ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

VŨ THỊ PHƯƠNG

KHUNG PHÁP LUẬT ASEAN VỀ HỢP TÁC PHÁT

TRIỂN DỊCH VỤ DU LỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

VŨ THỊ PHƯƠNG

KHUNG PHÁP LUẬT ASEAN VỀ HỢP TÁC PHÁT

TRIỂN DỊCH VỤ DU LỊCH

Chuyên ngành: Luật quốc tế

Mã số: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Như Hà

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin

cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh

toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đề nghị để tôi

có thể bảo vệ luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

2

Vũ Thị Phương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

8

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ....................................................................... 8

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 9

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 10

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu………………………………….11

5. Những đóng góp của luận văn .............................................................................. 11

6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................. 12

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ASEAN VÀ CƠ CHẾ HỢP TÁC PHÁT TRIỂN

DỊCH VỤ DU LỊCH CỦA ASEAN………………………………………………13

1.1. Khái quát chung về ASEAN .............................................................................. 13

1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ASEAN……………………………..13

1.1.2. Cơ cấu tổ chức của ASEAN………………………………………………….18

1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của ASEAN ............................................. 22

1.1.4 Vai trò của ASEAN .......................................................................................... 25

1.2. Cơ chế hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN ......................... 29

1.2.1 Giải thích từ ngữ .............................................................................................. 29

1.2.2 Khái quát quá trình hợp tác phát triển du lịch trong Cộng đồng ASEAN ....... 30

1.2.3 Các nội dung chính trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN

................................................................................................................................... 33

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 40

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ASEAN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH

VỤ DU LỊCH...........................................................................................................42

2.1 Các cam kết, thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN ............................................ 42

2.1.1 Hiến chương ASEAN ....................................................................................... 42

2.1.2 Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN ............................................................... 44

2.1.3 Hiệp định ASEAN về du lịch ........................................................................... 47

2.1.4 Nghị định thư hội nhập ngành du lịch ASEAN ............................................... 51

2.1.6 Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về hành nghề Du lịch (MRA-TP) .................. 56

3

2.2 Các cam kết, thỏa thuận giữa ASEAN và đối tác ............................................... 60

2.2.1 ASEAN + 1 ...................................................................................................... 60

2.2.2 ASEAN + 3 ...................................................................................................... 64

2.3 Tác động của các cam kết, thỏa thuận đến hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của

các quốc gia thành viên ASEAN ............................................................................... 66

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP

LUẬT ASEAN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM....................70

3.1 Những thành tựu đã đạt được .............................................................................. 70

3.1.1 Về tạo thuận lợi cho Du lịch trong ASEAN .................................................... 70

3.1.2 Về thực hiện MRA-TP ..................................................................................... 72

3.2. Những hạn chế còn tồn tại ................................................................................ 72

3.2.1 Đối với hoạt động triển khai thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau ........................... 72

3.2.2 Đối với hoạt động xúc tiến du lịch ................................................................... 73

3.2.3 Đối với đầu tư về du lịch ................................................................................. 74

3.3 Định hướng và giải pháp hoàn thiện khung pháp luật ASEAN về hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch ................................................................................................... 75

3.3.1 Triển vọng và xu hướng hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN

................................................................................................................................... 75

3.3.2 Phương hướng và giải pháp hoàn thiện khung pháp luật ASEAN về hợp tác

quốc tế phát triển dịch vụ du lịch .............................................................................. 77

3.4. Một số khuyến nghị nâng cao vai trò của Việt Nam trong hợp tác phát triển dịch

vụ du lịch của ASEAN .............................................................................................. 78

3.4.1. Những tác động của quá trình hợp tác phát triển du lịch ASEAN đến Việt Nam

................................................................................................................................... 79

3.4.2. Đóng góp của Việt Nam trong tiến trình xây dựng các cam kết hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch của ASEAN .............................................................................. 82

3.4.3. Đóng góp của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các cam kết hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch của ASEAN .............................................................................. 85

4

3.4.4 Một số khuyến nghị nhằm tăng cường vai trò của Việt Nam trong hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch ASEAN .................................................................................... 86

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3........................................................................................89

KẾT LUẬN CHUNG...............................................................................................90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................92

5

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT NGUYÊN VĂN TẮT

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AFTA Khu vực thương mại tự do ASEAN

Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có

CEPT hiệu lực chung

ARF Diễn đàn Khu vực ASEAN

MRA –TP Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau

AFAS Hiệp định Khung về Dịch vụ của ASEAN

NTOs Các cơ quan du lịch quốc gia ASEAN

ASCC Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN

AEC Cộng đồng kinh tế ASEAN

APSC Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN

CCS Ủy ban Điều phối về Dịch vụ

CCI Ủy ban Điều phối về Đầu tư

Bộ tiêu chuẩn nghề trong dịch vụ khách sạn và lữ

ACCSTP hành

TPCB Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch

NTPB Hội đồng nghề du lịch quốc gia

ATPRS Trung tâm đăng ký lao động ASEAN

6

ATPMC Ủy ban giám sát nghề du lịch ASEAN

7

CATC Chương trình du lịch chung ASEAN

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Đối với Việt Nam nói riêng và khu vực ASEAN nói chung, trong những

năm gần đây, du lịch ngày càng khẳng định vị trí của một ngành kinh tế mũi

nhọn, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế các quốc gia.

Chính phủ các nước thành viên ASEAN đã dành nhiều quan tâm và đầu tư phát

triển du lịch. Hoạt động du lịch diễn ra sôi động, góp phần tạo thêm việc làm,

thu nhập cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, xoá đói giảm nghèo, góp phần

thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Thực tế cũng cho thấy,

ngành du lịch của ASEAN những năm gần đây liên tục tăng trưởng ổn định bất

chấp những khó khăn của nền kinh tế toàn cầu. Trong cuộc khủng hoảng vừa

qua, ngành du lịch vẫn chứng tỏ là động lực thúc đẩy sự phát triển của ASEAN,

đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế và là điểm kết nối các giá trị văn

hóa, tinh thần cũng như nâng cao hiểu biết giữa các quốc gia.

Thời gian qua, hình ảnh du lịch ASEAN không ngừng được củng cố và trở

thành điểm hấp dẫn, thân thiện đối với du khách trong và ngoài khu vực. Kể từ

khi Việt Nam chính thức là thành viên ASEAN, du lịch Việt Nam đã tích cực

hợp tác trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương, đóng góp nhiều

sáng kiến thiết thực cho việc triển khai các chương trình hành động, dự án hợp

tác, lộ trình hội nhập trong khu vực ASEAN, phấn đấu vì sự thịnh vượng chung

của toàn khu vực.

Với tình hình hoạt động dịch vụ du lịch ASEAN mang lại nhiều lợi ích

để phát triển kinh tế như hiện nay thì yêu cầu thiết yếu là phải xây dựng một

8

khung pháp luật phù hợp để phát triển dịch vụ du lịch nội khối và ngoại khối

một cách hiệu quả và bền vững. Đẩy mạnh liên kết hợp tác trong và ngoài khu

vực, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch là một trong những hướng ưu tiên phát triển

của mỗi nước ASEAN. Điều này đã được thể hiện qua các văn bản như Hiệp

định Du lịch ASEAN, Chiến lược Hội nhập Du lịch ASEAN, Thoả thuận công

nhận lẫn nhau MRA đã được ký kết và từng bước triển khai. Hơn nữa, các nước

trong khu vực có nhiều điểm chung thuận lợi cho việc hợp tác cùng phát triển

du lịch như giao thông thuận tiện, nhiều nét văn hóa tương đồng, có nhiều di

sản tự nhiên và nhân văn, điều kiện phát triển có thể bổ sung cho nhau, liên kết

tour tuyến thuận lợi…

Hơn nữa, các quốc gia có quan hệ hợp tác với các thành viên ASEAN

như ASEAN +1, ASEAN +3, ASEAN+6 đều có ngành du lịch phát triển mạnh

và ưu tiên hợp tác phát triển du lịch với ASEAN thì việc hoàn thiện khung pháp

luật của ASEAN về hợp tác quốc tế trong phát triển dịch vụ du lịch là một việc

vô cùng cấp thiết để đẩy mạnh phát triển du lịch nội khối và ngoại khối

ASEAN;

Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Khung pháp luật ASEAN về hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:

Từ tình hình nghiên cứu trên và sự cần thiết tổng hợp khung pháp lý điều

chỉnh về hợp tác phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn khổ ASEAN, tác giả đã

chọn đề tài nghiên cứu về khung pháp luật điều chỉnh hợp tác trong lĩnh vực

phát triển du lịch nội khối, ngoại khối ASEAN để làm luận văn thạc sĩ của

mình. Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu các quy định của pháp luật ASEAN về

hợp tác phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ

9

ASEAN (AFAS) và Hiệp định ASEAN về Du lịch, đồng thời tìm hiểu những

đóng góp của Việt Nam trong việc thiết lập và thực thi các hiệp định trong

khuôn khổ ASEAN để rút ra bài học hoàn thiện chế định pháp lý cho hoạt động

du lịch nội khối và ngoại khối ASEAN.

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài :

+ Tìm hiểu khung pháp luật ASEAN về phát triển dịch vụ du lịch nội

khối, hợp tác quốc tế về du lịch ASEAN qua các Hiệp định : Hiến chương

ASEAN, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, Hiệp định ASEAN về du lịch,

Nghị định thư hội nhập ngành du lịch ASEAN.

+ Tìm hiểu nội dung hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN với

các đối tác ASEAN +1 như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga; ASEAN +3 (Hàn Quốc,

Trung Quốc, Nhật Bản),…

+ Đánh giá thực tiễn khung pháp lý về hoạt động du lịch trong khuôn

khổ ASEAN, những thành tựu đã đạt được và những khó khăn, vướng mắc

trong quá trình thực thi.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật ASEAN

về hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch, và biện pháp nâng cao vai trò của

Việt Nam trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:

- Luận văn nghiên cứu quá trình hợp tác phát triển dịch vụ du lịch trong

khuôn khổ ASEAN, khung pháp luật ASEAN điều chỉnh quan hệ hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch giữa các thành viên ASEAN với nhau, và giữa ASEAN

với các quốc gia có quan hệ đối tác ASEAN +1, ASEAN+3.

- Đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật ASEAN, thực tiễn triển

10

khai các cam kết về phát triển dịch vụ du lịch nội khối, ngoại khối và đưa ra

phương hướng hoàn thiện khung pháp luật ASEAN về hợp tác quốc tế phát

triển dịch vụ du lịch.

Phạm vi nghiên cứu:

Tại luận văn này, tác giả nghiên cứu trong phạm vi sau: Khái quát chung về

ASEAN, khái quát quá trình hợp tác phát triển du lịch trong Cộng đồng

ASEAN; Các cam kết, thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN về hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch; Các cam kết, thỏa thuận của ASEAN với các đối tác; Thực

tiễn triển khai các cam kết và vai trò của Việt Nam trong thiết lập và thực thi

các cam kết đó; Triển vọng, xu hướng phát hợp tác quốc tế phát triển dịch cụ

du lịch trong cộng đồng ASEAN; Yêu cầu đặt ra và phương hướng hoàn thiện

khung pháp luật ASEAN về hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học như: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng… tác giả chú

trọng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: so

sánh, phân tích, tổng hợp,…

5. Những đóng góp của luận văn

Về mặt lý luận:

Luận văn đã làm rõ thêm nhiều vấn đề về quá trình hợp tác phát triển du

lịch của các thành viên ASEAN và khung pháp luật điều chỉnh hợp tác quốc tế

phát triển dịch vụ du lịch ASEAN

Về mặt thực tiễn:

Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật ASEAN liên

quan đến hợp tác phát triển dịch vụ du lịch; đánh giá quá trình hợp tác phát

triển dịch vụ du lịch của các quốc gia thành viên ASEAN, từ đó nêu ra những

11

thành tựu đã đạt được, cũng như những khó khăn cần phải vượt qua trong thời

gian tới để hội nhập ngành du lịch cũng như phát triển kinh tế ngành du lịch

của các quốc gia thành viên.

Luận văn cũng đã nêu ra định hướng và giải pháp hoàn thiện khung pháp

luật ASEAN về hợp tác phát triển dịch vụ du lịch nội khối và ngoại khối với

các nội dung: triển vọng và xu hướng hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch

của ASEAN, yêu cầu đặt ra và phương hướng hoàn thiện khung pháp luật về

hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch. Đồng thời, luận văn cũng đã khuyến

nghị một số biện pháp nhằm tăng cường vai trò của Việt Nam trong hợp tác

quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của

luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau:

Chương 1: Tổng quan ASEAN và cơ chế hợp tác phát triển dịch vụ du lịch

của ASEAN;

Chương 2: Quy định của pháp luật ASEAN về phát triển dịch vụ du lịch;

Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện khung pháp luật ASEAN và

12

một số khuyến nghị cho Việt Nam;

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN ASEAN VÀ CƠ CHẾ HỢP TÁC PHÁT TRIỂNDỊCH VỤ DU LỊCH CỦA ASEAN

Hội nhập quốc tế về du lịch của Việt Nam thời gian qua được triển khai theo

hướng thúc đẩy ký kết và thực hiện các hiệp định thỏa thuận hợp tác cấp chính

phủ, cấp ngành song phương và đa phương, tranh thủ hợp tác, hỗ trợ của các

nước thông qua các chương trình, dự án cụ thể và các cam kết mở cửa tự do

hóa thương mại dịch vụ du lịch trong các khuôn khổ WTO, ASEAN, APEC,

GMS.... Trong đó, hợp tác với các nước thành viên ASEAN là một trong những

khuôn khổ hợp tác mà Du lịch Việt Nam tham gia sâu rộng và có hiệu quả nhất.

Quá trình hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của các thành viên ASEAN từ

khi thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967 đến nay

luôn được các quốc gia thành viên chú trọng. Trong phạm vi chương 1, cùng

với nội dung Tổng quan về ASEAN, tác giả trình bày một số điểm lý luận chung

về hơp tác phát triển dịch vụ du lịch; khái quát quá trình hợp tác phát triển dịch

vụ du lịch trong Cộng đồng ASEAN và các nội dung chính trong việc hợp tác

phát triển dịch vụ du lịch ASEAN.

1.1. Khái quát chung về ASEAN

Nghiên cứu về nội dung hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN không thể

không có những hiểu biết khái quát về cơ chế hợp tác ASEAN và quá trình hình thành

và phát triển của ASEAN. Tại mục này, tác giả trình bày các nội dung: Quá trình hình

thành và phát triển của ASEAN; Cơ cấu tổ chức của ASEAN; Mục đích và nguyên

tắc hoạt động của ASEAN; và Vai trò của ASEAN.

1.1.1

Quá trình hình thành và phát triển của ASEAN

13

ASEAN ra đời vào ngày 08/08/1967 trên cơ sở Tuyên bố Bangkok được

thông qua tại Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 5 quốc gia là Thái Lan, Malaysia,

Indonesia, Singapore và Philippines. Sự hình thành ASEAN đã đặt nền móng

cho sự hợp tác và phát triển trong mọi lĩnh vực của các quốc gia Đông Nam Á

trong những năm sau này. Quá trình hình thành và phát triển ASEAN có thể

chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn hình thành và phát triển; Giai đoạn củng cố cơ

cấu tổ chức và tiến lên hợp tác toàn diện nội khối và bước đầu phát triển hợp

tác ngoại khối; Giai đoạn trở thành ASEAN 10 và hợp tác toàn diện mà trọng

tâm là hợp tác kinh tế; Giai đoạn xây dựng Cộng đồng ASEAN.

Giai đoạn từ khi thành lập đến trước Hội nghị Bali năm 1976 (Giai

đoạn hình thành và định hướng phát triển): Ở giai đoạn này, cơ cấu tổ chức

của ASEAN còn chưa hoàn chỉnh, thậm chí Ban thư ký – cơ quan thường trực

mà bất kỳ tổ chức quốc tế nào cũng có còn chưa được thành lập. Đây là một

trong những lý do mà thời kỳ này, ASEAN bị giới quan sát quốc tế chỉ coi là

“liên minh chính trị lỏng lẻo”.

Do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau nên giai đoạn

này, ASEAN hầu như chưa có hoạt động nào đáng kể, trừ một số hoạt động

- Thông qua tuyên bố ZOPFAN (A Zone of Peace, Freedom and Neutrality) về

khu vực hòa bình, tự do, trung lập tại Kuala Lumpur ngày 17/11/1971, mở ra

thời kỳ mới cho sự phát triển của ASEAN, thể hiện mong muốn xây dựng

Đông Nam Á thành khu vực trung lập, hòa bình, ổn định mà không có bất cứ

hình thức can thiệp nào từ phía bên ngoài.

- Thực hiện một số hoạt động ngoại giao, kinh tế đơn lẻ: Đồng loạt công nhận

quan hệ ngoại giao với Việt Nam và Bangladesh, cùng thỏa thuận ý kiến trước

khi biểu quyết những vấn đề cụ thể ở Liên hợp quốc hoặc cùng phối hợp lên

tiếng phản đối một cách có kết quả chống lại việc cao su tổng hợp của Nhật

14

đáng lưu ý sau:

Bản cạnh tranh cao với cao su tự nhiên vốn là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của

nhiều quốc gia trong khối.

Tóm lại, trong giai đoạn đầu sau khi thành lập, các hoạt động của ASEAN

mới chỉ dừng lại ở mức độ tạo ra nền tảng hợp tác lâu dài và khởi động các hoạt

động hợp tác bằng một số hoạt động chung (chủ yếu nhằm giải quyết các vấn

đề chính trị trong và ngoài nước) nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau.

Giai đoạn từ Hội nghị Bali 1976 đến trước Hội nghị thượng đỉnh lần thứ

tư năm 1992 (giai đoạn củng cố cơ cấu tổ chức và tiến lên hợp tác toàn diện

nội khối và bước đầu phát triển hợp tác ngoại khối): Trong giai đoạn này,

- Xác lập các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và hợp tác của ASEAN.

- Thông qua các văn kiện pháp lý quan trọng làm nền tảng cho sự hợp tác và

phát triển của ASEAN như Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (Hiệp

ước Bali năm 1976), Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN năm 1976, Hiệp định

thành lập Ban thư ký ASEAN năm 1976, Tuyên bố Manila năm 1987, Hiệp

ước Khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Nghị định thư về mở rộng danh mục

thuế ưu đãi theo thỏa thuận ưu đãi buôn bán ASEAN 1987.

- Mở rộng lĩnh vực hợp tác nội khối đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, đầu

tư. Điển hình là 3 kế hoạch lớn đã được thông qua và đưa vào triển khai:

Dự án công nghiệp ASEAN – AIPs năm 1976, Kế hoạch bổ sung công

nghiệp – AIC 1981, các liên Doanh công nghiệp ASEAN – AIJV năm 1983;

Ký Thỏa thuận thương mại ưu đãi PTA cho cả khối; chủ trương thiết lập

AFTA.

- Bước đầu phát triển hợp tác ngoại khối (thiết lập cơ chế đối thoại với các quốc

gia công nghiệp phát triển). Trong những năm đầu của giai đoạn này, ASEAN

liên tục thiết lập và đối thoại đầy đủ với các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản,

Canada, New Zealand, EEC và tổ chức của Liên hợp quốc (thông qua Chương

trình phát triển của Liên hợp quốc –UNDP). Các hoạt động hợp tác được triển

15

ASEAN đạt được một số kết quả đáng chú ý:

khai qua 3 kênh: Hội nghị sau Hội nghị ngoại trưởng, các cuộc họp giữa

ASEAN với các bên đối thoại, Ủy ban ASEAN ở thủ đô quốc gia đối thoại.

- Củng cố cơ cấu tổ chức: Hình thành cơ chế Hội nghị liên bộ trưởng, thành lập

Ban thư ký và kết nạp Brunei (năm 1984).

Giai đoạn từ Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư năm 1992 đến trước thời

điểm thành lập Cộng đồng ASEAN 2003 (giai đoạn trở thành ASEAN 10 và

hợp tác toàn diện mà trọng tâm là hợp tác kinh tế): Đây là giai đoạn mà ASEAN

đạt được nhiều thành tựu to lớn, tiến hành hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa và tăng cường hòa

bình, ổn định khu vực. Những thành tựu của ASEAN thể hiện thông qua một

- Kết nạp thành viên mới gồm: Việt Nam (1995), Lào, Myanmar (1997),

Campuchia (1999), nâng ASEAN từ ASEAN 6 trở thành ASEAN 10.

- Xây dựng khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)1.

- Thành lập diễn đàn khu vực ASEAN – ARF năm 19942.

- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức.

- Thông qua các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiệp định khung về

tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN năm 1992, Hiệp định về chương trình ưu

đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) năm 1992, Tuyên bố về Biển Đông

năm 1992, Hiệp định khung về hợp tác nông nghiệp AICO, Tầm nhìn ASEAN

1 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một hiệp định thương mại tự do đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần hàng rào thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước. Hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại Singapore, ban đầu chỉ có 6 nước ASEAN -6. Các nước CLMV được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. 2 ARF (ASEAN Regional Forum) được thành lập nhằm thúc đẩy cơ chế đối thoại và tham vấn về các vấn đề an ninh và chính trị trong khu vực, xây dựng long tin và phát triển ngoại giao phòng ngừa. Khẩu hiệu của ARF là “Xúc tiến hòa bình và an ninh qua đối thoại và hợp tác ở Châu Á – Thái Bình Dương”. ARF gồm 27 quốc gia cùng có mối quan tâm đến an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đó là 10 quốc gia thành viên của ASEAN; 10 nước đối tác đối thoại của ASEAN (bao gồm Úc, Canada, Trung Quốc, EU, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc, Nga và Hoa Kỳ), một quan sát viên của ASEAN là Papua New Guinea, cùng với Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ và Pakistan. Đông Timo được kết nạp và ARF năm 2005.

16

số hoạt động chủ yếu sau:

2020 năm 1997, Tuyên bố Hà Nội năm 1998, Chương trình hành động Hà Nội

năm 1998, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002.

- Tổ chức Hội nghị cấp cao Đông Nam Á (EAS) lần đầu tiên tại Kuala Lampur

năm 2005, với sự tham gia của ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,

Ấn Độ, Australia và New Zealand.

Giai đoạn từ thời điểm thành lập Cộng đồng ASEAN năm 2003 đến nay

(Giai đoạn xây dựng Cộng đồng ASEAN): Trong giai đoạn này, ASEAN đã

có những bước tiến quan trọng thúc đẩy hợp tác của ASEAN lên tầm cao mới,

tăng cường tổ chức và hiệu quả hợp tác nội khối, tạo thể chế và địa vị pháp lý

- Tại Hội nghị cấp cao lần thứ 9 (tháng 10/2003), các thành viên ASEAN đã

thông qua Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali II), tái khẳng định

những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, tăng cường đoàn kết tiến

tới việc hình thành Cộng đồng ASEAN vững mạnh, liên kết chặt chẽ, tự cường

và năng động, hành động hiệu quả như đã nêu trong văn kiện Tầm nhìn

ASEAN 2020 và Chương trình hành động Hà Nội năm 1998. Cộng đồng

ASEAN được xây dựng dựa trên ba trụ cột là: Cộng đồng chính trị - an ninh,

Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa – xã hội. Các quốc gia thành viên

đang nỗ lực đạt những mục tiêu trong Tầm nhìn ASEAN 2020 vào năm 2015

(tiến trình rút ngắn 5 năm so với dự định).

- Một trong những bước phát triển quan trọng của ASEAN là thông qua Hiến

chương ASEAN (Hiến chương được ký ngày 20/11/2007 và có hiệu lực từ

ngày 15/12/2008), chính thức trao tư cách pháp nhân cho tổ chức ASEAN, tạo

nền tảng pháp lý và thể chế để ASEAN xây dựng thành công Cộng đồng

ASEAN.

- Tháng 2/2009, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Hua Hin (Thái Lan),

Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN đã được thông qua, bao gồm kế hoạch

tổng thể xây dựng các trụ cột cộng đồng, Cộng đồng Chính trị - an ninh, Cộng

đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa – xã hội ASEAN.

17

cho quan hệ hợp tác của ASEAN với bên ngoài.

Có thể thấy rằng quá trình hình thành ASEAN trong hơn 50 năm qua là

thắng lợi lớn của tư tưởng hòa bình, tự cường dân tộc kết hợp với tự cường khu

vực, của những tư tưởng hợp tác và phát triển. ASEAN có vị thế quốc tế như

ngày nay bởi đã hoạch định đường lối xây dựng và phát triển phù hợp với xu

thế của thời đại.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi của ASEAN là việc Tổ chức này

luôn bám sát tôn chỉ, mục đích và nguyên tắc của mình, trong đó nguyên tắc

quan trọng nhất là tôn trọng nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của các

quốc gia thành viên, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia thành

viên dưới bất kỳ hình thức nào.

50 năm là chặng đường dài nhưng so với lịch sử của mỗi dân tộc, lịch sử

của khu vực 50 năm mới chỉ là những bước đi ban đầu còn khiêm tốn. Trải qua

nhiều thăng trầm, vượt lên tất cả thách thức, ASEAN đã và đang tiếp tục xây

dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình – tự do – trung lập, không vũ

khí hạt nhân, cộng đồng của các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau vì vận mệnh

chung, vượt qua đói nghèo, tiến tới phồn vinh, thịnh vượng. ASEAN đã trở

thành thực thể chính trị - kinh tế quan trọng ở Châu Á – Thái Bình Dương và

là đối tác không thể thiếu trong chính sách khu vực của các quốc gia lớn và tổ

1.1.2

Cơ cấu tổ chức của ASEAN

chức quan trọng. [14,tr14-15]

Hiện nay, ASEAN có 10 quốc gia thành viên trong đó gồm 5 quốc gia

sang lập (Vương quốc Thái Lan, Cộng hòa Singapore, Liên bang Malaysia,

Cộng hòa Indonesia, Cộng hòa Philippines) và 5 quốc gia là thành viên gia nhập

(Vương quốc Brunei, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Liên bang

18

Myanmar, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Campuchia). Không

phụ thuộc và tư cách thành viên (sáng lập hay gia nhập), các thành viên ASEAN

đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

Hiến chương ASEAN ra đời không chỉ kế thừa Tuyên bố Bangkok mà

- Có vị trí nằm trong khu vực địa lý Đông Nam Á;

- Được tất cả quốc gia thành viên ASEAN công nhận;

- Chấp nhận sự ràng buộc và tuân thủ Hiến chương ASEAN;

- Có khả năng và sẵn sàng thực hiện các nghĩa vụ thành viên.

còn cụ thể hóa các điều kiện để trở thành thành viên của Tổ chức, cụ thể:

ASEAN là tổ chức quốc tế có sự cải tổ thường xuyên cơ cấu tổ chức của

mình trong quá trình tồn tại và phát triển. Chính sự thay đổi về cơ cấu tổ chức

của ASEAN cũng thể hiện tiến trình, mức độ và phạm vi hợp tác trong từng

giai đoạn phát triển cũng như tính mềm dẻo, linh hoạt của ASEAN. Từ khi ra

đời đến nay, cơ cấu tổ chức của ASEAN được thay đổi, hoàn thiện dần qua

từng giai đoạn.

Giai đoạn từ 1967 đến 1976: Trong gần 10 năm đầu thành lập và hoạt

động, cơ cấu của ASEAN còn khá lỏng lẻo, chỉ đủ để duy trì hoạt động hợp

tác giữa các quốc gia khi cần thiết. Thậm chí, Ban thư ký chung của ASEAN

còn chưa được thành lập mà chỉ có ban thư ký của các quốc gia thành viên.

Theo quyên bố Bangkok 1967, bộ máy của ASEAN thời kỳ này gồm: Hội

nghị ngoại trưởng, Ủy ban thường trực, Ban thư ký quốc gia. Ngoài ra, để

phục vụ các hoạt động hợp tác của mình, các thành viên ASEAN còn thỏa

thuận thành lập một số ủy ban thường trực, ủy ban ad-hoc.

Giai đoạn từ 1976-1992: Để tăng cường hợp tác về chính trị, nâng cao

hiệu quả hoạt động của ASEAN, trong Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN năm

1976, các quốc gia ASEAN đã nhất trí về việc cải tiến cơ cấu tổ chức của

19

ASEAN. Sau tuyên bố này, cơ cấu của ASEAN bao gồm: Hội nghị ngoại

trưởng, các hội nghị bộ trưởng khác (Hội nghị bộ trưởng kinh tế, Hội nghị bộ

trưởng lao động, Hội nghị bộ trưởng phúc lợi xã hội, Hội nghị bộ trưởng giáo

dục, Hội nghị bộ trưởng thông tin), Ban thư ký ASEAN (cơ quan hành chính

của ASEAN thành lập theo Hiệp định về ban thư ký ASEAN năm 1976).

Ngoài ra còn có 9 ủy ban khác ra đời thay thế Ủy ban thường trực và các ủy

ban ad-hoc trước đó. Các cơ quan này thực hiện chức năng trong lĩnh vực

kinh tế, văn hóa – xã hội.

Giai đoạn từ năm 1992 đến trước thời điểm Hiến chương có hiệu lực

năm 2008: Hội nghị thưởng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore năm 1992

được đánh giá là dấu mốc quan trọng trong con đường phát triển của ASEAN

cả về cơ cấu tổ chức và mực độ hợp tác. Để tăng cường hợp tác và phát huy

thành tựu đạt được trong 25 năm, không chỉ kế thừa một số thiết chế, ASEAN

đã quyết định cơ cấu lại bộ máy bao gồm: Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị

Ngoại trưởng ASEAN, Hội nghị bộ trưởng các ngành khác, các cuộc họp cao

cấp, các ủy ban ASEAN, Ban Thư ký ASEAN.

Giai đoạn từ khi Hiến chương có hiệu lực đến nay: Trong hơn 40 năm

hình thành và phát triển, ASEAN đã tiến hành những cải cách nhất định về

cơ cấu tổ chức. Tuy nhiên, với những thay đổi của đời sống chính trị, kinh tế

của thế giới và khu vực, để đạt được mục tiêu, tôn chỉ của mình trong tình

hình mới, ASEAN phải tiếp tục cơ cấu lại bộ máy theo hướng tăng cường

- Pháp điển hóa các quy định về bộ máy của ASEAN vào Hiến chương. Bằng

cách này, ASEAN sẽ được vận hành ổn định và chủ động hơn. Việc phải có

những quy định ngoài Hiến chương về cơ cấu và chức năng quyền hạn của các

cơ quan sẽ chỉ đặt ra trong những trường hợp đặc biệt cần thiết hoặc khi những

quy định liên quan trong Hiến chương mới chỉ dừng ở mức độ mang tính

20

hiệu quả hoạt động của tổ chức, cụ thể như sau:

nguyên tắc (ví dụ như quy định về Cơ quan nhân quyền ASEAN theo điều 14

Hiến chương).

- Hệ thống các cơ quan của ASEAN theo Hiến chương được cơ cấu bám sát các

mục tiêu của Tổ chức, khắc phục đáng kể sự phân tán của thời kỳ trước đây.

Điều này thể hiện rõ nét ở Hội đồng cộng đồng chính trị - an ninh, Hội đồng

cộng đồng kinh tế và Hội đồng cộng đồng văn hóa – xã hội.

- Quy định về hoạt động của mỗi cơ quan thuộc bộ máy của ASEAN cũng được

thiết kế đảm bảo tính thường xuyên liên tục nhằm đáp ứng kịp thời các yêu

cầu hợp tác trong các lĩnh vực. Cụ thể, ngoài các cơ quan thường trực của

ASEAN như Ban thư ký ASEAN, thời gian làm việc của các cơ quan không

thường trực của ASEAN như Cấp cao ASEAN, Hội đồng điều phối ASEAN,

Các hội đồng cộng đồng ASEAN đã được gia tăng đáng kể (các phiên định kỳ

đều được tổ chức 2 lần/năm)3.[14,tr16]

Hiến chương ASEAN quy định bộ máy tổ chức của ASEAN gồm các cơ

1) Cấp cao ASEAN là cơ quan hoạch định chính sách tối cao của ASEAN, bao

gồm những Người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các quốc gia thành

viên. Hội nghị Cấp cao ASEAN được tổ chức mỗi năm 2 lần4.

2) Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) gồm các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN,

họp ít nhất 2 lần một năm, có nhiệm vụ điều phối các hoạt động hợp tác

ASEAN nói chung và chuẩn bị cho các Hội nghị Cấp cao5.

3) Các Hội đồng Cộng đồng ASEAN bao gồm Hội đồng Cộng đồng Chính trị -

An ninh ASEAN (APSCC), Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AECC) và

Hội đồng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCCC), họp ít nhất 2 lần

một năm, do Bộ trưởng có liên quan của quốc gia đang giữ cương vị Chủ tịch

3 Theo Khoản 5, Điều 9 Hiến chương ASEAN, các Hội đồng Cộng đồng họp ít nhất 02 lần một năm và sẽ do Bộ trưởng có liên quan của Quốc gia thành viên đang giữ cương vị Chủ tịch ASEAN chủ trì. 4 Điều 7, Hiến chương ASEAN 5 Điều 8, Sđd.

21

quan chính sau:

ASEAN chủ trì, có nhiệm vụ theo dõi và điều phối hợp tác ASEAN trên từng

trụ cột Cộng đồng mình phụ trách6.

4) Ủy ban các Đại diện thường trực ASEAN (CPR) đặt tại Gia-các-ta, đóng vai

trò là cơ quan đầu mối, theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác hàng ngày

của ASEAN7.

5) Tổng thư ký ASEAN và Ban thư ký ASEAN đặt tại Gia-các-ta, đóng vai trò

là cơ quan hỗ trợ hành chính cho các hoạt động hợp tác ASEAN8.

6) Ban thư ký ASEAN Quốc gia, nằm trong Bộ Ngoại giao của các nước thành

viên, chịu trách nhiệm theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác ASEAN ở

cấp quốc gia9.

1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của ASEAN

Mục đích:

Điều 1 Hiến chương ASEAN đã xác định mục đích của ASEAN về Anh

ninh – chính trị; về văn hóa – xã hội; và về kinh tế:

1) Duy trì, thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định, tăng cường hơn nữa các giá trị

hướng tới hòa bình trong khu vực;

2) Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác an ninh -

chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội;

3) Duy trì Đông Nam Á là khu vực không có vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí

hủy diệt hàng loạt khác;

4) Đối phó hữu hiệu với tất cả mối đe dọa, các loại tội phạm xuyên quốc gia và

thách thức xuyên biên giới, phù hợp với nguyên tác an ninh toàn diện;

5) Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng cho người dân ASEAN môi trường

an toàn, an ninh và không có ma túy;

6 Điều 9, Sđd. 7 Điều 12, Sđd. 8 Điều 11, Sđd. 9 Điều 13, Sđd.

22

Mục đích về an ninh - chính trị:

6) Duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như một động lực chủ chốt

trong quan hệ và hợp tác với các đối tác bên ngoài trong cấu trúc khu vực mở, minh

bạch và thu nạp.

Mục đích về kinh tế:

ASEAN được thành lập với mục đích kinh tế là xây dựng thị trường và

cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn định, thịnh vượng, khả năng cạnh tranh và

liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, bao gồm sự chu

chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư; di chuyển thuận lợi của các

doanh nhân, người có chuyên môn cao, người có tài năng và lực lượng lao

động; sự chu chuyển tự do hơn các dòng vốn.

1) Đảm bảo rằng nhân dân và các quốc gia thành viên ASEAN được sống hòa

bình với toàn thế giới, trong môi trường công bằng, dân chủ và hòa hợp;

2) Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN thông qua hợp

tác và giúp đỡ lẫn nhau;

3) Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quyền; thúc đẩy và bảo vệ

nhân quyền các quyền tự do cơ bản với sự tôn trọng thích đáng quyền và trách nhiệm

của các quốc gia thành viên ASEAN;

4) Thúc đẩy phát triển bền vững nhằm bảo vệ môi trường khu vực, tính bền vững

của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn di sản văn hóa và chất lượng cuộc sống

cao của người dân khu vực;

5) Phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo

dục và đào tạo lâu dài, trong khoa học và công nghệ để tăng cường quyền năng cho

người dân ASEAN và thúc đẩy cộng đồng ASEAN;

6) Nâng cao phúc lợi và đời sống của người dân ASEAN thông qua việc tạo điều

kiện để họ tiếp cận bình đẳng các cơ hội về phát triển con người, phúc lợi và công

bằng xã hội;

23

Mục đích về văn hóa xã hội:

7) Thúc đẩy hình thành ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích mọi

thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết, xây dựng cộng đồng

ASEAN;

8) Đề cao bản sắc ASEAN thông qua việc nâng cao hơn nữa nhận thức về sự đa

dạng văn hóa và các di sản của khu vực.

Những mục đích nêu trên của ASEAN nhằm hình thành liên minh chính

trị, kinh tế và văn hóa với tính chất của tổ chức quốc tế khu vực, tạo dựng sự

hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia để đưa Đông Nam Á trở thành khu vực

hòa bình, phát triển và là đối tác quan trọng trong tương quan lực lượng trên

trường quốc tế. [16,tr21]

Nguyên tắc hoạt động:

Theo điều 2 hiến chương ASEAN để có thể đạt được các mục đích của

ASEAN, các quốc gia thành viên tiếp tục tuân thủ các nguyên tắc đã được ghi

nhận trong những văn kiện của ASEAN trước hiến chương. Hệ thống nguyên

tắc tại khoản 2 điều 2 hiến chương gồm 14 nguyên tắc trong đó có thể chia làm

2 nhóm:

1) Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản

sắc dân tộc của các quốc gia thành viên;

2) Nguyên tắc không xâm lược, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành

động khác dưới bất kỳ hình thức nào trái với pháp luật quốc tế;

3) Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình;

4) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên

ASEAN;

5) Nguyên tắc tôn trọng quyền của các quốc gia thành viên được quyết định vận

mệnh của mình mà không có sự can thiệp, lật đổ và áp đặt từ bên ngoài

24

Thứ nhất, nhóm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Cụ thể:

Thứ hai, nhóm các nguyên tắc đặc thù điều chỉnh quan hệ giữa các quốc

1) Nguyên tắc cùng cam kết và chia sẻ trách nhiệm tập thể trong việc thúc đẩy

hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực;

2) Nguyên tắc tăng cường tham vấn về các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng

đến lợi ích chung của ASEAN;

3) Nguyên tắc tuân thủ pháp quyền, quản trị tốt các nguyên tắc của nền dân chủ

và chính quyền hợp hiến;

4) Nguyên tắc tôn trọng các quyền tự do cơ bản, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền,

công bằng xã hội;

5) Nguyên tắc đề cao hiến chương liên hợp quốc và pháp luật quốc tế bao gồm

cả luật nhân đạo quốc tế mà các quốc gia thành viên đã tham gia;

6) Nguyên tắc tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo của người

dân ASEAN đồng thời nhấn mạnh những giá trị chung trên tinh thần thống nhất trong

đa dạng;

7) Nguyên tắc giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong các quan hệ về chính

trị, kinh tế, văn hóa và xã hội với bên ngoài đồng thời vẫn duy trì tính chủ động,

hướng ra bên ngoài, thu nạp và không phân biệt đối xử;

8) Nguyên tắc tuân thủ các nguyên tắc thương mại đa biên và các cơ chế dựa trên

luật lệ ASEAN.

gia thành viên ASEAN. Cụ thể:

1.1.4 Vai trò của ASEAN

ASEAN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong ổn định và phát triển

khu vực châu Á- Thái Bình Dương và trên thế giới. Vai trò của ASEAN thể

hiện:

Đóng góp cho nền hoà bình bền vững trong khu vực và thế giới:

ASEAN là nhân tố quan trọng bảo đảm hoà bình và ổn định ở khu vực. Trước

25

hết, sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN ngày

càng gia tăng thông qua nhiều hoạt động đa dạng, trong đó có việc duy trì tiếp

xúc thường xuyên ở các cấp, nhất là giữa các vị Lãnh đạo Cấp cao. ASEAN

chủ động đề xướng và tích cực phát huy tác dụng của nhiều cơ chế bảo đảm

hoà bình và an ninh khu vực như: Tuyên bố Đông Nam Á là Khu vực Hoà Bình,

Tự do và Trung Lập (ZOPFAN) năm 1971; Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở

Đông Nam Á (TAC) ký năm 1976 và đến nay đã trở thành Bộ quy tắc ứng xử

chỉ đạo mối quan hệ không chỉ giữa các nước Đông Nam Á mà cả giữa các

nước ASEAN và các đối tác bên ngoài; Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không

có vũ khí hạt nhân (SEANWSZ) năm 1995; Tuyên bố của các bên liên quan về

cách ứng xử ở Biển Đông (DOC) năm 2002, là bước quan trọng tiến tới Bộ quy

tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình và ổn định trên Biển

đông…

ASEAN khởi xướng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) để tạo khuôn

khổ thích hợp cho ASEAN và các đối tác bên ngoài tiến hành đối thoại và hợp

tác về các vấn đề chính trị an ninh ở Châu Á- Thái Bình Dương. ASEAN cũng

tích cực đẩy mạnh hợp tác với nhau và với các đối tác bên ngoài thông qua

nhiều khuôn khổ, hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm đối phó với những

thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như khủng bố quốc tế, tội

phạm xuyên quốc gia, thiên tai…

ASEAN có vai trò to lớn trong giải quyết tranh chấp Biển đông, ổn định

tình hình chính trị khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, giảm căng thẳng và đối

đầu giữa các lớn như Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện gần đây khi xảy ra tranh chấp

trên biển Hoa Đông và Biển Đông, ASEAN đã thể hiện rõ lập trường và cách

thức giải quyết xung đột theo những thoả thuận mà ASEAN và Trung Quốc đã

26

cam kết.

Thúc đẩy tăng trưởng và bền vững kinh tế khu vực và thế giới: Hợp

tác vì mục tiêu phát triển kinh tế bền vững là một trong những định hướng ưu

tiên của ASEAN. Đến nay, ASEAN đã cơ bản hoàn tất các cam kết về hình

thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA), với hầu hết các dòng

thuế đã được giảm xuống mức 0-5%. Tiếp đó, ASEAN đã xác định 12 lĩnh vực

ưu tiên hội nhập sớm để đẩy mạnh hơn nữa thương mại nội khối. Kim ngạch

thương mại nội khối hiện đạt khoảng 300 tỷ USD và chiếm khoảng 25% tổng

kim ngạch thương mại của ASEAN.

Việc thực hiện các thoả thuận về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đạt

những tiến triển quan trọng. Hợp tác ASEAN cũng được đẩy mạnh và mở rộng

trong nhiều lĩnh vực kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, giao

thông vận tải, hải quan, thông tin viễn thông, tiêu chuẩn đo lường chất

lượng…Đồng thời, ASEAN cũng tích cực tăng cường hợp tác kinh tế- thương

mại với các đối tác bên ngoài, nhất là việc thiết lập các khu vực mậu dịch tự do

(FTA) với hầu hết các nước đối thoại của ASEAN, như Trung Quốc, Nhật Bản,

Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốt-xtrâylia và Niu Di Lân…ASEAN cũng coi trọng đẩy

mạnh thực hiện mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN, nhất là

thông qua việc triển khai Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) về hỗ trợ các nước

thành viên mới (Campuchia, Lào, Mianma và Việt nam) hội nhập khu vực.

Sự phát triển nhanh chóng và năng động của ASEAN trong 2 thập niên

gần đây có những đóng góp thiết thực vào ổn định và tăng trưởng kinh tế thế

giới. Hiện nay, ASEAN là đối tác kinh tế quan trọng của hầu hết các quốc gia

và khối kinh tế trên thế giới.

Hợp tác về sự gắn kết cộng đồng và lợi ích cho người dân: Hợp tác trong

lĩnh vực văn hoá- xã hội ngày càng được mở rộng với rất nhiều chương trình/dự

án khác nhau trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục- đào tạo, khoa học- công nghệ,

27

môi trường, y tế, phòng chống ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em, HIV/AIDS,

bệnh dịch…Các hoạt động hợp tác này đã hỗ trợ cho các nước thành viên nâng

cao khả năng giải quyết các vấn đề liên quan, đồng thời giúp tạp dựng thói quen

hợp tác khu vực, nâng cao nhận thức và ý thức cộng đồng ASEAN. ASEAN

đang phấn đấu xây dựng một cộng đồng các dân tộc hài hoà đoàn kết, sống đùm

bọc và chia sẻ. Đảm bảo sự “thống nhất trong đa dạng” trở thành một đặc thù

riêng có của ASEAN, một bản sắc khu vực mà các nước ASEAN luôn trân

trọng giữ gìn.

Mở rộng quan hệ đối ngoại: Quan hệ đối ngoại của ASEAN phát triển

mạnh, thông qua đó ASEAN đã tranh thủ được sự hợp tác và hỗ trợ thiết thực

từ các đối tác bên ngoài, phục vụ mục tiêu an ninh và phát triển của Hiệp hội,

đồng thời góp phần quan trọng thúc đẩy và kết nối các mối liên kết khu vực với

nhiều tầng nấc khác nhau ở Châu Á- Thái Bình Dương.

ASEAN đã tạo dựng được quan hệ hợp tác nhiều mặt với nhiều đối tác

quan trọng trên thế giới thông qua khuôn khổ ASEAN+1 với 12 đối tác quan

trọng bên ngoài, đồng thời khởi xướng thành công và giữ vai trò chủ đạo trong

một số khuôn khổ hợp tác khu vực ở Châu Á- Thái Bình Dương như

ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF).

Ngoài ra, ASEAN còn là nhân tố quan trọng của các khuôn khổ hợp tác khu

vực và liên khu vực khác như Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình

Dương (APEC), Hội nghị Á-Âu (ASEM) và Diễn đàn Hợp tác Đông Á- Mỹ La

Tinh (FEALAC).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được đến nay, ASEAN

vẫn là một hiệp hội chưa chặt chẽ, tính liên kết khu vực còn thấp; sự đa dạng

vẫn còn lớn, nhất là về chế độ chính trị- xã hội và trình độ phát triển giữa các

nước thành viên. ASEAN đề ra nhiều chương trình và kế hoạch hợp tác nhưng

kết quả thực hiện còn hạn chế; tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động cồng

28

kềnh, kém hiệu quả, nhất là việc tổ chức và giám sát thực hiện cam kết.

Bên cạnh đó, việc duy trì đoàn kết và thống nhất ASEAN cũng như vai

trò chủ đạo của Hiệp hội ở khu vực thường gặp không ít khó khăn và thách

thức, do tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Tình hình nội bộ của một số

nước cũng như quan hệ giữa các nước thành viên với nhau thường này sinh

những vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến đoàn kết, hợp tác và uy tín của ASEAN.

1.2 Cơ chế hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN

Tại mục này, tác giả trình bày khái quát quá trình hợp tác phát triển du lịch trong

Cộng đồng ASEAN từ khi thành lập ASEAN năm 1967 đến nay; và các nội dung

chính của việc hợp tác phát triển dịch vụ du lịch trong ASEAN, bao gồm: Xúc tiến

du lịch; Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, Thu hút đầu tư về du lịch và Chất lượng

du lịch.

1.2.1 Giải thích từ ngữ

Hợp tác là chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc, lĩnh

vực nào đó vì lợi ích chung. Hợp tác dựa trên cơ sở tự do bình đẳng, hai bên cùng có

lợi, không hại đến lợi ích của người khác.

Hợp tác quốc tế là hợp tác để cùng nhau giải quyết những vấn đề bức xúc mang

tính toàn cầu; giúp đỡ tạo điều kiện cho các nước nghèo phát triển; và hợp tác để đạt

được mục tiêu hòa bình cho nhân loại.

Dịch vụ du lịch được hiểu là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển,

lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm

đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.10 Dịch vụ du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và

phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho

khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng.

Nói một cách đơn giản, thì dịch vụ du lịch chính là tài nguyên du lịch kết hợp với các

dịch vụ và hàng hóa du lịch.

Phát triển dịch vụ là việc mở rộng các loại hình dịch vụ gắn liền với đổi mới

và hoàn thiện cơ cấu dịch vụ nhằm đảm bảo cho dịch vụ đó thích ứng với sự thay đổi

10 Theo Luật Du lịch 2014- Điều 4

29

của môi trường kinh doanh và phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của khách hàng mục

tiêu. Dịch vụ du lịch là một loại dịch vụ, quá trình phát triển dịch vụ du lịch cũng

nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch và giúp doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ

du lịch thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Cụ thể, phát triển dịch

vụ du lịch là hệ thống biện pháp, phương pháp nhằm gia tăng không chỉ số lượng loại

hình dịch vụ mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch nhằm cung ứng tốt hơn cho

du khách và đem lại lợi ích ngày càng cao cho đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch.

1.2.2 Khái quát quá trình hợp tác phát triển du lịch trong Cộng đồng ASEAN

Từ khi thành lập ASEAN ngày 8/8/1967 trên cơ sở Tuyên bố Bangkok, phát

triển thương mại dịch vụ nói chung và phát triển dịch vụ du lịch nói riêng đã

được các nước thành viên đặc biệt chú trọng. Những ngày đầu thành lập, liên

kết phát triển dịch vụ du lịch của các thành viên ASEAN còn mờ nhạt, chưa

hiệu quả. Từ năm 1981, Diễn đàn du lịch ASEAN (ATF) được thành lập, chính

thức đánh dấu bước đầu trong quá trình hợp tác phát triển dịch vụ du lịch nội

khối và ngoại khối ASEAN. ATF là sự kiện lớn có ý nghĩa kinh tế, chính trị,

xã hội nhằm xây dựng ASEAN thành một điểm du lịch chung, phát triển du

lịch theo hướng bền vững, góp phần thúc đẩy trao đổi , hợp tác hữu nghị, giao

lưu văn hóa, củng cố hòa bình và phát triển thịnh vượng trong khu vực. Kể từ

khi thành lập cùng với sụ nỗ lực của mình, ATF đã luôn thu hút sự quan tâm

của các nước thành viên.

Ngày 15/12/1995: Các nước ASEAN ký Hiệp định Khung về Dịch vụ

của ASEAN (AFAS). Hiệp định AFAS với các nội dung tương tự Hiệp định

Chung về Thương mại Dịch vụ của WTO làm tiền đề cho các vòng đàm phán

từng bước tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Từ 1996 –

2015: Các nước ASEAN đã tiến hành đàm phán và đưa ra 9 Gói cam kết về

dịch vụ, 6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính và 8 Gói cam kết về dịch vụ vận tải

30

hàng không.

Dịch vụ du lịch là dịch vụ nằm trong gói cam kết thứ 8 của ASEAN và

là ngành dịch vụ ưu tiên. Cách tiếp cận về mở cửa thị trường đối với dịch vụ

du lịch trong AFAS là AFAS đưa du lịch là một trong 6 dịch vụ ưu tiên phát

triển của khối; Thực hiện cách tiếp cận truyền thống giao thương hàng hóa dẫn

tới gia tăng phát triển dịch vụ có liên quan như giao thông, du lịch, logistics …

Tuyên bố Hà Nội (Việt Nam ngày 16/12/1998 – Hội nghị thượng đỉnh

ASEAN lần thứ 6) đã xác định hợp tác du lịch là một nội dung quan trọng trong

hợp tác phát triển của các quốc gia thành viên ASEAN. Tại Hội nghị thượng

đỉnh lần thứ 7 ngày 4 tháng 11 năm 2001 tại Brunei, các quốc gia thành viên

của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã quyết định ký kết một

thỏa thuận ASEAN về du lịch. Hiệp định thừa nhận tầm quan trọng chiến lược

của ngành công nghiệp du lịch đối với sự tăng trưởng bền vững kinh tế - xã hội

của các nước thành viên ASEAN và sự đa dạng về văn hóa, kinh tế và những

lợi thế bổ sung trên toàn khu vực có lợi cho sự phát triển du lịch của ASEAN

trong việc đạt đến chất lượng cuộc sống, hòa bình và sự phồn vinh của khu vực

đã được cải thiện. Hiệp định bao gồm 12 Điều quy định về Mục tiêu của Hiệp

định; Tạo thuận lợi cho du lịch trong khu vực ASEAN; Tiếp cận thị trường;

Chất lượng du lịch; An toàn và an ninh du lịch; Phối hợp tiếp thị và xúc tiến du

lịch; Phát triển nguồn nhân lực du lịch ASEAN; Giải quyết tranh chấp giữa các

nước thành viên; và Hiệu lực của Hiệp định. Hiệp định khẳng định lại cam kết

đối với các quy định và nguyên tắc của Hiệp định chung về Thương mại dịch

vụ và chính sách của các nước thành viên ASEAN với việc áp dụng các quy

định và nguyên tắc của Hiệp định vào công nghiệp du lịch và lữ hành.

Các nước thành viên ASEAN mong muốn Cộng đồng kinh tế ASEAN

sẽ đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất chung, biến sự đa

dạng vốn là nét đặc trưng của khu vực thành những cơ hội và sự bổ trợ về kinh

31

doanh nhằm làm cho ASEAN trở hành một mắt xích phát triển năng động và

mạnh mẽ hơn trong chuỗi cung cấp toàn cầu. Từ đó, các thành viên đã tiến hành

các cuộc đàm phán ban đầu và hoàn thành lộ trình hội nhập toàn diện ngành du

lịch trong ASEAN được quy định trong Nghị định thư hội nhập ngành du lịch

ASEAN, được ký kết ngày 29/11/2004.

Ngày 19/11/2012 tại Phnom Penh (Campuchia) với mục tiêu dỡ bỏ các

rào cản đối với việc di chuyển lao động tạm thời qua biên giới của các thể nhân

tham gia vào thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các nước ASEAN,

Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP) đã được ký kết.

Hiệp định này áp dụng đối với các quy định ảnh hưởng tới việc di chuyển

tạm thời qua biên giới của thể nhân của một nước ASEAN sang lãnh thổ của

nước ASEAN khác trong các trường hợp:

1) Khách kinh doanh (business visitors)

2) Người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp

3) Người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng

4) Một số trường hợp khác quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết về Di

chuyển thể nhân của mỗi nước đính kèm theo Hiệp định này.

Hiệp định không áp dụng đối với các quy định của một nước ASEAN

liên quan tới việc hạn chế tiếp cận thị trường lao động của người lao động các

nước ASEAN khác. Việc mở cửa thị trường lao động của mỗi nước chỉ áp dụng

cho các ngành nghề được quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết của nước

đó và thuộc một trong 4 trường hợp trên.

Tháng 1 năm 2006, các bộ trưởng du lịch ASEAN đã ủng hộ quyết định

của Các cơ quan du lịch quốc gia ASEAN (NTOs) về việc thành lập Nhóm

công tác về phát triển nguồn nhân lực Du lịch để chuẩn bị cho một Thỏa thuận

32

thừa nhận lẫn nhau (MRA –TP) cho các nghề Du lịch trong ASEAN. MRA

dành cho các nghề Du lịch ASEAN đã được ký bởi các Bộ trưởng Du lịch

ASEAN trong năm 2009.

Đến nay, các quốc gia vẫn tiếp tục đẩy mạnh quá trình thực thi các cam

kết về dịch vụ du lịch trong khuôn khổ ASEAN. Diễn đàn du lịch ASEAN

(ATF) đã diễn ra đến năm 2019 là lần thứ 29, được tổ chức tại Hạ Long, Quảng

Ninh – Việt Nam. Tại Hội nghị lần này, Việt Nam đã có sáng kiến kết nối di

sản để phát triển du lịch ASEAN trong thời đại số. Đây là thông điệp hành động

để ASEAN và các quốc gia thành viên cùng chung tay tạo dựng hệ thống cơ sở

dữ liệu số lưu trữ thông tin, giới thiệu về hệ thống di sản thế giới của ASEAN

để phát triển du lịch thông qua công nghệ thực tế ảo. Diễn đàn cũng thống nhất

thông qua các thông cáo Báo chí về hợp tác và phát triển du lịch ASEAN và

giữa ASEAN với các nước đối tác, trong đó nêu sáng kiến của Việt Nam về

việc kết nối di sản để phát triển du lịch ASEAN trong thời đại số. Diễn đàn đã

thông qua chương trình hợp tác cụ thể hưởng ứng Năm Du lịch ASEAN-Ấn Độ

2019. Diễn đàn đã đặt ra các mục tiêu về tăng trưởng du lịch cho toàn khối

ASEAN nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển du lịch ASEAN giai đoạn 2016-

1.2.3 Các nội dung chính trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của

ASEAN

a. Hoạt động xúc tiến du lịch

2025

Xúc tiến du lịch là hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức tuyên truyền,

quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển và thu hút khách

du lịch. Hoạt động xúc tiến du lịch trong nội dung hợp tác quốc tế phát triển

dịch vụ du lịch của ASEAN được chú trọng và đề cập đến tại Hiệp định du lịch

ASEAN. Tại điều 7 của Hiệp định này quy định Các nước thành viên tăng

cường phối hợp tiếp thị và xúc tiến du lịch từ ngoài vào ASEAN và trong phạm

33

vi ASEAN với các nội dung:

1) Hỗ trợ Chiến dịch tham quan ASEAN yêu cầu các gói tour du lịch theo chủ

đề và các điểm hấp dẫn để khuyến khích du khách tập trung vào các lĩnh

vực quan tâm cụ thể;

2) Phát huy thiên nhiên, văn hóa và nghệ thuật đa dạng của ASEAN;

3) Tăng cường hợp tác giữa các tổ chức du lịch quốc gia ASEAN và các ngành

công nghiệp du lịch, đặc biệt là các hãng hàng không, khách sạn, khu du

lịch, đại lý lữ hành và nhà điều hành tour du lịch, trong việc tiếp thị và

quảng bá các gói tour du lịch xuyên quốc gia, bao gồm cả các khu vực tăng

trưởng tiểu vùng;

4) Kêu gọi các hãng hàng không của các nước thành viên mở rộng các chương

trình quảng bá du lịch của họ;

5) Tổ chức sự kiện quảng bá rộng khắp ASEAN trong khu vực và ở nước

ngoài;

6) Mở rộng và tăng cường hợp tác ASEAN trong các thị trường nước ngoài

và hội chợ du lịch và lữ hành - thương mại lớn quy mô quốc tế;

7) Đẩy mạnh ASEAN trở thành một thương hiệu trên thị trường quốc tế;

8) Tăng cường hỗ trợ cho Diễn đàn Du lịch ASEAN;

9) Thúc đẩy cơ hội đầu tư trong ngành công nghiệp du lịch của ASEAN;

10) Hợp tác trong việc sử dụng công nghệ thông tin trong ngành công nghiệp

du lịch và lữ hành - thương mại ASEAN; và

11) Thúc đẩy quan hệ đối tác công-tư trong tiếp thị và xúc tiến du lịch trong

hợp tác với các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực và các cơ quan khác có

liên quan.

Xúc tiến du lịch ASEAN được thực hiện theo các nội dung và lộ trình quy

định tại Phụ lục Lộ trình hội nhập ngành du lịch ASEAN – Nghị định thư hội nhập

ngành Du lịch ASEAN, với các nội dung cụ thể sau:

a) Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các chương trình xúc tiến và

marketing chung đối với các hoạt động du lịch ASEAN như tổ chức

ASEAN Hip Hop Pass;

34

b) Thực hiện các hoạt động đa dạng thu hút du lịch ASEAN thông qua việc

thúc đẩy đưa ra một chương trình du lịch trọn gói bao gồm ngoài các thị

trường khác, các thị trường chính Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn

Độ;

c) Các nước thành viên sử dụng chung lô gô Chiến dịch Du lịch ASEAN trong

các triển lãm, phương tiện truyền thông, và ấn phẩm trong chiến dịch nâng

cao hình ảnh của ASEAN như là một điểm đến du lịch chung;

d) Tổ chức chung một Khu vực Du lịch ASEAN trong các hội chợ du lịch

quốc tế nhằm liên tục nâng cao hình ảnh của ASEAN như là một điểm đến

du lịch chung;

e) Cùng hướng tới chương trình quảng bá được Lãnh đạo các nước ASEAN

giới thiệu trên truyền hình như là một điểm đến chung đối với du lịch và

đầu tư tại các hội nghị thượng đỉnh ASEAN;

f) Xây dựng các tiêu chí cho khu vực Di sản Du lịch ASEAN và các thủ tục

đối với Danh hiệu Di sản ASEAN.

b. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch

Khái niệm sản phẩm du lịch là tổng thể tất cả những thứ nhằm đáp ứng nhu

cầu và mong muốn của khách du lịch. Nó bao hàm các dịch vụ du lịch, các hàng

hóa, tiện nghi cung cấp cho du khách, được tạo nên do các yếu tố tự nhiên và

trên cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động du lịch tại một vùng hay tại một cơ sở

kinh doanh nào đó. Theo nghĩa rộng, sản phẩm du lịch bao gồm toàn bộ những

thứ mà người ta phục vụ cho khách và khách phải trả tiền, có nghĩa là từ các

phương tiện đi lại, khách sạn, nhà hang ăn uống các dịch vụ sinh sống, vui chơi

giải trí, hang lưu niệm, nơi khách đến tham quan… đều là sản phẩm du lịch.

Theo nghĩa hẹp thì nhấn mạnh những hang hóa đặc biệt của mỗi vùng du lịch,

35

hay nói cách khác là sự giàu có của mỗi vùng, sự phong phú, hấp dẫn của mỗi

vùng, và cả những thứ có thể mua mang đi được nhất là những thứ mang giá trị

văn hóa tiêu biểu của vùng đó và nổi tiếng.

Đa dạng hóa sản phẩm du lịch được các thành viên ASEAN thống nhất với

nội dung: “ASEAN sẽ trở thành điểm đến du lịch chất lượng cao, đem lại cho

du khách những trải nghiệm đa dạng và độc đáo. ASEAN phát triển du lịch

theo hướng bền vững, có trách nhiệm, toàn diện, cân bằng; đóng góp đáng kể

đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của người dân trong khu vực” đã được

hoạch định trong Kế hoạch chiến lược du lịch ASEAN (ATSP) giai đoạn 2016-

2025 và là một trong các nội dung quan trọng trong quá trình hợp tác quốc tế

phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN. [15,tr46]

Tại diễn đàn du lịch ASEAN (ATF) 2019 diễn ra tại Hạ Long, Quảng Ninh,

các nước thành viên ASEAN đã thống nhất thực hiện Chiến lược xúc tiến Du

lịch ASEAN 2020; hướng đến đa dạng hóa sản phẩm du lịch ASEAN, thông

qua phát triển các gói du lịch ASEAN mới bao gồm hơn 130 sản phẩm du lịch

kết hơp điểm đến trong ASEAN. Du lịch lễ hội, phật giáo và tàu biển cũng được

c. Thu hút đầu tư về du lịch

chú trọng.

Đầu tư là việc một hoặc nhiều cá nhân tổ chức sử dụng nguồn tiền, đất đai

hoặc các tài sản khác có giá trị để thực hiện một hoặc nhiều hoạt động kinh tế

nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận là yếu tố quan trọng mà

các nhà đầu tư hướng đến khi thực hiện hoạt động đầu tư. Như vậy, thu hút đầu

tư về du lịch tức là thu hút nguồn lực tài chính vào ngành du lịch để tạo ra lợi

nhuận, từ đó phát triển kinh tế.

Trong những năm qua, ASEAN đã theo đuổi các sáng kiến để xúc tiến

ASEAN như điểm đến đầu tư nói chung và với du lịch là một trong những

36

ngành ưu tiên phát triển các khoản đầu tư như thông tin trên trang web chính

thức của đầu tư ASEAN11. Tại Phụ lục Lộ trình hội nhập ngành du lịch của

Nghị định thư hội nhập ngành du lịch ASEAN, các nước thành viên ASEAN

đã thống nhất nội dung thực hiện các biện pháp xúc tiến và tạo thuận lợi chung

trong ASEAN hiệu quả hơn và phát triển các nguồn mới của đầu tư trực tiếp

nước ngoài vào nội khối, đặc biệt là các nước tiềm năng như Cộng hòa Nhân

dân Trung Hoa, Ấn Độ và Cộng hòa Hàn Quốc sẽ được Hội dồng Tư vấn kinh

doanh ASEAN (ASEAN-BAC) và ASEAN-CCI thực hiện một cách thường

d. Chất lượng nhân lực du lịch

Theo giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực của Trường Đại học kinh tế Quốc dân do

PGS.TS Trần Xuân Cầu và PGS.TS Mai Quốc Chánh chủ biên, in năm 2008 thì:

“Nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sang tạo ra của cải vật chất và

tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một

thời điểm nhất định.” Có thể hiểu, nguồn nhân lực là tổng hòa các tiêu chí bao gồm

thể lực, trí lực, và tâm lực từ đó tạo nên năng lực bản thân mỗi con người và được xã

hội tiếp nhận vào quá trình lao động, tạo ra của cải vật chất cho sự phát triển chung

của xã hội. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là tăng cường sức mạnh và kỹ

năng hoạt động sáng tạo của năng lực thể chất và năng lực tinh thần của người lao

động lên đến một trình độ nhất định để lực lượng này có thể hoàn thành được nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của một quốc

gia, một doanh nghiệp. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực chính là động lực trực tiếp

cho sự phát triển kinh tế -xã hội.

Khi AEC được thành lập, có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN

được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, bao

gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành

du lịch. Lực lượng lao động này đòi hỏi phải có chất lượng cao, đặc biệt là nguồn

11 Địa chỉ: http://investasean.asean.org là trang web chính thức về xúc tiến đầu tư của ASEAN bao gồm các cam kết, chính sách và tất cả các thông tin có liên quan về việc đầu tư vào các nước ASEAN.

37

xuyên

nhân lực phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông

thạo ngoại ngữ nhất là tiếng Anh sẽ được di chuyển tự do hơn.

Theo Nghị định thư hội nhập du lịch ASEAN, phát triển nguồn nhân lực với

nội dung: phát triển và nâng cao các kỹ năng và nâng cao năng lực thông qua

các hội thảo và chương trình đào tạo chung được Hội nghị Quan chức Cấp cao

về lao động (SLOM) chú trọng và triển khai thường xuyên12.

Theo thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau giữa các quốc gia về nghề du lịch trong

ASEAN đã quy định chi tiết về Bộ tiêu chuẩn chung về nghề du lịch trong

ASEAN, trong đó quy định cụ thể về năng lực chính, năng lực phổ thông, năng

lực chức năng; khung trình độ chuyên môn khu vực và hệ thống thừa nhận các

kỹ năng. Trong đó, đáng chú ý là Chương trình du lịch chung ASEAN

(CATC)13 là chương trình chung đã được phê duyệt cho Nghề Du lịch ASEAN

theo thỏa thuận lẫn nhau của các Bộ trưởng Du lịch ASEAN. CATC được lập

ra dựa trên 6 hình thức lao động (6 ngành): Front Office (bộ phận lễ tân),

Housekeeping (bộ phận buồng phòng), bộ phận bếp (nấu nướng), bộ phận ăn

uống, bộ phận đại lý và bộ phận tổ chức tour với khung chương trình đào tạo

được chia thành các loại cụ thể như sau:

Khung đào tạo CATC căn bản chia thành 3 loại như sau:

(1) Khung được định hướng theo các ngành công nghiệp - các đơn vị năng

lực và nội dung học cho mỗi đơn vị được quy định theo từng ngành: bằng cấp

khác nhau sẽ phù hợp với các ngành công nghiệp khác nhau. Điều này tránh

tình trạng làm trái ngành và mang lại lợi ích cho cả sinh viên và các ngành công

12 Theo mục IV – Phát triển nguồn nhân lực – Phụ lục về lộ trình hội nhập ngành du lịch, Nghị định thư Hội nhập ngành du lịch ASEAN. 13 Chương trình du lịch chung ASEAN (CATC) là chương trình chung đã được phê duyệt cho Nghề du lịch ASEAN theo thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau của các Bộ trưởng du lịch ASEAN theo đề nghị của các Cơ quan du lịch quốc gia ASEAN. Khái niệm này được xây dựng dựa trên một số sáng kiến, bao gồm chương trình hành động Viên Chăn (VAP), Hiệp định du lịch ASEAN (ATA) và lộ trìn Hội nhập ngành du lịch (RITS). CACT được liên kết với Khung trình độ chuyên môn khu vực và Hệ thống kỹ năng thừa nhận (RQFSRS).

38

nghiệp;

(2) Khung linh hoạt: cho phép sinh viên, các ngành công nghiệp và các nhà

cung cấp dịch vụ đào tạo sự linh hoạt trong việc lựa chọn các đơn vị cho từng

trình độ chuyên môn mà tùy vào từng bên liên quan. Các cá nhân có thể xác

định trên cơ sở từng trường hợp cụ thể mà pha trộn các học phần dựa theo thực

tế của đơn vị để đóng gói ra được một gói văn bằng hoàn chỉnh;

(3) Khung cấu trúc bền vững: Khung này là sự kết hợp hợp lý giữa các trình

độ với nhau: loại hình này tạo điều kiện cho sinh viên, người học nâng cấp trình

độ, di chuyển giữa các trình độ và cho phép sinh viên đạt được trình độ quản lý

Căn cứ vào mức độ của từng khung và các chỉ số đánh giá của từng mức độ

trong khung đào tạo CATC, để hội nhập vào Cộng đồng AEC và thực hiện các thỏa

thuận lẫn nhau về ngành Du lịch trong khối thì đòi hỏi công tác đào tạo nguồn nhân

lực du lịch của các nước thành viên phải đáp ứng được năng lực sử dụng ở mỗi cấp

độ cụ thể như trên.

39

cấp cao hơn trong khi vẫn tập trung vào hoạt động thực tiễn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian

Nations, viết tắt là ASEAN) là tổ chức liên chính phủ được thành lập ngày

8/8/1967 tại Bangkok, Thái Lan trên cơ sở Tuyên bố Bangkok với 5 thành viên

ban đầu, với mục tiêu tăng cường hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và văn hoá

- xã hội giữa các nước thành viên, tạo điều kiện hội nhập sâu hơn với khu vực

và thế giới. Qua quá trình phát triển, ASEAN đã mở rộng bao gồm 10 quốc gia

ở Đông Nam Á. Sau hơn 5 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh

thành một trở thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan

trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và là đối tác không

thể thiếu của các nước và các tổ chức lớn trên thế giới. Trên nền tảng đó,

ASEAN đã xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững mạnh dựa trên ba trụ cột

là Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội vào năm 2015.

- Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN nhằm mục tiêu tạo dựng một môi

trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua

việc nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia

và đóng góp xây dựng của cả các đối tác bên ngoài.

- Cộng đồng Kinh tế ASEAN nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung

duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của

hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và

thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo ra sự hấp dẫn với đầu tư-

kinh doanh từ bên ngoài.

- Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN với mục tiêu tổng quát là phục vụ

và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các

vấn đề liên quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi

40

trường, tác động của toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ.

Ngày 15/12/1995: Các nước ASEAN ký Hiệp định Khung về Dịch vụ của

ASEAN (AFAS). Hiệp định AFAS với các nội dung tương tự Hiệp định Chung

về Thương mại Dịch vụ của WTO làm tiền đề cho các vòng đàm phán từng

bước tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Từ 1996 – 2015:

Các nước ASEAN đã tiến hành đàm phán và đưa ra 9 Gói cam kết về dịch vụ,

6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính và 8 Gói cam kết về dịch vụ vận tải hàng

không.

Dịch vụ du lịch là dịch vụ nằm trong gói cam kết thứ 8 của ASEAN và là

ngành dịch vụ ưu tiên. Cách tiếp cận về mở cửa thị trường đối với dịch vụ du

lịch trong AFAS là AFAS đưa du lịch là một trong 6 dịch vụ ưu tiên phát triển

của khối; Thực hiện cách tiếp cận truyền thống giao thương hàng hóa dẫn tới

gia tăng phát triển dịch vụ có liên quan như giao thông, du lịch, logistics …

Trong chương 1, tác giả tập trung nghiên cứu Tổng quan về ASEAN với các

nội dung Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của ASEAN, Cơ cấu

tổ chức, Mục đích và nguyên tắc hoạt động, Vai trò của ASEAN; và Tổng quan

cơ chế hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN bao gồm các nội dung:

Khái quát quá trình hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN, Các nội

dung chính trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch ASEAN. Từ đó, tác

giả trình bày khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hợp tác phát triển dịch vụ du lịch

41

ASEAN và những đóng góp của Việt Nam tại các chương sau.

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ASEAN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ DU LỊCH

Trên cơ sở các nội dung chính hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch

ASEAN đã trình bày ở chương 1, mục này tác giả trình bày về khuôn khổ pháp

lý về hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN với các nội dung

chính như sau: Các cam kết, thỏa thuận trong cộng đồng ASEAN như Hiến

chương ASEAN, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, Hiệp định ASEAN về

du lịch, Nghị định thư hội nhập du lịch ASEAN, Hiệp định di chuyển thể nhân

và Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về hành nghề du lịch; Các cam kết, thỏa

thuận của ASEAN với một số đối tác ASEAN+1, ASEAN+3; và đánh giá tác

động của các cam kết, thỏa thuận đó đến quá trình hợp tác phát triển dịch vụ du

lịch của các quốc gia thành viên ASEAN.

2.1 Các cam kết, thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN

2.1.1 Hiến chương ASEAN

Hiến chương ASEAN là một văn kiện pháp lý quan trọng nhất của ASEAN,

được 10 quốc gia thành viên thông qua năm 2007, gồm Lời nói đầu và 13

Chương, 55 Điều, với các nội dung lần lượt là: Mục đích - Nguyên tắc hoạt

động; Tư cách pháp nhân; Quy chế thành viên; Cơ cấu tổ chức; Các thể chế

liên quan tới ASEAN; Các ưu đãi miễn trừ; Ra quyết định; Giải quyết tranh

chấp; Tài chính-ngân sách; Các vấn đề hành chính-thủ tục; Biểu trưng và Biểu

tượng; Quan hệ đối ngoại và Các điều khoản chung. Hiến chương ASEAN là

khung pháp lý cao nhất của pháp luật ASEAN, tất cả các hiệp định, các thỏa

thuận được ký kết giữa các thành viên ASEAN đều phải tuân thủ nguyên tắc đã

42

được ghi trong Hiến chương.

Nội dung Hiến chương có một số điểm đáng chú ý sau:

- Về Mục đích - nguyên tắc (Chương I): Khẳng định lại các mục đích và

nguyên tắc cơ bản của ASEAN, nhất là mục đích hòa bình, an ninh, ổn định và

hợp tác khu vực cũng như nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không

can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; đồng thời bổ sung một số mục đích

và nguyên tắc mới cho phù hợp với tình hình, trong đó có những mục tiêu về

liên kết ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển, hướng về nhân dân và vai trò

trung tâm của ASEAN ở khu vực, có nguyên tắc về việc các nước không tham

gia và không cho phép bất kỳ quốc gia/đối tượng nào được sử dụng lãnh thổ

của một nước thành viên để chống lại một nước thành viên khác.

- Về tính chất (Chương II):ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực liên

Chính phủ và có tư cách pháp nhân.

- Về cơ cấu tổ chức (Chương IV): Bộ máy chính sẽ bao gồm Hội nghị

Cấp cao (là cơ quan quyết định chính sách cao nhất, họp 2 lần một năm); 4 Hội

đồng cấp Bộ trưởng, trong đó 3 Hội đồng về từng trụ cột của Cộng đồng

ASEAN (Chính trị - An ninh, Kinh tế, Văn hoá - Xã hội) và 1 Hội đồng Điều

phối chung (gồm các Ngoại trưởng); các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành;

Ủy ban các Đại diện Thường trực của các nước tại ASEAN (CPR), thường trú

tại Gia-các-ta, In-đô-nê-xia; Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN;

Ban Thư ký ASEAN Quốc gia. Ngoài ra, ASEAN cũng sẽ lập Cơ quan nhân

quyền ASEAN và quy định Cơ quan này sẽ phải hoạt động phù hợp với Điều

khoản tham chiếu (TOR) do các Ngoại trưởng quyết định sau, trong đó xác định

rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc của Cơ quan này.

- Về cách thức ra quyết định (Chương VII): nguyên tắc chủ đạo là đồng

43

thuận; khi không đạt đồng thuận, Cấp cao sẽ quyết định về cách thức ra quyết

định phù hợp. Về thực thi các quyết định trong lĩnh vực kinh tế, có thể áp dụng

công thức linh hoạt ASEAN-X, theo đó sẽ cho phép các nước có điều kiện, thực

hiện việc mở cửa kinh tế, thị trường trước, nhưng phải trên cơ sở có đồng thuận

về việc áp dụng phương thức đó.

- Giải quyết tranh chấp, bất đồng (Chương VIII): thực hiện nguyên tắc

giải quyết hòa bình, thông qua thương lượng các tranh chấp, bất đồng giữa các

nước thành viên và dựa trên các thỏa thuận đã có của ASEAN. Trường hợp bất

đồng không giải quyết được hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương, vấn

đề sẽ được trình lên Cấp cao quyết định.

- Qui định về ký, phê chuẩn, hiệu lực và thực hiện (Chương XIII): Hiến

Chương ASEAN sẽ do những người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ nhân

danh Nhà nước các nước thành viên ký; Hiến chương sẽ phải được phê chuẩn

và sẽ có hiệu lực 30 ngày sau khi tất cả các quốc gia thành viên ASEAN phê

chuẩn. Hiến chương sẽ được xem xét, bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình

2.1.2 Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN

thực tế 5 năm một lần.

Ngày 15/12/1995: Các nước ASEAN ký Hiệp định Khung về Dịch vụ của

ASEAN (AFAS). Hiệp định AFAS với các nội dung tương tự Hiệp định Chung

về Thương mại Dịch vụ của WTO làm tiền đề cho các vòng đàm phán từng

bước tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN.

1996 – 2015: Các nước ASEAN đã tiến hành đàm phán và đưa ra 9 Gói cam

kết về dịch vụ, 6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính và 8 Gói cam kết về dịch vụ

vận tải hàng không.

AFAS được ký kết với mục đích thúc đẩy hợp tác trong nội bộ khu vực

44

ASEAN nhằm đảm bảo một khuôn khổ mậu dịch tự do cho thương mại dịch

vụ, điều này sẽ củng cố và đẩy mạnh thương mại dịch vụ giữa các nước thành

viên ASEAN. Đồng thời thể hiện mong muốn huy động các khu vực tư nhân

trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế của các nước thành viên ASEAN

nhằm cải thiện hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực dịch

vụ của các nước.

Nguyên tắc đàm phán: Đàm phán dịch vụ trong khuôn khổ AFAS được

thực hiện theo hình thức Chọn – Cho giống WTO, tức là tất cả các ngành/lĩnh

vực có cam kết mở cửa thì sẽ được đưa vào trong các Gói cam kết, còn trường

hợp không đưa vào là không có cam kết gì.

Mục tiêu tự do hóa trong khuôn khổ AFAS đã được nêu trong Kế hoạch

tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint). AEC Blueprint đặt ra các yêu cầu về

tự do hóa đối với cả 4 phương thức cung cấp dịch vụ là: Phương thức (1) –

Cung cấp dịch vụ qua biên giới, Phương thức (2) – Tiêu dùng ở nước ngoài,

Phương thức (3) – Hiện diện thương mại, và Phương thức (4) – Hiện diện thể

nhân. Tuy nhiên, các Gói cam kết trong khuôn khổ Hiệp định AFAS chỉ đề cập

đến 3 Phương thức 1,2,3 còn Phương thức 4 được tách ra đàm phán riêng trong

Hiệp định về di chuyển thể nhân ASEAN (MNP) vào năm 2012.

Đối với 3 Phương thức cung cấp dịch vụ 1,2,3, AEC Blueprint đặt ra mục

tiêu:

+ Đối với Phương thức 1 và 2: Không có hạn chế nào, ngoại trừ các

trường hợp có lý do hợp lý (như bảo vệ cộng đồng) và được sự đồng ý của tất

cả các Thành viên ASEAN trong từng trường hợp cụ thể.

+ Đối với Phương thức 3: Cho phép tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư

nước ngoài thuộc khu vực ASEAN trong các doanh nghiệp lên tới 70% vào

45

năm 2015 đối với tất cả các lĩnh vực và từng bước loại bỏ các rào cản khác.

Tuy nhiên, cho tới thời điểm 31/12/2015 thì các nước ASEAN vẫn chưa đạt

được đầy đủ các mục tiêu kể trên.

Dịch vụ du lịch là dịch vụ nằm trong gói cam kết thứ 8 của ASEAN và là

ngành dịch vụ ưu tiên. Cách tiếp cận về mở cửa thị trường đối với dịch vụ du

lịch trong AFAS là AFAS đưa du lịch là một trong 6 dịch vụ ưu tiên phát triển

của khối; Thực hiện cách tiếp cận truyền thống giao thương hàng hóa dẫn tới

gia tăng phát triển dịch vụ có liên quan như giao thông, du lịch, logistics …

Các cam kết cụ thể về dịch vụ du lịch trong AFAS:

1) Khách sạn và nhà hàng bao gồm:

- Dịch vụ xếp chỗ ở khách sạn (CPC 64110)

- Dịch vụ cung cấp thức ăn (CPC 642) và đồ uống (CPC 643).

Tiếp cận thị trường: (1) Không hạn chế (2) Không hạn chế (3) Không

hạn chế, ngoại trừ trong vòng 8 năm kể từ ngày gia nhập, việc cung cấp dịch

vụ cần tiến hành song song với đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo hoặc mua

lại khách sạn. Sau đó không hạn chế (4) Chưa cam kết, trừ các cam kết chung

Đối xử quốc gia: 1) Không hạn chế (2) Không hạn chế (3) Không hạn

chế (4) Chưa cam kết, trừ các cam kết chung.

2) Dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour (CPC 7471)

Hạn chế tiếp cận thị trường: (1) Không hạn chế (2) Không hạn chế (3)

Không hạn chế, ngoại trừ: Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép cung

cấp dịch vụ thông qua hình thức liên doanh với đối tác Việt Nam. Không hạn

chế tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh.

46

Đối xử quốc gia: (1) Không hạn chế (2) Không hạn chế

(3) Hướng dẫn viên du lịch trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

2.1.3 Hiệp định ASEAN về du lịch

phải là công dân Việt Nam

Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 ngày 4 tháng 11 năm 2001 tại Brunei,

các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã

quyết định ký kết một thỏa thuận ASEAN về du lịch. Hiệp định thừa nhận tầm

quan trọng chiến lược của ngành công nghiệp du lịch đối với sự tăng trưởng

bền vững kinh tế - xã hội của các nước thành viên ASEAN và sự đa dạng về

văn hóa, kinh tế và những lợi thế bổ sung trên toàn khu vực có lợi cho sự phát

triển du lịch của ASEAN trong việc đạt đến chất lượng cuộc sống, hòa bình và

sự phồn vinh của khu vực đã được cải thiện. Hiệp định bao gồm 12 Điều quy

định về Mục tiêu của Hiệp định; Tạo thuận lợi cho du lịch trong khu vực

ASEAN; Tiếp cận thị trường; Chất lượng du lịch; An toàn và an ninh du lịch;

Phối hợp tiếp thị và xúc tiến du lịch; Phát triển nguồn nhân lực du lịch ASEAN;

Giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên; và Hiệu lực của Hiệp định.

Hiệp định ASEAN về du lịch được coi là khung pháp lý quan trọng nhất

trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp tác phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn

khổ ASEAN. Hiệp định khẳng định lại cam kết đối với các quy định và nguyên

tắc của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ và chính sách của các nước

thành viên ASEAN với việc áp dụng các quy định và nguyên tắc của Hiệp định

vào công nghiệp du lịch và lữ hành. Hiệp định cũng nhấn mạnh sự cần thiết

phải tăng cường, đào sâu và mở rộng hợp tác về du lịch giữa các nước thành

viên ASEAN và giữa các khu vực tư nhân của các nước sau khi xem xét tính

chất bổ sung của những điểm du lịch của họ; nhấn mạnh sự cần thiết phải hợp

tác ASEAN giúp cho du lịch từ các nước vào ASEAN và trong phạm vi ASEAN

47

dễ dàng hơn, hiệu quả hơn. Cụ thể:

1) Hợp tác trong việc tạo điều kiện cho du lịch đến ASEAN và trong phạm vi

ASEAN;

2) Tăng cường hợp tác trong công nghiệp du lịch giữa các nước ASEAN nhằm

nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh;

3) Giảm thiểu đáng kể các hạn chế đối với Thương mại dịch vụ du lịch và lữ hành

giữa các nước thành viên ASEAN;

4) Thiết lập một mạng tich hợp các dịch vụ du lịch và lữ hành nhằm phát huy tối

đa tính hỗ trợ lẫn nhau của các điểm du lịch của khu vực;

5) Tăng cường phát triển và quảng bá ASEAN như một điểm đến du lịch thống

nhất với các tiêu chuẩn, thiết bị và các điểm tham quan đẳng cấp thế giới;

6) Tăng cường hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển nguồn nhân lực và tăng cường

hợp tác để phát triển, nâng cấp và mở rộng cơ sở vật chất và dịch vụ du lịch

và lữ hành trong ASEAN; và

7) Tạo điều kiện thuận lợi cho các lĩnh vực công cộng và tư nhân tham gia sâu

hơn vào phát triển du lịch, lữ hành trong nội bộ ASEAN và đầu tư vào các

dịch vụ và cơ sở vật chất đối với du lịch.

Mục tiêu của Hiệp định là:

Hiệp định cũng quy định các nước thành viên có trách nhiệm tạo điều kiện

1) Mở rộng việc miễn thị thực cho công dân của các nước thành viên ASEAN đi

lại trong khu vực trên cơ sở các thỏa thuận miễn thị thực song phương được

ký kết giữa các nước thành viên sẵn sang thực hiện;

2) Hài hòa các thủ tục cấp thị thực cho du khách quốc tế;

3) Loại bỏ dần các loại thuế du lịch đối với công dân các nước thành viên ASEAN

khi đi đến các nước thành viên khác

4) Khuyến khích viêc sử dụng thẻ thông minh đối với doanh nghiệp của ASEAN

và du khách thường xuyên và, khi thích hợp, đối với việc đi lại qua biên giới

48

cho du lịch trong khu vực ASEAN và du lịch từ ngoài vào ASEAN như sau:

trên cơ sở các hiệp định song phương ký kết giữa các nước thành viên sẵn sàng

thực hiện;

5) Tăng cường thông tin liên lạc với du khách quốc tế thông qua việc sử dụng

các biểu tượng chung và các dấu hiệu và hình thức đa ngôn ngữ; và

6) Đơn giản hóa quá trình cấp giấy tờ lữ hành và giảm dần các rào cản đối với du

lịch.

Phối hợp tiếp thị và xúc tiến du lịch được quy định cụ thể:

Các nước thành viên tăng cường phối hợp tiếp thị và xúc tiến du lịch từ

1) Hỗ trợ chiến dịch tham quan ASEAN yêu cầu các gói tour du lịch theo chủ

đề và các điểm hấp dẫn để khuyến khích du khách tập trung vào các lĩnh vực

quan tâm cụ thể;

2) Phát huy thiên nhiên, văn hóa và nghệ thuật đa dạng của ASEAN;

3) Tăng cường hợp tác giữa các tổ chức du lịch quốc gia ASEAN và các ngành

công nghiệp du lịch, đặc biệt là các hãng hàng không, khách sạn, khu du lịch,

đại lý lữ hành và nhà điều hành tour du lịch, trong việc tiếp thị và quảng bá

các tour du lịch xuyên quốc gia, bao gồm cả các khu vực tăng trưởng tiểu

vùng;

4) Kêu gọi các hang hàng không của các nước thành viên mở rộng các chương

trình quảng bá du lịch của họ;

5) Tổ chức sự kiện quảng bá rộng khắp ASEAN trong khu vực và ở nước ngoài;

6) Mở rộng và tăng cường hợp tác ASEAN trong các thị trường nước ngoài và

hội chợ du lịch và lữ hành – thương mại quy mô quốc tế;

7) Đẩy mạnh ASEAN trở thành một thương hiệu trên thị trường quốc tế;

8) Tăng cường hỗ trợ cho Diễn đàn du lịch ASEAN;

9) Thúc đẩy cơ hội đầu tư trong ngành công nghiệp du lịch của ASEAN;

10) Hợp tác trong việc sử dụng công nghệ thông tin trong ngành công nghiệp du

lịch và lữ hành – thương mại ASEAN; và

49

ngoài vào ASEAN và trong phạm vi ASEAN như sau:

11) Thúc đẩy quan hệ đối tác công – tư trong tiếp thị và xúc tiến du lịch trong hợp

tác với các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực và các cơ quan khác có liên quan.

Đối với việc phát triển nguồn nhân lực trong công nghiệp du lịch lữ hành,

các nước thành viên đã thống nhất nhiều nội dung quan trọng, là tiền đề cho

1) Xây dựng các thỏa thuận không hạn chế để cho phép các nước thành viên

ASEAN sử dụng các chuyên gia du lịch chuyên nghiệp và công nhân lành

nghề có sẵn trong khu vực trên cơ sở các thỏa thuận song phương;

2) Tăng cường chia sẻ các nguồn lực và cơ sở vật chất cho các chương trình giáo

dục và đào tạo về du lịch;

3) Nâng cấp các chương trình giáo dục và kỹ năng về nghề du lịch và xây dựng

tiêu chuẩn năng lực và thủ tục cấp giấy chứng nhận để cuối cùng đi đến sự

công nhận lẫn nhau về kỹ năng và trình độ trong khu vực ASEAN;

4) Tăng cường quan hệ đối tác công – tư trong phát triển nguồn nhân lực; và

5) Hợp tác với các nước, các nhóm nước và các tổ chức quốc tế khác trong việc

phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch.

các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong ASEAN sau này:

Chất lượng dịch vụ phải được các nước thành viên cam kết bảo đảm chất

1) Khuyến khích tất cả các cấp chính quyền và cộng đồng địa phương thực hiện

các chương trình nhằm đảm bảo việc bảo quản, bảo tồn và phát huy các di sản

thiên nhiên, văn hóa và lịch sử của các nước thành viên;

2) Khuyến khích du khách đến tìm hiểu, tôn trọng và giúp bảo tồn các di sản thiên

nhiên, văn hóa và lịch sử của các nước thành viên;

3) Khuyến khích khi thích hợp việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý môi trường

và các chương trình chứng nhận để thực hiện du lịch bền vững và để đánh giá

và giám sát tác động của du lịch đối với cộng đồng, văn hóa và thiên nhiên ở

địa phương, đặc biệt là ở các khu vực nhạy cảm về môi trường và văn hóa;

50

lượng với các nội dung:

4) Đẩy mạnh việc sử dụng các công nghệ thân thiện môi trường để bảo vệ và bảo

tồn các di sản thiên nhiên, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học và bảo vệ thực

vật và động vật cũng như vi sinh vật đang nguy cấp;

5) Tăng cường các biện pháp ngăn chặn các mối đe dọa liên quan đến du lịch và

hoạt động khai thác đối với các di sản văn hóa và tài nguyên thiên nhiên; và

6) Có biện pháp nghiêm khắc để ngăn chặn lạm dụng và bóc lột con người, đặc

biệt là phụ nữ và trẻ em, liên quan đến du lịch

An toàn và an ninh của du khách cũng được đề cập đến trong Điều 6 Hiệp

1) Đẩy mạnh hợp tác giữa cơ quan thực thi pháp luật về an toàn và an ninh du

lịch;

2) Tăng cường chia sẻ thông tin về các vấn đề nhập cư giữa các cơ quan thực thi

pháp luật;

3) Áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để đảm bảo thông tin liên lạc và hệ

thống hỗ trợ để đáp ứng các mối quan tâm của du khách.

định, các nước thành viên phải đảm bảo an toàn và an ninh của du khách:

Hiệp định cũng quy định mọi tranh chấp giữa các nước thành viên đối với

việc giải thích hoặc áp dụng, hoặc tuân thủ Hiệp định này hoặc bất kỳ Nghị

định thư đi kèm sẽ được giải quyết một cách hữu nghị bằng cách tham khảo ý

kiến. Nếu không thể giải quyết được, tranh chấp sẽ được giải quyết theo quy

định tại Nghị định thư về Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN ký ngày 20

2.1.4 Nghị định thư hội nhập ngành du lịch ASEAN

tháng 11 năm 1996 tại Manila, Philippines.

Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố hòa hợp Bali II) đã được thông

qua tại Bali, Indonesia ngày 7/10/2003, theo đó ASEAN cam kết hội nhập và

liên kết kinh tế nội bộ sâu hơn và rộng hơn, với sự tham gia của khu vực tư

nhân, nhằm thực hiện mục tiêu Cộng đồng kinh tế ASEAN. Các nước thành

viên ASEAN mong muốn rằng Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ đưa ASEAN trở

51

thành một thị trường và cơ sở sản xuất chung, biến sự đa dạng vốn là nét đặc

trưng của khu vực thành những cơ hội và sự bổ trợ về kinh doanh nhằm làm

cho ASEAN trở hành một mắt xích phát triển năng động và mạnh mẽ hơn trong

chuỗi cung cấp toàn cầu. Từ những mong muốn đó, các thành viên đã tiến hành

một vòng các cuộc đàm phán ban đầu và hoàn thành lộ trình hội nhập toàn diện

ngành du lịch trong ASEAN được quy định trong Nghị định thư hội nhập ngành

du lịch ASEAN, được ký kết ngày 29/11/2004.

Mục tiêu của Nghị định thư được đề cập đến ở Điều 1 là đề ra các biện

pháp được xác định trong Lộ trình hội nhập ngành du lịch, do các quốc gia

thành viên thực hiện trên cơ sở ưu tiên nhằm tạo thuận lợi cho việc hội nhập

từng bước, nhanh chóng và có hệ thống ngành du lịch.

Mục tiêu của Nghị định thư là đề ra các biện pháp được xác định trong

lộ trình được nêu tại Phụ lục 2 của Nghị định thư, do các quốc gia thành viên

thực hiện trên cơ sở ưu tiên nhằm tạo thuận lợi cho việc hội nhập từng bước,

nhanh chóng và có hệ thống ngành du lịch.

Nghị định thư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 31/08/2005. Ngoài thời điểm

hiệu lực đã xác định, các quốc gia thành viên cam kết sẽ thực hiện các nghĩa vụ

phát sinh trước ngày có hiệu lực của Nghị định thư phù hợp với các mốc thời

gian được nêu ra trong Hiệp định hung về Hội nhập các ngành ưu tiên và lộ

trình hội nhập Ngành du lịch kèm theo bản Nghị định thư này.

Các biện pháp hội nhập sẽ được thực hiện gồm hai nhóm lớn, có tính đến

các thỏa thuận hiện tại hoặc các biện pháp liên quan đã cam kết trước đây, cụ

 Các biện pháp chung liên quan đến tất cả các ngành ưu tiên; và

 Các biện pháp cụ thể liên quan trực tiếp đến ngành du lịch.

thể là:

52

Tất cả các nhóm biện pháp sẽ được thực hiện đồng thời.

Phạm vi ngành du lịch và các dịch vụ liên quan đến du lịch được xác

 Dịch vụ khách sạn và nhà hàng (bao gồm dịch vụ ăn uống) (Mã số phân loại

các sản phẩm chủ yếu: 641-643)

 Dịch vụ hoạt động du lịch và văn phòng du lịch (Mã số phân loại các sản phẩm

chủ yếu: 7471);

 Dịch vụ hướng dẫn du lịch (Mã số phân loại các sản phẩm chủ yếu: 7472);

 Các dịch vụ khác.

2.1.5 Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân

định trong phạm vi Nghị định thư để hội nhập là: (Phụ lục 1)

Với mục tiêu đầu tiên để hình thành một khu vực “Tự do trao đổi hàng hoá,

dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề” trong ASEAN, cộng đồng kinh tế

ASEAN (AEC) đã được thiết lập, trong đó, hợp tác dịch chuyển lao động nội

khối “Sự trao đổi doanh nhân, lao động có tay nghề và tài năng” được xem như

là một chìa khoá quan trọng trong hội nhập kinh tế của khu vực và là nhân tố

có tác động trực tiếp nhất của AEC. Theo đó, lao động trẻ, có trình độ thuộc

tám nhóm lĩnh vực nghề nghiệp gồm: hành nghề y khoa, nha sỹ, điều dưỡng,

kiến trúc sư, kỹ sư, kế toán-kiểm toán, giám sát viên (điều tra, khảo sát) và du

lịch sẽ được tự do di chuyển giữa các quốc gia.

Mục đích của hợp tác dịch chuyển lao động trong AEC hướng tới sự

phát triển bền vững nguồn lao động ASEAN trong đó:

– Về chính trị – an ninh: Tăng cường các động thái công lý với vấn đề

buôn người; Bảo vệ các nạn nhân của nạn buôn người.

– Về kinh tế: Tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động thông qua việc

cấp visa và giấy phép việc làm cho doanh nghiệp và các lao động có tay nghề;

Công nhận trình độ chuyên môn trên cơ sở thực hiện và phát triển MRAs (thỏa

53

thuận thừa nhận lẫn nhau); Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ;

Nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực cốt lõi trong các dịch vụ ưu tiên;

Tăng cường năng lực chương trình thị trường lao động.

– Về văn hóa – xã hội: Phát triển lao động, tạo vệc làm cho xã hội theo hướng

bền vững; Thúc đẩy và bảo vệ quyền cho người di cư lao động.

Về nguyên tắc, dịch chuyển lao động trong khu vực ASEAN không

vượt quá quy định nghĩa vụ chung của “Phương thức 4” (Hiện diện thể nhân)

về cung cấp dịch vụ của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ).

So với các khu vực khác, chế độ dịch chuyển lao động trong ASEAN

tương tự như cách tiếp cận của NAFTA (Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ),

nhưng phạm vi hội nhập khu vực, được đề ra có khác mục tiêu của NAFTA.

Nếu so sánh với hiệp định của EU và hiệp định MERCOSUR (các quốc gia

Nam Mỹ) nó vẫn còn khoảng cách với những cải cách tiến bộ về di cư lao động.

Không thể phủ nhận những nỗ lực được thực hiện bởi các nước thành

viên ASEAN trong việc hình thành cộng đồng chung, tạo những dấu một mốc

quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực ở Đông Nam Á và thực

hiện hợp tác dịch chuyển lao động trong khu vực. ASEAN đã ký kết các hiệp

định, thỏa thuận liên quan tới việc tạo điều kiện cho dịch chuyển lao động qua

biên giới.

Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân (MNP) được ký ngày

19/11/2012 tại Phnom Penh, Campuchia với mục tiêu dỡ bỏ đáng kể các rào

cản đối với việc di chuyển tạm thời qua biên giới của các thể nhân tham gia vào

thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các nước ASEAN.

Phạm vi áp dụng: Hiệp định này áp dụng đối với các quy định ảnh hưởng

tới việc di chuyển tạm thời qua biên giới của thể nhân của một nước ASEAN

sang lãnh thổ của nước ASEAN khác trong các trường hợp:

54

1) Khách kinh doanh (business visitors)

2) Người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp

3) Người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng

4) Một số trường hợp khác quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết

về Di chuyển thể nhân của mỗi nước đính kèm theo Hiệp định này.

Nội dung chính của thỏa thuận: Trình độ của người lao động trong lĩnh

vực du lịch của một nước ASEAN được một nước ASEAN khác công nhận, và

được làm việc tại nước đó với điều kiện:

- Người lao động làm việc trong một trong 32 lĩnh vực dịch vụ khách sạn

và lữ hành quy định trong Phụ lục đính kèm MRA-TP, trong đó không

bao gồm Hướng dẫn viên du lịch.

- Người lao động phải được đào tạo và có Chứng nhận trình độ du lịch

(còn hiệu lực) đáp ứng Tiêu chuẩn trình độ chung ASEAN về du lịch

(ACCSTP) và được cấp bởi một Hội đồng chứng nhận nghề du lịch tại

nước mình.

- Người lao động phải tuân thủ các quy định và pháp luật hiện hành của

nước sở tại.

Hiệp định không áp dụng đối với các quy định của một nước ASEAN liên

quan tới việc hạn chế tiếp cận thị trường lao động của người lao động các nước

ASEAN khác. Việc mở cửa thị trường lao động của mỗi nước chỉ áp dụng cho

các ngành nghề được quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết của nước đó

và thuộc một trong 4 trường hợp trên.

So sánh cam kết WTO và Pháp luật Việt Nam: Các cam của Việt Nam

trong MNP phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO và các quy định

pháp luật nội địa của Việt Nam

Hiệu lực: Hiệp định này hiện vẫn chưa có hiệu lực do một số nước ASEAN

55

chưa hoàn tất thủ tục phê chuẩn.

2.1.6 Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về hành nghề Du lịch (MRA-TP)

Một thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) là một thỏa thuận quốc tế được

xây dựng để thúc đẩy hội nhập kinh tế và tăng trưởng thương mại giữa các quốc

gia. Điều này đạt được bằng cách giảm các trở ngại pháp lý cho sự vận chuyển

của hàng hóa và dịch vụ.

MRA tạo thuận lợi cho thương mại vì chúng làm bằng phẳng con đường

đàm phán giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia có tiêu chuẩn, các thủ tục và các quy

định riêng của mình. Nếu thương mại là lưu thông tự do giữa các quốc gia thì

thỏa thuận có thể đạt được trên sự tương đương hoặc phù hợp giữa các quy

định, tiêu chuẩn và thủ tục. MRA là công cụ được sử dụng để đạt được thỏa

thuận như vậy. MRA trở nên quan trọng trong lĩnh vực đánh giá các tiêu chuẩn

tương đương giữa các đối tác đầu những năm 1980. MRA ban đầu có xu hướng

vận hành trên cơ sở song phương, tạo điều kiện cho thỏa thuận giữa hai quốc

gia mong muốn làm việc cùng nhau. Tuy nhiên, khi có quy mô lớn và phát triển

hơn, MRA trở nên phức tạp hơn, đối phó với các vấn đề thương mại đa phương,

lĩnh vực mà một số quốc gia cùng tham gia. Đây là trường hợp trong Liên minh

Châu Âu, APEC và cũng trong ASEAN nơi có 10 quốc gia tham gia. ASEAN

hiện nay có một loạt các MRA nhằm tìm kiếm sự phù hợp của các tiêu chuẩn

trong các lĩnh vực viễn thông, điều dưỡng và du lịch.

Đối với các Chính phủ, MRA bảo đảm cam kết và thỏa thuận cho thương

mại quốc tế và khuyến khích chia sẻ tốt kinh nghiệm và thông tin giữa các đối

 Giảm chi phí;

 Tăng khả năng cạnh tranh;

 Tăng khả năng thâm nhập thị trường; và

 Dòng chảy thương mại tự do hơn.

56

tác. Điều này có thể dẫn tới:

Đối với nghề du lịch và ngành công nghiệ Du lịch, MRA cung cấp những

 Tạo điều kiện thuận lợi cho tính di động của Ngành Du lịch dựa trên trình độ chuyên

môn/chứng nhận;

 Tăng cường tính phù hợp của năng lực dựa vào đào tạo/giáo dục;

 Thừa nhận các kỹ năng nghề Du lịch;

Mục đích của MRA đối với nghề du lịch là: MRA trong ASEAN dành cho nghề

du lịch (MRA- Nghề du lịch) nhằm tăng tính di động quốc tế của lao động du lịch

trong toàn khu vực ASEAN phù hợp với chính sách của các nước ASEAN. Mỗi quốc

gia ASEAN có tiêu chuẩn, chứng nhận và quy định riêng của mình để thừa nhận năng

lực của người lao động trong ngành du lịch. Vì vậy, ví dụ ở Indonesia, có một yêu

cầu cho một MRA để tạo điều kiện thuận lợi cho thỏa thuận về những gì tạo ra tính

tương đương về năng lực làm việc trong ngành du lịch của một lao động, người đang

tìm kiếm một vị trí tại Malaysia. MRA-Nghề du lịch do đó được xây dựng để:

a) Giải quyết những mất cân bằng giữa cung và cầu cho việc làm ngành du lịch

trong khu vực ASEAN; và

b) Thiết lập một cơ chế cho việc tự do di chuyển của lao động du lịch lành nghề

và được chứng nhận trên toàn khu vực ASEAN.

lợi ích sau đây:

a) Tạo điều kiện thuận lợi cho tính di động của ngành du lịch;

b) Khuyến khích trao đổi thông tin để triển khai hiệu quả nhất việc giáo dục và

đào tạo năng lực cơ sở cho các nghề du lịch; và

c) Tạo cơ hội hợp tác và xây dựng năng lực cho các nước thành viên ASEAN.

Mục tiêu của MRA- Nghề du lịch gồm 3 nội dung:

Trong khuôn khổ Diễn đàn du lịch ASEAN được tổ chức tại Việt Nam năm

2009 (ATF 09), Bộ trưởng du lịch 9 nước ASEAN đã ký Thỏa thuận thừa nhận

lẫn nhau về nghề du lịch ASEAN (vào thời điểm đó do chưa hoàn tất các thủ

tục trong nước nên riêng Thái Lan chưa ký kết để chính thức tham gia MRA).

57

Đây là cơ sở để ASEAN từng bước hài hòa tiêu chuẩn và chương trình đào tạo

nghề du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dịch chuyển, sử dụng lao động

nghề du lịch trong khu vực.

Thỏa thuận MRA gồm 9 điều, nội dung tập trung xác định các mục tiêu,

phạm vi, khuôn khổ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, nghề du lịch, cơ chế đăng

ký, thừa nhận lao động nghề du lịch trong khu vực ASEAN. Trên cơ sở đó góp

phần tự do hóa thương mại dịch vụ trong ASEAN, hướng tới xây dựng cộng

đồng ASEAN vào năm 2015. Để triển khai MRA, ASEAN sẽ phối hợp hình

thành khung Tiêu chuẩn nghề du lịch chung trong ASEAN; xây dựng Chương

trình đào tạo chung về du lịch, khung đào tạo và tài liệu đào tạo. Có 32 chức

danh công việc được đánh giá theo MRA, từ trực buồng, lễ tân, các dịch vụ ăn

uống, các bộ phận trong khách sạn cho tới các công ty lữ hành và các bộ phận

trực thuộc. Về mặt cơ chế, tổ chức, ASEAN sẽ thành lập Ủy ban giám sát nghề

du lịch ASEAN (ATPMC) với chức năng làm cơ quan đầu mối chia sẻ thông

tin giữa cơ quan du lịch quốc gia thành viên; duy trì cập nhật khung tiêu chuẩn

nghề du lịch; hình thành cơ chế triển khai MRA; trao đổi thông tin về hệ thống

đánh giá tiêu chuẩn nghề, tài liệu quy trình đánh giá tiêu chuẩn nghề. ATPMC

sẽ họp định kỳ vì vậy, dự kiến giúp việc cho ATPMC sẽ có một Ban thư ký. Về

tổ chức nhân sự, ATPMC sẽ có đại diện của cơ quan du lịch quốc gia thành

viên, Hội đồng nghề du lịch quốc gia ASEAN.

Trong phạm vi quốc gia, mỗi thành viên ASEAN sẽ phải hình thành Hội

đồng nghề du lịch quốc gia (NTPB) và Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch

(TPCB). Chức năng của Hội đồng nghề du lịch quốc gia bao gồm: xây dựng và

hoàn thiện cơ chế cần thiết để có thể triển khai MRA; nâng cao nhận thức và

phổ biến thông tin về Thỏa thuận này trong phạm vi cả nước; giới thiệu, cập

nhật và giám sát những yêu cầu tối thiểu của bộ tiêu chuẩn nghề trong dịch vụ

58

khách sạn và lữ hành (ACCSTP); thúc đẩy trao đổi thông tin liên quan hài hòa

hóa, cập nhật tiêu chuẩn nghề và chương trình giảng dạy của khu vực và/hoặc

quốc tế.

Trong khi đó, chức năng Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch bao gồm:

đánh giá trình độ, năng lực của người lao động du lịch được quy định trong yêu

cầu tối thiểu của bộ tiêu chuẩn nghề trong dịch vụ khách sạn và lữ hành

(ACCSTP); cấp giấy chứng nhận cho người lao động du lịch, những người có

trình độ, năng lực đáp ứng những tiêu chuẩn quy định trong ACCSTP; thực

hiện đăng ký cho người lao động du lịch đã được cấp bằng, chứng chỉ theo tiêu

chuẩn nghề chung ASEAN tại Trung tâm đăng ký lao động ASEAN-ATPRS;

thông báo cho NTPB trong trường hợp người lao động du lịch nước ngoài

không đủ tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ đặc biệt hoặc vi phạm kỹ thuật, nghề

nghiệp hoặc tiêu chuẩn đạo đức.

Cơ chế (mô hình) hoạt động trong khuôn khổ MRA trong tương lai như sau:

ASEAN từng bước hình thành khung Tiêu chuẩn nghề du lịch chung cho khu

vực; xây dựng Chương trình đào tạo, khung đào tạo và tài liệu đào tạo; thành

lập Ủy ban giám sát nghề du lịch ASEAN (ATPMC); hình thành Trung tâm

đăng ký lao động ASEAN-ATPRS, trên cơ sở tổ chức dữ liệu lao động nghề du

lịch trên trang website. Đối với phạm vi quốc gia, mỗi nước thành viên sẽ thành

lập TPCB và NTPB; tiến hành đào tạo và cấp chứng chỉ nghề du lịch (được

thừa nhận trong ASEAN). Những lao động được đào tạo và có chứng chỉ nghề

trên có thể đăng ký tại ngân hàng thông tin lao động trong ASEAN thông qua

Ủy ban giám sát nghề du lịch ASEAN (ATPMC) và Trung tâm đăng ký lao

động ASEAN - ATPRS. Như vậy, thông qua cơ chế triển khai MRA, khu vực

sẽ dần hình thành ngân hàng dữ liệu các lao động có tay nghề được đào tạo, cấp

59

chứng chỉ được thừa nhận phạm vi khu vực. Trên cơ sở đó, các nước, các cơ sở

kinh doanh du lịch ở các nước thành viên sẽ có thêm nhiều lựa chọn để tuyển

dụng, sử dụng lao động của khu vực khi có nhu cầu.

Ngày 9/11/2012 tại Bangkok, sau khi hoàn thành các thủ tục cần thiết, ông

Chumpol Silapa-archa, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Du lịch và Thể thao, thay

mặt Chính phủ Thái Lan đã chính thức ký kết, khẳng định cam kết tham gia

MRA của Thái Lan trong đại gia đình ASEAN. Tổng thư ký ASEAN khẳng

định việc Thái Lan ký kết MRA đánh dấu một cột mốc quan trọng của ASEAN

trong việc tạo được sự đồng thuận của tất cả các thành viên, và thành công trong

việc theo đuổi các sáng kiến quan trọng cho sự hội nhập của ASEAN.

2.2 Các cam kết, thỏa thuận giữa ASEAN và đối tác

2.2.1 ASEAN + 1

Hợp tác ASEAN – Nga: Liên bang Nga có quan hệ đối thoại với ASEAN

từ năm 1991; trở thành bên đối thoại đầy đủ của ASEAN năm 1996. Nhóm

Công tác Nga - ASEAN được thành lập năm 1997. Những lĩnh vực ưu tiên hợp

tác: khoa học - công nghệ; môi trường, phát triển nguồn nhân lực, tiếp xúc nhân

dân... Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN – Nga, Các nước thành viên ASEAN

và Cộng hòa liên bang Nga đã ký Hiệp định giữa các thành viên ASEAN và

Nga về hợp tác kinh tế và phát triển tại Kuala Lampur, Malaysia ngày

10/12/2005.

1) Nguyên tắc và mục đích hợp tác kinh tế và phát triển

2) Hợp tác kinh tế

3) Các lĩnh vực hợp tác: Doanh nghiệp vừa và nhỏ; Khoa học và Công nghệ;

Năng lượng; Sử dụng tài nguyên khoáng sản; Giao thông vận tải; Công nghệ

thông tin và truyền thông; Hợp tác phát triển nguồn nhân lực; Quản lý và bảo

vệ môi trường; Du lịch; Thể thao; Văn hóa.

60

Hiệp định bao gồm 11 Điều khoản, bao gồm các nội dung:

4) Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

5) Cơ chế hợp tác

6) Kinh phí

7) Các thỏa thuận khác

8) Bảo mật

9) Sửa đổi thỏa thuận

10) Hiệu lực, thời hạn và chấm dứt

Về lĩnh vực du lịch, các bên cam kết tăng cường và thúc đẩy hợp tác trong

1) Khuyến khích các cơ quan du lịch thiết lập liên lạc và tạo điều kiện hợp tác

trong lĩnh vực du lịch;

2) Khuyến khích các cơ quan du lịch tăng cường hợp tác về du lịch quảng cáo và

khuyến mãi nhằm mục đích thúc đẩy hơn nữa du lịch giữa các nước thành viên

ASEAN và liên bang Nga;

3) Nỗ lực để đơn giản hóa thị thực và các thủ tục khác cho khách du lịch là công

dân các nước thành viên ASEAN và Nga;

4) Khuyến khích sự tham gia của mỗi bên trong hội chợ triển lãm du lịch quốc tế

và quốc gia được tổ chức tại các quốc gia thành viên ASEAN và Nga;

5) Tạo điều kiện giao thông thuận lợi cho du lịch.

lĩnh vực du lịch, nhằm hướng đến các mục tiêu:

Hợp tác ASEAN - Ấn độ: Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Ấn Độ lần

thứ hai năm 2003, Hiệp định khung giữa ASEAN và Ấn Độ về Hợp tác kinh tế

toàn diện đã được ký kết bởi các lãnh đạo của hai bên. Hiệp định khung này đã

tạo tiền đề cho hai bên đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do về

hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Các quan hệ đối tác giữa các nước thành

viên ASEAN - Ấn Độ vì Thỏa thuận Hòa bình, Tiến bộ và chia sẻ Thịnh vượng

được ký bởi lãnh đạo của các Bên tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Ấn

61

Độ lần 3 được tổ chức vào ngày 30 – 11-2004 tại Vientiane đã đồng ý tạo điều

kiện thuận lợi cho việc đi lại và du lịch giữa các

Bên bằng cách phát triển các liên kết giữa các trung tâm du lịch để nâng

cao sức mạnh tổng hợp của các điểm đến du lịch, Kế hoạch hành

động ASEAN- Ấn Độ triển khai quan hệ đối tác ASEAN- Ấn Độ đối với Thỏa

thuận Hòa bình, Tiến bộ và chia sẻ thịnh vượng cho giai đoạn 2010-2015 được

thông qua tại hội nghị Thượng Đỉnh ASEAN-Ấn Độ 8 vào ngày 30 tháng mười

năm 2010 tại Hà Nội, Việt Nam, hỗ trợ tư vấn liên tục giữa ASEAN và Ấn

Độ nhằm thúc đẩy hợp tác du lịch. Thỏa thuận Du lịch ASEAN có chữ ký

của các nhà Lãnh đạo ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII tổ

chức vào ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Phnôm Pênh, Campuchia, đã đồng ý

hợp tác với các nước khác, các nhóm nước và các tổ chức quốc tế trong việc

phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.

Mục tiêu của Thỏa thuận là Các bên sẽ tuân theo các quy định của Bản ghi

nhớ này và pháp luật, quy tắc, quy định và chính sách quốc gia theo thời gian

hiệu lực ở từng nước riêng biệt, đã quyết định:

(1) hợp tác trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi

lại và thăm viếng du lịch;

(2) tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác du lịch chặt chẽ;

(3) tăng cường hỗ trợ lẫn nhau để phát triển nguồn nhân lực cho ngành

du lịch; và

(4) thực hiện các bước cần thiết để khám phá các cách hợp tác và chia sẻ

thông tin.

Lĩnh vực hợp tác du lịch giữa các nước thành viên ASEAN và Ấn Độ được

quy định trong thỏa thuận gồm 6 lĩnh vực: các Bên tương ứng sẽ theo pháp

62

luật trong nước, các quy tắc, quy định và chính sách quốc gia có hiệu lực

theo thời gian và quản lý các vấn đề ở nước mình, nỗ lực để có các bước cần

thiết để khuyến khích và thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực sau đây:

(1) Chia sẻ:

(a) thực hiện tốt nhất cho sự phát triển du lịch có trách nhiệm và bền

vững cũng như phát triển và cấu trúc của các gói du lịch chung để tăng

lượng khách du lịch giữa các Bên; và

(b) các nguồn lực và cơ sở vật chất để cung cấp hỗ trợ lẫn nhau trong lĩnh

vực giáo dục và đào tạo du lịch để phát triển du lịch chất lượng.

(2) Hỗ trợ và khuyến khích:

(a) sự tham gia của các bên liên quan tới du lịch tại các siêu thị du lịch,

triển lãm du lịch và lễ hội với sự nhấn mạnh về các điểm du lịch và các sản

phẩm của các Bên;

(b) tiếp thị du lịch chung và các hoạt động quảng bá, bao gồm cả các

hoạt động thực hiện bởi Chương Khuyến mại ASEAN cho Du lịch ở Ấn Độ

và các sáng kiến tương tự của Ấn Độ trong các nước ASEAN; và

(c) Khủng hoảng truyền thông để bảo vệ uy tín và độ tin cậy của các tổ

chức du lịch có liên quan và / hoặc địa điểm du lịch, bằng cách chủ động cung

cấp thông tin chính xác và kịp thời cho các bên liên quan.

(3) Thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi:

(a) cam kết của các dự án liên quan đến du lịch hoặc các hoạt động khác

có liên quan về các điều khoản hai bên đã đồng ý;

(b) đi lại và du lịch giữa các Bên thông qua việc quảng bá

63

chung và các tour du lịch trọn gói liên kết các điểm du lịch; và

(c) hợp tác giữa các Tổ chức Du lịch Quốc gia (sau đây

gọi là "TCDLQG”) của ASEAN (sau đây gọi

tắt là" ASEAN TCDLQG) và TCDLQG của Ấn Độ (sau đây gọi tắt là "Ấn

Độ TCDLQG ") (sau đây gọi chung là "ASEAN+ Ấn Độ TCDLQG) và ngành

công nghiệp du lịch, đặc biệt là các cơ quan du lịch và công ty lữ hành, các

hãng hàng không, khách sạn và khu nghỉ dưỡng.

(4) Trao đổi thông tin liên quan đến các số liệu thống kê

và chiến lược phát triển, cơ hội đầu tư và dữ liệu kinh tế trong lĩnh vực du

lịch, lữ hành và khách sạn có liên quan đến nhau;

(5) Phối hợp tổ chức hội thảo và các cuộc họp mặt trực tiếp, bất cứ nơi

nào có thể, với mong muốn thăm dò và thảo luận về các cơ hội và cách

thức mới cho sự phát triển và quảng bá du lịch; và

(6) Bất kỳ lĩnh vực hoặc hoạt động khác nhằm hợp tác du lịch được hai

2.2.2 ASEAN + 3

bên thoả thuận theo thời gian của các Bên.

ASEAN+3 (Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản): Hợp tác ASEAN +3 (Trung

Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) luôn được ASEAN chú trọng, phát triển dịch vụ

du lịch với các quốc gia Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản là một mục đích

quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch ASEAN. Trong khuôn khổ các

hoạt động của Diễn đàn Du lịch ASEAN 2016 tại Philippines, ngày 22/01/2016,

Bộ trưởng Du lịch các nước đã tiến hành lễ ký kết Bản ghi nhớ về tăng cường

hợp tác du lịch giữa các quốc gia ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Trong Bản ghi nhớ, các bên tham gia ghi nhận tiến trình mối quan hệ đối tác

ASEAN+3 trong những năm qua đã phát triển thành đối tác nhiều mặt và năng

động, góp phần vào hòa bình khu vực, hiểu biết lẫn nhau và giao lưu kinh tế

64

chặt chẽ hơn. Nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường, làm sâu sắc và mở rộng

sự hợp tác du lịch giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, Nhật

Bản và Hàn Quốc. Đồng thời, ghi nhận tầm quan trọng của ASEAN+3 như là

những đối tác và thị trường nguồn chính cho du lịch.

Trên cơ sở tuân thủ pháp luật, quy tắc, quy định và chính sách quốc gia

tại mỗi nước, các bên tham gia sẽ hợp tác hướng đến các mục tiêu:

(1) Thúc đẩy đi lại và lượng khách du lịch thăm lẫn nhau;

(2) Thúc đẩy phát triển du lịch chất lượng ở mức độ thích hợp thông qua

quảng bá các tiêu chuẩn quản lý môi trường và các chương trình chứng nhận

du lịch bền vững của ASEAN, tăng cường hợp tác cụ thể về du lịch sinh thái,

du lịch văn hóa, du lịch tàu biển, giao lưu thanh niên, phát triển nguồn nhân lực

du lịch, xúc tiến quảng bá du lịch chung và các biện pháp đảm bảo chất lượng

và an toàn cho du khách; và

(3) Thúc đẩy liên kết và tăng cường hợp tác giữa các cơ sở giáo dục và

đào tạo về trao đổi thông tin du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch, quản lý

truyền thông khủng hoảng và khuyến khích doanh nghiệp tham gia mối quan

hệ hợp tác này.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, các bên sẽ hợp tác trong các lĩnh vực:

Thứ nhất, các bên tham gia sẽ chia sẻ mô hình tốt về phát triển du lịch

có trách nhiệm, bền vững, xây dựng các chương trình tham quan du lịch trọn

gói chung nhằm gia tăng luồng khách giữa ASEAN+3; nguồn lực và các

phương tiện để hỗ trợ lẫn nhau trong giáo dục và đào tạo du lịch nhằm phát

triển du lịch có chất lượng.

Thứ hai, các bên sẽ hỗ trợ và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng

doanh nghiệp và các phân khúc du lịch khác vào các hội chợ, triển lãm và lễ

hội du lịch, trong đó tập trung vào các điểm du lịch và sản phẩm du lịch của

65

ASEAN+3; các hoạt động xúc tiến và tiếp thị du lịch chung, trong đó có các

hoạt động do Trung tâm ASEAN-Trung Quốc, Trung tâm ASEAN-Nhật Bản

và Trung tâm ASEAN-Hàn Quốc thực hiện; quản lý khủng hoảng nhằm bảo vệ

danh tiếng và uy tín của các tổ chức du lịch, điểm đến du lịch bằng cách cung

cấp các thông tin chính xác và kịp thời cho các chủ thể du lịch chính.

Thứ ba, các bên sẽ ủng hộ và thúc đẩy thực hiện các dự án liên quan đến

du lịch hoặc các hoạt động liên quan khác trên cơ sở cùng thống nhất thông qua

việc trao quyền cho các Trung tâm được thành lập bởi các Bên tham gia; đi lại

và du lịch giữa ASEAN+3 thông qua xúc tiến quảng bá chung và các chương

trình tham quan trọn gói liên kết các điểm đến du lịch; và hợp tác giữa các bên

tham gia và ngành du lịch, đặc biệt là cơ quan du lịch và các công ty lữ hành,

hàng không, khách sạn và khu nghỉ mát.

Cùng với đó, các bên sẽ trao đổi thông tin liên quan tới số liệu thống kê

du lịch và chính sách phát triển du lịch, các cơ hội đầu tư và số liệu kinh tế

trong đó có số liệu của ngành du lịch và lữ hành phù hợp; cùng tổ chức các hội

nghị chuyên đề, hội thảo, gặp gỡ trực tiếp nhằm tìm hiểu và thảo luận những

cơ hội và phương hướng mới cho phát triển và xúc tiến du lịch.

2.3 Tác động của các cam kết, thỏa thuận đến hợp tác phát triển dịch vụ

du lịch của các quốc gia thành viên ASEAN

a. Đối với người lao động trong ngành du lịch

Hiệp định Du lịch ASEAN năm 2002 (ATA) đã khẳng định nâng cấp giáo

dục, chương trình giảng dạy và các kỹ năng du lịch thông qua việc xây dựng

các tiêu chuẩn năng lực và các thủ tục chứng nhận nhằm công nhận lẫn nhau

về kỹ năng và văn bằng du lịch trong khu vực ASEAN. Bên cạnh đó, ATA

khuyến khích các quốc gia thành viên xây dựng và phê duyệt khung quốc gia

về văn bằng, năng lực và đào tạo. MRA - TP sẽ cung cấp cơ chế thỏa thuận tính

tương đương các thủ tục chứng nhận và bằng cấp du lịch trong khu vực

66

ASEAN. Khi điều này trở thành hiện thực, các quốc gia ASEAN sẽ thừa nhận

bằng cấp du lịch của nhau. Trên cơ sở đó khuyến khích mở cửa, tự do hóa thị

trường lao động du lịch của khu vực và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của ngành

du lịch tại mỗi quốc gia thành viên ASEAN. Từ năm 2015, bằng cấp của một

lao động du lịch nước ngoài có thể được công nhận bởi các quốc gia thành viên

ASEAN khác. Nếu như vậy, họ sẽ có đủ điều kiện để làm việc tại một nước sở

tại khi họ có chứng chỉ năng lực du lịch có giá trị đối với một chức danh công

việc cụ thể trong ngành du lịch theo CATC được Hội đồng chứng nhận nghiệp

vụ du lịch (TPCB) của một quốc gia thành viên ASEAN cấp. Tính đủ tư cách

để làm việc ở một quốc gia sẽ phụ thuộc vào pháp luật và các quy định hiện

hành trong nước của nước sở tại.

b. Đối với cơ sở giáo dục và đào tạo du lịch:

ASEAN đã thông qua hệ thống đào tạo CBT14/CBA15 cho phép các quốc gia

thành viên đào tạo người lao động mà ngành đang tìm kiếm và điều này gia

tăng cơ hội cho học viên có việc làm. CBA liên quan đến việc thu thập chứng

cứ và đánh giá mức độ người lao động có thể thực hiện nhiệm vụ theo tiêu

chuẩn năng lực cần thiết.

Các cơ sở giáo dục và đào tạo nên rà soát chương trình đào tạo và văn bằng

của họ để đảm bảo rằng chúng có thể được ASEAN công nhận. Họ cần thảo

luận với Hội đồng lao động du lịch quốc gia để xem xét xem các văn bằng hoặc

các chương trình đào tạo hiện tại phải điều chỉnh hoặc thay đổi như thế nào

nhằm đáp ứng các yêu cầu của ASEAN về thừa nhận văn bằng du lịch lẫn nhau.

Các cơ sở giáo dục và đào tạo có thể có mong muốn rằng một số giáo viên/đào

tạo viên của họ được tham gia chương trình đào tạo để trở thành thẩm định viên

14 CBT là chương trình đào tạo dựa trên năng lực 15 CBA, Sđd.

67

hoặc đào tạo viên về Tiêu chuẩn năng lực chung trong ASEAN đối với các lao

động du lịch. Điều này có thể mang lại những cơ hội kinh doanh mới cho các

68

cơ sở giáo dục và đào tạo khi MRA - TP có hiệu lực vào năm 2015.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Với mục đích đánh giá một cách cụ thể nhất về khuôn khổ pháp lý và

thực tiễn triển khai trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN,

tại chương 2 của luận văn, tác giả đã trình bày các nội dung về Các cam kết,

thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN về hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du

lịch, bao gồm các cam kết: Hiến chương ASEAN, Hiệp định khung về dịch vụ

ASEAN (AFAS), Hiệp định ASEAN về du lịch, Nghị định thư hội nhập ngành

du lịch ASEAN, Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân và Thỏa thuận thừa

nhận lẫn nhau về hành nghề du lịch.

Hiện nay, trong khuôn khổ hợp tác ASEAN +1, ASEAN duy trì quan hệ

với 10 đối tác gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, Nhật Bản, Ấn Độ,

Australia, Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU), Nga và New Zealand, trong phạm vi

của luận văn tác giả có trình bày một cách khái quát nhất hợp tác phát triển dịch

vụ du lịch giữa ASEAN – Nga, và ASEAN - Ấn Độ. Mối quan hệ đối tác

ASEAN+3 trong những năm qua đã phát triển thành đối tác nhiều mặt và năng

động, góp phần vào hòa bình khu vực, hiểu biết lẫn nhau và giao lưu kinh tế

chặt chẽ hơn. Các thành viên ASEAN nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường,

làm sâu sắc và mở rộng sự hợp tác du lịch giữa các quốc gia thành viên ASEAN

và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đồng thời, ghi nhận tầm quan trọng

của ASEAN+3 như là những đối tác và thị trường nguồn chính cho du lịch.

Trong chương 2 của luận văn, tác giả cũng trình bày thực tiễn triển khai

các cam kết hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN. Vai trò của

Việt Nam trong khuôn khổ hơp tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN và

một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của Việt Nam sẽ được tác giả trình

69

bày trong chương 3.

CHƯƠNG 3

ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT ASEAN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM

Hội nhập Cộng đồng ASEAN là bước ngoặt lớn với các nước thành viên,

mang lại cơ hội cũng như thách thức cho du lịch mỗi nước ASEAN và quá trình

hội nhập ngành du lịch trong khuôn khổ ASEAN có vai trò đặc biệt quan trọng

đối với du lịch Việt Nam. Với dân số hơn 500 triệu dân, các thị trường nguồn

du lịch thuộc khu vực ASEAN đóng góp khoảng 20% tổng số khách du lịch

quốc tế đến Việt Nam. Một số nước ASEAN như Thái Lan, Singapore,

Malaysia vừa là thị trường nguồn, vừa là cửa ngõ quan trọng đưa khách du lịch

quốc tế. Việc hội nhập ngành du lịch ASEAN có những tác động tích cực và

cũng có những khó khăn đến ngành du lịch Việt Nam. Tại chương 3 này, tác

giả sẽ trình bày về những thành tựu và thuận lợi khó khăn trong việc thỏa thuận

và thực hiện các cam kết của ASEAN về phát triển dịch vụ du lịch; nêu ra trò

của Việt Nam trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN và

một số khuyến nghị nhằm tăng cường vai trò của Việt Nam trong quá trình hợp

tác phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn khổ ASEAN.

3.1 Những thành tựu đã đạt được

3.1.1 Về tạo thuận lợi cho Du lịch trong ASEAN

Tạo thuận lợi cho Du lịch trong ASEAN được triển khai với 2 nội dung16:

1) Hài hòa hóa các thủ tục cấp thị thực cho khách du lịch quốc tế; và 2) Miễn

thị thực cho du lịch nội khối ASEAN của các công dân ASEAN.

Các nước thành viên ASEAN xác định mục tiêu miễn visa cho hoạt động đi

16 Mục II – Phụ lục về Lộ trình hội nhập ngành du lịch, Nghị định thư hội nhập ngành du lịch ASEAN.

70

lại trong nội khối ASEAN của công dân các nước ASEAN, thời hạn hoàn thành

vào năm 200517. Hiệp định khung ASEAN về miễn thị thực cho công dân các

nước thành viên đã được Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN ký trong

khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 39 tại Malaysia năm

2006. Hiệp định sẽ có hiệu lực sau khi được cả 10 quốc gia thành viên ASEAN

phê chuẩn. Các quốc gia thành viên ASEAN đã chính thức phê chuẩn Hiệp định

này và kể từ ngày 01/01/2016, quy định xuất nhập cảnh của công dân các nước

đi lại trong khối ASEAN chính thức có hiệu lực. Điều này có nghĩa công dân

của 10 nước ASEAN đi du lịch trong khu vực ASEAN chỉ cần hộ chiếu hợp lệ

và vé máy bay khứ hồi, không cần visa. Theo hiệp định này, hai tuần miễn thị

thực nhập cảnh cho công dân ASEAN đi du lịch trong khu vực sẽ tác động và

kích thích sự tương tác xã hội và thương mại trong và giữa các nước ASEAN.

Đối với khách du lịch quốc tế đến với ASEAN, thủ tục cấp thị thực cho

khách quốc tế đã được hài hòa hóa và các thành viên ASEAN đều xác định việc

cấp visa nhanh chóng là một yếu tố quan trọng giúp khách du lịch lựa chọn

ASEAN làm điểm đến du lịch cho mình. Một ý tưởng cấp visa du lịch chung

cho toàn bộ 10 nước ASEAN đã được đưa ra vào năm 2011. Tới Diễn đàn du

lịch ASEAN 2016 diễn ra tại Manila (Philippines) với sự tham gia của bộ

trưởng du lịch các nước trong khu vực, các chuyên gia khẳng định muốn phát

triển du lịch, trước hết cần phải tạo thuận lợi cho du khách đi lại trong khối, và

các nước đang triển khai nghiên cứu để có được một visa chung, giúp du khách

có thể đi đến bất kỳ nước nào chỉ với một visa duy nhất. Tuy nhiên, vì lý do an

ninh và vấn đề về nhập cư, việc thỏa thuận triển khai visa chung cho 10 nước

17 Khoản 2, Điều 11 Nghị định thư hội nhập các ngành ưu tiên trong ASEAN.

71

thành viên ASEAN vẫn chưa thống nhất.

3.1.2 Về thực hiện MRA-TP

Trong phụ lục Lộ trình hội nhập ngành du lịch của Nghị định thư hội nhập

ngành du lịch ASEAN, nội dung “Đẩy nhanh việc xây dựng các Thỏa thuận

thừa nhận lẫn nhau (MRAs) phải thực hiện trước thời hạn năm 2008. Thực tế,

các quốc gia thành viên ASEAN đã thỏa thuận và đi đến ký kết Thỏa thuận

MRA-TP đối với nghề du lịch đúng theo thời hạn đã đặt ra. MRA-TP đối với

nghề du lịch đã được hoàn thành nội dung vào tháng 1/2009, và được ký kết

vào ngày 9/11/2012. Thỏa thuận MRA-TP là khuôn khổ để so sánh khung trình

độ nghề du lịch ASEAN với khung trình độ của các quốc gia trong khu vực, từ

đó đánh giá và công nhận năng lực, trình độ của lao động du lịch theo chuẩn

mực chung của khu vực. Mục tiêu cuối cùng là tạo thuận lợi cho việc dịch

chuyển lao động và cân bằng cung – cầu nguồn nhân lực du lịch của các nước

thành viên. Như vậy, đối với các nước trong khu vực nói chung và Việt Nam

nói riêng, việc đào tạo năng lực nghề du lịch theo Khung trình độ chung hoặc

khung trình độ được chấp nhận trong ASEAN là điều kiện tiên quyết để thực

thi Thỏa thuận MRA-TP. Để triển khai thực hiện thỏa thuận này, các quốc gia

thành viên đã xây dựng được 6 bộ tiêu chuẩn nghề dành cho 6 nghề bao gồm

lễ tân, buồng, phục vụ nhà hàng, chế biến món ăn, điều hành du lịch đại lý lữ

hành trong ngành du lịch để làm tiêu chuẩn cho các nước thực hiện. Trong suốt

các năm qua, các nước thành viên ASEAN thông qua Ban Thư ký ASEAN và

sự hỗ trợ của Chính phủ Úc và các tổ chức quốc tế đã tích cực triển khai nhiều

hoạt động nhằm triển khai cụ thể từng mục tiêu đã xác định của MRA-TP. Đến

nay, các cơ sở hạ tầng nhằm hỗ trợ triển khai MRA-TP trong ASEAN đã được

hoàn tất.

3.2.1 Đối với hoạt động triển khai thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau

72

3.2. Những hạn chế còn tồn tại

Nhóm công tác ASEAN về Phát triển Nhân lực Du lịch đã xây dựng Khung

các tiêu chuẩn năng lực tối thiểu cần thiết đối với người lao động du lịch. Các

tiêu chuẩn được xây dựng dựa trên các năng lực cần thiết để thực hiện các chức

danh công việc đã được thống nhất thuộc phân ngành lao động đại lý lữ hành,

điều hành tour, buồng phòng, lễ tân, dịch vụ ăn uống, chế biến món ăn. Các

tiêu chuẩn năng lực tối thiểu cần thiết cho từng chức danh công việc đã được

quyết định trên cơ sở sau đây:

i. So sánh với thực hành tốt nhất được công nhận ở tầm quốc tế;

ii. Là mẫu số chung tốt nhất hoặc ngôn ngữ chung để thúc đẩy lợi ích của

cộng đồng ASEAN;

iii. Chỉ nên bao gồm các năng lực hiện tại, phù hợp và có thể áp dụng đối

với nhiều quốc gia thành viên;

iv. Mỗi quốc gia thành viên hoặc phân ngành lao động có thể lựa chọn thêm

các năng lực bổ sung nếu thấy cần thiết để phù hợp với yêu cầu của nước

mình.

Tuy nhiên, từ năm 2016 MRA-TP có hiệu lực đến nay, quá trình xây dựng

khung năng lực và quá trình công nhận bằng cấp của người lao động phù hợp

với khung năng lực đó còn gặp rất nhiều khó khăn do các quốc gia thành viên

vẫn chưa thực sự liên kết chặt chẽ với nhau để công nhận chuẩn khung năng

lực; quá trình thẩm định năng lực của người lao động để được công nhận bằng

cấp trên toàn ASEAN vẫn còn diễn ra rất ít và vẫn chưa có một chuẩn chung

áp dụng để đánh giá bằng cấp của người lao động tại cơ sở đào tạo này có đạt

chuẩn theo khung năng lực chung hay không.

3.2.2 Đối với hoạt động xúc tiến du lịch

Đối với hoạt động thực thi các cam kết hợp tác phát triển du lịch ASEAN

của các nước thành viên, việc tiếp thị nhằm tăng khả năng tiếp cận với hình ảnh

73

du lịch Đông Nam Á (ASEAN) vẫn còn một số hạn chế sau:

Dù đã tiến hành một số hoạt động đáng kể và các dự án cụ thể do Nhóm

công tác tiếp thị và truyền thông du lịch Asean (MCWG) thực hiện, cần lưu ý:

 Vẫn thiếu các nghiên cứu thị trường hướng dẫn việc phát triển sản phẩm,

bao bì, giá cả, phân phối và xúc tiến.

 Cần phối hợp tốt hơn các hoạt động của PDWG và của MCWG về chức

năng tiếp thị và để đảm bảo rằng kết hợp được các hoạt động này trong chiến

lược và kế hoạch tiếp thị.

 Các danh sách điểm đến/ tuyến/ hành lang khu vực và tiểu vùng hiện tại

và chủ đề sản phẩm liên quan cần phải được tăng cường với các điểm đến/ hành

lang và các sản phẩm liên quan phù hợp hơn với những vùng kém phát triển

của khu vực, đặc biệt là nơi có nhiều người nghèo của ASEAN sinh sống.

3.2.3 Đối với đầu tư về du lịch

Trong năm 2008, một bộ Hướng dẫn Đầu tư Du lịch ASEAN đã được xây

dựng nhằm cung cấp các bản tóm các chính sách, pháp luật và các ưu đãi trên

toàn các quốc gia thành viên. Trang web http://investasean.asean.org/ đóng vai

trò trung tâm, nơi các nhà đầu tư có thể truy cập thông tin về các cơ hội đầu tư

rộng rãi vào du lịch ASEAN, hiện chỉ giới hạn trong ASEAN 5 và tập trung

phần lớn vào cơ sở hạ tầng, công viên giải trí và khu vui chơi. Có những cơ hội

lớn hơn để làm tăng mức đầu tư trong ASEAN và trong ngành du lịch ASEAN

thông qua định vị và xúc tiến của các cơ hội đầu tư vào các cụm điểm đến hoặc

cụm hành lang. Về chính sách đầu tư và khuôn khổ pháp lý của ASEAN như

một trung tâm sản phẩm và điểm đến du lịch duy nhất, có sự khác biệt đáng kế

giữa các nước, do đó dẫn đến việc thực hiện đầu tư qua biên giới cồng kềnh,

74

bất tiện, không an toàn và tốn kém.

3.3 Định hướng và giải pháp hoàn thiện khung pháp luật ASEAN về hợp

tác phát triển dịch vụ du lịch

Từ những thành tựu và hạn chế còn tồn tại trong việc hợp tác quốc tế phát

triển dịch vụ du lịch của ASEAN đã phân tích ở mục trước, mục này tác giả tập

trung nghiên cứu triển vọng và xu hướng hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du

lịch của ASEAN; và Phương hướng và giải pháp hoàn thiện khung pháp luật

ASEAN về hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch.

3.3.1 Triển vọng và xu hướng hợp tác phát triển dịch vụ du lịch của

ASEAN

Trong những năm qua, số lượng các khu di sản thế giới được UNESCO công

nhận đã không ngừng tăng lên và đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội, du

lịch, đem lại lợi ích đầy hứa hẹn cho cộng đồng, doanh nghiệp, từ các công ty

đa quốc gia, đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các tổ chức và các cá nhân.

ASEAN là khu vực chứa đựng nhiều di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới và

đã trở thành những điểm đến du lịch hấp dẫn toàn cầu. Văn phòng đại diện

UNESCO tại Việt Nam tổ chức Hội nghị Du lịch ASEAN ngày 16/01/2019 với

chủ đề “Kết nối di sản phát triển du lịch ASEAN trong thời đại số”. Các nước

thành viên ASEAN xác định sự sáng tạo, thúc đẩy khám phá, cùng với những

cam kết mạnh mẽ đối với bảo tồn, kết nối và phát huy giá trị di sản sẽ là những

tiền đề để tạo ra liên kết mới phát triển du lịch di sản ASEAN, góp phần vào sự

thịnh vượng của các nước thành viên. Tại Hội nghị, các nước thành viên

ASEAN đã thống nhất các nội dung về xu hướng phát triển du lịch ASEAN

trong thời gian tới như sau:

1) Khẳng định vai trò của các di sản thế giới trong phát triển kinh tế - xã hội

75

và phát triển du lịch của ASEAN;

2) Ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích phát triển du lịch di sản

trên nền tảng phát triển của công nghệ số trong thời đại của cuộc Cách mạng

công nghiệp 4.0;

3) Mong muốn phát triển và thúc đẩy sự sáng tạo, đổi mới, kết nối giá trị di

sản chung của khu vực, tạo dựng sức mạnh của sự thống nhất trong ASEAN;

4) Kết nối di sản, phát triển du lịch sáng tạo, du lịch khám phá, nhiều trải

nghiệm cùng với những cam kết mạnh mẽ về bảo tồn trên cơ sở ứng dụng

thành tựu công nghệ mới chính là chìa khóa cho sự trường tồn của các di

sản, giữ gìn và phát huy các giá trị di sản thế giới của ASEAN.

Năm 2019, chủ nhà Việt Nam18 trên cơ sở thỏa thuận với các nước thành

viên đã đưa ra sáng kiến về kết nối di sản của ASEAN trong kỉ nguyên số nhằm

thúc đẩy mạnh mẽ việc thu hút khách đến khu vực ASEAN. Nội khối ASEAN

đã có 32 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Việc kết nối các

di sản này trong kỉ nguyên số là tiếp nối ý tưởng từ Hội nghị Diễn đàn Kinh tế

Thế giới về ASEAN (WEF-ASEAN) năm 2018 với thông điệp xuyên suốt

“Cách mạng công nghiệp 4.0 là tương lai của ASEAN”.

Việt Nam có thế mạnh về di sản và đang trong qua trình thực hiện cách

mạng 4.0 nên tranh thủ xu hướng này để dẫn dắt câu chuyện hợp tác trong

ASEAN về du lịch. Nếu kết nối được du lịch thông minh với di sản trong

ASEAN, đây là một điều gợi ra triển vọng hợp tác trong thời gian tới, nhất là

năm 2020 Việt Nam đảm nhiệm cương vị Chủ tịch ASEAN. Việc kết nối giữa

doanh nghiệp du lịch của Việt Nam và ASEAN với doanh nghiệp du lịch từ các

thị trường, nguồn khách trên thế giới được tăng cường sẽ tạo tiền đề tăng trưởng

hơn nữa luồng khách du lịch trong nội khối ASEAN và từ các thị trường nguồn

18 Việt Nam là chủ nhà tổ chức Diễn đàn du lịch ASEAN (ATF) 2019.

76

khác tới khu vực. [13, tr63]

Các nội dung được thảo luận tại diễn đàn tập trung vào 03 nội dung lớn, và

đây cũng chính là 03 nội dung được tập trung triển khai đã được xác định trong

nội dung Kế hoạch chiến lược du lịch ASEAN giai đoạn 2016- 2025:

1) Tiêu chuẩn hóa, phát triển nguồn nhân lực du lịch; nâng cao năng lực cạnh

tranh và phát triển du lịch bền vững, bao trùm. Trong đó, có tăng cường sự

tham gia và hưởng lợi của cộng đồng, khu vực tư nhân trong phát triển du

lịch; bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động du lịch;

2) Thúc đẩy các biện pháp quản lý điểm đến, phát triển du lịch di sản; triển

khai các giải pháp phát triển du lịch ứng phó với biến đổi môi trường và khí

hậu;

3) Đẩy mạnh phát triển du lịch cho mọi người…

3.3.2 Phương hướng và giải pháp hoàn thiện khung pháp luật ASEAN về

hợp tác phát triển dịch vụ du lịch

Về việc tạo thuận lợi cho Du lịch trong ASEAN:

Để khuyến khích khách du lịch lựa chọn sản phẩm khu vực ASEAN thay vì

các lựa chọn khác và ở lại lâu hơn và chi tiêu nhiều hơn trong khu vực, điều

quan trọng là phải phát triến du lịch qua biên giới và chi phí cạnh tranh không

chỉ thông qua những điểm đến được kết nối bằng đường hàng không, đường

biển và đường bộ mà còn thông qua việc thực hiện các chính sách và thủ tục

kiểm soát biên giới. Hầu hết các quốc gia thành viên ASEAN tiếp tục yêu cầu

thị thực của công dân của các nước ngoài ASEAN cũng như của một số công

dân ASEAN. Điều này làm cho các chuyến đi nhiều nước - đặc biệt là các thị

trường du lịch đường dài - tốn kém và bất tiện, làm giảm khả năng cạnh tranh

về giá cả của các khu vực là một điểm đến và tác động xấu đến mục tiêu phát

77

triển kinh tế toàn diện.

Mặc dù việc cung cấp các dịch vụ hải quan qua biên giới, xuất nhập cảnh,

kiểm dịch và các dịch vụ an ninh (CIQS) không nằm trong tầm nhìn của các

NTO ASEAN và các nhà quản lý điểm đến ASEAN, nhưng cần thông qua một

chiến lược kết hợp giữa các NTO và các cơ quan CIQS quốc gia có trách nhiệm

để hướng tới một hệ thống kiểm soát biên giới hội nhập hơn cũng như phục vụ

nhu cầu du lịch điểm đến đa quốc gia du lịch, điểm đến của các thị trường du

lịch đường dài.

Về nâng cao chất lượng nhân lực du lịch:

Một thách thức lớn nhất hiện nay của ngành du lịch các nước thành viên

ASEAN là chưa có được nguồn nhân lực du lịch đạt chuẩn theo tiêu chuẩn năng

lực chung của ASEAN về nghề du lịch.

Các nước thành viên ASEAN cần cấp thiết xây dựng khung chương trình

đào tạo theo thỏa thuận MRA-TP đã ký kết. Việc xây dựng khung chương trình

đào tạo cần được tính đến yếu tố hội nhập và chênh lệch trình độ giữa các quốc

gia thành viên để đảm bảo các chương trình khung đào tạo phù hợp với chuẩn

mực đào tạo theo ASEAN. Theo đó, cần liên kết chặt chẽ giữa các nước để xây

dựng dược một tiêu chuẩn chung về các nghề hội nhập, để từ đó mỗi quốc gia

xây dựng cho mình khung chương trình đào tạo phù hợp, hạn chế tối đa .

Để nâng cao chất lượng đào tạo du lịch, cần có cơ chế khuyến khích đào tạo

du lịch giữa các nước thành viên. Đây là phương thức quan trọng để nâng cao

năng lực của các cơ sở đào tạo và cũng là cách để giảm sự chênh lệch trình độ

giữa các quốc gia thành viên.

3.4. Một số khuyến nghị nâng cao vai trò của Việt Nam trong hợp tác

phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN

Du lịch Việt Nam bắt đầu tìm hiểu và tham gia các cơ chế hợp tác từ cuối

78

những năm 1990, sau khi gia nhập ASEAN (1995). Việt Nam từng bước tham

gia đầy đủ các hoạt động trong các nhóm/tiểu ban công tác du lịch từ đầu những

năm 2000 và chủ động hội nhập từ cuối những năm 2000. Từ khi gia nhập

ASEAN đến nay, Việt Nam là một thành viên luôn tích cực trong công tác xây

dựng và thực hiện các cam kết hợp tác phát triển dịch vụ du lịch; Và quá trình

hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch ASEAN cũng có những tác động tích

cực đến ngành du lịch Việt Nam.

3.4.1. Những tác động của quá trình hợp tác phát triển du lịch ASEAN

đến Việt Nam

Qua quá trình hợp tác lâu dài cũng như những kết quả và lợi ích mang

lại, có thể khẳng định rằng ASEAN cũng như AEC có vai trò đặc biệt quan

trọng đối với Du lịch Việt Nam. Trong những năm qua, các thị trường nguồn

du lịch thuộc khu vực ASEAN đóng góp một lượng rất lớn khách du lịch quốc

tế đến Việt Nam. Một số nước ASEAN như Thái Lan, Singapore, Malaysia vừa

là thị trường nguồn, vừa đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng để khách du lịch

quốc tế đến Việt Nam. Hợp tác du lịch với các nước ASEAN là quan hệ cùng

có lợi khi các nước cùng hợp tác, bổ sung cho nhau về tất cả các khía cạnh

trong phát triển du lịch, hỗ trợ nhau đồng thời cũng là hỗ trợ chính mình. Tuy

nhiên, đây là quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, theo đó lợi ích đối với mỗi

nước phụ thuộc vào nỗ lực và khả năng của từng nước. Mặc dù vậy, lợi ích của

nước này không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác mà ngược lại tạo

cơ hội cho các nước khác.

Mặt khác, quá trình hợp tác để hình thành AEC đã góp phần nâng cao sự

hiện diện và uy tín của Du lịch Việt Nam trong khu vực. Đồng thời, Du lịch

Việt Nam được tiếp cận nhiều thông tin và bài học kinh nghiệm quý báu về

phát triển du lịch và nhận được sự hỗ trợ tích cực của các nước có ngành Du

lịch phát triển hơn như Thái Lan, Malaysia, Singapore… AEC đã góp phần

79

quan trọng vào việc thực hiện yêu cầu “gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị

trường du lịch khu vực và thế giới” như Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đề ra.

Hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch ASEAN mang lại những tác

động tích cực đối với Du lịch Việt Nam đồng thời tạo ra một môi trường cạnh

tranh khốc liệt hơn trong lĩnh vực du lịch, trong đó việc phát huy những tác

động tích cực của quá trình hội nhập sẽ quyết định hiệu quả của quá trình hội

nhập du lịch trong AEC. Những tác động trên một số lĩnh vực du lịch chủ đạo

được khái quát như sau:

 Do yêu cầu của quá trình hội nhập du lịch trong AEC và các cơ chế hợp tác

phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN mà Việt Nam tham gia, hệ thống các

văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến phát triển du lịch như các quyết

sách và giải pháp ưu tiên phát triển du lịch của Chính phủ, các chính sách

nới lỏng về thị thực nhập cảnh và tạo điều kiện thuận lợi đi lại trong ASEAN,

chính sách tạo môi trường đầu tư tại Việt Nam minh bạch, thông thoáng hơn

và các vấn đề phối hợp liên ngành đã được cải thiện đáng kể và cơ bản đáp

ứng được yêu cầu của hội nhập khu vực ASEAN.

 Nhìn chung, hội nhập về sản phẩm du lịch trong ASEAN đã góp phần đa

dạng hóa các sản phẩm du lịch Việt Nam hiện nay và tranh thủ được các

nguồn khách nối tour trong khu vực để qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của

du lịch khu vực ASEAN nói chung và khả năng kết nối khách giữa Việt

Nam với các nước trong khu vực và ngược lại. Mặt khác, chất lượng sản

phẩm, dịch vụ du lịch của Việt Nam cũng đã tăng lên rõ rệt, đáp ứng được

yêu cầu của khách du lịch trong và ngoài khu vực ASEAN về cơ sở vật chất

kỹ thuật dịch vụ lưu trú du lịch, chất lượng dịch vụ, chất lượng và sự đa

dạng của ẩm thực trong sản phẩm du lịch, đặc biệt là đối với phân đoạn thị

80

trường chất lượng cao, tập trung ở các trung tâm du lịch lớn trong nước.

 Việt Nam đã tranh thủ được khá tốt hiệu quả xúc tiến quảng bá du lịch trong

khu vực để thu hút khách du lịch đến Việt Nam do tham gia đầy đủ các hoạt

động xúc tiến quảng bá du lịch chung trong ASEAN. Hình ảnh và vị thế của

Du lịch Việt Nam trong khu vực ASEAN được nâng lên do sự chủ động tổ

chức và khởi xướng các sự kiện, hoạt động xúc tiến du lịch liên kết với các

nước ASEAN. Thương hiệu quốc gia từng bước được cải thiện do các hoạt

động tích cực của ngành Du lịch và các hoạt động xúc tiến quảng bá.

 Triển khai MRA-TP là cơ hội rất tốt để Du lịch Việt Nam có động lực nâng

cao chất lượng nhân lực du lịch trong nước đủ điều kiện làm việc hiệu quả

tại các nước khác trong khu vực đồng thời cũng góp phần giải quyết vấn đề

thiếu hụt lao động trong bối cảnh phát triển nhanh của du lịch trong nước,

tranh thủ được nguồn lao động chất lượng cao trong khu vực. Bên cạnh việc

các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm hơn tới công tác đào tạo nhân lực của

mình thì khối các cơ sở đào tạo về du lịch cũng đã không ngừng cải tiến,

nâng cao chất lượng đào tạo du lịch góp phần phát triển liên tục nguồn nhân

lực du lịch Việt Nam trong thời gian qua, cơ bản đáp ứng được yêu cầu về

số lượng và từng bước cải thiện chất lượng phù hợp với nhu cầu hội nhập

khu vực ASEAN.

 Đối với các doanh nghiệp du lịch, các doanh nghiệp lữ hành ngày càng lớn

mạnh về số lượng, đa dạng về loại hình, cải thiện chất lượng, phù hợp với

trình độ phát triển và nhu cầu trong khu vực ASEAN, một số doanh nghiệp

lớn đã từng bước khẳng định được thương hiệu trong khu vực trên cơ sở sự

đa dạng của sản phẩm và đảm bảo về chất lượng. Các cơ sở lưu trú du lịch

(CSLTDL) được đầu tư phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về loại hình

dịch vụ, chất lượng được nâng lên tầm khu vực ở nhiều phân khúc đã góp

phần tạo nên sức hấp dẫn chung của sản phẩm du lịch ASEAN và Việt Nam

81

nói riêng. Năng lực cạnh tranh trong khu vực của các doanh nghiệp du lịch

Việt Nam cũng được nâng lên trên cơ sở sự liên kết phát triển sản phẩm du

lịch theo mô hình Lữ hành - Hàng không - Khách sạn. Các loại hình doanh

nghiệp khác tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch như

vận chuyển (hàng không, đường bộ, đường biển, đường thủy), nhà hàng

cung cấp dịch vụ ăn uống, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vui chơi giải

trí… ngày một gia tăng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu kết nối giữa Việt Nam

với các nước trong khu vực ASEAN cũng như góp phần đảm bảo năng lực

cung ứng dịch vụ du lịch và gia tăng tính hấp dẫn, đa dạng của sản phẩm,

dịch vụ du lịch khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. [16,tr75]

3.4.2. Đóng góp của Việt Nam trong tiến trình xây dựng các cam kết hợp

tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN

Du lịch Việt Nam bắt đầu tìm hiểu và tham gia các cơ chế hợp tác từ cuối

những năm 1990, sau khi gia nhập ASEAN (1995). Việt Nam từng bước tham

gia đầy đủ các hoạt động trong các nhóm/tiểu ban công tác du lịch từ đầu những

năm 2000 và chủ động hội nhập từ cuối những năm 2000. Đối với các cam kết

về thị trường, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các cam kết đối với các lĩnh vực

khách sạn, dịch vụ xếp chỗ ở khách sạn, dịch vụ phục vụ ăn uống và kinh doanh

lữ hành quốc tế. Năm 2009, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị

Bộ trưởng Du lịch và Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) - sự kiện lớn nhất trong

năm của du lịch ASEAN và gần đây nhất là Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF)

lần thứ 19 năm 2019 đã được tổ chức thành công tại Hạ Long, Quảng Ninh.

Đối với các lĩnh vực cụ thể, Việt Nam đã ký Thỏa thuận thừa nhận lẫn

nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) (tại ATF 2009, tại Hà Nội) để

làm cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch ASEAN và tạo thuận lợi

cho dịch chuyển lao động trong khu vực. Du lịch Việt Nam đã chủ động đóng

góp vào việc triển khai MRA-TP chung của ASEAN thông qua việc xây dựng

82

các tài liệu hướng dẫn triển khai MRA-TP (2013). Du lịch Việt Nam đã tham

gia xây dựng 130 sản phẩm du lịch chung để kết nối ít nhất 2 quốc gia trong

ASEAN theo các nhóm chuyên đề như du lịch thiên nhiên, du lịch văn hóa và

di sản, du lịch cộng đồng, du lịch đường biển và đường sông đồng thời tích cực

triển khai Chiến lược marketing du lịch ASEAN 2011 - 2015 với tiêu đề “Đông

Nam Á - cảm nhận sự ấm áp” tập trung vào khai thác các thị trường Trung

Quốc và Ấn Độ, khách du lịch trải nghiệm và sáng tạo, khách du lịch khám

phá, khách du lịch công vụ, khách du lịch lưu trú dài ngày và người cao tuổi,

khách trong nội vùng ASEAN. Cùng với đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành

công vai trò Trưởng nhóm Marketing và Truyền thông du lịch ASEAN (2013-

2014), hiện đang là Phó Trưởng nhóm Chất lượng dịch vụ du lịch, điều phối

phát triển sản phẩm du lịch đường sông và Dự án hỗ trợ kỹ thuật phát triển du

lịch đường sông khu vực sông Mê Kông do UNWTO hỗ trợ ASEAN, điều phối

triển khai Dự án xây dựng Hướng dẫn xây dựng và vận hành loại hình Boutique

Hotel; nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ASEAN thông qua việc phối hợp

cùng các quốc gia thành viên phát triển và áp dụng các bộ tiêu chuẩn chung

trong ASEAN như tiêu chuẩn khách sạn xanh ASEAN, cơ sở lưu trú nhà dân

ASEAN, nhà vệ sinh công cộng ASEAN, dịch vụ Spa ASEAN, tiêu chuẩn

thành phố du lịch sạch ASEAN, tiêu chuẩn du lịch cộng đồng, hướng dẫn an

ninh và an toàn du lịch ASEAN cho các khách sạn, khu nghỉ dưỡng và lộ trình

du lịch ASEAN ứng phó với biến đổi khí hậu...

Hàng năm, Du lịch Việt Nam tham gia Hội chợ Du lịch quốc tế TRAVEX

bên lề Diễn đàn Du lịch ASEAN, tham gia và có đóng góp tích cực tại các phiên

họp định kỳ và họp chuyên đề. Bên cạnh ATF năm 2009, Việt Nam cũng đã

đăng cai tổ chức thành công cuộc họp chuyên đề về Marketing và Phát triển

sản phẩm du lịch ASEAN (2013) và sẽ tiếp tục tổ chức phiên họp các nhóm

công tác du lịch dự kiến vào tháng 4/2016. Bên cạnh các nội dung hợp tác du

83

lịch ASEAN nói chung, Việt Nam còn tích cực và chủ động trong các cơ chế

hợp tác du lịch tiểu vùng và giữa ASEAN với các nước, tổ chức đối tác. Các

khuôn khổ hợp tác phổ biến là: Hợp tác kinh tế ACMECS (hợp tác kinh tế gồm

5 nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam); Hợp tác GMS (còn

gọi là chương trình hợp tác Tiểu vùng Mê Kông mở rộng, gồm Việt Nam, Lào,

Campuchia, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Vân Nam, tỉnh Quảng Tây của Trung

Quốc); Hợp tác CLMV (gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam); Hợp

tác giữa ASEAN với các nước và tổ chức đối tác (ASEAN với 3 nước Trung

Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc; ASEAN với Nga, ASEAN với Ấn Độ, ASEAN

với Tổ chức Du lịch thế giới UNWTO, ASEAN với Ngân hàng phát triển châu

Á ADB...), và hợp tác du lịch song phương để đóng góp vào cơ chế hợp tác du

lịch trong ASEAN.

Trong quá trình hợp tác đa phương về du lịch với khuôn khổ các nước

ASEAN, hướng tới việc ASEAN thành 1 điểm du lịch chung để phát triển du

lịch bền vững, Việt Nam đã đóng góp tích cực nhất vào 6 nội dung hợp tác có

tính chất chiến lược của du lịch ASEAN. Việt Nam không chỉ đề ra ý kiến hợp

tác ASEAN + 3 mà đã hành động để hợp tác này rộng mở. Nhờ đó thị trường

khách của ASEAN, trong đó có Việt Nam đã hướng tới được các quốc gia này

cả về mục tiêu và tiềm năng. Nguồn vốn đầu tư từ 3 nước này vào ASEAN

trong lĩnh vực du lịch cũng tăng lên nhanh chóng. Sự hỗ trợ của 3 nước có vị

trí kinh tế đặc biệt quan trọng này ở Châu Á và thế giới trong du lịch đã góp

phần thúc đầy du lịch ASEAN. [11,tr64]

Việt Nam cũng là nước chủ động đề xuất hợp tác xây dựng các chương

84

trình du lịch giữa ASEAN với EU, Ấn Độ, Úc và triển vọng là khả quan.

3.4.3. Đóng góp của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các cam kết hợp

tác phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN

Với tinh thần tích cực, chủ động, trách nhiệm, kể từ khi tham gia

ASEAN, Việt Nam đã hết sức nỗ lực cùng các nước ASEAN trong việc thúc

đẩy thực hiện các cam kết hợp tác phát triển dịch vụ du lịch nội khối và ngoại

khối của ASEAN đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Thứ nhất, chúng ta đã đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng Cộng

đồng ASEAN ngay từ buổi đầu hình thành ý tưởng, cho đến giai đoạn định hình

chính sách và triển khai. Năm 1998, chỉ 3 năm sau khi gia nhập, Việt Nam đã

chủ trì Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội. Năm 2001, Việt Nam

là nước chủ trì xây dựng và góp phần trong Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp

Khoảng cách Phát triển. Ta cũng đã tích cực đóng góp xây dựng và triển khai

các lộ trình, kế hoạch hành động về xây dựng Cộng đồng ASEAN trong đó có

các nội dung liên quan đến các hiệp định về thương mại hang hóa, thương mại

dịch vụ, hiệp định du lịch ASEAN, nghị định thư hội nhập ngành du lịch

ASEAN và tiến trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).

Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong 5 nước đầu tiên phê chuẩn sau khi

Hiến chương ASEAN được ký kết và luôn tích cực trong quá trình triển khai;

là nước thứ 2 cử đại diện thường trực trong Ủy ban các Đại diện thường trực

về ASEAN (CPR) và được đánh giá là một trong những nước đi đầu trong việc

triển khai các biện pháp hướng tới hình thành cộng đồng vào cuối năm 2015.

Thứ hai, Việt Nam là một trong những nước tích cực trong việc thúc đẩy

duy trì đoàn kết nội khối, đề cao tự cường khu vực, các giá trị, chuẩn mực ứng

xử chung của ASEAN và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc

85

khu vực.

Trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2010, bản lĩnh tự chủ của ASEAN

trong ứng xử với các nước lớn lại một lần nữa được khẳng định thông qua quyết

định kết nạp Nga và Mỹ vào Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), đó là tiền đề để

xây dựng các cam kết phát triển dịch vụ du lịch giữa ASEAN – Nga và ASEAN

– Hoa Kỳ.

Việt Nam đã đăng cai thành công Diễn đàn du lịch ASEAN 2009 (ATF

2009) và Diễn đàn du lịch ASEAN 2019 (ATF 2019). Theo thông lệ, trong

khuôn khổ ATF sẽ diễn ra các Hội nghị Bộ trưởng Du lịch, các Phiên họp Lãnh

đạo cơ quan Du lịch quốc gia, Hội chợ Du lịch TRAVEX cùng nhiều sự kiện

bên lề khác. Trong đó, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch ASEAN và Hội nghị Bộ

trưởng Du lịch ASEAN với các nước đối tác sẽ tập trung thảo luận các nội

dung: Nâng cao năng lực cạnh tranh, Tiêu chuẩn hóa, phát triển nguồn nhân lực

du lịch, Phát triển du lịch bền vững và bao trùm. Việc đăng cai và tổ chức thành

công các hoạt động trong khuôn khổ ATF đã góp phần không nhỏ đem lại hiệu

quả thiết thực cho hợp tác du lịch khu vực ASEAN, từ đó truyền tải tới thế giới

thông điệp “ASEAN - Sức mạnh của sự thống nhất”, gắn kết chặt chẽ du lịch

Việt Nam trong ASEAN thành một khối.

3.4.4 Một số khuyến nghị nhằm tăng cường vai trò của Việt Nam trong

hợp tác phát triển dịch vụ du lịch ASEAN

Kể từ khi tham gia vào ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào

việc xây dựng khối ASEAN phát triển thịnh vượng và vững chắc như ngày nay.

Việt Nam đã giúp ASEAN xây dựng những quy định chung, tích cực tham gia

vào tất cả các hội nghị và có những đóng góp rất lớn vào những quyết định

chung của khối ASEAN. Đối với hợp tác phát triển dịch vụ du lịch, Việt Nam

đã có những đóng góp không nhỏ trong quá trình hợp tác phát triển dịch vụ du

86

lịch trong khuôn khổ ASEAN từ khi thành lập ASEAN đến nay.

Để nâng cao vai trò của mình trong việc thiết lập và triển khai các cam kết

quốc tế phát triển dịch vụ du lịch ASEAN, Việt Nam có thể thực hiện một số

khuyến nghị sau:

Một là: Mở rộng hợp tác với các quốc gia khác, vùng lãnh thổ nhằm tranh

thủ sự hỗ trợ, hợp tác phát triển du lịch dưới các hình thức khác nhau (bao gồm

các hình thức: tiếp tục trao đổi, thúc đẩy khả năng ký kết các hiệp định, kế

hoạch hợp tác với các nước trong ngoài khu vực, làm cơ sở pháp lý cho các

hoạt động, các dự án hợp tác quốc tế cụ thể thu hút đầu tư vào phát triển du

lịch,…) để đạt hiệu quả nhiều mặt cả về kinh tế, văn hóa, giao lưu và hội nhập.

Hai là, tăng cường sự tham gia của các đơn vị trong toàn ngành vào quá

trình hợp tác quốc tế hội nhập theo từng góc độ chuyên môn phù hợp và đa

dạng hóa các kênh hợp tác quốc tế. Có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện mở

rộng hợp tác quốc tế cho địa phương, doanh nghiệp du lịch chủ động hợp tác

trong đầu tư phát triển du lịch xây dựng được sản phẩm nâng cao năng lực du

lịch. Có cơ chế và khuyến khích các doanh nghiêp du lịch, người lao động du

lịch tham gia vào cơ chế di chuyển lao động giữa các quốc gia thành viên

ASEAN theo hiệp định di chuyển thể nhân và Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau

về ngành du lịch, để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm, góp ý sửa đổi hoàn

thiện hiệp định cũng như hoàn thiện khung năng lực đánh giá người lao động

và hoàn thiện giáo trình chương trình du lịch chung ASEAN.

Ba là, Đẩy mạnh hơn nữa việc tìm hiểu thông tin về tình hình, xu hướng

phát triển du lịch trong khu vực cũng như trên thế giới. Đồng thời có kế hoạch

phối hợp với các doanh nghiệp du lịch trong việc phát động chiến dịch tuyên

truyền cảng cáo du lịch qua phát hành, trao đổi với phía các quốc gia đối tác

những tài liệu về du lịch hai bên, tham gia hội trợ, triển lãm… Tăng cường đăng

87

cai, tổ chức nhiều hơn nữa các sự kiện quốc tế có tầm cỡ, tổ chức roadshow,

họp báo để nâng cao uy tín và vị thế của du lịch Việt Nam trong hợp tác khu

88

vực.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Hợp tác phát triển dịch vụ du lịch ASEAN mang lại những tác động tích

cực đối với Du lịch Việt Nam đồng thời tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc

liệt trong lĩnh vực du lịch, trong đó việc phát huy những tác động tích cực của

quá trình hội nhập sẽ quyết định hiệu quả của quá trình hội nhập du lịch Việt

Nam trong AEC. Trong chương 3 của luận văn, tác giả đã trình bày về những

thành tựu và khó khăn trong việc thực thi các cam kết của ASEAN về phát triển

dịch vụ du lịch và vai trò của Việt Nam, những đóng góp của Việt Nam trong

quá trình xây dựng và thực thi các cam kết về hợp tác phát triển dịch vụ du lịch;

tác giả cũng đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của Việt Nam trong

89

hợp tác khu vực để phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn khổ ASEAN.

KẾT LUẬN CHUNG

Thời gian qua, hình ảnh du lịch ASEAN không ngừng được củng cố và trở

thành điểm hấp dẫn, thân thiện đối với du khách trong và ngoài khu vực. Kể từ

khi Việt Nam chính thức là thành viên ASEAN, du lịch Việt Nam đã tích cực

hợp tác trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương, đóng góp nhiều

sáng kiến thiết thực cho việc triển khai các chương trình hành động, dự án hợp

tác, lộ trình hội nhập trong khu vực ASEAN, phấn đấu vì sự thịnh vượng chung

của toàn khu vực.

Từ thực tiễn đó, luận văn đã nghiên cứu Khung pháp lý về hợp tác quốc tế

phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn khổ ASEAN nhằm đưa ra một cách khái

quát nhất, và đánh giá quá trình thực thi các cam kết của các quốc gia thành

viên ASEAN. Đồng thời, luận văn cũng đã trình bày vai trò của Việt Nam trong

quá trình thiết lập và thực thi các cam kết và đưa ra một số khuyến nghị để nâng

cao vai trò của Việt Nam trong hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch

ASEAN.

Luận văn đã hoàn thành các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất: Khái quát chung về ASEAN, các thiết chế quan trọng tác động

đến quá trình hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch trong khuôn khổ

ASEAN, nội dung hợp tác phát triển dịch vụ du lịch ASEAN;

Thứ hai: Quy định của ASEAN về phát triển dịch vụ du lịch của ASEAN,

bao gồm các nội dung các cam kết, thỏa thuận trong Cộng đồng ASEAN; Các

cam kết, thỏa thuận giữa ASEAN và các đối tác ASEAN +1, ASEAN+3; Đánh

giá thực tiễn triển khai và đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện khung

90

pháp luật về hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch ASEAN.

Thứ ba: Phân tích vai trò của Việt Nam trong quá trình thiết lập và thực thi

các cam kết, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường vai trò của Việt

Nam trong quá trình hợp tác quốc tế phát triển dịch vụ du lịch ASEAN.

Tôi hi vọng kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo và góp phần

vào quá trình hoàn thiện pháp luật ASEAN, pháp luật Việt Nam về hợp tác

quốc tế phát triển dịch vụ du lịch và tăng cường vai trò của Việt Nam trong

phát triển dịch vụ du lịch trong khu vực. Tuy nhiên, luận văn chắc chắn không

tránh khỏi nhiều thiếu sót, do vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy

91

cô và các bạn đồng nghiệp để Luận văn được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TRONG NƯỚC

1. Châu Vũ (2019), Một số quy định pháp luật về khuyến mại du lịch và giải

pháp nâng cao hiệu quả thực thi, Tạp chí Nghề Luật năm 2019 - Số 2, tr.

29-33;

2. Đào Thị Thu Hằng (2019), Cần cụ thể hóa chính sách ưu đãi cho doanh

nghiệp du lịch, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2019 số 1, tr. 34-37;

3. Đỗ Cẩm Thơ (2017), Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn - định

hướng chiến lược quan trọng phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất

nước, Tạp chí Cộng sản số 893(3/2017), tr. 81 – 86;

4. Hoàng Thị Thanh Nhàn, Võ Xuân Vinh (2013), Hiện thức hóa Cộng đồng

ASEAN 2015: Thuận lợi và trở ngại, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN tập 29

(4), tr.12-23;

5. Lê Thanh Tùng, Lê Tuấn Anh (2015), Hoàn thiện chiến lược phát triển

ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN được

thành lập, Tạp chí Phát triển và Hội nhập Số 26 (36) - Tháng 01-02/2016,

tr.70-77.

6. Nghiêm Thanh Thúy (2016), Chiến lược phát triển du lịch quốc tế của Thái

Lan thời kỳ hội nhập, Tạp chí Cộng sản số chuyên đề 7/2016, tr. 92 – 96;

7. Nguyễn Huy Hoàng (2012), Báo cáo đề tài cấp Bộ của Viện Nghiên cứu

Đông Nam Á “Đánh giá thực hiện các cam kết xây dựng Cộng đồng

ASEAN”, Hà Nội;

8. Nguyễn Năng Nam (2015), Phát triển du lịch làng nghề ở Việt Nam trong

92

điều kiện hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước số 1/2015, tr. 72 – 76;

9. Phùng Thị Thanh Hiền (2016), Một số điểm hạn chế của pháp luật về kinh

doanh du lịch lữ hành ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 5/2016,

tr. 32 – 36;

10. Trần Thu Quỳnh (2017), Hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch kinh

nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

số 7/2017, tr. 28-33;

11. Trần Thị Hồng Hạnh (2018), Một số đề xuất đối với vấn đề nghiên cứu chính

sách du lịch ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước số 4/2018, tr.

63 – 65;

12. Nguyễn Thị Hường (2017), Phát triển tài nguyên Du lịch theo hướng bền

vững tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước số 258 (7/2017), tr.61 - 66.

13. Vũ Thị Thu Huyền (2019), Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý

hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước năm 2019 -

Số 2, tr. 63–66.

14. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình pháp luật cộng đồng

ASEAN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

15. Viện Nghiên cứu và phát triển Du lịch, Ấn phẩm “ Quy hoạch tổng thể phát

http://itdr.org.vn/an_pham/quy-hoach-tong-the-phat-trien-du-lich-viet-nam-den-

nam-2020-tam-nhin-den-nam-2030/

triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030”,

16. Bài viết “Cộng đồng kinh tế ASEAN – Cơ hội và thách thức đối với Việt

Nam”, đăng ngày 2/12/2016 trên website của Trung tâm WTO và hội nhập

– Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. http://aecvcci.vn/tin-tuc-

n1591/cong-dong-kinh-te-asean--co-hoi-va-thach-thuc-voi-viet-nam.htm

II. VĂN BẢN PHÁP LUẬT

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (1976), Hiệp ước Thân thiện và

93

Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước TAC), Bali – Indonesia;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (1976), Tuyên bố về sự Hòa hợp

ASEAN lần thứ nhất (Tuyên bố Bali I), Bali – Indonesia;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (1987), Nghị định thư sửa đổi Hiệp

ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước TAC), Manila,

Philippines;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (1995), Hiệp định khung ASEAN

về dịch vụ, Bangkok, Thái Lan;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (1995), Nghị định thư sửa đổi Hiệp

định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN, Bangkok, Thái Lan;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (1998), Nghị định thư thứ 2 sửa

đổi Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á, Hà Nội, Việt Nam;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2003), Nghị định thư sửa đổi Hiệp

định khung ASEAN về dịch vụ, Bali, Indonesia;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2003), Tuyên bố về sự Hòa hợp

ASEAN lần thứ hai (Tuyên bố Bali II), Bali – Indonesia;

- Hiệp định khung giữa ASEAN và Ấn Độ về Hợp tác kinh tế toàn diện

(2003), Bali, Indonesia;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2004), Kế hoạch hành động về

Cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN, Vientian, Lào;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2004), Nghị định thư hội nhập

ngành du lịch ASEAN,Bali, Indonesia;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2007), Hiến chương ASEAN,

94

Singapore;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2007), Kế hoạch tổng thể xây

dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN, Cebu, Philippines;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2009), Thỏa thuận công nhận lẫn

nhau MRA-TP, Hà Nội, Việt Nam;

- Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (2012), Hiệp định về di chuyển thể

nhân, Phnom Penh, Campuchia;

- Hiệp định giữa các thành viên ASEAN và Nga (2005) về hợp tác kinh

tế và phát triển tại Kuala Lampur, Malaysia;

III. Các Websites

1. Website của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch:

http://vietnamtourism.gov.vn

2. Báo điện tử Chính phủ - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(VGP News): http://baochinhphu.vn/

3. Thời báo Tài chính Việt Nam online: http://thoibaotaichinhvietnam.vn

4. Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam: https://vov.vn

5. Website của Viện nghiên cứu và phát triển du lịch: http://itdr.org.vn

6. Website của Trung tâm WTO và hội nhập – Phòng Thương mại và

95

Công nghiệp Việt Nam: http://aecvcci.vn

PHỤ LỤC

Lộ trình hội nhập ngành du lịch theo Nghị định thư hội nhập

ngành du lịch ASEAN

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG

I Tự do hoá Thương mại Dịch vụ

1 Các Quốc gia thành viên sẽ đẩy Ủy ban Điều triển khai

nhanh tự do hoá thương mại dịch phối về Dịch vụ thường xuyên

vụ trước năm 2020. Có thể thực (CCS) và Ủy ban

Điều phối về hiện việc này thông qua:

Đầu tư (CCI) - Đặt ra các mục tiêu và

lịch trình cụ thể đối với tự do hoá

các ngành dịch vụ đối với từng

ngành ưu tiên và từng vòng đàm

phán hướng tới đạt được dòng

chảy tự do về thương mại dịch vụ

vào năm 2010; và

- Áp dụng công thức

96

ASEAN-X

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

2 Đẩy nhanh việc xây dựng các CCS trước năm 2008

Thoả thuận Thừa nhận Lẫn nhau

(MRAs);

3 Xúc tiến các chương trình hợp tác CCS và CCI triển khai

và đầu tư chung, bao gồm thị thường xuyên

trường các nước thứ ba

II Tạo thuận lợi cho Du lịch trong

ASEAN

4 Hài hoà hoá các thủ tục cấp thị Các Cục trưởng 31/12/2004

thực cho khách du lịch quốc tế Cục Xuất Nhập

cảnh và Cục

trưởng Cục Lãnh

5 Miễn thị thực cho du lịch nội khối 2005 sự của Bộ Ngoại

ASEAN của các công dân giao các nước

ASEAN (DGICM)

97

III Xúc tiến Thương mại và Đầu tư

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

6 Tăng cường các nỗ lực xúc tiến CCI; Phòng triển khai

chung trong và ngoài khôí Thương mại và thường xuyên

ASEAN thường xuyên Công nghiệp

ASEAN

(ASEAN-CCI);

các Câu lạc

bộ/Hiệp hội

Ngành liên quan

và SOM-AMAF

7 Tổ chức thường xuyên sáng kiến CCI; Hội đồng triển khai

của khu vực tư nhân nhằm thực Tư vấn Kinh thường xuyên

hiện: doanh ASEAN

(ASEAN-BAC) - Thực hiện các biện pháp xúc

và ASEAN-CCI tiến và tạo thuận lợi chung trong

ASEAN hiệu quả hơn nhằm

khuyến khích các phái đoàn mua-

bán FDI ASEAN; và

- Các hoạt động xúc tiến nhằm hỗ

98

trợ các nước CLMV

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

triển khai 8 Thực hiện các biện pháp xúc tiến

thường xuyên và tạo thuận lợi chung trong

ASEAN hiệu quả hơn và phát

triển các nguồn mới của đầu tư

trực tiếp nước ngoài vào nội khối,

đặc biệt là từ các nước tiềm năng

như Cộng hoà Nhân dân Trung

Hoa, Ấn Độ và Cộng hoà Hàn

Quốc

IV Phát triển Nguồn Nhân lực

9 Phát triển và nâng cao các kỹ Hội nghị Quan triển khai

năng và nâng cao năng lực thông chức Cấp cao về thường xuyên

qua các hội thảo và chương trình Lao động

đào tạo chung (SLOM)

CÁC VẤN ĐỀ CỤ THỂ

99

V Đẩy nhanh Tự do hoá Ngành Du lịch

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

10 Loại bỏ các hạn chế về tiếp cận CCS 2010

thị trường và đối xử quốc gia

nhằm đạt được tự do hoá thương

mại trong ngành du lịch

VI Marketing và Xúc tiến Du lịch ASEAN

11 Khuyến khích khu vực tư nhân Hiệp hội Du lịch bắt đầu từ tháng

tham gia vào các chương trình ASEAN 4/2004

xúc tiến và marketing chung đối (ASEANTA)

với các hoạt động du lịch

ASEAN như tổ chức ASEAN

Hip Hop Pass

12 Thực hiện các hoạt động đa dạng Nhóm Đặc trách hoàn thành vào

thu hút du lịch ASEAN thông qua về Marketing Du 2005

việc thúc đẩy đưa ra một chương lịch ASEAN

trình du lịch trọn gói bao gồm,

ngoài các thị trường khác, các thị

trường chính Trung Quốc, Nhật

100

Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

hoàn thành vào 13 Các nước thành viên sử dụng

2004 chung Logô Chiến dịch Du lịch

ASEAN trong các triển lãm,

phương tiện truyền thông, và ấn

phẩm trong các chiến dịch nâng

cao hình ảnh của ASEAN như là

một điểm đến du lịch chung

14 Tổ chức chung một Khu vực Du 31/12/2005

lịch ASEAN trong các hội chợ du

lịch quốc tế nhằm liên tục nâng

cao hình ảnh của ASEAN như là

một điểm đến du lịch chung

15 Cùng hướng tới chương trình hàng năm

quảng bá được Lãnh đạo các

nước ASEAN giới thiệu trên

truyền hình như là một điểm đến

chung đối với du lịch và đầu tư

tại các Hội nghị Thượng đỉnh

101

ASEAN

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

16 Xây dựng các tiêu chí cho khu Cơ quan Du lịch trước ATF 2005

vực Di sản Du lịch ASEAN và Quốc gia (NTO)

các thủ tục đối với Danh hiệu Di Thái Lan

sản ASEAN

VII Đầu tư cho Ngành Du lịch

17 Đưa ra các ưu đãi trong phát triển ASEAN NTOs bắt đầu từ tháng

12/2004 cơ sở hạ tầng du lịch nhằm

khuyến khích đầu tư tư nhân vào

các nước ASEAN

18 Hỗ trợ và tạo thuận lợi cho việc Đầu mối/NTOs bắt đầu năm

thực hiện các dự án du lịch đã và ASEAN BAC 2005

dược phê duyệt nằm trong

Chương trình Dự án Ưu tiên

ASEAN (APPS)

19 Thực hiện một nghiên cứu nhằm NTOs và CCI hoàn thành vào

2005 xác định các lĩnh vực du lịch có

khả năng thu hút đầu tư và các

102

biện pháp cần thực hiện nhằm

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

thúc đẩy đầu tư trong ngành du

lịch

20 Xây dựng và triển khai các dự án NTO Thailand bắt đầu từ năm

du lịch sinh thái nhằm khuyến 2005

khích đầu tư vào du lịch

VIII Các Tiêu chuẩn Du lịch

21 Xây dựng các tiêu chuẩn du lịch ASEAN NTOs hoàn thành vào

2005 ASEAN, thông qua việc bước

đầu xây dựng các tiêu chuẩn về

cấp độ của các khách sạn tập

trung vào hệ thống cấp chứng

nhận quản lý môi trường của

khách sạn

IX Phát triển Nguồn Nhân lực

22 Xây dựng các tiêu chuẩn phù hợp 31/12/2005

103

tối thiểu trong ASEAN đối với

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

các cơ quan du lịch chuyên Nhóm Đặc trách

nghiệp về Phát triển

Nguồn Nhân lực

23 Xây dựng một Mạng lưới Phát 31/12/2004

triển và Quản lý Nguồn lực Du

lịch

24 Đẩy mạnh các hoạt động Phát ASEAN NTOs bắt đầu từ năm

2004 triển Nguồn Nhân lực thông qua

việc xây dựng một chương trình

trong nội khối ASEAN bao gồm

chương trình trao đổi, các hoạt

động đào tạo chéo và chứng nhận

chéo

25 Xây dựng một chương trình Diễn đàn Nghiên 30/6/2005

nghiên cứu và củng cố mạng lưới cứu Phát triển

hợp tác giữa các bên tham gia Châu Á (ADRF)

liên quan đến ngành du lịch và và Qũy Nghiên

thiết lập một Ngân hàng Dữ liệu cứu Thái Lan

104

ASEAN nhằm tạo thuận lợi cho (TRF)

CƠ QUAN BIỆN PHÁP THỜI HẠN TT THỰC HIỆN

sự phát triển nhanh chóng của

ngành du lịch

X Tạo thuận lợi cho Hoạt động đi

lại trong ASEAN

26 Nghiên cứu tính khả thi của việc DGICM bắt đầu từ năm

2005 phát triển một số hình thức tạo

thuận lợi hoá đối với các thủ tục

liên quan đến visa đối với hoạt

động đi lại của các thể nhân

không phải là công dân ASEAN

105

trong phạm vi ASEAN