ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------

ĐẶNG THỊ VIỆT HƯƠNG

THIẾT CHẾ THÚC ĐẨY HÌNH THÀNH LIÊN MINH NGHIÊN CỨU TOÀN CẦU TẠI VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TỪ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM (NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM CỦA AUSTRALIA) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------

ĐẶNG THỊ VIỆT HƯƠNG

THIẾT CHẾ THÚC ĐẨY HÌNH THÀNH LIÊN MINH NGHIÊN CỨU TOÀN CẦU TẠI VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TỪ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM (NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM CỦA AUSTRALIA) LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Văn Hải

MÃ SỐ: 60340412

XÁC NHẬN HỌC VIÊN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG

Giáo viên hướng dẫn

Chủ tịch hội đồng chấm luận văn thạc sĩ khoa học

PGS.TS. Trần Văn Hải

PGS.TS. Mai Hà

Hà Nội - 2015

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đƣợc Luận văn này, trƣớc hết tôi xin gửi lời cảm ơn

Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội là

Cơ quan chủ trì và PGS.TS. Trần Văn Hải, Chủ nhiệm nhiệm vụ hợp tác quốc

tế về khoa học và công nghệ theo Nghị định thƣ “Nghiên cứu kinh nghiệm về

tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình

tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ phù hợp cho Việt Nam trong bối

cảnh hội nhập quốc tế”, đã cho phép tôi sử dụng tài liệu của nhiệm vụ để

hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo/Cô giáo trong và ngoài

Khoa Khoa học quản lý, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại

học Quốc gia Hà Nội đã tham gia giảng dạy Lớp cao học chuyên ngành Quản

lý Khoa học và Công nghệ 2013, đặc biệt là PGS.TS. Vũ Cao Đàm, ngƣời đã

cung cấp cho tôi rất nhiều kiến thức và kỹ năng thực sự cần thiết, hữu ích cho

quá trình học tập cũng nhƣ công tác của tôi hiện tại và trong tƣơng lai.

Để hoàn thiện Luận văn này, tôi cũng nhận đƣợc sự giúp đỡ quý báu

của Lãnh đạo Vụ Hợp tác quốc tế, Lãnh đạo Cục Ứng dụng và Phát triển công

nghệ, Lãnh đạo Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp khoa học và công

nghệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, các nhà quản lý khoa học và công

nghệ, quản lý doanh nghiệp và đại diện một số viện nghiên cứu đã trả lời

phỏng vấn, giúp tôi có tƣ liệu trong quá trình nghiên cứu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Quý vị.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015

Tác giả Luận văn

Đặng Thị Việt Hƣơng

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................4

PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................................5

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................5

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................7

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 13

4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 14

5. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 14

6. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 14

7. Mẫu khảo sát ........................................................................................... 15

8. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 15

9. Kết cấu của Luận văn .............................................................................. 16

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT CHẾ, SỰ TÁC ĐỘNG

CỦA LIÊN MINH NGHIÊN CỨU TOÀN CẦU ĐẾN CHUYỂN GIAO

CÔNG NGHỆ ................................................................................................. 17

1.1. Thiết chế ............................................................................................... 17

1.1.1. Khái niệm thiết chế ........................................................................ 17

1.1.2. Khái niệm chính sách ..................................................................... 19

1.1.3. Chính sách khoa học và công nghệ ............................................... 21

1.2. Chuyển giao công nghệ ........................................................................ 22

1.2.1. Khái niệm công nghệ ..................................................................... 22

1.2.2. Chuyển giao công nghệ .................................................................. 24

1.2.3. Đặc điểm của chuyển giao công nghệ ........................................... 26

1.2.4. Hình thức chuyển giao công nghệ ................................................. 27

1.2.5. Các cấp độ chuyển giao công nghệ ............................................... 29

1.2.6. Chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia .................................... 30

1.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chuyển giao công nghệ ........ 30

1

1.2.8. Hiệu quả chuyển giao công nghệ ................................................... 32

1.3. Mối quan hệ giữa nghiên cứu và chuyển giao công nghệ .................... 33

1.3.1. Tính độc lập tương đối giữa nghiên cứu và chuyển giao

công nghệ .................................................................................................. 33

1.3.2. Thiết chế liên kết giữa nghiên cứu và chuyển giao công nghệ ...... 35

1.4. Mối quan hệ giữa Liên minh nghiên cứu toàn cầu với chuyển giao

công nghệ .................................................................................................... 36

1.4.1. Liên minh nghiên cứu toàn cầu ...................................................... 36

1.4.2. Sự tác động của Liên minh nghiên cứu toàn cầu đến chuyển giao

công nghệ .................................................................................................. 39

Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................... 40

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC THIẾT CHẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN

HIỆU QUẢ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM .................... 41

2.1. Chính sách chuyển giao công nghệ ...................................................... 41

2.1.1. Văn bản quy phạm pháp luật về chuyển giao công nghệ .............. 41

2.1.2. Những bất cập trong quy định về chuyển giao công nghệ ............ 42

2.2. Chuyển giao công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam ......................... 48

2.2.1. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trục tiếp nước ngoài ... 48

2.2.2. Chuyển giao công nghệ thông qua nhập khẩu thiết bị .................. 52

2.2.3. Đánh giá việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào

Việt Nam ................................................................................................... 54

2.3. Những khó khăn trong hoạt động chuyển giao công nghệ .................. 55

2.3.1. Khó khăn đối với doanh nghiệp ..................................................... 56

2.3.2. Khó khăn đối với tổ chức nghiên cứu ............................................ 58

2.3.3. Khó khăn đối với cơ quan quản lý ................................................. 59

2.4. Nhu cầu về thiết chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao

công nghệ từ nƣớc ngoài............................................................................. 63

2.4.1. Nhu cầu từ doanh nghiệp ............................................................... 63

2.4.2. Nhu cầu từ tổ chức nghiên cứu ...................................................... 64

2

Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 68

CHƢƠNG 3. HÌNH THÀNH THIẾT CHẾ THAM GIA LIÊN MINH

NGHIÊN CỨU TOÀN CẦU TẠI VIỆT NAM - TỪ KINH NGHIỆM

CỦA AUSTRALIA ........................................................................................ 69

3.1. Kinh nghiệm của Australia trong việc tham gia Liên minh nghiên cứu

toàn cầu ....................................................................................................... 69

3.1.1. Kinh nghiệm hoạt động của Chương trình Các Trung tâm hợp tác

nghiên cứu ................................................................................................. 69

3.1.2. Kinh nghiệm hoạt động của Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và

Công nghiệp Liên bang ............................................................................. 72

3.1.3. Kinh nghiệm tổ chức trong giai đoạn ươm tạo công nghệ qua

mô hình “công viên công nghệ” .............................................................. 77

3.1.4. Kinh nghiệm tổ chức trong giai đoạn thương mại hóa kết quả

nghiên cứu trong các trường đại học ...................................................... 79

3.2. Hình thành thiết chế tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

chuyển giao công nghệ ............................................................................... 85

3.2.1. Nguyên tắc và mục đích tham gia Liên minh nghiên cứu

toàn cầu..................................................................................................... 85

3.2.2. Thiết chế về mối quan hệ giữa Nhà nước - khu vực nghiên cứu -

khu vực doanh nghiệp khi tham gia Liên minh nghiên cứu toàn cầu ....... 87

3.2.3. Thiết chế về tổ chức và hoạt động của thị trường công nghệ

khi tham gia Liên minh nghiên cứu toàn cầu ........................................... 93

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 97

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 98

3

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 99

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

APCTT Asian Pacific center for technology Transfer

Trung tâm Chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình Dƣơng

CGCN Chuyển giao công nghệ

ESCAP Economic and Social Commission for Asia and the Pacific

Ủy ban Kinh tế và Xã hội Châu Á - Thái Bình Dƣơng

FDI Foreign Direct Investment

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

GRA Global Research Alliance

Liên minh nghiên cứu toàn cầu

KH&CN Khoa học và công nghệ

OECD Organization for Economic Co-operation and Development

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

TPP Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement

Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lƣợc xuyên Thái Bình Dƣơng

UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development

Hội nghị Liên hiệp quốc về Thƣơng mại và Phát triển

UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural Organization

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc

UNIDO United Nations Industrial Development Organization

Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc

WIPO World Intellectual Property Organization

4

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bắt đầu từ vòng đàm phán đầu tiên đƣợc tiến hành tại Melbourn,

Australia vào tháng 3 năm 2010, sau hơn 5 năm chờ đợi, ngày 5 tháng 10 năm

2015, Việt Nam cùng 11 quốc gia vành đai Thái Bình Dƣơng (Australia,

Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,

Singapore và Mỹ) cuối cùng cũng đã kết thúc đàm phán, chính thức đạt đƣợc

sự đồng thuận về TPP tại Atlanta, Hoa Kỳ. Đây là thỏa thuận có tầm quan

trọng chiến lƣợc cho các nƣớc trong khu vực, là thỏa thuận hỗ trợ việc làm,

thúc đẩy tăng trƣởng bền vững, đẩy nhanh phát triển toàn diện và cải cách,

tăng cƣờng quan hệ kinh tế và an ninh giữa các quốc gia trong khu vực châu

Á - Thái Bình Dƣơng.

TPP đƣợc dự kiến sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, cả về phƣơng

diện kinh tế, thể chế và xã hội. Tuy nhiên, bƣớc vào sân chơi TPP, Việt Nam

gặp phải thách thức rất lớn bởi là nƣớc có trình độ phát triển thấp nhất trong

các nƣớc thành viên TPP. Trong đó, thách thức lớn nhất là khả năng cạnh

tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, Bộ trƣởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân,

trong bài phỏng vấn “Doanh nghiệp cần đổi mới để tham gia TPP” của tác giả

Nhật Minh đăng trên Tạp chí Tin nhanh Việt Nam VnExpress ngày

10/10/2015, đã nhấn mạnh việc dành nguồn lực đổi mới sản xuất, tăng sức

cạnh tranh là một trong ba việc mà doanh nghiệp phải làm trƣớc khi TPP có

hiệu lực. Lời khuyên thứ hai trong số ba lời khuyên thuộc khuôn khổ bài

phỏng vấn mà Bộ trƣởng Bộ KH&CN dành cho các doanh nghiệp Việt Nam

là “phải nhanh chóng đổi mới công nghệ, vốn đang rất lạc hậu. Bây giờ thuế

có về 0% mà hàng hóa kém chất lƣợng cũng rất khó cạnh tranh... Để làm

đƣợc việc đó, doanh nghiệp phải thắt lƣng buộc bụng để đầu tƣ cho KH&CN,

5

nghiên cứu”.

Qua đó, có thể thấy tầm quan trọng của việc đổi mới công nghệ đối với

sự phát triển của một doanh nghiệp, một quốc gia, nhất là đối với những nƣớc

đang phát triển. Để góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc

phát triển kinh tế - xã hội và từng bƣớc hội nhập vào nền kinh tế tri thức của

thế giới, Việt Nam cần nhanh chóng phát triển và nâng cao trình độ KH&CN

trong nƣớc. Mà con đƣờng nhanh nhất và ngắn nhất để rút ngắn thời gian,

giảm thiểu chi phí nghiên cứu, nhanh chóng tiếp cận và khai thác có hiệu quả

các thành tựu KH&CN của thế giới, giúp đổi mới công nghệ trong nƣớc, tiếp

thu công nghệ tiên tiến, hiện đại, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, phát

triển nền kinh tế đất nƣớc là tìm kiếm và CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

Những năm gần đây, do các doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan

trọng của việc đổi mới công nghệ trong sản xuất nên hoạt động CGCN từ

nƣớc ngoài vào Việt Nam diễn ra khá đa dạng và phong phú. Nhiều công

nghệ mới, hiện đại đƣợc chuyển giao vào nƣớc ta, nhiều sản phẩm mới đƣợc

tạo ra với công nghệ hiện đại, góp phần tăng năng lực sản xuất và khả năng

cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.

Tuy nhiên, CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua vẫn

chƣa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc. Đa số công

nghệ chuyển giao chƣa phải loại tiên tiến, hiện đại, một số công nghệ ở mức

thấp, lạc hậu. Cá biệt có trƣờng hợp chuyển giao là công nghệ thanh lý ở một

số nƣớc đầu tƣ, nguy cơ biến nƣớc ta trở thành bãi thải công nghệ, nhất là

CGCN qua các dự án FDI.

Những hạn chế của hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam là

khá nhiều nhƣng có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu nhƣ sau:

- Thiếu thông tin cập nhật về công nghệ mới, công nghệ hiện đại;

- Thiếu nhân lực KH&CN am hiểu chuyên môn về công nghệ mới và

CGCN;

- Thiếu nhân lực quản lý KH&CN đƣợc đào tạo chuyên sâu về CGCN

6

và các lĩnh vực liên quan;

- Khó khăn trong công việc tìm kiếm công nghệ phù hợp từ nƣớc ngoài;

- Thụ động trong đàm phán, ký kết hợp đồng CGCN;

- Giá CGCN cao;

- Chƣa đủ năng lực tiếp thu, làm chủ và phát triển các công nghệ mới,

hiện đại từ nƣớc ngoài;

-Thiếu các tổ chức dịch vụ CGCN;

- Hoạt động đánh giá và định giá công nghệ yếu kém;

- Thiếu cơ sở dữ liệu thông tin liên quan về CGCN;

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CGCN và các lĩnh vực liên

quan chƣa đồng bộ và phù hợp.

Từ đó có thể thấy, việc nghiên cứu đƣa ra các giải pháp nhằm giải

quyết các hạn chế trong việc tiếp nhận và ứng dụng công nghệ tiên tiến của

nƣớc ngoài vào sản xuất trong nƣớc là việc quan trọng. Từ góc độ của một

nhà quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN, tác giả Luận văn muốn

đƣa ra một giải pháp để góp phần giải quyết thực trạng bất cập nêu trên thông

qua Luận văn Thiết chế thúc đẩy hình thành Liên minh nghiên cứu toàn cầu

tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ từ

nước ngoài vào Việt Nam (Nghiên cứu kinh nghiệm của Australia).

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Các nghiên cứu đƣợc công bố ở trong nƣớc có liên quan đến chủ đề của

Luận văn có thể kể đến một số đề tài, luận văn nhƣ sau:

- Đề tài “Nghiên cứu phát triển hoạt động tư vấn, Chuyển giao công

nghệ ở Việt Nam” do TS. Hoàng Xuân Long (2009), Viện Chiến lƣợc và

Chính sách KH&CN, Bộ KH&CN làm chủ nhiệm. Mục tiêu của Đề tài là xây

dựng các căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách

thúc đẩy phát triển các tổ chức tƣ vấn, môi giới CGCN ở nƣớc ta. Đề tài đã

đƣa ra một số giải pháp mang tính chất định hƣớng cho hoạt động nhằm thúc

đẩy hoạt động tƣ vấn, môi giới CGCN nhƣ: Chú trọng nâng cao nhận thức về

7

hoạt động tƣ vấn, môi giới CGCN; Nhà nƣớc tăng cƣờng xây dựng hệ thống

thông tin mang tính chất cơ bản, nền tảng cho hoạt động tƣ vấn, môi giới

CGCN; Cần sớm có quy hoạch và kế hoạch đào tạo nhân lực chuyên nghiệp

làm công tác tƣ vấn, môi giới CGCN; Bổ sung và hoàn thiện các quy định về

quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tƣ vấn, môi giới CGCN, có các chính

sách thúc đẩy hình thành mạng lƣới các tổ chức tham gia tƣ vấn, môi giới

CGCN, bao gồm cả liên kết trong nƣớc và liên kết quốc tế.

- Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm thu hút chuyển giao

và nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển trong giai đoạn đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở kinh nghiệm của Hàn Quốc, Đài

Loan, Trung Quốc” (KX.06.04/11-15) do ThS. Nguyễn Hoàng Hải , Cục Ứng

dụng và Phát triển công nghệ, Bộ KH&CN làm chủ nhiệm với mục tiêu: Xác

định cơ sở lý luận chung về các mô hình phát triển dựa vào công nghệ và kinh

nghiệm thực tiễn tại các nƣớc Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc; Phân tích

tác động của các chính sách thúc đẩy chuyển giao và nhập khẩu công nghệ

của Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế và

đẩy mạnh công nghiệp hóa; Đề xuất định hƣớng thúc đẩy chuyển giao và

nhập khẩu công nghệ từ các nƣớc phát triển vào Việt Nam giai đoạn đến năm

2020. Đề tài đã cung cấp một bức tranh tổng thể về các mô hình phát triển

công nghệ của các nƣớc, đồng thời góp phần bổ sung những cơ sở lý luận và

thực tiễn quan trọng trong các hoạt động hoạch định và thực thi chính sách

phát triển công nghệ sẽ đƣợc triển khai trong thời gian tới.

- Tổng luận “Kinh nghiệm quốc tế trong việc thúc đẩy quá trình tiếp

nhận và Chuyển giao công nghệ” do Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia,

Bộ KH&CN biên soạn và xuất bản. Nội dung chính là: Những vấn đề chung

về công nghệ, CGCN; Kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và CGCN; Kinh

nghiệm một số nƣớc về thúc đẩy CGCN. Cụ thể, trên cơ sở lý luận về công

nghệ và CGCN, đề tài đã đƣa ra một số quy tắc cần chú ý để có thể tăng

cƣờng lợi nhuận và giảm thiểu thua thiệt trong các thoả thuận CGCN. Đề tài

8

điểm qua các dòng CGCN quốc tế chủ yếu nhƣ CGCN giữa các nƣớc công

nghiệp phát triển và CGCN giữa các nƣớc công nghiệp phát triển với các

nƣớc đang phát triển; những vấn đề khó khăn trong việc CGCN mà các nƣớc

đang phát triển phải đối mặt. Liên quan đến kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy

CGCN, đề tài nêu đƣợc kinh nghiệm CGCN ở Trung Quốc và kinh nghiệm

CGCN trong ngành chế tạo của Thái Lan.

- Đề tài “Đề xuất giải pháp tăng cường vai trò của nhà nước trong việc

thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ ở một số ngành kinh tế” của TS.

Nguyễn Quang Tuấn, Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN, Bộ KH&CN

làm chủ nhiệm. Đề tài đã nêu ra thực trạng mua bán và CGCN ở nƣớc ta,

CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, các định chế trung gian của thị trƣờng

công nghệ; trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nƣớc trong

việc hình thành và phát triển thị trƣờng công nghệ; đánh giá thực trạng vai trò

của Nhà nƣớc đối với phát triển thị trƣờng công nghệ nƣớc ta thời gian qua và

đề xuất giải pháp tăng cƣờng vai trò của Nhà nƣớc trong thúc đẩy phát triển

thị trƣờng công nghệ.

- Đề tài “Nghiên cứu phương pháp xác định giá công nghệ và đề xuất

quy trình xác định giá công nghệ trong điều kiện Việt Nam” của Hoàng Văn

Tuyên, Viện Chiến lƣợc và Chính sách KH&CN, Bộ KH&CN đã đƣa ra đƣợc

bức tranh về nguồn cung cấp công nghệ của Việt Nam. Nguồn cung công

nghệ từ các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong nƣớc còn rất nhỏ bé, số

lƣợng công nghệ là sáng chế đƣợc chuyển giao từ nƣớc ngoài vào Việt Nam

chƣa nhiều, công nghệ đƣợc chuyển giao chủ yếu là bí quyết kỹ thuật chứa

đựng trong trang bị/máy móc.

- Đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động xúc tiến chuyển

giao công nghệ ở Việt Nam” của Nguyễn Vân Anh, Sở Khoa học và Công

nghệ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nghiên cứu về các mô hình tổ chức xúc tiến

CGCN nhằm phát triển thị trƣờng công nghệ ở Việt Nam, từ đó đƣa ra cơ chế

nhằm khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức xúc tiến CGCN

9

hình thành và phát triển.

- Đề tài “Thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong tiến trình

hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Mạnh Hùng, Trung tâm đào tạo bồi

dƣỡng giảng viên lý luận chính trị (2012). Đề tài đã hệ thống hoá những vấn

đề lý luận chung về thị trƣờng KH&CN, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố

tác động tới phát triển thị trƣờng KH&CN trong tiến trình hội nhập kinh tế

quốc tế; Nêu kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trƣờng KH&CN ở một

số quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; Phân tích và đánh giá

quá trình phát triển thị trƣờng KH&CN ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập

kinh tế quốc tế theo những nội dung và các tiêu chí đã đề xuất; Phân tích bối

cảnh mới và quan điểm phát triển thị trƣờng KH&CN trong bối cảnh mới và

đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển thị trƣờng KH&CN ở Việt

Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới.

Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan về

hoạt động CGCN nhƣ:

- “Vai trò của tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ với

doanh nghiệp” của tác giả Hoàng Xuân Long, Tạp chí Hoạt động Khoa học,

số 3/2008. Bài viết đã nêu đƣợc sự phức tạp liên quan trực tiếp đến hoạt động

CGCN của các doanh nghiệp nhƣ lựa chọn phƣơng thức CGCN, đánh giá

công nghệ nhằm lựa chọn một trong số nhiều công nghệ khác nhau để thoả

mãn tối ƣu những thông số do doanh nghiệp xác định trƣớc. Nhƣ vậy, trƣớc

những phức tạp đó, cùng với các nỗ lực xử lý của doanh nghiệp, sự trợ giúp từ

bên ngoài của tổ chức tƣ vấn, môi giới CGCN là rất cần thiết và hữu ích.

- “Mô hình tổ chức xúc tiến chuyển giao công nghệ quốc tế và bài học

cho Việt Nam” của Nguyễn Vân Anh, Sở KH&CN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,

Tạp chí Hoạt động Khoa học, Bộ KH&CN, số 621, tháng 2/2011. Bài viết

giới thiệu mô hình tổ chức xúc tiến CGCN của Hàn Quốc và Trung Quốc, từ

đó rút ra một số kinh nghiệm thiết thực cho Việt Nam.

- “Chuyển giao công nghệ chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng” của tác giả

10

Thanh Tâm, đăng trên Báo Công thƣơng ngày 05/11/2014. Bài viết nêu ý kiến

của ông Bùi Văn Hùng, Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định Công nghệ,

Bộ KH&CN và một số chuyên gia, cho rằng CGCN ở Việt Nam vẫn chƣa đạt

hiệu quả nhƣ kỳ vọng, chƣa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế,

giá trị gia tăng không cao, lợi nhuận thu về ít. Tính cạnh tranh của sản phẩm

trên thƣơng trƣờng quốc tế còn yếu kém do hầu hết các công nghệ đƣợc

chuyển giao là các công nghệ đã và đang đƣợc sử dụng phổ biển. Vấn đề nằm

ở chính sách và môi trƣờng thu hút FDI của chúng ta không đƣợc thiết kế để

khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động CGCN. Từ đó khuyến nghị Chính

phủ cần có chính sách khuyến khích việc chủ động thực hiện CGCN giữa các

doanh nghiệp, với sự định hƣớng từ các cấp; từ quốc gia đến địa phƣơng cũng

nhƣ giữa từng doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực.

Các nghiên cứu đƣợc công bố ở nƣớc ngoài có liên quan đến chủ đề

của Luận văn có thể kể đến một số nghiên cứu nhƣ sau:

- “Tính cạnh tranh ngành tại Australia”, số tháng 7 năm 2014 của

Học viện Khoa học Công nghệ và Kỹ thuật Australia (ATSE). Trong bài báo

của mình, ATSE đƣa ra quan điểm rằng năng suất và tính cạnh tranh của

Australia phụ thuộc rất nhiều vào tính đổi mới của ngành mà cụ thể đƣợc

khái quát trong các lĩnh vực nghiên cứu, đổi mới công nghệ và hợp tác trong

và ngoài nƣớc. Tính cạnh tranh ngành của Australia phụ thuộc sâu sắc vào

khả năng biến đổi những sự đầu tƣ từ khoa học, nghiên cứu và phát triển

thành lợi nhuận kinh tế và việc nâng cao hiệu suất thông qua sự lĩnh hội

những công nghệ mới và tiên tiến bao gồm việc nắm bắt hiệu quả những sự

đổi mới từ bên ngoài.

- “Những nhân tố thành công quan trọng của các công viên công nghệ

tại Australia” của tác giả Radwan Kharabsheh, Phòng Kinh doanh Hành

chính, Đại học Hashemite, trên Tạp chí Quốc tế về Kinh tế và Tài Chính,

Quyển 4, số 7 tháng 7 năm 2012. Vì tầm quan trọng tiềm năng của các công

viên công nghệ, mức độ phức tạp về quy mô đầu tƣ yêu cầu và sự quan tâm

11

ngày càng lớn từ phía Chính phủ để sử dụng những công viên công nghệ này

nhƣ một công cụ để tạo ra sự phát triển bền vững có một nhu cầu cấp thiết

cho một sự hiểu biết tốt hơn về các yếu tố thành công quan trọng của các công

viên công nghệ này. Tuy nhiên, mục đích của những công viên công nghệ này

và nhân tố dẫn tới việc đổi mới thành công vẫn còn là điều bí ẩn. Điều này

cần phân tích nghiên cứu những trƣờng hợp nổi tiếng nhất để giải thích sự

thành công của họ.

Nghiên cứu này đã sử dụng việc phỏng vấn chuyên sâu để khai thác

những nhân tố thành công quan trọng của các công viên công nghệ. Việc

nghiên cứu cũng chỉ rõ đó là những nhân tố nhƣ: một nền văn hóa chấp nhận

rủi ro từ kinh doanh, yếu tố quản lý khu tự trị, môi trƣờng thuận lợi, sự đông

đảo của các công ty, sự hiện diện của các công ty sáng tạo quốc tế và cuối

cùng là tầm nhìn chung của các cổ đông của công viên công nghệ.

- “Hoạt động nghiên cứu của Đại học Cấp bằng sáng chế tại Australia:

đánh giá thí điểm” của Bộ Công nghiệp Australia vào tháng 10 năm 2013.

Các trƣờng đại học đóng góp cho sự phát triển kinh tế không chỉ thông qua

hoạt động giảng dạy và nghiên cứu mà còn thông qua sự cam kết và hợp tác

với các ngành công nghiệp và lĩnh vực khác.

Những năm gần đây đã thấy sự gia tăng trong việc sử dụng các số liệu

bằng sáng chế để đánh giá sự đổi mới và kết quả nghiên cứu. Tài liệu sáng

chế có thể truy cập ở dạng điện tử, cung cấp thông tin chi tiết của các sáng

chế từ việc hợp tác và nghiên cứu với các trƣờng đại học. Những phần mềm

đặc biệt còn cho phép chúng ta xem xét các tài liệu và theo dõi các kiến thức

công nghệ cũng nhƣ sự phổ biến của nó trong nền kinh tế.

Nghiên cứu thí điểm này đƣợc kiểm tra bằng sáng chế có nguồn gốc từ

12 trƣờng đại học của Australia và các số liệu đƣợc xem xét là những bằng

sáng chế đƣợc công bố, kỹ thuật chuyên môn và tần số trích dẫn của bằng

sáng chế trong tài liệu khác. Từ dữ liệu này, chúng ta đã có thể mở rộng sự

hiểu biết về mối quan hệ giữa các bằng sáng chế và các tác động của các

12

nghiên cứu từ các trƣờng đại học.

- “Khoa học và công nghệ dựa trên hỗ trợ kinh doanh trong “nền kinh tế

sáng tạo tầng thứ hai” của Australia” của Kevin Hindle và John Yencken.

Nghiên cứu này đã đi vào chi tiết và chứng minh những điều kiện tiên quyết để

Australia tồn tại và gặt hái giá trị lớn hơn nhiều so với đầu tƣ nghiên cứu. Nó là

rất đáng đƣợc hy vọng rằng Chính phủ mới của Australia sẽ nhận ra những lĩnh

vực cũng nhƣ điểm yếu và thiếu sót trong bộ chƣơng trình đổi mới, đó là phát

triển kỹ năng. Các cơ hội lớn nhất cho chính sách đổi mới của Australia là việc

nâng cao sự sáng tạo và phát triển công nghệ cao, không chỉ với các khía cạnh

nghiên cứu hay kỹ thuật mà là khía cạnh con ngƣời của sự phát triển. Chúng ta

cần phải tập trung vào con ngƣời, giúp công dân phát triển các kỹ năng mới.

Vấn đề không phải là thiếu sáng chế, mà là chúng ta đang thiếu các kỹ năng

kinh doanh cần thiết để đƣa những sáng chế thành các sản phẩm và dịch vụ có

giá trị. Và các chính sách đổi mới của Chính phủ mới cần tập trung nỗ lực ban

đầu vào chƣơng trình nâng cao năng lực kinh doanh của Australia.

Các nghiên cứu nêu trên đã đƣa ra đƣợc bức tranh khá đa dạng về thực

trạng hoạt động CGCN tại nƣớc ta, chỉ ra một số bất cập, yếu kém trong hoạt

động CGCN, phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia có hoạt động CGCN

sôi động, từ đó đề xuất giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện

cho các tổ chức xúc tiến CGCN, nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN.

Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu nêu trên vẫn chƣa đƣa ra đƣợc câu trả

lời cho câu hỏi làm thế nào xác định đƣợc nơi có công nghệ nghệ nguồn cần

chuyển giao? Hoặc nếu công nghệ đó chƣa từng có thì sao? Tổ chức nào có thể

kết nối và đáp ứng đƣợc mọi nhu cầu về công nghệ của các doanh nghiêp?

Luận văn sẽ cố gắng để góp một câu trả lời cho các vấn đề nêu trên.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Xây dựng thiết chế thúc đẩy tham gia GRA nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu kinh

13

nghiệm của Australia.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ:

- Phân tích cơ sở lý luận về thiết chế, chính sách, GRA, CGCN, sự tác

động của GRA đến CGCN;

- Khảo sát thực trạng thiết chế thúc đẩy các tổ chức KH&CN Việt Nam

tham gia GRA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào

Việt Nam;

- Tìm hiểu kinh nghiệm của Australia trong việc hình thành thiết chế

thúc đẩy tham gia GRA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN;

- Đề xuất giải pháp xây dựng thiết chế thúc đẩy các tổ chức KH&CN

Việt Nam tham gia GRA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc

ngoài vào Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi thời gian: 2010-2014

- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Luận văn giới hạn nội dung nghiên

cứu về thiết chế thúc đẩy các tổ chức KH&CN Việt Nam tham gia GRA nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam (Nghiên

cứu kinh nghiệm của Australia)

5. Câu hỏi nghiên cứu

Cần hình thành thiết chế nhƣ thế nào để thúc đẩy các tổ chức KH&CN

Việt Nam tham gia GRA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc

ngoài vào Việt Nam?

6. Giả thuyết nghiên cứu

Để thúc đẩy các tổ chức KH&CN Việt Nam tham gia GRA nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, cần hình thành

thiết chế theo các tiêu chí:

- Thiết chế giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nƣớc - khu vực nghiên cứu

- khu vực doanh nghiệp;

14

- Thiết chế về tổ chức và hoạt động của thị trƣờng công nghệ.

7. Mẫu khảo sát

Luận văn khảo sát các mẫu nhƣ sau:

- Đại diện các tổ chức nghiên cứu, bao gồm: Trung tâm Điện tử Viễn

thông, Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học và Tự động hóa, Bộ Công Thƣơng,

Viện Công nghiệp giấy và xenluylo, Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên,

Viện Nghiên cứu Chiến lƣợc, Chính sách Công nghiệp, Bộ Công Thƣơng;

- Đại diện các doanh nghiệp, bao gồm: Tổng Công ty Thuốc lá Việt

Nam, Tổng Công ty Cổ phần rƣợu - bia - nƣớc giải khát Hà Nội, Công ty

TNHH Thƣơng mại và Kỹ thuật Thịnh Khôi;

- Đại diện các nhà quản lý KH&CN, bao gồm: Lãnh đạo Vụ, trƣởng,

phó phòng, chuyên viên của Vụ Hợp tác quốc tế, Lãnh đạo Cục Ứng dụng và

Phát triển công nghệ, Lãnh đạo Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp

khoa học và công nghệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.

Phương pháp chọn mẫu:

- Chọn mẫu theo tiêu chí có đại diện doanh nghiệp lớn (tổng công ty),

doanh nghiệp nhỏ và vừa (công ty TNHH);

- Đối với các viện nghiên cứu chọn mẫu theo tiêu chí có sáng tạo công

nghệ, có chuyển giao công nghệ;

- Đối với các cơ quan quản lý nhà nƣớc về KH&CN, chọn mẫu theo

tiêu chí có quản lý hợp tác quốc tế về KH&CN, có quản lý về ứng dụng, phát

triển, doanh nghiệp KH&CN.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sử dụng số liệu có liên quan đến

GRA, GRA tại Australia, CGCN, CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

- Phương pháp quan sát: xem xét khách quan nhu cầu về thiết chế thúc

đẩy tham gia GRA tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động

CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

- Phương pháp điều tra, khảo sát: điều tra, khảo sát nhu cầu về thiết

chế thúc đẩy tham gia GRA tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt

15

động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

- Phương pháp phỏng vấn: tác giả Luận văn đã phỏng vấn 05 đại diện

doanh nghiệp, 05 đại diện tổ chức nghiên cứu, 07 nhà quản lý hợp tác quốc tế

về KH&CN. Tác giả liên hệ trƣớc với ngƣời đƣợc phỏng vấn và gửi câu hỏi

phỏng vấn về việc xây dựng thiết chế thúc đẩy hình thành GRA tại Việt Nam

nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

9. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung của Luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng:

- Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về thiết chế, sự tác động của Liên minh

nghiên cứu toàn cầu đến chuyển giao công nghệ

- Chƣơng 2. Thực trạng các thiết chế tác động đến hiệu quả chuyển

giao công nghệ tại Việt Nam

- Chƣơng 3. Hình thành thiết chế tham gia Liên minh nghiên cứu toàn

16

cầu tại Việt Nam - Từ kinh nghiệm của Australia

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT CHẾ, SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LIÊN MINH

NGHIÊN CỨU TOÀN CẦU ĐẾN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

1.1. Thiết chế

1.1.1. Khái niệm thiết chế

Thiết chế là một khái niệm phức tạp và đƣợc xem xét dƣới những góc

độ khác nhau:

- Theo Fichter, J. H. (1958): Thiết chế là một hình trạng hoặc một sự

phối hợp những khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận và tập trung vào sự thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của cộng đồng.1 Theo đó, thiết chế bao gồm

các chuẩn mực và giá trị, tạo thành một hệ thống các quan hệ ổn định, một

khuôn mẫu xã hội biểu hiện sự thống nhất đƣợc xã hội thừa nhận nhằm mục

địch thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội.

- Theo Roger Friedland A. F. Robertson (1992): Thiết chế là một tập

hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội.2

Khái niệm thiết chế đôi khi đƣợc coi nhƣ khái niệm thể chế. Một số

khái niệm thể chế nhƣ: thể chế có thể đƣợc hiểu là cái tạo thành khung khổ

trật tự cho các quan hệ của con ngƣời, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của

các quan hệ giữa các bên tham gia tƣơng tác; là ý chí chung của cộng đồng xã

hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn

mực, giá trị chung đƣợc mọi ngƣời chia sẻ.

Theo Douglass Cecil North (1990): Thể chế là những giới hạn được

1 Fichter, J. H. (1958). Parochial school: Asociological study. Notre Dame, IN: University of Notre Dame Press. Gamoran, A. (1987). 2 Roger Friedland and A. F. Robertson (1992), The Sociology of Economic Life, Boulder, CO: Westview

Press, 1992 3 Douglass Cecil North (1990), Institutions, Institutional Change and Economic Performance, Cambridge University Press, 1990

17

vạch ra trong phạm vi khả năng và hiểu biết của con người hình thành nên mối quan hệ qua lại của con người.3

Theo Stephen H. Haber, Douglass Cecil North, Barry R. Weingast

(2008): Thể chế là những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội. Nói cách khác,

đó là những ràng buộc do con người tạo ra để để điều chỉnh và định hình cho những tương tác giữa người với người. 4 Thể chế bao hàm ba nội dung quan

trọng nhất, đó là luật chơi, cơ chế thực thi và tổ chức.

Cách tiếp cận chính sách từ thiết chế (institution) xã hội, thiết chế xã hội

là một khái niệm xã hội học.

Theo J. H. Fichter5, “Thiết chế là một phần của văn hoá, một đoạn đã

được khuôn mẫu” hoá trong nếp sống của một dân tộc”, “... những khuôn

mẫu tác phong công khai và tiềm ẩn tự biến thành những vai trò xã hội do

những con người đảm nhiệm và nhiều loại tương quan khác nữa giữa những

con người với nhau, đứng đầu những tương quan đó là những diễn tiến xã

hội”. Fichter còn viết: “Những tương quan xã hội và những vai trò xã hội hợp

thành những yếu tố chủ yếu của thiết chế”. Cuối cùng Fichter khẳng định

thiết chế là một “hình trạng hoặc một sự phối hợp những khuôn mẫu tác

phong được một đa số chấp nhận và tập trung vào sự thoả mãn một nhu cầu

cơ bản của cộng đồng”.

Về các yếu tố cấu thành thiết chế, Gidden A.6 xác định rõ: “Thiết chế

bao gồm những chuẩn mực và những giá trị”.

Theo Nguyễn Trần Bạt (2011): Thể chế là tập hợp các quy tắc điều

chỉnh xã hội và là kết quả của những thỏa thuận xã hội. Thể chế, do đó, mang

4 Stephen H. Haber, Douglass Cecil North, Barry R. Weingast (2008), Political Institutions and Financial Development, Stanford University Press 5 Fichter J.H., Xã hội học (Bản dịch tiếng Việt của Trần Văn Đĩnh), Nxb Hiện đại, Sài Gòn, 1974 (In lần thứ hai) 6 Gidden A., Sociology, Polity Press, Cambridge, 1990, p.731. 7 Nguyễn Trần Bạt (2011), Thể chế và Thành tích, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 5.2011

18

tính bản chất và là một đối tượng có tính sở hữu rõ ràng; nó thể hiện một cách sâu sắc khuynh hướng chính trị mà đảng cầm quyền đã lựa chọn. 7

Quan niệm của tác giả Luận văn:

Luận văn sử dụng khái niệm thiết chế bao gồm các chuẩn mực và giá

trị, tạo thành một hệ thống các quan hệ ổn định, một khuôn mẫu xã hội biểu

hiện sự thống nhất đƣợc xã hội thừa nhận nhằm mục địch thỏa mãn các nhu

cầu cơ bản của xã hội. Trong đó chuẩn mực là tập hợp những mong đợi, yêu

cầu, quy tắc đối với hành vi của các thành viên trong xã hội. Chuẩn mực quy

định cho mỗi thành viên những việc nào nên làm, không nên làm và cần xử sự

nhƣ thế nào cho đúng trong mỗi tình huống xã hội.

1.1.2. Khái niệm chính sách

Chính sách là thuật ngữ đƣợc sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế -

xã hội. Các khái niệm chính sách đƣợc thể hiện khác nhau, do có nhiều cách

tiếp cận để xem xét khái niệm chính sách, nhƣ tiếp cận chính trị học, tiếp cận

nhân học và nhân học xã hội, tiếp cận tâm lý học, tiếp cận kinh tế học, tiếp

cận đạo đức học, tiếp cận hệ thống, tiếp cận khoa học pháp lý, tiếp cận tổng

hợp… Chính sách là tập hợp các chủ trƣơng và hành động về phƣơng diện

nào đó của Chính phủ, nó bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ muốn đạt

đƣợc và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm

sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - môi

trƣờng. Chính sách là sách lƣợc và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích

nhất định, dựa vào đƣờng lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra.

Có thể kể đến một số khái niệm chính sách nhƣ sau:

- Theo Robinson : Chính sách là những chỉ dẫn cho việc làm quyết định

hoặc đưa ra quyết định và thể hiện những tình huống lặp lại có tính chu kỳ.

- Theo James Anderson: Chính sách là một quá trình hành động có

mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong

việc giải quyết vấn đề.

- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Chính sách là những chuẩn tắc

cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một

19

thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó.

Theo Vũ Cao Đàm:8 Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế

hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự

ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của

họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển

của một hệ thống xã hội. Khái niệm “hệ thống xã hội” đƣợc hiểu theo một ý

nghĩa khái quát, đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một

doanh nghiệp, một nhà trƣờng…

Cũng theo Vũ Cao Đàm, từ các cách tiếp cận trên đây, khi nói đến một

chính sách là nói đến những yếu tố sau đây:

- Chính sách là tập hợp những biện pháp mà chủ thể quyền lực hoặc

chủ thể quản lý đƣa ra, đƣợc thể chế hoá thành những quy định có giá trị

pháp lý, nhằm thực hiện chiến lƣợc phát triển của hệ thống theo mục đích mà

chủ thể quyền lực mong đợi.

- Chính sách bao giờ cũng tạo ra một sự phân biệt đối xử của chủ thể

quyền lực hoặc chủ thể quản lý đối với các nhóm xã hội khác nhau. Trong sự

phân biệt đối xử đó, chủ thể quyền lực có sự ƣu đãi đối với một (hoặc một số)

nhóm xã hội nào đó.

- Các biện pháp ƣu đãi phải có tác dụng kích thích động cơ hoạt động

của nhóm đƣợc ƣu đãi, là nhóm có vai trò then chốt trong việc thực hiện các

mục tiêu phát triển hệ thống, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển của hệ thống

theo chiến lƣợc mà nhóm chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đƣa ra.

- Chính sách luôn tạo ra một bất bình đẳng xã hội, rất có thể, đồng thời

khắc phục một bất bình đẳng xã hội đang tồn tại, rất có thể khoét sâu thêm

những bất bình đẳng vốn có, nhƣng cuối cùng phải nhằm mục đích tối

thƣợng, là thoả mãn những nhu cầu cơ bản của mục tiêu phát triển toàn hệ

thống (hệ thống xã hội).

- Toàn bộ những biện pháp đó phải đạt đến một kết quả là tạo ra một

đòn ứng phó với một tình huống của cuộc chơi, có khi là rất bất lợi cho chủ

20

thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý. 8 Vũ Cao Đàm (2010), Giáo trình Khoa học chính sách, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

Nhƣ vậy, có thể hiểu chính sách theo những khía cạnh nhƣ sau:

- Chính sách là một tập hợp biện pháp;

- Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá dƣới dạng các

văn bản quy phạm pháp luật;

- Chính sách phải tác động vào động cơ hoạt động của các cá nhân và

nhóm xã hội;

- Chính sách phải hƣớng động cơ của các cá nhân và nhóm xã hội nói

trên vào một mục tiêu nào đó của hệ thống xã hội.

Tất nhiên, khi nói sử dụng tiếp cận tổng hợp để xem xét một chính

sách, không nhất thiết phải xem xét đủ mọi hƣớng tiếp cận nhƣ trên, mà chỉ

có thể một vài cách tiếp cận trong đó.

Quan niệm của tác giả Luận văn:

Từ những phân tích trên đây, Luận văn sử dụng khái niệm: “Chính sách

là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc

chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội,

kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm

thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ

thống xã hội”.

1.1.3. Chính sách khoa học và công nghệ

- Theo UNESCO: Chính sách KH&CN là tập hợp các biện pháp lập

pháp và hành pháp được thực hiện để nâng cao, tổ chức và sử dụng tiềm lực

KH&CN với mục tiêu đạt được mục đích quốc gia. Theo đó, chính sách

KH&CN trƣớc hết là tập hợp các biện pháp thuộc lĩnh vực lập pháp và lĩnh

vực hành pháp, có nghĩa là chính sách KH&CN không những chỉ thể hiện ở

khâu hoạch định, ban hành các biện pháp về KH&CN, mà còn phải thể hiện ở

khâu hành pháp: thực thi các biện pháp về KH&CN.

Theo thông lệ chung, chính sách KH&CN là những phƣơng châm, điều

lệ, quy định, những nguyên tắc, quy tắc do một Nhà nƣớc, một ngành, một cơ

sở đặt ra trong một thời kỳ nhất định và với một mục tiêu chiến lƣợc nhất

21

định, nhằm phát triển KH&CN.

Quan niệm của tác giả Luận văn:

Trên cơ sở tập hợp các khái niệm nêu trên, Luận văn sử dụng khái

niệm: “Chính sách KH&CN là tập hợp các biện pháp được thể chế hóa thông

qua các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu về KH&CN

trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”.

1.2. Chuyển giao công nghệ

1.2.1. Khái niệm công nghệ

Về nguồn gốc công nghệ (technologia, hay τεχνολογια, trong tiếng Hy

Lạp; techne có nghĩa là thủ công và logia có nghĩa là “châm ngôn”) là một

thuật ngữ rộng dùng để chỉ đến các công cụ và cách thức làm chủ công cụ của con ngƣời.9

Thuật ngữ công nghệ đƣợc hình thành từ lâu và đƣợc sử dụng khá phổ

biến. Theo quan niệm cũ, công nghệ là tập hợp các phƣơng pháp gia công,

chế tạo làm thay đổi tính chất, hình dạng, trạng thái của nguyên vật liệu và

bán thành phẩm để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Theo quan niệm mới, công

nghệ dùng để chỉ hoạt động trong mọi lĩnh vực có áp dụng những kiến thức là

kết quả của nghiên cứu khoa học ứng dụng nhằm mang lại hiệu quả cao hơn

trong hoạt động của con ngƣời.

Tùy vào từng ngữ cảnh mà thuật ngữ công nghệ có thể đƣợc hiểu:

- Công cụ hoặc máy móc giúp con ngƣời giải quyết các vấn đề;

- Các kỹ thuật bao gồm các phƣơng pháp, vật liệu, công cụ và các tiến

trình để giải quyết một vấn đề;

- Các sản phẩm đƣợc tạo ra hàng loạt và giống nhau;

- Sản phẩm có chất lƣợng cao và giá thành hạ.

ESCAP định nghĩa: Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và

kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết bị,

9 Wright, R.T. (2008). Technology. Goodheart-Wilcox Company, 5th edition, ISBN 1590707184. p.8 10 OECD (1992), Trade Issues in the Transfer of Clean Technologies. OECD, Paris 1992. p.21

22

phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ.10

Từ đó có thể thấy công nghệ là tập hợp các phƣơng pháp, quy trình, kỹ

năng, bí quyết, công cụ, phƣơng tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành

sản phẩm. Nhƣ vậy công nghệ là việc phát triển và ứng dụng các dụng

cụ, máy móc, nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề

của con ngƣời. Với tƣ cách là hoạt động con ngƣời, công nghệ diễn ra trƣớc

khi có khoa học và kỹ nghệ. Nó thể hiện kiến thức của con ngƣời trong giải

quyết các vấn đề thực tế để tạo ra các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu hoặc

quy trình tiêu chuẩn. Việc tiêu chuẩn hóa nhƣ vậy là đặc thù chủ yếu của công

nghệ. Khái niệm về kỹ thuật: Kỹ thuật đƣợc hiểu là bao gồm toàn bộ những

phƣơng tiện lao động và những phƣơng pháp tạo ra cơ sở vật chất.

Các thành phần của công nghệ:

Mỗi công nghệ đều bao gồm bốn thành phần chính:

- Kỹ thuật (T): bao gồm các máy móc thiết bị. Thành phần kỹ thuật là

cốt lõi của bất kỳ công nghệ nào. Nhờ máy móc, thiết bị, phƣơng tiện mà con

ngƣời tăng đƣợc sức mạnh cơ bắp và trí tuệ trong hoạt động sản xuất.

- Con ngƣời (H): Bao gồm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng do học

hỏi, tích lũy đƣợc trong quá trình hoạt động, nó cũng bao gồm các tố chất

của con ngƣời nhƣ tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức

lao động.

- Thông tin (I): Bao gồm các dữ liệu về phần kỹ thuật, về con ngƣời và

tổ chức. Các thông số về đặc tính của thiết bị, số liệu về vận hành thiết bị, để

duy trì và bảo dƣỡng, dữ liệu để nâng cao và dữ liệu để thiết kế các bộ phận

của phần kỹ thuật. Thành phần thông tin biểu hiện các tri thức đƣợc tích lũy

trong công nghệ, nó giúp trả lời câu hỏi “làm cái gì” và “làm nhƣ thế nào”.

- Tổ chức (O): bao gồm khung thể chế để xây dựng cấu trúc tổ chức,

những quy định về quyền hạn, trách nhiệm, sự phối hợp giữa các cá nhân.

- Theo Trần Ngọc Ca (1987): Công nghệ có thể được hiểu như mọi loại

hình kiến thức, thông tin, bí quyết, phương pháp (gọi là phần mềm) được lưu

23

giữ dưới các dạng khác nhau (con người, ghi chép…) và mọi loại hình thiết

bị, công cụ, tư liệu sản xuất (gọi là phần cứng) và một số tiềm năng khác (tổ

chức, pháp chế, dịch vụ…) được áp dụng vào môi trường thực tế để tạo ra

các loại sản phẩm và dịch vụ.

- Theo Vũ Cao Đàm: Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy

trình, kỹ năng, bí quyết, có hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để

biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.

- Theo Luật Khoa học và Công nghệ 2000: Công nghệ là tập hợp các

phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến

đổi các nguồn lực thành sản phẩm.

- Theo Luật Chuyển giao công nghệ 2006 và Luật Khoa học và Công

nghệ 2013: Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc

không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Quan niệm của tác giả Luận văn:

Trên cơ sở tập hợp và khái quát các khái niệm về công nghệ nêu trên,

Luận văn sử dụng khái niệm: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy

trình, kỹ năng, bí quyết, có hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để

biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.

1.2.2. Chuyển giao công nghệ

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về CGCN, tùy theo bản chất, mục

đích và đối tƣợng của việc chuyển giao mà có cách hiểu khác nhau về CGCN.

Trong tiếng gốc La Tinh, chữ “chuyển giao” là “transferre”, có nghĩa là

“vƣợt qua một ranh giới”. Theo đó, CGCN có nghĩa là mang kiến thức kỹ

thuật vƣợt qua sự giới hạn trong hay ngoài nƣớc, từ các công ty, các trƣờng

đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các doanh nghiệp khoa

học ƣơm tạo công nghệ đến những nơi có nhu cầu tiếp nhận công nghệ.

CGCN theo nghĩa hẹp: Là một sự thỏa thuận giữa hai bên (Bên giao và

Bên nhận), trong đó hai bên phối hợp các hành vi pháp lý hoặc/và các hoạt

động thực tiễn mà mục đích và kết quả là Bên nhận có những năng lực công

24

nghệ xác định.

CGCN theo nghĩa rộng: CGCN xảy ra khi yếu tố công nghệ này hay

khác đƣợc mở rộng phạm vi ứng dụng (thay đổi mục tiêu khác với mục tiêu

ban đầu mà mục tiêu công nghệ đƣợc tạo ra, dịch chuyển vị trí địa lý, chuyển

từ chủ thể này sang chủ thể khác…).

Sau đây là một số khái niệm về CGCN:

- Theo Tổ chức Hiệp ƣớc Bắc Đại Tây Dƣơng NATO (1975): CGCN là

quá trình truyền thông tin giữa khoa học, kỹ thuật và việc sử dụng các dữ

kiện, ý đồ khoa học vào sản xuất và dịch vụ; chuyển các kết quả nghiên cứu

sang khu vực áp dụng; quá trình cho thông tin xuất hiện ở một môi trường

này thích ứng được với việc sử dụng trong một môi trường khác.

- Theo UNCTAD (1982): CGCN là việc chuyển giao kiến thức có hệ

thống để sản xuất ra sản phẩm, áp dụng một quy trình hoặc thực hiện một dịch vụ.11

- Theo Dunning (1982): CGCN liên quan đến phương thức một nước

tiếp nhận công nghệ (thu nhận) hoặc khả năng công nghệ từ nước khác. Nó

cũng bao gồm bất kỳ hình thức CGCN nào giữa các hình thái tổ chức hoặc

trong nội bộ một tổ chức.

- Theo Nawaz Sharif (1983): CGCN thường là cách gọi việc mua công

nghệ mới. Nó thường xảy ra do có sự tồn tại của “người mua” và “người

bán”. Người bán thường được gọi là “người giao” và người mua thường được gọi là “người nhận” của quá trình CGCN. 12

- Theo UNIDO: CGCN là quá trình truyền bá từ nước này sang nước

khác ngoài nước sản sinh ra nó, hay nói cách khác đó là quá trình chuyển và

nhận công nghệ qua biên giới.

- Theo Luật Chuyển giao công nghệ 2006: CGCN là chuyển giao quyền

sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có

11 UNCTAD (2001), Transfer of Technology, New York and Geneva, 2001

12 Nawaz Sharif (1983), Management of

technology transfer and development, Regional Centre

for Technology Transfer (India)

25

quyền CGCN sang Bên nhận công nghệ.

Các khái niệm về CGCN nêu trên tuy khác biệt về nội dung cụ thể và

cách tiếp cận nhƣng có điểm chung là:

+ Hoạt động CGCN có hai bên tham gia và có yếu tố quyết định là

công nghệ mới;

+ Hoạt động CGCN không chỉ bao gồm chuyển nhƣợng phƣơng tiện

vật chất, kỹ thuật hữu hình, mà điều quan trọng hơn là phải đào tạo, huấn

luyện để Bên nhận CGCN nắm giữ, sử dụng thành thạo công nghệ nhập và

làm thích nghi, cải tiến công nghệ nhập.

Nhƣ vậy, bản chất của CGCN cần đƣợc hiểu theo nghĩa rộng hơn

không đơn giản chỉ là mua đứt, bán đoạn nhƣ đối với các hàng hóa khác mà

CGCN phải đƣợc hiểu là quá trình vật chất, là quá trình sản sinh, truyền và sử

dụng thông tin.

Quan niệm của tác giả Luận văn:

Từ các khái niệm trên, Luận văn sử dụng khái niệm: “CGCN là chuyển

giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ

bên có quyền CGCN sang Bên nhận công nghệ”.

1.2.3. Đặc điểm của chuyển giao công nghệ

Xét về yếu tố thƣơng mại: CGCN có thể là hoạt động có thanh toán

(thƣơng mại), hoặc không thanh toán (phi thƣơng mại).

Xét về yếu tố pháp lý: CGCN là một hoạt động nhằm chuyển nhƣợng

quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng một công nghệ từ chủ thể này

sang chủ thể khác, trên cơ sở hợp đồng CGCN đƣợc thoả thuận, phù hợp với

các quy định của pháp luật. Bên chuyển giao có nhiệm vụ CGCN có kèm

hoặc không kèm máy móc, thiết bị, dịch vụ... cho Bên nhận chuyển giao. Bên

nhận chuyển giao có nghĩa vụ thanh toán các khoản phí cho bên chuyển giao

để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều khoản đã đƣợc

ghi trong hợp đồng.

Xét về yếu tố nội tại của công nghệ đƣợc chuyển giao: Công nghệ đƣợc

26

xem gồm hai phần: phần cứng (máy móc, thiết bị…) và phần mềm (quy trình,

công thức, bí quyết…). Phạm trù CGCN chủ yếu thuộc phần mềm của công

nghệ. Phần cứng của công nghệ đƣợc mua bán trên cơ sở các quan hệ thƣơng

mại thông thƣờng, vì nó có hiện vật cụ thể và giá cả ấn định. Tuy nhiên, vì

phần mềm của công nghệ thƣờng đƣợc thể hiện trên những phƣơng tiện, thiết

bị cụ thể, cho nên trong quá trình CGCN luôn phải giải quyết mối quan hệ với

phần cứng. Tuy nhiên, phần cứng chỉ đƣợc coi là đi kèm công nghệ đƣợc

chuyển giao lần đầu, còn các lần tiếp theo chỉ đơn thuần là máy móc, thiết bị…

bởi vậy giá cả phần cứng đi kèm công nghệ đƣợc chuyển giao rất khác với giá

cả phần cứng khi đƣợc chuyển giao độc lập.

1.2.4. Hình thức chuyển giao công nghệ

Xét theo luồng CGCN, có hai hình thức CGCN nhƣ sau:

- CGCN theo chiều dọc: Là chuyển giao khi công nghệ còn là mục tiêu,

bí quyết và đƣợc thực hiện từ khu vực nghiên cứu và triển khai vào khu vực

sản xuất. Chuyển giao dọc thƣờng thấy ở các nƣớc phát triển, có điều kiện và

tiềm lực để tiến hành nghiên cứu, triển khai. Chuyển giao dọc có ƣu điểm là

mang đến cho ngƣời sản xuất một công nghệ hoàn toàn mới, nhƣng phải chấp

nhận một độ rủi ro nhất định. Xác suất rủi ro thấp khi sự khảo nghiệm cho

những kết quả chắc chắn. Mô hình CGCN từ các doanh nghiệp KH&CN có

hoạt động nghiên cứu và triển khai đến ngƣời nông dân là một trong những

hình thức CGCN theo chiều dọc. Giá cả CGCN trong trƣờng hợp này thƣờng

rất khó xác định, bởi vì sự thành công hay thất bại trong việc ứng dụng công

nghệ đƣợc chuyển giao thƣờng chƣa đƣợc kiểm định, bởi vậy để tránh rủi ro

về mặt kinh tế cho cả bên chuyển giao và Bên nhận chuyển giao, trong trƣờng

hợp này nên thanh toán theo hình thức kỳ vụ (Royalty).

- CGCN theo chiều ngang: Là chuyển giao một công nghệ đã hoàn thiện,

đã đƣợc làm chủ và đƣợc thử thách bằng những sản phẩm có uy tín trên thị

trƣờng, có khả năng đứng vững trên thị trƣờng cạnh tranh. Chuyển giao ngang

có ƣu điểm là độ tin cậy cao, ít rủi ro, có thể cho kết quả nhanh nhƣng đòi hỏi

27

Bên nhận công nghệ phải có trình độ tiếp nhận cao.

Về tính khác biệt của CGCN so với chuyển giao các tài sản hữu hình,

xét trên phƣơng diện pháp lý, nội dung cơ bản của quyền sở hữu bao gồm:

quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt, nhƣng do đặc điểm vô

hình của công nghệ (xét phần mềm công nghệ) việc chiếm hữu nó không có ý

nghĩa. Bởi vậy phát sinh một hệ quả pháp lý, đó là công nghệ đã đƣợc chuyển

cho Bên nhận chuyển giao, nhƣng nó vẫn do bên chuyển giao nắm giữ, trong

nhiều trƣờng hợp bên chuyển giao có thể nắm ƣu thế hơn so với bên đƣợc

chuyển giao.

Xét trên phƣơng diện quyền sở hữu công nghệ, có hai hình thức CGCN

sau:

- Chuyển giao quyền sở hữu: khi hợp đồng chuyển giao có hiệu lực

pháp lý, Bên nhận chuyển giao có đầy đủ quyền sở hữu đối với công nghệ,

tuy nhiên cần phải lƣu ý yếu tố chiếm hữu nhƣ đã phân tích trên. Trong nhiều

tài liệu pháp lý gọi hình thức này là chuyển nhƣợng quyền sở hữu công nghệ.

- Chuyển giao quyền sử dụng: khi hợp đồng chuyển giao có hiệu lực

pháp lý, Bên nhận chuyển giao chỉ có quyền sử dụng công nghệ. Trong nhiều

tài liệu pháp lý gọi hình thức này là chuyển quyền sử dụng công nghệ, có tài

liệu gọi là license công nghệ. Điểm khác biệt cơ bản của trƣờng hợp này so

với trƣờng hợp chuyển giao quyền sở hữu công nghệ là, Bên nhận chuyển

giao không đƣợc quyền định đoạt công nghệ. Trong thực tế khi CGCN cho

nông dân, do tác động của “phong trào” nhân rộng điển hình, ngƣời ta thƣờng

động viên, khuyến khích nông dân “phổ biến” công nghệ cho các đối tƣợng

khác không thuộc đối tƣợng đƣợc nhận chuyển giao trong hợp đồng CGCN.

Thực chất của hành vi này là nông dân đã vi phạm quyền định đoạt đối với

công nghệ, mà trong hợp đồng license công nghệ, quyền này chỉ thuộc về bên

chuyển giao. Đây là một trong những rào cản về mặt lý thuyết, làm khó khăn

cho việc CGCN cho nông dân. Các doanh nghiệp KH&CN phải đầu tƣ cả về

trí tuệ và tài chính để sáng tạo ra công nghệ, nguyên tắc hoạt động của doanh

28

nghiệp là lợi nhuận, để có lợi nhuận họ cần phải “bán” công nghệ cho nhiều

ngƣời, nhƣng hoạt động “phổ biến” công nghệ, “nhân điển hình” nhƣ vừa nêu

đã làm giảm thị trƣờng CGCN của các doanh nghiệp KH&CN. Bởi vậy, đề bù

đắp kinh phí đầu tƣ cho việc sáng tạo công nghệ, các doanh nghiệp KH&CN buộc phải tăng giá thành chuyển giao.13

1.2.5. Các cấp độ chuyển giao công nghệ

- Trao kiến thức: Việc chuyển giao chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt,

hƣớng dẫn, huấn luyện, tƣ vấn các kiến thức về công nghệ đƣợc chuyển giao.

- Chìa khóa trao tay (Turn-Key, Clé en main): Bên CGCN chỉ cam kết

CGCN vận hành đƣợc cho Bên nhận chuyển giao sử dụng. Cấp độ này có thể

gây rủi ro cho Bên nhận CGCN, bởi vì rất có thể công nghệ đƣợc chuyển giao

chỉ vận hành đƣợc khi có mặt bên chuyển giao, sau khi chìa khóa đã trao tay

rồi thì công nghệ đó lại không vận hành đƣợc.

- Sản phẩm trao tay (Produit en main): Bên CGCN cam kết CGCN vận

hành đƣợc cho Bên nhận chuyển giao sử dụng và đảm bảo rằng có loạt sản

phẩm đƣợc sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ đó. Cấp độ chuyển giao

này có ít rủi ro cho Bên nhận chuyển giao hơn so với cấp độ chìa khóa trao

tay, nhƣng lƣu ý thuật ngữ “loạt sản phẩm” vừa nêu chƣa phải là sản phẩm

hàng hóa, rất có thể nó không có thị trƣờng để tiêu thụ, mà một trong những

nguyên nhân dẫn đến hiện tƣợng này là yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị

trƣờng, nguyên nhân khác: có thể bên chuyển giao đã CGCN cho quá nhiều

đối tƣợng trong một khu vực thị trƣờng, hoặc Bên nhận chuyển giao đã thực

hiện hành vi “phổ biến” công nghệ, “nhân điển hình” nhƣ đã phân tích. Bài

học nhân rộng “mô hình cánh đồng 50 triệu đồng/ha” trong nông nghiệp vẫn

còn nguyên giá trị tham khảo.

- Thị trƣờng trao tay (Marché en main): Bên CGCN cam kết CGCN

vận hành đƣợc cho Bên nhận chuyển giao sử dụng và đảm bảo rằng có loạt

sản phẩm hàng hóa đƣợc sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ đó, đồng thời

13 Trần Văn Hải (2011), Bàn về thuật ngữ chuyển giao công nghệ

29

đảm bảo có thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm đó. Cấp độ chuyển giao này ít có rủi

ro cho Bên nhận chuyển giao. Trách nhiệm của bên chuyển giao nhƣ vừa nêu

đã hạn chế khả năng CGCN cho thêm một/những chủ thể khác ngoài chủ thể

nhận CGCN ghi trong hợp đồng chuyển giao, nhƣng sẽ không có thị trƣờng

tiêu thụ sản phẩm hàng hóa do áp dụng công nghệ đƣợc chuyển giao, nếu Bên nhận chuyển giao thực hiện các hành vi nhƣ đã phân tích ở trên.14

1.2.6. Chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia

- Theo ESCAP: CGCN từ nước ngoài là việc tiếp nhận công nghệ

nước ngoài và là một quá trình vật lý (trí tuệ), một quá trình đi kèm với việc

huấn luyện toàn diện một bên và sự hiểu biết, học hỏi của một bên khác.

Theo khái niệm này thì dấu hiệu để nhận diện CGCN giữa các quốc gia là

đƣờng biên giới và nền kinh tế quốc gia. Nhƣ vậy, bất cứ sự lƣu thông kiến

thức kỹ thuật nào đi qua đƣờng biên giới quốc gia đều đƣợc coi là CGCN

giữa các quốc gia.

- CGCN quốc tế (hiểu theo phạm vi rộng) là “Một hoạt động kinh tế

liên quan đến sự trao đổi - chuyển giao - tiếp nhận công nghệ đƣợc tiến hành

giữa hai doanh nghiệp khác nhau về quốc tịch” - nhận và chuyển công nghệ

qua biên giới.

- Theo Luật Chuyển giao công nghệ 2006: CGCN từ nước ngoài vào

Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài CGCN cho tổ

chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam.

1.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chuyển giao công nghệ

Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả CGCN bao gồm:

Các yếu tố thuộc Bên nhận và nước nhận công nghệ:

- Tình hình chính trị:

Nếu không ổn định về chính trị và mất an ninh về xã hội, cả Bên nhận

14 Trần Văn Hải, Trần Điệp Thành (2006), Một số điểm cần chú ý khi định giá tài sản trí tuệ của doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO - Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Hà Nội, 3.2006

30

và Bên giao sẽ gặp rủi ro nhiều hơn.

- Hệ thống hành chính, pháp luật và việc chấp hành luật:

Bên cung cấp công nghệ muốn biết họ đƣợc phép CGCN theo những

quy định nào? Các quốc gia có quản lý hoạt động CGCN phải ban hành

những văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ ràng và chi tiết về hoạt động

CGCN.

Các hệ thống hỗ trợ trong việc tiếp nhận công nghệ gồm: hệ thống pháp

luật, hệ thống cơ quan hành pháp và hệ thống cơ quan tƣ pháp.

- Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:

Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn là mối quan tâm hàng đầu

trong hoạt động CGCN, nhằm ngăn ngừa Bên nhận sử dụng không thỏa đáng

công nghệ chuyển giao.

Cơ sở pháp luật để chống lại sự truyền bá công nghệ không hợp lệ gồm:

+ Thiết lập hệ thống luật về sở hữu trí tuệ;

+ Hiện đại hóa hệ thống luật về sở hữu trí tuệ;

+ Thi hành và áp dụng luật nhanh chóng và đơn giản;

+ Tham gia vào các hiệp ƣớc và công ƣớc quốc tế.

Hầu hết các nƣớc đang phát triển đều có các quyền và cơ sở pháp lý

thích hợp để chống lại những hành vi vi phạm hợp đồng và ngăn ngừa các hậu

quả của nó. Vấn đề là sự chấp hành pháp luật.

- Tình hình kinh tế:

Sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá, giá cả; các chính sách kinh tế (chính

sách thay thế nhập khẩu, bảo hộ các ngành công nghiệp trong nƣớc…); tính

ổn định của nền kinh tế… đều có ảnh hƣởng đến hiệu quả của CGCN.

- Cơ sở hạ tầng KH&CN và nhân lực KH&CN:

Cơ sở hạ tầng KH&CN và nhân lực KH&CN có ảnh hƣởng quan trọng

đến việc hấp thụ, sử dụng, thích nghi, cải tiến công nghệ đƣợc chuyển giao.

- Chính sách công nghệ và CGCN:

Các chính sách công nghệ và CGCN phải đƣợc hoạch định và thực

31

hiện đầy đủ để phổ cập công nghệ và thể hiện mong muốn có đƣợc những

tiến bộ về công nghệ. Liên quan đến vấn đề này, ESCAP đã đƣa ra các biện

pháp nhƣ sau:

+ Nâng cao nhận thức của nhân dân về lợi ích của công nghệ trong đời

sống hàng ngày bằng những phƣơng tiện thông tin đại chúng;

+ Giới thiệu lợi ích của công nghệ qua các triển lãm và hội chợ;

+ Xuất bản các tạp chí công nghệ;

+ Khuyến khích đổi mới.

Các yếu tố thuộc Bên giao và nước giao công nghệ:

- Kinh nghiệm:

Bên giao có kinh nghiệm sẽ giải quyết đƣợc những vấn đề riêng của

từng nƣớc, đào tạo phù hợp với yêu cầu cụ thể, chuyển giao đúng thời hạn.

- Chính sách CGCN:

Nếu CGCN đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ chính sách của Bên

giao thì mọi nỗ lực sẽ tập trung vào sự thành công của CGCN.

- Vị thế thƣơng mại và công nghệ:

Bên giao là một tập đoàn lớn hay chỉ là một công ty nhỏ? Bên giao có

đầy đủ nguồn lực và uy tín không? Đó là yếu tố quan trọng góp phần vào sự

thành công của CGCN.

Các tổ chức quốc tế:

Ngoài các yếu tố thuộc Bên giao và Bên nhận công nghệ, vai trò của

các tổ chức quốc tế cũng rất quan trọng, ảnh hƣởng đến hiệu quả của CGCN.

Một số tổ chức quốc tế hỗ trợ cho CGCN nhƣ UNIDO, UNCTAD,

WIPO, ESCAP, APCTT…

1.2.8. Hiệu quả chuyển giao công nghệ

Hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam đƣợc tính trên

các tiêu chí:

- Hiệu quả KH&CN: công nghệ đƣợc chuyển giao là công nghệ tiên

32

tiến, không biến Việt Nam thành “bãi thải” công nghệ của thế giới;

- Hiệu quả kinh tế: phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam, không

đắt, khi ứng dụng công nghệ đƣợc chuyển giao phải tạo ra lợi nhuận;

- Hiệu quả xã hội: tạo việc làm cho nhân lực lao động của Việt Nam,

khả năng tiếp thu, làm chủ công nghệ của Việt Nam;

- Hiệu quả môi trƣờng: không gây ô nhiễm môi trƣờng;

- Hiệu quả an ninh - quốc phòng…

1.3. Mối quan hệ giữa nghiên cứu và chuyển giao công nghệ

1.3.1. Tính độc lập tương đối giữa nghiên cứu và chuyển giao công nghệ

Xét về mặt lý thuyết thì nghiên cứu thuộc quá trình R&D, còn CGCN

là bộ phận sau R&D.

Để chứng minh cho nhận định này, Cẩm nang về hoạt động KH&CN

do UNESCO phát hành 1980, trong đó nêu rõ hoạt động KH&CN bao gồm:

- Nghiên cứu và triển khai thực nghiệm (Research and Experimental

Development), gọi tắt là R&D;

- Giáo dục và đào tạo KH&CN;

- Dịch vụ KH&CN.15

Cẩm nang Frascati do OECD16 phát hành 2002 cũng định nghĩa hoạt

động KH&CN tƣơng tự nhƣ vậy.

Điểm đáng lƣu ý là hoạt động R&D không bao gồm CGCN, có nghĩa là

chỉ có thể CGCN khi đã hoàn thiện khâu R&D. Hoạt động liên quan đến việc

cấp bằng độc quyền sáng chế và cấp phép sử dụng sáng chế (activities

relating to patents and licences) đƣợc UNESCO xếp vào mục dịch vụ

KH&CN17 – độc lập với R&D.

Vũ Cao Đàm (2010) cho rằng CGCN thuộc mục phát triển công nghệ.

Phát triển công nghệ (Technology Development), là hoạt động sau nghiên cứu

15 UNESCO (1980), Manual for Statistics on Scientific and Technological Activities, Paris, pp.15 16 OECD (2002), Frascati Manual 17 Xin tham khảo thêm mục 1.3.ix tại UNESCO (1980), Paris, Tài liệu đã dẫn, trang 30

33

và chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất, bao gồm:

- Phát triển công nghệ theo chiều rộng (Extensive Development of

Technology), còn gọi là nhân rộng công nghệ (Diffusion of Technology). Khái

niệm này còn đƣợc mở rộng thành Diffusion of Innovation. Đƣợc coi là sự

phổ cập một công nghệ sau khi chuyển giao. Công việc này hết sức cần thiết,

vì công nghệ đƣợc chuyển giao cần đƣợc phát huy tác dụng trên diện rộng.

Trung Quốc đã thực hiện “Bốn CGCN”: (1) Chuyển giao từ quốc phòng sang

dân sự; (2) Chuyển giao từ công nghiệp sang nông nghiệp; (3) Chuyển giao từ

thành phố về nông thôn, và (4) Chuyển giao trong nội bộ một ngành, từ khu

vực tiên tiến sang khu vực lạc hậu. Đây là biện pháp vừa mở đƣờng “tân

trang” và nâng cấp cho công nghiệp quốc phòng, vừa tận dụng công nghệ thải

loại của quốc phòng để nâng cấp cho khu vực công nghiệp dân sự. Nhiều năm

sau đó, khi có điều kiện làm việc với đồng nghiệp công nghệ quốc phòng ở ta,

tôi vẫn đƣợc nghe chủ trƣơng “Giữ tốt, Dùng bền, An toàn, Tiết kiệm”. Có

những thiết bị công nghệ đƣợc giữ mới nguyên vẹn, nhƣng đã bị hao mòn vô

hình đến mức đã mất hoàn toàn giá trị sử dụng vì sự tiến bộ nhanh chóng của

công nghệ quốc phòng.

Đây chính là bức tranh sinh động của quá trình “Mở rộng công nghệ”

trên diện rộng trong toàn bộ nền kinh tế và xã hội phủ kín lãnh thổ quốc gia.

- Phát triển công nghệ theo chiều sâu (Intensive Development of

Technology), còn gọi là “Nâng cấp công nghệ” (Upgrading of Technology). Khái niệm này còn đƣợc mở rộng thành Upgrading of Innovation. 18

Đây cũng là một bƣớc tất yếu sau CGCN. Việc nâng cấp công nghệ

không phải diễn ra trên toàn bộ dây chuyền công nghệ, mà có thể diễn ra tại

một hoặc một số khâu thiết yếu.

Không bao giờ các chủ hãng tƣ nhân chờ đến khi toàn bộ dây chuyền

công nghệ đã suy sụp hoàn toàn mới thay một dây chuyền hoàn toàn mới, vì

bài toán về nâng cấp công nghệ không chỉ đơn giản là bài toán công nghệ, mà

18 Xin tham khảo thêm: Vũ Cao Đàm (2010), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 40

34

trên thực tế, là một bài toán kinh tế.

Một nhà kinh doanh thông minh luôn biết nhìn trƣớc việc nâng cấp

công nghệ để giành thế mạnh cạnh tranh trên thị trƣờng.19

Tuy nhiên, mặc dù nghiên cứu và CGCN là hai quá trình độc lập,

nhƣng giữa chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả của quá

trình nghiên cứu sản sinh ra công nghệ, công nghệ là “chất liệu” cho quá trình

CGCN.

1.3.2. Thiết chế liên kết giữa nghiên cứu và chuyển giao công nghệ

Mối quan hệ giữa nghiên cứu và CGCN đƣợc gắn kết bởi các thiết chế

trung gian, trong đó có các doanh nghiệp vệ tinh của các trƣờng đại học, với

tên gọi rất đa dạng, nhƣ spin-off enterprise, spin-in enterprise, spin-out

enterprise.

Ngay từ thập niên 1980, tại Viện Hàn lâm Khoa học ở Liên Xô cũng

xuất hiện những loại tổ chức nhƣ thế. Tiếp đó, một khái niệm xuất hiện, đó là các start-up enterprises. 20

Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt các khái niệm spin-off, spin-in, spin-

out là các “xí nghiệp vệ tinh”, còn start-up dịch là “xí nghiệp ƣơm tạo”, trong

đó, có những xí nghiệp ƣơm tạo công nghệ (technology start-up enterprise) và

xí nghiệp ƣơm tạo doanh nghiệp (business start-up enterprise). Cụm từ “start-

up” sau đƣợc viết gọn thành “startup”, nhƣng ngữ nghĩa không có gì thay đổi.

Trong đó đáng lƣu ý:

- Ƣơm tạo doanh nghiệp công nghệ: là quá trình “Ƣơm tạo”, là sự

chuẩn bị để cho ra đời một “Doanh nghiệp”, ở đây là “Doanh nghiệp công

nghệ”. Nhƣ vậy, dù là ƣơm tạo “Doanh nghiệp công nghệ”, thì cũng là ƣơm

19 Vũ Cao Đàm (2015), Bàn về chính sách sau chuyển giao công nghệ, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015 20 Trong mục này, Luận văn sử dụng các thông tin trong bài của Vũ Cao Đàm, Đào Thanh Trƣờng (2015), Gợi ý các yếu tố của lộ trình phát triển ƣơm tạo doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo khoa học “Xây dựng chính sách hỗ trợ ươm tạo doanh nghiệp KH&CN”, Hà Nội, 26.3.2015.

35

tạo một “Doanh nghiệp”, chứ không phải là ƣơm tạo “Công nghệ”

- Ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN: là quá trình “Ƣơm tạo”, là sự chuẩn

bị để cho ra đời một “Doanh nghiệp”, ở đây là “Doanh nghiệp KH&CN”.

Nhƣ vậy, dù là ƣơm tạo “Doanh nghiệp KH&CN”, thì cũng là ƣơm tạo một

“Doanh nghiệp”, chứ không phải là ƣơm tạo “KH&CN”

Theo Vũ Cao Đàm và Đào Thanh Trƣờng (2015) thì Việt Nam trƣớc

mắt cần cả hai, đó là:

- “Ươm tạo công nghệ”, là giai đoạn trung gian giữa R&D và CGCN.

Giai đoạn này giúp hoàn thiện công nghệ mới chỉ thành công trong các xƣởng Pilot, có thể vƣơn dài tới sản xuất thử ở Serie No 0.

- “Ươm tạo doanh nghiệp” có nghĩa là xí nghiệp ƣơm tạo doanh nghiệp

là giai đoạn khởi đầu trong vòng đời của một doanh nghiệp, ở đó, nhà đầu tƣ đi

từ giai đoạn hình thành ý tƣởng đến giai đoạn đảm bảo tài chính để đƣa doanh

nghiệp đi theo cấu trúc kinh doanh và khởi sự hoạt động thƣơng mại”.

“Ƣơm tạo công nghệ” và “Ƣơm tạo doanh nghiệp” có mối liên hệ gắn

bó, có mối liên hệ nhƣ sau: “Ƣơm tạo doanh nghiệp” là quá trình biến một ý

tƣởng công nghệ (qua Ƣơm tạo công nghệ) thành ý tƣởng kinh doanh, và tiếp

đó, biến ý tƣởng kinh doanh thành tổ chức kinh doanh, đây chính là cơ sở để

xây dựng lộ trình “Ƣơm tạo doanh nghiệp”.

Nhƣ vậy, các thiết chế trung gian giữa quá trình R&D và quá trình

CGCN bao gồm “Ƣơm tạo công nghệ” và “Ƣơm tạo doanh nghiệp”, trong đó

các doanh nghiệp khỏi nguồn nhƣ spin-off enterprise, spin-in enterprise, spin-

out enterprise (với các nghĩa nhƣ đã phân tích ở trên) có vai trò quan trọng

trong việc liên kết giữa quá trình nghiên cứu và triển khai (R&D) với quá

trình CGCN.

1.4. Mối quan hệ giữa Liên minh nghiên cứu toàn cầu với chuyển giao

công nghệ

1.4.1. Liên minh nghiên cứu toàn cầu

Đƣợc thành lập vào năm 2000 tại Thành phố Pretoria, Nam Phi, GRA

36

là một mạng lƣới quốc tế thúc đẩy việc ứng dụng kết quả nghiên cứu

KH&CN để giải quyết các vấn đề quy mô lớn mà các nƣớc phát triển đang

phải đối mặt.

GRA là một liên minh gồm 09 tổ chức nghiên cứu ứng dụng hàng đầu

thế giới, bao gồm: Viện Battelle Memorial (Hoa Kỳ), Tổ chức Nghiên cứu

Công nghiệp và Khoa học (CSIRO, Australia), Hội đồng Khoa học và Nghiên

cứu Công nghiệp (CSIR, Ấn Độ), Hội đồng Nghiên cứu Công nghiệp và Khoa

học (CSIR, Nam Phi), Viện Công nghệ Đan Mạch (DTI, Đan Mạch), Hiệp hội

Fraunhofer - Gesellschaft (Đức), Tổ chức Nghiên cứu Khoa học Ứng dụng Hà

Lan (TNO, Hà Lan), SIRIM Berhard (Malaysia) và Trung tâm Nghiên cứu Kỹ

thuật Phần Lan (VTT).

GRA đƣợc hỗ trợ bởi một Văn phòng điều hành luân phiên giữa các

thành viên. Từ năm 2011, Văn phòng điều hành GRA đƣợc CSIRO ở

Melbourne, Australia tiếp quản từ CSIR, Nam Phi.

Vai trò, nhiệm vụ và mục tiêu chính của Liên minh nghiên cứu

toàn cầu

Bằng năng lực chuyên môn, GRA hƣớng đến việc cải thiện cuộc sống

của những ngƣời nghèo nhất trên thế giới thông qua KH&CN và chia sẻ kinh

nghiệm giữa các thành viên. Trong suốt quá trình sự tồn tại của mình, GRA đã

ủng hộ mạnh mẽ cho đổi mới toàn diện và nghiên cứu phát triển. GRA cũng đã

phát triển mối quan hệ chiến lƣợc với các tổ chức nhƣ Ngân hàng Thế giới.

Thông qua sự hợp tác và liên kết của 09 thành viên của mình, là các tổ

chức nghiên cứu ứng dụng hàng đầu thế giới, GRA có thể tập hợp các nhóm

nhà khoa học đa văn hóa và đa ngành nghề một cách hiệu quả nhất để cung

cấp các giải pháp sáng tạo và thiết thực về công nghệ giúp cải thiện cuộc sống

của ngƣời dân ở các nƣớc đang phát triển.

GRA cũng gắn công việc của mình với các mục tiêu phát triển thiên

niên kỷ, với các lĩnh vực ƣu tiên bao gồm nƣớc, y tế, năng lƣợng, an ninh

lƣơng thực, và công nghệ thông tin và truyền thông và các cộng đồng sinh

37

sống ở Châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á.

GRA hoạt động nhằm mục đích huy động năng lƣợng sáng tạo đa dạng

của các nhà nghiên cứu toàn cầu để giải quyết những thách thức toàn cầu;

đoàn kết và chia sẻ nguồn lực KH&CN với các đối tác, cộng đồng; xây dựng

các giải pháp hợp lý và bền vững.

GRA cam kết tạo ra và thực hiện các giải pháp có tác động tích cực và

lâu dài, đóng góp chuyên môn hàng đầu thế giới của mình về cơ sở hạ tầng

không dây, quản lý mạng, công nghệ truyền hình và ăng-ten, năng lƣợng mặt

trời và nhiều công nghệ hiện đại khác.

GRA cam kết thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới - sáng tạo phục

vụ phát triển bền vững, đóng góp cho sự phát triển bình đẳng về kinh tế - xã

hội. Trong đó, mục tiêu chính là tìm kiếm các giải pháp công nghệ nhằm góp

phần giải quyết các thách thức, khó khăn trên toàn cầu.

Nghiên cứu toàn cầu vì một toàn cầu tốt đẹp - GRA đang áp dụng kết

quả nghiên cứu khoa học tiên tiến, thông qua hợp tác và đồng sáng tạo, để

cung cấp lối vào bình đẳng, cải thiện cuộc sống và giải quyết các thách thức

phát triển toàn cầu.

GRA sử dụng công nghệ tốt nhất để giải quyết một số vấn đề lớn nhất

trong thế giới đang phát triển. Những vấn đề toàn cầu này xoay quanh các chủ

đề về biên giới, văn hóa và tôn giáo và đòi hỏi một phản ứng xuyên biên giới.

GRA mong muốn phát triển và kết nối mạnh mẽ với các tổ chức, cộng đồng

địa phƣơng có liên quan tại các nƣớc đang phát triển, hợp tác và cam kết chia

sẻ, để xác định nhu cầu và cùng hợp tác, đem lại giải pháp cho những thách

thức toàn cầu.

Mục tiêu của GRA là: dùng khoa học để giải quyết, dùng công nghệ để

thay đổi và sự sáng tạo để kết nối, nhằm giải quyết những thách thức lớn mà

thế giới phải đối mặt trong quá trình phát triển.

Nhƣ vậy, khác với các tổ chức CGCN khác, GRA là một tổ chức toàn

cầu, kết nối các nhà khoa học để tìm ra đƣợc công nghệ tốt nhất với chi phí

38

phù hợp nhất của bất kỳ đối tác nào nhằm mục đích phát triển.

Hoạt động chủ yếu của Liên minh nghiên cứu toàn cầu

Với sự hợp tác của 09 trong số các cơ quan nghiên cứu ứng dụng hàng

đầu thế giới, GRA có thể tiếp cận hơn 60.000 nhà khoa học và kỹ sƣ thông

qua các tổ chức thành viên của mình. Điều này cho phép GRA huy động lực

lƣợng làm việc hiệu quả nhất, tập trung nhất, giao thoa văn hóa và đa ngành

để cung cấp giải pháp sáng tạo và thiết thực về công nghệ cho các đối tác

với giá cả phù hợp để cải thiện cuộc sống của ngƣời dân ở các nƣớc đang

phát triển.

GRA thực hiện các giải pháp thông qua các dự án dựa trên phƣơng thức

hợp danh. Những liên minh này cũng kết hợp kiến thức chuyên môn của các

nhà khoa học với những kiến thức và sự hiểu biết của dân cƣ địa phƣơng và

cộng đồng, đối tác phát triển, ngành công nghiệp và khu vực tƣ nhân.

GRA kết hợp khoa học quốc tế và chuyên môn kỹ thuật từ các cơ quan

nghiên cứu ứng dụng hàng đầu và triển khai khả năng này thông qua các

nhóm đa ngành để giải quyết một số thách thức phát triển cấp bách nhất của

thế giới.

1.4.2. Sự tác động của Liên minh nghiên cứu toàn cầu đến chuyển giao

công nghệ

GRA là một liên minh nghiên cứu toàn cầu với sự tham gia của hơn

60.000 nhà khoa học và kỹ sƣ trên khắp thế giới, nên có thể huy động khả

năng nghiên cứu và sáng tạo vô cùng lớn. GRA sẵn sàng thỏa mãn mọi nhu

cầu về công nghệ của bất kỳ đối tác nào với chi phí hợp lý nhất. Chính vì vậy,

GRA có thể đáp ứng mọi yêu cầu về CGCN.

GRA là một mạng lƣới thúc đẩy ứng dụng KH&CN để giải quyết các

vấn đề quy mô lớn phải đối mặt với các nƣớc đang phát triển.

GRA cung cấp một “diễn đàn” hợp tác với 09 cơ quan nghiên cứu hàng

đầu thế giới, với chuyên môn của mình cùng nhau giải quyết các thách thức về

phát triển. GRA tập hợp các nhóm nhà khoa học đa văn hóa và đa ngành nghề

39

một cách hiệu quả nhất để cung cấp các giải pháp sáng tạo và thiết thực về

công nghệ cho các đối tác. GRA cam kết tạo ra và thực hiện các giải pháp có

tác động tích cực và lâu dài, đóng góp chuyên môn hàng đầu thế giới của mình

và khả năng về cơ sở hạ tầng không dây, quản lý mạng, năng lƣợng mặt trời, và

công nghệ truyền hình vệ tinh và ăng-ten và nhiều công nghệ hiện đại khác.

GRA hoạt động nhằm mục đích: huy động năng lƣợng sáng tạo của

toàn cầu và các nhà nghiên cứu đa dạng để giải quyết những thách thức toàn

cầu thông qua sự đổi mới/sáng tạo; đoàn kết và chia sẻ nguồn lực KH&CN

với các đối tác, cộng đồng; xây dựng các giải pháp hợp lý và bền vững với tác

động tích cực và lâu dài.

Khác với các tổ chức CGCN khác, GRA là một tổ chức toàn cầu, kết

nối với các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu toàn cầu để giải quyết một

cách tốt nhất nhu cầu công nghệ của bất kỳ đối tác nào. Nhƣ vậy, trong trƣờng

hợp của Việt Nam, nếu chúng ta học tập mô hình của GRA, chúng ta có ƣu

điểm là kết nối với mạng lƣới nghiên cứu toàn cầu, kết nối với các nhà khoa

học tốt nhất để tìm ra đƣợc công nghệ tốt nhất với chi phí tốt nhất nhằm phục

vụ mục đích phát triển của Việt Nam.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chƣơng 1, tác giả đã trình bày một cách tổng quát cơ sở lý luận

về thiết chế, sự tác động của GRA đến CGCN, những khái niệm về thiết chế,

chính sách, chính sách KH&CN, công nghệ, CGCN trên cơ sở của việc

nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, khai thác từ những tài liệu, nghiên cứu liên

quan. Nội dung đƣợc đề cập trong chƣơng này sẽ là cơ sở để tác giả phân tích

thực trạng về hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam và qua đó đề

xuất những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động CGCN

từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

Chƣơng 1 cũng phân tích mối quan hệ giữa nghiên cứu và CGCN đƣợc

gắn kết bởi các thiết chế trung gian, trong đó có các doanh nghiệp vệ tinh của

các trƣờng đại học, nhƣ spin-off enterprise, spin-in enterprise, spin-out

40

enterprise.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG CÁC THIẾT CHẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN

HIỆU QUẢ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

2.1. Chính sách chuyển giao công nghệ

2.1.1. Văn bản quy phạm pháp luật về chuyển giao công nghệ

Quy định về CGCN đƣợc quy định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm

pháp luật khác nhau nhƣ Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài (năm 1987 và sửa đổi, bổ

sung năm 1990 và 1992); Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nƣớc ngoài vào

Việt Nam (1988); Nghị định số 49/HĐBT (1991) quy định chi tiết về việc thi

hành Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ ; Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005;

Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam (1996); Nghị định số 12/CP (1997)

hƣớng dẫn thi hành; Luật Khuyến khích đầu tƣ trong nƣớc (1994) và Nghị

định 29/CP (1995); Nghị định số 45/1998/NĐ-CP; Nghị định số 11/2005/NĐ-

CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ và thay thế Nghị định số

45/1998/NĐ-CP và Nghị định số 16/2000/NĐ-CP ngày 10/5/2000 quy định

về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động CGCN. Nhƣ vậy, hệ thống văn

bản pháp quy về hoạt động CGCN nêu trên cho thấy, các quy định khá tản mạn

ở nhiều ngành luật, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này đồng nghĩa với

việc hoạt động này liên quan đến phạm vi quản lý nhà nƣớc của nhiều Bộ, ngành

khác nhau, dẫn đến việc công tác quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực này có lúc

còn chồng chéo.

Với hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật đƣợc Nhà nƣớc ban hành liên

quan đến CGCN, trong đó, có hiệu lực pháp lý cao nhất là Bộ luật dân sự.

Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về CGCN còn chƣa thống nhất

và đồng bộ. Bộ Luật dân sự năm 2005 chỉ quy định 04 điều mang tính nguyên

tắc về CGCN. Những quy định cụ thể chủ yếu nằm trong các văn bản hƣớng

dẫn thi hành, hiệu lực pháp lý thấp, thiếu ổn định, ảnh hƣởng tới niềm tin của

41

các chủ thể nắm giữ công nghệ, đặc biệt là các đối tác nƣớc ngoài khi tiến

hành đầu tƣ, CGCN tại Việt Nam. Việc ban hành Luật Chuyển giao công

nghệ 2006 là một tất yếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.

Luật Chuyển giao công nghệ đã đƣợc thông qua năm 2006 và đến

ngày 01 tháng 7 năm 2007 có hiệc lực. Đây là văn bản pháp quy có hiệu lực

pháp lý cao nhất từ trƣớc đến nay, quy định thống nhất về hoạt động CGCN

trên lãnh thổ Việt Nam, từ Việt Nam ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài vào

Việt Nam.

Để cụ thể hóa các quy định của Luật Chuyển giao công nghệ, từ năm

2007 đến nay, Bộ KH&CN đã chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ ban hành và

ban hành 08 văn bản quy phạm pháp luật nhằm quy định và hƣớng dẫn hoạt

động CGCN trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, trong quá trình gần bảy năm

thực hiện, một số mục tiêu đặt ra khi ban hành Luật chƣa thực hiện đƣợc nhƣ

thúc đẩy CGCN giữa khu vực viện, trƣờng với doanh nghiệp, tạo tiền đề phát

triển các tổ chức dịch vụ CGCN và coi đây là một yếu tố để thúc đẩy sự phát

triển của thị trƣờng công nghệ, đẩy mạnh tiếp thu, ứng dụng, làm chủ công

nghệ nhập hiện đại, nhanh chóng nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo công

nghệ, thúc đẩy tốc độ và chất lƣợng tăng trƣởng của các doanh nghiệp và cả

nền kinh tế; nâng cao tỷ trọng đóng góp của yếu tố công nghệ vào năng lực

cạnh tranh quốc gia để hội nhập và công nghiệp hóa có thể nói chƣa đạt kết

quả nhƣ mong muốn.

2.1.2. Những bất cập trong quy định về chuyển giao công nghệ

a. Về khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ

Theo Luật Chuyển giao công nghệ: “Công nghệ là giải pháp, quy

trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để

biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”. Trong đó, khái niệm “Bí quyết kỹ

thuật” đƣợc Luật Chuyển giao công nghệ diễn giải: “Bí quyết kỹ thuật là

thông tin được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh

doanh của chủ sở hữu công nghệ có ý nghĩa quyết định chất lượng, khả năng

42

cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ”. Từ khái niệm này của Luật

Chuyển giao công nghệ, chúng ta liên hệ đến khái niệm “Bí mật kinh doanh”,

một đối tƣợng đƣợc bảo hộ độc quyền trong Luật Sở hữu trí tuệ: “Bí mật kinh

doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ chưa được

bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”. Trong lĩnh vực sở hữu trí

tuệ, bên cạnh các đối tƣợng đƣợc bảo hộ buộc phải bộc lộ thông tin thì “Bí

mật kinh doanh” là hình thức bảo hộ theo cơ chế đặc biệt, do chủ sở hữu tự

bảo vệ che giấu thông tin.

Khi đề cập đến công nghệ, thông thƣờng bàn đến lĩnh vực kỹ thuật.

Nhƣng nay, công nghệ còn bao hàm trong lĩnh vực dịch vụ (có thể gắn với kỹ

thuật hoặc không phải kỹ thuật), vì giải pháp trong lĩnh vực dịch vụ cũng biến

đổi nguồn lực thành sản phẩm (sản phẩm dịch vụ). Ví dụ, công nghệ trong

lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, trong đó có những cách thức, biện pháp

huy động vốn, sử dụng vốn, nâng cao số lƣợng vòng quay của vốn một cách

hiệu quả. Đồng thời, công nghệ không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kỹ thuật,

hay lĩnh vực kinh doanh.

Mặt khác, khi đề cập đến giải pháp, tức là cách thức hay phƣơng tiện

giải quyết một vấn đề. Giải pháp giải quyết có thể bằng “sản phẩm” (tức là

bằng công cụ hay phƣơng tiện vật chất cụ thể) hoặc có thể bằng “quy trình”

(trình tự sắp xếp, tổ chức công việc).

Trở lại với khái niệm “công nghệ” của Luật Chuyển giao công nghệ,

chúng ta thấy rằng: khái niệm “công nghệ” của Luật Chuyển giao công nghệ

rõ ràng chƣa đầy đủ. Nó vừa thừa, vừa thiếu, bởi lẽ khi đề cập “giải pháp” thì

không nên liệt kê “quy trình” một cách độc lập, song song, vì “quy trình” là

tập hợp con của “giải pháp”. Nếu muốn đề cập rõ nghĩa hơn, thì nên loại hẳn

thuật ngữ “giải pháp”, bổ sung thêm thuật ngữ “sản phẩm” vào nội dung diễn

giải khái niệm “công nghệ” hoặc sử dụng phƣơng án thay thế khác sẽ đƣợc

trình bày cụ thể trong nội dung dƣới đây.

Luật Chuyển giao công nghệ quy định: “CGCN là chuyển giao quyền

43

sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có

quyền CGCN sang Bên nhận công nghệ”. Khái niệm CGCN trong Luật

Chuyển giao công nghệ Việt Nam, hay khái niệm CGCN của WIPO chỉ là

một quan điểm về CGCN. Quan điểm này đƣợc xem xét đứng trên quan điểm

của bên CGCN, nó chƣa khái quát, đầy đủ và phù hợp với đặc thù của một

quốc gia thƣờng xuyên phải tiếp nhận công nghệ từ nƣớc ngoài, để có đƣợc

công nghệ mới để phát triển bền vững nhƣ Việt Nam. Vì vậy, điểm mâu thuẫn

của pháp luật CGCN Việt Nam so với quan điểm về CGCN của thế giới nếu

có chỉ ở góc độ đơn thuần về yếu tố pháp lý, về quyền chuyển giao các đối

tƣợng sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, công nghệ là loại hình hàng hóa đặc thù khác với tất cả các

loại hàng hóa thông thƣờng, không phải cứ bỏ tiền mua là có đƣợc công nghệ,

làm chủ đƣợc công nghệ. Không phải bất cứ chủ thể nào có quyền sở hữu, sử

dụng công nghệ cũng có thể vận hành, khai thác, sử dụng đƣợc công nghệ.

Công nghệ là một đối tƣợng rất khó kiểm soát, khó mặc cả, việc chuyển giao

khó thành công. Quá trình sản xuất sản phẩm không chỉ đơn thuần là một hay

hai công nghệ riêng lẻ có thể kiểm soát đƣợc. Hệ thống dây chuyền sản xuất

có thể bao gồm nhiều công nghệ, thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác

nhau. Ngoài các công nghệ trong lĩnh vực kỹ thuật còn bao hàm cả công nghệ

trong lĩnh vực tổ chức, quản lý, kinh doanh, dịch vụ.

Việc CGCN thành công phụ thuộc cơ sở pháp lý, năng lực, thiện chí

của Bên giao và kỹ năng đàm phán, năng lực nhận công nghệ, nỗ lực quyết

tâm có đƣợc công nghệ của Bên nhận công nghệ. Trong đó, yếu tố thiện chí

Bên giao và kỹ năng đàm phán của Bên nhận công nghệ là những yếu tố

quyết định. Bởi Bên giao, thông thƣờng không muốn chuyển hết, tùy thuộc kỹ

năng đàm phán Bên nhận để “nhả dần” các bí quyết; không muốn chuyển cho

Bên nhận nhiều quyền; không muốn cho Bên nhận những quyền hạn có giá trị

lớn đƣợc quy định trong các điều khoản có giá trị pháp lý nhằm phòng ngừa

rủi ro do Bên nhận nêu ra. Trong khi đó, Bên nhận thƣờng không biết đòi hỏi

44

Bên giao để Bên giao bộc lộ bản chất công nghệ; không biết đòi những gì cần

phải có; không biết phòng ngừa rủi ro trong quá trình mua bán. Vì vậy, đứng

ở góc độ bên tiếp nhận công nghệ, khái niệm sau đƣợc coi là hoàn hảo:

“CGCN là tập hợp các hoạt động về kỹ thuật, thương mại, pháp lý nhằm làm

cho Bên nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như Bên giao công nghệ trong sản xuất, kinh doanh”.21

b. Chính sách thuế đối với chuyển giao công nghệ

Khoản 1 Điều 44 Luật Chuyển giao công nghệ 2006 quy định “miễn

thuế thu nhập cho tổ chức, cá nhân góp vốn bằng Bằng sáng chế, công nghệ”.

Đây có thể đƣợc coi là chính sách của Nhà nƣớc nhằm CGCN, áp dụng công

nghệ vào thực tiễn sản xuất. Nhƣng quy định này cần phải bàn thêm, vì:

- Có nhiều doanh nghiệp nƣớc ngoài sở hữu công nghệ có giá trị rất

lớn, ví dụ theo thống kê thì năm 2014 Coca Cola có khối tài sản đạt đến 81,563 tỷ USD22, ví dụ khác, Công ty Lilly & Company của Hoa Kỳ là chủ sở

hữu sáng chế về tổng hợp hoạt chất vinblastine và vincristin có tác dụng ức

chế phân bào, sử dụng trong hóa trị liệu ung thƣ, dùng điều trị bệnh bạch cầu ở trẻ em, bệnh Hodgkin đã thu lợi nhuận khoảng 20 tỷ USD mỗi năm23. Nếu

miễn thuế cho Coca Cola khi họ góp vốn bằng công nghệ chế biến nƣớc ngọt,

hoặc miễn thuế cho Lilly & Company nếu họ liên doanh với một doanh

nghiệp dƣợc phẩm của Việt Nam thì tính toán thế nào? Có chuyên gia cho

rằng, nên sửa đổi quy định này thành: Miễn thuế thu nhập cho tổ chức, cá

nhân góp vốn bằng Bằng sáng chế Bằng độc quyền sáng chế, công nghệ có

giá trị từ 1 tỷ đồng trở xuống. Đề xuất này cũng không hợp lý, xin tiếp tục

phân tích.

- Nền kinh tế thị trƣờng tự điều chỉnh đầu vào sao cho đầu ra đạt hiệu

21 Nguyễn Vân Anh (2015), Bàn về khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ, Tạp chí Chính sách và

Quản lý KH&CN, tập 4, số 1/2015, tr.104

22 Theo http://bestglobalbrands.com/2014/ranking/. Cập nhật ngày 25.02.2015 23 Jiang F. (2008) The Problem with Patents. Traditional Knowledge and International IP Law, Harvard International Review, ISSN 0739-1854, pp 30.

45

quả kinh tế (xin không bàn tới các hiệu quả khác nhƣ hiệu quả khoa học, hiệu

quả xã hội...), công nghệ tự nó có sức hút nếu việc áp dụng nó vào thực tiễn

sản xuất có mang lại hiệu quả kinh tế. Trong thực tiễn, không phải bất cứ sáng

chế nào đƣợc bảo hộ cũng có thể mang lại hiệu quả kinh tế. Xin dẫn chứng, khi tra cứu trên Vietnam DigiPat24 trong số 23 bằng độc quyền sáng chế đƣợc

cấp thuộc 8 phân loại khác nhau thì có đến 6/23 sáng chế thuộc danh mục Các

thành phần được sử dụng để chế biến các sản phẩm từ đất sét (ví dụ Process

for hot-forging synthetic ceramic) thuộc phân loại C04B 33/13, có 17 sáng

chế thuộc 7 phân loại còn lại.

- Luật Chuyển giao công nghệ 2006 quy định có nhiều dạng hợp

đồng CGCN khác nhau, nếu giả định chủ sở hữu sáng chế ký hợp đồng cho

phép một doanh nghiệp Việt Nam sử dụng sáng chế, nhƣng đồng thời lại

cho phép một chủ thể khác ngoài Việt Nam cũng có quyền sử dụng sáng

chế đó hoặc cho phép quyền bán sản phẩm áp dụng sáng chế đó vào thị

trƣờng Việt Nam, thì quy định miễn thuế này đã làm thất thoát cho ngân

sách Nhà nƣớc và hơn nữa không hề mang lại bất cứ lợi ích nào cho doanh

nghiệp Việt Nam nếu nhập khẩu công nghệ của nƣớc ngoài thông qua hình

thức góp vốn.

- Lý do cho việc miễn thuế có thể đƣợc biện minh rằng để góp phần

hạn chế hoặc loại bỏ trƣờng hợp chủ sở hữu sáng chế không đƣa sáng chế vào

sử dụng. Lý do này cũng không thuyết phục, bởi lẽ nếu sáng chế thực sự có

giá trị nhƣng chủ sở hữu không đƣa vào sử dụng hoặc không chuyển giao cho

ngƣời có nhu cầu sử dụng (mặc dù trong một thời gian hợp lý đã cố gắng

thƣơng lƣợng với mức giá và các điều kiện thƣơng mại thỏa đáng) thì Nhà

nƣớc có thể ra quyết định bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng

chế theo quy định tại Điều 136, 145 và 146 của Luật Sở hữu trí tuệ.

Nhƣ vậy, nên loại bỏ Khoản 1 Điều 44 Luật Chuyển giao công nghệ

24 Hiện tại Cơ sở dữ liệu Vietnam DigiPat do Cục Sở hữu trí tuệ quản lý chỉ cập nhật đến 31.12.2010

46

2006.

c. Về giải mã công nghệ

Trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao

công nghệ 2006, có chuyên gia đề xuất bổ sung quy định về Giải mã công

nghệ - Reverse Engineering (gọi tắt là RE) là quá trình khám phá những

nguyên lý công nghệ của một thiết bị, đối tƣợng, hoặc hệ thống thông qua

nghiên cứu, phân tích cấu trúc, chức năng và hoạt động của chúng nhằm bảo

trì, cải tiến hoặc tạo ra thiết bị, đối tƣợng hoặc hệ thống mới có chức năng

đƣợc nâng cấp hơn so với nguyên bản.

Nên phân tích quy định này để tránh trƣờng hợp xâm phạm quyền sở

hữu trí tuệ của chủ thể khác. Phạm vi của phân tích này chỉ đề cập đến RE vì

mục đích thƣơng mại và patent trong trƣờng hợp này vẫn còn hiệu lực bảo hộ. Việc tiến hành RE25 vì mục đích thƣơng mại đối với các công nghệ

đƣợc cấp patent (khi patent vẫn còn hiệu lực bảo hộ) là hành vi bất hợp pháp.

Khi công nghệ là giải pháp kỹ thuật dƣới dạng sản phẩm hoặc quy trình

nếu hội tụ đủ cả ba điều kiện: tính mới, trình độ sáng tạo, khả năng áp dụng

công nghiệp thì đƣợc cấp patent. Chủ sở hữu patent hoàn toàn có quyền ngăn

cấm ngƣời khác làm theo công nghệ đó và thực hiện các quyền tài sản trong

khoảng thời gian patent có hiệu lực bảo hộ. Các chủ thể khác dù bằng mọi

cách để tạo ra sản phẩm áp dụng công nghệ đƣợc bảo hộ bị coi là đã xâm

phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế. Cụm từ bằng mọi cách vừa

nêu, có thể là mua sản phẩm đƣợc bảo hộ rồi áp dụng “phân tích ngƣợc” để

giải mã tìm ra cấu trúc, nguyên lý hoạt động, quy trình sản xuất... nhằm mục

đích tạo ra sản phẩm giống hệt hoặc đƣợc nâng cấp hơn so với nguyên bản

sản phẩm áp dụng công nghệ đƣợc bảo hộ.

Nhƣng trong thực tiễn thì công nghệ có thể/không thể đƣợc cấp patent,

25 Xin tham khảo thêm: Eilam, Eldad & Chikofsky, Elliot J. (2007). Reversing: secrets of reverse engineering. John Wiley & Sons. p. 3. ISBN 978-0-7645-7481-8 đã định nghĩa: “Reverse engineering is the process of discovering the technological principles of a device, object, or system through analysis of its structure, function, and operation”.

47

nên cần đƣợc tiếp tục phân tích. Ví dụ, nếu nhập khẩu sản phẩm áp dụng công

nghệ đƣợc cấp patent từ nƣớc ngoài, tiến hành RE hoặc phân tích thông tin

patent (thông tin về patent đƣợc đăng công khai, chi tiết đến mức một ngƣời

có trình độ trung bình trong lĩnh vực mà patent đề cập có thể làm theo) để tạo

ra sản phẩm áp dụng công nghệ đƣợc cấp patent thì có thể diễn ra hai trƣờng

hợp sau đây:

- Trƣờng hợp 1: nếu Việt Nam không cấp patent cho các công nghệ này

thì hành vi RE trên lãnh thổ Việt Nam là hợp pháp;

- Trƣờng hợp 2: nếu Việt Nam có cấp patent cho các công nghệ này thì

hành vi RE trên lãnh thổ Việt Nam lại đƣợc coi là bất hợp pháp.

Trƣờng hợp ngoại lệ: hành vi RE đối với công nghệ là đối tƣợng của

quyền sở hữu công nghiệp đƣợc bảo hộ là bí mật kinh doanh thì luôn luôn hợp

pháp. Ví dụ hành vi RE nhằm giải mã công nghệ chế biến nƣớc ngọt Coca

Cola là hợp pháp, vì công thức này là đối tƣợng của quyền sở hữu công

nghiệp chỉ đƣợc bảo hộ là bí mật kinh doanh.

Nhƣ vậy, cần quy định ngay trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Chuyển giao công nghệ 2006 những điểm về RE nhƣ vừa phân tích.26

2.2. Chuyển giao công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam

2.2.1. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trục tiếp nước ngoài

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ27, tính đến tháng 8/2012 cả nƣớc có

14.095 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký đạt 206,8 tỷ USD.

Trong đó vốn đã giải ngân đƣợc 97,4 tỷ USD (chiếm 47% vốn đăng ký). Bằng

con đƣờng FDI, nhiều công nghệ mới đã đƣợc chuyển giao và sản phẩm mới

đã đƣợc sản xuất ra tại Việt Nam. Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ

sức cạnh tranh và có chỗ đứng vững chắc trên các thị trƣờng Hoa Kỳ, EU,

26 Trần Văn Hải (2015), Sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ - Từ tiếp cận so sánh, Tạp chí Khoa học và

Công nghệ Việt Nam, số 5/2015 (674), trang 86-90

27 Đào Quang Thu (2013), “Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam: 25 năm thu hút và phát triển”, Kỷ yếu Hội nghị 25 năm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam.

48

Nhật Bản. Việc CGCN vào Việt Nam thƣờng đƣợc mua bán giữa công ty mẹ

và công ty con ở Việt Nam theo nguyên tắc hạch toán độc lập. Phần lớn các

doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài hoặc liên doanh do

nƣớc ngoài chi phối, nên việc mua bán giữa công ty mẹ tại chính quốc và

công ty con tại Việt Nam chịu ảnh hƣởng của quan hệ nội bộ.

Theo đánh giá của các cơ quan quản lý, hầu hết các dự án FDI đều gắn

với CGCN. Tuy nhiên, từ 1999 đến nay chỉ có khoảng trên 900 hợp đồng

CGCN đƣợc đăng ký, phê duyệt. Tính riêng trong giai đoạn từ năm 1999 đến

tháng 6/2012, cả nƣớc có 830 hợp đồng đƣợc đăng ký phê duyệt. Trong đó số

lƣợng hợp đồng CGCN đăng ký, phê duyệt của các dự án FDI chiếm 72,05%.

Số liệu theo dõi Hợp đồng CGCN từ 1999 đến tháng 6/2012

(Nguồn: Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ, Bộ

KH&CN, 2012)

Nhiều nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp FDI vào Việt Nam chủ yếu

thuộc loại vừa và nhỏ, xét về số vốn đầu tƣ và nhân lực. Trong nhiều trƣờng

49

hợp, quy mô hoạt động của các công ty mẹ cũng thuộc loại vừa và nhỏ, với

hơn 70% số công ty mẹ có số nhân lực trên toàn cầu dƣới 10.000 ngƣời. Vì

các nhà đầu tƣ trong khu vực vẫn là các nhà đầu tƣ chủ yếu vào Việt Nam,

nên công nghệ đƣợc sử dụng trong các doanh nghiệp FDI thƣờng là các công

nghệ do công ty mẹ ở bản quốc chuyển giao. Trong một số trƣờng hợp, công

nghệ đƣợc chuyển giao vào Việt Nam thuộc các dự án FDI của các nhà đầu tƣ

Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản thƣờng đƣợc dịch chuyển từ các chi nhánh ở một số

nƣớc trong khu vực, nhƣ Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc.

Trong các trƣờng hợp này, việc thích nghi và làm chủ công nghệ chuyển giao

là cần thiết để phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam (trình độ lao động,

quy mô sản xuất, đặc tính nguyên liệu...).

Theo quy định, công nghệ đƣợc chuyển giao thông qua hình thức FDI

đƣợc nhà đầu tƣ chuyển thành vốn góp vào dự án đầu tƣ. Tuy nhiên, thực tế ở

Việt Nam cho thấy rất ít nhà đầu tƣ lựa chọn phƣơng thức thanh toán hợp

đồng CGCN theo hình thức này. Các bên thƣờng thỏa thuận ký hợp đồng li-

xăng để CGCN bổ sung cho các dự án đầu tƣ.

Tính chất công nghệ được chuyển giao qua đầu tư trực tiếp nước

ngoài

- Trong một số lĩnh vực, công nghệ góp vốn trong các dự án FDI đƣợc

đánh giá thuộc loại tiến tiến trong khu vực. Ví dụ, thăm dò khai thác dầu khí,

sản xuất chất dẻo PVC, sản xuất ống thép bằng phƣơng pháp cuộn và hàn tự

động theo đƣờng xoắn ốc, công nghệ sản xuất kính nổi, sản xuất và lắp ráp ô

tô, lắp ráp tự động các bản mạch điện tử, tổng đài điện tử kỹ thuật số, sản

xuất đèn hình...

- Đối tƣợng công nghệ đƣợc chuyển giao vào Việt Nam ở các doanh

nghiệp FDI chủ yếu dƣới dạng bí quyết kỹ thuật, giải pháp kỹ thuật thông qua

chuyển giao tài liệu kỹ thuật, bản vẽ, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo. Hoạt động

của các doanh nghiệp FDI thƣờng tập trung vào sản xuất, gia công, lắp ráp

dựa trên các thiết kế sản phẩm sẵn có và các dây chuyền máy móc, thiết bị đã

50

phố biến. Vì vậy, công nghệ đƣợc sử dụng chủ yếu ở dạng hệ thống máy móc,

thiết bị, kỹ năng vận hành, kinh nghiệm giải quyết sự cố kỹ thuật phát sinh,

kiểm tra chất lƣợng sản phẩm, tiêu chuẩn nguyên liệu. Trong các hợp đồng

CGCN đƣợc phê duyệt, đăng ký tại Bộ KH&CN và các Sở KH&CN địa

phƣơng không có hợp đồng CGCN nào có kèm theo sáng chế, giải pháp hữu

ích đƣợc Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ. Số lƣợng hợp đồng CGCN

có kèm theo kiểu dáng công nghiệp đƣợc cấp văn bằng bảo hộ cũng rất ít,

chiếm khoảng 5% tổng số hợp đồng CGCN đƣợc đăng ký, phê duyệt, tập

trung vào lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe máy. Gần 90% trong tổng số hợp đồng

li-xăng thuộc loại li-xăng nhãn hiệu hàng hóa (140/160 tổng số hợp đồng li-

xăng, chiếm 87,5%).

- Đa số Bên giao công nghệ của doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài là bên nƣớc ngoài nắm 100% vốn hoặc nắm đa số vốn nên Bên giao có

quyền sắp đặt nội dung của hợp đồng CGCN với các điều khoản có lợi cho

Bên giao, nhƣ đặt tên hợp đồng là hợp đồng trợ giúp kỹ thuật, quy định Bên

nhận không đƣợc tiếp tục sử dụng bí quyết công nghệ khi hợp đồng hết hạn,

đặt giá thanh toán cao cho CGCN...

- Hầu hết CGCN thông qua các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài đều đƣợc thực

hiện theo phƣơng thức trọn gói, trong đó bên nƣớc ngoài chuyển giao cho bên

Việt Nam toàn bộ công nghệ (bao gồm đối tƣợng sở hữu công nghiệp, các bí

quyết kỹ thuật, quy trình sản xuất, giải pháp kỹ thuật, quyền bán sản phẩm)

thông qua chuyển giao các tài liệu kỹ thuật, tổ chức đào tạo, tƣ vấn cho Bên

nhận để Bên nhận sản xuất ra các sản phẩm đạt các chỉ tiêu chất lƣợng (đã xác

định trong hợp đồng) và tiêu thụ sản phẩm.

- Giá trị các hợp đồng CGCN các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài cũng rất khác nhau. Phần lớn hợp đồng CGCN có tổng giá trị thanh

toán vài trăm ngàn USD, một số hợp đồng CGCN mà sản lƣợng sản phẩm bán

ra lớn nhƣ sản xuất xe máy lớn, ô tô, bia, giá trị thanh toán cho CGCN hàng

51

năm có thể đến một, vài triệu USD.

- Trong đa số các hợp đồng, Bên giao đều nêu họ sở hữu các bằng sáng

chế, giải pháp kỹ thuật... và họ chuyển giao toàn bộ các nội dung này cho Bên

nhận để Bên nhận sản xuất sản phẩm, nhƣng trong các hợp đồng đều không

nêu cụ thể tên và số hiệu Văn bằng sáng chế đƣợc bảo hộ. Khoảng 65% số

hợp đồng CGCN của các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đã đăng ký

có bao gồm chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá.

2.2.2. Chuyển giao công nghệ thông qua nhập khẩu thiết bị

- Trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, du nhập công nghệ chủ yếu

đƣợc thực hiện theo mô hình reverse engineering (giải mã công nghệ - nghiên

cứu, chế tạo theo mẫu của nƣớc ngoài). Nhu cầu chủ yếu là nhập và sử dụng

hiệu quả các công nghệ đã bão hòa nên công nghệ nhập phần lớn đƣợc hàm

chứa trong máy móc, thiết bị. Hoạt động đổi mới công nghệ trong khu vực

doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay thực chất là nhập và sử dụng hiệu quả dây

chuyền máy móc, thiết bị nhập khẩu. Đổi mới công nghệ trong các doanh

nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu đƣợc thực hiện theo mô hình reverse engineering

thông qua các hoạt động thay thế/bổ sung một số thiết bị lẻ/đồ gá lắp để nâng

cao năng suất, tiết kiệm chi phí, và thay đổi quy mô sản xuất để phù hợp với

nhu cầu thị trƣờng mới. Tuy nhiên, do trình độ kỹ thuật còn hạn chế nên quy

mô và mức độ của hoạt động này chỉ đƣợc thực hiện đối với những máy móc,

thiết bị đơn giản.

- Doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và lớn đã

mạnh dạn nhập công nghệ của nƣớc ngoài để phục vụ nhu cầu phát triển sản

xuất - kinh doanh của mình. Nhập công nghệ của các doanh nghiệp trong

nƣớc chủ yếu đƣợc thực hiện trong một số lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng

nhƣ vật liệu xây dựng, gạch lát ceramic, sứ vệ sinh, bia, chế biến thực phẩm,

may mặc, giày, đồ dùng bằng nhựa, dây cáp điện... đã tạo ra sản phẩm cạnh

tranh so với hàng ngoại nhập và xuất khẩu. Một số hợp đồng quan trọng nhƣ:

sản xuất sơn chống bám bẩn đáy tầu, sản xuất sơn tĩnh điện của Công ty Sơn

52

Hải Phòng; sản xuất xe ép chở rác của Công ty Chiếu sáng và Thiết bị Đô thị

Hà Nội; chế tạo một số chi tiết quan trọng của động cơ của Tổng Công ty

Máy động lực và Máy nông nghiệp, sản xuất xe buýt (trên cơ sở động cơ,

gầm nhập khẩu) của Tổng Công ty Công nghiệp Ô tô...

- Rất ít hợp đồng CGCN đƣợc đăng ký, thẩm định. Do nhiều nguyên

nhân khác nhau mà phần lớn CGCN không đƣợc lập thành các hợp đồng

riêng mà đƣa vào các hợp đồng nhập khẩu thiết bị nên số lƣợng hợp đồng

CGCN đăng ký rất thấp. Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến 2006, Bộ

KH&CN và các địa phƣơng đã đăng ký, phê duyệt 434 Hợp đồng CGCN từ

nƣớc ngoài vào các doanh nghiệp vốn trong nƣớc, trong đó số lƣợng hợp

đồng từ các nƣớc phát triển chiếm tỷ lệ thấp chỉ khoảng trên dƣới 20%.

- Trừ một vài hợp đồng CGCN của các công trình lớn nhƣ đạm Phú

Mỹ, lọc dầu Dung Quất có giá trị thanh toán trên một triệu USD, đa số các

hợp đồng CGCN có giá trị thanh toán không lớn hoặc gắn với dây chuyền

thiết bị (nhƣ sản xuất gạch ốp lát, sứ vệ sinh...) nên không xác định đƣợc giá

trị của phần CGCN.

- Mức đầu tƣ đổi mới, cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp Việt

Nam hiện còn ở mức thấp, chỉ chiếm khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, trong khi

đó con số này ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Đánh giá của Bộ KH&CN

cho thấy năng lực đổi mới công nghệ là loại năng lực yếu nhất của các doanh

nghiệp Việt Nam.

- Bên nhận thƣờng có ít kinh nghiệm trong việc thƣơng thảo hợp đồng

nên nhiều trƣờng hợp phải chấp nhận mức giá cao, chƣa ràng buộc đúng trách

nhiệm của Bên bán trƣớc và trong quá trình ứng dụng công nghệ. Từ đó, dễ

phát sinh những tranh chấp về quyền khai thác tài sản trí tuệ.

- Rất ít doanh nghiệp thuê chuyên gia kỹ thuật của nƣớc ngoài tƣ vấn

và đào tạo để có thể làm chủ quá trình vận hành dây chuyền công nghệ, trừ

khi có sự cố phát sinh.

- Trong một số ngành có vốn đầu tƣ lớn (xi măng, dầu khí, cầu đƣờng),

53

nhập công nghệ thƣờng đƣợc thực hiện thông qua các hợp đồng nhập khẩu

thiết bị toàn bộ, theo hình thức trọn gói. Nói chung, ban đầu công nghệ nhập

đạt trình độ tiên tiến, nhƣng sau vài năm đi vào hoạt động dây chuyền công

nghệ trở nên lạc hậu, hiệu quả khai thác thấp do không thƣờng xuyên đầu tƣ

cho các hoạt động cải tiến. Mặt khác, Bên nhập công nghệ cũng ít có cơ hội để học hỏi, làm chủ và cải tiến công nghệ nhập.28

2.2.3. Đánh giá việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam

CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua vẫn chƣa đạt

hiệu quả nhƣ kỳ vọng, chƣa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế,

giá trị gia tăng không cao, lợi nhuận thu về ít. Công nghệ chuyển giao chƣa

phải loại tiên tiến, hiện đại. Đa số công nghệ chuyển giao, trình độ công nghệ

ở mức độ trung bình, một số công nghệ ở mức thấp, lạc hậu. Cá biệt có trƣờng

hợp chuyển giao là công nghệ thanh lý ở một số nƣớc đầu tƣ, nguy cơ biến

nƣớc ta trở thành bãi thải công nghệ, nhất là CGCN qua các dự án FDI. Tính

cạnh tranh của sản phẩm trên thƣơng trƣờng quốc tế còn yếu kém do hầu hết

các công nghệ đƣợc chuyển giao là các công nghệ đã và đang đƣợc sử dụng

phổ biến ở chính quốc.

Những hạn chế của hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam là

khá nhiều nhƣng có thể kể đến một số hạn chế chủ yếu nhƣ sau:

- Công nghệ đƣợc chuyển giao không phải thuộc loại tiên tiến, hiện đại;

- Giá CGCN cao;

- Thiếu hiểu biết về công nghệ mới;

- Thiếu nhân lực KH&CN am hiểu chuyên môn;

- Thụ động trong công việc tìm kiếm công nghệ;

- Thụ động trong đàm phán, ký kết hợp đồng CGCN;

- Năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ yếu kém và

bất cập, chƣa đủ nội lực cần thiết để làm cơ sở cho việc tiếp thu và phát triển

28 Nguyễn Vân Anh (2015), Thực trạng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015

54

các công nghệ hiện đại từ nƣớc ngoài;

- Bộ máy quản lý nhà nƣớc hoạt động yếu kém, bất cập đối với hoạt

động CGCN nói chung và đặc biệt là CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam

nói riêng;

- Môi trƣờng kinh tế xã hội (luật, chính sách tài chính, tiền tệ, lao động,

đất đai, sở hữu công nghiệp…) còn chƣa phù hợp và hấp dẫn.

Hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào nƣớc ta chƣa đạt đƣợc hiệu quả

nhƣ mong muốn nhƣ trên đã trình bày là do các tổ chức dịch vụ CGCN chƣa

phát triển, hoạt động đánh giá và định giá công nghệ vẫn còn yếu, số các tổ

chức trung gian trên thị trƣờng công nghệ ít, nguồn nhân lực hoạt động trong

lĩnh vực này chƣa phát triển. Vì vậy rất cần thiết phải có quy định rõ về điều

kiện và cơ chế thúc đẩy ngành nghề này phát triển, góp phần vào việc thúc

đẩy hoạt động CGCN.

Nguyên nhân chủ yếu của các bất cập nêu trên là các doanh nghiệp

Việt Nam không có đƣợc một cách đầy đủ các thông tin về công nghệ, đặc

biệt là thiếu các dịch vụ hỗ trợ cần thiết và kịp thời cho hoạt động CGCN từ

nƣớc ngoài, do ở nƣớc ta hiện còn thiếu thiết chế thúc đẩy hình thành hệ

thống mạng lƣới thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ cần thiết và hữu

hiệu khác cho hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

Việc quản lý hoạt động CGCN nói chung và CGCN từ nƣớc ngoài vào

Việt Nam thời gian qua rất khó khăn do thiếu cơ chế kiểm soát, quy định về

báo cáo chƣa chặt chẽ, dẫn đến cơ quan quản lý KH&CN thiếu những số

liệu về công nghệ chuyển giao, số lao động đƣợc đào tạo, số tiền chuyển ra

nƣớc ngoài từ CGCN... Do vậy, thiếu cơ sở khi đánh giá các luồng CGCN

tại Việt Nam.

2.3. Những khó khăn trong hoạt động chuyển giao công nghệ

Để tiến hành khảo sát những khó khăn trong hoạt động CGCN, tác giả

Luận văn đã tiến hành phỏng vấn các nhà quản lý doanh nghiệp, cơ quan

55

nghiên cứu và quản lý nhà nƣớc về CGCN. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

2.3.1. Khó khăn đối với doanh nghiệp

Theo điều tra “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh

nghiệp tại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng

(CIEM), Tổng cục Thống kê (GSO) và Trƣờng Đại học Copenhagen công bố:

các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức đƣợc lợi ích khi đầu tƣ CGCN giúp

nâng cao chất lƣợng sản phẩm nhƣng lại thƣờng gặp khó về nguồn lực, tài

chính. Có 07 trở ngại đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là:

tài chính, máy móc thiết bị, lao động có kỹ năng, nguồn lao động, hạ tầng cơ

bản, hạ tầng giao thông và hạ tầng thông tin liên lạc. Chính vì thế có tới 90%

số doanh nghiệp đƣợc điều tra hiện chƣa có chiến lƣợc cải tiến công

nghệ. Một trong những lý do gây cản trở doanh nghiệp đầu tƣ công nghệ là do

môi trƣờng kinh doanh và điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

vẫn ở trong tình trạng khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam dựa

vào vốn chủ sở hữu để cải tiến công nghệ điều đó cho thấy khả năng đầu tƣ

của doanh nghiệp bị hạn chế nguồn vốn có sẵn ví dụ nhƣ lợi nhuận giữ lại.

Về kết nối CGCN, phần lớn công nghệ chuyển giao còn ở mức độ

trung bình, một số ở mức thấp, lạc hậu; việc ứng dụng công nghệ đƣợc

chuyển giao từ nƣớc ngoài còn yếu, khả năng tiếp thu công nghệ nƣớc ngoài

của doanh nghiệp cũng còn hạn chế; hiệu lực thực thi chính sách đổi mới

CGCN còn thấp.

Đề cập tới việc tỷ lệ CGCN của doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp

trong nƣớc còn thấp, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ từng công bố, có 880 doanh

nghiệp FDI đầu tƣ vào Việt Nam có đăng ký CGCN nhƣng chƣa ghi nhận kết

quả thực hiện. Hiện nay, các doanh nghiệp FDI đầu tƣ vào Việt Nam đƣợc

hƣởng ƣu đãi rất lớn về thuế, hơn hẳn các doanh nghiệp Việt. Vì vậy, Việt

Nam cần phải có những chính sách đầu tƣ kinh doanh khuyến khích doanh

nghiệp FDI chú trọng hơn tới CGCN cho doanh nghiệp trong nƣớc. Cần phải

thiết kế lại chính sách thu hút FDI, chỉ ƣu đãi miễn giảm thuế cho các doanh

56

nghiệp có cam kết CGCN. Tác động lan tỏa công nghệ từ FDI đến doanh

nghiệp Việt Nam bao gồm chuyển giao các kỹ thuật sản xuất, marketing, hoạt

động quản lý và chuyển giao tri thức hiện thân trong hàng hóa đƣợc sản xuất

bởi các doanh nghiệp cùng ngành hoặc ở các ngành có liên quan đang ở mức

thấp. Nguyên nhân do các doanh nghiệp FDI cạnh tranh trực tiếp với các

doanh nghiệp trong nƣớc và do vậy họ có nhiều động lực để ngăn chặn việc rò

rỉ các lợi thế về công nghệ cho đối thủ cạnh tranh.

Để tìm hiểu về những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong

CGCN. Tác giả Luận văn đã nêu hai câu hỏi.

Câu 1: Xin Ông/Bà đánh giá khái quát về CGCN từ cơ quan nghiên cứu

đến doanh nghiệp.

Câu 2: Xin Ông/Bà cho biết những khó khăn chủ yếu trong CGCN từ

các cơ quan nghiên cứu trong nƣớc.

Trả lời:

Hiện nay, nhu cầu CGCN về doanh nghiệp là rất lớn, mặc dù đã

có sự chuyển động trong công tác tiếp cận với các đơn vị nghiên

cứu. Tuy nhiên thời gian vừa qua không có nhiều các công nghệ

được chuyển giao mà thực sự đem lại hiệu quả cho doanh

nghiệp và kết quả CGCN không cao. Các nguyên nhân có thể là:

- Đa số các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trong

của chuyển đổi công nghệ, sử dụng công nghệ mới, nhưng do

thiếu thông tin, sự tư vấn hợp lý thuyết phục và kinh phí đầu tư

đổi mới công nghệ;

- Các doanh nghiệp trong nước đa phần là doanh nghiệp vừa

và nhỏ nên tiềm lực tài chính eo hẹp nên nhiều khi “lực bất

tòng tâm” hoặc tâm lý ngại thay đổi, khi đơn vị đang hoạt động

ổn định;

- Công nghệ từ các đơn vị nghiên cứu trong nước còn thiếu tính

ứng dụng thực tế và khó phù hợp với điều kiện cụ thể về chủng

loại sản phẩm dịch vụ, loại nguyên vật liệu, phụ liệu và khả

57

năng tài chính của doanh nghiệp;

- Kinh phí đầu tư và chi phí vận hành thực tế của công nghệ vẫn

còn cao, nên phía doanh nghiệp khó khăn để chi trả;

- Khi chuyển giao, các đơn vị nghiên cứu chỉ chú trong phần

thiết bị công nghệ chính mà không quan tâm nhiều các thiết bị

phụ trợ kèm theo, cùng công tác đào tạo chuyển giao, tuân thủ

nghiêm ngặt quy trình công nghệ, tác phong công nghiệp, nên

thực tế kết quả và hiệu quả không cao.

(Nam, 45 tuổi, Giám đốc doanh nghiệp)

2.3.2. Khó khăn đối với tổ chức nghiên cứu

Nhƣ đã phân tích ở trên, doanh nghiệp cho rằng gặp nhiều khó khăn

trong CGCN từ các tổ chức nghiên cứu trong nƣớc.

Vậy, các tổ chức nghiên cứu trong nƣớc gặp phải những khó khăn gì

trong hoạt động CGCN? Tác giả Luận văn dùng phƣơng pháp phỏng vấn sâu,

đã thu đƣợc kết quả nhƣ sau.

Câu 1: Xin Ông/Bà đánh giá khái quát về thực trạng CGCN từ cơ quan

nghiên cứu sang lĩnh vực sản xuất/kinh doanh.

Trả lời:

Thực trạng cho thấy chưa vượt quá được 50% số các đề tài

nghiên cứu chuyển giao sang sản xuất/kinh doanh. Sự năng động

của các cơ sở nghiên cứu còn thấp, yếu trong các khâu tiếp thị.

Hiện nay việc CGCN từ các cơ quan nghiên cứu vào thực tế còn

hạn chế, chưa hiệu quả, cụ thể:

- Các kết quả nghiên cứu có hàm lượng công nghệ, tính thời sự

còn hạn chế, đôi khi chưa thực sự đủ để gọi là “công nghệ hiện

đại” hoặc đã sẵn sàng chuyển giao, chưa đủ khả năng thuyết

phục, đáp ứng được yêu cầu của các nhà sản xuất. Nguyên nhân:

kinh phí nghiên cứu chưa đủ, các thủ tục tài chính quá rườm rà,

58

quá trình thử nghiệm trên dây chuyền pilot còn hạn chế.

- Các doanh nghiệp trong nước vẫn có tư tưởng “sính ngoại”

nên thường nhập khẩu công nghệ kèm theo thiết bị, đôi khi còn

được khuyến mại (đặc biệt là Trung Quốc). Chưa thực sự tin

tưởng vào công nghệ, năng lực của các nhà khoa học trong

nước. Sự kết nối giữa các cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp

còn hạn chế, chưa khăng khít, cái doanh nghiệp cần thì các cơ

quan nghiên cứu không có hoặc không phù hợp.

(Nam, 54 tuổi, Viện trưởng viện nghiên cứu)

Có 05 đại diện tổ chức nghiên cứu trong nƣớc tham gia trả lời câu hỏi

này, ngoài các câu trả lời trên, Luận văn xin tóm tắt các câu trả lời còn lại:

CGCN từ cơ quan nghiên cứu sang lĩnh vực sản xuất/kinh doanh chƣa

đáp ứng yêu cầu thực tiễn do nghiên cứu chƣa xuất phát từ thực tiễn, từ thị

trƣờng, từ nhu cầu của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng. Phải khẳng định

việc CGCN từ các cơ quan nghiên cứu vào sản xuất là mục đích cuối cùng,

quan trọng đối với bất kỳ cơ quan nghiên cứu nào. Nhà nƣớc, doanh nghiệp,

xã hội đầu tƣ, cấp kinh phí cho các cơ quan nghiên cứu với mong muốn các

kết quả nghiên cứu có khả năng đƣợc áp dụng vào thực tế sản xuất đem lại

hiệu quả cho doanh nghiệp cho xã hội, góp phần đƣa đất nƣớc từng bƣớc tiến

lên thành nƣớc công nghiệp.

2.3.3. Khó khăn đối với cơ quan quản lý

Nhằm có cái nhìn khách quan việc CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt

Nam, tác giả Luận văn đã đặt hai câu hỏi đối với các nhà quản lý KH&CN,

kết quả thu đƣợc nhƣ sau:

Câu 1: Xin Ông/Bà đánh giá khái quát về thực trạng CGCN từ nƣớc

ngoài vào Việt Nam.

Trả lời:

Thực trạng trong khoảng 20 năm gần đây, thì Việt Nam chuyển

giao (nhập) công nghệ không nhiều so với Thái Lan và các nước

59

trung bình trong khu vực. Nguyên do là tiềm lực của các doanh

nghiệp Việt Nam còn yếu, các chính sách của lại chưa có nhiều

ưu đãi cho nhập công nghệ.

Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) ngày càng trở thành nhân tố

quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Cùng với

tài chính là công nghệ, kỹ năng quản lý, năng lực tiếp thị sẽ

được Nhà đầu tư nước ngoài du nhập vào một quốc gia. Đây là

cơ hội để nhân lực nước sở tại tiếp cận được với công nghệ mới,

tiên tiến và cũng là cơ hội để các doanh nghiệp nước sở tại có

thể tranh thủ được các công nghệ mới, hiện đại do các công ty

nước ngoài chuyển giao thông qua con đường học hỏi hoặc hợp

tác sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, CGCN theo FDI cũng

không suôn sẻ.

Câu 2: Xin Ông/Bà cho biết những bất cập (về chính sách, về tổ chức,

(Nam, nguyên quản lý KH&CN cấp vụ)

về hoạt động) chủ yếu của việc CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam và

nguyên nhân của những bất cập này.

Trả lời:

Thực tế là công nghệ mà các doanh nghiệp nước ngoài chuyển

giao cho Việt Nam không phải loại tiên tiến, đa số chỉ đạt trình

độ công nghệ ở mức trung bình, nhiều trường hợp là công nghệ

cũ, lạc hậu. Cá biệt có trường hợp chuyển giao lại là công nghệ

thanh lý khiến Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác thải. Tính

cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế còn yếu

kém do hầu hết công nghệ sử dụng trong dự án FDI đã và đang

được sử dụng phổ biến ở chính quốc.

Ngoài ra, các công nghệ được thương mại hóa và chuyển giao

về Việt Nam thì doanh nghiệp chỉ được quyền sử dụng công nghệ

60

chứ không có quyền sở hữu công nghệ. Vì thế, chừng nào doanh

nghiệp tại Việt Nam còn sản xuất sản phẩm có áp dụng công

nghệ được chuyển giao thì chừng đó còn phải thanh toán chi phí

cho CGCN.

(Nữ, quản lý KH&CN cấp vụ)

Nguyên nhân chính là do chính sách ƣu đãi đối với các công nghệ

thuộc danh mục khuyến khích chuyển giao chƣa đủ mạnh để các nhà đầu tƣ

nƣớc ngoài đƣa vào Việt Nam. Mặt khác, điều kiện ràng buộc chƣa tạo thành

rào cản đối với các công nghệ hạn chế chuyển giao. Đặc biệt, nhiều địa

phƣơng chạy theo thành tích, vƣợt rào để thu hút FDI bằng mọi giá. Do vậy,

nhiều công nghệ chuyển giao vào Việt Nam không đáp ứng đƣợc đầy đủ yêu

cầu của đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay.

Về phía nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, khi thực hiện hoạt động đầu tƣ nói

chung và CGCN nói riêng đều tính toán để thu lợi nhuận cao nhất. Bên cạnh

đó, nhiều địa phƣơng, cơ quan cũng thiếu thông tin và hiểu biết về công nghệ,

đặc biệt là yếu kém trong công tác thẩm định nên để chuyển giao vào Việt

Nam những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trƣờng hoặc định giá sai

công nghệ. Điều này đòi hỏi công tác thẩm định các dự án đầu tƣ FDI phải hết

sức thận trọng.

Trên thực tế, cơ quan quản lý Nhà nƣớc về KHCN chỉ quản lý “phần

ngọn” vì khi chủ đầu tƣ hoặc đối tác nƣớc ngoài liên doanh hoặc đầu tƣ vốn

100% nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tƣ thì phần công nghệ, thiết

bị, máy móc của dự án bị xem nhẹ. Vì vậy, cơ quan quản lý về công nghệ

không nắm đƣợc luồng công nghệ nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam ngay từ

khâu đầu vào (trừ những dự án đầu tƣ do Thủ tƣớng chủ chƣơng phê duyệt)

để góp phần hạn chế việc nhập khẩu, sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu.

Nguyên nhân là quy định của pháp luật về CGCN không bắt buộc các

doanh nghiệp phải đăng ký hợp đồng CGCN với các cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền. Vì vậy, đa số các doanh nghiệp chỉ đăng ký khi thấy đƣợc hƣởng

61

lợi từ việc đăng ký hợp đồng CGCN. Trong khi đó, về nguyên tắc, giá trị

công nghệ chuyển giao trong hợp đồng lại đƣợc tính vào vốn đầu tƣ và hạch

toán chi phí CGCN vào chi phí thực tế của doanh nghiệp. Thế nhƣng, thực tế

chuyển giao thế nào thì các cơ quan Nhà nƣớc lại hoàn toàn không quản lý

đƣợc. Bằng cách này, doanh nghiệp nƣớc ngoài có thể khai tăng vốn đầu tƣ để

tăng chi phí, chuyển giá ra công ty mẹ để trốn thuế.

Nói cách khác, với cơ chế nhƣ hiện nay, cơ quan quản lý Nhà nƣớc

không thể kiểm soát đƣợc công nghệ nhập vào Việt Nam.

Theo con số thống kê, tính sơ bộ trong 9 tháng đầu năm 2015, có

khoảng 1.600 doanh nghiệp FDI với hơn 4.000 giao dịch. Đáng nói rất nhiều

giao dịch có dấu hiệu chuyển giá dƣới nhiều hình thức. Đây cũng là một điểm

cần tính đến trong Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi. Nên chăng, dừng lại

các ƣu đãi thuế nhập khẩu bởi thuế nhập khẩu đã gần nhƣ không còn ý nghĩa

khi chúng ta ra nhập nhiều hiệp định quốc tế? Hay ƣu đãi thuế cần xác dịnh

đúng địa chỉ để tránh việc lợi dụng vì CGCN rất đa dạng, không dễ dàng định

giá và cần loại bỏ việc tăng giá dây chuyền công nghệ.

Về mặt con ngƣời: Việt Nam chƣa có nhiều các nhà công nghệ giỏi để

có thể sẵn sàng nắm bắt, tiếp nhận CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

Về tài chính: Do kinh phí không đủ, nên Việt Nam thƣờng chỉ nhằm

đến những công nghệ với giá rẻ.

Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ. Các

nhà KH&CN Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong việc thực hiện các hợp

đồng thƣơng mại quốc tế.

Trong quá trình phỏng vấn sâu, tác giả Luận văn đã nhận đƣợc câu trả

lời mang tính chất khái quát về các nguyên nhân dẫn đến những khó khăn

trong CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam nhƣ sau:

- Nguyên nhân cơ bản và bao trùm đó là nền kinh tế Việt Nam

chưa phải là nền kinh tế thị trường, yếu tố cạnh tranh cơ bản

không phải là năng lực công nghệ và chất lượng hàng hoá, mà

62

vẫn là những yếu tố quyền lực ngầm.

- Nguyên nhân thứ hai, đó là nhiều cơ chế quản lý nhập khẩu

công nghệ và thiết bị thực sự chưa “ủng hộ” các doanh nghiệp

nhỏ và vừa, các doanh nghiệp KH&CN.

- Nguyên nhân thứ ba là nhân lực KH&CN của Việt Nam còn bật

cập, chưa đủ năng lực thật sự làm chủ và sáng tạo công nghệ, do

vậy các doanh nghiệp FDI không tìm thấy lợi ích khi CGCN cho

phía Việt Nam.

- Nguyên nhân thứ tư là vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt

Nam còn yếu, không đủ sức đầu tư công nghệ cao, công nghệ

tiên tiến, mà vẫn chủ yếu là nhập công nghệ cũ, công nghệ trung

bình của 10-15 năm trước.

Tóm lại, mặc dù nêu ra bốn nguyên nhân, song tôi nhấn mạnh

lại: nguyên nhân thứ nhất là nguyên nhân cơ bản và bao trùm,

và đó là hệ quả của Lãnh đạo Việt Nam lúng lúng trong tư duy

đổi mới, loay hoay cải tiến những chủ thuyết đã quá lạc hậu.

Thêm vào đó là không tạo được môi trường lành mạnh cho lao

động sáng tạo, không đủ năng lực để lựa chọn mục tiêu và công

cụ thực hiện mục tiêu.

(Nam, nguyên quản lý KH&CN cấp vụ)

2.4. Nhu cầu về thiết chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao

công nghệ từ nƣớc ngoài

2.4.1. Nhu cầu từ doanh nghiệp

Từ những bất cập trong việc CGCN, các doanh nghiệp đều cho rằng

nguyên nhân là do thiếu các thiết chế nhằm thúc đẩy CGCN, trong đó có

CGCN từ nƣớc ngoài.

Việc CGCN từ các tổ chức nghiên cứu đến doanh nghiệp hiện

nay còn một số bất cập như sau:

- Thiếu thông tin về công nghệ mà doanh nghiệp cần, thiếu

63

thông tin về nhà cung cấp công nghệ phù hợp với doanh nghiệp;

- Thiếu cơ quan dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp để lựa chọn công

nghệ phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp;

- Thiếu thông tin về các cơ chế chính sách của nhà nước về hỗ

trợ tài chính cho CGCN đến doanh nghiệp.

(Nữ, 47 tuổi, Giám đốc doanh nghiệp)

Nhƣ vậy, qua phỏng sâu cho thấy khó khăn trong CGCN từ các tổ chức

nghiên cứu trong nƣớc là công nghệ thiếu tính ứng dụng thực tế, khó phù hợp

với điều kiện cụ thể về chủng loại sản phẩm dịch vụ, loại nguyên vật liệu, phụ

liệu và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khi chuyển giao, các đơn vị

nghiên cứu chỉ chú trong phần thiết bị công nghệ chính mà không quan tâm

nhiều các thiết bị phụ trợ kèm theo, cùng công tác đào tạo chuyển giao, tuân

thủ nghiêm ngặt quy trình công nghệ…

Mặt khác, bất cập về thông tin CGCN cũng đƣợc doanh nghiệp cho là

lực cản, trong đó nhấn mạnh đến thiếu thiết chế trung gian, thể hiện qua thiếu:

- Thông tin về nhà cung cấp công nghệ phù hợp với doanh nghiệp;

- Tổ chức dịch vụ tƣ vấn chuyên nghiệp để lựa chọn công nghệ phù

hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp;

- Sự tƣ vấn hợp lý, thuyết phục về kinh phí đầu tƣ đổi mới công nghệ.

2.4.2. Nhu cầu từ tổ chức nghiên cứu

Về sự cần thiết phải hình thành các thiết chế nhằm kết nối giữa tổ chức

nghiên cứu và doanh nghiệp trong quá trình CGCN, các tổ chức nghiên cứu

đã cho rằng:

Sự kết nối giữa giữa cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp ở

nước ta thực sự còn lỏng lẻo. Các cơ quan nghiên cứu chưa có

địa chỉ để áp dụng kết quả nghiên cứu. Các nhà sản xuất kinh

doanh thì lại không biết tìm ai để đặt mua công nghệ, đặt hàng

ý tưởng…

64

(Nữ, 46 tuổi, đại diện viện nghiên cứu)

Việc hiện thực hóa sáng chế đã được cấp patent hoặc các giải

pháp kỹ thuật đã được thử nghiệm xong giai đoạn pilot còn rất

khó khăn, do thiếu vốn, nhưng lại không thể trông đợi vào ngân

sách Nhà nước (vì Nhà nước không thể cung cấp vốn đầu tư mạo

hiểm cho giai đoạn sau R&D). Bởi vậy, rất cần những thiết chế -

ví dụ quỹ đầu tư mạo hiểm - để cung cấp tài chính nhằm đưa

giải pháp kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Nhƣ vậy, các khó khăn trong CGCN từ tổ chức nghiên cứu sang khu

(Nam, 51 tuổi, đại diện viện nghiên cứu)

vực doanh nghiệp nhƣ đã phân tích ở trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến

thiếu thiết chế trung gian liên kết giữa R&D và CGCN, cụ thể:

- Chƣa có sự kết nối giữa giữa cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp;

- Tổ chức R&D chƣa có địa chỉ để áp dụng kết quả nghiên cứu;

- Các doanh nghiệp không biết tìm ai để mua công nghệ, đặt hàng ý

tƣởng;

- Thiếu thiết chế cung cấp tài chính nhằm đƣa kết quả nghiên cứu vào

khu vực sản xuất, kinh doanh.

Về khó khăn thứ hai đối với các tổ chức nghiên cứu. Luận văn đặt câu

hỏi: Xin Ông/Bà đánh giá về sự liên kết trong nghiên cứu ứng dụng giữa các

cơ quan nghiên cứu của Việt Nam với các cơ quan nghiên cứu tại nƣớc ngoài.

Trả lời:

Sự liên kết giữa cơ quan nghiên cứu Việt Nam với các cơ quan

nghiên cứu nước ngoài thể hiện chủ yếu ở chất lượng các hội

thảo khoa học, các bài báo khoa học trên các diễn đàn quốc tế

và các đề tài nghiên cứu phối hợp dưới dạng hợp tác nghiên cứu

song phương, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ theo

65

Nghị định thư

Đề tài hợp tác nghiên cứu chung thì mỗi bên làm một phần nội

dung và phối hợp trao đổi đoàn ra, đoàn vào, thiếu có sự kết hợp

sâu rộng về những vấn đề công nghệ cao, công nghệ dẫn đầu.

(Nam, nguyên quản lý KH&CN cấp vụ)

Có 05 đại diện tổ chức nghiên cứu trong nƣớc tham gia trả lời câu hỏi

này, ngoài câu trả lời trên, Luận văn xin tóm tắt các câu trả lời còn lại:

- Sự hợp tác trong những năm qua đã đƣợc cải thiện nhiều, đặc biệt đối

với các các nƣớc phát triển: Nhật Bản, Mỹ, Anh, Hàn Quốc… Tuy nhiên chủ

yếu với lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, đào tạo hoặc nhận chuyển giao từ nƣớc

ngoài. Các liên kết, kết hợp nghiên cứu tạo ra các sản phẩm mới của Việt

Nam còn ít, hạn chế.

Đánh giá về sự liên kết trong nghiên cứu ứng dụng giữa các cơ quan

nghiên cứu của Việt Nam với các cơ quan nghiên cứu tại nƣớc ngoài, những

đại diện của tổ chức nghiên cứu trong nƣớc đều thống nhất nhận định:

- Qua các hợp tác, về cơ bản nâng cao đƣợc phần nào năng lực, kinh

nghiệm của các cá nhân, đơn vị nghiên cứu trong nƣớc;

- Sự liên kết trong nghiên cứu ứng dụng giữa các cơ quan nghiên cứu

của Việt Nam với các cơ quan nghiên cứu tại nƣớc ngoài đã đƣợc thiết lập

qua các dự án hợp tác nghiên cứu song phƣơng phƣơng đa phƣơng về

KH&CN, qua các diễn đàn, hội thảo khoa học trong và ngoài nƣớc;

- Tuy nhiên, hợp tác nghiên cứu còn chƣa sâu rộng, chƣa phát huy và

khai thác đƣợc thế mạnh nghiên cứu của mỗi bên;

- Phía Việt Nam vẫn chủ yếu là học hỏi kinh nghiệm từ nghiên cứu và

triển khai và CGCN của nƣớc ngoài.

Để đánh giá sự liên kết trong nghiên cứu ứng dụng giữa các cơ quan

nghiên cứu của Việt Nam với các cơ quan nghiên cứu tại nƣớc ngoài, tác giả

66

Luận văn đã đặt câu hỏi đối với một nhà quản lý KH&CN cấp vụ:

Câu hỏi: Xin Ông đánh giá về sự liên kết trong nghiên cứu ứng dụng

giữa các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam với các cơ quan nghiên cứu tại

nƣớc ngoài.

Trả lời:

Sự liên kết trong nghiên cứu ứng dụng giữa các cơ quan nghiên

cứu của Việt Nam với các cơ quan nghiên cứu tại nước ngoài

được thực hiện tương đối tốt, song rất tiếc đó là do các yếu tố

ngẫu nhiên và do có sự nỗ lực của các nhà khoa học, mà chưa

phải nhu cầu thực từ nền kinh tế thị trường, từ nhu cầu phát

triển đích thực, mà trong đó hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội

được đặt lên hàng đầu.

Để có giải pháp khắc phục những khó khăn đã nêu, tác giả Luận văn

(Nam, nguyên quản lý KH&CN cấp vụ)

đã đặt câu hỏi đối với một nhà quản lý KH&CN cấp vụ, kết quả thu đƣợc

nhƣ sau:

Câu hỏi: Xin Ông cho biết cần những giải pháp gì để khắc phục những

bất cập đã nêu trên.

Trả lời:

Chỉ có hai cách:

- Một là chờ đợi lớp lãnh đạo thông minh hơn (mà chưa biết đến

bao giờ mới xuất hiện);

- Hai là hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện hơn. Hội nhập

quốc tế buộc Việt Nam phải tiến tới những chuẩn quản lý, chuẩn

nguyên tắc để có môi trường cạnh tranh lành mạnh; hợp tác với

những đối tác mạnh hơn sẽ làm sáng hơn kiến thức cho Lãnh

đạo quốc gia, Lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam.

67

(Nam, nguyên quản lý KH&CN cấp vụ)

Tiểu kết chƣơng 2

Trong Chƣơng 2, Luận văn đã khảo sát thực trạng CGCN nói chung và

CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, trong đó có những khó khăn, bất cập từ

chính sách CGCN, hoạt động CGCN, tổ chức CGCN cho thấy còn thiếu những

thiết chế nhằm kết nối R&D và đƣa kết kết quả nghiên cứu vào sản xuất.

Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy rất cần hội nhập quốc tế sâu rộng và

toàn diện hơn, buộc Việt Nam phải tiến tới những chuẩn quản lý, chuẩn

nguyên tắc để có môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, hợp tác với những đối tác

mạnh hơn… để hoạt động KH&CN nói chung, hoạt động CGCN nói riêng đạt

68

hiệu quả.

CHƢƠNG 3

HÌNH THÀNH THIẾT CHẾ THAM GIA LIÊN MINH NGHIÊN CỨU

TOÀN CẦU TẠI VIỆT NAM - TỪ KINH NGHIỆM CỦA AUSTRALIA

3.1. Kinh nghiệm của Australia trong việc tham gia Liên minh nghiên

cứu toàn cầu

3.1.1. Kinh nghiệm hoạt động của Chương trình Các Trung tâm hợp tác

nghiên cứu

Chƣơng trình Các Trung tâm hợp tác nghiên cứu - CRCs (Cooperative

Research Centres Programme) đƣợc thành lập vào năm 1990 và CRC đầu tiên

đƣợc công nhận vào năm 1991. Mục đích của chƣơng trình là kết nối ngành

công nghiệp và các nhà nghiên cứu với nhau để cùng hợp tác giải quyết

những thách thức trong nghiên cứu ứng dụng.

Kể từ khi bắt đầu thực hiện Chƣơng trình CRC Australia vào năm

1991, 212 Trung tâm hợp tác nghiên cứu đã đƣợc tài trợ. Chính phủ Australia

đã cam kết tài trợ hơn 4,0 tỷ cho Chƣơng trình này. Những ngƣời tham gia

trong CRCs đã nhận thêm 12,3 tỷ tiền mặt và hiện vật đóng góp theo số liệu

của Bộ Công nghiệp và Khoa học năm 2015.

Trung tâm hợp tác nghiên cứu đƣợc tài trợ thông qua một quá trình

cạnh tranh cấp quốc gia hàng năm. Nói chung, chính phủ kêu gọi đăng ký vào

khoảng tháng 11 - 12 và cũng có thể xác định những lĩnh vực ƣu tiên tài trợ.

Hồ sơ đăng ký đến từ các nhóm hợp tác với nhau cho quá trình đấu thầu và

phải bao gồm ít nhất một trƣờng đại học của Australia và là một doanh nghiệp

cỡ vừa và nhỏ của Australia. Họ sẽ nộp thầu trong khoảng tháng 6 - 7 của

năm sau và một nhóm cố vấn độc lập sẽ đề xuất một danh sách đã đƣợc sàng

lọc để Bộ trƣởng Bộ Công nghiệp và Khoa học xem xét tiếp.

Hoạt động của mỗi Trung tâm hợp tác nghiên cứu (CRC) đƣợc quản lý

bởi một Ban Giám đốc, những ngƣời đƣợc lựa chọn bởi các bên tham gia

69

trong CRC. Chính phủ theo dõi tiến độ thông qua các báo cáo hàng năm, các

cuộc khảo sát thực tế của các thành viên của ủy ban cố vấn và một cuộc đánh

giá quan trọng giữa kỳ. Hầu hết Trung tâm hợp tác nghiên cứu đƣợc thiết lập

là các công ty phi lợi nhuận, với sự tham gia mang tính chất là “thành viên”

chứ không phải là “cổ đông”. CRCs chỉ định một nhóm nhỏ quản lý để điều

hành hoạt động của Trung tâm.

Quyền sở hữu trí tuệ (IPR) đƣợc tạo ra bởi các hoạt động của CRC

đƣợc đƣa ra đàm phán. Nói chung, IP đƣợc xử lý theo một trong hai cách sau:

(1) các CRC sở hữu tất cả các IP đƣợc tạo ra bởi các hoạt động của mình; (2)

hoặc những ngƣời tham gia trong mỗi dự án trong CRC chia sẻ các IP đƣợc

tạo ra trong các dự án tƣơng ứng với đầu vào của họ. Chính phủ Australia

không đòi quyền IP trong mỗi CRC. CRC nói chung là đƣợc tự do đàm phán

thƣơng mại hóa IP - nhƣng sự quan tâm của các bên tham gia trong CRC là

một yếu tố để xem xét chính. Chính phủ luôn mong đợi là một trong những

bên tham gia trong CRC sẽ muốn thƣơng mại hóa các dự án cụ thể.

Mỗi CRC cũng cam kết đào tạo tiến sĩ và các hình thức đào tạo khác

phù hợp với lĩnh vực cụ thể của mỗi chƣơng trình. Mặc dù các CRCs không

thể đứng ra trao bằng tiến sĩ, họ làm việc với các trƣờng đại học tham gia

vào các CRC để phát triển các chƣơng trình tiến sĩ đó theo định hƣớng

chuyên nghiệp.

Các kết quả và điểm nổi bật của chương trình CRC

Chƣơng trình Các Trung tâm hợp tác nghiên cứu đã có nhiều kết quả

nổi bật. Có thể dẫn chứng:

- EarthCheck là chứng nhận khoa học đối sánh hàng đầu thế giới và là

nhóm tƣ vấn cho du lịch. Khi Trung tâm hợp tác nghiên cứu Du lịch Bền

vững (STCRC), trung tâm nghiên cứu lớn nhất thế giới về du lịch bền vững,

hoàn tất nhiệm kỳ của mình vào năm 2010, nó đã chuyển thành hai dự án

quốc tế kế thừa: Viện Nghiên cứu EarthCheck phi lợi nhuận và Trung tâm

70

quốc tế APEC về Du lịch bền vững.

Nhóm cây lâu năm trong hệ thống canh tác Australia nhằm khắc phục

những vấn đề lớn về độ mặn, dự tính mang lại một lợi ích ròng 1,6 tỷ cho sản

xuất nông nghiệp của Australia đến năm 2030, là kết quả làm việc của “Trung

tâm hợp tác nghiên cứu về công nghiệp trang trại tƣơng lai” - Future Farm

Industries Cooperative Research Centre trong giai đoạn từ năm 2007 đến

2014. CRC đã rất thành công trong khâu đƣa nghiên cứu của mình vào các hệ

thống canh tác nhƣ cây bụi cỏ EverGraze, EverCrop và Enrich để đảm bảo

ứng dụng rộng rãi. Tập quán canh tác trên hơn một triệu ha trên toàn miền

nam Australia đã thay đổi hoàn toàn.

- Groundprobe, công ty chuyển đổi từ CRC chuyên ngành tín hiệu cảm

biến và xử lý thông tin, đã có hơn 4.500.000 giờ giám sát thời gian thực của

sự ổn định sƣờn dốc trong hầm mỏ. Hệ thống “Radar ổn định sƣờn dốc” của

họ bây giờ đƣợc sử dụng để bảo vệ ngƣời dân chống lại lở tuyết.

Các tài sản trí tuệ của chƣơng trình CRC cho sản xuất lƣơng thực quốc

tế và dịch vụ đóng gói đã đƣợc chuyển giao cho công ty Plantic Technologies.

Plantic hiện tại đang đi tiên phong về nguyên liệu tái tạo và nhựa sinh học có

khả năng phân hủy sinh học 100% từ ngô.

Nghiên cứu về nƣớc của Australia (Water Research Australia) là một

chƣơng trình hợp tác lâu dài đặc biệt và có lợi cho tất cả các lĩnh vực của

ngành công nghiệp nƣớc sạch của Australia và cộng đồng bằng các nghiên

cứu hợp tác trên tất cả các khía cạnh của nƣớc uống, nƣớc tái chế và xử lý

nƣớc thải. Nó đƣợc phát triển sau hai nhiệm kỳ thành công của chƣơng trình

CRC cho chất lƣợng nƣớc và xử lý nƣớc.

Tác động của Chương trình CRC cho phát triển kinh tế và xã hội

Chƣơng trình Các Trung tâm hợp tác nghiên cứu rõ ràng là một trong

những chƣơng trình đổi mới đƣợc đánh giá và nghiên cứu nhiều nhất trên thế

giới. Kể từ khi ra đời, trong số các nghiên cứu khác, đã có năm ý kiến đánh

giá riêng về chƣơng trình và ba nghiên cứu lớn về kinh tế. Theo quy định giải

trình của Bộ Tài chính - Chính phủ Australia, tất cả các chƣơng trình đƣợc

71

chính thức đánh giá lại sau thời gian năm năm.

Các đánh giá trên hoặc các nghiên cứu của Chƣơng trình CRC đều

mang tính tích cực. Trong mọi trƣờng hợp, các tác giả đã thừa nhận rằng việc

tổ chức CRC đều dẫn đến những kết quả rất có lợi. Các nghiên cứu tác động

kinh tế đã đi xa hơn và chứng minh tác động tích cực của Chƣơng trình CRC

lên GDP của Australia. Ví dụ gần đây nhất của Allen Consulting Group năm

2012 đã kết luận: Đầu tư của chương trình CRC ở Australia cho R&D có tác

động rộng rãi đến cộng đồng, ảnh hưởng đến mọi ngành nghề và lĩnh vực.

Những tác động này được đánh giá bằng cách sử dụng một mô hình tính toán

cân bằng chung (CGE), trong đó ước tính lợi nhuận ròng cho nền kinh tế là

7.5 tỉ trong giai đoạn được đánh giá - đóng góp khoảng 0,03 % vào tăng

trưởng GDP mỗi năm. So với đầu tư của Chính phủ Australia, các chương

trình CRC đã tạo ra một lợi ích kinh tế ròng cho cộng đồng, vượt quá chi phí

của nó theo hệ số 3.1.

Cần lƣu ý là lợi nhuận từ các dự án đơn lẻ trong và giữa những CRCs

thay đổi rất lớn và thời gian trung bình cần có từ khi bắt đầu một CRC đến

các thành tựu của một tác động kinh tế có thể định lƣợng đƣợc là chín năm.

Những phát hiện này có ý nghĩa đối với bất kỳ chính phủ nào dự tính thiết lập một hệ thống đổi mới có thể bao gồm một chƣơng trình giống nhƣ CRC.29

3.1.2. Kinh nghiệm hoạt động của Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công

nghiệp Liên bang

Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Liên bang CSIRO

(Commonwealth Scientific and Industrial Research Organization) là cơ quan

nghiên cứu KH&CN Quốc gia Australia thành lập năm 1926. Hiện nay,

CSIRO có hơn 5.000 nhân viên đang làm việc, là các Giáo sƣ, Tiến sĩ, các

nhà nghiên cứu, chuyên gia tập trung làm việc tại 55 trung tâm nghiên cứu

toàn Australia mục tiêu hỗ trợ mục tiêu đổi mới của Australia và cho cộng

72

đồng doanh nghiệp, ngoài ra còn đào tạo nghiên cứu sinh Tiến sĩ, Thạc sĩ. 29 Professor Tony Peacock, Chief Executive Officer of the Cooperative Research Centres Association (Australia), Chương trình “Các Trung tâm nghiên cứu hợp tác của Úc”: Những bài học từ việc tiếp cận thành công đến nghiên cứu ứng dụng diện rộng và khuyến nghị cho Việt Nam, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015

CSIRO là một trong những tổ chức nghiên cứu khoa học đa ngành và lớn

nhất trên thế giới. Các khoa học gia và các nhà nghiên cứu của tổ chức này

làm việc sát cánh với các đồng nghiệp trên thế giới trong nhiều dự án khác

nhau, từ trung tâm NASA của Mỹ, qua các trạm nghiên cứu năng lƣợng sạch

ở Châu Âu, đến phòng thí nghiệm với kính thiên văn GMT tại Chilê, hay các

trạm nghiên cứu ở Nam cực và rất nhiều Viện nghiên cứu và trƣờng Đại học của Việt Nam30. CSIRO tham gia rất nhiều công trình nghiên cứu khắp nƣớc

Úc, trong rừng già của Indonesia, trên các khu rừng hẻo lánh ở Tây Nguyên

hay tại các vùng sâu vùng xa ở Tây Bắc Bắc bộ Việt Nam, và hợp tác với các

đối tác thực hiện các công trình nghiên cứu ở nhiều nơi khác trên thế giới.

Ở cấp Nhà nƣớc liên bang, Hội đồng Nghiên cứu Australia (Australian

Research Council - ARC), một cơ quan của Khối Khoa học và Nghiên cứu

thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Australia (Department of Education and

Training - DET) có trách nhiệm hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu hàng đầu và

xây dựng năng lực nghiên cứu của Australia qua chƣơng trình phát triển kỹ

năng nghiên cứu và qua sự hợp tác chặt chẽ giữa các lĩnh vực nghiên cứu

khác nhau. Cơ quan này đặc biệt tập trung vào tài trợ các dự án nghiên cứu

nhằm nắm bắt đƣợc những khám phá mới và những hiểu biết mới; cung cấp

những sáng kiến cho các trƣờng đại học để xây dựng đối tác với các tổ chức

khác; và tìm kiếm, nuôi dƣỡng và xây dựng nguồn nhân lực có chất lƣợng

hàng đầu trong nghiên cứu. ARC cũng chia các lĩnh vực nghiên cứu ra làm 8

nhóm ngành chuyên môn và trong mỗi nhóm tự mời các nhà khoa học hàng

đầu trong nƣớc và trên thế giới tham gia trong hội đồng tƣ vấn. Nhóm các nhà

nghiên cứu khoa học này sẽ xây dựng nên những tiêu chí để đánh giá các

công trình nghiên cứu do ARC tài trợ, đánh giá và xếp loại các tạp chí nghiên

cứu khoa học trong từng chuyên ngành xuất bản trên thế giới có đăng các

công trình nghiên cứu có các nhà khoa học Australia tham gia. Trong tài khóa

30 http://vacat.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=237&Itemid=302

73

2009-2010, Chính phủ Australia hỗ trợ cho hoạt động khoa học và đổi mới

một ngân sách khoảng 8.6 tỷ đô la Úc, tƣơng đƣơng với 129.000 tỷ đồng Việt

Nam, trong đó ngân sách dành cho nghiên cứu trong khu vực đại học là hơn

2.3 tỷ đô la Úc hay 34.500 tỷ đồng.

Với mục tiêu định hƣớng nhƣ trên, các nhóm nghiên cứu CSIRO hiện

nay không cơ cấu theo các lĩnh vực truyền thống mà chuyển sang tập trung

vào giải quyết những thách thức lớn nhất đối với các quốc gia và có ảnh

hƣởng lớn đến kinh tế tri thức toàn cầu trên 9 lĩnh vực: Nông nghiệp; An toàn

sinh học; Năng suất kỹ thuật số; Năng lƣợng; Thực phẩm và Dinh dƣỡng;

Đất và Nƣớc; Chế tạo; Tài nguyên khoáng sản; Đại dƣơng và Khí quyển.

Cụ thể, CSIRO tập trung các công trình nghiên cứu của mình vào các

ngành nhƣ năng lƣợng sạch, biến đổi khí hậu, xanh hóa sa mạc, duy trì rừng

nhiệt đới, giải pháp bảo vệ dãy san hô lớn nhất thế giới tại Queensland, sản

xuất vật liệu mới, khai thác công nghiệp mỏ và tài nguyên thiên nhiên, chế tạo,

ứng dụng polymer trong công nghệ làm tiền giấy (nhƣ giấy bạc Việt Nam),

công nghệ thông tin và truyền thông, thực phẩm, canh tác nông nghiệp…

CSIRO với khả năng sáng tạo xuất sắc tạo ra những thành tựu sáng chế

nổi bật cho nhân loại và Australia. Điển hình nhƣ WIFI hotspot, tiền polymer,

kính áp tròng (contact lence), chế độ ăn kiêng (diet balance)…

Ngoài những phát kiến nổi bật này, nhìn chung các nghiên cứu của tổ

chức này rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân Australia và toàn nhân loại.

Hay nói một cách khác, tính thực tiễn của các nghiên cứu của CSIRO rất cao

và điều này đã làm cho Chính phủ Australia đầu tƣ rất nhiều kinh phí cho nó.

Việc định hƣớng nghiên cứu đi từ những vấn đề nan giải trong y học cho bệnh

nhân ung thƣ, trong nông nghiệp và nhất là đến các vấn đề nóng toàn cầu nhƣ

sự kiện tìm kiếm máy bay MH370. Một số trƣờng hợp điển hình về thành

công trong nghiên cứu của CSIRO nhƣ: Chế tạo Rồng bay đƣợc cho bé gái 7

tuổi; In pin mặt trời nhƣ in tiền; Nhân giống thành công lúa mì chịu đƣợc mặn31; Ghép xƣơng ức và xƣơng lồng ngực in 3D bằng Titan cho bệnh nhân

74

ung thƣ; Công nghệ lập bản đồ đáy biển để tìm máy bay mất tích và nổi bật 31 http://www.vaas.org.vn/nhan-giong-thanh-cong-lua-mi-chiu-duoc-man-a7412.html

nhất là Chiến thắng về quyền sáng chế wi-fi của CSIRO đã mang về cho tổ

chức này gần 430 triệu USD.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, đƣợc biết, đất mặn ảnh hƣởng đến hơn

20% đất nông nghiệp của thế giới, gây khó khăn cho hệ thống tƣới tiêu trong

nông nghiệp nhất là ở những vùng nhiễm mặn cao. Ở Mỹ, một nƣớc xuất

khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, mỗi năm thiệt hại do nhiễm mặn lên đến 12 tỷ

USD. Nhƣ vậy việc nhân giống thành công lúa mì chịu đƣợc mặn sẽ mang lại

lợi ích rất cao trong trong sản xuất nông nghiệp toàn cầu.

CRISO tập trung vào khai thác các lĩnh vực KH&CN nhƣ tài sản trí

tuệ và tài sản vô hình. Ngoài việc cung cấp một loạt các tùy chọn cấp phép (li-

xăng) và phƣơng pháp tiếp cận đƣợc thiết kế riêng cho các tình huống khác

nhau cho từng công nghệ mà CSIRO phát triển để chuyển giao cho doanh

nghiệp đƣợc công bố rộng rãi trên website, tổ chức này cũng hỗ trợ các doanh

nghiệp vừa và nhỏ của Australia tiếp cận đúng chuyên môn và đề xuất các

giải pháp để phát triển lợi thế cạnh tranh của họ. CSIRO nhận đƣợc ½ ngân

sách từ Chính phủ Australia và ½ ngân sách từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Theo thống kê Australia có khoảng 16.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, với

doanh thu trên 100 triệu đô la Úc khoảng 70% doanh nghiệp và 20 - 30 triệu

đô la Úc khoảng 30% doanh nghiệp.

Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ - CSIRO’s SME Engagement

Centre, chỉ với 07 nhân sự quản lý 06 bang tại Australia. Mục tiêu của Trung

tâm là giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo tài sản trí tuệ để nâng cao tính

cạnh tranh sản phẩm, và khai thác các lĩnh vực nhƣ công nghiệp, nông nghiệp,

công nghệ khai thác khoáng sản… Kết quả hoạt động trong 04 năm của Trung

tâm là 230 dự án với doanh số bình quân khoảng 140.000 đô la Úc/dự án.

Phƣơng pháp làm việc chủ yếu là đi thăm các doanh nghiệp vừa và nhỏ

(thông thƣờng 01 dự án cần thăm và tìm hiểu 15 doanh nghiệp vừa và nhỏ) để

tìm ra các vấn đề kỹ thuật cần hỗ trợ, qua đó thông qua các trƣờng Đại học và

75

các tổ chức nghiên cứu thuộc Chƣơng trình kết nối nghiên cứu của Chính phủ

Australia (Australia Government Research Connection Program) để tìm giải

pháp hỗ trợ về kỹ thuật nhằm đạt đƣợc một lợi thế cạnh tranh thông qua việc

tiếp cận các nghiên cứu và công nghệ tiên tiến, hoặc tập trung vào việc giúp

các doanh nghiệp phối hợp với các ngành nghiên cứu để phát triển các ý

tƣởng mới với tiềm năng thƣơng mại và để xác định những lỗ hổng kiến thức

đang hạn chế sự tăng trƣởng kinh doanh. Các tổ chức nghiên cứu sẽ hỗ trợ

doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng năng suất và hiệu quả, giảm chi phí, phát triển

khả năng và các sản phẩm mới và đồng thời tạo cho doanh nghiệp thêm bền

vững với môi trƣờng. Một số dự án tiêu biểu có thể kể tới nhƣ:

- Trung tâm, với hỗ trợ của đội ngũ nghiên cứu CSIRO, đã giúp công

ty thiết bị y tế Admedus của Australia khám phá thêm xung lực mới cho sản

phẩm CardioCel của họ trong lĩnh vực cho sức khỏe tim mạch.

- Dự án ASPIRE đƣợc phát triển để tạo giải đáp cho “cuộc chiến” giữa

các công ty sản xuất có liên quan với sự gia tăng các bãi rác, với hội đồng địa

phƣơng của họ tại bang Victoria về chi phí xử lý chất thải. Kết quả dự án đã

chứng minh một hệ thống công nghệ thông tin dựa trên web có thể mang lại

lợi ích cho các doanh nghiệp nhỏ, chẳng hạn nhƣ: giảm chi phí chôn lấp; tạo

ra các cơ hội kinh doanh mới và việc làm; nâng cao nhận thức về các nguồn

chất thải; xác định các công ty tiềm năng để trao đổi tài nguyên và lựa chọn

thay thế cho nguồn lực xử lý chất thải; nâng cao kiến thức về các loại trao đổi

tài nguyên tiềm năng sẵn có.

- Dự án giúp đỡ Công ty Moira Mac cách mạng hóa việc sản xuất các

thức ăn từ thịt đã chín trong siêu thị. Đây là công ty đầu tiên tại Australia sử

dụng công nghệ tiệt trùng Pasteur áp suất cao (HPP) để phá hủy các vi khuẩn

32 Vũ Văn Khiêm, Nguyễn Thị Hoàng Liên (2015), Kinh nghiệm của Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghiệp Liên bang Úc CSIRO trong việc định hướng nghiên cứu và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015

76

có hại trong thực phẩm và kéo dài thời hạn sử dụng mà không có hóa chất bảo quản hay dùng một hàm lƣợng muối cao để xử lý.32

3.1.3. Kinh nghiệm tổ chức trong giai đoạn ươm tạo công nghệ qua mô

hình “công viên công nghệ” 33

Triple helix là mô hình hệ lý thuyết xoắn ba, giải quyết mối quan hệ

giữa nhà nƣớc - khu vực hàn lâm - khu vực doanh nghiệp trong việc đề xuất

giải pháp, mô hình đối với CGCN. Trong mục này, Luận văn khảo sát kinh

nghiệm của Australia ở giai đoạn ƣơm tạo công nghệ.

Công viên công nghệ Australia (Australian Technology Park - ATP)34

đƣợc coi là một trung tâm thƣơng mại và công nghệ thuộc Sydney, bang New

South Wales, Australia. Nó bắt đầu hoạt động từ năm 1995, gồm các công ty

ƣơm tạo công nghệ cao (start-up hi-tech companies), các doanh nghiệp công

nghệ sinh học và các doanh nghiệp vệ tinh (spin-offs) thuộc các viện nghiên

cứu của các trƣờng đại học. Mục đích của ATP là tập hợp các nhà nghiên cứu

và các doanh nghiệp để thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu.

Công viên công nghệ và các tiêu chí đánh giá hiệu quả của các công

viên công nghệ tại Australia

Các nhà khoa học đã có những quan niệm khác nhau khi nghiên cứu cơ

sở lý luận về sự hình thành, tổ chức và hoạt động của công viên công nghệ.

Castells và Hall (1994) đã xác định ba nguyên nhân cho việc thiết lập

công viên công nghệ, đó là tái công nghiệp hóa (reindustrialization), phát

triển khu vực và sức mạnh tổng hợp sáng tạo, đồng thời cũng cho rằng, công

viên công nghệ đƣợc nhìn nhận nhƣ là nơi thích hợp cho sự phát triển của các

33 Trong mục này, tác giả Luận văn có tham khảo mục “Công viên công nghệ” tại Australia và những đề xuất cho “cơ sở ươm tạo công nghệ” tại Việt Nam của Trần Văn Hải (2015) trích trong“Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, thuộc Nhiệm vụ Hợp tác quốc tế về Khoa học và Công nghệ theo Nghị định thƣ. 34 Trần Văn Hải (2015) dịch “Technology Park” là “công viên công nghệ” để chỉ Technology Park ở nƣớc ngoài. Đối với các cơ sở ở trong nƣớc, tác giả dùng thuật ngữ “Cơ sở ươm tạo công nghệ” cho phù hợp với quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ (2006) và Thông tƣ 27/2013/TT-BKHCN. 35 Castells M & Hall P.G (1994), Technopoles of the World: The making of 21st Century Industrial Complexes, New York: Routledge.

77

doanh nghiệp nhỏ và vừa.35

Theo Basile (2011), Hiệp hội quốc tế các công viên khoa học (The

International Association of Science Parks) đã đƣa ra nội hàm của thuật ngữ

“công viên khoa học” là sự khởi nghiệp dựa trên liên kết hoạt động của các

trƣờng đại học, trung tâm nghiên cứu và các tổ chức khác trong hệ thống giáo

dục đại học, đƣợc thiết kế để khuyến khích sự hình thành và phát triển của các

ngành công nghiệp dựa trên tri thức hay doanh nghiệp dựa trên giá trị cao

(high value), với các nhà quản lý tích cực tham gia trong việc thúc đẩy CGCN đƣợc hình thành từ công viên khoa học.36

Trong tài liệu của UNESCO (2012) sử dụng đồng thời hai thuật ngữ:

công viên khoa học, cơ sở ƣơm tạo công nghệ khi mô tả Hoa Kỳ có hơn 150

công viên khoa học (science parks) và có trên 1.000 cơ sở ƣơm tạo (incubators).37 Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, sự khác biệt giữa công viên khoa

học và cơ sở ƣơm tạo công nghệ trƣớc hết ở quy mô.

Các nhà khoa học Australia sử dụng thuật ngữ công viên công nghệ

(Technology Park) với nội hàm tƣơng tự nhƣ công viên khoa học đã nêu.

Nghiên cứu của Radwan Kharabsheh38 đã đƣa ra 05 tiêu chí để đánh giá

hiệu quả hoạt động của các công viên công nghệ tại Australia là:

- Hoạt động đổi mới và khả năng sáng tạo nên tài sản trí tuệ của các

viện nghiên cứu thuộc các trƣờng đại học trong công viên công nghệ;

- Khả năng thu hút vốn tài trợ từ các doanh nghiệp đầu tƣ cho hoạt

động nghiên cứu và triển khai (R&D);

- Khả năng tạo nên giá trị của công nghệ đƣợc sáng tạo trong công viên

công nghệ;

- Số lƣợng nhân công địa phƣơng, trong nƣớc và năng lực của họ để

36 Basile A (2011), “Networking System and Innovation Outputs: The Role of Science and Technology Parks”, International Journal of Business and Management, 6(5), 3-15. 37 UNESCO (2012), Science policy and capacity building 38 Radwan Kharabsheh (2012), “Critical Success Factors of Technology Parks in Australia”, International Journal of Economics and Finance, Vol.4, No.7, July 2012.

78

sáng tạo nên tài sản trí tuệ trong công viên công nghệ;

- Số lƣợng công nghệ đƣợc chuyển giao và lợi nhuận thu đƣợc do

CGCN.

Radwan Kharabsheh cũng chỉ ra 05 yếu tố tạo nên sự thành công của

các công viên công nghệ tại Australia, đó là:

- Chấp nhận rủi ro và tinh thần doanh thƣơng39;

- Tự trị trong quản lý công viên công nghệ (An Autonomous Park

Management). Xin lƣu ý Radwan Kharabsheh dùng thuật ngữ Autonomous có

nghĩa là “tự trị”;

- Môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động sáng tạo;

- Sự tham gia sáng tạo của các công ty quốc tế;

- Phân chia lợi nhuận.

3.1.4. Kinh nghiệm tổ chức trong giai đoạn thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong các trường đại học 40

Trong mục này, Luận văn khảo sát kinh nghiệm của Australia ở giai

đoạn ƣơm thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu.

Australia có 05 trƣờng đại học trong top 100 trƣờng đại học hàng đầu

thế giới, đó là University of Melbourne (xếp thứ 39), Australian National

University (50), University of Queensland (60), University of New South

Wales (77) và Monash University (80). Việc đƣợc xếp thứ hạng cao trong

trƣờng đại học hàng đầu thế giới có nhiều tiêu chí:

- Thu hút sinh viên quốc tế theo học, ví dụ University of Melbourne có

39 Radwan Kharabsheh (2012) sử dụng thuật ngữ entrepreneurism. Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, Đào Thanh Trƣờng (2015), Doanh nghiệp KH&CN: từ lý luận đến thực tiễn, đã dịch entrepreneuriship là tinh thần doanh thƣơng.

40 Trong mục này, tác giả Luận văn có tham khảo mục “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng trong các trường đại học tại Australia” của Trần Văn Hải (2015) trích trong“Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, thuộc Nhiệm vụ Hợp tác quốc tế về Khoa học và Công nghệ theo Nghị định thƣ. 41 Số liệu đƣợc trích dẫn từ nguồn: World Rankings of Australian Universities 2015

79

13.657 sinh viên quốc tế trên tổng số 51.263 sinh viên, Monash University có 21.797 sinh viên quốc tế trên tổng số 63.877 sinh viên41;

- Số lƣợng xuất bản phẩm, tiêu chí hệ số trích dẫn kết quả nghiên cứu,

tiêu chí về số lƣợng phát minh từ kết quả nghiên cứu cơ bản;

- Thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng…

Cơ quan Sở hữu Trí tuệ thuộc Bộ Công nghiệp và Khoa học Australia

đã lựa chọn hoạt động nghiên cứu ứng dụng của 12 trƣờng đại học thuộc

Australia trong khoảng thời gian từ 01/01/2007 đến 30/6/2012, bao gồm:

Curtin University, University of South Australia, RMIT University,

University of Technology Sydney, Queensland University of Technology,

The University of Queensland, The University of Melbourne, The University

of Western Australia, The University of New South Wales, The University

of Newcastle, Charles Darwin University, The University of Tasmania để

đánh giá tác động của các sáng chế thuộc quyền sở hữu của các trƣờng đại học này.42

Hội đồng nghiên cứu Australia (Australian Research Council) cho

rằng: thuật ngữ thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu gắn với sáng chế và đổi

mới, quá trình đổi mới công nghệ bao gồm các giai đoạn: nghiên cứu và triển

khai, phát triển công nghệ, thƣơng mại hóa, trong đó phát triển công nghệ

(technology development) là độc lập với nghiên cứu và triển khai (R&D), mặc dù cả hai cụm từ này đều có thành tố “development”43.

Khảo sát tại 12 trƣờng đại học cho thấy có tổng cộng 4.038 patent của

1.293 tác giả/nhóm tác giả tập trung vào các lĩnh vực:

- Dƣợc phẩm: 1.255 patent;

- Công nghệ y tế: 438 patent;

- Kỹ thuật hóa học: 292 patent;

42 Tham khảo từ: Intellectual Property Australia, Department of Industry and Science (10.2013), Research Performance of University Patenting in Australia 43 Cripps David et al., (1999), University research: technology transfer and commercialisation practices, Canberra AusInfo. ISBN 0642239193 đã viết: “Invention + Commercialisation = Innovation”, “R&D + Technology Development + Commercialisation = Technological Innovation”.

80

- Công nghệ sinh học: 278 patent;

- Đo lƣờng (measurement): 262 patent;

- Vật liệu, luyện kim: 182 patent;

- Hóa thực phẩm: 173 patent;

- …

- Ít nhất là sáng chế liên quan đến các chi tiết cơ khí (mechanical

elements): 03 patent.44

Nhƣ vậy, có thể thấy thế mạnh trong nghiên cứu ứng dụng của các

trƣờng đại học thuộc Australia tập trung vào các lĩnh vực y - dƣợc, hóa -

sinh, cụ thể là dƣợc phẩm, công nghệ y tế, kỹ thuật hóa học, công nghệ sinh

học. Đây là điểm cần lƣu ý cho các nghiên cứu về CGCN từ Australia vào

Việt Nam.

Ngoài tiêu chí thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu, việc đo lƣờng kết

quả nghiên cứu trong các trƣờng đại học còn đƣợc tính trên các tiêu chí chủ

yếu sau đây:

a. Số lượng xuất bản phẩm liên quan đến sáng chế cho mỗi năm

Khảo sát cho thấy có 4.056 tài liệu sáng chế đƣợc công bố. Đây là

nguồn tài nguyên về học thuật phục vụ cho đào tạo và các nghiên cứu tiếp

theo của trƣờng đại học và các tổ chức R&D khác.

b. Sự phân bố sáng chế trên các lĩnh vực công nghệ khác nhau

Theo quy định của WIPO thì có 35 lĩnh vực công nghệ khác nhau45,

nhƣng các sáng chế trong các trƣờng đại học của Australia chỉ tập trung vào

33 lĩnh vực công nghệ và phân bố không đều. Nhƣ đã phân tích ở trên, các

sáng chế tập trung chủ yếu vào lĩnh vực y - dƣợc, hóa - sinh, có lĩnh vực rất ít

sáng chế, ví dụ liên quan đến các chi tiết cơ khí chỉ có 03 patent.

Xét trên khía cạnh thƣơng mại thì việc sáng tạo nên sáng chế đáp ứng

nhu cầu của thị trƣờng quan trọng hơn việc sáng tạo nên sáng chế “phủ kín”

44 Nguồn: WIPO (2013), Distribution of university patent documents across the WIPO technology fields, by university 45 WIPO (2008), New concept of technology classification

81

các lĩnh vực công nghệ mà không/ít mang lại hiệu quả thƣơng mại.

c. Tần số trích dẫn patent theo lĩnh vực công nghệ

Khảo sát cho thấy:

- Tần số trích dẫn trung bình cho mỗi patent thuộc lĩnh vực công nghệ

y tế là 63;

- Tần số trích dẫn trung bình cho mỗi patent thuộc lĩnh vực dƣợc phẩm

là 43;

- Tần số trích dẫn trung bình cho mỗi patent thuộc lĩnh vực điện máy,

thiết bị và năng lƣợng (electrical machinery, apparatus and energy) là 31;

- Tần số trích dẫn trung bình cho mỗi patent thuộc lĩnh vực đo lƣờng

là 22;

Điểm đáng lƣu ý về đánh giá tác động của sáng chế thông qua tần số

trích dẫn thì nhiều lĩnh vực công nghệ có tần số trích dẫn patent bằng 0, ví dụ

lĩnh vực công nghệ điều khiển (control), công nghệ xử lý (handling), các

phƣơng pháp công nghệ thông tin cho quản lý (IT methods for management),

các chi tiết cơ khí (mechanical elements).46

Về đánh giá hiệu quả của nghiên cứu ứng dụng thông qua tần số trích

dẫn, tác giả bài viết này (PGS. TS. Trần Văn Hải) cho rằng khó có thể chính

xác, bởi vì tần số trích dẫn cho mỗi patent không phụ thuộc vào số lƣợng

patent thuộc lĩnh vực công nghệ nào, ví dụ số lƣợng patent thuộc lĩnh vực

dƣợc phẩm đứng đầu (gấp 03 lần lĩnh vực công nghệ y tế) nhƣng tần số trích

dẫn cho mỗi patent thuộc lĩnh vực dƣợc phẩm lại đứng sau lĩnh vực công

nghệ y tế.

d. Hợp tác nghiên cứu và cùng áp dụng sáng chế

Các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu có sự hợp tác với nhau trong

46 Intellectual Property Australia, Department of Industry and Science (10.2013), Research Performance of University Patenting in Australia: Average citation counts per patent family per technology field.

82

nghiên cứu từ bƣớc khởi đầu nhƣ xác định sự kiện khoa học, tổ chức hội thảo

khoa học trong quá trình nghiên cứu, đây là việc bình thƣờng trong nghiên

cứu cơ bản hoặc trong nghiên cứu ứng dụng thuộc lĩnh vực khoa học xã hội

và nhân văn, vì các kết quả nghiên cứu dạng này không liên quan đến thƣơng

mại hóa.

Nhƣng đối với kết quả nghiên cứu ứng dụng có thể thƣơng mại hóa thì

việc hợp tác trong nghiên cứu sẽ dẫn đến hệ quả pháp lý là các trƣờng đại học

cùng nghiên cứu một giải pháp kỹ thuật sẽ là đồng chủ sở hữu kết quả nghiên

cứu đó, nhƣng pháp luật khó có thể xác định tỷ lệ % của kết quả thƣơng mại

hóa đối với kết quả nghiên cứu.

Kinh nghiệm của Australia trong vấn đề này đƣợc giải quyết bằng cách

các đồng sở hữu patent cùng áp dụng sáng chế.

Việc hợp tác nghiên cứu không chỉ giới hạn bởi các trƣờng đại học

thuộc Australia mà còn mở rộng quan hệ nghiên cứu với các tổ chức R&D

nƣớc ngoài, tổ chức R&D liên quốc gia, nhƣ CSL Group. CSL Group hoạt

động nghiên cứu trong lĩnh vực y tế và sức khỏe con ngƣời, có trụ sở chính

đặt tại Australia, Đức, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ, tập hợp hơn 13.000 nhân viên làm

việc tại 27 quốc gia. Các sản phẩm R&D của CSL Group bao gồm các dẫn

xuất huyết tƣơng, vắc xin, chống nọc độc, thuốc thử nuôi cấy tế bào đƣợc sử

dụng trong nghiên cứu và sản xuất trong y tế và di truyền.47 Tiếp theo là hoạt

động hợp tác nghiên cứu giữa các trƣờng đại học Australia trong tổ chức

nghiên cứu khoa học và công nghiệp toàn Australia (Commonwealth

Scientific and Industrial Research Organisation - CSIRO), điển hình trong các

tổ chức R&D hoạt động có hiệu quả trong hợp tác nghiên cứu là Viện nghiên

cứu y học Walter and Eliza Hall (Walter and Eliza Hall Institute of Medical

Research) với University of Melbourne và Bệnh viện Hoàng gia Melbourne

47 CSL Limited (2012), Stock Quote & Company Profile – Businessweei investing.businessweek.com. Retrieved 13 August 2012

83

(The Royal Melbourne Hospital).

e. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu thông qua doanh nghiệp vệ tinh

- Công ty cổ phần mẹ

Holding companies trong thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu là một

loại hình doanh nghiệp vệ tinh của các tổ chức R&D, Holding companies

không tham gia nghiên cứu nhƣng lại đầu tƣ để nắm quyền sở hữu các sáng

chế đƣợc hình thành từ kết quả nghiên cứu, việc đầu tƣ của Holding

companies cho tổ chức R&D nhằm hai mục đích: trƣớc hết là cung cấp tài

chính cho hoạt động R&D, hai là để giảm thiểu rủi ro công nghệ cho quá trình

nghiên cứu. Nhƣ đã phân tích ở trên, quá trình thƣơng mại hóa có thể có hai

loại rủi ro, là rủi ro công nghệ và rủi ro thƣơng mại, Holding companies tồn

tại nhƣ một loại hình doanh nghiệp vệ tinh bên cạnh tổ chức R&D chịu cả hai

loại rủi ro này về mặt tài chính.

Điển hình về hoạt động có hiệu quả của Holding companies cần phải

nhắc đến nhƣ UQ Holdings Pty Ltd, UniQuest Pty Ltd, IMBcom Pty Ltd,

JKTech Pty Ltd… thuộc University of Queensland, các doanh nghiệp vệ tinh

này không chỉ đầu tƣ cho các tổ chức R&D thuộc University of Queensland

mà còn có các đối tác là các doanh nghiệp vệ tinh thuộc các trƣờng đại học

khác nhƣ University of Melbourne, the University of New South Wales and

Westscheme.

- Các công ty chuyển giao công nghệ

Các công ty CGCN tồn tại bên cạnh các tổ chức R&D với mục đích

chuyển giao sáng chế từ khu vực R&D ra khu vực sản xuất.

Công ty CGCN không đơn thuần chỉ tồn tại với mục đích môi giới

CGCN, mà còn đầu tƣ mạo hiểm cho hoạt động nghiên cứu của các tổ chức

R&D thuộc các trƣờng đại học, điển hình về hoạt động có hiệu quả trong lĩnh

vực đầu tƣ mạo hiểm cho CGCN là Melbourne Ventures Pty Ltd thuộc

University of Melbourne, UniQuest Pty Limited và BioHerbicides Australia

84

Pty Ltd thuộc University of Queensland.

- Các công ty vệ tinh trực tiếp nghiên cứu

Các công ty vệ tinh đầu tƣ trực tiếp là một bộ phận của tổ chức R&D với

mục đích tự đầu tƣ cho nghiên cứu, tạo nên sáng chế, làm các thủ tục đăng ký

sáng chế để đƣợc cấp patent, trực tiếp đƣa sáng chế vào áp dụng công nghiệp

hoặc chuyển giao sáng chế cho các tổ chức có nhu cầu sử dụng sáng chế.

Ngoài ra còn có các loại hình doanh nghiệp vệ tinh khác hoạt động

thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu, nhƣ các công ty vệ tinh (Spin-ins), các

công ty ƣơm tạo công nghệ (Start-ups), các công ty gián tiếp ƣơm tạo công

nghệ (Indirect spin-out companies)…

Kinh nghiệm tham gia GRA của Australia nhƣ đã phân tích ở trên là

một phƣơng án phù hợp cho Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả hoạt

động CGCN.

3.2. Hình thành thiết chế tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động chuyển giao công nghệ

3.2.1. Nguyên tắc và mục đích tham gia Liên minh nghiên cứu toàn cầu

Nhƣ trong chƣơng 2 đã phân tích kết quả phỏng vấn chuyên gia hợp tác

quốc tế về KH&CN, cho thấy sự cần thiết phải hội nhập quốc tế về KH&CN

sâu rộng và toàn diện hơn, để buộc Việt Nam phải tiến tới những chuẩn quản

lý, chuẩn nguyên tắc để có môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh.

a. Nguyên tắc tham gia hợp tác

Nhƣ đã nói trong mục tiểu kết chƣơng 2, dẫn lời đề xuất giải pháp của

chuyên gia hợp tác quốc tế về KH&CN, tác giả Luận văn nhận thấy nguyên

tắc tham gia hợp tác trong GRA là quan hệ với những đối tác mạnh hơn, trên

cơ sở trao đổi những thế mạnh của Việt Nam và nhận chuyển giao kết quả

nghiên cứu thuộc thế mạnh của đối tác.

Cần phải thấy rằng, trong hợp tác quốc tế về KH&CN cũng đƣợc giải

quyết theo nguyên tắc của nền kinh tế thị trƣờng đúng nghĩa, không đối tác

nào lại “cho không” các đối tác khác, trong GRA nhất thiết phải có quan hệ

85

trao đổi.

Thế mạnh của Việt Nam về KH&CN có thể là các kết quả nghiên cứu

cơ bản tại các đại học nhƣ Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành

phố Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam…

Khi tham gia GRA, Việt Nam có thể trao đổi, nhận về các kết quả

nghiên cứu của các đối tác.

b. Mô hình tham gia

Nhƣ mục 3.2. Luận văn đã khảo sát kinh nghiệm hoạt động của

Chƣơng trình Các Trung tâm hợp tác nghiên cứu của Australia (Cooperative

Research Centres Programme - CRCs).

Khi khảo sát CRC, tác giả Luận văn nhận thấy mô hình CRC đƣợc tổ

chức trên cơ sở mô hình về KH&CN mà các đối tác của Australia trong GRA

đã sử dụng, có thể dẫn chứng:

- Chƣơng trình Hỗ trợ dài hạn (longer-term support) nhƣ tại chƣơng

trình “Trung tâm Đổi mới (COI)” đƣợc cung cấp theo chu kỳ chín năm của

Nhật Bản;

- Quan hệ đối tác chiến lƣợc “Công nghiệp - học thuật” (Industry-

academic strategic partnerships) nhằm thúc đẩy mạnh sức sáng tạo hiện có

nhƣ mô hình “Leading Edge Clusters” của Cộng hòa Liên bang Đức;

- Vị trí lãnh đạo bởi ngành công nghiệp (Leadership by industry) nhƣ

trong chƣơng trình Mạng lƣới dẫn dắt kinh doanh của các Trung tâm Xuất sắc

“Business-Led Networks of Centres of Excellence” của Canada;

- Physical proximity nhƣ trong chƣơng trình “Catapult” của Anh.

c. Mục đích tham gia

Khi tham gia GRA, Việt Nam có thể phát triển hệ thống nghiên cứu

gắn với sản xuất, doanh nghiệp.

Có thể nghiên cứu mô hình về hoạt động nghiên cứu, đổi mới và

CGCN đƣợc khuyến khích tại các trƣờng đại học Australia với những lợi thế

và lợi ích của các bên tham gia quá trình CGCN giữa ba trụ cột chính: Đại

86

học - Nhà nƣớc - Doanh nghiệp. Đại diện khối đại học với các trƣờng danh

tiếng nhƣ Đại học quốc gia Australia (ANU), Trƣờng Đại học New

SouthWealth (NSWU), Trƣờng Đại học Sydney, Trƣờng Đại học Melbourne,

Trƣờng Đại học Tây Úc (AWU):

- Trƣờng đại học có đƣợc tài trợ từ nhà nƣớc và doanh nghiệp để làm

những gì trƣờng muốn làm, nghiên cứu phát triển, hoàn chỉnh công nghệ và

không ngừng đổi mới cho chu trình công nghệ tiếp theo;

- Phát triển quy mô của những nghiên cứu, phát triển công nghệ mà

trƣờng đại học có lợi thế;

- Đảm bảo đồng bộ đƣợc lợi ích cả về sở hữu trí tuệ và tài chính cho cá

nhân giáo sƣ, nhà nghiên cứu, tổ chức tƣ vấn chuyển giao, đạt hiệu quả cao từ

tài trợ và chính sách của Chính phủ, và cuối cùng xã hội nhận đƣợc sự đổi

mới, phát triển không ngừng dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến;

- Các trƣờng đại học có tác động mạnh đến chiến lƣợc, năng lực, quy

mô các chƣơng trình nghiên cứu quốc gia, tạo động lực đổi mới cho khu vực

doanh nghiệp;

- Chính từ hoạt động nghiên cứu và CGCN, các trƣờng đại học hàng

đầu của Australia đã nâng cao đƣợc năng lực và danh tiếng của trƣờng đại học

trong cả đào tạo và CGCN. Thể hiện sự hợp tác chặt chẽ trong đào tạo, nghiên

cứu và chuyển giao của nhà trƣờng với khối doanh nghiệp;

- Khả năng liên kết nghiên cứu và CGCN ngày càng đƣợc cải thiện,

nâng cao. Khuyến khích cạnh tranh giữa các trƣờng đại học với cộng đồng

kinh tế.

3.2.2. Thiết chế về mối quan hệ giữa Nhà nước - khu vực nghiên cứu - khu

vực doanh nghiệp khi tham gia Liên minh nghiên cứu toàn cầu

Nhƣ đã biết kinh nghiệm của Australia về liên kết giữa nhà nghiên cứu,

nhà nƣớc và doanh nghiệp trong sự phát triển chung của ngành KH&CN đã

đƣợc khẳng định là ƣu việt nhất trong xu thế phát triển hiện đại và điều này đã

đƣợc chứng minh qua sự phát triển KH&CN của các nƣớc lớn nhƣ Mỹ, Nhật

87

Bản, Hàn Quốc... Tuy nhiên vấn đề quan trọng nhất là nhà nghiên cứu sẽ

nghiên cứu lĩnh vực gì, khả năng thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu ra sao,

thị trƣờng và giá trị công nghệ đƣợc đánh giá nhƣ thế nào chỉ có câu trả lời

thỏa đáng khi có sự liên kết chặt chẽ giữa ba nhà và có sự phân định rõ ràng

vai trò, nhiệm vụ của từng đối tƣợng trong mối liên kết này, việc phân định

này cũng nhằm phát huy đƣợc tối đa năng lực của từng đối tƣợng trong mối

liên kết tổng thể.

a. Mối quan hệ giữa nghiên cứu và doanh nghiệp

Đây là hai tác nhân chính trong mối liên kết ba nhà. Có thể nói, doanh

nghiệp là đối tƣợng tiên phong, là động cơ thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ.

Doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nhu cầu công

nghệ, tạo xu hƣớng nghiên cứu, hỗ trợ đầu ra cho các kết quả nghiên cứu và

từng bƣớc đƣa các sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu thƣơng mại

hóa ra thị trƣờng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, mở ra nhiều cơ

hội phát triển cho doanh nghiệp Việt Nam nhƣng cũng đồng thời xuất hiện

nhiều thách thức từ sự cạnh tranh của doanh nghiệp nƣớc ngoài với công

nghệ hiện đại, có ngành KH&CN đi trƣớc Việt Nam nhiều năm. Nếu doanh

nghiệp Việt Nam không chủ động định hƣớng phát triển KH&CN, đi tắt đón

đầu để bắt kịp với quốc tế thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ đánh mất thị trƣờng

ngay trên sân nhà và phải chấp nhận quy luật đào thải của thị trƣờng.

Trong thị trƣờng công nghệ, doanh nghiệp đƣợc coi là “Bên cầu”, có

nhu cầu sử dụng công nghệ để đổi mới, làm tăng hiệu quả hoạt động sản

xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam, trên 97% các doanh nghiệp là các doanh

nghiệp nhỏ và vừa với nguồn lực về tài chính và nhân lực hạn hẹp để có thể

đầu tƣ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ hay

nhận CGCN. Những doanh nghiệp lớn có đủ tiềm năng kinh tế và cơ sở - vật

chất để nhận CGCN lại thƣờng lựa chọn công nghệ hoàn chỉnh từ nƣớc

ngoài mặc dù giá có thể cao hơn các công nghệ nghiên cứu tạo ra từ trong

nƣớc. Đó là vì công nghệ nƣớc ngoài thƣờng có thƣơng hiệu lớn, tính hiệu

88

quả đã đƣợc kiểm chứng và ít rủi ro hơn so với công nghệ, kết quả nghiên

cứu phát triển ở Việt Nam. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp nêu ý kiến rằng họ

không hề biết đến việc hiện nay Nhà nƣớc, viện, trƣờng có những công nghệ

gì và làm thế nào để tiếp cận nguồn thông tin về các công nghệ đó. Điều này

cho thấy vấn đề truyền thông cho kết quả nghiên cứu còn chƣa thật sự hiệu

quả và chƣa đến đƣợc đối tƣợng thật sự cần đến các kết quả nghiên cứu đó là

các doanh nghiệp.

Các nhà nghiên cứu có thể là cá nhân tự nghiên cứu hoặc thuộc trƣờng

đại học, viện nghiên cứu, tổ chức KH&CN… thuộc “Bên cung”.

- Các viện, trƣờng, tổ chức KH&CN của Việt Nam hằng năm thực hiện

khoảng 2.000 kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ các cấp.

Một số kết quả có tiềm năng thƣơng mại hóa và đƣợc tác giả, viện, trƣờng

chuyển giao cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nƣớc. Tuy nhiên số tỷ

lệ các nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng không cao. Nhiều đề tài, đề án đƣợc

xây dựng dựa trên thế mạnh nghiên cứu của nhà khoa học,viện, trƣờng mà

không dựa trên nhu cầu thực tế của thị trƣờng.

- Việc CGCN từ viện, trƣờng hay doanh nghiệp KH&CN cũng thƣờng

diễn ra dƣới dạng bán máy móc, thiết bị chứ ít khi dƣới dạng bán quyền sở

hữu, quyền sử dụng đối với kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ. Lý do nằm ở

chỗ khi các nhà khoa học tự bán sản phẩm của mình, họ gần nhƣ không có

các kỹ năng đàm phán, xây dựng hợp đồng CGCN, tài sản trí tuệ.

- Trƣớc khi có quy định về giao quyền của Luật khoa học và công nghệ

2013 thì vấn đề xác định quyền sở hữu đối với kết quả nghiên cứu chƣa đƣợc

rõ ràng, gây khó khăn cho việc các viện, trƣờng và các nhà khoa học thƣơng

mại hóa các kết quả nghiên cứu. Trong một số trƣờng hợp, những kết quả

nghiên cứu có khả năng ứng dụng đƣợc tác giả thực tế chuyển giao cho doanh

nghiệp nhƣng chƣa đƣợc thừa nhận bằng các văn bản pháp luật hoặc các

quyết định giao quyền chính thức, dẫn đến quyền lợi của tác giả cũng nhƣ các

89

tổ chức chủ trì không đƣợc đảm bảo.

- Hơn nữa, việc CGCN, kết quả nghiên cứu diễn ra một cách không

chính thống cũng gây khó khăn cho các cơ quan nhà nƣớc trong việc thống kê

số liệu giao dịch công nghệ trên thị trƣờng. Bản thân các cơ quan thực hiện

việc cấp kinh phí cho nhiệm vụ KH&CN cũng chỉ quản lý hoạt động nghiên

cứu cho đến khi nghiệm thu kết quả và không có cơ chế quản lý hoạt động

chuyển giao kết quả nghiên cứu.

Ngoài các viện, trƣờng, doanh nghiệp đã trƣởng thành, nhóm doanh

nghiệp khởi nghiệp (startup) cũng có khả năng tham gia tích cực vào thị

trƣờng KH&CN thông qua việc nhận đầu tƣ từ các nhà đầu tƣ, tổ chức đầu tƣ

cho các dự án công nghệ của mình hoặc thông qua các thƣơng vụ mua bán và

sáp nhập (M&A). Các doanh nghiệp khởi nghiệp có nhiều ý tƣởng công nghệ

sáng tạo và rất thiết thực, có thể nói họ là nhân tố rất tốt trong mối liên kết ba

nhà chính bởi họ nhận thức đƣợc lợi ích từ mối liên kết này.

b. Vai trò của Nhà nước

Trong liên kết ba nhà hiện nay, Nhà nƣớc đƣợc coi là cầu nối gắn kết,

đầu mối hỗ trợ các đối tƣợng còn lại, cung cấp dịch vụ tƣ vấn, dịch vụ CGCN;

hỗ trợ doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu hƣởng những chính sách ƣu đãi

nhằm thúc đẩy sự phát triển… Nhà nƣớc cần thông tin về thị trƣờng công

nghệ, thu thập thông tin, nghiên cứu, đƣa ra dự báo về cung cầu thị trƣờng

công nghệ, nhất là thị trƣờng trong nƣớc và từng bƣớc mở rộng ra thị trƣờng

quốc tế. Nhà nƣớc cần phải đƣa ra đƣợc những dự báo, đƣa ra những quy

hoạch tổng thể cho sự gắn kết ba nhà nói riêng và sự phát triển của KH&CN

đất nƣớc nói chung. Nghiên cứu các cơ chế, chính sách có lợi cho doanh

nghiệp và các nhà nghiên cứu đồng thời đảm bảo lợi ích giữa các bên và

những cơ chế chính sách tạo môi trƣờng pháp lý đảm bảo cạnh tranh lành

mạnh, bình đẳng cho doanh nghiệp. Thƣờng xuyên có các hoạt động tuyên

truyền phổ biến chính sách tới đông đảo các doanh nghiệp, nhà nghiên cứu…

90

Để thật sự Nhà nƣớc đóng vai trò chính trong mối liên kết ba nhà, Nhà nƣớc

cần phải xây dựng các hành động cụ thể nhƣ thiết lập hệ thống quỹ đầu tƣ

mạo hiểm để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và các cơ sở ƣơm tạo công

nghệ, ƣơm tạo doanh nghiệp KH&CN.

c. iện pháp gắn kết trong mối quan hệ giữa Nhà nước - khu vực nghiên

cứu - khu vực doanh nghiệp

Luận văn xin đề xuất các biện pháp sau đây:

- Xây dựng hệ thống thông tin thông suốt kết nối giữa nguồn cung và

cầu công nghệ cũng nhƣ để các bên biết đến các tổ chức, cá nhân trung gian

có thể hỗ trợ họ trong giao dịch công nghệ. Nhà nƣớc rất cần xây dựng một

đầu mối cơ sở dữ liệu về thị trƣờng công nghệ trong đó thông tin về các công

nghệ trong và ngoài nƣớc, về chủ thể cung công nghệ, chủ thể cầu công nghệ,

các cá nhân, tổ chức trung gian của thị trƣờng công nghệ trên cả nƣớc và các

chính sách của thị trƣờng phải đƣợc thƣờng xuyên cập nhật, sàng lọc và thể

hiện một cách dễ hiểu nhất cho ngƣời sử dụng.

- Tổ chức đào tạo, tập huấn cho các đối tƣợng thuộc mối liên kết ba nhà

tham gia thị trƣờng công nghệ. Đối với các đối tƣợng cung công nghệ nhƣ các

tổ chức KH&CN, cần tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn về các kỹ năng quản

lý và thƣơng mại hóa tài sản trí tuệ thành công để họ có thể thực sự trở thành

các tổ chức hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đối với các tổ

chức cầu công nghệ, cần đào tạo, tập huấn để họ hiểu đƣợc tầm quan trọng

của việc đổi mới công nghệ và đƣợc nâng cao kiến thức về việc tìm kiếm,

chọn lựa công nghệ phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh của mình. Cuối

cùng, đối với các tổ chức trung gian của thị trƣờng công nghệ, cần đào tạo,

tập huấn để họ nâng cao kỹ năng cung cấp các dịch vụ KH&CN nhƣ môi giới,

tƣ vấn, đánh giá, định giá công nghệ, ƣơm tạo công nghệ và ƣơm tạo doanh

nghiệp KH&CN.

- Ban hành chính sách để doanh nghiệp đặt hàng viện, trƣờng trong

hoạt động nghiên cứu. Có cơ chế ƣu đãi dành cho hoạt động nghiên cứu khoa

91

học, trích lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp hay những ƣu đãi

dành cho doanh nghiệp KH&CN cũng là những biện pháp gắn kết mối liên

kết ba nhà. Ngoài ra, các doanh nghiệp có hoạt động ứng dụng, đổi mới công

nghệ, liên kết, hợp tác nghiên cứu với viện, trƣờng đạt hiệu quả cần đƣợc vinh

danh để tạo động lực cho các doanh nghiệp khác học tập theo.

- Thu hút các nguồn vốn đầu tƣ mạo hiểm trong và ngoài nƣớc, trong

đó chuyển các khoản tài trợ của Nhà nƣớc thành đầu tƣ cho các dự án

KH&CN của nhà nghiên cứu, viện, trƣờng, doanh nghiệp KH&CN và doanh

nghiệp KH&CN tiềm năng. Doanh nghiệp sản xuất, thƣơng mại, với vai trò là

khách hàng của nhà nghiên cứu, viện, trƣờng, doanh nghiệp KH&CN khởi

nghiệp, sẽ rất khó để đƣa ra những khoản đầu tƣ lớn cho các dự án nghiên cứu

KH&CN nhƣng các tổ chức, cá nhân chuyên đầu tƣ mạo hiểm và Nhà nƣớc

thì có thể. Chính vì vậy, các cơ chế để thúc đẩy hoạt động đầu tƣ mạo hiểm

cho các dự án KH&CN có tiềm năng thƣơng mại hóa sẽ là biện pháp hiệu quả

để đƣa các kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ ra thị trƣờng. Bản thân Nhà nƣớc

nếu không chỉ tài trợ (nhƣ hiện nay) mà trở thành ngƣời đầu tƣ cho các dự án

KH&CN, doanh nghiệp KH&CN (nghĩa là có cơ chế thu lại lợi nhuận khi dự

án thành công) sẽ lấp đƣợc khoảng trống của thị trƣờng - khi doanh nghiệp

không chịu đƣợc rủi ro trong dự án KH&CN - nhƣng khi dự án thành công,

Nhà nƣớc sẽ tiếp tục có nguồn kinh phí để tái đầu tƣ cho nhiều hơn nữa các

hoạt động KH&CN.

- Xây dựng chính sách để các tổ chức, cá nhân tham gia vào thị trƣờng

công nghệ. Ví dụ cần đƣa các quy định về việc khuyến khích phát triển thị

trƣờng công nghệ vào Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi), Luật Ngân sách

nhà nƣớc (sửa đổi), Luật đầu tƣ (sửa đổi)… nhằm tạo nên một hệ thống chính

sách đồng bộ để phát triển thị trƣờng này không chỉ trong các văn bản pháp

48 Phạm Hồng Quất (2015), Vai trò liên kết giữa Nhà nghiên cứu – Nhà nước – Doanh nghiệp trong việc ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015

92

luật trong lĩnh vực KH&CN mà còn trong các luật chuyên ngành khác.48

3.2.3. Thiết chế về tổ chức và hoạt động của thị trường công nghệ khi tham

gia Liên minh nghiên cứu toàn cầu

Thị trƣờng công nghệ là thƣớc đo năng lực đổi mới quốc gia. Cũng nhƣ

các thị trƣờng khác, thị trƣờng công nghệ mà hoạt động đặc trƣng là CGCN,

cũng đƣợc hình thành trên cơ sở phải có hàng hoá, phải có nhu cầu về hàng

hoá và phải có khả năng thanh toán. Do đặc tính đặc biệt của “hàng hoá”, thị

trƣờng công nghệ là loại thị trƣờng đặc biệt:

- Hàng hoá là kiến thức đƣợc thể hiện dƣới dạng sáng chế hoặc các ý

tƣởng công nghệ;

- Việc xác định giá trị của hàng hoá rất khó khăn do lao động đƣợc kết

tinh trong hàng hoá là lao động trí óc;

- Hàng hoá tạo nên lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân. Do những

đặc thù này mà thị trƣờng công nghệ hình thành muộn hơn các thị trƣờng

hàng hoá khác và Nhà nƣớc có vai trò và trách nhiệm rất lớn trong việc hình

thành và phát triển thị trƣờng này.

Việc hình thành và phát triển thị trƣờng công nghệ là quá trình phát

triển từ ứng dụng kết quả nghiên cứu do các tổ chức nghiên cứu trực tiếp thực

hiện là chính đến mua bán CGCN giữa viện, trƣờng với doanh nghiệp, doanh

nghiệp với doanh nghiệp, nƣớc ngoài với trong nƣớc… họ là các chủ thể cung

- cầu của thị trƣờng. Trong điều kiện năng lực của nền kinh tế và KH&CN

nƣớc ta hiện nay, trọng tâm của phát triển thị trƣờng công nghệ là thiết lập

môi trƣờng cần thiết cho giao dịch giữa cung và cầu, từng bƣớc chuyển nhanh

sang giao dịch tập trung trên cơ sở công nghệ nội sinh và nhập khẩu trên cả ba

định chế của thị trƣờng:

- Khuyến khích lƣợng cầu trên thị trƣờng thông qua đổi mới và nâng

cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp;

- Tăng lƣợng cung thông qua thúc đẩy quá trình thƣơng mại hoá các

kết quả nghiên cứu và gia tăng tính định hƣớng thị trƣờng của hoạt động

nghiên cứu;

93

- Khuyến khích phát triển hệ thống các dịch vụ của thị trƣờng.

Để thấy đƣợc tính đa dạng và những khó khăn thách thức trong phát

triển thị trƣờng công nghệ, cần có cách nhìn tổng quát đa dạng hóa hoạt động

của nền kinh tế thị trƣờng, phải đặt thị trƣờng công nghệ trong tổng thể các thị

trƣờng hàng hoá nói chung để từ đó thấy đƣợc sự liên hệ mật thiết, sự phụ

thuộc chặt chẽ của thị trƣờng công nghệ vào trình độ phát triển của các thị

trƣờng khác, tổng thể là sự phát triển của nền kinh tế. Theo đó, việc hình

thành và phát triển thị trƣờng công nghệ của Việt Nam hiện nay chịu ảnh

hƣởng và chi phối của các quá trình, tiến độ, sức mạnh của hoạt động đổi mới

và phát triển kinh tế nhƣ đổi mới doanh nghiệp, tăng cƣờng năng lực nội sinh,

cạnh tranh trong hội nhập, cải thiện môi trƣờng cơ chế cho hoạt động

KH&CN.

Do tính đặc biệt của hàng hóa công nghệ nên thị trƣờng công nghệ

không thể phát triển đƣợc nếu không có sự tạo dựng của Nhà nƣớc.

Thị trƣờng công nghệ của Việt Nam đang từng bƣớc hình thành, những

năm vừa qua lƣợng giao còn rất ít, quy mô nhỏ. Tuy chƣa thống kê hết, từ

năm 2001 tới năm 2010, chỉ có khoảng 150 hợp đồng CGCN vào Việt Nam

và khoảng 20.000 hợp đồng CGCN đã đƣợc ký kết tại các chợ công nghệ thiết

bị. Những năm gần đây, nƣớc ta đã đẩy mạnh quá trình đổi mới môi trƣờng

nghiên cứu, CGCN và khuyến khích đầu tƣ đổi mới công nghệ. Hoạt động

CGCN đã có những bƣớc khởi sắc đặc biệt là tại các chợ công nghệ, thiết bị

quốc gia và địa phƣơng, hình thành sàn giao dịch công nghệ ở một số địa

phƣơng, tuy kết quả vẫn chƣa nhƣ tiềm năng và mong muốn.

Tác động của Nhà nƣớc vào thị trƣờng công nghệ trƣớc hết từ những

thay đổi về cách thức quản lý, Nhà nƣớc phải đảm nhiệm vai trò thiết lập

khuôn khổ cần thiết để thị trƣờng vận hành. Trong đó, Nhà nƣớc tập trung tạo

lập và đổi mới môi trƣờng, tạo sự thuận lợi và khuyến khích các hoạt động

CGCN, bao gồm:

- Tạo điều kiện cho công nghệ xuất hiện trên thị trƣờng trong đó các ƣu

94

đãi tài chính và đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ cho Bên cung;

- Tạo dựng các giao dịch trên cơ sở quyền tự chủ, định đoạt của các

Bên cung - cầu;

- Tạo điều kiện hình thành các sàn giao dịch công nghệ và các dịch vụ

hỗ trợ thị trƣờng (thông tin, tƣ vấn, môi giới, đánh giá, định giá, sở hữu trí

tuệ…). Đây là thay đổi mạnh mẽ và quyết liệt trong quản lý Nhà nƣớc đối với

các hoạt động KH&CN.

Nhà nƣớc đóng vai trò động lực của KH&CN, tầm quan trọng của sự

gắn kết mật thiết giữa KH&CN với phát triển kinh tế, trong đó KH&CN phải

thực sự đƣợc coi là lực lƣợng sản xuất hàng đầu. Trên cơ sở tƣ duy này, Nhà

nƣớc thông qua các chính sách đặc biệt là Luật Khoa học và Công nghệ (sửa

đổi) đã có những chuyển động đƣợc ghi nhận. Một mặt gia tăng đầu tƣ từ

ngân sách nhà nƣớc cho phát triển KH&CN, đặc biệt tập trung theo hƣớng

gắn kết KH&CN với phát triển kinh tế trong đó sử dụng hiệu quả mối liên kết

giữa Nhà nƣớc - khu vực nghiên cứu - khu vực doanh nghiệp, trong đó doanh

nghiệp là trung tâm. Có thể thấy rõ điều này qua tốc độ tăng trung bình 14%

mỗi năm trong đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho KH&CN giai đoạn 1990 -

2010, đến nay mức chi cho KH&CN đã đạt 2% tổng chi ngân sách quốc gia.

Hầu hết các nhiệm vụ KH&CN xuất phát từ nhu cầu của sản xuất và đời sống,

đều đƣợc định hƣớng tập trung vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Mặt

khác, trong bối cảnh hội nhập với môi trƣờng kinh doanh cạnh tranh ngày

càng quyết liệt, Nhà nƣớc với vai trò quản lý đang dẫn dắt doanh nghiệp

hƣớng tới và thực hiện ngày càng quyết liệt công cuộc đổi mới công nghệ

hiệu quả, thành công.

Vai trò của KH&CN trong xây dựng đất nƣớc, KH&CN là then chốt,

quốc sách, động lực của sự phát triển. Những năm gần đây, Nhà nƣớc, từ

ngƣời trực tiếp cung cấp sản phẩm KH&CN sang vai trò tạo môi trƣờng thuận

lợi để các chủ thể tiềm năng tham gia hoạt động R&D và trao đổi trên thị

trƣờng. Nhà nƣớc đã xây dựng đồng bộ hệ thống luật pháp về KH&CN và các

95

chính sách cụ thể về đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN, ƣơm tạo

công nghệ, phát triển thị trƣờng KH&CN… Nhƣng trên thực tế, nhận thức

này chƣa thực sự đƣợc xuyên suốt từ trung ƣơng đến các địa phƣơng. Thành

công của thị trƣờng công nghệ chỉ có đƣợc khi những nhận thức về vai trò của

KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội trở thành những hành động chính

sách thực tiễn và nhất quán và đƣợc sự quan tâm của toàn xã hội.

Tuy nhiên, doanh nghiệp là trung tâm của thị trƣờng công nghệ và hoạt

động CGCN. Trong liên kết giữa Nhà nƣớc - khu vực nghiên cứu - khu vực

doanh nghiệp, doanh nghiệp phải giữ vai trò trung tâm, điều phối quan hệ

cung - cầu công nghệ. Doanh nghiệp vừa đầu tƣ cho R&D với tỷ trọng ngày

càng cao trong tổng đầu tƣ cho lĩnh vực này của đất nƣớc vừa là cầu công

nghệ cho các tổ chức nghiên cứu. Chỉ khi có sự bắt tay thực sự giữa doanh

nghiệp và tổ chức khoa học thì công nghệ mới thực sự là động lực đổi mới

nâng cao năng lực cạnh tranh, sức sống của KH&CN mới thực sự mạnh mẽ.

Đây là bài học thành công của nhiều quốc gia phát triển, nhiều tập đoàn lớn

trên thế giới.

Về vấn đề thông tin công nghệ, phát triển hệ thống thông tin công nghệ

và các tổ chức trung gian là lĩnh vực mà nhiều quốc gia đã có những thành

công nhất định, họ tổ chức đƣợc hệ thống thông tin về công nghệ nối từ trung

ƣơng xuống các địa phƣơng các tỉnh. Sự chu chuyển của hàng hoá công nghệ

phụ thuộc đặc biệt vào việc phổ biến rộng rãi thông tin. Sự ngăn cách về

thông tin trên thị trƣờng khoa học và công nghệ sẽ khiến cho các đối tƣợng

tham gia thị trƣờng không đƣợc cung cấp đầy đủ thông tin về cung và cầu

công nghệ. Thời đại của công nghệ thông tin ngày nay đã đem đến một công

cụ lý tƣởng cho việc phổ biến thông tin về các hàng hoá công nghệ, trong việc

sử dụng mạng máy tính trong phổ biến các thành quả nghiên cứu của các tổ

chức nghiên cứu triển khai và ngƣợc lại nhu cầu của doanh nghiệp đến các tổ

chức này.

Có thể nói, dịch vụ trung gian trên thị trƣờng KH&CN hiện còn rất yếu

96

ở Việt Nam. Trong thời gian tới, để phát triển thị trƣờng công nghệ, Việt Nam

cần phải có sự quan tâm đặc biệt cho phát triển hệ thống dịch vụ trung gian

này đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và các cơ chế chính sách thúc đẩy cung và cầu trên thị trƣờng.49

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chƣơng 3, Luận văn đã nghiên cứu kinh nghiệm của Australia

trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế khi tham gia GRA, trong đó nhấn

mạnh đến vai trò của nhà nƣớc, của các tổ chức nghiên cứu trong mối quan hệ

với doanh nghiệp nhằm thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu thông qua

việc CGCN.

Từ kinh nghiệm của Australia, Chƣơng 3 đã đề xuất hình thành thiết

chế giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nƣớc - khu vực nghiên cứu - khu vực

49 Bùi Văn Quyền (2015), Kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý về chính sách phát triển thị trường công nghệ của Việt Nam, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015

97

doanh nghiệp, thiết chế về tổ chức và hoạt động của thị trƣờng công nghệ.

KẾT LUẬN

GRA nhằm mục đích huy động năng lƣợng sáng tạo đa dạng của các

nhà nghiên cứu toàn cầu để giải quyết những thách thức toàn cầu; đoàn kết và

chia sẻ nguồn lực KH&CN với các đối tác, cộng đồng; xây dựng các giải

pháp hợp lý và bền vững.

GRA cam kết thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới - sáng tạo phục

vụ phát triển bền vững, đóng góp cho sự phát triển bình đẳng về kinh tế - xã

hội. Trong đó, mục tiêu chính là tìm kiếm các giải pháp công nghệ nhằm góp

phần giải quyết các thách thức, khó khăn trên toàn cầu. GRA là một tổ chức

toàn cầu, kết nối các nhà khoa học để tìm ra đƣợc công nghệ tốt nhất với chi

phí phù hợp nhất của bất kỳ đối tác nào nhằm mục đích phát triển.

Khi tham gia GRA, Australia đã tổ chức có hiệu quả hoạt động của

Chƣơng trình Các Trung tâm hợp tác nghiên cứu (Cooperative Research

Centres Programme), của Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp

Liên bang CSIRO (Commonwealth Scientific and Industrial Research

Organization) và đặc biệt là tổ chức thành công mô hình giai đoạn ƣơm tạo

công nghệ qua mô hình “công viên công nghệ” và giai đoạn thƣơng mại hóa

kết quả nghiên cứu trong các trƣờng đại học.

Từ kinh nghiệm của Australia, Luận văn đã chứng minh thành công giả

thuyết nghiên cứu xây dựng thiết chế tham gia GRA tại Việt Nam nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam bao gồm: thiết

chế “Triple helix”, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nƣớc - khu vực nghiên

cứu - khu vực doanh nghiệp, thiết chế về tổ chức và hoạt động của thị trƣờng

công nghệ.

Từ giả thuyết nghiên cứu đã đƣợc chứng minh, tác giả Luận văn khuyến

nghị cơ quan quản lý KH&CN sớm ban hành chính sách nhằm thực hiện có

98

hiệu quả việc CGCN, trong đó có CGCN từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Vân Anh (2015), Bàn về khái niệm công nghệ và chuyển giao

công nghệ, Tạp chí Chính sách và Quản lý KH&CN, tập 4, số 1/2015,

tr.104.

2. Nguyễn Vân Anh (2015), Thực trạng chuyển giao công nghệ từ nước

ngoài vào Việt Nam, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển

giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”,

Hà Nội, 10/2015.

3. Nguyễn Trần Bạt (2011), Thể chế và thành tích, Tạp chí Nghiên cứu

Lập pháp số 5.2011.

4. Vũ Cao Đàm (2010), Giáo trình Khoa học chính sách, Nhà xuất bản

Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Vũ Cao Đàm (2010), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa

học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

6. Vũ Cao Đàm, Đào Thanh Trƣờng (2015), Gợi ý các yếu tố của lộ trình

phát triển ƣơm tạo doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam hiện nay, Hội

thảo khoa học “Xây dựng chính sách hỗ trợ ươm tạo doanh nghiệp

KH&CN”, Hà Nội, 26.3.2015.

7. Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, Đào Thanh Trƣờng (2015), Doanh nghiệp

KH&CN: từ lý luận đến thực tiễn, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,

Hà Nội. Trần Văn Hải (2015), Sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ -

Từ tiếp cận so sánh, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số

5/2015 (674), trang 86-90.

8. Trần Văn Hải (2015), Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động

chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt

động Chuyển giao công nghệ phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội

99

nhập quốc tế, Đề tài Nghị định thƣ.

9. Vũ Văn Khiêm, Nguyễn Thị Hoàng Liên (2015), Kinh nghiệm của Tổ

chức nghiên cứu khoa học và công nghiệp Liên bang Úc CSIRO trong

việc định hướng nghiên cứu và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hội

thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh

nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015.

10. Phạm Hồng Quất (2015), Vai trò liên kết giữa Nhà nghiên cứu - Nhà

nước - Doanh nghiệp trong việc ứng dụng và thương mại hóa các kết

quả nghiên cứu, Hội thảo khoa học “Tổ chức và hoạt động chuyển giao

công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà

Nội, 10/2015.

11. Bùi Văn Quyền (2015), Kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý về chính

sách phát triển thị trường công nghệ của Việt Nam, Hội thảo khoa học

“Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của

Australia và đề xuất cho Việt Nam”, Hà Nội, 10/2015.

12. Đào Quang Thu (2013), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: 25

năm thu hút và phát triển, Kỷ yếu Hội thảo 25 năm đầu tƣ trực tiếp

nƣớc ngoài tại Việt Nam.

Tiếng Anh

13. Basile A (2011), “Networking System and Innovation Outputs: The

Role of Science and Technology Parks”, International Journal of

Business and Management, 6(5), 3-15.

14. Castells M & Hall P.G (1994), Technopoles of the World: The making

of 21st Century Industrial Complexes, New York: Routledge.

15. Cripps David et al., (1999), University research: technology transfer

and commercialisation practices, Canberra AusInfo. ISBN

0642239193.

16. CSL Limited (2012), Stock Quote & Company Profile – Businessweei

investing.businessweek.com. Retrieved 13 August 2012.

17. Douglass Cecil North (1990), Institutions, Institutional Change and

100

Economic Performance, Cambridge University Press, 1990.

18. Fichter, J. H. (1958), Parochial school: A sociological study, Notre

Dame, IN: University of Notre Dame Press. Gamoran, A. (1987).

19. Gidden A., Sociology, Polity Press, Cambridge, 1990, p.731.

20. Intellectual Property Australia, Department of Industry and Science

(10.2013), Research Performance of University Patenting in Australia.

21. Nawaz Sharif (1983), Management of technology transfer and

development, Regional Centre for Technology Transfer (India).

22. OECD (1992), Trade Issues in the Transfer of Clean Technologies.

OECD, Paris 1992. p.21.

23. OECD (2002), Frascati Manual.

24. Radwan Kharabsheh (2012), “Critical Success Factors of Technology

Parks in Australia”, International Journal of Economics and Finance,

Vol.4, No.7, July 2012.

25. Roger Friedl and A. F. Robertson (1992), Beyond the Marketplace:

Rethinking Economy and Society, Journal of Economic Issues, Vol. 26,

No. 1 (Mar., 1992), pp. 292-294.

26. Stephen H. Haber, Douglass Cecil North, Barry R. Weingast (2008),

Political Institutions and Financial Development, Stanford University

Press.

27. UNCTAD (2001), Transfer of Technology, New York and Geneva,

2001.

28. UNESCO (1980), Manual for Statistics on Scientific and Technological

Activities, Paris, pp.15.

29. UNESCO (2012), Science policy and capacity building.

30. WIPO (2008), New concept of technology classification.

31. WIPO (2013), Distribution of university patent documents across the

WIPO technology fields, by university.

32. Wright, R.T. (2008). Technology. Goodheart-Wilcox Company, 5th

101

edition, ISBN 1590707184. p.8.