BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thế Trường
QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ TRONG QUAN HỆ VĂN HÓA CỦA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THANH THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến:
Quý Thầy, Cô Khoa Lịch sử Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình học tập, tôi đã nhận được từ quý Thầy, Cô những hướng dẫn tận tình
trong nghiên cứu lịch sử, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm… Quý Thầy Cô là những hình
mẫu về tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học và tận tâm trong giảng dạy.
TS. Trần Thị Thanh Thanh, người trực tiếp hướng dẫn khoa học để tôi thực hiện
Luận văn này. Trong quá trình thực hiện, tôi đã nhận được từ Cô sự động viên tinh
thần, sự hướng dẫn tận tình, cẩn trọng về phương pháp, sự hỗ trợ về tài liệu và tinh
thần nghiêm túc, trung thực trong nghiên cứu khoa học.
Tất cả các bạn học viên cao học khóa 23 chuyên ngành lịch sử Việt Nam cùng
một số bạn chuyên ngành Lịch sử thế giới, phòng Sau đại học Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014
NGUYỄN THẾ TRƯỜNG
4
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 6
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 7
3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 9
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 12
5. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................... 15
6. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................... 16
Chương 1. BỐI CẢNH QUAN HỆ VĂN HÓA GIỮA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ............................................................................................................ 18
1.1. Văn minh phương Tây thời cận đại ...................................................................... 18
1.1.1. Khái niệm văn minh và sự phân biệt “phương Tây”,“phương Đông” .......... 18
1.1.2. Những đặc trưng của văn minh phương Tây .................................................. 20
1.2. Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây ........................... 25
1.2.1. Tình hình chính trị - xã hội xứ Đàng Trong – Tiền đề hình thành vùng đất Nam Kỳ ..................................................................................................................... 26
1.2.2. Khái quát đặc điểm của văn hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền thống Việt Nam ................................................................................................................... 32
1.3. Những con đường du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây ..................... 41
1.3.1. Bước chân các nhà truyền giáo ....................................................................... 41
1.3.2. Hoạt động buôn bán của các nước phương Tây .............................................. 47
1.3.3. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp .................................................................. 53
CHƯƠNG 2. CHỮ QUỐC NGỮ - SẢN PHẨM CỦA QUAN HỆ VĂN HÓA GIỮA NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ...................................................................... 59
2.1. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ ...................................................................... 59
2.1.1. Thời kì sơ khai (thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII) ......................................... 59
5
2.1.2. Thời kì bước đầu phát triển (nửa sau thế kỉ XVII – cuối thế kỉ XVIII) .......... 62
2.1.3. Thời kì phát triển mạnh mẽ (từ thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX) ......................... 66
2.2. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ ........ 69
2.3. Chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và Nho học ở Nam Kỳ .................................................................................................................... 80
2.3.1. Tình hình Nho học và ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ.................. 80
2.3.1.1. Tình hình Nho học ................................................................................... 80
2.3.1.2. Ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ ............................................. 86
2.3.2. Chữ quốc ngữ trong các cải cách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ ........... 94
Chương 3. VAI TRÒ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC VĂN HÓA – XÃ HỘI Ở NAM KỲ .......................................................................... 103
3.1. Giáo dục ............................................................................................................. 103
3.2. Báo chí ................................................................................................................ 111
3.3. Văn học ............................................................................................................... 125
3.4. Nghệ thuật sân khấu ........................................................................................... 133
3.4.1. Tuồng ............................................................................................................ 133
3.4.2. Cải lương ....................................................................................................... 135
3.4.3. Kịch nói ......................................................................................................... 136
3.5. Di sản Hán – Nôm .............................................................................................. 138
3.6. Quá trình đô thị hóa ............................................................................................ 141
3.7. Hoạt động đấu tranh cách mạng ......................................................................... 144
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 155
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 160
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ văn hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây là một vấn đề lớn trong
tiến trình lịch sử văn hóa nói riêng và tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung.
Mối quan hệ này đã tạo ra những chuyển biến về mô hình văn hóa, hình thành các hình
thức sinh hoạt văn hóa mới ở Việt Nam, tạo nên những giá trị văn hóa mới, hiện đại
hơn. Quá trình tiếp xúc văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây cũng để lại nhiều sản
phẩm văn hóa có giá trị, trong đó có chữ quốc ngữ, một thứ ngôn ngữ viết ghi lại ngôn
ngữ nói của người Việt theo ký tự Latinh.
Trong khi đó, ngôn ngữ nói chung luôn đóng vai trò là một phương tiện truyền
đạt văn hóa, chuyển giao văn hóa, làm cho văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Ngôn ngữ là một hệ thống các tín hiệu, ký hiệu có ý nghĩa chuẩn, giúp cho
các thành viên trong xã hội có thể truyền đạt thông tin được với nhau. Ngôn ngữ là
phương tiện biểu đạt những suy nghĩ, những cảm nhận của con người về cuộc sống
xung quanh. Có hai dạng ngôn ngữ: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Lời nói thường có
trước, đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, chữ viết mới ra đời. Đó là
thành quả văn hóa quan trọng của toàn nhân loại và đối với mỗi dân tộc. Chữ viết có
thể được du nhập từ bên ngoài. Trong lịch sửViệt Nam, sự ra đời của chữ quốc ngữ là
một bước ngoặt lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa của dân tộc, kéo dài hàng
thế kỷ cho đến tận thời đại ngày nay.
Chính vì vậy, ngày nay, tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp của người
Việt trên mọi miền đất nước, mà còn là phương tiện giao tiếp chung của đại gia đình
các dân tộc Việt Nam, là phương tiện của Việt Nam trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Vì thế, tiếng Việt không những trở thành đối tượng học tập, nghiên cứu của người Việt
Nam, mà còn của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và bạn bè quốc tế. Do đó, là người
Việt Nam chúng ta không thể không quan tâm đến quá trình hình thành và vai trò của
chữ quốc ngữ đối với văn hóa người Việt.
Trong chương trình lịch sử ở bậc trung học phổ thông, những nội dung về văn
hóa, sự chuyển biến văn hóa nói chung và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam từ
khichữ quốc ngữ xuất hiện nói riêng hầu như chưa được chú trọng làm rõ. Vì vậy, thực
7
hiện đề tài này, người viết hy vọng khẳng định, làm rõ vai trò của chữ quốc ngữ và nêu
bật những biến đổi của văn hóa Việt Nam từ khi chữ quốc ngữ ra đời.
Ngoài ra, nghiên cứu quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa
của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây sẽ đóng góp một nguồn tư liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu lịch sử nói chung và giảng dạy lịch sử ở trung học phổ thông nói
riêng, cụ thể ở các đơn vị bài học như: Bài 24 – Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI –
XVIII (Sách giáo khoa lịch sử 10 – cơ bản, NXB Giáo dục, 2009); bài 23 – Phong trào
yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914) (Sách giáo khoa lịch sử 11 – cơ bản, NXB GD, 2010)
Như vậy, việc tìm hiểu quá trình lịch sử của chữ Quốc ngữ trong quan hệ văn hóa
của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây, để làm rõ vị trí, vai trò của nó đối với văn hóa
Việt Nam là một mảng khá quan trọng và cần thiết trong lịch sử ngôn ngữ Việt Nam
nói riêng và lịch sử văn hóa người Việt nói chung.Trong đề tài này, người viết tập
trung vào vấn đề chính là quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ dưới góc độ là sản phẩm
của quan hệ văn hóa phương Tây với vùng đất Nam Kỳ, qua đó nhấn mạnh vai trò, sự
tác động trở lại của chữ quốc ngữ đến một số loại hình văn hóa ở Nam Kỳ.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, danh từ “quốc ngữ” được dùng để chỉ hai loại
văn tự khác nhau của người Việt. Khi chữ Nôm xuất hiện, danh từ “quốc ngữ” cũng
được dùng để chỉ chữ Nôm, có ý nói chữ Nôm là “tiếng nói nước mình”. Hiện nay và
trong luận văn này, “quốc ngữ” được hiểu là chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự Latinh,
được các các giáo sĩ phương Tây hồi thế kỉ XVI - XVIII sáng chế ra nhằm mục đích
truyền giáo, cùng với sự giúp sức của một số người Việt. Dùng mẫu tự của châu Âu để
ghi âm của người Việt. Do vậy, sư ra đời của chữ quốc ngữ được xem là sản phẩm trực
tiếp của mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây
“Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ” được tái hiện trong luận văn này là các
bước tiến, các bước phát triển của chữ quốc ngữ từ lúc mới xuất hiện, còn rất sơ khai
cho đến khi trở thành một thứ chữ hoàn chỉnh, trơn bén như ngày nay. Đây là một quá
trình lâu dài, gắn liền với những thời kì lịch sử khác nhau tương ứng với những vị trí
khác nhau của chữ quốc ngữ, từ một thứ chữ chỉ dùng trong các nhà thờ cho đến một
8
công cụ chính trị và cuối cùng là chữ viết chính thức của một quốc gia độc lập. Tìm
hiểu “quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ” có thể phản ánh được bức tranh giao lưu văn
hóa giữa Việt Nam và Phương Tây trên một số lĩnh vực văn hóa.
“Nam Kỳ” là tên gọi trước kia của Nam Bộ ngày nay, được đặt từ năm 1834 dưới
triều Nguyễn. Theo chỉ dụ năm Minh Mệnh 15 (1834), ngoài Kinh sư gồm kinh đô và
phủ Thừa Thiên, cả nước được chia thành các khu vực quản lý hành chính bao gồm:
Tả trực (Quảng Nam, Quảng Ngãi), Hữu trực (Quảng Trị, Quảng Bình), Tả kỳ (Bình
Định, Khánh Hòa), Hữu kỳ (Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa), Bắc kỳ (Hà Nội, Ninh
Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên
Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng) và Nam kỳ (Gia Định, Biên
Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Dân gian thường dùng tên gọi
“Nam Kỳ Lục tỉnh”, hoặc chỉ gọi tắt là Lục tỉnh. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, Lục
tỉnh được chia đặt nhiều lần, cuối cùng thành 21 tỉnh.
“Phương Tây” là thuật ngữ có nguồn gốc hoàn toàn từ châu Âu, phương Tây của
châu Âu. Trong thời kì cổ đại, “phương Tây” được dùng để chỉ khu vực phía Tây Địa
Trung Hải, về sau có thêm Bắc Mỹ. Dưới góc độ của người phương Đông, “phương
Tây” ở đây còn để chỉ các vùng đất châu Âu trong buổi đầu khi có sự tiếp xúc của
người châu Âu với người châu Á. “Phương Tây” được hiểu trong đề tài này là những
quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ [43,tr.15]
“Quan hệ văn hóa” là một hiện tượng văn hóa phổ biến, được nhiều ngành khoa
học xã hội quan tâm nghiên cứu. Ngay khi xã hội loài người chưa đạt đến trình độ văn
minh, các mối giao lưu, quan hệ văn hóa của nhân loại cũng đã diễn ra một cách lâu
dài và bền bỉ. Có nhiều loại quan hệ văn hóa với những dạng thức khác nhau và đem
lại những kết quả khác nhau: Tiếp biến văn hóa (acculturation), Đồng hóa văn hóa
(assimilation), Hỗn dung văn hóa hay lai tạo văn hóa (amalgamation, hybridization).
“Mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam Kỳ với phương Tây” được hiểu là sự
tiếp nhận những yếu tố bên ngoài của yếu tố chủ thể là Nam Kỳ trên cơ sở tiếp nhận,
kế thừa những thành tựu văn hóa nổi bật của phương Tây, làm phong phú, hiện đại
thêm cho văn hóa Nam Kỳ, từ việc biến đổi mô hình văn hóa đến việc xuất hiện các
loại hình văn hóa mới theo hướng phương Tây hóa (chữ viết, báo chí, kịch nói, đô thị
9
hóa), hoặc làm biến đổi những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ (giáo dục,
văn học, nghệ thuật, hoạt động yêu nước)
Luận văn xem xét quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối quan hệ văn hóa
giữa Nam Kỳ với phương Tây từ khi có những cuộc tiếp xúc đầu tiên của người châu
Âu khi họ đặt chân đến Nam Kỳ với người Việt, cho đến những năm đầu thế kỉ XX
khi mà chữ quốc ngữ đã trở nên hoàn chỉnh, thay thế hoàn toàn chữ Nho và tiếp tục tạo
ra những chuyển biến mới theo hướng phương Tây hóa cho văn hóa Nam Kỳ, có thể
đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX. Tất cả những vấn đề liên quan được luận văn
tập trung làm rõ ngay chính trên không gian là vùng đất Nam Kỳ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chính, kết
hợp với phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh để tìm hiểu vấn đề.
Phương pháp lịch sử là phương pháp trình bày những sự kiện cụ thể theo trình tự
thời gian. Theo đó, người viết trình bày quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối
quan hệ văn hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây theo trình tự thời gian. Quá
trình hình thành vùng đất Nam Kỳ được trình bày từ khi chúa Nguyễn lập nên xứ
Đàng Trong cho đến khi lãnh thổ Đàng Trong được mở rộng đến tận Nam Bộ ngày
nay. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ được trình bày từ thế kỉ XVI khi nó manh nha
xuất hiện trong các tài liệu của những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đến đầu thế kỉ XX
khi quốc ngữ trở thành một chữ viết hoàn chỉnh và thống nhất trong cả nước Việt
Nam. Chữ quốc ngữ trong chính sách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ cũng dược
trình bày thông qua các chủ trương, chính sách cải cách giáo dục của người Pháp theo
trình tự từ 1862 cho đến đầu thế kỉ XX khi quốc ngữ đã góp phần xác lập nền giáo dục
mới trên đất Nam Kỳ.
Phương pháp logic là phương pháp khái quát các sự kiện lịch sử trên những nét
chung, theo từng vấn đề, nhằm rút ra đặc điểm và bản chất của sự kiện. Do vậy, khi
tìm hiểu quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối quan hệ văn hóa của Nam Kỳ
với phương Tây, tác giả luận văn cũng tuân thủ theo đúng phương pháp logic. Khi
trình bày về văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Kỳ, tác giả lựa chọn những đặc trưng
tiêu biểu, từ đó lý giải nguồn gốc những đặc trưng đó, so sánh, đối chiếu những đặc
10
điểm văn hóa Đàng Trong với đặc trưng văn hóa truyền thống của người Việt, để rút ra
những thuận lợi và khó khăn khi nó tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Cũng tương tự
như vậy khi tác giả luận văn trình bày những đặc trưng của văn hóa phương Tây và rút
ra những tác động của những đặc trưng đó đối với cuộc tiếp xúc và giao lưu của văn
hóa ở Nam Kỳ. Những con đường dẫn đến quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương
Tây cũng được người viết trình bày theo từng vấn đề: công cuộc truyền giáo, hoạt
động thương mại, công cuộc xâm lăng của người Pháp; mỗi vấn đề tác giả đều có lý
giải bối cảnh, biểu hiện và tác động của nó đến sự ra đời của chữ quốc ngữ, đến cuộc
tiếp xúc văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn
hóa của người Pháp cũng được trình bày theo từng chính sách của người Pháp trên các
lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều thể hiện những mục đích, những biện pháp của
chính quyền thực dân khi sử dụng chữ quốc ngữ, để đi đến nhận thức về mục đích
chung của chính quyền thực dân là thiết lập ảnh hưởng lâu dài của văn hóa Pháp ở
Nam Kỳ, loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Khi trình bày ảnh hưởng, vai trò
của chữ quốc ngữ đến một số lĩnh vực văn hóa xã hội Nam Kỳ, người viết cũng lựa
chọn theo từng loại hình văn hóa tiêu biểu để làm rõ nguyên nhân chuyển biến hay
xuất hiện mới của nó, biểu hiện của sự chuyển biến, và rút ra nhận thức về tác động
của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Việt Nam.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp nghiên cứu gắn
bó chặt chẽ với nhau. Muốn hiểu bản chất và quy luật của sự vật thì phải biết về quá
trình phát sinh, phát triển của nó. Mặt khác có nắm được bản chất và quy luật của sự
vật mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp
lịch sử cũng phải nắm lấy cái logic, phải rút ra sợi dây logic chủ yếu của lịch sử thông
qua việc phân tích các sự kiện và hiện tượng cụ thể. Còn phương pháp logic phải dựa
trên các tài liệu lịch sử để khái quát, chứng minh và cuối cùng đem lại lịch sử trong
tính bản chất của nó. Lịch sử mà thiếu logic sẽ mù quáng, còn logic mà thiếu lịch sử
thì không có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tự biện. Do vậy, tác giả luận văn luôn sử
dụng kết hợp hai phương pháp lịch sử và logic.
Phương pháp chuyên gia mà người viết sử dụng biểu hiện ở những quan điểm,
nhận định về chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây và
11
vai trò của nó đối với văn hóa người Việt của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, thể
hiện trong các chuyên khảo, công trình nghiên cứu. Đây là những cơ sở để tác giả luận
văn tìm hiểu và trình bày vấn đề, đồng thời nêu lên ý kiến tán đồng hay phản biện, bổ
sung do sự hạn chế về tài liệu gốc mà tác giả chưa có điều kiện tiếp cận.
Phương pháp so sánh được tác giả luận văn sử dụng khi trình bày bối cảnh của
mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây để chỉ ra sự khác nhau về điểm
xuất phát, về đặc trưng của hai nền văn hóa, từ đó đánh giá, nhận định về cách thức
tiếp nhận yếu tố văn hóa bên ngoài của người Việt, về bản chất của văn minh phương
Tây và nhìn nhận về điểm xuất phát của chữ quốc ngữ. Phương pháp so sánh còn được
người viết sử dụng khi đối chiếu chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính
quyền thực dân với chữ quốc ngữ trong ứng xử của Nho gia, của những nhà cách mạng
Việt Nam, từ đó đánh giá sự khác nhau về mục đích của hai đối tượng này khi họ sử
dụng chữ quốc ngữ, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong hành động của họ đối
với chữ quốc ngữ.
Các phương pháp trên được tác giả luận văn vận dụng liên tục, đan xen trong
suốt quá trình thực hiện đề tài theo trình tự như sau: Mở đầu là bối cảnh dẫn đến cuộc
tiếp xúc và giao văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây, ba con đường chính để thực
hiện mối quan hệ văn hóa này, trong đó đặc biệt quan trọng là bước chân của các nhà
truyền giáo, những người trực tiếp sáng chế ra chữ quốc ngữ; tiếp đến là sự hình thành
chữ quốc ngữ với tư cách là một sản phẩm của quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với
phương Tây, từ trong tay các nhà truyền đạo, quốc ngữ trở thành công cụ chiến lược
trong chính sách văn hóa của người Pháp, một cơ chế được áp đặt trong giáo dục, đồng
thời cũng là phương tiện đấu tranh hữu hiệu của giới sĩ phu Nho học. Cuối cùng là ảnh
hưởng mạnh mẽ của quốc ngữ đến đời sống văn hóa – xã hội Nam Kỳ trên những lĩnh
vực tiêu biểu: giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, di sản Hán – Nôm, quá trình đô
thị hóa và đấu tranh cách mạng, để chứng minh quốc ngữ đã là chữ viết hoàn chỉnh và
thống nhất, một phương tiện năng động và tạo ra sự chuyển biến lớn trên nhiều lĩnh
vực văn hóa – xã hội ở Nam Kỳ.
12
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các vấn đề liên quan đến quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn
hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây đã được các nhà khoa học quan tâm,
nghiên cứu, thể hiện qua một số công trình sau:
Công trình Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 – 1659của Đỗ Quang Chínhnăm 1972 có
có 167 trang, bàn về lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ giai đoạn 1620 – 1659 hầu hết
dựa trên các tài liệu viết tay của các giáo sĩ bấy giờ với 4 phần lớn: Trình bày những
nhận xét của một số người Tây phương về tiếng Việt; khái quát các giai đoạn hình
thành chữ quốc ngữ từ 1620 đến 1648, chủ yếu giới thiệu hình dạng của chữ quốc ngữ
được thể hiện trên các tài liệu viết tay của giáo sĩ phương Tây ; giới thiệu chữ quốc
ngữ dưới thời của Linh mục Alexandre De Rhodes thông qua Từ điển Việt – Bồ - La
và sách Phép giảng tám ngày dượ xuất bản năm 1651 ; giới thiệu chữ quốc ngữ trong
các tài liệu viết tay năm 1659 của hai linh mục người Việt Nam.
Nguyễn Văn Trung với công trình Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc
được nhà xuất bản Nam Sơn ấn hành năm 1975 gồm 73 trang là một công trình tập
hợp khá đầy đủ những bước tiến của chữ quốc ngữ từ lúc người Pháp áp đặt guồng
máy cai trị của họ tại Nam Kỳ thông qua những thông tư, nghị định, quyết định của
nhà cầm quyền Pháp. Đó cũng là lúc chữ quốc ngữ vượt ra khỏi nhà thờ, lan tỏa sang
các lĩnh vực hành chính, văn hóa, giáo dục. Tác giả nhìn nhận quá trình phát triển của
chữ quốc ngữ trong sự liên hệ mật thiết với chính sách cai trị của chính quyền Pháp,
những người làm công việc áp đặt văn minh phương Tây lên Nam Kỳ.
Tác giả Đặng Đức Siêu trong công trìnhChữ viết trong các nền văn hoáxuất bản
năm 1982 dài 179 trang sau khi đã giới thiệu về chữ viết từ thời cổ đại ở cả phương
Đông lẫn phương Tây cũng dành một phần cuối của công trình để bàn về các loại chữ
viết ở Việt Nam, có cả chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ đã được tác giả Đặng Đức Siêu
dành cho một vị tríngang hàng với các loại chữ viết khác ở những nền văn minh lớn.
Tác giả làm rõ chữ quốc ngữ từ lúc mới hình thành cho đến khi trở thành một vũ khí
cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của tác giả Hoàng Tiến có tênChữ
Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ 20 được nhà xuất bản Thanh niên ấn
13
hành năm 2003 là một công trình có giá trị khi nghiên cứu về quá trình hình thành và
hoàn thiện của chữ quốc ngữ trong tất cả 281 trang. Sau phần dẫn luận, và giới thiệu
về chữ Hán, chữ Nôm, tác giả đi thẳng vào giải thích nguồn gốc của chữ quốc ngữ, ra
đời trong bối cảnh người phương Tây đến châu Á và Việt Nam để truyền đạo, buôn
bán. Tiếp đến,tác giả đề cập đến cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ XX để đưa quốc
ngữ trở thành một chữ viết ngày càng hoàn thiện và đi sâu vào quần chúng. Quá trình
này được thực hiện thông qua các tờ báo đầu tiên, trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hội
dịch sách, việc sáng tác, in ấn… để cuối cùng quốc ngữ tác động trở lại. Ở phần này,
tác giả Hoàng Tiến chỉ nêu những tác động của chữ Quốc ngữ đến một số lĩnh vực văn
hóa xã hội Việt Nam mà chưa đi sâu lý giải và nêu rõ biểu hiện của sự tác động ấy.
Công trình Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ của tác giả Hoàng Xuân Việt được
xuất bản năm 2007 dài479 trang là một cuốn sách có ích trong việc cung cấp những sử
liệu ngôn ngữ học về sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ trong cái nhìn so
sánh với chữ Nôm, đặc biệt là chữ quốc ngữ ở Nam Bộ. Nhìn chung, công trình này
được chia làm bốn nội dung chính. Đầu tiên, tác giả giới thiệu về bối cảnh lịch sử của
chữ quốc ngữ, tiếp đến là giới thiệu những dạng chữuốc ngữ đầu tiên được ghi âm theo
hệ thống kí hiệu Ý – Bồ Đào Nha. Liên tục như vậy, tác giả trình bày những cuộc
chỉnh lý của chữ quốc ngữ từ 1772 đến 1838 dần trở thành một thứ chữ hoàn chỉnh
như ngày nay. Cuối cùng, tác giả Hoàng Xuân Việt phân tích sự bùng phát của chữ
quốc ngữ kể từ năm 1865 trở đi, khi Gia Định báo ra đời, hình thành nên một mặt trận
văn hóa mới mà chữ quốc ngữ đóng vai trò chủ đạo, thể hiện qua văn học, báo chí, tư
tưởng, giáo dục… Tác giả luận văn tham khảo ở tài liệu này từ phần hai trở đi, nhiều
nhất là ở phần bốn để làm rõ tầm ảnh hưởng của chữ quốc ngữ đến văn hóa xã hội
Nam Kỳ.
Tác giả Nguyễn Phú Phong có công trình Việt Nam – chữ viết, ngôn ngữ và xã
hội được nhà xuất bản Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2005là
một công trình trước hết mô tả sự hình thành của chữ Nôm và chữ quốc ngữ, hai thứ
chữ viết của tiếng Việt và một cái nhìn đối chiếu được đưa ra. Việc nhìn nhận và áp
dụng chữ quốc ngữ như chữ viết chính thức của tiếng Việt, những tranh cãi của nhà
cầm quyền Pháp xoay quanh vấn đề này, các chặng đường từ lúc hình thành cho tới
14
khi thắng lợi hoàn toàn để trở thành quốc tự Việt Nam đều được tác giả đề cập đến với
khá nhiều chi tiết dưới những khía cạnh khác nhau. Cuộc hành trình của chữ quốc ngữ
qua không gian và thời gian, qua cảm nhận và tác động của những nhân vật lịch sử
suốt gần một thế kỉ Pháp thuộc đều được tác giả ghi nhận đầy đủ.Những nội dung
đóđược tác giả trình bày trong 144 trang với hai phần lớn. Phần I (gồm ba chương) tác
giả đặt trọng tâm vấn đề vào mặt kĩ thuật chữ viết, nghiên cứu tiếng Việt và những
cuộc tranh luận chung quanh chữ quốc ngữ. Phần II (gồm năm chương), tác giả giới
thiệu sự phát triển của chữ quốc ngữ, trong đó hướng về các đề tài như chữ viết và
ngôn ngữ, chữ viết và văn học, chữ viết và giáo dục. Đây là phần tham khảo chính của
tác giả luận văn.
Tác giả Đoàn Thiện Thuật có công trình Chữ quốc ngữ thế kỉ XVIII ấn hành năm
2008 tuy hơi thiên về lĩnh vực ngôn ngữ học, nhưng đây cũng có thể được xem là một
tập tư liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ thế kỉ XVIII, bởi thế kỉ
XVIII chúng ta chỉ có tư liệu để lại là cuốn “Từ điển Việt – Latinh” của P. de Béhaine.
Tác giả công bố các tư liệu dưới dạng ảnh nên có tính trung thực cao. Ngoài giá trị về
mặt nghiên cứu chữ quốc ngữ, tài liệu này cũng rất cần cho nghiên cứu lịch sử ngữ âm,
lịch sử từ vựng, lịch sử ngữ pháp tiếng Việt với độ dài 509 trang.
Gần đây nhất, năm 2013, nhà báo, nhà vănTrần Nhật Vy cho tập hợp những bài
viết của mình đăng trên báo Tuổi trẻ và xuất bản thành cuốnChữ quốc ngữ - 130 năm
thăng trầm. Đây là một công trình biên khảo gồm 259 trang. Tác giả đã sưu tầm,
nghiên cứu về sự ra đời của chữ quốc ngữ từ nhiều nguồn tư liệu dồi dào và ghi nhận
chữ quốc ngữ đã phát triển qua bao thăng trầm, sóng gió. Qua tập sách này, tác giả còn
cho người đọc biết việc sáng tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với mục
đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Tất nhiên, những sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây
không thể không có sự góp phần của người bản xứ. Tác giả còn khẳng định giá trị của
chữ quốc ngữ trong một nền báo chí và văn học mớiở Nam Kỳ từ năm 1865 cho đến
đầu thế kỷ XX.
Cũng trong năm 2013, tác giả Đỗ Quang Hưng và Trần Viết Nghĩa có công trình
Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại do nhà xuất bản
chính trị quốc gia ấn hành, gồm 388 trang. Trong đó, các tác giả đã khẳng định cuộc
15
tiếp xúc văn hóa Đông – Tây ở Nam Kỳ là một vấn đề lớn của lịch sử dân tộc. Quá
trình đó đã dần tạo ra những chuyển biến văn hóa – xã hội ở Nam Kỳ, làm xuất hiện
những hình thức sinh hoạt văn hóa mới. Chữ quốc ngữ được các tác giả thừa nhận là
một trong những loại hình văn hóa mới đó, là sản phẩm của cuộc tiếp xúc với văn
minh phương Tây đã tạo ra những chuyển biến lớn đến các hình thức sinh hoạt văn
hóa khác ở Nam Kỳ: giáo dục, báo chí, kịch nói, văn học.
Các công trình nghiên cứu vừa nêu là nguồn tài liệu tham khảo hết sức hữu ích
để người viết thực hiện luận văn này và có nhìn nhận toàn diện hơn về vấn đề đang tìm
hiểu. Hầu hết các công trình trên đều tập trung làm rõ nguồn gốc và quá trình hình
thành chữ quốc ngữ, khẳng định chữ quốc ngữ là một phương tiện chuyển tải văn hóa
phương Tây, một số có đề cập đến vai trò của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Việt Nam
trên các lĩnh vực như văn học, báo chí, giáo dục… nhưng vẫn chỉ ở mức độ khái quát
mà chưa có sự cụ thể, chi tiết và hệ thống, chưa làm rõ biểu hiện của những chuyển
biến văn hóa xã hội. Vì vậy, luận văn này hy vọng bước đầu góp phần tìm hiểu sâu
hơn về những tác động của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Nam Kỳ trên một số lĩnh
vực chủ yếu.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn có sự tổng hợp từ những nguồn tài liệu phong phú, bao gồm tư lệu
gốc, chuyên khảo, các bài nghiên cứu có giá trị khoa học, trình bày đầy đủ các vấn đề
thuộc lĩnh vực chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây,
góp thêm nhận định về nguồn gốc của chữ quốc ngữ, tính chất của nó qua từng thời kì,
từng đối tượng sử dụng, và nhấn mạnh những chuyển biến văn hóa – xã hội do nó
mang lại, công lao của quốc ngữ đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng, đóng góp
thêm một số nhận định và nhận thức về các vấn đề lịch sử Việt Nam.
- Luận văn cũng góp phần mô tả về quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa Việt
Nam - phương Tây trên lĩnh vực giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, hành chính mà
chữ quốc ngữ đóng vai trò là người trung gian.
- Kết quả và tư liệu của luận văn góp phần cung cấp thêm nguồn tài liệu tham
khảo cho học viên cao học, giáo viên, sinh viên, học sinh trung học phổ thông và
16
những người quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử chữ quốc ngữ, lịch
sử công cuộc tiếp xúc văn hóa Việt Nam với phương Tây nói riêng.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam Kỳ với phương
Tây
Nam Kỳ được hình thành trong quá trình xác lập lãnh thổ Đàng Trong của chúa
Nguyễn. Tính cởi mở, năng động của vùng đất mới là cơ hội để Nam Kỳ dễ dàng tiếp
nhận những yếu tố văn hóa bên ngoài, nhất là văn hóa phương Tây đang trên đà lan
tỏa, mở rộng. Hai nền văn hóa gặp nhau thông qua các con đường: truyền giáo, thương
mại và xâm lược. Chữ quốc ngữ được sản sinh ra trong bối cảnh đó. Do vậy, chương I
được tác giả luận văn trình bày thành 3 vấn đề: Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc
với văn hóa phương Tây; sự phát triển của văn minh phương Tây; những con đường
du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây.
Chương 2: Chữ quốc ngữ - Sảnphẩm của quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với
phương Tây
Là sản phẩm trực tiếp của cuộc tiếp xúc văn hóa phương Tây ở Nam Kỳ, chữ
quốc ngữ hình thành qua một quá trình lâu dài, gắn liền với nhu cầu truyền đạo của các
giáo sĩ phương Tây. Tuy nhiên, vừa mới ra đời, chữ quốc ngữ đã được chính quyền
thực dân tìm cách biến thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho chính sách văn hóa, giáo
dục, nhằm khẳng định ảnh hưởng của văn minh phương Tây lên đất Nam Kỳ, ý định
xóa bỏ Nho học đang trên đà suy đồi. Giới sĩ phu Việt Nam cũng nhận ra lợi thế của
chữ quốc ngữ, nên đã ra sức cổ vũ học tập quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vì thế càng được
dịp lan tỏa. Chương II được tác giả chia thành 3 phần nhỏ: quá trình hình thành chữ
quốc ngữ; chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ;
chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và Nho học ở
Nam Kỳ.
Chương 3: Vai trò của chữ quốc ngữ trong một số lĩnh vực văn hóa – xã hội
ở Nam Kỳ
17
Sau khi đã hoàn thiện và trở thành chữ viết thống nhất, được áp đặt cho một nền
giáo dục mới, bắt buộc trong các cơ quan hành chính, báo chí, chữ quốc ngữ được dịp
chứng tỏ sức ảnh hưởng của mình đến hầu hết mọi lĩnh vực văn hóa – xã hội của
người Việt, làm chuyển biến những loại hình văn hóa truyền thống theo hướng phương
Tây hóa, đồng thời du nhập những loại hình văn hóa mới có nguồn gốc từ phương
Tây. Do vậy, ở chương III, tác giả luận văn làm rõ vai trò của chữ quốc ngữ trên các
lĩnh vực: giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, di sản Hán – Nôm, quá trình đô thị
hóa, đấu tranh cách mạng.
18
Chương 1.
BỐI CẢNH QUAN HỆ VĂN HÓA
GIỮA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY
Nam Kỳ là tên gọi của vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Trước khi có cuộc
tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Nam Kỳ được hình thành trong bối cảnh của những
biến động chính trị - xã hội ở Đại Việt, dẫn đến công cuộc mở cõi của các chúa
Nguyễn về phía Nam. Vớivị trí địa lý mang tính chiến lược trên con đường hàng hải
quốc tế, Nam Kỳ nhanh chóng tỏ ra là một địa điểm thu hút đông đảo người phương
Tây đến giao lưu buôn bán, tìm kiếm thị trường, nhất là trong bối cảnh châu Âu đang
phát triển mạnh mẽ về kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự bùng nổ của nền văn minh công
nghiệp.
1.1. Văn minh phương Tây thời cận đại
1.1.1. Khái niệm văn minh và sự phân biệt “phương Tây”,“phương Đông”
Từ “văn minh” (civilisation, civilization) trong các ngôn ngữ phương Tây đều có
nguồn gốc Latinh là civitas, nghĩa là trạng thái đã được khai hóa, thoát khỏi trạng thái
nguyên thủy, không còn trong tình trạng ăn lông ở lỗ, hái lượm... mà đã định cư thành
những cộng đồng. Civitas cũng có nghĩa là tình trạng đã có quốc gia, chính quyền, luật
pháp.
Theo GS. Trần Quốc Vượng, văn minh là khái niệm được dùng để chỉ trình độ
phát triển về vật chất và tinh thần của con người ở vào trạng thái phát triển cao nhất
của nền văn hóa, trong một thời kì lịch sử nào đó [121, tr.19-20]. Các yếu tố căn bản
của văn minh bao gồm: “sự phóng xa về kinh tế, sự tổ chức chính trị, những truyền
thống luân lý và sự tăng tiến tri thức, phát triển nghệ thuật” [123, tr.32].
Trên thế giới, các nền văn minh không đứng cô lập và bất biến mà thường xuyên
diễn ra sự tiếp xúc và giao lưu. “Xuyên suốt và điển hình nhất” [70, tr.12] là quá trình
tiếp xúc và giao lưu giữa các nền văn hóa và văn minh phương Đông với phương Tây.
Để có cái nhìn toàn diện về quá trình này, cần có sự phân biệt các thuật ngữ “phương
Tây”, “phương Đông”.
19
Thuật ngữ “phương Tây” có nguồn gốc hoàn toàn từ châu Âu. Thời cổ đại, khi
vùng ven Địa Trung Hải có nhiều trung tâm buôn bán, người ta dùng thuật ngữ
“phương Tây” để chỉ khu vực phía Tây Địa Trung Hải.
Trong buổi đầu của sự tiếp xúc Đông – Tây, trong cái nhìn của người phương
Đông, các thuật ngữ phương Tây, Tây Âu, Tây Dương, Thái Tây… có một ý nghĩa đơn
giản và liên hệ nhiều đến phương hướng, để chỉ các vùng đất châu Âu của người châu
Âu với các đặc điểm về chủng tộc như: da trắng, tóc và lông màu hung đỏ, mà trước
đây người phương Đông thường hay gọi là “bạch quỷ” hay “hồng mao”…có những
tập tục, truyền thống, lối sống khác hẳn với người phương Đông. Do vậy, khái niệm
phương Tây còn được người phương Đông dùng với ý nghĩa chỉ chủng tộc người da
trắng mà không cần phân biệt người đó là người Âu hay người Mỹ.
Theo thời gian, do hoàn cảnh lịch sử, thuật ngữ “phương Tây” bao gồm thêm cả
Bắc Mỹ. Có cách hiểu như vậy vì người ta thấy có sự tương đồng về các yếu tố của
văn minh như: lý luận và tổ chức chính trị, lý luận và tổ chức kinh tế, hoàn cảnh sinh
hoạt xã hội.
Trong thời kì chiến tranh lạnh, sau khi các nước Đông Âu tuyên bố đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa và sau bài diễn văn của Tổng thống Mỹ H. Truman (3 – 1947),
các nước Tây Âu đã tập hợp lại với nhau thành một khối để chống lại “nguy cơ chủ
nghĩa xã hội”. Từ đó, thuật ngữ “phương Tây” thường được dùng để chỉ các nước tư
bản chủ nghĩa, là một thế giới đối lập với thế giới cộng sản.
Khái niệm “phương Tây” được dùng trong luận văn này với nghĩa bao gồm
những quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ.
“Phương Đông” cũng là một khái niệm có nội dung rất rộng. Từ thời cổ - trung
đại, cư dân hai bên bờ Địa Trung Hải dùng thuật ngữ “phương Đông” để chỉ vùng đất
nằm ở phía Đông Địa Trung Hải, nghĩa là vùng đất phía Mặt trời mọc. Dần dần cùng
với thời gian, tầm mắt và hiểu biết của con người cũng được mở rộng ra. Người châu
Âu với ưu thế phát triển của mình, qua các cuộc khám phá, những phát kiến địa lí, họ
thấy rằng vùng đất Mặt trời mọc không chỉ là vùng đất chật hẹp nằm ở phía Đông Địa
Trung Hải, mà còn là những vùng đất xa xôi bên kia các đại dương. Họ gọi là vùng đất
20
Tân thế giới. Từ đó còn có một cách hiểu mới về phương Đông: phương Đông là khu
vực các nước ngoài châu Âu và Bắc Mĩ.
Trong thế kỉ XIX, xuất phát từ quan điểm “lấy châu Âu làm trung tâm”, làm
điểm chuẩn, các học giả châu Âu đã gọi các khu vực Tây Á, Trung Á, Đông Á và
Đông Nam Á bằng những tên gọi “không chính xác” [43, tr.15] là Cận Đông (Near
East, Proche-Orient), Trung Đông (Middle East, Moyen-Orient) và Viễn Đông (Far
East, Extreme Orient).
Trong luận văn này, thuật ngữ “phương Đông” được hiểu là những quốc gia
thuộc các khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh.
Như vậy, vấn đề “phương Đông”, “phương Tây” là một vấn đề thuộc về nhận
thức, lúc đầu đơn thuần dùng để chỉ phương hướng, sau đó nó gắn liền với yếu tố lịch
sử và màu sắc chính trị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, sự phân biệt
hai khái niệm phương Đông và phương Tây về mặt văn hóa - văn minh cũng dần hình
thành và “mang một ý nghĩa tương đối, theo quy ước” [43, tr.15]. Khi đó, nhắc đến
Phương Đông, người ta nghĩ ngay đến một nền văn minh của những dòng sông lớn,
nền kinh tế nông nghiệp, những quốc gia quân chủ chuyên chế và những tôn giáo, hệ
tư tưởng đóng kín, không thay đổi. Văn hóa phương Đông thường chứa một tư duy
tổng hợp, cầu tính, duy linh, một hệ giá trị thiên về tinh thần, đạo đức tình nghĩa, mang
tính truyền thống cộng đồng, trong đó con người hòa đồng với tự nhiên, xã hội và tâm
linh. Văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Bộ của người Việt cũng mang những đặc
điểm chung của văn hóa phương Đông. Trong khi đó, văn minh phương Tây dựa trên
nền kinh tế thương mại đường biển, những thể chế chính trị đa dạng sớm tiếp cận đến
nền cộng hòa dân chủ, những trào lưu văn hóa tư tưởng luôn biến động và mang tính
chất mở. Văn hóa phương Tây thiên về lối tư duy phân tích, tuyến tính, duy lý, một hệ
giá trị đề cao sự tiến bộ, phát triển kinh tế vật chất, một con người cá nhân có ý thức
đấu tranh cho tự do và sự giải phóng. Thời cận đại, phương Tây thường gắn liền với
nền văn minh tư bản chủ nghĩa, một nền văn minh mang nhiều nét đặc trưng.
1.1.2. Những đặc trưng của văn minh phương Tây
Sau khi giành được thắng lợi trong các cuộc cách mạng tư sản, châu Âu đã tiến
hành cách mạng công nghiệp tạo nên một bước chuyển biến to lớn của lịch sử nhân
21
loại, làm xuất hiện nền văn minh công nghiệp, được xem là một nền văn minh tiên
tiến, lấn lướt cả nền văn minh nông nghiệp phương Đông “bị coi là thủ cựu, là lạc
hậu” [69, tr.361]. Văn minh phương Tây thời cận đại tiếp tục phát triển nhanh chóng
và hình thành những đặc trưng cơ bản.
Thứ nhất, đây là một nền văn minh công nghiệp và nhà nước hiện đại.
Châu Âu là nơi thực hiện thành công và trở thành trung tâm của cuộc cách mạng
công nghiệp, một sự kiện quan trọng của lịch sử xã hội loài người, đưa châu Âu đến
với văn minh công nghiệp. Khởi đầu là sự ra đời của máy móc và cải tiến kĩ thuật,
trước hết là trong ngành dệt, chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy.
Giai cấp tư sản Anh là những người đi đầu trong các phát minh và sử dụng máy móc.
Những kết quả bước đầu đó của nền văn minh công nghiệp nhanh chóng lan tỏa
khắp các nước Âu – Mỹ. Trình độ kĩ thuật ngày càng hoàn thiện với năng suất và độ
chính xác ngày càng cao đánh dấu những bước tiến rất cơ bản trong nền văn minh
công nghiệp châu Âu. Một hệ thống kĩ thuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt
thay cho hệ thống cũ dựa trên nước và gỗ tạo ra những đột biến với hiệu quả và chất
lượng cao hơn gấp bội, như năng lượng máy hơi nước so với năng lượng cối xay nước
và cối xay gió, vật liệu sắt so với vật liệu gỗ, nhiên liệu than so với củi gỗ, lao động
máy móc so với lao động thủ công, khuyến khích sản xuất mở rộng, các xí nghiệp lớn
xuất hiện, đẩy nhanh sự phát triển của hầu hết các ngành công nghiệp ở châu Âu: vận
tải đường thủy, đường sắt, luyện gang,…
Tuy nhiên, giá trị của nền văn minh công nghiệp phương Tây trong các thế kỉ
XVII – XIX đối với giao lưu và tiếp xúc văn minh Đông – Tây được thể hiện “trước
hết ở ngành hàng hải” [40, tr.52]. Cuối thế kỉ XV, tàu biển của Bồ Đào Nha đã có thể
vượt đại dương đi xa, vòng qua châu Á đến mũi Phi châu và khám phá ra châu Mỹ vào
năm 1492. Hà Lan là nước đã vượt lên Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong thế kỉ XVI
về hàng hải, trở thành bá chủ của nghề biển. Các nguyên tắc về ngân hàng, kế toán,
ngoại giao cũng phát triển nhằm phục vụ hàng hải. Công nghiệp hàng hải là phương
tiện để các nước phương Tây chuyên chở văn minh đến phương Đông, trong đó có cả
Nam Kỳ - Việt Nam. Giới thương nhân và các giáo sĩ là những người đã đem kĩ thuật,
máy móc, những tri thức khoa học từ châu Âu đến với phương Đông.
22
Cùng với sự phát triển của công nghiệp, văn minh phương Tây còn gắn liền với
những hình thức tổ chức nhà nước hiện đại, đó là thiết chế nhà nước tam quyền phân
lập. Từ thời Hy Lạp và La mã cổ đại, trên cơ sở tự nhiên và xã hội đã xuất hiện chế độ
chính trị và chính quyền dân chủ. Montesquieu (1689 - 1755) một nhà khai sáng Pháp
đã đưa ra tư tưởng về sự phân lập quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Các cuộc
cách mạng tư sản châu Âu sau khi lật đổ chế độ phong kiến đã xây dựng thể chế nhà
nước theo chế độ tam quyền phân lập. Đây là một thành tựu của nền văn minh nhân
loại được ra đời và áp dụng ở phương Tây tuân thủ nguyên tắc là quyền lực phải được
chế ngự bằng quyền lực. Không ai và không một đảng phái, tổ chức chính trị nào có
thể vượt lên trên hiến pháp và pháp luật, nhằm duy trì trật tự xã hội một cách công
bằng và bình đẳng.
Tóm lại, châu Âu là nơi khởi xướng và là trung tâm của cuộc cách mạng công
nghiệp, nơi tiến hành công nghiệp hóa sớm nhất. Sự phát triển kinh tế và kĩ thuật của
châu Âu với đầu tàu là các đô thị đã phá vỡ khuôn khổ nhà nước lãnh địa phong kiến
để hình thành nhà nước hiện đại.
Thứ hai, một nền văn minh mang đặc trưng Kitô giáo.
Từ đầu thế kỉ IV, khi Công giáo trở thành quốc giáo của đế chế La Mã, tôn giáo
này đã trở thành động lực lịch sử và văn hóa của nền văn minh châu Âu, “là sức mạnh
vật chất và tinh thần thúc đẩy quá trình hình thành các cộng đồng dân tộc và nhà
nước” [40, tr.53] ở châu Âu.
Từ thế kỉ XVI, cùng với các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, Kitô giáo đã hình
thành bốn nhóm phái tương ứng với các “khu vực văn hóa” của nền văn minh châu
Âu: Tây Âu với nét đặc trưng của Công giáo La Mã; Bắc Âu và một vài quốc gia Tây
Âu như Đức với nét đậm của Tin lành; Đông Âu, Nam Âu và Hy Lạp với Chính thống
giáo và Anh giáo trước hết của nước Anh. Vai trò của Kitô giáo ở mỗi khu vực tuy có
khác nhau nhưng đều có vị trí như một đặc trưng của văn minh châu Âu, “là thành
phần lớn nhất của tư tưởng châu Âu” [21, tr.471-472].
Trong thời cận đại, vai trò của Kitô giáo đối với văn minh phương Tây càng to
lớn khi làn sóng truyền đạo Kitô ra “các vùng đất ngoại” diễn ra ồ ạt, đặc biệt là sang
phương Đông, có cả Nam Kỳ. Việc truyền giáo một mặt nó là sự “mở nước Chúa” của
23
Công giáo La Mã sang các vùng đất ngoài châu Âu; mặt khác, ở bất cứ khu vực truyền
giáo nào, Công giáo La Mã luôn đóng vai trò là “sự hiện diện, cái cầu nối” [40, tr.54]
đầu tiên của nền văn minh châu Âu bất kể đó là các giáo sĩ thuộc dòng Tên
(Compagnie de Jesuites) của Bồ Đào Nha, dòng Đa Minh (Dominico), dòng Phan Sinh
(Phanxico) của Tây Ban Nha, dòng Âu Tinh (Augustino) của Italia hay của Hội truyền
giáo nước ngoài Paris (MEP) của Pháp. Các giáo sĩ không chỉ là người truyền giáo mà
họ còn đem đến cho vùng đất phương Đông những vật dụng hấp dẫn của nền văn minh
“Thái Tây” như đồng hồ, la bàn, sách vở, vải vóc cho đến thuốc lá, khoai tây và thuốc
súng. Các giáo sĩ khi đến Đàng Trong cũng dâng những vật dụng này lên các chúa
Nguyễn như là những món quà ra mắt.
Văn minh châu Âu không thể tách khỏi ảnh hưởng của Kitô giáo và ngược lại.
Trong suốt chiều dài lịch sử phương Tây, Kitô giáo “vẫn nằm ở vị trí trung tâm của
nền văn minh mà nó thúc đẩy, thậm chí ngay cả khi nó để cho nền văn minh đó cuốn
hút làm biến dạng” [21, tr.471-472]. Thông qua việc truyền bá đạo Thiên chúa, những
dấu ấn đầu tiên của nền văn minh phương Tây đã được in dấu ở phương Đông, đặc
biệt trong khu vực tam giác truyền giáo Goa (Ấn Độ) – Macao (Trung Quốc) – Manila
(Philippin). Nam Kỳ cũng là một vùng đất nằm trong khu vực truyền giáo ấy.
Thứ ba, một nền văn minh in đậm vai trò của cá thể.
Văn hóa truyền thống người Việt nói chung và Nam Kỳ nói riêng “không có chỗ
cho sự hình thành cá thể” [40, tr.56]. Đó là xã hội của cộng đồng, làng xóm, tộc họ. Cá
nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng làng xã, vào hệ quy chiếu đạo đức Nho
giáo.
Trong khi đó, đề cao con người và sự sáng tạo là một điểm nhấn trong văn hóa
phương Tây, được kế thừa từ truyền thống dân chủ thời Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa nhân
văn trong phong trào văn hóa Phục hưng, và tư tưởng của các nhà Khai sáng thế kỷ
XVIII. Tự do cá nhân là một trong những bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng tư sản
châu Âu, là bước tiến lớn của lịch sử tư tưởng và xã hội hiện đại, được thể hiện tập
trung và tiêu biểu ở ngọn cờ “Tự do – Bình đẳng – Bác ai”, ở Tuyên ngôn Độc lập của
nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền trong Cách mạng tư sản Pháp..
24
Chính nhân tố cá nhân và duy lý đã thúc đẩy sự ra đời của các phát minh, sáng chế
khoa học, buộc các thành viên trong xã hội phải nỗ lực vận động và tiến lên.
Khi tính cá thể được du nhập vào Nam Kỳ, đầu thế kỉ XX, những trí thức, các
nhà cải cách và những người cách mạng ở Việt Nam cũng đã khéo léo khai thác yếu tố
độc đáo, mới lạ về vai trò cá nhân của văn minh phương Tây để khắc phục một điểm
yếu quan trọng của văn hóa truyền thống người Việt, đó là quá đề cao tính cộng đồng
mà bỏ quên tính cá thể của con người.
Thứ tư, một nền văn hóa giáo dục phát triển.
Châu Âu là nơi có truyền thống giáo dục lâu đời và đã đạt được những thành tựu
to lớn trong giáo dục, hình thành một nền giáo dục tiến bộ, vừa là động lực vừa là
phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển ổn định và chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc, nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội đã buộc các nước
tư bản phải chú trọng về phát triển giáo dục. Mục đích giáo dục phương Tây trong giai
đoạn này là chuẩn bị cho trẻ em có đủ trình độ và năng lực để đảm nhận việc quản lý
nhà nước và quản lý nền sản xuất hiện đại. Trong mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ
với phương Tây, việc áp dụng mô hình giáo dục phương Tây lên vùng đất này sẽ là
vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất của nhà cầm quyền Pháp, nhất là việc lựa chọn chữ
viết cho nền giáo dục.
Thứ năm, một nền văn minh gắn liền và lan tỏa nhờ chủ nghĩa thực dân.
Chủ nghĩa thực dân được hình thành ngay từ buổi đầu tích lũy nguyên thủy của
chủ nghĩa tư bản. Cùng với chủ nghĩa tư bản, nó là yếu tố quan trọng, phổ biến trong
việc tiếp xúc văn minh phương Tây của các nước phương Đông, là một trong những
yếu tố quyết định nhất của việc thực hiện “công nghiệp hóa cưỡng bức” đối với các xã
hội châu Á từ thế kỉ XIX.
Việc chinh phục châu Mỹ ở thế kỉ XVI, việc mở tung cánh cửa lục địa Ấn Độ
(1757) và thị trường Trung Quốc rộng lớn (1842) là những sự kiện lớn đánh dấu sự
bành trướng của chủ nghĩa thực dân châu Âu mà qua đó các nước phương Đông bắt
đầu đối diện với nền văn minh phương Tây “vừa hấp dẫn, vừa tàn bạo”. Qua đó, văn
minh châu Âu không những có thêm những không gian rộng lớn để thực hiện công
25
cuộc di dân, mà còn có thể khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và sức lao động rẻ
mạt ở các xứ thuộc địa, làm giàu thêm cho nền văn minh chính quốc. Chủ nghĩa thực
dân trở thành “cơ hội” khách quan để văn minh phương Tây dần in dấu trong các xã
hội châu Á, đồng thời, là sức mạnh, điều kiện để tạo ra những “hình thái” kinh tế - xã
hội mới cho sự hiện diện của văn minh phương Tây, lẫn mô hình “văn minh phương
Tây cưỡng bức” [40, tr.48] ở các nước thuộc địa.
Về phương diện xã hội, nhờ có sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân phương Tây
thông qua các cuộc khai thác thuộc địa, đã làm cho mô hình xã hội cổ truyền ở nhiều
nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á dần đi đến giải thể nhanh chóng và quyết
liệt hơn, làm xuất hiện nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là giai cấp tư sản,
tiểu tư sản và giai cấp công nhân - là những giai cấp sẽ “tạo nên một cơ sở xã hội cần
thiết cho việc tiếp nhận văn minh phương Tây một cách sâu rộng và phổ biến” [40,
tr.48-49]
Văn minh công nghiệp phương Tây là một bước tiến vĩ đại của nhân loại. Nó đã
đưa lao động cơ giới thay thế cho lao động cơ bắp, chuyển nền sản xuất nông nghiệp
lạc hậu sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại, chuyển thiết chế phong kiến sang thiết
chế dân chủ tư sản và tự do hóa cá nhân. Chính trong sự hào nhoáng đó của văn minh
phương Tây, người châu Âu đã tự gắn cho mình “sứ mệnh khai hóa văn minh”
(mission civilisatrice) đối với các dân tộc phương Đông, nơi gắn liền với nền kinh tế
nông nghiệp khép kín, với chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hàng nghìn năm và
truyền thống cộng đồng đã bám rễ trong ý thức con người. Do vậy, chắc chắn, sự đụng
độ giữa hai nền văn hóa Đông – Tây sẽ diễn ra, mở đầu bằng các con đường truyền
giáo, thương mại, xâm lược…
1.2. Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa là “một hiện tượng văn hóa phổ biến” [43, tr.13],
“là quy luật phát triển của văn hóa, văn minh, một nhu cầu tự nhiên của con
người”[70, tr.20], nó “xảy ra khi những nhóm người có nền văn hóa khác nhau, tiếp
xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi nhận thức văn hóa ban đầu của một hay cả
hai nhóm” [121, tr.21] và được gọi bằng nhiều thuật ngữ: tiếp biến văn hóa, tiếp xúc
26
văn hóa, giao thoa văn hóa hay giao lưu văn hóa… Tiếp xúc và giao lưu văn hóa đặc
biệt diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc đầu thời cận đại.
Ở Việt Nam, cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây
thời cận đại là “chủ yếu và bền vững nhất”[43,tr.14] so với các lần tiếp xúc văn hóa
trước đó, nó diễn ra trong những điều kiện của thời đại mới, thời đại mà chủ nghĩa tư
bản phương Tây đang vươn lên thống trị thế giới và tiến hành các cuộc “công nghiệp
hóa cưỡng bức” với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Nam Kỳ, một vùng đất thuộc
Đàng Trong, nằm trên ngã ba của tuyến đường giao thương quốc tế, dĩ nhiên cũng
không nằm ngoài phạm vi mở rộng của văn minh phương Tây.
1.2.1. Tình hình chính trị - xã hội xứ Đàng Trong – Tiền đề hình thành vùng
đất Nam Kỳ
Từ cuối thế kỷ XVI, nhà Lê lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Những
sự tranh giành ảnh hưởng giữa các thế lực phong kiến nổ ra và kéo dài đã đưa đến
những cuộc nội chiến và chia cắt. Bối cảnh chính trị hỗn loạn đã đẩy Nguyễn Hoàng
cùng gia quyến và thuộc hạ rời đất Thanh Hoá vào Thuận Hoá (năm 1558) và được
giao cai quản luôn đất Quảng Nam (năm 1570).
Thời gian đầu, Nguyễn Hoàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một phiên thần đối
với vua Lê – chúa Trịnh, vẫn giữ nguyên những đơn vị hành chính cũ và bộ máy quan
chức của họ Trịnh. Nhưng từ năm 1600, lực lượng Mạc được dẹp yên, Trịnh Tùng tìm
cách kiềm chế Nguyễn Hoàng. Cũng từ đó, Nguyễn Hoàng bắt đầu thực hiện những
chính sách dần tách khỏi sự ràng buộc của họ Trịnh: dời dinh từ Ái Tử về Dinh Cát, cử
con trai là Nguyễn Phúc Nguyên vào làm trấn thủ Quảng Nam (1602), thay đổi khu
vực hành chính (1604), lập thêm phủ mới Phú Yên (1611). Năm 1613, Nguyễn Hoàng
chết. Mưu đồ cát cứ của ông biến thành hiện thực dưới thời trị vì của con trai thứ sáu
Nguyễn Phúc Nguyên (1613- 1635). Chúa thải hồi các quan lại do nhà Lê tiến cử, cải
tổ lại bộ máy chính quyền, không nộp cống cho vua Lê – chúa Trịnh. Từ đó, thế lực
cát cứ họ Nguyễn đã hình thành và từng bước làm chủ vùng đất Đàng Trong.
Khi thấy mưu đồ ly khai của họ Nguyễn, năm 1627, lấy danh nghĩa vua Lê, Trịnh
Tráng tiến quân vào Bắc sông Nhật Lệ đánh họ Nguyễn. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn
diễn ra liên miên từ năm 1627 đến 1672. Không phân thắng bại, hai bên lấy sông Linh
27
Giang (sông Gianh) làm ranh giới. Phần đất chúa Nguyễn cai quản ở phía Nam được
gọi xứ Đàng Trong (hay Nam Hà) để phân biệt xứ Đàng Ngoài (hay Bắc Hà) của vua
Lê - chúa Trịnh. Trên vùng đất mới, họ Nguyễn vừa phải chống lại áp lực truy bức của
họ Trịnh, “có số tiềm lực nhiều gấp đôi, gấp ba Đàng Trong về mọi mặt” [56, tr.85],
vừa phải tìm chỗ dựa tại chỗ để tồn tại, đồng thời không ngừng tìm kiếm các mối quan
hệ mới với các láng giềng phía Nam để giữ gìn lực lượng và phát triển, tạo nên mối
quan hệ vừa là đồng minh, vừa là đối trọng. Cư dân Việt cũng có điều kiện để giao
lưu, tiếp xúc với các yếu tố văn hóa của các tộc người khác nhau.
Dinh chúa Nguyễn đóng ở Phú Xuân, nhưng không hình thành một chính quyền
trung ương. Buổi đầu nhân dân gọi người đứng đầu là Chúa, nhưng các chúa Nguyễn
tự xưng Quốc công. Năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu dự định tách Đàng Trong
thành một nước riêng tự xưng Đại Việt Quốc Vương, nhưng việc không thành. Nối
tiếp ý đồ đó, năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, lập triều đình, thay đổi
hệ thống quan chức và đặt thêm các bộ. Như vậy, từ một phiên thần của vua Lê - chúa
Trịnh, các chúa Nguyễn đã dần dần tách hẳn và thiết lập một bộ máy chính quyền
riêng ở Đàng Trong mang những nét riêng biệt: đó là một chính quyền chưa hoàn
chỉnh và thống nhất về mặt tổ chức, mức độ tập quyền chưa cao, là một chính quyền
trong buổi đầu thiên nhiều về mặt quân sự, chỉ được dần thay thế bằng tính dân sự
hành chính khi chiến tranh Trịnh – Nguyễn kết thúc.
Trong quá trình xây dựng và củng cố quyền lực của mình, các chúa Nguyễn cũng
không ngừng mở rộng lãnh thổ về phía Nam. “Năm 1611 lấy cớ người Chiêm Thành
hay đánh phá miền Bình Định, Nguyễn Hoàng phát binh đánh Chiêm Thành, chiếm
được miền đất từ đèo Cù Mông đến Đại Lãnh tương đương với nước Hoa Anh ở đời
Lê Thánh Tông. Đất mới ấy được đặt làm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, hợp
thành phủ Phú Yên”[1, tr.181]. Năm 1693, chiếm thêm vùng đất từ Phú Yên đến bờ
sông Phan Lang, đặt ra hai phủ Thái Khang và Diên Khánh, sau đó chiếm luôn phần
đất còn lại lập nên trấn Thuận Thành và giao cho người Champa cai quản, đến năm
1697 đổi thành phủ Bình Thuận. Đến đây, Champa hoàn toàn được sáp nhập vào Đại
Việt.
28
Đây cũng là lúc lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn tiếp giáp với vùng đồng
bằng phì nhiêu của Chân Lạp, nơi mà từ đầu thế kỉ XVII đã có những người Việt lưu
vong tự tìm đến làm ăn. Họ đã khai khẩn đất Đồng Nai, Sài Gòn, lập nên thôn xóm. Vì
thế, công cuộc khẩn hoang của chúa Nguyễn càng thuận lợi và cứ tiếp tục mở rộng
xuống phía Nam, kết hợp với chính sách đối ngoại khôn khéo góp phần đáng kể trong
việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn ở đất Đàng Trong. “Mùa xuân năm Mậu Dần
(1698), đời Vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành
Hầu Nguyễn Hữu Kính sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định
phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn
làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn…” [18, tr.12]. Với việc hoạch định vùng
đất Sài Gòn – Gia Định thành các đơn vị hành chính, chính quyền chúa Nguyễn đã xác
lập vai trò quản lý ruộng đất, hộ khẩu, thu thuế, khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nhà
nước trên vùng đất mới, mở đầu cho lịch sử hình thành và phát triển của xứ Nam Kỳ.
Đến giữa thế kỷ XVIII (1757), toàn bộ đất Nam Bộ ngày nay trở thành lãnh thổ
xứ Đàng Trong, được chính quyền Đàng Trong của chúa Nguyễn quản lý khá chặt chẽ.
Trên lãnh thổ từ phía Nam sông Gianh đến mũi Cà Mau, chúa Nguyễn chia thành 12
đơn vị hành chính gọi là dinh. Vùng Thuận - Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố Chính, Quảng
Bình, Lưu Đồn, Cựu dinh (hay Chính dinh cũ), Chính Dinh, Quảng Nam. Vùng đất
mới khai thác chia làm 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên
Trấn, Long Hồ. Ngoài ra có một trấn phụ thuộc là Hà Tiên. Tháng 11 – 1779, Nguyễn
Ánh chia toàn Nam Bộ lúc bấy giờ ra thành 1 trấn (Hà Tiên) và 4 dinh (Trấn Biên,
Phiên Trấn, Trường Đồn, Long Hồ) [83, tr.27]. Tất cả các dinh trấn này đều chịu sự cai quản của phủ Gia Định1. Khi lên ngôi, năm 1808, Nguyễn Ánh cho định lại bờ cõi,
phân địa giới toàn lãnh thổ Việt Nam ra làm 4 dinh gồm 25 trấn, đồng thời lại chia làm
hai miền Bắc - Nam, gọi là Bắc Thành và Gia Định Thành để tiện việc cai quản [61,
tr.12]. Lúc bấy giờ, trấn Gia Định được đổi thành Gia Định Thành, cai quản 5 trấn, là:
1 Khi ấy, dinh Phiên Trấn có một huyện là Tân Bình, gồm 4 tổng là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc. Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh chọn Sài Gòn (thuộc dinh Phiên Trấn) làm nơi đóng đô của mình, và gọi là Gia Định kinh. Sau khi lấy được Phú Xuân (1801), chúa Nguyễn liền dời đô ra đấy. Xem [24, tr.195]
Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và An Giang [83, tr.96].
29
Nhưng phải đến năm 1834 tên gọi Nam Kỳ mới chính thức xuất hiện khi Minh
Mạng chia lại các đơn vị hành chính với cách gọi chỉ cự ly gần hay xa với kinh đô về
phía Nam và phía Bắc. Nam Kỳ có 6 tỉnh nên thời trước thường nói và viết Nam Kỳ
lục tỉnh, hoặc chỉ gọi tắt là Lục tỉnh. Năm 1867, quân viễn chinh Pháp chiếm trọn Nam
Kỳ, vẫn duy trì tên gọi cũ và chia nhỏ lục tỉnh ra, 6 thành 9 (1876), rồi 20 (1880), 21
(1882). “Tỉnh thứ 21 là Bạc Liêu” [22, tr.11]. Tuy số tỉnh không còn là 6 nữa, nhưng
người dân vẫn quen gọi Nam Kỳ là Lục tỉnh. Tuy nhiên, nói đi lục tỉnh lại thường có
nghĩa là đi về miền Tây chứ không phải miền Đông, mặc dù tiên khởi, lục tỉnh gồm
luôn cả miền Đông.
Trong công cuộc khai khẩn đất đai ở Nam Kỳ, lưu dân Việt là lực lượng chủ yếu
và có mặt từ rất sớm. Bằng các chính sách, biện pháp khác nhau: lợi dụng sức lao động
và khả năng khai phá đất đai của dân phiêu tán người Việt, người Hoa; lợi dụng lực
lượng “có vật lực” ở miền Thuận – Quảng chiêu mộ dân nghèo vào khai hoang; sử
dụng quân đội đồn trú; kiến tạo quan hệ đồng minh dưới nhiều hình thức với triều đình
Chân Lạp… các chúa Nguyễn đã giúp lưu dân người Việt nhanh chóng ổn định cuộc
sống, mở mang diện tích canh tác. Người Hoa, người Chăm và người Khmer đã cùng
người Việt từng bước hòa nhập tạo dựng cuộc sống, hình thành ở nơi đây một diện
mạo kinh tế - xã hội có sự khác biệt ít nhiều so với Đàng Ngoài và các triều đại phong
kiến trước đó.
Nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ, nhiều thị tứ, đô thị, thương cảng ra
đời, góp phần quan trọng làm gia tăng đáng kể tầng lớp thợ thủ công và thương nhân
trong cơ cấu xã hội Đàng Trong ở thời kỳ này. Bên cạnh đó, việc chính quyền khuyến
khích những người “dân có vật lực” đứng ra thuê nhân công khai hoang, chiếm hữu
nhiều ruộng đất và trở nên giàu có nhanh chóng, đã hình thành nên bộ phận điền chủ
lớn, làm chỗ dựa cho chính quyền chúa Nguyễn. Cách thức tổ chức sản xuất của điền
chủ bước đầu cũng mang màu sắc tư bản chủ nghĩa, khác với Đàng Ngoài. Do vậy,
tình hình phân hóa xã hội ở Đàng Trong diễn ra nhanh chóng hơn.
Trong tư tưởng, để phù hợp với vị trí bị coi là “bất hợp pháp” của mình, là “nổi
loạn” so với Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn đã không chọn Nho giáo. Phật giáo Đại
thừa trở thành lựa chọn vừa có thể đáp ứng cho “nhu cầu tinh thần và ý thức hệ cho
30
một tông tộc cai trị mới” [Xem 125], củng cố tính hợp pháp cho chính quyền họ
Nguyễn, vừa có thể đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt. Sự kết hợp giữa uy
quyền của các chúa Nguyễn với tôn giáo là một cách làm giống như các nước láng
giềng Đông Nam Á nhằm khẳng định chúa Nguyễn là tiêu biểu cho quyền lực cao nhất
tại khu vực này, muốn phân biệt mình với họ Trịnh ở phía Bắc, vốn còn chấp nhận
những ý niệm Nho giáo. Vùng đất phía Nam đã cho chúa Nguyễn thực hiện một cuộc
chuyển biến tư tưởng, “một ý thức lớn hơn về tự do - tự do chọn nơi họ ưa thích và
cách sống họ muốn” [56, tr.199] không còn phải chịu những ràng buộc của luân lý
Nho giáo, tạo ra một tư tưởng dễ tiếp nhận cái mới – một thuận lợi cho sự tiếp nhận
văn hóa phương Tây.
Chính sách ngoại thương cởi mở cũng là một sự chuyển biến trong tư tưởng các
chúa Nguyễn, khác hẳn các triều đại phong kiến trước đó. Với nền tảng nông nghiệp
yếu ớt của Đàng Trong thế kỷ XVII không thể giúp chúa Nguyễn đối đầu với lực
lượng có ưu thế hơn hẳn là họ Trịnh. Do vậy, thương nghiệp trở thành yếu tố quyết
định, làm cho Đàng Trong trở nên giàu có một cách nhanh chóng và đủ mạnh để có thể
duy trì được sự độc lập với phía Bắc và tiếp tục mở rộng về phía Nam, góp phần xoá
bỏ tính khép kín của văn hoá truyền thống để hình thành nên một nền văn hoá mở, văn
hóa hướng ngoại của vùng đất phía Nam. Nhờ vậy, hàng loạt tàu buôn của phương Tây
như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… dễ dàng nhận được nhiều ưu đãi của các chúa
Nguyễn. Các chúa còn dành cho người phương Tây những vị trí nhất định trong triều,
như làm thầy thuốc hay cố vấn khoa học. Đây là cơ hội tốt để Đàng Trong tiếp xúc với
những kiến thức khoa học và những thành tựu kĩ thuật của phương Tây.
Khác hoàn toàn mục đích chính trị của chúa Nguyễn, lưu dân Việt, “những người
đã không có quyền sống trên vùng đất cũ”[58, tr.121] đi về phương Nam chỉ vì miếng
cơm manh áo, mang theo khát vọng tự do, khát vọng cuộc sống bình yên. Vào đến
vùng đất Thuận - Quảng, lưu dân Việt bắt gặp những đặc sắc của văn hoá Chăm với
nền kinh tế hướng biển. Tại đây, giao thoa văn hóa đã diễn ra. Sự kết hợp giữa văn hoá
Việt với văn hoá Chăm, truyền thống Việt với truyền thống Chăm đã tạo thành một sắc
thái văn hoá mới theo định hướng mở. Di dân Việt “sẵn sàng thải đi hay coi nhẹ những
31
khía cạnh của tập tục và truyền thống tuy vẫn còn ý nghĩa đối với người dân ở phía
Bắc nhưng không còn thích hợp tại vùng đất mới phía Nam nữa” [56, tr.214-215].
Điều này càng được thể hiện rõ nét khi những lưu dân Việt tiến xa hơn xuống
vùng đất Nam Kỳ, một chân trời mới tự do hơn nhưng cũng đầy thử thách, nơi thoáng
rộng, sông nước mênh mông, đất đai phì nhiêu, có cả dân định cư từ trước lẫn những
người mới nhập cư từ các nước Đông Nam Á, Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ và
phương Tây… Quá trình cộng cư đã mở ra một khung cảnh tiếp xúc và giao lưu văn
hóa rộng rãi, sôi động giữa các tộc người, hình thành ở người Việt một lối sống mới,
phong cách văn hóa mới, riêng biệt, khác với khu vực Thuận - Quảng và càng khác
biệt với khu vực châu thổ sông Hồng vẫn còn nặng các giá trị cổ truyền của cộng đồng
cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Chính vì thế, người Việt ở Nam Kỳ rất cởi mở, dễ
thu nhận và tiếp biến những giá trị văn hóa mới, nhất là văn hóa phương Tây. Đạo
Thiên chúa và chữ quốc ngữ đã xuất hiện trong thời gian này, cùng với đó là những
thành tựu kĩ thuật, những kiến thức sơ đẳng của khoa học phương Tây, sự phát triển
kinh tế hàng hóa kết hợp lối sống thị dân, những tư tưởng tự do,… làm phong phú
thêm đời sống văn hóa của người Việt ở Nam Kỳ.
Là kết quả của quá trình mở rộng lãnh thổ về phương Nam của các chúa Nguyễn
trong bối cảnh văn minh phương Tây bắt đầu thâm nhập vào phương Đông, phương
Nam vừa là sự thách thức, vừa là cơ hội để người Việt có thể lựa chọn, sáng tạo, linh
hoạt trong lối sống và trong ứng xử văn hóa để thích nghi với vùng đất mới. Cũng từ
đó, nhiều đặc điểm mới được hình thành trong văn hóa Nam Kỳ, quan trọng nhất là sự
năng động, tính cởi mở, không dễ dàng bị ràng buộc, sẵn sàng chấp nhận va chạm văn
hóa để tiếp thu những cái mới hữu ích. Điều này lý giải vì sao Đàng Trong dễ dàng
tiếp nhận những yếu tố văn hóa phương Tây. Vừa dựa trên nền tảng văn hóa truyền
thống của người Việt, vừa tiếp biến với văn hóa phương Tây, lại đứng trước cơ hội và
thách thức do vùng đất mới đặt ra, những đặc điểm của văn hóa Đàng Trong – Nam
Kỳ dần được hình thành.
32
1.2.2. Khái quát đặc điểm của văn hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền
thống Việt Nam
“Văn hóa” là một khái niệm đa nghĩa, đa tầng, có nguồn gốc tiếng Latinh là
cultura(culture, kultura, kultur...), tức là vun trồng, cày cấy, luyện tập, cải thiện,... Văn
hóatrong tiếng Hánđược hiểu là văn trị và giáo hóa, sự chuyển hóa để trở thành những
nét văn vẻ, tốt đẹp. Từ định nghĩa văn hóa của nhà nhân học người Anh Edward
Burnett Tylor (1832 – 1917) khi xem văn hóa là một phức thể nhiều mặt do con người tạo nên2, theo thời gian, khái niệm này cũng thay đổi nhiều, mang nội hàm rộng và có
nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng thường được phân làm hai loại: định nghĩa miêu tả
và định nghĩa nêu đặc trưng. Trong khi đó, truyền thống văn hóa là “những hằng số
văn hóa được kết tinh trong đời sống của một cộng đồng người và được lưu truyền qua
nhiều thế hệ lịch sử. Nó thường mang tính phổ biến trong cộng đồng và lại là những
nét đặc trưng của cộng đồng đó khi đối sánh với những cộng đồng khác, mang tính ổn
định và được biểu hiện trong tâm lý tính cách, nếp nghĩ, lối sống của các thành viên
cộng đồng” [43, tr.486], “trong chế định xã hội, chuẩn mực và hành vi, các giá trị, tư
tưởng, phong tục tập quán và lối sống” [dẫn theo 55, tr.10].Do vậy, khi xem xét văn
hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền thống Việt Nam, luận văn này nhìn nhận khái
niệm văn hóa dưới góc độ là một định nghĩa nêu đặc trưng, tức coi văn hóa là “những
kết quả (sản phẩm) nhất định như những giá trị, truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư
tưởng và thiết chế xã hội mà cộng đồng đã sáng tạo, kế thừa và tích lũy” [98, tr.27].
Theo đó văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Kỳ trên nền văn hóa truyền thống Việt
Nam trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây sẽ được xét trên các mặt: kết cấu xã
hội, tư tưởng, về con người Việt Nam truyền thống, bao gồm: truyền thống yêu nước,
truyền thống cộng đồng, truyền thống trọng tình, truyền thống giỏi ứng biến, phương
thức tư duy truyền thống.
Những giá trị văn hóa truyền thống này của người Việt trên thực tế lịch sử có thể
bắt đầu từ thế kỉ XI, khi xã hội và văn hóa Việt Nam đã được định hình, ổn định và kết
thúc vào những thập niên đầu thế kỉ XX khi văn hóa – xã hội cũ về cơ bản đã giải thể, 2 “Văn hóa hay văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học, là một tổng thể phức hợp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ những khả năng, những tập quán mà con người có được với tư cách là thành viên xã hội”. Xem [20, tr.13]
33
nhường chỗ cho một văn hóa – xã hội mới theo chiều hướng Âu hóa. Nhưng thực chất,
các yếu tố truyền thống còn có thể bảo lưu rất lâu trong những thời gian sau này.
Trong các thế kỉ XVII, XVIII, trên hành trình tiến về phương Nam, nơi đang tồn tại
những nền văn hóa khác lạ, các giá trị văn hóa truyền thống của người Việt vẫn được
lưu dân Việt mang theo. Để thích nghi với vùng đất mới, một cuộc tiếp xúc, giao thoa
văn hóa đã diễn ra, hình thành nên văn hóa vùng Thuận - Quảng với những sắc thái
mới trên nền văn hóa truyền thống Đại Việt. Khi người Việt từ Thuận - Quảng tiến
hành những đợt di dân lớn vào Nam Bộ trong hai thế kỷ XVII – XVIII, tiểu vùng văn
hóa Thuận – Quảng lại tiếp tục được giao thoa, tiếp biến với các nền văn hóa ở phía
Nam (Chăm, Hoa, Khmer), nảy sinh những hạt giống đầu tiên làm cơ sở cho văn hóa
Nam Bộ. Như vậy, văn hóa Đàng Trong - văn hóa Nam Bộ là sự gặp gỡ giữa các cộng
đồng cư dân trên đất Đàng Trong, sự tác động qua lại phong phú giữa các nền văn hóa
khác nhau tạo nên những nét dung dị, hài hòa, cởi mở, phóng khoáng nhưng vẫn
không đánh mất đi bản chất của văn hóa truyền thống người Việt.
Về kết cấu xã hội, xã hội Việt Nam truyền thống là một xã hội tiểu nông lúa
nước. Do vậy, “nông dân thực là nền móng của dân tộc ta, mà nông nghiệp là nền
móng của văn hóa ta” [2, tr.345]. Công việc nhà nông là một lao động nhọc nhằn, vất
vả, không những đòi hỏi đức tính cần cù, nhẫn nại, chịu đựng gian khổ, nếp sống tằn
tiện, giản dị, mà còn phải có sự chung lưng đấu cật trong lao động. Từ đó sớm hình
thành ý thức cộng đồng, biểu hiện trước hết qua kết cấu nhà – làng – nước, “kết cấucơ
bản của xã hội truyền thống Việt Nam” [104, tr.35]. Kết cấu này đến đầu thế kỉ XIX –
thế kỉ bản lề của tiếp xúc văn hóa phương Tây về căn bản vẫn được duy trì. Nhà nước
và làng xã thường thỏa hiệp và nhân nhượng lẫn nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa
tương phản nhau, trong đó yếu tố gia đình và làng là yếu tố nền tảng, bền vững.
Nhà nước
Làng xã Gia đình
Làng xã là vấn đề cực kỳ quan trọng của xã hội Việt Nam cổ truyền. Khi đến
Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng tổ chức quần cư thành làng ấp như
truyền thống. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức, làng của người Việt ở Nam Kỳ có
34
nhiều điểm khác biệt với làng quê ở phía Bắc. Về nội dung, làng của người Việt ở
Nam Kỳ là một tập hợp cư dân đến từ nhiều vùng, nhiều họ tộc khác nhau, nhiều thành
phần, gắn bó với nhau không phải do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng
giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng cũng thường xuyên biến động hơn, kẻ đến người
đi đổi chỗ cho nhau, nên không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư với dân ngụ
cư, “một làng có thể tan rã trong tay anh với tốc độ nhanh như lúc nó hội tụ lại...” [dẫn
theo 26, tr.116].Người Việt đã từ bỏ cuộc sống khép kín trong các làng Bắc để ở trong
những làng xóm mở Nam Kỳ, nơi không có luỹ tre, cánh cổng; nhà cửa không tụ lại
mà tản ra dọc theo những con kênh, con lộ để tiện làm ăn. Cũng vì vậy, tính cố kết
cộng đồng của làng Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong cuộc tiếp
xúc và giao lưu với văn hóa phương Tây ở Nam Kỳ, làng xã là “không gian xã hội văn
hóa” chịu nhiều sức ép và bắt đầu rạn nứt.
Trên phương diện tư tưởng, người Việt theo chủ nghĩa đa thần, phiếm thần, chấp
nhận tính đa nguyên phi độc tôn dựa trên sự cộng tồn hòa bình và khoan dung tôn
giáo. Một bên là lối sống và những tín ngưỡng dân gian mang tính Đông Nam Á như
các tục sùng bái tự nhiên, ma thuật, chủ nghĩa vật linh và thần linh, tục sùng bái tổ tiên
và anh hùng, cùng với Phật giáo và Đạo giáo. Bên kia là hệ tư tưởng Nho giáo chính
thống của nhà nước quan liêu, được vay mượn từ nền văn hóa phương Bắc. Hai hệ tư
tưởng tín ngưỡng này thường đan cài vào nhau, không bên nào lấn át được bên nào,
tạo nên một thế cân bằng tư tưởng làm nền tảng tinh thần cho sự ổn định xã hội. Trong
thời Lý - Trần, Nho giáo đã đóng vai trò là cơ sở tư tưởng của việc xây dựng nhà nước
quân chủ tập quyền, quản lý xã hội và hoạch định chính sách của triều đình phong
kiến, mặc dù xã hội thời Lý - Trần rất tôn sùng đạo Phật [89, tr.27]. Nho học giữ vị trí
là nền giáo dục chính thức của nhà nước phong kiến, quy định về nội dung, tổ chức và
thực thi việc giáo dục và thi cử. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho giáo đối với gia đình,
dòng họ và làng xã Việt Nam còn mờ nhạt. Các thành viên của gia đình, dòng họ và
làng xã còn chịu ảnh hưởng nặng của những giá trị đạo đức truyền thống và một phần
của những giá trị đạo đức Phật giáo.
Phải đến thế kỉ XV, Nho giáo mới bước lên địa vị độc tôn ở Việt Nam nhằm
phục vụ cho nhu cầu xây dựng, tổ chức và bảo vệ bộ máy nhà nước phong kiến trung
35
ương tập quyền lớn mạnh, yêu cầu củng cố trật tự của một xã hội phong kiến. Khi ấy,
nhà nước phong kiến và các Nho sĩ mới áp đặt được những quy phạm đạo đức của
Nho giáo xuống các gia đình, dòng họ và làng xã thông qua các điều luật, các chỉ dụ,
các huấn điều và những quy ước về nghi lễ, như tang lễ, hôn lễ.
Tiếp nối truyền thống, trên vùng đất mới phía Nam, người Việt tiếp tục sùng bái
đạo Phật, kết hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh giữ
gìn những nét truyền thống, trên một vùng đất đa tộc người, người Việt cònbiết thừa
nhận và tôn trọng phong tục tập quán của những tộc người nơi đây. Theo Trịnh Hoài
Đức: “Gia Định là đất phương Nam của nước Việt. Khi mới khai thác, lưu dân nước ta
cùng người kiều ngụ như người Đường [Hoa], người Cao Miên, người Tây phương,
người Phú-lang-sa [Pháp], người Hồng Mao [Anh], Mã Cao, người Đồ Bà [Java] ở
lẫn lộn, nhưng về y phục, khí cụ thì người nước nào theo tục nước ấy” [19, tr.95]
Sự ly khai của các chúa Nguyễn, tư tưởng tự do cùng với những điều kiện tự
nhiên ưu đãi, môi sinh xã hội đã làm cho ảnh hưởng của Nho giáo nhạt dần trong tâm
thức con người phía Nam qua các thế hệ. Nho giáo không còn là khuôn vàng thước
ngọc trong việc trị nước. Tư tưởng quảng đại, khoan dung của Phật giáo trở thành
nguyên tắc cho sự vận hành một thiết chế chính trị mới, làm nền tảng căn bản cho việc
hoạch định các chính sách của các chúa Nguyễn. Chùa chiền có mặt ở khắp nơi. Do
vậy, ở Đàng Trong, con người tự do thoáng đãng, ít bị gò bó bởi những quy định trong
cách ứng xử mang tính khuôn mẫu của đạo Nho trong xã hội truyền thống. Nho giáo
không có điều kiện để phát huy mạnh mẽ vai trò trong đời sống xã hội lại chính là điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật và sự tiếp nhận dễ dãi đối với
đạo Thiên Chúa, tạo cho Đàng Trong một không khí thoáng mở của nền văn hóa cộng
cư.
Tuy nhiên, đến đầu thế kỉ XIX, trước sự phát triển và thâm nhập của chủ nghĩa tư
bản trên phạm vi toàn thế giới, cùng sự lan tỏa của nền văn minh phương Tây thì nhà
Nguyễn lại tiếp tục chọn Nho giáo làm ý thức hệ phong kiến cơ bản ở Việt Nam.
Trong buổi đầu xâm nhập vào Việt Nam, văn minh phương Tây bên cạnh những yếu
tố hấp dẫn về sức mạnh vật chất, kỹ thuật, đã vấp phải những xung đột gay gắt về tư
tưởng, ý thức, văn hóa trong việc truyền bá đạo Thiên chúa, trước hết là xung đột với
36
Nho giáo” [40, tr.87].“Có thể nói, vấn đề Nho giáo là một trong những vấn đề tư
tưởng và văn hóa nổi cộm ở nước ta vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đặc biệt khi
đặt nó trong mối quan hệ với việc tiếp nhận những giá trị của văn minh phương Tây”
[40, tr.89]
Về con người Việt Nam truyền thống.Trước cuộc tiếp xúc và giao lưu với văn hóa
phương Tây, người Việt đã có một giá trị gọi là “người Việt truyền thống” vừa hữu
hình, vừa vô hình. Hình ảnh “người Việt truyền thống” có một số đặc điểm tư tưởng,
đạo đức như sau:
Truyền thống cộng đồng:“Từ xa xưa, trong xã hội cổ truyền Việt Nam chỉ có
cộng đồng,không cócá thể” [40, tr.91]. Đâylà đặc trưng rõ nét của người Việt, “một tập
tục có cơ chế kinh tế - xã hội bảo đảm” [55, tr.17] được hình thành qua quá trình đoàn
kết, tương trợ nhau trong sản xuất nông nghiệp và đấu tranh giữ nước. Truyền thống
cộng đồng thể hiện qua từng cấp độ với điểm xuất phát là gia đình, rồi qua làng xã, đất
nước, trong đó gia đình họ tộc là loại cộng đồng bền chặt nhất.
Vai trò của cộng đồng được đề cao trong tâm thức người Việt truyền thống, trong
khi chủ nghĩa cá nhân “thường phát triển muộn màng và có phần mờ nhạt” [43,
tr.489]. Cá nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng. Người ta có thể không lo
lắng cho cá nhân mình trong cuộc sống hiện tại, nhưng lại rất quan tâm đến việc phụng
thờ cuộc sống của những con người đã khuất, cũng như việc nối dõi tông đường, để
phúc đức cho những đời mai sau. Trong mối quan hệ với văn hóa phương Tây, nếu
vấn đề hình thành cá nhân không được hiện thực hóa đến mức nào đó thì việc tiếp
nhận văn minh phương Tây cũng không thể thực hiện được.
Thế kỷ XVII, XVIII, khi người Việt đến vùng đất mới phía Nam hoang vu, họ
cũng không đi theo cá nhân, hay riêng một gia đình, mà đi theo các nhóm nhỏ lẻ và
những nhóm người ấy đã đoàn kết với nhau trong cuộc khẩn hoang lập ấp. Người Việt
còn biết đoàn kết với người Chăm, người Hoa, Khmer để củng cố sức mạnh cộng đồng
và phát triển diện tích khai hoang ở vùng đất Nam Bộ, góp phần làm nên một Nam Kỳ
“được chinh phục không phải bằng chính thanh gươm vó ngựa mỗi ngày đi hàng chục
vạn dặm mà bằng lưỡi cày, đôi chân đi từng bước một” [119, tr.104]
37
Tuy nhiên, tinh thần gắn bó quá mức với cộng đồng có khi đã dẫn đến một chủ
nghĩa “cộng đồng vị kỷ”, chủ nghĩa gia đình hay chủ nghĩa bè phái địa phương cục bộ,
là nguyên nhân của những mâu thuẫn xung đột giữa các họ tộc, làng xã, giữa cộng
đồng này với cộng đồng khác. Đồng thời, cũng dẫn đến thói quen ứng xử của chủ
nghĩa bình quân, dựa dẫm vào uy tín của cộng đồng.
Truyền thống yêu nước: đó là truyền thống nổi trội của người Việt được hun đúc
trong lịch sử do luôn phải chống chọi lại sự đe dọa, xâm lược và đô hộ của ngoại bang.
Đó là “tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam” [28,
tr.100], “là một sức mạnh tinh thần tiềm ẩn lớn lao trước những thử thách” [43,
tr.488]. Truyền thống yêu nước chi phối suy nghĩ, tình cảm, ứng xử và hành động của
người Việt, làm “sản sinh nhiều giá trị văn hóa Việt Nam” [100, tr.48]
Khi tình yêu nước phát triển thành “mộthệ thống nhận thức, tư tưởng, tình cảm
đối với đất nước, Tổ quốc biểu thị trong tình yêu quê hương, xứ sở, tiếng nói, văn hóa;
trong sự gắn bó vì những lợi ích chung của cộng đồng quốc gia – dân tộc, trong ý thức
trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước” [54, tr.11] thì đó cũng là lúc chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam hình thành. Nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam còn bao gồm
tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng; ý thức về toàn vẹn lãnh thổ, về lịch sử, văn hóa,
độc lập tự chủ của dân tộc thông qua các cuộc đấu tranh chống xâm lược; tục thờ cúng
tổ tiên, anh hùng dân tộc, các vị thành hoàng. Cũng từ truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm, trong tâm thức người Việt luôn luôn khát khao hòa bình, trọng hòa hiếu, ý
thức đoàn kết cộng đồng và tinh thần dũng cảm, bất khuất. Lòng yêu nước “cũng rèn
luyện cho sự đề kháng văn hóa, tạo nên một bản sắc và bản lĩnh văn hóa mạnh” [43,
tr.30]. Chính vì vậy, trong các cuộc giao lưu, tiếp xúc văn hóa bên ngoài, người Việt
luôn biết tiếp thu có chọn lọc, kể cả trong quan hệ văn hóa với phương Tây.
Trên vùng đất phía Nam, truyền thống yêu nước được người Việt thể hiện phóng
khoáng, sinh động hơn, đó không phải là lòng yêu nước của Nho giáo, không bị ràng
buộc quá chặt chẽ vào tư tưởng “trung quân”. Người dân chỉ trung thành với vua khi
vua là đại diện cho lợi ích của dân tộc. Một khi vua đi ngược lại quyền lợi của dân tộc,
của nhân dân thì những mệnh lệnh của vua có thể sẽ không được thi hành. Đó là
38
những trường hợp của Trương Định, của Nguyễn Trung Trực, Phan Văn Trị, Nguyễn
Đình Chiểu hay Bùi Hữu Nghĩa...
Truyền thống trọng tình:Xuất phát từ việc coi nhẹ cá nhân và coi trọng cộng
đồng, người Việt truyền thống trọng tình cảm hơn lý trí, lấy chủ nghĩa “duy tình” thay
vì chủ nghĩa duy lý, dùng tình cảm để giải quyết mọi vấn đề. Trong nội bộ những
người thân, để duy trì những quan hệ tình cảm tốt đẹp hay để giữ hòa khí, họ thường
nể nang, nhân nhượng, bỏ qua đi những thiếu sót của người khác, “chín bỏ làm mười”.
Đó là nét đẹp của truyền thống trọng tình. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng tình cảm vượt
quá giới hạn đã dẫn đến lối tư duy cảm tính, thiếu minh bạch, thiên vị, tệ bao che, tính
ỷ lại, nhờ vả theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”. “Có tình có lý” là một
nguyên tắc dung hòa được người Việt đề ra nhưng khó thực hiện được trong thực tiễn.
Truyền thống trọng tình được hình thành trong môi trường làng xã khép kín của Bắc
Kỳ với những con người quen cuộc sống ổn định, biết nhau rất rõ, thường là quan hệ
họ tộc, có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Trong khi đó, Nam Kỳ là nơi gặp gỡ của nhiều tộc người, là đất của dân tứ xứ,
con người không quen biết nhau, nhưng cũng có nhu cầu tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau,
do đó, truyền thống trọng tình của người Việt được chuyển thể thành tính trọng nghĩa.
Cơ sở của mối quan hệ giữa họ không phải tình mà là nghĩa. Là những con ngườixuất
thân bần cùng, những gian nan, thử thách của vùng đất mới đã hình thành ở lưu dân
Việt sự liều lĩnh, nghĩa khí, sự trọng nghĩa khinh tài. Từ tính trọng nghĩa đã sản sinh ở
người Việt Nam Kỳ sự hào hiệp, sẵn sàng đùm bọc, sẻ chia khó khăn nơi vùng đất mới
xa lạ. Đi kèm với đó là sự hiếu khách. Với họ, bất cứ người Việt nào đến đây cũng đều
là bạn. “Ở Gia Định có khách đến nhà, đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng cơm
bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân sơ quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều
khoan nạp khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem tiền gạo theo” [19, tr.85].
Bên cạnh đó, sự thẳng thắn, bộc trực cũng là một hệ quả của tính trọng nghĩa. Người
Nam Bộ nghĩ sao nói vậy, không quá giữ kẽ, quanh co úp mở, vòng vo như người Bắc
Bộ, yêu trung ghét nịnh, ân oán phân minh. Borri đã tiếp xúc với cư dân Đàng Trong
vào đầu thế kỷ XVII và ông nhận xét: “Ở xứ Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng
ta, trao đổi với chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ
39
rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các
đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người ta đã coi chúng tôi như
những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu. Đó là một
cảnh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của chúa Kitô đến rao giảng Phúc
âm”. Tinh thần phóng khoáng, hiếu khách, hiếu thị của người Đàng Trong góp phần
quan trọng giúp họ dễ đón nhận những luồng gió mới, tham gia một cách nhanh chóng
vào luồng thương mại quốc tế và khu vực, tiếp nhận tôn giáo mới, tư tưởng mới của
phương Tây.
Truyền thống giỏi ứng biếncũng là một đặc điểm tính cách của người Việt. Trong
ứng xử văn hóa, người Việt luôn biết tìm cách thích ứng để rồi cải biến, vừa tiếp thu
vừa đề kháng, chuyển hóa những yếu tố ngoại sinh thành nội sinh, thành cái của riêng
mình. Trong hàng nghìn năm ảnh hưởng của thiết chế và mô hình văn hóa Trung Hoa,
từ thể chế, chữ viết, giáo dục đến nghệ thuật, người Việt không sao chép nguyên bản
một cách máy móc, mà đã có sự điều chỉnh, đổi khác để thích hợp với những điều kiện
tự nhiên – xã hội cụ thể của một nước nhỏ, “tự gây dựng được tư cách riêng để tồn
tại” [2, tr.343]. Truyền thống này sẽ tiếp tục được phát huy trong mối quan hệ giao lưu
với văn hóa phương Tây.
Khi tiến về phương Nam, truyền thống giỏi ứng biến của người Việt chuyển biến
thành tính năng động của người Nam Bộ, hay nói cách khác “tính năng động là bước
phát triển mới của tính linh hoạt truyền thống ở địa bàn Nam Bộ” [99, tr.91]. Đối mặt
với vùng đất mới còn hoang sơ, rừng thiêng nước độc,vừa khơi dậy tiềm năng khai
thác dồi dào, vừa là một thách thức nghiệt ngã đối với những con người phải dấn thân.
Nếu như không phát huy được khả năng ứng biến linh hoạt, sự cần lao, dũng cảm vốn
có của người dân Việt thì khó có thể thích nghi được với cuộc sống khắc nghiệt trên
vùng đất mới, vươn lên xây dựng cuộc sống. Các yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần của nhiều tộc người khác nhau cũng được lưu dân Việt tiếp nhận và cải biến
để hòa hợp với điều kiện mới. Chính điều này đã tạo cho người dân Nam bộ có những
nét riêng khá độc đáo đối với các vùng miền khác.Hệ quả của tính năng động là khả
năng dễ tiếp nhận cái mới, sự sáng tạo và sự phát triển của thương nghiệp. Do vậy,
40
“hầu như mọi yếu tố mới tiếp nhận từ phương Tây đều qua Nam Bộ mà vào Việt
Nam” [99, tr.91]
Phương thức tư duy truyền thống:Nền kinh tế tiểu nông cũng tác động lên
phương thức tư duy truyền thống của người Việt. Đó là lối tư duy thiên về nhận thức
cái toàn thể hơn là cái bộ phận, cái chung hơn cái riêng, thiên về tổng hợp hơn là phân
tích. Đây là “một kiểu tư duy tĩnh tại, dựa theo những khuôn mẫu và tục lệ cũ, đậm
tinh thần thủ cựu, hiếu cổ. Tầm suy nghĩ thường mang tính thiết thực, cụ thể, không
thích trừu tượng, khái quát hóa” [43, tr.491]. Người ngoại quốc thường nhận xét người
Việt có phần kém sáng tạo, khai phá nhưng lại rất giỏi việc mô phỏng theo mẫu rồi
biến đáo đi. Họ không thích tự đổi mới, cách tân, nhưng lại dễ dàng chấp nhận theo cái
mới một khi nó đã trở thành thói quen, hành xử của số đông người trong xã hội. Tư
duy tĩnh tại còn là điều kiện dẫn đến tâm lý cầu an, thụ động. Lối tư duy này cũng dẫn
đến đặc điểm xã hội truyền thống của người Việt là xã hội trọng văn. Trong cuộc tiếp
xúc với văn hóa phương Tây, các kiến thức về khoa học kĩ thuật thường bị chê bai, cho
là gian xảo, nhất là dưới cái nhìn của trí thức Nho học.
Những đặc điểm của văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Bộ là phần mở rộng
của không gian văn hoá truyền thống Việt Nam trên vùng đất mới, nơi có sự chung tay
khai phá của người Việt với các tộc người khác. Vì vậy, để thích nghi, ngay từ đầu văn
hoá truyền thống của cư dân Việt đã giao lưu mật thiết với văn hoá của các cư dân
Chăm, Khmer, Hoa... Người Việt chỉ tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa nào
đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hoá mang
theo, làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của người Việt trên vùng đất
mới nhiều sông nước, đồng thời, họ sẵn sàng lược bỏ những giá trị văn hóa truyền
thống Việt không còn phù hợp nơi vùng đất xa lạ. Nam Bộ vì vậy nhanh chóng trở
thành vùng đất của sự giao lưu, tiếp biến văn hoá, hình thành nên bản sắc văn hóa
Nam Bộ, vừa nguyên chất thuần Việt vừa mang dáng dấp của những nền văn hóa
khác, vừa tương đồng vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hóa Việt ở Bắc Bộ.
Sự uyển chuyển, linh động, phóng khoáng, bao dung dần trở thành bản sắc của văn
hoá Việt ở Nam Bộ, thuận lợi cho việc tiếp xúc và giao lưu với văn minh phương Tây,
nền văn minh đang trong thời kì bùng nổ mạnh mẽ.
41
1.3. Những con đường du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây
Nam Kỳ và phương Tây, hai khu vực có những đặc trưng văn hóa khác xa nhau
nhưng lại gặp nhau trong bối cảnh của thời đại mới. Những cuộc phát kiến địa lý cuối
thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI đã mở ra triển vọng cho sự gặp gỡ này, tạo điều kiện cho sự
xâm nhập của văn minh phương Tây. Các giáo sĩ Thiên chúa giáo là người mở đường
cho sự thâm nhập ấy, cùng với hoạt động thương mại, và sau cùng là sự xâm lược của
các nước phương Tây vào phương Đông.
1.3.1. Bước chân các nhà truyền giáo
Ngay sau những cuộc phát kiến địa lý, việc truyền bá Kitô giáo diễn ra một cách
mạnh mẽ, vượt ra ngoài châu Âu để đến với các vùng đất mới phương Đông. Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha là những nước đi tiên phong. Họ dùng một phần của cải cướp
được ở những vùng đất mới để thành lập và tài trợ cho các giáo đoàn đi truyền đạo.
Trên các đoàn tàu thám hiểm, buôn bán, xâm lược của các nước bao giờ cũng có các
giáo sĩ thừa sai đi theo. Họ khoác tấm áo choàng đen, giương cao cây Thập tự, đảm
nhiệm sứ mệnh chinh phục các linh hồn, “mở rộng nước Chúa”.
Khi đến Việt Nam, Kitô giáo bắt gặp một xã hội phong kiến đang có nhiều biến
động. Các cuộc chiến tranh kéo dài liên miên giữa các tập đoàn phong kiến từ thế kỉ
XVI đến đầu thế kỉ XIX. Đã vậy, “vua chúa ức hiếp bóc lột dân quá đáng,… sưu thuế
quá nặng nề thêm qua mấy từng phụ thu,… mà thiên tai, thủy hạn thì liên miên…” [87,
tr.904]. Sống trong một xã hội đầy bất trắc khiến một bộ phận dân chúng rơi vào trạng
thái khủng hoảng tinh thần. Giữa lúc đó, những giáo sĩ phương Tây đã đến, “mang
theo tinh thần bác ái của Kitô giáo để xoa dịu nỗi cay cực của cuộc sống nơi trần thế
và niềm tin về một cuộc sống hạnh phúc ở cõi thiên đàng cho dân chúng Việt Nam”
[62, tr.27]. Một trong những việc làm đầu tiên của các giáo sĩ là ban phát tiền của và
thuốc men chữa bệnh cho những người nghèo để được lòng họ.Từ đó, “dân chúng thấy
tận mắt để so sánh các mối đạo cũ đương hồi sa sút với nền đạo mới, có tổ chức quy
củ, có sự thờ tự sáng sủa trang nghiêm, có sự săn sóc hợp lý đến con người lúc sống và
hồn người lúc chết, cũng như có những cơ sở từ thiện, khi đau ốm có thuốc men, khi
đói ăn có gạo…” [87, tr.904-905]. Do vậy, không chỉ ngưỡng phục những giáo sĩ đến
42
từ những nước có phẩm vật tinh xảo, có tàu lớn súng to, dân chúng còn ngưỡng phục
các giáo sĩ về những ân đức, những lời khuyên và sự an ủi tinh thần cho họ.
Giáo sĩ phương Tây đầu tiên được ghi lại trong sử sách Việt Nam có tên là
Igniato đã đặt chân đến Đàng Ngoài: “Vào khoảng tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất
(1533), đời Lê Trang Tông, có người Tây dương tên là I-nê-xu lẻn đến xã Ninh Cường,
xã Quần Anh huyện Nam Chân, và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy [Nam Định] truyền bá
tả đạo Gia Tô” [80, tr.1514]. Nhưng do không biết tiếng Việt và phong tục người bản
xứ nên công việc truyền đạo của ông không có kết quả và bị nhà Mạc trục xuất. Tuy
nhiên, sự kiện này đã mở ra một cơ hội cho quan hệ văn hóa giữa Việt Nam với
phương Tây.
Từ năm 1534, với sự thành lập Dòng tên (Jésuites), công cuộc truyền đạo được
diễn ra mạnh mẽ hơn. Cuối thế kỉ XVI, Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài liên tục được các
giáo sĩ đặt chân đến.
Năm 15833, một đoàn truyền giáo Dòng Fancisco gồm 7 thành viên, do Thừa sai
Diego d’Oropesa dẫn đầu, từ Manila tới Việt Nam. Họ lưu lại khoảng trên dưới một
tháng, nhưng không ai biết tiếng Việt nên họ chỉ giao dịch với chính quyền và dân
chúng địa phương bằng dấu hiệu.Ngày 24 – 6 – 1596, có Linh mục Alonso Ximenèz
và Linh mục Diego Aduarte, người Tây Ban Nha với tư cách là thành viên của đoàn
quân viễn chinh Tây Ban Nha đi yểm trợ cho vua Cao Miên đã tới trước một cửa biển của Đàng Trong là Cachan4 để tìm mua lương thực. Họ được “vị phó vương”5 tiếp đón
nồng nhiệt, hứa là cho xây nhà nguyện và mời ở lại kinh đô. Nhưng sau đó, hai giáo sĩ
này phải ra đi theo đoàn thuyền của người Tây Ban Nha.
Những cuộc “viếng thăm” của các giáo sĩ phương Tây ở cuối thế kỉ XVI vẫn
chưa có kết quả như họ mong muốn, “nỗ lực chưa nhiều và kết quả cũng không lớn”
3 Có nơi nói 1581, có nơi nói 1582, Trần Văn Giàu nói 1584. Tác giả Romanet du Caillaud cho rằng năm 1583 phù hợp, bởi vì trước năm 1583, nhiều thành viên trong đoàn truyền giáo của Diego d’Oropesa chưa có mặt ở Philippin. Xem [10, tr.29] 4 Có lẽ là cửa Hàn, Đà Nẵng. Xem [10, tr.27] 5 Phó vương có lẽ là con của Nguyễn Hoàng, vì Nguyễn Hoàng đang ở Thăng Long để giúp vua Lê và Chúa Trịnh đánh dẹp nhà Mạc (từ 1592 cho tới 1600). Xem [10, tr.27]
[10, tr.36]. Họ chỉ đến Việt Nam, ở lại ít lâu rồi ra đi cùng với các tàu buôn.
43
Phải đến thế kỉ XVII, sự xuất hiện của các giáo sĩ phương Tây mới thực sự rầm
rộ, bởi đó là thế kỉ phát triển của tư bản thương mại châu Âu. “Tư bản thương mại và
các hội truyền giáo thúc đẩy nhau như hai đầu của một chiếc lò xo” [25, tr.337]. Ngoài
ra, thế kỉ XVII còn là thế kỉ đánh dấu sự phát triển của Dòng Tên (Jésuites) với những
giáo sĩ phần lớn là những người học rộng và có kiến thức, nhờ vậy công cuộc truyền
giáo “mới có một khu đất mới khá tốt, có thể gieo hạt giống một cách có kết quả tốt
tươi và hứa hẹn một tương lai rực rỡ…” [52, tr.108]. Số giáo sĩ sang Việt Nam ngày
càng nhiều hơn, việc truyền giáo ngày càng thịnh, không chỉ có người châu Âu mà còn
có cả người Nhật Bản.
Năm 1615 được xem là mốc mở đầu đặc biệt, có liên quan đến vấn đề khởi
nguyên của chữ quốc ngữ. Giữa lúc hoạt động truyền giáo ở Nhật gặp khó khăn, các
giáo sĩ chuyển trọng tâm hoạt động sang Đàng Trong với hy vọng thành công trong sứ
mạng truyền đạo. Họ tin rằng có thể nhờ người Nhật ở Hội An làm trung gian để việc
học tiếng Việt được dễ dàng.
Khi đến Đàng Trong, nhờ sự giới thiệu và bảo trợ của người Bồ, hẳn nhiên các
giáo sĩ được chúa Nguyễn biệt đãi và để tự do truyền đạo. “Bằng chứng nói rõ thiện
cảm tất nhiên của chúa đối với các giáo sĩ người Tây phương” [87, tr.907] chính là
việc cho dựng lò đúc súng năm 1615 tại phường Đúc (Huế). Các họ đạo mọc lên
nhanh chóng ở khắp nơi nhất là Hội An, Cửa Hàn và Phú Xuân. Hội truyền giáo Đàng
Trong ra đời (1615) và là hội truyền giáo đầu tiên ở Việt Nam. Tính từ năm 1615 đến
1618 đã có 10 nhà truyền giáo đến từ Bồ Đào Nha, Ý, Nhật. Trong đó Buzomi,
Francisco de Pina, Pedro Marquez và Christofo Borri là những người tiêu biểu nhất, có
đóng góp lớn cho sự ra đời của chữ quốc ngữ, có nhiều nỗ lực trong việc gieo hạt
giống Thiên chúa giáo ở Đàng Trong tuy “kết quả hết sức khích lệ” [87, tr.901].
Linh mục Buzomi là người Italia, đã từng hoạt động truyền giáo ở Nhật Bản và
làm giáo sư thần học ở Macao trong 5 năm. Ông là người có tiếng hiền từ và đạo đức.
Ông hoạt động truyền đạo chủ yếu ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quy Nhơn cho đến tận
năm 1639. Bên cạnh Buzomi và phụ giúp cho Buzomi là linh mục Francisco de Pina,
người thông thạo ngôn ngữ của người Việt. Đầu năm 1617, Đàng Trong còn đón hai
Thừa sai Pedro Marquez và Christofo Borri, đều là những giáo sĩ thông thạo phong tục
44
người Việt và biết ít nhiều tiếng Việt. Nhờ vậy, công việc truyền giáo của họ ở Đàng
Trong mới được tiến triển thuận lợi. “Họ nói đã rủ được một vạn tín đồ” [25, tr.337].
Năm 1624, “một giai đoạn truyền giáo mới của Dòng Tên ở Đàng Trong đã được
bắt đầu với nhiều khí thế” [10, tr.53] khi một phái đoàn hùng hậu khác được gửi đến
gồm các giáo sĩ Alexandre de Rhodes (người Pháp), Hieromimo Majorica (người Ý),
và bốn người Bồ Đào Nha là G. de Mattos, A. de Fontes, Gaspar Luis và M. Ribero.
Họ đều là những người chịu khó học tiếng Việt và tìm hiểu tập quán của người Việt để
biến Đàng Trong trở thành một mảnh đất đầy hứa hẹn của công cuộc truyền giáo.
Trong thời gian này, Thiên chúa giáo “được truyền giảng tại tất cả những vùng chủ
chốt của xứ Đàng Trong… vượt khả năng sức lực cũng như mọi điều hy vọng” [dẫn
theo 11, tr.126] của các giáo sĩ. Năm 1628, Đàng Trong có sự đặt chân của giáo sĩ
Gaspar de Amaral, người sau này là tác giả hai cuốn Từ điển Annam - Bồ và Từ điển
Bồ - Annam, là “bước khởi đầu chuẩn bị cho sự ra đời cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của
Đờ Rốt” [120, tr.115]
Trong số những giáo sĩ vừa nêu, Alexandre de Rhodes6 là nhân vật tiêu biểu
nhất, “một người Pháp hoạt động có hiệu quả nhất trong việc cung cấp những nhận
thức đúng đắn về nước An Nam” [11, tr.16]. Từ 1624 – 1626, ông hoạt động ở Đàng Trong, chỉ chú tâm vào học tiếng Việt và làm phụ tá cho Linh mục Pina7 ở Quảng
Nam và Thuận Hóa. Chỉ 6 tháng sau khi đến Đàng Trong ông đã có thể giảng đạo
được bằng tiếng bản xứ. Đây cũng là lý do mà các cha bề trên đã chọn Alexandre de
Rhodes đứng ra thành lập giáo đoàn mới tại Đàng Ngoài. Năm 1627, ông đến Bắc Kì
mang theo một số tặng phẩm từ phương Tây: một chiếc đồng hồ quả lắc có bánh xe,
một đồng hồ cát và một quyển sách toán thếp vàng, in chữ Hán dâng tặng chúa Trịnh
và được tiếp đón niềm nở. Nhờ “thông thạo tiếng Việt, năng nổ, nên ông được coi là
người khai phá, đặt nền móng cho cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài” [10, tr.135]. Năm
1630, Alexandre De Rhodes bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Ông đành phải về Macao
6 Ông sinh tại Avignon năm 1591, gia đình gốc ở Aragon Tây Ban Nha, gia nhập dòng Tên năm 19 tuổi. Ông tự nguyện phục vụ tại Viễn Đông. Ông rời Lisbon năm 1619 đến Ma Cao năm 1623. Năm 1624 được lệnh đến Đàng Trong. 7 Lê Văn Siêu nói là phục vụ dưới quyền cha Buzomi. Xem [87, tr.901]
và mười năm sau, tháng 2-1640, ông trở lại Đàng Trong với “một vốn tiếng Việt thật
45
dồi dào và những kinh nghiệm truyền giáo thật dày dạn, làm cho công cuộc truyền
giáo ở đây phát triển một cách đáng kể” [10, tr.67]. Ông được Công thượng vương
Nguyễn Phúc Lan đón tiếp một cách ân cần và niềm nở. Ông đã lui tới nhiều địa
phương để truyền giáo như Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú
Yên. Về sau, chúa Nguyễn bắt đầu tỏ ra bất bình trước công cuộc truyền bá đạo Gia tô.
Do đó, năm 1645, Linh mục Rhodes bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Đàng Trong với sự
luyến tiếc: “Con người rời khỏi xứ Đàng Trong nhưng chắc chắn tấm lòng sẽ còn ở
lại” [11, tr.17].
Bị trục xuất trong những điều kiện hết sức nghiêm ngặt, Linh mục Rhodes thấy
mình không thể trở lại Đàng Trong, nên đã ráo riết vận động để các thừa sai khác tới
tiếp tục. Ông đến Roma làm một công việc mà sau này kết quả của nó “đã ảnh hưởng
rất lớn đến việc gây dựng và phát triển ảnh hưởng của Pháp ở nước An Nam” [11,
tr.18]–vận động Giáo hoàng thành lập Hội truyền giáo hải ngoại của người Pháp,thay thế người Bồ Đào Nha trong công việc truyền đạo ở Việt Nam8 và đã thành công. Ông
còn cho xuất bản cuốn Từ điển Việt – Bồ - La (1651) để làm phương tiện truyền đạo.
Từ đây, nước Pháp sẽ từng bước thay thế vai trò truyền giáo của Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha. Năm 1664, Hội thừa sai Paris (MEP) ra đời, phối hợp mật thiết với công ty
Đông Ấn Pháp để tiến hành các hoạt động truyền đạo.
Ở Đàng Trong, sau Alexandre De Rhodes, tháng 2 – 1646, có hai giáo sĩ đến Đà
Nẵng để thay thế là Linh mục Saccano và Linh mục Caldeira (từng hoạt động ở Đàng
Ngoài từ 1637 - 1644). Họ ra mắt chúa Nguyễn Phúc Lan với nhiều lễ vật rất đẹp của
phương Tây và được tiếp đãi hậu hỉ “với thái độ không có gì tỏ ra còn để bụng” [11,
tr.21]. Nhưng sau một sự xích mích với những thương nhân Ma Cao, chúa Nguyễn chỉ
chấp nhận cho Saccano (người Ý) ở lại Đàng Trong với điều kiện không được truyền
8 Việt Nam là giáo xứ thuộc khu vực Bồ Đào Nha. Vua Bồ có quyền tiến cử các chức sắc, nắm giữ tài chính, quyền tổ chức các giáo hội, lề lối truyền đạo. Tất cả các giáo sĩ thuộc quốc gia khác, khi được cử đi đâu đều phải khởi hành từ Lisbonne (kinh đô Bồ Đào Nha) và thường phải tuyên thệ trung thành với vua Bồ trước khi xuống tàu. Tất cả dù đi đến bất cứ đâu, cũng lại bắt buộc phải tới Goa trước để cho phó vương Bồ kiểm soát. Ai không có giấy phép của vua đều bị đuổi trở lại châu Âu. Do đó, nhân viên các phái đoàn truyền giáo đều thuộc quyền Hoàng gia Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Mọi quyết định của giáo hoàng đều phải được vương quyền Madrid và Lisbonne thông qua mới thi hành được. Nhiều địa phương thiếu giáo sĩ, mà giáo sĩ thì cứ ngồi chờ giấy phép của hoàng gia. Chờ mãi cũng không có. Xem [87, tr.912-913]
đạo. Còn Linh mục Caldeira bị buộc phải theo tàu buôn trở về Macao.
46
Tháng 11 – 1646, Linh mục Rocca (người đảo Silice) được cử tới Đà Nẵng để
thay Caldeira. Ông cùng với Saccano lên kinh yết kiến Công thượng Vương và được
chấp thuận ở lại Đàng Trong nhờ “bức thư của cha Thanh tra đầy rẫy những lời thỉnh
cầu hết sức khiêm nhường và có kèm theo hai hạt ngọc trai lộng lẫy và nhiều thỏi vàng
thật là to” [dẫn theo 11, tr.22]. Tại kinh đô Huế, hai ông đã làm phép rửa cho 180
người, trong đó có những quan chức lớn của triều đình. Về sau, chúa Nguyễn Phúc
Tần muốn lợi dụng các giáo sĩ vào việc quân sự, nhờ họ hiến kế đánh Đàng Ngoài,
nhưng đều bị từ chối, nên giữa năm 1654, Hiền Vương đã cho bắt và trục xuất hai linh
mục Saccano và Rocca vĩnh viễn ra khỏi Đàng Trong.
Đầu năm 1655, hai linh mục Pedro Marquez9 và Rivas (người Italia) được cử
sang Đàng Trong thay thế hai linh mục Saccano và Rocca, dâng lễ vật ra mắt chúa
Nguyễn và chữa bệnh cho một vị quan ở Đồng Hới, còn được Hiền vương cho trở về
Macao vận động tàu buôn tới giao lưu với Đàng Trong.
Năm 1672, giám mục Béryte của Hội truyền giáo hải ngoại Paris từ Xiêm gửi
chúa Hiền nhiều thư và những món tặng phẩm thật đẹp đến từ phương Tây. Chúa
Nguyễn hài lòng và từ đó cho phép các giáo sĩ của Hội Thừa sai Paris được ở lại Đàng
Trong và xây dựng nhà thờ. Hội truyền giáo hải ngoại dần có chỗ đứng kể từ đây.
Tuy vẫn giữ sự nghi kỵ và có lúc cấm đoán nhưng bao giờ các chúa Nguyễn cũng
tỏ ra có thái độ khoan hòa, không quá khắt khe trong việc thanh trừng đạo Thiên chúa,
thậm chí có những giáo sĩ, những người đại diện cho khoa học phương Tây đã được
giao những chức vụ quan trọng trong triều đình họ Nguyễn. Hiền Vương đã dùng cha
Bartholomeu da Costa làm người thầy thuốc của mình. Minh Vương cũng giữ lại bên
mình cha Antonio de Arnedo với tư cách là nhà toán học. Võ Vương đã giữ cha
Neugebauer làm nhà toán học kiêm nhà thiên văn; cha Siebert làm ngự y (chết tại Huế
năm 1745), sau được thay thế bằng cha Jean Koffler, ở lại triều đình cho tới năm 1755,
tác giả cuốn sách Mô tả xứ Đàng Trong viết bằng tiếng Latinh. Ngoài ra, Võ Vương
còn để bên mình tại Huế một nhà trắc địa là Xavier de Monteiro và một thầy thuốc là
Jean de Loureiro, đồng thời cũng là một nhà vạn vật học sáng giá, đến Đàng Trong
năm 1742, có nhiều nghiên cứu có giá trị về giới thực vật ở Đàng Trong, sau này trở 9 Đã từng hoạt động ở Đàng Trong từ 1617 – 1626 và ở Đàng Ngoài từ 1627 – 1630
47
thành ủy viên Hội Hoàng gia Luân Đôn và viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Lisbonne.
Ngoài ra chưa kể những đồ vật và các loại máy móc được các giáo sĩ tặng cho chúa
Nguyễn khi có dịp: máy bơm nước, vòi chữa lửa, máy giã gạo, đồng hồ, kĩ thuật đúc
súng,… Việc chúa Nguyễn dùng người phương Tây trong triều đình là một việc làm
hoàn toàn mới mẻ, chưa hề có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.
Thế kỉ XVIII, công cuộc truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây gặp nhiều khó
khăn bởi tình hình chính trị rối loạn và các cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập
đoàn phong kiến. Nổi bật chỉ có hoạt động của Pierre Joseph Georges Pigneau (Bá Đa
Lộc), người sẽ tham gia vào sự nghiệp phục hưng của dòng họ Nguyễn, đồng thời
cũng đóng góp rất lớn vào việc chỉnh lý, hoàn thiện chữ quốc ngữ bằng cuốn Từ điển
Annam – Latinh (1774).
Như vậy, bên cạnh mang đến niềm tin về sự cứu rỗi, các giáo sĩ phương Tây
cũng mang đến cho xã hội nông nghiệp Việt Nam những tiếp xúc đầu tiên với các yếu
tố văn hóa phương Tây bởi “tôn giáo là một phương diện của văn hoá và mọi sự tiếp
xúc tôn giáo đều có thể được coi là tiếp xúc văn hoá” [50, tr.34]. Đàng Trong của các
chúa Nguyễn ghi nhận những nhà toán học và thiên văn học như Jean Baptiste Sanna
(người Ý), Sébatien Pirès, Francois de Lima (Bồ Đào Nha), Joeph Neugebauer (người
Đức) hoặc như nhà y học Jean Sibert (Tiệp Khắc), Jean de Leurerio (Bồ Đào Nha)…
Thiên chúa giáo vì vậy trở thành cầu nối cho mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam
Kỳ với phương Tây. Quan trọng nhất, sự du nhập Thiên chúa giáo là tiền đề quan
trọng thúc đẩy sự ra đời của chữ quốc ngữ, bởi trong quá trình hoạt động, các nhà
truyền giáo đã cố gắng học tiếng Việt và tìm cách ghi âm tiếng Việt để giải quyết khó
khăn về bất đồng ngôn ngữ.
1.3.2. Hoạt động buôn bán của các nước phương Tây
Bên cạnh hoạt động truyền giáo, sau các cuộc phát kiến địa lý “báo hiệu buổi
bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa” [44, tr.212], việc buôn bán giữa phương Tây
và phương Đông cũng được mở rộng rất nhiều. Việt Nam nằm trên con đường tơ lụa
thương mại trên biển Đông, có bờ biển dài nối liền Trung Quốc với vịnh Thái Lan, có
nhiều hải cảng, hải đảo quan trọng (Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo…) là
vị trí lý tưởng mà nhiều nước tư bản phương Tây đang tìm cách đặt chân tới. Những
48
hoạt động buôn bán giữa Đàng Trong với thương nhân châu Âu vì thế cũng diễn ra
nhộn nhịp trong các thế kỉ XVII, XVIII. Họ lần lượt chở đến nước ta hàng hóa và sản
vật của nhiều nước Âu Mỹ. Sự hiểu biết của người Việt về văn minh phương Tây cũng
bắt đầu thông qua quan hệ buôn bán.
Bồ Đào Nha à người đi tiên phong trong việc mở ra “con đường gia vị” mới qua
mũi Hảo Vọng, dĩ nhiên, họ là những người đầu tiên đặt quan hệ với Việt Nam. Trên
con đường chinh phục các vùng biển châu Á, người Bồ đã tới Quảng Châu năm 1516,
và cũng vào năm này họ phát hiện ra vùng ven biển Việt Nam [65, tr.397]. Họ tiếp tục
lui tới các cảng Việt Nam trong thế kỉ XVII đúng vào các dịp đầu năm âm lịch, thời
điểm mở đầu mùa giao dịch, nhất là đối với các cảng ở Quảng Nam, và trở về vào
tháng 9, tức cuối mùa gió hè, với các sản phẩm Đàng Trong như tơ, đường, tiêu, kỳ
nam và các hương liệu khác.
Khi đến Đàng Trong buôn bán, người Bồ là luôn phải áp dụng một chính sách
thích nghi với các phong tục tập quán, nghi thức, đòi hỏi của chính quyền phong kiến.
Họ tự nguyện chấp nhận mọi quy định của chúa Nguyễn, “quá phục tùng các tục lệ
nước Nam” [84, tr.376], tìm cơ hội phục vụ các chúa để được tin cậy. Đặc biệt, “họ
phô trương sự hiểu biết và thành thạo của mình trong các lĩnh vực khoa học và kỹ
thuật” [65, tr.400] phương Tây.
Năm 1613, một thương nhân người Bồ là Ferdinand Costa đến yết kiến chúa Sãi
ở Dinh Cát và mua các thứ hàng như tơ lụa, đường, kỳ nam, trầm hương, gỗ quý. Họ
chỉ đến bán diêm sinh, cánh kiến, chì, đồ sành sứ, hợp kim kẽm – đồng, chì… Khoảng
năm 1614, một thương nhân người Bồ Đào Nha lai Ấn tên là Joao da Cruz đã được
chúa Nguyễn cho lập lò đúc súng ở Thuận Hóa, sau này người ta gọi chỗ đó là Phường
Đúc [51, tr.96]–nơi sản xuất các khẩu đại bác cỡ lớn –“một trong những quân chủ bài
của đạo quân Đàng Trong” [65, tr. 402].
Chúa Nguyễn còn dành cho người Bồ nhiều ưu đãi khác, quyết định cấp đất cho
họ lập một thành phố gần cảng Đà Nẵng để buôn bán. C. Borri cho biết: “Vua xứ Đàng
Trong rất ưa người Bồ Đào Nha đến buôn bán trong vương quốc của ông. Có lần ông
ban cho họ 3 hay 4 dặm đất trong xứ - nơi có ưu thế nhất, có thể là vùng cảng Turon
[Đà Nẵng] để họ xây dựng ở đó một thành phố với tất cả tiện nghi của họ, giống như
49
phương thức Trung Hoa và Nhật Bản đã làm” [dẫn theo 108, tr.15]. Nhưng không rõ
lý do gì người Bồ Đào Nha đã không thực hiện ý định này [5, tr.54].
Với chúa Nguyễn, việc buôn bán với người Bồ Đào Nha chỉ có ý nghĩa thực sự
khi xảy ra cuộc chiến tranh với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đại bác, mặt hàngthể hiện
sức mạnh của văn minh phương Tây đượcchúa quan tâm nhất. Hiểu được nhu cầu ấy,
ngoài việc đem đến đại bác và súng trường đều đặn cho các chúa, người Bồ còn mang
cả chì, lưu huỳnh, nitrat cali cần thiết để chế tạo thuốc nổ. Đổi lại, người Bồ được tạo
điều kiện thuận lợi để thực hiện các hoạt động thương mại. Ngoài vũ khí, hàng hóa mà
người Bồ chở tới bán cho Đàng Trong phần lớn được sản xuất từ phương Tây, nhiều
nhất là đồ dùng đơn giản hàng ngày như mũ nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi,… và
cả những kim khâu. Họ thu được lãi suất cao từ những mặt hàng này: “Tôi nhớ một
người Bồ đem từ Ma Cao tới Đàng Trong một lọ đầu kim khâu, tất cả chỉ giá hơn 30
“ducat”, nhưng đã được lời tới hơn 1.000, vì ông ta đã bán mỗi chiếc một đồng
“real” ở xứ Đàng Trong, trong khi ở Ma Cao ông ta mua không tới một “double”[dẫn
theo 15, tr.90]
Về sau, do hậu quả của sự tan rã quyền lực, từ vị trí kẻ tiên phong của phong trào
bành trướng thuộc địa, Bồ Đào Nha ngày càng mất dần ưu thế hàng hải vào tay người
Hà Lan, người Anh và người Pháp. Hơn nữa, đến thế kỉ XVIII, nhu cầu chiến tranh
của các chúa cũng giảm đi, thương nhân Bồ Đào Nha qua lại buôn bán với Đàng
Trong thưa thớt dần.
Sau Bồ Đào Nha, người Hà Lan nổi tiếng là những thương gia và nhà hàng hải
khôn khéo, táo bạo. Năm 1613, nhận thấy “vùng đất này [Đàng Trong] có một lợi
điểm thực sự” [65, tr.405], giám đốc thương điếm Hà Lan tại Nhật Bản cho thuyền chở
các thứ ngà voi, len dạ, chè đến Đàng Trong xin buôn bán, nhưng không đạt kết quả.
Mãi đến năm 1633 việc buôn bán của người Hà Lan ở đây mới được bắt đầu.
Từ năm 1633 đến năm 1637, mỗi năm có 2 tàu Hà Lan đến Đàng Trong để trao
đổi, buôn bán, thường xuất phát từ Nhật Bản. Năm 1636, họ mở một thương điếm ở
Hội An do Cornelis Caesar đảm nhiệm. Cũng năm 1636, hai chiếc tàu Warmont và
Grol từ Nhật đến Hội An được chúa Nguyễn tiếp đãi tử tế và cho phép họ được tự do
buôn bán, khỏi nạp thuế, được đặt thương điếm ở Hội An. Mặt hàng họ mang đến
50
Đàng Trong thường là những hàng hóa có nguồn gốc phương Tây: xa xỉ phẩm, bạc
thỏi, tiền, nitrat canxi, lưu huỳnh, vải bông hay len... Do nhu cầu cao về tiền tệ của
chúa Nguyễn và việc cấm lưu hành đồng tiền Eiraku ở Nhật, công ty Đông Ấn Hà Lan
đã mang loại tiền này buôn bán ở Đàng Trong, trở thành một mặt hàng thu được một
khoản lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, kể từ năm 1638, quan hệ buôn bán giữa người Hà Lan
với các chúa Nguyễn mờ nhạt đi do những mâu thuẫn xung quanh việc người Hà Lan
thiết lập quan hệ buôn bán với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và đôi lần giúp chúa Trịnh
đánh Nguyễn.
Gần một thế kỉ sau, năm 1754, chúa Nguyễn Phúc Khoát mới mở rộng quan hệ
giao dịch với Hà Lan và nhiều nước khác. Một số tàu Hà Lan đến Hội An buôn bán.
Chúa Nguyễn đặt hàng cho thuong nhân Hà Lan đúc tiền. Nhưng lúc này sự cạnh tranh
của người Bồ khá gay gắt, lại thêm những chuyến hàng tiền kẽm chúa đặt mua đọng
nợ lại. Chúa cho rằng, tiền kẽm do chúa đặt lái Hà Lan đúc, lái Hà Lan lại đem bán cả
cho dân, như vậy là trái phép. Năm 1758, Hà Lan quyết định chấm dứt buôn bán với
Đàng Trong.
Cũng trong thời gian này, người Anh cho thành lập công ty Đông Ấn Anh, mở
đầu cho việc giao lưu buôn bán với các nước phương Đông. Trong các năm 1613,
1616, phái đoàn của công ty Đông Ấn Anh đã đến Đàng Trong và Đàng Ngoài dâng
tặng các phẩm vật để xin được thông thương buôn bán, nhưng do bịthương nhân các
nước khác chèn ép nên việc buôn bán vẫn chưa có cơ hội phát triển.
Năm 1695, Nathaniel Higginson, Toàn quyền Anh ở Madras đã phái Thomas
Bowyear đến Hội An xin được mở thương điếm buôn bán và được chúa Nguyễn chấp
thuận. “Chúa tỏ ra rất sẵn lòng và không bác bỏ bất cứ điểm nào được đưa ra trong bản
đề nghị” [65, tr.417]. Nhưng không được bao lâu thì “bị phá hoại, do đó họ phải rút đi”
[48, tr.553], hoặc có thể do các biến động gặp phải ở nhiều nơi khác khiến Công ty
phải ngừng các dự án.Năm 1764, thời Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), tàu buôn
Anh là Peacock tới buôn bán trực tiếp với Đàng Trong. Đến tận năm 1777, khi tàu
thuyền Anh do Chapman chỉ huy trở lại buôn bán với Đàng Trong thì nghĩa quân Tây
Sơn đang quản lý vùng đất này. Ông được Hoàng đế Nguyễn Nhạc cho phép mua và
bán một số hàng hóa. Khi về đến Ấn Độ, Chapman đã không ngừng ca ngợi: “Không
51
có xứ nào ở châu Á sản xuất vật dụng nhiều và tốt hơn là xứ này, các thứ rất lợi cho
sự buôn may bán đắt là: quế, tiêu, tơ, bông, đường, gỗ quý, ngà voi… Ở đây thì vàng
từ đất moi lên đã là vàng xanh rồi… Nếu chúng ta có căn cứ trên đất Đàng Trong và
có một thế lực mạnh ở đó, thì với sản vật ở Ấn Độ và châu Âu, chúng ta sẽ dễ dàng
mua rất nhiều hàng hóa kể trên” [dẫn theo 7, tr.41]. Chapman đề nghị một sự can
thiệp quân sự vào Việt Nam nhưng do tình hình khó khăn, đề nghị của ông đã không
được chính quyền Bengale chú ý.
Năm 1792, một đoàn sứ bộ Anh do Macartnay cầm đầu đến Đà Nẵng tìm cách
điều đình việc thông thương cũng nhận định: “Xứ Đàng Trong là một vùng thuận lợi
cho thương nghiệp… Các cửa khẩu thuận lợi trên bờ biển và đặc biệt là cảng Đà
Nẵng cống hiến một vùng an toàn cho tàu bè lớn nhất suốt trong mùa mưa bão” [dẫn
theo124, tr.12]. Tuy nhiên, công việc bang giao không thành công. Người Anh lo củng
cố thế lực ở Ấn Độ và để vùng Đông Dương lại cho thương nhân Pháp hoạt động. Sự
giao thiệp của người Anh chỉ được xúc tiến trở lại khi triều Nguyễn thành lập.
Người Pháp xuất hiện tại Việt Nam khá muộn nhưng lại quan tâm đến truyền
giáo hơn là thương mại. Với người Pháp, “những việc mua bán đầu tiên chỉ được thực
hiện sau khi các giáo đường Gia tô được thành lập” [101, tr.45]. Họ kiên trì tìm kiếm
một thỏa thuận thông thương.Chiếc tàu của công ty Đông Ấn Pháp do giáo sĩ La Motte
Lambert đội lốt thương gia đã hai lần đến Đàng Trong vào các năm 1671, 1676 và
được chúa Hiền hoan nghênh với thái độ khoan dung và cho phép các giáo sĩ được
hưởng sự tự do tôn giáo.
Năm 1744, nhân viên công ty Đông Ấn Jacques O’ Friell đã gặp Võ Vương
Nguyễn Phúc Khoát và được chúa chấp nhận cho buôn bán, xây nhà kho ở Đàng
Trong. Chúa Nguyễn còn gửi theo Friell hai thanh niên người Việt để học tiếng Bồ.
Sau thành công này, Friell vận động được Toàn quyền trên đất Ấn thuộc Pháp là
Dupleix giúp đỡ cho chương trình thâm nhập thương mãi này. Tuy nhiên, trong những
năm đầu thế kỉ XVIII, quan hệ buôn bán giữa người Pháp và Việt Nam chưa gắn bó
mật thiết.
Năm 1749, Poivre một thương nhân kiêm giáo sĩ mang thư và quà của vua Pháp
tặng Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, xin xây dựng một thương điếm ở Hội An và
52
điểm neo tàu ở Đà Nẵng. Chúa Nguyễn đã trả lời rất trân trọng: “Tôi kính gửi hoàng
thượng cái thư này để bày tỏ lòng tôi kính mến quý quốc, thấy hoàng thượng sai một
chiếc tàu sang nước tôi thì tôi lấy làm vui lòng và cảm ơn hoàng thượng lắm. Ước gì
từ rày trở đi quý quốc với nước tôi hai bên thân cận với nhau như là một nước, thì tôi
lấy làm thỏa lòng lắm” [dẫn theo 65, 423]. Nhưng sau một sự tranh chấp, chúa Nguyễn
cho bắt và trục xuất hết các giáo sĩ Pháp. Từ đó về sau, những đề nghị đặt quan hệ
thương mại của người Pháp đều không thực hiện được, như chuyến đi của Bennetat
vào năm 1750, đề án của Protais Leroux 1755, kế hoạch viễn chinh của bộ trưởng hải
quân Pháp Choiseul Praslin năm 1768,… Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, “thương mại
của Pháp không có đại diện nào ở Việt Nam ngoài các nhà truyền đạo” [102, tr.36]
Thông qua hoạt động buôn bán vừa nêu, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, người
Việt đã tiếp xúc khá thường xuyên với người phương Tây. Sự xuất hiện của những đối
tác mới này có tác động nhất định đến sự phát triển kinh tế thương mại cũng như đến
các lĩnh vực văn hóa - xã hội Đại Việt.
Hoạt động thương mại của các nước phương Tây đã làm cho kinh tế Đàng Trong
trở nên khởi sắc, thúc đẩy sự hưng thịnh của các thương phố, thúc đẩy sự phát triển
yếu tố tiền tệ và hàng hóa trong nền kinh tế vốn mang nặng tính tự cung tự cấp. Đàng
Trong đã xuất khẩu được nhiều hàng hóa vốn trước đó chỉ cung cấp cho thị trường nội
địa như tơ lụa, đường, hồ tiêu, kì nam, yến sào, lúa gạo, cau khô và các loại lâm, thủy
sản khác… là những mặt hàng có giá trị và được nhiều thị trường khu vực cũng như
thế giới ưa chuộng. Chính ngoại thương đã đưa sức sống kinh tế - xã hội của cả vùng
đất mới này phát triển nhanh chóng, cho phép Đàng Trong trở thành một vương quốc
cường thịnh, một trung tâm thương mại lớn ở Đông Nam Á.
Trên khía cạnh văn hóa, hoạt động buôn bán giữa Đàng Trong với các nước
phương Tây đã tạo ra môi trường thuận lợi cho mối quan hệ văn hóa Đông - Tây. Theo
chân các giáo sĩ Thừa sai, các nhà buôn những kiến thức sơ đẳng của các môn khoa
học phương Tây như cơ khí, toán học, vật lý, thiên văn, y học, quân sự... sớm được
tiếp nhận ở Đàng Trong. Người phương Tây còn mang theo trình độ đóng thuyền
thuộc bậc nhất thế giới, cùng với những kinh nghiệm vượt đại dương nhờ bản đồ, la
bàn. Các mặt hàng mà người phương Tây mang đến đều là sản phẩm của kĩ nghệ tiên
53
tiến như đại bác, vải satanh, vải nhung, kim tuyến, đồ pha lê, đá quý, đồng hồ, kĩ thuật
in khắc… Sự phát triển kinh tế hàng hóa kết hợp lối sống thị dân và thế lực đồng tiền,
đã góp phần làm rạn nứt ý thức hệ phong kiến. Đặc biệt, gắn liền với chính sách mở
cửa của các chúa Nguyễn và quá trình truyền giáo của người phương Tây, chữ quốc
ngữ đã ra đời vào thế kỉ XVII, là sản phẩm của cuộc giao lưu mới trong lịch sử, cuộc
giao lưu Âu – Việt. Sự ra đời của nó không những phục vụ đắc lực cho hoạt động
truyền giáo mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương. Nó là điểm
khởi đầu của quá trình làm biến đổi nhiều lĩnh vực trong đời sống văn hóa của người
Việt.
1.3.3. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp
Hoạt động truyền đạo của các giáo sĩ Thiên chúa giáo cùng với quá trình trao đổi
buôn bán chỉ là những cuộc tiếp xúc ban đầu trong mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ
với phương Tây. Để môi trường văn hóa phương Tây thực sự có chỗ đứng vững chắc
trên mảnh đất Nam Kỳ, đòi hỏi phải có sự đô hộ của người châu Âu. Thực dân Pháp là
người nhanh chân nhất làm việc này.
Đến Nam Kỳ ngoài mục đích “mở rộng đất Chúa”, các giáo sĩ Thừa sai Paris còn
vẽ nên một bức tranh An Nam giàu có trong nhận thức của Napoléon III: “Nước Pháp
sẽ tìm thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều mỏ vàng, bạc, đồng, sắt và than đá, nhiều gỗ tốt
để đóng tàu; Pháp sẽ có một hải cảng an toàn cho các hạm đội và thực phẩm cho lính
thủy của mình... Tại đó người ta còn có thể thiết lập một nền thương mại quan trọng
về gạo, bông, muối, cau, lụa, tơ cùng nhiều mặt hàng khác...” [102, tr.61-62], dễ dàng
chiếm đóng mà “không tốn kém gì cả cho Pháp”, còn dân chúng thì đang “rên xiết chế
độ bạo tàn kinh khủng nhất... sẽ đón tiếp chúng ta như những người giải phóng và ân
nhân” [102, tr.51]. Tháng 11 – 1857, Napoléon III đã ra lệnh can thiệp vào Việt Nam.
Rigault de Genouilly lên đường đến “Nam Kỳ” với sứ mệnh chính là bảo vệ sự truyền
giáo của các thừa sai và mang ánh sáng văn minh phương Tây đến cho dân tộc Việt
Nam.
Đà Nẵng được chọn làm điểm tấn công đầu tiên. Chiều 31 – 8 – 1858, liên quân
Pháp – Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Mờ sáng 1 – 9, đại bác của liên
quân bắn tới tấp vào Đà Nẵng. Trước thế tấn công, dân chúng lập tức thực hiện “vườn
54
không nhà trống”, phối hợp với quân do Nguyễn Tri Phương chỉ huy đắp lũy phòng
ngự. Bị cô lập, lại đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, Đô đốc Gigault de Genoilly mới
nhận ra rằng: “Người ta nói với chính phủ về những tài nguyên không hề có, sự sẵn
sàng nơi người dân nhưng kì thực quân chính quy lại rất đông và quân tự vệ thì gồm
tất cả mọi người khỏe mạnh trong dân chúng” [102, tr.94]. Trước tình thế đó, Đô đốc
Rigaul de Geouilly chuyển sang hướng mới: cảng Sài Gòn ở phía Nam.
Ngày 17 – 2, quân Pháp tấn công và chiếm thành Gia Định. Cũng như ở Đà
Nẵng, người Pháp bị cô lập, phải nhận từ dân chúng thái độ bất hợp tác và không tìm
đâu ra sự đón tiếp của các làng Gia tô giáo như lời hẹn của các giáo sĩ. Những đám
cháy lớn liên tục bùng lên, những đạo quân “ứng nghĩa” nhanh chóng thành lập.
Nhưng, điều đáng sợ hơn cả là nguy cơ về sự tấn công bất ngờ của quân đội triều đình
phát xuất từ phòng tuyến Chí Hòa vừa được xây dựng dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri
Phương. Trong khi đó, tình hình ở Đà Nẵng ngày càng trầm trọng: Thương vong tiếp
tục, thiếu thốn đạn dược, lương thực, nhiên liệu vận hành tàu chiến… Không còn khả
năng mở cuộc tấn công thẳng vào kinh đô Huế. Tuy nhiên, không thể chấp nhận ý
tưởng từ bỏ cuộc viễn chinh, Rigault de Genouilly tìm cách thương thuyết với triều
đình Huế. Yêu sách về tự do truyền giáo trở thành chướng ngại khiến cho mọi thương
thuyết không đi đến kết quả chung cuộc.
Với quan điểm mạnh mẽ hơn - một thuộc địa vĩnh viễn ở Nam Kỳ – của tân Bộ
trưởng Hải quân và Thuộc địa Chasseloup-Laubat, sau khi giải quyết xong chiến sự ở
Trung Quốc bằng Hòa ước ngày 25 – 10 – 1860, Phó Đô đốc Charner thẳng tiến về Sài
Gòn. Giao tranh ác liệt đã diễn ra trong các ngày 25 đến 27 – 2 – 1861 ở đại đồn Chí
Hòa, cuối cùng, quân Pháp đã công phá được đại đồn. Giải quyết xong Sài Gòn, đến
lượt các tỉnh còn lại của Nam Kỳ: ngày 12 – 4, Pháp cắm cờ trên nóc thành Mỹ Tho;
ngày 14 – 12, thành Biên Hòa bỏ ngỏ; ngày 23 – 2 – 1862, Pháp chiếm thành Vĩnh
Long; chỉ còn An Giang và Hà Tiên là vô sự.
Trong khi quân dân Nam Kỳ kháng chiến khắp nơi. Triều đình Huếchấp nhận đề
nghị hòa bình của người Pháp. Phái đoàn Việt Nam do Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Hiệp dẫn đầu, khởi hành vào Sài Gòn kèm theo lời dặn của vua Tự Đức: “Hãy hành
động rất cẩn thận hầu có ngưng chiến càng sớm càng tốt”, “Hãy dò lường tình ý, tùy
55
nghi biện bác sao cho họ bình tâm nghĩ lại” [dẫn theo 75, tr.282-283]. Chỉ sau một
tuần thảo luận, ngày 5 – 6 – 1862, một hiệp ước được ký kết gồm 12 điều khoản với
nội dung chủ yếu: Chính phủ Việt Nam nhượng cho Pháp 3 tỉnh phía Đông Nam Bộ
(Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa) và Côn Đảo; thừa nhận quyền tự do truyền giáo cho các
phái bộ thừa sai Gia tô; mở một số cảng và sông Cửu Long đến tận Cam Bốt cho
thương mại Pháp; bồi thường 4 triệu đô la, trả trong 10 năm; Chính phủ Việt Nam phải
được sự đồng ý của Pháp khi nhượng đất đai của mình cho nước khác.Hiệp ước Nhâm
Tuất đã gây phẫn uất trong dân chúng Nam Kỳ, cờ nghĩa của Trương Định, Thiên Hộ
Dương, Nguyễn Trung Trực… tiếp tục giương cao.
Không đặt niềm tin vào phong trào kháng chiến đang diễn ra mạnh mẽ ở Nam
Kỳ, vua Tự Đức tin rằng có thể dùng khả năng ngoại giao để khôi phục chủ quyền trên
3 tỉnh vừa bị mất. Một phái bộ gồm 12 người, do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ,
được cử sang Pháp xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông nhưng thất bại. Trong khi đó, tại
Nam Kỳ, người Pháp đã phác họa sẵn một kế hoạch đánh chiếm ba tỉnh miền Tây,
“thậm chí, ranh giới hành chính các tỉnh cũng được xác định trước” [3, tr.52]. Quân
Pháp bao vậy và chiếm thành Vĩnh Long (20 – 6). An Giang và Hà Tiênlần lượt bị
Pháp chiếm vào các ngày 21 và 24 – 6. Đến đây, lục tỉnh Nam Kỳ, trên thực tế đã
thuộc về thực dân Pháp, chỉ còn chờ sự thừa nhận chính thức bằng văn bản của triều
đình Huế. Bất chấp tất cả, dân chúng Nam Kỳ tiếp tục kháng chiến.
Khi tình hình Nam Kỳ dần đi vào ổn định, Dupré hướng tầm nhìn ra Bắc. Cơ hội
đã đến khi triều đình Huế“xin giúp đỡ” [72, tr.203] của người Pháp về hành động gây
hấn của Jean Dupuis ở lưu vực sông Hồng. Thiếu tá hải quân Francis Garnier, cùng
với 100 lính và 1 hạm đội nhỏ gồm 2 tàu chiến trang bị 11 đại bác [75, tr.321]được cử
ra Bắc để “mời ông Dupuis tạm thời từ bỏ công việc kinh doanh của ông ta, để tiếp tục
thực hiện lại sau này trong những điều kiện hợp pháp hơn, và trong trường hợp ông ta
từ chối thì sẽ phải cưỡng chế ông ta, và tức khắc đuổi ông ta đi” [72, tr.197]
Trái ngược với mong muốn của triều đình Huế, tại Hà Nội, Francis Garnier đã
bênh vực Dupuis, đòi mở cửa sông Hồng, đòi phá thành Hà Nội. Sau khi gửi cho
Nguyễn Tri Phương những lời đe dọa: “Tôi tôn vinh tuổi tác cao và lòng yêu nước của
ngài. Tôi không hài lòng về tính chất căm thù mù quáng chống lại người Pháp trong
56
các hành động của ngài. Trách nhiệm về những hậu quả này sẽ rơi trên đầu ngài” [72,
tr.207] và một tối hậu thư, ngày 20 – 11 – 1873, Francis Garnier tấn công và chiếm
thành Hà Nội. Bị thương trong khi chỉ huy chiến đấu, Nguyễn Tri Phương khước từ
mọi sự cứu chữa của người Pháp, “nằm gan lì ở dinh, tuyệt không ăn uống gì” [82,
tr.461] và qua đời ngày 20 – 12, để lại cho hậu thế tấm gương kiên trung của vị tướng
giữ thành. Trong men chiến thắng, Francis Garnier đã hành động theo bản tính quyết
liệt và phiêu lưu của mình: tiến đánh các tỉnh ở đồng bằng Bắc Kỳ như Hưng Yên (24
– 11), Hải Dương (4 – 12), Ninh Bình (5 – 12), Nam Định (10 – 12).
Phong trào kháng chiến ở Bắc Kỳ vẫn không giảm sút, nhanh chóng quy tụ nhiều
lực lượng và giành chiến công vang dội tại Cầu Giấy (21 – 12): Francis Garnier tử
trận. Quân Pháp ở vào tình trạng: không viện binh, không có tiền bạc, không còn
lương thực và đạn dược. Khoảng 300 lính Pháp mệt mỏi và bị cô lập ở cách xa bờ biển
khoảng 300 cây số, giữa một xứ đắm chìm trong tình trạng vô chính phủ, lại bị bao
vây bởi các băng đảng Cờ đen thiện chiến và sẵn sàng tấn công [102, tr. 288]. Trước
tình hình đó, Dupré đành trao cho Philastre nhiệm vụ: vãn hồi hòa bình ở Bắc Kỳ.
Hiệp ước Giáp Tuất được ký ngày 15 – 4 – 1874. Theo đó, người Pháp vừa chính thức
có được trọn xứ Nam Kỳ, lại có thêm các quyền lợi về thương mại, tôn giáo.
Đến năm 1879, hoàn cảnh thay đổi, vị thế của Pháp ở Bắc Kỳ có nguy cơ bị xâm
phạm, Thống sứ Lemyre de Viler đã chỉ thị Henri Rivière chỉ huy 2 hạm đội ra Hà Nội
để tăng cường lực lượng trú phòng ở Bắc Kỳ.Hoàng Diệu đã sớm không tin nước Pháp
phái quân đội đến Hà Nội chỉ đơn thuần là để bảo vệ những kiều dân và những người
du hành chống bọn Cờ Đen. Quan Tổng đốc Hà Nội đã tăng cường phòng thủ và lặng
thinh trước tối hậu thư yêu cầu nộp thành: “Tôi đề nghị với ông phải giao thành, theo
những điều kiện mà tôi nói ngay đây. Ngay ngày hôm nay, ngay sau khi tiếp được thơ
này thì ông phải ra lệnh cho quân đội ông rời khỏi thành sau khi đã hạ hết khí giới và
mở cửa thành...” [27, tr.376]. Sáng ngày 25 – 4, Henri Rivière đã tấn công thành Hà
Nội. Quân triều đình kháng cự quyết liệt, nhưng chỉ sau hơn 2 giờ chiến đấu, hàng ngũ
trở nên rối loạn, quân Pháp đã làm chủ được các dãy tường thành phía Bắc, Tây Bắc
và phía Đông. Không thể cứu vãn nổi được tình thế, Hoàng Diệu tiến đến hành cung,
hướng về phía Nam lạy tạ rồi treo cổ tuẫn tiết trong vườn Võ Miếu, để lại những lời
57
đầy trách nhiệm trong tờ biểu gửi về kinh đô.Sau đó, Henri Rivière chiếm luôn mỏ
than Hòn Gai (12 – 3 – 1883), Nam Định (27 – 3 – 1883). Dân chúng Bắc Kỳ, cũng
như lần trước, đã kiên quyết cùng các đạo quân của triều đình và quân Cờ đen kháng
chiến. Và một lần nữa, chiến thắng vang dội lại diễn ra tại Cầu Giấy, ngày 19 – 5:
Henri Rivière tử trận.
Ngày 17 – 7 – 1883, vua Tự Đức băng hà. Triều đình Huế rơi vào tình trạng
không ổn định. Ý đồ thiết lập nền bảo hộ tại An Nam đã có một thời cơ thuận lợi.
Ngày 18 – 8, Đô đốc Courbet tấn công các thành lũy bảo vệ kinh đô. Ngày 25 – 8,
Nguyễn Trọng Hiệp thay lời vua Hiệp Hòa, chấp nhận thỏa ước do Harmand áp đặt.
Theo đó, Việt Nam chấp nhận nền bảo hộ của Pháp, triều Nguyễn được cai trị phần đất
từ Đèo Ngang đến Bình Thuận dưới quyền điều khiển của một Khâm sứ Pháp đóng tại
Huế; Pháp kiểm soát các nguồn lợi kinh tế trong cả nước (thuế quan, tài nguyên…);
vua Nguyễn phải triệt hồi binh lính ở Bắc Kỳ, quân Pháp sẽ có mặt và đóng đồn “ở bất
cứ nơi nào xét thấy cần thiết” để “bảo vệ vua An Nam chống lại hết thảy các cuộc
ngoại xâm, nội loạn” [75, tr.331].
Tiếp đến, triều đình Huế chấp nhận bản dự thảo Hiệp ước do Patenôtre mang đến
từ Paris và ký kết ngày 6 – 6 – 1884, gồm 19 điều khoản, bản Hiệp ước xác định rõ vai
trò “bảo hộ” của Pháp đối với Việt Nam.
Từ một cuộc viễn chinh có động cơ chủ yếu là tôn giáo, người Pháp, dưới tác
động của giáo sĩ Thừa sai và tham vọng thực dân, đã từng bước dấn sâu vào cuộc
chinh chiến với rất nhiều khó khăn và chống đối từ phía chính giới Pháp (vì lo ngại
gánh nặng ngân sách), từ phía triều đình và dân chúng Việt Nam (vì bảo vệ nền độc
lập). Nhưng rồi, thực dân Pháp cũng đạt được điều mà không một người Việt Nam yêu
nước nào muốn nghe đến: “Nước An Nam công nhận và chấp nhận sự bảo hộ của
nước Pháp” [72, tr.624]. Cuộc xâm lăng của người Pháp là bước đi đầu tiên trong công
cuộc áp đặt môi trường văn hóa phương Tây lên Nam Kỳ, đảm bảo cho văn hóa Pháp
du nhập và đứng vững trên một đất nước có nền văn hóa lâu đời.
*
Từ một cuộc tranh giành quyền lực đã đưa bước chân Nguyễn Hoàng tiến về
phương Nam, làm nên tiền đề cho những chuyển biến lớn lao của Đại Việt trong các
58
thế kỷ về sau: Đàng Trong hình thành và mở rộng đến tận mũi Cà Mau. Vùng đất mới
trù phú, tốt tươi cùng với một chút tinh thần tự do, ly khai đã giúp các chúa Nguyễn
dựng lên ở phương Nam một cơ ngơi mang tinh thần thoáng mở từ kinh tế cho đến văn
hóa và tư duy. Vượt qua các định chế phong kiến, các chúa Nguyễn đã xóa bỏ tư tưởng
“ức thương” để Đàng Trong có một nền kinh tế hàng hóa đầy năng động. Trong mối
giao lưu văn hóa với các tộc người phương Nam, những lưu dân Việt biết phát huy
tính tò mò, trí sáng tạo, giỏi ứng biến và óc cởi mở, sẵn sàng từ giã những gì không
còn phù hợp nơi vùng đất mới nhưng vẫn đảm bảo giữ gìn những gì thuộc về truyền
thống.
Phương Nam được hình thành trong tính năng động, lại bắt gặp bối cảnh thế giới
và khu vực đang diễn ra những cuộc tiếp xúc Đông – Tây do sự bùng nổ và lan tỏa của
văn minh công nghiệp châu Âu càng thuận lợi cho quá trình tiếp xúc và giao lưu văn
hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây, nơi có nền văn minh đậm dấu ấn Kitô giáo, đang
trên đà phát triển mạnh mẽ của công nghiệp máy móc, cần tìm kiếm và mở rộng thị
trường buôn bán. Nam Kỳ, vùng đất giàu tiềm năng vì thế trở thành mục tiêu thu hút
văn minh phương Tây. Các giáo sĩ Thiên chúa giáo, các thương gia, chủ nghĩa thực
dân là những người tìm cách biến mục tiêu kia thành hiện thực. Và tuy ở trong thế thụ
động, nặng từ Tây sang Đông, nhưng qua hàng trăm năm truyền giáo và buôn bán,
những yếu tố văn hóa phương Tây cũng dần du nhập vào xã hội Việt Nam truyền
thống mà xuất phát điểm là ở Nam Kỳ bao gồm chữ viết, tôn giáo, những tri thức khoa
học, giáo dục, báo chí, văn học nghệ thuật... Các giáo sĩ thừa sai đã mang đến cho dân
chúng niềm tin về sự cứu rỗi của Thiên chúa và sự ngạc nhiên đối với những sản phẩm
của nền văn minh vật chất phương Tây. Đoàn quân xâm lược thì phô diễn trước mắt
của người lính và thành lũy An Nam sức mạnh của đại bác, tàu đồng so với cung tên,
giáo mác, để rồi cuối cùng con đường dẫn đến mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất
Nam Kỳ với phương Tây được xác lập bằng một nền cai trị thực dân. Do vậy, văn hóa
phương Tây đã phải nhận lấy thái độ cự tuyệt của dân chúng, kể cả những sản phẩm
được mang trong mình yếu tố bản xứ như chữ quốc ngữ.
59
CHƯƠNG 2.
CHỮ QUỐC NGỮ - SẢN PHẨM CỦA QUAN HỆ VĂN HÓA
GIỮA NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY
“Quốc ngữ” là danh từ thường được dùng để chỉ chữ viết tiếng Việt theo kiểu chữ cái Latinh10, được các giáo sĩ phương Tây người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp chế tạo ra
để ghi âm tiếng Việt. Do vậy, các tài liệu, văn bản của các giáo sĩ, các tác giả xưa kia
để lại cũng chính là nơi phản ánh rõ rệt nhất dấu vết về sự ra đời của chữ quốc ngữ,
cho thấy đó là một quá trình lâu dài, có sự đóng góp của nhiều người phương Tây,
cùng với sự giúp sức của nhiều người Việt, nhiều sĩ phu yêu nước tiến bộ. Quốc ngữ vì
vậy được xem là sản phẩm trực tiếp của cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa Việt
Nam và Phương Tây.
2.1. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ
Quá trình hình thành chữ quốc ngữ kéo dài hơn ba trăm năm, với ba giai đoạn
chỉnh lý, hoàn thiện, tính từ ngày những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đặt chân lên đất
Việt tiếp xúc với người bản địa cho đến khi nền giáo dục chữ Nho hoàn toàn bị xóa bỏ.
2.1.1. Thời kì sơ khai (thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII)
Ngay từ khi khởi đầu các hoạt động truyền đạo ở thế kỉ XVII, các giáo sĩ Thiên
chúa giáo phải giải quyết một vấn đề cực kì khó khăn là làm sao cho dân bản xứ hiểu
họ nói gì. Trước sự tồn tại song song của hai ngôn ngữ ở Việt Nam lúc bấy giờ, một
ngôn ngữ của tầng lớp trí thức, tức là tiếng Hán – Việt được triều đình Việt Nam sử
dụng, các nhà Nho xem trọng và ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt, ngôn ngữ của toàn
dân, thì các giáo sĩ đã chọn tiếng Việt, vì mục đích của họ là truyền đạo cho đám đông
quần chúng. Hơn nữa, nếu dùng một ngôn ngữ mà tất cả giới bình dân đều thông hiểu
thì giới trí thức cũng hiểu không khó khăn gì. Chữ viết để viết tiếng Việt bấy giờ là
Nôm, một văn tự rất khó nhớ lại nhiều chữ, nên các giáo sĩ bèn tìm cách đặt ra một hệ
thống ghi chép đơn giản dùng những chữ cái Latinh rất quen thuộc với họ để ghi tiếng
Việt. Đó là tình hình làm nảy sinh nhu cầu khai sinh ra chữ quốc ngữ với mục tiêu đầu
10 Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ latin. Xem [8, tr.27]
tiên và chủ yếu là ghi lại âm và thanh của tiếng Việt.
60
Năm 1620, chữ quốc ngữ sơ khai xuất hiện đầu tiên trong hai tài liệu. Một tài tiệu
của giáo sĩ Joãn Roiz, viết bằng tiếng Bồ Đào Nha. Trong tài liệu này xuất hiện các
chữ phiên âm ra tiếng Việt như: Ca cham (nước Man), ungne, sinoa, unsai, annam, on
trũ, fai fó, ban co, bonzo tu bun.. Và tài liệu của giáo sĩ Gaspar Luis, viết bằng tiếng
Latinh, gửi từ Macao về Rôma. Trong tài liệu này có xuất hiện rải rác những chữ phiên
âm như: saya, on trum, ban có, ban cô, pullo cambi …
Đến năm 1621 giáo sĩ Christofori B. Borri trong một tài liệu viết bằng tiếng Ý đã
sử dụng một lượng từ quốc ngữ khá lớn (94 từ): Annam, coci, cocin, cauchina,
quiguin, cacciam, pallucambi, renran, càn, ghoo, giacca, champa, on saij, nuoeeman,
xaca, omgne... Trong đó có rất nhiều từ mang hình dạng giống hệt như chữ viết ngày
nay. Ví dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn… Đây là những dạng chữ quốc ngữ nặng về
cách phát âm theo âm Ý.
Qua năm 1626, chữ quốc ngữ lại có mặt trong tài liệu của các linh mục Gaspar
Luis, Antonio de Fontes và Francesco Buzomi với sự xuất hiện của thanh sắc và chữ
quốc ngữ cũng “có sự tiến bộ từ do dự, vẩn đục đến gọn ghẻ, trong sáng..” [120,
tr.129]: fay fé, Sinoa, Cambogiam, Dính Cham, nước Man, Ram, Xa cam,
Turon…Annam, Quin hin, Camboja, Manila, Dig Cham, Faifo… Riêng trong tài liệu
của Francesco Buzomi, chữ quốc ngữ đã có các dấu thanh sắc và ngã có vẻ dứt khoát
hơn: Fai fó, Tunquino, Cauchinohina, Champá, Xán Tí, Thiên Chu, Thiên chủ, Ngọc
huan.. với
Trong những năm 1631 – 1632, các giáo sĩ Alexandre De Rhodes và Gaspar
d’Amaral cũng sử dụng một số chữ quốc ngữ trong tài liệu gửi về Rô-ma: ai não, Thin
hũa, cochinchina, Tomquin, Cochinchina, Sinoa, Anna, Sai, Mia, Bo chi nũ, Gue anũ...
Tuy nhiên, tài liệu của Gaspar d’Amaral có số lượng chữ quốc ngữ lớn hơn, lớn nhất
từ trước đến nay với gần 400 chữ, điển hình như: đang tlão, đàng ngoày, đàng tlên,
thăạn hóa, ou thụi, ou nghè, nhà phủ, Đức Lão, Chúa, sãy nãy, Thíc ca, sãy, Thanh
hoă... Chữ quốc ngữ của Gaspar d’Amaral được viết theo cách ký âm tiếng Bồ Đào
Nha, viết tách rời từng tiếng rõ rệt, cũng như dùng các dấu thanh phong phú hơn so với
các tài liệu trước.
61
Năm 1636, giáo sĩ Alexandre De Rhodes có viết bản thảo cuốn Tunchinensis
Historiee Libri duo và để lại một số chữ quốc ngữ như: Kim, Lau Tu, Chúa Canh,
nuan, batmin, Thicca, Lautu, Gio; Chúa Canh, Che bich, bochin, Phuchen... Tuy
nhiên, so với tài liệu của Gaspar d’ Amaral viết tại Kẻ Chợ năm 1637 thì chữ quốc ngữ
của Alexandre De Rhodes còn kém rất xa. Amaral sử dụng nhiều từ giống hệt như chữ
quốc ngữ ngày nay: thầy, nhin, Nghệ an, lạy, bùi, tháng, cổu, than, đàng ngoài, già,
Kẻ chợ…
Đến những năm 1644 – 1648, chữ quốc ngữ xuất hiện chủ yếu qua tài liệu của
Alexandre De Rhodes. Một tài liệu được ông viết năm 1644 bằng tiếng Bồ Đào Nha có
một số chữ quốc ngữ như: nghĩa, cũ, Chúa Jesu, cho, den, het, hoy, cho den, blon,
doy... Năm 1647, ông có một tài liệu khác kể lại cuộc hành trình 10 năm của ông, từ
năm 1640 – 1649, đi từ Áo Môn đến Đàng Trong và từ Áo Môn về Rô-ma, với một số
chữ quốc ngữ như: On ghe bo, halam, benda, Nambinh, Nuoc Man, bau beo, bo chinh,
cu nghe bo… Đỗ Quang Chính nhận xét chữ quốc ngữ trong tài liệu này còn “khá
luộm thuộm” [12, tr.49]. Ngoài ra, giai đoạn này còn có một biên bản hội nghị về mô
thức rửa tội của 35 giáo sĩ Dòng Tên năm 1645 tại Áo Môn, có những câu và chữ
Quốc ngữ như: “Tau rữa mầi nhân danh Cha, uà Con, uà Spirito santo. Tau lạy tên
Chúa, tốt tên, tốt danh, tốt tiếng. Vô danh cắt ma, cắt xác, Blai có ba hồn bãy uía,
Chúa blơy ba ngôy nhân danh…”[120, tr.139]. Cho thấy, chữ quốc ngữ đến đây đã
được viết rời thành từng tiếng một cách ổn định, biết sử dụng dấu phẩy và sử dụng
nhiều dấu thanh giống như ngày nay.
Nhìn chung, đến cuối thời kì này, chữ quốc ngữ tuy chưa đạt đến mức đơn giản
như ngày nay, nhưng nó đã có cấu trúc tương đối ổn định, với sự đóng góp của rất
nhiều giáo sĩ. Đó là một công trình của tập thể, mà người đi sau kế tục, phát triển, hoàn
thiện công trình của người đi trước. Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng
Hàm cũng có viết: “Việc sáng tác chữ Quốc Ngữ chắc là một công cuộc chung của
nhiều người, trong đó có cả các giáo sĩ người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp Lan
Tây” [30,tr.178]
62
2.1.2. Thời kì bước đầu phát triển (nửa sau thế kỉ XVII – cuối thế kỉ XVIII)
Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tiến một bước dài khá ổn định khi càng về cuối thời kì
sơ khai, nhưng nó vẫn chưa thực sự trưởng thành và hoàn thiện nhất, thể hiện ở chỗ
chưa có đầy đủ năm dấu thanh như ngày nay, đa số từ còn viết dính vào nhau, còn
nhiều phụ âm mà thiếu nhiều nguyên âm. Cho đến khi cuốn Từ điển Việt – Bồ - La
(1651) của Alexandre de Rhodes ra đời thì những nhược điểm đó mới dần được khắc
phục và bước đầu tiến tới hoàn thiện. Từ đó, chữ Quốc ngữ chính thức bước sang một
thời kì mới – thời kì bước đầu phát triển, hay còn gọi là thời kì đổi mới và lan tỏa.
Từ điển Việt – Bồ – La (1651) được biên soạn dựa trên Từ điểnAnnam – Bồ – La
của Amaral và Từ điển Bồ - Annam của Barbora. De Rhodes cũng thừa nhận điều này:
“Tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một hội dòng, nhất là
Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa. Cả hai ông đều đã biên soạn mỗi
ông một cuốn từ điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ…
Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các Hồng y đáng
tôn kính...” [90, tr.192-193]
Từ điển Việt – Bồ – La ngoài giá trị ngôn ngữ học còn mang giá trị của một bộ
sách bách khoa. Về nội dung gồm có: Phần 1: Thư của Đờ Rốt gửi các Hồng y thuộc
Thánh bộ Truyền bá đức tin; Phần 2: Cùng độc giả; Phần 3: Đoản luận về tiếng
Annam hay Đông Kinh. Đây là một tập ngữ pháp tiếng Việt, có thể dùng để dẫn nhập
cuốn từ điển hoặc dùng như một phần độc lập. Nó đề cập những nguyên tắc chi phối
cấu trúc tiếng Việt để thấy rằng tiếng Việt lúc bấy giờ đã là một thứ tiếng thống nhất,
có quy tắc rõ rệt trong cả nước. Phần 4: là Từ điển Annam được giải thích bằng tiếng
Bồ Đào Nha và Latinh.
Về ngữ âm, từ điển này được đánh giá cao, vì nó có ghi nhiều cách phát âm, cả
cách phát âm địa phương lẫn phổ thông. Về ngữ nghĩa, từ ngữ của nó có tính phổ
thông cao. Hầu hết những từ được liệt kê đều mang nghĩa mà người Việt ở các địa
phương khác nhau cũng có thể hiểu được giống nhau. Cho nên có thể nói, Từ điển Việt
– Bồ – La không chỉ phản ánh hình dạng của chữ quốc ngữ thế kỉ XVII mà còn phản
ánh cả đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán và con người Việt Nam lúc bấy giờ, bởi
nội dung của nó “mang tính bách khoa và đượm nhuần tính dân tộc, tính nhân dân,
63
tính phổ cập lẫn địa phương, ẩn núp bên trong lớp vỏ bọc của những từ ngữ cũ kỹ”
[120, tr.152]. Với Từ điển Việt - Bồ - La, “Âu châu đã chú ý đến Việt Nam trên mặt
văn hóa” [73, tr.10]
Cùng với Từ điển Việt – Bồ – La là sách Phép giảng tám ngày cũng được
Alexandre de Rhodes biên soạn năm 1651 bằng cả chữ Latinh và chữ quốc ngữ, gồm
319 trang. Sách chia thành từng bài học, mỗi bài cho một ngày, trọn quyển sách là 8
ngày, nên gọi tên là Phép giảng tám ngày. Trong tác phẩm có đoạn: “Phép giảng tám
ngày: Ngày thứ nhất ta cầu cũ đức Chúa blời giúp sức cho ta biết tỏ tuầng đạo chu là
nhuàng nào vì vậy ta phải hay ở thế này chảng có ai soũ lâu…, có kẻ thì nói rằng, 6í
bang ta chăng thờ blời mà blời lấy sấm sét đánh ta hàu làm sao cho khỏi? Ấy là lo
quếi, nào blời có đánh được ai đâu? Có một đức Chúa blời đánh được mà chớ” [107,
tr.45]
Về mặt ngữ học, đây là một cuốn sách được đánh giá rất cao, trước hết vì nó là
cuốn sách đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhưng giá trị cao nhất của cuốn sách
là ở chỗ với cách phiên âm phổ thông của nó, người Việt Nam dù ở Đàng Trong hay
Đàng Ngoài cũng đều có thể hiểu được. Về mặt ký âm, sách này dùng cách phát âm
phổ thông, không phải cách phát âm từng địa phương như Từ điển Việt - Bồ - La,
nhưng nó vẫn phổ cập đến được với khá nhiều người Việt thời bấy giờ từ giới trí thức
cho đến bình dân. Chứng tỏ tiếng Việt đã có tính thống nhất cao. Ngoài ra sách còn có
số lượng khá lớn những khái niệm mới về con người, về nhân sinh, về con người đối
với bản thân, đối với gia đình, đối với Tổ quốc, đối với Tạo hóa. Các khái niệm đó
chẳng những được gói ghém trong những từ ngữ mới lạ (như ơn nghĩa, chí linh, chí
công, khốn nạn đời đời…) mà còn cả trong cách diễn đạt, những phong cách lý luận
như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, qui nạp, loại suy… mà từ trước đến thời ấy, trong
các sách Hán Nôm người Việt chưa từng biết đến. Vì vậy, có thể nói sách Phép giảng
tám ngày còn đóng vai trò chuyển tải văn minh phương Tây đến tiếng Việt thế kỉ
XVII. Sự đóng góp lớn lao của Alexandre de Rhodes qua các tài liệu trên dành cho
chữ quốc ngữ đó là các dấu giọng (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và dấu biến âm (dấu mũ
hay dấu móc).
64
Đến năm 1659, với các tài liệu của một số linh mục người Việt, chữ quốc ngữ
tiến thêm một bước nữa, đã đạt đến mức độ hoàn chỉnh tương đối, được phổ biến sâu
rộng tới các tầng lớp xã hội trong nước.
Thư viết tay của Igesico Văn Tín nói về các hoạt động truyền giáo tại Đàng
Ngoài sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày
tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini. Trong bức thư có đoạn: “Lạy ơn Đ.C.B.
phù hộ Thài bàng an linh hồn và xác. Từ nam thài thái vè nhỏy, thì hay Thài ở lạy chịu
nhèu sự khó lám, thì ràng chảng có tlở vè são le cữ như vè 6ài” [dẫn theo 120, tr.157]
Cùng với đó là thư viết tay dài 2 trang của Ben Tô Thiện cũng gửi cho Linh mục
Marini. Trong thư có đoạn như sau: “Ơn Đức Chúa blờy blả cỗn cho thầi đờy đờy bấy
nhiêu mlờy tôy chép tháng mườy Igreja mà thư nầi thì ngài lệ Bà thánh Daria cù ôn
thánh Chrisanto tử vì đạo, tôy lại ơn thầi là cha thì thương đến con cù tôy xin cha chớ
quên làm chi…” [dẫn theo 120, tr.158]. Ngoài ra Ben Tô Thiện còn dùng chữ quốc
ngữ để viết một tập sử Việt, gồm 12 trang, không rõ thời gian ra đời, cũng không ghi
nhan đề. Tác giả Đỗ Quang Chính tự gọi tên là “Lịch sử nước Annam” [12, tr.107]. Tài
liệu này có đoạn như sau: “Nước Ngô thước hết mớy có Bua tri là Phục Hi. Bua thứ
hai là Thần nôõ con cháu Bua Than nôõ sang trị nước Annam, liền sinh ra Bua Kinh
dương Bương, thước hết lãi 6ợ là nàng Thần Lão, liền sinh ra Bua Lạc Lão cuân. Lạc
Lão cuân trị vì lãi 6ợ tên là Âu Cơ có thai đẻ ra một bao có một trăm trứng nở ra được
một trăm con blạy” [dẫn theo 12, tr.108]
Qua các tài liệu trên, có thể thấy về tự dạng, chữ Quốc ngữ năm 1659 đã gọn
gàng, ổn định hơn so với chữ quốc ngữ năm 1651 trước đó. Về ngữ nghĩa, đến thời
điểm này cách sử dụng chữ quốc ngữ đã trôi chảy đến mức không khác mấy so với
ngày nay. Lần đầu tiên chữ quốc ngữ được dùng để viết sử, chứng tỏ nó đã vượt ra
khỏi yêu cầu truyền giáo, để chứng tỏ được khả năng dùng để viết sử, có nhiều tên
người, tên đất, những từ ngữ chuyên môn về hành chánh, về giáo dục, khoa cử và kể
cả các sinh hoạt xã hội như hôn nhân, tang chế… Hơn nữa, các tài liệu này được phổ
cập rộng rãi, từ Đàng Trong cho đến Đàng Ngoài, cho thấy là chữ quốc ngữ vào thời
điểm năm 1659 có sự thống nhất cả về tự dạng, ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa, khiến
cho người Việt ở các địa phương khác nhau vẫn có thể đọc hiểu được những tài liệu
65
này. Do vậy, năm 1659 cũng được xem là mốc đánh dấu chữ quốc ngữ đã hoàn tất giai
đoạn sử dụng hệ thống phiên âm Ý – Bồ và chuyển sang giai đoạn sử dụng hệ thống
phiên âm Pháp.
Việc sử dụng hệ thống phiên âm Pháp được đánh dấu bằng cuộc chỉnh lý của Bá
Đa Lộc (Pigneau de Béhaine, 1741-1799) với cuốn Từ điển Annam –
Latinh(Dictionarium Annamatica – Latinum) có sự cộng tác biên soạn của Hồ Văn
Nghi và một số người Việt khác. Cuốn từ điển này thống nhất phân biệt các phụ âm
đầu giống như chữ quốc ngữ thế kỉ XVII, riêng các phụ âm đầu như bl, de, ge, ml, tl
thì mất hẳn, không còn sử dụng. Đối với các phụ âm cuối, Từ điển Annam – Latinh
cũng thống nhất như thế kỉ XVII, riêng các phụ âm cuối mà thế kỉ XVII dùng ký hiệu
(~) thì đồng loạt đổi thành phụ âm cuối ng, chẳng hạn: cũ cùng; trão trong…
Đối với hệ thống nguyên âm, Từ điển Annam – Latinh viết hầu hết giống như ngày
nay.
Bên cạnh Từ điển Annam – Latinh còn có sách Thánh giáo yếu lý (1774), cũng
được viết tay bằng chữ quốc ngữ rất giống với chữ viết ngày nay bởi giám mục Bá Đa
Lộc. Sách có đoạn: “Là cha mẹ dạy khuyên sai khiến, chẳng nên trách móc phàn nàn,
chớ khá bỏ nhà cha mẹ mà đi ác nghiệp chơi bời, cùng khi phối thất nhơn đoan, phải
vâng thuận tình người phân định, lại đến khi cố mạng, người trối phú điều gì, phải vui
lòng noi giữ”[dẫn theo 120, tr.277]
“Thánh Giáo yếu lý quốc ngữ
Thiên Chúa nhất thế tam vị đệ nhất thiên.
Hỏi: Có mấy đàng cho ta đặng lên thiên đàng?
Thưa: Có một đàng mà thôi.
Hỏi: Một đàng ấy là đàng nào?
Thưa: Là đàng rất chính rất thật là đạo thánh Đức Chúa Trời”[dẫn theo 120,
tr.264]
Có thể nói, chữ quốc ngữ của Bá Đa Lộc năm 1774 theo hệ thống phiên âm Pháp
đã hoàn chỉnh được một số bất ổn trong tự dạng chữ quốc ngữ thời De Rhodes, tạo ra
sự tiến bộ, gọn gàng, đơn giản hơn, khác xa chữ quốc ngữ của các tác giả trước và
không khác gì mấy so với chữ quốc ngữ ngày nay. Đây cũng là lúc chữ quốc ngữ bắt
66
đầu lan tỏa mạnh để thể hiện sự trôi chảy và sự điêu luyện cũng như khả năng phiên
âm của nó vào cuối thế kỉ XVIII, đặt nền móng vững chắc cho thời kì phát triển mạnh
mẽ (từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX)
2.1.3. Thời kì phát triển mạnh mẽ (từ thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX)
Bước sang thế kỉ XIX, chữ quốc ngữ tiếp tục có những chuyển biến mạnh mẽ với
cuộc chỉnh lý lần thứ hai (1838) giúp nó định hình và dần trở thành dạng chữ quốc ngữ
hầu như được sử dụng trên toàn quốc cho đến tận ngày nay. Cuộc chỉnh lý lần thứ hai
gắn liền với hai cuốn Từ điển Latinh – Annam và Từ điển Annam – Latinh năm 1838
do Taberd biên soạn dưới sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam
khác.
Từ điển Annam – Latinh (Dictionarium Annammitico – Latunum):còn gọi là Nam
Việt dương hiệp tự vị, xuất bản tại Sérampore, Ấn Độ, gồm có 5 phần: Phần mở đầu:
là một chuyên luận về tiếng Việt với các chủ đề như nghiên cứu âm vị tiếng Việt, mô
tả tiếng Việt; nghiên cứu cách viết văn; Phần từ điển Nôm – Quốc ngữ - Latinh: là
phần quan trọng nhất. Nó là cột mốc đánh dấu sự chuyển hướng phiên âm từ hệ thống
tiếng Bồ Đào Nha sang hệ thống tiếng Pháp, đánh dấu một khúc quanh quan trọng
trong sự phát triển của chữ quốc ngữ. Ưu điểm của từ điển này là: tập trung, tổng hợp
được hầu hết những kinh nghiệm đã qua và ghi chép lại thành những quy tắc cụ thể, số
lượng từ tăng thêm nhiều hơn các tài liệu trước, chữ quốc ngữ hầu như không khác
mấy so với chữ quốc ngữ hiện nay. Những nhược điểm trong từ điển của Bá Đa Lộc
hầu như đã được loại bỏ hết, được chỉnh lý dứt khoát. Tiếp sau đó, phần thứ ba là
phần giải nghĩa từ; phần thứ tư là phần danh mục các dược thảo được sắp xếp theo
mẫu tự A, B, C; phần thứ năm là phần danh mục chữ Hán (gồm có dạng chữ Hán, âm
Hán - Việt viết bằng chữ quốc ngữ và định nghĩa bằng tiếng Latinh)
Từ điển Latinh – Annam (Dictionarium Latinh – Annamiticum): gồm có các
phần: Phần một là Lời cùng độc giả và Tổng luận về tiếng Việt. Phần hai,“Bổn dạy
tiếng Latinh”. Đây được xem là một tập sách dạy ngữ pháp Latinh bằng tiếng Việt đầu
tiên. Nó dạy cách dùng các mẫu tự Latinh để viết chữ quốc ngữ, dạy tiếng Latinh,
nghiên cứu đối chiếu ngữ pháp Latinh và tiếng Việt. Phần ba, Từ điển Latinh -
Annam: là phần quan trọng nhất, với trên 20.000 từ Latinh. Về mặt ngữ học, nó có sự
67
tìm kiếm và chế tác những từ tiếng Việt mới cho tương đương với mục từ Latinh, đồng
thời giải thích, định nghĩa từ. Do đó, tác giả đã phát huy tối đa khả năng diễn đạt của
tiếng Việt, cũng như tạo ra cho tiếng Việt một số lượng lớn từ ngữ mới, nhất là các
khái niệm khoa học trước đây vốn là xa lạ với tiếng Việt. Phần bốn là phụ lục: Có thể
xem như một tập sách độc lập với tên gọi Tự Vị Annam và được ghi bằng 4 thứ tiếng:
Anh – Pháp – Latinh – Việt. Trong phần tự vị này tập trung được gần 4.000 từ quốc
ngữ Nam Bộ, với ngữ nghĩa riêng, có thể nói lên tâm hồn, cá tính, phong tục, tập quán
của người Nam Bộ. Ngoài ra, các tác giả còn tạo thêm những từ mới cho tiếng Việt để
có thể diễn dịch ý nghĩa của 3 ngôn ngữ kia. Phần năm là một đoản văn có nhan
đề “Lời chúa tàu và người Annam vấn đáp nhau”, dài 16 trang, thuật lại cuộc đối thoại
về những vấn đề mà một người ngoại quốc thời ấy cần biết về Việt Nam. Phần này cho
ta thấy tiếng Việt lúc này đã rất trơn bén và lưu loát: “- Ông vượt biển mấy tháng? –
Sáu tháng. Chúng tôi chạy ngày hai mươi tháng hai bên Tây, tại kinh đô Hồng Mao
gọi là London. – Ông đi làm vậy thì thuận phong lắm. Rày người ta dễ vượt biển cả.
Ông mới vào cửa có ngủ đặng đêm nào chăng? – Tôi ngủ đặng khó. Mà ông thì làm
sao? – Tôi ngủ đặng ít thôi. – Sao vậy? Ông có rối gì trong trí chăng? – Tôi chẳng có
sự rối, song tiếng sấm sét và chớp sáng chói lòa, chẳng cho tôi ngủ êm” [dẫn theo 120,
tr.329]. Phần sáu là phần về Việt Nam học với nhiều kiến thức mà ngay cả cho đến
hiện nay vẫn còn nhiều giá trị như cách đếm số, cân, đo, tiền tệ, thỏi vàng, nén bạc,
cách phân chia thời gian, về khái niệm bát quái, cách sử dụng bàn tính… Phần cuối
cùng là Truyện Nữ Thánh Inê Tử đạo viết bằng văn vần, gồm 900 câu lục bát, thuật lại
cuộc đời bi hùng của một vị nữ thánh tử đạo.
Những cuốn từ điển của Bá Đa Lộc (1772) và Taberd (1838) được xem là những
công trình lớn, là mốc phát triển quan trọng của chữ quốc ngữ, vì qua đó chữ quốc ngữ
đã hiện ra một cách cụ thể để dần tiến tới sự hoàn thiện. Tuy nhiên, trước và sau những
mốc thời gian quan trọng đó, vẫn còn có nhiều công trình, nhiều tác phẩm khác ra đời,
phản ánh sự phát triển của tiếng Việt.
Cùng với sự “ưu ái” của chính quyền Pháp trong chính sách phổ biến chữ quốc
ngữ ngay những năm đầu chiếm được Nam Kỳ, đặc biệt, từ năm 1865, bằng việc cho
xuất bản hàng loạt tờ báo tiếng Việt, mở đầu là Gia Định báo (1865), chữ quốc ngữ đã
68
phát triển cực kỳ mạnh mẽ không chỉ tại Sài Gòn, mà còn chuyển hướng ra miền
Trung và miền Bắc. Từ đây, chữ quốc ngữ không còn là “thứ chữ viết chỉ được biết
đến và sử dụng bởi một nhóm người theo Ki-tô giáo” [73, tr.10].
Văn bản viết tay năm 1810 có nhan đề “Sách tóm lại những khuôn phép cùng
chính việc Đấng làm Thầy có quờn tế lễ”, không ghi tên nguyên tác, cho thấy tiếng
Việt vào đầu thế kỉ XIX “đã rất nhuần nhuyễn, và đủ khả năng để diễn tả những ý nghĩ
sâu sắc về nội tâm. Dạng chữ rất trơn bén, cú pháp theo lối trường cú mà minh bạch,
lời văn trong sáng”[120, tr.335]: “Ớ con, ấy sự ở nơi thanh vắng này sẽ luyện sạch trí
và lòng của con, sẽ cai trị mọi tình ý con, sẽ chỉ đàng dẫn nẻo cho con biết những việc
ph? [phải] nết của con, sẽ làm cho cách con ăn ở ra khuôn phép thứ tự đến đỗi trí và
lòng con chẳng còn có sự gì…”.Bản viết tay Từ điển Latinh – Annam năm 1867
(không rõ tác giả) phản ánh một dạng chữ quốc ngữ gần giống hệt như chữ ngày nay,
có thể sử dụng một cách thoải mái để dịch các từ Latinh. Rồi Truyện Thầy Lazarô
Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản với khả năng diễn đạt của chữ quốc ngữ đã khá
hoàn chỉnh. Đặc biệt với sách Bác học sơ giải (1887) và Đại Nam Quấc âm tự vị
(1896) của Huỳnh Tịnh Của, chữ quốc ngữ đã trở nên rất luyện, mở ra một khả năng
diễn đạt mới của chữ quốc ngữ, đó là khả năng diễn đạt các khái niệm khoa học và khả
năng dùng tiếng Việt để giải thích tiếng Việt, như trong Tự vị có đoạn : “Tự điển, tự vị
khác nhau có một sự rộng hẹp: Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải
dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải cứ
kinh truyện làm thầy ; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng
nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển, dẫn tích gì” [dẫn
theo 120, tr.347]. “Thuốc súng thì là diêm, sanh, than cây ba thứ hiệp lại. Than phải
dùng than nhẹ như than sầu đâu, than liễu”[dẫn theo 120, tr.347]. Đây là “một công
trình quý giá được xem như là một cuốn sách căn bản để các nhà báo, nhà văn Việt
Nam lúc bấy giờ dùng tra cứu để viết cho đúng” [47, tr.21] và vì thế nó đã giữ một vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển ngôn ngữ ở Việt Nam. Rồi đến năm 1913 chữ
quốc ngữ đã là một thứ chữ rất thành thục với cuốn Ca ngợi rất thánh trái tim Đức
Chúa Giêsu của Phaolô Qui (tức Nguyễn Văn Qui).
69
Đến đây chữ quốc ngữ đã phát triển mạnh mẽ và hầu như hoàn chỉnh ở cả nước.
Sang đầu thế kỉ XX, với việc cho giải thể lối thi Nho học (1915 ở Bắc Kỳ, 1918 ở
Trung Kỳ) của chính quyền Pháp, chữ quốc ngữ đã bước lên hàng văn tự chính thức,
khép lại thời kỳ dùng chữ Nôm để truyền đạt tư duy và cảm hứng dân tộc. Lịch sử văn
hóa Việt Nam bước một trang mới từ bước ngoặt này, bắt đầu mang những dấu ấn của
văn hóa phương Tây do chữ quốc ngữ mang lại.
Như vậy, trải qua một quá trình phát triển lâu dài từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ
XX với sự đóng góp của rất nhiều nhân vật và sự ra đời của nhiều tài liệu, nhiều tác
phẩm, chữ quốc ngữ đã liên tiếp được gọt giũa, chỉnh lý và ngày càng đi đến sự hoàn
thiện, đầy đủ, phong phú và có thể đứng vững được bất kể nhiều khó khăn, trở ngại.
Được sáng chế nhằm phục vụ nhu cầu truyền giáo nên chính các giáo sĩ cũng “chỉ
mong dùng nó để giảng đạo được dễ dãi thôi. Chứ họ nào dám mơ màng đến chuyện
lấy nó thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm sau này” [77, tr.128]. Tuy nhiên, xuất phát từ
ý đồ chính trị và sự dễ dàng của quốc ngữ trong việc giúp học tiếng Việt mà “không
cần phải thông thạo kiểu chữ tả ý (ideograms)” [127, tr.157], chính quyền Pháp đã có
những tính toán vượt ngoài mục tiêu truyền đạo của các giáo sĩ: đưa quốc ngữ vào
trong chính sách văn hóa của nhà cầm quyền.
2.2. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam
Kỳ
Hình thành chữ quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện và đưa nó trở thành một
cơ chế đòi hỏi cũng phải trải qua một quá trình.Mặc dù ra đời từ thế kỉ XVII, song
phải hơn 200 năm sau, “chữ quốc ngữ mới được sử dụng chính thức ở Việt Nam” [85,
tr.29] khi thực dân Pháp ra sức thiết lập sự hiện diện của văn minh phương Tây ở Nam
Kỳ bằng nhiều biện pháp sau khi đã chiếm ba tỉnh miền Đông. Trong đó, việc đem
ngay chữ quốc ngữ phổ biến trong quần chúng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
trong chính sách văn hóa của người Pháp, nhằm tạo ra môi trường văn hóa phương
Tây, xóa dần Nho học và truyền thống văn hóa người Việt. Để thực hiện mục đích đó,
cụ thể chính sách văn hóa của thực dân Pháp tập trung vào những điểm chính sau:
Trước hết là tìm cách hạn chế, tiến tới thủ tiêu nền giáo dục Nho học, nhằm xóa
bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam. Người Pháp thấu hiểu sâu sắc một
70
điều rằng, khi nào nền giáo dục Nho học và tầng lớp văn thân, sĩ phu cố chấp vẫn tồn
tại thì khi đó văn hóa Pháp vẫn chưa thể có chỗ đứng vững chắc ở Việt Nam.
Chính sách ngôn ngữ là “khâu đầu tiên trong chính sách giáo dục của thực dân
Pháp ở Nam Kỳ” [40, tr.106]. Khi chiếm ba tỉnh miền Đông, là người chiến thắng,
Pháp đã chọn ngay chữ quốc ngữ và “quyết liệt” ép người Nam Kỳ học quốc ngữ thay
vì tiếng Pháp. Nguyên nhân này có phần tác động từ các giáo sĩ Hội Thừa sai Paris. Họ
“đều là người Pháp, theo một đường lối truyền giáo cứng rắn, chủ trương xóa bỏ, tiêu
diệt tất cả những gì là phong tục, văn hóa, tư tưởng của các nước bị truyền giáo không
hợp với giáo lý Thiên chúa. Hơn nữa, họ còn đồng hóa quyền lợi nước Pháp với quyền
lợi của đạo…” [114, tr.8]. Với tinh thần đó, các giáo sĩ đã thúc ép chính quyền Pháp
chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Pháp. Theo họ, khi thay thế chữ Nho bằng chữ quốc
ngữ, “Hội Thừa sai nhằm mục đích cô lập các giáo hữu. Những người này sẽ không
còn có thể đọc được những tác phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và sẽ không thể thư
từ gì được với bất cứ một sĩ phu Tàu hay ta nào” [114, tr.9]
Đó là nhận định của giới giáo sĩ. Đại diện cho chính quyền Pháp có quan điểm
của Giám đốc Nha nội vụ Béliard rằng việc duy trì chữ Nho “chỉ có thể có một ảnh
hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa mà chính phủ đang dồn mọi nỗ lực thực hiện”11, do vậy, “người Pháp sử dụng chữ quốc ngữ như một phương tiện để cắt đứt
mọi sự tiếp xúc giữa trí thức Việt Nam và Trung Hoa, cắt đứt ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa ở Việt Nam, cắt đứt sợi dây kết nối với quá khứ” [62, tr.92]. Khi đưa ra
những quan điểm ấy, chắc chắn là người Pháp đã chuẩn bị chút ít điều kiện sẵn sàng
cho việc dạy và học tiếng Việt. Sách là những tài liệu có sẵn trong các nhà thờ và
những cuốn tự điển đã xuất bản của Alexandre Rhode, Pigneau de Behaine, và Taberd.
Nhân lực chủ đạo chắc chắn là những trí thức Tây học như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của, Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường và một số người khác. Đồng thời họ mở
thêm trường để đào tạo một lớp người mới biết chữ quốc ngữ. Với sự chuẩn bị này,
chính quyền Pháp tin rằng: “chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa đầy một năm, một
nghìn thanh niên An Nam biết đọc và biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự Latinh; 11Nha Nội vụ hay Sở Nội vụ là cơ quan giúp việc cho Thống đốc Nam Kỳ, người xưa gọi là Dinh Thượng thư hay Lại Bộ thượng thư là cơ quan chỉ đạo mọi mặt đối với các Tham biện (chức vụ tương đương chủ tịch tỉnh hiện nay), nên có thể coi cơ quan này tương đương “phủ thủ tướng”. Xem [122, tr.35]
71
nhờ đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế độ quan lại, và chúng ta sẽ tự
mình gỡ bỏ được lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có khuynh hướng gây xáo trộn”
[126, tr.92].
Với mục đích và niềm tin ấy, ngay sau khi Hòa ước Nhâm Tuất (1862) ký chưa
ráo mực, khi ba tỉnh miền Tây còn nằm trong tầm ngắm và đang bị lăm le đánh chiếm
thì Pháp đã cho ra đời tờ báo chữ Việt đầu tiên ở Sài Gòn, tờ Gia Định báo, làm tài
liệu cho học sinh các trường thông ngôn thực tập chữ quốc ngữ, dạy chữ cho học trò
các trường tiểu học ở các tỉnh.
Bên cạnh việc đào tạo, sử dụng những người biết chữ quốc ngữ, chính quyền
Pháp còn áp dụng nhiều biện pháp để cổ vũ cho việc học chữ Việt như học miễn phí,
thăng thưởng, phụ cấp, miễn thuế, miễn sưu dịch,… Riêng thầy giáo dạy quốc ngữ ở
các trường học đều được “mỗi ngày dạy đặng ăn tiền phụ cấp là một quan” [dẫn theo,
122, tr.37]. Còn học sinh thì “mỗi học sinh biết đọc biết viết thì được thưởng thêm một
quan, và nửa quan nếu chỉ biết đọc” [dẫn theo, 122, tr.37] chữ quốc ngữ. Gia đình nào
cho con em đi học trường quốc ngữ thì được “cơm áo nhà nước ban cấp, sách vở bút
mực khỏi mua, khỏi tốn” [dẫn theo 122, tr.39]. Bên cạnh đó, cũng không thiếu những
biện pháp ép buộc. Eliacin Luro, thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền Pháp mới đặt
ở Nam Kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho trường các viên chức
tập sự Pháp, đã thừa nhận trong bài giáo dục số 38 về Giáo dục quốc dân viết năm
1873: “Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số học sinh quy định đến trường… Hậu
quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ của chúng ta kiểu như họ mộ
lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của học sinh và công cuộc bắt buộc giáo dục của
chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào dân” [73, tr.60]. Việc đi học rất ư là
hành chính. Việc bắt trẻ con đi học chữ quốc ngữ như bắt lính. Hương chức, hội tề thì
khuyến dụ, cưỡng ép trẻ con đi học để được thăng thưởng.
Từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XIX, khi nhận thấy chữ quốc ngữ đã dần có cơ sở,
có thể tạo thuận lợi cho việc học chữ Pháp, các quan cai trị người Pháp đã cấm việc
dạy chữ Hán trong các trường học ở Nam Kỳ. Sắc lệnh ngày 25/5/1881 quy định:
“Dân bản xứ An Nam, sinh ra và cư ngụ ở Nam Kỳ là người Pháp, một khi người dân
bản xứ đã chấp nhận sự thống trị của người Pháp thì họ bắt buộc phải học tiếng của
72
chúng ta và chấp nhận những phong tục tập quán của chúng ta, chúng ta không thể
nào ban bố tất cả những quyền lợi của một công dân cho những ai không hiểu được
nền văn minh của chúng ta” [113,tr.31]
Năm 1896, chính quyền thuộc địa đã đưa chữ quốc ngữ vào một vài môn thi
tuyển chọn quan lại. Năm 1903, môn thi tiếng Pháp đã trở thành bắt buộc trong các kì
thi cử. Một số trường cao đẳng, đại học cũng được thành lập: Năm 1906, ra đời Đại
học Y khoa, mở đầu cho sự ra đời Đại học Đông Dương ở Hà Nội, tiếp đó là các
trường Nông lâm, Thương mại và Sư phạm. Cùng với sự ra đời các trường cao đẳng,
đại học, từ cuối thế kỉ XIX, chính quyền thuộc địa cũng rất quan tâm đến việc thành
lập các viện nghiên cứu chuyên ngành như: Viện Viễn Đông Bác Cổ, Viện Pasteur,
Nha Khí tượng thủy văn, Cục Địa chất địa lý. Đây là những “cơ sở bảo đảm cho sự
xâm nhập văn hóa Pháp” [40, tr.107] ở Nam Kỳ.
Tóm lại, ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam luôn là nỗi ám
ảnh đè nặng lên đầu các nhà thực dân. Nó “làm cho gia đình vững chắc, cha mẹ được
tôn kính, chính quyền được tuân thủ”[dẫn theo 49, tr.30]. Do vậy, người Pháp đã tìm
cách chuyển hướng giáo dục bằng cách phổ thông hóa chữ quốc ngữ, sử dụng chữ
quốc ngữ như một phương tiện để cắt đứt mọi sự tiếp xúc giữa trí thức Việt Nam và
Trung Hoa, loại bỏ được văn hóa Trung Hoa ra khỏi xã hội Việt Nam càng nhanh càng
tốt, thiết lập ảnh hưởng của văn hóa Pháp trên đất Nam Kỳ.
Hai là, thực dân Pháp tập trung xây dựng một nguồn nhân lực là đội ngũ những
trí thức Tây học nhằm thay thế cho đội ngũ trí thức Nho học, phục vụ cho lợi ích nước
Pháp, đưa văn hóa Pháp vào Việt Nam. Biến xứ Nam Kỳ trở thành “nơi đầu tiên hình
thành tầng lớp trí thức Tây học “bỏ bút lông viết bút chì” [40, tr.107]. Họ là “những
công chức bản xứ hạ đẳng, những giáo viên sơ cấp, những thông ngôn và thư ký để
làm cho bộ máy cai trị, cho các nhà buôn…” [dẫn theo 111, tr.10]
Trong số những trí thức Tây học, những người xuất thân từ Công giáo là một bộ
phận đặc biệt. Họ nằm trong mục tiêu trước mắt của chính quyền Pháp là cung cấp
người giúp việc cho guồng máy hành chính và tư nhân Pháp. Với nền tảng học vấn,
ngay từ những buổi đầu, họ nhanh chóng đóng một vị trí quan trọng trong văn hóa
Nam Kỳ thời thuộc địa, là những người đầu tiên giúp chính quyền Pháp phổ biến chữ
73
quốc ngữ vào văn hóa Việt Nam thông qua một số lĩnh vực nổi bật. Hầu hết những tờ
báo tiếng Việt quan trọng nhất, có tác dụng truyền bá văn minh phương Tây ở buổi
đầu như: Gia Định báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nam Kỳ địa phận, Nhật trình
Nam Kỳ (1883), Nông cổ mín đàm (1900), Lục tỉnh tân văn (1907), đều do những trí
thức công giáo làm chủ bút hay giám đốc. Họ là những Trương Vĩnh Ký, Trương
Minh Ký, Trần Thúc Liêng, Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh. Trên lĩnh vực văn
học, các tác giả cầm bút viết văn bằng chữ quốc ngữ đầu tiên phần lớn cũng là người
theo Công giáo, trong đó có Nguyễn Trọng Quản, tác giả cuốn tiểu thuyết Việt Nam
đầu tiên mang tên Thầy Lazaro Phiền (1887).
Ngoài vai trò phổ biến chữ quốc ngữ, trí thức công giáo còn là lớp người đầu tiên
tiếp xúc với văn minh phương Tây. Họ đã sớm có điều kiện học hỏi những kiến thức
văn hóa, khoa học, kỹ thuật của phương Tây cận đại và du nhập vào Nam Kỳ những
kiến văn mới mẻ, những tư tưởng tiến bộ so với nền văn hóa, văn minh phương Đông
già cỗi lạc hậu ở vào thời điểm thế kỷ XVIII, XIX. Có thể nói họ là những “sứ giả”
đầu tiên trong cuộc tiếp xúc Đông - Tây ở Việt Nam, góp phần đáng kể trong việc
truyền bá văn hóa, tư tưởng phương Tây.
Bên cạnh những trí thức Công giáo và đào tạo trí thức Công giáo ở các trường
dòng, thực dân Pháp còn cho lập ngay các trường thông ngôn dạy chữ Pháp và chữ
quốc ngữ để đào tạo một đội ngũ phục vụ guồng máy hành chính cai trị. Trường
Collège Annamite (thường được gọi là trường An Nam) được thành lập tại Sài Gòn
ngày 8/5/1862 nằm trong mục đích đó. Học viên là những người được chiêu mộ trong
số binh lính và hải quân của đội quân viễn chinh. Các học viên phải trải qua thời gian
tập sự 3 tháng. Nếu được đánh giá không có khả năng sẽ được gửi trả lại đơn vị. Nếu
được nhìn nhận là có khả năng thì sẽ trở thành thỉnh sinh ngôn trong thời gian 9 tháng.
Sau khi mãn khóa, họ sẽ phải trải qua một cuộc thi trước Hội đồng và nếu được đánh
giá là có khả năng đảm nhiệm các công việc tại các sở Thanh tra bản xứ, sẽ được xuất
ngũ, hay nghỉ dài hạn, sẽ được tư lệnh đơn vị cấp cho một chứng chỉ phụ thông ngôn
và một chứng chỉ bổ nhiệm. Trong trường hợp ngược lại, học viên sẽ bị trả lại đơn vị
hoặc cho về nước nếu mãn thời lính.
74
Chính quyền thực dân còn cho mở trường Tập sự (Collègedesstagiaires) ngày
20/2/1873 và giao cho Trương Vĩnh Ký điều hành nhằm đào tạo nhân viên cho guồng
máy quản lý hành chính của nhà nước. Đối tượng học là những viên chức hạng ba, mới vào nghề, được thống đốc chọn cử đi học trường Tập sự12. Sau khi ra trường, viên
chức ấy phải làm việc ít nhất hai năm mới được dự kì thi chuyển lên hạng nhì. Sau hai
năm ở hạng nhì mới được dự kì thi chuyển lên hạng nhất, trong khi đó, một số viên
chức hạng nhất sẽ được chọn để giữ chức Thanh tra bản xứ sự vụ và được làm việc tại
Sài Gòn. Luro, một trong các Thanh tra bản xứ sự vụ đầu tiên (từ 1862).
Chính sách nhân sự của chính quyền Pháp đã “đào tạo ra một số lượng hạn chế
các cá nhân xuất sắc mà nếu không có họ, ước vọng nồng nhiệt của người Pháp để ghi
tâm các điểm cốt yếu trong hệ thống giáo dục và triết lý xã hội của họ có thể đã không
tạo ra được bất kỳ sự tiến bộ đáng kể nào” [126, tr.93]. Tuy nhiên, từ rất sớm, việc đào
tạo giới trí thức Tây học để phục vụ cho chiến lược xâm lăng văn hóa ấy cũng bộc lộ
tính tự mâu thuẫn. Để tiến hành du nhập văn minh phương Tây vào Việt Nam thì họ
phải mở thêm nhiều loại trường đào tạo, nhưng khi trình độ dân trí của người Việt
được nâng cao, tinh thần quốc gia dân tộc phát triển mạnh mẽ sẽ đụng độ đến quyền
lợi, sự tồn tại của chế độ thuộc địa.
Mặc dù phần lớn họ chỉ có bằng “Thành chung” hay “Cao đẳng tiểu học”, số ít
có bằng “Tú tài bản xứ” hoặc “Tú tài Tây”, nhưng một tầng lớp trí thức Tây học làm
động lực cho sự du nhập văn hóa phương Tây đã hình thành, với rất nhiều tên tuổi
trong nhiều lĩnh vực, từ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn
Tiến Lãng, cho đến những người như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Đào Duy
Anh và Nguyễn Văn Huyên. Có cả sự xuất hiện của các cây bút văn học, nghệ thuật
hấp thụ được cái tinh hoa của văn hóa, văn học Pháp, có khả năng nâng cao khả năng
của chữ quốc ngữ, tạo ra nền văn học Việt Nam hiện đại như: Nguyễn Trọng Quản,
Trương Vĩnh Ký, Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng
Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận và Vũ Hoàng Chương. Đứng trên cái nhìn tiếp xúc văn hóa
Đông - Tây thì việc xuất hiện một tầng lớp trí thức Tây học như thế thực sự tạo ra “cái 12 Trường Sắc lệnh ngày 10/2/1873 quy định mỗi đơn vị hành chính ở Nam Kỳ sẽ do ba viên chức phối hợp cùng phụ trách: viên chức hạng nhất phụ trách tư pháp, viên chức hạng nhì phụ trách hành chính, viên chức hạng ba phụ trách thuế khóa.
75
đầu tàu” cho văn hóa mới ở Việt Nam. Họ được trang bị những kiến thức về khoa học
tự nhiên, phương pháp luận nghiên cứu mới, các khuynh hướng triết học hiện đại của
phương Tây, các kiến thức của Triết học ánh sáng, các khuynh hướng văn học, nghệ
thuật hiện đại lẫn cổ điển. Thấm nhuần những quyền tự do bất khả xâm phạm của văn
minh phương Tây cùng với sự ý thức về cá nhân, nhân quyền trong chế độ thuộc địa,
tiếp nối nền tảng của tinh thần dân tộc, nhiều trí thức Tây học còn trở thành những nhà
cách mạng, những người cộng sản chống Pháp.
Ba là, phát triển các cơ quan truyền bá văn hóa như báo chí, truyền thanh và điện
ảnh để phổ biến rộng rãi các thành tựu văn hóa Pháp, coi đó như là những công cụ hữu
hiệu để chinh phục trái tim và khối óc người bản xứ.
Báo chí được xem là công cụ đắc lực của chính quyền thực dân nhằm mục tiêu:
tuyên truyền, phổ biến tin tức để ổn định Nam Kỳ sau cuộc chinh phục bằng quân sự,
phổ biến chữ Pháp và chữ quốc ngữ, phổ biến cái học mới của Tây phương, chinh
phục tinh thần của dân chúng thuộc địa bằng nền văn minh châu Âu. Vào thời kì đầu
tiên, tất cả báo chí đều do người Pháp thành lập và điều khiển, trong số này hầu hết là
những cựu công chức Pháp như Pierre Jeantet, Francois Henri Schneider, hay những
nhân vật có ảnh hưởng lớn đến chính phủ như Ernest Babut, Georges Garros… Do đó,
rất nhiều bài báo lúc bấy giờ đã không ngớt lời tán tụng chính quyền Pháp hay tình
“hữu nghị Pháp – Việt”… và không ngần ngại tuyên bố mục đích của báo chí là dùng
để canh tân hóa xứ sở, để giúp đỡ dân bản xứ… Thực ra, báo chí lúc bấy giờ chỉ dùng
để phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp tại Nam Kỳ, cũng như chính phủ thuộc
địa đã dùng báo chí để chinh phục tình cảm của người dân bản xứ.
Đầu tiên, người Pháp cho phát hành hai loại báo: báo bằng Pháp ngữ và báo bằng
Hoa ngữ. Loại thứ nhất dùng cho những độc giả người Pháp và những người Việt Nam
biết chữ Pháp; và loại thứ hai nhằm vào những quan lại bản xứ có ý muốn từ chối
không hợp tác với chính quyền Pháp. Tuy nhiên, cả hai loại báo này đều rất khó đến
được đông đảo quần chúng, vì số người biết chữ Pháp, chữ Hán chiếm số lượng rất ít.
Báo chí tiếng Việt vì vậy được ra đời và đóng một vai trò rất quan trọng cho hậu ý
chính trị của người Pháp trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược lâu dài ở Việt Nam,
mở đầu là tờ Gia Định báo (1865).
76
Tuy nhiên, chính quyền Pháp bấy giờ cũng ý thức được báo chí như con dao hai
lưỡi: nó có thể là phương tiện tốt của nhà cầm quyền để thực hiện ý đồ chính trị, thiết
lập ảnh hưởng của văn hóa Pháp, nhưng nó cũng có thể là một phương tiện của người
dân bị trị dùng để tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc. Do đó, ngay từ lúc hình thành,
người Pháp cũng ban hành nhiều luật lệ kiểm soát báo chí. Luật tự do báo chí được
ban hành ngày 29/7/1881 tại nước Pháp và đến ngày 22/9/1881 thì được áp dụng ở
thuộc địa Nam Kỳ. Căn cứ theo luật, sau khi đáp ứng những yêu cầu bắt buộc thì việc
ấn hành sách báo ở Nam Kỳ sẽ hoàn toàn tự do. Thế nhưng, chính quyền thuộc địa đã
buộc mọi tờ báo tiếng Việt tại Sài Gòn phải làm đơn xin phép theo Sắc lệnh ngày
30/12/1898 của Toàn quyền Đông Dương. Theo đó, Toàn quyền Đông Dương có
quyền cho phép xuất bản những tờ báo không phải là tiếng Pháp.
Bên cạnh báo chí, người Pháp cũng sớm đưa điện ảnh, truyền thanh vào Việt
Nam vừa để biểu trưng sức mạnh của văn minh phương Tây, vừa để kinh doanh kiếm
lời. Không chỉ tổ chức sản xuất, người Pháp còn tổ chức chiếu phim ở một số vùng
nông thôn, thành thị và biên giới nhằm tuyên truyền cho sức mạnh của nước Pháp,
tuyên truyền văn minh phương Tây.
Bốn là, tuyên truyền cho sự phổ biến văn minh phương Tây và sứ mệnh khai hóa
văn minh của nước Pháp bằng cách bảo trợ cho các hội văn hóa nhằm quy tụ những trí
thức thượng lưu, đồng thời hạn chế, tiến tới ngăn cấm những trào lưu tư tưởng tiến bộ,
đặc biệt là khuynh hướng cộng sản ở Việt Nam.
Trong quá trình cai trị Việt Nam, người Pháp luôn né tránh cụm từ “đồng hóa” và
thay bằng cụm từ “khai hóa văn minh”, nghe có vẻ mềm mại hơn và dễ được người
bản xứ chấp nhận hơn. Tuy nhiên, âm mưu đồng hóa đã thể hiện rõ trong chính sách
cai trị của họ: “Bổn phận của các nòi giống thượng đẳng là phải giúp đỡ các nòi giống
hạ đẳng để đưa họ thoát ra khỏi sự man rợ” [72, tr.617]
Tuy nhiên, đầu thế kỉ XX, trong bối cảnh thế giới có nhiều bất lợi như cuộc cách
mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Hoa, sự chú ý của Đức sang vùng Viễn Đông, cuộc
cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công, nước Pháp chìm ngập trong chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918). Cùng với đó là sự chống đối quyết liệt từ phía
những người Việt Nam vốn giàu tinh thần dân tộc. Đến đây, người Pháp nhận thấy
77
“văn minh phương Tây đã gặp một dân tộc thông minh, người dân có tri thức” [dẫn
theo 62, tr.101] và buộc phải điều chỉnh chính sách chính trị và văn hóa theo hướng
mềm dẻo hơn.
Về chính trị, người Pháp nêu cao các chiêu bài Pháp – Việt đề huề, Pháp – Việt
nhất gia và Pháp – Việt tương thân nhằm xoa dịu sự chống đối của người Việt Nam.
Về văn hóa, người Pháp đã lôi kéo giới trí thức Việt Nam vào những vấn đề văn hóa,
dùng văn hóa để ru ngủ họ nhằm tách họ khỏi nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Người
Pháp còn khuyến khích trí thức Việt Nam bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Không phải người Pháp đã từ bỏ ý định đồng hóa. Trên thực tế, họ ngấm ngầm thực
hiện đồng hóa bằng giải pháp hợp tác một cách khéo léo và thâm hiểm hơn.
Trong bài diễn thuyết với tựa đề La mission civilisatrice de la France (Sứ mệnh
khai hóa văn minh của nước Pháp) tại trường Cao đẳng xã hội học ở Pháp, Albert
Sarraut đã tán dương những chính sách khai hóa của nước Pháp đối với thuộc địa:
“Nước Pháp ta là nước đã đề xướng ra cái chủ nghĩa nhân quyền, lịch sử chan chứa
một cái tư tưởng công nghĩa, nên vẫn từng phản đối cái lý thuyết khốc hại kia cho
rằng giống người nào đã kém thời cứ hèn kém mãi mãi; nước Pháp vẫn biết rằng
những giống người ấy ngày nay tiến hóa còn chậm chạp, nhưng biết thế mà cố tìm
phương đặt cách giúp đỡ cho bước mau lên; các dân tộc cổ lỗ kia ví như một đống đất
sét chưa thành hình, nước Pháp ra tay nặn cho nên một nhân loại mới…” [dẫn theo
62, tr.96]. Rõ ràng, Sarraut đã đánh giá thấp trình độ văn minh của các thuộc địa và đề
cao văn minh Pháp, sử dụng chiêu bài khai hóa văn minh để bao biện cho chủ nghĩa
thực dân, coi nước Pháp phải có trách nhiệm khai hóa lâu dài ở thuộc địa để che đậy
cho âm mưu muốn cai trị thuộc địa lâu dài.
Để thể hiện thiện chí hợp tác, người Pháp cho thành lập và bỏ tiền bảo trợ cho
các hội văn hóa, tiêu biểu là sự ra đời của Hội Khai trí tiến đức vào năm 1919. Theo
Louis Marty – Hội trưởng, đồng thời là Chánh mật thám Đông Dương, mục đích của
Hội là để mở mang trí thức và rèn tập đạo đức cho người dân An Nam. Hội viên là
những người có quyền lực, học thức và giàu có, tiêu biểu như Hoàng Trọng Phu, Thân
Trọng Huề, Phạm Văn Thụ, Trần Văn Thông, Chế Quang Ân và Trần Trọng Kim (đại
quan); Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác và Phạm Duy Tốn (trí thức
78
thượng lưu). Hội thường tổ chức các hoạt động văn hóa như giới thiệu các tác phẩm
văn học cổ kim được dịch ra quốc ngữ, phát động phong trào dịch sách từ chữ Hán,
chữ Pháp ra quốc ngữ, làm từ điển tiếng Việt, in sách, sáng tác và diễn kịch, các hoạt
động diễn thuyết.
Trong bài diễn thuyết tại Hội Khai trí tiến đức, Toàn quyền Albert Sarraut đã
khéo léo lợi dụng vấn đề văn hóa vào các vấn đề chính trị, xã hội. Sarraut bày tỏ sự tin
tưởng Hội Khai trí tiến đức sẽ hết lòng phụng sự cho sự nghiệp khai hóa văn minh của
nước Pháp, kêu gọi người Pháp và người Việt Nam phải đồng tâm hiệp lực để làm cho
người Việt Nam được sung sướng. Toàn quyền Merlin tại một buổi gặp gỡ với Hội
Khai trí tiến đức cũng khuyên nhủ trí thức Việt Nam cần phải kiên nhẫn chờ đợi đến
ngày được văn minh, hợp tác, trung thành và tin tưởng vào nước Pháp.
Mặc dù rất nỗ lực truyền tải văn minh phương Tây vào Việt Nam, có ý thức bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, thế nhưng nhiều hội viên của Hội
Khai trí tiến đức đã bị thực dân Pháp lợi dụng và lừa gạt, ảo tưởng và ngộ nhận về khả
năng hợp tác Pháp – Việt và sự thành tâm khai hóa văn minh của người Pháp. Một số
hội viên vì danh lợi trở thành tay sai cho thực dân Pháp. Thông qua Hội Khai trí tiến
đức, những người có quyền lợi gắn bó mật thiết với chế độ thực dân ra sức tán dương
chế độ thuộc địa, tung hô công ơn khai hóa của nước Pháp, chủ trương dựa vào nước
Pháp để được văn minh. Tinh thần đó có thể thấy rõ trong bài diễn thuyết của hội
trưởng Hội khai trí tiến đức là Tổng đốc Đoàn Triển trong buổi tiếp đón Toàn quyền
Đông Dương Merlin năm 1924: “Hội chúng tôi là gồm tất cả các thành phần tiêu biểu
trong các dân đẳng xứ Bắc Kỳ: người làm ruộng, kẻ đi buôn, người làm quan, kẻ làm
nghề, cùng những hạng tân học cựu học trong nước; thật là một cái cơ quan có tư
cách nhất để giúp chính phủ trong việc khai hóa cho dân bản xứ. Hội chúng tôi không
phụ thuộc về một đảng nào, một hạng người riêng nào trong xã hội. Hội chúng tôi là
hội chung của hết thảy người An Nam có bụng muốn nhờ Đại Pháp che chở để mưu sự
khai trí tiến đức cho đồng bào” [dẫn theo 62, tr.104]
Tuy nhiên, trong việc tuyên truyền sứ mệnh khai hóa văn minh và văn minh Đại
Pháp, tuyên truyền những tư tưởng dân chủ tư sản nổi tiếng của cách mạng Pháp như
“tự do – bình đẳng – bác ái”, thực dân Pháp cũng lo ngại rằng, làm như thế sẽ thức
79
tỉnh tinh thần dân tộc của người Việt Nam, sẽ là nguy cơ đối với sự thống trị của nước
Pháp. Cuối thập kỉ 1920, khi tư tưởng Mác-xít bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam qua
con đường Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và nhất là khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
việc truyền bá văn minh phương Tây của chính quyền thuộc địa luôn đi liền với việc
ngăn chặn những tư tưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, của Quốc tế Cộng
sản và Công xã Quảng Châu ở Trung Quốc. Đây là một đặc điểm chính trị quan trọng
của sự tiếp xúc văn hóa Đông - Tây ở nước ta đầu thế kỉ XX. Toàn quyền Merlin phê
phán sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở các thuộc địa, coi đó là “một dấu hiệu nguy
hiểm cho văn minh phương Tây” [dẫn theo 62, tr.102]
Năm 1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã nghi ngờ sự thành công của
chính sách đồng hóa: “Từ hàng triệu năm nay, châu Á có nền đạo đức học của riêng
mình, nền nghệ thuật của riêng mình, nền siêu hình học của riêng mình, các mơ ước
của mình. Họ có thể hấp thụ các tư tưởng Hy Lạp và La Mã của chúng ta được hay
không? Điều đó có đáng làm hay không? Cho đến tận ngày nay, theo sự tiếp xúc của
chúng tôi, nó chỉ được tiến hành theo kiểu bắt chước” [dẫn theo 62, tr.91]. Tổng trú sứ
Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Paul Bert nhận xét, thật khó nô dịch được dân tộc An Nam,
bởi dân tộc này đã hai lần chiến thắng quân xâm lược Trung Hoa và đã từng có 4.500
năm lịch sử.
Tuy nhằm mục đích đồng hóa, nhưng chính sách văn hóa của chính quyền Pháp
đã biến Nam Kỳ trở thành nơi đầu tiên xuất hiện những loại hình sinh hoạt văn hóa
mới làm cầu nối cho việc tiếp nhận văn minh phương Tây, văn hóa Pháp. Và rõ ràng
chữ quốc ngữ có liên quan, xuất hiện hầu hết trong nội dung các chính sách văn hóa
ấy. Điều đó chứng tỏ người Pháp rất chú ý đến việc truyền bá chữ quốc ngữ. Mặc dù
chỉ “là một công cụ chính trị tiện lợi” [114, tr.32] nhằm thực hiện những mục tiêu
chính trị, nhưng với hàng loạt chính sách văn hóa liên quan đến chữ quốc ngữ, người
Pháp đã đưa quốc ngữ “trở thành một thiết chế, được áp đặt do một quyền lực chính
trị” [73, tr.10]. Trong đó, giành được sự quan tâm nhiều nhất của chính quyền Pháp là
việc áp dụng chữ quốc ngữ vào trong giáo dục, nơi quan trọng nhất giúp người Pháp
loại bỏ ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trên đất nước Việt Nam.
80
2.3. Chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và
Nho học ở Nam Kỳ
2.3.1. Tình hình Nho học và ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ
2.3.1.1. Tình hình Nho học
Hệ tư tưởng Nho giáo “từng là hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến,
tồn tại đến giữa thế kỉ XX” [95, tr.5]. Nhận thức về thế giới và bản chất con người một
cách toàn diện, Nho giáo trở thành nền tảng triết lý của giáo dục Việt Nam trong suốt
hàng nghìn năm, hình thành một nền giáo dục chính thức gọi là Nho học. Nho học đã
đào tạo nhiều thế hệ Nho sĩ và góp phần quan trọng cho nền văn hóa Việt Nam. Từ khi
ra đời cho đến khi bị thay thế, đây là nền giáo dục được các triều đại phong kiến Việt
Nam chăm lo xây dựng và phát triển, được hầu hết mọi người, mọi tầng lớp trong xã
hội mong muốn học theo để đỗ đạt. Đây cũng được xem là một nền giáo dục “vốn dựa
theo khuôn mẫu của Trung Hoa. Nhà Nho chỉ hiểu, biết qua Trung Hoa và theo Trung
Hoa một cách lâu dài” [dẫn theo 62, tr.92]
Nho giáo coi giáo hóa con người bằng đạo đức là phương tiện, biện pháp hiệu
quả nhất để đào tạo con người, hoàn thiện con người, cũng là để đào tạo đội ngũ quan
lại cho bộ máy nhà nước để từ đó làm ổn định, hoàn thiện xã hội. Mục tiêu của nền
giáo dục Nho học ở Việt Nam cũng là để thực hiện lý tưởng của Nho giáo, bao gồm
trong bốn chữ “tu, tề, trị, bình” tức là: tu thân (rèn luyện bản thân mình) để có thể tề
gia (quản lý gia đình được tốt), từ đó tiến lên trị quốc (cai trị đất nước) rồi bình thiên
hạ. Song song với mục tiêu về nguyên tắc là duy nhất đó, có mục tiêu là tập luyện để
“văn hay”, “chữ tốt”, tức là diễn đạt, trình bày những tư tưởng Nho giáo bằng những
bài thơ, bài phú và bài văn. Trong thực tế, mực tiêu thứ hai này lại thường trở thành
mục tiêu chính của việc dạy và học, mục tiêu chính của việc thi đua hơn kém, đánh giá
tài năng, lựa chọn nhân tài.
Tất cả các triều đình phong kiến Việt Nam đều thông qua thi cử Nho học để chọn
người ra làm việc cho đất nước. Thời kì Bắc thuộc chấm dứt năm 938. Nền giáo dục
Nho học là lựa chọn cần thiết đối với một xã hội đang trong quá trình xác lập vị thế
của chế độ quân chủ. Nhưng phải đến thời nhà Lý (1009 – 1225), giáo dục Nho học
mới được xây dựng theo nề nếp chính quy, “chính thức hình thành nền giáo dục của
81
các triều đại phong kiến độc lập” [23, tr.14]. Từ đây, các triều đại phong kiến Việt
Nam đã duy trì một nền giáo dục lấy Nho giáo làm nội dung chính, lấy việc rèn luyện
văn chương chữ nghĩa làm tiêu chuẩn đánh giá hơn kém, lấy việc thi Hương, thi Hội
đậu cử nhân, tiến sĩ làm mục đích. Dưới thời Lê sơ (1428 – 1527), chế độ phong kiến
Việt Nam đạt đến cực thịnh, Nho giáo được đưa lên địa vị độc tôn, cũng là lúc Nho
học thật sự “đi vào khuôn phép chặt chẽ” [6, tr.10]. Thời Lê Thánh Tông, từ vùng
đồng bằng đến các vùng núi “đều có người đi học tới đủ trình độ thi Hương” [106,
tr.99]
Tài liệu học tập của giáo dục phong kiến ở Việt Nam là những sách kinh điển của
Nho giáo được gọi là Tứ Thư và Ngũ Kinh, là những sách kinh điển bắt buộc phải học
thuộc lòng. Ngoài ra còn có những tài liệu khác phải học hoặc tự học để biết, ít nhất là
những điểm chính thì mới đi thi và làm bài được, chưa nói là để trở thành một nhà Nho
uyên bác. Việc học tập, giảng dạy hoàn toàn theo phương pháp kinh viện, tin tưởng
tuyệt đối vào những “lời dạy của thánh hiền”, tức là những điều nói trong Tứ thư, Ngũ
kinh. Những lời dạy đó phải học thuộc lòng. Hình thức các bài làm thường gò bó vào
những quy tắc chặt chẽ về bằng trắc, niêm luật, về đối câu, đối chữ, khi đi thi lại phải
tuân theo những trường quy phiền phức như kiêng húy trong dùng chữ, trong cách
viết…
Tất cả các tài liệu dạy học đều được viết bằng chữ Hán (còn gọi là chữ Nho).
Trong gần một ngàn năm tồn tại của nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến, chữ Hán
là chữ độc tôn. Tuy nhiên, chữ Hán chỉ dùng để đọc sách và làm bài; thầy trò vẫn dùng
tiếng Việt để giảng bài, hỏi bài, giao tiếp với nhau khi lên lớp, tất nhiên là có pha lẫn
rất nhiều từ hay câu Hán - Việt. Không phải như tiếng Pháp trong các trường ở Nam
Kỳ dưới thời Pháp thuộc; được dùng cho mọi hoạt động trong lớp, trong trường như
giảng bài, trả bài, hỏi đáp giữa thầy và trò, thậm chí cho cả sự giao tiếp (trừ ở những
lớp đầu, khi học sinh mới bắt đầu học thứ tiếng đó).
Trong các thế kỉ XVI - XVIII, khi Đại Việt bắt đầu có những đụng độ với văn
minh phương Tây, Nho giáo vẫn được duy trì làm nền tảng tinh thần cho nhà nước
phong kiến đang rối ren, khủng hoảng. Nhưng đã bắt đầu bộc lộ nhiều nhược điểm, trở
thành công cụ gò bó và chuyên chế của các triều đại. Đầu thế kỉ XVI, việc học hành và
82
thi cử vẫn được duy trì đều đặn, nhưng số lượng người đi thi có chiều hướng giảm, số
trường học cũng không thấy mở mang gì thêm, thậm chí còn bị thu hẹp lại. Từ năm
1527, nhà Mạc rất coi trọng khoa cử, quan tâm đến việc tổ chức giảng học ở các
trường, nhất là ở Quốc Tử Giám vẫn thu hút được nhiều người dạy và học có tiếng.
Nhưng do chiến tranh, việc học tập ở địa phương không thực hiện được nhiều. Số học
trò đi học, đi thi thuộc các vùng ảnh hưởng của nhà Mạc bị giảm sút. Cuối thế kỉ XVII
đầu thế kỉ XVIII, khi chiến tranh Trịnh – Nguyễn kết thúc, chúa Trịnh mới bắt đầu
quan tâm đến giáo dục. Tuy nhiên, chất lượng giảng dạy và học tập sút kém dần, văn
chương trường Giám không còn là mẫu mực. Ở Đàng Trong, giữa thế kỉ XVII, việc
học và thi mới bắt đầu có sự khởi sắc, thông qua các trường do các Nho sĩ mở, nổi
tiếng được nhiều người nhắc nhở, ca ngợi là trường của Võ Trường Toản. “Đàng
Trong là đất mới, người biết chữ, học cao ít ỏi, nên thi cử dễ dãi hơn” [106, tr.107].
Tuy nhiên, trong hai thế kỉ cai trị, chúa Nguyễn chưa tổ chức được thi Hội và thi Đình.
Các quy tắc về khoa cử chặt chẽ hơn, buộc sĩ tử chỉ thiên về lối học từ chương
sáo ngữ, rèn luyện những tiểu xảo, những cách gọt giũa văn chương, tỉa tót từng câu
từng chữ mà không đi sâu vào nội dung tư tưởng. Càng về sau, học trò càng ít dọc
sách, ít tư duy như lời Khổng Tử đã khuyên dạy: “Học nhi bất tư đắc võng, tư nhi bất học tắc đãi”13. Đến thế kỉ XVIII, học trò chỉ đọc mấy bộ Tứ thư, Ngũ kinh, Tính lý
toát yếu do Bùi Huy Ích biên soạn gọn lại cho dễ nhớ và đủ đi thi. “Các bậc tiền bối
đã soạn thành bài, lời lẽ cổ nhã, bọn hậu sinh đua nhau làm theo, khi vào trường chỉ
xém bớt những chỗ quá dài dòng đi mà thôi” [dẫn theo 106, tr.108]. Do vậy, so với
trước, số người theo học thông hiểu nghĩa sách nhiều hơn, sự học được mở mang rộng
rãi hơn, số người đi thi, đỗ đạt hương cống, sinh đồ cũng đông hơn, nhưng rất hiếm
người có trình độ sâu sắc, uyên bác, số người đỗ cao ở thi Đình cũng ít đi. Mục đích
của kẻ đi thi là nhằm đỗ đạt làm quan, có điều kiện để bóc lột nhân dân, xu nịnh quyền
thế, mưu lợi cho cá nhân và gia đình, dòng tộc của mình.
Nhìn chung, trong các thế kỉ XVI – XVIII, việc học và thi vẫn tiếp tục tổ chức
13 Chỉ có đọc sách mà không tư duy, suy nghĩ thì sẽ mắc lừa, chỉ suy nghĩ mà không đọc sách thì sẽ thiếu lòng tin.
theo các thể lệ cũ, tư tưởng Nho giáo vẫn được truyền thụ trong nhà trường. Tuy
83
nhiên, do sự khủng hoảng trầm trọng của bản thân chế độ phong kiến và phong trào
đấu tranh của quần chúng nhân dân, sự đụng độ của những tư tưởng mới từ phương
Tây đã khiến ý thức hệ Nho giáo ngày một suy đồi, tan rã, ảnh hưởng lớn lao đến quan
niệm về cách học, cách thi từ sĩ tử đến quan trường. Trật tự xã hội và giá trị hầu như bị
đảo ngược khiến các sĩ tử chạy theo lối học vụ danh lợi, xa rời chính học. Những
nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức, lễ giáo phong kiến chỉ còn là cái vỏ ngoài, là hình
thức. Quan hệ vua – tôi, đạo thầy – trò, lòng trung quân – ái quốc… đều bị tan rã hết.
Đến thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến cùng với ý thức hệ tư tưởng Nho giáo càng suy
đồi hơn nữa. Do phải liên tục đối phó với chiến tranh và khởi nghĩa nông dân, nên các
vua chúa để mặc việc học hành, thi cử cho quan lại lợi dụng “đục nước béo cò”, công
nhiên ăn hối lộ, sĩ tử tự do mang sách vào trường thi, thuê mướn người thi để được đỗ.
Biến việc thi cử nghiêm ngặt trước đây thành nơi buôn bán danh vị, mua quan bán
tước.Bất kì ai chỉ cần nộp 3 quan tiền thông kinh là không cần thi khảo hạch và có quyền đi thi ngay14. Sự gian lận trong lúc thi, khi chấm thi, việc ăn lễ, đút lót, dựa thế
che chở lấy đỗ cho sĩ tử trở thành việc thường xuyên.
Tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, chế độ giáo dục và thi cử Nho học vẫn
được các triều đại phong kiến ở cả hai miền Nam Bắc duy trì, mở rộng làm phương
tiện đào tạo quan lại. Song trên bước đường suy vong của chế độ phong kiến, nội dung
giáo dục và chế độ khoa cử ngày một suy đồi, chỉ còn bề nổi, không còn bề sâu. Cùng
với sự phát triển của việc học, việc thi, tệ nạn gian lận, mua bán ngày thêm lũng đoạn
nơi trường ốc. Tình trạng này nằm trong sự suy đồi chung của ý thức hệ Nho giáo.
Qua đó cho ta thấy, khi chế độ phong kiến suy yếu, kỉ cương lỏng lẻo thì nền giáo dục
đó cũng không thể đáp ứng được ý muốn của giai cấp thống trị là tạo nên một tầng lớp
nho sĩ có thực tài để duy trì mọi giường mối của xã hội phục vụ cho chế độ phong kiến
đang trên bước đường tan rã.
Sang thế kỉ XIX, giáo dục được các vua đầu triều Nguyễn hết sức chú ý nhằm cố
14 Năm 1750 do thiếu tiền, Nhà nước đã phải cho mỗi người đi thi được nộp ba quan để qua kì khảo hạch nên người ta thường gọi những người này là “sinh đồ ba quan”. Do đó, có những người ít học cũng đi thi, đông đến nỗi xéo lên nhau chết ở cổng trường. Xem [6, tr.12]
gắng xây dựng một xã hội ổn định, vững mạnh sau kết quả của cuộc chiến tranh quyền
84
đoạt vị. Khôi phục vị thế của Nho giáo là công việc hàng đầu. Khoa cử Nho học tiếp
tục được mở ra để tuyển chọn nhân tài.
Nội dung giáo dục của triều Nguyễn chủ yếu vẫn như các triều đại trước, đặc biệt
là triều Lê. Thi cử cũng vậy, chỉ có khác là nhà Nguyễn không lấy Trạng Nguyên mà
chỉ lấy Tiến sĩ. Những người đậu nhất, nhì, ba đều gọi là Tiến sĩ cập đệ (nhất giáp).
Những người đậu nhị giáp đều gọi là Tiến sĩ xuất thân, đến đệ tam giáp thì gọi là đồng
tiến sĩ xuất thân. Dưới Tiến sĩ còn có Phó bảng mà các triều trước chưa có, mục đích
của học vị này là để “khỏi bỏ sót nhân tài”. Thi Hương thì đổi Hương cống ra Cử
nhân, Sinh đồ ra Tú tài. Ngoài cách lựa chọn quan lại bằng khoa cử, triều Nguyễn còn
có lệ cống cử “để cho những người vốn tài giỏi mà bị bó buộc chưa lộ ra được có thể
ra giúp nước” [78, tr.104]. Thi Hương và thi Hội đều có 3 kỳ chính (Kỳ đệ nhất thi
Kinh nghĩa, Kỳ đệ nhị thi Thơ phú, Kỳ đệ tam thi Văn sách). Có năm còn thêm Kỳ đệ
tứ, thí sinh phải làm chiếu, chế, biểu. Trong các bài thi người ta đặc biệt chú ý đến
Kinh nghĩa và Văn sách, là những môn cơ bản để xem trình độ thông hiểu kinh sử và
kiến thức quảng bác của thí sinh.
Trong nội dung giáo dục của triều Nguyễn không có khoa học tự nhiên. Triều
đình cũng có một vài cơ sở để đào tạo những người làm việc ở tòa Khâm Thiên giám,
xem xét thiên văn, nhưng mục đích và nội dung học không thể phục vụ cho đời sống
và sản xuất mà chỉ cốt xem ngày tốt, xấu. Việc học tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng
Pháp đã trở thành cấp bách từ những năm 50 của thế kỉ XIX. Nó không còn là một
ngôn ngữ dùng trong ngoại giao mà còn để hiểu địch, tìm hiểu khoa học kĩ thuật hiện
đại, đặc biệt là vũ khí mới của phương Tây. Tự Đức có cho mở trường Hành Nhân ở
Huế và mượn cố đạo về dạy tiếng Pháp. Tuy nhiên, trường Hành Nhân cũng chỉ đào
tạo ra thông dịch chứ cũng chưa thể nào có trình độ ngoại ngữ để nắm được khoa học
kĩ thuật.
Những nội dung giáo dục và thi cử này đã bộc lộ tính chất lạc hậu của nó trước
thực tế xã hội. Các vị vua đầu triều Nguyễn đều thấy rõ điều đó: “Khoa cử lâu nay lầm
lạc quá nhiều, văn chương không có quy củ nhất định, chỉ câu nệ vào những lời sáo
hủ, khoe khoang lẫn cho nhau, mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp tùy theo sự
giáo huấn của mỗi ông thầy,… Cái học viển vông như vậy làm gì chẳng hỏng nhân
85
tài…” [88, tr.334]. Lối học cử nghiệp của nhà Nguyễn càng không thích hợp trong bối
cảnh sức mạnh văn minh phương Tây với súng ống, đạn dược đang ngấp nghé ngoài
cửa biển. Các sĩ tử chỉ biết đến kinh sử mà không biết hoặc biết rất nông cạn những
vấn đề của thực tế xã hội.
Các vua nhà Nguyễn đã cố gắng cải thiện tình hình bằng cách “dựng thêm nhà
học, tăng thêm học viên, cấp nhiều học bổng, mở rộng chương trình để học trò đều
được thành tài” [53, tr.140], lấy thực hành làm đầu, chú trọng thực tế về chính trị, kinh
tế, xã hội, quân sự ngay chính trên đất nước Việt Nam. Nhân tài phải là người có “học
vấn sâu rộng, văn chương cổ kính tao nhã, có thể làm cố vấn được, cho đến các người
công nghệ khéo, kỹ thuật giỏi, có thể chế tạo được đồ vật và làm thuốc, xem bói, xem
số, xem ngày… làm ruộng, thuế khóa, sai dịch, lễ nhạc, binh hình, cho đến những việc
trị loạn xưa nay, việc thi thố chính trị hiện thời” [79, tr.103]. Tuy nhiên, mãi đến năm
1873, Tự Đức vẫn than phiền là sĩ tử thực học kém cỏi, nghị luận tầm thường. Rõ
ràng, dù có thay đổi quan niệm về mục đích của việc học, chú trọng thực học nhưng
vẫn giữ nguyên nội dung học tập, thể thức thi cử lệ thuộc vào khuôn vàng thước ngọc
của Nho giáo, cho kiến thức khoa học phương Tây là “không có ngũ hành tương sinh
tương khắc,…trái lý và không hợp với cổ nhân” [116, tr.13], là “dâm xảo và hóa lợi”
[116, tr.15], thì lẽ tất nhiên, hiểu biết của các vị Tân khoa không thể vượt qua khỏi
phạm vi của Tứ thư, Ngũ kinh, khoa cử vẫn là con đường tiến thân duy nhất của sĩ tử.
Năm 1833, vua Minh Mạng vẫn còn “xét rõ thể văn tam tường của Bắc triều, xem bài
nào bình chính thông suốt có thể là mẫu mực… viết tinh tường thành 31 bộ, chia cho
Quốc tử giám và học quan các địa phương cứ theo đấy mà dạy học trò học tập” [81,
tr.209]. Đến năm 1871 mà Tự Đức vẫn còn ban cho các tỉnh sách Lịch sử đại thông
giám tập lãm của vua Càn Long nhà Thanh và chỉ thị: “Đem bộ sách ấy cùng với sách
Ngũ Kinh, Tứ thư đại toàn, gia tâm giảng dạy, đến kì thi đem những lời nghị luận và
chế độ to tát trong sách ấy để hỏi học trò” [79, tr.105]. Chính vì thế, mặc dù có ý thức
sửa đổi nền học chính, nhưng triều đình hay đúng hơn là cơ quan chịu trách nhiệm về
giáo dục không cải tiến chương trình, nội dung học tập thì tất nhiên chất lượng của sĩ
tử vẫn không hơn gì trước, không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Do đó, cả một
thời gian khá dài, nền giáo dục vẫn cứ dậm chân tại chỗ, vẫn lay lắt tồn tại với những
86
luận thuyết lỗi thời mà không tạo ra được những kết quả phù hợp với nhiệm vụ lịch sử
mà nó phải gánh vác. Giáo dục Nho học dưới nhà Nguyễn “đã đi đến chỗ suy tàn” [6,
tr.32]
2.3.1.2. Ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ
Mặc cho Nho học đã đến lúc suy tàn, giới Nho sĩ, những người vốn bị ràng buộc
và được đào tạo kĩ lưỡng vẫn rất coi trọng chữ Nho và các kinh điển của Nho giáo.
Đối với họ, bất kể vấn đề gì vượt ra khỏi “khuôn vàng thước ngọc” đều khó có thể
được chấp nhận. Việc người Pháp đem chữ quốc ngữ phổ biến trên đất Nam Kỳ cũng
vấp phải những thái độ phức tạp này từ các Nho gia.
Ban đầu, quốc ngữ chỉ là một công cụ truyền đạo của các giáo sĩ Kitô giáo. Về
sau nhanh chóng trở thành “tay sai” bất đắc dĩ của chính quyền thực dân trong việc
giao tiếp với người dân bản xứ và điều hành guồng máy cai trị. Giám mục Puginier
cũng đã nói: “Tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán và thay thế trước tiên bằng chữ Quốc ngữ,
sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu…
Một khi đã đạt được kết quả to lớn đó, chúng ta đã đoạt được từ Trung Quốc phần lớn
ảnh hưởng ở xứ An Nam và giới nho sĩ An Nam vốn rất thù ghét sự thiết lập thế lực
Pháp sẽ bị tiêu diệt dần dần” [33, tr.43]. Tuy nhiên, quá trình “quốc ngữ hóa” Nam Kỳ
diễn ra không hoàn toàn thuận buồm xuôi gió như tính toán của chính quyền Pháp. Rất
nhiều người trong giới trí thức, Nho sĩ và cả nhân dân vẫn tỏ thái độ không thân thiện
đối với loại chữ mới này.
Thái độ ghét bỏ này đã có từ trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược và đặt
ách cai trị lên đất Nam Kỳ với những lý do khác nhau. Thứ nhất, khi ấy vì ghét đạo
Thiên chúa nên người ta ghét luôn đứa con tinh thần của nó là chữ quốc ngữ - loại chữ
được các giáo sĩ phiên âm để truyền đạo. Những người có thái độ này chủ yếu là người
có cùng quan điểm với những vua quan có chủ trương cấm đạo. Thứ hai, một số Nho
sĩ chống đối vì lý do đơn giản là đã quen sử dụng chữ Hán, chữ Nôm, quen trọng dụng
chữ Hán, chữ Nôm. Vì lòng tự trọng, họ cho rằng dân tộc Việt Nam từ lâu đã học chữ
Hán, chữ Nôm, hai thứ chữ ấy là đạo thánh hiền, nay bỏ đi để dùng một thứ chữ viết
mới lạ, một thứ chữ ngoại lai thì họ không thích.
87
Mầm mống của việc ghét bỏ đã có từ trước, lại thêm việc người Pháp nổ súng
xâm lược và đặt nền móng cai trị lên đất Nam Kỳ, càng khiến lòng căm hận trong nhân
dân lên cao, dẫn đến khuynh hướng ghét bỏ, tẩy chay tất cả những gì liên quan đến
thực dân, nhất là khi chính quyền thực dân lại xem chữ quốc ngữ là một công cụ hữu
hiệu để phổ biến văn hóa phương Tây, loại bỏ ảnh hưởng của Nho học, khiến nhân dân
“càng dang xa quốc ngữ” [67, tr.186].Chính vì thế, không có gì là khó hiểu khi chữ
quốc ngữ phải nhận lấy thái độ lạnh nhạt của các tầng lớp xã hội.
Trước hết, trong quần chúng nhân dân, chữ quốc ngữ bị không ít người kì thị,
chống đối. Ngay cả những người theo Pháp và những người được coi là giàu có, đối
tượng bắt buộc phải cho con em trong độ tuổi quy định đi học, không phải ai cũng sẵn
sàng cho con em đi học chữ quốc ngữ. Có thể xuất phát từ chuyện Hoàng tử Cảnh, sau
khi từ Pháp trở về đã theo đạo Công giáo và “từ chối đến tông miếu”, làm xuất hiện
những lời đồn thổi “người Công giáo không thờ cúng ông bà”, nên nhiều người Nam
Kỳ sợ con cháu mình mất gốc và trốn tránh việc cho con đi học chữ quốc ngữ: “ngỡ là
cho con đi học làm vậy thì sợ e nhà nước bắt con mình mà đem đi Tây hay lệ thuộc về
nhà nước”[dẫn theo 122, tr.39]. Ngoài ra, dân chúng còn quan niệm rằng đó là chữ của
đạo Công giáo, do các giáo sĩ chế tạo ra. Trong khi, các giáo sĩ lại là những người đi
theo Pháp ngay khi Pháp tới Nam Kỳ, và được Pháp bênh vực, do đó người dân có thái
độ ghét bỏ chữ quốc ngữ là điều tất nhiên. Lại có tâm lý cho rằng các giáo sĩ đều là
người Tây, nên chữ quốc ngữ cũng là đồ của Tây, cũng như xà bông, đèn khí của
người Tây vậy. Vì thế, hễ ghét đạo Thiên chúa, ghét Tây thì người dân ghét luôn cả
chữ quốc ngữ. Nói chung, phần lớn người dân đều khó có thể chấp nhận bất cứ điều gì
của người Pháp hay do người Pháp đề ra, kẻ bị xem là quân cướp nước.
Những quan niệm trên dẫn đến tình trạng có rất ít người theo học trường dạy
quốc ngữ. Hương chức phải bắt người đi học như bắt lính. Những người giàu có tìm
thuê người nghèo trong làng hoặc bắt đầy tớ đi học thay con em mình: “Nhứt là các
nơi xa xa ruộng nương, rẫy bái, hễ có trát súc đòi học trò, thì cha mẹ đã xào sự, làm
quá hơn là sợ bắt lính lo chạy mướn đứa nọ đứa kia con nhà nghèo cho nó đi thế con
nhà mình” [dẫn theo 122, tr.39]. Có những trường hợp nhờ đi học ké mà sau này thành
đạt, như trường hợp của ông Nguyễn Văn Lanh, sau này trở thành Phó giám đốc Nha
88
điền địa Nam Kỳ năm 1945. Bấy giờ ở Nam Kỳ có câu ca dao chống việc học chữ
quốc ngữ rất phổ biến:
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về đi học chữ nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ”
Thái độ chống đối hay từ chối học chữ quốc ngữ vẫn còn tiếp diễn trong nhân
dân đến tận đầu thế kỉ XX, dù cho khi ấy quốc ngữ đã trở thành thứ chữ quen thuộc
của người Việt trong cả nước Việt Nam.
Về phía các Nho sĩ, trí thức yêu nước, thái độ chống đối, quay lưng với chữ quốc
ngữ diễn ra dữ dội hơn. Trong bối cảnh Nho học suy đồi, dù biết là không mấy khả
năng thành công nhưng các Nho sĩ vẫn cố gắng cổ xúy cho chữ Nôm, chữ Hán. Thái
độ của cụ Nguyễn Đình Chiểu là tiêu biểu cho giới sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ. Cụ
“không chịu chấp nhận một thứ chữ viết được đồng hóa với kẻ xâm lược” [73, tr.63].
Cùng thời với cụ, tuyệt đại đa số các tác gia yêu nước và chống Pháp cũng đều sáng
tác thơ văn bằng chữ Nôm.
Chữ quốc ngữ có khi còn được gọi là “Tây quốc ngữ tức là tiếng nói được viết ra
bằng các con chữ châu Âu” [dẫn theo 63, tr.64]. Tên gọi này đã nói lên rõ ràng nguồn
gốc của chữ quốc ngữ, khiến các sĩ phu yêu nước ở Nam Kỳ khó có thể dùng nó để
viết bài kêu gọi dân chúng chống ngoại xâm. Do vậy, việc dùng chữ viết còn trở thành
“biểu tượng của một thái độ chính trị” [63, tr.64]
Vì chống đối chữ quốc ngữ, chống đối người Pháp, các sĩ phu yêu nước ở Nam
Kỳ lên tiếng phê phán, công kích luôn cả những trí thức từ bỏ Hán học theo Tây học,
những người góp phần truyền bá quốc ngữ cho chính quyền Pháp. Tiêu biểu là thái độ
của nhà thơ Phan Văn Trị và các đồng chí của ông như Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang
Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa… dành cho Tôn Thọ Tường, một trí thức Hán học đi theo thực
dân Pháp nhưng “thanh liêm, sống thanh bần đến mức nghèo khổ, cố không làm điều
có hại cho dân chúng cũng như giới sĩ phu Nam Kỳ” [122, tr.43]
Năm 1885, một số thân hào nhân sĩ đã gửi thư thỉnh nguyện đến Hội đồng quản
hạt Nam Kỳ đề nghị bãi bỏ chữ quốc ngữ. “…Theo thiển ý chúng tôi, hiện nay chỉ có
89
hai thứ tiếng có thể được ở Nam Kỳ, tiếng Pháp mà chúng tôi muốn học và tiếng An
Nam nôm na mà chúng tôi đều biết viết bằng chữ Nôm… Quý vị hãy đón xem chúng
tôi lúng túng thế nào mỗi khi chúng tôi nhận được những lệnh viết bằng thứ chữ [quốc
ngữ] trên, chúng tôi phải chạy kiếm hàng chục người thông ngôn mà chúng tôi phải
trả tiền, để rồi rốt cục họ đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những gì
người ta muốn truyền lệnh cho chúng tôi” [dẫn theo 122, tr.40-41]
Sự chống đối quyết liệt của giới Nho sĩ, những sĩ phu yêu nước ở Nam Kỳ khiến
chính người Pháp cũng phải thừa nhận: “người An Nam có học, hạng thượng lưu trung
thành với luật pháp xứ sở họ, những người này chỉ có thể coi chúng ta như kẻ thù”
[dẫn theo 122, tr.43-44]. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, “nhân dân lục tỉnh chống
trường quốc ngữ Latinh khi ấy là đúng” [67, tr.188]. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lúc
bấy giờ thì khuynh hướng từ chối chữ quốc ngữ của giới Nho sĩ, các sĩ phu yêu nước
là điều hoàn toàn không hợp lý. Bởi quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện chữ
quốc ngữ vốn dĩ đã diễn ra trong một tiến trình lâu dài từ trước đó hàng mấy thế kỉ mà
không hề có sự nhúng tay tham gia vào của chính quyền thực dân, không nhằm mục
đích chính trị mà chỉ nhằm mục đích giao tiếp, truyền giáo. Mặt khác, “bản thân chữ
quốc ngữ chỉ là một thứ phương tiện, không mang trong nó bản chất xấu hoặc tốt. Xấu
hay tốt là do mục đích của những người sử dụng nó” [120, tr.383]
Tình hình chống đối của giới sĩ phu và nhân dân đối với chữ quốc ngữ ít nhiều đã
gây khó khăn cho chính quyền thuộc địa, “lối viết theo chữ cái Latinh không bắt rễ
trong nhân dân”[67, tr.187]. Trước thực tế đó, chính quyền Pháp tìm cách cứu vãn
việc dạy chữ quốc ngữ bằng cách hô hào viết sách bằng quốc ngữ, dịch sách Hán-Nôm
ra chữ quốc ngữ để học trò có cái để đọc ngoài Gia Định báo và mấy quyển kinh công
giáo. Đô đốc Legrand de la Liraye cũng đồng ý rằng, phải có cái để đọc, nhất là cái
đọc quen thuộc lâu nay, thì mới cứu vãn được các trường quốc ngữ. Những người như
Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của là lớp người đầu tiên sẽ làm
công việc này. Phải đến khi những công trình của họ ra đời trên các lĩnh vực báo chí,
dịch truyện, viết tiểu thuyết thì phong trào học tập chữ Quốc ngữ mới được đẩy mạnh.
Với chủ trương dịch chữ Nôm, chữ Hán ra quốc ngữ và khuyến khích sáng tác
bằng quốc ngữ, chính quyền Pháp muốn bằng cách nào đó có thể tăng uy tín cho quốc
90
ngữ, công cụ truyền bá văn hóa Pháp bấy lâu nay, đánh lùi uy thế các nhà Nho. Tuy
nhiên, người Pháp không tính trước được rằng thông qua việc làm ấy, sĩ phu yêu nước
Nam Kỳ cũng hé thấy được rằng chữ quốc ngữ cũng có nhiều khả năng văn hóa chứ
không phải chỉ là một loại chữ thứ yếu dùng cho tầng lớp bình dân trong việc giao dịch
hàng ngày. Nhận định sơ bộ của các sĩ phu càng được củng cố thêm khi những tờ Gia
Định báo (1865), Nông cổ mín đàm (1900), Phan Yên báo (…), Lục tỉnh Tân văn (…)
xuất hiện bằng chữ quốc ngữ và đem lại một số kiến thức mới từ phương Tây.
Từ đó, ngày càng có nhiều sĩ phu nhận ra rằng chữ quốc ngữ “nếu như người
Pháp đã biết dùng nó để phục vụ cho việc cai trị của họ, tại sao người Việt lại không
biết dùng nó để chống lại sự cai trị?” [120, tr.383], biến nó thành “một công cụ đắc lực
cho việc khai dân trí, chấn dân khí” [67, tr.192], nhất là trong bối cảnh chính quyền
Pháp đang có chủ trương hậu thuẫn cho chữ quốc ngữ khiến nó ngày càng “đi vào mọi
ngóc ngách của đời sống, mọi tầng lớp trong xã hội” [120, tr.382]. Số người học và sử
dụng thông thạo quốc ngữ cũng đang tăng lên rất nhanh: “Sự thể bây giờ không phải
như khi trước phải chịu tiền mướn con dân đi học trong các trường, đến bây giờ các
hương chức trong làng đều ra sức phú thác con cái mình cho ta dạy dỗ” [dẫn theo
122, tr.40]
Chính trong bối cảnh mới ấy, vào cuối thế kỉ XIX, đặc biệt là đầu thế kỉ XX,
trong hàng ngũ sĩ phu đã nảy sinh một cuộc đấu tranh tư tưởng xem xét lại thái độ cần
phải có đối với chữ quốc ngữ. Cụ Nguyễn Quyền kể lại: “Anh em đồng chí với tôi
đứng về mặt trận lấy quốc ngữ để truyền bá học thuật Thái Tây và bỏ hẳn lối văn thi
phú kinh nghĩa. Nhưng các cụ đa số đứng về mặt trận dạy chữ Hán và cử nghiệp như
xưa. Ban đầu tôi và mấy anh em đồng chí đã hao phí khổ tâm lắm mới quyết định được
các cụ hủ Nho phải tin quốc văn (quốc ngữ Latinh) có hiệu lực phổ thông giáo dục và
phải tán thành lấy quốc văn làm thứ chữ căn bản cho khoa học ở nhà trường” [dẫn
theo 67, tr.192]. Cuối cùng, các cụ “hủ Nho” cũng “nhanh chóng nhận thấy vai trò đặc
biệt quan trọng của chữ quốc ngữ đối với quá trình cải biến văn hóa dân tộc, tiếp biến
văn hóa phương Tây” [105, tr.213]. Tương kế tựu kế, các sĩ phu yêu nước dùng mọi
cách mở cuộc đấu tranh giành chữ quốc ngữ về tay người Việt. Từ đây, chữ quốc ngữ
“được chấp cánh bởi phe yêu nước” [67, tr.194]
91
Các sĩ phu tìm cách biến lợi thế của kẻ thù thành vũ khí để tuyên truyền, giác
ngộ tư tưởng nhằm nâng cao dân trí, dân sinh, giáo dục ý thức dân quyền cho dân
chúng.
Giờ đây, với các nhà Nho đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ được xem “là hồn thiêng
đất nước, là phương tiện có thể biểu đạt được tình cảm, tư tưởng người Việt, dân tộc
Việt” [92, tr.155], là một công cụ đắc lực để tuyên truyền, vận động nâng cao dân trí,
chấn hưng dân tộc, biến văn hóa thành động lực cứu nước và phát triển dân tộc. Bài
Kêu hồn nước của Trần Quý Cáp, có đoạn:
“Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta Sách Âu Mỹ, sách Chi Na15
Chữ kia chữ nọ dịch ra tỏ tường” [dẫn theo 96, tr.604]
Trong khi thực dân Pháp coi chữ Quốc ngữ là “một công cụ đào tạo tay sai” [xem
42] thì các sĩ phu Việt Nam đầu thế kỷ XX đã thấy được ở nó những khả năng to lớn
cho việc mở mang dân trí mà mọi người, mọi giới phải học, học mọi nền văn minh của
các dân tộc khác. Có như vậy xã hội mới tiến bộ và bình đẳng với các dân tộc khác. Rõ
ràng, các Nho sĩ đầu thế kỉ XX đã vượt qua được những định kiến đương thời, không
còn thuần túy coi chữ quốc ngữ là “con đẻ”, là công cụ của chủ nghĩa thực dân, “miễn
nó giúp nâng cao dân trí nhanh chóng, phục vụ được việc cứu nước, thì nó tốt, nó cần”
[67, tr.193], và các Nho sĩ sẵn sàng dung nhận nó như một thành tựu của văn hóa dân
tộc trong quá trình tiếp xúc, hội nhập với văn minh phương Tây. Và sẵn sàng tiếp biến
thành tựu này vào công cuộc chấn hưng dân tộc. Điều này hoàn toàn nằm ngoài mong
muốn của chính quyền thực dân.
Là những người am hiểu Hán tự, nhưng các Nho sĩ yêu nước cũng nhận thấy chữ
Hán với lối tư duy kinh viện, cũ kĩ chưa đủ sức để tiếp biến các giá trị văn hóa phương
Tây qua các tân thư. Chỉ có chữ quốc ngữ dễ tiếp cận với các ngôn ngữ thông dụng
trên thế giới mới có “đủ biên độ và khả năng để tiếp nhận các tư tưởng mới, dân chủ,
15 Tức Trung Quốc.
dân quyền, dân sinh – cái mà chính quyền Pháp cố tình che đậy, giấu diếm” [105,
92
tr.214], thậm chí nó còn có khả năng đưa các giá trị ấy thâm nhập vào đời sống quốc
dân bởi tính dễ học dễ biết.
“Chữ quốc ngữ là vàng là ngọc…
Chữ ấy học chả bao lâu
Ra công vài tháng thuộc lầu là xong
Khi đã hiểu tinh thông các vận”
Chỉ khi quốc ngữ nằm trong tay các Nho sĩ, người dân Việt mới biết đến các khái
niệm “dân quyền”, “dân chủ”, “dân sinh”, mới thấu hiểu bổn phận và trách nhiệm của
người dân đối với vận mệnh dân tộc, nhận thức được rõ tinh thần yêu nước, nất khuất
của dân tộc:
“Giống ta chẳng giống mọi,
Dòng ta chẳng phải hèn.
Bạch Đằng phá quân Nguyên,
Chi Lăng đuổi tướng Minh.
Cõng rắn cắn gà nhà,
Người xưa rất khinh bỉ!” [dẫn theo 97, tr.67]
Giới sĩ phu yêu nước còn dùng chữ quốc ngữ làm phương tiện để canh tân
giáo dục, chống lại lối học cũ giáo điều, thủ cựu.
Nhận thấy chữ quốc ngữ là vấn đề then chốt, là chìa khóa để mở mang dân trí,
các Nho sĩ đầu thế kỉ XX đã chọn chữ quốc ngữ làm chữ viết chính dạy trong các
trường học. “Phàm người trong nước đi học nên lấy chữ Quốc ngữ làm phương tiện
đầu tiên, để cho trong thời gian vài tháng, đàn bà, trẻ con cũng đều biết chữ” [dẫn
theo 86, tr.171]. Đông Kinh Nghĩa Thục và hàng loạt trường học kiểu mới là những
hoạt động đầu tiên, có tiếng vang rất lớn, ra sức cổ động cho việc học tập và phổ biến
chữ quốc ngữ. Các sĩ phu cho rằng đó là thứ chữ dễ học, mau biết, dễ phổ cập cho
quần chúng, do vậy, “phải thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ” [57, tr.129], phải chấm
dứt lối học tầm chương trích cú, xóa bỏ sự tồn tại của Hán học, thay vào đó là lối học
mới lấy chữ quốc ngữ làm văn tự chính thống, làm công cụ để mở mang dân trí. “Sự
thay đổi văn tự tất sẽ dẫn đến sự thay đổi về tư duy” [105, tr.216]
93
Mục đích học tập trước hết phải làm thay đổi hiểu biết và vươn rộng tầm nhìn ra
thế giới. Thế giới rộng lớn đó không chỉ có phương Đông gồm thiên triều Trung Hoa,
với các nước chư hầu bốn bên mà là cả thế giới phương Tây đã phát triển trước
phương Đông cả một thời đại. Bởi các sĩ phu thấu hiểu căn nguyên của mất nước là sự
thua kém quá xa của đất nước với các nước phương Tây.
Học hành tinh thông chữ quốc ngữ chính là cửa ngõ tiếp biến văn hóa, tiếp cận
với thế giới văn minh:
“Trước hết phải học ngay Quốc ngữ
Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau
Chữ ta, ta đã thuộc làu
Nói ra nên tiếng, nên câu, nên lời...
Sẵn cơ sở đề khai dân trí
Rồi sẽ đem các thứ giáo khoa
Chữ Tàu dịch lấy chữ ta
Chữ Tây cũng phải dịch ra chữ mình
Anh em đang buổi còn xanh
Phải lên gắng sức đua tranh với đời” [dẫn theo 86, tr.170]
(Nguyễn Phan Lãng)
Nội dung, phương thức học cũng rất hiện đại: học cả cái cũ, cái mới của chúng ta
và thế giới:
“Á Âu chung lại một lò
Đúc nên tư cách mới cho rằng người”
Bài Vè Đông Kinh nêu lên một chương trình học vô cùng mới mẻ và táo bạo:
“Mở tân giới, xoay nghề tân học,
Đón tân trào, dựng cuộc duy tân,
Tân thư, tân báo, tân văn…”[dẫn theo 97, tr.63]
Giữa lúc lối học phù hoa, theo đuổi công danh đang còn ngự trị trong xã hội, đây
thực sự là một cải biến có ý nghĩa cách mạng, phải qua một quá trình bàn cãi rất nhiều.
Điều đó cho thấy các Nho sĩ đầu thế kỉ XX đã có công rất lớn trong việc phổ cập chữ
quốc ngữ, “gây men cho phong trào học, đọc sách, báo chí quốc ngữ, từ đó về sau
94
càng đi vào chiều sâu và thâm nhập rộng rãi vào quần chúng” [111, tr.20]. Các hoạt
động khai trí ở các trường tân học không chỉ có dạy chữ quốc ngữ, mà ngay cả chữ
quốc ngữ cũng được thổi vào đó hồn dân tộc, vừa trang bị kiến thức vừa thức tỉnh lòng
yêu nước, khơi dậy ý thức, trách nhiệm của người dân đối với tổ quốc.
Vốn là những người tẩy chay quyết liệt chữ quốc ngữ, xem nó là “một toan tính
của chính quyền thuộc địa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam” [73, tr.50], đến
đầu thế kỉ XX, khi đã am hiểu được công dụng của quốc ngữ, chính các nhà Nho lại
chọn quốc ngữ làm phương tiện hữu hiệu để thức tỉnh dân tộc, đưa văn hóa dân tộc
tiếp cận và từng bước đi vào quỹ đạo hiện đại, biến việc dạy và học quốc ngữ từ “ý đồ
Pháp hóa dân thuộc địa” [73, tr.51] của người Pháp trở thành mục tiêu giáo hóa dân
chúng của những người xuất thân từ nền Nho học. Họ trở thành “những tay giúp ích
rất đắc lực cho thứ chữ ấy” [77, tr.130-131], từng bước đưa “tiếng Việt bước lên văn
đàn và án thư thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm” [92, tr.190], tìm cách “đánh bại chữ
Pháp, để chiếm địa vị độc tôn” [107, tr.126]. Sự nghiệp của các sĩ phu càng thuận lợi
hơn trong bối cảnh chính quyền Pháp cũng đang có chủ trương đưa quốc ngữ tham gia
vào công cuộc cải cách giáo dục ở Nam Kỳ, có điều dưới mục tiêu khác.
2.3.2.Chữ quốc ngữ trong các cải cách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ
Sau những thắng lợi quân sự trên đất Nam Kỳ, giáo dục là lĩnh vực được người
Pháp đặc biệt quan tâm: “Giáo dục là một công cụ chắc chắn và mạnh nhất trong tay
người đi chinh phục… Chúng ta phải làm cho họ tiêm nhiễm tư tưởng của chúng
ta…”[dẫn theo 111, tr.10]. Trong đó, việc loại bỏ chữ Hán để thay bằng những chữ
viết theo mẫu tự Latinh được quan tâm trước tiên. Theo Đô đốc Bonard: “Trường học
sẽ là cơ hội tốt để chúng ta đồng hóa toàn bộ một dân tộc bằng cách đưa ngay dân tộc
này vào hàng các quốc gia thuộc ngôn ngữ Âu châu bởi việc loại bỏ chữ Hán…” [dẫn
theo 102, tr.196]. Tuy nhiên, trước “một nền văn minh cổ trên hai nghìn năm như nền
văn minh này”[34, tr.14] thì quá trình dùng chữ quốc ngữ để thiết lập một nền giáo
dục mới ở Nam Kỳ không phải là việc làm dễ dàng, phải trải qua nhiều lần điều chỉnh,
cải cách về chương trình học, tổ chức.
Trong khi đó, ngay sau khi đánh chiếm ba tỉnh miền Đông, người Pháp liền phải
đối mặt với phong trào kháng chiến quy tụ toàn thể dân chúng Nam Kỳ, do các quan
95
lại và sĩ phu Nho học lãnh đạo. Trong bối cảnh hỗn loạn đó, không thể thi hành chính
sách đồng hóa thái quá, Đô đốc Bonard hy vọng vào sự hợp tác từ phía các nhà Nho.
Tuy nhiên, các nhà Nho đã “né tránh mọi sự tiếp xúc và trung thành với những mệnh
lệnh của nhà vua” [72, tr.65]. Trong nhận thức của người dân, mọi sự tiếp cận với
quân viễn chinh và hợp tác với chính quyền thực dân đều là hành vi phản quốc, một tội
lỗi không thể dung thứ. Tại các trường làng, chữ Hán và những lời dạy của Thánh hiền
vẫn được các nhà Nho dùng làm phương tiện nuôi dưỡng lòng yêu nước cho học trò;
chữ Hán vẫn là phương tiện lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, kháng cự lại
mọi chủ trương khai hóa, truyền bá văn minh phương Tây.
Do vậy, trong ánh mắt của chính quyền thực dân, nền Nho học và chữ Hán là
nguyên nhân của mọi bất ổn chính trị, là rào cản của mọi nhu cầu tiếp xúc với dân
chúng, là chướng ngại của mọi dự định truyền bá tôn giáo và văn minh, nhất thiết phải
bị loại bỏ. Để xóa bỏ trở ngại ấy, họ đặt hy vọng vào nền giáo dục và chữ quốc ngữ,
với mong muốn một sự ổn định về chính trị, “những nhân viên giàu năng lực” [93,
tr.33] và lòng trung thành cần thiết, sự giao tiếp trực tiếp với người bản xứ mà không
cần phải thông qua những thông ngôn. Đó cũng là mục đích của nền giáo dục có sử
dụng chữ quốc ngữ của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ.
Mục đích của nền giáo dục sử dụng chữ quốc ngữ như vậy là quá rõ ràng. Tuy
nhiên, đường lối, cách thức tiến hành như thế nào là cả một vấn đề còn gây tranh cãi,
chưa có được sự thống nhất. Mỗi tầng lớp từ thương nhân, giáo sĩ đến sĩ quan đều đưa
ra những quan điểm khác nhau xuất phát từ những quyền lợi riêng.
Với các thương nhân Pháp, mong muốn lớn nhất của họ là chấm dứt càng sớm
càng tốt tình trạng loạn lạc do chiến tranh gây nên để tập trung khai thác các nguồn lợi
kinh tế. Theo họ, tình trạng loạn lạc là do các sĩ phu Nho học cầm đầu. Do vậy, để
đánh bại vị trí của Nho học, trong Hội nghị giáo dục toàn Nam Kỳ đầu năm 1873, họ
đề nghị: “Nền giáo dục của chúng ta trước hết, trên hết là bằng tiếng Pháp…”[6,
tr.42].Để thực hiện quan điểm này, họ kiến nghị nhà cầm quyền cần in nhiều sách và
phát tận tay cho học sinh. Nội dung của sách không nên quá nặng về tuyên truyền mà
trước hết phải tạo sự hứng khởi nơi người đọc bằng các mẩu chuyện cười của Việt
Nam hay của Pháp rồi sau đó mới là những nội dung phục vụ chính trị, cứ lấy “văn
96
học đối lập với văn học; với chữ Hán lấy chữ Latinh chọi lại, lấy tư tưởng chọi lại với
tư tưởng” [6, tr.42-43]
Về phía các giáo sĩ, truyền giáo là mục đích chính. Do vậy, chữ Hán chính là kẻ
tử thù của họ và nhất quyết cho rằng đường lối đúng đắn của nền giáo dục phải là: xóa
bỏ nền Nho học, thiết lập các trường học dạy những hiểu biết thường thức bằng chữ
viết theo mẫu tự Latinh. Linh mục Louvet cho rằng nhà Nho “là những kẻ thù nguy
hiểm nhất của Gia-tô giáo và của nước Pháp” [102, tr.182]
Các sĩ quan có cách nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc và bình tĩnh hơn, đi sâu
vào tâm lý nhân dân. Theo Luro: không nên đóng cửa các trường dạy chữ Hán, cứ để
họ dạy như thường nhưng bắt buộc các thầy giáo dạy chữ Hán phải học chữ quốc ngữ
và dạy lại cho học trò; đồng thời phải dùng cả chữ quốc ngữ, chữ Hán để phổ biến
khoa học, làm cho nền văn minh của nước Pháp thâm nhập vào nhân dân; sau đó mới
phổ biến tiếng Pháp dựa vào lớp công chức quan lại mới và các nhà giàu, để nhân dân
thấy rằng, tiếng Pháp là cái cửa ngõ mà mọi người phải qua để đi tới con đường khoa
học. Sau khi được đào tạo, những người “cộng sự” phải vừa là Nho sĩ vừa là công
chức, vừa là thông dịch. Đó là phương pháp duy nhất để quần chúng hóa trường học
và thu hút người dân thuộc địa vào quỹ đạo văn minh, khoa học.
Không tán đồng cách duy trì chữ Hán của Luro, ý kiến của Philastre là phải thay
hoàn toàn chữ Hán bằng chữ quốc ngữ trên cơ sở vẫn dạy những nội dung như người
Việt Nam đã học từ trước: “Người ta sẽ không từ chối học chữ Latinh, nhất là tiếng An
Nam sẽ được đưa ra bằng bản dịch của một vài tác phẩm sơ đẳng và cổ điển Trung
Quốc. Nếu sau đó người ta cung cấp cho học sinh những sách viết bằng tiếng An Nam,
chứa đựng những tư tưởng mới đối với họ, họ sẽ tiếp tục theo học, chữ Hán sẽ mất một
phần uy thế và người An Nam sẽ bắt đầu viết tiếng nói của họ” [dẫn theo 6, tr.47]
Quan điểm về đường lối giáo duc của Luro và Philastre rất gần với chủ trương
của Bonard, tức là, dù xuất phát từ chính sách đồng hóa nhưng khi tình hình Nam Kỳ
còn nhiều bất ổn, thì khôn ngoan hơn hết trong đường lối cai trị là phải tỏ ra tôn trọng
các truyền thống văn hóa bản địa. Do vậy, chữ Hán và nền Nho học vẫn được duy trì
bên cạnh chữ quốc ngữ, theo Luro; hay ít ra dùng chữ quốc ngữ để biên soạn, nhưng
vẫn giữ nội dung của nền Nho học, theo đề nghị của Philastre. Điều đó cho thấy, để sử
97
dụng chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán trong giáo dục ở Nam Kỳ sao cho phù hợp, hiệu
quả, người Pháp phải cân nhắc hết sức cẩn trọng.
Mở trường đào tạo thông ngôn trở thành bước đầu tiên trong việc thực hiện mục
tiêu và đường lối giáo dục vừa nêu. Ngay sau khi hạ được Chí Hòa, ngày 21/9/1861,
Đô đốc Charner ký Nghị định thành lập trường Bá Đa Lộc để dạy tiếng Pháp cho
người Việt và dạy tiếng Việt cho người Pháp, nhằm mục đích chính là đào tạo thông
ngôn và những thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính và quân sự, “hơn là một
cơ sở giáo dục đúng nghĩa” [93, tr.48]. Chính quyền có ý định cử những người đã tốt
nghiệp trường Bá Đa Lộc về các làng để dạy chữ quốc ngữ cho trẻ em, nhưng vì số
lượng quá ít, chỉ đủ phục vụ trong quân đội nên chủ trương này chưa thực hiện được,
các làng vẫn tiếp tục học chữ Hán. “Đây là trường học đầu tiên đào tạo người Pháp nói
tiếng Việt” [85, tr.202]
Để thực hiện tuyên bố “người Pháp tôn trọng chữ nghĩa và những người có học
thức” [102, tr.181], Thống đốc Bonard, ngày 31/3/1863 đã ký Nghị định tái lập nền
học chính tại 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường). Nghị định này
không nhằm mục đích tổ chức một nền giáo dục mới ở Nam Kỳ. Hệ thống học quan
vẫn tồn tại và thực hiện chức trách như trước năm 1859, theo giáo dục Nho học của
nhà Nguyễn. Chỉ có một điểm mới duy nhất trong nội dung học tập là: phổ biến chữ
quốc ngữ Latinh. Để phổ biến chữ quốc ngữ Latinh, mỗi vị Giáo thọ sẽ có một viên
thông ngôn phụ tá… Tuy nhiên, do nội dung Nghị định không hề nhắc đến việc học
chữ Pháp, loại văn tự mà các giáo sĩ rất mực đề cao, lại duy trì hệ thống học quan do
các Nho sĩ đứng đầu nên Nghị định này đã bị phản đối ngay trong chính nội bộ của
đoàn quân viễn chinh và không thực hiện được.
Khác với Bonard, Đô đốc De La Geandière bày tỏ quan điểm loại bỏ chữ Hán
bằng những chữ viết theo mẫu tự Latinh một cách quyết liệt hơn: “Việc thay thế chữ
Hán bằng chữ viết theo mẫu tự Latinh, theo tôi, có lẽ là một trong các điều thích hợp
nhất nhằm giáng một đòn chí tử trên tinh thần duy lý Trung Hoa cũ kỹ… Việc phổ biến
các mẫu tự Latinh sẽ giải thoát chúng ta vĩnh viễn khỏi những kẻ nguy hiểm đó [nhà
Nho] và sẽ làm cho quan hệ của chúng ta với dân tộc ngoan ngoãn và dễ đồng hóa
này trở nên trực tiếp và chắc chắn hơn” [102, tr.199]. Với quan điểm ấy, ngày 16 – 7 –
98
1864, De La Grandière ban hành Nghị định tổ chức một số trường tiểu học ở các tỉnh
để dạy chữ quốc ngữ và dạy toán. Tuy nhiên, “nhà cầm quyền thuộc địa mở trường mà
không có sách giáo khoa cung ứng cho nhu cầu dạy và học” [22, tr.57]. Sách giáo khoa
chỉ có: 1 cuốn về các mẫu chữ quốc ngữ, 2 cuốn về hình học và số học sơ giản. Do
chưa kịp biên soạn, học sinh tạm thời dùng tờ Nguyệt san Thuộc địa hoặc tờ Gia Định
báo thay cho các sách tập đọc, là “cuốn sách duy nhất của các trường học đáng thương
hại của chúng ta [chính quyền Pháp]” [114, 108]. Bằng Nghị định này, người Pháp đã
loại chữ Hán ra khỏi nội dung học tập tại các trường do người Pháp tổ chức, mặc dù
vẫn chưa xây dựng được một chương trình học và một hệ thống tổ chức trường lớp
hoàn chỉnh để thay thế Nho học.
Đến khi chiếm xong toàn bộ Nam Kỳ (1867), đô đốc Lagrandière cho mở thêm ở
mỗi tỉnh lỵ một trường tiểu học do một số thông dịch viên làm thầy giáo. Chương trình
chỉ có học đọc, học viết chữ Quốc ngữ, giáo viên được trả mỗi ngày một franc và
những học sinh biết đọc, biết viết cũng được trả như vậy. Những người này được phép
trở về làng của mình mở trường dạy học. Giáo viên được chia làm hai bậc: bậc 1 là
những người có thể dịch tiếng Pháp ra tiếng Việt, mỗi năm được trả 60 franc và bậc 2
là những người có thể dịch tiếng Việt ra tiếng Pháp và làm 4 phép tính, mỗi năm 300
franc.
Đến thời đô đốc Ohier, năm 1869, một số trường được lần lượt mở ra ở Cần Thơ,
Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giuộc, “để dạy cho bọn tráng niên chữ
quốc ngữ và những bài vỡ lòng tiếng Pháp” [73, tr.46]
Sau 10 năm mở trường học, chính quyền Pháp đã tổ chức được hai loại trường
học dạy chữ quốc ngữ: Loại thứ nhất là trường Thông ngôn, dạy tiếng Pháp cho một số
người Việt và dạy tiếng Việt cho một số người Pháp nhằm đào tạo những thông dịch
viên; loại thứ hai là một số trường ở các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ và dạy Toán cho
người lớn và trẻ em, về sau được xếp vào loại trường tiểu học. Tuy nhiên, nhân dân
vẫn học chữ Hán mà ít người đến trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp để học.
Nguyên nhân của tình trạng này là do nhà cầm quyền chủ quan và thiếu chuẩn bị, nhất
là sách giáo khoa. Vì vậy, để sự nghiệp “chinh phục tinh thần” hiệu quả hơn, người
99
Pháp cần phải giải quyết vấn đề: mức độ thay thế chữ Hán bằng chữ viết theo mẫu tự
Latinh trong chương trình học mới như thế nào.
Đầu năm 1873, nhà cầm quyền Pháp tổ chức hội nghị giáo dục toàn Nam Kỳ, với
hy vọng tìm giải pháp cụ thể, định ra một đường lối giáo dục để đưa công tác giáo dục
lên những bước mới hơn. Cũng trong năm này, hàng loạt trường dạy chữ quốc ngữ và
một ít trường chữ Pháp được mở ra để thay thế cho trường dạy chữ Nho. Các trường
làng được khuyến khích dạy thêm chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên, phải đến ngày 17/11/1874, khi Chuẩn Đô đốc – Thống đốc Krant ký
Nghị định tổ chức lại nền học chính Nam Kỳ thì nền giáo dục mới và chữ quốc ngữ
mới được tổ chức theo một quy chế cụ thể. Trong đó, Điều 9 và Điều 10 là dành riêng
cho chữ quốc ngữ và việc tổ chức các trường học quốc ngữ: [dẫn theo 29, tr.697-701]
Điều 9. Trường dạy chữ quốc ngữ Latinh do chính quyền thuộc địa lập tại xã
thôn nay bãi bỏ. Học sinh các trường đó nếu yêu cầu, sẽ được gửi tới học tại các
trường tiểu học mà chương trình học sẽ được ấn định.
Điều 10. Trường tiểu học sẽ được thiết lập tại mỗi lỵ sở địa hạt (sau là tỉnh),
nhưng nay tạm thời mới đặt ở những nơi: Sài Gòn, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc
Trăng. Tại các quận khác, trường dạy quốc ngữ Latinh ở xã thôn sẽ tập hợp chung vào
một trường ở lỵ sở và tiếp tục sinh hoạt theo lối cũ cho tới khi có lệnh mới.
Chương trình học cũng được quy định rõ ràng. Theo đó, tổng thời gian học là 6
năm, qua 2 cấp: Tiểu học (3 năm), Trung học (3 năm). Chương trình học không chỉ có
Toán và chữ quốc ngữ như Nghị định ngày 16/7/1864 mà đã bao gồm hệ thống phân
môn được quy định rõ ràng (Khái niệm tổng quát về lịch sử, Địa lý địa cương, Vật lý
sơ đẳng, Hóa học sơ đẳng, Vạn vật học, Kế toán, Hội họa). Chữ Hán, từ chỗ bị giáo sĩ
và một bộ phận sĩ quan phản đối dưới thời Bonard, bị loại bỏ dưới thời De La
Grandière, đã có được vị trí nhất định trong chương trình ở cả 2 cấp học. Tuy nhiên,
chữ Hán và chữ quốc ngữ chỉ được dạy ở cấp Tiểu học, làm luận ở cấp Trung học; ưu
thế trong lĩnh vực ngôn ngữ thuộc về chữ Pháp mà học sinh được học kĩ lưỡng trong
suốt thời gian học, không chỉ có đọc – viết, làm luận, mà chương trình trung học còn
có Sơ yếu về văn học Pháp.
100
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, ở Nam Kỳ, tồn tại song hành hai hệ thống
giáo dục theo hai chương trình học khác nhau: trường học do nhà cầm quyền tổ chức
tại lỵ sở địa hạt (các tỉnh) và trường học do các thầy đồ lập ra theo mô hình truyền
thống ở các xã thôn. Chữ quốc ngữ có vị trí nhất định ở cả hai chương trình học này.
Tuy nhiên, nó chưa giải quyết thỏa đáng điều sai lầm nhất mà Luro đã chỉ ra: “đòi thay
thế triệt để, toàn bộ nền giáo dục của xứ này bằng việc học chữ Latinh” [6, tr.41]. Do
đó, tình trạng học sinh tại các trường do người Pháp tổ chức, theo Piquet, vẫn là:
“nhiều học sinh vẫn là những đứa trẻ nghèo khổ mà xã thôn phải thuê mướn cho đi
học” [29, tr.701]. Yêu cầu cải cách lại đặt ra cho nền giáo dục Nam Kỳ.
Ngày 17/3/1879, Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký nghị định cải tổ giáo dục, thay
thế bản Nghị định do Chuẩn Đô đốc Krant ban hành trước đó. Quy chế này tổ chức lại
hệ thống giáo dục và xây dựng lại chương trình học mới. Theo đó, nền giáo dục Nam
Kỳ được tổ chức theo hệ thống 3 cấp. Mỗi huyện đều có một trường cấp I. Nam Kỳ có
tất cả 20 trường cấp I, 6 trường cấp hai, trường Bá Đa Lộc sẽ dạy cả 3 cấp. So với quy
chế năm 1874, quy chế mới có sự hoàn chỉnh về khâu tổ chức và hợp lý trong cách
phân định cấp học với tổng thời gian học là 10 năm (tăng 4 năm), gồm 3 cấp: cấp I (3
năm), cấp II (3 năm), cấp III (4 năm). Chương trình học được thiết lập lại theo hướng
giản lược số môn học nhưng vẫn đảm bảo được tính toàn diện và thống nhất về nội
dung qua các cấp học. Về mặt chữ viết, chương trình học đã thể hiện sự chú ý đến
“tâm lý của một dân tộc vốn có nền văn minh lâu đời” [6, tr.49] khi chữ Hán vẫn được
dạy xuyên suốt trong 10 năm học, dù thời lượng không nhiều. Tuy nhiên, cũng như
Quy chế 1874, chữ Pháp vẫn giữ ưu thế tuyệt đối so với chữ Nho và chữ quốc ngữ.
Thời lượng học chữ Nho và chữ quốc ngữ, vốn đã rất ít, lại bị giảm từ 2 giờ/tuần ở cấp
II còn 1 giờ/tuần ở cấp III. Mặc dù vậy, “chữ quốc ngữ vẫn được dạy chính thức trong
môn tập đọc và viết tường thuật” [93, tr.42-43], đồng thời, việc dạy chữ quốc ngữ vẫn
rất được khuyến khích: “Các giáo viên dạy chữ Nho và tập cho học sinh các trường đó
làm quen với chữ quốc ngữ Latinh và một chút tiếng Pháp, có thể được thưởng, tiền
thưởng tùy theo số lượng và lực học của học trò do họ đào tạo” [29, tr.702].
Như đã nói, khi sử dụng chữ quốc ngữ trong nền giáo dục mới ở Nam Kỳ, người
Pháp muốn có được những nhân viên hành chính thông thạo tiếng bản xứ, truyền bá
101
văn minh phương Tây, loại bỏ sự tồn tại của chữ Hán và ảnh hưởng của tầng lớp Nho
sĩ trong dân chúng. Đối chiếu với mục đích ấy, nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ đã đáp
ứng được gần như tất cả, tuy ở từng vấn đề mức độ có khác nhau. Thông qua nội dung
học tập, học sinh đã bắt đầu tiếp cận được các tri thức khoa học của nền văn minh
phương Tây. Các trường học của thầy đồ tuy chính thức được thừa nhận trong văn bản
pháp quy và vẫn có đông đảo học sinh theo học, nhưng chữ Hán đang dần mất đi
những cơ sở để tồn tại khi chế độ khoa cử Nho học bị bãi bỏ ở miền Đông Nam Kỳ
sau khoa thi 1861 và ở miền Tây Nam Kỳ sau 1864.
Dù cho các trường chữ Hán vẫn hoạt động song song với các trường học của
người Pháp và mục đích “loại bỏ chữ Nho và ảnh hưởng của các sĩ phu, tách thầy đồ
ra khỏi nhân dân” [57, tr.114] của người Pháp chưa hoàn toàn thực hiện được, nhưng
rõ ràng, nền giáo dục Pháp đến cuối thế kỉ XIX đã được định hình và đang tiến dần
đến sự ổn định, hoàn chỉnh. Chữ quốc ngữ tuy còn chiếm vị trí khiêm tốn trong
chương trình học, nhưng với việc chế độ khoa cử bị bãi bỏ và cùng với “các biện pháp
nâng đỡ” [115, tr.19] kháctrong chính sách văn hóa của chính quyền thuộc địa, chữ
quốc ngữ đang ngày càng “tăng dần, tăng nhanh ưu thế” [115, tr.19], dần dần “chiếm
vị trí quan trọng trong nền giáo dục Pháp – Việt” [68, tr.38] để đi đến loại bỏ hoàn
toàn nền Nho học Nam Kỳ vào đầu thế kỉ XX.
*
Trong công cuộc truyền bá Phúc âm ở Nam Kỳ các thế kỉ XVI, XVII, các giáo sĩ
Kitô giáo đã vấp phải rào cản lớn về bất đồng ngôn ngữ. Latinh hóa tiếng Việt để soạn
sách, phổ biến kinh thánh là việc làm nhằm giải quyết bài toán ngôn ngữ, phục vụ cho
công cuộc truyền đạo, một “mục đích thực dụng” [40, tr.133] của giáo hội La Mã. Quá
trìnhnày trải qua khoảng ba thế kỉ với sự góp sức của nhiều nhà truyền giáo phương
Tây, từ những giáo sĩ Bồ Đào Nha, người Ý, cho đến người Pháp, có cả sự tham gia
của những người Việt. Tuy nhiên, vượt xa mục đích ban đầu của việc chế tác quốc
ngữ, các giáo sĩ Thừa sai và nhà cầm quyền Pháp đồng tình xem vấn đề cổ vũ học chữ
quốc ngữ là một biện pháp hữu hiệu để tiêu diệt các Nho sĩ, những người vừa đối
kháng với Thiên chúa giáo, vừa tiêu biểu cho tinh thần kháng chiến bất khuất của nhân
dân Nam Kỳ. Do vậy, từ năm 1862, chữ quốc ngữ trở thành một trong những vấn đề
102
thuộc chiến lược văn hóa của chính quyền Pháp. Được người Pháp trao cho cái ưu thế
trong hành chính, đào tạo nhân lực, trong báo chí, tuyền truyền cho sự khai hóa, đặc
biệt là trong giáo dục, chữ quốc ngữ nhanh chóng càng được phổ biến, trở thành một
cơ chế được áp đặt trên toàn cõi Nam Kỳ. Nhà cầm quyền ở Nam Kỳ trong lúc mở
trường dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy tiếng Việt cho người Pháp, mở trường
hậu bổ, trường thông ngôn thì cũng chú tâm mở trường sư phạm đào tạo thầy giáo chữ
quốc ngữ.
Với chiến lược đó, người Pháp tin rằng, sau vài ba năm hay nhiều nhất là mười
năm, người Việt ở Nam Kỳ sẽ bỏ hẳn chữ Hán, chữ Nôm và chỉ đua nhau học chữ
quốc ngữ. Khi ấy, người Pháp sẽ nắm trọn tư tưởng của người Việt, cắt đứt Nam Kỳ
khỏi truyền thống Viễn Đông, nhất là Trung Hoa. Tuy nhiên, không nhanh như dự tính
của người Pháp, chính sách phổ biến chữ quốc ngữ đã gặp nhiều chống đối và khó
khăn, có chống đối xuất phát từ đông đảo dân chúng, có chống đối từ phía các sĩ phu.
Dân chúng và sĩ phu chống Pháp nên cũng chống tất cả những chính sách mà người
Pháp đề ra. Trong bối cảnh Nam Kỳ vừa bị thực dân xâm chiếm thì thái độ chống đối
quốc ngữ của giới sĩ phu Nho học là đúng. Tuy nhiên, sau thất bại của hàng loạt cuộc
kháng chiến, các sĩ phu nhận ra rằng muốn chống Pháp thành công thì phải duy tân,
nâng cao dân trí, thức tỉnh tinh thần dân tộc. Nhận thấy chữ quốc ngữ là một phương
tiện hiệu quả để làm việc đó, các sĩ phu Nho học quay sang đấu tranh giành lấy quốc
ngữ về tay người Việt.
103
Chương 3.
VAI TRÒ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ
TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC VĂN HÓA – XÃ HỘI Ở NAM KỲ
Như đã đề cập ở chương I, văn hóa là một khái niệm đa nghĩa, đa tầng, mang nội
hàm rộng. Sự đa dạng đó bắt nguồn từ sự đa dạng trong cách thức tiếp cận. Trong
chương này, nội dung khái niệm văn hóa được tác giả luận văn nhìn nhận dưới góc độ
là một định nghĩa miêu tả, tức là liệt kê các thành tố của văn hóa. Những yếu tố như
“ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [60, tr.458]. Những loại hình
văn hóa mà tác giả luận văn nêu ra trong chương III bao gồm cả những loại hình văn
hóa cũ và những loại hình văn hóa mới nơi chữ quốc ngữ sẽ thể hiện rõ vai trò của
mình với tư cách là sản phẩm của mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây.
3.1. Giáo dục
Dưới tác động của chính sách cải cách bắt buộc từ chính quyền thực dân và tác
động từ phía nhân dân nhất là tầng lớp sĩ phu, học sinh với ý thức tiếp nhận, tiếp biến
văn minh, chữ quốc ngữ - một phương tiện ngôn ngữ hiện đại, không nhữngđã góp
phần xác lập được vị trí của nền giáo dục mới ở cuối thế kỉ XIX, mà sang đầu thế kỉ
XX chữ quốc ngữ còn tiếp tục góp phần làm cho giáo dục được củng cố, phát triển, đổi
mới, đi đến hoàn chỉnh, và cuối cùng thay thế hoàn toàn Nho học ở đầu thế kỉ XX.
Để tạo được những chuyển biến vừa nêu, chữ quốc ngữ đã có một quá trình tham
gia và đóng góp vào hai công cuộc cải cách giáo dục của chính quyền Pháp.Bởi theo
người Pháp đó là một phương tiện hữu dụng, “việc dạy cho người bản xứ đọc và viết
chữ quốc ngữ đối với chúng ta là một lợi ích lớn, công chức, thương gia của chúng ta
có thể học nó rất dễ và những mối liên hệ giữa chúng ta với người bản xứ cũng sẽ trở
nên rất thuận tiện” [dẫn theo 106, tr.196]. Vai trò của quốc ngữ đối với giáo dục thể
hiện qua mục đích chung của cuộc cải cách giáo dục: “chuyển giáo dục truyền thống
thành giáo dục kiểu mới, thúc đẩy nền giáo dục bản địa theo các chương trình và
104
phương pháp giáo dục có tên Pháp – Việt, chủ trương tập trung hóa và thống nhất nền
giáo dục với những chương trình học giống nhau trong từng xứ” [32, tr.61]
Năm 1903, Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ngay nghị định thành lập Hội
đồng Cải thiện Giáo dục bản xứ và 3 năm sau (1906), Hội đồng này ra một nghị định
công bố nội dung cải cách với chủ trương chính là:“dân bản xứ bắt buộc phải học chữ
quốc ngữ tại các trường và chỉ những phần tử thông minh nhất mới lên học những lớp
cao đẳng tiểu học…” [3,tr.213-214]. Chủ trương này được áp dụng cho toàn hệ thống
giáo dục.
Đối với hệ thống trường Pháp – Việt, chương trình học hầu hết bằng tiếng Pháp,
tiếng Việt và chữ Hán vẫn chỉ chiếm một tỉ lệ rất thấp với các môn: Quốc ngữ, Chính
tả, Luận, Tập dịch Việt – Pháp, Học thuộc lòng, Chữ Hán. Chữ Hán chỉ mang nội
dung luân lý, không dạy khoa học bằng loại chữ này. Chương trình tiếng Việt và tiếng Hán đã ít, yêu cầu lại thấp. Lớp nhất (là cuối cấp tiểu học16) mà học sinh chỉ cần đọc
trôi chảy và đúng, còn thầy giáo cũng chỉ cần giảng cho học sinh hiểu bài bằng cách
cắt nghĩa chữ khó và tóm tắt đại ý của bài.Mặc dù chữ quốc ngữ và chữ Hán chiếm
thời lượng không nhiều nhưng đã có một vị trí ổn định (từ 2 – 3 giờ/ tuần) trong hệ
thống trường Pháp – Việt.
Nếu cải cách của hệ thống trường Pháp – Việt chủ yếu nhằm hoàn chỉnh thêm
một bước chương trình học thì trong khi đó việc cải cách trong hệ thống trường chữ
Hán lại nhằm “làm thay đổi khá nhiều cơ cấu của nền giáo dục cổ truyền này” [6,
tr.68]. Chữ quốc ngữ được dùng nhiều nhất nhằm mục đích loại bỏ chữ Hán. Ở bậc ấu
học, việc học chữ Hán không bắt buộc, nhưng chữ Pháp và chữ quốc ngữ thì bắt buộc.
Bậc tiểu học (học trong 2 năm),mở ở các phủ huyện do các giáo thụ, huấn đạo chịu
trách nhiệm, chương trình dạy cũng gồm các môn của ba thứ chữ, nhưng quốc ngữ vẫn
chiếm nhiều giờ hơn: 15 giờ 30 phút mỗi tuần. Chữ Hán chiếm tỉ lệ quan trọng sau chữ
quốc ngữ, mỗi tuần 10 giờ. Chữ Pháp tuy có ít hơn hai loại chữ trên chút đỉnh nhưng
mỗi tuần vẫn chiếm đến gần 10 giờ. Bậc trung học, chữ quốc ngữ và chữ Pháp được
dạy nhiều hơn chữ Hán, 16 giờ mỗi tuần dành cho quốc ngữ và 12 giờ mỗi tuần dành 16 Nền giáo dục Pháp – Việt có 2 bậc: Tiểu học và Trung học. Tiểu học có 4 lớp: Dự bị (Préparatoire), Sơ học (Élementaire), Trung đẳng (Moyen), Cao đẳng (Supérieur). Trung học được phân định thành 2 bộ phận: giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp
105
cho chữ Pháp. Chữ Hán mỗi tuần chỉ có 7 giờnhưng chương trình lại rất nặng, ngoài
các sách Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ còn phải tập làm phiến, sớ, tấu.
Nghị định ngày 16 – 11 – 1906 cũng quy định nội dung kỳ thi Hương, sẽ gồm 4
bài: bài thi bằng chữ Hán; bài thi bằng chữ quốc ngữ trình bày 3 vấn đề: văn học, địa
lý, khoa học; bài thi bằng tiếng Pháp có 2 vấn đề: dịch từ chữ Pháp sang chữ Hán và từ
chữ quốc ngữ sang chữ Pháp; một bài luận tóm tắt gồm 3 vấn đề: bài luận chữ Hán, bài
luận chữ quốc ngữ và một bài dịch từ chữ Hán sang chữ Pháp. Theo số điểm mà thí
sinh đạt được sẽ định cử nhân hay tú tài [6, tr.71]
Trong cuộc cải cách giáo dục này, Hội đồng cải cách giáo dục cũng đưa ra dự
định trong một thời gian ngắn có thể biên soạn xong một số sách bằng quốc ngữ và
chữ Hán. Vì vậy, một số cuốn sách quốc ngữ đã ra đời như: Ấu học phép dạy; Cai trị
lễ pháp; Nông học tập đọc; Thực vật, người và động vật; Vô cơ vật loại; Toán pháp
lược học; Đông Dương địa dư… Với định hướng như trên thì nội dung giảng dạy chữ
quốc ngữ và chữ Pháp trong hệ thống trường chữ Hán chỉ tập trung học nhiều về luật
pháp, đơn từ, phong tục, đó là “những môn “đầu vị” cho việc cai trị ở phủ, huyện” [6,
tr.79]. Trong kì thi Hội, thí sinh vẫn phải trình bày những vấn đề “kinh bang tế thế”
nhưng phải làm bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ, vốn là những thứ chữ chưa quen
thuộc nên còn gây ra nhiều khó khăn.
Những Nghị định nêu trên đã làm thay đổi nền giáo dục Nho học ở cả hệ thống tổ
chức lẫn chương trình học. Chữ quốc ngữ được dùng để dạy những nội dung thuộc về
tri thức khoa học của nền văn minh phương Tây ở cả 3 bậc học, gần với nội dung học
tập trong các trường Pháp – Việt.
Mặc dù chưa triệt để nhưng cải cách giáo dục giai đoạn 1886 – 1916 ở một mức
độ nhất định mang tính toàn diện hơn trước. Việc học chữ quốc ngữ ở giai đoạn trước
chỉ dừng lại ở một vài quy chế mang tính chất từng phần thì đến giai đoạn này hệ
thống lại cụ thể hơn và bổ sung một số điểm phù hợp với tình hình hơn. Từ đây, nền
giáo dục thực dân đã xâm nhập mạnh mẽ hơn vào nền giáo dục phong kiến cổ truyền,
tạo điều kiện để xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục cũ này trong cuộc cải cách lần thứ hai.
Vốn dĩ sự tồn tại song song hai nền giáo dục là một việc bất đắc dĩ của chính
quyền thực dân. Vì vậy, sớm muộn chính quyền Pháp cũng xóa bỏ giáo dục cũ khi đã
106
đủ điều kiện. Bấy giờ, người Pháp đang cần một lực lượng công nhân và nhân viên có
kĩ thuật, có trình độ chuyên môn. Họ thấy không thể tiếp tục duy trì một nền giáo dục
nửa cũ, nửa mới, “cựu học không đầy, tân học cũng mỏng” [6, tr.81], không thể tiếp
tục chấp nhận sự khác biệt về giáo dục ở Nam Kỳ và Bắc – Trung Kỳ. Cuối cùng,
người Pháp quyết định bãi bỏ nền giáo dục “bản xứ”. Năm 1915, vua Duy Tân ra chỉ
dụ bãi bỏ các khoa thi Nho học ở Bắc Kỳ. Năm 1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ
các khoa thi này ở Trung Kỳ. Đến ngày 14-6-1919, Khải Định ký Dụ bãi bỏ tất cả các
trường học chữ Hán cùng với hệ thống quản lý từ triều đình đến cơ sở. Đây không chỉ
là sự thất thế của một thứ chữ viết, mà quan trọng hơn chính là “nước Việt Nam đi từ
vùng ảnh hưởng Hán (sinophonie) vào vùng ảnh hưởng Pháp (francophonie)” [73,
tr.14]. Từ nay, nền giáo dục ở Việt Nam sẽ do nhà cầm quyền Pháp hoàn toàn chỉ đạo
và quản lý. Nền giáo dục phong kiến vốn đã suy tàn và sống lay lắt đến đây bị xóa bỏ
hoàn toàn, nền giáo dục mới được xác lập, giáo dục Pháp – Việt. Chữ quốc ngữ từ đây
bước lên hàng văn tự chính thức, một thuận lợi để đẩy nhanh quá trình du nhập của
văn minh phương Tây.
Toàn bộ nền giáo dục chia làm 3 cấp: Đệ nhất cấp (tiểu học17), Đệ nhị cấp (trung
học, gồm 2 loại: cao đẳng tiểu học – 4 năm và trung học – 2 năm) và Đệ tam cấp (cao
đẳng hay đại học). Ngoài ra, còn có các trường thực nghiệp, tức là các trường dạy nghề
tương ứng với bậc tiểu học và trung học.
Về chương trình học, ngày 21-12-1917, Toàn quyền Sarraut ký ban hành bộ
“Học chính tổng quy”. Đây là “một pháp chế giáo dục nhấn mạnh lên địa vị quan trọng
của Pháp ngữ; chính phủ bảo hộ muốn áp dụng một chính sách khứ cựu đồ tân, bằng
cách phổ biến việc giảng dạy Pháp ngữ ngay từ bậc sơ đẳng tiểu học và đem vào nền
giáo dục các phương pháp và khoa học Tây dương” [3, tr.216].Tuy nhiên, kinh nghiệm
dưới thời của toàn quyền Paul Beau cho thấy việc học tiếng Pháp ngay từ đầu sẽ gặp
khó khăn nếu việc học chữquốc ngữ của học sinh ở bậc tiểu học vẫn tiếp tục bị hạn
chế. Do đó, với việc nhấn mạnh địa vị của chữ Pháp, bộ “Học chính tổng quy” đã gây
ra một luồng dư luận xin xét lại vấn đề dạy chữ quốc ngữ ở bậc tiểu học.Giới trí thức 17 Bậc Tiểu học có 2 loại: Tiểu học bị thể (école primaire de plein exercices) và Sơ đẳng tiểu học (école élémentaire). Tiểu học bị thể gồm 5 lớp: đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, lớp nhì và lớp nhất. Sơ đẳng tiểu học là những trường chỉ có 2 hoặc 3 lớp dưới: đồng ấu, dự bị, sơ đẳng
107
đương thời cho rằng vấn đề dạy chữ quốc ngữ có liên quan mật thiết với dạy chữ Pháp.
Đó là “hai công cụ rất cơ bản để giải quyết nạn ngôn ngữ bất đồng” [73, tr.236]. Việc
học chữ quốc ngữ là bước đầu để học chữ Pháp, giúp cho việc học tiếng Pháp được dễ
dàng hơn, Trung Bắc Tân Văn, số 202 năm 1916: “người An Nam muốn học chữ Pháp
cho đến nơi trước hết phải thông hiểu tiếng nước mình đã” [dẫn theo 6, tr.88]. Giám
mục Puginier cho rằng việc cần làm kế tiếp sau khi đã “Gia Tô giáo hóa cả xứ” là: phế
bỏ chữ Nho và thay thế lúc đầu bằng tiếng Việt Nam viết theo kiểu người Âu, gọi là
Quốc ngữ, rồi sau đó bằng tiếng Pháp [102, tr.442-443]. Hơn nữa, “học tiếng Pháp,
nhớ được tiếng Pháp đã là khó rồi, nhất là những tiếng trừu tượng, phần nhiều xưa
nay trong tiếng An Nam không có bao giờ thì lại càng khó lắm. Trước khi học đến
những tiếng ấy cho được vỡ nghĩa, cho nhớ được ta hãy nên dùng cái tiếng thường mẹ
ru vú hát của đứa trẻ mà dạy cho nó hiểu qua loa mấy điều cốt yếu thì đến khi học đến
chữ Tây nó mới hiểu được rõ nghĩa” [dẫn theo 6, tr.90]
Nguyễn Khắc Khiêm Bàn về Vấn đề việc học nước ta bây giờtrên Nam Phong số
45 năm 1921 đã viết rằng: “Phải có cái bằng tiểu học về quốc ngữ để làm cách giáo
dục có cái tư cách quốc dân đã, không phải là bắt đầu đi học chữ Pháp ngay được...”
[dẫn theo 73, tr.69]. Trong Tập kỷ yếu của Hội Khai trí Tiến đức cũng có đoạn nói:
“Cứ như thế thì sự học ở các trường sơ học (tức là trường Pháp - Việt) của Chính phủ
bây giờ không bao giờ đạt được cái mục đích ấy: học trò trong mấy năm ở nhà trường
chỉ nhồi óc bằng những tiếng Tây mập mờ không hiểu rõ, còn nghĩa lý không biết một
tí gì cả, thậm chí đối với xã hội đã mang tiếng là người ngây ngô nhố nhăng. Nay
muốn trừ sự hại đó thời phải xin Chính phủ thay đổi hẳn cái học chế về bậc sơ học,
lấy chữ quốc ngữ làm chính, chữ Pháp làm chữ phụ và tốt nghiệp thời thi một cái bằng
“tiểu học tốt nghiệp bằng quốc ngữ”, gọi là bằng khoá sinh” [dẫn theo 73, tr.70]
Tiếp thu những ý kiến phản hồi trên, ngay từ thông tri đề ngày 20-3-1918, Toàn
quyền Sarraut đã nói: “tiếng Pháp bắt đầu dạy từ lớp ba, nghĩa là sau khi học trò đã
đọc thông thạo tiếng mẹ đẻ” [dẫn theo 6, tr.236], tức là chỉ những trường Sơ đẳng tiểu
họcmới dạy hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ, còn các trường tiểu học bị thể thì chỉ hai
lớp dưới học bằng quốc ngữ (lớp đồng ấu và lớp dự bị), từ lớp ba trở lên phải dùng
hoàn toàn tiếng Pháp.
108
Từ đó, ở các trường sơ học, chương trình dạy hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ,
nhưng trong các môn như luân lý, sử ký, địa dư, quốc văn… đều có những bài nói về
“Công ơn người Pháp sang mở mang và bảo hộ xứ ta”, “Phải trung thành và biết ơn
Đại Pháp”, “Khai hóa có Đại Pháp, văn minh mở Lạc Hồng”… Như vậy vấn đề đã rõ
ràng. Việc dạy chữ quốc ngữ phải được thực hiện ở những lớp đầu tiên của bậc tiểu
học, trước khi học tiếng Pháp, nhưng phải đảm bảo mục đích là hướng vào những nội
dung phục vụ cho lợi ích của người Pháp. Tiếng Việt được nhà cầm quyền gán cho vai
trò phải là “cỗ xe dùng để chở tư tưởng Pháp, tất cả những khái niệm mà học sinh cần
phải có về những bước tiến đã được thực hiện trên đất nước của họ từ khi người Pháp
sang cai trị, nói lên đầy đủ về hòa bình, an ninh, về sự khai thác những tài nguyên
thiên nhiên, về sự phát triển giáo dục, y tế, tóm lại là sự nghiệp người Pháp ở Đông
Dương” [dẫn theo 6, tr.89].
Đến ngày 19 – 9 - 1924, Toàn Quyền Đông Dương Merlin ra một nghị định
mạnh tay hơn cả Sarraut, đó là một chương trình “phát triển giáo dục theo chiều
ngang” [117, tr.43]. Merlin đã sửa đổi lại ba điều 134, 135 và 136 trong Học chính
Tổng quy của Sarraut, bãi bỏ quy định học tiếng Pháp từ lớp thứ ba (lớp sơ đẳng), chỉ
bắt buộc dạy ở hai lớp nhì và lớp nhất, đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở ba lớp đầu cấp tiểu
học: “trong ba lớp dưới tiểu học, bất phân trường nhà quê hay trường kẻ chợ, trường
yếu lược hay trường kiêm bị, từ nay trở đi đều phải dạy bằng tiếng An Nam cả, học hết
ba lớp ấy phải thi lấy một cái bằng tức như bằng “tuyển sinh” năm xưa, học trò nào
có bằng ấy mới được lên lớp nhì, lớp nhất và ra thi “tiểu học tốt nghiệp” [dẫn theo 73,
tr.71]. Đồng thời, lập ra bằng Bản xứSơ học yếu lược(Certificat d’Études élémentaires
indigèns). Chương trình và thể thức thi bằng này được quy định như sau: Bài thi bắt
buộc được thực hiện bằng tiếng Việt, có 2 phần: viết và vấn đáp. Bài thi viết gồm: 1
bài chính tả dễ, từ 8 đến 10 dòng, có câu hỏi; 1 bài luận dễ (tả cảnh, tự sự, viết thư…);
2 bài tính đố. Bài thi vấn đáp gồm: Đọc một bài quốc ngữ dễ, có kèm câu hỏi xem có
hiểu và biết nghĩa của từ không; Hỏi về luân lý, sử ký, địa dư; Hỏi về tính nhẩm và
những điều thường thức. Bài thi tự nguyện được thực hiện bằng tiếng Pháp, cũng có 2
phần: viết và vấn đáp. Nếu được điểm trung bình (10 điểm cho 2 bài) thì trong bằng
Sơ học yếu lược sẽ có thêm dòng chữ “biết tiếng Pháp”, là điều kiện cần để dự học lớp
109
Trung đẳng (Moyen) [32, tr.158-159]. Như vậy, sau gần 3 thế kỉ, kể từ khi cuốn Từ
điển Việt – Bồ - La của Alexandre Rhodes ra đời đến khi bãi bỏ các khoa thi Nho học,
đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở 3 năm đầu cấp tiểu học, “người Việt mới thật sự đoạn
tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ. Đây
quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao” [8, tr.30]
Năm 1926, Toàn quyền Đông Dương Varenne thành lập trường Sơ học hương thôn (tên khác: Sơ học bản xứ)18, tương đương với trường Sơ học Pháp – Việt và các
lớp Sơ học của trường Tiểu học Pháp – Việt toàn cấp. Chương trình học gồm các môn
Luân lý, Thể dục, Đọc, Viết, Lịch sử, Địa lý, Làm tính, Vẽ, Thủ công được dạy bằng
tiếng Việt, tiếng Pháp là ngôn ngữ không bắt buộc.
Như vậy “từ tiếng Việt dưới dạng chữ Nôm là một bà con nghèo đối với chữ Hán
đến tiếng Việt qua chữ quốc ngữ là tiếng nói của thứ dân, tiếng Việt bây giờ tiến được
một bước đáng kể, trở thành ngôn ngữ giáo dục ở cấp tiểu học, một địa vị hẳn là còn
khiêm tốn nhưng không kém phần quan trọng… cái bằng Sơ học yếu lược đánh dấu sự
thắng lợi lớn của tiếng Việt trước sự chèn ép lần lượt của chữ Hán và của tiếng Pháp”
[73, tr.71]
Việc chữ quốc ngữ trở thành ngôn ngữ giáo dục ở bậc tiểu học đã dẫn đến sự ra
đời của những bộ sách giáo khoa đầu tiên dạy tiếng Việt ở ba năm đầu cấp tiểu học.
Đầu tiên là cuốn Luân lý giáo khoa thư (10 – 1925). Đến năm 1927, có thêm các cuốn
như: Tập đọc, Toán pháp, Cách trí, Địa dư, Sử ký… Quan trọng nhất là tập sách Quốc
văn Giáo khoa Thư (1941), thuộc bộ Việt Nam Tiểu học Tùng thư.
Sách Quốc văn Giáo khoa Thư gồm ba tập, dùng cho lớp đồng ấu (tập I), lớp dự
bị (tập II), lớp sơ đẳng (tập III). Quốc Văn Giáo Khoa Thư toàn tập là một thành công
lớn trong việc bước đầu đưa quốc ngữ trở thành ngôn ngữ trong học đường.Câu văn
trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư “ngắn gọn, trong sáng, chấm phết đúng chỗ, thuần
Việt, ít bị những thành ngữ Hán thêm vào làm cho nặng nề. Ngôn ngữ trong Quốc Văn
Giáo Khoa Thư tuy là một ngôn ngữ bình dị nhưng là một ngôn ngữ viết, với rất ít
18 Danh xưng của loại trường này là: Trường Phổ cập Giáo dục. Ở Nam Kỳ, loại trường này chỉ mở cho những làng chưa đủ điều kiện mở trường.
đoạn đối thoại” [73, tr.75-76]. Những bài ca dao được đưa vào Quốc Văn Giáo Khoa
110
Thưđể cho con trẻ nằm lòng những tiếng nói mộc mạc nhưng không kém phần thi thơ
trong dòng văn học dân gian tiếng Việt. Gợi ra từ Quốc Văn Giáo Khoa Thư hình ảnh
một nước Việt Nam nông nghiệp, một xã hội Việt Nam nông thôn, thành thị hoàn toàn
vắng bóng. Mùa cấy, Mùa gặt, Làm ruộng, Công việc ngoài đồng, Cánh đồng nhà quê,
Cảnh mùa xuân, Trường học làng tôi, Cây tre, Chim hoàng anh, Con gà trống, Chim
chèo bẻo, Con cóc… là những chủ đề dùng để xây dựng các bài tập đọc, gây vốn từ
căn bản cho con trẻ. Gia đình với những bổn phận và giá trị truyền thống như Thờ
cúng tổ tiên, Yêu mến cha mẹ, Giúp đỡ cha mẹ, Đi thưa về trình, Thăm nom cha mẹ,
Anh em như thể tay chân, Thờ mẹ kinh cha… chiếm một vị trí khá quan trọng trong
chương trình quốc văn đầu năm. Học trò lớp đồng ấu cũng bắt đầu học môn Vệ sinh
qua những bài nói về Vận động thân thể, Nhổ bậy, Giấc ngủ, Nước bẩn, Ăn uống điều
độ… Đây là những đề tài mới lạ thời bấy giờ. Nhìn chung, các bài đọc trong Quốc Văn
Giáo Khoa Thư được viết bằng “những câu văn ngắn gọn, trong sáng, chấm phết đúng
chỗ, dễ ăn sâu vào cái óc còn non của đứa trẻ mới cắp sách đến trường, mở ra một thế
giới sinh hoạt hằng ngày mà lằn ranh giữa học đường và gia đình nhòa đi, cảnh vật và
con người cũng hòa hợp” [103, tr.185]. Bài Đi học phải đúng giờ, bài số 1 trong Quốc
Văn Giáo Khoa Thư có câu:
“Xuân đi học coi người hớn hở,
Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng…”[dẫn theo 103, tr.188]
Qua nhiều lần thay đổi, nhất là với cải cách giáo dục lần thứ hai, nhà cầm quyền
Pháp đã làm được hai việc lớn:một là, xóa bỏ nền giáo dục phong kiến, “một việc làm
cần thiết và phù hợp với sự phát triển của xã hội” [6, tr.115]; hai là, củng cố, mở rộng
nền giáo dục mới, một nền giáo dục thống nhất cho cả ba kỳ về nội dung, tổ chức,
phương pháp giảng dạy. Ở Nam Kỳ, “thời đại lều chõng chấm dứt” [22, tr.87], văn
hóa, giáo dục Pháp đang dần được xác lập vững chắc.
Giáo dục là lĩnh vực chịu ảnh hưởng rõ nhất của mối quan hệ văn hóa giữa Nam
Kỳ với phương Tây, chủ yếu là văn hóa Pháp thông qua kênh ngôn ngữ là chữ quốc
ngữ. Để xây dựng được một nền giáo dục mới “phục vụ cho sự nghiệp thống trị, mang
đậm tính thực dân” [106, tr.185], thực dân Pháp trước hết phải khắc phục được sự bất
đồng về ngôn ngữ, phải có một phương tiện để giải quyết vấn đề bất đồng ngôn ngữ.
111
Chính quyền thuộc địa đã tìm thấy ở chữ quốc ngữ một phương tiện vừa tiện lợi, hiệu
quả, vừa có sức thuyết phục lại ít tốn kém. Chữ quốc ngữ vì thế đóng vai trò là một
phương tiện ngôn ngữ mới, phương tiện ngôn ngữ chính thức cho ngành giáo dục, thay
thế cho chữ Hán, chữ Nôm, đồng thời đánh dấu sự suy tàn của giáo dục Nho học.
Chữ quốc ngữ mặc dù được sử dụng trong một nền giáo dục thuộc địa, chuyển tải
những nội dung ca ngợi công ơn “khai hóa” của người Pháp. Nhưng, trái với mong
muốn của chính quyền thực dân, phương tiện ngôn ngữ giáo dục mới thực sự đã trở
thành công cụ chuyển tải văn minh phương Tây, văn minh thế giới đến với một bộ
phận dân chúng Việt Nam, là giới học sinh, sinh viên của hệ thống giáo dục mới, và
một bộ phận trong số họ đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ nền văn minh phương
Tây là cơ sở cho hoạt động yêu nước và cách mạng…Tác dụng tích cực đó còn thể
hiện ở việc số người biết chữ tăng lên, trình độ dân trí của quần chúng dần được cải
thiện, nhiều môn học mới được đưa vào nhà trường, trong đó có các môn khoa học,
tầng lớp trí thức tân học xuất hiện ngày càng nhiều, có điều kiện tiếp thu thành tựu
khoa học, thành tựu văn minh phương Tây và những tư tưởng tiến bộ góp phần khơi
dậy ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước…Tất cả những kiến thức mới mẻ đó được phổ
cập đến quần chúng một cách dễ dàng, nhanh chóng là nhờ vào phương tiện ngôn ngữ
mới của giáo dục, chữ quốc ngữ.Đó là một kết quả “vượt lên hơn hẳn nền giáo dục
Nho giáo, đã làm cho bộ mặt xã hội ta thay đổi theo hướng đi lên” [6, tr.235]
3.2. Báo chí
Báo chí là một trong những sản phẩm đầu tiên của văn minh phương Tây ở Việt
Nam, ra đời khi người Pháp sang thiết lập chế độ thuộc địa trên đất Nam Kỳ (1862).
Chính quyền thực dân xem báo chí là “một loại vũ khí không kém phần lợi hại” [47,
tr.11] trong công cuộc áp đặt văn hóa phương Tây lên vùng đất Nam Kỳ, là phương
tiện thông tin giữa nhà cầm quyền với sĩ quan, binh lính Pháp, nhân viên dân sự cùng
dân bản xứ. Năm 1861, khi nhậm chức Thống đốc đầu tiên ở Nam Kỳ, Đô đốc Bonard
đã cho ra đời ngay tờ báo đầu tiên bằng tiếng Pháp, tờ Le Bulletin Officiel de l’
Expédition de la Cochinchine (Nam Kỳ Viễn chinh Công báo) và một tờ báo Hán -
Việt Le Bulletin des Communes (Xã thôn Công báo). Tuy nhiên, những tờ báo tiếng
Pháp phần lớn chỉ đến được người Pháp và một số người bản xứ biết tiếng Pháp, làm
112
công chức cho Pháp, không thể tác động trực tiếp đến đông đảo người dân bản xứ. Tờ
báo Hán - Việt thì chỉ có quan lại nhà Nguyễn và một số ít trí thức Nho học mới đọc
được.
Muốn tác động trực tiếp đến đông đảo người dân Việt Nam, thực dân Pháp phải
có những tờ báo tiếng Việt, tức báo in bằng chữ quốc ngữ. Với sự hoàn chỉnh về căn
bản sau 300 năm chế tác và khả năng đi vào đời sống, không ai khác, chữ quốc ngữ,
“một thứ chữ dễ đọc, dễ viết đã được vun quén phía sau các cánh cửa nhà chung” [46,
tr.63], sẽ là phương tiện ngôn ngữ thích hợp nhất để người Pháp mở mang báo chí: vừa
thích hợp cho âm mưu đánh bạt chữ Nho, mở mang giáo dục, truyền bá học thuật và tư
tưởng Pháp; lại vừa thích hợp để phổ biến những thông tư, chỉ thị, nghị định của chính
quyền Pháp đến mọi tầng lớp xã hội. Hơn nữa, người Pháp còn đang chân ướt chân ráo
ở miền Đông, để thực hiện âm mưu nuốt luôn ba tỉnh còn lại và ôm trọn cả Đông
Dương, người Pháp rất cần một số lượng lớn những quân nhân Pháp biết nói tiếng bản
xứ và những người bản xứ cộng tác để “yên dân”, hiểu được chính sách của Pháp,
đồng thời lôi kéo họ về phía mình. Bấy giờ, giới cựu học lẫn tân học người Việt cũng
nhận thấy những thuận lợi mà chính quyền thuộc địa đang tạo ra cho chữ quốc ngữ và
tìm cách đưa tiếng Việt lên mặt báo và trang sách.
Trước bối cảnh ấy, ngày 15 – 4 – 1865, chính quyền thuộc địa quyết định cho
xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Việt Nam: Gia Định báo(Journal of Gia Định)–
“một tờ báo “mẹ” của các tờ báo hiện nay” [122, tr.59], do Ernest Potteau, một người
viết chữ quốc ngữ không kém gì người Việt, làm Chánh tổng tài (Giám đốc hoặc chủ
nhiệm ngày nay). Thoạt đầu, báo ra mỗi tháng một số vào ngày 15 hàng tháng, sau mỗi
tháng ra 2 số vào ngày 1 và 15. Đến ngày 15 – 6 – 1880 (số 13) thì trở thành tuần báo.
Việc xuất bản Gia Định báo diễn ra giữa lúc các cuộc kháng chiến chống Pháp của dân
chúng Nam Kỳ vẫn nổ ra liên tục ở khắp nơi, nổi bật là cuộc kháng chiến của cha con
Trương Định, Trương Quyền, càng cho thấy quyết tâm của người Pháp muốn dùng
mọi cách để “thu phục” lòng dân, xem Gia Định báo là “tượng trưng cho tinh túy của
các nỗ lực của Pháp nhằm thực hiện một sứ mệnh khai hóa” [126, tr.92]. Tuy nhiên, họ
đã vô tình tạo ra một hiện tượng cực kỳ mới mẻ trong đời sống văn hoá Việt Nam.
113
Từ khi ra đời, Gia Định báo và chữ quốc ngữ luôn luôn song hành, hỗ trợ cho
nhau trên con đường chuyển tải văn hóa phương Tây vào Nam Kỳ. Quốc ngữ với sự
hoàn chỉnh và tính phổ biến đã trở thành điều kiện, là phương tiện ngôn ngữ cho Gia
Định báo ra đời và phát triển phong phú, rộng rãi với nhiều thể loại bài đăng. Ngược
lại, Gia Định báo chính là công cụ phổ biến rộng rãi quốc ngữ, là môi trường để chữ
quốc ngữ được gọt giũa, hoàn thiện và tự do thể hiện mọi khả năng diễn đạt của mình.
Trong thư đề ngày 9 – 5 – 1865 của ông G. Rose gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa
Pháp đã khẳng định mục tiêu của Gia Định báo: “Tờ báo này nhằm phổ biến trong giới
dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về
những vấn đề mới có liên quan đến văn hoá và những tiến bộ về ngành canh nông... sẽ
là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của
chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi” [113,
tr.55]. Rõ ràng, ngay từ đầu, nội dung của Gia Định báo không chỉ bị giới hạn trong
việc đăng tải các thông báo, nghị định của chính quyền như các công trình nghiên cứu
trước đây đã khẳng định, mà nó còn tiếp cận với cuộc sống bằng những kiến thức “liên
quan đến văn hóa” và “ngành canh nông” tức là thuộc về kinh tế.
Tuy nhiên, trong thời gian đầu chịu sự điều khiển của Ernest Potteau, Gia Định báo vẫn nặng về tính chất công báo19 hơn, dành nhiều chỗ hơn cho những công văn,
nghị định của nhà cầm quyền Pháp, và những bài giải thích các văn kiện ấy. Chẳng
hạn, trong số 4, ngày 15 – 7 – 1865 có đoạn: “Hội đồng việc canh nông và các nghề
nghiệp… Hội đồng này bây giờ là Hội đồng các quan mạc lòng [mặc lòng] nhưng mà
làm ra một bộ riêng ở ngoài các việc quan không lo gì đến việc công, không thuộc gì
phép quan trị cũng như bên Pha-lang-sa có ý lo một sự người ta mọi nơi chanh cùng
nhau tài trí khôn ngoan và mọi người tùy sức bậc mà lo hết lòng hoặc việc làm đất làm
ruộng hoặc việc nghề nghiệp nào thì được sinh lợi ra ích cả và địa phận, được thêm ra
những cách thiên hạ thịnh sự khá hơn…” [120, tr.336]. Thường nhất là những “Lời
thẩm xét các sở tham biện, án xử phạt”, Gia Định báo số 5 ngày 1 – 3 – 1874: “Tháng
19 Nghĩa là tờ báo do chính quyền lập ra, do chính phủ cấp tiền để hoạt động và người làm báo do chính quyền trả lương.
8 ngày mồng 8 quan tham biện Tân an xử Phạm văn toàn 36 tuổi, Trần văn báu 30
114
tuổi và Trần văn xòa 34 tuổi, cả ba đều ở Thanh xuân đông, có tội làm nghịch cùng
giết người, nên xử tử tên Toàn, tên Báu phạt tù 3 năm còn tên Xòa ở tù 6 tháng, chúng
nó xin hội đồng xét lại, bây giờ tên Toàn cũng y như án, tên Báu phát lưu 10 năm, còn
tên Xòa phát lưu 5 năm” [109, tr.52]
Ngoài phần công vụ, “là phần quan trọng, chiếm vị trí hàng đầu và nhiều trang
nhất” [71, tr.21], Gia Định báo cũng có cả phần tạp trở, đăng tin tức ở Sài Gòn và các
tỉnh, đăng giá gạo, giá lúa, giá đường trắng, giá đường đen… Tất cả đã phản ánh sinh
động đời sống, xã hội Nam Kỳ. “Giá gạo tại Sài Gòn 1 vuông 8 quan, lúa 1 vuông 4
quan” (số tháng 9 – 1865), hoặc tin về đời sống số 5 tháng 8 – 1865: “Năm nay coi đó
mà coi, thì bịnh ban cua lưỡi trắng thì thạnh hơn hết, nhiều người ta mắc bịnh lắm.
Bịnh này thơ mơ mà chết nhiều. Có nhiều thế mắc nó, thường nó làm khó ở nóng lạnh
rút thành cử rồi thủng thẳng nó làm vài ba bữa một cử…” [dẫn theo 122, tr.144-145].
Hoặc số 5 tháng 8 – 1865: “Năm nay mưa thuận, đều trời đâu đó cũng có mưa, mùa
màng làm chỗ nào cũng được, chỉ còn sợ hạng tháng 7 mà thôi. Nghe ra jân sự đã yên
hơn ngày trước lo làm ăn không còn lòng một jụ hai nữa” [dẫn theo 122, tr.144].
Thỉnh thoảng cũng có đăng tin tức thế giới, số 5 ngày 15 – 8 – 1865 có đoạn: “Có nhật
trình bên Thượng Hải nói bên nước Nhựt Bổn năm nay mất mùa, cây trái bông hoa
phải hao hết nhiều, người ta sợ có khi phải đói. Còn bên Tàu mắc lấy mùa lụt, nhiều
chỗ cây trái mắc nước lụt hư hết” [dẫn theo 47, tr.15]
Điều đặc biệt là Gia Định báo còn có vai trò “hỗ trợ nền giáo dục thuộc địa” [71,
tr.13], dùng cho nhu cầu dạy và học chữ quốc ngữ. Để giảm bớt sự dựa dẫm vào các
giáo sĩ trong việc thông dịch, ngày 8 – 5 – 1862, Phó Đô đốc tổng tư lệnh Bonard cho
thành lập tại Sài Gòn trường thông ngôn Collège Annamite. Chữ quốc ngữ là lựa chọn
ưu tiên và tờ Gia Định báo trở thành tài liệu để các viên thông ngôn, học trò trong các
trường dùng thực tập chữ quốc ngữ. Khi ban hành Nghị định 16 – 7 – 1864 tổ chức
một số trường tiểu học ở các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ, nhưng không có sách giáo
khoa cung ứng cho nhu cầu dạy và học, Đô đốc De La Grandière cũng chọn ngay tờ
Gia Định báo làm cuốn sách duy nhất các trường học của người Pháp, ngoài ra học
sinh không có gì để đọc thêm như các trường đạo. Từ đó, theo ông G. Rose: “Gia Định
115
báo đã được dân chúng ủng hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương những em bé
biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe” [dẫn theo 122, tr.143]
Đến năm 1869, Gia Định báo được Thống đốc Nam Kỳ giao cho Trương Vĩnh
Ký (1837 – 1898), “một trí thức đa ngữ” [115, tr.23], làm chủ nhiệm: “Kể từ hôm nay
việc biên tập tờ Gia Định báo được giao phó cho ông Pétrus Trương Vĩnh Ký, người
với tư cách là chánh tổng tài của tờ này, sẽ được lãnh khoản lương hằng năm là 3.000
đồng quan Pháp” [dẫn theo 64, tr.84]. Nắm trong tay một vũ khí văn hóa bằng tiếng
Việt, Trương Vĩnh Ký đã khéo léo lái phần lớn nội dung của báo cho những bài viết bổ
ích về những đề tài lịch sử, những sự kiện về luân lý, thời sự, những bài thơ, truyện cổ
tích, tin tức, bình luận… Từ đó, Gia Định báo trở nên phong phú, sinh động hơn, gần
gũi với quần chúng hơn, từ một tờ báo theo thể thức công báo trở thành một tờ báo
thông thường. Tiếng Việt trên báo cũng trở nên đơn sơ, mộc mạc như lời nói hằng
ngày bởi chủ trương “viết như nói thường” của Trương Vĩnh Ký.
Với mục tin tức, để có sự phong phú và sinh động, Gia Định báo có tổ chức một
mạng lưới cộng tác viên ở các địa phương với chủ trương tìm kiếm “những chuyện
mới lạ đem vô nhựt trình cho người ta biết” [47, tr.18], số 11 ngày 8 – 4 – 1870 có
đăng: “Ăn cướp, ăn trộm. Bệnh hoạn, tai nạn. Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt. Cháy chợ,
cháy nhà, mùa màng thế nào. Tại sở nghề nào thạnh hơn…” [dẫn theo 109, tr.49]. Phải
chắc chắn rằng chữ quốc ngữ đã đạt đến trình độ diễn đạt linh hoạt thì Gia Định báo
mới khuyến khích các cộng tác viên viết bài với mọi chủ đề như vậy. Một mẩu tin tức
địa phương rất bình dị trong số 5, ngày 16 – 2 – 1870 có đoạn: “Có một người tên là
Thiện, nhà ở gần chợ Hốc Môn. Tối 12 tháng giêng này người ấy xuống ghe mà ngủ,
còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la,
làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi cháy nhà trụm đi. Chú Thiện có
tật điếc, vợ kêu, la làng tróc môn lòi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng
đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi…” [dẫn theo 47, tr.19].
Hay số 8 ngày 8 – 3 – 1870: “Có người ở làng Tân Phong, tổng Phước Vĩnh Trung
đem một gói cào cào lửa, lớn đều nhau bằng ngón tay út đàn bà mà bẩm cho quan
tham biện hay. Không biết bởi đâu mà có giống quái gở ấy đến phá mía người ta. Nó
nhiều quá ước chừng mấy xe chở cũng không hết; khi nó bay ngang qua đường thì hai
116
người đi đường không thấy nhau, còn nó vù vù đến nỗi hai người nói chuyện với nhau
không đặng. Nó sa đến đâu thì khốn đến đó: Nó ăn một giờ hết ba đám mía” [dẫn theo
109, tr.50]
Đối với những tin quảng cáo, Gia Định báo thường dành đặt ở trang cuối, xuất
hiện ngày càng nhiều theo thời gian, lúc đầu chỉ có nửa trang, dần dần tăng lên một
trang và kéo dài ổn định ít nhất đến năm 1900. Số ra ngày 28 – 1 – 1881 có đăng tin:
“Nhà hàng ông Lacaze ở đường Catinat, Saigon có bán rượu chát, các thứ rượu, các
món múi và làm dưa, để lâu, đồ đi săn bắng, thuốc súng, bì súng bể, đạng súng sáu lòng, hạng nào cũng có…”20. Những tin quảng cáo như thế thường gắn liền với hoạt
động thương mại, nhất là thương mại tư nhân của người dân bình thường trong xã hội.
Số ra ngày 4 – 5 – 1881 có đoạn: “Thuốc viên trị sán lãi bằng thứ Santonine. Thuốc ấy
làm ra từ viên cho con nít dễ uống cùng cho nó sông ra các thứ sán lãi nhỏ nhỏ hay
làm cho con nít đau ốm. Thuốc viên ấy có người chính viện lương y chế kỷ can lắm.
Viện ấy ở tại Paris (pharmacie centrale de France) đã được nhiều phần thưởng vì
công việc làm kỷ can. Có một tiệm pharmacie Normale ở tại Saigon có thứ thuốc viên
ấy mà thôi…” [dẫn theo 122, tr.140]. Sự xuất hiện của những tin quảng cáo cho thấy
rằng, với chữ quốc ngữ, ngay từ những ngày đầu ra đời, Gia Định báo đã có khả năng
phục vụ cho mục đích kinh tế và tiếp thị.
Gia Định báo còn dành riêng một mảng cho thơ ca với những bài thường mang
tính giáo dục cao về đạo đức, cách sống ở đời, phê phán thói hư tật xấu, khuyên con
người theo lối sống mới, từ bỏ hủ tục, rượu chè, cờ bạc, như bài “Khuyên đừng cờ
bạc” của Võ Thành Đức:
“Đã sanh ra đứng làm người,
Đủ năm tạng phủ đủ mười tay chơn
Có thân nên tiếc với thân,
Lánh xa chỗ đục, tìm gần nơi trong.
Tai có lỗ, mắt có tròng,
20 Catinat là đường Đồng Khởi ngày nay. Xem [122, tr.140]
Nghe đều lợi hại khỏi vòng thị phi”[dẫn theo 122, tr.150]
117
Ngoài ra, trong mục thơ ca còn có cả những bài giải thích về tục ngữ, ngạn ngữ.
Trên Gia Định Báo số 40 – 1895 có đăng bài viết của Huỳnh Tịnh Của: “Đa tài luỵ
thân. Nghĩa là, tài nhiều thì rối nhọc mình; chữ tài ấy có hai nghĩa một là nghĩa của
cải, một là nghĩa tài năng, người ta hay lấy nghĩa trước, một sự lo đặng lo mất, thì cực
biết mất, huống chi có người phải chết vì sự tiền của” [dẫn theo 122, tr.152]. Với các
bài đăng và giải thích về tục ngữ, ngạn ngữ, Gia Định báo đã cho người đọc thấy rằng
chữ quốc ngữ đã phát triển đến mức đáng ngạc nhiên, đủ khả năng để giúp cho tiếng
Việt có thể giải thích tiếng Việt.
Đề tài lịch sử cũng là một mảng không thể thiếu trong Gia Định báo. Chuyên
mục “Tiếp theo chuyện sách sử nước An Nam” trong số 7 tháng 4 – 1873 có ghi chép
những sự kiện thuộc đời vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369): “Thuở trước đánh được
giặc Toa Đô có bắt được một người kép hát tên là Lý Nguyên Kiết, rồi những tôi tớ
các nhà thế gia mới theo mà học tập lấy những tuồng hát bên Tàu tiếng tục kêu là
tuồng hát bội. Trong nước An Nam có tuồng hát bội là bày đầu ra từ khi ấy” [dẫn theo
109, tr.53]. Qua đây, chữ quốc ngữ đã chứng tỏ được khả năng viết sử đến mức hoàn
chỉnh với đầy đủ tên người, tên địa danh, sự kiện và những từ ngữ chuyên môn về
hành chánh, về giáo dục, khoa cử và kể cả các sinh hoạt xã hội như hôn nhân, tang
chế, nghệ thuật…
Chính nhờ sự hoàn chỉnh đến mức điêu luyện và khả năng diễn đạt phong phú,
linh hoạt, bình dị của chữ quốc ngữ, Gia Định báo mới có thể trở thành một tờ báo
phát triển toàn diện, đa dạng về thể loại và phong cách như vừa nêu, chặt chẽ về kết
cấu. Ngôn ngữ đời sống hằng ngày được sử dụng ngày càng nhiều làm cho “câu văn
mang tính chất linh hoạt, phản ánh đúng bản chất các đối tượng miêu tả” [94, tr.26]. Vì
lẽ đó, Gia Định báo ngày càng trở nên gần gũi hơn với đông đảo người dân Nam Kỳ.
Ngược lại, Gia Định báo lại chính là phương tiện đi đầu trong việc phổ biến chữ quốc
ngữ trong dân chúng, khuyến khích dân chúng học chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán,
chữ Nôm.
Trong số ngày 15 – 4 – 1867 có ghi nhận Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên “có
làm sách mẹo dạy tiếng Langsa, có làm ra chữ quốc ngữ để người ta dễ học, những
người ký lục giỏi, cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ
118
mà viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ cũng viết đặng, không phải như chữ
ta, học già đời mà còn chữ lạ viết không ra,…. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học
một đôi tháng thì thuộc hết” [dẫn theo 122, tr.42]. Ngoài ra, với sự tham gia tiên phong
của những người “rành chữ quốc ngữ” như Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký…, chữ
quốc ngữ càng được phổ biến mạnh mẽ hơn thông qua những tri thức mới như khoa
học, truyện, tiểu thuyết của phương Tây, thơ phú của người Việt, Trung Quốc dịch ra
quốc ngữ, các tác phẩm văn học dân gian được sưu tầm và in lại. Các tác phẩm bằng
chữ quốc ngữ của họ trên Gia Định báo không những làm tăng tính văn học cho tờ báo
này mà còn góp phần trau chuốt cho tiếng Việt. Từ đó “câu văn tiếng Việt dần thoát ra
khỏi lối văn biền ngẫu, có vần, có đối để tiến tới sự mạch lạc, trong sáng của ngữ pháp
phương Tây” [94, tr.26]. Nền văn chương cổ dần chuyển sang văn chương hiện đại.
Ngoài ra, Gia Định báo còn cổ động cho lối học mới, truyền bá tư tưởng, trở
thành diễn đàn chung cho các trí thức Nam Kỳ bấy giờ “chấn hưng cổ học, dung hòa
giữa cái học truyền thống và cái học mới” [91, tr.268]. Gia Định báo chẳng những
nhằm vào việc giáo dục những lớp người trẻ còn đang đi học, mà còn có thể giáo dục
cho tất cả những ai có thể đọc được chữ quốc ngữ. Nhiều bài viết chỉ trích lối học cũ
và cổ động cho lối học mới, tuyên truyền cho việc phổ biến nền văn hóa mới. Nhờ vậy,
chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ càng có điều kiện đi vào quần chúng và phát triển hơn so với
Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Đến năm 1909, nhận thấy tác dụng trong việc thực hiện chính sách thực dân đã
giảm, chính quyền Pháp cho đình bản Gia Định báo. Trong suốt thời gian thành lập,
làm Tổng biên tập, và cũng là cây bút chủ chốt của Gia Định báo, Trương Vĩnh Ký
“rất coi trọng, tin tưởng và phấn đấu cho tiếng Việt, đưa nó thành một ngôn ngữ văn
hóa phổ biến, mang đậm bản sắc dân tộc” [47, tr.22]. Trương Vĩnh Ký, cùng với
“những người Việt đầu tiên làm báo” [39, tr.18] như Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh
Của, Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt,… đều là những con
người “nặng lý tưởng văn hóa, họ muốn làm báo để quảng cáo cho tiếng Việt và du
nhập tư tưởng Tây phương vào văn hóa cổ truyền Đông phương mong tạo được sự hòa
hợp tốt đẹp” [13, tr.89]. Công lao của những trí thức Tây học này trong công cuộc xây
dựng nền văn hóa mới là không thể phủ nhận. Kể từ sau Gia Định báo, họ còn góp
119
phần làm cho báo chí Việt Nam và chữ quốc ngữ phát triển phong phú, sôi nổi chưa
từng thấy từ Nam ra Bắc.
Tuy ra đời trong mục đích thực dân, nhưng Gia Định báo được xem là cột mốc
mở đầu của lịch sử báo chí Việt Nam, là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử phát
triển tiếng Việt và chữ quốc ngữ. Thông qua Gia Định báo, chữ quốc ngữ ngày càng
được tôi luyện, trau chuốt và đi đến hoàn thiện. Ngược lại, tất cả những tin vắn, lời
rao, đến các bài phẩm bình, tranh biện, thơ phú, truyện, tiểu thuyết mang phong cách
văn viết phương Tây trên Gia Định báo đều do chữ quốc ngữ làm nên, hình thành một
phong cách ngôn ngữ mới của tiếng Việt mà trước đó chưa hề có – phong cách ngôn
ngữ báo chí. Vì vậy, với Gia Định báo, đây là lần đầu tiên, chữ quốc ngữ thoát ra khỏi
cánh cửa nhà thờ để nhảy lên địa vị báo giới và cả sáng tác văn học, mở đầu cho nền
văn học quốc ngữ.
Ngoài Gia Định báo, năm 1898, một “tờ báo quốc ngữ thứ hai của tư nhân người Việt Nam”21cũng được ra đời, Phan Yên báo do Diệp Văn Cương, thành viên Hội
đồng quản hạt Nam Kỳ làm giám đốc. “Ông Cương đặt tên tờ báo như vậy vì cổ danh
của thành Gia Định là Phan Yên Trấn” [9, tr.8]. Hiện nay không còn lưu giữ văn bản
nào của Phan Yên báo.
Đâylà một trong những tờ báo tư nhân đầu tiên, xuất bản hàng tuần, số đầu ra
tháng 12 - 1898. Nội dung và hình thức của Phan Yên báo không khác với Gia Định
báo bao nhiêu [47, tr.24]. Nhưng Phan Yên báo dám đăng một loạt bài có liên quan
đến tình hình chính trị trong nước có ý chống lại sự hiện diện của người Pháp ở Việt
Nam, nhất là bài “Đòn cân Archimède” (Point d’appui) của Cuồng Sĩ (bút danh của
Diệp Văn Cương) dụng ý phê phán một số mặt chính sách của thực dân Pháp, “tỏ rõ
xu hướng yêu nước rõ rệt”. Chính vì vậy, Phan Yên báo chỉ ra được khoảng 7, 8 số thì
bị đình bản. Đây là “tờ báo quốc ngữ đầu tiên bị cấm ở Nam Kỳ” [22, tr.132]
Tờ báo tiếng Việt thứ ba ra đời tại Sài Gòn là tờ Nông Cổ Mín Đàm (1901 –
1924). Tên Hán – Việt này được giải nghĩa bằng dòng chữ Pháp ngay trên đầu trang
nhất: “Causeries sur l’Agriculture et le Commerce”, nghĩa là bàn chuyện canh nông và
thương mãi. 21 Tờ đầu là nguyệt san Thông loại khóa trình của Trương Vĩnh Ký. Dẫn theo [22, tr.130]
120
Nông Cổ Mín Đàm số đầu tiên ra mắt vào ngày 1 – 8 – 1901, là tờ báo kinh tế
đầu tiên của xứ Nam Kỳ. Sáng lập tờ báo là một người Pháp, ông Canavaggio, một
người giỏi Hán – Nôm và Việt ngữ, Ủy viên hội đồng quản hạt làm giám đốc và
Lương Khắc Ninh, một cây bút tên tuổi làm chủ bút. Báo xuất bản vào hàng tuần, kéo
dài được 115 số (số cuối 5 – 1924), thường in 8 trang, có khi 12 trang. Nhiều danh sĩ
lần lượt làm chủ bút sau Lương Khắc Ninh như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Đồng Trụ,
Lê Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt.
Ngay số đầu, trang nhất của báo đã đăng Nghị định của toàn quyền Đông Dương
là Paul Doumer ký ngày 14 – 2 – 1901), cho phép Canavaggio lập nhật trình Nông cổ
in chữ quốc ngữ và chữ Nho. Nội dung chủ yếu của báo là “hô hào người bản xứ hùn
vốn kinh doanh thương mãi” [47, tr.25]: “Cách lập thế đặng đua chen về sự hùn hiệp
bán buôn cho kịp người Khách, thì phải làm như vầy: lập một hùn của người bổn quốc
chừng một triệu, trong một triệu chia ra làm năm ngàn phần hùn, mỗi phần làn 200
ngươn bạc…”. Báo còn thường xuyên đăng những bài dạy cách trồng trọt, chăn
nuôi:“Cách giữ cỏ cho khỏi mọc rậm, thì chừng hết mưa đem đậu trắng mà vãi gieo
phía trong. Ngày nào mình có đi đến mà thăm viếng thì sẽ mở cửa; bằng ngày không
đi đến thì đóng cửa rào lại, không ai đến lui phá phách cho đặng…” [dẫn theo 47,
tr.27], hay giới thiệu các cửa hàng và các hoạt động thương mãi, công nghệ của người
bản xứ, có mục chuyên về giá lúa gạo, giá các hàng xuất khẩu, các vấn đề liên quan
đến cao su, trà, cà phê. Báo hô hào cạnh tranh với các nhà công thương ngoại quốc,
tuyên truyền luân lý Khổng Mạnh. Thỉnh thoảng đăng bài ca tụng quan chức thực dân.
Là người trực tiếp phụ trách Thương cổ luận, Lương Dũ Thúc (Lương Khắc
Ninh) có công lớn trong việc cổ động cho phong trào Minh Tân, cổ súy giới chủ,
thương gia người Việt đang hình thành, đua chen quyền lợi kinh tế với người Hoa, với
ngoại kiều khác ở lục tỉnh.
Tuy là báo kinh tế, nhưng về phương diện văn chương,Nông Cổ Mín Đàm có vai
trò quan trọng trong đời sống báo chí. Bởi Nông Cổ Mín Đàm thường dành tới 3,4
trang đăng tải truyện dịch, truyện dài, truyện ngắn và mục Thi Phổ (đăng thơ sáng tác
mới, văn học dân gian sưu tầm…). Nhiều nhất là thi phú, thơ Đường luật, thơ lục bát,
121
đề tài có tính cách tức cảnh sinh tình, luân lý. Huấn nữ ca là bài thơ tiêu biểu cho chủ
đề thơ luân lý đăng trong số 151 (ngày 4 – 8 – 1904):
“Mẹ cha lời dạy rẽ ròi,
Học làm để dạ chớ coi thị thường.
Công dung ngôn hạnh mọi đường,
Sớm xem tối xét tỏ tường mai sau” [dẫn theo 47, tr.30]
Ngoài ra, trên Nông Cổ Mín Đàm còn có 11 bài thơ Đường luật của Mạc Thiên
Tích vịnh 10 cảnh đẹp của Hà Tiên (Hà Tiên thập cảnh) đăng trong số 159 (29 – 9 –
1904). Chính Nông Cổ Mín Đàmcòn là tờ báo đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn
trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Bộ Tam quốc chí của Trung Quốc lần đầu
tiên được dịch ra tiếng Việt, do chính Canavaggio dịch và đăng tải liên tục trên báo
này.
Theo tác giả Nguyễn Q. Thắng, “đây là một tờ báo tuy chủ đề nói về việc nông
tang, buôn bán; nhưng thật là một tờ báo khá đặc sắc về văn chương và thời sự vào
thời kỳ đầu ở Nam Kỳ” [91, tr.272]
Khuynh hướng chung của Nông Cổ Mín Đàm là phản ánh lợi ích của giai cấp tư
sản thương mại hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp. Giới
này chủ trương yên ổn làm ăn dưới sự đô hộ của thực dân. Nông Cổ Mín Đàm trước
có hoan nghênh chủ trương Minh Tân, nhưng sau đó có nhiều bài tố cáo Trần Cánh
Chiếu âm mưu chống Pháp. Tuy nhiên, một số nhà văn, nhà giáo như Nguyễn Dư
Hoài, Nguyễn Khác Huề cũng đã tìm mọi cách để đăng một số bài thơ có nội dung
lành mạnh. Lê Quang Chiểu có bài thơ bác luận điệu bán nước của Tôn Thọ Tường.
Nhiều người viết cho báo đã sưu tầm văn thơ yêu nước ở Nam Kỳ thời bấy giờ. Một
số người như Gilbert Chiếu, Nguyễn Thành Hiến, Lê Quang Chiểu, Trần Quan Văn có
tham gia phong trào yêu nước do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo năm 1906.
Lục Tỉnh Tân Văn(1907) cũng là tờ báo quốc ngữ khá quan trọng trong đời sống
văn hóa Nam Kỳ, do Francois Henri Schneider sáng lập trong bối cảnh phong trào vận
động Duy Tân đầu thế kỉ XX, mà ở Nam Kì có tên là cuộc vận động Minh Tân. Chủ
bút là Trần Chánh Chiếu, một nhân vật rất độc đáo của xứ Nam Kỳ lúc đó, một người
Tây học, nhưng lại có thiện cảm với phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Thời
122
gian đầu ông vừa là chủ bút báo Lục Tỉnh Tân Văn vừa làm chủ bút báo Nông Cổ Mín
Đàm. Đến ngày 21 – 5 – 1908, ông chỉ làm chủ bút riêng cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Lục Tỉnh Tân Văn số đầu tiên ra ngày 14 – 11 – 1907, gồm 16 trang, khổ 19x28
cm, mỗi trang 2 cột giống như các tờ báo tiếng Việt đầu tiên. Sau này, Lục Tỉnh Tân
Văn ra tuần 3 số (thứ hai, thứ tư và thứ sáu). Năm 1921, khi tờ Nam Trung Nhật Báo
sáp nhập vào, nó chuyển thành nhật báo.
Mặc dù Lục Tỉnh Tân Văn trên danh nghĩa vẫn do Schneider đứng tên xin phép
và là sáng lập viên, đăng các văn kiện chính thức của nhà cầm quyền Pháp, nhưng
ngay từ đầu, tờ báo dưới sự điều khiển của Trần Chánh Chiếu với bút danh Trần Nhựt
Thăng, đã sớm tỏ ra là một tờ báo có khuynh hướng cấp tiến. Trong 50 số đầu dưới
quyền chủ bút của Trần Chánh Chiếu, phần chính yếu của Lục Tỉnh Tân Văn là vận
động cho cuộc Minh Tân, hướng theo cải cách, tự cường đang sôi động ở miền Bắc và
Trung Kỳ, bao gồm những bài kêu gọi, giải thích, châm biếm, tranh luận, thơ phú.Ở
khía cạnh này, Lục Tỉnh Tân Văn tỏ ra có nhiều kinh nghiệm [39, tr.32]. Trong bài
“Phụng đáp Duy Tân”, Lục Tỉnh Tân Vănsố 51 ngày 5 – 11 – 1908 có tranh luận với
chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm về vấn đề Duy Tân: “Chữ Duy Tân nghĩa là gì? Nói
cho dễ nghe thì là: bỏ tục cũ theo thể mới, bỏ lòng tà theo lòng chánh, vân vân… Cũng
có vầy: bấy lâu dốt nát vụng về, bấy giờ biết hóa lòng mà học nghề học chữ, ấy là Duy
Tân… Lấy ý ngu tôi tưởng, chữ Duy Tân là: bỏ dại học khôn, bỏ vụng học khéo, bỏ dốt
học hay chữ, bỏ dữ học lành, bỏ biếng nhác học siêng năng, lần lần mà hóa, chẳng
khác nào đăng cao tất tự ti, hành viễn tất tự nhĩ vậy” [dẫn theo 47, tr.33-34]. Qua đó,
Lục Tỉnh Tân Văn thống thiết kêu gọi Minh Tân trong bài “Cấp báo quyền lợi”: “Đồng
bào ôi! Tua ước cùng nhau mà kịp gióng tiếng chuông tự do lên, dựng cây cờ độc lập
dậy, truyền lời hịch minh tân ra, cho đặng mở mặt mở mày cùng người ngoại quốc,
cho đặng nở gan nở ruột cùng bạn đồng bang… Rày cuối xin đồng bào mau tính lại,
vỗ tay một lượt mà bước tới cuộc văn minh, đặng day cán lợi của quê hương ta cho
người quê hương ta cầm. Vậy mới gọi là khuông thời, vậy mới rằng tế thế” [dẫn theo
37, tr.35]
Đối với hủ tục, Lục Tỉnh Tân Văn chống rất mạnh những tệ nạn mê tín, cờ bạc, á
phiện, rượu chè say sưa mất nhân cách, với những bài: Xã cựu tùng tân, cải tà, quy
123
chánh, Tử táng minh luận, Á phiện, Đề 36 con, Đòi uống rượu mãi… Trong bài “Đòi
uống rượu mãi” số 17 gày 12 – 3 – 1908 có đoạn viết: “Các anh em ôi! Uống rượu say
thiệt là xấu hổ lắm, xin các anh em hãy dằn lòng trong khi chơi bời rượu trà, đừng cho
quá độ đã xấu hổ lại hao tổn tinh thần nữa” [dẫn theo 47, tr.39]
Về mặt văn học, những trang văn thơ của Lục Tỉnh Tân Văn rất có giá trị bởi sự
góp mặt của nhiều cây bút mới, có tài trong nền văn chương quốc ngữ như Trương
Duy Toản, Trần Tuấn Khải, Hồ Tá Bang, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Trạc… trên
nhiều thể loại: thơ, phú, bài ca, tiểu thuyết, có cả thảo luận về văn chương, ngôn
ngữ.Bài ca khuyên người đi tu là một bài ca mang đậm tính dân tộc trong hoàn cảnh
đất nước bị phương Tây đô hộ:
“Từ nay cắt tóc đi tu,
Tụng kinh An Thái ở chùa Minh Tân.
Ngày đêm khấn cái chuyên cần,
Cầu cho ích quốc lợi dân mới là.
Tôi quyết tu, tu sao cho mở trí dân ta,
Tu cho độ được nước ta phú cường” [dẫn theo 47, tr.42]
Thậm chí Lục Tỉnh Tân Văn còn có những bài viết có tính chất tranh đấu gián
tiếp chống chính quyền thuộc địa và tay sai đắc lực của thực dân thông qua lối nói
bóng gió của tiếng Việt, “mượn việc để này ám chỉ việc khác theo lối ví von, nhất là
cách nói theo lối chơi chữ, những lối phô diễn thường dùng trong văn chương Việt
Nam” [47, tr.37] để tố cáo những hành vi ăn cướp bất nhân bất nghĩa, vô lễ thất tín của
chúng đối với đất nước và nhân dân ta. Tiêu biểu là các bài Cha ghẻ con ghẻ của La
Môn Hòa (số 4, ra ngày 5/12/1907), Mẫu thời binh thế của Mặt Thiệt (số 2, 21-11-
1907)… Theo tác giả Đỗ Quang Hưng, ưu điểm lớn nhất của Lục Tỉnh Tân Văn là đã
“dám cổ vũ lòng yêu nước, chống Pháp và bọn phong kiến tay sai, chống tư tưởng
vong bản” [39, tr.32], “thể hiện cuộc vận động duy tân ở Nam Kỳ lục tỉnh nhằm thay
đổi nếp sống: suy nghĩ, thờ cúng, cách cư xử làm ăn, nghỉ ngơi…” [122, tr.74]. Có lẽ
cũng vì vậy, đây là “tờ báo đối lập đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam” [16, tr.42]
Nhưng Trần Chánh Chiếu chỉ làm chủ bút được 50 số đầu thì bị bắt, “có lẽ do
chúng khám phá được một bộ phận trong tổ chức Đông Du ở Nam Kỳ” [47, tr.32]. Sau
124
đó, vị trí chủ bút rơi vào tay nhiều người khác. Kể từ đó màu sắc tờ báo cũng khác đi.
Báo ngừng xuất bản khoảng cuối 1944.
Có thể nói, Lục Tỉnh Tân Văn là tờ báo có uy tín nhất ở Nam Kỳ trong thời buổi
đầu của nghề làm báo. Nhiều cây bút của xứ Bắc, Trung đã từng vào Sài Gòn học tập
nghề làm báo ở tờ này, từ Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi đến Trần Huy Liệu, Tản
Đà… Ngay Đông Dương Tạp Chí khi mới ra đời cũng phải ghi tên măng-xét của mình
là ấn bản đặc biệt của Lục Tỉnh Tân Văn cho xứ Bắc và Trung kỳ.
Ở Bắc Kỳ, báo chí tuy ra đời muộn hơn, nhưng trong buổi đầu ấy cũng có không
ít những tờ có giá trị về ngôn ngữ và tiếp xúc văn hóa. Đại Việt Tân Báo (1891)là “một
bước tiến về mặt ngôn ngữ (ở Bắc Kỳ) để xâm nhập sâu rộng hơn trong giới quan lại
người bản xứ” [39, tr.43]; hay với Đăng Cổ Tùng Báo (1907),chữ quốc ngữ “đã được
dùng khá thông thoát hơn hẳn” [39, tr.47]; đặc biệt là Đông Dương Tạp Chí (1913), tờ
báo quan trọng bậc nhất trong việc tuyên truyền cho văn minh phương Tây, văn minh
Pháp, trong dạy và phổ biến chữ quốc ngữ [39, tr.49],góp phần đáng kể vào việc trau
dồi ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt đầu thế kỷ XX; không kém vai trò quan trọng là tờ
Nam Phong Tạp Chí (1917),tờ báo có “chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho
thành một nền quốc văn An Nam” [73, tr.59], “tỏ ra kiên trì nghiên cứu cải tạo câu văn
quốc ngữ, đưa thứ chữ mới sử dụng không lâu này có khả năng diễn đạt mọi khái niệm
thâm thúy cổ kim Đông Tây” [39, tr.63], vì vậy, có thể xem Nam Phong “trở thành
một tư liệu có ý nghĩa như “sách luyện quốc văn” [39, tr.64].
Với khả năng có thể đi vào đời sống, chữ quốc ngữ đã trở thành một trong những
“điều kiện kĩ thuật” [39, tr.13] cho sự ra đời của báo chí Nam Kỳ - cái nôi đầu tiên của
nghề báo chí Việt Nam. Không những vậy, chữ quốc ngữ còn đặt nền móng cho báo
chí Việt Nam phát triển “theo hướng toàn diện, phong phú về thể loại, chặt chẽ về kết
cấu, đa dạng về phong cách và thuận tiện, gần gũi, hòa đồng về phương thức tiếp cận
bạn đọc” [47, tr.22]. Tuy trong buổi đầu còn chịu sự kiểm soát của chính quyền thực
dân, số lượng còn ít, tiếng nói còn yếu ớt nhưng nhờ khả năng diễn đạt của quốc ngữ,
các học giả cầm bút mới có thể “tương kế tựu kế”, khéo léo lái nội dung trên báo theo
hướng giáo dục quần chúng, cung cấp kiến thức Tây học lẫn Việt Nam học, thay thế
cho nội dung Hán học nhằm nâng cao và mở mang dân trí, cũng từ đó báo chí dần bắt
125
đầu lộ ra là “một phương tiện, một công cụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sắp
tới” [39, tr.34], “đó chính là những đám bọt biển mong manh, dấu hiệu của những con
sóng ngầm dữ dội” [39, tr.35].
Cũng chính báo chí lại là “môi trường tôi luyện hữu hiệu nhất cho chữ và văn
quốc ngữ Nam Bộ trong suốt nửa cuối thế kỉ XIX” [120, tr.395], góp phần “hình thành
thể loại văn xuôi tiếng Việt đầu tiên trên giấy trắng mực đen, in rõ ràng và đều đặn”
[35, tr.5].Qua báo chí, “tiếng Việt từng bước được rèn luyện trở nên tinh tế và sắc bén
hơn” [115, tr.20], từ những tin vắn, lời rao, đến các bài luận bàn thế sự, phẩm bình,
tranh biện đều mang phong cách văn viết phương Tây, chủ yếu là Pháp, “thực sự mở
đầu cho một phong cách ngôn ngữ mới của tiếng Việt mà trước đó chưa hề có” [115,
tr.20] – phong cách ngôn ngữ báo chí. Rõ ràng, đây là lần đầu tiên, “chữ quốc ngữ đi
vào cuộc thí nghiệm quan trọng nhất: từ địa vị văn thư có quy ước ở cửa công, nó nhảy
lên địa vị báo giới và sáng tác tác phẩm, tức là mở đầu văn học chữ quốc ngữ” [46,
tr.63-64]
3.3. Văn học
Trước khi người Pháp nổ tiếng súng xâm lược, văn học Việt Nam đã có một lịch
sử phát triển lâu đời và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Trong lịch sử trung đại, văn
học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học Trung Hoa về nhiều phương diện,
cả về chủ đề, phương pháp và thể loại. Đến thế kỉ XVII, chữ quốc ngữ ra đời được
xem như một sự chuẩn bị từ rất sớm cho quá trình hình thành một nền văn chương mới
ở Việt Nam [37, tr.244], một chiếc cầu nối mở đường cho văn học phương Tây đặt sự
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam. Đến cuối thế kỉ XIX, khi chữ quốc ngữ đang “phát
triển với tốc độ như vũ bão, bất chấp cả khuynh hướng kém thân thiện của một số
người” [120, tr.390] thì cũng là lúc mọi người lần lượt nhận ra nhu cầu cần phải học
quốc ngữ để có thể nắm bắt nhanh chóng và kịp thời những thông tin, kiến thức mới,
phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau trong đời sống, thậm chí cả mục đích chống
Pháp giành độc lập. Từ đó, một nền văn chương mới nảy sinh, chịu ảnh hưởng trực
tiếp của văn học phương Tây và phát triển cực kì mạnh mẽ vào đầu thế kỉ XX – nền
văn học sáng tác bằng chữ quốc ngữ và chịu nhiều tác động từ chữ quốc ngữ.
126
Chữ quốc ngữ đã đưa nền văn học mới phát triển theo xu hướng hiện đại hóa,
“đi vào quỹ đạo chung của văn học thế giới”[17, tr.23]
Trong cuộc tiếp xúc với văn minh phương Tây đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình
hiện đại hóa toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Việt Nam, từ cơ sở kinh
tế đến thiết chế chính trị, từ văn hóa tới giáo dục, từ tôn giáo, triết học tới các loại hình
nghệ thuật…, văn học quốc ngữ thời cận đại cũng đã phát triển theo chiều hướng hiện
đại, dưới sự ảnh hưởng của văn học Pháp, văn học phương Tây. Quá trình hiện đại hóa
của văn học quốc ngữ diễn ra theo một trình tự nhất định. Đầu tiên là văn học dịch và
phỏng dịch các tác phẩm văn học Pháp, văn học nổi tiếng của phương Tây (thường là
thơ, truyện ngắn, truyện phiêu lưu, tiểu thuyết phiêu lưu, tình cảm…). Sau đó, bước
tiếp theo là các phóng tác và phỏng tác có cốt truyện mới lạ, ly kỳ dựa theo văn học
phương Tây, dựa theo cách kể của truyện nước ngoài. Sau cùng là những sáng tác có
tính “bắt chước” các hình thức nghệ thuật của văn học nước ngoài (như truyện, ký, tiểu
thuyết, kịch…). Quá trình hiện đại hóa này của văn học quốc ngữ thời cận đại đi từ
văn xuôi tới thơ. Văn xuôi thường xuất hiện trước, còn thơ thường xuất hiện sau. Tính
hiện đại trong câu văn xuôi xuất hiện trước câu thơ. Đến đây, văn học Việt Nam không
còn lấy văn học Trung Quốc làm chuẩn mực, mà văn học Việt Nam đã “hướng tâm”
vào văn học Pháp, lấy văn học Pháp làm chuẩn mực.
Mặc dù chưa chiếm địa vị quyết định, song các yếu tố văn học mới ngày càng
bộc lộ rõ ưu thế của mình, vì nó “phù hợp với sự phát triển của tư duy nghệ thuật, với
quan điểm thẩm mỹ, với nhu cầu, thị hiếu của con người thời kì này. Sức hấp dẫn của
nó khó có thể phủ nhận, và chính nó là tiền đề cho những thành công vang dội trong
văn học những năm đầu của thời kì hiện đại trong văn học” [37, tr.232]
Chữ quốc ngữ mang đến cho văn học cận đại tính đại chúng
Tính đại chúng của văn học thể hiện ở sự phổ biến và khả năng phổ biến rộng rãi
của văn học trong đời sống nhân dân, được đông đảo nhân dân quan tâm. Trước đây,
trong thời trung đại, chỉ có bộ phận văn học bình dân, văn học phản ánh đời sống
thông tục của con người, đề cập và quan tâm tới số phận của những tầng lớp bên dưới
xã hội mới có “tính đại chúng” và được các tầng lớp nhân dân bên dưới trân trọng, đề
cao, chủ yếu là văn Nôm, phát triển từ thế kỉ XVI.
127
Nhưng vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, “tính đại chúng” của văn học Việt
Nam lại mang một ý nghĩa khác. Dù thuộc khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật nào,
văn học quốc ngữ thời cận đại đều có khả năng phổ biến rộng rãi trong xã hội, trong
quần chúng nhân dân. Tất nhiên vai trò này thuộc về chữ quốc ngữ, một thứ chữ “vừa
dễ học, mau biết, lại vừa tiện lợi hơn chữ Nôm, chữ Hán” [110, tr.232]. Bên cạnh đó,
sự phát triển của kỹ thuật in ấn, xuất bản, phát hành báo chí càng làm tăng khả năng
phổ biến rộng rãi của văn học quốc ngữ đến với quảng đại quần chúng. Các sáng tác
văn học, từ thơ, truyền ngắn, tiểu thuyết đến truyện dịch, ký… “đều được báo chí đăng
tải, kích thích và nâng cánh” [122, tr.85], được đăng tải trước khi in thành sách. Chính
vì vậy, số người biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ lớn hơn nhiều lần số người biết chữ
Hán, chữ Nôm ở các thời kì trước. Văn học giờ đây không còn thuộc về một bộ phận
thiểu số người có học như trước, mà nó thuộc về mọi tầng lớp, giai cấp, thành phần
trong xã hội, dù đó là trí thức hay công nhân, nông dân, tiểu thương, thị dân… Nhất là
khi văn học đã trở thành “hàng hóa”, viết văn đã trở thành một “nghề”, thì việc tiếp
xúc với văn học được rộng rãi và trực tiếp hơn trước rất nhiều”. Vì thế, so với thời
trung đại, văn học cận đại đi sâu vào đời sống quần chúng nhiều hơn.
Chữ quốc ngữ còn mang đến cho văn học cận đại nhiều nhân tố mới mẻ.
Trước hết, về ngôn ngữ văn học. Đầu thế kỉ XX, nhiều tác phẩm văn học bằng
chữ Hán và chữ Nôm vẫn tiếp tục tồn tại. Chữ Hán và chữ Nôm vẫn là phương tiện
diễn đạt tâm trạng, tình cảm rất phù hợp với các nhà văn được đào tạo trong nhà
trường cũ và với một bộ phận khá đông đảo độc giả. Tiêu biểu là các sáng tác của
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều chí sĩ cách mạng khác. Bên cạnh, văn học
bằng chữ Pháp cũng là một bộ phận đáng chú ý trong thời kỳ này. Đó là các tác phẩm
văn học được đăng tải trên các sách báo tiếng Pháp ở trong nước và nước ngoài. Tiêu
biểu hơn cả là các truyện và ký viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc như Bản án
chế độ thực dân Pháp, Vi hành, Con rồng tre…
Mặc dù vậy, chiếm vị trí quan trọng nhất phải là văn học bằng chữ quốc ngữ. Bởi
vì tác phẩm của nó chiếm số lượng lớn, đề cập tới mọi mặt của đời sống con người,
được đông đảo độc giả đón nhận. “Nó chính là chất liệu nghệ thuật phù hợp với khả
năng, trình độ, tâm lý, thị hiếu của người Việt Nam, có thể phản ánh sâu sắc đời sống
128
tâm hồn con người. Hầu hết các nhà văn của thời kì này đều viết bằng chữ quốc ngữ,
và hầu hết những thành tựu văn học của thời kì này thuộc về văn học quốc ngữ” [37,
tr.244-245]
Đếnnhững năm 30 của thế kỉ XX, chữ quốc ngữ vẫn được sử dụng làm chất liệu
nghệ thuật cơ bản của ngôn ngữ văn học, vì “đó là thứ ngôn ngữ đã đạt tới sự hoàn
chỉnh, vừa sinh động, hiện thực, vừa tinh vi, tế nhị, có khả năng diễn tả sâu sắc các
trạng thái khác nhau của tâm hồn con người. Có thể nói, tiếng Việt văn học đến thời kì
này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình trong việc khai sinh nền văn học mới…”
[37, tr.261]
Ngôn ngữ mới có khả năng diễn đạt sinh động mọi cung bậc khác nhau của tâm
hồn con người, chính vì thế tư tưởng nghệ thuật cũng thay đổi. Trong bối cảnh đau
thương và thất bại của lịch sử chống ngoại xâm dân tộc, văn học quốc ngữ phản ánh “ý
thức của những con người mang tư tưởng tư sản, ý thức cá nhân và “tự do” dần phát
triển, để dần thay thế đời sống tinh thần của xã hội.Từ đây, đánh dấu chấm hết cho ý
thức hệ phong kiến và mở ra “vận hội” của ý thức hệ tư sản” [37, tr.227]
Để thể hiện được tư tưởng nghệ thuật mới ấy, đòi hỏi nền văn học quốc ngữ cũng
phải sản sinh ra những nhân vật chính của riêng mình, những nhân vật mới phù hợp
với nền văn học mới. Do tính chất giao thời, cho nên nhân vật chính của văn học quốc
ngữ cũng mang dáng vẻ “giao thời”, vừa quen vừa lạ, vừa có những đặc điểm của con
người trong văn học truyền thống xưa kia (người chí sĩ hay kẻ bất mãn với xã hội), vừa
có cả đặc điểm của những con người thời đại mới, trước đó chưa hề có trong văn học
(tư sản, tiểu tư sản, trí thức, thị dân…)
Nhưng yếu tố dễ dàng nhận thấy nhất trong sự thay đổi của văn học chính là sự
xuất hiện của hàng loạt thể loại văn học mới, chịu ảnh hưởng của văn học Pháp.
Chúng được du nhập vào Nam Kỳ thông qua những tác phẩm đầu tiên dịch từ tiếng
Pháp ra chữ quốc ngữ và ngày càng lớn mạnh, ngày càng chiếm ưu thế trong đời sống
văn học, nhất là văn học công khai.
Các thể loại văn học cũ:diễn ca, thơ Đường, văn tế, tiểu thuyết, tản văn… ngày
càng thu hẹp dần phạm vi ảnh hưởng, nhường chỗ cho sự xuất hiện và lớn mạnh của
các thể loại mới viết bằng chữ quốc ngữ. Đây là những thể loại văn học mô phỏng, tiếp
129
biến của những thể loại văn học của Pháp, của phương Tây, ngày càng được phổ biến
sâu rộng trong đời sống văn học, bao gồm: thơ dịch, truyện dịch; báo chí; truyện ngắn;
tiểu thuyết; kịch bản sân khấu; nghiên cứu, phê bình, nghị luận; thơ mới…
Đầu tiên phải kể đến là văn học dịch, một loại hình văn học mới mẻ, là thể loại
tiêu biểu cho sự tiếp xúc đầu tiên với văn học phương Tây.“Ở thời đại lều chõng,
người ta trọng Hán khinh Nôm, trọng thơ phú mà coi thường văn xuôi” [22, tr.71], có
lẽ vì vậy mà từ nửa sau thế kỉ XIX, người ta chưa quen viết văn xuôi quốc ngữ, nên
phiên âm, dịch thuật “chiếm gần hết mặt bằng của thị trường chữ nghĩa” [22, tr.71]. Có
rất nhiều tác phẩm Hán - Nôm được dịch ra chữ quốc ngữ nhằm phục vụ nhu cầu nhận
thức văn học truyền thống. Tiêu biểu là Bạch Vân tôn các truyện (1906), Thoại Khanh
Châu Tuấn truyện (1889)của Huỳnh Tịnh Của; Lục Vân Tiên truyện (1889), Phan
Trần truyện (1889)của Trương Vĩnh Ký; Tây sương ký, Đông chu liệt quốccủa
Nguyễn Đỗ Mục; dịch truyện Tàu nổi tiếng có Trần Phong Sắc, 18 đầu sách với 5000
trang [22, tr.163], bộ dày nhất là Phong thần diễn nghĩa (1906). Ngoài ra cũng có các
tác phẩm dịch về triết học, chính trị, tôn giáo của nước ngoài ra quốc ngữ như: Mạnh
tử, Luận ngữ… và nhiều tác phẩm phương Tây khác. Trong số đó, các tác phẩm dịch
từ văn học Pháp và văn học phương Tây, có sự ảnh hưởng lớn nhất tới sự hình thành
và phát triển của văn xuôi mới thời kỳ này. Trương Minh Ký dịch và xuất bản Chuyện
Phang Sa dịch ra quốc ngữ, Tê lê mạc phiêu lưu ký; Nguyễn Đỗ Mục dịch Vô gia
đình…và một số tác phẩm khác như: Truyện nhi đồng Francinet (1885), Truyện
Robinson (1886), Tiền Căn báo hậu (1907), Ba người ngự lâm pháo thủ (1914), Lửa
ngưng thình lình (1922)… Phiên âm, dịch thuật là “bước đi tất yếu chuẩn bị cơ sở cho
sáng tác bằng văn xuôi” [22, tr.71]. Thông qua hoạt động này, văn học Nam Kỳ đã tiếp
thu được nhiều thành tựu quý giá của văn học nước ngoài, không chỉ là “một số tác
phẩm văn học Pháp có giá trị về mặt nội dung, mà còn cung cấp cho người cầm bút
các thể loại tác phẩm văn học khác nhau và phong cách ngôn ngữ văn chương mới lạ”
[115, tr.21]để làm phong phú thêm các hình thức nghệ thuật, cũng như những tư tưởng
nghệ thuật tiến bộ, tích cực cho văn học Nam Kỳ.
Khảo cứu, nghị luận, phê bìnhcũng là một loại hình văn học mới, mới ở chỗ nó
đã “bắt đầu thoát khỏi truyền thống bình văn” [37, tr.246]. Tiêu biểu cho lĩnh vực này
130
là các học giả như Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh… với các bài viết trên Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí…
hay trong một số sách biên khảo, nghiên cứu, sách giáo khoa thời này. Nhiều tác phẩm
cho đến nay vẫn có giá trị như: Nguyễn Hữu Tiến với tác phẩm Việt văn hợp tuyền
giảng nghĩa, Khảo về câu đối chữ Hán, Khảo về câu đối chữ Nôm… Phan Kế Bính với
Việt Hán văn khảo, Việt Nam phong tục… Bộ phận văn học này đặt nền móng cho
ngành nghiên cứu phê bình văn học hiện đại sau này.
Truyện ngắnlà một loại hình văn học mới có đóng góp to lớn hơn cả cho sự phát
triển của văn học quốc ngữ. Hình thức nghệ thuật chủ yếu ảnh hưởng của văn học
Pháp. Kết cấu truyện có tính hiện đại, tình tiết gây cấn, tỉ mỉ, nhân vật quen thuộc, đặc
biệt là với ngôn ngữ hiện thực, gần lời ăn tiếng nói hàng ngày đã giúp truyện ngắn thỏa
mãn được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhiều tầng lớp xã hội thành thị Việt
Nam: trí thức, tiểu tư sản, thị dân, công chức… Nội dung chủ yếu đề cập tới những
vấn đề của cuộc sống hàng ngày, nhưng được thể hiện bằng một nghệ thuật mới, cho
nên nó có sức hấp dẫn nhất định với độc giả. Đóng góp chủ yếu cho truyện ngắn đầu
thế kỉ XX có các tác giả, tác phẩm như: Nguyễn Bá Học (1857 – 1921) với Câu
chuyện gia đình, Chuyện ông lý chắn, Có gan làm giàu, Chuyện cô chiêu Nhì, Câu
chuyện một tối tân hôn… Các tác phẩm đều in trên tạp chí Nam Phong; Phạm Duy
Tốn (1883 – 1924) với Bực mình, Sống chết mặc bay, Con người Sở Khanh, Nước đời
lắm nỗi… cũng chủ yếu in trên Nam Phong; Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977), tác
phẩm tiêu biểu là Tập truyện thế gian, và tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan (1923).
Tiểu thuyếtđược thể hiện bằnghình thức nghệ thuật hoàn toàn mới, do ảnh hưởng
của tiểu thuyết Pháp, không còn kết cấu chương hồi hay lối biên niên sử. Ban đầu là
những mô phỏng, những phỏng tác, rồi sau này tiểu thuyết dần có phong cách riêng,
cốt truyện, tình tiết và nhân vật đã được thay đổi hoàn toàn.Nội dung của tiểu thuyết
đề cập đến những vấn đề của đời sống hàng ngày, những sinh hoạt bình thường, những
con người, số phận, cảnh ngộ có tính thông tục của cuộc sống. Bên cạnh đó là khuynh
hướng tình cảm chủ nghĩa trong việc miêu tả những cá nhân, những mối tình lãng
mạn, những tính cách.
131
Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết mới đầu thế kỉ XX là: Nguyễn
Trọng Thuật (1883 – 1940) với Quả dưa đỏ (1925); Nguyễn Tử Siêu (1887 – 1965)
với Đỉnh núi cành mai (1927), Bể tình nổi sóng (1928)…; Hồ Biểu Chánh (1885 –
1958), với các tác phẩm chủ yếu đi vào đời sống hiện thực, khai thác khía cạnh đạo
đức con người trong xã hội, như Tiền bạc bạc tiền (1926), Nhân tình ấm lạnh (1926),
Chút phận lênh đênh (1928), Cay đắng mùi đời (1928), Ngọn cỏ gió đùa (1929), Cha
con nghĩa nặng (1929)…; Hoàng Ngọc Phách (1896 – 1973) với tác phẩm Tố tâm
(1925) gây xôn xao dư luận, nhất là giới trẻ, đánh một dấu mốc mới cho tiểu thuyết
tâm lý, tiểu thuyết lãng mạn hồi đầu thế kỉ XX: “Tôi đến lắm thành thân, lúc rửa ảnh,
lúc họa đàn, lúc giảng sách, chả mấy chốc mà tôi thành ra một ông giáo dạy tư. (…)
Văn chương đàn bà ta bây giờ phần nhiều thuộc về lối rất bi ai, giéo giắt, bởi nhu cảm
thái đa, thành tinh thần nhược bại, nên lúc hạ ngọn bút viết là thở giọng sầu, tự trong
lòng mà ra cũng có, mà chịu ảnh hưởng ở ngoài phần nhiều” [22, tr.299]
Nhưng trên mặt chứng tích cụ thể thì tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ
là cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản, “một truyện hiện
đại đầu tiên của Việt Nam sáng tác theo lề lối Tây phương” [22, tr.87]. Tuy về giá trị
văn học, Truyện thầy Lazaro Phiềnchưa thể được xem là một cuốn tiểu thuyết đúng
nghĩa về kết cấu, cũng như kỹ thuật mô tả diễn biến tâm lý của nhân vật, nhưng giá trị
lớn nhất của Truyện thầy Lazaro Phiềnở chỗ đây là truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ
quốc ngữ, với phong cách ngôn ngữ “lấy tiếng thường mọi người hằng nói” [22,
tr.124], kết hợp với phong cách“chịu ảnh hưởng rõ rệt của Pháp ngữ” [109,
tr.276],“tránh lối mòn sáng tác cổ điển” [22, tr.125], nhằm mục đích “hầu cho kẻ sau
coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay, trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập
đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng: người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng
chẳng thua ai” [22, tr.125]. Truyện Thầy Lazaro Phiền là “dấu ấn rõ nét về sự tiếp xúc
ngôn ngữ giữa phong cách ngôn ngữ văn chương cổ điển Việt Nam và ngôn ngữ văn
chương Pháp” [115, tr.21]: “Vậy Thầy có biết ở trong làng ta có người con gái nào
chừng mười tám tuổi, thường đến thăm ta đây không?” Khi tôi nghe hỏi như vậy, thì
tôi giấu mặt lại cho nên ông Trùm mới cười mà nói rằng: “Bộ đây! Mi Lazare cũng
biết nàng ấy thì phải! Cho nên mới giấu mặt như vậy”. Khi tôi thấy ông già thầy Liễu
132
hiểu ý tôi đã có lòng thương người ấy, thì tôi quyết lòng nói thật ra rằng: “Thưa với
bỏ… Tôi có lòng thương cô ấy hơn một năm rưởi nay” [120, tr.344]
Tóm lại, tiểu thuyết trong văn học thời cận đại đã tiến bộ hơn nhiều so với tiểu
thuyết cũ trong việc dùng ngôn ngữ Việt,học theo kết cấu tiểu thuyết Pháp, xây dựng
được những cốt truyện, tình tiết, nhân vật khá phong phú, sinh động.
Nhờ khả năng biểu đạt đến mức hoàn chỉnh của chữ quốc ngữ, cùng với các thể
loại văn học vừa nêu, một hình thức thơ ca hiện đại cũng đã ra đời và phát triển ở Việt
Nam, bấy giờ gọi là Thơ Mới để phân biệt với những hình thức thơ ca trước kia. Sự ra
đời bản “tuyên ngôn nghệ thuật” của Phan Khôi in trên báo Phụ nữ tân văn (10-3-
1932) với nhan đề “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, cùng với một bài thơ
mới của ông mang tên Tình giàlà sự kiện chính thức đánh dấu sự ra đời của Thơ mới.
Điểm đặc biệt của bài thơ là nó đã phá vỡ các nguyên tắc của thi luật thơ cũ, mở đầu
cho sự xuất hiện rầm rộ các nhà thơ mới và các bài thơ mới về nội dung và hình thức.
Tiêu biểu như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược
Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh…
Càng về sau, Thơ mới càng khẳng định được chắc chắn địa vị độc tôn của mình
trên văn đàn. Nó “đã làm được một cuộc cách mạng dữ dội trong văn chương, làm
rung chuyển thi đàn dân tộc khi đem đến cho thơ ca những nội dung và hình thức mới
đoạn tuyệt hoàn toàn với thời đại văn học cũ. Nó đề cao và khẳng định cái tôi cá nhân,
chống lại ý thức nho giáo và tư tưởng vụ lợi tư sản, nó phủ nhận thực tại đen tối và bộc
lộ một lòng yêu nước tuy thiết tha nhưng yếu ớt. Thành công dễ nhận thấy là nó đã
sáng tạo nên một thứ ngôn ngữ thơ ca mới, câu thơ mới, tứ thơ mới hoàn toàn so với
trước. Nó đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của tư duy nghệ thuật của người Việt
Nam thời kỳ này. Thơ Mới quả đã đem đến cho thi đàn dân tộc những sắc màu mới
mẻ, lộng lẫy mà nếu thiếu nó ta khó lòng có thể hình dung hết được những cung bậc đa
đoan của tâm hồn dân tộc cùng những hình thức nghệ thuật vô cùng phong phú và tinh
tế trong một giai đoạn lịch sử đầy hào hùng và bi thương này” [37, tr.282]
Trên cơ sở sự trưởng thành của chữ quốc ngữ, đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX, một hệ thống bao gồm hầu hết các thể loại văn học hiện đại đã xuất hiện. Chúng
được xây dựng và ngày càng hoàn chỉnh, vừa kế thừa được truyền thống văn học dân
133
tộc, vừa mang tính hiện đại, và hầu hết chúng đều thống nhất sử dụng tiếng Việt làm
công cụ nghệ thuật cho mình.
Như vậy, kể từ sau sự bùng nổ dữ dội của chữ quốc ngữ, cùng với những thay đổi
của điều kiện lịch sử - xã hội, một nền văn học mới đã xuất hiện, và phát triển theo
chiều hướng hiện đại hóa - nền văn học cận đại Việt Nam, lấy chữ quốc ngữ Latinh
hóa làm chất liệu nghệ thuật chính, đề cao tiếng Việt. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ
văn học chính thức duy nhất trên toàn cõi Việt Nam. Lần đầu tiên chữ quốc ngữ đã
thay thế vai trò lịch sử hàng nghìn năm của chữ Hán và chữ Nôm.
3.4. Nghệ thuật sân khấu
Nghệ thuật sân khấu truyền thống của người Việt phổ biến là các loại hình tuồng,
chèo, cải lương. Nhưng khoảng trước năm 1865, do sự khống chế của chữ Hán, việc
giáo dục văn hóa cho quần chúng nhân dân thông qua các hoạt động nghệ thuật này
hầu như là không đáng kể. Quần chúng học hỏi các loại hình nghệ thuật này chủ yếu
thông qua những thế hệ đi trước, truyền miệng lẫn nhau. Chỉ khi chữ quốc ngữ phát
triển, kịch bản các tác phẩm tuồng, chèo, cải lương, kịch nói mới được ghi chép lại
bằng chữ quốc ngữ và chuyền tay từ người này sang người khác, thế hệ này sang thế
hệ khác. Qua chữ quốc ngữ, các loại hình nghệ thuật này cũng là một trong những hình
thức giúp nâng cao dân trí.
3.4.1.Tuồng
Đầu thế kỉ XX, khi mà cuộc sống thành thị đã trở thành trung tâm của xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, tuồng và chèo vẫn tiếp tục được sáng tác và được ghi chép
lại bằng một phương tiện mới là chữ quốc ngữ.
Đứng trước cuộc Âu hóa tư bản chủ nghĩa của thành thị thuộc địa, tuồng đã phải
tự thay đổi bản thân mình mới tồn tại được trong một xã hội thích sự thay đổi hơn là
những gì diễn ra một cách quy phạm, có thể biết trước, “ưa sầu cảm lâng lâng, phiêu
diêu tìm cái lạ, cái bất ngờ hơn là không khí bi hùng của những con người mang hia
đội mão, tranh chấp nhau trên sân khấu một cách ước lệ, tượng trưng” [41, tr.229].
Tuồng tân thời ra đời trong bối cảnh đó. Trong hai thập niên đầu của thế kỉ XX, ở
Sài Gòn đã xuất hiện các vở “tuồng tân thời” và “tuồng xuân nữ” phản ánh những cảnh
huống của cuộc sống đương thời, chạy theo thị hiếu của người thành thị. Nhưng vì
134
nghệ thuật non kém nên những kiểu tuồng này không cạnh tranh nổi với tuồng cổ, cải
lương và kịch nói.
Tuồng cổ trong bối cảnh xã hội mới đã có sự cách tân về “vũ khí” diễn tuồng,
đạo cụ, hóa trang, phục trang, đồng thời bắt đầu chịu ảnh hưởng của loại kịch “uyên
ương – hồ điệp” khai thác đề tài tình yêu éo le và loại kịch có đề tài “hiệp khách”
chuyên đi sâu vào những chuyện kiếm hiệp, giỏi kĩ thuật đánh đá trên sân khấu, để thu
hút người xem của phố phường chuộng hình thức lạ.
Ngoài ra, vào khoảng năm 1924, đã xuất hiện hiện tượng phỏng tác và đưa lên
sân khấu tuồng các vở kịch cổ điển Pháp.Vở tuồng đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là
Tuồng Joseph (xuất bản năm 1888) của Trương Minh Ký. Tuồng Joseph “khác biệt
những tuồng và chèo trước đó ở tính tự sự, trữ tình và hoàn toàn không có một câu văn
hay thơ chữ Hán” [66, tr.121]. Tuy nhiên, cách cấu tạo vẫn theo truyền thống chuyển
tải đạo lý Á Đông dù là đề tài đạo.
“Phong điều võ thuận,
Quốc thới dân an.
Trong vẻo nước sông vàng,
Lặng trang trời biển đó.
Joseph là tên mỗ,
Quê quán ở Chanaan.
Như tôi, thung dung rèn tới bực tài năng,
Kềm thúc luyện theo đàng nhơn đức.
Thỉ chung một mực” [120, tr.348]
Ngoài ra sau này còn có các tác giả Hoàng Tăng Bí và Nguyễn Hữu Tiến viết các
vở tuồng lấy đề tài từ lịch sử chống ngoại xâm hoặc từ truyện dân tộc, cố gắng bộc lộ
tâm sự yêu nước, gián tiếp lên án bọn xâm lược và tay sai của chúng, đề cao ý thức tự
hào dân tộc: Thù chồng nợ nước, Đông A song phụng, Hoa Tiên…
Ngoài ra, các khu vực nhà thờ xưa cũng hay tổ chức cho giáo lẫn lương xem
tuồng có sự pha chế tuồng vọng cổ với tuồng Tây. Đề tài các tuồng này thường được
lấy trong Kinh Thánh hay truyện các Thánh. Một số tuồng nổi tiếng như: Thương Khó,
Alêxù, Lương tâm đấng linh mục… Vào năm 1930, Đức Giám mục Nguyễn Bá Tòng
135
khi chưa làm Giám mục có soạn lại tuồng Thương khó và cho diễn ở Tân Định rất
thành công. Năm 1935, Michel Mỹ cũng soạn lại tuồng Lương tâm đấng linh mục,
được nhiều rạp ở miền Tây diễn rất hấp dẫn.
3.4.2.Cải lương
Nam Kỳ là cái nôi sản sinh ra cải lương, một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ
sinh hoạt ca vũ nhạc dân gian, như “nói thơ”, hò lý, các bản nhạc Bắc có đệm đàn ở
các chợ, nơi họp làng, ở các nhà giàu. Nói thơ không phải là cầm các bản thơ để đọc,
cũng không ngâm như ở miền Bắc ngâm Kiều. Thực ra, đó là “một kiểu ngâm đơn
giản, không cầm sách vở - vì đã thuộc lòng – nhưng khi diễn đạt nghe có vẻ nhảy nhót,
biến chuyển linh hoạt tiết tấu trong âm điệu. Nói thơ cũng diễn tả đủ những cung điệu
bổng trầm, có điều thường là dí dỏm chứ không rên rỉ, kể cả khi đến những chỗ rất bi
ai” [120, tr.414-415]. Nói thơ ở Nam Kỳ phổ biến đến độđưa đò cũng nói thơ, cấy lúa,
gặt lúa, đào ao cũng nói thơ… Bạn bè họp mặt cũng nói thơ. Thức đêm canh gác cũng
nói thơ. Quần chúng nói thơ rồi cũng ngẫu hứng tham gia sáng tác.
Nghệ thuật kịch hát cải lương đã ra đời trực tiếp từ những hình thức nói thơ đó.
“Thoạt đầu, kẻ đàn người ca, tài tử ngồi ca và một tài tử đóng đủ mọi vai trong sinh
hoạt “nói thơ”. Về sau, tài tử “ca ra bộ”, rồi mỗi tài tử đóng một vai có hóa trang. Đó
là ca cải lương” [41, tr.230]. Vở Pháp - Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) được
diễn tại rạp hát Tây Sài Gòn đêm 16 – 11 – 1918 đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải
lương.
Sau đó, đến năm 1920, lần đầu tiên cải lương mới xuất hiện rầm rộ ở Sài Gòn với
các vở Trang Tử thử vợ vàKim Vân Kiều diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp Modern Sài
Gòn... Lúc này hát cải lương mới thật sự hình thành. Trước công chúng thành thị,
trong đó có trí thức thích văn học Pháp và trước sự tiếp xúc với kịch nói, nên ca cải
lương phải trình diễn trên sân khấu bằng những vở đã được soạn sẵn bằng chữ quốc
ngữ. Nghệ thuật sân khấu ca kịch cải lương ra đời làm phong phú thêm các loại hình
nghệ thuật hát tự sự dân tộc. Người ta phải dựa vào các vở tuồng cổ để xây dựng kịch
bản cho cải lương với những đề tài trong lịch sử phù hợp với thị hiếu thành thị
(như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo
136
mộ, Thoại Khanh Châu Tuấn...), những đề tài trong cuộc sống đương thời nặng về sầu
cảm lâm ly (như Tội của ai, khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường...)
Phổ biến rộng rãi ngoài dân gian là loại tuồng cải lương vọng cổ như Thích Ca
đắc đạo, Quan Âm du địa phủ, Địch Thanh kết duyên Thoại Ba, Triệu Khuôn Dẫn gặp
Tố Mai, Lưu Bị cầu hôn Giang Tả, Triệu Tử đoạt ấu chúa, Tiết Đinh San cầu Lê
Huê…
Năm 1919, với việc vở “Bội phu quả báo” của Phạm Công Bình được diễn tại
Sài Gòn, đánh dấu đây là vở được biết sớm nhất trong việc đưa vọng cổ vào tuồng cải
lương có bố cục màn, lớp chặt chẽ như một kiểu nhạc kịch đặc thù của Nam Bộ.Kể từ
sự kiện đó, dần dần có cả một đội ngũ chuyên nghiệp ồ ạt đi phiên dịch tuồng tích Tàu,
chuyên viết những bài ca cải lương, những bản đờn cò, đờn lục huyền… “Thậm chí có
tác giả một năm viết được mấy chục vở tuồng cải lương!” [120, tr.415-417]. Những
tên tuổi nổi bật nhất trong việc dịch và soạn cải lương vọng cổ ở Nam Bộ là Sáu Lầu,
Mộng Trần, Nguyễn Chánh Sắt, Vương Gia Bất, Phạm Công Bình, Nguyễn Hiển
Phú… Soạn giả Trần Phong Sắc được liệt vào hàng “những soạn giả hữu danh” [45,
tr.226] trong giai đoạn hình thành nền ca kịch cải lương (1917 – 1923) với các vở
Đinh San chinh Tây (1913),Sát thê cầu tướng (1927), Quan Công thất thủ Hạ Bì
(1927)… Cùng với đó là Trương Duy Toản, là thầy tuồng [đạo diễn] của gánh hát lớn
nhất lúc bấy giờ của thầy Năm Tú tại Mỹ Tho. Ông là tác giả những vở như Kim Vân
Kiều, Lục Vân Tiên, Trang Châu mộng hồ điệp… Còn về diễn viên được đông đảo
quần chúng hâm mộ thì có Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Phùng Há, Năm Phỉ…
3.4.3.Kịch nói
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ở Nam Kỳ xuất hiện thêm hình thức nghệ thật
mới, chịu ảnh hưởng của văn học nghệ thuật Pháp: kịch nói. Vì vậy, bên cạnh những
kịch bản sân khấu của chèo, tuồng, cải lương, ở thời kì này người ta còn sáng tác kịch
bản kịch nói.
Nhờ khả năng phổ biến của chữ quốc ngữ, mọi tầng lớp xã hội Việt Nam đều có
thể dễ dàng tiếp xúc với loại hình nghệ thuật mới này ngay từ khi nó mới xuất
hiện.Bên cạnh đó, một phần cũng do chính quyền Pháp đã đưa nhiều tư liệu về văn học
Pháp vào chương trình giáo dục trong các trường tiểu học và trung học Việt Nam,
137
nênngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, các trí thức tân học đã được học kĩ, thậm chí
được học đến thuộc lòng các vở kịch nói với các loại bi kịch, hài kịch, hỷ kịch của
kịch nói Pháp. Bên cạnh đó, công chúng thành thị đầu thế kỉ XX cũng đã tiếp xúc với
các vở kịch nói của Molière được dịch đăng trên các tạp chí thời đó. Công chúng thành
thị cũng đã được xem diễn các vở kịch của văn học Pháp. Như vậy, ở Việt Nam kịch
nói đã bắt rễ vào cuộc sống ở thành thị, đã bắt rễ vào những người trí thức đọc kịch
nói, những người dịch kịch nói và những người sắm các vai trong các vở kịch nói của
văn học Pháp, trình diễn trên sân khấu.
Lúc bấy giờ nhà hát, rạp hát mọc lên rất nhiều ở thành phố, hoạt động liên tục
365 ngày để đáp ứng yêu cầu giải trí của công chúng. Tuy nhiên, sân khấu lúc bấy giờ
còn thiếu kịch bản kịch nói. Nhưng “chẳng lẽ cứ diễn đi diễn lại một số vở kịch nói
của văn học Pháp, vả lại, diễn các vở kịch của nước ngoài thì phải khắc phục bao
nhiêu khó khăn về hóa trang, trang phục, ngôn ngữ, dàn dựng phong cảnh… Do đó,
công chúng thôi thúc viết kịch nói, viết bằng chữ quốc ngữ” [41, tr.230]
Vở kịch nói đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, đó là Tuồng Cha Minh (1881), là một
“vở kịch nói kiểu Tây phương hoàn chỉnh, nghĩa là nó hội đủ những đặc điểm của một
vở kịch, thuộc loại kịch tự sự và tác giả của nó đã Việt Nam hóa bố cục và đối thoại
dùng ngôn ngữ nói của dân gian” [66, tr.131]. Theo giáo sư Phạm Thế Ngũ, có thể
xem Tuồng Cha Minh là hình thức kịch nói sơ đẳng, là những “truyện đối thoại giữa
hai ba nhân vật chia làm hai ba hồi trong khuôn khổ một cột báo và có tính luân lý trào
phúng” [63, tr.601]
Về nghệ thuật, kịch nói mang một hình thức nghệ thuật hoàn toàn mới lạ, hấp
dẫn nên nó đã nhanh chóng chinh phục được giới thị dân và trí thức Tây học ở thành
thị Việt Nam:“Kịch nói thường có tiết tấu nhanh, ngôn ngữ, hành động sinh động, hấp
dẫn, hiện thực, xung đột kịch thường bất ngờ, căng thẳng, đầy kịch tính, rất phù hợp
với thị hiếu của những con người của thành thị Việt Nam” [37, tr.252]. Ưu thế lớn nhất
của kịch nói là khả năng đưa lên sân khấu cuộc sống bình thường, hằng ngày. Chính vì
vậy, những vở kịch nói đầu tiên do người Việt Nam sáng tác bằng chữ quốc ngữít
nhiều đã được dư luận chú ý và lan rộng ra ở miền Bắc: Người Bệnh Tưởng (Nguyễn
138
Văn Vĩnh dịch), Mảnh Gương Đời (Trần Tuấn Khải), Chén thuốc độc (Vũ Đình
Long), Chàng ngốc (Nam Xương), Hoàng Mộng Điệp (Vi Huyền Đắc)…
Nội dung của kịch nói chủ yếu tập trung vào phản ánh sự thay đổi của đạo đức,
lối sống ở thành thị tư sản hóa, dựng lên trước mắt công chúng những quan hệ tư sản ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến như những quan hệ phi đạo đức, vô nhân đạo, độc
ác. Kịch nói gián tiếp phê phán chính sách lừa bịp và chính sách văn hóa nô dịch của
thực dân, đòi giải phóng tình cảm, nhìn những quan hệ đó dưới góc độ đạo đức, lương
tri, muốn sửa chữa những tệ lậu xã hội bằng đạo đức của con người. Kịch nói là kết
quả của tiếp xúc giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và văn hoá nghệ thuật phương Tây.
Tuồng, cải lương, kịch nói đều là những loại hình nghệ thuật được viết nên bằng
chất liệu là chữ quốc ngữ, góp phần chủ yếu trong việc giáo dục văn hóa, phổ biến
kiến thức phổ thông cũng như phổ cập những tư tưởng tiến bộ của thế giới, tư tưởng
yêu nước đến với quần chúng nhân dân một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, dưới ách
thống trị của thực dân Pháp thì mọi lãnh vực văn hóa, văn nghệ, kể cả sân khấu, đều bị
chính quyền thực dân lợi dụng để gieo rắc những tư tưởng thân Pháp, thỏa hiệp, có lợi
cho sự cai trị của chúng. Nhưng chính nhờ những người nghệ sĩ nhân dân đã khéo léo
sử dụng sự công khai mà thực dân Pháp đã tạo ra để truyền bá những tư tưởng tiến bộ,
khơi gợi lòng yêu nước của quần chúng, đồng thời tận dụng cơ hội để giáo dục văn
hóa, nâng cao dân trí cho quần chúng.
3.5. Di sản Hán – Nôm
Có thể nói, sau khi chữ quốc ngữ phát triển hoàn chỉnh đến mức có thể đảm nhận
mọi khả năng diễn đạt trên văn bản và được toàn xã hội chấp nhận, sử dụng một cách
rộng rãi thì chữ Hán và chữ Nôm dường như mất hết mọi vai trò và có khả năng lớn là
sẽ bị lãng quên, mai một. Tuy nhiên, sự thật lại hoàn toàn không diễn ra như thế.
Chính những người cổ xúy mạnh mẽ nhất cho sự phát triển của chữ quốc ngữ lại cũng
là những người sớm thấy được khả năng thất thoát của kho di sản Hán – Nôm, và do
đó, chính họ cũng đã nổ lực trong việc bảo vệ những di sản đó.
Như vậy là có sự gắn bó mà không xóa bỏ lẫn nhau giữa chữ quốc ngữ và chữ
Hán – Nôm. Đây là một điều thú vị trong lịch sử phát triển chữ viết ở Việt Nam. Sự
phát triển của chữ Nôm vốn dĩ dựa trên nền tảng của chữ Hán, vì thế người Việt trước
139
kia phải học đồng thời cả hai loại chữ này. Trong khi đó, có lẽ do người Việt Nam có
một đức tính đáng quý là tinh thần trân trọng những di sản của cha ông, cho nên ngay
từ buổi đầu mới ra đời tất cả những quyển từ điển tiếng Việt đều được biên soạn đồng
thời đối chiếu cả 3 loại chữ viết: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Công cuộc bảo vệ di sản Hán Nôm này thể hiện thông qua những tác giả và tác
phẩm tiểu biểu sau:
Trương Vĩnh Ký năm 1875 đã trở thành người Việt Nam đầu tiên tại Sài Gòn
thực hiện việc phiên âm chữ Nôm ra chữ quốc ngữ cuốn Kim Vân Kiều. Sau đó ông
tiếp tục phiên âm, xuất bản hàng loạt tác phẩm Hán-Nôm khác như: bộ Tứ Thơ (1889)
– điển hình cho các tác phẩm dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ, từ chữ Nôm ra chữ
quốc ngữ cóNữ Lưu (1882), Lục Vân Tiên(1883), Gia Huấn Ca (1883), Lục Súc Tranh
Công (1887), Phan Trần Truyện (1889)…
Ngoài ra, Trương Vĩnh Ký còn là người đi tiên phong trong việc phiên âm và
dịch nghĩa các tác phẩm Hán văn, với cách phiên dịch mà ngay cả các nhà Hán học
ngày nay cũng phải nể phục. Trong công việc phiên dịch, ông phân chia ra nghĩa đen,
nghĩa bong rồi giải thích cặn kẽ, rồi thêm phần luận bàn hết sức bổ ích cho người đọc.
Điển hình hơn cả là bộ Minh tâm bửu giám ấn hành trong các năm 1891 và 1893, tập
hợp những hoa văn hóa Á Đông. Có thể nói, trong lĩnh vực phiên dịch ra chữ quốc
ngữ, Trương Vĩnh Ký là người đi tiên phong, mở đầu cho những tác phẩm văn học
dịch thuật sau này.
Trương Minh Ký cũng là người “đã địch tác phẩm văn học từ chữ Hán ra chữ
quốc ngữ sớm hơn nhiều nhà cầm bút khác, ngay từ cuối thế kỉ XIX”. “Trương Minh
Ký chẳng những là người mở đầu việc dịch thuật văn học Hán – Việt mà còn là người
đi tiên phong trong văn học dịch Pháp – Việt nữa” [22, tr.87]. Tác phẩm dịch tiêu biểu
của Trương Minh Ký có Kinh Thi, Ấu học khải mông, Tiểu học gia ngôn diễn nghĩa,
Trị gia cách ngôn, Ca từ diễn nghĩa, Chuyện Télémauqe gặp tình cờ, Truyện Phan Sa
diễn ra quốc ngữ, Truyện nhi đồng Francinet…
Bên cạnh đó, một trong những học trò tên tuổi của Trương Vĩnh Ký là Diệp Văn
Cương. Tác phẩm tiêu biểu của ông là cuốn “Việt Nam luân lý tập thành” (1917). Sách
gồm 53 trang và phần dẫn chú gồm 36 trang. Phần dẫn chú là phần tác giả soạn để
140
dành cho những độc giả nào muốn tra tận nguyên văn chữ Hán những câu Hán văn mà
tác giả đã trưng dẫn trong sách. Toàn bộ nội dung sách là tác giả rút lấy những tinh
hoa trong Hán học để dạy luân lý về “Ơn cha nghĩa mẹ”, “Đạo làm con”, “Ông bà”.
Trích một đoạn trong “Đạo làm Thầy”: Lúc con người còn hãy ấu thơ, thì muốn
việc chi cũng nhờ có cha mẹ. Đến khi tuổi vừa khôn lớn thì theo thầy nấu sử xôi kinh;
từ đó cho đến thành nhơn, hoặc nên hoặc hư, bao nhiêu trách nhiệm cũng về phần
thầy. Nên sách Thông Thơ nói rằng: “Thầy là để mà dứt điều độc ác của con người,
sửa điều tà vạy của con người”[120, tr.430]
Tác phẩm của Diệp Văn Cương đã nối liền hai loại chữ viết cũ và mới, chữ quốc
ngữ và chữ Hán. Nó giải quyết mối lo ngại của một số trí thức thời bấy giờ về việc
không có sách để học chữ quốc ngữ. Nó cũng cho thấy những trí thức yêu nước cổ vũ
chữ Quốc ngữ cũng đều là những người biết quý trọng các di sản Hán Nôm của những
người đi trước. Chính nhờ có những tác phẩm như Việt Nam luân lý tập thành mà chữ
quốc ngữ mới thực sự phát huy được vai trò là phương tiện giữ gìn và bảo vệ di sản
Hán Nôm của tiền nhân.
Ngoài các tác giả, tác phẩm trên, còn có những tác phẩm văn thơ yêu nước viết
bằng chữ Nôm mà sau này được nhân dân ta ghi chép lại bằng chữ quốc ngữ. Năm
1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công vào Gia Định, thành Sài Gòn bị vây hãm, Đô
đốc Sài Gòn là Võ Duy Ninh thắt cổ chết ở Phước Lý. Ngày 25 – 2 – 1861, đại đồn
Chí Hòa tan vỡ, Nguyễn Tri Phương bị thương cùng thuộc hạ tháo chạy. Sài Gòn –
Gia Định lọt hẳn vào tay thực dân Pháp. Nhân dân Sài Gòn căm hận, lòng ái quốc của
tầng lớp sĩ phu từ đây được bộc lộ chủ yếu qua văn thơ dưới nhiều hình thức. Có thơ
viết bằng chữ Nôm còn lưu đến tận ngày nay. Có thơ viết ra nhưng sợ họa thực dân
nên đọc thuộc lòng rồi hủy mất, chỉ truyền miệng cho nhau, về sau mới được ghi lại
bằng chữ quốc ngữ. Những bản văn Nôm sôi sục lòng yêu nước và uất hận ngoại xâm
đó nhanh chóng nhận được sự đồng cảm và lan truyền trong quần chúng nhân dân.
Nhưng chữ Nôm ngay cả trong giai đoạn phát triển mạnh nhất cũng chưa từng là
thứ chữ viết được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân, huống chi vào thời
điểm này nó đã sắp suy tàn. Vì thế, chữ quốc ngữ nhanh chóng trở thành công cụ hiệu
quả trong việc hỗ trợ sự truyền bá các bản văn Nôm. Nhiều tác giả Nôm vốn ghét cay
141
ghét đắng chữ quốc ngữ - như Nguyễn Đình Chiểu chẳng hạn - nhưng tác phẩm của họ
lại nhờ có chữ quốc ngữ mà được phổ biến rộng khắp cũng như được ghi chép, truyền
lại đến ngày nay.
Thời bấy giờ các tác phẩm yêu nước tiêu biểu sau này được ghi chép hoặc dịch
lại bằng chữ quốc ngữ có: bài Tuyệt cốc của Phan Thanh Giản (1796 – 1867); các bài
Khóc Phan Thanh Giản, Khóc Trương Công Định, Văn tế nghĩa quân, Thảo thử hịch
của Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888); Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa
(1807 – 1872); Tiệc rượu nam Thành của Trần Kim Phụng; rồi các bản văn khác của
Tôn Thọ Tường (1825 – 1877), Phan Văn Trị (1830 - ?), Huỳnh Mẫn Đạt (? - ?),
Nguyễn Hữu Huân…
Có thể nói, vai trò của chữ quốc ngữ trong việc hỗ trợ sự truyền bá các tác phẩm
Nôm là một hiện tượng độc đáo và vô cùng thú vị trong lịch sử phát triển của tiếng
Việt. Cũng chính trong sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các loại chữ Hán – chữ Nôm –
chữ quốc ngữ nhằm phục vụ những nhu cầu diễn đạt tâm tư tình cảm, phổ biến kiến
thức mà tiếng Việt nửa sau thế kỉ XIX mới có điều kiện được mài dũa, tôi luyện để
nhanh chóng phát triển thành một thứ ngôn ngữ phong phú, nhuần nhuyễn, bén nhọn
và cực kỳ sâu sắc. Trong lĩnh vực này, chữ quốc ngữ đã đóng một vai trò vô cùng hiệu
quả, bởi vì giữa lúc chữ Hán và chữ Nôm đang dần tàn lụi, nếu không có sức sống mới
do chữ quốc ngữ mang lại thì chắc chắn là những văn bản Hán - Nôm của những
người đi trước có thể sẽ dần đi vào quên lãng.
3.6. Quá trình đô thị hóa
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm số dân đô thị hay
diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng, một khu vực. Nếu theo
cách tính này thì đô thị hóa còn được gọi là mức độ đô thị hóa. Ngoài ra, tỷ lệ gia tăng
của số dân và diện tích đô thị cũng có thể được tính theo thời gian và như vậy sẽ được
gọi là tốc độ đô thị hóa.
Trong lịch sử, do vị trí địa kinh tế cực kỳ thuận lợi nên quá trình đô thị hóa ở Bến
Nghé - Sài Gòn diễn ra tương đối sớm và rất nhanh chóng, nhất là dưới thời Pháp
thuộc. Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định, người Pháp liền bắt tay vào xây dựng
Sài Gòn như một trung tâm của ba tỉnh miền Đông và chừng 5 năm sau là thủ phủ của
142
cả vùng Nam Kỳ Lục tỉnh. Để làm được điều đó, người Pháp dùng nhiều biện pháp
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy, mở mang đường sá, phố phường, trong đó
việc áp đặt một guồng máy hành chính mới theo kiểu phương Tây cũng là một việc
làm không kém phần quan trọng để xây dựng Sài Gòn thành một đô thị của sự hiện
diện văn minh phương Tây. Chữ quốc ngữ cũng tham gia vào quá trình này.
Nhận ra ngay sự tiện lợi của chữ quốc ngữ trong việc giao tiếp với người dân bản
xứ và điều hành guồng máy hành chính cai trị, người Pháp nhanh chóng lợi dụng loại
chữ viết này để phục vụ cho những ý đồ của mình. Do đó, nhiều nghị định được ban
hành buộc tất cả các giấy tờ của nhà nước phải được viết bằng chữ quốc ngữ, không
dùng chữ Hán trong những văn thư chính thức như trước đây, mọi sự tuyển dụng nhân
sự phải dựa vào khả năng biết chữ quốc ngữ, sử dụng chữ quốc ngữ trong trường
học…
Nghị định ngày 22 – 2 – 1869 của Thống đốc Ohier buộc dùng chữ quốc ngữ
trong các giấy tờ chính thức. “Điều 1. Kể từ 1 – 4 – 1869 tất cả giấy tờ chính thức:
nghị định, quyết định, án lệnh, phán quyết, thông tư… đều sẽ được viết và công bố
bằng mẫu tự Âu châu, với những chữ ký của các người có thẩm quyền. Điều 2. Không
một bản dịch nào những văn thư đó bằng chữ Nho sẽ có tính cách đích thực và chỉ có
thể được nhận với tư cách chỉ dẫn; nhưng một bản dịch bằng chữ Nho các nghị định
và luật lệ để dán thông cáo sẽ được để trên cùng một tờ giấy, bên bản văn bằng tiếng
An Nam” [114, tr.11].
Nghị định có ý nghĩa hơn cả là Nghị định ngày 6 – 4 – 1878 quyết định sau 4
năm nữa sẽ phế bỏ hoàn toàn chữ Hán trong lĩnh vực hành chính và buộc đội ngũ nhân
viên phải là những người viết được quốc ngữ: “Điều 1. Kể từ ngày 1 – 1 – 1882, tất cả
những văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị… sẽ
được viết, ký và công bố bằng chữ An Nam mẫu tự Latinh. Điều 2. Kể từ ngày trên,
không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép
trong ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai không viết được chữ quốc ngữ” [6,
tr.52].
Đối với công chức người Pháp, Nghị định ngày 23 – 7 – 1879 quy định: “Những
công chức và nhân viên mọi ngạch hành chánh dân sự ở Nam Kỳ, các quan tòa, sĩ
143
quan và hạ sĩ quan phụ trách việc chỉ huy binh lính nếu được chứng minh trước một
Hội đồng Giám khảo, là biết tiếng An Nam, sẽ được thưởng trong thời gian ở thuộc
địa, một trợ cấp hằng năm là 100$ về viết được chữ quốc ngữ…” [Xem 128]. Từ rất
sớm trước đó, các trường thông ngôn đã được chính quyền Pháp lập ra ở Nam Kỳ cũng
nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ nhân viên cho guồng máy hành chính mới mà ở
đó “những môn học chỉ nhằm vào tiếng Việt viết bằng mẫu tự Latinh” [114, tr.23]. Về
sau, Nghị định ngày 14 – 6 – 1880, cho phép những thị trấn nào của tổng mà không có
trường Pháp sẽ được mở một trường dạy chữ quốc ngữ.
Ngoài ra, thông tư ngày 28 – 10 – 1879 của Le Myre De Vilers quy định “những
mẫu tự Latinh sẽ được dùng để viết thư từ chính thức với tất cả những làng biết thứ
chữ trên” [114, tr.14], đồng thời thông tư này còn quy định thưởng từ 50 đến 100 đồng
cho những làng nào viết được các công văn bằng quốc ngữ.
Mục đích của các nhà cầm quyền Pháp khi đưa ra những nghị định, thông tư quy
định sử dụng quốc ngữ trong công tác hành chính là nhằm có được “những nhân viên
bàn giấy của các quan đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ”[dẫn theo 114, tr.24], góp
phần vào mục tiêu lâu dài “làm tiêu tan dần dần chữ Nho… một cản trở to lớn đối với
sự phát triển của nền văn minh châu Âu” [6, tr.52]. Việc áp dụng chữ quốc ngữ trong
hành chính được nhà cầm quyền Pháp coi là một chính sách quan trọng hàng đầu, nên
họ đặc biệt chú ý và tìm mọi cách để thi hành triệt để và nhanh chóng, đồng thời có
những biện pháp khác hỗ trợ, chẳng hạn khuyến khích bằng những giải thưởng cho
những người Pháp học chữ quốc ngữ, những tiền thưởng cho những giáo viên dạy chữ
quốc ngữ, hoặc mở kì thi soạn một cuốn niên giám để truyền bá chữ quốc ngữ… Đặc
biệt là việc thiết kế và xây dựng các đô thị đầu tiên ở khu vực Sài Gòn – Gia Định với
những công sở, bưu điện, nhà ga, cảng, các cơ quan quân sự, cơ quan hành chính.
Nhờ vậy, quá trình đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng, tạo nên một nếp sống
thành thị hóa. Bộ mặt cuộc sống ở đô thị và các khu vực hành chính, công sở, dinh thự,
trường học hoàn toàn là những điều mới mẻ đối với người Việt. Những người trẻ,
những trí thức đổ về các trường quốc ngữ, trường Pháp – Việt để học, những quân
nhân đến học ở các trường thông ngôn… ngày càng đông. Họ trở thành những nhân
viên phục vụ cho các cơ quan hành chính, bưu điện, trường học ở các đô thị… Do đó,
144
quá trình tập trung dân cư vào các đô thị càng được thúc đẩy nhanh chóng. Những
công chức thông thạo chữ quốc ngữ làm việc trong guồng máy hành chính được chính
quyền Pháp tạo “mọi sự dễ dàng dành cho họ”, không chỉ có khen thưởng, nâng ngạch
lương, họ còn được làm việc trong những đô thị có điều kiện hết sức thuận lợi như
đường phố được mở rộng, lát đá hoặc rải nhựa, với vỉa hè có đèn chiếu sáng ban đêm,
có cây xanh tạo bóng mát ban ngày, có phương tiện chuyên chở, đi lại hiện đại, ô tô,
các loại xe kéo, xe điện và đặc biệt là tàu hỏa, tàu thủy... Những hình ảnh này chưa
từng xuất hiện ở Nam Kỳ trước năm 1862. Các thành thị đã trở nên tấp nập khi thu hút
ngày một đông đảo những người dân quê đến buôn bán, đi học, làm công chức, viên
chức… Hệ thống công sở của Pháp đã thu hút “hơn 30.000 nhân viên” [62, tr.139].
Một môi trường văn hóa đô thị có chiều sâu ngày càng hấp dẫn và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến giới trí thức Tây học người Việt đang hình thành. Sự ra đời các cơ quan
khoa học vừa phục vụ trực tiếp cho chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp,
nhưng cũng rất cần thiết cho sự phát triển “dân trí” của người Việt; các thư viện và văn
khố chứa các loại sách và lưu trữ các văn kiện chính thức để làm sử liệu; trường Viễn
Đông Bác Cổ chuyên nghiên cứu về nhân chủng, văn minh Việt Nam và các nước
Đông Á; sự xuất hiện các nhà in quốc ngữ để “gia tăng những giao dịch giữa nhà cầm
quyền và dân chúng” [114, tr.17]
Thông qua quá trình đào tạo đội ngũ công chức thông thạo quốc ngữ cho bộ máy
công quyền, người Pháp cũng đồng thời đưa vào Nam Kỳ những kỹ nghệ quản lý đô
thị học, hành chính học theo kiểu phương Tây, thậm chí được biên soạn thành giáo
trình sử dụng trong các trường thông ngôn. Về sau được dịch ra chữ quốc ngữ. Lần
đầu tiên người Việt Nam cũng được thấy sự đa dạng của hệ thống luật pháp theo kiểu
phương Tây, mà Nam Kỳ là nơi đầu tiên được người Pháp áp dụng. Người Pháp cũng
tạo ra thói quen dùng bản đồ, các tập công báo, các tập thống kê, sổ lương và thẻ căn
cước.
3.7. Hoạt động đấu tranh cách mạng
Trong khi chính quyền Pháp dùng chữ viết theo mẫu tự Latinh như một vũ khí lợi
hại để đánh bại Nho học, một công cụ hữu hiệu của chính sách đồng hóa... thì những
nhà cách mạng Việt Nam cũng sớm nhận ra khả năng của quốc ngữ trong việc mở
145
mang dân trí, tuyên truyền cách mạng, giáo dục lòng yêu nước nhằm phục vụ cho mục
tiêu cuối cùng: đánh đuổi thực dân Pháp.Trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1914), ở
Việt Nam,vốn dĩ phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa đã đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển chữ quốc ngữ. Sau chiến tranh, xuất hiện thêm
phong trào yêu nước cộng sản, cả hai sẽcó tác động lớn và mỗi lúc thêm sâu rộng
trong việc “làm giàu, mài sắc chữ quốc ngữ” [67, tr.199].
Ngược lại, chỉ với chữ quốc ngữ, những đường lối, chủ trương cách mạng của
Đảng Cộng sản mới có thể đi sâu vào quần chúng, đến với mọi tầng lớp người lao
động. Những người cộng sản Việt Nam đã khéo léo tận dụng mọi lĩnh vực văn hóa cho
tuyên truyền đấu tranh cách mạng, tiêu biểu là truyền đơn, báo chí, sách vở, văn học,
giáo dục quần chúng... vì đây lànhững lĩnh vực có ảnh hưởng và gần gũi với quần
chúng, nơi mà chữ quốc ngữ thể hiện rõ nhất vai trò, khả năng diễn đạt của mình, nơi
mà chữ quốc ngữ có thể chuyển tải được tư tưởng cách mạng nhiều nhất“đến tận tay
quần chúng góp phần đắc lực vào việc tuyên truyền, cổ vũ, động viên tổ chức lực
lượng đấu tranh Cách mạng” [86, tr.172]
Trên mặt trận báo chí, những người cộng sản xem báo chí là phương tiện xây
dựng, truyền bá văn hóa, đóng vai trò xung kích trong công tác tư tưởng. Các tổ chức
cách mạng theo đường lối cách mạng vô sản rất coi trọng xuất bản báo chí, xem đó là
vũ khí chiến đấu cực kỳ quan trọng, không thể thiếu được trong đấu tranh. Vì vậy, sau
khi thành lập, một trong những nhiệm vụ trước mắt của các tổ chức cách mạng là tìm
mọi cách để xuất bản báo hoặc tạp chí làm cơ quan ngôn luận, đấu tranh của mình.
Ngay từ năm 1925, báo Thanh niên của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (do
Nguyễn Ái Quốc tổ chức) đã được phát hành đều đặn mãi đến đầu năm 1930. Nội
dung chủ yếu là khơi sâu lòng căm thù giặc, cổ vũ nhân dân nổi dậy làm cách mạng.
Đây là tờ báo đóng vai trò mở đầu cho việc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước theo
quan điểm Mác-Lênin, được thanh niên yêu nước say sưa đọc.
Sang năm 1930 trở về sau, báo cách mạng do Đảng cộng sản chủ trương trong bí
mật rất là phong phú, kỳ nào, tỉnh nào, xí nghiệp lớn nào cũng có báo, chưa kể sách
[67, tr.199]. Nhất là vào thời kỳ Chính phủ mặt trận bình dân (bên Pháp), báo chí, sách
của cộng sản phát hành ngày một nhiều. Bấy giờ tại Nam Kỳ, có tờ Tuần báo Thanh
146
Niên xuất bản ở Sài Gòn (số đầu tiên ngày 27 – 9 – 1941), được Huỳnh Tấn Phát mua
lại và làm chủ nhiệm, ra số đầu tiên vào 7 – 8 – 1943.Đây là tờ báo cách mạng“mang
nặng tính tranh đấu” [22, tr.201]chủ trương kêu gọi, động viên, cổ vũ, nuôi dưỡng lòng
tin cho thanh niên – những “phần tử tráng kiệt của dân tộc, cố nhiên phải lãnh trách
nhiệm nặng nề hơn hết” [dẫn theo 47, tr.141], phải làm cho “nước sẽ mạnh, đời sẽ
đẹp” [dẫn theo 47, tr.143], và “gây tình đoàn kết giữa người Việt ba kỳ, khuyến khích
hoạt động để chứng tỏ sức sống của người Việt” [dẫn theo 47, tr.142]. Để thực hiện
tinh thần đoàn kết, tờ báo này kêu gọi thống nhất tiếng Việt, xem đâylà một điều kiện
để đi đến đoàn kết dân tộc: “Tiếng nói là tinh thần của dân tộc. Tiếng nói có thống
nhứt thì dân tộc mới giữ được tinh thần đoàn kết. Có đoàn kết thì mới mạnh, có mạnh
thì mới sống… Muốn hợp nhứt, chỉ có một cách là ai cũng như ai, coi tiếng nói Trung
– Nam – Bắc đều là tiếng Việt”. Thống nhất tiếng Việt được xem là “một công việc
quốc gia, cần cho sự thống nhứt tinh thần dân tộc, vì tiếng nói là tinh thần dân tộc…
Sẽ không còn tiếng Bắc, tiếng Nam, mà chỉ có tiếng Việt của bạn và của ta. Bắc Nam
cùng người Việt” [dẫn theo 47, tr.147]. Có lẽ vì vậy mà từ năm 1940 đến 1945, Thanh
niên là tuần báo duy nhất tập hợp được nhiều cây bút ở cả ba miền đất nước. Tính
thống nhất của tiếng Việt là phương tiện thuận lợi cho vận động cách mạng trên mọi
miền đất nước. Không những vậy, chữ quốc ngữ thời kì này còn có khả năng thể hiện
được những bản nhạc sống độnglàm rung động lòng người, nung sôi bầu nhiệt huyết
cho thanh niên, kêu gọi thanh niên lên đường đấu tranh của các nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước, Lê Thương, Lưu Nguyễn, Trần Văn Khê, Nguyễn Tôn Hoàn. Nhờ tính thống
nhất của tiếng Việt, tuần báo Thanh niên liên tục ra những “lời tuyên chiến đối với kẻ
thù xâm lược trước những ngày chuẩn bị Khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” [47, tr.160]
Cũng trong thời gian này, khi phong trào cách mạng đang sục sôi trong cả nước,
trong đó có thành phố Sài Gòn, ngày 24 – 9 – 1937, Đảng cộng sản Việt Nam cho ra
đời báo Le Peuple (Dân chúng) để làm cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng
cộng sản, lúc đó đóng ở Nam Kỳ. Báo Dân Chúng viết bằng tiếng Pháp để khỏi phải
147
xin phép nhà cầm quyền22. Nhưng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng đối
với phong trào cách mạng trong cả nước mà xuất bản bằng tiếng Pháp thì tác dụng sẽ
hạn chế, vì người đọc được tiếng Pháp không nhiều. Vì vậy, để phát huy tác dụng
được mạnh mẽ hơn, đáp ứng kịp thời sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương đối với
phong trào cách mạng cả xứ, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ quyết định cho ra tờ báo
Dân Chúng bằng tiếng Việt, phát hành công khai rộng rãi trong cả nước (22 – 7 –
1938), mặc nhiên chống lại các sắc lệnh và nghị định về xuất bản báo chí tiếng Việt
của nhà cầm quyền. Nhờ sử dụng tiếng Việt, báo Dân Chúng có thể thực hiện được các
cuộc đấu tranh, tuyên truyền trên mọi lĩnh vực đến mọi đối tượng như đòi cải cách
chính sách thuế khóa, đòi cải thiện đời sống cho công nhân, nông dân, binh lính, học
sinh, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh…,đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, cổ động, tổ chức và chỉ đạo các phong trào của quần chúng, đấu tranh bảo vệ
quyền lợi của quần chúng. Công nhân, nông dân và các tầng lớp quần chúng nhìn nhận
Dân Chúng là diễn đàn của họ, đòi hỏi có báo để đọc. Do đó, báocó thể phát hành rộng
rãi và mau lẹ. Báo được bán ở khắp ngã tư đường, các nhà máy, tận phân xưởng thợ,
tận những xóm làng hẻo lánh. “Dân Chúng cũng là tờ báo được nhiều người đọc nhất ở Đông Dương”23, “tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, nhất là đường lối
chiến lược và sách lược Mặt trận dân chủ” [14, tr.18]
Sau khi báo Dân Chúng ra đời, một số báo ở Nam Kỳ của các đoàn thể cách
mạng cũng xuất bản theo mà không xin phép nhà cầm quyền: Lao Động, Dân Tiến,
Dân Muốn, Đông Phương Tạp Chí, Sống, Tiến Tới… nhằm giáo dục tinh thần yêu
nước, yêu tự do, yêu hòa bình, đoàn kết đấu tranh chống phát xít, chống chủ nghĩa sô-
vanh, tuyên truyền cho Liên Xô và chủ nghĩa xã hội.Báo chí quốc ngữ chính là một
sức mạnh lớn nhất trong công cuộc tuyên truyền.
Trên mặt trận văn học. Như đã nêu, nhờ khả năng dễ học, dễ đọc, dễ viết, có thể
diễn tả mọi trạng thái của tâm hồn con người, chữ quốc ngữ đã trở thành chất liệu nghệ 22 Điều 5-Sắc lệnh Báo chí ngày 4 – 10 – 1927 của Tổng thống Pháp ký thi hành ở các cứ thuộc địa và bảo hộ quy định: “Mọi báo chí hoặc văn bản định kỳ, toàn bộ hay một phần được viết bằng một thứ tiếng khác tiếng Pháp sẽ phải được sự cho phép trước của Toàn quyền sau khi đã thống nhất với Ủy ban thường trực của Hội đồng chính phủ - Giấy phép này có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào bằng những hình thức tương tự”. Xem [39, tr.82] 23 Báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản về tình hình chính trị ở Đông Dương những năm 1936 – 1938. Xem [42, tr.124]
148
thuật chính cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, một nền văn học mang tính đại
chúng, đề cập tới mọi mặt của đời sống con người, được đông đảo quần chúng đón
nhận. Trong khi người Pháp nhận biết được khả năng đó và sử dụng văn chương để
tuyên truyền cho công cuộc “khai hóa”, truyền bá học thuật, “truyền bá các khoa học
của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp” [118, tr.107], thì những nhà cách
mạng Việt Nam cũng sớm nhận thấy “văn chương là một nghệ thuật để giác ngộ người
đời, truyền bá tư tưởng mới, tư tưởng yêu nước, tư tưởng cách mạng… phải có một
mục đích, một lý tưởng cao cả, phải góp phần vào cuộc vận động cứu quốc” [59,
tr.41]. Với quan niệm mới mẻ này, văn chương quốc ngữ đầu thế kỉ XX cũng làm tốt
vai trò là một công cụ, một hình thức đấu tranh của cách mạng Việt Nam.
Những trí thức cách mạng ra sức sáng tác văn học để đưa đường lối cách mạng
vô sản vào quần chúng nhân dân, tuyên truyền về lòng yêu nước và chủ nghĩa cộng
sản. Tác phẩm Đường Cách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng quốc ngữ đã
đưa tư tưởng mới tràn vào Việt Nam, đi vào đông đảo quần chúng, giác ngộ chủ nghĩa
Mác – Lênin. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có rất nhiều tác phẩm văn
học cách mạng vô sản được sáng tác để tuyên truyền, cổ vũ cho cao trào cách mạng
1930-1931, gồm cả những thể loại dân gian như ca dao, diễn ca, dân ca, vè, hát ví, hát
dặm. Nhiều nhà văn cảm tình với Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, sáng tác tiểu
thuyết, biên soạn triết học, viết lý luận văn học. Trong những năm 1931 – 1935, đáng
chú ý là thơ ca trong tù của Sóng Hồng, Đặng Xuân Thiều, Hồ Văn Ninh, Nguyễn Văn
Năng, Phan Trọng Bình, Trần Cung, Bùi Hữu Diên. Sang thời kì Mặt trận Dân chủ
(1936 – 1939), văn học cách mạng phát triển mạnh trên quy mô lớn. Bắt đầu với thể
loại nghị luận, tiêu biểu có Trần Huy Liệu, Bùi Công Trừng, Trần Minh Tước, Hải
Triều, Tố Hữu. Văn xuôi có Vượt ngục của Văn Tân; truyện ngắn có tác phẩm của Học
Phi, Nguyên Hồng, nổi bật là phóng sự Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến. Trường
Chinh với bút danh Sóng Hồng là tác giả của văn kiện Nhật Pháp đánh nhau và hành
động của chúng ta (3-1945), là người soạn thảo Đề cương văn hóa Việt Nam (1943);
ông không phải là nhà thơ chuyên nghiệp mà làm thơ “cốt để phục vụ tuyên truyền
cách mạng hoặc để ghi lại một số tình cảm sâu sắc của đời mình” [110, tr.471]. Thơ
Tố Hữu (1920 – 2002) cũng tuyên truyền vận động cách mạng, kháng chiến chống
149
Pháp với “những tình cảm rất chân thật làm xúc động lòng người, có nhiều lối phối
âm, phối thanh rất tài tình, khai thác thành công thủ pháp láy phụ âm” [110, tr.473]
Hoạt động cách mạng trên nền văn học mới như vũ khí sắc bén của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Tuy nhằm mục đích tuyên truyền, đấu
tranh cách mạng nhưng lời văn trong các tác phẩm văn chương quốc ngữ này có giọng
điệu như “những lời tâm tình, ngắn gọn, giản dị, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ” [110, tr.468],
mang niềm tự hào dân tộc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai, có thể đi đến tận các
đồn điền, hầm mỏ, trong xưởng máy và nơi thôn xóm, kêu gọi công nông binh nổi dậy
làm cách mạng để xây dựng thế giới mới.
Bên cạnh báo chí, văn học, các sách thuộc thể loại từ vựng chính trị, xã hội học,
kinh tế học, triết học bằng quốc ngữ do Đảng cộng sản phát hành cũng phong phú lên
nhanh chóng, được nhân dân theo dõi đông đảo, “đó là những dịp để chữ quốc ngữ
bước tới những bước mới” [66, tr.199]
Trên mặt trận giáo dục.Nối tiếp tinh thần và sự nghiệp của các nhà Duy tân đầu
thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam ngay khi được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, phong trào dạy và học chữ quốc ngữ đã phát triển mạnh mẽ hơn. Trong cao trào
cách mạng 1930 – 1931, chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh thực hiện chỉ thị của tỉnh ủy
đã quyết định: “Tổ chức các lớp dạy quốc ngữ và các buổi đọc báo, giảng sách vào
ban đêm hoặc vào buổi trưa, tùy theo hoàn cảnh từng địa phương” [111, tr.26]. Từ đó
các khẩu hiệu “dạy chữ Quốc ngữ”, “tổ chức lớp học chữ Quốc ngữ” xuất hiện cùng
với khẩu hiệu đòi chia lại ruộng đất, chống những hủ tục lạc hậu trong phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh. Ở những nơi có chính quyền cách mạng, không khí học tập rất sôi
nổi:
“Lớp quốc ngữ, lối về chăm học
A, B, C miệng đọc thanh thanh” [dẫn theo 111, tr.26]
“Phong trào học quốc ngữ lên rất cao, đêm đêm tiếng a, b… vang lên rộn rã khắp
xóm thôn… Các buổi đọc báo, diễn thuyết, giảng sách số người tham gia ngày càng
đông, thôn nào cũng có, xóm nào cũng có. Các trụ sở nào cũng chật ních người đến
học, đến nghe” [4, tr.106]. “Đây là một công cuộc phát triển văn hóa quan trọng” [111,
tr.50]
150
Vào giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng để giữ
Đông Dương trong tay Pháp, Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux (1884 – 1963)
cho phép nới rộng phạm vi tiếng nói và chữ viết Việt Nam trong giáo dục và chính
quyền thực dân. Tương kế tựu kế, cán bộ của Đảng, hàng trăm hàng ngàn người cảm
tình với Đảng đi vào cuộc vận động truyền bá quốc ngữ trong quảng đại quần chúng
nhân dân lao động thành thị và nông thôn, xem đó là một cách vận động quần chúng
của Đảng cộng sản. Quần chúng biết chữ thì sẽ hiểu sách báo của Đảng hơn. Đây là
một khâu quan trọng trên mặt trận văn hóa trong khi Đảng ráo riết đi vào chiến đấu
chính trị và vũ trang nhằm giành chính quyền. Cũng kể từ đây, việc phổ cập chữ quốc
ngữ đã mang màu sắc cách mạng và do Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo.
Đầu năm 1938, Xứ ủy Bắc Kỳ giao cho Trần Huy Liệu cùng các ông Đặng Thai
Mai, Võ Nguyên Giáp tập hợp một số tri thức tiêu biểu thời kì này như Bùi Kỷ, Hoàng
Xuân Hãn,Quản Xuân Nam, Phan Thanh... bàn bạc và lập ra Hội Truyền bá quốc
ngữ(ngày 25 – 5 – 1938). Để tránh chính quyền Pháp gây khó dễ, Đảng cộng sản chủ
trương đưa các nhân sĩ có uy tín trong quốc dân ra gánh vác công việc của Hội, nhất trí
cử cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng, trụ sở Hội đặt tại Hội quán Trí Tri (nay là số
nhà 47, phố Hàng Quạt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Mục đích của hội là: “Dạy cho
đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của mình để dễ đọc được những điều
thường thức cần dùng cho sự sinh hoạt hằng ngày. Cốt cho mọi người viết chữ quốc
ngữ giống nhau” [dẫn theo 122, tr.113]. Kể từ sau khi Hội được thành lập, phong trào
truyền bá quốc ngữ lan tỏa đi khắp nơi, trở thành một trong những hoạt động quần
chúng sâu rộng và cũng rất cấp tiến.
Sau khi thành lập ở Hà Nội, Hội Truyền bá quốc ngữ lần lượt được thành lập ở cả
Bắc, Trung, Nam. Ở Nam Kỳ, Hội truyền bá Quốc ngữ ra đời muộn hơn. Nó được
thành lập theo một Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ Hoeffel ký ngày 18 – 8 – 1944,
do Nguyễn Văn Vĩ làm Chánh Hội trưởng, Khuông Việt làm Tổng thư ký, Huỳnh Tấn
Phát làm Trưởng ban Cổ động… Cơ cấu tổ chức tương tự như tổ chức Hội ở Bắc Kỳ.
Trụ sở tạm thời của hội được đặt tại Hội quán Hội kỹ sư trên đường Chasseloup
Laubat (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai). Hội lấy bài ca Gieo ánh sáng, sáng tác
của Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước làm bài Hội ca. Mục đích của
151
Hội là “chống mù chữ trong giới bình dân… thông qua nội dung giảng dạy, các thầy
cô phát động lòng yêu nước trong các hội viên” [68, tr.136]
Lớp học của Hội truyền bá quốc ngữ gồm có bậc sơ đẳng và bậc cao đẳng. Bậc
sơ đẳng dạy vỡ lòng cho học viên biết đọc, biết viết quốc ngữ, làm được hai phép tính
cộng, trừ. Bậc cao đẳng luyện cho học viên đọc viết thông thạo quốc ngữ, dạy thêm ít
điều thường thức và bốn phép tính.Để việc truyền bá chữ quốc ngữ nhanh chóng, Hội
còn chủ trương người được học phải dạy lại cho người chưa được học. Hội thường tổ
chức các cuộc diễn thuyết nhằm giảng dạy, phổ biến những điều thường thức cho đồng
bào. Hội chủ trương biên soạn và xuất bản các loại sách thường thức phổ thông về sử
ký, địa lý, vệ sinh, khoa học... nhằm bổ khuyết việc học ở lớp, phổ biến rộng rãi trong
nhân dân.Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là người biên soạn quyển sách học vần nổi tiếng
cho Hội bằng những câu đơn giản, dễ nhớ như: “I tờ hai móc cả hai. I ngắn có chấm,
tờ dài có ngang. O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, ơ là thêm râu” và “huyền
ngang, sắc dọc, nặng tròn; hỏi lom khom đứng, ngã buồn... nằm ngang” [xem 31,
tr.13] cho tới nay vẫn còn có người thuộc.
Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản, tinh thần ham học, cầu tiến của
quần chúng và tinh thần nỗ lực của các hội viên gồm trí thức, học sinh, sinh viên yêu
nước, phong trào Truyền bá Quốc ngữ mau chóng trở thành một phong trào quần
chúng có tổ chức, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, lan rộng
khắp các địa phương và thu được những kết quả tốt đẹp. Tính đến Cách mạng tháng
Tám 1945, Hội đã xóa mù chữ cho gần 7 vạn người. Không chỉ có học chữ, Hội
Truyền bá quốc ngữ còn là một trường đào tạo, giáo dục thanh niên những đức tính
cần thiết trong cuộc sống (tinh thần đoàn thể, óc tổ chức, kỷ luật, kiên quyết hi sinh
cách mạng...), …giúp thanh niên tránh được những cuộc vui chơi không lành mạnh (cờ
bạc, trai gái, rượu chè...), …giúp các thanh niên trí thức có dịp tiếp xúc, đi sâu, tìm
hiểu cuộc sống cơ cực của quần chúng công nông lao động. Thu hút thanh niên vào
một số hoạt động xã hội do Đảng lãnh đạo. Do vậy đi học cũng là đi làm cách mạng.
Năm 1943, ngay khi phát động chiến tranh du kích đánh Pháp đuổi Nhật, Đảng
cộng sản Đông Dương phát hành bản “Đề cương văn hóa Việt Nam”, trong đó sự phát
152
triển chữ quốc ngữ và tiếng Việt Nam được Đảng xem là một trong ba việc cần kíp
phải làm. Đề cương có đoạn viết:
“Công việc phải làm:
a/ Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng…
b/ Tranh đấu về tông phái văn nghệ…
c/ Tranh đấu về tiếng nói và chữ viết:
1/ Thống nhất và làm giàu tiếng nói,
2/ Ấn định mẹo văn ta,
3/ Cải cách chữ quốc ngữ”[dẫn theo 111, tr.53]
Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), thể hiện sinh động tính cách mạng, tính
khoa học và tính nhất quán của đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam [110, tr.471]. Với bản Đề cương, chữ quốc ngữ được xem “như lưỡi gươm, cái
khiên của dân tộc, nhằm tiến tới tổng khởi nghĩa thành công. Cuộc tổng khởi nghĩa
thành công sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các nhiệm vụ được
đặt ra đối với tiếng nói và chữ viết dân tộc” [67, tr.201]. Cho thấy, trong khói lửa,
Đảng Cộng sản vẫn luôn quan tâm, đề cao vai trò của chữ quốc ngữ và tiếng nói của
dân tộc.
Có thể khẳng định, sự truyền bá của Hội Quốc ngữ ở ba kỳ là một thắng lợi to
lớn do Đảng Cộng Sản chỉ đạo. Phong trào đã lập nên những kỳ tích trong nền giáo
dục Việt Nam trước năm 1945 về việc xoá nạn mù chữ, đẩy mạnh bổ túc văn hoá,
tuyên truyền đường lối cách mạng. Nhưng sự việc không dừng lại ở đó, dấu ấn của
Hội truyền bá Quốc ngữ còn tiếp tục được phát huy trong tên mới là phong trào Bình
dân học vụ theo chủ trương của Đảng cộng sản ngay sau khi nước nhà giành được độc
lập 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ
ngày 3 – 9 – 1945 đã khẳng định: “Chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng
nước ta theo vần quốc ngữ. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù
chữ” [112, tr.26]. Ngay sau đó, ngày 8 – 9 – 1945, Chính phủ đã ban hành 3 sắc lệnh
về việc cưỡng bách và tổ chức học quốc ngữ, và thành lập Nha Bình dân học vụ trong
Bộ Giáo dục quốc gia, một cơ quan nhà nước, đảm nhận việc xóa nạn mù chữ cho
nhân dân lao động. Trong sắc lệnh số 20 do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký
153
có nêu: “Trong khi đợi lập được nên tiểu học cưỡng bách, việc học chữ quốc ngữ từ
năm nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người [khoản 1]. Hạn trong một
năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên tám tuổi phải biết đọc và biết viết chữ quốc
ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam nào trên tám tuổi mà không biết đọc và biết
viết chữ quốc ngữ sẽ bị phạt tiền [khoản 2] [dẫn theo 122, tr.118]. Trong Lời kêu gọi
chống nạn thấthọc của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào tháng 10 - 1945 cũng nêu rõ:
“Chính phủ đã ra hạn trong một năm tất cả mọi người ViệtNamđều phải biết chữ
Quốc ngữ. Chính phủ đã lập một Nha bình dân học vụ để trông nom việc học của nhân
dân.
Nhân dân ViệtNam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết
đọc biết viết chữ Quốc ngữ.
Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức
vào Bình dân học vụ” [dẫn theo 112, tr.18]
Điều này cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm nhiều đến dân trí ngay
từ lúc cách mạng chưa thành công và tiếp tục đẩy mạnh khuyến học sau khi cách mạng
đã thành công.Phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ đã thực hiện một cuộc pháttriển và
là trường học văn hóa rất rộng lớn của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, hội văn hóa –
giáo dục chỉ là danh nghĩa, thực chất đây là một tổ chức chính trị có sự tham gia của
nhiều nhà chính trị, Hội đã đóng góp rất lớn cho Đảng cộng sản Việt Nam và Cách
mạng bằng việc tuyên truyền giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh
trong toàn thể quần chúng nhân dân, “trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi,
có tổ chức. Đó cũng là một cuộc đấu tranh gay gắt, kiên trì trên mặt trận văn hóa”
[111, tr.7]. Nhiều hội viên của Hội đã trở thành những chiến sĩ cách mạng tham gia
khởi nghĩa giành chính quyền.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày vinh quang của dân tộc cũng là ngày
vinh quang của quốc ngữ khi quốc ngữ là chữ của Tuyên ngôn độc lập. “Lần đầu tiên
154
chữ Quốc ngữ đã giành được địa vị độc tôn xứng đáng của nó trong một nước Việt
Nam độc lập” [86, tr.182]khi được chính thức công nhận là ngôn ngữ dạy học ở tất cả
các cấp, các ngành chuyên khoa của nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Việt Nam cũng là “nước duy nhất trong vùng Đông Nam Á có chữ viết dùng cho tiếng
nói của dân tộc mình xây dựng bằng những chữ cái Latinh” [73, tr.5]
*
Với tư cách là “sản phẩm trực tiếp của sự tiếp xúc giữa văn hóa Âu Tây và văn
hóa Việt Nam” [8, tr.282], đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ đã “án ngữ được cả chữ Hán
và chữ Nôm” [77, tr.129] để tiến sâu và lẫn nhập vào các lĩnh vực văn hóa - xã hội của
người Việt, thực hiện được vai trò chuyển tải, du nhập những loại hình văn hóa mới và
phát huy những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ, vùng đất đang có nhiều
biến chuyển.Tham gia vào công cuộc cải cách giáo dục của chính quyền Pháp, quốc
ngữ góp phần hoàn thiện nền giáo dục Pháp – Việt, thực hiện chuyển hóa giáo dục từ
Nho học sang Tây học. Quốc ngữ còn là phương tiện kĩ thuật khai sinh ra báo chí tiếng
Việt, một loại hình văn hóa phương Tây lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, làm phong
phú thêm đời sống văn hóa Nam Kỳ. Quốc ngữ là chất liệu ngôn ngữ khai sinh ra nền
văn học mới ở Nam Kỳ – văn học quốc ngữ, mang ảnh hưởng của văn học phương
Tây biểu hiện ở tính hiện đại, tính đại chúng và sự phong phú về thể loại. Kịch nói là
một trong những thể loại đó, có nguồn gốc từ phương Tây và được phổ biến đến quần
chúng nhờ chữ quốc ngữ, cùng với những loại hình nghệ thuật cải lương, tuồng. Là
yếu tố trực tiếp loại bỏ chữ Hán, chữ Nôm nhưng chính quốc ngữ lại mang đến sức
sống mới cho các tác phẩm Hán – Nôm khi nó đóng vai trò là người lưu giữ và phổ
biến các tác phẩm Hán – Nôm dưới hình thức là các tác phẩm dịch. Quốc ngữ còn là
một nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa ở Nam Kỳ khi nó trở thành ngôn ngữ
hành chính. Phát triển trong sự ưu ái của chính quyền thực dân, nhưng trong cuộc
chiến giành độc lập cho dân tộc Việt, chữ quốc ngữ trở thành một vũ khí sắc bén phục
vụ đấu tranh cách mạng, vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền giác
ngộ quần chúng, kêu gọi đoàn kết, khơi gợi lòng yêu nước, vận động tiến tới giải
phóng dân tộc… để trở thành chữ viết chính thức trong một quốc gia độc lập.
155
KẾT LUẬN
Nam Kỳ là vùng đất thuộc lãnh thổ Đàng Trong, được hình thành trong quá trình
mở rộng lãnh thổ về phía Nam của các chúa Nguyễn.Ngay từ đầu thế kỷ XVII, với
những biện pháp thích hợp và cực kỳ khôn khéo, chúa Nguyễn đã mở đường cho nhiều
lớp di dân người Việt tiến vào vùng đất phía Nam lập nghiệp. Những con người ra đi
vì khát vọng tự do và một cuộc sống bình yên đã biến Nam Kỳ thực sự trở thành “một
miền đất hứa”, vùng đất của quá trình cộng cưgiữa các tộc người: Việt, Hoa, Chăm,
Khmer… Để chinh phục những thử thách đặt ra và có thể hòa hợp được với các tộc
người đã có mặt từ trước, lưu dân Việt đã biết linh hoạt trong giao lưu, tiếp nhận
những giá trị văn hóa của các dân tộc khác, vừa làm giàu thêm bản sắc văn hóa truyền
thống, vừa sáng tạo ra những đặc trưng văn hóa mới. Từ đó hình thành ở Nam Kỳ một
sắc thái văn hóa theo định hướng mở. “Đó là một cảnh cửa rất tốt đẹp” [15, tr.53] để
Nam Kỳ nhập cuộc một cách nhanh chóng vào luồng thương mại quốc tế và khu vực,
dễ tiếp nhận tôn giáo mới, tư tưởng mới của phương Tây.
Khi Nam Kỳ đang trong quá trình hình thành thì cũng là lúc chủ nghĩa tư bản
phương Tây đang bước những bước tiến dài với nền văn minh công nghiệp. Đó là một
nền văn minh gắn liền với tri thức khoa học và hàng loạt phát minh máy móc được
ứng dụng rộng rãi, trong đó có ngành hàng hải, một phương tiện chuyên chở văn hóa
phương Tây đến với các dân tộc phương Đông. Đó còn là một nền văn minh gắn liền
và chịu nhiều ảnh hưởng của Kitô giáo. Các giáo sĩ không chỉ mang trên mình sứ
mệnh mở rộng đất chúa cao cả mà còn là những người đại diện cho văn minh phương
Tây, mang ánh sáng văn minh đến với các dân tộc phương Đông. Chủ nghĩa thực dân
sẽ là một điều kiện quyết định đến sự hiện diện và áp đặt văn minh phương Tây lên
các dân tộc thuộc địa, và do đó văn minh phương Tây còn là một nền văn minh gắn
liền với chủ nghĩa thực dân.
Một bên là nền văn minh đang lan tỏa và cần mở rộng cả về kinh tế, tôn giáo lẫn
thuộc địa, một bên là vùng đất đầy tiềm năng, có xu hướng mở và vốn quen với việc
tiếp nhận cái mới, Nam Kỳ và phương Tây đã gặp nhau trong mối quan hệ tiếp xúc và
giao lưu văn hóa Đông – Tây. Các nhà truyền giảng phúc âm của chúa Giesu là người
mở đầu và làm trung gian cho cuộc gặp gỡ này. Cùng với đó là những đoàn thuyền của
156
các nhà buôn, những người luôn mang trong mình tri thức khoa học phương Tây và
sản phẩm của công nghiệp máy móc. Sau cùng, bước chân của đoàn quân xâm lược
Pháp sẽ chính thức áp đặt sự hiện diện của văn minh phương Tây lên đất Nam Kỳ.
Trong những quá trình đó, để có công cụ tiện lợi cho các giáo sĩ rao giảng đạo Chúa,
để các thương gia thuận lợi trong giao thương, để có phương tiện để đoàn quân viễn
chinh giao tiếp với dân bản xứ, chữ quốc ngữ đã được ra đời với tư cách là sản phẩm
của cuộc gặp gỡ, giao lưu văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây. Nam Kỳ trở thành
nơi mà chữ quốc ngữ “được phổ biến sớm hơn mấy mươi năm so với phần còn lại của
đất nước Đại Nam” [22, tr.87]. Các giáo sĩ phương Tây trở thành người trực tiếp “khai
sinh ra chữ quốc ngữ… một món quà vô giá thông qua Vatican và các nhà truyền giáo
của tòa thánh” [107, tr.40]. Khi ấy, vì sự bài trừ Thiên chúa giáo của tầng lớp Nho sĩ
và triều đình phong kiến đương thời, cho nên việc truyền đạo hầu hết hướng về những
con người nghèo khổ, cùng đinh ở nông thôn. Tuy nhiên, họ là những người bình dân,
không biết chữ Nho, chữ Nôm, nên các giáo sĩ buộc phải tìm ra một thứ chữ mới để
ghi lại và truyền bá những điều đã giảng dạy về Kitô giáo. Chữ viết đó về sau trở nên
thông dụng và trở thành quốc ngữ.Tuy nhiên, trong hơn hai thế kỉ đầu, “thứ chữ rất
giản tiện này” [86, tr.160]chỉ được sử dụng vào mục đích tôn giáo, bị thu hẹp trong
nhà thờ và giáo dân mà chưa có ý nghĩa gì về chính trị hay văn hóa.
Chỉ khi người Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và thiết lập guồng máy cai trị, chữ quốc
ngữ mới bắt đầu trở thành một công cụ chính trị và dần có vị trí trong một số lĩnh vực
văn hóa.Người Pháp tin tưởng rằng quốc ngữ sẽ cung cấp cho họ “một vũ khí mạnh
trong trận chiến để loại trừ chữ viết Trung Hoa vốn là động cơ truyền đạt cổ truyền
cho các tài liệu viết tại Việt Nam” [126, tr.100]. Do vậy, ngay từ những ngày đầu tiên
của chế độ thuộc địa, người người Pháp đã khuyến cáo học chữ quốc ngữ, từ bắt buộc
dạy chữ quốc ngữ trong các trường học, đến bắt buộc dùng chữ quốc ngữ trong guồng
máy hành chính, từ việc cho ra tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo) như một công
cụ tuyên truyền cho đến chủ trương xuất bản những tạp chí văn hóa, văn học nhằm
mục đích phổ biến quốc ngữ, tuyên truyền cho chính sách thực dân, cho văn minh
phương Tây. Chữ quốc ngữ đã trở thành một mối quan tâm tha thiết từ rất sớm của nhà
cầm quyền Pháp trong nhiều lĩnh vực văn hóa quan trọng:giáo dục, hành chính, báo
157
chí, văn học.Nhưng dĩ nhiên, khi người Pháp trao cho quốc ngữ một vị trí trong nền
giáo dục mới, nâng quốc ngữ trở thành thứ chữ bắt buộc đối với công chức, dùng quốc
ngữ để khai sinh báo chí tiếng Việt, hay xem quốc ngữ “như một thứ chữ của văn
chương” [114, tr.7], chắc chắn đều không phải vì người Pháp yêu quý tiếng Việt và
mong muốn phát huy văn hóa cho dân tộc Việt.Tất cả đều vì những quyền lợi chính trị,
“bứng Việt Nam ra khỏi thế giới Trung Hoa” [73, tr.135],tuyên truyền đường lối cai trị
của nhà cầm quyềnvà “quyết tâm đưa văn minh phương Tây vào với cái sứ mệnh khai
hóa văn minh” [40, tr.387].
Việc người Pháp sử dụng quốc ngữ như “một công cụ đắc lực nhất lúc này cho
chính sách trực trị và đồng hóa” [29, tr.200] đã gây ra ác cảm trong giới sĩ phu Nho
học và nhân dân đối với thứ chữ mới này. Nhưng cuối cùng, từ vị trí là phương tiện
của các nhà truyền giáo, là công cụ chính trị của nhà cầm quyền Pháp, chữ quốc ngữ
đã vươn lên trở thành con đường đưa văn minh phương Tâyvề với người Việt và được
người Việt nhào nặn thành những giá trị văn hóa mới. Đầu thế kỉ XX, người ta đã thấy
chữ quốc ngữ được chính quyền Pháp thừa nhận trong nền giáo dục, chiếm có “địa vị
trọng yếu trong chương trình học vụ cả nước” [85, tr.29], tham gia vào quá trình thay
thế nền giáo dục Nho học bằng giáo dục Pháp – Việt, một nền giáo dục có nội dung và
hình thức tổ chức theo kiểu phương Tây, đào tạo ra một đội ngũ trí thức Tây học,
những người trực tiếp truyền bá khoa học và tư tưởng dân chủ phương Tây vào Nam
Kỳ. Cũng trong thời gian này, lần đầu tiên người Việt được tiếp xúc với một loại hình
văn hóa mới đến từ phương Tây, chưa từng thấy ở Nam Kỳ: báo chí tiếng Việt. Cùng
lúc với báo chí, người ta cũng thấy chữ quốc ngữ trở thành chất liệu nghệ thuật chính
của nền văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ. Những thể loại văn học mới mang phong cách
văn học Pháp như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới là những thể loại văn học
chỉ khởi đầu và phát triển với chữ quốc ngữ, nổi tiếng như: Chuyện đời xưa, Truyện
thầy Lazaro Phiền, Giọt máu chung tình, Chuyện ông lý chắn, Sống chết mặc bay, Cha
con nghĩa nặng…. Quốc ngữ còn thu góp, lưu giữ được một di sản lớn văn hóa Hán –
Nôm thông qua những bản dịch truyện Nôm (Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Quốc sử
diễn ca…) và một số sách kinh điển Hán học (Trung dung, Luận ngữ, Đại học…).
Những công trình khảo cứu, nghị luận, phê bình văn học cũng nằm trong lĩnh vực chữ
158
quốc ngữ. Rõ ràng, vượt ra ngoài ý đồ của thực dân, chữ quốc ngữ đã nhanh chóng trở
thành cái cầu nối đầu tiên của Nam Kỳ với văn minh phương Tây, một “phương tiện
hoạt động văn hóa xã hội đầy tính năng động” [86, tr.171] với nhiều lĩnh vực.
Không chỉ có vậy, đến đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ cũng nhận được “cái nhìn
đúng đắn hơn” [38, tr.64] từ các nhà Nho. Sớm vượt qua những ác cảm ban đầu, các sĩ
phu Nho học đã nhìn quốc ngữ như một công cụ mở mang dân trí và ra sức hô hào học
quốc ngữ, giành lấy nó về cho người Việt. Từ “một tay phụ tá đắc lực” [73,
tr.134]trong chính sách văn hóa của người Pháp, quốc ngữ trở thành “phương tiện ưu
hạng để chuyển tải các tư tưởng tiến bộ, các kiến thức mới, để phổ biến sách tân học”
[73, tr.135]. Trong tay những trí thức Nho học đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ trở thành
chữ phổ thông, “được quảng đại quần chúng ưa dùng, chiếm lĩnh địa bàn toàn quốc”
[85, tr.29]. Như vậy, trước khi có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, người Việt Nam yêu
nước đã biết sử dụng ngay những sản phẩm văn hóa của Gia tô giáo vào việc tranh đấu
cho một nền văn hóa mới mang tính dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng
sản Việt Nam, chữ quốc ngữ càng có dịp tỏ rõ sức sống mạnh mẽ của nó. Truyền đơn,
sách báo cách mạng in bằng chữ quốc ngữ, các tác phẩm văn học cách mạng, những tư
tưởng cách mạng vô sản đều đến tận tay quần chúng, góp phần đắc lực vào việc tuyên
truyền, cổ vũ, động viên, tổ chức lực lượng đấu tranh cách mạng. Phong trào “truyền
bá quốc ngữ” với tổ chức là “Hội truyền bá quốc ngữ” được triển khai rộng rãi cả nước
và thu được nhiều kết quả đáng kể để cuối cùng quốc ngữ xứng đáng trở thành chữ
viết chính thức của một nước Việt Nam độc lập, trở thành văn tự duy nhất của tiếng
Việt, được dùng rộng rãi trong mọi lĩnh vực.
Là con đẻ của quan hệ văn hóa Nam Kỳ với phương Tây, chữ quốc ngữ đã “có
những đóng góp khá độc đáo” [38, tr.64] trong việc truyền bá văn minh phương Tây
vào Việt Nam, tạo ra ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc đến mọi lĩnh vực văn hóa – xã hội
Việt Nam. “Nhờ chữ quốc ngữ mà xứ sở có điều kiện bước vào văn minh, hiện đại hóa
bằng cách Âu hóa” [114, tr.1]. Biểu hiện của Âu hóa là sự du nhập những loại hình
văn hóa mới, những tư tưởng cách mạng tiến bộ có nguồn gốc từ phương Tây, làm
phong phú thêm đời sống văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX, đồng thời làm chuyển biến
những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ theo hướng phương Tây hóa.
159
Ngày nay, chữ viết của tiếng Việt hiện đại – chữ quốc ngữ vẫn đang trên đà phát
triển mạnh mẽ, ngày càng trở nên phong phú và chuẩn xác. Tuy nhiên, cần phải có
những cải tiến để quốc ngữ ngày càng trở nên khoa học hơn, hợp lý hơn, giản tiện hơn,
tiếp tục phát huy vai trò xây dựng văn hóa mới trên một đất nước Việt Nam thống
nhất.
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1997), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Văn học.
4. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1967), Xô Viết Nghệ Tĩnh, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
5. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An – Thanh Hà – Nước Mặn) thế
kỷ XVII – XVIII, Nxb Thuận Hóa.
6. Phan Trọng Báu (2006), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Giáo dục.
7. Nguyễn Lương Bích (2000), Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
8. Nguyễn Lân Bình (chủ biên) (2013), Nguyễn Văn Vĩnh là ai?, Nxb Tri thức.
9. Nguyễn Ang Ca (1959), “Lịch trình tiến triển báo giới Việt Nam từ 1861 đến 1953”,
Tạp chí Văn hóa ngày nay, Sài Gòn, số 2/1959, tr.8-14.
10. Trương Bá Cần (2009), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập I, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
11. Charles B. Maybon (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nguyễn Thừa Hỷ
dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Đỗ Quang Chính (1972), Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620 – 1659, Ra Khơi, Sài Gòn.
13. Nguyễn Việt Chước (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nam Sơn, Sài Gòn.
14. Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nguyễn Nghị dịch, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
16. Võ Xuân Đàn (2012), Những vấn đề lịch sử – văn hóa – giáo dục Nam Bộ, Nxb Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Phan Cự Đệ (2006), Trần Đình Hượu, Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục.
18. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, tập Trung, quyển III, Nha văn hóa
phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản.
19. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, quyển IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Edward Burnett Tylor (2000), Văn hóa nguyên thủy, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
161
21. Fernand Braudel (1992), Tìm hiểu các nền văn minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
23. Lê Văn Giạng (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Trần Văn Giàu (1987), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập I, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
25. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ
lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Trần Văn Giàu (1998), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập IV: Tư tưởng và
tín ngưỡng, Nxb Tổng hợp TPHCM.
27. Trần Văn Giàu (2001), Chống xâm lăng (Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1898), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (1998), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập
II: Văn học – Báo chí – Giáo dục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Nxb Hội Nhà Văn.
31. Hoàng Xuân Hãn (1988), “Nhớ lại Hội Truyền bá quốc ngữ nhân kỷ niệm 50
năm”, Đoàn Kết, Paris, số 405/tháng 9-1988, tr.12-16.
32. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884 – 1945), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Hoàn (2000), “Chữ Quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá Việt Nam
trong thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, số 9/2000, tr.37-46.
34. Nguyễn Trọng Hoàng (1967), “Chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 96/1967, tr.14-21.
35. Hội Nhà báo Việt Nam (1985), Báo chí Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Quyển I, Nxb Hiện Tại, Sài
Gòn.
162
37. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
38. Đỗ Quang Hưng (1991), Một số vấn đề lịch sử Thiên chúa giáo ở Việt Nam, Nxb Đại
hoc Tổng hợp, Hà Nội.
39. Đỗ Quang Hưng (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
40. Đỗ Quang Hưng, Trần Viết Nghĩa (2013), Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn
hóa Việt Nam thời cận đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời (1900 –
1930), Nxb Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
42. Phạm Thị Thanh Huyền (2008), “Một số đóng góp của thiên chúa giáo đối với văn hóa
Việt Nam (thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX)”, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ III.
43. Nguyễn Thừa Hỷ (2011), Văn hóa Việt Nam truyền thống – một góc nhìn, Nxb Thông
tin và truyền thông, Hà Nội.
44. Karl Marx (1960), Tư bản, quyển I, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
45. Trần Văn Khải (1972), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Khai Trí, Sài Gòn.
46. Hồ Công Khanh (2004), Chữ quốc ngữ và những vấn đề liên quan đến thư pháp, Nxb
Văn Nghệ.
47. Nguyễn Công Khanh (2006), Lịch sử báo chí Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 1865
– 1995, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Phan Khoang (1967), Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Khai Trí, Sài Gòn.
49. Nguyễn Văn Kiệm (1979), Lịch sử Việt Nam 1900 – 1918, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Kiệm (2003), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam,
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
51. Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, quyển II, Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất
bản.
52. Hồng Lam (1944), Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, Huế.
53. Lê Thị Lan (2002), Tư tưởng cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
163
54. Phan Huy Lê (chủ nhiệm đề tài) (2002), Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và hiện
đại(Báo cáo kết quả nghiên cứu), Hà Nội.
55. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, tập 2, Nxb Hà Nội.
56. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18,
Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ.
57. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam trước Cách mang tháng Tám
1945, Nxb Từ điển Bách khoa.
58. Huỳnh Lứa (1984), Quá trình khai phá vùng Đồng Nai – Cửu Long và hình thành một
số tính cách, nếp sống và tập quán của người nông dân Nam Bộ, trong cuốn Mấy đặc
điểm Đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hoá, Hà Nội.
59. Đặng Thai Mai (1976), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900-1925), Nxb
Văn học giải phóng.
60. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
61. Huỳnh Minh (2006), Gia Định xưa, Nxb Văn hóa - Thông tin.
62. Trần Viết Nghĩa (2012), Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời
Pháp thuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Tập 3: Văn học
hiện đại 1862-1945, Quốc học Tùng thư, Sài Gòn.
64. Lê Nguyễn (2005), Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, Nxb Văn hóa thông tin.
65. Nguyễn Thanh Nhã (2013), Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỉ XVII và XVIII, Nguyễn
Nghị dịch, Nxb Tri thức.
66. Nhiều tác giả (1993), Về sách báo của tác giả Công giáo thế kỷ XVII – XIX), Nxb Đại
học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
67. Nhiều tác giả (1999), Luận về quốc học (nghiên cứu – cảo luận), Nxb Đà Nẵng.
68. Hồ Hữu Nhựt (1999), Lịch sử giáo dục Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (1698 –
1998), Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.
69. Vũ Dương Ninh (2007), Việt Nam – thế giới và sự hội nhập, Nxb Giáo dục.
70. Ngô Minh Oanh (2008), Tiếp xúc và giao lưu văn minh nhân loại, Nxb Đại học sư
phạm TP. Hồ Chí Minh.
164
71. Nguyễn Ngọc Phan (2007), Trương Ngọc Tường, 100 câu hỏi đáp về Gia Định – Sài
Gòn – TP. Hồ Chí Minh: Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
72. Philippe Devillers (2006), Người Pháp và người An Nam: bạn hay thù?, Nxb Tổng
hợp TP. Hồ Chí Minh.
73. Nguyễn Phú Phong (2005), Việt Nam – Chữ viết, ngôn ngữ và xã hội, Nxb Đại học sư
phạm TP. Hồ Chí Minh.
74. Pièrre Brocheux, Daniel Hémery (1995), Đông Dương nền thực dân nước đôi (1858 –
1954), bản dịch, NXB La Découverte, Paris.
75. Nguyễn Phan Quang (2002), Việt Nam thế kỉ XIX (1802 – 1884), Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
76. Đào Duy Quát (2013), “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 – Cương lĩnh văn hóa
đầu tiên của Đảng ta”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/9/2013.
77. Kiều Thanh Quế (1969), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Nxb Hoa Tiên, Sài Gòn.
78. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục chính biên, tập 10, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
79. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục chính biên, tập 32, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
80. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
quyển XXXIII, Viện Sử học dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
81. Quốc sử quán triều Nguyễn (1965), Đại Nam thực lục chính biên, tập II, bản dịch của
Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
82. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam chính biên liệt truyện, tập II, bản dịch
của Viện sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế.
83. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Quốc triều sử toát yếu, Nxb Văn học.
84. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (1999), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
85. Nguyễn Minh San (2006), Bách khoa thư giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
86. Đặng Đức Siêu (1982), Chữ viết trong các nền văn hoá, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
87. Lê Văn Siêu (2006), Việt Nam văn minh sử cương, Nxb Văn học, Hà Nội.
165
88. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, quyển IV: Từ Tây Sơn mạt diệp đến Nguyễn
sơ, Sài Gòn.
89. Nguyễn Đức Sự (2011), “Vị trí và vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt Nam”, Văn
hóa Nghệ An, số 24/2011, tr.23-29.
90. Võ Long Tê (1965), Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sài Gòn.
91. Nguyễn Q. Thắng (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb Văn học.
92. Nguyễn Q. Thắng (1998), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn Hoá, Hà Nội.
93. Trần Thị Thanh Thanh (2012), Hỏi và đáp về nền giáo dục Nam Bộ thời kì 1867-1945,
Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở, Đại học sư phạm TP. Hồ Chí
Minh.
94. Cao Tự Thanh (2007), Văn học quốc ngữ trước 1945 ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
95. Chương Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo – Nho sĩ – Trí thức Việt Nam trước
1945, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
96. Chương Thâu (2010), Đông Kinh nghĩa thục và văn thơ Đông Kinh nghĩa thục, tập 2,
Nxb Hà Nội.
97. Chương Thâu (2010), Đông Kinh nghĩa thục và văn thơ Đông Kinh nghĩa thục, tập 1,
Nxb Hà Nội.
98. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
99. Trần Ngọc Thêm (2006), Tính cách văn hóa Nam Bộ, Hội thảo “Đồng bằng sông Cửu
Long: thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm phát triển kinh tế giai đoạn
2006-2010”, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
100. Ngô Đức Thịnh (1996), Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê
hương Nam Hà, Sở Văn hóa thông tin Nam Hà.
101. Lê Hữu Thu (1952), Sử Việt Nam đệ lục, Nxb Thế giới, Hà Nội.
102. Cao Huy Thuần (2003), Giáo sĩ Thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt
Nam (1857 – 1914), Nguyên Thuận dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
103. Cao Huy Thuần (chủ biên) (2005), Từ Đông sang Tây, Nxb Đà Nẵng.
104. Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
166
105. Đỗ Thị Minh Thúy (2010), Phong trào duy tân với sự chuyển biến của văn hóa Việt
Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
106. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng
tháng 8 – 1945, Nxb Giáo dục.
107. Hoàng Tiến (1994), Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ 20, Nxb
Lao động.
108. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều
Nguyễn (1802 – 1858), Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
109. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ
mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
110. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ
XX, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
111. Vương Kiêm Toàn (1980), Hội truyền bá quốc ngữ - một tổ chức công khai của Đảng
chống nạn mù chữ 1938 – 1945, Nxb Giáo dục.
112. Vương Kiêm Toàn (1986), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn thất học
nâng cao dân trí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
113. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
114. Nguyễn Văn Trung (1975), Chữ, văn quốc ngữ thời kì đầu Pháp thuộc, Nam Sơn, Sài
Gòn.
115. Nguyễn Kiên Trường (2005), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
TP. Hồ Chí Minh.
116. Đặng Huy Vận, Chương Thâu (1961), Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ
cuối thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
117. Viện Khoa học Giáo dục (2001), Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kì lịch
sử, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
118. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1971), Lịch sử văn học Việt Nam, tập IV-B (đầu thế kỉ
XX đến 1930), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
119. Viện văn hóa (1984), Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Viện văn hóa
xuất bản, Hà Nội.
167
120. Hoàng Xuân Việt (2007), Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb Văn Hóa Thông tin.
121. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
122. Trần Nhật Vy (2013), Chữ quốc ngữ 130 năm thăng trầm, Nxb Văn hóa - Văn nghệ.
123. Will Durant (1991), Nguồn gốc văn minh, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
124. Nguyễn Văn Xuân (1998), “Việt Nam và các nước Đông Nam Á xưa”, Tạp chí du
lịch, số 4/1998, tr.12.
Tiếng Anh
125. Li Tana (1998), “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th
Century”, Journal of Southeast Asian Studies, 3/1998, bản dịch của Lê Quỳnh.
126. Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and
Response (1859-1905), Ithaca and London: Cornell University Press, 1969. Chapter 4:
Education and Quốc Ngữ - The Development of a New Order, p.89-108, bản dịch của
Ngô Bắc.
127. Milton E. Osborne, The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and
Response (1859-1905), Ithaca and London: Cornell University Press, 1969, Chapter 8:
Education and Quốc Ngữ, A Qualified Triumph, p.156-171, bản dịch của Ngô Bắc.
Tiếng Pháp
128. Décret du 23 juillet 1789 du Président de la République francaise instituant une
Inspection des Services administratifs et financiers de la marine et des colonies, J 36,
BOC 1879, tr.373-377, Trung tâm lưu trữ quốc gia I.