ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=======================
NGUYỄN THANH HẢI
ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI (1974-2014)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=======================
NGUYỄN THANH HẢI
ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI (1974-2014)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
M ố:
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đăng Tri
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Ngô Đăng Tri, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các số
liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thanh Hải
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ
của các thầy cô giáo khoa Lịch sử của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Đăng Tri - Trưởng bộ môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam (Khoa Lịch sử) đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành Luận văn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thanh Hải
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN
ĐHKHXH Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐHKHTN Đại học Khoa học Tự nhiên
ĐHTHHN Đại học Tổng hợp Hà Nội
DTDCND Dân tộc dân chủ nhân dân
GDĐT Giáo dục đào tạo
NCKH Nghiên cứu khoa học
NCS Nghiên cứu sinh
Nxb Nhà xuất bản
Th.s Thạc sĩ
TS Tiến sĩ
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận TTBDCBGDLL chính trị
TƯ Trung ương
UBND Ủy ban Nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 5
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài ................................................................... 7
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu chính .................................... 8
6. Bố cục ........................................................................................................... 8
Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC
TỔNG HỢP HÀ NỘI (TỪ NĂM 974 ĐẾN NĂM 99 ) ........................... 9
1.1 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa
Lịch sử (từ năm 974 đến năm 98 ) ............................................................ 9
1.1.1 Quá trình hình thành Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử .............. 9
1.1.2 Đào tạo và nghiên cứu tại Bộ môn Lịch sử Đảng từ năm 1974 đến 1985 ... 16
1.2 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng từ năm 98 đến năm 99 ......... 22
1.2.1 Tại Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử .................................... 22
1.2.2 Tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội. ............................................................................. 31
Tiểu kết ........................................................................................................... 39
Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC
QUỐC GIA HÀ NỘI (TỪ NĂM 99 ĐẾN 2014) ..................................... 41
. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa
Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn .......................... 41
2.1.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005 ............................ 41
2.1.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2014 ............................ 48
. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng, Trung
1
tâm Đào tạo, Bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính trị ................................. 57
2.2.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005 ............................ 57
2.2.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2013 ............................ 67
Tiểu kết ........................................................................................................... 72
Chƣơng : NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................................ 73
3.1 Nhận xét chung ........................................................................................ 73
3.1.1 Về thành tựu .......................................................................................... 73
3.1.2 Về hạn chế ............................................................................................. 83
3.2 Kinh nghiệm và các vấn đề đặt ra ......................................................... 89
3.2.1 Kinh nghiệm .......................................................................................... 89
3.2.2 Một số vấn đề đặt ra .............................................................................. 94
Tiểu kết ........................................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 109
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bộ môn khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thuộc Khoa Lịch
sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
(trước đây là Đại học Tổng hợp Hà Nội) được thành lập năm 1974 với nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng. Từ năm 1988, Bộ
môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử đảm nhiệm thêm chức năng giảng dạy môn
Lịch sử Đảng cho toàn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1995, Đại học
Tổng hợp Hà Nội tách thành 2 trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(ĐHKHXH&NV) và Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHKHTN), Bộ môn Lịch
sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử, ĐHKHXH&NV. Năm 1996 Trung tâm Đào tạo,
Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (TTĐTBDGVLLCT) của Đại học
Quốc gia Hà Nội) thành lập, Đại học Quốc gia Hà Nội lúc này có 2 Bộ môn
Lịch sử Đảng: Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử dạy môn Lịch sử Đảng
(sau là môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam) cho sinh
viên hai trường ĐHKHXHNV và ĐHKHTN, đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng; Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm làm nhiệm
vụ dạy môn Lịch sử Đảng (sau là Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam) cho sinh viên các trường, khoa còn lại của Đại học Quốc gia Hà
Nội, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng.
Năm 2013, Trung tâm ĐTBDGVLLCT giải thể, Bộ môn Lịch sử Đảng
của Trung tâm sáp nhập vào Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử. Bộ
môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử lúc này vừa làm chức năng Bộ môn chuyên
ngành của Khoa Lịch sử đó là: đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ lịch sử; vừa
làm chức năng của Bộ môn Lý luận chính trị là dạy môn Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho toàn Đại học Quốc gia Hà Nội.
Qua 40 năm đào tạo và nghiên cứu khoa học (1974-2014), Bộ môn
3
Lịch sử Đảng của Đại học Tổng hợp và sau là Đại học Quốc gia Hà Nội đã
đạt được những thành tựu to lớn về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Về đào
tạo, hai Bộ môn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dạy môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam (nay là môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam) cho toàn thể sinh viên của trường Đại học Tổng hợp và Đại học
Quốc gia Hà Nội. Trong đào tạo chuyên ngành, hai Bộ môn đã trở thành địa
chỉ hàng đầu, uy tín, tin cậy trong đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên
ngành Lịch sử Đảng, đã đào tạo hàng ngàn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ Lịch sử
Đảng, góp phần cung cấp đội ngũ cán bộ chất lượng cho các trường Đại học,
viện nghiên cứu và hệ thống chính trị các cấp. Về nghiên cứu khoa học, hai
Bộ môn đã chủ trì và tham gia biên soạn thành công nhiều công trình có giá
trị cao về Lịch sử Đảng như: “Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”,
“Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh”, “82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, những
chặng đường”, “Đảng với vấn đề nông dân, nông thôn, nông nghiệp thời kỳ
1930-1945”…
Tuy vậy, hiện nay Bộ môn Lịch sử Đảng cũng như các ngành khoa học
khác đang đứng trước những yêu cầu cấp bách cần giải quyết: đổi mới
chương trình và hệ thống chuyên đề đại học, sau đại học; về sự thống nhất
nhận thức một số sự kiện lịch sử Đảng; về bổ sung đội ngũ cán bộ giáo viên;
về kết hợp giữa nhiệm vụ của Bộ môn chuyên ngành thuộc Khoa Lịch sử với
chức năng kiêm nhiệm giảng dạy môn “Đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam” cho toàn ĐHQGHN,…
Năm 2014 là năm kỷ niệm 40 năm thành lập Bộ môn lịch sử Đảng ở
Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là mốc lịch sử hết sức quan trọng của Bộ môn
nói riêng và của ngành lịch sử Đảng trên cả nước nói chung. Trong dòng chảy
lịch sử 40 năm, Bộ môn đã có rất nhiều đóng góp cũng như những kinh
4
nghiệm quý báu, đặc biệt trong vấn đề đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Xuất phát từ thực tiễn trên đây, tôi quyết định chọn đề tài “Đào tạo và
nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở Đại học Quốc gia Hà Nội
(1974-2014)” nhằm trình bày khái quát công tác đào tạo đại học, sau đại học
cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng suốt 40 năm hình
thành và phát triển, trên cơ sở đó, khẳng định những thành tựu, hạn chế, và rút
ra kinh nghiệm cho công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học
Quốc gia Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch ử nghiên cứu vấn đề
Bộ môn Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội có quá trình phát
triển lâu dài, mang ý nghĩa lớn. Bởi vậy, đã có một số cuốn sách, bài báo, tạp
chí hay những bài viết đề cập đến những nội dung liên quan với mức độ và
cách tiếp cận khác nhau, tiêu biểu như:
Về Bộ môn Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch sử, Đại học KHXHNV: Bộ môn
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) Quá trình xây dựng và trưởng
thành, PGS.TS Vũ Quang Hiển, Tạp chí Lịch sử Đảng số 10-2006; Bộ môn
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam những cố gắng và thành tựu, PGS.TS Ngô
Đăng Tri NXB CTQG, Hà Nội, 1996... Trong các bài viết này, các tác giả đã
đề cập đến tình hình công tác tổ chức đội ngũ cán bộ, cũng như công tác đào
tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học của Bộ môn qua các thời kỳ;
đây là những bài viết có tính khái quát cao, trình bày tổng quan về Bộ môn,
tuy nhiên, trong một bài viết ngắn gọn lại đề cập nhiều vấn đề nên vấn đề đào
tạo và nghiên cứu khoa học chưa được đề cập sâu rộng.
Về công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học các môn lý luận chính trị
nói chung và Bộ môn Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng:
Vận dụng quan điểm đối ngoại của Đại hội IX trong giảng dạy môn Lịch sử
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Quán triệt, vận dụng Nghị quyết
Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lí luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, NXB CTQG, Hà Nội, 2002; Phương pháp nêu vấn đề trong
dạy và học Lịch sử Đảng, PGS. TS Vũ Quang Hiển, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
1-2007, in lại trong sách Về phương pháp nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008; Quá
trình nhận thức của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bài
trong sách Quán triệt, vận dụng quan điểm Đại hội X của Đảng vào giảng
dạy các môn lí luận chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007; Đổi mới
phương pháp dạy và học môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam theo học chế
tín chỉ, Hội thảo khoa học “Giảm tải, nâng cao chất lượng dạy và học các
môn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (trong các trường đại
học, cao đẳng)”, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007; Bàn về phương thức kiểm
tra, đánh giá môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội thảo khoa học Giảng
dạy các môn lí luận chính trị ở các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, 2007; Mấy suy nghĩ về nhiệm vụ giảng viên môn Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, HTKH “Những vấn đề lí luận và thực tiễn của đào
tạo theo tín chỉ các môn lí luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội hiện
nay”, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lí luận chính trị, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 5-2009…
Những cuốn sách hay những bài viết được đề cập trên đây, hầu hết là
viết về vấn đề phương pháp giảng dạy và hiệu quả các môn lý luận chính trị;
nhưng chưa có luận văn chuyên sâu nào về công tác đào tạo, nghiên cứu khoa
học của Bộ môn Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà Nội từ khi thành lập
(1974) cho đến nay (2014).
Vì vậy công trình nghiên cứu này của tôi hoàn toàn có ích và hữu dụng,
đóng góp sự nghiên cứu của mình vào nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng nói
6
chung và công tác đào tạo, nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà
Nội nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Làm rõ quá trình đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội, qua đó đúc rút ra những kinh nghiệm cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo Lịch sử Đảng hiện nay.
* Nhiệm vụ
+ Tập trung sưu tầm, tập hợp, hệ thống hóa tư liệu về đào tạo và nghiên
cứu về Lịch sử Đảng ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây và ở
ĐHQGHN hiện nay.
+ Trình bày quá trình hoạt tổ chức-hoạt động đào tạo và nghiên cứu của
Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử và Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Trung
tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, ĐHQGHN.
+ Tổng kết thành tựu, hạn chế trong 40 năm đào tạo và nghiên cứu Lịch
sử Đảng, trên cơ sở đó rút ra các kinh nghiệm chủ yếu, đề xuất một số phương
hướng, giải pháp nhằm đổi mới kết cấu môn học, chương trình môn học, giáo
trình và phương pháp giảng dạy môn Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà
Nội.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian : từ năm 1974 đến năm 2014
Về không gian: Đại học Quốc gia Hà Nội
Về nội dung: Hoạt động đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
7
. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu chính
Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm chỉ đạo
cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm và
giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận sử học Macxit,
trong đó chủ yếu dùng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp
hai phương pháp đó. Đồng thời khóa luận cũng sử dụng các phương pháp
như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế...
Nguồn tư liệu
Các văn kiện, báo cáo tổng kết của Đảng và Nhà nước về công tác
nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị.
Các báo cáo, công trình tổng kết, đề án của trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội(cũ), trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội về công tác đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học.
Các báo cáo tổng kết, kế hoạch về tình hình đào tạo, nghiên cứu
khoahọc của Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử.
Tài liệu khảo sát thực tế và các công trình khoa học có liên quan
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Đại học Tổng hợp
Hà Nội từ năm 1974 đến 1995.
Chương 2: Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Đại học Quốc gia Hà
Nội từ năm 1996 đến 2014.
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.
8
Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC
TỔNG HỢP HÀ NỘI (TỪ NĂM 974 ĐẾN NĂM 1995)
1.1 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Bộ môn Lịch sử Đảng,
Khoa Lịch sử (từ năm 974 đến năm 1985)
1.1.1 Quá trình hình thành Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử
Năm 1906, Trường Đại học Đông Dương, tiền thân của ĐHQGHN
ngày nay được thành lập theo Quyết định số 1514a, ngày 16/5/1906 của Toàn
quyền Đông Dương. Trường ĐH Đông Dương đặt trụ sở tại 19-Lê Thánh
Tông-Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, cơ sở này thuộc về Trường ĐHQG
Việt Nam; sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc do Trường ĐHTH Hà Nội
quản lý, sử dụng và nay là một trong những cơ sở chính của ĐHQGHN.
Cùng thời gian đó, Trường ĐHQG Việt Nam khai giảng khoá đầu tiên
vào 15/11/1945 dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là trường đại
học đa ngành, đa lĩnh vực đầu tiên được thành lập dưới chính thể Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Trường Đại học Quốc gia Việt Nam trực tiếp kế thừa
truyền thống khoa học và giáo dục của Trường Đại học Đông Dương .
Tiếp đó, đến năm 1951, Trường Khoa học Cơ bản (tại Chiến khu Việt
Bắc) được thành lập. Đây là một trong những trường tiền thân của Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội sau này.
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập theo Quyết định số
2138/TC ngày 4-6-1956 của Thủ tướng Chính phủ, Giáo sư Ngụy Như Kon
Tum được bổ nhiệm làm Giám đốc đầu tiên. Ban đầu, Trường chỉ có hai ban
là Ban Khoa học và Ban Văn khoa. Ban Văn khoa gồm hai bộ phận tương đối
độc lập là văn và sử do GS Trần Đức Thảo phụ trách chung. Một thời gian
ngắn sau đó, ngay trong năm 1956, Ban Văn khoa được chia thành hai khoa là
Khoa Văn học và Khoa Lịch sử. Khoa Lịch sử chính thức ra đời từ đây, trở
9
thành một trong bốn khoa đầu tiên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đó
là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền sử học Việt Nam
hiện đại. Từ đây, những tên tuổi lớn, những tác phẩm lớn, những lớp lớp cử
nhân được đào tạo góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những ngày đầu mới thành lập, Khoa Lịch sử cũng như Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội đứng trước muôn vàn khó khăn vất vả: cơ sở vật chất
thiếu thốn, giáo trình, tài liệu tham khảo khan hiếm... Bù lại, trong những
ngày đầu xây nền đắp móng này, Khoa có được một đội ngũ các nhà khoa học
tài năng và vô cùng tâm huyết với sự phát triển của Khoa và của cả nền sử
học nước nhà. Đó là các giáo sư Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trần Văn
Giầu. Dưới sự dẫn dắt của các thầy, lớp cán bộ trẻ đầu tiên của Khoa đã
nhanh chóng trưởng thành, từng bước đảm nhiệm việc giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
Ngày 15-10-1956 khóa học đầu tiên của trường Đại học Tổng hợp long
trọng khai giảng tại giảng đường lớn của khu Đại học Việt Nam tại số 19
đường Lê Thánh Tông, Hà Nội. Hơn 430 sinh viên từ nhiều địa phương trên
mọi miền của Tổ quốc đã hân hoan tựu trường. Trong hai năm học đầu tiên
(1956-1957 và 1957-1958), vượt qua những thiếu thốn và những khó khăn về
nhiều mặt trong buổi đầu xây dựng, cán bộ và sinh viên đã dần dần ổn định nề
nếp làm việc, học tập. Việc biên soạn chương trình, giáo trình giảng dạy phù
hợp với thực tiễn nước ta. Một số giáo trình tài liệu khoa học của Liên Xô đã
được dịch sang tiếng Việt làm tài liệu học tập nghiên cứu cho sinh viên. Cùng
thời gian này, một số chuyên gia Liên Xô đã tận tình giúp đỡ đội ngũ cán bộ
khoa học nhà trường bồi dưỡng và nâng cao trình độ.
Việc mở rộng quy mô đào tạo và sự ổn định từng bước cơ sở vật chất,
cơ cấu tổ chức của nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh phong trào
10
dạy tốt, học tốt. Quy mô đào tạo của nhà trường ngày càng được mở rộng, số
sinh viên chuyển vào trường từ 430 người năm 1956-1957 tăng lên 967 người
năm học 1961-1961. Cùng với đó, chất lượng đào tạo cũng ngày càng được
đảm bảo. Đến năm 1960-1961, toàn trường đã có 80 giáo trình của hầu hết
các môn học. Đến năm học 1964-1965, “số lượng giáo trình tăng lên nhanh
chóng, đạt 203 giáo trình”.
Bên cạnh đó, việc xác định mục tiêu đào tạo luôn được đặt ra trong các
kỳ đại hội của Đảng bộ và các hội nghị cán bộ công nhân viên chức toàn
trường, nhà trường tích cực mời một số chuyên gia giỏi của các nước anh em
thuộc hầu hết các ngành sang làm việc để nhanh chóng giúp đỡ nâng cao trình
độ chuyên môn cho cán bộ, nhiều sinh hoạt chuyên đề, trao đổi và tổng kết
kinh nghiệm giảng dạy đã được tổ chức nhằ nâng cao chất lượng giảng dạy và
chuyên môn cho cán bộ. Trong sinh viên, phong trào tìm chọn phương pháp
học tập tốt nhất, phù hợp nhất với yêu cầu học theo lối nghiên cứu ở trường
đại học cũng diễn ra sôi nổi.
Để kịp thời động viên và khẳng định những cố gắng thành tích chuyên
môn của các bộ sinh viên, Ban Giám đốc đã quyết định tổ chức hội nghị khoa
học toàn trường lần thứ nhất vào năm 1960 và hội nghị khoa học sinh viên
vào năm 1961. Đây là những hội nghị khoa học đầu tiên của ngành đại học.
Điều đó khẳng định vai trò của một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa
học, một nhà trường có phong trào sinh viên có nghiên cứu khoa học sớm
nhất, rộng nhất. Những sinh hoạt học thuật ấy từ đây được duy trì đều đặn
hàng năm và đạt được kết quả xuất sắc.
Các môn giáo dục chính trị tư tưởng được xác định có vị trí quan trọng
trong chương trình đào tạo sinh viên. Thời lượng các môn học chủ nghĩa Mác
- Lênin là 113 tiết trong đó dành một phần cho giáo dục truyền thống cách
mạng của Đảng, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
11
Năm học 1964-1965 diễn ra và kết thúc thắng lợi trong cao trào thi đua
“Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Đồng thời đó cũng là
năm học kết thức chặng được đầu tiên trong quá trình xây dựng, trưởng thành
của trường ĐHTH Hà Nội. Thành tựu chín năm xây dựng và trưởng thành của
trường ĐHTH đã tạo ra cơ sở vật chất và tinh thần để nhà trường có thể vươn
lên “hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ trong những giai đoạn kế
tiếp”[10;13].
Từ năm 1965, các môn lý luận chính trị được quy định là môn thi bắt
buộc với sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học. Tại Đại học Tổng hợp, Bộ
môn Mác-Lê nin được thành lập trong đó có Tổ Lịch sử Đảng. Tổ Lịch sử
Đảng đảm nhiệm việc giảng dạy môn Lịch sử Đảng cho sinh viên toàn
trường, “vận dụng theo chương trình, giáo trình của trường Đảng Nguyễn Ái
Quốc Trung ương” [10;13].
Hình thức đào tạo tại chức được tiếp tục mở rộng. Các khoa Văn, Sử,
Sinh vật đã mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề cho gần 300 học viên. Để tiếp
tục nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, đưa phong trào nghiên cứu khoa
học vào nề nếp, tháng 5-1966 phòng Nghiên cứu khoa học được thành lập.
Cũng trong thời gian này, để mở rộng ảnh hưởng của khoa học cơ bản đối với
đòi sống xã hội, trường đã quyết định thành lập “Hội phổ biến khoa học kỹ
thuật”. Mỗi khoa thành lập một chi hội, tích cực tuyên truyền phổ biến kinh
nghiệm khoa học cho cán bộ sinh viên trong trường và nhiều cơ quan, đơn vị,
nhân dân địa phương nơi sơ tán. Hơn 4 năm sống trên rừng núi Bắc Thái, gian
nan vất vả, nhưng thầy và trò trường ĐHTHHN vững vàng trước mọi thử
thách chủ động sáng tạo và hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị của mình.
Đến giữa năm 1970, toàn trường đã trở về cơ sở cũ ở Hà Nội. Giữa lúc
nhà trường đang dân đi vào thế ổn định thì tháng 4-1972 đế quốc Mỹ lại ồ ạt
ném bom miền Bắc, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Trước
12
tình hình đó, nhà trường nhanh chóng thích ứng với tình hình thời chiến. Từ
năm 1972, thực hiện chỉ thị 222/TTg của Thủ tướng Chính phủ, công tác
nghiên cứu khoa học và phục vụ thực tế của trường ĐHTHHN bước sang giai
đoạn mới. Nhà trường nhanh chóng đón nhận chỉ thị trên nền tảng thuận lợi,
hầu hết các khoa đang triển khai nhiều đề tài nghiên cứu thực tế. Sau đợt học
tập đầu tiên, hầu như cả trường đã ra quân trên một diện rộng từ khu IV đến
Lạng Sơn, trên nhiều địa bàn ác liệt, của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đến
năm 1973 toàn trường tập trung về Hà Nội.
Trong tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang tiến nhanh
tới ngày toàn thắng, Đại học Tổng hợp Hà Nội cũng bước vào năm học 1974-
1975 với nhiều thay đổi mau lẹ. Ngay từ tháng 3-1973, Đại hội Đảng bộ nhà
trường lần thứ 11 đã xác định rõ nhiệm vụ quan trọng của trường trong giai
đoạn mới, đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, nhà trường đã mở rộng thêm
một bước hệ thống đào tạo, tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức.
Năm học 1974-1975, nhà trường mở thêm khoa kinh tế-chính trị và
ngành Lịch sử Đảng (Khoa Lịch sử ). Đội ngũ cán bộ giảng dạy của nhà
trường lên tới “585 người, trong đó có 145 tiến sĩ, phó tiến sĩ” [10; 27]. Thời
kỳ này nhà trường đã nâng thời gian đào tạo lên 4 năm rưỡi. Việc biên soạn
giáo trình và cải tiến chương trình giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu mới trở
nên cấp bách. Trong 3 năm (1973-1975) toàn trường đã có “12 giáo trình cơ
sở và chuyên đề được in tipô và 19 giáo tình được in rônêo” [10; 25].
Về phía Khoa Lịch sử, Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (tháng 1-
1973), Khoa Lịch sử rời Dũng Liệt- Hà Bắc trở về Hà Nội. Khoa tổ chức cho
sinh viên nhanh chóng ổn định nơi ăn ở, học tập và đi lao động, thực tập thực
tế, nhiều đoàn cán bộ, sinh viên đã vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tỉnh và vùng giải phóng Quảng Trị để nghiên cứu, lấy tư liệu làm luận án tốt
nghiệp.
13
Dự báo nhu cầu đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng sẽ
tăng nhanh, dưới sự chỉ đạo của Ban Khoa giáo Trung ương, của Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, tháng 9-1974, Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội đã thành lập một Bộ môn mới là Bộ môn Lịch sử Đảng do thầy Hoàng Bá
Sách làm chủ nhiệm. Bộ môn được giao nhiệm vụ đào tạo cán bộ nghiên cứu
lịch sử Đảng cho các viện, các ban nghiên cứu lịch sử Đảng ở trung ương và
các địa phương, cung cấp giáo viên giảng dạy lịch sử Đảng cho các trường đại
học và cao đẳng thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Đối với
Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng đóng vai trò là Bộ môn khoa học, “trực
tiếp đào tạo sinh viên từ năm thứ nhất, hệ bốn năm rưỡi”.
Mặc dù việc giảng dạy và nghiên cứu về Lịch sử Đảng đã có từ lâu ở
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội do Bộ môn Mác - Lênin đảm nhiệm, tuy
nhiên việc nghiên cứu lịch sử Đảng trong bối cảnh hiện tại cần phải được
nâng cao và đẩy mạnh hơn nữa. Bởi vậy, quyết định thành lập Bộ môn Lịch
sử Đảng tại Khoa Lịch sử là một quyết định đúng đắn của nhà trường cũng
như của khoa, trước tiên nhằm đáp ứng yêu cầu học tập của sinh viên, đồng
thời tạo ra không gian học thuật, nghiên cứu lịch sử Đảng một cách độc lập
cho cán bộ của Bộ môn.
Đồng thời, thành lập Bộ môn là một việc làm thiết thực góp phần vào
công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước. Việc đào tạo và nghiên cứu lịch sử Đảng được đẩy mạnh
nhiều hơn nhằm phục vụ thực tiễn, cỗ vũ tinh thần yêu nước, củng cố niềm tin
của quần chúng nhân dân với Đảng.
Những năm 1974-1979, Bộ môn chỉ có thầy Hoàng Bá Sách – chủ
nhiệm Bộ môn, thầy Lê Mậu Hãn-Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, trực tiếp đứng
lớp, cùng thầy Kiều Xuân Bá, vốn là cán bộ của khoa chuyển công tác lên Vụ
công tác Chính trị của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Trợ giảng
14
gồm các cán bộ trẻ như các cử nhân Trần Kim Đỉnh, Đặng Hồng Hạnh,
Nguyễn Đình Lê, Ngô Đăng Tri. Đây là số cán bộ trẻ, vốn là sinh viên Khoa
Lịch sử, nhập ngũ vào quân đội trong những năm 1971-1972, sau giải phóng
miền Nam được phục viên trở lại khoa học tập tại chuyên ngành Lịch sử Đảng
mới mở.
Trong đợt phong hàm năm 1984, Bộ môn Lịch sử Đảng chỉ có PGS Lê
Mậu Hãn. Lớp cán bộ kế tiếp những người thầy đầu tiên của Bộ môn vốn là
sinh viên tốt nghiệp các khóa 18, 19, 20 và 21 (Trần Kim Đỉnh, Nguyễn Đình
Lê, Đặng Hồng Hạnh, Ngô Đăng Tri, Vũ Quang Hiển, Đinh Trung Kiên,
Nguyễn Hồng Phúc, Hoàng Hồng) phải vừa làm vừa học trong tình hình kinh
tế xã hội khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Lực lượng vừa lớn lên đã không
được duy trì nguyên vẹn.
Bước vào những năm 80, trong khó khăn chung của đất nước, của
ngành giáo dục, Khoa Lịch sử nói chung và Bộ Lịch sử Đảng nói riêng phải
chịu hậu quả trực tiếp và hết sức nặng nề của cơ chế quan liêu bao cấp và
những đòi hỏi ngặt nghèo của cơ chế thị trường. Do khó khăn trong đời sống
kinh tế mà nhìn chung trong xã hội sự quan tâm đên ngành Sử nói chung cũng
như đến giáo dục truyền thống bị suy giảm nghiêm trọng. Số lượng sinh viên
theo học bị giảm mạnh mẽ.
Giai đoạn 1974-1985 là những năm đầy thử thách khắc nghiệt về vật
chất, nhưng thầy và trò của Bộ môn Lịch sử Đảng, xác định rõ nhiệm vụ: tin
tưởng vào vào Đảng, chính quyền, giữ vững tinh thần, đồng thời tích cực
giảng dạy, nghiên cứu, phục vụ cho khoa học Lịch sử Đảng nước nhà. Với sự
kiên trì, nỗ lực của mình, Bộ môn sớm khẳng định vai trò của mình, trở thành
một địa chỉ tin cậy, được Bộ giao nhiệm vụ đào tạo lớp chuyên tu, nâng cao
trình độ cho gần 40 cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng của các trường đại học
trong cả nước.
15
1.1.2 Đào tạo và nghiên cứu tại Bộ môn Lịch sử Đảng từ năm 1974
đến 1985
Trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, sử học có nhiều lợi thế
trực tiếp tham gia phục vụ sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, ngay từ khi Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập thì Khoa Lịch sử là một trong bốn
khoa đầu tiên của trường có chức năng đào tạo cán bộ nghiên cứu và giảng
dạy sử học ở bậc đại học cho cả nước.
Việc giảng dạy và nghiên cứu Lịch sử Đảng ở Đại học Tổng hợp Hà
Nội đã có từ lâu. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Tổ Mác-Lê nin trực thuộc
Ban Giám hiệu trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập đảm nhận
nhiệm vụ dạy lý luận chính trị, trong đó có môn Lịch sử Đảng, về sau đổi tên
thành Trung tâm Mác-Lê nin và đảm nhận nhiệm vụ khác. Tuy nhiên, việc
thành lập Bộ môn Lịch sử Đảng vào năm 1974, cho thấy quyết định đúng đắn
của Khoa, Nhà trường và Bộ Trung học và Chuyên nghiệp, từ đây việc giảng
dạy và nghiên cứu lịch sử Đảng có không gian học thuật riêng biệt, nhằm đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn cách mạng lúc bấy giờ.
Trong những ngày đầu thành lập, hòa chung vào công cuộc khôi phục,
phát triển kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Bộ
môn lịch sử Đảng đã cố gắng hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Bộ môn và đẩy
mạnh công tác đào tạo. Trước tiên là đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng nhằm
cung cấp cho sinh viên khối kiến thức chuyên sâu về Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, đồng thời tạo cho sinh viên khả năng nghiên cứu độc lập, nhằm
hoàn thiện và nâng cao năng lực làm việc, hơn nữa việc đào tạo cử nhân lịch
sử Đảng cũng cung cấp cho đất nước những “chiến sĩ trung kiên trên mặt trận
tư tưởng”, nhân rộng tinh thần yêu nước dân tộc, giúp nhân dân thấu suốt
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, củng cố tinh thần, đẩy mạnh quá
trình đi tới ngày toàn thắng.
16
Việc giảng dạy, nghiên cứu Lịch sử Đảng trong hệ thống trường Đảng,
trong các trường đại học, cao đẳng được triển khai bằng cách đưa thêm các
lực lượng giáo viên vào giảng dạy. Các lớp đào tạo cấp tốc giáo viên Lịch sử
Đảng, giáo viên Mác - Lênin ở Đại học Tổng hợp được tổ chức mạnh mẽ.
Năm 1975-năm học hòa bình đầu tiên cũng là năm khởi đầu cuộc vận
động biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Chi đoàn cùng với
Đoàn thanh niên của trường đã dấy lên và phát động phong trào xây dựng tập
thể học sinh Xã hội chủ nghĩa. Từ tập thể lớp 3B Khoa Sử được Thành đoàn
Hà Nội công nhận trong niên học trước đó (1974-1975), Phong trào “Sinh
viên tự quản” từ Khoa Lịch Sử, đặc biệt là ở Bộ môn Lịch sử Đảng, đã có sức
mạnh lan tỏa, trở thành kinh nghiệm tốt cho các khoa khác học tập và áp
dụng. Tính hiệu quả và chiều sâu của phong trào xây dựng tập thể học sinh
XHCN không chỉ dừng lại ở hình thức tổ chức mà là xác định một phương
pháp học tập đúng đắn, khoa học cho sinh viên, nâng cao lòng yêu nghề và có
hoài bão lớn.
Từ năm học 1975-1976, trong khí thế chung chiến thắng, Khoa Lịch sử
đã hồ hởi bước sang thời kỳ mới. Thời kỳ này, số lượng sinh viên tăng lên
nhanh chóng. Ngoài mấy chục sinh viên cũ từ mặt trận trở về, đa số là cán bộ
các cơ quan, bộ đội, các trường văn hóa, các đơn vị, quan nhân xuất ngũ,
chuyển ngành, học sinh phổ thông do yêu cầu và lòng ngưỡng mộ, đã nô nức
và Khoa Lịch sử với lòng đầy tin tưởng và tự hào. Không còn thời mỗi khóa
là một lớp nữa mà sinh viên được chọn ngay từ đầu. Sinh viên là đảng viên,
cán bộ, bộ đội chiếm tỷ lệ cao trong các năm học sau chống Mỹ, hình thành
Đảng bộ bộ phận, Liên chi đoàn với số đảng viên đông nhất trong toàn
trường. Trong đó, cán bộ, bộ đội và đảng viên trong Bộ môn chiếm 100% .
Sinh viên Bộ môn Lịch sử Đảng các khóa từ 1974 đến 1979 (Khóa 18
đến Khóa 23) phần lớn là bộ đội chuyên ngành, được đào tạo theo chương
17
trình riêng ngay từ năm thứ nhất. Mỗi lớp là một chi bộ, có khoảng trên dưới
25 đảng viên. Chương trình đào tạo đại học được nối dài khoảng 4 năm rưỡi.
Đội ngũ cán bộ giáo viên cũng được bổ sung thêm nhiều thầy cô trẻ, được đào
tạo cả trong nước và nước ngoài, nhưng cũng có những thầy cô phải ra đi do
nhu cầu tăng cường cán bộ cho các cơ sở phía Nam. Trong hoàn cảnh đó, lớp
giáo viên mới gần như phải lên bục giảng ngay trong một vài năm đầu, những
cử nhân được giữ lại từ những năm đầu tiên của Bộ môn như cử nhân Trần
Kim Đỉnh, Đặng Hồng Hạnh, Nguyễn Đình Lê, Ngô Đăng Tri.
Năm 1975, thầy Lê Mậu Hãn được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Khoa
Lịch sử, thầy Hoàng Bá Sách được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ môn. Giáo
trình, tài liệu học tập, những năm mới thành lập, số công trình nghiên cứu
được công bố còn hết sức khiêm tốn, những dưới sự dẫn dắt của PGS Chủ
nhiệm khoa Lê Mậu Hãn và chủ nhiệm Bộ môn Hoàng Bá Sách, Bộ môn đã
dày công xây dựng bài giảng Lịch sử Đảng cho sinh viên ngành lịch sử-theo
phương thức mỗi cán bộ phụ trách một bài, và hệ thống chuyên đề phục vụ
đào tạo sinh viên ngành:
1. Đường lối quân sự của Đảng
2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa
3. Xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng
4. Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế trong quá
trình cách mạng Việt Nam
5. Đảng lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc thời kỳ 1965-1972
6. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ hậu phương chi viện tiền tuyến thời
kỳ 1945-1975
7. Phương pháp khai thác tư liệu lịch sử Đảng qua các nhân chứng lịch sử
18
8. Một số vấn đề về nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
9. Phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền Nam
10. Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
Nội dung chính của những chuyên đề này nhằm cung cấp cho sinh viên
trước hết là kiến thức cơ sở về chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tiếp theo là phương pháp trong nghiên cứu lịch sử Đảng để giúp sinh viên
nắm bắt được tình hình nghiên cứu lịch sử Đảng qua từng giai đoạn, phương
pháp tốt để nghiên cứu những sự kiện, con người của Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng đi sâu vào lịch sử cách mạng Việt Nam, qua đó
phân tích được đường lối đúng đắn của Đảng, hay những thiếu sót trong quá
trình lãnh đạo qua các giai đoạn lịch sử từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong
các giai đoạn kế tiếp.
Có thể nói, những chuyên đề này khá phù hợp với nhận thức của sinh
viên chuyên ngành, giúp sinh viên nhận thức được từ phương pháp đến cách
thức nghiên cứu lịch sử Đảng. Trang bị cho sinh viên khối kiến thức nghề
nghiệp vững chắc để đóng góp cho ngành khoa học Lịch sử Đảng nước nhà.
Từ năm 1980 (khóa 24), việc đào tạo được thực hiện theo khung
chương trình chung của Khoa Lịch sử trong ba năm đầu, đến năm thứ tư mới
tách lớp để học các chuyên đề chuyên ngành Lịch sử Đảng.
Theo đó, sinh viên học ba năm đầu theo khối kiến thức chung của Khoa
Lịch sử, vào năm thứ 4, sau khi hoàn thành xong học khối kiến thức cơ bản,
cơ sở của ngành như: Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Lịch sử Việt Nam cận
đại, Lịch sử Việt Nam hiện đại, Lịch sử thế giới cổ trung, Lịch sử thế giới cận
đại, Lịch sử thế giới hiện đại, Cơ sở khảo cổ học, Các dân tộc ở Việt Nam,
Phương pháp luận sử học và khối kiến thức nghiệp vụ là: Lịch sử sử học (thế
giới, Việt Nam), Sử liệu học (đại cương), phương pháp định lượng; một số
học phần Hán-Nôm; sinh viên Khoa Lịch sử được phép tự nguyện đăng ký
19
vào chuyên ngành mà mình mong muốn.
Vào đầu năm học thứ tư, sinh viên học theo chuyên ngành lịch sử Đảng
với khối kiến thức chuyên ngành, trong đó có 28 học phần bắt buộc và 7 học
phần tự chọn. Mỗi học phần được ký hiệu bằng một mã số riêng thể hiện vị trí
của học phần đó trong chương trình đào tạo cũng như trình độ và khối lượng
của nó. Mỗi kiến thức học phần có khối lượng từ 2 đến 6 đơn vị học trình,
thông thường, khối kiến thức chuyên ngành lịch sử Đảng chiếm khoảng 2 đơn
vị học trình. Đơn vị học trình thì lại được quy định bằng 15 tiết, mỗi tiết 45
phút lý thuyết, thảo luận, bài tập hoặc bằng 30-45 tiết thực hành, hoặc bằng
45-90 tiết thực tập tại cơ sở, hoặc bằng 45-60 tiết làm tiểu luận, khóa luận tốt
nghiệp, nghiên cứu khoa học. Các học phần lý thuyết chủ yếu được nghe
giảng trên lớp hoặc tự học.
Đối với học phần thực hành, sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng
được đi thực tế theo sự hướng dẫn chỉ đạo của khoa và Bộ môn. Vào đầu học
kỳ cuối cùng của khóa học, sinh viên được hướng dẫn đăng ký làm khóa luận
hoặc thi tốt nghiệp theo chuyên ngành Lịch sử Đảng. Đối với những sinh viên
làm khóa luận, khoa sẽ xét theo tiêu chí điểm trong các học kỳ trước, những
sinh viên đủ điều kiện sẽ được làm khóa luận, khóa luận tốt nghiệp được xem
như một học phần lựa chọn có khối lượng kiến thức là 10 đơn vị học trình, đề
tài khóa luận tốt nghiệp do cán bộ giảng viên hướng dẫn xác định, đăng ký và
thông qua ở Bộ môn; những đề tài có tính chất liên Bộ môn phải được Chủ
nhiệm khoa thông qua trước khi giao cho sinh viên thực hiện.
Những sinh viên còn lại sẽ thi tốt nghiệp bao gồm 2 môn: Quá trình
lãnh thổ dân tộc và môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Môn học “Quá
trình lãnh thổ dân tộc” giúp sinh viên nhận thức được một cách khái quát
về lịch sử lãnh thổ dân tộc, quá trình giữ và giành độc lập dân tộc.
Đối với môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh viên tổng hợp được
20
khối kiến thức về Đảng Cộng sản Việt Nam: từ quá trình thành lập, quá trình
phát triển, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi từ thắng lợi toàn vẹn lãnh thổ đến
thắng lợi trong công cuộc phát triển kinh tế, giữ vững lãnh thổ, lãnh hải và lãnh
không của Việt Nam.
Mỗi cán bộ giảng dạy trung bình từ 300 đến 350 giờ/năm học. Trong đào
tạo, Bộ môn luôn chú trọng việc đổi mới và hoàn thiện khung chương trình, hệ
thống giáo trình, bài giảng, phương pháp giảng dạy.
Từ những thành tích trong đào tạo, Bộ môn được Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp đánh giá cao về chất lượng đào tạo cán bộ chuyên môn Lịch
sử Đảng. Từ năm 1980-1982, Bộ môn vinh dự được Bộ ủy quyền đào tạo “các
lớp chuyên tu, nâng cao trình độ về Lịch sử Đảng cho 40 cán bộ giảng dạy lịch
sử Đảng của các trường đại học từ Đà Nẵng trở ra”
Sau khi thành lập, công tác nghiên cứu của Bộ môn ngày càng được đẩy
mạnh hơn nữa nhằm thiết thực góp phần vào công cuộc khôi phục, phát triển
kinh tế ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, những mảng đề tài phục
vụ quốc phòng được đặc biệt chú ý, một số sinh viên cùng với cán bộ, giáo viên
vào các vùng mới giải phóng ở miền Nam để viết lịch sử địa phương, khảo
sát,… Tiêu biểu như năm 1974, cùng với sinh viên khoa Sinh học, Địa chất, sinh
viên Bộ môn Lịch sử Đảng và một số Bộ môn trong Khoa Lịch sử đã tiến hành
một đợt khảo sát dọc Trường Sơn và thu được nhiều kết quả.
Thành tựu của khoa học lịch sử Đảng trước năm 1975 đã tạo nên được
quan niệm, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Lịch sử, sưu tầm và lưu
trữ được một khối lượng tư liệu Lịch sử Đảng phong phú đưa Lịch sử Đảng
thành môn học ở trường Đảng, các trường đại học và cao đẳng.
Sau ngày thống nhất đất nước, công tác nghiên cứu Lịch sử Đảng được
xúc tiến mạnh mẽ trong cả nước. Đất nước thống nhất là điều kiện thuận lợi cho
các ngành khoa học cơ bản mở rộng việc điều tra, khảo cứu trên toàn quốc. Ưu
21
tiên cho những đề tài các tỉnh phía Nam là một hướng nghiên cứu quan trọng
trong nghiên cứu trong nghiên cứu khoa học của trường Đại học Tổng hợp thời kỳ
sau giải phóng. Thực hiện chủ trương đó, Bộ môn đã triển khai nhiều đề tài khoa
học về điều tra chủ nghĩa thực dân kiểu mới, về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước trên địa bàn miền Nam. Các chương trình phối hợp nghiên cứu với các
trường đại học miền Nam cũng được hình thành và bước đầu thu được kết quả
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, Bộ môn cũng có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học kỷ niệm 50 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, kỷ
niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, kỷ niệm 30 năm thành lập Đại học
Tổng hợp Hà Nội…. Đặc biệt, Bộ môn đã xây dựng được hệ thống bài giảng, tài
liệu tham khảo chuyên sâu cho sinh viên như: Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào Việt Nam, Đảng lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Một số vấn đề về
nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam…
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, do có Đường lối đổi mới, nhất là đổi
mới về tư duy lý luận, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm hơn đối với các lĩnh
vực khoa học xã hội nhân văn nói chung, sử học nói riêng. Trong bối cảnh đó,
khoa học Lịch sử Đảng có môi trường học thuật, điều kiện vật chất thuận lợi hơn
cho việc nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng đội ngũ.
1.2 Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng từ năm 98 đến năm 1995
1.2.1 Tại Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử
Sau Đại hội VI (12-1986) của Đảng, đất nước chuyển sang thời kỳ đổi
mới, song khó khăn vẫn còn rất lớn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn trầm
trọng. Trong khi đó tình hình các nước XHCN càng ngày càng diễn biến phức
tạp, ít nhiều đã tác động đến việc nghiên cứu, học tập của thầy và trò Bộ môn,
đặc biệt là với môn Lịch sử Đảng. Trong thời gian này, Khoa đã tổ chức hình
thức đào tạo liên chuyên ngành của Bộ môn Lịch sử Đảng với Bộ môn Cận
22
hiện đại Việt Nam và Bộ môn Lịch sử Thế giới. Cán bộ trong Bộ môn tích
cực giảng dạy, liên kết nhằm nâng cao chất lượng. Sinh viên cũng bắt đầu
lựa chọn nhóm, ngành học, tích lũy kiến thức theo các đơn vị học trình, các
chứng chỉ,…
Năm 1988, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử được bổ sung thêm
cán bộ giảng viên từ Tổ Lịch sử Đảng của Trung tâm Mác - Lênin của Đại
học Tổng hợp. Lúc này Bộ môn Lịch sử Đảng đảm nhiệm 2 chức năng: Bộ
môn khoa học chuyên ngành Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử có chức
năng nghiên cứu, đào tạo cử nhân theo chương trình của Khoa Lịch sử và
chức năng thuộc các môn khoa học Mác - Lênin có nhiệm vụ “dạy môn
Lịch sử Đang theo chương trình, giáo trình của Bộ giáo dục và Đào tạo cho
sinh viên các khoa, các ngành không chuyên sử của Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội”.
Cũng trong thời gian này, Khoa Lịch sử khuyến khích các cán bộ giảng
dạy mạnh dạn sử dụng máy vi tính và các trang thiết bị hiện đại trong công
việc chuyên môn của mình. Thông qua sự giúp đỡ của Đại học Ôxtrâylia và
đề tài VH26 hợp tác với Hà Lan, “từ năm 1994 Khoa Lịch sử đã xây dựng
được văn phòng thông tin nối mạng internet” [30; 39], đây cũng là một trong
những địa chỉ email đầu tiên ở Việt Nam. Việc hiện đại hóa phương thức
giảng dạy của khoa, giúp cho sinh viên Lịch sử Đảng hứng thú hơn với công
việc học tập, đồng thời cũng nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
Trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996) tuy sự nghiệp đổi
mới đã thu được những thành tựu có ý nghĩa lớn, song, đất nước vẫn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế- xã hội. Trong khi đó tình hình các nước XHCN
càng ngày càng diễn biến phức tạp, ít nhiều đã tác động đến việc nghiên cứu,
học tập của thầy và trò Bộ môn, đặc biệt là với môn Lịch sử Đảng. Số lượng
sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng giảm sút mạnh mẽ. Hàng năm Khoa
23
Lịch sử có trên 100 sinh viên mỗi khóa, song với chuyên ngành Lịch sử Đảng,
số sinh viên đăng ký theo học (năm thứ 4) chỉ ở mức một con số, có khóa chỉ
còn 1 đến 2 người. Như khóa 35 (1990-1994) có 2 sinh viên (Dương Thị Huệ,
Lê Mậu Nhiệm), khóa 36 (1991-1995) có 2 sinh viên (Ngô Vương Anh, Hoàng
Kim Ninh), thậm chí khóa 37 (1992-1996) chỉ có duy nhất 1 sinh viên (Võ
Văn Bé).
Để khắc phục khó khăn, Khoa đã tổ chức hình thức đào tạo liên chuyên
ngành giữa Bộ môn Lịch sử Đảng với Bộ môn Lịch sử Việt Nam Cận - Hiện
đại và Bộ môn Lịch sử Thế giới. Cán bộ trong Bộ môn đã tích cực giảng dạy,
liên kết nhằm giữ vững, nâng cao số lượng và chất lượng đào tạo. Sinh viên
chuyên ngành Lịch sử Đảng những khóa quá ít có thể được gửi sang nghe
chung một số chuyên đề gần, cần cùng với sinh viên chuyên ngành khác.
Ngước lại, khi sinh viên các chuyên ngành khác giảm sút, có thể sang nghe
chuyên đề hay đi thực tế chung với sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng...
Bên cạnh xây dựng đội ngũ giáo viên, công tác học liệu được Bộ môn
Lịch sử Đảng và Khoa Lịch sử chú trọng ngay từ đầu, song rất thiếu thốn,
chưa đa dạng. Trước năm 1996, tài liệu nghiên cứu, học tập cho sinh viên
chuyên ngành là các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các văn
kiện của Đảng, các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước. Như Đường kách mệnh (Hồ Chí Minh), Dưới lá cờ vẻ vang
của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng
lợi mới (Lê Duẩn), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam (Trường
Chinh), Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp
(Phạm Văn Đồng), Chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (Võ
Nguyên Giáp); Về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội (Đỗ Mười, 1992);
Đề cương văn hóa Việt Nam (Trường Chinh, 1943); văn kiện, cương lĩnh,
nghị quyết của Đảng là được coi là căn cứ lịch sử Đảng, ngoài ra còn một số
24
giáo trình các thầy cô trong Bộ môn biên soạn như: Chiến lược đại đoàn kết
Hồ Chí Minh (Lê Mậu Hãn, Phùng Hữu Phú,…); Tư tưởng độc lập tự do đến
chiến lược đại đoàn kết (Bài viết trên tạp chí khoa học, ĐHTHHN, 1992) Đề
cương Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Kiều Xuân Bá, Lê Mậu Hãn), Chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh (Lê Mậu Hãn, Phùng Hữu Phú,…); Đảng
CSVN các Đại hội và hội nghị Trung ương, (Lê Mậu Hãn, Ngô Đăng Tri,...,
1995)...; Ngoài ra Bộ môn còn sử dụng có chọn lọc tài liệu của các tác giả
khác để làm giáo trình và tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên.
Những môn học thuộc chương trình bắt buộc, sinh viên sử dụng những
tác phẩm kinh điển của Các Mác, Ăng-ghen. Một số tác phẩm dịch như: Một
số phương pháp luận sử học (J.Topolsoki), Đại cương phương pháp luận sử
học (E.M. Jukow), Lịch sử là gì? (E.H.Carr), …
Đối với hoạt động đào tạo sau đại học, ngay sau khi được thành lập vào
năm 1956, tập thể cán bộ Khoa Lịch sử đã nhận thức được tầm quan trọng của
công tác đào tạo sau đại học. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn trong giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ xâm lược, công tác đào tạo sau đại học chủ yếu
được hỗ trợ bởi các nước Xã hội chủ nghĩa anh em. Nhiều cán bộ ngành sử đã
được gửi đi đào tạo các hệ phó tiến sĩ và tiến sĩ, sau đó trở về tham gia công
tác giảng dạy và nghiên cứu tại Khoa.
Bốn năm sau ngày thống nhất đất nước, với đội ngũ cán bộ giảng dạy
đã được bồi dưỡng chuyên môn cao và nhằm đáp ứng nhu cầu học sau đại học
ngành Lịch sử trong cả nước, Khoa Lịch sử bắt đầu tổ chức đào tạo hệ phó
tiến sĩ từ năm 1980 (sau này chuyển thành hai hệ thạc sĩ và tiến sĩ. Riêng đối
với Bộ môn Lịch sử Đảng, lúc mới thành lập, Bộ môn chỉ có nhiệm vụ đào
tạo cử nhân để cung cấp giáo viên Lịch sử Đảng cho các trường đại học và
cao đẳng, cán bộ nghiên cứu cho các viện, các ban nghiên cứu Lịch sử Đảng
của trung ương và địa phương trong cả nước. Đến năm 1990, Bộ môn được
25
giao nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, mã số:
50316.
Học viên cao học được tuyển sinh theo hai hình thức là xét tuyển và thi
tuyển sinh. Với hình thức xét tuyển, sinh viên hệ chính quy được chuyển tiếp
sinh trong năm tốt nghiệp nếu có đủ những điều kiện:
- Tốt nghiệp loại giỏi hoặc điểm trung binh chung các môn học 2 năm
đầu đạt 7.0 trở lên, điểm trung ình chung các môn học 2 năm cuối đạt 8.0 trở
len và số đơn vị học trình số đơn vị học trình thi lại toàn khóa không quá 5 %
tổng số đơn vị học trình;
- Được khen thưởng về thành tích trong học tập hoặc nghiên cứu khoa
học cấp trường, khoa trực thuộc trở lên;
- Ngành tốt nghiệp đại học đúng với chuyên ngành đào tạo thạc sĩ
(chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam).
Chương trình đào tạo thạc sĩ có khối lượng kiến thức từ 80 đến 100 đơn
vị học trình gồm ba phần:
Phần 1: Kiến thức chung, gồm các môn Triết học, Ngoại ngữ
Phần 2: Kiến thức cơ sở và chuyên ngành, bao gồm những môn học
nâng cao kiến thức cơ sở, bổ sung và cập nhật kiến thức chuyên ngành
Phần 3: Luận văn thạc sĩ
Thông thường thời gian tuyển sinh học viên cao học vào khoảng tháng
2 và tháng 8 hàng năm, khai giảng (nhập học) vào tháng 11. Thời gian học
chuyên môn là 2 năm (học kỳ I, II, III, IV) trong đó học 2 môn chung vào học
kỳ I (từ tháng 12 đến hết tháng 5) còn học các môn chuyên ngành và thực
hiện và bảo vệ luận văn vào học kỳ II, kỳ III và kỳ IV. Với luận văn tốt
nghiệp, học viên sẽ đăng ký đề tài và Xemina đề cương cuối học kỳ II, sau đó
nộp luận văn vào tháng 9 và bảo vệ luận văn trong tháng 10 và 11 hàng năm.
Chương trình đào tạo tiến sĩ gồm 3 phần:
26
Phần 1: Phần kiến thức chung và kiến thức cơ sở, chuyên ngành của
chương trình.
Phần 2: Các chuyên đề tiến sĩ nhằm trang bị cho nghiên cứu sinh năng
lực nghiên cứu khoa học, cập nhật và nâng cao kiến thức liên quan trực tiếp
đến đề tài, giúp nghiên cứu sinh có đủ trình độ chuyên môn giải quyết đề tài
luận án.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn phải hoàn thành thêm môn Ngoại ngữ C
nâng cao và chuyên ngành với thời lượng 4 đơn vị học trình.
Phần 3: Luận án tiến sĩ.
Trung bình mỗi năm, Bộ môn đào tạo từ 30-50 học viên cao học và
khoảng 3-5 nghiên cứu sinh.
Một số lượng lớn cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng ở các trường đại học,
cao đẳng của ngành Giáo dục và Đào tạo đều do Bộ môn bồi dưỡng nâng cao
trình độ. Các cán bộ của Bộ môn còn tham gia đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở ngoài
khoa, ngoài trường. Riêng tại Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các cán bộ của Bộ môn là lực lượng quan
trọng tham gia giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn, tham gia Hội đồng
chấm luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng.
Hầu hết các luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ bảo vệ đã được xuất bản thành
sách hoặc được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành và có những đóng góp
thiết thực cho cuộc sống. Nhiều người sau khi tốt nghiệp đã trở thành các nhà
khoa học có uy tín, giữ các chức vụ chủ chốt trong cơ quan khoa học và chỉ
đạo thực tiễn ở Trung ương và địa phương.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, do có đường lối Đổi mới, nhất là đổi
mới về tư duy lý luận, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm hơn đối với các
lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn nói chung, sử học nói riêng. Trong bối
cảnh đó, khoa học Lịch sử Đảng có môi trường học thuật, điều kiện vật chất
27
thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng đội ngũ.
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
mở ra một giai đoạn mới trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta. Tư duy đổi
mới của Đảng đã trở thành cơ sở phương pháp luận giúp đội ngũ cán bộ, công
nhân viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội quán triệt vận dụng vào trong
công tác để tìm cách tháo gỡ, khó khăn, đổi mới nhà trường. Năm 1987 là
thời điểm nhà trường chuyển hướng và đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học, chủ trương của Ban Giám hiệu và Đảng ủy là hướng công trình khoa học
vào phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng và phục vụ Thủ đô Hà Nội.
Theo tinh thần đó, hàng chục đề tài nghiên cứu có giá trị thiết thực đã được
hình thành, xúc tiến. Các đề tài đã hướng vào nghiên cứu kết cấu kinh tế - xã
hội, những vấn đề văn hóa - tư tưởng trong thời kỳ quá độ, cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới tư duy… nhằm phục vụ trực tiếp cho việc hoạch định chiến
lược kinh tế-xã hội của Đảng.
Sang đầu những năm 90, hình tình nghiên cứu khoa học có nhiều bước
phát triển mới, song song với nhiệm vụ giảng dạy, các cán bộ trong Bộ môn
cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu, đóng góp quan trọng trong ngành
khoa học Lịch sử Đảng. Từ năm 1990, số lượng các công trình được công bố
ngày càng nhiều và sự chú trọng về học thuật ngày càng nâng cao. Mở đầu là
bài viết của PGS.NGƯT Lê Mậu Hãn: Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân
tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đăng trên Tạp chí lịch sử Đảng, số
5-1990 [8, 118]. Trong bài viết, tác giả đã khẳng định Chánh cương vắn
tắt và Sách lược vắn tắt của Hội nghị thành lập Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì
là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh. Kế thừa và phát huy tinh thần đó, các
cán bộ trong Bộ môn đã có nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học. Về
giáo trình: Có nhiều cuốn sách thuộc các học phần khác nhau do cán bộ của
28
Bộ môn chủ trì, tham gia biên soạn (chủ yếu là Giáo sư Lê Mậu Hãn) đã được
xuất bản như: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 2 tập (cho bậc Đại
học,1989), Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1990),
Khung chương trình đào tạo thạc sĩ, phó tiến sĩ Lịch sử Đảng (cho Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 1991, cho Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996), Lịch sử lớp 12 hệ
chuyên ban trung học (1993); Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III (1998),
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Lê Mậu Hãn, Ngô Đăng Tri).
Về bài giảng chuyên đề chuyên sâu Lịch sử Đảng: do các giảng viên
của Bộ môn nghiên cứu, biên soạn và đưa vào giảng dạy cho sinh viên chuyên
ngành, học viên cao học, nghiên cứu sinh như: Truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê
nin Việt Nam; sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam; Giai cấp tư sản và các
đảng phái chính trị trước 1945; Đảng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền năm 1945; Các nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu Lịch sử
Đảng; Đường lối đối ngoại của Đảng, Một số vấn đề về tư tưởng Hồ Chí
Minh; Sự chuyển biến của phong trào yêu nước 30 năm đầu thế kỷ XX; Hậu
phương của chiến tranh nhân dân Việt Nam; Xây dựng Đảng qua các thời
cách mạng; Đảng lãnh đạo chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ ở miền Bắc,....
Về sách tham khảo: Các cán bộ trong Bộ môn đã chủ biên, độc lập
nghiên cứu, tham gia biên soạn được khoảng 50 đầu sách với nhiều chủ đề,
phạm vị khác nhau như: Bốn mươi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; Các đại hội Đảng ta; Tìm hiểu một số thuật ngữ, khái niệm trong các
môn lý luận Mác – Lê nin; Lịch sử Đảng bộ Hà Nội; Lịch sử Đảng bộ Hà
Tĩnh (2 tập, 1994 và 1995); Lịch sử Đường sắt Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt
Nam – các đại hội và Hội nghị Trung ương; Những chặng đường lịch sử của
Công an Hà Nội; Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ và 20 năm xây dựng đất
nước sau chiến tranh; 20 năm hoạt động của Đảng bộ và nhân dân Triệu Sơn,
29
Khu du kích Khánh Trung – Khánh Thiện trong kháng chiến chống Pháp,
Cách mạng tháng Tám và sự nghiệp giải phóng văn hóa Việt Nam; Vùng tự
do Thanh – Nghệ-Tĩnh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Mấy
vấn đề về xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến ở Thanh-Nghệ-
Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp; Hoạt động kỷ niệm cách mạng tháng
Mười, một hình thức đấu tranh quan trọng ở Việt Nam những năm 1930 –
1945; Hội đồng cung cấp mặt trận trong kháng chiến chống Pháp; Sự thành
lập nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Xô Viết Nghệ Tĩnh, luận chứng đầu tiên về
một hình thái nhà nước kiểu mới ở Việt Nam; Vấn đề ruộng đất trong phong
trào Xô viết Nghệ Tĩnh; Việt Nam đất nước Anh hùng, Ba mươi năm chiến
đấu và xây dựng,…
Về đề tài nghiên cứu: Các cán bộ trong Bộ môn đã chủ trì, tham gia
nghiên cứu hơn một số đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, thành phố, cấp Đại học
Quốc gia như: Chương trình tổng kết của Đảng bộ Hà Nội (1993); Từ điển
Bách khoa Việt Nam (1995); Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ
Chí Minh (1995),...
Về các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí: Có khoảng 40 bài viết
được đăng rên các tạp chí lớn ở trung ương như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí
Lịch sử Đảng, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí
Xưa và nay, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam
Á,...
Về trao đổi quốc tế: một số cán bộ của Bộ môn đã dự Hội nghị, hội
thảo, trao đổi khoa học quốc tế tổ chức tại Việt Nam và ngoài nước như: Liên
Xô, Hà Lan, Cộng hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga, Xingapo,, Malaixia,
Thái Lan,…
Những công trình hoặc tuyển tập công trình do cán bộ của Bộ môn chủ
trì hay tham gia thực hiện đều có chất lượng cao đóng góp thiết thực cho yêu
30
cầu giảng dạy và phục vụ sự nghiệp chung, trong đó có những công trình
được đánh giá cao như:
+ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2 tập, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1989, 380 trang
+ Lịch sử Đường sắt Việt Nam, Nxb Lao Động, Hà Nội, 1994, 350 trang.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam – các Đại hội và hội nghị Trung ương,
Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, 180 trang.
+ Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo công cuộc xây dựng chính quyền (1954-
1986). Đề tài cấp Bộ (tham gia), năm 1991.
Nhìn chung, 10 năm 1986-1996 là thời gian Bộ môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử thực hiện đổi mới hoạt động đào tạo và
nghiên cứu trong điều kiện hết sức khó khăn. Tuy vậy, nhờ sự cố gắng, tâm
huyết của cả thầy và trò, Bộ môn tiếp tục khẳng định được vai trò, vị thế của
một ngành khoa học chính trị, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
đổi mới đất nước, phục vụ đắc lực cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và sự lớn mạnh của Khoa Lịch sử .
1.2.2 Tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Năm 1985, trước yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các
môn khoa học Mác - Lênin của các trường đại học, cao đẳng, môn chính trị
của các trường Trung học chuyên nghiệp trong cả nước “Thực hiện Chỉ thị 25
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V, theo đề nghị của Hiệu trưởng
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1985, Bộ trưởng Bộ
Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Nguyễn Đình Tứ đã ký Quyết định số 1582/QĐ về việc thành lập Trung tâm
Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin tại Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội”
31
Việc ra đời của Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác -
Lênin phản ánh nhu cầu khách quan là việc bồi dưỡng, cập nhật các chủ
trương, đường lối của Đảng đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy các Bộ môn
khoa học Mác - Lênin hết sức quan trọng và cần thiết. Bên cạnh đó, Trung
tâm làm nhiệm vụ giảng dạy các môn lý luận Mác – Lenin cho sinh viên toàn
trường Đại học Tổng hợp.
Việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ phải được tiến hành tập trung, với
quy mô lớn, theo sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn của Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp. Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Tư tưởng – Văn
hóa Trung ương. Do đó, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp thấy cần
thiết phải thành lập một tổ chức đủ mạnh đảm bảo công việc này.
Bộ chọn nơi đặt Trung tâm ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, vì lúc
bấy giờ ở Trường vốn có Bộ môn Mác - Lênin, có nhiều cán bộ giảng dạy có
kinh nghiệm. Hơn nữa, lúc này trong Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã có
khoa Triết học, khoa Kinh tế chính trị (trực thuộc Ban Giám hiệu nhà trường)
và Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (trực thuộc Khoa Lịch sử của
trường) với đội ngũ giảng dạy đông đảo cả về số lượng, đứng hàng đầu trong
cả nước về chất lượng.
Đặt Trung tâm ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp muốn huy động được đông đảo cán bộ của nhà
trường phục vụ cho công tác bồi dưỡng do Trung tâm đảm nhiệm. Sau khi có
quyết định thành lập Trung tâm, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp đã có Quyết định số 1648/QĐ, ngày 11 tháng 12 năm 1985 cử “đồng
chí Nguyễn Duy Qúy, Phó hiệu trưởng kiêm giữ chức vụ Giám đốc Trung
tâm”[10; 8].
Việc dạy và học các môn khoa học Mác - Lênin ở Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội từ sau khi có chỉ thị 25 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
32
khóa V, được đẩy mạnh theo hướng tăng cường đổi mới nội dung và phương
pháp. Đặc biệt từ sau Đại hội VII (1991), với việc Đảng đã khẳng định những
vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò, vị trí của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh… trong đời sống cách mạng Việt Nam, đã khắc phục
được những tư tưởng dao động trong xã hội nói chung, các trường đại học nói
riêng. Như vậy, cuối năm 1985 trở đi, các tổ chức trực thuộc Ban Giám hiệu
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội có thêm tổ chức mới – đó là Trung tâm Bồi
dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin với con dấu và tài khoản riêng.
Trong quyết định của Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp ghi rõ:
- Nhiệm vụ cụ thể của Trung tâm do Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng
hợp quy định
-Trung tâm có con dấu riêng và được phép mở tài khoản tại ngân hàng.
- Trung tâm được tổ chức và hoạt động theo quy định về chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trung tâm trường Đại học, ban hành theo
quyết định số 09/QĐ, ngày 21/3/1984 của Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp.
Bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, các cán bộ làm công tác
chính trị tư tưởng ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
các Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan giáo dục trong cả nước.
Nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các bậc đại
học và sau đại học. Tổ chức thực hiện và phối hợp nghiên cứu khoa học phục
vụ công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tổ
chức thực hiện các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng góp phần giải
quyết những vấn đề kinh tế-xã hội của đất nước.
Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm lúc mới thành lập là Bồi dưỡng
cập nhật kiến thức và tập huấn, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và các Hội
33
nghị Trung ương các khóa cho đội ngũ giảng viên lý luận các trường đại
học,cao đẳng trong cả nước đồng thời cập nhật các chủ trương, đường lối của
đảng và bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng dạy các Bộ
môn Khoa học Mác - Lênin thuộc các trường Đại học, Cao đẳng dưới sự chỉ
đạo trực tiếp về chuyên môn của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
Ban khoa giáo Trung ương, Ban tư tưởng – Văn hóa Trung ương.
Ngay từ khi mới thành lập, Trung tâm đã khẩn trương triển khai thực
hiện các nhiệm vụ được giao.
Trước hết, Trung tâm tiến hành kiện toàn về mặt tổ chức. Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội, bổ nhiệm hai Phó Giám đốc của Trung tâm là đồng chí
Nguyễn Mạnh Chinh và đồng chí Hoàng Đôn, đồng thời một số cán bộ được
điều động về Trung tâm như: Trần Đăng Huân, Võ Phương Thảo, Đào Xuân
Chúc, Nguyễn Hữu Vui. Tổ Lịch sử Đảng của Trung tâm lúc này do thầy
Trần Duy Khang làm tổ trưởng.
Theo đề nghị của Trung tâm, lãnh đạo Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội có quyết định bố trí cho Trung tâm lúc đầu 1 phòng, sau đó là 2 phòng
tầng 4 nhà C khu vực Thượng Đình của trường để làm trụ sở của Trung tâm.
Lúc mới thành lập, Trung tâm gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và
đội ngũ cán bộ. Nhờ sự quan tâm của Đảng ủy và Ban Giám hiệu nhà trường,
những khó khăn ban đầu từng bước được khắc phục tạo tiền đề cho sự phát
triển của Trung tâm về sau.
Số cán bộ thuộc biên chế của Trung tâm được tăng dần theo thời gian,
cả về cán bộ khoa học lẫn cán bộ phục vụ. Sau khi Trung tâm được thành lập
một thời gian ngắn, tháng 12 – 1986, Đảng đã tiến hành Đại hội VI – Đại hội
có vai trò lịch sử trong đại, mở đầu thời kỳ đổi mới một cách toàn diện ở đất
nước ta.
Đại hội đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải thấm
34
nhuần, nắm vững và thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội VI. Thực hiện
nhiệm vụ này, đối với ngành Giáo dục, đặc biệt là giáo dục Đại học và Trung
học chuyên nghiệp là phải tổ chức một cách nghiêm túc việc học tập, nghiên
cứu văn kiện Đại hội VI cho đội ngũ giảng viên lý luận Mác - Lênin của các
trường đại học và cao đẳng trong cả nước.
Trung tâm đã triển khai kế hoạch của Ban Khoa giáo Trung ương và Bộ
Đại học và Trung học chuyên nghiệp tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội VI
cho đông đảo lực lượng cán bộ giảng dạy Mác - Lênin các trường Đại học,
Cao đẳng và Trung học, dạy nghề trong cả nước, được các đồng chí lãnh đạo
của Bộ cũng như người học đánh giá cao.
Bên cạnh việc tổ chức học tập Nghị quyết của các Đại hội Đảng, Trung
tâm đã thực hiện nhiệm vụ tổ chức cho đội ngũ cán bộ giảng viên Mác –Lênin
trong toàn quốc học tập các Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào
dịp hè. Những năm đầu tổ chức học tập trung, mời giảng viên kiêm nhiệm là
chính. Các giảng viên phần lớn dạy từ các trường Đảng, Viện nghiên cứu, các
trường đại học có trình độ cao và có kinh nghiệm. Bên cạnh đội ngũ giảng
viên có trình độ cao và rất có kinh nghiệm, Trung tâm có trách nhiệm quản lý
lớp học, đảm nhiệm chuẩn bị về mặt tài liệu, cán bộ giáo vụ, hướng dẫn thảo
luận và tham gia đánh giá kết quả học tập của học viên.
Ngoài nhiệm vụ chính lúc này là tổ chức quán triệt các Nghị quyết của
Trung ương Đảng, Trung tâm đã thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho cán bộ giảng dạy Mác - Lênin của toàn ngành giáo dục.
Trung tâm tổ chức nhiều sinh hoạt khoa học chuyên đề nhằm rà soát, bổ sung
chương trình, giáo trình kịp thời đưa ra nhiều tri thức mới vào hệ thống bài
giảng, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn của các môn học, góp phần nâng
cao chất lượng hiệu quả giảng dạy các môn học Mác- Lênin.
Mặc dù cơ sở vật chất còn nhỏ bé, trong những năm đầu thành lập, lãnh
35
đạo của Trung tâm đã đặt ra vấn đề trước mắt là xây dựng tủ tài liệu, lâu dài là
xây dựng một thư viện nhỏ để phục vụ trực tiếp cho việc bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ giảng dạy Mác - Lênin. Nhờ chủ trương đúng đắn và phù hợp, sau này
Trung tâm đã soạn được nhiều tài liệu không chỉ cho cán bộ giảng dạy mà còn
tiến xa hơn đối với học tập của sinh viên.
Trong không khí đổi mới của đất nước, đồng chí Nguyễn Văn Linh -
Tổng Bí thư của Đảng đã giành một buổi làm việc trực tiếp với các đồng chí ở
cơ quan Trung ương về việc giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường
đại học.
Buổi làm việc đó được tổ chức ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân – trụ sở của
Trung ương Đảng. Tham gia buổi làm việc có các đồng chí:
- Nguyễn Đức Bình, giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc
- Phạm Như Cương, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội
- Đặng Xuân kỳ, Viện trưởng viện Mác - Lênin
- Nguyễn Duy Qúy, Phó Ban Khoa giáo Trung ương Đảng
Sau khi nghe các đồng chí phát biểu ý kiến về tình hình giảng dạy và
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin ở trường Đảng, trường Đại học, cũng như
các viện nghiên cứu, Tổng Bí thư nhấn mạnh phải coi trọng việc dạy Lịch sử
triết học, nhất là Lịch sử triết học phương Đông.
Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin đặt vấn đề
bồi dưỡng Lịch sử triết học cho đội ngũ cán bộ giảng Mác - Lênin là việc làm
thiết thực để thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng. Để triển khai nhiệm
vụ này, Trung tâm xây dựng kế hoạch mời giảng viên và soạn đề cương nội
dung gửi các giảng viên kiêm nhiệm.
Trung tâm đã mời đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ cao để giảng
dạy về lịch sử triết học cả phương Tây và phương Đông như các thầy: GS.
Trần Đình Hượu, GS. Hà Văn Tấn, GS. Nguyễn Hữu Vui, GS. Phan Ngọc,
36
GS. Nguyễn Duy Thông… Lớp đầu tiên gồm 150 học viên tham dự. Việc tổ
chức bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ giảng dạy đã được tổ chức hết sức
chu đáo, đặc biệt là sử dụng lợi thế mời được cán bộ giảng dạy kiêm chức tốt
nhất trong từng ngành cụ thể.
Căn cứ vào kết quả của lớp bồi dưỡng về Lịch sử Triết học, các lớp kế
tiếp được mở là Kinh tế chính trị. Các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho
cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng cũng vô cùng quan trọng. Cùng với Bộ môn
Chủ nghĩa xã hội khoa học, việc giảng dạy Bộ môn lịch sử Đảng có nhiệm vụ
làm cho người học thấy rõ sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Những biến động diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã gây ra sự
dao động ở một số cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ yêu
cầu mới là phải tăng cường và đổi mới việc giảng dạy các Bộ môn khoa học
Mác - Lênin trong các trường đại học,cao đẳng,cũng như ở các trường trung
cấp,dạy nghề.
Từ đó, nhiệm vụ đặt ra với Trung tâm là hết sức nặng nề và hoạt động
của Trung tâm phải được củng cố và tăng cường. Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội, từ lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường, đến Ban Giám hiệu đã có nhiều
quyết định đúng đắn nhằm tăng cường sự hoạt động của Trung tâm. Nhiều
cán bộ được bổ sung về Trung tâm như các thầy: Trương Văn Phước, Nguyễn
Văn Dương, PGS. Trần Duy Khang, Phạm Việt Trung và nhiều cán bộ trẻ vừa
tốt nghiệp đại học cũng lần lượt bổ sung về Trung tâm như: Đinh Xuân Lý,
Nguyễn Vũ Hảo, Phạm Hồng Tung, Lê Văn Lực, Phùng Xuân Nhạ, Hoàng
Đình Thắng và nhiều cán bộ khác làm giảng viên kiêm nhiệm của Trung tâm.
Nghiên cứu khoa học là một trong những chức năng của Trung tâm
nhằm nâng cao khoa học của Trung tâm, góp phần tích cực vào nhiệm vụ bồi
dưỡng đào tạo cán bộ. Trước năm 1990, số lượng cán bộ còn ít và chỉ đủ điều
37
kiện đảm bảo công tác bồi dưỡng cán bộ lý luận. Từ năm 1992, nhất là từ năm
1992 – 1996, do chức năng nhiệm vụ đào tạo Sau đại học được xác định và
đội ngũ cán bộ được tăng cường về số lượng và chất lượng, hoạt động nghiên
cứu khoa học đã được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức.
Nghiên cứu khoa học trở thành một nhiệm vụ thường xuyên, một yêu cầu
thiết thực đối với mỗi cán bộ giảng dạy của Trung tâm. Bước đầu hình thành một
lực lượng cán bộ giảng dạy trẻ có triển vọng nghiên cứu khoa học tốt.
Trọng tâm của hoạt động khoa học được Trung tâm xác định là nghiên
cứu những vấn đề có liên quan đến việc tổng kết, phát triển lý luận của Đảng
trong thời kỳ đổi mới đất nước, có liên quan đến việc khẳng định và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đến nay, làm cơ sở bổ sung chương trình, giáo trình
và hệ thống chuyên đề phục vụ việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ của
các trường Đại học, cao đẳng.
Trong giai đoạn 1985- 1996, Trung tâm đã liên kết với các cơ sở đào
tạo lớn như Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trường Đại học
KHXH & NV tổ chức 10 cuộc hội thảo khoa học xung quanh vấn đề lý luận
được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Đại hội VII), công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đại
hội VIII), trong đó có một số vấn đề lớn như vấn đề tính chất thời đại, nội
dung cơ bản của thời kỳ quá độ, đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sự phát triển về mặt lý luận Đảng
về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, về đường lối đối ngoại của Đảng.
Trên cơ sở văn bản hợp tác về mặt khoa học và đào tạo cán bộ giữa
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp Matxcơva
“Trung tâm đã tiến hành hợp tác với Viện nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy
38
Mác - Lênin. Trong sự hợp tác này, Trung tâm đã đón đoàn cán bộ của viện
Viện nâng cao trình độ sang thăm Trung tâm và Trung tâm đã cử cán bộ sang
trao đổi và làm việc với Viện nâng cao trình độ của Trường Đại học Tổng hợp
Lô-mô – nô- xốp” [15; 13]
Ngoài trường Lô – mô – nô – xốp, Trung tâm còn hợp tác với khoa
Mác - Lênin của Trường Đại học Tổng hợp Hum – bôn – Berlin của Cộng hòa
Dân chủ Đức.
Quan hệ hợp tác trên đã góp phần tăng cường sự hiểu biết và sự giúp
đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác - Lênin giữa hai
nước, nhất là trong việc trao đổi kinh nghiệm trong việc thực hiện các đề tài
nghiên cứu khoa học và gửi cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng.
Trung tâm đã tập trung chỉ đạo hoạt động khoa học của Bộ môn chuyên
ngành nhằm bổ sung, hoàn chỉnh bốn bộ chương trình và hệ thống bài giảng
chuyên đề sau đại học được Đại học Quốc gia thẩm định và cho phép ấn hành,
sử dụng công tác đào tạo Sau đại hoc
Gắn liền với đề tài nghiên cứu khoa học là công tác sưu tầm, biên soạn
hàng chục đầu sách, sắp xếp hệ thống danh mục và in ấn hàng vạn trang tài
liệu tham khảo và lưu trữ trên mạng máy tính, phục vụ trực tiếp cho học viên
trong việc sưu tầm tư liệu làm luận văn và phục vụ giảng dạy trong các
trường. Đây được coi là bước chuyển biến từ đơn vị chỉ có chức năng bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ sang giai đoạn thực hiện cả chức năng đào tạo,
bồi dưỡng Sau đại tuy thực hiện tốt yêu cầu chuẩn hóa từng bước đội ngũ cán
bộ lý luận Mác - Lênin theo trình độ thạc sĩ chuyên ngành
Tiểu kết
Có thể nói, trong thời gian hơn 20 năm 1974-1995 đào tạo và nghiên
cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp Hà Nội là thời gian gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Song những cán bộ chủ chốt như: Lê Mậu Hãn, thầy Hoàng
39
Bá Sách, Ngô Đăng Tri… đã tâm huyết xây dựng lên Bộ môn Lịch sử Đảng
ngày càng mở rộng quy mô, từng bước hoàn chỉnh ngành nghề đào tạo và xây
dựng đội ngũ cán bộ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu
khoa học trong từng giai đoạn. Bởi vậy, Bộ môn đã vượt lên khó khăn, hoàn
thành nhiệm vụ mà nhà trường và Khoa Lịch sử đưa ra, góp phần đào tạo đội
ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng; đẩy mạnh các hoạt động
nghiên cứu khoa học, làm cho Lịch sử Đảng thực sự trở thành một ngành
khoa học với đúng nghĩa của nó, phục vụ cho sự nghiệp đào tạo nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, cùng với các Bộ môn khác, Bộ môn
Lịch sử Đảng đã tạo nên nét đặc trưng của ngành Lịch sử Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội.
Bên cạnh đó, sự hình thành Trung tâm bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị Mác – Lenin với tổ Lịch sử Đảng cũng là nền tảng cho sự phát triển
của Bộ môn Lịch sử Đảng, Trung tâm bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Mác – Lenin giai đoạn sau.
40
Chƣơng : ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG Ở ĐẠI HỌC
QUỐC GIA HÀ NỘI (TỪ NĂM 99 ĐẾN 2014)
. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Bộ môn Lịch sử Đảng,
Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
2.1.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005
Từ năm 1996, Đại hội Đảng lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện công nghiệp hóa gắn liền với
hiện đại hóa và nêu lên 6 quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải định hướng xã hội chủ nghĩa; Giữ
vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tấc quốc tế; Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, mọi thành phần kinh tế; Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản; Khoa học công nghệ là nền tảng
của công nghiệp hóa hiện địa hóa; Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiểu chuẩn
cơ bản [2, 1].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-đào
tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và
bền vững. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương quyết định định hướng chiến lược phát triển giáo dục-
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm
2000.
Tháng 12 năm 1996, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã thông qua hai nghị quyết quan trọng. Nghị quyết Về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
41
đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Nghị quyết nêu rõ thực trạng giáo dục –
đào tạo ở Việt Nam trong thời gian qua và kết luận: “Sự nghiệp giáo dục –
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được phát triển theo
tư tưởng chỉ đạo là thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu.Giáo
dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển
giáo dục- đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội những tiến bộ
khoa học – công nghệ. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo.
Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại
hình giáo dục- đào tạo trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý” [2; 2].
Như vậy, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu rộng lớn của nguồn nhân lực
đối với sự nghiệp phát triển đất nước thì cần phải có nguồn nhân lực chất
lượng cao, trình độ cao, đóng vai trò nòng cốt thực hiện những nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước. Đồng thời, nguồn nhân lực này sẽ là hạt nhân để đưa đất
nước bắt nhịp và hội nhập quốc tế. Để có bước đi mang tính đột phá, cần phải
có một đầu tàu, làm nòng cốt đổi mới nền giáo dục đại học nước nhà.
Trong bối cảnh mới, công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Bộ
môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử cũng như trường Đại học Quốc gia Hà Nội,
đều đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới.
Ngày 12/2/2001, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 16/2001/QĐ-
TTg ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia, khẳng
định và tăng cường hơn nữa quyền tự chủ của các trường, khoa trực thuộc Đại
học Quốc gia trong nhiều lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là đào tạo, nghiên cứu
khoa học-công nghệ, tổ chức cán bộ, kế hoạch-tài chính và hợp tác quốc tế.
Thực hiện Nghị định của Chính phủ và Quy chế do Thủ tướng Chính
phủ ban hành, thầy và trò ĐHQGHN nỗ lực phấn đấu xây dựng ĐHQGHN
sớm trở thành một Trung tâm đại học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao,
ngang tầm các đại học tiên tiến trong khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế,
42
xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Khoa Lịch sử
cũng hòa nhập vào sự biến đổi chung và tiếp tục phát triển.
“Năm 1997, Khoa có 9 đơn vị gồm các Bộ môn: Lịch sử Cổ trung đại
Việt Nam (PGS.TS KH Vũ Minh Giang làm chủ nhiệm), Lịch sử Cận hiện đại
Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Văn Thư làm chủ nhiệm), Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam (TS Ngô Đăng Tri làm chủ nhiệm), Lịch sử Thế giới (TS Lê
Khắc Thành làm chủ nhiệm), Khảo cổ học (PGS.TS Hán Văn Khẩn làm chủ
nhiệm), Dân tộc học (TS Hoàng Lương làm chủ nhiệm), Phương pháp luận sử
học (GS Hà Văn Tấn làm chủ nhiệm), Trung tâm Thông tin tư liệu (PGS.TS
Nguyễn Văn Khánh phụ trách) và tổ Văn phòng khoa (cô Dương Thị Nhàn
phụ trách)” [7; 38].
Về phía Bộ môn, trải qua lịch sử 20 năm thành lập, nhiều cán bộ, sinh
viên học viên, nhiều nghiên cứu sinh đã kế tiếp nhau giảng dạy, học tập, công
tác xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của Bộ môn và trưởng thành trong sự
nghiệp. Đó là truyền thống trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của nhân dân, tận tụy với nghề nghiệp, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, xây dựng và giữ vững bản lĩnh chính trị, đoàn kết phấn đấu
vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ vì sự lớn mạnh của Khoa,
của Nhà trường, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1997 trở đi, khi đất nước đã ra khỏi tình trang khủng hoảng,
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bộ môn Lịch sử
Đảng cũng ngày càng khởi sắc và có bước phát triển nhảy vọt về chất: các
thầy cô đều học xong chương trình sau đại học. Một số thầy cô được nhận
chức danh PGS: TS Ngô Đăng Tri, TS Đinh Trần Dương, TS Vũ Quang Hiển.
Những cán bộ trẻ theo học chương trình nghiên cứu sinh: ThS Nguyễn Quang
Liệu, ThS Lê Quỳnh Nga hoặc chương trình cao học: Cử nhân Đỗ Thanh
Loan. Đặc biệt PGS Lê Mậu Hãn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà
43
giáo Nhân dân. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh, số lượng các
công trình được công bố ngày càng nhiều.
Cho tới năm 2001, do nhu cầu công tác nhiều cán bộ của Bộ môn đã
chuyển sang đơn vị khác như GS. Kiều Xuân Bá, TS.Trần Kim Đỉnh, TS.
Nguyễn Đình Lê, TS Đặng Hồng Hạnh, ThS. Phạm Quang Minh, ThS. Ngô
Văn Hoán, ThS. Nguyễn Thị Nhân Hòa…và một số thầy cô đã nghỉ hưu như
PGS.NGƯT. Lê Mậu Hãn, thầy giáo Hoàng Bá Sách, cô giáo Phạm Thị
Chính. Dù đã nghỉ hưu hay chuyển đến đơn vị khác, các thầy, cô giáo cũ đều
luôn giữ mối quan hệ và có tình cảm tốt đẹp với Bộ môn, tiếp tục công tác
xây dựng Bộ môn.
Về đào tạo, Nếu như trước năm 1996, Bộ môn Lịch sử Đảng chỉ đảm
nhận nhiệm vụ đào tạo cử nhân Lịch sử Đảng và giảng dạy môn Lịch sử Đảng
cho Khoa Lịch sử và sinh viên Đại học Tổng hợp. Từ năm 1996, về tổ chức
hành chính, Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một, nhưng về
chuyên môn Bộ môn đảm nhận hai nhiệm vụ chính đó là: Giảng dạy môn
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên toàn hai
trường ĐHKHXH&NV và ĐHKHTN, và cũng như các Bộ môn khác, việc
đào tạo chương trình chuyên ngành và hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp cho
sinh viên năm cuối là nhiệm vụ thường niên của Bộ môn.
Do vậy, Bộ môn chú trọng đến việc đổi mới và hoàn thiện khung
chương trình, hệ thống giáo trình, bài giảng, phương pháp giảng dạy.Cụ thể,
trong giai đoạn trước, sinh viên, học viên học theo cơ chế niên chế, học theo
hình thức “cuốn chiếu”, sang giai đoạn này, hòa chung không chí chuyển đổi
cơ chế học tập, Đại học Quốc gia Hà Nội chuyển sang học theo tín chỉ, đây là
một phương thức đào tạo có nhiều ưu thế so với phương thức đào tạo truyền
thống, tuy nhiên cần sự hòa nhập nhanh chóng, khung chương trình đào tạo
phù hợp. Bởi vậy, Bộ môn có sự tích cực chuyển đổi sang cơ chế học mới, có
44
nhiều biện pháp vừa thích hợp vừa thận trọng vừa khẩn trương đưa sự nghiệp
dạy và học lịch sử của Bộ môn sang thời kỳ mới.
Sang thời kỳ mới Bộ môn Lịch sử Đảng không chỉ đảm nhận nhiệm vụ
đào tạo cử nhân lịch sử Đảng nữa mà còn giảng dạy môn Đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho toàn bộ ĐHQGHN. Số lượng cán bộ còn thiếu thốn,
bởi vậy Bộ môn cần có kế hoạch cụ thể từng học kỳ, từng năm học. Với riêng
đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ lịch sử Đảng, đây là lực lượng cốt yếu, Bộ
môn cần có những bài giảng chuyên đề, cách thức học tập hợp lý, thường có
sự trao đổi, thảo luận giữa sinh viên và giảng viên, giữa sinh viên với nhau
nhằm kiểm tra kiến thức đồng thời cũng rèn luyện thêm kỹ năng phản biện
cho mỗi sinh viên.
Về phía sinh viên không chuyên Lịch sử Đảng, mặc dù khối lượng kiến
thức không sâu, không nhiều như đào tạo học viên chuyên, nhưng khối lượng
sinh viên lại rất đông, là môn học cung cấp khối kiến thức cơ sở, vì vậy, giảng
viên cần có kế hoạch giảng dạy thích hợp để vừa cung cấp kiến thức nền,
đồng thời có nhiều phương pháp giảng dạy để cho sinh viên hứng thú hơn
môn học này.. Bên cạnh đó, cần thay đổi phương thức giảng dạy truyền thống
theo lối “đọc-chép” sang chia lớp học thành các nhóm nhỏ, tăng cường trao
đổi, thảo luận, hay thuyết trình, đóng kịch, … vừa giúp cho sinh viên tiếp thu
được kiến thức lại tránh nhàm chán trong giảng dạy và học tập,….
“Từ năm 1996, số sinh viên tự nguyện đăng ký vào học chuyên ngành
lịch sử Đảng lại có xu hướng tăng lên. Khóa 40 (tốt nghiệp năm 1999) có 12
sinh viên, khóa 41 (tốt nghiệp năm 2000) có 37 sinh viên, khóa 42 (tốt Lịch
sử Đảng, có 46 sinh viên, và khóa 43 (tốt nghiệp năm 2002) có 42 sinh viên,
chiếm gần 50% tổng số sinh vên cùng khóa của toàn Khoa Lịch sử . Bằng các
loại hình khác nhau, đến năm 2001, Bộ môn đã đào tạo được gần 500 cử
nhân” [7; 54]
45
Về đào tạo sau đại học, một số lượng lớn cán bộ giảng dạy Lịch sử
Đảng ở các trường đại học, cao đẳng của ngành giáo dục và Đào tạo đều do
Bộ môn bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao
học đã theo học tại Bộ môn. Đến năm 2001, Bộ môn đã trực tiếp đào tạo được
15 tiến sĩ, thạc sĩ Lịch sử. cũng bậc đào tạo cử nhân, số học viên cao học và
nghiên cứu sinh chuyên ngành Lịch sử Đảng cũng có xu hướng tăng lên.
Các cán bộ của Bộ môn còn tham gia đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở ngoài
khoa, ngoài trường. Riêng tại Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các cán bộ của Bộ môn là lực lượng quan
trọng tham gia giảng dạy chuyên đề, đến năm 2001, trực tiếp hướng dẫn 20
luận văn, tham gia trên 70 Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng.
Những cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ do Bộ môn đào tạo đều có chất lượng
cao toàn diện. Sau khi ra trường họ đều phát huy tốt vai trò của mình, nhiều
người đã trưởng thành, giữ cương vị quan trọng tại các cơ quan của Đảng,
chính quyền, đoàn thể ở các trường, các viện, các ban nghiên cứu lịch sử của
trung ương và địa phương.
Trong hợp tác quốc tế, Bộ môn cũng tạo điều kiện cho những cán bộ trẻ
ra nước ngoài để học thêm những kiến thức cũng như kỹ năng giảng dạy và
nghiên cứu; cán bộ của Bộ môn cũng đã tham dự hội thảo và trao đổi, khảo
sát khoa học tại CHLB Đức, Áo (1999), LB Nga (2000), Malaysia, Singapore
(2001, 2004), Pháp (2003, 2004), Hà Lan (2003), Ytalia (2004),
Thông qua các chương trình hợp tác, các mối quan hệ quốc tế mà nhiều
cán bộ trong Bộ môn ngày một trường thành, có trình độ chuyên môn, ngoại
ngữ tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và giàu kinh nghiệm, từng bước nâng
cao trình độ khoa học và đào tạo của Bộ môn hòa nhập với khu vực và trên
thế giới.
Hoạt động nghiên cứu tiếp tục được đẩy mạnh cùng với xu hướng đánh
46
giá khách quan lịch sử. Thời gian từ năm 1996-2006, Bộ môn đã thành công
rực rỡ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học:
Về sách tham khảo: Cán bộ và giảng viên Bộ môn đã chủ biên và tham
gia biên soạn gần 100 đề tài: Lịch sử phong trào công công nhân, công đoàn
tỉnh Đắk Lắk, Ninh Bình, Đồng Tháp; Phan Bội Châu – con người và sự
nghiệp; Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; Căn cứ du
kích ở Đồng bằng Bắc Bộ 1945-1954; Đạo đức phong cách lề lối làm việc
của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Vùng tự do Thanh-Nghệ-
Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954); Điện Biên Phủ, các văn
kiện của Đảng, Nhà nước; Điện Biên Phủ: hợp tuyển các công trình khoa
học; Điện Biên Phủ dưới góc nhìn của các nhà khoa học Việt-Pháp; Việt Nam
trong tiến trình thống nhất đất nước và hội nhập; Cách mạng Tháng Tám,
một sự kiện lịch sử vĩ đại; Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ
1945-1954; Lịch sử phong trào công nhân Đồng Tháp; Lịch sử phong trào
công nhân Ninh Bình; Lịch sử phong trào công nhân Đắc Lắc; Lịch sử Đảng
bộ Hương Khê (1930-2000); Lịch sử trường Chính trị Hà Tĩnh (1945-
2002);...
Cùng với việc nghiên cứu trực tiếp để giảng dạy và viết giáo trình, các
thành viên trong Bộ môn, tùy thuộc vào uy tín nghề nghiệp của mình đã được
thu hút vào các chương trình nghiên cứu nhà nước, cấp bộ, thành phố, cấp Đại
học Quốc gia Hà Nội. Hầu hết các thành viên trong Bộ môn đã là chủ trì đề
tài và là thành viên của hơn 10 đề tài nghiên cứu: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh; Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ Đảng và dân; Công tác xây
dựng Đảng thời kỳ đổi mới; Nghệ Tĩnh với phong trào xuất dương cứu nước
đầu thế kỷ XX, Lịch sử chính phủ, Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo
vệ chính quyền nhân dân thời kì 1975 – 1985, Công tác thanh vận của Đảng ở
miền Bắc thời kì 1965 – 1975; Phong trào 5 xung phong của thanh niên miền
47
Nam thời kì 1965 – 1975; Giáo dục kháng chiến sau cải cách giáo dục (1951
– 1954),…
Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa, thực tế đến các tỉnh Tây Bắc, miền
Trung,… là hoạt động thường niên của Bộ môn. Hoạt động này có ý nghĩa hết
sức lớn lao, giúp sinh viên mở rộng kiến thức, nhận thức sâu hơn những kiến
thức được học trên lớp, bên cạnh đó, làm tăng cường tinh thần đoàn kết, thân
ái của thầy và trò trong Bộ môn
Đối với sinh viên, hằng năm, Bộ môn triển khai nghiên cứu tổ chức hội
nghị khoa học sinh viên, đánh giá và khen thưởng hàng năm công tác NCKH
sinh viên, sinh viên có thể tham gia xê-mi-na chuyên đề khoa học, báo cáo
khoa học tại các hội nghị; công bố các bài báo khoa học trên các tạp chí
chuyên ngành. Đồng thời tham gia khảo sát thực địa, thực nghiệm khoa học,
thực hiện khóa luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu. Sinh viên có thể phát triển
công trình của mình thành niên luận hay khóa luận. Cán bộ giảng dạy có trách
nhiệm tham gia hướng dẫn sinh viên NCKH theo phân công của khoa trong
kế hoạch giảng dạy hàng năm. Cán bộ giảng dạy hướng dẫn một công trình
NCKH của sinh viên năm thứ ba trở xuống được tính tối đa 20 giờ chuẩn [23,
41]. Cán bộ giảng dạy hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp của sinh viên được
tính giờ chuẩn theo quy định. Những công trình NCKH sinh viên đạt giải
được công điểm thưởng vào điểm trung bình chung học tập của học kỳ, của
năm học và của toàn khóa để làm căn cứ xét chuyển tiếp vào bậc sau đại học
và các quyền lợi khác
2.1.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2014
Kể từ năm 2006, Bộ môn đứng trước những thử thách mới. Thầy trò Bộ
môn Lịch sử Đảng tuy đã trưởng thành và có sự từng trải, song khó khăn giai
đoạn này không giống giai đoạn trước. “Năm 2006, trong biên chế chính thức
của Bộ môn chỉ còn 7 cán bộ, trong đó có 4 người đã bước qua tuổi 50. Yêu
48
cầu nhiệm vụ ngày càng nặng nề: số lượng sinh viên chuyên ngành ngày càng
đông thường xuyên chiếm từ 30 đến 45% tổng số sinh viên năm cuối của
Khoa Lịch sử . Số lượng nghiên cứu sinh và học viên cao học bình quân mỗi
khóa có tới 20 người (2001-2006). Phần lớn cán bộ trong Bộ môn phải đảm
nhận thêm việc giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhiều lớp Đại học
Quốc gia Hà Nội”.
Đến những năm học 2012-2013 và 2013 -2014, tình hình các đặt ra
những thử thách, yêu cầu mới:
Lúc này Bộ môn Lịch sử Đảng có chức năng nhiệm vụ rất quan trọng,
khó khăn và đặc thù: Đó là vừa làm chức năng của một Bộ môn chuyên ngành
khoa học của Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXHNV, ĐHQGHN, có nhiệm vụ
giảng dạy, nghiên cứu, đào tạo cả 3 trình độ, 3 bằng cấp: Cử nhân, ThS và TS
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Lịch sử Đảng); vừa làm
chức năng của một Bộ môn lý luận chính trị, đảm nhiệm giảng dạy môn
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho tất cả sinh viên của
các trường các khoa của ĐHQGHN. Đó là cùng lúc trực tiếp làm nhiệm vụ
giảng dạy, nghiên cứu môn học Lịch sử Đảng, môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam (Đường lối) và tham gia giảng dạy, nghiên cứu môn
Tư tưởng Hồ Chí Minh. Những môn học đó có nhiều điểm đặc thù, cả về nội
dung chuyên môn khoa học lẫn yêu cầu chính trị, tư tưởng.
Số sinh viên, học viên cao học, NCS của Bộ môn Lịch sử Đảng lúc này
đang ở số lượng rất lớn, song đội ngũ giảng viên thiếu trầm trọng. Trong các
năm học từ 2008-2014, số sinh viên, học viên cao học, NCS theo học chuyên
ngành Lịch sử Đảng tăng lên nhanh chóng. Năm học 2012- 2013, có 74/117
sinh viên năm thứ 4 của Khoa Lịch sử đăng ký theo học và tốt nghiệp cử nhân
tại Bộ môn Lịch sử Đảng, có 2/3 số học viên cao học, NCS của Khoa là thuộc
Bộ môn Lịch sử Đảng. Trong khi đó, số giáo viên cơ hữu của Bộ môn năm
49
2012 chỉ có 5 người: 2 PGS.TS, 2 TS, 1 ThS-NCS, đến tháng 10/2013, Bộ có
thêm 1 PGS.TS, 1 TS, 1 ThS nhưng phải đảm nhiệm dạy môn Đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam cho cả ĐHQGHN chứ không chỉ 2 trường như
trước là ĐHKHXH &NV và ĐHKHTN như trước. Do sản phẩm đào tạo của
Bộ môn đã và đang là giảng viên môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở hầu hết các trường đại học, cao đẳng
trong cả nước, nhất là khu vực phía Bắc; và Bộ môn có một đội ngũ hơn 30
nhà khoa học là các PGS, TS ngoài ĐHQGHN, được mời làm giáo viên tỉnh
giảng đại học, hướng dẫn luận văn, luận án SĐH nên sự quản lý, điều hành,
phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn, song đổi lại, Bộ môn
có quan hệ, ảnh hưởng rất rộng với giới khoa học lý luận Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nhiệm vụ đào tạo, khoa xác định rõ: “mềm hóa nội dung nghiên
cứu, đào tạo trên nguyên tắc bảo đảm chất lượng cao, khai thác triệt để mọi
tiềm năng sẵn có, thích nghi và mở rộng dần khả năng phục vụ chính trị xã
hội, xã hội của sử học ngay trong cơ chế thị trường, củng cố niềm tin của
nhân vào Đảng, vào chính quyền” [7; 38].
Đến năm 2008, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, thực hiện chủ trương chung của Trung ương Đảng, đã chủ trương biên
soạn và ban hành chương trình, giáo trình mới các môn khoa học về chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với thời lượng 10 tín chỉ, gọi là các
môn Lý luận chính tri. Trong đó môn Lịch sử Đảng Cộng sản Hồ Chí Minh
được thay thế, tích hợp bằng môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam với thời lượng 3 tín chỉ (môn Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lê nin gồm triết học Mác- Lê nin, Kinh tế Chính trị Mác- Lê nin và CNXH
khoa học có 5 tín chỉ, môn tư tưởng Hồ Chí Minh có 2 tín chỉ). Những môn
học mới đó được áp dụng thống nhất trong các trường đại học và cao đẳng
50
trên toàn quốc. Riêng các trường có khoa, Bộ môn đào tạo chuyên về các môn
học khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì có chương trình, giáo
trình riêng do các trường đó quy định.
Đây là một sự đổi mới quan trọng trong quan hệ tới việc giảng dạy, học
tập môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong các trường đại học và cao
đẳng ở nước ta. Từ đây chương trình, nội dung môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm phần đường lối cách mạng DTDCND và
phần đường lối cách mạng XHCN, trong đó phần cách mạng xã hội chủ nghĩa
(1976-2008) được biên soạn chú trọng về đường lối thời kỳ đổi mới, chi tiết
tới từng đường lối cụ thể (như đường lối công nghiệp hóa, đường lối xây
dựng hệ thống chính trị, đường lối văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội,
đường lối đối ngoại) nên có thể khiến giáo viên, sinh viên có sự lúng túng do
phải cập nhật tư liệu, nhận định, các thông tin mới nhiều hơn.
Đối với Bộ môn Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH &
NV, một Bộ môn khoa học cơ bản, có mã số đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, việc cần có sự điều chỉnh
thích hợp. Định hướng của Trường và Khoa là tất cả sinh viên đều học môn
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam như các khoa khác, đồng
thời vẫn tiếp tục đào tạo các cấp học đại học, sau đại học theo mã số đã có
cho sinh viên chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN ở học kỳ 7 và học kỳ 8. Sinh
viên học viên cao học, NCS chuyên ngành Lịch sử Đảng ngoài các chuyên đề
như trước sẽ học thêm một chuyên đề bắt buộc là Lịch sử ĐCSVN với 2 tín
chỉ theo giáo trình đã được Bộ ban hành.
Như vậy đến năm học 2007-2008, một bước ngoặt mới đã diễn ra trong
lịch sử ngành khoa học Lịch sử ĐCSVN. Đó là bước ngoặt tồn tại song song
hai chương trình, giáo trình quan hệ mật thiết với nhau: Môn Đường lối cách
mạng của ĐCSVN và môn Lịch sử ĐCSVN. Môn Lịch sử ĐCSVN về cơ bản
51
được thay thế bởi môn Đường lối cách mạng của ĐCSVN [15; 11].
Năm 2006-2007, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển hóa quá trình giảng dạy ở bậc đại
học thành quá trình tự học sinh viêm có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng
viên, ứng dụng mạnh mẽ các phương tiện hỗ trợ và cộng nghệ thông tin, chấm
dứt tình trạng “đọc – chép” trên giảng đường đại học [25; 89]. Các trường tổ
chức chỉ đạo việc giảm thời gian lý thuyết, tăng thời gian hội thảo có giảng
viên hướng dẫn, thời gian sinh viên tự nghiên cứu có hỗ trợ về tư liệu và
phương pháp của giảng viên. Trong năm học 2006-2007, thực hiện 50% thời
gian môn học dành cho lên lớp và thời gian hội thảo có giảng viên hướng dẫn
và sinh viên tự nghiên cứu
Từ tháng 5/2006, Đại học Quốc gia Hà Nội chính thức áp dụng phương
thức đào tạo tín chỉ. Năm học 2007-2008, Trường ĐHKHXH&NV bắt đầu áp
dụng phương thức đào tạo tín chỉ cho sinh viên năm thứ nhất (khoá QH-
2007). Theo đó, ngành lịch sử đào tạo chương trình cử nhân chuẩn (138 tín
chỉ) và cử nhân chất lượng chất lượng cao (152 tín chỉ), sau khi hoàn thành
các môn học thuộc khối kiến thức chung, khối kiến thức toán, cở sở của
ngành, nhóm ngành, sinh viên sẽ học những môn học thuộc kiến thức chuyên
ngành lịch sử Đảng bao gồm 2 nhóm bắt buộc và tự chọn.
Số sinh viên và học viên cao học, NCS theo học chuyên ngành Lịch sử
Đảng tăng lên một cách nhanh chóng. Số lượng học viên cao học, NCS bình
quân mỗi khóa có trên 20 người, đặc biệt như năm 2009, có tới 43 học viên
cao học, 6 NCS. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên còn phải đảm nhiệm công tác
đào tạo sau đại học cho nhiều cơ sở khác trong và ngoài ĐHQGHN và dạy
thêm môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhiều lớp trong ĐHQGHN. Bình quân
mối năm, một cán bộ trong Bộ môn phải đứng lớp trên 600 giờ (chưa tính giờ
quy đổi, giờ sau đại học), gấp đôi giờ chuẩn.
52
Tính đến năm 2009, sau gần 20 năm đào tạo sau đại học, Bộ môn lịch
sử Đảng có 9 tiến sĩ, 100 thạc sĩ trên tổng số 258 thạc sĩ của Khoa Lịch sử 1.
Năm 2012, số học viên cao học, NCS Lịch sử Đảng do Bọ môn Lịch sử
Đảng quản lý chiếm 2/3 sĩ số cao học của Khoa. “Năm học 2013-2014, Bộ môn
có 8 giáo viên cơ hữu (4 PGS, 2 TS, 2 ThS), hơn 250 cao học, gần 60 NCS”.
Về chương trình đào tạo, chương trình đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ vẫn
được giữ nguyên kết cấu ba phần như trước. Tuy nhiên cụ thể các môn học
đào tạo có thay đổi do nhu cầu giảng dạy, học tập và sự thay đổi theo cơ chế
tín chỉ, cụ thể như sau:
Chương trình đào tạo Thạc sĩ: Học viên trước khi học môn học chuyên
ngành phải học khối kiến thức chung bao gồm: Triết học và Ngoại ngữ. Sau
đó mới học khói kiến thức nhóm chương trình.
Khung chương trình đào tạo dành cho NCS có bằng thạc sĩ ngành đúng
hoặc phù hợp 89 tín chỉ: Các học phần tiến sĩ bao gồm: 6 tín chỉ bắt buộc và
chọn 3/6 tín chỉ môn tự chọn, ngoại ngữ học thuật nâng cao:4 tín chỉ, các
chuyên đề tiến sĩ: được chọn 4/8 tín chỉ và tài liệu tổng quan: 2 tín chỉ; ngoài
ra, học viên phải tiến hành nghiên cứu khoa học đây là hoạt động không tính
số tín chỉ nhưng là yêu cầu bắt buộc trong chương trình đào tạo), cuối cùng là
Luận án tiến sĩ chiếm 70 tín chỉ.
Khung chương trình dành cho NCS có bằng thạc sĩ ngành gần (104 tín
chỉ) Học viên học khối kiến thức bổ sung giống với khối kiến thức chung
trong chương trình đào tạo Thạc sĩ (15 tín chỉ); các học phần tiến sĩ và tài liệu
tổng quan cũng như nghiên cứu khoa học, luận án tương tự như khung
chương trình cho NCS đúng ngành.
Khung chương trình dành cho NCS từ cử nhân (126 tín chỉ): Ngoài học
1 Đứng đầu trong các chuyên ngành đào tạo Thạc sĩ của Khoa Lịch sử
phần tiến sĩ và tiểu luận tổng quan, NCS phải hoàn thành các học phần bổ
53
sung kiến thức bao gồm: khối kiến thức chung (7 tín chỉ-môn Triết học), khối
kiến thức nhóm chuyên ngành (15 tín chỉ) và khối kiên thức chuyên ngành
(15 tín chỉ).
Nét mới trong các công trình khoa học trong thời kỳ này là phương
pháp tư duy khoa học mới, khách quan,toàn điện được hỗ trợ bởi nguồn tư
liệu phong phú, phương pháp nghiên cứu hiện đại, thể hiện rõ tính liên ngành.
Thông qua các chương trình khoa học này, cán bộ nghiên cứu và giảng dạy
trong Bộ môn có thêm điều kiện thuận lợi sát cánh cùng nhau trong các công
trình khoa học chung, nâng cao một bước hiệu suất nghiên cứu và phục vụ
trực tiếp, hiệu quả cho Đảng và Nhà nước hoạch định các chiến lược phát
triển chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa xã hội và con người trong tình
hình mới.
Cán bộ giảng dạy và nghiên cứu ở Bộ môn dù là các giáo sư đầu ngành
hay những người vừa mới được giữ lại Bộ môn đều có tối thiểu một công
trình khoa học công bố trong một năm học. Bình quân mỗi năm học, Bộ môn
có thêm 2 đến 3 đầu sách mới và gần 20 bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí
khoa học trong nước, cán bộ của Bộ môn luôn có bài tham gia các hội thảo
khoa học cấp trường, cấp Quốc gia và quốc tế về những chủ đề liên quan đến
lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
năm học 2012- 2013, cán bộ của Bộ môn đã tham gia các hội thảo khoa học
lớn như “Hiệp định Paris về Việt Nam, 40 năm nhìn lại”, “Tiếp tục đổi mới hệ
thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI”. Hàng
năm, mỗi cán bộ đều có ít nhất một bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, có
người trên 5 bài, một số có sách chuyên khảo được xuất bản, các cán bộ của
Bộ môn đều chủ trì hoặc tham gia mỗi người ít nhất 1 đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Nhà nước, cấp ĐHQG hoặc cấp trường, như Lịch sử Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Quan hệ thương mại Việt Nam- Liên bang Nga, Đảng bộ
54
Hà Nội với công tác điều chính địa giới hành chính...
Một số cán bộ được coi là những “cây bút xuất sắc”, có rất nhiều đóng
góp cho hoạt động nghiên cứu khoa học không chỉ riêng ở Bộ môn mà còn
cho ngành khoa học Lịch sử Đảng, như: PGS TS Ngô Đăng Tri, PGS TS Vũ
Quang Hiển. Chỉ riêng hai cán bộ này, tổng cộng đến nay đã có trên 200 bài
đăng tạp chí, sách, giáo trình được công bố cả viết riêng và viết chung, với
chất lượng tốt. Một số sách tiêu biểu được xuất bản trong năm 2012 là cuốn:
82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, những chặng đương lịch sử (1930- 1982),
của PGS.TS Ngô Đăng Tri (Nxb Thông tin và Truyền thông, HN); Cuộc vận
đông nông dân của Đảng thời kỳ 1930- 1945, do PGS.TS Vũ Quang Hiển chủ
biên (Nxb ĐHQGHN); Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I (1930-
1975) do PGS.TS Ngô Đăng Trị và PGS.TS Vũ Quang Hiển tham gia biên
soạn (Nxb Phụ nữ, HN),...
Tuy phải giảng dạy nhiều lớp, nhiều khoa, kế hoạch bị động, thời gian
giảng dạy dài rải đều quanh năm, địa điểm giảng dạy ở các địa phương xa Hà
Nội, song cán bộ của Bộ môn vẫn rất cố gắng trong nghiên cứu khoa học. Nhiều
đề tài nghiên cứu, giáo trình, chuyên luận về Lịch sử Đảng, Lịch sử Việt Nam
cận hiện đại đã được cán bộ của Bộ môn chủ trì hoặc trực tiếp tham gia
Bên cạnh công tác giảng dạy, công tác biên soạn giáo trình đại học và
sau đại học được Bộ môn rất chú trọng. Những cuốn giáo trình như: Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam (2006) được PGS TS Ngô Đăng Tri, PGS TS Vũ Quang Hiển cũng các
đồng nghiệp dường như không còn xa lạ đối với sinh viên đại học cao đẳng
trên cả nước, những cuốn giáo trình này cung cấp kiến thức cơ sở nền tảng
cho mỗi sinh viên để có thể tự tư duy, nghiên cứu và có những đóng góp, bổ
sung cho tri thức của nhân loại,
Ngoài các bộ giáo trình trên, các thành viên trong Bộ môn đã biên soạn
55
các giáo trình chuyên đề dùng cho sinh viên đại học năm cuối, cho học viên
cao học và nghiên cứu sinh như: Một số vấn đề nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930-2013), Một số vấn đề trong đường lối quân sự của Đảng,
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng bộ máy chính quyền
cách mạng thời kỳ 1945-1960, Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời
kỳ 1945-1954, Công tác vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930-2009) Đảng Cộng sản Việt Nam, các đại hội và Hội nghị Trung ương
Những cuốn giáo trình trên không chỉ phục vụ việc học tập của sinh viên
trong trường, mà còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cán bộ nghiên
cứu và giảng dạy lịch sử trong cả nước.
- Về sách tham khảo và các bài viết: Cán bộ và giảng viên Bộ môn đã
chủ biên và tham gia biên soạn gần 100 đề tài); 80 năm Đảng Cộng sản Việt
Nam, những chặng đường lịch sử (1930-2010);Biên niên Lịch sử Phụ nữ Việt
Nam (2012)... Đã có khoảng gần 80 bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí:
Trên các tạp chí lớn ở trung ương như Tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu lịch sử,
Lịch sử quân sự, Khoa học, Xưa và nay, Nghiên cứu châu Âu, Nghiên cứu
Đông Nam Á,,… đã được công bố.
Trong hợp tác quốc tế, Bộ môn tiếp tục tạo điều kiện cho những cán bộ
trẻ ra nước ngoài để học thêm những kiến thức cũng như kỹ năng giảng dạy
và nghiên cứu; cán bộ của Bộ môn cũng đã tham dự hội thảo và trao đổi, khảo
sát khoa học tại Austraylia (2005), CHDCND Lào, Thái Lan (2007, 2009),
Trung Quốc (2009), Campuchia (2010), Hàn Quốc (2013)….
Thông qua các chương trình hợp tác, các mối quan hệ quốc tế mà nhiều
cán bộ trong Bộ môn ngày một trường thành, có trình độ chuyên môn, ngoại
ngữ tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và giàu kinh nghiệm, từng bước nâng
cao trình độ khoa học và đào tạo của Bộ môn hòa nhập với khu vực và trên
thế giới.
56
Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa, thực tế đến các tỉnh Tây Bắc, miền
Trung,… là hoạt động thường niên của Bộ môn. Hoạt động này có ý nghĩa hết
sức lớn lao, giúp sinh viên mở rộng kiến thức, nhận thức sâu hơn những kiến
thức được học trên lớp, bên cạnh đó, làm tăng cường tinh thần đoàn kết, thân
ái của thầy và trò trong Bộ môn
Đối với sinh viên, hằng năm, Bộ môn triển khai nghiên cứu tổ chức hội
nghị khoa học sinh viên, đánh giá và khen thưởng hàng năm công tác NCKH
sinh viên. Mặc dù là môn chuyên ngành của sinh viên năm thứ 4, nhưng ngày
từ năm học đầu tiên, đã có sinh viên đam mê và có hướng nghiên cứu theo
chuyên ngành Lịch sử Đảng, hàng năm có khoảng 20 bài báo cáo khoa học
sinh viên. Hội nghị khoa học sinh viên là hoạt động thường niên của Bộ môn
được đông đảo sinh viên tham gia, trong hội nghị, các cán bộ và sinh viên tích
cực trao đổi, thảo luận, lựa chọn ra những bài báo cáo có chất lượng tốt tham
gia vào hội nghị khoa học sinh viên cấp khoa và cấp trường
. Đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Bộ môn Lịch sử Đảng,
Trung tâm Bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính trị
2.2.1 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2005
Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới sau khi Đại học Quốc gia Hà Nội
được thành lập. Ngày 17-10-1995, Ban Khoa giáo Trung ương có công văn số
383 – KG/TW gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Giám đốc Đại học
Quốc gia Hà Nội về việc nhất trí đặt Trung tâm bồi dưỡng giáo viên Mác -
Lênin thuộc Đại học Tổng hợp cũ trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngày
08-11 -1995 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có công văn số 7569/TCCB
gửi Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội làm thủ tục cần thiết đặt Trung tâm
Trung tâm bồi dưỡng giáo viên Mác - Lênin trực thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội. Thực hiện công văn trên, ngày 16-1-1996, Giám đốc Đại học Quốc gia
Hà Nội ra Quyết định số 31/TCCB thành lập Trung tâm bồi dưỡng cán bộ
57
giảng dạy lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trực thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội trên cơ sở Trung tâm bồi dưỡng giáo viên Mác - Lênin
thuôc Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây.
Từ sau khi “Điều lệ tổ chức và hoạt động” của Trung tâm được Đại học
Quốc gia Hà Nội ký quyết định và ban hành, bộ máy của Trung tâm đã có
bước phát triển mới.
Sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của Trung
tâm về chức năng, nhiệm vụ là ngày 14/8/2000, Văn phòng Ban Chấp hành
Trung ương Đảng CSVN có Công văn số 4635-CV/VPTW gửi Đại học Quốc
gia Hà Nội và Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thường trực Bộ
Chính trị về Đề án đào tạo thạc sĩ Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh do
Trung tâm soạn thảo. Thực hiện công văn trên, ngày 5/1/2001 Giám đốc Đại
học Quốc gia Hà Nội ra Quyết định số 09/ĐT-SĐH giao nhiệm vụ cho Trung
tâm đào tạo sau đại học theo hình thức không tập trung đối với giáo/giảng
viên lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp. Tiếp đó, ngày 27/12/2001, Giám đốc Đại
học Quốc gia Hà Nội có Công văn số 533/ĐT-SĐH cho phép Trung tâm tổ
chức đào tạo thạc sĩ các khoa học Mác - Lênin theo hình thức Tích luỹ chứng
chỉ.
Cơ cấu cấu tổ chức: “Căn cứ vào Điều lệ tổ chức và hoạt động của
Trung tâm được ban hành theo Quyết định số 649/TCCB,ngày 10/10/1996
của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đã kiện toàn lại Ban
Giám đốc, các phòng chức năng,các Bộ môn khoa học trực thuộc, bổ nhiệm
nhân sự phụ trách các phòng, các Bộ môn khoa học, thành lập Hội đồng khoa
học- cơ quan tư vấn công tác bồi dưỡng, đào tạo, nghiên cứu và hoạt động
khoa học cho Ban Giám đốc”.
Trung tâm đã có nhiều năm kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý đào
58
tạo. Đã xây dựng được hệ thống tổ chức quản lý phù hợp với điều kiện của
Trung tâm. Bộ máy quản lý đào tạo trong Trung tâm đã được đầu tư và ngày
càng được khẳng định về chuyên môn và nghiệp vụ.
Hệ thống tổ chức và quản lý đào tạo của Trung tâm gồm:
+ Giám đốc, chịu trách nhiệm toàn diện trước Nhà nước về giáo dục và
đào tạo của Trung tâm.
+ 01 phó giám đốc phụ trách đào tạo đại học và bồi dưỡng sau đại học,
được Giám đốc uỷ quyền giải quyết các công việc về đào tạo và bồi dưỡng
sau đại học theo nhiệm vụ được phân công.
+ 01 phó giám đốc phụ trách đào tạo sau đại học và nghiên cứu khoa
học, được Giám đốc uỷ quyền giải quyết các công việc về đào tạo và nghiên
cứu khoa học theo nhiệm vụ được phân công.
+ Phòng Đào tạo - Nghiên cứu khoa học là đơn vị trực tiếp quản lý đào
tạo và tổ chức quá trình đào tạo. Là đầu mối xây dựng chương trình, kế
hoạch, quy chế, lịch trình giảng dạy; chịu trách nhiệm chính trong phối hợp
với các bộ phận có liên quan trong Trung tâm thực hiện các công việc chuẩn
bị cũng như việc vận hành hệ thống đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong Trung
tâm. Đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là Phòng Đào tạo là lực lượng đảm bảo
cho hoạt động đào tạo được thực hiện. Nếu không có đội ngũ này sẽ không có
sự tổ chức và quản lý đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai trò rất quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của cơ sở đào tạo. Chính đội ngũ này xác
định mục tiêu, sứ mạng, xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn về đào tạo.
Phòng Đào tạo, cụ thể là đội ngũ chuyên viên và cán bộ quản lý chịu
trách nhiệm thực thi trực tiếp các hoạt động phục vụ đào tạo và kiểm định
chất lượng đào tạo, vì vậy đội ngũ nhân viên phải là những người được đào
tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao trong lĩnh vực mà mình phụ trách,
59
thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng nâng cao tay nghề để có khả năng
độc lập giải quyết những vấn đề thường nhật trong công tác quản lý và phục
vụ đào tạo.
Chính vì vậy việc tập trung nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý, kỹ
năng nghề nhiệp cho đội ngũ làm công tác quản lý đào tạo này có ý nghĩa
then chốt trong tổ chức và thực hiện quá trình đào tạo của Trung tâm. Việc
nâng cao trình độ cho đội ngũ những người làm công tác quản lý đào tạo này
được thực hiện bằng mọi hình thức như tập huấn, hội nghị, hội thảo; tham
quan, nghiên cứu, khảo sát,...
Về chức năng, nhiệm vụ: So với giai đoạn trước, từ năm 1996 trở đi đã
có bước phát triển mới. Từ một Trung tâm có chức năng bồi dưỡng, nâng cao
trình độ là chủ yếu, bao gồm 3 chức năng: Chức năng bồi dưỡng đội ngũ,
chức năng đào tạo Sau đại học và chức năng nghiên cứu khoa học.
Gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện bộ máy tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ của Trung tâm trong giai đã có bước phát triển mới trên những lĩnh
vực sau: Trước hết, “Ngày 24-5-2000, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội
quyết định bổ nhiệm PGS.TS. Vũ Văn Hiền giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm
Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
nhiệm kỳ 2000- 2004 . Tiếp theo, ngày 8 – 6 – 2001, Giám đốc Đại học Quốc
gia Hà Nội quyết định bổ nhiệm ThS. Đinh Xuân Lý giữ chức vụ Phó Giám
đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh” [16; 20]
Bổ sung thêm cán bộ, nâng cao số cán bộ của Trung tâm từ 5 người lên
11 người; đã thành lập một Hội đồng khoa học và đào tạo của Trung tâm,
gồm 19 thành viên, đều là những giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ có đủ năng lực
và trình độ tư vấn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học của
Trung tâm.
60
Nhằm tăng cường một bước cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học và đào
tạo. Được sự giúp đỡ của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2000, Trung tâm đã
có một cơ sở vật chất, bao gồm phòng làm việc của Ban Giám đốc và các
phòng, giảng đường, phòng sinh hoạt xêmina, phòng tư liệu và nhiều đầu
sách, tài liệu quý.
Để đảm bảo và nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác-
Lênin tại các các khoa Công nghệ, Kinh tế, Luật và phát huy vai trò của
Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin. Giám đốc Đại
học Quốc gia Hà Nội có Công văn số 240/ĐT ngày 29/5/2002 về việc giảng
dạy các môn lý luận Mác - Lênin cho các khoa trực thuộc giao cho Trung
tâm, Bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin nhiệm vụ giảng dạy
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (60 tiết) cho các khoa Công nghệ, Kinh tế,
Luật từ học kỳ I năm học 2002-2003.
Để chuẩn bị cho công tác giảng dạy, Trung tâm đã chuẩn bị đội ngũ
giảng viên là cán bộ cơ hữu và có mời một số giảng viên kiêm nhiệm tham
gia giảng dạy. Lúc này công tác quản lý đào tạo chủ yếu do các cơ sở đào tạo
đảm nhiệm, Trung tâm chỉ là đơn vị phối hợp quản lý giảng dạy. Trước mỗi
kỳ học, các đơn vị đào tạo thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội sắp xếp thời khóa
biểu theo khung chương trình của từng ngành học. Sau đó chuyển thời khóa
biểu cho Phòng Đào tạo-NCKH của Trung tâm. Phòng Đào tạo tiếp nhận thời
khóa biểu của từng đơn vị, sau đó tổng hợp và lập lại thành thành khóa biểu
của từng môn học. Căn cứ vào số lượng giảng viên, Phòng Đào tạo đối chiếu
và khớp lịch giảng, nếu thấy trùng lịch không thể bố trí giảng viên được,
Phòng Đào tạo phối hợp với các cơ sở đào tạo để điều chỉnh lại thời khóa biểu
sao cho tối ưu nhất. Sau khi đã có thời khóa biểu của từng môn học, Phòng
Đào tạo chuyển cho các chủ nhiệm Bộ môn để Bộ môn phân công giảng viên
giảng dạy.
61
Chức năng của Phòng Đào tạo lúc này làm nhiệm vụ trung gian giữa
các cơ sở đào tạo và giảng viên. Trách nhiệm của Phòng Đào tạo: tiếp nhận
thời khóa biểu, phối hợp để điều chỉnh nếu thấy cần thiết, tiếp nhận sự phân
công của chủ nhiệm Bộ môn, thông báo lịch thi, lịch chấm thi cho giảng viên.
Kết thúc mỗi học kỳ, Phòng Đào tạo có trách nhiệm thống kê tiết giảng, số bài
kiểm tra, bài thi của từng cơ sở đào tạo, xin xác nhận của Phòng Đào tạo các
đơn vị và chuyển bản xác nhận để Phòng Hành chính-Tổ chức lấy cơ sở thanh
toán tiền giảng của từng đơn vị.
Song song với công việc đó, Phòng Đào tạo thống kê tiết giảng, số bài
kiểm tra, bài thi của từng giảng viên chuyển cho Phòng Hành chính-Tổ chức
lấy cơ sở để thanh toán tiền giảng theo Quy chế chi tiêu nội bộ. Nhìn chung ở
giai đoạn này, việc bố trí giảng đường, lên lịch giảng, tổ chức kiểm tra và thi
kết thúc môn học đều do các khoa đảm nhiệm, Trung tâm chỉ cử giảng viên
giảng dạy, chấm bài kiểm tra và bài thi hết môn. Phòng Đào tạo không có
trách nhiệm tính điểm môn học và quản lý điểm môn học mà đó là trách
nhiệm của các cơ sở đào tạo.
Đầu năm 2000, Trung tâm đã bổ sung, hoàn thiện xong 4 bộ chương
trình khung đào tạo thạc sĩ của 4 chuyên ngành: Triết học, CNXHKH, Kinh tế
chính trị, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và bước đầu biên soạn chương
trình thạc sĩ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hệ thống đề cương bài giảng chuyên đề Sau đại học (gồm 04 chuyên
ngành, trên 2000 trang) gắn với chương trình đào tạo thạc sĩ đã được biên
soạn công phu, có chất lượng và ấn hành cùng hệ thống tư liệu, tài liệu
tham khảo khác, kịp thời phục vụ cho công tác đào tạo Sau đại học có chất
lượng cao.
Trung tâm đã tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng nâng cao trình
độ cho cán bộ lý luận chính trị. Dưới sự chỉ đạo của Bộ GDĐT, có 22 lớp tập
62
huấn, trên 8 đợt bồi dưỡng, nhằm quán triệt các quan điểm cơ bản của Nghị
quyết Đại hội VII và Đại hội VIII và các Nghị quyết của BCHTW cho 10.000
lượt cán bộ giảng dạy.
Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Đại học Quốc gia Hà Nội tại Đại
hội đại biểu Đảng bộ lần thứ II (tháng 10 năm 2001) đã nhấn mạnh mục tiêu
phấn đấu của Đảng bộ nhiệm kỳ 2001-2006 là “ra sức nỗ lực xây dựng Đại
học Quốc gia Hà Nội thực sự trở thành Trung tâm đào tạo đại học, sau đại
học, nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực,
chất lượng cao, ngang tầm khu vực, dần dân đuổi kịp trình độ quốc tế”. Trong
nhiệm vụ lãnh đạo công tác đào tạo, Báo cáo đã chỉ rõ “tập trung mọi tiềm lực
cho mục tiêu hàng đầu là nâng cao đào tạo một bước chuyển biến rõ rệt về
chất lượng đào tạo, chú trọng cả việc dạy tri thức lẫn rèn luyện phẩm chất
chính trị, đạo đức cho sinh viên”
Cùng với việc quán triệt các Nghị quyết của Đảng nói chung, đội ngũ
cán bộ lý luận đã đẩy mạnh học tập và nghiên cứu các quan điểm của Đảng
trên các lĩnh vực lý luận, đặc biệt là sự bổ sung, phát triển lý luận của Đảng
trên các lĩnh vực lý luận, đặc biệt là sự bổ sung, phát triển lý luận của Đảng
về tính chất thời đại, về thời kỳ quá độ, về công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất
nước, về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, về xây dựng hệ thống chính trị. Từ đó lý giải các vấn đề
có liên quan đến hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, vừa khẳng định tính đúng đắn của học thuyết, vừa làm rõ những
nét phát triển mới của lý luận được Đảng nghiên cứu bổ sung và phát triển.
Qua đợt tập huấn, các chuyên ngành Mác - Lênin (Triết, Kinh tế chính
trị, CNXHKH, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam...) đều tiến hành sinh hoạt
khoa học chuyên ngành, nhằm rà soát, bổ sung chương trình, giáo trình trên
các chương mục, nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn của Bộ môn, góp
63
phần nâng cao chất lượng môn học.
Từ năm 2001, ngoài nhiệm vụ bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao
trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin,tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội chính thức tiếp tục giao nhiệm vụ đào tạo
Sau đại học cho Trung tâm. Từ đó, Trung tâm trở thành một đơn vị đào tạo
Sau đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội theo 4 chuyên ngành Triết học, Kinh
tế chính trị, CNXHKH, Lịch sử Đảng với hai hình thức chủ yếu: Đào tạo cao
học chính quy, chính quy không tập trung và tiếp tục đào tạo thạc sĩ theo hình
thức tích lũy chứng chỉ-theo quy chế đào tạo.
Trong đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia
Hà Nội, số cán bộ có trình độ sau đại học gồm 55 người (chiếm tỷ lệ 71,4%).
Trong đó, Giáo sư có 2 người- đều là giảng viên thỉnh giảng chiếm( 2,59%);
Phó Giáo sư có 8 người (10,38%); Tiến sĩ có 17 người (20,07%); Thạc sĩ có
27 người (35,06%); Giảng viên chính có 40 người (51,94%). Số giảng viên lý
luận chính trị là đảng viên có 59 người (76,62%)
Đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà
Nội nhìn chung có lập trường tư tưởng và bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức tốt, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; có ý thức phấn đấu nâng cao trình
độ chuyên môn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tỷ lệ giảng viên các môn
lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội là đảng viên khá cao (76,62%).
Số còn lại chưa phải là đảng viên,chủ yếu là cán bộ trẻ,đang trong quá trình
phấn đấu gia nhập hàng ngũ của Đảng.
Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội không
những hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy mà còn tham gia tích cực công tác
giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, sinh viên thông qua các đợt học tập
Nghị quyết Đảng, các lớp bồi dưỡng đảng viên mới, các lớp học tập chính trị
64
đầu khóa của sinh viên.
Trong tương quan chung về chất lượng của đội ngũ cán bộ giảng dạy
Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung thì các giảng viên các môn lý luận chính
trị không những còn thiếu so với yêu cầu mới còn yếu về tỷ lệ học vị và học
hàm so với các giảng viên của ngành khác. Một thực tế khác là phần lớn
giảng viên các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội có học hàm,
học vị sau đại học đều có độ tuổi trên 50, trong khi thế hệ giảng viên giảng
viên kế cận chưa được chuẩn bị, dẫn đến nguy cơ hụt hẫng trong tương lai.
Do thiếu giảng viên nên phần lớn cán bộ giảng dạy các môn lý luận
chính trị phải đảm nhiệm thêm giờ giảng, điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến
việc bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và nghiên cứu khoa học (đây là vấn đề
căn bản nâng cao trình độ, chất lượng giảng dạy)
Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động thường xuyên được Trung
tâm trường tổ chức. Đối với cán bộ giảng dạy, song song với nhiệm vụ giảng
dạy, các cán bộ trong Bộ môn cũng có rất công trình nghiên cứu, đóng góp
quan trọng trong ngành khoa học Lịch sử Đảng. Nếu như những năm đầu sau
ngày thành lập, công tác nghiên cứu khoa học còn rất “khiêm tốn” thì từ năm
2000, số lượng các công trình được công bố ngày càng nhiều và sự chú trọng
về học thuật ngày càng nâng cao.
Tuy phải giảng dạy nhiều lớp, nhiều khoa, kế hoạch bị động, thời gian
giảng dạy rải đều quanh năm, trình độ khả năng có hạn, lĩnh vực chuyên môn
không đơn giản, song cán bộ của Bộ môn vẫn rất cố gắng trong nghiên cứu
khoa học. Nhiều đề tài nghiên cứu giáo trình, chuyên luận về Lịch sử Đảng,
đã được cán bộ của Bộ môn chủ trì hoặc tham gia chủ trì thực hiện.
Gắn liền với các Hội thảo khoa học là việc tổ chức biên soạn, xuất bản
các ấn phẩm, các đầu sách có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thiết thực, thu hút
được đông đảo các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy tiến sĩ, phó giáo sư,
65
giáo sư thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị
Quân sự.
Cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo, nghiên cứu khoa học được nâng
cao, phòng làm việc, phòng hội thảo, phòng học, các trang thiết bị, đặc biệt
ngân sách tài chính cũng được quan tâm đầu tư, đủ năng lực và điều kiện thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
Các ấn phẩm quan trọng đã được xuất bản phục vụ cho đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận chính trị các trường đại học và cao
đẳng trong cả nước như sau: Vận dụng các quan điểm của Đại hội IX vào
giảng dạy các Bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Hội
nghị khoa học về đào tạo và nghiên cứu khoa học tại Thiên Cầm, Hà Tĩnh; Tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam; Quá trình Việt
Nam hội nhập Châu Á- Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng;
Đổi mới ở Việt Nam- tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm; Tìm hiểu vai trò
của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; Tìm hiểu lịch sử tư tưởng
xã hội chủ nghĩa; Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị
tại ĐHQGHN; Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của
Đảng trong thời kỳ đổi mới; Quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam với tổ chức
APEC- thành tựu và kinh nghiệm; Nghiên cứu quá trình thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam trên cơ sở những tư liệu mới được công bố; Đảng lãnh
đạo và phát triển văn hóa, giáo dục trong thời kỳ 1945 – 1975.
Tất cả các Hội thảo, Hội nghị khoa học do Trung tâm tổ chức và tham
gia được đánh giá là thiết thực, đạt chất lượng cao về lý luận và thực tiễn đem
lại kết quả tốt cho việc thực hiện nhiệm vụ của Trung tâm. Các ấn phẩm của
Hội thảo khoa học đã được in thành sách phục vụ tập huấn cho ngành.
Nét nổi bật của Trung tâm trong giai đoạn này, cùng với nhiệm vụ Đào
66
tạo, giảng dạy thì nhiệm vụ nghiên cứu học được Trung tâm hết sức coi trọng,
coi đó là một trong hai nhiệm vụ chính trị chủ yếu, xác định làm tốt nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học là cơ sở quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng,
đào tạo Sau đại học và giảng dạy các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của cán bộ Trung tâm đã góp phần tích
cự vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Nghiên cứu khoa học đã trở thành
một khâu quan trọng để nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên
và các cán bộ trẻ. Hầu hết nội dung các đề tài nghiên cứu khoa học đều phục
vụ trực tiếp công tác giảng dạy các môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị được giao (bồi dưỡng, cập nhật
các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng) theo đúng định hướng chiến
lược phát triển của ĐHQGHN và chiến lược CNH, HĐH đất nước.
2.2.2 Đào tạo và nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2013
Qua 10 năm thực hiện chức năng bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu, đào tạo
sau Đại học và nghiên cứu khoa học, Trung tâm BDGVLLCT ngày càng phát
triển mạnh mẽ, khẳng định được vai trò quan trọng trong nhiệm vụ đào tạo và
nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày 07/10/2005, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội có Công văn số
192/ĐT giao cho Trung tâm ra đề thi, chấm thi môn Môn Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh cho Trường Đại học Công nghệ,
Khoa Kinh tế, Khoa Luật, Khoa Giáo dục và Khoa Quốc tế. Tổng số sinh viên
do Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm thực hiện nhiệm vụ đào tạo hàng
năm từ 2000-3000 sinh viên. Thực hiện nhiệm vụ này, Trung tâm phối hợp
với các cơ sở đào tạo để tổ chức kỳ thi cuối khóa các môn khoa học Mác -
Lênin cho từng cơ sở đào tạo theo kế hoạch của từng cơ sở đào tạo.
Từ năm 2008, triển khai quyết định của Bộ Giáo dục & Đào tạo về đổi
67
mới chương trình và giáo trình các môn lý luận chính trị ;Trung tâm đã nhận
nhiệm vụ của Bộ tham gia biên soạn,thẩm định chương trình, giáo trình mới.
Bộ GDĐT đã giao nhiệm vụ cho Trung tâm tổ chức bồi dưỡng cấp chứng chỉ
Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin và Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam cho hơn 2.000 giảng viên các trường đại
học,cao đẳng cả nước.
Từ năm học 2008-2009, Trung tâm đã tổ chức các lớp môn học cho
sinh viên các đơn vị đào tạo ở khu vực Trung tâm Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sinh viên đăng ký lớp học qua mạng. Trung tâm đã động viên và tạo điều kiện
cho giảng viên biên soạn bài giảng điện tử (cấp độ I-theo tiêu chí của
ĐHQGHN). Tất cả giảng viên được trang bị máy tính xách tay, tất cả các
giảng đường đều có máy chiếu phục vụ giảng dạy.
Việc tổ chức các lớp môn học cho phép sinh viên lựa chọn đăng ký
theo học các lớp mới phù hợp với nguyện vọng của sinh viên. Đây là hình
thức tổ chức mới, có nhiều ưu điểm, cho phép sinh viên được lựa chọn thời
khóa biểu phù hợp mà không phụ thuộc vào thời khóa biểu của đơn vị đào
tạo, sinh viên có thể lựa chọn được giảng viên. Tuy đội ngũ cán bộ mỏng, chỉ
có từ 4-5 người song Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Trung tâm đã hoàn thành
tốt nhiệm vụ giảng dạy môn Lịch sử Đảng (Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam) tại 5 khoa, trường trực thuộc với số lượng sinh viên gần
3.000/năm. Số lượng lớp học hàng năm dao động trên dưới 30 lớp, quy mô
lớp học bình quân đạt 50 sinh viên/lớp. Chất lượng học tập tốt, tỷ lệ sinh viên
đạt kết quả khá, giỏi đều đạt trên 60% số sinh viên tham gia theo học.
68
Bảng 2.1
n n iản dạ m n Lịch sử Đản năm ọ 2007-2008; 2008-2009 và
M n Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam năm ọc
2010-2010; 2011-2012
TT Năm học Hoc Kỳ I Học kỳ II Tổng cộng
Số lớp Số SV Số lớp Số SV Số lớp Số SV
1 2007-2008 10 629 6 519 16 1148
2 2008-2009 6 354 10 757 16 1111
3 2010-2011 16 1511 14 1317 30 2828
4 2011-2012 12 1207 18 1750 30 2957
Bảng 2.2
Kết quả học tập môn họ Đường lối cách mạng Việt Nam tại Trung tâm
BDCBGDLLCT năm ọc 2010-2011
TT Tổng Kém TB yếu TB Khá Giỏi
ố SL % SL % SL % SL % SL %
1 ĐLCM…. 970 2 0,21 10 1,03 215 22,6 731 75,36 12 1,24
1 ĐLCM…. 1.394 5 0,36 98 7,03 447 32,07 778 55,81 66 4,73
Năm học 2010-2011, Trung tâm được giao nhiệm vụ giảng dạy các
môn lý luận chính trị cho gần 600 sinh viên thuộc nhiệm vụ chiến lược của
ĐHQGHN. Đây là nhóm sinh viên có chương trình đào tạo nâng cao hơn so
với sinh viên đại trà, nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng, điểm nhấn
cho công tác đào tạo Đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trung tâm đã tổ
chức và thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo chiến lược.
Tuy vậy, do số lượng sinh viên thuộc thuộc nhiệm vụ chiến lược của
ĐHQGHN không nhiều, phân tán trong các trường thành viên nên rất khó cho
69
công tác tổ chức và quản lý lớp học nên từ năm học 2011-2012, Trung tâm
thôi nhiệm vụ này và tập trung đào tạo đại trà tại 5 trường thành viên của Đại
học và khoa trực thuộc ĐHQGHN.
Tiếp tục phát huy năng lực và kinh nghiệm đào tạo sau đại học năm
2010 Trung tâm đã khai giảng khoá đào tạo 82 thạc sĩ bốn chuyên ngành:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Kinh tế chính trị và 15 tiến sĩ ba chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Kinh tế chính
trị.
Trong năm học 2012 – 2013 Trung tâm đã hoàn thành việc giảng dạy
các môn lý luận chính trị nói chung và Lịch sử Đảng nói riêng cho sinh viên
hệ chính quy các trường đại học và các khoa trực thuộc khu vực Xuân Thủy,
Cầu Giấy. Việc giảng dạy luôn đảm bảo chất lượng và đúng quy định của Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Trung tâm thực hiện khá nghiêm túc các quy định của Nhà nước, của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và của ĐHQGHN về công tác đào tạo, đặc biệt là
thực hiện nghiêm túc quy chế đào tạo đại học ở ĐHQGHN.
Về công tác giảng dạy: Hàng năm Trung tâm đảm nhiệm việc giảng
dạy các môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam cho sinh viên chính quy thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội. Để phục vụ công tác đào tạo Sau đại học, Trung
tâm đã hoàn chỉnh chương trình đào tạo thạc sĩ về Lịch sử Đảng; tổ chức biên
soạn và in ấn hàng trăm bài giảng chuyền đề và tài liệu học viên nghiên cứu,
học tập và tham khảo.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của Trung tâm rất sôi nổi, số lượng đề
tài nghiên cứu ngày càng tăng. Toàn thể cán bộ giảng dạy và cán bộ trẻ Trung
tâm đều tham gia tích cực, hiệu quả.
Năm 2010, Trung tâm đã tổ chức thành công bốn Hội thảo khoa học
70
với sự tham gia của nhiều nhà khoa học đầu ngành về lý luận chính trị và
khoa học xã hội nhân văn: Đảng Cộng sản Việt Nam-Bản lĩnh và trí tuệ
(tháng 2.2010); Hồ Chí Minh và con đường phát triển Việt Nam (tháng
5.2010);Công nghiệp hoá,hiện đại hoá và giai cấp công nhân Việt Nam (tháng
10.2010); Những vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn nước ta trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tháng 12.2010).
Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia và Nhà xuất bản
ĐHQGHN đã xuất bản hai tập sách tuyển chọn từ các báo cáo. Hội thảo khoa
học của Trung tâm. Trung tâm là đơn vị đầu tiên trong ĐHQGHN tổ chức
thành công Hội nghị khoa học công bố kết quả nghiên cứu của các học viên
cao học và nghiên cứu sinh.
Tháng 10-2013, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo trong thời kỳ mới, thực
hiện chủ trương tinh giản hóa công tác quản lý, tăng cường đội ngũ cán bộ
chuyên môn, tập trung xây dựng các chuyên ngành lý luận chính trị tại Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trung tâm ĐTBDGVLLCC của Đại học
Quốc gia giải thể sau 28 năm hoạt động hiệu quả, Bộ môn Lịch sử Đảng của
Trung tâm sáp nhập về Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử. Nhiệm vụ
bồi dưỡng lý luận chính trị, đào tạo và nghiên cứu khoa học Lịch sử Đảng tập
trung vào Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử .
Trong mỗi thành tựu nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng của
Trung tâm 28 năm tồn tại (1985-2013) có sự đóng góp công sức, trí tuệ to lớn
của đội ngũ các nhà khoa học,giảng viên đầu ngành của ĐHQGHN và các
Học viện, Viện nghiên cứu và các Trường đại học cả nước. Việc thu hút, tập
hợp đông đảo đội ngũ cộng tác viên, bao gồm các giảng viên, các chuyên gia
đầu ngành để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Trung tâm đã minh
chứng sự đúng đắn của Đảng, Nhà nước và Đại học Quốc gia Hà Nội trong việc
xây dựng Trung tâm tinh, gọn, làm nòng cốt tập hợp lực lượng chuyên gia phục
vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị toàn ngành giáo dục
71
đào tạo.
Các thành tựu đã đạt được của Trung tâm đã khẳng định vai trò, vị trí
của Trung tâm trong việc đào tạo và nghiên cứu khoa học. Việc triển khai
phương thức đào tạo Sau đại học chính quy không tập trung, đào tạo theo
phương thức tích lũy chứng chỉ là sự cố gắng, sáng tạo đáng ghi nhận của
Trung tâm, tạo cơ sở vững chắc cho Trung tâm trở thành một trong những cơ
sơ đào tạo, bồi dưỡng Sau đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cũng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu, Bộ
môn Lịch sử Đảng của Trung tâm đã có sự liên kết bền chặt với Bộ môn Lịch
sử Đảng của Khoa Lịch sử . Hai Bộ môn đã tích cực hỗ trợ nhau trong hai
nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt là dạy môn Lịch sử Đảng
(ĐLCMCLSVN) và đào tạo sau Đại học. Sự liên kết tự nhiên và bền chặt
trong suốt nhiều năm qua là cơ sở quan trọng để sự hợp nhất 2 Bộ môn hiện
nay sớm ổn định, đi vào hoạt động hiệu quả.
Tiểu kết
Khoảng thời gian gần 20 năm (1996-2014) chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ trong đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà
Nội. Trong khoảng thời gian này, Đại học Quốc gia Hà Nội duy trì song song
2 Bộ môn Lịch sử Đảng (tại Khoa Lịch sử và Trung tâm bồi dưỡng giảng viên
lý luận chính trị). Tuy hai Bộ môn có cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ
khác nhau song cả hai Bộ môn đều đã đạt được những thành tựu to lớn trong
đào tạo và nghiên cứu khoa học, xứng đáng với vai trò địa chỉ hàng đầu về
đào tạo và nghiên cứu khoa học cả nước.
Tháng 10-2013, Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận-Đại học
Quốc gia giải thể, Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm sáp nhập về Bộ môn
Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử . Kể từ đây, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch
sử đảm nhiệm công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng trên phạm vi toàn
Đại học Quốc gia Hà Nội với những thời cơ, thách thức mới.
72
Chƣơng : NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1 Nhận xét chung
3.1.1 Về thành tựu
Qua 40 năm thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng,
nhìn chung hai Bộ môn Lịch sử Đảng tại Khoa Lịch sử và Trung tâm Bồi
dưỡng cán bộ giảng dạy chính trị đã đạt dược nhiều thành tựu to lớn:
Thứ nhất, sau 40 năm xây dựng và phát triển (1974-2014), Đại học
Quốc gia Hà Nội nói chung, hai Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử và
Trung tâm đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ chuyên ngành Lịch sử Đảng
có chất lượng cao.
Tuy đội ngũ giáng viên cơ hữu không nhiều, nhưng đều có phẩm chất
tư cách tốt, tư tưởng đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên
môn cao. Từ vài ba cán bộ lúc ban đầu, trong quá trình phát triển, đã có
khoảng 30 cán bộ công tác tại Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử và Bộ môn
Lịch sử Đảng thuộc Trung tâm trong những khoảng thời gian khác nhau.
Trong đó có 1 người là PGS.NGND 1 người là PGS.TS.GVCC.NGƯT 4
người là PGS.TS, 3 người là TS, 3 người là ThS, 2 người là ThS.NCS.
Nhiều giáo viên của hai Bộ môn đã được giao các nhiệm vụ công tác
quan trọng ở Khoa, ở Trường, như Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Uỷ viên Ban
Chấp hành Đảng bộ, Phó Chủ tịch Công đoàn Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó
Hiệu trưởng nhà trường. Ủy viên Hội đồng nhà Trường, Chủ nhiệm, Phó Chủ
nhiệm Khoa Lịch sử, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Công đoàn Trường; Trưởng Ban
Thanh tra Trường; Trưởng phòng Công tác Chính trị và quản lý sinh viên Phó
Trưởng phòng quản lý nghiên cứu khoa học, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
Trường, Chi hội trưởng Cựu chiến binh Khoa….
Với những đóng góp trong công tác quản lý, tổ chức đào tạo và nghiên
73
cứu khoa học, 4 cán bộ của Bộ môn được nhận Huân chương lao động hạng
Nhì và hạng Ba khi đang công tác tại Bộ môn. Các chủ nhiệm Bộ môn, các
Phó Chủ nhiệm Bộ môn là những người đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự
phát triển của Bộ môn.
Đến năm 2014, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử có 7 giảng viên
trong biên chế. Trong đó có 4 PGS. TS, 1 Tiến sĩ, 2 Nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Đồng thời có nhiều giáo sư, Phó Giao sư, Tiến sĩ đã nghỉ hưu hoặc đang đảm
nhiệm công tác quản lý, đào tạo tại Trường ĐHKHXHNV và ĐHQGHN tham
gia giảng dạy. Bộ môn Lịch sử Đảng là một trong những Bộ môn chuyên
ngành có đội ngũ giảng viên đông đảo, có trình độ chuyên môn cao tại
Trường ĐHKHXHNV và ĐHQGHN.
Sự thành công trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là cơ sở, nền
tảng cho sự thành công trong đào tạo và nghiên cứu khoa học của Bộ môn,
đúng với tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “cán bộ là gốc của mọi công
việc”. Mặc dù trong gần 40 năm qua, đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng có
những lúc gặp khó khăn, trở ngại song do làm tốt công tác cán bộ, có được
đội ngũ cán bộ tận tâm, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, hai Bộ môn
Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội đã hoan thành tốt nhiệm vụ đào
tạo và nghiên cứu khoa học, xứng đáng với vị trí, vai trò của Trung tâm đào
tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu cả nước,
Thứ hai, trong công tác đào tạo, hai Bộ môn Lịch sử Đảng đã xây dựng
được chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ và nghiên cứu sinh một cách hệ
thống, cơ bản, chi tiết, biên soạn được nhiều giáo trình, bài giảng phục vụ tốt
công tác đào của Trường và giúp một số đơn vị khác mở được chuyên ngành
tạo đại học, sau đại học về Lịch sử Đảng.
Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử đã luôn luôn đi đầu trong việc
xây dựng chương trình đào tạo cho sinh viên chuyên ngành, cho đào tạo
74
nghiên cứu sinh, cao học của Trường, của Bộ; nhanh chóng thích nghi với
loại hình đào tạo theo tín chỉ.
Các khung chương trình, chương trình khung đào tạo cử nhân, thạc sĩ,
tiến sĩ Lịch sử Đảng do hai Bộ môn xây dựng đã được chỉnh sửa, nghiệm thu
nhiều cấp, nhiều lần, trải qua nhiều năm áp dụng, thể hiện tính khoa học và
thực tiễn cao. Khung chương trình đào tạo của Bộ môn tập trung vào các
chuyên đề cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Đảng, đối ngoại…. là các chuyên đề có tính thiết thực và ứng dụng cao
trong công tác giảng dạy, nghiên cứu và các hoạt động chính trị, xã hội. Các
giáo trình, bài giảng do hai Bộ môn biên soạn đều có nội dung chuyên môn cơ
bản, tính khoa học cao, tính lý luận đúng đắn.
Hai Bộ môn đã trực tiếp giúp đỡ một số cơ sở đào tạo khác xây dựng và
mở được chuyên ngành đào tạo đại học, sau đại học về Lịch sử Đảng, như Đại
học Thái Nguyên, Đại học Vinh, Học viên chính trị Khu vực I,….
Cán bộ của hai Bộ môn đã chủ trì, tham gia biên soạn nhiều giáo trình
cho Bộ, như Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III (1998), Tập bài giảng Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam (2006), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình môn Đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Một số chuyên đề về
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2007),
Ngoài môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho
Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện 100% môn học do Bộ môn đảm nhiệm về
Lịch sử Đảng ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đều đã có đề
cương, bài giảng môn học, cả ở bậc cử nhân, cao học và NCS. Như: Sự hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam; Đảng lãnh đạo chuẩn bị và tiến hành cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945; Đường lối đối ngoại của Đảng; Hậu
phương của chiến tranh nhân dân Việt Nam; Xây dựng Đảng qua các thời
75
cách mạng; Đảng với cuộc cách mạng ruộng đất, Đường lối đối ngoại của
Đảng thời kỳ đổi mới, Đường lối đổi mới của Đảng, Đảng Cộng sản Việt
Nam với vấn đề biên giới, chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển,...
Việc xây dựng được hệ thống bài giảng, tài liệu tham khảo trong giảng
dạy Lịch sử Đảng có ý nghĩa quan trọng, góp phần đưa công tác đào tạo
ngành Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội đi vào quy củ, tiến kịp theo
tốc độ đổi mới của hệ thống giáo dục, đồng thời tạo điều kiện đảm bảo chất
lượng giảng dạy, đào tạo Lịch sử Đảng, nhất là trong điều kiện hiện nay, xã hội
không coi trọng, quay lưng lại với Khoa học Lịch sử và Khoa học chính trị.
Thứ ba, hai Bộ môn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy môn
Lịch sử Đảng (nay là môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam) cho các thế hệ sinh viên của trường và của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đây là nhiệm vụ thường xuyên, hết sức quan trọng, nặng nề do nội
dung chuyên mộn rất khó, lại chịu nhiều tác động của đời sống kinh tế- xã hội
trong và ngoài nước.
Môn học Lịch sử Đảng (ĐLCMĐCSVN) là một môn học trong hệ
thống các môn lý luận chính trị. Môn học trang bị cho sinh viên những kiến
thức căn bản về sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và có vai trò quan
trọng phục vụ cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, định hướng tư tưởng, ý thức
chính trị của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Trước năm 2014, Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử đảm nhiệm dạy
môn Lịch sử Đảng ( Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam)
cho 3 trường ĐHKHXHNV, ĐHKHTN, ĐHGD; Bộ môn Lịch sử Đảng của
Trung tâm giảng dạy tại 5 trường và Khoa trực thuộc còn lại. Số lượng lớp
phân bổ không ổn định (có học kỳ chỉ có 30 lớp, có học kỳ lên tới trên 100 lớp),
đối tượng sinh viên không đồng đều (cả khoa học tự nhiên, kinh tế, xã hội nhân
văn, sư phạm,…), thời khóa biểu thường trùng nhau, chương trình, giáo trình
76
thay đổi luôn, có nhiều bất cập, đội ngũ giáo viên của Bộ môn quá ít, lại phải
đảm bảo đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng…
Trong hoàn cảnh đó, các cán bộ hai Bộ môn đã có ý thức tự rèn luyện
mình về chính trị tư tưởng, luôn phấn đấu nâng cao năng lực chuyên môn, cải
tiến phương pháp giảng dạy, để nghiên cứu, truyền thụ tốt nhất nội dung khoa
học và yêu cầu giáo dục của môn học cho sinh viên.
Chất lượng dạy và học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, theo khảo sát của Nhà trường, từ khóa 2009 đến 2012, đều đạt
vào loại tốt. Điểm trung bình môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam cả 4 khóa theo hệ tín chỉ là 3.01 (tương đương 7,5 hệ điểm 10),
trong khi điểm trung bình chung của các môn lý luận chính trị là 2.58 (tương
đương 6,5 hệ điểm 10). Việc hoàn thành được các nhiệm vụ giảng dạy với số
và chất lượng như trên là nỗ lực cao độ của hai Bộ môn Lịch sử Đảng.
Thành công trong dạy môn Lịch sử Đảng (ĐLCMĐCSVN), hai Bộ
môn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mình, trang bị kiến thức
và ý thức chính trị cho hàng chục vạn sinh viên các thế hệ của Đại học Tổng
hợp và Đại học Quốc gia Hà Nội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1974 đến nay.
Thứ tư, Bộ môn Lịch sử Đảng đã trực tiếp góp phần đào tạo được một
đội ngũ cán bộ có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng với số lượng lớn, chất lượng tổt, được xã hội đánh giá cao, thu hút đông
đảo người học. Trải qua 40 năm kể từ ngày thành lập (1974-2014), trong đội
hình của Khoa Lịch sử, Đơn vị Anh hùng Lao động, Bộ môn Lịch sử Đảng đã
có rất nhiều cố gắng trong nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành
Lịch sử Đảng. Trong những năm đầu mới thành lập, sinh viên theo học
chuyên ngành Lịch sử Đảng thường xuyên chiếm từ 20% đến 40% tổng số
sinh viên Khoa Lịch sử, đa số là cán bộ, đảng viên. Có thời kỳ số lượng sinh
77
viên chuyên ngành Lịch sử Đảng giảm sút mạnh mẽ, nhiều giáo viên chuyển
sang đơn vị khác. Trước tình hình đó, Bộ môn đã kiên trì với nghề nghiệp, cải
tiến phương pháp, quan tâm đền sinh viên và cùng với xu hướng chung, dần
dẫn đã khôi phục được vị thế của môn học, thu hút được nhiều sinh viên Học
viên cao học, NCS theo học chuyên ngành Lịch sử Đảng.
Những năm gần đây, số sinh viên, học viên cao học, NCS theo học
chuyên ngành Lịch sử Đảng tăng lên gấp bội, phù hợp với xu thế phát triển
chung và đảm bảo nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn cao cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vẹ đất nước trong tình hình mới
Nhiều sinh viên của Bộ môn đã trưởng thành sau khi ra trường, giữ
những vị trí cao trong các cơ quan Trung ương và địa phương. Nhiều cử nhân,
thạc sĩ trẻ do Bộ môn đào tạo hiện nay đang là nòng cốt tham gia giảng dạy
chính trị tại các trường đại học, cao đẳng và cán bộ chuyên môn tại các cơ
quan nghiên cứu và hệ thống chính trị các cấp.
Không những hoàn thành tốt nhiệm vụ tại Trường, tại Đại học Quốc
gia Hà Nội, Bộ môn còn ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế hàng đầu
của mình trong hệ thống các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học về Lịch sử
Đảng, trở thành một địa chỉ đào tạo tin cậy, từng được Bộ giao thêm nhiệm vụ
đào tạo lớp chuyên tu, nâng cao trình độ cho cán bộ giảng dạy Lịch sử Đảng
của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Có nhiều giáo viên là chủ
biên, đồng tác giả các giáo trình môn học về Lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho Bộ, cả giáo
trình điện và tham gia giảng dạy cho các lớp tập huấn Hè của giáo viên toàn
ngành do Bộ tổ chức.
Với vai trò trong đào tạo giảng viên, cán bộ chuyên môn về Lịch sử
Đảng, hai Bộ môn Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội đã trở Trung
tâm định hướng đối với công tác giảng dạy và nghiên cứu Lịch sử Đảng trong
78
cả nước, đị chỉ tin cậy đào tạo, cung cấp cán bộ chuyên môn, cán bộ phòng
trào cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Thứ năm, cán bộ Bộ môn và Trung tâm đã có nhiều cố gắng trong
nghiên cứu khoa học, chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu các cấp, một đơn vị chủ
công trong nhiều cuộc hội thảo khoa học do Trường tổ chức, cộng tác viên
quen thuộc của nhiều cơ quan, nhiều tạp chí chuyên ngành về Lịch sử Đảng
và cách mạng Việt Nam.
Các cán bộ của Bộ môn đã chủ trì hoặc tham gia trên 50 đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Trường, cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, cấp Nhà nước và
đều được nghiệm thu với chất lượng tốt: Lịch sử Quốc hội Việt Nam; Lịch sử
Chính phủ Việt Nam; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Lịch sử Việt Nam;
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh; Từ điển Bách khoa Việt Nam; Lịch sử
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ
1945-1954; Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1986-2000;
Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong văn kiện Đảng thời kỳ 1930-
1975, Quan hệ thương mại Việt Nam- Liên bang Nga, ...
Sách chuyên khảo, tham khảo do cán bộ của Bộ môn là tác giả hay
đồng tác giả có trên 150 cuốn được xuất bản, tiêu biểu như: Các đại hội Đảng
ta; Từ điển Bách khoa Việt Nam; Đảng với vấn đề nông dân, nông nghiệp và
nông thôn 1930- 1975; Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 1930-1975;
Vùng tự do Thanh- Nghệ- Tĩnh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Lịch sử Hà Tĩnh; Lịch sử Đường sắt Việt Nam; 82 năm Đảng Cộng sản Việt
Nam, những chặng đường Lịch sử; Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; 50 năm phong trào
Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam- những vấn đề Lịch sử;…
Bên cạnh đó cán bộ trong hai Bộ môn đã có 300 bài viết được đăng rên
các tạp chí uy tín như Tạp chí Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu Lịch sử,
79
Lịch sử quân sự, Khoa học, Giáo dục lý luận, Nghiên cứu châu Âu, Nghiên
cứu Đông Nam Á…
Tổng cộng các cán bộ của Bộ môn Lịch sử Đảng đã có trên 500 công
trình nghiên cứu được xuất bản (cả viết riêng và viết chung). Trong đó, người
có nhiều công trình lớn, cấp nhà nước là trên 30 công trình, đề tài các loại;
người có nhiều sách được xuất bản nhất là trên 50 cuốn); người có nhiều bài
đăng tạp chí là trên 100 bài.
Về trao đổi quốc tế, tất cả cán bộ của Bộ môn đều đã đi nghiên cứu,
tham dự hội thảo khoa học, thăm quan thực tế ở nước ngoài dưới nhiều hình
thức và thời gian khác nhau. Không kể các cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức
ở trong nước, nhiều cán bộ của Bộ môn đã dự hội hội thảo, học tập, nghiên
cứu ở trên 20 Quốc gia.
Những công trình hoặc tuyển tập công trình do cán bộ của hai Bộ môn
chủ trì hay tham gia thực hiện đều có chất lượng cao đóng góp thiết thực cho
yêu cầu giảng dạy và phục vụ sự nghiệp chung, góp phần làm sáng tỏ vai trò
và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, xây dựng cách nhìn, đánh giá khách quan
của xã hội và quốc tế đối với Khoa học Lịch sử Đảng.
Thứ sáu, đội ngũ giáo viên ngày càng có nhận thức khách quan, toàn
diện hơn về Lịch sử Đảng, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng
cao được thu nhập từ chuyên môn của mình.
Tuy chưa thật đồng đều và còn những ý kiến khác nhau, song nhìn
chung các cán bộ đã có quan điểm nhận thức Lịch sử Đảng khách quan, toàn
diện hơn, theo hướng tôn trọng sự thật Lịch sử. Do đó, sưu tầm, tiếp thu, xác
minh, công bố tư liệu Lịch sử Đảng, bên cạnh việc khẳng định các thành tựu,
ca ngợi thắng lợi, các công trình đã đề cập đúng mức những sai lầm, hạn chế
của Đảng. Trên góc độ nghiên cứu, về mặt nào đó, những thông tin nhiều
chiều, đa diện, trái ngược nhau như vậy đã giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá
80
sự kiện, nhân vật Lịch sử Đảng ngày càng được chính xác, toàn diện. Điều
này đã làm cho Lịch sử Đảng càng có tính khoa học cao hơn, hấp dẫn hơn và
thuyết phục hơn
Những công trình nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp mới, liên
ngành, do đó các tư liệu được xử lý, nghiên cứu khai thác tốt hơn. Đội ngũ
cán bộ giảng viên tham gia nhiều đề tài, công bố được nhiều công trình, tăng
thêm giờ dạy, chấm thi, nhất là với đào tạo Sau Đại học, do đó đã tăng thêm
thu nhập, cải thiện đời sống bằng chuyên môn của mình. Hàng năm, Bộ môn
tổ chức cho sinh viên chuyên ngành đi thực tế ở nhiều nơi, góp phần quan
trọng trong việc mở rộng kiến thức thực tiễn, giúp sinh viên có cái nhìn khách
quan hơn và nhận thức được ý nghĩa của những sự kiện Lịch sử
Các giáo viên Lịch sử Đảng đã tích cực tham gia thực hiện nhiều đề tài
nghiên cứu khoa học, như: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh; Nghiên cứu
quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở những tư liệu mới
được công bố; Vấn đề nguồn lực trí thức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; Qúa trình hình thành và phát triển đường lối xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng từ năm 1960 – 2006; Quan điểm
của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;Đảng Cộng sản Việt Nam: Bản lĩnh và trí
tuệ (tháng 2-2010); Hồ Chí Minh và con đường phát triển Việt Nam; Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và giai cấp công nhân Việt Nam; ….
Trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng hiện nay, công tác nghiên cứu đánh
giá, tổng kết kinh nghiệm là hết sức quan trọng. Cần nhìn nhận thực tế, khách
quan để kịp thời tổng kết những kinh nghiệm lịch sử. Ý thức được trách
nhiệm khoa học của mình, hai Bộ môn đa tích cực đổi mới quan điểm,
phương pháp nghiên cứu, góp phần đánh giá chính xác, thực tiễn lịch sử cách
mạng, đóng góp kịp thời cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng hiện nay.
81
Nguyên nhân của thành tựu:
Một là, Lịch sử Đảng là khoa học Lịch sử đồng thời là Khoa học chính
trị phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy,ngay từ
khi thành lập, Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng
của Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị luôn được sự quan tâm
của Trung ương Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo đất nước. Cả hai
Bộ môn được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư Trung ương
và Ban Khoa giáo (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương).
Trong quá trình hoạt động, hai Bộ môn luôn nhận được sự quan tâm,
ưu tiên của Trung ương và các cấp ủy Đảng. Bộ môn được cấp kinh phí cho
nhiều dự án nghiên cứu quan trọng phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng, từ đó
tạo điều kiện để cán bộ, giảng viên Bộ môn được trau dồi về chuyên môn và
tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu quý giá. Sinh viên chuyên ngành Lịch sử
Đảng được hỗ trợ miễn học phí, được hỗ trợ kinh phí đi thực tế nên có điều
kiện tập trung học tập và tâm huyết hơn với khoa học Lịch sử Đảng.
Hai là, Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử và Bộ môn Lịch sử
Đảng của Trung tâm được kế thừa truyền thống tốt đẹp và đội ngũ cán bộ,
giảng viên dày dạn kinh nghiệm của Đại học Tổng hợp Hà Nội trong đào tạo
và nghiên cứu. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thành lập năm 1956 là
Trung tâm hàng đầu của cả nước về đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Khoa Lịch sử của trường là Trung tâm đầu tiên của cả nước về đào tạo
và nghiên cứu Lịch sử. Từ cái “vốn” của Khoa Lịch sử, Bộ môn Lịch sử Đảng
Khoa Lịch sử và Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm được kế thừa những
kinh nghiệm của giá của Khoa Lịch sử trong đào tạo và nghiên cứu. Các cán
bộ ban đầu của 2 Bộ môn hầu hết đều là giảng viên của chuyên ngành Lịch sử
Việt Nam (chuyên ngành gần với Lịch sử Đảng) nên công tác xây dựng Bộ
môn có những thuận lợi hết sức cơ bản.
82
Ba là, để có được sự thành công của Đại học Quốc gia Hà Nội trong
đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng là sự cố gắng của các thế hệ giảng viên,
cán bộ, học viên, sinh viên Bộ môn. Đặc biệt đội ngũ cán bộ chủ lực của Bộ
môn trong 40 năm qua như các thầy Lê Mậu Hãn, Hoàng Bá Sách, Đinh Trần
Dương là những cán bộ nòng cốt của Khoa Lịch sử từ trước năm 1974; các
thầy Ngô Đăng Tri, Vũ Quang Hiển, Nguyễn Huy Cát, Lê Văn Thịnh….là
quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, đã kinh qua chiến
đấu, được thử thách kết nạp Đảng trong quân đội; các thầy cô Nguyễn Thị
Mai Hoa, Nguyễn Quang Liệu… là những sinh viên “dũng cảm”, “dám” học
Lịch sử Đảng trong những năm tháng đất nước khó khăn nhất …Từ tình cảm,
nhiệt huyết của đội ngũ giảng viên với ngành Lịch sử Đảng đã tạo lên sự
thành công của ngành Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp và Đại học Quốc
gia Hà Nội.
3.1.2 Về hạn chế
Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, trong công tác tổ chức, đào đạo và
nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội còn tồn tại một số hạn
chế nhất định.
Một là, ngũ cán bộ, giảng viên còn thiếu và không ổn định, Bộ môn
chưa có quy hoạch xây dựng đội ngũ một cách bài bản, chủ động, nên hiện
đứng trước nguy cơ hẫng hụt lực lượng kế cận. Số mong muốn bổ sung lúc có
nhân sự lại không có chỉ tiêu, lúc có chỉ tiêu lại không tìm được người bảo
đảm tiêu chuẩn.
Bộ môn Lịch sử Đảng là Bộ môn quan trọng của Khoa và nhà trường,
bởi vậy ngoài công tác chuyên môn, một số cán bộ của Bộ môn cũng được
điều động tham gia các công tác khác của nhà trường … Để đảm bảo sự phát
triển bền vững và thực hiện tốt các nhiệm vụ nghiên cứu, Bộ môn phải có từ
10-12 giảng viên, đồng thời độ tuổi giảng viên phải thể hiện độ kế cận. Bình
83
quân trong trong khoảng cách 10 tuổi phải có từ 3-4 giảng viên.
Tuy nhiên toàn thể Bộ môn hiện nay mới có 7 giảng viên cơ hữu (thiếu
ít nhất 3 người). Trong đó 3/7 giảng viên ở độ tuổi 60, độ tuổi 50 chỉ có 1
người độ tuổi từ 30-40 có 3 người, độ tuổi dưới 30 không có ai, gần 10 năm
trở lại đây, Bộ môn không giữ được giảng viên từ nguồn sinh viên và đang
đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nhân lực và yếu tố kế cận.
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, Bộ môn đảm nhiệm công tác giảng
dạy cho toàn thể khối các trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Riêng số
lớp dọc Đường lối cách mạng cho hệ đào tạo đại học đã gần 100 lớp/năm,
chưa kể đến các lớp đào tạo học viên cao học, nghiên cứu sinh và các loại
hình đào tạo khác. Trong khi đó, chất lượng sinh viên trong nhiều năm nay có
xu hướng “thực dụng” hơn, nghĩa là nhiều sinh viên chọn ngành Lịch sử
Đảng để giải quyết công việc chứ không có đam mê, dẫn đến tình trạng học
tập hời hợt. Chương trình đào tạo chuyên ngành theo hệ tín chỉ bị rút ngắn,
rất khó để có thời gian thử thách và bồi dưỡng đối tượng quy hoạch giữ lại
Bộ môn.
Công tác tổ chức cán bộ là một trong những nguyên ngân quyết định
đến thành công của Bộ môn trong 40 năm qua, song hiện đang là thách thức
đối với công tác đào tạo của Bộ môn những năm tiếp theo. Không giải quyết
tốt công tác cán bộ, Bộ môn không đủ nhân lực để đảm bảo cho công tác đào
tạo và nghiên cứu giai đoạn tới.
Vấn đề tổ chức cán bộ của Bộ môn trong những năm 1980, 1990 là
thành tựu to lớn. Trong điều kiện đất nước gặp khủng hoảng, đời sống cán bộ,
giảng viên khó khăn, đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng bị ảnh hưởng song
Bộ môn vẫn đảm bảo tốt số lượng cán bộ và nguồn bổ sung, kế cận. Trong khi
đó, nhiều năm gần đây hai Bộ môn Lịch sử Đảng có phần coi nhẹ việc phát
triển đội ngũ cán bộ. Hạn chế này trong 10 năm gần đây đang là thách thức to
84
lớn buộc Bộ môn phải giải quyết gấp trong thời gian 5 năm tiếp theo.
Hai là, một số cán bộ, giảng viên chưa thực sự quan tâm đổi mới
phương pháp giảng dạy, thiếu sự nhạy bén cập nhật tư liệu mới, hoặc bị
nhiễu loạn thông tin, nên bài giảng, bài viết bị hạn chế, ít hàm lượng khoa
học, không đáp ứng được yêu cầu nhận thức Lịch sử của sinh viên, học viên
cao học, nghiên cứu sinh trong điều kiện mới, thậm chí gây phản cảm về môn
học cho người học.
Nhiều sinh viên cho rằng chuyên ngành Lịch sử Đảng là Bộ môn của
công tác tuyên truyền, nặng nề về học thuộc chủ trương, đường lối của Đảng,
thiếu tính thực tế và khách quan khoa học. Các ý kiến phiến diện chủ yếu xuất
phát từ cách đánh giá thiếu khách quan của xã hội về Khoa học chính trị nói
chung, Khoa học Lịch sử Đảng nói riêng song một phần cũng xuất phát từ
phương pháp giảng dạy khô khan, giáo điều của một số cán bộ, giảng viên
trước đây.
Với đào tạo sau đại học, trong những năm gần đây, Bộ môn đã cung
cấp cho xã hội một số lượng không ít các thạc sĩ và tiến sĩ. Đó là một trong
những ưu điểm lớn. Ngoài không nhiều các luận văn, luận án có chất lượng
cao thì có không ít số ThS và TS bị dư luận xã hội phàn nàn về trình độ của
họ qua thực tế công tác, tình trạng thạc sĩ chất lượng kém tương đối phổ biến.
Hạn chế của chất lượng đào tạo đang là trở ngại lớn đối với công tác
đào tạo và nghiên cứu nói riêng của Bộ môn Lịch sử Đảng. Đồng thời là hạn
chế của Bộ môn với sự nghiệp phát triển xã hội hiện nay. Chất lượng đào tạo
quyết định phần lớn từ chất lượng đội ngũ giảng viên. Trong điều kiện hiện
nay, đội ngũ giảng viên không tự nâng cao chất lượng chuyên môn và phương
pháp giảng dạy sẽ không theo kịp tiến độ đổi mới của giáo dục và yêu cầu của
sự nghiệp giáo dục trong tình hình mới.
Ba là, các yếu tố vật chất hỗ trợ công tác đào tạo và nghiên cứu còn
85
hạn chế.
Trong công tác đào tạo số lớp, số sinh viên học môn Lịch sử Đảng, nay
là môn Đường lối quá đông, số phòng học có hạn, hệ thống giáo trình, bài
giảng, tài liệu tham khảo thiếu thốn chưa đáp ứng được thực tế dạy và học
theo học chế tín chỉ. Kinh phí eo hẹp nên việc tham quan, thực tập thực tế của
sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và của giáo viên bị hạn chế.
Nhiều vấn đề chuyên môn và quản lý chưa được đổi mới đã làm hạn chế tính
dân chủ, sáng tạo, tích cực của người dạy và người học.
Khoa học Lịch sử Đảng phục vụ cho công tác lãnh đạo của Đảng, sinh
viên, học viên chuyên ngành Lịch sử Đảng sau khi tốt nghiệp có “phản ứng”
công việc khá rộng, đồng thời có xu hướng tập trung nhiều hơn vào công tác
Đảng, đoàn thể, chinh quyền, công tác nghiên cứu và giảng dạy. Tuy vậy,
hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật của Khoa Lịch sử nói chung, Bộ môn Lịch sử
Đảng nói riêng còn quá nghèo nàn. Hệ thống thư viện phục vụ nhu cầu thông
tin của người học còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng cập nhật chậm các luận
văn, luận án, khóa luận tốt nghiệp tham khảo.
Do điều kiện kinh phí có hạn, Bộ môn chưa thể phát triển mô hình học
tập trực quan, tăng cường các đào tạo bằng hình thức thăm quan, thực tế. Duy
nhất đối tượng đào tạo bậc đại học được tham quan thực tế trong năm thứ 4
với thời gian từ 5-10 ngày tại một số điểm di tích lịch sử-văn hóa từ Huế trở
ra. Sinh viên lại không được giới thiệu tham gia thực tập tại các nhà trường,
viện nghiên cứu, cơ quan Đảng, đoàn thể (hiện tại khoa Chính trị của Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã làm công tác này) nên thiếu kiến
thức thực tế, thiếu tự tin dẫn đến chất lượng tốt nghiệp kém và tình trạng thất
nghiệp tràn lan sau khi ra trường.
Khoa học Lịch sử Đảng với nhiệm vụ trang bị kiến thức lý luận cho
sinh viên, đào tạo cán bộ chuyên môn về Lịch sử Đảng cho hệ thống chính trị
86
cả nước song chưa được quan tâm đúng mức sẽ dẫn đến đào tạo kém hiệu
quả, ảnh hưởng đến sực phát triển chung của đất nước. Sinh viên, học viên,
nghiên cứu sinh không được “cọ xát” với thực tế, không có thời gian thử
thách, tập sự với công việc dứt khoát không thể có chất lượng tốt, không thể
hòa nhập sớm với yêu cầu, nhiệm vụ công việc sau khi ra trường.
Bốn là, sự điều hành chung, vấn đề thời khóa biểu nhiều lúc chưa có sự
phối hợp đồng bộ giữa các trường, các khoa với Bộ môn.
Bởi vậy, trong đào tạo, Bộ môn gặp nhiều khó khăn trong phân công
giáo viên dạy, thậm chí có lúc bị động, trùng lớp, trùng phòng, trùng giờ.
Môn học có tính tư tưởng, giáo dục rất cao, song các đơn vị đào tạo, các đoàn
thể gần như phó mặc cho giáo viên đứng lớp, thiếu sự phối hợp, hỗ trợ, động
viên cần thiết.
Chẳng hạn như đào tạo bậc cử nhân chuyên ngành Lịch sử Đảng luôn
có từ 50-70 sinh viên song bị xếp lịch vào các lớp có quy mô 30 người, phải
thắc mắc, kiến nghị mới được giải quyết. Đào tạo cao học thường xuyên bị
trùng lớp với các chuyên ngành khác và phải bố trí học vào buổi tối rất vất vả
cho giảng viên và các học viên ở xa.
Không làm tốt công tác điều hành, Bộ môn Lịch sử Đảng không thể
truyền tải, trang bị tốt ý thức chính trị, ý thức tổ chức, kỷ luật cho sinh viên,
khó hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình với sự nghiệp lãnh đạo của
Đảng.
Năm là, ý thức của sinh viên, của xã hội đối với môn Lịch sử nói chung,
môn Lịch sử Đảng, môn Đường lối cách mạng của Đảng nói riêng còn hạn
chế.
Cách nhìn nhận về Lịch sử Đảng của một bộ phấn lớn sinh viên thậm
chí sai lệch, coi là môn lý luận chính trị đơn thuần, môn bổ trợ, môn phụ, nên
có tâm lý học đối phó, thiếu tự giác, không hăng say. Chất lượng sinh viên,
87
học viên chuyên ngành có phần suy giảm so với giai đoạn trước. Tình trạng
trốn tiết, học hộ diễn ra tương đối phổ biến, chất lượng học tập, nhận thức
ngày càng đi xuống.
Đặc biệt, trong chương trình học tập hiện nay cho phép thi môn Đường
lối cách mạng Việt Nam là đề mở đã dẫn đến tình trạng sinh viên không chú
tâm học, không quan tâm nội dung học mà dựa hoàn toàn vào tài liệu môn
học. Một số sinh viên đã đăng ký học, song lại thay đổi, nên có đơn vị phải
hủy, dồn lớp học, gây bị động cho giáo viên, cho Bộ môn.
Điều đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ sinh viên Khoa Lịch sử
chọn Lịch sử Đảng vì “không biết chọn ngành nào”, hoặc chọn vì “dễ xin việc
hơn các ngành khác”. Không phủ nhận việc chọn ngành học của sinh viên
phải xuất phát từ nhu cầu của xã hội và khả năng lựa chọn nghề nghiệp song
chính tâm lý thực dụng của sinh viên khiến chất lượng tốt nghiệp ngày càng
đi xuống, sinh viên tốt nghiệp không có phương pháp và kiến thức nghiên cứu
dẫn đến tình trạng thất nghiệp là tất yếu.
Học chuyên ngành Lịch sử Đảng vì nhu cầu của xã hội là chưa đủ, phải
xuất phát từ tình cảm, tâm tư, nguyện vọng chính đáng. Trong những năm
qua, việc đào tạo được số lượng lớn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là rất đáng mừng,
song chưa thực hiện đúng tinh thần “quý hồ tinh, bất quý hồ đa” dẫn đến gây
ra tình trạng lãng phí, thiếu tập trung, bài bản.
Nguyên nhân của hạn chế:
Sở dĩ có tình trạng này, là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, Hầu hết các giảng viên có khả năng nghiên cứu (và đủ điều kiện
để được duyệt thực hiện đề tài) đều là những người đã có thâm niên công tác,
có học hàm, học vị và cả thành tích nghiên cứu cũng như giảng dạy…; tuy
nhiên, họ lại thường là lãnh đạo, quản lý nên thời gian dành cho nghiên cứu
thường không nhiều
88
Hai là, Giảng viên phải giảng dạy quá nhiều: Theo Quyết định số
64/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giảng viên có
chức danh càng cao thì số giờ giảng dạy càng nhiều (Giáo sư, GVCC :360
giờ; Phó giáo sư, GVC: 320 giờ ; Giảng viên: 280 giờ). Tuy nhiên, với Bộ
môn Lịch sử Đảng, các cán bộ giảng dạy phải đảm nhận thời lượng giờ gấp
đôi, có khi gấp ba. Với số giờ giảng nhiều như vậy nên giảng viên không còn
thời gian (và cả sức lực) dành cho việc nghiên cứu.
Ba là, thù lao được trả chưa xứng với công sức bỏ ra: Kinh phí cấp cho
các đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ hoặc Thành phố còn tạm ổn cho
hoạt động nghiên cứu, nhưng với các công trình nghiên cứu cấp trường hoặc
bài báo thì số kinh phí thường rất thấp (từ 15-20 triệu/đề tài và 500.000đ –
700.000đ/bài báo); vì thế, không khuyến khích được giảng viên nghiên cứu và
chất lượng công trình cũng không thể cao.
Bốn là, Thiếu sự liên kết bền chặt giữa các Trung tâm đào tạo Lịch sử
Đảng với nhau: chưa có có sự liên kết, trao đổi nên nhiều khi hướng nghiên
cứu bị trùng lặp. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng lại
những kết quả đã công bố và gây ra lãng phí.
Năm là, tâm lý chung của xã hội hiện nay là không coi trọng các ngành
Khoa học xã hội nói chung và ngành Lịch sử Đảng nói riêng. Đây là hạn chế
chung của hệ thống giáo dục nước ta.
3.2 Kinh nghiệm và các vấn đề đặt ra
3.2.1 Kinh nghiệm
Quá trình 40 năm (1974-2014) thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên
cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã để lại những kinh nghiệm
quý giá:
Một là, nắm vững ý nghĩa, vai trò trong đào tạo và nghiên cứu Lịch sử
Đảng đối với sự phát triển của xã hội.
89
Cần xác định rõ, khoa học Lịch sử Đảng ngành khoa học lịch sử, khoa
học chính trị, phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng. Môn học Lịch sử Đảng,
Đường lối cách mạng của Đảng có nội dung tư tưởng, chính trị rất cao, do đó
việc dạy- học và nghiên cứu phải nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng
trong từng thời kỳ Lịch sử cũng như đương đại để có sự nhận thức vừa khoa
học khách quan vừa gắn với thực tiễn hiện tại, tránh phiến diện một chiều,
vừa giảm hàm lượng khoa học vừa gây phản cảm đối với cả người dạy và
người học.
Thực trạng hiện nay hầu hết sinh viên đều coi môn Đường lối cách
mạng là môn học phụ trợ, có tính chất bắt buộc, giáo điều. Bởi vậy hầu hết
sinh viên học đối phó, kết thúc môn không nắm được những vấn đề cơ bản
của lịch sử cách mạng Việt Nam. Trong quá trình giảng dạy, thời lượng dành
cho môn học Đường lối cách mạng nói chung và thời lượng học chuyên
ngành cho sinh viên ngành Lịch sử Đảng nói riêng không nhiều dẫn đến
chương trình được giới thiệu cho sinh viên khái quát, cơ bản, không có điều
kiện đi sâu vào nội dung vấn đề.
Do vậy, cần thường xuyên quan tâm chấn chỉnh ý thức học tập lịch sử
Đảng cho đầy đủ các hệ đào tạo. Ý thức học tập là cơ sở quan trọng để đảm
bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu không chỉ với vai trò là một ngành khoa
học mà còn với vai trò là một ngành lý luận chính trị phục vụ trực tiếp cho sự
lãnh đạo của Đảng.
Hai là, để đảm bảo sự phát triển bền vững, khả năng thu hút sinh viên,
học viên, nghiên cứu sinh cần chú ý tính lợi ích của chuyên ngành đào tạo.
Nghĩa là trong cơ chế thị trường, người học luôn luôn có sự lựa chọn
ngành học dựa trên phân tích lợi ích lâu dài và trước mắt của nó. Số sinh viên,
học viên cao học, nghiên cứu sinh đăng ký theo học chuyên ngành Lịch sử
Đảng những năm qua cũng không ngoài ngoại lệ đó.
90
Qua khảo sát tại các khóa sinh viên K53 (năm học 2011-2012) và K54
(năm học 2012-2013) cho thấy, trên 50% sinh viên theo học chuyên ngành
Lịch sử Đảng đã khẳng định đăng ký chuyên ngành vì Lịch sử Đảng dễ xin
việc hơn các chuyên ngành khác, có mức “phản ứng” công việc rộng: nghiên
cứu, giảng dạy (bậc phổ thông và đại học, cao đẳng), làm báo, đảm nhiệm
công tác tại cơ quan Đảng, đoàn thể các cấp, đảm nhiệm công tác Đảng, công
tác chính trị trong lực lượng vũ trang… Trên 60% số học viên cao học, nghiên
cứu sinh chuyên ngành Lịch sử Đảng đang công tác giảng dạy, nghiên cứu
Lịch sử Đảng và làm việc hệ thống chính trị các cấp.
Như vậy, có thể thấy, phần lớn sinh viên đăng ký học Lịch sử Đảng
xuất phát chủ yếu từ ưu tiên công việc, chỉ có một bộ phận nhỏ đăng ký dựa
trên cảm hứng đối với Bộ môn. Sức hút của ngành lịch sử Đảng là không nhỏ
song nhiệm vụ của Bộ môn còn phải cho người học thấy được hàm lượng
khoa học của ngành Lịch sử Đảng, đồng thời phải có trách nhiệm đối với
công tác đào tạo để hình thành lên đội ngũ chuyên gia Lịch sử Đảng thực sự.
Vấn đề việc làm sau khi ra trường là cơ sở khách quan, lâu dài, cách
thức điều hành nghiêm túc, tận tình của Bộ môn, sự ứng xử công tâm, giỏi
chuyên môn của đội ngũ giảng viên là cơ sở trực tiếp, cảm quan để họ đăng
ký ngành học.
Ba là, cần chú ý làm tốt cả hai nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu, xác
định rõ đào tạo và nghiên cứu là hai cột trụ bảo đảm sự phát triển bền vững
của Bộ môn Lịch sử Đảng.
Muốn giảng dạy tốt phải trên cơ sở nghiên cứu sâu, thấu hiểu vấn đề có
tư liệu phong phú, đa chiều; muốn nghiên cứu tốt phải qua thực tiễn đào tạo
để phát hiện đề tài và lý giải vấn đề. Điều đó không chỉ đúng về mặt lý thuyết
mà là sự trải nghiệm của các giáo viên Bộ môn Lịch sử Đảng hơn 40 năm
qua, thậm chí đó là sự sàng lọc khắt khe trên thực tế đối với đội ngũ giáo viên
91
của Bộ môn. Ai không thực hiện tốt sự kết hợp đó sẽ khó có uy tín cao đối với
sinh viên, Học viên cao học, Nghiên cứu sinh.
Trong môi trường trí thức, học thuật, nhiều khi các công trình nghiên cứu là
yếu tố quyết định uy tín chuyên môn của giáo viên chứ không chỉ là sự tận tâm
của họ. Thực tiễn đã chứng minh, các giảng viên có nhiều sách được xuất bản,
nhiều bài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học là những người được
sinh viên, học viên đăng ký nhận hướng dẫn tốt nghiệp nhất.
Đối với đội ngũ sinh viên, học viên cao học, việc nghiên cứu khoa học là
hết sức cần thiết, là “chứng chỉ” về khả năng tư duy của họ. Nhất là trong điều
kiện phần lớn học viên, sinh viên ra trường công tác tại các viện nghiên cứu,
trường đại học và các cơ quan tham mưu trong hệ thống chính trị đất nước.
Bốn là, cần giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa đào tạo và nghiên
cứu Lịch sử Đảng với các chuyên ngành khác trong Khoa Lịch sử.
Bộ môn Lịch sử Đảng đã đào tạo thành công một số lượng cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ đông về số lượng tốt về chất lượng, trở thành địa chỉ tin cậy,
dẫn đầu trong số những cơ sở có đào tạo chuyên ngành Lịch sử Đảng trong
khu vực và cả nước là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng là ở lợi thế
đặt trong đội hình, môi trường của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn. Bộ mộn đã nhận thức và tận dụng được lợi thế này và
cần ra sức phát huy trong thời gian tới.
Trên thực tế, hiểu biết của học sinh phổ thông về lịch sử Đảng là tương
đối hạn chế. Bởi vậy, khi để Lịch sử Đảng là một ngành đào tạo độc lập sẽ có
những khó khăn nhất định trong công tác tuyển sinh.
Đặt Lịch sử Đảng thành một chuyên ngành thuộc Khoa Lịch sử sẽ có
thuận lợi cơ bản. Qua quá trình học tập, các sinh viên Khoa Lịch sử nhận thức
được sức hút của ngành Lịch sử Đảng, tự nguyện lựa chọn, đăng ký theo học.
Thêm vào đó, Lịch sử Đảng gắn liền với các chuyên ngành đào tạo khác của
92
Khoa Lịch sử . Sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng đã co 3 năm học
chương trình đào tạo Lịch sử cơ bản nên có thể tiếp cận Lịch sử Đảng tốt hơn,
khách quan và khoa học hơn.
Năm là, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy
và nghiên cứu.
Tuy Bộ môn có đội ngũ cán bộ không nhiều song về mặt chất lượng
được quan tâm xây dựng tốt: 100% đội ngũ cán bộ cơ hữu của Bộ môn hiện
nay có trình độ sau đại học; 4/7 cán bộ được nhà nước phong hàm Phó giáo
sư, 1 cán bộ được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú và được công nhận là
Giảng viên cao cấp (tương đương với giáo sư). Chính năng lực của đội ngũ
cán bộ Bộ môn là sức hút đối với sinh viên, hoạc viên cao học đăng ký
chuyên ngành Lịch sử Đảng.
Bên cạnh đó, Bộ môn đã mở rộng liên kết, phối hợp với các đơn vị, các
nhà khoa học của nhiều đơn vị khác, Bộ môn đã nhân lên sức mạnh của mình,
đồng thời phát huy ảnh hưởng với bên ngoài. Tăng cường hợp tác, đoàn kết
nội bộ, giữa vững tình nghĩa thầy trò, đồng nghiệp và ra sức mở rộng, đoàn
kết, tin cậy, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà khoa học, nhà giáo, các đơn vị cùng
chuyên môn ngoài Trường là sự cần thiết, tạo nên hiệu quả cao cho việc
nghiên cứu, đào tạo đại học, sau đại học của Bộ môn Lịch sử Đảng. Đặc
biệt, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động hợp tác nghiên cứu, giảng dạy
đối với các Trung tâm giảng dạy nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Đảng hàng
đầu cả nước như Học viện chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Viện Lịch sử Quân sự… Trong điều kiện hiện nay, cần tăng cường hơn nữa
công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên, đảm bảo yếu tố
kế cận.
Sáu là, cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới chương trình giảng dạy phù
hợp với điều kiện trong tình hình mới.
93
Chương trình, giáo trình, đề cương môn học, tập bài giảng, tài liệu
tham khảo, đề tài nghiên cứu, bài đăng tạp chí, các chuyến đi thực tế là điều
kiện vô cùng thiết yếu bảo đảm giữ vững, nâng cao chất lượng đào tạo và uy
tín chuyên môn của Bộ môn và giáo viên, là sự quảng bá tự nhiên, sức hút
mạnh lôi cuốn người học theo chuyên ngành Lịch sử Đảng.
Hệ thống giáo dục luôn phải theo kịp xu thế phát triển của xã hội. Khoa
học Lịch sử Đảng không nằm ngoài quy luật đó, Để đảm bảo được sự ổn định
trong nghiên cứu và đào tạo, dứt khoát Bộ môn phải thường xuyên chăm lo
đổi mới chương trình và phương pháp học tập.
Trong đào tạo chuyên ngành cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh,
cán bộ, giảng viên Bộ môn đã dày công xây dựng hệ thống tập bài giảng và
tài liệu tham khảo định hướng cho sinh viên trong học tập và nghiên cứu, tạo
điều kiện thuận lợi cho người học. Trong chương trình đào tạo cử nhân, Bộ
môn có chương trình tham quan thực tế dài nhất trong các chuyên ngành của
Khoa góp phần tạo niềm hứng cảm cho sinh viên trong học tập, nghiên cứu
sinh, học viên của Bộ môn có chương trình thăm quan thực tế, phối hợp
nghiên cứu, học tập với nhiều trường đại học trong và ngoài nước.
Phát huy được những ưu thế này, công tác đào tạo và nghiên cứu của
Bộ môn tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
3.2.2 Một số vấn đề đặt ra
Đứng trước những khó khăn, thách thức mới trong công tác đào tạo và
nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời để đảm bảo
sự phát triển bền vững của Bộ môn trong thời gian tới, Bộ môn cần chú trọng,
quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
Một là, chủ động tìm, tạo nguốn bổ sung đội ngũ giáo viên cho Bộ môn
Lịch sử Đảng.
Lấy thực tại làm cơ sở, Bộ môn cùng lúc đảm nhiệm hai chức năng
94
song song: chức năng Bộ môn khoa học chuyên ngành của khoa chuyên
ngành sử học đang trực tiếp đào tạo trên 100 Học viên cao học, trên 50 NCS,
trên 50 sinh viên năm thứ 4, và chức năng Bộ môn lý luận chính trị, giảng dạy
môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho toàn Đại học
Quốc gia Hà Nội (trên 100 lớp/năm), quy ra có tới trên 5000 giờ/năm, vậy
phải có từ 10-12 giảng viên cơ hữu. Nếu đề bù cho cả số 3 giáo viên sắp nghỉ
thì trong thời gian tới (từ năm 2015 đến năm 2020) phải bổ sung thêm từ 5
đến 10 giảng viên cơ hữu.
Bộ môn cũng cần tính toán đến sự cân đối tỷ lệ nam – nữ trong đội ngũ
cán bộ và rút kinh nghiệm về vấn đề quy hoạch độ tuổi cho những năm về
sau. Trong trường hợp 5 năm tiếp theo (2015-2020) Bộ môn có giữ đủ số
lượng cần thiết thì giai đoạn sau năm 2020 vẫn phải tính toán phát triển thêm
đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mở rộng đào tạo, nghiên cứu và đảm bảo tính
kế thừa, tránh mắc các hạn chế trong những năm trước.
Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Bộ môn cố gắng động viên các
giảng viên đã nghỉ hưu tham gia giúp Bộ môn giảng dạy và nghiên cứu. Mặt
khác, Bộ môn cần quan tâm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ sinh viên các khóa,
đồng thời mạnh dạn đề xuất giữ lại trường các học viên cao học, nghiên cứu
sinh có thành tích học tập và nghiên cứu khoa học tốt.
Cụ thể, nên chú trọng bồi dưỡng và định hướng nghiên cứu khoa học
cho một số sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai qua hoạt động nghiên cứu
khoa học sinh viên. Đối với học viên cao học và nghiên cứu sinh, nên có sự
quan tâm và yêu cầu hàm lượng khoa học cao hơn trong các chương trình
kiểm tra chất lượng các chuyên đề.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế ”thoáng” hơn trong việc bồi dưỡng, quy
hoạch đội ngũ giảng viên, chú trọng vào thực lực, khả năng có thể giảng dạy
và nghiên cứu, tránh việc đánh giá chất lượng thông qua điểm số.
95
Hai là, tích cực đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy và nghiên
cứu khách quan hơn, khoa học hơn để khắc phục tình trạng người dạy và
người học đang có sự giảm sút hứng thú với môn Lịch sử nói chung, Lịch sử
Đảng và cách mạng Việt Nam nói riêng.
Nhiều vấn đề về Lịch sử Đảng và Lịch sử cách mạng Việt Nam đang có
những ý kiến khác nhau do tư liệu hoặc do quan niệm chuyên môn cần được
tổ chức, khuyến khích nghiên cứu thấu đáo hơn trên cơ sở tôn trọng sự thật, vì
lợi ích lâu dài của đất nước của Đảng, của dân tộc.
Đồng thời cần phải tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp học tập.
Đưa vào chương trình lịch sử Đảng các vấn đề mang tính chất nền tảng và
thời sự xã hội. Chẳng hạn như sinh viên, học viên cao học chưa được học tập
các chuyên đề về nông nghiệp-nông thôn, chủ quyền biển đảo.... là những vấn
đề đang được xã hội quan tâm và mang tính chất xương sống của lịch sử cách
mạng nước nhà.
Về phương pháp dạy và học, cần tăng cường hơn nữa các phương pháp
học tập trực quan, thực tế. Cụ thể, cần tổ chức cho sinh viên, học viên đi thực
tế, thăm quan các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng.
Quan trọng hơn, cần phải tính toán đến khả năng đưa sinh viên về thực
tập tại các viện nghiên cứu, cơ quan truyền thông, hệ thống chính trị các cấp
để ”va chạm” thực tế và tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi ra trường. Với vị
thế và chất lượng của Bộ môn, việc giới thiệu sinh viên và học viên đến thực
tập, thực tế tại các cơ quan chuyên môn, các cơ quan tham mưu, phong trào
trong hệ thống chính trị các cấp là hoàn toàn có thể thực hiện được, phù hợp
với xu thế chung của xã hội (chú trọng đến thực tế nhiều hơn) và đảm bảo
được uy tín, chất lượng đào tạo của Bộ môn.
Ba là, có thái độ dân chủ, khách quan, khoa học trong đánh giá đội
ngũ giáo viên, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh Lịch sử Đảng,
96
trong nghiệm thu, công bố công trình nghiên cứu về Lịch sử Đảng, tránh việc
đánh giá không đúng về vị trí môn học, ngành học, lĩnh vực nghiên cứu.
Dư luận chung của xã hội đánh giá ngành Lịch sử Đảng ngành học
chính trị, thiếu hàm lượng khoa học. Ngay cả một số cán bộ, giảng viên các
ngành khoa học khác cũng có cách nhìn thiếu khách quan, xem nhẹ ngành
Lịch sử Đảng.
Ngược lại, một bộ phận sinh viên, học viên ngành Lịch sử Đảng mang
nặng tư tưởng đề cao quá mức ngành học, thiếu khách quan khoa học trong
nghiên cứu. Trong khi đó, Khoa học Lịch sử Đảng là một ngành khoa học
nằm trong Khoa học Lịch sử, với tư duy sử học khách quan nghiên cứu đối
tượng là sự lãnh đạo của Đảng – một thành tố quan trọng trong Lịch sử Việt
Nam hiện đại với nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm phục vụ cho sự lãnh đạo của
Đảng và sự phát triển của đất nước hiện nay.
Việc sinh viên, Học viên cao học, nghiên cứu sinh Lịch sử Đảng đông
đảo như hiện nay cũng như rất ít người học ở nhiều năm trước đây cần được
xem là bình thường, là sự ”cạnh tranh” lành mạnh trong cơ chế thị trường,
tránh sự can thiệp có tình hành chính quan liêu không cần thiết.
Bốn là, do việc dạy và học môn học Lịch sử Đảng, môn Đường lối cách
mạng của Đảng tuy là một vấn đề khoa học, song rất nhạy cảm về tư tưởng
chính trị, do đó cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các tổ chức đoàn
thể đế sinh viên, Học viên cao học, NCS có sự hứng khởi trong học tập,
nghiên cứu cũng như tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.
Đào tạo lịch sử Đảng với tư cách là một ngành khoa học phục vụ trực
tiếp cho sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ cử nhân, thạc sĩ, Tiến sĩ Lịch sử Đảng
sau khi tốt nghiệp thường công tác trên hai lĩnh vực chính: công tác giảng
dạy, nghiên cứu lịch sử Đảng tại các trường đại học, viên nghiên cứu; công
tác tham mưu, phong trào thuộc hệ thống chính trị các cấp. Nghĩa là Bộ môn
97
đang đào tạo cán bộ trực tiếp cho Đảng. Chất lượng của cán bộ trong hệ thống
chính trị phụ thuộc một phần vào chất lượng đào tạo của Bộ môn. Bởi vậy,
cần phải được sự quan tâm đầu tư hơn nữa của Đảng từ vấn đề kinh phí đào
tạo, nội dung chương trình đào tạo, tài liệu học tập và vấn đề đầu ra việc làm.
Năm là, Bộ môn chủ động hơn nữa trong vấn đề tư vấn, định hướng
cho sinh viên chuyên ngành.
Trong công tác đào tạo cử nhân chuyên ngành, Bộ môn Lịch sử Đảng
có bất lợi hơn các chuyên ngành khác ở chỗ, môn học trực tiếp của Bộ môn
bắt đầu từ năm thứ 3 (Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam). Nghĩa là đến gần phân
chia chuyên ngành, sinh viên mới được tiếp xúc với Lịch sử Đảng, dẫn đến
tình trạng nhiều sinh viên đăng ký học trong hiểu biết hời hợt về Bộ môn.
Trong những năm tới, Bộ môn cần tổ chức tư vấn cho sinh viên ngay từ
năm thứ nhất, tích cực tăng cường các hoạt động tư vấn nghiên cứu khoa học
Lịch sử Đảng cho sinh viên năm nhất và năm hai, phối hợp cùng Khoa Lịch
sử tổ chức tư vấn lựa chọn chuyên ngành cho sinh viên đầu năm thứ 3.
Đồng thời, đối với sinh viên chuyên ngành năm thứ 4, Bộ môn cần có
tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho sinh viên, chủ động tìm nguồn việc làm
(nghiên cứu, giảng dạy) giúp sinh viên ổn định công tác sau ra trường, tránh
lãng phí, thất thoát một số lượng lớn cử nhân, thạc sĩ chuyên ngành.
Tiểu kết
Nhìn chung, hơn 40 năm qua (1974- 2014), được sự quan tâm của tổ
chức Đảng và chính quyền các cấp, công cuộc xây dựng đội ngũ cán bộ, thực
hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học về Lịch sử Đảng ở Khoa Lịch
sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Bộ môn Lịch sử Đảng,
Trung tâm bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Đại học Quốc gia Hà Nội đã
trải qua một chặng đường có nhiều khó khăn nhưng cũng rất vinh dự và vẻ
vang. Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Khoa Lịch sử (và Bộ môn Lịch sử Đảng
thuộc Trung tâm Đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học
98
Quốc gia Hà Nội) đã ra sức phấn đấu, vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Hiện tại Bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử đã có bước trưởng thành
vượt bậc về mọi phương diện, là giai đoạn ”đỉnh cao” trong Lịch sử 40 năm
xây dựng và phát triển của mình. Xuyên suốt chặng đường ấy, các thế hệ cán
bộ, giảng viên của Bộ môn và Trung tâm là người thầy, cô đáng kính nhất đối
với mọi thế hệ sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh Bộ môn.
Tuy vẫn còn những hạn chế không thể chủ quan thỏa mãn, song cán bộ,
giáo viên sinh viên, Học viên cao học, NCS các thế hệ, các khóa của Bộ môn
Lịch sử Đảng rất tự hào vế chặng đường đã đi, tri ân sâu sắc các thế hệ tiền
nhiệm, các cơ quan, cá nhân trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội về sự
giúp đỡ, hợp tác trong thời gian qua cũng như sắp tới. Phát huy thành quả,
vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm đã có, Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam vững bước thực hiện hai nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu Lịch sử
Đảng trong những giai đoạn tiếp theo.
99
KẾT LUẬN
Bộ môn Lịch sử Đảng với tư cách là một chuyên ngành của khoa học
lịch sử thuộc Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường
ĐHKHXHNV, ĐHQGHN) được thành lập năm 1974 theo chủ trương của
Ban Khoa giáo Trung ương Đảng và Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp.
Lúc mới thành lập, Bộ môn được giao nhiệm vụ đào tạo cử nhân Lịch
sử Đảng để cung cấp giáo viên Lịch sử Đảng cho các trường đại học và cao
đẳng, cán bộ nghiên cứu cho các viện, các ban nghiên cứu Lịch sử Đảng ở
Trung ương và địa phương trong cả nước. Từ năm 1990, Bộ môn được giao
thêm nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng.
Bộ môn Lịch sử Đảng thuộc Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị tiền thân từ tổ Lịch sử Đảng của Trung tâm Bồi dưỡng giảng viên lý
luận chính trị Mác - Lênin thành lập năm 1985. Với 28 năm xây dựng và phát
triển (1985-2013), Bộ môn Lịch sử Đảng của Trung tâm đã song hành cùng
Bộ môn Lịch sử Đảng của Khoa Lịch sử đảm nhiệm công tác đào tạo và
nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp Hà Nội sau đó là Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Qua 40 năm xây dựng và trưởng thành, những kết quả mà hai Bộ môn
Lịch sử Đảng đã đạt được đã cho thấy sự nỗ lực của cán bộ, giảng viên cũng
như sinh viên. Qua nghiên cứu công tác đào tạo và hoạt động nghiên cứu
khoa học của Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử từ năm 1974-2014 và Bộ
môn Lịch sử Đảng của TTBDGVLLCT, bước đầu có thể rút ra một số kết
luận về công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Quốc gia Hà
Nội như sau:
1. Hoạt động đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng tại Đại học Tổng hợp
100
Hà Nội (sau là Đại học Quốc gia Hà Nội) chính thức bắt đầu với sự hình
thành Bộ môn Lịch sử Đảng trường ĐHKHXH&NV (trước đây là Đại học
Tổng hợp Hà Nội) năm 1974, sau đó được tăng cường với sự ra đời của Bộ
môn Lịch sử Đảng tại TTBDGVLLCT năm 1985. Trong thời gian 40 năm
hoạt động và trưởng thành, công tác đào tạo và nghiên cứu Lịch sử Đảng có
hai giai đoạn là: Từ năm 1974 đến năm 1996, và từ năm 1996 – mốc đánh dấu
hoạt động của trường Đại học KHXH&NV đên năm 2014-năm kỷ niệm 40
năm thành lập Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Lịch sử. Trong quá trình xây dựng
và phát triển, hai Bộ môn đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng
tổ chức, đội ngũ cán bộ, xác định đúng đắn yêu cầu và nhiệm vụ qua
từng thời kỳ, từng bước thực hiện có hiệu quả hoạt động đào tạo và
nghiên cứu khoa học
2. Qua gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, công tác đào tạo và
nghiên cứu khoa học của hai Bộ môn đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.. Hệ
thống các chuyên đề cho sinh viên chuyên ngành (năm thứ tư) cũng được xúc
tiến do cán bộ Bộ môn đảm nhiệm. Chất lượng đào tạo ngày càng được cao,
nhờ đó mà số sinh viên, học viên cao học và NCS theo học chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tăng lên một cách nhanh chóng. Số lượng
sinh viên chuyên ngàng Lịch sử Đảng thường xuyên chiếm từ 30 đến trên
50% tổng số sinh viên toàn Khoa Lịch sử từ những năm 90 lên tới trên 50%
sinh viên, đỉnh cao là năm học 2012-2013 đạt 80% sinh viên Khoa Lịch sử
đăng ký học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều sinh
viên của Bộ môn đã trưởng thành sau khi ra trường, giữ vị trí quan trọng trong
cơ quan Trung ương và các địa phương
Về nghiên cứu khoa học, tổng cộng các công trình nghiên cứu khoa học
dưới mọi hình thức, hiện nay, Bộ môn Lịch sử Đảng đã có trên 500 công trình
nghiên, nhiều công trình trở thành giáo trình, sử dụng phổ biến cho sinh viên
101
các trường cao đẳng, đại học trên cả nước, nhiều hội thảo nghiên cứu khoa
học diễn ra giữa Bộ môn Lịch sử Đảng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội cũng như
trên cả nước, chất lượng nghiên cứu ngày càng được chú trọng nâng cao, từng
bước được đẩy mạnh, góp phần vào sự phát triển của khoa học Lịch sử Đảng.
3.Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng Bộ môn Lịch sử Đảng vẫn còn
nhiều khó khăn, trở ngại: Về đào tạo, đội ngũ cán bộ, giảng viên còn thiếu
nhiều, do đó chưa đáp ứng được số lượng sinh viên đông đảo và đảm bảo
được chất lượng giảng dạy, một số cán bộ, giảng viên chưa có phương pháp
giảng dạy thích hợp, do đó chưa tạo được hứng thú trong học tập, cũng như
đảm bảo chất lượng học tập
Về hoạt động nghiên cứu khoa học, mặc dù đã có sự nỗ lực tuy nhiên
do phải đảm nhận nhiều chức năng, nhiệm vụ cùng một lúc nên chưa đáp ứng
được yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng công trình khoa học bên cạnh
đó, một số giảng viên chưa thật nhiệt tình và say mê nghiên cứu; vì thế, nhiều
công trình nghiên cứu vẫn còn hạn chế về chất lượng nghiên cứu với hàm
lượng khoa học không cao.
4.Thực tiễn đào tạo và nghiên cứu khoa học của Bộ môn Lịch sử Đảng
ở Đại học Quốc gia Hà Nội đã đề lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý
báu như : Về đào tạo, phải xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên đông đảo, chất
lượng, có nhiều cố gắng hơn nữa trong công tác biên soạn, giáo trình, sách
chuyên khảo, tham khảo cho người học và phải xây dựng chương trình đào
tạo phù hợp với từng thời kỳ, quy mô, chất lượng đào tạo và phải có nhiều đổi
mới trong phương pháp giảng dạy với môn học thuộc khoa học Lịch sử Đảng
Trong nghiên cứu khoa học, các cán bộ, giảng viên cũng như sinh viên
tham gia nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải nắm vững
hơn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, đồng thời cần có nhiều chính sách khuyến khích, phải tăng cường
102
cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, bên cạnh đó, phải tạo
điều kiện cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học có nhiều cơ hội tiếp
xúc, tham gia những hoạt động nghiên cứu, các hội thảo ở các địa phương
trong nước và các nước có nền khoa học, giáo dục phát triển.
5. Để đưa Bộ môn ngày càng trưởng thành và phát triển, cần phải giải
quyết một số vấn đề đặt ra như: kiên trì coi trọng việc nghiên cứu, giảng dạy,
học tập môn Lịch sử nói chung và các môn Lịch sử Đảng nói riêng; nghiên
cứu Lịch sử Đảng một cách thường xuyên, khai thác tốt các nguồn tư liệu gắn
với phục vụ thực tiễn từng giai đoạn cách mạng, thường xuyên đổi mới
phương pháp, tăng cường điều kiện nghiên cứu, dạy và học Lịch sử Đảng.
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28-8-2002, Về
tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1996), Nghị quyết hội nghị lần thứ hai
Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết khóa VII số 04-NQ/HNTW
Về xây dựng một số trường đại học trọng điểm Quốc gia
4. Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoa Lịch sử, ĐHKHXHNV,
ĐHQGHN) (2014), Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát
triển1974-2014, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
5. Vũ Thanh Bình (Bộ giáo dục và Đào tạo) (2000), Thực trạng giảng dạy và
học tập các môn khoa học Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các
trường Đại học, cao đẳng và giải pháp đổi mới
6. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2000), Danh mục các công trình
khoa học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1995-2000),
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
7. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2006), Khoa Lịch sử nửa thế kỷ
xây dựng và phát triển (1956-2006), Nxb Thế giới, Hà Nội
8. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn-Hội cựu chiến binh (2010), Còn lại
với thời gian, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
9. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2012), Báo cáo thực hiện quy chế
công khai năm học 2012-2013, Lưu tại phòng kế hoạch tài vụ và phòng
hành chính tổng hợp
10. Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Đại học Tổng hợp hôm qua và hôm nay,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
104
11. Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Chương trình đào tạo chất lượng cao
trình độ đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 2577
/QĐ-ĐT ngày 01 tháng 9 năm 2010
12. Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Chương trình đào tạo chuẩn trình độ
đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 2577 /QĐ-ĐT
ngày 01 tháng 9 năm 2010
13. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Chương trình đào tạo chất lượng cao trình
độ đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 4118 /QĐ-ĐT,
ngày 30 tháng 11 năm 2012 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)
14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Chương trình đào tạo chuẩn trình độ
đại học ngành Lịch sử Ban hành kèm theo Quyết định số 4118 /QĐ-ĐT,
ngày 30 tháng 11 năm 2012 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)
15. Đại học Quốc gia Hà Nội ( 2007), Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng
viên lý luận chính trị, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Giảng dạy các môn lý
luận chính trị ở các trường Đại học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Quốc tế”, Hà Nội
16. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng
viên lý luận chính trị, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Đổi mới phương pháp
giảng dạy các môn lý luận chính trị ở Đại học Quốc gia Hà Nội”, Hà Nội
17. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Một số điều chỉnh, bổ sung về điều kiện
xét chuyển tiếp sinh đào tạo sau đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội, ban
hành theo Quyết định số 237/KHCN, ngày 03 tháng 7 năm 2006 của Giám
đốc Đại học Quốc gia Hà Nội
18. Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Chương trình đào tạo Đại học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
19. Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng
viên lý luận chính trị, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Đường lối đổi mới của Đảng
105
Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế (1986-2007), Hà Nội
20. Đại học Tổng hợp Hà Nội (2008), Thư Mục sử học kỷ niệm 35 năm thành
lập Khoa Lịch sử (1956-1991), Khoa Lịch sử, Hà Nội
21. Lê Mậu Hãn (1990) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (viết chung)(tập 1
và tập 2). Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội
22. Vũ Quang Hiển (2006), Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Khoa
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội) Quá trình xây dựng và trưởng thành, Tạp chí Lịch sử Đảng số 10
23. Vũ Quang Hiển (2007), Phương pháp nêu vấn đề trong dạy và học Lịch sử
Đảng, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1. In lại trong sách Về phương pháp
nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội, 2008
24. Vũ Quang Hiển, Ngô Đăng Tri…(2010), Đảng Cộng sản Việt Nam – 80
năm xây dựng và trường thành, Nxb CTQG, Hà Nội
25. Nguyễn Đình Hương (2009), Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
26. Nguyễn Văn Khánh (1991) Sử học và đổi mới hay là đổi mới sử học (viết
chung). Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4, Hà Nội
27. Nguyễn Văn Khánh (2003) Vài suy nghĩ về nghiên cứu cơ bản trong khoa
hoc xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, số 1, Hà Nội
28. Nguyễn Văn Khánh (2010) Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng. TC Nghiên cứu con người, Số 1
(46), tr.40-46.
29. Khoa Lịch sử (2000), Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
30. Khoa Lịch sử (2001), Khoa Lịch sử 45 năm xây dựng và phát triển (1956-
106
2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
31. Khoa Lịch sử (2006), Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001-2006),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
32. Khoa Lịch sử (2006), Sách vàng 50 năm Khoa Lịch sử ; Danh sách sinh
viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh 1956-2006
33. Khoa Lịch sử (2008), 55 năm ấy, Nxb Thế giới, Hà Nội
34. Khoa Lịch sử (2011), Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011),
NXB Thế giới, Hà Nội
35. Đỗ Thị Thanh Loan (2010) Giáo dục Việt Nam thời kỳ 1945-1954 (viết
chung), Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba “ViệtNam hội
nhập và phát triển”, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội
36. Vũ Dương Ninh, Kế thừa truyền thống nghiên cứu mạnh của Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội trong Toạ đàm “Xây dựng đại học nghiên cứu” của
Trường ĐHKHXH&NV (18/11/2013)
37. Đào Trọng Thi (1999), Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục
đại học nước ta hiện nay in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học giáo dục Việt
Nam hiện trạn, thách thức và giải pháp.
38. Lê Văn Thịnh (2007), Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của
môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong đào tạo đại học ở Việt
Nam hiện nay, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Giảng dạy các môn lý
luận chính trị ở các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Ngô Đăng Tri (2001), Khoa Lịch sử – 45 năm xây dựng và phát triển
(1956-2001). Nxb CTQG, Hà Nội
40. Ngô Đăng Tri (2002) Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng thời kì
1986- 2001. Đề tài cấp ĐHQGHN, QX 98.
41. Ngô Đăng Tri (2002), Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội IX nâng
107
cao chất lượng giảng dạy lí luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
CTQG, Hà Nội
42. Ngô Đăng Tri (2005), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các
trường ĐH, C.đẳng). Nxb CTQG, Hà Nội
43. Ngô Đăng Tri (2006), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng
trong các trường ĐH, CĐ), Nxb CTQG, Hà Nội
44. Ngô Đăng Tri (2007) Một số chuyên đề Lịch sử ĐCSVN, tập I, Nxb
CTQG, Hà Nội
45. Ngô Đăng Tri (2008) Giáo dục Việt Nam thời kì 1945- 1954, diễn trình,
thành tựu và kinh nghiệm (trong sách “100 năm Đông kinh nghĩa thục và
công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay”. Nxb ĐHQG Hà Nội.
46. Ngô Đăng Tri (2008), Một số chuyên đề Lịch sử ĐCSVN, tập III, Nxb
CTQG, Hà Nội
47. Ngô Đăng Tri (2008), Một số chuyên đề về Đường lối cách mạng của
ĐCSVN . Nxb LLCT, Hà Nội
48. Ngô Đăng Tri (2009), Giáo trình Đường lối cách mạng của ĐCSVN
(dùng cho các trường ĐH, CĐ), Nxb Giáo dục, Hà Nội
49. Ngô Đăng Tri (2009), Tài liệu tập huấn giảng viên môn Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam các trường đại học, cao đảng và học
viện năm học 2009- 2010; Bộ Giáo dục và Đào tạo-Học viện Chính trị-
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Nội,
50. Ngô Đăng Tri (2012), 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam (1930–2010),
những chặng đường lịch sử; Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
51. Ngô Đăng Tri (2013), Bộ môn Lịch sử Đảng học tập và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
52. Hoàng Văn Vân (2006), Phương thức đào tạo theo tín chỉ: Lịch sử, bản
chất và những hàm ý cho phương pháp dạy-học ở bậc đại học
108
PHỤ LỤC
. Danh ách NCS đ và đang đào tạo tại Bộ môn Lịch sử Đảng
STT Họ và tên Năm nhập học Năm bảo vệ
1. Ngô Đăng Tri 1989
2. Đinh Trần Dương 1996
3. Lê Văn Thịnh 1999
4. Vũ Quang Hiển 2000
5. Đinh Xuân Lý 2002
6. Nguyễn Thị Mai Hoa 2007
7. Văn Thị Thanh Mai 2009
8. Lê Thị Quỳnh Nga 2010
9. Nguyễn Quang Liệu 2010
10. Nguyễn Thị Hoàn 2010
11. Đặng Kim Oanh 2011
12. Đào Thị Bích Hồng 2011
13. Lê Thị Hòa 2011
14. Nguyễn Anh Cường 2012
15. Phạm Thị Kim Ngân 2012
16. Phạm Thị Lương Diệu 2012
17. Nguyễn Thị Hảo 2013
18. Trịnh Thúy Hương 2013
19. Lã Quý Đô 2009 2013
20. Nguyễn Thị Khánh 2009 2013
21. Nguyễn Văn Trung 2013
22. Phạm Quốc Thành 2014
109
23. Đỗ Thị Hiện 2010 2014
24. Nguyễn Thị Anh 2010 2014
25. Nguyễn Đình Quỳnh 2011 2014
26. Đặng Thị Thanh Trâm Đã bảo vệ cơ sở
27. Trần Lê Thanh 2008 Đã bảo vệ cơ sở
28. Trần Thị Thái 2008 Đã bảo vệ cơ sở
29. Trương Công Hữu 2008
30. Vũ Ngọc Lương 2008 Đã bảo vệ cơ sở
31. Lê Tiến Dũng 2009
32. Lương Thị Phương Thảo 2009
33. Nguyễn Thị Dung 2009
34. Trần Trọng Đạo 2009
35. Đỗ Hoàng Ánh 2010
36. Tống Thị Nga 2010 Đã bảo vệ cơ sở
37. Đỗ Thị Thanh Loan 2010
38. Lê Thị Hiền 2010
39. Nguyễn Minh Tuấn 2010
40. Nguyễn Thu Quyên 2010
41. Nguyễn Tôn Phương Du 2010
42. Nguyễn Mai Phương 2011
43. Nguyễn Thị Thanh Bình 2011
44. Nguyễn Thu Hải 2011
45. Nguyễn Tố Như 2011
46. Nguyễn Văn Chung 2011
47. Phạm Xuân Thu 2011
48. Trần Thị Ngọc Thúy 2011
110
49. Trần Thị Thúy Hà 2011
50. Đoàn Thị Yến 2011
51. Bùi Ngọc Hà 2012
52. Lưu Mai Hoa 2012
53. Ngô Minh Hiệp 2012
54. Nguyễn Đoàn Phượng 2012
55. Nguyễn Khắc Trinh 2012
56. Nguyễn Văn Thăng 2012
57. Nguyễn Văn Thông 2012
58. Nguyễn Việt Phương 2012
59. Phạm Thị Thanh Huyền 2012
60. Quách Thị Phương 2012
61. Tống Thị Nga 2012
62. Bùi Thanh Xuân 2013
63. Bùi Thị Hồng Thúy 2013
64. Đinh Văn Trọng 2013
65. Hà Văn Tuyến 2013
66. Nguyễn Chí Thảo 2013
67. Nguyễn Quỳnh Phương 2013
68. Phạm Nguyên Phương 2013
69. Vũ Thị Quyên 2013
70. Vũ Văn Điềm 2013
71. Đinh Ngọc Chính 2013
72. Lê Hương Giang 2013
73. Nguyễn Thị Thu Hà 2013
74. Ngô Thị Lan Hương 2013
111
75. Nguyễn Thị Thanh Nga 2013
76. Mai Thị Hà 2014
77. Trần Cao Nguyên 2014
78. Nguyễn Thị Thanh Sâm 2014
79. Đỗ Khánh Chi 2014
80. Vũ Thị Duyên 2014
81. Nguyễn Phương Hải 2014
82. Nguyễn Thị Hạnh 2014
83. Nguyễn Bá Kiên 2014
84. Vũ Thị Liên 2014
85. Nguyễn Thị Liên 2014
86. Nguyễn Thị Nhung 2014
87. Phùng Thị Kim Oanh 2014
88. Hoàng Thị Phương 2014
89. Đào Văn Phương 2014
90. Phạm Mạnh Thắng 2014
Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-
2014
. Danh ách học viên cao học đ và đang đào tạo
ại Bộ m n Lị sử Đản K oa Lị sử
STT Họ và tên Năm nhập học
1. Vũ Kông
2. Nguyễn Huy Cát
3. Ngô Văn Hoán
4. Nguyễn Tiến Trưởng
112
5. Vũ Hoàng Đức
6. Hoàng Văn Bình
7. Nguyễn Hồng Quyết
8. Ngô Vương Anh
9. Trương Diệp Bích
10. Nguyễn Quang Liệu
11. Nguyễn Duy Hạnh
12. Nguyễn Thị Thanh Huyền
13. Nguyễn Quốc Thái
14. Trần Trọng Thơ
15. Lê Thị Lan
16. Lê Thị Quỳnh Nga
17. Đoàn Thị Kim Dung
18. Lê Ngọc Minh
19. Phạm Thị Kim Ngân
20. Ngô Văn Hà
21. Nguyễn Thị Thu Hà
22. Nguyễn Thị Thúy Hà
23. Lê Tố Anh
24. Phạm Quốc Thành
25. Nguyễn Thị Mai Hoa
26. Đào Thành Cương
27. Đỗ Xuân Tuất
28. Nguyễn Anh Cường
29. Lê Thị Hóa
30. Đặng Thị Thanh Trâm
113
31. Vũ Kiến Quốc
32. Dương Minh Ngọc
33. Nguyễn Thị Hải Vân
34. Văn Thị Thanh Mai
35. Thạch Văn Chung
36. Lương Thị Tiên
37. Nguyễn Văn Dũng
38. Bùi Việt Anh
39. Vũ Thị Hoàng Oanh
40. Trần Thị Chi
41. Phạm Thị Lương Diệu
42. Cao Văn Đan
43. Nguyễn Văn Triệu
44. Nguyễn Xuân Hà
45. Vũ Kim Hoàng
46. Trần Thị Nhung
47. Nguyễn Thị Anh
48. Nguyễn Thị Lan Phương
49. Nguyễn Đoàn Phượng
50. Vũ Thị Kim Yến
51. Lê Quốc Hiệp
52. Lưu Xuân Công
53. Trần Thị Thanh Giang
54. Ngô Thị Thục
55. Đào Trọng Độ
56. Hoàng Thị Hải Yến
114
57. Phạm Nguyên Phương
58. Đỗ Mạnh Cường
59. Trần Thúy Hằng
60. Chu Thị Thanh Tâm
61. Lê Tiến Dũng
62. Đỗ Thị Thanh Loan
63. Nguyễn Văn Hoàn
64. Phạm Thị Kim Lan
65. Lê Đình Tân
66. Hoàng Thị Ánh Nga
67. Nguyễn Thị Ngọc Dung
68. Hoàng Hải Yến
69. Nguyễn Mạnh Tưởng
70. Nguyễn Thị Hường
71. Đỗ Thị Diệu
72. Nguyễn Quốc Khương
73. Nguyễn Thị Hồng Thanh
74. Phạm Thị Trọng Hiếu
75. Lại Thị Bích Hằng
76. Lê Văn Thuận
77. Nguyễn Thị Hồng Điệp
78. Nguyễn Phương Hải
79. Đỗ Thị Ngọc Anh 2007
80. Lê Thị Lan Anh 2007
81. Nguyễn Ngọc Diệp 2007
82. Vi Thuỳ Dịu 2007
115
83. Nguyễn Thị Thuỳ Dung 2007
84. Nguyễn Thuỳ Dung 2007
85. Phạm Thị Dung 2007
86. Trần Thị Mai Dung 2007
87. Phạm Thị Hoàng Điệp 2007
88. Trần Việt Dũng 2007
89. Trần Thị Thuý Hà 2007
90. Nguyễn Thị Hằng 2007
91. Nguyễn Thuý Hoa 2007
92. Nguyễn Thị Huế 2007
93. Vũ Thị Hương 2007
94. Đào Thu Huyền 2007
95. Lưu Quốc Khánh 2007
96. Giáp Thị Lan 2007
97. Nguyễn Thị Hằng Nga 2007
98. Phan Thị An Ngọc 2007
99. Nguyễn Thị Lan Anh 2008
100. Lê Ngọc Doan 2008
101. Trần Thị Kim Dung 2008
102. Nguyễn Thị Thái Hà 2008
103. Đoàn Thị Thu Hằng 2008
104. Vũ Thị Thu Hiền 2008
105. Vũ Thị Hoa 2008
106. 2008 Nguyễn Thanh Hóa
107. Nguyễn Thị Thanh Hòa 2008
108. Phạm Thị Thanh Hoàn 2008
116
109. Đỗ Như Hồng 2008
110. Nguyễn Thị Hồng 2008
111. Lâm Thị Thu Hương 2008
112. Ngô Thị Lan Hương 2008
113. Lê Thị Thu Hường 2008
114. Nguyễn Thị Lê 2008
115. Nguyễn Thị Liên 2008
116. Trần Thùy Linh 2008
117. Hoàng Thị Phương Loan 2008
118. Vũ Thị Kiều Loan 2008
119. Vũ Xuân Long 2008
120. Tống Thị Nga 2008
121. Lò Quỳnh Ngân 2008
122. Dương Thị Nghĩa 2008
123. Hoàng Thị Hà Nguyên 2008
124. Nguyễn Thị Nguyệt 2008
125. Trương Thị Nguyệt 2008
126. Nguyễn Thị Thanh Nhàn 2008
127. Phan Thị Nhung 2008
128. Nguyễn Thị Minh Phương 2008
129. Đoàn Thị Quảng 2008
130. Nguyễn Thị Minh Quý 2008
131. Nguyễn Văn Thăng 2008
132. Bùi Thị Thanh 2008
133. Lương Thị Thuần 2008
134. Quách Thị Thương 2008
117
135. Chu Thị Thúy 2008
136. Nguyễn Thị Minh Thủy 2008
137. Nguyễn Thị Thanh Tú 2008
138. Tạ Thị Ngọc Tú 2008
139. Khuất Thị Thu Vân 2008
140. Đoàn Thị Yến 2008
141. Trần Thị Thái 2008
142. Đỗ Lê Phương 2008
143. Nguyễn Thị Quỳnh Mai 2008
144. Đặng Thị Huyền Trang 2008
145. Trần Ngọc Anh 2009
146. Nguyễn Thị Thùy Chi 2009
147. Nguyễn Thị Dung 2009
148. Đào Thùy Dương 2009
149. Nguyễn Thùy Duyên 2009
150. Mai Thị Duyên 2009
151. Trần Thị Hà 2009
152. Lê Thu Hà 2009
153. Nguyễn Ngọc Hải 2009
154. Nguyễn Thị Thu Hằng 2009
155. Bùi Thị Hậu 2009
156. Bùi Thị Thu Hoài 2009
157. Vũ Thị Bích Hồng 2009
158. Hoàng Thị Huệ 2009
159. Cao Thị Huệ 2009
160. Nguyễn Thị Huyên 2009
118
161. Nguyễn Thị Huyền 2009
162. Trần Công Khổng 2009
163. Lương Phương Mai 2009
164. Bùi Thúy Nguyệt 2009
165. Nguyễn Thị Nguyệt 2009
166. Nguyễn Quỳnh Phương 2009
167. Nguyễn Như Quỳnh 2009
168. Nguyễn Thị Quỳnh 2009
169. Vũ Thúy Quỳnh 2009
170. Nguyễn Thanh Sơn 2009
171. Ngô Thị Thanh Tâm 2009
172. Nguyễn Thị Phương Thanh 2009
173. Nguyễn Thị Thịnh 2009
174. Nguyễn Thị Thoa 2009
175. Lưu Thị Thu 2009
176. Nguyễn Thị Bích Thúy 2009
177. Nguyễn Thị Thùy 2009
178. Trương Thị Thủy 2009
179. Khúc Thị Toan 2009
180. Lê Thu Trà 2009
181. Kiều Vinh Trọng 2009
182. Nguyễn Thanh Tùng 2009
183. Nguyễn Thị Tươi 2009
184. Đào Thanh Bình 2010
185. Nguyễn Thị Chung 2010
186. Mai Thị Dung 2010
119
187. Nguyễn Thị Thu Dung 2010
188. Nguyễn Thị Thùy Dung 2010
189. Lê Thị Thùy Dương 2010
190. Lê Thị Duyên 2010
191. Đinh Thị Duyến 2010
192. Nguyễn Hải Hà 2010
193. Nguyễn Thị Ngọc Hà 2010
194. Dương Thị Hải 2010
195. Trương Thị Hải 2010
196. Trần Thị Hạnh 2010
197. Nguyễn Thái Hậu 2010
198. Trương Thu Hiền 2010
199. Trần Thị Hiệp 2010
200. Đồng Thị Mai Hoa 2010
201. Nguyễn Thị Ngọc Hoa 2010
202. Nguyễn Thị Hoà 2010
203. Nguyễn Thị Thu Hoài 2010
204. Phạm Thị Hoạt 2010
205. Lê Thị Hợi 2010
206. Nguyễn Thị Hồng 2010
207. Nguyễn Thị Hồng 2010
208. Mai Bích Huệ 2010
209. Hồ Thị Liên Hương 2010
210. Khương Thị Hương 2010
211. Hứa Thị Huyền 2010
212. Nguyễn Thị Huyền 2010
120
213. Nguyễn Thị Huyền 2010
214. Phạm Thị Huyền 2010
215. Lương Thị Khanh 2010
216. Trần Vân Khánh 2010
217. Nguyễn Thị Khuyên 2010
218. Hoàng Thị Mai Lan 2010
219. Đồng Thị Liễu 2010
220. Nguyễn Thùy Linh 2010
221. Nguyễn Thị Loan 2010
222. Nguyễn Thị Hải Lý 2010
223. Ngô Thị Ngà 2010
224. Trần Bích Ngọc 2010
225. Nguyễn Thu Nhàn 2010
226. Nguyễn Thị Như 2010
227. Ma Thị Nhuận 2010
228. Phạm Thị Phương 2010
229. Lê Thị Thanh Tâm 2010
230. Nguyễn Thị Bích Thảo 2010
231. Tạ Thị Thanh Thảo 2010
232. Đoàn Thị Minh Thuận 2010
233. Bùi Thị Thanh Thuý 2010
234. Lê Thị Thuý 2010
235. Nguyễn Phương Thuỷ 2010
236. Nguyễn Thị Thu Thuỷ 2010
237. Nguyễn Đăng Tiến 2010
238. Hà Thị Minh Trang 2010
121
239. Nguyễn Thị Huyền Trang 2010
240. Ma Thị Tuyền 2010
241. Nguyễn Thị Tuyền 2010
242. Lưu Thị Tuyết 2010
243. Phạm Thị Thùy Vân 2010
244. Trần Thị Xoa 2010
245. Nguyễn Thị Yến 2010
246. Trương Thị Ngàn 2010
247. Vũ Thị Thanh Tú 2010
248. Nguyễn Thị Hảo 2010
249. Dương Thị Mai Hoa 2010
250. Nguyễn Thị Nhung 2010
251. Lê Văn Phong 2010
252. Nguyễn Thị Mai Anh 2011
253. Bùi Ngọc Đạo 2011
254. Lê Thị Hường 2011
255. Lý Thị Thu Huyền 2011
256. Trần Thị Lan 2011
257. Nguyễn Thị Nguyệt 2011
258. Trần Thị Oanh 2011
259. Nguyễn Văn Phú 2011
260. Nguyễn Thị Hải Thắm 2011
261. Trần Thị Yên 2011
262. Vũ Thị Yến 2011
263. Trần Thị Huyền Trang 2011
264. Lê Thị Vân Trang 2011
122
265. Đào Thuỳ Dương 2011
266. Đoàn Thị Ngọc Anh 2011
267. Phạm Nguyễn Quỳnh Linh 2011
268. Nguyễn Ngọc Thể 2011
269. Nguyễn Thị Tuyết 2011
270. Lê Khắc Chiến 2011
271. Dương Kim Huệ 2011
272. Hồ Đức Long 2011
273. Phạm Mạnh Thắng 2011
274. Đỗ Thuỳ Dung 2011
275. Bùi Thị Bích Ngọc 2011
276. Nguyễn Ngọc Hùng 2011
277. Nguyễn Mạnh Linh 2011
278. Vũ Thị Ngọc 2011
279. Đỗ Thị Phương Thanh 2011
280. Nguyễn Hoài Thu 2011
281. Lê Thị Vũ Thư 2011
282. Nguyễn Thị Thương 2011
283. Nguyễn Thu Thuỷ 2011
284. Nguyễn Văn Anh 2011
285. Phạm Thị Hường 2011
286. Nguyễn Thuỳ Linh 2011
287. Nguyễn Thị Nụ 2011
288. Nguyễn Thị Thanh 2011
289. Lại Thu Thuỷ 2011
290. Nguyễn Thị Ánh Tuyết 2011
123
291. Ngô Thị Thanh Hà 2011
292. Lê Văn Phong 2011
293. Trịnh Hoàng Anh 2012
294. Vũ Thị Phương Anh 2012
295. Đào Phương Ánh 2012
296. Trần Thị Bích 2012
297. Lê Thị Thu Dung 2012
298. Dương Thị Thuỳ Dương 2012
299. Lương Thị Thuỳ Giang 2012
300. Đặng Thu Hà 2012
301. Gia Thị Hà 2012
302. Nguyễn Thanh Hải 2012
303. Tô Thuý Hằng 2012
304. Trần Thị Thu Hằng 2012
305. Đỗ Thị Hiên 2012
306. Nguyễn Thị Hiền 2012
307. Nguyễn Thị Hiền 2012
308. Lưu Thị Hoa 2012
309. Bùi Xuân Hoá 2012
310. Lê Ánh Hồng 2012
311. Bùi Thị Hưng 2012
312. Lương Thuỵ Lan Hương 2012
313. Phạm Thị Hương 2012
314. Phùng Xuân Huy 2012
315. Nguyễn Thanh Huyền 2012
316. Nguyễn Thị Huyền 2012
124
317. Nguyễn Thị Thu Huyền 2012
318. Nguyễn Thị Lê 2012
319. Lưu Thị Mai Liên 2012
320. Mạch Thị Liên 2012
321. Lê Thị Linh 2012
322. Nguyễn Thuỳ Linh 2012
323. Phan Thị Thanh Loan 2012
324. Vũ Văn Lương 2012
325. Hứa Thanh Mai 2012
326. Phùng Thị Mai 2012
327. Nguyễn Thị Minh 2012
328. Lê Minh Nam 2012
329. Nguyễn Thị Nga 2012
330. Nguyễn Thị Ngân 2012
331. Mai Thị Minh Nguyệt 2012
332. Lê Hồng Nhung 2012
333. Nguyễn Thị Nhương 2012
334. Khiếu Thị Oanh 2012
335. Nghiêm Thị Lan Oanh 2012
336. Nguyễn Thị Kim Phong 2012
337. Hà Thị Lê Phương 2012
338. Nguyễn Thị Thu Phương 2012
339. Hoàng Thị Kim Phượng 2012
340. Nguyễn Thị Quyên 2012
341. Nguyễn Thị Tám 2012
342. Trần Xuân Tăng 2012
125
343. Nguyễn Xuân Thắng 2012
344. Phạm Thị Thiện 2012
345. Hoàng Thị Thu 2012
346. Nguyễn Thị Thu 2012
347. Nông Thị Thư 2012
348. Đoàn Thị Thuý 2012
349. Ngô Thị Thanh Thuỷ 2012
350. Nguyễn Thị Nha Trang 2012
351. Vũ Thị Trang 2012
352. Vũ Thị Huyền Trang 2012
353. Đoàn Văn Trường 2012
354. Đào Thị Hải Vân 2012
355. Nguyễn Thị Vân 2012
356. Phạm Thị Yến 2012
357. Phan Thị Hải Yến 2012
358. Nguyễn Thị Hồng Nga 2012
359. Hoàng Thị Anh 2013
360. Nguyễn Thị Anh 2013
361. Nguyễn Thị Lan Anh 2013
362. Hà Văn Bình 2013
363. Nguyễn Thị Chi 2013
364. Dương Thị Cúc 2013
365. Nguyễn Thị Cúc 2013
366. Lê Văn Đin 2013
367. Đoàn Thùy Dung 2013
368. Lương Thị Thuý Dung 2013
126
369. Nguyễn Thuý Dương 2013
370. Phạm Văn Đương 2013
371. Nguyễn Thị Duyên 2013
372. Nguyễn Thị Bích Hà 2013
373. Trần Thị Việt Hà 2013
374. Trần Hồng Hải 2013
375. Trần Thị Thu Hằng 2013
376. Nguyễn Bích Hằng 2013
377. Trần Hồng Hạnh 2013
378. Cao Thị Hiếu 2013
379. Hoả Thị Hoa 2013
380. Trần Thị Thanh Hoa 2013
381. Lê Thị Hoài 2013
382. Nguyễn Văn Hoàn 2013
383. Nguyễn Ngọc Hoàng 2013
384. Nguyễn Duy Hùng 2013
385. Trần Thị Thanh Hương 2013
386. Bùi Thị Hương 2013
387. Lê Thị Thúy Hương 2013
388. Dương Thị Huyền 2013
389. Tạ Thị Thu Huyền 2013
390. Vũ Thị Minh Huyền 2013
391. Hà Diễm Kiều 2013
392. Nguyễn Thị Phương Lan 2013
393. Lê Thị Bích Liên 2013
394. Lê Thị Loan 2013
127
395. Trần Thị Long 2013
396. Đinh Văn Luân 2013
397. Trần Thị Khánh Ly 2013
398. Nguyễn Thị Mai 2013
399. Lê Thị Nga 2013
400. Trần Thị Ngân 2013
401. Chu Hoàng Minh Ngọc 2013
402. Lê Văn Nguyên 2013
403. Lương Thị Thanh Nhàn 2013
404. Phan Thị Thanh Nhàn 2013
405. Lê Thị Nhung 2013
406. Nguyễn Thị Tuyết Nhung 2013
407. Đặng Thị Phương 2013
408. Hoàng Mai Phương 2013
409. Nguyễn Thị Quyên 2013
410. Đặng Xuân Quỳnh 2013
411. Đào Như Quỳnh 2013
412. Hoàng Thị Hương Thanh 2013
413. Lê Văn Thành 2013
414. Ngô Minh Thảo 2013
415. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013
416. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013
417. Phạm Thị Thơ 2013
418. Phạm Văn Thông 2013
419. Nguyễn Thị Thu 2013
420. Phan Thị Thu 2013
128
421. Đặng Hồng Thương 2013
422. Đặng Thu Thuỷ 2013
423. Vũ Thị Thủy 2013
424. Đoàn Văn Tiến 2013
425. Vũ Thị Tính 2013
426. Nguyễn Hữu Toán 2013
427. Nguyễn Thị Thu Trang 2013
428. Phạm Thị Kiều Trang 2013
429. Đào Văn Trưởng 2013
430. Lương Thị Vân 2013
431. Nguyễn Thị Thanh Vân 2013
432. Lê Thị Hải Yến 2013
Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-2014
Tại Bộ môn Lịch sử Đảng, TTBDGVLLCC
STT Họ và tên Năm nhập học
1. Nguyễn Mạnh Hùng 2001
2. Trần Duy Hưng 2001
3. Lưu Mai Hoa 2001
4. Hoàng Thị Lan 2001
5. Đinh Thị Cẩm Tú 2001
6. Đặng Văn Trọng 2001
7. Trần Xuân Tĩnh 2001
8. Đào Thị Vân 2001
9. Phạm Văn Búa 2002
10. Nguyễn Thị Đức 2002
129
11. Trương Công Hữu 2002
12. Lê Thị Hoa 2002
13. Nguyễn Thị Lợi 2002
14. Nguyễn Văn Nhang 2002
15. Đặng Kim Oanh 2002
Phan Văn Phương 16. 2002
Trần Lê Thanh 17. 2002
18. Huỳnh Văn Thới 2002
19. Đặng Mạnh Trung 2002
20. Tạ Ánh Tuyết 2002
21. Trịnh Thị Thùy Hương 2003
22. Nguyễn Thị Thu Hương 2003
23. Đào Thị Bích Hồng 2003
24. Nguyễn Văn Tài 2003
25. Lý Trung Thành 2003
26. Nguyễn Hữu Toàn 2003
27. Phạm Thị Xuân 2003
28. Lê Thị Lung 2004
29. Hà Thị Thu Hằng 2004
30. Mai Thị Thanh Châu 2004
31. Nguyễn Quang Khải 2004
32. Ngô Thị Khánh 2004
33. Trịnh Văn Thoại 2004
34. Hoàng Thu Thủy 2004
35. Trần Xuan Chiến 2005
36. Nguyễn Thị Hằng 2005
130
37. Bùi Ngọc Hà 2005
38. Lê Hồ Hiếu 2005
39. Phạm Thị Lịch 2005
40. Phạm Thị Thu 2005
41. Hoàng Trường Giang 2006
42. Nguyễn Thị Hồng Hạnh 2006
43. Vũ Thị Mỹ Hạnh 2006
44. Lê Thị Mai Hoa 2006
45. Đào Thu Huyền 2006
46. Phạm Thị Miến 2006
47. Hoàng Thị Nhung 2006
48. Nguyễn Đình Quỳnh 2006
49. Nguyễn Tuấn Thành 2006
Phạm Thị Hồng Thiết 50. 2006
Phạm Minh Thế 51. 2006
Phạm Xuân Thu 52. 2006
53. Nguyễn Văn Triệu 2006
54. Đặng Khánh Toàn 2006
Trần Thị Anh Trúc 55. 2006
Lê Đình Hùng 56. 2006
Phạm Huy Toán 57. 2006
58. Nguyễn Thị Thanh Hương 2007
59. Nguyễn Thu Hải 2007
60. Mai Thanh Hồng 2007
61. Nguyễn Thị Thanh Hòa 2007
62. Dương Thị Kim Huệ 2007
131
63. Nguyễn Thanh Nga 2007
64. Vũ Thị Thanh Nga 2007
65. Nguyễn Mai Phương 2007
66. Trần Thị Hữu Hồng Phương 2007
67. Bùi Thị Bích Thảo 2007
68. Nguyễn Thị Dung Huyền 2007
69. Phạm Thị Thanh Huyền 2007
70. Trần Thị Lan 2007
71. Nguyễn Minh Thùy 2007
72. Nguyễn Thị Huyền Trang 2007
73. Nguyễn Văn Tuân 2007
74. Nguyễn Thúy Hà 2008
75. Trần Hoàng Hạnh 2008
76. Trương Văn Hiến 2008
77. Ngô Thị Hiền 2008
78. Vũ Thị Huệ 2008
79. Vũ Quang Huy 2008
80. Lê Diệu Linh 2008
81. Lưu Ngọc Long 2008
82. Trần Thị Bích Ngọc 2008
83. Phạm Thị Sanh 2008
84. Nguyễn Thị Thanh 2008
85. Hoàng Thị Phương Thảo 2008
86. Nguyễn Khắc Trinh 2008
87. Lê Sơn Tùng 2008
88. Đặng Quang Vinh 2008
132
89. Hà Thị Hồng Yến 2008
90. Lý Thị Hồng An 2009
91. Nguyễn Quang Bắc 2009
92. Nguyễn Vũ Cẩm Giang 2009
93. Nguyễn Thị Hải Hà 2009
94. Hoàng Thị Ngọc Hà 2009
95. Nguyễn Quang Hà 2009
96. Nguyễn Thị Thu Hiền 2009
97. Nguyễn Thị Hoàn 2009
98. Dương Thị Huyền 2009
99. Vũ Thị Mười 2009
100. Phạm Thị Bích Ngọc 2009
101. Đỗ Thị Nhường 2009
102. Phạm Thị Thùy Nhung 2009
103. Đào Văn Phương 2009
104. Nguyễn Hồng Quân 2009
105. Nguyễn Thị Thanh Sâm 2009
106. Bùi Thị Thu 2009
107. Hoàng Thị Thúy 2009
108. Bùi Thu Trang 2009
109. Trần Thị Vân 2009
110. Trần Thị Vinh 2009
111. Nguyễn Thị Hoàng Anh 2010
112. Phạm Lan Anh 2010
113. Nguyễn Đăng Bảng 2010
114. Đinh Ngọc Chính 2010
133
115. Vũ Văn Điềm 2010
116. Đặng Thị Dung 2010
117. Lê Hương Giang 2010
118. Mai Thị Hà 2010
119. Lương Thị Hà 2010
120. Đoàn Thị Hà 2010
121. Lương Hải Hà 2010
122. Trịnh Thị Hoa 2010
123. Nguyễn Thị Huyền 2010
124. Ngô Bá Khiêm 2010
125. Nguyễn Thị Thành Lê 2010
126. Đinh Thị Nhuần 2010
127. Trần Cao Quý 2010
128. Vũ Thị Quyên 2010
129. Lưu Ngọc Quỳnh 2010
130. Vũ Mạnh Thìn 2010
131. Phạm Thị Thinh 2010
132. Cao Thị Phương Thúy 2010
133. Lê Thị Ngọc Thùy 2010
134. Nguyễn Thị Tình 2010
135. Hoàng Thị Yến 2010
136. Lê Thị Yến 2010
137. Đinh Thị Hoàng Yến 2010
138. Trương Thị Liên 2011
139. Luyện Thị Thu Hưng 2011
140. Vương Văn Hưng 2011
134
141. Nguyễn Thị Cẩm Nhung 2011
142. Nguyễn Thị Phương Tuyết 2011
143. Đào Thị Kim Dung 2011
144. Nguyễn Thị Kim Dung 2011
145. Nguyễn Thị Quý 2011
146. Nguyễn Thị Thắm 2011
147. Nguyễn Thị Thúy 2011
148. Đoàn Thị Hạnh 2011
149. Phạm Thị Việt Hà 2011
150. Hoàng Thị Hà 2011
151. Nguyễn Thị Hạnh 2011
152. Nguyễn Thị Giang 2011
153. Ngô Thị Hường 2011
154. Phùng Thị Thuận Hải 2011
155. Phạm Thị Kiều Trinh 2011
156. Vũ Thị Đượng 2011
157. Nguyễn Thị Hương 2011
158. Trần Lan Hương 2011
159. Bùi Thị Trang 2011
160. Nguyễn Văn Hoan 2011
161. Nguyễn Văn Lành 2011
162. Nguyễn Thị Ngọc Ánh 2011
163. Vi Thị Mai Thạo 2011
164. Lê Xuân Tú 2011
165. Trần Thanh Long 2011
166. Trần Thu Hằng 2011
135
167. Trần Thị Thu Hồng 2011
168. Nguyễn Thị Ngân 2011
169. Đào Thị Thu Trang 2011
170. Ngô Minh Vương 2012
171. Dương Thị Hường 2012
172. Nguyễn Khắc Hạnh 2012
173. Lê Xuân Trường 2012
174. Phạm Tùng Hương 2012
175. Nguyễn Thanh Mến 2012
176. Nông Đức Dũng 2012
177. Hoàng Lan Phương 2012
178. Hán Thị Thu Phương 2012
179. Phạm Thị Thu Trang 2012
180. Trần Thanh Thủy 2012
181. Vũ Quỳnh Anh 2012
182. Vũ Thị Lương 2012
183. Lê Thị Bích Thủy 2012
184. Tạ Bích Huệ 2012
185. Trần Thị Tố Lan 2012
186. Đinh Hữu Thuận 2012
187. Nguyễn Thị Thảo 2012
188. Lý Thị Thanh Hương 2012
189. Vũ Thị Lan Anh 2012
190. Nguyễn Thị Hằng 2012
191. Bùi Thanh Huyền 2012
192. Nguyễn Thị Hằng 2012
136
193. Nguyễn Thị Thúy 2012
194. Dư Thị Hà 2012
195. Đồng Thị Ngọc Hiền 2012
196. Đoàn Thị Hằng 2012
197. Nguyễn Thị Diệu Hiền 2012
198. Vũ Thị Ngọc 2012
199. Bùi Thị Trang 2013
200. Lê Xuân Tú 2013
201. Nguyễn Tuyết Phương 2013
202. Nguyễn Văn Chung 2013
203. Phạm Thị Nhung Thủy 2013
204. Lương Hải Hà 2013
205. Lương Thị Vân 2013
206. Đinh Văn Luân 2013
207. Lê Văn Thành 2013
208. Nguyễn Thị Lan Anh 2013
209. Nguyễn Thị Anh 2013
210. Nguyễn Duy Hùng 2013
211. Đăng Thu Thùy 2013
212. Lã Thị Bích Liên 2013
213. Vũ Thị Tính 2013
214. Trần Thị Thu Hằng 2013
Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-2014
137
3. Thống kê số lƣợng công trình nghiên cứu khoa học giảng viên Bộ môn
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử qua các thời kỳ
Số lƣợng công trình đ công bố
Học hàm, Sách STT Họ và tên Đề tài Bài báo học vị chuyên khoa học khoa học khảo
Nguyễn Thạc sĩ 1 1 3 10 Huy Cát
Phạm 2 Cử nhân 3 Thị Chính
Phạm Thị 3 Tiến sĩ 3 9 Lương Diệu
Đinh 4 PGS. TS 40 3 60 Trần Dương
Trần 5 PGS. TS 13 6 10 Kim Đỉnh
Lê Mậu 6 PGS 15 5 50 Hãn
Vũ Quang 7 15 PGS. TS 51 170 Hiển
Nguyễn Thị 8 PGS. TS 14 10 55 Mai Hoa
Ngô Văn 9 Thạc sĩ 2 4 Hoán
Hoàng 5 10 PGS. TS 32 Hồng
138
Đinh 10 PGS. TS 11 51 Trung Kiên
1 12 Vũ Kông Thạc sĩ 4
Nguyễn 20 PGS. TS 13 6 62 Đình Lê
Nguyễn 2 Tiến sĩ 14 5 16 Quang Liệu
Đỗ Thị 6 Thạc sĩ 15 5 10 Thanh Loan
Phạm
5 16 Quang PGS. TS 8 60
Minh
Lê Thị 17 Tiến sĩ 15 12 20 Quỳnh Nga
Hoàng 2 18 Cử Nhân 3 Bá Sách
Phạm 19 Thạc sĩ 12 6 Minh Thế
Lê Văn 20 PGS. TS 10 10 30 Thịnh
Ngô Đăng 21 PGS. TS 53 12 87 Tri
Nguồn: sách Bộ môn Lịch sử Đảng 40 năm xây dựng và phát triển 1974-2014
139