thức.

Tiêu biểu như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược

Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh…

Càng về sau, Thơ mới càng khẳng định được chắc chắn địa vị độc tôn của mình

trên văn đàn. Nó “đã làm được một cuộc cách mạng dữ dội trong văn chương, làm

rung chuyển thi đàn dân tộc khi đem đến cho thơ ca những nội dung và hình thức mới

đoạn tuyệt hoàn toàn với thời đại văn học cũ. Nó đề cao và khẳng định cái tôi cá nhân,

chống lại ý thức nho giáo và tư tưởng vụ lợi tư sản, nó phủ nhận thực tại đen tối và bộc

lộ một lòng yêu nước tuy thiết tha nhưng yếu ớt. Thành công dễ nhận thấy là nó đã

sáng tạo nên một thứ ngôn ngữ thơ ca mới, câu thơ mới, tứ thơ mới hoàn toàn so với

trước. Nó đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của tư duy nghệ thuật của người Việt

Nam thời kỳ này. Thơ Mới quả đã đem đến cho thi đàn dân tộc những sắc màu mới

mẻ, lộng lẫy mà nếu thiếu nó ta khó lòng có thể hình dung hết được những cung bậc đa

đoan của tâm hồn dân tộc cùng những hình thức nghệ thuật vô cùng phong phú và tinh

tế trong một giai đoạn lịch sử đầy hào hùng và bi thương này” [37, tr.282]

Trên cơ sở sự trưởng thành của chữ quốc ngữ, đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ

XX, một hệ thống bao gồm hầu hết các thể loại văn học hiện đại đã xuất hiện. Chúng

được xây dựng và ngày càng hoàn chỉnh, vừa kế thừa được truyền thống văn học dân

133

tộc, vừa mang tính hiện đại, và hầu hết chúng đều thống nhất sử dụng tiếng Việt làm

công cụ nghệ thuật cho mình.

Như vậy, kể từ sau sự bùng nổ dữ dội của chữ quốc ngữ, cùng với những thay đổi

của điều kiện lịch sử - xã hội, một nền văn học mới đã xuất hiện, và phát triển theo

chiều hướng hiện đại hóa - nền văn học cận đại Việt Nam, lấy chữ quốc ngữ Latinh

hóa làm chất liệu nghệ thuật chính, đề cao tiếng Việt. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ

văn học chính thức duy nhất trên toàn cõi Việt Nam. Lần đầu tiên chữ quốc ngữ đã

thay thế vai trò lịch sử hàng nghìn năm của chữ Hán và chữ Nôm.

3.4. Nghệ thuật sân khấu

Nghệ thuật sân khấu truyền thống của người Việt phổ biến là các loại hình tuồng,

chèo, cải lương. Nhưng khoảng trước năm 1865, do sự khống chế của chữ Hán, việc

giáo dục văn hóa cho quần chúng nhân dân thông qua các hoạt động nghệ thuật này

hầu như là không đáng kể. Quần chúng học hỏi các loại hình nghệ thuật này chủ yếu

thông qua những thế hệ đi trước, truyền miệng lẫn nhau. Chỉ khi chữ quốc ngữ phát

triển, kịch bản các tác phẩm tuồng, chèo, cải lương, kịch nói mới được ghi chép lại

bằng chữ quốc ngữ và chuyền tay từ người này sang người khác, thế hệ này sang thế

hệ khác. Qua chữ quốc ngữ, các loại hình nghệ thuật này cũng là một trong những hình

thức giúp nâng cao dân trí.

3.4.1.Tuồng

Đầu thế kỉ XX, khi mà cuộc sống thành thị đã trở thành trung tâm của xã hội

thuộc địa nửa phong kiến, tuồng và chèo vẫn tiếp tục được sáng tác và được ghi chép

lại bằng một phương tiện mới là chữ quốc ngữ.

Đứng trước cuộc Âu hóa tư bản chủ nghĩa của thành thị thuộc địa, tuồng đã phải

tự thay đổi bản thân mình mới tồn tại được trong một xã hội thích sự thay đổi hơn là

những gì diễn ra một cách quy phạm, có thể biết trước, “ưa sầu cảm lâng lâng, phiêu

diêu tìm cái lạ, cái bất ngờ hơn là không khí bi hùng của những con người mang hia

đội mão, tranh chấp nhau trên sân khấu một cách ước lệ, tượng trưng” [41, tr.229].

Tuồng tân thời ra đời trong bối cảnh đó. Trong hai thập niên đầu của thế kỉ XX, ở

Sài Gòn đã xuất hiện các vở “tuồng tân thời” và “tuồng xuân nữ” phản ánh những cảnh

huống của cuộc sống đương thời, chạy theo thị hiếu của người thành thị. Nhưng vì

134

nghệ thuật non kém nên những kiểu tuồng này không cạnh tranh nổi với tuồng cổ, cải

lương và kịch nói.

Tuồng cổ trong bối cảnh xã hội mới đã có sự cách tân về “vũ khí” diễn tuồng,

đạo cụ, hóa trang, phục trang, đồng thời bắt đầu chịu ảnh hưởng của loại kịch “uyên

ương – hồ điệp” khai thác đề tài tình yêu éo le và loại kịch có đề tài “hiệp khách”

chuyên đi sâu vào những chuyện kiếm hiệp, giỏi kĩ thuật đánh đá trên sân khấu, để thu

hút người xem của phố phường chuộng hình thức lạ.

Ngoài ra, vào khoảng năm 1924, đã xuất hiện hiện tượng phỏng tác và đưa lên

sân khấu tuồng các vở kịch cổ điển Pháp.Vở tuồng đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là

Tuồng Joseph (xuất bản năm 1888) của Trương Minh Ký. Tuồng Joseph “khác biệt

những tuồng và chèo trước đó ở tính tự sự, trữ tình và hoàn toàn không có một câu văn

hay thơ chữ Hán” [66, tr.121]. Tuy nhiên, cách cấu tạo vẫn theo truyền thống chuyển

tải đạo lý Á Đông dù là đề tài đạo.

“Phong điều võ thuận,

Quốc thới dân an.

Trong vẻo nước sông vàng,

Lặng trang trời biển đó.

Joseph là tên mỗ,

Quê quán ở Chanaan.

Như tôi, thung dung rèn tới bực tài năng,

Kềm thúc luyện theo đàng nhơn đức.

Thỉ chung một mực” [120, tr.348]

Ngoài ra sau này còn có các tác giả Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Hữu Tiến viết các

vở tuồng lấy đề tài từ lịch sử chống ngoại xâm hoặc từ truyện dân tộc, cố gắng bộc lộ

tâm sự yêu nước, gián tiếp lên án bọn xâm lược và tay sai của chúng, đề cao ý thức tự

hào dân tộc: Thù chồng nợ nước, Đông A song phụng, Hoa Tiên…

Ngoài ra, các khu vực nhà thờ xưa cũng hay tổ chức cho giáo lẫn lương xem

tuồng có sự pha chế tuồng vọng cổ với tuồng Tây. Đề tài các tuồng này thường được

lấy trong Kinh Thánh hay truyện các Thánh. Một số tuồng nổi tiếng như: Thương Khó,

Alêxù, Lương tâm đấng linh mục… Vào năm 1930, Đức Giám mục Nguyễn Bá Tòng

135

khi chưa làm Giám mục có soạn lại tuồng Thương khó và cho diễn ở Tân Định rất

thành công. Năm 1935, Michel Mỹ cũng soạn lại tuồng Lương tâm đấng linh mục,

được nhiều rạp ở miền Tây diễn rất hấp dẫn.

3.4.2.Cải lương

Nam Kỳ là cái nôi sản sinh ra cải lương, một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ

sinh hoạt ca vũ nhạc dân gian, như “nói thơ”, hò lý, các bản nhạc Bắc có đệm đàn ở

các chợ, nơi họp làng, ở các nhà giàu. Nói thơ không phải là cầm các bản thơ để đọc,

cũng không ngâm như ở miền Bắc ngâm Kiều. Thực ra, đó là “một kiểu ngâm đơn

giản, không cầm sách vở - vì đã thuộc lòng – nhưng khi diễn đạt nghe có vẻ nhảy nhót,

biến chuyển linh hoạt tiết tấu trong âm điệu. Nói thơ cũng diễn tả đủ những cung điệu

bổng trầm, có điều thường là dí dỏm chứ không rên rỉ, kể cả khi đến những chỗ rất bi

ai” [120, tr.414-415]. Nói thơ ở Nam Kỳ phổ biến đến độđưa đò cũng nói thơ, cấy lúa,

gặt lúa, đào ao cũng nói thơ… Bạn bè họp mặt cũng nói thơ. Thức đêm canh gác cũng

nói thơ. Quần chúng nói thơ rồi cũng ngẫu hứng tham gia sáng tác.

Nghệ thuật kịch hát cải lương đã ra đời trực tiếp từ những hình thức nói thơ đó.

“Thoạt đầu, kẻ đàn người ca, tài tử ngồi ca và một tài tử đóng đủ mọi vai trong sinh

hoạt “nói thơ”. Về sau, tài tử “ca ra bộ”, rồi mỗi tài tử đóng một vai có hóa trang. Đó

là ca cải lương” [41, tr.230]. Vở Pháp - Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) được

diễn tại rạp hát Tây Sài Gòn đêm 16 – 11 – 1918 đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải

lương.

Sau đó, đến năm 1920, lần đầu tiên cải lương mới xuất hiện rầm rộ ở Sài Gòn với

các vở Trang Tử thử vợ vàKim Vân Kiều diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp Modern Sài

Gòn... Lúc này hát cải lương mới thật sự hình thành. Trước công chúng thành thị,

trong đó có trí thức thích văn học Pháp và trước sự tiếp xúc với kịch nói, nên ca cải

lương phải trình diễn trên sân khấu bằng những vở đã được soạn sẵn bằng chữ quốc

ngữ. Nghệ thuật sân khấu ca kịch cải lương ra đời làm phong phú thêm các loại hình

nghệ thuật hát tự sự dân tộc. Người ta phải dựa vào các vở tuồng cổ để xây dựng kịch

bản cho cải lương với những đề tài trong lịch sử phù hợp với thị hiếu thành thị

(như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo

136

mộ, Thoại Khanh Châu Tuấn...), những đề tài trong cuộc sống đương thời nặng về sầu

cảm lâm ly (như Tội của ai, khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường...)

Phổ biến rộng rãi ngoài dân gian là loại tuồng cải lương vọng cổ như Thích Ca

đắc đạo, Quan Âm du địa phủ, Địch Thanh kết duyên Thoại Ba, Triệu Khuôn Dẫn gặp

Tố Mai, Lưu Bị cầu hôn Giang Tả, Triệu Tử đoạt ấu chúa, Tiết Đinh San cầu Lê

Huê…

Năm 1919, với việc vở “Bội phu quả báo” của Phạm Công Bình được diễn tại

Sài Gòn, đánh dấu đây là vở được biết sớm nhất trong việc đưa vọng cổ vào tuồng cải

lương có bố cục màn, lớp chặt chẽ như một kiểu nhạc kịch đặc thù của Nam Bộ.Kể từ

sự kiện đó, dần dần có cả một đội ngũ chuyên nghiệp ồ ạt đi phiên dịch tuồng tích Tàu,

chuyên viết những bài ca cải lương, những bản đờn cò, đờn lục huyền… “Thậm chí có

tác giả một năm viết được mấy chục vở tuồng cải lương!” [120, tr.415-417]. Những

tên tuổi nổi bật nhất trong việc dịch và soạn cải lương vọng cổ ở Nam Bộ là Sáu Lầu,

Mộng Trần, Nguyễn Chánh Sắt, Vương Gia Bất, Phạm Công Bình, Nguyễn Hiển

Phú… Soạn giả Trần Phong Sắc được liệt vào hàng “những soạn giả hữu danh” [45,

tr.226] trong giai đoạn hình thành nền ca kịch cải lương (1917 – 1923) với các vở

Đinh San chinh Tây (1913),Sát thê cầu tướng (1927), Quan Công thất thủ Hạ Bì

(1927)… Cùng với đó là Trương Duy Toản, là thầy tuồng [đạo diễn] của gánh hát lớn

nhất lúc bấy giờ của thầy Năm Tú tại Mỹ Tho. Ông là tác giả những vở như Kim Vân

Kiều, Lục Vân Tiên, Trang Châu mộng hồ điệp… Còn về diễn viên được đông đảo

quần chúng hâm mộ thì có Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Phùng Há, Năm Phỉ…

3.4.3.Kịch nói

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ở Nam Kỳ xuất hiện thêm hình thức nghệ thật

mới, chịu ảnh hưởng của văn học nghệ thuật Pháp: kịch nói. Vì vậy, bên cạnh những

kịch bản sân khấu của chèo, tuồng, cải lương, ở thời kì này người ta còn sáng tác kịch

bản kịch nói.

Nhờ khả năng phổ biến của chữ quốc ngữ, mọi tầng lớp xã hội Việt Nam đều có

thể dễ dàng tiếp xúc với loại hình nghệ thuật mới này ngay từ khi nó mới xuất

hiện.Bên cạnh đó, một phần cũng do chính quyền Pháp đã đưa nhiều tư liệu về văn học

Pháp vào chương trình giáo dục trong các trường tiểu học và trung học Việt Nam,

137

nênngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, các trí thức tân học đã được học kĩ, thậm chí

được học đến thuộc lòng các vở kịch nói với các loại bi kịch, hài kịch, hỷ kịch của

kịch nói Pháp. Bên cạnh đó, công chúng thành thị đầu thế kỉ XX cũng đã tiếp xúc với

các vở kịch nói của Molière được dịch đăng trên các tạp chí thời đó. Công chúng thành

thị cũng đã được xem diễn các vở kịch của văn học Pháp. Như vậy, ở Việt Nam kịch

nói đã bắt rễ vào cuộc sống ở thành thị, đã bắt rễ vào những người trí thức đọc kịch

nói, những người dịch kịch nói và những người sắm các vai trong các vở kịch nói của

văn học Pháp, trình diễn trên sân khấu.

Lúc bấy giờ nhà hát, rạp hát mọc lên rất nhiều ở thành phố, hoạt động liên tục

365 ngày để đáp ứng yêu cầu giải trí của công chúng. Tuy nhiên, sân khấu lúc bấy giờ

còn thiếu kịch bản kịch nói. Nhưng “chẳng lẽ cứ diễn đi diễn lại một số vở kịch nói

của văn học Pháp, vả lại, diễn các vở kịch của nước ngoài thì phải khắc phục bao

nhiêu khó khăn về hóa trang, trang phục, ngôn ngữ, dàn dựng phong cảnh… Do đó,

công chúng thôi thúc viết kịch nói, viết bằng chữ quốc ngữ” [41, tr.230]

Vở kịch nói đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, đó là Tuồng Cha Minh (1881), là một

“vở kịch nói kiểu Tây phương hoàn chỉnh, nghĩa là nó hội đủ những đặc điểm của một

vở kịch, thuộc loại kịch tự sự và tác giả của nó đã Việt Nam hóa bố cục và đối thoại

dùng ngôn ngữ nói của dân gian” [66, tr.131]. Theo giáo sư Phạm Thế Ngũ, có thể

xem Tuồng Cha Minh là hình thức kịch nói sơ đẳng, là những “truyện đối thoại giữa

hai ba nhân vật chia làm hai ba hồi trong khuôn khổ một cột báo và có tính luân lý trào

phúng” [63, tr.601]

Về nghệ thuật, kịch nói mang một hình thức nghệ thuật hoàn toàn mới lạ, hấp

dẫn nên nó đã nhanh chóng chinh phục được giới thị dân và trí thức Tây học ở thành

thị Việt Nam:“Kịch nói thường có tiết tấu nhanh, ngôn ngữ, hành động sinh động, hấp

dẫn, hiện thực, xung đột kịch thường bất ngờ, căng thẳng, đầy kịch tính, rất phù hợp

với thị hiếu của những con người của thành thị Việt Nam” [37, tr.252]. Ưu thế lớn nhất

của kịch nói là khả năng đưa lên sân khấu cuộc sống bình thường, hằng ngày. Chính vì

vậy, những vở kịch nói đầu tiên do người Việt Nam sáng tác bằng chữ quốc ngữít

nhiều đã được dư luận chú ý và lan rộng ra ở miền Bắc: Người Bệnh Tưởng (Nguyễn

138

Văn Vĩnh dịch), Mảnh Gương Đời (Trần Tuấn Khải), Chén thuốc độc (Vũ Đình

Long), Chàng ngốc (Nam Xương), Hoàng Mộng Điệp (Vi Huyền Đắc)…

Nội dung của kịch nói chủ yếu tập trung vào phản ánh sự thay đổi của đạo đức,

lối sống ở thành thị tư sản hóa, dựng lên trước mắt công chúng những quan hệ tư sản ở

một nước thuộc địa nửa phong kiến như những quan hệ phi đạo đức, vô nhân đạo, độc

ác. Kịch nói gián tiếp phê phán chính sách lừa bịp và chính sách văn hóa nô dịch của

thực dân, đòi giải phóng tình cảm, nhìn những quan hệ đó dưới góc độ đạo đức, lương

tri, muốn sửa chữa những tệ lậu xã hội bằng đạo đức của con người. Kịch nói là kết

quả của tiếp xúc giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và văn hoá nghệ thuật phương Tây.

Tuồng, cải lương, kịch nói đều là những loại hình nghệ thuật được viết nên bằng

chất liệu là chữ quốc ngữ, góp phần chủ yếu trong việc giáo dục văn hóa, phổ biến

kiến thức phổ thông cũng như phổ cập những tư tưởng tiến bộ của thế giới, tư tưởng

yêu nước đến với quần chúng nhân dân một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, dưới ách

thống trị của thực dân Pháp thì mọi lãnh vực văn hóa, văn nghệ, kể cả sân khấu, đều bị

chính quyền thực dân lợi dụng để gieo rắc những tư tưởng thân Pháp, thỏa hiệp, có lợi

cho sự cai trị của chúng. Nhưng chính nhờ những người nghệ sĩ nhân dân đã khéo léo

sử dụng sự công khai mà thực dân Pháp đã tạo ra để truyền bá những tư tưởng tiến bộ,

khơi gợi lòng yêu nước của quần chúng, đồng thời tận dụng cơ hội để giáo dục văn

hóa, nâng cao dân trí cho quần chúng.

3.5. Di sản Hán – Nôm

Có thể nói, sau khi chữ quốc ngữ phát triển hoàn chỉnh đến mức có thể đảm nhận

mọi khả năng diễn đạt trên văn bản và được toàn xã hội chấp nhận, sử dụng một cách

rộng rãi thì chữ Hán và chữ Nôm dường như mất hết mọi vai trò và có khả năng lớn là

sẽ bị lãng quên, mai một. Tuy nhiên, sự thật lại hoàn toàn không diễn ra như thế.

Chính những người cổ xúy mạnh mẽ nhất cho sự phát triển của chữ quốc ngữ lại cũng

là những người sớm thấy được khả năng thất thoát của kho di sản Hán – Nôm, và do

đó, chính họ cũng đã nổ lực trong việc bảo vệ những di sản đó.

Như vậy là có sự gắn bó mà không xóa bỏ lẫn nhau giữa chữ quốc ngữ và chữ

Hán – Nôm. Đây là một điều thú vị trong lịch sử phát triển chữ viết ở Việt Nam. Sự

phát triển của chữ Nôm vốn dĩ dựa trên nền tảng của chữ Hán, vì thế người Việt trước

139

kia phải học đồng thời cả hai loại chữ này. Trong khi đó, có lẽ do người Việt Nam có

một đức tính đáng quý là tinh thần trân trọng những di sản của cha ông, cho nên ngay

từ buổi đầu mới ra đời tất cả những quyển từ điển tiếng Việt đều được biên soạn đồng

thời đối chiếu cả 3 loại chữ viết: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.

Công cuộc bảo vệ di sản Hán Nôm này thể hiện thông qua những tác giả và tác

phẩm tiểu biểu sau:

Trương Vĩnh Ký năm 1875 đã trở thành người Việt Nam đầu tiên tại Sài Gòn

thực hiện việc phiên âm chữ Nôm ra chữ quốc ngữ cuốn Kim Vân Kiều. Sau đó ông

tiếp tục phiên âm, xuất bản hàng loạt tác phẩm Hán-Nôm khác như: bộ Tứ Thơ (1889)

– điển hình cho các tác phẩm dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ, từ chữ Nôm ra chữ

quốc ngữ cóNữ Lưu (1882), Lục Vân Tiên(1883), Gia Huấn Ca (1883), Lục Súc Tranh

Công (1887), Phan Trần Truyện (1889)…

Ngoài ra, Trương Vĩnh Ký còn là người đi tiên phong trong việc phiên âm và

dịch nghĩa các tác phẩm Hán văn, với cách phiên dịch mà ngay cả các nhà Hán học

ngày nay cũng phải nể phục. Trong công việc phiên dịch, ông phân chia ra nghĩa đen,

nghĩa bong rồi giải thích cặn kẽ, rồi thêm phần luận bàn hết sức bổ ích cho người đọc.

Điển hình hơn cả là bộ Minh tâm bửu giám ấn hành trong các năm 1891 và 1893, tập

hợp những hoa văn hóa Á Đông. Có thể nói, trong lĩnh vực phiên dịch ra chữ quốc

ngữ, Trương Vĩnh Ký là người đi tiên phong, mở đầu cho những tác phẩm văn học

dịch thuật sau này.

Trương Minh Ký cũng là người “đã địch tác phẩm văn học từ chữ Hán ra chữ

quốc ngữ sớm hơn nhiều nhà cầm bút khác, ngay từ cuối thế kỉ XIX”. “Trương Minh

Ký chẳng những là người mở đầu việc dịch thuật văn học Hán – Việt mà còn là người

đi tiên phong trong văn học dịch Pháp – Việt nữa” [22, tr.87]. Tác phẩm dịch tiêu biểu

của Trương Minh Ký có Kinh Thi, Ấu học khải mông, Tiểu học gia ngôn diễn nghĩa,

Trị gia cách ngôn, Ca từ diễn nghĩa, Chuyện Télémauqe gặp tình cờ, Truyện Phan Sa

diễn ra quốc ngữ, Truyện nhi đồng Francinet…

Bên cạnh đó, một trong những học trò tên tuổi của Trương Vĩnh Ký là Diệp Văn

Cương. Tác phẩm tiêu biểu của ông là cuốn “Việt Nam luân lý tập thành” (1917). Sách

gồm 53 trang và phần dẫn chú gồm 36 trang. Phần dẫn chú là phần tác giả soạn để

140

dành cho những độc giả nào muốn tra tận nguyên văn chữ Hán những câu Hán văn mà

tác giả đã trưng dẫn trong sách. Toàn bộ nội dung sách là tác giả rút lấy những tinh

hoa trong Hán học để dạy luân lý về “Ơn cha nghĩa mẹ”, “Đạo làm con”, “Ông bà”.

Trích một đoạn trong “Đạo làm Thầy”: Lúc con người còn hãy ấu thơ, thì muốn

việc chi cũng nhờ có cha mẹ. Đến khi tuổi vừa khôn lớn thì theo thầy nấu sử xôi kinh;

từ đó cho đến thành nhơn, hoặc nên hoặc hư, bao nhiêu trách nhiệm cũng về phần

thầy. Nên sách Thông Thơ nói rằng: “Thầy là để mà dứt điều độc ác của con người,

sửa điều tà vạy của con người”[120, tr.430]

Tác phẩm của Diệp Văn Cương đã nối liền hai loại chữ viết cũ và mới, chữ quốc

ngữ và chữ Hán. Nó giải quyết mối lo ngại của một số trí thức thời bấy giờ về việc

không có sách để học chữ quốc ngữ. Nó cũng cho thấy những trí thức yêu nước cổ vũ

chữ Quốc ngữ cũng đều là những người biết quý trọng các di sản Hán Nôm của những

người đi trước. Chính nhờ có những tác phẩm như Việt Nam luân lý tập thành mà chữ

quốc ngữ mới thực sự phát huy được vai trò là phương tiện giữ gìn và bảo vệ di sản

Hán Nôm của tiền nhân.

Ngoài các tác giả, tác phẩm trên, còn có những tác phẩm văn thơ yêu nước viết

bằng chữ Nôm mà sau này được nhân dân ta ghi chép lại bằng chữ quốc ngữ. Năm

1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công vào Gia Định, thành Sài Gòn bị vây hãm, Đô

đốc Sài Gòn là Võ Duy Ninh thắt cổ chết ở Phước Lý. Ngày 25 – 2 – 1861, đại đồn

Chí Hòa tan vỡ, Nguyễn Tri Phương bị thương cùng thuộc hạ tháo chạy. Sài Gòn –

Gia Định lọt hẳn vào tay thực dân Pháp. Nhân dân Sài Gòn căm hận, lòng ái quốc của

tầng lớp sĩ phu từ đây được bộc lộ chủ yếu qua văn thơ dưới nhiều hình thức. Có thơ

viết bằng chữ Nôm còn lưu đến tận ngày nay. Có thơ viết ra nhưng sợ họa thực dân

nên đọc thuộc lòng rồi hủy mất, chỉ truyền miệng cho nhau, về sau mới được ghi lại

bằng chữ quốc ngữ. Những bản văn Nôm sôi sục lòng yêu nước và uất hận ngoại xâm

đó nhanh chóng nhận được sự đồng cảm và lan truyền trong quần chúng nhân dân.

Nhưng chữ Nôm ngay cả trong giai đoạn phát triển mạnh nhất cũng chưa từng là

thứ chữ viết được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân, huống chi vào thời

điểm này nó đã sắp suy tàn. Vì thế, chữ quốc ngữ nhanh chóng trở thành công cụ hiệu

quả trong việc hỗ trợ sự truyền bá các bản văn Nôm. Nhiều tác giả Nôm vốn ghét cay

141

ghét đắng chữ quốc ngữ - như Nguyễn Đình Chiểu chẳng hạn - nhưng tác phẩm của họ

lại nhờ có chữ quốc ngữ mà được phổ biến rộng khắp cũng như được ghi chép, truyền

lại đến ngày nay.

Thời bấy giờ các tác phẩm yêu nước tiêu biểu sau này được ghi chép hoặc dịch

lại bằng chữ quốc ngữ có: bài Tuyệt cốc của Phan Thanh Giản (1796 – 1867); các bài

Khóc Phan Thanh Giản, Khóc Trương Công Định, Văn tế nghĩa quân, Thảo thử hịch

của Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888); Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa

(1807 – 1872); Tiệc rượu nam Thành của Trần Kim Phụng; rồi các bản văn khác của

Tôn Thọ Tường (1825 – 1877), Phan Văn Trị (1830 - ?), Huỳnh Mẫn Đạt (? - ?),

Nguyễn Hữu Huân…

Có thể nói, vai trò của chữ quốc ngữ trong việc hỗ trợ sự truyền bá các tác phẩm

Nôm là một hiện tượng độc đáo và vô cùng thú vị trong lịch sử phát triển của tiếng

Việt. Cũng chính trong sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các loại chữ Hán – chữ Nôm –

chữ quốc ngữ nhằm phục vụ những nhu cầu diễn đạt tâm tư tình cảm, phổ biến kiến

thức mà tiếng Việt nửa sau thế kỉ XIX mới có điều kiện được mài dũa, tôi luyện để

nhanh chóng phát triển thành một thứ ngôn ngữ phong phú, nhuần nhuyễn, bén nhọn

và cực kỳ sâu sắc. Trong lĩnh vực này, chữ quốc ngữ đã đóng một vai trò vô cùng hiệu

quả, bởi vì giữa lúc chữ Hán và chữ Nôm đang dần tàn lụi, nếu không có sức sống mới

do chữ quốc ngữ mang lại thì chắc chắn là những văn bản Hán - Nôm của những

người đi trước có thể sẽ dần đi vào quên lãng.

3.6. Quá trình đô thị hóa

Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm số dân đô thị hay

diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng, một khu vực. Nếu theo

cách tính này thì đô thị hóa còn được gọi là mức độ đô thị hóa. Ngoài ra, tỷ lệ gia tăng

của số dân và diện tích đô thị cũng có thể được tính theo thời gian và như vậy sẽ được

gọi là tốc độ đô thị hóa.

Trong lịch sử, do vị trí địa kinh tế cực kỳ thuận lợi nên quá trình đô thị hóa ở Bến

Nghé - Sài Gòn diễn ra tương đối sớm và rất nhanh chóng, nhất là dưới thời Pháp

thuộc. Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định, người Pháp liền bắt tay vào xây dựng

Sài Gòn như một trung tâm của ba tỉnh miền Đông và chừng 5 năm sau là thủ phủ của

142

cả vùng Nam Kỳ Lục tỉnh. Để làm được điều đó, người Pháp dùng nhiều biện pháp

đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy, mở mang đường sá, phố phường, trong đó

việc áp đặt một guồng máy hành chính mới theo kiểu phương Tây cũng là một việc

làm không kém phần quan trọng để xây dựng Sài Gòn thành một đô thị của sự hiện

diện văn minh phương Tây. Chữ quốc ngữ cũng tham gia vào quá trình này.

Nhận ra ngay sự tiện lợi của chữ quốc ngữ trong việc giao tiếp với người dân bản

xứ và điều hành guồng máy hành chính cai trị, người Pháp nhanh chóng lợi dụng loại

chữ viết này để phục vụ cho những ý đồ của mình. Do đó, nhiều nghị định được ban

hành buộc tất cả các giấy tờ của nhà nước phải được viết bằng chữ quốc ngữ, không

dùng chữ Hán trong những văn thư chính thức như trước đây, mọi sự tuyển dụng nhân

sự phải dựa vào khả năng biết chữ quốc ngữ, sử dụng chữ quốc ngữ trong trường

học…

Nghị định ngày 22 – 2 – 1869 của Thống đốc Ohier buộc dùng chữ quốc ngữ

trong các giấy tờ chính thức. “Điều 1. Kể từ 1 – 4 – 1869 tất cả giấy tờ chính thức:

nghị định, quyết định, án lệnh, phán quyết, thông tư… đều sẽ được viết và công bố

bằng mẫu tự Âu châu, với những chữ ký của các người có thẩm quyền. Điều 2. Không

một bản dịch nào những văn thư đó bằng chữ Nho sẽ có tính cách đích thực và chỉ có

thể được nhận với tư cách chỉ dẫn; nhưng một bản dịch bằng chữ Nho các nghị định

và luật lệ để dán thông cáo sẽ được để trên cùng một tờ giấy, bên bản văn bằng tiếng

An Nam” [114, tr.11].

Nghị định có ý nghĩa hơn cả là Nghị định ngày 6 – 4 – 1878 quyết định sau 4

năm nữa sẽ phế bỏ hoàn toàn chữ Hán trong lĩnh vực hành chính và buộc đội ngũ nhân

viên phải là những người viết được quốc ngữ: “Điều 1. Kể từ ngày 1 – 1 – 1882, tất cả

những văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị… sẽ

được viết, ký và công bố bằng chữ An Nam mẫu tự Latinh. Điều 2. Kể từ ngày trên,

không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép

trong ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai không viết được chữ quốc ngữ” [6,

tr.52].

Đối với công chức người Pháp, Nghị định ngày 23 – 7 – 1879 quy định: “Những

công chức và nhân viên mọi ngạch hành chánh dân sự ở Nam Kỳ, các quan tòa, sĩ

143

quan và hạ sĩ quan phụ trách việc chỉ huy binh lính nếu được chứng minh trước một

Hội đồng Giám khảo, là biết tiếng An Nam, sẽ được thưởng trong thời gian ở thuộc

địa, một trợ cấp hằng năm là 100$ về viết được chữ quốc ngữ…” [Xem 128]. Từ rất

sớm trước đó, các trường thông ngôn đã được chính quyền Pháp lập ra ở Nam Kỳ cũng

nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ nhân viên cho guồng máy hành chính mới mà ở

đó “những môn học chỉ nhằm vào tiếng Việt viết bằng mẫu tự Latinh” [114, tr.23]. Về

sau, Nghị định ngày 14 – 6 – 1880, cho phép những thị trấn nào của tổng mà không có

trường Pháp sẽ được mở một trường dạy chữ quốc ngữ.

Ngoài ra, thông tư ngày 28 – 10 – 1879 của Le Myre De Vilers quy định “những

mẫu tự Latinh sẽ được dùng để viết thư từ chính thức với tất cả những làng biết thứ

chữ trên” [114, tr.14], đồng thời thông tư này còn quy định thưởng từ 50 đến 100 đồng

cho những làng nào viết được các công văn bằng quốc ngữ.

Mục đích của các nhà cầm quyền Pháp khi đưa ra những nghị định, thông tư quy

định sử dụng quốc ngữ trong công tác hành chính là nhằm có được “những nhân viên

bàn giấy của các quan đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ”[dẫn theo 114, tr.24], góp

phần vào mục tiêu lâu dài “làm tiêu tan dần dần chữ Nho… một cản trở to lớn đối với

sự phát triển của nền văn minh châu Âu” [6, tr.52]. Việc áp dụng chữ quốc ngữ trong

hành chính được nhà cầm quyền Pháp coi là một chính sách quan trọng hàng đầu, nên

họ đặc biệt chú ý và tìm mọi cách để thi hành triệt để và nhanh chóng, đồng thời có

những biện pháp khác hỗ trợ, chẳng hạn khuyến khích bằng những giải thưởng cho

những người Pháp học chữ quốc ngữ, những tiền thưởng cho những giáo viên dạy chữ

quốc ngữ, hoặc mở kì thi soạn một cuốn niên giám để truyền bá chữ quốc ngữ… Đặc

biệt là việc thiết kế và xây dựng các đô thị đầu tiên ở khu vực Sài Gòn – Gia Định với

những công sở, bưu điện, nhà ga, cảng, các cơ quan quân sự, cơ quan hành chính.

Nhờ vậy, quá trình đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng, tạo nên một nếp sống

thành thị hóa. Bộ mặt cuộc sống ở đô thị và các khu vực hành chính, công sở, dinh thự,

trường học hoàn toàn là những điều mới mẻ đối với người Việt. Những người trẻ,

những trí thức đổ về các trường quốc ngữ, trường Pháp – Việt để học, những quân

nhân đến học ở các trường thông ngôn… ngày càng đông. Họ trở thành những nhân

viên phục vụ cho các cơ quan hành chính, bưu điện, trường học ở các đô thị… Do đó,

144

quá trình tập trung dân cư vào các đô thị càng được thúc đẩy nhanh chóng. Những

công chức thông thạo chữ quốc ngữ làm việc trong guồng máy hành chính được chính

quyền Pháp tạo “mọi sự dễ dàng dành cho họ”, không chỉ có khen thưởng, nâng ngạch

lương, họ còn được làm việc trong những đô thị có điều kiện hết sức thuận lợi như

đường phố được mở rộng, lát đá hoặc rải nhựa, với vỉa hè có đèn chiếu sáng ban đêm,

có cây xanh tạo bóng mát ban ngày, có phương tiện chuyên chở, đi lại hiện đại, ô tô,

các loại xe kéo, xe điện và đặc biệt là tàu hỏa, tàu thủy... Những hình ảnh này chưa

từng xuất hiện ở Nam Kỳ trước năm 1862. Các thành thị đã trở nên tấp nập khi thu hút

ngày một đông đảo những người dân quê đến buôn bán, đi học, làm công chức, viên

chức… Hệ thống công sở của Pháp đã thu hút “hơn 30.000 nhân viên” [62, tr.139].

Một môi trường văn hóa đô thị có chiều sâu ngày càng hấp dẫn và ảnh hưởng

mạnh mẽ đến giới trí thức Tây học người Việt đang hình thành. Sự ra đời các cơ quan

khoa học vừa phục vụ trực tiếp cho chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp,

nhưng cũng rất cần thiết cho sự phát triển “dân trí” của người Việt; các thư viện và văn

khố chứa các loại sách và lưu trữ các văn kiện chính thức để làm sử liệu; trường Viễn

Đông Bác Cổ chuyên nghiên cứu về nhân chủng, văn minh Việt Nam và các nước

Đông Á; sự xuất hiện các nhà in quốc ngữ để “gia tăng những giao dịch giữa nhà cầm

quyền và dân chúng” [114, tr.17]

Thông qua quá trình đào tạo đội ngũ công chức thông thạo quốc ngữ cho bộ máy

công quyền, người Pháp cũng đồng thời đưa vào Nam Kỳ những kỹ nghệ quản lý đô

thị học, hành chính học theo kiểu phương Tây, thậm chí được biên soạn thành giáo

trình sử dụng trong các trường thông ngôn. Về sau được dịch ra chữ quốc ngữ. Lần

đầu tiên người Việt Nam cũng được thấy sự đa dạng của hệ thống luật pháp theo kiểu

phương Tây, mà Nam Kỳ là nơi đầu tiên được người Pháp áp dụng. Người Pháp cũng

tạo ra thói quen dùng bản đồ, các tập công báo, các tập thống kê, sổ lương và thẻ căn

cước.

3.7. Hoạt động đấu tranh cách mạng

Trong khi chính quyền Pháp dùng chữ viết theo mẫu tự Latinh như một vũ khí lợi

hại để đánh bại Nho học, một công cụ hữu hiệu của chính sách đồng hóa... thì những

nhà cách mạng Việt Nam cũng sớm nhận ra khả năng của quốc ngữ trong việc mở

145

mang dân trí, tuyên truyền cách mạng, giáo dục lòng yêu nước nhằm phục vụ cho mục

tiêu cuối cùng: đánh đuổi thực dân Pháp.Trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1914), ở

Việt Nam,vốn dĩ phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa đã đóng

vai trò quan trọng trong sự phát triển chữ quốc ngữ. Sau chiến tranh, xuất hiện thêm

phong trào yêu nước cộng sản, cả hai sẽcó tác động lớn và mỗi lúc thêm sâu rộng

trong việc “làm giàu, mài sắc chữ quốc ngữ” [67, tr.199].

Ngược lại, chỉ với chữ quốc ngữ, những đường lối, chủ trương cách mạng của

Đảng Cộng sản mới có thể đi sâu vào quần chúng, đến với mọi tầng lớp người lao

động. Những người cộng sản Việt Nam đã khéo léo tận dụng mọi lĩnh vực văn hóa cho

tuyên truyền đấu tranh cách mạng, tiêu biểu là truyền đơn, báo chí, sách vở, văn học,

giáo dục quần chúng... vì đây lànhững lĩnh vực có ảnh hưởng và gần gũi với quần

chúng, nơi mà chữ quốc ngữ thể hiện rõ nhất vai trò, khả năng diễn đạt của mình, nơi

mà chữ quốc ngữ có thể chuyển tải được tư tưởng cách mạng nhiều nhất“đến tận tay

quần chúng góp phần đắc lực vào việc tuyên truyền, cổ vũ, động viên tổ chức lực

lượng đấu tranh Cách mạng” [86, tr.172]

Trên mặt trận báo chí, những người cộng sản xem báo chí là phương tiện xây

dựng, truyền bá văn hóa, đóng vai trò xung kích trong công tác tư tưởng. Các tổ chức

cách mạng theo đường lối cách mạng vô sản rất coi trọng xuất bản báo chí, xem đó là

vũ khí chiến đấu cực kỳ quan trọng, không thể thiếu được trong đấu tranh. Vì vậy, sau

khi thành lập, một trong những nhiệm vụ trước mắt của các tổ chức cách mạng là tìm

mọi cách để xuất bản báo hoặc tạp chí làm cơ quan ngôn luận, đấu tranh của mình.

Ngay từ năm 1925, báo Thanh niên của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (do

Nguyễn Ái Quốc tổ chức) đã được phát hành đều đặn mãi đến đầu năm 1930. Nội

dung chủ yếu là khơi sâu lòng căm thù giặc, cổ vũ nhân dân nổi dậy làm cách mạng.

Đây là tờ báo đóng vai trò mở đầu cho việc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước theo

quan điểm Mác-Lênin, được thanh niên yêu nước say sưa đọc.

Sang năm 1930 trở về sau, báo cách mạng do Đảng cộng sản chủ trương trong bí

mật rất là phong phú, kỳ nào, tỉnh nào, xí nghiệp lớn nào cũng có báo, chưa kể sách

[67, tr.199]. Nhất là vào thời kỳ Chính phủ mặt trận bình dân (bên Pháp), báo chí, sách

của cộng sản phát hành ngày một nhiều. Bấy giờ tại Nam Kỳ, có tờ Tuần báo Thanh

146

Niên xuất bản ở Sài Gòn (số đầu tiên ngày 27 – 9 – 1941), được Huỳnh Tấn Phát mua

lại và làm chủ nhiệm, ra số đầu tiên vào 7 – 8 – 1943.Đây là tờ báo cách mạng“mang

nặng tính tranh đấu” [22, tr.201]chủ trương kêu gọi, động viên, cổ vũ, nuôi dưỡng lòng

tin cho thanh niên – những “phần tử tráng kiệt của dân tộc, cố nhiên phải lãnh trách

nhiệm nặng nề hơn hết” [dẫn theo 47, tr.141], phải làm cho “nước sẽ mạnh, đời sẽ

đẹp” [dẫn theo 47, tr.143], và “gây tình đoàn kết giữa người Việt ba kỳ, khuyến khích

hoạt động để chứng tỏ sức sống của người Việt” [dẫn theo 47, tr.142]. Để thực hiện

tinh thần đoàn kết, tờ báo này kêu gọi thống nhất tiếng Việt, xem đâylà một điều kiện

để đi đến đoàn kết dân tộc: “Tiếng nói là tinh thần của dân tộc. Tiếng nói có thống

nhứt thì dân tộc mới giữ được tinh thần đoàn kết. Có đoàn kết thì mới mạnh, có mạnh

thì mới sống… Muốn hợp nhứt, chỉ có một cách là ai cũng như ai, coi tiếng nói Trung

– Nam – Bắc đều là tiếng Việt”. Thống nhất tiếng Việt được xem là “một công việc

quốc gia, cần cho sự thống nhứt tinh thần dân tộc, vì tiếng nói là tinh thần dân tộc…

Sẽ không còn tiếng Bắc, tiếng Nam, mà chỉ có tiếng Việt của bạn và của ta. Bắc Nam

cùng người Việt” [dẫn theo 47, tr.147]. Có lẽ vì vậy mà từ năm 1940 đến 1945, Thanh

niên là tuần báo duy nhất tập hợp được nhiều cây bút ở cả ba miền đất nước. Tính

thống nhất của tiếng Việt là phương tiện thuận lợi cho vận động cách mạng trên mọi

miền đất nước. Không những vậy, chữ quốc ngữ thời kì này còn có khả năng thể hiện

được những bản nhạc sống độnglàm rung động lòng người, nung sôi bầu nhiệt huyết

cho thanh niên, kêu gọi thanh niên lên đường đấu tranh của các nhạc sĩ Lưu Hữu

Phước, Lê Thương, Lưu Nguyễn, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn. Nhờ tính thống

nhất của tiếng Việt, tuần báo Thanh niên liên tục ra những “lời tuyên chiến đối với kẻ

thù xâm lược trước những ngày chuẩn bị Khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám dưới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” [47, tr.160]

Cũng trong thời gian này, khi phong trào cách mạng đang sục sôi trong cả nước,

trong đó có thành phố Sài Gòn, ngày 24 – 9 – 1937, Đảng cộng sản Việt Nam cho ra

đời báo Le Peuple (Dân chúng) để làm cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng

cộng sản, lúc đó đóng ở Nam Kỳ. Báo Dân Chúng viết bằng tiếng Pháp để khỏi phải

147

xin phép nhà cầm quyền22. Nhưng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng đối

với phong trào cách mạng trong cả nước mà xuất bản bằng tiếng Pháp thì tác dụng sẽ

hạn chế, vì người đọc được tiếng Pháp không nhiều. Vì vậy, để phát huy tác dụng

được mạnh mẽ hơn, đáp ứng kịp thời sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương đối với

phong trào cách mạng cả xứ, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ quyết định cho ra tờ báo

Dân Chúng bằng tiếng Việt, phát hành công khai rộng rãi trong cả nước (22 – 7 –

1938), mặc nhiên chống lại các sắc lệnh và nghị định về xuất bản báo chí tiếng Việt

của nhà cầm quyền. Nhờ sử dụng tiếng Việt, báo Dân Chúng có thể thực hiện được các

cuộc đấu tranh, tuyên truyền trên mọi lĩnh vực đến mọi đối tượng như đòi cải cách

chính sách thuế khóa, đòi cải thiện đời sống cho công nhân, nông dân, binh lính, học

sinh, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh…,đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, cổ động, tổ chức và chỉ đạo các phong trào của quần chúng, đấu tranh bảo vệ

quyền lợi của quần chúng. Công nhân, nông dân và các tầng lớp quần chúng nhìn nhận

Dân Chúng là diễn đàn của họ, đòi hỏi có báo để đọc. Do đó, báocó thể phát hành rộng

rãi và mau lẹ. Báo được bán ở khắp ngã tư đường, các nhà máy, tận phân xưởng thợ,

tận những xóm làng hẻo lánh. “Dân Chúng cũng là tờ báo được nhiều người đọc nhất ở Đông Dương”23, “tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, nhất là đường lối

chiến lược và sách lược Mặt trận dân chủ” [14, tr.18]

Sau khi báo Dân Chúng ra đời, một số báo ở Nam Kỳ của các đoàn thể cách

mạng cũng xuất bản theo mà không xin phép nhà cầm quyền: Lao Động, Dân Tiến,

Dân Muốn, Đông Phương Tạp Chí, Sống, Tiến Tới… nhằm giáo dục tinh thần yêu

nước, yêu tự do, yêu hòa bình, đoàn kết đấu tranh chống phát xít, chống chủ nghĩa sô-

vanh, tuyên truyền cho Liên Xô và chủ nghĩa xã hội.Báo chí quốc ngữ chính là một

sức mạnh lớn nhất trong công cuộc tuyên truyền.

Trên mặt trận văn học. Như đã nêu, nhờ khả năng dễ học, dễ đọc, dễ viết, có thể

diễn tả mọi trạng thái của tâm hồn con người, chữ quốc ngữ đã trở thành chất liệu nghệ 22 Điều 5-Sắc lệnh Báo chí ngày 4 – 10 – 1927 của Tổng thống Pháp ký thi hành ở các cứ thuộc địa và bảo hộ quy định: “Mọi báo chí hoặc văn bản định kỳ, toàn bộ hay một phần được viết bằng một thứ tiếng khác tiếng Pháp sẽ phải được sự cho phép trước của Toàn quyền sau khi đã thống nhất với Ủy ban thường trực của Hội đồng chính phủ - Giấy phép này có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào bằng những hình thức tương tự”. Xem [39, tr.82] 23 Báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản về tình hình chính trị ở Đông Dương những năm 1936 – 1938. Xem [42, tr.124]

148

thuật chính cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, một nền văn học mang tính đại

chúng, đề cập tới mọi mặt của đời sống con người, được đông đảo quần chúng đón

nhận. Trong khi người Pháp nhận biết được khả năng đó và sử dụng văn chương để

tuyên truyền cho công cuộc “khai hóa”, truyền bá học thuật, “truyền bá các khoa học

của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp” [118, tr.107], thì những nhà cách

mạng Việt Nam cũng sớm nhận thấy “văn chương là một nghệ thuật để giác ngộ người

đời, truyền bá tư tưởng mới, tư tưởng yêu nước, tư tưởng cách mạng… phải có một

mục đích, một lý tưởng cao cả, phải góp phần vào cuộc vận động cứu quốc” [59,

tr.41]. Với quan niệm mới mẻ này, văn chương quốc ngữ đầu thế kỉ XX cũng làm tốt

vai trò là một công cụ, một hình thức đấu tranh của cách mạng Việt Nam.

Những trí thức cách mạng ra sức sáng tác văn học để đưa đường lối cách mạng

vô sản vào quần chúng nhân dân, tuyên truyền về lòng yêu nước và chủ nghĩa cộng

sản. Tác phẩm Đường Cách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng quốc ngữ đã

đưa tư tưởng mới tràn vào Việt Nam, đi vào đông đảo quần chúng, giác ngộ chủ nghĩa

Mác – Lênin. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có rất nhiều tác phẩm văn

học cách mạng vô sản được sáng tác để tuyên truyền, cổ vũ cho cao trào cách mạng

1930-1931, gồm cả những thể loại dân gian như ca dao, diễn ca, dân ca, vè, hát ví, hát

dặm. Nhiều nhà văn cảm tình với Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, sáng tác tiểu

thuyết, biên soạn triết học, viết lý luận văn học. Trong những năm 1931 – 1935, đáng

chú ý là thơ ca trong tù của Sóng Hồng, Đặng Xuân Thiều, Hồ Văn Ninh, Nguyễn Văn

Năng, Phan Trọng Bình, Trần Cung, Bùi Hữu Diên. Sang thời kì Mặt trận Dân chủ

(1936 – 1939), văn học cách mạng phát triển mạnh trên quy mô lớn. Bắt đầu với thể

loại nghị luận, tiêu biểu có Trần Huy Liệu, Bùi Công Trừng, Trần Minh Tước, Hải

Triều, Tố Hữu. Văn xuôi có Vượt ngục của Văn Tân; truyện ngắn có tác phẩm của Học

Phi, Nguyên Hồng, nổi bật là phóng sự Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến. Trường

Chinh với bút danh Sóng Hồng là tác giả của văn kiện Nhật Pháp đánh nhau và hành

động của chúng ta (3-1945), là người soạn thảo Đề cương văn hóa Việt Nam (1943);

ông không phải là nhà thơ chuyên nghiệp mà làm thơ “cốt để phục vụ tuyên truyền

cách mạng hoặc để ghi lại một số tình cảm sâu sắc của đời mình” [110, tr.471]. Thơ

Tố Hữu (1920 – 2002) cũng tuyên truyền vận động cách mạng, kháng chiến chống

149

Pháp với “những tình cảm rất chân thật làm xúc động lòng người, có nhiều lối phối

âm, phối thanh rất tài tình, khai thác thành công thủ pháp láy phụ âm” [110, tr.473]

Hoạt động cách mạng trên nền văn học mới như vũ khí sắc bén của Đảng Cộng

sản Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Tuy nhằm mục đích tuyên truyền, đấu

tranh cách mạng nhưng lời văn trong các tác phẩm văn chương quốc ngữ này có giọng

điệu như “những lời tâm tình, ngắn gọn, giản dị, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ” [110, tr.468],

mang niềm tự hào dân tộc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai, có thể đi đến tận các

đồn điền, hầm mỏ, trong xưởng máy và nơi thôn xóm, kêu gọi công nông binh nổi dậy

làm cách mạng để xây dựng thế giới mới.

Bên cạnh báo chí, văn học, các sách thuộc thể loại từ vựng chính trị, xã hội học,

kinh tế học, triết học bằng quốc ngữ do Đảng cộng sản phát hành cũng phong phú lên

nhanh chóng, được nhân dân theo dõi đông đảo, “đó là những dịp để chữ quốc ngữ

bước tới những bước mới” [66, tr.199]

Trên mặt trận giáo dục.Nối tiếp tinh thần và sự nghiệp của các nhà Duy tân đầu

thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam ngay khi được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản, phong trào dạy và học chữ quốc ngữ đã phát triển mạnh mẽ hơn. Trong cao trào

cách mạng 1930 – 1931, chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh thực hiện chỉ thị của tỉnh ủy

đã quyết định: “Tổ chức các lớp dạy quốc ngữ và các buổi đọc báo, giảng sách vào

ban đêm hoặc vào buổi trưa, tùy theo hoàn cảnh từng địa phương” [111, tr.26]. Từ đó

các khẩu hiệu “dạy chữ Quốc ngữ”, “tổ chức lớp học chữ Quốc ngữ” xuất hiện cùng

với khẩu hiệu đòi chia lại ruộng đất, chống những hủ tục lạc hậu trong phong trào Xô

Viết Nghệ Tĩnh. Ở những nơi có chính quyền cách mạng, không khí học tập rất sôi

nổi:

“Lớp quốc ngữ, lối về chăm học

A, B, C miệng đọc thanh thanh” [dẫn theo 111, tr.26]

“Phong trào học quốc ngữ lên rất cao, đêm đêm tiếng a, b… vang lên rộn rã khắp

xóm thôn… Các buổi đọc báo, diễn thuyết, giảng sách số người tham gia ngày càng

đông, thôn nào cũng có, xóm nào cũng có. Các trụ sở nào cũng chật ních người đến

học, đến nghe” [4, tr.106]. “Đây là một công cuộc phát triển văn hóa quan trọng” [111,

tr.50]

150

Vào giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng để giữ

Đông Dương trong tay Pháp, Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux (1884 – 1963)

cho phép nới rộng phạm vi tiếng nói và chữ viết Việt Nam trong giáo dục và chính

quyền thực dân. Tương kế tựu kế, cán bộ của Đảng, hàng trăm hàng ngàn người cảm

tình với Đảng đi vào cuộc vận động truyền bá quốc ngữ trong quảng đại quần chúng

nhân dân lao động thành thị và nông thôn, xem đó là một cách vận động quần chúng

của Đảng cộng sản. Quần chúng biết chữ thì sẽ hiểu sách báo của Đảng hơn. Đây là

một khâu quan trọng trên mặt trận văn hóa trong khi Đảng ráo riết đi vào chiến đấu

chính trị và vũ trang nhằm giành chính quyền. Cũng kể từ đây, việc phổ cập chữ quốc

ngữ đã mang màu sắc cách mạng và do Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo.

Đầu năm 1938, Xứ ủy Bắc Kỳ giao cho Trần Huy Liệu cùng các ông Đặng Thai

Mai, Võ Nguyên Giáp tập hợp một số tri thức tiêu biểu thời kì này như Bùi Kỷ, Hoàng

Xuân Hãn,Quản Xuân Nam, Phan Thanh... bàn bạc và lập ra Hội Truyền bá quốc

ngữ(ngày 25 – 5 – 1938). Để tránh chính quyền Pháp gây khó dễ, Đảng cộng sản chủ

trương đưa các nhân sĩ có uy tín trong quốc dân ra gánh vác công việc của Hội, nhất trí

cử cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng, trụ sở Hội đặt tại Hội quán Trí Tri (nay là số

nhà 47, phố Hàng Quạt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Mục đích của hội là: “Dạy cho

đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của mình để dễ đọc được những điều

thường thức cần dùng cho sự sinh hoạt hằng ngày. Cốt cho mọi người viết chữ quốc

ngữ giống nhau” [dẫn theo 122, tr.113]. Kể từ sau khi Hội được thành lập, phong trào

truyền bá quốc ngữ lan tỏa đi khắp nơi, trở thành một trong những hoạt động quần

chúng sâu rộng và cũng rất cấp tiến.

Sau khi thành lập ở Hà Nội, Hội Truyền bá quốc ngữ lần lượt được thành lập ở cả

Bắc, Trung, Nam. Ở Nam Kỳ, Hội truyền bá Quốc ngữ ra đời muộn hơn. Nó được

thành lập theo một Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ Hoeffel ký ngày 18 – 8 – 1944,

do Nguyễn Văn Vĩ làm Chánh Hội trưởng, Khuông Việt làm Tổng thư ký, Huỳnh Tấn

Phát làm Trưởng ban Cổ động… Cơ cấu tổ chức tương tự như tổ chức Hội ở Bắc Kỳ.

Trụ sở tạm thời của hội được đặt tại Hội quán Hội kỹ sư trên đường Chasseloup

Laubat (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai). Hội lấy bài ca Gieo ánh sáng, sáng tác

của Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước làm bài Hội ca. Mục đích của

151

Hội là “chống mù chữ trong giới bình dân… thông qua nội dung giảng dạy, các thầy

cô phát động lòng yêu nước trong các hội viên” [68, tr.136]

Lớp học của Hội truyền bá quốc ngữ gồm có bậc sơ đẳng và bậc cao đẳng. Bậc

sơ đẳng dạy vỡ lòng cho học viên biết đọc, biết viết quốc ngữ, làm được hai phép tính

cộng, trừ. Bậc cao đẳng luyện cho học viên đọc viết thông thạo quốc ngữ, dạy thêm ít

điều thường thức và bốn phép tính.Để việc truyền bá chữ quốc ngữ nhanh chóng, Hội

còn chủ trương người được học phải dạy lại cho người chưa được học. Hội thường tổ

chức các cuộc diễn thuyết nhằm giảng dạy, phổ biến những điều thường thức cho đồng

bào. Hội chủ trương biên soạn và xuất bản các loại sách thường thức phổ thông về sử

ký, địa lý, vệ sinh, khoa học... nhằm bổ khuyết việc học ở lớp, phổ biến rộng rãi trong

nhân dân.Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là người biên soạn quyển sách học vần nổi tiếng

cho Hội bằng những câu đơn giản, dễ nhớ như: “I tờ hai móc cả hai. I ngắn có chấm,

tờ dài có ngang. O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, ơ là thêm râu” và “huyền

ngang, sắc dọc, nặng tròn; hỏi lom khom đứng, ngã buồn... nằm ngang” [xem 31,

tr.13] cho tới nay vẫn còn có người thuộc.

Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản, tinh thần ham học, cầu tiến của

quần chúng và tinh thần nỗ lực của các hội viên gồm trí thức, học sinh, sinh viên yêu

nước, phong trào Truyền bá Quốc ngữ mau chóng trở thành một phong trào quần

chúng có tổ chức, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, lan rộng

khắp các địa phương và thu được những kết quả tốt đẹp. Tính đến Cách mạng tháng

Tám 1945, Hội đã xóa mù chữ cho gần 7 vạn người. Không chỉ có học chữ, Hội

Truyền bá quốc ngữ còn là một trường đào tạo, giáo dục thanh niên những đức tính

cần thiết trong cuộc sống (tinh thần đoàn thể, óc tổ chức, kỷ luật, kiên quyết hi sinh

cách mạng...), …giúp thanh niên tránh được những cuộc vui chơi không lành mạnh (cờ

bạc, trai gái, rượu chè...), …giúp các thanh niên trí thức có dịp tiếp xúc, đi sâu, tìm

hiểu cuộc sống cơ cực của quần chúng công nông lao động. Thu hút thanh niên vào

một số hoạt động xã hội do Đảng lãnh đạo. Do vậy đi học cũng là đi làm cách mạng.

Năm 1943, ngay khi phát động chiến tranh du kích đánh Pháp đuổi Nhật, Đảng

cộng sản Đông Dương phát hành bản “Đề cương văn hóa Việt Nam”, trong đó sự phát

152

triển chữ quốc ngữ và tiếng Việt Nam được Đảng xem là một trong ba việc cần kíp

phải làm. Đề cương có đoạn viết:

“Công việc phải làm:

a/ Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng…

b/ Tranh đấu về tông phái văn nghệ…

c/ Tranh đấu về tiếng nói và chữ viết:

1/ Thống nhất và làm giàu tiếng nói,

2/ Ấn định mẹo văn ta,

3/ Cải cách chữ quốc ngữ”[dẫn theo 111, tr.53]

Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), thể hiện sinh động tính cách mạng, tính

khoa học và tính nhất quán của đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt

Nam [110, tr.471]. Với bản Đề cương, chữ quốc ngữ được xem “như lưỡi gươm, cái

khiên của dân tộc, nhằm tiến tới tổng khởi nghĩa thành công. Cuộc tổng khởi nghĩa

thành công sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các nhiệm vụ được

đặt ra đối với tiếng nói và chữ viết dân tộc” [67, tr.201]. Cho thấy, trong khói lửa,

Đảng Cộng sản vẫn luôn quan tâm, đề cao vai trò của chữ quốc ngữ và tiếng nói của

dân tộc.

Có thể khẳng định, sự truyền bá của Hội Quốc ngữ ở ba kỳ là một thắng lợi to

lớn do Đảng Cộng Sản chỉ đạo. Phong trào đã lập nên những kỳ tích trong nền giáo

dục Việt Nam trước năm 1945 về việc xoá nạn mù chữ, đẩy mạnh bổ túc văn hoá,

tuyên truyền đường lối cách mạng. Nhưng sự việc không dừng lại ở đó, dấu ấn của

Hội truyền bá Quốc ngữ còn tiếp tục được phát huy trong tên mới là phong trào Bình

dân học vụ theo chủ trương của Đảng cộng sản ngay sau khi nước nhà giành được độc

lập 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ

ngày 3 – 9 – 1945 đã khẳng định: “Chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng

nước ta theo vần quốc ngữ. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù

chữ” [112, tr.26]. Ngay sau đó, ngày 8 – 9 – 1945, Chính phủ đã ban hành 3 sắc lệnh

về việc cưỡng bách và tổ chức học quốc ngữ, và thành lập Nha Bình dân học vụ trong

Bộ Giáo dục quốc gia, một cơ quan nhà nước, đảm nhận việc xóa nạn mù chữ cho

nhân dân lao động. Trong sắc lệnh số 20 do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký

153

có nêu: “Trong khi đợi lập được nên tiểu học cưỡng bách, việc học chữ quốc ngữ từ

năm nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người [khoản 1]. Hạn trong một

năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên tám tuổi phải biết đọc và biết viết chữ quốc

ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam nào trên tám tuổi mà không biết đọc và biết

viết chữ quốc ngữ sẽ bị phạt tiền [khoản 2] [dẫn theo 122, tr.118]. Trong Lời kêu gọi

chống nạn thấthọc của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào tháng 10 - 1945 cũng nêu rõ:

“Chính phủ đã ra hạn trong một năm tất cả mọi người ViệtNamđều phải biết chữ

Quốc ngữ. Chính phủ đã lập một Nha bình dân học vụ để trông nom việc học của nhân

dân.

Nhân dân ViệtNam!

Muốn giữ vững nền độc lập,

Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,

Mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến

thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết

đọc biết viết chữ Quốc ngữ.

Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức

vào Bình dân học vụ” [dẫn theo 112, tr.18]

Điều này cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm nhiều đến dân trí ngay

từ lúc cách mạng chưa thành công và tiếp tục đẩy mạnh khuyến học sau khi cách mạng

đã thành công.Phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ đã thực hiện một cuộc pháttriển và

là trường học văn hóa rất rộng lớn của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, hội văn hóa –

giáo dục chỉ là danh nghĩa, thực chất đây là một tổ chức chính trị có sự tham gia của

nhiều nhà chính trị, Hội đã đóng góp rất lớn cho Đảng cộng sản Việt Nam và Cách

mạng bằng việc tuyên truyền giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh

trong toàn thể quần chúng nhân dân, “trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi,

có tổ chức. Đó cũng là một cuộc đấu tranh gay gắt, kiên trì trên mặt trận văn hóa”

[111, tr.7]. Nhiều hội viên của Hội đã trở thành những chiến sĩ cách mạng tham gia

khởi nghĩa giành chính quyền.

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày vinh quang của dân tộc cũng là ngày

vinh quang của quốc ngữ khi quốc ngữ là chữ của Tuyên ngôn độc lập. “Lần đầu tiên

154

chữ Quốc ngữ đã giành được địa vị độc tôn xứng đáng của nó trong một nước Việt

Nam độc lập” [86, tr.182]khi được chính thức công nhận là ngôn ngữ dạy học ở tất cả

các cấp, các ngành chuyên khoa của nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Việt Nam cũng là “nước duy nhất trong vùng Đông Nam Á có chữ viết dùng cho tiếng

nói của dân tộc mình xây dựng bằng những chữ cái Latinh” [73, tr.5]

*

Với tư cách là “sản phẩm trực tiếp của sự tiếp xúc giữa văn hóa Âu Tây và văn

hóa Việt Nam” [8, tr.282], đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ đã “án ngữ được cả chữ Hán

và chữ Nôm” [77, tr.129] để tiến sâu và lẫn nhập vào các lĩnh vực văn hóa - xã hội của

người Việt, thực hiện được vai trò chuyển tải, du nhập những loại hình văn hóa mới và

phát huy những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ, vùng đất đang có nhiều

biến chuyển.Tham gia vào công cuộc cải cách giáo dục của chính quyền Pháp, quốc

ngữ góp phần hoàn thiện nền giáo dục Pháp – Việt, thực hiện chuyển hóa giáo dục từ

Nho học sang Tây học. Quốc ngữ còn là phương tiện kĩ thuật khai sinh ra báo chí tiếng

Việt, một loại hình văn hóa phương Tây lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, làm phong

phú thêm đời sống văn hóa Nam Kỳ. Quốc ngữ là chất liệu ngôn ngữ khai sinh ra nền

văn học mới ở Nam Kỳ – văn học quốc ngữ, mang ảnh hưởng của văn học phương

Tây biểu hiện ở tính hiện đại, tính đại chúng và sự phong phú về thể loại. Kịch nói là

một trong những thể loại đó, có nguồn gốc từ phương Tây và được phổ biến đến quần

chúng nhờ chữ quốc ngữ, cùng với những loại hình nghệ thuật cải lương, tuồng. Là

yếu tố trực tiếp loại bỏ chữ Hán, chữ Nôm nhưng chính quốc ngữ lại mang đến sức

sống mới cho các tác phẩm Hán – Nôm khi nó đóng vai trò là người lưu giữ và phổ

biến các tác phẩm Hán – Nôm dưới hình thức là các tác phẩm dịch. Quốc ngữ còn là

một nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa ở Nam Kỳ khi nó trở thành ngôn ngữ

hành chính. Phát triển trong sự ưu ái của chính quyền thực dân, nhưng trong cuộc

chiến giành độc lập cho dân tộc Việt, chữ quốc ngữ trở thành một vũ khí sắc bén phục

vụ đấu tranh cách mạng, vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền giác

ngộ quần chúng, kêu gọi đoàn kết, khơi gợi lòng yêu nước, vận động tiến tới giải

phóng dân tộc… để trở thành chữ viết chính thức trong một quốc gia độc lập.

155

KẾT LUẬN

Nam Kỳ là vùng đất thuộc lãnh thổ Đàng Trong, được hình thành trong quá trình

mở rộng lãnh thổ về phía Nam của các chúa Nguyễn.Ngay từ đầu thế kỷ XVII, với

những biện pháp thích hợp và cực kỳ khôn khéo, chúa Nguyễn đã mở đường cho nhiều

lớp di dân người Việt tiến vào vùng đất phía Nam lập nghiệp. Những con người ra đi

vì khát vọng tự do và một cuộc sống bình yên đã biến Nam Kỳ thực sự trở thành “một

miền đất hứa”, vùng đất của quá trình cộng cưgiữa các tộc người: Việt, Hoa, Chăm,

Khmer… Để chinh phục những thử thách đặt ra và có thể hòa hợp được với các tộc

người đã có mặt từ trước, lưu dân Việt đã biết linh hoạt trong giao lưu, tiếp nhận

những giá trị văn hóa của các dân tộc khác, vừa làm giàu thêm bản sắc văn hóa truyền

thống, vừa sáng tạo ra những đặc trưng văn hóa mới. Từ đó hình thành ở Nam Kỳ một

sắc thái văn hóa theo định hướng mở. “Đó là một cảnh cửa rất tốt đẹp” [15, tr.53] để

Nam Kỳ nhập cuộc một cách nhanh chóng vào luồng thương mại quốc tế và khu vực,

dễ tiếp nhận tôn giáo mới, tư tưởng mới của phương Tây.

Khi Nam Kỳ đang trong quá trình hình thành thì cũng là lúc chủ nghĩa tư bản

phương Tây đang bước những bước tiến dài với nền văn minh công nghiệp. Đó là một

nền văn minh gắn liền với tri thức khoa học và hàng loạt phát minh máy móc được

ứng dụng rộng rãi, trong đó có ngành hàng hải, một phương tiện chuyên chở văn hóa

phương Tây đến với các dân tộc phương Đông. Đó còn là một nền văn minh gắn liền

và chịu nhiều ảnh hưởng của Kitô giáo. Các giáo sĩ không chỉ mang trên mình sứ

mệnh mở rộng đất chúa cao cả mà còn là những người đại diện cho văn minh phương

Tây, mang ánh sáng văn minh đến với các dân tộc phương Đông. Chủ nghĩa thực dân

sẽ là một điều kiện quyết định đến sự hiện diện và áp đặt văn minh phương Tây lên

các dân tộc thuộc địa, và do đó văn minh phương Tây còn là một nền văn minh gắn

liền với chủ nghĩa thực dân.

Một bên là nền văn minh đang lan tỏa và cần mở rộng cả về kinh tế, tôn giáo lẫn

thuộc địa, một bên là vùng đất đầy tiềm năng, có xu hướng mở và vốn quen với việc

tiếp nhận cái mới, Nam Kỳ và phương Tây đã gặp nhau trong mối quan hệ tiếp xúc và

giao lưu văn hóa Đông – Tây. Các nhà truyền giảng phúc âm của chúa Giesu là người

mở đầu và làm trung gian cho cuộc gặp gỡ này. Cùng với đó là những đoàn thuyền của

156

các nhà buôn, những người luôn mang trong mình tri thức khoa học phương Tây và

sản phẩm của công nghiệp máy móc. Sau cùng, bước chân của đoàn quân xâm lược

Pháp sẽ chính thức áp đặt sự hiện diện của văn minh phương Tây lên đất Nam Kỳ.

Trong những quá trình đó, để có công cụ tiện lợi cho các giáo sĩ rao giảng đạo Chúa,

để các thương gia thuận lợi trong giao thương, để có phương tiện để đoàn quân viễn

chinh giao tiếp với dân bản xứ, chữ quốc ngữ đã được ra đời với tư cách là sản phẩm

của cuộc gặp gỡ, giao lưu văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây. Nam Kỳ trở thành

nơi mà chữ quốc ngữ “được phổ biến sớm hơn mấy mươi năm so với phần còn lại của

đất nước Đại Nam” [22, tr.87]. Các giáo sĩ phương Tây trở thành người trực tiếp “khai

sinh ra chữ quốc ngữ… một món quà vô giá thông qua Vatican và các nhà truyền giáo

của tòa thánh” [107, tr.40]. Khi ấy, vì sự bài trừ Thiên chúa giáo của tầng lớp Nho sĩ

và triều đình phong kiến đương thời, cho nên việc truyền đạo hầu hết hướng về những

con người nghèo khổ, cùng đinh ở nông thôn. Tuy nhiên, họ là những người bình dân,

không biết chữ Nho, chữ Nôm, nên các giáo sĩ buộc phải tìm ra một thứ chữ mới để

ghi lại và truyền bá những điều đã giảng dạy về Kitô giáo. Chữ viết đó về sau trở nên

thông dụng và trở thành quốc ngữ.Tuy nhiên, trong hơn hai thế kỉ đầu, “thứ chữ rất

giản tiện này” [86, tr.160]chỉ được sử dụng vào mục đích tôn giáo, bị thu hẹp trong

nhà thờ và giáo dân mà chưa có ý nghĩa gì về chính trị hay văn hóa.

Chỉ khi người Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và thiết lập guồng máy cai trị, chữ quốc

ngữ mới bắt đầu trở thành một công cụ chính trị và dần có vị trí trong một số lĩnh vực

văn hóa.Người Pháp tin tưởng rằng quốc ngữ sẽ cung cấp cho họ “một vũ khí mạnh

trong trận chiến để loại trừ chữ viết Trung Hoa vốn là động cơ truyền đạt cổ truyền

cho các tài liệu viết tại Việt Nam” [126, tr.100]. Do vậy, ngay từ những ngày đầu tiên

của chế độ thuộc địa, người người Pháp đã khuyến cáo học chữ quốc ngữ, từ bắt buộc

dạy chữ quốc ngữ trong các trường học, đến bắt buộc dùng chữ quốc ngữ trong guồng

máy hành chính, từ việc cho ra tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo) như một công

cụ tuyên truyền cho đến chủ trương xuất bản những tạp chí văn hóa, văn học nhằm

mục đích phổ biến quốc ngữ, tuyên truyền cho chính sách thực dân, cho văn minh

phương Tây. Chữ quốc ngữ đã trở thành một mối quan tâm tha thiết từ rất sớm của nhà

cầm quyền Pháp trong nhiều lĩnh vực văn hóa quan trọng:giáo dục, hành chính, báo

157

chí, văn học.Nhưng dĩ nhiên, khi người Pháp trao cho quốc ngữ một vị trí trong nền

giáo dục mới, nâng quốc ngữ trở thành thứ chữ bắt buộc đối với công chức, dùng quốc

ngữ để khai sinh báo chí tiếng Việt, hay xem quốc ngữ “như một thứ chữ của văn

chương” [114, tr.7], chắc chắn đều không phải vì người Pháp yêu quý tiếng Việt và

mong muốn phát huy văn hóa cho dân tộc Việt.Tất cả đều vì những quyền lợi chính trị,

“bứng Việt Nam ra khỏi thế giới Trung Hoa” [73, tr.135],tuyên truyền đường lối cai trị

của nhà cầm quyềnvà “quyết tâm đưa văn minh phương Tây vào với cái sứ mệnh khai

hóa văn minh” [40, tr.387].

Việc người Pháp sử dụng quốc ngữ như “một công cụ đắc lực nhất lúc này cho

chính sách trực trị và đồng hóa” [29, tr.200] đã gây ra ác cảm trong giới sĩ phu Nho

học và nhân dân đối với thứ chữ mới này. Nhưng cuối cùng, từ vị trí là phương tiện

của các nhà truyền giáo, là công cụ chính trị của nhà cầm quyền Pháp, chữ quốc ngữ

đã vươn lên trở thành con đường đưa văn minh phương Tâyvề với người Việt và được

người Việt nhào nặn thành những giá trị văn hóa mới. Đầu thế kỉ XX, người ta đã thấy

chữ quốc ngữ được chính quyền Pháp thừa nhận trong nền giáo dục, chiếm có “địa vị

trọng yếu trong chương trình học vụ cả nước” [85, tr.29], tham gia vào quá trình thay

thế nền giáo dục Nho học bằng giáo dục Pháp – Việt, một nền giáo dục có nội dung và

hình thức tổ chức theo kiểu phương Tây, đào tạo ra một đội ngũ trí thức Tây học,

những người trực tiếp truyền bá khoa học và tư tưởng dân chủ phương Tây vào Nam

Kỳ. Cũng trong thời gian này, lần đầu tiên người Việt được tiếp xúc với một loại hình

văn hóa mới đến từ phương Tây, chưa từng thấy ở Nam Kỳ: báo chí tiếng Việt. Cùng

lúc với báo chí, người ta cũng thấy chữ quốc ngữ trở thành chất liệu nghệ thuật chính

của nền văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ. Những thể loại văn học mới mang phong cách

văn học Pháp như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới là những thể loại văn học

chỉ khởi đầu và phát triển với chữ quốc ngữ, nổi tiếng như: Chuyện đời xưa, Truyện

thầy Lazaro Phiền, Giọt máu chung tình, Chuyện ông lý chắn, Sống chết mặc bay, Cha

con nghĩa nặng…. Quốc ngữ còn thu góp, lưu giữ được một di sản lớn văn hóa Hán –

Nôm thông qua những bản dịch truyện Nôm (Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Quốc sử

diễn ca…) và một số sách kinh điển Hán học (Trung dung, Luận ngữ, Đại học…).

Những công trình khảo cứu, nghị luận, phê bình văn học cũng nằm trong lĩnh vực chữ

158

quốc ngữ. Rõ ràng, vượt ra ngoài ý đồ của thực dân, chữ quốc ngữ đã nhanh chóng trở

thành cái cầu nối đầu tiên của Nam Kỳ với văn minh phương Tây, một “phương tiện

hoạt động văn hóa xã hội đầy tính năng động” [86, tr.171] với nhiều lĩnh vực.

Không chỉ có vậy, đến đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ cũng nhận được “cái nhìn

đúng đắn hơn” [38, tr.64] từ các nhà Nho. Sớm vượt qua những ác cảm ban đầu, các sĩ

phu Nho học đã nhìn quốc ngữ như một công cụ mở mang dân trí và ra sức hô hào học

quốc ngữ, giành lấy nó về cho người Việt. Từ “một tay phụ tá đắc lực” [73,

tr.134]trong chính sách văn hóa của người Pháp, quốc ngữ trở thành “phương tiện ưu

hạng để chuyển tải các tư tưởng tiến bộ, các kiến thức mới, để phổ biến sách tân học”

[73, tr.135]. Trong tay những trí thức Nho học đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ trở thành

chữ phổ thông, “được quảng đại quần chúng ưa dùng, chiếm lĩnh địa bàn toàn quốc”

[85, tr.29]. Như vậy, trước khi có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, người Việt Nam yêu

nước đã biết sử dụng ngay những sản phẩm văn hóa của Gia tô giáo vào việc tranh đấu

cho một nền văn hóa mới mang tính dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng

sản Việt Nam, chữ quốc ngữ càng có dịp tỏ rõ sức sống mạnh mẽ của nó. Truyền đơn,

sách báo cách mạng in bằng chữ quốc ngữ, các tác phẩm văn học cách mạng, những tư

tưởng cách mạng vô sản đều đến tận tay quần chúng, góp phần đắc lực vào việc tuyên

truyền, cổ vũ, động viên, tổ chức lực lượng đấu tranh cách mạng. Phong trào “truyền

bá quốc ngữ” với tổ chức là “Hội truyền bá quốc ngữ” được triển khai rộng rãi cả nước

và thu được nhiều kết quả đáng kể để cuối cùng quốc ngữ xứng đáng trở thành chữ

viết chính thức của một nước Việt Nam độc lập, trở thành văn tự duy nhất của tiếng

Việt, được dùng rộng rãi trong mọi lĩnh vực.

Là con đẻ của quan hệ văn hóa Nam Kỳ với phương Tây, chữ quốc ngữ đã “có

những đóng góp khá độc đáo” [38, tr.64] trong việc truyền bá văn minh phương Tây

vào Việt Nam, tạo ra ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc đến mọi lĩnh vực văn hóa – xã hội

Việt Nam. “Nhờ chữ quốc ngữ mà xứ sở có điều kiện bước vào văn minh, hiện đại hóa

bằng cách Âu hóa” [114, tr.1]. Biểu hiện của Âu hóa là sự du nhập những loại hình

văn hóa mới, những tư tưởng cách mạng tiến bộ có nguồn gốc từ phương Tây, làm

phong phú thêm đời sống văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX, đồng thời làm chuyển biến

những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ theo hướng phương Tây hóa.

159

Ngày nay, chữ viết của tiếng Việt hiện đại – chữ quốc ngữ vẫn đang trên đà phát

triển mạnh mẽ, ngày càng trở nên phong phú và chuẩn xác. Tuy nhiên, cần phải có

những cải tiến để quốc ngữ ngày càng trở nên khoa học hơn, hợp lý hơn, giản tiện hơn,

tiếp tục phát huy vai trò xây dựng văn hóa mới trên một đất nước Việt Nam thống

nhất.

160

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1997), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

3. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Văn học.

4. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1967), Xô Viết Nghệ Tĩnh, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

5. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An – Thanh Hà – Nước Mặn) thế

kỷ XVII – XVIII, Nxb Thuận Hóa.

6. Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Giáo dục.

7. Nguyễn Lương Bích (2000), Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

8. Nguyễn Lân Bình (chủ biên) (2013), Nguyễn Văn Vĩnh là ai?, Nxb Tri thức.

9. Nguyễn Ang Ca (1959), “Lịch trình tiến triển báo giới Việt Nam từ 1861 đến 1953”,

Tạp chí Văn hóa ngày nay, Sài Gòn, số 2/1959, tr.8-14.

10. Trương Bá Cần (2009), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập I, Nxb Tôn giáo,

Hà Nội.

11. Charles B. Maybon (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nguyễn Thừa Hỷ

dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.

12. Đỗ Quang Chính (1972), Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620 – 1659, Ra Khơi, Sài Gòn.

13. Nguyễn Việt Chước (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nam Sơn, Sài Gòn.

14. Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

15. Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nguyễn Nghị dịch, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

16. Võ Xuân Đàn (2012), Những vấn đề lịch sử – văn hóa – giáo dục Nam Bộ, Nxb Đại

học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Phan Cự Đệ (2006), Trần Đình Hượu, Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục.

18. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, tập Trung, quyển III, Nha văn hóa

phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản.

19. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, quyển IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Edward Burnett Tylor (2000), Văn hóa nguyên thủy, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

161

21. Fernand Braudel (1992), Tìm hiểu các nền văn minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí

Minh.

23. Lê Văn Giạng (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Trần Văn Giàu (1987), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập I, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

25. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ

lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Trần Văn Giàu (1998), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập IV: Tư tưởng và

tín ngưỡng, Nxb Tổng hợp TPHCM.

27. Trần Văn Giàu (2001), Chống xâm lăng (Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1898), Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (1998), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập

II: Văn học – Báo chí – Giáo dục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

30. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Nxb Hội Nhà Văn.

31. Hoàng Xuân Hãn (1988), “Nhớ lại Hội Truyền bá quốc ngữ nhân kỷ niệm 50

năm”, Đoàn Kết, Paris, số 405/tháng 9-1988, tr.12-16.

32. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884 – 1945), Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Hoàn (2000), “Chữ Quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá Việt Nam

trong thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, số 9/2000, tr.37-46.

34. Nguyễn Trọng Hoàng (1967), “Chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 96/1967, tr.14-21.

35. Hội Nhà báo Việt Nam (1985), Báo chí Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Quyển I, Nxb Hiện Tại, Sài

Gòn.

162

37. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội.

38. Đỗ Quang Hưng (1991), Một số vấn đề lịch sử Thiên chúa giáo ở Việt Nam, Nxb Đại

hoc Tổng hợp, Hà Nội.

39. Đỗ Quang Hưng (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội.

40. Đỗ Quang Hưng, Trần Viết Nghĩa (2013), Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn

hóa Việt Nam thời cận đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời (1900 –

1930), Nxb Đại học Tổng hợp, Hà Nội.

42. Phạm Thị Thanh Huyền (2008), “Một số đóng góp của thiên chúa giáo đối với văn hóa

Việt Nam (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX)”, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ III.

43. Nguyễn Thừa Hỷ (2011), Văn hóa Việt Nam truyền thống – một góc nhìn, Nxb Thông

tin và truyền thông, Hà Nội.

44. Karl Marx (1960), Tư bản, quyển I, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

45. Trần Văn Khải (1972), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Khai Trí, Sài Gòn.

46. Hồ Công Khanh (2004), Chữ quốc ngữ và những vấn đề liên quan đến thư pháp, Nxb

Văn Nghệ.

47. Nguyễn Công Khanh (2006), Lịch sử báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 1865

– 1995, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Phan Khoang (1967), Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Khai Trí, Sài Gòn.

49. Nguyễn Văn Kiệm (1979), Lịch sử Việt Nam 1900 – 1918, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Nguyễn Văn Kiệm (2003), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam,

Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

51. Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, quyển II, Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất

bản.

52. Hồng Lam (1944), Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, Huế.

53. Lê Thị Lan (2002), Tư tưởng cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

163

54. Phan Huy Lê (chủ nhiệm đề tài) (2002), Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và hiện

đại(Báo cáo kết quả nghiên cứu), Hà Nội.

55. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con

người Việt Nam hiện nay, tập 2, Nxb Hà Nội.

56. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18,

Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ.

57. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam trước Cách mang tháng Tám

1945, Nxb Từ điển Bách khoa.

58. Huỳnh Lứa (1984), Quá trình khai phá vùng Đồng Nai – Cửu Long và hình thành một

số tính cách, nếp sống và tập quán của người nông dân Nam Bộ, trong cuốn Mấy đặc

điểm Đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hoá, Hà Nội.

59. Đặng Thai Mai (1976), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900-1925), Nxb

Văn học giải phóng.

60. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

61. Huỳnh Minh (2006), Gia Định xưa, Nxb Văn hóa - Thông tin.

62. Trần Viết Nghĩa (2012), Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời

Pháp thuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Tập 3: Văn học

hiện đại 1862-1945, Quốc học Tùng thư, Sài Gòn.

64. Lê Nguyễn (2005), Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, Nxb Văn hóa thông tin.

65. Nguyễn Thanh Nhã (2013), Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỉ XVII và XVIII, Nguyễn

Nghị dịch, Nxb Tri thức.

66. Nhiều tác giả (1993), Về sách báo của tác giả Công giáo thế kỷ XVII – XIX), Nxb Đại

học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

67. Nhiều tác giả (1999), Luận về quốc học (nghiên cứu – cảo luận), Nxb Đà Nẵng.

68. Hồ Hữu Nhựt (1999), Lịch sử giáo dục Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (1698 –

1998), Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.

69. Vũ Dương Ninh (2007), Việt Nam – thế giới và sự hội nhập, Nxb Giáo dục.

70. Ngô Minh Oanh (2008), Tiếp xúc và giao lưu văn minh nhân loại, Nxb Đại học sư

phạm TP. Hồ Chí Minh.

164

71. Nguyễn Ngọc Phan (2007), Trương Ngọc Tường, 100 câu hỏi đáp về Gia Định – Sài

Gòn – TP. Hồ Chí Minh: Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

72. Philippe Devillers (2006), Người Pháp và người An Nam: bạn hay thù?, Nxb Tổng

hợp TP. Hồ Chí Minh.

73. Nguyễn Phú Phong (2005), Việt Nam – Chữ viết, ngôn ngữ và xã hội, Nxb Đại học sư

phạm TP. Hồ Chí Minh.

74. Pièrre Brocheux, Daniel Hémery (1995), Đông Dương nền thực dân nước đôi (1858 –

1954), bản dịch, NXB La Découverte, Paris.

75. Nguyễn Phan Quang (2002), Việt Nam thế kỉ XIX (1802 – 1884), Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

76. Đào Duy Quát (2013), “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 – Cương lĩnh văn hóa

đầu tiên của Đảng ta”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/9/2013.

77. Kiều Thanh Quế (1969), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Nxb Hoa Tiên, Sài Gòn.

78. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục chính biên, tập 10, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

79. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục chính biên, tập 32, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

80. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,

quyển XXXIII, Viện Sử học dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

81. Quốc sử quán triều Nguyễn (1965), Đại Nam thực lục chính biên, tập II, bản dịch của

Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

82. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam chính biên liệt truyện, tập II, bản dịch

của Viện sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế.

83. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Quốc triều sử toát yếu, Nxb Văn học.

84. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (1999), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

85. Nguyễn Minh San (2006), Bách khoa thư giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

86. Đặng Đức Siêu (1982), Chữ viết trong các nền văn hoá, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

87. Lê Văn Siêu (2006), Việt Nam văn minh sử cương, Nxb Văn học, Hà Nội.

165

88. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, quyển IV: Từ Tây Sơn mạt diệp đến Nguyễn

sơ, Sài Gòn.

89. Nguyễn Đức Sự (2011), “Vị trí và vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt Nam”, Văn

hóa Nghệ An, số 24/2011, tr.23-29.

90. Võ Long Tê (1965), Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sài Gòn.

91. Nguyễn Q. Thắng (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb Văn học.

92. Nguyễn Q. Thắng (1998), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn Hoá, Hà Nội.

93. Trần Thị Thanh Thanh (2012), Hỏi và đáp về nền giáo dục Nam Bộ thời kì 1867-1945,

Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở, Đại học sư phạm TP. Hồ Chí

Minh.

94. Cao Tự Thanh (2007), Văn học quốc ngữ trước 1945 ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

95. Chương Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo – Nho sĩ – Trí thức Việt Nam trước

1945, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

96. Chương Thâu (2010), Đông Kinh nghĩa thục và văn thơ Đông Kinh nghĩa thục, tập 2,

Nxb Hà Nội.

97. Chương Thâu (2010), Đông Kinh nghĩa thục và văn thơ Đông Kinh nghĩa thục, tập 1,

Nxb Hà Nội.

98. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh.

99. Trần Ngọc Thêm (2006), Tính cách văn hóa Nam Bộ, Hội thảo “Đồng bằng sông Cửu

Long: thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm phát triển kinh tế giai đoạn

2006-2010”, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

100. Ngô Đức Thịnh (1996), Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê

hương Nam Hà, Sở Văn hóa thông tin Nam Hà.

101. Lê Hữu Thu (1952), Sử Việt Nam đệ lục, Nxb Thế giới, Hà Nội.

102. Cao Huy Thuần (2003), Giáo sĩ Thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt

Nam (1857 – 1914), Nguyên Thuận dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

103. Cao Huy Thuần (chủ biên) (2005), Từ Đông sang Tây, Nxb Đà Nẵng.

104. Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

166

105. Đỗ Thị Minh Thúy (2010), Phong trào duy tân với sự chuyển biến của văn hóa Việt

Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

106. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng

tháng 8 – 1945, Nxb Giáo dục.

107. Hoàng Tiến (1994), Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ 20, Nxb

Lao động.

108. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều

Nguyễn (1802 – 1858), Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

109. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ

mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

110. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ

XX, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.

111. Vương Kiêm Toàn (1980), Hội truyền bá quốc ngữ - một tổ chức công khai của Đảng

chống nạn mù chữ 1938 – 1945, Nxb Giáo dục.

112. Vương Kiêm Toàn (1986), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn thất học

nâng cao dân trí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

113. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

114. Nguyễn Văn Trung (1975), Chữ, văn quốc ngữ thời kì đầu Pháp thuộc, Nam Sơn, Sài

Gòn.

115. Nguyễn Kiên Trường (2005), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

TP. Hồ Chí Minh.

116. Đặng Huy Vận, Chương Thâu (1961), Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ

cuối thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

117. Viện Khoa học Giáo dục (2001), Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kì lịch

sử, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

118. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1971), Lịch sử văn học Việt Nam, tập IV-B (đầu thế kỉ

XX đến 1930), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

119. Viện văn hóa (1984), Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Viện văn hóa

xuất bản, Hà Nội.

167

120. Hoàng Xuân Việt (2007), Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb Văn Hóa Thông tin.

121. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

122. Trần Nhật Vy (2013), Chữ quốc ngữ 130 năm thăng trầm, Nxb Văn hóa - Văn nghệ.

123. Will Durant (1991), Nguồn gốc văn minh, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Thuận Hóa,

Huế.

124. Nguyễn Văn Xuân (1998), “Việt Nam và các nước Đông Nam Á xưa”, Tạp chí du

lịch, số 4/1998, tr.12.

Tiếng Anh

125. Li Tana (1998), “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th

Century”, Journal of Southeast Asian Studies, 3/1998, bản dịch của Lê Quỳnh.

126. Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and

Response (1859-1905), Ithaca and London: Cornell University Press, 1969. Chapter 4:

Education and Quốc Ngữ - The Development of a New Order, p.89-108, bản dịch của

Ngô Bắc.

127. Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and

Response (1859-1905), Ithaca and London: Cornell University Press, 1969, Chapter 8:

Education and Quốc Ngữ, A Qualified Triumph, p.156-171, bản dịch của Ngô Bắc.

Tiếng Pháp

128. Décret du 23 juillet 1789 du Président de la République francaise instituant une

Inspection des Services administratifs et financiers de la marine et des colonies, J 36,

BOC 1879, tr.373-377, Trung tâm lưu trữ quốc gia I.