ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

=======================

NGUYỄN THANH HẢI

ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI (1974-2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

=======================

NGUYỄN THANH HẢI

ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI (1974-2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

M ố:

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đăng Tri

HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của

PGS.TS Ngô Đăng Tri, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các số

liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ

ràng.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015

Học viên

Nguyễn Thanh Hải

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ

của các thầy cô giáo khoa Lịch sử của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Đăng Tri - Trưởng bộ môn Lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam (Khoa Lịch sử) đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi suốt quá trình thực hiện và

hoàn thành Luận văn.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015

Học viên

Nguyễn Thanh Hải

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN

ĐHKHXH Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHKHTN Đại học Khoa học Tự nhiên

ĐHTHHN Đại học Tổng hợp Hà Nội

DTDCND Dân tộc dân chủ nhân dân

GDĐT Giáo dục đào tạo

NCKH Nghiên cứu khoa học

NCS Nghiên cứu sinh

Nxb Nhà xuất bản

Th.s Thạc sĩ

TS Tiến sĩ

Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận TTBDCBGDLL chính trị

TƯ Trung ương

UBND Ủy ban Nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 5

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài ................................................................... 7

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7

. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu chính .................................... 8

6. Bố cục ........................................................................................................... 8

Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC

TỔNG HỢP HÀ NỘI (TỪ NĂM 974 ĐẾN NĂM 99 ) ........................... 9

1.1 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa

Lịch sử (từ năm 974 đến năm 98 ) ............................................................ 9

1.1.1 Quá trình hình thành Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử .............. 9

1.1.2 Đào tạo và nghiên cứu tại Bộ môn Lịch sử Đảng từ năm 1974 đến 1985 ... 16

1.2 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng từ năm 98 đến năm 99 ......... 22

1.2.1 Tại Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử .................................... 22

1.2.2 Tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị trường

Đại học Tổng hợp Hà Nội. ............................................................................. 31

Tiểu kết ........................................................................................................... 39

Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC

QUỐC GIA HÀ NỘI (TỪ NĂM 99 ĐẾN 2014) ..................................... 41

. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa

Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn .......................... 41

2.1.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005 ............................ 41

2.1.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2014 ............................ 48

. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng, Trung

1

tâm Đào tạo, Bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính trị ................................. 57

2.2.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005 ............................ 57

2.2.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2013 ............................ 67

Tiểu kết ........................................................................................................... 72

Chƣơng : NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................................ 73

3.1 Nhận xét chung ........................................................................................ 73

3.1.1 Về thành tựu .......................................................................................... 73

3.1.2 Về hạn chế ............................................................................................. 83

3.2 Kinh nghiệm và các vấn đề đặt ra ......................................................... 89

3.2.1 Kinh nghiệm .......................................................................................... 89

3.2.2 Một số vấn đề đặt ra .............................................................................. 94

Tiểu kết ........................................................................................................... 98

KẾT LUẬN .................................................................................................. 100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 109

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bộ môn khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thuộc Khoa Lịch

sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

(trước đây là Đại học Tổng hợp Hà Nội) được thành lập năm 1974 với nhiệm

vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng. Từ năm 1988, Bộ

môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử đảm nhiệm thêm chức năng giảng dạy môn

Lịch sử Đảng cho toàn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1995, Đại học

Tổng hợp Hà Nội tách thành 2 trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

(ĐHKHXH&NV) và Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHKHTN), Bộ môn Lịch

sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử, ĐHKHXH&NV. Năm 1996 Trung tâm Đào tạo,

Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (TTĐTBDGVLLCT) của Đại học

Quốc gia Hà Nội) thành lập, Đại học Quốc gia Hà Nội lúc này có 2 Bộ môn

Lịch sử Đảng: Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử dạy môn Lịch sử Đảng

(sau là môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam) cho sinh

viên hai trường ĐHKHXHNV và ĐHKHTN, đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ

chuyên ngành Lịch sử Đảng; Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm làm nhiệm

vụ dạy môn Lịch sử Đảng (sau là Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản

Việt Nam) cho sinh viên các trường, khoa còn lại của Đại học Quốc gia Hà

Nội, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng.

Năm 2013, Trung tâm ĐTBDGVLLCT giải thể, Bộ môn Lịch sử Đảng

của Trung tâm sáp nhập vào Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử. Bộ

môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử lúc này vừa làm chức năng Bộ môn chuyên

ngành của Khoa Lịch sử đó là: đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ lịch sử; vừa

làm chức năng của Bộ môn Lý luận chính trị là dạy môn Đường lối cách

mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho toàn Đại học Quốc gia Hà Nội.

Qua 40 năm đào tạo và nghiên cứu khoa học (1974-2014), Bộ môn

3

Lịch sử Đảng của Đại học Tổng hợp và sau là Đại học Quốc gia Hà Nội đã

đạt được những thành tựu to lớn về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Về đào

tạo, hai Bộ môn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dạy môn Lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam (nay là môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản

Việt Nam) cho toàn thể sinh viên của trường Đại học Tổng hợp và Đại học

Quốc gia Hà Nội. Trong đào tạo chuyên ngành, hai Bộ môn đã trở thành địa

chỉ hàng đầu, uy tín, tin cậy trong đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên

ngành Lịch sử Đảng, đã đào tạo hàng ngàn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ Lịch sử

Đảng, góp phần cung cấp đội ngũ cán bộ chất lượng cho các trường Đại học,

viện nghiên cứu và hệ thống chính trị các cấp. Về nghiên cứu khoa học, hai

Bộ môn đã chủ trì và tham gia biên soạn thành công nhiều công trình có giá

trị cao về Lịch sử Đảng như: “Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”,

“Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Giáo

trình tư tưởng Hồ Chí Minh”, “82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, những

chặng đường”, “Đảng với vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp thời kỳ

1930-1945”…

Tuy vậy, hiện nay Bộ môn Lịch sử Đảng cũng như các ngành khoa học

khác đang đứng trước những yêu cầu cấp bách cần giải quyết: đổi mới

chương trình và hệ thống chuyên đề đại học, sau đại học; về sự thống nhất

nhận thức một số sự kiện lịch sử Đảng; về bổ sung đội ngũ cán bộ giáo viên;

về kết hợp giữa nhiệm vụ của Bộ môn chuyên ngành thuộc Khoa Lịch sử với

chức năng kiêm nhiệm giảng dạy môn “Đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam” cho toàn ĐHQGHN,…

Năm 2014 là năm kỷ niệm 40 năm thành lập Bộ môn lịch sử Đảng ở

Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là mốc lịch sử hết sức quan trọng của Bộ môn

nói riêng và của ngành lịch sử Đảng trên cả nước nói chung. Trong dòng chảy

lịch sử 40 năm, Bộ môn đã có rất nhiều đóng góp cũng như những kinh

4

nghiệm quý báu, đặc biệt trong vấn đề đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Xuất phát từ thực tiễn trên đây, tôi quyết định chọn đề tài “Đào tạo và

nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở Đại học Quốc gia Hà Nội

(1974-2014)” nhằm trình bày khái quát công tác đào tạo đại học, sau đại học

cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng suốt 40 năm hình

thành và phát triển, trên cơ sở đó, khẳng định những thành tựu, hạn chế, và rút

ra kinh nghiệm cho công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học

Quốc gia Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.

2. Lịch ử nghiên cứu vấn đề

Bộ môn Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội có quá trình phát

triển lâu dài, mang ý nghĩa lớn. Bởi vậy, đã có một số cuốn sách, bài báo, tạp

chí hay những bài viết đề cập đến những nội dung liên quan với mức độ và

cách tiếp cận khác nhau, tiêu biểu như:

Về Bộ môn Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch sử, Đại học KHXHNV: Bộ môn

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) Quá trình xây dựng và trưởng

thành, PGS.TS Vũ Quang Hiển, Tạp chí Lịch sử Đảng số 10-2006; Bộ môn

lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam những cố gắng và thành tựu, PGS.TS Ngô

Đăng Tri NXB CTQG, Hà Nội, 1996... Trong các bài viết này, các tác giả đã

đề cập đến tình hình công tác tổ chức đội ngũ cán bộ, cũng như công tác đào

tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học của Bộ môn qua các thời kỳ;

đây là những bài viết có tính khái quát cao, trình bày tổng quan về Bộ môn,

tuy nhiên, trong một bài viết ngắn gọn lại đề cập nhiều vấn đề nên vấn đề đào

tạo và nghiên cứu khoa học chưa được đề cập sâu rộng.

Về công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học các môn lý luận chính trị

nói chung và Bộ môn Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng:

Vận dụng quan điểm đối ngoại của Đại hội IX trong giảng dạy môn Lịch sử

5

Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Quán triệt, vận dụng Nghị quyết

Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lí luận Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, NXB CTQG, Hà Nội, 2002; Phương pháp nêu vấn đề trong

dạy và học Lịch sử Đảng, PGS. TS Vũ Quang Hiển, Tạp chí Lịch sử Đảng, số

1-2007, in lại trong sách Về phương pháp nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008; Quá

trình nhận thức của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bài

trong sách Quán triệt, vận dụng quan điểm Đại hội X của Đảng vào giảng

dạy các môn lí luận chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007; Đổi mới

phương pháp dạy và học môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam theo học chế

tín chỉ, Hội thảo khoa học “Giảm tải, nâng cao chất lượng dạy và học các

môn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (trong các trường đại

học, cao đẳng)”, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007; Bàn về phương thức kiểm

tra, đánh giá môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội thảo khoa học Giảng

dạy các môn lí luận chính trị ở các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh

hội nhập quốc tế, 2007; Mấy suy nghĩ về nhiệm vụ giảng viên môn Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam, HTKH “Những vấn đề lí luận và thực tiễn của đào

tạo theo tín chỉ các môn lí luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội hiện

nay”, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lí luận chính trị, Đại học

Quốc gia Hà Nội, 5-2009…

Những cuốn sách hay những bài viết được đề cập trên đây, hầu hết là

viết về vấn đề phương pháp giảng dạy và hiệu quả các môn lý luận chính trị;

nhưng chưa có luận văn chuyên sâu nào về công tác đào tạo, nghiên cứu khoa

học của Bộ môn Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà Nội từ khi thành lập

(1974) cho đến nay (2014).

Vì vậy công trình nghiên cứu này của tôi hoàn toàn có ích và hữu dụng,

đóng góp sự nghiên cứu của mình vào nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng nói

6

chung và công tác đào tạo, nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà

Nội nói riêng.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

* Mục đích

Làm rõ quá trình đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội, qua đó đúc rút ra những kinh nghiệm cho

công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo Lịch sử Đảng hiện nay.

* Nhiệm vụ

+ Tập trung sưu tầm, tập hợp, hệ thống hóa tư liệu về đào tạo và nghiên

cứu về Lịch sử Đảng ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây và ở

ĐHQGHN hiện nay.

+ Trình bày quá trình hoạt tổ chức-hoạt động đào tạo và nghiên cứu của

Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử và Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Trung

tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, ĐHQGHN.

+ Tổng kết thành tựu, hạn chế trong 40 năm đào tạo và nghiên cứu Lịch

sử Đảng, trên cơ sở đó rút ra các kinh nghiệm chủ yếu, đề xuất một số phương

hướng, giải pháp nhằm đổi mới kết cấu môn học, chương trình môn học, giáo

trình và phương pháp giảng dạy môn Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà

Nội.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội

* Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian : từ năm 1974 đến năm 2014

Về không gian: Đại học Quốc gia Hà Nội

Về nội dung: Hoạt động đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

7

. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu chính

Cơ sở lý luận

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của Chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm chỉ đạo

cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm và

giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận sử học Macxit,

trong đó chủ yếu dùng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp

hai phương pháp đó. Đồng thời khóa luận cũng sử dụng các phương pháp

như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế...

Nguồn tư liệu

Các văn kiện, báo cáo tổng kết của Đảng và Nhà nước về công tác

nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị.

Các báo cáo, công trình tổng kết, đề án của trường Đại học Tổng hợp

Hà Nội(cũ), trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội về công tác đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học.

Các báo cáo tổng kết, kế hoạch về tình hình đào tạo, nghiên cứu

khoahọc của Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử.

Tài liệu khảo sát thực tế và các công trình khoa học có liên quan

6. Bố cục

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Đại học Tổng hợp

Hà Nội từ năm 1974 đến 1995.

Chương 2: Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà

Nội từ năm 1996 đến 2014.

Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.

8

Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC

TỔNG HỢP HÀ NỘI (TỪ NĂM 974 ĐẾN NĂM 1995)

1.1 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng,

Khoa Lịch sử (từ năm 974 đến năm 1985)

1.1.1 Quá trình hình thành Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử

Năm 1906, Trường Đại học Đông Dương, tiền thân của ĐHQGHN

ngày nay được thành lập theo Quyết định số 1514a, ngày 16/5/1906 của Toàn

quyền Đông Dương. Trường ĐH Đông Dương đặt trụ sở tại 19-Lê Thánh

Tông-Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, cơ sở này thuộc về Trường ĐHQG

Việt Nam; sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc do Trường ĐHTH Hà Nội

quản lý, sử dụng và nay là một trong những cơ sở chính của ĐHQGHN.

Cùng thời gian đó, Trường ĐHQG Việt Nam khai giảng khoá đầu tiên

vào 15/11/1945 dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là trường đại

học đa ngành, đa lĩnh vực đầu tiên được thành lập dưới chính thể Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà. Trường Đại học Quốc gia Việt Nam trực tiếp kế thừa

truyền thống khoa học và giáo dục của Trường Đại học Đông Dương .

Tiếp đó, đến năm 1951, Trường Khoa học Cơ bản (tại Chiến khu Việt

Bắc) được thành lập. Đây là một trong những trường tiền thân của Trường

Đại học Tổng hợp Hà Nội sau này.

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập theo Quyết định số

2138/TC ngày 4-6-1956 của Thủ tướng Chính phủ, Giáo sư Ngụy Như Kon

Tum được bổ nhiệm làm Giám đốc đầu tiên. Ban đầu, Trường chỉ có hai ban

là Ban Khoa học và Ban Văn khoa. Ban Văn khoa gồm hai bộ phận tương đối

độc lập là văn và sử do GS Trần Đức Thảo phụ trách chung. Một thời gian

ngắn sau đó, ngay trong năm 1956, Ban Văn khoa được chia thành hai khoa là

Khoa Văn học và Khoa Lịch sử. Khoa Lịch sử chính thức ra đời từ đây, trở

9

thành một trong bốn khoa đầu tiên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đó

là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền sử học Việt Nam

hiện đại. Từ đây, những tên tuổi lớn, những tác phẩm lớn, những lớp lớp cử

nhân được đào tạo góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân

tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những ngày đầu mới thành lập, Khoa Lịch sử cũng như Trường Đại

học Tổng hợp Hà Nội đứng trước muôn vàn khó khăn vất vả: cơ sở vật chất

thiếu thốn, giáo trình, tài liệu tham khảo khan hiếm... Bù lại, trong những

ngày đầu xây nền đắp móng này, Khoa có được một đội ngũ các nhà khoa học

tài năng và vô cùng tâm huyết với sự phát triển của Khoa và của cả nền sử

học nước nhà. Đó là các giáo sư Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trần Văn

Giầu. Dưới sự dẫn dắt của các thầy, lớp cán bộ trẻ đầu tiên của Khoa đã

nhanh chóng trưởng thành, từng bước đảm nhiệm việc giảng dạy và nghiên

cứu khoa học.

Ngày 15-10-1956 khóa học đầu tiên của trường Đại học Tổng hợp long

trọng khai giảng tại giảng đường lớn của khu Đại học Việt Nam tại số 19

đường Lê Thánh Tông, Hà Nội. Hơn 430 sinh viên từ nhiều địa phương trên

mọi miền của Tổ quốc đã hân hoan tựu trường. Trong hai năm học đầu tiên

(1956-1957 và 1957-1958), vượt qua những thiếu thốn và những khó khăn về

nhiều mặt trong buổi đầu xây dựng, cán bộ và sinh viên đã dần dần ổn định nề

nếp làm việc, học tập. Việc biên soạn chương trình, giáo trình giảng dạy phù

hợp với thực tiễn nước ta. Một số giáo trình tài liệu khoa học của Liên Xô đã

được dịch sang tiếng Việt làm tài liệu học tập nghiên cứu cho sinh viên. Cùng

thời gian này, một số chuyên gia Liên Xô đã tận tình giúp đỡ đội ngũ cán bộ

khoa học nhà trường bồi dưỡng và nâng cao trình độ.

Việc mở rộng quy mô đào tạo và sự ổn định từng bước cơ sở vật chất,

cơ cấu tổ chức của nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh phong trào

10

dạy tốt, học tốt. Quy mô đào tạo của nhà trường ngày càng được mở rộng, số

sinh viên chuyển vào trường từ 430 người năm 1956-1957 tăng lên 967 người

năm học 1961-1961. Cùng với đó, chất lượng đào tạo cũng ngày càng được

đảm bảo. Đến năm 1960-1961, toàn trường đã có 80 giáo trình của hầu hết

các môn học. Đến năm học 1964-1965, “số lượng giáo trình tăng lên nhanh

chóng, đạt 203 giáo trình”.

Bên cạnh đó, việc xác định mục tiêu đào tạo luôn được đặt ra trong các

kỳ đại hội của Đảng bộ và các hội nghị cán bộ công nhân viên chức toàn

trường, nhà trường tích cực mời một số chuyên gia giỏi của các nước anh em

thuộc hầu hết các ngành sang làm việc để nhanh chóng giúp đỡ nâng cao trình

độ chuyên môn cho cán bộ, nhiều sinh hoạt chuyên đề, trao đổi và tổng kết

kinh nghiệm giảng dạy đã được tổ chức nhằ nâng cao chất lượng giảng dạy và

chuyên môn cho cán bộ. Trong sinh viên, phong trào tìm chọn phương pháp

học tập tốt nhất, phù hợp nhất với yêu cầu học theo lối nghiên cứu ở trường

đại học cũng diễn ra sôi nổi.

Để kịp thời động viên và khẳng định những cố gắng thành tích chuyên

môn của các bộ sinh viên, Ban Giám đốc đã quyết định tổ chức hội nghị khoa

học toàn trường lần thứ nhất vào năm 1960 và hội nghị khoa học sinh viên

vào năm 1961. Đây là những hội nghị khoa học đầu tiên của ngành đại học.

Điều đó khẳng định vai trò của một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa

học, một nhà trường có phong trào sinh viên có nghiên cứu khoa học sớm

nhất, rộng nhất. Những sinh hoạt học thuật ấy từ đây được duy trì đều đặn

hàng năm và đạt được kết quả xuất sắc.

Các môn giáo dục chính trị tư tưởng được xác định có vị trí quan trọng

trong chương trình đào tạo sinh viên. Thời lượng các môn học chủ nghĩa Mác

- Lênin là 113 tiết trong đó dành một phần cho giáo dục truyền thống cách

mạng của Đảng, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

11

Năm học 1964-1965 diễn ra và kết thúc thắng lợi trong cao trào thi đua

“Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Đồng thời đó cũng là

năm học kết thức chặng được đầu tiên trong quá trình xây dựng, trưởng thành

của trường ĐHTH Hà Nội. Thành tựu chín năm xây dựng và trưởng thành của

trường ĐHTH đã tạo ra cơ sở vật chất và tinh thần để nhà trường có thể vươn

lên “hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ trong những giai đoạn kế

tiếp”[10;13].

Từ năm 1965, các môn lý luận chính trị được quy định là môn thi bắt

buộc với sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học. Tại Đại học Tổng hợp, Bộ

môn Mác-Lê nin được thành lập trong đó có Tổ Lịch sử Đảng. Tổ Lịch sử

Đảng đảm nhiệm việc giảng dạy môn Lịch sử Đảng cho sinh viên toàn

trường, “vận dụng theo chương trình, giáo trình của trường Đảng Nguyễn Ái

Quốc Trung ương” [10;13].

Hình thức đào tạo tại chức được tiếp tục mở rộng. Các khoa Văn, Sử,

Sinh vật đã mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề cho gần 300 học viên. Để tiếp

tục nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, đưa phong trào nghiên cứu khoa

học vào nề nếp, tháng 5-1966 phòng Nghiên cứu khoa học được thành lập.

Cũng trong thời gian này, để mở rộng ảnh hưởng của khoa học cơ bản đối với

đòi sống xã hội, trường đã quyết định thành lập “Hội phổ biến khoa học kỹ

thuật”. Mỗi khoa thành lập một chi hội, tích cực tuyên truyền phổ biến kinh

nghiệm khoa học cho cán bộ sinh viên trong trường và nhiều cơ quan, đơn vị,

nhân dân địa phương nơi sơ tán. Hơn 4 năm sống trên rừng núi Bắc Thái, gian

nan vất vả, nhưng thầy và trò trường ĐHTHHN vững vàng trước mọi thử

thách chủ động sáng tạo và hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị của mình.

Đến giữa năm 1970, toàn trường đã trở về cơ sở cũ ở Hà Nội. Giữa lúc

nhà trường đang dân đi vào thế ổn định thì tháng 4-1972 đế quốc Mỹ lại ồ ạt

ném bom miền Bắc, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Trước

12

tình hình đó, nhà trường nhanh chóng thích ứng với tình hình thời chiến. Từ

năm 1972, thực hiện chỉ thị 222/TTg của Thủ tướng Chính phủ, công tác

nghiên cứu khoa học và phục vụ thực tế của trường ĐHTHHN bước sang giai

đoạn mới. Nhà trường nhanh chóng đón nhận chỉ thị trên nền tảng thuận lợi,

hầu hết các khoa đang triển khai nhiều đề tài nghiên cứu thực tế. Sau đợt học

tập đầu tiên, hầu như cả trường đã ra quân trên một diện rộng từ khu IV đến

Lạng Sơn, trên nhiều địa bàn ác liệt, của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đến

năm 1973 toàn trường tập trung về Hà Nội.

Trong tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang tiến nhanh

tới ngày toàn thắng, Đại học Tổng hợp Hà Nội cũng bước vào năm học 1974-

1975 với nhiều thay đổi mau lẹ. Ngay từ tháng 3-1973, Đại hội Đảng bộ nhà

trường lần thứ 11 đã xác định rõ nhiệm vụ quan trọng của trường trong giai

đoạn mới, đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, nhà trường đã mở rộng thêm

một bước hệ thống đào tạo, tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức.

Năm học 1974-1975, nhà trường mở thêm khoa kinh tế-chính trị và

ngành Lịch sử Đảng (Khoa Lịch sử ). Đội ngũ cán bộ giảng dạy của nhà

trường lên tới “585 người, trong đó có 145 tiến sĩ, phó tiến sĩ” [10; 27]. Thời

kỳ này nhà trường đã nâng thời gian đào tạo lên 4 năm rưỡi. Việc biên soạn

giáo trình và cải tiến chương trình giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu mới trở

nên cấp bách. Trong 3 năm (1973-1975) toàn trường đã có “12 giáo trình cơ

sở và chuyên đề được in tipô và 19 giáo tình được in rônêo” [10; 25].

Về phía Khoa Lịch sử, Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (tháng 1-

1973), Khoa Lịch sử rời Dũng Liệt- Hà Bắc trở về Hà Nội. Khoa tổ chức cho

sinh viên nhanh chóng ổn định nơi ăn ở, học tập và đi lao động, thực tập thực

tế, nhiều đoàn cán bộ, sinh viên đã vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà

Tỉnh và vùng giải phóng Quảng Trị để nghiên cứu, lấy tư liệu làm luận án tốt

nghiệp.

13

Dự báo nhu cầu đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng sẽ

tăng nhanh, dưới sự chỉ đạo của Ban Khoa giáo Trung ương, của Bộ Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, tháng 9-1974, Trường Đại học Tổng hợp Hà

Nội đã thành lập một Bộ môn mới là Bộ môn Lịch sử Đảng do thầy Hoàng Bá

Sách làm chủ nhiệm. Bộ môn được giao nhiệm vụ đào tạo cán bộ nghiên cứu

lịch sử Đảng cho các viện, các ban nghiên cứu lịch sử Đảng ở trung ương và

các địa phương, cung cấp giáo viên giảng dạy lịch sử Đảng cho các trường đại

học và cao đẳng thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Đối với

Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng đóng vai trò là Bộ môn khoa học, “trực

tiếp đào tạo sinh viên từ năm thứ nhất, hệ bốn năm rưỡi”.

Mặc dù việc giảng dạy và nghiên cứu về Lịch sử Đảng đã có từ lâu ở

trường Đại học Tổng hợp Hà Nội do Bộ môn Mác - Lênin đảm nhiệm, tuy

nhiên việc nghiên cứu lịch sử Đảng trong bối cảnh hiện tại cần phải được

nâng cao và đẩy mạnh hơn nữa. Bởi vậy, quyết định thành lập Bộ môn Lịch

sử Đảng tại Khoa Lịch sử là một quyết định đúng đắn của nhà trường cũng

như của khoa, trước tiên nhằm đáp ứng yêu cầu học tập của sinh viên, đồng

thời tạo ra không gian học thuật, nghiên cứu lịch sử Đảng một cách độc lập

cho cán bộ của Bộ môn.

Đồng thời, thành lập Bộ môn là một việc làm thiết thực góp phần vào

công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh sự nghiệp

chống Mỹ cứu nước. Việc đào tạo và nghiên cứu lịch sử Đảng được đẩy mạnh

nhiều hơn nhằm phục vụ thực tiễn, cỗ vũ tinh thần yêu nước, củng cố niềm tin

của quần chúng nhân dân với Đảng.

Những năm 1974-1979, Bộ môn chỉ có thầy Hoàng Bá Sách – chủ

nhiệm Bộ môn, thầy Lê Mậu Hãn-Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, trực tiếp đứng

lớp, cùng thầy Kiều Xuân Bá, vốn là cán bộ của khoa chuyển công tác lên Vụ

công tác Chính trị của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Trợ giảng

14

gồm các cán bộ trẻ như các cử nhân Trần Kim Đỉnh, Đặng Hồng Hạnh,

Nguyễn Đình Lê, Ngô Đăng Tri. Đây là số cán bộ trẻ, vốn là sinh viên Khoa

Lịch sử, nhập ngũ vào quân đội trong những năm 1971-1972, sau giải phóng

miền Nam được phục viên trở lại khoa học tập tại chuyên ngành Lịch sử Đảng

mới mở.

Trong đợt phong hàm năm 1984, Bộ môn Lịch sử Đảng chỉ có PGS Lê

Mậu Hãn. Lớp cán bộ kế tiếp những người thầy đầu tiên của Bộ môn vốn là

sinh viên tốt nghiệp các khóa 18, 19, 20 và 21 (Trần Kim Đỉnh, Nguyễn Đình

Lê, Đặng Hồng Hạnh, Ngô Đăng Tri, Vũ Quang Hiển, Đinh Trung Kiên,

Nguyễn Hồng Phúc, Hoàng Hồng) phải vừa làm vừa học trong tình hình kinh

tế xã hội khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Lực lượng vừa lớn lên đã không

được duy trì nguyên vẹn.

Bước vào những năm 80, trong khó khăn chung của đất nước, của

ngành giáo dục, Khoa Lịch sử nói chung và Bộ Lịch sử Đảng nói riêng phải

chịu hậu quả trực tiếp và hết sức nặng nề của cơ chế quan liêu bao cấp và

những đòi hỏi ngặt nghèo của cơ chế thị trường. Do khó khăn trong đời sống

kinh tế mà nhìn chung trong xã hội sự quan tâm đên ngành Sử nói chung cũng

như đến giáo dục truyền thống bị suy giảm nghiêm trọng. Số lượng sinh viên

theo học bị giảm mạnh mẽ.

Giai đoạn 1974-1985 là những năm đầy thử thách khắc nghiệt về vật

chất, nhưng thầy và trò của Bộ môn Lịch sử Đảng, xác định rõ nhiệm vụ: tin

tưởng vào vào Đảng, chính quyền, giữ vững tinh thần, đồng thời tích cực

giảng dạy, nghiên cứu, phục vụ cho khoa học Lịch sử Đảng nước nhà. Với sự

kiên trì, nỗ lực của mình, Bộ môn sớm khẳng định vai trò của mình, trở thành

một địa chỉ tin cậy, được Bộ giao nhiệm vụ đào tạo lớp chuyên tu, nâng cao

trình độ cho gần 40 cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng của các trường đại học

trong cả nước.

15

1.1.2 Đào tạo và nghiên cứu tại Bộ môn Lịch sử Đảng từ năm 1974

đến 1985

Trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, sử học có nhiều lợi thế

trực tiếp tham gia phục vụ sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, ngay từ khi Trường

Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập thì Khoa Lịch sử là một trong bốn

khoa đầu tiên của trường có chức năng đào tạo cán bộ nghiên cứu và giảng

dạy sử học ở bậc đại học cho cả nước.

Việc giảng dạy và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Đại học Tổng hợp Hà

Nội đã có từ lâu. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Tổ Mác-Lê nin trực thuộc

Ban Giám hiệu trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập đảm nhận

nhiệm vụ dạy lý luận chính trị, trong đó có môn Lịch sử Đảng, về sau đổi tên

thành Trung tâm Mác-Lê nin và đảm nhận nhiệm vụ khác. Tuy nhiên, việc

thành lập Bộ môn Lịch sử Đảng vào năm 1974, cho thấy quyết định đúng đắn

của Khoa, Nhà trường và Bộ Trung học và Chuyên nghiệp, từ đây việc giảng

dạy và nghiên cứu lịch sử Đảng có không gian học thuật riêng biệt, nhằm đáp

ứng được yêu cầu thực tiễn cách mạng lúc bấy giờ.

Trong những ngày đầu thành lập, hòa chung vào công cuộc khôi phục,

phát triển kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Bộ

môn lịch sử Đảng đã cố gắng hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Bộ môn và đẩy

mạnh công tác đào tạo. Trước tiên là đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng nhằm

cung cấp cho sinh viên khối kiến thức chuyên sâu về Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam, đồng thời tạo cho sinh viên khả năng nghiên cứu độc lập, nhằm

hoàn thiện và nâng cao năng lực làm việc, hơn nữa việc đào tạo cử nhân lịch

sử Đảng cũng cung cấp cho đất nước những “chiến sĩ trung kiên trên mặt trận

tư tưởng”, nhân rộng tinh thần yêu nước dân tộc, giúp nhân dân thấu suốt

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, củng cố tinh thần, đẩy mạnh quá

trình đi tới ngày toàn thắng.

16

Việc giảng dạy, nghiên cứu Lịch sử Đảng trong hệ thống trường Đảng,

trong các trường đại học, cao đẳng được triển khai bằng cách đưa thêm các

lực lượng giáo viên vào giảng dạy. Các lớp đào tạo cấp tốc giáo viên Lịch sử

Đảng, giáo viên Mác - Lênin ở Đại học Tổng hợp được tổ chức mạnh mẽ.

Năm 1975-năm học hòa bình đầu tiên cũng là năm khởi đầu cuộc vận

động biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Chi đoàn cùng với

Đoàn thanh niên của trường đã dấy lên và phát động phong trào xây dựng tập

thể học sinh Xã hội chủ nghĩa. Từ tập thể lớp 3B Khoa Sử được Thành đoàn

Hà Nội công nhận trong niên học trước đó (1974-1975), Phong trào “Sinh

viên tự quản” từ Khoa Lịch Sử, đặc biệt là ở Bộ môn Lịch sử Đảng, đã có sức

mạnh lan tỏa, trở thành kinh nghiệm tốt cho các khoa khác học tập và áp

dụng. Tính hiệu quả và chiều sâu của phong trào xây dựng tập thể học sinh

XHCN không chỉ dừng lại ở hình thức tổ chức mà là xác định một phương

pháp học tập đúng đắn, khoa học cho sinh viên, nâng cao lòng yêu nghề và có

hoài bão lớn.

Từ năm học 1975-1976, trong khí thế chung chiến thắng, Khoa Lịch sử

đã hồ hởi bước sang thời kỳ mới. Thời kỳ này, số lượng sinh viên tăng lên

nhanh chóng. Ngoài mấy chục sinh viên cũ từ mặt trận trở về, đa số là cán bộ

các cơ quan, bộ đội, các trường văn hóa, các đơn vị, quan nhân xuất ngũ,

chuyển ngành, học sinh phổ thông do yêu cầu và lòng ngưỡng mộ, đã nô nức

và Khoa Lịch sử với lòng đầy tin tưởng và tự hào. Không còn thời mỗi khóa

là một lớp nữa mà sinh viên được chọn ngay từ đầu. Sinh viên là đảng viên,

cán bộ, bộ đội chiếm tỷ lệ cao trong các năm học sau chống Mỹ, hình thành

Đảng bộ bộ phận, Liên chi đoàn với số đảng viên đông nhất trong toàn

trường. Trong đó, cán bộ, bộ đội và đảng viên trong Bộ môn chiếm 100% .

Sinh viên Bộ môn Lịch sử Đảng các khóa từ 1974 đến 1979 (Khóa 18

đến Khóa 23) phần lớn là bộ đội chuyên ngành, được đào tạo theo chương

17

trình riêng ngay từ năm thứ nhất. Mỗi lớp là một chi bộ, có khoảng trên dưới

25 đảng viên. Chương trình đào tạo đại học được nối dài khoảng 4 năm rưỡi.

Đội ngũ cán bộ giáo viên cũng được bổ sung thêm nhiều thầy cô trẻ, được đào

tạo cả trong nước và nước ngoài, nhưng cũng có những thầy cô phải ra đi do

nhu cầu tăng cường cán bộ cho các cơ sở phía Nam. Trong hoàn cảnh đó, lớp

giáo viên mới gần như phải lên bục giảng ngay trong một vài năm đầu, những

cử nhân được giữ lại từ những năm đầu tiên của Bộ môn như cử nhân Trần

Kim Đỉnh, Đặng Hồng Hạnh, Nguyễn Đình Lê, Ngô Đăng Tri.

Năm 1975, thầy Lê Mậu Hãn được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Khoa

Lịch sử, thầy Hoàng Bá Sách được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ môn. Giáo

trình, tài liệu học tập, những năm mới thành lập, số công trình nghiên cứu

được công bố còn hết sức khiêm tốn, những dưới sự dẫn dắt của PGS Chủ

nhiệm khoa Lê Mậu Hãn và chủ nhiệm Bộ môn Hoàng Bá Sách, Bộ môn đã

dày công xây dựng bài giảng Lịch sử Đảng cho sinh viên ngành lịch sử-theo

phương thức mỗi cán bộ phụ trách một bài, và hệ thống chuyên đề phục vụ

đào tạo sinh viên ngành:

1. Đường lối quân sự của Đảng

2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ

nghĩa

3. Xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng

4. Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế trong quá

trình cách mạng Việt Nam

5. Đảng lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá

hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc thời kỳ 1965-1972

6. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ hậu phương chi viện tiền tuyến thời

kỳ 1945-1975

7. Phương pháp khai thác tư liệu lịch sử Đảng qua các nhân chứng lịch sử

18

8. Một số vấn đề về nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

9. Phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền Nam

10. Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin

Nội dung chính của những chuyên đề này nhằm cung cấp cho sinh viên

trước hết là kiến thức cơ sở về chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

tiếp theo là phương pháp trong nghiên cứu lịch sử Đảng để giúp sinh viên

nắm bắt được tình hình nghiên cứu lịch sử Đảng qua từng giai đoạn, phương

pháp tốt để nghiên cứu những sự kiện, con người của Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng đi sâu vào lịch sử cách mạng Việt Nam, qua đó

phân tích được đường lối đúng đắn của Đảng, hay những thiếu sót trong quá

trình lãnh đạo qua các giai đoạn lịch sử từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong

các giai đoạn kế tiếp.

Có thể nói, những chuyên đề này khá phù hợp với nhận thức của sinh

viên chuyên ngành, giúp sinh viên nhận thức được từ phương pháp đến cách

thức nghiên cứu lịch sử Đảng. Trang bị cho sinh viên khối kiến thức nghề

nghiệp vững chắc để đóng góp cho ngành khoa học Lịch sử Đảng nước nhà.

Từ năm 1980 (khóa 24), việc đào tạo được thực hiện theo khung

chương trình chung của Khoa Lịch sử trong ba năm đầu, đến năm thứ tư mới

tách lớp để học các chuyên đề chuyên ngành Lịch sử Đảng.

Theo đó, sinh viên học ba năm đầu theo khối kiến thức chung của Khoa

Lịch sử, vào năm thứ 4, sau khi hoàn thành xong học khối kiến thức cơ bản,

cơ sở của ngành như: Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Lịch sử Việt Nam cận

đại, Lịch sử Việt Nam hiện đại, Lịch sử thế giới cổ trung, Lịch sử thế giới cận

đại, Lịch sử thế giới hiện đại, Cơ sở khảo cổ học, Các dân tộc ở Việt Nam,

Phương pháp luận sử học và khối kiến thức nghiệp vụ là: Lịch sử sử học (thế

giới, Việt Nam), Sử liệu học (đại cương), phương pháp định lượng; một số

học phần Hán-Nôm; sinh viên Khoa Lịch sử được phép tự nguyện đăng ký

19

vào chuyên ngành mà mình mong muốn.

Vào đầu năm học thứ tư, sinh viên học theo chuyên ngành lịch sử Đảng

với khối kiến thức chuyên ngành, trong đó có 28 học phần bắt buộc và 7 học

phần tự chọn. Mỗi học phần được ký hiệu bằng một mã số riêng thể hiện vị trí

của học phần đó trong chương trình đào tạo cũng như trình độ và khối lượng

của nó. Mỗi kiến thức học phần có khối lượng từ 2 đến 6 đơn vị học trình,

thông thường, khối kiến thức chuyên ngành lịch sử Đảng chiếm khoảng 2 đơn

vị học trình. Đơn vị học trình thì lại được quy định bằng 15 tiết, mỗi tiết 45

phút lý thuyết, thảo luận, bài tập hoặc bằng 30-45 tiết thực hành, hoặc bằng

45-90 tiết thực tập tại cơ sở, hoặc bằng 45-60 tiết làm tiểu luận, khóa luận tốt

nghiệp, nghiên cứu khoa học. Các học phần lý thuyết chủ yếu được nghe

giảng trên lớp hoặc tự học.

Đối với học phần thực hành, sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng

được đi thực tế theo sự hướng dẫn chỉ đạo của khoa và Bộ môn. Vào đầu học

kỳ cuối cùng của khóa học, sinh viên được hướng dẫn đăng ký làm khóa luận

hoặc thi tốt nghiệp theo chuyên ngành Lịch sử Đảng. Đối với những sinh viên

làm khóa luận, khoa sẽ xét theo tiêu chí điểm trong các học kỳ trước, những

sinh viên đủ điều kiện sẽ được làm khóa luận, khóa luận tốt nghiệp được xem

như một học phần lựa chọn có khối lượng kiến thức là 10 đơn vị học trình, đề

tài khóa luận tốt nghiệp do cán bộ giảng viên hướng dẫn xác định, đăng ký và

thông qua ở Bộ môn; những đề tài có tính chất liên Bộ môn phải được Chủ

nhiệm khoa thông qua trước khi giao cho sinh viên thực hiện.

Những sinh viên còn lại sẽ thi tốt nghiệp bao gồm 2 môn: Quá trình

lãnh thổ dân tộc và môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Môn học “Quá

trình lãnh thổ dân tộc” giúp sinh viên nhận thức được một cách khái quát

về lịch sử lãnh thổ dân tộc, quá trình giữ và giành độc lập dân tộc.

Đối với môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh viên tổng hợp được

20

khối kiến thức về Đảng Cộng sản Việt Nam: từ quá trình thành lập, quá trình

phát triển, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi từ thắng lợi toàn vẹn lãnh thổ đến

thắng lợi trong công cuộc phát triển kinh tế, giữ vững lãnh thổ, lãnh hải và lãnh

không của Việt Nam.

Mỗi cán bộ giảng dạy trung bình từ 300 đến 350 giờ/năm học. Trong đào

tạo, Bộ môn luôn chú trọng việc đổi mới và hoàn thiện khung chương trình, hệ

thống giáo trình, bài giảng, phương pháp giảng dạy.

Từ những thành tích trong đào tạo, Bộ môn được Bộ Đại học và Trung

học chuyên nghiệp đánh giá cao về chất lượng đào tạo cán bộ chuyên môn Lịch

sử Đảng. Từ năm 1980-1982, Bộ môn vinh dự được Bộ ủy quyền đào tạo “các

lớp chuyên tu, nâng cao trình độ về Lịch sử Đảng cho 40 cán bộ giảng dạy lịch

sử Đảng của các trường đại học từ Đà Nẵng trở ra”

Sau khi thành lập, công tác nghiên cứu của Bộ môn ngày càng được đẩy

mạnh hơn nữa nhằm thiết thực góp phần vào công cuộc khôi phục, phát triển

kinh tế ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, những mảng đề tài phục

vụ quốc phòng được đặc biệt chú ý, một số sinh viên cùng với cán bộ, giáo viên

vào các vùng mới giải phóng ở miền Nam để viết lịch sử địa phương, khảo

sát,… Tiêu biểu như năm 1974, cùng với sinh viên khoa Sinh học, Địa chất, sinh

viên Bộ môn Lịch sử Đảng và một số Bộ môn trong Khoa Lịch sử đã tiến hành

một đợt khảo sát dọc Trường Sơn và thu được nhiều kết quả.

Thành tựu của khoa học lịch sử Đảng trước năm 1975 đã tạo nên được

quan niệm, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Lịch sử, sưu tầm và lưu

trữ được một khối lượng tư liệu Lịch sử Đảng phong phú đưa Lịch sử Đảng

thành môn học ở trường Đảng, các trường đại học và cao đẳng.

Sau ngày thống nhất đất nước, công tác nghiên cứu Lịch sử Đảng được

xúc tiến mạnh mẽ trong cả nước. Đất nước thống nhất là điều kiện thuận lợi cho

các ngành khoa học cơ bản mở rộng việc điều tra, khảo cứu trên toàn quốc. Ưu

21

tiên cho những đề tài các tỉnh phía Nam là một hướng nghiên cứu quan trọng

trong nghiên cứu trong nghiên cứu khoa học của trường Đại học Tổng hợp thời kỳ

sau giải phóng. Thực hiện chủ trương đó, Bộ môn đã triển khai nhiều đề tài khoa

học về điều tra chủ nghĩa thực dân kiểu mới, về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước trên địa bàn miền Nam. Các chương trình phối hợp nghiên cứu với các

trường đại học miền Nam cũng được hình thành và bước đầu thu được kết quả

Trong những năm 80 của thế kỷ XX, Bộ môn cũng có nhiều công trình

nghiên cứu khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, kỷ

niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, kỷ niệm 30 năm thành lập Đại học

Tổng hợp Hà Nội…. Đặc biệt, Bộ môn đã xây dựng được hệ thống bài giảng, tài

liệu tham khảo chuyên sâu cho sinh viên như: Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và truyền

bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào Việt Nam, Đảng lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân

dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Một số vấn đề về

nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam…

Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, do có Đường lối đổi mới, nhất là đổi

mới về tư duy lý luận, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm hơn đối với các lĩnh

vực khoa học xã hội nhân văn nói chung, sử học nói riêng. Trong bối cảnh đó,

khoa học Lịch sử Đảng có môi trường học thuật, điều kiện vật chất thuận lợi hơn

cho việc nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng đội ngũ.

1.2 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng từ năm 98 đến năm 1995

1.2.1 Tại Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử

Sau Đại hội VI (12-1986) của Đảng, đất nước chuyển sang thời kỳ đổi

mới, song khó khăn vẫn còn rất lớn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn trầm

trọng. Trong khi đó tình hình các nước XHCN càng ngày càng diễn biến phức

tạp, ít nhiều đã tác động đến việc nghiên cứu, học tập của thầy và trò Bộ môn,

đặc biệt là với môn Lịch sử Đảng. Trong thời gian này, Khoa đã tổ chức hình

thức đào tạo liên chuyên ngành của Bộ môn Lịch sử Đảng với Bộ môn Cận

22

hiện đại Việt Nam và Bộ môn Lịch sử Thế giới. Cán bộ trong Bộ môn tích

cực giảng dạy, liên kết nhằm nâng cao chất lượng. Sinh viên cũng bắt đầu

lựa chọn nhóm, ngành học, tích lũy kiến thức theo các đơn vị học trình, các

chứng chỉ,…

Năm 1988, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử được bổ sung thêm

cán bộ giảng viên từ Tổ Lịch sử Đảng của Trung tâm Mác - Lênin của Đại

học Tổng hợp. Lúc này Bộ môn Lịch sử Đảng đảm nhiệm 2 chức năng: Bộ

môn khoa học chuyên ngành Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử có chức

năng nghiên cứu, đào tạo cử nhân theo chương trình của Khoa Lịch sử và

chức năng thuộc các môn khoa học Mác - Lênin có nhiệm vụ “dạy môn

Lịch sử Đang theo chương trình, giáo trình của Bộ giáo dục và Đào tạo cho

sinh viên các khoa, các ngành không chuyên sử của Trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội”.

Cũng trong thời gian này, Khoa Lịch sử khuyến khích các cán bộ giảng

dạy mạnh dạn sử dụng máy vi tính và các trang thiết bị hiện đại trong công

việc chuyên môn của mình. Thông qua sự giúp đỡ của Đại học Ôxtrâylia và

đề tài VH26 hợp tác với Hà Lan, “từ năm 1994 Khoa Lịch sử đã xây dựng

được văn phòng thông tin nối mạng internet” [30; 39], đây cũng là một trong

những địa chỉ email đầu tiên ở Việt Nam. Việc hiện đại hóa phương thức

giảng dạy của khoa, giúp cho sinh viên Lịch sử Đảng hứng thú hơn với công

việc học tập, đồng thời cũng nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.

Trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996) tuy sự nghiệp đổi

mới đã thu được những thành tựu có ý nghĩa lớn, song, đất nước vẫn gặp

nhiều khó khăn về kinh tế- xã hội. Trong khi đó tình hình các nước XHCN

càng ngày càng diễn biến phức tạp, ít nhiều đã tác động đến việc nghiên cứu,

học tập của thầy và trò Bộ môn, đặc biệt là với môn Lịch sử Đảng. Số lượng

sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng giảm sút mạnh mẽ. Hàng năm Khoa

23

Lịch sử có trên 100 sinh viên mỗi khóa, song với chuyên ngành Lịch sử Đảng,

số sinh viên đăng ký theo học (năm thứ 4) chỉ ở mức một con số, có khóa chỉ

còn 1 đến 2 người. Như khóa 35 (1990-1994) có 2 sinh viên (Dương Thị Huệ,

Lê Mậu Nhiệm), khóa 36 (1991-1995) có 2 sinh viên (Ngô Vương Anh, Hoàng

Kim Ninh), thậm chí khóa 37 (1992-1996) chỉ có duy nhất 1 sinh viên (Võ

Văn Bé).

Để khắc phục khó khăn, Khoa đã tổ chức hình thức đào tạo liên chuyên

ngành giữa Bộ môn Lịch sử Đảng với Bộ môn Lịch sử Việt Nam Cận - Hiện

đại và Bộ môn Lịch sử Thế giới. Cán bộ trong Bộ môn đã tích cực giảng dạy,

liên kết nhằm giữ vững, nâng cao số lượng và chất lượng đào tạo. Sinh viên

chuyên ngành Lịch sử Đảng những khóa quá ít có thể được gửi sang nghe

chung một số chuyên đề gần, cần cùng với sinh viên chuyên ngành khác.

Ngước lại, khi sinh viên các chuyên ngành khác giảm sút, có thể sang nghe

chuyên đề hay đi thực tế chung với sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng...

Bên cạnh xây dựng đội ngũ giáo viên, công tác học liệu được Bộ môn

Lịch sử Đảng và Khoa Lịch sử chú trọng ngay từ đầu, song rất thiếu thốn,

chưa đa dạng. Trước năm 1996, tài liệu nghiên cứu, học tập cho sinh viên

chuyên ngành là các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các văn

kiện của Đảng, các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của

Đảng, Nhà nước. Như Đường kách mệnh (Hồ Chí Minh), Dưới lá cờ vẻ vang

của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng

lợi mới (Lê Duẩn), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam (Trường

Chinh), Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp

(Phạm Văn Đồng), Chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (Võ

Nguyên Giáp); Về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội (Đỗ Mười, 1992);

Đề cương văn hóa Việt Nam (Trường Chinh, 1943); văn kiện, cương lĩnh,

nghị quyết của Đảng là được coi là căn cứ lịch sử Đảng, ngoài ra còn một số

24

giáo trình các thầy cô trong Bộ môn biên soạn như: Chiến lược đại đoàn kết

Hồ Chí Minh (Lê Mậu Hãn, Phùng Hữu Phú,…); Tư tưởng độc lập tự do đến

chiến lược đại đoàn kết (Bài viết trên tạp chí khoa học, ĐHTHHN, 1992) Đề

cương Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Kiều Xuân Bá, Lê Mậu Hãn), Chiến

lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh (Lê Mậu Hãn, Phùng Hữu Phú,…); Đảng

CSVN các Đại hội và hội nghị Trung ương, (Lê Mậu Hãn, Ngô Đăng Tri,...,

1995)...; Ngoài ra Bộ môn còn sử dụng có chọn lọc tài liệu của các tác giả

khác để làm giáo trình và tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên.

Những môn học thuộc chương trình bắt buộc, sinh viên sử dụng những

tác phẩm kinh điển của Các Mác, Ăng-ghen. Một số tác phẩm dịch như: Một

số phương pháp luận sử học (J.Topolsoki), Đại cương phương pháp luận sử

học (E.M. Jukow), Lịch sử là gì? (E.H.Carr), …

Đối với hoạt động đào tạo sau đại học, ngay sau khi được thành lập vào

năm 1956, tập thể cán bộ Khoa Lịch sử đã nhận thức được tầm quan trọng của

công tác đào tạo sau đại học. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn trong giai

đoạn kháng chiến chống Mỹ xâm lược, công tác đào tạo sau đại học chủ yếu

được hỗ trợ bởi các nước Xã hội chủ nghĩa anh em. Nhiều cán bộ ngành sử đã

được gửi đi đào tạo các hệ phó tiến sĩ và tiến sĩ, sau đó trở về tham gia công

tác giảng dạy và nghiên cứu tại Khoa.

Bốn năm sau ngày thống nhất đất nước, với đội ngũ cán bộ giảng dạy

đã được bồi dưỡng chuyên môn cao và nhằm đáp ứng nhu cầu học sau đại học

ngành Lịch sử trong cả nước, Khoa Lịch sử bắt đầu tổ chức đào tạo hệ phó

tiến sĩ từ năm 1980 (sau này chuyển thành hai hệ thạc sĩ và tiến sĩ. Riêng đối

với Bộ môn Lịch sử Đảng, lúc mới thành lập, Bộ môn chỉ có nhiệm vụ đào

tạo cử nhân để cung cấp giáo viên Lịch sử Đảng cho các trường đại học và

cao đẳng, cán bộ nghiên cứu cho các viện, các ban nghiên cứu Lịch sử Đảng

của trung ương và địa phương trong cả nước. Đến năm 1990, Bộ môn được

25

giao nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, mã số:

50316.

Học viên cao học được tuyển sinh theo hai hình thức là xét tuyển và thi

tuyển sinh. Với hình thức xét tuyển, sinh viên hệ chính quy được chuyển tiếp

sinh trong năm tốt nghiệp nếu có đủ những điều kiện:

- Tốt nghiệp loại giỏi hoặc điểm trung binh chung các môn học 2 năm

đầu đạt 7.0 trở lên, điểm trung ình chung các môn học 2 năm cuối đạt 8.0 trở

len và số đơn vị học trình số đơn vị học trình thi lại toàn khóa không quá 5 %

tổng số đơn vị học trình;

- Được khen thưởng về thành tích trong học tập hoặc nghiên cứu khoa

học cấp trường, khoa trực thuộc trở lên;

- Ngành tốt nghiệp đại học đúng với chuyên ngành đào tạo thạc sĩ

(chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam).

Chương trình đào tạo thạc sĩ có khối lượng kiến thức từ 80 đến 100 đơn

vị học trình gồm ba phần:

Phần 1: Kiến thức chung, gồm các môn Triết học, Ngoại ngữ

Phần 2: Kiến thức cơ sở và chuyên ngành, bao gồm những môn học

nâng cao kiến thức cơ sở, bổ sung và cập nhật kiến thức chuyên ngành

Phần 3: Luận văn thạc sĩ

Thông thường thời gian tuyển sinh học viên cao học vào khoảng tháng

2 và tháng 8 hàng năm, khai giảng (nhập học) vào tháng 11. Thời gian học

chuyên môn là 2 năm (học kỳ I, II, III, IV) trong đó học 2 môn chung vào học

kỳ I (từ tháng 12 đến hết tháng 5) còn học các môn chuyên ngành và thực

hiện và bảo vệ luận văn vào học kỳ II, kỳ III và kỳ IV. Với luận văn tốt

nghiệp, học viên sẽ đăng ký đề tài và Xemina đề cương cuối học kỳ II, sau đó

nộp luận văn vào tháng 9 và bảo vệ luận văn trong tháng 10 và 11 hàng năm.

Chương trình đào tạo tiến sĩ gồm 3 phần:

26

Phần 1: Phần kiến thức chung và kiến thức cơ sở, chuyên ngành của

chương trình.

Phần 2: Các chuyên đề tiến sĩ nhằm trang bị cho nghiên cứu sinh năng

lực nghiên cứu khoa học, cập nhật và nâng cao kiến thức liên quan trực tiếp

đến đề tài, giúp nghiên cứu sinh có đủ trình độ chuyên môn giải quyết đề tài

luận án.

Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn phải hoàn thành thêm môn Ngoại ngữ C

nâng cao và chuyên ngành với thời lượng 4 đơn vị học trình.

Phần 3: Luận án tiến sĩ.

Trung bình mỗi năm, Bộ môn đào tạo từ 30-50 học viên cao học và

khoảng 3-5 nghiên cứu sinh.

Một số lượng lớn cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng ở các trường đại học,

cao đẳng của ngành Giáo dục và Đào tạo đều do Bộ môn bồi dưỡng nâng cao

trình độ. Các cán bộ của Bộ môn còn tham gia đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở ngoài

khoa, ngoài trường. Riêng tại Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác -

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các cán bộ của Bộ môn là lực lượng quan

trọng tham gia giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn, tham gia Hội đồng

chấm luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng.

Hầu hết các luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ bảo vệ đã được xuất bản thành

sách hoặc được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành và có những đóng góp

thiết thực cho cuộc sống. Nhiều người sau khi tốt nghiệp đã trở thành các nhà

khoa học có uy tín, giữ các chức vụ chủ chốt trong cơ quan khoa học và chỉ

đạo thực tiễn ở Trung ương và địa phương.

Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, do có đường lối Đổi mới, nhất là đổi

mới về tư duy lý luận, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm hơn đối với các

lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn nói chung, sử học nói riêng. Trong bối

cảnh đó, khoa học Lịch sử Đảng có môi trường học thuật, điều kiện vật chất

27

thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng đội ngũ.

Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã

mở ra một giai đoạn mới trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta. Tư duy đổi

mới của Đảng đã trở thành cơ sở phương pháp luận giúp đội ngũ cán bộ, công

nhân viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội quán triệt vận dụng vào trong

công tác để tìm cách tháo gỡ, khó khăn, đổi mới nhà trường. Năm 1987 là

thời điểm nhà trường chuyển hướng và đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa

học, chủ trương của Ban Giám hiệu và Đảng ủy là hướng công trình khoa học

vào phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng và phục vụ Thủ đô Hà Nội.

Theo tinh thần đó, hàng chục đề tài nghiên cứu có giá trị thiết thực đã được

hình thành, xúc tiến. Các đề tài đã hướng vào nghiên cứu kết cấu kinh tế - xã

hội, những vấn đề văn hóa - tư tưởng trong thời kỳ quá độ, cơ sở lý luận và

thực tiễn đổi mới tư duy… nhằm phục vụ trực tiếp cho việc hoạch định chiến

lược kinh tế-xã hội của Đảng.

Sang đầu những năm 90, hình tình nghiên cứu khoa học có nhiều bước

phát triển mới, song song với nhiệm vụ giảng dạy, các cán bộ trong Bộ môn

cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu, đóng góp quan trọng trong ngành

khoa học Lịch sử Đảng. Từ năm 1990, số lượng các công trình được công bố

ngày càng nhiều và sự chú trọng về học thuật ngày càng nâng cao. Mở đầu là

bài viết của PGS.NGƯT Lê Mậu Hãn: Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân

tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đăng trên Tạp chí lịch sử Đảng, số

5-1990 [8, 118]. Trong bài viết, tác giả đã khẳng định Chánh cương vắn

tắt và Sách lược vắn tắt của Hội nghị thành lập Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì

là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo

con đường cách mạng Hồ Chí Minh. Kế thừa và phát huy tinh thần đó, các

cán bộ trong Bộ môn đã có nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học. Về

giáo trình: Có nhiều cuốn sách thuộc các học phần khác nhau do cán bộ của

28

Bộ môn chủ trì, tham gia biên soạn (chủ yếu là Giáo sư Lê Mậu Hãn) đã được

xuất bản như: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 2 tập (cho bậc Đại

học,1989), Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1990),

Khung chương trình đào tạo thạc sĩ, phó tiến sĩ Lịch sử Đảng (cho Bộ Giáo

dục và Đào tạo, 1991, cho Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996), Lịch sử lớp 12 hệ

chuyên ban trung học (1993); Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III (1998),

Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Lê Mậu Hãn, Ngô Đăng Tri).

Về bài giảng chuyên đề chuyên sâu Lịch sử Đảng: do các giảng viên

của Bộ môn nghiên cứu, biên soạn và đưa vào giảng dạy cho sinh viên chuyên

ngành, học viên cao học, nghiên cứu sinh như: Truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê

nin Việt Nam; sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam; Giai cấp tư sản và các

đảng phái chính trị trước 1945; Đảng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính

quyền năm 1945; Các nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu Lịch sử

Đảng; Đường lối đối ngoại của Đảng, Một số vấn đề về tư tưởng Hồ Chí

Minh; Sự chuyển biến của phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX; Hậu

phương của chiến tranh nhân dân Việt Nam; Xây dựng Đảng qua các thời

cách mạng; Đảng lãnh đạo chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại

của đế quốc Mỹ ở miền Bắc,....

Về sách tham khảo: Các cán bộ trong Bộ môn đã chủ biên, độc lập

nghiên cứu, tham gia biên soạn được khoảng 50 đầu sách với nhiều chủ đề,

phạm vị khác nhau như: Bốn mươi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam; Các đại hội Đảng ta; Tìm hiểu một số thuật ngữ, khái niệm trong các

môn lý luận Mác – Lê nin; Lịch sử Đảng bộ Hà Nội; Lịch sử Đảng bộ Hà

Tĩnh (2 tập, 1994 và 1995); Lịch sử Đường sắt Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt

Nam – các đại hội và Hội nghị Trung ương; Những chặng đường lịch sử của

Công an Hà Nội; Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ và 20 năm xây dựng đất

nước sau chiến tranh; 20 năm hoạt động của Đảng bộ và nhân dân Triệu Sơn,

29

Khu du kích Khánh Trung – Khánh Thiện trong kháng chiến chống Pháp,

Cách mạng tháng Tám và sự nghiệp giải phóng văn hóa Việt Nam; Vùng tự

do Thanh – Nghệ-Tĩnh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Mấy

vấn đề về xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến ở Thanh-Nghệ-

Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp; Hoạt động kỷ niệm cách mạng tháng

Mười, một hình thức đấu tranh quan trọng ở Việt Nam những năm 1930 –

1945; Hội đồng cung cấp mặt trận trong kháng chiến chống Pháp; Sự thành

lập nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Xô Viết Nghệ Tĩnh, luận chứng đầu tiên về

một hình thái nhà nước kiểu mới ở Việt Nam; Vấn đề ruộng đất trong phong

trào Xô viết Nghệ Tĩnh; Việt Nam đất nước Anh hùng, Ba mươi năm chiến

đấu và xây dựng,…

Về đề tài nghiên cứu: Các cán bộ trong Bộ môn đã chủ trì, tham gia

nghiên cứu hơn một số đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, thành phố, cấp Đại học

Quốc gia như: Chương trình tổng kết của Đảng bộ Hà Nội (1993); Từ điển

Bách khoa Việt Nam (1995); Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ

Chí Minh (1995),...

Về các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí: Có khoảng 40 bài viết

được đăng rên các tạp chí lớn ở trung ương như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí

Lịch sử Đảng, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí

Xưa và nay, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam

Á,...

Về trao đổi quốc tế: một số cán bộ của Bộ môn đã dự Hội nghị, hội

thảo, trao đổi khoa học quốc tế tổ chức tại Việt Nam và ngoài nước như: Liên

Xô, Hà Lan, Cộng hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga, Xingapo,, Malaixia,

Thái Lan,…

Những công trình hoặc tuyển tập công trình do cán bộ của Bộ môn chủ

trì hay tham gia thực hiện đều có chất lượng cao đóng góp thiết thực cho yêu

30

cầu giảng dạy và phục vụ sự nghiệp chung, trong đó có những công trình

được đánh giá cao như:

+ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2 tập, Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội, 1989, 380 trang

+ Lịch sử Đường sắt Việt Nam, Nxb Lao Động, Hà Nội, 1994, 350 trang.

+ Đảng Cộng sản Việt Nam – các Đại hội và hội nghị Trung ương,

Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, 180 trang.

+ Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo công cuộc xây dựng chính quyền (1954-

1986). Đề tài cấp Bộ (tham gia), năm 1991.

Nhìn chung, 10 năm 1986-1996 là thời gian Bộ môn Lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử thực hiện đổi mới hoạt động đào tạo và

nghiên cứu trong điều kiện hết sức khó khăn. Tuy vậy, nhờ sự cố gắng, tâm

huyết của cả thầy và trò, Bộ môn tiếp tục khẳng định được vai trò, vị thế của

một ngành khoa học chính trị, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp

đổi mới đất nước, phục vụ đắc lực cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam và sự lớn mạnh của Khoa Lịch sử .

1.2.2 Tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Năm 1985, trước yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các

môn khoa học Mác - Lênin của các trường đại học, cao đẳng, môn chính trị

của các trường Trung học chuyên nghiệp trong cả nước “Thực hiện Chỉ thị 25

của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V, theo đề nghị của Hiệu trưởng

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1985, Bộ trưởng Bộ

Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo)

Nguyễn Đình Tứ đã ký Quyết định số 1582/QĐ về việc thành lập Trung tâm

Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin tại Trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội”

31

Việc ra đời của Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác -

Lênin phản ánh nhu cầu khách quan là việc bồi dưỡng, cập nhật các chủ

trương, đường lối của Đảng đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy các Bộ môn

khoa học Mác - Lênin hết sức quan trọng và cần thiết. Bên cạnh đó, Trung

tâm làm nhiệm vụ giảng dạy các môn lý luận Mác – Lenin cho sinh viên toàn

trường Đại học Tổng hợp.

Việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ phải được tiến hành tập trung, với

quy mô lớn, theo sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn của Bộ Đại học và

Trung học chuyên nghiệp. Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Tư tưởng – Văn

hóa Trung ương. Do đó, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp thấy cần

thiết phải thành lập một tổ chức đủ mạnh đảm bảo công việc này.

Bộ chọn nơi đặt Trung tâm ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, vì lúc

bấy giờ ở Trường vốn có Bộ môn Mác - Lênin, có nhiều cán bộ giảng dạy có

kinh nghiệm. Hơn nữa, lúc này trong Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã có

khoa Triết học, khoa Kinh tế chính trị (trực thuộc Ban Giám hiệu nhà trường)

và Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (trực thuộc Khoa Lịch sử của

trường) với đội ngũ giảng dạy đông đảo cả về số lượng, đứng hàng đầu trong

cả nước về chất lượng.

Đặt Trung tâm ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Bộ Đại học và

Trung học chuyên nghiệp muốn huy động được đông đảo cán bộ của nhà

trường phục vụ cho công tác bồi dưỡng do Trung tâm đảm nhiệm. Sau khi có

quyết định thành lập Trung tâm, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên

nghiệp đã có Quyết định số 1648/QĐ, ngày 11 tháng 12 năm 1985 cử “đồng

chí Nguyễn Duy Qúy, Phó hiệu trưởng kiêm giữ chức vụ Giám đốc Trung

tâm”[10; 8].

Việc dạy và học các môn khoa học Mác - Lênin ở Trường Đại học

Tổng hợp Hà Nội từ sau khi có chỉ thị 25 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

32

khóa V, được đẩy mạnh theo hướng tăng cường đổi mới nội dung và phương

pháp. Đặc biệt từ sau Đại hội VII (1991), với việc Đảng đã khẳng định những

vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò, vị trí của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh… trong đời sống cách mạng Việt Nam, đã khắc phục

được những tư tưởng dao động trong xã hội nói chung, các trường đại học nói

riêng. Như vậy, cuối năm 1985 trở đi, các tổ chức trực thuộc Ban Giám hiệu

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội có thêm tổ chức mới – đó là Trung tâm Bồi

dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin với con dấu và tài khoản riêng.

Trong quyết định của Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên

nghiệp ghi rõ:

- Nhiệm vụ cụ thể của Trung tâm do Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng

hợp quy định

-Trung tâm có con dấu riêng và được phép mở tài khoản tại ngân hàng.

- Trung tâm được tổ chức và hoạt động theo quy định về chức năng,

nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trung tâm trường Đại học, ban hành theo

quyết định số 09/QĐ, ngày 21/3/1984 của Bộ Đại học và Trung học chuyên

nghiệp.

Bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, các cán bộ làm công tác

chính trị tư tưởng ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,

các Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan giáo dục trong cả nước.

Nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các bậc đại

học và sau đại học. Tổ chức thực hiện và phối hợp nghiên cứu khoa học phục

vụ công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tổ

chức thực hiện các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng góp phần giải

quyết những vấn đề kinh tế-xã hội của đất nước.

Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm lúc mới thành lập là Bồi dưỡng

cập nhật kiến thức và tập huấn, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và các Hội

33

nghị Trung ương các khóa cho đội ngũ giảng viên lý luận các trường đại

học,cao đẳng trong cả nước đồng thời cập nhật các chủ trương, đường lối của

đảng và bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng dạy các Bộ

môn Khoa học Mác - Lênin thuộc các trường Đại học, Cao đẳng dưới sự chỉ

đạo trực tiếp về chuyên môn của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp,

Ban khoa giáo Trung ương, Ban tư tưởng – Văn hóa Trung ương.

Ngay từ khi mới thành lập, Trung tâm đã khẩn trương triển khai thực

hiện các nhiệm vụ được giao.

Trước hết, Trung tâm tiến hành kiện toàn về mặt tổ chức. Trường Đại

học Tổng hợp Hà Nội, bổ nhiệm hai Phó Giám đốc của Trung tâm là đồng chí

Nguyễn Mạnh Chinh và đồng chí Hoàng Đôn, đồng thời một số cán bộ được

điều động về Trung tâm như: Trần Đăng Huân, Võ Phương Thảo, Đào Xuân

Chúc, Nguyễn Hữu Vui. Tổ Lịch sử Đảng của Trung tâm lúc này do thầy

Trần Duy Khang làm tổ trưởng.

Theo đề nghị của Trung tâm, lãnh đạo Trường Đại học Tổng hợp Hà

Nội có quyết định bố trí cho Trung tâm lúc đầu 1 phòng, sau đó là 2 phòng

tầng 4 nhà C khu vực Thượng Đình của trường để làm trụ sở của Trung tâm.

Lúc mới thành lập, Trung tâm gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và

đội ngũ cán bộ. Nhờ sự quan tâm của Đảng ủy và Ban Giám hiệu nhà trường,

những khó khăn ban đầu từng bước được khắc phục tạo tiền đề cho sự phát

triển của Trung tâm về sau.

Số cán bộ thuộc biên chế của Trung tâm được tăng dần theo thời gian,

cả về cán bộ khoa học lẫn cán bộ phục vụ. Sau khi Trung tâm được thành lập

một thời gian ngắn, tháng 12 – 1986, Đảng đã tiến hành Đại hội VI – Đại hội

có vai trò lịch sử trong đại, mở đầu thời kỳ đổi mới một cách toàn diện ở đất

nước ta.

Đại hội đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải thấm

34

nhuần, nắm vững và thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội VI. Thực hiện

nhiệm vụ này, đối với ngành Giáo dục, đặc biệt là giáo dục Đại học và Trung

học chuyên nghiệp là phải tổ chức một cách nghiêm túc việc học tập, nghiên

cứu văn kiện Đại hội VI cho đội ngũ giảng viên lý luận Mác - Lênin của các

trường đại học và cao đẳng trong cả nước.

Trung tâm đã triển khai kế hoạch của Ban Khoa giáo Trung ương và Bộ

Đại học và Trung học chuyên nghiệp tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội VI

cho đông đảo lực lượng cán bộ giảng dạy Mác - Lênin các trường Đại học,

Cao đẳng và Trung học, dạy nghề trong cả nước, được các đồng chí lãnh đạo

của Bộ cũng như người học đánh giá cao.

Bên cạnh việc tổ chức học tập Nghị quyết của các Đại hội Đảng, Trung

tâm đã thực hiện nhiệm vụ tổ chức cho đội ngũ cán bộ giảng viên Mác –Lênin

trong toàn quốc học tập các Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào

dịp hè. Những năm đầu tổ chức học tập trung, mời giảng viên kiêm nhiệm là

chính. Các giảng viên phần lớn dạy từ các trường Đảng, Viện nghiên cứu, các

trường đại học có trình độ cao và có kinh nghiệm. Bên cạnh đội ngũ giảng

viên có trình độ cao và rất có kinh nghiệm, Trung tâm có trách nhiệm quản lý

lớp học, đảm nhiệm chuẩn bị về mặt tài liệu, cán bộ giáo vụ, hướng dẫn thảo

luận và tham gia đánh giá kết quả học tập của học viên.

Ngoài nhiệm vụ chính lúc này là tổ chức quán triệt các Nghị quyết của

Trung ương Đảng, Trung tâm đã thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng

nâng cao trình độ cho cán bộ giảng dạy Mác - Lênin của toàn ngành giáo dục.

Trung tâm tổ chức nhiều sinh hoạt khoa học chuyên đề nhằm rà soát, bổ sung

chương trình, giáo trình kịp thời đưa ra nhiều tri thức mới vào hệ thống bài

giảng, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn của các môn học, góp phần nâng

cao chất lượng hiệu quả giảng dạy các môn học Mác- Lênin.

Mặc dù cơ sở vật chất còn nhỏ bé, trong những năm đầu thành lập, lãnh

35

đạo của Trung tâm đã đặt ra vấn đề trước mắt là xây dựng tủ tài liệu, lâu dài là

xây dựng một thư viện nhỏ để phục vụ trực tiếp cho việc bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ giảng dạy Mác - Lênin. Nhờ chủ trương đúng đắn và phù hợp, sau này

Trung tâm đã soạn được nhiều tài liệu không chỉ cho cán bộ giảng dạy mà còn

tiến xa hơn đối với học tập của sinh viên.

Trong không khí đổi mới của đất nước, đồng chí Nguyễn Văn Linh -

Tổng Bí thư của Đảng đã giành một buổi làm việc trực tiếp với các đồng chí ở

cơ quan Trung ương về việc giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường

đại học.

Buổi làm việc đó được tổ chức ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân – trụ sở của

Trung ương Đảng. Tham gia buổi làm việc có các đồng chí:

- Nguyễn Đức Bình, giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc

- Phạm Như Cương, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội

- Đặng Xuân kỳ, Viện trưởng viện Mác - Lênin

- Nguyễn Duy Qúy, Phó Ban Khoa giáo Trung ương Đảng

Sau khi nghe các đồng chí phát biểu ý kiến về tình hình giảng dạy và

nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin ở trường Đảng, trường Đại học, cũng như

các viện nghiên cứu, Tổng Bí thư nhấn mạnh phải coi trọng việc dạy Lịch sử

triết học, nhất là Lịch sử triết học phương Đông.

Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin đặt vấn đề

bồi dưỡng Lịch sử triết học cho đội ngũ cán bộ giảng Mác - Lênin là việc làm

thiết thực để thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng. Để triển khai nhiệm

vụ này, Trung tâm xây dựng kế hoạch mời giảng viên và soạn đề cương nội

dung gửi các giảng viên kiêm nhiệm.

Trung tâm đã mời đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ cao để giảng

dạy về lịch sử triết học cả phương Tây và phương Đông như các thầy: GS.

Trần Đình Hượu, GS. Hà Văn Tấn, GS. Nguyễn Hữu Vui, GS. Phan Ngọc,

36

GS. Nguyễn Duy Thông… Lớp đầu tiên gồm 150 học viên tham dự. Việc tổ

chức bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ giảng dạy đã được tổ chức hết sức

chu đáo, đặc biệt là sử dụng lợi thế mời được cán bộ giảng dạy kiêm chức tốt

nhất trong từng ngành cụ thể.

Căn cứ vào kết quả của lớp bồi dưỡng về Lịch sử Triết học, các lớp kế

tiếp được mở là Kinh tế chính trị. Các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho

cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng cũng vô cùng quan trọng. Cùng với Bộ môn

Chủ nghĩa xã hội khoa học, việc giảng dạy Bộ môn lịch sử Đảng có nhiệm vụ

làm cho người học thấy rõ sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân quyết định

mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.

Những biến động diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã gây ra sự

dao động ở một số cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ yêu

cầu mới là phải tăng cường và đổi mới việc giảng dạy các Bộ môn khoa học

Mác - Lênin trong các trường đại học,cao đẳng,cũng như ở các trường trung

cấp,dạy nghề.

Từ đó, nhiệm vụ đặt ra với Trung tâm là hết sức nặng nề và hoạt động

của Trung tâm phải được củng cố và tăng cường. Trường Đại học Tổng hợp

Hà Nội, từ lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường, đến Ban Giám hiệu đã có nhiều

quyết định đúng đắn nhằm tăng cường sự hoạt động của Trung tâm. Nhiều

cán bộ được bổ sung về Trung tâm như các thầy: Trương Văn Phước, Nguyễn

Văn Dương, PGS. Trần Duy Khang, Phạm Việt Trung và nhiều cán bộ trẻ vừa

tốt nghiệp đại học cũng lần lượt bổ sung về Trung tâm như: Đinh Xuân Lý,

Nguyễn Vũ Hảo, Phạm Hồng Tung, Lê Văn Lực, Phùng Xuân Nhạ, Hoàng

Đình Thắng và nhiều cán bộ khác làm giảng viên kiêm nhiệm của Trung tâm.

Nghiên cứu khoa học là một trong những chức năng của Trung tâm

nhằm nâng cao khoa học của Trung tâm, góp phần tích cực vào nhiệm vụ bồi

dưỡng đào tạo cán bộ. Trước năm 1990, số lượng cán bộ còn ít và chỉ đủ điều

37

kiện đảm bảo công tác bồi dưỡng cán bộ lý luận. Từ năm 1992, nhất là từ năm

1992 – 1996, do chức năng nhiệm vụ đào tạo Sau đại học được xác định và

đội ngũ cán bộ được tăng cường về số lượng và chất lượng, hoạt động nghiên

cứu khoa học đã được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức.

Nghiên cứu khoa học trở thành một nhiệm vụ thường xuyên, một yêu cầu

thiết thực đối với mỗi cán bộ giảng dạy của Trung tâm. Bước đầu hình thành một

lực lượng cán bộ giảng dạy trẻ có triển vọng nghiên cứu khoa học tốt.

Trọng tâm của hoạt động khoa học được Trung tâm xác định là nghiên

cứu những vấn đề có liên quan đến việc tổng kết, phát triển lý luận của Đảng

trong thời kỳ đổi mới đất nước, có liên quan đến việc khẳng định và phát triển

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từ Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng đến nay, làm cơ sở bổ sung chương trình, giáo trình

và hệ thống chuyên đề phục vụ việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ của

các trường Đại học, cao đẳng.

Trong giai đoạn 1985- 1996, Trung tâm đã liên kết với các cơ sở đào

tạo lớn như Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trường Đại học

KHXH & NV tổ chức 10 cuộc hội thảo khoa học xung quanh vấn đề lý luận

được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội (Đại hội VII), công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đại

hội VIII), trong đó có một số vấn đề lớn như vấn đề tính chất thời đại, nội

dung cơ bản của thời kỳ quá độ, đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và con

đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sự phát triển về mặt lý luận Đảng

về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, về đường lối đối ngoại của Đảng.

Trên cơ sở văn bản hợp tác về mặt khoa học và đào tạo cán bộ giữa

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp Matxcơva

“Trung tâm đã tiến hành hợp tác với Viện nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy

38

Mác - Lênin. Trong sự hợp tác này, Trung tâm đã đón đoàn cán bộ của viện

Viện nâng cao trình độ sang thăm Trung tâm và Trung tâm đã cử cán bộ sang

trao đổi và làm việc với Viện nâng cao trình độ của Trường Đại học Tổng hợp

Lô-mô – nô- xốp” [15; 13]

Ngoài trường Lô – mô – nô – xốp, Trung tâm còn hợp tác với khoa

Mác - Lênin của Trường Đại học Tổng hợp Hum – bôn – Berlin của Cộng hòa

Dân chủ Đức.

Quan hệ hợp tác trên đã góp phần tăng cường sự hiểu biết và sự giúp

đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác - Lênin giữa hai

nước, nhất là trong việc trao đổi kinh nghiệm trong việc thực hiện các đề tài

nghiên cứu khoa học và gửi cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng.

Trung tâm đã tập trung chỉ đạo hoạt động khoa học của Bộ môn chuyên

ngành nhằm bổ sung, hoàn chỉnh bốn bộ chương trình và hệ thống bài giảng

chuyên đề sau đại học được Đại học Quốc gia thẩm định và cho phép ấn hành,

sử dụng công tác đào tạo Sau đại hoc

Gắn liền với đề tài nghiên cứu khoa học là công tác sưu tầm, biên soạn

hàng chục đầu sách, sắp xếp hệ thống danh mục và in ấn hàng vạn trang tài

liệu tham khảo và lưu trữ trên mạng máy tính, phục vụ trực tiếp cho học viên

trong việc sưu tầm tư liệu làm luận văn và phục vụ giảng dạy trong các

trường. Đây được coi là bước chuyển biến từ đơn vị chỉ có chức năng bồi

dưỡng chuyên môn nghiệp vụ sang giai đoạn thực hiện cả chức năng đào tạo,

bồi dưỡng Sau đại tuy thực hiện tốt yêu cầu chuẩn hóa từng bước đội ngũ cán

bộ lý luận Mác - Lênin theo trình độ thạc sĩ chuyên ngành

Tiểu kết

Có thể nói, trong thời gian hơn 20 năm 1974-1995 đào tạo và nghiên

cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp Hà Nội là thời gian gặp nhiều khó

khăn, thách thức. Song những cán bộ chủ chốt như: Lê Mậu Hãn, thầy Hoàng

39

Bá Sách, Ngô Đăng Tri… đã tâm huyết xây dựng lên Bộ môn Lịch sử Đảng

ngày càng mở rộng quy mô, từng bước hoàn chỉnh ngành nghề đào tạo và xây

dựng đội ngũ cán bộ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu

khoa học trong từng giai đoạn. Bởi vậy, Bộ môn đã vượt lên khó khăn, hoàn

thành nhiệm vụ mà nhà trường và Khoa Lịch sử đưa ra, góp phần đào tạo đội

ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng; đẩy mạnh các hoạt động

nghiên cứu khoa học, làm cho Lịch sử Đảng thực sự trở thành một ngành

khoa học với đúng nghĩa của nó, phục vụ cho sự nghiệp đào tạo nguồn nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, cùng với các Bộ môn khác, Bộ môn

Lịch sử Đảng đã tạo nên nét đặc trưng của ngành Lịch sử Trường Đại học

Tổng hợp Hà Nội.

Bên cạnh đó, sự hình thành Trung tâm bồi dưỡng giảng viên lý luận

chính trị Mác – Lenin với tổ Lịch sử Đảng cũng là nền tảng cho sự phát triển

của Bộ môn Lịch sử Đảng, Trung tâm bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Mác – Lenin giai đoạn sau.

40

Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC

QUỐC GIA HÀ NỘI (TỪ NĂM 99 ĐẾN 2014)

. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Bộ môn Lịch sử Đảng,

Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

2.1.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005

Từ năm 1996, Đại hội Đảng lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện công nghiệp hóa gắn liền với

hiện đại hóa và nêu lên 6 quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải định hướng xã hội chủ nghĩa; Giữ

vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tấc quốc tế; Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, mọi thành phần kinh tế; Lấy việc phát

huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản; Khoa học công nghệ là nền tảng

của công nghiệp hóa hiện địa hóa; Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiểu chuẩn

cơ bản [2, 1].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành

công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-đào

tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và

bền vững. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban

Chấp hành Trung ương quyết định định hướng chiến lược phát triển giáo dục-

đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm

2000.

Tháng 12 năm 1996, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương

Đảng đã thông qua hai nghị quyết quan trọng. Nghị quyết Về định hướng

chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

41

đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Nghị quyết nêu rõ thực trạng giáo dục –

đào tạo ở Việt Nam trong thời gian qua và kết luận: “Sự nghiệp giáo dục –

đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được phát triển theo

tư tưởng chỉ đạo là thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu.Giáo

dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển

giáo dục- đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội những tiến bộ

khoa học – công nghệ. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo.

Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại

hình giáo dục- đào tạo trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý” [2; 2].

Như vậy, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu rộng lớn của nguồn nhân lực

đối với sự nghiệp phát triển đất nước thì cần phải có nguồn nhân lực chất

lượng cao, trình độ cao, đóng vai trò nòng cốt thực hiện những nhiệm vụ của

Đảng và Nhà nước. Đồng thời, nguồn nhân lực này sẽ là hạt nhân để đưa đất

nước bắt nhịp và hội nhập quốc tế. Để có bước đi mang tính đột phá, cần phải

có một đầu tàu, làm nòng cốt đổi mới nền giáo dục đại học nước nhà.

Trong bối cảnh mới, công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Bộ

môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử cũng như trường Đại học Quốc gia Hà Nội,

đều đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới.

Ngày 12/2/2001, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 16/2001/QĐ-

TTg ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia, khẳng

định và tăng cường hơn nữa quyền tự chủ của các trường, khoa trực thuộc Đại

học Quốc gia trong nhiều lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là đào tạo, nghiên cứu

khoa học-công nghệ, tổ chức cán bộ, kế hoạch-tài chính và hợp tác quốc tế.

Thực hiện Nghị định của Chính phủ và Quy chế do Thủ tướng Chính

phủ ban hành, thầy và trò ĐHQGHN nỗ lực phấn đấu xây dựng ĐHQGHN

sớm trở thành một Trung tâm đại học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao,

ngang tầm các đại học tiên tiến trong khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế,

42

xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Khoa Lịch sử

cũng hòa nhập vào sự biến đổi chung và tiếp tục phát triển.

“Năm 1997, Khoa có 9 đơn vị gồm các Bộ môn: Lịch sử Cổ trung đại

Việt Nam (PGS.TS KH Vũ Minh Giang làm chủ nhiệm), Lịch sử Cận hiện đại

Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Văn Thư làm chủ nhiệm), Lịch sử Đảng Cộng

sản Việt Nam (TS Ngô Đăng Tri làm chủ nhiệm), Lịch sử Thế giới (TS Lê

Khắc Thành làm chủ nhiệm), Khảo cổ học (PGS.TS Hán Văn Khẩn làm chủ

nhiệm), Dân tộc học (TS Hoàng Lương làm chủ nhiệm), Phương pháp luận sử

học (GS Hà Văn Tấn làm chủ nhiệm), Trung tâm Thông tin tư liệu (PGS.TS

Nguyễn Văn Khánh phụ trách) và tổ Văn phòng khoa (cô Dương Thị Nhàn

phụ trách)” [7; 38].

Về phía Bộ môn, trải qua lịch sử 20 năm thành lập, nhiều cán bộ, sinh

viên học viên, nhiều nghiên cứu sinh đã kế tiếp nhau giảng dạy, học tập, công

tác xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của Bộ môn và trưởng thành trong sự

nghiệp. Đó là truyền thống trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng,

của nhân dân, tận tụy với nghề nghiệp, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình

độ chuyên môn, xây dựng và giữ vững bản lĩnh chính trị, đoàn kết phấn đấu

vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ vì sự lớn mạnh của Khoa,

của Nhà trường, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Từ năm 1997 trở đi, khi đất nước đã ra khỏi tình trang khủng hoảng,

bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bộ môn Lịch sử

Đảng cũng ngày càng khởi sắc và có bước phát triển nhảy vọt về chất: các

thầy cô đều học xong chương trình sau đại học. Một số thầy cô được nhận

chức danh PGS: TS Ngô Đăng Tri, TS Đinh Trần Dương, TS Vũ Quang Hiển.

Những cán bộ trẻ theo học chương trình nghiên cứu sinh: ThS Nguyễn Quang

Liệu, ThS Lê Quỳnh Nga hoặc chương trình cao học: Cử nhân Đỗ Thanh

Loan. Đặc biệt PGS Lê Mậu Hãn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà

43

giáo Nhân dân. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh, số lượng các

công trình được công bố ngày càng nhiều.

Cho tới năm 2001, do nhu cầu công tác nhiều cán bộ của Bộ môn đã

chuyển sang đơn vị khác như GS. Kiều Xuân Bá, TS.Trần Kim Đỉnh, TS.

Nguyễn Đình Lê, TS Đặng Hồng Hạnh, ThS. Phạm Quang Minh, ThS. Ngô

Văn Hoán, ThS. Nguyễn Thị Nhân Hòa…và một số thầy cô đã nghỉ hưu như

PGS.NGƯT. Lê Mậu Hãn, thầy giáo Hoàng Bá Sách, cô giáo Phạm Thị

Chính. Dù đã nghỉ hưu hay chuyển đến đơn vị khác, các thầy, cô giáo cũ đều

luôn giữ mối quan hệ và có tình cảm tốt đẹp với Bộ môn, tiếp tục công tác

xây dựng Bộ môn.

Về đào tạo, Nếu như trước năm 1996, Bộ môn Lịch sử Đảng chỉ đảm

nhận nhiệm vụ đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng và giảng dạy môn Lịch sử Đảng

cho Khoa Lịch sử và sinh viên Đại học Tổng hợp. Từ năm 1996, về tổ chức

hành chính, Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một, nhưng về

chuyên môn Bộ môn đảm nhận hai nhiệm vụ chính đó là: Giảng dạy môn

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên toàn hai

trường ĐHKHXH&NV và ĐHKHTN, và cũng như các Bộ môn khác, việc

đào tạo chương trình chuyên ngành và hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp cho

sinh viên năm cuối là nhiệm vụ thường niên của Bộ môn.

Do vậy, Bộ môn chú trọng đến việc đổi mới và hoàn thiện khung

chương trình, hệ thống giáo trình, bài giảng, phương pháp giảng dạy.Cụ thể,

trong giai đoạn trước, sinh viên, học viên học theo cơ chế niên chế, học theo

hình thức “cuốn chiếu”, sang giai đoạn này, hòa chung không chí chuyển đổi

cơ chế học tập, Đại học Quốc gia Hà Nội chuyển sang học theo tín chỉ, đây là

một phương thức đào tạo có nhiều ưu thế so với phương thức đào tạo truyền

thống, tuy nhiên cần sự hòa nhập nhanh chóng, khung chương trình đào tạo

phù hợp. Bởi vậy, Bộ môn có sự tích cực chuyển đổi sang cơ chế học mới, có

44

nhiều biện pháp vừa thích hợp vừa thận trọng vừa khẩn trương đưa sự nghiệp

dạy và học lịch sử của Bộ môn sang thời kỳ mới.

Sang thời kỳ mới Bộ môn Lịch sử Đảng không chỉ đảm nhận nhiệm vụ

đào tạo cử nhân lịch sử Đảng nữa mà còn giảng dạy môn Đường lối của Đảng

Cộng sản Việt Nam cho toàn bộ ĐHQGHN. Số lượng cán bộ còn thiếu thốn,

bởi vậy Bộ môn cần có kế hoạch cụ thể từng học kỳ, từng năm học. Với riêng

đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ lịch sử Đảng, đây là lực lượng cốt yếu, Bộ

môn cần có những bài giảng chuyên đề, cách thức học tập hợp lý, thường có

sự trao đổi, thảo luận giữa sinh viên và giảng viên, giữa sinh viên với nhau

nhằm kiểm tra kiến thức đồng thời cũng rèn luyện thêm kỹ năng phản biện

cho mỗi sinh viên.

Về phía sinh viên không chuyên Lịch sử Đảng, mặc dù khối lượng kiến

thức không sâu, không nhiều như đào tạo học viên chuyên, nhưng khối lượng

sinh viên lại rất đông, là môn học cung cấp khối kiến thức cơ sở, vì vậy, giảng

viên cần có kế hoạch giảng dạy thích hợp để vừa cung cấp kiến thức nền,

đồng thời có nhiều phương pháp giảng dạy để cho sinh viên hứng thú hơn

môn học này.. Bên cạnh đó, cần thay đổi phương thức giảng dạy truyền thống

theo lối “đọc-chép” sang chia lớp học thành các nhóm nhỏ, tăng cường trao

đổi, thảo luận, hay thuyết trình, đóng kịch, … vừa giúp cho sinh viên tiếp thu

được kiến thức lại tránh nhàm chán trong giảng dạy và học tập,….

“Từ năm 1996, số sinh viên tự nguyện đăng ký vào học chuyên ngành

lịch sử Đảng lại có xu hướng tăng lên. Khóa 40 (tốt nghiệp năm 1999) có 12

sinh viên, khóa 41 (tốt nghiệp năm 2000) có 37 sinh viên, khóa 42 (tốt Lịch

sử Đảng, có 46 sinh viên, và khóa 43 (tốt nghiệp năm 2002) có 42 sinh viên,

chiếm gần 50% tổng số sinh vên cùng khóa của toàn Khoa Lịch sử . Bằng các

loại hình khác nhau, đến năm 2001, Bộ môn đã đào tạo được gần 500 cử

nhân” [7; 54]

45

Về đào tạo sau đại học, một số lượng lớn cán bộ giảng dạy Lịch sử

Đảng ở các trường đại học, cao đẳng của ngành giáo dục và Đào tạo đều do

Bộ môn bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao

học đã theo học tại Bộ môn. Đến năm 2001, Bộ môn đã trực tiếp đào tạo được

15 tiến sĩ, thạc sĩ Lịch sử. cũng bậc đào tạo cử nhân, số học viên cao học và

nghiên cứu sinh chuyên ngành Lịch sử Đảng cũng có xu hướng tăng lên.

Các cán bộ của Bộ môn còn tham gia đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở ngoài

khoa, ngoài trường. Riêng tại Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác-

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các cán bộ của Bộ môn là lực lượng quan

trọng tham gia giảng dạy chuyên đề, đến năm 2001, trực tiếp hướng dẫn 20

luận văn, tham gia trên 70 Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng.

Những cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ do Bộ môn đào tạo đều có chất lượng

cao toàn diện. Sau khi ra trường họ đều phát huy tốt vai trò của mình, nhiều

người đã trưởng thành, giữ cương vị quan trọng tại các cơ quan của Đảng,

chính quyền, đoàn thể ở các trường, các viện, các ban nghiên cứu lịch sử của

trung ương và địa phương.

Trong hợp tác quốc tế, Bộ môn cũng tạo điều kiện cho những cán bộ trẻ

ra nước ngoài để học thêm những kiến thức cũng như kỹ năng giảng dạy và

nghiên cứu; cán bộ của Bộ môn cũng đã tham dự hội thảo và trao đổi, khảo

sát khoa học tại CHLB Đức, Áo (1999), LB Nga (2000), Malaysia, Singapore

(2001, 2004), Pháp (2003, 2004), Hà Lan (2003), Ytalia (2004),

Thông qua các chương trình hợp tác, các mối quan hệ quốc tế mà nhiều

cán bộ trong Bộ môn ngày một trường thành, có trình độ chuyên môn, ngoại

ngữ tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và giàu kinh nghiệm, từng bước nâng

cao trình độ khoa học và đào tạo của Bộ môn hòa nhập với khu vực và trên

thế giới.

Hoạt động nghiên cứu tiếp tục được đẩy mạnh cùng với xu hướng đánh

46

giá khách quan lịch sử. Thời gian từ năm 1996-2006, Bộ môn đã thành công

rực rỡ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học:

Về sách tham khảo: Cán bộ và giảng viên Bộ môn đã chủ biên và tham

gia biên soạn gần 100 đề tài: Lịch sử phong trào công công nhân, công đoàn

tỉnh Đắk Lắk, Ninh Bình, Đồng Tháp; Phan Bội Châu – con người và sự

nghiệp; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; Căn cứ du

kích ở Đồng bằng Bắc Bộ 1945-1954; Đạo đức phong cách lề lối làm việc

của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Vùng tự do Thanh-Nghệ-

Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954); Điện Biên Phủ, các văn

kiện của Đảng, Nhà nước; Điện Biên Phủ: hợp tuyển các công trình khoa

học; Điện Biên Phủ dưới góc nhìn của các nhà khoa học Việt-Pháp; Việt Nam

trong tiến trình thống nhất đất nước và hội nhập; Cách mạng Tháng Tám,

một sự kiện lịch sử vĩ đại; Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ

1945-1954; Lịch sử phong trào công nhân Đồng Tháp; Lịch sử phong trào

công nhân Ninh Bình; Lịch sử phong trào công nhân Đắc Lắc; Lịch sử Đảng

bộ Hương Khê (1930-2000); Lịch sử trường Chính trị Hà Tĩnh (1945-

2002);...

Cùng với việc nghiên cứu trực tiếp để giảng dạy và viết giáo trình, các

thành viên trong Bộ môn, tùy thuộc vào uy tín nghề nghiệp của mình đã được

thu hút vào các chương trình nghiên cứu nhà nước, cấp bộ, thành phố, cấp Đại

học Quốc gia Hà Nội. Hầu hết các thành viên trong Bộ môn đã là chủ trì đề

tài và là thành viên của hơn 10 đề tài nghiên cứu: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ

Chí Minh; Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ Đảng và dân; Công tác xây

dựng Đảng thời kỳ đổi mới; Nghệ Tĩnh với phong trào xuất dương cứu nước

đầu thế kỷ XX, Lịch sử chính phủ, Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo

vệ chính quyền nhân dân thời kì 1975 – 1985, Công tác thanh vận của Đảng ở

miền Bắc thời kì 1965 – 1975; Phong trào 5 xung phong của thanh niên miền

47

Nam thời kì 1965 – 1975; Giáo dục kháng chiến sau cải cách giáo dục (1951

– 1954),…

Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa, thực tế đến các tỉnh Tây Bắc, miền

Trung,… là hoạt động thường niên của Bộ môn. Hoạt động này có ý nghĩa hết

sức lớn lao, giúp sinh viên mở rộng kiến thức, nhận thức sâu hơn những kiến

thức được học trên lớp, bên cạnh đó, làm tăng cường tinh thần đoàn kết, thân

ái của thầy và trò trong Bộ môn

Đối với sinh viên, hằng năm, Bộ môn triển khai nghiên cứu tổ chức hội

nghị khoa học sinh viên, đánh giá và khen thưởng hàng năm công tác NCKH

sinh viên, sinh viên có thể tham gia xê-mi-na chuyên đề khoa học, báo cáo

khoa học tại các hội nghị; công bố các bài báo khoa học trên các tạp chí

chuyên ngành. Đồng thời tham gia khảo sát thực địa, thực nghiệm khoa học,

thực hiện khóa luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu. Sinh viên có thể phát triển

công trình của mình thành niên luận hay khóa luận. Cán bộ giảng dạy có trách

nhiệm tham gia hướng dẫn sinh viên NCKH theo phân công của khoa trong

kế hoạch giảng dạy hàng năm. Cán bộ giảng dạy hướng dẫn một công trình

NCKH của sinh viên năm thứ ba trở xuống được tính tối đa 20 giờ chuẩn [23,

41]. Cán bộ giảng dạy hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp của sinh viên được

tính giờ chuẩn theo quy định. Những công trình NCKH sinh viên đạt giải

được công điểm thưởng vào điểm trung bình chung học tập của học kỳ, của

năm học và của toàn khóa để làm căn cứ xét chuyển tiếp vào bậc sau đại học

và các quyền lợi khác

2.1.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2014

Kể từ năm 2006, Bộ môn đứng trước những thử thách mới. Thầy trò Bộ

môn Lịch sử Đảng tuy đã trưởng thành và có sự từng trải, song khó khăn giai

đoạn này không giống giai đoạn trước. “Năm 2006, trong biên chế chính thức

của Bộ môn chỉ còn 7 cán bộ, trong đó có 4 người đã bước qua tuổi 50. Yêu

48

cầu nhiệm vụ ngày càng nặng nề: số lượng sinh viên chuyên ngành ngày càng

đông thường xuyên chiếm từ 30 đến 45% tổng số sinh viên năm cuối của

Khoa Lịch sử . Số lượng nghiên cứu sinh và học viên cao học bình quân mỗi

khóa có tới 20 người (2001-2006). Phần lớn cán bộ trong Bộ môn phải đảm

nhận thêm việc giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhiều lớp Đại học

Quốc gia Hà Nội”.

Đến những năm học 2012-2013 và 2013 -2014, tình hình các đặt ra

những thử thách, yêu cầu mới:

Lúc này Bộ môn Lịch sử Đảng có chức năng nhiệm vụ rất quan trọng,

khó khăn và đặc thù: Đó là vừa làm chức năng của một Bộ môn chuyên ngành

khoa học của Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXHNV, ĐHQGHN, có nhiệm vụ

giảng dạy, nghiên cứu, đào tạo cả 3 trình độ, 3 bằng cấp: Cử nhân, ThS và TS

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Lịch sử Đảng); vừa làm

chức năng của một Bộ môn lý luận chính trị, đảm nhiệm giảng dạy môn

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho tất cả sinh viên của

các trường các khoa của ĐHQGHN. Đó là cùng lúc trực tiếp làm nhiệm vụ

giảng dạy, nghiên cứu môn học Lịch sử Đảng, môn Đường lối cách mạng của

Đảng Cộng sản Việt Nam (Đường lối) và tham gia giảng dạy, nghiên cứu môn

Tư tưởng Hồ Chí Minh. Những môn học đó có nhiều điểm đặc thù, cả về nội

dung chuyên môn khoa học lẫn yêu cầu chính trị, tư tưởng.

Số sinh viên, học viên cao học, NCS của Bộ môn Lịch sử Đảng lúc này

đang ở số lượng rất lớn, song đội ngũ giảng viên thiếu trầm trọng. Trong các

năm học từ 2008-2014, số sinh viên, học viên cao học, NCS theo học chuyên

ngành Lịch sử Đảng tăng lên nhanh chóng. Năm học 2012- 2013, có 74/117

sinh viên năm thứ 4 của Khoa Lịch sử đăng ký theo học và tốt nghiệp cử nhân

tại Bộ môn Lịch sử Đảng, có 2/3 số học viên cao học, NCS của Khoa là thuộc

Bộ môn Lịch sử Đảng. Trong khi đó, số giáo viên cơ hữu của Bộ môn năm

49

2012 chỉ có 5 người: 2 PGS.TS, 2 TS, 1 ThS-NCS, đến tháng 10/2013, Bộ có

thêm 1 PGS.TS, 1 TS, 1 ThS nhưng phải đảm nhiệm dạy môn Đường lối của

Đảng Cộng sản Việt Nam cho cả ĐHQGHN chứ không chỉ 2 trường như

trước là ĐHKHXH &NV và ĐHKHTN như trước. Do sản phẩm đào tạo của

Bộ môn đã và đang là giảng viên môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở hầu hết các trường đại học, cao đẳng

trong cả nước, nhất là khu vực phía Bắc; và Bộ môn có một đội ngũ hơn 30

nhà khoa học là các PGS, TS ngoài ĐHQGHN, được mời làm giáo viên tỉnh

giảng đại học, hướng dẫn luận văn, luận án SĐH nên sự quản lý, điều hành,

phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn, song đổi lại, Bộ môn

có quan hệ, ảnh hưởng rất rộng với giới khoa học lý luận Mác- Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh.

Trong nhiệm vụ đào tạo, khoa xác định rõ: “mềm hóa nội dung nghiên

cứu, đào tạo trên nguyên tắc bảo đảm chất lượng cao, khai thác triệt để mọi

tiềm năng sẵn có, thích nghi và mở rộng dần khả năng phục vụ chính trị xã

hội, xã hội của sử học ngay trong cơ chế thị trường, củng cố niềm tin của

nhân vào Đảng, vào chính quyền” [7; 38].

Đến năm 2008, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập, Bộ Giáo dục và Đào

tạo, thực hiện chủ trương chung của Trung ương Đảng, đã chủ trương biên

soạn và ban hành chương trình, giáo trình mới các môn khoa học về chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với thời lượng 10 tín chỉ, gọi là các

môn Lý luận chính tri. Trong đó môn Lịch sử Đảng Cộng sản Hồ Chí Minh

được thay thế, tích hợp bằng môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản

Việt Nam với thời lượng 3 tín chỉ (môn Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-

Lê nin gồm triết học Mác- Lê nin, Kinh tế Chính trị Mác- Lê nin và CNXH

khoa học có 5 tín chỉ, môn tư tưởng Hồ Chí Minh có 2 tín chỉ). Những môn

học mới đó được áp dụng thống nhất trong các trường đại học và cao đẳng

50

trên toàn quốc. Riêng các trường có khoa, Bộ môn đào tạo chuyên về các môn

học khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì có chương trình, giáo

trình riêng do các trường đó quy định.

Đây là một sự đổi mới quan trọng trong quan hệ tới việc giảng dạy, học

tập môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong các trường đại học và cao

đẳng ở nước ta. Từ đây chương trình, nội dung môn Đường lối cách mạng của

Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm phần đường lối cách mạng DTDCND và

phần đường lối cách mạng XHCN, trong đó phần cách mạng xã hội chủ nghĩa

(1976-2008) được biên soạn chú trọng về đường lối thời kỳ đổi mới, chi tiết

tới từng đường lối cụ thể (như đường lối công nghiệp hóa, đường lối xây

dựng hệ thống chính trị, đường lối văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội,

đường lối đối ngoại) nên có thể khiến giáo viên, sinh viên có sự lúng túng do

phải cập nhật tư liệu, nhận định, các thông tin mới nhiều hơn.

Đối với Bộ môn Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH &

NV, một Bộ môn khoa học cơ bản, có mã số đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, việc cần có sự điều chỉnh

thích hợp. Định hướng của Trường và Khoa là tất cả sinh viên đều học môn

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam như các khoa khác, đồng

thời vẫn tiếp tục đào tạo các cấp học đại học, sau đại học theo mã số đã có

cho sinh viên chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN ở học kỳ 7 và học kỳ 8. Sinh

viên học viên cao học, NCS chuyên ngành Lịch sử Đảng ngoài các chuyên đề

như trước sẽ học thêm một chuyên đề bắt buộc là Lịch sử ĐCSVN với 2 tín

chỉ theo giáo trình đã được Bộ ban hành.

Như vậy đến năm học 2007-2008, một bước ngoặt mới đã diễn ra trong

lịch sử ngành khoa học Lịch sử ĐCSVN. Đó là bước ngoặt tồn tại song song

hai chương trình, giáo trình quan hệ mật thiết với nhau: Môn Đường lối cách

mạng của ĐCSVN và môn Lịch sử ĐCSVN. Môn Lịch sử ĐCSVN về cơ bản

51

được thay thế bởi môn Đường lối cách mạng của ĐCSVN [15; 11].

Năm 2006-2007, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo thực hiện đổi mới

phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển hóa quá trình giảng dạy ở bậc đại

học thành quá trình tự học sinh viêm có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng

viên, ứng dụng mạnh mẽ các phương tiện hỗ trợ và cộng nghệ thông tin, chấm

dứt tình trạng “đọc – chép” trên giảng đường đại học [25; 89]. Các trường tổ

chức chỉ đạo việc giảm thời gian lý thuyết, tăng thời gian hội thảo có giảng

viên hướng dẫn, thời gian sinh viên tự nghiên cứu có hỗ trợ về tư liệu và

phương pháp của giảng viên. Trong năm học 2006-2007, thực hiện 50% thời

gian môn học dành cho lên lớp và thời gian hội thảo có giảng viên hướng dẫn

và sinh viên tự nghiên cứu

Từ tháng 5/2006, Đại học Quốc gia Hà Nội chính thức áp dụng phương

thức đào tạo tín chỉ. Năm học 2007-2008, Trường ĐHKHXH&NV bắt đầu áp

dụng phương thức đào tạo tín chỉ cho sinh viên năm thứ nhất (khoá QH-

2007). Theo đó, ngành lịch sử đào tạo chương trình cử nhân chuẩn (138 tín

chỉ) và cử nhân chất lượng chất lượng cao (152 tín chỉ), sau khi hoàn thành

các môn học thuộc khối kiến thức chung, khối kiến thức toán, cở sở của

ngành, nhóm ngành, sinh viên sẽ học những môn học thuộc kiến thức chuyên

ngành lịch sử Đảng bao gồm 2 nhóm bắt buộc và tự chọn.

Số sinh viên và học viên cao học, NCS theo học chuyên ngành Lịch sử

Đảng tăng lên một cách nhanh chóng. Số lượng học viên cao học, NCS bình

quân mỗi khóa có trên 20 người, đặc biệt như năm 2009, có tới 43 học viên

cao học, 6 NCS. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên còn phải đảm nhiệm công tác

đào tạo sau đại học cho nhiều cơ sở khác trong và ngoài ĐHQGHN và dạy

thêm môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhiều lớp trong ĐHQGHN. Bình quân

mối năm, một cán bộ trong Bộ môn phải đứng lớp trên 600 giờ (chưa tính giờ

quy đổi, giờ sau đại học), gấp đôi giờ chuẩn.

52

Tính đến năm 2009, sau gần 20 năm đào tạo sau đại học, Bộ môn lịch

sử Đảng có 9 tiến sĩ, 100 thạc sĩ trên tổng số 258 thạc sĩ của Khoa Lịch sử 1.

Năm 2012, số học viên cao học, NCS Lịch sử Đảng do Bọ môn Lịch sử

Đảng quản lý chiếm 2/3 sĩ số cao học của Khoa. “Năm học 2013-2014, Bộ môn

có 8 giáo viên cơ hữu (4 PGS, 2 TS, 2 ThS), hơn 250 cao học, gần 60 NCS”.

Về chương trình đào tạo, chương trình đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ vẫn

được giữ nguyên kết cấu ba phần như trước. Tuy nhiên cụ thể các môn học

đào tạo có thay đổi do nhu cầu giảng dạy, học tập và sự thay đổi theo cơ chế

tín chỉ, cụ thể như sau:

Chương trình đào tạo Thạc sĩ: Học viên trước khi học môn học chuyên

ngành phải học khối kiến thức chung bao gồm: Triết học và Ngoại ngữ. Sau

đó mới học khói kiến thức nhóm chương trình.

Khung chương trình đào tạo dành cho NCS có bằng thạc sĩ ngành đúng

hoặc phù hợp 89 tín chỉ: Các học phần tiến sĩ bao gồm: 6 tín chỉ bắt buộc và

chọn 3/6 tín chỉ môn tự chọn, ngoại ngữ học thuật nâng cao:4 tín chỉ, các

chuyên đề tiến sĩ: được chọn 4/8 tín chỉ và tài liệu tổng quan: 2 tín chỉ; ngoài

ra, học viên phải tiến hành nghiên cứu khoa học đây là hoạt động không tính

số tín chỉ nhưng là yêu cầu bắt buộc trong chương trình đào tạo), cuối cùng là

Luận án tiến sĩ chiếm 70 tín chỉ.

Khung chương trình dành cho NCS có bằng thạc sĩ ngành gần (104 tín

chỉ) Học viên học khối kiến thức bổ sung giống với khối kiến thức chung

trong chương trình đào tạo Thạc sĩ (15 tín chỉ); các học phần tiến sĩ và tài liệu

tổng quan cũng như nghiên cứu khoa học, luận án tương tự như khung

chương trình cho NCS đúng ngành.

Khung chương trình dành cho NCS từ cử nhân (126 tín chỉ): Ngoài học

1 Đứng đầu trong các chuyên ngành đào tạo Thạc sĩ của Khoa Lịch sử

phần tiến sĩ và tiểu luận tổng quan, NCS phải hoàn thành các học phần bổ

53

sung kiến thức bao gồm: khối kiến thức chung (7 tín chỉ-môn Triết học), khối

kiến thức nhóm chuyên ngành (15 tín chỉ) và khối kiên thức chuyên ngành

(15 tín chỉ).

Nét mới trong các công trình khoa học trong thời kỳ này là phương

pháp tư duy khoa học mới, khách quan,toàn điện được hỗ trợ bởi nguồn tư

liệu phong phú, phương pháp nghiên cứu hiện đại, thể hiện rõ tính liên ngành.

Thông qua các chương trình khoa học này, cán bộ nghiên cứu và giảng dạy

trong Bộ môn có thêm điều kiện thuận lợi sát cánh cùng nhau trong các công

trình khoa học chung, nâng cao một bước hiệu suất nghiên cứu và phục vụ

trực tiếp, hiệu quả cho Đảng và Nhà nước hoạch định các chiến lược phát

triển chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa xã hội và con người trong tình

hình mới.

Cán bộ giảng dạy và nghiên cứu ở Bộ môn dù là các giáo sư đầu ngành

hay những người vừa mới được giữ lại Bộ môn đều có tối thiểu một công

trình khoa học công bố trong một năm học. Bình quân mỗi năm học, Bộ môn

có thêm 2 đến 3 đầu sách mới và gần 20 bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí

khoa học trong nước, cán bộ của Bộ môn luôn có bài tham gia các hội thảo

khoa học cấp trường, cấp Quốc gia và quốc tế về những chủ đề liên quan đến

lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong

năm học 2012- 2013, cán bộ của Bộ môn đã tham gia các hội thảo khoa học

lớn như “Hiệp định Paris về Việt Nam, 40 năm nhìn lại”, “Tiếp tục đổi mới hệ

thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI”. Hàng

năm, mỗi cán bộ đều có ít nhất một bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, có

người trên 5 bài, một số có sách chuyên khảo được xuất bản, các cán bộ của

Bộ môn đều chủ trì hoặc tham gia mỗi người ít nhất 1 đề tài nghiên cứu khoa

học cấp Nhà nước, cấp ĐHQG hoặc cấp trường, như Lịch sử Hội Liên hiệp

Phụ nữ Việt Nam, Quan hệ thương mại Việt Nam- Liên bang Nga, Đảng bộ

54

Hà Nội với công tác điều chính địa giới hành chính...

Một số cán bộ được coi là những “cây bút xuất sắc”, có rất nhiều đóng

góp cho hoạt động nghiên cứu khoa học không chỉ riêng ở Bộ môn mà còn

cho ngành khoa học Lịch sử Đảng, như: PGS TS Ngô Đăng Tri, PGS TS Vũ

Quang Hiển. Chỉ riêng hai cán bộ này, tổng cộng đến nay đã có trên 200 bài

đăng tạp chí, sách, giáo trình được công bố cả viết riêng và viết chung, với

chất lượng tốt. Một số sách tiêu biểu được xuất bản trong năm 2012 là cuốn:

82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, những chặng đương lịch sử (1930- 1982),

của PGS.TS Ngô Đăng Tri (Nxb Thông tin và Truyền thông, HN); Cuộc vận

đông nông dân của Đảng thời kỳ 1930- 1945, do PGS.TS Vũ Quang Hiển chủ

biên (Nxb ĐHQGHN); Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I (1930-

1975) do PGS.TS Ngô Đăng Trị và PGS.TS Vũ Quang Hiển tham gia biên

soạn (Nxb Phụ nữ, HN),...

Tuy phải giảng dạy nhiều lớp, nhiều khoa, kế hoạch bị động, thời gian

giảng dạy dài rải đều quanh năm, địa điểm giảng dạy ở các địa phương xa Hà

Nội, song cán bộ của Bộ môn vẫn rất cố gắng trong nghiên cứu khoa học. Nhiều

đề tài nghiên cứu, giáo trình, chuyên luận về Lịch sử Đảng, Lịch sử Việt Nam

cận hiện đại đã được cán bộ của Bộ môn chủ trì hoặc trực tiếp tham gia

Bên cạnh công tác giảng dạy, công tác biên soạn giáo trình đại học và

sau đại học được Bộ môn rất chú trọng. Những cuốn giáo trình như: Giáo

trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam (2006) được PGS TS Ngô Đăng Tri, PGS TS Vũ Quang Hiển cũng các

đồng nghiệp dường như không còn xa lạ đối với sinh viên đại học cao đẳng

trên cả nước, những cuốn giáo trình này cung cấp kiến thức cơ sở nền tảng

cho mỗi sinh viên để có thể tự tư duy, nghiên cứu và có những đóng góp, bổ

sung cho tri thức của nhân loại,

Ngoài các bộ giáo trình trên, các thành viên trong Bộ môn đã biên soạn

55

các giáo trình chuyên đề dùng cho sinh viên đại học năm cuối, cho học viên

cao học và nghiên cứu sinh như: Một số vấn đề nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng

sản Việt Nam (1930-2013), Một số vấn đề trong đường lối quân sự của Đảng,

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng bộ máy chính quyền

cách mạng thời kỳ 1945-1960, Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời

kỳ 1945-1954, Công tác vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam

(1930-2009) Đảng Cộng sản Việt Nam, các đại hội và Hội nghị Trung ương

Những cuốn giáo trình trên không chỉ phục vụ việc học tập của sinh viên

trong trường, mà còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cán bộ nghiên

cứu và giảng dạy lịch sử trong cả nước.

- Về sách tham khảo và các bài viết: Cán bộ và giảng viên Bộ môn đã

chủ biên và tham gia biên soạn gần 100 đề tài); 80 năm Đảng Cộng sản Việt

Nam, những chặng đường lịch sử (1930-2010);Biên niên Lịch sử Phụ nữ Việt

Nam (2012)... Đã có khoảng gần 80 bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí:

Trên các tạp chí lớn ở trung ương như Tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu lịch sử,

Lịch sử quân sự, Khoa học, Xưa và nay, Nghiên cứu châu Âu, Nghiên cứu

Đông Nam Á,,… đã được công bố.

Trong hợp tác quốc tế, Bộ môn tiếp tục tạo điều kiện cho những cán bộ

trẻ ra nước ngoài để học thêm những kiến thức cũng như kỹ năng giảng dạy

và nghiên cứu; cán bộ của Bộ môn cũng đã tham dự hội thảo và trao đổi, khảo

sát khoa học tại Austraylia (2005), CHDCND Lào, Thái Lan (2007, 2009),

Trung Quốc (2009), Campuchia (2010), Hàn Quốc (2013)….

Thông qua các chương trình hợp tác, các mối quan hệ quốc tế mà nhiều

cán bộ trong Bộ môn ngày một trường thành, có trình độ chuyên môn, ngoại

ngữ tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và giàu kinh nghiệm, từng bước nâng

cao trình độ khoa học và đào tạo của Bộ môn hòa nhập với khu vực và trên

thế giới.

56

Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa, thực tế đến các tỉnh Tây Bắc, miền

Trung,… là hoạt động thường niên của Bộ môn. Hoạt động này có ý nghĩa hết

sức lớn lao, giúp sinh viên mở rộng kiến thức, nhận thức sâu hơn những kiến

thức được học trên lớp, bên cạnh đó, làm tăng cường tinh thần đoàn kết, thân

ái của thầy và trò trong Bộ môn

Đối với sinh viên, hằng năm, Bộ môn triển khai nghiên cứu tổ chức hội

nghị khoa học sinh viên, đánh giá và khen thưởng hàng năm công tác NCKH

sinh viên. Mặc dù là môn chuyên ngành của sinh viên năm thứ 4, nhưng ngày

từ năm học đầu tiên, đã có sinh viên đam mê và có hướng nghiên cứu theo

chuyên ngành Lịch sử Đảng, hàng năm có khoảng 20 bài báo cáo khoa học

sinh viên. Hội nghị khoa học sinh viên là hoạt động thường niên của Bộ môn

được đông đảo sinh viên tham gia, trong hội nghị, các cán bộ và sinh viên tích

cực trao đổi, thảo luận, lựa chọn ra những bài báo cáo có chất lượng tốt tham

gia vào hội nghị khoa học sinh viên cấp khoa và cấp trường

. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Bộ môn Lịch sử Đảng,

Trung tâm Bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính trị

2.2.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005

Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới sau khi Đại học Quốc gia Hà Nội

được thành lập. Ngày 17-10-1995, Ban Khoa giáo Trung ương có công văn số

383 – KG/TW gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Giám đốc Đại học

Quốc gia Hà Nội về việc nhất trí đặt Trung tâm bồi dưỡng giáo viên Mác -

Lênin thuộc Đại học Tổng hợp cũ trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngày

08-11 -1995 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có công văn số 7569/TCCB

gửi Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội làm thủ tục cần thiết đặt Trung tâm

Trung tâm bồi dưỡng giáo viên Mác - Lênin trực thuộc Đại học Quốc gia Hà

Nội. Thực hiện công văn trên, ngày 16-1-1996, Giám đốc Đại học Quốc gia

Hà Nội ra Quyết định số 31/TCCB thành lập Trung tâm bồi dưỡng cán bộ

57

giảng dạy lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trực thuộc Đại học

Quốc gia Hà Nội trên cơ sở Trung tâm bồi dưỡng giáo viên Mác - Lênin

thuôc Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây.

Từ sau khi “Điều lệ tổ chức và hoạt động” của Trung tâm được Đại học

Quốc gia Hà Nội ký quyết định và ban hành, bộ máy của Trung tâm đã có

bước phát triển mới.

Sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của Trung

tâm về chức năng, nhiệm vụ là ngày 14/8/2000, Văn phòng Ban Chấp hành

Trung ương Đảng CSVN có Công văn số 4635-CV/VPTW gửi Đại học Quốc

gia Hà Nội và Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thường trực Bộ

Chính trị về Đề án đào tạo thạc sĩ Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh do

Trung tâm soạn thảo. Thực hiện công văn trên, ngày 5/1/2001 Giám đốc Đại

học Quốc gia Hà Nội ra Quyết định số 09/ĐT-SĐH giao nhiệm vụ cho Trung

tâm đào tạo sau đại học theo hình thức không tập trung đối với giáo/giảng

viên lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao

đẳng và trung học chuyên nghiệp. Tiếp đó, ngày 27/12/2001, Giám đốc Đại

học Quốc gia Hà Nội có Công văn số 533/ĐT-SĐH cho phép Trung tâm tổ

chức đào tạo thạc sĩ các khoa học Mác - Lênin theo hình thức Tích luỹ chứng

chỉ.

Cơ cấu cấu tổ chức: “Căn cứ vào Điều lệ tổ chức và hoạt động của

Trung tâm được ban hành theo Quyết định số 649/TCCB,ngày 10/10/1996

của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đã kiện toàn lại Ban

Giám đốc, các phòng chức năng,các Bộ môn khoa học trực thuộc, bổ nhiệm

nhân sự phụ trách các phòng, các Bộ môn khoa học, thành lập Hội đồng khoa

học- cơ quan tư vấn công tác bồi dưỡng, đào tạo, nghiên cứu và hoạt động

khoa học cho Ban Giám đốc”.

Trung tâm đã có nhiều năm kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý đào

58

tạo. Đã xây dựng được hệ thống tổ chức quản lý phù hợp với điều kiện của

Trung tâm. Bộ máy quản lý đào tạo trong Trung tâm đã được đầu tư và ngày

càng được khẳng định về chuyên môn và nghiệp vụ.

Hệ thống tổ chức và quản lý đào tạo của Trung tâm gồm:

+ Giám đốc, chịu trách nhiệm toàn diện trước Nhà nước về giáo dục và

đào tạo của Trung tâm.

+ 01 phó giám đốc phụ trách đào tạo đại học và bồi dưỡng sau đại học,

được Giám đốc uỷ quyền giải quyết các công việc về đào tạo và bồi dưỡng

sau đại học theo nhiệm vụ được phân công.

+ 01 phó giám đốc phụ trách đào tạo sau đại học và nghiên cứu khoa

học, được Giám đốc uỷ quyền giải quyết các công việc về đào tạo và nghiên

cứu khoa học theo nhiệm vụ được phân công.

+ Phòng Đào tạo - Nghiên cứu khoa học là đơn vị trực tiếp quản lý đào

tạo và tổ chức quá trình đào tạo. Là đầu mối xây dựng chương trình, kế

hoạch, quy chế, lịch trình giảng dạy; chịu trách nhiệm chính trong phối hợp

với các bộ phận có liên quan trong Trung tâm thực hiện các công việc chuẩn

bị cũng như việc vận hành hệ thống đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong Trung

tâm. Đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là Phòng Đào tạo là lực lượng đảm bảo

cho hoạt động đào tạo được thực hiện. Nếu không có đội ngũ này sẽ không có

sự tổ chức và quản lý đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai trò rất quan

trọng đối với sự tồn tại và phát triển của cơ sở đào tạo. Chính đội ngũ này xác

định mục tiêu, sứ mạng, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài

hạn về đào tạo.

Phòng Đào tạo, cụ thể là đội ngũ chuyên viên và cán bộ quản lý chịu

trách nhiệm thực thi trực tiếp các hoạt động phục vụ đào tạo và kiểm định

chất lượng đào tạo, vì vậy đội ngũ nhân viên phải là những người được đào

tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao trong lĩnh vực mà mình phụ trách,

59

thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng nâng cao tay nghề để có khả năng

độc lập giải quyết những vấn đề thường nhật trong công tác quản lý và phục

vụ đào tạo.

Chính vì vậy việc tập trung nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý, kỹ

năng nghề nhiệp cho đội ngũ làm công tác quản lý đào tạo này có ý nghĩa

then chốt trong tổ chức và thực hiện quá trình đào tạo của Trung tâm. Việc

nâng cao trình độ cho đội ngũ những người làm công tác quản lý đào tạo này

được thực hiện bằng mọi hình thức như tập huấn, hội nghị, hội thảo; tham

quan, nghiên cứu, khảo sát,...

Về chức năng, nhiệm vụ: So với giai đoạn trước, từ năm 1996 trở đi đã

có bước phát triển mới. Từ một Trung tâm có chức năng bồi dưỡng, nâng cao

trình độ là chủ yếu, bao gồm 3 chức năng: Chức năng bồi dưỡng đội ngũ,

chức năng đào tạo Sau đại học và chức năng nghiên cứu khoa học.

Gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện bộ máy tổ chức, chức năng,

nhiệm vụ của Trung tâm trong giai đã có bước phát triển mới trên những lĩnh

vực sau: Trước hết, “Ngày 24-5-2000, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội

quyết định bổ nhiệm PGS.TS. Vũ Văn Hiền giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm

Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

nhiệm kỳ 2000- 2004 . Tiếp theo, ngày 8 – 6 – 2001, Giám đốc Đại học Quốc

gia Hà Nội quyết định bổ nhiệm ThS. Đinh Xuân Lý giữ chức vụ Phó Giám

đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh” [16; 20]

Bổ sung thêm cán bộ, nâng cao số cán bộ của Trung tâm từ 5 người lên

11 người; đã thành lập một Hội đồng khoa học và đào tạo của Trung tâm,

gồm 19 thành viên, đều là những giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ có đủ năng lực

và trình độ tư vấn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học của

Trung tâm.

60

Nhằm tăng cường một bước cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học và đào

tạo. Được sự giúp đỡ của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2000, Trung tâm đã

có một cơ sở vật chất, bao gồm phòng làm việc của Ban Giám đốc và các

phòng, giảng đường, phòng sinh hoạt xêmina, phòng tư liệu và nhiều đầu

sách, tài liệu quý.

Để đảm bảo và nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác-

Lênin tại các các khoa Công nghệ, Kinh tế, Luật và phát huy vai trò của

Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin. Giám đốc Đại

học Quốc gia Hà Nội có Công văn số 240/ĐT ngày 29/5/2002 về việc giảng

dạy các môn lý luận Mác - Lênin cho các khoa trực thuộc giao cho Trung

tâm, Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin nhiệm vụ giảng dạy

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (60 tiết) cho các khoa Công nghệ, Kinh tế,

Luật từ học kỳ I năm học 2002-2003.

Để chuẩn bị cho công tác giảng dạy, Trung tâm đã chuẩn bị đội ngũ

giảng viên là cán bộ cơ hữu và có mời một số giảng viên kiêm nhiệm tham

gia giảng dạy. Lúc này công tác quản lý đào tạo chủ yếu do các cơ sở đào tạo

đảm nhiệm, Trung tâm chỉ là đơn vị phối hợp quản lý giảng dạy. Trước mỗi

kỳ học, các đơn vị đào tạo thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội sắp xếp thời khóa

biểu theo khung chương trình của từng ngành học. Sau đó chuyển thời khóa

biểu cho Phòng Đào tạo-NCKH của Trung tâm. Phòng Đào tạo tiếp nhận thời

khóa biểu của từng đơn vị, sau đó tổng hợp và lập lại thành thành khóa biểu

của từng môn học. Căn cứ vào số lượng giảng viên, Phòng Đào tạo đối chiếu

và khớp lịch giảng, nếu thấy trùng lịch không thể bố trí giảng viên được,

Phòng Đào tạo phối hợp với các cơ sở đào tạo để điều chỉnh lại thời khóa biểu

sao cho tối ưu nhất. Sau khi đã có thời khóa biểu của từng môn học, Phòng

Đào tạo chuyển cho các chủ nhiệm Bộ môn để Bộ môn phân công giảng viên

giảng dạy.

61

Chức năng của Phòng Đào tạo lúc này làm nhiệm vụ trung gian giữa

các cơ sở đào tạo và giảng viên. Trách nhiệm của Phòng Đào tạo: tiếp nhận

thời khóa biểu, phối hợp để điều chỉnh nếu thấy cần thiết, tiếp nhận sự phân

công của chủ nhiệm Bộ môn, thông báo lịch thi, lịch chấm thi cho giảng viên.

Kết thúc mỗi học kỳ, Phòng Đào tạo có trách nhiệm thống kê tiết giảng, số bài

kiểm tra, bài thi của từng cơ sở đào tạo, xin xác nhận của Phòng Đào tạo các

đơn vị và chuyển bản xác nhận để Phòng Hành chính-Tổ chức lấy cơ sở thanh

toán tiền giảng của từng đơn vị.

Song song với công việc đó, Phòng Đào tạo thống kê tiết giảng, số bài

kiểm tra, bài thi của từng giảng viên chuyển cho Phòng Hành chính-Tổ chức

lấy cơ sở để thanh toán tiền giảng theo Quy chế chi tiêu nội bộ. Nhìn chung ở

giai đoạn này, việc bố trí giảng đường, lên lịch giảng, tổ chức kiểm tra và thi

kết thúc môn học đều do các khoa đảm nhiệm, Trung tâm chỉ cử giảng viên

giảng dạy, chấm bài kiểm tra và bài thi hết môn. Phòng Đào tạo không có

trách nhiệm tính điểm môn học và quản lý điểm môn học mà đó là trách

nhiệm của các cơ sở đào tạo.

Đầu năm 2000, Trung tâm đã bổ sung, hoàn thiện xong 4 bộ chương

trình khung đào tạo thạc sĩ của 4 chuyên ngành: Triết học, CNXHKH, Kinh tế

chính trị, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và bước đầu biên soạn chương

trình thạc sĩ tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hệ thống đề cương bài giảng chuyên đề Sau đại học (gồm 04 chuyên

ngành, trên 2000 trang) gắn với chương trình đào tạo thạc sĩ đã được biên

soạn công phu, có chất lượng và ấn hành cùng hệ thống tư liệu, tài liệu

tham khảo khác, kịp thời phục vụ cho công tác đào tạo Sau đại học có chất

lượng cao.

Trung tâm đã tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng nâng cao trình

độ cho cán bộ lý luận chính trị. Dưới sự chỉ đạo của Bộ GDĐT, có 22 lớp tập

62

huấn, trên 8 đợt bồi dưỡng, nhằm quán triệt các quan điểm cơ bản của Nghị

quyết Đại hội VII và Đại hội VIII và các Nghị quyết của BCHTW cho 10.000

lượt cán bộ giảng dạy.

Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Đại học Quốc gia Hà Nội tại Đại

hội đại biểu Đảng bộ lần thứ II (tháng 10 năm 2001) đã nhấn mạnh mục tiêu

phấn đấu của Đảng bộ nhiệm kỳ 2001-2006 là “ra sức nỗ lực xây dựng Đại

học Quốc gia Hà Nội thực sự trở thành Trung tâm đào tạo đại học, sau đại

học, nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực,

chất lượng cao, ngang tầm khu vực, dần dân đuổi kịp trình độ quốc tế”. Trong

nhiệm vụ lãnh đạo công tác đào tạo, Báo cáo đã chỉ rõ “tập trung mọi tiềm lực

cho mục tiêu hàng đầu là nâng cao đào tạo một bước chuyển biến rõ rệt về

chất lượng đào tạo, chú trọng cả việc dạy tri thức lẫn rèn luyện phẩm chất

chính trị, đạo đức cho sinh viên”

Cùng với việc quán triệt các Nghị quyết của Đảng nói chung, đội ngũ

cán bộ lý luận đã đẩy mạnh học tập và nghiên cứu các quan điểm của Đảng

trên các lĩnh vực lý luận, đặc biệt là sự bổ sung, phát triển lý luận của Đảng

trên các lĩnh vực lý luận, đặc biệt là sự bổ sung, phát triển lý luận của Đảng

về tính chất thời đại, về thời kỳ quá độ, về công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất

nước, về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng, về xây dựng hệ thống chính trị. Từ đó lý giải các vấn đề

có liên quan đến hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, vừa khẳng định tính đúng đắn của học thuyết, vừa làm rõ những

nét phát triển mới của lý luận được Đảng nghiên cứu bổ sung và phát triển.

Qua đợt tập huấn, các chuyên ngành Mác - Lênin (Triết, Kinh tế chính

trị, CNXHKH, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam...) đều tiến hành sinh hoạt

khoa học chuyên ngành, nhằm rà soát, bổ sung chương trình, giáo trình trên

các chương mục, nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn của Bộ môn, góp

63

phần nâng cao chất lượng môn học.

Từ năm 2001, ngoài nhiệm vụ bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao

trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin,tư tưởng Hồ Chí

Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội chính thức tiếp tục giao nhiệm vụ đào tạo

Sau đại học cho Trung tâm. Từ đó, Trung tâm trở thành một đơn vị đào tạo

Sau đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội theo 4 chuyên ngành Triết học, Kinh

tế chính trị, CNXHKH, Lịch sử Đảng với hai hình thức chủ yếu: Đào tạo cao

học chính quy, chính quy không tập trung và tiếp tục đào tạo thạc sĩ theo hình

thức tích lũy chứng chỉ-theo quy chế đào tạo.

Trong đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia

Hà Nội, số cán bộ có trình độ sau đại học gồm 55 người (chiếm tỷ lệ 71,4%).

Trong đó, Giáo sư có 2 người- đều là giảng viên thỉnh giảng chiếm( 2,59%);

Phó Giáo sư có 8 người (10,38%); Tiến sĩ có 17 người (20,07%); Thạc sĩ có

27 người (35,06%); Giảng viên chính có 40 người (51,94%). Số giảng viên lý

luận chính trị là đảng viên có 59 người (76,62%)

Đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà

Nội nhìn chung có lập trường tư tưởng và bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm

chất đạo đức tốt, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; có ý thức phấn đấu nâng cao trình

độ chuyên môn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tỷ lệ giảng viên các môn

lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội là đảng viên khá cao (76,62%).

Số còn lại chưa phải là đảng viên,chủ yếu là cán bộ trẻ,đang trong quá trình

phấn đấu gia nhập hàng ngũ của Đảng.

Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội không

những hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy mà còn tham gia tích cực công tác

giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, sinh viên thông qua các đợt học tập

Nghị quyết Đảng, các lớp bồi dưỡng đảng viên mới, các lớp học tập chính trị

64

đầu khóa của sinh viên.

Trong tương quan chung về chất lượng của đội ngũ cán bộ giảng dạy

Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung thì các giảng viên các môn lý luận chính

trị không những còn thiếu so với yêu cầu mới còn yếu về tỷ lệ học vị và học

hàm so với các giảng viên của ngành khác. Một thực tế khác là phần lớn

giảng viên các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội có học hàm,

học vị sau đại học đều có độ tuổi trên 50, trong khi thế hệ giảng viên giảng

viên kế cận chưa được chuẩn bị, dẫn đến nguy cơ hụt hẫng trong tương lai.

Do thiếu giảng viên nên phần lớn cán bộ giảng dạy các môn lý luận

chính trị phải đảm nhiệm thêm giờ giảng, điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến

việc bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và nghiên cứu khoa học (đây là vấn đề

căn bản nâng cao trình độ, chất lượng giảng dạy)

Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động thường xuyên được Trung

tâm trường tổ chức. Đối với cán bộ giảng dạy, song song với nhiệm vụ giảng

dạy, các cán bộ trong Bộ môn cũng có rất công trình nghiên cứu, đóng góp

quan trọng trong ngành khoa học Lịch sử Đảng. Nếu như những năm đầu sau

ngày thành lập, công tác nghiên cứu khoa học còn rất “khiêm tốn” thì từ năm

2000, số lượng các công trình được công bố ngày càng nhiều và sự chú trọng

về học thuật ngày càng nâng cao.

Tuy phải giảng dạy nhiều lớp, nhiều khoa, kế hoạch bị động, thời gian

giảng dạy rải đều quanh năm, trình độ khả năng có hạn, lĩnh vực chuyên môn

không đơn giản, song cán bộ của Bộ môn vẫn rất cố gắng trong nghiên cứu

khoa học. Nhiều đề tài nghiên cứu giáo trình, chuyên luận về Lịch sử Đảng,

đã được cán bộ của Bộ môn chủ trì hoặc tham gia chủ trì thực hiện.

Gắn liền với các Hội thảo khoa học là việc tổ chức biên soạn, xuất bản

các ấn phẩm, các đầu sách có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thiết thực, thu hút

được đông đảo các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy tiến sĩ, phó giáo sư,

65

giáo sư thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị

Quân sự.

Cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo, nghiên cứu khoa học được nâng

cao, phòng làm việc, phòng hội thảo, phòng học, các trang thiết bị, đặc biệt

ngân sách tài chính cũng được quan tâm đầu tư, đủ năng lực và điều kiện thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm

Các ấn phẩm quan trọng đã được xuất bản phục vụ cho đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận chính trị các trường đại học và cao

đẳng trong cả nước như sau: Vận dụng các quan điểm của Đại hội IX vào

giảng dạy các Bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Hội

nghị khoa học về đào tạo và nghiên cứu khoa học tại Thiên Cầm, Hà Tĩnh; Tư

tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam; Quá trình Việt

Nam hội nhập Châu Á- Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng;

Đổi mới ở Việt Nam- tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm; Tìm hiểu vai trò

của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; Tìm hiểu lịch sử tư tưởng

xã hội chủ nghĩa; Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị

tại ĐHQGHN; Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách

mạng Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của

Đảng trong thời kỳ đổi mới; Quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam với tổ chức

APEC- thành tựu và kinh nghiệm; Nghiên cứu quá trình thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam trên cơ sở những tư liệu mới được công bố; Đảng lãnh

đạo và phát triển văn hóa, giáo dục trong thời kỳ 1945 – 1975.

Tất cả các Hội thảo, Hội nghị khoa học do Trung tâm tổ chức và tham

gia được đánh giá là thiết thực, đạt chất lượng cao về lý luận và thực tiễn đem

lại kết quả tốt cho việc thực hiện nhiệm vụ của Trung tâm. Các ấn phẩm của

Hội thảo khoa học đã được in thành sách phục vụ tập huấn cho ngành.

Nét nổi bật của Trung tâm trong giai đoạn này, cùng với nhiệm vụ Đào

66

tạo, giảng dạy thì nhiệm vụ nghiên cứu học được Trung tâm hết sức coi trọng,

coi đó là một trong hai nhiệm vụ chính trị chủ yếu, xác định làm tốt nhiệm vụ

nghiên cứu khoa học là cơ sở quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng,

đào tạo Sau đại học và giảng dạy các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh.

Hoạt động nghiên cứu khoa học của cán bộ Trung tâm đã góp phần tích

cự vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Nghiên cứu khoa học đã trở thành

một khâu quan trọng để nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên

và các cán bộ trẻ. Hầu hết nội dung các đề tài nghiên cứu khoa học đều phục

vụ trực tiếp công tác giảng dạy các môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị được giao (bồi dưỡng, cập nhật

các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng) theo đúng định hướng chiến

lược phát triển của ĐHQGHN và chiến lược CNH, HĐH đất nước.

2.2.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2013

Qua 10 năm thực hiện chức năng bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu, đào tạo

sau Đại học và nghiên cứu khoa học, Trung tâm BDGVLLCT ngày càng phát

triển mạnh mẽ, khẳng định được vai trò quan trọng trong nhiệm vụ đào tạo và

nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội

Ngày 07/10/2005, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội có Công văn số

192/ĐT giao cho Trung tâm ra đề thi, chấm thi môn Môn Lịch sử Đảng Cộng

sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh cho Trường Đại học Công nghệ,

Khoa Kinh tế, Khoa Luật, Khoa Giáo dục và Khoa Quốc tế. Tổng số sinh viên

do Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm thực hiện nhiệm vụ đào tạo hàng

năm từ 2000-3000 sinh viên. Thực hiện nhiệm vụ này, Trung tâm phối hợp

với các cơ sở đào tạo để tổ chức kỳ thi cuối khóa các môn khoa học Mác -

Lênin cho từng cơ sở đào tạo theo kế hoạch của từng cơ sở đào tạo.

Từ năm 2008, triển khai quyết định của Bộ Giáo dục & Đào tạo về đổi

67

mới chương trình và giáo trình các môn lý luận chính trị ;Trung tâm đã nhận

nhiệm vụ của Bộ tham gia biên soạn,thẩm định chương trình, giáo trình mới.

Bộ GDĐT đã giao nhiệm vụ cho Trung tâm tổ chức bồi dưỡng cấp chứng chỉ

Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin và Đường lối cách mạng

của Đảng Cộng sản Việt Nam cho hơn 2.000 giảng viên các trường đại

học,cao đẳng cả nước.

Từ năm học 2008-2009, Trung tâm đã tổ chức các lớp môn học cho

sinh viên các đơn vị đào tạo ở khu vực Trung tâm Đại học Quốc gia Hà Nội.

Sinh viên đăng ký lớp học qua mạng. Trung tâm đã động viên và tạo điều kiện

cho giảng viên biên soạn bài giảng điện tử (cấp độ I-theo tiêu chí của

ĐHQGHN). Tất cả giảng viên được trang bị máy tính xách tay, tất cả các

giảng đường đều có máy chiếu phục vụ giảng dạy.

Việc tổ chức các lớp môn học cho phép sinh viên lựa chọn đăng ký

theo học các lớp mới phù hợp với nguyện vọng của sinh viên. Đây là hình

thức tổ chức mới, có nhiều ưu điểm, cho phép sinh viên được lựa chọn thời

khóa biểu phù hợp mà không phụ thuộc vào thời khóa biểu của đơn vị đào

tạo, sinh viên có thể lựa chọn được giảng viên. Tuy đội ngũ cán bộ mỏng, chỉ

có từ 4-5 người song Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Trung tâm đã hoàn thành

tốt nhiệm vụ giảng dạy môn Lịch sử Đảng (Đường lối cách mạng của Đảng

Cộng sản Việt Nam) tại 5 khoa, trường trực thuộc với số lượng sinh viên gần

3.000/năm. Số lượng lớp học hàng năm dao động trên dưới 30 lớp, quy mô

lớp học bình quân đạt 50 sinh viên/lớp. Chất lượng học tập tốt, tỷ lệ sinh viên

đạt kết quả khá, giỏi đều đạt trên 60% số sinh viên tham gia theo học.

68

Bảng 2.1

n n iản dạ m n Lịch sử Đản năm ọ 2007-2008; 2008-2009 và

M n Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam năm ọc

2010-2010; 2011-2012

TT Năm học Hoc Kỳ I Học kỳ II Tổng cộng

Số lớp Số SV Số lớp Số SV Số lớp Số SV

1 2007-2008 10 629 6 519 16 1148

2 2008-2009 6 354 10 757 16 1111

3 2010-2011 16 1511 14 1317 30 2828

4 2011-2012 12 1207 18 1750 30 2957

Bảng 2.2

Kết quả học tập môn họ Đường lối cách mạng Việt Nam tại Trung tâm

BDCBGDLLCT năm ọc 2010-2011

TT Tổng Kém TB yếu TB Khá Giỏi

ố SL % SL % SL % SL % SL %

1 ĐLCM…. 970 2 0,21 10 1,03 215 22,6 731 75,36 12 1,24

1 ĐLCM…. 1.394 5 0,36 98 7,03 447 32,07 778 55,81 66 4,73

Năm học 2010-2011, Trung tâm được giao nhiệm vụ giảng dạy các

môn lý luận chính trị cho gần 600 sinh viên thuộc nhiệm vụ chiến lược của

ĐHQGHN. Đây là nhóm sinh viên có chương trình đào tạo nâng cao hơn so

với sinh viên đại trà, nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng, điểm nhấn

cho công tác đào tạo Đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trung tâm đã tổ

chức và thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo chiến lược.

Tuy vậy, do số lượng sinh viên thuộc thuộc nhiệm vụ chiến lược của

ĐHQGHN không nhiều, phân tán trong các trường thành viên nên rất khó cho

69

công tác tổ chức và quản lý lớp học nên từ năm học 2011-2012, Trung tâm

thôi nhiệm vụ này và tập trung đào tạo đại trà tại 5 trường thành viên của Đại

học và khoa trực thuộc ĐHQGHN.

Tiếp tục phát huy năng lực và kinh nghiệm đào tạo sau đại học năm

2010 Trung tâm đã khai giảng khoá đào tạo 82 thạc sĩ bốn chuyên ngành:

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Kinh tế chính trị và 15 tiến sĩ ba chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Kinh tế chính

trị.

Trong năm học 2012 – 2013 Trung tâm đã hoàn thành việc giảng dạy

các môn lý luận chính trị nói chung và Lịch sử Đảng nói riêng cho sinh viên

hệ chính quy các trường đại học và các khoa trực thuộc khu vực Xuân Thủy,

Cầu Giấy. Việc giảng dạy luôn đảm bảo chất lượng và đúng quy định của Đại

học Quốc gia Hà Nội.

Trung tâm thực hiện khá nghiêm túc các quy định của Nhà nước, của

Bộ Giáo dục và Đào tạo và của ĐHQGHN về công tác đào tạo, đặc biệt là

thực hiện nghiêm túc quy chế đào tạo đại học ở ĐHQGHN.

Về công tác giảng dạy: Hàng năm Trung tâm đảm nhiệm việc giảng

dạy các môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam cho sinh viên chính quy thuộc

Đại học Quốc gia Hà Nội. Để phục vụ công tác đào tạo Sau đại học, Trung

tâm đã hoàn chỉnh chương trình đào tạo thạc sĩ về Lịch sử Đảng; tổ chức biên

soạn và in ấn hàng trăm bài giảng chuyền đề và tài liệu học viên nghiên cứu,

học tập và tham khảo.

Hoạt động nghiên cứu khoa học của Trung tâm rất sôi nổi, số lượng đề

tài nghiên cứu ngày càng tăng. Toàn thể cán bộ giảng dạy và cán bộ trẻ Trung

tâm đều tham gia tích cực, hiệu quả.

Năm 2010, Trung tâm đã tổ chức thành công bốn Hội thảo khoa học

70

với sự tham gia của nhiều nhà khoa học đầu ngành về lý luận chính trị và

khoa học xã hội nhân văn: Đảng Cộng sản Việt Nam-Bản lĩnh và trí tuệ

(tháng 2.2010); Hồ Chí Minh và con đường phát triển Việt Nam (tháng

5.2010);Công nghiệp hoá,hiện đại hoá và giai cấp công nhân Việt Nam (tháng

10.2010); Những vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn nước ta trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tháng 12.2010).

Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia và Nhà xuất bản

ĐHQGHN đã xuất bản hai tập sách tuyển chọn từ các báo cáo. Hội thảo khoa

học của Trung tâm. Trung tâm là đơn vị đầu tiên trong ĐHQGHN tổ chức

thành công Hội nghị khoa học công bố kết quả nghiên cứu của các học viên

cao học và nghiên cứu sinh.

Tháng 10-2013, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo trong thời kỳ mới, thực

hiện chủ trương tinh giản hóa công tác quản lý, tăng cường đội ngũ cán bộ

chuyên môn, tập trung xây dựng các chuyên ngành lý luận chính trị tại Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trung tâm ĐTBDGVLLCC của Đại học

Quốc gia giải thể sau 28 năm hoạt động hiệu quả, Bộ môn Lịch sử Đảng của

Trung tâm sáp nhập về Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử. Nhiệm vụ

bồi dưỡng lý luận chính trị, đào tạo và nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng tập

trung vào Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử .

Trong mỗi thành tựu nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng của

Trung tâm 28 năm tồn tại (1985-2013) có sự đóng góp công sức, trí tuệ to lớn

của đội ngũ các nhà khoa học,giảng viên đầu ngành của ĐHQGHN và các

Học viện, Viện nghiên cứu và các Trường đại học cả nước. Việc thu hút, tập

hợp đông đảo đội ngũ cộng tác viên, bao gồm các giảng viên, các chuyên gia

đầu ngành để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Trung tâm đã minh

chứng sự đúng đắn của Đảng, Nhà nước và Đại học Quốc gia Hà Nội trong việc

xây dựng Trung tâm tinh, gọn, làm nòng cốt tập hợp lực lượng chuyên gia phục

vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị toàn ngành giáo dục

71

đào tạo.

Các thành tựu đã đạt được của Trung tâm đã khẳng định vai trò, vị trí

của Trung tâm trong việc đào tạo và nghiên cứu khoa học. Việc triển khai

phương thức đào tạo Sau đại học chính quy không tập trung, đào tạo theo

phương thức tích lũy chứng chỉ là sự cố gắng, sáng tạo đáng ghi nhận của

Trung tâm, tạo cơ sở vững chắc cho Trung tâm trở thành một trong những cơ

sơ đào tạo, bồi dưỡng Sau đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Cũng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu, Bộ

môn Lịch sử Đảng của Trung tâm đã có sự liên kết bền chặt với Bộ môn Lịch

sử Đảng của Khoa Lịch sử . Hai Bộ môn đã tích cực hỗ trợ nhau trong hai

nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt là dạy môn Lịch sử Đảng

(ĐLCMCLSVN) và đào tạo sau Đại học. Sự liên kết tự nhiên và bền chặt

trong suốt nhiều năm qua là cơ sở quan trọng để sự hợp nhất 2 Bộ môn hiện

nay sớm ổn định, đi vào hoạt động hiệu quả.

Tiểu kết

Khoảng thời gian gần 20 năm (1996-2014) chứng kiến sự phát triển

mạnh mẽ trong đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà

Nội. Trong khoảng thời gian này, Đại học Quốc gia Hà Nội duy trì song song

2 Bộ môn Lịch sử Đảng (tại Khoa Lịch sử và Trung tâm bồi dưỡng giảng viên

lý luận chính trị). Tuy hai Bộ môn có cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ

khác nhau song cả hai Bộ môn đều đã đạt được những thành tựu to lớn trong

đào tạo và nghiên cứu khoa học, xứng đáng với vai trò địa chỉ hàng đầu về

đào tạo và nghiên cứu khoa học cả nước.

Tháng 10-2013, Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận-Đại học

Quốc gia giải thể, Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm sáp nhập về Bộ môn

Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử . Kể từ đây, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch

sử đảm nhiệm công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng trên phạm vi toàn

Đại học Quốc gia Hà Nội với những thời cơ, thách thức mới.

72

Chƣơng : NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1 Nhận xét chung

3.1.1 Về thành tựu

Qua 40 năm thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng,

nhìn chung hai Bộ môn Lịch sử Đảng tại Khoa Lịch sử và Trung tâm Bồi

dưỡng cán bộ giảng dạy chính trị đã đạt dược nhiều thành tựu to lớn:

Thứ nhất, sau 40 năm xây dựng và phát triển (1974-2014), Đại học

Quốc gia Hà Nội nói chung, hai Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử và

Trung tâm đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ chuyên ngành Lịch sử Đảng

có chất lượng cao.

Tuy đội ngũ giáng viên cơ hữu không nhiều, nhưng đều có phẩm chất

tư cách tốt, tư tưởng đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên

môn cao. Từ vài ba cán bộ lúc ban đầu, trong quá trình phát triển, đã có

khoảng 30 cán bộ công tác tại Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử và Bộ môn

Lịch sử Đảng thuộc Trung tâm trong những khoảng thời gian khác nhau.

Trong đó có 1 người là PGS.NGND 1 người là PGS.TS.GVCC.NGƯT 4

người là PGS.TS, 3 người là TS, 3 người là ThS, 2 người là ThS.NCS.

Nhiều giáo viên của hai Bộ môn đã được giao các nhiệm vụ công tác

quan trọng ở Khoa, ở Trường, như Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Uỷ viên Ban

Chấp hành Đảng bộ, Phó Chủ tịch Công đoàn Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó

Hiệu trưởng nhà trường. Ủy viên Hội đồng nhà Trường, Chủ nhiệm, Phó Chủ

nhiệm Khoa Lịch sử, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Công đoàn Trường; Trưởng Ban

Thanh tra Trường; Trưởng phòng Công tác Chính trị và quản lý sinh viên Phó

Trưởng phòng quản lý nghiên cứu khoa học, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh

Trường, Chi hội trưởng Cựu chiến binh Khoa….

Với những đóng góp trong công tác quản lý, tổ chức đào tạo và nghiên

73

cứu khoa học, 4 cán bộ của Bộ môn được nhận Huân chương lao động hạng

Nhì và hạng Ba khi đang công tác tại Bộ môn. Các chủ nhiệm Bộ môn, các

Phó Chủ nhiệm Bộ môn là những người đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự

phát triển của Bộ môn.

Đến năm 2014, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử có 7 giảng viên

trong biên chế. Trong đó có 4 PGS. TS, 1 Tiến sĩ, 2 Nghiên cứu sinh tiến sĩ.

Đồng thời có nhiều giáo sư, Phó Giao sư, Tiến sĩ đã nghỉ hưu hoặc đang đảm

nhiệm công tác quản lý, đào tạo tại Trường ĐHKHXHNV và ĐHQGHN tham

gia giảng dạy. Bộ môn Lịch sử Đảng là một trong những Bộ môn chuyên

ngành có đội ngũ giảng viên đông đảo, có trình độ chuyên môn cao tại

Trường ĐHKHXHNV và ĐHQGHN.

Sự thành công trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là cơ sở, nền

tảng cho sự thành công trong đào tạo và nghiên cứu khoa học của Bộ môn,

đúng với tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “cán bộ là gốc của mọi công

việc”. Mặc dù trong gần 40 năm qua, đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng có

những lúc gặp khó khăn, trở ngại song do làm tốt công tác cán bộ, có được

đội ngũ cán bộ tận tâm, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, hai Bộ môn

Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội đã hoan thành tốt nhiệm vụ đào

tạo và nghiên cứu khoa học, xứng đáng với vị trí, vai trò của Trung tâm đào

tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu cả nước,

Thứ hai, trong công tác đào tạo, hai Bộ môn Lịch sử Đảng đã xây dựng

được chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ và nghiên cứu sinh một cách hệ

thống, cơ bản, chi tiết, biên soạn được nhiều giáo trình, bài giảng phục vụ tốt

công tác đào của Trường và giúp một số đơn vị khác mở được chuyên ngành

tạo đại học, sau đại học về Lịch sử Đảng.

Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử đã luôn luôn đi đầu trong việc

xây dựng chương trình đào tạo cho sinh viên chuyên ngành, cho đào tạo

74

nghiên cứu sinh, cao học của Trường, của Bộ; nhanh chóng thích nghi với

loại hình đào tạo theo tín chỉ.

Các khung chương trình, chương trình khung đào tạo cử nhân, thạc sĩ,

tiến sĩ Lịch sử Đảng do hai Bộ môn xây dựng đã được chỉnh sửa, nghiệm thu

nhiều cấp, nhiều lần, trải qua nhiều năm áp dụng, thể hiện tính khoa học và

thực tiễn cao. Khung chương trình đào tạo của Bộ môn tập trung vào các

chuyên đề cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây

dựng Đảng, đối ngoại…. là các chuyên đề có tính thiết thực và ứng dụng cao

trong công tác giảng dạy, nghiên cứu và các hoạt động chính trị, xã hội. Các

giáo trình, bài giảng do hai Bộ môn biên soạn đều có nội dung chuyên môn cơ

bản, tính khoa học cao, tính lý luận đúng đắn.

Hai Bộ môn đã trực tiếp giúp đỡ một số cơ sở đào tạo khác xây dựng và

mở được chuyên ngành đào tạo đại học, sau đại học về Lịch sử Đảng, như Đại

học Thái Nguyên, Đại học Vinh, Học viên chính trị Khu vực I,….

Cán bộ của hai Bộ môn đã chủ trì, tham gia biên soạn nhiều giáo trình

cho Bộ, như Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III (1998), Tập bài giảng Lịch

sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam (2006), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình môn Đường

lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Một số chuyên đề về

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2007),

Ngoài môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho

Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện 100% môn học do Bộ môn đảm nhiệm về

Lịch sử Đảng ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đều đã có đề

cương, bài giảng môn học, cả ở bậc cử nhân, cao học và NCS. Như: Sự hình

thành Đảng Cộng sản Việt Nam; Đảng lãnh đạo chuẩn bị và tiến hành cuộc

khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945; Đường lối đối ngoại của Đảng; Hậu

phương của chiến tranh nhân dân Việt Nam; Xây dựng Đảng qua các thời

75

cách mạng; Đảng với cuộc cách mạng ruộng đất, Đường lối đối ngoại của

Đảng thời kỳ đổi mới, Đường lối đổi mới của Đảng, Đảng Cộng sản Việt

Nam với vấn đề biên giới, chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển,...

Việc xây dựng được hệ thống bài giảng, tài liệu tham khảo trong giảng

dạy Lịch sử Đảng có ý nghĩa quan trọng, góp phần đưa công tác đào tạo

ngành Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội đi vào quy củ, tiến kịp theo

tốc độ đổi mới của hệ thống giáo dục, đồng thời tạo điều kiện đảm bảo chất

lượng giảng dạy, đào tạo Lịch sử Đảng, nhất là trong điều kiện hiện nay, xã hội

không coi trọng, quay lưng lại với Khoa học Lịch sử và Khoa học chính trị.

Thứ ba, hai Bộ môn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy môn

Lịch sử Đảng (nay là môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt

Nam) cho các thế hệ sinh viên của trường và của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Đây là nhiệm vụ thường xuyên, hết sức quan trọng, nặng nề do nội

dung chuyên mộn rất khó, lại chịu nhiều tác động của đời sống kinh tế- xã hội

trong và ngoài nước.

Môn học Lịch sử Đảng (ĐLCMĐCSVN) là một môn học trong hệ

thống các môn lý luận chính trị. Môn học trang bị cho sinh viên những kiến

thức căn bản về sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và có vai trò quan

trọng phục vụ cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, định hướng tư tưởng, ý thức

chính trị của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.

Trước năm 2014, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử đảm nhiệm dạy

môn Lịch sử Đảng ( Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam)

cho 3 trường ĐHKHXHNV, ĐHKHTN, ĐHGD; Bộ môn Lịch sử Đảng của

Trung tâm giảng dạy tại 5 trường và Khoa trực thuộc còn lại. Số lượng lớp

phân bổ không ổn định (có học kỳ chỉ có 30 lớp, có học kỳ lên tới trên 100 lớp),

đối tượng sinh viên không đồng đều (cả khoa học tự nhiên, kinh tế, xã hội nhân

văn, sư phạm,…), thời khóa biểu thường trùng nhau, chương trình, giáo trình

76

thay đổi luôn, có nhiều bất cập, đội ngũ giáo viên của Bộ môn quá ít, lại phải

đảm bảo đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng…

Trong hoàn cảnh đó, các cán bộ hai Bộ môn đã có ý thức tự rèn luyện

mình về chính trị tư tưởng, luôn phấn đấu nâng cao năng lực chuyên môn, cải

tiến phương pháp giảng dạy, để nghiên cứu, truyền thụ tốt nhất nội dung khoa

học và yêu cầu giáo dục của môn học cho sinh viên.

Chất lượng dạy và học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng

sản Việt Nam, theo khảo sát của Nhà trường, từ khóa 2009 đến 2012, đều đạt

vào loại tốt. Điểm trung bình môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản

Việt Nam cả 4 khóa theo hệ tín chỉ là 3.01 (tương đương 7,5 hệ điểm 10),

trong khi điểm trung bình chung của các môn lý luận chính trị là 2.58 (tương

đương 6,5 hệ điểm 10). Việc hoàn thành được các nhiệm vụ giảng dạy với số

và chất lượng như trên là nỗ lực cao độ của hai Bộ môn Lịch sử Đảng.

Thành công trong dạy môn Lịch sử Đảng (ĐLCMĐCSVN), hai Bộ

môn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mình, trang bị kiến thức

và ý thức chính trị cho hàng chục vạn sinh viên các thế hệ của Đại học Tổng

hợp và Đại học Quốc gia Hà Nội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1974 đến nay.

Thứ tư, Bộ môn Lịch sử Đảng đã trực tiếp góp phần đào tạo được một

đội ngũ cán bộ có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử

Đảng với số lượng lớn, chất lượng tổt, được xã hội đánh giá cao, thu hút đông

đảo người học. Trải qua 40 năm kể từ ngày thành lập (1974-2014), trong đội

hình của Khoa Lịch sử, Đơn vị Anh hùng Lao động, Bộ môn Lịch sử Đảng đã

có rất nhiều cố gắng trong nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành

Lịch sử Đảng. Trong những năm đầu mới thành lập, sinh viên theo học

chuyên ngành Lịch sử Đảng thường xuyên chiếm từ 20% đến 40% tổng số

sinh viên Khoa Lịch sử, đa số là cán bộ, đảng viên. Có thời kỳ số lượng sinh

77

viên chuyên ngành Lịch sử Đảng giảm sút mạnh mẽ, nhiều giáo viên chuyển

sang đơn vị khác. Trước tình hình đó, Bộ môn đã kiên trì với nghề nghiệp, cải

tiến phương pháp, quan tâm đền sinh viên và cùng với xu hướng chung, dần

dẫn đã khôi phục được vị thế của môn học, thu hút được nhiều sinh viên Học

viên cao học, NCS theo học chuyên ngành Lịch sử Đảng.

Những năm gần đây, số sinh viên, học viên cao học, NCS theo học

chuyên ngành Lịch sử Đảng tăng lên gấp bội, phù hợp với xu thế phát triển

chung và đảm bảo nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn cao cho sự nghiệp

xây dựng và bảo vẹ đất nước trong tình hình mới

Nhiều sinh viên của Bộ môn đã trưởng thành sau khi ra trường, giữ

những vị trí cao trong các cơ quan Trung ương và địa phương. Nhiều cử nhân,

thạc sĩ trẻ do Bộ môn đào tạo hiện nay đang là nòng cốt tham gia giảng dạy

chính trị tại các trường đại học, cao đẳng và cán bộ chuyên môn tại các cơ

quan nghiên cứu và hệ thống chính trị các cấp.

Không những hoàn thành tốt nhiệm vụ tại Trường, tại Đại học Quốc

gia Hà Nội, Bộ môn còn ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế hàng đầu

của mình trong hệ thống các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học về Lịch sử

Đảng, trở thành một địa chỉ đào tạo tin cậy, từng được Bộ giao thêm nhiệm vụ

đào tạo lớp chuyên tu, nâng cao trình độ cho cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng

của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Có nhiều giáo viên là chủ

biên, đồng tác giả các giáo trình môn học về Lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí

Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho Bộ, cả giáo

trình điện và tham gia giảng dạy cho các lớp tập huấn Hè của giáo viên toàn

ngành do Bộ tổ chức.

Với vai trò trong đào tạo giảng viên, cán bộ chuyên môn về Lịch sử

Đảng, hai Bộ môn Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội đã trở Trung

tâm định hướng đối với công tác giảng dạy và nghiên cứu Lịch sử Đảng trong

78

cả nước, đị chỉ tin cậy đào tạo, cung cấp cán bộ chuyên môn, cán bộ phòng

trào cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.

Thứ năm, cán bộ Bộ môn và Trung tâm đã có nhiều cố gắng trong

nghiên cứu khoa học, chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu các cấp, một đơn vị chủ

công trong nhiều cuộc hội thảo khoa học do Trường tổ chức, cộng tác viên

quen thuộc của nhiều cơ quan, nhiều tạp chí chuyên ngành về Lịch sử Đảng

và cách mạng Việt Nam.

Các cán bộ của Bộ môn đã chủ trì hoặc tham gia trên 50 đề tài nghiên

cứu khoa học cấp Trường, cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, cấp Nhà nước và

đều được nghiệm thu với chất lượng tốt: Lịch sử Quốc hội Việt Nam; Lịch sử

Chính phủ Việt Nam; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Lịch sử Việt Nam;

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh; Từ điển Bách khoa Việt Nam; Lịch sử

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ

1945-1954; Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1986-2000;

Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong văn kiện Đảng thời kỳ 1930-

1975, Quan hệ thương mại Việt Nam- Liên bang Nga, ...

Sách chuyên khảo, tham khảo do cán bộ của Bộ môn là tác giả hay

đồng tác giả có trên 150 cuốn được xuất bản, tiêu biểu như: Các đại hội Đảng

ta; Từ điển Bách khoa Việt Nam; Đảng với vấn đề nông dân, nông nghiệp và

nông thôn 1930- 1975; Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 1930-1975;

Vùng tự do Thanh- Nghệ- Tĩnh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

Lịch sử Hà Tĩnh; Lịch sử Đường sắt Việt Nam; 82 năm Đảng Cộng sản Việt

Nam, những chặng đường Lịch sử; Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; 50 năm phong trào

Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam- những vấn đề Lịch sử;…

Bên cạnh đó cán bộ trong hai Bộ môn đã có 300 bài viết được đăng rên

các tạp chí uy tín như Tạp chí Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu Lịch sử,

79

Lịch sử quân sự, Khoa học, Giáo dục lý luận, Nghiên cứu châu Âu, Nghiên

cứu Đông Nam Á…

Tổng cộng các cán bộ của Bộ môn Lịch sử Đảng đã có trên 500 công

trình nghiên cứu được xuất bản (cả viết riêng và viết chung). Trong đó, người

có nhiều công trình lớn, cấp nhà nước là trên 30 công trình, đề tài các loại;

người có nhiều sách được xuất bản nhất là trên 50 cuốn); người có nhiều bài

đăng tạp chí là trên 100 bài.

Về trao đổi quốc tế, tất cả cán bộ của Bộ môn đều đã đi nghiên cứu,

tham dự hội thảo khoa học, thăm quan thực tế ở nước ngoài dưới nhiều hình

thức và thời gian khác nhau. Không kể các cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức

ở trong nước, nhiều cán bộ của Bộ môn đã dự hội hội thảo, học tập, nghiên

cứu ở trên 20 Quốc gia.

Những công trình hoặc tuyển tập công trình do cán bộ của hai Bộ môn

chủ trì hay tham gia thực hiện đều có chất lượng cao đóng góp thiết thực cho

yêu cầu giảng dạy và phục vụ sự nghiệp chung, góp phần làm sáng tỏ vai trò

và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, xây dựng cách nhìn, đánh giá khách quan

của xã hội và quốc tế đối với Khoa học Lịch sử Đảng.

Thứ sáu, đội ngũ giáo viên ngày càng có nhận thức khách quan, toàn

diện hơn về Lịch sử Đảng, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng

cao được thu nhập từ chuyên môn của mình.

Tuy chưa thật đồng đều và còn những ý kiến khác nhau, song nhìn

chung các cán bộ đã có quan điểm nhận thức Lịch sử Đảng khách quan, toàn

diện hơn, theo hướng tôn trọng sự thật Lịch sử. Do đó, sưu tầm, tiếp thu, xác

minh, công bố tư liệu Lịch sử Đảng, bên cạnh việc khẳng định các thành tựu,

ca ngợi thắng lợi, các công trình đã đề cập đúng mức những sai lầm, hạn chế

của Đảng. Trên góc độ nghiên cứu, về mặt nào đó, những thông tin nhiều

chiều, đa diện, trái ngược nhau như vậy đã giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá

80

sự kiện, nhân vật Lịch sử Đảng ngày càng được chính xác, toàn diện. Điều

này đã làm cho Lịch sử Đảng càng có tính khoa học cao hơn, hấp dẫn hơn và

thuyết phục hơn

Những công trình nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp mới, liên

ngành, do đó các tư liệu được xử lý, nghiên cứu khai thác tốt hơn. Đội ngũ

cán bộ giảng viên tham gia nhiều đề tài, công bố được nhiều công trình, tăng

thêm giờ dạy, chấm thi, nhất là với đào tạo Sau Đại học, do đó đã tăng thêm

thu nhập, cải thiện đời sống bằng chuyên môn của mình. Hàng năm, Bộ môn

tổ chức cho sinh viên chuyên ngành đi thực tế ở nhiều nơi, góp phần quan

trọng trong việc mở rộng kiến thức thực tiễn, giúp sinh viên có cái nhìn khách

quan hơn và nhận thức được ý nghĩa của những sự kiện Lịch sử

Các giáo viên Lịch sử Đảng đã tích cực tham gia thực hiện nhiều đề tài

nghiên cứu khoa học, như: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh; Nghiên cứu

quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở những tư liệu mới

được công bố; Vấn đề nguồn lực trí thức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá; Qúa trình hình thành và phát triển đường lối xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng từ năm 1960 – 2006; Quan điểm

của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;Đảng Cộng sản Việt Nam: Bản lĩnh và trí

tuệ (tháng 2-2010); Hồ Chí Minh và con đường phát triển Việt Nam; Công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và giai cấp công nhân Việt Nam; ….

Trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng hiện nay, công tác nghiên cứu đánh

giá, tổng kết kinh nghiệm là hết sức quan trọng. Cần nhìn nhận thực tế, khách

quan để kịp thời tổng kết những kinh nghiệm lịch sử. Ý thức được trách

nhiệm khoa học của mình, hai Bộ môn đa tích cực đổi mới quan điểm,

phương pháp nghiên cứu, góp phần đánh giá chính xác, thực tiễn lịch sử cách

mạng, đóng góp kịp thời cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng hiện nay.

81

Nguyên nhân của thành tựu:

Một là, Lịch sử Đảng là khoa học Lịch sử đồng thời là Khoa học chính

trị phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy,ngay từ

khi thành lập, Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng

của Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị luôn được sự quan tâm

của Trung ương Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo đất nước. Cả hai

Bộ môn được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư Trung ương

và Ban Khoa giáo (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương).

Trong quá trình hoạt động, hai Bộ môn luôn nhận được sự quan tâm,

ưu tiên của Trung ương và các cấp ủy Đảng. Bộ môn được cấp kinh phí cho

nhiều dự án nghiên cứu quan trọng phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng, từ đó

tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên Bộ môn được trau dồi về chuyên môn và

tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu quý giá. Sinh viên chuyên ngành Lịch sử

Đảng được hỗ trợ miễn học phí, được hỗ trợ kinh phí đi thực tế nên có điều

kiện tập trung học tập và tâm huyết hơn với khoa học Lịch sử Đảng.

Hai là, Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử và Bộ môn Lịch sử

Đảng của Trung tâm được kế thừa truyền thống tốt đẹp và đội ngũ cán bộ,

giảng viên dày dạn kinh nghiệm của Đại học Tổng hợp Hà Nội trong đào tạo

và nghiên cứu. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thành lập năm 1956 là

Trung tâm hàng đầu của cả nước về đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Khoa Lịch sử của trường là Trung tâm đầu tiên của cả nước về đào tạo

và nghiên cứu Lịch sử. Từ cái “vốn” của Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng

Khoa Lịch sử và Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm được kế thừa những

kinh nghiệm của giá của Khoa Lịch sử trong đào tạo và nghiên cứu. Các cán

bộ ban đầu của 2 Bộ môn hầu hết đều là giảng viên của chuyên ngành Lịch sử

Việt Nam (chuyên ngành gần với Lịch sử Đảng) nên công tác xây dựng Bộ

môn có những thuận lợi hết sức cơ bản.

82

Ba là, để có được sự thành công của Đại học Quốc gia Hà Nội trong

đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng là sự cố gắng của các thế hệ giảng viên,

cán bộ, học viên, sinh viên Bộ môn. Đặc biệt đội ngũ cán bộ chủ lực của Bộ

môn trong 40 năm qua như các thầy Lê Mậu Hãn, Hoàng Bá Sách, Đinh Trần

Dương là những cán bộ nòng cốt của Khoa Lịch sử từ trước năm 1974; các

thầy Ngô Đăng Tri, Vũ Quang Hiển, Nguyễn Huy Cát, Lê Văn Thịnh….là

quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, đã kinh qua chiến

đấu, được thử thách kết nạp Đảng trong quân đội; các thầy cô Nguyễn Thị

Mai Hoa, Nguyễn Quang Liệu… là những sinh viên “dũng cảm”, “dám” học

Lịch sử Đảng trong những năm tháng đất nước khó khăn nhất …Từ tình cảm,

nhiệt huyết của đội ngũ giảng viên với ngành Lịch sử Đảng đã tạo lên sự

thành công của ngành Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp và Đại học Quốc

gia Hà Nội.

3.1.2 Về hạn chế

Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, trong công tác tổ chức, đào đạo và

nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội còn tồn tại một số hạn

chế nhất định.

Một là, ngũ cán bộ, giảng viên còn thiếu và không ổn định, Bộ môn

chưa có quy hoạch xây dựng đội ngũ một cách bài bản, chủ động, nên hiện

đứng trước nguy cơ hẫng hụt lực lượng kế cận. Số mong muốn bổ sung lúc có

nhân sự lại không có chỉ tiêu, lúc có chỉ tiêu lại không tìm được người bảo

đảm tiêu chuẩn.

Bộ môn Lịch sử Đảng là Bộ môn quan trọng của Khoa và nhà trường,

bởi vậy ngoài công tác chuyên môn, một số cán bộ của Bộ môn cũng được

điều động tham gia các công tác khác của nhà trường … Để đảm bảo sự phát

triển bền vững và thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, Bộ môn phải có từ

10-12 giảng viên, đồng thời độ tuổi giảng viên phải thể hiện độ kế cận. Bình

83

quân trong trong khoảng cách 10 tuổi phải có từ 3-4 giảng viên.

Tuy nhiên toàn thể Bộ môn hiện nay mới có 7 giảng viên cơ hữu (thiếu

ít nhất 3 người). Trong đó 3/7 giảng viên ở độ tuổi 60, độ tuổi 50 chỉ có 1

người độ tuổi từ 30-40 có 3 người, độ tuổi dưới 30 không có ai, gần 10 năm

trở lại đây, Bộ môn không giữ được giảng viên từ nguồn sinh viên và đang

đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nhân lực và yếu tố kế cận.

Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, Bộ môn đảm nhiệm công tác giảng

dạy cho toàn thể khối các trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Riêng số

lớp dọc Đường lối cách mạng cho hệ đào tạo đại học đã gần 100 lớp/năm,

chưa kể đến các lớp đào tạo học viên cao học, nghiên cứu sinh và các loại

hình đào tạo khác. Trong khi đó, chất lượng sinh viên trong nhiều năm nay có

xu hướng “thực dụng” hơn, nghĩa là nhiều sinh viên chọn ngành Lịch sử

Đảng để giải quyết công việc chứ không có đam mê, dẫn đến tình trạng học

tập hời hợt. Chương trình đào tạo chuyên ngành theo hệ tín chỉ bị rút ngắn,

rất khó để có thời gian thử thách và bồi dưỡng đối tượng quy hoạch giữ lại

Bộ môn.

Công tác tổ chức cán bộ là một trong những nguyên ngân quyết định

đến thành công của Bộ môn trong 40 năm qua, song hiện đang là thách thức

đối với công tác đào tạo của Bộ môn những năm tiếp theo. Không giải quyết

tốt công tác cán bộ, Bộ môn không đủ nhân lực để đảm bảo cho công tác đào

tạo và nghiên cứu giai đoạn tới.

Vấn đề tổ chức cán bộ của Bộ môn trong những năm 1980, 1990 là

thành tựu to lớn. Trong điều kiện đất nước gặp khủng hoảng, đời sống cán bộ,

giảng viên khó khăn, đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng bị ảnh hưởng song

Bộ môn vẫn đảm bảo tốt số lượng cán bộ và nguồn bổ sung, kế cận. Trong khi

đó, nhiều năm gần đây hai Bộ môn Lịch sử Đảng có phần coi nhẹ việc phát

triển đội ngũ cán bộ. Hạn chế này trong 10 năm gần đây đang là thách thức to

84

lớn buộc Bộ môn phải giải quyết gấp trong thời gian 5 năm tiếp theo.

Hai là, một số cán bộ, giảng viên chưa thực sự quan tâm đổi mới

phương pháp giảng dạy, thiếu sự nhạy bén cập nhật tư liệu mới, hoặc bị

nhiễu loạn thông tin, nên bài giảng, bài viết bị hạn chế, ít hàm lượng khoa

học, không đáp ứng được yêu cầu nhận thức Lịch sử của sinh viên, học viên

cao học, nghiên cứu sinh trong điều kiện mới, thậm chí gây phản cảm về môn

học cho người học.

Nhiều sinh viên cho rằng chuyên ngành Lịch sử Đảng là Bộ môn của

công tác tuyên truyền, nặng nề về học thuộc chủ trương, đường lối của Đảng,

thiếu tính thực tế và khách quan khoa học. Các ý kiến phiến diện chủ yếu xuất

phát từ cách đánh giá thiếu khách quan của xã hội về Khoa học chính trị nói

chung, Khoa học Lịch sử Đảng nói riêng song một phần cũng xuất phát từ

phương pháp giảng dạy khô khan, giáo điều của một số cán bộ, giảng viên

trước đây.

Với đào tạo sau đại học, trong những năm gần đây, Bộ môn đã cung

cấp cho xã hội một số lượng không ít các thạc sĩ và tiến sĩ. Đó là một trong

những ưu điểm lớn. Ngoài không nhiều các luận văn, luận án có chất lượng

cao thì có không ít số ThS và TS bị dư luận xã hội phàn nàn về trình độ của

họ qua thực tế công tác, tình trạng thạc sĩ chất lượng kém tương đối phổ biến.

Hạn chế của chất lượng đào tạo đang là trở ngại lớn đối với công tác

đào tạo và nghiên cứu nói riêng của Bộ môn Lịch sử Đảng. Đồng thời là hạn

chế của Bộ môn với sự nghiệp phát triển xã hội hiện nay. Chất lượng đào tạo

quyết định phần lớn từ chất lượng đội ngũ giảng viên. Trong điều kiện hiện

nay, đội ngũ giảng viên không tự nâng cao chất lượng chuyên môn và phương

pháp giảng dạy sẽ không theo kịp tiến độ đổi mới của giáo dục và yêu cầu của

sự nghiệp giáo dục trong tình hình mới.

Ba là, các yếu tố vật chất hỗ trợ công tác đào tạo và nghiên cứu còn

85

hạn chế.

Trong công tác đào tạo số lớp, số sinh viên học môn Lịch sử Đảng, nay

là môn Đường lối quá đông, số phòng học có hạn, hệ thống giáo trình, bài

giảng, tài liệu tham khảo thiếu thốn chưa đáp ứng được thực tế dạy và học

theo học chế tín chỉ. Kinh phí eo hẹp nên việc tham quan, thực tập thực tế của

sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và của giáo viên bị hạn chế.

Nhiều vấn đề chuyên môn và quản lý chưa được đổi mới đã làm hạn chế tính

dân chủ, sáng tạo, tích cực của người dạy và người học.

Khoa học Lịch sử Đảng phục vụ cho công tác lãnh đạo của Đảng, sinh

viên, học viên chuyên ngành Lịch sử Đảng sau khi tốt nghiệp có “phản ứng”

công việc khá rộng, đồng thời có xu hướng tập trung nhiều hơn vào công tác

Đảng, đoàn thể, chinh quyền, công tác nghiên cứu và giảng dạy. Tuy vậy,

hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật của Khoa Lịch sử nói chung, Bộ môn Lịch sử

Đảng nói riêng còn quá nghèo nàn. Hệ thống thư viện phục vụ nhu cầu thông

tin của người học còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng cập nhật chậm các luận

văn, luận án, khóa luận tốt nghiệp tham khảo.

Do điều kiện kinh phí có hạn, Bộ môn chưa thể phát triển mô hình học

tập trực quan, tăng cường các đào tạo bằng hình thức thăm quan, thực tế. Duy

nhất đối tượng đào tạo bậc đại học được tham quan thực tế trong năm thứ 4

với thời gian từ 5-10 ngày tại một số điểm di tích lịch sử-văn hóa từ Huế trở

ra. Sinh viên lại không được giới thiệu tham gia thực tập tại các nhà trường,

viện nghiên cứu, cơ quan Đảng, đoàn thể (hiện tại khoa Chính trị của Trường

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã làm công tác này) nên thiếu kiến

thức thực tế, thiếu tự tin dẫn đến chất lượng tốt nghiệp kém và tình trạng thất

nghiệp tràn lan sau khi ra trường.

Khoa học Lịch sử Đảng với nhiệm vụ trang bị kiến thức lý luận cho

sinh viên, đào tạo cán bộ chuyên môn về Lịch sử Đảng cho hệ thống chính trị

86

cả nước song chưa được quan tâm đúng mức sẽ dẫn đến đào tạo kém hiệu

quả, ảnh hưởng đến sực phát triển chung của đất nước. Sinh viên, học viên,

nghiên cứu sinh không được “cọ xát” với thực tế, không có thời gian thử

thách, tập sự với công việc dứt khoát không thể có chất lượng tốt, không thể

hòa nhập sớm với yêu cầu, nhiệm vụ công việc sau khi ra trường.

Bốn là, sự điều hành chung, vấn đề thời khóa biểu nhiều lúc chưa có sự

phối hợp đồng bộ giữa các trường, các khoa với Bộ môn.

Bởi vậy, trong đào tạo, Bộ môn gặp nhiều khó khăn trong phân công

giáo viên dạy, thậm chí có lúc bị động, trùng lớp, trùng phòng, trùng giờ.

Môn học có tính tư tưởng, giáo dục rất cao, song các đơn vị đào tạo, các đoàn

thể gần như phó mặc cho giáo viên đứng lớp, thiếu sự phối hợp, hỗ trợ, động

viên cần thiết.

Chẳng hạn như đào tạo bậc cử nhân chuyên ngành Lịch sử Đảng luôn

có từ 50-70 sinh viên song bị xếp lịch vào các lớp có quy mô 30 người, phải

thắc mắc, kiến nghị mới được giải quyết. Đào tạo cao học thường xuyên bị

trùng lớp với các chuyên ngành khác và phải bố trí học vào buổi tối rất vất vả

cho giảng viên và các học viên ở xa.

Không làm tốt công tác điều hành, Bộ môn Lịch sử Đảng không thể

truyền tải, trang bị tốt ý thức chính trị, ý thức tổ chức, kỷ luật cho sinh viên,

khó hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình với sự nghiệp lãnh đạo của

Đảng.

Năm là, ý thức của sinh viên, của xã hội đối với môn Lịch sử nói chung,

môn Lịch sử Đảng, môn Đường lối cách mạng của Đảng nói riêng còn hạn

chế.

Cách nhìn nhận về Lịch sử Đảng của một bộ phấn lớn sinh viên thậm

chí sai lệch, coi là môn lý luận chính trị đơn thuần, môn bổ trợ, môn phụ, nên

có tâm lý học đối phó, thiếu tự giác, không hăng say. Chất lượng sinh viên,

87

học viên chuyên ngành có phần suy giảm so với giai đoạn trước. Tình trạng

trốn tiết, học hộ diễn ra tương đối phổ biến, chất lượng học tập, nhận thức

ngày càng đi xuống.

Đặc biệt, trong chương trình học tập hiện nay cho phép thi môn Đường

lối cách mạng Việt Nam là đề mở đã dẫn đến tình trạng sinh viên không chú

tâm học, không quan tâm nội dung học mà dựa hoàn toàn vào tài liệu môn

học. Một số sinh viên đã đăng ký học, song lại thay đổi, nên có đơn vị phải

hủy, dồn lớp học, gây bị động cho giáo viên, cho Bộ môn.

Điều đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ sinh viên Khoa Lịch sử

chọn Lịch sử Đảng vì “không biết chọn ngành nào”, hoặc chọn vì “dễ xin việc

hơn các ngành khác”. Không phủ nhận việc chọn ngành học của sinh viên

phải xuất phát từ nhu cầu của xã hội và khả năng lựa chọn nghề nghiệp song

chính tâm lý thực dụng của sinh viên khiến chất lượng tốt nghiệp ngày càng

đi xuống, sinh viên tốt nghiệp không có phương pháp và kiến thức nghiên cứu

dẫn đến tình trạng thất nghiệp là tất yếu.

Học chuyên ngành Lịch sử Đảng vì nhu cầu của xã hội là chưa đủ, phải

xuất phát từ tình cảm, tâm tư, nguyện vọng chính đáng. Trong những năm

qua, việc đào tạo được số lượng lớn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là rất đáng mừng,

song chưa thực hiện đúng tinh thần “quý hồ tinh, bất quý hồ đa” dẫn đến gây

ra tình trạng lãng phí, thiếu tập trung, bài bản.

Nguyên nhân của hạn chế:

Sở dĩ có tình trạng này, là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là, Hầu hết các giảng viên có khả năng nghiên cứu (và đủ điều kiện

để được duyệt thực hiện đề tài) đều là những người đã có thâm niên công tác,

có học hàm, học vị và cả thành tích nghiên cứu cũng như giảng dạy…; tuy

nhiên, họ lại thường là lãnh đạo, quản lý nên thời gian dành cho nghiên cứu

thường không nhiều

88

Hai là, Giảng viên phải giảng dạy quá nhiều: Theo Quyết định số

64/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giảng viên có

chức danh càng cao thì số giờ giảng dạy càng nhiều (Giáo sư, GVCC :360

giờ; Phó giáo sư, GVC: 320 giờ ; Giảng viên: 280 giờ). Tuy nhiên, với Bộ

môn Lịch sử Đảng, các cán bộ giảng dạy phải đảm nhận thời lượng giờ gấp

đôi, có khi gấp ba. Với số giờ giảng nhiều như vậy nên giảng viên không còn

thời gian (và cả sức lực) dành cho việc nghiên cứu.

Ba là, thù lao được trả chưa xứng với công sức bỏ ra: Kinh phí cấp cho

các đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ hoặc Thành phố còn tạm ổn cho

hoạt động nghiên cứu, nhưng với các công trình nghiên cứu cấp trường hoặc

bài báo thì số kinh phí thường rất thấp (từ 15-20 triệu/đề tài và 500.000đ –

700.000đ/bài báo); vì thế, không khuyến khích được giảng viên nghiên cứu và

chất lượng công trình cũng không thể cao.

Bốn là, Thiếu sự liên kết bền chặt giữa các Trung tâm đào tạo Lịch sử

Đảng với nhau: chưa có có sự liên kết, trao đổi nên nhiều khi hướng nghiên

cứu bị trùng lặp. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng lại

những kết quả đã công bố và gây ra lãng phí.

Năm là, tâm lý chung của xã hội hiện nay là không coi trọng các ngành

Khoa học xã hội nói chung và ngành Lịch sử Đảng nói riêng. Đây là hạn chế

chung của hệ thống giáo dục nước ta.

3.2 Kinh nghiệm và các vấn đề đặt ra

3.2.1 Kinh nghiệm

Quá trình 40 năm (1974-2014) thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên

cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã để lại những kinh nghiệm

quý giá:

Một là, nắm vững ý nghĩa, vai trò trong đào tạo và nghiên cứu Lịch sử

Đảng đối với sự phát triển của xã hội.

89

Cần xác định rõ, khoa học Lịch sử Đảng ngành khoa học lịch sử, khoa

học chính trị, phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng. Môn học Lịch sử Đảng,

Đường lối cách mạng của Đảng có nội dung tư tưởng, chính trị rất cao, do đó

việc dạy- học và nghiên cứu phải nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng

trong từng thời kỳ Lịch sử cũng như đương đại để có sự nhận thức vừa khoa

học khách quan vừa gắn với thực tiễn hiện tại, tránh phiến diện một chiều,

vừa giảm hàm lượng khoa học vừa gây phản cảm đối với cả người dạy và

người học.

Thực trạng hiện nay hầu hết sinh viên đều coi môn Đường lối cách

mạng là môn học phụ trợ, có tính chất bắt buộc, giáo điều. Bởi vậy hầu hết

sinh viên học đối phó, kết thúc môn không nắm được những vấn đề cơ bản

của lịch sử cách mạng Việt Nam. Trong quá trình giảng dạy, thời lượng dành

cho môn học Đường lối cách mạng nói chung và thời lượng học chuyên

ngành cho sinh viên ngành Lịch sử Đảng nói riêng không nhiều dẫn đến

chương trình được giới thiệu cho sinh viên khái quát, cơ bản, không có điều

kiện đi sâu vào nội dung vấn đề.

Do vậy, cần thường xuyên quan tâm chấn chỉnh ý thức học tập lịch sử

Đảng cho đầy đủ các hệ đào tạo. Ý thức học tập là cơ sở quan trọng để đảm

bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu không chỉ với vai trò là một ngành khoa

học mà còn với vai trò là một ngành lý luận chính trị phục vụ trực tiếp cho sự

lãnh đạo của Đảng.

Hai là, để đảm bảo sự phát triển bền vững, khả năng thu hút sinh viên,

học viên, nghiên cứu sinh cần chú ý tính lợi ích của chuyên ngành đào tạo.

Nghĩa là trong cơ chế thị trường, người học luôn luôn có sự lựa chọn

ngành học dựa trên phân tích lợi ích lâu dài và trước mắt của nó. Số sinh viên,

học viên cao học, nghiên cứu sinh đăng ký theo học chuyên ngành Lịch sử

Đảng những năm qua cũng không ngoài ngoại lệ đó.

90

Qua khảo sát tại các khóa sinh viên K53 (năm học 2011-2012) và K54

(năm học 2012-2013) cho thấy, trên 50% sinh viên theo học chuyên ngành

Lịch sử Đảng đã khẳng định đăng ký chuyên ngành vì Lịch sử Đảng dễ xin

việc hơn các chuyên ngành khác, có mức “phản ứng” công việc rộng: nghiên

cứu, giảng dạy (bậc phổ thông và đại học, cao đẳng), làm báo, đảm nhiệm

công tác tại cơ quan Đảng, đoàn thể các cấp, đảm nhiệm công tác Đảng, công

tác chính trị trong lực lượng vũ trang… Trên 60% số học viên cao học, nghiên

cứu sinh chuyên ngành Lịch sử Đảng đang công tác giảng dạy, nghiên cứu

Lịch sử Đảng và làm việc hệ thống chính trị các cấp.

Như vậy, có thể thấy, phần lớn sinh viên đăng ký học Lịch sử Đảng

xuất phát chủ yếu từ ưu tiên công việc, chỉ có một bộ phận nhỏ đăng ký dựa

trên cảm hứng đối với Bộ môn. Sức hút của ngành lịch sử Đảng là không nhỏ

song nhiệm vụ của Bộ môn còn phải cho người học thấy được hàm lượng

khoa học của ngành Lịch sử Đảng, đồng thời phải có trách nhiệm đối với

công tác đào tạo để hình thành lên đội ngũ chuyên gia Lịch sử Đảng thực sự.

Vấn đề việc làm sau khi ra trường là cơ sở khách quan, lâu dài, cách

thức điều hành nghiêm túc, tận tình của Bộ môn, sự ứng xử công tâm, giỏi

chuyên môn của đội ngũ giảng viên là cơ sở trực tiếp, cảm quan để họ đăng

ký ngành học.

Ba là, cần chú ý làm tốt cả hai nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu, xác

định rõ đào tạo và nghiên cứu là hai cột trụ bảo đảm sự phát triển bền vững

của Bộ môn Lịch sử Đảng.

Muốn giảng dạy tốt phải trên cơ sở nghiên cứu sâu, thấu hiểu vấn đề có

tư liệu phong phú, đa chiều; muốn nghiên cứu tốt phải qua thực tiễn đào tạo

để phát hiện đề tài và lý giải vấn đề. Điều đó không chỉ đúng về mặt lý thuyết

mà là sự trải nghiệm của các giáo viên Bộ môn Lịch sử Đảng hơn 40 năm

qua, thậm chí đó là sự sàng lọc khắt khe trên thực tế đối với đội ngũ giáo viên

91

của Bộ môn. Ai không thực hiện tốt sự kết hợp đó sẽ khó có uy tín cao đối với

sinh viên, Học viên cao học, Nghiên cứu sinh.

Trong môi trường trí thức, học thuật, nhiều khi các công trình nghiên cứu là

yếu tố quyết định uy tín chuyên môn của giáo viên chứ không chỉ là sự tận tâm

của họ. Thực tiễn đã chứng minh, các giảng viên có nhiều sách được xuất bản,

nhiều bài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học là những người được

sinh viên, học viên đăng ký nhận hướng dẫn tốt nghiệp nhất.

Đối với đội ngũ sinh viên, học viên cao học, việc nghiên cứu khoa học là

hết sức cần thiết, là “chứng chỉ” về khả năng tư duy của họ. Nhất là trong điều

kiện phần lớn học viên, sinh viên ra trường công tác tại các viện nghiên cứu,

trường đại học và các cơ quan tham mưu trong hệ thống chính trị đất nước.

Bốn là, cần giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa đào tạo và nghiên

cứu Lịch sử Đảng với các chuyên ngành khác trong Khoa Lịch sử.

Bộ môn Lịch sử Đảng đã đào tạo thành công một số lượng cử nhân,

thạc sĩ, tiến sĩ đông về số lượng tốt về chất lượng, trở thành địa chỉ tin cậy,

dẫn đầu trong số những cơ sở có đào tạo chuyên ngành Lịch sử Đảng trong

khu vực và cả nước là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng là ở lợi thế

đặt trong đội hình, môi trường của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn. Bộ mộn đã nhận thức và tận dụng được lợi thế này và

cần ra sức phát huy trong thời gian tới.

Trên thực tế, hiểu biết của học sinh phổ thông về lịch sử Đảng là tương

đối hạn chế. Bởi vậy, khi để Lịch sử Đảng là một ngành đào tạo độc lập sẽ có

những khó khăn nhất định trong công tác tuyển sinh.

Đặt Lịch sử Đảng thành một chuyên ngành thuộc Khoa Lịch sử sẽ có

thuận lợi cơ bản. Qua quá trình học tập, các sinh viên Khoa Lịch sử nhận thức

được sức hút của ngành Lịch sử Đảng, tự nguyện lựa chọn, đăng ký theo học.

Thêm vào đó, Lịch sử Đảng gắn liền với các chuyên ngành đào tạo khác của

92

Khoa Lịch sử . Sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng đã co 3 năm học

chương trình đào tạo Lịch sử cơ bản nên có thể tiếp cận Lịch sử Đảng tốt hơn,

khách quan và khoa học hơn.

Năm là, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy

và nghiên cứu.

Tuy Bộ môn có đội ngũ cán bộ không nhiều song về mặt chất lượng

được quan tâm xây dựng tốt: 100% đội ngũ cán bộ cơ hữu của Bộ môn hiện

nay có trình độ sau đại học; 4/7 cán bộ được nhà nước phong hàm Phó giáo

sư, 1 cán bộ được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú và được công nhận là

Giảng viên cao cấp (tương đương với giáo sư). Chính năng lực của đội ngũ

cán bộ Bộ môn là sức hút đối với sinh viên, hoạc viên cao học đăng ký

chuyên ngành Lịch sử Đảng.

Bên cạnh đó, Bộ môn đã mở rộng liên kết, phối hợp với các đơn vị, các

nhà khoa học của nhiều đơn vị khác, Bộ môn đã nhân lên sức mạnh của mình,

đồng thời phát huy ảnh hưởng với bên ngoài. Tăng cường hợp tác, đoàn kết

nội bộ, giữa vững tình nghĩa thầy trò, đồng nghiệp và ra sức mở rộng, đoàn

kết, tin cậy, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà khoa học, nhà giáo, các đơn vị cùng

chuyên môn ngoài Trường là sự cần thiết, tạo nên hiệu quả cao cho việc

nghiên cứu, đào tạo đại học, sau đại học của Bộ môn Lịch sử Đảng. Đặc

biệt, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động hợp tác nghiên cứu, giảng dạy

đối với các Trung tâm giảng dạy nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Đảng hàng

đầu cả nước như Học viện chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,

Viện Lịch sử Quân sự… Trong điều kiện hiện nay, cần tăng cường hơn nữa

công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên, đảm bảo yếu tố

kế cận.

Sáu là, cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới chương trình giảng dạy phù

hợp với điều kiện trong tình hình mới.

93

Chương trình, giáo trình, đề cương môn học, tập bài giảng, tài liệu

tham khảo, đề tài nghiên cứu, bài đăng tạp chí, các chuyến đi thực tế là điều

kiện vô cùng thiết yếu bảo đảm giữ vững, nâng cao chất lượng đào tạo và uy

tín chuyên môn của Bộ môn và giáo viên, là sự quảng bá tự nhiên, sức hút

mạnh lôi cuốn người học theo chuyên ngành Lịch sử Đảng.

Hệ thống giáo dục luôn phải theo kịp xu thế phát triển của xã hội. Khoa

học Lịch sử Đảng không nằm ngoài quy luật đó, Để đảm bảo được sự ổn định

trong nghiên cứu và đào tạo, dứt khoát Bộ môn phải thường xuyên chăm lo

đổi mới chương trình và phương pháp học tập.

Trong đào tạo chuyên ngành cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh,

cán bộ, giảng viên Bộ môn đã dày công xây dựng hệ thống tập bài giảng và

tài liệu tham khảo định hướng cho sinh viên trong học tập và nghiên cứu, tạo

điều kiện thuận lợi cho người học. Trong chương trình đào tạo cử nhân, Bộ

môn có chương trình tham quan thực tế dài nhất trong các chuyên ngành của

Khoa góp phần tạo niềm hứng cảm cho sinh viên trong học tập, nghiên cứu

sinh, học viên của Bộ môn có chương trình thăm quan thực tế, phối hợp

nghiên cứu, học tập với nhiều trường đại học trong và ngoài nước.

Phát huy được những ưu thế này, công tác đào tạo và nghiên cứu của

Bộ môn tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

3.2.2 Một số vấn đề đặt ra

Đứng trước những khó khăn, thách thức mới trong công tác đào tạo và

nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời để đảm bảo

sự phát triển bền vững của Bộ môn trong thời gian tới, Bộ môn cần chú trọng,

quan tâm giải quyết các vấn đề sau:

Một là, chủ động tìm, tạo nguốn bổ sung đội ngũ giáo viên cho Bộ môn

Lịch sử Đảng.

Lấy thực tại làm cơ sở, Bộ môn cùng lúc đảm nhiệm hai chức năng

94

song song: chức năng Bộ môn khoa học chuyên ngành của khoa chuyên

ngành sử học đang trực tiếp đào tạo trên 100 Học viên cao học, trên 50 NCS,

trên 50 sinh viên năm thứ 4, và chức năng Bộ môn lý luận chính trị, giảng dạy

môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho toàn Đại học

Quốc gia Hà Nội (trên 100 lớp/năm), quy ra có tới trên 5000 giờ/năm, vậy

phải có từ 10-12 giảng viên cơ hữu. Nếu đề bù cho cả số 3 giáo viên sắp nghỉ

thì trong thời gian tới (từ năm 2015 đến năm 2020) phải bổ sung thêm từ 5

đến 10 giảng viên cơ hữu.

Bộ môn cũng cần tính toán đến sự cân đối tỷ lệ nam – nữ trong đội ngũ

cán bộ và rút kinh nghiệm về vấn đề quy hoạch độ tuổi cho những năm về

sau. Trong trường hợp 5 năm tiếp theo (2015-2020) Bộ môn có giữ đủ số

lượng cần thiết thì giai đoạn sau năm 2020 vẫn phải tính toán phát triển thêm

đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mở rộng đào tạo, nghiên cứu và đảm bảo tính

kế thừa, tránh mắc các hạn chế trong những năm trước.

Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Bộ môn cố gắng động viên các

giảng viên đã nghỉ hưu tham gia giúp Bộ môn giảng dạy và nghiên cứu. Mặt

khác, Bộ môn cần quan tâm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ sinh viên các khóa,

đồng thời mạnh dạn đề xuất giữ lại trường các học viên cao học, nghiên cứu

sinh có thành tích học tập và nghiên cứu khoa học tốt.

Cụ thể, nên chú trọng bồi dưỡng và định hướng nghiên cứu khoa học

cho một số sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai qua hoạt động nghiên cứu

khoa học sinh viên. Đối với học viên cao học và nghiên cứu sinh, nên có sự

quan tâm và yêu cầu hàm lượng khoa học cao hơn trong các chương trình

kiểm tra chất lượng các chuyên đề.

Bên cạnh đó, cần có cơ chế ”thoáng” hơn trong việc bồi dưỡng, quy

hoạch đội ngũ giảng viên, chú trọng vào thực lực, khả năng có thể giảng dạy

và nghiên cứu, tránh việc đánh giá chất lượng thông qua điểm số.

95

Hai là, tích cực đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy và nghiên

cứu khách quan hơn, khoa học hơn để khắc phục tình trạng người dạy và

người học đang có sự giảm sút hứng thú với môn Lịch sử nói chung, Lịch sử

Đảng và cách mạng Việt Nam nói riêng.

Nhiều vấn đề về Lịch sử Đảng và Lịch sử cách mạng Việt Nam đang có

những ý kiến khác nhau do tư liệu hoặc do quan niệm chuyên môn cần được

tổ chức, khuyến khích nghiên cứu thấu đáo hơn trên cơ sở tôn trọng sự thật, vì

lợi ích lâu dài của đất nước của Đảng, của dân tộc.

Đồng thời cần phải tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp học tập.

Đưa vào chương trình lịch sử Đảng các vấn đề mang tính chất nền tảng và

thời sự xã hội. Chẳng hạn như sinh viên, học viên cao học chưa được học tập

các chuyên đề về nông nghiệp-nông thôn, chủ quyền biển đảo.... là những vấn

đề đang được xã hội quan tâm và mang tính chất xương sống của lịch sử cách

mạng nước nhà.

Về phương pháp dạy và học, cần tăng cường hơn nữa các phương pháp

học tập trực quan, thực tế. Cụ thể, cần tổ chức cho sinh viên, học viên đi thực

tế, thăm quan các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng.

Quan trọng hơn, cần phải tính toán đến khả năng đưa sinh viên về thực

tập tại các viện nghiên cứu, cơ quan truyền thông, hệ thống chính trị các cấp

để ”va chạm” thực tế và tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi ra trường. Với vị

thế và chất lượng của Bộ môn, việc giới thiệu sinh viên và học viên đến thực

tập, thực tế tại các cơ quan chuyên môn, các cơ quan tham mưu, phong trào

trong hệ thống chính trị các cấp là hoàn toàn có thể thực hiện được, phù hợp

với xu thế chung của xã hội (chú trọng đến thực tế nhiều hơn) và đảm bảo

được uy tín, chất lượng đào tạo của Bộ môn.

Ba là, có thái độ dân chủ, khách quan, khoa học trong đánh giá đội

ngũ giáo viên, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh Lịch sử Đảng,

96

trong nghiệm thu, công bố công trình nghiên cứu về Lịch sử Đảng, tránh việc

đánh giá không đúng về vị trí môn học, ngành học, lĩnh vực nghiên cứu.

Dư luận chung của xã hội đánh giá ngành Lịch sử Đảng ngành học

chính trị, thiếu hàm lượng khoa học. Ngay cả một số cán bộ, giảng viên các

ngành khoa học khác cũng có cách nhìn thiếu khách quan, xem nhẹ ngành

Lịch sử Đảng.

Ngược lại, một bộ phận sinh viên, học viên ngành Lịch sử Đảng mang

nặng tư tưởng đề cao quá mức ngành học, thiếu khách quan khoa học trong

nghiên cứu. Trong khi đó, Khoa học Lịch sử Đảng là một ngành khoa học

nằm trong Khoa học Lịch sử, với tư duy sử học khách quan nghiên cứu đối

tượng là sự lãnh đạo của Đảng – một thành tố quan trọng trong Lịch sử Việt

Nam hiện đại với nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm phục vụ cho sự lãnh đạo của

Đảng và sự phát triển của đất nước hiện nay.

Việc sinh viên, Học viên cao học, nghiên cứu sinh Lịch sử Đảng đông

đảo như hiện nay cũng như rất ít người học ở nhiều năm trước đây cần được

xem là bình thường, là sự ”cạnh tranh” lành mạnh trong cơ chế thị trường,

tránh sự can thiệp có tình hành chính quan liêu không cần thiết.

Bốn là, do việc dạy và học môn học Lịch sử Đảng, môn Đường lối cách

mạng của Đảng tuy là một vấn đề khoa học, song rất nhạy cảm về tư tưởng

chính trị, do đó cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các tổ chức đoàn

thể đế sinh viên, Học viên cao học, NCS có sự hứng khởi trong học tập,

nghiên cứu cũng như tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.

Đào tạo lịch sử Đảng với tư cách là một ngành khoa học phục vụ trực

tiếp cho sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ cử nhân, thạc sĩ, Tiến sĩ Lịch sử Đảng

sau khi tốt nghiệp thường công tác trên hai lĩnh vực chính: công tác giảng

dạy, nghiên cứu lịch sử Đảng tại các trường đại học, viên nghiên cứu; công

tác tham mưu, phong trào thuộc hệ thống chính trị các cấp. Nghĩa là Bộ môn

97

đang đào tạo cán bộ trực tiếp cho Đảng. Chất lượng của cán bộ trong hệ thống

chính trị phụ thuộc một phần vào chất lượng đào tạo của Bộ môn. Bởi vậy,

cần phải được sự quan tâm đầu tư hơn nữa của Đảng từ vấn đề kinh phí đào

tạo, nội dung chương trình đào tạo, tài liệu học tập và vấn đề đầu ra việc làm.

Năm là, Bộ môn chủ động hơn nữa trong vấn đề tư vấn, định hướng

cho sinh viên chuyên ngành.

Trong công tác đào tạo cử nhân chuyên ngành, Bộ môn Lịch sử Đảng

có bất lợi hơn các chuyên ngành khác ở chỗ, môn học trực tiếp của Bộ môn

bắt đầu từ năm thứ 3 (Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam). Nghĩa là đến gần phân

chia chuyên ngành, sinh viên mới được tiếp xúc với Lịch sử Đảng, dẫn đến

tình trạng nhiều sinh viên đăng ký học trong hiểu biết hời hợt về Bộ môn.

Trong những năm tới, Bộ môn cần tổ chức tư vấn cho sinh viên ngay từ

năm thứ nhất, tích cực tăng cường các hoạt động tư vấn nghiên cứu khoa học

Lịch sử Đảng cho sinh viên năm nhất và năm hai, phối hợp cùng Khoa Lịch

sử tổ chức tư vấn lựa chọn chuyên ngành cho sinh viên đầu năm thứ 3.

Đồng thời, đối với sinh viên chuyên ngành năm thứ 4, Bộ môn cần có

tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho sinh viên, chủ động tìm nguồn việc làm

(nghiên cứu, giảng dạy) giúp sinh viên ổn định công tác sau ra trường, tránh

lãng phí, thất thoát một số lượng lớn cử nhân, thạc sĩ chuyên ngành.

Tiểu kết

Nhìn chung, hơn 40 năm qua (1974- 2014), được sự quan tâm của tổ

chức Đảng và chính quyền các cấp, công cuộc xây dựng đội ngũ cán bộ, thực

hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học về Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch

sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Bộ môn Lịch sử Đảng,

Trung tâm bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Đại học Quốc gia Hà Nội đã

trải qua một chặng đường có nhiều khó khăn nhưng cũng rất vinh dự và vẻ

vang. Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử (và Bộ môn Lịch sử Đảng

thuộc Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học

98

Quốc gia Hà Nội) đã ra sức phấn đấu, vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi

nhiệm vụ được giao.

Hiện tại Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử đã có bước trưởng thành

vượt bậc về mọi phương diện, là giai đoạn ”đỉnh cao” trong Lịch sử 40 năm

xây dựng và phát triển của mình. Xuyên suốt chặng đường ấy, các thế hệ cán

bộ, giảng viên của Bộ môn và Trung tâm là người thầy, cô đáng kính nhất đối

với mọi thế hệ sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh Bộ môn.

Tuy vẫn còn những hạn chế không thể chủ quan thỏa mãn, song cán bộ,

giáo viên sinh viên, Học viên cao học, NCS các thế hệ, các khóa của Bộ môn

Lịch sử Đảng rất tự hào vế chặng đường đã đi, tri ân sâu sắc các thế hệ tiền

nhiệm, các cơ quan, cá nhân trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội về sự

giúp đỡ, hợp tác trong thời gian qua cũng như sắp tới. Phát huy thành quả,

vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm đã có, Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam vững bước thực hiện hai nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu Lịch sử

Đảng trong những giai đoạn tiếp theo.

99

KẾT LUẬN

Bộ môn Lịch sử Đảng với tư cách là một chuyên ngành của khoa học

lịch sử thuộc Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường

ĐHKHXHNV, ĐHQGHN) được thành lập năm 1974 theo chủ trương của

Ban Khoa giáo Trung ương Đảng và Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Đại học

và Trung học chuyên nghiệp.

Lúc mới thành lập, Bộ môn được giao nhiệm vụ đào tạo cử nhân Lịch

sử Đảng để cung cấp giáo viên Lịch sử Đảng cho các trường đại học và cao

đẳng, cán bộ nghiên cứu cho các viện, các ban nghiên cứu Lịch sử Đảng ở

Trung ương và địa phương trong cả nước. Từ năm 1990, Bộ môn được giao

thêm nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng.

Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận

chính trị tiền thân từ tổ Lịch sử Đảng của Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý

luận chính trị Mác - Lênin thành lập năm 1985. Với 28 năm xây dựng và phát

triển (1985-2013), Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm đã song hành cùng

Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử đảm nhiệm công tác đào tạo và

nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp Hà Nội sau đó là Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Qua 40 năm xây dựng và trưởng thành, những kết quả mà hai Bộ môn

Lịch sử Đảng đã đạt được đã cho thấy sự nỗ lực của cán bộ, giảng viên cũng

như sinh viên. Qua nghiên cứu công tác đào tạo và hoạt động nghiên cứu

khoa học của Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử từ năm 1974-2014 và Bộ

môn Lịch sử Đảng của TTBDGVLLCT, bước đầu có thể rút ra một số kết

luận về công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà

Nội như sau:

1. Hoạt động đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp

100

Hà Nội (sau là Đại học Quốc gia Hà Nội) chính thức bắt đầu với sự hình

thành Bộ môn Lịch sử Đảng trường ĐHKHXH&NV (trước đây là Đại học

Tổng hợp Hà Nội) năm 1974, sau đó được tăng cường với sự ra đời của Bộ

môn Lịch sử Đảng tại TTBDGVLLCT năm 1985. Trong thời gian 40 năm

hoạt động và trưởng thành, công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng có

hai giai đoạn là: Từ năm 1974 đến năm 1996, và từ năm 1996 – mốc đánh dấu

hoạt động của trường Đại học KHXH&NV đên năm 2014-năm kỷ niệm 40

năm thành lập Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử. Trong quá trình xây dựng

và phát triển, hai Bộ môn đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng

tổ chức, đội ngũ cán bộ, xác định đúng đắn yêu cầu và nhiệm vụ qua

từng thời kỳ, từng bước thực hiện có hiệu quả hoạt động đào tạo và

nghiên cứu khoa học

2. Qua gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, công tác đào tạo và

nghiên cứu khoa học của hai Bộ môn đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.. Hệ

thống các chuyên đề cho sinh viên chuyên ngành (năm thứ tư) cũng được xúc

tiến do cán bộ Bộ môn đảm nhiệm. Chất lượng đào tạo ngày càng được cao,

nhờ đó mà số sinh viên, học viên cao học và NCS theo học chuyên ngành

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tăng lên một cách nhanh chóng. Số lượng

sinh viên chuyên ngàng Lịch sử Đảng thường xuyên chiếm từ 30 đến trên

50% tổng số sinh viên toàn Khoa Lịch sử từ những năm 90 lên tới trên 50%

sinh viên, đỉnh cao là năm học 2012-2013 đạt 80% sinh viên Khoa Lịch sử

đăng ký học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều sinh

viên của Bộ môn đã trưởng thành sau khi ra trường, giữ vị trí quan trọng trong

cơ quan Trung ương và các địa phương

Về nghiên cứu khoa học, tổng cộng các công trình nghiên cứu khoa học

dưới mọi hình thức, hiện nay, Bộ môn Lịch sử Đảng đã có trên 500 công trình

nghiên, nhiều công trình trở thành giáo trình, sử dụng phổ biến cho sinh viên

101

các trường cao đẳng, đại học trên cả nước, nhiều hội thảo nghiên cứu khoa

học diễn ra giữa Bộ môn Lịch sử Đảng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội cũng như

trên cả nước, chất lượng nghiên cứu ngày càng được chú trọng nâng cao, từng

bước được đẩy mạnh, góp phần vào sự phát triển của khoa học Lịch sử Đảng.

3.Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng Bộ môn Lịch sử Đảng vẫn còn

nhiều khó khăn, trở ngại: Về đào tạo, đội ngũ cán bộ, giảng viên còn thiếu

nhiều, do đó chưa đáp ứng được số lượng sinh viên đông đảo và đảm bảo

được chất lượng giảng dạy, một số cán bộ, giảng viên chưa có phương pháp

giảng dạy thích hợp, do đó chưa tạo được hứng thú trong học tập, cũng như

đảm bảo chất lượng học tập

Về hoạt động nghiên cứu khoa học, mặc dù đã có sự nỗ lực tuy nhiên

do phải đảm nhận nhiều chức năng, nhiệm vụ cùng một lúc nên chưa đáp ứng

được yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng công trình khoa học bên cạnh

đó, một số giảng viên chưa thật nhiệt tình và say mê nghiên cứu; vì thế, nhiều

công trình nghiên cứu vẫn còn hạn chế về chất lượng nghiên cứu với hàm

lượng khoa học không cao.

4.Thực tiễn đào tạo và nghiên cứu khoa học của Bộ môn Lịch sử Đảng

ở Đại học Quốc gia Hà Nội đã đề lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý

báu như : Về đào tạo, phải xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên đông đảo, chất

lượng, có nhiều cố gắng hơn nữa trong công tác biên soạn, giáo trình, sách

chuyên khảo, tham khảo cho người học và phải xây dựng chương trình đào

tạo phù hợp với từng thời kỳ, quy mô, chất lượng đào tạo và phải có nhiều đổi

mới trong phương pháp giảng dạy với môn học thuộc khoa học Lịch sử Đảng

Trong nghiên cứu khoa học, các cán bộ, giảng viên cũng như sinh viên

tham gia nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải nắm vững

hơn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam, đồng thời cần có nhiều chính sách khuyến khích, phải tăng cường

102

cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, bên cạnh đó, phải tạo

điều kiện cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học có nhiều cơ hội tiếp

xúc, tham gia những hoạt động nghiên cứu, các hội thảo ở các địa phương

trong nước và các nước có nền khoa học, giáo dục phát triển.

5. Để đưa Bộ môn ngày càng trưởng thành và phát triển, cần phải giải

quyết một số vấn đề đặt ra như: kiên trì coi trọng việc nghiên cứu, giảng dạy,

học tập môn Lịch sử nói chung và các môn Lịch sử Đảng nói riêng; nghiên

cứu Lịch sử Đảng một cách thường xuyên, khai thác tốt các nguồn tư liệu gắn

với phục vụ thực tiễn từng giai đoạn cách mạng, thường xuyên đổi mới

phương pháp, tăng cường điều kiện nghiên cứu, dạy và học Lịch sử Đảng.

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28-8-2002, Về

tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1996), Nghị quyết hội nghị lần thứ hai

Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết khóa VII số 04-NQ/HNTW

Về xây dựng một số trường đại học trọng điểm Quốc gia

4. Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoa Lịch sử, ĐHKHXHNV,

ĐHQGHN) (2014), Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát

triển1974-2014, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

5. Vũ Thanh Bình (Bộ giáo dục và Đào tạo) (2000), Thực trạng giảng dạy và

học tập các môn khoa học Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các

trường Đại học, cao đẳng và giải pháp đổi mới

6. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2000), Danh mục các công trình

khoa học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1995-2000),

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

7. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2006), Khoa Lịch sử nửa thế kỷ

xây dựng và phát triển (1956-2006), Nxb Thế giới, Hà Nội

8. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn-Hội cựu chiến binh (2010), Còn lại

với thời gian, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

9. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2012), Báo cáo thực hiện quy chế

công khai năm học 2012-2013, Lưu tại phòng kế hoạch tài vụ và phòng

hành chính tổng hợp

10. Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Đại học Tổng hợp hôm qua và hôm nay,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

104

11. Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Chương trình đào tạo chất lượng cao

trình độ đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 2577

/QĐ-ĐT ngày 01 tháng 9 năm 2010

12. Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Chương trình đào tạo chuẩn trình độ

đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 2577 /QĐ-ĐT

ngày 01 tháng 9 năm 2010

13. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Chương trình đào tạo chất lượng cao trình

độ đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 4118 /QĐ-ĐT,

ngày 30 tháng 11 năm 2012 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)

14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Chương trình đào tạo chuẩn trình độ

đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 4118 /QĐ-ĐT,

ngày 30 tháng 11 năm 2012 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)

15. Đại học Quốc gia Hà Nội ( 2007), Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng

viên lý luận chính trị, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Giảng dạy các môn lý

luận chính trị ở các trường Đại học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

Quốc tế”, Hà Nội

16. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng

viên lý luận chính trị, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Đổi mới phương pháp

giảng dạy các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội”, Hà Nội

17. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Một số điều chỉnh, bổ sung về điều kiện

xét chuyển tiếp sinh đào tạo sau đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội, ban

hành theo Quyết định số 237/KHCN, ngày 03 tháng 7 năm 2006 của Giám

đốc Đại học Quốc gia Hà Nội

18. Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Chương trình đào tạo Đại học, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

19. Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng

viên lý luận chính trị, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Đường lối đổi mới của Đảng

105

Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế (1986-2007), Hà Nội

20. Đại học Tổng hợp Hà Nội (2008), Thư Mục sử học kỷ niệm 35 năm thành

lập Khoa Lịch sử (1956-1991), Khoa Lịch sử, Hà Nội

21. Lê Mậu Hãn (1990) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (viết chung)(tập 1

và tập 2). Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội

22. Vũ Quang Hiển (2006), Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoa

Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội) Quá trình xây dựng và trưởng thành, Tạp chí Lịch sử Đảng số 10

23. Vũ Quang Hiển (2007), Phương pháp nêu vấn đề trong dạy và học Lịch sử

Đảng, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1. In lại trong sách Về phương pháp

nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,

Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội, 2008

24. Vũ Quang Hiển, Ngô Đăng Tri…(2010), Đảng Cộng sản Việt Nam – 80

năm xây dựng và trường thành, Nxb CTQG, Hà Nội

25. Nguyễn Đình Hương (2009), Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội

26. Nguyễn Văn Khánh (1991) Sử học và đổi mới hay là đổi mới sử học (viết

chung). Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4, Hà Nội

27. Nguyễn Văn Khánh (2003) Vài suy nghĩ về nghiên cứu cơ bản trong khoa

hoc xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học Đại học

Quốc gia Hà Nội, số 1, Hà Nội

28. Nguyễn Văn Khánh (2010) Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt

Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng. TC Nghiên cứu con người, Số 1

(46), tr.40-46.

29. Khoa Lịch sử (2000), Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000),

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

30. Khoa Lịch sử (2001), Khoa Lịch sử 45 năm xây dựng và phát triển (1956-

106

2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

31. Khoa Lịch sử (2006), Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001-2006),

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

32. Khoa Lịch sử (2006), Sách vàng 50 năm Khoa Lịch sử ; Danh sách sinh

viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh 1956-2006

33. Khoa Lịch sử (2008), 55 năm ấy, Nxb Thế giới, Hà Nội

34. Khoa Lịch sử (2011), Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011),

NXB Thế giới, Hà Nội

35. Đỗ Thị Thanh Loan (2010) Giáo dục Việt Nam thời kỳ 1945-1954 (viết

chung), Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba “ViệtNam hội

nhập và phát triển”, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội

36. Vũ Dương Ninh, Kế thừa truyền thống nghiên cứu mạnh của Trường Đại

học Tổng hợp Hà Nội trong Toạ đàm “Xây dựng đại học nghiên cứu” của

Trường ĐHKHXH&NV (18/11/2013)

37. Đào Trọng Thi (1999), Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục

đại học nước ta hiện nay in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học giáo dục Việt

Nam hiện trạn, thách thức và giải pháp.

38. Lê Văn Thịnh (2007), Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của

môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong đào tạo đại học ở Việt

Nam hiện nay, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Giảng dạy các môn lý

luận chính trị ở các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc

tế”, Đại học Quốc gia Hà Nội.

39. Ngô Đăng Tri (2001), Khoa Lịch sử – 45 năm xây dựng và phát triển

(1956-2001). Nxb CTQG, Hà Nội

40. Ngô Đăng Tri (2002) Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng thời kì

1986- 2001. Đề tài cấp ĐHQGHN, QX 98.

41. Ngô Đăng Tri (2002), Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội IX nâng

107

cao chất lượng giảng dạy lí luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

CTQG, Hà Nội

42. Ngô Đăng Tri (2005), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các

trường ĐH, C.đẳng). Nxb CTQG, Hà Nội

43. Ngô Đăng Tri (2006), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng

trong các trường ĐH, CĐ), Nxb CTQG, Hà Nội

44. Ngô Đăng Tri (2007) Một số chuyên đề Lịch sử ĐCSVN, tập I, Nxb

CTQG, Hà Nội

45. Ngô Đăng Tri (2008) Giáo dục Việt Nam thời kì 1945- 1954, diễn trình,

thành tựu và kinh nghiệm (trong sách “100 năm Đông kinh nghĩa thục và

công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay”. Nxb ĐHQG Hà Nội.

46. Ngô Đăng Tri (2008), Một số chuyên đề Lịch sử ĐCSVN, tập III, Nxb

CTQG, Hà Nội

47. Ngô Đăng Tri (2008), Một số chuyên đề về Đường lối cách mạng của

ĐCSVN . Nxb LLCT, Hà Nội

48. Ngô Đăng Tri (2009), Giáo trình Đường lối cách mạng của ĐCSVN

(dùng cho các trường ĐH, CĐ), Nxb Giáo dục, Hà Nội

49. Ngô Đăng Tri (2009), Tài liệu tập huấn giảng viên môn Đường lối cách

mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam các trường đại học, cao đảng và học

viện năm học 2009- 2010; Bộ Giáo dục và Đào tạo-Học viện Chính trị-

Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Nội,

50. Ngô Đăng Tri (2012), 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam (1930–2010),

những chặng đường lịch sử; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội

51. Ngô Đăng Tri (2013), Bộ môn Lịch sử Đảng học tập và làm theo tư

tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

52. Hoàng Văn Vân (2006), Phương thức đào tạo theo tín chỉ: Lịch sử, bản

chất và những hàm ý cho phương pháp dạy-học ở bậc đại học

108

PHỤ LỤC

. Danh ách NCS đ và đang đào tạo tại Bộ môn Lịch sử Đảng

STT Họ và tên Năm nhập học Năm bảo vệ

1. Ngô Đăng Tri 1989

2. Đinh Trần Dương 1996

3. Lê Văn Thịnh 1999

4. Vũ Quang Hiển 2000

5. Đinh Xuân Lý 2002

6. Nguyễn Thị Mai Hoa 2007

7. Văn Thị Thanh Mai 2009

8. Lê Thị Quỳnh Nga 2010

9. Nguyễn Quang Liệu 2010

10. Nguyễn Thị Hoàn 2010

11. Đặng Kim Oanh 2011

12. Đào Thị Bích Hồng 2011

13. Lê Thị Hòa 2011

14. Nguyễn Anh Cường 2012

15. Phạm Thị Kim Ngân 2012

16. Phạm Thị Lương Diệu 2012

17. Nguyễn Thị Hảo 2013

18. Trịnh Thúy Hương 2013

19. Lã Quý Đô 2009 2013

20. Nguyễn Thị Khánh 2009 2013

21. Nguyễn Văn Trung 2013

22. Phạm Quốc Thành 2014

109

23. Đỗ Thị Hiện 2010 2014

24. Nguyễn Thị Anh 2010 2014

25. Nguyễn Đình Quỳnh 2011 2014

26. Đặng Thị Thanh Trâm Đã bảo vệ cơ sở

27. Trần Lê Thanh 2008 Đã bảo vệ cơ sở

28. Trần Thị Thái 2008 Đã bảo vệ cơ sở

29. Trương Công Hữu 2008

30. Vũ Ngọc Lương 2008 Đã bảo vệ cơ sở

31. Lê Tiến Dũng 2009

32. Lương Thị Phương Thảo 2009

33. Nguyễn Thị Dung 2009

34. Trần Trọng Đạo 2009

35. Đỗ Hoàng Ánh 2010

36. Tống Thị Nga 2010 Đã bảo vệ cơ sở

37. Đỗ Thị Thanh Loan 2010

38. Lê Thị Hiền 2010

39. Nguyễn Minh Tuấn 2010

40. Nguyễn Thu Quyên 2010

41. Nguyễn Tôn Phương Du 2010

42. Nguyễn Mai Phương 2011

43. Nguyễn Thị Thanh Bình 2011

44. Nguyễn Thu Hải 2011

45. Nguyễn Tố Như 2011

46. Nguyễn Văn Chung 2011

47. Phạm Xuân Thu 2011

48. Trần Thị Ngọc Thúy 2011

110

49. Trần Thị Thúy Hà 2011

50. Đoàn Thị Yến 2011

51. Bùi Ngọc Hà 2012

52. Lưu Mai Hoa 2012

53. Ngô Minh Hiệp 2012

54. Nguyễn Đoàn Phượng 2012

55. Nguyễn Khắc Trinh 2012

56. Nguyễn Văn Thăng 2012

57. Nguyễn Văn Thông 2012

58. Nguyễn Việt Phương 2012

59. Phạm Thị Thanh Huyền 2012

60. Quách Thị Phương 2012

61. Tống Thị Nga 2012

62. Bùi Thanh Xuân 2013

63. Bùi Thị Hồng Thúy 2013

64. Đinh Văn Trọng 2013

65. Hà Văn Tuyến 2013

66. Nguyễn Chí Thảo 2013

67. Nguyễn Quỳnh Phương 2013

68. Phạm Nguyên Phương 2013

69. Vũ Thị Quyên 2013

70. Vũ Văn Điềm 2013

71. Đinh Ngọc Chính 2013

72. Lê Hương Giang 2013

73. Nguyễn Thị Thu Hà 2013

74. Ngô Thị Lan Hương 2013

111

75. Nguyễn Thị Thanh Nga 2013

76. Mai Thị Hà 2014

77. Trần Cao Nguyên 2014

78. Nguyễn Thị Thanh Sâm 2014

79. Đỗ Khánh Chi 2014

80. Vũ Thị Duyên 2014

81. Nguyễn Phương Hải 2014

82. Nguyễn Thị Hạnh 2014

83. Nguyễn Bá Kiên 2014

84. Vũ Thị Liên 2014

85. Nguyễn Thị Liên 2014

86. Nguyễn Thị Nhung 2014

87. Phùng Thị Kim Oanh 2014

88. Hoàng Thị Phương 2014

89. Đào Văn Phương 2014

90. Phạm Mạnh Thắng 2014

Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-

2014

. Danh ách học viên cao học đ và đang đào tạo

ại Bộ m n Lị sử Đản K oa Lị sử

STT Họ và tên Năm nhập học

1. Vũ Kông

2. Nguyễn Huy Cát

3. Ngô Văn Hoán

4. Nguyễn Tiến Trưởng

112

5. Vũ Hoàng Đức

6. Hoàng Văn Bình

7. Nguyễn Hồng Quyết

8. Ngô Vương Anh

9. Trương Diệp Bích

10. Nguyễn Quang Liệu

11. Nguyễn Duy Hạnh

12. Nguyễn Thị Thanh Huyền

13. Nguyễn Quốc Thái

14. Trần Trọng Thơ

15. Lê Thị Lan

16. Lê Thị Quỳnh Nga

17. Đoàn Thị Kim Dung

18. Lê Ngọc Minh

19. Phạm Thị Kim Ngân

20. Ngô Văn Hà

21. Nguyễn Thị Thu Hà

22. Nguyễn Thị Thúy Hà

23. Lê Tố Anh

24. Phạm Quốc Thành

25. Nguyễn Thị Mai Hoa

26. Đào Thành Cương

27. Đỗ Xuân Tuất

28. Nguyễn Anh Cường

29. Lê Thị Hóa

30. Đặng Thị Thanh Trâm

113

31. Vũ Kiến Quốc

32. Dương Minh Ngọc

33. Nguyễn Thị Hải Vân

34. Văn Thị Thanh Mai

35. Thạch Văn Chung

36. Lương Thị Tiên

37. Nguyễn Văn Dũng

38. Bùi Việt Anh

39. Vũ Thị Hoàng Oanh

40. Trần Thị Chi

41. Phạm Thị Lương Diệu

42. Cao Văn Đan

43. Nguyễn Văn Triệu

44. Nguyễn Xuân Hà

45. Vũ Kim Hoàng

46. Trần Thị Nhung

47. Nguyễn Thị Anh

48. Nguyễn Thị Lan Phương

49. Nguyễn Đoàn Phượng

50. Vũ Thị Kim Yến

51. Lê Quốc Hiệp

52. Lưu Xuân Công

53. Trần Thị Thanh Giang

54. Ngô Thị Thục

55. Đào Trọng Độ

56. Hoàng Thị Hải Yến

114

57. Phạm Nguyên Phương

58. Đỗ Mạnh Cường

59. Trần Thúy Hằng

60. Chu Thị Thanh Tâm

61. Lê Tiến Dũng

62. Đỗ Thị Thanh Loan

63. Nguyễn Văn Hoàn

64. Phạm Thị Kim Lan

65. Lê Đình Tân

66. Hoàng Thị Ánh Nga

67. Nguyễn Thị Ngọc Dung

68. Hoàng Hải Yến

69. Nguyễn Mạnh Tưởng

70. Nguyễn Thị Hường

71. Đỗ Thị Diệu

72. Nguyễn Quốc Khương

73. Nguyễn Thị Hồng Thanh

74. Phạm Thị Trọng Hiếu

75. Lại Thị Bích Hằng

76. Lê Văn Thuận

77. Nguyễn Thị Hồng Điệp

78. Nguyễn Phương Hải

79. Đỗ Thị Ngọc Anh 2007

80. Lê Thị Lan Anh 2007

81. Nguyễn Ngọc Diệp 2007

82. Vi Thuỳ Dịu 2007

115

83. Nguyễn Thị Thuỳ Dung 2007

84. Nguyễn Thuỳ Dung 2007

85. Phạm Thị Dung 2007

86. Trần Thị Mai Dung 2007

87. Phạm Thị Hoàng Điệp 2007

88. Trần Việt Dũng 2007

89. Trần Thị Thuý Hà 2007

90. Nguyễn Thị Hằng 2007

91. Nguyễn Thuý Hoa 2007

92. Nguyễn Thị Huế 2007

93. Vũ Thị Hương 2007

94. Đào Thu Huyền 2007

95. Lưu Quốc Khánh 2007

96. Giáp Thị Lan 2007

97. Nguyễn Thị Hằng Nga 2007

98. Phan Thị An Ngọc 2007

99. Nguyễn Thị Lan Anh 2008

100. Lê Ngọc Doan 2008

101. Trần Thị Kim Dung 2008

102. Nguyễn Thị Thái Hà 2008

103. Đoàn Thị Thu Hằng 2008

104. Vũ Thị Thu Hiền 2008

105. Vũ Thị Hoa 2008

106. 2008 Nguyễn Thanh Hóa

107. Nguyễn Thị Thanh Hòa 2008

108. Phạm Thị Thanh Hoàn 2008

116

109. Đỗ Như Hồng 2008

110. Nguyễn Thị Hồng 2008

111. Lâm Thị Thu Hương 2008

112. Ngô Thị Lan Hương 2008

113. Lê Thị Thu Hường 2008

114. Nguyễn Thị Lê 2008

115. Nguyễn Thị Liên 2008

116. Trần Thùy Linh 2008

117. Hoàng Thị Phương Loan 2008

118. Vũ Thị Kiều Loan 2008

119. Vũ Xuân Long 2008

120. Tống Thị Nga 2008

121. Lò Quỳnh Ngân 2008

122. Dương Thị Nghĩa 2008

123. Hoàng Thị Hà Nguyên 2008

124. Nguyễn Thị Nguyệt 2008

125. Trương Thị Nguyệt 2008

126. Nguyễn Thị Thanh Nhàn 2008

127. Phan Thị Nhung 2008

128. Nguyễn Thị Minh Phương 2008

129. Đoàn Thị Quảng 2008

130. Nguyễn Thị Minh Quý 2008

131. Nguyễn Văn Thăng 2008

132. Bùi Thị Thanh 2008

133. Lương Thị Thuần 2008

134. Quách Thị Thương 2008

117

135. Chu Thị Thúy 2008

136. Nguyễn Thị Minh Thủy 2008

137. Nguyễn Thị Thanh Tú 2008

138. Tạ Thị Ngọc Tú 2008

139. Khuất Thị Thu Vân 2008

140. Đoàn Thị Yến 2008

141. Trần Thị Thái 2008

142. Đỗ Lê Phương 2008

143. Nguyễn Thị Quỳnh Mai 2008

144. Đặng Thị Huyền Trang 2008

145. Trần Ngọc Anh 2009

146. Nguyễn Thị Thùy Chi 2009

147. Nguyễn Thị Dung 2009

148. Đào Thùy Dương 2009

149. Nguyễn Thùy Duyên 2009

150. Mai Thị Duyên 2009

151. Trần Thị Hà 2009

152. Lê Thu Hà 2009

153. Nguyễn Ngọc Hải 2009

154. Nguyễn Thị Thu Hằng 2009

155. Bùi Thị Hậu 2009

156. Bùi Thị Thu Hoài 2009

157. Vũ Thị Bích Hồng 2009

158. Hoàng Thị Huệ 2009

159. Cao Thị Huệ 2009

160. Nguyễn Thị Huyên 2009

118

161. Nguyễn Thị Huyền 2009

162. Trần Công Khổng 2009

163. Lương Phương Mai 2009

164. Bùi Thúy Nguyệt 2009

165. Nguyễn Thị Nguyệt 2009

166. Nguyễn Quỳnh Phương 2009

167. Nguyễn Như Quỳnh 2009

168. Nguyễn Thị Quỳnh 2009

169. Vũ Thúy Quỳnh 2009

170. Nguyễn Thanh Sơn 2009

171. Ngô Thị Thanh Tâm 2009

172. Nguyễn Thị Phương Thanh 2009

173. Nguyễn Thị Thịnh 2009

174. Nguyễn Thị Thoa 2009

175. Lưu Thị Thu 2009

176. Nguyễn Thị Bích Thúy 2009

177. Nguyễn Thị Thùy 2009

178. Trương Thị Thủy 2009

179. Khúc Thị Toan 2009

180. Lê Thu Trà 2009

181. Kiều Vinh Trọng 2009

182. Nguyễn Thanh Tùng 2009

183. Nguyễn Thị Tươi 2009

184. Đào Thanh Bình 2010

185. Nguyễn Thị Chung 2010

186. Mai Thị Dung 2010

119

187. Nguyễn Thị Thu Dung 2010

188. Nguyễn Thị Thùy Dung 2010

189. Lê Thị Thùy Dương 2010

190. Lê Thị Duyên 2010

191. Đinh Thị Duyến 2010

192. Nguyễn Hải Hà 2010

193. Nguyễn Thị Ngọc Hà 2010

194. Dương Thị Hải 2010

195. Trương Thị Hải 2010

196. Trần Thị Hạnh 2010

197. Nguyễn Thái Hậu 2010

198. Trương Thu Hiền 2010

199. Trần Thị Hiệp 2010

200. Đồng Thị Mai Hoa 2010

201. Nguyễn Thị Ngọc Hoa 2010

202. Nguyễn Thị Hoà 2010

203. Nguyễn Thị Thu Hoài 2010

204. Phạm Thị Hoạt 2010

205. Lê Thị Hợi 2010

206. Nguyễn Thị Hồng 2010

207. Nguyễn Thị Hồng 2010

208. Mai Bích Huệ 2010

209. Hồ Thị Liên Hương 2010

210. Khương Thị Hương 2010

211. Hứa Thị Huyền 2010

212. Nguyễn Thị Huyền 2010

120

213. Nguyễn Thị Huyền 2010

214. Phạm Thị Huyền 2010

215. Lương Thị Khanh 2010

216. Trần Vân Khánh 2010

217. Nguyễn Thị Khuyên 2010

218. Hoàng Thị Mai Lan 2010

219. Đồng Thị Liễu 2010

220. Nguyễn Thùy Linh 2010

221. Nguyễn Thị Loan 2010

222. Nguyễn Thị Hải Lý 2010

223. Ngô Thị Ngà 2010

224. Trần Bích Ngọc 2010

225. Nguyễn Thu Nhàn 2010

226. Nguyễn Thị Như 2010

227. Ma Thị Nhuận 2010

228. Phạm Thị Phương 2010

229. Lê Thị Thanh Tâm 2010

230. Nguyễn Thị Bích Thảo 2010

231. Tạ Thị Thanh Thảo 2010

232. Đoàn Thị Minh Thuận 2010

233. Bùi Thị Thanh Thuý 2010

234. Lê Thị Thuý 2010

235. Nguyễn Phương Thuỷ 2010

236. Nguyễn Thị Thu Thuỷ 2010

237. Nguyễn Đăng Tiến 2010

238. Hà Thị Minh Trang 2010

121

239. Nguyễn Thị Huyền Trang 2010

240. Ma Thị Tuyền 2010

241. Nguyễn Thị Tuyền 2010

242. Lưu Thị Tuyết 2010

243. Phạm Thị Thùy Vân 2010

244. Trần Thị Xoa 2010

245. Nguyễn Thị Yến 2010

246. Trương Thị Ngàn 2010

247. Vũ Thị Thanh Tú 2010

248. Nguyễn Thị Hảo 2010

249. Dương Thị Mai Hoa 2010

250. Nguyễn Thị Nhung 2010

251. Lê Văn Phong 2010

252. Nguyễn Thị Mai Anh 2011

253. Bùi Ngọc Đạo 2011

254. Lê Thị Hường 2011

255. Lý Thị Thu Huyền 2011

256. Trần Thị Lan 2011

257. Nguyễn Thị Nguyệt 2011

258. Trần Thị Oanh 2011

259. Nguyễn Văn Phú 2011

260. Nguyễn Thị Hải Thắm 2011

261. Trần Thị Yên 2011

262. Vũ Thị Yến 2011

263. Trần Thị Huyền Trang 2011

264. Lê Thị Vân Trang 2011

122

265. Đào Thuỳ Dương 2011

266. Đoàn Thị Ngọc Anh 2011

267. Phạm Nguyễn Quỳnh Linh 2011

268. Nguyễn Ngọc Thể 2011

269. Nguyễn Thị Tuyết 2011

270. Lê Khắc Chiến 2011

271. Dương Kim Huệ 2011

272. Hồ Đức Long 2011

273. Phạm Mạnh Thắng 2011

274. Đỗ Thuỳ Dung 2011

275. Bùi Thị Bích Ngọc 2011

276. Nguyễn Ngọc Hùng 2011

277. Nguyễn Mạnh Linh 2011

278. Vũ Thị Ngọc 2011

279. Đỗ Thị Phương Thanh 2011

280. Nguyễn Hoài Thu 2011

281. Lê Thị Vũ Thư 2011

282. Nguyễn Thị Thương 2011

283. Nguyễn Thu Thuỷ 2011

284. Nguyễn Văn Anh 2011

285. Phạm Thị Hường 2011

286. Nguyễn Thuỳ Linh 2011

287. Nguyễn Thị Nụ 2011

288. Nguyễn Thị Thanh 2011

289. Lại Thu Thuỷ 2011

290. Nguyễn Thị Ánh Tuyết 2011

123

291. Ngô Thị Thanh Hà 2011

292. Lê Văn Phong 2011

293. Trịnh Hoàng Anh 2012

294. Vũ Thị Phương Anh 2012

295. Đào Phương Ánh 2012

296. Trần Thị Bích 2012

297. Lê Thị Thu Dung 2012

298. Dương Thị Thuỳ Dương 2012

299. Lương Thị Thuỳ Giang 2012

300. Đặng Thu Hà 2012

301. Gia Thị Hà 2012

302. Nguyễn Thanh Hải 2012

303. Tô Thuý Hằng 2012

304. Trần Thị Thu Hằng 2012

305. Đỗ Thị Hiên 2012

306. Nguyễn Thị Hiền 2012

307. Nguyễn Thị Hiền 2012

308. Lưu Thị Hoa 2012

309. Bùi Xuân Hoá 2012

310. Lê Ánh Hồng 2012

311. Bùi Thị Hưng 2012

312. Lương Thuỵ Lan Hương 2012

313. Phạm Thị Hương 2012

314. Phùng Xuân Huy 2012

315. Nguyễn Thanh Huyền 2012

316. Nguyễn Thị Huyền 2012

124

317. Nguyễn Thị Thu Huyền 2012

318. Nguyễn Thị Lê 2012

319. Lưu Thị Mai Liên 2012

320. Mạch Thị Liên 2012

321. Lê Thị Linh 2012

322. Nguyễn Thuỳ Linh 2012

323. Phan Thị Thanh Loan 2012

324. Vũ Văn Lương 2012

325. Hứa Thanh Mai 2012

326. Phùng Thị Mai 2012

327. Nguyễn Thị Minh 2012

328. Lê Minh Nam 2012

329. Nguyễn Thị Nga 2012

330. Nguyễn Thị Ngân 2012

331. Mai Thị Minh Nguyệt 2012

332. Lê Hồng Nhung 2012

333. Nguyễn Thị Nhương 2012

334. Khiếu Thị Oanh 2012

335. Nghiêm Thị Lan Oanh 2012

336. Nguyễn Thị Kim Phong 2012

337. Hà Thị Lê Phương 2012

338. Nguyễn Thị Thu Phương 2012

339. Hoàng Thị Kim Phượng 2012

340. Nguyễn Thị Quyên 2012

341. Nguyễn Thị Tám 2012

342. Trần Xuân Tăng 2012

125

343. Nguyễn Xuân Thắng 2012

344. Phạm Thị Thiện 2012

345. Hoàng Thị Thu 2012

346. Nguyễn Thị Thu 2012

347. Nông Thị Thư 2012

348. Đoàn Thị Thuý 2012

349. Ngô Thị Thanh Thuỷ 2012

350. Nguyễn Thị Nha Trang 2012

351. Vũ Thị Trang 2012

352. Vũ Thị Huyền Trang 2012

353. Đoàn Văn Trường 2012

354. Đào Thị Hải Vân 2012

355. Nguyễn Thị Vân 2012

356. Phạm Thị Yến 2012

357. Phan Thị Hải Yến 2012

358. Nguyễn Thị Hồng Nga 2012

359. Hoàng Thị Anh 2013

360. Nguyễn Thị Anh 2013

361. Nguyễn Thị Lan Anh 2013

362. Hà Văn Bình 2013

363. Nguyễn Thị Chi 2013

364. Dương Thị Cúc 2013

365. Nguyễn Thị Cúc 2013

366. Lê Văn Đin 2013

367. Đoàn Thùy Dung 2013

368. Lương Thị Thuý Dung 2013

126

369. Nguyễn Thuý Dương 2013

370. Phạm Văn Đương 2013

371. Nguyễn Thị Duyên 2013

372. Nguyễn Thị Bích Hà 2013

373. Trần Thị Việt Hà 2013

374. Trần Hồng Hải 2013

375. Trần Thị Thu Hằng 2013

376. Nguyễn Bích Hằng 2013

377. Trần Hồng Hạnh 2013

378. Cao Thị Hiếu 2013

379. Hoả Thị Hoa 2013

380. Trần Thị Thanh Hoa 2013

381. Lê Thị Hoài 2013

382. Nguyễn Văn Hoàn 2013

383. Nguyễn Ngọc Hoàng 2013

384. Nguyễn Duy Hùng 2013

385. Trần Thị Thanh Hương 2013

386. Bùi Thị Hương 2013

387. Lê Thị Thúy Hương 2013

388. Dương Thị Huyền 2013

389. Tạ Thị Thu Huyền 2013

390. Vũ Thị Minh Huyền 2013

391. Hà Diễm Kiều 2013

392. Nguyễn Thị Phương Lan 2013

393. Lê Thị Bích Liên 2013

394. Lê Thị Loan 2013

127

395. Trần Thị Long 2013

396. Đinh Văn Luân 2013

397. Trần Thị Khánh Ly 2013

398. Nguyễn Thị Mai 2013

399. Lê Thị Nga 2013

400. Trần Thị Ngân 2013

401. Chu Hoàng Minh Ngọc 2013

402. Lê Văn Nguyên 2013

403. Lương Thị Thanh Nhàn 2013

404. Phan Thị Thanh Nhàn 2013

405. Lê Thị Nhung 2013

406. Nguyễn Thị Tuyết Nhung 2013

407. Đặng Thị Phương 2013

408. Hoàng Mai Phương 2013

409. Nguyễn Thị Quyên 2013

410. Đặng Xuân Quỳnh 2013

411. Đào Như Quỳnh 2013

412. Hoàng Thị Hương Thanh 2013

413. Lê Văn Thành 2013

414. Ngô Minh Thảo 2013

415. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013

416. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013

417. Phạm Thị Thơ 2013

418. Phạm Văn Thông 2013

419. Nguyễn Thị Thu 2013

420. Phan Thị Thu 2013

128

421. Đặng Hồng Thương 2013

422. Đặng Thu Thuỷ 2013

423. Vũ Thị Thủy 2013

424. Đoàn Văn Tiến 2013

425. Vũ Thị Tính 2013

426. Nguyễn Hữu Toán 2013

427. Nguyễn Thị Thu Trang 2013

428. Phạm Thị Kiều Trang 2013

429. Đào Văn Trưởng 2013

430. Lương Thị Vân 2013

431. Nguyễn Thị Thanh Vân 2013

432. Lê Thị Hải Yến 2013

Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-2014

Tại Bộ môn Lịch sử Đảng, TTBDGVLLCC

STT Họ và tên Năm nhập học

1. Nguyễn Mạnh Hùng 2001

2. Trần Duy Hưng 2001

3. Lưu Mai Hoa 2001

4. Hoàng Thị Lan 2001

5. Đinh Thị Cẩm Tú 2001

6. Đặng Văn Trọng 2001

7. Trần Xuân Tĩnh 2001

8. Đào Thị Vân 2001

9. Phạm Văn Búa 2002

10. Nguyễn Thị Đức 2002

129

11. Trương Công Hữu 2002

12. Lê Thị Hoa 2002

13. Nguyễn Thị Lợi 2002

14. Nguyễn Văn Nhang 2002

15. Đặng Kim Oanh 2002

Phan Văn Phương 16. 2002

Trần Lê Thanh 17. 2002

18. Huỳnh Văn Thới 2002

19. Đặng Mạnh Trung 2002

20. Tạ Ánh Tuyết 2002

21. Trịnh Thị Thùy Hương 2003

22. Nguyễn Thị Thu Hương 2003

23. Đào Thị Bích Hồng 2003

24. Nguyễn Văn Tài 2003

25. Lý Trung Thành 2003

26. Nguyễn Hữu Toàn 2003

27. Phạm Thị Xuân 2003

28. Lê Thị Lung 2004

29. Hà Thị Thu Hằng 2004

30. Mai Thị Thanh Châu 2004

31. Nguyễn Quang Khải 2004

32. Ngô Thị Khánh 2004

33. Trịnh Văn Thoại 2004

34. Hoàng Thu Thủy 2004

35. Trần Xuan Chiến 2005

36. Nguyễn Thị Hằng 2005

130

37. Bùi Ngọc Hà 2005

38. Lê Hồ Hiếu 2005

39. Phạm Thị Lịch 2005

40. Phạm Thị Thu 2005

41. Hoàng Trường Giang 2006

42. Nguyễn Thị Hồng Hạnh 2006

43. Vũ Thị Mỹ Hạnh 2006

44. Lê Thị Mai Hoa 2006

45. Đào Thu Huyền 2006

46. Phạm Thị Miến 2006

47. Hoàng Thị Nhung 2006

48. Nguyễn Đình Quỳnh 2006

49. Nguyễn Tuấn Thành 2006

Phạm Thị Hồng Thiết 50. 2006

Phạm Minh Thế 51. 2006

Phạm Xuân Thu 52. 2006

53. Nguyễn Văn Triệu 2006

54. Đặng Khánh Toàn 2006

Trần Thị Anh Trúc 55. 2006

Lê Đình Hùng 56. 2006

Phạm Huy Toán 57. 2006

58. Nguyễn Thị Thanh Hương 2007

59. Nguyễn Thu Hải 2007

60. Mai Thanh Hồng 2007

61. Nguyễn Thị Thanh Hòa 2007

62. Dương Thị Kim Huệ 2007

131

63. Nguyễn Thanh Nga 2007

64. Vũ Thị Thanh Nga 2007

65. Nguyễn Mai Phương 2007

66. Trần Thị Hữu Hồng Phương 2007

67. Bùi Thị Bích Thảo 2007

68. Nguyễn Thị Dung Huyền 2007

69. Phạm Thị Thanh Huyền 2007

70. Trần Thị Lan 2007

71. Nguyễn Minh Thùy 2007

72. Nguyễn Thị Huyền Trang 2007

73. Nguyễn Văn Tuân 2007

74. Nguyễn Thúy Hà 2008

75. Trần Hoàng Hạnh 2008

76. Trương Văn Hiến 2008

77. Ngô Thị Hiền 2008

78. Vũ Thị Huệ 2008

79. Vũ Quang Huy 2008

80. Lê Diệu Linh 2008

81. Lưu Ngọc Long 2008

82. Trần Thị Bích Ngọc 2008

83. Phạm Thị Sanh 2008

84. Nguyễn Thị Thanh 2008

85. Hoàng Thị Phương Thảo 2008

86. Nguyễn Khắc Trinh 2008

87. Lê Sơn Tùng 2008

88. Đặng Quang Vinh 2008

132

89. Hà Thị Hồng Yến 2008

90. Lý Thị Hồng An 2009

91. Nguyễn Quang Bắc 2009

92. Nguyễn Vũ Cẩm Giang 2009

93. Nguyễn Thị Hải Hà 2009

94. Hoàng Thị Ngọc Hà 2009

95. Nguyễn Quang Hà 2009

96. Nguyễn Thị Thu Hiền 2009

97. Nguyễn Thị Hoàn 2009

98. Dương Thị Huyền 2009

99. Vũ Thị Mười 2009

100. Phạm Thị Bích Ngọc 2009

101. Đỗ Thị Nhường 2009

102. Phạm Thị Thùy Nhung 2009

103. Đào Văn Phương 2009

104. Nguyễn Hồng Quân 2009

105. Nguyễn Thị Thanh Sâm 2009

106. Bùi Thị Thu 2009

107. Hoàng Thị Thúy 2009

108. Bùi Thu Trang 2009

109. Trần Thị Vân 2009

110. Trần Thị Vinh 2009

111. Nguyễn Thị Hoàng Anh 2010

112. Phạm Lan Anh 2010

113. Nguyễn Đăng Bảng 2010

114. Đinh Ngọc Chính 2010

133

115. Vũ Văn Điềm 2010

116. Đặng Thị Dung 2010

117. Lê Hương Giang 2010

118. Mai Thị Hà 2010

119. Lương Thị Hà 2010

120. Đoàn Thị Hà 2010

121. Lương Hải Hà 2010

122. Trịnh Thị Hoa 2010

123. Nguyễn Thị Huyền 2010

124. Ngô Bá Khiêm 2010

125. Nguyễn Thị Thành Lê 2010

126. Đinh Thị Nhuần 2010

127. Trần Cao Quý 2010

128. Vũ Thị Quyên 2010

129. Lưu Ngọc Quỳnh 2010

130. Vũ Mạnh Thìn 2010

131. Phạm Thị Thinh 2010

132. Cao Thị Phương Thúy 2010

133. Lê Thị Ngọc Thùy 2010

134. Nguyễn Thị Tình 2010

135. Hoàng Thị Yến 2010

136. Lê Thị Yến 2010

137. Đinh Thị Hoàng Yến 2010

138. Trương Thị Liên 2011

139. Luyện Thị Thu Hưng 2011

140. Vương Văn Hưng 2011

134

141. Nguyễn Thị Cẩm Nhung 2011

142. Nguyễn Thị Phương Tuyết 2011

143. Đào Thị Kim Dung 2011

144. Nguyễn Thị Kim Dung 2011

145. Nguyễn Thị Quý 2011

146. Nguyễn Thị Thắm 2011

147. Nguyễn Thị Thúy 2011

148. Đoàn Thị Hạnh 2011

149. Phạm Thị Việt Hà 2011

150. Hoàng Thị Hà 2011

151. Nguyễn Thị Hạnh 2011

152. Nguyễn Thị Giang 2011

153. Ngô Thị Hường 2011

154. Phùng Thị Thuận Hải 2011

155. Phạm Thị Kiều Trinh 2011

156. Vũ Thị Đượng 2011

157. Nguyễn Thị Hương 2011

158. Trần Lan Hương 2011

159. Bùi Thị Trang 2011

160. Nguyễn Văn Hoan 2011

161. Nguyễn Văn Lành 2011

162. Nguyễn Thị Ngọc Ánh 2011

163. Vi Thị Mai Thạo 2011

164. Lê Xuân Tú 2011

165. Trần Thanh Long 2011

166. Trần Thu Hằng 2011

135

167. Trần Thị Thu Hồng 2011

168. Nguyễn Thị Ngân 2011

169. Đào Thị Thu Trang 2011

170. Ngô Minh Vương 2012

171. Dương Thị Hường 2012

172. Nguyễn Khắc Hạnh 2012

173. Lê Xuân Trường 2012

174. Phạm Tùng Hương 2012

175. Nguyễn Thanh Mến 2012

176. Nông Đức Dũng 2012

177. Hoàng Lan Phương 2012

178. Hán Thị Thu Phương 2012

179. Phạm Thị Thu Trang 2012

180. Trần Thanh Thủy 2012

181. Vũ Quỳnh Anh 2012

182. Vũ Thị Lương 2012

183. Lê Thị Bích Thủy 2012

184. Tạ Bích Huệ 2012

185. Trần Thị Tố Lan 2012

186. Đinh Hữu Thuận 2012

187. Nguyễn Thị Thảo 2012

188. Lý Thị Thanh Hương 2012

189. Vũ Thị Lan Anh 2012

190. Nguyễn Thị Hằng 2012

191. Bùi Thanh Huyền 2012

192. Nguyễn Thị Hằng 2012

136

193. Nguyễn Thị Thúy 2012

194. Dư Thị Hà 2012

195. Đồng Thị Ngọc Hiền 2012

196. Đoàn Thị Hằng 2012

197. Nguyễn Thị Diệu Hiền 2012

198. Vũ Thị Ngọc 2012

199. Bùi Thị Trang 2013

200. Lê Xuân Tú 2013

201. Nguyễn Tuyết Phương 2013

202. Nguyễn Văn Chung 2013

203. Phạm Thị Nhung Thủy 2013

204. Lương Hải Hà 2013

205. Lương Thị Vân 2013

206. Đinh Văn Luân 2013

207. Lê Văn Thành 2013

208. Nguyễn Thị Lan Anh 2013

209. Nguyễn Thị Anh 2013

210. Nguyễn Duy Hùng 2013

211. Đăng Thu Thùy 2013

212. Lã Thị Bích Liên 2013

213. Vũ Thị Tính 2013

214. Trần Thị Thu Hằng 2013

Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-2014

137

3. Thống kê số lƣợng công trình nghiên cứu khoa học giảng viên Bộ môn

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử qua các thời kỳ

Số lƣợng công trình đ công bố

Học hàm, Sách STT Họ và tên Đề tài Bài báo học vị chuyên khoa học khoa học khảo

Nguyễn Thạc sĩ 1 1 3 10 Huy Cát

Phạm 2 Cử nhân 3 Thị Chính

Phạm Thị 3 Tiến sĩ 3 9 Lương Diệu

Đinh 4 PGS. TS 40 3 60 Trần Dương

Trần 5 PGS. TS 13 6 10 Kim Đỉnh

Lê Mậu 6 PGS 15 5 50 Hãn

Vũ Quang 7 15 PGS. TS 51 170 Hiển

Nguyễn Thị 8 PGS. TS 14 10 55 Mai Hoa

Ngô Văn 9 Thạc sĩ 2 4 Hoán

Hoàng 5 10 PGS. TS 32 Hồng

138

Đinh 10 PGS. TS 11 51 Trung Kiên

1 12 Vũ Kông Thạc sĩ 4

Nguyễn 20 PGS. TS 13 6 62 Đình Lê

Nguyễn 2 Tiến sĩ 14 5 16 Quang Liệu

Đỗ Thị 6 Thạc sĩ 15 5 10 Thanh Loan

Phạm

5 16 Quang PGS. TS 8 60

Minh

Lê Thị 17 Tiến sĩ 15 12 20 Quỳnh Nga

Hoàng 2 18 Cử Nhân 3 Bá Sách

Phạm 19 Thạc sĩ 12 6 Minh Thế

Lê Văn 20 PGS. TS 10 10 30 Thịnh

Ngô Đăng 21 PGS. TS 53 12 87 Tri

Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-2014

139