BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
LÊ VY HẢO
QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HÓA ĐẾN NĂN 2006
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
TP. HỒ CHÍ MINH - 2008
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Quan hệ ngoại giao ngày nay là một yếu tố quan trọng để đưa bất kỳ
nước nào đến thành công. Xu thế hợp tác hóa, toàn cầu hóa đã đưa các nước
xích lại gần nhau hơn kể cả những nước trước đây từng thù địch nhau, nay
làm bạn, hợp tác với nhau để phát triển. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ từ 1995 đến nay là một trong những điển hình của chính sách “Khép lại
quá khứ, hướng về tương lai” đó.
Tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không
phải diễn ra một cách suôn sẻ. Năm 1976, chính quyền của Tổng thống
Jimmy Carter đã có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nhưng
không thành công do hai bên có nhiều bất đồng về việc giải quyết hậu quả
chiến tranh. Từ giữa thập niên 80 đã có những nỗ lực của cả hai phía để chính
thức nối lại quan hệ ngoại giao nhưng do “Hội chứng Việt Nam” còn rất nặng
nề trong xã hội Hoa Kỳ, thậm chí ngay cả về phía Việt Nam không hẳn mọi
người đã đồng ý bắt tay lại với Hoa Kỳ. Mặt khác, tình hình khu vực và quốc
tế vào thời điểm ấy còn nhiều yếu tố gây trở ngại cho tiến trình này. Từ nửa
sau thập niên 80, tình hình thế giới có nhiều thay đổi làm đẩy nhanh nhịp độ
đi đến bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, do quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ được xây dựng lại trên cơ sở xóa đi những mâu thuẫn
trong và sau chiến tranh nên nó không tránh khỏi những khập khiễng. Vì vậy,
việc nhận định bản chất và xu hướng của việc thiết lập lại mối quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ là hết sức cần thiết cho việc hoạch định chính sách đối
ngoại của chúng ta.
Sau khi nối lại quan hệ ngoại giao, tất cả các mặt trong quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển một cách tích cực và toàn diện. Hai nước
đã tiến hành đối thoại và trao đổi nhiều đoàn ngoại giao, Quốc hội, doanh
nghiệp, du lịch… Hai Tổng thống gần đây nhất của Hoa Kỳ là Bill Clinton và
George W. Bush đã sang thăm chính thức Việt Nam. Những ảnh hưởng về
kinh tế giáo dục, văn hóa… của Hoa Kỳ ngày càng rõ nét ở Việt Nam. Tất cả
những điều đó đã tạo ra nhu cầu tìm hiểu về những thay đổi trong chính sách
ngoại giao giữa hai nước từ đó tìm ra nguyên nhân của những thay đổi mau
lẹ đó.
Bên cạnh những mặt tích cực mà Việt Nam và Hoa Kỳ đạt được từ khi
bình thường hóa, đã nảy sinh một số mâu thuẫn trong quan hệ giữa hai nước
đặc biệt là vấn đề dân chủ, nhân quyền và tranh chấp thương mại. Đây không
phải là ngoại lệ trong quan hệ quốc tế. Thực tế lịch sử cho thấy có rất nhiều
nước đã gặp phải những vấn đề tương tự trong quan hệ với Hoa Kỳ mà điển
hình là Trung Quốc. Do vậy, việc tìm hiểu nguyên nhân đưa đến những mâu
thuẫn trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và đưa ra phương hướng để khắc
phục là hết sức cần thiết nếu chúng ta muốn đẩy nhanh hơn nữa mối quan hệ
này.
Có thể nói, việc bình thường hóa và phát triển mối quan hệ với Hoa Kỳ
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới đất nước. Tạo dựng lại mối quan hệ với Hoa Kỳ là chìa khóa
để mở ra những cơ hội cho Việt Nam phát triển nhanh và cũng phù hợp xu
hướng toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Xuất phát từ những nhu cầu có
tính chất khoa học và thực tiễn trên, tôi đã chọn đề tài “Quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năm 2006” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp.
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là một vấn đề rất được quan tâm, không
những ở góc độ nhà nước hay ngành ngoại giao mà còn ở góc độ nghiên cứu
khoa học, vì mối quan hệ này là một hiện tượng tiêu biểu cho xu thế hợp tác,
toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay. Mục đích của việc thực hiện đề tài này
là khái quát lại tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và
cung cấp một cái nhìn tổng quan về quan hệ giữa hai nước sau khi bình
thường hóa đến nay.
Về mặt lý luận, nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là tiếp cận một
khía cạnh rất quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam sau khi nước ta
chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình và tái thiết đất nước. Một thời gian dài
mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bị gián đoạn vì nhiều lý do chủ quan
của hai nước và khách quan của tình hình quốc tế, khi mà hai khối xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa luôn có xu hướng đối đầu và gần như cự tuyệt quan
hệ với nhau. Vì vậy, việc Việt Nam và Hoa Kỳ vượt qua những trở ngại về
tâm lý, chính trị và lịch sử để nối lại quan hệ giữa hai nước là một trong
những biểu hiện cụ thể của sự thay đổi trong tiến trình lịch sử thế giới và việc
nghiên cứu mối quan hệ này là góp phần lý giải xu hướng mới đó của thời đại.
Do vai trò to lớn của Hoa Kỳ trong việc điều hòa các mối quan hệ trên
toàn thế giới, nên việc tìm hiểu mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tạo
cơ sở để nhận định về con đường phát triển của ngoại giao Việt Nam trong
những thập niên gần đây. Đường lối ngoại giao rụt rè trước đây đã được thay
thế bằng tư duy mới thông thoáng hơn; những hạn chế trong ngoại giao thời
kỳ Chiến tranh lạnh đã dần được xóa bỏ đặt nền ngoại giao Việt Nam đứng
trước những cơ hội rộng mở để thể hiện vai trò của mình.
Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sẽ tạo
cơ hội cho việc thông hiểu giữa hai nước; từ đó củng cố và thúc đẩy mối quan
hệ này lên những tầm cao mới. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến
trình phát triển của Việt Nam vì Hoa Kỳ không những là một cường quốc
phát triển mà còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế,
chính trị của toàn thế giới. Tăng cường mối quan hệ với Hoa Kỳ chính là cơ
hội để Việt Nam mở rộng quan hệ với bên ngoài.
Những vấn đề tồn tại được vạch ra từ việc nghiên cứu quan hệ giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ góp phần định hướng cho việc hoạch định chiến lược
ngoại giao trong tương lai của Việt Nam nhằm giải quyết những hạn chế trong
quan hệ giữa hai nước để vừa khai thác tối đa những lợi ích từ ngoại giao vừa
đảm bảo tính độc lập, bền vững về chính trị, kinh tế.
Tìm hiểu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hóa cũng là cơ
hội để hàn gắn lại tình cảm giữa hai dân tộc vốn ít nhiều bị tổn thương trong
chiến tranh. Trong quá khứ, hai dân tộc vốn có những mối quan hệ tốt đẹp,
từng sát cánh với nhau trong cuộc chiến tranh chống lại phát xít, do vậy, việc
nối lại quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là cơ hội để nhân dân hai nước tìm
lại mối quan hệ tốt đẹp vốn có của mình.
Đối với bản thân, việc thực hiện đề tài này giúp tôi củng cố và nâng cao
kiến thức về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói riêng và
với bạn bè thế giới nói chung làm nền tảng cho việc học tập, giảng dạy và
nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để tôi trau dồi
những kỹ năng cơ bản trong công tác nghiên cứu lịch sử cũng như thực hành
những phương pháp lịch sử mà tôi được tiếp cận từ giảng đường đại học và
sau đại học lâu nay. Từ việc thực hiện đề tài này, tôi có cơ hội góp nhặt một
phần hiểu biết nhỏ bé của mình vào kho tàng kiến thức về lịch sử quan hệ
ngoại giao của Việt Nam thời kỳ hiện đại.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Như tên đề tài luận văn, đối tượng nghiên cứu là quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ sau khi bình thường hóa. Thuật ngữ “quan hệ” ở đây nhằm chỉ quan
hệ đối ngoại giữa những nước độc lập và có đầy đủ chủ quyền. Trước khi
bình thường hóa, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn có một vài mối quan hệ qua
lại nhưng thường là những phi vụ kinh tế nhỏ lẻ ở mức độ cá nhân hoặc sự
giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ tại Việt Nam chứ chưa
được nâng lên tầm nhà nước. Sau khi bình thường hóa, mối quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ đã có những thay đổi về cả lượng và chất, những giới hạn do chính
sách cấm vận trước đây của Hoa Kỳ dần được gỡ bỏ và quan hệ giữa hai nước
trở nên sôi động hơn rất nhiều. Từ đó có thể thấy bình thường hóa chính là
môi trường thuận lợi của mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1995 đến
nay và cũng là không gian nghiên cứu của đề tài luận văn.
Phạm vi thời gian nghiên cứu chính của đề tài bắt đầu từ năm 1995
khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Việt Nam (11/07/1995) đến khi ký chính thức thỏa thuận song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ về việc Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới
WTO (31/05/2006). Tương ứng với mốc thời gian trên là hai đời Tổng thống
Hoa Kỳ Bill Clinton (tính từ 1995 đến 2001) và George W. Bush (tính từ
2001 đến 2006). Đây là hai cột mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến nay. Nếu như năm 1995 là thời điểm hai
nước chính thức thiết lập lại quan hệ ngoại giao, thì năm 2006 là thời điểm
diễn ra nhiều sự kiện lớn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ hai
nước, thể hiện sự bình thường hóa hoàn toàn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo
những tiêu chí mà hai nước đề ra.
Trong thời gian này giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra nhiều hoạt
động ngoại giao, nhiều động thái chính trị – kinh tế tương đối phức tạp. Vì
vậy, trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp cao học, tôi không thể đề cập
được hết tất cả các mặt cũng như tất cả những chi tiết của mối quan hệ này mà
chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hoa Kỳ từ khi hai nước bình
thường hóa với nhau. Trong đó, chúng tôi cố gắng làm rõ những thay đổi cơ
bản của những chính sách này so với thời kỳ trước tạo cơ sở thuận lợi cho
việc nhận thức tốt hơn xu hướng phát triển của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
Về những thành tựu đã đạt được trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ, chúng tôi tập trung chính vào quan hệ kinh tế và chính trị. Đây là hai lĩnh
vực cơ bản hàng đầu của quan hệ quốc tế hiện đại. Trọng tâm của chính sách
đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là tranh thủ mọi nguồn lực từ
bên ngoài để phát triển kinh tế nhưng đồng thời phải đảm bảo ổn định về
chính trị. Về phía Hoa Kỳ, sau khi đã đạt được những kết quả khả quan việc
giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh, đã chuyển dần sang
mục tiêu hợp tác kinh tế với Việt Nam để khai thác một thị trường mới đầy
tiềm năng sau một thời gian dài cấm vận. Hai nước đã đạt được một số thành
tựu đáng kể đặc biệt là việc ký Hiệp định thương mại song phương (năm
2001) và thỏa thuận gia nhập WTO giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhưng do xuất
phát điểm kinh tế của hai nước rất khác nhau cùng với sự hiểu biết chưa đầy
đủ chính sách pháp luật của nhau nên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã xuất hiện
một số tranh chấp thương mại cần được quan tâm giải quyết để thúc đẩy hơn
nữa quan hệ kinh tế giữa hai nước. Trong lĩnh vực chính trị, hai nước đã chính
thức thiết lập đại sứ quán, tiến hành trao đổi nhiều đoàn ngoại giao, chính trị,
quân sự mà nổi bật nhất là các chuyến thăm chính thức của các nhà lãnh đạo
Việt Nam và Hoa Kỳ. Tuy vậy, chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục thi hành những
quan điểm chính trị của mình trong quan hệ với Việt Nam về vấn đề nhân
quyền, dân chủ, tự do tôn giáo... đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo và khéo léo
trong ứng xử ngoại giao để vừa duy trì quan hệ hợp tác vừa giữ vững độc lập
và tự chủ về chính trị.
Trong quá trình thực hiện đề tài, để phục vụ tốt hơn cho việc nghiên
cứu đối tượng chính, tôi cũng đề cập đến một số lĩnh vực khác trong quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ như quân sự, giáo dục, y tế, văn hóa… để làm rõ hơn
những thành tựu về quan hệ kinh tế và chính trị mà Việt Nam và Hoa Kỳ đã
đạt được đồng thời thể hiện tính toàn diện trong quan hệ giữa hai nước.
Từ những thành tựu đạt được trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi
bình thường hóa đến năm 2006 có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho
ngoại giao Việt Nam đặc biệt là trong quan hệ với các cường quốc như Hoa
Kỳ nhằm thực hiện tốt hơn nữa chủ trương của Đảng và Chính phủ về việc
phát huy vai trò của đối ngoại nhằm phát triển kinh tế – xã hội trong thời điểm
hiện tại và tương lai.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ ngày càng thu
hút sự chú ý của giới nghiên cứu không chỉ vì Hoa Kỳ là một nước lớn, đóng
vai trò quan trọng trong nền ngoại giao toàn cầu mà còn do yếu tố lịch sử
trong quan hệ giữa hai nước. Hai nước đã trải qua một cuộc chiến tranh kéo
dài gần 30 năm và cắt đứt hoàn toàn quan hệ trong 20 năm, do vậy việc hai
nước thiết lập quan hệ năm 1995 là một sự kiện mang tính lịch sử, được dư
luận rất quan tâm. Mặt khác, những tác động tích cực của quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ đến sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam càng thúc đẩy nhu
cầu tìm hiểu về mối quan hệ này.
Do mốc thời gian của vấn đề mà đề tài này nghiên cứu gần với thời
điểm hiện tại nên đến nay vẫn chưa có một công trình chính thức nào trình
bày một cách toàn diện đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong khoảng 10
năm sau bình thường hóa nhưng từng mặt, lĩnh vực của mối quan hệ này ít
nhiều đã được đề cập đến trong các tác phẩm nghiên cứu lịch sử ngoại giao
Việt Nam, bài viết chuyên đề và một số công trình khoa học khác nhau.
Việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ mới được tiến hành trong
khoảng mười năm trở lại đây vì mối quan hệ này chỉ thực sự được nối lại từ
năm 1995. Có thể xem tạp chí “Châu Mỹ ngày nay” là tạp chí đi đầu trong
việc nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ những ngày đầu sau khi
bình thường. Từ đó đến nay, mỗi sự kiện quan trọng trong mối quan hệ ấy đều
được tạp chí này ghi nhận dưới dạng các bài giới thiệu nhận xét, đánh giá của
nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử, ngoại giao, kinh tế… Thông qua tạp chí
này, phong trào nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thu hút được sự quan
tâm của rất nhiều học giả như Phó Giáo sư Phó Tiến sĩ Đỗ Lộc Diệp, Tiến sĩ
Phạm Thị Thi thuộc Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ; Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn
Thiết Sơn, Tiến sĩ Lê Khương Thùy của Viện nghiên cứu Châu Mỹ…
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ còn là đề tài thu hút sự chú ý của giới
nghiên cứu nước ngoài như Mark E. Manyin tìm hiểu về quá trình bình
thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và những thành tựu đạt được trong
quan hệ hợp tác giữa hai nước sau khi bình thường hóa. Emiko và Will Martin
thuộc Nhóm nghiên cứu phát triển của Ngân hàng thế giới với chuyên khảo
“Ảnh hưởng của việc Mỹ trao quy chế Tối huệ quốc cho Việt Nam”. Ngoài ra
còn có sự đóng góp của những nhà chính trị, ngoại giao Hoa Kỳ như Đại sứ
Hoa Kỳ tại Việt Nam Douglas Pete Peterson (nhiệm kỳ 1997 – 2001),
Raymond Burghardt (nhiệm kỳ 2001 – 2004), Thượng Nghị sĩ John F. Kerry,
John McCain…
Năm 2003, tổ chức Asia Foundation đã kết hợp với Học viện Quan hệ
quốc tế của Việt Nam tổ chức một cuộc hội thảo về quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ tại đại học Georgetown. Những bài tham luận tại Hội thảo đã được tập
hợp thành một công trình chung mang tên: “Đối thoại về quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ, những vấn đề nội tại” (Dialouge on U.S – Vietnam relations,
domestic dimensions) với sự đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu như
Frederick Z. Brown, Mark E. Manyin, Phan Doãn Nam, Phạm Quốc Bảo, Vũ
Xuân Trường… Thông qua việc phân tích tình hình thực tế của từng nước
trong vài thập niên gần đây như công cuộc đổi mới và những thay đổi trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam; vai trò của Quốc hội hai nước trong tiến
trình bình thường hóa quan hệ; đường lối hợp tác phát triển kinh tế trong
tương lai… các nhà khoa học của hai bên đã bước đầu đi đến sự đồng thuận
về khả năng thúc đẩy nhanh hơn nữa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trên cơ sở
hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
Nhân dịp kỷ niệm 10 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ, từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 3 năm 2005, đã diễn ra một cuộc hội thảo
quy mô với chủ đề quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau 10 năm thiết lập quan hệ
ngoại giao và 30 năm cuộc chiến tranh Việt Nam tại Trung tâm Việt Nam
thuộc Trường Đại học Texas, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Cuộc hội thảo đã thu
hút được đông đảo các diễn giả nổi tiếng của Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu
hàng đầu về Việt Nam cùng các quan chức cấp cao, trong đó có cựu Đại sứ
Mỹ tại Việt Nam, ông Raymond Burghardt và đại sứ hiện nay Michael
Marine tham dự. Các tham luận trình bày tại hội thảo đều tập trung phân tích
chủ đề nhìn lại quá khứ để hướng về tương lai trong mối quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ. Trong đó tham luận của học giả Larry Berman "Một thập kỷ hòa
giải: Việt Nam – Mỹ hôm nay và ngày mai" được đặc biệt chú ý. Hội nghị là
cơ hội để các nhà nghiên cứu nhìn nhận lại chặng đường 10 năm quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ từ đó đưa ra những triển vọng hợp tác giữa hai nước trong
tương lai.
Cũng trong dịp kỷ niệm này, Hội Việt Mỹ – một tổ chức hợp tác phát
triển giáo dục đã xuất bản tập san: “Việt Nam – Hoa Kỳ, những triển vọng
mới” (Vietnam – US set in motion) gồm nhiều bài viết trình bày những vấn đề
lịch sử trong tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, những nhận
định về mối quan hệ này trong tương lai… Tuy không mang tính chất lịch sử
chuyên ngành, nhưng đóng góp lớn nhất của tập san này là cung cấp cái nhìn
sinh động về tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cũng
như những thành tựu đối ngoại mà hai nước đã đạt từ sau khi bình thường
hóa. Các tác giả của những bài viết này đa phần là những người đã trực tiếp
hoặc gián tiếp góp phần vào việc phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trên
nhiều lĩnh vực khác nhau do đó mà nhận định của họ tương đối chân thực và
có giá trị lịch sử.
3.1 Những công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
Để đóng góp vào việc tìm hiểu lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ, Phó giáo sư Tiến sĩ Phạm Xanh đã xuất bản tác phẩm “Góp phần tìm hiểu
lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ” đề cập đến quan hệ giữa hai nước từ
những ngày đầu (1787) đến khi Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp vào cuộc chiến
tranh Đông Dương (1949). Qua đó, tác giả muốn làm rõ “những cơ hội tốt
đẹp cho hai dân tộc hiểu biết lẫn nhau, làm bạn với nhau trong suốt gần 200
năm đó, nhưng những cơ hội đều bị bỏ lỡ, do nhiều nguyên nhân khác nhau
cả khách quan lẫn chủ quan” [57, tr. 6]. Tuy không liên quan trực tiếp đến
nội dung của đề tài này nhưng những tư liệu mà tác giả Phạm Xanh đưa ra đã
giúp trang bị cho người viết những cái nhìn tổng quan ban đầu về lịch sử quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, từ đó nhận thấy được những tiềm năng và cơ hội tốt
đẹp để hai dân tộc hiểu biết nhau hơn.
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là một bộ phận không thể tách rời của
ngoại giao Việt Nam nói chung và chịu sự chi phối của đường lối, chính sách
đối ngoại mà Đảng và chính phủ đã đề ra. Do vậy mà, việc tìm hiểu lịch sử
ngoại giao Việt Nam trong những thập niên gần đây là rất cần thiết tạo nền
tảng cơ bản cho việc nghiên cứu tốt quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Tác phẩm
“Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Phó Tiến sĩ Phạm Văn Linh là một
tài liệu tham khảo tốt về vấn đề này, quyển sách đề cập nhiều nội dung quan
trọng trong quan hệ, hợp tác giữa Việt Nam với hầu hết các nước, khu vực, tổ
chức và diễn đàn quốc tế trong khoảng 20 năm gần đây với phương châm là
khép lại quá khứ, hướng tới tương lai bằng cả ngoại giao nhà nước, ngoại giao
nhân dân làm cho các bên hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng độc lập chủ quyền của
nhau, giữ vững hòa bình, ổn định và cùng phát triển. Trong đó có những mối
quan hệ hợp tác với các nước truyền thống, láng giềng thủy chung; Những
quan hệ với các nước lớn có tiềm năng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an
ninh; Với các nước đang phát triển và cả những bạn bè, các tổ chức chính trị,
phi chính phủ đã kề vai sát cánh với dân tộc ta trong đấu tranh giữ vững độc
lập dân tộc trước đây và phát triển đất nước hiện nay.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình nội bộ Hoa Kỳ có nhiều
biến động làm ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của nước này. Điều này
được phản ánh trong công trình “Nước Mỹ đầu thế kỷ XXI” của tác giả
Trương Thị Thủy. Quyển sách cung cấp cái nhìn khái quát về tình hình kinh
tế – chính trị – xã hội của Hoa Kỳ những năm đầu thiên niên kỷ cũng như
chính sách quan hệ của Hoa Kỳ với các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam.
Hợp tác kinh tế là lĩnh vực sôi động nhất trong quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ và cũng là mảng đề tài được các nhà nghiên cứu trong thời điểm hiện
nay quan tâm nhiều nhất thể hiện qua nhiều công trình nghiên cứu như “Quan
hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ” của Đỗ Đức Định, “Việt Nam – Hoa Kỳ, Quan
Hệ Thương Mại Và Đầu Tư” của Nguyễn Thiết Sơn, “Nước Mỹ ngày nay và
hiệp định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ” của tập thể tác giả Trần Tất
Thắng, Quỳnh Hải Hà, Nguyễn Đức Tư…
Trong quyển sách “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ”, từ những
nguồn tư liệu vô cùng phong phú, tác giả Đỗ Đức Định đã cố gắng đi sâu tìm
hiểu các quan hệ kinh tế giữa hai nước trong ba thời kỳ chính, đó là thời kỳ
chiến tranh 1954 – 1975, thời kỳ cấm vận và trừng phạt 1975 – 1995 và thời
kỳ bình thường hóa từ 1995. Trọng tâm nghiên cứu tập trung vào ba lĩnh vực
chính là quan hệ thương mại, đầu tư và viện trợ, từ đó cung cấp cho người đọc
một cái nhìn lịch sử tương đối xuyên suốt về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam –
Hoa Kỳ. Tác phẩm này đã giúp chúng tôi có được cái nhìn cơ bản về một lĩnh
vực quan trọng hàng đầu trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong những năm
gần đây đó là hợp tác kinh tế. Trong đó, tác giả đã nêu lên một cách rõ nét
những tác động ngày càng lớn của Hoa Kỳ đối với sự phát triển của nền kinh
tế Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp, xúc tiến thương mại,
viện trợ phát triển…
Một trong những người đi tiên phong và có đóng góp nhiều nhất trong
việc nghiên cứu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ nói chung và quan hệ
kinh tế nói riêng phải kể đến Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thiết Sơn, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu châu Mỹ. Ông là tác giả của rất nhiều bài nghiên cứu trên
các tạp chí chuyên ngành về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cùng với công trình
chuyên khảo về quan hệ kinh tế giữa hai nước mang tên “Việt Nam – Hoa Kỳ,
quan hệ thương mại và đầu tư”. Quyển sách này đã trình bày một cách hệ
thống tiến trình bình thường hóa quan hệ kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ, những
kết quả đạt được trong quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai nước, những vấn
đề, những khó khăn bước đầu mà Việt Nam đang vấp phải và triển vọng quan
hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ.
3.2 Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Đến thời điểm chúng tôi thực hiện đề tài, vẫn chưa có công trình chính
thức nào của các học giả nước ngoài về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi
bình thường hóa đến nay mà chỉ dừng lại ở các bài nghiên cứu, báo cáo của
các cá nhân hoặc các tổ chức có liên quan .
Tiến sĩ Nick J. Freeman, một người hoạt động trong lĩnh vực đầu tư cao
cấp của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đóng góp vào việc nghiên cứu quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ từ khi hai nước chưa bình thường hóa với công trình “Cấm
vận kinh tế của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam” (United States’s economic
sanctions against Vietnam) trình bày và phân tích những ảnh hưởng của chính
sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh của nước
ngoài tại Việt Nam. Trên cương vị của mình, Nick J. Freeman đã tìm hiểu rất
kỹ về thị trường Việt Nam và những cơ hội đầu tư vào thị trường này. Năm
2002, ông đã công bố bài viết “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Campuchia,
Lào và Việt Nam: một tầm nhìn mang tính khu vực” (Foreign direct
investment in Cambodia, Laos and Vietnam: a regional overview) nghiên cứu
về tình hình đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư của Hoa Kỳ vào thị trường
Đông Dương.
Liên quan trực tiếp nhất đến đề tài là các bài nghiên cứu đã được công
bố năm 2005 của Mark E. Manyin, chuyên viên phân tích các vấn đề châu Á
của Cục Đối ngoại, Quốc phòng và Thương mại Hoa Kỳ bao gồm: “Quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ. Tiến trình bình thường hóa” (The Vietnam – US.
Normalization Process) và “Viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam” (U.S.
Assistance to Vietnam). Mark E. Manyin đã điểm lại những cột mốc đáng nhớ
trong quan hệ giữa hai nước trước và sau khi bình thường hóa, nêu lên những
đóng góp của Hoa Kỳ thông qua hình thức viện trợ vào việc phát triển kinh tế
– xã hội tại Việt Nam.
3.3 Những vấn đề còn tồn tại trong nghiên cứu về quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ và hướng nghiên cứu của đề tài
Từ việc trình bày, phân tích và đánh giá những công trình nghiên cứu
về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa, chúng tôi nhận thấy
việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn một số tồn tại hạn chế.
Các công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hầu như chỉ
tập trung vào lĩnh vực hợp tác kinh tế mà chưa đề cập nhiều đến các lĩnh vực
khác. Điều này làm cho quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ chưa được nhìn nhận
một cách toàn diện và đầy đủ. Thêm vào đó, việc nghiên cứu quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ thường dừng lại ở mức độ chính phủ, nhà nước mà chưa đi
vào quan hệ hợp tác nhân dân, vốn đã được hình thành từ trước khi hai nước
bình thường hóa quan hệ với nhau.
Một số tác giả nước ngoài còn có cái nhìn phiến diện về quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ, xem xét mối quan hệ này theo chiều hướng áp đặt của một
nước lớn, một cường quốc của thế giới tư bản đối với một nước nhỏ, trình độ
phát triển thấp. Chính vì vậy mà họ không thấy được sự tương hỗ trong quan
hệ giữa hai nước, không thấy được những tác động trở lại từ phía Việt Nam
đối với Hoa Kỳ.
Ngược lại, trong quan niệm của một số nhà nghiên cứu Việt Nam, Hoa
Kỳ vẫn là một “đế quốc” đầy tham vọng bành trướng nên phải hết sức dè
chừng trong quan hệ ngoại giao. Quan điểm này ảnh hưởng đến tính khách
quan trong nội dung nghiên cứu đồng thời gây hạn chế kết quả nghiên cứu.
Trong thực tiễn sẽ tạo ra tính bảo thủ gây trở ngại cho việc phát triển quan hệ
hai nước.
Từ những nhận xét, đánh giá về những vấn đề còn tồn tại hạn chế trong
việc nghiên cứu quan hệ Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa, chúng tôi xác định
mục đích nghiên cứu của đề tài là:
– Tìm hiểu những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và
Hoa Kỳ trong những thập niên cuối của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, làm
nền tảng cho việc trình bày, giải thích và đánh giá mối quan hệ giữa hai nước.
– Tìm hiểu những thành tựu trên nhiều lĩnh vực mà hai nước đã đạt
được trong khoảng hơn 10 năm kể (từ 1995 đến 2006); Tác động của những
thành tựu đó trong quá trình phát triển đất nước của Việt Nam và đối với xã
hội Hoa Kỳ. Từ đó đưa ra những đánh giá và nhận xét xác đáng về vai trò và
vị trí của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong lịch sử đối ngoại Việt Nam thời
hiện đại.
4. NGUỒN SỬ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Nguồn sử liệu
Trong quá trình thực hiện việc nghiên cứu đề tài “Quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa đến năm 2006”, tôi có điều kiện để tiếp
xúc với các nguồn tư liệu sau đây:
1. Các tài liệu gốc như thư tín, các tuyên bố và văn bản ngoại giao liên
quan đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Đây là những tài liệu chính thức của
Chính phủ và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố tại các cổng thông tin điện tử
của nhà nước Hoa Kỳ.
2. Văn kiện đại hội, hội nghị Đảng Cộng sản Việt Nam trong các nhiệm
kỳ VI, VII, VIII, IX, X có liên quan đến chính sách đối ngoại của Việt Nam
thời kỳ đổi mới. Các tuyên bố, văn bản ngoại giao do chính phủ Việt Nam
tuyên bố với Hoa Kỳ. Ngoài ra, tôi còn sử dụng hồi ký của một số nhà ngoại
giao Việt Nam như một dạng tư liệu gốc phục vụ cho đề tài này.
3. Các tác phẩm, bài báo bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch
sử, ngoại giao, kinh tế Việt Nam có liên quan trực tiếp đến đề tài.
4. Các tác phẩm, bài nghiên cứu của các sử gia, các nhà chính trị –
ngoại giao, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ
sau khi bình thường hóa.
5. Các tạp chí trong và ngoài nước, luận văn, luận án có liên quan.
4. 2 Phương pháp nghiên cứu:
1. Cũng như các đề tài luận văn lịch sử khác, phương pháp cơ bản nhất
mà tôi sử dụng là phương pháp lịch sử. Trên cơ sở phân tích, so sánh các sự
kiện lịch sử, đề tài này cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát sự
kiện lịnh sử, trình bày lịch sử như nó từng có.
2. Phương pháp tiếp cận hệ thống: Yêu cầu của phương pháp này là đặt
đối tượng nghiên cứu trong một hệ thống mối quan hệ nhất định. Ở đây,
chúng tôi đặt quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong bối cảnh khu vực và thế giới.
Từ đó thấy được quan hệ này vừa là yếu tố tham gia vào các mối quan hệ
chung trong khu vực đồng thời chịu sự tác động của các mối quan hệ ấy.
3. Phương pháp liên ngành: Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình
thường hóa diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực, vừa mang tính khoa học xã hội vừa
mang tính khoa học tự nhiên. Vì vậy mà chúng tôi cũng sử dụng phương pháp
này trong quá trình thực hiện đề tài trên cơ sở tài liệu phân ngành: lịch sử học,
ngoại giao học, kinh tế học, chính trị học…
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Trên cơ sở tập hợp, lựa chọn, xử lý các tư liệu có được từ nhiều nguồn
khác nhau, luận văn mô tả lại một cách trung thực và khách quan bức tranh
tổng thể quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa, năm 1995 đến
khi hai nước đạt được thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương
mại thế giới vào tháng 5 năm 2006. Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ cung cấp
hệ thống thư mục trong và ngoài nước cùng với những ý kiến và luận điểm cơ
bản của các nhà nghiên cứu về vấn đề này, góp phần bổ sung vào việc nghiên
cứu một vấn đề còn tương đối mới trong lịch sử Việt Nam.
Không dừng lại ở việc trình bày, hệ thống hóa các nguồn tư liệu và các
luận điểm cơ bản của các nhà nghiên cứu, luận văn còn đi sâu phân tích, giải
thích những nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình
thường hóa đến năm 2006, đồng thời chỉ ra sự tác động tương hỗ trong quan
hệ giữa hai nước. Luận văn cũng cố gắng hệ thống hóa những thành tựu nổi
bật trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, qua đó thấy được tính biện chứng
trong quá trình phát triển của mối quan hệ này.
Cuối cùng, nội dung của luận văn có thể là nguồn tư liệu phục vụ cho
việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ nói riêng
và lịch sử ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại nói chung.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Luận văn được trình bày trong 120 trang gồm phần mở đầu, 3 chương
nội dung và phần kết luận.
Chương 1: TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT
NAM – HOA KỲ (1975 – 1995)
Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TỪ KHI BÌNH
THƯỜNG HÓA ĐẾN CUỐI NHIỆM KỲ THỨ HAI
CỦA TỔNG THỐNG BILL CLINTON (1995 – 2000)
Chương 3: QUAN HỆ VIỆT NAM HOA KỲ DƯỚI THỜI TỔNG
THỐNG GEORGE BUSH (2001 – 2006)
Chương 1
TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ
(1975 – 1995)
1.1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau chiến tranh
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam được hoàn toàn thống nhất,
cũng vào thời điểm này Hoa Kỳ bắt đầu mở rộng cấm vận và trừng phạt với
Việt Nam. Đây được xem như một hình phạt mà Hoa Kỳ áp dụng đối với một
nước xã hội chủ nghĩa đối lập từng là kẻ thù chiến tranh của mình.
Thực ra, việc cấm vận của Hoa Kỳ với Việt Nam đã bắt đầu từ 1964
nhưng chỉ đối với miền Bắc với Đạo luật về buôn bán với kẻ thù (Trading
With the Enemy Act – TWEA) ban hành năm 1917. Đạo luật này cấm hoạt
động buôn bán của Hoa Kỳ với các nước thù địch hoặc đồng minh của một nước thù địch trong thời chiến*. Từ tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ mở rộng cấm
vận toàn bộ Việt Nam. Đây là một hình thức trừng phạt phổ biến của Hoa Kỳ
đối với những nước bị xem như thù địch.
Theo định nghĩa chung, cấm vận là sự ngăn cấm quan hệ ngoại giao,
buôn bán, thương mại, vũ khí, năng lượng, đi lại vận chuyển hàng hóa (bằng
đường bộ, hàng không hay đường biển), khoa học kỹ thuật... với một nước
nào đó. Nó thường được một nước có nhiều tiềm lực, có nhiều ảnh hưởng sử
dụng để chống lại một nước khác. Mục tiêu của cấm vận là gây khó khăn cho
nước khác trên lĩnh vực bị cấm vận cũng như các lĩnh vực có liên quan. Ảnh
hưởng của cấm vận kinh tế tùy thuộc vào sức mạnh kinh tế của nước cấm vận,
khả năng kinh tế của nước bị cấm vận và các đồng minh của nó. Các nước * Năm 1977, quyền hạn của Tổng thống được quy định trong Luật buôn bán với nước thù địch để kiểm soát các giao dịch kinh tế trong thời bình được chuyển sang Luật Quyền hạn Kinh tế trong Tình trạng Khẩn cấp Quốc tế – International Emergency Economic Powers Act. Kể từ đó, IEEPA là công cụ chính để áp đặt các biện pháp kinh tế đối với các nước thù địch khi không có một tuyên bố chiến tranh chính thức nào.
nhỏ, cô lập, khi bị nước lớn cấm vận thì có thể gặp khó khăn trong việc xuất
nhập khẩu, khó hòa nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế khó phát triển hơn
và khó tiếp cận các tài nguyên chiến lược. Lệnh cấm vận thường được sử
dụng như một sự trừng phạt chính trị do sự bất đồng về chính sách và hành
động trái với một nhóm nước lớn mạnh về mọi mặt. Mặt khác nó còn là công
cụ xử lý, đe dọa một số quốc gia không tuân theo. Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ,
Liên minh châu Âu, OPEC (Organization of the Petroleum Exporting
Countries – Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ)... là các tổ chức, quốc gia có
khả năng cấm vận gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia khác.
Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ chống Việt Nam chịu sự điều chỉnh
của nhiều loại luật lệ, điều kiện và các công cụ kinh tế, chính trị khác nhau
của Hoa Kỳ. Đầu tiên là Luật mở rộng các hiệp định thương mại được Quốc
hội Hoa Kỳ thông qua năm 1951 quy định không cấp Quy chế Tối huệ quốc
cho các nước cộng sản và các nước có xung đột vũ trang với Hoa Kỳ. Luật
này lúc đầu ở châu Á được áp dụng cho Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, đến
năm 1954 áp dụng đối với miền Bắc Việt Nam và từ năm 1975 áp dụng đối
với cả nước Việt Nam thống nhất. Luật mở rộng các hiệp định thương mại về
sau được tăng cường và bổ sung thêm bằng một số điều luật và quy chế khác
của Hoa Kỳ như Quy chế kiểm soát các tài sản của nước ngoài dựa trên cơ sở
của Luật buôn bán với kẻ thù năm 1917 (TWEA) thường được gọi là chính
sách cấm vận buôn bán của Hoa Kỳ, và Đạo luật bổ sung Jackson – Vanik do
Quốc hội Hoa Kỳ thông qua (cùng với Luật Mậu dịch – Trade Act) năm 1974,
quy định không dành Quy chế Tối huệ quốc cho những nước được xem là
không có nền kinh tế thị trường (thường là các nước cộng sản) và hạn chế
quyền tự do di cư.
Vận dụng những điều trên, Chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện chính sách
cấm vận và trừng phạt hoàn toàn đối với Việt nam: cấm các quan hệ đi lại,
giao lưu của công dân hai nước; cấm các quan hệ buôn bán, đầu tư và kinh
doanh giữa các công ty hai nước; trừng phạt các công ty của các nước thứ ba
có quan hệ với Hoa Kỳ nhưng lại kinh doanh với Việt Nam; phong tỏa các tổ
chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank – WB), Quỹ tiền
tệ quốc tế (International Monetary Fund – IFM), Ngân hàng phát triển kinh tế
châu Á (Asian Development Bank – ADB) trong quan hệ kinh tế tài chính với
Việt Nam không cho Việt Nam vay tiền; găm giữ hoặc làm "đông cứng" các
tài sản của chính phủ Việt Nam tại các ngân hàng của Hoa Kỳ. Chính sách
cấm vận này được xem là hết sức khắc nghiệt và cứng rắn như Nick J.
Freeman mô tả: “Trừ một vài ngoại lệ, còn tất cả các giao dịch thương mại
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, giữa các công dân và người thường trú của Hoa
Kỳ bất kể họ ở đâu, tất cả mọi người và các tổ chức tồn tại về vật chất ở Hoa
Kỳ, và tất cả các ngành, các chi nhánh của Hoa Kỳ hoặc các tổ chức của Hoa
Kỳ trên khắp thế giới có quan hệ với Việt Nam đều bị coi là phạm pháp theo
các quy định trên” [61, tr. 14].
Mục tiêu chính của Hoa Kỳ khi thực hiện chính sách cấm vận và trừng
phạt trên là tiếp tục các mục tiêu của thời kỳ chiến tranh nhằm làm cho Việt
Nam kiệt quệ về kinh tế và cô lập với thế giới bên ngoài, để cuối cùng phải
tuân theo điều kiện áp đặt của Hoa Kỳ về dân chủ, nhân quyền theo quan
niệm của Hoa Kỳ.
Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ Hoa Kỳ đã áp đặt hàng loạt
những điều kiện và sử dụng hàng loạt các công cụ khác nhau để thực hiện
cấm vận và trừng phạt đối với Việt Nam. Mức phạt tối đa đối với những
trường hợp vi phạm các điều quy định về trừng phạt này là 12 năm tù,
500.000 đô la đối với công ty và 250.000 đô la đối với cá nhân.
Với chính sách cấm vận toàn diện như vậy, Hoa Kỳ đã đặt nền kinh tế
Việt Nam vào tình trạng bị cô lập. Hầu như các quan hệ thương mại quốc tế
của Việt Nam chỉ thực hiện được từ các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa và
các nước láng giềng. Các nguồn vốn, viện trợ từ các nước tư bản cũng như
các tổ chức kinh tế lớn hầu như bị cắt đứt hoàn toàn.
1.2. Những động thái nối lại quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1977 đến
1978
1.2.1. Nỗ lực nối lại quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam dưới thời Tổng
thống Jimmy Carter
Đầu năm 1977, Hoa Kỳ có chính quyền mới. Thống đốc bang Georgia,
Jimmy Carter thuộc Đảng Dân chủ, lên làm tổng thống. Nước Mỹ lúc này có
hai đặc điểm nổi bật: một là xã hội chia rẽ sâu sắc do những bất đồng về chính
trị sau vụ WaterGate, hai là hội chứng chiến tranh Việt Nam nặng nề. Giải
quyết vấn đề Việt Nam là một trong những biện pháp để giải quyết những bất
ổn sau chiến tranh. Có lẽ vì vậy mà Carter khi mới nhậm chức Tổng thống
Hoa Kỳ đã đặt ra vấn đề bình thường hóa quan hệ với Việt Nam như một
trong những biện pháp quan trọng để xoa dịu dư luận của công chúng.
Khác những Tổng thống tiền nhiệm, Jimmy Carter, không coi chủ
nghĩa cộng sản là kẻ thù chính [29, tr. 72]. Ông cho rằng người Mỹ đã tỏ ra
quá lo sợ cộng sản, trong khi đó họ lại ít chú tâm đến hiểm họa lớn hơn là
chạy đua vũ trang và ủng hộ quá nhiều các chế độ dân chủ đàn áp hữu khuynh
trên khắp thế giới. Chính sách ngoại giao của Tổng thống Carter mang tính
hòa dịu và ôn hòa ngay cả đối với các nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những
nỗ lực nối lại quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong
đó có Việt Nam (Jimmy Carter thậm chí còn cho thiết lập Phòng quyền lợi
của Hoa Kỳ tại Cuba, Phòng này đặt tại sứ quán Thụy Sĩ và tồn tại đến ngày
nay). Một trong những nguyên nhân quan trọng khác khiến chính quyền
Carter ngay từ đầu đã quan tâm đến việc thiết lập mối quan hệ mới với Việt
Nam là lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Như Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Andrew Young, đã nói rõ điều đó:
“Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận
của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ”*. Hơn nữa, bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lúc này là Cyrus Vance cho rằng việc bình
thường hóa với Việt Nam sẽ giúp giảm sự lệ thuộc của Việt Nam vào Liên Xô
và Trung Quốc cũng như giúp Việt Nam gia nhập vào ASEAN.
Một trong những biểu hiện của mong muốn nối lại quan hệ với Việt
Nam là việc chính phủ Hoa Kỳ lúc này đã không còn có ý định phủ quyết đơn
xin gia nhập vào Liên Hiệp Quốc của Việt Nam [70], lót đường cho đề nghị
ngày 20 tháng 7 năm 1977 của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về việc Việt
Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc mà không cần một cuộc bỏ phiếu theo như quy
định nào (Theo mục 1 điều 4, Chương 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy
định rõ: “Việc kết nạp bất cứ một quốc gia nào nói trên vào Liên Hợp Quốc sẽ
được tiến hành bằng nghị quyết của Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội
đồng Bảo an” [74]).
Với những động thái trên, Hoa Kỳ cho rằng quan hệ ngoại giao sẽ
nhanh chóng được thiết lập với Việt Nam, từ đó mà Hoa Kỳ có thể nâng cao
tỷ trọng xuất khẩu vào Việt Nam cũng như khối lượng tài sản ở đây. Quan
trọng hơn, là Hoa Kỳ có thể trực tiếp xúc tiến việc xác minh và tìm kiếm
những binh sĩ và công dân bị chết hoặc mất tích trong cuộc chiến tranh ở Việt
Nam (MIA/POW).
Tháng 3 năm 1977, chính quyền Carter đã chủ động đàm phán với
chính phủ Việt Nam, Tổng thống Carter cử đặc phái viên Leonard Woodcock,
chủ tịch nghiệp đoàn công nhân các hãng xe hơi Hoa Kỳ sang Việt Nam để
* Theo Trần Quang Cơ, “Hồi ức và suy nghĩ”.
đàm phán. Một trong những mục tiêu chính của Hoa Kỳ trong chuyến đi này,
ngoài việc xúc tiến việc nối lại quan hệ với Việt Nam, là thu thập những
thông tin về binh lính Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Trước đó,
Quốc hội Hoa Kỳ đã có một bản báo cáo vào cuối năm 1976 rằng không có
một binh lính Mỹ mất tích nào còn sống và những thống kê về lính Mỹ mất
tích của chính phủ các nước Đông Dương là không đáng tin cậy và không thể
trông chờ.
Tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp Leonard Woodcock và
bốn thành viên trong đoàn, trong đó có thượng nghị sĩ Mansfield. Hai bên đã
tỏ ra thiện chí khi đề cập đến vấn đề bình thường hóa. Nhưng hai bên đã vấp
phải những vấn đề của riêng mình. Phía Việt Nam yêu cầu Hoa Kỳ phải thực
hiện bồi thường theo đúng thỏa thuận của Hiệp định Paris năm 1973 và lời
hứa của cựu Tổng thống Nixon. Phía Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đã làm khó
Hoa Kỳ khi đưa vấn đề bồi thường làm điều kiện để cung cấp cho Hoa Kỳ
những tài liệu về lính Mỹ mất tích trong chiến tranh.
Cũng cần nhắc lại về vấn đề nhạy cảm này. Vào ngày 19 tháng 5 năm
1973, một bức điện thư được gửi đến Thủ tướng nước Cộng hòa Dân chủ Việt
Nam. Đây là bức mật thư của Tổng thống Mỹ Nixon đề ngày 1 tháng 2 năm
1973. Trong nội dung bức thư có đề cập đến việc bồi thường cho Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, Chính phủ Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc tái thiết thời hậu
chiến ở miền Bắc Việt Nam mà không đưa ra bất kỳ điều kiện chính trị nào.
Thứ hai, những cuộc nghiên cứu của Mỹ phỏng đoán chương trình tái
thiết Việt Nam sẽ trị giá khoảng 3.25 tỷ đô la viện trợ trong vòng hơn 5 năm.
Những hình thức viện trợ khác sẽ tùy vào sự thỏa thuận giữa hai Chính phủ
[58].
Như vậy, một trong những điều khoản trong Hiệp định Paris về chấm
dứt chiến tranh Việt Nam là: Hoa Kỳ có nghĩa vụ sẽ giúp đỡ việc tái thiết sau
chiến tranh, đặc biệt là ở Bắc Việt Nam và trên toàn Đông Dương, để hàn gắn
những thiệt hại do chiến tranh gây ra. Điều khoản tái thiết sau chiến tranh này
sau đó đã không được thi hành. Sau này trong những năm 1990, khi bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước thì một yêu cầu phía Hoa Kỳ đặt ra là Việt
Nam phải chấm dứt đòi hỏi Hoa Kỳ nghĩa vụ tái thiết sau chiến tranh như
hiệp định đã nêu.
Sau hai ngày thảo luận bí mật, hai bên chưa đạt được kết quả cụ thể nào
ngoài thỏa thuận ban đầu mà Woodcock gọi là “cầu nối” dẫn đến việc bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Sau chuyến đi thăm mở đường này, theo đề nghị của Woodcock, hai
bên đã thỏa thuận mở cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ tại Paris.
Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, phía Hoa
Kỳ là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Richard Holbrooke. Cuộc đàm phán diễn
ra khá lâu qua ba vòng tháng 5, 6 và 12 năm 1977. Mọi chuyện có vẻ diễn ra
thuận lợi. Richard Holbrooke hứa rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ bãi bỏ cấm vận
nếu quan hệ giữa hai nước được bình thường hóa. Nhưng hai bên vẫn vướng
phải những vấn đề cố hữu, phía Hoa Kỳ yêu cầu tin tức về binh lính mất tích,
trong khi Việt Nam yêu cầu Hoa Kỳ thực hiện lời hứa viện trợ.
Tháng 9 năm 1978, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch
đến New York để tiến hành các cuộc đàm phán với Richard Holbrooke – lúc
này là Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ. Trong cuộc đàm phán đó, Việt Nam
không còn đưa ra những điều kiện trước đây để đẩy nhanh tiến trình bình
thường hóa. Vấn đề chỉ bàn nốt thông cáo chung. Sau đó Bộ trưởng Nguyễn
Cơ Thạch cử Thứ trưởng Trần Quang Cơ ở lại bàn tiếp. Tuy nhiên, sau nhiều
tuần ở lại New York hoàn tất các chi tiết để rồi nhận được câu trả lời rằng
phía Hoa Kỳ thực ra chưa sẵn sàng cho bình thường hóa.
Theo lời kể lại của John Mcauliff, giám đốc điều hành Quỹ Hòa giải và
Phát triển của Mỹ: "Sau này chúng tôi được biết ông Holbrooke và Ngoại
trưởng Cyrus Vance đã phải nhượng bộ quan điểm cứng rắn của Cố vấn an
ninh quốc gia Brzezinski coi việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam sẽ
ảnh hưởng đến tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Nguyên
cớ mà người ta đưa ra công khai làm cản trở quá trình bình thường hóa quan
hệ là vấn đề thuyền nhân người Hoa và cuộc xung đột đang leo thang tại
Campuchia. Đây cũng chính là thời điểm chính thức gác lại việc bình thường
hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tới 17 năm sau” [13].
1.2.2. Những nguyên nhân dẫn đến thất bại trong nỗ lực nối lại quan
hệ với Việt Nam của Tổng thống Jimmy Carter
Như vậy, cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã xuất
hiện ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã vấp
phải những vấn đề từ cả hai nước khiến cho việc bình thường hóa không đi
được đến kết quả cuối cùng.
Về phía Hoa Kỳ, chủ trương bình thường hóa với Việt Nam của Tổng
thống Jimmy Carter ngay từ đầu đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của Quốc
hội Hoa Kỳ. Trước khi Jimmy Carter tiến hành đàm phán với chính phủ Việt
Nam, Quốc hội Hoa Kỳ đã ra quyết định H.Con.Res.244 từ chối quan hệ
ngoại giao với Việt Nam chừng nào Việt Nam chưa cung cấp đầy đủ những
tài liệu về MIA cho Hoa Kỳ.
Ngay khi nghe tin chính phủ Việt Nam yêu cầu bồi thường trong vòng
đàm phán thứ nhất vào tháng 5 năm 1977, một sửa đổi đạo luật về viện trợ do
các nghị sĩ Cộng hòa bảo trợ đã được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nhanh
chóng với tỷ lệ phiếu áp đảo (266/131). Sửa đổi này ngăn cấm chính phủ Hoa
Kỳ không được “đàm phán đền bù chiến tranh, viện trợ hoặc bất cứ hình thức
chi trả nào cho Việt Nam” [76]. Đến tháng 6 năm 1977, Hạ viện Hoa Kỳ lại
thông qua một sửa đổi khác với lời hứa viện trợ 3,25 tỷ đô la cho Việt Nam
của Nixon. Trước những áp lực của Quốc hội, Tổng thống Jimmy Carter đã
phải từ bỏ nỗ lực bình thường hóa với Việt Nam và rút lại lời hứa viện trợ
nhân đạo cho Việt Nam.
Đối với chính phủ Việt Nam, những động thái bình thường hóa ngay
sau chiến tranh của Jimmy Cater là tương đối bất ngờ. Do vậy, trên tư thế
người thắng cuộc, Việt Nam đã đưa điều kiện bồi thường ra như một điều
kiện tiên quyết để bình thường hóa và cung cấp những thông tin về vấn đề
MIA cho Hoa Kỳ. Sự thiếu mềm dẻo trong ngoại giao này đã khiến cho cơ
hội ngắn ngủi mà Jimmy Carter mang đến bị dập tắt trước sự phản ứng gay
gắt của Quốc hội Hoa Kỳ. Mặt khác, do thiếu thông tin về nội bộ chính trị của
Hoa Kỳ, không đánh giá hết được ảnh hưởng của Quốc hội đối với chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ nên Việt Nam đã không kịp điều chỉnh lập trường đàm
phán để nắm bắt cơ hội bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ.
1.3. Những trở ngại trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ 1979 đến 1989
1.3.1. Vấn đề Campuchia trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
Năm 1978 đã diễn ra một sự kiện làm ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình
bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là việc Việt Nam đưa
quân đội vào Campuchia phối hợp với quân cách mạng để lật đổ chế độ độc
tài Pôn Pốt – lực lượng đang chiếm giữ chính quyền nước này.
Vấn đề Campuchia lúc bấy giờ là một vấn đề chính trị nóng bỏng và
nhạy cảm, đó là một vấn đề nội bộ nhưng mang tính chất quốc tế. “Chế độ
dân chủ” lúc bấy giờ ở Campuchia không những thể hiện tính phản động và
nguy hiểm trong nước mà còn đe dọa đến các nước láng giềng trong đó có
Việt Nam. Chẳng những thế vấn đề Campuchia còn có ảnh hưởng trực tiếp
đến mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
Khi chế độ diệt chủng do PônPốt đứng đầu được thiết lập ở Campuchia,
lực lượng này được sự ủng hộ của Trung Quốc. Do đó, việc quân đội Khơme
Đỏ của PônPốt gây hấn ở biên giới Việt Nam không chỉ tạo nên mối hiềm
khích giữa chính phủ Việt Nam và lực lượng phản động Pônpốt mà còn làm
nóng lên sự bất hòa trong quan hệ Trung – Xô. Cố vấn an ninh Quốc gia của
Tổng thống Jimmy Carter là Zbigniew Brzezinski đã thấy được điều này và
xem đây như là cơ hội tốt để khoét sâu mâu thuẫn giữa hai nước xã hội chủ
nghĩa chủ chốt, lôi kéo Trung Quốc vào cuộc chiến chống lại Liên Xô.
Ngày 20 tháng 5 năm 1978, Brzezinski có chuyến thăm Trung Quốc.
Động thái ngoại giao này vừa giúp Hoa Kỳ thể hiện thiện chí với Trung Quốc
vừa làm Liên Xô giận dữ vì ai cũng biết rằng quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ lúc
này là quan hệ thù địch. Chuyến thăm Trung Quốc này của Brzezinski cũng
có ảnh hưởng lớn đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ vì một ngày trước khi
Brezinski đến Bắc Kinh (tức ngày 19 tháng 5), lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình tuyên bố “Việt Nam là CuBa của phương Đông” (“the Cuba of the
East”) [72] còn Trung Quốc là “NATO của phương Đông”. Brzezinski thuộc
phái chống kịch liệt bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và quan điểm của
ông này đã tác động đến Tổng thống, Jimmy Carter thừa nhận: “Tôi đã bị
thuyết phục bởi Brzezinski”. Tổng thống Jimmy Carter nói: “Khi đó (1978),
tôi phải trực tiếp đàm phán bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và so
với Trung Quốc và cuộc đàm phán giữa Israel và Ai Cập, tôi phải nói rằng,
Việt Nam không nằm trong thứ tự ưu tiên của tôi” [27].
Ngày 25 tháng 11 năm 1978, Việt Nam chính thức đưa quân đội vào
Campuchia để đánh đổ chế độ PônPốt. Sự kiện này trở thành một lý do để
chính quyền Hoa Kỳ cắt đứt mọi nỗ lực nối lại quan hệ giữa hai nước. Đối với
những người đứng đầu chính phủ Hoa Kỳ, Việt Nam không chỉ còn là kẻ thù
trong quá khứ mà đã trở thành lực lượng đối lập trong chính sách ngoại giao
của Hoa Kỳ thời điểm bấy giờ.
Giải quyết vấn đề Campuchia, cụ thể là Việt Nam rút quân ra khỏi lãnh
thổ Campuchia là một trong những điều kiện tiên quyết để Hoa Kỳ nối lại
việc đàm phán đi đến bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
1.3.2. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Ronald
Reagan và George Bush
Tháng 7 năm 1987, Tổng thống Ronald Reagan cử Đại tướng Hoa Kỳ
John Vessey – đặc phái viên tổng thống sang Việt Nam bàn về vấn đề người
Mỹ mất tích, Hoa Kỳ tỏ ra mềm dẻo với Việt Nam. Tại Hà Nội, Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã làm việc với John Vessey. Hai bên đều
muốn tranh thủ cơ hội. Sau đó hai bên tiếp tục đàm phán nhiều lần, Bộ trưởng
Nguyễn Cơ Thạch sang Hoa Kỳ từng đợt để thảo luận.
Lúc này, lực lượng cực hữu như cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, và
cựu Tổng thống Richard Nixon dùng vấn đề MIA phản đối vấn đề bình
thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Thậm chí một số thành phần ở Hoa
Kỳ kích động những gia đình có người mất tích chống lại tiến trình này. Họ
đưa ra những bức hình vu cáo Việt Nam vẫn còn giam giữ tù binh Hoa Kỳ và
yêu cầu phía Việt Nam phải giải thích. Sau nhiều lần xác minh của cả hai
nước, vấn đề này mới được sáng tỏ, những gì mà các bức ảnh đưa ra là không
đúng sự thật. Tiến trình đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ được nối lại.
Về phần mình, Tổng thống Reagan đưa ra điều kiện tiên quyết để bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam là Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia.
Các quan chức Hoa Kỳ lúc bấy giờ cũng tuyên bố thêm rằng tiến trình bình
thường hóa quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ còn tùy thuộc vào thái độ hợp
tác của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề tù nhân chiến tranh và người
Mỹ mất tích tại Việt Nam (POW/MIA).
Tháng 9 năm 1989, Việt Nam rút toàn bộ lực lượng tình nguyện của
mình ra khỏi Campuchia sau khi giúp nước bạn ổn định tình hình đất nước
sau thảm họa. Động thái này đã được Hoa Kỳ nhìn nhận, ngày 18 tháng 7
năm 1990, Tổng thống Bush đã liên lạc với Hà Nội để tìm kiếm liên minh
quốc tế trong nỗ lực đạt đến một Hiệp định hòa bình ở Campuchia.
Để giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh, năm 1987
một đoàn đại biểu của Tổng thống Hoa Kỳ đã đến Hà Nội để thảo luận và đặt
cơ sở cho việc tìm kiếm. Việt Nam đã trả lại hài cốt của hơn 300 binh lính
Hoa Kỳ. Tuy chưa đầy đủ như phía Hoa Kỳ mong đợi nhưng với cam kết của
Việt Nam sẽ đặc biệt lưu ý và đẩy mạnh hơn nữa việc tìm kiếm hài cốt và
thông tin về binh lính Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh, chính phủ Hoa Kỳ
đã bắt đầu xem xét đến khả năng xúc tiến lại tiến trình bình thường hóa quan
hệ với Việt Nam.
Tháng 4 năm 1991, Hoa Kỳ và Việt Nam thỏa thuận việc thiết lập một
văn phòng Hoa Kỳ ở Hà Nội để điều tra vấn đề POW/MIA. Động thái tích
cực này đã khuyến khích Hoa Kỳ đề ra một “Lộ trình” (Road map) cho Việt
Nam để đi đến bình thường hóa với Hoa Kỳ và lời hứa về một khoản viện trợ
nhân đạo trị giá một triệu đô la cho Việt Nam . Sự kiện này Ông Trịnh Xuân
Lãng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp quốc ghi nhận lại: “Ngày 9
tháng 4 năm 1991 là một ngày không bao giờ quên đối với tôi. Sáng hôm đó,
Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Richard Salomon bay từ Washington đến New
York và trao cho tôi, đại diện phía Việt Nam bản "Road map" tức bản lộ trình
bình thường hóa. Trong đó có hai vấn đề chính là MIA và Campuchia, bao
gồm 4 bước. Tháng 9 năm 1991 khi Hiệp định Paris về Campuchia bắt đầu
thì cũng là lúc chúng ta tiến hành lộ trình” [12].
Trong “Lộ trình” bao hàm cả những điều kiện, những công cụ và những
bước đi cụ thể hướng tới việc xóa bỏ cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan
hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Theo lộ trình này, tiến độ của Việt
Nam trong việc trợ giúp giải quyết vấn đề tù bình chiến tranh, người Mỹ mất
tích (POW/MIA) và các vấn đề khác sẽ được đáp lại bởi các mối quan hệ
được mở rộng. Lộ trình bao gồm bốn giai đoạn mà ở cuối mỗi giai đoạn, Hoa
Kỳ sẽ nâng cấp các mối quan hệ về ngoại giao, ủng hộ việc trợ giúp của các
định chế tài chính quốc tế (IFI) cho các dự án về các nhu cầu không cơ bản
của con người ở Việt Nam.
Do “Lộ trình” này được Hoa Kỳ đơn phương đặt ra, nên Việt Nam
chưa bao giờ chính thức thừa nhận nó. Nhưng với tư duy thực tế phù hợp với
nhu cầu đổi mới mở cửa đất nước cần tăng cường quan hệ với nhiều nước đặc
biệt là các cường quốc kinh tế như Hoa Kỳ, nên Việt Nam đã hợp tác với Hoa
Kỳ trong việc giải quyết những vấn đề nhân đạo như vấn đề người Mỹ mất
tích, vấn đề tù nhân chiến tranh và một số vấn đề khác mà Việt Nam thấy hợp
lý như thực hiện Hiệp định hòa bình Paris về Campuchia và tạo điều kiện
thuận lợi cho người Việt Nam di cư sang Hoa Kỳ… Những việc làm này phù
hợp với lợi ích của Hoa Kỳ, đáp ứng những điều kiện mà Hoa Kỳ nêu ra trong
“Lộ trình” nên đã được chấp nhận như những yếu tố để Hoa Kỳ nới lỏng dần
các biện pháp cấm vận và trừng phạt đối với Việt Nam.
Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
cần phải đề cập đến là vào thời điểm này, đó là sự sụp đổ của khối xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, đánh dấu sự kết thúc của cuộc Chiến tranh lạnh
kéo dài hơn bốn thập kỷ. Đây là bước ngoặt lớn làm thay đổi chính sách ngoại
giao của Hoa Kỳ. Những thay đổi nhanh chóng của thế giới trong những năm
cuối của thế kỷ XX, với xu hướng toàn cầu và hội nhập, chính phủ Hoa Kỳ
nhận thấy những chính sách cấm vận và cô lập của mình đối với Việt Nam
cũng như nhiều nước khác ngày càng trở nên bất lợi đối với lợi ích chiến lược
của mình.
Từ năm 1986, Việt Nam đã tìm thấy lối thoát cả ở trong nước và nước
ngoài. Ở trong nước, đó là công cuộc đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội; còn
đối với bên ngoài, đó là cách ứng xử thích hợp trên trường quốc tế. Công cuộc
đổi mới với chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
chống quan liêu, bao cấp đã động viên được mọi tầng lớp nhân dân, kích thích
được các thành phần kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của các ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Nó tạo ra một lượng hàng hóa ngày càng tăng
cho xã hội, nhất là nông phẩm và lương thực, giảm bớt tình trạng khan hiếm
hàng hóa tiêu dùng, đưa Việt Nam từ chỗ mỗi năm phải nhập khoảng 1 triệu
tấn lương thực đến chỗ xuất khẩu trên 1 triệu tấn gạo năm 1989, sau tăng lên
2 – 3 triệu tấn mỗi năm, ổn định được tình hình kinh tế – xã hội, kéo lạm phát
từ mức ba chữ số xuống trên dưới 10% mỗi năm.
Về kinh tế đối ngoại, sau khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (tháng
12 năm 1987), các công ty trong khu vực Đông và Đông Nam Á đầu tư tại
Việt Nam với số lượng ngày càng tăng. Lượng hàng xuất nhập khẩu của Việt
Nam với các nước trong khu vực cũng tăng. Những nguồn lực mới này đã
phần nào bù lại cho số viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ
cắt đi và quan trọng hơn là nó đã tạo ra một không khí kinh doanh và cách
thức làm kinh tế đối ngoại mới của Việt Nam, không dựa hẳn vào viện trợ
nước ngoài như thời kỳ trước. Sự thay đổi đó đã tạo ra những thiện cảm đối
với các chính phủ và bạn bè quốc tế. Nhiều công ty và chính phủ các nước đã
đầu tư vào kinh doanh và giúp đỡ Việt Nam bất chấp lệnh cấm vận của Hoa
Kỳ đối với Việt Nam. Tháng 11 năm 1991. Chính phủ Singapore đã quyết
định hủy bỏ lệnh cấm đầu tư của Singapore tại Việt Nam. Năm 1992, Chính
phủ Nhật Bản và một số nước khác, một số tổ chức tài chính quốc tế đã cam
kết cung cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam.
Đến lúc này, nhiều người Mỹ nhận ra rằng chính sách cấm vận và trừng
phạt của Hoa Kỳ chống Việt Nam không chỉ gây tác hại cho Việt Nam mà
còn gây tác hại cho cả Hoa Kỳ. “Trong khi mũi nhọn trong chính sách của
Hoa Kỳ là nhằm cô lập Việt Nam, thì bản thân Hoa Kỳ lại thấy chính mình
ngày càng bị cô lập bởi chính sách của mình” [79, tr. 79]. Đánh giá trên của
Michael C. Williams về tác động của chính sách cấm vận và trừng phạt kinh
tế của Hoa Kỳ đối với bản thân Hoa Kỳ là rất đúng. Từ khi công cuộc đổi mới
toàn diện của Việt Nam phát huy tác dụng, tình hình kinh tế – xã hội Việt
Nam được cải thiện, quan hệ đối ngoại ngày càng thêm rộng mở, thì tác hại
của cấm vận và trừng phạt của Hoa Kỳ ngày càng kém đi, ngược lại, tác hại
đối với chính các công ty Hoa Kỳ ngày càng tăng lên và làm cho Hoa Kỳ
ngày càng thêm bị cô lập với chính bản thân chính sách cấm vận của mình.
Trong khi nhiều nước tư bản, đặc biệt là Nhật Bản đã bắt đầu xây dựng các
quan hệ thương mại với Việt Nam thì Hoa Kỳ trở thành một quốc gia xa lạ
trong mối quan hệ kinh tế mở cửa nhanh chóng của Việt Nam. Việt Nam ngày
càng được nhiều người nhìn nhận như một con hổ châu Á mới có tiềm năng
tăng trưởng kinh tế tự chủ và cơ hội thị trường cao, các công ty Hoa Kỳ ngày
càng băn khoăn vì bị bỏ lại phía sau trong khi các đối thủ cạnh tranh từ châu
Á và châu Âu đã nhảy vào thiết lập thị trường của mình ở Việt Nam.
Cho dù tại Hoa Kỳ, vẫn có một số ít người còn mang tư tưởng thù hận,
bảo thủ chống lại Việt Nam, kêu gọi kéo dài cấm vận và trừng phạt đối với
Việt Nam, nhưng với những gì mà Việt Nam thể hiện, nhiều người Mỹ nhận
thấy cấm vận đã trở nên bất lợi cho chính Hoa Kỳ và cấm vận mãi đối với
một nước nhỏ không bao giờ xâm lấn tới quyền lợi của Hoa Kỳ là một lối
hành xử không đẹp. Họ đã lên tiếng kêu gọi bãi bỏ trừng phạt và cấm vận
cũng như cải thiện mối quan hệ với Việt Nam. Năm 1993, Thượng nghị sĩ
Hoa Kỳ John F. Kerry viết: “Đã đến lúc chúng ta cần thay thế sự thù địch và
hồ nghi kéo dài 18 năm bằng sự hòa hợp và tái thiết. Chúng ta có thể xây
dựng mối quan hệ hai bên cùng có lợi với Việt Nam nếu chúng ta có can đảm
và tầm nhìn xa trông rộng để làm việc đó” [26, tr. 119]. Đến đầu năm 1994,
trong một bài tạp chí với tựa đề “Cải thiện quan hệ phục vụ cho lợi ích của
Hoa Kỳ”, Thượng nghị sĩ John McCain cũng đã viết: “Tôi ủng hộ điều đó
(việc cải thiện mối quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam) vì tôi tin rằng một động thái
như vậy là tốt cho lợi ích của Hoa Kỳ cũng như lợi ích của nhân dân Việt
Nam” [26, tr. 120].
Sau một năm Hoa Kỳ công bố “Lộ trình”, sự hợp tác giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ đã đạt được một số kết quả tích cực, nhất là trong việc tìm kiếm
người Mỹ mất tích, thực hiện Hiệp định hòa bình Paris về Campuchia và tạo
điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam di cư sang Hoa Kỳ. Để đáp lại những
kết quả đó, trong năm 1992 chính quyền của Tổng thống Bush đã thực hiện
giai đoạn I nới lỏng một phần cấm vận bằng cách giảm bớt những hạn chế về
đi lại của công dân Hoa Kỳ sang Việt Nam và mở ra các cuộc thương lượng
về ngoại giao với Việt Nam. Tháng 12 cùng năm, chính quyền Bush đã thực
hiện giai đoạn II của Lộ trình, quyết định mở văn phòng liên lạc tại
Washington và Hà Nội để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước, cho
phép các công ty Hoa Kỳ được mở văn phòng và ký kết các hợp đồng tại Việt
Nam, được thực hiện một số biện pháp thúc đẩy và hỗ trợ thương mại, hỗ trợ
đầu tư cho các công ty của họ tại Việt Nam.
1.4. Bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
Sang thời kỳ của chính quyền Bill Clinton, sự hợp tác giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ trong các vấn đề nhân đạo nhất là vấn đề người Mỹ mất tích tiếp
tục được thực hiện và đạt được những sự tiến bộ lớn hơn. Đến ngày 3 tháng 2
năm 1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố giai đoạn III xóa bỏ lệnh cấm
vận thương mại lâu dài đối với Việt Nam và thông báo cho phép các doanh
nghiệp Hoa Kỳ tiến hành các giao dịch tài chính, thương mại và các giao dịch
khác đối với Việt Nam và kiều dân Việt Nam. Việc bãi bỏ cấm vận đồng
nghĩa với việc các công ty và doanh nghiệp Mỹ có thể tham gia vào các
chuyến đi không hạn chế tới Việt Nam, đầu tư vào Việt Nam hoặc các xí
nghiệp của Việt Nam, trong khi Việt Nam có thể mua các sản phẩm của Hoa
Kỳ. Ngoài ra, chính quyền Clinton đã bắt đầu cho phép các quan chức chính
phủ Mỹ sang Việt Nam làm công vụ phục vụ mục đích kinh doanh hoặc
thương mại. Việc bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam của Tổng thống Bill
Clinton cũng tạo điều kiện lớn cho Hoa Kỳ trong tiến trình điều tra về vấn đề
POW/MIA. Đô đốc Charles R. Larson, Chỉ huy trưởng của Hoa Kỳ khu vực
Châu Á Thái Bình Dương, sau chuyến thăm Việt Nam trong vòng 3 ngày đã
tuyên bố, việc bình thường hóa với Việt Nam sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho việc
tìm kiếm những người Mỹ được xem như mất tích trong chiến tranh ở Việt
Nam. Ông nói rằng: “Nếu chúng ta có nhiều nguồn đầu tư, nhiều khách du
lịch và tham gia nhiều hoạt động ở Việt Nam, có nghĩa là tôi sẽ được cung
cấp một hệ thống thông tin giúp ích cho việc tìm hiểu quá khứ, hiện tại và cả
tương lai nữa” [66, tr. 9].
Cũng trong ngày này, Tổng thống Bill Clinton đã thông báo ý định cho
phép thiết lập các văn phòng phi ngoại giao ở Washington và Hà Nội. Tiếp
theo đó là việc xem xét lại địa vị của Việt Nam đối với việc kiểm soát xuất
khẩu của Hoa Kỳ. Trước đó, Việt Nam bị xếp là một trong các thành viên của
“Các nước nhóm Z”, gồm những nước chịu cấm vận kinh tế hoàn toàn (gồm
Việt Nam, Cuba và Bắc Triều Tiên). Đến thời điểm này, Việt Nam được xếp
lại như một thành viên của “Các nhóm nước Y” (Việt Nam, Lào, Campuchia,
Mông Cổ, một số nước thuộc Đông Âu và Liên Xô) là những nước bị hạn
chế, trong đó các giấy phép xuất khẩu chỉ được chấp thuận trên cơ sở từng
trường hợp. Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ xem xét và chấp thuận các đơn xin
phép cá nhân để xuất khẩu hoặc tái xuất khẩu các hàng hóa hoặc dữ liệu kỹ
thuật sang Việt Nam trên cơ sở từng trường hợp một. Các chấp thuận nói
chung sẽ được cấp cho các hàng hóa hoặc dữ liệu kỹ thuật phục vụ dân sự,
không đóng góp đáng kể gì cho tiềm năng quân sự của Việt Nam hoặc bị coi
là phương hại đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Các đơn xin phép phải gửi
đến Bộ Thương Mại nếu không cần tham khảo ý kiến các cơ quan khác như
Bộ Ngoại Giao hoặc Bộ Quốc Phòng, sẽ được trả lời trong vòng 15 ngày kể từ
ngày nhận hồ sơ, nếu hồ sơ nào được tham khảo thì thời gian có thể là 60
ngày.
Ngày 28 tháng 1 năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký một thỏa thuận
về việc giải quyết tài sản ngoại giao và các yêu cầu khác còn tồn tại. Thỏa
thuận này được Hoa Kỳ xem như là một điều kiện tiên quyết trên con đường
tiến tới bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Đồng thời, trong
cùng thời điểm tháng 1 năm 1995, các văn phòng liên lạc cuối cùng của cả hai
nước đã được khai trương. Tuy nhiên, các văn phòng này chỉ có số lượng
nhân viên tối thiểu, trong đó văn phòng liên lạc của Hoa Kỳ lúc đầu không hề
có một quan chức ngoại thương nào.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Bill Clinton đã thông báo rằng
Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi cấp đại sứ.
Tuyên bố này rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Thứ nhất, là
các văn phòng liên lạc có số lượng nhân viên hạn chế được thiết lập từ đầu
năm 1995 ở Washington và Hà Nội sẽ chuyển thành các đại sứ quán chính
thức. Thứ hai, mở cửa cho các chương trình quan trọng, tạo điều kiện thuận
lợi cho quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước phát triển và mang lại cho
các công ty Hoa Kỳ nhiều sự trợ giúp và an toàn hơn.
Cùng với việc tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Tổng
thống Bill Clinton, trong bài phát biểu của mình, cũng nêu ra một số vấn đề
mà Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Việt Nam:
Đầu tiên: Là vấn đề người Mỹ mất tích và tù nhân chiến tranh
(MIA/POW). Có thể thấy một thực tế, việc bình thường hóa quan hệ với Việt
Nam là một nỗ lực lớn của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất
tích trong chiến tranh trước sức ép của những gia đình có thân nhân tham gia
trong cuộc chiến và của dân chúng Mỹ. Có thể thấy điều này trong tuyên bố của Tổng thống Bill Clinton về việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam*:
“Hôm nay tôi tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Bắt đầu
từ kỳ Tổng thống này, bất kỳ sự cải thiện trong mối quan hệ giữa hai nước
đều dựa vào tiến trình ban bố danh sách người Mỹ mất tích hoặc bị bị giữ
làm tù binh chiến tranh. Năm ngoái, tôi bãi bỏ cấm vận ở Việt Nam vì sự hợp
tác của họ và đẩy mạnh hơn nữa những nỗ lực tìm kiếm những người Mỹ mất
tích hoặc số phận chưa xác định.
Việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã cho kết quả tốt đẹp.
Trong vòng 17 tháng, Hà Nội đã có những xúc tiến quan trong giúp chúng ta
tìm ra nhiều trường hợp mất tích. Hai mươi chín gia đình đã nhận được hài
cốt của người thân, và cuối cùng họ có thể chính thức an táng người thân của
mình. Hà Nội đã công bố hàng trăm trang tài liệu hé lộ cho chúng ta những
thông tin về những gì đã xảy ra với người Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội còn đẩy
mạnh tiến trình tìm kiếm bằng cách hợp tác với Lào, nơi có nhiều người Mỹ
mất tích. Chúng ta đã làm giảm số lượng những “trường hợp tranh cãi”, là
* Nguyên văn Bản tuyên bố của Bill Clinton được đăng tại:
http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m1584/is_n28_v6/ai_17218893
những người Mỹ mà chúng ta đã có căn cứ để tin rằng họ vẫn còn sống sau
khi mất tích xuống còn 55, và chúng ta sẽ tiếp tục làm việc để làm sáng tỏ
nhiều trường hợp hơn nữa…”.
Thứ hai: Về kinh tế, Hoa Kỳ sẽ bắt đầu bình thường hóa các quan hệ
thương mại với Việt Nam, điều này đồng nghĩa với việc quan hệ buôn bán,
thương mại, hợp tác kinh tế giữa hai nước sẽ được thúc đẩy mở rộng và phát
triển. Đồng thời, chính phủ Hoa Kỳ sẽ thực hiện các chương trình thích hợp
để phát triển quan hệ thương mại với Việt Nam phù hợp với luật pháp Hoa
Kỳ.
Thứ ba: Tổng thống Bill Clinton gắn những chương trình phát triển
thương mại trên với đòi hỏi bàn bạc và thực hiện các vần đề như “nhân
quyền”, “quyền lao động”và “tự do tôn giáo”. Ông nói: “nhiều chương trình
trong số các chương trình này đòi hỏi phải đảm bảo quyền con người và
quyền lao động trước khi chúng được đưa vào thực hiện. Chúng ta đã bắt đầu
thảo luận với Việt Nam về những vấn đề thuộc quyền con người, đặc biệt là
những vấn đề về tự do tôn giáo. Giờ đây chúng ta có thể mở rộng và tăng
cường cuộc đối thoại đó”.
Thứ tư: Tổng thống Bill Clinton thừa nhận nền độc lập của Việt Nam,
nhưng đồng thời lại đề cập tới việc phát triển “sự nghiệp tự do” và “cải cách
dân chủ” ở Việt Nam theo cách hiểu của Hoa Kỳ: “Tôi… sẽ phát triển sự
nghiệp tự do ở Việt Nam, như nó đã được phát triển ở Đông Âu và Liên Xô
cũ… gắn kết người Việt Nam với mặt trận cải cách kinh tế rộng lớn… Ngày
nay, người Việt Nam có độc lập, và chúng ta tin tưởng rằng bước đi này sẽ
giúp mở rộng tầm phát triển của nền tự do ở Việt Nam…”.
Về phía Việt Nam, quyết định bình thường hóa của Tổng thống Bill
Clinton là một sự kiện có ý nghĩa hết sức đặc biệt và được chào đón nồng
nhiệt. Bảy tiếng đồng hồ sau khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố quyết định
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã xuất hiện
trên truyền hình tuyên bố sẵn sàng thỏa thuận một khuôn khổ mới cho quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Trong tuyên bố của mình, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
khẳng định tính đúng đắn và cần thiết của việc bình thường hóa quan hệ giữa
hai nước:“… Tuyên bố của Tổng thống Bill Clinton công nhận ngoại giao và
thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam là một quyết định quan trọng,
phản ánh nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân Mỹ muốn khép
lại quá khứ chiến tranh, xây dựng mối quan hệ bình thường, hữu nghị và hợp
tác với Việt Nam. Quyết định này phù hợp với xu thế hiện nay của tình hình
quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, ổn định và phát triển ở
Đông Nam Á cũng như trên thế giới”, cũng như sự sẵn sàng cho mối quan hệ
mới với Hoa Kỳ: "Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoan nghênh quyết định
ngày 11 tháng 7 năm 1995 của Tổng thống Bill Clinton và sẵn sàng cùng
Chính phủ Hoa Kỳ thỏa thuận một khuôn khổ mới cho quan hệ giữa hai nước
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, cùng có lợi và phù hợp với các nguyên tắc
phổ biến của luật pháp quốc tế".
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tuy đến muộn sau
nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, nhưng nếu xét đến tình hình khách quan của Việt Nam
thì đây là thời điểm thuận lợi cho Việt Nam nối lại quan hệ với Hoa Kỳ. Đến
cuối những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam vẫn là một nước lạc hậu, kinh tế
chậm phát triển do ảnh hưởng của thời kỳ bao cấp; Mặt khác, thời điểm
những năm từ 1976 đến 1991 là giai đoạn đang diễn ra cuộc Chiến tranh lạnh
giữa hai khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa mà Việt Nam ít nhiều chịu
ảnh hưởng. Quá trình đổi mới toàn diện của nước ta đã tạo nên những đột phá
trong phát triển kinh tế từ những năm đầu thập niên 90, đồng thời tác động
đến chính sách đối ngoại theo chiều hướng tích cực và thông thoáng hơn.
Việc Chiến tranh lạnh kết thúc đã chấm dứt sự đối đầu gay gắt giữa hai khối
tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, mở ra cơ hội nối lại quan hệ giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ, như Warren Christopher đã từng phát biểu: “Với việc Chiến
tranh lạnh kết thúc, chúng tôi xem Việt Nam như một sản phẩm của lịch sử, là
một trải nghiệm của số mệnh... đến thời điểm này chúng tôi nhìn về Việt Nam
như một đất nước chứ không phải là một cuộc chiến tranh” [58]. Đó là những
điều kiện thuận lợi cơ bản để nước ta cải thiện mối quan hệ với nhiều nước tư
bản trong đó có Hoa Kỳ. Sự kiện bình thường hóa tháng Bảy năm 1995 là một
bước ngoặt chính trị quan trọng đối với cả hai nước vì nó cho phép Việt Nam
lần đầu tiên trong lịch sử của mình đạt được quan hệ bình thường và cơ bản
hòa bình với tất cả các cường quốc trên thế giới, đồng thời làm cho Hoa Kỳ
chính thức chuyển từ chỗ coi Việt Nam là kẻ thù sang thành đối tác.
Khi đi đến quyết định lịch sử bình thường hóa quan hệ giữa hai nước,
phía Hoa Kỳ coi việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích là ưu tiên hàng
đầu; còn về phía Việt Nam, chúng ta xác định quan hệ kinh tế – thương mại là
nội dung cơ bản của mối quan hệ mới. Nhưng trong thực tế, để đi đến bình
thường hóa, Việt Nam và Hoa Kỳ đã hợp tác trong việc giải quyết nhiều vấn
đề về hậu quả chiến tranh, hòa giải mâu thuẫn, xúc tiến thương mại… để đi
đến những sự đồng thuận nhất định cho việc nối lại quan hệ ngoại giao. Từ
những nỗ lực này, đã mở ra một thời kỳ mới trong các quan hệ Hoa Kỳ – Việt
Nam, thời kỳ xây dựng và phát triển các mối quan hệ hợp tác nhiều mặt và
cùng có lợi giữa hai nước.
Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã để lại nhiều
bài học quý giá. Đó là bài học về tinh thần hòa giải, bỏ qua những hiềm khích
trong quá khứ để hướng về tương lai vì một đất nước Việt Nam phát triển
giàu mạnh; bài học về đường lối ngoại giao mềm dẻo “dĩ bất biến, ứng vạn
biến” mà chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra: linh hoạt trong xử lý tình huống để nắm
bắt, tranh thủ mọi cơ hội có được nhằm củng cố và phát triển các mối quan hệ
ngoại giao. Những bài học này sẽ là hành trang tốt để Việt Nam bước vào một
thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: thời kỳ sau bình thường hóa.
Chương 2
QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HÓA ĐẾN
CUỐI NHIỆM KỲ THỨ HAI CỦA TỔNG THỐNG BILL CLINTON
(1995 – 2000)
2.1. Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời mở
cửa
Từ những năm 80 đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới
có nhiều biến đổi phức tạp. Cục diện chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng.
Cùng với sự tan rã của Liên Xô, các thiết chế xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần
lượt sụp đổ, chấm dứt trật tự thế giới hai cực thời kỳ Chiến tranh lạnh. Các
nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược mạnh mẽ, chú trọng phát triển nội lực;
tích cực đẩy mạnh các chương trình “Chấn hưng kinh tế”, “Cải cách mở cửa”
tăng cường cạnh tranh và chạy đua kinh tế; Cải thiện quan hệ song phương
vừa hợp tác vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Những thay đổi nhanh chóng
này có ảnh hưởng đến các mối quan hệ quốc tế theo chiều hướng tích cực, tạo
điều kiện để hình thành một thế giới hòa giải và hợp tác.
Trước bối cảnh mới của tình hình trong nước và quốc tế. Đại hội lần VI
năm 1986, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật” [20, tr. 12] đã nhìn nhận tình trạng đất nước một cách nghiêm túc,
nêu rõ những thành tựu và khuyết điểm, chỉ rõ những thiếu sót trong chỉ đạo
chiến lược, trong tổ chức thực hiện. Từ đó, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước.
Trong lĩnh vực đối ngoại, trước Đại hội Đảng lần thứ VI, tháng 7 năm
1986, Bộ Chính trị khóa V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết 32,
xác định rõ chủ trương về điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Đảng đã đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tác động tiêu
cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận
về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Trên
tinh thần đó, tháng 12 năm 1987, Việt Nam thông qua Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam với phương châm hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá
nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền của Việt Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, bình đẳng và
các bên cùng có lợi.
Tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết Trung ương
13 về chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ
đối ngoại của Việt Nam là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc, chủ động tạo thế ổn định để tập trung xây dựng kinh tế.
Những hoạt động đối ngoại trong thời kỳ này đã phản ánh rõ nét những
chuyến biến trong tư duy đối ngoại đổi mới của Đảng và nhà nước ta. Chúng
ta đã tích cực tham gia đối thoại tìm giải pháp chính trị cho vấn đề
Campuchia, bảo đảm giữ vững thành quả cách mạng của nhân dân
Campuchia, khắc phục nạn diệt chủng, tạo dựng môi trường hòa bình trên bán
đảo Đông Dương và khu vực Đông Nam Á. Kiên trì chủ trương sẵn sàng đàm
phán với Trung Quốc nhằm bình thường hóa và phát triển quan hệ hữu nghị,
hợp tác với Trung Quốc trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của hai nước, trên nguyên tắc láng giềng thân thiện và
cùng tồn tại hòa bình. Chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước
Đông Nam Á, sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải
quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, ổn
định và hợp tác. Tích cực cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ với chủ trương “thêm
bạn, bớt thù”, chuyển từ quan hệ đối đầu sang quan hệ đối thoại hợp tác và
đấu tranh vì lợi ích hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng cùng có lợi. Giải quyết mọi tranh chấp bất đồng và những tồn tại như
vấn đề người Mỹ mất tích và tù nhân chiến tranh (MIA/POW), tạo điều kiện
thuận lợi mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và
các nước lớn trên thế giới.
Phát huy những thành tựu đường lối đối ngoại đổi mới của Đại hội
Đảng lần thứ VI, Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6 năm 1991 đã tiếp tục
khẳng định lại nhiệm vụ bao trùm của đường lối đối ngoại Việt Nam là: “Giữ
vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [19, tr. 88].
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tình hình thế giới chuyển biến nhanh
chóng, phức tạp và có tác động mạnh tới Việt Nam. Liên Xô và các thiết chế
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam một lần
nữa trải qua những thử thách. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần
thứ ba (khóa VII), tháng 2 năm 1992 đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo trong hoạt
động đối ngoại trong tình hình mới là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất
và chủ nghĩa xã hội, đồng thời cần sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp
với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như với diễn biến
của cục diện thế giới và khu vực, với từng đối tượng có quan hệ với Việt
Nam, Hội nghị đã đề ra bốn phương châm xử lý trong hoạt động đối ngoại
gồm:
– Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
– Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong khi đẩy mạnh đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
– Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
– Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII tháng 6 năm 1996 đã tiếp tục chính sách đổi
mới về đối ngoại, đó là: “Củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội… với tinh thần
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa
phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
nội bộ công việc của nhau, bình đẳng, cùng có lợi…” [18, tr. 120].
Nhìn chung, những chính sách đối ngoại được thông qua tại các kỳ Đại
hội và Hội nghị Đảng từ những năm đầu đổi mới là thuận lợi cho việc phát
triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Đảng ta đã xác định quan hệ
với Hoa Kỳ là bộ phận không thể thiếu trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam trong thời kỳ mới, là đòn bẩy ngoại giao chiến lược để thúc đẩy việc
phát triển kinh tế – xã hội đất nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa
hiện đại hóa mà Đảng và Chính phủ Việt Nam đề ra.
2.2. Chính sách Ngoại giao của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Bill Clinton
Tổng thống Bill Clinton lên nắm chính quyền vào năm 1993, một thời
gian ngắn sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ và Chiến tranh lạnh kết thúc,
cũng là thời gian mà thế giới đứng trước nhiều vấn đề nan giải. Vì vậy mà
cũng như nhiều Tổng thống tiền nhiệm, Bill Clinton cho rằng Hoa Kỳ có địa
vị tối cao và có quyền can thiệp vào những mâu thuẫn và xung đột diễn khắp
nơi trên thế giới bằng nhiều biện pháp kể cả quân sự. Trong bản “Chiến lược
an ninh quốc gia trong một thế kỷ mới” công bố tháng 10 năm 1998, Tổng
thống Bill Clinton tuyên bố: “Đường lối chiến lược của chúng ta dựa trên sự
thừa nhận chúng ta đứng đầu thế giới… Chúng ta cần sẵn sàng sử dụng tất cả
những phương tiện cần thiết của sức mạnh quốc gia để tác động lên hành
động của các nước khác và các chủ thể phi nhà nước trong quan hệ quốc tế”
[59, tr. 1].
Tuy nhiên, Bill Clinton được xem là người thuộc phái Tân Dân chủ
(New Democrat) có khuynh hướng trung dung (Centrist) trong Đảng Dân chủ.
Trong suốt hai nhiệm kỳ của mình, Bill Clinton luôn quan tâm đến các vấn đề
trong nước, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Do vậy mà trong lĩnh vực
đối ngoại, Tổng thống Bill Clinton chủ trương thi hành một chính sách ngoại
giao để mang lại lợi ích cho đất nước Hoa Kỳ, phục vụ cho việc phát triển
kinh tế và đem lại quyền lợi cho người dân Hoa Kỳ. Ông cho rằng an ninh của
quốc gia là một nền kinh tế rộng lớn; Thành công của những mối quan hệ
ngoại giao không phải dựa vào những tiêu đề báo chí ca ngợi giới chính trị
Washington, mà phải nhìn vào những lợi ích mà ngoại giao mang lại cho nhân
dân lao động Hoa Kỳ. Chính vì chủ trương đó mà Bill Clinton là người điều
hành đất nước Hoa Kỳ hòa bình, ổn định và kinh tế phát triển mạnh mẽ trong
thời gian lâu nhất trong lịch sử nước này (8 năm, 2 nhiệm kỳ).
Đối với quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, Tổng thống Bill Clinton chính là
người hoàn thành quá trình hàn gắn mối quan hệ giữa hai nước. Ngày 2 tháng
7 năm 1993, sáu tháng sau khi lên nắm quyền hành, Tổng thống Bill Clinton
tuyên bố từ bỏ việc cấm các nước cho Việt Nam vay mượn vốn. Ngày 3 tháng
2 năm 1994, Bill Clinton dỡ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, và đến ngày 7
tháng 11 năm 1995, sau nhiều buổi hội thảo chính thức giữa hai nước ở
Washington và Hà Nội, Hoa Kỳ chính thức nối lại quan hệ với nước ta. Trong
suốt hai nhiệm kỳ của mình, Bill Clinton đã có nhiều động thái ngoại giao
giúp hai nước thật sự xích lại gần nhau.
Tổng thống Bill Clinton đã ba lần phủ quyết dự luật hạn chế quan hệ
Hoa Kỳ – Việt Nam do Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra. Khi Quốc hội đặt điều kiện
cho mối quan hệ đó là Việt Nam phải tích cực hợp tác với Hoa Kỳ để giải
quyết vấn đề tù binh chiến tranh và người Mỹ mất tích (MIA/POW), thì ngày
29 tháng 5 năm 1996, Tổng thống Bill Clinton đã gửi thư cho Quốc hội xác
nhận Việt Nam đã hợp tác rất tốt và tích cực với Hoa Kỳ để giải quyết vấn đề
này. Tổng thống Bill Clinton cũng đã có những bước đi tích cực như tuyên bố
chấm dứt Quy chế khu vực chiến sự đối với Việt Nam (ngày 14 tháng 5 năm
1996) và chính thức đề cử Hạ nghị sĩ Douglas Pete Peterson làm Đại sứ Hoa
Kỳ tại Việt Nam. Mặc dù có những thế lực cản trở xu thế bình thường hóa
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Bill Clinton tiếp tục những
chính sách và hành động của mình vì ông được sự ủng hộ ngày càng rộng lớn
trong xã hội Hoa Kỳ đối với việc cải thiện quan hệ với Việt Nam. Christopher
Coughlin, đại diện của văn phòng VATICO của Hoa Kỳ tại Hà Nội đã đánh
giá những nỗ lực trong việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam như sau:
“cho đến nay, chính quyền của Tổng thống Clinton đã làm hơn bất kỳ chính
quyền nào khác để phát triển các mối quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam kể từ khi
chiến tranh kết thúc” [26, tr. 127].
2.3. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1995 đến năm 2001
2.3.1. Quan hệ kinh tế
2.3.1.1. Quan hệ thương mại
Sự kiện Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận tiếp theo là bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam đã làm cho quan hệ buôn bán giữa hai nước được cải thiện đáng
kể. Từ lâu Hoa Kỳ luôn là thị trường hấp dẫn mà các doanh nhân và doanh
nghiệp Việt Nam hướng đến, ngược lại, Việt Nam với những chuyển biến
đáng kể từ trong thời kỳ đổi mới đã trở thành điểm đến mới đầy tiềm năng
của các doanh nghiệp Hoa Kỳ.
Thực ra quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ không hề chờ đến khi
hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ mới hình thành mà nó tự phát
triển theo chiều hướng tích cực phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước vì
Hoa Kỳ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn đồng thời là nhà cung cấp những
thiết bị công nghệ hiện đại và hàng tiêu dùng cao cấp trên thế giới trong khi
Việt Nam có nhiều mặt hàng hấp dẫn đối với thị trường khổng lồ này và có cả
nhu cầu khá lớn về các sản phẩm của Hoa Kỳ. Do vậy, thông qua hàng loạt
chi nhánh của các công ty của mình ở Đông Á, Hoa Kỳ đã có những bước
chuẩn bị kỹ lưỡng để thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Ngay cả khi lệnh
cấm vận chưa bị bãi bỏ, các công ty Hoa Kỳ vẫn lợi dụng sự lỏng lẻo trong
lệnh cấm vận để thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho sự có mặt chính thức
của mình ở thị trường Việt Nam. Điều này thể hiện rất rõ ở một số hiện tượng
như chỉ sau một vài giờ sau khi lệnh cấm vận của Tổng thống Hoa Kỳ được
bãi bỏ ngày 3 tháng 2 năm 1994, những chai nước giải khát của hãng Pepsi
sản xuất tại Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh, hoặc chỉ 10 giờ từ khi lệnh cấm vận bị bãi bỏ, công ty America
Express đã ký với một ngân hàng Việt Nam về việc sử dụng thẻ tín dụng…
Các hoạt động thương mại của các công ty Hoa Kỳ đối với Việt Nam
diễn ra hết sức nhộn nhịp, từ chỗ chưa được xếp trong bảng các đối tác
thương mại quan trọng của Việt Nam, Hoa Kỳ nhanh chóng có vị trí đáng kể
trong buôn bán với nước ta. Theo số liệu của Bộ Thương mại, buôn bán hai
chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong năm 1993 chỉ có 62 triệu đô la, thì đến
năm 1994 đã đạt 180 triệu đô la, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa
Kỳ đạt khoảng 50 triệu đô la, chủ yếu là nông sản và hàng công nghiệp nhẹ có
hàm lượng lao động cao.
Đến năm 1995, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ là 500 triệu đô la, năm 1996 chỉ tiêu này đạt gần 1 tỷ đô la. Tuy nhiên,
thực tế trong năm 1997 cho thấy sự tiến triển trong quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ không khả quan như mong đợi. Kim ngạch buôn bán hai
chiều năm 1997 giữa hai nước chỉ đạt 569 triệu đô la, trong đó Việt Nam nhập
khẩu 319 triệu đô la, chủ yếu là phân bón, thiết bị bưu chính viễn thông,
nguyên liệu giấy, nguyên liệu bông còn Hoa Kỳ nhập của Việt Nam là 250
triệu đô la, chủ yếu nông sản như cà phê, hải sản…
Trong giai đoạn đầu của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
(1995 – 1997) có những đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, Việt Nam nhập siêu rất lớn từ Hoa Kỳ vì Việt Nam cũng như
rất nhiều nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, rất cần máy móc, thiết bị,
phân bón của những nước phát triển như Hoa Kỳ. Việt Nam đã mua máy bay
của Hoa Kỳ trị giá 72 triệu đô la, phân bón 16 triệu đô la, bông 9 triệu đô la
và nhiều mặt hàng thiết yếu khác.
Thứ hai, cũng là một vấn đề gây trở ngại đáng kể cho quan hệ kinh tế
Việt Nam – Hoa Kỳ đặc biệt là đối với Việt Nam đó là việc chưa ký được
Hiệp định thương mại song phương và Hoa Kỳ chưa dành Quy chế Tối huệ
quốc (Most Favoured Nation – MFN) hay Quy chế về quan hệ buôn bán bình
thường (Normal Trade Relations – NTR) cho Việt Nam.
Quy chế Tối huệ quốc là chính sách không phân biệt đối xử trong
thương mại, nó đề ra cho tất cả các đối tác thương mại quy chế hải quan và
thuế quan như nhau. Đãi ngộ Tối huệ quốc là một trong những quy chế pháp
lý quan trọng trong thương mại quốc tế hiện đại. Quy chế này được coi là một
trong những nguyên tắc nền tảng của hệ thống thương mại đa phương của Tổ
chức Thương mại Thế giới. Theo đó các nước cam kết dành cho nhau những
ưu đãi đối với mọi lĩnh vực dịch vụ, ngoại trừ các lĩnh vực đã được đưa vào
danh mục loại trừ đãi ngộ Tối huệ quốc tạm thời. Mục tiêu của các loại trừ
này nhằm đảm bảo rằng lợi ích của một nước trong thỏa thuận đặc biệt với
một nước nào đó sẽ không tự động dành cho các nước khác không thuộc đối
tượng của thỏa thuận đó hưởng.
Thuật ngữ “Quy chế Tối huệ quốc” được ra đời vào cuối thế kỷ XIX
trong thực tiễn thương mại của Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đã đưa ra
chế độ Tối huệ quốc trong các hiệp định song phương như cơ sở để xúc tiến
thương mại với một số đối tác châu Âu có quan hệ thương mại mật thiết với
mình (ví dụ: Pháp, Hà Lan). Đãi ngộ Tối huệ quốc vào thời điểm ra đời chỉ
mang ý nghĩa của chế độ thương mại thuận lợi nhất mà quốc gia sở tại có thể
dành cho hàng hóa nhập khẩu đối tác thương mại của mình.
Khi chưa được cấp Quy chế Tối huệ quốc, hầu hết hàng hóa của Việt
Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu mức thuế rất cao so với hàng hóa của
các nước khác đã được cấp Quy chế tối huệ quốc. Cụ thể, Việt Nam phải chịu
mức thuế phi Tối huệ quốc (Non – MFN) từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều
lần so với mức thuế Tối huệ quốc (MFN). Ta có thể thấy điều này qua bảng
thống kê của Fank Desiderio, Giám đốc phòng thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ sự chênh lệch mức thuế của 3 loại hàng hóa như sau:
Có Tối huệ Không có Tối
quốc huệ quốc
Một số sản phẩm, giày dép 6% 35%
Một số loại đồng hồ đeo tay 6.25% 80%
Một số loại quần áo bằng vải bông 10% 90%
Bảng 1.1: So sánh buôn bán có Tối huệ quốc và không có Tối huệ quốc
(Nguồn: “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ”, tr. 130)
Phải chịu mức thuế cao đồng nghĩa với việc quyền lợi của các doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ bị thiệt hại, làm ảnh hưởng đến tính
cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ (giá hàng
hóa Việt Nam sẽ cao hơn so với hàng hóa của các nước khác).
Mặc dù vậy, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ từ khi bỏ
cấm vận đã tăng lên nhanh chóng, tăng 10 lần trong vòng 5 năm từ 50 triệu đô
la năm 1994, lên 500 triệu đô la năm 1998. Điều này chứng tỏ nhu cầu buôn
bán của các doanh nghiệp Việt Nam đối với Hoa Kỳ là rất lớn và không
ngừng tăng cao.
1993 1994 1995 1996 1997 1998
Xuất khẩu của Việt 0,00 50,15 193,96 319,07 425,51 500,00 Nam sang Hoa Kỳ
Nhập khẩu của Việt 6,92 172,22 252,86 616,04 817,23 250,00 Nam từ Hoa Kỳ
6,92 222,37 446,82 935,11 1.242,74 750,00 Tổng giá trị buôn bán
Bảng 1.2: Quan hệ buôn bán Việt Nam – Hoa Kỳ (Đơn vị: triệu USD)
(Nguồn: “Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ”, tr. 133)
Thứ ba, là ngoài sự chuẩn bị kỹ lưỡng khi thâm nhập vào thị trường
Việt Nam, các công ty Hoa Kỳ còn được hưởng chính sách kinh tế đối ngoại
bình đẳng, không phân biệt đối xử của Việt Nam. Do vậy, mặc dù đến sau
nhưng với những kinh nghiệm và bề dày hoạt động ở các thị trường khác
nhau, nên các công ty Hoa Kỳ nhanh chóng vượt lên các công ty của các nước
khác và trở thành những đối thủ cạnh tranh nặng ký.
Bước sang giai đoạn 1998 – 1999, quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ vẫn chưa có những bước cải tiến đáng kể. Trong năm 1998, tỷ lệ nhập
khẩu của Hoa Kỳ từ Việt Nam (502 triệu đô la) so với thế giới (944 tỷ đô la)
là 0,05% và tỷ lệ Hoa Kỳ xuất khẩu sang Việt Nam (425 triệu đô la) so với
thế giới (688 tỷ đô la) là 0,07%. Mười tháng đầu năm 1999, Việt Nam chỉ
xuất khẩu sang Hoa Kỳ được 411 triệu đô la và nhập khẩu từ Hoa Kỳ giảm
xuống còn 298 triệu đô la.
Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt kim của thị trường Hoa Kỳ hàng năm đạt
giá trị hơn 45 tỷ đô la nhưng Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được khoảng 26
triệu đô la vào năm 1998. Năm 1998, Hoa Kỳ nhập khẩu mặt hàng cà phê,
chè, gia vị trị giá 3,762 tỷ đô la nhưng chỉ nhập từ Việt Nam các mặt hàng
này với giá trị 108 triệu đô la. Về nhóm hải sản, vốn là thế mạnh xuất khẩu
của Việt Nam nhưng năm 1998 chúng ta chỉ mới xuất được sang Hoa Kỳ một
lượng rất nhỏ, chiếm 0,06% so với nhu cầu nhập khẩu (7,65 tỷ đô la) mặt
hàng này của Hoa Kỳ.
Như vậy, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là
rất nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Nguyên nhân của
hạn chế đó là:
Thứ nhất, như đã nêu trên, Việt Nam chưa được hưởng quy chế Tối huệ
quốc của Hoa Kỳ do chưa có Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam –
Hoa Kỳ nên hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ bị đánh
thuế rất cao, từ đó không có khả năng cạnh tranh với những hàng hóa từ các
nước được hưởng Quy chế Tối huệ quốc. Ngay cả những mặt hàng là thế
mạnh, có khả năng xuất khẩu cao của Việt Nam như may mặc, dầu thô, nông
hải sản chế biến,... cũng không có khả năng tìm được chỗ đứng tại thị trường
Hoa Kỳ.
Thứ hai là việc Hoa Kỳ đặt ra tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng đối với
hàng hóa nhập khẩu vào nước này, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam như lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng.
Chẳng hạn như loại rau, củ, quả khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải bảo đảm các
yêu cầu về chủng loại, kích cỡ, chất lượng, độ chín. Các mặt hàng này phải
được cơ quan giám định an toàn thực phẩm thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
(United States Department of Agriculture – USDA) kiểm tra để có xác nhận
là phù hợp với các tiêu chuẩn nhập khẩu.
Thứ ba, việc thiếu thông tin về hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ cũng là
một chướng ngại lớn cho các nhà kinh doanh Việt Nam. Hệ thống luật pháp
của Hoa Kỳ rất phức tạp, mỗi bang lại có thể lệ riêng nên không thể chủ quan
áp dụng từ thị trường này sang thị trường kia, từ bang này sang bang kia.
2.3.1.2. Những vấn đề đặt ra để cải thiện quan hệ thương mại Việt Nam
– Hoa Kỳ
Theo quy định của chính phủ Hoa Kỳ, một nước nếu chưa thương
lượng và ký kết Hiệp định chung về Mậu dịch và thuế quan, Hoa Kỳ chỉ đối
xử Tối huệ quốc khi nước đó đã ký kết các hiệp ước buôn bán tay đôi với
mình. Do đó, một Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ sẽ là điều
kiện cần để một nước có được Quy chế Tối huệ quốc của Hoa Kỳ. Sau đó, để
có được Quy chế Tối huệ quốc vĩnh viễn hay còn gọi là Quy chế Quan hệ
bình thường vĩnh viễn (Permanent Normal Trade Relations – PNTR), tức là
nước đó phải gia nhập WTO.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam có một số điểm khác trong điều kiện để
chính phủ Hoa Kỳ cấp Quy chế Tối huệ quốc. Trước đây, do những lo ngại về
chủ nghĩa Cộng sản đã dẫn Quốc hội và chính quyền Hoa Kỳ đến chỗ đình chỉ
Tối huệ quốc đối với các nước cộng sản (Theo Đạo luật Jackson – Vanik
1974, Hoa Kỳ cấm dành MFN cho các nước Cộng sản). Theo đạo luật ngày 3
tháng 1 năm 1975, Tổng thống Hoa Kỳ tiếp tục từ chối đối xử Tối huệ quốc
với bất cứ nước nào không hưởng Quy chế này đến thời điểm đó. Do Việt
Nam (lúc này là Cộng hòa Dân chủ Việt Nam – Bắc Việt Nam) không được
hưởng địa vị Tối huệ quốc vào ngày 3 tháng 1 năm 1975, nên cho đến nay
Việt Nam vẫn chưa có được Quy chế quan trọng này dù rằng Việt Nam đã
bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Để có được Quy chế Tối huệ quốc của
Hoa Kỳ Việt Nam phải tiến hành các bước sau:
Đầu tiên, Việt Nam phải tích cực hơn nữa trong việc giải quyết vấn đề
MIA/POW và minh bạch trong vấn đề di cư. Theo Tiết 603 của Đạo luật Mậu
dịch năm 1974, Tổng thống Hoa Kỳ có thể khẳng định một nước nào đó
không có nền kinh tế thị trường nếu nước đó không hợp tác với Hoa Kỳ trong
việc tiến hành xác minh đầy đủ những người Mỹ mất tích trong chiến tranh để
cho họ hồi hương (nếu còn sống) hoặc trả di vật (nếu đã chết) về gia đình.
Hậu quả của sự khẳng định như thế có thể gồm việc không cho hưởng Quy
chế Tối huệ quốc, không cấp tín dụng hoặc các khoản trợ cấp đầu tư, và
không thực hiện Hiệp định buôn bán với nước đã được xác định. Tuy nhiên,
như đã đề cập ở trên, Việt Nam đã làm tốt vấn đề MIA/POW, không những
thế những tiến bộ trong việc giải quyết MIA/POW chính là cơ sở cho việc
bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Về vấn đề di cư,
chính phủ Việt Nam phải chứng tỏ cho Hoa Kỳ thấy được chính sách di cư tự
do, tức là cho phép các công dân của mình được tự do di cư hoặc bãi bỏ
những yêu cầu di cư từ đó sẽ đẩy mạnh các mục tiêu di cư của Hoa Kỳ. Năm
1998, Hoa Kỳ đã quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson –Vanik
trong đó quy định một nước cộng sản khi không cho công dân của mình di cư
hoặc áp đặt những điều kiện đối với việc di cư sẽ không thể được hưởng sự
đối xử Tối huệ quốc của Hoa Kỳ. Điều đó thể hiện Việt Nam đã có những cải
thiện đáng kể trong vấn đề di cư và được chính phủ Hoa Kỳ công nhận.
Bước thứ hai để có được Quy chế Tối huệ quốc của Hoa Kỳ là Việt
Nam và Hoa Kỳ phải ký với nhau một hiệp định thương mại dành cho nhau
sự đối xử không phân biệt. Hình thức hiệp định này đã được chính phủ Hoa
Kỳ thương lượng với nhiều chính phủ cộng sản trước đây và hiện nay. Nó
phải đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, các thủ tục pháp lý trong buôn bán và
phân xử trong trường hợp xảy ra bất đồng buôn bán.
Bước thứ ba cần để Hoa Kỳ thực hiện đối xử Tối huệ quốc với hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam là sự phê chuẩn của Quốc hội Hoa Kỳ (gồm Hạ
viện và Thượng viện). Một khi trình cho Quốc hội, thì hiệp định thương mại
này sẽ bị chất vấn gay gắt do lịch sử quan hệ trước đây của Hoa Kỳ với Việt
Nam và vì một vấn đề mà Quốc hội Hoa Kỳ rất chú ý đó là vấn đề nhân
quyền ở Việt Nam. Trước đây, vấn đề nhân quyền không được xem là điều
kiện để bình thường hóa thương mại, nhưng từ sau sự kiện Thiên An Môn ở
Trung Quốc năm 1989, Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa thêm điều kiện nhân quyền
vào tiến trình này. Theo đó, Việt Nam muốn Quốc hội Hoa Kỳ thông qua
Hiệp định Thương mại thì cần phải chứng minh sự tiến bộ trong việc bảo vệ
và bảo đảm những quyền cơ bản của con người theo các tiêu chuẩn của Hoa
Kỳ và các nhóm nhân quyền quốc tế giải thích.
2.3.1.3. Quan hệ đầu tư
Do có tiềm lực to lớn về kinh tế mà Hoa Kỳ thường xuyên đứng đầu
thế giới về đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI). Vì
vậy, việc thu hút nguồn đầu tư từ Chính phủ và các doanh nghiệp Hoa Kỳ là
hết sức quan trọng để Việt Nam thúc đẩy nền kinh tế đang phát triển, tạo điều
kiện giải quyết việc làm, tăng nguồn lực sản xuất và xuất khẩu của mình.
Ngay sau khi Chính phủ Hoa Kỳ xóa bỏ cấm vận và bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam, các công ty Hoa Kỳ đã nhanh chóng đổ vốn đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam để cạnh tranh với các công ty của Nhật Bản, Châu
Âu và các nước khác.
Nếu từ năm 1988, khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu
lực, đến năm 1993, các công ty Hoa Kỳ mới chỉ đầu tư “nhỏ giọt” vào Việt
Nam 6 dự án với tổng số vốn tương đương 3,3 triệu đô la chủ yếu là để thăm
dò, thì chỉ trong 10 tháng đầu năm 1994, số đầu tư của các đối tác Hoa Kỳ
vào Việt Nam đã lên 267 triệu đô la với 22 dự án (gấp 80 lần về số vốn đăng
ký đầu tư so với 6 năm trước cộng lại). Các công ty Hoa Kỳ cũng nhanh
chóng mở văn phòng đại diện của mình tại Việt Nam. Đến cuối năm 1994 đã
có 35 văn phòng đại diện của các công ty Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Ngay sau khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố Hoa Kỳ và Việt Nam
thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi cấp đại sứ vào ngày 11 tháng 7 năm
1995, nhịp độ đầu tư của các công ty Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tăng lên rất
nhanh. Đến cuối năm 1995 đã có 150 văn phòng đại diện công ty Hoa Kỳ tại
Việt Nam, khoảng 400 công ty Hoa Kỳ đã và đang hoạt động tại Việt Nam,
trong đó có nhiều công ty lớn như GE, Capitallar, Conoco, Ford, Chrysler,
Citi Bank of America, AIG, USA Telecom…
Thị trường Việt Nam ngày càng được chú ý ở Hoa Kỳ. Tại hội nghị
“Bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ” tổ chức tại Hoa Kỳ vào tháng
9 năm 1995 với sự tham gia của hơn 150 công ty hàng đầu Hoa Kỳ, nhiều nhà
tỉ phú đã dành trọn cả ngày để giới thiệu khả năng của mình và tìm hiểu chiến
lược kinh tế của Việt Nam. Hội nghị đã thể hiện ý tưởng đuổi kịp và vượt các
nước khác về quan hệ đầu tư và thương mại với Việt Nam. Theo Orientals
Island News (Hồng Công), Hoa Kỳ sẽ đẩy mạnh đầu tư của mình ở Việt Nam
trong một vài năm tới và sẽ trở thành một trong ba nhà đầu tư nước ngoài lớn
nhất Việt Nam.
Ngày 29 tháng 9 năm 1995, hai tháng sau khi chính thức thiết lập lại
quan hệ với nước ta, một đoàn thương mại và đầu tư bang Washington (một
bang có nhiều tập đoàn kinh tế lớn của Hoa Kỳ) do Thống đốc Bang Mike
Lowry dẫn đầu cùng 7 thành viên của chính phủ và 25 nhà doanh nghiệp tầm
cỡ đã sang Việt Nam bàn về việc phát triển bang giao kinh tế giữa hai nước,
nhất là trong lĩnh vực hợp tác đầu tư. Tiếp đó, ngày 8 tháng 11 năm 1995, Bộ
trưởng vận tải Hoa Kỳ Federico Pens cùng phái đoàn đã đến Việt Nam hội
đàm với Bộ giao thông vận tải Việt Nam và các cơ quan hữu quan để đầu tư
vào các lĩnh vực vận tải đường không, đường bộ, đường sắt và đường biển.
Những động thái tích cực đó đã làm cho đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt
Nam đã tăng lên một cách nhanh chóng. Đến những năm 1996, 1997 Hoa Kỳ
đã lọt vào danh sách 10 nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Giữa năm 1998,
Hoa Kỳ có khoảng 400 công ty đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký
là 1.134 triệu đô la, chiếm 3,54% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đăng ký tại Việt Nam.
Đến cuối năm 1998, sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ ký hiệp định về hoạt
động của OPIC tại Việt Nam, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đầu tư vào 75 dự
án ở Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là hơn 1,1 tỷ đô la, vốn pháp định là
500 triệu đô la, trong đó vốn thực hiện là 358 triệu đô la và vốn pháp định
hiện thực là 223 triệu đô la, tạo ra doanh thu là 172 triệu đô la, xuất khẩu
được 89 triệu đô la, nộp thuế nhà nước Việt Nam 8,8 triệu đô la và đã thu hút
được 3.253 lao động ở địa phương, đưa Hoa Kỳ từ vị trí số 24 lên hàng thứ 9
trong tổng số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Những số liệu này
ẩn chứa những dự định và tiềm năng to lớn của các công ty Hoa Kỳ. Một số
công ty chế tạo Hoa Kỳ đã có kế hoạch nghiên cứu khả năng tận dụng nguồn
nguyên liệu giá rẻ, dồi dào ở Việt Nam để chế tạo hàng xuất khẩu. Các công
ty Hoa Kỳ đã tỏ rõ quyết tâm tăng tốc đầu tư vào Việt Nam với hai ưu thế về
vốn và kỹ thuật. Những công ty hàng đầu của Hoa Kỳ đã tham gia chính thức
với những dự án quy mô lớn và có tầm quan trọng đối với tương lai phát triển
kinh tế Việt Nam. Ví dụ như công ty Mobil Oil có dự án khai thác dầu khí ở
mỏ Thanh Long với số vốn 35 triệu đô la, tập đoàn BBI China Beach LTD có
dự án xây dựng khu du lịch Non Nước với số vốn đầu tư lên đến 243 triệu đô
la.
+ Cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam:
Về cơ cấu, khoảng 2/3 đầu tư của Hoa Kỳ tập trung vào các ngành công
nghiệp với 60 dự án và vốn đăng ký đạt trên 660 triệu đô la, điển hình là dự
án sản xuất và lắp ráp ôtô Ford với số vốn đăng ký là 102 triệu đô la, dự án
công ty sản xuất xà phòng, kem đánh răng Colgate Palmolive (40 triệu đô la),
dự án công ty OPV Việt Nam sản xuất thuốc chữa bệnh (20 triệu đô la). Kế
đến là các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ gồm tài chính, ngân hàng, văn
phòng cho thuê, dịch vụ phần mềm, y tế, giáo dục… với khoảng 60 dự án và
số vốn đăng ký đạt khoảng 275 triệu đô la. Lĩnh vực nông – lâm nghiệp, văn
hóa – y tế và xây dựng (gồm công nghiệp nhẹ, tin học, công nghiệp chế biến,
dầu khí…) với 73 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt 513,35 triệu đô la. Tiếp đó
là lĩnh vực dịch vụ gồm văn phòng, căn hộ cho thuê, văn hóa, y tế, giáo dục,
tài chính ngân hàng… với 30 dự án tổng số vốn đăng ký là 283,65 triệu đô la.
Còn lại là các lĩnh vực nông, lâm thủy sản chiếm một tỷ trọng nhỏ với 15 dự
án, tổng số vốn đăng ký là 137,86 triệu đô la.
+ Hình thức và địa bàn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam:
Theo Luật Đầu tư, Chính phủ Việt Nam cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài kể các công ty Hoa Kỳ được linh hoạt chuyển đổi các hình thức đầu tư
của mình nhằm đạt hiệu quả tốt nhất. Đa số các nhà đầu tư Hoa Kỳ chọn hình
thức đầu tư vốn 100%, với 76 dự án (chiếm 64%), tổng số vốn đầu tư là
356,85 triệu đô la (chiếm 55%); 31 dự án liên doanh (chiếm 26%) và 11 dự án
hợp doanh (chiếm 10%).
Xét theo vùng lãnh thổ, trong giai đoạn đầu các doanh nghiệp Hoa Kỳ
chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam. Điều này có thể giải thích là do
“mối quan hệ lịch sử” để lại, miền Nam vẫn là khu vực quen thuộc đối với
Hoa Kỳ vốn trước đây là “đại bản doanh” nơi Hoa Kỳ thiết lập chính quyền
thân Mỹ. Mặt khác, có thể thấy rằng trong thời kỳ đổi mới phía Nam vẫn là
một khu vực đầy tiềm năng chưa được khai phá, đồng thời hết sức năng động
có thể hấp dẫn nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Ban đầu, Đồng Nai là địa phương Hoa Kỳ tập trung đầu tư nhiều nhất
với hơn 230 triệu đô la chủ yếu tập trung vào công nghiệp, kế đến là thành
phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong thời gian gần đây, các nhà đầu
tư Hoa Kỳ cũng bắt đầu hướng đến phía Bắc với các các tỉnh, thành phố như
Hà Nội, Hải Dương, Hà Tây và miền Trung, tập trung nhiều nhất ở Đà Nẵng.
+ Đặc điểm trong quan hệ đầu tư Hoa Kỳ – Việt Nam:
Trong quan hệ đầu tư giữa Hoa Kỳ – Việt Nam có những điểm đáng
chú ý sau:
Thứ nhất, về chiều đầu tư, chủ yếu là một phía từ Hoa Kỳ đầu tư vào
Việt Nam. Điều này phản ánh khuynh hướng của quan hệ kinh tế Việt Nam –
Hoa Kỳ trong giai đoạn đầu. Việt Nam chủ yếu là thu hút vốn đầu tư để phát
triển kinh tế, giải phóng nguồn lao động, giải quyết việc làm đồng thời học
tập khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và quản lý từ phía Hoa Kỳ; còn
các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì đưa vốn vào Việt Nam để sản xuất, kinh doanh để
kiếm lợi nhuận từ thị trường kinh tế non trẻ nhưng đầy tiềm năng của Việt
Nam.
Điểm thứ hai trong quan hệ đầu tư Hoa Kỳ – Việt Nam là số lượng cam
kết đầu tư của Hoa Kỳ cao nhưng số lượng giải ngân chưa nhiều. Hiện tượng
trên phản ánh tâm trạng lo ngại của các nhà đầu tư Hoa Kỳ khi đầu tư vào một
thị trường mới, đầy rủi ro như Việt Nam.
Thứ ba, là hiện tượng chựng lại của đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam bắt
đầu từ năm 1996 thể hiện bằng những dấu hiệu rút vốn của một số công ty
Hoa Kỳ, không tăng đầu tư, hoặc nếu có đầu tư mới thì chỉ đầu tư ít tại Việt
Nam. Hiện tượng này, theo ý kiến của nhiều nhà kinh doanh Hoa Kỳ, một
phần là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á, một phần do
môi trường và chính sách đầu tư của Việt Nam chưa ổn định, phức tạp, nhiều
rủi ro, chậm thu lợi nhuận, chính sách đối xử của Việt Nam đối với các công
ty nước ngoài nói chung, công ty Hoa Kỳ nói riêng, còn nhiều phân biệt, chưa
thuận lợi cho cách làm của họ. Điều này phản ánh sự e dè của chính phủ Việt
Nam đối với thâm nhập của tư bản nước ngoài vào nền kinh tế thị trường
đang định hình của mình và sự phản ứng lúng túng, chậm chạp của Việt Nam
trong việc hoạch định chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Các công ty Hoa Kỳ bỏ đi không chỉ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam
trong việc huy động vốn, kỹ thuật, tạo việc làm cho lao động, cho xuất, nhập
khẩu mà còn tạo ra tác động tâm lý không thuận lợi đối với các công ty của
các nước khác đến kinh doanh tại Việt Nam.
Để khắc phục tình trạng trên và tiếp tục công cuộc đổi mới kinh tế của
đất nước, gần đây chính phủ Việt Nam đã có một số sửa đổi, bổ sung và cải
tiến về chính sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện cho các công ty nước
ngoài nói chung, các công ty Hoa Kỳ nói riêng đầu tư vào Việt Nam. Chẳng
hạn, trong tháng 9 năm 1999, chính phủ Việt Nam đã quyết định giảm giá
điện cho các công ty nước ngoài tại Việt Nam, hay cho phép công ty nước
ngoài mua tới 30% cổ phần của các xí nghiệp trong một số ngành công nghiệp
như dệt may, giày dép, chế biến da, chế biến nông sản và công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng khác, sản xuất vật liệu xây dựng, vận tải đường bộ và
đường thủy nội địa, vận tải hàng hóa bằng containơ, sản xuất đồ dùng thiết bị
dạy học, sản xuất đồ chơi, thương mại, dịch vụ khách sạn, sản xuất cơ khí, và
kinh doanh trong các ngành sản xuất các loại hàng hóa kể trên.
Một trong những biện pháp có ý nghĩa và được các chuyên gia Hoa Kỳ
tham gia trong các vòng đàm phán về Hiệp định thương mại song phương
Việt Nam và Hoa Kỳ đánh giá cao là việc Việt Nam đã dành cho Hoa Kỳ
những ưu đãi trong nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam trong khi Hoa Kỳ chưa
dành Quy chế Tối huệ quốc cho Việt Nam. Theo họ, đây là một biểu hiện
thiện chí từ phía Việt Nam và chính cử chỉ này góp phần đưa tới những tiến
bộ trong vòng đàm phán lần thứ bảy, rồi thứ tám và đạt được sự thỏa thuận về
nguyên tắc hiệp định thương mại song phương tại vòng đàm phán thứ chín
vào tháng 7 năm 1999, mở ra một thời kỳ mới với nhiều triển vọng khả quan
trong quan hệ kinh tế giữa hai nước trong đó có triển vọng sáng sủa của đầu
tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
2.3.1.4. Tổng quan về Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam –
Hoa Kỳ
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (Bilateral
Trade Agreement – BTA) được hai nước ký kết ngày 14 tháng 7 năm 2000, là
kết quả của chín vòng đàm phán thương mại kéo dài trong ba năm giữa hai
nước (từ tháng 9 năm 1996 đến tháng 9 năm 1999). Đây là một thành công
lớn của ngoại giao Việt Nam trong quan hệ với Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống
Bill Clinton, góp phần vào việc phát triển kinh tế và củng cố mối quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ. Về tổng quan, Hiệp định này gồm 4 phần: tiếp cận thị trường,
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư.
+ Tiếp cận Thị trường:
Việt Nam đồng ý tiến hành những bước sau nhằm mở cửa thị trường:
Dành quy chế đối xử Tối huệ quốc cho các hàng hóa của Hoa Kỳ; Ðối xử với
các hàng hóa nhập khẩu của Hoa Kỳ giống như hàng hóa sản xuất trong nước;
Loại bỏ hạn ngạch đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu trong thời hạn từ 3 đến 7
năm; Minh bạch hơn quy trình mua sắm của chính phủ; Ðảm bảo doanh
nghiệp nhà nước sẽ tuân thủ các quy định của WTO về hải quan, giấy phép
nhập khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật…
Lần đầu tiên cho phép tất cả các doanh nghiệp Việt Nam được phép
kinh doanh xuất nhập khẩu mọi hàng hóa, đồng thời cho phép các công ty
Hoa Kỳ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của Hoa kỳ được phép
xuất nhập khẩu hầu hết các sản phẩm (với lộ trình từ 3 đến 6 năm). Ðảm bảo
doanh nghiệp nhà nước sẽ tuân thủ các quy định của WTO về hải quan, giấy
phép nhập khẩu, tiêu chuẩn kỹ thuật…
Khác với các hiệp định thương mại song phương đã từng đàm phán
trước đây giữa Hoa Kỳ và các nước thuộc diện điều chỉnh của Đạo luật bổ
sung Jackson – Vanik, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa
Kỳ còn chứa đựng các cam kết cụ thể của Việt Nam về việc giảm thuế quan
cho khoảng 250 sản phẩm, khoảng 4/5 trong số đó là nông sản. Ðáng chú ý,
mức cắt giảm sẽ từ 33% đến 50% và được thực hiện trong giai đoạn 3 năm kể
từ khi Hiệp định có hiệu lực. Chính quyền Clinton đánh giá bước tiến của
Việt Nam trong việc áp dụng thuế quan theo quy chế Tối huệ quốc là rất đáng
kể, khi Việt Nam từ tháng 1 năm 1999 đã áp dụng phụ thu thuế quan đối với
hàng hóa nhập khẩu từ những nước mà Việt Nam không có quan hệ đối xử
Tối huệ quốc có đi có lại. Trong thời gian Hà Nội và Washington đàm phán
Hiệp định Thương mại Song phương này, Việt Nam đã không áp dụng khoản
phụ thu này đối với hàng hóa nhập khẩu của Mỹ. Bên cạnh đó, trong vấn đề
tiếp cận thị trường, Hiệp định còn có quy định về bảo vệ, theo đó cho phép
một trong hai bên có quyền tạm thời áp đặt thuế quan nhằm ngăn chặn tình
trạng nhập khẩu hàng hóa tăng lên nhanh chóng.
+ Quyền Sở hữu Trí tuệ:
Việt Nam cam kết thực hiện Hiệp định về Quyền Sở hữu Trí tuệ liên
quan đến Thương mại (TRIPs) của Tổ chức Thương mại Thế giới sau 18
tháng kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định song phương về TRIPs này
còn có những quy định cao hơn so với hiệp định TRIPs của WTO do còn có
những cam kết của Việt Nam về bảo hộ tín hiệu vệ tinh trong vòng 30 tháng.
+ Thương mại Dịch vụ:
Trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của
WTO về Tối huệ quốc, đối xử quốc gia và các nguyên tắc trong pháp luật
quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam đồng ý cho phép các công ty và các cá nhân
Mỹ đầu tư vào các thị trường của một loạt các lĩnh vực dịch vụ, bao gồm kế
toán, quảng cáo, ngân hàng, máy tính, phân phối, giáo dục, bảo hiểm, luật và
viễn thông.
2.3.2. Quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ
2.3.2.1. Thiết lập lại hệ thống đối ngoại
Trên cơ sở bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những
động thái ngoại giao tích cực để xây dựng nền tảng mới trong quan hệ giữa
hai nước. Tháng 8 năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ khai trương Đại sứ quán
tại Washington và Hà Nội, đây là biểu hiện cụ thể của việc bình thường hóa
quan hệ giữa hai nước. Các Đại sứ quán sẽ là cơ quan ngoại giao chính thức
của hai nước chứ không phải chỉ là các văn phòng đại diện ngoại giao như
trước đây. Tuy nhiên xung quanh vấn đề mở Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt
Nam vẫn tồn tại một số khó khăn làm hạn chế quan hệ với Việt Nam.
Thứ nhất, ở Hoa Kỳ vẫn tồn tại một điều khoản của một đạo luật đang
được Quốc hội Hoa Kỳ xem xét để cấp tài trợ cho các hoạt động của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ, theo đó Chính phủ Hoa Kỳ cấm sử dụng tiền để trợ giúp
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Khó khăn thứ hai liên quan đến việc mở đại sứ quán là một số thành
viên Quốc hội Hoa Kỳ đã tỏ ý ngăn cản việc chỉ định Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt
Nam. Theo Luật pháp Hoa Kỳ, việc bổ nhiệm đại sứ phải do Thượng nghị
viện cố vấn và chấp thuận. Theo các thủ tục của Thượng nghị viện, Tiểu ban
đối ngoại của Thượng nghị viện có quyền lực pháp lý đối với việc chỉ định
đại sứ. Tiểu ban này thường tổ chức các cuộc điều trần về những người được
chỉ định và sau đó sẽ bỏ phiếu xem nên đưa ứng cử viên này ra trước Thượng
nghị viện để bỏ phiếu tán thành hay không. Trong một số trường hợp cụ thể,
thường việc chỉ định đại sứ được thông qua bằng biểu quyết hơn là bỏ phiếu
kín.
Chủ tịch đương nhiệm của Tiểu ban đối ngoại Thượng nghị viện lúc
bấy giờ là Thượng nghị sĩ Jesse Helms (thuộc Đảng Cộng hòa) đã tỏ ra lưỡng
lự với việc chỉ định chức đại sứ của Hoa Kỳ tại Việt Nam, do đó làm trì hoãn
tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Bởi lẽ toàn bộ
Thượng nghị viện không thể xem xét việc chỉ định đại sứ trước khi Tiểu ban
đối ngoại Thượng nghị viện hoàn tất công việc của mình, tiểu ban thực sự có
khả năng ngăn cản việc chỉ định đại sứ vào lúc này. Tuy nhiên, nếu Tổng
thống có một sự chỉ định nào đó trong thời gian quốc hội nghỉ họp, thì người
được chỉ định có thể được phép phục vụ nhiều nhất là một năm, mà không cần
có sự thông qua của Quốc hội. Sự xuất hiện của các nhân viên ngoại giao Hoa
Kỳ ở Hà Nội với thẩm quyền hành động thay mặt giới kinh doanh Hoa Kỳ sẽ
thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong giai đoạn
lâm thời này, Đại sứ quán Hoa Kỳ do Desaix Anderson đứng đầu, Đại sứ
quán Việt Nam do Trưởng đại diện, Đại sứ Lê Văn Bàng đứng đầu.
Khó khăn thứ ba là trong Quốc hội Hoa Kỳ vẫn còn những tiếng nói
chống lại việc bình thường quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Chống không được,
họ đã mấy lần thông qua dự luật hạn chế ngân sách đòi Tổng thống không
được mở rộng quan hệ ngoại giao với Việt Nam lớn hơn quy mô trước tháng
7 năm 1995. Nhưng nhìn chung, xu hướng bình thường hóa và cải thiện hơn
nữa quan hệ với Việt Nam vẫn mạnh và ngày càng trở nên áp đảo. Ngày 7
tháng 4 năm 1997, chính phủ Việt Nam đã chính thức bổ nhiệm ông Lê Văn
Bàng làm Đại sứ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thủ đô
Washington của Hoa Kỳ vào đầu tháng 5 tháng 1997. Phía Hoa Kỳ thì đề cử
ông Douglas Pete Peterson làm Đại sứ Hoa Kỳ tại thủ đô Hà Nội của Việt
Nam và ông Peterson nhận nhiệm sở ngày 9 tháng 5 năm 1997.
2.3.2.2. Mở rộng quan hệ chính trị
Ngay sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Warren Christopher thăm
Việt Nam từ ngày 5 đến 7 tháng 8 năm 1995, chính thức ký thỏa thuận thiết
lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và trao đổi đại sứ. Trong cuộc gặp này,
ngoại trưởng hai nước đã thỏa thuận bước đầu tiên trong quá trình thúc đẩy
quan hệ giữa hai nước là bình thường hóa quan hệ kinh tế thương mại. Ngày 5
tháng 9 năm 1995, cựu Tổng thống Hoa Kỳ G. Bush đến thăm Việt Nam.
Chuyến thăm này đã góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác đang dần
hình thành giữa hai nước trong nhiều lĩnh vực như kinh tế thương mại, đào
tạo, khoa học kỹ thuật, đầu tư…
Chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Hoa kỳ Madeleine Albright
vào tháng 6 năm 1997 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ
chính trị và kinh tế giữa hai nước. Hai bên đã thể hiện quyết tâm thúc đẩy tiến
trình bình thường hóa một cách đầy đủ các quan hệ kinh tế thương mại giữa
hai nước. Ngoại trưởng Albright đã thông báo việc Hoa Kỳ cho phép Cơ quan
phát triển Thương mại (TDA) được chính thức mở các chương trình hỗ trợ tại
Việt Nam. Trong dịp này, Ngoại trưởng hai nước cũng đã ký Hiệp định về
quyền tác giả, một trong những khâu quan trọng tiến tới bình thường hóa quan
hệ kinh tế.
Đáp lại những chuyến thăm của các quan chức Hoa Kỳ, từ ngày 29
tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 1998, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ
ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã lần đầu tiên thăm chính thức Hoa Kỳ.
Trong chuyến thăm này, Phó thủ tướng đã bày tỏ nguyện vọng mở rộng quan
hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trên nhiều lĩnh vực. Trong mối quan hệ nhiều
mặt đó, hai bên thỏa thuận trước mắt thúc đẩy nhanh hơn các quan hệ kinh tế
thương mại để đi đến bình thường hóa hoàn toàn mối quan hệ này như đã thỏa
thuận khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995.
Một kết quả quan trọng đầu tiên đối với Việt Nam trong những năm
đầu bình thường hóa với Hoa Kỳ là sự kiện ngày 10 tháng 3 năm 1998, Thư
ký báo chí Nhà trắng ra thông báo cho biết Tổng thống Bill Clinton đã ký
quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson – Vanik đối với Việt Nam.
Theo phía Hoa Kỳ, quyết định trên là dựa trên cơ sở những tiến bộ của Việt
Nam trong việc giải quyết vấn đề di trú bao gồm việc cải thiện thực hiện
Chương trình tái định cư cho người tị nạn Việt Nam (Resettlement
Opportunity for Vietnamese Returnees – ROVR); Tạo cơ hội cho những
người Việt Nam tị nạn tại Đông Nam Á được định cư tại Hoa Kỳ; Bổ sung
các quy định về di trú để thúc đẩy các cuộc phỏng vấn của cơ quan Nhập cư
Hoa Kỳ (Immigration and Naturalization Service – INS); Xác định 14.000
người trong số 18.000 người mà Hoa Kỳ cho rằng có đủ điều kiện theo
chương trình ROVR để cơ quan nhập cư Hoa Kỳ phỏng vấn; cam đoan cấp hộ
chiếu cho những người đã được cơ quan nhập cư Hoa Kỳ chấp nhận cho tái
định cư tại Hoa Kỳ.
Việc miễn áp dụng Đạo luật Jackson – Vanik có ý nghĩa rất lớn đối với
sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam vào thời điểm này. Theo đó,
những trở ngại liên quan đến hoạt động của các cơ quan của Chính phủ như
Ngân hàng Xuất nhập khẩu (EXIMBANK), Công ty đầu tư tư nhân hải ngoại
(Overseas Private Investment Corporation – OPIC), Cơ quan Phát triển quốc
tế (United States Agency for International Development – USAID), Cơ quan
Phát triển và thương mại (Trade and Development Agency – TDA), và Cục
Hàng hải (Maritime Administration – MARAD) là các cơ quan tài trợ cho các
công ty Hoa Kỳ đang làm ăn tại Việt Nam đã bị bãi bỏ và do vậy đã thúc đẩy
quan hệ kinh tế giữa hai nước. Với sự kiện này, Việt Nam đã được chuyển từ
nhóm “Các nước nhóm Y” sang “Các nước nhóm V”, tức là mức tiếp theo
thấp nhất trong số các nước bị kiểm soát, đồng thời đây là điều kiện tiền đề để
Việt Nam và Hoa Kỳ đạt được Hiệp định thương mại, rồi tiến tới là Hoa Kỳ
cho Việt Nam hưởng Quy chế Tối huệ quốc. Ngoài ra, việc miễn áp dụng Đạo
luật Jackson – Vanik còn là biểu hiện của sự thay đổi về chất trong quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ, theo nhận xét Phó Tiến sĩ Đỗ Lộc Diệp, một người đã
nhiều năm nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ thì đây là “một sự kiện
đáng khích lệ hơn nếu chúng ta nhớ lại rằng đạo luật này (Jackson – Vanik)
là con đẻ của Chiến tranh lạnh đã từng áp đặt lên quan hệ giữa Mỹ và Việt
Nam cũng như giữa Mỹ và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Do đó, sự kiện
này xác định một cách nhìn mới mẻ của Mỹ đối với Việt Nam, nói cách khác,
nó chứng minh Mỹ đã, đang và sẽ có cách nhìn Việt Nam khác với quá khứ và
hướng về tương lai xây dựng tốt đẹp hơn” [15, tr. 6].
Đến năm 2000, Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được một bước tiến quan
trọng trong quan hệ đối ngoại của hai nước, đó là sự kiện Bộ trưởng Bộ
Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Salin
Barshevski ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 14 tháng
7 năm 2000 tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ.
Đây là một Hiệp định xử lý một cách tổng hợp những vấn đề liên quan
đến thương mại hàng hóa và dịch vụ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quan hệ
đầu tư giữa hai nước. Hiệp định đã làm cho triển vọng hợp tác giữa hai nước
ngày càng trở nên sáng sủa, nhất là nó đã đặt nền móng pháp lý vững chắc
cho quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Sau khi Hiệp định này
được hoàn chỉnh và được Chính phủ hai nước chính thức thông qua và đưa
vào thực hiện, Việt Nam có thể sẽ được hưởng Quy chế tối huệ quốc hay Quy
chế quan hệ thương mại bình thường với Hoa Kỳ. Hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ sẽ được giảm thuế quan trung bình từ 35%
xuống 4,9%, tạo điều kiện cho nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam tăng
cường xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Đối với các công ty Hoa Kỳ, Hiệp
định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của họ
tại Việt Nam.
Việc ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ còn là
bước tiến có ý nghĩa quan trọng trong quá trình Việt Nam hội nhập vào nền
kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO,
như lời nhận định của Thủ tướng Phan Văn Khải: “Hiệp định Thương mại vừa
được ký kết là kết quả của những nỗ lực kiên trì của cả hai bên qua 4 năm
thương lượng. Hiệp định này dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có
lợi, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), có tính đến thực tế Việt Nam là một nước đang
phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và
đang hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới… Đây cũng là một
bước có ý nghĩa quan trọng trong quá trình Việt Nam hội nhập với nền kinh tế
quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ” [7].
Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ được nhìn
nhận như một nhân tố mới trong khu vực, nó không chỉ tăng cường quan hệ
kinh tế giữa hai nước, mà còn thúc đẩy thương mại châu Á nói chung và
Đông Nam Á nói riêng. Về phía Hoa Kỳ, Hiệp định này được xem là một
bước đi lịch sử nữa trong tiến trình bình thường hóa, hòa giải và hàn gắn giữa
hai dân tộc.
Cuối năm 2000 đã diễn ra một sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ, đó là chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton từ ngày 16 đến ngày 19
tháng 11. Đây được xem như hoạt động ngoại giao cuối cùng để xếp lại quá
khứ của hai nước. Bill Clinton là Tổng thống đầu tiên đến Hà Nội và là Tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ kể từ sau 1975 đến Việt Nam.
Cùng đi với Tổng thống Bill Clinton ngoài phu nhân và con gái còn có
những nhân vật đứng đầu nhiều Bộ ngành của Hoa Kỳ như Bộ trưởng Bộ
Thương mại Norman Mineta, Đại diện Thương mại Charlene Barchefsky,
Chánh văn phòng Nhà Trắng John Podesta, Cố vấn an ninh Quốc gia Samuel
Berger, Quyền Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh Hershek Gober, Cố vấn Tổng
thống về kinh tế Gene Sperling, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách khu vực kinh
tế Thái Bình Dương S. Roth cùng nhiều quan chức cấp cao khác. Đi cùng với
Tổng thống còn có một đoàn các doanh nghiệp gồm trên 50 đại diện các công
ty hàng đầu của Hoa Kỳ quan tâm đến việc đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam
(như công ty Boeing, Caltex, Motorola, AIG...) và trên 360 phóng viên, nhà
báo nước ngoài, trong đó có hơn 200 phóng viên, nhà báo của Hoa Kỳ, đại
diện cho trên 100 hãng thông tấn trên thế giới. Điều này chứng tỏ sự quan tâm
của dư luận quốc tế đối với chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Bill
Clinton nói riêng và mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ nói chung, tờ báo Hoa
Kỳ ngày nay (USA Today) ra ngày 1 tháng 1 năm 2000 viết: “Trong lịch sử
Hoa Kỳ, ý nghĩa của chuyến đi lần này của Tổng thống Bill Clinton là đóng
lại trang sử chiến tranh của quá khứ và mở đầu một kỳ nguyên mới về bang
giao thân hữu giữa hai nước” [75]. Tổng thống Bill Clinton đã đến thăm Hà
Nội, dự buổi diễn văn nghệ tại Nhà hát lớn, phát biểu tại Đại học quốc gia và
thăm hiện trường khi quật máy bay Hoa Kỳ tại Vĩnh Phúc, thăm triển lãm
thiết bị dò mìn, dự lễ trao trả hài cốt quân nhân Hoa Kỳ tại sân bay Nội Bài.
Cũng trong chuyến thăm này, Tổng thống Bill Clinton đã cam kết trợ
giúp kỹ thuật trị giá hai triệu đô la mỗi năm trong vòng ba năm cho Việt Nam
để thực thi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ đồng thời
Tổng thống cũng khẳng định sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với việc Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Kết thúc hội đàm với Chủ tịch nước
Trần Đức Lương ngày 17 tháng 11, Tổng thống Bill Clinton đã chứng kiến lễ
ký kết Hiệp định hợp tác khoa học – công nghệ và Bản ghi nhớ về hợp tác lao
động giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam với Bộ Lao động
Hoa Kỳ.
Đối với chính phủ Việt Nam, sự kiện này là cơ hội tốt để tranh thủ tình
cảm của Bill Clinton cũng như những nhân vật chủ chốt của chính phủ Hoa
Kỳ trong việc đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ sớm phê chuẩn Hiệp định thương
mại và Quy chế quan hệ bình thường trong năm 2001, chấm dứt quá khứ đối
đầu dai dẳng, mở ra triển vọng hợp tác tốt đẹp giữa hai nước. Đối với bản
thân Tổng thống Bill Clinton, chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên này là một
sự kiện thật đặc biệt, như là một sự tổng kết những gì mà ông đã làm để cải
thiện mối quan hệ với Việt Nam trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống của
mình. Với tuyên bố “Việt Nam là một quốc gia, không phải là cuộc chiến
tranh”, Tổng thống Bill Clinton như muốn khẳng định rằng quan hệ Việt Nam
và Hoa Kỳ trong giai đoạn mới này là quan hệ giữa hai người bạn chứ không
phải là kẻ thù vì thế mối quan hệ đó phải thực sự thay đổi đặc biệt là về chất.
2.3.2.3. Giải quyết những vấn đề chính trị trong quá khứ
Bên cạnh việc xúc tiến các mối quan hệ mới trên nhiều lĩnh vực, Việt
Nam và Hoa Kỳ còn hợp tác với nhau trong việc giải quyết những tồn tại
trong quan hệ giữa hai nước, cụ thể là những vấn đề do cuộc chiến tranh kéo
dài gần 20 năm để lại.
Để giải quyết những vấn đề quá khứ trong quan hệ với Hoa Kỳ, chính
phủ Việt Nam đã thực hiện phương pháp làm dần, làm từng việc, từng bước
tiến tới tổng thể, trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Những điều
kiện ngoại giao mà Hoa Kỳ đặt ra cho Việt Nam khi bình thường hóa là rất
nhiều và phạm vi rộng lớn bao quát nhiều vấn đề, chẳng hạn như vấn đề
người Mỹ mất tích và tù nhân chiến tranh. Từ năm 1990, được phép của chính
phủ Việt Nam, Hoa Kỳ đã mở văn phòng MIA thường trú ở Hà Nội, được gọi
là Biệt đội 2 (Detachment Two) để phân biệt với “Biệt đội 1” ở Thái Lan và
“Biệt đội 3” ở Lào. Đây là những chi nhánh của Bộ Chỉ huy hỗn hợp Kiểm kê
tù binh và người mất tích (JPAC) nhằm thực hiện các công việc kỹ thuật về
MIA ở khu vực Đông Nam Á. Từ tháng 9 năm 1989, liên tục mỗi năm có bốn
đến năm đợt, hàng trăm chuyên viên quân sự Hoa Kỳ đã đến Việt Nam phối
hợp với các chuyên viên Việt Nam để tìm kiếm, thu thập thông tin, khai quật,
thu hồi các di vật, hài cốt binh lính Hoa Kỳ chết trong chiến tranh ở hầu hết
các tỉnh thành Việt Nam. Đến năm 1995, khi bình thường hóa quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ, số trường hợp mất tích chưa tìm thấy được theo Tổng thống
Bill Clinton chỉ còn là 55. Công việc tìm kiếm vẫn được tích cực tiến hành
với quy mô mở rộng trên toàn khu vực Đông Dương và Đông Nam Á. Chính
phủ Việt Nam còn tổ chức các đợt tìm kiếm đơn phương, đưa hàng trăm nhân
chứng sang Lào và Campuchia tham gia điều tra, khai quật ba bên. Những kết
quả thu được sau nhiều năm điều tra đã phần nào làm hài lòng chính phủ và
người dân Hoa Kỳ. Ngày 21 tháng 9 năm 1998, phát biểu trên phương tiện
truyền thông Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Pete Peterson đã xác nhận: “thật là
không bình thường nếu các bạn (người dân Mỹ) mong đợi bắt gặp một người
Mỹ còn sống sót nào ở Việt Nam, Campuchia và Lào” [67, tr. 15]. Xác nhận
này đã khẳng định những nỗ lực không ngừng của chính phủ và nhân dân Việt
Nam trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh để đi đến khép lại quá khứ và
nhìn về tương lai tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước.
Song song với việc tìm kiếm binh lính Hoa Kỳ mất tích, hai nước còn
hợp tác trong việc tìm kiếm những người Việt Nam mất tích trong chiến
tranh. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam vào tháng 11 năm 2000, tổng
thống Bill Clinton đã trao trả cho Việt Nam 360.000 trang tài liệu và hứa sẽ
trao thêm một triệu trang nữa để giúp tìm kiếm những người Việt Nam mất
tích.
Về vấn đề tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Việt Nam di cư sang
Hoa Kỳ và các nước khác một cách hợp pháp, từ năm 1979 đến năm 1998 đã
có hơn 480.000 người Việt Nam được di cư hợp pháp sang Hoa Kỳ. Việt Nam
cũng thanh toán xong khoản nợ 145 triệu đô la cho Hoa Kỳ.
2.3.2.4. Những vấn đề tồn tại trong quan hệ chính trị giữa hai nước
Như vậy, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ sau khi bình thường hóa nhìn
chung diễn ra theo chiều hướng tích cực có lợi cho cả hai nước. Tuy nhiên,
vẫn còn có những vấn đề bất đồng trong mối quan hệ này mà chủ yếu xuất
phát từ phía Hoa Kỳ. Đó là vấn đề nhạy cảm được chính phủ Hoa ra Kỳ đặt ra
ngay từ khi nối lại quan hệ với Việt Nam, đặc biệt nhất là nhân quyền, kể cả
quyền tôn giáo và vấn đề tự do dân chủ của Việt Nam.
Vấn đề nhân quyền đã được đưa vào chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ
từ rất lâu và trở thành một trong những điểm đặc trưng của nền đối ngoại
nước này. Chính phủ Hoa Kỳ cho rằng họ phải có trách nhiệm đối với quyền
lợi của Hoa Kỳ không những ở phạm vi trong nước mà với cả toàn thế giới.
Năm 1993, John Shattuck, trợ lý Ngoại trưởng về vấn đề nhân quyền và các
vấn đề nhân đạo của Tổng thống Bill Clinton cho rằng: “Với sự kết thúc của
chiến tranh lạnh, tất cả đã thay đổi. Không còn có thể để cho những nguyên
tắc cơ bản của nhân quyền và dân chủ bị hạ thấp mà không bị trừng phạt.
Cũng không nên bỏ qua những nguyên tắc đó vì một mục tiêu địa chiến lược
to lớn hơn nào đó. Nói đúng hơn, những nguyên tắc đó phải được phục hồi vị
trí hàng đầu và chính đáng của chúng trong quan hệ giữa các quốc gia”
[44, tr. 385].
Tổng thống Bill Clinton là người rất quan tâm đến nhân quyền trong
quá trình bình thường hóa với Việt Nam và xem đó là một trong những điều
kiện để Hoa Kỳ duy trì và mở rộng quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Do vậy
mà ngay trong những ngày đầu bình thường hóa với Hoa Kỳ, chính phủ Việt
Nam đã có những cuộc tiếp xúc, trao đổi kể cả những cuộc đàm phán với Hoa
Kỳ về vấn đề nhân quyền.
Nhận thức về vấn đề nhân quyền của Việt Nam là rất khác nhau, không
chỉ giữa người Việt Nam và người Mỹ mà ngay trong những người Mỹ với
nhau. Có một số người ở Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam là nước vi phạm nhân
quyền nghiêm trọng do đó không thể bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam hay phải dùng nhân quyền làm công cụ để ép Việt Nam phải
thay đổi chính sách theo ý muốn của Hoa Kỳ. Nhưng trái lại, cũng có những
người Mỹ như thượng nghị sĩ Kerry lại cho rằng vấn đề nhân quyền ở Việt
Nam chưa đến mức nghiêm trọng như ở nhiều nước khác, ông cho rằng Hoa
Kỳ còn có những mối quan hệ ngoại giao và kinh tế rộng rãi với nhiều nước
khác ít có tự do và vi phạm nhân quyền tồi tệ hơn Việt Nam. Trong khi đó,
chính phủ và người dân Việt Nam luôn giữ vững lập trường của mình về nhân
quyền. Bộ ngoại giao Việt Nam và Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã có cuộc trao đổi
đầu tiên về chính sách chính trị và ngoại giao tại Hà Nội vào ngày 29 tháng 7
năm 1999 để Hoa Kỳ hiểu rõ hơn về chính sách minh bạch của Việt Nam về
vấn đề quyền con người, từ đó hai nước sẽ tìm được tiếng nói chung về vấn
đề này.
Trong vấn đề tự do dân chủ, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn có những
khác biệt. Điều này là dễ hiểu bởi chế độ chính trị của hai nước khác nhau, do
vậy mà quan điểm về tự do dân chủ cũng khác. Trong khi Hoa Kỳ nói tới dân
chủ và tự do một cách bao quát, chung chung theo cách hiểu của một nước
thực hiện chiến lược toàn cầu, thì Việt Nam luôn luôn nói tới tự do dân chủ
luôn gắn liền với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, như chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lịch sử dân tộc Việt
Nam đã chứng minh rằng không có độc lập thì không có tự do, ngược lại
không có tự do thì không có độc lập.
Vì những lẽ đó, không có lý do gì để Hoa Kỳ chỉ trích nền chính trị
Việt Nam là không dân chủ hoặc thiếu dân chủ chỉ vì không đi theo mô hình
mà Hoa Kỳ đặt ra. Chính Truman, cố Tổng thống nổi tiếng của Hoa Kỳ đã
từng tuyên bố trong lễ nhậm chức của mình vào ngày 20 tháng giêng năm
1949 rằng: “Người dân Hoa Kỳ mong muốn, và đang quyết tâm tạo dựng một
thế giới mà trong đó mọi quốc gia và mọi dân tộc được tự do điều hành theo
cách mà họ thấy hợp lý” [73]. Chế độ chính trị của Việt Nam ngày nay là kết
quả của hơn một thế kỷ đấu tranh và xây dựng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Đó là một nền chính trị ổn định và hợp lòng dân và ngày càng tạo được uy tín
với bạn bè thế giới.
Quan điểm của chính phủ Việt Nam là sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ
trong tất cả các lĩnh vực mà hai nước quan tâm nhưng phải dựa trên cơ sở tôn
trọng quyền độc lập của nhau, đặc biệt là độc lập về chính trị. Ngay tại Hoa
Kỳ, quan điểm này được một số người tán đồng. Giáo sư Frederick Z. Brown
đề nghị: “nếu chúng ta có lòng tin vào sự vĩnh cửu của các giá trị cốt lõi của
chúng ta, thì chúng ta nên để người Việt Nam tự vận hành quá trình phát triển
chính trị của họ, và chúng ta nên tránh kiểu “dương dương tự đắc” là cái đã
dẫn tới thất bại trước đây khi chúng ta muốn chi phối nền chính trị Việt Nam”
[26, tr. 177 – 178].
2.3.3. Các lĩnh vực khác
2.3.3.1. Viện trợ nhân đạo
Năm 1991, cùng với những nỗ lực của Việt Nam hợp tác với Hoa Kỳ
để giải quyết một số vấn đề nhân đạo như tìm kiếm người Mỹ mất tích và tù
nhân chiến tranh (POW/MIA), và mở đầu cho việc thành lập Văn phòng MIA
của Hoa Kỳ ở Hà Nội, Hoa Kỳ đã tuyên bố cung cấp cho Việt Nam một
khoản viện trợ nhân đạo một triệu đô la. Đây là khoản viện trợ chính phủ đầu
tiên kể từ năm 1975 mà Hoa Kỳ chính thức cấp cho Việt Nam. Sau đó từ năm
1992, mỗi năm Hoa Kỳ cấp cho Việt Nam 3 triệu đô la viện trợ nhân đạo.
Đồng thời, Hoa Kỳ đồng ý nối lại viễn thông trực tiếp với Việt Nam, đồng ý
cho phép bán hàng của Hoa Kỳ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người
ở Việt Nam, bãi bỏ các hạn chế đối với các dự án do các tổ chức phi chính
phủ của Hoa Kỳ tiến hành ở Việt Nam.
Việc Chính phủ Hoa Kỳ chính thức cung cấp viện trợ cho Việt Nam là
một bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Tuy mới chỉ là viện trợ
nhân đạo, chưa phải là viện trợ phát triển, nhưng đây là một tín hiệu mới mở
ra khả năng hợp tác giữa hai chính phủ, nhất là trong việc góp phần tái thiết
đất nước Việt Nam sau chiến tranh.
Ngày 10 tháng 8 năm 1994, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua dự luật về
các hoạt động ở nước ngoài năm 1995, do Tổng thống Clinton ký ngày 23
tháng 8 năm 1994, trong đó nhắc lại một điều khoản của khoản 13 Luật ủy
quyền năm 1973, như sau: “Bất kể, bất kỳ điều khoản nào của luật pháp,
không được cấp một khoản tài chính nào cho Việt Nam chừng nào Quốc hội
chưa cho phép” [77, tr. 26 – 27]. Với điều khoản này, viện trợ cho Việt Nam
sẽ tiếp tục bị cấm cho đến khi có điều khoản mới của Quốc hội Hoa Kỳ hủy
bỏ điều luật này và cho phép cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam. Tuy nhiên,
trừ viện trợ phát triển, Hoa Kỳ vẫn có thể cấp viện trợ nhân đạo cho Việt
Nam. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của tờ thời báo kinh tế Việt Nam, Đại
sứ Hoa Kỳ Pete Peterson đã giải thích về những khả năng viện trợ phát triển
và các khoản viện trợ khác của Hoa Kỳ cho Việt Nam như sau: “Chúng tôi bị
cấm không được cấp bất kỳ một khoản tiền viện trợ nào cho Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam vào thời điểm này. Nhưng tất nhiên có một điều khoản về
viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, mỗi năm khoảng 3 triệu đô la. Ngoài ra còn
có một số điều luật cho phép cấp viện trợ để giúp xây dựng luật lệ và các
khoản viện trợ nhân đạo khác. Trên mức đó chúng tôi phải đợi đến khi hoàn
tất quá trình bình thường hóa và hủy bỏ những điều cấm kỵ nêu trong Luật
quan hệ của chúng tôi trên thế giới. Đây là điều cấm kỵ theo luật pháp, kể cả
tổng thống cũng không thể bỏ qua được…" [78].
Số tiền viện trợ ba triệu đô la mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam từ năm
1992 là một đóng góp mới, quan trọng trong quan hệ hai nước, nhưng xét về
số lượng, nó vẫn còn nhỏ so với viện trợ mà Hoa Kỳ dành cho các nước khác
trong khu vực, càng rất nhỏ so với những gì mà các tổng thống trước đây của
Hoa Kỳ đã hứa đóng góp vào công cuộc tái thiết ở Việt Nam thời kỳ sau
chiến tranh.
2.3.3.2. Hợp tác nhân dân
Đây là một mảng quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Ngay khi quan hệ giữa hai nước chưa được khai thông thì quan hệ giữa các tổ
chức phi chính phủ đã được phát triển. Vì vậy có thể xem các tổ chức phi
chính phủ như những người tiên phong của Hoa Kỳ ở Việt Nam, là những sứ
giả Hoa Kỳ đầu tiên ở Việt Nam.
Trước năm 1975, ở Việt Nam ít có tổ chức phi chính phủ hoạt động
trong lĩnh vực viện trợ nhân đạo. Đến thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1988, số
tổ chức phi chính phủ tăng lên, tập trung vào các hoạt động nhân đạo và cứu
trợ. Từ sau năm 1989, cùng với những kết quả tích cực đạt được từ khi thực
hiện chính sách đổi mới năm 1986 chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần
và mở cửa, số các tổ chức phi chính phủ quốc tế vào hoạt động tại Việt Nam
tăng lên nhanh chóng, từ 70 tổ chức năm 1988 lên 478 tổ chức năm 1998 với
tổng ngân sách là 70 – 80 triệu đô la. Các lĩnh vực hoạt động trở nên đa dạng
hơn, không chỉ tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nhân đạo, mà chuyển trọng
tâm ưu tiên sang các dự án phát triển và xóa đói giảm nghèo.
Trong bối cảnh đó, các tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ cũng tăng
nhanh. Đến năm 2000, có khoảng 280 tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ hoạt
động tại Việt Nam với tổng nguồn viện trợ khoảng trên 60 triệu đô la mỗi
năm, tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu như phát triển bền vững, xóa đói
giảm nghèo, đào tạo và phát triển năng lực. Hoạt động của các tổ chức phi
chính phủ Hoa Kỳ đã tăng lên mạnh mẽ ở Việt Nam trong hơn 8 năm qua kể
từ năm 1990 đến năm 1998 và đã có sự đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây
dựng Việt Nam thành một nước giàu, mạnh và độc lập.
Một yếu tố quan trọng khác trong lĩnh vực hợp tác nhân dân là số người
Việt Nam sinh sống tại Hoa Kỳ hay Việt kiều tại Hoa Kỳ. Đến cuối thập niên
90 của thế kỷ 20, có khoảng 2 triệu người Việt Nam đang sống và làm việc tại
80 nước trên thế giới, trong đó tại Hoa Kỳ có số lượng lớn nhất, khoảng
900.000 người (tập trung chủ yếu ở Bang California). Trong số người Việt
Nam sống tại Hoa Kỳ, có một số ít người tiếp tục sống với những tư duy và
hận thù cũ, không ủng hộ chính quyền trong nước. Nhưng đa số, nhất là lớp
trẻ, là những người có mối quan tâm thường xuyên đến quê hương đất nước
và ngày càng ủng hộ Việt Nam trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
Họ có mối quan hệ thân thiết máu thịt với người thân trong nước. Riêng thành
phố Hồ Chí Minh có gần 50% tổng số hộ dân có thân nhân đang sống và làm
việc tại Hoa Kỳ. Hàng năm những gia đình này vẫn thường xuyên nhận được
tiền và quà do người thân từ Hoa Kỳ gửi về trợ giúp khắc phục đời sống khó
khăn. Số lượng tiền hàng năm người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về
nước thông qua các mối quan hệ gia đình là khoảng một tỷ đô la, tương
đương với khoản ngân sách của Nhà nước đầu tư cho phát triển, hoặc tương
đương 15% tổng quỹ đầu tư xã hội hàng năm. Trong số tiền được Việt kiều
gửi về nước, khoảng 200 triệu đô la được dùng cho đầu tư phát triển trực tiếp,
hầu hết tập trung vào các lĩnh vực như bất động sản, hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng cá nhân. Một phần lớn số tiền gửi đó được dùng để phát triển các cơ sở
kinh doanh nhỏ trong các ngành như dệt may, sản xuất đồ nhựa dẻo…
Những Việt kiều ở Hoa Kỳ có vai trò quan trọng với đất nước, không
chỉ vì họ gửi tiền về cho gia đình người thân và đầu tư trong nước, mà quan
trọng hơn là vì họ có tài năng kiến thức, có tinh thần yêu nước và ý thức xây
dựng tổ quốc. Kể từ khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận, nhiều người Việt ở Hoa Kỳ đã
trở lại Việt Nam không chỉ để thăm viếng gia đình mà còn thể hiện nguyện
vọng cống hiến cho đất nước theo nhiều hình thức khác nhau. Một số làm cầu
nối đưa các công ty Hoa Kỳ vào Việt Nam. Một số khác tham gia vào các
hoạt động khoa học, giáo dục, chăm sóc sức khỏe hoặc phân phối viện trợ cho
nhân dân ở những nơi và những lúc khó khăn. Họ ngày càng ủng hộ tích cực
cho mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đang trên đà phát triển.
2.3.3.3. Hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học – công nghệ,
văn hóa, y tế
Trước khi bình thường hóa, vào những năm 80, giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ đã có những quan hệ trao đổi và hợp tác về các lĩnh vực này nhưng chủ
yếu giới hạn ở một số hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Từ tháng 2 năm 1994,
sau khi Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam, quan hệ hợp tác giữa
hai nước trong các lĩnh vực này đã có bước cải thiện và được mở rộng hơn, và
đến khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường quan hệ ngoại giao với
Việt Nam thì các quan hệ hợp tác này diễn ra một cách sôi động kèm theo
những thay đổi lớn về số lượng và chất lượng.
Các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò tiên phong trong các lĩnh vực
này. Sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, một số tổ chức
phi chính phủ Hoa Kỳ vẫn tiếp tục những hoạt động viện trợ nhân đạo tại Việt
Nam, tiêu biểu như Tổ chức những người bạn Hoa Kỳ (American Friends
Service Committee – AFSC) hay Tổ chức ủy ban trung ương Mennonite
(Mennonite Central Committee – MCC). Đến đầu những năm 1990, trong khi
giới kinh doanh và các ngành khác chưa có hoặc quan hệ rất ít với Việt Nam,
thì đã có 59 tổ chức phi chính phủ có các chương trình hoạt động ở Việt Nam,
mỗi năm giúp đỡ nước ta một khoản viện trợ ước tính khoảng 15 triệu đô la.
Có thể nói trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp
tác, trao đổi văn hóa, giáo dục, khoa học – kỹ thuật, y tế giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ hầu hết thực hiện thông qua các tổ chức phi chính phủ. Sau khi bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước, các tổ chức phi chính phủ còn được sự ủng
hộ của chính phủ Hoa Kỳ về cả vật chất và tinh thần, nhờ đó hoạt động của họ
ngày càng tích cực hơn và có những đóng góp thiết thực và hiệu quả hơn cho
Việt Nam.
Về giáo dục, năm 1998 tại Hoa Kỳ có khoảng 1.300 học sinh, sinh viên
Việt Nam du học, trong đó có khoảng 100 người được các quỹ khác nhau tài
trợ và cấp học bổng như quỹ Fulbright mỗi năm cấp 30 học bổng, còn lại
khoảng 1.200 người đi du học theo các chương trình tự túc. Đây là số lượng
chưa tương xứng với nhịp độ phát triển tri thức cũng như nhu cầu học tập ở
nước ngoài đặc biệt là tại Hoa Kỳ, của một bộ phận lớn sinh viên, học sinh
Việt Nam. Sở dĩ có thực trạng đó là do những hạn chế về tài chính, sự hiểu
biết về cơ hội giúp đỡ, các thủ tục đơn từ ở Việt Nam, kiến thức chuyên môn
khoa học và ngoại ngữ, chính sách visa của Hoa Kỳ… Trong đó, tài chính vẫn
là sự hạn chế cốt yếu nhất đối với sự phát triển các quan hệ trao đổi về giáo
dục, chuyên môn và khoa học tại Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ đã thông qua một số quỹ chính phủ và phi chính phủ để giúp
thực hiện một số chương trình giáo viên tình nguyện dạy tiếng Anh trong các
trường đại học, chương trình đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, chương trình hợp
tác giữa các trường đại học Hoa Kỳ và đại học Việt Nam, các chương trình
hợp tác khoa học – kỹ thuật, y tế, các chương trình trao đổi văn hóa, thông tin
và thể thao…
Về hợp tác giúp đỡ tiếng Anh, một số tổ chức của Hoa Kỳ như Tổ chức
tình nguyện Châu Á và Viện Anh ngữ đã ký văn bản thỏa thuận chính thức về
hợp tác với Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam, trong hai năm 1996 – 1997 đã
cử trên 60 giáo viên tình nguyện sang giảng dạy tiếng Anh tại các trường đại
học và các trung tâm ngoại ngữ ở các thành phố lớn, giúp nâng cao trình độ
tiếng Anh của giáo viên, sinh viên và cán bộ để có thể thi đạt điểm TOEFL
vào học tại các trường đại học của Hoa Kỳ và có trình độ ngoại ngữ tốt hơn
phục vụ cho công việc chuyên môn.
Trong lĩnh vực đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, Quỹ Ford, Chương trình
Fulbright đã phối hợp với Viện phát triển quốc tế của Đại học Havard mở các
khóa đào tạo cán bộ quản lý kinh tế tại trường Đại học kinh tế quốc dân Hà
Nội và Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến tháng 12 năm 1997,
Quỹ Ford đã giúp trường Đại học kinh tế quốc dân tổ chức được 6 khóa bồi
dưỡng về quản lý kinh tế thị trường, mỗi khóa có từ 50 đến 60 học viên tham
gia học trong 6 tháng. Tại Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Quỹ
Fulbright đã phối hợp với Viện phát triển quốc tế của Đại học Havard và Hội
đồng học thuật Hoa Kỳ tổ chức một chương trình đào tạo 2 năm với ngân
sách hai triệu đô la do Quốc hội Hoa Kỳ cấp, bao gồm việc đào tạo mỗi năm
50 học viên và tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường như thư viện, phòng
học…
Ngoài các quỹ của chính phủ và phi chính phủ nêu trên, các công ty của
Hoa Kỳ cũng đã tham gia vào việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế giúp Việt
Nam như Citicorp từ năm 1995 đã giúp đào tạo trên 1.000 cán bộ nhân viên
Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng hay năm 1997 Công ty GE đã tổ
chức một khóa huấn luyện 3 tuần tại Hoa Kỳ cho 40 cán bộ công nhân từ các
nước ASEAN, trong đó có 5 thành viên từ Việt Nam.
Sự phát triển giữa các trường đại học của Việt Nam và Hoa Kỳ cũng
đang được phát triển. Đã có nhiều trường đại học của Hoa Kỳ sang thăm, tìm
hiểu và mở các chương trình hợp tác đào tạo và nghiên cứu với Việt Nam như
các trường Đại học Havard, Berkerley, Columbia, Georgetown, Ohio,
Indiana, Fullerton, UCLA, Washington, Eastern, Oregon, Bufalo…
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, một số tập đoàn máy tính lớn của
Hoa Kỳ như IBM, APPLE, UNISSIS, DIGITAL, ORACLE, COMPAQ đã
hợp tác với Ban công nghệ thông tin của Bộ Giáo dục – đào tạo và một số cơ
quan khác giúp đỡ đào tạo, phát triển và tư vấn về công nghệ thông tin, nhất
là trong lĩnh vực phần mềm.
Từ những năm 1990 chúng ta đã có những hoạt động trao đổi và hợp
tác ngày càng tích cực hơn trong các lĩnh vực về khoa học – kỹ thuật, khoa
học xã hội, môi trường, y tế, bao gồm hợp tác nghiên cứu, đào tạo, trao đổi
chuyên gia, hội thảo, hội nghị khoa học, tổ chức phòng chống dịch bệnh, phát
triển y tế cộng đồng, phòng chống HIV/AIDS, nghiên cứu ảnh hưởng của chất
độc màu da cam...
Trong lĩnh vực văn hóa – thông tin – thể thao, giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ đã có những hoạt động trao đổi các đoàn nghệ thuật, nhà văn, nhà thơ, nhà
báo, các đoàn thể thao, làm phim, mở văn phòng thông tấn tại hai nước để
góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường mối quan hệ giao lưu
giữa nhân dân hai nước.
Sự hợp tác trên các lĩnh vực trên đây sau một thời gian được mở ra vừa
có tính chất thăm dò theo chiều rộng, ngày càng phát triển theo chiều sâu, vừa
đa dạng vừa thiết thực hơn. Sự hợp tác này không chỉ còn là nỗ lực của các tổ
chức phi chính phủ, là ngoại giao nhân dân mà đã có sự hỗ trợ của chính phủ
hai nước kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Nói chung các quan
hệ hợp tác đã có nhiều thuận lợi nhưng vẫn còn những khó khăn và trở ngại
không nhỏ do những hạn chế về thông tin và sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai
nước, do sự khác biệt về ngôn ngữ và cách thức đào tạo từ trước đến nay, do
những khó khăn về thủ tục hành chính, thủ tục visa và nhất là do sự hạn hẹp
về kinh phí.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nhìn chung, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ sau khi bình thường hóa
đã đạt được nhiều tiến bộ. Hai nước đã tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực
đặc biệt là về kinh tế. Cấm vận kinh tế được bãi bỏ, các quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nhanh chóng được nối lại và phát triển với tốc độ
nhanh. Từ những hợp tác kinh tế, các mối quan hệ khác cũng nhanh chóng
được thiết lập trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học –
kỹ thuật… cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong quan hệ
giữa hai nước vẫn tồn tại những khó khăn, hạn chế cần được giải quyết.
Khó khăn lớn nhất trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
thời kỳ này là sự khác biệt giữa hai nền kinh tế cũng như trong chính sách
kinh tế giữa hai nước, đó là sự khác biệt giữa một nền kinh tế thị trường phát
triển nhất trên thế giới với một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi
sang kinh tế thị trường, có điểm xuất phát thấp và đang trong thời kỳ đầu của
tiến trình công nghiệp hóa.
Là một nền kinh tế mạnh, nên các chiến lược kinh tế của Hoa Kỳ bao
giờ cũng được đặt trong các chương trình điều chỉnh tổng thể nhằm thích ứng,
thậm chí làm thay đổi các xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới theo
hướng có lợi cho nó. Ngược lại, với xuất phát điểm muộn, thấp lại vừa
chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên
chính sách kinh tế của Việt Nam chưa ổn định, thường lệ thuộc vào các nhà
đầu tư nước ngoài cũng như những chuyển biến của kinh tế toàn cầu. Sự hợp
tác kinh tế giữa “người khổng lồ” và “chú bé tí hon” do vậy mà thường xuyên
gặp khó khăn và rất không bình đẳng. Nền kinh tế Việt Nam sẽ không thích
ứng được ngay với các “luật chơi” của kinh tế Hoa Kỳ cũng như những tổ
chức kinh tế quốc tế chịu sự dẫn dắt của Hoa Kỳ.
Một sự kiện quốc tế có ảnh hưởng đến quan hệ thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ, đó là cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Đông Nam Á từ năm
1996. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó
có Hoa Kỳ lo ngại khi rót vốn vào kinh doanh tại Việt Nam. Điều này có ảnh
hưởng trực tiếp đến quan hệ đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ cũng như tốc độ phát
triển của nền kinh tế Việt Nam vốn trước đó có tốc độ phát triển cực kỳ ấn
tượng (từ 9,5% năm 1995 xuống 9,35 năm 1996, rồi 8,2% năm 1997 và 8,5%
năm 1998). Sau khủng hoảng, các nước như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia, Philippin đều tìm cách cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút
đầu tư từ Hoa Kỳ để vực lại nền kinh tế. Điều đó đặt Hoa Kỳ trước những sự
lựa chọn tối ưu, và dĩ nhiên, nếu môi trường đầu tư của các nước trong khu
vực tốt hơn, chắc chắn Hoa Kỳ sẽ không ngần ngại hướng đầu tư của mình
vào các nước đó.
Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tuy đã ký kết Hiệp định Thương mại song
phương vào ngày 14 tháng 7 năm 2000, nhưng dưới thời tổng thống Bill
Clinton, Quốc hội Hoa Kỳ chưa phê chuẩn nên Hiệp định này vẫn chưa có
hiệu lực. Do vậy mà, quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ vẫn chưa có
những thay đổi mang tính đột phá, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ
vẫn phải chịu mức thuế cao, trong khi đó, các doanh nghiệp Hoa Kỳ vẫn e
ngại khi đầu tư kinh doanh tại Việt Nam vì khung pháp lý đặt ra trong Hiệp
định Thương mại giữa hai nước vẫn chưa được áp dụng.
Về mặt chính trị, tuy Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được nhiều tiến bộ
trong quan hệ về chính trị, nhưng giữa hai nước vẫn tồn tại những vấn đề làm
cản trở sự tiến bộ của quan hệ ngoại giao, đặc biệt nhất là việc chính phủ Hoa
Kỳ cho rằng Việt Nam chưa thực hiện tốt vấn đề dân chủ và nhân quyền. Sự
chưa thống nhất trong quan điểm của hai nước trong việc giải quyết những
vấn đề này là cơ sở để các thế lực phản động chống đối Việt Nam và phản đối
mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động “diễn biến hòa
bình” nói xấu, xuyên tạc và phá hoại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; Kêu gọi tài trợ của bộ phận cực hữu ở Hoa Kỳ thành lập những tổ
chức phản động ở nước ngoài và Việt Nam nhằm phục vụ cho những hoạt
động bất chính của chúng. Vấn đề dân chủ và nhân quyền cũng là trở ngại đối
với việc phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước. Cụ thể là khi Việt Nam
chưa giải quyết được vấn đề này, Quốc hội Hoa Kỳ sẽ không thông qua Hiệp
định Thương mại song phương giữa hai nước, điều này đồng nghĩa với việc
Hoa Kỳ sẽ không dành Quy chế Tối huệ quốc cùng với những ưu đãi về
thương mại, tài chính khác cho Việt Nam.
Về mặt chiến lược, Hoa Kỳ còn lo ngại mối quan hệ ngày càng tốt đẹp
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nếu kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển
cùng với sự ổn định về chính trị thì “liên minh mới” giữa Việt Nam và Trung
Quốc trên cơ sở cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa sẽ đe dọa trực tiếp đến
quyền lợi kinh tế và an ninh chính trị của Hoa Kỳ trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương, từ đó làm đảo lộn chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực này.
Điều này cho thấy tuy đã bình thường hóa với Việt Nam nhưng chính phủ
Hoa Kỳ vẫn còn mang ý thức phân biệt về chính trị từ thời Chiến tranh lạnh.
Ý thức đó đã phần nào làm chậm lại tiến trình bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam trước đây và thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Việt Nam trong thời
điểm này.
Những khó khăn trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời kỳ này
sẽ là những thách thức đặt ra cho quan hệ giữa hai nước trong những năm tiếp
theo. Việc giải quyết thành công những vấn đề trên sẽ tạo tiền đề thuận lợi
cho hai nước thúc đẩy nhanh hơn nữa những quan hệ đã có.
Chương 3
QUAN HỆ VIỆT NAM HOA KỲ DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG
GEORGE BUSH
(2001 – 2006)
3.1. Chính sách đối ngoại của chính quyền Tổng thống Bush
3.1.1. Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Tổng thống
Bush
Năm 2000, George Bush trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, tập hợp quanh
mình một đội ngũ cố vấn dày dạn kinh nghiệm và từng trải như Ngoại trưởng
Colin Powell là cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và Cố
vấn an ninh quốc gia, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld, cố vấn an
ninh quốc gia Condoleezza Rice đã từng phục vụ trong Hội đồng An ninh
quốc gia. Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney từng là Tổng tham mưu trưởng
của Nhà trắng thời Tổng thống Gerald Ford và là Bộ trưởng Quốc phòng dưới
thời chính quyền Bush cha. Ngoài ra còn có một số nhân vật có trình độ cao
và kinh nghiệm lâu năm về chính sách ngoại giao và quốc phòng như Richard
Armitage, Paul Wolfowitz, Stephen Hadley… tham gia vào việc cố vấn chính
sách cho chính quyền Tổng thống Bush.
George Bush lên nắm chính quyền trong bối cảnh nền kinh tế Hoa Kỳ
tăng trưởng liên tục trong vòng 8 năm, thực hiện chính sách đối ngoại kết hợp
chặt chẽ ngoại giao với quốc phòng, kinh tế với quốc phòng và ngày càng coi
trọng vấn đề an ninh hơn so với chính quyền trước của Tổng thống Bill
Clinton. Cụ thể, chính quyền Bush thực hiện chủ nghĩa đơn phương cứng rắn,
tập trung vào chính sách đối ngoại, xử lý các vấn đề quốc tế trên cơ sở lợi ích
quốc gia của Hoa Kỳ, nhấn mạnh vào lĩnh vực an ninh quân sự, kiên trì bố trí
“Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia” (National Missile Defense – NMD),
thực hiện nguyên tắc “Đơn phương uy hiếp có hiệu lực”. Chính sách này của
George Bush đã tạo nên sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế giữa Mỹ với các
nước lớn và tác động không nhỏ đến các nước khác.
Tháng Giêng năm 2001, Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell đã đưa ra
“Thuyết hai nền tảng”: nền tảng thứ nhất là châu Âu lấy NATO làm hạt nhân,
nền tảng thứ hai là châu Á, lấy đồng minh quân sự Mỹ – Nhật làm hạt nhân.
Đây là tư tưởng chiến lược coi trọng cả châu Âu và châu Á. Tư tưởng này đã
được Zbigniew Brzezinski nêu rõ: “Lục địa Á – Âu là trung tâm của thế giới
và rằng ai kiểm soát được lục địa Á – Âu, người đó sẽ kiểm soát được thế
giới” [8, tr. 8]. Do đó, để duy trì vị trí đứng đầu thế giới, vấn đề là cần phải
ngăn cản được sự trỗi dậy của các cường quốc Á – Âu có đủ khả năng thống
trị nơi đây và thách thức nước Mỹ. Vì vậy mà theo Brezinski: “…chính sách
đối ngoại của Mỹ luôn quan tâm đến khía cạnh địa – chính trị và phải sử
dụng ảnh hưởng của nó ở lục địa Âu – để tạo ra sự cân bằng, ổn định và Mỹ
là trọng tài về chính trị” [8, tr. 8].
Đây là lý do thúc đẩy Hoa Kỳ tăng cường củng cố và mở rộng quan hệ
với các nước ở châu Âu và châu Á. Đối với châu Á, chính quyền George
Bush ngày càng đẩy nhanh việc điều chỉnh chiến lược toàn cầu châu Á – Thái
Bình Dương. Coi Thái Bình Dương là trọng điểm của trọng điểm để bố trí lực
lượng quân sự Hoa Kỳ trong tương lai; Trung Quốc được xem là đối thủ chủ
yếu ở khu vực châu Á, cạnh tranh với vị trí thống trị toàn cầu của Hoa Kỳ.
Điều này thể hiện sự nhất quán của Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại từ
Tổng thống Bill Clinton đến George Bush, đó là: lấy châu Âu làm trọng điểm
chỗ dựa chiến lược, lấy châu Á – Thái Bình Dương làm trọng điểm tiến thủ
chiến lược.
Ở Đông Nam Á, chính quyền George Bush về cơ bản vẫn không có
điều chỉnh chính sách gì lớn so với chính quyền Bill Clinton. Trong việc thực
thi củng cố quan hệ đồng minh và bạn bè của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình
Dương, nhóm nước ASEAN được coi là bộ phận quan trọng trong chiến lược
châu Á – Thái Bình Dương. Các quan chức cao cấp của quân đội Hoa Kỳ
nhiều lần viếng thăm các quốc gia trong khối ASEAN nhằm mở rộng con
đường hợp tác song phương, nâng cấp quan hệ quân sự và trao đổi ý kiến về
vấn đề Trường Sa. Hoa Kỳ nhấn mạnh tầm quan trọng, tính cần thiết của sự
hiện diện của quân đội nước này trong khu vực; Cam kết duy trì hòa bình ổn
định trong khu vực, hy vọng các nước ASEAN tiếp tục quan hệ hợp tác với
Hoa Kỳ trong các lĩnh vực an ninh và phòng vệ.
3.1.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau sự kiện ngày 11 tháng 9
năm 2001
Sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, cả nước Hoa Kỳ đã bị rung chuyển
bởi một loạt vụ khủng bố bằng máy bay xảy ra đồng thời và có hệ thống nhằm
vào các trung tâm trọng yếu về thương mại và quốc phòng, vốn là biểu tượng
cho sức mạnh và sự thịnh vượng của Hoa Kỳ. Tòa tháp đôi của Trung tâm
Thương mại quốc tế sừng sững tại trung tâm New York phút chốc biến thành
một đống đổ nát. Lầu Năm góc, trụ sở của Bộ Quốc phòng, nơi được bảo vệ
nghiêm ngặt, cũng bị tấn công làm sụp đổ cả một góc tòa nhà. Hệ thống an
ninh phòng thủ của Hoa Kỳ hoàn toàn bị động trước các vụ tấn công trên. Cơ
quan tình báo Hoa Kỳ cũng không hề có thông tin gì về vụ khủng bố. Đây là
vụ khủng bố lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ xét trên tất cả các phương diện:
thiệt hại về tính mạng con người, về tài sản, tinh thần. Nó đã tác động đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế, chính trị – xã hội của Hoa Kỳ và nhiều quốc
gia khác trên thế giới.
Sự kiện ngày 11 tháng 9 đã ảnh hưởng lớn đến chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế Luân
Đôn (IISS – International Institute for Strategic Studies), biến cố ngày 11
tháng 9 đã làm thay đổi những ưu tiên trong quan hệ quốc tế, tính chất hoạt
động chính trị khu vực, hình thái các liên minh chính trị và thúc đẩy chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, như lời của tiến sĩ John Chipman, Giám đốc IISS
cho rằng: “Hoa Kỳ có một kẻ thù mới được xác định, không phải Liên Xô cũ
và cũng không phải là nước Trung Quốc mới nổi lên tiềm tàng, mà là chủ
nghĩa khủng bố quốc tế và các nước đỡ đầu khủng bố. Việc truy và đánh bại
kẻ thù mới đang là mục tiêu hết sức khó khăn đối với chính quyền G. Bush.
Do vậy, nó trở thành đặc trưng phân định rõ các mối quan hệ quốc tế” [47, tr.
186 – 187]. Có nghĩa là, trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ lúc này
dường như chỉ có hai lực lượng chính: một là chủ nghĩa khủng bố chống Hoa
Kỳ và hai là lực lượng hợp tác với Hoa Kỳ để chống lại chủ nghĩa khủng bố.
Ngay sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, Tổng thống George Bush chính
thức kêu gọi sự ủng hộ của toàn thế giới trong nỗ lực thành lập một Liên minh
chống lại chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Tổng thống Bush tuyên bố Hoa Kỳ
đang đối mặt với cuộc chiến tranh chống khủng bố và xem đó là cuộc chiến
tranh đầu tiên trong thế kỷ XXI.
Mục tiêu chống khủng bố đã tạo nên những hình thức hợp tác chính trị
và quân sự chưa từng có, điển hình là việc Hoa Kỳ bắt tay trở lại với Nga
bằng một số nhượng bộ của Hoa Kỳ trong vấn đề hạt nhân và tên lửa phòng
thủ đổi lại là lời hứa hợp tác của Nga trong cuộc chiến chống khủng bố của
Hoa Kỳ. Quan hệ Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng vậy, mối căng thẳng suốt tám
tháng đầu năm 2001 giữa hai nước cũng chuyển sang hướng hòa dịu chưa
từng có, bởi hai nước có lợi ích chung trong hoạt động chống khủng bố và vì
vậy hoàn toàn có thể trở thành đối tác mang tính chiến lược trong lĩnh vực
này.
3.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đầu thế kỷ XXI
Sau 15 năm thực hiện đổi mới trên nhiều lĩnh vực Việt Nam đã đạt
nhiều thành quả đáng khích lệ. Đầu thế kỷ XXI, Việt Nam đã là một nước có
nền kinh tế thị trường, có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Trên lĩnh vực đối ngoại,
chính phủ Việt Nam ngày càng tăng cường, mở rộng các mối quan hệ hợp tác
quốc tế. Nếu như ở thời điểm đầu thập niên 1990, Việt Nam mới chỉ có quan
hệ với khoảng 30 nước và vùng lãnh thổ, trong đó chủ yếu là Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, thì đến thời điểm này Việt Nam đã
có quan hệ ngoại giao với tất cả các nước lớn trên thế giới. Việt Nam đã thiết
lập quan hệ thương mại với hơn 100 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định
thương mại với hơn 84 quốc gia và có thỏa thuận về đối xử Tối huệ quốc với
81 quốc gia và vùng lãnh thổ. Quan hệ thương mại của Việt Nam đã mở rộng
tới tất cả các châu lục, đã khai thông các thị trường châu Âu, châu Phi và châu
Mỹ. Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch, đều
coi Việt Nam là đối tác đáng tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định.
Tiếp tục những thành tựu đạt được về đối ngoại trong thời kỳ đổi mới,
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX (2001) đề ra phương châm “Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển” [17].
Trong cuộc họp báo về chính sách ngoại giao của Nhà nước và Hội
nhập kinh tế quốc tế ngày 20 tháng 4 năm 2001 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã khẳng định “Việt Nam sẽ không ngừng mở
rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng
lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và
khu vực theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”[25].
Với những tuyên bố trên, có thể thấy rằng chính sách đối ngoại của
Việt Nam trong thế kỷ XXI là sự kế thừa và phát triển đường lối đối ngoại
của các thời kỳ trước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, thể hiện
tính liên tục và nhất quán trong toàn bộ hệ thống chính trị của Đảng cộng sản
Việt Nam và Nhà nước Việt Nam. Đây là điều kiện thuận lợi để phát huy hơn
nữa những thành tựu trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ với Hoa Kỳ
nói riêng.
Những thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau sự kiện
11 tháng 9 đã tác động đến đường lối ngoại giao của nhiều nước trong đó có
Việt Nam. Theo đó, cam kết chống khủng bố là một điều kiện và động lực
quan trọng để các nước củng cố và đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ. Quan điểm
của Chính phủ Việt Nam là kiên quyết phản đối mọi biểu hiện của chủ nghĩa
khủng bố gây đau thương, chết chóc cho những người dân vô tội. Sau khi sự
kiện ngày 11 tháng 9 xảy ra, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã có điện chia
buồn với Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ: "Chính phủ và nhân dân Việt Nam
rất sửng sốt trước thảm họa đã xảy ra tại Hoa Kỳ sáng ngày 11/9/2001.
Chúng tôi xin gửi tới Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, đặc biệt là gia đình các
nạn nhân lời chia buồn sâu sắc. Trước sau như một, Việt Nam phản đối
những hành động khủng bố gây chết chóc, đau thương cho dân thường" [24].
Cùng ngày, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã gửi thư cho Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Colin Powell: "Chúng tôi vô cùng sửng sốt và bàng hoàng
được tin về vụ tấn công thảm họa vừa mới xảy ra ở Hoa Kỳ, gây thiệt hại
nặng về người và của đối với nhân dân Hoa Kỳ. Tôi muốn chuyển tới Ngài, và
qua Ngài tới Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, đặc biệt là các gia đình có
người bị nạn lời chia buồn sâu sắc nhất của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng
rằng Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng vượt qua được thời
điểm khó khăn này. Chúng tôi mạnh mẽ lên án các hành động khủng bố trên
thế giới và sẵn sàng hợp tác với Chính phủ và nhân dân tất cả các nước
chống lại các hành động đó" [24].
Với những động thái ngoại giao tích cực và cam kết chống chủ nghĩa
khủng bố đến cùng, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ ngày càng được củng cố. Vị
thế của Việt Nam cũng ngày càng nâng cao, Việt Nam được đánh giá là nước
có nền an ninh – chính trị ổn định, môi trường đầu tư an toàn, thị trường giàu
tiềm năng với nguồn tài nguyên phong phú và lực lượng lao động dồi dào.
3.3. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George Bush
3.3.1. Quan hệ kinh tế
3.3.1.1. Quan hệ thương mại
Từ tháng 12 năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam
– Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực sau khi được Thượng nghị viện Hoa Kỳ phê
chuẩn, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những thay đổi đáng
kể. Với BTA, chính phủ Hoa Kỳ dành cho Việt Nam Quy chế quan hệ bình
thường tức Quy chế tối huệ quốc, có nghĩa là hàng hóa Việt Nam khi xuất
khẩu vào thị trường Hoa Kỳ sẽ được giảm thuế đáng kể, ngược lại chính phủ
Việt Nam cũng cam kết dành Quy chế Tối huệ quốc cho Hoa Kỳ với những
ưu đãi về thuế quan, gỡ bỏ những trở ngại trong việc phát triển ngành dịch vụ
của Hoa Kỳ tại Việt Nam (như hoạt động viễn thông, ngân hàng...), cam kết
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và tài sản của các tổ chức, doanh nghiệp và cá
nhân Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Hoạt động xúc tiến thương mại giữa hai nước được triển khai một cách
rầm rộ. Hàng trăm phái đoàn thương mại của các bộ, ngành, địa phương, hiệp
hội và các doanh nghiệp đơn lẻ của Việt Nam đã sang Hoa Kỳ để tìm hiểu
môi trường kinh doanh và tìm kiếm cơ hội hợp tác thương mại và đầu tư. Phía
Hoa Kỳ cũng tổ chức rất nhiều đoàn đến Việt Nam để khảo sát, thăm dò thị
trường cũng như ký kết các hợp đồng thương mại. Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đã trở thành một động lực thúc đẩy giới
kinh doanh Hoa Kỳ quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam và xem đây
như một thị trường đầy hứa hẹn ở Đông Nam Á.
Sở dĩ các doanh nghiệp Hoa Kỳ quan tâm ngày càng nhiều đến thị
trường Việt Nam là do quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước có được một
khung pháp lý BTA tương đối hoàn chỉnh, trong khi đó, quan hệ chính trị
giữa hai nước ngày càng được cải thiện tích cực; Kinh tế Việt Nam tiếp tục
phát triển cao và ổn định, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm từ
năm 2001 đến năm 2006 là 7,8% (theo thống kê của Ngân hàng Thế giới),
Việt Nam được đánh giá là nước có nền kinh tế có tốc độ nhanh và ổn định
vào bậc nhất trong khu vực; Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đang được
cải thiện và ngày càng thông thoáng cùng với triển vọng gia nhập WTO của
Việt Nam vào cuối năm 2006.
Một chuyển biến đáng kể trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ sau khi
BTA đi vào hiệu lực là sản lượng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng lên
rõ rệt. Nếu như ở thời kỳ đầu sau khi bình thường hóa, Việt Nam là nước
nhập siêu từ Hoa Kỳ thì đến thời điểm này tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam đã tăng lên đáng kể và trở thành một nước xuất siêu vào thị trường
Hoa Kỳ. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên không
ngừng, từ 1 tỷ đôla năm 2001 đã tăng lên hơn 6,5 tỷ đô la năm 2005. Cơ cấu
xuất khẩu của Việt Nam cũng có những thay đổi. Năm 2001, hàng xuất khẩu
của Việt Nam chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực là dệt may, giày dép,
thủy hải sản, một số loại nông sản thì đến năm 2005, cơ cấu xuất khẩu của
Việt Nam đa dạng hơn với những mặt hàng mới như đồ gỗ, đồ nhựa, các mặt
hàng đồ chơi và một số loại máy xử lý dữ liệu tự động... Các loại sản phẩm
dệt may, giày dép, đồ gỗ cao cấp và thủy hải sản, nông sản có hàm lượng chế
biến cao xuất hiện nhiều hơn trên thị trường Hoa Kỳ. Năm 2005, hàng dệt
may chiếm tỷ trọng 44,7% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ,
giày dép chiếm 11%, thủy hải sản 6%, đồ gỗ 10,7%, các loại nông sản chiếm
6%, dầu khí 4,7%, các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng 13%.
Các nhóm hàng chính 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng giá trị xuất khẩu 1,026 2,392 4,472 5,161 6,522
Hàng dệt và quần áo 2,438 2,755.9 2,917.8 50 935
Giày dép 132 224 325 473.4 716.6
Đồ gỗ 14 82 190 388.6 697.0
Hải sản 477 617 731 565.6 627.2
Dầu khí 157 179 209 249.5 501.6
Nông sản 137 144 197 359.5 399.8
59 211 382 368 662 Các mặt hàng khác
Bảng 2.1: Xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ
(Nguồn: Bộ Thương Mại, trích từ “Việt Nam – Hoa Kỳ, những kỳ vọng mới”, tr. 89)
Dệt may là một mặt hàng mới trong xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường Hoa Kỳ, sau khi BTA có hiệu lực, giá trị xuất khẩu dệt may của Việt
Nam tăng lên đáng kể, từ 50 triệu đô la năm 2001 lên 2,9 tỷ đô la năm 2005,
tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ. Năm
2006, dệt may Việt Nam đứng vị trí thứ 5 trong số những nước xuất khẩu lớn
nhất mặt hàng này vào Hoa Kỳ, chiếm 4% tổng sản lượng nhập khẩu hàng dệt
may của Hoa Kỳ.
Trong khi Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là những mặt
hàng tiêu dùng thì hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, cũng như từ trước đến nay, chủ
yếu là máy móc, thiết bị công nghệ cao, mặc dù giá đắt nhưng không thể mua
được từ nước khác hoặc là những nguyên phụ liệu đầu vào để gia công xuất
khẩu.
Các nhóm hàng chính 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng cộng 394 552 1.291 1.122 1.151
Máy bay & phụ tùng 79 716 376 346 7
Nồi hơi, máy móc, thiết bị cơ khí 122 121 115 107 79
Nhựa và các sản phẩm từ nhựa 27 37 58 84 22
40 47 54 58 35
Điện máy ghi âm, ghi hình, thiết bị phụ trợ
Dụng cụ máy móc quang học 22 41 37 55 19
28 34 67 49 29
Nhiếp ảnh, đo lường, y tế... Bông
Gỗ và các sản phẩm từ gỗ, than củi 19 20 39 43 6
Xe cộ & các phụ tùng phụ trợ 12 25 37 41 7
3 3 24 39 8
Sữa, trứng, mật ong, các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật
Các mặt hàng khác 225 225 291 300
161
Bảng 2.2: Xuất khẩu Hoa Kỳ sang Việt Nam
(Nguồn: Bộ Thương Mại, trích từ “Việt Nam – Hoa Kỳ, những kỳ vọng mới”, tr. 89)
3.3.1.2. Quan hệ đầu tư
Theo số liệu thống kê chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai
đoạn 1998 đến cuối năm 2004, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt
Nam là 730 triệu đô la. Như vậy đầu tư của nền kinh tế số một thế giới này
chỉ xếp thứ 11 trong tổng số 75 nước và lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam
trong giai đoạn này. Cũng theo đánh giá này, đầu tư của Hoa Kỳ chỉ tăng nhẹ
sau khi BTA có hiệu lực vào năm 2001, trong khi thương mại song phương
lại tăng trưởng vượt bậc lên đến hơn 7 tỷ đô la vào năm 2004 và nếu như vậy
thì BTA dường như không có ảnh hưởng đáng kể nào đến đầu tư của Hoa Kỳ
tại Việt Nam.
Tuy nhiên, những con số này đã có sự thay đổi lớn sau một nghiên cứu
từ dự án STAR, một dự án hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực thi các cam kết
trong Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và hỗ trợ Việt Nam gia
nhập WTO. Đây là dự án lớn đầu tiên do cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(USAID) tài trợ ở Việt Nam sau chiến tranh. Theo nghiên cứu này, tổng số
vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ, kể cả qua nước thứ ba là 2,6 tỷ đô la, tăng
khoảng 3,5 lần so với các tính toán thông thường. Đầu tư trực tiếp của Hoa
Kỳ đã tăng mạnh từ khi BTA có hiệu lực, với mức tăng trung bình 27% năm
trong giai đoạn 2002 – 2004 so với khoảng 3% năm từ 1996 – 2001. Chỉ riêng
năm 2004, với số vốn thực hiện 531 triệu đô la, Hoa Kỳ trở thành nhà đầu tư
nước ngoài lớn nhất Việt Nam, vượt qua cả Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
và Đài Loan là những nền kinh tế luôn đứng đầu danh sách các nhà đầu tư tại
Việt Nam. Như vậy, BTA đã có tác dụng tích cực đối với đầu tư của Hoa Kỳ
vào Việt Nam, như nhận xét của Steve Parker, Giám đốc dự án STAR: “rõ
ràng là đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã chịu ảnh hưởng đáng kể
của Hiệp định Thương Mại” [32, tr. 117]. Cũng theo Parker thì “Việc thực
hiện các cam kết của BTA và việc Việt Nam gia nhập WTO chắc chắn tạo sự
tin tưởng cho các nhà đầu tư Mỹ. Thực tế cho thấy trong hai năm 2003 –
2004, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã có phản ứng rất tốt đối với Việt Nam. Xu
hướng này sẽ tiếp diễn trong thời gian tới” [10].
Vì sao có sự khác biệt trong đánh giá đầu tư của Hoa Kỳ như vậy?
Nghiên cứu của STAR phát hiện ra rằng các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào Việt
Nam chủ yếu qua các công ty con của họ ở các nước thứ ba, nhiều nhất là ở
châu Á như America Home, Coca Cola, Proter & Gamble, Caltex và America
Standards từ Singapore; Baker & McKenzie và ExxonMobil từ Hồng Kông;
Conoco từ Anh; Pepsi, British America Tobaco, KPMG và Cisco từ Hà
Lan… Một lượng đầu tư lớn vào dầu mỏ và khí đốt của các công ty Hoa Kỳ
có đăng ký từ đảo Marius. Điều này có nghĩa là, BTA không chỉ áp dụng với
đầu tư từ Hoa Kỳ mà còn cả đầu tư của các công ty con của Hoa Kỳ ở nước
thứ ba. Luật thuế của Hoa Kỳ cũng khuyến khích các công ty này đầu tư từ
công ty con của họ ở nước ngoài. Ngoài ra, việc quản lý khoản đầu tư ở Việt
Nam thông qua một nước trong khu vực sẽ mang lại lợi ích về mặt quản lý,
điều hành ở khu vực.
Một hình thức đầu tư mới của Hoa Kỳ ở Việt Nam trong giai đoạn này
là bên cạnh việc đổ vốn thành lập doanh nghiệp mới, các công ty Hoa Kỳ sẽ
mua lại một phần các công ty đang hoạt động tại Việt Nam (kể cả các công ty
có vốn đầu tư nước ngoài) và tham gia quản lý các công ty này. Ví dụ Quỹ
TPG và Quỹ đầu tư Intel đã mua 10% cổ phần của tập đoàn viễn thông FPT
trị giá 36,5 triệu đô la. Một số công ty Hoa Kỳ khác đang tìm kiếm khả năng
mua cổ phần chiến lược ở Việt Nam. Bằng cách mua cổ phần chiến lược của
các công ty đang hoạt động ở Việt Nam, các công ty Hoa Kỳ có thể cùng một
lúc thực hiện được nhiều mục tiêu như: thâm nhập nhanh vào thị trường,
khống chế đối thủ cạnh tranh, tận dụng được mạng lưới phân phối, khách
hàng và đội ngũ lao động sẵn có…
Sở dĩ có hình thức đầu tư mới trên là vì theo cam kết tiếp cận thị trường
Hoa Kỳ trong việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ mở thị trường chứng khoán
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó, các công ty tài chính Hoa Kỳ sẽ được
tham gia liên doanh với tỷ lệ sở hữu 49%. Sau 5 năm, các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ được phép thành lập công ty chứng khoản 100% vốn nước ngoài và
được mở chi nhánh tại Việt Nam cho các hoạt động chứng khoán như quản lý
tài sản, tư vấn… Việc đa dạng các hình thức đầu tư như trên sẽ tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều lựa chọn và mạnh dạn hơn khi đầu tư
vào thị trường Việt Nam.
3.3.1.3. Tranh chấp trong quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Với việc BTA có hiệu lực, thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã có
những cải thiện đáng kể so với thời kỳ trước, tuy nhiên trong quan hệ thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ vẫn tồn tại nhiều vấn đề thậm chí là những tranh
chấp thương mại. Đây là điều không thể tránh khỏi trong thương mại quốc tế
đặc biệt là đối với một thị trường đầy tính cạnh tranh và khắt khe như Hoa
Kỳ.
Điển hình của tranh chấp thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ là “cuộc
chiến” cá tra, cá basa (catfish war) năm 2001. Ở Việt Nam, nhất là đồng bằng
sông Mê Công có điều kiện thuận lợi để nuôi các loại cá thuộc họ cá da trơn
(cá tra, basa) mà ở Hoa Kỳ được gọi chung bằng tiếng Anh là “catfish”. Việt
Nam đã xuất khẩu mặt hàng này sang Hoa Kỳ nhưng đến một thời gian những
người nuôi cá catfish của Hoa Kỳ đã thông qua Hiệp hội của họ (Catfish
Institube) và Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) cho rằng họ bị ngư dân Việt
Nam cạnh tranh không lành mạnh, như dùng tên sản phẩm cá không đúng,
bán phá giá... để ngư dân Hoa Kỳ lâm vào cảnh khó khăn và họ đưa đơn kiện
Việt Nam. Ngày 23 tháng 7 năm 2001, Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
(USITC) đồng ý rằng sản phẩm cá tra, basa nhập khẩu từ Việt Nam đã gây
thiệt hại đối với nền công nghiệp catfish Hoa Kỳ. Ủy ban này đã công nhận
việc Bộ Thương Mại Hoa Kỳ cáo buộc Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa
là đúng. Với quyết định này, Bộ Thương mại Hoa Kỳ áp dụng thuế chống bán
phá giá lên sản phẩm cá tra, basa Việt Nam, với mức rất cao, từ 36,84 đến
63,88%. Hơn nữa, chính phủ Hoa Kỳ còn thông báo rằng sẽ cấm nhập khẩu
mặt hàng cá basa từ Việt Nam nếu chính phủ Việt Nam không có biện pháp
hữu hiệu để giải quyết vấn đề này.
Chúng ta đều biết đây chỉ là cách để giới ngư dân Hoa Kỳ kêu gọi
chính phủ không nhập khẩu catfish từ Việt Nam, dù so với tổng giá trị và
trọng lượng mặt hàng này của Hoa Kỳ lớn hơn rất nhiều so với giá trị và trọng
lượng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ (hàng năm Việt Nam bán được
trên 21 triệu đô la so với 385 triệu đô la của Hoa Kỳ, chiếm 5,4% trọng lượng
cá tiêu thụ của nước này, khoảng 295 – 297 triệu pound). Qua sự kiện trên, có
thể thấy rằng việc nhập khẩu hàng hóa vào Hoa Kỳ không dễ dàng chút nào,
nhất là khi những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể đụng chạm đến
quyền lợi của các doanh nghiệp Hoa Kỳ vì thị trường Hoa Kỳ được bảo hộ rất
cao, chính phủ Hoa Kỳ không sử dụng thuế quan nhưng lại sử dụng hạn
ngạch và các biện pháp chống phá giá, các thủ tục luật lệ phức tạp để bảo vệ
quyền lợi của các doanh nghiệp và các tổ chức thương mại trong nước.
Sau vụ kiện catfish, cuối năm 2003 đầu năm 2004, Việt Nam lại đứng
trước một vụ khởi kiện chống phá giá tôm do Liên minh tôm miền Nam Hoa
Kỳ (Southern Shrimp Alliance – SSA) khởi xướng. Sự kiện này một lần nữa
cho thấy trong thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đặc biệt là quan
hệ xuất nhập khẩu còn rất nhiều mâu thuẫn và thị trường Hoa Kỳ là một thị
trường đầy rủi ro và thử thách.
3.3.1.4. Những khó khăn trong quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp trong khi
cạnh tranh xuất khẩu vào Hoa Kỳ hết sức gay gắt và quyết liệt. Hoa Kỳ là thị
trường lớn, do vậy, cả thế giới hướng vào thị trường này. Việt Nam mới chỉ
thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ kể từ năm 2002 sau khi BTA có hiệu
lực, trong khi đó các đối thủ cạnh tranh của ta đã có hệ thống bạn hàng nhập
khẩu và phân phối tại thị trường này từ rất lâu.
Việt Nam chưa phải là thành viên WTO, một số mặt hàng của Việt
Nam phải chịu mức thuế cao hơn so với hàng cùng loại nhập từ những nước
được hưởng ưu đãi thương mại của Hoa Kỳ và môi trường đầu tư tại Việt
Nam chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa Kỳ là những lý do các doanh
nghiệp Hoa Kỳ chưa quan tâm đầu tư sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu trở
lại Hoa Kỳ.
Hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ rất phức tạp và chồng chéo.
Hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau, cả
luật liên bang lẫn luật bang. Trong khi đó, sự hiểu biết của các doanh nghiệp
Việt Nam về pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến thương mại nói chung và nhập
khẩu vào Hoa Kỳ nói riêng còn rất hạn hẹp.
Quan hệ chính trị giữa hai nước, tuy đang được cải thiện, song vẫn còn
nhiều vấn đề nhạy cảm. Nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ chưa thực sự quan tâm
phát triển quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Do còn có sự chống
đối quan hệ với Việt Nam của một bộ phận người Việt tại Hoa Kỳ, nên nhiều
Việt kiều ở Hoa Kỳ muốn phát triển quan hệ buôn bán và đầu tư với Việt
Nam còn e ngại và chưa mạnh dạn làm ăn với trong nước.
Các biện pháp chống khủng bố được ban hành sau sự kiện ngày 11
tháng 9 đã tạo thêm những rào cản mới đối với xuất khẩu vào Hoa Kỳ nói
chung, trong đó có hàng xuất khẩu từ Việt Nam. Sáng kiến về an ninh
containơ (Container Security Initiatives) quy định đăng ký cơ sở sản xuất, chế
biến và kho chứa thực phẩm… làm phát sinh thêm chi phí xuất khẩu vào nước
này.
Cho đến thời điểm trước năm 2006, Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ coi là
nước có nền kinh tế phi thị trường, vì vậy Việt Nam phải chịu nhiều bất lợi
trong quan hệ thương mại và vụ tranh chấp thương mại tại thị trường này.
Hơn nữa, Việt Nam chưa phải là thành viên WTO cho nên các tranh chấp
thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đều phải giải quyết trên cơ sở song
phương và các vụ kiện bán phá giá hàng Việt Nam tại Hoa Kỳ đều giải quyết
theo luật Hoa Kỳ, trong đó Việt Nam thường bị ép vào thế bất lợi.
3.3.2. Quan hệ chính trị
3.3.2.1. Những tiến triển trong quan hệ chính trị giữa hai nước
Tiếp nối những thành tựu tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước được tạo
dựng trong thời kỳ Tổng thống Bill Clinton nắm chính quyền Hoa Kỳ. Quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời kỳ này đã “vượt qua quá khứ” để “nhìn về
tương lai”; Vượt qua những trở ngại do lịch sử để lại, xây dựng quan hệ mới
trên nhiều lĩnh vực, vì lợi ích hai dân tộc vì hòa bình, ổn định và phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Sự kiện nổi bật trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn mới
này là việc Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Hiệp định Thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 9 năm 2001 (Hiệp định này được ký kết từ tháng 7
năm 2000). Sau đó đến ngày 8 tháng 10 năm 2001, Thượng viện đã phê chuẩn
Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ với tỷ lệ đa số phiếu
ủng hộ. Ngày 10 tháng 12 năm 2001, BTA bắt đầu có hiệu lực sau khi Bộ
trưởng thương mại Việt Nam Vũ Khoan và Đại diện thương mại Hoa Kỳ
Zoelick trao đổi thư phê chuẩn tại Blair House. Đây được xem như một bước
tiến đáng kể trong việc tăng cường quan hệ hai nước, đồng thời làm tăng sức
mạnh và sự ổn định trong khu vực quan trọng là Đông Nam Á, tạo cơ hội cho
các doanh nghiệp Hoa Kỳ đẩy mạnh thâm nhập vào các thị trường lớn như
Việt Nam.
Việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Hiệp định Thương mại song phương
Việt Nam – Hoa Kỳ đã mở đường cho Tổng thống Bush dành cho Việt Nam
Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường hay nói đúng hơn là Quan hệ bình
thường có điều kiện (Conditional NTR). Sở dĩ “có điều kiện” bởi vì thương
mại Việt Nam vẫn là đối tượng xem xét hàng năm của Quốc hội Hoa Kỳ theo
Đạo luật bổ sung Jackson – Vanik 1974. Từ năm 1998, chính phủ Hoa Kỳ đã
miễn áp dụng Đạo luật Jackson – Vanik cho Việt Nam, sau đó mỗi năm Quốc
hội Hoa Kỳ đều phê chuẩn cho Tổng thống gia hạn đạo luật này. Trong hai
năm 2003 và 2004, vấn đề này không được đưa ra tranh luận tại Quốc hội.
Tuy vậy, ngày 1 tháng 6 năm 2004, Tổng thống Bush đã quyết định tiếp tục
gia hạn miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson – Vanik đối với Việt Nam,
đồng thời cho phép Cơ quan Đầu tư Hải Ngoại (OPIC) và Ngân hàng xuất
nhập khẩu Hoa Kỳ hỗ trợ cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ xuất khẩu và hoạt
động tại Việt Nam.
Trong hoạt động ngoại giao cấp cao, hai nước tiếp tục trao đổi các đoàn
ngoại giao với nhau. Nổi bật nhất là sự kiện diễn ra từ ngày 19 đến 25 tháng 6
năm 2005, Thủ tướng Phan Văn Khải đã có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ.
Giống như chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton năm 2000,
đây là một hoạt động ngoại giao có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quan hệ
giữa hai nước như lời của Thủ tướng: “Đây là chuyến thăm Hoa Kỳ đầu tiên
của người đứng đầu Chính phủ Việt Nam, đúng vào dịp hai nước đang kỷ
niệm 10 năm bình thường hóa quan hệ, đánh dấu một mốc quan trọng trong
quan hệ hai nước. Qua chuyến thăm và kết quả của cuộc hội đàm giữa Thủ
tướng Việt Nam và Tổng thống Hoa Kỳ, hợp tác đang rạng lên, đó là tương
lai của mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cùng có lợi”
[22].
Trong lĩnh vực quân sự, hai bên đã trao đổi Tùy viên quân sự; tiến hành
trao đổi các đoàn, kể cả các đoàn cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng
nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Dưới thời Tổng thống Bill Clinton Bộ
trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ William Cohen đã thăm Việt Nam vào tháng 3
năm 2000. Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà đã thăm Hoa Kỳ
tháng 11 năm 2003. Đây là lần đầu tiên sau 28 năm kết thúc chiến tranh, quan
chức quốc phòng cấp cao nhất Việt Nam có chuyến thăm này. Mục tiêu của
chuyến đi này là tăng cường sự hiểu biết giữa quân đội hai nước; kêu gọi sự
hỗ trợ của Hoa Kỳ trong việc rà phá bom mìn, nghiên cứu hậu quả của chất
độc màu da cam đồng thời chuyến đi cũng sẽ khai thông, tạo cơ sở cho các
đoàn đại biểu quân sự, tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau. Đến tháng
6 năm 2006, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Donald Rumsfeld thăm Việt
Nam. Từ năm 2003, hàng năm tàu hải quân Mỹ thăm hữu nghị cảng Việt Nam
trong khuôn khổ hợp tác song phương. Tháng 12 năm 2006, Tổng thống
George Bush ra quyết định dỡ bỏ cấm vận bán một số mặt hàng quân dụng
phi sát thương cho Việt Nam. Hai nước còn hợp tác với nhau trong việc
chống buôn bán và vận chuyển ma túy, chia sẻ thông tin chống khủng bố.
Điều này cho thấy quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã bước vào giai đoạn phát
triển toàn diện, làm cơ sở cho hai nước xây dựng quan hệ lâu dài
3.3.2.2. Những bất đồng trong quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đến giai đoạn này vẫn chứa đựng hai yếu
tố hợp tác và đấu tranh. Do vậy, bên cạnh những mối quan hệ chính trị tốt
đẹp, thuận lợi vẫn tồn tại những mâu thuẫn. Một trong những vấn đề từng gây
tranh cãi trong quan hệ hai nước mà đến giai đoạn này lại được chính quyền
Hoa Kỳ nêu ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn đó là vấn đề nhân
quyền ở Việt Nam.
Ngày 6 tháng 9 năm 2001, cùng với việc thông qua Hiệp định Thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hạ viện Hoa Kỳ đồng thời đã thông qua với tỷ lệ
410/1 “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” (HR 2368). Đạo luật này do một số
nghị sĩ Hoa Kỳ như Chris Smith (bang New Jersey), Tom Davis (bang
Virginia)… soạn thảo, với mục đích được nêu rõ là để thúc đẩy tự do và dân
chủ ở Việt Nam. Theo đó, đạo luật này gắn việc viện trợ phi nhân đạo cho
Việt Nam với tình hình nhân quyền tại đây. Để đạt được điều đó, các nhà lập
pháp Hoa Kỳ đưa ra 6 đề xuất cơ bản: Thứ nhất, thành lập Ủy ban Hành động
của Quốc hội Hoa Kỳ, chuyên theo dõi tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt
Nam để hướng dẫn các chính sách của Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế; Thứ
hai, chỉ viện trợ phi nhân đạo cho Việt Nam khi nào Tổng thống Hoa Kỳ xác
nhận rằng Việt Nam có tiến bộ trong vấn đề nhân quyền, chẳng hạn đã trả tự
do cho mọi phần tử chính trị và tôn giáo bất đồng chính kiến; Thứ ba, tiếp xúc
và tài trợ cho các tổ chức hoạt động nhằm phát triển tự do và dân chủ ở Việt
Nam; Thứ tư, tái xét và giải quyết những trường hợp di dân tị nạn hội đủ điều
kiện đi Mỹ nhưng bị từ chối; Thứ năm, làm mọi cách để đưa sóng phát thanh
của Đài Châu Á Tự do vào Việt Nam và cuối cùng là chính phủ Hoa Kỳ đảm
bảo các chương trình trao đổi văn hóa giữa hai nước diễn ra vô tư nhằm phục
vụ lợi ích chung.
Ngay sau khi Hạ viện Hoa Kỳ thông qua Hiệp định Thương mại và Đạo
luật nhân quyền, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao bà Phan Thanh Thúy đã
tuyên bố phản đối Đạo luật Nhân quyền: “Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ là kết quả cố gắng của cả Việt Nam và Hoa Kỳ, được ký kết trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi. Hạ viện Hoa Kỳ phê chuẩn
hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ như một bước cần thiết, tiến tới việc
đưa hiệp định vào cuộc sống… Mặt khác, Đạo luật Nhân quyền ở Việt Nam
đã xuyên tạc trắng trợn tình hình thực tế ở Việt Nam, can thiệp thô bạo vào
công việc nội bộ của Việt Nam, đi ngược lại Hiến chương Liên Hiệp Quốc và
các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế, tạo ra một tiền lệ nguy hiểm
trong quan hệ quốc tế, là không thể chấp nhận được…” [49]. Cùng ngày 7
tháng 9, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam cũng ra tuyên bố: “Quốc hội
Việt Nam ghi nhận việc Hạ viện Hoa Kỳ phê chuẩn hiệp định thương mại
song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, coi đó là một bước tiến mới, tiến tới
việc phê chuẩn hiệp định này, đem lại lợi ích cho cả hai nước.
Đồng thời, Quốc hội Việt Nam rất bất bình trước việc Hạ viện Hoa Kỳ
đã thông qua cái gọi là Đạo luật Nhân quyền Việt Nam. Nội dung đạo luật là
sự can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam, vi phạm thô bạo
các chuẩn mực sơ đẳng của luật pháp quốc tế, kể cả Hiến chương LHQ, tạo
ra một tiền lệ nguy hiểm trong quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Quan
hệ giữa Hoa Kỳ với Việt Nam chỉ có thể phát triển lành mạnh trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi.
Vì lẽ đó, Quốc hội Việt Nam cực lực lên án và kiên quyết bác bỏ Đạo
luật Nhân quyền Việt Nam và kêu gọi dư luận rộng rãi Hoa Kỳ ngăn chặn
việc thông qua đạo luật sai trái này” [49].
Các tổ chức quần chúng ở Trung ương và địa phương đã lên tiếng phản
đối “Đạo luật Nhân quyền”. Chủ tịch Quốc hội đã gửi thư cho Thủ lĩnh phe đa
số (Dân chủ) và thủ lĩnh phe thiểu số (Cộng hòa) trong Thượng viện Hoa Kỳ
nhằm tác động, đồng thời Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Việt Nam cũng gửi
thư cho Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ yêu cầu hủy bỏ đạo luật. Phía
Việt Nam còn gửi thư cho các nghị sĩ có quan hệ với Việt Nam nhằm vận
động hủy bỏ Đạo luật Nhân quyền, đồng thời yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ tác
động không thông qua Đạo luật đó.
Tuy nhiên, những yêu cầu của Việt Nam vẫn chưa được chính phủ Hoa
Kỳ đáp ứng. Mâu thuẫn giữa hai nước về vấn đề nhân quyền ngày càng căng
thẳng. Việt Nam và Hoa Kỳ đã không tổ chức những cuộc thảo luận thường
niên về vấn đề nhân quyền trong hai năm 2003 và 2004, nhưng vấn đề này
vẫn tồn tại. Trong bài phát biểu chính thức đầu tiên của mình vào năm 2005,
Đại sứ Hoa Kỳ Michael Marine cho rằng phải có “những tiến bộ rõ ràng
trong lĩnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo… nếu quan hệ giữa hai nước
chúng ta tiếp tục nở hoa” [67, tr.12].
Bên cạnh vấn đề nhân quyền, trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cũng
xuất hiện một vấn đề gây tranh cãi khác, đó là tự do tôn giáo. Từ lâu chính
phủ Hoa Kỳ đã quan tâm đến vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam vì cho rằng nó
gắn liền với vấn đề nhân quyền. Theo bản báo cáo về tình hình tự do tôn giáo
ở Việt Nam của Vụ Nhân quyền, Dân chủ và Lao động năm 2002 [64] thì
những tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã vấp phải sự ngăn cấm quyết liệt của
chính phủ trong hoạt động của mình. Bản báo cáo đã viện ra một số trường
hợp về Đạo Tin lành của người Hmông, Hòa Hảo, Phật giáo… để kêu gọi
chính phủ Hoa Kỳ để tâm hơn đến vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Dựa trên đề nghị của một số Hạ Nghị sĩ Hoa Kỳ, ngày 19 tháng 11 năm
2003, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Nghị quyết H. Res 427 về tự do tôn giáo
ở Việt Nam. Trong nghị quyết này, Hạ viện Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam chưa
thực hiện tốt quyền tự do tôn giáo, nhất là đối với Phật giáo và “khuyến cáo”
chính phủ Việt Nam xem xét vấn đề này, đồng thời phía Hoa Kỳ cũng yêu cầu
Đại sứ quán của mình tại Việt Nam quan tâm hơn đến tình hình tôn giáo ở
đây.
Phản ứng lại quyết định này, ngày 20 tháng 11, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Việt Nam, Lê Dũng đã lên tiếng bác bỏ nghị quyết H. Res 427 về
tự do tôn giáo ở Việt Nam "Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ nghị quyết này. Đây
là một nghị quyết sai trái, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, không phù hợp với mối quan hệ đang tiến triển
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ" [55].
Ngày 22 tháng 11, thay mặt Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng
Thích Trí Tịnh, Chủ tịch Hội đồng Trị sự của Giáo hội, đã gửi thư tới Chủ
tịch Hạ viện Quốc hội Hoa Kỳ, phản đối Nghị quyết H. Res 427 mà Hạ viện
Hoa Kỳ đã thông qua ngày 19 tháng 11, vì đã xúc phạm nghiêm trọng Giáo
hội Phật giáo Việt Nam “đã xúc phạm nghiêm trọng đến tổ chức Giáo hội
Phật giáo Việt Nam là một tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho giới Tăng
ni, Phật tử Việt Nam trong mối quan hệ đối nội và đối ngoại, cũng như danh
dự, nhân phẩm và quyền lợi chính đáng của Tăng ni, Phật tử Việt Nam. Đó là
lý do chúng tôi lên tiếng bảo vệ quyền lợi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”
[23]. Hòa thượng Thích Trí Tịnh cho rằng những thông tin mà Hạ viện Hoa
Kỳ nêu ra về tình hình Phật giáo ở Việt Nam chỉ là những phản ánh một chiều
từ “một vài người không hài lòng về mặt tổ chức và hoạt động của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam… nhằm vào mục đích cá nhân, lồng ghép yếu tố chính trị
và kết quả việc làm của những vị ấy đã gây phương hại đến khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tôn giáo, vi phạm pháp luật chung của Nhà nước, việc làm đó
đã hoàn toàn đi ngược lại tư tưởng giáo lý Đức Phật và pháp luật của Nhà
nước” [23].
3.3.3. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong tiến trình gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam
3.3.3.1. Khái quát về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Ngày 1 tháng 1 năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới đi vào hoạt
động, đánh dấu một bước phát triển mới của thương mại quốc tế nói chung và
luật thương mại quốc tế nói riêng. Đây là tổ chức lớn nhất về thương mại
quốc tế với 117 thành viên sáng lập, trong đó có ba phần tư là các nước đang
phát triển (1/5 là các nước kém phát triển). Đến thời điểm năm 2000, con số
thành viên của WTO đã lên đến 135 và có tới 34 nước đã nộp đơn xin gia
nhập tổ chức này và đang ở trong giai đoạn thương lượng gia nhập trong đó
có Việt Nam.
WTO (World Trade Organization) là tổ chức quốc tế kế thừa và phát
triển Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (The General Agreement on
Tariffs and Trade – GATT) năm 1947. Tuy nhiên, WTO không phải là sự mở
rộng đơn giản của GATT. Ngoài việc thiết lập nên một thiết chế thương mại
đa phương mang tính tổ chức chặt chẽ, WTO còn đưa ra các nghĩa vụ mang
tính nguyên tắc để chính phủ các nước thiết lập khuôn khổ chính sách, pháp
luật trong nước phù hợp với sự phát triển của nền thương mại thế giới. Với
bốn nguyên tắc cơ bản là Tối huệ quốc không điều kiện, nghĩa vụ đối xử quốc
gia, cam kết cắt giảm thuế và xóa bỏ các hạn chế về hạn ngạch, WTO đã tạo
điều kiện cho các nước đang phát triển và kém phát triển có điều kiện cạnh
tranh công bằng và hưởng những ưu đãi nhất định trong thương mại quốc tế.
3.3.3.2. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong tiến trình gia nhập WTO
của Việt Nam
Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ tháng
1 năm 1995, ngay khi WTO mới được thành lập nhưng vào thời điểm đó Việt
Nam chưa có đủ tiềm lực về kinh tế cũng như ngoại giao để đáp ứng những
điều kiện đặt ra của WTO. Để được chính thức công nhận là thành viên WTO,
Việt Nam đã phải thực hiện nhiều thủ tục cần thiết, tiến hành nhiều phiên đàm
phán song phương, đa phương. Theo kế hoạch, Việt Nam phấn đấu gia nhập
WTO vào cuối năm 2005, nhưng kế hoạch này không thực hiện được vì đến
thời điểm đó Việt Nam chưa hoàn thành đàm phán song phương với một số
đối tác như Australia, Mexico, Honduras... và đặc biệt là Hoa Kỳ.
Đầu năm 2002, Việt Nam đã gửi Bản chào ban đầu về thuế quan và
Bản chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. Bắt đầu từ tháng 4 năm 2002, Việt
Nam đã tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên của Ban
Công tác. Đến cuối năm 2004, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với các đối tác
Cuba, Chile, Brasil, EU và Singapore. Đến tháng 3 năm 2006, Việt Nam kết
thúc đàm phán thêm 20 đối tác nữa là: Colombia, Uruguay, Paraguay, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, El Salvador,
Thụy Sỹ, Bungary, Đài Loan, Iceland, Mexico, Honduras, Dominica,
Australia, NaUy, New Zealand. Chỉ còn Hoa Kỳ là chưa kết thúc đàm phán
với Việt Nam.
Trong tiến trình Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới,
Hoa Kỳ luôn nói sẽ ủng hộ Việt Nam. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ
tướng Phan Văn Khải vào tháng 6 năm 2005, Tổng thống Bush tái khẳng định
điều này. Tuy nhiên, dư luận trong và ngoài nước đều cho rằng đàm phán
song phương với Hoa Kỳ là hết sức khó khăn.
Đến giữa năm 2006 Việt Nam đã trải qua 11 phiên đàm phán song
phương với Hoa Kỳ. Trong đó, Hoa Kỳ rất quan tâm đến những vấn đề tồn tại
ở một nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam, ví dụ như Quyền thương
mại. Phía Hoa Kỳ rất quan tâm đến vấn đề này, đặc biệt là những điều liên
quan đến doanh nghiệp nhà nước. Đây là điều khó khăn với Việt Nam vì quá
trình cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước tiến triển rất chậm chạp và
phát sinh nhiều vấn đề khó giải quyết. Trong khi đó Hoa Kỳ yêu cầu quá cao
về vấn đề này vì vậy mà Việt Nam khó có thể đáp ứng ngay được mà cần phải
có thời gian nhất định để chỉnh đổi.
Một vấn đề khác mà chính phủ Hoa Kỳ cũng lưu tâm trước khi kết thúc
đàm phán song phương với Việt Nam là chính sách bảo hộ kinh tế của chính
phủ Việt Nam. Trước khi bước vào vòng đàm phán 12, vòng đàm phán song
phương cuối cùng với Việt Nam, phía Hoa Kỳ đã phản đối Quyết định số
55/2001/QĐTTG về “Chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ
trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”
[6] của Việt Nam. Hoa Kỳ cho rằng đây là bằng chứng pháp lý khẳng định
chính phủ Việt Nam “bao cấp” cho các doanh nghiệp dệt may và yêu cầu Việt
Nam phải nhanh chóng hủy quyết định này, nếu không Hoa Kỳ có thể hủy
vòng đàm phán cuối cùng này. Yêu cầu này đã được Việt Nam chấp thuận
bằng quyết định 126/2006/QĐ–TTG về việc chấm dứt hiệu lực Quyết định
nêu trên.
Đến vòng đàm phán thứ 12, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn tồn tại
một số vấn đề chưa thống nhất về việc mở cửa các dịch vụ phân phối, sở hữu
trí tuệ, xuất nhập khẩu nhưng với những nỗ lực dựa trên tinh thần hợp tác, hai
bên đã được sự nhất trí trên nguyên tắc về một thỏa thuận song phương về
việc Việt Nam gia nhập WTO. Ngày 14 tháng 5 năm 2006, Việt Nam và Hoa
Kỳ đã kết thúc về cơ bản tiến trình đàm phán song phương giữa hai nước.
Đến ngày 31 tháng 5 năm 2006, đàm phán song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
về việc Việt Nam gia nhập WTO đã kết thúc sau khi Thứ trưởng Thương mại
Lương Văn Tự và Phó Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Karan Bhatia thay mặt
Chính phủ hai nước ký thỏa thuận chính thức.
3.3.3.3. Ý nghĩa của việc ký thỏa thuận gia nhập WTO giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ đối với mối quan hệ giữa hai nước
Với việc hoàn thành thỏa thuận song phương với Hoa Kỳ, con đường
vào WTO của Việt Nam đã rộng mở. Hoa Kỳ cũng là đối tác cuối cùng kết
thúc đàm phán trong số 28 thành viên WTO có yêu cầu đàm phán song
phương với Việt Nam. Việc kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ có ý
nghĩa quan trọng, đánh dấu việc Việt Nam hoàn tất quá trình đàm phán song
phương và góp phần hiện thực hóa mục tiêu gia nhập WTO của Việt Nam
trong năm 2006. Việc đạt đến thỏa thuận này là sự kiện lịch sử đánh dấu bước
phát triển mới trong quan hệ hai nước, phù hợp với lợi ích của cả hai bên, tạo
tiền đề quan trọng cho sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi về nhiều mặt giữa hai
nước, cho thành công của Hội nghị Thượng đỉnh APEC 2006 tại Hà Nội cũng
như chuyến thăm của Tổng thống George Bush tới Việt Nam vào tháng 11
năm 2006.
Việc ký thỏa thuận trên cũng tạo điều kiện cho Quốc hội Hoa Kỳ thông
qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam. Nếu việc này
thành công thì rào cản cuối cùng trong quan hệ hai nước sẽ được gỡ bỏ. Phiên
điều trần đầu tiên về việc thông qua PNTR cho Việt Nam diễn ra vào ngày 12
tháng 7 năm 2006 tại Ủy ban Tài chính của Thượng viện Hoa Kỳ với hai dự
luật S.3495 và H.R.5602. Đa số ý kiến đều ủng hộ và đề nghị Thượng viện
Hoa Kỳ sớm thông qua PNTR cho Việt Nam và đến ngày 1 tháng 8 năm
2006, Ủy ban tài chính Thượng viện đã thông qua dự luật S.3945 trao Quy
chế Thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam. Ngày 9 tháng 12 năm
2006, Hạ viện Hoa Kỳ cũng đã thông qua PNTR cho Việt Nam. Trước sự
kiện này, người phát ngôn ngoại giao của Việt Nam Lê Dũng đã tuyên bố:
“Việt Nam hoan nghênh việc Quốc hội Hoa Kỳ vừa thông qua dự luật về Quy
chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) đối với Việt Nam. Đây là một
bước đi quan trọng góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ,
đáp ứng sự mong đợi của nhân dân hai nước. Sự kiện này có ý nghĩa quan
trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đánh dấu việc bình thường
hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước, đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế – thương mại” [21]. Việc chính phủ Hoa Kỳ dành PNTR cho Việt
Nam là một cột mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, điều này
cũng chứng tỏ những nỗ lực cải thiện mối quan hệ hai nước suốt hơn 15 năm
đã được chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận.
3.3.4. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong các lĩnh vực khác:
Tiếp nối những mối quan hệ tốt đẹp giữa chính phủ và nhân dân hai
nước trong thời kỳ trước, đến đầu thế kỷ XXI Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng
đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động ngoại giao trên các lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, khoa học – kỹ thuật và các lĩnh vực hợp tác nhân dân khác.
3.3.4.1. Hợp tác về khoa học và công nghệ
Sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Thương mại song
phương, hợp tác khoa học công nghệ giữa hai nước đã có bước phát triển mới
với những kết quả rất đáng khích lệ. Hai bên đã xác định bảy lĩnh vực hợp tác
ưu tiên bao gồm: công nghệ thông tin; tiêu chuẩn hóa và đo lường; khoa học
về biển; khí tượng thủy văn và môi trường; y tế cộng đồng; công nghệ sinh
học nông nghiệp; giáo dục và trao đổi nghiên cứu khoa học.
Nội dung hợp tác giữa cộng đồng khoa học và giáo dục giữa hai nước
đã gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Các dự án hợp tác không chỉ dừng
lại ở trao đổi thông tin, tham khảo quan sát mà đã được tăng cường với các
hoạt động nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ, trình diễn công nghệ
và hỗ trợ trang thiết bị cần thiết. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, đến năm
2006 có 65 dự án đã và đang được triển khai, trong đó có nhiều dự án đạt kết
quả tốt, hiệu quả cao, thu hút nhiều nhà khoa học hai nước tham gia.
Tháng 12 năm 2003, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ký với
Tập đoàn dữ liệu quốc tế của Hoa Kỳ (International Data Group – IDG) bản
ghi nhớ về phát triển vốn đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học công nghệ
thông tin ở Việt Nam. Tháng 3 năm 2004, IDG đã thành lập Quỹ đầu tư mạo
hiểm tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư đến năm 2010 là 100 triệu đô la và
sẽ tiếp tục tăng thêm trong những năm tiếp theo. Quỹ Giáo dục Việt Nam
(VEF) và Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ký thỏa thuận nghiên cứu
xây dựng mô hình Trung tâm Xuất sắc (Center of Exellence) theo Sáng kiến
khoa học Thiên niên kỷ (Millenium Science Initiative – MSI) do Ngân hàng
Thế giới đề xuất.
Nhân kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và 5 năm
ký Hiệp định Hợp tác Khoa học Công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Bộ
Khoa học Công nghệ Việt Nam và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã phối hợp tổ
chức “Những ngày khoa học và công nghệ Việt Nam – Hoa Kỳ” vào trung
tuần tháng 11 năm 2005. Trong thời gian này đã diễn ra nhiều hoạt động khác
nhau như triển lãm các kết quả hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai nước,
tổ chức các hội thảo về thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ, hội
thảo về nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh liên kết giữa nghiên cứu khoa học với
giáo dục đào tạo thông qua Sáng kiến thiên niên kỷ, hội thảo về công nghệ xử
lý ô nhiễm và môi trường, Atlas về thảm họa thiên nhiên khu vực châu Á –
Thái Bình Dương. Nhiều nhà khoa học Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước khác
đã nhiệt tình tham dự và trình bày các báo cáo khoa học cũng như tham gia
thảo luận tại các hội thảo nói trên.
3.3.4.2. Hợp tác giáo dục
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đã diễn ra sôi nổi
ngay từ khi hai nước bình thường quan hệ với nhau. Từ đó đến nay, hai nước
đã không ngừng nỗ lực để thúc đẩy và mở rộng hợp tác giáo dục. Một thành
công lớn trong hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là việc thành lập
Quỹ Giáo dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation – VEF) theo Đạo
luật Quỹ Giáo dục Việt Nam năm 2000 của Quốc hội Hoa Kỳ, một sáng kiến
của các Thượng nghị sĩ John McCain, John Kerry, Bob Kerry, Charles Robb,
Max Cleland và Chuck Hagel, các cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh của
Hoa Kỳ tại Việt Nam. Theo đạo luật này, hàng năm Quốc hội Hoa Kỳ sẽ dành
5 triệu đô la cho các hoạt động của Quỹ cho tới năm 2018.
Với mục đích thúc đẩy quan hệ hữu nghị Việt Nam – Hoa Kỳ thông
qua việc trao đổi giáo dục trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, VEF là cầu nối
quan trọng giữa hai nước. Đây là tổ chức duy nhất được đề cập đến trong bản
Tuyên bố chung giữa Tổng thống Bush và Thủ tướng Phan Văn Khải trong
chuyến thăm chính thức của Thủ tướng đến Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2005.
Hoạt động chủ yếu của VEF là đề xuất các chương trình học bổng và các dự
án nâng cao năng lực khoa học và công nghệ dài và ngắn hạn. Trong ba năm
từ 2003 đến 2006, đã có gần 200 sinh viên Việt Nam sang học tại các trường
đại học hàng đầu Hoa Kỳ bằng học bổng VEF và nhờ kết quả học tập của
mình, các em đã xây dựng và khẳng định được thương hiệu trí tuệ Việt Nam.
VEF cũng đã tài trợ và tổ chức hơn mười hội thảo về khoa học và công nghệ
tại Việt Nam với sự tham gia của các nhà khoa học hàng đầu Hoa Kỳ, đồng
thời hỗ trợ cho hơn 40 nhà khoa học và các chuyên gia Hoa Kỳ đến giảng bài
và thuyết trình tại nhiều trường đại học và viện nghiên cứu tại Việt Nam.
Ngoài ra, VEF còn phối hợp với các cơ quan Việt Nam để triển khai các dự
án nâng cao năng lực về khoa học công nghệ và giáo dục. VEF đã và đang kết
hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam trong rất nhiều dự án
nhằm cải tiến hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam.
Ngoài VEF, còn có nhiều tổ chức khác góp phần vào việc thúc đẩy hợp
tác giáo dục Việt Nam – Hoa Kỳ như Quỹ châu Á (The Asia Foundation –
TAF), một tổ chức Hoa Kỳ hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển giáo dục
và đạo tạo về kinh tế, pháp luật và hành chính, phòng chống buôn bán phụ nữ
và trẻ em, đã phối hợp với Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tiến hành
dự án ba năm (2005 – 2008) về “Phát triển chương trình Hoa Kỳ học”, cùng
với Thư viện Quốc gia và các thư viện địa phương tổ chức nhiều cuộc triển
lãm sách thông qua chương trình “Sách cho châu Á” (Books for Asia); Hội
Việt – Mỹ với các hoạt động thúc đẩy giáo dục, đào tạo ngoại ngữ, tổ chức
các hoạt động sinh hoạt, trao đổi giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ…
Một hoạt động quan trọng trong quan hệ hợp tác giáo dục giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ là trao đổi du học sinh, mà chủ yếu là học sinh, sinh viên
Việt Nam đến du học tại các trường trung học và đại học của Hoa Kỳ. Ở bậc
trung học, phổ biến nhất là các chương trình học bổng Giao lưu văn hóa Hoa
Kỳ dành cho học sinh bậc phổ thông trung học. Các tổ chức giáo dục Hoa Kỳ
thông qua các đại lý tại Việt Nam hàng năm tuyển sinh hàng trăm học sinh đi
du học theo dạng này. Chương trình dành cho các du học sinh bậc phổ thông
trung học một năm lớp 12 tại Hoa Kỳ. Đối tượng tham gia chương trình là các
học sinh học lớp 10, 11 có điểm trung bình các môn văn hóa từ 7,5 điểm trở
lên, trình độ tiếng Anh đạt khá và giỏi. Đối với bậc đại học, có thể tham khảo
các chương trình học bổng cao đẳng cộng đồng dành cho các sinh viên tuổi từ
17 đến 22, có điểm thi TOEFL từ 500 điểm trở lên. Sinh viên học hai năm
tương đương đại học tại Hoa Kỳ, sống trong ký túc xá và trả lệ phí du học
khoảng 9.500 đô la một năm. Các chương trình học đại học 4 năm có số
lượng tuyển sinh ít hơn và yêu cầu cũng khắt khe hơn. Các ứng viên phải có
học lực khá, tiếng Anh giỏi. Chi phí cho học đại học tại Hoa Kỳ rất cao, từ 20
đến 30 ngàn đô la một năm và các em du học phải hoàn toàn tự túc. Tuy vậy,
số lượng học sinh sinh viên Việt Nam mong muốn du học tại Hoa Kỳ ngày
không ngừng tăng cao do môi trường học tập tại Hoa Kỳ rất tốt và cơ hội
thăng tiến sau khi học tập là tương đối cao.
Theo thống kê thì đến năm 2006, Việt Nam có khoảng 4.000 sinh viên
Việt Nam đang theo học tại các trường đại học trên khắp Hoa Kỳ. Trong hai
năm 2005 – 2006, số lượng sinh viên Việt Nam đi du học ở Hoa Kỳ mỗi năm
tăng 15% và Việt Nam xếp thứ 26 trong số các nước có sinh viên du học tại
Hoa Kỳ. Theo Tiến sĩ Mark Ashwill, những nguyên nhân chính cho xu hướng
tích cực này là: thu nhập của người dân Việt Nam ngày càng tăng, cơ hội học
bổng nhiều hơn, việc tiếp cận thông tin du học ngày càng thuận lợi, Đại sứ
quán và Lãnh sự quán Hoa Kỳ cấp nhiều visa hơn cho học sinh và sinh viên
Việt Nam.
Ngoài ra, các tổ chức giáo dục của Việt Nam và Hoa Kỳ còn tổ chức
các chương trình giao lưu, trao đổi ngắn hạn cho học sinh thông qua các kỳ
nghỉ hè, lễ Tết, các dịp kỷ niệm quan hệ giữa hai nước để tìm hiểu truyền
thống văn hóa, trao đổi ngoại ngữ nhằm nâng cao sự hiểu biết và quan hệ hữu
nghị, tình đoàn kết Việt Nam – Hoa Kỳ.
3.3.4.3. Hợp tác về y tế
Từ nhiều năm qua, Hoa Kỳ đã có nhiều dự án chăm lo và phát triển sức
khỏe và y tế cộng đồng ở Việt Nam, đặc biệt là trong công tác phòng chống
đại dịch HIV/AIDS. Từ giữa năm 2004, Việt Nam đã được đưa vào danh sách
các quốc gia được nhận tài trợ đặc biệt từ Kế hoạch Viện trợ khẩn cấp
HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ với tổng số tiền hỗ trợ đến năm 2006 là
76 triệu đô la. Bên cạnh đó, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) là
tổ chức có đóng góp tích cực nhất cho các chương trình phòng chống
HIV/AIDS tại Việt Nam.
Việt Nam và Hoa Kỳ cũng đã hợp tác trong việc phòng chống Dịch
Cúm gia cầm. Tính đến năm 2006, Hoa Kỳ đã trợ giúp hơn 7 triệu đô la cho
chính phủ Việt Nam để tăng cường việc kiểm soát, trợ giúp các phòng xét
nghiệm để xác định và phân tích các loại virus cúm tốt hơn, đồng thời nghiên
cứu, phát triển và thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam một loại vắc xin cúm gia
cầm dùng để tiêm cho người.
Một bước tiến trong hợp tác về y tế giữa hai nước là việc ký hiệp định
về việc tiếp tục hợp tác về các vấn đề y tế, bao gồm các dịch bệnh đang phát
triển, cúm gia cầm và HIV/AIDS giữa Bộ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ Con
người của Hoa Kỳ và Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam vào ngày 20 tháng 7 năm
2006. Hiệp định bao gồm các việc trao đổi các kiến thức chuyên môn và xây
dựng các kế hoạch phản ứng nhanh dành cho Việt Nam. Hiệp định cũng
khuyến khích và tạo điều kiện cho việc xây dựng các mối quan hệ trực tiếp và
sự hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, trường đại học, trung tâm nghiên cứu,
các viện, công ty tư nhân và pháp nhân khác.
3.3.4.4. Hợp tác về văn hóa, thể thao, du lịch
Có thể nói văn hóa là cầu nối quan trọng giúp cho nhân dân hai nước
hiểu nhau hơn, do vậy mà bên cạnh những hợp tác trên các lĩnh vực chính trị
– kinh tế – xã hội. Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ luôn quan tâm đến lĩnh
vực văn hóa trong quan hệ ngoại giao của mình. Việc trao đổi văn hóa đã bắt
đầu từ năm 1995, khi Việt Nam và Hoa Kỳ nối lại quan hệ và ngày càng được
đa dạng hóa nhằm giới thiệu bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc
thông qua đại sứ quán, các tổ chức, cá nhân hoạt động trên lĩnh vực này.
Nhằm giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế, năm 2003 Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam đã lần đầu tiên tổ chức một cuộc triển lãm kéo dài
ba năm mang tên “Cuộc du hành của linh hồn và cơ thể” tại Bảo tàng Lịch sử
Tự nhiên tại thành phố NewYork của Hoa Kỳ, trong đó trưng bày rất nhiều
hiện vật, băng tư liệu, tranh ảnh mang đậm bản sắc của 54 dân tộc ở Việt
Nam. Đến tháng 8 năm 2005, tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, đã diễn ra
cuộc trưng bày các hiện vật gốm, công cụ và hoàng bào của các triều đại
phong kiến Việt Nam của ông Trịnh Bách, một người Mỹ gốc Việt đã cống
hiến không mệt mỏi nhằm bảo tồn và khôi phục di sản Cung đình Huế.
Năm 2005, để kỷ niệm mười năm quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, Đại sứ
quán Hoa Kỳ đã phối hợp với chính phủ Việt Nam tổ chức một festival văn
hóa lớn tại hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với nhiều hoạt động như
biểu diễn nhảy múa theo phong cách “Văn hóa đường phố” của nhóm
Havikoro, một nhóm nhảy hiphop đến từ Houston, Texas; Tổ chức hòa nhạc,
biểu diễn nhạc Jazz của các nghệ sĩ đến từ viện Thelonius Monk cùng với hai
huyền thoại nhạc Jazz được cả thế giới biết đến Herbie Hancock và Wayne
Shorter. Ngoài ra, Đại sứ quán Hoa Kỳ còn tổ chức một cuộc triển lãm ảnh
của Peter Steinhauer và Nguyễn Hoài Linh, hai nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kết bạn
với nhau trong hơn mười năm, tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật vào tháng 7 năm
2005. Sau đó một tháng, Đại sứ quán Hoa Kỳ và Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật
đã thông qua một dự án, dùng nguồn tài trợ 20.000 đô la của Quỹ bảo tồn văn
hóa Đại sứ quán (AFPC) để tu bổ hai tác phẩm sơn mài nổi tiếng của Việt
Nam là “Hội chùa” (họa sỹ Lê Quốc Lộc, thực hiện năm 1939) và “Bắc Nam
một nhà” (họa sĩ Nguyễn Văn Tý, thực hiện năm 1961). Dự án này đã chứng
minh sự tôn trọng và ngưỡng mộ của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với
nền văn hóa Việt Nam, cùng chia sẻ nguồn lực cũng như khoa học kỹ thuật để
bảo tồn di sản văn hóa của Việt Nam cho các thế hệ tương lai.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu văn hóa Việt Nam của các bạn
trẻ nước ngoài trong đó có Hoa Kỳ, một số trường đại học của Việt Nam như
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học sư phạm Cần thơ.. đã tổ chức
các ngành và môn học như “Việt Nam học”, “Văn hóa Việt Nam”, “Âm nhạc
Việt Nam”… và thu hút được sự quan tâm theo học của nhiều thanh niên Hoa
Kỳ. Thông qua những học viên này, văn hóa Việt Nam có cơ hội được truyền
bá khắp nơi trên toàn thế giới.
Bên cạnh những hoạt động trao đổi, giao lưu về văn hóa, chính sách
phát triển ngành du lịch của chính phủ Việt Nam đã góp phần vào việc phát
triển mối quan hệ nhân dân giữa hai nước. Những danh thắng nổi tiếng của
Việt Nam như Hạ Long, Huế, Hội An, Nha Trang đã trở thành những điểm
đến thường xuyên của các đoàn du lịch quốc tế. Việc đa dạng hóa du lịch với
nhiều hình thức như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch biển… đã góp
phần đưa nhiều du khách nước ngoài hơn đến Việt Nam, đưa du lịch Việt
Nam trở thành một ngành công nghiệp không khói, một mũi nhọn kinh tế
quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển chung của cả nước.
Trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, thị trường Hoa Kỳ luôn
giữ vị trí quan trọng. Hoa Kỳ luôn chiếm giữ vị trí hàng đầu trong các thị
trường gửi khách nhiều nhất đến Việt Nam. Du lịch Việt Nam đã tham gia
nhiều hội chợ, hội nghị về du lịch tại Hoa Kỳ. Tháng 7 năm 2005, ngành du
lịch Việt Nam đã tổ chức một sự kiện “Những ngày Việt Nam tại Washington
D.C”, đây là hoạt động xúc tiến du lịch lớn nhất từ trước đến nay của Việt
Nam tại Hoa Kỳ. Sự kiện đã thu hút sự tham gia của nhiều hãng lữ hành, các
hãng hàng không, các sở quản lý du lịch và chính quyền địa phương. Du lịch
Việt Nam còn đón nhiều đoàn từ Hoa Kỳ vào làm phim, viết bài quảng bá du
lịch về Việt Nam trong đó có Tommy Tang, Laura Mc Kenzie’s Traveller và
Hãng phim Truyền hình Hoa Kỳ 24fps. Trong tương lai, sau khi Việt Nam gia
nhập WTO, chắc chắn quan hệ hợp tác du lịch Việt Nam – Hoa Kỳ sẽ có bước
phát triển mới cao hơn, quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn.
Trên lĩnh vực thể thao, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những hoạt động
giao lưu thi đấu giữa các đoàn thể thao của hai nước. Ở Hoa Kỳ, người ta
thường đề cập đến khái niệm “Ngoại giao bóng chày” (“Baseball diplomacy”)
để chỉ những hoạt động giao lưu thi đấu bóng chày, môn thể thao truyền
thống của Hoa Kỳ, giữa các đội tuyển của nước này với các đội bóng đến từ
nước ngoài. “Ngoại giao bóng chày” cũng đã được giới thiệu đến Việt Nam.
Trong bộ phim “Good morning Vietnam!” đã được giới thiệu với khán giả
Việt Nam có chi tiết nhân vật do Robin Williams thủ vai đã chơi bóng chày
với các em bé Việt Nam, chỉ có điều quả bóng là… quả bưởi. Tháng 1 năm
2006, cầu thủ bóng chày Hoa Kỳ gốc Việt Danny Graves đã đến Việt Nam
theo sự tài trợ của tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam. Chuyến đi Việt Nam
của Danny và buổi trình diễn kỹ thuật bóng chày tại Đại hội Thể dục thể thao
Từ Sơn được báo chí Hoa Kỳ đưa tin sôi nổi.
KẾT LUẬN
Sau hơn mười năm bình thường hóa, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã
đạt được nhiều thành tựu vượt bậc. Hai nước đã hợp tác trong việc giải quyết
những vấn đề còn sót lại của thời kỳ hậu chiến như MIA/POW, người tị nạn
Việt Nam… Quan hệ chính trị tiếp tục được củng cố và đang phát triển theo
chiều hướng tích cực. Những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước như nhân
quyền, dân chủ, tôn giáo đang được giải quyết bằng đàm phán trên cơ sở luật
pháp quốc tế và tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Quan hệ kinh tế ngày càng được
mở rộng và đa dạng hóa, tổng kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước không
ngừng tăng lên, những tranh chấp thương mại giữa hai nước tuy đã xuất hiện
nhưng vẫn ở mức độ nhỏ nên không làm gián đoạn việc hợp tác kinh doanh
giữa hai nước.
Thành tựu nổi bật nhất trong quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ là
việc ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA),
đã và đang phát huy hiệu quả vô cùng mạnh mẽ trong trao đổi hợp tác thương
mại giữa hai nước cùng với việc chính phủ Hoa Kỳ dành Quy chế Thương
mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi
để cải thiện các mối quan hệ với Hoa Kỳ. Những thành tựu này không chỉ
mang ý nghĩa về kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc vì chúng đánh
dấu những cột mốc quý giá trên con đường trong nỗ lực đi đến bình thường
hóa hoàn toàn quan hệ với Hoa Kỳ của Việt Nam. Để từ đó, Việt Nam có
được một vị thế cân bằng hơn, xứng đáng hơn trong mối quan hệ nhiều mặt
với Hoa Kỳ.
Trong tình hình thế giới đang có nhiều biến động, chủ nghĩa khủng bố
đã và đang là nguy cơ lớn đối với nền an ninh và hòa bình thế giới, quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ sẽ có điều kiện gắn bó nhau hơn đặc biệt là trên lĩnh vực
an ninh, quốc phòng. Hơn nữa, do vị trí chiến lược của châu Á nói chung
đang tăng lên trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, vì vậy, Hoa Kỳ sẽ đẩy
mạnh hơn nữa hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là chính trị
và kinh tế. Đối với các lĩnh vực khác trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ như
hợp tác quân sự, y tế, giáo dục, khoa học – kỹ thuật, văn hóa, du lịch, thể
thao… sẽ có cơ hội để không ngừng phát triển trên cơ sở những thành tựu mà
hai nước đã đạt được trong thời gian qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Asselin, Pierre (2005), Nền hòa bình mong manh – Washington, Hà Nội và
tiến trình của hiệp định Paris, Dương Văn Nghiên (và những người
khác) dịch; Trịnh Huy Quang, Phùng Trọng Tuấn hiệu đính, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
2. Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi… (2002), Ngoại
giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia.
3. Nguyễn Văn Bình (và những người khác) (2005), Hiệp định Paris về Việt
Nam – cuộc đấu chiến lược (30 năm hiệp định Paris), Nxb. Lao
động.
4. Mai Văn Bộ (1993), Hà Nội – Paris hồi ký ngoại giao, Nxb. Văn nghệ.
5. Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật. Hồi ký: kỷ
niệm 40 năm hoạt động của ngành ngoại giao Việt Nam, NXB. Tp.
Hồ Chí Minh.
6. Bộ Công thương (2001), “Chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển
ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”, Thông tin Công nghiệp,
ngày 23/04/2001.
http://www.moi.gov.vn/LDocument/Detail.asp?id=2045
7. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2000), Phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải
về việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Phát biểu
của Lãnh đạo, ngày 14/07/2000.
http://www.mofa.gov.vn/vi/cs_doingoai/pbld/ns04081814261966
8. Brzezinski, Zbigniew (1999), Bàn cờ lớn (The grand chessboard), Lê
Phương Thúy dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Clinton, Bill (2007), Đời tôi (My Life), Trần Hà Nguyên dịch, Nxb. Công
an Nhân dân.
10. Cục kinh tế (2005), “Đầu tư của Mỹ vào VN sẽ tăng nhanh”, Tin kinh tế
và xúc tiến thương mại, ngày 17/06/2005.
http://www.cktqp.gov.vn/news.php?id=5018&id_subject=1
11. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ: Giai đoạn 1935 –
2001, Nxb. Thống Kê.
12. Xuân Danh (1994), “Quan hệ Việt Mỹ: Những bước thăng trầm hơn 200
năm, đường đến Washington DC”, Thanh niên Online, ngày
20/06/2005.
http://www.thanhnien.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=113310
13. Xuân Danh (1994), “Quan hệ Việt Mỹ: Những bước thăng trầm hơn 200
năm, chặng đường dài đến bình thường hóa”, Thanh niên Online,
ngày 19/06/2005.
http://www1.thanhnien.com.vn/Thegioi/Tulieu/2005/6/19/113188.tno
14. Degregorio, William A. (2006), Bốn mươi ba đời tổng thống Hoa Kỳ (The
complete book of U.S. presidents), Lê Phương Anh, Trịnh Thu
Hằng, Phạm Thiên Hương, Huỳnh Điểu, Lê Vân Sơn... dịch, Nxb.
Văn hóa Thông tin.
15. Đỗ Lộc Diệp (1998), “Bước tiến mới quan trọng trong quan hệ Mỹ - Việt
Nam”, Châu Mỹ ngày nay (2-1998), tr 3 – 6.
16. Lê Duẩn (1981), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng ta,
Nxb. Sự Thật.
17. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội
VI, VII, VIII, IX): Về nhiệm vụ an ninh – quốc phòng và chính sách
đối ngọai, Nxb. Chính trị Quốc gia.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ (2006),
“Việt Nam - hoan nghênh Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR”,
Quan hệ Việt Mỹ, ngày 09/12/2006.
http://www.viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20061209111742
22. Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ (2005),
“Hoạt động của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hoa Kỳ: Xóa bỏ
khoảng cách chia rẽ giữa hai nước”, Quan hệ Việt Mỹ, ngày
23/06/2005.
http://www.viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20050623133713
23. Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ (2003),
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam gửi thư tới Hạ viện Hoa Kỳ”, Quan
hệ Việt Mỹ, ngày 25/11/2003.
http://www.viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20031125111403
24. Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ (2001),
“Điện chia buồn của Chủ tịch & BT NG, Đại sứ tới nhân dân Mỹ”,
Quan hệ Việt Mỹ, ngày 19/09/2001.
http://www.viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20010919201153
25. Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ (2001),
“Chính sách đối ngoại mở rộng quan hệ nhiều mặt”, Quan hệ Việt
Mỹ, ngày 20/04/2001.
http://www.viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20010420012944
26. Đỗ Đức Định (2000), Quan hệ kinh tế Việt Nam Hoa Kỳ, Nxb. Thế giới.
27. Huy Đức (2008), “Di sản APEC”, Vietnammese Rice.
http://www.rice.com.vn/Vietnamese/Print?action=viewNews&id=788
28. Vũ Đăng Hinh (chủ biên) (2000), Nước Mỹ vấn đề, sự kiện và tác động,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu trong Chiến
tranh lạnh (1949 – 1991), Khoa Lịch sử Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh.
30. Nam Hồng, Hồ Quang Lợi, Lê Huy Hòa (2001), Khủng bố và chống
khủng bố, Nxb. Lao động.
31. Nguyễn Thái Yên Hương, Nguyễn Quốc Lộc (2005), Can thiệp nhân đạo
trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Nxb. Thế giới.
32. Phạm Khắc Lãm (Tổng biên tập) (2007), Việt Nam – Hoa Kỳ, những triển
vọng mới (Vietnam – US set in motion), Nxb. Tạp chí Việt – Mỹ.
33. Nguyễn Văn Lập (2002), Trật tự thế giới sau 11 – 9 (Sự chuyển hướng
đồng loạt trong chính sách ), Nxb. Thông tấn xã.
34. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam : 1945–1995,
Nxb. Công an Nhân dân.
35. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ (1990), Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa
Kỳ trước hội nghị Paris, Nxb. Viện Quan hệ Quốc tế.
36. Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu
lịch sử, Nxb. Công an Nhân dân.
37. Nguyễn Phúc Luân (2001), “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
giành độc lập tự do”, Nxb. Chính trị Quốc gia.
38. McCormick, Thomas J. (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ: Chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh (America's half –
century United States foreign policy in the cold war and after),
Thùy Dương, Thanh Thủy, Minh Long, Hồng Hạnh dịch, Nxb.
Chính trị Quốc gia.
39. Phạm Duy Nghĩa, Vũ Trọng Lâm, Hồ Vân Nga (2001), “Tìm hiểu pháp
luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới”, Nxb. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Trần Nhâm (1998), Có một Việt Nam như thế, đổi mới và phát triển kinh
tế, Nxb. Chính trị Quốc gia.
41. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
trị Quốc gia.
42. Nixon, Richard M. (1977), Nixon’s secret letter, Department Of State
Bulletin.
http://www.aiipowmia.com/sea/nixonletter.html
43. Patti, Archimedes L.A. (1995), Tại sao Việt Nam?, (Why Vietnam ?), Lê
Trọng Nghĩa dịch, Nxb. Đà Nẵng.
44. Ripley, Randall B., Lindsay, James M. (2002), Chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh (U. S. Foreign policy after the cold
war), Trần Văn Tụy dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia.
45. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Hoa Kỳ – Kinh tế và quan hệ quốc tế, Nxb.
Khoa học Xã hội.
46. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Việt Nam – Hoa Kỳ, Quan hệ thương mại và
đầu tư, Nxb. Khoa học Xã hội.
47. Nguyễn Thiết Sơn (chủ biên) (2002), Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Trần Tất Thắng, Quỳnh Hải Hà, Nguyễn Đức Tư... (2004), Nước Mỹ ngày
nay và hiệp định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ, Nxb. Văn hóa
Thông tin.
49. Thông tấn xã Việt Nam (2001), Việt Nam phản đối Đạo luật Nhân quyền
ở Việt Nam của Mỹ, Tin nhanh Việt Nam, ngày 08/09/2001.
http://www.vnexpress.net/GL/The-gioi/2001/09/3B9B4415/
50. Lê Khương Thùy (2003), Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và
sau Chiến tranh lạnh, Nxb. Khoa học Xã hội.
51. Vũ Sơn Thủy (và những người khác) (2003), Nhà ngoại giao Nguyễn Cơ
Thạch, Nxb. Chính trị Quốc gia.
52. Lại Văn Toàn (chủ biên), Phạm Nguyên Long (2004), Chủ nghĩa khủng
bố toàn cầu vấn đề và cách tiếp cận, Nxb. Khoa học Xã hội.
53. Trung tâm nghiên cứu cơ bản Châu Á về các vấn đề Châu Á – Thái Bình
Dương (1993), Vai trò của Hoa Kỳ ở Châu Á: quyền lợi và chính
sách, Viện Thông Tin Khoa Học dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia.
54. Võ Anh Tuấn (2002), Những gì chưa phai mờ trong ký ức: hồi ký ngoại
giao, Nxb. Chính trị Quốc gia.
55. Tuổi trẻ Online (2003), “Việt Nam bác bỏ nghị quyết H.Res 427 do một
vài hạ nghị sĩ Mỹ đưa ra”, Chính trị, ngày 21/11/2003.
http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?ArticleID=9712&Ch
annelID=22
56. U.S. Department of State (2002), International Religious Freedom Report
2002 – Vietnam, Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor.
http://www.state.gov/g/drl/rls/irf/2002/13916.htm
57. Phạm Xanh (2006), Góp phần tìm hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ, NXB. Chính trị Quốc gia.
Tiếng nước ngoài
58. Christopher, Warren (1995), U.S. – Vietnam relations: a new chapter, US
Department of State Dispatch.
http://findarticles.com/p/articles/mi_m1584/is_n33_v6/ai_1744351
3/pg_2?tag=artBody;col1
59. Clinton, Bill (1998), A national security strategy for a new century, The
White House.
60. Deconde, Alexander (1963), A history of American foreign policy, Nxb.
Charles Scrinners & Sonsss Sons.
61. Freeman, Nick J. (1993), United States’s economic sanctions against
Vietnam”, Columbia Journal of World Business.
62. Hastedt, Glenn P. (2002), American foreign policy, tập 8, Nxb. Dushkin.
63. Hastedt, Glenn P. (2000), American foreign policy, tập 6, Nxb. Dushkin.
64. Irish, Marian (1966), World pressures on American foreign policy, Nxb.
Prentice – Hall.
65. Jacobson, Harold Karan (1960), America's foreign policy, Nxb. Random
House.
66. Maslowski, J. I. (1994), Normalization of U.S – Vietnam relations
regional security policy paper, National Defense University.
67. Manyin, Mark E. (2005), The VietNam – US Normalization Process, CRS
Issue Brief for Congress.
68. Melanson, Richard A. (1996), American Foreign Policy Since the Vietnam
War: The Search for Consensus from Nixon to Clinton, Nxb. M.E.
Sharpe.
69. Nixon, Richard M. (1970), United States foreign policy for the 1970's: A
new strategy for peace, Nxb. A National General.
70. Presidential Debates (1976), The second 1976 presidential debate, ngày
06/10/1976.
http://www.pbs.org/newshour/debatingourdestiny/76debates/2_d.html
71. Spanier, John W. (1961), American foreign policy since World War II,
Nxb. Frederick A. Praeger.
72. Time (2000), “Deng’s Reform”, Article, ngày 25/07/2000.
http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,924447,00.html
73. Truman, Harry S. (1949), “Truman's Inaugural Address”, Harry S.
Truman’s Library & Museum.
http://www.trumanlibrary.org/whistlestop/50yr_archive/inagural20
jan1949.htm
74. United Nations (2008), Charter of United Nations.
http://www.un.org/aboutun/charter/
75. USA Today, số ngày 01/01/2000. 76. U.S. Congress (1978), 95th Congress 1977 – 1978.
http://www.aiipowmia.com/legis/95th19771978.html
77. VBJ (Vietnam Bussiness Jounal), tháng 12/1994.
78. Vietnam Economic Times, tháng 7/1997.
79. Williams, Michael C. (1992), Vietnam at the Crossroads, Council on
Foreign Relations, NewYork.