i BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
ĐINH THỊ THÚY HẰNG
LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ
PHIẾU PHÙ HỢP VỚI THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN THANH TUYỀN
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với
thị trường chứng khoán Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền.
Luận văn là kết quả của việc nghiên cứu độc lập, không sao chép công trình
nghiên cứu của bất kỳ ai. Các thông tin, dữ liệu trong luận văn được sử dụng từ các
nguồn hợp pháp và đáng tin cậy, các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2012
Tác giả luận văn
Đinh Thị Thúy Hằng
iii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa ..................................................................................................................... i
Lời cam đoan ..................................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................................ iii
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt .................................................................................. vi
Danh mục các biểu đồ và bảng biểu................................................................................ vii
Lời mở đầu ....................................................................................................................... ix
CHƯƠNG I: .................................................................................................................... 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU .......................... 1
1.1. Khái luận về chiến lược đầu tư cổ phiếu: ........................................................... 1
1.1.1. Khái niệm ........................................................................................................ 1
1.1.2. Vai trò của chiến lược đầu tư cổ phiếu trong hoạt động của thị trường
chứng khoán .............................................................................................................. 1
1.2. Các chiến lược đầu tư cổ phiếu: .......................................................................... 2
1.2.1. Chiến lược đầu tư tăng trưởng (Growth Investing) ....................................... 2
1.2.2. Chiến lược đầu tư giá trị (Value Investing) .................................................... 4
1.2.3. Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng (Momentum Investing) ..................... 6
1.2.4. Chiến lược đầu tư kỹ thuật (Technical Investing) .......................................... 9
1.2.5. Các chiến lược đầu tư khác: ......................................................................... 14
1.2.5.1. Chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới .................................................... 14
1.2.5.2. Chiến lược giao dịch nội bộ ................................................................... 15
1.2.5.3. Chiến lược mua và giữ ........................................................................... 15
1.2.5.4. Chiến lược đầu tư trái ngược ................................................................. 16
1.2.5.5. Sử dụng giá trị vốn hóa thị trường như một chiến lược đầu tư .............. 16
1.2.6. Các chiến lược đầu tư nâng cao: .................................................................. 17
1.2.6.1. Chiến lược bán khống (Short-selling) .................................................... 17
1.2.6.2. Chiến lược đầu tư thị trường trung lập .................................................. 17
1.2.6.3. Chiến lược đầu tư toàn cầu .................................................................... 18
1.3. Ý nghĩa của việc lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu đối với nhà đầu tư ... 18
iv
1.4. Những bài học kinh nghiệm lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu của các nhà
đầu tư nổi tiếng trên thế giới ....................................................................................... 20
Kết luận Chương I ....................................................................................................... 23
CHƯƠNG II: ................................................................................................................ 24
ỨNG DỤNG CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................................................................... 24
2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2000 đến 2011: ....... 24
2.1.1. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005 ......................................................... 24
2.1.2. Giai đoạn năm 2006 –2011 .......................................................................... 28
2.2. Ứng dụng các chiến lược đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt
Nam: .............................................................................................................................. 33
2.2.1. Chiến lược đầu tư tăng trưởng ..................................................................... 34
2.2.2. Chiến lược đầu tư giá trị .............................................................................. 40
2.2.3. Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng ........................................................ 45
2.2.4. Chiến lược đầu tư kỹ thuật ........................................................................... 51
2.2.5. Ưu điểm và nhược điểm của các chiến lược đầu tư cổ phiếu khi ứng dụng
vào TTCK VN .......................................................................................................... 55
Kết luận Chương II ...................................................................................................... 59
CHƯƠNG III:............................................................................................................... 60
NHỮNG GIẢI PHÁP LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU PHÙ
HỢP VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ...................................... 60
3.1. Định hướng lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN ... 60
3.2. Mục tiêu lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN: ...... 61
3.2.1. Nhà đầu tư có thể dễ dàng lựa chọn cổ phiếu để đầu tư .............................. 61
3.2.2. Nhà đầu tư có thể tách biệt cảm xúc với việc đưa ra quyết định đầu tư ...... 61
3.2.3. Đạt được lợi nhuận kỳ vọng và hạn chế thua lỗ ........................................... 61
3.3. Dự báo .................................................................................................................. 61
3.4. Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN: ..................... 63
3.4.1. Các yếu tố tác động đến TTCK VN trong giai đoạn hiện nay ...................... 63
3.4.2. Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến TTCK VN trong thời gian tới ...... 70
3.4.3. Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN ...................... 71
v
3.5. Giải pháp lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN ...... 73
3.5.1. Trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm và quan sát thị trường ................. 73
3.5.2. Lựa chọn và xây dựng chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của TTCK VN và bản thân nhà đầu tư .......................................... 73
3.5.3. Tuân thủ theo chiến lược đầu tư cổ phiếu đã lựa chọn ................................ 76
3.5.4. Xây dựng và tuân thủ theo các mục tiêu lợi nhuận và cắt lỗ........................ 77
Kết luận chương III ..................................................................................................... 79
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 81
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
- EPS : Thu nhập trên mỗi cổ phiếu
- HN : Hà Nội
- HNX : Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
- HOSE : Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
- ROE : Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
- SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
- TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
- TTCK : Thị trường chứng khoán
- TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
- UBCKNN : Ủy ban chứng khoán nhà nước
- VN : Việt Nam
vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Danh mục các biểu đồ
- Biểu đồ 2.1: Biến động của VN-Index và khối lượng giao dịch giai đoạn 2000 –
2005
- Biểu đồ 2.2: Số lượng tài khoản nhà đầu tư giai đoạn 2000 – 2005
- Biểu đồ 2.3: Số lượng công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty quản lý
tham gia trên TTCK VN giai đoạn 2000 – 2005
- Biểu đồ 2.4: Biến động của VN-Index và khối lượng giao dịch giai đoạn 2006 –
2011
- Biểu đồ 2.5: Biến động của HNX-Index và khối lượng giao dịch giai đoạn 2006 –
2011
- Biểu đồ 2.6: Số lượng nhà đầu tư giai đoạn 2006 – 2011
- Biểu đồ 2.7: Số lượng công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ
giai đoạn 2006 – 2011
- Biểu đồ 2.8: Biến động giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu VNM từ tháng
07/2010 đến tháng 08/2011
- Biểu đồ 2.9: Biến động của VN-Index và khối lượng giao dịch từ tháng 07/2010 đến
tháng 08/2011
- Biểu đồ 2.10: Biến động giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu PNJ từ tháng
04/2009 đến tháng 06/2011
- Biểu đồ 2.11: Biến động giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu PNJ từ tháng
09/2009 đến tháng 09/2011
Danh mục các bảng biểu
- Bảng 2.1: Thống kê giá trị giao dịch, vốn hóa thị trường và % so với GDP giai đoạn
2000 – 2005
- Bảng 2.2: Thống kê giá trị giao dịch, vốn hóa thị trường và % so với GDP giai đoạn
2006 – 2011
viii
- Bảng 2.3: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của Vinamilk từ năm 2006 đến
năm 2010
- Bảng 2.4: Bảng đánh giá cổ phiếu KTS với các tiêu chuẩn lựa chọn cổ phiếu của
Benjamin Graham
- Bảng 2.5: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của Vinamilk từ năm 2006 đến
năm 2010
- Bảng 2.6: Thay đổi tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn của Vinamilk tại thời điểm 31/12 của
năm tài chính
ix
LỜI MỞ ĐẦU
Với 11 năm hình thành và phát triển, TTCK VN ngày càng thu hút được sự quan
tâm của các nhà đầu tư. Hiện nay, số lượng tài khoản nhà đầu tư tham gia TTCK đã
tăng đến con số hơn 1 triệu tài khoản. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn của TTCK rất
mạnh mẽ. Nhờ thế mà TTCK đã đảm nhận khá tốt vai trò quan trọng trong việc huy
động vốn trung, dài hạn trong và ngoài nước để tạo động lực cho các doanh nghiệp
phát triển đưa đất nước thực hiện đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa, duy trì nhịp
độ tăng trưởng kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh.
Các nhà đầu tư đến với TTCK ai cũng đặt ra mục tiêu lợi nhuận và nghĩ mình có
thể đánh bại thị trường. Nhưng thực tế, TTCK là một nơi rất khắc nghiệt, chỉ có những
ai có kiến thức và chiến lược đầu tư hiệu quả thì mới có thể đạt được lợi nhuận kỳ
vọng, ngược lại, sẽ bị thua lỗ. Về lý thuyết không hề có công thức và các tiêu chuẩn lựa
chọn cổ phiếu cụ thể cho từng chiến lược đầu tư. Do đó, việc nghiên cứu, học tập kinh
nghiệm của các nhà đầu tư thành công sẽ giúp nhà đầu tư có thể xây dựng một phương
pháp lựa chọn cổ phiếu cho riêng mình. Thông qua việc tổng hợp nghiên cứu các chiến
lược đầu tư cổ phiếu của Thomas Rowe Price, Benjamin Graham, William J. O’Neil,
Lý thuyết Dow – lý thuyết nền móng của phân tích kỹ thuật của Charles H. Dow và các
chiến lược đầu tư cổ phiếu khác ứng dụng vào TTCK VN để các nhà đầu tư nếu chưa
tham gia hoặc đã và đang tham gia trên thị trường có thể tham khảo và lựa chọn được
chiến lược đầu tư phù hợp với từng giai đoạn của thị trường và bản thân nhất. Đó cũng
chính là mục tiêu khi tôi lựa chọn thực hiện đề tài “Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ
phiếu phù hợp với thị trường chứng khoán Việt Nam”.
1. Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất, giới thiệu về các chiến lược đầu tư cổ phiếu của:
- Thomas Rowe Price được xem là “cha đẻ của đầu tư tăng trưởng”.
- Benjamin Graham là đồng tác giả cuốn sách Security Analysis, cuốn sách đặt nền
tảng cho trường phái đầu tư giá trị.
x
- William J. O’Neil là một trong những người đề xướng chiến lược đầu tư theo đà tăng
trưởng.
- Chiến lược phân tích kỹ thuật được đặt nền móng nghiên cứu bởi Lý thuyết Dow.
Thứ hai, ứng dụng các tiêu chuẩn lựa chọn cổ phiếu của các nhà đầu tư nổi tiếng trên
vào TTCK VN để từ đó lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: là các mã cổ phiếu niêm yết trên SGDCK
TP.HCM, SGDCK HN và chỉ số VN-Index với dữ liệu trong khoảng thời gian từ năm
2000 đến cuối năm 2011.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận văn là phương pháp tổng
hợp, kết hợp quan sát, phân tích và đánh giá. Bên cạnh đó, luận văn có sử dụng phần
mềm MetaStock để hỗ trợ trong việc phân tích các cổ phiếu.
4. Ý nghĩa và giới hạn của đề tài nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện với ý nghĩa giúp những nhà đầu tư cá nhân có thể lựa chọn
được chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với giai đoạn TTCK VN hiện nay cũng như
phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro và sở thích của bản thân. Tuy nhiên, giới hạn
của đề tài nghiên cứu là TTCK VN có rất nhiều cổ phiếu được niêm yết nên việc tác
giả lựa chọn các cổ phiếu để phân tích trong phần ứng dụng các chiến lược đầu tư cổ
phiếu của các nhà đầu tư nổi tiếng vào TTCK VN còn nhiều khía cạnh chưa được
nghiên cứu đánh giá hết.
5. Kết cấu của luận văn: Luận văn bao gồm 3 chương
- Chương I: Cơ sở lý luận về các chiến lược đầu tư cổ phiếu
- Chương II: Ứng dụng các chiến lược đầu tư cổ phiếu trên TTCK VN
- Chương III: Những giải pháp lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK
VN.
Mặc dù, tác giả đã nỗ lực chỉnh sửa nhiều lần nhưng luận văn cũng khó tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của Quý Thầy Cô để luận văn được
hoàn chỉnh hơn.
1
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
1.1. Khái luận về chiến lược đầu tư cổ phiếu:
1.1.1. Khái niệm:
- Khái niệm chiến lược:
Chiến lược xuất hiện đầu tiên trong nghệ thuật quân sự. Chiến lược là phương
cách để chiến thắng một cuộc chiến tranh.
Chiến lược là chương trình hành động, kế hoạch hành động được thiết kế để đạt
được một mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các mục tiêu dài hạn và các biện pháp, các cách
thức đạt đến các mục tiêu đó.
- Khái niệm chiến lược đầu tư cổ phiếu:
Chiến lược đầu tư cổ phiếu là toàn bộ kế hoạch, cách thức đầu tư cổ phiếu của
nhà đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định để đạt được mục tiêu lợi nhuận.
Chiến lược đầu tư cổ phiếu phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu đầu tư và khả năng
chấp nhận rủi ro của mỗi nhà đầu tư.
Để đạt được mục tiêu lợi nhuận mỗi nhà đầu tư đều lựa chọn cho mình một chiến
lược đầu tư cổ phiếu thích hợp. Chiến lược đầu tư cổ phiếu được thiết lập từ trước khi
thực hiện đầu tư, thể hiện sự đánh giá của nhà đầu tư trên khắp các lĩnh vực, nó thể
hiện ý chí và mong muốn của nhà đầu tư và nhà đầu tư sẽ theo đuổi chiến lược này
trong suốt một khoảng thời gian dài.
1.1.2. Vai trò của chiến lược đầu tư cổ phiếu trong hoạt động của thị trường chứng
khoán:
Thứ nhất, chiến lược đầu tư cổ phiếu giúp nhà đầu tư đạt được lợi nhuận kỳ vọng
và hạn chế thu lỗ. Một nhà đầu tư khi tham gia vào TTCK mà không có chiến lược đầu
tư cổ phiếu thì việc xác định cổ phiếu tốt để đầu tư cũng như xác định thời điểm mua
bán cổ phiếu là rất khó khăn và quá trình đầu tư chỉ được thực hiện theo cảm tính. Như
vậy, kết quả đầu tư của nhà đầu tư đó sẽ khó thành công. Còn đối với một nhà đầu tư
nếu thiếu tính kỷ luật, kiên trì và sự tự tin vào phán đoán trong chiến lược đầu tư cổ
2
phiếu thì sẽ trong tình thế luôn luôn thay đổi chiến lược đầu tư để tìm kiếm một chiến
lược đầu tư tốt nhất. Vừa mới áp dụng chiến lược này nhưng chưa thấy thành công thì
nhà đầu tư lại có khuynh hướng bỏ qua để áp dụng chiến lược đầu tư khác. Khi đó, nhà
đầu tư có thể sẽ rơi vào một trong 3 trường hợp:
- Trường hợp xấu nhất, nhà đầu tư thường xuyên thua lỗ với những sự thay đổi.
Trong số những chiến lược mà nhà đầu tư thực hiện và cảm thấy thất bại có thể có
chiến lược thích hợp với người khác, nhưng không thích hợp với họ, hoặc có những
chiến lược cần có thời gian để sinh lợi. Việc vội vã thay đổi chiến lược đầu tư, đôi khi
sẽ cuốn một nhà đầu tư vào chuỗi thua lỗ nối tiếp nhau.
- Trường hợp khả quan hơn, nhà đầu tư có thể thắng nhiều hơn thua. Vì thế, kết
quả đầu tư của nhà đầu tư chắc chắn không cao bằng nhà đầu tư với một chiến lược đầu
tư cố định, do việc liên tục thay đổi chiến lược dẫn đến sự thay đổi danh mục, làm tăng
chi phí giao dịch, tăng khoản thuế phải nộp… sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư.
- Trường hợp khả quan nhất, nhà đầu tư luôn thắng khi áp dụng các chiến lược
đầu tư khác nhau, mặc dù họ cũng không biết rõ tại sao họ thắng. Nhưng đó chỉ là may
mắn tạm thời, nếu kéo dài, chắc chắn họ cũng sẽ rơi vào 1 trong 2 trường hợp trên.
Như vậy, việc không có một quan điểm đầu tư, một sự suy xét phán đoán và nhất
quán về thị trường nên phải thay đổi từ chiến lược đầu tư này sang chiến lược đầu tư
khác, nhà đầu tư đã xem việc đầu tư của mình như sự may rủi. Trong khi đó, với một
hay hai phương thức đầu tư nhất quán, với sự tự tin, tính kỷ luật và kiên định với quan
điểm, nhận định của mình, nhà đầu tư có thể thành công.
Thứ hai, nếu mỗi nhà đầu tư đều xác định và kiên trì thực hiện theo các chiến lược
đầu tư cổ phiếu của mình thì hoạt động của TTCK sẽ có thể phát triển lành mạnh mà
không gặp phải những hoảng loạn không cần thiết khi có những thông tin tiêu cực tác
động gây xáo trộn thị trường.
1.2. Các chiến lược đầu tư cổ phiếu:
1.2.1. Chiến lược đầu tư tăng trưởng (Growth Investing):
Trong chiến lược đầu tư tăng trưởng, các nhà đầu tư luôn sẵn sàng trả bất cứ mức
giá nào để sở hữu những công ty đang tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường. Các
3
công ty có tốc độ tăng trưởng cao được đo bằng lợi nhuận tính theo doanh thu trên một
cổ phiếu. Các nhà đầu tư tăng trưởng hy vọng bằng việc mua và nắm giữ những cổ
phiếu như vậy trong khoảng thời gian dài, giá của những cổ phiếu đó sẽ tăng, từ đó sẽ
kéo theo danh mục đầu tư tăng trưởng cũng sẽ tăng.
Khi nhắc đến chiến lược đầu tư tăng trưởng, Thomas Rowe Price được xem là
"cha đẻ của đầu tư tăng trưởng".
Triết lý quản lý đầu tư của Thomas Rowe Price dựa trên kỷ luật đầu tư, sự kiên
định trong quá trình và phân tích cơ bản. Ông đi tiên phong trong phương pháp đầu tư
vào cổ phiếu tăng trưởng bằng cách tập trung vào những công ty được quản lý tốt trong
những lĩnh vực có khả năng sinh lợi cao hơn lạm phát của toàn bộ nền kinh tế. John
Train, tác giả cuốn "The Money Masters", cho rằng Price tìm những công ty tăng
trưởng có các đặc điểm sau:
- Hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường vượt trội.
- Không bị cạnh tranh quá gay gắt.
- Tương đối ít bị trói buộc bởi các quy định của Chính phủ.
- Nhân viên được trả lương tốt nhưng tổng chi phí lao động không cao.
- Tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư đạt ít nhất 10%, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu
cao và bền vững, tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu vượt trội.
Price và công ty của ông đã rất thành công nhờ sử dụng chiến lược đầu tư vào cổ
phiếu tăng trưởng. Cho đến năm 1965, ông đã trải qua gần 30 năm đi theo triết lý cổ
phiếu tăng trưởng. Vào thời điểm đó, rất nhiều cổ phiếu được ông ưa chuộng đã được
biết đến với biệt hiệu "cổ phiếu T.Rowe Price". Tuy nhiên, cuối thập niên 1960, ông
bắt đầu để ý đến sự phấn khích một cách vô cớ của thị trường với cổ phiếu tăng trưởng
và ông cảm thấy đã đến lúc các nhà đầu tư nên thay đổi định hướng của mình. Ông
nghĩ sự tăng giá đã đến mức vô lý và cho rằng thị trường giá lên kéo dài đã đến lúc kết
thúc. Đây chính là thời điểm ông bắt đầu bán cổ phần của mình trong T. Rowe Price
Associates.
Năm 1973 - 1974, điều Price dự liệu đã thành hiện thực và những cổ phiếu tăng
trưởng nhất đồng loạt rớt giá nhanh và mạnh. Công ty mang tên ông chỉ còn có thể hoạt
4
động cầm chừng. Rõ ràng, thuật ngữ "irrational exuberance - sự dồi dào một cách bất
hợp lý" chưa hề có khi đó, nhưng Thomas Rowe Price đã thấy rất rõ những ảnh hưởng
mang tính tàn phá của nó.
1.2.2. Chiến lược đầu tư giá trị (Value Investing):
Nhà đầu tư giá trị (value investor) được định nghĩa một cách đơn giản là những
người tìm kiếm cổ phiếu “giá hời”. “Hời” ở đây có nghĩa là thị trường định giá cổ
phiếu thấp hơn giá trị của nó. Cả về mặt lý thuyết và thực tế, chiến lược đầu tư giá trị là
chiến lược có độ rủi ro thấp nhất trong các chiến lược đầu tư cổ phiếu.
Benjamin Graham, người thành công trong nhiều vai trò như nhà phân tích tài
chính, nhà đầu tư, giảng viên, là đồng tác giả cuốn sách “Security Analysis”. Đây là
cuốn sách đặt nền tảng cho trường phái đầu tư giá trị và là sách gối đầu giường cho
những nhà đầu tư dài hạn. Trong cuốn sách này, Benjamin Graham đã đưa ra 10 tiêu
chuẩn để chọn cổ phiếu:
1 - Tỷ số lợi nhuận/thị giá (E/P) cao gấp đôi lãi suất trái phiếu xếp hạng AAA
(AAA là hạng mức tín dụng cao nhất dành cho trái phiếu của các công ty).
2 - P/E của cổ phiếu thấp hơn hoặc bằng 40% so với P/E của toàn thị trường.
3 - Tỷ suất cổ tức/giá của cổ phiếu (dividend yield) lớn hơn 2/3 của lãi suất trái
phiếu xếp hạng AAA.
4 - Giá trị vốn hóa của công ty nhỏ hơn 2/3 giá trị sổ sách của tài sản hữu hình.
5 - Giá trị vốn hóa của công ty nhỏ hơn 2/3 giá trị tài sản lưu động ròng.
6 - Tỷ số nợ/vốn chủ sở hữu theo giá trị sổ sách nhỏ hơn 1.
7 - Tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn ít nhất 2 lần.
8 - Toàn bộ nợ nhỏ hơn 2 lần giá trị tài sản lưu động ròng.
9 - Tỷ suất lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) tăng trưởng 7%/năm trở lên trong vòng
10 năm qua.
10 - Công ty có sự tăng trưởng lợi nhuận hàng năm ít nhất 7 lần trong vòng 10
năm qua.
Ngoài 10 tiêu chuẩn chọn lọc trên, Benjamin Graham còn có 8 phương châm về
đầu tư giá trị và một công thức tính giá trị cổ phiếu mang dấu ấn riêng của ông. Tác giả
5
Janet Lowe, trong cuốn sách viết về tiểu sử của Benjamin Graham, đã tổng kết 8
phương châm như sau:
1 - Hãy là một nhà đầu tư, đừng là một nhà đầu cơ. Benjamin Graham định nghĩa
nhà đầu tư là người mua và sở hữu cổ phiếu dài hạn, trong khi nhà đầu cơ tìm kiếm lợi
nhuận ngắn hạn.
2 - Quan trọng nhất là mua với giá bao nhiêu. Mua cổ phiếu của một công ty tốt
nhất thị trường về hoạt động, về các chỉ số tài chính vẫn có thể là một đầu tư sai hoặc
không hiệu quả nếu chúng ta mua với giá quá cao.
3 - Truy tìm những cơ hội giá hời. Thị trường sẽ luôn có lỗi trong việc định giá cổ
phiếu.
4 - Luôn thận trọng với những con số tài chính do công ty cung cấp. Thỉnh thoảng
vẫn có những công ty cố tình không đạo đức.
5 - Đa dạng hoá đầu tư. Đừng quá tập trung vào một số ít cổ phiếu.
6 - Hãy thực hiện quyền cổ đông của mình. Nhiều nhà đầu tư đã không thực hiện
quyền cổ đông của mình mà bỏ ngỏ công ty cho các nhà điều hành. Nhà điều hành đôi
khi hành động theo lợi ích của họ, hay lợi ích của một nhóm cổ đông nào đó, mà không
hoạt động vì lợi ích của cả công ty.
7 - Hãy kiên nhẫn. Phương châm này củng cố phương châm 1.
8 - Phải có tính kỷ luật. Chỉ mua cổ phiếu khi thị giá thấp hơn giá trị được xác
định theo công thức sau:
Giá trị = EPS x (2 x tốc độ tăng trưởng năm + 8,5) x Lãi suất trái phiếu chính
phủ/lãi suất trái phiếu AAA
Ví dụ: Một cổ phiếu có EPS là 3 USD, tăng trưởng 10%/năm, trong khi đó, lãi
suất trái phiếu chính phủ là 5% và lãi suất trái phiếu của công ty xếp hạng tín dụng
AAA là 6%. Giá trị của cổ phiếu này sẽ là:
Giá trị = 3 x (2 x 10 + 8,5) x 5/6 = 71,25 USD
Theo Benjamin Graham, chúng ta chỉ nên mua cổ phiếu này khi thị giá thấp hơn
71,25 USD.
6
1.2.3. Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng (Momentum Investing):
Trong chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng, các nhà đầu tư tìm kiếm và đầu tư
vào những cổ phiếu đang tăng trưởng. Hầu hết các cổ phiếu đều có giai đoạn bùng nổ
tăng trưởng hay còn gọi là đà tăng trưởng. Điều lý tưởng nhất đối với các nhà đầu tư
theo đà tăng trưởng là bắt kịp những đợt sóng lớn nhất, lướt trong khoảng thời gian
“hoàn hảo” và rút lui vào thời điểm “hoàn hảo” – thời điểm ngay trước khi đà tăng
trưởng đảo chiều hoặc khả thi hơn là ngay sau khi đà tăng trưởng đảo chiều.
Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì các cổ
phiếu đang có đà tăng trưởng thường đã đi được chặng đường dài nhất và có tốc độ
tăng nhanh nhất. Các cổ phiếu này sẽ đạt đến kỷ lục mới và những điều chỉnh tất yếu
có thể đến rất nhanh và gây ra nhiều hậu quả khôn lường.
William J. ONeil là một trong những người đề xướng chiến lược đầu tư theo đà
tăng trưởng. Khởi nghiệp bằng nghề kế toán viên, ông nhanh chóng bị cuốn vào cơn
sốt cổ phiếu trên TTCK, để rồi với những công thức đầu tư của riêng mình, ông đã trở
thành một nhà “phù thuỷ” tại Wall Street khi thu về hàng triệu USD lợi nhuận mỗi năm
từ cổ phiếu.
300 USD là khoản tiền đầu tiên William đầu tư vào TTCK với cổ phiếu của
Procter & Gamble khi còn phục vụ trong Không lực hoàng gia. Có trong tay tấm bằng
cử nhân tài chính của Đại học Southern Methodist, William khởi động sự nghiệp đầu tư
của mình trên cương vị một nhà môi giới chứng khoán tại Los Angeles. Biết kinh
nghiệm còn ít ỏi, William đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu về thành công của
các “bậc tiền bối” trên TTCK. Và rồi, nỗ lực của ông đã được đền đáp. William nghiên
cứu và đúc kết được 7 yếu tố cần thiết để nhận dạng những cổ phiếu hiện còn ít được
giới đầu tư chú ý nhưng lại chính là những tài sản sinh lời lớn trong tương lai. Bảy yếu
tố đó được biết đến với cái tên CANSLIM.
* Nguyên tắc thành công của William J. ONeil:
- Mua cổ phiếu khi nó đang lên giá. Đừng bao giờ đợi cổ phiếu xuống giá và có
vẻ như rẻ mới mua. Mua khi giá đang lên và bán khi giá đạt được mức 20-25% giá đã
mua.
7
- Luôn phải nhận biết mức nào là đỉnh điểm và bán ngay cổ phiếu trước khi nó
đến đỉnh và chuẩn bị xuống dốc. Phải quyết đoán và bán cổ phiếu khi đang bị lỗ ít.
Đừng bao giờ chần chừ, vì mức thua lỗ sẽ ngày càng lớn hơn. Hãy quyết đoán và cắt lỗ
càng sớm càng tốt. Đừng bao giờ để mức thua lỗ lên đến 8%.
- Đừng quan tâm đến những chỉ số của các nhà phân tích cơ bản, đầu tư theo giá
trị. Đừng quan tâm đến tỷ số giá cả trên lợi nhuận của cổ phiếu, cổ tức, giá trị sổ sách.
- Xác định tỷ lệ lợi nhuận và thua lỗ cố định. Ví dụ như bạn chọn tỷ lệ lợi nhuận-
thua lỗ là 3-1. Nghĩa là nếu bạn bị thua lỗ một cố phiếu là 3%-5%, thì hãy đạt lợi nhuận
từ cổ phiếu khác ở mức gấp 3 lần tức là 9%-15%.
- Không phải nhà phân tích kỹ thuật nào cũng thành công, nhưng điều đó không
có nghĩa là công cụ phân tích kỹ thuật là không hiệu quả. Ngược lại, đồ thị biểu thị giá
và lượng giao dịch là một công cụ tuyệt vời trong kinh doanh cổ phiếu. Bạn hãy học kỹ
năng đọc đồ thị và từ đó tập xác định phán đoán xu hướng giá của cổ phiếu. Khi đã
thành thạo kỹ năng này, chắc chắn kết quả kinh doanh của bạn sẽ khả quan hơn rất
nhiều.
Là cha đẻ của phương pháp phân tích và lựa chọn cổ phiếu hiệu quả CANSLIM,
William J. ONeil đã mang lại tốc độ tăng trưởng bình quân 40%/năm cho các tài khoản
đầu tư cá nhân được ông tư vấn. Nhiều chuyên gia đánh giá đây là một trong những
phương pháp hiệu quả nhất trong vô vàn các công cụ phân tích chứng khoán hiện nay.
“CANSLIM thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa phương pháp phân tích cơ bản với
phương pháp phân tích kỹ thuật đầu tư chứng khoán”- John Neff, một cây đại thụ của
phố Wall, cho biết.
CANSLIM là tập hợp bảy chữ cái đầu tiên của bảy yếu tố mà theo William là rất
hiệu quả khi đánh giá cổ phiếu và thời điểm thuận lợi để mua vào:
C: Current Quaterly Earnings (Lợi nhuận quý hiện tại)
Hãy so sánh lợi nhuận của công ty trong quý năm nay so với cùng kỳ năm trước.
Chú ý đến những cổ phiếu có mức tăng trưởng 18% - 20%/năm. Những công ty tuyệt
vời đôi khi có mức tăng trưởng lợi nhuận quý lên đến 50% - 70%. Ngoài phần trăm,
chúng ta còn phải chú ý đến con số tuyệt đối. Công ty với mức lợi nhuận 100 triệu đô
8
tăng trưởng 20% sẽ có ý nghĩa hơn công ty có lợi nhuận 10 triệu đô tăng trưởng 30%.
Một điều quan trọng nữa là xem xét xem sự tăng trưởng này có tính bền vững không.
A: Annual Earnings Increases (Sự gia tăng lợi nhuận ròng hàng năm)
Nên đầu tư vào công ty có lợi nhuận năm tăng trưởng từng năm trong 5 năm vừa
qua. Mức tăng trưởng tối thiểu là 25%. Kiểm tra tính xác thực của tăng trưởng bằng
việc xem xét ROE - tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sỡ hữu. ROE phải đạt ít nhất 15%;
lý tưởng nhất là trong khoảng 20 - 25%.
N: New Products, New Management, New Highs (Sản phẩm mới, sự quản lý
mới, mức giá trần mới)
Yếu tố mới. Khi công ty có yếu tố mới, chẳng hạn như sản phẩm mới, thị trường
mới, ban điều hành mới.
S: Supply and Demand (Nguồn cung và cầu)
Khi giá dao động lên xuống mà khối lượng giao dịch nhỏ thì cũng không nói được
điều gì. Khi giá lên xuống kèm theo khối lượng giao dịch ngày càng tăng thì đó mới
thực sự là dấu hiệu quan trọng.
L: Leader and Laggard (Cổ phiếu dẫn đầu ngành và cổ phiếu phát triển kém)
Theo ONeil, nhà đầu tư chỉ nên mua 2 hay 3 cổ phiếu tốt nhất trong nhóm những
cổ phiếu dẫn đầu ngành vào thời điểm hiện tại, còn lại nên dành tiền cho những cổ
phiếu có khả năng sinh lời trong tương lai. Ðặc biệt, các nhà đầu tư cần tránh mua
những cổ phiếu có mức tăng trưởng cao nhưng không bền vững, chẳng hạn như cổ
phiếu lên giá theo trào lưu, theo sự kiện nổi bật… bởi vì các cổ phiếu này được đánh
giá là những cổ phiếu phát triển kém nên giá của chúng cũng sẽ nhanh chóng sụt giảm.
I: Institutional Sponsorship (Sự ủng hộ của các nhà đầu tư tổ chức)
Nên mua cổ phiếu mà các nhà đầu tư tổ chức có ít nhất 25% sở hữu. Lý do thứ
nhất, đó là nhà đầu tư tổ chức không bao giờ mua cổ phiếu mà không nghiên cứu điều
tra tình hình kinh doanh cũng như năng lực của ban điều hành của công ty đó. Lý do
thứ hai, khi chúng ta muốn bán, thì đã có một thị trường lớn sẵn sàng mua. Chúng ta có
thể bán với giá lỗ nhưng ngược lại chúng ta không bị rủi ro thanh khỏan đối với những
cổ phiếu này. Tuy nhiên, một số lượng quá lớn các tổ chức nắm giữ cổ phiếu lại trở
9
thành yếu tố bất lợi, vì điều đó đồng nghĩa với việc nguồn cung sẽ bị hạn chế bởi các tổ
chức ít khi muốn bán từng phần cổ phiếu của mình, đẩy tính thanh khoản của cổ phiếu
xuống thấp.
M: Market Direction (Xu hướng thị trường)
Thị trường luôn luôn đúng và là người duy nhất đúng. Do đó, những người kinh
doanh thành công không nên bao giờ tìm cách đi ngược lại thị trường. Và để kinh
doanh cổ phiếu thành công, việc nắm bắt xu hướng của thị trường là cực kỳ quan trọng.
Các nhà đầu tư hãy theo dõi tin tức, đọc những báo cáo phân tích chuyên nghiệp để
nắm vững xu hướng thị trường. Lịch sử đã minh chứng rằng những độc giả thường
xuyên của những tờ báo chuyên về đầu tư chẳng hạn như tờ Investor Business Daily đã
tránh được được những bong bóng IT thời gian vừa qua.
Cho dù nhà đầu tư hoàn toàn chính xác khi nhận định về cả 6 tiêu chí kể trên,
nhưng đến tiêu chí định hướng thị trường lại mắc phải sai lầm thì sẽ có đến 5 trong số 7
cổ phiếu nhà đầu tư mua sẽ mất giá và dẫn đến thua lỗ. Yếu tố thị trường là rất quan
trọng bởi nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá cổ phiếu. Khi hàng loạt các cổ phiếu cùng
ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá cổ phiếu của công ty mà nhà đầu tư lựa chọn
chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu của các công ty này tăng
theo sự phát triển của thị trường thì cổ phiếu nhà đầu tư mua vào cũng sẽ tăng theo
những chỉ số tích cực đó. Do đó, William nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc
nghiên cứu các đồ thị biến động giá chứng khoán theo ngày, theo tuần và theo tháng
trước mỗi quyết định đầu tư cổ phiếu.
1.2.4. Chiến lược đầu tư kỹ thuật (Technical Investing):
Trong chiến lược đầu tư kỹ thuật, các nhà đầu tư luôn tin tưởng rằng tất cả thông
tin về một công ty đều được thể hiện qua giá cổ phiếu. Các nhà đầu tư kỹ thuật cho
rằng các bản báo cáo lợi nhuận, kết quả đạt được trong nhóm ngành, tin tức mới nhất,
thậm chí các con số dự đoán, tin đồn về khả năng sáp nhập hay mua lại đều được phản
ánh trong giá cổ phiếu, do đó, họ chỉ quan tâm tới các chi tiết trong biểu đồ cổ phiếu,
đặc biệt là xu hướng tăng và xu hướng giảm.
10
Các nhà đầu tư kỹ thuật ngắn hạn thường sử dụng những công cụ đưa ra dấu hiệu
mua vào và bán ra trong ngắn hạn. Ngược lại, các nhà đầu tư kỹ thuật dài hạn chỉ quan
tâm tới khả năng biến động có cơ sở trong xu hướng dài hạn.
* Những giả định cơ sở của việc áp dụng phân tích kỹ thuật vào TTCK:
Phân tích kỹ thuật là sự nghiên cứu biến động của thị trường, chủ yếu thông qua
việc sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự đoán các xu thế biến động của giá trong
tương lai.
Thuật ngữ “biến động của thị trường” ám chỉ ba yếu tố biến động chính cung cấp
thông tin cho quá trình phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số lượng hợp
đồng chưa tất toán (open interest).
Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận phân tích kỹ thuật:
- Biến động thị trường phản ánh tất cả
- Giá dịch chuyển theo xu thế chung
- Lịch sử sẽ tự lặp lại
● Biến động thị trường phản ánh tất cả:
Đây có thể coi là nền tảng của phân tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác
muốn được chấp nhận thì trước tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà phân
tích kỹ thuật cho rằng bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý,
chính trị hay các yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức… đều được phản ánh rõ
trong giá thị trường. Do đó, có người cho rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất
cả những gì nhà đầu tư cần và thực sự không thể phản đối lại ý kiến này.
Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong cung
cầu, các nhà phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kỳ lý do gì thì cầu phải
vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đều biết và đồng ý rằng động lực
chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản, chúng làm hình thành nên Bull
Market hay Bear Market, còn đồ thị thì không tự nó làm cho thị trường dịch chuyển lên
● Giá vận động theo xu thế:
hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh tình hình thị trường mà thôi.
11
Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan trọng trong phân tích kỹ thuật do
đó cần hiểu kỹ về giả định này trước khi muốn tìm hiểu sâu thêm về nó. Mục đích của
việc xác lập đồ thị mô tả những biến động giá trên thị trường là nhằm xác định được
sớm những xu thế giá, từ đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ sở những xu thế này. Trên
thực tế, những kỹ thuật ở đây đều mang tính lặp lại những xu thế giá có từ trước tức là
mục đích của phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động
của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra những
quyết định phù hợp.
Từ giả định này chúng ta còn có một hệ quả là “một xu thế giá đang vận động sẽ
tiếp tục theo xu thế của nó và ít khi có đảo chiều”. Hệ quả này rút ra từ định luật 1 về
sự vận động của Newton, do đó, có cách phát biểu khác như sau: “một xu thế đang vận
động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó cho đến khi nó đảo chiều”. Nhìn chung tất cả những
nghiên cứu nhằm tiếp cận theo các xu thế để đi theo những xu thế giá hiện tại cho đến
● Lịch sử sẽ tự lặp lại:
khi có dấu hiệu đảo chiều.
Phần lớn nội dung của phân tích kỹ thuật và việc nghiên cứu biến động thị trường
đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người. Chẳng hạn như những mô hình giá,
những mô hình này đã được xác định và chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng giống
như những bức tranh về đồ thị biến động giá. Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị
trường đang đà lên giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy
hiệu quả trong quá khứ và được giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương
lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con người thì
thường không thay đổi. Như thế giả định này có thể được phát biểu là : “Chìa khóa để
nắm bắt tương lai nằm trong việc nghiên cứu quá khứ” hay “tương lai chỉ là sự lặp lại
của quá khứ”.
Đối với những nhà phân tích kỹ thuật, phân tích kỹ thuật là một nghệ thuật trong
việc nhìn nhận và dự báo một vấn đề dựa trên những gì đã diễn ra trong quá khứ.
Phân tích kĩ thuật ra đời rất lâu tại các thị trường phát triển như: Mỹ, Nhật,
Đức…Đây là công cụ rất quen thuộc đối với những nhà phân tích nước ngoài, nhằm dự
12
báo giá chứng khoán trong tương lai và thời điểm lựa chọn giao dịch sao cho tối ưu
nhất dựa vào những chỉ số và những công cụ trong phân tích kỹ thuật mà nền tảng
chính xuất phát từ lý thuyết Dow của Charles H. Dow, Lý thuyết Sóng Elliot của R.N.
Elliot và Dãy số Fibonacci và các công cụ phân tích khác. Trong đó, lý thuyết Dow là
nền móng cho việc nghiên cứu về phân tích kỹ thuật. Hầu hết các nhà phân tích kỹ
thuật và chuyên viên nghiên cứu thị trường đều công nhận rằng phần lớn những gì
được gọi là phân tích kỹ thuật ngày nay đều bắt nguồn từ những lý thuyết của Dow.
* Lý thuyết Dow:
Những biến động thị trường với mọi xu hướng đều có thể được dự đoán trước trên
cơ sở biến động giá trên các biểu đồ.
- Giả định của Dow:
+ Phần lớn các chứng khoán tuân theo xu hướng cơ bản của thị trường.
+ Xu thế cơ bản của thị trường được hiểu là “chỉ số giá bình quân” - phản ánh xu
thế chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường.
- Các tiền đề:
+ Chỉ sử dụng giá đóng cửa: Giá phản ánh là giá đóng cửa, có thể dự đoán được,
và tác động đến mối quan hệ cung cầu của thị trường.
+ Sử dụng chỉ số trung bình: Chỉ số trung bình là trung bình hoá tất cả:
● Các biến động từng ngày
● Các điều kiện tác động lên cung - cầu các cổ phiếu
● Những quyết định đầu tư bất ngờ không dự đoán được.
- Giải thích lý thuyết Dow:
Lý thuyết Dow được xây dựng dựa trên 6 nguyên lý cơ bản:
Nguyên lý 1: Giá phản ảnh tất cả hành động của thị trường.
Gồm mọi thông tin: các yếu tố về kinh tế, chính trị, các yếu tố tâm lý, khả năng
tăng trưởng lợi nhuận của công ty.
Tất cả các kiến thức của tất cả những người tham gia vào thị trường (nhà giao
dịch, nhà đầu tư, nhà quản trị danh mục…)
Nguyên lý 2: Thị trường có 3 sự chuyển dịch:
13
● Sự dịch chuyển chính: (primary movement)
+ Trong thị trường đầu cơ giá lên (bull market): Là sự dịch chuyển lên trên một
cách rộng lớn, ít nhất là 18 tháng.
+ Thị trường đầu cơ giá xuống (bear market): Là một sự giảm giá kéo dài và sẽ
ngừng lại khi có những sự phục hồi đáng kể trong giá cổ phiếu.
● Những phản ứng thứ cấp:
+ Là sự sụt giảm quan trọng trong thị trường đầu cơ giá lên hoặc một sự tăng giá
quan trọng trong thị trường đầu cơ giá xuống.
+ Khoảng thời gian dịch chuyển nhìn chung thoái lùi từ 33% - 66% (1/3 đến 2/3).
+ Kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng, thông thường 3 tháng.
+ Nó chỉ quan trọng trong việc hình thành nên một phần của sự dịch chuyển chính
cũng như dịch chuyển thứ cấp.
● Những sự dịch chuyển nhỏ (minor movements): sự dịch chuyển này thể hiện
như là một biến động nhẹ trong giá qua các ngày giao dịch, thời gian diễn ra rất ngắn.
Nguyên lý 3: Những đường xu hướng chỉ ra sự dịch chuyển.
Mỗi xu hướng thường xảy ra trong ba giai đoạn riêng biệt:
- Trong thị trường giá lên có 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn tích luỹ: thể hiện việc mua có hiểu biết các nhà đầu tư tinh thông.
+ Giai đoạn tham gia công chúng: xảy ra khi các mức giá bắt đầu gia tăng một
cách nhanh chóng và những tin tức kinh doanh sẽ được cải thiện.
+ Giai đoạn phân phối: khi những tin tức kinh tế trở nên tốt hơn và khi khối
lượng có tính chất đầu cơ và sự tham gia công chúng gia tăng.
- Trong thị trường giá xuống có 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn phân phối
+ Giai đoạn hoảng loạn
+ Giai đoạn bán bắt buộc
Nguyên lý 4: Các mối quan hệ giá và khối lượng tạo ra nền tảng cơ bản.
- Mối quan hệ cơ bản là khối lượng tăng khi giá phục hồi và thu hẹp khi giá giảm.
14
- Nếu khối lượng trở nên ứ đọng khi giá tăng và gia tăng khi giá giảm, cảnh báo
rằng xu hướng chính sớm bị đảo ngược.
Nguyên lý 5: Hành động giá xác định xu hướng.
Dấu hiệu tăng giá được đưa ra khi sự tăng giá liên tiếp tạo ra các đỉnh cao hơn và
sự giảm giá xen vào tạo thành các đáy cao hơn. Và ngược lại đối với dấu hiệu giảm giá.
Nguyên lý 6: Danh mục phải xác định.
Phải biết kết hợp chỉ số của các ngành tương hỗ cho nhau:
- Chỉ số bình quân ngành công nghiệp: là trung bình giá của 20 cổ phiếu công
nghiệp của Mỹ.
- Chỉ số bình quân ngành giao thông vận tải (Transportation): là trung bình giá
của 12 cổ phiếu ngành giao thông vận tải Mỹ.
- Trong một nền kinh tế phát triển khi ngành công nghiệp phát triển thì ngành giao
thông vận tải cũng phát triển theo nên 2 chỉ số bình quân ngành công nghiệp và bình
quân ngành giao thông vận tải sẽ củng cố lẫn nhau.
1.2.5. Các chiến lược đầu tư khác:
Các chiến lược đầu tư khác có thể sử dụng kết hợp với bất kỳ phương thức đầu tư
chính và phụ.
1.2.5.1. Chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới:
Trong chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới, các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm cổ phiếu
theo trình tự:
- Thứ nhất, xem xét ở phạm vi rộng lớn là đất nước, dành cho các nhà đầu tư nội
địa. Đối với các nhà đầu tư toàn cầu, có thể là bất kỳ quốc gia nào có nền kinh tế hoạt
động tốt nhất tại thời điểm hiện tại.
- Thứ hai là thị trường cổ phiếu.
- Thứ ba là khu vực kinh doanh, những khu vực lớn của nền kinh tế bao gồm:
chăm sóc y tế, năng lượng và công nghệ. Các khu vực thường xuyên thay phiên nhau
dẫn đầu tùy theo tình hình nền kinh tế và nhiều yếu tố khác.
- Thứ tư là nhóm ngành. Khi nhà đầu tư tìm thấy khu vực có kết quả hoạt động tốt
nhất, hãy tìm những nhóm ngành có kết quả hoạt động tốt nhất trong khu vực đó.
15
- Thứ năm là cổ phiếu. Khi đã xác định được đất nước, thị trường cổ phiếu, khu
vực và nhóm ngành có kết quả hoạt động tốt nhất, nhà đầu tư sẽ thực hiện tìm kiếm
những cổ phiếu tốt nhất trong nhóm hoặc các nhóm ngành phù hợp với phương thức
đầu tư của mình.
Chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới về cơ bản dựa trên sự dẫn đầu luân phiên
của các khu vực và nhóm ngành. Sự luân phiên được ưa chuộng của khu vực và nhóm
ngành có quan hệ mật thiết với dòng chảy của dòng tiền do các tổ chức đầu tư vào.
1.2.5.2. Chiến lược giao dịch nội bộ:
Trong chiến lược giao dịch nội bộ, các nhà đầu tư sẽ làm theo quyết định mua của
của những thành viên trong công ty. Quyết định mua với số lượng lớn của thành viên
trong công ty cho thấy giá cổ phiếu trong tương lai sẽ đi theo chiều hướng tốt. Đặc biệt
chú ý tới quyết định mua của những vị lãnh đạo cấp cao của công ty. Các nhà đầu tư
không quan tâm nhiều đến quyết định bán nội bộ. Quyết định bán cổ phiếu của thành
viên trong công ty không được coi là dấu hiệu dự báo khả năng thay đổi giá chứng
khoán như quyết định mua bởi vì lý do họ bán cổ phiếu thường không liên quan nhiều
đến tương lai của công ty. Tuy nhiên, khi những cổ đông quan trọng như chủ tịch hội
đồng quản trị hay CEO bán hầu hết cổ phần của họ thì đó là một quyết định rất quan
trọng và có thể là dấu hiệu của sự giảm giá cổ phiếu. Đôi khi những sự việc không
lường trước có thể xảy ra vượt ra khỏi tầm kiểm soát của ban quản lý công ty, như áp
lực cạnh tranh bất ngờ, sự thất bại của sản phẩm,… khiến giá cổ phiếu sụt giảm nên
quyết định mua của thành viên trong công ty không phải là một công cụ dự báo hoàn
hảo.
1.2.5.3. Chiến lược mua và giữ:
Trong chiến lược mua và giữ, các nhà đầu tư xây dựng một danh mục đầu tư cổ
phiếu và giữ chúng trong nhiều năm, bỏ qua những biến động của thị trường. Để xây
dựng một danh mục đầu tư cổ phiếu, các nhà đầu tư cần phải dành nhiều thời gian và
nỗ lực cho quá trình lựa chọn cổ phiếu ổn định, vững chắc có triển vọng tăng trưởng
trong dài hạn tốt. Chiến lược mua và giữ vẫn tồn tại rủi ro khi nhà đầu tư mắc sai lầm
trong quá trình lựa chọn cổ phiếu hoặc gặp phải những rủi ro hệ thống.
16
1.2.5.4. Chiến lược đầu tư trái ngược:
Trong chiến lược đầu tư trái ngược, các nhà đầu tư quan sát sự phản ứng thái quá
với cả tin tốt và tin xấu và sẽ thực hiện đầu tư đi ngược lại tâm lý đang thịnh hành. Khi
những nhà đầu tư khác ra sức mua vào thì những nhà đầu tư trái ngược sẽ lặng lẽ bán
ra, còn khi những nhà đầu tư khác bán tống bán tháo cổ phiếu thì các nhà đầu tư này sẽ
mua vào kiếm được những món hời. Những nhà đầu tư trái ngược tin rằng những cơ
hội tốt nhất đến trong suốt giai đoạn cực độ thị trường: tại đỉnh của một thị trường bán
giá lên mạnh mẽ và mua tại đáy của thị trường giá xuống.
1.2.5.5. Sử dụng giá trị vốn hóa thị trường như một chiến lược đầu tư:
Giá trị vốn hóa thị trường là một thuật ngữ thể hiện tổng giá trị mà thị trường đặt
vào một công ty. Giá trị vốn hóa thị trường được tính bằng cách nhân số lượng cổ
phiếu đang lưu hành với giá cổ phiếu.
Các nhà phân tích thường phân giá trị vốn hóa thị trường theo ba mức: lớn, trung
bình và nhỏ, có khi có thêm cả siêu nhỏ, điều đó tùy thuộc vào từng thị trường, từng
thời điểm và cách thức sử dụng phạm vi nguồn vốn khác nhau cho các phân loại khác
nhau. Điều quan trọng là khi giá cổ phiếu thay đổi hoặc khi phát hành thêm cổ phiếu,
các công ty thường nằm giữa các phạm vi phân loại đó.
Có nhiều nghiên cứu cho thấy trong lịch sử, tùy từng thời điểm, thị trường sẽ dành
ưu đãi cho những công ty có quy mô khác nhau, tạo ra sự xoay vòng của giá trị vốn hóa
thị trường. Sự xoay vòng của giá trị vốn hóa thị trường có thể làm tăng hoặc có thể gây
tác động tiêu cực tới khả năng thu lợi nhuận của các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư tập
trung vào đúng giá trị vốn hóa thị trường đang được thị trường ưa chuộng trong thời
điểm hiện tại thì sẽ thu được kết quả lợi nhuận khả quan. Vì vậy, sử dụng giá trị vốn
hóa thị trường như một chiến lược đầu tư tùy thuộc vào ý thích của từng nhà đầu tư, có
thể sử dụng kết hợp với các chiến lược khác để tạo nên một danh mục đầu tư phù hợp
với bản thân.
17
1.2.6. Các chiến lược đầu tư nâng cao:
1.2.6.1. Chiến lược bán khống (Short-selling):
Chiến lược bán khống được sử dụng khi các nhà đầu tư tin rằng cổ phiếu đang
được định giá quá cao. Nhà đầu tư bán cổ phiếu mượn từ người môi giới tại mức giá
hiện tại và chờ đợi cổ phiếu đó tụt giá. Khi mọi chuyện diễn ra theo đúng dự đoán, nhà
đầu tư giữ vững vị thế bằng việc mua lại cổ phiếu ở mức giá thấp hơn, rồi trả lượng cổ
phiếu đó lại cho người môi giới và thu được phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua
lại, có trừ đi phần chi phí trả cho người môi giới vì đã vay cổ phiếu của họ. Chiến lược
bán khống chứa đựng mức độ rủi ro rất cao vì khả năng thua lỗ là vô hạn.
Bán khống có thể áp dụng cho bất kỳ phương thức đầu tư nào để hạn chế rủi ro.
Nhà đầu tư có thể xây dựng một danh mục đầu tư phòng ngừa tăng trưởng bằng cách
tìm kiếm những cổ phiếu có mức tăng trưởng thấp hoặc bán khống những cổ phiếu có
khả năng tăng tốc đang dần xuống dốc. Nhà đầu tư cũng có thể xây dựng một danh
mục phòng ngừa giá trị bằng cách bán khống những cổ phiếu được đánh giá quá cao.
1.2.6.2. Chiến lược đầu tư thị trường trung lập:
Chiến lược đầu tư thị trường trung lập là một cách quản lý rủi ro. Chiến lược này
có tác dụng bảo vệ nhà đầu tư trước biến động của thị trường bằng cách đầu tư đồng
thời vào cả trường vị và đoản vị hoặc bằng cách sử dụng quyền lựa chọn hoặc quỹ chỉ
số hoặc quỹ tự bảo hiểm.
Trường vị: việc mua vào các loại chứng khoán như cổ phiếu, hàng hóa hay tiền tệ
nhằm mục đích thu lời khi giá các loại tài sản này tăng lên.
Đoản vị (cổ phiếu bán khống): là số cổ phiếu hoặc trái phiếu mà một nhà đầu tư
không phải là chủ sở hữu vay để bán đi ở mức giá hiện tại của thị trường. Sau đó, khi
giá cổ phiếu trên thị trường sụt giảm, nhà đầu tư sẽ mua vào để trả cho chủ sở hữu và
hưởng phần chênh lệch. Ngoài ra, nhà đầu tư còn có thể sử dụng hợp đồng quyền chọn
bán để thực hiện bán khống.
Trong chiến lược đầu tư thị trường trung lập, nhà đầu tư sẽ thu về lợi nhuận nhờ
trường vị nếu thị trường hoạt động tốt, ngược lại, nếu thị trường hoạt động kém hiệu
quả thì nhà đầu tư sẽ kiếm tiền nhờ đoản vị. Do đó, nhà đầu tư sẽ hoạt động theo
18
phương châm: nếu thị trường lên cao thì tôi muốn sở hữu cổ phiếu, còn nếu thị trường
hoạt động kém hiệu quả thì tôi muốn bán khống những cổ phiếu này. Tất nhiên, nhà
đầu tư không biết thị trường sẽ biến đổi theo chiều hướng nào nhưng giả sử nếu nhà
đầu tư tin rằng có tới 70% khả năng thị trường sẽ tăng trưởng, khi đó, danh mục đầu tư
sẽ gồm 70% đầu tư vào trường vị và 30% vào đoản vị. Nếu nhà đầu tư không thấy hấp
dẫn với phương thức bán khống thì có thể đầu tư 30% danh mục đầu tư vào những cổ
phiếu an toàn như thực phẩm hay dược phẩm – đây là những cổ phiếu vẫn có thể hoạt
động tốt trong một nền kinh tế ảm đạm. Khi đó, nhà đầu tư sẽ trung lập trên thị trường.
Do vậy, mục đích của chiến lược đầu tư thị trường trung lập là nhằm bảo vệ trong
trường hợp nhà đầu tư gặp rủi ro.
1.2.6.3. Chiến lược đầu tư toàn cầu:
Mục tiêu của chiến lược đầu tư toàn cầu là đa dạng hàng hóa danh mục đầu tư
trên khắp các nền kinh tế toàn cầu. Nhờ đó, nhà đầu tư có thể tận dụng được lợi thế của
những nền kinh tế thịnh vượng nhất, đồng thời giảm thiểu rủi ro thị trường trên quy mô
rộng lớn hơn. Chiến lược đầu tư toàn cầu có thể hiểu là một cấp bậc khác của chiến
lược đầu tư từ trên xuống dưới. Do đó, các nhà đầu tư có thể kết hợp chiến lược đầu tư
toàn cầu với bất kỳ phương thức đầu tư nào khác. Trước hết, nhà đầu tư tìm kiếm
những quốc gia có nền kinh tế hoạt động tốt nhất hoặc có tốc độ tăng trưởng cao nhất,
sau đó mới đánh giá ngành hoặc các cổ phiếu cụ thể. Cách dễ dàng nhất để một nhà
đầu tư cá nhân có thể tham gia sân chơi toàn cầu là thông qua ADR (Quỹ thu giữ tài
sản Mỹ), quỹ đóng quốc gia hoặc quỹ ETF. Những công cụ này sẽ dễ giao dịch hơn so
với phương pháp đầu tư trực tiếp và các cổ phiếu nước ngoài và thường không có hoặc
có rất ít rủi ro. Ngoài ra, nhà đầu tư có thể đầu tư thông qua hàng trăm quỹ tương hỗ
toàn cầu khác.
1.3. Ý nghĩa của việc lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu đối với nhà đầu tư:
- Việc lựa chọn được chiến lược đầu tư cổ phiếu có thể giúp nhà đầu tư định
hướng được các bước cần thực hiện để đạt được mục tiêu lợi nhuận trong hiện tại cũng
như trong tương lai. Một khi đã có định hướng rõ ràng thì các bước lựa chọn cổ phiếu
và xác định thời điểm mua bán tiếp theo sẽ trở nên dễ dàng hơn. Định hướng không chỉ
19
ở thời điểm hiện tại mà chiến lược đầu tư cổ phiếu giúp nhà đầu tư có tầm nhìn xa
trong trung và dài hạn. Nếu không có chiến lược đầu tư cổ phiếu thì nhà đầu tư sẽ thật
sự gặp khó khăn trong việc lựa chọn cổ phiếu để đầu tư cũng như xác định thời điểm
mua bán. Một khi việc lựa chọn cổ phiếu được thực hiện không có sự nghiên cứu, phân
tích tỉ mỉ mà đôi khi là thực hiện theo số đông trên TTCK thì tỷ lệ đạt được thành công
rất thấp.
- Lựa chọn một chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với khả năng và cá tính của
nhà đầu tư sẽ đem lại hiệu quả khả quan. Chiến lược đầu tư đó sẽ thật sự hiệu quả hơn
việc nhà đầu tư ép bản thân phải thực hiện theo các trào lưu đang có trên thị trường.
Bên cạnh đó, chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với khả năng phân tích, chấp nhận rủi
ro và sở thích của các nhà đầu tư cá nhân sẽ giúp họ giữ được thái độ bình tĩnh trước
các biến động của thị trường và tự tin với các quyết định mua bán. Nếu nhà đầu tư chỉ
có thể chấp nhận mức rủi ro thấp thì không thể ép bản thân thực hiện các chiến lược
đầu tư có độ rủi ro cao. Một chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với mục tiêu lợi nhuận
và khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư sẽ không tạo ra áp lực trong việc quyết
định thời điểm mua bán để hiện thực hóa các khoản lời lỗ.
- Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
TTCK đem đến nhiều cơ hội lợi nhuận cho nhà đầu tư. TTCK luôn phát triển không
ngừng, do đó, một chiến lược đầu tư cổ phiếu linh hoạt phù hợp với các điều kiện mới
của TTCK sẽ giúp nhà đầu tư có khả năng đạt được mục tiêu lợi nhuận đã đề ra. Nếu
như trong hoàn cảnh TTCK đang có xu hướng giảm điểm thì một nhà đầu tư thực hiện
chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng sẽ không thể đạt được lợi nhuận và thậm chí là
thua lỗ. Mặc dù, nhà đầu tư cảm thấy tự tin và quen thuộc với chiến lược đầu tư theo đà
tăng trưởng để đạt được các khoản lợi nhuận nhanh chóng trong khoảng thời gian ngắn,
sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao nhưng trong một thị trường giảm điểm đòi hỏi nhà đầu tư
cần điều chỉnh chiến lược đầu tư cổ phiếu hoặc có thể tạm thời đứng ngoài thị trường
để quan sát, bảo toàn vốn. Như vậy, TTCK luôn luôn đúng, do đó, nhà đầu tư cần tỉnh
táo và khéo léo thực hiện các chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của thị trường.
20
1.4. Những bài học kinh nghiệm lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu của các nhà
đầu tư nổi tiếng trên thế giới:
Khi nghiên cứu về những nhà đầu tư kiệt xuất trong lĩnh vực đầu tư cổ phiếu,
chúng ta sẽ nhận thấy mỗi người trong số họ đều có ảnh hưởng to lớn đến cách thức
đầu tư trên toàn thế giới, và một nét tiêu biểu chung là họ đều nhìn thấy trước các cơ
hội. John Templeton đẩy mạnh đầu tư quốc tế trước khi xuất hiện sự thoái trào. Warren
Buffett mua hết cổ phiếu của các công ty chưa nổi danh trước rất lâu khi nó trở nên nổi
tiếng khắp thế giới. Rất nhiều các nhà đầu tư hàng đầu thế giới chiếm lĩnh đỉnh cao
bằng khả năng của chính mình. Họ không đi theo dấu chân của người đi trước và
không sao chép phong cách đầu tư của những người khác. Ngay từ khi mới khởi
nghiệp, “Họ đã đặt mình ra ngoài đám đông,” ông Walter Gerasimowicz - Chủ tịch và
đồng thời là Giám đốc điều hành của Meditron Asset Management nói.
- Suy nghĩ của các nhà đầu tư nổi tiếng thường gây khó hiểu đối với thị
trường:
Nếu nhà đầu tư muốn tự đặt mình ra khỏi đám đông, thì trước hết nhà đầu tư phải
rất dũng cảm, đặc biệt là thị trường tài chính, nơi con người hay bị chi phối bởi tâm lý
đám đông rất rõ rệt. John Merrill, Giám đốc điều hành của Tanglewood Capital
Management gọi đặc điểm này là “Sự toàn vẹn trí tuệ”. Các nhà đầu tư hàng đầu luôn
tự tư duy. “Họ không tuân theo các câu nệ quy ước”, Merrill nói.
Có thể điều này lý giải tại sao bất cứ một nhà đầu tư nào có tên trong danh sách
những người xuất sắc nhất cũng có nhiều câu nói nước đôi và những sở thích khác lạ.
Những người như Buffett hay ông vua tài chính Bill Gross có khả năng làm cho hàng
triệu triệu người thích thú theo dõi các quan điểm của họ.
Thỉnh thoảng lời nói nước đôi của các nhà đầu tư xuất sắc này khiến cho các nhà
đầu tư khác không biết phải đánh giá thế nào cho đúng. “Họ thường xuyên lạc điệu với
các trào lưu thị trường”, Merrill nói. Các nhà đầu tư nổi tiếng khéo léo tìm đường đi
đúng cho riêng họ trên con đường mà đám đông đang đi. Chúng ta hãy nhìn vào tấm
gương nhà quản lý Ken Heebner, người đã từng mua cổ phiếu bất động sản khi nó
21
không được ưa chuộng và sau đó bán chúng khi giá của loại cổ phiếu này lên tới đỉnh,
chỉ ngay trước thời điểm giá bất động sản có dấu hiệu đi xuống.
- Các nhà đầu tư nổi tiếng hầu hết đều suy nghĩ cho dài hạn:
Một đặc điểm dễ nhận ra khác là phần lớn các nhà đầu tư nổi tiếng, mặc dù không
phải là tất cả, nhưng hầu như họ đều là những người suy nghĩ đầu tư trong dài hạn. Họ
tin tưởng chắc chắn rằng những danh mục đầu tư của họ sẽ có giá trị trong tương lai, và
họ quyết tâm theo đuổi niềm tin ấy. “Họ không bị dao động trước các tin tức khác nhau
trên thị trường” Georges Yared, nhà hoạch định chính sách đầu tư tại Yared Investment
Research nói.
Sự tập trung trong dài hạn là rất quan trọng khi bạn đánh giá các hạng mục đầu tư
không chỉ cho vài tháng hay vài năm mà là cho vài thập kỷ. Chúng tôi chắc chắn các
tên tuổi được liệt kê trong danh sách các nhà đầu tư lớn trên thế giới luôn có sự theo
đuổi các hạng mục đầu tư đến vài thập kỷ. Những ngôi sao đầu tư ngắn hạn sẽ sớm
đuối sức dần, và có thể sẽ không còn chỉ ngay sau một đợt suy sụp kinh tế.
Merrill chỉ ra rằng, trong khoảng thời gian đầu những năm 1970, danh tiếng của
các nhà quản lý quỹ đã từng bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng khi thị trường cổ
phiếu chao đảo. Rất nhiều nhà đầu tư đã mất trắng vốn đầu tư, và họ đổ lỗi này cho các
“gã găngxtơ” đang điều hành tại các quỹ quản lý. Templeton, nhờ nhìn xa trông rộng
áp dụng chiến lược tập trung trong dài hạn và nhấn mạnh đa dạng hóa đầu tư ra nước
ngoài, “đã cứu danh dự cho các quỹ này”.
Các nhà đầu tư hàng đầu thường chủ động đưa ra chiến lược đầu tư dài hạn có khi
tới vài thập kỷ. “Và họ sẽ là những người sống sót qua mọi chu kỳ kinh tế”,
Gerasimowicz nói. Họ đã sống sót qua các cuộc hỗn loạn kinh tế, chiến tranh và sự
khắc nghiệt của thị trường.
- Thay đổi cùng với thời gian:
Thực ra, không phải tất các các nhà đầu tư nổi tiếng đều kiếm ra tiền nhờ việc
mua và giữ các khoản đầu tư. Một số người, giống như nhà đầu cơ George Soros, đã
thu lợi nhuận nhờ việc buôn bán kỳ hạn. Nhưng điều đó đòi hỏi phải là một người có
22
đầu óc suy nghĩ độc lập. Soros phải là người nắm rõ các quy tắc thông thường, nhưng
ông cũng sẵn sàng đi ngược lại chúng khi cần.
Vậy thì các nhà đầu tư lớn kiên định tới mức nào? Họ có chọn ra được một triết lý
đầu tư và nhất quyết theo đuổi nó đến cùng không? Thật khó có thể trả lời được câu hỏi
này. Theo ông Gerasimowicz: “Mọi nhà đầu tư xuất chúng đã có được thành công là vì
họ hoạt động với triết lý đầu tư liền mạch”. Quan trọng nhất là, “Họ áp dụng nó một
cách kiên định đối với mọi danh mục đầu tư của mình”, - ông nói - “Họ không bao giờ
dao động”.
Điều đó có thể đúng, nhưng chắc chắn rằng nhiều nhà đầu tư lớn phải biết thay
đổi cùng với thời gian. Warren Buffett của năm 1964 không phải là Warren Buffett của
năm 2007, ngay cả khi một số quy tắc của ông ta vẫn như cũ. Icahn đã điều chỉnh các
sách lược của ông phù hợp với các luật lệ mới và các quy tắc chung mới.
Tuy nhiên có một thứ không thay đổi: đó là sự may mắn. Thậm chí người giỏi
nhất trong số họ có thể đưa ra một danh sách dài những sai lầm trong đầu tư của ông ta.
Đôi khi ngay cả nhà đầu tư xuất sắc nhất cũng ước ao có thể quay ngược đồng hồ thời
gian trở về quá khứ để sửa chữa những sai lầm ngớ ngẩn của chính mình. Nhưng các
nhà đầu tư sáng giá nhất trong thế giới đầu tư đều biết thích nghi, và biết rút kinh
nghiệm từ các sai lầm đó để hoạch định các chiến lược đầu tư tương lai.
Một nhà đầu tư bình thường có thể không có được các kết quả như các nhà đầu tư
lớn, nhưng bạn có thể thu được lợi nhuận nhờ áp dụng các phương thức và các cách
tiếp cận của các nhà đầu tư nổi tiếng đã được lịch sử chứng minh.
23
Kết luận Chương I
Để đạt được mục tiêu lợi nhuận mỗi nhà đầu tư đều lựa chọn cho mình một chiến
lược đầu tư cổ phiếu thích hợp. Chiến lược đầu tư cổ phiếu là toàn bộ kế hoạch, cách
thức đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định để đạt được
mục tiêu lợi nhuận. Chiến lược đầu tư cổ phiếu được thiết lập từ trước khi thực hiện
đầu tư, thể hiện sự đánh giá của nhà đầu tư trên khắp các lĩnh vực, nó thể hiện ý chí và
mong muốn của nhà đầu tư và nhà đầu tư sẽ theo đuổi chiến lược này trong suốt một
khoảng thời gian dài.
Chiến lược đầu tư cổ phiếu giúp nhà đầu tư có thể thành công, đạt lợi nhuận kỳ
vọng cũng như giúp TTCK có thể phát triển lành mạnh.
Lợi thế của các nhà đầu tư thời nay là có thể kế thừa được rất nhiều kinh nghiệm
của các nhà đầu tư đã rất nổi tiếng với những khoản lợi nhuận ấn tượng. Hiện nay, có
rất nhiều chiến lược đầu tư cổ phiếu gồm: chiến lược đầu tư tăng trưởng, chiến lược
đầu tư giá trị, chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng, chiến lược đầu tư kỹ thuật và
những chiến lược đầu tư cổ phiếu khác như chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới, chiến
lược giao dịch nội bộ, chiến lược mua và giữ, chiến lược đầu tư trái ngược và sử dụng
giá trị vốn hóa thị trường như một chiến lược đầu tư có thể kết hợp với bất kỳ chiến
lược nào để tạo ra một chiến lược đầu tư phù hợp với từng giai đoạn của TTCK và bản
thân nhà đầu tư. Ngoài ra, còn có các chiến lược đầu tư nâng cao như chiến lược bán
khống, chiến lược đầu tư thị trường trung lập và chiến lược đầu tư toàn cầu giúp nhà
đầu tư có thể hạn chế rủi ro thua lỗ khi sử dụng kết hợp với các chiến lược đầu tư khác.
24
CHƯƠNG II:
ỨNG DỤNG CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2000 đến 2011:
Trước khi chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000 thì TTCK VN đã có một
khoảng thời gian để chuẩn bị tốt về mọi mặt. Ngày 29/06/1995, Thủ tướng Chính phủ
đã có Quyết định số 361/QD-TTg thành lập Ban chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở
Việt Nam.
Ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước được thành lập, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và
quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK.
Ngày 11/07/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-
CP về Chứng khoán và TTCK để tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh
doanh chứng khoán, nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn dài hạn trong
nước và nước ngoài, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai,
công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền hợp pháp của người đầu tư. Cùng ngày, Thủ
tướng Chính phủ cũng đã có Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM và TTGDCK HN có ý nghĩa rất lớn trong
việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.1. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005:
Ngày 20/07/2000, TTGDCK TP.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành
và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm
yết (REE và SAM). TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng
hóa khan hiếm, chỉ số VN-Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày
25/6/2001. Sau đó, thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, mức đáy
25
thấp nhất của chỉ số VN-Index thiết lập tại mức 130,90 điểm vào ngày 24/10/2003,
trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003.
Biểu đồ 2.1: Biến động của VN-Index và khối lượng giao dịch giai đoạn 2000 - 2005
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
Ngày 08/03/2005, TTGDCK HN khai trương với hoạt động đầu tiên là đấu giá cổ
phần. Đến ngày 14/07/2005, TTGDCK HN khai trương hệ thống giao dịch chứng
khoán thứ cấp với 6 cổ phiếu giao dịch đầu tiên (CID, GHA, HSC, KHP, VSH, VTL).
Phương thức giao dịch thỏa thuận, 3 phiên giao dịch/tuần.
Trong suốt 2 năm 2004 và 2005, VN-Index gần như đi ngang cho đến khi quyết
định 238/2005/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ngày 29/09/2005 về việc tăng room
cho nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 49% khiến VN-Index có lại được đà tăng nhẹ
vào cuối năm 2005.
26
Biểu đồ 2.2: Số lượng tài khoản nhà đầu tư giai đoạn 2000 - 2005
35,000
29,065
30,000
25,000
21,600
20,000
16,486
13,607
15,000
8,780
10,000
2,908
5,000
-
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước
Vào thời điểm mới hoạt động cuối năm 2000, TTCK VN mới chỉ có 5 công ty
niêm yết với sự tham gia hoạt động của 7 công ty chứng khoán và thu hút được 2,908
nhà đầu tư tham gia. Đến năm 2003, TTCK VN đã có 22 công ty niêm yết tăng gấp 4
lần so với năm 2000, số lượng công ty chứng khoán hoạt động mới chỉ dừng lại ở con
số 12 tăng gần gấp đôi năm 2000, số lượng 16,486 nhà đầu tư tham gia thị trường đã
tăng đáng kể gần 6 lần so với năm 2000, nhưng có một điều đáng chú ý là đã xuất hiện
công ty quản lý quỹ đầu tiên làm cho thị trường thêm đa dạng. Nhìn chung, số lượng
công ty niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và số lượng tài khoản nhà
đầu tư tham gia TTCK VN trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 có tăng qua các năm
nhưng tốc độ tăng khá chậm rãi chưa có sự đột biến.
27
Biểu đồ 2.3: Số lượng công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ tham gia trên TTCK VN giai đoạn 2000 -2005
45
41
40
35
30
26
25
22
20
20
14
13
15
12
10
9
8
10
7
6
5
5
2
1
0
0
0
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Công ty niêm yết Công ty chứng khoán Công ty quản lý quỹ
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước
Tuy nhiên, giá trị giao dịch bình quân phiên đã có sự tăng đáng kể khoảng 80 lần
với năm 2000 mới chỉ là 1.4 tỷ đồng lên 111.90 tỷ đồng vào năm 2005. Bên cạnh đó,
giá trị vốn hóa thị trường năm 2000 là 986 tỷ đồng chiếm 0.28% GDP cũng đã tăng
khoảng 10 lần đạt 9,598 tỷ đồng chiếm 1.21% GDP.
Bảng 2.1: Thống kê giá trị giao dịch, vốn hóa thị trường và % so với GDP giai đoạn
2000 - 2005
Giá trị giao dịch bình Vốn hóa thị trường Vốn hóa so với Thời gian quân phiên (tỷ đồng) (tỷ đồng) GDP(%)
1.4 986 0.28% 2000
6.85 1,570 0.34% 2001
4.58 2,436 0.48% 2002
12.14 2,370 0.39% 2003
79.55 4,516 0.63% 2004
111.90 9,598 1.21% 2005
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước
28
Nhìn chung, qua 5 năm hoạt động, TTCK Việt Nam còn nghèo về hàng hóa và
tính thanh khoản chưa cao.
2.1.2. Giai đoạn năm 2006 –2011:
Bước sang giai đoạn 6 năm phát triển tiếp theo 2006-2011, TTCKVN đã có sự
tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô giao dịch và tính thanh khoản được cải thiện. Nhưng
cũng trong giai đoạn này, TTCK VN đã chứng kiến sự phát triển quá nóng rồi rơi vào
suy giảm mạnh và dần hồi phục theo biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Tháng 3/2007, các chỉ số chứng khoán đạt được mức cao nhất. Vào ngày 12/03/2007,
VN-Index đạt đỉnh tại 1,170.67 điểm và HNX-Index đạt 459.36 điểm vào ngày
19/03/2007. Sau giai đoạn tăng trưởng khá nóng, nền kinh tế Việt Nam từ năm 2008 đã
có những biểu hiện bất cập như lạm phát liên tục ở mức cao, thâm hụt thương mại kéo
dài gây áp lực lên tỷ giá cộng với những ảnh hưởng bởi cuộc suy thoái kinh tế đang lan
tràn trên phạm vi toàn cầu, giá vàng, giá dầu biến động tăng mạnh, tác động của các
chính sách điều hành của nhà nước như chính sách thắt chặt tiền tệ,… và áp lực từ
nguồn cung quá lớn, tất cả đều phản ánh vào TTCK. Do đó, đáy của các chỉ số chứng
khoán trong giai đoạn này rơi vào ngày 24/02/2009, VN-Index đã giảm sâu còn 235.50
điểm và HNX-Index rơi xuống dưới mốc 100 điểm còn 78.06 điểm. Trong hai năm tiếp
theo 2010 và 2011, VN-Index và HNX-Index có những đợt phục hồi nhẹ nhưng xu
hướng chính vẫn là giảm điểm.
29
Biểu đồ 2.4: Biến động của VN-Index và khối lượng giao dịch giai đoạn 2006 -2011
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
Biểu đồ 2.5: Biến động của HNX-Index và khối lượng giao dịch giai đoạn 2006 - 2011
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
30
Kể từ năm 2006, TTCK VN đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công
ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tỷ lệ vốn hóa trên GDP vượt xa so với chiến lược
phát triển của thị trường đến năm 2010 (ở mức 10-15% GDP). Cuối năm 2005, giá trị
vốn hóa của TTCK VN là 9,598 tỷ đồng chiếm 1.21% GDP thì sang năm 2006 con số
này đã tăng vượt bậc đạt 237,276 tỷ đồng tăng gần 25 lần và chiếm tới 22.7% GDP. Tỷ
lệ vốn hóa trên GDP tiếp tục tăng lên mức trên 40% vào năm 2007. Trước biến động
của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số
giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường
giảm hơn 50%, xuống còn 19.76% GDP. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt
đầu hồi phục, giá trị vốn hóa của TTCK VN năm 2009 tăng lên chiếm 37.71% GDP và
tiếp tục tăng vào năm 2010 đạt 726,000 tỷ đồng chiếm 39% GDP. Tuy nhiên, năm
2011, tình hình kinh tế vĩ mô trong nước đã xuất hiện những dấu hiệu bất cập và cả tình
hình kinh tế thế giới cũng có nhiều bất ổn ảnh hưởng đến dòng vốn, tâm lý e ngại giải
ngân bao trùm toàn TTCK VN khiến giá trị giao dịch bình quân phiên giảm xuống còn
992 tỷ đồng, vốn hóa thị trường chỉ còn 537,505 tỷ đồng chiếm 27% GDP.
Bảng 2.2: Thống kê giá trị giao dịch, vốn hóa thị trường và % so với GDP giai đoạn
2006 - 2011
Giá trị giao dịch bình Vốn hóa thị trường Vốn hóa so với Thời gian quân phiên (tỷ đồng) (tỷ đồng) GDP(%)
401.84 237,276 22.70% 2006
1,562.21 492,900 40.00% 2007
1,615.79 225,935 19.76% 2008
2,872.75 620,551 37.71% 2009
2,480 726,000 39% 2010
992 537,505 27% 2011
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước và Công ty chứng khoán FPT
31
Với quy mô thị trường trong giai đoạn này, số lượng nhà đầu tư, công ty niêm yết,
Biểu đồ 2.6: Số lượng nhà đầu tư giai đoạn 2006 - 2011
1,400,000
công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ cũng tăng trưởng mạnh.
1,170,000
1,135,621
1,200,000
1,000,000
822,914
800,000
531,428
600,000
312,139
400,000
110,652
200,000
-
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước
Nếu như năm 2006, số nhà đầu tư tham gia thị trường là 110,652 thì đến năm
2009 tăng 7 lần đạt 822,914 nhà đầu tư. Không chỉ số lượng nhà đầu tư trong nước gia
tăng qua các năm mà các nhà đầu tư nước ngoài cũng tham gia thị trường ngày càng
tăng, đặc biệt là kể từ năm 2006 khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO. Khối đầu tư nước ngoài đã tham gia khá tích cực vào TTCK VN và đã dần trở
thành một lực lượng quan trọng có ảnh hưởng khá lớn tới diễn biến thị trường. Trong
số nhà đầu tư tham gia TTCK vào cuối năm 2009 có khoảng 98% là nhà đầu tư trong
nước và 2% là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy chiếm 2% trong tổng số nhà đầu tư tham gia
thị trường nhưng mức giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài là khá lớn. Đặc biệt vào
tháng 5/2009, giá trị mua ròng của khối đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng tới 34% giá
trị giao dịch toàn thị trường. Theo thống kê của Trung tâm lưu ký chứng khoán, tính
đến cuối năm 2010, số lượng tài khoản nhà đầu tư trong nước đã đạt 1,032,413 tài
khoản và 14,894 tài khoản nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK VN. Đến cuối năm
32
2011, số lượng tài khoản nhà đầu tư tham gia thị trường tiếp tục tăng lên đạt 1,170,000
Biểu đồ 2.7: Số lượng công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ giai đoạn 2006 - 2011
tài khoản.
695
700
642
600
457
500
400
342
253
300
195
200
105
102
78
105
102
46
43
55
100
18
25
47
47
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Công ty niêm yết
Công ty chứng khoán
Công ty quản lý quỹ
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước
Nguồn cung hàng hóa trên thị trường ngày càng dồi dào khiến TTCK VN càng đa
dạng đem đến nhiều sự lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, có những thời điểm
nguồn cung tăng quá nhanh đã tạo ra áp lực làm “loãng” thị trường. Trong khi cuối
năm 2005, số công ty niêm yết trên cả hai TTGDCK mới chỉ có 41, thế mà đến cuối
năm 2006, con số này đã tăng lên 195 công ty niêm yết, như vậy đã tăng gấp 5 lần.
Trong chỉ một năm, TTGDCK TP.HCM và HN đã có thêm 154 công ty niêm yết. Đặc
biệt số lượng công ty niêm yết tăng mạnh vào giai đoạn cuối năm 2006. Sự chạy đua
niêm yết của các công ty là do có sự thực hiện việc cắt giảm thuế theo Công văn số
10997/CV-BTC của Bộ Tài Chính ngày 08/09/2006 có nội dung là các doanh nghiệp
niêm yết và đăng ký giao dịch trên TTCK sau ngày 31/12/2006 không được hưởng ưu
đãi miễn giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm liên tiếp kể từ ngày lên
sàn như trước đây. Tính đến cuối năm 2011, số lượng doanh nghiệp niêm yết trên
33
SGDCK TP.HCM có 302, trên SGDCK HN là 393 doanh nghiệp niêm yết. Nếu như
năm 2000, TTCK VN mới chỉ có 6 công ty chứng khóan vốn điều lệ trung bình không
quá 50 tỷ đồng thì đến cuối năm 2009 cả nước đã có 105 công ty chứng khoán vốn điều
lệ trung bình 175 tỷ đồng, trong đó có những công ty vốn lớn trên 1,000 tỷ đồng như
Công ty CP chứng khoán Sài Gòn (SSI) 1,533 tỷ đồng, Công ty Chứng khoán Ngân
hàng Á Châu (ACBS) 1,500 tỷ đồng ….
TTCK VN đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính
thanh khoản của thị trường. Năm 2005, bình quân có 667,600 cổ phiếu được giao dịch
một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2.6 triệu đơn vị (tăng 3.93 lần), tiếp tục
tăng lên 9.79 triệu và 18.07 triệu trong hai năm sau đó. Tuy nhiên, đó chỉ là những con
số tại thời điểm cuối năm, còn diễn biến cụ thể qua các năm có lúc thanh khoản đã suy
giảm mạnh và duy trì ở mức yếu.
2.2. Ứng dụng các chiến lược đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt
Nam:
Sau 11 năm, TTCK VN đã hình thành và ngày càng phát triển về nhiều mặt, tuy
nhiên, trong những giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh nhất vẫn còn bộc lộ những
hạn chế như tính thanh khoản của thị trường thấp dẫn đến mất cân đối cung cầu làm giá
cả biến động thất thường. Sự tăng trưởng của thị trường chưa bắt nguồn từ động cơ tích
cực khi nhà đầu tư còn chạy theo phong trào, thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư dài
hạn. Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ cho hoạt động của thị trường còn nhiều hạn
chế, khung pháp lý của thị trường còn nhiều bất cập khi mà Luật Chứng khoán đã ban
hành song chưa đầy đủ ở một số hành vi như giao dịch khống, giao dịch các sản phẩm
phái sinh… Vì vậy, các chiến lược đầu tư nâng cao như chiến lược bán khống, chiến
lược đầu tư thị trường trung lập và chiến lược đầu tư toàn cầu không thể thực hiện tại
TTCK VN vào thời điểm hiện tại. Do đó, trong phần ứng dụng các chiến lược đầu tư
cổ phiếu vào TTCK VN, chúng ta hãy cùng tập trung phân tích ứng dụng của bốn chiến
lược cơ bản nhất, đó là: chiến lược đầu tư tăng trưởng, chiến lược đầu tư giá trị, chiến
lược đầu tư theo đà tăng trưởng và chiến lược đầu tư kỹ thuật. Từ đó, các nhà đầu tư có
thể lựa chọn một trong bốn chiến lược cơ bản này hoặc kết hợp chúng với nhau hoặc
34
kết hợp thêm các chiến lược đầu tư khác như chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới,
chiến lược giao dịch nội bộ, chiến lược mua và giữ, chiến lược đầu tư trái ngược và sử
dung giá trị vốn hóa thị trường như một chiến lược đầu tư để có được một chiến lược
phù hợp với TTCK VN và sở thích của bản thân.
2.2.1. Chiến lược đầu tư tăng trưởng:
Để ứng dụng phương pháp đầu tư vào cổ phiếu tăng trưởng của Thomas Rowe
Price, điều đầu tiên đòi hỏi nhà đầu tư phải có tính kỷ luật trong đầu tư, có sự kiên định
trong suốt quá trình đầu tư ngay cả trong việc phân tích cơ bản.
Tiếp theo, các nhà đầu tư phải vận dụng bằng nhiều cách khác nhau để có thể tìm
kiếm những công ty được quản lý tốt nằm trong các lĩnh vực có khả năng sinh lợi cao
hơn lạm phát của toàn bộ nền kinh tế. Đối với Việt Nam trong những năm gần đây luôn
phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát hai con số (năm 2010: 11,75%) thì vấn đề lựa chọn
được công ty có khả năng sinh lợi phải vượt trội hơn tỷ lệ đó. Ví dụ, ngành sữa là một
trong những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành thực phẩm Việt Nam,
với mức tăng trưởng doanh thu trung bình đạt 18%/năm trong vài năm gần đây sau khi
gia nhập WTO. Đối với việc chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được nâng
cao và cải thiện, do vậy, vấn đề chăm lo sức khỏe cũng được chú ý nhiều hơn, đặc biệt
là nhu cầu về sữa với tất cả mọi lứa tuổi. Chính vì thế, ngành sữa sẽ có tiềm năng phát
triển rất nhiều. Trong đó, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (VINAMILK) được xem như
công ty dẫn đầu trong ngành công nghiệp chế biến sữa tại Việt Nam với tốc độ tăng
trưởng tổng doanh thu cao là 26% trong 5 năm gần đây. Danh mục sản phẩm trên 200
mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa của Vinamilk được phủ đều 64/64 tỉnh thành
cũng như xuất khẩu sang nhiều thị trường ở Mỹ, Úc, Campuchia, I-rắc, Philippines…
Để xác định cổ phiếu của một công ty có phải là cổ phiếu tăng trưởng hay không,
các nhà đầu tư cần phân tích dựa theo các đặc điểm mà John Train, tác giả cuốn “The
Money Masters” đã tổng hợp những kinh nghiệm của Thomas Rowe Price, cổ phiếu
VNM sẽ được xem như một minh họa cho phần phân tích:
* Hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường vượt trội:
35
Vinamilk có xây dựng Trung tâm nghiên cứu dinh dưỡng và phát triển sản phẩm.
Hoạt động nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm và nghiên cứu phát triển sản
phẩm được công ty hết sức quan tâm. Chiến lược của công ty đối với hoạt động nghiên
cứu sản phẩm gồm 2 mục tiêu lớn:
- Đa dạng hóa sản phẩm, phát triển thành một tập đoàn thực phẩm mạnh của Việt
Nam: Vinamilk tiếp tục chiến lược đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc xây dựng hệ
thống sản phẩm phong phú, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của mọi đối tượng khách
hàng từ trẻ sơ sinh đến người lớn. Ngoài ra, công ty xác định đa dạng hóa sản phẩm để
tận dụng công nghệ thiết bị sẵn có, tận dụng hệ thống phân phối để phát triển tiến tới
trở thành một tập đoàn thực phẩm mạnh tại Việt Nam.
- Liên kết để thâm nhập vào thị trường cao cấp: Trong chiến lược dài hạn,
Vinamilk sẽ kết hợp với một số các tập đoàn thực phẩm hàng đầu thế giới để cùng
nhau hợp tác đầu tư tại Việt Nam với mục tiêu thu hút nguồn vốn và chất xám cho
Vinamilk nói riêng và Việt Nam nói chung, đồng thời thúc đẩy việc mở rộng thị trường
của Vinamilk trong nước cũng như quốc tế.
Trong những năm qua, Vinamilk đã thật sự thực hiện hiệu quả những chiến lược
đề ra về việc nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển sản phẩm. Hiện nay,
Vinamilk đã đưa ra thị trường hơn 200 loại sản phẩm sữa và các sản phẩm từ sữa. Đáp
ứng nhu cầu sữa của mọi lứa tuổi, Vinamilk có sữa Dielac Alpha, Dielac Pedia…dành
cho trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi, sữa đặc, sữa chua các loại, sữa tươi tiệt trùng, …,
Dielac Sure dành cho người bị bệnh, người lớn tuổi…. Tháng 9/2010, Vinamilk nhận
được giấy phép của Bộ kế hoạch và đầu tư cho phép Vinamilk đầu tư góp 12.5 triệu
NZD (chiếm 19.3%) vào dự án sản xuất sữa bột tại Miraka Limited, New Zealand.
Bên cạnh đó, Vinamilk cũng rất quan tâm đến hoạt động Marketing:
- Hoạt động xây dựng thương hiệu: Thương hiệu là yếu tố tiên quyết để Vinamilk
tồn tại và phát triển. Do vậy, Vinamilk đã và đang xây dựng thương hiệu để giữ được
vị trí của mình trên thị trường:
+ Công ty tập trung cho việc chuyên nghiệp hóa tất cả các bộ phận, từ bộ phận
marketing, quản lý thương hiệu đến phân phối.
36
+ Các bộ phận thiết kế, nghiên cứu và phát triển cũng như bán hàng, sản xuất, tiếp
thị… đều nhất quán trong chính sách xây dựng thương hiệu, phối hợp chặt chẽ để đảm
bảo tính thống nhất trong thực hiện chính sách phát triển thương hiệu.
+ Tất cả nhãn hiệu của Vinamilk đều có nhân sự chịu trách nhiệm quản lý để theo
dõi.
+ Công ty tăng cường việc sử dụng các công ty tư vấn, công ty PR…
+ Công ty cũng đầu tư mạnh cho công tác đào tạo kiến thức về quản trị thương
hiệu cho những vị trí này (tham gia các khóa đào tạo về quảng cáo, thương hiệu của
Vietnam Marcom, thuê chuyên gia Thụy Điển, Singapore huấn luyện riêng…)
+ Khẩu hiệu “Chất lượng quốc tế, chất lượng Vinamilk” đã và đang trở nên quen
thuộc đối với người tiêu dùng trong nước.
- Hoạt động quảng cáo, tiếp thị: Hoạt động marketing mạnh mẽ thông qua các
chương trình quảng cáo truyền hình, tham gia hội chợ Hàng Việt Nam Chất lượng cao,
tổ chức sự kiện và thực hiện tài trợ chính cho chương trình ca nhạc thiếu thi Đồ Rê Mí,
tài trợ chương trình giải trí trên truyền hình “Cặp đôi hoàn hảo”,… Qua đó hình ảnh và
thương hiệu của Vinamilk được biết đến rộng rãi và trở thành thương hiệu được ưa
thích trên thị trường.
- Quan hệ cộng đồng (PR): Vinamilk tham gia nhiều hoạt động mang tính chất
cộng đồng : tài trợ 750 triệu đồng cho quỹ học bổng “Vinamilk ươm mầm tài năng trẻ
Việt Nam”, hàng ngàn suất học bổng cho học sinh giỏi các trường trên cả nước, thực
hiện nhiều chương trình tư vấn dinh dưỡng miễn phí cho khách hàng, thực hiện các
chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe cho bà mẹ mang thai và trẻ em trên truyền
hình…
- Mạng lưới phân phối: Hệ thống phân phối sản phẩm của công ty trải rộng khắp
lãnh thổ Việt Nam, từ các tỉnh thành đến những quận huyện vùng sâu duyên hải, miền
núi.
- Chính sách giá: Đối với từng kênh bán lẻ và nhà phân phối, Vinamilk đều có
chính sách giá khá hợp lý.
37
Với việc tái cấu trúc, loại bỏ các nhãn hiệu nhỏ, dồn lực vào những sản phẩm chủ
lực là sữa, tăng cường niềm tin về chất lượng sản phẩm với cuộc thử nghiệm lâm sàng
nhằm chứng minh tính phù hợp của sữa Vinamilk với người Việt và gia tăng đầu tư các
trang trại chăn nuôi bò sữa với quy mô lớn và hiện đại, Vinamilk đã đạt được những
thành công:
- Trong khi thị trường còn đang chưa rõ ràng giữa nhãn mác sữa tươi và sữa hoàn
nguyên, Vinamilk đã đưa ra cam kết "sữa tươi tiệt trùng 100%" với chiến lược giá hết
sức cạnh tranh vào thời điểm giá sữa tăng vọt trong giai đoạn 2008-2009. Chiến dịch
marketing "sữa chua là thức ăn thiết yếu cho sức khỏe" thành công giúp cho sản phẩm
sữa chua Vinamilk tăng đột biến.
- Dòng sữa đặc có đường tung ra thị trường hộp 1 lít để thuận tiện hơn cho người
tiêu dùng và cắt giảm khoản quảng cáo không cần thiết, nhờ đó doanh số sản phẩm vẫn
tăng mạnh.
- Dòng sản phẩm sữa đậu nành V-fresh - "nguồn sống từ đất mẹ" của Vinamilk
cũng tăng trưởng ngoạn mục với 25% thị phần là nhãn hiệu phát triển nhanh nhất Việt
Nam năm 2009.
Hiện nay, danh mục sản phẩm trên 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa của
Vinamilk được phủ đều 64/64 tỉnh thành cũng như xuất khẩu sang nhiều thị trường ở
Mỹ, Úc, Campuchia, I-rắc, Philippines…
Như vậy, những thông tin trên chứng tỏ rằng Vinamilk có hoạt động nghiên cứu
phát triển sản phẩm và thị trường tiêu thụ vượt trội.
* Không bị cạnh tranh quá gay gắt:
Các sản phẩm của Vinamilk chiếm khoảng 39% thị phần, trong đó, cơ cấu thị
phần như sau: sữa đặc chiếm khoảng 75%, sữa tươi 53% (tính trên 36 thành phố), sữa
chua các loại 90% và sữa bột 25% (tính trên 6 thành phố). Theo nghiên cứu mới đây
của Euromonitor (hãng chuyên nghiên cứu về thị trường và người tiêu dùng) cho biết:
thị trường sữa Việt Nam tập trung vào một số công ty lớn như Vinamilk (chiếm 39%
thị phần), Dutch Lady (24%), các sữa bột nhập khẩu (22%), 15% còn lại thuộc các
hãng nội địa: Anco Milk, Hanoimilk, Mộc Châu, Hanofood, Nutifood,… Như vậy, sản
38
phẩm của Vinamilk có thương hiệu được người dân ưa chuộng nên không bị cạnh tranh
quá gay gắt.
* Tương đối ít bị trói buộc bởi các quy định của Chính phủ:
Công nghiệp phát triển sữa nhận được nhiều hỗ trợ về mặt chính sách của Nhà
nước. Ngày 26/10/2001, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 167 về chính sách phát
triển chăn nuôi bò sữa Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010. Đồng thời bộ trưởng Bộ Công
nghiệp cũng ra quyết định số 22/2005/QĐ-BCN phê duyệt quy hoạch phát triển ngành
công nghiệp sữa Việt Nam đến 2010 và định hướng đến năm 2020. Theo đó, Chính phủ
sẽ đẩy mạnh phát triển đàn bò sữa và phát triển công nghiệp chế biến sữa theo hướng
tăng tỷ lệ sử dụng sữa bò tươi nguyên liệu trong nước và giảm tỷ lệ sữa bột nguyên liệu
nhập khẩu.
* Nhân viên được trả lương tốt nhưng tổng chi phí lao động không cao:
Về công tác nhân lực, những năm qua, Vinamilk đã tuyển chọn trên 50 con, em
cán bộ công ty và học sinh giỏi qua các kỳ thi tuyển về công nghệ sữa làm nòng cốt lực
lượng kế thừa trong tương lai gửi đào tạo ở nước ngoài. Thực hiện nâng lương, nâng
bậc đúng niên hạn cho cán bộ công nhân viên. Hàng năm thu nhập bình quân năm sau
cao hơn năm trước từ 10 – 20,3%; tổ chức trên 2.000 lao động tham quan trong và
ngoài nước; 10 đợt khám sức khoẻ định kỳ cho tất cả người lao động trong công ty;
tham gia thành phố 5 đợt Hội thao; 2 đợt Hội diễn văn nghệ; các chế độ bảo hiểm Y tế,
bảo hiểm xã hội, học tập nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn được đảm bảo đầy
đủ. Tổng số cán bộ công nhân viên năm 2010 là 4,500 người. Trong năm 2010, Công
ty Vinamilk đã phát hành 1,806,820 cổ phiếu của chương trình cổ phiếu cho cán bộ
công nhân viên (ESOP) đã được Đại hội đồng cổ đông năm 2006 thông qua. Như vậy,
nhân viên của Vinamilk đã được quan tâm và trả lương khá tốt. Tổng chi phí lao động
so với doanh thu là không cao vì lợi nhuận của công ty vẫn tăng mạnh qua các năm.
* Tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư đạt ít nhất 10%, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu
cao và bền vững, tăng trưởng lợi nhuận trên đầu cổ phiếu vượt trội.
Trong giai đoạn từ 1996 tới năm 2005, sản xuất kinh doanh của Vinamilk không
ngừng được nâng cao và phát triển, tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 15 – 45%, doanh
39
thu tăng từ 1.5 đến 2.6 lần; thị phần Vinamilk chiếm 75 -90% tùy từng chủng loại sản
phẩm; xuất khẩu tăng dần theo từng năm: từ 28 triệu USD (1998) lên 168 triệu USD
(2002); tổng sản lượng sản xuất hàng năm trung bình đạt 220 – 250 triệu lít.
Sau 5 năm đổi mới cơ chế quản lý theo mô hình cổ phần hóa, công ty đã đạt thành
tích rất xuất sắc về phát triển sản xuất kinh doanh. Từ năm 2006 đến năm 2010, doanh
thu và tăng trưởng tăng đều qua các năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROE) đạt
gần 30% trong những năm 2006 đến 2008, sang năm 2009 và 2010 ROE đã có sự tăng
vọt lên trên 40% cho thấy việc sử dụng vốn của Vinamilk rất hiệu quả. Tỷ lệ EBIT trên
doanh thu của Vinamilk liên tục tăng cao qua các năm, với 11% năm 2006 thì đến năm
2010 đạt đến 27%. Vì kết quả kinh doanh đạt hiệu quả có sự tăng trưởng cao qua các
năm nên tăng trưởng EPS cũng đạt những con số ấn tượng. EPS cơ bản năm 2007 đạt
5,607 đồng tăng 35.11% so với năm 2006, sang năm 2008 đạt 3,563 đồng nhưng đã
giảm 36.45% so với năm 2007, đến năm 2009 EPS đã nhanh chóng tăng trở lại đạt
6,769 đồng và năm 2010 là 10,251 đồng. Tuy EPS năm 2008 có sụt giảm so với các
năm khác nhưng việc trả cổ tức của Vinamilk vẫn luôn được duy trì ở mức cao với
1,900 đồng vào năm 2006 thì năm 2010 cổ tức được trả đến 4,000 đồng. Với mức trả
cổ tức cao như vậy thì Vinamilk đã trở nên vượt trội hơn các công ty khác trong việc
chi trả cổ tức.
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của Vinamilk từ năm 2006 đến
năm 2010
2008 2010
Chỉ tiêu Tổng doanh thu (tỷ đồng) Lợi nhuận thuần (tỷ đồng) EPS cơ bản (đồng) Trả cổ tức (đồng) ROA (%) ROE (%) EBIT/ Doanh thu (%) Tăng trưởng EPS (%) 2006 6,619.10 731.59 4,150 1,900 19.49 29.37 11 2007 6,648.19 963.4 5,607 2,900 21.33 27.33 14 35.11 2009 8,208.98 10,613.77 15,752.87 3,615.49 2,376.07 1,248.70 10,251 6,769 3,563 4,000 3,000 2,900 37.56 32.88 21.95 49.53 41.68 27.54 27 26 17 51.44 89.98 -36.45
Nguồn: Công ty chứng khoán FPT và Báo cáo thường niên năm 2010 của VNM
40
Tóm lại, Vinamilk đã đáp ứng những đặc điểm là cổ phiếu tăng trưởng theo quan
điểm đầu tư của Thomas Rowe Price.
Sau khi phân tích lựa chọn được cổ phiếu tăng trưởng thì các nhà đầu tư sẽ phải
nhận định thời điểm mua bán thích hợp để có thể thu được lợi nhuận kỳ vọng. Nhà đầu
tư phải thật tỉnh táo khi nhận thấy sự phấn khích một cách vô cớ của thị trường với cổ
phiếu tăng trưởng thì đưa ra quyết định bán hợp lý trước khi các cổ phiếu này rớt giá
nhanh và mạnh.
2.2.2. Chiến lược đầu tư giá trị:
Theo nhà nghiên cứu Henry Oppenheimer đã phân tích kết quả của những cổ
phiếu đạt 10 tiêu chuẩn của Benjamin Graham trong giai đoạn 1974 - 1981, kết quả là
tỷ suất lợi nhuận của những cổ phiếu này cao gấp nhiều lần tỷ suất lợi nhuận của những
cổ phiếu khác trên thị trường. Một số người sử dụng 10 tiêu chuẩn này nhưng nội dung
có khác đi đôi chút nhằm phù hợp với hoàn cảnh thị trường hay theo ngành đặc thù.
Các nhà đầu tư cũng có thể làm tương tự như vậy để áp dụng tại TTCK VN. Việc phân
tích cổ phiếu của Công ty cổ phần đường Kon Tum với 10 tiêu chuẩn theo quan điểm
đầu tư của Benjamin Graham sẽ là một minh họa.
Thông tin ngày giao dịch 04/10/2011 của cổ phiếu Công ty cổ phần đường Kon
Tum với mã KTS:
- Giá cổ phiếu: 10,400 đồng/cổ phiếu
- Giá trị vốn hóa: 40.56 tỷ đồng
- EPS (4Q gần nhất theo Công ty chứng khoán MHB): 14,561 đồng
- Cổ tức bằng tiền năm gần nhất (theo cafef.vn): 2,000 đồng
Cổ phiếu KTS niêm yết trên SGDCK HN nên P/E thị trường, chúng ta lấy P/E
bình quân của SGDCK HN là 6.2 lần (theo báo cáo tóm lược ngành mía đường của
Công ty chứng khoán MHB ngày 04/10/2011).
Số liệu theo Báo cáo tài chính quý 3/2011 của công ty:
- Tài sản ngắn hạn: 127,291,970,494 đồng
- Tài sản hữu hình: 117,572,197,940 đồng
- Tài sản lưu động ròng: 99,691,071,634 đồng
41
- Nợ ngắn hạn: 27,600,898,860 đồng
- Tổng nợ: 33,378,968,962 đồng
- Vốn chủ sở hữu: 115,846,297,115 đồng
Đối với TTCK VN, chúng ta giả định lãi suất trái phiếu xếp hạng AAA là trái
phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm ngày giao dịch 07/11/2011, đáo hạn ngày 09/05/2016
với lãi suất 13.2%.
Với những thông tin và giả định trên, chúng ta tính toán được kết quả các tiêu
chuẩn của Benjamin Graham trong bảng sau:
42
Bảng 2.4: Bảng đánh giá cổ phiếu KTS với các tiêu chuẩn lựa chọn cổ phiếu của
Benjamin Graham
So
sánh Giá với STT Tiêu chí Tiêu chuẩn trị tiêu
chuẩn
= 2 lần lãi suất trái phiếu Tỷ số lợi nhuận/Thị giá 1 1.40 > chính phủ (2 x 13.2% = (E/P) 0.264)
<= 40% x P/E thị trường 2 P/E 0.71 Đạt (40% x 6.2 = 2.48)
> 2/3 x lãi suất trái phiếu
3 Tỷ suất cổ tức/Giá cổ phiếu 0.19 Đạt chính phủ (2/3 x 13.2% =
0.088)
Giá trị vốn hóa/Giá trị sổ 0.34 Đạt < 2/3 4 sách của tài sản hữu hình
Giá trị vốn hóa/Giá trị tài 5 0.41 Đạt < 2/3 sản lưu động ròng
6 Tỷ số nợ/Vốn chủ sở hữu 0.29 Đạt < 1
Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn 7 4.61 Đạt >= 2 hạn
Tổng nợ/Giá trị tài sản lưu 8 0.33 Đạt < 2 động ròng
Qua bảng kết quả, Công ty cổ phần đường Kon Tum hầu như đạt được theo tiêu
chuẩn của Benjamin Graham. Đối với tiêu chuẩn 9 và 10 về tăng trưởng EPS 7%/năm
trở lên trong vòng 10 năm qua và công ty có sự tăng trưởng lợi nhuận hàng năm ít nhất
7 lần trong vòng 10 năm qua, Công ty cổ phần đường Kon Tum không thể đạt được.
43
Nhưng ở Công ty cổ phần đường Kon Tum, tiền thân là Công ty Mía đường Kon Tum -
doanh nghiệp nhà nước thuộc UBND tỉnh Kon Tum, đã có một sự phát triển vượt bậc
sau khi được tái cơ cấu và cổ phần hóa. Công ty cổ phần đường Kon Tum được thành
lập năm 1995 trong chương trình mía đường quốc gia. Sau 5 năm làm ăn không hiệu
quả, Công ty Mía đường Kon Tum rơi vào cảnh nợ nhiều, mất vốn nhà nước và người
lao động mất việc làm. Tính đến 31/03/2007, tổng số nợ của Công ty Mía đường
Kontum đã lên đến hơn 115 tỷ đồng, âm vốn chủ sở hữu hơn 36 tỷ đồng. Doanh nghiệp
đứng bên bờ vực phá sản. Mọi nỗ lực của Ban Lãnh đạo cũng không thể xử lý tài chính
để chuyển thành công ty cổ phần. Trước tình hình đó, DATC đã nhập cuộc và thực
hiện phương án tái cơ cấu làm lành mạnh hóa tài chính.
Sau gần một năm, ngày 08/06/2009, Công ty CP Đường Kon Tum đã tổ chức
Đại hội cổ đông thường niên lần thứ nhất để kiểm điểm những việc đã làm được từ khi
thực hiện chuyển đổi. Đây là năm đầu tiên công ty có lãi và nộp thuế cho nhà nước tính
từ khi thành lập. Đến tháng 5/2009, Công ty CP Đường Kon Tum đã trả hết toàn bộ nợ
khiến hoạt động của Công ty không còn chịu áp lực tài chính, đây là một điểm thuận
lợi lớn trong hoạt động kinh doanh, tạo sức cạnh tranh đáng kể trên thị trường, chia cổ
tức gần 10%, đời sống cán bộ, công nhân được cải thiện rõ rệt.
Kết quả kinh doanh hàng năm của Công ty CP Đường Kon Tum đã đi vào giai
đoạn tăng trưởng ổn định. Năm 2009, lợi nhuận sau thuế tăng tới 196.98%, tổng tài sản
tăng 2.58%, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất - kinh doanh tăng 174.47% so với năm
2008. Năm 2010, với kết quả kinh doanh khả quan, lợi nhuận sau thuế đạt hơn 33 tỷ
đồng, phân phối lợi nhuận vào các quỹ như: quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát
triển, quỹ khen thưởng phúc lợi.
Ngày 31/12/2010, 3 triệu cổ phiếu của Công ty đã chính thức niêm yết trên
SGDCK HN với mã chứng khoán KTS.
Theo dự báo của Hiệp hội Mía đường Việt Nam, đến 2015 nhu cầu tiêu thụ
đường trong nước là 1.7-1.8 triệu tấn và đến năm 2020 là khoảng 2.5-2.6 triệu tấn. Do
đó, đến năm 2015, ngành đường Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước,
phải nhập khẩu trên 100,000 tấn đường. Thiếu đường trên thị trường nội địa đang là đòi
44
hỏi và cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp mía đường trong nước tăng vốn đầu tư,
nâng cao chất lượng sản phẩm để mở rộng thị phần. Công ty CP Đường Kon Tum đã
không đứng ngoài cuộc. Theo đó, công ty mở rộng diện tích trồng mía theo các năm
2012 là 2,190 ha, năm 2013 là 2,460 ha, năm 2014 là 2,770 ha, năm 2015 là 3,075 ha.
Với năng suất ép và chế luyện 2,000 tấn mía/ngày, Công ty CP Đường Kon Tum
đang tăng dần sản lượng mía: 140,000 tấn (2012), 160,000 tấn (2013), 180,000 tấn
(2014), 200,000 tấn (2015 trở đi).
Ngay tại thời điểm này, công ty đã xác định nhu cầu cấp thiết là tăng công suất
nhà máy để đáp ứng sản xuất kinh doanh bên cạnh sự đổi mới tích cực của công tác
quản trị điều hành doanh nghiệp. Thông qua kế hoạch đầu tư, Công ty CP Đường Kon
Tum lắp mới và nâng cấp một số thiết bị khu Ép, khu Chế luyện, Khu Nhiệt điện - Lò
hơi với tổng dự toán 48.5 tỷ đồng. Tương lai, Công ty CP Đường Kon Tum sẽ là một
trong những doanh nghiệp dẫn đầu trên 40 nhà máy đường đang hoạt động trong lãnh
thổ Việt Nam với tổng công suất đạt hơn 106,000 tấn mía/ngày.
Tuy không đạt tiêu chuẩn 9 và 10, nhưng ở Công ty cổ phần đường Kom Tum có
một tiềm năng phát triển tốt do có cơ cấu tổ chức quản lý có hiệu quả sau khi được tái
cơ cấu nên cổ phiếu KTS tạm được xem như một minh họa cho 10 tiêu chuẩn lựa chọn
cổ phiếu giá trị của Benjamin Graham. Như vậy, khi vận dụng vào TTCK VN, mỗi nhà
đầu tư có thể thay đổi hoặc điều chỉnh các tiêu chuẩn lựa chọn cổ phiếu giá trị để xây
dựng một bộ lọc cổ phiếu cho bản thân sao cho thật hiệu quả.
Vận dụng công thức tính giá trị cổ phiếu của Benjamin Graham, chúng ta tạm giả
sử tốc độ tăng trưởng của Công ty cổ phần đường Kon Tum là 12.63%, dựa vào kế
hoạch tăng trưởng sản lượng mía của công ty; còn lãi suất trái phiếu AAA là 19%/năm
lấy lãi suất trái phiếu của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (Agriseco) kỳ hạn 5 năm mới phát hành trong giai đoạn gần đây.
Giá trị = 14,561 x ( 2 x 12.63% + 8.5) x 13.2% / 19% = 88,542 đồng
Theo Benjamin Graham, nếu giá cổ phiếu KTS thấp hơn giá trị này thì nhà đầu tư
nên mua cổ phiếu. Cũng giống như 10 tiêu chuẩn trên, trong quá trình vận dụng công
thức tính giá trị cổ phiếu trên, các nhà đầu có thể điều chỉnh con số 8.5 thành 9 hoặc
45
9.5 hoặc nhỏ hơn và lựa chọn giá trị của các yếu tố còn lại sao cho phù hợp với TTCK
VN nhất. Giá trị cổ phiếu mà nhà đầu tư dự đoán tính toán sai lệch càng ít với thực tế
thì việc lựa chọn cổ phiếu giá trị đã thành công.
2.2.3. Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng:
Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì các cổ
phiếu đang có đà tăng trưởng thường đã đi được chặng đường dài nhất và có tốc độ
tăng nhanh nhất. Các cổ phiếu này sẽ đạt đến kỷ lục mới và những điều chỉnh tất yếu
có thể đến rất nhanh và gây ra nhiều hậu quả khôn lường. Vì vậy, việc lựa chọn cổ
phiếu và thời điểm mua bán thích hợp để đạt được lợi nhuận kỳ vọng thật sự rất quan
trọng.
William đã cho rằng: “Trên TTCK có đến hàng chục nghìn cổ phiếu niêm yết nên
nhiều nhà đầu tư đôi khi rất lúng túng trong việc lựa chọn đối tượng để đầu tư. Vấn đề
quan trọng đối với họ là “chọn mặt gửi vàng”, nghĩa là phải tìm ra một số loại cổ phiếu
thực sự có khả năng sinh lời để đầu tư.
Nhận định của William hoàn toàn phù hợp với một thực tế hiện nay là rất nhiều
nhà đầu tư không biết các công ty có cổ phiếu niêm yết trên TTCK đang hoạt động như
thế nào và đầu tư vào cổ phiếu của các công ty sẽ có lãi hay không. Với tác động của
“hiệu ứng đám đông”, họ bắt chước nhau cùng đổ xô đi mua những cổ phiếu đang tăng
giá. Thậm chí có nhiều nhà đầu tư mua cổ phiếu rồi mà vẫn chưa thu thập những tài
liệu và phương pháp cần thiết để tìm hiểu về mức độ sinh lời của cổ phiếu đó.
William O’Neil đã nghiên cứu và thành công với phương pháp phân tích, lựa
chọn cổ phiếu CANSLIM. Việc phân tích cổ phiếu của Công ty cổ phần sữa Việt Nam
sẽ là một ví dụ minh họa cụ thể trong quá trình phân tích ứng dụng 7 yếu tố của
phương pháp CANSLIM vào TTCK VN.
C: Current Quaterly Earnings (Lợi nhuận trong quý hiện tại)
Lợi nhuận thuần của Vinamilk quý 2/2011 là 1,107.2 tỷ đồng đã tăng 18.9% so
với quý 2/2010 là 931 tỷ đồng. Tỷ lệ tăng trưởng này phù hợp với tiêu chuẩn tăng
trưởng lợi nhuận theo quý trong khoảng 18 – 20% của William.
46
William cho rằng nhà đầu tư có thể nghiên cứu các báo cáo tài chính có kiểm toán
của công ty niêm yết, cùng với việc thăm dò các các kênh thông tin khác như báo chí,
người quen… Điều quan trọng là các nhà đầu tư cần coi trọng độ tin cậy và tính đồng
nhất của thông tin, chẳng hạn có thể có điều gì đó không đúng, nếu doanh thu của công
ty tăng 20%, trong khi lãi ròng chỉ tăng 5%.
A: Annual Earnings Increases (Sự gia tăng lãi ròng hàng năm)
Cổ phiếu Vinamilk có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn trong vòng 5 năm từ năm
2006 đến năm 2010 với mức gia tăng lợi nhuận hàng năm ổn định và đạt trên 30%.
Xem xét tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) với mức 29.37% năm 2006 đã
tăng dần qua các năm và đạt 49.53% năm 2010. Điều này cho thấy Vinamilk sử dụng
vốn rất hiệu quả đạt kết quả tăng trưởng lợi nhuận cao hàng năm và ổn định.
Bảng 2.5: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của Vinamilk từ năm 2006 đến
năm 2010
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng doanh thu (tỷ đồng) 6,619.10 6,648.19 8,208.98 10,613.77 15,752.87
Lợi nhuận thuần (tỷ đồng) 731.59 963.4 1,248.70 2,376.07 3,615.49
Tăng trưởng lợi nhuận 32% 30% 90% 52%
ROE 29.37% 27.33% 27.54% 41.68% 49.53%
Nguồn: Công ty chứng khoán FPT và Báo cáo thường niên năm 2010 của VNM
Để có được sự chính xác về mức gia tăng lợi nhuận, nhà đầu tư cần nghiên cứu tất
cả các thông tin liên quan đến công ty mà họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao gồm
lịch sử và đặc điểm của công ty, tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành cổ
phiếu và tổ chức bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Nhà đầu tư có thể tìm các thông tin này
trong Bản cáo bạch, Báo cáo tài chính, Báo cáo thường niên của công ty hoặc từ các
công ty dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định đầu tư chỉ nên đưa ra khi nhà đầu tư đã
có đủ cơ sở thông tin về cổ phiếu cũng như về mức tăng trưởng lãi ròng hàng năm.
N: New Products, New Management, New Highs (Sản phẩm mới, sự quản lý
mới, mức giá trần mới)
47
Những nghiên cứu của William chỉ ra rằng giá cổ phiếu tăng sẽ bắt nguồn từ một
số nhân tố nội tại nào đó. Những nhân tố này thường là sản phẩm mới của công ty, ban
giám đốc mới, phương thức quản lý mới hay thị trường mới.
Do vậy, sẽ không bao giờ thừa nếu các nhà đầu tư quan tâm đến những nhân tố
nội tại này. Nếu xét thấy những nhân tố này có sự ổn định, không có biểu hiện đột biến
theo chiều hướng xấu, thì đó sẽ là một cổ phiếu có nhiều triển vọng tăng trưởng trên
TTCK.
Vinamilk có một yếu tố mới đó là thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài đầu tiên.
Đây có thể là cơ hội để ổn định nguồn nguyên liệu sữa bột cũng như tạo ra những sản
phẩm mới chất lượng cao. Vinamilk đã được Bộ kế hoạch – Đầu tư cấp giấy phép để
đầu tư ra nước ngoài, cụ thể là mua cổ phần của Công ty Miraka Limited tại New
Zealand. Thời gian đầu, Vinamilk sẽ mua 19.3% cổ phần của Công ty Miraka (179 tỷ
đồng), sau này sẽ xem xét để nâng vốn đầu tư lên. Công ty Miraka hiện đang đầu tư dự
án nhà máy chế biến sữa chất lượng cao tại trung tâm đảo bắc của New Zealand. Nhà
máy sẽ thu mua sữa tươi từ các nông dân tại vùng Taupo và sản xuất các sản phẩm sữa
chất lượng cao bán ra thị trường quốc tế. Nhà máy có công suất thiết kế là 32,000 tấn
bột sữa một năm, với tổng vốn đầu tư là 121 triệu đô la New Zealand, tương đương với
1,623 tỷ đồng Việt Nam. Đây là dự án đầu tư ra nước ngoài đầu tiên của Vinamilk.
48
S: Supply and Demand (nguồn cung và cầu)
Biểu đồ 2.8: Biến động giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu VNM từ tháng
07/2010 đến tháng 08/2011
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
Qua biểu đồ, ta thấy mỗi khi cổ phiếu VNM có biến động tăng thì khối lượng giao
dịch cũng tăng theo và ngược lại. Tuy Vinamilk là một công ty có quy mô lớn mà trong
đó nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ hơn 90% lượng cổ phiếu nhưng
nguồn cung cổ phiếu giao dịch trên sàn vẫn đảm bảo được tính thanh khoản của cổ
phiếu. William cũng có lưu ý rằng cổ phiếu của các công ty đại chúng, có quy mô lớn,
sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng đáng để mua, bởi lượng cầu của những
cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít nên giá thường bị đẩy lên cao giả tạo,
không phản ánh đúng giá trị thực tế của cổ phiếu cũng như rất khó tạo ra lợi nhuận lớn.
Chính những cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp trên thị trường mới có nhiều
triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các cổ phiếu có số lượng lưu hành lớn.
Do đó, cổ phiếu được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỷ lệ lớn thường là những
cổ phiếu có độ an toàn cao. William đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu được công ty mua
lại và cổ phiếu của các công ty có tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn tự có vừa phải, bởi theo ông
49
thì tỷ lệ này càng cao bao nhiêu công ty sẽ càng phải đương đầu với áp lực trả lãi trong
tương lai nhiều bấy nhiêu. Các nhà đầu tư nên so sánh tỷ số này ở công ty mình dự
định đầu tư với tỷ số nợ bình quân ở các công ty trong cùng ngành, đồng thời phân tích
thêm khả năng thanh toán để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của công ty.
L: Leader and Laggard (cổ phiếu dẫn đầu ngành và cổ phiếu phát triển kém)
Công ty Vinamilk là một công ty dẫn đầu trong ngành sữa Việt Nam, có quy mô
lớn, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định qua các năm. Do đó, cổ phiếu VNM là một cổ
phiếu có thể được xem là cổ phiếu dẫn đầu ngành thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
đầu tư.
Theo O’Neil các nhà đầu tư cần tránh mua những cổ phiếu có mức tăng trưởng
cao nhưng không bền vững, chẳng hạn như cổ phiếu lên giá theo trào lưu, theo sự kiện
nổi bật… bởi vì giá của các cổ phiếu này sẽ nhanh chóng sụt giảm.
I: Institutional Sponsorship (sự ủng hộ của các nhà đầu tư tổ chức)
Bảng 2.6: Thay đổi tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn của Vinamilk tại thời điểm 31/12 của
năm tài chính
Thay đổi tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn 2009 (%) 2010 (%) Thay đổi
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn 47.5401 47.2969 -0.2433
Nhà nước (SCIC)
F & N Dairy Investment 10.0598 10.0083 -0.0515
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2010 của Vinamilk
Công ty Vinamilk có các nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài sở hữu hơn
90%, hiện nhà nước nắm giữ khoảng 47.6%, khối ngoại sở hữu khoảng 46% cổ phần,
chỉ còn khoảng 6.4% lượng cổ phần nằm trong tay các thành viên hội đồng quản trị,
người lao động và các nhà đầu tư bên ngoài. Với việc tổ chức nắm giữ cổ phần của
Vinamilk có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh khiến giá cổ phiếu
tăng mạnh.
50
M: Market Direction (định hướng thị trường)
Biểu đồ 2.9: Biến động của VN-Index và khối lượng giao dịch từ tháng 07/2010 đến
tháng 08/2011
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
Mặc dù, thông tin về kết quả kinh doanh quý 2/2011 của Vinamilk được công bố
vào khoảng cuối tháng 07/2011 đầu tháng 08/2011 nhưng đến cuối tháng 08/2011, biểu
đồ 2.8 của cổ phiếu VNM mới xuất hiệu dấu hiệu mua. Biểu đồ của cổ phiếu VNM đã
cho thấy tín hiệu mua đó là giá đóng cửa cuối tháng 08/2011 cao hơn đường giá trị
trung bình 30 ngày, đường MACD nét đậm cắt và vượt lên đường MACDA nét đứt
cộng thêm khối lượng giao dịch cũng có tăng thêm. Vào thời điểm đó, VN-Index cũng
đang có xu hướng tăng điểm và khối lượng giao dịch gia tăng.
O’Neil cũng đã lưu ý rằng dù nhà đầu tư hoàn toàn chính xác khi nhận định về cả
6 tiêu chí kể trên, nhưng đến tiêu chí định hướng thị trường lại mắc phải sai lầm thì sẽ
có đến 5 trong số 7 cổ phiếu nhà đầu tư mua sẽ mất giá và dẫn đến thua lỗ. Yếu tố thị
trường là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá cổ phiếu. Khi hàng loạt
các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá cổ phiếu của công ty mà nhà
đầu tư lựa chọn chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu của các
51
công ty này tăng theo sự phát triển của thị trường thì cổ phiếu nhà đầu tư mua vào cũng
sẽ tăng theo những chỉ số tích cực đó. Do đó, William nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc nghiên cứu các đồ thị biến động giá chứng khoán theo ngày, theo tuần và theo
tháng trước mỗi quyết định đầu tư cổ phiếu.
Như vậy, đáp ứng được các tiêu chuẩn CANSLIM của William O’Neil thì cổ
phiếu VNM chính là một cổ phiếu tiềm năng cho các nhà đầu tư theo đà tăng trưởng
thực hiện chiến lược đầu tư của mình.
William O’Neil cũng như nhiều nhà đầu tư nổi tiếng khác tại phố Wall cho rằng
các quyết định lựa chọn cổ phiếu cần được dựa trên sự phân tích và phối kết hợp giữa
các yếu tố định lượng và định tính. Chìa khoá phân tích trong đầu tư cổ phiếu là tìm ra
những cổ phiếu có tiềm năng tăng trưởng lớn nhất trong thời điểm nhà đầu tư mua
chúng. Nói cách khác, nhà đầu tư phải có kỹ năng phán đoán, xem xét và phân tích vấn
đề cùng với việc hoạch định một kế hoạch đầu tư thích hợp để xác định thời điểm mua
vào những cổ phiếu mạnh và bán đi những cổ phiếu yếu.
2.2.4. Chiến lược đầu tư kỹ thuật:
Trong chiến lược đầu tư kỹ thuật, các nhà đầu tư luôn tin tưởng rằng tất cả thông
tin về một công ty đều được thể hiện qua giá cổ phiếu. Do đó, các nhà đầu tư kỹ thuật
chỉ quan tâm tới các chi tiết trong biểu đồ cổ phiếu, đặc biệt là xu hướng tăng và xu
hướng giảm. Việc phân tích biểu đồ cổ phiếu là một nghệ thuật đòi hỏi nhà đầu tư phải
nghiên cứu về các lý thuyết, công cụ ứng dụng trong phân tích kỹ thuật cũng như
những hiểu biết về tâm lý để có thể hiểu được các biến động giá trong quá khứ và phán
đoán được xu hướng của giá cổ phiếu trong tương lai. Trong những năm gần đây, các
nhà đầu tư Việt Nam đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến phân tích kỹ thuật cổ phiếu để
hỗ trợ trong việc ra quyết định đầu tư. Một trong những phần mềm được sử dụng nhiều
trong phân tích kỹ thuật đó là phầm mềm MetaStock. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư còn
có thể tham khảo rất nhiều các báo cáo phân tích kỹ thuật, các khuyến nghị mua cổ
phiếu của các công ty chứng khoán trên mạng Internet hoặc tại các buổi hội thảo.
Ở đây, chúng ta phân tích cổ phiếu PNJ với sự hỗ trợ của phần mềm MetaStock
như một minh họa của chiến lược đầu tư kỹ thuật tại TTCK VN.
52
Tuy không nghiên cứu kỹ về các báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán và kết
quả kinh doanh nhưng các nhà đầu tư cũng nên tìm hiểu sơ lược về công ty PNJ, sau đó
sẽ nghiên cứu biểu đồ của cổ phiếu.
* Tổng quan về PNJ:
- Nhóm ngành: Đồ trang sức
- Vốn điều lệ: 599,984,330,000 đồng
- KL CP đang niêm yết: 59,999,142 cp
- KL CP đang lưu hành: 59,998,433 cp
- Lịch sử hình thành:
+ PNJ tiền thân là Cửa hàng Kinh doanh Vàng bạc Đá quý Quận Phú Nhuận,
được thành lập vào ngày 28/04/1988, trực thuộc UBND Quận Phú Nhuận.
+ Năm 1990, Cửa hàng được nâng cấp thành Công ty Mỹ nghệ Kiều hối Phú
Nhuận, trực thuộc Ban Tài chính Quản trị Thành ủy. Thương hiệu vàng miếng Phượng
Hoàng của PNJ cũng ra đời từ thời điểm này.
+ Năm 1992, Công ty đổi tên thành Công ty Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận.
+ Tháng 01/2004, PNJ chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ
phần với tên gọi là Công ty Cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận.
+ Tháng 04/2008, PNJ và Ngân hàng TMCP Đông Á chính thức đưa vàng miếng
mang thương hiệu “Phượng hoàng PNJ - DongA Bank” lưu hành ra thị trường.
- Ngành nghề kinh doanh:
+ Dịch vụ kiểm định kim cương và đá quý
+ Cho thuê nhà
+ Sản xuất, kinh doanh trang sức thành phẩm bằng vàng; bạc; đá quý, vàng miếng
thành phẩm (không phân phối kim cương đã hoặc chưa được gia công nhưng chưa
được gắn hoặc nạm dát; đá quý (trừ kim cương), đá bán quý, đã hoặc chưa được gia
công hoặc phân loại nhưng chưa xâu chuỗi, chưa gắn hoặc nạm dát; đá quý (trừ kim
cương); đá quý hoặc đá bán quý tổng hợp hoặc tái tạo, đã hoặc chưa gia công hoặc
phân loại nhưng chưa xâu thành chuỗi, chưa gắn hoặc nạm dát; bạc (kể cả bạc được mạ
vàng hoặc bạch kim) – chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm hoặc dạng bột; vàng
53
(kể cả vàng mạ bạch kim) chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm hoặc dạng bột;
bạch kim, chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm hoặc dạng bột; chỉ bao gồm bạc
hoặc vàng, dát phủ bạch kim, chưa gia công quá mức bán thành phẩm thuộc nhóm
71111).
- PNJ là một trong những nhà sản xuất đồ trang sức danh tiếng và lớn nhất tại Việt
Nam. PNJ hướng đến nhiều phân khúc thị trường khác nhau với thương hiệu nữ trang
cao cấp CAO Fine Jewellry, trang sức vàng PNJ Gold dành cho đối tượng khách hàng
có thu nhập từ trung bình đến cao và PNJ Silver thời trang cho giới trẻ. Ngoài ra, công
ty còn kinh doanh vàng miếng trong nước (hợp tác với Ngân hàng Đông Á), xuất khẩu
vàng và trang sức.
* Nghiên cứu biểu đồ của PNJ:
Biểu đồ 2.10: Biến động giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu PNJ từ tháng
04/2009 đến tháng 06/2011
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
Từ ngày đầu tiên chính thức giao dịch trên SGDCK TP.HCM đến giữa năm 2011,
cổ phiếu PNJ đã có một biểu đồ với nhiều đợt tăng giảm tạo ra nhiều đỉnh và đáy.
Trong khoảng giữa cuối tháng 5/2009 đến đầu tháng 6/2009, PNJ đã có một đà tăng
mạnh từ mức giá 45,600 đồng tăng lên gần gấp đôi. Sau khi đạt mức giá 90,500 đồng
54
vào ngày 09/06/2009 thì PNJ đã bắt đầu giảm 23% nhưng sau đó lại tăng với mức giá
đỉnh cao hơn trước. Đỉnh cao nhất được thiết lập vào ngày 15/10/2009 với giá đóng cửa
là 73,000 đồng. Đã có khoảng thời gian cổ phiếu PNJ gần như đi ngang với khối lượng
giao dịch khá thấp từ tháng 9/2010 đến đầu năm 2011. Đến tháng 2/2011 thì giá cổ
phiếu PNJ đã sụt giảm mạnh từ 37,500 đồng xuống mức 20,500 đồng tạo mức đáy thấp
nhất ngày 25/05/2011. Từ mức đáy đó, giá cổ phiếu PNJ đã phục hồi tăng lên 25,600
đồng rồi lại giảm xuống 20,600 đồng. Vào thời điểm phân tích 29/06/2011, biểu đồ
PNJ đã cho thấy tín hiệu mua khi giá đóng cửa cao hơn đường giá trị trung bình 30
ngày, phá vỡ xu hướng giảm điểm kéo dài 6 tháng, đường MACD nét đậm dương và
vượt lên đường MACDA nét đứt cộng thêm khối lượng giao dịch cũng tăng đáng kể.
Nếu các nhà đầu tư mua cổ phiếu PNJ vào cuối tháng 06/2011 dựa vào những tín hiệu
mua trên thì đến cuối tháng 09/2011 khi kiểm chứng bằng biểu đồ thì chúng ta thấy tuy
cổ phiếu có những điều chỉnh nhẹ nhưng xu hướng tăng vẫn còn. Như vậy, các nhà đầu
tư có thể ứng dụng chiến lược đầu tư kỹ thuật tại TTCK VN.
Biểu đồ 2.11: Biến động giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu PNJ từ tháng
09/2009 đến tháng 09/2011
Nguồn: Dữ liệu Metastock của www.vietwayedu.com
55
2.2.5. Ưu điểm và nhược điểm của các chiến lược đầu tư cổ phiếu khi ứng dụng vào
TTCK VN:
Sau khi phân tích bốn chiến lược đầu tư thông qua việc phân tích các cổ phiếu
niêm yết trên SGDCK TP.HCM và SGDCK HN làm minh họa cho từng chiến lược,
chúng ta thấy tất cả các tiêu chuẩn, phương pháp lựa chọn cổ phiếu đều có thể ứng
dụng vào TTCK VN. Tuy nhiên, việc ứng dụng bốn chiến lược đầu tư cổ phiếu trên
vào TTCK VN cũng có những ưu điểm, nhược điểm chung và riêng đối với từng chiến
lược:
- Ưu điểm chung của bốn chiến lược:
+ Đối với từng chiến lược đầu tư cổ phiếu đều có các tiêu chuẩn cụ thể để lựa
chọn cổ phiếu khiến các nhà đầu tư có thể dễ dàng hơn khi lựa chọn cổ phiếu để đầu tư
trong rất nhiều cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK TP.HCM và SGDCK HN.
+ Tính ưu việt của các chiến lược đầu tư cổ phiếu của các nhà đầu tư nổi tiếng đã
được minh chứng bằng những thành tích lợi nhuận của họ mà cả thế giới đều biết đến
nên các nhà đầu tư chỉ cần học tập để áp dụng vào thực tế sao cho phù hợp.
- Nhược điểm chung của bốn chiến lược:
+ Nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc thu thập kết quả kinh doanh của các công ty
niêm yết với khoảng thời gian 10 năm vì các doanh nghiệp tại Việt Nam mới chỉ niêm
yết với số lượng nhiều từ năm 2006 trở lại đây.
+ Nhà đầu tư cũng sẽ gặp khó khăn khi phân tích các tiêu chuẩn mang tính định
tính, đánh giá chủ quan. Điều đó đòi hỏi kinh nghiệm và sự quan sát TTCK trong một
khoảng thời gian dài.
* Chiến lược đầu tư tăng trưởng:
- Ưu điểm: Phần thưởng dành cho các nhà đầu tư cổ phiếu tăng trưởng rất hấp
dẫn. Nhiều người đã làm giàu nhờ biết lưu giữ những cổ phiếu tăng trưởng đích thực
trong một thời gian dài.
- Nhược điểm:
+ Nhà đầu tư thường phải trả giá cao hơn, thậm chí là cao hơn rất nhiều so với giá
trị tài sản ròng của doanh nghiệp tại thời điểm đầu tư.
56
+ Một nguy hiểm lớn cho những người đầu tư cổ phiếu tăng trưởng là không để ý
đến sự phấn khích một cách vô cớ của thị trường với cổ phiếu tăng trưởng để kịp thời
bán cổ phiếu thoát khỏi thị trường sẽ bị thua lỗ. Các nhà đầu tư nên thay đổi định
hướng của mình khi sự tăng giá đã đến mức vô lý và thị trường giá lên kéo dài đến lúc
kết thúc. Mục tiêu của cổ phiếu tăng trưởng nên được xem xét đánh giá hàng năm,
hàng quý, thậm chí là hàng tháng. Tuy nhiên, khi đánh giá hàng tháng, nhà đầu tư cần
tránh phản ứng quá nhạy cảm và bán cổ phiếu ra quá sớm khi nhận thấy sự sụt giảm
mức độ tăng trưởng.
* Chiến lược đầu tư giá trị:
- Ưu điểm:
+ Chiến lược đầu tư giá trị có độ rủi ro thấp nhất trong các chiến lược đầu tư cổ
phiếu vì có sự phân tích hiểu rõ hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của doanh
nghiệp và xác định được giá trị của doanh nghiệp.
+ Quyết định đầu tư của nhà đầu tư không bị chi phối bởi những yếu tố bên ngoài,
bao gồm cả biến động lên xuống của giá cổ phiếu hàng ngày vì mục tiêu của chiến lược
đầu tư giá trị là mua và sở hữu cổ phiếu dài hạn.
- Nhược điểm:
+ Thông tin lãi suất trái phiếu xếp hạng AAA cần được thay thế giả định bởi lãi
suất trái phiếu chính phủ vì Việt Nam chưa có hệ thống đánh giá xếp loại hạng mức tín
dụng cho trái phiếu của các công ty. Cũng như thông tin về P/E của thị trường chưa
được tính toán và công bố thường xuyên.
+ Việc tìm kiếm các thông tin về doanh nghiệp như tỷ suất lợi nhuận trên cổ
phiếu, sự tăng trưởng lợi nhuận hàng năm…trong khoảng thời gian 10 năm là khó khăn
vì TTCK VN hình thành và hoạt động hơn 10 năm mà các doanh nghiệp chỉ mới niêm
yết nhiều kể từ năm 2006 đến nay.
* Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng:
- Ưu điểm:
Thời gian đầu tư ngắn và thu được lợi nhuận nhanh nếu các nhà đầu tư theo đà
tăng trưởng bắt kịp những đợt sóng lớn, lướt trong khoảng thời gian “hoàn hảo” và
57
thoát vào thời điểm “hoàn hảo” – thời điểm ngay trước khi đà tăng trưởng đảo chiều
hoặc khả thi hơn là ngay sau khi đà tăng trưởng đảo chiều.
- Nhược điểm:
+ Chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì các cổ
phiếu đang có đà tăng trưởng thường đã đi được chặng đường dài nhất và có tốc độ
tăng nhanh nhất. Các cổ phiếu này sẽ đạt đến những mức giá cao hơn và những điều
chỉnh tất yếu có thể đến rất nhanh khiến nhà đầu tư sẽ bị thua lỗ nhiều nếu không kịp
bán cổ phiếu, kiên quyết cắt lỗ sớm.
+ Việc nhận biết mức đỉnh điểm và bán ngay cổ phiếu trước khi nó đến đỉnh và
chuẩn bị xuống dốc là rất khó đòi hỏi nhà đầu tư phải có nhiều kinh nghiệm.
* Chiến lược đầu tư kỹ thuật:
- Ưu điểm:
+ Các nhà đầu tư kỹ thuật không quá phụ thuộc vào các bản báo cáo tài chính, kết
quả đạt được trong nhóm ngành, tin tức mới nhất, thậm chí các con số dự đoán, tin đồn
về khả năng sáp nhập hay mua lại… vì họ cho rằng các thông tin đó đều được phản ánh
trong giá cổ phiếu. Vì thế, các nhà đầu tư sẽ không phải mất nhiều thời gian để thu thập
các thông tin đó.
+ Việc nghiên cứu, phân tích các biểu đồ của cổ phiếu được thực hiện thuận lợi
khi có các phần mềm như Metastock, Amibroker… hỗ trợ. Do đó, xác định thời điểm
mua bán cổ phiếu với các tín hiệu, mô hình được thực hiện dễ dàng hơn.
- Nhược điểm:
+ Nhà đầu tư không nắm rõ về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nên không tính toán được giá trị nội tại của doanh nghiệp để so sánh với các doanh
nghiệp cùng ngành. Điều đó dẫn đến việc nhà đầu tư có thể mua với giá quá cao và rơi
vào bẫy “làm giá” của một số nhà đầu tư trên thị trường. Ví dụ như vụ làm giá cổ phiếu
AAA đã được điều tra và xử phạt. Theo UBCKNN, trong khoảng thời gian từ
13/8/2010 đến 01/10/2010, ông Nguyễn Hồng Quang và ông Trần Nghĩa Bình đã sử
dụng 22 tài khoản tại 5 công ty chứng khoán cùng với ông Phạm Văn Xuân sử dụng 3
tài khoản tại 1 công ty chứng khoán, bà Nguyễn Thị Minh Hải sử dụng 4 tài khoản tại 1
58
công ty chứng khoán đã có hành vi liên tục thực hiện mua, bán cổ phiếu AAA với tần
suất, tỷ trọng lớn so với khối lượng giao dịch toàn thị trường. Các cá nhân trên có
nhiều phiên thực hiện các giao dịch chéo với các tài khoản trong nhóm, tạo cung cầu
giả tạo nhằm thao túng giá đối với cổ phiếu AAA.
+ Tuy là việc nghiên cứu, phân tích cổ phiếu được hỗ trợ bởi các phần mềm
nhưng để hiểu được hết ý nghĩa trong các biểu đồ của cổ phiếu lại là một nghệ thuật
đòi hỏi nhà đầu tư phải có kinh nghiệm và nghiên cứu thật nhiều về tâm lý và các mô
hình ứng dụng trong phân tích kỹ thuật.
59
Kết luận Chương II
TTCK VN bắt đầu hoạt động vào năm 2000. Đến nay, 11 năm phát triển, TTCK
VN đã trải qua không ít những thăng trầm nhưng đó vẫn còn là khoảng thời gian quá ít
để TTCK có thể phát triển hoàn thiện về mọi mặt. Do đó, một số chiến lược đầu tư cổ
phiếu nâng cao như Short-selling (bán khống), đầu tư thị trường trung lập, giao dịch
quyền chọn và đầu tư toàn cầu chưa thể thực hiện tại TTCK VN. Đối với bốn chiến
lược đầu tư cổ phiếu chính gồm chiến lược đầu tư tăng trưởng, chiến lược đầu tư giá
trị, chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng và chiến lược đầu tư kỹ thuật đều có thể ứng
dụng được vào TTCK VN.
Tuy nhiên, việc lựa chọn và sử dụng các chiến lược đầu tư của mỗi nhà đầu tư phải
dựa vào từng giai đoạn của TTCK, cũng như căn cứ vào sở thích, cá tính và khả năng
phân tích của mỗi người khác nhau. Không chỉ lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo một chiến
lược đầu tư mà nhà đầu tư còn có thể kết hợp đặc điểm của các chiến lược đầu tư khác
nhau để xây dựng riêng cho mình một chiến lược đầu tư sao cho mang lại lợi nhuận
cao nhất. Điển hình, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của những chuyên gia nổi
tiếng trong đầu tư cổ phiếu như nhà đầu tư đại tài Warren Buffett có một phương pháp
đầu tư riêng biệt dựa trên nền tảng lý thuyết và phương pháp đầu tư của bốn người:
Benjamin Graham, Philip Fisher, John Burr Williams và Charles Munger. Yếu tố
không thể thiếu đối với một nhà đầu tư là tính kỷ luật và sự kiên định trong quá trình
phân tích và đầu tư để có thể đạt được mục tiêu lợi nhuận đề ra.
60
CHƯƠNG III:
NHỮNG GIẢI PHÁP LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
PHÙ HỢP VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Định hướng lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN:
Không ít nhà đầu tư cá nhân xem việc đầu tư cổ phiếu như tham gia vào một cuộc
chơi ngẫu hứng với hy vọng việc mua cổ phiếu sẽ kiếm được nhiều tiền nhanh chóng.
Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư đầy hấp dẫn này dường như không có chỗ cho những quyết
định theo cảm tính. Muốn thành công nhà đầu tư phải có kỹ năng phán đoán, xem xét
và phân tích vấn đề. Điều quan trọng hơn là phải lựa chọn và xây dựng được một chiến
lược đầu tư cổ phiếu thích hợp.
Hiện nay, một số ít nhà đầu tư cũng đã tự nghiên cứu thực hiện một vài chiến lược
đầu tư cổ phiếu tại TTCK VN. Nhưng đa phần các nhà đầu tư vẫn còn đầu tư theo cảm
tính, đầu tư theo trào lưu hiện có trên thị trường và những tin tức không xác thực nên
kết quả đầu tư là lời thì ít mà lỗ thì nhiều. Do vậy, các nhà đầu tư cần trang bị kiến
thức, kỹ năng và lựa chọn cho mình một chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng
giai đoạn của thị trường và bản thân để hạn chế thua lỗ.
Có rất nhiều chiến lược đầu tư cổ phiếu để các nhà đầu tư cá nhân có thể lựa chọn.
Bốn chiến lược đầu tư cổ phiếu cơ bản gồm chiến lược đầu tư tăng trưởng, chiến lược
đầu tư giá trị, chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng và chiến lược đầu tư kỹ thuật. Bên
cạnh đó, còn có các chiến lược đầu tư phụ có thể kết hợp với bất kỳ chiến lược đầu tư
nào như chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới, chiến lược giao dịch nội bộ, chiến lược
mua và giữ, chiến lược đầu tư trái ngược và sử dụng vốn hóa thị trường như một chiến
lược. Ngoài ra, các chiến lược đầu tư nâng cao có thể giúp nhà đầu tư bảo toàn lợi
nhuận khi sử dụng kết hợp với các chiến lược đầu tư khác như chiến lược bán khống
(short-selling), chiến lược đầu tư thị trường trung lập và chiến lược đầu tư toàn cầu.
Tuy nhiên, các chiến lược đầu tư nâng cao chưa thể thực hiện vì TTCK VN chưa có
khung pháp lý quy định cụ thể và cơ sở hạ tầng chưa phát triển để các công ty chứng
khoán có thể cung cấp các sản phẩm dịch vụ quyền chọn chứng khoán, bán khống,…
cho khách hàng.
61
3.2. Mục tiêu lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN:
3.2.1. Nhà đầu tư có thể dễ dàng lựa chọn cổ phiếu để đầu tư
trong rất nhiều cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK TP.HCM, SGDCK HN bởi vì với
từng chiến lược đầu tư cổ phiếu đều có các tiêu chuẩn cụ thể để lựa chọn cổ phiếu. Các
tiêu chuẩn sàng lọc đó có thể giúp nhà đầu tư lựa chọn được những cổ phiếu tốt có khả
năng tăng trưởng.
3.2.2. Nhà đầu tư có thể tách biệt cảm xúc với việc đưa ra quyết định đầu tư
vì mỗi chiến lược đầu tư cổ phiếu đều có một hệ thống các tiêu chuẩn lựa chọn, phân
tích cổ phiếu, mục tiêu nắm giữ cổ phiếu trong khoảng thời gian bao lâu cũng như sử
dụng các công cụ phân tích kỹ thuật để xác định thời điểm mua bán cổ phiếu. Nếu nhà
đầu tư thực hiện đầu tư cổ phiếu theo cảm tính và ngẫu hứng thì có thể may mắn đạt lợi
nhuận trong điều kiện thị trường đang tăng trưởng nhưng về lâu dài sẽ bị thua lỗ vì
không có sự phân tích và am hiểu kỹ lưỡng về cổ phiếu mà nhà đầu tư quyết định đầu
tư.
3.2.3. Đạt được lợi nhuận kỳ vọng và hạn chế thua lỗ:
Khả năng chấp nhận sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của các nhà đầu tư
rất khác nhau. Cũng như khoảng thời gian mà nhà đầu tư bỏ ra để nghiên cứu lựa chọn
cổ phiếu và chờ đợi kết quả lợi nhuận thu về phụ thuộc rất nhiều vào sở thích, tính kiên
định, sự phán đoán và kỹ năng phân tích của mỗi người. Có nhiều nhà đầu tư thích đầu
tư dài hạn với lợi nhuận kỳ vọng khá cao vào các cổ phiếu tăng trưởng hoặc cổ phiếu
giá trị; có nhiều nhà đầu tư lại thích đạt được lợi nhuận dù ít nhưng phải trong thời gian
ngắn hạn với các cổ phiếu đang trên đà tăng trưởng,…Do vậy, mục tiêu của việc lựa
chọn được chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng giai đoạn phát triển của TTCK
VN, đồng thời phù hợp với cá tính và kỹ năng phân tích của bản thân nhà đầu tư có ý
nghĩa rất quan trọng để đạt được lợi nhuận kỳ vọng cũng như hạn chế tối đa thua lỗ.
3.3. Dự báo:
Để bắt kịp xu thế phát triển chung của thế giới, TTCK VN sẽ ngày càng phát triển
hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Với các giải pháp: tăng quy mô, tính thanh
khoản, phát triển và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư; hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, đa dạng
62
hóa phương thức giao dịch và sản phẩm thị trường thông qua việc tái cấu trúc TTCK;
nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ;
cũng như tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi của cơ
quan quản lý nhà nước và chủ động hội nhập quốc tế. Dự báo TTCK VN sẽ là nơi mà
các nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn các chiến lược đầu tư cổ phiếu từ cơ bản đến
nâng cao để có thể bảo toàn lợi nhuận trước những biến động mạnh của thị trường.
Cơ sở hạ tầng của TTCK VN được hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức
và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin, cũng như hiện đại hóa các SGDCK với các
hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin hiện đại và có khả năng kết nối với các
SGDCK quốc tế; đa dạng hóa phương thức giao dịch và sản phẩm thị trường đáp ứng
nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, khung pháp lý của TTCK được hoàn thiện, có ban
hành những quy định cụ thể về giao dịch bán khống, các sản phẩm giao dịch phái
sinh,…
Đối với nhà đầu tư tổ chức và cá nhân ngày càng được nâng cao về kiến thức và
chuyên nghiệp hơn. Cơ sở nhà đầu tư phát triển và đa dạng hóa, trong đó bao gồm hệ
thống nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài và hệ thống nhà đầu tư cá nhân.
Với những yếu tố trên, ngoài các chiến lược đầu tư cổ phiếu cơ bản như chiến
lược đầu tư tăng trưởng, chiến lược đầu tư giá trị, chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng
và chiến lược đầu tư kỹ thuật đều có khả năng ứng dụng tại TTCK VN giai đoạn hiện
nay thì các chiến lược đầu tư cổ phiếu nâng cao như Short-selling (bán khống), đầu tư
thị trường trung lập, giao dịch quyền chọn và đầu tư toàn cầu đều có thể thực hiện tại
TTCK VN. Vì thế, nhà đầu tư sẽ có nhiều chiến lược đầu tư cổ phiếu để lựa chọn hơn.
Và rồi, mỗi nhà đầu tư khi tham gia vào TTCK đều tự trang bị kiến thức, kỹ năng phân
tích, chọn lựa một chiến lược đầu tư cổ phiếu cụ thể cho riêng mình và kiên trì thực
hiện chiến lược đó trong suốt quá trình đầu tư. Bên cạnh đó, với những chiến lược đầu
tư cổ phiếu có kết hợp với các chiến lược đầu tư nâng cao sẽ giúp nhà đầu tư có khả
năng tự bảo vệ lợi nhuận khi TTCK cũng như những cổ phiếu trong danh mục đầu tư
có chiều hướng suy giảm nhanh và mạnh.
63
3.4. Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN:
Cả bốn chiến lược đầu tư cổ phiếu: chiến lược đầu tư tăng trưởng, chiến lược đầu
tư giá trị, chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng và chiến lược đầu tư kỹ thuật đều có
khả năng ứng dụng tại TTCK VN, mặc dù cần điều chỉnh một chút để thích hợp với
những đặc điểm riêng của một TTCK còn non trẻ. Chiến lược đầu tư nào cũng có giai
đoạn thị trường phù hợp và không phù hợp, nhà đầu tư cần điều chỉnh cho linh hoạt,
hiệu quả. Với tình hình TTCK VN ảm đạm như hiện nay thì việc lựa chọn chiến lược
đầu tư nào cho phù hợp là vấn đề mà nhà đầu tư nào cũng mong muốn tìm ra câu trả
lời.
3.4.1. Các yếu tố tác động đến TTCK VN trong giai đoạn hiện nay:
- Điều kiện kinh tế vĩ mô của Việt Nam không thuận lợi:
+ Lạm phát trong 3 tháng của quý 3 năm 2011 tiếp đà giảm tốc từ tháng 5 và
tháng 6 sau những nỗ lực ổn định hóa quyết liệt của Chính phủ. Tuy nhiên, do sự thiếu
hụt nguồn cung thực phẩm tạm thời trong tháng 7 và tháng 8, cùng ảnh hưởng của yếu
tố thời vụ tựu trường trong tháng 9 nên tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
hàng tháng trong quý vẫn ở mức cao. Tính đến hết tháng 9, CPI đã tăng 22.42% so với
cùng thời điểm của năm trước, và đã lên tới 16.63% so với cuối năm 2010. Đáng lưu
ý, giá cả của nhóm hàng thực phẩm đã tăng tới 27.72% từ đầu năm, tiếp đó là nhóm ăn
uống ngoài gia đình tăng 21.33%, nhóm vận tải có mức tăng 19.01%, nhóm vật liệu
xây dựng và nhà ở tăng 16.59%; trong khi đó bưu chính-viễn thông là nhóm duy nhất
có mức giá giảm 1.87%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2011 tăng 0.36% so với tháng
trước, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất với 3.2%. Tính đến tháng 10/2011, CPI
tăng 17.05% so với tháng 12/2010 và tăng 21.59% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số
giá tiêu dùng bình quân mười tháng năm 2011 tăng 18.5% so với bình quân cùng kỳ
năm 2010.
+ Nợ xấu tăng mạnh: Xuất hiện hàng loạt vụ vỡ nợ liên quan đến tín dụng đen
với quy mô hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng xuất hiện. Từ vụ vỡ nợ của Huỳnh Thị
Huyền Như với quy mô điều tra tại thời điểm hiện tại là 5,000 tỷ đồng đã gây ra hàng
loạt vụ vỡ nợ liên quan và gây ra tình trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM do tính chất
64
domino của nó.
+ Hiện tượng thanh khoản suy giảm sau quy định trần lãi suất và hàng loạt các
chế tài khiến thanh khoản hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Hàng loạt ngân
hàng nhỏ phải vay nợ trên thị trường liên ngân hàng và kênh này đang trở thành kênh
kiếm tiền chủ yếu của các ngân hàng lớn, các ngân hàng có nhiều ưu thế về vốn. Một
số ngân hàng nhỏ đã mất khả năng thanh toán trên thị tr(cid:31)ờng liên ngân hàng khi
không trả được các khoản vay nợ liên ngân hàng đến hạn. Điều này đã gây ra cú sốc
lớn cho hệ thống NHTM và khiến một số ngân hàng lớn thực hiện chiến lược phòng
thủ bằng cách cắt hạn mức tín dụng trơn đối với các NHTM nhỏ, thay vào đó yêu cầu
thêm về tài sản đảm bảo hoặc vốn đối ứng. Lãi suất cho vay liên ngân hàng đã có lúc
lên đến mức 40%. Bên cạnh đó, một số NH TMCP nhỏ cũng gặp rất nhiều khó khăn
về thanh khoản khi thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình đối với các khoản tiền gửi
đến ngày đáo hạn.
+ Doanh nghiệp gặp khó khăn khi chính sách thắt chặt tiền tệ được thực hiện:
Ngày 25/10/2011, theo số liệu do NHNN công bố thì trong tám tháng đầu năm
tăng trưởng tín dụng thực của toàn hệ thống NHTM đạt 11.7%, cả năm ước đạt
17%) trong khi con số này của những năm trước xấp xỉ 30% - 35%. Điều này đã
phần nào thực hiện được mục tiêu đầu tiên là thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát
trong nghị quyết 11 từ đầu năm của Chính phủ. Tuy nhiên, mục tiêu thúc đẩy sản xuất
kinh doanh dường như đã không thực hiện được khi chi phí đi vay cao đã khiến nhiề u
dự án đình đốn, doanh nghiệp không dám mở rộng mà thậm chí phải thu hẹp sản xuất
hoặc ngừng kinh doanh. Ủy ban kinh tế đã thống kê rằng chỉ trong bảy tháng đầu năm
2011, 30% số lượng doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh phải phá sản, giải thể hoặc
tạm ngừng sản xuất. Một chỉ báo khác là xu hướng giảm của chỉ số hàng tồn kho
cũng cho thấy quy mô cung đang dần bị thu hẹp. Theo Tổng cục thống kê, chỉ số tồn
kho tại thời điểm 01/09/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm
5.5% so với cùng kỳ năm trước.
+ Tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn so với cùng kỳ: Những khó khăn trên đã
phần nào được phản ánh trong số liệu tăng trưởng GDP trong các quý gần đây. Quý
65
III năm 2011 tăng trưởng kinh tế đạt mức 6.1%, tuy cao hơn tốc độ tăng trưởng của
hai quý trước đó do có tính chất chu kỳ, song vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước
ở mức 7.2%. Ba quý đầu năm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đều thấp hơn
so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, có thể thấy chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước đã có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế.
+ Vấn đề mất cân đối trong tín dụng VND và tín dụng USD: Trước đây, khi
tín dụng bằng đồng nội tệ có lãi suất từ 20% - 25% tùy từng lĩnh vực thì lãi suất cho
vay đô la Mỹ chỉ khoảng từ 6% - 7%. Điều này đã khuyến khích các doanh nghiệp
lựa chọn vay vốn ngân hàng bằng USD nhiều hơn để giảm đi chi phí tài chính, từ đó
dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa tín dụng bằng VND và USD. Tổng tăng trưởng tín
dụng đến tháng 8/2011 ước đạt 11.5% thì tăng trưởng bằng ngoại tệ là 22%, trong khi
tăng trưởng tín dụng nội tệ chỉ là 6.5%. Sự mất cân đối này sẽ khiến cho nhu cầu USD
vào cuối năm tăng lên khi các khoản vay này đến hạn trả.
+ Căng thẳng tỷ giá: Tình hình xuất nhập khẩu tám tháng đầu năm 2011 đã có
những dấu hiệu cải thiện hơn so với cùng kỳ năm 2010 khi nhập siêu giảm 26.7%
tương đương gần 400 triệu USD khiến sức ép lên cầu USD phục vụ nhập siêu có
phần giảm bớt so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, lượng kiều hối đổ về Việt
Nam dự báo tăng 20% so với năm trước, những tháng cuối năm sẽ chiếm khoảng
một phần ba nên lượng kiều hối tính đến hết tháng 09/2011 ước đạt hơn 5 tỷ USD, bổ
sung tương đối vào nguồn cung. Dự trữ ngoại hối nửa đầu quý III cũng tăng lên tương
đối sau khi NHNN thực hiện kết hối vào đầu tháng 7, đồng thời liên tục mua ròng
USD từ các NHTM. Tuy nhiên, thời điểm cuối quý với việc cho phép nhập khẩu vàng
nhằm bình ổn thị trường vàng và bán USD ra thị trường khi tỷ giá có dấu hiệu tăng
nóng có thể đã làm giảm đáng kể dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó, theo số liệu dự trữ
ngoại tệ gần đây nhất của Việt Nam mà IMF ước tính vào khoảng 13.5 tỷ USD tương
đương với 1.5 tháng nhập khẩu. Trong khi đó, cũng theo khuyến cáo của tổ chức này
thì lượng ngoại tệ dự trữ nên xấp xỉ tương đương với 2.5 tháng nhập khẩu mới đạt tỷ
lệ an toàn. Như vậy, có thể thấy dự trữ ngoại tệ của chúng ta hiện nay còn tương đối
mỏng cho nhu cầu xuất nhập khẩu và thanh toán cuối năm. Mặc dù có một số cải thiện
66
trong vấn đề nhập siêu cũng như kiều hối, song lượng dự trữ ngoại hối bị san sẻ trong
quá trình bình ổn giá vàng và USD, cộng thêm áp lực từ tín dụng USD đáo hạn vẫn
sẽ tạo sức ép tương đối lớn lên tỷ giá thời gian tới. Hiện tỷ giá trong ngân hàng vẫn
dao động trong biên độ 1% song tỷ giá trên thị trường tự do đã bắt đầu có dấu hiệu
tăng như thời điểm cuối năm 2010. Tỷ giá trên thị trường tự do đã có những thời
điểm được đẩy lên mức 21,400 VND/USD chính là những tín hiệu đầu tiên cho căng
thẳng ngoại tệ vào cuối năm.
- Tình hình kinh tế thế giới cũng bất lợi:
+ GDP các nước đã bộc lộ nhiều tín hiệu xấu về xu hướng kinh tế. Mặc dù,
GDP của Mỹ trong quý III đã tăng khả quan 2.5% sau khi chỉ tăng 1.3% trong quý
II. Trong khi đó, 2 nền kinh tế đầu tàu của khu vực đồng tiền chung Châu Âu là
Pháp và Đức gần như không tăng trưởng trong quý II/2011. Một nền kinh tế lớn ở
Châu Âu khác là Anh thì tăng trưởng kinh tế quý II/2011 chỉ tăng có 0.2%, mức
tăng thấp nhất trong vòng 5 quý. Khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone):
GDP quý II của Eurozone thấp nhất trong vòng 3 năm.
+ Mỹ: đối với kinh tế Mỹ, đồng loạt các tổ chức phân tích kinh tế lớn như
JPMorgan, Goldman Sachs, Citigroup đều hạ triển vọng tăng trưởng kinh tế. FED
đã cắt giảm dự báo tăng trưởng GDP của Mỹ trong năm 2011 từ 3.1%-3.3% xuống
còn 2.7%-2.9%, trong khi dự báo cho năm 2012 cũng được hạ xuống mức 3.3%-
3.7% thấp hơn đánh giá trước đó. Trong khi đó, Ngân hàng JPMorgan cắt giảm 1%
mức tăng trưởng GDP ở các kỳ vọng cho kinh tế Mỹ. Goldman Sachs còn bi quan
hơn khi hạ dự báo tăng trưởng lần thứ 3 trong tháng 8 với mức tăng nửa sau của
năm 2011 sẽ chỉ đạt từ 1%-1.5%.
+ Khu vực Châu Âu: Cả S&P và ECB đều đưa ra những nhận định khá bi quan
về khu vực kinh tế này. Trong khi S&P đưa ra những cảnh báo về suy thoái kép với
ảnh hưởng là thất nghiệp tăng cao và suy thoái tiêu dùng tư nhân khiến nền kinh tế
mất đi động lực tăng trưởng. Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cho rằng kinh
tế đang và sẽ đối mặt với tình trạng bất ổn cao và nguy cơ suy giảm trong thời gian
trước mắt. Chính vì thế ECB quyết định giữ nguyên mức lãi suất thấp 1.5% để cải
67
thiện sức cầu của toàn nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) vừa hạ mức
kỳ vọng tăng trưởng GDP năm nay từ 1.8% xuống còn 1.5% và đưa ra những cảnh
báo về nguy cơ tăng trưởng chậm dần trong thời gian tới. Động lực tăng trưởng đã
dần mất đi khi sức cầu ngày càng kém đi trong chi tiêu của khu vực tư nhân, Pháp
đã quyết định hạ dự báo tăng trưởng kinh tế trong năm 2011-2012 với mức tăng
trưởng 1.75% và 2.25% tương ứng.
+ Trung Quốc: mặc dù đạt được mức tăng trưởng GDP khá lạc quan trong quý
II/2011 nhưng nhiều dấu hiệu cho thấy rằng nền kinh tế nước này đang tăng trưởng
chậm dần, và xuất khẩu, một động lực quan trọng trong GDP của nước này có thể
yếu đi do nhu cầu về hàng hóa xuất khẩu của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này đang
suy giảm trên quy mô toàn cầu. Theo UBS, tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm
2011 chỉ sẽ đạt mức 9% giảm 0.5% so với dự báo trước đây là 9.3% và GDP năm
2012 chỉ đạt 8.3% thay vì 9%. Do động lực chính trong cấu trúc GDP của Trung
quốc đang giảm đi, nếu muốn tiếp tục tăng trưởng trở lại quốc gia này phải cấu trúc
lại nền kinh tế theo hướng thúc đẩy chi tiêu nội địa, giảm bớt sự phụ thuộc vào xuất
khẩu hàng hóa.
- Sự suy giảm về giá trị, quy mô giao dịch; dòng vốn vào TTCK bị hạn chế
bởi chính sách tài khoá chống lạm phát và sự suy giảm của dòng vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài; tâm lý xấu, dè dặt trong giải ngân bao trùm toàn bộ thị
trường:
Trong năm 2011, nhìn chung giảm điểm vẫn là xu hướng chính của TTCK VN.
Mặc dù, có được hai đợt hồi phục vào cuối tháng 5 và khoảng giữa tháng 8 nhưng
so sánh với thời điểm cuối năm 2010, VN-Index vẫn để mất 11.77% trong khi đó
với HNX-Index thì mức giảm thậm chí còn sâu hơn lên đến 37.55%, chốt phiên
ngày 30/09/2011, hai chỉ số này lần lượt đóng cửa ở 427.60 và 71.34 điểm. Nếu tính
chỉ riêng trong quý 3 năm 2011, có thể xem ngoài thời điểm khởi sắc nhất của
TTCK VN trong năm 2011, gồm một đợt tăng điểm khá dài của TTCK kéo dài
khoảng 1 tháng từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9, thì cả hai sàn vẫn mất điểm khi
VN-Index và HNX-Index lần lượt giảm 3.32% và 5.23%. Nguyên nhân chủ yếu của
68
hiện tượng này trước hết đến từ phía các vấn đề kinh tế vĩ mô trong nước. Lạm phát
đã dần trở nên ổn định và được kiểm soát nhưng nếu so với năm 2010 thì vẫn ở mức
cao, mặt bằng lãi suất đã hạ nhiệt sau một loạt các biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt
của Ngân hàng Nhà nước nhưng chưa thực sự thấp, thêm vào đó một số vấn đề mới
lại nảy sinh, đặc biệt là áp lực tỷ giá. Không chỉ có vậy, trong thời gian qua TTCK
VN còn chịu ảnh hưởng bởi những thông tin tiêu cực trên thị trường thế giới mà nổi
bật nhất là vấn đề nợ công ở Châu Âu vẫn chưa được giải quyết và khả năng suy
thoái kép của nền kinh tế toàn cầu.
Trong tháng 7/2011, dư âm từ đợt hồi phục cuối tháng 5 đầu tháng 6 lúc này
đã gần như không còn, TTCK VN theo đó càng giao dịch càng đi xuống, xu thế
giằng co và giảm nhẹ là kịch bản chính của thị trường. Cả hai sàn giao dịch đều hầu
như không tìm được một điểm tựa nào để có thể phục hồi, thông tin hỗ trợ trong
nước hoàn toàn thiếu vắng khi mà mức tăng CPI của tháng 7 vẫn ở trên 1%, trong
khi đó tình hình kinh tế thế giới cũng khá u ám với nguy cơ vỡ nợ của Mỹ nếu nước
này không đạt được thỏa thuận nâng trần nợ công đúng hạn và sự bế tắc trong việc
giải quyết vấn đề nợ công ở Châu Âu. Tâm lý của các nhà đầu tư theo đó liên tục bị
thử thách và bào mòn dần, TTCK cũng vì thế mà không chỉ sụt giảm về điểm số mà
còn suy kiệt cả về tính thanh khoản một cách đáng báo động.
Bước sang tháng 8/2011, đây có thể nói là một tháng giao dịch khá ấn tượng
của TTCK VN. Trong nửa đầu của tháng này, TTCK VN tiếp tục chiều hướng
xuống trong bối cảnh thiếu vắng thông tin hỗ trợ. VN-Index lập đáy vào ngày
12/08/2011 với con số 383.92 điểm còn đáy của HNX-Index lại được thiết lập sau
đó 1 phiên giao dịch với con số thấp kỷ lục 65.78 điểm. Tuy nhiên, khoảng thời gian
còn lại của tháng lại là khoảng thời gian mà TTCK bắt đầu ghi nhận sự hồi phục
mạnh mẽ. Trước đây, nếu như những khó khăn từ phía vĩ mô trong nước là nguyên
nhân chính làm thị trường sụt giảm thì đến thời điểm này khi những vấn đề đó đã có
dấu hiệu chuyển biến tích cực hơn thì cũng là lúc thị trường bứt phá. Đầu tiên phải
kể đến việc lạm phát đã dần được kiềm chế và ổn định hơn với thông tin mức tăng
CPI trong tháng 8/2011 của cả nước chỉ chưa đến 1%, chính xác là 0.93%. Không
69
dừng lại ở đó, thị trường còn nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ kỳ vọng mặt bằng lãi
suất sẽ được hạ nhiệt vào đầu tháng 9/2011 sau khẳng định khá chắc chắn của
NHNN. Tổ chức này tuyên bố sẽ đưa ra những biện pháp cứng rắn và quyết liệt thể
hiện quyết tâm cao đảm bảo thực hiện mục tiêu kể trên. Kết quả là niềm tin vào thị
trường dần được phục hồi, giao dịch ngày càng trở nên sôi động hơn qua từng
phiên, dòng tiền có dấu hiệu trở lại TTCK trong sự hứng khởi của các nhà đầu tư.
Tính thanh khoản tăng lên cùng với sắc xanh của điểm số và theo đó đã phát đi một
tín hiệu rất tích cực.
Đà phục hồi kể trên của thị trường tiếp tục kéo dài thêm trong tháng 9/2011.
Đáng chú ý là trước đó vào cuối tháng 8/2011, giá xăng dầu trong nước đã được
điều chỉnh giảm lần đầu tiên trong năm 2011, mặc dù chưa nhiều nhưng cũng tạo kỳ
vọng vào khả năng kiềm chế, ổn định lạm phát và là cơ sở quan trọng để có thể thực
hiện mục tiêu hạ nhiệt lãi suất. Không những thế, niềm tin của các nhà đầu tư vào
điều này lại thêm được củng cố sau một loạt những biện pháp mạnh mẽ của NHNN,
đặc biệt đáng chú ý là quyết định áp trần lãi suất huy động 14% vào ngày
07/09/2011, sau đó, nhiều ngân hàng công bố hạ lãi suất cho vay về mức từ 17%
đến 19%/năm. Khi niềm tin dần trở thành hiện thực thì TTCK VN đã có đủ lý do để
tiếp tục tăng điểm, thu hút dòng tiền đầu tư mạnh vào hai sàn giao dịch. Trong đợt
hồi phục này, VN-Index đã ghi nhận một chuỗi tăng điểm liên tiếp lên đến 13 phiên.
Chỉ số này chạm đến đỉnh vào ngày 15/09/2011 với con số 470.67 điểm còn HNX-
Index thiết lập mức cao nhất trước đó 2 ngày, ngày 13/09/2011 với 79.25 điểm.
Cũng cần phải lưu ý thêm, vào ngày 14/09/2011, bóng dáng của một phiên phân
phối đỉnh đã xuất hiện khi giá trị giao dịch trên cả hai sàn đồng loạt đạt trên 1,000
tỷ đồng. Với đợt hồi phục kéo dài khoảng 1 tháng, áp lực điều chỉnh của thị trường
đang khá lớn, ngoài ra mặt bằng giá cổ phiếu đã ở mức cao, cản trở lực cầu. Ngoài
ra, thị trường từ giữa tháng 9/2011 trở đi còn chịu tác động tiêu cực từ cả yếu tố
trong nước và thế giới cụ thể là những vấn đề nảy sinh sau khi hạ lãi suất mà đặc
biệt là vấn đề tỷ giá, cũng như diễn biến xấu trong việc giải quyết vấn đề nợ công ở
Châu Âu mà kéo theo đó là triển vọng yếu kém của nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là
70
trong những tháng cuối năm 2011, TTCK VN cứ ảm đạm dần qua từng phiên với xu
hướng giảm điểm là chủ đạo.
Nhà đầu tư nước ngoài thu hẹp mua ròng, tiếp tục giữ thái độ thận trọng với
TTCK VN do chịu tác động từ cả yếu tố vĩ mô trong nước lẫn thế giới. Hoạt động
mua ròng của các nhà đầu tư nước ngoài đã dần co hẹp với một mức đáng kể sau
quyết định thay đổi tỷ giá hồi cuối tháng 2/2011. Bước sang đến quý 3 thì xu hướng
bán ròng trở nên ngày một rõ nét hơn và là xu hướng chính của khối ngoại. Động
thái bán ròng này của khối ngoại đặc biệt mạnh vào tháng 9/2011, nhất là sau khi thị
trường đạt đỉnh, các nhà đầu tư nước ngoài liên tục bán ra rất mạnh, thậm chí có
tuần khối ngoại liên tục bán ròng trên SGDCK TP.HCM trong cả 5 phiên giao dịch
với giá trị bán ròng trung bình mỗi phiên trên 100 tỷ đồng. Có thể cho rằng hai
nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng bán ròng mạnh kể trên của các nhà đầu tư
nước ngoài. Thứ nhất, phải kể đến là những bất ổn và khó khăn của kinh tế thế giới,
trong đó, đặc biệt đáng chú ý là cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu vốn tồn tại
hơn 1 năm nay vẫn chưa có lời giải hợp lý, đe doạ về nguy cơ suy thoái kép của nền
kinh tế toàn cầu. Điều này đã dẫn đến một làn sóng rút vốn đầu tư khỏi những tài
sản rủi ro, đặc biệt là TTCK, Việt Nam theo đó cũng khó có thể tránh khỏi vòng
xoáy này. Nguyên nhân thứ hai khiến khối ngoại tỏ ra e dè hơn đó là rủi ro tỷ giá.
Mặt bằng lãi suất đã hạ nhiệt từ đầu tháng 9/2011, cũng vì thế mà trong 3 tháng cuối
năm tiền đồng sẽ phải chịu áp lực mất giá lớn hơn.
3.4.2. Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến TTCK VN trong thời gian tới:
- Yếu tố vĩ mô trong nước, đặc biệt là áp lực tỷ giá và chính sách tiền tệ, vẫn
là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất lên TTCK VN trong năm 2012. Lạm phát có thể đã
được kiềm chế và nhiều khả năng sẽ ổn định trong những tháng cuối năm, mặt bằng
lãi suất cũng đã được hạ. Tuy nhiên, nhằm đảo bảo tốt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ
mô thì khả năng rất lớn chính sách tiền tệ vẫn theo định hướng thắt chặt trong thận
trọng và linh hoạt. Bên cạnh đó, những khó khăn mới cũng nảy sinh, đặc biệt là áp
lực tỷ giá đang ngày một lớn dần.
- Yếu tố rủi ro từ thị trường thế giới với nguy cơ khủng hoảng nợ công ở
71
Châu Âu và suy thoái kép của nền kinh tế toàn cầu. Vấn đề kinh tế được quan tâm
nhất hiện nay trên thế giới có lẽ là diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu
Âu, vốn tồn tại từ hơn một năm nay. Nếu vấn đề này không được giải quyết tốt thì
rất có thể sẽ kìm hãm sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu, thậm chí xấu hơn là
lâm vào cuộc suy thoái kép. Đây cũng là nguyên nhân tạo nên sự e ngại của các nhà
đầu tư với các tài sản rủi ro, trong đó có chứng khoán.
- Rủi ro từ kết quả kinh doanh năm 2011 của các doanh nghiệp niêm yết.
Nhìn chung kết quả kinh doanh của phần đông các doanh nghiệp niêm yết sẽ chưa
thực sự khả quan trong năm 2011 do chịu ảnh hưởng tiêu cực từ chính sách thắt chặt
tiền tệ, lãi vay cao, khó tiếp cận nguồn vốn, bên cạnh đó, còn là áp lực lạm phát với
giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng vọt. Hiện nay, mặc dù mặt bằng lãi suất đã được
giảm nhưng vẫn còn ở mức cao mà thời điểm giảm lại là vào đầu tháng 9 cũng là
tháng cuối cùng của quý III, nên tác động của nó đến kết quả kinh doanh trong cả
năm 2011 của các doanh nghiệp sẽ không nhiều. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhiều
khả năng sẽ có sự phân hóa, một số ngành sẽ bị tác động tiêu cực nhưng có những
ngành sẽ gặp thuận lợi. Cụ thể hơn, các công ty có danh mục đầu tư tài chính và đòn
bẩy tài chính cao sẽ là nhóm doanh nghiệp nằm trong trạng thái rủi ro lỗ trong năm
2011. Ngược lại, những công ty thuộc lĩnh vực xuất khẩu nguyên liệu, nông sản,
thực phẩm, dịch vụ công cộng và y tế có thể sẽ ghi nhận kết quả tích cực.
3.4.3. Lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN:
Trong tình hình của Việt Nam hiện nay, lạm phát đang ở mức cao, lãi suất tăng
cao…, khiến cho doanh nghiệp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh, lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt, tâm lý nhà đầu tư đang ở mức yếu, thị trường
thế giới đang xuất hiện nhiều thông tin xấu, nên xu hướng của TTCK VN sẽ khó có thể
tăng trở lại trong thời gian ngắn vì các yếu tố tác động tiêu cực có thể tiếp tục xảy ra.
Mặc dù, TTCK VN diễn biến xấu là do tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, nhưng
một khi những yếu tố bất lợi được giải quyết, thị trường sẽ hồi phục như quy luật tất
yếu của sự phát triển. Hiện nay, nhiều cổ phiếu đang dần trở nên hấp dẫn về mặt
định giá cơ bản, thị giá thấp. Mặc dù, trong quý III năm 2011, TTCK VN đã ghi
72
nhận một đợt hồi phục khá, tuy nhiên, sau đó thị trường cũng đã trải qua một đợt
điều chỉnh do những lo ngại từ tình hình kinh tế thế giới cũng như những vấn đề
mới nảy sinh trong nước. Theo đó, mặt bằng giá cổ phiếu đã trở về mức thấp và tỏ
ra hấp dẫn hơn, thống kê cho thấy, trên SGDCK TP.HCM, P/E tính đến ngày
30/09/2011 là 10.5 và P/B là 2.49. Tuy nhiên, nếu loại trừ các cổ phiếu vốn hóa lớn
mang tính trụ cột với mức giá được kìm giữ ở mức khá cao trong suốt thời gian qua,
thì P/E và P/B của thị trường có lẽ còn thấp hơn thế khá nhiều. Việc lựa chọn cổ
phiếu tốt để đầu tư tại thời điểm này cũng khó mang lại lợi nhuận ngay cho nhà đầu tư.
Vì vậy, nếu xét về ngắn hạn để bảo toàn vốn thì nhà đầu tư nên chờ những thay đổi tích
cực hơn của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, các khoản đầu tư theo
chiến lược đầu tư giá trị hiện tại sẽ mang lại lợi nhuận cao. Vì chiến lược đầu tư giá trị
có độ rủi ro thấp nhất trong các chiến lược đầu tư cổ phiếu do các nhà đầu tư có thể
hiểu rõ hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính và xác định được giá trị của doanh
nghiệp thông qua việc phân tích các chỉ số và thông tin về doanh nghiệp. Ngoài ra,
quyết định đầu tư của nhà đầu tư sẽ không bị chi phối bởi những yếu tố bên ngoài, bao
gồm cả biến động lên xuống của giá cổ phiếu hàng ngày vì mục tiêu của chiến lược đầu
tư giá trị là mua và sở hữu cổ phiếu dài hạn. Khi xu hướng thị trường tốt thì các cổ
phiếu đó sẽ mang lại mức lợi nhuận cao và bền vững. Tóm lại, chiến lược đầu tư giá
trị là chiến lược phù hợp nhất với giai đoạn TTCK VN hiện nay.
Ngoài ra, đối với từng chiến lược đầu tư cổ phiếu đều có mức độ rủi ro và lợi
nhuận khác nhau. Có thể nhà đầu tư sẽ bị thu hút bởi những cổ phiếu tăng trưởng cao
nhưng mặt khác lại thích tìm kiếm những cổ phiếu hiệu quả, hoặc có thể chiến lược đầu
tư giá trị hấp dẫn phần bảo thủ trong con người nhà đầu tư nhưng bản thân nhà đầu tư
lại thiếu sự kiên nhẫn để phải chờ đợi hàng năm liền mới thu được lợi nhuận… Do vậy,
tùy theo sở thích, cá tính và khả năng phân tích của bản thân mà nhà đầu tư có thể lựa
chọn cho mình hoặc xây dựng riêng cho mình một chiến lược đầu tư kết hợp dựa trên
các đặc điểm của các chiến lược khác nhau để đạt được mục tiêu lợi nhuận. Có nhiều
phương thức kết hợp khác nhau, đơn giản nhất là nhà đầu tư kết hợp một chiến lược
đầu tư chính với các ưu điểm của các chiến lược đầu tư khác hoặc các chiến lược đầu
73
tư phụ. Các nhà đầu tư giá trị có thể yêu cầu cổ phiếu giá trị phải bộc lộ một vài đặc
điểm tăng tốc trước khi mua cổ phiếu đó. Khi đó, nhà đầu tư sẽ sẵn sàng chấp nhận chỉ
số P/E cao hơn mức một nhà đầu tư giá trị bình thường mong muốn. Chẳng hạn, đối
với hai chiến lược đầu tư từ trên xuống dưới và giao dịch nội bộ có thể kết hợp với bất
kỳ chiến lược đầu tư cổ phiếu nào. Nhà đầu tư có thể là một nhà đầu tư giá trị từ trên
xuống dưới hoặc là một nhà đầu tư tăng trưởng từ trên xuống dưới có sử dụng giao
dịch nội bộ như một điều kiện chính yếu để quyết định mua cổ phiếu. Đối với chiến
lược đầu tư kỹ thuật cũng vậy, nhà đầu tư có thể kết hợp với bất kỳ chiến lược đầu tư
nào. Trên thực tế, dù lựa chọn chiến lược đầu tư nào thì nhà đầu tư cũng nên sử dụng
các công cụ phân tích kỹ thuật để xác định được thời điểm gia nhập hay rút lui khỏi thị
trường.
3.5. Giải pháp lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với TTCK VN:
3.5.1. Trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm và quan sát thị trường:
Nhà đầu tư cần trau dồi kiến thức, kỹ năng phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật;
tham khảo nghiên cứu nhiều tài liệu, sách báo viết về các nhà đầu tư cổ phiếu nổi tiếng
trên thế giới để qua đó có thể học hỏi những kinh nghiệm trong cách tiếp cận TTCK
cũng như lựa chọn cổ phiếu theo các tiêu chuẩn riêng; dành nhiều thời gian quan sát
diễn biến của TTCK. Trên thực tế, xu hướng chung của TTCK cũng ít nhiều ảnh hưởng
trực tiếp đến xu hướng tăng giảm của các cổ phiếu riêng lẻ. TTCK là phong vũ biểu
của nền kinh tế mỗi nước. Vì thế, nhà đầu tư cần quan tâm theo dõi các thông tin ảnh
hưởng đến nền kinh tế như khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát, chính sách tiền tệ,
tỷ giá hối đoái, tình hình xuất nhập khẩu… để có sự điều chỉnh danh mục đầu tư cổ
phiếu cho hợp lý.
Với TTCK còn non trẻ như TTCK VN diễn biến không tuân theo một quy luật
nào, đòi hỏi nhà đầu tư phải quan sát bảng điện tử thường xuyên để có thể hiểu được
những thủ thuật đặt lệnh, hiện tượng “làm giá”,… , từ đó, đưa ra quyết định mua bán
cổ phiếu hợp lý.
74
3.5.2. Lựa chọn và xây dựng chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của TTCK VN và bản thân nhà đầu tư:
Nhà đầu tư cần lựa chọn và xây dựng một chiến lược đầu tư cổ phiếu cụ thể để có
thể đối phó với nguy cơ thất bại trong quá trình đầu tư. Chiến lược đầu tư cổ phiếu sẽ
giúp nhà đầu tư tách biệt cảm xúc với việc đưa ra quyết định đầu tư. Tùy vào quan
điểm đầu tư mà nhà đầu tư lựa chọn một chiến lược đầu tư phù hợp với từng giai đoạn
thị trường, với tiêu chí đầu tư của mình. Chiến lược đầu tư cổ phiếu cần linh hoạt để
nhà đầu tư có thể thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn biến động của TTCK VN.
Nhà đầu tư có thể xây dựng chiến lược đầu tư cổ phiếu cụ thể cho riêng mình theo
ba bước:
* Bước 1: Thu thập thông tin
+ Nhà đầu tư cần chủ động thu thập thông tin tự trang bị kiến thức và học tập kinh
nghiệm từ sách, báo viết về đầu tư chứng khoán, hoặc các báo cáo chuyên đề của các
công ty chứng khoán,… để có thể tạo ra một phương pháp lựa chọn cổ phiếu với những
tiêu chuẩn phản ánh rõ các mục tiêu có khả năng sàng lọc để tìm ra được cổ phiếu phù
hợp với mục đích đầu tư trong rất nhiều cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK TP.HCM
và SGDCK HN.
+ Sau khi đã lựa chọn được cổ phiếu theo các tiêu chí đề ra, nhà đầu tư sẽ tiếp tục
tìm hiểu các thông tin về công ty đó thông qua việc nghiên cứu các loại báo cáo của
công ty như bản cáo bạch, báo cáo thường niên, báo cáo tài chính và thu nhập của công
ty mà nhà đầu tư định mua và các báo cáo của các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành.
Bởi vì, điều đó sẽ giúp cho nhà đầu tư có sự so sánh kết quả kinh doanh, tình hình lợi
nhuận của các công ty đó với nhau để từ đó có thể đánh giá vị thế và tiềm năng phát
triển của công ty mà nhà đầu tư định mua cổ phiếu.
Các bản báo cáo của các công ty niêm yết nhà đầu tư có thể tìm thông qua các
trang web của chính công ty đó, các trang web của hai SGDCK, các công ty chứng
khoán, trang web Cafef,…. Hiện nay, một số trang web có hỗ trợ bộ lọc cổ phiếu giúp
nhà đầu tư có thể tự thêm bớt các tiêu chí đánh giá để sàng lọc cổ phiếu phù hợp với
75
chiến lược đề ra. Như vậy, nhà đầu tư có thể tiết kiệm thời gian trong quá trình lựa
chọn cổ phiếu.
* Bước 2: Đánh giá thông tin
+ Để đánh giá các thông tin của cổ phiếu mà mình lựa chọn thì nhà đầu tư cần tìm
hiểu các vấn đề của công ty đó như: công việc kinh doanh của họ có dễ hiểu không?
mục tiêu kinh doanh của công ty là gì? công việc kinh doanh đó có những rủi ro gì? các
báo cáo về công việc quản lý công ty đưa ra cho các cổ đông có thật không?... Nhà đầu
tư nên đọc các nhận xét của ban quản lý về mục tiêu kinh doanh, doanh số, lợi nhuận
và các con số hoạt động khác của công ty trong các bản báo cáo trong vòng 5 năm gần
nhất hoặc có thể là nhiều hơn. Sau đó, so sánh các nhận xét này với kết quả hoạt động
thực tế của công ty để nhà đầu tư có một đánh giá chính xác hơn về tình hình hoạt
động, về đội ngũ quản lý có năng động, chuyên nghiệp và say mê hay không.
+ Nhà đầu tư cũng nên nghiên cứu kỹ cách quản lý, chính sách và sản phẩm của
công ty, đội ngũ quản lý, uy tín với khách hàng, sản phẩm duy trì được sự trung thành
với khách hàng. Bên cạnh đó, nhà đầu tư nên xem xét các chỉ số tài chính, lịch sử về
việc tăng doanh thu và lợi nhuận ròng với mức tăng trưởng, tỷ số nợ, lịch sử trả lãi cổ
đông,... và so sánh công ty với các đối thủ cạnh tranh về các chỉ số tài chính, chất
lượng quản lý, sản phẩm và dịch vụ. Tất cả những điều đó có vai trò khá quan trọng vì
sẽ là nền tảng tạo ra sự phát triển bền vững của công ty.
+ Nhà đầu tư nên xem xét giá cổ phiếu của công ty có hấp dẫn các nhà đầu tư trên
thị trường hay không thông qua việc nghiên cứu diễn biến giao dịch của cổ phiếu trong
các phiên giao dịch và các báo cáo phân tích cổ phiếu đó của các công ty chứng khoán
với khuyến nghị mua, nắm giữ hay khuyến nghị bán.
Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, Internet nên việc tìm kiếm
các thông tin để đánh giá, xem xét các vấn đề trên của cổ phiếu là việc các nhà đầu tư
hoàn toàn có thể thực hiện được. Một công ty hoạt động tốt sẽ có một trang web với
đầy đủ thông tin mà các nhà đầu tư quan tâm về các mặt sản xuất kinh doanh cũng như
báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
76
* Bước 3: Quyết định thời điểm mua bán
+ Sau khi đã xác định được cổ phiếu thực sự phù hợp với các tiêu chí mục tiêu thì
việc quyết định thời điểm mua và bán để đạt được lợi nhuận tối đa hay có thể hạn chế
thua lỗ là vất đề rất quan trọng. Do đó, dù lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu nào thì
nhà đầu tư cũng nên sử dụng các công cụ phân tích kỹ thuật để hỗ trợ trong việc ra
quyết định mua bán. Hiện nay, phần lớn các nhà đầu tư thường dùng phần mềm
MetaStock để phân tích kỹ thuật hoặc có thể tham khảo phần vẽ biểu đồ kỹ thuật tại
các trang web của các công ty chứng khoán hoặc trang web của Cafef.
+ Khi cổ phiếu có những tín hiệu mua thì nhà đầu tư sẽ kết hợp với những ở phân
tích về cổ phiếu ở trên cũng như diễn biến chung của TTCK để từ đó đưa ra quyết định
mua. Để tránh những bẫy tăng giá hoặc giảm giá, nhà đầu tư thường chờ đợi 4-5 phiên
tăng khá chắc chắn với khối lượng tăng dần để xác nhận xu thế rõ ràng, hơn là việc
mua dần vào khi thị trường giảm mạnh. Sự hưng phấn thái quá của thị trường dễ tạo
cho nhà đầu tư tâm lý nôn nóng phải mua hoặc bán bằng được, thậm chí mua hoặc bán
với giá thỏa thuận chênh lệch 3-4 phiên trần/sàn. Không những thế, hệ quả tâm lý theo
trào lưu thị trường thường gây ra sự chán nản khi không mua được cổ phiếu đang được
nhiều nhà đầu tư quan tâm, do đó, họ chuyển sang mua những cổ phiếu dễ mua hơn.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy việc tranh mua hoặc bán này là nguyên nhân phổ biến
dẫn đến sự thua lỗ. Thực tế, các cổ phiếu tốt luôn có lực cầu rất dồi dào, vì thế, chúng
có lượng dư mua cao hơn và dư bán thấp hơn nhóm cổ phiếu khác. Chọn thời điểm
mua cổ phiếu cần mua vào phiên điều chỉnh, phân phối nếu dự báo vẫn tiếp tục tăng,
đặt lệnh chờ để mua hiệu quả hơn việc mua những cổ phiếu dễ mua có dư bán lớn
trong cùng phiên giao dịch. Một kinh nghiệm khác để đánh giá tương đối chính xác xu
thế giá cổ phiếu cũng như chỉ số của thị trường VN-Index, HNX-Index là quan sát diễn
biến từ 30 đến 45 phút trước giờ đóng cửa hơn là giữa phiên giao dịch. Một khi đã mua
cổ phiếu thì nhà đầu tư cần xác định khoảng thời gian nắm giữ là ngắn hạn hay dài hạn
phù hợp theo chiến lược đầu tư đã chọn.
77
3.5.3. Tuân thủ theo chiến lược đầu tư cổ phiếu đã lựa chọn:
Trong quá trình thực hiện đầu tư, việc tuân thủ theo chiến lược là hết sức cần
thiết. Nhà đầu tư cần hạn chế những quyết định theo ngẫu hứng. Khi thực hiện theo
chiến lược đầu tư sẽ khiến nhà đầu tư tự tin hơn với quyết định của mình. Đầu tư cổ
phiếu theo một khuôn mẫu nhất định không phải là giải pháp tối ưu, nhưng điều này
đảm bảo an toàn vốn cho nhà đầu tư trước những biến động bất ngờ của thị trường.
Nếu thiếu kỷ luật trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư dễ
nằm trong tình thế luôn luôn thay đổi chiến lược đầu tư để tìm kiếm một chiến lược
đầu tư tốt nhất. Một danh mục cổ phiếu thường xuyên bị thay đổi vì thay đổi chiến lược
đầu tư sẽ khó đem lại kết quả lợi nhuận như kỳ vọng. Đặc biệt, trong hoàn cảnh TTCK
liên tục sụt giảm thì chỉ những nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính để giữ trạng thái chờ
đợi và kiên trì tuân theo chiến lược đầu tư cổ phiếu đã lựa chọn nếu như đó là chiến
lược đầu tư dài hạn. Nếu không, các nhà đầu tư sẽ rơi vào tình thế "tiến thoái lưỡng
nan" vì đặc điểm TTCK có biên độ giá, tạo ra dư bán mạnh trong nhiều phiên. Càng
chờ đợi, nhà đầu tư tỏ ra càng chán nản khi các cổ phiếu trong danh mục giảm giá liên
tiếp, vượt quá sức chịu đựng. Thời điểm họ có thể bán hết được cổ phiếu để cắt lỗ
chính là lúc TTCK kết thúc giảm sâu và bắt đầu hồi phục. Ví dụ, thời điểm đầu năm
2009, rất nhiều nhà đầu tư bán hết danh mục tại mức đáy của TTCK VN vì tâm lý buồn
bực kèm theo dự định sẽ mua lại cổ phiếu. Tuy nhiên, TTCK VN không chờ đợi quá
lâu khi lực cầu bắt đáy đã lật ngược tình thế đưa nhà đầu tư chán nản phải hiện thực
hóa khoản lỗ của mình.
3.5.4. Xây dựng và tuân thủ theo các mục tiêu lợi nhuận và cắt lỗ:
Để đạt được chiến lược đầu tư cổ phiếu hiệu quả, việc kiểm soát thua lỗ cũng có
vai trò khá quan trọng. Nhà đầu tư nên xác định mức lợi nhuận kỳ vọng và mức cắt lỗ
vì nhà đầu tư có thể sẽ bán cổ phiếu sớm khi đạt được lợi nhuận kỳ vọng hoặc do một
xu thế giảm chung của toàn thị trường. Đôi khi việc ra quyết định bán sẽ rất khó khăn.
Việc thừa nhận sai lầm trong đầu tư càng khó khăn hơn nhiều. Có nhiều nhà đầu tư
thường trì hoãn việc bán cổ phiếu và cố hy vọng cổ phiếu sẽ hồi phục trở lại. Sự việc
còn tồi tệ hơn khi nhà đầu tư hành động theo cảm xúc là mua thêm khi cổ phiếu đó tiếp
78
tục giảm giá. Nhà đầu tư cổ phiếu đứng trước lựa chọn mang tính quyết định nắm giữ
cổ phiếu chờ cơ hội giá lên hay bán hết cổ phiếu khi thị trường sụt giảm liên tục. Sai
lầm phổ biến khi nhà đầu tư thu được lợi nhuận gấp 2 lần, họ thường dồn hết tất cả tài
sản để tiếp tục đầu tư nhân gấp 3-4 lần giá trị tài sản như vậy rủi ro sẽ tăng khi TTCK
có sự sụt giảm nhanh và mạnh. Lĩnh vực đầu tư cổ phiếu là một nơi thử thách tâm lý
giữa hai thái cực: lòng tham và nỗi sợ hãi. Những nhà đầu tư cổ phiếu thành công đều
áp dụng nguyên tắc: rút phần lớn vốn và lợi nhuận khỏi TTCK để chuyển sang các tài
sản có độ an toàn cao hơn như bất động sản, vàng, ngoại tệ. Điều này lý giải tại sao sau
mỗi đợt TTCK tăng điểm mạnh mẽ rồi lắng dịu thì đến lượt bất động sản, ngoại tệ tăng
giá nhờ dòng tiền đầu tư chuyển dịch mạnh mẽ. Ví dụ, vào thời điểm giữa năm 2007,
số lượng nhà đầu tư giàu lên nhờ đầu tư cổ phiếu tăng vọt do sở hữu lượng cổ phiếu
tăng giá gấp 20 - 25 lần mệnh giá. Những nhà đầu tư thông minh đã kịp hiện thực hóa
lợi nhuận tại thời điểm TTCK VN đạt đỉnh trên 1,000 điểm, chuyển hóa lợi nhuận đó
sang tài sản khác và chỉ đứng ngoài ngắm nhìn không tham gia vào thị trường. Những
nhà đầu tư tiếp tục dùng toàn bộ vốn và lợi nhuận đã thu được trước đó vào đầu tư cổ
phiếu đều phải chứng kiến tài sản của họ "bốc hơi" theo sự lao dốc của TTCK VN.
Xét cho cùng, tiếp tục đầu tư hay hiện thực hóa lợi nhuận để thoát ra khỏi thị
trường là nghệ thuật suy xét, cân nhắc giữa lòng tham và nỗi sợ hãi trong mỗi nhà đầu
tư. Không nên tạo tư tưởng giàu nhanh nhờ đầu tư cổ phiếu, bởi tâm lý thoải mái sẽ
giúp nhà đầu tư dễ dàng có quyết định đầu tư sáng suốt hơn. Đối với những nhà đầu tư
thông minh thì việc bảo vệ thành quả đầu tư cũng quan trọng không kém gì việc tạo ra
chúng. Nhà đầu tư nên tự đặt ra mức lợi nhuận kỳ vọng, mức cắt lỗ phù hợp và tuân thủ
nghiêm ngặt. Hơn thế nữa, nhà đầu tư nên bám sát diễn biến khách quan của TTCK để
xử lý kịp thời và cần tránh nhận định mang tính chủ quan. Việc mua bình quân giá khi
thị trường xuống nên đặt ra các mức giảm cụ thể là -20% hay -50% hay một mức nào
đó tùy thuộc vào năng lực tài chính của nhà đầu tư. Giữa việc mua bình quân giá hay
chấp nhận một mức lỗ để thoát khỏi thị trường bảo toàn phần vốn còn lại đòi hỏi nhà
đầu tư phải có tầm nhìn xa trong quá trình theo dõi và phán đoán diễn biến của TTCK.
79
Kết luận chương III
Trong những năm gần đây, các nhà đầu tư Việt Nam cũng đã bắt đầu quan tâm
đến việc nghiên cứu, học hỏi, trau dồi các kỹ năng phân tích trong đầu tư cổ phiếu. Một
số ít nhà đầu tư cũng đã thực hiện một vài chiến lược đầu tư cổ phiếu tại TTCK VN.
Nhưng đa phần các nhà đầu tư còn lại vẫn còn đầu tư theo cảm tính, đầu tư theo các
trào lưu hiện có trên thị trường và thông tin không xác thực nên kết quả đầu tư không
khả quan. Do vậy, các nhà đầu tư cần trang bị kiến thức, kỹ năng và lựa chọn cho mình
một chiến lược đầu tư cổ phiếu phù hợp với từng giai đoạn của TTCK VN và bản thân
để đạt được lợi nhuận kỳ vọng và hạn chế thua lỗ.
Tình hình của Việt Nam hiện nay, lạm phát đang ở mức cao, lãi suất tăng cao…,
khiến cho doanh nghiệp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh, lợi nhuận của doanh
nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Thế giới đang phải đối mặt với khủng hoảng nợ công ở châu
Âu và nguy cơ suy thoái kép nền kinh tế toàn cầu, tâm lý nhà đầu tư thì e ngại khiến
TTCK VN trở nên ảm đạm và sẽ khó có thể tăng trở lại trong thời gian ngắn. Hiện
nhiều cổ phiếu đang dần trở nên hấp dẫn về mặt định giá cơ bản, thị giá thấp. Việc
lựa chọn cổ phiếu tốt để đầu tư tại thời điểm này cũng khó mang lại lợi nhuận ngay cho
nhà đầu tư. Vì vậy, nếu xét về trung và dài hạn, các khoản đầu tư theo chiến lược đầu
tư giá trị hiện tại sẽ mang lại lợi nhuận cao. Khi xu hướng của TTCK VN tốt thì các cổ
phiếu đó sẽ mang lại mức lợi nhuận cao và bền vững. Tóm lại, chiến lược đầu tư giá
trị là chiến lược phù hợp nhất với giai đoạn TTCK VN hiện nay.
Bất kể lựa chọn chiến lược đầu tư cổ phiếu nào thì nhà đầu tư cũng nên xây dựng
chiến lược đầu tư cổ phiếu theo 3 bước:
- Bước 1: thu thập thông tin
- Bước 2: đánh giá thông tin
- Bước 3: quyết định thời điểm mua bán
Để có thể thành công trên TTCK thì nhà đầu tư cần có các yếu tố là sự kiên định,
tính kỷ luật, kiến thức và kỹ năng phân tích.
80
KẾT LUẬN
Hiện nay, có rất nhiều cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK TP.HCM và SGDCK
HN, nhà đầu tư sẽ thật khó khăn trong việc lựa chọn cổ phiếu để đầu tư. Nếu nhà đầu
tư chỉ thực hiện mua bán cổ phiếu theo cảm tính thì việc thua lỗ sẽ không thể tránh
khỏi.
Về lý thuyết không hề có một công thức, hệ thống các chỉ tiêu cụ thể nào để lựa
chọn cổ phiếu khi đầu tư. Nhưng thực tế qua nhiều thế kỷ, đã có nhiều nhà đầu tư cổ
phiếu thành công nổi tiếng với những khoản lợi nhuận ấn tượng. Để đạt được những
thành tích lợi nhuận đó, các nhà đầu tư nổi tiếng đã phải dày công nghiên cứu học hỏi
từ kinh nghiệm của những nhà đầu tư đi trước, từ việc quan sát thực tế, kiểm nghiệm
dữ liệu quá khứ,… mà từ đó đúc kết nên các phương pháp lựa chọn cổ phiếu và kiên
định theo đuổi các chiến lược đầu tư riêng của mình. Ngày nay, có rất nhiều các chiến
lược đầu tư cổ phiếu để các nhà đầu tư có thể lựa chọn như chiến lược đầu tư tăng
trưởng, chiến lược đầu tư giá trị, chiến lược đầu tư theo đà tăng trưởng, chiến lược đầu
tư kỹ thuật, các chiến lược đầu tư phụ khác và các chiến lược đầu tư nâng cao giúp bảo
toàn lợi nhuận.
Đối với TTCK VN, chiến lược đầu tư tăng trưởng theo phương pháp của Thomas
Rowe Price, chiến lược đầu tư giá trị theo các nguyên tắc của Benjamin Graham, chiến
lược đầu tư theo đà tăng trưởng theo phương pháp CANSLIM của William O’Neil và
chiến lược đầu tư kỹ thuật với nền tảng là Lý thuyết Dow đều có thể ứng dụng và phù
hợp với từng giai đoạn của thị trường. Do vậy, các nhà đầu tư Việt Nam có thể lựa
chọn một trong số các chiến lược đầu tư cổ phiếu đó hoặc kết hợp ưu điểm của các
chiến lược đầu tư với nhau để tạo ra một chiến lược phù hợp với khả năng chịu đựng
rủi ro và cá tính của bản thân. Tuy nhiên, các nhà đầu tư không thể thiếu các yếu tố
kiến thức, kỹ năng phán đoán, tính kỷ luật và sự kiên định trong suốt quá trình đầu tư
để có thể thành công với chiến lược đầu tư cổ phiếu của mình.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bruton G.Malkiel (2010), “Bước đi ngẫu nhiên trên phố Wall”, Nxb Lao động – Xã
hội.
2. David Brown và Kassandra Bentley (2009), “Chiến lược đầu tư chứng khoán”, Nxb
Lao động – Xã hội.
3. John J. Murphy (2011), “Phân tích kỹ thuật thị trường tài chính”, Nxb Tổng hợp
TP.HCM.
4. Nguyễn Đăng Nam (2006), “Phân tích và đầu tư chứng khoán”, Nxb Tài Chính.
5. Philip A.Fisher (2009), “Cổ phiếu thường lợi nhuận phi thường”, Nxb Lao động –
Xã hội.
Những trang web tham khảo:
- cafef.vn
- ezsearch.fpts.com.vn
- tinnhanhchungkhoan.vn
- vneconomy.vn
- www.gso.gov.vn
- www.hastc.org.vn
- www.hsx.vn
- www.kts.com.vn
- www.pnj.com.vn
- www.saga.vn
- www.tvsi.com.vn
- www.vinamilk.com.vn
- www.vcbs.com.vn
- www.vietwayedu.com
- www.vsd.vn
82
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: NICOLAS DARVAS: NHÀ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
KỲ TÀI
Chỉ trong vòng chưa đầy 18 tháng, từ 36.000 USD ban đầu, Nicolas Darvas đã thu
về hơn 2 triệu USD. Đó là vào đầu những năm 1950, khi con số hàng triệu USD đã là
những tài sản khổng lồ. Tính ra tỉ suất lợi nhuận mà Nicolas Darvas đã đầu tư là 60 lần.
Tất cả là nhờ kinh doanh chứng khoán.
Từ một người được coi là ngoại đạo, Nicolas Darvas đã được công nhận là một
bậc thầy trong thế giới những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Những nguyên lí
kinh doanh chứng khoán mà Nicolas Darvas đã kì công thử nghiệm và đúc kết đến nay
vẫn là những kiến thức và bài học quan trọng cho tất cả những ai muốn thử mình với
thị trường chứng khoán.
Nicolas Darvas đã trở thành triệu phú từ tay trắng chỉ nhờ kinh doanh chứng
khoán. Từ một anh vũ công chuyên đi nhảy múa minh hoạ trong các chương trình biểu
diễn ông đã trở thành nhà đầu tư chứng khoán khét tiếng.
Nicolas Darvas không chỉ là nhà kinh doanh rất thành công với chứng khoán. Ông
đam mê tột cùng với “trò chơi” cùng các loại cổ phiếu, trái phiếu. Và ông đã trở thành
chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực chứng khoán đầy ma lực mà cũng rất bí hiểm này.
Nicolas Darvas không chỉ có thành công. Ông cũng trải qua nhiều thất bại. Trong
đó có cả những “quả đắng” lớn mà ông không bao giờ quên. Thế nhưng Nicolas Darvas
dường như không bao giờ nản chí, không bỏ cuộc mỗi khi thất bại. Cứ mỗi lần như thế,
Nicolas Darvas lại càng thêm quyết tâm tìm hiểu những qui luật của thị trường, những
thói quen của nhà đầu tư chứng khoán. Tất cả những kinh nghiệm đó đã được Nicolas
Darvas đúc kết và áp dụng rất thành công cho những phi vụ kinh doanh chứng khoán
mới của mình.
Khi mới thành công trên thị trường chứng khoán, giới nhà nghề vẫn còn chưa biết
đến ông. Đa số các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp và giới chuyên gia
chứng khoán vẫn chưa hẳn tâm phục khẩu phục đối với một người “ngoại đạo” như
83
Nicolas Darvas. Mặc dù rất ngạc nhiên và ghen tị bởi những “quả trúng đậm” của
Nicolas Darvas, những phần lớn họ cho rằng Nicolas Darvas cực kì may mắn hay “số
đỏ” gì đó.
Thậm chí, có kẻ ghen tị đến mức gọi Nicolas Darvas là “ma giáo” hay “phù thuỷ”
trên thị trường chứng khoán. Chỉ đến khi Nicolas Darvas viết sách, công bố những kinh
nghiệm, chiến lược kinh doanh của mình thì lúc đó mọi định kiến mới thay đổi.
Cuốn sách huyền thoại “Tôi đã kiếm 2 triệu USD trên thị trường chứng khoán như
thế nào?” của Nicolas Darvas bán chạy như tôm tươi. Trong vòng hai tháng từ khi xuất
bản, đã có hơn 200.000 cuốn sách được bán. Và Nicolas Darvas lại một lần nữa làm
giàu từ những kinh nghiệm kinh doanh chứng khoán vô cùng quí giá của mình.
Nicolas Darvas được tôn vinh là nhà chiến lược gia trong đầu tư chứng khoán.
Các kinh nghiệm bài học về kinh doanh chứng khoán được gọi là nguyên lí Darvas,
phương pháp đầu tư Darvas hay các nguyên tắc kinh doanh chứng khoán Darvas.
Tất cả những kinh nghiệm này nay đã trở thành kinh điển và trở thành một trong
những nội dung đào tạo và tham khảo không thể thiếu được cho những người muốn
kinh doanh chứng khoán. Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp không ai không
biết đến nguyên lí hình hộp trong kinh doanh chứng khoán mà Nicolas Darvas là tác
giả và áp dụng thành công.
Tình cờ biết đến chứng khoán
Nicolas Darvas sinh sống và thành danh tại Mĩ nhưng ông thực ra lại là người
Hungari, đồng hương của Soros, tỉ phú chuyên kinh doanh và đầu cơ chứng khoán nổi
tiếng thế giới những năm 1990. Nicolas Darvas sinh năm 1920 tại thành phố Budapest.
Năm 1944, ông tốt nghiệp đại học kinh tế tại Đại học Tổng hợp Budapest.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nicolas Darvas sang định cư ở Mĩ với hai bàn tay
trắng. Không tìm được việc, để kiếm sống, Nicolas Darvas đã chấp nhập đi nhảy thuê.
Với biệt tài khiêu vũ khéo léo và thể hình lí tưởng, Nicolas Darvas đã được mời tham
gia vào một nhóm khiêu vũ quốc tế. Nicolas Darvas trở thành một vũ công gần như
chuyên nghiệp. Ông sống nhờ cát-sê đi nhảy múa, diễn tại các câu lạc bộ, nhà hát, vũ
trường. Tấm bằng cử nhân kinh tế ngày nào coi như chẳng còn giá trị gì nữa. Và dường
84
như Nicolas Darvas đã chấp nhận cuộc sống nhọc nhằn của một anh vũ công lãng tử
chuyên đi lưu diễn ở khắp nơi nếu được mời.
Cho đến một ngày, rất tình cờ mà Nicolas Darvas đã đến với thế giới cổ phần, cổ
phiếu. Số là, trong một lần đi diễn ở Canada, bên tổ chức đã không có tiền mặt trả cho
nhóm vũ đạo. Họ chỉ có thể trả cho Nicolas Darvas và đồng nghiệp của ông 6.000 cổ
phiếu của một công ti và nói rằng giá một cổ phiếu là 50 cent. Nicolas Darvas không
biết gì về cổ phiếu lúc đó nhưng buộc phải nhận. Sau đó Nicolas Darvas coi như mình
đã múa không công và gần như quên hẳn mớ cổ phiếu mà ông cũng chẳng nhớ là của
công ti nào.
Chỉ đến một thời gian sau, đang lúc túng tiền, Nicolas Darvas mới nhớ đến số cổ
phiếu đang nắm giữ. Hỏi ra, Nicolas Darvas mới biết đây là cổ phiếu của một công ti
khai khoáng có tên là Brilund. Và điều Nicolas Darvas rất ngạc nhiên và bất ngờ khi
được thông báo rằng mỗi cổ phiếu Brilund mà ông đang nắm giữ này đã có giá 1,9
USD.
Không chần chừ gì nữa, Nicolas Darvas bán tất ngay số cố phiếu mình có và thu
về 11.400 USD. Đây là một số tiền rất lớn với Nicolas Darvas. Và ông đã kịp nhẩm
ngay rằng chỉ có chưa đầy nửa năm giá trị cổ phiếu của mình đã tăng tới gần 4 lần, một
con số chỉ nằm mơ mới có.
Kể từ đó, Nicolas Darvas đã bị cuốn hút bởi ma lực hấp dẫn của thị trường chứng
khoán. Cuộc đời của ông cũng bắt đầu đổi thay từ đây.
Ăn, ngủ cùng với chứng khoán
Với số vốn có được từ phi vụ may mắn đầu tiên, Nicolas Darvas quyết tâm lao
vào thị trường chứng khoán. Lúc bấy giờ ông mới tìm hiểu các thuật ngữ và khái niệm
về chứng khoán. Vốn đã học về kinh tế nên Nicolas Darvas tìm hiểu rất nhanh. Càng
tìm hiểu, Nicolas Darvas càng say mê với thị trường chứng khoán. Ông như ăn ngủ
cùng với chứng khoán.
Hàng ngày, trên sàn chứng khoán và các quán cà phê gần đó người ta thấy xuất
hiện một gã điển trai luôn đến sớm và la cà khắp nơi. Đó chính là Nicolas Darvas. Ông
quyết tâm gia nhập làng chứng khoán, ông đã tìm cách tiếp xúc những nhà đầu tư có
85
kinh nghiệm để mong học hỏi kinh nghiệm của họ. Nicolas Darvas rất hi vọng sẽ
chóng học hỏi để tìm ra các bí quyết kinh doanh chứng khoán thành công cho mình.
Với các nhà đầu tư cá nhân nhỏ, thì Nicolas Darvas rồi cũng nhận ra họ không
phải là các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Kiểu đầu tư theo phong trào và có tính “bầy đàn”
của họ rất rõ. Nicolas Darvas quyết không theo kiểu đầu tư đó vì chỉ nghe ngóng theo
tâm lí số đông chứ không hề dựa vào các chỉ số kĩ thuật, các phân tích tài chính của
công ti.
Nicolas Darvas tính kế đầu tư theo lời khuyên của một số nhà đầu tư lớn, được coi
là đại gia hay chuyên gia kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, trên thực tế ông đã
không thành công. Một thời gian ngắn cứ đầu tư theo lời khuyên của đại gia này hay
chuyên gia kia, nhưng cuối cùng Nicolas Darvas thấy mình thường lỗ nhiều hơn được.
Tuy nhiên, Nicolas Darvas xác định là thử nghiệm, ông đầu tư không nhiều và không
tập trung nên thiệt hại chỉ là vài ba trăm USD mỗi tháng.
Nicolas Darvas đã sớm nhận thấy rằng bản thân lời khuyên của chính các bậc
được coi là đại gia, là nhà đầu tư lớn này cũng rất khác nhau. Cùng một thời điểm,
cùng một loại cổ phiếu nhưng người bảo mua, người bảo bán. Rất nhiều lời khuyên của
các nhà đầu tư đi trước có thể là thiện chí.
Tuy nhiên, sau này khi đã trở thành bậc cao thủ trong làng chứng khoán, Nicolas
Darvas cũng biết rằng các đại gia nhiều khi cũng có nhiều mẹo “chơi” nhau. Họ có thể
xúi bán giá thấp để dìm giá và tranh thủ mua vào hoặc xúi mua giá cao để nâng giá
nhằm bán được cổ phiếu của mình.
Những thất bại đầu tiên khi bắt đầu cuộc chơi chứng khoán thật sự đã giúp
Nicolas Darvas có thêm những bài học quí giá. Mặc dù không còn coi việc kiếm tiền từ
kinh doanh chứng khoán “dễ ợt” như khi ông mới bán được lô cổ phiếu Brilund với giá
trị gần 12.000 USD nhưng Nicolas Darvas vẫn rất tin vào cơ hội của mình. Nicolas
Darvas không hề nản chí và quyết tâm tự mình tìm ra các bí quyết để đầu tư chứng
khoán.
Không quên những kiến thức cơ bản về kinh tế, Nicolas Darvas ngày ngày mua
báo chí và bản tin chứng khoán chuyên ngành để tự phân tích tình hình chứng khoán.
86
Ông cũng tìm đến các nhà môi giới chuyên nghiệp để học hỏi kiến thức. Các cuốn sách
cơ bản về chứng khoán cũng được Nicolas Darvas tìm đọc và nghiên cứu. Về sau,
Nicolas Darvas đã nói lại rằng, không kể những bản tin, bài báo hay tạp chí hàng ngày,
ông đã đọc ngày, đọc đêm tới gần 200 cuốn sách viết về chứng khoán. Một con số khá
lớn và đáng khâm phục.
Nicolas Darvas cho rằng mình là người ngoại đạo và để có thể nhập cuộc vào sân
chơi chứng khoán hấp dẫn và cũng bí hiểm này thì cũng phải biết đến những luật chơi
cùng tất cả các kinh nghiệm khác.
Thành công với phương pháp Darvas
Sự quyết tâm và khổ luyện học hỏi của Nicolas Darvas đã dần dần được đền đáp
xứng đáng. Qua một số thất bại tuy không lớn nhưng lại là bài học kinh nghiệm rất có
giá trị, qua những hệ thống phân tích và biểu đồ do ông tự thiết kế, Nicolas Darvas đã
dường như có một sự chuẩn bị rất lớn cho một chiến dịch đánh lớn trên thị trường
chứng khoán.
Nicolas Darvas phân tích cổ phiếu niêm yết thành những nhóm khác nhau, nhóm
cổ phiếu dẫn dắt thị trường và nhóm cổ phiếu ăn theo. Có những cổ phiếu tăng mạnh
nhưng thất thường và nhất là không có ảnh hưởng nhiều đến các cổ phiếu khác. Có
những cổ phiếu số lượng lớn, lại có tính thanh khoản cao nên có khả năng tác động rất
lớn đến cổ phiếu nhiều ngành khác.
Một điểm mấu chốt mà Nicolas Darvas đã phát hiện là giá trị của một cổ phiếu
không hoàn toàn phản ánh theo đúng các chỉ số tài chính như tỉ lệ P/E, tỉ lệ ROA... Mà
quan trọng hơn là nhà đầu tư phải theo dõi diễn biến của chính cổ phiếu đó trên thị
trường trong một khoảng thời gian nhất định.
Phương pháp đầu tư đó của Nicolas Darvas sau này đã được đặt theo tên ông là
“phương pháp Darvas”. Cùng với đó Nicolas Darvas còn phát triển hàng loạt nguyên
tắc kinh doanh chứng khoán mà ông cho rằng phải bắt buộc tuân thủ nếu muốn thành
công.
Nicolas Darvas áp dụng thành công các nguyên tắc này và trở thành giàu có
nhanh chóng. Ông không còn là anh vũ công nghèo khó chuyên đi nhảy thuê trong vũ
87
trường mà trở thành nhà đầu tư khét tiếng. Nicolas Darvas đầu tư cùng lúc nhiều cổ
phiếu khác nhau. Mỗi lần mua sau bán lại ông đều có lời. Khi ít là 5.000 - 7.000 USD.
Khi nhiều lên tới cả gần trăm nghìn USD.
Từ 36.000 USD, Nicolas Darvas gia tăng tài sản của mình lên tới hơn 2 triệu
USD. Và cứ thế trong vòng có vài năm, Nicolas Darvas đã trở thành triệu phú chỉ nhờ
kinh doanh chứng khoán.
Những năm 1955-1960, Nicolas Darvas được coi là hiện tượng kì lạ trên thị
trường chứng khoán. Báo chí lúc đó đã tốn không ít giấy mực để viết về ông. Bên cạnh
phương pháp Darvas và các nguyên tắc đầu tư chứng khoán, Nicolas Darvas còn được
biết nhiều trong giới nghiên cứu chứng khoán bởi nguyên lí hình hộp rất nổi tiếng cũng
do ông phát minh.
Những kinh nghiệm và nguyên lí kinh doanh chứng khoán này của Nicolas
Darvas cho đến nay vẫn được áp dụng trên thực tế và được dùng giảng dạy, giới thiệu
về kinh doanh chứng khoán.
Nguồn: http://www.doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Thi-truong-360/Chung-khoan-
360/Lich_su_thi_truong_chung_khoan_the_gioi/
88
PHỤ LỤC 2: 10 PHÁT NGÔN BẤT HỦ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Thị trường tài chính đã trải qua hàng trăm năm, và tại đây luôn có những nhà đầu
tư lỗi lạc, những huyền thoại mà quan điểm hay lời khuyên của họ luôn có sức ảnh
hưởng và có giá trị bất chấp sự thay đổi liên tục của thị trường.
Dưới đây là 10 câu nói ấn tượng với các nhà đầu tư tài chính nhiều thập kỷ qua.
1. “Hiểu được hai từ ‘giá trị’ đồng nghĩa với việc hiểu được ý nghĩa của thị
trường” –Charles Dow
Năm 1896, nhà báo Charles Dow đã phát minh ra Chỉ số Trung bình Công nghiệp
Dow Jones. Những quan điểm của ông về cổ phiếu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều
người. Charles Dow là nhà đồng sáng lập của Dow Jones and Company. Ông cũng là
nhà sáng lập the Wall Street Journal – một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất
trên thị trường tài chính thế giới. Dow đã phát triển hàng loạt những nguyên lý giúp tìm
hiểu và phân tích thị trường tài chính ví dụ như Lý thuyết Dow.
2. “Đôi khi, ngay cả những nhà đầu tư thông minh cũng cần có ý chí mạnh mẽ để
tránh đi theo đám đông.” – Benjamin Graham
Benjamin Graham là cha đẻ của công cụ “Mr Market” (để ngầm chỉ một sự thật
rằng giá cả chứng khoán có sự dao động rất lớn, và chính điều này sẽ mang lại cho
những nhà đầu tư khôn ngoan cơ hội để mua khi giá giảm và bán khi giá tăng) – đồng
thời cũng là nhà quản lý đầu tư và nhà giảng dạy về tài chính xuất sắc. Ông viết 2
quyển sách kinh điển về đầu tư (“Phân tích đầu tư chứng khoán” và “Nhà đầu tư thông
mình”) mà không có tác phẩm nào so sánh được về tầm quan trọng. Ông được toàn thế
giới thừa nhận như là cha đẻ của hai phương pháp đầu tư cơ bản – phân tích cổ phiếu
và đầu tư giá trị. Ông cũng nổi tiếng vì là thày và là người cố vấn dày dạn kinh nghiệm
cho tỷ phú Warren Buffet cũng như nhiều nhà đầu tư nổi tiếng khác. Bản thân Warren
Buffet cũng thừa nhận rằng trong ông có đến 85% Ben Graham.
3. “Thị trường đầu cơ sinh ra trong sự ảm đạm, lớn lên bằng sự hoài nghi, phát
triển nhờ sự lạc quan và chết bởi sự thỏa mãn” – Sir John Templeton
89
Là người tiên phong trong việc sử dụng quỹ tương hỗ đa dạng hóa toàn cầu, Sir
Templeton là nhà đầu tư cổ phiếu người Anh gốc Mỹ, đồng thời cũng là một nhà từ
thiện. Tạp chí Money từng mệnh danh Templeton “là người lựa chọn cổ phiếu toàn cầu
tài ba nhất trong lịch sử”.
Templeton lựa chọn quan điểm tránh xa phố Wall bằng cách đầu tư chủ yếu vào
thị trường Anh và Nhật Bản. Chính điều này đã giúp ông trở thành một tỷ phú giàu có
và đi đầu xu hướng đầu tư toàn cầu. Hiện Templeton làm việc toàn thời gian trong vai
trò của một nhà từ thiện, mỗi năm ông tặng khoảng 40 triệu đôla cho các quỹ từ thiện
song ông vẫn hết sức tận tụy với năng khiếu thiên bẩm của mình “nghiên cứu về đầu tư
chứng khoán”. Cũng nhờ có các nghiên cứu chuyên sâu về thị trường, việc hoạch định
tính toán thời gian của Templeton luôn hoàn hảo đến mức tuyệt đối. Ngay từ giai đoạn
đầu tiên của thời kỳ cổ phiếu ngành công nghệ và Internet bùng nổ những năm 1990,
Templeton đã có được vị trí đáng kể trên thị trường cổ phiếu của lĩnh vực này và kiếm
về cho mình cả một gia tài.
4. “Trừ khi nợ quốc gia là quá lớn, nhìn chung nó không phải là vấn đề đáng
ngại” –Alexander Hamilton
Hamilton là Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của nước Mỹ và quan điểm của ông có
ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của Mỹ cả trong quá khứ lẫn trong hiện tại. Hamilton
cũng chính là người đề xuất thành lập Ngân hàng Trung ương đầu tiên của Mỹ khi Mỹ
đang rơi vào cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng với lập luận rằng nếu không thành lập
ngân hàng trung ương để nhận sự đầu tư của nước ngoài đổ vào thì Chính phủ sẽ sụp
đổ rất nhanh. Đề xuất này đã trải qua quá trình hiện thực hoá không được suôn sẻ khi bị
rất nhiều chính khách phản đối, nhưng cuối cùng cũng được thông qua bởi Tổng thống
Washington và mô hình của nó chính là tiền thân của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED)
ngày nay.
5. “Mua cổ phiếu mà không hiểu biết về công ty cũng giống như đọc chữ mà
không hiểu gì” – Peter Lynch
Peter Lynch là anh hùng của giới đầu tư chứng khoán với quỹ đầu tư Fidelity
trong suốt nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là một huyền thoại phố Wall với nhiều cuốn
90
sách phân tích sắc sảo. Rất nhiều nhà đầu tư coi Peter là bậc thầy tài ba và là tấm
gương đầu tư để họ noi theo. Họ luôn nghiên cứu sát sao những tác phẩm của ông như
“chiến thắng trên phố Wall” hay “Học cách làm giàu” v.v… Đây được xem là bảo bối
cho những chiến lược đầu tư quan trọng của nhiều người, trong đó Peter đã tổng kết 3
nguyên tắc cơ bản nhất đó là: Chỉ mua những cổ phiếu quen thuộc, tự mình nghiên cứu
và đầu tư dài hạn.
6. “Trong kinh doanh, đúng hay sai không quan trọng, cái quan trọng là nếu đúng
sẽ có được bao nhiêu tiền, và nếu sai sẽ mất bao nhiêu tiền” – George Soros
Cái tên George Soros đã trở nên hết sức quen thuộc với phố Wall cũng như với
toàn thế giới. Người ta biết đến ông như một nhà tỷ phú thành công nhất trong lĩnh vực
đầu tư tư bản. Tỷ phủ người gốc Hungary này là chủ tịch của Quỹ đầu tư Soros và là
một trong những nhà đầu cơ lỗi lạc nhất trong lịch sử thị trường tài chính thế giới. Năm
2004, George Soros đứng thứ 24 trong danh sách những người giàu nhất thế giới với
giá trị tài sản 7,2 tỷ USD. Đứng thứ 24 thế giới nhưng nhà tỷ phú gốc Do Thái này nổi
tiếng là nhân vật số một trong giới tài chính. Người ta tin rằng ông có thể một tay che
cả bầu trời, làm mất giá bất kỳ đồng tiền mạnh nào trên thế giới hay gây ra một cuộc
khủng hoảng kinh tế bởi những cư dân của phố Wall và thị trường tài chính London
luôn dõi theo và sẵn sàng dập khuôn theo ông.
Theo các nhà phân tích, George Soros là nhà đầu cơ ngắn hạn, hoạt động kinh
doanh của ông mang tính trục lợi rất cao, đầu tư những khoản tiền lớn nhưng mang
nhiều tính đánh bạc trên cơ sở những biến động của thị trường tài chính toàn cầu. Do
đó, sau sự kiện này, nhất cử nhất động của George Soros đều thu hút sự chú ý đặc biệt
của các quan chức Chính phủ và ngân hàng trung ương của tất cả các nước.
7. “Tôi sẽ chỉ cho bạn cách làm giàu. Hãy sợ hãi khi người khác tham lam và hãy
tham lam khi người khác sợ hãi” – Warren Buffett
Warren Buffett là một nhà đầu tư, doanh nhân và nhà từ thiện lỗi lạc người Mỹ.
Ông được coi là một trong những nhà đầu tư thành công nhất thế giới, cổ đông lớn nhất
kiêm Giám đốc điều hành hãng Berkshire Hathaway. Ông được gọi là “Huyền thoại
đến từ Omaha” hay “Hiền tài xứ Omaha”.
91
Ông rất nổi tiếng do sự kiên định trong triết lý đầu tư theo giá trị cũng như lối
sống tiết kiệm dù sở hữu khối tài sản khổng lồ. Warren Buffet từng được coi là “thầy
phù thuỷ” trên thị trường chứng khoán, mỗi động thái của ông luôn được dõi theo hàng
ngày bởi hàng nghìn nhà đầu tư trên thế giới.
8. “Đầu tư vào tri thức sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất” – Benjamin Franklin
Benjamin Franklin là một trong những người thành lập nước Mỹ. Ông là một
chính trị gia, một nhà khoa học, một tác giả, một thợ in, một triết gia, một nhà phát
minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu.
9. “Điều quan trọng không phải là bạn kiếm đựơc bao nhiêu tiền mà là giữ được
bao nhiêu tiền và số tiền đó đã sinh sôi nảy nở như thế nào, và bạn giữ được số
tiền kiếm được cho bao nhiêu thế hệ” – Robert Kiyosaki
Robert Kiyosaki là một nhà đầu tư, doanh nhân đồng thời là một tác giả. Kiyosaki
nổi tiếng bởi cuốn sách “Rich Dad, Poor Dad” (Cha Giàu, Cha Nghèo), từng được xếp
vào số 10 cuốn sách bán chạy nhất trên cảThe Wall Street Journal, USA Today và New
York Times. Trong cuốn “Rich Kid Smart Kid” của mình, với mục đích giúp cha mẹ
dạy con cái quan niệm về tài chính của họ, ông đã sáng chế ra trò chơi “Cashflow”
dành cho người lớn và trẻ em. Ông cũng tham gia các bài phát biểu trên khắp thế giới,
đồng thời viết một chuyên mục hàng tuần trên trang Yahoo Tài chính.
10. “Trong chớp mắt thị trường có thể cướp đi mọi thứ của bạn” – Jim Cramer
Jim Cramer là chuyên gia đầu tư chứng khoán, nhà quản lý quỹ, và cũng là người
dẫn chương trình “Mad Money” trên đài truyền hình CNBC. Ông cũng là nhà đồng
sáng lập của trang web tài chính nổi tiếng TheStreet. 31 năm trong nghề, người dẫn
chương trình “Mad Money” thường đưa ra khuyến nghị thành công mua vào, chứ
không phải bán ra khi thị trường đang trong những thời điểm đầy rủi ro như thời điểm
thị trường chạm đáy năm 1987 hay thị trường tụt dốc chớp nhoáng sau vụ tấn công
kinh hoàng 11/9 tại Mỹ.
Tuyến Nguyễn tổng hợp
Theo Báo VNExpress
92
PHỤ LỤC 3: CÁC CÔNG CỤ ỨNG DỤNG TRONG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
1. Phân kỳ và hội tụ của đường trung bình di động MACD (Moving Average
Convergence Divergence):
MACD là một công cụ trong phân tích kĩ thuật do Gerald Appel tìm ra vào thập
niên 60. MACD chỉ ra sự khác nhau giữa 2 đường EMA (exponential moving average).
MACD = EMA (12 ngày) - EMA (26 ngày)
Trong đó EMA nhanh hay gọi là đường MACD.
Đường dấu hiệu = EMA (9 ngày) của MACD
Đường EMA chậm là đường dấu hiệu.
Hai đường này sẽ cho biết những dấu hiệu mua và bán khi chúng gặp nhau và
càng có dấu hiệu rõ nét khi chúng cắt qua đường Zero.
Về cơ bản thì đường dấu hiệu là đường sẽ khẳng định được những tín hiệu mua –
bán khi đường MACD đang tiến tới xu hướng của sự biến động.
Khi MACD cắt đường dấu hiệu nằm bên trên đường dấu hiệu và đang đi lên thì sẽ
cho một tín hiêu mua lý tưởng vì đó là một dấu hiệu tăng giá và ngược lại, MACD cắt
xuống đường dấu hiệu thì cho tín hiệu giảm giá và đây cũng là thời điểm tốt nhất để
nhà đầu tư bước ra khỏi thị trường vì dự báo một sự sụt giảm về giá trong tương lai.
2. Dải Bollinger:
- Đặt trên hai độ lệch chuẩn phía trên và phía dưới đường MA (Moving average),
đường MA thường là 20 ngày.
- Độ lệch chuẩn cho thấy mức giá được phân tán xung quanh giá trị trung bình
như thế nào và giá sẽ dao động giữa hai dãy băng này.
- Mua quá nhiều (overbought): khi mức giá vượt quá lên trên khi chúng đụng đến
dải băng trên.
- Bán quá mức (oversold): giá vượt quá xuống phía dưới khi chúng đụng dãy băng
dưới.
- Có thể mở rộng hoặc thu hẹp dải băng tùy thuộc sự biến động của đường trung
bình 20 ngày.
- Thời kỳ biến động giá tăng, khoảng cách giữa hai dãy băng mở rộng.
93
- Thời kỳ biến động giá giảm, khoảng cách hai dải băng thu hẹp lai.
- Độ rộng của dãy băng đo lường sự biến động giá.
- Độ rộng và độ hẹp của dải băng xen kẽ nhau.
- Khi 2 dải băng xa nhau một cách bất thường, tín hiệu xu hướng hiện tại sắp kết
thúc.
- Khoảng cách giữa hai dải băng thu hẹp lại, tín hiệu thị trường bắt đầu hình thành
xu hướng mới.
Có thể áp dụng đối với đồ thị hàng tuần hoặc hàng tháng. Hoạt động tốt khi được
kết hợp với những chỉ số dao động mua quá mức/bán quá mức.
3. Đường chỉ số lưu lượng tiền trong giao dịch MFI ( Money Flow Index ):
Tính toán các chỉ số trong MFI như sau:
Giá đặc trưng = (Giá cao nhất + Giá thấp nhất + Giá đóng cửa) / 3
Lượng tiền (Money Flow) = (Giá đặc trưng) x (Khối lượng)
Tỉ lệ (MR) = (lượng tiền tăng / lượng tiền giảm)
Money Flow Index = 100 - ( 100 / ( 1 + M R ))
MFI cho biết lượng tiền trong giao dịch của ngày hôm nay như thế nào và MFI có
biên độ biến động thông thường trong thị trường ổn định là 20 và 80.
MFI được sử dụng như là một chỉ số dao động. Tại mức lớn hơn 80 thì nhìn
chung đây là một tín hiệu cho thấy hành động mua quá mức và ngược lại khi MFI
xuống dưới 20 – bán quá mức.
Những chuyển dịch ngược chiều nhau của MFI và đường giá thể hiện những tín
hiệu quan trong giao dịch. Nếu như giá trên biểu đồ cho thấy giá có xu hướng tăng
trong khi MFI có xu hướng ngược lại thì điều này chỉ ra một sự giảm dần trong giá và
chỉ báo một tín hiệu đảo ngược xu hướng.
MFI cũng được xem tương tự như đường RSI (Relative Strength Index) mà chúng
ta sẽ xem xét ở những chỉ số kế tiếp trong phần này.
Vì thực chất chúng đều dùng dữ liệu những ngày giá tăng chia cho những ngày
giá giảm nhưng chỉ khác nhau ở chỗ là MFI được đo lường bằng sự thay đổi trong tiền
tệ trong khi RSI thì tính bằng sự thay đổi trong giá cổ phiếu .
94
4. Đà tăng trưởng (Momentum):
Momentum thị trường được đo lường bằng sự khác biệt về giá trong một thời kỳ
cố định.
Công thức tính:
V là giá đóng cửa mới nhất.
Vx là giá đóng cửa của x ngày trước đó.
M = V – Vx
Ví dụ: Một momentum 10 ngày được tính bằng cách lấy giá đóng cửa của ngày
gần nhất trừ cho giá đóng cửa trước đó 10 ngày .
- Những tín hiệu từ Momentum:
Đo lường tỷ lệ tăng và giảm giá. Đo lường sự khác biệt giá của hai khoảng thời
gian.
+ Giá cả đạt được mức tăng V > mức tăng giá của Vx
đường Momentum tăng lên.
+ Giá cả đạt được mức tăng V = mức tăng giá của Vx .
đường Momentum phẳng.
+ Giá cả đạt được mức tăng V < mức tăng giá của Vx.
đường Momentum bắt đầu giảm.
- Đường Momentum dẫn đến hành động giá:
+ Đường Momentum luôn đi trước một bước các dịch chuyển của giá. Dẫn đến sự
tăng hay giảm trong giá.
+ Khựng lại trong khi xu hướng giá hiện tại vẫn có hiệu lực.
+ Bắt đầu dịch chuyển theo hướng ngược lại khi giá bắt đầu khựng lại.
- Giao điểm của đường Momentum và đường zero như là một tín hiệu giao dịch:
+ Đường xu hướng trên đồ thị Momentum bị phá vỡ sớm hơn các đường xu
hướng trên đồ thị giá.
+ Thị trường đang có xu hướng lên, vị thế mua sẽ chỉ xảy ra tại giao điểm để vượt
lên trên đường zero.
+ Vị thế bán xảy ra tại giao điểm để xuyên xuống đường zero.
95
- Sự cần thiết của đường biên trên và biên dưới:
Cách đơn giản nhất để xác định mức độ quá cao và quá thấp trên đường
momentum là:
+ Kiểm tra lịch sử đường momentum trên đồ thị.
+ Vẽ các đường nằm ngang dọc theo các ranh giới trên và dưới đường
momentum.
+ Những đường biên này được điều chỉnh về mặt độ dài thời gian, đặc biệt sau
những thay đổi quan trọng trong xu hướng xảy ra.
5. Chỉ số cường độ tương đối - RSI (Relative Strenth Index):
Công thức tính: RSI = 100-100/(1+RS)
RS= (Trung bình phần tăng giá đóng cửa trong X ngày ) / (Trung bình phần giảm
giá đóng cửa trong X ngày)
RSI được biểu diễn trên mặt chia đứng từ 0 đến 100.
Dịch chuyển trên mức 70 được xem là mua quá mức. Dịch chuyển dưới 30 được
xem là bán quá mức.
Vì sự thay đổi xảy ra trong những thị trường giá lên và giá xuống nên mức 80
thường trở thành mua quá mức trong thị trường giá lên và mức 20 trở thành bán quá
mức trong thị trường giá xuống.
- Trong thị trường bán quá mức:
+ Một sự dịch chuyển xuống dưới mức 30 báo trước một tình trạng bán quá mức,
nhà đầu tư nghĩ rằng thị trường đang ở mức đáy và đang tìm kiếm cơ hội mua.
+ Một sự cắt trở lại trên đường 30 lúc đó được tận dụng bởi nhiều nhà đầu tư như
một sự xác nhận rằng xu hướng trong dao động đang kéo lên.
- Trong thị trường mua quá mức:
+ Sự cắt trở lại xuống dưới đường 70 có thể thường sử dụng như là tín hiệu bán.