BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đoàn Văn Mao
QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992 -2010)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đoàn Văn Mao
QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992 -2010)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: LSVN-08-006
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH HOA
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình hoàn thành luận văn với đề tài: Quan hệ kinh tế Việt-Hàn (1992-
2010), tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của cô hướng dẫn. Với lòng biết ơn sâu
sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Tiến sĩ Lê Huỳnh Hoa, cô đã hết lòng giúp đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu, động
viên cho tôi hoàn thành đề tài luận văn này.
T.p Hồ Chí Minh, ngày tháng 08 năm 2011
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương I: CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
1.1. Mộ ố iể tươ ồ ề ị ử giữ hai dân tộ Việ -Hàn ............................. 7
ng đ ng v ch s m t s đ c t l 1.1.1. Truyền thuyết về cội nguồn dân tộc .......................................................... 7 a 1.1.2. Việt Nam-Hàn Quốc cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc
................................................................................................................... 8
1.2 . Một số nét tương đồng về văn hóa giữa Việt Nam - Hàn Quốc ...................... 15
1.2.1. Nét tương đồng trong phong tục tập quán: ăn, uống ............................... 15
1.2.2. Nét tương đồng trong phong tục hôn nhân truyền thống giữa Việt Nam- Hàn Quốc ........................................................................................................ 18 1.2.3. Nét tương đồng trong phong tục thờ cúng tổ tiên .................................... 20 1.2.4. Nét tương đồng trong các ngày lễ tết truyền thống ................................ 21 1.2.5. Nét tương đồng trong hệ thống văn tự chữ Hán ..................................... 23 1.2.6. Nét tương đồng về tôn giáo tín ngưỡng .................................................. 24 1. 3. Quan hệ bang giao Việt – Hàn trước 1992 ...................................................... 26 13.1 Quan hệ bang giao Việt –Hàn thời trung đại ............................................ 26 1.3.2 Quan hệ Việt –Hàn thời cận đại ............................................................... 28 1.3.3 Sơ lược quan hệ Việt- Hàn giai đoạn từ sau 1954 đến 1975 ................... 30 1.3.4 Quan hệ Việt – Hàn giai đoạn 1975 đến năm 1992 .................................. 31 1.3.5 Quan hệ bang giao năm 1992 - Nhân tố quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt – Hàn .......................................................................................................... 32
Chương II: QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992-2010) 2.1. Những khái niệm liên quan đến quan hệ kinh tế quốc tế và tiềm năng hợp tác kinh tế
Việt – Hàn ........................................................................................................ 35 2.1.1. Những khái niệm liên quan hệ kinh tế quốc tế và tính tất yếu của quan hệ kinh tế quốc tế ..................................................................................................... 35 2.1.2. Tiềm năng hợp tác từ phía Việt Nam ...................................................... 36 2.1.3. Tiềm năng hợp tác từ phía Hàn Quốc ...................................................... 38
2.2. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc (1992-2010) .............................. 39
2.2.1. Khái quát chung quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trước khi hai nước
chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1983 - 1992) ............. 39
2.2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc ( 1992-2010 ) .......... 41
2.2.3. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc (1992-2010) ..... 44
2.3.1. Mặt tích cực ............................................................................................ 53
2.3.2. Mặt hạn chế .............................................................................................. 54
2. 4. Quan hệ đầu tư Việt – Hàn (1992-2010 ) ......................................................... 56
2.4.1. Đầu tư của Việt Nam vào Hàn Quốc (1992-2010 ) ................................. 56
2.4.2. Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam (1992-2010) ................................. 58
2.4.3. Đánh giá chung về quan hệ đầu tư Việt –Hàn ( 1992-2010 ) ................. 64
Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ...................................................... 67
3.1. Triển vọng và định hướng của quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc ............ 67
3.1.1. Triển vọng của quan hệ kinh Việt Nam – Hàn Quốc .............................. 67
3.1.2. Định hướng phát triển cho quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc ........ 74
3. 2. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc................. 76
3.2.1. Giải pháp về chính trị .............................................................................. 76
3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao quan hệ thương mại Việt - Hàn .................... 77
88
3. 3. Các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam 3.3.1. Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư .............................. 88 3. 3. 2. Phát triển cơ sở hạ tầng ......................................................................... 89 3. 3. 3. Cải cách thủ tục hành chính .................................................................. 90 3. 3.4. Nâng cao trình độ cho các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam ........ 91 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 101
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 : Trình tự hôn lễ truyển thống giữa Việt Nam và Hàn Quốc ..................... 23
Bảng 1.2 : Các cuộc viếng thăm cấp cao giữa Việt Nam – Hàn Quốc ................... 37
Bảng 1.3 : Các Hiệp định được ký kết giữa Việt Nam- Hàn Quốc .......................... 38
Bảng 2.1: Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-Hàn Quốc (1983-1992)
.................................................................................................................. 47
Bảng 2. 2: Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam –Hàn Quốc (1992- 2003) . 50
Bảng 2. 3: Kim ngạch thương mại Việt Nam- Hàn Quốc(2004-2010) ..................... 50
Bảng 2.4: Mười thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam .................................. 51
Bảng 2.5: Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc(2001-2003) ................... 54
Bảng 2.6: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2004-2010 ..... 56
Bảng 2.7 : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc(2004-2010) ......... 57
Bảng 2.8: Mộ số hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc (2007-2010) ......... 57
Bảng 2.9: Các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc(2001 -2003) ......... 59
Bảng 2.10: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc(2004-2010) ............ 61
Bảng 2.11: Một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc (2007-2010) ..
.................................................................................................................. 61
Bảng 2.12 : Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc (1998-2003) ............................. 64
Bảng 2.13 : Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc (2004-2010) ............................. 64
Bảng 2.14 : Một số thị trường nhập khẩu của Hàn Quốc năm 2010 ........................ 65
Bảng 2.15: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1989 - 2009 phân
theo đối tác đầu tư chủ yếu ........................................................................................ 67
Bảng 2.16: Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ( 1991- 2003) ......................... 68
Bảng 2.17 : Một số dự án hàng đầu của Hàn Quốc tại Việt Nam (1992-2005) ...... 69
Bảng 2.18:Đầu tư của một số nước vào Việt Nam được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu
tư chủ yếu .................................................................................................................. 70
Bảng 2.19 : Cơ cấu đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam theo ngành kinh tế ............. 71
Bảng 2.20: Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam phân theo ngành 90 ..................... 72
Bảng 2.21 : Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam phân theo địa phương ................. 73
Bảng 3.1: Một số dự án đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam .............................. 83
Bảng 3.2:Một số hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc ............. 90
Bảng 3.3 : Tiềm năng thủy sản nước mặn của Việt Nam ......................................... 91
Bảng 3.4: Các nước nhập khẩu thủy sản chính trên thế giới .................................... 92
Bảng 3.5: Thị trường xuất khẩu cao su Việt Nam 2006 ........................................... 92
Bảng 3.6 : Một số hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc ....... 97
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc ( 2004-2010) .... 79
Biểu đồ 3.2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc ( 2004-2010) .... 80
Biểu đồ3.3: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc
(1993-2003) ............................................................................................ 81
Biều đồ 3.4: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc
(2004-2010) ........................................................................................... 82
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia ở Đông Á, có nhiều nét tương đồng về lịch sử và
văn hóa. Trong lịch sử cả hai dân tộc đã nhiều lần phải đương đầu với thế lực ngoại xâm lớn
hơn mình gấp nhiều lần. Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm đã hun đúc nên tinh thần yêu
nước và ý thức dân tộc bất khuất của nhân dân hai nước.
Đều nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Việt Nam và Hàn Quốc
đều sớm tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của nền văn minh ra đời sớm và nổi tiếng này. Mặt
khác cả hai dân tộc đều sớm có một nền giáo dục và thi cử theo tinh thần nho giáo. Phật
giáo cũng sớm du nhập vào hai nước và trong lịch sử, phật giáo đã từng một thời giữ vị trí
quốc giáo của hai nước và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục phát triển.
Những nét tương đồng về lịch sử, văn hóa nêu trên đã khiến cho hai dân tộc dễ xích gần
lại với nhau. Trong lịch sử, mối quan hệ giữa hai nước đã có từ nhiều thế kỷ trước: Thế kỷ
XII, XIII, hai Hoàng tử của vương triều Lý (1010-1225) là Lý Dương Côn - em Lý Dương
Hoán- tức vua Lý Thần Tông (1128-1138), kế tiếp là Hoàng tử Lý Long Tường- Hoàng tử
thứ của vua Lý Anh Tông (1138-1175), cháu nội của vua Lý Thần Tông, em vua Lý Cao
Tông (1176-1210) đã từng đặt chân đến Hàn Quốc và đã có nhiều đóng góp to lớn cho đất
nước này. Hiện Nay ở Hàn Quốc vẫn còn nhiều hậu duệ dòng họ Lý đang sinh sống và làm
việc tại đây.
Tuy nhiên mối quan hệ Việt- Hàn không phải lúc nào cũng diễn ra êm đẹp. Trong
giai đoạn nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ (1954-1975), quan hệ
giữa hai nước đã trở nên căng thẳng, thậm chí là thù địch. Với tư cách là đồng minh của Mỹ,
Hàn Quốc đã gửi quân đến Việt Nam tham chiến (1964) và đã gây ra nhiều tội ác đối với
nhân dân Việt Nam.
Sau chiến thắng 30-4-1975 của nhân dân Việt Nam, quan hệ giữa hai nước rơi vào
thời kỳ đóng băng trong một thời gian dài (1975-1992). Thời gian này mối quan hệ giữa hai
nước có chăng chỉ diễn ra qua hình thức trung gian .
Với mong muốn khép lại quá khứ hướng tới tương lai, hai nước cùng chung quyết
tâm phát triển mối quan hệ, hợp tác trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền dân tộc, phấn đấu
vì sự ổn định và hợp tác phồn thịnh ở khu vực cũng như trên thế giới, ngày 22-12-1992,
Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức ký kết quan hệ ngoại giao. Từ đó đến nay, quan hệ
hai nước không ngừng phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội...Cả hai đều
có những tiềm năng to lớn để có thể hợp tác bổ sung cho nhau trong công cuộc phát triển
kinh tế xã hội.
Hiện nay quan hệ giữa hai nước đang phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực ngoại giao,
kinh tế, văn hóa... Thương mại giữa hai nước và đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ngày
càng tăng trưởng nhanh. Giao lưu văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai nước cũng được
quan tâm dưới nhiều hình thức như: hội thảo khoa học, trao đổi chuyên gia, sinh viên, các
đoàn nghệ thuật.. Tại Hàn Quốc, khoa tiếng Việt đã được mở ở một số trường Đại Học...
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu và đào tạo về Hàn Quốc học cũng đã bắt đầu sau khi hai
nước ký kết quan hệ bang giao....
Tuy nhiên quan hệ kinh tế là nổi bật nhất, thường xuyên giữa hai quốc gia. Trong
điều kiện khả năng của mình, tôi chỉ đi vào nghiên cứu ở khía cạnh quan hệ kinh tế với
mong muốn có cách nhìn toàn diện đầy đủ hơn về lịch sử phát triển đất nước cũng như kinh
tế -văn hóa giữa hai dân tộc.. Vì tất cả những lý do trên, tôi đã chọn đề tài quan hệ kinh tế
Việt Nam –Hàn Quốc ( 1992-2010 ) làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng chính của luận văn là mối quan hệ kinh tế Việt Nam-Hàn Quốc (1992-2010).
Ngoài ra những nét tương đồng về lịch sử và văn hóa giữa hai quốc gia cũng được xem xét
trong luận văn này..
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giai đoạn từ 1992, thời điểm bắt đầu đặt quan hệ ngoại
giao cho đến năm 2010. Trong quan hệ kinh tế, luận văn tập trung nghiên cứu hai vấn đề:
Quan hệ thương mại và quan hệ đầu tư. Trong quan hệ thương mại, chủ yếu tìm hiểu,
nghiên cứu tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc (1992-2010). Trong quan
hệ đầu tư, chủ yếu tìm hiểu tình hình đầu tư giữa Việt Nam và Hàn Quốc (1992-2010)
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tài liệu
Quan hệ kinh tế Việt- Hàn giai đoạn từ 1992 đến 2010 là đề tài mới, những công trình
nghiên cứu về quan hệ kinh tế giữa hai nước có thể tìm thấy qua các sách, báo, tạp chí,
internet.... Xin được liệt kê dưới đây.
+ Về lĩnh vực kinh tế có các bài viết sau:
- Hội nhập kinh tế Đông Á và tác động của nó tới quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc
của PGS. TS Ngô Xuân Bình – Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Tác giả tập trung phân tích
những vấn đề: Nhận dạng hội nhập kinh tế Đông Á, liên kết phi hiệp định khu vực, khu vực
thương mại tự do (FTAs), hiệp định tư do song phương (FTAs) ..sau đó chỉ rõ sự hội nhập
kinh tế Đông Á tác động tới quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc.
- FDI và ODA của Hàn Quốc vào Việt Nam: Thực trạng và triển vọng của TS. Trần
Quang Minh và Th.S. Võ Hải Thanh – Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Tác giả tập trung
phân tích nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA)
của Hàn Quốc vào Việt Nam góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế của Việt
Nam nói riêng và quan hệ hợp tác giữa hai nước nói chung...
- Hợp tác kinh tế Việt Nam Hàn Quốc thông qua đầu tư hợp tác trực tiếp nước ngoài
(FDI) của GS.TS. Hwy- Chang Moon. Bài viết dừng lại ở việc nói rõ đầu tư của Hàn Quốc
tại Việt Nam, phân tích môi trường FDI... không đề cập đến quan hệ thương mai Việt – Hàn.
- Quan hệ thương mại Việt Nam –Hàn Quốc của PGS. TS. Phạm Thị Quý – Đại Học
Kinh tế Quốc Dân. Bài viết tập trung đi sâu vào phân tích quan hệ thương mại giữa hai nước
từ năm 1992 đến năm 2003, sau đó vạch ra giải pháp và triển vọng thúc đầy quan hệ hai
nước lên tầm cao mới...
- Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc: 15 năm hợp tác và phát triển của Tiến sĩ
Trần Quang Minh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Bắc Á. Nội dung đề cập đến
viện trợ phát triển của Hàn Quốc dành cho Việt Nam, tổng kết 15 năm quan hệ kinh tế Việt
- Hàn, sơ lược tình hình đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam. Nội dung bài viết mang tính
chất khái quát, tham khảo là chính.
- Thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc là nghiên cứu khoa học của Ngô
Xuân Bình và Đặng Khánh Toàn, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5 ( 111) 5-
2010. Nội dung chủ yếu đưa ra những nhận định, đánh giá trong quan hệ kinh tế Việt – Hàn.
Mặt khác bài viết còn tập trung phân tích tiềm năng hợp tác và triển vọng quan hệ kinh tế
Việt – Hàn trong bối cảnh quốc tế.
- Nguyễn Hồng Nhung với Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam- Hàn Quốc và vấn
đề nhập siêu của Việt Nam, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1 ( 107) 1-2010.
Nội dung đề cập đến quá trình trao đổi hàng hóa Việt Nam – Hàn Quốc, tình hình đầu tư của
Hàn Quốc vào Việt Nam, mối liên hệ thương mại- đầu tư trong quan hệ song phương Việt-
Hàn và vấn đề nhập siêu của Việt Nam. Người đọc có thể hiểu một cách khái quát quan hệ
kinh tế Việt – Hàn. Tuy nhiên bài viết đi sâu vào phân tích tình hình xuất, nhập khẩu của
hai nước trong các năm 1993, 2000, 2008, chưa chỉ rõ được sự phát triển vượt bậc trong
quan hệ kinh tế Việt – Hàn qua các năm. Bài viết có đề cập đến quan hệ đầu tư giữa hai
quốc gia, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc khái quát những con số, chưa chỉ rõ được
nguyên nhân của sự hạn chế đầu tư của Việt Nam vào thị trường Hàn Quốc.
- Việt Nam trên đường đồi mới – Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc: triển vọng
tốt đẹp của Nguyễn Sinh đăng trên Tạp chí Cộng Sản số ra ngày 6/1/2011. Tác giả đã cho
người đọc thấy được những kết quả to lớn trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – Hàn Quốc.
Nội dung ngắn gọn, chỉ hơn 2 trang, tuy nhiên ưu điểm của bài viết chỉ rõ được tầm quan
trọng cũng như những hạn chế trong quan hệ kinh tế Việt- Hàn.
- Tác giả Nghi Phương, trong bài viết Tổng kim ngạch thương mại hàng hóa song
phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm 2010, đăng trên
trang web của Tổng cục Hải quan Việt Nam ngày 4/3/201. Nghi Phương đã khái quát tổng
kim ngạch 5 tháng đầu năm 2010 trong quan hệ thương mại Việt – Hàn, bên cạnh đó cũng
chỉ rõ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2005-2007. Tuy nhiên bài viết này mang
tính chất tổng kết hơn là đi sâu phân tích kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế Việt- Hàn.
- Hợp tác thương mại và công nghiệp song phương giữa Hàn Quốc và Việt Nam của
GS.TS. Inshik Oh ( đại học tổng hợp Sangmyung). Bài viết đưa ra những khái quát trong
quan hệ thương mại của Hàn Quốc ( 1992-2003), tình hình phát triển thương mại của Hàn
Quốc, cơ cấu thương mại song phương Việt – Hàn, những hợp tác công nghiệp giữa hai
quốc gia... Quan hệ kinh tế Việt- Hàn chưa được đề cập đẩy đủ trong bài viết này...
- Ngô Thị Trinh ( Viện kinh tế và chính trị thế giới ) có bài viết: Quan hệ hợp tác
Việt Nam – Hàn Quốc trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực việt Nam: Thực trạng, xu
hướng và kiến nghị giải pháp. Nội dung chủ yếu đề cập đến sự hợp tác nguồn nhân lực giữa
hai bên, cũng như chỉ ra được tiềm năng hợp tác giữa hai quốc gia trong việc phát triển
nguồn nhân lực...nội dung quan hệ kinh tế Việt- Hàn đề cập rất ít trong bài viết này.
- Trong luận án Tiến sĩ lịch sử Việt Nam: Mối quan hệ Việt – Hàn trong và sau
chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam (1955-2005) của Ku –Su- Jeong, có đề cập đến mối quan
hệ kinh tế Việt - Hàn, tuy nhiên chỉ là những nét sơ lược về quan hệ kinh tế trong và sau
chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. (1955-2005), tác giả không đi vào phân tích tình hình xuất,
nhập khẩu và tổng kim ngạch giữa hai quốc gia cũng như chưa chỉ ra được những hạn chế
trong quan hệ kinh tế giữa hai nước.
+ Về lĩnh vực văn hóa- xã hội.
Luận văn quan tâm đến những nét gần giống về lịch sử- văn hóa giữa Việt Nam –
Hàn Quốc trước khi nghiên cứu quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia. Tuy nhiên chưa thấy một
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này một cách đầy đủ. Đây là một công việc khó khăn.
Có một số bài viết đề cập đến những nét gần nhau trong lịch sử - văn hóa Việt – Hàn, tuy
nhiên đều sơ lược. Xin được liệt kê dưới đây:
- Việt Nam – Hàn Quốc những nét gần nhau và khác nhau trong quá trình phát
triển dân tộc của PGS. TS Mạc Đường. Bài viết không nêu bật được sự giống và khác nhau
về văn hóa giữa hai dân tộc mà đi vào những nét khái quát...
- Gia lễ trong văn hóa Việt – Hàn của TS. Ahn Kyong Hwan. Bài viết khái quát về
gia lễ trong văn hóa Việt- Hàn, chưa chỉ rõ được những nét giống và khác nhau trong gia lễ
của hai nước...
- Cuốn: Một chuyến du lịch Hàn Quốc NXB Quảng Đông Trung Quốc. Nội dung
cuốn sách chỉ tập trung ở việc khái quát lịch sử Hàn Quốc, tuy nhiên cuốn sách cung cấp
thêm cho đọc giả về nét văn hóa truyền thống, những điểm du lịch hấp dẫn của Hàn Quốc.
- Bước chân thần kỳ trong hệ thống giáo dục Hàn Quốc- Tạp chí giáo dục và thời
đại. Nội dung cung cấp về sự phát triển vượt bậc của nền giáo dục Hàn Quốc cũng như
những chính sách hấp dẫn nhằm lôi kéo du hoc sinh nước ngoài đến Hàn Quốc trong đó có
Việt Nam.
- Đất Nước Hàn Quốc do An Châu và Trung Vinh biên soạn. Nôi dung cuốn sách
cung cấp tương đối đầy đủ về lịch sử đất nước con người, văn hóa của Hàn Quốc. Cuốn
sách cung cấp một số những sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc (1992-
2006)
- Đối thoại với các nền văn hóa Triều Tiên biên dịch Trịnh Huy Hóa. Nội dung đưa
đến cho người đọc hiểu rõ được những nét khái quát nhất về lịch sử văn hóa của Hàn
Quốc...không đề cập đến những nét giống nhau trong lịch sử- văn hóa giữa hai quốc gia.
Tuy nhiên người đọc có thể rút ra được những nét khái quát nhất về lịch sử- văn hóa của
Hàn Quốc để từ đó so sánh đối chiếu với văn hóa- lịch sử Việt Nam.
- Sổ tay du lịch và khám phá Hàn Quốc do Nguyễn Lư biên soạn, được NXB văn hóa
thông tin xuất bản năm 2007. Nội dung sách giới thiệu khái quát về văn hóa lịch sử con
người Hàn Quốc...
Ngoài các tư liệu từ sách báo, tạp chí nói về mối quan hệ kinh tế Việt - Hàn, ... từ
internet có thể tìm thấy nhiều nguồn tài liệu qua các trang web sau :
+ Bộ ngoại giao Việt Nam : http://WWW mofa.gov.vn
+ Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam: http: //WWW.hanquocngaynay.com
+ Tổng cục thống kê Việt Nam:http: WWW.gso.gov.vn
+ Bộ kế hoạch và đầu tư http: //WWW mpi.gov.rn
4. Phương pháp nghiên cứu và bố cục của luận văn
- Để tiến hành nghiên cứu nghiên cứu đề tài, phương pháp lịch sử và phương pháp
logic được sử dụng chủ yếu. Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: tổng hợp, phân
tích, loại suy, thống kê để làm rõ mối quan hệ kinh tế giữa hai nước.
- Bố cục luận văn ngoài phần dẫn luận, phần kết luận, nội dung chính chia làm 3
chương :
Chương I : CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
Chương II: QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992-2010)
Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ
VIỆT NAM – HÀN QUỐC
5. Đóng góp của luận văn
+ Về mặt khoa học: Nghiên cứu mối quan hệ về kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc
trong giai đoạn từ 1992-2010 để có điều kiện tái hiện quá trình bang giao Việt – Hàn từ khi
hai nước chính thức đặt quan hệ. Từ đó có thể đưa ra những nhận định, đánh giá, và tổng kết
lại những mặt tích cực và hạn chế trong mối quan hệ kinh tế giữa hai nước...qua đó vạch ra
được những định hướng phát triển cho mối quan hệ kinh tế Việt – Hàn ở các giai đoạn tiếp
sau.
+ Về mặt thực tiễn: Qua nghiên cứu có thể giúp nhân dân hai nước hiểu biết hơn về
lịch sử và văn hóa của nhau, từ đó thúc đẩy và nâng cao mối quan hệ Việt – Hàn lên tầm cao
mới, ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, đặc biệt là quan hệ kinh tế.
Chương I: CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ
VIỆT NAM - HÀN QUỐC
1.1. Một số điểm tương đồng về lịch sử giữa hai dân tộc Việt -Hàn
1.1.1. Truyền thuyết về cội nguồn dân tộc
Nhìn lại lịch sử hình thành đất nước Hàn Quốc, có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam. Cả hai quốc gia có đều có truyền thuyết nói lên quá trình hình thành dân tộc mình. Cả
hai truyền thuyết đều chứa đựng những môtip đặc trưng dân tộc của vùng Đông Nam Á như
mô tip hôn nhân lưỡng hợp, kết hợp.
Truyền thuyết về buổi đầu dựng nước của Hàn Quốc nói tới hôn nhân kết hợp mang
sắc thái bán đảo Đông Bắc Á. Đó là cuộc hôn nhân giữa hoàng tử Hwang ( Hoàng Hùng)
con trai đấng tối cao trên thiên đường bay xuống ngọn núi Taebaek San (núi Thái Bạch) với
3000 người hầu để xây kinh thành, kết hôn với con gái gấu, sinh ra con trai là Tagun. Tagun
lập vương quốc Choson (vào khoảng năm 233 trước Công nguyên) - tổ tiên của người Hàn
Quốc hiện nay. [14, 30] Thuở ấy, ở núi Taebaek có một con gấu và một con hổ cùng sống.
Hai con đến gặp Hwang để xin được trở thành người. Hwang cho chúng lá ngải và hai mươi
nhánh tỏi thần và bảo chúng ăn hết những thứ đó trong một trăm ngày thì sẽ biến thành
người. Sau đó gấu trở thành một cô gái xinh đẹp vì thực hiện đúng lời vua dặn, còn hổ thì
không. Vua Hwang biến thành chàng trai xinh đẹp, đến xin kết hôn với cô gái gấu ( Hoàng
nữ). Họ sinh được một con trai tên là Tan Gun Wang Keun. Tan Gun lên ngôi vua tại
Choson đóng đô ở Pyong-yang (Bình Nhưỡng) và đặt tên nước là Choson (Hàn Quốc). Lúc
này bên Trung Quốc, vua Nghiêu lên ngôi được mười năm. Tan Gun cai quản đất nước
1500 năm, nhường ngôi cho Cơ Tử, lên núi ở ẩn tại vùng Chang Tang Kieng, rồi trở thành
Thần núi [25, 207]
Đối với Việt Nam, truyền thuyết dựng nước cũng bắt đầu bằng huyền thoại với cuộc
hôn nhân mang tính lưỡng hợp, kết hợp. Âu Cơ (giống Tiên) từ vùng núi xuống kết hợp
cùng Lạc Long Quân (giống Rồng) từ biển lên, sinh ra trăm trứng nở trăm người con, sau lại
chia đôi, một nửa ở miền đồi núi, một nửa miền sông nước, lập ra họ Hồng Bàng cùng các
triều đại vua Hùng. Theo sách Lĩnh Nam chính quái, cuộc kỳ ngộ giữa Lạc Long Quân và
Âu Cơ như sau: Lạc Long Quân là cháu mấy đời của vua Thần Nông là con của Kinh
Dương Vương là con gái của Thần Núi Ngũ Lĩnh tức bà Vu Tiên. Kinh Dương Vương lấy
con gái thần Hồ Động Đình – cuộc hôn nhân giữa con trai Thần Núi và con gái Thần Nước
sinh ra Lạc Long Quân, tên thật là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lớn lên được Kinh Dương
vương cho cai quản đất Lạc Việt. Bờ cõi nước Xích- Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp hồ Động
Đình (Hồ Nam), phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thụ (Tứ Xuyên),
phía Đông giáp Nam Hải.[52, 9-10]
Bấy giờ Đế Lai trị ở phương Bắc, vốn giòng dõi thần Nông đi thăm nước Xích –Quỷ
ở phương Nam. Trong lúc ấy Long Quân đang ở Thủy phủ. Đế Lai để con gái Âu Cơ cùng
những kẻ theo hầu ở lại, còn mình đi thăm các địa phương. Dân chúng khổ sở vì những nỗi
phiền nhiễu của họ hàng phương Bắc của Lạc Long Quân, bèn cùng nhau to tiếng, gọi lên
“ Bố ơi ở đâu? Sao để cho chúa phương Bắc đến quấy nhiễu dân chúng?” Long Quân đến,
thấy Âu Cơ nhan sắc đẹp đẽ thì đem lòng yêu thương. Long quân biến thành một chàng trai
khỏe mạnh, phong độ, hiện ra trước cửa đàn, hát tỏ tình ghẹo Âu Cơ, Ậu cơ trông thấy có
cảm tình, vui theo...Long Quân đưa Âu Cơ về Long Trang. Không lâu sau Âu Cơ sinh hạ
được một cái bọc có trăm trứng, mỗi trứng lại nở thành một người con trai. Về sau do hoàn
cảnh khác nhau, kẻ trên cao người vùng biển, Lạc Long Quân và Âu Cơ buộc phải chia tay.
Năm mươi con theo mẹ về núi, năm mươi con theo cha về biển, chia nhau cai quản các nơi.
Tổ tiên người Việt bắt đầu từ đó. Âu Cơ cùng năm mươi con ở Phong Sơn, nay thuộc huyện
Bạch Hạc (Phú Thọ), tôn người con trưởng làm chúa. Gọi là Hùng Vương, tức thủy tổ của
dân tộc Việt Nam.
Có nhiều nghi vấn về khởi thủy lập quốc bằng truyền thuyết của Việt Nam và Hàn
Quốc, mốc thời gian dựng nước của hai quốc gia cũng còn nhiều vấn đế cần nghiên cứu rõ
hơn. Khoảng 2333 trước công nguyên Hàn Quốc đã thành lập được quốc gia đầu tiên (cũng
có tài liệu cho rằng quốc gia cổ Choson Hàn Quốc ra đời muộn nhất vào khoảng thế kỷ IV
TCN) [17, 70]. Theo các nhà nghiên cứu, Nhà nước đầu tiên của Việt Nam ra đời vào
khoảng thế kỷ VII TCN [36, 40] Mặc dù có nhiều vấn đế cần nghiên cứu và xem xét lại về
quá trình hình thành lịch sử dân tộc của hai quốc gia, tuy nhiên việc dựa vào truyền thuyết
để nói về quá trình lập quốc là một điều tương đồng. Nét tương đồng này được xem như
bước mở đầu cho mối quan hệ Việt – Hàn. Từ khi lập quốc cho đến suốt quá trình xây dựng
và kiến tạo lịch sử, hai dân tộc còn nhiều điểm tương đồng khác, sự tương đồng ấy thể hiện
rõ qua quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc.
1.1.2. Việt Nam-Hàn Quốc cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc lập
dân tộc
1.1.2.1. Chống phong kiến Trung Hoa
Việt Nam cũng giống như Hàn quốc, lịch sử dựng nước đi đôi với lịch sử giữ nước
chống ngoại xâm. Việt Nam Và Hàn Quốc đều có kẻ thù chung là Trung Hoa phong kiến, cả
hai dân tộc đã kiên trì trong một thời gian dài để đánh tan sự xâm lược của ngoại bang. Sự
tương đồng trong việc chống ngoại xâm Trung Hoa giữa hai dân tộc được thể hiện qua các
sự kiện lịch sự sau:
- Chống ách thống trị của nhà Hán
Theo ghi nhận của lịch sử, năm 108 trước Công nguyên quốc gia cổ Choson đã bị
nhà Hán xâm lược. Nhà Hán chia miền Bắc bán đảo Hàn Quốc ra làm 4 quận.; Lo-lang,
Chen –fan (sau này là Tai-fang), Lin,-t’un và Hsuan-t’u. [17, 71]. Nhà Hán đã kiểm soát bán
đảo này hơm 400 năm.Trong thời kỳ này, một phần rất lớn văn hóa Trung Quốc đã bị đồng
hóa bởi cư dân bán đảo, một sự kiện mở đầu cho nhiều thế kỷ vay mượn văn hóa của người
Trung Quốc.
Giống như Hàn Quốc Việt Nam bị nhà Hán xâm lược vào năm 111 trước Công
nguyên, trước Hán Quốc 3 năm, tương tự, nước Việt nam bị chinh phục và bị người Hán
chia làm 3 quận (Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) [36, 56]
- Chống ách cai trị của nhà Tùy
Từ cuối thời Đông Hán đến thời Nam –Bắc triều, xã hội trung Hoa luôn luôn hỗn loạn
vì nội chiến và sự xâu xé của các tộc ở phương Bắc nên các triều đại phong kiến Trung Hoa
không thể xâm lược ra bên ngoài được. Nhưng khi đất nước được thống nhất, nhà Tùy (581-
681) liền phát động những cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài để thôn tính các nước
xung quanh, trong đó thể hiện rõ mưu đồ xâm chiếm bán đảo Hàn.
Thời gian từ năm 53 đến 668, bán đảoTriều Tiên thường diễn ra các cuộc đối địch
giữa 3quốc gia (thường được gọi là thời kỳ tam quốc); Koguryo, Paekche và Shilla, chia cắt
bán đảo này thành 3 vùng riêng biệt (giống như một cuộc nội chiến chia cắt đất nước). Ba
quốc gia đếu có cơ cấu đẳng cấp xã hội chặt chẽ và tổ chức quân sự hùng mạnh, tiến hành
chiến tranh nhằm giành lấy uy quyền tối cao trên bán đảo.
Koguryo gồm miền Bắc bán đảo Hàn và hai tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, một phần tỉnh
Hắc Long Giang của Trung Quốc ngày nay. Paekche nằm ở Tây Nam bán đảo Hàn. Shilla ở
Đông Nam bán đảo Hàn.
Để gây sự với Koguryo, năm 597, Tùy Văn Đế (người mở đầu triều đại nhà Tùy) gửi
thư kể tội vua Koguryo nhiều lần sai quân giết hại cư dân ở biên giới và ngầm mua chuộc
thợ cung nỏ làm việc trong binh công xưởng của Trung Quốc trốn chạy sang Koguryo. Năm
598, Tùy Văn Đế lấy cớ vua Koguryo cho quân cướp phá ở biên giới nên đã huy động 30
vạn quân thủy bộ chia đường đánh Koguryo. Tuy nhiên cuộc tấn công không thành công.
Năm 605, Tùy Dưỡng Đế (còn gọi là Tùy Dượng Đế) lên ngôi, nhà Tùy cho rằng Koguryo
là đất của Trung Quốc, nay mới không thần phục, lập thành một vùng riêng. Vì vậy, năm
611, Dưỡng Đế hạ chiếu chuẩn bị đánh Koguryo. Đầu xuân năm 612, Tùy Dưỡng Đế huy
động 1.130.000 quân chia làm hai đạo tấn cống Koguryo [35, 113]
Do bị thất bại trong trận đánh vào năm 612, năm 613, tùy Dưỡng Đế tự mình đem
quân xâm lược Koguryo lần thứ hai. Khi quân Tùy đang tấn công Liêu Đông nghe tin
Thượng trụ quốc Dương Huyền Cảm khởi binh, Tùy Dưỡng Đế phải vội vàng ra lệnh rút
quân, bỏ lại quân trang, quân nhu chất cao như núi. Dẹp xong cuộc nổi dậy của Dương
Huyền Cảm, năm 614, Tùy Dưỡng Đế lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng tấn công Koguryo lần
thứ ba. Nhưng thời gian này, nông dân khắp nơi trong nước nổi dậy khởi nghĩa. Tùy Dưỡng
Đế vội vàng kéo quân viễn chinh về để đối phó. Như vậy trong vòng 16 năm, nhà Tùy đưa
đại quân sang xâm lược nước Koguryo 4 lần, nhưng đều thất bại.
Đối với Việt Nam, cũng giống Hàn Quốc, cũng bị quân Tùy tấn công. Năm 544, Lý
Bí đã đánh bại quân xâm lược Lương, thành lập nước Vạn Xuân, giành lại quyền tự chủ cho
Tổ quốc. Năm 602, Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đem 10 vạn quân sang tấn công nước Vạn
Xuân. Lý Phật Tử huy động nhân dân tổ chức anh dũng chiến đấu. Nhiều trận chiến đấu
diễn ra ác liệt ở vùng biên giới đất nước. Do quân Tùy đông, tổ chức đánh nhanh, đánh gấp,
quân Lý Phật Tử không chống cự nổi. Quân Tùy tiến xuống vây thành Cổ Loa, vừa uy hiếp
vừa dụ dỗ đe dọa, buộc Lý Phật Tử đầu hàng, rồi bắt đem về Trường An. [36, 70] Nhà nước
Vạn Xuân kết thúc, nước Vạn Xuân rơi vào ách thống trị của nhà Tùy.
- Chống quân xâm lược nhà Đường
Năm 618 Lý Uyên thành lập nhà Đường, mở ra thời đại mới cho lịch sử Trung Hoa.
Đến thời Đường Thái Tông Trung Quốc bước vào thời kỳ thống nhất ổn định. Cũng giống
như các vương triều trước của Trung Quốc, nhà Đường lại phát động nhiều cuộc chiến tranh
xâm lược các nước xung quanh. Việt Nam và Hàn Quốc không nằm ngoài đối tượng xâm
lược của Trung Hoa.
Năm 643 Shilla bị liên quân Koguryo và Paekche tấn công, nên sai sứ sang Trung
Quốc xin cứu viện. Nhân cơ hội này, dưới chiêu bài “báo thù cho em của Trung Quốc và
rửa nhục cho vua cha Koguryo”, Đường Thái Tông quyết định tấn công Koguryo. Với 10
vạn quân thủy bộ và 500 thuyền chiến, năm 645, Đường Thái Tông đích thân chỉ huy cuộc
viễn chinh. Shilla cũng đem 5 vạn quân cùng tác chiến. Quân Đường hạ được một số thành
ở Liêu Đông, nhưng khi vây đánh thành An Thị (Liêu Ninh ngày nay) qua 88 ngày vẫn
không hạ được, trái lại quân Đường bị tổn thất nặng nề. Vì vậy đến tháng 9 năm 645, lấy lí
do “ vùng tả ngạn sông Liêu rét sớm, cỏ khô, nước đông, người ngựa khó ở lâu được, vả lại
lương thực sắp hết ”. [47, 121] Đường Thái Tông ra lệnh rút quân. Năm 649 Đường Thái
Tông chết, mưu đồ chinh phục bán đảo Hàn phải gác lại.
Đến thời Đường Cao Tông, sự xung đột giữa các nước ở bán đảo Hàn vẫn tiếp diễn.
Với sự súp đỡ của Koguryo, Paekche nhiều lần xâm nhập Shilla. Năm 660, Shilla lại cầu
cứu nhà Đường. Năm 660 nhà Đường mang 10 vạn quân phối hợp với Shilla cùng tấn công
Paekche, Paekche bị diệt vong. Koguryo bị cô lập. Năm 666 nội bộ Koguryo xảy ra xung
đột vũ trang làm thế nước này càng suy yếu. Lợi dùng tình thế ấy, năm 667, nhà Đường tiếp
tục phối hợp với Shilla tấn công Koguryo. Năm 668, Koguryo bị chinh phục. Ngay năm 668,
nhà Đường thành lập An Đông đô họ phủ ở Bình Nhưỡng và chia đất đai chiếm được thành
châu, quận để cai trị.
Như vây, lực lượng hùng mạnh nhất của lịch sử sơ khai Hàn Quốc đã bị đánh bại;
Shilla phải chống lại sức mạnh của nhà Đường. Sau thắng lợi, nhà Đường đã thiết lập các
quận trên lãnh thổ Koguryo và Paekche, bắt đầu đối xử với Shilla như một nước chư hầu.
Tuy nhiên, năm 676 Shilla thành công trong việc đuổi quân nhà Đường ra khỏi quốc vương
Paekche cũ và thành lập ở đó một nhà nước có biên giới phía Bắc cắt ngang bán đảo từ cửa
sông Taedong. Tất nhiên, điều này không có nghĩa khôi phục lại toàn bộ lãnh thổ của ba
vương triều trước kia.
Đối với Việt Nam, sau khi nhà Tùy sụp đổ, nhà Đường kế tục sự nghiệp và tiếp tục
chính sách cai trị Việt Nam. Nhà Đường đã bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập, đặt Giao Châu
đô hộ phủ (622) rồi đặt An Nam đô hộ phủ (679). Địa danh An Nam có từ đó. Những thủ
đoạn cai trị xảo quyệt và âm mưu đồng hóa, ngu dân của chính quyền đô họ nhà Đường vẫn
không làm cho nhân dân Việt Nam khuất phục. Trái lại, trong ba thế kỷ đô hộ của nhà
Đường cũng chính là ba thế kỷ đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân Việt Nam mà đỉnh
cao là các cuộc khởi nghĩa vũ trang của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa của Mai
Thúc Loan (722). Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân đã cùng ông đi gánh vải nộp
cống nổi dậy khởi nghĩa. Mai Thúc Loan đã phát triển cuộc khởi nghĩa ra khắp vùng Hoan,
Diễn, Ái ( vùng Thanh- Nghệ- Tĩnh Việt Nam bây giờ). Theo cựu Đường thư , Mai Thúc
Loan liên kết được dân chúng của 32 châu. Lợi dụng vùng địa thế Sa Nam ( cạnh sông Lam,
Nghệ An), có sông sâu rừng rậm, ông chọn làm căn cứ và đóng đại bản doanh, đắp một
chiến lũy dài hơn 10.000 mét dọc bờ sông Lam, lấy núi Đụn làm chỗ dựa, gọi là thành Vạn
An. Nơi trữ lương thực đặt ở phía trong núi, nhiều đồn trại đóng ở sườn núi phía ngoài, sông
Lam vây bọc quanh núi như con hào tự nhiên. [36, 74] Mai Thúc Loan xưng đế, đóng đô ở
thành Vạn An, sử cũ gọi là Mai Hắc Đế ( ông vua đen họ Mai). Tuy nhiên lúc này nhà
Đường còn mạnh, nhà Đường đã cử Dương Tư Húc đem 10 vạn quân tiến quân sang đàn áp
cuộc khởi nghĩa. Do lực lượng yếu hơn, Mai Thúc Loan thất trận, nghĩa quân tan vỡ. Thất
bại cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan càng làm tăng thêm tinh thần quyết chiến của người
dân Việt. Khoảng nửa sau thế kỷ VIII, một hào trưởng ở Đường Lâm (Ba Vì ) tên là Phùng
Hưng đã phát động một cuộc khởi lớn chống chính quyền đô hộ ( 783-791)
Tiếp sau cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng là khởi nghĩa của Dương Thanh (819-
820 ). Vốn là một hào trưởng Việt, có nhiều thế lực, làm thứ sử châu Hoan. Ông đã tập hợp
lưc lượng chiếm phủ Tống Bình, giết chết Lý Tượng Cổ và hơn 1000 bộ hạ của y.
Cuối thế kỷ IX, triều đình nhà Đường rơi vào tình trạng khủng hoảng, suy vong. Nạn
cát cứ của các tập đoàn quân phiệt ngày càng ác liệt, khởi nghĩa của Hoàng Sào (874-884)
đã làm lung lay tận gốc chính quyền của nhà Đường. Chính trong bối cảnh này, một hào
trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương ) là Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ đã tiến quân ra
chiếm đánh phủ Tống Bình (Hà Nội), tư xưng là tiết độ sứ, thực chất là xóa bỏ chế độ đô hộ
để khéo léo chuyển sang giành độc lập dân tộc một cách vững chắc hơn. Triều đình nhà
Đường buộc phải công nhận một sự đã rồi. Tuy còn mang danh hiệu của nhà Đường, nhưng
thực chất Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, kết thúc về cơ bản ách thống
trị hơn 1000 năm của triều đại phong kiến phương Bắc năm 905.
Như vậy, nhìn lại lịch sử Hàn Quốc và lịch sử Việt Nam trong giai đoạn chống ách
thống trị của Trung Hoa phong kiến có nhiều điểm tương đồng. Cả hai dân tộc cùng chống
ách xâm lược của nhà Hán, Tùy, Đường. Cả hai dân tộc đã vùng lên đấu tranh để thoát khỏi
ách thống trị của trung Hoa rộng lớn. Tuy cũng có những điểm khác nhau, nhưng tựu chung
cả hai dân tộc là đối tượng mà Trung Hoa nhắm tới để xấm chiếm, mở rộng lãnh thổ. Cuối
cùng cả hai dân tộc đã vùng lên đấu tranh, thoát khỏi sự lệ thuộc của phong kiến Trung Hoa.
1.1.2.2. Việt Nam- Hàn Quốc cùng đấu tranh chống quân xâm lược Mông Cổ
Việt Nam - Hàn Quốc cùng có kẻ thù chung là Trung Hoa phong kiến, tuy nhiên cả hai
dân dân tộc còn có kẻ thù chung là Mông Cổ.
Cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII, người Mông Cổ sống thành bộ lạc, liên minh bộ lạc
trên vùng lãnh thổ Châu Á rộng lớn từ hồ Bai-can và sông A-mua phía Đông đến thượng
lưu sông I-ê-ni-xê-i, phía Tây miền Nam Xi-bê-ri đến Vạn Lý Trường Thành ở phía Nam.
Danh từ “ Mông Cổ ” chính thức được xuất hiện trong sách vở sau khi Thành- Cát – Tư-
Hãn lập nên quốc gia Mông Cổ thống nhất (1206), sử sách Trung Quốc gọi là người Thát.
Sau khi thống nhất, Thành –Cát- Tư –Hãn dốc toàn bộ lực lượng quân sự vào những cuộc
chiến tranh xâm lược với quy mô lớn.
Quân Mông Cổ ào ạt tiến sang phương Đông, phương Tây. Tiến đánh Trung Quốc
(1219), tràn vào trung Á (1218), tiến đánh nước Nga (1223). Tiếp nối là những cuộc viễn
chinh xâm lược đẫm máu về phía Tây, phía Đông rồi tràn xuống phía Nam. Trong bối cảnh
chung của khu vực, Việt Nam và Hàn Quốc không thể thoát khỏi sự xâm chiếm và mở rộng
lãnh thổ của Mông Cổ. Tuy nhiên có một điểm khác với Hàn Quốc là Việt Nam đã đánh tan
ba lần xâm lược của quân Nguyên- Mông giữ yên bờ cõi đất nước.
Trước khi cho quân xâm lược Đại Việt, Mông Cổ nhiều lần cho sứ sang dụ hàng,
nhưng sứ đi mà không trở lại. Vua Trần kiên quyết kháng chiến, ra lệnh bắt giữ sứ của
Mông Cổ. Năm 1258, quân Mông Cổ chia làm hai đường tấn công vào Đại Việt. Trần Thái
Tông tự thân chỉ huy chiến đấu. Quân Mông Cổ bị Đại Việt đánh tan ở Đông Bộ Đầu,
Thăng Long, buộc phải quay ngựa chạy về Vân Nam – Trung Quốc. Sau khi đánh bại được
Trung Hoa rộng lớn, Mông Cổ đã thành lập triều Nguyên ở Trung Quốc (1271-1368). Với
bản chất hiếu chiến, nhà Nguyên tiếp tục chính sách mở rộng lãnh thổ.
Năm 1282 nhà Nguyên yêu cầu Đại Việt phải cho mượn đường để tiến đánh Chiêm
Thành nhưng bị vua Trần kiên quyết khước từ. Viện lý do Đại việt không chịu khuất phục,
đầu năm 1285, Hốt Tất Liệt sai con mình là Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang đánh, nhưng
đến giữa năm 1285, quân Nguyên bị bất bại hoàn toàn. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng
để quân lính khiêng mới sống sót về nước. [35, 152]. Nhục nhã vì bị thất bại trước Đại Việt,
Hốt Tất Liệt quyết định ngừng xâm lước Nhật Bản để tập trung lực lượng tấn công Đại Việt
một lần nữa. Năm 1287, Thoát Hoan lại được giao nhiệm vụ dẫn 50 vạn quân tấn công Đại
Việt. Một lần nữa quân Nguyên bị thất bại. Một số tướng lĩnh như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp,
Tích Lệ Cơ.... bị bắt sống.
Tại bán đảo Hàn, năm 1231 Goryo ( Cao Ly ) bị Mông Cổ xâm chiếm. Toàn dân tộc
Goryo đã đứng lên chiến đấu dũng cảm trước sự tấn công mạnh mẽ của Mông Cổ nhưng kết
cục khác với Đại Việt, Goryo phải khuất phục trước sự tấn công của Mông Cổ. Dưới sự can
thiệp của Mông Cổ, Goryo để mất nhiều tính tự chủ. Mông Cổ chiếm đóng nhiều vị trí quan
trọng về quân sự và kinh tế của Goryo. Ở miền Đông Bắc và Tây Bắc, Mông cổ còn lập cơ
quan như “Song thành Tổng quan phủ” và “Đồng minh phủ” để khống chế Goryo. [34, 292]
Năm 1359, nhân khi triều Nguyên ở Trung Quốc suy yếu, vua Goryo là Kongmin
(Cung Mẫ Vương) đem quân đánh bại đội quân chiếm đóng của nhà Nguyên, thu hồi toàn
bộ đất đai. Năm 1396, Kongmin chính thức tuyên bố không thần phục nhà Nguyên. [34,
293]
Như vậy cả hai dân tộc đều có chung một kẻ thù là quân Mông – Nguyên. Tuy nhiên
quá trình đặt ách thống trị của quân Mông- Nguyên không thành công ở Việt Nam. Nhà
Trần đã ba lần chỉ huy quân sĩ và quần chúng nhân dân đanh tan quân xâm lược. Tại bán
đảo Hàn, quân Mông cổ đã đặt được ách thống trị lên quốc gia này. Người Hàn phải mất
nhiều thời gian đấu tranh mới thoát khỏi ách thống trị của quân Mông –Nguyên.
1.1.2. 3. Việt Nam – Hàn Quốc cùng đấu tranh chống quân phiệt Nhật
Vào thế kỷ thứ XIX, Việt Nam và Hàn Quốc đều thất bại trong cuộc chiến chống
xâm lược của các cường quốc phương Tây, hứng chịu nỗi đau là nạn nhân của thời kỳ thuộc
địa. Hàn Quốc bị Nhật Bản xâm lược và phải chịu ách áp bức bóc lột của chế độ cai trị
thuộc địa kéo dài suốt 36 năm ( 1910-1945). Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ XIX, cũng
là nạn nhân của chế độ cai trị thuộc địa khắc nghiệt của thực dân Pháp sau đó là Nhật- Pháp.
Năm 1940, trên con đường bánh trướng ra bán đảo Đông Dương, Nhật Bản vượt qua
Trung Quốc tiến đánh Việt Nam. Trước cuộc tấn công của quân Nhật, thực dân Pháp chống
cự yếu ớt, sau đó chính thức đầu hàng Nhật, Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của
Nhật ( 1940-1945). Năm 1945, Việt Nam và Hàn Quốc thoát khỏi chế độ cai trị thuộc địa
của Nhật, giành lại độc lập, thế nhưng, đất nước lại bị phân chia và rơi vào vòng xoáy của
thời kỳ Chiến tranh lạnh. Năm 1950, Hàn Quốc đã trải qua bi kịch của cuộc nội chiến giữa
hai miền Nam Bắc. Khi chiến tranh kết thúc, những gì còn lại chỉ là sự đổ nát, hoang tàn,
chia cắt. Đối với Việt Nam sau năm 1945, Pháp quay trở lại thôn tính. Trải qua 9 năm kháng
chiến chống Pháp( 1946-1954), sau đó là kháng chiến chống Mỹ kéo dài hơn 20 năm (1954-
1975), đến năm 1975 Việt Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Sau giải phóng Việt
Nam nỗ lực cố gắng vượt qua mọi khó khăn để hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng đất
nước.
Cùng trải qua thời kỳ bị quân phiệt Nhật thôn tính, cùng trải qua thời kỳ đất nước bị
chia cắt, cùng trải qua những mất mát do chiến tranh để lại, chính những điểm tương đồng
này là bước đệm tiếp theo cho sự phát triển quan hệ kinh tế Việt – Hàn. Bên cạnh những nét
tương đồng về lịch sử, Việt Nam- Hàn Quốc cùng có những nét tương đồng về văn hóa.
Nghiên cứu nét tương đồng này để khẳng định thêm một bước đệm tiếp theo cho mối quan
hệ kinh tế Việt –Hàn.
1.2 . Một số nét tương đồng về văn hóa giữa Việt Nam - Hàn Quốc
1.2.1. Nét tương đồng trong phong tục tập quán: ăn, uống
Trong bữa ăn của người Việt, từ xưa đến nay cơm là thực phẩm chính trong bữa ăn
hằng ngày.
Trong bữa cơm người Việt có nhiều loại thực phẩm từ động vật, thực vật, tuy nhiên
thực vật nhiều hơn động vật. Việt Nam có một danh mục rau quả mùa nào thức ấy, vô cùng
phong phú . Rau xanh đủ loại như: rau muống, rau dền, rau ngót, rau cải... luôn có mặt trong
mỗi mâm cơm của mỗi gia đình. Tuy nhiên nói đến rau trong bữa ăn Việt Nam không thể
không nhắc đến hai món đặc thù là rau muống với dưa cà. Sự tích Thánh Gióng gắn liền với
quả cà. Thánh Gióng nhờ ăn “ bảy nong cơm, ba nong cà” mà trở thành người khổng lồ đi
cứu nước. Cà và rau cải đem muối dưa tạo thành những món ăn độc đáo phù hợp với thời
tiết và khẩu vị của người Việt nên tục ngữ mới có câu: Có dưa, chừa rau; Có cà thì tha gắp
mắm; Thịt cá là hoa, tương cà là gia bản.[52, 189]
Các loại gia vị có hành, gừng tỏi, ớt, riềng, rau mùi, rau răm, rau húng, thì là, hồ tiêu,
tía tô, kinh giới, lá lốt, diếp cá...cũng là những thứ không thể thiếu trong bữa cơm của người
Việt.
Trong bữa ăn của người Việt, đứng đầu thức ăn động vật là các loại thủy sản- sản
phẩm của vùng sông nước. Từ các loại thủy sản, người Việt đã chế tạo ra một loại nước
chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại. Thiếu nước mắm chưa thành bữa cơm Việt
Nam. Danh từ “nước mắm” đã đi vào ngôn ngữ loài người, có mặt trong nhiều cuốn từ điển
bách khoa Đông – Tây. [52, 189] Ở vị trí cuối cùng trong bữa ăn của người Việt mới là thịt,
bao gồm : thịt lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng, chó, dê. bò...nhưng thông dụng nhất vẫn là thịt lợn
và thịt bò.
Thông thường, bữa ăn hằng ngày của người dân Việt rất thanh đạm. Người nông dân
xưa thường ngày hay dùng rau xanh (đặc biệt là rau muống) với tương cà mắm muối, thịt cá
xôi gà không phải ngày nào cũng có.
Ngoài bữa cơm hàng ngày, người Việt Nam còn có nhiều thứ quà bánh ăn thêm hoặc
hay ăn vào bữa sáng. Đó là các loại bún riêu, bún ốc, bún cá, bún, chả, bún bò giò heo, hủ
tiếu...Song, một món hấp dẫn, nổi tiếng cả trong nước lẫn ngoài nước là phở. Phở ở Hà Nội
được mọi người ưa thích nhất và trở thành món quà sáng phổ biến.
Trong bữa ăn, mọi thành viên trong gia đình quây quần bên một mâm cơm thường là
hình tròn. Người Việt Nam quen dùng đũa, thìa và muôi. Muôi dùng múc canh, thìa dùng
lấy nước chấm hoặc sử dụng trong khi ăn. Khi ăn một tay bưng bát, một tay cầm đũa. Nếu
muốn sử dụng thìa hoặc muôi thì một tay đặt đôi đũa xuống mâm, tay kia vẫn cầm bát.
Về đồ uống, trong bữa ăn người Việt thường ít uống. Nếu có uống thì thường là đàn
ông từ tuổi trưởng thành trở lên và rượu là đồ uống chính. Rượu Việt Nam thường được làm
từ gạo tẻ hoạc gạo nếp. Gạo được đem nấu thành cơm, ủ cho lên men rồi cất ra. Trong dân
gian rượu là thức uống không thể thiếu được trong các bữa ăn có tính chất đình đám. Hơn
nữa, rượu còn đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam, rượu ngâm với các loại thảo dược
hoặc rắn, mật gấu, ong chúa...dùng để chữa bệnh. Rượu có nhiều loại: rượu trắng, rượu cẩm,
rượu nếp, rượu cần...mọi miền đất nước Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược đều có
những loại rượu ngon nổi tiếng.Cúng ông bà tổ tiên của người Việt thường phải có li rượu
trắng (rượu màu, rượu thuốc và các thứ rượu phương Tây không thể dùng để cúng được ).
Cây chè là một loại cây đặc sản của Việt Nam. Tuy Việt Nam chưa nói nhiều đến
“trà đạo” Việt Nam, nhưng cách pha trà thơm của người Việt và cách chế biến các loại chè
cũng rất cầu kỳ và đặc sắc. Các ấm chén chuyên dùng cho uống trà ở Việt Nam đã xuất
hiện khá sớm, tương truyền xuất hiện từ đời nhà Lý (1010 – 1225), các loại đồ gốm, đồ sành
sứ sử dụng cho việc uống trá cũng rất tinh xảo. Người Việt Nam uống chè tươi, chè khô,
ướp chè với các loại hoa như hoa sen, hoa nhài, hoa ngâu, hoa cúc....
Đối với người Hàn Quốc bữa ăn cũng thanh đạm như người Việt. Cơm trắng cũng là
món chính. Ngoài ra, cơm trộn với 5 loại đậu đen, đỏ, trắng, vàng, xanh là một món ăn
người Hàn ưa dùng (người Hàn Quốc gọi là Ô- kốc - bap: cơm ngũ cốc). Cơm cuốn rong
biển với ít trứng và cà rốt (Kim – bap) là món ăn mang tính nghệ thuật cao. Nó đòi hỏi
người phụ nữ phải khéo léo để làm sao vừa thổi cơm dẻo vừa cuộn rong biển đã ép mỏng
như tờ giấy, trong đó. Cơm vẫn là món chính.
Rau xanh ở Hàn Quốc cũng đủ loại, ngoài các loại rau ở vùng đồng bằng như: rau cải,
rau cần, rau rền...giống như ở Việt Nam, Hàn Quốc còn có rất nhiều loại rau rừng (người
Hàn gọi là rau núi). Trong tất cả những món ăn đi kem theo bũa cơm của người Hàn thì Kim
chi- là một loại dưa chua, món rau củ muối có gia vị không thể thiếu. Đây là món ăn nổi
tiếng nhất của Hàn Quốc. Kim chi gắn liến với tên tuổi quốc gia đến mức được chính phủ
Hàn tuyên bố là một quốc bảo.[14, 188] Người ta cho rằng món dưa chua cao lương mỹ vị
này có chứa rất nhiều vitamin và chất bổ và luôn được dọn lên bàn ăn cùng với cơm. Món
ăn này được yêu thích đến nỗi một bảo tàng Kim chi duy nhất trên thế giới được mở ra tại
Seoul, giới thiệu về lịch sử hình thành Kim chi, những kiến thức và những truyền thuyết về
món Kim chi cũng như cách thức chế biến món này.
Đối với người Hàn, bữa cơm hàng ngày cũng không thể thiếu thịt và cá- hai thực
phẩm rất phong phú về chủng loại. Xưa kia, người Hàn Quốc nổi tiếng săn bắt giỏi nên thịt
thú rừng được ưa chuộng nhiều. Trong bữa ăn hằng ngày, thịt lợn và thịt bò là món ăn chủ
đạo và thường được làm chín bằng phương pháp nướng trên bếp lửa. Phong tục này vẫn
còn, bởi vậy, khi người Hàn Quốc sang Việt Nam, món bún chả của Việt Nam được người
Hàn rất ưa thích chẳng khác gì người Việt.
Cá biển ở Hàn Quốc được ưa dùng hơn cá nước ngọt. Điều này cũng giống như cá
miền biển Việt Nam, cư dân chuyên nghề bắt cá và ăn đồ biển là chính.
Đặc điểm nổi bật trong món ăn Hàn Quốc là vừa cay vừa mặn. Màu đỏ là màu đặc
trưng trong các món ăn, ớt được sử dụng nhiều trong chế biến các loại món ăn.
Khi dùng bữa, cũng như người Việt Nam, người Hàn cũng quây quần bên một mâm
cơm. Theo truyền thống của người Hàn, bữa ăn được bày ra trên một cái bàn thấp nhỏ, thức
ăn để trong những cái tô nhỏ được xếp đặt gọn gàng. Âu cơm đặt giữa bàn bởi vì cơm được
coi là món ăn chính. Xung quanh mâm cơm người ta xếp những món ăn kèm khác nhau.
Cũng giống như Việt Nam, trong bàn ăn của người Hàn nếu có đông người thì đồ ăn sẽ
được dọn lên nhiều lần trong bữa cơm. Bàn ăn được xếp sẵn trong nhà bếp trước khi mang
ra. Khi ăn, người Hàn Quốc cũng dùng đũa và thìa. Có điều, sự khác biệt ở đây, người Hàn
không dùng đũa và thìa cùng lúc như người Việt thường sử dụng khi ăn phở mà dùng riêng
rẽ. Điều đặc biệt là người Hàn không bưng bát cơm lên mà hay để ở mâm. Bởi vây, bát
đựng cơm của họ không có cái trôn bát và mâm cơm củng được nâng cao lên cách mặt đất
khoảng 30 đến 40 cm. Mâm cơm là cái bàn thường là hình chữ nhật, đôi lúc cũng thấy mâm
cơm nhỏ hình vuông hay hình tròn.
Người Việt Nam có câu: “ăn trồng nồi, ngồi trông hướng”. Người Hàn Quốc cũng
vậy. Khi ngồi xuống bàn ăn, người ít tuổi phải trông trước, trông sau, khi người lớn tuổi
nhất cầm đũa lên ăn thì người bé mới được cầm đũa. Khi uống rượu, người dưới phải rót
rượu mời người trên và phải rót bằng hai tay. Người Hàn Quốc không tự rót rượu cho mình
trong các bữa ăn chung mà người khác rót hộ. Đàn ông Hàn Quốc uống rượu nhiều, phụ nữ
cũng uống rượu nhưng kín đáo hơn và phải được sự đồng ý của người trên. Mặc dù người ta
ít khi hay thường là không nói chuyện trong bữa ăn, nhưng phòng ăn ít khi yên tĩnh. Người
ta ồ à để thể hiện sự hài lòng với bữa ăn, húp canh hay húp mỳ soàn soạp trở thành một thói
quen. Tương tự, người lớn tuổi thường ợ to sau bữa ăn đễ thể hiện sự hài lòng.
Trà và cà phê là hai loại đồ uống khá phổ biến ở Hàn Quốc. Các loại đồ gốm, sành sứ
dùng để uống trà xuất hiện khá sớm ở Hàn Quốc và tinh xảo. Đồ sành sứ Koryo với men
xanh ngọc cũng được xếp vào hàng tinh xảo ở phương Đông. Cũng giống như Việt Nam,
tuy uống trà chưa được nâng lên thành trà đạo như Nhật Bản, Trung Quốc nhưng là đồ uống
thường xuyên, nhất là khi có khách đến nhà chơi.
1.2.2. Nét tương đồng trong phong tục hôn nhân truyền thống giữa Việt Nam-
Hàn Quốc
Từ xa xưa, do chịu ảnh hưởng nặng nề của lễ giáo phong kiến Trung hoa, xã hội
truyền thống Việt Nam và Hàn Quốc dần dần hình thành một phong tục cưới hỏi khá tương
đồng.
Trước đây, chuyện dựng vợ gả chồng cho con ở Việt Nam và Hàn Quốc thường do
cha mẹ quyết định , “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Chuyện trai gái tự do tìm hiểu, tự do
yêu đương thường ít được đặt ra. Cha mẹ tìm vợ cho con mục đích chính là để “nối dõi tông
đường”. Nhưng điều các bên quan tâm đầu tiên chưa phải là con người cụ thể mà là các vấn
đề như xem gia đình hai bên có “môn đăng hộ đối” không, nam nữ có hợp tuổi hợp số
không? Kế đến mới là chàng trai có tài ba, có chí lớn không...? Cô gái có khỏe mạnh, xinh
đẹp tháo vát, đảm đang hay không?...Bởi vậy, trong xã hội truyền thống, người mai mối rất
quan trọng. Đối với gia đình quyền quý, hôn nhân phải có mai mối và việc thành lứa đôi hay
không, hai nhà thông gia có “thông cảm” với nhau hay không đều phụ thuộc vào “nhân vật
trung gian” này.
Cũng giống nhau ở một điểm trong chuyện hôn nhân ở Việt Nam và Hàn Quốc là ,
nếu cuộc gặp gỡ ban đầu giữa hai bên thành công, đôi trai gái sẽ tìm hiểu nhau thêm một
thời gian nữa. Nếu thấy không hợp nhau, họ không bắt buộc phải kết hôn, nhưng nếu thấy
hợp nhau, họ sẽ thông báo cho cha mẹ hai bên để chọn ngày kết hôn. Cho dù cặp vợ chồng
trẻ Hàn hay Việt tiến đến hôn nhân là do yêu thương hay sắp đặt, thì ít ra cũng có một trong
hai bà mẹ sẽ tìm đến một ông thầy bói, để nhờ thầy đọc hộ lá số tử vi của đôi vợ chồng trẻ
xem có hợp nhau hay không. Hay chí ít cũng để thầy tìm cho một ngày lành tháng tốt để có
thể tổ chức lễ cưới. Một lễ đính hôn ngắn gọn thường được tổ chức trước ngày cưới khoảng
hai ba tháng.
Các nghi thức của việc hôn nhân trong xã hội truyền thống của hai nước đều mô
• Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã
phỏng theo nghi lễ của Trung Hoa. Đó là thực hiện theo luật lệ (sáu lễ) trong cưới hỏi.
• Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng
kén chọn ở nơi ấy.
• Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi
đẻ của người con gái.
• Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa
nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
• Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là
• Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai
hôn chắc chắn.
mang lễ đến để rước dâu về. [85]
Sáu lễ này được xã hội Việt Nam đơn giản hóa còn ba, như sau:
1. Lễ dạm: sự đánh tiếng muốn kết thân của nhà trai. Lễ này có cùng ý ngĩa như
“ nạp thái” của Hàn Quốc.
2. Lễ hỏi: bao gồm ý nghĩa chung cho vấn danh, nạp cát, thỉnh kỳ và nạp tệ. “Nạp tệ”
chính là lễ hỏi ở Hàn Quốc hiện nay. Trong ngày này nhà trai mang lễ vật gồm trà rượu,
bánh, nữ trang, và một ít tiền đến nhà gái. Từ lúc này, đôi trai gái trở thành căp vợ chồng
chưa cưới, xem cha mẹ người hôn phối như cha mẹ mình.
3. Đám cưới (rước dâu): nhà trai mang lễ vật gồm bánh trái, đồ tranh sức, trà rượu,
trầu cau làm lễ trước bàn thờ tổ tiên xin phép rước dâu về nhà. Đây chính là lễ “ Thân
nghinh ” ở Hàn Quốc. [60, 36]
Tại Hàn Quốc, hôn lễ truyền thống cũng chịu ảnh hưởng của hôn lễ trung Hoa. Từ
“ lục lễ ”của Trung Hoa, Hàn Quốc rút xuống còn 4 lễ chính; lễ nghị hôn, lễ nạp thái, lễ nạp
tệ, thân nghinh. Nhưng thực ra 4 lễ đó là để thực hiện hai công đoạn trong hôn nhân là
chuẩn bị hôn lễ và cử hành hôn lễ. Công việc chuẩn bị hôn lễ bao gồm: nghị hôn, nạp thái,
nạp tệ; còn cử hành hôn lễ là thân nghinh.[44, 71]
Bảng 1.1 : Trình tự hôn lễ truyển thống giữa Việt Nam và Hàn Quốc
Trình tự hôn lễ truyển thống Hàn Quốc Trình tự hôn lễ truyền thống Việt Nam
1. Lễ đi nói: người mai mối cùng cha mẹ người con trai qua nhà gái để ướm lời.
2. Lễ bỏ trầu cau: nhà trai hỏi tên tuổi cô gái và xem tuổi 1. Nghị hôn: hai nhà cùng cử người đi hỏi tên tuổi, gia thế của đối tượng, 2. Nạp thái: nhà trai nhờ người mai mối gửi tứ trụ của tân lang và nạp thái văn cho nhà gái và chọn ngày cưới xin 3. Nhà trai báo với tổ tiên và nhà gái kết quả xem tuổi. 3. Nạp tệ: nhà trai đem lễ vật sang nhà gái để xin cưới cố gái.
4. Lễ hỏi chính thức: nhà trai đem lễ vật sang nhà gái để xin cưới sô dâu. 5. Nhà trai mang thư chọn ngày sang 4. Thân nghinh: lễ cưới được tổ chức tại nhà tân nương, tân lang đón tân nương cùng về. nhà gái và báo giờ rước dâu. 6. Nhà trai đón cô gái về nhà và cử hành hôn lễ.
Nguồn: [45, 75]
Mấy thập kỷ trở lại đây, do sự phát triển mạnh của nền kinh tế, khoa học kỹ thuật,
cùng với sự du nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, nên nghi thức hôn nhân truyền
thống trong hôn lễ của hai quốc gia cũng như quan niệm về hôn nhân ngày càng mai một đi.
Ở Hàn Quốc hiện nay, chỉ có các gia đình quý tộc, giàu sang mới thực hiện đầy đủ sáu lễ,
còn phần đông đều giảm xuống còn ba lễ chính: Nạp thái, thỉnh kỳ, thân nghinh. Ở Việt
Nam cũng vậy, không phải nhà nào cũng thực hiện đầy đủ sáu lễ trong cưới hỏi, chỉ có khi
cả hai bên gia đình đều thuộc hàng quyền quý, đại gia mới tuân thủ, còn theo tục lệ cổ
truyền, thông thường chỉ có ba lễ: Chạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới.
Ngày nay, ở thành thị Hàn Quốc cũng như Việt Nam, lễ cưới thường được tổ chức ở
phòng cưới (phòng cưới thường là nhà hàng, khách sạn). Nhà trai , nhà gái tổ chức một bữa
tiệc mời họ hàng, bạn hữu thân thiết đến chia vui cùng gia đình.
1.2.3. Nét tương đồng trong phong tục thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên cũng là việc quan trọng trong đời mỗi người dân Việt Nam và Hàn
Quốc.
Đối với các dòng họ lớn, tổ tiên có chức tước phẩm hàm, giàu sang hoặc khá giả thì
việc thờ cúng được tiến hành ở từ đường (Việt Nam còn gọi là bàn thờ họ), còn việc thờ
cúng gia tiên phải lập bàn thờ ở nhà.
Đối với người dân bình thường, thờ cúng tổ tiên hay gia tiên đều làm ở nhà. Nhà nào
cũng có bàn thờ. Chưa rõ triều đình phong kiến Việt Nam trước kia có quy định như vậy
không, nhưng triều đình Choson (1392 – 1910) của Hàn Quốc quy định cụ thể như vậy. Nếu
nhà nào không lập bàn thờ cúng tổ tiên thì bị phạt. Dù luật pháp của triều đình phong kiến
Việt Nam có hay không quy định nhưng thực tế là mỗi gia đình Việt nam đều lập bàn thờ tổ
tiên, ông bà, cha mẹ...[13, 55]
Bàn thờ thường đặt ở nơi trang nghiêm nhất trong ngôi nhà. Ở nông thôn Việt Nam,
bàn thờ được đặt ở gian giữa. Ở thành thị tùy theo gia cảnh và thiết kế ngôi nhà, bàn thờ
được đặt ở chỗ cao ráo, sạch sẽ, tôn nghiêm. Ngày nay, Việt Nam vẫn thế, nhưng ở Hàn
Quốc đã thay đổi. Bàn thờ không có trong nhà, chỉ tới ngày giỗ ông bà cha mẹ thì mới lập
bàn thờ, hương án và làm cơm canh cúng giỗ.
1.2.4. Nét tương đồng trong các ngày lễ tết truyền thống
Việt Nam và Hàn Quốc đều sử dụng song song hai loại lịch: Âm lịch và Dương lịch.
Những ngày lễ tết chủ yếu trong năm đều tính theo âm lịch. Đó là tết Nguyên đán, rằm
tháng giêng, Tết đoan ngọ, Tết trung nguyên (rằm tháng bảy), Tết Trung thu (rằm tháng
tám)...
- Tết Âm lịch (Tết Nguyên đán) là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm
vi phổ biến rộng rãi nhất, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của hai dân tộc. Về ý nghĩa nhân
sinh của Tết Nguyên đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là tết của gia đình, tết
của mọi nhà. Người Việt Nam cũng như người Hàn Quốc có tục hàng năm mỗi khi tết đến,
dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilomet,
vẫn mong muốn được trở về sum họp gia đình trong ngày tết, được khấn vái tổ tiên...
Mặc dù Dương lịch của phương Tây đã được được dùng phổ biến trên thế giới, nhưng
Việt Nam Hàn Quốc vẫn tính các ngày lể cổ truyền theo âm lịch. Tuy nhiên khác với Việt
Nam là người Hàn ăn tết hai lần trong năm. Đón Tết Dương lịch xong, người Hàn lại tiếp
tục đón Tết âm lịch vì trên thực tế Tết âm lịch mới thực sự là Tết cổ truyền của dân tộc Hàn.
Theo trình tự thời gian trong một năm có các ngày lễ như sau:
- Tết Nguyên Đán ( 1/1)
- Tết Nguyên tiêu (15/1)
- Lễ Phật Đản (8/4)
- Tết Đoan Ngọ (5/5)
- Tết Trung thu (15/8 )
Tết âm lịch cổ truyền của người Hàn Quốc theo tiếng Hàn gọi là Seol thường rơi vào
cuối tháng 1 hoặc đầu tháng 2 dương lịch, là đại lễ quan trọng nhất trong năm, còn có tên
gọi là Won Dan theo âm tiếng Trung Quốc là Tết Nguyên đán. Cũng như Việt Nam, mặc
dù năm mới được tính từ thời khắc giao thừa song trên thực tế không khí Tết đã tràn ngập từ
những ngày cuối năm âm lịch. Vào ngày 30 Tết, các gia đình dọn vệ sinh nhà cửa. Buổi tối
trước giao thừa, họ thường tắm bằng nước nóng để tẩy trần. Các thanh tre được đốt trong
nhà lúc giao thừa để xua đuổi tà ma vì tục truyền do tiếng nổ của các thanh tre sẽ làm cho
ma quỷ khiếp sợ bỏ chạy. Đêm giao thừa không ai ngủ cả, vì theo truyền thuyết nếu ngủ thì
sáng hôm sau sẽ bị bạc trắng cả lông mi và đầu óc kém minh mẫn khi thức dậy.
Trong ngày đầu tiên của năm mới, mọi người thường tập trung ở nhà anh cả và cùng
nhau chào đón năm mới. Người lớn thường mặc lễ phục truyền thống Hanbok. Trẻ con được
bố mẹ chuẩn bị quần áo mới từ trước. Ngay sau khi mọi người tập trung đông đủ thì lễ cúng
tổ tiên bắt đầu, cả nhà lại tiến hành tiếp nghi lễ cúng tổ tiên gọi là Jesa do trực tiếp người
trưởng nam đứng ra làm nghi lễ. Đồ cúng cùng với rượu gạo được bày trên mặt bàn giữa
nhà. Trên đó cũng đặt các bài vị tổ tiên viết trên giấy sớ sẽ đốt đi sau khi cúng. Chủ gia đình
thắp hương, khấn mời tổ tiên, cả nhà cùng bái lạy làm lễ.
Sau lễ Chesa là lễ Seba, con cái bái lạy cha mẹ, ông bà .Trẻ con trong bộ quần áo sặc
sỡ cúi lạy ông bà, cha mẹ và nói những câu chúc tết và được người lớn thưởng tiền mừng
tuổi.....
- Tết Nguyên tiêu 15-1 ( rằm tháng giêng )
Đây là một trong những ngày lễ lớn khác trong năm của người Việt Nam và đồng
thời cũng là một ngày tết với người Hàn. Ngày lễ này được tổ chức vào ngày trăng tròn đầu
tiên trong năm. Vào ngày này, nông dân và ngư dân Hàn Quốc thường cầu nguyện cho họ sẽ
có một vụ mùa trồng trọt và một vụ cá bội thu. Các gia đình cầu mong một năm làm ăn phát
đạt, tránh mọi điều rủi ro, xui xẻo bằng cách chuẩn bị các món ăn đặc biệt từ các loại rau
xanh có trong mùa. Có thể nói, đây là một ngày lễ rất được chú trọng sau ngày lễ tết Nguyên
Đán.
So sánh một chút với tết Nguyên Tiêu của Việt Nam có thể thấy đây cũng là một
ngày lễ khá quan trọng trong năm.Người Việt nam thường làm cơm cúng tổ tiên và gia đình
thì tụ tập thật đông đủ.
- Tết Đoan ngọ 5-5
Tết Đoan Ngọ hay Tết Đoan Dương, ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, là một ngày Tết
truyền thống tại Trung Quốc cũng như một số nước Đông Á như Hàn Quốc, Việt Nam. Tết
Đoan ngọ tồn tại từ lâu trong văn hoá dân gian Phương Đông và có ảnh hưởng đến sinh hoạt
văn hoá.
Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam còn gọi là "ngày giết sâu bọ", tiêu diệt bớt các loài gây hại
cho cây trồng trên cánh đồng, trong đó nhiều loài sâu có thể ăn được và chúng được coi như
là chất bổ dưỡng. Người ta tin rằng khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun
sán trong người sẽ bị chết hết. Trong ngày này mọi người cũng thờ cúng tổ tiên, sum họp.
Đối với Hàn Quốc - Đây là một trong ba lễ hội truyền thống lớn nhất của Hàn Quốc
cùng với Tết Nguyên Đán và Tết trung thu. Diễn ra vào thời điểm bắt đầu của mùa hè và là
ngày cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, cho mùa màng bội thu.Vào ngày này người nông
dân thường nghỉ công việc đồng áng cả ngày để tham gia lễ hội, nó cũng là ngày đánh dấu
công việc gieo trồng đã hoàn tất.
- Tết trung thu 15-8
Ở Việt Nam, trung thu là ngày hội lớn. Vào ngày này, mọi người cũng đi chơi chủ yếu
là thanh niên nam nữ và là của trẻ con. Trẻ con được tổ chức vui chơi với những lồng đèn
chỉ dành riêng cho ngày này với đủ hình dạng và màu sắc rực rỡ, cùng ngắm trăng và ăn
bánh trung thu.
Đối với Hàn Quốc đây cũng là cũng là dịp nghỉ lễ lớn nhất trong năm của người Hàn
Quốc (ngày trăng tròn nhất trong năm rơi vào 15 tháng 8 theo âm lịch). Đó là lễ hội tạ ơn
đối với những vụ mùa bội thu. Giống như ngày tết, các gia đình từ khắp nơi trong nước trở
về nhà để cùng nhau ăn tết.
1.2.5. Nét tương đồng trong hệ thống văn tự chữ Hán
Trong trong quá khứ hai dân tộc Việt- Hàn đều bị nhà Hán đô hộ từ những năm trước
Công nguyên và chữ Hán đã được du nhập. Từ đó theo suốt chiều dài của lịch sử, chữ Hán
được sử dụng phổ biến và được coi là văn tự chính thức của nhà nước phong kiến hai nước.
Nho sĩ hai nước Việt- Hàn thời phong kiến đã sử dụng chữ Hán rất thành thạo, có thể nói
không thua kém gì mọi nho sĩ Trung Quốc. Trên cơ sở chữ Hán, nho sĩ hai nước còn sáng
tạo ra một thứ chữ mới để ghi tiếng nói của dận tộc mình mà chữ Hán không thể đảm
đương nổi.
Tại Việt Nam, văn tự chữ Hán được sử dụng trong giao dịch hành chính từ sớm.
Trên cơ sở của chữ Hán, người Việt đã biến đổi thành chữ nôm ( chữ của người Nam) dùng
trong sáng tác văn chương. Thời Tây Sơn, Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ nôm trong
lĩnh vực hành chính và giáo dục. Nguyễn Thiếp được Quang Trung giao nhiệm vụ tổ chức
dịch Tứ thư Ngũ kinh và các sách giáo khoa từ chữ Hán ra chữ nôm. [52, 267]
Tại Hàn Quốc, Hán tự được sử dụng phổ biến ở thời Tam Quốc. Việc vận dụng
nguyên xi số văn tự ngoại lai mà không cải biên đã phát sinh nhiều bất lợi. Dân tộc Hàn đã
biến đổi chữ Hán thành chữ viết riêng của dân tộc mình- chữ Idu. Vì tiếng nói của hai dân
tộc khác nhau nên cách cấu tạo chữ viết không thể giống nhau hoàn toàn. Nhưng nét tương
đồng thể hiện rõ ở chỗ là trên cơ sở của chữ Hán cả hai dân tộc đã biến thành chữ viết riêng
của dân tộc mình, thể hiện rõ niềm tự tôn dân tộc. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử,
Hàn Quốc và Việt Nam đã có chữ viết riêng của dân tộc mình, thoát khỏi hoàn toàn từ sự lệ
thuộc biến đổi từ chữ Hán. Năm 1446, vua Thế Tông ban hành bản chữ cái Hangul với 28
chữ cái [68, 274].Việc sáng tạo ra chữ Hàn là một thành tựu lớn đối với người dân Hàn
Quốc bởi nó là một loại chữ dễ đọc, dễ ghép vần, bất cứ ai cũng có thể đọc được chữ Hàn
chỉ cần bỏ ra vài giờ để học chữ cái và ghép vần.
1.2.6. Nét tương đồng về tôn giáo tín ngưỡng
Trong xã hội truyền thống của Việt Nam – Hàn Quốc sự tương đồng về tôn giáo tín
ngưỡng thể hiện rõ nét nhất ở sự hội nhập hai tôn giáo; nho giáo và phật giáo. Trong sự hội
nhập đó, theo từng thời kỳ lịch sử, Nho giáo hay Phật giáo thay nhau chiếm vị trí độc tôn
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ sớm và theo hai hướng. Hướng thứ nhất từ
Ấn Độ, hướng thứ hai từ Trung Quốc. Các nhà sư Ấn Độ theo đường biển đã đến Việt Nam
từ đầu Công nguyên. Luy Lâu, trụ sở của Giao chỉ trở thành trung tâm của phật giáo. [52,
241] Từ Trung Hoa Phật giáo cũng được truyền vào Việt Nam. Do thâm nhập một cách hòa
bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo được phổ biến rộng rãi. Đến thời Lý- Trần Phật giáo
phát triển cực thịnh. Toàn dân theo đạo Phật, nhiều chùa tháp được xây dựng. Nhà Nho Lê
Quát, học trò Chu Văn An đã nhận xét như sau “ từ kinh thành đến châu phủ, đường cùng
ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo, chẳng thể mà tin; hễ chỗ nào có nhà ở thì có chùa Phật; bỏ đi
thì làm lại, hư thì sửa lại” . [52, 241]
Tại Hàn Quốc, Phật giáo được du nhập vào năm 372 [46, 112] sau đó nhanh chóng
được tiếp thu. Sở dĩ Phật giáo này được tiếp nhận vì nó thích hợp để trở thành chỗ dựa tâm
linh, tăng cường cơ cấu cai trị cho tầng lớp vương quyền. Năm 668 Phật giáo được coi như
quốc giáo ở Shilla. Từ vua đến dân đều theo đạo Phật. Vào thời này đã có nhiều cao tăng
sang Trung Quốc học (thời Đường), 5 tông phái chính được hình thành ở Shilla; phái Niết
bàn tông, phái Giới luật tông, phái Pháp tính tông, phái Pháp tướng tông, phái Hoa nghiêm
tông. [68, 110]
Như vậy có một điểm chung là Phật giáo được truyền vào Việt Nam và Hàn Quốc từ
rất sớm, tôn giáo này đã nhanh chóng được tiếp thu và đã từng trờ thành quốc giáo ở hai
nước với hai thời gian khác nhau. Chùa được xây dựng khắp nơi, dân chúng khắp nơi theo
đạo Phật. Rõ ràng đây là một minh chứng cho sự phát triển rộng khắp của đạo phật, mặc dù
có lúc hưng, lúc suy, tuy nhiên lòng thành với với đức Phật ở cả hai dân tộc vẫn tồn tại cho
đến nay.
Đối với Nho giáo- đây là một tôn giáo cũng được du nhập vào Việt Nam và Hàn
Quốc từ sớm, tuy nhiên phải mất thời gian dài, tôn giáo này mới có chỗ đứng trong xã hội
của hai quốc gia.
Tại Việt Nam, Hán Nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diêm,
Sĩ Nhiếp tích cực truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên. Đây là thứ thứ văn hóa do kẻ
xâm lược áp đặt, cho nên trong suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ
đứng trong xã hội Việt Nam. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu
Công và Khổng Tử. Đây được xem là sự kiện Nho giáo được tiếp nhận chính thức.. [52,
265]
Đến thời hậu Lê, Nho giáo phát triển mạnh, trở thành quốc giáo dưới thời Lê sơ
(1428-1527). Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai
thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước.
Khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm 1075 với nội dung lấy Nho học làm nội dung thi cử.
Điều này là một minh chứng cho sự tồn tại và chỗ đứng vững chắc của tôn giáo này trong xã
hội Việt Nam.
Tại Hàn Quốc Nho giáo xuất hiện ở thời trung hưng của Shilla, xuất hiện như một hệ
tư tưởng độc lập với Phật giáo. Nho giáo đã phát triển manh dưới thời kỳ này. Năm 682
Hàn quốc thành lập Quốc Học- một minh chứng cho sự phát triển của Nho giáo. Năm. Năm
717 chân dung Khổng Tử được mang từ Trung Quốc (thời Đường) sang shilla được bày
trong nhà Quốc Học. Năm 750 Quốc Học được đổi tên thành Thái Học Giám- như một
trường Đại học về Nho giáo. [68, 114]. Chương trình học tại đây gồm 3 khóa trình với các
môn học.
Khóa 1. Luận Ngữ, Hiếu kinh, Lễ ký, Kinh dịch
Khóa 2. Luận Ngữ, Hiếu kinh, Tả truyện, Thi kinh
Khóa 3. Luận Ngữ, Hiếu kinh, Kinh thư, Văn tuyển [68, 114]
Để học tại trường Thái Học Giám, phải là con em quan lại, quý tộc. Năm 788 khoa
thi đầu tiên được áp dụng để tuyển chọn người ra làm quan. Các thí sinh phải vượt qua 3
vòng đọc hiểu văn bản chữ Hán. Khoa thi dựa vào kinh điền của Nho giáo, chữ Hán được
giảng dạy tại đây. [68, 114]
Đối chiếu với quá trình du nhập, tồn tại của Nho giáo tại Hàn Quốc và Việt Nam, rõ
ràng đều có nét tương đồng. Nho giáo đã có mặt tại hai quốc gia từ sớm, ban đầu cũng gặp
khó khăn cho sự xuất hiện của mình. Tuy nhiên sau một thời gian dài, tôn giáo này cũng
chính thức được chấp nhận và đã trở thành quốc giáo của hai quốc gia. Mặt khác cả hai
nước đều đã xây dựng nơi thờ Khổng Tử- vị khai sinh ra đạo nho. Văn Miếu của Việt Nam
cũng như Thái học giám của Hàn Quốc
Sang thời kỳ cận hiện đại, Công giáo và đạo Tin lành của phương Tây đều ảnh hưởng
tới hai quốc gia. Nhà nước phong kiến của hai quốc gia, tức chính quyền Choson (Hàn Quốc)
và nhà Nguyễn (Việt Nam) đều chống đối quyết liệt nhưng vẫn không thể ngăn cản. Công
giáo và tin lành đã có mặt ở hai nước( đạo tin lành phát triển ở Hàn Quốc mạnh hơn Việt
Nam) và ngày lễ giáng sinh trở thành ngày lễ chung của các giáo dân, một ngày lễ tính theo
dương lịch.
Như vậy trên cở sở tìm hiều và rút ra những nét tương đồng về văn hóa, có thể đưa ra
những những nhận xét sau:
Thứ nhất, sự tương đồng văn hóa hai nước là ngẫu nhiên, không phải có sự thỏa thuận hay
bố trí sắp xếp của các triều đại phong kiến.
Thứ hai, sự tương đồng về văn hóa có nguồn gốc sâu xa, được hình thành trong suốt hàng
ngàn năm và có sự bền vững lâu dài.
Thứ ba, sự tương đồng văn hóa có nguồn gốc sâu xa bền vững lâu dài này là cơ sở vững
chắc, tạo dựng mối quan hệ bang giao Việt – Hàn [13, 58]
1. 3. Quan hệ bang giao Việt – Hàn trước 1992
13.1 Quan hệ bang giao Việt –Hàn thời trung đại
Có hay không quan hệ Việt –Hàn trong lịch sử thời trung đại? Đây là một vấn đề cần
nghiên cứu sâu hơn. Chính sử Việt Nam không nói đến mối quan hệ này. Theo Giáo sư
Pyon Hong Kee ( nhà nghiên cứu tộc phả Hàn Quốc, ngày 31-1—1996 đến thăm trường
ĐH.KHXH- Nhân Văn TP.Hồ Chí Minh, tham dự buổi Hội thảo khoa học về quan hệ Việt
Hàn) , cộng đồng Hàn được hình thành từ 502 nhóm tộc họ, gồm 366 nhóm bản địa và 136
nhóm từ các nước ngoài sinh sống trong đó có 2 dòng tộc Lý từ Việt Nam đến là dòng tộc
Lý Tinh Thiện và Lý Hoa Sơn [2]
Dòng tộc Lý Tinh Thiện: Tổ là Lý Dương Côn, hoàng tử thứ 3 của Lý Càn Đức ( Lý
Nhân Tông), cháu đời thứ 5 của Lý Công Uẩn ( Lý Thái Tổ ), em Lý Thần Tông ( Lý
Dương Hoán) (116-1138). Lý Dương Côn đến Cao Ly ( Koryo) từ thế kỷ 12, ông được coi
là người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Hàn Quốc. Cháu đời thứ 5 của Lý Dương Côn là
Lý Nghĩa Mẫn, làm quan dưới triều vua Minh Tông của Koryo được thăng chức “ Trung thư
môn hạ Bình chương sự phán bộ binh sự” tức là Tể tướng thứ hai, sau chức “ Môn hạ thị
trung”, nhưng thực tế ông làm quan suốt 14 năm ( 1183-1196) [2]. Trong nhiều bộ chính sử
Hàn Quốc đều ghi chép về sự kiện và nhân vật này. Tuy nhiên trong lịch sử Việt Nam
không đế cập đến Lý Dương Côn mà chỉ ghi chép về Lý Dương Hoán. Vấn đề này cần làm
rõ thêm. Theo Giáo sư Pyon Hong Kee, dòng họ Lý sinh sống lâu đời ở Tịnh Thiện. Hiện
nay một bộ phận hậu duệ của dòng họ Lý này sống ở Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên, chỉ
một phần sinh sống ở Hàn Quốc [2]
Dòng tộc Lý Hoa Sơn: Tổ là Hoàng thúc Lý Long Tường, là một hoàng tử họ Lý. Lý
Long Tường là hoàng tử thứ của vua Lý Anh tông (1138-1175), cháu nội của của vua Lý
Thần Tông, em của vua Lý Cao Tông (1176-1210). Sau khi nhà Lý mất ngôi vào tay nhà
Trần (1225) Lý Long Tường cùng gia quyến đã thoát khỏi sự bức bại của nhà Trần. Lý
Long Tường đến Cao Ly vào đời vua Cao Tông (1251-1264). Năm 1226, Lý Long Tường
trú tại Trấn Sơn. Năm 1253, Lý Long Tường tham gia cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên Mông, lập nhiều công, được vua Cao Ly phong tước Hoa Sơn Quân. Năm 1994,
cháu đời thứ 26 của Lý Long Tường là Lý Xương Căn đã về thăm xã Đình Bảng ( Bắc
Ninh), quê gốc họ lý, lập Hội giao lưu văn hóa dân tộc Hàn – Việt. [2]
Nhân vật thứ ba của Việt Nam cũng được coi là đã có quan hệ với Cao Ly là Mạc
Đĩnh Chi. Mạc Đĩnh Chi là danh nhân nhà Trần, nổi tiếng học giỏi từ nhỏ. Năm 1304 thi
đậu Trạng nguyên. Ông làm quan ba triều vua: Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến
Tông.[29, 108] Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, ông đã xướng họa thơ văn và
được vua Nguyên khen tài giỏi ứng thí, trí tuệ thông minh và đã được vua Nguyên phong là
“ Lưỡng quốc trạng nguyên”. [28, 26-27] Tại đây Mạc Đĩnh Chi gặp nhiều sứ thần Cao Ly,
nể tài trí thông minh đối đáp của Mạc Đĩnh Chi các sứ thần Cao Ly mời ông sang thăm Cao
Ly. Trong chuyến viếng thăm đó, ông được một sứ thần Cao Ly gả cháu gái và để lại di duệ
ở đây. [12, 50] Chuyện này được một số con cháu họ Mạc và báo chí Việt Nam đề cập đến,
tuy nhiên, vẫn cần bổ sung sử liệu thành văn để được thấu đáo hơn.
Ba sự kiện nêu trên, được coi là những sự kiện mở đầu cho mối quan hệ Việt-Hàn
trong lịch sử. Trong chính sử không ghi chép mối quan hệ trực tiếp giữa hai quốc gia, nhưng
quan hệ Việt – Hàn vẫn được duy trì thông qua các cuộc gặp gỡ của các sứ thần hai nước
khi đi sứ sang Trung Hoa
Phùng Khắc Khoan (1528-1613) trong một lần đi sứ sang Trung Hoa gặp sứ thần
Triều Tiên, nói lên tâm sự cùng hội cùng thuyền, trong đó có câu: “ Cổ vân: tứ hải giai
huynh đệ, tương tế đồng chu xuất công xa” ( Người xưa: bốn bề là nhà Thuyền xa cùng
chống, ngựa xe xùng ngồi) [ 43, 339]
Sang thế kỷ XVII, Lê Quý Đôn (1726-1784) khi đi sứ sang Trung Hoa cũng kết bạn
với sứ thần Triều Tiên là Hồng Khải Hy. Hai bên có dịp trao đổi văn thơ với nhau, trong hai
tác phẩm của Lê Quý Đôn là cuốn Quần Thư Khảo biện và Thánh mô hiền phạm đều có lời
đề tựa của Hồng Khải Hy. Năm 1769, Lê Quý Đôn biên soạn cuốn Bắc sứ thông lục kể lại
chuyến đi sứ nhà Thanh năm 1760. Còn phía Hàn Quốc, thời trung đại, các tác phẩm của
các học giả Hàn Quốc biên soạn như: Triều kinh thi thiếp, Chi phong tập và bộ sử Triều
Tiên vương triều thực lục đã được lưu hành tại Việt Nam, trong đó đều có những tư liệu
phong phú nói về mối quan hệ Việt – Hàn. [51, 52 ]
1.3.2 Quan hệ Việt –Hàn thời cận đại
Từ thế kỷ XIX trở đi, khi chủ nghĩa tư bản phương Tây tiến hành xâm lược các nước
phương Đông, Việt- Hàn đều cùng nhau đứng cùng một chiến tuyến chống kẻ thù.
Ở Việt Nam, sau khi thực dân Pháp xác lập ách thống trị trên lãnh thổ nhỏ bé này
cũng là lúc các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp lên cao. Phan Bội Châu (1867-
1940) đã sáng lập ra Duy Tân Hội (1904), nhằm đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Viêt
Nam. Phan Bội Châu tiếp tục phát động phong trào Đông Du (1905-1909) xuất dương cầu
học tại Nhật Bản.
Nhật Bản, sau cuộc Duy Tân của vua Minh Trị đã trở thành một nước cường thịnh,
Tokyo trở thành trung tâm văn minh của phương Đông, có sức thu hút mạnh mẽ nhiều nhà
yêu nước cuả Châu Á đến đây học tập. Tại đây người Việt và người Hàn lại một lần nữa
gắp nhau, cùng trao đổi kinh nghiệm vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1905,
tại Tokyo, Phan Bội Châu đã viết tác phẩm Việt Nam vong quốc sử- tác phẩm mang nội
dung tố cáo tội ác của thực dân Pháp tại Việt Nam. Tác phẩm được xuất bản tại Tokyo và
ngay lập tức được các chí sĩ Hàn Quốc dịch ra tiếng Hàn và phổ biến ở Hàn Quốc, có tác
dụng tuyên truyền tư tưởng yêu nước căm thù giặc. Giáo sư Kim – So- Un ( 1908-1982) đã
đọc tác phẩm này và hồi ức lại như sau: “ Vào những năm ở Chihae ( Trần Hải – một thành
phố gần Pusan), tôi bắt đầu đọc những truyện nhi đồng dịch sang tiến Hàn như: Sans famille
( của Hertor Malot ) và A Dog of Flanders ( của Ouida tức De La Ratmée, thỉnh thoảng tôi
cũng đọc những sách loại khoa học giả tưởng.....Trong những sách đọc lúc này cảm động
nhất là cuốn Việt Nam vong quốc sử......Nội dung nói đến nỗi đau khổ không thể nào tả xiết
mà dân tộc An Nam (tên gọi Việt Nam lúc bấy giờ) đã phải chịu đựng dưới ách đô hộ của
người Pháp. Mỗi cái cửa sổ cũng bị đánh thuế, khi kết hôn cũng bị đánh thuế ba lần. Biết
người An Nam dùng nhiều muối trong thức ăn, họ tăng giá muối lên 10 lần hoặc 20 mươi
lần...”[43, 327-328]
Có một điều đặt biệt thú vị là năm 1905, Phan Bội Châu cũng gửi từ Nhật Bản về
Việt Nam cho Đông Kinh Ngĩa Thục một tác phẩm có cùng chủ đề gọi là Triều Tiên vong
quốc sử ( không biết rõ tác giả là ai, là người Triều Tiên hay cũng chính là Phan Bội Châu?)
(Theo giáo Tiến sĩ Youn Dae Yeong cho biết tác giả của Triều Tiên vong quốc sử là Lương
Khải Siêu qua mạn đàm 29- 6-07 tại Đại Học Inha). Trong lời nói đầu, có tựa đề “ Hãy nhìn
xem tình hình của Cao Ly mất nước” [51, 54]
Như vậy, sự kiện trên cho thấy phần nào quan hệ Việt- Hàn đã từng bước có sự gắn
bó, cùng cảm thông với nhau trong giai đoạn này.
Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động tại Pháp đã có quan hệ với nhiều nhà cách
mạng Trung Hoa, An- giê- ri, Tuy-ni-di, Triều Tiên.... trong đó Nguyễn Ái Quốc đặc biệt
quan tâm đến Triều Tiên. Những tư liệu này tuy tản mạn nhưng khá rõ, Việt Nam ( đại diện
là Nguyễn Ái Quốc), Triều Tiên ( đại diện là Kim Khuê Thực), từng trình kiến nghị, yêu
sách đòi độc lập đến Hội nghị Versailles (1919). Trước và sau việc trình kiến nghị này
Nguyễn Ái Quốc cũng đã có nhiều liên hệ, nhận sự trợ giúp từ những nhà yêu nước Triều
tiên tại Pháp. Kết quả đầu tiên của tình đoàn kết giữa các nhà yêu nước Việt Nam và Triều
Tiên là bài viết Đông Dương và Triều Tiên - một sự so sánh thú vị của Nguyễn Ái Quốc
( báo Le populaire ngày 04-09-1919). Nguyễn Ái Quốc cùng các nhà cách mạng Triều Tiên,
Trung Quốc, Ấn Độ....đã tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á
( 09-07-1925). Sự quan tâm của Nguyễn Ái Quốc dành cho Triều Tiên được thể hiện rõ qua
các bài viết, các lần trả lời phóng vấn báo chí, tác phẩm Đường cách mệnh. Nếu tính cả 12
tập của Hồ Chí Minh toàn tập thì Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã nhắc đến Triều Tiên
hơn 20 mươi lần dưới nhiều hình thức khác nhau.[69, 60]
Như vậy bước sang thời cận đại, vì chung hoàn cảnh vong quốc nên những nhà yêu
nước của Việt Nam và Hàn Quốc đã chia sẻ, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau để cùng đấu tranh
giả phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của pháp, Nhật.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ II kết thúc đã tạo điều kiện thuận lợi cho hai quốc gia
vùng lên giải phóng dân tộc. Tuy nhiên khát vọng độc lập của hai dân tộc đã bị chủ nghĩa để
quốc phương Tây chà đạp. Với sự can thiệp của Mỹ đã đẩy Việt Nam và Hàn Quốc vào giai
đoạn chia cắt tàn khốc nhất trong lịch sử.
Nhìn lại quan hệ Việt- Hàn trong giai đoạn này, vẫn là quan hệ mang tính chất cá
nhân, hoặc gián tiếp thông qua nước thứ ba (Trung Quốc, Nhật Bản..) chưa phải là mối quan
hệ mang tính chất cấp cao của hai nhà nước, và mối quan hệ này này cũng không được diễn
ra thường xuyên. Trong giai đoạn sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, bán đảo Hàn
bị chia cắt, mối quan hệ Việt- Hàn phát triển theo chiều hướng xấu, không còn là mối quan
hệ tốt đẹp như đã từng diễn ra trong lịch sử.
1.3.3 Sơ lược quan hệ Việt- Hàn giai đoạn từ sau 1954 đến 1975
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là quốc gia giàu nhất thế giới, nuôi giấc mộng
muốn làm bá chủ toàn cầu. Bằng chiến lược toàn cầu, Mỹ phát động chiến tranh lạnh nhằm
mục đích ngăn chặn sự phát triển của Chủ nghĩa Cộng Sản. Việt Nam và bán đảo Hàn cũng
nằm trong chính sách ngăn chặn ấy. Mỹ đã can thiệp sâu vào nội bộ của hai quốc gia, dựng
nên hai chính quyền chống cộng và thân Mỹ. Tại Việt Nam Mỹ dựng nên chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Tại bán đảo Hàn, Mỹ dựng nên Đại Hàn Dân
Quốc do Lý Thừa Vãn đứng đầu. Âm mưu của Mỹ muốn biến hai quốc gia này thành tiền
đồn chống cộng ở châu Á.
Chính trong bối cảnh này, Hàn Quốc và Việt Nam Cộng hòa đã đặt mối quan hệ mật
thiết với nhau, tất nhiên với chính phủ của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, mối quan hệ với
Hàn Quốc trong giai đoạn này trở nên thù địch, vì Hàn Quốc không còn đứng chung với
Việt Nam trên con đường dành độc lập, thống nhất đất nước. Cả Hàn Quốc và Việt Nam
Cộng Hòa đều là chính quyền do Mỹ dựng nên, đều có chung mục đích chống cộng, thân
Mỹ, và đều là “ con đẻ ” trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, và tất nhiên mối quan hệ giữa
hai quốc gia sẽ diễn ra tốt đẹp trên nhiều phương diện.
Ngày 27-10-1955, Việt Nam Cộng Hòa và Đại Hàn Dân Quốc chính thức đặt quan
hệ bang giao, tức chỉ một ngày sau khi Ngô Đình Diệm tuyên bố thắng cử trong một cuộc
trưng cầu dân ý tại miền Nam Việt Nam (26-10-1955). Hàn Quốc nhanh chóng thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng hòa. Ngày 26-05-1956, Tòa công sứ Hàn Quốc được
thiết lập tại Sài Gòn. Tháng 6 năm 1956, Việt Nam cộng hòa cũng đặt Tòa công sứ tại Seoul.
Tháng 3-1958, cả hai bên đồng ý nâng cấp quan hệ ngoại giao lên cấp Đại sứ [69, 70]
Trong suốt giai đoạn dài của lịch sử (1954-1975), mối quan hệ Việt- Hàn chính thức
được xác lập trên cơ sở bang giao quốc gia. Tuy nhiên mối quan hệ đó chỉ diễn ra với tư
cách của nhà nước Việt Nam Cộng hòa ( một nhà nước do Mỹ dựng nên, thân Mỹ và chống
cộng ) với Đại Hàn Dân Quốc. Còn về phía Việt Nam Dân Chủ cộng hòa với Hàn Quốc
trong giai đoạn này không có bất kỳ mối quan hệ nào, có chăng đó là mối quan hệ đối đầu
mang tính thù địch. Giống như lính Mỹ, trong suốt thời kỳ gửi quân chiếm đóng tại duyên
hải miền Trung Việt Nam, lính Hàn cũng gây nên nhiều tội ác với người dân Việt- tội ác
thảm sát. Tội ác này đối với người dân Việt phải mất rất nhiều thời gian mới có thể quên đi
được.
1.3.4 Quan hệ Việt – Hàn giai đoạn 1975 đến năm 1992
Sau chiến thắng 30-04-1975, Việt Nam được thống nhất trở lại, quan hệ bang giao
Việt- Hàn bị đứt đoạn. Từ 1975 đến 1982 hai bên có sự qua lại bằng hình thức buôn bán tư
nhân qua trung gian, đến năm 1983 hai bên bắt đầu có quan hệ buôn bán trực tiếp cùng một
số quan hệ phi chính phủ.
Có thể lý giải cho sự gián đoạn trong quan hệ hai quốc gia giai đọan này là do sự bất
hòa trong quá khứ (1954-1975), lính Hàn đã gây nhiều tội ác trong cuộc chiến tại Việt Nam
với tư cách là nước đánh thuê cho Mỹ. Năm 1986, Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ VI đề ra đường lối đổi mới với phương châm “ủng hộ chính sách tồn tại hòa bình giữa
các nước có chế độ chính trị khác nhau” và “ mở rộng quan hệ với tất cả các nước”. Tại
Hàn Quốc, năm 1980, chính phủ Hàn đã tiến hành chính sách ngoại giao phương Bắc, chủ
trương quan hệ ngoại giao với tất các các nước không đối đầu, bất chấp sự khác biệt về thể
chế chính trị. Từ đó hai bên đã từng bước xích lại gần nhau. Ngày 22-12-1992 Việt Nam –
Hàn Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ sau 17 năm bị gián đoạn. Đây là cột mốc
quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ tốt đẹp hai nước trên mọi lĩnh vực.
1.3.5 Quan hệ bang giao năm 1992 - Nhân tố quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế
Việt – Hàn
Ngày 22/12/1992, Việt Nam và Hàn Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại
giao. Sự kiện này đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử quan hệ hai nước, thúc đẩy
nhanh những tiến triển trong quan hệ hợp tác kinh tế kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Từ năm 1992 đến năm 2010, mối quan hệ hai nước luôn tiến triển theo chiều hướng
đi lên trong tất cả các lĩnh vực.. Trong thời gian đó hai bên đã có những cuộc viếng thăm
qua lại một cách thường xuyên giữa các đoàn đại biểu các cấp Nhà nước, Chính phủ, Bộ...
Bảng 1.2 : Các cuộc viếng thăm cấp cao giữa Việt Nam – Hàn Quốc
Thời gian Các cuộc viếng thăm
Tháng 5 - 1993 Thủ tướng Lee Young Dok thăm Việt Nam
Tháng 8 - 1994 Thủ tướng Lee Young Dok thăm Việt Nam
Tháng 4 - 1995 Tổng bí thư Đỗ Mười thăm Hàn Quốc
Tháng 8 - 1996 Chủ tịch Quốc hội Kim su han thăm Việt Nam
Tháng 11-1996 Tổng thống Kim Young Sam thăm Việt Nam
Tháng 12-1998 Tổng thống Kim Dae Jung thăm Việt Nam
Tháng 8-2001 Chủ tịch nước Trần Đước Lương thăm Hàn Quốc
Tháng 4 - 2002 Thủ tướng Lee Han Dong thăm Việt Nam
Tháng 9 - 2003 Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Hàn Quốc
Tháng 7-2004 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thăm Hàn Quốc
Tháng 10 - 2004 Tổng thống Roh Moo-hyun thăm Việt Nam
Tháng 4 - 2005 Thủ tướng Lee Hae Chan thăm Việt Nam
Tháng 11 - 2006 Tổng thống Roh Moo-hyun thăm Việt Nam tham dự Hội
nghị Thượng đỉnh APEC
Tháng 11 - 2007 Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thăm Hàn Quốc
Tháng 5 - 2009 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Hàn Quốc
Tháng 10/2009 Tổng thống Lee Myung-bak thăm chính thức Việt Nam
Ngày 20/10 Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak thăm chính thức Việt
Nguồn: Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam (www.hanquocngaynay.com)
Bên cạnh các cuộc viếng thăm lẫn nhau giữa hai nhà nước Việt –Hàn, hai quốc gia
còn ký nhiều Hiệp ước và thỏa thuận song phương nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa hai
quốc gia.
Bảng 1.3 : Các Hiệp định được ký kết giữa Việt Nam- Hàn Quốc
Thời gian Hiệp định ký kết
Tháng 2-1993 Hiệp định hợp tác kinh tế-khoa học kỹ thuật
Tháng 5-1993 Hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư
Tháng 12-1993 Hiệp định thương mại, Hiệp định hàng không
Tháng 5-1994 Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần
Tháng 8-1994 Hiệp định văn hóa
Tháng 3-1995 Hiệp định hợp tác thuế quan
Tháng 4-1995 Hiệp định về hợp tác khoa học và công nghệ, Hiệp định vận tải biển
Tháng 9-1995 Bản ký kết thỏa thuận hợp tác thông tin
Tháng 11-1996 Hiệp định giao lưu thể dục thể thao, Hiệp định năng lượng
nguyên tử
Tháng 12-1998 Hiệp định miễn visa cho nhân viên ngoại giao và hộ chiếu công vụ
Tháng 7-2000 Thỏa thuận hợp tác kiểm tra hàng thuỷ sản
Tháng 2-200 Thỏa thuận hợp tác giữa các cơ quan kiểm dịch động vật
Tháng 7-2002. Bản ký kết thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực xây dựng
Tháng 8-2002 Hiệp định về hợp tác du lịch
Tháng 9-2003 Hiệp định hợp tác dẫn độ tội phạm, - Hiệp định tương trợ tư
pháp về hình sự
Tháng 4-2005 Hiệp định về viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật
Tháng 11- 2006 Hiệp định hợp tác phát triển điện nguyên tử
Tháng 1- 2007 Biên bản ghi nhớ hợp tác về y học phóng xạ
Tháng 5- 2009 Biên bản ghi nhớ hợp tác đào tạo ngành dược
2010 Hiệp định vay vốn ODA của Chính phủ Hàn Quốc
Nguồn: Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam ( www.hanquocngaynay.com)
Việc thiết lập quan hệ bang giao năm 1992, các chuyến thăm qua lại giữa các
nguyên thủ của hai quốc gia, cũng như các Hiệp định được ký kết, đã tạo điều kiện thúc đẩy
quan hệ kinh tế Việt – Hàn thêm tầm cao mới, ngày càng phát triển bền vững. Sự phát triển
được thể hiện rõ nét nhất ở lĩnh vực thương mại, đầu tư và hợp tác lao động...
Tiểu kết chương I
Việt Nam - Hàn Quốc có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hóa. Về lịch sử, hai
dân tộc cùng đấu tranh chống phong kiến Trung Hoa, cùng đấu tranh chống quân Mông Cổ.
Thế kỷ XIX, Việt Nam – Hàn Quốc đều bị thất bại trong cuộc chiến chống xâm lược của
chủ nghĩa thực dân phương Tây, là nạn nhân của thời kỳ thuộc địa. Hàn Quốc bị Nhật xâm
chiếm và chịu ách nô dịch kéo dài 36 năm (1910-1945). Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX bị
thực dân Pháp xâm lược. Năm 1940, Nhật xâm chiếm Việt Nam, dân tộc Việt trở thành
thuộc địa của Nhật- Pháp (1940-1945). Về văn hóa, hai dân tộc cùng chịu ảnh hưởng của
văn hóa Trung Hoa, đều sớm tiếp nhận nền giáo dục thi cử theo tinh thần nho giáo. Phật
giáo sớm du nhập vào hai quốc gia và từng một thời giữ vị trí quốc giáo của hai nước. Mặt
khác, hai dân tộc đều có nét tương đồng về phong tục, tập quán như: ăn, uống, hôn nhân,
thờ cúng tổ tiên, các ngày lễ, tết truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng…Chính sự tương đồng
này đã giúp hai dân tộc xích lại gần nhau, tạo nên mối quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai
quốc gia. Từ thế kỷ XIII, hai hoàng tử nhà Lý là Lý Dương Côn và Lý Dương Hoán, do sự
biến động của lịch sử, đã chạy sang định cư tại Cao Ly, mở đầu mối quan hệ giữa hai dân
tộc. Tiếp theo sau là Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn... ít nhiều tạo nên
mối quan hệ Việt - Hàn thời trung đại. Thời Cận đại, vì chung hòan cảnh mất nước, những
nhà yêu nước của hai dân tộc đã hợp tác và giúp đỡ nhau trong công cuộc đấu tranh giải
phóng đất nước thoát khỏi ách thống trị của Nhật, Pháp. Tuy nhiên sau khi chiến tranh thế
giới thứ II kết thúc, khát vọng độc lập tự do của hai dân tộc bị chủ nghĩa thực dân phương
Tây đảo lộn. Hai quốc gia bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh lạnh. Quan hệ Việt- Hàn
bị gián đoạn trong thới gian dài. Sau chiến tranh thế giới II, với tư cách là đồng minh của
Mỹ, Hàn Quốc gửi quân tham chiến tại Việt Nam (1964), gây nhiều tội ác đối với nhân dân
Việt Nam. Sau chiến thắng 30-4-1975 của nhân dân Việt Nam, quan hệ hai nước trở nên
căng thẳng. Năm 1992, với mong muốn khép lại quá khứ, Việt Nam - Hàn Quốc chính thức
nối lại mối quan hệ, đánh dấu bước ngoặt mới cho quá trình hợp tác, phát triển toàn diện
giữa hai dân tộc.
Chương II: QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC (1992-2010)
Quan hệ kinh tế Việt - Hàn được xúc tiến gắn liền với sự kiện bình thường hóa quan
hệ ngoại giao giữa hai nước năm 1992. Sau 18 năm hợp tác và phát triển, quan hệ kinh tế đã
mang lại nhiều lợi ích cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của hai quốc gia. Trong
chương hai, luận văn tập trung nghiên cứu quan hệ kinh tế Việt - Hàn giai đoạn 1992-2010.
Trong quan hệ kinh tế, luận văn tập trung nghiên cứu hai vấn đề: Quan hệ thương mại và
quan hệ đầu tư. Trong quan hệ thương mại, chủ yếu tìm hiểu về tình hình xuất nhập khẩu
giữa hai quốc gia. Trong quan hệ đầu tư, chủ yếu tìm hiểu tình hình đầu tư giữa Việt Nam
và Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến năm 2010. Trước khi đi vào nội dung chính, cần thiết phải
xây dựng những khái niệm liên quan đến quan hệ kinh tế và tính tất yếu của quan hệ kinh tế
quốc tế.
2.1. Những khái niệm liên quan đến quan hệ kinh tế quốc tế và tiềm năng hợp tác
kinh tế Việt – Hàn
2.1.1. Những khái niệm liên quan hệ kinh tế quốc tế và tính tất yếu của quan hệ
kinh tế quốc tế
2.1.1.1. Những khái niệm
- Quan hệ kinh tế quốc tế: là mối quan hệ kinh tế lẫn nhau giữa hai hoặc nhiều nước,
là tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước. [53, 5]. Như vậy mối quan hệ
kinh tế quốc tế được xem như là hệ thống của các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các
quốc gia.
- Kinh tế đối ngoại: là quan hệ kinh tế của một quốc gia nhất định với các quốc gia
khác trên thế giới và với các tổ chức kinh tế và tài chính quốc tế. Nội dung của kinh tế đối
ngoại rất rộng, bao gồm:
+ Lĩnh vực ngoại thương: đó là quan hệ buôn bán hàng hóa với các quốc gia khác trên thế
giới bao gồm hàng hóa vô hình và hữu hình.
+ Lĩnh vực dịch vụ kinh tế quốc tế như: du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, dịch vụ
bảo hiểm quốc tế, dịch vụ xây dựng quốc tế..
+ Lĩnh vực đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng quốc tế...
+ Lĩnh vực tài chính: vay nợ, thanh toán quốc tế.
+ Lĩnh vực chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quốc tế và nhiều lĩnh vực khác. [53, 5]
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, mỗi nước có những lợi thế về tài nguyên vị trí địa lý,
về vốn, công nghệ, lao động.. khác nhau. Ngoài ra có những đặc điểm về kinh tế, văn hóa,
xã hội rất riêng biệt. Để phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả không nên sao
chép máy móc mô hình phát triển đối ngoại của các quốc gia khác, mà phải tiếp thu có chọn
lọc để xây dựng chính sách đối ngoại của quốc gia mình.
2.1.1.2. Tính tất yếu khách quan của quan hệ kinh tế quốc tế
Trong xu thế mở rộng và hội nhập của thế giới hiện nay, không thể có một quốc gia
nào trên thế giới tồn tại độc lập, phát triển có hiệu quả mà không có quan hệ với các quốc
gia trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Đối với các nước phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài giúp cho việc bành
trướng mau lẹ sức mạnh kinh tế của mình như: tìm kiếm thị trường mới để giải quyết thị
trường khủng hoảng thừa về hàng hóa, tìm kiếm nơi đầu tư lợi nhuận cao, giảm chi phí sản
xuất do sử dụng nhân công và tài nguyên rẻ ở các nước chậm phát triển.
Đối với các nước đang phát triển và các nước nghèo, mở rộng quan hệ kinh tế ra bên
ngoài có lợi cho việc tiếp nhận kỹ thuật mới tiên tiến, làm cho năng suất lao động tăng lên.
Mặt khác ở những quốc gia này việc thiếu vốn trở nên trầm trọng, mở rộng quan hệ kinh tế
tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư để thực hiện cải cách kinh tế, nâng cao mức sống và thu
nhập cho người dân. Hơn nữa thị trường của các quốc gia này thường nhỏ hẹp, không đủ
đảm bảo để phát triển công nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt, do đó không tạo
được việc làm cho lao động tai chỗ, không giải quyết được tình trạng thất nghiệp...
Nắm bắt được vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối
với từng quốc gia. Việt Nam – Hàn Quốc đã cùng nhau quên đi hận thù xưa, bình thường
hóa quan hệ nhằm đẩy mạnh kinh tế của hai quốc gia phát triển ổn định và bền vững.
2.1.2. Tiềm năng hợp tác từ phía Việt Nam
Cùng nằm trong khu vực Đông Á, cả Việt Nam và Hàn Quốc đều chịu ảnh hưởng
của văn hóa Trung Hoa, cả hai dân tộc đều có những nét tương đồng vể lịch sử văn hóa.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, cả hai quốc gia đều đi lên từ sự nghèo khó và sự tàn phá của
chiến tranh. Những nét tương đồng này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác và phát
triển kinh tế giữa hai quốc gia. Tuy nhiên những tiềm năng thúc đẩy sự phát triển quan hệ
kinh tế của mỗi bên khác nhau.
Theo các chuyên gia nghiên cứu về kinh tế từ phía Hàn Quốc, Việt Nam có ba lợi thế
lớn trong hợp tác kinh tế quốc tế. [6, 6]
Thứ nhất về chính trị. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được
đánh giá là quốc gia có sự ồn định về chính trị cao. Đây là cơ sở quan trọng cho Việt Nam
tiếp tục đổi mới kinh tế. Đồng thời đây cũng là cơ sở để Việt Nam tiếp tục chính sách hội
nhập quốc tế sâu rộng hơn. Không thể có hoạt động kinh doanh, buôn bán bình thường tại
một quốc gia bất ổn về chính trị, bạo loạn, đảo chính...Trường hợp Thái Lan là một ví dụ
điển hình: tình hình chính trị luôn bất ổn, phe áo đỏ và phe áo vàng biểu tình ủng hộ các phe
phái đảo chính khác nhau trong mấy năm vừa qua đã làm bất an với các nhà đầu tư quốc tế
tại đây.
Thứ hai là lợi thế về kinh tế. Với 87 triệu dân, được xếp vào hàng những quốc gia có
dân số trẻ trên thế giới với 60 % dân số có độ tuổi dưới 30. Điều này cho thấy có hai khía
cạnh mà giới kinh doanh khai thác. Đó là khả năng cung ứng lao động rất lớn và quy mô thị
trường rộng mở. Nếu so sánh trong khu vực,Việt Nam là quốc gia có dân số xếp thứ 3 trong
các nước Asean. Cung lao động được thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Việt Nam có
khả năng cung ứng lao động phổ thông và lao động có kỹ thuật cao. Cho dù giáo dục còn
nhiều vấn đề phải bàn song một đội ngũ khá đông đảo các lao động có kỹ thuật được đào tạo,
nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, có khả năng đáp ứng được nhu cầu lao động có
kỹ năng của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. [6, 6]
Thứ ba là lợi thế về quan hệ quốc tế. Đây cũng là một yếu tố được phía Hàn Quốc
đánh giá cao. Việc khai thác thiết lập cơ chế quan hệ với các đối tác lớn tạo cơ hội cho Việt
Nam gia tăng vị thế trong các quan hệ quốc tế. Ký Hiệp định song phương với Mỹ (2001),
thành viên WTO (2006) và thành viên tích cực của các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế
(ASEAN, APEC, UN và diễn đàn hợp tác Đông Á...) là một minh chứng rõ ràng .
Bên cạnh ba lợi thế trên, Việt Nam còn là quốc gia giàu có về tài nguyên, vị trí địa lý
thuận lợi.. Đây là điều được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm trong đó có Hàn Quốc.
Vị trí địa lý của Việt Nam thuận lợi để trở thành trung tâm giao nhận vận tải biển
quốc tế. Nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước Liên Xô cũ, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc sang các nước Nam Á, Trung Đông và Châu Phi. Ven biển Việt
Nam, nhất là từ Phan Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu, khí hậu tốt, ít gặp bão, sương
mù.. điều này cho phép tàu bè nước ngoài có thể thực hiện chuyển tải hàng hóa, sửa chữa,
tiếp nhiên liệu anh toàn quanh năm [53, 514]
Nằm trên trục lộ đường bộ và đường sắt từ Châu Âu sang Trung Quốc qua
Campuchia, Lào, Thái Lan, Mianma, Pakistan, Ấn Độ...Đặc biệt con đường bộ xuyên Á
được đưa vào sử dụng năm 2003, đã thúc đẩy sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế toàn
diện với các nước trong khu vực [53, 515]
Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú như: Đất đai, khoáng sản... Về đất đai
diện tích cả nước chiếm khoảng 330.363 km² trong đó có 50% đất dùng vào nông nghiệp và
ngư nghiệp. Khí hậu nhiệt đới mưa nắng điều hòa cho phép Việt Nam phát triển nông lâm
sản xuất khẩu có hiệu quả kinh tế cao như: gạo, cao su và các nông sản nhiệt đới. Việt Nam
có bờ biển dài 3.260 km, với trên 1 triệu lãnh hải ( gấp 3 lần diện tích đất liền), thuận tiên
cho việc phát triển vận tải biển và du lịch [53, 515]
Về tài nguyên biển, theo nghiên cứu của TS Nguyễn Tác An – chủ tịch Ủy ban quốc
gia về hải dương học Việt Nam: “ Việt Nam mới chỉ khai thác giá trị vận tải biển, ít khai
thác chức năng của biển”. Việt Nam mới chỉ khai thác thủy sản từ biển bằng 1/7 của Hàn
Quốc, 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản [53, 516]
Như vậy, tiềm năng khai thác thủy sản từ biển nói riêng ngành kinh tế biển nói
chung còn rất lớn. Quan trọng phải thay đổi tư duy đúng, có chiến lược quy hoạch đầu tư
vốn, kho học kỹ thuật và con người cho nguồn tài nguyên này.
Ngoài tài nguyên biển, khoáng sản cũng là một nguồn tài nguyên quý của Việt Nam.
Dầu khí có trữ lượng lớn, cho phép đạt 35-38 triệu tấn / năm, trên 2800 tỷ m³ trữ lượng khí
đốt. Việt Nam đứng 31 trên thế giới về trữ lượng dầu khí. Dầu khí đóng góp 20% GDP của
cả nước, là ngành hàng đầu mang lại kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam.[53, 516]
Tóm lại Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển các lĩnh vực
quan hệ kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế với Hàn Quốc giúp Việt Nam đẩy mạnh khai thác
tốt tiềm năng này, góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển bền vững hơn.
2.1.3. Tiềm năng hợp tác từ phía Hàn Quốc
Thứ nhất. Hàn Quốc được thừa nhận là một quốc gia có kinh nghiệm phát triển độc
đáo. Từ một quốc gia nghèo với GDP/người năm 1960 là 90 đô la, đến năm 2008 đạt tới
19.505 đô la, Hàn Quốc đã trở thành nước có trình độ phát triển cao trên thế giới. [6, 6] Với
chính sách công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu và tập trung phát triển các ngành công
nghiệp nặng, chỉ sau 5 thập kỷ, Hàn Quốc đã trở thành nền kinh tế thứ 10 trên thế giới. Từ
một nước thuộc địa, trải qua chiến tranh và nghèo nàn nhưng với quyết tâm chính trị cao của
giới lãnh đạo và sự cần cù của nhân dân, Hàn Quốc đã thay đổi.
Thứ hai. Các doanh nghiệp toàn cầu và có quy mô thị trường rộng lớn. Theo thống
kê của tạp chí Fortune ( tạp chí hàng đầu của Mỹ chuyên về thông tin kinh tế, thị trường, thị
trường chứng khoán..) có 13 công ty của Hàn Quốc có tên trong danh sách 500 công ty lớn
nhất thế giới. Có tới 127 loại sản phẩm được xếp loại tốt nhất thế giới, nhờ đó thương hiệu
của Hàn Quốc được thừa nhận rộng rãi trên thị trường thế giới. Hàn Quốc là thị trường lớn
thứ tư ở châu Á, sau Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. [6, 6] Cho đến năm 2009, Hàn Quốc đã
ký Hiệp định thương mại tự do với 44 quốc gia, nhờ đó hàng hóa của Hàn Quốc và các đối
tác có cơ hội thâm nhập trường của nhau mà không bị ngăn cản bởi hàng rào thuế quan.
Tiềm lực thứ ba từ phía Quốc là ý chí hợp tác mạnh mẽ của giới lãnh đạo Hàn Quốc.
Các nhà phân tích kinh tế cho rằng Hán Quốc đã thành công trong phát triển kinh tế một
phần rất lớn là nhờ quyết tâm chính trị cao của giới lãnh đạo trong việc khai thác và mở
rộng các quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh gia tăng hợp tác liên kết Đông Nam Á hiện nay,
chính phủ Hàn Quốc đang thực hiện một chính sách tích cực và qua đó họ muốn nâng cao vị
thế quốc tế của Hàn Quốc. Việc ký kết Hiệp định Hiệp định thương mại tự do Hàn Quốc với
Asean là một minh chứng. Trên một góc độ nào đó có thể thấy Hàn Quốc đang ngày càng
muốn chứng minh thương hiệu của mình đến các nước trong khu vực, để từ đó từng bước
nắm bắt cơ hội kinh doanh, quảng bá hình ảnh đất nước ...
Như vậy cả hai quốc gia đều có những tiềm năng hẫp dẫn, thu hút vốn đầu tư của
nhau. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế phát triển chậm, xếp vào những quốc gia
nghèo trên thế giới. Tuy nhiên những năm trở lại đây, với sự bùng nổ về kinh tế, khả năng
tiêu dùng nội địa tăng, nguồn nhân công giá rẻ, chính trị xã hội ổn định, là những lý do hấp
dẫn, thu hút vốn đầu tư ngày càng lớn từ phía Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Ngược lại, Hàn Quốc là quốc gia có nền kinh tế phát triển, có nhiều kinh nghiệm trong
phát triển kinh tế, văn hóa đếu có những nét tương đồng với văn hóa Việt Nam, đây chính là
động lực thúc đẩy cho mối quan hệ Việt - Hàn ngày càng phát triển mạnh hơn, đặc biệt ở
lĩnh vực thương mại, cả hai quốc gia đã thu được nhiều thành tựu quan trọng sau 18 năm
đặt quan hệ ngoại giao chính thức ( 1992-2010).
2.2. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc (1992-2010)
2.2.1. Khái quát chung quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc trước khi hai
nước chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1983 - 1992)
Sau chiến tranh thế giới thứ II, trong vòng xoáy của cuộc chiến tranh lạnh giữa các
nước Đông Tây, quan hệ Việt – Hàn đã bị gián đoạn trong một thời gian dài. Thời kỳ trước
1975, Hàn Quốc có quan hệ ngoại giao, kinh tế quân sự với chính quyền Sài Gòn, đưa quân
sang Việt Nam tham gia chiến tranh xâm lược của Mỹ, gây nhiều tội ác với nhân dân Việt
Nam. Từ 1975 - 1982 Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ buôn bán tư nhân qua
trung gian, từ năm 1983 mới bắt đầu có quan hệ buôn bán trực tiếp. [43, 35]
Trong giai đoạn 1982-1992 các hoạt động thương mại và đầu tư giữa hai nước không
đáng kể. ( xem bảng 2.1, tr 47). Hàn Quốc đã xuất sang Việt Nam một số mặt hàng như
phân bón, tivi, ximăng, hàng dệt may, trong khi lại nhập của Việt Nam than, gỗ và sắt phế
liệu. Hoạt động đầu tư của các công ty Hàn Quốc tại Việt Nam giai đoạn này mới chỉ dừng
lại ở khâu nghiên cứu thị trường. Các tập đoàn lớn của Hàn Quốc như Samsung, Deawoo,
Hyundai chỉ mở văn phòng đại diện. Nhiều công ty của Hàn Quốc có quan hệ thương mại
với Việt Nam nhưng có rất ít công ty đầu tư vào Việt Nam.
Bảng 2.1: Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam –Hàn Quốc (1983-
1992)
Đơn vị: triệu USD, %
Năm Cán cân thương mại Nhập khẩu Xuất khẩu
Tăng/giảm
Kim ngạch 22.809 31.809 26.688 61.217 54.629 75.732 86.770 150.205 240.102 493.515 Tăng / giảm - 39,5 -16,1 129,4 -10,8 38,6 14,6 73,1 59,8 105,5 43,4 Kim ngạch 12.544 24.039 15.55 34.850 38.545 61.881 44.891 116.825 198.948 436.182 Tăng/giảm Kim ngạch 10.265 7.770 11.633 26.367 16.084 13.851 41.879 33.380 41.154 57.333 - 91,6 -37,4 131,5 10,6 60,5 -27,5 160,2 70,3 119,2 57,9 - -24,3 49,7 126,7 -39 -13,9 202,4 -20,3 23,3 39,3 34,4
1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 Trung bình năm
Nguồn: [ 34, 35]
Bảng 2.1 cho thấy: Tốc độ tăng trưởng trung bình của kim ngạch hai chiều giữa Việt
Nam và Hàn Quốc là 43,4 %, trong đó tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu trung bình
của Việt Nam từ Hàn Quốc tăng nhanh hơn xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc
( 57,9 % so với 34,4 %). Việt Nam ở thế bi nhập siêu. Mức nhập siêu luôn tăng từ 2,3 triệu
USD năm 1983 lên 48 triệu USD năm 1988 và 378,8 triệu USD năm 1992. Tuy nhiên, cần
ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu trung bình năm của Việt Nam sang thị trường Hàn
Quốc giai đọan 1983-1992 không phải là nhỏ. Số liệu thống kê trong Niên giám Thống kê
Việt Nam, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài giai đoạn trên chỉ đạt
17,7 % [14, 3]. Như vậy với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gấp đôi mức trung bình, xuất
khẩu sang Hàn Quốc tuy kim ngạch không lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng là rất ngoạn mục.
Nó tạo đà cho sự phát triển quan hệ song phương trong giai đoạn sau khi hai nước chính
thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào cuối năm 1992.
Ngày 22/12/1992 Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm đã cùng Bộ
trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Lee Sang Ok kí tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao
cấp đại sứ, mở đầu một chương mới cho quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc. Từ đây hai nước
thực hiện tiến trình bình thường hoá quan hệ, quyết định phát triển hợp tác hữu nghị hướng
tới tương lai. Hai nước đã thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao và các cấp các ngành,
qua đó giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tạo ra những mốc phát triển mới cho quan hệ
hợp tác song phương và tăng cường sự phối hợp, ủng hộ lẫn nhau trên trường quốc tế. Kể từ
khi thiết lập quan hệ chính thức đến nay, chính phủ hai nước đã kí nhiều Hiệp định quan
trọng. ( xem bảng 1.3, tr 38)
Bên cạnh đó, để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác, chính phủ hai nước còn thành
lập các cơ quan như Uỷ ban hợp tác liên chính phủ, Uỷ ban hợp tác khoa học - kỹ thuật…và
đặc biệt là cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư với nhiệm vụ nghiên cứu, thu thập, phổ
biến thông tin thương mại; trợ giúp các đoàn doanh nghiệp sang thăm, tìm hiểu thị trường,
tổ chức hội chợ triển lãm…
Có thể nói trong 18 năm qua quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã phát triển mạnh cả về
chiều rộng và chiều sâu. Điều này được cụ thể hoá qua từng lĩnh vực mà hai nước đã hợp
tác đặc biệt là các lĩnh vực thương mại, đầu tư và xuất khẩu lao động. Những phân tích dưới
đây về hợp tác hai nước trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư...giai đoạn 1992-2010 sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc.
2.2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc ( 1992-2010 )
Kim ngạch xuất nhập khẩu (còn được gọi là cán cân xuất nhập khẩu) là quan hệ so
sánh giá trị giữa hàng xuất khẩu (còn gọi là kim ngạch xuất khẩu) với giá trị hàng nhập
khẩu ( còn được gọi là kim ngạch nhập khẩu). Nếu giá trị hàng xuất khẩu lớn hơn nhập
khẩu thì gọi là xuất siêu. Nếu giá trị hàng nhập khẩu lớn hơn hàng xuất khẩu thì gọi là nhập
siêu. [61, 155]
2.2.2.1. Kim ngạch thương mai hai chiều giai đoạn 1992-2003
Trong giai đoạn (1992-2003) quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn quốc phát triển
nhanh chóng. Kim ngạch buôn bán hai chiều luôn đạt mức tăng trưởng ổn định, trong
khoảng từ 10 - 15%/ năm. ( xem bảng 2.2, tr 50)
Kim ngạch hai chiều Việt Nam - Hàn Quốc liên tục tăng, đặc biệt là trong những
năm đầu thiết lập quan hệ 1992, 1993, tổng kim ngạch có tốc độ tăng trưởng lớn nhất trung
bình khoảng 80%.( xem bảng 2.2, tr 50) Các năm tiếp sau từ 1993 đến 1995 kim ngạch buôn
bán đều tăng với tốc độ tăng khoảng trên 30% do sự tăng trưởng kinh tế và nhu cầu nhập
khẩu lớn của Việt Nam. Một nhân tố khác cũng góp phần làm tăng tổng kim ngạch hai chiều
là sự chuyển đổi bạn hàng của Việt Nam từ các nước XHCN sang các nước trong khu vực
trong đó có Hàn Quốc. Có thể nói những thành tựu bước đầu đó trong quan hệ thương mại
giữa hai nước là rất đáng khích lệ.
Bảng 2. 2: Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam –Hàn Quốc (1992- 2003)
Đơn vị: triệu USD
Năm Kim ngạch Kim ngạch Tổng kim Việt Nam
xuất khẩu nhập khẩu ngạch XNK nhập siêu
57 (39,0)* 436(20,2) 493(106,3) 379 1992
90(57,9) 728(66,9) 818(65,9) 638 1993
114(26,6) 1027(41,1) 1141(39,5) 923 1994
194(70,2) 1351(31,5) 1545(35,4) 1157 1995
216(11,3) 1450(7,3) 1666(7,8) 1234 1996
238(10,2) 1603(10,5) 1843(10,6) 1365 1997
230(-3,7) 1422(-11,9) 1652(-10,4) 1192 1998
319(38,7) 1440(1,3) 1759(6,5) 1121 1999
352(10,3) 1730(20,1) 2082(18,4) 1378 2000
406(15,3) 1894(9,5) 2300(10,5) 1488 2001
466(14,8) 2285(20,6) 2751(19,6) 1819 2002
492(5,8) 2624(14,8) 3116(13,3) 2132 2003
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam (http://www.customs.gov.vn)
Ghi chú: * Số trong ngoặc là tốc độ tăng, giảm so với năm trước.
Năm 1997, khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã làm cho kim ngạch thương mại
hai chiều Việt – Hàn bị chững lại, tăng trưởng chỉ đạt 10,6%, thậm chí năm 1998 tốc độ
này còn giảm mạnh tới mức -10,4 %. Đây là thời kì khó khăn không chỉ đối với riêng Việt
Nam và Hàn Quốc mà còn đối với cả khu vực Châu Á.
Nhưng những nỗ lực khắc phục của các quốc gia chịu ảnh hưởng của khủng hoảng
trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc đã góp phần cải thiện tình hình. Chỉ hai năm sau khủng
hoảng, năm 1999 kim ngạch thương mại giữa hai nước đã bắt đầu nhích dần lên và liên tục
tăng. Năm 2000 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 2.082 triệu USD, năm 2001 đạt 2.300
triệu USD và năm 2002 đạt 2.751 tỉ USD. Đến năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, Hàn Quốc đứng
thứ sáu trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ ngoại thương lớn nhất của Việt
Nam, sau Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan và Mỹ. [41, 153]
Những phân tích cụ thể về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam - Hàn
Quốc cho thấy những đánh giá chính xác hơn về quan hệ thương mại giữa hai nước. Kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc liên tục tăng trong giai đoạn 1992 - 2003,
ngoại trừ năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Năm
2003 so với năm 1992 xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã tăng gấp 8,6 lần. Tổng
kim ngạch hai nước đã tăng lên 6,3 lần (tổng kim ngạch năm 2003 so với năm 1992)
2.2.2.2. Kim ngạch thương mại giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2010
Số liệu thống kê của Tổng cục thống kê (xem bảng 2.3, tr 51), trong giai đoạn (2004
– 2007), kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước lần lượt là 3,96; 4,27; 4,75 và
6,58 tỷ USD. Năm 2008 kim ngạch song phương giữa hai nước tăng mạnh lên mức 8,85 tỷ
USD bất chấp những khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Năm 2009, kim ngạch
thương mại hai nước đạt 9 tỷ USD. Năm 2010 tổng kim ngạch xuất hai chiều trên 12 tỷ
USD, vượt mức năm 2008 cả về xuất khẩu và nhập khẩu.
Bảng 2. 3: Kim ngạch thương mại Việt Nam- Hàn Quốc(2004-2010)
Đơn vị: triệu USD
Năm Kim ngạch Kim ngạch nhập Tổng kim ngạch
xuất khẩu khẩu XNK
608,1 3359,4 3967,5 2004
663,6 3594,1 4257,7 2005
842,9 3908,4 4751,3 2006
124,.4 5340,4 6583,8 2007
1874,4 7066,3 8850,7 2008
2064, 5 6976,4 9040,9 2009
3092,2 9761,3 12853,6 2010
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam (http:// www.gso.gov.vn)
Năm 2005, Hàn Quốc trở thành đối tác trao đổi thương mại lớn thứ 6 của việt Nam
sau Trung Quốc (20,2 tỉ USD), Nhật Bản (16,8 tỉ USD), Mỹ (14,5 tỉ USD), Singapo (12,1 tỉ
USD), Đài Loan (9,8 tỉ USD). Năm 2009, Hàn Quốc là bạn hàng lớn thứ 4 của Việt Nam
với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 9 tỉ USD. [42]
2.2.3. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc (1992-2010)
2.2.3.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 1992-2003
Trong giai đoạn đầu khi hai nước đặt quan hệ ngoại giao, hàng xuất khẩu của chủ yếu
của Việt Nam sang Hàn Quốc là các mặt hàng dệt và các loại nguyên liệu thô như nông sản,
khoáng sản, dầu thô.....Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc được chia
thành 6 nhóm:
1. Hàng dệt may
2. Hàng nông lâm, thủy sản
3. Các mặt hàng giày dép, thủ công mỹ nghệ, văn phòng phẩm
4. Hàng điện và điện tử
5. Dầu thô và khoảng sản
6. Các sản phẩm hóa chất [39, 58 ]
Trong giai đoạn 1992-2003, cơ cấu hàng hóa xuât khẩu của Việt Nam sang Hàn
Quốc có những chuyển biến tích cực. Năm 1993, nhóm hàng nguyên liệu thô và nhiên liệu
chiếm 35,26% kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu bao gồm than, cao su, một số loại gỗ, cát
thạch anh, sợi dệt và các nguyên liệu thực vật khác. [34, 38] Trong năm 1993, mặt hàng
thủy sản chỉ chiếm 9,39% kim ngạch xuất khẩu. Nhóm hàng chế tạo được phân loại dựa trên
nguyên liệu chiếm 24,59 % và nhóm các mặt hàng chế tạo khác chiếm 16,68 %. Trong
những nhóm mặt hàng này, có kim ngạch đáng kể là hàng dệt may, thiếc, sàn phẩm gỗ và
một số hàng đan lát như rổ rá chiếu ...[34, 38] Như vậy qua cơ cấu hàng hóa của Việt Nam
xuất khẩu sang Hàn Quốc năm 1993, Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là
nguyên liệu thô và sơ chế.
Trong những năm 1992- 1997 xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng nhanh,
từ 57 triệu USD đến 493 triệu USD, tăng 8,6 lần.( xem bảng 2.2, tr 50) Năm 1997, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang tất cả các thị trường năm 1976 ( với 222,7 triệu rúp- USD ) [41, 152]. Riêng
năm 1998, do Hàn Quốc bị ảnh hưởng nặng nề của của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực, tổng kim ngạch của Hàn Quốc giảm 35,5 %, từ 144,6 tỷ USD (1997) xuống còn
230 triệu USD năm 1998. Vì vậy nhập khẩu của Hàn Quốc từ Việt Nam cũng giảm 3,7 % từ
238 triệu USD năm 1997 xuống còn 230 triệu USD năm 1998, nhưng từ 1999 đến năm
2003, xuất khẩu Hàn Quốc tăng với tốc độ cao và đạt mức 491 triệu USD năm 2003.[41,
152]
Trong những năm 1997-2003, Hàn Quốc đã trở thành một trong mười thị trường xuất
khẩu lớn của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng nhanh, xét
về tỷ trọng, Hàn Quốc thường chiếm khoảng 2,6 % đến 2,8 % trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. [41, 153] (xem bảng 2.4, tr 53)
Bảng 2.4: Mười thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (1997-2001)
Đơn vị: Triệu USD,%
Năm 1997 Năm 1999 Năm 2001
Tỷ trọng
Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch
1.675 18,2 1.786 15,5 16,7 2.510 Nhật Bản
474 5,2 746 7,1 1.420 9,4 Trung Quốc
291 3,2 504 4,4 1.070 7,1 Mỹ
230 2,5 815 7,1 1.041 6,9 Úc
1.215 13,2 876 7,4 1.000 6,7 Singapo
814 8,9 682 5,9 810 5,4 Đài Loan
411 4,5 654 5,7 720 4,8 Đức
265 2,9 421 3,6 510 3,4 Anh
238 2,6 355 3,1 470 3,1 Pháp
238 2,6 319 2,8 406 2,7 Hàn Quốc
9.185 100 11.541 100 15.027 100 kim
Tổng ngạch
Nguồn: [ 41, 153]
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong ba năm (2001-
2003), các mặt hàng nông, lâm thủy sản nói chung ( gồm hải sản, cà phê, rau quả, cao su,
sản phẩm gỗ) là những mặt hàng đứng đầu danh sách, với tỷ trọng chiếm đến 40 % trong
kinh ngạch xuất khẩu. Trong đó hải sản luôn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất, và có xu
hướng tăng tương đối ổn định, từ 110,04 triệu USD năm 2001 lên 127,95 triệu USD năm
2003, tỷ trọng chiếm khoảng 25 % đến 27%. Mặt hàng cao su cũng tăng cả về lượng và tỷ
trọng, từ 9,98 triệu USD, chiếm 2,5 % năm 2001 lên 21,34 triệu USD, chiếm 4,3 % năm
2003 (xem bảng 2.5, tr 54)
Bảng 2.5: Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc(2001-2003)
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng 2001 2002 2003 Tỷ trọng năm
2003 %
110 045,6 116 597,8 127 953,3 26 Hải sản
104 053,7 92 592,7 67 472,3 13,7 Hàng dệt may
17 986,1 24 810,7 24 360,7 4,9 Sản phẩm gỗ
12 498,3 11 635,4 - - Dầu thô
9 001,5 13 247,9 20 476,9 4,2 Giầy dép các loại
9 982,3 14 120,0 21 336,6 4,3 Cao su
12 034,6 11 637,7 9 968,8 2,0 Hàng thủ công mỹ
nghệ
6 567,2 11 703,2 23 176,9 4,7 Cà phê
20 194,3 8 436,9 9660 1,9 Hàng rau quả
4 030,1 2 367,2 3 364,1 0,6 Dây điện và cáp
dây điện
2 787,9 4 392,7 8 348,3 1,6 Sản phẩm nhựa
857,9 10 739,5 17 530,0 3,6 Than đá
406 081,9 466 009,0 492 250,4 100 Tổng kim ngạch
xuất khẩu
Nguồn: Bộ công thương Việt Nam: (http://www.moit.gov.vn)
Bảng 2.5 cho thấy: một số mặt hàng nông sản xuất khẩu sang Hàn Quốc lại biến
động thất thường. Hàng rau quả xuất khẩu sang Hàn Quốc năm 2001 đạt 20,19 triệu USD
( là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ ba) đến năm 2002 chỉ đạt 8,43 triệu USD, giảm 58,2 %, đến
năm 2003 tuy đã đạt được 9,66 triệu USD, tăng 14,5 % nhưng vẫn là mặt hàng đứng thứ 9
trong 11 mặt hàng chính xuất khẩu sang Hàn Quốc. Mặt hàng cà phê tăng liên tục từ 6,56
triệu USD năm 2001 lên 11,7 triệu USD năm 2001, tăng 78 % và đạt 23,17 triệu USD năm
2003, tăng 98 %. Tuy nhiên nếu nhìn lại năm 1995, mặt hàng cà phê xuất sang Hàn Quốc
đã từng đạt tới 33,14 triệu USD. [41, 155] Hàng dệt may chiếm tỷ trọng lớn thứ hai sau
thủy sản. Đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên cũng trong thời
gian từ năm 2001-2003, xuất khẩu hàng dệt may sang Hàn Quốc có chiều hướng giảm
xuống cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng, năm 2001 đạt 104,05 triệu USD, chiếm 25,6 %;
năm 2002 đạt 92,59 triệu USD, chiếm 20 %; năm 2003 đạt 67,47 triệu USD, chiếm 13,7%.
Mặt hàng khoáng sản Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc là than và dầu thô. Trong
ba năm 2001-2003, xuất khẩu than tăng từ 857,9 nghìn USD năm 2001 lên 17, 53 triệu USD
năm 2003 chiếm 3,6 %. Xuất khẩu dầu thô giảm từ 12,4 triệu USD năm 2001 xuống 11,63
triệu USD năm 2002, năm 2003 không xuất khẩu dầu thô vào thị trường này. Dầu thô là mặt
hàng xuất khẩu số một của Việt Nam, năm 2002 đạt 16,879 nghìn tấn, năm 2003 đạt 17,169
nghìn tấn. [41, 155]
Bên cạnh các mặt hàng dầu thô, hải sản, giầy dép cũng là mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu lớn và tăng đáng kể. Từ hơn 9 triệu USD năm 2001 tăng lên 13, 247 triệu USD
năm 2002 và 20, 476 triệu USD năm 2003. ( xem bảng 2.5 tr 54)
Từ những số liệu trên, có thể thấy: hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Hàn Quốc có xu hướng tăng, nhưng vẫn còn biến động thất thường, ngay cả những mặt
hàng Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế so sánh với Hàn Quốc, và những mặt hàng
Việt Nam vẫn tăng xuất khẩu nhưng lại giảm trên thị trường Hàn Quốc. Để giải quyết sự
biến động thất thường trong cán cân xuất nhập khẩu giữa hai nước trong tương lai chính phủ
hai quốc gia cần đưa ra những chiến lược phát triển toàn diện để xóa đi sự chênh lệch trên.
2.2.3.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 2004- 2010
Trong giai đoạn 2004- 2010 hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc
vẫn là những mặt hàng mang tình truyền thống như: hải sản, cao su, nhiên liệu đốt, dệt may,
máy móc vận tải, sản phẩm hóa dầu, thép...(xem bảng 2.6, tr 56)
Bảng 2.6 : Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (2004-2010)
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm Các sản phẩm hóa chất Cao su Chất dẻo nguyên liệu Dây điện và dây cáp điện Dầu thô
Gỗ và sản phẩm gỗ Giầy dép các loại Hàng dệt may
Hàng rau quả Hải sản Hạt tiêu Quặng và khoáng sản khác Sản phẩm gốm sứ Sản phẩm mây, tre, cói & thảm Sản phẩm từ cao su Sản phẩm từ chất dẻo Sản phẩm từ sắt thép Sắn và các sản phẩm từ sắn Sắt thép các loại Than đá Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh Túi xách, ví, vaili, mũ & ô dù Xăng dầu các loại
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: (http://www.gso.gov.vn)
Bảng 2.7 : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc(2004-2010)
Đơn vị: triệu USD
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Kim ngạch xuất khẩu 608,1 663,6 842,9 1243,4 1874,4 2064,5 3092,2
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: (http:// www.gso.gov.vn)
Số liệu thống kê (xem bảng 2.7 tr 57) của Tổng cục thống kê qua các năm 2004-2010
cho thấy: kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng nhanh. Năm 2004, kim
ngạch xuất khẩu đạt 608,1 triệu USD, năm 2005 là 663,1 triệu USD đến năm 2010 kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh đạt 3092,2 triệu USD tăng 5,1 lần so với năm
2004. Trong giai đoạn này Việt Nam tiếp tục xuất khẩu sang Hàn Quốc các mặt hàng được
coi là truyền thống của Việt Nam nhự: dầu thô, hải sản, gỗ, dệt may, than đá, dệt may...
Năm 2007 dệt may xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc chiếm 82,55 triệu USD, năm 2010
chiếm tỷ trọng cao là 431, 6 triệu USD, đứng thứ hai sau mặt hàng dầu thô là 556,1 triệu
USD. (xem bảng 2.8) Trong tương lai Việt Nam cần phát huy thế mạnh đối với mặt hàng
này.
Bảng 2.8 : Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn
Quốc giai đoạn 2007-2010
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng 2007 2009 2010
556.121 92.450 431.634 76.364
Dầu thô Giầy dép các loại Hàng dệt may Máy vi tính và linh kiện Sản phẩm gốm sứ Hải sản Than đá 11.430 50.514 82.550 44.202 11.607 274.69 39.801 16.910 95.130 61.819 59.778 9.43 8.84 14.724 11.299 388.65 139.982
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam :( http://www.gso.gov.vn)
Qua bảng 2.8 cho thấy: Dầu thô cũng là mặt hàng chiếm kim ngạch cao trong xuất khẩu
của Việt Nam sang Hàn Quốc. Năm 2007 dầu thô đạt kim ngạch là 11,4 triệu USD, con số
này tăng nhanh theo các năm, năm 2010 đạt 556,1 triệu USD tăng 48,8 lần so với năm 2007.
Hải sản cũng là một trong thế mạnh của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc. Trong giai
đoạn 2007- 2010 kim ngạch xuất khẩu ngành nay luôn tăng, chỉ riêng năm 2009 kim ngạch
ngành này giảm xuống 8,44 triệu USD so với 274,69 triệu USD năm 2007. Tuy nhiên đến
năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của ngành này tăng trở lại đạt 388,65 triệu USD góp phần
đẩy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng lên
Ngoài các mặt hàng trên, giầy dép, đồ gỗ cao su, than đá, rau củ quả…cũng là mặt
hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu chưa
cao. Trong tương lai cần phát huy và khai thác tốt thị trường của Hàn Quốc, đẩy mạnh xuất
khẩu các mặt hàng này nhằm đưa kim ngạch xuất khẩu Việt Nam tăng lên nhằm giảm bớt
tình trạng nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc.
2.2.4. Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc (1992-2010)
2.2.4.1. Giai đoạn 1992-2003
Việt Nam chủ yếu nhập của Hàn Quốc các trang thiết bị và vật tư như máy móc, sắt
thép, chất dẻo, xăng dầu, phân bón, các nguyên phụ liệu cho ngành giầy dép, dệt may…
Đây đều là những hàng hoá phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và có giá trị cao. Dẫn đầu trong số các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là nguyên phụ
liệu dệt may da với giá trị nhập khẩu năm 2003 đạt 495,5 triệu USD, tăng 18,5 % so với
năm 2002. ( xem bảng 2.9, tr 59). Bên cạnh đó Việt Nam còn nhập khẩu một lượng lớn các
máy móc thiết bị phụ tùng và có kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm, năm 2002 so
với năm 2001 tăng 54,47%. Năm 2003 tuy tốc độ mặt hàng này có giảm đi so với năm trước
(-1,2 % ), nhưng xét về số lượng đạt 367, 8 triệu USD nên vẫn giữ vị trí thứ hai so với các
mặt hàng nhập khẩu ( xem bảng 2.9, tr 59). Các vật liệu khác như sắt thép, xăng dầu, chất
dẻo… cũng được Việt Nam nhập khẩu thường xuyên. Ngoài ra, Hàn Quốc còn xuất sang
Việt Nam các hàng cao cấp như: ôtô nguyên chiếc các loại, linh kiện điện tử và vi tính, xe
máy... Đáng lưu ý là giá trị nhập khẩu ôtô nguyên chiếc của Việt Nam khá cao, năm 2001 là
121,9 triệu USD, năm 2002 là 118, 6 triệu USD năm 2003 là 137,3 triệu USD, ( xem bảng
2.9) đứng thứ 4 trong số các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hàn Quốc. Đây là
một tín hiệu cho thấy mức sống của người dân Việt Nam từng bước được cải thiện và nâng
cao.
Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển hướng về xuất khẩu, nên phần lớn các sản
phẩm xuất khẩu của Hàn Quốc đều chiếm lĩnh thị trường Việt Nam khá dễ dàng. Với giá cả
và trình độ công nghệ khá phù hợp với nền kinh tế đang chuyển đổi của Việt Nam, các trang
thiết bị và hàng hoá của Hàn Quốc luôn là sự chọn lựa cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Bảng 2. 9 : Các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc (2001 -2003)
Đơn vị:1000 USD
Mặt hàng 2001 2002 2003
Giá trị Giá trị
Tăng giảm (%)
Tăng giảm (%) -0,67 421.134 418.320 495. 516 18,5
240.912 372.133 54,47 367.810 -1,2
116.430 121.948 121.864 118.688 4,76 -2,67 136.991 137.360 12,4 15,7
89.283 99.526 61.176 53.624 94.811 116.248 90.049 63.370 6,27 16,80 47,20 18,17 115.124 80.504 157.012 74.756 21,3 -30,7 74,4 17,9
Nguyên phụ liệu dệt may da Máy móc thiết bị phụ tùng Sắt thép Ô tô nguyên chiếc các loại Chất dẻo Xăng dầu Ô tô CKD,IKD * Linh kiện điện tử và vi tính Dược phẩm 34.050 41.389 21,56 44.717 8,0
Phân bón các loại 33.474 15.375 -54,1 11.519 -25,1
Xe máy CKD, IKD, * 32.596 35.315 8,34 2.790 -92,1
2.285.533 20,70 1.893.516 1.516.15 26,00
Tổng kim ngạch nhập khẩu Nguồn: Bộ công thương Việt Nam: http://www.moit.gov.vn
Ghi chú*: CKD(Completely Knock Down): nhập tất cả linh kiện về lắp ráp.
IKD( Incompletely Knocked Down): nhập một phần linh kiện, bộ phận về lắp ráp tại nhà
máy địa phương.
Bảng 2.9 cho thấy: Giai đoạn 2001-2003, những mặt hàng tiêu dùng Việt Nam nhập
khẩu từ Hàn Quốc chiếm một tỷ trọng nhỏ, chủ yếu là các sản phẩm ô tô, linh kiện điện tử,
dược phẩm,... Đây là một cơ cấu phù hợp trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn nghèo,
đang dốc sức cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Cùng với chính sách
thúc đẩy sản xuất thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu, một số mặt hàng đã có xu
hướng giảm rõ rệt. Điển hình là mặt hàng phân bón, năm 2002 giảm 54,1% so với năm
2001 từ 33, 4 triệu USD xuống còn 15, 3 triệu USD, năm 2003 giảm 25,1 % so với năm
2002. Kết quả này đạt được là nhờ những nỗ lực từng bước đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất
trong nước.
Như vậy trong giai đoạn 1992-2003 cơ cấu hàng xuất khẩu của Hàn Quốc vào Việt
Nam chủ yếu là mặt hàng có giá trị cao như: máy móc thiết bị, ô tô, sắt thép, nguyên
liệu....ngược lại trong giai đoạn này Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là nông
lâm thủy sản và nguyên liệu có giá trị thấp..đây là một trong những nguyên nhân khiến Việt
Nam luôn ở tình trạnh nhập siêu.
2.2.4.2. Giai đoạn 2004-2010
Trong giai đoạn từ năm 2004 – 2010, Hàn Quốc tiếp tục xuất khẩu vào Việt Nam
những mặt hàng có giá trị như: Ô tô nguyên chiếc các loại, đá quý, kim loại quý và sản
phẩm, chất dẻo nguyên liệu, dược phẩm, giấy các loại, hóa chất, linh kiện, phụ tùng ô tô,
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện điện tử...Trong thời gian này kim ngạch nhập
khẩu từ Hàn Quốc tăng mạnh năm 2010 đạt 9,7 tỷ USD ( xem bảng 2.10, tr 61). Năm 2010
được coi là năm kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc vào Việt Nam cao nhất trong suốt giai
đoạn Việt – Hàn ký kết quan hệ ngoại giao. Các mặt hàng nhập khẩu của Hàn Quốc vào
Việt Nam đều có giá trị kinh tế cao, tập trung chủ yếu vào đồ điện tử, sắt thép...
Bảng 2.10: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc(2004-2010)
Đơn vị: triệu USD
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Kim ngạch nhập khẩu 3359,4 3594,1 3908,4 5340,4 7066,3 6976,4 9761,3
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: (http:// www.gso.gov.vn)
Bảng 2.11: Một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc
(2007-2010)
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng 2007 2009 2010
115.090 318.466 Ô tô nguyên chiếc các loại
Linh kiện, phụ tùng ô tô
143.639 84.1529
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Nguyên phụ liệu dược phẩm Nguyên phụ liêu dệt may da giày 135.870 2.567 389.126 460.816 287.462 808.212 307.582 2.621 383.701 341.545 1.103.069 927.338 3.254 465.883
Nguồn: Tổng cục thống kế Việt Nam: ( http://www.gso.gov.vn)
Qua bảng 2.11 cho thấy: Trong những năm gần đây (2007- 2010), ô tô nguyên chiếc
từ Hàn Quốc đưa vào thị trường Việt Nam ngày càng tăng về số lượng, kim ngạch nhập
khẩu từ mặt hàng này tăng đều qua các năm: năm 2007 đạt 115,09 triệu USD, năm 2009 đạt
460,8 triệu USD, năm 2010 đạt 318,46 triệu USD thấp hơn so với năm 2009 tuy nhiên so
với các năm trước tỷ trọng vẫn cao hơn.
Máy móc, thiết bị đồ điện từ là mặt hàng chủ lực của Hàn Quốc xuất khẩu vào Việt
Nam trong giai đoạn 2004-2010, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng tăng mạnh qua các năm:
năm 2007 đạt 84,15 triệu USD, năm 2009 đạt 808,2 triệu USD, năm 2010 kim ngạch tăng
mạnh đạt 1,1 tỷ USD trong tương lai kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này sẽ tăng cao
hơn khi Việt Nam vẫn đang là một quốc gia nghèo, trình độ lao động kỹ thuật thấp, cần
nhập nhiều máy móc thiết bị điện tử để hỗ trợ cho sự phát triển công nghiệp...
Bên cạnh các mặt hàng máy móc thiết bị điện tử, dược phẩm, hóa chất, sản phẩm
giấy, nguyên phụ liệu dệt may giầy da, máy tính, linh kiện máy tính cũng được đưa vào Việt
Nam với số lượng lớn, giá trị kinh tế cao. Kim ngạch nhập khẩu của tất cả các mặt hàng này
luôn tăng đều theo các năm và dần trở thành những sản phẩm xuất hiện quen thuộc trên thị
trường Việt Nam..
2.3 . Đánh giá chung về thương mại Việt – Hàn giai đoạn 1992-2010
2.3.1. Mặt tích cực
Trong 18 năm thiết lập quan hệ bang giao, thương mại hai chiều Việt – Hàn tăng
nhanh góp phần quan trọng vào thành tựu chung của ngoại thương và kinh tế Việt Nam.
Trong điều kiện kiện còn là một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém,
Việt Nam coi mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại là chiến lược cơ bản để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường xuất khẩu để nhập khẩu máy móc kỹ thuật
hiện đại thay thế kỹ thuật lạc hậu hiện còn đang sử dụng phổ biến trong nhiều ngành kinh tế
ở Việt Nam. Hàn Quốc là một nước công nghiệp, việc thiết lập quan hệ hợp tác với Việt
Nam có thể tiếp thu những công nghệ tiên tiến và học tập phương thức quản lý mới của
Hàn Quốc.
Từ 1992 đến năm 2010, Hàn Quốc nhanh chóng trở thành đối tác thương mại lớn của
Việt Nam.Năm 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 12,8 tỷ USD so với 239 triệu USD năm
1992 tăng 50,2 lần. Đây là sự phát triển mạnh trong kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai
nước. Xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn quốc từ 1992 - 2010 luôn tăng, thể hiện rõ qua
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nươc luôn được đẩy lên cao, đây là dấu hiệu cho sự
phát triển bền vững tốt đẹp trong tương lai.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong giai đoạn từ năm 1992-
2010 chủ yếu là nông lâm hải sản và hàng công nghiệp dệt may, da giầy. Đây là những mặt
hàng chứa đựng nguồn lao động lớn. Trong khi nguồn lao động ở Việt Nam còn dư thừa và
phần lớn tồn đọng trong nông nghiệp nông thôn. Việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu
những mặt hàng này là cách tốt nhất để Việt Nam giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động.
Trong cán cân thương mại với Hàn Quốc, Việt Nam luôn ở tình trạng nhập siêu,
nhưng ở một khía cạnh nhất định, việc nhập khẩu từ Hàn Quốc mang tính tích cực. Việt
Nam vẫn là nước nông nghiệp, cơ sơ vật chất kỹ thuật còn yếu và thiếu, hiện đang trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên thiếu vốn và công nghệ tiên tiến. Hàn Quốc là
cường quốc về kinh tế và khoa học kỹ huật. Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Hàn
Quốc rất cần thiết cho việc phát triển mạnh các ngành sản xuất, phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng trong nước cũng như sản xuất hàng xuất khẩu. Ngược lại, Việt Nam có tài nguyên đa
dạng phong phú như: dầu khí, than đá, các hải sản quý và nông sản nhiệt đới....Mở rộng
quan hệ buôn bán với Việt Nam sẽ góp phần tăng thêm các nguồn hàng và làm phong phú
thêm thị trường hàng tiêu dùng, đem lại lợi ích cao hơn cho Hàn Quốc
2.3.2. Mặt hạn chế
Thứ nhất: Việt Nam nhập siêu quá lớn từ Hàn quốc:
Mất cân bằng trong cán cân thương mại là vấn đề hạn chế nhất trong quan hệ thương
mại về phía Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc có tốc độ cao và
tương đối ổn dịnh nhưng vẫn không giảm được mức nhập siêu. Trong giai đoạn 1992- 2003,
tốc độ nhập khẩu luôn cao hơn xuất khẩu. Năm 1994, nhập siêu gấp 8 lần so với kim nghạch
xuất khẩu, năm 1999 mức nhập siêu thấp nhất trong giai đoạn (1998-2003) thì con số cũng ở
mức 3,5 lần. (xem bảng 2.12, tr 64). Năm 2003 nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc lên tới
2,13 tỷ USD, tăng 20,1 % so với năm 2002 và gấp 4,3 lần kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Hàn Quốc. So với mức nhập siêu chung của Việt Nam là 5,11 tỷ USD, nhập siêu
từ Hàn Quốc chiếm tới 41,5 %, Hàn Quốc là nước có mức nhập siêu lớn nhất của Việt Nam.
[41, 165]
Bảng 2.12 : Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc (1998-2003)
Đơn vị: Triệu USD, %
2001 406 1894 1488 366 2002 466 2285 1819 390 1998 230 1422 1192 518 2000 352 1730 1378 391 2003 492 2624 2132 433 Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu %
1999 319 1140 1121 351 Nguồn: Thống kê Hải quan Việt Nam (http://www.customs.gov.vn)
Bảng 2.13 : Nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc (2004-2010)
Đơn vị: Triệu USD, %
Năm xuất khẩu nhập khẩu Nhập siêu
3359,4 3594,1 3908,4 5340,4 7066,3 6.976,4 9.761,3 2751,3 2930,5 3065,5 5216 5191,9 4911,9 6669,1 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
608,1 663,6 842,9 124,.4 1874,4 2.064, 5 3.092,2 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam (http:// www.gso.gov.vn)
Trong giai đoạn 2004-2010, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hàn quốc tăng
nhanh, tuy nhiên nhập khẩu từ Hàn Quốc vào Việt Nam luôn cao hơn so mới xuất khẩu từ
Việt Nam vào Hàn Quốc. Việt Nam vẫn ở vào tình trạng nhập siêu.
Nhập siêu lớn từ Hàn Quốc góp phần làm nặng nề thêm tình hình nhập siêu của
ngoại thương Việt Nam. Điều đó đã hạn chế sự đóng góp của ngoại thương vào tăng trưởng
kinh tế Việt Nam. Đây là xu hướng không tốt của ngoại thương Việt Nam, mà trong đó có
phần không nhỏ do nhập siêu lớn từ Hàn Quốc.
Tình hình nhập siêu lớn từ Hàn Quốc là do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của hai nước
có sự khác biệt. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là nông lâm thủy sản và
hàng thô sơ có giá trị thấp, trong khi đó hàng xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam chủ
yếu là máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu, hàng tiêu dùng cao cấp như ô tô, hàng điện tử có
giá trị cao...
Thứ hai: kim ngạch thương mại của Việt Nam trong tổng kim ngạch ngoại
thương của Hàn Quốc quá nhỏ bé:
Các đối tác truyền thống của Hàn Quốc là Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông, gần đây là
Trung Quốc. Lấy số liệu 8 tháng đầu năm 2004 để xem xét, các nước và vùng lãnh thổ nhập
khẩu lớn nhất vào Hàn Quốc là Nhật Bản 30,43 tỷ USD, Mỹ 18,73 tỷ USD, Trung Quốc
18,34 tỷ USD, Đức 5,5 tỷ USD, Đài Loan 4,85 tỷ USD, trong khi đó nhập khẩu từ Việt Nam
mới đạt khoảng 500 triệu USD. [41, 167]
Tính đến năm 2010, kim nghạch nhập khẩu của Hàn Quốc từ Việt Nam so với các
nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thái Lan, Indonesia, Malaysia ... thấp hơn. Việt Nam
đứng thứ 26 trong bảng thị trường nhập khẩu của Hàn Quốc năm 2010. ( xem bảng 2.14, tr
65)
Bảng 2.14 : Một số thị trường nhập khẩu của Hàn Quốc năm 2010
Thị trường
Thị trường
So năm 2009 (%)
Kim ngạch nhập khẩu (triệu USD)
So năm 2009 (%)
Kim ngạch nhập khẩu (triệu USD)
Trung Quốc Nhật Bản Hoa Kỳ Arập xêút Australia Đức Inđônêxia Đài Loan UAE Quata Cô oét Nga Malaysia
71.573 64.296 40.402 26.820 20.456 14.304 13.985 13.647 12.170 11.915 10.850 9.899 9.530
31,94 Singapore 30,08 Iran 39,13 ấn Độ 35,89 Braxin 38,63 Irắc 16,31 Canada 50,96 Pháp 38,53 Chi lê 30,72 Hà Lan 42,08 Thái Lan 35,78 Oman 71,03 Italia 25,83 Việt Nam
7.849 6.940 5.674 4.712 4.427 4.350 4.283 4.221 4.189 4.168 4.095 3.723 3.330
-0,28 20,80 37,02 25,89 16,13 23,06 6,91 36,03 103,45 28,72 -0,70 6,01 40,57
Nguồn: thông tin thương mại Việt Nam ( http://www.tinthuongmai.vn)
Thứ ba là sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa hai nước:
Hàn Quốc là đất nước phát triển, có trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, kinh tế thị
trường phát triển. Việt Nam là đất nước còn chậm phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu,
trình độ quản lý còn yếu. Sự khác biệt này có thể gây ra những trở ngại trong quan hệ ngoại
thương giữa hai nước. Tình trạng nhập siêu nặng nề từ phía Việt Nam như phân tích ở trên
chính là một trong những hạn chế do sự chênh lệch này. Mặc dù sự chênh lệch về trình độ
phát triển có thể giúp hai quốc gia dễ tìm thấy lợi thế so sánh và phát huy lợi thế của mình
trong quan hệ thương mại để hai bên cùng có lợi, song trên thực tế vẫn xảy ra khó khăn lớn
từ phía Việt Nam. Với mức thu nhập bình quân đầu người cao, thị trường Hàn Quốc có xu
hướng yêu cầu hàng nhập khẩu có chất lượng cao và được kiểm soát chặt chẽ. Trong khi đó
hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là những hàng thô, hàng nông lâm hải sản tươi sống
chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế, khó bảo quản.. [41, 167]. Như vậy để giải quyết tình
trạng khó khăn trên, Việt Nam cần phải cố gắng để xóa đi sự chênh lệch trên.
2. 4. Quan hệ đầu tư Việt – Hàn (1992-2010 )
2.4.1. Đầu tư của Việt Nam vào Hàn Quốc (1992-2010 )
Năm 1989 Việt Nam đã có đầu tư ra nước ngoài. Tính đến tháng 3 năm 2008, các
nhà đầu tư Việt Nam đã trực tiếp bỏ vốn tại 35 nước với 250 dự án. Tổng số vốn đầu tư là
1,35 tỷ USD [53, 62-63].
Để tạo điều kiện thuận lợi về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư của các doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, ngày 14/04/1999, chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị
định 22/1999/NĐ-CP về đầu tư ra nước ngoài, sau đó qua 2 lần sửa đổi và được cụ thể hóa
bằng nghị định số 78/2006/ NĐ – CP ngày 09/08/2006. Luật đầu tư ngày càng thông thoáng,
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư phát triển. [53, 603]
Tính tới tháng 6/2007, hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài có mặt ở 33
nước và khu vực lãnh thổ. Tuy nhiên hoạt động đầu tư chủ yếu tập trung ở 3 nước; Lào,
Liên bang Nga, Cam-pu-chia. Bên cạnh ba nước trên Việt Nam còn đầu tư vào Hoa Kỳ và
Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác... [53, 605]
Đối với Hàn Quốc, số vốn đầu tư của Việt Nam cũng như các dự án đầu tư của Việt
Nam vào quốc gia này còn khá mờ nhạt. Từ khi Việt – Hàn đặt quan hệ ngoại giao năm
1992, cho đến năm 2000, chưa thấy một dự án đầu tư nào của Việt Nam vào Hàn Quốc.
Năm 2001, Việt Nam bắt đầu đầu tư vào Hàn Quốc với quy mô nhỏ. Tính tới năm 2010,
Việt Nam có 13 dự án đầu tư vào Hàn Quốc với tổng số vốn đăng ký là 3,2 triệu USD
( xem bảng 2.15 tr 67)
Bảng 2.15: Đầu tư của Việt Nam ra một số nước được cấp giấy phép phân theo đối tác
đầu tư chủ yếu (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2010)
Số dự án Tổng số vốn đăng ký * (triệu USD) Tên nước
Lào Vê-nê-xu-ê-la Căm-pu-chia Liên bang Nga Ma-lai-xi-a Mô-dăm-bích Hoa Kỳ CHND Trung Hoa Thái Lan Ăng-gô-la Hàn Quốc Nhật Bản 190 2 83 16 6 1 70 10 6 6 13 14 2872.8 1825.1 1055.8 776.9 411.8 345.7 252.4 11.8 11.3 4.5 3.2 2.6
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: ( http://www.gso.gov.vn) Ghi chú: * Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm
trước.
Số liệu thống kê trên bảng 2.15 cho thấy, đầu tư của Việt Nam vào Hàn Quốc xem
ra còn khá khiêm tốn. Việt Nam mới chỉ tập trung đầu tư nhiều vào thị trường những nước
trong khu vực như Lào và Cam-pu-chia. Nguyên nhân khiến Việt Nam đầu tư vào Hàn
Quốc còn thấp có nhiều lý do. Có thể do kinh tế Việt Nam còn thấp, nhiều doanh nghiệp
chưa thực sự đủ mạnh để đầu tư ra bên ngoài, mặt khác Hàn Quốc là một thị trường lớn,
“khó tính” đòi hòi nguồn vốn lớn, kỹ thuật cao nên chưa hấp dẫn những nhà đầu tư của Việt
Nam sang thị trường này. Hy vọng với sự hợp tác kinh tế ngày càng bền vững, sự bùng nổ
ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, trong tương lai không xa Việt Nam sẽ đầu tư
nhiều vào thị trường này.
2.4.2. Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam (1992-2010)
Các nhà đầu tư Hàn Quốc bắt đầu mang vốn và công nghệ đến Việt Nam từ năm
1991, tuy có chậm hơn so với một số nước Tây Âu nhưng nhìn chung, các dự án của Hàn
Quốc triển khai ban đầu tương đối nhanh và có hiệu quả. Cho đến năm 2010, sau 18 năm
thiết lập quan hệ chính thức với Việt Nam, Hàn Quốc đã vượt lên về cả tốc độ và khối lượng
đầu tư vào Việt Nam so với các nước và lãnh thổ khác trong khu vực.
2.4.2.1. Quy mô và tốc đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam
+ Giai đoạn 1992- 2003
Năm 1992, khi hai nước ký quan hệ ngoại giao, đầu tư của Hàn Quốc đã tăng 2,26 lấn
so với 4 năm trước gộp lại(140.600.000 USD). Năm 1993, Hàn Quốc có 30 dự án với
508.500.000 USD tổng số vốn đầu tư. Năm 1994 Hàn Quốc xếp thứ 6 trên tổng số 54 nước
và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Năm 1995, với vốn đầu tư ( 656,8 triệu USD) tăng
gấp đôi so với năm 1994 (345,2 triệu USD), Hàn Quốc xếp thứ 4 sau Đài Loan(1.214 triệu
USD), Nhật Bản (1.188 triệu USD), Mỹ (830 triệu USD)[57, 70]
Năm 2003, Hàn Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 626 dự án ( xem bảng 2.16 ) với tổng
số vốn đầu tư là 4036,7 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm Hàn Quốc đầu tư 44,78 dự án
với vốn mức đăng ký 288,28 triệu USD. Nhìn chung phần lớn các dự án đầu tư đều có quy
mô vừa và nhỏ, vốn trung bình cho một dự án đạt 6,447 triệu USD.
Bảng 2.16: Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ( 1991- 2003)
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998 1999
2000
2001
2002
2003 Tổng
9
30
35
43
39
25
12
27
34
75
149
142
số 626
140,6 508,5 345,2 658,8 844,5 345,9 27,8
169,5 197,9 209,2 289,5 255,9 4036,7
Năm Số dự án Tổng số vốn
Đon vị: triệu USD
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và Đầu tư
Bảng 2.16 cho thấy: Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam có xu hướng tăng lên,
mạnh nhât từ năm 1993 đến nắn 1996. Trong thời gian này, có những năm đầu tư của Hàn
Quốc dẫn đầu cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư và luôn năm trong số 10 nước và vùng
lạnh thổ có số dự án và vốn đẩu tư lớn nhất vào Việt Nam. [57, 71] Tuy nhiên, nhịp độ đầu
tư của Hàn Quốc vào Việt Nam có xu hướng giảm dần kể từ năm 1997 đến năm 2000, do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoàng tài chính tiền tệ Châu Á bắt đầu từ 1997, các công ty của
Hàn Quốc gặp khó khăn, đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam giảm xuống. Từ năm 2000
đến năm 2003, cùng với quá trình phục hồi kinh tế, tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào Việt
Nam đã có chuyển biến tốt hơn. Năm 2002 với 149 dự án với tổng số vốn đăng ký là 289,5
triệu USD.
Bảng 2.17 : Một số dự án hàng đầu của Hàn Quốc tại Việt Nam
(1992-2005)
Tên dự án Tổng số vốn đẩu tư Lĩnh vực hoạt động Tên nhà đầu tư Vị trí đầu tư
Tỷ lệ đóng góp vốn (%)
177,0 70 Khách sạn Daewoo Hà Nội
167,0 70 Đóng tàu Nha Trang
100 100 Dệt may Dệt may Đồng Nai Đòng Nai Hyundai Samsung Kolon
250,0 65 Xi măng Hanjung
223,0 65 Kumho Quảng Ninh TP.HCM
Xây dựng văn phòng Deeha Hotel Hyundai Vinashin Samsung 192,7 147,9 Vina Kolon Việt Nam Ind Xi măng Hạ Long Kumho Sài Gòn
Nguồn: [ 57, 74 ]
+ Giai đoạn 2004- 2010
Nếu giai đoạn 1992-2003, Hàn Quốc chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực dệt may, lắp ráp
điện tử đến giai đoạn 2004-2010, các doanh nghiệp Hàn Quốc chủ yếu đầu tư trong lĩnh
vực công nghiệp nặng, điện tử, vận tải, bất động sản, khách sạn nhà hàng... với quy mô lớn
và công nghệ cao. Cùng với sự hồi phục của nền kinh tế sau khủng hoảng tài chính suy thoái
kinh tế toàn cầu, Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam với quy mô lớn và tốc độ tăng nhanh.
Năm 2004 vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam là 496 triệu USD. Năm 2005 tăng
lên 5.395 triệu USD. Năm 2006 là 3.106 triệu USD. Năm 2007 là 2.019 triệu USD. Năm
2009 là 1.911 triệu USD, [84]
Tính đến ngày 31-12-2010, Hàn Quốc là một trong hai quốc gia đầu tư trực tiếp lớn
nhất tại Việt Nam, đứng thứ nhất về số dự án và đứng thứ hai về vốn đăng ký sau Đài Loan
trong tổng 100 các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
( xem bàng 2.18, tr 70)
Bảng 2.18: Đầu tư của một số nước vào Việt Nam được cấp giấy phép phân theo đối
tác đầu tư chủ yếu (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2010)
Tên nước Tổng số vốn đăng ký* (triệu USD)
Đài Loan Hàn Quốc Xin-ga-po Nhật Bản Ma-lai-xi-a Quần đảo Vigin thuộc Anh Hoa Kỳ Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) Quần đảo Cay men Thái Lan Hà Lan Bru-nây Ca-na-đa Số dự án 2171 2699 895 1425 376 487 568 622 52 240 145 114 102 22981.2 22389.1 21890.2 20959.9 18417.4 14513.8 13103.9 7846.4 7432.2 5842.6 5481.0 4745.1 4617.6
Ghi chú: * Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các
Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam ( http://www.gso.gov.vn)
năm trước.
Năm 2010, tại Việt Nam có trên 1.700 doanh nghiệp Hàn Quốc đang làm ăn tại. [42].
Mặc dù găp nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm
2008 và 2009, nhưng theo thống kê của phòng Thương mại Hàn Quốc, hơn 90 % số doanh
nghiệp Hàn Quốc không có ý định cắt giảm hoặc chuyển vốn đầu tư sang thị trường khác.
Đây có thể là một minh chứng chứng tỏ quan hệ Việt- Hàn ngày càng thắt chặt và bền vững.
[42]
2. 4.2.2. Cơ cấu đầu tư theo ngành của Hàn Quốc vào Việt Nam
Trong giai đoạn đầu, Hàn Quốc đầu tư chủ yếu vào những ngành công nhẹ; may mặc,
giầy dép, ba lô, túi xách...và công nghiệp chế biến lâm, hải sản. Lý do Hàn Quốc đầu tư
vào lĩnh vực này vì vốn đầu tư ít, tận dụng được nhiều nhân công rẻ. Từ 1994 trở đi, đặc
biệt là những năm gần đây, Hàn Quốc đã tiến tới đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp kỹ thuật
cao như; điện tử, công nghiệp ô tô, công nghiệp chế tạo cơ khí, xây dựng cơ sở hạ tầng và
dịch vụ. Hướng tăng trưởng đầu tư này rất phù hợp với xu thế phát triển kinh tế Việt Nam.
Bảng 2.19 : Cơ cấu đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam theo ngành kinh tế ( tính tới
ngày 25/3/2004- chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT Ngành Số dự án
Tổng vốn đầu tư ( triệu USD) 3.048 575
2 106
I 378 158 1.602 1.208
14 41,594
II
23 44 29 15 78 89,435 85,058 65,243 19,851 1,179
24 257,17
10 186,709
4 50
III 17 48,081
7 467,938
2 156,95
Công nghiệp Công nghiệp dầu khí Công nghiệp nhẹ Công nghiệp nặng Công nghiệp thực phẩm Xây dựng Nông- lâm nghiệp Nông-lâm nghiệp Thủy sản Dịch vụ Giao thông vận tải- bưu điện Khách sạn- Du lịch Tài chính - Ngân hàng Văn hóa- Y tế- Giáo dục Xây dựng văn phòng, căn hộ Xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất Dịch vụ khác Tổng số 14 697 11,907 4.311,619
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng thống kê 2.19 cho thấy, nếu tính từ 1992 đến tháng 4 năm 2004, các dự
án đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp như lắp
ráp ô tô, thép, cơ khí, điện tử, giày dép, may và xây dựng, với 575 dự án với tổng số vốn
đăng ký lên tới 3,05 triệu USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất so với tổng số dự án và tổng số vốn
đăng ký tương ứng là 82,49 %, 70,68 % [57, 74] Ngoài lĩnh vực công nghiệp, lĩnh vực dịch
vụ chiếm tới 78 dự án (chiếm 11,2 % về số dự án) với tổng số vốn đăng ký là 1.178 triệu
USD ( chiếm 27,34 % về vốn đầu tư). Ngành nông – lâm có 44 dự án tổng số vốn đầu tư là
85,058 triệu USD, chứng tỏ quy ô đầu tư ở lĩnh vực này tương đối nhỏ.
Như vậy nếu so sánh với Singapo, Đài Loan, (hai quốc gia này đẩu tư chủ yếu vào
Việt Nam ở lĩnh vực dịch vụ, khách sạn, nhà hàng và du lịch) Hàn Quốc đầu tư chủ yếu vào
lĩnh vực công nghiệp với 575 dự án với vốn đang ký ban đầu là 3,05 triệu USD chiếm
70,68 % về vốn đầu tư. [57, 76]
Bảng 2.20 : Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam phân theo ngành
( chỉ tính các dự án còn hiệu lực đến năm 2010)
Thứ tự
Chuyên ngành
Công nghiệp chế biến,chế tạo Kinh doanh bất động sản Xây dựng Nghệ thuật và giải trí Vận tải kho bãi Dịch vụ,lưu trú và ăn uống Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa Hợp đồng chuyên môn, Khoa học công nghệ Sản xuất ,phần phối, điện, khí, nước, điều hòa Khai khoáng Nông,lâm nghiệp;thủy sản Dịch vụ khác Thông tin và truyền thông Cáp nước;xử lý chất thải Hành chính và dịch vụ, hỗ trợ Y tế và trợ giúp Xã hội Giáo dục và đào tạo Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch Đầu tư
2.4.2.3. Phân bố đầu tư theo vùng của Hàn Quốc vào Việt Nam
Đầu tư theo vùng là một trong những chính sách đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam.
Trong những năm đầu, Hàn Quốc đầu tư chủ yếu ở phía Nam của Việt Nam, vì ở đây có địa
hình đất đai rộng lớn, cơ sở tốt và có nguồn lao động dồi dào. Tuy nhiên những năm trở lại
đây do chính phủ có nhiều chính sách khuyến khích và điều chỉnh nguồn vốn cho nên phân
bố đầu tư của Hàn Quốc đã có sự đều khắp cả nước, mặc dù vậy các dự án đầu tư của Hàn
Quốc phần lớn chỉ tập trung ở hai vùng trong điểm của Việt Nam. Phía Bắc, đầu tư chủ yếu
ở Hà Nội. Phía Nam đầu tư chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương. (xem bảng
2.21)
Bảng 2.21 : Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam phân theo địa phương
(chỉ tính các dự án còn hiệu lực đến năm 2010)
Số thứ tự Địa phương
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 22 23 24 25 26 28 29 Hà Nội Bà Rịa-Vũng Tàu TP Hồ Chí Minh Đồng Nai Bình Dương Hải Phòng Long An Quảng Ngãi Đà Nẵng Bắc Ninh Phú Thọ Hưng Yên Khánh Hòa Hải Dương Tây Ninh Vĩnh Phúc Hà Tĩnh Bình Phước Bắc Giang Nam Định Lâm Đồng Quảng Nam Bình Thuận Quảng Ninh Thừa Thiên-Huế Thái Bình Hòa Bình
30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 Hà Nam Tiền Giang Thanh Hóa Trà Vinh Cần Thơ Thái Nguyên Bến Tre Bình Định Nghệ An Phú Yên An Giang Tuyên Quang Sơn La Vĩnh Long Đồng Tháp Kiên Giang Yên Bái Bắc Cạn
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch Đầu tư
2.4.3. Đánh giá chung về quan hệ đầu tư Việt –Hàn ( 1992-2010 )
Số vốn đầu tư của Việt Nam cũng như các dự án đầu tư của Việt Nam vào Hàn
Quốc không nhiều. Năm 200, Việt Nam bắt đầu đầu tư vào Hàn Quốc với quy mô nhỏ. Tính
tới năm 2010, Việt Nam có 13 dự án đầu tư vào Hàn Quốc với tổng số vốn đăng ký là 3.2
triệu USD. Trong khi đó vốn đầu tư của Hàn Quốc vàoViệt Nam tính đến năm 2010 là
2699 dự án (bao gồm các dự án của các năm trước còn hiệu lực), với tổng số vốn đăng ký là
22389,1 triệu USD (Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các
năm trước) gấp nhiều lần so với vốn đầu tư của Việt Nam sang Hàn Quốc.
Xét một cách tổng quát, đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam từ năm 1992- 2010 đã
có đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam:
- Tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát trển cho nền kinh tế Việt Nam đáng thiếu vốn,
nhất là đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tấng, đào tạo nguồn nhân lực.
- Tiếp thu công nghệ, sản xuất và xuất khẩu ở bộ phận công nghiệp sử dụng lao động
có chuyên môn.
- Tăng nguồn đầu tư cho một số lĩnh vực Việt Nam đang yếu như công nghiệp chế tạo,
chế biến nông sản, công nghiệp nặng, điện tử, vận tải, bất động sản, nông lâm nghiệp...với
quy mô lớn và công nghệ cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quan hệ đầu tư Việt – Hàn còn một số hạn chế. Vốn
đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam tuy đứng đầu về số vốn đăng ký và vốn thực hiện,
nhưng cơ cấu vốn tập trung quá nhiều vào công nghiệp nặng, điện tử, lắp ráp, trong khi đó
vốn đầu tư cho các nghành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản
còn ít: các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70% tổng số vốn, dịch vụ hơn 20% tổng
số vốn, dưới 10% vào các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. [33] Hạn chế từ phía Việt Nam,
quốc gia nghèo, vốn đầu tư ra bên ngoài còn hạn chế, nền kinh tế chậm phát triển, đang
cần có sự thu hút đầu tư lớn từ nhiều quốc gia... đây là một trong những lý do đẫn tới sự hạn
chế trong việc đầu tư vào thị trường Hàn Quốc.
Trong những năm tới, vai trò vị trí của Việt Nam và Hàn Quốc tiếp tục được khẳng
định trên đường quốc tế và khu vực Châu Á- Thái Bình Dường. Việt Nam phấn đấu đến
năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp, trong đó GDP tăng bình quân 7%-8 % / năm
và dự báo nhu cầu các nguồn vốn cho đầu tư phát triển 5 năm tới khoảng 250 tỷ USD. [42]
Cùng với việc tích cực huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, Việt
Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút các nguồn vốn, công nghệ và kỹ
năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, trong đó Hàn Quốc là đối tác chiến lược. Việt Nam
mong muốn các doanh nghiệp Hàn Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư kinh doanh, nhất là trong
các lĩnh vực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; sản xuất vật liệu, năng lượng
mới, sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ; phát triển nguồn nhân lực, y tế,
phát triển nông, lâm, thuỷ sản; tăng cường quan hệ thương mại, xuất khẩu lao động, mở
rộng giao lưu văn hoá, hợp tác khoa học công nghệ...
Hàn Quốc là cường quốc kinh tế của châu Á, có nhiều tiềm năng và thế mạnh về vốn,
khoa học công nghệ. Với quan hệ chính trị tốt đẹp, nguồn lực dồi dào, Hàn Quốc có đủ các
điều kiện để cung cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam ở mức cao hơn; tăng cường đầu tư
vào các dự án trọng điểm tại Việt Nam như xây dựng kết cấu hạ tầng, năng lượng, công
nghệ cao, phát triển công nghiệp phụ trợ; tạo thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu
vào Hàn Quốc
Tiểu kết chương II
Quan hệ kinh tế Việt - Hàn (1992-2010), qua 18 năm hợp tác và phát triển, kim
ngạch thương mại hai chiều tăng nhanh, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của
ngoại thương và nền kinh tế của hai quốc gia. Từ 1992 đến năm 2010, Hàn Quốc nhanh
chóng trở thành đối tác chiến lược lớn của Việt Nam. Năm 2010, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của hai nước đạt 12,8 tỷ USD, tăng 50,2 lần so với năm 1992, cao nhất trong tất cả các
năm kể từ khi hai nước ký kết quan hệ bang giao. Đây là dấu hiệu cho sự phát triển bền
vững trong tương lai, mở ra nhiều triển vọng tốt cho những chặng đường tiếp theo.
Trong quan hệ đầu tư, Việt Nam đầu tư vào Hàn Quốc không nhiều. Tính tới năm
2010, Việt Nam có 13 dự án đầu tư vào Hàn Quốc. Ngược lại, tính đến năm 2010, Hàn
Quốc có tổng 2699 dự án đầu tư vào Việt Nam, gấp nhiều lần so với dự án đầu tư của Việt
Nam vào Hàn Quốc. Xét một cách tổng quát, đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam góp phần
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển, tăng thêm vốn cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đào
tạo nguồn nhân lực...
Bên cạnh những mặt tích cực, quan hệ kinh tế Việt - Hàn còn một số hạn chế: Việt
Nam nhập siêu quá lớn từ Hàn Quốc, kim ngạch thương mại của Việt Nam vào Hàn Quốc
quá nhỏ bé so với kim ngạch nhập khẩu vào Hàn Quốc của các quốc gia khác. Sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế cũng là hạn chế trong quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia.
Vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam còn tập trung nhiều vào công nghiệp nặng, cơ cấu
đầu tư theo vùng còn bất hợp lý giữa các vùng. Tuy nhiên với kết quả có được trong 18 năm
thiết lập quan hệ kinh tế, mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp cho quan hệ kinh tế giữa hai quốc
gia trong tương lai. Tuy nhiên, để thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt - Hàn phát triển, ổn định
bền vững... chính phủ hai quốc gia cần có định hướng phát triển cho những chặng đường
tiếp sau.
Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP
TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC
3.1. Triển vọng và định hướng của quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc
3.1.1. Triển vọng của quan hệ kinh Việt Nam – Hàn Quốc
Quan hệ kinh tế Việt – Hàn được xúc tiến gắn liền với sự kiện bình thường hóa quan
hệ ngoại giao giữa hai nước năm 1992. Trong 18 năm (1992-2010) quan hệ này đã tiến một
bước tiến khá dài, Hàn Quốc đã trở thành đối tác hàng đầu của Việt Nam trong quan hệ kinh
tế quốc tế. Sự tiến bộ đó bắt nguồn trước hết từ những đổi mới về quan điểm, chiến lược và
chính sách thúc đẩy hợp tác toàn diện Việt Nam – Hàn Quốc của các nhà lãnh đạo hai nước.
Nét nổi bật nhất là quan hệ kinh tế của hai nước đã phát triển nhanh chóng lên một tầm cao
mới và chuyển thành quan hệ "Đối tác hợp tác chiến lược". Có thể điểm qua những thành
tựu về thương mại, đầu từ giữa hai nước trong 18 năm (1992- 2010) như sau:
Thứ nhất về thương mại: Quy mô trao đổi thương mại hai nước liên tục tăng lên kể
năm 1992- 2010. Năm 1995 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1.488 triệu USD, trong đó
xuất khẩu đạt 235 triệu USD, nhập khẩu: 1.253 triệu USD. Năm 2000, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu là 2.106 triệu USD... Xu hướng gia tăng không ngừng quan hệ thương mại giữa
hai nước thể hiện rõ nhất trong giai đoạn 10 năm gần đây (2001-2010). Trong giai đoạn
(2001 -2010), tổng mức buôn bán hai chiều tăng 4,78 lần, bình quân mỗi năm tăng 17,55%,
trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng 5,54 lần, bình quân tăng 21% và kim ngạch nhập khẩu
tăng 4,6 lần, bình quân tăng 18,55%. Điều đáng ghi nhận trong quan hệ thương mại giữa hai
nước 10 năm (2001-2010) là tốc độ tăng của thời kỳ sau nhanh hơn thời kỳ trước, nhất là
đối với kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Hàn Quốc. Tốc độ tăng kim ngạch buôn bán
2 chiều bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 16,7%; giai đoạn 2006-2010 là 19,9%. [42]
( xem biểu đồ 3.1, 3.2, 3.3 )
Biểu đồ 3.1 : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hàn Quốc
( 2004-2010 )
3500
3092.2
3000
2500
2064.5
1874.4
2000
1243.4
1500
842.9
1000
663.6
608.1
500
0
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
663.6
842.9
1243.4 1874.4 2064.5 3092.2
kim ngạch xuất khẩu 608.1
Đơn vị: Triệu USD
Ghi chú: Các số liệu được ghi từ nguồn Tổng cục thống kê Việt Nam (2004-2010)
Năm 2009, tuy bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch thương
mại hai chiều vẫn đạt mức năm 2008, trong đó kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng 15,1%.
Năm 2010, kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc đều bắt đầu hồi phục, kim ngạch thương mại
giữa hai nước đạt mức cao nhất, lên tới 12 tỉ USD, vượt mức năm 2008 cả về xuất khẩu và
nhập khẩu.
Biểu đồ 3.2 Kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc vào Việt Nam
( 2004-2010 )
Đơn vị: Triệu USD
12000
9761.3
10000
7066.3 6976.4
8000
5340.4
6000
3359.4 3594.1 3908.4
4000
2000
0
2006
2010
2004
2005
2007
2008
2009
Kim ngạch nhập khẩu 3359.4 3594.1 3908.4 5340.4 7066.3 6976.4 9761.3
Kim ngạch nhập khẩu
Ghi chú: Các số liệu được ghi từ nguồn Tổng cục thống kê Việt Nam
(2004-2010)
Biểu đồ 3.3 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc
(1993-2003)
3500
3116
3000
2751
2300
2500
2082
1843
2000
1759
1666
1652
1545
1500
1141
818
1000
493
500
0
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Đơn vị: Triệu USD
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
Ghi chú: Các số liệu được ghi từ nguồn Tổng cục thống kê Việt Nam
(1992-2003)
Biều đồ 3.4 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
Hàn Quốc ( 2004-2010)
14000
12853.6
12000
10000
9040.9
8850.7
8000
6583.8
6000
4751.3
4257.7
3967.5
4000
2000
0
2005
2008
2004
2006
2007
2009
2010
4751.3
9040.9
3967.5
4257.7
6583.8
8850.7
12853.6
Tổng kim ngạch
Đơn vị: triệu USD
Ghi chú: Các số liệu được ghi từ nguồn Tổng cục thống kê Việt Nam
(2004-2010)
Thứ hai về đầu tư: Trong giai đoạn 1992- 2010, vốn đầu tư của Hàn Quốc vào
Việt Nam không ngừng tăng, điều đó chứng tỏ thị trường Việt Nam đang ngày càng hấp dẫn
các nhà đầu tư của Hàn Quốc. Chỉ tính những năm gần đây nhất (2004-2010), đầu tư của
Hàn Quốc vào Việt Nam tăng nhanh.Vốn đầu tư của Hàn Quốc tăng từ 469 triệu USD năm
2004 lên 3.106 triệu USD năm 2006; 5.395 triệu USD năm 2007; 2.019 triệu USD năm
2008 và 1.911 triệu USD năm 2009. Năm 2010 Hàn Quốc đứng thứ 3 trong tổng các nước
đầu tư vào Việt Nam, với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 2,36 tỷ USD, chiếm
12,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.[81]
Bảng 3.1: Một số dự án đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam
( Từ năm 2006-năm 2010)
Tên dự án Mục tiêu hoạt Trụ sở
động Chuyên ngành
Giấy chứng nhận đầu tư
15/11/2006 Công nghiệp chế biến,chế tạo
29/06/2007 Kinh doanh động sản Công ty TNHH Posco- Sản xuất sắt, Việt Nam, SX thép thép Kinh doanh khách sạn, hoạt động kinh doanh bất động sản, dịch vụ nhà hàng, ăn uống Lô số 1, KCN Phú Mỹ II, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu K1-Khu nhà mẫu Keangnam, đưong Mễ Trì, khu Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội
19/05/2008 Công ty TNHH 1 thành viên Keangnam- Vina Công ty TNHH Hi Brand Việt Nam
KĐT mới Kinh doanh Kinh doanh Văn Phú,Phú La,Hà Nội bất động sản bất động sản Đưong N1,KCN Phú Mỹ II,Tân Thành, Bà Rịa- Vũng Tàu 14/05/2010 Sản xuất thép , gia công ống thép Công nghiệp chế biến,chế tạo Công ty TNHH Posco SS-Vina
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch đầu tư
Trong thời gian tới, vai trò, vị trí của Việt Nam và Hàn Quốc tiếp tục được khẳng
định trên trường quốc tế và khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Tuy nhiên trong khu vực
châu Á -Thái Bình Dương, quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc sẽ chịu tác động của yếu
tố Trung Quốc, sự lớn mạnh của các nền công nghiệp mới ( Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông, Singapo), làn sóng liên kết kinh tế khu vực, kể cả việc tìm kiếm các khu vực
thương mại tự do, sự chênh lệch trong phát triển giữa các quốc gia, cũng như một số biến
động khác. [30, 261]
Các yếu tố có tác động thúc đẩy sự phát triển quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc bao
gồm:
Thứ nhất. Tiềm năng phát triển kinh tế của Hàn Quốc với tư cách là một trong những
nước công nghiệp mới ở châu Á tiếp tục làm cho nước này có lợi thế về vốn và công nghệ,
còn Việt Nam tiếp tục có lợi thế về lao động và tài nguyên – nền tảng cho sự gặp nhau giữa
nhu cầu và lợi ích của hai nước
Thứ hai. Việc thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại trong phạm vi WTO (Tổ
chức thương mai thế giới), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương),
đặc biệt khi chương trình làm việc Doha (Nội dung chính của vòng Doha là bàn biện pháp
giảm thuế quan, mở cửa thị trường hàng nông sản, phi nông sản, dịch vụ nhằm thúc đẩy
thương mại hóa toàn cầu), đã được thông qua, trong đó đề cập đến việc xóa bỏ mọi rào cản
đối với thương mại hàng nông sản, sẽ tạo thuận lợi cho mở rộng quan hệ Việt Nam – Hàn
Quốc. [30, 262]
Thứ ba. Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam – Hàn
Quốc, có thể nhận thấy trong tương lai, xu hướng chuyển dịch cơ cấu của hai nước tiếp tục
thể hiện tính bổ sung cho nhau rõ rệt. Việt Nam chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo
nên những giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao. Còn Hàn Quốc thông qua đầu tư
vào công nghệ để có được các sản phẩm mới có tính năng bảo vệ môi trường, tạo nên các
ngành dịch vụ mới để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. [30, 262]
Ngoài các yếu tố thúc đẩy sự phát triển quan hệ kinh tế Việt- Hàn, còn có một số yếu
tố có tác động làm chậm lại sự phát triển quan hệ Việt Hàn.
Thứ nhất. Sự nổi lên của Trung Quốc vừa mang lại cơ hội phát triển, đồng thời cả
những thách thức cho nhiều nước trong khu vực. Năm 2006 đánh dấu Trung Quốc sau 5
năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO), tổng thu nhập quốc dân(GDP) của Trung
Quốc đạt 2500 tỷ USD, xếp sau Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
đạt 1770 tỷ USD, tăng bình quân 24,5% / năm, trong đó xuất khẩu đạt 960 tỷ USD, đứng
thứ 3 thế giới sau Đức, Hoa Kỳ. Với dân số trên 1,3 tỷ người, hàng năm Trung Quốc nhập
khẩu trên 500 tỷ USD, đây là thị trường hấp dẫn với bất kỳ nước xuất khẩu nào. [53, 575]
Những cải cách của Trung Quốc trong thời gian qua, kết hợp với sự chuyển hướng chiến
lược phát triển kinh tế, những ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, đã và đang làm cho
dòng đầu tư đổ vào Châu Á bị chệch hướng và đổ vào Trung Quốc. Dòng đầu tư đó bao
gồm cả đầu tư từ Hàn Quốc. Do đó tác động không tốt lên quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc.
[30, 262]
Thứ hai. Sự tìm kiếm các hiệp định thương mại tự do có thể làm cho chính phủ Hàn
Quốc quan tâm đến một số mục tiêu khác. Tuy Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 15
của Hàn Quốc, song chủ yếu được tạo nên bởi sự gia tăng đầu tư. Hệ quả là, nếu đầu tư có
nguy cơ giảm đi, sẽ làm thay đổi vị trí thị trường Việt Nam đối với Hàn Quốc. [30, 262]
Trong hai nhóm yếu tố trên, nhóm các yếu tố thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt - Hàn có
tác động mạnh hơn. Do đó triển vọng phát triển quan hệ kinh tế Việt – Hàn trong tương lai
rất khả quan. Kết luận này có được dựa trên sự nghiên cứu các kết quả đã đạt được trong 18
năm quan hệ giữa hai quốc gia. Mặt khác trong giai đoạn hợp tác kinh tế, Việt Nam – Hàn
Quốc chưa khai thác hết tiềm năng của mình. Trong trao đổi hàng hóa, nhiều mặt hàng có
khả năng suất khẩu cao của Việt Nam như: đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, đồ nội thất, dầu thô,
nông sản nhiệt đới... tiếp cận thị trường Hàn Quốc còn ở mức thấp. Sản phẩm từ Hàn Quốc
xuất khẩu vào thị trường Việt Nam chưa nhiều. Trong lĩnh vực đầu tư, các dự án đầu tư vào
các ngành công nghiệp phụ trợ còn ít, đặc biệt ngành công nghiệp nhẹ. Trong tương lai nếu
hai quốc gia có những điều tiết thay đổi trong chiến thuật đầu tư, chắc chắn đầu tư của Hàn
Quốc sẽ rải đều ở mọi lĩnh vực. Dự báo đến năm 2015, kim ngạch hai nước sẽ tăng từ 12 tỉ
USD năm 2010 lên tới 20 tỉ USD. Số vốn đầu tư của các doanh nghiệp Hàn Quốc còn hiệu
lực sẽ vượt 30 tỉ USD. Triển vọng này có nhiều khả năng trở thành hiện thực. [42]
3.1.2. Định hướng phát triển cho quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc
Từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao đến nay (1992-2010), có thể nói quan hệ
Việt Nam - Hàn Quốc đã đạt được những thành công nhất định, đem lại nhiều lợi ích cho cả
hai bên. Đối với Việt Nam sự hợp tác này đã giúp bổ sung nguồn lực cho nền kinh tế cũng
như phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh
đó việc phát triển quan hệ hợp tác với Hàn Quốc còn tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy trong thời gian tới việc tiếp
tục tăng cường quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc là hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu,
phân tích về kết quả đã đạt được trong quan hệ kinh tế của hai nước trong 18 năm qua, xin
được đưa ra một số định hướng dưới đây để giúp nâng cao hiệu quả cho sự hợp tác này:
Thứ nhất: Không ngừng củng cố và nâng cao quan hệ đối ngoại giữa hai nước Việt –
Hàn trên cơ sở độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ.
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong thời đại ngày nay. Quan hệ đối ngoại góp
phần gắn bó quan hệ giữa hai quốc gia và giải quyết những vấn đề trọng đại trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Không có sự ổn định vững chắc trong quan hệ đối ngoại, chắc chắn sẽ
không có những mối quan hệ hợp tác khác. Đối với Việt Nam điều này vô cùng ý nghĩa, vì
trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo, đang nỗ lực vươn lên để hòa nhập với nền kinh tế
trong khu vực cũng như trên thế giới, mặt khác để tránh nguy cơ tụt hậu.
Thứ hai: Cần đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư từ hai quốc gia, đồng thời đẩy
mạnh phát triển công nghệ, đây là tiềm lực quan trọng trong việc thúc đẩy và nâng cao hiệu
quả kinh tế từ hai phía. Đối với Việt Nam với xuất phát điểm thấp, nền kinh tế đang trong
thời kỳ phát triển, vốn và công nghệ trở thành hai nguồn lực khan hiếm, có vai trò quyết
định trong việc đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh và chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Thực
tế ở nhiều nước cho thấy nhập khẩu công nghệ chính là con đường ngắn nhất để thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong khi đó xu hướng tăng trưởng nhanh của nền kinh tế
Hàn Quốc đã làm nảy sinh nhu cầu chuyển giao vốn và công nghệ cho những nước đi sau,
trong đó có Việt Nam. Sự phù hợp về nhu cầu này là điều kiện thuận lợi để phát triển quan
hệ hợp tác giữa hai nước, đặc biệt là quan hệ đầu tư. Khi đó Việt Nam không những giải
quyết được vấn đề thiếu vốn cho phát triển kinh tế mà còn có thể tiếp cận được với những
công nghệ hiện đại, học hỏi được kinh nghiệm của các nhà đầu tư Hàn Quốc, phục vụ có
hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do vậy trong thời gian tới
cần tích cực thúc đẩy mối quan hệ này trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. Riêng phía
Việt Nam cần chủ động cải thiện môi trường đầu tư theo hướng phù hợp nhằm tăng cường
thu hút vốn đầu tư của Hàn Quốc.
Thứ ba: Trong giai đoạn hiện nay vấn đề thị trường có tầm quan trọng rất lớn đến sự
phát triển và tiêu thụ hàng hóa, nó quyết định cả đầu vào lẫn đầu ra của sản xuất. Trình độ
phát triển kinh tế của Việt Nam chưa cao, còn phải nhập khẩu nhiều máy móc, thiết bị, vật
tư hiện đại, nên việc nhập khẩu từ thị trường nào có lợi nhất về chất lượng và giá cả sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Trong khi đó Hàn Quốc lại là
nguồn cung cấp nguyên vật liệu giá rẻ, chất lượng tốt, hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu của
Việt Nam. Nhưng vấn đề này càng trở nên gay gắt hơn khi đi liền với bước chuyển cơ chế,
đó là định hướng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu là phải tạo ra thị trường làm nền tảng cho
chiến lược xuất khẩu. Đối với Việt Nam, vấn đề này đặc biệt gay gắt, bởi lẽ Việt Nam phải
chuyển sang một thị trường về cơ bản là mới, lại “khó tính” không như những thị trường
truyền thống trước đây, trong khi năng lực cạnh tranh của nền kinh tế lại rất thấp. Có thể nói
hợp tác thương mại với Hàn Quốc vừa tạo ra điều kiện thuận lợi nhưng đồng thời cũng đặt
ra cho chúng ta những thách thức phải vượt qua. Do vậy cần tiếp tục phát triển mối quan hệ
hợp tác thương mại với Hàn Quốc theo hướng tích cực nhập khẩu các nguyên vật liệu cần
thiết cho phát triển kinh tế và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Cần
chủ động chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng mạnh những sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Hàn Quốc, giảm mạnh các sản phẩm thô
và sơ chế.
Thứ tư: Cần đẩy mạnh và nâng cao mối quan hệ kinh tế Việt -Hàn lên tầm cao mới, ổn
định và vững chắc hơn. Mở rộng quan hệ kinh tế với Hàn Quốc là một trong những giải
pháp quan trọng giúp Việt Nam giải quyết vấn đề lao động. Là quốc gia có tiềm năng lao
động lớn, nguồn nhân công rẻ, thiết lập quan hệ kinh tế Việt – Hàn sẽ giúp Việt Nam giải
quyết được nguồn lao động dư thừa. Trong điều kiện của Việt Nam, hợp tác kinh tế với Hàn
Quốc nói riêng, với các nền kinh tế khác nói chung đều hướng tới một mục tiêu: vừa tận
dụng được tính kinh tế của lao động (khả năng sử dụng nguồn lao động dồi dào và rẻ), vừa
giải quyết được một trong những vấn đề nan giải nhất là: dư thừa lao động, thất nghiệp và
thiếu việc làm. Giảm thất nghiệp, tạo thêm việc làm là một trong những vấn đề kinh tế cấp
bách hàng đầu của Việt Nam. Trong khi đó, lợi thế so sánh lớn nhất mà nền kinh tế Việt
Nam có được là nguồn lao động. Không tận dụng tốt lợi thế này có nghĩa là lãng phí một
thế mạnh trong hoàn cảnh đất nước còn ngèo, đới sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn....
Việc thiết lập nhanh chóng và rộng khắp các quan hệ kinh tế khu vực và trên thế giới, đặc
biệt là quan hệ với Hàn Quốc cho phép Việt Nam hạn chế điểm bất lợi, đồng thời phát huy
lợi thế trong trong quan hệ lao động.
3. 2. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc
3.2.1. Giải pháp về chính trị
Để quan hệ Việt- Hàn phát triển bền vững, trong thời gian tiếp theo chính phủ hai nước
cần giữ vững sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội, mặt khác phải kiên trì đường lối đổi mới
toàn diện nền kinh tế, hoàn thiện cơ chế thị trường, hình thành cấu trúc thể chế kinh tế mới,
đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sự hợp tác kinh tế giữa hai
quốc gia.
Ổn định chính trị là điều kiện cơ bản để ổn định các chính sách kinh tế và thực hiện cơ
chế quản lý kinh tế của từng quốc gia. Ổn định chính trị còn là nền tảng cho sự tăng trưởng
kinh tế và nâng cao đời sống xã hội. Tình hình chính trị trong nước có ổn định, hai bên mới
yên tâm làm ăn, kinh doanh, hợp tác trên cơ sở cùng có lợi.
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nền chính trị ổn định,an ninh tốt, ít biến động...
Đây là một lợi thế trong hợp tác kinh tế quốc tế, đặc biệt là thiết lập quan hệ kinh tế đối
ngoại và thu hút vốn đầu tư từ phái Hàn Quốc. Tuy nhiên, không vì thế mà Việt Nam chủ
quan. Để giữ vững và tăng cường sự ổn định chính trị, Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện
đường lối đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tư tưởng. Yếu
tố quyết định sự thành công, là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, thực hiện dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên Chủ nghĩa Xã hội.
Bên cạnh sự ổn định là chính sách ngoại giao mềm dẻo, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, đa phương hoá và đa dạng hoá trong quan hệ, với khẩu hiệu “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển”. Chính
việc mở rộng quan hệ ngoại giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế song
phương và đa phương, đặc biệt là quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc.
Việt Nam cần tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tiến tới xây dựng một nền kinh
tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, như vậy Việt Nam mới
từng bước rút ngắn khoảng cách với Hàn Quốc, trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của
Hàn Quốc, góp phần thúc đẩy quan hệ Việt - Hàn ngày càng sâu sắc và bền chặt hơn.
3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao quan hệ thương mại Việt - Hàn
3.2.2.1. Giải pháp đối với những mặt hàng nông sản và hàng công nghiệp
+ Đối với hàng nông sản
Hàng nông sản của việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là: hải sản, rau củ
quả, cà phê, hồ tiêu....Hiện nay Hàn Quốc nhập khẩu khoảng 12 tỷ USD/ năm các mặt hàng
thực phẩm. Với mức thu nhập bình quân đầu người đã vược quá 10.000 USD/ năm, [41, 169]
người dân Hàn Quốc ngày càng có nhu cầu lớn về các loại thực phẩm có chất lượng cao,
phong phú về chủng loại, hương vị và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là thị
trường nhiều tiềm năng, nhưng hàng năm Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được một lượng nhỏ
các mặt hàng này vào thị trường Hàn Quốc, vì cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ
yếu là hàng sơ chế như: cao su, cà phê, thủy sản, rau củ quả..... có giá trị chưa cao. Việt
Nam phải chú ý nâng cao chất lượng, thông qua chế biến để làm rõ đặc trưng hương vị thực
phẩm và chất ẩm thực của Việt Nam.
Bảng 3.2 : Một số hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
sang Hàn Quốc trong giai đoạn 2007-2010
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng 2007 2008 2009 2010
Cao su 66.700 63.187 40.831 97.800
10.439 19.447 8.440 11.478
Hàng rau quả Hải sản
274.969 301.832 312.844 388.650
Hạt tiêu 4.034 5.912 5.328 8.356
Cà phê 45.674 82.915 46.400 51.491
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam: ( http://www.gso.gov.vn)
+ Mặt hàng thủy sản
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về thủy sản. Hàng năm Việt Nam khai thác
1,2-1,4 triệu tấn hải sản. Qua thống kê, biển Việt Nam có trên 2100 loài cá, trong đó có trên
130 loài cá có giá trị kinh tế: 75 loài tôm, 25 loài mực, 7 loài bạch tuộc và các loài thực vật
biển khác.[53, 344] Ngoài điều kiện tự nhiên biển, Việt Nam còn có tiềm năng lớn để thực
hiện nuôi trồng thủy sản.
Bảng 3.3 : Tiềm năng thủy sản nước mặn của Việt Nam
Đơn vị: Tấn
Vùng biển Vịnh bắc Bộ Trung Bộ Đông Nam Bộ Tây Nam Bộ Giữa Biển Đông Tổng Khả năng khai thác cho phép 270.000 370.000 710.000 200.000 250.000 1.800.000
Nguồn: [ 53, 344]
Tuy là một quốc gia có tiềm năng xuất khẩu thủy sản lớn, đứng thứ 7 thế giới trong
các nước xuất khẩu thủy sản lớn của thế giới, hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang 127
quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng 80% giá trị xuất khẩu sang 4 thị trường chủ lực: Nhật Bản,
Hoa kỳ, EU, Trung Quốc và Hồng Kong [53, 348]. Trong khi đó Hàn Quốc là một trong
những quốc giá có có nhu cầu nhập khẩu thủy sản lớn trên thế giới, (xem bảng 3.4: Các
nước nhập khẩu thủy sản chính trên thế giới), giá trị hải sản của Việt Nam trên thị trường
này vào năm 2003 chỉ chiếm 5,6%, 4 nước đứng trên Việt Nam là Trung Quốc năm 2003
chiếm 47%, Nga 13%, Mỹ 10%, Nhật 8% [41, 169] Giai đoạn 2007-2010, hàng thủy sản
của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng nhanh, tuy nhiên năm 2009 theo số liệu thống
kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, giá trị xuất khẩu thủy sản chỉ đạt 8,4 triệu tấn thấp hơn
33,2 lần so với năm 2007 (xem bảng 3.2, tr 90)
Để đẩy mạnh hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Hàn Quốc, các doanh
nghiệp Việt Nam phải tự nâng cao trách nhiệm trong việc kiểm soát chất lượng vệ sinh an
toàn đối với thủy sản xuất khẩu ở tất cả các khâu: nguyên liệu đầu vào, chế biến, bảo quản,
đóng gói, bao bì... Nhà nước Việt Nam phải xây dựng cơ quan giám định chất lượng, vệ sinh
an toàn ở tất cả các vùng xuất khẩu trọng điểm và có biện pháp chế tài mạnh đối với các
doanh ngiệp xuất khẩu thủy sản không đạt chất lượng vào thị trường Hàn Quốc. Việc làm
này chính là để bảo vệ thị trường xuất khẩu và uy tín của ngành thủy sản xuất khẩu của Việt
Nam. Mặt khác, phải đa dạng hóa sản phẩm thủy sản. Chú ý nâng cao giá trị gia tăng đối
với sản phẩm thủy sản. Việc làm này nhằm hạn chế được các vụ kiện bán phá giá nhằm vào
hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại với Hàn Quốc nhiều hơn, để giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường và bảo vệ thị
trường của mình tại Hàn Quốc.
Bảng 3.4: Các nước nhập khẩu thủy sản chính trên thế giới
Đơn vị: 1000 USD
Tên nước
Năm 2001 13.453.375 10.289.325 3.715.332 3.055.859 2.716.373 2.349.088 Kim ngạch nhập khẩu Năm 2002 13.646.071 10.065.328 3.852.942 3.206.511 2.906.007 2.419.534 Năm 2003 12.395.943 11.655.429 4.904.151 3.771.152 3.558.950 2.635.070 Nhật Bản Hoa Kỳ Tây Ban Nha Pháp Ý Đức
2.236.944 1.787.242 1.733.545 1.626.906 2.327.559 2.197.739 1.805.598 1.861.093 2.507.661 2.388.590 2.084.573 1.934.998
Anh Trung Quốc Đan Mạch Hàn Quốc Nguồn: [53, 339]
+ Mặt hàng cao su
Cao su là mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn của Việt Nam, đứng thứ 3 sau gạo và cà
phê. Việt Nam đã được xuất khẩu cao su qua 40 nước trên thế giới và khu vực. ( xem bảng
3.5 )
Bảng 3.5: Thị trường xuất khẩu cao su Việt Nam 2006
Nước Số lượng( tấn) Kim ngạch xuất khẩu
(triệu USD )
851,379 469.975 Trung Quốc
Hàn Quốc 50,768 32.324
58,606 30.066 Đức
44,580 22.429 Đài Loan
41,858 20.475 Nga
27,875 17.360 Hoa Kỳ
197,934 115.371 Các nước khác
Tổng cộng 1273,000 708.000
Nguồn: [53, 359]
Hàn Quốc nhập khẩu mỗi năm khoảng 900 triệu USD cao su và sản phẩm cao su.
Nhưng Việt Nam mới chỉ xuất khẩu chủ yếu dạng mủ cao su tự nhiên nên giá trị thấp. Năm
2009 xuất khẩu mủ cao su tự nhiên của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 9 triệu USD, chiếm
khoảng 5-6% trị giá nhập khẩu mặt hàng này của Hàn Quốc [41,170]. Trong giai đoạn
2007-2010, giá trị xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng nhanh, tuy nhiên giá
trị xuất khẩu giữa các năm không đều nhau. Năm 2007 là 66,7 triệu USD, năm 2008 là
63,18 triệu USD, năm 2009 là 40,83 triệu USD thấp hơn 1,6 lần so với năm 2007, năm 2010
tăng mạnh, đạt 97,8 triệu USD. (xem bảng 3.2, tr 102,103) Việt Nam muốn đẩy mạnh hơn
nữa xuất khẩu mặt hàng cao su vào Hàn Quốc phải nâng cao khả năng cạnh tranh với các
đối thủ hiện đang chiếm tỷ phần lớn về mặt hàng mủ cao su tự nhiên trên thị trường này là
Thái Lan chiếm 51%, Indonexia 23%, Malaixia 19% tổng lượng mủ cao su tự nhiên. [41,
170]
+ Mặt hàng rau củ quả
Trong giai đoạn (2000-2010), sản lượng sản xuất nông nghiệp nói chung và rau quả
nói riêng của Hàn Quốc liên tục giảm vì ngày càng thiếu lao động làm nông nghiệp và chi
phí trồng trọt tăng lên. Nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng nông sản nói chung và rau hoa quả
nói riêng vì thế cũng tăng lên nhanh chóng.[78]
Năm 2008, Hàn Quốc đã nhập khẩu trên 300 triệu USD các loại Rau, Củ, và trên 270
triệu USD các loại Quả tươi. Năm 2009 nhập khẩu khoảng 550 triệu USD các loại rau, củ và
quả tươi.[78]
Nhu cầu đối với các sản phẩm rau, hoa quả của Hàn Quốc rất lớn, nhưng việc cung
cấp các sản phẩm rau quả của Việt Nam cho thị trường 50 triệu dân này (tính đến tháng
1/2010) chưa cao. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thồng kê Việt Nam cho thấy, kim
ngạch xuất khẩu rau, hoa quả của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc trong năm năm 2007
đạt 10,4 triệu USD, 2008 đạt 19,44 triệu USD, năm 2009 đạt 8,44 triệu USD, năm 2010 đạt
11,47 triệu USD. Giá trị xuất khẩu tăng, tuy nhiên chưa tăng chưa đồng đều giữa các năm.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến việc đưa các sản phẩm rau quả của Việt
Nam thâm nhập thị trường Hàn Quốc còn thấp là do quy định nhập khẩu rau, củ, quả vào thị
trường này : Tất cả các loại rau, củ và hoa quả tươi nhập khẩu vào Hàn Quốc phải có Giấy
chứng nhận kiểm dịch thực vật của Hàn Quốc. Với các loại rau, quả chế biến, Bộ chứng từ
nhập khẩu còn được yêu cầu phải có Giấy chứng nhận xuất khẩu của nhà máy sản xuất chế
biến đã được phía Hàn Quốc chấp thuận từ trước về dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị
chế biến, kho lưu giữ bảo quản... [78]
Trong tương lai, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này, các nhà doanh nghiệp Việt
Nam cần tuân thủ theo những quy định từ phía Hàn Quốc, mặt khác cần đầy mạnh quảng
cáo, giới thiệu sản phẩm, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng để có thể cạnh tranh
được với các mặt hàng rau, củ quả đến từ các nước khác vào thị trường này.
+ Mặt hàng cà phê
Hàn Quốc được đánh giá là 1 trong 10 quốc gia chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị
nhập khẩu mặt hàng cà phê Việt Nam. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào
thị trường này chưa cao: năm 2007 đạt 45,67 triệu USD, năm 2008 đạt 82,91 triệu USD,
năm 2009 đạt 46,4 triệu USD, năm 2010 đạt 51,49 triệu USD. Lấy 51,49 triệu USD giá trị
xuất khẩu cà phê năm 2010 so với 23,17 triệu USD năm 2003, chỉ tăng gấp 2,2 lần. Như
vậy, tốc độ xuất khẩu cà phê vào thị trường này còn chậm.
Người tiêu dùng Hàn Quốc, với lối sống nhanh, cần sự tiện dụng do đó những sản
phẩm cà phê uống liền đóng gói bao bì thường được ưa chuộng hơn cả. Vì vậy các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam cần phải hiểu rõ tâm lý người tiêu dùng Hàn Quốc hơn
nữa. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung hơn vào việc phân đoạn thị trường các sản
phẩm cà phê uống liền, đa dạng hóa sản phẩm, tăng thêm hương vị mới, mỗi nhà cung cấp
cần có sản phẩm đặc trưng của mình, đây là điểm mấu chốt để kinh doanh thành công tại thị
trường cà phê Hàn Quốc.
Về kênh phân phối, cà phê ở Hàn Quốc chủ yếu được tiêu thụ thông qua các cửa
hàng bán lẻ, các siêu thị. Để việc xuất khẩu được hiệu quả và lâu dài, các doanh nghiệp Việt
Nam nên tham gia các hội chợ thường niên được tổ chức tại Hàn Quốc, qua đó hợp tác với
các nhà nhập khẩu đầu mối và các đại lý phân phối lớn để đẩy mạnh thâm nhập vào thị
trường này.
- Đối với hàng công nghiệp
+ Hàng dệt may, da giày
Hàng dệt may, giầy dép là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Hàn Quốc
cho đến giữa những năm 1980. Nhưng sau đó do chi phí tiền lương trong công nghiệp dệt
may, giầy dép tăng lên, lợi thế cạnh tranh của Hàn Quốc về các mặt hàng này giảm dần so
với các nước đi sau như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và các nước đang phát triển khác,
vì vậy Hàn Quốc đã chuyển hướng sang phát triển các mặt hàng có giá trị gia tăng cao với
kỹ thuật công nghệ cao hơn. Tình hình đó tạo ra một thị trường có triển vọng hơn với hàng
dệt may, giầy dép Việt Nam. [41, 171].
Năm 2003, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc có kim ngạch là
67,42 triệu USD lớn thứ hai sau hàng thủy sản, chiếm 13,7 % tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Hàn Quốc. Từ năm 2003 – 2010 xuất khẩu mặt hàng này sang Hàn Quốc
luôn tăng nhanh; năm 2007 đạt 82,55 triệu USD, năm 2008 đạt 139,337 triệu USD, năm
2010 đạt 431,634 triệu USD tăng 6.4 lần so vớ năm 2003 (xem bảng 3.6, tr 122). Do vậy
đẩy mặt xuất khẩu mặt hàng này là triển vọng lớn, chỉ cần các doanh nghiệp Việt Nam quan
tâm nhiều hơn đến thị trường Hàn Quốc và chú ý đáp ứng với tính đa dạng về nhu cầu hàng
dệt may mặc của thị trường này.
Năm 2003, hàng giầy dép có kim nghạch xuất khẩu sang Hàn Quốc là 20,47 triệu USD,
đứng thứ 6 trong hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc [41, 172] . Năm 2010 hàng
giầy dép có kim ngạch đạt 92,450 triệu USD, tăng 4,5 lần. Tuy nhiên mặt hàng này vào thị
trường Hàn Quốc chủ yếu thông qua con đường Việt Nam làm gia công theo đơn đặt hàng
của các công ty Hàn Quốc. Để thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép, Việt Nam cần tiếp tục tìm
kiếm các đối tác về phía Hàn Quốc.
Điều cần chú ý đối với hàng dệt may, da giầy xuất khẩu của Việt Nam nói chung hiện
nay là mang tính gia công. Vì vậy hiệu quả thu được rất thấp. Sản xuất càng phát triển
nhanh càng phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn. Vì vậy để cải thiện hiệu quả của
hai ngành xuất khẩu này, Việt Nam cần tăng cường sản xuất nguyên vật liệu để nâng cao giá
trị gia tăng của hàng xuất khẩu.
+ Mặt hàng đồ gỗ
Đồ gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Năm 2003, đồ gỗ
của Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc đạt kim ngạch 24,47 triệu USD, chiếm tỷ trọng
4,9 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. [41, 173]. Đến năm
2010, giá trị xuất khẩu đồ gỗ vào Hàn Quốc đã tăng cao, đạt 138, 476 triệu USD gấp 5,6 lần
so với kim ngạch xuất khẩu năm 2003. (xem bảng 3.6 tr 97). Đây là mặt hàng được đánh giá
có nhiều tiềm năng, tuy là mặt hàng mới trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
Hàn Quốc nhưng đã sớm được thị trường này chấp nhận. Tuy nhiên trong tương lai, để mặt
hàng này xuất khẩu vào Hàn Quốc đạt kim ngạch cao hơn, Việt Nam cần phải chú ý hơn
nữa công tác giới thiệu, quảng cáo, thiết lập nhiều kênh thông tin...đặc biệt cần phải thay đổi
mẫu mã thường xuyên, nâng cao chất lượng... để mặt hàng này được phổ biến trên thị
trường Hàn Quốc.
+ Mặt hàng dầu thô.
Việt Nam tổ chức xuất khẩu dầu thô từ năm 1986, bắt đầu từ đây dầu thô đã trở thành
ngành chủ lực xuất khẩu ra bên ngoài. Đến năm 2007 dầu khí vẫn là ngành xuất khẩu chủ
lực mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, trên 8,2 tỷ USD, đóng góp 20% GDP của Việt
Nam, đóng góp 30% ngân sách Nhà nước. [53, 336]
Ngành dầu khí Việt Nam hiện là ngành đầu tư mạnh mẽ nhất ra bên ngoài với 7 dự án
đầu tư ở các nước Iraq, Indonesia, Malaysia, Algierie, Mông Cổ, Veneduele...[53, 337].
Hàn Quốc cũng là thị trường Việt Nam hướng tới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
thống kê Việt Nam, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam vào thị trường này liên tục tăng, năm
2007 đạt 11, 430 triệu USD, năm 2010 đạt 556, 121 triệu USD tăng 48,6 lần so với năm
2007. ( xem bảng 3.6, tr 97). Ngành dầu khí Việt Nam cần nỗ lực hơn để đẩy mạnh xuất
khẩu dầu thô vào thị trường này. Mặt khác cần đẩy mạnh đưa ra chiến lược mới, phát triển
ổn định để thực hiện sứ mạng đảm bảo an ninh năng lượng cho công cuộc xây dựng đất
nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảng 3.6: Một số hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn
Quốc trong giai đoạn 2007-2010
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng 2007 2008 2009 2010
11.430 172.244 16.910 556.121 Dầu thô
Gỗ và sản
84.444 101.457 389.096 138.476 phẩm gỗ
Giầy dép các
50.514 64.283 95.130 92.450 loại
82.550 139.337 61.819 431.634 Hàng dệt may
Máy vi tính và
44.202 51.453 59.778 76.364 linh kiện
Sản phẩm gốm
11.607 11.457 943 11.299 sứ
Sản phẩm mây,
5.091 5.770 11.911 5.305 tre, cói & thảm
39.801 91.362 14.724 139.982 Than đá
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam ( http://www.gso.gov.vn)
3.2.2.2. Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc
Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn đến việc đa dạng hóa sản phẩm trao đổi, cũng như
nâng cao sức cạnh tranh của chúng. Khi thâm nhập thị trường Hàn Quốc hàng hoá của Việt
Nam phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trong đó phải đặc biệt kể đến Trung Quốc, do đó để
có thể trụ vững trên thị trường này, việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam là
điều hết sức cần thiết. Căn cứ vào khả năng cạnh tranh của Việt Nam và đặc điểm thị trường
người tiêu dùng Hàn Quốc, Việt Nam cần tập trung vào những mặt hàng đã được thị trường
Hàn Quốc chấp nhận như: Hải sản, dệt may, giày dép, đồ gỗ,dược liệu, than đá và rau quả,
cà phê, cao su... là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng. Do đó trong thời gian tới
Việt Nam cần duy trì và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng này. Tuy nhiên trong đó Việt
Nam cũng cần lưu ý tăng cường xuất khẩu những sản phẩm chế biến vừa để nâng cao giá trị
xuất khẩu, vừa để khắc phục tính bất ổn của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, tạo niềm tin
cho các nhà nhập khẩu Hàn Quốc.
Ngoài ra Việt Nam phải không ngừng ổn định và nâng cao chất lượng hàng xuất
khẩu để đảm bảo uy tín với bạn hàng. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện tăng
cường khâu chế biến để tiến tới bán những sản phẩm thị trường Hàn Quốc cần. Đặc biệt chú
ý nâng cao chất lượng hàng nông lâm sản, bởi thị trường Hàn Quốc vốn rất khắt khe đối với
việc nhập khẩu những mặt hàng này. Việc kí kết thoả thuận Kiểm dịch thực vật tháng 9 năm
2003 và thoả ước về Kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thuỷ sản càng làm tăng thêm cơ
hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa hàng vào thị trường này. Tuy nhiên cũng cần nỗ
lực khắc phục ảnh hưởng của thời tiết, thực hiện thâm canh, tăng vụ, đầu tư nghiên cứu phát
triển giống mới có chất lượng cao kết hợp với việc kiểm tra chất lượng sản phẩm bắt buộc.
Có như thế vị trí hàng hoá Việt Nam trên trên thị trường thế giới nói chung và thị trường
Hàn Quốc nói riêng mới được cải thiện đáng kể.
Ngoài ra để nâng cao khả năng cạnh tranh, Việt Nam cũng cần quan tâm đến đặc
điểm của người tiêu dùng Hàn Quốc. Do những thay đổi của lối sống, xu thế tiêu dùng của
người Hàn Quốc những năm gần đây có nhiều nét mới. Điều dễ nhận thấy là sự gia tăng tiêu
dùng những thực phẩm chất lượng cao, đồ ăn liền, giảm gạo và lúa mì, tăng nhu cầu về dịch
vụ, đặc biệt rất nhạy cảm với vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đối với các thực phẩm,
doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý tới khẩu vị của người dân Hàn Quốc ví dụ như cá khô,
mực khô, mì ăn liền phải tẩm cay hơn…Bên cạnh yếu tố chất lượng và giá cả, Hàn Quốc
còn quan tâm đến hình thức sản phẩm và dịch vụ khách hàng. Đây cũng chính là điểm yếu
của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng hoá xuất khẩu nói riêng. Do đó cần tích cực đầu
tư cải tiến bao bì, mẫu mã sản phẩm cũng như đáp ứng tốt dịch vụ sau bán hàng cho phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng Hàn Quốc. Có như thế hàng hoá Việt Nam không những có
thể đứng vững trên thị trường Hàn Quốc mà còn có thể cạnh tranh được với hàng Thái Lan,
Trung Quốc trên đất Hàn.
3.2.2.3. Xây dựng phương thức bán hàng hiệu quả
Xây dựng phương thức bán hàng là việc làm quan trọng quyết định đến sự sống còn
của các doanh nghiệp. Hiện tại có hai phương pháp bán hàng phổ biến: phương pháp bán
hàng chủ động và phương pháp bán hàng thụ động.
+ Phương pháp bán hàng chủ động là thiết lập hệ thống nhân viên bán hàng tiếp cận
khách hàng một cách chủ động. [83] Với phương pháp này các doanh nghiệp có thể trực
tiếp xây dựng đội ngũ nhân viên bán hàng, thông qua các nhà phân phối hay kết hợp giữa
trực tiếp xây dựng ở các thị trường trọng điểm, có thế mạnh với thông qua các nhà phân
phối ở các thị trường khác. Tuy nhiên việc sử dụng phương pháp bán hàng chủ động đòi hỏi
nhiều nguồn lực và chi phí cao...
+ Với phương pháp bán hàng thụ động các doanh nghiệp thiết lập hệ thống bán buôn
dựa trên nguyên tắc tạo ra độ dốc trong hệ thống kênh bằng việc tạo ra lợi nhuận cho các
nhà buôn. Một số công ty khá cực đoan khi cho rằng họ có thể loại bỏ được vai trò của các
nhà bán buôn khi đã thiết lập được một hệ thống kênh phân phối chủ động tới tận các nhà
bán lẻ. Trên thực tế để thành công các doanh nghiệp cấn phải biết kết hợp cả hai phương
pháp này tạo ra được sự hài hoà nhất quán và hạn chế các xung đột trong vận hành. [83]
Việc xây dựng phương thức bán hàng sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam thâm
nhập sâu hơn vào thị trường Hàn Quốc từ đó góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang
thị trường này. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần xem xét phương thức sử
dụng đại lý bán hàng là các công ty Hàn Quốc thuộc thành viên của Hiệp hội các nhà nhập
khẩu để đễ dàng đưa hàng hóa vào thị tường này. Mặt khác khi xuất khẩu vào Hàn Quốc các
doanh nghiệp Việt Nam nên sử dụng các đại lý tại Hàn Quốc, không nên giữ thói quen mua
đứt bán đoạn.
Để có thể xuất khẩu hàng nông sản nói riêng và những mặt hàng khác nói chung vào
Hàn Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường tham gia đấu thầu tại thị trường này.
Hàng năm, Hàn Quốc đều tổ chức các đợt đấu thầu nhập khẩu các mặt hàng nông sản như
gạo, đỗ tương, đỗ đỏ, dầu vừng…vốn là một trong những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh.
Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đặt quan hệ chặt chẽ với các nhà nhập khẩu Hàn
Quốc, cung cấp giá và mẫu hàng để tham gia đấu thầu. Có như thế doanh nghiệp Việt Nam
mới có thể tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này.
Thương mại trao đổi hàng hai chiều trong đó áp dụng những ràng buộc về xuất nhập
khẩu cũng là một phương thức nên khuyến khích thực hiện. Chính phủ Việt Nam cần đàm
phán để Hàn Quốc mở cửa hơn nữa cho hàng hoá Việt Nam, đặc biệt là mặt hàng thịt và gạo,
giảm bớt sự mất cân bằng trong cán cân thương mại giữa hai nước.
Bên cạnh các phương thức bán hàng nói trên các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần
nghiên cứu và từng bước chuẩn bị để tiến tới áp dụng thương mại điện tử hay còn gọi là bán
hàng qua mạng với Hàn Quốc. Đây là một phương thức bán hàng có hiệu quả, giúp tiết
kiệm thời gian và chi phí. Tuy hiện tại phương thức này chưa phát triển rộng rãi ở Việt Nam
nhưng trong tương lai gần, đây sẽ là phương thức giao dịch thương mại phổ biến và thuận
tiện nhất. Để làm được điều này doanh nghiệp Việt Nam cần mạnh dạn đầu tư về cả nhân
lực - những chuyên gia về công nghệ điện tử và vật lực - máy tính, phần mềm máy tính…để
việc thực hiện đem lại hiệu quả cao.
3.2.2.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại được coi là chiến lược phát triển kinh tế,
thúc đẩy xuất khẩu thông qua các biện pháp khuyến khích...Trong quan hệ thương mại, các
doanh nghiệp hai nước còn hiểu ít về thị trường của nhau. Đây sẽ là điểm bất lợi cho hàng
hoá Việt Nam, cũng như hàng hóa của Hàn Quốc khi xuất khẩu sang thị trường của nhau.
Do đó để khắc phục tình trạng trên, công tác nghiên cứu thị trường cần được tiến hành một
cách bài bản và có hệ thống. Hoạt động này không những sẽ giúp cho việc quảng bá sản
phẩm xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hàn Quốc mà còn giúp Việt Nam có điều kiện tìm
hiểu sâu hơn thị trường này.
Về phía Chính phủ Việt Nam, để hoạt động xúc tiến thương mại có hiệu quả, vai trò
của các tham tán thương mại là rất quan trọng. Trực tiếp hoạt động trên đất nước Hàn Quốc,
nghiên cứu, tìm hiểu rõ vể thị trường này, họ phải là tác nhân gắn kết các doanh nghiệp
trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường này. Họ phải tích cực cung cấp những
thông tin hữu ích về doanh nghiệp Hàn Quốc, về đặc điểm thị trường Hàn Quốc tới doanh
nghiệp Việt Nam và ngược lại đem đến cho doanh nghiệp Hàn Quốc những hiểu biết về
doanh nghiệp Việt Nam, hàng hoá Việt Nam.... Ngoài ra Bộ Thương mại cần tổ chức nhiều
hơn nữa các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp hai nước để họ tìm hiểu nhau, trao đổi kinh
nghiệm, để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình tiến tới hợp tác kinh doanh. Những
cuộc tiếp xúc thường xuyên kiểu này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả hai bên. Bên cạnh
đó cần nâng cao vai trò hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp của các tổ chức xúc tiến thương mại,
nhất là của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.. Mặt khác, việc chọn lựa, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu kiên định về chính trị, tư tưởng, thành
thạo về nghiệp vụ, tinh thông về ngoại ngữ và các phương tiện kinh doanh hiện đại, trong
sạch về phẩm chất đạo đức là nhiệm vụ sống còn, cần được các cấp, các ngành quan tâm
thoả đáng.
Về phía các doanh nghiệp cũng phải tăng cường khâu quảng cáo tiếp thị để có thể
trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
và sự phát triển mạnh mẽ của mạng may tính toàn cầu việc trao đổi thông tin được thực hiện
hết sức nhanh chóng và hiệu quả. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam quảng bá
sản phẩm của mình tới thị trường Hàn Quốc. Với một khoản phí không nhiều các doanh
nghiệp Việt Nam cần xây dựng và nâng cấp những trang Web, giới thiệu đầy đủ thông tin
về công ty, về sản phẩm của mình. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tận
dụng vai trò của cơ quan Thương vụ Việt Nam ở Hàn Quốc. Đây là biện pháp mà hiện nay
được rất ít doanh nghiệp Việt Nam áp dụng trong khi các doanh nghiệp Hàn Quốc đã tích
cực tiến hành triệt để. Ngoài ra khi liên hệ với các nhà nhập khẩu Hàn Quốc, doanh nghiệp
Việt Nam nên gửi hàng mẫu và bảng giá để giới thiệu về công ty mình. Khi đã có mối liên
hệ bằng việc trao đổi những thông tin cần thiết ban đầu, doanh nghiệp Việt Nam nên sang
Hàn Quốc và mang theo hàng mẫu cũng như thông tin cụ thể hơn như bảng giá chào xác
định, số lượng có thể giao để thoả thuận hợp đồng.
3. 3. Các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam
Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài
giữ một vai trò quan trọng. Đây là nguồn lực bổ sung hiệu quả cho công cuộc công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, là cầu nối thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các
nước đầu tư trong đó có Hàn Quốc. Mặc dù môi trường đầu tư ở Việt Nam trong mấy năm
gần đây đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập gây trở ngại
cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Hàn Quốc nói riêng. Do đó để
tăng cường quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện
một số giải pháp sau:
3.3.1. Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư
Để thu hút các dự án đầu tư của Hàn Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có
chiến lược khuyến khích đầu tư, để nhanh tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ hiện
đại từ Hàn Quốc.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần triển khai và áp dụng nghiêm hệ thống quy định các
yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút, đào tạo kỹ năng cho người
lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng của các dự án đầu tư tùy theo lĩnh vực
và địa bàn đầu tư. Quy định về trình độ công nghệ dự án đầu cho từng ngành theo địa bàn
đầu tư. Đối với các đô thị có mật độ công nghiệp cao, những địa bàn phát triển du lịch sinh
thái sẽ hạn chế tối đa thu hút đầu tư có hàm lượng công nghệ thấp, gây ô nhiễm ở mức độ
nhất định và tỷ trọng gia công cao.
Thông qua nguồn vốn đầu tư, các công ty Hàn Quốc với các ưu thế của mình đã tạo
nên những ảnh hưởng to lớn đến các nước tiếp nhận đầu tư, trong đó có Việt Nam. Nguồn
vốn của các công ty này tham gia đóng góp bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước, cân
bằng cán cân thanh toán tại nước tiếp nhận. Ngoài ra việc tiếp nhận đầu tư có nhiều cơ hội
nhận sự chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh,
đào tạo đội ngũ lao động, tăng khả năng cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận, hội nhập với
kinh tế thế giới. Do đó, đòi hỏi phải có những biện pháp và chính sách cởi mở nhằm khuyến
khích các công ty Hàn Quốc đến đầu tư vào Việt Nam
3. 3. 2. Phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và một địa phương tiếp nhận đầu tư trực tiếp
nước ngoài luôn là điều kiện hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các
quyết định để triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm
một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và
các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế..vì vậy để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nhà đầu tư Hàn Quốc trong thời gian tới Việt
Nam cần tiến hành nâng cấp hệ thống đường bộ cả nước, cải tiến sâu sắc các hoạt động của
ngành hàng không Việt Nam trên cơ sở phải hoạch toán kinh tế, cần hiện đại hoá sân bay
Nội Bài, Đà Nẵng, sân bay Tân Sơn Nhất nhằm đáp ứng các chuyến bay trong nước và quốc
tế, mặt khác đảm bảo độ an toàn cho các chuyến bay, cải thiện hệ thống giao thông đô thị
và chú trọng phát triển mạng lưới giao thông ở các vùng nông thôn, vùng xa căn cứ trong
quy hoạch phát triển chi tiết của từng địa phương; cải tạo hệ thống cảng biển, nâng cao hiệu
quả hoạt động đặc biệt các cảng: Sài Gòn, Vũng Tàu...; hệ thống đường sắt cũng cần cải tạo
nâng cấp như mở rộng độ rộng đường ray, làm mới, thay dần các tàu cũ bằng các tàu mới
hiện đại chất lượng cao; phát triển hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, cần điều chỉnh
mức cước phí thông tin và bưu điện theo hướng phù hợp với người sử dụng và ngang bằng
với các nước trong khu vực và thế giới, mở rộng mạng lưới Internet trên toàn quốc, cải tạo
và xây dựng mới các công trình cung cấp điện nước và đảm bảo đủ cho sinh hoạt và sản
xuất đồng thời cũng phải điều chỉnh giá điện nước cho hợp lý; Nhà nước cần xây dựng hiện
đại các công trình phục vụ sản xuất, các công trình công cộng và khu vui chơi giải trí đáp
ứng nhu cầu nghỉ ngơi giải trí.
Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài thuận
tiện trong kinh doanh, giảm chi phí vận chuyển, từ đó làm tăng hiệu quả đầu tư. Trong các
điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính sách đất đai và
bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào
Việt Nam; nếu giải quyết được ổn thoả những vướng mắc của lĩnh vực này, cụ thể là việc
giải phóng mặt bằng cho các dự án thì các nhà đầu tư sẽ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và
lâu dài hơn nữa.
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn
của môi trường đầu tư mà đó còn là cơ hội để Việt Nam có thể và có khả năng thu lợi đầy
đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông qua thu nhập từ dịch vụ vận tải,
thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai)
3. 3. 3. Cải cách thủ tục hành chính
Hiện nay, lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các nhà
đầu tư đến từ Hàn Quốc là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian
và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Đây cũng chính là điểm yếu làm giảm lợi thế cạnh tranh
của môi trường đầu tư Việt Nam. Bộ máy hành chính cần phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng
suốt và nhạy bén về chính sách với những thủ tục hành chính không phiền toái... Những quy
định pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán được thực hiện bởi
những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp
luật.
Để xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn thoả mãn các tiêu chí trên, chính
phủ Việt Nam cần tục rà soát lại pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các
nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, cần coi thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có
Hàn Quốc trong thời gian tới là ưu tiên đặc biệt. Muốn vậy cần tạo ra sự hấp dẫn đặc biệt để
cạnh tranh với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia..đây là những thị
trường đầu tư truyền thống của Hàn Quốc, nhằm thu hút lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài từ Hàn Quốc, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế khi hội nhập đầy đủ với thế giới. Các
chính sách ưu đãi đầu tư phải được cụ thể hoá. Các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp, kể cả các dự án đầu tư mở rộng, chính sách một giá, miễn giảm tiền
thuê đất... cần được sửa đổi nhanh chóng linh hoạt. Không nên quy định thời gian tồn tại
của dự án. Không vì sự vi phạm của một vài doanh nghiệp hay một vài nhà đầu tư mà thắt
chặt thêm các quy định luật lệ làm khó khăn hơn cho số đông các doanh nghiệp và nhà đầu
tư khác.
Chính phủ Việt Nam nên lập bản đồ quy hoạch về đầu tư, kể cả đầu tư trong và ngoài
nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn chế số lượng dự án
sản xuất hàng xuất khẩu; chỉ hạn chế về số lượng, quy mô dự án sản xuất hàng hoá phục vụ
nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn cung cầu trên thị trường, tránh lãng phí đầu tư.
Các địa phương được phân cấp và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy
hoạch về đầu tư để tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính
phủ và thiệt hại cho nhà đầu tư.
Chính phủ Việt Nam cần dành sự quan tâm hơn nữa đến các công ty đầu tư trực tiếp
của Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam. Vì theo kinh nghiệm các nhà đầu tư, trước khi
quyết định đầu tư vào Việt Nam đều tham khảo ý kiến nhận xét của lãnh đạo các công ty
đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các nhà đầu tư coi đánh giá, nhận
xét này là khách quan và là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đi đến quyết định cuối cùng. Vì vậy,
chính phủ Việt Nam cần quan tâm giải quyết những vướng mắc, khó khăn và cùng các
doanh nghiệp này tháo gỡ ngay các rào cản...để nâng cao hiệu quả thu hút từ bên ngoài.
3. 3.4. Nâng cao trình độ cho các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam
- Đối với các doanh nghiệp.
Điều kiện hàng đầu để thu hút các nhà đầu tư nước từ Hàn Quốc: cần phải có một đội
ngũ nhân lực có trình độ kỹ thuật cao.. Mặt khác cần phải am hiểu phong tục tập quán,
phong cách làm việc của đối tác. Đây là một trong những vấn đề quan trọng để thu hút vốn
đầu tư từ Hàn Quốc. Thiếu nhân lực có kỹ thuật lành nghề, thiếu các nhà lãnh đạo quản lý
cấp cao, các nhà doanh nghiệp tài ba, sự bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán... cùng
với sự kém phát triển về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó đáp ứng được các
yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ. Vì vậy cần phải nâng cao trình độ
quản trị doanh nghiệp và đào tạo đội ngũ doanh nhân. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
phải là nhiệm vụ cấp bách, nhiệm vụ chung của cả doanh nghiệp và toàn xã hội. Kiến thức
và kỹ năng cần quan tâm đào tạo các nhà quản trị doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam là:
+ Kiến thức, kỹ năng quản trị hiện đại và chuyên nghiệp
+ Ngoại ngữ, mà trước hết và trọng yếu là tiếng Anh
+ Tin học ứng dụng trong giao tiếp, thương mại và quản lý hệ thống thông tin doanh
nghiệp...
Doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh chuyên môn hóa sản phẩm mà Việt Nam có
nhiều thế mạnh, thực hiện liên doanh, liên kết nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào tất
cả các lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh...
Hiện tại ở Việt Nam trình độ kỹ thuật của người lao động chưa cao, thiếu các chuyên
viên có trình độ kỹ thuật quản lý cao. Trong khi đó, Hàn Quốc nổi tiếng là nước có lực
lượng lao động quy củ, trình độ kỹ thuật cao. Những bất cập của lao động Việt Nam chắc
chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến quyết định bỏ vốn đầu tư của những nhà đầu tư Hàn Quốc.
Vì vậy một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, trình độ kỹ thuật tiên tiến sẽ đủ
sức tiếp thu công nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư
nước ngoài. Đây là điều kiện cần thiết để có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn
nguồn vốn nước ngoài, cũng như từ các nhà đầu tư Hàn Quốc. Hệ thống các doanh nghiệp
đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành
nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng
tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mạng lưới
các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó,
nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và
quốc tế.
- Đối với người lao động.
Để thu hút vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam, nâng cao trình độ kỹ thuật, trình
độ ngoại ngữ cho người lao động là việc làm cần thiết và phải tiến hành thường xuyên. Hàn
Quốc là một quốc gia phát triển, trình độ kỹ thuật tiên tiến, với trình độ kỹ thuật chưa cao
của lao động Việt Nam là một bất cập gây khó khăn cho quá trình thu hút vốn đầu tư từ phía
Hàn Quốc. Trong thời gian tới Việt Nam cần phải nâng cao trình độ kiến thức kỹ năng nghề
cho người lao động. Trình độ kiến thức kỹ năng nghề không chỉ căn cứ vào bằng cấp, chứng
chỉ của các cơ sở đào tạo trong nước mà phải được xác định thông qua tuyển lựa, kiểm tra,
đánh giá của phía đối tác nước ngoài, quan trọng hơn, nó phải được thể hiện trong năng lực
làm việc thực sự của người lao động có đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ sản xuất, độ
phức tạp của công việc mà họ đảm nhiệm ở nước ngoài hay không.
Trên thực tế, nhiều lao động Việt Nam được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng,
cở sở nghề có uy tín… nhưng không đáp ứng được yêu cầu từ phía các công ty Hàn Quốc,
vì họ không được đào tạo bài bản. Trong khi thị trường Hàn Quốc đòi hỏi lao động Việt
Nam phải được đào tạo cơ bản và chuyên sâu, đặc biệt phải phù hợp với công nghệ sản xuất
cụ thể.
Như vậy, muốn có nguồn lao động đạt trình độ kỹ thuật cao, phong phú, đa dạng đáp
ứng được các yêu cầu từ phía các nhà đầu tư Hàn Quốc, các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động Việt Nam phải trông cậy vào " sản phẩm đầu ra" của hệ thống dạy nghề, các trường
cao đẳng đại học trong và ngoài nước.
Trong những năm gần đây, các cơ sở dạy nghề, các trường đại học, cao đẳng... đã có
bước phát triển mạnh mẽ về quy mô và tiến bộ bước đầu về chất lượng đào tạo. Tuy nhiên
đó chỉ là số ít, phần đông chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường về nghề, cấp độ và
công nghệ cần đào tạo, nên sản phẩm đầu ra chưa đáp ứng yêu cầu thị trường ngoài nước
cũng như nhu cầu từ phía Hàn Quốc. Việc đào tạo ngoại ngữ trong trường đại học, cao
đẳng, các trường dạy nghề cũng chưa đáp ứng yêu cầu cho học sinh, sinh viên ra trường có
đủ trình độ đi làm việc ở các công ty nước ngoài theo nghề được đào tạo.
Một trong những nguyên nhân chính của tình hình trên là do chưa có sự gắn kết chặt
chẽ, hợp tác chiến lược giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Sự gắn
kết này nếu được thiết lập tốt sẽ đem lại lợi ích to lớn cho cả hai phía. Nhà trường sẽ thực
hiện định hướng thị trường trong đào tạo, có điều kiện nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới
vào đào tạo, nâng chất lượng " đầu ra" và tăng sức hấp dẫn "đầu vào".
Theo tiến sĩ Nguyễn Lương Trào (Chủ tịch Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam), để
nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động Việt Nam, trong tương lai phải xây
dựng mô hình "ba nhà" (Nhà nước, nhà trường, nhà tuyển dụng). Việc gắn kết giữa "Nhà
tuyển dụng" (Doanh nghiệp xuất khẩu lao động) và " nhà trường" (Cơ sở dạy nghề) trong
việc chuẩn bị nguồn lao động có trình độ kỹ năng nghề và ngoại ngữ cho thị trường ngoài
nước là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, sự gắn kết này chỉ thực sự có hiệu quả, bền vững và
thực sự tháo gỡ khó khăn cho người lao động, nhất là về kinh phí học nghề, ngoại ngữ, vốn
vay để trang trải các chi phí xuất cảnh khi có sự vào cuộc đồng bộ của "Nhà nước" (Cơ quan
quản lý nhà nước về dạy nghề và về xuất khẩu lao động). Vai trò " Nhà nước" ở đây chính
là " bà đỡ" tạo cơ chế và theo dõi, chỉ đạo sự gắn kết đó đi đúng hướng, hiệu quả. Đây cũng
chính là sự đầu tư cần thiết và hiệu quả của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực và
đem lại lợi ích to lớn nhiều mặt của xuất khẩu lao động cho xã hội.
Như vậy để thu hút vốn đầu tư và đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng lao động từ phía
Hàn Quốc, trong thời gian tới Việt Nam cần phải có những giải pháp nâng cao trình độ kỹ
thuật tay nghề cho người lao động. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam cần hợp
tác với một số trường nghề và ngược lại, mỗi trường nghề có quan hệ hợp tác với một số
doanh nghiệp xuất khẩu lao động để tư vấn, tuyển chon, tạo điều kiện cho học sinh, sinh
viên có nguyện vọng làm việc ở những công ty của Hàn Quốc tại Việt Nam hoặc đi xuất
khẩu lao động tại Hàn Quốc. Đây là quan hệ hợp tác tự nguyện, lâu dài, đôi bên cùng có
lợi. Cơ quan quản lý Nhà nước về dạy nghề bố trí kinh phí và tổ chức đấu thầu, giao chỉ tiêu
đào tạo cho các trường có năng lực tốt nhất trong đào tạo nghề tương ứng thực hiện. Các
trường dạy nghề được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động
với đối tác Hàn Quốc, cần cụ thể hoá chương trình đào tạo nghề và ngoại ngữ (đặc biệt là
tiếng Hàn) phù hợp yêu cầu của các công ty Hàn Quốc. Lồng ghép tiếng Hàn trong đào tạo
nghề theo chương trình chuẩn cho từng nghề. Tuyển lựa người lao động có nguyện vọng
đăng ký học theo chương trình mục tiêu xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc hoặc làm việc ở
các công ty Hàn Quốc tại Việt Nam, tư vấn, giới những nét văn hóa của dân tộc Hàn để
người lao động hiểu được tính cách và nét văn hóa tiêu biểu của người Hàn...
Tóm lại, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ cho người lao động Việt Nam
để thu hút đầu tư từ Hàn Quốc là cần thiết và cấp bách. Để thực hiện thành công cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước, các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở
dạy nghề, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động...
Tiểu kết chương III
Qua 18 năm hợp tác, quan hệ Việt- Hàn ngày càng ổn định và phát triển. Tuy nhiên,
để quan hệ Việt - Hàn phát triển bền vững trong tương lai, chính phủ hai dân tộc cần có sự
định hướng cho những chặng đường tiếp theo: Chính phủ Việt - Hàn không ngừng củng cố
và nâng cao quan hệ đối ngoại giữa hai quốc gia trên cơ sở độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ. Cần đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư từ hai
quốc gia, đẩy mạnh phát triển công nghệ...Mặt khác, để quan hệ Việt-Hàn phát triển bền
vững, trong thời gian tiếp theo, Việt Nam - Hàn Quốc cần giữ vững sự ổn định về chính trị,
kinh tế - xã hội, đồng thời phải kiên trì đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế, hoàn thiện
cơ chế thị trường...Việt Nam cần nâng cao chất lượng hàng hóa, kiểm dịch hàng xuất khẩu
sang Hàn Quốc chặt chẽ hơn, như thế sẽ tạo được sự tin tưởng, uy tín và nâng cao vị thế
cạnh tranh vào thị trường này. Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, đầu
tư trực tiếp từ Hàn Quốc đóng vai trò quan trọng. Đây là nguồn lực bổ sung hiệu quả cho
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tăng cường quan hệ đầu tư từ phía
Hàn Quốc nhiều hơn nữa, Việt Nam cần xây dựng hệ thống chính sách khuyết khích đầu tư,
xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, tiến hành cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trình
độ doanh nghiệp cũng như nâng cao trình độ tay nghề cho lao động Việt Nam...như thế sẽ
tạo quả tốt hơn cho quan hệ kinh tế Việt - Hàn trong những chặng đường tiếp theo.
KẾT LUẬN
Việt Nam – Hàn Quốc là hai quốc gia cùng nằm trong khu vực Đông Á, có truyền
thống văn hóa, lịch sử hàng nghìn năm. Trong quá khứ, cả hai dân tộc đều bị các cuộc chiến
tranh tàn phá khốc liệt và là những thuộc địa có trình độ thấp, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi
giành được độc lập, chính phủ và nhân dân hai nước đều mong muốn sống trong hòa bình,
tập trung sức lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế đất nước, để
đưa đất nước thoát nghèo, lạc hậu, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Nền kinh tế của Hàn Quốc trước khi bước vào công nghiệp hóa và Việt Nam trước
khi bước vào đổi mới đất nước đều mang tính chất nông nghiệp là chủ yếu, trình độ sản xuất
thô sơ, dân số đông.. Tuy nhiên cả hai dân tộc đều có chung một lợi thế là có nguồn lao
động dồi dào và giá rẻ. Đồng thời những ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Khổng giáo như
lòng trung thành, tính hiếu học, và tinh thần dân tộc cao... là những khía cạnh tích cực của
Việt nam và Hàn Quốc.
Việt Nam – Hàn Quốc đã có lịch sử phát triển quan hệ lâu dài trong quá khứ. Cuộc
chiến tranh do Mỹ phát động ở miền Nam Việt Nam (1954-1975), có sự tham gia của Hàn
Quốc. Đây là một sự kiện không tốt đẹp mà sau này người Hàn luôn tìm cách bù đắp lại cho
Việt Nam. Với mong muốn “xếp lại quá khứ, hướng tới tương lai”, hai dân tộc cùng chung
quyết tâm phát triển quan hệ hợp tác trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền dân tộc vì lợi ích
lâu dài của nhân dân hai nước, phấn đấu vì sự ổn định, hợp tác và thịnh vượng cũng như
trên thế giới. Ngày 22-12-1992, Việt Nam – Hàn Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ
ngoại giao.
Trong 18 năm quan thiết lập quan hệ kinh tế (1992-2010), Việt Nam – Hàn Quốc đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng, đầu tư của Việt Nam sang
Hàn Quốc và ngược lại từ Hàn Quốc vào Việt Nam đã có đóng góp to lớn trong quá trình
thúc đẩy nền kinh tế của hai nước phát triển. Trong suốt giai đoạn 1992-2010, Hàn Quốc
luôn tỏ ra là nhà đầu tư số một ở Việt Nam, với số vốn đầu tư đều tăng qua các năm. Đây là
một minh chứng cho thấy thị trường Việt Nam đang ngày càng thu hút và hấp dẫn đối với
Hàn Quốc. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, Việt Nam đầu tư quá ít vào Hàn Quốc, số vốn đầu
tư và các dự án không nhiều. Nguyên nhân có nhiều lý do; Việt Nam vẫn là một quốc gia
nghèo, trình độ lao động kỹ thuật thấp, vốn đầu tư ít..Việt Nam đã bắt đầu có sự đầu tư ra
bên ngoài, tuy nhiên những quốc gia mà Việt Nam hướng tới đều có thị trường gần tương
đồng với Việt Nam, như Lào, Cam puchia... thị trường không quá khắt khe. Trong khi đó
Hàn Quốc là quốc gia công nghiệp, trình độ kỹ thuật cao, có nhiều tiềm năng, thị trường đòi
hỏi có trình độ kỹ thuật cao...đây là lý do khiến các nhà đầu tư Việt Nam lo ngại.
Thiết lập quan hệ kinh tế Việt – Hàn, bên cạnh góp phần thúc đầy kinh tế, nâng cao
mức sống cho nhân dân hai nước, còn giúp nhân dân hai quốc gia quên đi hận thù xưa, gần
lại với nhau hơn trong việc trao đổi và giao lưu văn hóa. Một minh chứng rõ ràng cho thấy,
văn hóa Hàn đang từng bước thâm nhập vào Việt Nam thông qua những bộ phin Hàn
thường xuyên được phát sóng trên truyền hình Việt Nam. Văn hóa mặc, văn hóa ẩm thực
của Hàn Quốc từng bước có mặt trên thi trường Việt Nam. Trào lưu văn hóa Hàn đang từng
bước có mặt ở Việt Nam, cần tiếp thu có chọn lọc tránh bị hòa tan vào dòng chảy văn hóa
này.
Thiết lập quan hệ kinh tế Việt - Hàn là cần thiết và đúng đắn trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay. Việt Nam - Hàn Quốc cần phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt
hạn chế đẩy thúc đẩy quan hệ Việt - Hàn lên tầm cao mới. Mặt hạn chế trong quan hệ kinh
tế Việt – Hàn:
Thứ nhất: Khoảng cách trong trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc
còn quá xa. Trong khi Hàn Quốc đã là một nước tư bản phát triển, là thành viên của Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, có kinh nghiệm quản lý tiên tiến và kĩ thuật công nghệ
hiện đại thì Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Tất cả những sự chênh lệch nói trên là một trở ngại lớn trong quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Thứ hai: Việt Nam luôn ở vào tình trạng nhập siêu quá lớn từ Hàn Quốc, do phần lớn
hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc là nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất.
Những hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chủ yếu là nông lâm và thủy sản có giá trị
tăng thấp, trong khi hàng nhập khẩu của Hàn Quốc là những máy móc, linh kiện điện tử có
giá trị tăng cao. Dầu thô của Việt Nam có giá trị xuất khẩu cao nhưng xuất khẩu sang Hàn
Quốc không đáng kể. Hàng xuất khẩu của Việt Nam còn chịu nhiều rào cản thương mại, nên
khó thâm nhập vào thị trường Hàn Quốc, nhất là hàng nông sản. Công tác xúc tiến thương
mại chưa hiệu quả.
Thứ ba: Trong quan hệ đầu tư, các nhà đầu tư của Hàn Quốc đã quan tâm nhiều đến
việc khai thác lợi thế từ thị trường của Việt Nam, trong khi Việt Nam chưa có định hướng
rõ ràng cho dòng vốn này. Vì thế tác động không nhỏ lên sự mất cân đối của cán cân thương
mại. Mặt khác sự phân bố dòng đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam không đồng
đều giữa các khu vực. Số vốn đầu tư tập trung nhiều ở bốn tỉnh, thành phố như; Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. Để giải quyết các khó khăn nêu trên, chính phủ
Việt Nam- Hàn Quốc cần đưa ra sự điểu chỉnh hợp lý và có những quyết sách đúng đắn để
cần bằng cán cân thương mại giữa hai quốc gia. Việt Nam cần có những chính sách phù hợp
để giảm bớt tình trạng nhập siêu từ Hàn Quốc, từng bước khắc phục khó khăn để nâng cao
hiệu quả kinh tế cho quốc gia.
Mặc dù còn tồn tại những mặt hạn chế trong quan hệ kinh tế giai đoạn 1992-2010,
nhưng triển vọng mở ra cho quan hệ Việt -Hàn trong tương lai là rất lớn. Đều là hai quốc
gia Đông Á, có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Á. Cả hai dân tộc đã từng bị thế
lực ngoại bang đô hộ và cùng cảnh ngộ đất nước bị chia cắt, Việt Nam hiểu được sự mong
mỏi thống nhất đất nước của nhân dân và chính phủ Hàn Quốc, nhân dân hai nước dễ thông
cảm và gắn bó với nhau. Cả hai dân tộc đều có truyền thống giữ gìn và kế thừa nền văn hoá
dân tộc trong lịch sử lâu dài hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước và tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa văn hoá nhân loại. Những điều kiện trên đã thúc đẩy kinh tế Việt- Hàn trong
giai đoạn 1992-2010, sẽ vẫn tiếp tục là cơ sở vững chắc cho sự phát triển của quan hệ của
hai nước trong hiện tại và tương lai. Tiềm năng phát triển kinh tế của Hàn Quốc với tư cách
là một quốc gia công nghiệp mới, tiếp tục làm cho nước này có lợi thế về vốn và công nghệ,
còn Việt Nam có lợi thế về lao động và tài nguyên, đây là nền tảng vững chắc cho sự gặp
nhau giữa nhu cầu và lợi ích của hai quốc gia.
Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam và Hàn Quốc có
thể nhận định trong tương lai, xu hướng chuyển dịch cơ cấu của hai nước tiếp tục thể hiện
tính bổ sung cho nhau. Việt Nam chú trọng đến phát triển nông nghiệp tạo nên những giống
cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao... Còn Hàn Quốc thông qua đầu tư vào công nghệ
để có được các sản phẩm mới có tính năng bảo vệ môi trường, tạo nên các ngành dịch vụ
mới để phục vụ nhu cầu ngày càng gia tăng. Mặt khác tình hình chính trị ổn định của Việt
Nam vẫn là lợi thế để thu hút các nhà đầu tư Hàn Quốc. Kết quả của những hợp tác hiệu quả
trong giai đoạn 1992-2010 sẽ tạo điều kiện tốt cho Hàn Quốc xây dựng, tăng cường và mở
rộng trên nhiều lĩnh vực và nhiều vùng ở Việt Nam
Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và mức độ phát triển kinh tế, hai nước còn
nhiều điều kiện để bổ sung cho nhau. Việt Nam là một thị trường tương đối lớn với dân số
hơn 86 triệu người và kinh tế đang có tốc độ phát triển cao. Hàn Quốc là quốc gia có nền
kinh tế phát triển, mở rộng thị trường buôn bán, nâng cao mức sống cho người dân là điều
quan trong và cần thiết. Mặt khác, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế,
Việt Nam cần nhiều phương tiện, kỹ thuật hiện đại như nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị,
các loại nguyên liệu, vật liệu cho sản xuất. Ngược lại Hàn Quốc là nước phát triển, sản xuất
và cung cấp được những máy móc, trang thiết bị hiện đại phù hợp với trình độ phát triển của
Việt Nam và giá cả hợp lý. Việt Nam có vị trí địa lý ở trung tâm vùng Đông Nam Á, giao
thông thuận tiện, thuận lợi cho việc đi lại. Do vậy khi làm ăn với Việt Nam, các doanh
nghiệp Hàn Quốc có thể mở rộng hoạt động của mình sang khu vực lân cận như Lào, Đông
Bắc Thái Lan và đặc biệt là khu vực Tây Nam Trung Quốc- một khu vực chậm phát triển
nhất của Trung Quốc với dân số khoảng 500 triệu người, nơi mà đường ra biển được rút
ngắn một nửa nếu đi qua Việt Nam.[81] Ngoài ra Việt Nam cũng cần nhập khẩu từ Hàn
Quốc những công nghệ sản xuất tiên tiến, các loại hình dịch vụ như tư vấn, thiết kế mẫu
mã... Hàn Quốc có thể nhập khẩu từ Việt Nam nhiều mặt hàng như khoáng sản, nông lâm
thủy sản, rau quả nhiệt đới, hàng thủ công mỹ nghệ...là những mặt hàng mà Hàn Quốc còn
thiếu hoặc không tự sản xuất được.
Việt Nam luôn coi Hàn Quốc là đối tác thương mại hàng đầu ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Hiện nay Việt Nam đang cùng với 10 nước ASEAN đàm phán với Hàn Quốc
về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) và sơ bộ đã ký được một số văn
kiện như Hiệp định khung, Hiệp định thương mại hàng hóa. Việc Hàn Quốc và các nước
ASEAN trong đó có Việt Nam tạo lập khu vực mậu dịch tự do sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hơn
nữa trao đổi kinh tế-thương mại và mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng cường thu hút đầu
tư giữa hai nước
Về đầu tư, người dân Việt Nam ngày càng quen thuộc với những sản phẩm của các
doanh nghiệp Hàn Quốc sản xuất tại Việt Nam với những tập đoàn có tên tuổi như LG,
Samsung, Huyndai, Deawoo, … Với một môi trường đầu tư thân thiện, có hiệu quả và nhiều
cơ hội đang chào đón. Việt Nam mong muốn thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư Hàn
Quốc vào những lĩnh vực mà Hàn Quốc có thế mạnh như công nghiệp chế biến, cơ khí
chính xác, điện tử, hoá chất, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, sản xuất vật liệu và
năng lượng mới, dệt may và sản xuất giày da....
Ngoài ra, tiềm năng hợp tác song phương trên các mặt khác như; hàng không, du lịch,
dịch vụ, trao đổi và hợp tác lao động là rất lớn. Khi sự hợp tác về các mặt này được mở rộng
và khai thác triệt để, quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc sẽ lớn mạnh.
Nghiên cứu quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian qua (1992-2010),
giúp hiểu rõ hơn về thực trạng phát triển kinh tế của hai quốc gia, qua đó rút ra được những
kinh nghiệm, bài học cho quá trình quan hệ kinh tế tiếp theo. Trong thời gian tới chính phủ
hai nước Việt - Hàn cần có nhiều chính sách hợp lý nhằm đẩy mạnh khai thác tiềm năng sẵn
có từ hai quốc gia, từng bước thúc đẩy và nâng cao mối quan hệ kinh tế Việt - Hàn ngày
càng phát triển và bền vững hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu của các tác giả Việt Nam
1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc bộ chính trị (2000), chiến tranh cách
mạng Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Báo Sài Gòn giải phóng số 6944 ra ngày thứ 4(6/11/1996)
3. Trần Vĩnh Bảo(2006), Du lịch và du học Hàn Quốc, Nxb tổng hợp TPHCM
4. Nguyên Đình Bin- chủ biên (1985), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Ngô Xuân Bình (2005), “Hội nhập kinh tế Đông Á và tác động của nó tới quan hệ
kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
6. Ngô Xuân Bình- Đặng Khánh Toàn (2010), “Thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam –
Hàn Quốc ”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5 (111) 5-2010
7. Bộ ngoại giao Việt Nam, Học viện quan hệ quốc tế(2005), Giáo trình kinh tế đối
ngoại Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1988), Cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước 1954-1975- Những sự kiện quân sự, Hà Nội.
9. Cơ quan Thông tin Hải Ngoại Hàn Quốc, Hàn Quốc,Đất nước - con người
10. Cục nghiên cứu thuộc Tổng cục chính trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Tội ác
quân đội Nam Triều Tiên tại miền Nam Việt Nam.
11. An Châu- Trung Vinh (2007), Đất nước Hàn Quốc, Nxb từ điển bách khoa Hà Nội.
12. Lý Xuân Chung (2008) “Tiếp xúc giao lưu văn hóa Việt Nam- Hàn Quốc thời trung
đại: những thành tựu nghiên cứu mới”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4( 86) 4-2008
13. Lý Xuân Chung(2007), “ Đôi nét về sự tương đồng văn hóa Việt Nam-Hàn Quốc”,
Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9(79),9-2007
14. Võ Hùng Dũng (2002), “Ngoại thương Việt Nam từ 1991-2000: những thành tựu và
suy nghĩ”, Nghiên cứu kinh tế, số 293, tháng 10/2002
15. Đối thoại với các nền văn hóa Triều Tiên (2002), Biên dịch Trịnh Duy Hóa, Nxb trẻ
TP HCM.
16. Nguyễn Hoàng Giáp, Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến tranh lạnh và quan
hệ Việt Nam - Hàn Quốc
17. Hà Hồng Hải ( 2003), “Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc: một thập niên phát triển đầy
ý nghĩa”, Nghiên cứu Quốc tế số 50.
18. Hàn Quốc lịch sử và văn hóa, NXB chính trị Quốc gia Hà Nội 1995
19. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2007), Đại cương lịch sử Việt Nam tập 3, Nxb giáo dục.
20. Vũ Hiệp (1996), “Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi có hậu duệ ở Cao Ly từ thế kỷ 14
đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2.
21. Dương Phú Hiệp- Ngô Xuân Bình (1999), Hàn Quốc trước thềm thế kỷ XXI, Nxb
thống kê Hà Nội.
22. Lê Khắc Hòa(1926), “ Ông Mạc Đĩnh Chi ở Cao Ly ”, An Nam tạp chí, số tháng 8.
23. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (1997), Người Việt ở Triều Tiên và mối giao lưu văn
hóa Việt – Triều trong lịch sử, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Hồng (2003), “Nhận thức về giá trị Nho giáo truyển thống Hàn Quốc
với xã hội hiện đại”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3 (45), tháng 6.
25. Nguyễn Cảnh Huệ, Nguyễn Trinh Nghiệu (2003), “Nhìn lại 10 năm (1992-2002)
Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc”, Nghiên cứu Đông Nam Á, tháng 2.
26. Nguyễn Thị Huế(2000), “Nét đặc sắc Á Đông trong văn hóa dân gian truyền thống
Việt Nam và Hàn Quốc”, Văn hóa truyền thống Việt Nam - Hàn Quốc trong sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa: kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt-Hàn TP. Hồ
Chí Minh, ngày 28-29/09/2000.
27. Phan Huy Lê (1995), “Họ Lý Tinh Thiện- một họ Lý gốc Việt mới phát hiện ở Hàn
Quốc”, Tạp chí Xưa và nay, số (21), tháng 11.
28. Hoàng Lê –chủ biên (1996), Những chuyện về trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, NXB
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
29. Ngô Sĩ Liên và các sứ thần triều Lê (1985), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb
KHXH, Hà Nội.
30. Lê Bộ Lĩnh, Nguyễn Hồng Nhung (2005), “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc
thực trạng và triển vọng”, Viện Khoa học xã Hội Việt Nam, Hợp tác kinh tế Việt
Nam- Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á, Nxb Hà Nội
31. Vũ Tiến Lộc (2007), Tăng cường quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và
Hàn Quốc, Bộ ngoại giao Việt Nam ra ngày 31/12/2007.
32. Nguyễn Lư (2007), Sổ tay du lịch và khám phá Hàn Quốc, Nxb Văn hóa thông tin
33. Trần Quang Minh (2007), “Quan hệ kinh tế Việt Nam-HÀn Quốc: 15 năm hợp tác
và phát triển”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4(74)4-2007
34. Nguyễn Hồng Nhung (2010), “Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam- Hàn Quốc và
vấn đề nhập siêu của Việt Nam”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1 ( 107)- 1-2010
35. Nguyễn Gia Phu-Nguyễn Văn Ánh- Đỗ Đình Hãng- Trần Văn La (2007), Lịch sử
thế giới trung đại, Nxb giáo dục.
36. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2001), Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo dục
37. Nguyễn Phan Quang - Võ Xuân Đàn (2005), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến
năm 1884, Nxb TP.HCM
38. Nguyễn Phan Quang (1988), Thêm một số tư liệu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
thời gian ở Pháp (1917-1923), Nxb TP. HCM
39. Phạm Thái Quốc (1999), “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc thực trạng và
triển vọng”, Hàn Quốc trước thềm thế kỷ XXI, Nxb Thống kê, Hà Nội
40. Phạm Thị Quý ( 2005), Quan hệ thương mại Việt Nam –Hàn Quốc, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
41. Phạm Thị Quý (2005), “Quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn, Hợp tác kinh tế Việt
Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á”, Viện Khoa học xã Hội Việt
Nam, Hợp tác kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á, Nxb Hà
Nội
42. Nguyễn Sinh (2011), “ Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc: triển vọng tốt đẹp”,
Tạp chí cộng sản. (ngày 6/1/2011), http:// www.tapchicongsan.org.vn
43. Vĩnh Sính (2001), Việt Nam và Nhật Bản- giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ TP.
HCM
44. Tạp chí giáo dục và thời đại, “Bước chân thần kỳ trong hệ thống giáo dục Hàn
Quốc”.
45. Lê Trọng Thành Tâm (2000), “Hôn nhân truyền thống Hàn Quốc”, Văn hóa truyền
thống Việt Nam - Hàn Quốc trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế Việt-Hàn TP. Hồ Chí Minh, ngày 28-29/09/2000.
46. Nguyễn Trường Tân, Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc, Nxb Văn hóa thông tin.
47. Bùi Duy Tân- Ngọc Liễn (1979), Trạng Phùng Khắc Khoan, Nxb Hà Sơn Bình.
48. Tư trị thông giám, Quyển 198. Đường kỷ XIV- Nguyễn Gia Phu- Nguyễn Huy Quý.-
Lịch sử Trung Quốc- sdd tr 121
49. Nguyễn Anh Thái (2008), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục.
50. Nguyễn Bá Thành (1996), Tương đồng văn hoá Hàn Quốc - Việt Nam, Nxb. Văn
hoá, Hà Nội.
51. Chương Thâu (2007), “ Tình hữu nghị chiến đấu chống đế quốc xâm lược của hai
chí sĩ hai nước Việt –Hàn đầu thế kỷ XX ”- Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 8 (78)
8-2007
52. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
53. Võ Thanh Thu (2008), Quan hệ kinh tế Quốc tế, Nxb thống kê
54. Nguyễn Khắc Thuần (2007),Việt Sử giai thoại tập 1, Nxb Giáo dục
55. Dương Chính Thức, Thư Seoul của Đại sứ Việt Nam tại Hàn Quốc, Báo Tuổi Trẻ
ngày 23-9-2003.
56. Trang Nguyễn Nguyên Như Trang, Thực trạng công nhân lao động hợp tác Việt
Nam tại Hàn Quốc.
57. Trần Quang Minh -Võ Hải Thanh (2005), “FDI và ODA của Hàn Quốc vào Việt
Nam: Thực trạng và triển vọng”, Viện Khoa học xã Hội Việt Nam, Hợp tác kinh tế
Việt Nam- Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á, Nxb Hà Nội
58. Ngô Thị Trinh (2005), “Quan hệ hợp tác Việt Nam- Hàn Quốc trong lĩnh vực phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và kiến nghị giải pháp”, Viện
khoa học xã hội Việt Nam, Hợp tác kinh tế Việt Nam-Hàn Quốc trong bối cảnh hội
nhập Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
59. Văn hóa truyền thống Việt Nam - Hàn Quốc trong sự nghiệp công nghiệp hóa và
hiện đại hóa (2000): kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt-Hàn T.P. Hồ Chí Minh, ngày28-
29/09/2000.
60. Viện khoa học xã hội Việt Nam (2005), Hợp tác kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc trong
bối cảnh hội nhập Đông Á , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
61. Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Địa lý 10, NXB giáo dục Việt Nam
Tài liệu của các tác giả nước ngoài
62. Ahn Kyong Hwan (2000), “Gia lễ trong văn hóa Việt- Hàn”, Văn hóa truyền thống
Việt Nam - Hàn Quốc trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế Việt-Hàn TP. Hồ Chí Minh, ngày 28-29/09/2000
63. Alan, Dawson (1990), 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Cao Minh trích dịch, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
64. Amter Joseph (1985), Lời phán quyết về Việt Nam, người dịch Nguyễn Tấn Cư, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
65. Andew, C, Nahm (2005), Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, biên dịch Nguyễn
Kim Dân, Nxb Văn hóa thông tin, TP HCM
66. Cho Jae Hyon (1995), “Quan hệ Việt Hàn trong lịch sử”, Tạp chí Xưa và nay, số 11
tháng 1
67. Cho Jae Hyon (2002), “Câu chuyện những người dân đảo Tế châu (Je-ju) Hàn Quốc
trôi dạt đến An Nam”, Tạp chí xưa và nay, số 107, tháng 1.
68. Hwy Chang Moon (2005), Hợp tác kinh tế Việt Nam Hàn Quốc thông qua đầu tư
hợp tác trực tiếp nước ngoài (FDI) ,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
69. Ki-baik-lee (2002), Korea xưa và nay, Lịch sử Hàn Quốc tân biên, Nxb TP. HCM
70. Ku Su Jeong (2008), Mối quan hệ Việt – Hàn trong và sau chiến tranh của Mỹ tại
Việt Nam ( 1955-2005), luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại Học KHXH-NV Tp.
HCM
71. Kwan-young Kim (2005), Sự phát triển và tương lai của ODA song phương giữa
Hàn Quốc và Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Q.A (1996), “Tiểu thuyết về Hoàng thúc Lý Long Tường được xuất bản bằng tiếng
Việt”, Tạp chí xưa và nay, số 27 tháng 5.
73. Rob Bowden(2007) Hàn Quốc, NXB Kim Đồng.
74. Shirashi Masaya (2001), Phan Bội Châu và những nhà cách mạng các nước Châu Á
ở Nhật Bản, Lịch sử hiện tại của Hàn Quốc và Việt Nam ở Đông Á, Hội nghị khoa
học quốc tế Hàn- Việt lần thứ II, Seoul
75. Song Jeong Nam (2006), “Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam – Động cơ và bối
cảnh”, Nghiên cứu lịch sử, số 5.
Tài liệu từ các trang web
76. Bộ công thương: http://www.vinanet.com.vn
77. Bộ kế hoạch và đầu tư http: //WWW mpi.gov.rn
78. Bộ ngoại giao Việt Nam : http://WWW mofa.gov.vn
79. Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư http://www.fia.mpi.gov.vn
80. Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam http: //WWW.hanquocngaynay.com
81. http://www.unicom.com.vn
82. Bộ công thương Việt Nam: http://www.moit.gov.vn
83. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam: http://www.vcci.com.vn
84. Tổng cục thống kê Việt Nam:http:// WWW.gso.gov.vn
85. Bách khoa toàn thư: Wikipedia- Lễ cưới người Việt
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu tư chủ
yếu (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2010)
Số dự Tổng số vốn đăng ký*
Tên nước án (triệu USD)
Đài Loan 2171 22981.2
Hàn Quốc 2699 22389.1
Xin-ga-po 895 21890.2
Nhật Bản 1425 20959.9
Ma-lai-xi-a 376 18417.4
Quần đảo Vigin thuộc Anh 487 14513.8
Hoa Kỳ 568 13103.9
Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 622 7846.4
Quần đảo Cay men 52 7432.2
Thái Lan 240 5842.6
Hà Lan 145 5481.0
Bru-nây 114 4745.1
Ca-na-đa 102 4617.6
CHND Trung Hoa 770 3680.2
Pháp 321 2954.2
Xa-moa 85 2694.9
Vương quốc Anh 137 2222.0
Síp 9 2212.9
Thuỵ Sỹ 78 1725.3
Ôx-trây-li-a 240 1174.1
Lúc-xăm-bua 19 1097.4
Tây Ấn thuộc Anh 6 987.0
Liên bang Nga 71 895.4
CHLB Đức 162 811.1
Đan Mạch 91 594.4
Phi-li-pin 52 276.1
Ma-ri-ti-us 33 221.5
Ấn Độ 50 214.0
Bơ-mu-đa 5 211.6
In-đô-nê-xi-a 26 204.2
I-ta-li-a 39 187.7
Quần đảo Cúc 3 142.0
Tiểu VQ A-rập Thống nhất 3 128.2
Quần đảo Cha-nen 14 113.7
Ba-ha-ma 3 108.6
Slô-va-ki-a 3 102.4
Ba Lan 9 98.7
Lào 9 91.2
Na Uy 25 84.2
Niu-di-lân 18 76.4
Bỉ 38 76.0
12463
194572.2
Tổng
Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam ( http://www.gso.gov.vn)
Phụ lục 2
Đối tác đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam Thời kỳ 1988 -2007
Đơn vị: Triệu USD
Số vốn đăng ký đầu tư Tên nước
Hàn Quốc 13.715,1
Singapore 12.617,1
Đài Loan 11.237,9
Quần đảo Vigin thuộc Anh 9.898,1
Nhật Bản 9.362,8
Hong kong 6.639,1
Hoa kỳ 3.479,5
Pháp 3.060,9
Malaysia 2.955,0
Hà Lan 2.90,5
Anh 2.112,5
Thái Lan 2.068,8
Liên bang Nga 1.864,4
Trung Quốc 1.72,8
Úc 1657,2
Nguồn: Bộ kế hoạch – Đầu tư
Phụ lục 3
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu tư chủ
yếu (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2010)
Tổng số vốn đăng ký *
Tên nước Số dự án (triệu USD)
Lào 190 2872.8
Vê-nê-xu-ê-la 2 1825.1
Căm-pu-chia 83 1055.8
Liên bang Nga 16 776.9
Ma-lai-xi-a 6 411.8
Mô-dăm-bích 1 345.7
Hoa Kỳ 70 252.4
An-giê-ri 1 224.9
Cu Ba 2 125.5
Ma-đa-ga-ska 1 117.4
Irắc 1 100.0
Ôx-trây-li-a 11 97.6
Pê-ru 2 87.9
I-ran 1 82.1
Xin-ga-po 35 60.3
Hai-i-ti 1 59.9
U-dơ-bê-ki-xtan 3 49.0
In-đô-nê-xi-a 6 37.5
Tuy-ni-di 1 33.3
Quần đảo Virgin thuộc 4
Anh 31.8
Công-gô 1 15.3
Đặc khu HC Hồng 13 14.8
Công (TQ)
Niu-Di-lân 1 12.5
My-an-ma 2 12.0
CHND Trung Hoa 10 11.8
Thái Lan 6 11.3
Ca-mơ-run 2 10.9
CHLB Đức 9 7.2
Hà Lan 1 5.6
Ăng-gô-la 6 4.5
Hàn Quốc 13 3.2
Nhật Bản 14 2.6
Quần đảo Cay men 2 2.4
U-crai-na 4 2.2
TỔNG SỐ 559 8782.4
Nguồn: Bộ kế hoạch – Đầu tư
Phụ lục 4
Tổng kim nghạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam -Hàn Quốc (1992-2010)
2010
12853.6
2009
9040.9
2008
8850.7
2007
6583.8
2006
4751.3
2005
4257.7
2004
3967.5
2003
3116
2002
2751
2001
2300
2000
2082
1999
1759
1998
1652
1997
1843
1996
1666
1995
1545
1994
1141
1993
818
1992
493
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
Tổng kim ngạch
Đơn vị: Triệu USD
Ghi chú: Các số liệu dẫn theo nguồn Tổng cục Hải quan Việt nam (1992- 2003) và
tổng cục Thống kê Việt Nam (2004-2010
Phụ lục 5
Phân bố đầu tư của Hàn Quốc ở Việt Nam theo vùng
Từ 1988 (chỉ tính các dự án còn hiệu lực đến ngày 23/03/2011)
Số dự Tổng vốn đầu Vốn điều lệ TT Địa phương tư (USD) (USD) án
1 Hà Nội 4,634,885,937 1,140,440,380 527
2 Bà Rịa-Vũng Tàu 3,460,584,724 1,155,333,000 50
3 TP Hồ Chí Minh 3,390,584,601 1,334,079,860 757
4 Đồng Nai 2,671,251,253 1,005,851,813 251
5 Bình Dương 1,318,065,209 614,797,177 440
6 Hải Phòng 971,956,787 308,005,406 37
7 Long An 868,874,254 255,267,641 55
8 Quảng Ngãi 724,900,000 288,500,000 7
9 Đà Nẵng 626,688,269 131,551,555 25
10 Bắc Ninh 490,526,834 147,232,486 67
11 Phú Thọ 329,146,447 178,539,050 47
12 Hưng Yên 308,250,947 138,559,652 85
13 Khánh Hòa 274,455,688 47,013,604 16
14 Hải Dương 249,220,628 95,258,920 42
15 Tây Ninh 224,235,670 101,832,665 44
16 Vĩnh Phúc 217,164,312 87,362,243 41
17 Hà Tĩnh 210,860,000 22,820,000 7
18 Bình Phước 197,676,000 120,126,440 46
19 Bắc Giang 125,754,197 56,220,820 37
20 Nam Định 120,487,079 84,737,079 11
21 Dầu khí 112,000,000 112,000,000 2
16 22 Lâm Đồng 91,941,318 44,456,025
8 23 Quảng Nam 88,160,000 16,157,000
17 24 Bình Thuận 84,491,947 36,205,770
25 Quảng Ninh 10 75,490,000 33,827,000
26 Thừa Thiên-Huế 72,380,000 34,524,000 6
27 Ninh Bình 70,842,972 23,432,486 9
28 Thái Bình 69,864,700 28,079,985 7
29 Hòa Bình 55,800,000 24,200,000 6
30 Hà Nam 13 42,900,000 28,000,000
31 Tiền Giang 42,850,000 15,959,729 6
32 Thanh Hóa 36,375,144 24,642,000 8
33 Trà Vinh 24,000,000 17,000,000 3
34 Cần Thơ 20,207,850 19,535,963 4
35 Thái Nguyên 15,000,000 15,000,000 1
36 Bến Tre 13,500,000 11,450,000 4
37 Bình Định 11,650,000 10,550,000 4
38 Nghệ An 10,000,000 9,300,000 3
39 Phú Yên 9,735,000 5,985,000 6
40 An Giang 7,842,105 1,173,430 1
41 Tuyên Quang 4,000,000 1,800,000 1
42 Sơn La 3,000,000 1,800,000 2
43 Vĩnh Long 2,637,000 2,637,000 3
44 Đồng Tháp 2,300,000 940,000 3
45 Kiên Giang 1,668,000 1,668,000 2
46 Yên Bái 1,000,000 1,000,000 1
47 Bắc Cạn 333,000 333,000 1
Tổng cộng 2,739 22,385,537,872 7,835,186,179
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư