ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VŨ MẠNH TRƯỜNG NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI (1991 - 2018) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thái Nguyên, năm 2020
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VŨ MẠNH TRƯỜNG NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI (1991 - 2018) Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC THẮNG Thái Nguyên, năm 2020
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Ngành Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh Lào Cai (1991-2018)” dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Đức Thắng là kết
quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và nội dung trong luận văn là trung thực.
Kết quả của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Vũ Mạnh Trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn của mình, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân, cá
nhân tôi còn nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của quý Thầy cô cũng như sự
động viên ủng hộ của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt thời gian học tập nghiên
cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS.Nguyễn Đức Thắng, người trực tiếp hướng dẫn
đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn toàn thể quý thầy cô Khoa Lịch sử, Ban Chủ nhiệm
Khoa Lịch sử, Khoa Sau đại học - Trường Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên đã
tận tình truyền đạt kiến thức, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá
trình học tập nghiên cứu và đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Xin chân thành cảm ơn ThS.Nguyễn Thị Lan Phương - Phó chánh văn phòng
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai; Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai;
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai; Thư viện tỉnh Lào Cai; Trung tâm Lưu
trữ quốc gia III; Trường THPT số 1 huyện Bảo Thắng đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ, động viên và
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Vũ Mạnh Trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 6
6. Đóng góp về khoa học của đề tài ..................................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 7
Chương 1: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀNH VĂN HÓA,
THỂ THAO VÀ DU LỊCH LÀO CAI ............................................................. 8
1.1. Tổng quan về tỉnh Lào Cai ........................................................................... 8
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .................................................................. 8
1.1.2. Những thay đổi địa giới hành chính tỉnh Lào Cai ..................................... 9
1.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................................ 11
1.2. Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai trước năm 1946............................. 13
1.2.1. Văn hóa .................................................................................................... 13
1.2.2. Thể dục thể thao ...................................................................................... 14
1.2.3. Sự ra đời của khu nghỉ dưỡng Sa Pa và những hoạt động du lịch đầu
tiên ở Lào Cai .................................................................................................... 15
1.3. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946
- 1954) ................................................................................................................ 17
1.3.1. Sự ra đời Ty Thông tin và hoạt động văn hóa thông tin trong công
cuộc đấu tranh giải phóng tỉnh Lào Cai (1947-1950) ....................................... 17
1.3.2. Văn hóa Lào Cai trong cuộc đấu tranh tiễu phỉ (1951 - 1954) ................ 19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.4. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 1954 - 1975 ................................. 21
1.4.1. Hoạt động văn hóa ................................................................................... 21
1.4.2. Hoạt động thể dục thể thao ...................................................................... 24
1.4.3. Hoạt động du lịch .................................................................................... 26
1.5. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn hợp nhất tỉnh Hoàng Liên Sơn
(1976-1991) ....................................................................................................... 28
1.5.1. Hoạt động văn hóa thông tin ................................................................... 28
1.5.2. Hoạt động thể dục thể thao ...................................................................... 29
1.5.3. Hoạt động du lịch .................................................................................... 32
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 34
Chương 2: NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH LÀO CAI
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2008 ..................................................................... 35
2.1. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn tái thiết tỉnh Lào Cai và bước
đầu phát triển (1991 - 2000) .............................................................................. 35
2.1.1. Tình hình, nhiệm vụ mới ......................................................................... 35
2.1.2. Hoạt động văn hóa ................................................................................... 36
2.1.3. Hoạt động thể thao ................................................................................... 40
2.1.4. Hoạt động du lịch .................................................................................... 43
2.2. Văn hóa, Thể thao và Du lịch thời kỳ hội nhập và phát triển (2001
- 2008) ............................................................................................................... 45
2.2.1. Hoạt động văn hóa ................................................................................... 46
2.2.2. Hoạt động thể thao ................................................................................... 49
2.2.3. Hoạt động du lịch .................................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 59
Chương 3: NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH
LÀO CAI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2018 ................................................... 60
3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch ................................................................. 60
3.1.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy ........................................................................ 60
3.1.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực .................................................... 61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.2. Phát triển tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng Đảng bộ Sở vững mạnh đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ mới ............................................................................. 62
3.2.1. Phát triển tổ chức cơ sở Đảng .................................................................. 62
3.2.2. Xây dựng Đảng bộ Sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới .......... 63
3.3. Văn hóa Lào Cai phát triển mạnh mẽ, trở thành động lực và mục tiêu
của sự phát triển ................................................................................................. 66
3.3.1. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, hướng dẫn tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động đối với các thiết chế văn hóa .............................. 67
3.3.2. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ................. 69
3.3.3. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, truyền thống các dân tộc ........... 72
3.3.4. Đẩy mạnh chương trình hợp tác, quảng bá văn hóa ................................ 76
3.4. Phong trào thể dục thể thao ngày càng lớn mạnh, thể thao thành tích
cao có những bước phát triển đột phá ............................................................... 79
3.4.1. Công tác đầu tư phát triển thể dục thể thao ............................................. 79
3.4.2. Thể thao quần chúng ................................................................................ 81
3.4.3. Thể thao thành tích cao ............................................................................ 84
3.5. Thương hiệu du lịch Lào Cai đã được định hình, phát triển trong toàn
quốc và vươn tầm quốc tế .................................................................................. 86
3.5.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch ..................................................... 86
3.5.2. Cơ sở vật chất chuyên ngành phục vụ khách du lịch .............................. 89
3.5.3. Chương trình hợp tác, quảng bá, xúc tiến phát triển du lịch ................... 92
3.5.4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch ............................... 96
3.5.5. Phát triển các loại hình dịch vụ và sản phẩm du lịch .............................. 98
3.5.6. Kết quả hoạt động du lịch ...................................................................... 101
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 104
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 105
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN
VĂN ................................................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 111
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Dịch nghĩa Chữ viết tắt
BVHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Gia đình văn hóa GĐVH
Huy chương bạc HCB
Huy chương đồng HCĐ
Huy chương vàng HCV
SVHTTDL Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
TDĐKXDĐSVH Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
Thể dục thể thao TDTT
Ủy ban nhân dân UBND
Vận động viên VĐV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo quan niệm Mácxít - Lêninnít, đối tượng của khoa học lịch sử không phải
là những sự kiện riêng lẻ, tách rời khỏi sự phát triển chung, hợp quy luật của xã hội
loài người mà “Đối tượng của khoa học lịch sử là quá trình phát triển thực tế của xã
hội loài người, cũng như từng nước, từng dân tộc, trong toàn bộ tính thống nhất, tính
phức tạp, tính muôn màu muôn vẻ của nó” [59, tr.77-78]. Như vậy, khoa học lịch sử
nghiên cứu mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như lịch sử kinh tế, lịch sử văn hóa, lịch
sử địa phương,…. Do đó, lịch sử ngành cũng là một trong những đối tượng nghiên cứu
của khoa học lịch sử.
Văn hóa, thể thao và du lịch là một ngành đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có
những lĩnh vực đóng vai trò trọng yếu như “là động lực của mọi sự phát triển”, “là
ngành kinh tế mũi nhọn”, có tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của đất
nước nói chung, tỉnh Lào Cai nói riêng. Trong những năm qua, ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Lào Cai luôn là đơn vị dẫn đầu trong số các tỉnh khu vực biên giới phía
Bắc. Các di sản văn hóa Lào Cai được bảo tồn, phát huy và góp phần phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh. Lào Cai trở thành địa phương đầu tiên và duy nhất trong số các tỉnh ở
miền Bắc có cách làm sáng tạo trong thực hiện bảo tồn văn hóa truyền thống. Thể thao
Lào Cai có mặt tại các đấu trường khu vực và quốc tế, Lào Cai trở thành điểm đến
không thể thiếu trong hành trình của du khách khi đến miền Bắc Việt Nam. Những
thành tựu của văn hóa, thể thao và du lịch Lào Cai rất cần được đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu để có những đánh giá sát thực, đúc rút những bài học kinh nghiệm cho các giai
đoạn tiếp theo.
Mặt khác, việc tìm hiểu ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai nhằm
kết nối lại những chặng đường lịch sử của một ngành đa lĩnh vực, để dựng lại bức tranh
lịch sử của ngành từ khi ra đời với từng lĩnh vực riêng lẻ, với những tên gọi khác nhau
đến khi “về chung một nhà”. Qua đó, các thế hệ cán bộ của ngành thấy được truyền
thống vẻ vang của ngành.
Việc nghiên cứu về ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch góp phần đánh giá
những đóng góp của văn hóa, thể thao, du lịch đối với sự phát triển chung của tỉnh Lào
Cai. Qua đó, giúp cho chính quyền địa phương cũng như lãnh đạo ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đúc rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục lãnh đạo, xây dựng
phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch trong thời gian tới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Là giáo viên Lịch sử đang giảng dạy ở trường phổ thông, tôi luôn quan tâm tìm
hiểu những vấn đề lịch sử, văn hóa của tỉnh Lào Cai. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai không những giúp tôi có thêm kiến
thức mà còn trang bị thêm nguồn tư liệu quan trọng khi giảng dạy về văn hóa, lịch sử
địa phương Lào Cai trong trường phổ thông.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh Lào Cai (1991-2018)” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến chủ đề ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (1991-
2018) đã có một số công trình nghiên cứu, có thể chia làm 02 nhóm:
Những nghiên cứu về Lào Cai, văn hóa, du lịch của Lào Cai
Tác phẩm Hưng hóa phong thổ lục ký của Hoàng Bình Chính (1778) đã khái
quát về lịch sử địa thế, sông núi, thổ sản và phong tục tập quán toàn xứ Hưng Hoá lúc
đó, trong đó có phong tục tập quán của các tộc người ở châu Thủy Vĩ, châu Văn Bàn
(địa phận Lào Cai hiện nay).
Cuốn Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật (1856) là tập địa chí đầu tiên ghi
chép một cách tỉ mỉ, chi tiết về tỉnh Hưng Hóa xưa (trong đó có tỉnh Lào Cai ngày nay).
Trong mục V của cuốn địa chí, tác giả Phạm Thận Duật đã liệt kê những đình, đền chùa
xây dựng ở địa phận tỉnh Hưng Hóa. Tác giả cũng ghi chú rõ ràng năm xây dựng, các
vị thánh, thần được thờ phụng ở các điểm này. Đây là nguồn tư liệu quan trọng và cần
thiết cho những người làm công tác văn hóa.
Cuốn Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ của soạn giả Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm
Văn Thư (1930) đã ghi chép khái quát về tỉnh Lào Cai như vị trí và diện tích, địa hình,
sông ngòi, khí hậu, dân cư, tỉnh lỵ và các châu, sản vật, thương mại, giao thông,... Đặc
biệt cuốn sách có nhắc tới nơi nghỉ mát Sa Pa của Lào Cai.
Năm 2003, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Viễn đông Bác cổ (ban biên tập
gồm Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, Phan Văn Các, Lê Việt Nga,
Dương Thị The) hoàn tất việc dịch, chú thích tác phẩm Đồng Khánh địa dư chí và công
bố phần của 19 tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra. Trong cuốn địa chí này đã mô tả khái
quát các đặc điểm về mặt hành chính, dân cư, ruộng đất, thuế má, sản vật, khí hậu,...của
tỉnh Hưng Hóa (có châu Thủy Vĩ và châu Văn Bàn là địa phận Lào Cai ngày nay).
Cuốn địa chí cũng đề cập đến phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc tỉnh Hưng
Hóa, những danh lam thắng cảnh trong tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Cuốn sách Du lịch Lào Cai, Nxb Văn hoá Dân tộc (2000) của nhóm tác giả Trần
Hữu Sơn, Nguyễn Quang Đức, Mã A Lềnh, Đức Đảm, Đoàn Hữu Nam và Đình Dũng,
do Sở Thương mại và Du lịch tỉnh Lào Cai xuất bản. Đây là công trình giới thiệu khái
quát quá trình phát triển của lĩnh vực du lịch tỉnh Lào Cai.
Cuốn sách Địa chí Lào Cai khái lược, Nxb Văn hoá Dân tộc (2001), chủ biên
Nguyễn Đức Thăng đã cung cấp những thông tin cơ bản về tỉnh Lào Cai như: diện tích,
dân số, dân tộc, lịch sử, di tích, danh lam thắng cảnh và một số nét về đặc trưng về kinh
tế - xã hội của tỉnh Lào Cai.
Cuốn sách Lào Cai vận hội mới được Công ty Cổ phần Hợp tác Truyền thông
Việt Nam xuất bản (2005) với sự tham gia của nhiều tổ chức, ban ngành, đoàn thể,
doanh nghiệp và cá nhân trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Cuốn sách đã giới thiệu tổng quan
về lịch sử phát triển cũng như tiềm năng, lợi thế của vùng đất Lào Cai.
Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch Lào Cai
Cuốn sách Lịch sử Thể dục Thể thao tỉnh Yên Bái (1946-2006) của Sở Thể dục
Thể thao tỉnh Yên Bái đã đề cập đến hoạt động thể dục thể thao (TDTT) Hoàng Liên
Sơn trong những năm sáp nhập 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ (1976-1991). Thể
thao Lào Cai đã đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp TDTT của tỉnh Hoàng
Liên Sơn.
Cuốn sách 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai (01/10/1991 - 01/10/2011), Nxb Công
ty cổ phần In và Thương mại Lào Cai (2011) của nhóm nhiều tác giả là lãnh đạo và
nguyên lãnh đạo tỉnh Lào Cai, những nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, nhà
nghiên cứu, nhà văn nhà thơ,…được Báo Lào Cai tổng hợp và xuất bản. Công trình
gồm 4 phần nội dung chính là: Lào Cai - Thành tựu mới, Nỗ lực xây dựng quê hương
Lào Cai, Chặng đường mới, Lào Cai qua tác phẩm. Cuốn sách chính là một nhật ký về
kinh tế, văn hóa, xã hội trong 20 năm xây dựng và phát triển của lãnh đạo và nhân dân
các dân tộc tỉnh Lào Cai.
Cuốn sách Sơ thảo Lịch sử Thể dục thể thao Việt Nam (Nguyễn Văn Hiếu chủ
biên, 2012) có độ dày hơn 500 trang, được chia làm 13 chương đã phản ánh các dấu
mốc, các sự kiện lịch sử của TDTT Việt Nam qua các thời đại, thời kỳ lịch sử từ thời
Vua Hùng dựng nước, đặc biệt là thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuốn sách đã đề cập tới một số
thành tích của thể thao Lào Cai trong sự nghiệp phát triển chung của thể thao nước nhà.
Cuốn sách cũng cho thấy các bài học chính quyết định thành công của TDTT Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là phải nhận thức rõ mục tiêu của TDTT nước ta vì sức khỏe toàn dân để phục vụ sản
xuất, chiến đấu và đời sống; phải tạo dựng vững chắc các cơ sở nền tảng đảm bảo cho
hoạt động TDTT và tổ chức tốt các hoạt động TDTT, cả TDTT quần chúng và thể thao
thành tích cao.
Cuốn sách Lào Cai 25 năm tái lập, đổi mới, phát triển (1991-2015) - Tầm nhìn
và hành động của Tỉnh ủy Lào Cai (2015) đã khái quát lịch sử Lào Cai, những thành
tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Lào Cai sau 25 năm tái lập, trong đó cũng đã
điểm tới thành tựu trên lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.
Trên trang https://svhttdl.laocai.gov.vn/ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
(SVHTTDL) tỉnh Lào Cai có bài Lịch sử phát triển Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh Lào Cai (tác giả Trần Hữu Sơn) đã khái quát chặng đường của ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Lào Cai từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 2011 nhưng còn hết
sức sơ lược. Tác giả Trần Hữu Sơn với bài Sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch Lào
Cai sau 20 năm tái lập tỉnh trên trang http://css.hcmussh.edu.vn/ đã điểm qua những
thành tựu văn hóa, thể thao và du lịch Lào Cai từ khi tái lập tỉnh (1991) đến năm 2011.
Tác giả Hoàng Hà với bài viết “Du lịch Lào Cai phất lên nhờ công nghệ thông tin” trên
trang https://ictnews.vn/. Tác giả Hồng Ninh, Cao Hương với bài “Các điểm du lịch tâm
linh thu hút khách du lịch đầu xuân ở Lào cai” trên trang https://bnews.vn/. Tác giả
Quang Minh với bài “Xây dựng Lào Cai dẫn đầu về lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch
ở khu vực Tây Bắc” trên trang http://www.baolaocai.vn.
Văn hóa, du lịch Lào Cai còn được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu
luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ. Tác giả Nguyễn Thị Lan Phương với Luận văn Thạc
sĩ kinh tế chính trị Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai. Tác giả Nguyễn Thị Nhung
với Luận văn Thạc sĩ Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo phát triển du lịch giai đoạn 2001
- 2015. Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy với Luận văn Thạc sĩ Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh
đạo bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử ở địa phương từ 2000 - 2015. Tác
giả Phạm Ngọc Thắng với Luận án Tiến sĩ kinh tế Phát triển du lịch gắn với xóa đói
giảm nghèo ở Lào Cai. Tác giả Vũ Thanh Ngọc với Luận văn Thạc sĩ Du lịch Nghiên
cứu phát triển văn hóa du lịch tỉnh Lào Cai.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Chính
phủ, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, SVHTTDL tỉnh Lào Cai đã ra
các Nghị quyết, xây dựng và ban hành các chương trình, đề án về các lĩnh vực văn hóa,
thể thao và du lịch. Hàng năm, hàng nhiệm kỳ, tỉnh Lào Cai đều có báo cáo, đánh giá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khái quát kết quả đạt được, ví dụ như: Đề án Phát triển du lịch tỉnh Lào Cai giai đoạn
2016-2020 của Tỉnh ủy Lào Cai (Số 03 - ĐA/TU ngày 27/11/2015); Quyết định về việc
phê duyệt Đề án Năm Du lịch Quốc gia 2017 - Lào Cai - Tây Bắc của Ủy ban nhân dân
tỉnh Lào Cai (Số 2572/QĐ-UBND ngày 10/8/2016); Quyết định Phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến năm 2030 của Thủ
tướng Chính phủ (Số 1845/QĐ-TTg ngày 26/9/2016); Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020 của Sở văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Lào Cai (Số 192/BC-VHTTDL ngày 01/7/2016); Báo cáo Kết quả thực hiện
Đề án số 8 “Phát triển văn hóa, thể thao tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016-2020” từ năm
2016 đến tháng 6 năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới của Sở văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (Số 157/BC-SVHTTDL ngày 07/6/2019); Báo
cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 lĩnh vực văn
hóa, thể thao, du lịch của Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (Số 148/BC-
SVHTTDL ngày 28/5/2019),... Những quyết định, đề án, quy hoạch, báo cáo của ngành
là nguồn tư liệu quan trọng để tác giả sử dụng, kế thừa trong quá trình phân tích, đánh
giá, khái quát trong luận văn.
Như vậy, những công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một khía cạnh nào
đó của văn hóa, thể thao và du lịch Lào Cai hoặc có viết về ngành Văn hóa, Thể thao
và Du lịch Lào Cai nhưng chỉ ở góc độ hết sức khái quát, sơ lược. Cho đến nay, chưa
có một công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Lào Cai trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2018. Tuy nhiên, những
công trình nghiên cứu trên đã đưa ra những nhận xét, đánh giá, đúc rút ra những định
hướng cho công tác văn hóa, thể thao và du lịch ở Lào Cai để tác giả luận văn tiếp thu
và kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai. Trong đó,
tác giả tập trung vào nghiên cứu các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch của tỉnh
Lào Cai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 1991 tới năm 2018, tức là tính
từ thời điểm tỉnh Lào Cai chính thức tái lập đến năm 2018 (SVHTTDL thành lập được
10 năm).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Năm 1991, tỉnh Lào Cai được tái lập, cùng với các cơ quan, ban ngành trong
toàn tỉnh, ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch bước vào công cuộc xây dựng, tái thiết
tỉnh nhà. Đặc biệt, kể từ năm 1991, du lịch Lào Cai bước vào giai đoạn phục hưng và
mở ra những bước phát triển mới. Năm 2008, với chủ trương tinh gọn bộ máy, sáp nhập
các cơ quan có chức năng tương đồng, tương hỗ, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã được sáp nhập và trở thành một ngành đa lĩnh vực.
- Không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Lào Cai từ khi tách ra khỏi tỉnh Hoàng Liên Sơn, từ năm 1991 đến năm 2018, với tổng diện tích 6.364,02km2, gồm
8 huyện và 1 thành phố.
- Nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về những hoạt động của
ngành trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
- Làm rõ quá trình ra đời, phát triển của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Làm rõ những thành tựu, đóng góp của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh Lào Cai từ năm 1991 tới năm 2018. Từ đó, tác giả đưa ra một số nhận xét về sự
phát triển của ngành từ 1991 đến 2018, rút ra một số kinh nghiệm nhằm cung cấp cơ
sở cho việc hoạch định chủ trương, giải pháp phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp, hệ thống hóa nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Trình bày và phân tích những yếu tố về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, thay
đổi địa giới hành chính, kinh tế - xã hội của Lào Cai, từ đó khái quát bức tranh tổng thể
về tỉnh Lào Cai.
- Trình bày sự ra đời, các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch Lào Cai trước
năm 1991, từ đó đánh giá vai trò của ngành trong từng thời điểm lịch sử cụ thể.
- Trình bày các hoạt động, thành tựu của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Lào Cai từ năm 1991 tới năm 2018. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công
tác phát triển ngành từ 1991 đến 2018, đúc rút những kinh nghiệm để tham khảo
cho hiện tại.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu: Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng những nguồn tư liệu sau:
- Một số tài liệu chính sử của Quốc sử quán triều Nguyễn như Khâm định Việt
sử thông giám cương mục, Đồng Khánh dư địa chí; một số sách ghi chép về Lào Cai
thời nhà Nguyễn như Hưng Hóa phong thổ lục ký, Hưng Hóa ký lược...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Các văn kiện của Đảng, các văn bản của Chính phủ, văn bản của Bộ Văn hóa
Thông tin, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (BVHTTDL).
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Lào Cai, các văn bản của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Lào Cai, các văn bản của Ty Thông tin, Ty Văn hóa, Ty Văn hóa Thông tin, Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao, Sở Văn hóa Thông tin, SVHTTDL tỉnh Lào Cai.
- Các sách, báo, bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan đến văn hóa, thể
thao và du lịch nói chung, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai nói riêng.
- Nguồn tư liệu nhân chứng lịch sử: Phỏng vấn sâu các thế hệ cán bộ đã công
tác trong ngành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê để khái quát, tổng hợp những kết quả mà tỉnh Lào Cai đã đạt được trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch theo đúng trình tự không gian và thời gian.
Với nguồn tư liệu nhân chứng lịch sử, luận văn đã sử dụng phương pháp hồi cố lịch sử, phỏng vấn sâu, trao đổi, đàm thoại với các nhân chứng lịch sử để phục dựng lại bức tranh văn hóa, thể thao và du lịch qua các thời kỳ. 6. Đóng góp về khoa học của đề tài
- Thông qua việc khái quát lại quá trình hoạt động, những kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch, đề tài phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong phát triển văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào Cai.
- Bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, xây
dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch.
- Đề tài sau khi bảo vệ thành công có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh; dùng cho giáo viên, học sinh các trường phổ thông khi giảng dạy, học tập về văn hóa, du lịch và lịch sử địa phương; phục vụ công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai thời kỳ đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1. Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai trước năm 1991. Chương 2. Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai từ năm 1991 đến 2008. Chương 3. Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai từ năm 2008 đến
năm 2018.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 1
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH LÀO CAI
1.1. Tổng quan về tỉnh Lào Cai
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345
km theo đường bộ. Tỉnh Lào Cai có 182,086 km đường biên giới giáp tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc); phía Bắc giáp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với điểm cực Bắc
thuộc xã Pha Long, huyện Mường Khương; phía Nam giáp tỉnh Yên Bái với điểm cực
Nam ở xã Nậm Tha, huyện Văn Bàn; phía Đông giáp tỉnh Hà Giang với điểm cực Đông
là đỉnh PonTatJian; phía Tây giáp tỉnh Lai Châu với điểm cực Tây ở xã Y Tý, huyện
Bát Xát.
Với vị trí cửa ngõ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, từ xa xưa trong lịch sử, Lào
Cai đã là mảnh đất “phên dậu” của đất nước. Đặc điểm này đã tạo nên cho Lào Cai
không chỉ có vị trí địa kinh tế, địa chính trị quan trọng mà còn là mảnh đất giàu giá trị
lịch sử văn hóa.
Địa hình Lào Cai rất phức tạp, có sự phân tầng độ cao lớn, hai dãy núi chính là
dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng Tây Bắc - Đông Nam nằm về phía
đông và phía tây tạo ra các vùng đất thấp, trung bình giữa hai dãy núi này và một vùng
về phía tây dãy Hoàng Liên Sơn. Điểm cao nhất của tỉnh là đỉnh Fansipan cao 3.143m
so với mực nước biển. Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào
Cai, Bảo Thắng, Bảo Yên, và phần phía đông huyện Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp
hơn, địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng.
Khí hậu Lào Cai mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mùa đông lạnh,
biến động mạnh và phân hóa đa dạng. Do hệ quả của chế độ gió mùa, khí hậu ở Lào
Cai phân hóa thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Lượng mưa tại Lào Cai phân
bố không đồng đều theo không gian và thời gian. Thời gian không mưa diễn ra vào
mùa đông, ngược lại mưa dài ngày thường xuất hiện vào mùa hè.
Hệ thống sông, suối phân bố khá đều với hai con sông lớn là sông Hồng và sông
Chảy chảy qua địa bàn tỉnh. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn dòng chảy,
trong đó có 107 sông, suối dài từ 10km trở lên. Hệ thống sông, suối dày với địa hình
dốc tạo ra lợi thế cho Lào Cai trong phát triển thủy điện vừa và nhỏ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tài nguyên đất của tỉnh rất đa dạng do địa hình phức tạp. Trong phạm vi địa
giới của tỉnh có 30 loại đất được chia làm 10 nhóm chính như đất phù sa, đất lầy, đất
đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi,… Lào Cai có 278.907ha rừng,
chiếm 43,87% tổng diện tích tự nhiên. Thảm thực vật phong phú của Lào Cai không
chỉ có giá trị khoa học mà còn có giá trị kinh tế cao về lâm sản. Diện tích rừng và trữ
lượng gỗ rừng tự nhiên khá lớn cùng với thảm thực vật phong phú, sự đa dạng của các
loài động vật là điều kiện thuận lợi để Lào Cai phát triển kinh tế lâm nghiệp, nông
nghiệp, công nghiệp khai thác, chế biến và du lịch.
Khoáng sản của Lào Cai khá đa dạng, trữ lượng lớn và có tính đại diện về chủng
loại cả nước. Trên địa bàn tỉnh đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại
khoáng sản, trong đó có một số mỏ khoáng sản đã được thăm dò đánh giá trữ lượng,
chất lượng như mỏ Apatit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Xa với trữ
lượng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ môlip đen Ô Quý
Hồ với trữ lượng 15,4 nghìn tấn.
1.1.2. Những thay đổi địa giới hành chính tỉnh Lào Cai
Thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một
trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang “...Hưng Hóa và Tuyên Quang xưa là bộ Tân
Hưng” [24, tr.4-5]. Thời Âu Lạc, vùng phía đông và phía nam Lào Cai thuộc bộ lạc Tây
Vu, còn một phần đất phía tây và phía bắc Lào Cai hiện nay thuộc phạm vi của các bộ
lạc nhỏ hơn không chịu thuần phục Lạc Việt. Thời Bắc thuộc nhà Đường, vùng đất Lào
Cai thuộc châu Đan Đường (Cam Đường) và Chu Quý (Văn Bàn). Thời kỳ phong kiến
tự chủ, Lào Cai thuộc châu Quy Hóa. Triều Lê thế kỷ XV đã đổi lộ làm phủ và đổi trấn
làm châu, khi đó lộ Quy Hóa đổi thành phủ Quang Hóa, huyện Văn Bàn, huyện Thủy
Vĩ trở thành châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ trực thuộc phủ Quang Hóa, thừa tuyên Hưng
Hóa. Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thuỷ Vĩ, châu
Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên, phủ
Quy Hoá. Đến thời điểm này địa danh Lào Cai chưa được hình thành.
Sau khi đánh chiếm Lào Cai (3-1886) và hoàn thành công cuộc bình định, thực
dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự. Ngày 7-l-1899, đạo quan binh
IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai (Lào Cai
là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV). Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác
bóc lột, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày
12-7-1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây
địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam.
Năm 1907, tỉnh dân sự Lào Cai được thành lập, phần đất của châu Thuỷ Vĩ bên
hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ Vĩ. Từ đó địa
danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thuỷ Vĩ bên tả ngạn sông Hồng được
tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Đến cuối những năm 1910, đầu những năm 1920,
trong thành phần tỉnh Lào Cai mới xuất hiện các đại lý Mường Khương, Pa Kha (Bắc
Hà), Bát Xát, Phong Thổ và đặc khu Sa Pa.
Sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất (11-1946), chính quyền của
ta chia Lào Cai thành 7 huyện (Bắc Hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sa Pa,
Bát Xát, Phong Thổ) và thị xã Lào Cai.
Ngày 7-5-1955, Khu tự trị Thái Mèo được thành lập, huyện Phong Thổ của tỉnh
Lào Cai chuyển sang Khu tự trị Thái Mèo, sau này thuộc tỉnh Lai Châu.
Ngày 27-3-1975, tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V đã nghị quyết hợp nhất ba
tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên Sơn.
Ngày 17-4-1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất thị xã Lào Cai và
Cam Đường thành thị xã Lào Cai trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Ngày 12-8-1991, Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Hoàng
Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Ngày 1-10-1991 tỉnh Lào Cai được tái lập
trên cơ sở vùng đất Lào Cai (cũ) và bổ sung thêm ba huyện: Bảo Yên, Văn Bàn (thuộc
Yên Bái cũ), Than Uyên (thuộc Nghĩa Lộ cũ) bao gồm 8 huyện, 2 thị xã.
Khi tái lập, tỉnh Lào Cai có diện tích tự nhiên là 8.044 km2, gồm 8 huyện với
180 xã, phường, thị trấn, tỉnh lị là thị xã Lào Cai. Tháng 8 năm 2000, huyện Bắc Hà
được tách thành 2 huyện Bắc Hà và Si Ma Cai, đến tháng 1 năm 2002 thị xã Lào Cai
và thị xã Cam Đường sáp nhập thành thị xã Lào Cai. Tháng 1 năm 2004, huyện Than
Uyên chuyển về tỉnh Lai Châu. Ngày 30-11-2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị
định số 195/2004/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai. Sự
ra đời của thành phố Lào Cai đánh dấu bước phát triển vượt bậc về mọi mặt của thành
phố trong đó có văn hóa, thể thao và du lịch.
Đến năm 2018, tỉnh Lào Cai gồm thành phố Lào Cai và 8 huyện: Bảo Thắng,
Bảo Yên, Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn. Diện tích tự nhiên 6.364,02 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/64
tỉnh, thành phố cả nước).
Địa danh và đơn vị hành chính của tỉnh Lào Cai có nhiều thay đổi trước những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
biến động của lịch sử. Sự thay đổi này là do nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng cả
nước cũng như nhiệm vụ chính trị của địa phương. Điều đó đã có tác động nhất định
đến quá trình chuyển biến về mọi mặt của tỉnh qua các thời kỳ, trong đó, có sự biến đổi
của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
1.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp là chủ yếu, cơ sở hạ
tầng thấp kém, tỉnh Lào Cai đã đạt tốc độ tăng trưởng về kinh tế khá cao và liên tục,
cao hơn so với các tỉnh khác và cả nước [8]. Giai đoạn 1991-1995, tăng trưởng kinh tế
trung bình của Lào Cai đạt 11,8%/năm (cả nước đạt 8,2%/năm), thể hiện bước chuyển
đầu tiên của nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Lào Cai giảm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
của châu Á. Nền kinh tế Lào Cai tuy không chịu tác động trực tiếp, nhưng sự cạnh
tranh trên thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn từ bên ngoài giảm nên đã tác động
tiêu cực đến nền kinh tế của Lào Cai, tăng trưởng bình quân đạt 5,8%/năm. Tính bình
quân trong 10 năm (1991-2000), tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn đạt 9,0%/năm (cả nước
đạt 7,6%). Những kết quả trên khẳng định bước chuyển biến đầu tiên, quan trọng của
nền kinh tế tỉnh Lào Cai trong những năm đầu tái lập.
Trong 10 năm tiếp theo (2001-2011), tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào Cai
trung bình 12,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2001 đến năm 2011 luôn ở
mức 2 chữ số, cao hơn những năm đầu tái lập tỉnh, cao hơn so với mức tăng của cả
nước và nhiều địa phương khác. Kết quả đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng
đã được vận dụng sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tình hình tỉnh Lào Cai. Kết thúc năm
2015, tỉnh Lào Cai đạt thắng lợi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong tổng số 27 chỉ
tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV, có 25 chỉ tiêu vượt và đạt; 2 chỉ tiêu đạt trên 56%.
Trong tổng số 393 mục tiêu của 7 chương trình, 27 đề án, có 313 mục tiêu vượt và đạt;
48 mục tiêu đạt trên 80%. Trong quá trình phát triển, Lào Cai phát huy tốt vai trò, vị
trí của mình, luôn đặt trong mối liên kết của vùng và cả nước; là tỉnh trung tâm của khu
vực Tây Bắc, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
hoạt động đối ngoại và xây dựng Đảng của khu vực.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XV, đã chỉ rõ định hướng phát triển của
tỉnh Lào Cai đến năm 2020 là phát triển nông, lâm nghiệp và xây dựng nông thôn mới
là trọng tâm; phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ là đột phá; phát triển công nghiệp
là quan trọng. Tập trung nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn gắn với xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dựng nông thôn mới, chú trọng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; ưu tiên
đầu tư, phát triển kinh tế cửa khẩu, du lịch. Phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; xây dựng gia đình ấm no, tiến
bộ và hạnh phúc. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể thao, thông
tin - truyền thông, khoa học - công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chủ
động bảo vệ môi trường tự nhiên, xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc
phòng, an ninh, giữ gìn biên giới hoà bình, hữu nghị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Đến năm 2020, Lào Cai trở thành tỉnh phát triển của khu vực Tây Bắc và là tỉnh khá
của vùng miền núi phía Bắc.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, đời sống văn hóa, xã hội của Lào Cai ngày
một nâng cao. Hoạt động giáo dục đào tạo có bước phát triển toàn diện và vượt bậc,
chất lượng giáo dục được nâng lên một bước. Hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế về
văn hóa, nghệ thuật và thể thao tiếp tục được tăng cường, chương trình xây dựng đời
sống văn hóa, thể thao ở khu dân cư tiếp tục được củng cố và phát triển. Công tác đưa
thông tin về cơ sở được đổi mới về nội dung và nâng cao chất lượng để tuyên truyền
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng đến với đồng bào các dân tộc. Hoạt động
thể thao thành tích cao và thể thao quần chúng đều thu được nhiều kết quả đáng mừng.
Phong trào tập luyện thể thao được mở rộng trong đông đảo quần chúng nhân dân.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được triển khai có hiệu quả. Lào Cai đã
kịp thời khống chế được các dịch bệnh nguy hiểm. Chất lượng phục vụ và hoạt động
tại các bệnh viện đã ổn định và nâng lên, tạo điều kiện cho mọi người dân, nhất là người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có công được tiếp cận và thụ hưởng các dịch
vụ y tế có chất lượng, từng bước tạo sự công bằng trong khám chữa bệnh.
Những thành tựu trong xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội là thành
quả trí tuệ và công sức của nhân dân các dân tộc Lào Cai. Đây là tiền đề để Lào Cai
tiếp tục có những bước phát triển mới trong công cuộc hội nhập và phát triển. Trong
sự phát triển chung của kinh tế - văn hóa - xã hội Lào Cai có sự đóng góp to lớn của
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các vai trò: Văn hóa là “mục tiêu”, “động lực”
của mọi sự phát triển; Thể thao góp phần nâng cao sức khỏe phục vụ sự nghiệp xây
dựng bảo vệ đất nước; Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, tạo nên sự phát triển của các
ngành, lĩnh vực khác.
Về dân cư, dân tộc, theo số liệu năm 2017, dân số toàn tỉnh Lào Cai là 694.416
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người, mật độ dân số bình quân: 109 người/km2 [10]. Lào Cai là nơi cư trú của 3/4 ngữ
hệ lớn của Việt Nam: ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Hán - Tạng, ngữ hệ Thái, với 6/8 nhóm
ngôn ngữ của Việt Nam: Việt - Mường, Tày - Thái, Ka Đai, Hmông - Dao, Hán, Tạng
- Miến. Lào Cai có 13 dân tộc với 23 nhóm ngành khác nhau. Mỗi một dân tộc lại có
bản sắc văn hóa riêng, trong cùng một dân tộc nhưng mỗi nhóm, ngành mang một đặc
điểm sắc thái riêng tương tự như một tộc người. Mặc dù có tộc danh khác nhau, quê
quán khác nhau nhưng các dân tộc Lào Cai không xảy ra xung đột về dân tộc, tôn giáo.
Các đặc điểm trên tạo cho Lào Cai là tỉnh giàu bản sắc văn hóa, đồng thời là nơi thuận
lợi cho giao lưu, hội tụ văn hoá.
1.2. Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai trước năm 1946
1.2.1. Văn hóa
Do đặc điểm ở vùng biên cương, ngay từ thời kỳ dựng nước, các dân tộc Lào
Cai đã có ý thức đoàn kết, ý thức cộng đồng. Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, thủ lĩnh,...nhằm khẳng định nguồn gốc
chung, tổ tiên chung của cộng đồng. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên như thần mặt trời,
thần sông, thần núi,...là tín ngưỡng phổ biến của cư dân Lào Cai thời dựng nước. Hình
ảnh chạm khắc trên thân các trống đồng Lào Cai như trống đồng Pha Long, trồng đồng
Gia Phú đã phản ánh nghệ thuật âm nhạc và ca múa.
Dưới thời Bắc thuộc, các triều đại phong kiến phương Bắc ra sức thi hành chính
sách đồng hóa nhưng những yếu tố văn hóa Việt cổ vẫn được bảo tồn, tinh thần đoàn
kết, ý thức dân tộc của đồng bào Lào Cai không bị hủy diệt mà vẫn có sự kế thừa, phát
triển.
Thời phong kiến, Lào Cai tiếp nhận hàng loạt các tộc người từ phương Bắc
xuống định cư như người Thái, Dao, Mông. Chính họ đã tạo cho Lào Cai trở thành
vùng đất đa dân tộc, phong phú về sắc thái văn hóa. Đến thời nhà Nguyễn, trong phủ
Quy Hóa (Lào Cai), “...người Kinh, người Thổ (Thái), người Thanh, người Mán sống
xen kẽ,... Hai châu Văn Bàn, Thủy Vĩ thì người Thổ (Thái) làm hào mục, tập tục có biết
chút lễ pháp. Người Thanh (Trung Quốc) làm nghề buôn bán kiếm sống, tập tục phần
nhiều xa xỉ. Người Mán đốt nương làm rẫy, sống nhờ nguồn lợi rừng, quần áo dệt bằng
gai, đay dùng cả màu đen và màu trắng. Còn như lễ tết hiếu hỉ thì chỉ có Thổ hào, Mán
trưởng hơi giống tục người Kinh, còn lại phần nhiều sơ sài, đơn giản” [20, tr.724].
Trong năm, chỉ ngày mồng 1 tháng giêng và ngày rằm tháng 7 người dân giết gia súc
để cúng tế tổ tiên, còn những việc cưới xin, tang ma đều làm rất sơ sài. Nhân dân trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vùng cũng duy trì tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thờ cúng các vị anh hùng “huyện Văn
Bàn có đền thần Vệ Quốc. Châu Thủy Vĩ có đền Quan Công, đền Liễu Hạnh Công
chúa, đền Long Vương” [21, tr.725].
Theo ghi chép của tác giả Phạm Thận Duật trong Hưng Hóa ký lược, trên địa
bàn tỉnh Hưng Hóa ngoài 17 ngôi đình, đền, chùa, miếu mạo còn có nhiều các di tích
khác. Lào Cai thời đó có “Miếu thờ Quan Công ở phố Minh Hương, thuộc châu Thủy
Vĩ. Miếu thờ Liễu Hạnh công chúa ở gần sông Thao,... Ở châu Văn Bàn, xã Bảo Bàn
có một đền thờ thần. Các năm Minh Mệnh, Thiệu Trị lần lượt phong tặng các danh
hiệu: “Trấn an hiển liệt” [18].
Sau khi chiếm đóng được Lào Cai, cùng với việc xây dựng các cơ quan hành
chính, quân sự, kinh tế,…ở thị xã Lào Cai và một số châu, huyện, thực dân Pháp đã
chú trọng tới việc xây dựng một số cơ sở cho hệ thống văn hóa, thông tin tuyên truyền.
Văn hóa phương Tây đã xâm nhập vào trong bộ phân cư dân ở đô thị.
Bên cạnh việc bóc lột về kinh tế, thực dân Pháp rất chú trọng xây dựng bộ máy
cai trị phản động. Thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã dùng thế lực của
các thổ ty dân tộc này đàn áp, khiêu khích người dân tộc khác, gây chia rẽ giữa người
Mông, người Tày, Nùng, Hoa ở Bắc Hà, giữa người Dao với người Giáy ở Bát Xát,…
Về văn hóa tinh thần, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân“Làm cho dân ngu
để dễ trị, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng
nhất” [22, tr.137].
Thực dân Pháp ra sức phá hoại thuần phong mỹ tục của người Việt, của nền văn
hóa Việt Nam nói chung, đồng bào Lào Cai nói riêng. Tại Lào Cai, chúng đã khuyến
khích, tuyên truyền những tệ nạn xã hội phản động như mại dâm, cờ bạc, rượu cồn,
thuốc phiện, bói toán,…nhằm đầu độc, làm thoái hóa giống nòi dân ta, khiến thanh niên
xa rời nhiệm vụ cứu nước. Thông qua hệ thống thông tin tuyên truyền, sách báo phản
động của kẻ thù len lỏi trong nhân dân. Tuy nhiên, vượt qua mọi trở ngại, âm mưu phá
hoại của kẻ thù, tiếp nhận và sử dụng sáng tạo văn hóa bên ngoài, nhân dân Lào Cai
vẫn bảo lưu được nét đẹp văn hóa truyền thống với sự phong phú của văn hóa vật thể
và phi vật thể. Những nghi lễ, phong tục, các làn điệu ca múa của đồng bào người Kinh
cũng như các dân tộc thiểu số vẫn còn lưu giữ trong đời sống của nhân dân Lào Cai.
1.2.2. Thể dục thể thao
Quá trình đấu tranh sinh tồn và phát triển của các dân tộc ở Lào Cai cũng là quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trình nâng cao thể chất, tôi luyện ý chí chiến đấu chống lại mọi sự đe dọa của kẻ thù.
Từ trong lao động sản xuất, chiến đấu, các dân tộc Lào Cai đã nảy nở nhiều loại hình
thể thao mang đặc trưng riêng của mình. Xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, địa hình hiểm trở, bị chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, nhân dân các
dân tộc miền núi Lào Cai đã phải hợp sức lao động cùng khai phá đất hoang, đánh giặc,
chống thú dữ, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ làng bản, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần. Đặc điểm của điều kiện tự nhiên, xã hội đã tác động mạnh đến việc rèn luyện thân
thể, hình thành các môn thể thao tăng cường sức khỏe, đấu tranh cho cuộc sống sinh
tồn. Từ xa xưa, người dân Lào Cai đã biết luyện tập võ nghệ để rèn luyện sức khỏe,
chống thú dữ, chống lại sự phản nghịch, cướp bóc của các phần tử xấu. Tiêu biểu nhất
là môn võ cổ truyền của đồng bào H’mông. Môn võ này không hình thành trường phái
hay môn phái song cũng là loại hình võ thuật vì nó cũng có đủ các thế tấn cơ bản, các
đường quyền, đường cước và đánh đỡ liên hoàn. Các đường võ không cầu kỳ mà chủ
yếu là các đường, các đòn đánh thực dụng, nhanh, gọn và chính xác. Xét về quyền
thuật, môn võ này không có bài cụ thể, chỉ có lối đánh như lối đánh của gậy, lối đánh
của dao, của khèn (một loại nhạc cụ). Với đặc trưng riêng đó đã hình thành lên các lối
đánh, thế võ rất độc đáo của người H’mông. Bên cạnh đồng bào H’mông, các dân tộc
vùng núi cao khác của Lào Cai thường dùng cung, tên, nỏ. Khi thuốc súng chưa ra đời,
các hoạt động bảo vệ cuộc sống chủ yếu dùng võ thuật gồm võ tay không và võ binh
khí như gậy, côn, đao, kiếm, giáo, mác,…
Ngoài võ cổ truyền, nhân dân Lào Cai còn có những trò chơi dân gian mang tính
thể thao đặc trưng của từng dân tộc, mang đậm dấu ấn văn hóa, được hình thành từ lâu
đời trong lịch sử. Vào những dịp lễ hội, nhân dân đã tổ chức nhiều loại trò chơi dân
gian như đánh quay, đua ngựa, đẩy gậy, bắn nỏ, nhảy dây, kéo co,… Những trò chơi
này vừa là hoạt động giải trí, vừa là dịp để thi thố tài năng, rèn luyện sức khỏe và trí
lực.
Thời Pháp thuộc, bên cạnh các môn thể thao dân tộc như đua ngựa, đẩy gậy, bắn
nỏ, bắn súng kíp, nhảy dây, kéo co, cờ tướng,…một số môn thể thao hiện đại đã được
du nhập vào Việt Nam và Lào Cai như bóng đá, bóng chuyền, điền kinh, bơi lội, bóng
bàn, quần vợt. Các môn này chủ yếu được chơi ở trong các trại lính và một số trường
học ở thị xã Lào Cai, thị trấn Sa Pa, Bảo Thắng, Mường Khương.
1.2.3. Sự ra đời của khu nghỉ dưỡng Sa Pa và những hoạt động du lịch đầu tiên ở
Lào Cai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong quá trình chiếm đóng Lào Cai, thực dân Pháp đã phát hiện ra địa điểm Sa
Pa và xây dựng thành nơi nghỉ mát, an dưỡng phục vụ người Pháp “Tỉnh Lào Kay lắm
núi, nhiều rừng cho nên những nơi thắng cảnh cũng lắm. Song phải cái đường giao
thông bất tiện. Có một nơi gọi là Cha-Pa ở về phía tây nam tỉnh lỵ, cách độ 37 km,
người Tây hay nghỉ mát ở đấy vì khí hậu ôn hòa lắm” [15, tr.68].
Năm 1897, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định mở một cuộc điều tra về
người dân tộc thiểu số miền núi vùng cao. Những đoàn điều tra đầu tiên đến Lào
Cai vào năm 1898. Mùa đông năm 1903, trong khi tiến hành đo đạc xây dựng bản đồ,
đoàn thám hiểm của Sở địa lý Đông Dương đã khám phá ra cảnh quan mặt bằng Lồ
Suối Tủng và làng Sa Pả. Sự kiện này đánh dấu việc ra đời của thị trấn Sa Pa. Ban đầu,
thị trấn Sa Pa được xây dựng với mục đích trở thành khu an dưỡng.
Năm 1905, người Pháp đã thu thập được những thông tin đầu tiên về địa lý, khí
hậu, thảm thực vật,...Sa Pa bắt đầu được biết tới với không khí mát mẻ, trong lành và
cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng, khách sạn Cha Pa nằm
trên đường từ Sa Pa ra Lào Cai được khánh thành. Năm 1914, khách sạn Fansipan được
xây dựng. Từ năm 1914, chính quyền địa phương chủ trương xây dựng Sa Pa trở thành
một “kinh đô nghỉ hè” trên núi ở Bắc Kỳ theo hướng dân sự hóa. Cùng mùa hè năm
đó, các nguyên vật liệu cần thiết để phục vụ xây dựng khu dinh thự nghỉ mát cao cấp
và các khu nhà dịch vụ hỗ trợ đã được vận chuyển từ Hà Nội lên Sa Pa. Năm 1917, một
văn phòng du lịch được thành lập ở Sa Pa và một năm sau, người Pháp bắt đầu xây
dựng những biệt thự đầu tiên. Năm 1920, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai hoàn thành,
Sa Pa được xem như “thủ đô mùa hè” của Bắc Kỳ. Năm 1922, Dinh Thống sứ Bắc Kỳ
xa hoa bậc nhất thị trấn lúc đó được khởi công xây dựng trên đồi “Thống sứ”. Năm
1932, một khách sạn sang trọng - Le Metopole với 50 phòng hạng sang và 10 phòng
hạng đặc biệt được khai trương, nằm dưới chân núi Hàm Rồng và tiếp giáp với hồ Sa
Pa hiện nay. Tổng cộng, người Pháp đã xây dựng ở Sa Pa gần 300 biệt thự.
Vào thập niên 1940, người Pháp đã quy hoạch, xây dựng Sa Pa thành nơi nghỉ
mát, điều dưỡng khá lý tưởng. Ở đây có đầy đủ hệ thống thủy điện, trạm nước, dinh
toàn quyền, toà chánh sứ, sở than, kho bạc, kiểm lâm, hệ thống đường nhựa và đặc biệt
là hơn 200 biệt thự theo kiểu phương Tây ở ngay trung tâm thị trấn, nằm xen giữa
những cánh rừng đào và những rặng samu. Điều này làm cho phố núi Sa Pa mang nhiều
dáng dấp của một thành phố châu Âu. Khách lưu trú thường xuyên ở Sa Pa lúc bấy giờ
là những viên chức người Pháp nhưng số lượng không nhiều, chỉ khoảng 50 người năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1942 [6].
1.3. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954)
1.3.1. Sự ra đời Ty Thông tin và hoạt động văn hóa thông tin trong công cuộc đấu
tranh giải phóng tỉnh Lào Cai (1947-1950)
Ngày 12-11-1946, lực lượng vũ trang cách mạng đã đánh đuổi bọn phản động
Quốc dân Đảng, giải phóng Lào Cai lần thứ nhất. Chính quyền cách mạng được thành
lập theo chế độ quân quản đã đứng ra giải quyết những vấn đề lớn, cấp bách về chính
trị, kinh tế, xã hội của địa phương. Sau khi Ủy ban hành chính tỉnh được thành lập (4-
1947), Ty Thông tin cũng chính thức đi vào hoạt động do đồng chí Tiến Hồng làm
Trưởng ty, Lê Minh làm Phó trưởng ty. Trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp của cuộc
kháng chiến, lực lượng của Ty còn hết sức mỏng, tổ chức còn sơ sài. Ngoài đồng chí
Tiến Hồng (Trưởng ty) và Lê Minh (Phó trưởng ty) còn có Lê Thế, Nguyễn Trọng Hợp,
Mai Xuân San, Bùi Bình Bảo, Phạm Văn Tự, Trọng Kiệm, Ngô Nguyên Dị, Nguyễn
Đức Hợp, Nguyễn Văn Thuấn, Vũ Bích,...
Ngày 28-10-1947, giặc Pháp tái chiếm Lào Cai. Chính quyền cách mạng mới ra
đời còn non trẻ nhưng đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, các cơ quan đầu não của tỉnh
chuyển về đóng tại huyện Lục Yên (Yên Bái). Ty Thông tin đã được đổi thành Ty
Thông tin Tuyên truyền. Đồng chí Nguyễn Đức Hợp được bổ sung từ Liên khu 10 lên
giữ chức vụ Trưởng ty, đồng chí Lê Thế giữ chức vụ Phó trưởng ty. Đồng chí Nguyễn
Đức Hợp đã ra sức củng cố lại Ty. Trong điều kiện hết sức khó khăn khi phải sơ tán từ
Lào Cai về Yên Bái nhưng đội ngũ cán bộ của Ty thời gian này được bổ sung đã khá
đông đảo gồm có: Nguyễn Đức Hợp, Lê Thế, Bùi Bình Bảo, Nguyễn Văn Thuấn, Trần
Kim Phượng, Hùng, Múi, Hồ Sùng Phát, Ngô Nguyên Dị, Ngô Vi Khoa, Nguyễn Văn
Quế, Trần Lưu Kiệm. Một số thiếu sinh quân cảnh vệ cũng được bổ sung vào biên chế
Ty Thông tin như Đinh Minh Sơn, Quản Trung Cầm, Đăng Khanh. Thiếu nhi Hoàng
Thế Nghị cũng được thêm vào bộ phận ấn loát (in li-tô) dưới sự chỉ đạo của đồng chí
Nguyễn Trọng Hào (do đồng chí Nguyễn Đức Hợp xin Liên khu 10 điều động cho Lào
Cai). Đồng chí Đào Thịnh (một trong 3 họa sĩ của Yên Bái) cũng được điều động cho
Lào Cai. Ty chia thành hai lực lượng: một bộ phận trực tiếp vào hậu địch công tác, một
bộ phận ở lại phối hợp với cơ quan tuyên truyền của Trung đoàn 171 trong công tác
tuyên truyền, ấn loát phục vụ yêu cầu chiến đấu và phục vụ cho các cán bộ hậu địch.
Từ làng São đến làng Sâng, Yên Thế, Hùng Việt đến vùng Cam Đường và một số điểm
ở Lào Cai, các cán bộ thông tin cùng các ngành vẫn hoạt động dù chưa đứng trên mảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đất Lào Cai và các cơ quan của Lào Cai tạm thời vẫn đóng trên núi rừng Yên Bái. Lúc
đó Ty chỉ có Trưởng ty, các công việc có thể thay phiên nhau làm, gọi tên là các bộ
phận: thông tin, biên tập, nhạc kịch, ấn loát, hậu địch,...chứ không coi là phòng ban.
Trong những ngày đầu kháng chiến, Ty Thông tin Tuyên truyền đã thành lập
Đội Tuyên truyền văn nghệ phục vụ vùng hậu địch, đội gồm nhiều học sinh, thanh thiếu
niên có năng khiếu văn nghệ; in và phát hành hàng vạn bản tin, tờ truyền đơn, tranh cổ
động cung cấp cho các huyện, thị xã. Đội Tuyên truyền văn nghệ có sự tham gia của
các nhạc sĩ Văn Cao, Lương Ngọc Trác, nhà thơ Hoàng Cầm,…phục vụ ở cửa khẩu và
một số điểm dân kháng chiến. Nhiều đội viên tham gia xây dựng lực lượng, làm vườn
không nhà trống, hăng hái đi dân công. Nhiều đội viên văn nghệ đã trực tiếp tham gia
chiến đấu cùng bộ đội ở mặt trận Bình Lư, Xuân Giao, tham gia hoạt động ở vùng căn
cứ địa Cam Đường. Công tác thông tin, tuyên truyền lúc này chiếm vị trí hàng đầu với
khẩu hiệu của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II họp vào tháng 7-
1948 và Hội nghị cán bộ văn hóa lần thứ I vào tháng 2-1949: “Kháng chiến hóa văn
hóa, văn hóa hóa kháng chiến, người nghệ sĩ phải tắm mình trong dòng sông chảy xiết
của cuộc kháng chiến, tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến, cũng phải biết xung
phong trong chiến đấu chống quân thù, dám hy sinh trong cuộc kháng chiến gian lao
và anh dũng của dân tộc” [23, tr.223-228].
Đi đôi với công tác xây dựng lực lượng vũ trang, tỉnh Lào Cai đã tăng cường
công tác thông tin, tuyên truyền vận động nhân dân các dân tộc. Đảng bộ tỉnh đã thành
lập được các Phòng thông tin tại các nơi tập trung đông dân như thị xã Lào Cai, Phố
Lu, Bắc Hà, Sa Pa, Mường Khương. Ở Bảo Thắng đã ra được bản tin phổ cập đến các
xã, thôn. Đảng bộ đã tổ chức được các đội tuyên truyền xung phong gồm 26 người đi
sâu xuống cơ sở, dùng hình thức mít tinh, nhạc kịch, nói chuyện, biểu diễn văn nghệ
bằng tiếng địa phương, làm cho nhân dân hiểu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước [1, tr.86].
Thực hiện lời dạy của Bác: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” [17, tr.246], các cán bộ Văn hóa thông tin Lào Cai đã
náo nức hăng say làm việc. Các đồng chí lãnh đạo Ty là Nguyễn Đức Hợp, Lê Thế thay
nhau trực tiếp vào khu hậu địch hoạt động, chỉ đạo phong trào. Bộ phận còn lại ngoài
vùng tự do được tăng cường thêm người cho các bộ phận biên tập kẻ vẽ, bộ phận viết
và in băng li-tô. Những tờ tin, khẩu hiệu, tranh vẽ bằng 2 thứ tiếng Kinh và tiếng Hoa
được phân phối vào vùng hậu địch để cán bộ các vùng làm tài liệu tuyên truyền cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân. Đồng thời, những tài liệu này được phát dần ở những nơi thích hợp như vùng đồng
bào Dao ở Bát Xát, đồng bào Hoa ở Mường Khương, Bản Lầu, đồng bào Kinh ở thị
trấn, thị xã và dọc sông Hồng. Hoạt động thông tin tuyên truyền đã góp phần tích cực
vào việc đấu tranh giải phóng Lào Cai.
Khi giải phóng Phố Lu, lực lượng văn hóa đã tưng bừng tổ chức các cổng chào
mừng chiến thắng, cờ hoa khẩu hiệu rực rỡ. Khi giải phóng Bắc Hà, cán bộ văn hóa đã
lập ngay phòng Thông tin tuyên truyền ở giữa chợ, có triển lãm tranh ảnh, dùng loa tay
phát thanh tiếng dân tộc, tổ chức múa hát mừng chiến thắng. Khi giải phóng Lào Cai,
cùng với việc lập phòng Thông tin tuyên truyền ở thị xã, các cổng chào có khẩu hiệu
rực rỡ, những bức tranh mừng chiến thắng, kêu gọi đoàn kết cao tới 3-4m, hệ thống
khẩu hiệu được chăng khắp ở các phố xá và lan ra ngoại ô tới 2-3km.
Theo báo cáo của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh, từ năm 1947-1949, Ty đã
thành lập 7 phòng Thông tin tuyên truyền ở huyện, thị, in gần 10 vạn tờ in, khẩu hiệu,
truyền đơn, vận chuyển 3.096 sách báo. Riêng ở khu võ trang Cam Đường đã có: 21.667
tờ in, 9.170 truyền đơn, 2.873 tranh in, 1.230 sách, 48 lần mít-tinh, triển lãm, 200 cuộc
nói chuyện, 83 bảng thông tin, 23 bảng tin ở xã, 84 bảng tin ở thôn [55].
Ngày 1-11-1950, Lào Cai được giải phóng, đội ngũ văn nghệ sỹ Lào Cai dần
dần hình thành và phát triển. Góp phần vào thắng lợi chung của chiến dịch và công
cuộc giải phóng tỉnh Lào Cai có sự đóng góp sức người, sức của của đồng bào các dân
tộc, trong đó có Ty Thông tin (sau là Thông tin Tuyên truyền) tỉnh Lào Cai. Vừa mới
ra đời, đội ngũ còn mỏng, trình độ chuyên môn còn hạn chế nhưng với tinh thần cách
mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, ngững người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa
thông tin đã tuyên truyền giúp đồng bào các dân tộc hiểu rõ chủ trương của Đảng,
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh; phục vụ bộ đội, động viên nhân dân, góp phần thúc
đẩy nhanh chóng giải phóng tỉnh Lào Cai.
1.3.2. Văn hóa Lào Cai trong cuộc đấu tranh tiễu phỉ (1951 - 1954)
Ngay sau ngày giải phóng, nhiệm vụ trọng yếu của Lào Cai là thực hiện tiễu
phỉ. Đảng bộ tỉnh đã xác định rõ phương châm tiễu phỉ là lấy truyên truyền vận động
là chính yếu. Thực hiện phương châm đó, trong những năm 1952-1954, Ty Thông tin
Tuyên truyền đã thành lập 3 Đội tuyên truyền văn nghệ phục vụ công tác tiễu phỉ. Đặc
biệt ở vùng giải phóng, Ty Thông tin Tuyên truyền còn thành lập một đội nhạc nòng
cốt cho các hoạt động văn nghệ.
Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng, những cán bộ của ngành Thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tin Tuyên truyền mà nòng cốt là các đội Tuyên truyền văn nghệ đã tuyên truyền, giáo
dục rộng rãi trong nhân dân không những vùng tự do mà vùng phỉ cũng hiểu rõ sức
mạnh của ta, đoàn kết đấu tranh với phỉ. Ở các huyện, cán bộ Ty đã tranh thủ các phiên
chợ để phát thanh hoặc cho phổ biến tin bằng cách truyền miệng cùng hình thức tranh
ảnh triển lãm và chiếu hình nên đã hấp dẫn, làm cho đồng bào thêm tin tưởng, nhất là
rẻo cao. Tổng kết năm 1954 đã chiếu bóng 58 tối có 7.853 người dự; tin tức có 27.707
bản tin chữ quốc ngữ, 7.152 bản chữ Nho; tài liệu có 4.510 bản; thông cáo và lời Hồ
Chủ Tịch,…có 13.542 bản và 250 cuốn [49].
Hoạt động thông tin, tuyên truyền được tiến hành bằng mọi hình thức, trong mọi
hoàn cảnh để nhân dân và hàng ngũ phỉ hiểu được đúng và đủ đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Từ những hoạt động tuyên truyền, vận động,
hàng trăm tên phỉ đã ra hàng, trong đó có cả những tên đầu sỏ như Lồ Seo Quán, Giàng
Cồ Chấn, Chang Hồng Phú, Lùng Trang, Hản Sào Lùng, Châu Quáng Lồ,… Trong
cuộc đấu tranh tiễu phỉ từ năm 1950 đến năm 1955, Tỉnh ủy Lào Cai đã lãnh đạo thực
hiện thắng lợi 5 chiến dịch tiễu phỉ với hàng trăm trận đánh lớn nhỏ. Tổng kết chiến
dịch tiễu phỉ năm 1952 ở miền Đông Lào Cai thu được kết quả: lúc lực lượng địch phát
triển mạnh nhất có 3.000 tên, đến 1952 chỉ còn lại 116 tên lẩn trốn trong các khu vực
Pha Long, Mường Khương, Lùng Phình, Bắc Hà, Si Ma Cai. Về vũ khí, phương tiện
thông tin liên lạc, ta thu được 4 đài liên lạc, 11 súng cối, 49 trung liên, 2 đại liên và
2.500 súng tiểu liên, súng trường, súng ngắn cùng một số lớn quân trang quân dụng,
gần 1.000 con trâu ngựa đem trả cho dân bị phỉ cướp [7, tr.49].
Từ tháng 8 - 1954 đến tháng 5 - 1955, tổng kết chiến dịch tiễu phỉ ở Lào Cai đã
giành được thắng lợi lớn: tiêu diệt và làm tan rã trên 3.000 tên thổ phỉ, thu hàng trăm
tấn vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng, giải phóng toàn bộ các vùng bị phỉ chiếm
đóng, xây dựng, củng cố chính quyền và lực lượng dân quân du kích trong các khu vận
động.
Thắng lợi của công tác tiễu phỉ trên địa bàn tỉnh Lào Cai có ý nghĩa lịch sử quan
trọng. Ta đã đập tan âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ dùng phỉ
chống phá cách mạng. Thắng lợi đã khẳng định chủ trương, phương châm tiễu phỉ của
Trung ương và của tỉnh hết sức đúng đắn. Với phương châm quân sự và chính trị song
song, chính trị là căn bản, quân sự là áp lực, chú trọng cải thiện đời sống nhân dân, ta
đã kết hợp sức mạnh vũ lực của bộ đội chính quy với đấu tranh chính trị mềm dẻo tạo
thành sức mạnh tổng hợp giải quyết triệt để vấn đề phỉ. Có được thắng lợi đó, một phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quan trọng là do ta đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, phát động được tư tưởng
quần chúng từ chỗ chịu ảnh hưởng của địch đến chỗ tin tưởng cách mạng, quyết tâm
đấu tranh chống địch.
Đồng thời với công tác tiễu phỉ, vận động lao động sản xuất và xây dựng đời
sống văn hóa mới, ngành Văn hóa thông tin Lào Cai đã phát động quần chúng cách
mạng đi dân công phục vụ bộ đội, đi dân công phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Các hình thức tuyên truyền văn nghệ như kẻ khẩu hiệu trên áo, trên mũ, trên súng, tổ
chức văn nghệ trong các giờ nghỉ đã làm cho khí thế đi dân công lên rất cao.
1.4. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 1954 - 1975
1.4.1. Hoạt động văn hóa
Cũng như nhiều địa phương khác ở miền Bắc, Lào Cai sau năm 1954 đứng trước
nhiều khó khăn, phức tạp cần khẩn trương giải quyết. Tháng 3-1955, Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) nhấn mạnh những nhiệm vụ công tác cụ
thể, trong đó: “Củng cố miền Bắc về mọi mặt; Giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chính trị của nhân dân miền Nam” [13, tr.208]. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa II) tháng 6-1955 cũng chỉ rõ: “Công tác cải cách ruộng đất
vẫn là công tác trung tâm, nhưng công tác khôi phục kinh tế là công tác rất trọng yếu”
[13, tr.208]. Tiếp thu Nghị quyết của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lào Cai
đã bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định
đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, xã hội.
Ngày 15-9-1956, Ty Văn hóa Lào Cai được thành lập trên cơ sở tách ra từ cơ
quan Tuyên huấn do đồng chí Hoàng Phấn làm Trưởng ty. Lúc mới thành lập, Ty Văn
hóa chỉ có 14 cán bộ, nhân viên (trong đó có 7 người là dân tộc thiểu số, 1 người là
Hoa Kiều). Ngoài đồng chí Hoàng Phấn còn có Nguyễn Mạnh Tiển, Nguyễn Văn Tá,
Long Kính, Trung Dũng, Xuân Nguyên, Vi Quang, Đặng Trần Xướng, Quản Trung
Cầm, Sải Văn Phú,... Biên chế cán bộ của Ty Văn hóa gồm 1 Trưởng ty, 1 phụ trách
hành chính, 1 văn thư, 1 kế toán, 1 cấp dưỡng, 2 bảo tồn bảo tàng, 1 phụ trách thư viện,
3 chiếu đèn và triển lãm lưu động, 2 văn nghệ, 1 công tác văn hóa đại chúng [46]. Đến
năm 1960, Ty Văn hóa tỉnh Lào Cai có 74 cán bộ, công nhân viên chức trong biên chế,
45 cán bộ, công nhân viên chức hợp đồng do đồng chí Dương Văn Hà làm Trưởng ty.
Ty có 6 phòng ban (Phòng chiếu bóng, Phòng văn công, Phòng nhiếp ảnh, Phòng văn
hóa quần chúng, Phòng phát hành, Phòng bảo tồn bảo tàng) và 02 bộ phận là Hành
chính và Thư viện [47].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mặc dù đội ngũ còn mỏng, trình độ còn hạn chế nhưng chỉ trong một thời gian
ngắn, việc chỉ đạo và phát triển sự nghiệp văn hóa thông tin của tỉnh đã có bước phát
triển nhất định. Trong hoạt động thư viện, đầu năm 1956, tỉnh đã có 1 phòng đọc sách
ở thị xã với 844 cuốn sách, báo các loại. Đến ngày 15-12-1956, Thư viện tỉnh đã được
thành lập và khai trương với hơn 2.100 cuốn sách, có 2 nhân viên phụ trách. Ngay trong
ngày đầu đã có hơn 200 người đến đọc sách báo. Mỏ Apatit Cam Đường đã có 1 phòng
đọc với hàng trăm cuốn sách. Năm 1962, Thư viện đã có 2 vạn cuốn sách, phục vụ 9
vạn lượt người đọc, 120 tác giả thuộc 14 dân tộc viết bài đều về Ty văn hóa, 5 nhà lưu
niệm, 2 phòng truyền thống được thành lập. Năm 1963 phát hành được 150.372 bản
sách, trên 20 triệu trang in.
Về công tác chiếu bóng, đội chiếu bóng đã chiếu 188 tối cho 197.813 lượt người
xem, trong số đó có 9 tối do đội lưu động số 8 đi phục vụ đường sắt, đã chiếu dọc
đường cho 3.850 lượt nhân dân xem. Trong công tác bảo tồn, bảo tàng, Ty vẫn chưa
nắm được các di tích lớn trong tỉnh. Công tác sưu tầm để trưng bày mới thu thập được
89 hiện vật nhưng phần lớn nặng về vũ khí (câu liêm, đao…), chưa có đủ các loại nên
chưa tổ chức trưng bày được.
Hoạt động triển lãm lưu động và đèn chiếu, đã chiếu được 34 tối cho 4.808
người xem hầu hết là ở các rẻo cao. Đến năm 1958, đèn chiếu đã phục vụ 168 tối cho
32.186 lượt người xem (vượt kế hoạch 2.186 lượt người, gấp 4 lần năm 1957). Năm
1962 đã có 5 đội chiếu bóng (4 đội phục vụ nông thôn), chiếu khắp 105 xã với 658.764
lượt người xem. Năm 1963, các đội chiếu bóng đã xuống phục vụ được 115 xã, có xã
chiếu từ 2 tới 3 lần, số buổi chiếu và số người xem tăng hơn 1962.
Hoạt động văn nghệ, Ty đã tổ chức Đại hội Liên hoan miền Đông có 7 dân tộc
tham dự, cử cán bộ đi khai thác nhạc vũ của dân tộc Nhắng. Trong năm 1956 đã tổ
chức được 55 buổi biểu diễn với 30.529 người dự. Năm 1958, tổ văn nghệ Sa Pa đã
được đưa lên thành đội văn nghệ nghiệp dư [51]. Năm 1960, Ty Văn hóa đã huy động
quần chúng tham gia công tác văn nghệ, có nhiều hình thức tuyên truyền cổ động phong
phú, động viên nhân dân phấn khởi sản xuất. Trong hội diễn Trung ương, Tổ văn nghệ
Tà Chải được thưởng 1 huy chương vàng (HCV), 4 huy chương bạc (HCB), 1 bằng
khen. Đoàn văn công tỉnh được thưởng 3 HCV, 6 HCB, 03 bằng khen [2].
Về hoạt động của nhà văn hóa, năm 1958 đã phát triển thêm 2 nhà văn hóa ở xã
(Chiến Thắng) và huyện lỵ (Sa Pa). Hoạt động thường xuyên chỉ có nhà văn hóa ở thị
xã với 164.773 lượt người ra vào hội họp, xem chiếu bóng và 2 nhà văn hóa Sa Pa, Tà
Chải.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Năm 1969, Ty Văn hóa đã tổ chức Hội diễn văn nghệ mùa Xuân với hàng trăm
tiết mục, hàng trăm diễn viên đủ các thành phần dân tộc, thu hút được hàng vạn khán
giả từ vùng thấp đến vùng cao [53]. Công tác chiếu bóng, năm 1969 có 10 đội, chiếu
được 2.167 buổi cho 895.383 lượt người xem, đã hoàn thành được rạp chiếu bóng của
thị xã và đưa vào phục vụ từ tháng 9-1970. Thư viện đã cho mượn 30.000 cuốn sách,
phong trào đọc đã xuống tận nông thôn như Quang Kim, Chiến Thắng, Tả Chải. Tính
đến năm 1969, Lào Cai đã có 12 thư viện công cộng (3 ở tỉnh, 9 ở huyện thị). Công tác
bảo tồn bảo tàng, năm 1969, Lào Cai có 01 bảo tàng tỉnh, 14 cơ sở bảo tàng, phục vụ
22.725 lượt người tham quan [48].
Năm 1972, Hội văn nghệ và Hội nhà báo Lào Cai được thành lập, tạo điều kiện
thuận lợi cho văn nghệ sỹ đẩy mạnh sáng tác văn học nghệ thuật, báo chí. Nhiều tác
phẩm phản ánh hiện thực xã hội Lào cai được sáng tác. Về công tác triển lãm, cuộc
triển lãm “Mừng Việt Nam đại thắng” mở cửa 73 buổi, phục vụ 13.000 lượt người xem,
giới thiệu những thành tựu chống Mĩ cứu nước và xây dựng kinh tế địa phương. Các
nhà truyền thống Sa Pa, Mường Khương, Pha Long, Phú Nhuận và 26 lần trưng bày
lưu động phục vụ trên 15.000 lượt người xem (kể cả ở các huyện, thị) [45]. Công tác
xây dựng nếp sống văn hóa được coi trọng, nhiều yếu tố tích cực trong phong tục tập
quán truyền thống được phát huy. Tệ nạn nghiện hút thuốc phiện đã được đẩy lùi.
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt, phong trào văn hóa văn nghệ
Lào Cai phát triển mạnh ở các xí nghiệp, công trường, cơ quan, trường học, văn hóa
văn nghệ trong các đồng bào dân tộc thiểu số cũng trên đà phát triển. Ở tỉnh và huyện
đã thành lập được các Đội tuyên truyền lưu động. Nhiều hợp tác xã đã xây dựng được
hệ thống phát thanh phục vụ đời sống tinh thần cho nhân dân. Đặc biệt, phong trào
nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát át tiếng bom” đã phát triển mạnh và thể hiện lối sống
lạc quan yêu đời của nhân dân trong những năm chiến tranh. Dù khó khăn nhưng việc
hội diễn, liên hoan văn nghệ quần chúng luôn được tổ chức từ cơ sở đến huyện và tỉnh.
Lào Cai là tỉnh đầu tiên ở khu vực miền núi đưa hoạt động văn hóa thông tin vào phục
vụ ở phiên chợ, xây dựng các chợ vùng cao thành các điểm sáng văn hóa. Hệ thống đội
ngũ chiếu bóng lưu động, hệ thống đài, trạm truyền thanh được xây dựng ở khắp các
huyện. Các huyện Sa Pa, Mường Khương, Bảo Yên, Bảo Thắng đã xây dựng được
mạng lưới thư viện, nhà truyền thống. Đoàn nghệ thuật dân tộc tỉnh không chỉ phục vụ
nhân dân trong tỉnh mà còn đi biểu diễn phục vụ quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một. Các
hoạt động thông tin, báo chí, văn hóa, văn nghệ đều cố gắng bám sát nhiệm vụ chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trị, tập trung vào việc giáo dục, động viên cán bộ, bộ đội, công nhân, nhân dân các dân
tộc trong tỉnh ra sức thi đua làm theo lời Bác: “Vì độc lập, vì tự do; Đánh cho Mĩ cút,
đánh cho ngụy nhào” [16, tr.532].
1.4.2. Hoạt động thể dục thể thao
Thực hiện chương trình năm 1956 của Trung ương Đảng và Chính phủ, trong
công tác văn hóa - xã hội, Tỉnh ủy chủ trương đẩy mạnh phong trào thể dục trong bộ
đội, gây phong trào trong cơ quan và công trường, xí nghiệp, tiến tới xây dựng thành
phong trào thể dục rộng rãi: bộ đội, cơ quan, công trường, xí nghiệp, quần chúng thanh
niên, nhân dân [12, tr.11-12].
Năm 1956, Hội đồng vận động TDTT tỉnh Lào Cai được thành lập do đồng chí
Nguyễn Kim Phượng làm Ủy viên Thường trực Hội đồng. Sau 8 tháng hoạt động đã
xây dựng được 5 đội bóng đá chân đất hạng A, 4 đội bóng đá chân đất hạng B, tổ chức
được 24 trận đấu giao hữu và 2 trận đấu giải. Bóng chuyền đã gây dựng được 8 đội, tổ
chức được 14 trận đấu [46].
Ngày 21-12-1956, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 1186/TTg về việc thành
lập cơ quan TDTT ở thành phố và các tỉnh với tên gọi là Phòng Thể dục thể thao trực
thuộc Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, Phòng Thể dục thể thao Lào Cai được thành
lập.
Ngày 6-3-1957, Thủ tướng Chính phủ thông qua Nghị định số 068/TTg thành
lập Ban Thể dục thể thao từ Trung ương tới địa phương. Ban Thể dục thể thao tỉnh Lào
Cai được thành lập. Cơ cấu tổ chức của Ban gồm Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm và một
số thành viên của giáo dục, y tế, văn hóa, Công đoàn, Đoàn thanh niên. Tuy được tổ
chức nhưng thời điểm này nhưng Ban Thể dục thể thao tỉnh Lào Cai chưa được kiện
toàn, trách nhiệm từng thành phần trong ban chưa rõ ràng, chưa dứt khoát. Mặc dù còn
hạn chế nhưng sự ra đời của Ban Thể dục thể thao tỉnh đã bước đầu đáp ứng được yêu
cầu của phong trào TDTT tỉnh nhà.
Tháng 2-1957, Hội nghị Thể dục thể thao Trung ương thông qua Nghị quyết,
mở cuộc vận động rèn luyện thân thể với mục đích: Nâng cao sức khỏe của nhân dân,
anh chị em cán bộ, công nhân viên, công nhân công trường xí nghiệp, thiếu niên học
sinh, thanh niên khu phố thị trấn và thị xã, đồng thời bồi dưỡng tính dũng cảm, kiên
nghị, lanh lợi, để xây dựng công tác, sản xuất học tập tốt. Thực hiện cuộc vận động,
Ban Thể dục thể thao tỉnh Lào Cai đã mở được 3 lớp đào tạo hướng dẫn viên thể dục ở
cơ sở gồm 89 người, trong đó 23 nữ, thành phần là thanh niên nam nữ cơ quan, công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trường, khu phố, trường học và xí nghiệp mỏ Apatit. Đồng thời cử cán bộ đi học tập
nâng cao trình độ, học hỏi kinh nghiệm tổ chức và làm trọng tài.
Sau đợt phát động cuộc vận động rèn luyện thân thể mùa xuân năm 1957, Phòng
Thể dục thể thao đã mở lớp đào tạo hướng dẫn viên thể dục ở các cơ quan, trường học,
công trường, xí nghiệp,…Trường Phổ thông cấp 2 ở thị xã tập đều với tỉ lệ 100% bài
thể dục phổ thông. Ngoài ra các công trường như công trường 14, công trường đất Cam
Đường, công trường Điện, Ga Phố Mới việc tập thể dục diễn ra khá thường xuyên và
đều đặn.
Về môn bóng đá, đến cuối tháng 6-1957, tỉnh đã có 13 đội chân đất hạng A và
B, trong đó có 2 đội bắt đầu tập đá giày. Ngoài các cuộc dự giải mùa xuân và giao lưu
giữa các đội, tỉnh còn chọn được 1 đội tuyển về phục vụ Đại hội Đền Hùng năm 1957.
Môn bóng bàn, đã phổ biến ở hầu hết các cơ quan quanh tỉnh, năm 1957 có 4 vận động
viên (VĐV) được tỉnh cử về dự đấu chung kết ở Hà Nội. Môn bóng chuyền là môn thể
thao gần như hầu khắp trong quần chúng công nhân, cán bộ, bộ đội. Ngoài những trận
đấu giải và giao lưu, 1 đội tuyển đã được cử đi phục vụ Đại hội Đền Hùng. Bóng rổ đã
phát triển thêm 1 đội ở thị trấn Bắc Hà [50].
Sang năm 1958, Lào Cai đã tổ chức được 72 trận đấu bóng cho 120.000 lượt
người xem, 88 trận đấu bóng chuyền cho 48.300 lượt người xem, 3 trận đấu vật có
1.000 người dự, 20 trận đấu bóng bàn cho 2.250 người xem, 7 trận bóng rổ cho
1.400 người xem. Ngoài ra tỉnh còn tổ chức đấu giao hữu với bộ đội, thanh niên
Côn Minh nhân dịp ngày liên hoan thanh niên biên giới [51]. Ở cấp huyện, một số
huyện đã có 1 cán bộ chuyên trách về TDTT. Ở cấp xã tuy chưa nhiều song một số
xã đã có cán bộ xã làm nghiệp dư đối với công tác TDTT như xã Kim Sơn, Bảo Hà,
Nghĩa Đô của huyện Bảo Yên. Năm 1962, ở các cơ quan xí nghiệp xung quanh tỉnh
và khu mỏ đã có 10.661 người tập thể dục, trong đó có 1.747 người đạt tiêu chuẩn
cấp 1 và cấp 2. Các lớp dạy võ dân tộc và điền kinh, trọng tài tiếp tục mở. Đã lập
được 8 đội bóng đá chân giày, 41 đội chân đất, 90 đội bóng chuyền nam, 11 đội nữ,
14 đội bóng rổ [2].
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc và đánh phá Lào Cai
từ ngày 11-7-1965, phong trào TDTT đã được chuyển hướng cùng thể thao quốc phòng.
Ngày 7-1-1966, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 05/TTg về Tăng cường công tác
lãnh đạo TDTT trong tình hình mới. Chỉ thị đã nêu rõ: “Công tác TDTT phải được
chuyển hướng kịp thời để góp phần vào sự nghiệp tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược...”. Công tác TDTT phải lấy thể thao quốc phòng làm
nhiệm vụ trọng tâm mà nội dung chủ yếu là chạy, nhảy, bơi, bắn nỏ, võ ở những nơi
có điều kiện. Hoạt động TDTT phải gọn, nhẹ và an toàn. Tuy chưa được mạnh mẽ, toàn
diện và sâu rộng nhưng TDTT Lào Cai thời gian này cũng đã đạt được một số thành
tích đáng kể. Năm 1967, thể thao Lào Cai được tặng 2 cờ giải Ba toàn miền Bắc về thi
bắn súng trường nữ và bắn súng ngắn nam; Được tặng cờ Nhất khu vực Lào Cai - Yên
Bái - Nghĩa Lộ trong cuộc thi chạy, nhảy, bắn, võ dân tộc. Đối với phụ nữ, đã tổ chức
3 giải bóng chuyền phụ nữ 3 đảm đang [52].
Cùng đồng bào và chiến sỹ cả nước, với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược, thanh niên Lào Cai đã hăng hái hưởng ứng phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”,
“Phụ nữ ba đảm đang” nô nức lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Phong trào rèn
luyện 5 môn thể thao quốc phòng (chạy, nhảy, bơi, bắn, võ) đã góp phần tích cực trong
việc chuẩn bị thể lực, kỹ năng cho thanh niên trong cuộc trường chinh chiến đấu vì độc
lập tự do của dân tộc. Từ năm 1969, Ban Thể dục thể thao đã củng cố được trong Ban
lãnh đạo nên hoạt động TDTT trên đà phát triển. Giải thi đấu 5 môn thể thao quốc
phòng đã được tổ chức từ cơ sở lên tỉnh. Giải bóng bàn, thi bắn súng cho lứa tuổi từ 14
đến 17 cũng được tổ chức từ cơ sở lên, tuyển chọn được 10 VĐV đi thi giải toàn miền
Bắc [53]. Năm 1970, TDTT có nhiều tiến bộ, được thường xuyên liên tục, sôi nổi, quần
chúng hơn. Thể dục buổi sáng đạt 125%, điền kinh 37,5%, thể thao quốc phòng đạt
89,4%, thể dục dân tộc 31,8%, đội bóng chuyền 56,6%, đội bóng đá 80%, bóng bàn
66,6%, bóng rổ 100%. Tỉnh được Trung ương giao đăng cai Đại hội 5 môn thể thao
quốc phòng thu được kết quả tốt. Toàn đoàn Lào Cai được xếp thứ hai, đội nữ thứ hai,
nam thứ ba, cá nhân toàn năng được 02 người xếp thứ nhất [54].
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt nhất, phong trào TDTT Lào
Cai vẫn được duy trì khá tốt. Hệ thống thi đấu các giải phong trào của tỉnh vẫn được
mở với đầy đủ gương mặt của các huyện, thị tham gia. Các giải thường xuyên được tổ
chức là bóng đá chân giày, chân đất, bóng chuyền, bắn súng, bóng bàn, điền kinh, thi
05 môn thể thao quốc phòng phối hợp. Đối tượng tham gia tập luyện chủ yếu là học
sinh phổ thông, công nhân, viên chức, học sinh chuyên nghiệp, thanh niên và lực lượng
vũ trang. Môn bắn súng có người tập luyện ở cả 03 môn là bắn phổ thông, bắn tập luyện
và bắn súng nâng cao. Trong đội bắn súng nâng cao khu vực toàn miền Bắc, VĐV Vũ
Quý (người thị trấn Phố Ràng - Bảo Yên) đã giành 1 HCB.
1.4.3. Hoạt động du lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngành Du lịch bắt đầu có mặt tại Việt Nam khi Quốc trưởng Bảo Đại cho thành
lập Sở Du lịch Quốc gia ngày 5/6/1951. Thời điểm này, các hoạt động du lịch ở Việt
Nam hết sức yếu ớt, hầu như không phát triển.
Ngày 9/7/1960, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã thay mặt Hội đồng
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký ban hành Nghị định số 26/CP về việc
thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương, đánh dấu sự ra đời
của ngành Du lịch Việt Nam. Đây là thời kỳ nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền,
trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Theo Nghị định số 26/CP,
Công ty Du lịch Việt Nam có nhiệm vụ đặt quan hệ và ký kết hợp đồng với các tổ chức
du lịch nước ngoài, phối hợp với các tổ chức có liên quan ở trong nước để tổ chức cho
khách nước ngoài vào du lịch Việt Nam và khách Việt Nam ra du lịch nước ngoài. Hội
đồng Chính phủ cũng giao Công ty Du lịch Việt Nam tổ chức và quản lý những cơ sở
và những phương tiện cần thiết để phục vụ khách du lịch.
Trên cơ sở Nghị định 26/CP của Hội đồng Chính phủ, ngày 16/3/1963, Bộ Ngoại
thương đã ban hành Quyết định số 164-BNT/TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam. Ngay từ lúc này, du lịch đã được nhận thức rõ
ràng với vai trò là một ngành kinh tế mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc. Nhiệm vụ cụ thể của ngành Du lịch là: nghiên cứu tình hình du lịch quốc
tế để khai thác kinh doanh du lịch; mở rộng các cơ sở và tuyến du lịch để thu hút khách
du lịch và phục vụ các yêu cầu của khách du lịch trong nước trong phạm vi có thể; phối
hợp với các tổ chức có liên quan ở trong nước và chỉ đạo các cơ sở du lịch địa phương
để đảm bảo phục vụ khách du lịch nước ngoài về mọi mặt như: ăn ngủ, vận chuyển,
giải trí, tham quan và làm các thủ tục giấy tờ, đổi tiền; tổ chức việc bán vé máy bay, xe
lửa, tàu biển cho các khách kể cả khách ngoại quốc và khách Việt Nam đi ra nước
ngoài.
Ngày 18/8/1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 145/CP về việc
chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang cho Phủ Thủ tướng quản lý, đánh dấu một
bước chuyển mới trong tổ chức hoạt động của du lịch Việt Nam. Trong suốt thời gian
của cuộc kháng chiến chống Mĩ, ngành Du lịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị,
phục vụ an toàn, chất lượng một lượng lớn khách của Đảng và Nhà nước, các đoàn
chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa anh em vào giúp Việt Nam thực hiện hai nhiệm
vụ là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng Miền Nam thống nhất đất
nước; đồng thời đón tiếp, phục vụ, đáp ứng nhu cầu du lịch, tham quan nghỉ mát của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cán bộ, bộ đội và nhân dân.
Đối với tỉnh Lào Cai, kể từ khi thực dân Pháp phát hiện và khai thác địa điểm
Sa Pa thành nơi nghỉ mát, an dưỡng, các hoạt động du lịch chủ yếu chỉ diễn ra tại Sa
Pa. Tuy nhiên, do tác động của chiến tranh nên trong suốt thời gian của cuộc kháng
chiến chống Pháp (1946-1954), các hoạt động du lịch ở Sa Pa hầu như không diễn ra.
Tháng 10-1947, Trung đoàn Lục quân Hải ngoại số 5 của Pháp tái chiếm thị trấn Sa Pa
và chốt giữ cho đến tháng 10-1950 (thời điểm quân đội Pháp phải di tản vô thời hạn
khỏi Sa Pa). Tháng 3-1952, Hội đồng tham mưu trưởng quân đội Pháp ra lệnh dùng
máy bay ném bom thị trấn. Dinh thự nghỉ mát Thống sứ, khu điều dưỡng, khu nhà hành
chính và phần lớn các khách sạn, biệt thự, nhà nghỉ đều bị phá hủy trong trận bom ác
liệt này. Đầu những năm 1960, thị trấn Sa Pa từ trong đống hoang tàn đổ nát dần được
khôi phục. Một số khách sạn, biệt thự mới được xây dựng, Sa Pa mới có khách đến
tham quan du lịch. Mặc dù vậy, do tác động của chiến tranh nên các hoạt động du lịch
ở Sa Pa cũng như Lào Cai không được phát triển.
1.5. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn hợp nhất tỉnh Hoàng Liên Sơn (1976-
1991)
1.5.1. Hoạt động văn hóa thông tin
Ngày 1-1-1976, Lào Cai hợp nhất với tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng
Liên Sơn. Ngày 16-2-1976, các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể của tỉnh Hoàng
Liên Sơn chính thức đi vào hoạt động [38].
Khi mới thành lập, tỉnh lỵ của Hoàng Liên Sơn đặt tại thị xã Lào Cai. Ngay
từ những ngày đầu, Tỉnh ủy đã khẩn trương chỉ đạo tất cả các ngành, các cấp chính
quyền nhanh chóng ổn định tổ chức, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, sắp xếp, bố trí nơi
ở, làm việc của các cơ quan, đơn vị và ổn định đời sống của cán bộ, công nhân, viên
chức. UBND tỉnh được thành lập gồm 15 người và 57 ty, ban ngành của tỉnh, trong
đó có Ty Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn do đồng chí Vũ Chính làm Trưởng
ty.
Trong những năm 1976-1980, các cơ sở văn hóa thông tin của tỉnh và các huyện,
thị biên giới đã nhanh chóng được củng cố, tăng cường cán bộ, bổ sung phương tiện,
thiết bị, kịp thời xây dựng phòng tuyến văn hóa thông tin biên giới để làm thất bại chiến
tranh tâm lý, củng cố tình đoàn kết quân dân, xóa bỏ mâu thuẫn giữa các dân tộc. Các
đợt phát hành sách, văn hóa phẩm chống chiến tranh tâm lý vùng biên được phát hành
với số lượng lớn. Hàng vạn bộ văn hóa phẩm được tỉnh trao tặng cho các xã vùng biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(ảnh chân dung Bác Hồ, bản đồ Việt Nam,…).
Hội nghị xây dựng đời sống văn hóa vùng biên được tổ chức kịp thời tại Bộ Chỉ
huy quân sự tiền phương với kế hoạch toàn diện liên kết các hoạt động văn hóa thông tin
với lực lượng vũ trang nhằm triệt phá kế hoạch “ba truyền”(truyền thanh, truyền đơn,
truyền miệng) của bọn phản động. Ở địa bàn giáp biên, đội thông tin lưu động đã đưa
các phương tiện phóng thanh gọn nhẹ xuống từng bản nhỏ phát triển hình thức tuyên
truyền miệng bằng tiếng dân tộc với những nội dung thích hợp, góp phần giữ vững lòng
dân ở cơ sở. Thời kỳ này tỉnh có 13 thư viện, 29 đơn vị chiếu bóng phục vụ cho 4.325.000
lượt người, 2 đoàn nghệ thuật phục vụ cho 80.000 lượt người xem. Đài Phát thanh tỉnh
phát tiếng phổ thông và 4 thứ tiếng dân tộc thiểu số (Thái, Giáy, Dao, Mông), thời lượng
phát sóng trên 10 giờ mỗi ngày, có hệ thống loa truyền thanh gồm 1.789 chiếc mắc về
tận cơ sở phục vụ nhân dân các dân tộc. Công tác văn hóa thông tin đã góp một phần
đáng kể vào việc phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Từ năm 1986 đến 1991, hoạt động văn hóa thông tin được tăng cường trên nhiều
phương diện. Trong 5 năm lượng sách phát hành trong toàn tỉnh đạt 1.071.700 cuốn,
tăng gần hai lần so với những năm 1980-1985, trung bình mỗi năm có hơn 240.000 tờ
báo và tạp chí được phát hành. Năm 1987, tỉnh xây dựng thêm 01 thư viện, nâng số thư
viện trong tỉnh lên 17 thư viện. Năm 1990, số sách trong thư viện là 253.000 cuốn, gấp
đôi số sách trong thư viện năm 1986. Trong 5 năm, tỉnh xây dựng thêm 06 rạp chiếu
bóng, thành lập thêm 06 đội chiếu bóng lưu động. Thành lập và duy trì hoạt động của
03 đoàn nghệ thuật, số buổi biểu diễn, số người xem tăng hơn 03 lần so với năm 1986.
Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa tăng trưởng hàng năm. So với năm 1985, năm 1986
tăng 4 lần, năm 1987 tăng 14 lần, năm 1988 tăng 34 lần, năm 1989 tăng 276 lần, năm
1990 tăng 540 lần [9]. Ngành văn hóa tăng cường công tác quản lý phim ảnh, băng
nhạc, loại trừ văn hóa phẩm đồi trụy, tăng cường xây dựng nếp sống văn minh trong
nhân dân, đấu tranh loại bỏ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan.
1.5.2. Hoạt động thể dục thể thao
Sau khi tỉnh Hoàng Liên Sơn thành lập, ba Ty Thể dục thể thao của các tỉnh Yên
Bái, Lào Cai, Nghĩa Lộ cũng được hợp nhất thành Ty Thể dục thể thao Hoàng Liên
Sơn do đồng chí Bùi Thanh Sơn (nguyên Trưởng ty Thể dục thể thao Yên Bái) được
bổ nhiệm giữ chức Trưởng ty. Các đồng chí Ngô Quang Ngôn, Trương Văn Chữ,
Nguyễn Văn Phúc được bổ nhiệm chức Phó trưởng ty. Bộ máy giúp việc cho lãnh đạo
Ty gồm 3 phòng chức năng là: Phòng hành chính tổng hợp, Phòng nghiệp vụ huấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
luyện, Phòng kế hoạch vật tư. Ở tuyến huyện, thị hình thành được 2 phòng TDTT của
thị xã Nghĩa Lộ và thị xã Lào Cai. Các huyện thị khác có từ 2 đến 3 cán bộ chưa hình
thành phòng, chịu sự quản lý trực tiếp của UBND huyện, thị. Ngày 21-7-1976, Hội
đồng TDTT Hoàng Liên Sơn được thành lập do ông Bùi Thanh Sơn làm Chủ tịch Hội
đồng. Ngày 1-1-1980, thực hiện Chỉ thị 407/CP của Hội đồng Chính phủ, Ty Y tế và
Ty TDTT hợp nhất thành Sở Y tế và TDTT do đồng chí Phan Chinh làm Giám đốc Sở.
Khi thành lập, Sở có 8 phòng chức năng, trong đó có Phòng nghiệp vụ TDTT.
Ngày 30-4-1983, theo Quyết định 360/QĐ-TC của UBND tỉnh Hoàng Liên Sơn,
Sở Y tế và TDTT được tách và lập thành 2 Sở mới: Sở Y tế và Sở Thể dục thể thao.
Ngày 5-5-1983, Sở Thể dục thể thao Hoàng Liên Sơn được thành lập do đồng chí
Trương Văn Chữ giữ chức vụ Giám đốc Sở. Sở đã thành lập các bộ phận giúp việc gồm
bộ phận tổ chức hành chính, quản lý nghiệp vụ, thi đấu phong trào, trạm vật tư
TDTT,…với biên chế cán bộ có 54 người, trụ sở được chuyển về phường Hồng Hà, thị
xã Yên Bái. Ở tuyến huyện, 14/17 huyện thị đã tách khỏi Ban Y tế và TDTT, lập bộ
phận TDTT trực thuộc UBND huyện, thị; riêng huyện Yên Bình, thị xã Lào Cai và Yên
Bái vẫn giữ nguyên Ban Y tế và TDTT. Mặc dù có những biến động nhất định về mặt
tổ chức song thời kỳ hợp nhất tỉnh Hoàng Liên Sơn, TDTT đã có bước tiến bộ đáng kể.
Sau khi hợp nhất, công tác TDTT của tỉnh Hoàng Liên Sơn được xác định là:
Tăng cường sức khỏe của nhân dân, đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển toàn diện,
góp phần tích cực phục vụ đời sống văn hóa của nhân dân, tăng cường đoàn kết nhân
dân các dân tộc trong tỉnh. Thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả cho xây
dựng chủ nghĩa xã hội”, công tác TDTT phải kết hợp chặt chẽ với vệ sinh phòng bệnh,
với việc xây dựng nếp sống mới. Đẩy mạnh phong trào thể dục vệ sinh yêu nước rộng
khắp, nhất là trong lứa tuổi thanh thiếu niên, đối tượng công nhân viên chức và lực
lượng vũ trang, lực lượng trực tiếp sản xuất. Lấy thể dục rèn luyện thân thể làm trọng
tâm, đồng thời phát triển cân đối các môn thể thao khác, chú trọng các hoạt động thể
thao truyền thống của các dân tộc trong tỉnh. Tăng cường nâng cao nhận thức cho mỗi
cán bộ và nhân dân về công tác TDTT xã hội chủ nghĩa. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ TDTT, hướng dẫn viên cơ sở. Quan tâm tới việc xây dựng cơ sở vật
chất, công tác nghiên cứu khoa học, từng bước mở rộng nâng cao chất lượng phong
trào.
Trong khu vực trường học đã dấy lên phong trào thi đua phấn đấu về TDTT,
nhiều điển hình đã xuất hiện trong các nhà trường như: Trường cấp I-II Pha Long,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trường thiếu niên dân tộc Mường Khương, Trường cấp I La Pán Tẩn, Trường thanh
niên dân tộc Bảo Yên, trường đào tạo công nhân xây dựng, các trường sư phạm 7+2,
10+3 Lào Cai. Kết quả phong trào thể thao trong nhà trường đã thể hiện rõ sự phối hợp
chặt chẽ giữa hai ngành Giáo dục và TDTT. Tại các trường học, phong trào rèn luyện
thân thể đã gắn liền với phong trào vệ sinh phòng bệnh, chữa cong vẹo cột sống, thể
dục giữa giờ, thể thao ngoại khóa gắn với các hoạt động Đoàn, Đội.
Ở các huyện vùng cao, bên cạnh việc tổ chức phong trào rèn luyện thân thể theo
tiêu chuẩn, Sở đã chú trọng khai thác các môn thể thao dân tộc như: đánh đu, ném còn,
đánh yến, bắn nỏ,…kết hợp với trò chơi vui khỏe theo hướng dẫn của Tổng cục TDTT
và Bộ Giáo dục. Công tác huấn luyện, đào tạo đội ngũ VĐV trẻ trong các nhà trường
đã được quan tâm: 80% các trường cấp II ở vùng thấp, 30% các trường ở vùng cao,
100% các trường cấp III có phong trào tập luyện 4 và 5 môn điền kinh phối hợp. Từ
các trường tới huyện, thị và tỉnh đã tổ chức Đại hội 4 và 5 môn điền kinh phối hợp.
Để chỉ đạo phong trào thể thao trong khu vực nông thôn, ngành TDTT Hoàng
Liên Sơn đã bám sát chủ trương, nghị quyết của Đảng, tập trung chỉ đạo phong trào có
trọng điểm. Phong trào thể thao nông thôn đã có những đơn vị điển hình như xã Tà
Chải (Bắc Hà), Pha Long (Mường Khương), Nghĩa Đô (Bảo Yên), Văn Bàn, Phố Lu
(Bảo Thắng). Các môn thể thao khá phát triển là: điền kinh, bơi, việt dã, bắn súng, bóng
đá, bóng chuyền và một số môn thể thao dân tộc như đánh đu, bắn nỏ, ném còn, đua
ngựa, võ dân tộc Mông, vật dân tộc.
Trong phong trào thể thao quần chúng đã chỉ đạo xây dựng được những mô hình
mới như: Hội thể thao gia đình; Hội thể thao các Câu lạc bộ cơ quan xung quanh tỉnh
như Ban tổ chức chính quyền, Sở tài chính, Kho bạc, Sở y tế, Bưu điện tỉnh, Đoàn
thanh niên cơ quan tỉnh và Trung tâm TDTT. Đây là cơ sở để hình thành các Liên đoàn
và Hội thể thao quần chúng sau này. Tổng kết phong trào thể thao quần chúng năm
1990, toàn tỉnh Hoàng Liên Sơn có 165.000 người tham gia luyện tập TDTT tại 350 tụ
điểm và điểm tập luyện tập trung, 110 đơn vị được công nhận là đơn vị tiên tiến về
TDTT.
Phong trào TDTT trong các cơ quan, xí nghiệp, công nông lâm trường, hợp tác
xã tiểu thủ công nghiệp phát triển tương đối đồng đều các môn thể thao như thể dục
buổi sáng, thể dục giữa giờ, bóng bàn, cầu lông, chạy phổ thông, bắn súng, bóng
chuyền, bóng đá. Qua việc vận động đã có nhiều đơn vị từ yếu kém đã trở thành đơn
vị có phong trào như: Chi cục Thống kê, Ty giao thông, ngành xây dựng, hợp tác xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hợp Thành, nông trường chè Bảo Yên, nhà máy điện Lào Cai, mỏ Apatit, đầu máy Hà
Lào. Thời kỳ 1976-1980, VĐV Nguyễn Văn Thuyết (công nhân khai thác mỏ Apatit
Lào Cai) đã giành vị trí thứ 7 trong giải việt dã Tiền phong toàn quốc lần thứ 20. Năm
1980, Nguyễn Văn Thuyết đã được tham dự thế vận hội Olympic Matxcơva (Liên Xô
cũ). Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ nhất năm 1985, VĐV Nguyễn Văn Thuyết đã
giành được 2 HCV ở cự ly chạy 5.000m và 10.000m. Nguyễn Văn Thuyết đã lọt vào
một trong số 10 VĐV tiêu biểu nhất năm 1985, được Tổng cục TDTT công nhận là
người Việt Nam duy nhất trong Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ nhất đã thực hiện
được cự ly chạy Marathon, được công nhận đẳng cấp kiện tướng quốc gia. Năm 1986,
Nguyễn Văn Thuyết tham gia sự kiện thể thao thiện chí tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
tham dự thế vận hội Olympic Seoul (Hàn Quốc) năm 1988. Trong quãng thời gian thi
đấu dưới màu cờ sắc áo của thể thao Hoàng Liên Sơn, Nguyễn Văn Thuyết đã mang
về 32 huy chương, trong đó có 27 HCV, 3 HCB và 2 huy chương đồng (HCĐ).
Phong trào TDTT trong các đơn vị lực lượng vũ trang, bộ đội địa phương, bộ
đội chủ lực, công an nhân dân đã gắn liền với việc rèn luyện thể lực nâng cao ý chí,
bản lĩnh chiến đấu, góp phần tích cực vào việc giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn
xã hội và chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc. Ngày 17-2-1979, cuộc chiến tranh biên giới
trên tuyến biên giới phía Bắc bùng nổ. Nhiều cán bộ ngành TDTT ở các huyện thị Lào
Cai, Cam Đường, Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà đã tham gia lực lượng tự vệ chiến
đấu cùng với lực lượng vũ trang bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc. Giai đoạn
1976-1980, Lào Cai có 51 đội bóng đá và 144 đội bóng chuyền. Phong trào chạy nhảy,
bơi, bắn, võ, hành quân leo núi được duy trì và phát triển.
Chặng đường 15 năm trong đại gia đình các dân tộc Hoàng Liên Sơn, ngành
TDTT Lào Cai đã có bước chuyển biến đáng kể, thu hẹp dần khoảng cách về TDTT
với các tỉnh miền núi và phong trào trong toàn quốc. Ghi nhận những đóng góp của
ngành với sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh miền núi, Đảng, Nhà nước và Quốc
hội đã trao tặng cho ngành Huân chương Lao động hạng Ba, đồng chí Giám đốc Sở
Trương Văn Chữ được tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
1.5.3. Hoạt động du lịch
Tháng 6-1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng
Chính phủ, mở ra một thời kỳ mới cho ngành du lịch Việt Nam phát triển. Thời gian
này, tỉnh Lào Cai chưa có cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Hoạt động du lịch chủ
yếu là tiếp đón khách Trung ương và các tỉnh bạn, chuyên gia Liên Xô và các nước xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hội chủ nghĩa về công tác. Cơ sở lưu trú thời gian này có Nhà khách UBND tỉnh với
chức năng chính là đón tiếp các đoàn công tác, chuyên gia của Trung ương, các tỉnh
bạn đến Lào Cai công tác.
Trong những năm 1976-1985, lĩnh vực du lịch của tỉnh hầu như không được chú
trọng phát triển, cơ sở vật chất hầu như không có, hoạt động du lịch chỉ mang tính chất
tự phát.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, du lịch Hoàng Liên Sơn
chuyển sang phương thức hạch toán kinh doanh, đổi mới bộ máy quản lý, tăng cường
các hình thức quảng bá, khuyến khích các ngành, các thành phần kinh tế tham gia du
lịch. Hàng loạt các cơ sở lưu trú, nhà nghỉ, khách sạn, các loại hình giải trí phục cho
mục đích du lịch của cá nhân và tổ chức kinh tế - xã hội ra đời. Tuy nhiên, giai đoạn
này các dự án lớn đầu tư cho cơ sở hạ tầng chưa nhiều, phần lớn đầu tư vào các cơ sở
lưu trú và dịch vụ ăn uống, các hình thức quảng bá về du lịch còn hạn chế, số lượng du
khách còn ít, các loại hình du lịch chưa đa dạng nên chưa có sức thu hút với du khách.
Du lịch Hoàng Liên Sơn đến năm 1990 đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang hạch toán
kinh doanh nhưng về cơ bản vẫn mang tính tự phát [42, tr.44-45].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 1
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới của Việt Nam, có lịch sử hình thành, xây
dựng và phát triển lâu đời, có truyền thống văn hóa giàu bản sắc, có tiềm năng và nguồn
tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, đa dạng. Nằm ở phía Tây Bắc của tổ quốc,
Lào Cai có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, là cửa ngõ thông
thương với nhiều vùng trong cả nước và quốc tế. Trong lịch sử phát triển, Lào Cai trải
qua nhiều biến động, đổi thay, vượt qua nhiều khó khăn và thách thức trước cuộc xâm
lược của giặc ngoại xâm phương Bắc, thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, góp phần không nhỏ
vào trang sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trong quá trình xây dựng và phát triển của tỉnh Lào Cai, những cơ sở ban đầu
của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng lần lượt hình thành và phát triển. Ngay
sau khi lực lượng cách mạng đánh đuổi bọn phản động Quốc dân Đảng, thành lập chính
quyền cách mạng, Ty Thông tin Lào Cai được thành lập. Ty đã trải qua nhiều lần đổi
tên khác nhau như Ty Thông tin Tuyên truyền (1947-1953), Ty Tuyên truyền Văn nghệ
(1954-1955), Ty Văn hóa Lào Cai (1956-1972), Ty Văn hóa Thông tin Lào Cai (1973-
1975), Ty Văn hóa Thông tin Hoàng Liên Sơn (1976-1984), Sở Văn hóa Thông tin
Hoàng Liên Sơn (1985-1991).
Bộ phận TDTT với sự hình thành tổ chức ban đầu là Ban Thể dục thể thao tỉnh
Lào Cai (1957-1970), Ty Thể dục thể thao Lào Cai (1971-1975), Ty Thể dục thể thao
Hoàng Liên Sơn (1976-1980), Sở Y tế và Thể dục thể thao Hoàng Liên Sơn (1980-
1983), Sở Thể dục thể thao Hoàng Liên Sơn (1983-1991). Hoạt động du lịch ở Lào
Cai đã có từ năm 1903 khi người Pháp xây dựng Khu nghỉ dưỡng Sa Pa. Tuy nhiên,
hoạt động này bắt đầu được quan tâm đầu tư thực sự từ sau khi đất nước thực hiện
đường lối đổi mới (1986), đặt cơ sở nền tảng cho sự phát triển du lịch giai đoạn sau
này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 2
NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH LÀO CAI TỪ NĂM 1991
ĐẾN NĂM 2008
2.1. Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn tái thiết tỉnh Lào Cai và bước đầu
phát triển (1991 - 2000)
2.1.1. Tình hình, nhiệm vụ mới
Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển,
Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam trên cơ sở kế thừa những tinh hoa, truyền thống văn hóa của dân tộc. Bước
vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành những chỉ thị, nghị quyết quan trọng về phát
triển nền văn hóa, thể thao.
Cùng với việc chú trọng phát triển kinh tế, xã hội, Đảng bộ và chính quyền tỉnh
Lào Cai luôn quan tâm phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao của tỉnh. Phát huy những
tiềm năng nhân văn, giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong
tỉnh, đánh giá đúng những khó khăn, hạn chế, tỉnh đã cụ thể hóa chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa, thể thao phù hợp với đặc điểm
tình hình của địa phương trong từng giai đoạn.
Khi mới tái lập tỉnh (1991), trước thực trạng đời sống của nhân dân còn khó
khăn, thiếu thốn, hoạt động văn hóa, thể thao còn nghèo nàn, Đảng bộ tỉnh Lào Cai xác
định: Công tác văn hóa thông tin cần quán triệt tinh thần giữ gìn và phát huy những
bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu văn hóa hiện đại phù hợp với trình độ dân trí của
nhân dân để xây dựng cuộc sống văn hóa vừa phong phú vừa lành mạnh. Khai thác và
phát huy truyền thống văn hóa, thể thao các dân tộc, gắn với phục vụ sản xuất, học tập,
nâng cao dân trí, thể lực và bảo vệ Tổ quốc.
Đến năm 1996 nước ta đã trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng với hai kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm. Trong 10 năm đó, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã phát huy cao độ nội lực của dân tộc, kiên trì mục tiêu cách mạng
xã hội chủ nghĩa vì độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, đạt được những thành tựu to lớn. Tuy vẫn còn một số mặt yếu kém, chưa
vững chắc song nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đất nước có điều
kiện để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh
đó, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được họp ở Hà Nội từ 22-6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đến 1-7-1996 khẳng định cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” được ban hành, mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp văn hóa Việt Nam.
Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp chủ yếu để
tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, toàn ngành đã phấn đấu
vượt qua nhiều khó khăn, tiếp tục khẳng định những thành tựu trong quá trình đổi
mới.
2.1.2. Hoạt động văn hóa
Ngày 13-9-1991, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn đã ra Nghị quyết về
việc đề bạt và phân công cán bộ lãnh đạo của 38 sở, ban, ngành, đoàn thể thuộc tỉnh lên
công tác tại Lào Cai, trong đó có ngành Văn hóa Thông tin, lĩnh vực thể thao, du lịch.
Tỉnh Lào Cai chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-10-1991. Dưới sự lãnh đạo
của Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời, trực tiếp là Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự quản lý,
điều hành của chính quyền các cấp và sự đồng thuận của nhân dân nên chỉ sau một thời
gian ngắn các cơ quan của tỉnh đã ổn định và đi vào hoạt động ở nơi tập kết Phố Lu,
Tằng Loỏng, thị xã Cam Đường.
Ngày 27-7-1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
VIII, kỳ họp thứ 9 đổi tên Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch thành Bộ Văn
hóa - Thông tin và Thể thao. Ở cấp tỉnh, Lào Cai đã thành lập Sở Văn hóa - Thông tin
và Thể thao do đồng chí Sần Cháng làm Giám đốc Sở. Khi mới thành lập, toàn sở Văn
hoá - Thông tin và Thể thao chỉ có hơn 60 cán bộ, nhân viên, đông nhất là Đoàn Nghệ
thuật, Bảo tàng tỉnh chỉ có 2 người, Thư viện tỉnh có 4 người. Hầu hết các cán bộ
chuyên môn như âm nhạc, biên đạo, huấn luyện viên, họa sĩ,…đều còn thiếu. Sở phải
chia nhiều bộ phận ở rải rác khu Tằng Lỏng, Bảo Thắng, Phố Lu. Thư viện tỉnh ở nhờ
Câu lạc bộ Văn hoá mỏ Apatit, Đoàn Nghệ thuật ở khu Thị ủy (Cam Đường), các cán
bộ của Trung tâm Văn hoá, Bảo tàng, Thể thao ở với Sở trong hơn chục gian nhà tóc-
xi ven suối Chát. Tuy đội ngũ cán bộ của bộ máy còn thiếu, hầu hết các đơn vị sự
nghiệp chưa ra đời nhưng ngành Văn hoá - Thông tin và Thể thao đã liên tiếp tổ chức
thành công các sự kiện lớn như tổ chức Lễ công bố Quyết định thành lập Tỉnh, Hội
khoẻ Phù đổng, phục vụ Đại hội Đảng bộ các cấp,…
Cùng với việc chú trọng phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ và chính quyền tỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lào Cai luôn quan tâm phát triển sự nghiệp văn hóa thông tin của tỉnh, phát huy những
tiềm năng nhân văn, giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong
tỉnh. Đánh giá đúng những khó khăn, hạn chế, tỉnh đã cụ thể hóa những chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển văn hóa phù hợp với đặc
điểm tình hình của địa phương trong từng giai đoạn.
Ngày 6-4-1993, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 4 (khóa X) đã ra
Nghị quyết số 05-NQ/TU về công tác giáo dục và đào tạo, bảo vệ sức khỏe, dân số và
kế hoạch hóa gia đình, văn hóa và văn nghệ. Trong công tác văn hóa và văn nghệ, Nghị
quyết đề ra mục tiêu: Khai thác, bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống của các
dân tộc. Quan tâm xây dựng các thiết chế văn hóa, nhất là cơ sở, đẩy mạnh phong trào
văn hóa, văn nghệ quần chúng. Củng cố và nâng cao chất lượng công tác văn hóa, văn
nghệ, nhất là các trung tâm văn hóa và các đội thông tin lưu động ở các huyện, thị, từng
bước nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, văn nghệ cho nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X và Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 4 khóa X của Đảng bộ, hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển sôi nổi, phong
phú và rộng khắp. Vốn văn hóa phong phú của các dân tộc được bảo tồn, khai thác,
phát huy. Hàng năm, tỉnh đều mở hội thi văn hóa giữa các dân tộc trong tỉnh, thu hút
nhiều nghệ nhân tham gia biểu diễn, thi đấu, tạo ra đời sống văn hóa tinh thần sôi động,
lành mạnh. Các thiết chế văn hóa được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới như nhà văn
hóa, thư viện, câu lạc bộ. Các Trung tâm văn hóa, Đội thông tin lưu động, Đoàn nghệ
thuật dân tộc của tỉnh được hình thành, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động. Hàng
năm, tỉnh đều tổ chức giao lưu văn hóa với tỉnh Vân Nam để tăng cường tình hữu nghị
và trao đổi hoạt động văn hóa quần chúng giữa hai tỉnh. Công tác bảo tồn, khai thác
văn hóa truyền thống các dân tộc đã được quan tâm, tập trung khôi phục các lễ hội
truyền thống văn hóa như: lễ hội xuống đồng của đồng bào Giáy, Tày; hội Sải sán của
đồng bào Mông; lễ Lập tịch, tết Nhảy của người Dao; lễ đặt tên con, vào nhà mới của
người Thái,… Các tệ nạn xã hội, các tập quán lạc hậu được hạn chế.
Sau khi tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn, cùng với việc ổn định tổ chức cán bộ,
nơi làm việc, Sở đã triển khai hàng loạt công việc chuyên môn chuyên ngành khởi đầu
sự nghiệp văn hóa thông tin toàn tỉnh. Trước thực tiễn yêu cầu phát triển sự nghiệp văn
hóa đặt ra cần phải có một đội ngũ cán bộ các cấp không những nhiệt tình, có trách
nhiệm mà còn phải có kiến thức chuyên môn, có khả năng tổ chức thực hiện các hoạt
động văn hóa, từ đầu năm 1994, Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao đã tổ chức thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện chương trình đào tạo tập huấn cho cán bộ văn hóa thông tin cơ sở.
Từ năm 1994 đến năm 1995, Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao đã tiến hành
công tác tập huấn, đào tạo cán bộ văn hóa thông tin cơ sở với nhiều nội dung. Từ việc
khảo sát thực tiễn đội ngũ cán bộ văn hóa thông tin trên địa bàn 10 huyện thị trong tỉnh,
phân loại trình độ thực tiễn, trình độ học vấn, thành phần dân tộc, từ đó xây dựng các
chương trình tập huấn cán bộ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ công tác. Nội dung
bài giảng về lý luận chủ yếu tập trung vào các vấn đề như: Đường lối văn hóa văn nghệ
của Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước; Vai trò, vị trí công tác văn hóa thông tin
trong giai đoạn cách mạng hiện tại; Nhiệm vụ của ngành văn hóa thông tin Lào Cai
trong những năm trước mắt và từ nay đến năm 2000; Các vấn đề về bảo tồn bản sắc
văn hóa các dân tộc, các chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác văn
hóa đối với các dân tộc miền núi. Các bài giảng về kỹ năng thực hành tập trung vào các
vấn đề: Xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình văn hóa (GĐVH); Chỉ đạo tổ chức các
hoạt động văn hóa thông tin, văn nghệ, thể thao ở cơ sở; Phong tục tập quán các dân
tộc, chống mê tín dị đoan, bài trừ các tệ nạn xã hội; Kỹ năng thực hành công tác thông
tin tuyên truyền và thông tin cổ động ở cơ sở; Tổ chức quản lý các lễ hội văn hóa các
dân tộc; Công tác quản lý văn hóa đối với địa bàn cơ sở.
Trong hai năm 1994 và 1995, toàn ngành đã mở được 13 lớp tập huấn cấp tỉnh
và huyện thị. Trong đó có 1 lớp tập huấn 10 ngày cho 14 cán bộ trưởng, phó phòng,
giám đốc, phó giám đốc trung tâm văn hóa huyện, thị xã tại Sở; 1 lớp tập huấn 7 ngày
cho cán bộ, đội trưởng các đội thông tin lưu động các huyện thị gồm 21 cán bộ, tổ chức
tại Phòng văn hóa huyện Sa Pa; 1 lớp tập huấn 7 ngày về nếp sống văn hóa cho đối
tượng phó chủ tịch văn xã các huyện thị, cán bộ các ban ngành trong tỉnh, các trưởng
phó phòng văn hóa huyện thị với 40 học viên tham gia. Giảng viên giảng dạy các lớp
này đến từ Cục văn hóa thông tin cơ sở và Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Lào
Cai. Tổng số học viên tham gia 3 lớp tập huấn trên là 75 cán bộ với kết quả học tập đạt
80% khá giỏi [25]. Các lớp tập huấn cán bộ văn hóa thông tin cấp xã được mở tại các
huyện thị. Qua các lớp tập huấn, bước đầu toàn thể học viên đã nắm được về cơ bản
phương pháp tổ chức một số loại hình hoạt động văn hóa thông tin cơ sở, xây dựng quy
ước nếp sống văn hóa thôn bản. Đồng thời hiểu rõ nhiệm vụ quản lý văn hóa cơ sở, các
nghị định, văn bản về văn hóa của nhà nước và những chính sách của nhà nước về văn
hóa đối với nhân dân các dân tộc miền núi để từ đó vận dụng vào điều kiện thực tế cơ
sở.
Bảo tàng tổng hợp tỉnh Lào Cai được thành lập theo Quyết định số 198/QĐ-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
UBND ngày 5/8/1992 của UBND tỉnh Lào Cai về việc thành lập các đơn vị chuyên
môn, nghiệp vụ trực thuộc Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao tỉnh Lào Cai. Chức
năng nhiệm vụ là tổ chức việc thu nhận, trưng bày, bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia, nghiên cứu khoa học về di sản trên địa bàn tỉnh. Bảo tàng tỉnh đã đẩy mạnh
công tác sưu tầm được hàng trăm hiện vật khảo cổ, y phục các dân tộc Dao, Hà Nhì,
Mông, Xá Phó, hàng nghìn ảnh tư liệu lịch sử của tỉnh, huyện. Tham gia xây dựng các
phòng truyền thống, tổ chức các cuộc trưng bày trong các dịp lễ, tết, hội chợ và các kỳ
đại hội Đảng bộ tỉnh, đại hội thi đua yêu nước, các ngày kỷ niệm lớn của tỉnh và các
địa phương. Hoạt động của Bảo tàng góp phần gìn giữ và phát huy giá trị các di sản
văn hóa, đặc biệt đã giáo dục truyền thống, khơi dậy lòng tự hào cho các thế hệ chung
sức xây dựng Lào Cai.
Hoạt động điện ảnh bám sát các nhiệm vụ chính trị, góp phần tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho
nhân dân. Năm 1992, tỉnh tổ chức được 800 buổi chiếu, đến năm 1995 tăng lên 1.230
buổi, trong đó có 630 buổi phục vụ vùng sâu, vùng xa, thu hút hàng vạn người xem.
Ngoài hoạt động thường xuyên theo kế hoạch, các đội chiếu phim còn tập trung chiếu
phục vụ nhiệm vụ chính trị trong các đợt như bầu cử, phục vụ hè cho thiếu nhi, các dịp
lễ, tết. Trong chương trình chiếu phim đã lồng ghép chiếu các phóng sự tuyên truyền
vệ sinh môi trường, phòng chống ma túy, phổ biến khoa học - kĩ thuật trồng trọt, chăn
nuôi, tuyên truyền cải cách hành chính, xây dựng nông thôn mới.
Hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng đã góp phần quảng bá hình ảnh Lào
Cai ra thế giới. Nằm ở vị trí đầu cầu, tâm điểm trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh
- Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, do đó Lào Cai có cơ hội giao lưu, tiếp
thu tinh hoa văn hóa thế giới, nhưng cũng đứng trước khó khăn là ảnh hưởng của văn
hóa ngoại lai. Vì vậy, tỉnh Lào Cai đã xây dựng chiến lược quảng bá văn hóa ra thế
giới để chủ động hợp tác và ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa bên ngoài. Hoạt
động trao đổi, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, thể thao giữa tỉnh Lào Cai với tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc) đã góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai địa phương
đầu cầu trong tuyến hành lang kinh tế. Năm 1993, cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu được
mở lại, quan hệ giao lưu về văn hóa, thể thao với Trung Quốc của tỉnh được đẩy mạnh.
Hằng năm, nhân dịp các ngày kỷ niệm, ngày lễ của hai bên, tỉnh Lào Cai và tỉnh Vân
Nam đều tiến hành trao đổi, tổ chức giao lưu nghệ thuật giữa các đoàn văn hóa nghệ
thuật, các văn nghệ sĩ và cơ quan văn hóa.
Phong trào xây dựng GĐVH là một trong ba phong trào của cuộc vận động xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dựng nếp sống mới đã có từ trước. Từ khi phát động, phong trào ngày càng được đẩy
mạnh thực hiện và đạt hiệu quả cao hơn từ nhận thức tới hành động, thực sự trở thành
phong trào quần chúng rộng rãi, tiêu chí đánh giá con người, gia đình, làng bản, cơ
quan, đơn vị. Các cấp ủy, chính quyền cơ sở đã đưa việc xây dựng GĐVH thành chỉ
tiêu thi đua.
Cùng với việc hướng dẫn và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngành
Văn hóa - Thông tin và Thể thao từ tỉnh đến huyện với công cụ thông tin tuyên truyền
đã cổ động trực quan bằng nhiều chuyên đề khác nhau như: xóa đói giảm nghèo, sinh
đẻ kế hoạch, bài trừ các tệ nạn xã hội, chống phá rừng, giữ gìn cảnh quan môi trường,
bài trừ các hủ tục lạc hậu trong tập quán các dân tộc, phổ cập giáo dục tiểu học và
chống mù chữ,…để tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh, hình thành tư tưởng, đạo
đức lối sống các thành viên trong gia đình. Năm 1999, cả tỉnh mới có 38.000 hộ gia
đình đạt tiêu chuẩn GĐVH(chiếm 38%), đến năm 2000, chỉ tính riêng số hộ đạt tiêu
chuẩn do UBND các huyện, thị công nhận trong toàn tỉnh đã có 44.642 hộ, tăng 9,8%
so với năm 1999, chiếm 42,2% số hộ toàn tỉnh. Toàn tỉnh có 18 Câu lạc bộ GĐVH vẫn
duy trì hoạt động tốt, 165 hộ tiêu biểu được UBND tỉnh tặng bằng khen, 7.620 hộ được
Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao tặng giấy khen về thành tích xây dựng
đời sống văn hóa. Tiêu biểu cho phong trào là các huyện Bảo Thắng (9.550 hộ), thị xã
Lào Cai (6.799 hộ), huyện Bảo Yên (7.834 hộ), huyện Văn Bàn (4.940 hộ), thị xã Cam
Đường (4.759 hộ) đạt tiêu chí GĐVH [5].
Trong phong trào xây dựng làng bản, khu phố văn hóa: phát huy kết quả bước
đầu và kinh nghiệm những năm trước, năm 2000 phong trào có những chuyển biến tích
cực. Số làng bản, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa cao hơn năm 1999. Năm 1999 mới
có khoảng 200 làng đạt danh hiệu làng văn hóa, đến năm 2000, toàn tỉnh có 310 làng
bản, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa được UBND tỉnh khen, 86 làng bản, khu phố được
Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao, Chủ tịch huyện khen về thành tích xây
dựng đời sống văn hóa. Điển hình là huyện Bảo Thắng, Văn Bàn, Bảo Yên, thị xã Cam
Đường.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư lựa chọn
được 449 khu dân cư tiên tiến được cấp huyện thị công nhận, 198 khu dân cư xuất sắc
được tỉnh công nhận. Phong trào xây dựng công sở, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ
trang có nếp sống văn hóa đã chọn được 193 cơ quan, đơn vị, trường học đạt tiêu chuẩn
văn hóa.
2.1.3. Hoạt động thể thao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ngày 01/10/1991 tỉnh Lào Cai được tái thành lập. Những người làm công tác
thể thao Lào Cai ở nhiều nơi, nhiều ngành đã mang ngọn lửa nhiệt tình thắp lên bó
đuốc sáng thể thao Lào Cai. Về tổ chức, bên cạnh các phòng quản lý thể thao, các trung
tâm thể thao, trung tâm huấn luyện dần dần được hình thành. Ở cấp huyện, các cán bộ
thể thao được tăng cường cho hoạt động của các phòng, trung tâm văn hóa thông tin
thể thao. Phong trào thể thao quần chúng phát triển khá mạnh, nhất là ở khu vực công
nhân, viên chức.
Nhiều môn thể thao dân tộc được phát triển từ những trò chơi dân gian như đánh
quay, ném còn, đánh yến, các môn thể thao phổ biến ở đồng bào vùng cao như bắn nỏ,
bắn súng kíp được khôi phục và nhân rộng, nhiều câu lạc bộ thể thao được thành lập
và duy trì hoạt động. Chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ thể thao được nâng cao,
phong trào tập luyện các môn thể thao như đi bộ, cầu lông, bóng đá,…tiếp tục được
duy trì trong nhân dân. Phong trào tập luyện thể thao trong công nhân, viên chức, lao
động và lực lượng vũ trang được đẩy mạnh. Công tác giáo dục thể chất, thể thao trong
trường học được chú trọng. Tỷ lệ người dân tham gia hoạt động thể thao ngày càng
cao. Năm 1993 toàn tỉnh có khoảng 16.000 người tham gia luyện tập thể thao thường
xuyên.
Sau 3 năm hợp nhất với Ngành Văn hóa Thông tin, ngày 24-1-1994 Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định số 33/TTg về việc thành lập Sở TDTT các tỉnh. Ngày 23-
4-1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 36/CT-TW về công tác TDTT trong
giai đoạn mới. Từ việc đánh giá thực trạng phong trào thể thao, Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã nêu ra 4 quan điểm của Đảng trong lãnh đạo công tác TDTT và khẳng định
rõ: Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát huy nhân tố con
người. Công tác TDTT phải góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách,
đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
nâng cao năng suất lao động và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Xây dựng nền
thể thao có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền
thống dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu hiện đại. Phát triển rộng
rãi phong trào TDTT quần chúng với khẩu hiệu “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”,
từng bước xây dựng thể thao chuyên nghiệp. Mục tiêu cơ bản lâu dài của công tác
TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể
lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân và phấn đấu đạt vị trí xứng đáng
trong các hoạt động TDTT quốc tế và trước hết ở khu vực Đông Nam Á.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trung tâm Thể dục thể thao tỉnh Lào Cai được thành lập và chính thức đi vào
hoạt động ngày 01-8-1998. Khi mới ngày đầu thành lập chỉ có 18 cán bộ công nhân
viên chức. Đội ngũ cán bộ còn ít ỏi, trình độ chưa cao, thiếu thốn về cơ sở vật chất, các
trang thiết bị phục vụ cho thi đấu và đào tạo VĐV còn quá nghèo nàn và lạc hậu song
Ban giám đốc (Đồng chí Nguyễn Văn Thắng và đồng chí Phạm Xuân) cùng toàn thể
cán bộ công nhân viên chức đã đoàn kết gắn bó vượt qua những khó khăn, từng bước
củng cố và phát triển đơn vị vững vàng đi lên.
Từ khi Trung tâm mới thành lập, các giải thể thao còn ít, chất lượng chưa cao,
đội ngũ cán bộ còn non trẻ phần nào chưa đáp ứng được với yêu cầu của phong trào.
Nhưng ngay sau đó, Trung tâm TDTT đã thực sự trở thành nơi khơi nguồn, tiếp sức
cho phong trào TDTT quần chúng trên địa bàn tỉnh phát triển. Qua mỗi năm, mỗi giải
thể thao được tổ chức, đội ngũ cán bộ làm trọng tài ngày càng vững vàng xứng đáng là
người cầm cân nẩy mực. Công tác tổ chức thi đấu ngày càng được khoa học và chính
xác góp phần quyết định vào sự thành công của các giải thể thao. Hàng năm, Trung
tâm chủ động tham mưu tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, TDTT, tạo không
khí vui tươi, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân, thiết thực chào mừng các ngày lễ
lớn của đất nước phục vụ các nhiệm vụ chính trị địa phương. Vào những dịp đầu xuân
và kỷ niệm những ngày lễ lớn, Trung tâm đã cử cán bộ đến các xã, phường, thị trấn,
các huyện, thành phố giúp tổ chức thi đấu. Các môn thể thao truyền thống được tổ chức
như: cờ người, chọi gà, kéo co, đẩy gậy, bóng chuyền, bóng đá; tổ chức giao hữu bóng
chuyền chào mừng ngày giải phóng miền Nam 30-4 và ngày Quốc tế lao động 1-5; tổ
chức giải việt dã thành phố chào mừng kỷ niệm Quốc khánh 2-9,... Trong các dịp nghỉ
hè, Trung tâm Thể dục thể thao đã phối hợp với Nhà thiếu nhi tỉnh, các trường phổ
thông, tiểu học tổ chức các lớp năng khiếu thể thao như cờ vua, cầu lông, bơi,... thu hút
hàng trăm thiếu niên, nhi đồng tham gia trong mỗi dịp hè. Tham gia lớp học, nhiều em
đã thể hiện năng khiếu thể thao, được chọn vào đội tuyển thành phố, bồi dưỡng, làm
hạt nhân tham gia các giải thể thao của tỉnh. Cùng với việc đẩy mạnh phong trào thể
thao quần chúng tại mỗi địa phương, đầu năm học hàng năm, Trung tâm phối hợp với
các trường học trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh phát triển thể thao học đường nâng cao thể
chất cho học sinh, lựa chọn được nhiều học sinh có năng khiếu đào tạo để tham gia giải
tỉnh, tham gia Hội khỏe Phù Đổng,… Trung tâm đã được nhận cờ thi đua xuất sắc năm
1999 của UBND tỉnh.
Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” là phong
trào nổi bật nhất trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(TDĐKXDĐSVH). Thông qua các cuộc thi đấu thể thao từ cơ sở đến tỉnh với đủ các
tầng lớp xã hội từ người dân lao động đến công chức, thiếu niên nhi đồng đến người
cao tuổi, từ công an đến chiến sỹ biên phòng, quân đội đã thể hiện sự phát triển sâu
rộng và rầm rộ của phong trào.
Năm 1999 mới có 8,5% dân số toàn tỉnh luyện tập thể dục, đến năm 2000 đã đạt
10%. Tỷ lệ số hộ gia đình thể thao cũng tăng lên từ 2% đến 3%. Các trường học đều
thực hiện tốt việc giáo dục thể chất cả chính khóa và ngoại khóa. Năm 2000 đạt 80%
số trường duy trì, tăng 10% so với năm 1999. Các đơn vị quân đội, công an cũng duy
trì tốt các hoạt động rèn luyện thân thể. So với năm 1999, tỷ lệ cán bộ, chiến sỹ đạt tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể (chiến sỹ khỏe) đạt 95%, tăng 10%. Bộ đội biên phòng đạt
95%, tăng 9%, công an nhân dân đạt 96% chiến sỹ khỏe, tăng 6%.
Công tác xã hội hóa TDTT không ngừng được củng cố và phát triển. Ngoài 3
Liên đoàn (cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền), năm 1999 toàn tỉnh có 100/180 xã,
phường quy hoạch đất cho hoạt động TDTT, xây dựng được 31 nhà thi đấu thể thao.
Năm 2000 toàn tỉnh có 101 câu lạc bộ TDTT (tăng 25% so với năm 1999).
Năm 2000, tỉnh đã tổ chức được nhiều giải thể thao quần chúng: 3 giải khu vực
và toàn quốc, 13 giải truyền thống cấp tỉnh với 20 cuộc thi đấu giao lưu các tỉnh khu
vực, 92 cuộc thi đấu cấp huyện, thị xã. Trong số đó có 2 đội bóng chuyền (nam, nữ)
đạt hạng A2 toàn quốc, 2 VĐV cấp I bóng bàn, 4 HCV, 8 HCB, 4 HCĐ giải khu vực
[5].
2.1.4. Hoạt động du lịch
Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 8 ngày 12/8/1991 sáp nhập Tổng cục
Du lịch vào Bộ Thương mại và Du lịch. Ngày 26/10/1992, Chính phủ ra Nghị định
số 05/NĐ-CP thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ. Song song với
việc ổn định bộ máy quản lý Nhà nước ở Trung ương, Tổng cục Du lịch đã nghiên
cứu phương án kiện toàn hệ thống quản lý Nhà nước ở các địa phương. Tổng cục Du
lịch đã trình Chính phủ cho thành lập 10 Sở Du lịch ở các tỉnh và thành phố là trung
tâm du lịch (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thừa Thiên
- Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu và Cần
Thơ). Đối với các tỉnh chưa có quyết định thành lập Sở Du lịch như Lào Cai, Tổng
cục và Ban cán bộ Chính phủ đã có hướng dẫn đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh giao cho
Sở Thương mại và Du lịch thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch ở địa
phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Từ năm 1992, hoạt động của ngành Du lịch có điều kiện thuận lợi mới, được
Đảng, Nhà nước và Chính phủ quan tâm. Các cấp, các ngành nhận thức, đánh giá vai
trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của du lịch rõ hơn. Chính sách đối ngoại cởi mở cùng
với quá trình hoàn thiện các văn bản pháp luật điều hành hoạt động kinh tế - xã hội
trong nước đã tạo cho ngành Du lịch một môi trường pháp lý thuận lợi và ổn định dần.
Hình ảnh Việt Nam đổi mới, muốn là bạn với tất cả các nước, những thành tựu kinh tế
của đất nước đã tạo điều kiện cho ngành Du lịch mở rộng thêm quan hệ với nhiều nước
trên thế giới. Việc Chính phủ quyết định thành lập Tổng cục Du lịch với chức năng
quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch trong cả nước là nguồn động viên, khích
lệ, tạo nên khí thế mới, nâng cao nhiệt tình và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công
nhân viên toàn ngành đối với sự nghiệp phát triển du lịch cả nước nói chung, tỉnh Lào
Cai nói riêng.
Thời kỳ trước khi tái lập, du lịch Lào Cai chỉ mang tính tự phát, cơ sở vật chất
hầu như chưa có. Từ sau năm 1992 ngành du lịch được thành lập, du lịch Lào Cai bắt
đầu có những bước phát triển mới, hoạt động kinh doanh khách sạn bắt đầu phát triển.
Năm 1992, tỉnh có 2 cơ sở nhà khách với 50 phòng, 150 giường. Cả năm 1992, Lào
Cai đón 8.000 lượt khách du lịch.
Thực hiện Quyết định 317 của Chính phủ, từ năm 1995, Sở Thương mại và Du
lịch đã tổ chức cấp đăng ký kinh doanh tạm thời cho 15 cơ sở. Đến năm 1995, Lào Cai
đã có 53 cơ sở nhà khách kinh doanh khách sạn với 525 phòng, 1114 giường, trong đó
70% là phòng khép kín có thể đón khách quốc tế, tăng gấp 10 lần so với 5 năm trước.
Với số lượng này đã đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu khách du lịch. Tuy nhiên vào
thời kỳ cao điểm mùa du lịch từ tháng 4 đến tháng 8 vẫn xảy ra tình trạng thiếu phòng
nghỉ. Phần lớn khách sạn nhỏ, trang thiết bị chưa tốt, tư nhân thường kết hợp với nhà
nghỉ để kinh doanh, số khách sạn tập trung ở Sa Pa 70%, thị xã Lào Cai 20%. Thành
phần quốc doanh chiếm chủ yếu (78%) nhưng số cơ sở thực sự kinh doanh chỉ có 13%
trong ngành Thương mại và Du lịch, còn lại 43% do các ngành, đoàn thể,…quản lý
vừa kinh doanh vừa phục vụ. Nhà nước còn bao cấp về vốn, cơ sở vật chất, lao động,
chưa thực sự bình đẳng trong kinh doanh.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, du lịch Lào Cai vẫn chỉ được xác định là “thu hút
khách và tăng thu vào ngân sách”. Để thực hiện được điều này, Đảng bộ tỉnh cũng chỉ
ra là cần phải đầu tư xây dựng khu du lịch Sa Pa và các di tích khác, cải tiến quản lý
du lịch thì mới có khả năng thu hút được khách du lịch tới Lào Cai và qua đó mới có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thể đóng góp cho ngân sách cho tỉnh.
Qua thực tiễn triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần
thứ II nhiệm kỳ 1996 - 2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XII đánh giá:
Kinh tế du lịch có bước phát triển khá cả về xây dựng quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất, xúc tiến và quảng bá, đã quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ và nâng cao chất
lượng dịch vụ, tăng cường quản lý Nhà nước về du lịch. Lượng du khách tăng bình
quân hàng năm 57%, doanh thu tăng 73% và nộp ngân sách tăng 18% [39, tr.17].
2.2. Văn hóa, Thể thao và Du lịch thời kỳ hội nhập và phát triển (2001 - 2008)
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển văn
hóa, nghệ thuật, thông tin, TDTT (2001 - 2010), Đảng bộ tỉnh Lào Cai chủ trương: Đẩy
mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” bài trừ hủ
tục lạc hậu, khắc phục tình trạng mê tín dị đoan, phòng chống có hiệu quả các sản phẩm
văn hoá đồi trụy, phản động; Tiếp tục đẩy mạnh công tác sưu tầm, khai thác, phát huy
bản sắc và sự đa dạng văn hoá truyền thống của các dân tộc Lào Cai thành một nguồn
lực phát triển kinh tế - xã hội; Đẩy mạnh công tác xã hội hoá văn hoá - thông tin.
Nhiều chủ trương, biện pháp tăng cường đổi mới sự lãnh đạo, điều hành mang
tính sáng tạo, đột phá nhằm khắc phục khó khăn, tồn tại, khai thác những tiềm năng,
thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã được thực hiện trong giai đoạn này, nổi
bật là việc cụ thể hóa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng thành
những chương trình công tác trọng tâm, đề án, nghị quyết chuyên đề của đảng bộ trong
các nhiệm kỳ. Trong đó quan trọng nhất là các Đề án: “Khai thác, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc Lào Cai (2001-2005)” của Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
với mục tiêu bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị, phát huy các
di sản nhằm xây dựng các di sản trở thành nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, phát
động mỗi vùng, mỗi tộc người có các sản phẩm văn hóa trở thành đặc sản. Đề án “Phát
triển văn hoá, giữ gìn bản sắc các dân tộc Lào Cai giai đoạn 2006-2010” của Tỉnh uỷ
Lào Cai trong đó có dự án đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá”, tập trung vào cải tạo phong tục tập quán lạc hậu, lồng ghép vào việc nghiên
cứu xây dựng các mô hình hoạt động văn hoá cơ sở vùng du lịch, vùng đặc biệt khó
khăn. Ngoài ra còn có Đề án “Phát triển TDTT tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006 - 2010” .
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh đã ban hành
các nghị quyết, quy định cụ thể về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, sinh hoạt tín ngưỡng và chế độ khen thưởng trong phong trào “Xây dựng gia đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn hoá, thôn bản, khu phố văn hoá”; cân đối bố trí nguồn vốn thực hiện các đề án về
văn hóa, thể thao .
2.2.1. Hoạt động văn hóa
Từ năm 2001 đến 2005, tổ chức bộ máy Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao
tỉnh Lào Cai gồm lãnh đạo Sở (Giám đốc và 2 Phó giám đốc), 5 phòng ban (Kế hoạch
- tài chính, Quản lý nghiệp vụ văn hóa - thông tin, Nghiệp vụ TDTT, Tổ chức - Hành
chính, Thanh tra), 6 đơn vị trực thuộc (Trung tâm Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Thể
dục - Thể thao, Đoàn nghệ thuật dân tộc tỉnh, Bảo tàng tổng hợp, Thư viện tổng hợp,
Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng).
Trong phong trào “TDĐKXDĐSVH”, năm 2004, toàn tỉnh đã xây dựng được
72.447 GĐVH, 634 làng bản (tổ dân phố) văn hóa; 636 cơ quan, đơn vị văn hóa, 1.410
khu dân cư tiên tiến. Đặc biệt có 3 xã đăng ký phấn đấu xã văn hóa: Việt Tiến, Lương
Sơn của huyện Bảo Yên; Nậm Cang của huyện Sa Pa; xây dựng được 83 nhà văn hóa
thôn bản, trong đó có 47 nhà văn hóa do nhân dân tự đóng góp, khẳng định sự quan
tâm và nhận thức của nhân dân đối với phong trào tiếp tục được nâng lên. Tỷ lệ số hộ,
thôn bản đạt tiêu chuẩn văn hóa hàng năm tăng lên. Năm 2005 có 25% thôn bản, 45%
số hộ trong vùng đạt tiêu chuẩn văn hóa. Nhiều thôn bản đã xây dựng được hương ước
làng bản, 10% số thôn bản đã xây dựng được nhà văn hóa cộng đồng. Các hoạt động
văn hóa mang bản sắc dân tộc vùng cao đang được củng cố. Có 90% số xã có nhà bưu
điện văn hóa xã và các xã đều có điện thoại. Tỷ lệ số hộ được nghe Đài Truyền hình
Việt Nam đạt 60%. Số hộ được xem truyền hình đạt 40%. Tuy tỷ lệ này còn thấp nhưng
với điều kiện vùng sâu vùng xa thì đó là sự cố gắng lớn của địa phương để phục vụ đời
sống văn hóa tinh thần cho nhân [57].
Cùng với việc xây dựng các thiết chế văn hóa, công tác xây dựng các đội văn
nghệ được quan tâm và ngày càng phát triển. Đến tháng 12-2004, toàn tỉnh đã xây dựng
được 167 đội văn nghệ, tổ chức được 500 buổi biểu diễn văn nghệ cơ sở nhân dịp kỷ
niệm các ngày lễ lớn. Việc thực hiện quy định nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang và lễ hội có bước chuyển biến. Thành phố Lào Cai và huyện Sa Pa đã xây dựng
và ban hành quy định nếp sống văn minh đô thị, nếp sống văn hóa làng, bản du lịch.
Trong các dịp lễ hội, công tác an ninh trật tự được đảm bảo, từng bước xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh.
Tuy nhiên, phong trào vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục như: Việc
triển khai phong trào ở một số nơi còn hình thức, chiếu lệ; nhiều cơ sở vùng cao chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xây dựng được quy ước, hương ước; việc cưới xin, tang lễ còn tổ chức linh đình, các
hủ tục, nhất là tảo hôn còn tồn tại gây dư luận xấu trong nhân dân. Việc thực hiện chủ
trương xã hội hóa xây dựng các thiết chế văn hóa còn chậm, chưa đồng bộ, nhiều địa
phương còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước; nhiều nhà văn hóa sau khi xây dựng
xong không hoạt động hiệu quả; việc công nhận các danh hiệu văn hóa còn tràn lan,
chưa đảm bảo chất lượng, nhất là vệ sinh môi trường ở các gia đình, làng bản vùng cao;
việc phối hợp giữa các ngành trong thực hiện phong trào chưa chặt chẽ, hiệu quả còn
thấp [58].
Thực hiện Kế hoạch phối hợp Liên bộ số 2723/CTCT ngày 12/4/2001 giữa Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc thực hiện
công cuộc vận động “TDĐKXDĐSVH” trong trường học, Sở Giáo dục và Đào tạo với
Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Lào Cai đã xây dựng và thống nhất ký kết chương
trình phối hợp hoạt động “Xây dựng đời sống văn hóa trong trường học giai đoạn 2006-
2010”. Mục đích của chương trình nhằm đưa Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) vào
cuộc sống, góp phần “Xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”; Nâng cao nhận thức về tư tưởng chính trị, truyền thống yêu nước cách
mạng và đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên trong nhà trường; Đẩy mạnh tổ chức
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, thông tin tuyên truyền, nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa, văn nghệ cho cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên trong trường học.
Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và sinh hoạt
tín ngưỡng tại nơi thờ tự trên địa bàn tỉnh Lào Cai: Quán triệt Chỉ thị số 27-CT/TW
ngày 12/1/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 12/2002/NQ-
HĐND, ngày 27/7/2002, UBND tỉnh Lào Cai ra Quyết định số 305/2002/QĐ-UB ban
hành Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và sinh
hoạt tín ngưỡng tại nơi thờ tự trên địa bàn tỉnh Lào Cai. UBND tỉnh đã giao cho Sở
Văn hóa - Thông tin và Thể thao là cơ quan thường trực phối hợp với các sở, ban,
ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh tổ chức triển khai, hướng dẫn tổ
chức cơ sở thực hiện. Bằng nhiều hình thức tuyên truyền thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, tổ chức các hội thi hướng về cơ sở, nhiều huyện, thành phố đã xây
dựng và ban hành đề án, nghị quyết, quyết định, quy định cụ thể việc thực hiện nếp
sống văn minh phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Ở các xã, phường, thị trấn, khu vực nông thôn vùng thấp và một số thôn bản
vùng cao, các đôi nam nữ thanh niên khi xây dựng gia đình đã đến UBND xã đăng ký
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kết hôn theo quy định của pháp luật. Nghi lễ cưới xin rườm rà, hiện tượng mê tín dị
đoan, tình trạng thách cưới vùng cao mang tính gả bán dần được khắc phục. Ở khu vực
nông thôn vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tục thách cưới cao giảm dần, mỗi đám cưới
quy ra tiền không quá 5 triệu đồng, thời gian ăn uống từ 3 đến 4 ngày giảm xuống còn
1 ngày. Năm 2002, toàn tỉnh có 65,6% cặp kết hôn đúng Luật hôn nhân và gia đình thì
đến tháng 12-2008 đã có trên 82% cặp kết hôn ở vùng thấp và 75% cặp kết hôn ở vùng
cao dân tộc thiểu số thực hiện đúng Luật hôn nhân và gia đình [19].
Ở khu vực xã, phường, thị trấn vùng thấp, các lễ tang đều được tổ chức trang
nghiêm, tiết kiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, hạn chế được việc tổ chức ăn uống linh
đình. Các ban nhạc hiếu hoạt động đúng thời gian quy định. Việc sử dụng tang phục
theo đúng phong tục truyền thống của từng dân tộc, thời gian quản xác người chết ở
nhà và tổ chức tang lễ không quá 48 giờ. Trường hợp người chết do dịch bệnh truyền
nhiễm không để quá 12 giờ và thực hiện đúng theo quy định của Bộ Y tế. Trường hợp
người chết đột ngột, không rõ nguyên nhân đều được báo cáo chính quyền và các cơ
quan chức năng xử lý, khám nghiệm tử thi, giải quyết đúng pháp luật. Việc đưa tang
đảm bảo an toàn giao thông và trật tự công cộng. Nhiều địa phương đã quy hoạch được
nghĩa địa và thực hiện tốt việc chôn cất tập trung, đảm bảo vệ sinh môi trường theo quy
định. Các lễ 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày đã dần được tổ chức gọn nhẹ trong nội bộ gia
đình. Huyện Bát Xát, Sa Pa, Bảo Thắng đã tổ chức được Hội nghị Già làng, Trưởng
dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng để tuyên truyền cải tạo phong tục tập quán
đã thu được nhiều kết quả. Các nghi lễ, hủ tục phúng viếng lạc hậu của con cháu, họ
hàng trong đồng bào các dân tộc thiểu số dần được xóa bỏ nhưng vẫn giữ được bản sắc
dân tộc.
Các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh đã được khôi phục, duy trì và phát triển.
Hàng năm có khoảng 40 lễ hội được tổ chức trên địa bàn tỉnh nhất là vào những ngày
đầu xuân mới như: Lễ hội Say Sán của đồng bào Mông; Lễ hội Xuống đồng của đồng
bào Tày, Giáy, Nùng; Lễ hội cúng rừng của người Nùng, Mông, Dao, Thu Lao, Bố Y;
Lễ hội khô già già, gặt tu lu của người Hà Nhì. Ngoài ra còn có một số lễ hội mới, kết
hợp dân gian với hiện đại gắn với các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh
như: Lễ hội Đền Thượng, Lễ hội trên mây, Lễ hội du lịch Bắc Hà, Lễ hội đền Bắc Hà,
Lễ hội Đền Bảo Hà; Lễ hội du lịch “Hướng về cội nguồn” của 3 tỉnh Lào Cai - Phú
Thọ - Yên Bái,… Đối với lễ hội dân gian ở cơ sở, ban tổ chức đều xây dựng chương
trình cụ thể được báo cáo với chính quyền địa phương và các ngành chức năng trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khi tổ chức. Lễ hội có quy mô từ cấp huyện, tỉnh đều được xây dựng kịch bản chương
trình, được tổ chức theo nghi lễ trang trọng, có nội dung phong phú, giá trị văn hóa cao,
mang đậm bản sắc dân tộc. Các hiện tượng mê tín dị đoan, lôi kéo chụp ảnh, chèo kéo
khách và hiện tượng ăn xin được hạn chế.
Về sinh hoạt tín ngưỡng tại nơi thờ tự, các nơi thờ tự trên địa bàn tỉnh đều được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Công tác quản lý, bảo quản các điểm di
tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng và hệ thống đền, chùa, miếu ở các địa phương
được tỉnh cho phép hoạt động đều được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Nhân dân trong tỉnh và du khách ngoài tỉnh đến tham quan, hành lễ đều nhận thức đúng
đắn về quyền tự do tín ngưỡng và thực hiện đúng nội quy tại nơi thờ tự theo quy định
của Nhà nước.
2.2.2. Hoạt động thể thao
Khi mới thành lập, Sở Văn hoá - Thông tin và Thể thao có 2 bộ máy của ngành
là văn hoá và thể thao. Ngày 1/1/2005, Sở Thể dục Thể thao Lào Cai được thành lập.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XIII, UBND tỉnh đã xây dựng
và ban hành 21 Đề án với 57 dự án thành phần thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội (21/29 Đề
án, Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy), trong đó có Đề án Phát triển TDTT giai đoạn
2006-2010. Đây là một trong 29 đề án, nghị quyết chuyên đề thuộc 7 Chương trình
trọng tâm toàn khóa của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XIII, nhiệm kỳ
2005-2010. Đề án gồm 3 Dự án thành phần: Dự án quy hoạch phát triển sự nghiệp
TDTT tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020; Dự án xây
dựng các công trình TDTT trọng điểm trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006-2010;
Dự án đào tạo, phát triển VĐV thể thao thành tích cao tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006-
2010.
Thể dục, thể thao quần chúng là hoạt động tập luyện, biểu diễn, thi đấu thể dục,
thể thao tự nguyện nhằm nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần cho người tập. Phong
trào TDTT quần chúng là nền tảng hoạt động thể thao của bất cứ tỉnh, thành nào, góp
phần phát hiện, tuyển chọn các VĐV thành tích cao. Để phát triển phong trào TDTT
quần chúng, công tác đào tạo, tập huấn nhằm từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ
TDTT ở cơ sở đã được tỉnh triển khai. Tính đến năm 2008, các huyện đã có từ 1 đến 2
cán bộ chuyên trách về TDTT được đào tạo chuyên ngành về TDTT. Cấp xã, phường
đều có cán bộ làm công tác văn hóa và thể thao, các hướng dẫn viên, cộng tác viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TDTT. Tỷ lệ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ
công tác TDTT đạt 50%. Tuy nhiên, về tổng thể, công tác đào tạo cán bộ TDTT cấp cơ
sở chưa hiệu quả, đội ngũ cán bộ TDTT các cấp vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn,
nghiệp vụ, nhất là cấp xã. Việc quy hoạch quỹ đất phục vụ sự nghiệp phát triển TDTT,
xây dựng sân vận động và các công trình thể thao trọng điểm mới chỉ chú trọng ở thành
phố Lào Cai, còn ở các xã thuộc huyện mới chỉ đạt 65%. Năm 2008 mới có 4 huyện có
nhà tập (9x15m) gồm Sa Pa, Bảo Yên, Văn Bàn, Si Ma Cai và 5 huyện gồm Bắc Hà,
Si Ma Cai, Bảo Thắng, Bát Xát, Mường Khương có sân vận động đủ tiêu chuẩn. Tuy
nhiên, các sân vận động này chưa có khán đài và hệ thống chiếu sáng.
Công tác TDTT quần chúng được duy trì và phát triển tốt trong các đối tượng
học sinh, thanh thiếu niên, lực lượng vũ trang, nông dân, công nhân viên chức,…
Phong trào tập luyện TDTT quần chúng ngày càng càng phát triển sâu rộng. Đây là
kết quả và thành tích trong việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân
thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Tính đến hết năm 2002, số người tập luyện thường
xuyên đạt 78.000 người (13% dân số); 360 trường đạt đảm bảo giáo dục thể chất
(chiếm 80% số trường); 65 trường có phong trào ngoại khóa TDTT (15% số trường);
46 nhà luyện tập TDTT có mái che; 15 sân vận động đơn giản; 245 sân bóng chuyền,
cầu lông ngoài trời; 3 bể bơi; 4 sân tennis; 230 hướng dẫn viên đào tạo thể thao; 2
Liên đoàn thể thao (bóng chuyền, cầu lông); 5.000 hộ gia đình thể thao được cấp giấy
chứng nhận. Từ năm 2006 đến 2008, số người tham gia luyện tập TDTT thường xuyên
tăng từ 96.965 người (chiếm 16,2% dân số) lên 109.816 người (chiếm 18,5% dân số).
Dưới sự chỉ đạo của 2 ngành: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa - Thông tin
và Thể thao, công tác giáo dục thể chất trong trường học được cải thiện. Năm 2002 có
80% số trường đảm bảo giáo dục thể chất, 15% số trường có phong trào tập luyện ngoại
khóa, cơ sở vật chất được tăng cường, tu sửa, làm mới sân bãi luyện tập, đầu tư dụng
cụ luyện tập. Tháng 10/2002, ngành đã tổ chức cuộc giao lưu “Cụm sư phạm Trung
Bắc” với 8 đoàn VĐV, 240 học sinh dự thi, 6 môn thể thao gồm bóng đá, cầu lông,
bóng chuyền, bóng bàn, cờ vua, điền kinh. Đây là sự kiện chính trị xã hội lớn, tranh
thủ được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân các dân tộc Lào Cai. Đến năm 2006, 85%
số trường học trong toàn tỉnh đảm bảo chương trình giáo dục thể chất, 41% trường học
thường xuyên tham gia các hoạt động TDTT ngoại khóa. Đến năm 2008 đã có 100%
số trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất, 50% số trường có hoạt động thể
thao ngoại khóa, tiêu biểu như các Trường trung học phổ thông: số 1 Lào Cai, số 1 Bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thắng, số 1 Mường Khương, Dân tộc Nội trú tỉnh; Trường trung học cơ sở Ngô Văn
Sở, Trường tiểu học Hoàng Văn Thụ (thành phố Lào Cai). Toàn tỉnh có 45% số trường
học từ cấp tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông có đủ giáo viên chuyên
trách TDTT. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 2008, việc quy hoạch sân bãi, đầu tư cơ sở
vật chất phục vụ công tác giáo dục thể chất trong nhà trường còn nhiều hạn chế. Lào
Cai vẫn thiếu các địa điểm để thanh thiếu niên vui chơi và rèn luyện thể chất, đặc biệt
là vùng sâu, vùng xa.
Phong trào TDTT trong cán bộ, viên chức có những tiến bộ vượt bậc, 90% các
ngành trong tỉnh có câu lạc bộ TDTT, 45% cán bộ công chức tham gia tập luyện TDTT.
Tiêu biểu nhất là ngành Văn hóa - Thông tin và Thể thao (từ 2008 là Văn hóa, Thể thao
và Du lịch), Giáo dục và Đào tạo, Thuế, Ngân hàng, Tài chính, Hải quan, Bưu điện có
số người tham gia tập luyện TDTT đạt trên 60%.
Công tác TDTT trong lực lượng vũ trang được duy trì và đẩy mạnh, tạo dựng
thêm cơ sở vật chất, sân bãi tập luyện và dụng cụ thể thao. Qua công tác kiểm tra hàng
năm, 98% cán bộ chiến sỹ tham gia tập luyện TDTT, trên 95% quân số đạt danh hiệu
“chiến sỹ khỏe”. Tiêu biểu như Công an huyện Bảo Thắng, Mường Khương, Công an
tỉnh, Ban Chỉ huy quân sự thành phố Lào Cai, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh.
Hoạt động TDTT ở khu vực nông thôn được đẩy mạnh, toàn tỉnh có 16% nông
dân tham gia tập luyện TDTT, tiêu biểu nhất là phong trào tại các xã Nghĩa Đô (Bảo
Yên), Gia Phú (Bảo Thắng), Bản Sen (Mường Khương), Quang Kim (Bát Xát),…
Thể thao trong đối tượng người cao tuổi được hưởng ứng tích cực, thu hút trên 80%
số người cao tuổi tham gia với các môn thể thao phù hợp người cao tuổi như đi bộ,
cầu lông, bóng bàn, cờ tướng, thể dục dưỡng sinh, khiêu vũ thể thao. Nhiều câu lạc
bộ người cao tuổi hoạt động có hiệu quả như thể dục dưỡng sinh phường Kim Tân,
phường Bình Minh, Câu lạc bộ Hồng Hà (phường Cốc Lếu), Câu lạc bộ phường Lào
Cai,…
Tính đến năm 2008, số hộ gia đình thể thao đạt 7.458 hộ, chiếm 6,5% và tăng
0,7% so với năm 2006. Các “Hộ gia đình thể thao” phát triển nhanh ở hầu hết các cụm
tổ dân phố và lan tỏa tới làng bản, thôn xóm. Đối với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân gian tiếp tục được
khai thác và đưa vào tổ chức trong các lễ hội của địa phương. Hàng năm, tỉnh tổ chức
từ 12 đến 16 giải thi đấu truyền thống, hơn 30 cuộc thi đấu của các ngành, gần 100 các
cuộc thi đấu cấp huyện, trên 300 cuộc thi đấu của xã, phường, thị trấn. Đại hội TDTT,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hội khỏe Phù Đổng, Ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc, Hội thi thể thao các dân
tộc thiểu số thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân đến tham gia, qua đó nâng cao thể
lực, đời sống tinh thần cho nhân dân, góp phần đẩy lùi tệ nạn xã hội địa phương.
Sự tham gia đông đảo của các thành phần dân cư cũng như số người tập luyện
TDTT thường xuyên tăng lên nhanh chóng đã chứng tỏ được sự phát triển sâu rộng của
phong trào thể thao quần chúng. Đây là điểm tích cực so với thời điểm trước năm 2001.
Tuy nhiên, việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ cho hoạt động thể
thao quần chúng còn nhiều yếu kém, bất cập, nhất là ở cơ sở.
Thể dục, thể thao thành tích cao là hoạt động tập luyện và thi đấu thể thao của
VĐV, trong đó thành tích cao, kỷ lục thể thao được coi là giá trị văn hóa, là sức mạnh
và năng lực sáng tạo của con người. Ngoài nhiệm vụ tăng cường về thể chất nói chung,
TDTT thành tích cao có nhiệm vụ quyết định hơn, nặng nề hơn là tìm kiếm, bồi dưỡng
và phát triển năng lực thể chất trội của từng cá thể, tìm được năng lực tối đa của họ để
phát triển thành người tài thể thao. Đối với thể thao thành tích cao, Sở Văn hóa - Thông
tin và Thể thao tỉnh Lào Cai đã duy trì các lớp năng khiếu TDTT bán tập trung. Công
tác tuyển chọn, đào tạo VĐV được đặc biệt quan tâm với các test kiểm tra phù hợp và
mở rộng phạm vi tuyển chọn trên địa bàn toàn tỉnh. Năm 2002 đào tạo được 45 VĐV
ở 03 lớp (điền kinh, cầu lông, bóng bàn), 01 lớp võ thuật Taekwondo theo hướng câu
lạc bộ với 50 VĐV. Năm 2006 có 07 lớp năng khiếu (Bóng bàn, Cầu lông, Wushu,
Pencaksilat, Taekwondo, Boxing, Điền kinh). Từ năm 2007-2008 thành lập bổ sung 01
lớp năng khiếu Bi sắt, nâng tổng số lớp năng khiếu lên 08 lớp. VĐV các lớp năng khiếu
được duy trì đều trong các năm với số lượng 80 VĐV hệ bán tập trung; 30 VĐV hệ tập
trung. Hàng năm, định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá và tuyển chọn bổ sung các VĐV,
đảm bảo duy trì số lượng VĐV của các tuyến năng khiếu. Năm 2008, đã tiến hành đợt
kiểm tra toàn diện nhằm đánh giá khả năng phát triển của VĐV các lớp năng khiếu, từ
đó xây dựng kế hoạch đào tạo huấn luyện và thải loại những VĐV không có khả năng
phát triển tiếp, đảm bảo việc đào tạo tập trung, có chất lượng.
Về thành tích, số VĐV đạt huy chương và được phong đẳng cấp tiếp tục tăng,
từng bước khẳng định vị thế của Lào Cai. Trong các nội dung cầu lông trẻ, bóng bàn trẻ,
Taekwondo khu vực và giải mở rộng năm 2002, đoàn Lào Cai đã giành được 7 HCV, 4
HCB, 6 HCĐ [26]. Từ năm 2006 đến 2008, số huy chương trung bình/năm mà thể thao
Lào Cai đạt được trong các giải đấu cấp quốc gia và giải khu vực là 61 huy chương. Năm
2006 đạt được tổng số 50 huy chương, trong đó có 2 huy chương quốc tế, 12 huy chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đại hội TDTT và 36 huy chương giải trẻ và khu vực. Năm 2007 đạt được tổng số 67 huy
chương, trong đó có 3 huy chương quốc tế, 12 huy chương các giải vô địch, 55 huy
chương giải trẻ và khu vực. Năm 2008, đạt tổng số 67 huy chương, trong đó có 14 huy
chương giải vô địch, 53 huy chương giải trẻ và khu vực.
Từ năm 2006 đến 2008, trung bình mỗi năm Lào Cai có từ 20 đến 25 VĐV được
phong đẳng cấp quốc gia. Năm 2006 có 23 VĐV được phong đẳng cấp, trong đó có 4
kiện tướng quốc gia và 6 dự bị kiện tướng, 13 VĐV cấp I. Năm 2007 có 13 VĐV được
phong đẳng cấp, trong đó có 1 kiện tướng quốc tế, 4 kiện tướng quốc gia, 3 dự bị kiện
tướng và 5 VĐV cấp I. Năm 2008 có 24 VĐV được phong đẳng cấp, trong đó có 3 kiện
tướng quốc gia, 6 dự bị kiện tướng và 15 VĐV cấp I.
Số VĐV Lào Cai được gọi vào đội tuyển quốc gia trong các năm từ 2006-2008
dao động từ 5 - 10 VĐV. Năm 2006 có 5 VĐV được gọi vào tập huấn các đội tuyển trẻ
quốc gia và đội dự tuyển quốc gia, tập trung ở 2 bộ môn Taekwondo và Boxing. Năm
2007 có 5 VĐV được tập huấn các đội tuyển quốc gia và tuyển trẻ, trong đó bộ môn
Boxing có 4 VĐV. Năm 2008 có 7 VĐV được gọi tập huấn các đội tuyển và là năm
đầu tiên bộ môn Cầu lông có 2 VĐV được gọi tập trung tập huấn.
Từ năm 2001 đến năm 2008 là những năm phát triển mạnh mẽ nhất của bóng
bàn thành tích cao với các tên tuổi Phạm Văn Giang (HCV giải trẻ Đông Nam Á, HCV
giải trẻ lứa tuổi 14-15), Phạm Doãn Vinh (HCB lứa tuổi 12-13 toàn quốc). Từ năm
2006 đến 2008, thành tích huy chương của các môn thể thao mũi nhọn của Lào Cai như
Boxing, Taekwondo, Wushu đều đạt hoặc vượt chỉ tiêu Đề án phát triển TDTT tỉnh
Lào Cai giai đoạn 2006-2010. Trong số các huy chương đạt được, có HCV giải vô địch
Taekwondo trẻ thế giới năm 2006 (VĐV Bùi Bích Ngọc hạng cân 59kg), HCV Đại hội
TDTT toàn quốc lần thứ V. Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ V (năm 2006), Lào Cai
đã có bước đột phá mạnh mẽ khi giành 12 huy chương các loại trong đó có 1 HCV; 5
HCB; 6 HCĐ, xếp thứ 9/19 tỉnh miền núi và thứ 47/67 trong toàn quốc [30].
Những kết quả đó đã khẳng định thể thao thành tích cao Lào Cai được quan tâm
đầu tư đáng kể so với thời kỳ trước. Từ một địa phương là “điểm trắng” trên bản đồ thể
thao thành tích cao Việt Nam, từ năm 2001 trở đi, đặc biệt là từ năm 2006, thể thao
Lào Cai đã có bước “đột phá” ngoạn mục, từng bước khẳng định vị thế của mình trên
bản đồ thể thao Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của thể thao Lào Cai
sau năm 2008.
2.2.3. Hoạt động du lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bước vào giai đoạn 2001-2008, nhằm thúc đẩy phát triển ngành du lịch, Đảng
bộ tỉnh Lào Cai chủ trương: Về du lịch, cần mở rộng hơn địa bàn và hình thức hoạt
động, nâng cao chất lượng sản phẩm về du lịch và các dịch vụ vận tải, bưu điện, tài
chính, tư vấn..., có cơ chế quản lý phù hợp theo hướng nhanh gọn về thủ tục, dịch vụ
văn minh để tăng nhanh sự phát triển. Tăng cường đầu tư và quảng bá khu du lịch Sa
Pa và những khu du lịch khác trong tỉnh nhằm thu hút ngày càng nhiều các du khách
[39, tr.43-44].
Ngày 16-3-2001, UBND tỉnh Lào Cai ban hành Quyết định số 77/2001/QĐ-
UB “Về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện chương trình hành động Du lịch Lào Cai
2001-2005”. Theo đó, kế hoạch gồm 5 chương trình hành động. Chương trình Quảng
bá tuyên truyền Du lịch nhằm: Chuyển biến và nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành và toàn xã hội về vị trí và vai trò của Du lịch Lào Cai, sớm đưa Du lịch Lào
Cai trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu phát triển kinh
tế xã hội của tỉnh trong những năm trước mắt cũng như lâu dài; Thông qua tuyên
truyền nhằm đưa hình ảnh của Lào Cai, đồng thời cung cấp những thông tin chính
xác, kịp thời về tiềm năng tự nhiên, nhân văn của đất nước con người Lào Cai đến du
khách trong và ngoài nước; Phấn đấu đón 350.000 lượt khách vào năm 2005, đạt
doanh thu về du lịch năm 2005 khoảng 150 tỷ đồng, tạo điều kiện việc làm trực tiếp
và gián tiếp cho xã hội, thúc đẩy các ngành kinh tế xã hội khác phát triển. Chương
trình Gắn du lịch văn hóa với các lễ hội truyền thống nhằm duy trì và phát huy những
giá trị tinh hoa truyền thống văn hóa các dân tộc Lào Cai, tăng lòng tự hào dân tộc;
Gắn kết những hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao để thu hút ngày càng
đông khách du lịch đến Lào Cai. Chương trình Đầu tư phát triển nâng cấp các cơ sở,
khu điểm du lịch nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch, thu hút ngày càng
nhiều hơn khách du lịch đến Lào Cai. Chương trình Nâng cao chất lượng sản phẩm
dịch vụ du lịch nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công
nhân viên trong hệ thống du lịch và dịch vụ; Tăng cường công tác quản lý, nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch thông qua việc kiểm tra, thẩm định các cơ sở khách sạn;
Tạo phong cách phục vụ tận tình chu đáo, văn minh, lịch sự, mang lại ấn tượng sâu
đậm mỗi khi du khách đến Lào Cai; Đa dạng hóa các tua, tuyến, loại hình du lịch,
dịch vụ du lịch cũng như các sản phẩm mới phục vụ du lịch. Chương trình Tạo điều
kiện thuận lợi khuyến khích các hoạt động du lịch nhằm xây dựng các cơ chế chính
sách phù hợp, động viên khuyến khích các thành phần kinh tế đến đầu tư kinh doanh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thông qua các chính sách thuế, tiền thuê đất, đồng thời có phương án để lại nguồn thu
từ hoạt động du lịch và kinh tế cửa khẩu đầu tư cho hoạt động du lịch. Chương trình
Hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước nhằm xây dựng chiến
lược phát triển và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển du lịch; hoàn thiện dần công
tác quản lý nhà nước về du lịch đến cơ sở, đồng thời phối hợp tốt với các cấp, các
ngành tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch; triển khai thực hiện Pháp
lệnh Du lịch và Quy chế quản lý Du lịch tạm thời của UBND tỉnh Lào Cai [56].
Nhằm đẩy mạnh và phát triển kinh tế du lịch Lào Cai giai đoạn 2001 - 2005,
Tỉnh ủy Lào Cai ban hành Kế hoạch số: 03/KH-TU Về thực hiện một số mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển du lịch trọng tâm đến năm 2005. Đồng thời, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
cũng xây dựng Đề án phát triển kinh tế du lịch Lào Cai giai đoạn 2001 - 2005. Trong
quá trình tổ chức, thực hiện, Đảng bộ tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình hành
động du lịch, để đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất nhằm chỉ đạo thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án đề ra.
Cùng với đó, tỉnh Lào Cai đã ban hành các văn bản nhằm tăng cường công tác
quản lý, đưa các hoạt động du lịch vào nề nếp như: Quyết định 187/QĐ-UB của UBND
tỉnh ngày 28/5/2001 Về quản lý xuất nhập cảnh tại khu kinh tế cửa khẩu; Chỉ thị số
08/2002/CT-UB ngày 22/5/2002 của UBND tỉnh Về tăng cường công tác quản lý hoạt
động kinh doanh thương mại - du lịch trên địa bàn.
Công tác quản lý Nhà nước về du lịch được tăng cường trên cơ sở kiện toàn bộ
máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch từ tỉnh đến các huyện, thành phố. Đồng
thời, tỉnh tiến hành sắp xếp, chuyển đổi hệ thống các doanh nghiệp du lịch cho phù hợp
với tình hình mới nhằm nâng cao năng lực, tạo ra những sản phẩm du lịch mới có sức
cạnh tranh cao, từng bước vươn ra các thị trường trong nước và quốc tế. Công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật được đẩy mạnh, tạo ra sự nhận thức đúng đắn, sâu rộng trong
các cấp, các ngành, người dân, các đơn vị kinh doanh và khách du lịch trong việc chấp
hành nghiêm các quy định Pháp luật.
Nằm trong khuôn khổ chương trình hợp tác phi tập trung Pháp - Việt, ngày 18-
11-2002, tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và vùng Aquitaine (Cộng hòa Pháp) đã thảo luận,
thống nhất ký Biên bản thỏa thuận hợp tác đầu tiên, đặt nền móng cho quan hệ hợp tác
hữu nghị giữa hai địa phương. Trong giai đoạn từ 2002-2007, quy hoạch tổng thể du
lịch Lào Cai được triển khai. Bản quy hoạch là căn cứ xây dựng và phát triển ngành du
lịch Lào Cai một cách bền vững, chất lượng cao. Với bề dày kinh nghiệm của một đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nước hàng đầu thế giới về phát triển du lịch, các chuyên gia vùng Aquitaine đã dày
công khảo sát, phân tích, đánh giá thị trường khách du lịch...để hoàn thành quy hoạch
với các tuyến điểm và sản phẩm du lịch đặc sắc. Gắn với quy hoạch này là sự ra đời
của Nhà du lịch Sa Pa (Trung tâm Xúc tiến Du lịch Lào Cai), một trong những mô hình
đón tiếp thông tin tư vấn du lịch hàng đầu Việt Nam; xây dựng nhãn hiệu chất lượng
Fansipan và bộ tập gấp giới thiệu du lịch Lào Cai được dịch thành 3 thứ tiếng: Anh,
Pháp và Việt.
Tính đến năm 2005, Lào Cai có hàng trăm xe ô tô các loại với chất lượng tốt,
đồng thời đầu tư nâng cấp đường sắt, toa xe chất lượng cao từ Lào Cai - Hà Nội phần
nào đáp ứng nhu cầu đi lại của khách du lịch đến Lào Cai. Hệ thống các cơ sở vui chơi
giải trí, sản xuất hàng hóa và dịch vụ được quan tâm đầu tư phát triển, các khu di tích
lịch sử, văn hóa được đầu tư tôn tạo, các sản phẩm đặc sắc của địa phương được chú
trọng phát triển để phục vụ khách tham quan, du lịch.
Năm 2008, ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai đã tiếp tục tổ chức Chương trình
Du lịch về cội nguồn lần thứ tư. Chương trình được bắt đầu vào ngày 7 tháng Giêng
năm Mậu Tý tại thành phố Yên Bái (địa phương giữ vai trò trưởng nhóm hợp tác năm
2008). Tại Lào Cai, sau Lễ khai mạc Chương trình Du lịch về cội nguồn, Lễ hội Đền
Thượng đã được tổ chức. Phần lễ bao gồm lễ dâng hương và rước Mẫu, phần hội gồm
các hoạt động biểu diễn thể thao các dân tộc như ném còn, kéo co, vật dân tộc,…thu
hút được đông đảo sự tham gia của du khách và nhân dân. Cùng với đó, Hội chợ
Thương mại năm 2008 thu hút được hàng trăm doanh nghiệp trong và ngoài nước tham
dự với nhiều mặt hàng công nghiệp, dệt may, nông sản thực phẩm,…thu hút trên 30.000
lượt người tham quan và mua sắm. Tuần văn hóa du lịch Bắc Hà được diễn ra với nhiều
hoạt động mang tính truyền thống như: Trưng bày triển lãm ảnh “Sắc màu vùng cao”;
Hội chợ văn hóa ẩm thực; Lễ khai mạc Tuần văn hóa du lịch; Lễ hội sông chảy; Lễ hội
mận Bắc Hà; Giải đua ngựa và thi đấu các môn thể thao truyền thống; Liên hoan giọng
hát hay - trình diễn trang phục dân tộc,… Lần đầu tiên đã có một chảo thắng cố được
sách kỷ lục Guiness Việt Nam ghi nhận tại Tuần văn hóa du lịch Bắc Hà với kích cỡ
lớn nhất từ trước tới năm 2008, có thể nấu được từ 3 - 5 con ngựa và đồng thời phục
vụ được 1.000 du khách cùng thưởng thức.
Với vị trí, tầm quan trọng trong hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội
- Hải Phòng, đặc biệt là trong chiến lược phát triển kinh tế du lịch, Lào Cai đã tổ chức
các chương trình hợp tác phát triển với các tỉnh, thành phố. Ngày 19/1/2007, tại thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phố Hải Phòng, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai đã ký biên bản trao đổi, hợp tác kinh tế
lần thứ III giữa 5 tỉnh, thành phố: Vân Nam (Trung Quốc) và Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh (Việt Nam). Các bên đã thống nhất cùng nhau nỗ lực hợp tác xây
dựng và tạo điều kiện thuận lợi để khai thác các tuyến du lịch bằng đường bộ, đường
sắt và đường hàng không giữa Vân Nam - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh;
đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá đối với các tuyến du lịch; thúc đẩy sự phát
triển du lịch của ngành du lịch, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển du lịch
dọc hành lang kinh tế; hợp tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch; tăng cường
hợp tác trong lĩnh vực quản lý nhà nước về du lịch và thúc đẩy hợp tác giữa các doanh
nghiệp hai bên.
Ngoài ra, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai đã phối hợp tổ chức tốt
một số hoạt động mang tính tuyên truyền, quảng bá thúc đẩy hợp tác và phát triển các
hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch với các tỉnh và nước bạn Trung Quốc như: tổ
chức hội đàm “Giao lưu văn hóa Lào Cai - Vân Nam”; phối hợp tổ chức chương trình
giao lưu văn nghệ, TDTT và du lịch giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Học viện Hồng
Hà (Vân Nam - Trung Quốc); phối hợp tổ chức Tuần văn hóa du lịch Sa Pa năm 2008.
Lượng khách du lịch đến Lào Cai tăng theo từng năm. Năm 2001 có 252.850
lượt khách du lịch đến Lào Cai, trong số đó, khách du lịch quốc tế là 170.153, chiếm
67,3%. Năm 2006 là 560.000 lượt khách (tăng 9,8% so với năm 2005), năm 2007 là
632.000 lượt khách (tăng 12,9% so với năm 2006). Năm 2008 là 667.000 lượt khách
(tăng 5,5% so với năm 2007). Theo đó, doanh thu từ hoạt động du lịch cũng tăng, cụ
thể: Năm 2001 đạt 56.537 triệu đồng, đến năm 2005 đạt 176.000 triệu đồng, mức tăng
bình quân giai đoạn này đạt 14,5%/năm; năm 2006 đạt 280 tỷ (tăng 30,2% so với năm
2005), năm 2007 đạt 362 tỷ (tăng 29,3% so với năm 2006), năm 2008 đạt 434 tỷ đồng
(tăng 19,9% so với năm 2007). Số thu nộp ngân sách từ các hoạt động du lịch đạt bình
quân gần 15 tỷ đồng/năm [29].
Tính chung trong giai đoạn 2001-2005, Lào Cai đón 1.956.000 lượt khách, tăng
8,7% so với đề án, mức tăng bình quân giai đoạn này là 17,5 %. Đến năm 2005, tỷ
trọng GDP du lịch ước đạt 8,1 % so trong cơ cấu GDP của tỉnh, vượt 0,1% so với đề
án (tính theo giá điều chỉnh mới) [44].
Những số liệu trên đã cho thấy trong những năm 2001-2008, hoạt động du lịch
tỉnh Lào Cai đã thu được một số kết quả tương đối khả quan: Số lượng, chất lượng
khách tăng nhanh, bước đầu tạo được thương hiệu du lịch Lào Cai đến bạn bè trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nước và quốc tế. Du lịch đã dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc đẩy
các ngành kinh tế khác phát triển, tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về du lịch cũng đã được nâng cao,
bước đầu tạo môi trường thuận lợi, từng bước thu hút và tạo dựng được hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Với những thành tích
trong công tác lãnh đạo ngành, ông Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin
tỉnh Lào Cai) được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (Quyết
định số 491/2007/QĐ-CTN ngày 30/5/2007); ông Nguyễn Văn Bình (Phó Giám đốc
Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Lào Cai) được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen (Quyết
định số 432/QĐ/TTg ngày 17/4/2007).
Bên cạnh những kết quả đạt được, du lịch Lào Cai thời điểm này vẫn còn có
những hạn chế: Sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chưa xây dựng được những chương
trình du lịch mang tính văn hoá truyền thống, một số điểm du lịch tuy được đầu tư
nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Công tác quản lý nhà nước còn hạn chế, hoạt
động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch vẫn còn đơn điệu, nhân lực của ngành du
lịch phần lớn mới chỉ là lao động giản đơn, trình độ còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển du lịch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 2
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc chia tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành
2 tỉnh Yên Bái và Lào Cai, ngày 1-10-1991, tỉnh Lào Cai chính thức được tái lập. Việc
tái lập tỉnh phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, tạo sự đồng thuận, phấn khởi, tin
tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Kể từ sau khi tái lập tỉnh đến năm 2008, các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch
của tỉnh Lào Cai đã được đẩy mạnh, có sự đổi mới về nội dung, đa dạng về hình thức.
Các thiết chế văn hóa đã được quan tâm xây dựng đến tận thôn, bản vùng cao, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Phong trào văn nghệ quần chúng ngày càng được mở rộng
và phát triển, đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Các di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể, những nét đẹp trong bản sắc văn hóa các dân tộc Lào Cai
bước đầu được khôi phục, tôn vinh, trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Hoạt động TDTT có bước phát triển mới, cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng cho
TDTT đã được quan tâm đầu tư. Sau khi thành lập năm 1998, Trung tâm TDTT đã thực
sự trở thành nơi khơi nguồn, tiếp sức cho phong trào TDTT quần chúng trên địa bàn
tỉnh phát triển. Từ chỗ chưa có tên trên bản đồ thể thao thành tích cao trong nước, từ
Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ V (năm 2006), Lào Cai đã có bước đột phá mạnh mẽ,
xóa “điểm trắng” trên bản đồ thể thao Việt Nam.
Năm 1992 ngành Du lịch được thành lập, du lịch Lào Cai bắt đầu có những bước
phát triển mới, hoạt động kinh doanh khách sạn bắt đầu phát triển. Nhờ có sự đầu tư,
quảng bá, hợp tác phát triển thích hợp (Với tỉnh Vân Nam -Trung Quốc, Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh), số lượng khách du lịch đến Lào Cai, đặc biệt là khách quốc tế
tăng lên nhanh chóng. Doanh thu từ hoạt động du lịch đã trở thành một nguồn thu quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương trước ngưỡng cửa hội
nhập quốc tế và phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương 3
NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2018
3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch
3.1.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy
Ngày 31-7-2007, Quốc hội khóa XII ra Nghị quyết thành lập BVHTTDL trên
cơ sở sáp nhập Ủy ban TDTT, Tổng cục Du lịch và mảng văn hóa của Bộ Văn hóa và
Thông tin. Ở cấp tỉnh, thành, cơ quan quản lý Nhà nước là SVHTTDL.
Ngày 25-3-2008, UBND tỉnh Lào Cai ban hành Quyết định số 647/QĐ-UB về
việc hợp nhất Sở Thể dục Thể thao với sở Văn hóa - Thông tin và tiếp nhận tổ chức
quản lý nhà nước về Du lịch từ Sở Thương mại và Du lịch, bộ phận Gia đình của Ủy
ban Dân số Gia đình và Trẻ em. Ngày 1-4-2008, SVHTTDL tỉnh Lào Cai chính thức
được thành lập do TS.Trần Hữu Sơn làm Giám đốc Sở. Đây là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh Lào Cai, có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo
(trừ quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm) ở địa phương,
các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và theo quy định của pháp luật.
SVHTTDL có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, chịu sự chỉ đạo, quản
lý về tổ chức biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của BVHTTDL.
Ngay sau khi hợp nhất, SVHTTDL tỉnh Lào Cai đã nhanh chóng ổn định bộ
máy tổ chức, xây dựng quy chế, phân công nhiệm vụ cho các đồng chí lãnh đạo, sáp
nhập một số phòng ban, tăng cường một số cán bộ cho các đơn vị trực thuộc Sở. Nhằm
ổn định tổ chức, Sở giữ nguyên bộ máy lãnh đạo các phòng ban đơn vị, chỉ sắp xếp
lãnh đạo Văn phòng, Thanh tra. Thực hiện Nghị định số 13/NĐ-CP ngày 4-2-2008 của
Chính phủ và Thông tư Liên tịch số 43/TTLT của BVHTTDL và Bộ Nội vụ hướng dẫn
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của SVHTTDL, bộ máy toàn
ngành của tỉnh đã được sắp xếp, tổ chức lại. Sau khi hợp nhất, bộ máy của SVHTTDL
gồm 9 phòng ban (Văn phòng Sở, Phòng thanh tra, Phòng Kế hoạch Tài chính, Phòng
Nghiệp vụ Văn hóa, Phòng Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và gia đình, Phòng Nghiệp
vụ Du lịch, Phòng nghiệp vụ TDTT, Phòng Thể thao thành tích cao, Ban Quản lý dự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
án) sau thêm Phòng Di sản thành 10 phòng ban, 9 đơn vị trực thuộc với biên chế 316
người (67 biên chế quản lý nhà nước, 249 biên chế sự nghiệp). Các Phòng và Trung
tâm Văn hóa Thông tin các huyện, thành phố có 199 biên chế [34]. Đến năm 2009, Sở
còn 8 đơn vị trực thuộc gồm: Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Đoàn Nghệ thuật dân tộc,
Trung tâm Văn hóa thông tin tỉnh, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng, Trung
tâm thông tin Du lịch, Trung tâm TDTT tỉnh, Trung tâm Thể thao thành tích cao.
Từ năm 2015 đến nay, cơ cấu tổ chức của SVHTTDL tỉnh Lào Cai gồm có Ban
giám đốc (1 Giám đốc, 3 Phó giám đốc); các phòng ban chuyên môn gồm: Văn phòng
Sở, Thanh tra Sở, Phòng Kế hoạch tổng hợp, Phòng Nghiệp vụ du lịch, Phòng Quy
hoạch phát triển tài nguyên du lịch, Phòng nghiệp vụ văn hóa, Phòng nghiệp vụ TDTT,
Phòng Di sản văn hóa, Phòng Xây dựng nếp sống và gia đình, Ban quản lý Dự án. Các
đơn vị trực thuộc gồm: Trung tâm văn hóa, Trung tâm thể thao, Trung tâm huấn luyện
TDTT, Trung tâm thông tin du lịch, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng, Thư
viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Đoàn nghệ thuật dân tộc.
Ngày 16-9-2016, SVHTTDL tỉnh Lào Cai tổ chức chương trình công bố các
quyết định kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở bao gồm: sáp
nhập Trung tâm Huấn luyện TDTT và Trung tâm TDTT thành Trung tâm Huấn luyện
và Thi đấu TDTT, sáp nhập Trung tâm Văn hóa và Trung tâm Phát hành phim và chiếu
bóng thành Trung tâm Văn hóa và Điện ảnh, tiếp nhận Trung tâm Thực nghiệm và biểu
diễn trực thuộc Trung tâm Văn hóa và Điện ảnh; điều động, bổ nhiệm giám đốc các
đơn vị sự nghiệp, lãnh đạo các phòng, đơn vị trực thuộc Sở. Dưới sự chỉ đạo sát sao
của lãnh đạo tỉnh, sự ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chức năng, đến năm
2016 công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, tiếp nhận các thiết chế của SVHTTDL đã cơ
bản hoàn thành. Ban Thường vụ, Ban chấp hành Đảng ủy Sở, Ban Giám đốc đã thực
hiện đầy đủ các quy trình nhằm sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy trên tinh thần công
khai, minh bạch, dân chủ, đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ. Thực
hiện chủ trương của Nhà nước về tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, đầu mối các
phòng, đơn vị của Sở đã được rút gọn, số biên chế tinh giản và cắt giảm theo đúng kế
hoạch. Việc kiện toàn tổ chức này là cần thiết khách quan nhằm sắp xếp bộ máy tinh
gọn, biên chế hợp lý, tạo thuận lợi trong công tác chỉ đạo, điều hành và nâng cao hiệu
quả hoạt động.
3.1.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành luôn
được chú trọng. SVHTTDL là cơ quan có nhiều cán bộ có thể sử dụng tốt các ngoại ngữ
tiếng Anh, Pháp, Trung phục vụ cho công tác đối ngoại, các hoạt động du lịch.
Chất lượng nhân lực ngành du lịch không ngừng được nâng cao qua các năm.
Đến hết năm 2015 có trên 60% lao động trực tiếp trên tổng số 8.500 lao động phục vụ
trong các cơ sở dịch vụ được đào tạo và đào tạo đúng nghiệp vụ, hầu hết nhân lực là
người bản địa, giúp tạo lập cơ hội sinh kế mới và giải quyết tình trạng thiếu việc làm
của cư dân địa phương.
Sau gần 30 năm, đội ngũ cán bộ của ngành đã có sự gia tăng vượt bậc cả về số
lượng và chất lượng. Nếu như ngày đầu tái lập, toàn ngành mới chỉ có gần 60 cán bộ,
nhân viên, trong đó có hơn chục người có trình độ đại học thì đến nay ngành Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai có hơn 500 cán bộ. Trong đó các phòng, ban, đơn vị
trực thuộc Sở đã có 292 công chức viên chức; có 1 tiến sĩ, 6 thạc sĩ, 164 người có trình
độ đại học, 42 người là cán bộ dân tộc thiểu số. Hiện tại ngành đang cử đi đào tạo 1
tiến sĩ, 5 thạc sĩ ở trong nước và nước ngoài; có 3 cán bộ đang theo học chương trình
ngoại ngữ do quỹ Ford tài trợ. Đặc biệt, trong đợt thi cao học năm 2011, SVHTTDL
đã có 3 cán bộ trúng tuyển, trong đó có Vũ Thị Trang đã đỗ thủ khoa trong số 435 thí
sinh dự thi trong toàn quốc.
3.2. Phát triển tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng Đảng bộ Sở vững mạnh đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới
3.2.1. Phát triển tổ chức cơ sở Đảng
Trên cơ sở Quyết định số 647-QĐ/UBND ngày 25/3/2008 của UBND tỉnh Lào
Cai về việc hợp nhất Sở Thể dục - Thể thao với Sở Văn hóa - Thông tin thành
SVHTTDL, ngày 3-4-2008, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối cơ quan dân chính đảng
tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 1083/QĐ-ĐU về việc thành lập Đảng bộ cơ sở
SVHTTDL tỉnh Lào Cai. Theo đó, ông Trần Hữu Sơn - Giám đốc Sở làm Bí thư Đảng
bộ, ông Nùng Chản Phìn - Phó giám đốc Sở làm Phó Bí thư Đảng bộ. Ông Phạm Xuân
- Phó giám đốc Sở, Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ; ông Lê Đức Thuận - Phó giám
đốc Sở, Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ; bà Nguyễn Thị Tố Uyên - Phó giám đốc Sở,
Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ; ông Nguyễn Văn Tiến - Phó giám đốc Sở, Ủy viên
Ban chấp hành Đảng bộ; ông An Đông Phong - Thanh tra Sở, Ủy viên Ban chấp hành
Đảng bộ. Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng bộ gồm: ông Nùng Chản Phìn (Phó bí thư
Đảng bộ, Chủ nhiệm), ông Lê Văn Hinh (Ủy viên), ông Trần Lê Minh (Ủy viên) [14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Khi mới thành lập, SVHTTDL có 1 Đảng bộ cơ sở với 12 chi bộ trực thuộc,
tổng số 115 đảng viên. Ban chấp hành Đảng bộ Sở khóa I có 12 người, Ban Thường vụ
có 3 người [27].
Ngày 11/11/2008, Ban Thường vụ Đảng ủy khối cơ quan Dân chính Đảng có
quyết định số 1304-QĐ/ĐU về việc thành lập Chi bộ cơ sở Trường Trung cấp Văn hóa,
Nghệ thuật và Du lịch tỉnh Lào Cai, gồm 10 đảng viên, tách từ Đảng bộ SVHTTDL.
Đại hội Đảng bộ SVHTTDL khóa I, nhiệm kỳ 2009-2014 tiến hành ngày
13/5/2009 đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí (Đồng chí Trần Hữu Sơn - Bí
thư, đồng chí Nguyễn Văn Tiến - Phó Bí thư, Ủy ban kiểm tra gồm 03 người do đồng
chí Nguyễn Văn Tiến làm Chủ nhiệm). Đại hội Đảng bộ SVHTTDL khóa II, nhiệm kỳ
2015-2020 tiến hành ngày 01/6/2015 đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí (Đồng
chí Hà Văn Thắng - Bí thư, đồng chí Nguyễn Thị Tố Uyên - Phó Bí thư; Ủy ban kiểm
tra gồm 05 người do đồng chí Nguyễn Thị Tố Uyên làm Chủ nhiệm).
Tháng 10 năm 2016, Đảng bộ đã kiện toàn và sắp xếp các Chi bộ trực thuộc từ
15 Chi bộ còn 13 Chi bộ với 178 đảng viên. Trong đó trình độ chuyên môn Thạc sĩ 12
đồng chí, Đại học 123 đồng chí; Trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao cấp 21 đồng chí,
trung cấp 14 đồng chí. Năm 2016, 100% các Chi bộ trực thuộc Đảng bộ hoàn thành tốt
nhiệm vụ, 94% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 24 đảng viên
đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 2016 có 2 Chi bộ và 2 đảng viên được
Tỉnh uỷ tặng Bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 5 năm liền.
3.2.2. Xây dựng Đảng bộ Sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới
Qua hai kỳ Đại hội, toàn Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng
trong sạch, vững mạnh toàn diện, đủ sức lãnh đạo đơn vị, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm
vụ mới. Sau khi có chủ trương của Đảng ủy, các cấp uỷ, chi bộ đảng thường xuyên
quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, tăng cường vai trò lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị,
lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ làm thước đo đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ
sở Đảng hàng năm. Qua kiểm tra đánh giá, 100% các chi bộ trực thuộc đã xây dựng
được Nghị quyết và Chương trình công tác; duy trì tốt chế độ sinh hoạt đảng hàng
tháng, từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Các cấp uỷ đã làm tốt công tác vận động quần chúng, công tác giáo dục chính
trị tư tưởng tạo sự đồng thuận, thống nhất về tư tưởng và hành động trong cán bộ, đảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
viên; lãnh đạo xây dựng chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh;
quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở đảng kết hợp với thực hiện việc đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Quan tâm công tác bồi dưỡng
cả về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư, phó bí thư các Chi bộ; Tiến hành chỉ đạo đại
hội của Chi bộ theo đúng định hướng, kế hoạch đề ra. Từ khi thành lập năm 2008 đến
2018, Đảng bộ đã kết nạp được 88 đảng viên; đã thành lập và kiện toàn Chi bộ ở tất cả
các đơn vị trực thuộc.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các Chi bộ quan tâm chỉ đạo, tạo sự đoàn
kết trong nội bộ đảng. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm được
thực hiện nghiêm túc. Qua các cuộc kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm
đã phát huy được những ưu điểm, chỉ ra những tồn tại, hạn chế được các tổ chức cơ sở
đảng, đảng viên nghiêm túc tiếp thu, sửa chữa, khắc phục kịp thời.
Công tác xây dựng đảng của Đảng bộ Sở đạt được những kết quả như trên là
do Đảng uỷ đã quán triệt và triển khai nghiêm túc, đồng bộ, thống nhất, sâu sắc các
văn bản chỉ đạo về công tác xây dựng đảng của Trung ương, của Tỉnh uỷ, Đảng ủy
Khối tới tất cả các chi bộ, cán bộ, đảng viên. Đồng thời, Đảng uỷ SVHTTDL thường
xuyên, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách, việc chấp hành Điều lệ Đảng của các chi bộ, đảng viên, kịp thời nhắc nhở, uốn
nắn những đơn vị thực hiện chưa đúng, chưa kịp thời. Công tác phát triển đảng và
thành lập Chi bộ ở các phòng, ban, đơn vị được triển khai chặt chẽ, thường xuyên,
tích cực, đúng quy định, phát huy vai trò của tổ chức cơ sở đảng. Ban Thường vụ
Đảng uỷ đã phân công trách nhiệm từng đồng chí uỷ viên Ban Thường vụ để kịp thời
nắm tình hình cơ sở. Hàng năm Đảng ủy đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên
một cách chặt chẽ, khách quan, đúng hướng dẫn của Tỉnh ủy và Đảng ủy Khối; khen
thưởng, động viên kịp thời những Chi bộ đảng, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ.
Phát huy những kết quả đạt được, trong thời gian tới Đảng bộ SVHTTDL xác
định một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng đó là:
Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tổ chức thực hiện có hiệu quả
nội dung Chỉ thị số 05 - CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị và Quy định số 08-
QĐ TU, ngày 26/3/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chủ động nắm bắt diễn biến tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên để định hướng tư tưởng; tăng cường công tác
vận động quần chúng;
Tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các
tổ chức cơ sở đảng, tạo được sự chuyển biến rõ nét về chất lượng hoạt động các loại
hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp, cơ quan
hành chính sự nghiệp. Tiếp tục chỉ đạo triển khai tích cực, có hiệu quả Nghị quyết,
chương trình hành động của Tỉnh uỷ, của Đảng ủy Khối thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 (Khóa X) và các Nghị quyết về công tác xây dựng đảng. Đẩy mạnh công tác
phát triển đảng viên mới. Tăng cường công tác quản lý, phân công và kiểm tra thực
hiện nhiệm vụ của đảng viên. Duy trì và nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ, thực
hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ” và hướng dẫn số 09-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về “Nội
dung sinh hoạt chi bộ”. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt đảng;
Tiếp tục rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo nhằm chuẩn bị tốt công tác
nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025. Thực hiện tốt công tác đào
tạo, bồi dưỡng gắn với bố trí, sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên, chăm lo
đào tạo bồi dưỡng cán bộ người dân tộc, cán bộ nữ. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy
cán bộ của cả hệ thống chính trị trong toàn ngành đồng thời tiếp tục thực hiện luân
chuyển cán bộ, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp;
Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của các cấp uỷ đảng, nhất là những lĩnh
vực dễ nảy sinh tham nhũng như: xây dựng cơ bản, tài chính ngân sách, các chương
trình dự án, thủ tục cấp phép; kịp thời uốn nắn, ngăn ngừa những biểu hiện sai trái, lệch
lạc; đề cao trách nhiệm tự kiểm tra, giám sát của từng chi bộ và đảng viên. Tiếp tục
triển khai có hiệu quả chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị; Quán
triệt triển khai thực hiện Đề án số 18-ĐA/TU, ngày 27/5/2015 của Tỉnh ủy Lào Cai;
lãnh đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/ĐUK ngày 12/4/2013 của Ban
Thường vụ Đảng ủy Khối;
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ Đảng uỷ và các Chi bộ trực thuộc. Tăng cường đoàn kết nội bộ, tránh bao
biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của đảng. Thực hiện nghiêm túc Quy
chế làm việc, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, nâng cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vai trò trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu tổ chức gắn với phát huy vai trò và
chế độ trách nhiệm của từng cá nhân được phân công phụ trách ngành, lĩnh vực. Coi
trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để kịp thời biểu dương, khen thưởng
nhân rộng điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực.
Từ vị trí, tầm quan trọng của công tác xây dựng đảng, Đảng bộ Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch xác định trong những năm tới công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh toàn diện phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của tất cả các chi
bộ được đảng viên đồng tình thực hiện. Có như vậy mới thúc đẩy việc hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của toàn ngành, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ
Đại hội Đảng bộ Sở lần thứ hai nhiệm kỳ 2015 - 2020 đề ra: Xây dựng Đảng bộ Sở
trong sạch vững mạnh. Thực hiện các mục tiêu xây dựng văn hóa và con người Lào
Cai phát triển toàn diện; Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, là sức
mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững; xây dựng con người Lào
Cai hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học; hội tụ các đặc tính: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo. Du lịch Lào Cai trở thành điểm đến An toàn - Thân thiện - Chất lượng.
3.3. Văn hóa Lào Cai phát triển mạnh mẽ, trở thành động lực và mục tiêu của sự
phát triển
Tháng 4-2008, cùng với việc ổn định bộ máy tổ chức sau khi sáp nhập,
SVHTTDL đã nhanh chóng bắt tay vào thực hiện những công việc của một Sở lớn quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực. Riêng đối với lĩnh vực văn hóa, Sở đã tập trung nâng cao chất
lượng công tác quản lý; tham mưu, đề xuất các giải pháp xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Lào Cai nhằm phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh, xóa đói giảm nghèo bền vững. Việc cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” tiếp tục được đẩy mạnh bằng việc tham mưu xây dựng và triển khai đề án
chuyên đề của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII, XIV về phát triển văn hóa, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Lào Cai. Thực hiện Nghị quyết số 33-
NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 khóa
XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước”, SVHTTDL đã tham mưu cho Tỉnh ủy Lào Cai đã đề ra
phương hướng phát triển văn hóa với mục tiêu chung là: Xây dựng, phát triển văn hóa
con người Lào Cai theo hướng toàn diện, vừa mang đặc trưng văn hóa Việt Nam, vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thấm đậm nét riêng của người Lào Cai. Thật sự thấm nhuần quan điểm “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn
hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” (Nghị quyết Trung ương
9 khóa XI). Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, vào từng cá nhân,
từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực đời
sống kinh tế - xã hội. Gắn xây dựng, phát triển văn hóa và con người với thực hiện Chỉ
thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020,
tỉnh Lào Cai có 75% số thôn, bản; 85% số hộ gia đình; 95% số cơ quan, đơn vị đạt
danh hiệu văn hóa. Từng bước đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các thiết chế văn hóa quan
trọng của tỉnh như: trung tâm văn hóa, bảo tàng, thư viện, sân vận động, rạp chiếu
phim; 100% huyện, thành phố có thư viện đạt tiêu chuẩn; các di tích cách mạng, di tích
lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, cấp tỉnh được trùng tu, tôn tạo, giữ gìn và phát huy giá
trị [40].
Bằng tinh thần đoàn kết, sáng tạo của toàn Sở dưới sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh
ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh; sự nỗ lực của các cấp, các ngành; sự đồng tình,
hưởng ứng của nhân dân, công tác phát triển sự nghiệp văn hóa và xây dựng con người
Lào Cai trong 10 năm (2008-2018) đã có bước phát triển mạnh mẽ về cả chiều rộng
lẫn chiều sâu.
3.3.1. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, hướng dẫn tổ chức và nâng cao
hiệu quả hoạt động đối với các thiết chế văn hóa
Hệ thống thiết chế văn hóa từng bước được xây dựng và củng cố. Giai đoạn
2011 - 2015 đã tiến hành khởi công công trình Bảo tàng tỉnh Lào Cai với tổng mức đầu
tư của dự án là 93,178 tỷ đồng. Hoàn thành xây dựng Nhà văn hóa trung tâm của tỉnh
với tổng số vốn được phê duyệt là 143 tỷ đồng, với các hạng mục công trình gồm: Khối
nhà hát, rạp chiếu phim và khối nhà dịch vụ, khối thư viện và các hạng mục phụ trợ.
Thực hiện đầu tư trang thiết bị cho Thư viện điện tử thuộc Thư viện tỉnh Lào Cai, đầu
tư thiết bị cho 9 Đội Thông tin lưu động các huyện, thành phố. Xây dựng 48 nhà văn
hóa xã và hội trường kiêm nhà văn hóa xã, nâng tổng số nhà văn hóa cấp xã toàn tỉnh
lên 68 nhà. Xây dựng 472 nhà văn hóa thôn bản, tổ dân phố, đưa tổng số thôn bản có
nhà văn hóa lên 65,7% (1.115 nhà văn hóa thôn bản). Các hoạt động văn hóa ở cơ sở
được đẩy mạnh, văn nghệ quần chúng từng bước phát triển, nâng cao chất lượng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Giai đoạn 2016-2018, đã đưa vào khai thác, sử dụng các công trình văn hóa có
quy mô lớn, hiện đại như: Nhà văn hóa trung tâm tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Trung tâm Thông
tin - Triển lãm tỉnh, Sân vận động tỉnh chào mừng kỷ niệm 25 năm Ngày tái lập và 110
năm Ngày thành lập tỉnh Lào Cai. Đã đầu tư trang thiết bị hiện đại (thiết bị âm thanh,
ánh sáng sân khấu) cho Đoàn Nghệ thuật dân tộc tỉnh trị giá hơn 8 tỷ đồng từ nguồn
vốn ngân sách tỉnh năm 2018 và kinh phí hỗ trợ từ chương trình mục tiêu phát triển
văn hóa năm 2016. Đã đầu tư thiết bị chiếu phim kỹ thuật số cho Đội chiếu phim lưu
động thuộc Trung tâm Văn hóa và Điện ảnh tỉnh theo nguồn kinh phí Đề án phê duyệt
tại Quyết định 586/QĐ-TTg ngày 3/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Đã hỗ trợ trang
thiết bị cho 43 Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã (Nhà văn hóa xã) gồm: Thanh Phú,
San Sả Hồ, Bản Khoang (huyện Sa Pa); Mường Vi, Bản Qua, Bản Xèo, Mường Hum,
A Mú Sung, Dền Sáng (huyện Bát Xát); Lùng Vai, Thanh Bình, Pha Long, Lùng Khấu
Nhin (huyện Mường Khương); Na Hối, Lầu Thí Ngài, Nậm Đét, Bản Phố, Nậm Mòn
(huyện Bắc Hà); Mản Thẩn, Si Ma Cai, Cán Cấu, Sán Chải, Cán Hồ, Nàn Sán (huyện
Si Ma Cai); Phố Lu, Xuân Giao, Sơn Hà, Phong Niên, Bản Phiệt, Bản Cầm, Trì Quang,
Gia Phú (huyện Bảo Thắng); Khánh Yên Trung, Võ Lao, Khánh Yên Hạ, Làng Giàng,
Tân An, Liêm Phú, Dương Quỳ (huyện Văn Bàn); Lương Sơn, Tân Dương, Xuân
Thượng, Minh Tân (huyện Bảo Yên) từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia
Nông thôn mới năm 2016-2018. Hỗ trợ trang thiết bị cho 582 nhà văn hóa thôn, bản
thuộc các xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
Giai đoạn 2016-2018 tỉnh cũng đã triển khai đầu tư vốn xây dựng, sửa chữa 55
công trình văn hóa cấp huyện, xã. Trong đó gồm cải tạo, sửa chữa nhà văn hóa huyện
Sa Pa; đầu tư xây dựng 54 công trình hội trường kết hợp nhà văn hóa xã tại 9 huyện,
thành phố. Huyện Bảo Thắng gồm 7 công trình thuộc các xã Sơn Hải, Phố Lu, Thị trấn
Tằng Loỏng, Sơn Hà, Thị trấn Phong Hải, Trì Quang, Xuân Quang; huyện Sa Pa gồm
7 công trình tại các xã San Sả Hồ, Sử Pán, Tả Giàng Phìn, Thanh Phú, Sa Pả, Tả Phìn,
Bản Phùng; huyện Bảo Yên 8 công trình thuộc các xã Yên Sơn, Xuân Thượng, Việt
Tiến, Nghĩa Đô, Long Khánh, Lương Sơn, Cam Cọn, Tân Dương; huyện Bắc Hà gồm
5 công trình tại các xã Cốc Lầu, Nậm Mòn, Lùng Phình, Lầu Thí Ngài, Hoàng Thu
Phố; huyện Văn Bàn gồm 9 công trình ở các xã Hòa Mạc, Khánh Yên Trung, Khánh
Yên Thượng, Khánh Yên Hạ, Làng Giàng, Nậm Chày, Sơn Thủy, Tân Thượng, Liêm
Phú; huyện Bát Xát gồm 2 công trình ở xã Bản Qua, Mường Vi; Thành phố Lào Cai
gồm 5 công trình ở các xã Đồng Tuyển, Cam Đường, phường Nam Cường, phường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Phố Mới, phường Pom Hán; huyện Mường Khương gồm 6 công trình tại các xã Bản
Lầu, Thanh Bình, Lùng Vai, Lùng Khấu Nhin, Nậm Chảy, Nấm Lư; huyện Si Ma Cai
gồm 5 công trình tại các xã Cán Cấu, Bản Mế, Mản Thẩn, Thào Chư Phìn, Si Ma Cai.
Giai đoạn 2016-2018, tỉnh cũng đã hỗ trợ đầu tư xây dựng, nâng cấp 468 nhà văn hóa
thôn trên địa bàn toàn tỉnh, nguồn kinh phí thực hiện theo Nghị quyết 35/2015. Theo
đó, huyện Bắc Hà 43 nhà, huyện Bảo Yên 74 nhà, Bảo Thắng 38 nhà, Bát Xát 124 nhà,
Mường Khương 58 nhà, Si Ma Cai 42 nhà, Sa Pa 15 nhà, Văn Bàn 74 nhà [36].
3.3.2. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa phát triển đã tạo diện mạo mới cho thành
thị, nông thôn. Trước năm 2000, việc thực hiện công tác xây dựng nếp sống văn hóa
tuy đã được tiến hành nhưng mới chỉ mang tính hình thức, còn nhiều hạn chế, nhiều hủ
tục trong việc cưới, việc tang, lễ hội vẫn tồn tại, mức thụ hưởng về văn hóa, tinh thần
của nhân dân toàn tỉnh còn thấp. Năm 2000, thực hiện chỉ đạo của Trung ương, tỉnh
Lào Cai đã thành lập Ban Chỉ đạo cuộc vận động phong trào “TDĐKXDĐSVH”. Hàng
năm, tỉnh đã tăng cường hàng trăm lượt cán bộ xuống các cơ sở vùng đặc biệt khó khăn
để hướng dẫn, giúp đỡ bà con, đồng bào thực hiện xây dựng GĐVH, làng bản văn hóa,
xây dựng đội văn nghệ, thể thao, hương ước, quy ước đưa văn hóa về cơ sở, tổ chức
tốt hoạt động tuyên truyền, vận động cải tạo phong tục, tập quán lạc hậu. Các huyện,
thành phố đã ban hành nhiều đề án về xây dựng nếp sống văn hóa, cải tạo hủ tục lạc
hậu, tổ chức tuyên truyền lưu động, cổ động, giới thiệu pháp luật tại các làng văn hóa.
Nhờ vậy, nhiều hủ tục trong việc cưới, việc tang được bài trừ, hình thành nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ở cả vùng nông thôn và thành thị.
Phong trào xây dựng GĐVH được triển khai rộng khắp và được nhân dân hưởng
ứng tích cực, góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam. Từ năm 2000, khi tiêu chí xây dựng gia đình, thôn bản văn hóa
được xác định và áp dụng trong bình xét hàng năm, việc xây dựng gia đình, thôn bản
văn hóa đã trở thành phong trào thi đua rộng khắp trong toàn tỉnh. Số hộ gia đình, thôn,
bản đạt tiêu chuẩn văn hóa tăng nhanh về số lượng và nâng cao về chất lượng. Đã xây
dựng được nhiều mô hình làng văn hóa đặc thù như mô hình làng văn hóa du lịch ở
huyện Sa Pa, Bắc Hà, làng văn hóa vùng đặc biệt khó khăn ở Bảo Yên, Bát Xát, làng
văn hóa sức khỏe ở huyện Si Ma Cai, Mường Khương, Bảo Thắng. Các mô hình làng
văn hóa này đã có tác động tích cực tới phát triển đời sống kinh tế - xã hội của nhân
dân. Bộ mặt nông thôn nhờ đó thay đổi: các gia đình ăn ở vệ sinh hơn, đường làng ngõ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xóm sạch sẽ hơn, số hộ gia đình đói nghèo giảm đi, tệ nạn xã hội giảm đáng kể, hủ tục
dần được bãi bỏ, bài trừ, kinh tế phát triển, môi trường sinh thái được bảo vệ, khối đoàn
kết cộng đồng được củng cố, bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc được giữ gìn. Đời
sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, an ninh chính trị được bảo đảm, người
dân có ý thức tốt trong việc chấp hành các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Trong việc xây dựng GĐVH, tỉnh đi sâu giải quyết những vấn đề nổi
cộm và cấp bách về xây dựng gia đình ở vùng cao như: hôn nhân cận huyết thống, tảo
hôn, bất bình đẳng giới, phụ nữ đi khỏi địa phương, chăm sóc, giáo dục trẻ em,… Về
cách làm, tỉnh chủ trương xây dựng các câu lạc bộ tuyên truyền, các mô hình mẫu, xây
dựng hương ước, quy ước, chú trọng, tôn trọng hương ước, quy ước dân gian; thành
lập các hội đồng bao gồm những người có uy tín trong cộng đồng, gắn với vai trò của
già làng, trưởng bản để tuyên truyền triển khai thực hiện. Vì vậy, phong trào xây dựng
GĐVH đã tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và tư tưởng, đạo đức của
người dân, huy động được sức người, sức của, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc
vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội chung của tỉnh. Nổi bật là
công tác xóa bỏ tập quán, hủ tục lạc hậu, xóa đói, giảm nghèo; giữ vững ổn định trật tự
xã hội; thực hiện công tác khuyến học, khuyến tài, bảo tồn văn hóa truyền thống, giữ
gìn cảnh quan môi trường; thực hiện phong trào đóng góp xây dựng quỹ “Đền ơn đáp
nghĩa”, quỹ “Vì người nghèo” mang lại hiệu quả thiết thực cho người dân. Nếu như
năm 2000, toàn tỉnh có 51.636 hộ GĐVH (chiếm 44%), đến năm 2011 đã công nhận
97.920 hộ GĐVH (chiếm 69,8%) [4], đến năm 2014 đã tăng lên 122.398 hộ GĐVH
(chiếm 82,6%) [32]. Điển hình phong trào này là các huyện Bảo Yên, Bảo Thắng, Bát
Xát và thành phố Lào Cai. Tính đến 2015 toàn tỉnh có 78% gia đình được công nhận
danh hiệu “GĐVH”. Đến hết năm 2018, tỷ lệ GĐVH đạt 81% [33].
Phong trào xây dựng thôn, làng, tổ dân phố văn hóa được đẩy mạnh góp phần
tạo môi trường văn hóa lành mạnh cho nhân dân. Các làng, bản văn hóa đã đạt được
các tiêu chí về phát triển kinh tế, từng bước xóa đói, giảm nghèo; đời sống văn hóa tinh
thần lành mạnh, phong phú; chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Năm 2000 toàn tỉnh có 256 thôn, bản, tổ dân phố đạt tiêu chí
văn hóa. Năm 2005 tăng lên 794 làng, bản, tổ dân phố văn hóa (chiếm 39% tổng số
thôn, bản trong toàn tỉnh). Đến năm 2012 con số này là 1.319/2.199 làng, bản, tổ dân
phố (chiếm 60%), trong đó có 315 làng bản giữ vững được danh hiệu văn hóa liên tục
từ 8 đến 10 năm. Điển hình là các huyện Bảo Yên, Bảo Thắng, Bắc Hà. Tính đến hết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm 2014, toàn tỉnh có 1.773/2.202 làng, bản, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa [32]. Toàn
tỉnh xây dựng được 1.111 nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố, xã, phường, thị trấn [31].
Một số huyện đạt tỷ lệ xây dựng nhà văn hóa cao như Văn Bàn, Bảo Thắng, Mường
Khương, Bảo Yên, Bát Xát, Si Ma Cai. Đặc biệt, gắn với chương trình xây dựng nông
thôn mới, các địa phương đã quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện nên hiệu quả của phong trào ngày càng cao. Nếu năm 2013, toàn tỉnh có
1.358 làng, bản, tổ dân phố đạt danh hiệu Làng văn hóa, Tổ dân phố văn hóa (chiếm tỷ
lệ 61,7%), năm 2014 đã tăng lên 1.514 làng, bản, tổ dân phố (chiếm tỷ lệ 68,8%). Năm
2014, phong trào “TDĐKXDĐSVH” trên địa bàn tỉnh Lào Cai tiếp tục phát triển mạnh
mẽ và đi vào chiều sâu, nhất là phong trào xây dựng gia đình, thôn, tổ dân phố văn hóa,
góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và cải thiện mọi
mặt đời sống cho người dân.
Phong trào xây dựng cơ quan, đơn vị, trường học văn hóa được duy trì và từng
bước nâng cao về chất lượng. Nét nổi bật nhất là các cơ quan, đơn vị, trường học đã
đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ để giao lưu, học hỏi, góp phần nâng cao đời
sống tinh thần cho đội ngũ công nhân, viên chức, lao động, học sinh. Đến năm 2015,
các cơ quan, đơn vị trong toàn tỉnh đã xây dựng được 495 đội văn nghệ xung kích với
hơn 2.745 người và thường xuyên tổ chức giao lưu ở cơ sở. Năm 2012, đã tổ chức được
1.080 đêm giao lưu văn hóa, văn nghệ, hội thi, hội diễn nhân dịp các ngày lễ kỷ niệm.
Năm 2000, toàn tỉnh có 253 cơ quan, đơn vị được công nhận có nếp sống văn hóa, sang
năm 2005 là 837 cơ quan, đơn vị và đến năm 2014 con số này tăng lên mức 1.676 cơ
quan, đơn vị [31]. Năm 2015 có 67% thôn, làng, tổ dân phố được công nhận danh hiệu
“Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”, 95% cơ quan, trường học đạt
tiêu chuẩn văn hóa. Đến hết năm 2018, tỷ lệ thôn, làng, tổ dân phố văn hóa đạt 84%;
tỷ lệ cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa đạt 93%; tỷ lệ doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa
đạt 74%.
Việc xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội và tín ngưỡng có
nhiều chuyển biến tích cực. Quán triệt và thực hiện Kết luận số 51-KL/TW của Bộ
Chính trị (khóa X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-1-1998 của Bộ
Chính trị (khóa VIII) về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ
hội, Lào Cai đã có nhiều cách làm sáng tạo. Trong đó nổi bật là việc triển khai thực
hiện đề tài nghiên cứu khoa học nhằm đánh giá đúng, khách quan những kết quả, hạn
chế, nguyên nhân và giải pháp trong quá trình thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW; tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhiều hội nghị cho già làng, trưởng bản để phổ biến quy định thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội của tỉnh và ký cam kết xóa bỏ các hủ tục lạc hậu
trong cưới xin, tang lễ,… Nhờ đó diện mạo đời sống sinh hoạt văn hóa của nhân dân
các dân tộc Lào Cai đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng trong xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Năm 2018, tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận
huyết thống trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã có sự chuyển biến rõ rệt: Hôn nhân cận huyết
thống cơ bản không còn xảy ra; tình trạng tảo hôn vẫn xảy ra song đã giảm nhiều, tính
đến hết năm 2018 trên địa bàn tỉnh có 250 trường hợp tảo hôn, giảm 41,5% so với năm
2015 [36].
3.3.3. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, truyền thống các dân tộc
Hằng năm, Lào Cai có khoảng hơn 40 lễ hội được tổ chức ở các địa phương
trên địa bàn tỉnh. Lễ hội tổ chức vào dịp đầu năm mới chủ yếu là các lễ hội dân gian
truyền thống của đồng bào các dân tộc như Hội đình của người Tày ở Làng Già, huyện
Bảo Yên diễn ra vào ngày 6-1 âm lịch; Hội chơi hang của người Thái, Tày ở thị trấn
Khánh Yên, huyện Văn Bàn diễn ra từ ngày 5 đến 8-1 âm lịch; Hội xòe ở Tà Chải,
huyện Bắc Hà vào ngày 15-1 âm lịch; Lễ cúng rừng của người Nùng ở huyện Mường
Khương vào ngày 29-1 âm lịch; Lễ hội xuống đồng của người Giáy (lễ hội Roóng
Poọc) ở xã Tả Van, huyện Sa Pa vào ngày Thìn tháng Giêng âm lịch, Lễ hội Gầu Tào
của người Mông diễn ra vào dịp tết,… Tuy quy mô tổ chức không lớn nhưng các lễ
hội dân gian mang giá trị sinh hoạt nghi lễ có tính cộng đồng cao. Cùng với các trò
chơi dân gian, các môn thể thao dân tộc, hoạt động ẩm thực, giao lưu văn nghệ,…các
lễ hội dân gian đã thu hút đông đảo người dân trong vùng tham gia, tạo không khí vui
tươi, phấn khởi dịp đầu xuân mới, đồng thời cũng góp phần bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc. Ngoài ra còn có các lễ hội gắn với di tích, nhân vật lịch sử và
các lễ hội mới như lễ hội Đền Thượng, Đền Bảo Hà, Đền Bắc Hà, Đền Chiềng Ken,
lễ hội du lịch về nguồn…đều được tổ chức đúng nghi lễ truyền thống, có chất lượng,
là điểm nhấn thu hút du khách đến với Lào Cai, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, phát triển văn hóa dân tộc thiểu
số được thực hiện sáng tạo, đạt kết quả cao, tạo thành nguồn lực quan trọng góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Từ năm 2000, Lào Cai đã cụ thể hóa Nghị quyết
Trung ương V (khóa VIII) thành đề án chuyên đề trọng tâm của tỉnh để tập trung chỉ
đạo thực hiện. Qua ba nhiệm kỳ liên tục (khóa XII, XIII, XIV) đã tiến hành nghiên cứu,
tổng kết cả về lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Lào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Cai, đúc kết được phương pháp, quan điểm về bảo tồn. Đó là một trong những nội dung
thành công nhất của Lào Cai khi thực hiện Nghị quyết. Về quan điểm, Lào Cai nhất
quán thực hiện: gắn bảo tồn với phát triển, gắn bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch,
bảo tồn tại chỗ trong cộng đồng người dân và bảo tồn, lưu trữ trong bảo tàng. Về
phương pháp và quy trình bảo tồn, thực hiện theo trình tự khảo sát, tổng kiểm kê, phân
loại di sản để có hình thức bảo tồn phù hợp và hiệu quả.
Di sản văn hóa các dân tộc Lào Cai được bảo tồn và phát huy, tạo thành nguồn
lực phát triển kinh tế - xã hội. Đến năm 2015, Lào Cai đã tiến hành tổng kiểm kê, khảo
sát di sản văn hóa vật thể, phi vật thể trên địa bàn toàn tỉnh. Công tác phân loại di tích
được triển khai có kết quả, đã thống kê được toàn bộ các di tích trên địa bàn tỉnh, hoàn
thành việc lập bản đồ di sản văn hóa Lào Cai. Công tác lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di
tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt được đẩy mạnh. Năm
1999, Lào Cai mới có 3 di tích (Dinh thự Hoàng A Tưởng, động Mường Vi, đồn Phố
Ràng) được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, chưa có di tích cấp tỉnh. Đến năm
2015, toàn tỉnh có tổng 28 di tích được công nhận, trong đó có 17 di tích được công
nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, 11 di tích được công nhận là di tích lịch sử cấp
tỉnh. Nhìn chung, công tác bảo tồn đã tập trung vào các di sản văn hóa trọng điểm, có
giá trị cao gắn với việc khai thác nguồn lợi từ các di sản, góp phần phục vụ xóa đói,
giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh của Lào
Cai được tu sửa, tôn tạo. Các di tích vật thể có giá trị lịch sử, văn hóa ở Lào Cai được
bảo tồn, tôn tạo, phát triển quy mô hơn. Cụm di tích Đền Bảo Hà và Đền Cô Tân An
thuộc quần thể di tích Thần vệ quốc Hoàng Bảy, là địa chỉ du lịch tâm linh linh thiêng
của hàng vạn lượt du khách mỗi năm trong hành trình “Du lịch về cội nguồn”. Các di
tích: Đền Trung Đô (Bắc Hà), Đền Chiềng Ken (Văn Bàn) cũng được quan tâm trùng
tu và thu hút đông đảo khách thập phương. Cụm di tích Đền Thượng - Đền Mẫu - Đền
Đôi Cô (thành phố Lào Cai) mỗi năm đón tiếp hàng chục vạn du khách thập phương,
nhất là vào dịp lễ hội đầu xuân. Đặc biệt, ngay từ năm 2000, Lào Cai đã nghiên cứu,
nâng cấp và xây dựng kịch bản nâng cấp lễ hội Đền Thượng từ cấp phường lên quy mô
lễ hội cấp tỉnh, góp phần giáo dục ý thức quốc gia, dân tộc. Đến năm 2018, SVHTTDL
tỉnh Lào Cai đã triển khai công tác điều tra, thống kê, lập bản đồ phân bổ 7 loại hình di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn toàn tỉnh gồm: lễ hội truyền thống; nghệ thuật trình
diễn dân gian; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian; ngữ văn dân gian trên địa
bàn tỉnh Lào Cai; tiếng nói, chữ viết của các dân tộc ở Lào Cai; tập quán xã hội của các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân tộc ở Lào Cai. Sở đã lập hồ sơ đề nghị công nhận di tích, danh thắng cấp tỉnh đối
với: Đền Mẫu (xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát), Di tích chiến thắng Đèo Khau Co
(huyện Văn Bàn), Danh thắng Thác Đầu Nhuần (huyện Bảo Thắng), Di tích chiến thắng
Đồn Dương Quỳ (huyện Văn Bàn). Hiện nay đang tiếp tục nghiên cứu, lập hồ sơ đề
nghị công nhận danh thắng cấp tỉnh đối với danh thắng Động Tiên Cảnh (xã Xuân
Thượng, huyện Bảo Yên). Tính đến hết năm 2018, trên toàn tỉnh có 24 di sản văn hóa
phi vật thể quốc gia. Trong đó di sản Nghi lễ kéo co của người Tày - Giáy đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Năm 2016,
Sở phối hợp với Viện Âm nhạc Việt Nam tiến hành xây dựng hồ sơ “Then Tày, Nùng,
Thái” đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
trong thời gian tới.
Công tác bảo tồn văn hóa cũng được gắn với phát triển du lịch, xóa đói, giảm
nghèo bền vững. Việc sưu tầm di sản văn hóa vật thể (hiện vật, di vật, cổ vật) thu được
nhiều kết quả, bổ sung đáng kể lượng hiện vật cho Bảo tàng tỉnh và các bảo tàng chuyên
ngành của Trung ương. Hiện Lào Cai đã sưu tầm được 14.060 hiện vật, di vật, cổ vật,
trong đó có 8.179 hiện vật thể khối với nhiều cổ vật giá trị như: Trống đồng Võ Lao
(Văn Bàn), vò gốm (Mường Khương), gương đồng (Lào Cai), chăn đắp bằng vỏ cây
sui (Cam Đường), 200 mẫu hoa văn cổ của người Mông, hàng nghìn hiện vật dân tộc
học về công cụ sản xuất, săn bắn, hái lượm, nhạc cụ cổ truyền, y phục, đồ trang sức,
tranh thờ cổ,…của 23 nhóm, ngành dân tộc ở Lào Cai. Làng cổ của các dân tộc tiêu
biểu ở Lào Cai được bảo tồn và khai thác thành các điểm du lịch hấp dẫn. Hiện tại có
5 ngôi làng cổ của các dân tộc tiêu biểu là: Thôn Cát Cát của người Mông ở xã San Sả
Hồ, thôn Sả Séng của người Dao ở xã Tả Phìn, thôn Bản Dền của người Tày ở xã Bản
Hồ, huyện Sa Pa; thôn Lao Chải của người Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát; thôn
Trung Đô của người Tày ở xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà được lựa chọn bảo tồn. Tại mỗi
ngôi làng cổ, các đặc trưng văn hóa tộc người như nhà cổ lợp ngói gỗ pơ mu, nhà sàn
nửa đất, khuôn viên cổ truyền, khu rừng cấm, khu canh tác, các cơ sở sản xuất nghề
thủ công (dệt vải, nhuộm chàm, làm đồ gỗ, rèn đúc, chạm khắc bạc, nấu rượu, tắm lá
thuốc) bước đầu xây dựng được quy hoạch bảo vệ. Nhờ vậy, 5 ngôi làng cổ này đã trở
thành điểm, tuyến du lịch hấp dẫn du khách. Với sáng kiến “biến di sản thành tài sản”,
Lào Cai đã khảo sát và lập danh sách, đầu tư phát triển các đặc sản của tỉnh thành sản
phẩm hàng hóa phục vụ phát triển du lịch; một số giá trị văn hóa đã dần trở thành
thương hiệu của riêng Lào Cai như: Chảo thắng cố Bắc Hà được công nhận kỷ lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Guinness Việt Nam, giải đua ngựa truyền thống tại Bắc Hà, lễ hội trên mây ở Sa Pa,…
Việc tổng kiểm kê di sản văn hóa các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một cao
đã được tỉnh chú trọng triển khai. Hiện tỉnh đã hoàn thành việc tổng kiểm kê di sản văn
hóa phi vật thể của 23 nhóm ngành dân tộc. Đã có 12 di sản văn hóa phi vật thể được
đưa vào Danh mục di sản văn hóa cấp quốc gia: Lệ hội Đền Thượng thành phố Lào
Cai; Nghề chạm khắc bạc của người Dao đỏ tỉnh Lào Cai; Lễ Cúng rừng cấm bang của
người Thu Lao ở xã Tả Gia Khâu, huyện Mường Khương; Lễ hội Xuống đồng của dân
tộc Tày huyện Văn Bàn; Nghề làm trống truyền thống dân tộc Mông; Khắp Nôm dân
tộc Tày huyện Văn Bàn, Mo dân tộc Giáy; Nghệ thuật trang trí trên trang phục của
người Dao đỏ; Nghi lễ mo Tham Tháp, Nghệ thuật tạo hình trên trang phục của người
Pa Dí huyện Mường Khương; Lễ hội Ăn thề bảo vệ rừng dân tộc Mông huyện Si Ma
Cai; Nghề làm trống của người Dao đỏ xã Tả Phìn, huyện Sa Pa. Các lễ hội tiêu biểu
của người Dao, Bố Y, Thu Lao, Hà Nhì, Phù Lá, Tày đã sưu tầm, bảo quản dưới dạng
băng hình, ảnh kỹ thuật số 15,… Các lễ hội đều được bảo tồn theo phương pháp trao
truyền, đúng nghi lễ, phong tục. Nội dung, trình tự các lễ hội đều được tiến hành quay
phim, chụp ảnh bảo quản, lưu trữ bằng kỹ thuật số để làm tư liệu nghiên cứu. Một số
lễ hội được phục dựng, nâng cấp thành sản phẩm du lịch văn hóa như các lễ tiết liên
quan đến nông nghiệp của người La Chí, Xa Phó,…được trích đoạn biểu diễn tại các
chương trình nghệ thuật. Đã khảo sát phong tục tập quán của 15 nhóm ngành thuộc 13
dân tộc với tổng số hơn 100 phong tục tập quán khác nhau của mỗi nhóm, bảo tồn và
phục dựng được 5 nghề thủ công của các dân tộc gồm nghề rèn đúc và chạm khắc bạc,
nghề trồng lanh, thêu dệt vải của người Mông; nghề thêu dệt thổ cẩm, làm thuốc nam
của người Dao; nghề làm tranh cắt giấy của người Nùng. Các nghề thủ công truyền
thống đều được sưu tầm đầy đủ, tổng thể các quy trình, được quay phim, chụp ảnh bảo
tồn. Ngoài ra còn mở lớp thực hành và truyền dạy nghề, tạo ý thức bảo tồn trong nhân
dân. Các sản phẩm thủ công truyền thống đã trở thành những sản phẩm du lịch mới,
mang lại nguồn lợi kinh tế cao, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào dân tộc
thiểu số Lào Cai.
Hệ thống di sản văn hóa phi vật thể phong phú và đa dạng của các dân tộc Lào
Cai đều đã được sưu tầm, bảo quản bằng công nghệ số hiện đại. Tỉnh đã chỉ đạo tiến
hành tổng kiểm kê tại 500 làng của 9 huyện, thành phố. Sưu tầm bảo quản dưới dạng
ghi âm số 1.500 bài dân ca của từng ngành, nhóm dân tộc, lưu trong hơn 300 băng
catset và đĩa CD. In sao trên đĩa VCD hàng chục chương trình dân ca, độc tấu nhạc cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các dân tộc để cung cấp cho các thôn, bản nhằm phát triển phong trào văn hóa, văn
nghệ bản sắc của các dân tộc. Trên cơ sở đó, tỉnh thường xuyên tổ chức hội thi, hội
diễn dân ca các dân tộc thiểu số. Nhờ vậy, di sản dân ca, dân vũ của nhân dân các dân
tộc Lào Cai được bảo tồn, phát triển.
Văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết cũng được tỉnh quan
tâm đầu tư, phát triển. Lào Cai có đông thành phần dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số nên
tỉnh rất chú trọng bảo tồn và phát triển văn hóa của các dân tộc. Tỉnh có nhiều chương
trình liên kết nhằm khai thác thế mạnh về di sản văn hóa đặc sắc của các dân tộc. Tiêu
biểu như phối hợp với Viện Dân tộc học xác định các thành phần dân tộc trên địa bàn
tỉnh, nhất là các nhóm như Phù Lá - Xa Phó, Pa Dí - Thu Lao, Tu Dí - Tày Nặm…; hợp
tác với Viện Ngôn ngữ học khảo sát di sản sách cổ và ngôn ngữ của các nhóm dân tộc,
tiến hành tổng kiểm kê thực trạng kho sách cổ ở 466 làng người Dao trên địa bàn tỉnh,
đánh mã số kiểm kê trên 11.000 cuốn sách cổ; sưu tầm trên 700 cuốn sách; phân loại,
chụp trên 20.000 ảnh sách cổ lưu trữ trong máy vi tính. Đã hoàn thành cuốn sách Giáo
trình dạy chữ Nôm - Dao, mở 20 lớp truyền dạy chữ Nôm - Dao cho thanh, thiếu niên
người Dao tại huyện Bảo Thắng.
Lào Cai đã triển khai biên soạn giáo trình tiếng Mông và được Bộ Giáo dục và
Đào tạo phê chuẩn thành giáo trình chuẩn áp dụng trong toàn quốc. Tỉnh đã tổ chức
các lớp học tiếng Mông cho người dân và cả các cán bộ, công chức tại các vùng người
Mông đạt kết quả cao. Ngôn ngữ các dân tộc ở Lào Cai như Mông, Dao, Giáy được sử
dụng trong các chương trình phát thanh, truyền hình của Lào Cai. Tỉnh cũng đã xây
dựng phòng lồng tiếng cho các ngôn ngữ Mông, Dao, Phù Lá, tổ chức lồng tiếng cho
các chương trình phim, phóng sự và phát hành cho các đội chiếu bóng lưu động trong
toàn tỉnh để phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Đội ngũ nghệ nhân dân gian được quan tâm, tạo điều kiện để họ truyền dạy,
quảng bá tinh hoa văn hóa dân tộc mình cho thế hệ trẻ. Đến nay, Lào Cai đã gây dựng
được đội ngũ nghệ nhân dân gian đông đảo, có trình độ chuyên môn, hiểu biết sâu sắc
về nhiều lĩnh vực tri thức, văn hóa dân gian, có đóng góp quan trọng trong công tác
bảo tồn, truyền dạy, phát huy các giá trị văn hóa bản địa. Tiêu biểu là các nghệ nhân
Ma Thanh Sợi, Hoàng Thị Cứ dân tộc Tày (huyện Bảo Yên); Giàng Seo Gà dân tộc
Mông (huyện Sa Pa); Triệu Văn Quẩy, Hoàng Sỹ Lực dân tộc Dao (huyện Bảo Thắng);
Hoàng Xín Hòa dân tộc Nùng (huyện Mường Khương)…
3.3.4. Đẩy mạnh chương trình hợp tác, quảng bá văn hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng đã góp phần quảng bá hình ảnh Lào
Cai ra thế giới. Nằm ở vị trí đầu cầu, tâm điểm trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh
- Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, do đó Lào Cai có cơ hội giao lưu, tiếp
thu tinh hoa văn hóa thế giới, nhưng cũng đứng trước khó khăn là ảnh hưởng của văn
hóa ngoại lai. Vì vậy, tỉnh Lào Cai đã xây dựng chiến lược quảng bá văn hóa ra thế
giới để chủ động hợp tác và ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa bên ngoài. Hoạt
động trao đổi, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, thể thao giữa tỉnh Lào Cai với tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc) được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai
địa phương đầu cầu trong tuyến hành lang kinh tế. Từ khi cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu
được mở lại, quan hệ giao lưu về văn hóa, thể thao với Trung Quốc của tỉnh được đẩy
mạnh. Hằng năm, nhân dịp các ngày kỷ niệm, ngày lễ của hai bên, tỉnh Lào Cai và tỉnh
Vân Nam đều tiến hành trao đổi, tổ chức giao lưu nghệ thuật giữa các đoàn văn hóa
nghệ thuật, các văn nghệ sĩ và cơ quan văn hóa. Từ năm 2008 đến 2015, tỉnh đã phối
hợp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) tổ chức được nhiều hội thảo khoa học quốc tế về
chủ đề “Giao lưu kinh tế - văn hóa lưu vực sông Hồng trong lịch sử, hiện tại và tương
lai”, phục vụ có hiệu quả trong công tác hoạch định chính sách, xúc tiến đầu tư của 2
tỉnh. Ngoài ra, Lào Cai còn duy trì, phát triển mối quan hệ hợp tác, với các vùng lãnh
thổ, tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Việt Nam trong nghiên cứu bảo tồn, quy hoạch,
phát triển văn hóa Lào Cai như vùng Aquitaine (Cộng hòa Pháp), Trường Đại học Khoa
học - Xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội), Câu lạc bộ Giao lưu kinh tế - văn
hóa quốc tế. Hình ảnh về văn hóa, danh thắng Lào Cai được các hãng truyền hình trong
nước, VTV4 đối ngoại, HTV, VTC, truyền hình quốc tế NHK (Nhật Bản), CCTV
(Trung Quốc), CNN (Mĩ),…đăng tải, góp phần quảng bá Lào Cai đến bạn bè quốc tế.
Năm 2012, Diễn đàn quốc tế phát triển lưu vực sống Hồng lần thứ IV - Lào Cai
với chủ đề “Hợp tác kinh tế, văn hóa, bảo vệ môi trường, phát triển du lịch bền vững
lưu vực sông Hồng” thu hút 80 viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan quản lý, doanh
nghiệp uy tín của Trung Quốc và Việt Nam tham dự.
Tháng 1-2012, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh đã được phát lên vệ tinh
vinasat. Từ chỗ chỉ dân cư thành phố Lào Cai, một phần huyện Bảo Thắng, Bảo Yên,
Bát Xát nghe, xem được chương trình của Đài Phát thanh và Truyền hình Lào Cai, đến
2012 không chỉ 100% cư dân trong tỉnh nghe, xem được mà kênh sóng phát thanh,
truyền hình của tỉnh còn tỏa rộng tới mọi miền đất nước và một số khu vực trên thế
giới, góp phần kết nối Lào Cai với cả nước và quốc tế. Ngày 1-1-2013, chương trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phát thanh các thứ tiếng dân tộc được tách ra khỏi kênh phát thanh tiếng Việt và trở
thành kênh riêng. Tháng 7-2013, Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình khánh thành
và đi vào hoạt động, tạo thuận lợi cho việc sản xuất, truyền dẫn, phát sóng các chương
trình phát thanh, truyền hình. Việc đưa Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình mới
vào sử dụng và tổ chức sản xuất truyền dẫn phát sóng các chương trình truyền hình trên
hệ thống thiết bị HD đã tác động tích cực tới việc sản xuất và nâng cao chất lượng các
chương trình phát thanh, truyền hình. Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Lào Cai đã
cho ra đời nhiều chương trình mới phong phú, hấp dẫn, đáp ứng nhiệm vụ chính trị,
thông tin tuyên truyền và nhu cầu tiếp cận thông tin, giải trí của người dân qua các
chương trình “Tiêu điểm”, “Lào Cai ngày mới”, “Đối thoại cuối tuần”, “Nhịp cầu hữu
nghị”,… Nhiều tin, bài ở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề bức xúc của người dân
được chuyển tải qua chương trình, đến với các cơ quan chức năng và được giải quyết
triệt để. Những chuyên mục chuyên đề như “Đối thoại cuối tuần”, “Hộp thư truyền
hình” đã góp phần gắn kết cơ quan chức năng với người dân và doanh nghiệp, tạo nên
sự đồng thuận xã hội trong việc thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước, hạn chế, đẩy lùi các mặt trái, tiêu cực.
Từ một ấn phẩm ngày đầu mới tái lập tỉnh, đến năm 2013, báo Lào Cai đã xuất
bản: Báo Lào Cai thường kỳ xuất bản thứ hai, thứ tư, thứ sáu hằng tuần, Báo Lào Cai
cuối tuần, Báo Lào Cai dành cho đồng bào các dân tộc và Báo Lào Cai điện tử. Số
lượng phát hành năm 2013 tăng gấp 9 lần so với năm 1992. Báo Lào Cai điện tử luôn
cập nhật thông tin nhanh với nhiều chuyên mục, thu hút sự quan tâm theo dõi của bạn
đọc. Lượng truy cập bình quân mỗi tháng đạt trên 500 nghìn lượt. Với việc thông tin
nhanh, nhạy, chính xác, toàn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế - xã
hội trên địa bàn tỉnh, báo Lào Cai đã đáp ứng tốt quyền được thông tin của nhân dân
các dân tộc, thực sự là công cụ đấu tranh, tuyên truyền sắc bén, hiệu quả trước những
luận điệu phản động, âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Nhiệm vụ chính trị xuyên suốt của báo Lào Cai là thực hiện tốt vai trò là tiếng nói của
Đảng bộ, chính quyền, là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, là diễn đàn
tin cậy của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, góp phần quan trọng trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị, đưa các nghị quyết
của Trung ương, tỉnh, chương trình công tác trọng tâm, các đề án, kế hoạch của Đảng
bộ tỉnh vào cuộc sống. Những năm gần đây, các ấn phẩm của báo Lào Cai còn làm tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chức năng thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh Lào Cai ra cả nước và thế giới, góp
phần thu hút nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển của tỉnh. Cổng Thông tin đối
ngoại của tỉnh được xây dựng, đáp ứng tốt yêu cầu thông tin, quảng bá hình ảnh, thu
hút đầu tư, hợp tác quốc tế, góp phần kết nối văn hóa Lào Cai với thế giới.
Đến năm 2015, sau 10 năm tham gia vào hệ thống thông tin điện tử, trên địa bàn
tỉnh có gần 500 trang thông tin địa tử của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, trường
học, trong đó có Báo Lào Cai điện tử (năm 2010), Cổng Thông tin Du lịch tỉnh Lào
Cai (năm 2014),… đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, quảng bá hình
ảnh văn hóa, vị thế của Lào Cai trên môi trường mạng, thúc đẩy sự phát triển và hội
nhập của tỉnh Lào Cai với cả nước và quốc tế.
3.4. Phong trào thể dục thể thao ngày càng lớn mạnh, thể thao thành tích cao có
những bước phát triển đột phá
Ngày 25-3-2008, UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 67/QĐ -
UBND về việc hợp nhất Sở Thể dục Thể thao với sở Văn hoá - Thông tin và tiếp nhận
tổ chức quản lý nhà nước về Du lịch từ sở Thương mại và Du lịch thành Sở Văn hoá,
Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai. Những ngày này những người làm công tác TDTT
tỉnh Lào Cai vô cùng phấn khởi khi được trở về chung một mái nhà với những người
làm công tác Văn hóa và Du lịch.
Trải qua 10 năm sát cánh cùng nhau xây dựng và phát triển, những người làm
công tác TDTT của tỉnh Lào Cai đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND tỉnh cùng sự hưởng ứng, phối hợp của các cấp, các ngành,
các tổ chức đoàn thể và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, thể thao Lào Cai sau 10 năm
hợp nhất cùng Văn hóa và Du lịch đã gặt hái được những thành tích đáng phấn khởi
góp phần tích cực vào sự phát triển chung của tỉnh và của đất nước.
3.4.1. Công tác đầu tư phát triển thể dục thể thao
Công tác đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện các công trình thể thao
được tỉnh Lào Cai chú trọng. Ngày 23-9-2012, Nhà thi đấu đa năng tỉnh Lào Cai đạt
tiêu chuẩn thi đấu quốc gia và khu vực với sức chứa 3.000 chỗ ngồi đã được đưa vào
sử dụng. Đã thực hiện bàn giao công trình Sân vận động tỉnh Lào Cai giai đoạn 1 (bố
trí vốn Đề án số 4), phục vụ tổ chức thành công các giải thi đấu trong khuôn khổ Đại
hội TDTT tỉnh Lào Cai năm 2018. Sở cũng đã đề xuất với BVHTTDL đẩy nhanh tiến
độ triển khai trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng Trung tâm Huấn luyện và Phục hồi sức
khỏe VĐV quốc gia tại Sa Pa. Hàng năm, Sở đã triển khai đầu tư mua sắm, đầu tư trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thiết bị phục vụ công tác huấn luyện thể thao thành tích cao của Trung tâm Huấn luyện
và Thi đấu TDTT tỉnh. Triển khai xây dựng nhà tập luyện thể thao, tường rào, bậc ngồi,
đường chạy sân vận động huyện Si Ma Cai, Bảo Thắng, Bảo Yên. Đến năm 2018, toàn
tỉnh có 1 Khu Liên hợp thể thao cấp tỉnh (Trung tâm huấn luyện và thi đấu TDTT tỉnh,
Nhà thi đấu đa năng tỉnh với 3.000 chỗ ngồi, Sân vận động tỉnh), 5/9 huyện có nhà tập
luyện TDTT (Mường Khương, Bảo Thắng, Bảo Yên, Si Ma Cai và thành phố Lào Cai),
8/9 huyện có mặt bằng sân vận động (Mường Khương, Bảo Thắng, Bảo Yên, Bắc Hà,
Văn Bàn, Si Ma Cai, Sa Pa và thành phố Lào Cai. Toàn tỉnh có 125 nhà tập luyện
TDTT và trên 500 sân chơi, bãi tập phục vụ nhu cầu tập luyện TDTT cho nhân dân tại
các thôn bản, cụm dân cư, cơ quan, đơn vị, trường học.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa TDTT, từ năm 2008 sau khi SVHTTDL được
thành lập, công tác xã hội hóa đã thu hút được sự quan tâm, đóng góp của nhiều cá
nhân và tổ chức thông qua nhiều hoạt động. Năm 2009, Sở đã tổ chức nhiều giải thể
thao theo hướng xã hội hóa như: Giải việt dã truyền thống tỉnh Lào Cai, Giải đua ngựa
truyền thống Bắc Hà mở rộng, Giải quần vợt của Liên đoàn Quần vợt tỉnh Lào Cai,
Giải leo núi chinh phục đỉnh Fansipan,… Đó là các giải thể thao được tổ chức từ các
nguồn vốn tài trợ xã hội hóa với số tiền tài trợ lên đến hàng trăm triệu đồng.
Việc nâng cao chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ cơ sở được chú trọng,
phát huy tốt vai trò của Ban chủ nhiệm trong việc chỉ đạo, hướng dẫn phong trào thể
thao trong nội bộ các ngành với nhiều hình thức hoạt động thể thao đa dạng, phong
phú, đảm bảo lực lượng VĐV tham gia thi đấu các giải cấp ngành, cấp tỉnh tổ chức.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân cùng tham gia vào
hoạt động TDTT đã thu hút sự đầu tư của các cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
đầu tư vào các giải thi đấu.
Chất lượng tổ chức các giải thi đấu TDTT của tỉnh ngày càng được nâng cao.
Hàng năm, để chuẩn bị cho Đại hội TDTT tỉnh Lào Cai và tham gia Đại hội TDTT toàn
quốc, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho UBND tỉnh thành lập Ban
chỉ đạo Đại hội của tỉnh, tham mưu ban hành kế hoạch tổ chức Đại hội TDTT các cấp
tiến tới Đại hội TDTT tỉnh Lào Cai. Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thường
xuyên cử cán bộ nghiệp vụ, trọng tài đi tập huấn các lớp đào tạo chuyên ngành do Tổng
cục TDTT, Liên đoàn thể thao tổ chức, mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn
cho đội ngũ trọng tài, trước các giải thi đấu tổ chức họp chuyên môn, họp rút kinh
nghiệm giữa các giải thi đấu. Năm 2009, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chức được 15 giải thi đấu cấp tỉnh (đạt 100% kế hoạch), tổ chức các giải giao hữu cầu
lông, tennis, bóng đá để chào mừng các ngày lễ kỷ niệm lớn của tỉnh, của đất nước.
Ngành cũng đã tổ chức thành công 5 giải thi đấu trong khuôn khổ Đại hội TDTT tỉnh
Lào Cai lần thứ IV, đăng cai tổ chức 2 giải quốc gia: Giải vô địch Bóng bàn các đội
mạnh toàn quốc và Giải cúp Tán thủ toàn quốc.
Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch năm trên cơ sở đề án phát triển TDTT của tỉnh, hàng
năm ngành đã mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ công tác TDTT cơ sở cho các cán bộ
làm công tác TDTT ở các xã, phường, thị trấn, huyện, thành phố với hàng trăm học
viên tham gia. Năm 2009 đã mở 2 lớp huấn luyện với trên 100 học viên tham gia.
Tỉnh Lào Cai có đường biên giới tiếp giáp với huyện Hà Khẩu (Vân Nam -
Trung Quốc). Vào các ngày lễ, tết, trong dịp đầu xuân, ngành Văn hóa, Thể thao và Du
lịch Lào Cai đã phối hợp với Cục Văn thể của huyện Hà Khẩu tổ chức thi đấu giao hữu
các giải thể thao như bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông nhằm thắt chặt tình
đoàn kết giữa nhân dân hai nước Việt - Trung.
3.4.2. Thể thao quần chúng
Thể thao quần chúng là công tác nền tảng, nhiệm vụ chiến lược nhằm tăng cường
sức khỏe cho nhân dân. Từ năm 2008 đến nay, các hoạt động TDTT quần chúng tiếp
tục được mở rộng và đi vào chiều sâu trong các đối tượng, địa bàn cơ sở theo hướng
xã hội hóa, bằng những hình thức đa dạng và phù hợp với điều kiện cụ thể từng địa
phương như: Đón năm mới, kỷ niệm ngày thành lập Đảng (3/2), ngày thành lập Ngành
TDTT (27/3), ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5), ngày Cách mạng tháng Tám và
Quốc Khánh 2/9, ngày Bác Hồ lên thăm Lào Cai và các nhiệm vụ chính trị quan trọng
khác của tỉnh.
Đến năm 2018, Sở đã hướng dẫn thành lập và hỗ trợ trang thiết bị tập luyện cho
38 cơ sở, câu lạc bộ TDTT cấp xã trên địa bàn toàn tỉnh, ưu tiên các xã hoàn thành
chương trình xây dựng nông thôn mới. Trong đó có 25 Câu lạc bộ Bắn nỏ tại xã Quang
Kim (Bát Xát), xã Na Hối (Bắc Hà), xã Văn Sơn (Văn Bàn), xã Cán Cấu (Si Ma Cai),
xã La Pán Tẩn (Mường Khương), xã Sơn Hà (Bảo Thắng), xã Hợp Thành (thành phố
Lào Cai), xã Tả Phìn (Sa Pa), xã Xuân Thượng (Bảo Yên)…; 5 Câu lạc bộ môn Tu lu;
2 Câu lạc bộ môn Đẩy gậy; 3 Câu lạc bộ Bóng chuyền hơi tại xã Bản Hồ (Sa Pa), xã
Khánh Yên Hạ, Hòa Mạc (Văn Bàn); 2 cơ sở Kéo co; 1 cơ sở Tung còn. Ngành Thể
thao đã tổ chức 6 lớp tập huấn chuyên môn nghiệp vụ về công tác TDTT cho 565 cộng
tác viên, hướng dẫn viên TDTT cơ sở tại các huyện Văn Bàn, Bảo Thắng, Bát Xát, Si
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ma Cai, thành phố Lào Cai và Bảo Yên.
Phong trào thể thao quần chúng năm 2009 đã có bước phát triển mạnh, số người
tham gia tập luyện TDTT thường xuyên chiếm 19,6% dân số, số hộ gia đình thể thao
chiếm 8,4%, có 242 câu lạc bộ TDTT, trong đó có 128 câu lạc bộ hoạt động nhiều môn.
Năm 2012, toàn tỉnh đã có 21% số người tham gia luyện tập TDTT thường xuyên.
Phong trào tập luyện các môn thể thao như đi bộ, cầu lông, bóng đá, quần vợt,...tiếp
tục được duy trì trong quần chúng nhân dân, trong công nhân viên chức, người lao
động, lực lượng vũ trang. Nhiều địa phương duy trì được phong trào tập luyện TDTT
trong quần chúng nhân dân, vừa đảm bảo về số lượng và chất lượng, tiêu biểu như
thành phố Lào Cai, các huyện Bảo Thắng, Mường Khương,...
Thể thao trường học thực hiện đúng chương trình giáo dục thể chất do Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định. Duy trì và phát triển phong trào TDTT trong các nhà trường
là mục tiêu phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ. Tỉnh đã nghiên cứu quy hoạch quỹ đất
cho trường học các cấp để xây dựng sân bãi, nhà tập,…theo quy mô của từng trường;
đầu tư trang bị về cơ sở vật chất, dụng cụ phục vụ giảng dạy và tập luyện TDTT cho
nhà trường theo Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án 641. Trong 2 năm 2017-2018 đã
hỗ trợ cho 8 trường: Trường Tiểu học thị trấn Sa Pa, Trường Tiểu học Kim Đồng (Sa
Pa); Trường THCS Nam Cường (thành phố Lào Cai); Trường Tiểu học số 1 xã Sín
Chéng (Si Ma Cai); Trường Tiểu học Na Hối 1 (Bắc Hà); Trường Tiểu học thị trấn Bát
Xát; Trường THCS Võ Lao (Văn Bàn); Trường PTDTBT-THCS Bản Mế (Si Ma Cai).
Đồng thời tăng cường bồi dưỡng đội ngũ giáo viên TDTT đảm bảo đủ về số lượng,
nâng cao về chất lượng.
Từ năm 2009 đến 2012, 100% số trường trong tỉnh đảm bảo chương trình giáo
dục thể chất, trong đó có trên 50% số trường hoạt động thể thao ngoại khóa. SVHTTDL
đã ký kết với Sở Giáo dục và Đào tạo chương trình phối hợp phát triển phong trào
TDTT trong hệ thống trường học. Nhiều giải thể thao ngành TDTT chỉ làm nhiệm vụ
chuyên môn còn lực lượng do ngành Giáo dục tổ chức và chứng nhận thành tích để ưu
tiên học sinh trong thi cử.
Phong trào TDTT trong cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động ngày càng
phát triển mạnh và đều ở các ngành, các khối, 90% các ngành trong tỉnh có câu lạc bộ
TDTT. Các môn thể thao được ưa chuộng như cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, bóng
đá mini, quần vợt,…đã thu hút đông đảo cán bộ công chức và người lao động tham gia
tập luyện (45% cán bộ công chức tham gia tập luyện TDTT).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thể thao trong lực lượng vũ trang được đẩy mạnh theo tiêu chuẩn “Chiến sỹ
khỏe” trong quân đội, “Chiến sỹ công an khỏe” trong lực lượng công an. Hoạt động
TDTT được duy trì thường xuyên, các đơn vị đều có sân chơi, nhà tập thể thao, có trên
98% cán bộ, chiến sỹ tham gia tập luyện TDTT thường xuyên.
Thể thao trong nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được nhân rộng
với các môn cầu lông, bóng đá, bóng chuyền, đi bộ, các câu lạc bộ TDTT phát triển
rộng khắp ở các xã, phường, thôn bản. Đối với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân gian tiếp tục được khai
thác, được tổ chức thường xuyên trong các lễ hội như bắn nỏ, đẩy gậy, tung còn, đua
ngựa,…thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc đến tham gia và cổ vũ. Năm 2009, ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Hội Nông dân tỉnh tổ chức giải bóng
chuyền “Bông lúa vàng” tỉnh Lào Cai lần thứ XII, phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh tổ
chức thành công Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai lần thứ III, tuyển
chọn đoàn VĐV đi tham gia thi đấu tại Hội thi Thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc
lần thứ IV tại tỉnh Yên Bái.
Thể thao trong đối tượng người cao tuổi cũng được phát huy. Nhằm tăng cường
công tác xây dựng và phát triển phong trào, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn
luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” gắn với phong trào “TDĐKXDĐSVH”, nhiều
câu lạc bộ người cao tuổi ra đời và hoạt động hiệu quả như thể dục dưỡng sinh, cầu
lông, bóng bàn, cờ tướng, đặc biệt là môn bóng chuyền hơi mới được phát triển trong
thời gian gần đây. Các hoạt động không chỉ góp phần nâng cao sức khỏe, tuổi thọ cho
người già mà còn có vai trò rất lớn trong việc giáo dục truyền thống, tác động tích cực
tới các đối tượng xã hội, góp phần đẩy mạnh hoạt động TDTT. Năm 2012 đã tổ chức
được 1.218 cuộc thi đấu thể thao nhân dịp các ngày lễ kỷ niệm. Đến năm 2015, các cơ
quan, đơn vị trong toàn tỉnh đã thành lập được 890 đội bóng bàn, cầu lông, bóng
chuyền, bóng đá với hơn 3.000 VĐV tham gia và thường xuyên tổ chức giao lưu, thi
đấu ở cơ sở.
Phong trào thể thao quần chúng từ sau năm 2008 đã phát triển mạnh mẽ cả về
bề rộng và chiều sâu. Trong những năm gần đây, phong trào đặc biệt phát triển nhanh
chóng, rộng khắp, thu hút nhiều thành phần, đối tượng tham gia như cầu lông, bóng đá,
quần vợt, bóng chuyền hơi,... Ý thức của người dân đối với việc luyện tập TDTT, rèn
luyện sức khỏe được nâng cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, việc đầu tư cơ sở vật chất
cho các công trình thể thao ở cơ sở như xã, thôn bản vẫn còn thiếu, chưa thực sự đáp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ứng được nhu cầu rèn luyện sức khỏe của người dân.
3.4.3. Thể thao thành tích cao
Xác định thể thao thành tích cao là nhiệm vụ trọng tâm do đó ngành Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã chú trọng, tập trung mọi điều kiện tốt nhất phục vụ công tác
huấn luyện VĐV thể thao thành tích cao để tham gia các giải đấu khu vực, toàn quốc
và quốc tế. Ngành TDTT đã thực hiện các giải pháp đổi mới phương thức tuyển chọn
và đào tạo tài năng thể thao thành tích cao theo hướng chuyên nghiệp. Thực hiện công
tác duy trì và phân nhóm trọng tâm đầu tư các môn thể thao gồm: Nhóm I mũi nhọn
(Boxing, Teakwondo, Wushu, Cử tạ, Pencaksilat); nhóm II (Điền kinh, Cầu lông, Bóng
bàn, Võ thuật cổ truyền, Kichboxing); nhóm III (Bóng đá thiếu niên - nhi đồng, Quần
vợt và một số môn thể thao dân tộc). Thuê chuyên gia, huấn luyện viên cao cấp đối với
môn Boxing, Cử tạ, Wushu, Teakwondo (thuộc nhóm I mũi nhọn). Các VĐV được tập
huấn tại các trung tâm thể thao trong nước với các môn Teakwondo, Boxing,
Pencaksilat, Wushu (năm 2017); các môn Xe đạp, Tennis, Bóng đá (năm 2018). Thực
hiện chế độ hỗ trợ dinh dưỡng VĐV đạt đẳng cấp: 1 kiện tướng quốc tế, 2 kiện tướng
quốc gia, 3 VĐV cấp 1 quốc gia, 2 dự bị kiện tướng quốc gia.
Đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng, số lượng VĐV các tuyến. Tổng số
VĐV đào tạo trong chương trình đào tạo VĐV là 644 VĐV, trong đó có 30 VĐV tập
trung, 80 bán tập trung, 534 nghiệp dư. Hệ thống các lớp năng khiếu được duy trì và
phát triển, trong đó có 6 lớp thể thao tập trung (Wushu, Pencaksilat, cầu lông,
Teakwondo, Boxing, bóng bàn) và 8 thể thao bán tập trung (Bóng bàn, cầu lông,
Wushu, Pencaksilat, Teakwondo, Boxing, điền kinh). Công tác đào tạo, tuyển chọn
VĐV được đặc biệt quan tâm với các test kiểm tra chặt chẽ và mở rộng phạm vi tuyển
chọn trên địa bàn toàn tỉnh.
Các môn thể thao thành tích cao tiếp tục được duy trì, phát triển, hoàn thành và
vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao. Năm 2009, Lào Cai tham gia 21 giải, giành được 71
huy chương các loại, trong đó có 14 HCV, 27 HCB, 40 HCĐ, có 23 VĐV được phong
đẳng cấp quốc gia (trong đó có 8 kiện tướng quốc gia, 15 VĐV cấp I quốc gia, 4 VĐV
trong đội tuyển trẻ và đội tuyển quốc gia [28]. Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VI-
2010 (kéo dài từ tháng 1 cho tới tháng 12-2010), thể thao Lào Cai tham gia thi đấu ở
12 môn thể thao, gồm: Wushu, Boxing nam, nữ, Teawkondo, Pencaksilat, Võ cổ
truyền, Cử tạ, Điền kinh, Cầu lông, Bóng bàn, Đẩy gậy và Bắn nỏ. Lào Cai xếp thứ
31/62 tỉnh, thành trong bảng tổng sắp huy chương Đại hội toàn quốc. Môn thể thao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Wushu của Lào Cai đã khẳng định mình bằng những kết quả thi đấu đầy ấn tượng. Điều
đó đã được chứng minh khi VĐV Hoàng Thị Trang bất ngờ vượt qua nhiều đối thủ
mạnh để đem về chiếc HCV đầu tiên cho Wushu Lào Cai; Giải Boxing nữ, VĐV Lừu
Thị Duyên giành HCV. Tại Giải vô địch Boxing nữ châu Á năm 2010, VĐV Lừu Thị
Duyên giành được HCĐ. Giải Taekwondo trẻ Đông Nam Á diễn ra từ ngày 4 đến ngày
9-4-2011 tại Campuchia, quy tụ đông đủ các quốc gia trong khu vực tham gia thi đấu.
Nguyễn Thị Huyền Trang - VĐV thuộc đội tuyển Taekwondo Lào Cai đã xuất sắc
giành HCV hạng cân 49kg nội dung đối kháng cá nhân. Năm 2011 tiếp tục là một năm
thành công với Lừu Thị Duyên khi VĐV này giành HCB tại Giải vô địch Boxing nữ
trẻ thế giới; HCV giải tiền Sea Games 26, HCB Sea Games 26 và HCV giải Vô địch
Boxing nữ toàn quốc.
Từ ngày từ 27-3 đến 6-4-2013 tại Nhà thi đấu tỉnh Hậu Giang đã diễn ra Giải
thi đấu Taekwondo các lứa tuổi trẻ toàn quốc. Giải đã thu hút hơn 700 VĐV ở 38 tỉnh,
thành phố trong cả nước. Đoàn Lào Cai đã thi đấu xuất sắc và giành được 6 huy chương
các loại: 3 HCV và 3 HCĐ. Ba HCV thuộc về các VĐV: Hoàng Thị Tuyết (hạng 47kg)
lứa tuổi 17; Nguyễn Văn Linh (hạng 30kg), lứa tuổi 14 và Hoàng Văn Tài (hạng 32kg),
lứa tuổi 14.
Ngày 14-12-2013 được đánh dấu là ngày lịch sử của Boxing Việt Nam khi Lừu
Thị Duyên đã tham gia Sea Games 27, giành HCV môn Boxing hạng cân 60kg nữ sau
khi đánh bại đối thủ người Thái Lan Sudaporan Seesondee. Đây là HCV lịch sử của
Duyên khi cô mang về tấm HCV đầu tiên tại một kỳ Sea Games ở nội dung Boxing nữ.
Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII năm 2014, thành tích của thể thao Lào Cai
đã gấp 4 lần năm 2006 với 8 huy chương các loại (3 HCV, 1 HCB và 4 HCĐ), đứng
trong tốp dẫn đầu các tỉnh khu vực miền núi.
Tại ASIAD 17 (2014), VĐV Boxing Lừu Thị Duyên thi đấu ở hạng cân 57-60kg
nữ và giành được HCĐ.
Thể thao Lào Cai thời kỳ đầu mới tái lập chỉ dám mơ ước có 1 tấm HCV tại các
giải đấu mang tầm quốc gia thì giờ đây nhờ có sự lựa chọn đầu tư các môn thế mạnh
đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp, Lào Cai đã có HCV tại các giải vô địch quốc
gia, đại hội TDTT, các giải châu lục và thế giới. Hàng năm, số huy chương thể thao
Lào Cai đạt được đều vượt chỉ tiêu huy chương đề ra. Giai đoạn 2016-2018, mỗi năm
tổ chức từ 31-32 đoàn đi tham gia các giải thi đấu khu vực, toàn quốc. Năm 2016 đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
70 huy chương; năm 2017 đạt 79 huy chương; năm 2018 đạt 88 huy chương các loại.
Tại Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ VIII năm 2018, Đoàn thể thao tỉnh Lào Cai đạt
11 huy chương các loại (2 HCV, 2 HCB, 7 HCĐ).
3.5. Thương hiệu du lịch Lào Cai đã được định hình, phát triển trong toàn quốc
và vươn tầm quốc tế
3.5.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch
Ngay sau khi SVHTTDL thành lập, Ban Chỉ đạo du lịch tỉnh Lào Cai được kiện
toàn lại theo Quyết định số 2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lào Cai ngày 7/7/2009.
Sau khi kiện toàn, Ban Chỉ đạo du lịch tỉnh đã tổ chức các phiên họp để chỉ đạo thực
hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực du lịch. Kể từ khi thành lập đến nay, Ban
chỉ đạo đã tích cực tham gia, chỉ đạo và ban hành các giải pháp để phát triển du lịch,
đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, đảm bảo mối quan hệ phối hợp
đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành để giải quyết công việc hiệu quả. Các thành
viên Ban chỉ đạo đã phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của mình; phát huy tính năng
động, sáng tạo để thực hiện công tác tham mưu, chỉ đạo mang lại hiệu quả cao cho hoạt
động du lịch. Trong công tác tổ chức các sự kiện văn hóa, du lịch, công tác giao thông
được đảm bảo thông suốt, thủ tục xuất nhập cảnh cho khách mời được giải quyết nhanh
gọn, đặc biệt công tác truyền thông đã phát huy tốt vai trò đối với việc tuyên truyền,
quảng bá trước và sau các sự kiện.
Trong phát triển kinh tế du lịch, tỉnh Lào cai đã thực hiện nhiều chương trình,
đề án nhằm đưa du lịch phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đề án “Phát
triển kinh tế du lịch giai đoạn 2006-2010” (Đề án số 12) là một trong 29 đề án trọng
tâm của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XIII đề ra nhằm khai thác tiềm
năng, thế mạnh về du lịch và định hướng đưa kinh tế du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn.
Năm 2008, UBND tỉnh Lào Cai ban hành Quy chế quản lý một số hoạt động du
lịch trên địa bàn (Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày 23/1/2008). Đây là cơ sở pháp lý
để tăng cường quản lý nhà nước về du lịch phù hợp với thực tế của địa phương.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế du lịch, Đảng bộ tỉnh Lào Cai đề ra phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế du lịch đến năm 2010 là: Mở rộng hơn địa bàn và
hình thức hoạt động, nâng cao chất lượng sản phẩm về du lịch và các dịch vụ kèm theo;
tăng cường đầu tư và quảng bá khu du lịch Sa Pa và những khu du lịch khác trong tỉnh;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mở rộng các điểm, tuyến du lịch, tập trung khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên để
phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, du lịch cộng
đồng, lịch sử, thể thao; đầu tư, phát triển du lịch theo hướng bền vững, chất lượng cao,
đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Thực hiện chủ trương của Đảng
bộ địa phương về phát triển kinh tế du lịch, Lào Cai đã sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà
nước về du lịch, các đơn vị sản xuất kinh doanh, ban hành cơ chế, chính sách phát triển
kinh tế du lịch; huy động các nguồn lực, đẩy mạnh khai thác mọi tiềm năng để phát
triển kinh tế du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, đa dạng và nâng
cao chất lượng các loại hình dịch vụ du lịch, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa giữ gìn
phát huy giá trị văn hóa, lịch sử, bảo vệ môi trường sinh thái; tăng cường công tác bảo
vệ môi trường, cảnh quan và vệ sinh an toàn thực phẩm, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, phát triển các dịch vụ phụ trợ, đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch, tăng cường
công tác quảng bá, tiếp thị du lịch ở trong nước và quốc tế [43, tr.211-212].
Đề án "Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2011-2015" với mục
tiêu phát triển thương mại - du lịch, dịch vụ là mũi nhọn; Nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động du lịch, dịch vụ, đưa du lịch, dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh. Mở rộng không gian du lịch ra thành phố, các huyện và khu vực nông thôn miền
núi, các khu vực thiên nhiên hoang dã trên cơ sở mở rộng các khu, tuyến, điểm du lịch
trên địa bàn toàn tỉnh. Khai thác tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực khác để phát triển
du lịch theo hướng nhanh, mạnh, bền vững, chất lượng, tạo việc làm và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người dân địa phương; Khẳng định thương hiệu du lịch
Lào Cai và trở thành một trong 10 điểm đến du lịch quốc tế hấp dẫn nhất của Việt Nam.
Phấn đấu đưa tổng số khách đến Lào Cai đạt 1,5 triệu lượt khách; doanh thu du lịch
năm 2015 đạt 3.412 tỷ đồng; Tổng số cơ sở lưu trú đạt 480 cơ sở, nâng tổng số cơ sở
lưu trú từ 1 sao trở lên là 75 cơ sở; trong đó, số cơ sở đạt 3 sao trở lên đạt 15 cơ sở với
khoảng 1.300 phòng và số phòng đạt tiêu chuẩn từ 1- 5 sao trở lên khoảng 3.200 phòng.
Tổng số lao động khoảng 8.500 người, trong đó, số lao động trực tiếp khoảng 2.500
người, chiếm 78% tổng số lao động trực tiếp trong các cơ sở; Về số ngày lưu trú bình
quân đạt 3,5 ngày vào năm 2015; Về mức chi tiêu bình quân một ngày/khách đạt
650.000 đồng.
Ngày 27-11-2015, Tỉnh ủy Lào Cai ban hành Đề án “Phát triển du lịch tỉnh Lào
Cai giai đoạn 2016-2020” với mục tiêu nhằm xây dựng Lào Cai trở thành một trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những điểm đến du lịch hấp dẫn nhất của vùng Tây Bắc, là một trong những trọng điểm
du lịch của Việt Nam, là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam và Đông Nam Á; Xây
dựng Sa Pa trở thành khu du lịch quốc gia, quốc tế giàu bản sắc, hiện đại. Chú trọng
hợp tác trong nước và quốc tế về du lịch; ưu tiên hợp tác kết nối du lịch biển của Việt
Nam với Sa Pa và vùng Tây Nam (Trung Quốc). Phấn đấu đến năm 2020, Lào Cai trở
thành tỉnh phát triển của vùng Tây Bắc, du lịch Lào Cai phát triển đột phá, cơ bản trở
thành ngành kinh tế có vị trí quan trọng trong cơ cấu khối dịch vụ cùng hệ thống cơ sở
hạ tầng du lịch đồng bộ, sản phẩm chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, duy trì và
phát huy được những nét đẹp của văn hóa dân tộc; bền vững với môi trường tự nhiên;
Đưa tổng lượt khách đến Lào Cai đạt trên 4,5 triệu lượt khách trong đó khách quốc tế
chiếm 35% tổng lượt khách; Về doanh thu: doanh thu du lịch năm 2020 đạt trên 18.000
tỷ đồng; Tổng số cơ sở lưu trú: 1.300 cơ sở với trên 16.000 phòng (Trong đó: Khách
sạn từ 3 sao trở lên chiếm trên 5.500 phòng; các khách sạn 1- 2 sao chiếm trên 10.000
phòng, ngoài ra còn có trên 1.000 phòng của một số loại hình lưu trú đặc biệt khác như:
resort, bunggalow, homestay,...). Số ngày lưu trú bình quân: 3 ngày; Mức chi tiêu bình
quân: 1.350.000 đồng. Tuyến, điểm được xếp hạng: 28 tuyến, điểm. Lao động: 33.000
lao động; trong đó 12.000 lao động trực tiếp, 21.000 lao động gián tiếp; trên 70%, số
lao động trong hoạt động du lịch được đào tạo các kỹ năng nghề; 50% được đào tạo
ngoại ngữ.
Hoàn thành xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Lào Cai giai
đoạn 2015-2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch
quốc gia Sa Pa đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngày 26-9-
2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1845/QĐ-TTg về Phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến năm 2030.
Trong đó đã định hướng phát triển Sa Pa thành 1 Đô thị du lịch Sa Pa và 4 phân khu
du lịch, gồm: Bản Khoang - Tả Giàng Phình (thuộc xã Bản Khoang và Tả Giàng Phình);
Tả Phìn (thuộc xã Tả Phìn); Tả Van - Séo Mý Tỷ (thuộc xã Tả Van); và Thanh Kim
(thuộc xã Thanh Kim), có sự kết nối với huyện Bát Xát. Tổ chức triển khai thực hiện
Luật Du lịch năm 2017 và các quy định hướng dẫn chi tiết. Thành lập quỹ hỗ trợ phát
triển du lịch. Đến năm 2018 đã vận động nguồn tài trợ Quỹ phát triển du lịch với tổng
số tiền hơn 8,3 tỷ đồng. Đã ban hành Bộ quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch trên
địa bàn tỉnh, in ấn 30.000 bộ hình ảnh hóa bằng 3 ngôn ngữ Việt - Anh - Trung phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hành đến các cơ sở kinh doanh và khách du lịch, đăng tải các clip hình ảnh Bộ quy tắc
tuyên truyền trên các trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội thu hút hàng trăm ngàn
lượt người xem truy cập, tạo hiệu ứng tốt lan tỏa trong cộng đồng góp phần từng bước
xây dựng môi trường du lịch của tỉnh thân thiện và phát triển bền vững.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, góp phần đưa các hoạt động du
lịch đi dần vào nề nếp. Đã thực hiện niêm yết giá dịch vụ lưu trú tại Sa Pa, Bắc Hà,
thành phố Lào Cai cũng như tất cả các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh, thanh tra việc
thực hiện đúng giá niêm yết tại các địa bàn vào các dịp lễ hội, mùa cao điểm nên giá
dịch vụ du lịch được ổn định. Tại cửa khẩu Quốc tế Lào Cai, quy trình thực hiện quản
lý xuất nhập cảnh đã được duy trì tốt, giải quyết nhanh chóng các thủ tục cho khách du
lịch. Thực hiện đúng quy định về công tác thẩm định các cơ sở lưu trú du lịch trên địa
bàn và cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và
doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
3.5.2. Cơ sở vật chất chuyên ngành phục vụ khách du lịch
Kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh của các cơ sở lưu trú du lịch
trong việc cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung nhằm thỏa mãn
nhu cầu lưu lại tạm thời của khách du lịch tại một tỉnh, một vùng hay một quốc gia phát
triển du lịch. Kinh doanh lưu trú du lịch phát triển sẽ kéo theo việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế để phục vụ, cung ứng cho sự phát triển của lưu trú du lịch. Để phát triển du lịch,
tỉnh Lào Cai đặc biệt chú trọng đầu tư, xây dựng các cơ sở kinh doanh lưu trú. Năm
2010, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 410 cơ sở lưu trú với 5.150 phòng, tập trung tại Sa
Pa, Bắc Hà, thành phố Lào Cai. Trong số đó có 17 khách sạn 1 sao với 234 buồng; 22
cơ sở đạt chất lượng 2 sao với tổng số 550 buồng; 4 cơ sở đạt chất lượng 3 sao và 1
khách sạn 4 sao. Ngoài ra còn có hơn 80 nhà nghỉ lưu trú tại gia ở các thôn bản phát
triển du lịch cộng đồng tại huyện Sa Pa và Bắc Hà. Cơ sở lưu trú phát triển với tốc độ
nhanh cả về số lượng và chất lượng. Việc quản lý giá cơ sở lưu trú đã thực hiện tốt với
việc tổ chức ký cam kết thực hiện văn minh trong kinh doanh cơ sở lưu trú và đăng ký
giá phòng theo mùa vụ du lịch. Một số dự án Khách sạn lớn đã được triển khai như:
Dự án Khách sạn 4 sao của Công ty cổ phần Du lịch Dầu khí Sa Pa tại thị trấn Sa Pa
và dự án Khách sạn 4 sao của Công ty cổ phần Du lịch Dầu khí Sa Pa tại Ngã 6 - thành
phố Lào Cai; Dự án Khách sạn Điện lực 4 sao của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc;
Dự án Khách sạn cao cấp ở thông Nậm Cáy (Tả Chải - Bắc Hà) của Công ty cỏ phần
Thương mại và Du lịch sông Hồng; Dự án Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng sau đồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nhạc Sơn của Công ty cổ phần xi măng Hoàng Liên Sơn; Dự án Khu du lịch sinh thái
Duyên Hải tại thành phố Lào Cai của Doanh nghiệp tư nhân Phùng Minh,… Năm 2015,
cơ sở vật chất phục vụ du lịch được tăng cường, tổng số cơ sở lưu trú là 550 cơ sở, với
trên 8.000 phòng trong đó có 01 cơ sở đạt 5 sao với 150 phòng; 02 cơ sở 4 sao với 320
phòng, 13 cơ sở 3 sao với 650 phòng, 98 cơ sở từ 1-2 sao với trên 300 phòng; công
suất sử dụng phòng trung bình đạt gần 60%. Năm 2018, Lào Cai là địa phương đứng
đầu khu vực Tây Bắc về dịch vụ lưu trú nghỉ dưỡng với 1.241 cơ sở lưu trú, 14.838
buồng (901 khách sạn và nhà nghỉ, 340 homestay. Trong số đó 3 khách sạn 5 sao, 7
khách sạn 4 sao, 53 khách sạn 2 sao, 132 khách sạn 1 sao [33].
Hiện nay, nhiều dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng, Khu du lịch sinh thái, Du lịch
cộng đồng đã và đang chuẩn bị đi vào hoạt động góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ du lịch như: Khu vui chơi giải trí cáp treo Fansipan; Khu sinh thái Topas;
Khu du lịch cộng đồng Lá Dao; các khách sạn tiêu chuẩn 5 sao (Acord, Silk Path, Pao’
Sa Pa). Các dự án đang triển khai như: Công viên văn hóa Sa Pa, Khu vui chơi giải trí
Bản Qua (Bát Xát), Khu du lịch đồi con gái (Sa Pa),…
Kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần
hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch. Năm 2010, Lào Cai đã hướng dẫn
cấp mới và đổi giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế cho 7 đơn vị kinh doanh lữ hành
quốc tế, nâng tổng số đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế lên 17 đơn vị (trong đó có 1
doanh nghiệp nhà nước vừa chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên; 4 công ty cổ phần; 1 công ty liên doanh; 3 chi nhánh và 8 công ty trách nhiệm
hữu hạn) và 20 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, 1 công ty liên doanh kinh
doanh lưu trú và vui chơi có thưởng. Trong năm 2010, đã làm thủ tục đề nghị Tổng cục
Du lịch cho thêm 2 đơn vị được tham gia đón khách Trung Quốc theo Quy chế 849,
nâng tổng số doanh nghiệp tham gia đón khách bằng thẻ 849 lên 4 đơn vị. Tham mưu
cho UBND tỉnh cho phép 2 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế được đón khách bộ hành
Hà Khẩu - Lào Cai và Lào Cai - Hà Khẩu theo Quy chế 05 của UBND tỉnh. Cấp mới
và đổi 56 thẻ hướng dẫn viên du lịch địa phương, 11 thẻ hướng dẫn viên nội địa và 55
thẻ hướng dẫn viên quốc tế. Hoàn thiện việc đổi thẻ hướng dẫn viên quốc tế và nội địa
sang thẻ từ. Năm 2015, đã có 32 doanh nghiệp lữ hành, trong đó có 17 doanh nghiệp
lữ hành quốc tế, tăng 10 doanh nghiệp lữ hành quốc tế so với năm 2010.
Bên cạnh cơ sở lưu trú và cơ sở lữ hành, phương tiện vận chuyển là một trong
những yếu tố về cơ sở vật chất đảm bảo cho sự phát triển hoạt động du lịch. Phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiện chuyên vận chuyển khách du lịch là phương tiện bảo đảm các điều kiện phục vụ
khách du lịch, được sử dụng để vận chuyển khách du lịch theo chương trình du lịch.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh du lịch có nhiều phương tiện vận chuyển khác
nhau như ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay,... Phương tiện vận tải phục vụ khách du lịch
tiếp tục có bước phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách du lịch. Để
giảm áp lực vận tải hành khách đi lại bằng tàu hỏa tuyến Hà Nội - Lào Cai - Hà Nội,
ngành Giao thông vận tải đã tổ chức tuyến xe khách chất lượng cao tuyến Hà Nội - Lào
Cai - Hà Nội có giường nằm, ghế nằm, nội thất sang trọng và thiết bị theo dõi, giám sát
hành trình xe chạy. Năm 2010, số lượng khách sử dụng dịch vụ này đạt bình quân 600
khách/ngày (tương đương 1 đoàn tàu khách), phần nào giảm tải lượng khách đi bằng
tàu hỏa trong những dịp lễ tết và các dịp cao điểm. Năm 2010, toàn tỉnh có 10 hợp tác
xã, 13 công ty, 6 doanh nghiệp, 6 hãng taxi với trên 1.800 đầu xe các loại vận chuyển
khách du lịch. Ngành đường sắt đầu tư 9 hãng tàu du lịch với tổng số 18 toa giường
nằm cao cấp và 21 toa giường nằm của đường sắt Việt Nam đã cơ bản đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch. Thành công nhất trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải
phục vụ khách du lịch chính là việc xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai.
Đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai (ký hiệu toàn tuyến là CT.05) dài 265 km có
điểm đầu là nút giao thông giữa quốc lộ 2 và đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội
Bài (Hà Nội) và điểm cuối là xã Quang Kim (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai). Đường cao
tốc này là một phần của đường Xuyên Á (AH14). Dự án bắt đầu khởi công từ quý III
năm 2008 và hoàn thành vào ngày 21/9/2014. Theo thiết kế, đoạn Hà Nội - Yên Bái có
4 làn xe cho phép đạt vận tốc thiết kế tối đa 100 km/h; đoạn Yên Bái - Lào Cai có 2 làn
xe và đạt vận tốc tối đa 80 km/h. Vào ngày 21/09/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng cùng các đại biểu cắt băng thông xe toàn tuyến Nội Bài - Lào Cai tại khu dịch vụ
số 5 (lý trình Km 237+000), thôn Sơn Cả, xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
Với chiều dài 265 km, tốc độ tối đa 100 km/h có thể giúp rút ngắn thời gian toàn tuyến
xuống còn một nửa so với tuyến đường cũ. Kể từ khi thông xe toàn tuyến, ôtô khi lưu
thông qua tuyến đường này đã rút ngắn thời gian đi lại từ 7 giờ trước đây xuống còn
khoảng 3,5 giờ, lượng du khách quốc tế cũng như các tỉnh khác đến Lào Cai đã tăng
đột biến so với trước khi có đường cao tốc.
Giai đoạn 2006 - 2010, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và vui chơi giải trí
(đặc biệt là khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp) trong toàn tỉnh đạt 1.220.522 triệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đồng. Với tổng số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế du lịch trong 10 năm là 2.485 tỷ
đồng, Lào Cai đã hoàn thành quy hoạch tổng thể du lịch của tỉnh giai đoạn 2005-2015,
thiết lập các trung tâm du lịch, các cụm du lịch, ngành du lịch, xây dựng các tuyến du
lịch trong và ngoài tỉnh dựa trên sự phân bố tài nguyên tự nhiên và nhân văn. Đến năm
2015, Lào Cai có 17 tuyến, 12 điểm du lịch cộng đồng được công nhận góp phần phân
vùng và xác định các sản phẩm du lịch địa phương, định hướng cho các doanh nghiệp
du lịch khai thác. Hệ thống đường giao thông được đầu tư phát triển mạnh, đặc biệt là
các tuyến đường nối tới các khu, điểm du lịch đã được nâng cấp. Hệ thống điện, nước,
thông tin liên lạc phát triển hầu hết ở các huyện, thành phố, bước đầu đã đáp ứng yêu
cầu cho phát triển du lịch Lào Cai. Từ năm 2016 đến 2018, tỉnh còn thực hiện các dự
án cải tạo, nâng cấp đường du lịch Sa Pa, Bắc Hà, gồm: 3 dự án tại Bắc Hà (đường
Hoàng Thu Phố - Nhiều San- Tả Van Chư; Lầu Thí Ngài - Bản Phố và Thải Giàng Phố
- Nậm Thố - San Sả Hồ), tiếp tục triển khai các dự án đường từ thị trấn Sa Pa đến làng
Cát Cát và từ thôn San II Lao Chải - Tả Van, triển khai dự án Quốc lộ 4D đoạn qua thị
trấn Sa Pa (km 100 - 111), đường nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến Sa Pa.
3.5.3. Chương trình hợp tác, quảng bá, xúc tiến phát triển du lịch
Từ một trong những mô hình liên kết đầu tiên của du lịch bước đầu đạt hiệu quả
là “Du lịch cội nguồn” 3 tỉnh Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ, ngành đã xây dựng mô hình
liên kết 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng tạo thành tuyến du lịch “Vòng cung Tây Bắc”. Mô
hình liên kết 8 tỉnh khác với nhiều mô hình khác là không chỉ dừng lại ở tiếng trống
khai mạc liên kết mà còn xây dựng thành cơ chế phối hợp vận hành hiệu quả. Lào Cai
trở thành trưởng nhóm điều phối. Chương trình liên kết được sự giúp đỡ của tổ chức
Phát triển Hà Lan (SNV) đã mở nhiều lớp tập huấn, nâng cao năng lực nguồn nhân lực
cho nhiều tỉnh. Đặc biệt 8 tỉnh còn phối hợp nghiên cứu các mô hình du lịch cộng đồng,
xây dựng các tour, tuyến, điểm và sản phẩm du lịch cũng như phối hợp quảng bá du
lịch; thống nhất và cùng ký kết thực hiện Khung chương trình hành động hợp tác phát
triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng giai đoạn 2010-2015, Lào Cai được tín nhiệm bầu
làm trưởng nhóm hợp tác cho cả giai đoạn 5 năm (2010-2015). Nhằm đẩy mạnh liên
kết với quốc tế, ngành đã xây dựng và ký kết chương trình hợp tác với các cục du lịch,
văn hoá, thể thao của Châu Hồng Hà (Vân Nam - Trung Quốc). Liên kết tổ chức các
hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch đối ngoại ngày càng mở rộng cả về quy mô và hình
thức. Ngày hội Báo Xuân các nhà thơ, nhà báo Vân Nam cùng đọc thơ, cùng triển lãm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
báo Xuân bên dòng sông Hồng, sông Nậm Thi hữu nghị. Chương trình “Một điểm đến
hai quốc gia”, “Một điểm đến ba di sản ruộng bậc thang” theo sáng kiến của SVHTTDL
Lào Cai đang bước đầu thu hút sự hưởng ứng hợp tác của các doanh nghiệp Việt Nam
và Trung Quốc.
Chương trình Hợp tác phát triển du lịch khu vực Tây Bắc mở rộng đã được 8
tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên
được ký kết trong Hội nghị hợp tác phát triển du lịch khu vực Tây Bắc ngày 14-11-
2008 tại Sa Pa (Lào Cai) dưới sự chủ trì của BVHTTDL nhằm khai thác hợp lý tiềm
năng du lịch địa phương và thúc đẩy sự tăng trưởng du lịch của khu vực bằng các
chương trình, nội dung phát triển du lịch riêng của mỗi tỉnh, phù hợp với thỏa thuận
phát triển chung. Tổ chức thành công chuyến khảo sát Chuỗi sự kiện du lịch Lào Cai -
Hà Giang với sự tham gia của 70 tổ chức, nhà điều hành tour và phóng viên báo chí
của 12 tỉnh Lào Cai, Hà Giang và khu vực Hà Nội từ ngày 5-9-2009. Tổ chức thành
công chuyến tham quan học tập kinh nghiệm phát triển du lịch tại Thái Lan cho các
cán bộ chuyên môn du lịch của các tỉnh Tây Bắc mở rộng nhằm nâng cao hiệu quả
tham mưu cho lãnh đạo Sở, lãnh đạo tỉnh trong việc phát triển du lịch địa phương và
khu vực vào tháng 11-2009. Từ ngày 17 đến 18-12-2009, Lào Cai phối hợp với Tổ
chức Phát triển Hà Lan - SNV Việt Nam tổ chức thành công Hội thảo Triển khai hợp
tác, liên kết phát triển sản phẩm du lịch các tỉnh Tây Bắc mở rộng tại Bắc Hà với sự
tham gia của SVHTTDL các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Điện Biên, Sơn La, Lai
Châu; Trung tâm Thông tin Du lịch Lào Cai; UBND huyện Bắc Hà; Trường Trung cấp
Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch Lào Cai; Hội đồng cấp chứng chỉ Nghiệp vụ Du lịch
(Tổng cục Du lịch) và các doanh nghiệp du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Thông qua
các cuộc hội thảo, các tỉnh đã nhất trí xây dựng Modul quảng cáo cho Chương trình
hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng trên websites do SVHTTDL quản lý,
cập nhật thông tin (http://vanhoalaocai.vn và websites
http://fansipanvietnam.com). Đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông, thông tin đại
chúng, ứng dụng công nghệ thông tin trong quảng bá, xúc tiến du lịch, khuyến khích
sử dụng mạng xã hội và các trang thông tin điện tử (website): http://dulichlaocai.vn;
http://sapa-tourism.com.
Tiếp tục thực hiện các hoạt động trong chương trình hợp tác phát triển du lịch
trong hành lang kinh tế quan trọng Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng,
SVHTTDL tỉnh Lào Cai đã có nhiều hoạt động nhằm hợp tác, xúc tiến phát triển du
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lịch. Tháng 3-2009, tại Lào Cai đã tổ chức buổi hội đàm hợp tác phát triển du lịch giữa
các tỉnh, thành phố Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh (Việt Nam) và Vân
Nam (Trung Quốc). Lào Cai đã đề xuất hợp tác là xây dựng “Chương trình du lịch
vàng” dành cho khách du lịch Trung Quốc theo tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh và cho khách Việt Nam đi du lịch tại Vân Nam đảm bảo tiêu chuẩn về
chất lượng, điểm tham quan, giá cả để bảo vệ quyền lợi du khách; khai thác các loại
hình du lịch mới phục vụ nhu cầu du khách hai nước; đề xuất mở tuyến du lịch từ
Xixongbana (Vân Nam, Trung Quốc) tới Lào và đến các tỉnh trên tuyến hành lang kinh
tế của Việt Nam.
Chương trình xây dựng và khai thác sản phẩm du lịch mới được tổ chức với
chuyến Farmtrip cho các nhà quản lý, các doanh nghiệp lữ hành khảo sát tuyến du lịch
tại Luang Prabang (Lào) nhằm đánh giá tiềm năng và phát triển kinh doanh du lịch qua
biên giới, tăng cường liên kết các hoạt động kinh doanh của các công ty du lịch hai
nước. Tham gia chương trình phát động du lịch Việt Nam tại thị trường Singapo và
Malaysia nhằm quảng bá, giới thiệu tiềm năng du lịch Lào Cai.
Giai đoạn 2016-2018, tỉnh Lào Cai đã phát huy vai trò đầu mối trong tổ chức
liên kết hợp tác phát triển du lịch các tỉnh Tây Bắc, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, hội
nghị xúc tiến, đầu tư thương mại và du lịch, tham gia nhiều hội chợ quốc tế. Đặc biệt,
năm 2017 là năm thực hiện chương trình năm Du lịch Quốc gia, tỉnh đã tham gia, tổ
chức gian hàng trưng bày về Du lịch Lào Cai tại các hội chợ trong nước và quốc tế
như: Trưng bày gian hàng quảng bá sản phẩm du lịch Lào Cai trong Hội chợ thương
mại Du lịch quốc tế Việt - Trung 2017; Hội chợ Du lịch quốc tế Hà Nội năm 2017.
Thực hiện công tác truyền thông qua các phương tiện truyền thông, truyền hình Trung
ương và địa phương: Phát sóng truyền hình trực tiếp Lễ khai mạc Năm Du lịch quốc
gia 2017; thực hiện phóng sự về du lịch Lào Cai và khu vực Tây Bắc mở rộng; phát
hành các bản tin trên VTV1, VTV9, VTV4 về Năm Du lịch quốc gia, có các sự kiện,
tin tức, phóng sự phát sóng trên các bản tin Thời sự của VTV1.
Ngày 17-4-2014, Trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch tỉnh Lào Cai (tiền thân
là Trung tâm Thông tin Du lịch Lào Cai thành lập ngày 13/8/2007) được kiện toàn. Ngay
sau khi thành lập, Trung tâm đã xây dựng và in tờ rơi, xây dựng biển quảng cáo, biển chỉ
dẫn giới thiệu về hoạt động của Trung tâm; tập hợp ấn phẩm quảng bá của các doanh
nghiệp kinh doanh trên địa bàn; tổ chức chương trình văn nghệ, triển lãm tranh. Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tâm cũng khai thác và phát triển trang thông tin tiếng Việt (http://sapatourism.info.vn),
tiếp nhận từ Pháp trang (http://sapatourism.com), duy trì dịch vụ tên miền và lưu trữ
(hosting) cho Websites; hợp tác với World Hotel Link về khai thác Websites: http://sapa-
hotel.com để cung cấp các dịch vụ du lịch trực tuyến đến khách hàng trên phạm vi toàn
cầu. Đồng thời, Trung tâm còn kết nối liên kết (link) với các Websites của Trung tâm
đến các trang uy tín như Real Travel, Lonely Planet, Travel Fish,… Đẩy mạnh công tác
thông tin truyền thông, thông tin đại chúng, ứng dụng công nghệ thông tin trong quảng
bá, xúc tiến du lịch, khuyến khích sử dụng mạng xã hội và các trang thông tin điện tử
(website): http://dulichlaocai.vn.
Các cơ quan thông tấn báo, đài đã chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền,
quảng bá các hoạt động du lịch, sự kiện du lịch của tỉnh Lào Cai. Đài Phát thanh Truyền
hình đã hoàn thiện và phát sóng video quảng bá chương trình du lịch về cội nguồn trên
VTV, Đài Phát thanh Truyền hình Lào Cai, Đài Phát thanh Truyền hình Yên Bái, Phú
Thọ; xây dựng phần hai bộ phim tài liệu về sông Hồng gồm 20 tập với tên gọi “Sông
Hồng ký ức phù sa”; thực hiện nhiều phóng sự phát trên chương trình Thời sự của Đài
Truyền hình Việt Nam về quảng bá tài nguyên du lịch, các chương trình khuyến mãi
du lịch, chất lượng dịch vụ du lịch tại Lào Cai. Báo Lào Cai thường xuyên đăng tải các
tin, bài, ảnh có nội dung tuyên truyền, quảng bá liên quan đến thu hút khách du lịch
đến Lào Cai, cung cấp thông tin về sự kiện trên websites của tỉnh. Trong những năm
gần đây, Sở đã triển khai xây dựng bộ công cụ xúc tiến quảng bá du lịch Lào Cai gồm:
Sách ảnh Lào Cai; bản đồ du lịch tỉnh Lào Cai; triển khai kế hoạch thí điểm “Cổng
thông tin du lịch thông minh”, vận hành ứng dụng (App Store) du lịch Sa Pa trên điện
thoại thông minh Smartphone). Tổ chức đón đoàn FAMTRIP, các đoàn doanh nghiệp
đến xúc tiến nhằm khai thác những tiềm năng, lợi thế của tỉnh Lào Cai thành các tour,
tuyến du lịch, tạo ra các sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn, đặc trưng và phù hợp với nhu
cầu của thị trường du lịch mà khách đang hướng tới.
Công tác xã hội hóa du lịch cũng nhận được sự quan tâm, ủng hộ của nhiều tổ
chức, cá nhân, đặc biệt là các chương trình du lịch lớn của tỉnh như: Chương trình du
lịch về cội nguồn, Giải đua ngựa Bắc Hà, Chương trình du lịch leo núi cắm cờ Thăng
Long - Hà Nội 1000 năm tuổi trên đỉnh Fansipan,… Năm 2010, Chương trình du lịch
Cội nguồn đã có 8 doanh nghiệp tài trợ với tổng số tiền là 160 triệu đồng; Giả i đua
ngựa Bắc Hà được các đơn vị tài trợ, trao giải thưởng cho các kỵ sỹ đạt giải với tổng
số tiền 70 triệu đồng; Chương trình du lịch leo núi cắm cờ thăng Long- Hà Nội 1000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm tuổi trên đỉnh Fansipan đã thu hút nhiều đơn vị tham gia, trong đó có Vietnam
Airlines là nhà tài trợ chính, tổng giá trị tài trợ sản phẩm tương đương 280.120.000
đồng và 10 vé máy bay làm giải thưởng cho Fansipan 2010, ngoài ra còn có sự tài trợ
của 14 doanh nghiệp với tổng giá trị bằng hiện vật và tiền mặt tương đương 360 triệu
đồng [3].
3.5.4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch
SVHTTDL thường xuyên phối hợp với các cơ quan như Tổng cục Du lịch; Sở
Lao động Thương binh và Xã hội; Sở Giáo dục và Đào tạo; UBND các huyện, thành
phố; Các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh; Trường đại học Kinh tế quốc dân; Tổ chức
EU; Aquitaine; Trường Cao đẳng cộng đồng; Trường Cao đẳng nghề,…tổ chức các
hoạt động hướng nghiệp, đào tạo nghề du lịch trên địa bàn tỉnh.
Tính đến ngày 01-7-2016, trên địa bàn toàn tỉnh tổng số nhân lực làm việc trong
lĩnh vực du lịch là 9.147 người, cụ thể: Lĩnh vực kinh doanh 9.071 lao động (Lưu trú
3.164 lao động, làm việc tại 528 cơ sở lưu trú du lịch; Lữ hành và vận chuyển khách
du lịch 869 lao động, làm việc tại 38 đơn vị kinh doanh lữ hành; Khu, điểm du lịch
315 lao động, làm việc tại 26 tuyến, điểm du lịch; Lĩnh vực kinh doanh dịch vụ ăn uống
và dịch vụ du lịch khác 4.723 lao động). Lĩnh vực quản lý về du lịch với tổng số cán
bộ, công chức quản lý du lịch là 27 người, gồm 2 lãnh đạo Sở; 7 người làm việc ở
phòng Nghiệp vụ Du lịch - SVHTTDL; 5 người làm việc ở phòng Quy hoạch và Phát
triển Tài nguyên Du lịch - SVHTTDL; 13 người làm việc ở các huyện, thành phố của
tỉnh Lào Cai. Lĩnh vực sự nghiệp với tổng số cán bộ, viên chức 49 người, gồm: 5 lãnh
đạo đơn vị; 10 giảng viên, giáo viên chuyên ngành du lịch tại 2 trường: Trường Trung
cấp Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch, Trường Cao đẳng Cộng đồng và 34 cán bộ viên
chức tại Trung tâm Thông tin và xúc tiến Du lịch Lào Cai - SVHTTDL [35].
Năm 2018, đã đào tạo và bồi dưỡng mới, đào tạo lại trên 4.000 lao động, nâng
tổng số lao động du lịch trên địa bàn tỉnh lên trên 14.000 lao động trực tiếp đã qua đào
tạo, bồi dưỡng. Trong đó đã tổ chức 4 khóa bồi dưỡng kiến thức quản lý cơ sở lưu trú và
kỹ năng báo cáo thống kê qua phần mềm cho 400 học viên làm việc tại các đơn vị kinh
doanh dịch vụ du lịch tại huyện Sa Pa và thành phố Lào Cai; 4 lớp bồi dưỡng kỹ năng
phát triển du lịch cộng đồng, chế biến món ăn và công tác đảm bảo an ninh an toàn cho
khách du lịch, cho các hộ kinh doanh Homestay tại các xã phát triển du lịch cộng đồng
trên địa bàn huyện Sa Pa. Phối hợp với UBND huyện Sa Pa, thành phố Lào Cai tổ chức
4 Hội nghị triển khai, hướng dẫn Luật Du lịch năm 2017 và các văn bản liên quan cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện Sa Pa và thành phố Lào Cai. Tổ
chức 5 Hội nghị tuyên truyền cổng du lịch thông minh cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ
du lịch trên địa bàn huyện, thành phố trong tỉnh. Phối hợp với Trường Đại học Kinh tế
quốc dân, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên, Trường Cao đẳng Lào Cai tổ chức 1 lớp đào
tạo nghiệp vụ du lịch và 4 lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho 365 lượt hướng dẫn viên
du lịch trên địa bàn tỉnh; Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các hoạt động du lịch cộng đồng
cho các điểm đến; nghiệp vụ điều hành tour; nghiệp vụ buồng khách sạn; nghiệp vụ lễ
tân khách sạn; bồi dưỡng kỹ năng phục vụ nhà hàng; nghiệp vụ du lịch cho lái xe du lịch
với tổng số 950 học viên tham gia.
Phối hợp với tổ chức EU tổ chức thành công 3 chương trình tập huấn và đào tạo
cho 114 học viên, cụ thể: Hội thảo, tập huấn hợp tác giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp
trong đào tạo nghề Du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai với sự tham gia của 40 học viên;
Tập huấn kỹ năng xây dựng chính sách và quy hoạch du lịch có trách nhiệm cho 50 học
viên là cán bộ quản lý các cơ sở trực thuộc, phòng văn hóa các huyện, thành phố có du
lịch cộng đồng; Tập huấn kỹ năng tập huấn về Quản lý khách sạn theo bộ tiêu chuẩn
VTOS cho 24 học viên đến từ các khách sạn từ 2 sao trở lên. Phối hợp với BVHTTDL
và Tổng cục Du lịch tổ chức 2 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về du lịch, 1
khóa tập huấn nâng cao kỹ năng quản lý khách sạn từ 4-5 sao, bồi dưỡng nghiệp vụ lễ
tân, buồng, bàn trong khách sạn, bảo vệ môi trường du lịch cho các cơ sở kinh doanh du
lịch trên địa bàn toàn tỉnh. Tổ chức Hội nghị tập huấn, công tác lễ tân, hậu cần cho đối
tượng là cán bộ các sở, ban, ngành, sinh viên thu hút 410 cán bộ tham gia phục vụ Năm
du lịch quốc gia năm 2017. Trung tâm Thông tin và Xúc tiến du lịch tỉnh Lào Cai đã mở
2 lớp dạy tiếng Pháp nghiệp vụ khách sạn, nhà hàng và hướng dẫn viên cho 31 học viên
do giảng viên người bản xứ dạy và cấp chứng chỉ tại Sa Pa.
Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) đã hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp và cán
bộ của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực như tập huấn Marketing, kỹ năng quản lý cho các nhà lãnh đạo
thông qua việc ký kết chương trình đào tạo nâng cao năng lực lãnh đạo ngành du lịch
Lào Cai và 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Qua chương trình, có gần 100 cán bộ quản lý du
lịch của các tỉnh Tây Bắc đã được bồi dưỡng, đào tạo, trong đó có Lào Cai.
Trong những năm gần đây, hệ thống các trường cao đẳng, trung cấp trên địa bàn
tỉnh Lào Cai đã chú trọng đầu tư trong công tác giảng dạy, tuyển sinh liên quan đến
ngành dịch vụ, du lịch. Trường Cao Đẳng Cộng đồng Lào Cai đã và đang thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tuyển sinh, đào tạo ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành (hệ Cao đẳng), ngành
Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn và Hướng dẫn du lịch (hệ Trung cấp). Trường Cao đẳng
nghề Lào Cai cũng đã mở lớp đào tạo ngành Hướng dẫn du lịch ở cả hệ Trung cấp và
Cao đẳng.
3.5.5. Phát triển các loại hình dịch vụ và sản phẩm du lịch
Tỉnh Lào Cai đã xây dựng được một số sản phẩm du lịch trở thành thương hiệu
nổi tiếng, hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước như: Giải đua ngựa truyền thống
Bắc Hà; Giải Marathon leo núi quốc tế (VMM); Giải đua xe đạp quốc tế một vòng đua
hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc; Giải đua xe đạp vượt núi quốc tế theo cung đường
thành phố Lào Cai - Bát Xát - Y Tý - Bản Khoang - Sa Pa; Lễ hội 4 mùa; Lễ hội trên
mây Sa Pa… Một số các sản phẩm du lịch đặc trưng của Lào Cai đã được báo chí nước
ngoài đánh giá cao như: Sản phẩm tuyến đi bộ hấp dẫn ở Sa Pa (Trekking tours) được
sách hướng dẫn du lịch Lonely Planet lựa chọn là 1 trong 10 con đường mòn tuyệt vời
nhất thế giới; Sản phẩm du lịch chợ văn hóa Bắc Hà đã được tạp chí Serendib
(SriLanka) giới thiệu là 1 trong 10 chợ hấp dẫn nhất ở Đông Nam Á; Sản phẩm du lịch
ruộng bậc thang Sa Pa được tạp chí du lịch Travel and Leisure (Mỹ), bình chọn là 1
trong 7 ruộng bậc thang đẹp, kỳ vĩ nhất châu Á và thế giới. Sa Pa lọt vào Top 8 điểm
đến hàng đầu Việt Nam do TripAdvisor’s Choice bình chọn, Top 2 trong “5 điểm đến
nổi tiếng và đẹp nhất Việt Nam” do báo điện tử Huffington Post (Mỹ) bình chọn.
Năm 2016, tỉnh Lào Cai được BVHTTDL, Tổng cục Du lịch ghi nhận là địa
phương đứng đầu trong cả nước về phát triển hiệu quả mô hình du lịch cộng đồng
Homestay (trên 207 cơ sở lưu trú Homestay), phổ biến tại địa bàn các xã Tả Van, Tả
Phìn, Lao Chải (Sa Pa); xã Y Tý (Bát Xát); Tà Chải, Na Hối, Bản Phố, Tả Van Chư,
Bản Liền (Bắc Hà); xã Nghĩa Đô (Bảo Yên) do người dân trực tiếp đầu tư và thực
hiện. Đây là loại hình “du lịch xanh” được khách du lịch quốc tế yêu thích khám phá.
Hai năm liền (2016,2017) loại hình du lịch này đều nhận được giải thưởng Homestay
Asean.
Lào Cai có 23 nhóm ngành dân tộc sinh sống nên có lợi thế tiềm năng về truyền
thống văn hóa cộng đồng và vốn di sản văn hóa các dân tộc phong phú. Làm du lịch
cộng đồng không chỉ góp phần bảo tồn, phát huy giá trị nền văn hóa bản đại mà còn
mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho người dân địa phương, đem lại nhiều lợi ích cho
khách du lịch cũng như các doanh nghiệp du lịch. Lào Cai có Sa Pa được coi là trung
tâm du lịch của tỉnh. Trong những năm gần đây, du lịch Sa Pa phát triển với tốc độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhanh chóng, đặc biệt mô hình du lịch cộng đồng tại Sa Pa được xem là một trong
những điển hình tiêu biểu về tình hiệu quả của loại hình du lịch này. Từ những mô hình
thí điểm như Cát Cát, Sín Chải (xã San Sả Hồ), Bản Dền với vài hộ dân tham gia, đến
nay Sa Pa đã nhân rộng mô hình này ra nhiều xã như Tả Van, Tả Phìn với sự tham gia
của hàng trăm hộ dân làm du lịch, doanh thu của nhiều hộ đạt 40-50 triệu đồng/năm
đến hàng trăm triệu đồng/năm, tỉ lệ hộ nghèo ở các điểm du lịch giàu nhanh gấp 2-3
lần so với các nơi khác. Bản Cát Cát có trên 30% số người dân làm du lịch, tham gia
thường xuyên vào các hoạt động du lịch như bán hàng, hướng dẫn khách, biểu diễn văn
nghệ,… Thu nhập bình quân từ 3 triệu đến 5 triệu đồng/tháng/người trở lên. Toàn bản
có trên 50 hộ kinh doanh thổ cẩm, hàng lưu niệm, dệt lanh, thủ công mỹ nghệ.
Từ mô hình du lịch cộng đồng ở Sa Pa, hiện nay huyện Bắc Hà đã chú trọng xây
dựng mô hình làng văn hóa du lịch ở thôn Trung Đô (Bảo Nhai), xã Tả Van Chư, Tà
Chải, Na Hối, Bản Phố. Ở Mường Khương là điểm du lịch Cao Sơn có lợi thế khí hậu
trong lành, mát mẻ, hệ thống rừng già nguyên sinh, chợ văn hóa Cao Sơn, những nếp
nhà trình tường của đồng bào Mông còn giữ nguyên bản sắc truyền thống luôn hấp dẫn
sự tìm hiểu, khám phá của du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài. Bát Xát cũng
đang tích cực triển khai mô hình du lịch này, bước đầu thực hiện ở xã Y Tý, Mường
Hum. Du lịch cộng đồng phát triển dẫn đến các nguồn thu nhập cho hộ gia đình cũng
có biến đổi. Nguồn thu du lịch cộng đồng có từ nhiều loại hình dịch vụ như dịch vụ lưu
trú, bán các sản phẩm đặc sản địa phương, đồ lưu niệm, làm hướng dẫn viên,... Bán các
sản phẩm lương thực, thực phẩm, con vật nuôi đặc sản của các địa phương như rau Sa
Pa, rượu Shan Lùng (Bát Xát), thắng cố Bắc Hà, gạo Sén Cù của Mường Khương, thịt
hun khói, lạp xường, gà đồi, lợn cắp nách,…cũng mang lại nguồn thu lớn cho người
dân. Các sản phẩm này không chỉ được tiêu thụ tại thị trường địa phương mà còn phát
triển thành thương hiệu phân phối rộng rãi, có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách nội
địa. Nghề thủ công truyền thống độc đáo của nhiều dân tộc được khôi phục, làm ra
những sản phẩm lưu niệm rất được du khách, đặc biệt là khách nước ngoài yêu thích
đem lại giá trị kinh tế cao. Điển hình như thổ cẩm của người Mông ở Cát Cát, thổ cẩm
của người Dao đỏ ở Tả Phìn làm ra các sản phẩm, đồ lưu niệm như áo, khăn, túi đeo
điện thoại di động, gối, ví, ba lô du lịch. Các sản phẩm chạm khắc bạc như nhẫn, vòng
tay, sợi dây chuyền bạc đến các đồ vật cũ cũng có thể trở thành hàng hóa mang ra bán
như đồ trang sức bằng bạc nguyên chất của người dân tộc thiểu số, mõ trâu, cái trống.
Nghề lấy lá thuốc, lá thuốc tắm truyền thống của người Dao đỏ đang ngày càng nổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiếng và có giá trị kinh tế cao.
Việc xây dựng các đội văn nghệ dân gian khai thác vốn dân ca, dân vũ phong
phú, đặc sắc của các dân tộc để phục vụ du khách mang lại việc làm và nguồn thu nhập
khá cao cho người dân. Một số đội văn nghệ hoạt động khá hiệu quả, thường xuyên
như đội văn nghệ Cát Cát (Sa Pa), đội văn nghệ Na Hối, đội xòe Tà Chải (Bắc Hà),…
Bán các sản phẩm trải nghiệm cũng là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn của
du lịch vùng cao Lào Cai. Du khách được trực tiếp tham gia, trải nghiệm cuộc sống
sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân địa phương với những chương trình như
“Một ngày làm cô dâu người Mông”, “Một ngày làm nông dân người Dao”, tham gia
vào quy trình nấu rượu, được hướng dẫn dệt thổ cẩm, tham gia sản xuất trên ruộng bậc
thang, đi thu hái thảo quả,… Đây là sản phẩm du lịch ngày càng phát triển, có giá thành
cao, là sản phẩm “phần mềm” chỉ có thể thực hiện tại những địa điểm cụ thể. Dù mới
chỉ là kết quả bước đầu nhưng loại hình du lịch cộng đồng đã thực sự mang lại hiệu
quả thiết thực, không chỉ phát huy thế mạnh văn hóa bản địa của các dân tộc mà còn
góp phần lớn vào việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống người dân,
thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch tỉnh Lào Cai.
Bên cạnh du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nông thôn mới, Lào Cai còn xây
dựng và khai thác sản phẩm du lịch gắn với các di sản văn hóa ruộng bậc thang trong
chương trình “Hành trình khám phá cung đường di sản văn hóa ruộng bậc thang Tây
Bắc”: Xây dựng và triển khai chương trình du lịch chiêm ngưỡng vẻ đẹp của di sản văn
hóa ruộng bậc thang Lào Cai tại huyện Sa Pa và ruộng bậc thang Thề Pả (Bát Xát).
Khai thác các phiên chợ vùng cao phục vụ khách du lịch như chợ văn hóa Bắc Hà, chợ
Cán Cấu (Si Ma Cai), chợ Pha Long (Mường Khương), chợ Mường Hum, Y Tý (Bát
Xát),… Khai thác các sản phẩm du lịch tâm linh dọc sông Hồng thông qua hệ thống
các di tích, danh lam thắng cảnh phục vụ du khách tại các điểm: Đền Thượng, Đền
Mẫu, Đền Đôi Cô, Đền Bảo Hà (tỉnh Lào Cai) kết hợp với các Đền: Đông Cuông,
Nhược Sơn, và Tuần Quán (tỉnh Yên Bái), Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Tam Giang, Đền Du
Yến (tỉnh Phú Thọ). Đầu tư, khai thác và xây dựng sản phẩm du lịch chuyên đề về Hoa
trong chương trình du lịch “Sắc hoa Tây Bắc” thông qua các Lễ hội Hoa phục vụ du
khách tại các điểm: Lễ hội Hoa xuân tại đường An Dương Vương, thành phố Lào Cai;
Lễ hội Hoa Sa Pa tại khu vực ga đi của cáp treo Fansipan, thị trấn Sa Pa nhằm giới
thiệu các loài hoa Lan, hoa Anh Đào, hoa Đỗ Quyên của tỉnh Lào Cai; Chương trình
du lịch chuyên đề “Mùa hoa Đỗ Quyên” tại Vườn Quốc gia Hoàng Liên (Sa Pa), rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
già Y Tý (Bát Xát); điểm tham quan thung lũng hoa Bắc Hà, công viên Hồ Na Cồ (Bắc
Hà); Chương trình ngắm hoa tam giác mạch vào tháng 3-4 và tháng 9-10 tại các huyện
Bắc Hà, Si Ma Cai kết nối với Hà Giang. Xây dựng và khai thác sản phẩm du lịch trong
chương trình tuyến leo núi chinh phục đỉnh Kỳ Quan San và Nhìu Cồ San; tuyến dã
ngoại tham quan bản làng khu vực Bản Xèo, Nậm Pung, Sảng Ma Sáo, Dền Thàng,
Mường Hum. Khai thác có hiệu quả sản phẩm du lịch gắn với các di tích lịch sử - văn
hóa như: Dinh thự Hoàng A Tưởng, Đền Trung Đô (Bắc Hà); Thành cổ Nghị Lang
(Bảo Yên); Đền Thượng, Đền Mẫu, Đền Đôi Cô (thành phố Lào Cai),… Xây dựng các
sản phẩm du lịch gắn với văn hóa truyền thống các dân tộc như: Lễ Tết nhảy của người
Dao đỏ; Lễ hội Gầu Tào của người Mông; Lễ hội rước đất, rước nước của người Tày
ở Bắc Hà; Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy, Lễ cúng rừng “Gạ ma do” ở huyện Bát
Xát; Lễ hội khô già già của người Hà Nhì ở huyện Bát Xát…Khai thác sản phẩm du
lịch gắn với các nghề thủ công truyền thống: Nghề chạm khắc dân tộc Mông; nghề thêu
thùa thổ cẩm dân tộc Dao, Mông; nghề đan lát mây, tre, đan của người Hà Nhì,… Khai
thác văn hóa ẩm thực Lào Cai nhằm quảng bá cho du khách: Phối hợp Tổng cục Du
lịch tổ chức Liên hoan ẩm thực Lào Cai năm 2017; giới thiệu, quảng bá những món ăn
độc đáo như: Thắng cố Bắc Hà, cá hồi Sa Pa, thịt lợn muối của người Mông, rượu Padi
Mường Khương, xôi màu Nùng Dín,…
3.5.6. Kết quả hoạt động du lịch
Với lợi thế so sánh đặc biệt có cửa khẩu quốc tế thông thương với vùng Tây
Nam, Trung Quốc và tiềm năng du lịch phong phú, Lào Cai đang dần trở thành điểm
du lịch hấp dẫn bậc nhất khu vực và từng bước khẳng định vai trò, vị trí trong nền kinh
tế của tỉnh. Giai đoạn 2010 - 2015, tốc độ tăng trưởng khách bình quân đạt trên 10%.
Công tác quản lý nhà nước về du lịch được quan tâm và tăng cường. Quy hoạch du
lịch, quy hoạch đô thị du lịch đã và đang được xây dựng theo hướng phân vùng các
điểm du lịch trọng điểm, chú trọng và hướng đến du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái
gắn với bảo tồn thiên nhiên, du lịch thể thao, du lịch hội nghị (MICE), du lịch đi bộ dã
ngoại, tham quan bản làng, du lịch biên giới, du lịch tâm linh và du lịch mua sắm
thương mại. Trong đó Sa Pa được đánh giá cao, liên tục có trong danh sách các điểm
đến hàng đầu Việt Nam như: Top 8 điểm đến hàng đầu Việt Nam do TripAdvisor’s
Choice, Top 2 “5 điểm đến nổi tiếng và đẹp nhất Việt Nam” do báo điện tử Huffington
Post (Mỹ) bình chọn,… Kỳ quan ruộng bậc thang Sa Pa cũng được Travel and Leisure
(Mỹ) ca ngợi là một trong 7 ruộng bậc thang kỳ vĩ nhất Châu Á và thế giới. Năm 2012,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sa Pa được tạp chí du lịch hàng đầu thế giới Lonely Plannet Traveller (Anh) có bài và
ảnh giới thiệu là 1 trong 5 điểm dừng chân tuyệt vời cho kỳ nghỉ của du khách khi tới
Việt Nam.
Lượng khách du lịch đến Lào Cai tăng hàng năm, trong đó chủ yếu là khách quốc
tế. Năm 2010, số lượt khách đến Lào Cai là 877.027 lượt. Năm 2011, số lượt khách đến
Lào Cai tiếp tục tăng, đạt 932.869 lượt. Từ năm 2001 đến năm 2011, số lượt khách đến
Lào Cai đã tăng gấp 3,6 lần, bình quân tăng 14,4%/năm. Năm 2014 có 1.148.000 lượt
khách đến Lào Cai, gấp 1,3 lần năm 2010 [11]. Lượng khách du lịch đến Lào Cai đến hết
năm 2015 đạt trên 2 triệu lượt, vượt 30% so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIV đề ra; trong đó khách quốc tế đạt trên 600.000 lượt, chiếm 33%, khách nội địa trên
1,3 triệu lượt. Tính đến hết ngày 31-12-2018, tổng lượt khách du lịch đến Lào Cai năm
2018 đạt 4.246.590 lượt, gấp gần 5 lần so với năm 2010, gấp 2 lần năm 2015 [33].
Cơ cấu khách đã có sự thay đổi, từ chỗ khách quốc tế chủ yếu là người Trung
Quốc thì đã tăng dần khách từ các nước khác. Hiện nay, khách quốc tế đến Lào Cai đã
có trên 72 quốc tịch khác nhau, chủ yếu đến từ Pháp, Úc, Mỹ, Israel, Anh, Ý, Canada,
Đức, Bỉ, Nhật,...
Doanh thu kinh tế du lịch tăng nhanh. Giai đoạn 2006-2011, tăng doanh thu du
lịch của Lào Cai đạt mức độ bình quân là 37,5%/năm. Năm 2010 đạt 823.829 triệu
đồng, tăng gấp 4,7 lần năm 2005, gấp 14,6 lần năm 2001. Năm 2014 đạt 344.376 triệu
đồng (theo giá so sánh năm 2010) [11]. Doanh thu từ hoạt động du lịch năm 2015 đạt
trên 4.500 tỷ đồng. Mức chi tiêu bình quân của khách đạt 745.000 đồng; số ngày lưu
trú bình quân đạt 2,9 ngày [41]. Tổng thu du lịch năm 2018 đạt 13.406 tỷ đồng, gấp 16
lần năm 2010, gấp 3 lần năm 2015. Sự phát triển của du lịch Lào Cai đã góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho hàng chục ngàn lao động trực tiếp và gián
tiếp trên địa bàn tỉnh.
Sa Pa luôn là điểm du lịch thu hút đông nhất khách du lịch đến Lào Cai. Năm
2010, khách đến Sa Pa đạt 450.000 lượt, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó
khách quốc tế đạt 130.603 lượt, tăng 18,7% so với năm 2009. Khách nội địa đạt 319.397
lượt, tăng 8,2% so với năm 2009.
Như vậy, trong vòng 10 năm (2008 - 2018), hoạt động du lịch của tỉnh Lào Cai
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần cho sự tăng trưởng và đang dần
khẳng định vai trò “mũi nhọn” trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Sản phẩm du
lịch đã được hình thành và phát triển tương đối rõ nét như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch tâm linh,… Thu hút đầu tư du lịch từ nguồn vốn ngoài
ngân sách được thực hiện khá hiệu quả với hàng loạt các dự án lớn về dịch vụ du lịch
đã được triển khai và đi vào hoạt động. Thương hiệu du lịch Lào Cai - Sa Pa dần được
định vị trong tâm trí khách du lịch trong nước và bạn bè quốc tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chương 3
Ngày 1-4-2008, SVHTTDL tỉnh Lào Cai chính thức được thành lập với quy mô
lớn hơn, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao,
du lịch và quảng cáo. Ngay sau khi thành lập, lãnh đạo Sở đã nhanh chóng sắp xếp bộ
máy tinh gọn, biên chế hợp lý, tạo thuận lợi trong công tác chỉ đạo, điều hành và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Sở.
Sự nghiệp văn hóa Lào Cai từ sau năm 2008 ngày càng phát triển mạnh mẽ, văn
hóa đã thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển. Việc đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại, hướng dẫn tổ chức đã nâng cao hiệu quả hoạt động đối với
các thiết chế văn hóa, đặc biệt là nhà văn hóa thôn, bản. Phong trào “TDĐKXDĐSVH”
được triển khai rộng khắp và được nhân dân hưởng ứng tích cực đã tạo diện mạo mới
cho thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Công tác bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số được thực hiện sáng tạo, đạt kết quả cao,
tạo thành nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gắn với
phát triển du lịch, xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Phong trào TDTT ngày càng lớn mạnh và có những bước phát triển đột phá.
Công tác đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện các công trình thể thao được chú
trọng, đặc biệt là các công trình sân chơi, bãi tập phục vụ nhu cầu tập luyện TDTT cho
nhân dân tại các thôn bản, cụm dân cư, cơ quan, đơn vị, trường học. Các hoạt động
TDTT quần chúng tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu theo hướng xã hội hóa.
Thể thao thành tích cao của Lào Cai đã được nhắc tới không chỉ ở trong nước, khu vực
và thế giới với khoảng 70 huy chương giành được trung bình mỗi năm.
Trong phát triển du lịch, thương hiệu du lịch Lào Cai đã được định hình, phát
triển trong toàn quốc và vươn tầm quốc tế. Nhờ có chính sách đầu tư hợp lý nên du lịch
đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại doanh thu quan trọng cho ngân sách tỉnh.
Lượng khách du lịch đến Lào Cai tăng hàng năm, trong đó chủ yếu là khách quốc tế,
doanh thu từ hoạt động du lịch cũng tăng nhanh chóng. Sự phát triển của du lịch Lào
Cai đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho hàng chục ngàn lao
động trực tiếp và gián tiếp trên địa bàn tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào
Cai (1991-2018) có thể rút ra một số nhận xét sau:
Về những kết quả lớn mà ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai
đạt được:
- Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch của tỉnh Lào Cai
ngày càng được tăng cường; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và nhân dân
trong tỉnh đã dần được nâng lên; đội ngũ làm công tác văn hóa, thể thao và du lịch từng
bước được kiện toàn, nâng cao chất lượng. Các hoạt động văn hóa, thể thao ngày càng
được nâng cao chất lượng, hiệu quả, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
gắn với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai. Các dự án phục vụ du lịch được
tăng cường đầu tư từ các nguồn vốn ngoài ngân sách đã góp phần đáp ứng nhu cầu đầu
tư tại các vùng trọng điểm du lịch của tỉnh. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch được
quan tâm đầu tư với những mục tiêu, giải pháp đồng bộ mang tính đột phá, chiến lược.
- Phong trào “TDĐKXDĐSVH” được mở rộng và đi vào chiều sâu với những
tiêu chí cụ thể mang lại hiệu quả thiết thực. Phong trào xây dựng danh hiệu GĐVH, Tổ
dân phố văn hóa, cơ quan, đơn vị, trường học văn hóa đã góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển, đề cao giá trị đạo đức, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, làng bản,
khu phố, loại bỏ dần những tập tục lỗi thời, lạc hậu. Đời sống văn hóa của đồng bào
vùng dân tộc thiểu số, ở vùng gặp khó khăn dần được cải thiện. Việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có nhiều chuyển biến tích cực.
- Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao và du lịch từ cấp tỉnh đến cơ sở được quan
tâm đầu tư, đưa vào khai thác, sử dụng đã tạo điều kiện cho việc triển khai đồng bộ,
hiệu quả các hoạt động, các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch quy mô khu vực, toàn
quốc và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh Lào Cai.
- Hoạt động bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của dân tộc đã đạt được
nhiều kết quả tích cực. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được nghiên cứu,
nhận diện, bảo vệ và phát huy giá trị, trong đó, đặc biệt là các di sản được UNESCO
ghi danh (Nghi lễ kéo co của người Tày-Giáy). Nhờ sự năng động, sáng tạo, Lào Cai
đã thực hiện thành công chương trình “Biến di sản thành tài sản” và “Mỗi cộng đồng,
mỗi dân tộc, mỗi vùng có loại đặc sản trở thành hàng hóa”. Qua đó, những di sản văn
hóa phi vật thể, di tích, danh thắng được bảo tồn, khôi phục và phát huy giá trị, phục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vụ phát triển du lịch, làm nên dấu ấn nổi bật của văn hóa Lào Cai.
- Phong trào TDTT quần chúng tiếp tục phát triển rộng rãi, thể hiện ở sự gia
tăng số lượng người tập thường xuyên, góp phần phòng ngừa bệnh tật, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, xây dựng lối sống lành mạnh, hình thành, bồi dưỡng các phẩm
chất, nhân cách con người. Từ một địa phương là “điểm trắng” trên bản đồ thể thao
thành tích cao Việt Nam, chỉ trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt là từ
năm 2006, thể thao Lào Cai đã có bước “đột phá” ngoạn mục, từng bước khẳng định
vị thế. Các kết quả đáng tự hào của thể thao thành tích cao Lào Cai tại các giải đấu
trong nước, khu vực và quốc tế là động lực, nguồn cổ vũ tinh thần cho nhân dân trong
tỉnh.
- Hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa, thể thao và du lịch được tổ chức sôi nổi,
góp phần làm cho hoạt động này trở thành một trong những kênh quan trọng trong công
tác đối ngoại của tỉnh Lào Cai với các địa phương khác trong cả nước. Các hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch đã giới thiệu được hình ảnh đất nước, con người, văn hóa
nghệ thuật các dân tộc Lào Cai với các tỉnh, văn hóa Việt Nam ra thế giới; đồng thời
tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc
để bắt kịp xu thế của thời đại.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phát triển văn hóa, thể thao
và du lịch trên địa bàn tỉnh còn một số tồn tại cần sớm khắc phục như:
- Điều kiện tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao phục vụ cho vùng sâu, vùng
xa còn nhiều khó khăn, chưa có chính sách hỗ trợ cho hoạt động đội văn nghệ thôn bản.
Trang thiết bị đầu tư cho hệ thống nhà văn hóa xã, thôn, bản tuy đã được quan tâm đầu
tư song chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cấp
huyện chưa được đầu tư đồng bộ, hiệu quả.
- Hạ tầng giao thông chưa được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông đến các
khu, điểm du lịch một số nơi xuống cấp nghiêm trọng, một số công trình giao thông
tiến độ triển khai chậm, công tác phối hợp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc chưa kịp
thời. Số lượng, chất lượng các cơ sở lưu trú tăng song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tế. Hệ thống nhà vệ sinh công cộng đạt chuẩn, điểm dừng chân, ngắm cảnh tại các
điểm du lịch chưa được đầu tư kịp thời, chưa xây dựng được các ki-ốt tra cứu thông tin
điện tử phục vụ du lịch.
- Điều kiện về sân bãi, trang - thiết bị phục vụ tập luyện TDTT quần chúng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các huyện, đặc biệt là các khu phố, thôn, bản, làng xóm còn gặp nhiều khó khăn. Dịch
vụ du lịch nhiều nơi vẫn còn thiếu và yếu. Sản phẩm du lịch một số nơi vẫn còn nghèo
nàn và đơn điệu, nguồn nhân lực phục vụ cho ngành du lịch chủ yếu được tập huấn qua
các lớp ngắn hạn nên chất lượng chưa cao.
- Quản lý di tích, di sản có lúc, có nơi cũng còn bị vi phạm, xâm hại, một số hủ
tục lạc hậu vẫn còn len lỏi ở khu dân cư.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
- Nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương bố trí cho xây
dựng các công trình thể thao cấp huyện và cơ sở còn hạn chế, khó khăn trong việc huy
động nguồn lực xã hội cho các hoạt động văn hóa, thể thao.
- Công tác sưu tầm, bảo tồn các di sản văn hóa, các môn thể thao dân tộc còn
nhỏ, lẻ. Nguồn nhân lực tham gia phát triển văn hóa, thể thao cơ sở còn hạn chế về cả
số lượng và chất lượng.
- Việc đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đòi hỏi vốn lớn, song nguồn hỗ trợ đầu tư hạ
tầng du lịch của Trung ương đối với tỉnh còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tế của địa phương.
Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển của ngành Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (1991-2018):
- Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh đối với yêu cầu phát triển văn hóa, thể thao và
du lịch trên địa bàn tỉnh. Gắn xây dựng và phát triển văn hóa, thể thao, du lịch với việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội từng ngành, đơn vị, địa
phương trong tỉnh để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Tăng cường công tác quản
lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch, có tính đến đặc thù của vùng,
của từng dân tộc trong tỉnh. Phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành, địa phương để
triển khai có hiệu quả các đề án của Tỉnh ủy về phát triển văn hóa, thể thao và du lịch.
Đồng thời, việc nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm và bồi dưỡng kiến thức xử lý
công việc cho đội ngũ cán bộ văn hóa, trực tiếp hướng dẫn phong trào ở các địa phương
cũng quan trọng không kém. Đó phải là những người cán bộ gần dân, hiểu dân, nắm rõ
thực tiễn địa phương, phải thực sự có năng lực, trách nhiệm; được đào tạo chuyên sâu,
bài bản, nắm vững kiến thức, kỹ năng tổ chức, hướng dẫn phong trào; có nhiệt tình,
tâm huyết với công việc được giao; tham mưu sát cho lãnh đạo tổ chức triển khai thực
hiện phong trào đến tận cơ sở; làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng người tốt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
việc tốt, nhân rộng điển hình tiên tiến có tác dụng khích lệ, cỗ vũ phong trào.
- Hai là, trong xây dựng chiến lược, kế hoạch và đề ra các chính sách, giải pháp
để phát triển văn hóa, thể thao và du lịch phải có lộ trình, phù hợp với từng thời kỳ,
với thực tiễn đặc thù của Lào Cai. Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển văn
hóa, thể thao và du lịch cần chú trọng việc nghiên cứu, đề xuất những trọng tâm phát
triển cho từng giai đoạn, chú trọng đề xuất những loại hình du lịch mới phù hợp với
nhu cầu thị trường. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá phong trào theo
từng giai đoạn nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực thúc đẩy phong trào phát triển.
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới với nhiều dân tộc cùng chung sống. Tính đặc
thù đó đã chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội và ảnh hưởng tới việc thực hiện
các chủ trương, chính sách của tỉnh. Vì vậy, phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao và
du lịch ở Lào Cai đòi hỏi phải căn cứ vào tính đặc thù để có các giải pháp, bước đi phù
hợp với thực tiễn.
- Ba là, tăng cường đầu tư hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực nhằm phát
triển văn hóa, thể thao và du lịch. Sự kết hợp giữa hai yếu tố nhân lực và vật lực chính
là động lực để hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch phát triển bền vững, có hiệu quả.
Do vậy, những năm qua việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa luôn được lãnh đạo Sở, các
cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân quan tâm vận động, triển khai thực
hiện. Hiệu quả của công tác này được thể hiện rõ nét qua kết quả xây dựng cơ sở hạ
tầng, người dân hiến đất mở đường, làm đường giao thông, thủy lợi, đầu tư xây dựng
các thiết chế văn hóa, tiến hành trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa và tổ chức
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT. Hoạt động xã hội hóa đã khơi dậy mọi tiềm
năng, huy động nhân lực, vật lực trong nhân dân, tranh thủ được sự hỗ trợ từ nhiều
nguồn góp vào quá trình xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa cơ sở. Song để phát
huy tối ưu hiệu quả của công tác xã hội hóa, phải luôn xác định vai trò không thể thiếu
của các cấp chính quyền trong việc đầu tư đúng mức ngân sách cho sự nghiệp văn hóa,
thể thao và du lịch. Thực hiện tốt chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn
hóa, thể thao đi đôi với thực hiện các chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi
ngộ, tôn vinh cán bộ làm việc trong các lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao.
- Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá
để phát triển các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch. Chủ động hội nhập quốc tế
về văn hóa, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hợp tác quốc tế về văn hóa vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đẩy mạnh truyền bá
văn hóa, ngôn ngữ, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Lào Cai ra Việt Nam và
thế giới. Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa, giữ gìn bản sắc
văn hóa các dân tộc Lào Cai. Có kế hoạch quảng bá du lịch phù hợp đối với từng khu
vực, từng đối tượng khách du lịch trong và ngoài nước. Để thực hiện thành công các
quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, ngoài sự hỗ trợ của nhà nước về hạ tầng cơ sở
và đào tạo nguồn nhân lực, cần có sự đầu tư thỏa đáng cho công tác xúc tiến, quảng bá
du lịch.
- Năm là, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Lào Cai là một tỉnh đa
dân tộc, vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ quan trọng
xuyên suốt các thời kỳ xây dựng và phát triển với những bước đi, giải pháp cụ thể. Việc
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một bài học kinh nghiệm quý báu, không
chỉ góp phần cho sự phát triển của sự nghiệp văn hóa mà còn thúc đẩy du lịch, xóa đói,
giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Đi đôi với công tác bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc, Lào Cai cũng cần có giải pháp để hạn chế đi đến xóa bỏ những hủ tục, tập tục
lạc hậu, những biến tướng trong một số hoạt động văn hóa của đồng bào các dân tộc
(tục bắt vợ, chợ tình,...).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Tác giả: Vũ Mạnh Trường, Nguyễn Đức Thắng
Năm xuất bản: 2020
Tên bài báo: Văn hóa thông tin Lào Cai trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946-1954)
Tên tạp chí: KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ - ĐHTN
Tập 225, số 07, trang 280 - 289.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai (1947
- 2007), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.86.
2. Ban Chấp hành Đảng Lao Động Việt Nam tỉnh Lào Cai (1963), Báo cáo kiểm điểm
công tác năm 1962, Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
3. Ban chỉ đạo Du lịch tỉnh Lào Cai (2011), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ của
Ban chỉ đạo Du lịch năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ thời gian tới.
4. Ban chỉ đạo phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh Lào Cai
(2012), Báo cáo tổng kết phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ năm 2012.
5. Ban chỉ đạo phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tỉnh Lào Cai
(2001), Báo cáo tổng kết phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
năm 2000, phương hướng, nhiệm vụ năm 2001.
6. Báo Lào Cai, Sa Pa - nơi gặp gỡ của đất trời và tình yêu,
http://www.baolaocai.vn/, ngày 24/02/2014.
7. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lào Cai (1999), Tổng kết công tác tiễu phỉ trên địa bàn
tỉnh Lào Cai 1950-1970, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.49.
8. Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai, Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ I (Giai đoạn1991-1995), https://www.laocai.gov.vn/, ngày
19/3/2010.
9. Cục Thống kê Hoàng Liên Sơn (1990), Số liệu thống kê trong 15 năm xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội 1976-1990.
10. Cục Thống kê Lào Cai (2017), Số liệu Cục Thống kê tỉnh Lào Cai năm 2017.
11. Cục Thống kê tỉnh Lào Cai (2014), Niên giám thống kê tỉnh Lào Cai năm 2014.
12. Đảng bộ tỉnh Lào Cai (2015), Văn kiện Đảng bộ toàn tập, Tập 3 (1956 - 1959),
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.11-12.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 16, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.208.
14. Đảng ủy Khối cơ quan dân chính đảng tỉnh Lào Cai (2008), số 1083/QĐ-ĐU ngày
3/4/2008 - Quyết định về việc thành lập Đảng bộ cơ sở Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
15. Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư (1930), Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ,
Nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội, tr.68.
16. Hồ Chí Minh - Toàn tập (2011), Tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, tr.532.
17. Hồ Chí Minh - Toàn tập (2011), Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, tr.246.
18. Hoàng Thị Thu Hường (2008), Nghiên cứu Hưng Hóa ký lược” những giá trị còn
lại, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
19. Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai (2009), Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện
Nghị quyết HĐND tỉnh về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội và sinh hoạt tín ngưỡng tại nơi thờ tự trên địa bàn tỉnh Lào Cai”.
20. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin dịch (2003), Đồng Khánh địa
dư chí, Nxb Thế giới, tr.724.
21. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin dịch (2003), Đồng Khánh địa
dư chí, Nxb Thế giới, tr.725.
22. Nguyễn Ái Quốc (2009), Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Trẻ, tr.137.
23. Nguyễn Thị Lê Thảo (2017), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa phục vụ quần
chúng nhân dân”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - ĐH Thái Nguyên, Tập 163(03-
1), tr.223-228.
24. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục -
Tiền biên, Quyển I, Viện sử học dịch, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.4-5.
25. Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Lào Cai (1995), Báo cáo về công tác đào tạo
tập huấn cán bộ VHTT-TT cơ sở năm 1995.
26. Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Lào Cai (2002), Báo cáo công tác thể dục thể
thao tỉnh Lào Cai năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ năm 2003.
27. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2009), Báo cáo công tác phòng chống
tham nhũng năm 2009, số 170/BC-SVH, ngày 13/11/2009.
28. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2009), Báo cáo tổng kết công tác TDTT
năm 2009, phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, số 185/BC-SVHTTDL, ngày
2/12/2009.
29. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2009), Tờ trình về việc phê duyệt chính
sách khuyến khích phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
30. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2010), Báo cáo đánh giá tình hình triển
khai thực hiện Đề án phát triển TDTT tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006-2010.
31. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2014), Báo cáo số 442/BC-SVHTTDL.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
32. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2014), Báo cáo số 459/BC-SVHTTDL.
33. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai (2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực
hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch.
34. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (2008), Báo cáo tóm tắt tình hình
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch từ sau khi hợp nhất đến 30/7/2008.
35. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (2016), Báo cáo sơ kết 5 năm thực
hiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020.
36. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai (2019), Báo cáo kết quả thực hiện Đề
án số 8 “Phát triển văn hóa, thể thao tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016- 2020” từ
năm 2016 đến tháng 6 năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới).
37. Tỉnh ủy Lào Cai (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa
XII (2000-2005), Lào Cai, tr.17.
38. Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn (1976), Báo cáo số 03-BC/TU của Tỉnh ủy Hoàng Liên
Sơn về kết quả hợp nhất ba tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Nghĩa Lộ ngày 26-3- 1976.
39. Tỉnh ủy Lào Cai (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XII
(2000-2005), Lào Cai, tr.43-44.
40. Tỉnh ủy Lào Cai (2014), số 201/CTr-TU, Chương trình của Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh (khóa XIV) thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
41. Tỉnh ủy Lào Cai (2015), Đề án phát triển Du lịch tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016-2020.
42. Tỉnh ủy Lào Cai (2015), Lào Cai 25 năm tái lập, đổi mới, phát triển (1991 - 2015) -
Tầm nhìn và hành động, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.44-45.
43. Tỉnh ủy Lào Cai (2015), Lào Cai 25 năm tái lập, đổi mới, phát triển (1991-2015)
- Tầm nhìn và hành động, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.211-212.
44. Tỉnh ủy tỉnh Lào Cai (2005), Báo cáo Đánh giá thực hiện Đề án Du lịch giai đoạn
2001- 2005 và phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010.
45. Ty Văn hóa Thông tin tỉnh Lào Cai (1974), Báo cáo tổng kết công tác Văn hóa
thông tin năm 1973, Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
46. Ty Văn hóa tỉnh Lào Cai (1956), Báo cáo tổng kết công tác văn hóa năm 1956, Tài
liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
47. Ty văn hóa tỉnh Lào Cai (1961), Báo cáo kết quả lựa chọn đơn vị và cá nhân có
nhiều thành tích thi đua năm 1960, Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
48. Ty Văn hóa tỉnh Lào Cai (1970), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch 10 năm
(1960 - 1969), Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
49. Ủy ban hành chính tỉnh Lào Cai (1954), Báo cáo năm 1954, số 27/BC-LC, Tài liệu
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
50. Ủy ban Hành chính tỉnh Lào Cai (1957), Báo cáo tổng kết 6 tháng đầu năm cuộc
vận động rèn luyện thân thể mùa xuân 1957, Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
III.
51. Ủy ban hành chính tỉnh Lào Cai (1959), Báo cáo tổng kết công tác năm 1958, Tài
liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
52. Ủy ban hành chính tỉnh Lào Cai (1967), Báo cáo công tác năm 1966 (tại kỳ họp
thứ 4 của HĐND tỉnh khóa III từ ngày 27 đến ngày 29/3/1967), Tài liệu Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia III.
53. Ủy ban Hành chính tỉnh Lào Cai (1969), Báo cáo HĐND tỉnh Lào Cai khóa IV tại
kỳ họp thứ 3 (ngày 8,9,10,11/9/1969), Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
54. Ủy ban kế hoạch tỉnh Lào Cai (1971), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
1970 của tỉnh Lào Cai.
55. Ủy ban Kháng chiến, Hành chính tỉnh Lào Cai (1950), Báo cáo tổng kết thành tích
kinh nghiệm trong ba năm 1947-1949, Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
56. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lào Cai (2001), Quyết định số 77/2001/QĐ-UB “Về việc phê
duyệt Kế hoạch thực hiện chương trình hành động Du lịch Lào Cai 2001-2005”.
57. Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai (2005), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình
135 từ năm 1999 đến năm 2005 trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
58. Văn phòng UBND tỉnh Lào Cai (2005), Thông báo kết luận của đồng chí Sùng
Chúng - Phó Chủ tịch UBND tỉnh tại Hội nghị sơ kết phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” tỉnh Lào Cai ngày 22/4/2005.
59. Viện Sử học Việt Nam (1970), Mấy vấn đề phương pháp luận sử học, Nxb KHXH,
Hà Nội, tr.77-78.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
Bảng 1. LÃNH ĐẠO NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH LÀO CAI
QUA CÁC THỜI KỲ (1947-2018)
Thời gian 4/1947-9/1947 10/1947-1951
Họ và tên Tiến Hồng Nguyễn Đức Hợp
Chức vụ Trưởng ty Trưởng ty
1951-1955
Hoàng Phấn
Trưởng ty
1956-1958 1959-1972 1973-1975
Hoàng Phấn Dương Văn Hà Dương Văn Hà
Trưởng ty Trưởng ty Trưởng ty
1976-1978
Vũ Chính
Trưởng ty
1979
Bùi Viết Sinh
Trưởng ty
1976-1980
Bùi Thanh Sơn
Trưởng ty
1980-1984
Nông Trung
Trưởng ty
1980-1983
Phan Chinh
Giám đốc
1985-1989
Trần Nam
Giám đốc
1983-1990
Trương Văn Chữ
Giám đốc
1990
Sần Cháng
Giám đốc
1991-2002
Sần Cháng
Giám đốc
2002-2005
Trần Hữu Sơn
Giám đốc
Trần Mạnh Diệm
1991-2001 Giám đốc 2001-3/2008 Nguyễn Quang Đức Giám đốc Giám đốc 2005-3/2008 Giám đốc 2005-3/2008 Giám đốc 2008-3/2015
Trần Hữu Sơn Phạm Xuân Trần Hữu Sơn
4/2015-2018
Hà Văn Thắng
Giám đốc
Tên gọi ngành Ty Thông tin Lào Cai Ty Thông tin Tuyên truyền Lào Cai Ty Thông tin Tuyên truyền Lào Cai 1954: Ty Tuyên truyền - Văn nghệ Lào Cai Ty Văn hóa Lào Cai Ty Văn hóa Lào Cai Ty Văn hóa Thông tin Lào Cai Ty Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn Ty Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn Ty Thể dục Thể thao Hoàng Liên Sơn Ty Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn Sở Y tế Thể dục Thể thao Hoàng Liên Sơn Sở Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn Sở Thể dục Thể thao Hoàng Liên Sơn Sở Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Lào Cai Sở Văn hóa - Thông tin và Thể thao Lào Cai Sở Thương mại và Du lịch Lào Cai Sở Thương mại và Du lịch Lào Cai Sở Văn hóa - Thông tin Lào Cai Sở Thể dục Thể thao Lào Cai Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Bảng 2. SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ
DU LỊCH TỈNH LÀO CAI (2008 -2018)
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai - 2016)
Giám đốc
Phó Giám đốc
Các đơn vị trực thuộc
Các phòng chuyên môn
Văn phòng Sở
Thư viện tỉnh
Bảo tàng tỉnh
Phòng Kế hoạch tài chính
Phòng Quản lý Du lịch
Trung tâm Huấn luyện và thi đấu TDTT
Phòng Quản lý Văn hóa
Trung tâm Văn hóa và điện ảnh
Phòng Quản lý Thể dục thể thao
Trung tâm Thông tin và xúc tiến du lịch
Phòng Quản lý Di sản văn hóa
Đoàn nghệ thuật dân tộc
Thanh tra Sở
Ban Quản lý Dự án GMS
Phòng Xây dựng nếp sống văn hóa và Gia đình
Bảng 3. CÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CẤP QUỐC GIA Ở LÀO CAI
(Tính tới tháng 01/2018)
STT
Tên di sản
Loại hình
Thời gian được công nhận
Lễ hội truyền thống Tập quán xã hội và tín ngưỡng Tập quán xã hội và tín ngưỡng
27/12/2012 27/12/2012 27/12/2012
1 2 3
Lễ hội truyền thống
31/10/2013
4
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
31/10/2013
5
Nghề thủ công truyền thống
31/10/2013
6
Nghề thủ công truyền thống
31/10/2013
7
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
25/8/2014
8
Lễ hội truyền thống
19/12/2014
9
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
19/12/2014
10
Nghệ thuật trình diễn dân gian
19/12/2014
11
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
19/12/2014
12
Tiếng nói, chữ viết
13/10/2015
13
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
13/10/2015
14
Tập quán xã hội và tín ngưỡng Nghệ thuật trình diễn dân gian
13/10/2015 13/10/2015
15 16
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
13/6/2016
17
Lễ hội truyền thống
13/6/2016
18
Lễ hội truyền thống Nghệ thuật trình diễn dân gian
16/9/2016 30/01/2018
19 20
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
30/01/2018
21
Lễ hội truyền thống
30/01/2018
22
Nghề thủ công truyền thống
30/01/2018
23
Tập quán xã hội và tín ngưỡng
30/01/2018
24
Lễ hội gầu tào Nghi lễ cấp sắc của người Dao Nghi lễ Then của người Tày Lễ hội roóng poọc của người Giáy, xã Tả Van, huyện Sa Pa Lễ Pút tồng của người Dao đỏ huyện Sa Pa Nghề chạm khắc bạc của người H’Mông huyện Sa Pa Nghề chàng Slaw của người Nùng Dín huyện Mường Khương Kéo co của người Tày, người Giáy Lễ hội Khô già già của người Hà Nhì đen huyện Bát Xát Nghệ thuật trang trí hoa văn trên trang phục của người Xá Phó Nghệ thuật The (múa) của người Tày ở Tà Chải, huyện Bắc Hà Tết Sử giề pà của người Bố Y huyện Mường Khương Chữ Nôm của người Dao Lễ Gạ ma do (Cúng rừng) của người Hà Nhì huyện Bát Xát Lễ Khoi kìm (Cúng rừng) của người Dao đỏ Nghệ thuật Khèn của người H’Mông Lễ cúng rừng (Mủ đẳng mai) của người Thu Lao ở xã Tả Gia Khâu, huyện Mường Khương Lễ hội đền Bảo Hà, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên Lễ hội đền Thượng, thành phố Lào Cai Khắp Nôm của người Tày huyện Văn Bàn Lễ Cầu làng (Áy lay) của người Dao Họ huyện Văn Bàn Lễ hội Lồng tồng của người Tày huyện Văn Bàn Nghề chạm khắc bạc của người Dao Đỏ huyện Sa Pa Trống trong nghi lễ của người H’Mông huyện Mường Khương
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Bảng 4. THỐNG KÊ CÁC THÀNH TÍCH NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ
DU LỊCH TỈNH LÀO CAI ĐẠT ĐƯỢC TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2018
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai)
Năm
Danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng
Cơ quan ban hành
2005
Huân chương Lao động hạng Nhì
Chủ tịch nước
2006
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa, Thông tin
Bộ VHTTDL
Thành tích trong công tác Có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2001-2005 Có thành tích xuất sắc trong Ngành VHTTDL năm 2006.
Cờ của Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ
Có thành tích xuất sắc trong năm 2007
2007
Bộ VHTTDL
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Có thành tích xuất sắc trong Ngành VHTTDL năm 2007
Bằng khen của Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ
Có thành tích xuất sắc trong năm 2008
2008
Bộ VHTTDL
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Có thành tích xuất sắc trong Ngành VHTTDL năm 2008
2009
Bộ VHTTDL
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Có thành tích xuất sắc trong Ngành VHTTDL năm 2009
Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh
UBND tỉnh Lào Cai
2010
Bộ VHTTDL
Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh
UBND tỉnh Lào Cai
2011
Bộ VHTTDL
Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
Số QĐ, ngày, tháng, năm Quyết định số 913/2005/QĐ-CTN ngày 19/8/2005 Quyết định số 5805/QĐ-BVHTT ngày 29/12/2006 Quyết định số 336/QĐ-TTg ngày 28/3/ 2008 Quyết định số 2014/QĐ- BVHTTDL ngày 31/12/2007 Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 03/6/2009 Quyết định số 531/QĐ-BVHTTDL ngày 16/02/2009 Quyết định số 4924/QĐ- BVHTTDL ngày 25/12/2009 Quyết định số 756/QĐ- UBND ngày 31/3/2011 Quyết định số 529/QĐ- BVHTTDL ngày 21/02/2011 Quyết định số 613/QĐ- UBND ngày 26/3/2012 Quyết định số 361/QĐ- BVHTTDL ngày 7/02/2012
2012
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Quyết định số 37/QĐ- BVHTTDL ngày 04/01/2013
Thành tích trong phong trào thi đua toàn diện năm 2010 Có thành tích xuất sắc trong Ngành VHTTDL năm 2010 Thành tích trong phong trào thi đua toàn diện năm 2011 Có thành tích xuất sắc trong Ngành VHTTDL năm 2011 Có thành tích xuất sắc trong xây dựng và tổ chức hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch năm 2012
Năm
Danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng
Số QĐ, ngày, tháng, năm
Cơ quan ban hành
2013
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Quyết định số 4667/QĐ- BVHTTDL ngày 31/12/2013
2014
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Quyết định số..... /QĐ-BVHTTDL ngày 31/12/2014
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
QĐ số 4523/QĐ- BVHTTDL ngày 25/12/2015
2015
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
QĐ số 4542/QĐ- BVHTTDL ngày 25/12/2015
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai
QĐ số 3239/QĐ- UBND ngày 3/10/2016
UBND tỉnh Lào Cai
2016
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
QĐ số 3375/QĐ- BVHTTDL ngày 27/9/2016
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Quyết định số 4599/QĐ- BVHTTDL ngày 27/12/2016
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
QĐ số 4871/QĐ- BVHTTDL ngày 11/12/2017
2017
Cờ Thi đua xuất sắc của UBND tỉnh
QĐ số 637/QĐ- UBND ngày 30/1/2018
UBND tỉnh Lào Cai
Thành tích trong công tác Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác năm 2013, là đơn vị dẫn đầu Cụm thi đua ngành VHTTDL Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác năm 2014, là đơn vị dẫn đầu Cụm thi đua ngành VHTTDL Có thành tích xuất sắc trong xây dựng và tổ chức hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch năm 2015 Bằng khen Bộ VHTTDL có nhiều thành tích trong công tác quản lý và tổ chức Lễ hội năm 2015 Có thành tích suất sắc trong công tác tổ chức Ngày hội VHTTDL các dân tộc vùng Tây Bắc mở rộng lần thứ XIII tại tỉnh Lào Cai Có thành tích suất sắc trong công tác tổ chức Ngày hội VHTTDL các dân tộc vùng Tây Bắc mở rộng lần thứ XIII tại tỉnh Lào Cai Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác năm 2016, là đơn vị dẫn đầu Cụm thi đua ngành VHTTDL Có nhiều thành tích trong triển khai, tổ chức các chương trình, hoạt động Năm DLQG 2017 Lào Cai - Tây Bắc Thành tích trong phong trào thi đua toàn diện năm 2017
Năm
Danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng
Số QĐ, ngày, tháng, năm
Cơ quan ban hành
Cờ Thi đua xuất sắc của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Quyết định số 5294/QĐ- BVHTTDL ngày 28/12/2017
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai
QĐ số 291/QĐ- UBND ngày 26/1/2018
UBND tỉnh Lào Cai
Thành tích trong công tác Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác năm 2017, là đơn vị dẫn đầu Cụm thi đua ngành VHTTDL Thực hiện tốt công tác xã hội hóa trong xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Lào Cai năm 2017
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Đã có thành tích tốt tại ĐH Thể thao toàn quốc lần thứ VIII năm 2018
Quyết định số 4489/QĐ- BVHTTDL ngày 05/12/2018
Bằng khen của Bộ VHTTDL
Bộ VHTTDL
Quyết định số 5067/QĐ- BVHTTDL ngày 28/12/2018
2018
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai
QĐ số 28/QĐ- UBND ngày 04/01/2019
UBND tỉnh Lào Cai
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai
QĐ số 3022/QĐ- UBND ngày 28/9/2018
UBND tỉnh Lào Cai
Đã có thành tích tốt trong xây dựng và tổ chức hoạt động VHGĐTTvà DL năm 2018 Đã có thành tích XS trong công tác tổ chức ĐH TDTT các cấp tỉnh Lào Cai năm 2018 Đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2008-2018
Hình 1. Bản đồ tỉnh Lào Cai (Nguồn:https://www.laocai.gov.vn/)
Hình 2. Khu du lịch quốc gia Sa Pa (Nguồn: Báo Lào Cai)
Hình 3. Chợ phiên Bắc Hà - chợ phiên lớn nhất vùng cao Tây Bắc
(Nguồn:http://dulichbacha.net/)
Hình 4. Nguyễn Văn Thuyết - cựu vận động viên marathon mỏ Apatit Lào Cai
(Ảnh: Quang Minh)
Hình 5. Đồng chí Giàng Seo Phử - Ủy viên TW Đảng - Bí thư Tỉnh ủy
trao cờ lưu niệm cho các đồng chí lãnh đạo Sở Văn hóa Thông tin tại lễ kỷ niệm
60 năm thành lập ngành và đón nhận huân chương lao động hạng nhì (25/5/2005)
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai)
Hình 6. Lễ ký kết chương trình bảo tồn một số đặc sản văn hóa bản địa
ở Lào Cai giữa Sở Văn hóa Thông tin - Trường Đại học Nông nghiệp I
và Trường Đại học Dược Hà Nội (T4/2005)
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai)
Hình 7. Lừu Thị Duyên - vận động viên đầu tiên của Việt Nam
giành Huy chương Vàng môn Boxing nữ tại một kỳ SEA Games
(Nguồn: http://doingoailaocai.vn/)
Hình 8. Lễ hội Đền Thượng (Nguồn: Báo Lào Cai)
Hình 9. Di tích lịch sử quốc gia Dinh thự Hoàng A Tưởng
(Nguồn: http://dulichlaocai.vn/)
Hình 10. Ban Chấp hành Đảng bộ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
khóa I nhiệm kỳ 2010 - 2014
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai)
Hình 11. Ban Chấp hành Đảng bộ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch khóa II nhiệm kỳ
2015 - 2020
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai)
Hình 12. Độc giả đến thư viện tỉnh Lào Cai
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai)